Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:11:53 pm



Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:11:53 pm
- Tên sách: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954) sự kiện và hồi ức
- Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
- Năm xuất bản: 2008
- Số hoá: ptlinh, quansuvn


* Chỉ đạo nội dung và tổ chức thực hiện:

- PHÒNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG HẢI QUÂN

- BAN LIÊN LẠC HỘI CỰU CHIẾN BINH THUỶ QUÂN SÔNG LÔ


* Biên soạn:

HỘI CỰU CHIẾN BINH THUỶ QUÂN SÔNG LÔ


* Biên tập:

- Đại tá NGUYỄN VIỆT - Nguyên chính trị viên - Ban NCTQ và Trường huấn luyện Thuỷ quân

- PHẠM VŨ QUÂN - Nguyên Giám đốc Công ty xuất nhập khẩu, Bộ Xây dựng

- Đại tá TRỊNH TUẦN - Nguyên Chủ nhiệm Chính trị Hải quân - Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô

- Đại tá VŨ VĂN KHOÁI - Trưởng phòng KHCN & MT Hải quân

- Thượng tá VŨ BÌNH TRONG - Trợ lý Phòng KHCN & MT Hải quân   


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:15:34 pm
PHỦ THỦ TƯỚNG                                      VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
                                                                      Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 19 tháng 7 năm 1946

- Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch Quân sự uỷ viên hội


QUYẾT ĐỊNH

Điều thứ 1: - Nay thành lập trong Quân đội quốc gia một ngành "Hải quân Việt Nam"

Điều thứ 2: Ngành Hải quân đặt dưới quyền:

- Bộ Quốc phòng về phương diện quản trị.

- Quân sự uỷ viên hội về phương diện điều khiển

Điều thứ 3: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch quân sự uỷ viên hội chiểu quyết định thi hành.


Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 1946
(Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm thứ hai)
Chủ tịch Hội đồng Chính phủ
Đã ký
Huỳnh Thúc Kháng


Sao y bản chính
Tại phòng hồ sơ Văn phòng Bộ Quốc phòng ngày 22/6/1965
T/L Chánh Văn phòng
Trưởng phòng Hành chính
Đã ký Nguyễn Văn Xuyết
(đóng dấu Văn phòng Bộ Quốc phòng)


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:19:13 pm
BỘ TỔNG TƯ LỆNH                                                            VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VÀ DÂN QUÂN VIỆT NAM                       Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
Số: 604/TCH      


Bộ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG
KIÊM TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VÀ DÂN QUÂN VIỆT NAM

- Chiểu sắc lệnh số 33/SL ngày 22/3/1946 tổ chức Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Chiểu sắc lệnh số 71/SL ngày 22/5/1946 ấn định quy tắc Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Chiểu nghị định số 10/BCH ngày 30/5/1947 tổ chức Bộ Tổng Tham mưu.

- Theo đề nghị của Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Bộ Quốc phòng.

NGHỊ ĐỊNH

Điều thứ 1: Nay thành lập trong Bộ Quốc phòng một Ban Nghiên cứu Thuỷ quân

Điều thứ 2: Ban này có nhiệm vụ sưu tầm tài liệu cần thiết, nghiên cứu tổ chức và gây những cơ sở đầu tiên cho Ngành Thuỷ quân

Điều thứ 3: Ô. Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Bộ Quốc phòng chiểu nghị định thi hành. 

Bắc Bộ, ngày 8 tháng 3 năm 1949
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân VN
Đã ký
Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Sao y bản chính
Tại phòng hồ sơ văn phòng Bộ Quốc phòng
ngày 22/6/1965
T/L Chánh văn phòng
Trưởng phòng hành chính
Đã ký
Nguyễn Văn Xuyết
(đóng dấu Văn phòng Bộ Quốc phòng)


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:20:11 pm
Rất hoan nghênh Ban nghiên cứu Thuỷ quân đã sưu tầm những tư liệu quý về Thuỷ quân Sông Lô, sự thành lập và những bước phát triển tiếp.

Mong rằng các đồng chí phối hợp với các cơ quan chính trị, tốt nhất là các đơn vị hay cơ quan nghiên cứu lịch sử thuộc các vùng trong cả nước, tiếp tục sưu tầm những tư liệu còn giữ được, để có được một tập lịch sử bằng ảnh và cuốn hồi ký về sự hình thành và phát triển của Thuỷ quân ta cho đến ngày chính thức thành lập Quân chủng Hải quân nhân dân anh hùng.


Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 1997
Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 


Nhân dịp đầu Xuân, chúc các đồng chí cán bộ và chiến sĩ Ban nghiên cứu Thuỷ quân (tức là đoàn Thuỷ quân sông Lô) năm mới khoẻ mạnh, hạnh phúc. Luôn giữ vững phẩm chất và đạo đức của bộ đội Cụ Hồ, xứng danh với vinh dự đã có phần công đầu trong việc thành lập Hải quân và nhiệm vụ chiến lược bảo vệ biển cả của Tổ quốc Việt Nam.

Nhớ tiếc các anh hùng và liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc và xin gửi những tình cảm thân thiết đến gia đình các thương binh liệt sĩ.

Xuân Kỷ Mão - 1999
Chúc mừng năm mới
Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:20:58 pm
LỜI GIỚI THIỆU


Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược 1949 - 1954 - Sự kiện và hồi ức; đây là thời kỳ thể hiện sự quan tâm từ rất sớm của Đảng, Bác Hồ đối với ngành Hải quân.

Ngày 8/3/1949 Ban Nghiên cứu thuỷ quân được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký Nghị định thành lập. Trải qua 6 năm huấn luyện, chiến đấu và trưởng thành, anh chị em cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô đã vượt qua bao khó khăn gian khổ và hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp của Thuỷ quân Sông Lô. Sau đó, các đội viên được biệt phái về các tỉnh ven biển vùng Đông Bắc để xây dựng phong trào chiến tranh du kích, cho đến thời điểm lịch sử quan trọng là thành lập “Ban chuyên trách vùng biển” mà họ là một trong những thành viên đầu tiên góp phần thực hiộn nhiệm vụ chuẩn bị đề án cho sự ra đời của "Cục Phòng thủ bờ bể" vào ngày 7/5/1955 và đã trở thành ngày thành lập của Hải quân nhân dân Việt Nam.


Thực hiện mong ước của anh chị em cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô, chúng tôi rất hoan nghênh việc xuất bản cuốn sách “Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược 1949 - 1954 - Sự kiện và hồi ức”. Đây là công trình được biên soạn, biên tập có chất lượng tốt, có nhiều tư liệu lịch sử quý, làm phong phú thêm cho khoa học lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam; có giá trị phục vụ công tác tham khảo, nghiên cứu tổng kết và giáo dục truyền thống cho bộ đội Hải quân ngày nay.


Chúng tôi mong rằng, các anh chị em Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược cùng với bộ đội Hải quân mãi mãi phát huy truyền thống vẻ vang của Thuỷ binh năm xưa và Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.


Ngày 16 tháng 10 năm 2007
PHÒNG KHCN VÀ MÔI TRƯỜNG QCHQ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:22:09 pm
LỜI NÓI ĐẦU

Sau khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có lực lượng Hải quân. Đây chính là sự quan tâm từ rất sớm của Bác Hồ và Đảng ta đối với Ngành Hải quân. Thực hiện mục đích đó, ngày 19/7/1946 Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng ra quyết định số 125/QĐ thành lập trong quân đội quốc gia Ngành Hải quân Việt Nam đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng về phương diện quản trị và quân sự uỷ viên hội về phương diện điều khiển. Tiếp đó đến nghị định số 604 ngày 8/3/1949 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thành lập Ban nghiên cứu Thuỷ quân do đồng chí Nguyễn Vãn Khương làm trưởng ban, đồng chí Nguyễn Việt làm chính trị viên và đồng chí Trần Đình Vọng làm phó ban. Cơ quan Ban nghiên cứu Thuỷ quân đóng tại phố Giàn bên bờ sông Chảy thuộc huyện Đoan Hùng; tỉnh Phú Thọ.


Nhiệm vụ đầu tiên của Ban nghiên cứu Thuỷ quân là huấn luyện nghiên cứu tổ chức xây dựng một đội thuỷ quân du kích có khả năng hoạt động trên sông, rồi từ sông mới tiến ra biển khi có điều kiện. Ôn lại những kỷ niệm xưa, khi anh chị em cựu chiến binh Thuỷ quân sông Lô phần đông ở độ tuổi mười tám, đôi mươi còn là những học viên khoá I, khoá II huấn luyện Thuỷ quân trên Sông Lô, Sông Chảy hoặc là đội viên Đội Thuỷ binh 71 được Bộ đưa sang Trung Quốc huấn luyện chiến thuật du kích biển và học tập kinh nghiệm chiến đấu đổ bộ giải phóng đảo Hải Nam (1949-1951). Sau đó, Đội Thuỷ binh 71 được biệt phái về các tỉnh vùng ven biển Đông Bắc xây dựng và phát động chiến tranh du kích... (từ 1951 đến 1954).


Để góp phần ôn lại những năm tháng hào hùng của quân đội ta, được sự đồng ý của Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hải quân, thể theo nguyện vọng của các cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô; Ban liên lạc Thuỷ quân sông Lô và Phòng KHCN&MT Quân chủng Hải quân, xin gửi đến bạn đọc trong và ngoài quân đội những sự kiện và hồi ức của anh chị em cựu chiến binh Thuỷ quân sông Lô một thời để nhớ. Đồng thời, từ những bài viết này, giúp bạn đọc hiểu thêm về "Ban nghiên cứu Thuỷ quân" một thời lịch sử không dài nhưng có ý nghĩa. Sự kiện diễn ra đã quá lâu, các nhân chứng lịch sử còn lại tuổi đã cao, thể lực và trí tuệ đều suy giảm, mặc dù đã rất cố gắng, bảo đảm ghi lại các sự kiện thật đúng và chính xác, song không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.


Phòng KHCN&MT Hải quân
Ban liên lạc CCB TQSL BAN NGHIÊN CỨU THỦY QUÂN


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 25 Tháng Giêng, 2021, 01:40:41 pm
BAN NGHIÊN CỨU THỦY QUÂN - NHỮNG NGÀY KHỞI ĐẦU


Phan Phác1
(Đ/c Phan Phác nguyên là Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN đã được Bộ phân công đặc trách Ban Nghiên cứu và Trường Thuỷ quân vào những năm 1949 -1951)
Nguyên Phó Tổng TMTQĐNDVN, được phân công đặc trách
Ban nghiên cứu và Trường Thuỷ quân những năm 1949-1951

 
Cách đây bốn mươi nhăm năm, ngày 8 tháng 3 năm 1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam, ký Nghị định thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân Việt Nam trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, đánh dấu một bước phát triển mới về chiến cuộc chống thực dân Pháp xâm lược cũng như về xây dựng lực lượng vũ trang.


Từ sau chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông năm 1947, hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, quân và dân ta phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, ra sức rèn cán luyện quân, đánh giặc lập công, đến mùa Hè năm 1949 đã đánh bại một bước kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, củng cố căn cứ địa Việt Bắc và xây dựng lực lượng vũ trang thành ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong bộ đội chủ lực, ngoài bộ binh ra, một số đơn vị: pháo binh, công binh, thông tin cũng được xây dựng.


Để chuẩn bị lực lượng đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến kiến quốc trong giai đoạn mới "tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công", Bộ Tổng Tham mưu kiến  nghị với Bộ Tổng Tư lệnh thành lập tổ chức ban đầu về Thuỷ quân gọi là "Đội huấn luyện Thuỷ quân". Đại tướng Tổng Tư lệnh cho ý kiến phải báo cáo và xin chi thị của Bác Hồ trước khi quyết định. Đồng chí Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng bảo tôi cùng đến gặp Bác, vì tôi được phân công giúp đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo xây dựng các binh chủng kỹ thuật. Sau khi nghe báo cáo, Bác hỏi cặn kẽ tình hình chuẩn bị về cán bộ và cơ sở kỹ thuật, rồi Bác chỉ thị đại ý như sau: xây dựng và phát triển bộ đội chủ lực phải kết hợp với khả năng và tình thế mới. Cách mạng Trung Quốc sắp thành công. Hướng phát triển bộ đội chủ lực như thế là được, hợp với tình thế mới. Để hợp với khả năng thực tế, chỉ nên thành lập Ban nghiên cứu Thuỷ quân và sau khi chuẩn bị tương đối có đủ cán bộ và phương tiện kỹ thuật, thì mở một lớp vừa học vừa hành, vừa tham gia nghiên cứu. Bác nhấn mạnh chỉ gọi là "Ban Nghiên cứu Thuỷ quân" và "lớp Thuỷ quân", vì danh có chính thì hành mới thuận, công việc mới thành công.


Nhiệm vụ của Ban Nghiên cứu Thuỷ quân được xác định là xây dựng cơ sở nghiên cứu ban đầu của Thuỷ quân, tìm hiểu hoạt động của hải quân Pháp, tìm cách chống lại chúng, chuẩn bị cơ sở vật chất, tài liệu, huấn luyện đào tạo cán bộ, từng bước hình thành các điều kiện để đón thời cơ triển khai hoạt động. Phương châm là từ nhỏ đến lớn, thiết thực, bí mật, phù hợp với tình hình.


Để giữ bí mật, Ban Nghiên cứu Thuỷ quân lấy tên là Đội sản xuất 71 đóng quân bên bờ sông Chảy gần huyện lỵ Đoan Hùng, nơi mà quân dân Quân khu 10 đã giáng cho hải quân Pháp một đòn chí tử mà sách báo của chúng thời bấy giờ gọi là "thảm hoạ Đoan Hùng” trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, cũng là nơi mà ta thu được một số tài liệu, máy móc, dụng cụ phương tiện... chuyên dùng về hải quân để làm cơ sở kỹ thuật ban đầu cho Ban Nghiên cứu Thuỷ quân.


Để có một tổ chức đảm đương được nhiệm vụ của Ban Nghiên cứu Thuỷ quân, việc tìm chọn cán bộ chủ chốt gặp nhiều khó khăn vì thời bấy giờ cán bộ vừa hồng vừa chuyên rất hiếm. Lúc đầu chỉ có ba cán bộ đang công tác ở Bộ Tổng Tham mưu có trình độ chuyên môn về hàng hải cả về lý thuyết và thực hành, sau dần dần tuyển chọn thêm, mãi đến đầu năm 1950 mới có đủ cán bộ để kiện toàn tổ chức Ban Nghiên cứu Thuỷ quân và lớp Thủy quân. Đến đầu tháng 2 năm 1950, Đội sản xuất 71 đã xây dựng được nơi ăn chốn ở, làm thêm được một số học cụ, tuyển chọn được 180 học viên, Bộ Tổng Tham mưu quyết định khai giảng khoá học đầu tiên vào ngày 13-2-1950 và cử tôi đến chủ trì buổi lễ.


May mắn bất ngờ! Trên đường đi dự lễ, đến chân Đèo Khế, tôi ghé vào quán nước nghỉ chân trước khi qua đèo. Vừa bước vào, tôi thấy bác Tôn Đức Thắng đang ngồi nghỉ trong quán. Tôi chưa kịp chào thì Bác đã hỏi "Chú đi đâu mà quân phục chỉnh tề thế "? Tôi trả lời: "Kính thưa Bác, cháu đi dự lễ khai giảng lớp Thuỷ quân. Bác có được khoẻ không ạ?". Bác bảo: "Khoẻ lắm", rồi hỏi về mục đích của lớp này. Tôi liền báo cáo lại với Bác về những lời chỉ giáo của Bác Hồ và nhiệm vụ của Ban Nghiên cứu Thuỷ quân đã được Bộ Tổng Tư lệnh xác định. Nghe xong, Bác nói đại ý như sau: Ta chưa có tàu chiến, nhưng có một bờ biển dài và nhiều sông rộng, xây dựng dần quân chủng này như thế là phải. Các thuỷ thủ đầu tiên này phải bơi lặn giỏi, chèo chống khoẻ, coi thường nắng mưa, vững vàng trước sóng to gió lớn, biết xem sao và tìm phương hướng, biết trông mây và phòng bão tố...


Trong lễ khai giảng, tôi trân trọng chuyển những lời chí bảo quý báu ấy của Bác Hồ và Bác Tôn cho tất cả cán bộ học viên của Ban Nghiên cứu Thuỷ quân. Anh em rất phấn khởi và tin tưởng, nỗ lực công tác, học tập và rèn luyện. Tháng 8 năm 1950, nhiều khu vực ven biên giới phía Bắc nước ta được giải phóng, cũng là lúc khoá 1 lớp Thuỷ quân hoàn thành chương trình huấn luyện. Được Nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa sẵn sàng giúp đỡ, Bộ Tổng Tham mưu kịp thời chọn 150 cán bộ học viên các khoá 1 và 2 lớp thuỷ quân, tổ chức thành 1 đại đội lấy tên là Đội Thuỷ binh 71, đưa sang Trung Quốc để học thêm kinh nghiệm của Giải phóng quân Trung Quốc về sử dụng thuyền buồm, thuyền máy, chống quân đội Tưởng dọc sông, ven biển và đổ bộ giải phóng đảo Hải Nam. Đối với khoá 1 này, tuy chương trình huấn luyện còn mò mẫm, cơ sở vật chất kỹ thuật của ta lúc đó còn thiếu thốn, trình độ giáo viên huấn luyện lúc đó còn thấp, lại chưa hình dung hết tính chất phức tạp và khó khăn của Ngành Hải quân, nhưng tất cả cán bộ và học viên khoá này đều được rèn luyện tốt về chính trị tư tưởng, được bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật, được rèn luyện về thể lực, nếp sống lao động sinh hoạt của Thuỷ quân và công tác dân vận. Do đó, suốt 6 tháng học tập ở Trung Quốc, Đội Thuỷ binh 71 được Giải phóng quân Trung Quốc tận tình giúp đỡ và đánh giá cao, được nhân dân địa phương Lôi Châu quý mến.


Đội Thuỷ binh 71 trở về nước tháng 4 năm 1951, đúng vào lúc toàn bộ biên giới phía Bắc đã được giải phóng, Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh đang tập trung lực lượng để xây dựng bộ đội chủ lực thành những đại đoàn mạnh, đặc biệt là thành lập Đại đoàn Công binh và Pháo binh F351. Bộ quyết định giải thể Ban Nghiên cứu Thuỷ quân, chọn một số anh em trong Đội Thuỷ binh 71 đưa ra vùng duyên hải Đông Bắc do đồng chí Trác Vinh Nam dẫn đi để tổ chức du kích chiến ven biển và ở các hải đảo; đại bộ phận được đưa về F351 để xây dựng và phát triển binh chủng Pháo binh và binh chủng Công binh; số còn lại được biên chế vào các cơ quan của Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Cung cấp... Ngay khi có lệnh chuyển sang đơn vị khác, tuy có nhiều nuối tiếc, song anh em vẫn nghiêm chỉnh chấp hành, không hề ngả lòng thoái chí.


Sau chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chính các cán bộ Thuỷ quân Sông Lô ngày ấy đã tham gia tiếp quản cảng Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả. Khi bắt đầu xây dựng Ngành Hàng hải và Quân chủng Hải quân, một số cán bộ này đã trở thành những cán bộ chủ chốt của Ngành Hàng hải và những sĩ quan đầu tiên của Hải quân Việt Nam.


Mặc dù Ban Nghiên cứu Thủy quân chỉ tồn tại và hoạt động 3 nãm, nhưng những năm tháng hoạt động của đơn vị này chính là những nét phác thảo trong lịch sử chặng đường xây dựng Hải quân và Ngành Hàng hải Việt Nam sau này, giống như một hạt giống gieo xuống đất, khi mới nảy mầm chỉ là một cái chồi non nhỏ yếu, nhưng không có thời kỳ non nớt này, sẽ không có những cây cổ thụ cành lá xum xuê, tạo màu xanh tươi mát cho đời sau.


Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1994
41 Hàng Bạc - Hà Nội
P.P


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:15:01 pm
NHỮNG NGÀY LÍNH THỦY SÔNG LÔ - MỘT THỜI ĐỂ NHỚ


Đại tá Nguyễn Việt
Nguyên chính trị viên Ban nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu Phó Cục trưởng Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng Tham mưu



Xin thân chào anh chị em "Lính thuỷ sông Lô phố Giàn Làng Cỏ góp phần đặt "viên gạch" Hải quân sau này.

Tôi đang học khoá "Chuẩn bị Tổng phản công" ở trường quân sự trung cao cấp thuộc Bộ Quốc phòng tại Soi Mít bên bờ sông Kông - Thái Nguyên thì một hôm vào khoảng tháng 10/1949, được lệnh về Bộ Tổng Tham mưu nhận nhiệm vụ gấp.


Chưa rõ thế nào, tôi thu xếp lên đường ngay, xin tạm biệt những bài giảng lý thú nhiều trí tuệ của Thiếu tướng Nguyễn Sơn, một nhà quân sự hùng biện có sức cuốn hút mãnh liệt người nghe về tư tưởng quân sự vô sản, về trường kỳ kháng chiến, tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công... Tạm biệt những bài học về chiến thuật tác chiến quy mô sư đoàn, quân đoàn, những thê đội chiến dịch... do một giáo sư quan năm Nhật nhiệt tình truyền giảng dạy với những nội dung nghế thuật quân sự mà đế quốc Nhật đã có một thời làm mưa làm gió trên chiến trường Châu Á - Thái Bình Dương; xin chia tay với bạn cùng học, với Hạnh Nam Bộ đã làm một cuộc trường chinh sáu tháng từ Nam ra Bắc để kịp theo học lớp "Chuẩn bị tổng phản công", với Sang vua cờ tướng, nhóm "ngũ tốt" lừng danh sau này, với Tạ Đình Đề biệt động Hà Nội, với Đinh Mẫn, Phạm Sinh, Quang Liêu cùng cánh Khu 3, với Nam Long cùng một đội ngũ quân lính Hải Dương - Kẻ Sặt, Đường 5 ngày đầu kháng chiến... Xin tạm biệt tất cả, nhớ mãi dòng sông Kông mang ít nhiều một thời vỡ lòng quân sự sôi nổi, nhiều mới lạ...


Qua Đại Từ, Ba Giăng lên Quảng Nạp, rẽ vào chân núi Hồng, nơi đóng quân của Tổng hành dinh lãnh đạo kháng chiến, nơi mà khi còn ở địa phương đồng bằng sông Hồng, chúng tôi thường ngưỡng mộ như một mảnh đất thánh có Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đang ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến tranh nhiều gian khổ chống giặc Pháp xâm lược.


Vào đến cơ quan Bộ Tổng Tham mưu đóng trong rừng, lẻ tẻ từng gian nhà lá nhỏ ẩn dưới lùm cây xanh, bên bụi tre nứa ngổn ngang hoang dã, chúng tôi được anh Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng thân mật đón tiếp. Anh húi cua, nét mặt cương nghị, người dong dỏng cao, hơi gầy (không to béo như sau này), vui vẻ chuyện trò thăm hỏi gia cảnh, sinh hoạt riêng tư của tôi, sau đó đi ngay vào nội dung cần gặp. Anh phổ biến là Bộ điều động tôi về làm Chính trị viên Ban Nghiên cứu thuỷ quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu, mới được thành lập hồi tháng 3/1949 hiện đóng quân tại Đoan Hùng - Phú Thọ, bên bờ sông Chảy - sông Lô. Anh chậm rãi giải thích ngắn gọn, rõ ràng "Cách mạng Trung Quốc toàn thắng tạo nhiều thuận lợi cho cuộc kháng chiến của ta chống Pháp xâm lược. Nhìn về tương lai rộng mở, để xây dựng quân đội tiến lến, đất nước ta với dải bờ biển dài vài ba ngàn cây số, nhất định phải có một lực lượng Hải quân hùng mạnh, xứng đáng với lịch sử mấy nghìn năm dân tộc đã từng có những lực lượng Thuỷ quân lập nên chiến công hiển hách trên Bạch Đằng giang, Lục Đầu giang...". Chính vì mục tiêu đó, căn cứ điều kiện thực tế hiện nay, Bộ quyết định trước mắt thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân (song song với Ban Nghiên cứu Không quân) để:

- Nghiên cứu những phương án xây dựng và chiến đấu của lực lượng Thuỷ quân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay và trong tương lai gần.

- Tập hợp đội ngũ cán bộ công nhân viên Hải quân cũ, tạo điểu kiện xây dựng cơ sở ban đầu.

- Tuyển mộ, huấn luyện đào tạo một đội ngũ cán bộ Thuỷ quân cách mạng trẻ, có trình độ khoa học kỹ thuật hàng hải...


"Ban Nghiên cứu Thuỷ quân bước đầu còn nhỏ bé, nhưng tiền đồ sẽ vẻ vang. Chắc một ngày không xa sẽ phát triển thành Quân chủng Hải quân..."


Sau khi làm việc với Tổng Tham mưu trưởng, tôi lần lượt đến gặp cơ quan chính trị, tác chiến, quân sự, quân báo để nắm tình hình liên quan đến Thuỷ quân và xin những chỉ dẫn cụ thể của từng cơ quan. Sau đó tôi nhanh chóng lên đường về nhiệm sở bằng phương tiện duy nhất hồi ấy là "cuốc bộ". Đây cũng là một dịp tốt tôi được nhẩn nha ngắm đất trời, núi rừng Việt Bắc mà lần đầu được tiếp xúc từ Đại Từ qua Đèo Khế - châu tự do, vượt sông Lô sang Tuyên Quang, rẽ xuôi về Đoan Hùng.


Đến một lán trọ ở xen kẽ nhà dân bên bờ sông Chảy, tôi được gặp ngay các anh trong Ban chỉ huy (anh Nguyễn Văn Khương - trưởng ban, anh Trần Đình Vọng - phó ban). Chúng tôi tay bắt mặt mừng, chuyện trò thăm hỏi vui vẻ, cởi mở, mặc dù mới chỉ là lần gặp đầu tiên. Hai anh đều là người miền Nam, tuổi trên 30, đều đã từng làm lính thuỷ hoặc làm nghề hàng hải, quen với sóng gió. Qua trao đổi các anh cho biết: Ban nghiên cứu Thuỷ quân được thành lập từ tháng 3/1949. Lúc đầu chỉ có vài ba anh em, sau tập trung dần, đến nay đã có cán bộ, có doanh trại trường sở và đã tập hợp được học viên từ các ngả tuyển về, bắt đầu bước vào khoá 1 Thuỷ quân.


Có nhiều phương án tổ chức xây dựng Ban, nhưng trước mắt căn cứ vào thực tế đã có, đại thể tổ chức như sau:

Ban chỉ huy có 3 người: 1 trưởng, 1 phó, 1 chính trị viên.

Cơ quan, ngoài bộ phận hành chính quản trị, hậu cần, về mặt chuyên môn có:

- Ban Hàng hải: gồm anh Quê - một chuyên viên về hàng hải, có trình độ cả về lý thuyết lẫn thực hành, anh Vị đã từng lái tàu luồn lách các đảo Đông - Bắc từ Vịnh Hạ Long sang đến Bái Tử Long...

- Ban Thông tin hàng hải (chủ yếu thông tin đơn giản: cờ, kèn, trống) gổm các anh Ngọc (Simon), Thông, Hương (nơ nút)...

- Ban Điện cơ máy nổ gồm: Anh Thăng - chuyên viên của trường kỹ thuật thực hành cũ, anh Kim - chuyên gia máy nổ....

Những bộ phận chuyên môn này đều có chức năng vừa nghiên cứu phát triển, vừa trực tiếp huấn luyện học viên. Các anh đều có nhiệt tình hăng hái xây dựng ngành.


- Về khối học viên, tổ chức một tiểu đoàn huấn luyện do anh Lưu Phương lính thuỷ cũ, làm tiểu đoàn trưởng và anh Khổng Hiệu, chính trị viên. Tiểu đoàn gồm hai đại đội học viên, mỗi đại đội đều có cán bộ khung đại đội trưởng, trung đội trưởng lấy từ đơn vị chiến đấu trở về, đa số đã tốt nghiệp Lục quân, một số không ít đã là lính thuỷ thời Pháp. Cán bộ đại đội có anh Lê Trường Đa (Khu 5), anh Nghiêm Xuân Hùng, anh Thanh Văn Minh, anh Quốc Vinh... Cán bộ trung đội có anh Dương Đình Âu, Trần Kỳ, Trần Hùng, Nguyễn Xuân Triết, Trần Minh Thái, Trần Quang Cánh... Hầu hết anh em cán bộ khung huấn luyện đều là đảng viên. Số học viên tuyển được khoảng gần hai trăm, trong đó một nửa lấy từ vùng biển Đông Bắc, chọn lọc trong số anh em bộ đội, dân quân du kích có nghề đi biển chài lưới, số còn lại tuyển từ các trường phổ thông Phú Thọ, Vĩnh Phúc sang đến Bắc Ninh, Bắc Giang. Anh em đều trẻ măng, quyết tâm xếp bút nghiên lên đường tòng quân chuẩn bị tổng phản công theo tiếng gọi của biển cả mênh mông, xây dựng Hải quân non trẻ của Tổ quốc.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:16:31 pm
Tất cả anh em cán bộ cũng như chiến sĩ học viên đều điều động về đây, từ anh chỉ huy quân sự, chính trị đến anh cán bộ chuyên môn hàng hải điện cơ, từ anh du kích miền biển địch hậu đến anh học sinh trẻ măng vừa rời ghế nhà trường trung học, mặc dù tuổi tác, trình độ, thành phần có khác nhau, nhưng dần dần qua đấu tranh đoàn kết đã đi đến thống nhất ý chí cùng nhau gánh vác xây dựng Ngành Thuỷ quân non trẻ. Chỉ tiếc là khi đó cơ sở vật chất của ta quá nghèo nàn, ngoài số mô hình tàu tuần dương, khu trục, tàu sân bay tự làm bằng gỗ thu nhỏ, ta còn thiếu đủ thứ: từ chiếc xuồng tập chèo, chiếc ca nô tập lái, đến những chiếc la bàn hàng hải, máy nổ, buồm lèo, thiếu cả những phương tiện thông tin đơn giản (cờ, đèn...) chứ chưa nói đến thông tin điện tử hiện đại, nên cũng hạn chế nhất định đến kết quả nghiên cứu và học tập.


Từ thực tế tình hình như trên, chúng tôi bàn bạc trao đổi trong ban chỉ huy, trong Đảng bộ, trong đội ngũ cán bộ chuyên môn, loay hoay tìm một phương án thích hợp tối thiểu.

Trước mắt có thể xây dựng một lực lượng Thuỷ quân đánh bộ ven sông, biển (thực chất là du kích ven sông, biển). Địa bàn tác chiến trước mắt: có thể là vùng biển Đông Bắc; ngoài ra ở vùng tự do Liên khu 4, Việt Bắc có thể tổ chức một vài đội Thuỷ quân trên sông, ví dụ: ở sông Mã (Thanh Hoá), sông Lam (Nghệ An), sông Lô (từ Việt Trì đến Tuyên Quang - Hà Giang), sông Hồng (từ Phú Thọ đến Yên Bái)...
Về phương tiện kỹ thuật thì cố gắng tìm kiếm một số phương tiện hàng hải như: la bàn, máy nổ, thông tin điện tử, cờ đèn; xin đóng thí điểm vài ca nô đi sông, có trang bị trọng liên, đại liên; Anh Vọng - phó ban, vốn nhiều hoài bão lãng mạn còn phát huy sáng kiến: đề nghị đóng một ca nô chỉ huy (kiểu hạm chỉ huy) trong đó đủ buồng chỉ huy, buồng ngủ, buồng khách, đặc biệt dùng để đón Đại tướng đến duyệt Thuỷ quân đánh bộ bên bờ sông Lô...


Từ phương hướng tạm xác định như trên, chúng tôi bàn đến chương trình huấn luyện đào tạo cán bộ Thuỷ quân đánh bộ. Trước mắt lập chương trình hàng năm về huấn luyện quân sự, chính trị, chuyên môn, chủ yếu là huấn luyện bộ binh có vận dụng kỹ thuật, chiến thuật Thủy quân như: tập bắn súng trên thuyền, ca nô; tập bơi, lặn; tập chèo thuyền, xuồng; tập động tác đổ bộ (từ trên bờ lên thuyền và từ thuyền nhảy xuống tiếp cận bờ, triển khai đội hình chiến đấu,...); tập sử dụng hải đồ, tìm phương hướng trên biển theo dân gian (theo trăng sao, thời tiết, khí hậu, nước thuỷ triều lên xuống...); sử dụng phương tiện thông tin đơn giản đi biển (cờ, đèn...). Ngoài ra, nếu điều kiện kỹ thuật cho phép, thì sẽ mở lớp chuyên đào tạo thợ máy nổ (kể cả điều khiển máy nổ lẫn sửa chữa); đào tạo cán bộ hàng hải lái tàu.


Trên cơ sở những kết luận tạm thời trên về phương hướng xây dạng ngành, anh Khương và tôị về Bộ, trao đổi với cơ quan tác chiến và báo cáo trực tiếp với Tổng Tham mưu trưởng.

Anh Hoàng Văn Thái sau khi nghe báo cáo, đã trao đổi thống nhất đánh giá: năm 1949, ta đã tích cực bước đầu hình thành được cơ quan nghiên cứu thuỷ quân, đã tập hợp được một số cán bộ hải quân thời Pháp, Nhật thuộc, đã tuyển được một số anh em học viên để đưa vào huấn luyện đào tạo... Anh chỉ thị năm 1950 tiếp tục công việc đã và đang triển khai: trước mắt huấn luyện lính thuỷ đánh bộ, chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật để có thể mở lớp cán bộ kỹ thuật hàng hải - lái tàu, cán bộ điện cơ máy nổ... và đặc biệt, chuẩn bị một đại đội học viên đi Trung Quốc học tập kinh nghiệm đổ bộ đảo Hải Nam của giải phóng quân. Anh giao cho tôi trực tiếp đảm nhận chuẩn bị lực lượng này, chú trọng đến chất lượng khi đi quốc tế.


Trở về đơn vị, chúng tôi triển khai công việc theo chỉ thị của Tổng Tham mưu trưởng, trọng tâm là bảo đảm cho lực lượng ở nhà tiến hành nghiên cứu và huấn luyện, đẩy nhanh tốc độ đóng một vài ca nô và xuồng chèo tay phục vụ huấn luyện; đồng thời chọn một số cán bộ và học viên đi Trung Quốc học tập, cơ bản lấy số anh em khoá 1 và bổ sung một số anh em khoá 2.


Sau khi nghe báo cáo tình hình, số lượng, chất lượng đơn vị Bộ Quyết định tổ chức "Đội Thủy quân 71" đi Trung Quốc học tập kinh nghiệm đổ bộ đảo Hải Nam trong thời gian khoảng 6 đến 8 tháng. Bộ đã liên hệ với Bạn, ta cứ hành quân sang Bằng Tường - Long Châu, Bạn sẽ tiếp nhận và tổ chức đưa đơn vị đến địa điểm cần đến. Còn cán bộ chỉ huy và phiên dịch, Bộ điều động anh Lê Ngọc Quang về làm đội trưởng, anh Trác Vinh Nam và tôi làm đội phó. Anh Lê Ngọc Quang và tôi vốn quen biết nhau từ thời đầu cách mạng tháng 8/1945 ở chiến khu 3. Anh hoạt động cách mạng từ những năm 40 ở Hưng Yên, là chính trị viên trung đoàn ở Chiến khu 3. Còn tôi khi đó ở Hải Dương, là chính trị viên tiểu đoàn. Anh Trác Vinh Nam, người Quảng Ninh - Móng Cái nguyên là tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ở Thủ đô ngày đầu kháng chiến, thông thạo tiếng Quảng Đông và tiếng quan hoả Bắc Kinh, nên đảm nhiệm luôn việc phiên dịch. Hai anh về nhận nhiệm vụ đúng lúc đơn vị đã hành quân từ Đoan Hùng tới Đồng Bẩm - Thái Nguyên, đang tạm dừng đợi lệnh xuất phát.


Sang đầu tháng 6/1950, đơn vị được lệnh hành quân, đi theo đường Thái Nguyên - Đình Cả - Bắc Sơn - Bình Gia - Keo Coong, liên hệ với địa phương vượt đường 1 ở biên giới Trung - Việt giữa Na Sầm - Đồng Đăng. Trước đó ta đã đánh Đông Khê lần thứ nhất từ tháng 5/1950 và đang có ý định chuẩn bị chiến dịch biên giới Thu Đông 1950. Hoạt động của địch trên đường số 4 này là cầm chừng, không tích cực sục sạo như trước.


Đơn vị khoảng 100 người lên đường, tinh thần phấn chấn. Về cán bộ, ngoài ba anh em chỉ huy chúng tôi còn có cán bộ đại đội: anh Nghiêm Xuân Hùng, anh Thanh Văn Minh; cán bộ trung đội: anh Trần Kỳ, anh Trần Hùng và anh Dương Đình Ấu; cán bộ chuyên môn: anh Nguyễn Kim điện cơ, anh Nguyễn Tiến Cảnh... Rất tiếc là không có một cán bộ hàng hải nào cùng đi, mặc dù anh em chúng tôi cũng đã đề nghị danh sách.

Về học viên có hai đối tượng chính:

- Quân du kích ở vùng Đông Bắc khá đông: gồm Cơ, Ngọ, Bình, Tạo, Tiếp...

- Quân học sinh trung học mới tòng quân cũng khá nhiều cả khoá 1 và khoá 2 gồm những anh em từ Khu 3, Khu 4 mới ra: nào Đinh Văn Chí, Trần Quang Hậu (viết báo), Ngô Thế Lãng (ca nhạc), Vỹ, Phi Hoàng, Vũ Quân, Duy Thành, Đạt, Đức, Hợi,... Nói chung, anh em đều trẻ, khoẻ, hăng hái, nhiệt tình, học tập nghiêm túc và khá nhiều anh em có tài lẻ nổi đình đám, nào ca hát diễn kịch thơ phú, nào bích báo thể thao... làm cho sinh hoạt của Đơn vị 71 khá sôi nổi, để lại nhiều kỷ niệm không thể nào quên.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:20:08 pm
Sang Trung Quốc ở lại Long Châu một vài ngày, Bạn đưa chúng tôi đi Nam Ninh bằng đường thủy cho an toàn hơn (theo giải thích của bạn thì đường bộ đang còn phỉ hoạt động), ở đây Bạn đón tiếp nhiệt tình. Được vài ngày, đơn vị lại lên đường đi Tsékham, gần Quảng Châu Loan (Quảng Đông) bằng tàu thuỷ, có đoạn đi bằng ô tô.


Tsékham, nơi Bộ Tư lệnh Quân đoàn 43 thuộc Đệ tứ dã chiến quân của Lâm Bưu đóng quân. Các đồng chí quân đoàn đón tiếp chúng tôi khá chu đáo. Từ Tư lệnh đến Chính uỷ Quân đoàn đều đến trực tiếp gặp mặt, hỏi chuyện chiến tranh ở Việt Nam, mời cơm liên hoan thịnh soạn... sau đó Quân đoàn cử người đưa chúng tôi về huấn luyện tại một đảo nhỏ, đảo Nào Cháu (Điều Thuận) cách bờ Tsékham, độ hơn chục kilômet. Cán bộ Bạn trực tiếp phụ trách Đội 71 gồm:

- Ở cơ quan Bộ Tư lệnh, có đồng chí Tôn, một cán bộ chính trị già dặn, tham gia quân đội từ thời Bát lộ quân, trong tiếp xúc với chúng tôi luôn tỏ thái độ nhã nhặn, lịch thiệp, chân tình và chu đáo.


Cùng về đảo với chúng tôi, có Đồng chí Vương, dinh trưởng (cỡ tiểu đoàn trưởng) đã tham gia chiến đấu giải phóng đảo Hải Nam, trực tiếp huấn luyện chúng tôi một số khoa mục quân sự với tinh thần trách nhiệm caọ. Đồng chí Tống (Tống Chí Tiên), cán bộ chính trị tuổi trẻ, hoạt bát, vui vẻ, gần gũi, chan hoà với chúng tôi, chủ động để xuất những nhu cầu cần thiết cho sinh hoạt, học tập và trực tiếp huấn luyện tiếng Bắc Kinh cho chúng tôi.


Ngoài hai cán bộ chỉ huy quân sự, chính trị, Bạn còn cử một số giáo viên luân phiên đến giảng dạy, một đội hậu cần cấp dưỡng và vài ba anh chị em phiên dịch. Đó là các cô Lê, Vương, Vân Chí và chú Hồng, tất cả đều là Hoa Kiều sinh sống ở Việt Nam, theo tiếng gọi của Tổ quốc đã trở về nước tham gia cách mạng ở vùng biên giới Quảng Đông và nay về đây trong đội ngũ quân đoàn, phiên dịch cho chúng tôi. Các anh chị em đều hăng hái nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong học tập, sinh hoạt, mặc dù trình độ có hạn, đã để lại một vài giai thoại vui vẻ về dịch nhầm và hiểu nhầm...


Bạn bố trí chúng tôi ở nhà dân trên đảo, sau khi trao đổi sơ sơ với chúng tôi, Bạn quyết định thực hiện luôn một chương trình sáu tháng huấn luyện, cơ bản là huấn luyện phân đội bộ binh theo chiến thuật Lâm Bưu, có vận dụng ít nhiều vào việc đi biển, đổ bộ, sinh sống địch hậu, đại thể như kiểu tập luyện phân đội giải phóng quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo Hải Nam. Nội dung tổng quát các khoa mục gồm:

- Về kỹ thuật chiến đấu: huấn luyện bắn súng bộ binh (súng trường, trung liên, đại liên, súng cối 60 mm...) có vận dụng tập bắn trên sông nước, trên thuyền buồm; sử dụng bộc phá, thủ pháo, lựu đạn; vận động chiến, trong đó có tập động tác từ bờ lên thuyền và từ thuyền nhảy xuống nước, tiếp cận bờ và mục tiêu...

- Về chiến thuật, huấn luyện cá nhân chiến đấu, tổ tam tam chế, tiểu đội và trung đội tiến công, phòng ngự theo tư tưởng Lâm Bưu; cách hoạt động, sinh sống dịch hậu, vận động quần chúng...

- Về hàng hải, Bạn thuê của dân trong vùng 5 - 7 chiếc thuyền buồm to có gắn máy nổ để đi biển. Mỗi thuyền chở được từ 1, 2 tiểu đội đến một trung đội tùy theo cỡ thuyền to, nhỏ. Có chủ thuyển đi cùng để điều khiển lái thuyền. Thuyền thường đậu tập trung tại một bến kéo dài hàng trăm mét, chúng tôi gọi vui đó là "bến bãi của Hạm đội 71". Luyện tập về thuyền, nội dung chính là tập cho quen sóng gió, tập kéo buồm, lật lèo buồm, đi vát, đi ngược gió, đi trong sông lạch, dần dần ra khơi, đi về hướng đảo Hải Nam (nhưng không đến nơi). Tóm lại, quân ta chủ yếu tập đi biển, làm những công việc tạp dịch trên thuyền, còn việc lái thuyền vẫn do tài công chủ thuyền đảm nhiệm, vì thực tế với thời gian ngắn học tập trong tình huống đơn giản ta chưa thể tự lực một mình lái thuyền được, chỉ một sơ xuất nhỏ cũng có thể gây lật thuyền, đắm thuyền.


Ngoài khoa mục hàng hải, Bạn mở một lớp bồi dưỡng kỹ thuật máy nổ (chủ yếu là máy nổ xe ô tô GMC của Mỹ) cho một số anh em ta, độ hơn chục người. Cuối khoá học, Bạn tổ chức học tập "Chiến dịch đổ bộ đánh chiếm đảo Hải Nam" do một vài cán bộ cỡ sư đoàn tới giới thiệu trong 3 ngày. Kế hoạch đổ bộ có thể tóm tắt như sau:

Bạn huy động vài trăm tàu thuyền buồm gắn máy của dân (không có tàu chiến hiện đại) để chở quân đổ bộ đánh chiếm đảo Hải Nam. Để huy động được thuyền dân, có nhiều trường hợp phải mua cả thuốc phiện cho chủ thuyền hút sách để họ tích cực lái thuyền chở quân đi đổ bộ.

Hướng đổ bộ từ Đông Bắc và Tây Bắc đảo, mỗi hướng đổ một sư đoàn (bí mật đổ bộ, không có chuẩn bị hoả lực pháo áp đảo đối phương trước), phối hợp với cánh quân vu hồi thọc sâu, lực lượng khoảng một tiểu đoàn tăng cường bí mật luồn vào hậu phương địch, bắt liên lạc với phong trào cách mạng tại đảo nổi dậy đánh địch từ trong đánh ra, phối hợp với chính diện đổ bộ tấn công, có pháo đi cùng.

Kế hoạch đã thực hiện trọn vẹn và thắng lợi nhanh chóng, quân Tưởng Giới Thạch đã tan vỡ từ lục địa không còn tinh thẩn chiến đấu chống đã đã bỏ chạy rút về Đài Loan.


Sau học chiến lệ, Bạn tổ chức một cuộc hành quân đi biển dài ngày dự định đến đảo Hải Nam, nhưng sau bỏ kế hoạch này, chỉ đi khơi gần trong vài ba ngày đêm để kết thúc khoá học. Sở dĩ không đi khơi xa là vì trước đó một thời gian đã xảy ra một vụ đắm tàu trên biển trong điều kiện thời tiết yên ả, không có sóng to, gió lớn. Vụ việc xảy ra làm hai đồng chí hy sinh là đồng chí Nam Hải và Bùi Nguyên vốn quê ở Thuỷ Nguyên thạo nghề đi biển. Cả đơn vị vô cùng thương tiếc đồng chí mình. Còn Bạn thì băn khoăn lo lắng vì đã để xảy ra sự cố này, đã tổ chức mai táng chu đáo và sau đó cho xây phần mộ khang trang to đẹp ngay trên đảo.


Quá trình học tập trên đảo, chúng tôi được Bạn chăm sóc nuôi dưỡng khá đầy đủ, nhiều anh em lên cân khá nhanh. Quan hệ với Bạn, với nhân dân địa phương nói chung là giữ được mối tình hữu nghị, tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.


Trước khi lên đường về nước, Bạn còn trang bị hoàn toàn mới cho đơn vị từ khẩu súng trường, trung liên đến quân trang, quân dụng khá đầy đủ; nhưng tất cả chỉ mới dừng lại ở trang bị bộ binh đơn thuần, chưa mang mầu sắc lính thuỷ đánh bộ.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:24:20 pm
Vào đầu tháng 3/1951, chúng tôi từ biệt Quân đoàn 43, rời đảo Điếu Thuận, vẫn trở lại theo lộ trình cũ: Tsékham - Nam Ninh - Bằng Tường, vượt ải Nam quan (sau này đổi thành Hữu Nghị quan), qua Đồng Đăng về Lạng Sơn đã được giải phóng từ tháng 10/1950 trong chiến dịch Biên giới lịch sử. Từ Lạng Sơn đơn vị bám theo trục đường 1A, rẽ vào Bố Hạ sang Thái Nguyên, vượt đèo Khế, bến Bình Ca sông Lô, xuôi về Đoan Hùng tới căn cứ Thuỷ quân Sông Lô vào khoảng đầu tháng 4/1951; lúc này đã ngược dòng sông Chảy đóng tại khu vực làng Cỏ. Gặp lại anh em ở nhà, hàn huyên trò chuyện, biết bao thay đổi:

- Chiến thắng lịch sử trong chiến dịch Biên giới tháng 10/1950 phá thế bao vây của địch, nối liền nước ta với phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời chấm dứt "câu chuyện Tổng phản công" nhiều mắc mứu, bình luận.... 

- Đại hội Đảng lần thứ II tháng 2/1951 (Đại hội kháng chiến, Đại hội xây dựng Đảng lao động Việt Nam; Đại hội khẳng định và phát triển hoàn chính đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối toàn dân kháng chiến của Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân...)

- Đẩy mạnh vận động chiến, thực hành từng chiến dịch trên từng chiến trường. Ở Bắc Bộ, sau chiến dịch biên giới là chiến dịch Trung du (12/1950), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (cuối tháng 3 và đầu tháng 4/1951).

- Địch tăng cường đối phó, gấp rút tập trung quân cơ động xây dựng phòng tuyến boong - ke, vành đai trắng bao quanh trung du - đồng bằng Bắc Bộ, tiến hành chiến tranh tổng lực, bình định ác liệt vùng địch hậu, tăng cường phá hoại vùng tự do bằng máy bay oanh tạc, thả biệt kích, thổ phỉ, gián điệp... đã có tác động trực tiếp đến cơ quan nghiên cứu cùng các lớp học thuỷ quân, phải luôn luôn cơ động phòng địch oanh tạc (từ phố Giàn rời lên làng Cỏ).

- Riêng tình hình nội bộ lực lượng thuỷ quân, lớp học khoá 2 đã mở, vài trăm học viên từ khu 3, Liên khu 4 kéo ra và Trung du đổ về. Anh Khương là trưởng ban, các anh Lưu Phương, Khổng Hiệu, Quế, Vỵ, Thăng... bộ môn cơ quan và các anh Đa, Vinh.... ở lớp học đều khoẻ mạnh, tuy có gầy đi ít nhiều do công tác quá bận rộn, lại ăn uống kém. Anh Trần Trọng Trung mói về đảm nhận chính trị viên thay tôi từ Thu Đông 1950.


Đến hạ tuần tháng 4/1951, trong lúc chúng tôi đang trao đổi thống nhất công việc giữa lực lượng ở nhà với lực lượng mới về, chuẩn bị phái lực lượng đi xây dựng cơ sở du kích biển Đông Bắc, cử cán bộ đi nghiên cứu xây dựng các thuỷ đội trên sông hoặc ven biển Liên khu 4 và ở Việt Bắc... theo phương án đã được xác định từ năm 1950, thì có chỉ thị của Bộ giải tán lực lượng thuỷ quân (cùng với không quân). Chúng tôi có đề đạt ý kiến với cơ quan Bộ, chưa thật thông suốt chủ trương này, vì thấy cũng tiếc công, tiếc của đã xây dựng nên ngành trong vài năm qua; nhưng quyết tâm của Bộ vẫn không thay đổi với lý do đanh thép là để xây dựng một số sư đoàn chủ lực, buộc phải giảm quân số ở những đơn vị chưa thật cần thiết....


Chấp hành nghiêm túc chỉ thị của Bộ, chúng tôi triển khai nhanh chóng công việc cụ thể :

- Trước hết chọn lọc một lực lượng để đi xây dựng du kích biển Đông Bắc theo kế hoạch cũ đã xác định, chủ yếu lấy cán bộ, chiến sĩ thuộc Đội 71 mới đi Trung Quốc về. Đa số anh em quê hương vùng biển đã xin trở lại Đông Bắc, trong đó có anh Trác Vinh Nam đã được Bộ điều động về tỉnh đội Hải Ninh. Lực lượng này đều đã tham gia chiến đấu kiên định ở vùng duyên hải, xứng danh là những chiến binh kiên cường của Thuỷ đội 71. Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh trên chiến trường vùng biển thân yêu như các đồng chí Vỹ, Phượng, Mai... ở Hải Ninh; Dương Đình Ấu, Trần Kỳ, Đàm Nguyệt, Tuấn Chi, Tràng, Tiếu... ở Quảng Yên... hoặc có những đồng chí bị địch bắt nhưng giữ vững được khí tiết cách mạng của người du kích biển như Nguyễn Phú Đạt và Nguyễn Quang Tiếp...

- Tiếp đó, tuyển lựa một số cán bộ, chiến sĩ học viên khoá 1, khoá 2 đưa đi xây dựng sư đoàn công pháo 351, do anh Lê Ngọc Quang trực tiếp tổ chức dẫn về đơn vị mới để chuẩn bị đi Trung Quốc huấn luyện.
Còn lại một số anh chị em chuyển về cơ quan hoặc các đơn vị đóng quân trên đất khu 10 (Yên Bái - Phú Thọ) hoặc về cơ quan Bộ ở Thái Nguyên. Tôi được gọi về Bộ Tổng Tham mưu và chuyển về Cục Quân báo từ tháng 5/1951, đảm nhiệm chính uỷ một đơn vị trinh sát của Bộ. Anh Khương và anh Trung ở lại giải quyết toàn bộ công việc giải thể còn tồn đọng, bao gồm việc điều động nhân sự, thanh toán bàn giao cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và sau đó cũng về Bộ nhận công tác mới.


Trong buổi chia tay mỗi người một ngả, anh chị em cán bộ, chiến sĩ học viên, công nhân viên mới cũ, khoá 1 cũng như khoá 2, tất cả đều thể hiện tình cảm lưu luyến sau một thời gian không dài đã cùng nhau công tác, chiến đấu và học tập với bao kỷ niệm thân thương của một thời thuỷ quân sông Lô... Nhớ mãi những ngày gian khó, chia nhau từng củ sắn, miếng măng phố Giàn - làng Cỏ, những buổi luyện tập bơi lặn, chèo xuồng, đánh moóc, buộc nơ nút bên ngã ba sông Lô - sông Chảy luôn ì ầm tiếng máy bay địch bất thần xuất hiện, dai dẳng bắn phá nhiều lần... Cũng như không thể quên "Hạm đội 71 thuyền buồm" với sóng gió Điều Thuận - Tsékham thắm tình quốc tế vô sản trong sáng, vô tư thuở gặp gỡ ban đầu ngay sau những ngày Trung Hoa lục địa mới được giải phóng....


Thôi xin tạm biệt!... Hẹn gặp lại không xa dưới lá cờ hiệu Quân chủng Hải quân hùng mạnh của Tổ quốc, mà chúng ta có vinh dự được đặt một trong những "viên gạch" nhỏ bé đầu tiên xây dựng nên từ những ngày gian khó của chiến tranh chống Pháp xâm lược.


Xuân Hè 1993
NV


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:31:27 pm
NGÀY ẤY - Ở MỘT VÙNG NGÃ BA SÔNG


Đại tá Trần Trọng Trung
Nguyên chính trị viên khoá II - Ban nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu
- Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự


Hàng năm cứ đến ngày 8 tháng 3, chúng tôi - những chiến sĩ Thuỷ quân sông Lô năm xưa lại họp mặt kỷ niệm ngày Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân. Mặc dù đã trên dưới nấc thang "thất thập cổ lai hy" (có người như anh Ngô Hương đã ngoài 80), nhưng xem ra số đông vẫn giữ được phong thái thời lính trẻ, nhất là mấy nhân vật đã vang tiếng nghịch ngợm một thời như Lê Quang Loát, Đỗ Sâm, Nguyễn Thọ Sơn... Cứ mỗi lần họp mặt là một lần Chúng tôi cùng nhau ôn lại những giai thoại về những chàng "lính thuỷ nước ngọt" 50 năm trước, cùng nhau hát lại những bài hát của thời trai trẻ và trao đổi tâm tình vể cuộc sống đời thường của tuổi già bên cạnh con cháu. Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua.


Khoảng giữa năm 1950, vừa học xong khoá 2 trường Nguyễn Ái Quốc trở về công tác ở Bộ Tổng Tham mưu không lâu, tôi được điều về làm chính trị viên Ban nghiên cứu Thuỷ quân. Từ chợ Chu, tôi qua ngã ba Phú Minh, vượt đèo Khế sang Bình Ca rồi theo đường số 2 xuống Đoan Hùng. Nhân dân ở huyện lỵ đã sơ tán hết, vắng vẻ, chỉ còn lác đác vài cái quán nép mình dưới mấy cây to ven đường. Cuộc hành quân Pô-mô-nơ mùa hè năm trước của quân Pháp khiến cho vùng ngã ba Đoan Hùng chưa lấy lại được cảnh nhộn nhịp của một điểm nút giao thông từ đồng bằng trung du lên chiến khu.


Đang hỏi thăm đường đến chợ Giàn, xã Hùng Quan thì gặp một cán bộ cũng vừa vào quán nghỉ chân. Nhìn nhau, hai chúng tồi cùng ngờ ngợ như đã từng gặp ở đâu. Cuối cùng, rồi cũng nhận ra, đó chính là một cán bộ đã từng công tác ở Hải đoàn bộ, cùng trong khu nhà 18 Nguyễn Du, trụ sở Bộ Tổng Tham mưu hồi trước kháng chiến toàn quốc. Nhận ra nhau rồi, được biết anh đang công tác ở Ban Nghiên cứu Thuý quân "May sao, tôi được anh Quế dẫn đường về cơ quan”.


Dọc đường tôi tranh thủ tìm hiểu tình hình của Ban và của lớp Thuỷ quân khoá 1 vừa kết thúc. Tháng 6 năm đó, gần 100 học viên đã lên đường sang nước bạn bổ túc thêm để có thực tế môi trường ven biển và hải đảo. Một số cán bộ đang đi chiêu sinh, chuẩn bị cho khoá tiếp theo. Khác với khoá 1, đa số học viên khoá này là học sinh trung học vừa nhập ngũ. Cán bộ phụ trách hiện nay là hai anh Nguyễn Văn Khương và Trần Đình Vọng, trưởng và phó ban. Anh Nguyễn Việt, chính trị viên đã lên đường sang Trung Quốc cùng với anh em học viên khoá 1. Tôi thầm nghĩ: như vậy là về mặt công tác Đảng, công tác chính trị, tôi sẽ nhận nhiệm vụ mà không có sự bàn giao giữa cấp uỷ khoá 1 và ban cán sự Đảng khoá 2.


Anh Quế dẫn tôi đến căn nhà tranh ở sườn đồi phía sau làng Cỏ. Ban chỉ huy không có chỗ ở riêng mà ở chung với đồng bào địa phương. Tuy không quen nhưng đã từng gặp trong một vài hội nghị ở Bộ Tổng Tham mưu nên anh Khương, anh Vọng và tôi nhận ra nhau ngay. Sau một buổi trao đổi sơ bộ trong nội bộ Ban phụ trách và gặp gỡ thăm hỏi anh em giáo viên, chúng tôi bàn việc chuẩn bị khai giảng khoá học sắp tới.


Đội ngũ giáo viên được chia thành ba ban chuyên môn: hàng hải, thông tin, điện cơ do anh Nguyễn Văn Quế làm tổ trưởng huấn luyện. Các anh đã có kinh nghiệm khoá 1. Qua những buổi đầu tiếp xúc và được anh Khương, anh Vọng cho biết, điều đáng quý trong đội ngũ giáo viên không chỉ là kiến thức về chuyên môn mà cái chính là nhiệt tình trách nhiệm trong công tác giảng dạy. Ngay từ khoá trước, các anh đã góp công sức đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng ngành thuỷ quân từ buổi đầu trứng nước. Chính với tinh thần trách nhiệm và lòng say mê nghề nghiệp, các anh đã tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn thiếu thốn để có những phương tiện huấn luyện tối thiểu trước ngày khai giảng lớp học. Với trí nhớ và sự hiểu biết về tàu chiến của Pháp các anh đã làm được những mô hình tàu tuần dương, khu trục, hàng không mẫu hạm; đã tự đóng xuồng để học sinh chèo lái; tự làm ra những phương tiện thông tin thô sơ (cờ, đèn....) để dạy cách liên lạc trên biển. Có những thứ (ví dụ như máy nổ) có thể đi nhờ sự giúp đỡ của các cơ quan bạn, cũng có nhưng thứ đành phải giới thiệu bằng hình vẽ, như la bàn đi biển hay những phương tiện thông tin hiện đại về hàng hải.


Một trong những công việc đầu tiên của tôi chuẩn bị khai giảng khoá học là nghiên cứu phương án triển khai công tác Đảng, công tác chính trị. Điều đáng quan tâm là lực lượng đảng viên trong đội ngũ giáo viên và học viên quá mỏng. Trong số anh em giáo viên chỉ có một vài đảng viên và một số trợ giáo (mới tốt nghiệp khoá trước) là trong diện cảm tình Đảng.


Khi bàn về công tác đảng, công tác chính trị, Ban cán sự chúng tôi chú ý nghiên cứu tìm hiểu về anh em giáo viên chuyên môn, những người đóng vai trò rất quan trọng đối với kết quả khoá học. Qua đôi lần tiếp xúc, được biết các anh đã từng trải qua cuộc sống của những chuyên viên kỹ thuật hàng hải trên các tàu biển của Pháp, đã từng đặt chân tới những thành phố cảng lớn như Mác-xây, Tu-lông, Niu-Oóc, Hồng Kông... Cách mạng tháng Tám thành công, các anh đem kiến thức chuyên môn phục vụ hoạt động của lực lượng vũ trang trên chiến trường sông biển, từ Thuỷ đội Bạch Đằng ở Khu 5 đến vùng duyên hải Đông Bắc và cơ quan Hải đoàn bộ thuộc Bộ Tổng Tham mưu từ những ngày trước kháng chiến toàn quốc. Khi Ban nghiên cứu thuỷ quân thành lập, các anh là những người đầu tiên đem hiểu biết truyền đạt lại cho lớp trẻ, từ khoá trước đến khoá 2 này. Ban cán sự đánh giá cao sự hiểu biết và sự đóng góp của các anh, đồng thời xác định phương hướng giúp đỡ các anh về mặt chính trị, một lĩnh vực các anh còn ít quan tâm.


Bên cạnh giáo viên chuyên môn là đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện quân sự cấp trung đội và đại đội. Các anh đều đã tốt nghiệp trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, từ khoá 2 đến khoá 4. Một số người là đảng viên. Từ khoá 1, không mấy ai là không biết tiếng ông Lê Trường Đa, được mệnh danh là "ông Đa đi đều bước". Anh là một cán bộ rất thương yêu bộ đội nhưng cũng rất nghiêm khắc trong chấp hành điều lệnh. Còn cán bộ trung đội, xuất thân từ "lò luyện quân" khoá 4 ở vùng núi Guộc - Phúc Trìu, Thái Nguyên, nổi tiếng về rèn luyện quân phong quân kỷ.


Đối tượng thứ ba - được coi là trung tâm - đó là học viên. Anh Phương và anh Hiệu đã ít nhiều có kinh nghiệm lãnh đạo anh em thanh niên học sinh trung học từ khoá trước. Hôm từ ngã ba Đoan Hùng về cơ quan, tôi đã có dịp trao đổi với anh Quế về những thanh niên mà anh đang chiêu sinh chuẩn bị cho khoá 2. Mấy ngày theo dõi anh em tề tựu tập trung về lớp, một đặc điểm rất đáng ghi nhận là, tuổi trẻ và ý thức giác ngộ chính trị đã giúp cho anh em nhanh chóng hoà quyện với nhau, đoàn kết tương thân tương ái trong công tác và sinh hoạt ngay từ những ngày đầu tựu trường. Hơn 100 thanh niên mới rời ghế nhà trường để "nhập ngũ vào lính thuỷ, có một nét rất chung là thông minh, tháo vát, một số khá nghịch ngợm. Sau này nhiều anh em nhớ lại, không ít người đăng ký nhập ngũ với những suy nghĩ mơ mộng rất trẻ và rất lãng mạn: "giầy trắng, quần áo trắng, mũ trắng có chóp bông đỏ, đứng tựa lan can tàu sạch bóng, nhìn mây, ngắm nước...".


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:32:46 pm
So với cuộc sống kháng chiến hồi đó (1950 - 1951) ước mơ trên đây được coi là tiểu tư sản. Nhưng rồi thực tế những ngày lao động xây dựng trường sở, bộ quần áo Vệ quốc đoàn nhuộm bằng lá cơi, doanh trại bằng tre, nứa lá, những bữa ăn không đủ no đối với cái tuổi bẻ gẫy sừng trâu và nhất là một tháng "cầy vỡ tân binh", tất cả đã đưa những chàng trai đáng yêu ấy thích ứng với cuộc sống của người "lính thuỷ nước ngọt" ở vùng ngã ba sông Lô - sông Chảy.


Ngày lên đường đi nhận nhiệm vụ, cơ quan chính trị Bộ Tổng Tham mưu trao cho tôi quyết định thành lập Ban cán sự Đảng Ban nghiên cứu Thuỷ quân và lớp Thuỷ quân, trực thuộc Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu. Ban cán sự gồm có ba người: Trần Lưu Phương và Nguyễn Khổng Hiệu (tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn học viên) và tôi (bí thư Ban cán sự kiêm chính trị viên Ban nghiên cứu và lớp Thuỷ quân).


Theo phương hướng chỉ đạo của trên, công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng trong thời kỳ này tập trung vào việc quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng và bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân. Trước mắt cần nhanh chóng tạo điều kiện cho anh em học viên thích ứng với môi trường mới, nhất là trong thời kỳ rèn luyện tân binh, những ngày thử thách đầu tiên mà các anh sắp phải trải qua. Về lâu dài, mặc dù cuộc kháng chiến phát triển thuận lợi, nhưng khó khăn không ít. Cần giáo dục khắc phục mọi tư tưởng ngại gian khổ hy sinh, tư tưởng ỷ lại vào nước ngoài. Phương hướng phát triển Đảng nhằm vào số cán bộ sơ cấp và các trợ giáo, đặc biệt là những anh em trong diện cảm tình Đảng...


Sau một tháng rèn luyện tân binh, chương trình chuyên môn hàng hải bắt đầu, xen kẽ với chương trình học tập chính trị chính khoá. Điều mà cán bộ đảng viên quan tâm là vận dụng công tác quân sự bộ binh sao cho phù hợp yêu cầu chiến đấu trên sông biển, như: bắn súng bộ binh trên tàu thuyền, ca nô, tiếp cận bờ, bám mục tiêu triển khai đội hình chiến đấu... Bên cạnh đó là những nội dung về hàng hải do giáo viên chuyên môn trực tiếp huấn luyện, từ tập bơi lặn, chèo xuồng, ca nô, đến sử dụng hải đồ, vận dụng kinh nghiệm dân gian để tìm phương hướng trên biển, sử dụng phương tiện thông tin hàng hải...


Tài liệu giáo dục chính trị cơ bản là cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, kết hợp với những buổi sinh hoạt tập trung nghe thời sự hoặc nghiên cứu một số tài liệu ngoại khoá, như "Thanh niên tính, Giai cấp tính" và các bài viết của các đồng chí lãnh đạo trên tờ Sự thật, Cứu quốc...


Qua hoạt động thực tế, dần dần chúng tôi cảm thấy: ngoài những buổi lên lớp chính trị, phát động phong trào thi đuạ, các buổi liên hoan văn nghệ hay thi đấu thể thao... hình như công tác chính trị còn cần có một hình thức nào đó, quy mô có thể nhỏ hơn nhưng nội dung linh hoạt và phong phú hơn nhằm đáp ứng yêu cầu văn hoá tinh thần của một số anh em học sinh mười tám, đôi mươi thông minh, hiếu động, ham hiểu biết. Cần nói thêm rằng tôi chỉ hơn anh em chừng 10 tuổi, "chất học sinh" còn đậm lắm nên cũng dễ thông cảm với nhu cầu sinh hoạt của những đối tượng đặc biệt này.


Tôi còn nhớ, sau buổi giới thiệu tài liệu Thanh niên tính (xin được của anh Lý Ban, nhân một buổi lên Bộ họp), tôi hỏi ý kiến một số học viên: Làm thế nào, dùng hình thức gì để cải thiện sinh hoạt văn hoá tinh thần cho phù hợp với tâm tư tình cảm của tuổi trẻ? Anh em cho biết: thỉnh thoảng, sau bữa cơm chiều (trước giờ sinh hoạt tối), nhiều anh em thường ra ngồi trên bãi cỏ bên bờ sông Chảy với cây đàn ghi ta, cùng nhau hát những bài mà anh em ưa thích, như: Thiên Thai, Suối Mơ, Đàn chim Việt... và trao đổi với nhau về những vấn đề mang tính văn hoá lành mạnh. Tôi quyết định tham gia cùng anh em với hy vọng tìm thêm hình thức hoạt động công tác chính trị cho phù hợp với điều kiện lớp học.


Lúc đầu, có anh em dè dặt (vì có sự có mặt của chính trị viên). Nhưng rồi chúng tôi nhanh chóng hoà quyện với nhau, cùng nhau nói chuyện về thơ, về Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm... Chỉ một vài buổi đầu tiên cũng đủ nhận thấy nhiều anh em có năng khiếu văn học và hiểu biết khá sâu ngay từ những ngày ngồi trên ghế nhà trường trung học. Có anh thích đọc và nhớ khá nhiều bài thơ của Vích-to Huy-gô, trong đó có bài Sau trận đánh chan chứa tình người và đặc biệt là một bài thơ rất hợp với những suy nghĩ lãng mạn của những chàng thuỷ thủ tương lai, bài Đêm trên đại dương, trong đó có câu:

   "Ôi biết bao thuyền viên, thuyền trưởng
   Vui ra đi những chuyến viễn dương..."

Cũng có anh thích bình những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, rồi đặt ra những câu hỏi rất khó trả lời, ví như: Vì sao Xuân Diệu thích Ranh-bô và Véc-len (hai chàng thi sĩ choáng hơi men)?.

Điều đáng trân trọng là anh em rất có ý thức, chỉ dừng lại ở mức sinh hoạt văn hoá mang tính thư giãn lành mạnh sau một ngày học tập căng thẳng. Cứ như thế, nhóm anh em yêu thơ nhạc này trở thành hạt nhân văn hoá văn nghệ của lớp, một câu lạc bộ nhỏ, không chính thức, sinh hoạt không định kỳ, ngoài giờ. Tôi thường tranh thủ họp mặt với anh em. Tôi gọi là "hạt nhân văn hoá vãn nghệ" vì ngoài những buổi sinh hoạt nhóm nhỏ mang tính thư giãn ra, anh em còn đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc liên hoan văn nghệ nội bộ. Cũng chính do đề nghị của anh em mà lớp học có thêm những buổi nói chuyện chung về nhiều đề tài khác nhau, từ các chiến dịch Xta-lin-grát, Béc-lin, cuộc Vạn lý trường chinh, đến các nhân vật nổi tiếng trong chiến tranh Xô-Đức như Xtalin, Giucốp...


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:34:12 pm
Một trong những buổi nói chuyện đáng ghi nhớ là buổi nói về chiến thắng biên giới. Khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1950, tôi được đi dự Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II (chiến dịch giải phóng Biên giới Đông Bắc). Sau hội nghị, cơ quan chính trị Bộ Tổng Tham mưu hướng dẫn mục đích tuyên truyền về chiến thắng có tầm cỡ chiến lược quan trọng này là nhằm làm cho bộ đội và nhân dân thấy được những nội dung chủ yếu sau đây:

- Đây là chiến dịch lớn nhất của quân đội ta sau 5 năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và đã giành thắng lợi vượt bậc (diệt 8 tiểu đoàn tinh nhuệ của địch).

- Biên giới khai thông, do đó ta có điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế, trước hết là với Liên Xô và Trung Quốc.

- Chiến thắng Biên giới đánh dấu một mốc chiến lược quan trọng, tạo nên một bước ngoặt của cuộc kháng chiến.


Nói chuyện với học viên, điều mà anh em thích nhất là những mẩu chuyện về Bác Hồ đi chiến dịch, từ việc Bác theo dõi động viên bộ đội giữ vững quyết tâm khi trận đánh (diệt cứ điểm Đông Khê) gặp khó khăn phải kéo dài thời gian, đến việc Bác hoá trang đi thăm hỏi bộ đội, thương binh, dân công và gặp cả những sĩ quan tù binh Pháp; rồi chuyện La Vãn Cầu chặt cánh tay bị thương cho khỏi vướng để tiếp tục lao vào đồn địch, chuyện đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ bị chảy máu dạ dày, không chịu lui về hậu tuyến, vẫn nằm trên cáng để chỉ huy bộ đội truy kích địch; rồi những mẩu chuyện về tình cảnh hỗn loạn của hai binh đoàn địch trong quá trình bị quân ta chia cắt và tiêu diệt...


Cuộc nói chuyện đã thực sự đem lại cho toàn thể giáo viên và học viên một niềm phấn khởi trước chiến công to lớn của đồng đội.

Nhóm hạt nhân văn hoá văn nghệ hoạt động trong suốt khoá học và điều bất ngờ đã đến với tôi. Năm 1996 một người bạn từ miền Nam ra thăm và tặng tôi một tập thơ gồm 50 bài, do Nhà xuất bản văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. Tập thơ nhan đề Em ơi- thời gian, tác giả chính là người bạn trẻ đến thăm hôm đó - Trịnh Thế, một thành viên Lính thủy sông Lô năm xưa. Trong tập thơ có bài anh viết từ năm 1946, khi mới ở tuổi 16.


Xin trở lại với khoá học của chúng tôi ở vùng ngã ba sông Lô - sông Chảy. Khoảng giữa tháng 4 năm 1951, khoá 2 vừa kết thúc thì anh em khoá 1 từ Trung Quốc trở về nước. Ngày 29, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuống trực tiếp chỉ thị cho cán bộ phụ trách cả hai khoá chuẩn bị chuyển hướng hoạt động của Ban nghiên cứu Thuỷ quân. Điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến lúc này đòi hỏi giảm biên chế cơ quan Bộ để tập trung cán bộ xây dựng các đại đoàn chủ lực và tăng cường cán bộ ra phía trước. Mấy trăm cán bộ của cả hai khoá Thuỷ quân cùng trong diện đó. Bộ chỉ thị cho chúng tôi cùng cơ quan quân lực nghiên cứu cụ thể từng đối tượng hoặc điều ra chiến đấu ở vùng duyên hải Đông Bắc (chủ yếu là anh em bộ đội và du kích vùng biển vừa tham gia lớp huấn luyện khoá 1) hoặc điều về các đại đoàn, trước hết là đại đoàn công pháo 351.


Phải thú nhận rằng việc giải thể Ban nghiên cứu Thuỷ quân trong đó có các cán bộ, học viên đã qua hai khoá huấn luyện là điều bất ngờ đối với chúng tôi. Anh em học viên đang nô nức chờ đợi nhiệm vụ mới, chờ đợi được vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn công tác. Vấn đề đặt ra là phải triển khai công tác tổ chức, công tác chính trị tư tưởng như thế nào để không gây nên sự hẫng hụt trong một số người, nhất là những anh em không được phân công ra chiến đấu ở Đông Bắc. Chúng tôi ghi nhớ lời dặn của anh Thái (cấp uỷ), từng tổ Đảng và đảng viên tự phải xác định nhận thức và tư tưởng rằng chủ trương tạm thời giải thể lúc này là đúng, là phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến. Khi phổ biến nhiệm vụ cho chúng tôi, Tổng Tham mưu trưởng nhấn mạnh: chúng ta không hứa hẹn xuông, nhưng chắc chắn khi điều kiện cho phép tổ chức lực lượng Hải quân, các anh em học sinh này sẽ là những người đầu tiên được Bộ triệu tập về và sẽ trở thành "những hạt giống đỏ" của Hải quân Việt Nam sau này.


Suốt tháng 5, hàng loạt công tác được triển khai dồn dập nhằm nhanh chóng thực hiện chủ trương của Bộ: sinh hoạt chính trị, đả thông tư tưởng, phân bố cán bộ và học viên của cả hai khoá, giải quyết những vấn đề còn lại về quản lý hành chính, cơ sở vật chất...


Trong không khí khẩn trương nhộn nhịp ấy, không khỏi có những biểu hiện tâm lý nuối tiếc và tình cảm bạn bè quyến luyến trước ngày chia tay, nhất là sau khi công bố danh sách theo phân công cụ thể. Kẻ ra Đông Bắc, người xuống đại đoàn, hôm chia tay không ai dự kiến trước ngày gặp lại và tuy không nói ra không ai biết trước cuộc đời binh nghiệp của mình liệu còn có dịp trở lại gắn bó với Hải quân hay không.


Phải hơn bốn mươi năm sau, với sự ra đời của Ban liên lạc cựu chiến binh sông Lô, bài toán mới có lời giải trong cuộc họp mặt đầu Xuân Quý Dậu - 1993. Sau bốn mươi hai năm - mới có dịp báo cho nhau ai còn ai mất, anh nào còn trong quân ngũ, anh nào đã ra ngoài trước ngày nghỉ hưu và đặc biệt là những ai hiện còn là "hạt giống đỏ" trong Quân chủng Hải quân? Được biết, ngay sau hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Bộ đã giữ lời hứa, điều động ngay một số anh em về tham gia chuẩn bị thành lập Cục phòng thủ bờ bể. Trong đó, có nhiều anh em tham gia công tác trong Quân chủng Hải quân cho đến ngày nghỉ hưu. Ai nấy đều vui mừng khi được tin dù xuống đơn vị chiến đấu hay vẻ các cơ quan Bộ hoặc Liên khu, hoàn cảnh môi trường khác nhau, kể cả trước những thử thách ác liệt nhất, tất cả anh em đều hoàn thành nhiệm vụ, có anh ngã xuống trên chiến trường địch hậu Đông Bắc. Và một "mẫu số chung" là mỗi người chúng tôi đều rất tự hào về bản chất "Anh bộ đội Cụ Hồ", cũng như chưa ai quên những kỷ niệm một thời trai trẻ của những chàng "lính thuỷ nước ngọt" trên một vùng ngã ba sông Lô - sông Chảy.

TTT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:36:36 pm
NHỮNG NGÀY Ở ĐỘI 71


Đại tá Lê Ngọc Quang
Nguyên chính uỷ Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp


Tháng 5/1950, tôi 29-30 tuổi đến nay tôi đã gần 80, trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ, cộng với những năm đổi mới, biết bao đổi thay, nhiều anh em đã hy sinh trong chiến đấu, những anh em còn lại, gặp được nhau tay bắt mặt mừng, vẫn cảm thấy mình còn trẻ, nhớ lại Đội 71 năm xưa, thật xao xuyến và cảm động...


Tôi nhận lệnh về Đội 71 từ ngày còn ở trường Lục quân, đóng ở Soi Mít (Thái Nguyên), về Bộ Tổng Tham mưu tôi được anh Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam (sau đổi thành Quân đội nhân dân Việt Nam) thân mật tiếp và giao nhiệm vụ phụ trách Đội 71 sang Trung Quốc học tập, rút kinh nghiệm giải phóng đảo Hải Nam bằng thuyền buồm. Anh đã viết sẵn bức thư bằng chữ Hán trao cho tôi sang gặp đại sứ Trung Quốc để bạn làm thủ tục đón nhận chúng tôi ở vùng Bằng Tường - Long Châu bên kia biên giới.


Tôi đến gặp đại sứ La Quý Ba, đại sứ Trung Quốc đầu tiên ở nước ta, ở trong một khu rừng có nhiều cây cao thoáng mát. Nơi ở và làm việc của đại sứ là một căn nhà gỗ khang trang. Sau khi làm việc xong, hai vợ chồng đại sứ ân cần mời tôi cùng ăn sáng và vui vẻ trò chuyện về mối quan hệ hữu nghị thắm thiết Việt - Trung.


Sau đó, tôi trở về Đội 71 ở Đồng Bẩm (Thái Nguyên), gặp anh Nguyễn Việt và anh Trác Vinh Nam cũng là cán bộ trong Ban chỉ huy đội. Phải lên đường ngay, nên trong quá trình hành quân cũng là quá trình chúng tôi trao đổi công việc. Được anh Việt cho biết tình hình cụ thể về biên chế tổ chức của Đội 71 và thấy công tác chuẩn bị nội vụ cùng kế hoạch hành quân mọi việc đã sẵn sàng, tôi yên tâm cùng lên đường và ngày càng thêm thông cảm hiểu biết nhau hơn: anh Nam hoà nhã, tháo vát và trực tính kiêm cả phiên dịch trong khi Đội chưa gặp được tổ chức của Bạn. Anh rất thạo tiếng Quan Hoả và tiếng Quảng Đông, rất thuận lợi cho viêc giao dịch của Đội trong quá trình hành quân và tiếp xúc với bạn. Anh Việt năng nổ, có đầu óc tổ chức, có trình độ và năng lực công tác nhưng rất khiêm tốn. Lúc này tôi mới biết rõ Đội 71 thuộc Ban nghiên cứu Thủy quân, bao gồm thành phần một số anh em du kích biển Đông Bắc và học sinh có trình độ trung học từ các trường của miền trung du Bắc Bộ và vùng Khu 4, được tuyển vào trường Thuỷ quân khoá 1 và 2 ở Đoan Hùng, bên sông Lô - sông Chảy. Nói chung anh em đều tươi trẻ, khoẻ mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt và nhiệt tình hăng hái.


Vào thời điểm này, đường số 4 biên giới Việt - Trung vẫn chưa được giải phóng, đơn vị phải cử trinh sát bám địch để bí mật vượt qua. Tới Bằng Tường gặp Bạn vẫn chưa có xe, anh em lại phải tiếp tục đi thêm hai ngày đường hành quân bộ tới Long Châu. Tới đây chúng tôi được Bạn tiếp đón và bố trí đi Nam Ninh bằng tàu thuỷ. Theo Bạn cho biết lúc này Hoa Nam mới được giải phóng, nhiều nơi vẫn còn phỉ hoạt động, nên đi bằng đường sông an toàn hơn. Sau nhiều ngày hành quân bộ cực nhọc vất vả đã thấm mệt, đến đây lại được đi bằng tàu khách êm ả, có nơi ăn nghỉ tại chỗ và được thư giãn ngồi ngắm cảnh bên sông, mọi người trong đơn vị đều cảm thấy rất thích thú và thoải mái. Toàn đơn vị được Bạn bố trí đi trên ba chiếc tàu với cự ly cách nhau khoảng 100m, có giải phóng quân mang súng ngồi trên boong yểm hộ, chạy suốt ngày đêm. Khi tối xuống đã ngả về khuya, đoàn tàu vẫn nổ máy lướt trôi và loa phóng thanh trong khoang đang nhè nhẹ vang lên những điệu kèn, tiếng nhị êm ái như muốn ru ngủ khách đi tàu, thì bỗng nhiên hàng tràng súng máy, súng trường từ trên bờ bắn xuống và từ dưới tàu bắn lên vang động cả dòng sông. Một lúc sau mọi việc cũng qua đi, đoàn tàu vẫn an toàn và chiều hôm sau đơn vị chúng tôi vẫn đến được Nam Ninh theo dự định. Từ đây, Bạn đưa chúng tôi hành quân tiếp bằng ô tô. Đến Tsékham, đơn vị chúng tôi được Quân đoàn 43 phụ trách tổ chức tiếp đón, rồi đưa ra đảo Điều Thuận, một đảo nhỏ cách đất liền trên 10km để huấn luyện.


Về luyện tập đi biển, Bạn dùng 6 - 7 chiếc thuyền buồm, từ chỗ ra khơi tập cho quen với sóng gió, đến tập lái thuyền, rồi tập sử dụng thuyền buồm, gồm các động tác lên xuống thuyền buồm, kỹ thuật điều khiển thuyền buồm để lợi dụng được sức đẩy của gió cho thuyền chạy các chiều: xuôi gió, ngược gió, quay mũi đổi chiều khi chạy vát... điều khiển cho thuyền chạy nhanh, chạy chậm hay ngừng chạy, động tác neo đậu, đưa thuyền ra khơi và cho thuyền vào bờ cập bến... Luyện tập để điều khiển được buồm cho thuyền chạy an toàn trong điều kiện sóng to gió lớn là cả một nghệ thuật và mất nhiều công phu mới luyện tập thành thạo. Bạn còn truyền thụ những kinh nghiệm thực tế của những người đi biển để phán đoán thời tiết, chiều gió, để xem con nước thuỷ triều, tìm phương hướng đi giữa biển khơi...


Về kỹ thuật tác chiến, có tập xạ kích trên thuyền, tập đổ bộ bằng thuyền gồm các động tác từ trên bờ lên thuyền xuống nước tiếp cận mục tiêu, chiếm lĩnh trận địa.... Kết hợp với việc luyện tập kỹ thuật tác chiến trên bộ (động tác cá nhân, 3 người, tiểu đội và trung đội), kỹ thuật sử dụng, vận hành máy nổ chạy tàu, thuyền v.v...


Cuối chương trình chúng tôi được nghe Bạn giới thiệu tóm lược về "Chiến dịch đổ bộ đánh chiếm đảo Hải Nam" và cuối khoá có đợt huấn luyện tổng hợp, diễn tập thực binh. Đêm ra khơi sáng sao, gió to sóng lớn cao đến 4 - 5m làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, hai bên con sóng không nhìn thấy thuyền nhau, nước biển bắn tung toé, trào lên cả mui thuyền làm ướt đẫm cả quần áo của những anh em đi diễn tập. Tiếng hò hét điều khiển của Bạn cộng với tiếng gào rít của sóng gió, tiếng va đập của sóng vào mạn thuyền với những làn nước từng nhịp tung toé ào ạt lên thuyền, làm cho không khí luyện tập rất sôi động, khẩn trương và nghiêm túc. Đêm diễn tập thắng lợi trở về cũng là lúc đã tới thời hạn trở về nước để nhận nhiệm vụ mới, sau 6 tháng khẩn trương huấn luyện, học tập kinh nghiệm trong sự giúp đỡ tận tình của Bạn. Trước khi chia tay, Bạn đánh giá cao tinh thần và kết quả học tập của đơn vị, hoàn thành tốt kế hoạch của trên đề ra, tình hữu nghị thấm đậm nhiều ấn tượng còn in sâu trong tâm khảm mọi người.


Về nước vào tháng 4/1951, thì sang tháng 5/1951 Bộ có chủ trương giải thể Ban nghiên cứu Thuỷ quân do yêu cầu của tình hình lúc bấy giờ, trên dưới đều trăn trở luyến tiếc. Anh em chia tay bịn rịn, người đi chiến đấu ngoài hải đảo ở khu Đông Bắc, người về sư đoàn chủ lực. Trong chiến đấu gian khổ, nhiều anh em chiến đấu dũng cảm lập nhiều thành tích, một số anh em đã hy sinh. Gặp các anh Phạm Vũ Quân, Nguyễn Quang Tiếp kể chuyện hoạt động vùng biển Đông Bắc (Hải Ninh - Hồng Quảng) ác liệt, gian khổ, tôi liên tưởng đến tình hình khi vể nhận nhiệm vụ ở Trung đoàn 2 của Quân khu 3 đóng ở Tiên Yên hồi đầu chiến tranh (1947), thôi thì đủ mọi khó khăn thiếu thốn, lại thêm nạn thổ phỉ hoành hành cướp phá, nên rất thông cảm với anh em Thuỷ quân sông Lô chiến đấu ở ven biển hải đảo, cơ sở địch hậu Đông Bắc, trong hoàn cảnh luôn bị địch càn quét, o ép đủ bề gian truân cực nhọc.


Hoà bình lập lại, tôi gặp anh Ngô Thế Lãng, phụ trách đoàn văn công của Sư đoàn pháo binh 349, cũng như đã gặp nhiều anh em trong Đội 71, Thuỷ quân sông Lô năm xưa, là những đồng chí đã từng chiến đấu với quân thù, nay trở về đời thường lạc quan yêu đời, vẫn vững tin vào tương lai tươi đẹp của đất nước, cảm thấy thật là đáng quý.


Tuy rằng thời kỳ của Đội 71 đã qua đi khá xa, và trí nhớ của tôi cũng có hạn, nhưng để thiết thực góp phần vào xây dựng tập Hồi ký về Ban nghiên cứu Thuỷ quân, cái nôi của Thuỷ quân sông Lô (trong đó có các chiến binh Đội 71), tôi xin ghi lại mấy dòng hồi ký này để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa, động viên nhau giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của "Anh bộ đội Cụ Hồ".


Hà Nội, ngày 11 tháng 9 năm 1998
LNQ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:40:17 pm
TÔI VÀO LÍNH THỦY CỤ HỒ


Đại tá Lê Quang Loát
Nguyên Lữ trưởng Lữ đoàn Tên lửa 490 -
Chiến sĩ Thuỷ quân Sông Lô Năm 1949 - 1950


Ngày 23 tháng 1 năm 1994, một số anh em nguyên là Lính Thuỷ sông Lô chuyển sang Trung tâm pháo binh 45, gặp nhau nhân dịp mừng nhà mới của anh Đặng Luyến, anh Đỗ Sâm (bạn Thuỷ quân khoá 1) nhắc tôi: "Này cậu Loát, chưa thấy có bài cho tập san lính thuỷ sông Lô đấy nhé...". Đang dắt xe ra cửa tôi liền đáp "sẵn sàng, có ngay". Thế là suốt dọc đường về, những hình ảnh tươi trẻ của tôi "Anh lính thuỷ Cụ Hồ" cách đây hơn bốn thập kỷ cứ nối nhau tái hiện lại trong tôi như một cuốn phim sinh động và cuốn hút, khiến cho tôi khi vừa đặt chân tới nhà liền bắt tay ngay vào việc ghi nhanh những dòng tự thuật này.

Vào thuỷ quân - Xuôi đò dọc về căn cứ phố Giàn:

Sau khi trúng tuyển, tôi đem việc đăng ký tòng quân ra thưa chuyện, thầy và bầm tôi lặng đi. Tôi đang lúng túng chưa biết trình bày tiếp như thế nào, thì thầy tôi, vốn học nho, hiểu rộng và thường đưa ra ý kiến quyết định, đã chậm rãi nói trước: "Đất nước đang cần thanh niên lên đường chiến đấu, nay con đã mười tám tuổi rồi, còn ờ nhà để học hành cũng không ổn, thầy đồng ý để con vào bộ đội, khi nào đất nước yên lành thì học lại vậy...". Rồi bầm tôi cũng nghẹn ngào tiếp lời: "Anh Quảng con đã thoát ly từ năm 45, sang năm 46 thì bọn Quốc dân Đảng bắn bị thương ở mặt trận Yên Kỳ, ở nhà chỉ có con là lớn, giúp đỡ được nhiều việc, nay con lại đi nốt, ở nhà thầy, bầm thì già và bốn em con còn nhỏ, rất neo bấn, nhưng nay Tổ quốc cần đến con và thầy con cũng đã đồng ý thì bầm cũng không giữ con được. Con đi phải biết giữ gìn sức khoẻ, bầm nhớ con nhiều lắm...". Rồi bầm tôi nghẹn tắc, lau nước mắt, không nói nên lời... Thế là gia đình tôi đã đồng ý, lòng tôi nhẹ đi vì được tòng quân, nhưng lại trào dâng nỗi thương nhớ thầy bầm và các em day dứt  và lại đến lượt lo lắng thắc thỏm là liệu đi lần này không biết tôi có được gặp lại anh Quế để xin được vào Thuỷ quân không?


Ngày 16/1/1950 chúng tôi được nhà trường tổ chức lễ xuất quân cùng với anh chị em của trường trung học kháng chiến. Ai nấy đều cảm thấy vinh dự và xúc động vì cuộc đời lính bắt đầụ từ đây... Chia tay gia đình cùng bạn bè và bà con địa phương, tất cả anh chị em chúng tôi cùng đi bộ lên thị trấn Sơn Dương, theo sự hướng dẫn của đoàn tuyển sinh. Thật là vui, lần đầu tiên ăn tập thể, ngủ tập thể, hát tập thể và đi cũng tập thể, chúng tôi quên cả mệt... Đến Sơn Dương, cả đoàn dừng lại, như có linh tính báo trước: giờ chia tay đã đến, những chàng trai, cô gái thư sinh tươi trẻ như những bông hoa ríu rít như bầy chim non, sao mà quyến luyến nhau đến thế?... Rồi như những buổi lửa trại chia tay trong lớp, trước kỳ nghỉ hè, chúng tôi thân ái nắm tay nhau hát bài tạm biệt... Ban tuyển sinh đã làm việc, nhưng còn nhiều anh chị em vẫn còn rầm rì dở dang câu chuyện hoặc còn tranh thủ ghi nốt cho nhau mấy dòng nhật ký. Đang hồi hộp chờ đợi thì từ Ban tuyển sinh vọng xuống "Lê Quang Loát ! về đoàn Thuỷ quân!". Ôi vui sướng biết bao! đúng nguyện vọng rồi. Lòng tôi như mở cờ, bắt tay vội mấy anh em bên cạnh, xách ba lô đứng lên đi về nơi tập kết của đoàn Thuỷ quân, vừa thầm cảm ơn anh Trần Duy Hợi là người trước cùng học ở trường Vĩnh Chân, rồi trường Hùng Vương, nay cũng tham gia vào Ban Tuyển sinh lần này và đã được tôi rỉ tai đề nghị khi lên đường. Tồi cứ thầm cảm ơn anh Hợi mãi vì tổng số học sinh của cả hai trường Hùng Vương và Kháng chiến chúng tôi ra đi đợt này phải kể đến trên một trăm người cả nam lẫn nữ, nhưng biên chế về trường Thuỷ quân khoá 1 lần này vẻn vẹn chỉ có mười hai anh em chúng tôi thành một tiểu đội, gồm có các anh: Đinh Văn Chí (Chí pheo), Ngô Thế Lãng (Lang bột), Đỗ Sâm (Sâm be), Nguyễn Văn Tiến (Tiến lai), Trần Quang Hậu (Hậu gà), Phan Ngọc Đức (Đức quăn), Thọ Sơn, Lê Văn Vỹ (Vỹ ò), Phạm Quang Tình, Nguyễn Phú Đạt, Nguyễn Phú Quát, Lê Quang Loát (Loát kều).


Thấy anh Quế đến, mừng quá chúng tôi quây lấy anh và hỏi han tíu tít, nào là: Trường ở đâu anh? Còn xa không?... anh Quế chỉ cười và trả lời "cứ đi sẽ biết. Đến Bình Ca sẽ đãi các cậu một chầu, sau đó xuôi về Đoan Hùng. Cứ theo tôi, nhớ bám sát Quế này nhé!... Rồi anh nói tiếp, như ra lệnh: "Từ giờ phút này các "cậu ấm" đã là lính. Lính thì chỉ biết có nghe lệnh. Rõ chưa!...". Chúng tôi đồng thanh: "Rõ". Sau đó, theo lệnh của anh, chúng tôi tập họp rồi lên đường, đi theo hàng 1, cự ly phân tán để đề phòng phi cơ địch oanh tạc. Nhóm chúng tôi nhẹ nhàng nhất, hành trang của tôi chỉ có một nửa chiếc chăn chiên, một ba lô con cóc do tôi tự may ở nhà, với một bộ quần áo kaki do anh trai tôi cho để mặc đi học, đã cũ. Cả tốp có một vật quý giá nhất phải bảo vệ, đó là chiếc đàn ghi ta gỗ của anh Lãng. Chúng tôi ưu tiên cho anh Lãng vác đàn, không phải mang gì cả. Lúc ấy, công cụ "món ăn tinh thần" này sao mà quý thế? Chúng tôi gọi nó là "cần câu cơm", bởi vì có nó chắc chắn là đi làm công tác dân vận sẽ có lợi lắm. Đến Bình Ca, chúng tôi vẫn không thấy mệt, lại được anh Quế chuẩn bị sẵn cho một bữa ăn khá tươi. Anh tuyên bố: "Hôm nay khao các chú một bữa tươi, từ mai trở đi chắc khó mà tái diễn được...". Ôi, lần đầu tiên tôi được ngồi ăn lịch sự như thế này, với tư cách người lớn thực sự như thế này. Vì ở nhà tôi vẫn được liệt vào loại trẻ và chỉ được làm "bồi bếp” cho Bầm tôi thôi. Hầu hết các quán ăn và các hàng tạp hoá ở đây đều được xây dựng dưới các tán cây hoặc trong các hẻm núi để phòng không, nhưng cũng khá bề thế, khang trang và đủ loại mặt hàng cần thiết. Cơm nước xong, trời gần tối, chúng tôi theo anh Quế xuống thuyền xuôi Đoan Hùng (ở địa phương quen gọi là đi đò dọc). Khi xuống thuyền, anh Quế đứng trên bờ, đếm từng người một, rồi xuống sau cùng và bảo: "Các chú sữa (anh gọi bọn trẻ chúng tôi như vậy), hôm nay đi nhiều đã mệt, cứ ngủ đi, để tôi gác cho và sẽ gọi dậy khi đến bến". Lúc này chúng tôi mới được thảnh thơi và thấm mệt, ai nấy vừa đặt lưng là lăn ra ngủ như chết. Đến khi anh Quế đánh thức, chúng tôi tỉnh dậy thì trời đã hửng sáng và thuyền đã cập bến ở bờ phía Bắc sông Chảy, nơi ngã ba tiếp giáp với sông Lô. Sau khi lên bờ, anh Quế lai tâp hợp đơn vị, kiểm tra quân số và ra lệnh: "Tất cả hành quân theo một hàng dọc, đi về doanh trại". Doanh trại! cái từ mới lạ làm sao chứ? Tôi cho là nó cũng đồng nghĩa với từ "đại bản doanh" đã được đọc trong Tam Quốc chí. Ừ mà nếu là "đại bản doanh của Thuỷ quân" thì cũng oai thật đấy! Những suy tưởng ngây ngô trước những sự việc mới lạ cứ diễn ra và đeo đuổi trong tôi khi còn là lính mới là như thế đó. Chúng tôi đi chừng một tiếng thì đến một phố nhỏ ven sông Chảy. Trên bến dưới thuyền, nhà trệt xen lẫn nhà sàn đều bằng tre nứa và lợp lá cọ, dân cư đông đúc. Anh Quế hóm hỉnh giới thiệu "Đây là phố Giàn, thủ đô của chúng ta đó". Ở lại đây nghỉ ngơi một lát, anh Quế đưa chúng tôi vào doanh trại, lúc ấy đã tám giờ sáng. Đây là một vùng khá rộng ở bên phía sau phố Giàn, có 4 khu: - khu Hiệu bộ của trường đồng thời cũng là cơ quan của Ban nghiên cứu Thuỷ quân; khu tiểu đoàn bộ (có cả hội trường và sân tập họp, chào cờ); khu đại đội 1; khu đại đội 2. Nhà cửa đều làm bằng tranh tre, nứa lá, khá đẹp. Mỗi khu đại đội còn có một sân bóng chuyền cùng với các bãi xà đơn, xà kép, dây leo tự tạo. Các khu cách nhau khá xa, từ 300 đến 500 mét và dựng nhà theo ven sườn đồi, bên cạnh nhà ở đều có hầm hào phòng không. Kẻng báo động bằng một vỏ quả bom lớn treo trên đỉnh đồi gần đại đội 1 thường xuyên có người canh gác để báo động phòng không. Nối liền các khu là những con đường nhỏ, phẳng, sạch và đẹp mắt.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:42:16 pm
Khoá 1 học viên Thuỷ quân chúng tôi có hai đại đội, hình thành một tiểu đoàn do anh Trần Lưu Phương làm tiểu đoàn trưởng và anh Khổng Hiệu làm chính trị viên. Hai đại đội trưởng là các anh Nghiêm Xuân Hùng và Lê Trường Đa. Còn các trung đội trưởng là anh Dương Đình Ấu, Trần Kỳ, Trần Hùng... đều đã tốt nghiệp khoá 4 trường Lục quân Trần Quốc Tuấn... Sau khi làm việc với các thủ trưởng Hiệu bộ và Ban chỉ huy tiểu đoàn học viên, anh Quế tập họp chúng tôi ở sân tiểu đoàn bộ và làm thủ tục bàn giao biên chế số anh em học viên mới chúng tôi về các đơn vị. Tôi được phân công về tiểu đội anh Hà Văn Ngữ (to kều), nằm trong trung đội anh Dương Đình Ấu, thuộc đại đội 2 của anh Lê Trường Đa và mau chóng hoà nhịp với sinh hoạt của đơn vị. Khoảng 10 ngày sau thì khoá học đầu tiên khai giảng: toàn tiểu đoàn tập trung ở hội trường làm lễ khai mạc, ngoài các anh lãnh đạo của cơ quan Hiệu bộ của trường, còn có cán bộ Bộ Tổng Tham mưu về huấn thị và đọc quyết đinh, đại biểu học viên lên phát biểu và hứa hẹn. Buổi lẽ rất trang nghiêm, trọng thể, động viên được khí thế phấn khởi của toàn trường.

Bước "cày vỡ":

Sau đó cuộc đời lính học viên Thuỷ quân khoá 1 của chúng tôi nghiêm túc bước vào học tập. Tháng đầu tiên học về "điều lệnh tác phong" xây dựng quân đội chính quy, sẵn sàng chiến đấu, phải nói là khá "căng", nhất là hầu hết anh em chúng tôi đều là học sinh mới thoát ly gia đình bước vào cuộc sống tập thể với kỷ luật nhà binh. Các anh chỉ huy bảo chúng tôi còn bỡ ngỡ, nhưng sau 1 tháng tân binh, các anh ấy "luộc cho ra bã" thì cũng quen dần. Để rèn luyện tác phong ban đầu, đơn vị đề ra các mục tiêu phấn đấu cho chúng tôi trong từng tuần lễ một để thi đua thực hiện như: tuần lễ kỷ luật; tuần lễ nhanh chóng; tuần lễ báo động; tuần lễ lễ tiết tác phong.... Sau mỗi tuần nội dung học tập đều có sơ kết, tổng kết, nhận xét cá nhân và phân đội, có biểu dương để phát huy các mặt ưu điểm; phân tích, phê phán các mặt khuyết điểm. Đây là tháng học tập đầy gian khó đối với chúng tôi, nếu gọi là "môn học" thì không cao xa gì, nhưng làm được đều khó khăn vất vả. Thật vậy, chúng tôi đang tuổi ăn, tuổi ngủ, quen sinh hoạt tự do mà đưa ngay vào khuôn phép thì thật là khổ sở, luôn bị phạt. Ở đây, nhất nhất mọi cái đều phải đúng quy định, đúng giờ giấc, đúng hiệu lệnh của một tập thể thống nhất, sai là phạt, mà sao lắm cách phạt thế? đủ mọi hình thức: phạt đứng nghiêm, phạt chạy, phạt bò... tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt mang cả ba lô, vũ khí hay không. Thế mà anh em chúng tôi chẳng ai kêu ca phàn nàn gì. Mình sai thì mình phải chịu, phạt xong lại chuyện trò nổ như pháo ran. Thời kỳ đầu chúng tôi còn mang súng gỗ, có lần ba sự việc cùng xảy ra: tôi vô ý đánh rơi súng, Quảng "móm" thì khoét súng làm điếu cày, còn Tâm "xổm" lấy súng làm ghế ngồi bị "xê trưởng" bắt gặp, cả ba chúng tôi phải đeo ba lô trườn ba vòng quanh sân, cả "xê" ngồi nhìn cười rúc rích, song chúng tôi đều hiểu rằng phạt là để xây dựng ý thức bảo quản vũ khí cho anh em "súng là vợ, đạn là con". Gay go nhất là ”tuần báo động", có đêm báo động hai, ba lần, rèn luyện cho chúng tôi ngăn nắp gọn gàng, luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mỗi lần nghe tiếng còi báo động, đứa nào đứa nấy mặc quân phục cho nhanh, tháo và buộc màn cho nhanh, thu xếp đồ dùng, chăn màn và buộc ba lô cho nhanh, rồi đi giày cho nhanh và vác súng đeo ba lô ra tập họp, rồi chạy đều hành quân, nếu để lôi thôi rơi rớt là bị phạt; nhiều lần vừa qua một lần báo động, về mắc màn thiu thiu ngủ thì lại báo động, đêm ngủ nơm nớp không yên, có nhiều anh ngủ không dám bỏ chăn ra đắp, hay màn thì không dám mắc, cứ lồng sẵn bốn góc màn vào bốn đầu chân tay, hễ khi có cán bộ đi kiểm tra ban đêm thì giơ cả bốn vó lên, nhưng rồi bị phát hiện, vẫn cứ phạt. Phần nhiều thiếu ngủ, ban ngày anh em ngồi họp hành cứ gà gật. Chúng tôi thường bảo nhau đây là một tháng "cày vỡ". Câu nói hình tượng này rất đúng nếu ví anh em học sinh chúng tôi như những mảnh đất còn hoang sơ khô rắn ắt phải chịu sự tác động mãnh liệt khi phải cày vỡ nhào luyện cho thuần thục và ví các anh cán bộ nhà trường như những anh thợ cày ắt không khỏi phải tốn bao nhiêu công sức cực nhọc để biến những mảnh đất hoang sơ thành hữu ích. Cho đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ mãi anh Lê Trường Đa, thủ trưởng đại đội của tôi, người Liên khu 5, da ngăm ngăm đen, miệng nhỏ, người cao to cân đối, động tác yếu lĩnh rất chuẩn xác mẫu mực, tư thế tác phong nghiêm túc đĩnh đạc. Anh ít nói và có vẻ hơi "khô", làm cho học viên kiêng nể, nhưng rất giàu tình cảm, thương yêu và chăm sóc anh em học viên chu đáo. Đại đội tôi có 3 trung đội, các anh trung đội trưởng đều được qua đào tạo chính quy, làm việc nhiệt tình và mẫu mực, chăm nom thương yêu học viên; mỗi anh một vẻ: anh Dương Đình Ấu người bé nhỏ nhưng hô rất to và động tác cứng rắn gần gũi anh em, tính tình thẳng thắn nhưng hơi nóng, có điều gì không vừa ý là anh đỏ mặt nói ngay; anh Trần Kỳ, người tầm thước điềm đạm, nước da mai mái xanh, tính tình dịu dàng hay cười; anh Trần Hùng dáng thư sinh, đẹp trai, hát hay, tuổi đời còn trẻ, có dáng con nhà khá giả, rất thân với anh ruột tôi là anh Lê Quảng và có lần anh Quảng đã đến thăm tôi và anh Trần Hùng, làm cho giữa tôi và anh Trần Hùng gần gũi nhau hơn. Đến nay cả ba anh trung đội trưởng đều đã hy sinh trong chiến đấu ở chiến trường duyên hải Đông Bắc.


Sau một tháng học tập điều lệnh, tác phong, chúng tôi bắt đầu học tập chuyên môn phân chia làm ba ngành là hàng hải, điện cơ và tín hiệu. Tôi được xếp vào học ngành hàng hải. Lúc đầu lên lớp nghe giảng cũng có nhiều khó khăn bỡ ngỡ khó hiểu, nhưng rồi vừa học vừa hành cũng vỡ dần ra. Các thày dạy chuyên môn theo giờ có chương trình cụ thể, việc học tập chuyên môn xen lẫn với rèn luyện kỷ luật xây dựng chính quy và hoạt động văn nghệ được sắp xếp rất hợp lý. Nội dung chương trình của môn hàng hải gồm có:

- Tín hiệu: bằng còi, đèn, cờ tay do thầy Oanh giảng dạy. Tôi theo học môn này rất hứng thú và đạt kết quả nên đã được trợ giúp thầy giáo trong các giờ luyện tập thực hành.

- Nơ, nút: do thầy Vỵ đảm nhiệm hướng dẫn, tôi học cũng rất nhanh và nắm chắc các thao tác, có thể là do trước đây khi còn ở nhà tôi được thầy tôi dạy đan lát ít nhiều. Khi sát hạch kiểm tra hai môn trên tôi đểu đạt điểm cao.

- Chèo thuyền: theo học môn này tôi được gặp lại thầy Quế, người mà tôi đã từng ngưỡng mộ, nơi luyện tập của chúng tôi là sông Lô và sông Chảy. Tập cả tiểu đội trên một chiếc thuyền, người cầm lái nhìn về phía trước, hai dãy người chèo thuyền về hai bên và quay mặt vào người chỉ huy; đầu tiên là chèo cạn theo động tác thống nhất tám người như một, tạo nên lực đẩy tổng hợp: khi nắm được yếu lĩnh mới chèo dưới nước, thuyền đi rất nhanh và mạnh, có thể đi ngược dòng sông Lô. Khi cần cập bến phải có yếu lĩnh động tác chuẩn bị, quay cho mũi thuyền ngược dòng nước, nếu không thì thuyền sẽ bị dòng nước đẩy đâm vào bờ, hoặc tạo thành lực cản làm lật thuyền như chơi, trong quá trình luyện tập không phải là ít "học sinh thuyền trưởng" đã cho anh em đồng đội uống nước sông Lô. Tôi còn nhớ có một lần học nụ thuyền con, chỉ dùng một dầm ở phía đuôi vừa ngoáy đẩy thuyền đi vừa lái. Trông thì thấy đơn giản nhưng khi thực hành thì không phải là đễ. Khi mọi người lên bờ nghỉ giải lao, anh Quảng "móm" quê Bắc Ninh, học tú tài tưởng bở, hứng lên lẻn xuống bến tháo thuyền ra để nụ thử; nhưng vì sức khoẻ và kỹ thuật chưa tốt, nước lũ tháng 5 của dòng sông Lô đã đưa anh ra giữa sông thì anh em mới phát hiện, cuống quýt lo âu. Thầy Quế không chần chừ lao ngay xuống sông bơi theo dòng lũ ra kịp và leo lên thuyền, rồi bằng động tác thuần thục chỉ 15 phút sau đã đưa được thuyền vào bờ. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm, nhưng chúng tôi cũng bị thầy xạc bằng một tràng tiếng Pháp không lấy gì làm nhẹ nhõm cho lắm. Còn "ông Tú móm" thì bước theo sau, mặt còn tái mét cúi xuống nói "Em xin lỗi thầy", đến khi về doanh trại thì không còn tán dóc như mọi hôm nữa. Học hàng hải bằng tàu thuyền trên sông là khoa mục trọng tâm của khoá học nên ai nấy đều chăm chỉ học tập, tuy rằng luyện tập rất mệt và thường ăn đói. Phải nói là thầy Quế rất giỏi về nghề sông nước này và huấn luyện có bài bản, rất nhiệt tình với học viên, làm cho anh em chúng tôi hào hứng học tập và đạt kết quả tốt, không những thế thầy còn để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng tốt về đạo đức tác phong của một người cán bộ phụ trách, người chỉ huy giản dị, khiêm tốn, giàu tính nguyên tắc và quyết tâm khi làm nhiệm vụ.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 29 Tháng Giêng, 2021, 01:44:33 pm
Không những chỉ học chuyên môn mà chúng tôi còn học cách đánh bộ binh nữa. Học từ động tác cá nhân như nghiêm, nghỉ chào, quay, đi đều... mỗi người có một khẩu súng gỗ, chiều dài vừa bằng đúng khẩu súng trường Mỹ (Remington). Sau học xạ kích, ném lựu đạn và cá nhân chiến đấu. Nhiều lần khi học đến các khoa mục chuyên môn thì tiểu đoàn huấn luyện chúng tôi lại được chuyển ra xã Thọ Xuân, đóng quân phân tán trong nhà dân vừa gần thao trường, vừa thực hiện được phân tán phòng không. Luyện tập các khoa mục bộ binh cũng khá vất vả, không những thế, nhà trường lại thường xuyên kết hợp với việc học tập chuyên môn để rèn luyện kỷ luật cho học viên, nên chế độ học tập sinh hoạt hàng ngày rất chặt chẽ, nghiêm ngặt, "lơ mơ" một tý là bị phạt liền. Song nhiều lúc đời lính cũng rất vui, tôi nhớ mãi khi thi bắn súng trường, tôi đã bắn chụm cả ba viên đạn vào vòng 10. Thế rồi cả tiểu đội tôi, rồi cả trung đội tôi reo hò như sấm, phá vỡ cả kỷ luật thao trường, kông kênh tôi lên kỳ đài vì đã giật giải quán quân "Anh hùng xạ kích", không những thế, cộng điểm thì cả trung đội tôi và cả đại đội tôi cũng đứng đầu bảng trong tiểu đoàn. Sao mà vui thế, thế là lần đầu tiên đơn vị tôi vi phạm kỷ luật thao trường mà không bị phạt, ngược lại lại được lên kỳ đài nhận thưởng chuối, dứa của đồng bào địa phương tặng cho những cá nhân và đơn vị lập công xuất sắc trong học tập. Đêm hôm đó mãi đến 11 giờ khuya rồi mà cả sàn ngủ của tiểu đội vần còn tán dóc, liền bị anh Ba trực phát hiện cho tập hợp chạy ra bãi cát ven sông Lô bò 100 mét. Bò xong, nóng quá, chúng tôi rủ nhau xuống sông tắm. Thế nào lúc này lại có anh em reo hò lội sông vì quên mất là đã khuya rồi. Lại một lần nữa tiểu đội tôi bị gọi lên tập hợp và toài thêm 100 mét nữa. Lúc này chừng đã thấm mệt, anh em lặng lẽ rửa chân tay rồi về đơn vị, lên lán nằm rồi mà anh Nguyệt "đen" (lúc này làm tiểu đội trưởng) còn nói nhỏ: "Gớm! ông Ba mới ở lục quân khoá 5 ra mà hắc thế". Mọi người "suỵt" một cái, rồi tiếng "kéo gỗ bắt đầu".


Ngoài thi bắn súng, ném lựu đạn, chúng tôi còn phải thi vác nặng hành quân xa theo đơn vị trung và đại đội. Thời điểm này các đơn vị đã được phát quân trang và vũ khí, nên ai cũng lo nhất là phải vác súng máy 12,7mm, nòng đã nặng mà cái chân 3 càng của nó thật đáng gờm.


Có tuần lễ đóng quân trong làng Chí Đám, đúng vào mùa bưởi chín, mùi thơm cứ ngào ngạt. Kỷ luật của đơn vị rất nghiêm, "chàng vệ" nào mà lơ mơ là hãy coi chừng với kỷ luật. Nhưng đồng bào địa phương thì lại rất thương, rất quý chúng tôi. Sau khi đào công sự xong là chúng tôi lại được các mẹ chiến sĩ mang đến cho ăn thoải mái, đủ các loại bưởi.


Rồi ngày 1/5/1950, nghe chừng "võ nghệ" của lính cũng khấm khá, kỷ luật cũng khá nghiêm túc, lễ tiết tác phong đã đi vào khuôn phép, nhà trường cho cả tiểu đoàn học sinh chúng tôi hành quân đêm về thị xã Phú Thọ dự lễ ngày quốc tế lao động. Đội hình hành quân theo thứ tự đại độị 1, đại đội 2 rồi đến Ban chỉ huy tiểu đoàn, thời kỳ đó quốc lộ 2 có nhiểu đoạn rất xấu, gập ghềnh ổ gà, ổ voi, có những đoạn còn xẻ hào kháng chiến rất khó đi khi hành quân ban đêm, nên cuộc hành quân của chúng tôi phần lớn là đi thường bước, nhưng mỗi khi gặp được những đoạn đường tương đối bằng phẳng là chỉ huy đơn vị lại tranh thủ cho anh em đi đều bước để tập dượt thêm, thiết thực chuẩn bị cho việc diễu hành trong ngày lễ ở thị xã Phú Thọ sắp tới. Trong khi các đơn vị đi thường bước thì hay có “hò lơ" và anh em còn có thể tán dóc được, nhưng đến khi đi đều bước thường có kết hợp hát tập thể hoặc hát luân phiên từng đơn vị để giữ sức. Các trung đội, đại đội thi nhau hát đều, hát to vang động cả núi rừng. Đến gần Châu Mộng (Đường Chè), trung đội tôi đang đều bước ca vang bài "Tiến về Hà Nội" của Văn Cao thì ở phía trước cũng vang lại tiếng hát của đơn vị Đại đoàn 308 làm cho chúng tôi lưu lại được 2 câu để hát theo "Đêm nay trong rừng sâu có bao người mơ thấy về Hà Nội, Ngày mai bao tươi sáng trong súng gươm kéo về đây bao đoàn quân...". Những lời hát trầm hùng của đơn vị bạn cứ vang vọng đến chúng tôi trong đêm hành quân ấy như những lời tự sự quyết tâm giải phóng quê hương, càng động viên thôi thúc chúng tôi hãng say luyện tập sau khi trở về doanh trại...

Ăn mặc lính thuỷ:

Chương trình nhiệm vụ học tập của anh em khoá 1 chúng tôi rất khẩn trương và rất nặng nề; vậy thì cuộc sống vật chất của anh em ra sao? Tôi thiết nghĩ cũng cần nêu lên một vài nét để cùng nhau suy ngẫm tự hào về nghị lực quyết tâm của một thời trai trẻ đã vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.


- Về mặc: lúc lên đường thường mỗi người chỉ mang theo vài bộ quần áo cũ và đôi dép đang dùng; không mấy người có chăn màn, bản thân tôi chỉ có một nửa chiếc chăn chiên và một chiếc ba lô tự khâu lấy (cũng có anh chỉ "toòng teng" cái túi sách tay của trẻ em đi học). Đến đơn vị rồi anh em mới được cấp phát một bộ quân phục vải thô rêu xanh, chiếu cá nhân, chăn màn thì chưa đủ, nhiều anh em phải chung nhau, mà chăn thì hầu hết là chăn chiên, còn màn cá nhân thấp lè tè. Chỉ một mùa luyện tập ở thao trường hay một đợt vào rừng chặt nứa, chặt cây vác về làm lán trại là quần áo bạc phếch, sờn rách, chúng tôi chẳng có thời gian và kim chỉ để khâu vá, hơn nữa chân tay lại lóng ngóng vì khi ở nhà có bầm, chị lo chứ có mấy khi anh em chúng tôi biết làm; nhưng đang ở hiện trường chỗ rách mà không xử lý kịp là toạc thêm ra, nên anh nào anh nấy cứ buộc túm lại là tiện gọn nhất. Kể ra thì chẳng mỹ quan gì, nhưng ai cũng vậy, chúng tôi cũng quen đi và vui vẻ ra nhập làng "vệ túm". Quần áo lúc mới được cấp phát, anh nào cũng hào hứng xúng xính, nhưng chỉ ít thời gian sau thì bạc phếch và sờn rách, túm buộc nhếch nhác, thì chúng tôi lại tân trang bằng cách tự nhuộm, thuốc nhuộm bằng lá cơi (cây cơi mọc vô thiên lủng ở ven rừng và dọc hai bên đường quốc lộ), chỉ cần mượn một cái nồi đem ra bờ suối kê lên mấy cục đá làm bếp, vặt lá cơi cho vào nồi cùng với nước suối rồi nhóm đun bằng củi rừng, chỉ một lúc sau chúng tôi đã có thuốc nhuộm quần áo thành màu nâu xồng, màu đặc trưng của "làng vệ túm thuỷ quân sông Lô" chúng tôi lúc bấy giờ, đồng thời cũng là một màu sắc trang nhã, phù hợp với yêu cầu phòng không nên nhanh chóng lan truyền trong nhân dân địa phương, vì vậy mà anh em lính chúng tôi lúc bấy giờ về trang phục chỉ phân biệt khác với dân quân du kích và thanh niên địa phương ở chỗ còn được cấp phát một huy hiệu đeo trên mũ nền bằng vải đỏ, thêu sao bằng chỉ vàng. Hồi ấy chưa có phù hiệu, cấp bậc của bộ đội, chỉ biểu trưng ở sao trên mũ (ở huy hiệu): binh nhì thì nền trơn, hạ sĩ quan thì có nền chỉ trắng và sĩ quan thì viền chỉ vàng. Trang phục của chúng tôi chỉ đơn giản như vậy, nhưng mọi người đều có ý thức giữ cho sạch đẹp, quần áo giặt khô là xếp phẳng phiu vào ba lô, có anh còn trải dưới chiếu nằm để "là" cho phẳng, ngày chủ nhật đi chợ Ngà cho tươm tất. Sử dụng quần áo cũng phải tiết kiệm, những khi không cần thiết có thể mặc quần đùi và áo "da" như khi xách nước hoặc lúc lao động... nhiều anh chỉ sau một năm "chắt chiu" cũng dành ra được một bộ tương đối lành lặn để làm "lễ phục".


- Về ăn: tới đơn vị mỗi anh em chúng tôi được phát một chiếc ca sắt tây có quai sơn màu xám gio, to gần bằng bát sứ Hải Dương, nông, vừa dùng để uống nước, vừa dùng để ăn cơm. Chỉ có vậy thôi, thìa đũa... ai nấy phải tự lo. Còn dụng cụ của anh nuôi thì chuyên dùng chảo lớn và một số ga men để chia thức ăn cho mỗi mâm, một chiếc to để đựng cơm và một chiếc nhỏ đựng canh. Đại đội tôi có một anh quản lý - anh Tôn béo có một chiếc răng vàng hay đeo xà cột, còn anh nuôi chưa có trong biên chế vì còn thiếu quân, học viên phải luân phiên làm cấp dưỡng. Còn việc tiếp phẩm do tiểu đoàn bộ đảm nhận, cấp thẳng đến quản lý các bếp. Cơm hồi ấy nấu toàn bằng gạo mọt lĩnh ở kho huyện. Khi vo chỉ dấn nước đảo gạo rồi lùa cho mọt và phân mọt trôi đi thôi, nếu cứ gạn kỹ thì gạo cũng trôi đi hết. Hôm tôi mới làm cấp dưỡng lần đầu, cứ ngồi loay hoay gạn mọt, anh Tôn béo trông thấy vội bảo "Này ông tướng ơi! Cấm được gạn đấy! chỉ đuổi mọt đi thôi, chứ chú mà gạn như vậy thì thà cứ đổ ngay gạo đi còn hơn". Rồi đến tôi đang cời than ở bếp ra vì sợ cơm bị khê, thì anh lại ôn tồn trấn an và dạy tôi "Gạo này chú cứ yên chí, thứ nhất là nấu không bao giờ khê, thứ hai là ninh không bao giờ nát", và khi cơm chín, tôi lấy ga men ra định lấy để chia cho các mâm, thì đã thấy anh mang ra một cái nia khá to và bảo tôi phải tãi cơm ra, để một lúc cho hả đỡ mùi mốc và mùi bao tải rồi hãy xới vào ca men. Có lần nhận phải gạo mục, nấu cơm nát chảy nước, khi xới ra cũng phải tãi ra quạt cho xe nước mới đem chia. Cực nhất là khi có anh em ốm, thật là nan giải vì gạo này nấu cháo sao được, lại phải đi 3 - 4 cây số đổi gạo về nấu cho anh em ăn. Còn thức ăn thì cũng không phải xáo xào khó khăn gì vì hầu như chỉ có một "đặc sản độc nhất" là canh rau. Rau nấu với muối rồi nhận một muôi mỡ hoặc tóp mỡ của anh Tôn béo mang từ kho ra cho vào, mỡ thì nổi thành sao, nếu là tóp mỡ thì nổi lèo tèo trống cũng vui mắt đôi chút, nhưng nhiều lần về cuối tháng mà anh Tôn béo thông báo đã hết tiêu chuẩn thì chỉ nấu canh xuông thôi. Về rau thì do tiếp phẩm của tiểu đoàn bộ quyết định, mua được gì thì cấp xuống (lúc thì măng hay bầu, bí, khi thì mướp hoặc sắn, cà chua...). Lượng rau có hạn nên canh nấu ra chỉ lõng bõng toàn nước. Cơm và canh như vậy nhưng bữa nào cũng hết bay, không đủ cho anh em ăn. Thế nhưng vào những ngày lễ hoặc vài ba tuần lễ một lần cũng được một bữa tươi, anh em no nê thoải mái. Trong thời kỳ khó khăn thiếu thốn này, có một sự kiện khá đặc biệt đã xảy ra ở đơn vị tôi là khi ăn phải có trưởng mâm. Mới nghe ai cũng tưởng truyện đùa, nhưng lại có thật; nguyên do là đại đội tôi ăn chung một bếp, anh em nào đến cứ vào ngồi cho đủ mâm là ăn, nhưng vì cơm và thức ăn ít, nên mới có truyện kẻ ăn nhanh thì no, người ăn chậm thì đói (có anh mới chỉ xói được một bát, nhưng mải tán dóc, khi quay lại thì đã hết cơm canh). Thế là trong anh em nảy sinh hiện tượng chọn bạn vào mâm, nhất là số lính học sinh chúng tôi cứ chụm nhau lại thành mâm riêng, làm cho một số cậu ngồi vào mâm cứ chờ mãi vẫn không đủ người ăn. Bực quá, anh Tôn béo quát nạt anh em không xong, phải lên báo cáo đại đội trưởng. Thế là "Thiên lôi" nổi giận. Tiếp sau tiếng còi gấp gáp ở sân trước nhà ăn là một hiệu lệnh: "Toàn đại đội, mang ba lô tập hợp". Thôi thì anh nào anh nấy buông đũa, bỏ ca, chạy về lán khoác ba lô, lao ra sân đứng vào đội ngũ. Sau khi lên lớp về thiếu thốn và khó khăn chung, sự cố gắng của nhân dân và quân đội, tình nghĩa đồng đội, về phong cách và tác phong của lính... "Xê trưởng" quyết  định: "Kể từ nay, vào mâm ăn phải cử ra trưởng mâm. Trưởng mâm có nhiệm vụ gõ bát làm hiệu lệnh xới cơm từng bát một (lần 1, lần 2, lần 3 nếu có). Mỗi lần xới xong anh em phải chờ có lệnh của trưởng mâm mới được ăn, ai ăn xong trước thì đợi đấy khi nào trưởng mâm có hiệu lệnh khác mới được xới tiếp. Kể cả canh cũng phải chia từng muôi. Các đồng chí rõ chưa"? Mọi người rút chân lại đứng nghiêm, hô "Rõ" và tưởng là đã được trở lại nhà ăn ngay, thì "xê trưởng" lại huấn thị tiếp: "Trước mỗi bữa ăn, các trung đội phải tập họp chấn chỉnh thái độ ăn uống xong rồi hát một bài, trung đội nào hát đều và to mới được vào mâm. Rõ chưa!". Một lần nữa anh em chúng tôi lại đứng nghiêm, lần này hô rất to "Rõ", nhưng trong bụng anh em nào đều rõ rằng: thế là từ nay trước mỗi bữa ăn, lại được đại đội trưởng cho mình ăn thêm món "xào" trước khi vào mâm. May cho trung đội tôi có anh Ngô Thế Lãng làm quản ca và anh em chúng tôi cũng biết thân, biết phận, trước bữa ăn nào cũng bảo nhau hát cho thật to để được vào ăn ngay. Khi trở lại nhà ăn, tôi thấy anh Tôn béo tay đang cầm vỉ ruồi, nét mặt tươi tỉnh hẳn lên nói với giọng hiền hậu của người anh: "Mình chỉ sợ "ông Đa" lại thưởng cho các chú một chầu đứng nghiêm thì ruồi nó chén hết cả cơm lẫn canh đấy. Thôi các chú vào mâm mà ăn nốt đi". Cũng từ hôm ấy, việc ăn uống của anh em chúng tôi đi vào nền nếp và mọi người cũng được tương đối tạm ổn về cái "dạ"... Về chuyện cấp dưỡng cũng phải kể thêm là: khi đi hành quân thì mỗi tiểu đội phải mang theo ga men chia ăn của mình và các anh em nào đến phiên nấu ăn thì phải khênh cả chảo cùng với thùng chứa nước. Rồi một lần gặp các cô dân quân hát trêu "Cả đoàn em chẳng yêu ai. Yêu anh bộ đội gánh hai cái thùng"... Thế mà cũng có anh "nhát gan" không dám gánh thùng hành quân ban ngày đấy. Còn củi đun do anh em trong đơn vị lấy về thì cậu nào đến phiên làm bếp mà kiếm được củi cành hay củi nứa là hạnh phúc nhất, nếu chẳng may mà vớ phải củi lau đốt cháy nhuộm nhoạm thì thật là khốn khổ, nhóm bếp khói toét cả mắt mà cũng không chịu cháy cho, chỉ có ngồi mà khóc thôi... 


Thấm thoắt đã 44 năm trong quân ngũ, hôm nay tôi ngồi nhớ lại những ngày sơ khai của cuộc đời lính hăng say, hồn nhiên, tươi trẻ, một lòng một dạ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc; nhớ lại tình bạn, tình đồng chí cao đẹp biết bao; tiếc thương những đồng đội đã đồng cam cộng khổ từ ngày đầu tham gia xây dựng ngành Thuỷ quân, đến nay không còn nữa. Biết bao kỷ niệm tươi đẹp hào hùng xen lẫn thương cảm của khoá Thuỷ quân sông Lô ngày ấy cứ vang vọng mãi trong trái tim tôi....

LQL


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:39:22 pm
NHỮNG KỶ NIỆM Ở THỦY QUÂN

Đại tá Thái Quang Sa
Nguyên Giám đốc Z181- Bộ Quốc phòng


"Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên..."


Thật vậy, những giây phút lưu luyến ban đầu bao giờ cũng in sâu trong ký ức, chẳng mấy ai có thể quên được. Đối với tôi, đây là những ngày đầu của cuộc đời lính, đó là những ngày cách đây trên bốn mươi năm, hồi tôi còn là lính học viên Thủy quân sông Lô non trẻ.


Khác với nhiều bạn ngày ấy, tôi và anh Phan Phước Mãn đều là những thanh niên học sinh của thành phố Huế trong vùng tạm chiếm, theo tiếng gọi của Tổ quốc, chúng tôi đã ra đi từ tháng 6/1949 bằng một cuộc hành quân dài ngày gian khổ vượt đường 9, dọc theo phía Đông Trường Sơn ra vùng tự do Nghệ Tĩnh. Vào trường Huỳnh Thúc Kháng, học chưa được một năm thì chúng tôi xin vào trường Lục quân ở Thọ Xuân - Thanh Hóa tháng 5/1950. Sau do yêu cầu của quân đội, chúng tôi được chuyển lên Việt Bắc theo học khóa 2 của trường Thủy quân sông Lô ở phố Giàn - Làng cỏ.


Đời sống của lính học viên Thuỷ quân chúng tôi lúc đó rất kham khổ: ăn đói, mặc rét, thiếu thốn đủ thứ, lao động và học tập nặng nề, căng thẳng, kỷ luật và sinh hoạt rất nghiêm, song anh em chúng tôi, ai nấy đều tự giác chấp hành một cách vui vẻ, tạo nên một cuộc sống tươi vui, tương thân tương ái, sâu đậm nghĩa tình, mà cho mãi đến tận hôm nay, mỗi hình ảnh (dù là nhỏ nhặt) đã qua, cũng để lại trong tôi những ấn tượng đẹp đẽ.


Kỷ niệm vui của cuộc sống thuỷ quân trong tôi có lẽ bắt đầu bằng những buổi kể chuyện giới thiệu về ngành đi biển của anh Khương - một cán bộ đã từng tham gia nhiều năm trong thủy quân Pháp và đã được đến nhiêu nơi trên trái đất, với tài kể chuyện hấp dẫn, anh đã kể cho chúng tôi nghe nhiều điều mới lạ, từ chuyện về lịch sử của chiếc mũ hải quân Pháp, mà trên chóp có một bông hoa đỏ, tượng trưng cho hạnh phúc, mà ở Hải quân các nước khác không có, đến những giờ phút say sưa với những cảnh lạ, đường xa, cuộc đời ước mơ của người lính thủy dầy dạn gió sương... làm cho chúng tôi say mê không dứt khi ở bên anh.


Những kỷ niệm vui của chúng tôi còn là bưởi ngọt Chí Đám - Đoan Hùng, trái đu đủ thơm của đồng bào mán Cao Lan, là những buổi cải thiện thịt chó do tài khéo tổ chức của anh Lộc phụ trách đời sống và những bàn tay nấu bếp tuyệt diệu của anh Tùng, anh Thích mà món "dựa mận" ngon đến mức mà mãi cho đến sau này ít có dịp tìm lại được cái cảm giác thích thú như hồi đó; còn là những mẩu chuyện ngộ nghĩnh khó quên, vì hồi đó chúng tôi thường ăn đói và thiếu chất, lại ít có điều kiện ra ngoài để cải thiện. Một ngày nghỉ, tôi đi chợ Ngà, không phải để mua sắm gì nhiều mà là để làm sao đưa được thêm chất ngọt vào cơ thể với số lượng tối đa và bằng số tiền tối thiểu, thế là tôi chẳng mua kẹo, mua đường mà lại mua luôn một bát mật mía ngồi ăn mãi không hết...


Tôi còn nhớ những buổi sáng chạy trên bãi cát ở cạnh sông Chảy do đại đội trưởng Lê Trường Đa chỉ huy. Mệt bở hơi tai mà vẫn vui, vì mọi người đều mến người chỉ huy có tính nóng nẩy, thẳng như ruột ngựa, nhưng tâm hồn lại chan hòa cởi mở, thương mến anh em; nhớ những buổi lửa trại liên hoan ấm tình quân dân, tới khuya không dứt; nhớ những bài hát do anh Trần Minh Thái sáng tác và anh Quách Gia đặt lời, đã phản ánh đúng tâm tư và có sức thuyết phục, cổ vũ động viên anh em chúng tôi vượt qua khó khăn gian khổ mà vẫn tươi vui, như: "... Lính cứ ca, lính cứ cười, lính cứ tươi, lính phớt đều, lòng phơi phới...".


Tuy tôi đã chuyển sang hoạt động kỹ thuật trong Quân đội, nhưng dù năm tháng qua đi, tôi vẫn mãi còn giữ lại những hình ảnh đẹp của những ngày đầu vào Quân đội, khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mà vẫn lạc quan yêu đời, thắm đượm nghĩa tình đồng chí đồng đội... Hình ảnh các anh không hề phai mờ trong tôi như anh Đa, anh Phương, anh Khương, anh Tuynh và đặc biệt gần gũi là các anh ở trung đội: anh Triết, anh Thái, anh Cánh, anh Ba, anh Ngoạn. Trước khi chia tay, anh Ngoạn còn tặng tôi mấy bức ảnh Bác Hồ mà đã theo tôi đi qua cả hai cuộc kháng chiến, đến nay tôi vẫn còn giữ. Gắn bó hơn là những người bạn cùng học, những người đã từng chia ngọt sẻ bùi, vui buồn có nhau, giúp nhau lúc khó khăn đau yếu; đến nay có người tôi đã được gặp lại, nhưng còn có nhiều người vẫn chưa biết được tin tức của nhau như: Bùi Xuân Kiều, Bùi Xuân Thế, Chu Minh Long...


Tuy thời gian ở Thủy quân quá ngắn ngủi, chưa làm được gì cho đất nước, nhưng tôi đã được nhà trường dẫn dắt những bước đi đầu tiên trong cuộc đời bộ đội của mình. Những ngày đầu đó là những hình ảnh đẹp đáng quý và khó quên. Đúng như ý thơ của Xuân Diệu, tôi xin ghi lại như sau:

   "... Năm tháng ban đầu Thuỷ quân ấy
   Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên... "


Hà Nội, tháng 11 năm 1993
TQS


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:44:18 pm
NHỚ LẮM NHỮNG NGÀY LÀM LÍNH THỦY QUÂN

Nguyễn Quang Tiếp
Nguyên chuyên viên Ban Tổ chức - Viện Đông ỵ - Bộ Y tế


Đang là lính thuộc Lữ đoàn 808 bộ đội chủ lực. Tôi nhận được quyết định của trên cử đi học lớp Thuỷ quân Sông Lô. Trong số 10 đồng chí được cử đi tất cả đều là dân cư vùng biển. Chúng tôi vô cùng phấn khởi bàn giao súng đạn chuẩn bị lên đường.


Từ giã núi rừng Yên thế, trong đội hình tiểu đội do anh Hà Ngữ chỉ huy. Chúng tôi bắt đầu cuộc hành quân bộ ròng rã trên 10 ngày đường mới về tới bến Bình Ca. Từ Bình Ca chúng tôi chuyển sang đi đò dọc xuôi về ngã ba Đoan Hùng (nơi tiếp giáp giữa Sông Lô với Sông Chảy), rồi tiếp tục theo đường mòn qua Phố Giàn thì đến trạm tiếp đón học viên trong bìa rừng cách Phố Giàn khoảng 500-600 mét.


Sau khi tiếp nhận giấy tờ của chúng tôi, Ban chỉ huy tiểu đoàn học sinh trao đổi trong hiệu bộ rồi phân bổ chúng tôi về các đơn vị học viên. Tôi được biên chế vào đại đội một do anh Lê Trường Đa chỉ huy và cuộc đời lính học sinh Thuỷ quân của tôi bắt đầu. Đã tham gia sinh hoạt tập thể từ tuổi 15 và đã từng là lính chiến đấu, lại cùng lứa tuổi với các học viên trẻ, nên tôi nhanh chóng thích nghi với nếp sinh hoạt của nhà trường. Từ việc tham gia làm lán trại, đào hầm hào, lấy củi, hái măng, giúp dân gặt hái... đến việc giữ vững kỷ luật học tập và rèn luyện trên thao trường, cũng như hoà mình trong sinh hoạt hội họp, ca hát và luyện tập văn nghệ trong đơn vị... Tôi luôn là một thành viên hăng hái tham gia tích cực vói ý thức tự nguyện, nên dù thiếu ăn, thiếu mặc, sinh hoạt và học tập, rèn luyện suốt ngày nhưng tôi vẫn hăng say, tươi vui yêu mến đơn vị và đồng đội.


Rồi vào mùa thu năm ấy (1950), theo chỉ thị của Bộ, nhà trường tách ra thành lập một đơn vị lấy tên là Đội Thuỷ quân 71 được sang học tập kinh nghiệm chiến đấu trên biển ở Trung Quốc. Tôi vinh dự được chọn là một trong những học viên của trường được tham gia đơn vị này. Số anh em được đi đều rất phấn khởi, nhưng không khỏi lưu luyến với trường, nhớ thầy, nhớ bạn lúc lên đường. Nhiều anh em đã rơi lệ lúc chia tay với những ngày sống và học tập tươi trẻ tại Sông Lô, Sông Chảy mãi mãi để lại trong chúng tôi những kỷ niệm tốt đẹp.


Ngày ấy Hoa Nam được giải phóng, nhưng đường số 4 (biên giới Việt Trung) vẫn bị Pháp chiếm đóng. Nên cuộc hành trình của Đội 71 chúng tôi phải vượt núi xuyên rừng khá vất vả, ròng rã hơn nửa tháng trời mới qua được biên giới ở đoạn Đồng Đăng - Ái Khẩu. Đoàn chúng tôi đến Bằng Tường nhưng Bạn chưa chuẩn bị kịp phương tiện xe cộ, nên lại đi bộ thêm hai ngày đường nữa mới đến Long Châu. Tới đây Bạn có chuẩn bị đưa chúng tôi đi Nam Ninh bằng đường thuỷ, sau đó đưa chúng tôi đi tiếp bằng ô tô đến Cam Giang (Tsékham), một thành phố nhỏ trên bờ biển Đông, kề ngay phía bắc của bán đảo Lôi Châu và hôm sau đưa chúng tôi ra đảo Điều Thuận, (Điều Thuận là một hòn đảo nhỏ cách đất liền hơn 10 cây số). Bạn bố trí chúng tôi ở vào nhà dân. Nhân dân trên đảo đối xử với chúng tôi rất tốt. Thời gian học tập rất khẩn trương, trong vòng 6 tháng dưới sự tổ chức chỉ đạo của Quân đoàn 43 (là một quân đoàn mạnh thuộc đệ tứ dã chiến quân). Chương trình học tập của chúng tôi được kết hợp giữa học tập kỹ thuật và chiến thuật tác chiến bộ binh (tổ 3 người và tiểu đội) cùng với việc luyện tập và vận hành tác chiến bằng thuyền buồm, học tập đổ bộ chiếm lĩnh trận địa và sau cùng là giới thiệu trận đánh giải phóng đảo Hải Nam. Được bạn giúp đỡ nhiệt tình chu đáo, cùng với sự tích cực học tập rèn luyện của chúng tôi, nên kết quả đem lại rất tốt. Trước khi về nước Bạn trang bị cho chúng tôi đủ chăn màn và hai bộ quân phục kiểu Việt Nam và trang bị đủ súng đạn cho một đại đội bộ binh mạnh. Chấp hành chủ trương của Ban chỉ huy đội, mỗi anh em chúng tôi chỉ mang đủ quân trang cần thiết, gọn nhẹ, để toàn đơn vị có thể mang hết tất cả số súng đạn mà Bạn giúp để đưa vể nước.


Chúng tôi trở về trường lúc đó đã chuyển lên Làng Cỏ, cũng là lúc Bộ có chủ trương giải thể và đưa anh em Thuỷ quân về các đơn vị (một số sang pháo binh, về Bộ Tổng Tham mưu, về quân khu Việt Bắc), còn đại bộ phận của Đội 71 được đưa ra vùng Duyên hải (Quảng Yên, Hồng Gai và tỉnh Hải Ninh), để tham gia chiến đấu và xây dựng các cơ sở du kích vùng biển, dưới sự chỉ huy của các tỉnh đội. Trong số gần ba chục cán bộ về Quảng Yên trong đó có đồng chí Tuần, đồng chí Hợi và tôi được điều về công tác ở ban tham mưu của tỉnh đội. Sau đó tôi được ban chỉ huy đại đội 915 giao nhiệm vụ đưa một trung đội về hoạt động vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở du kích ở ngoại vi thị xã Quảng Yên. Để thi hành nhiệm vụ được giao từ Cát Hải, tôi bắt liên lạc và bám theo đường dây về thị xã, thị sát trước và chọn hai thôn Bùi Xá và La Khê nằm ven biển thuộc xã Tiền An làm địa bàn hoạt động. Sau đó tôi quay trở lại Cát Hải để đón đơn vị, khi đến Tuần Châu trong lúc chờ đò qua lạch biểu thì gặp một đơn vị địch đi tuần tra vành đai trắng phát hiện. Đồng chí dẫn đường bị chúng bắn chết, còn tôi chạy trốn cố thủ ở một đồi rậm. Khi địch tưới xăng đốt, tôi vọt lao ra, ném lại quả lựu đạn về phía hai tên đuổi theo thì bị chúng bắn bị thương, tôi vừa kịp vùi giấy tờ dưới cỏ thì bị bắt. Sau hơn một tháng qua hai phòng nhì (Quảng Yên và Hải Phòng) hỏi cung và tra khảo không khai thác được gì hơn, địch lập cho tôi phích tù màu trắng với tên khai của tôi là Nguyễn Văn Ca, rồi đưa xuống giam ở căng (camp) Đoàn Xá - Hải Phòng, mang áo tù binh có chữ PG (Prisonnier de guerre). Sang đầu năm 1953, tôi cùng một số anh em tù binh ở sàn 4 đào hầm trốn, bị lộ, địch đưa chúng tôi sang Lào giam ở căng tù Savanakhet. Mùa hè năm ấy tôi cùng hai bạn tù lại rủ nhau trốn trại, nhưng không thoát vì sau 4 ngày lùng sục địch lại bắt được chúng tôi và chuyển sang giam ở căng Séno, quản lý chặt chẽ hơn. Đến đầu năm 1954, nhân dịp bị địch điều đi đào công sự ở thượng Lào, tôi đã thừa cơ trốn thoát. Trở lại Việt Nam, tôi về đoàn 77 và sau tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.


Sau chỉnh huấn năm 1955, tôi được chuyển ngành. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, tôi xin nghỉ phép về thăm quê và lo việc chuyển mộ mẹ tôi từ ven biển Đông Linh về bản quán ở xã Yên Cư thuộc huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh. Thế là nỗi băn khăn day dứt vì thương xót mẹ trong nhiều năm của tôi đến đây đã được nguôi vợi vì tôi đã lo được cho mẹ tôi có mồ yên mả đẹp tại quê nhà.


Từ sau khi chuyển ngành tôi đã liên tục tham gia công tác tại 3 đơn vị ở Hà Nội là Bệnh viện Trung ương của Bộ y tế, Tổng công ty Xăng dầu và Tổng công ty Xuất nhập khẩu hàng dệt (Textimex) và đã nghỉ hưu ngày 1/4/1991.


Điểm lại 45 năm qua, tôi đã tham gia công tác ở nhiều đơn vị, đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao và ở đâu tôi cũng được tập thể và bạn bè, đồng đội yêu mến, chăm sóc giúp đỡ tận tình. Song nơi đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc, nhiều ấn tượng đẹp nhất vẫn là trường Thuỷ quân, không những vì ở đây tôi đã được huấn luyện, rèn luyện tạo dựng được một nếp sống và làm việc hăng say, tươi trẻ vì tinh thần tự nguyện vì sự nghiệp chung của một lớp thanh niên đang trưởng thành trong cao trào cách mạng, mà còn thắm đượm tình nghĩa yêu thượng cán binh, đồng đội. Bởi vậy sau nhiều năm xa cách tôi không thể nào quên những hình ảnh tươi đẹp thân thương của những ngày phố Giàn, làng Cỏ, cũng như những ngày sóng gió ân tình ấy trên đảo Điều Thuận (Tsékham).


Với tình cảm sâu đậm ấy, nay về nghỉ hưu được gặp những anh, chị em cán bộ và đồng đội cũ của trường Thuỷ quân sông Lô để cùng nhau gắn bó, đối với tôi là niềm vinh dự và hạnh phúc lớn lao vô cùng.


Hà Nội, đầu xuân - Giáp Tuất 1994
N.Q.T


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:47:56 pm
NỤ CƯỜI ANH LÍNH THUỶ

Đàm Ngọc Chương
Nguyên chuyên viên Bộ Giáo dục

   Đôi mắt sáng long lanh
   Với ý chí quên mình
   Súng trên vai anh hát
   Âm vang khúc quân hành
   Bước chân anh vượt rừng xanh
   Để rồi dạo khắp kinh thành nay mai

   Anh lính thuỷ của tôi
   Luôn giữ trên môi
   Một nụ cười cởi mở
   Cho đời càng thêm tươi

   Ấm no, vui sướng, anh cười
   Đau buồn, đói rét, anh tươi như thường
   Nước non, anh nặng yêu thương
   Dù cho trăm gió ngàn sương chẳng sờn
   Đã mang dòng máu anh hùng
   Súng thù chẳng át được lòng yêu dân
   Trải bao vất vả gian truân
   Nụ cười vẫn đượm chứa chan ân tình
   Lô giang, dòng nước trong xanh
   In hình anh lính thuỷ binh yêu đời.

Phố Giàn, Hè năm 1950


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:49:33 pm
SÚNG GỖ2
(Hồi đầu kháng chiến rất thiếu súng đạn nên tân binh thường phải dùng súng gỗ để huấn luyện. Đây là bài thơ viết cho bích báo Đại đội, nay còn nhớ nên ghi lại)

Hoàng Quốc Hùng
Thuyền trưởng Trường Thuỷ quân (c45) -
Cục Phòng thủ bờ bể - Bộ Tổng Tham mưu

   Súng là vợ, đạn là con,
   Vợ ta bằng gỗ yêu thương nỗi gì?
   Đầu đuôi một khúc phẳng lỳ,
   Không nòng, khi bắn đạn đi đằng nào?
   Lỗ3 (cơ bẩm) đâu để đút đạn vào?
   Tìm đâu môi thắm, má đào mà hôn?4 (Khi ngắm xạ kích, thường phải áp má vào súng)
   Những hôm tập trận công đồn,
   Ngồi ôm súng gỗ tâm hồn nhớ ai?
   Ta cần súng gỗ hôm nay,
   Ngày mai đại bác, máy bay hùng cường.

Khả Linh 1951


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:51:15 pm
Bài ca thuỷ binh du kích (nhạc)

Đại tá Ngô Thế Lãng
Nguyên Trưởng phòng Văn hóa
Cục chính trị Hải quân


Đi xây non sông xây dựng một tương lai, cả một đoàn người mang theo một ý chí, cả một đoàn người mang theo một sức sống đang oai hùng tiến bước trên con đường xa ghi trong tâm can.

Một đoàn người thiết tha quê hương và một lời thề xây dựng lại non sông. Đi xây non sông đi sau biên cương xây dựng binh chủng mới chúng ta đi. Đi thề giết hết quân thù đi là sau hết biên thùy chúng ta xây đời mới.

Ngày mai trên biển Hạ Long nghe sóng âm vang tiếng hô trên dòng sông bập bềnh trôi xác quân thù trên dòng sông xanh. Thủy binh du kích quân Việt Nam lập công xuất hiện một ngày hất hết xác quân sài lang trên dòng sông biếc bao xác thù lặng chìm dần xuống đáy nước.

Ta đi say máu quân thù. Toàn thủy binh nước Việt Nam. Ngày về không còn xa. Chúng ta đi bảo vệ núi sông nhờ ngày về Thủ đô tươi sáng. Làn sóng Cam Ranh đang âm vang say mê lăn sóng Nha Trang đang chờ ta Bạch Đằng  reo nhắc ta xây hạm đội thủy binh Việt Nam.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:52:30 pm
Vui đời thủy quân (nhạc)

Trung tá Trần Minh Thái
Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh - Tỉnh Quảng Ninh


Chúng ta là đoàn trai Thủy quân lòng như gió khơi. Ngát tâm hồn trùng dương xanh không biên giới. Sống đêm ngày đồi xanh rừng sâu trầm vương mây khối. Lòng mơ ước ngày mai trời sáng chơi vơi.

Lướt sóng! Vững chèo! Bơi lên dòng sông biếc.

Lướt sóng! Vững chèo! Bơi lên sông Lô ngược xuôi.

Hải măng từ trong rừng sâu. Bước chân hành quân vượt dốc. Nắng thiêu rồi mưa ngày đêm. Muối rau cùng măng triền miên.

Lính cứ ca! Lính cười! Lính cứ tươi! Lính phớt đều! Lòng phơi phới!

Lính cứ ca! Lính cười! Lính cứ tươi! Lính phớt đều! Nhộn hòa vui!

Ước mơ ngày mai toàn thắng.

Rời sông Lô, lính lên đường. Đường xây thủy quân Việt Nam. Giữ gìn biển trời quê hương.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 03:58:50 pm
Ra Việt Bắc

Thơ: Hoàng Quốc Hùng
Nhạc: Hồng Liên


Ta ra đi hôm nay biết bao giờ trở lại. Xin cảm ơn thời đại chắp cánh cho ta bay. Hỡi gió hỡi mây hãy đợi chờ ta nhé. Đừng để ta rơi lệ, đừng sợ lúc chia ly. Đừng bắt ta nói gì những sầu thương quyến luyến, đừng sợ nơi chiến tuyến. Đừng ngại những chông gai. Xin mọi người lắng tai nghe địa cầu rung chuyển, nghe mưa nguồn bão biển, nghe nhịp bước ta đi, nhịp bước ta đi.


Đoan Hùng 12/3/1999
Đêm giao lưu văn nghệ kỷ niệm thành lập Ban
Nghiên cứu thủy quân


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 04:05:01 pm
NGƯỜI THỦY THỦ BIỂN ĐÔNG

Trung tá Nguyễn Thọ Sơn
Nhà văn - Chi Hội nhà văn Hà Nội

   Đây nắng sớm Xê-kham
   Đưa mắt nhìn biển rộng
   Nghe sóng vỗ ầm vang
   Như trào muôn nhựa sống
   Trên làn nước gầm reo cơn gió lộng
   Tôi đắm mình trong biển cả gió mưa
   Nhưng cũng vẫn say sưa
   Đi xây đắp một ngày về mới mẻ
   Hôm qua còn nhỏ bé
   Hôm nay đã lớn rồi
   Nước biển xanh nhuộm thắm mái tóc tôi
   Yêu sóng gió, yêu đời, yêu bão táp
   Quyết rèn luyện cho mình thêm cứng cáp
   Về kiên gan quyết thắng giặc bạo cường
   San hết mọi biên cương
   Đem bao tình dào dạt
   Bao trùm lên trên đất nước non sông
   Lên nhân loại, lên thế giới mênh mông
   Biển cả rộng như lòng người thuỷ thủ.

Đảo Điều Thuận - Cuối Đông 1950


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 04:06:27 pm
MỘT BUỔI TẬP - MỘT NIỀM VUI - MỘT NỖI BUỒN

Đại tá Nguyễn Phú Quát
Nguyên Chánh văn phòng Bộ Lâm nghiệp


Toàn đơn vị đến đảo Điều Thuận, một hòn đảo thưa dân thuộc bán đảo Lôi Châu (Quảng Đông - Trung Quốc) vào một buổi chiều cuối năm se lạnh. Sau hơn một tháng vừa ổn định nơi ăn chốn ở, vừa học tập lý thuyết và thực hành trên bờ, chúng tôi đã nhanh chóng nắm được các động tác và những công việc cơ bản để điều khiển một chiếc thuyền buồm. Theo chương trình, cả đội chuyển sang luyện tập hành quân và chiến đấu trên biển. Mọi người háo hức chờ buổi tập đầu tiên để được thấy biển cả mênh mông, gió lộng và cũng là bước vào giai đoạn thử thách và rèn luyện cả trình độ lý thuyết và lòng dũng cảm của một chiến sĩ Thuỷ quân thực thụ. Ai cũng thấy hồi hộp chờ đợi ngày vui đó.


Một buổi sáng trời mờ sương gió nhẹ, ngót chục chiếc thuyền buồm các loại đỗ sát bên nhau dập dềnh trên bến, những chiếc cờ đỏ trên đỉnh các cột buồm phần phật bay trong gió. Chúng tôi đã tập trung đầy đủ theo từng trung đội. Đến giờ xuất phát, một hồi kèn lệnh phát ra từ chiếc thuyền chỉ huy ba buồm to nhất, chúng tôi nhanh chóng lao xuống thuyền, rồi ai về vị trí người đó.


Chiếc thuyền chỉ huy căng buồm từ từ rời bến. Các thuyền khác kéo neo căng buồm lướt theo thứ tự đội hình hàng dọc, thuyền nọ cách thuyền kia hàng trăm mét. Cả đoàn từ từ ra khơi, xa dần bến. Trông đoàn thuyền no gió, lướt nhanh trật tự trên biển, lòng tôi xốn xang một niềm vui, thấy mình đã trưởng thành nhanh chóng. Chỉ mấy tháng trước bước chân vào quân ngũ, được nhìn thấy mô hình các loại tàu chiến đặt tại trụ sở Ban chỉ huy đội, ai cũng ước mong sớm được thấy biển. Thế rồi những ngày tập chèo thuyền trên sông Lô, học tập phương pháp thông tin liên lạc bằng cờ, học tập sử dụng, sửa chữa các loại máy nổ trên tàu lại thôi thúc ước mơ ra biển nhiều hơn. Đến hôm nay, ước mơ đã thành sự thật.


Buổi tập hôm đó, trung đội tôi được nhận một thuyền buồm, sẵn sàng vũ khí chiến đấu, trên thuyền có chú lính kèn người Hoa cùng đi. Trung đội bố trí một đồng chí cầm lái, hai phụ trách buồm. Hai đồng chí này đã có thời sống nghề chài lưới ven sông ven biển. So với chúng tôi, hai đồng chí này có tay nghề khá hơn cả nên được giữ vị trí then chốt nhất trong buổi tập đầu tiên. Các đồng chí khác còn lại làm nhiệm vụ chiến đấu. Suốt hai tiếng đồng hồ, theo lệnh từ thuyền chỉ huy, chúng tôi tập chạy theo các đội hình trên biển. Buổi tập sáng sắp kết thúc, chúng tôi ai cũng phấn khởi thấy buổi ra biển lần đầu suôn sẻ, tự tin ở mình có thể điều khiển một con thuyền theo ý muốn. Nhưng niềm vui chưa hết thì một tai hoạ ập đến bất ngờ: Thuyền trưởng ở thuyền chỉ huy ra lệnh cho toàn đội quay trở về bến. Thi hành lệnh, các thuyển từ từ quay lại. Trên thuyền chúng tôi mọi người vào vị trí chiến đấu, ai vào việc nấy đã được phân công trước để làm các động tác điều khiển con thuyền quay trở lại. Dây lèo đã được tháo ra, tay lái điều khiển để thuyền mất gió dừng lại. Hai buồm từ từ đổi chiều để đón gió đẩy thuyền quay trở lại về hướng bến, thật đúng bài bản. Ai cũng thấy động tác mình làm đều đúng kỹ thuật. Nhưng thật bất ngờ, khi hai cánh buồm đang từ từ trở lèo để đón gió thì một cơn gió mạnh thổi táp vào làm cho hai cánh buồm chập vào nhau trở thành vật cản, bị gió thổi mạnh làm cho thuyền lật nghiêng rất nhanh, rồi từ từ úp xuống mặt nước. Một tình huống bất ngờ chưa có kinh nghiêm xử trí, tất cả chúng tôi rời nhanh vị trí của mình nhảy ào xuống biển. Chỉ một thoáng hai buồm chìm xuống, đáy thuyền nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Lúc đó trên biển quanh thuyền cái gì nổi được thì nổi lềnh bềnh, nào mũ, nào sào, nào cờ quạt... Chúng tôi, ai vượt ra khỏi thuyền thì bơi đi bơi lại gọi nhau xem ai còn ai mất...


Khi báo hiệu thuyền bị nạn, toàn đoàn quay lại và kéo chúng tôi lên. Tìm lại thấy thiếu hai đồng chí, lại đúng là hai đồng chí chịu trách nhiệm điều khiển hai cánh buồm. Chúng tôi lo lắng. Ngay tức khắc các giáo viên bạn và những tay bơi lặn giỏi đều được huy động để tìm kiếm, nhưng vô hiệu... Những ngày sau tiếp tục tìm kiếm đều không có kết quả. Toàn đoàn buồn và lo lắng. Trung đội tôi khi về đến nhà ở hầu như không ai muốn ăn, muốn nói chuyện. Ai cũng nhớ thương hai đồng chí không cầm được nước mắt. Một tuần trôi qua, xác hai đồng chí nổi lên và trôi dạt vào một bờ đảo. Khi đưa được xác hai đồng chí về bến, mặt bị sưng to, ngôi sao đeo trên mũ do bị va đập mạnh cong cuộn lại. Chúng tôi cho rằng vì tinh thần trách nhiệm cao, để cứu con thuyền không bị đắm, các đồng chí đã cố gắng gỡ buồm không kịp nhảy ra trước khi thuyền bị lật úp, nên đã bị nằm trong sạp thuyền do sức ép của nước và va đập vào cột buồm bị thương nặng nên không bơi ra được. Thế là hai đồng chí đã hy sinh trong lúc huấn luyện trên đất bạn.  Được sự giúp đỡ của Bạn, hai đồng chí đã được mai táng và xây thành lăng nhỏ ngay sát bờ đảo. Mỗi lần chúng tôi ra khơi luyện tập đều như thấy đồng đội mình bên cạnh.


Nhớ lại những ngày đầu ở Thuỷ quân, những kỷ niệm không thể quên này, lại đúng vào ngày thương binh liệt sĩ (27-7) tôi càng nhớ thương những đồng đội đã vì nhiệm vụ hy sinh, còn phải nằm lại trên đất Bạn, xa Tổ quốc quê hương.

N.P.Q


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 04:08:13 pm
TƯỞNG NHỚ ANH NGUYỄN XUÂN QUẾ

Hoàng Quốc Hùng
Thuyền trưởng Trường Thuỷ quân (c45) -
Cục Phòng thủ bờ bể - Bộ Tổng Tham mưu

"Giơ tay đếm thử bao người
Chung vui năm ngoái năm nay không còn?"

Đó là hai câu thơ mà một thi sỹ đã đọc giữa Đại hội quân chính tại chiến khu Bình Trị Thiên vào năm 1949 khi thấy một số bạn bè vắng mặt vì đã hy sinh trong chiến đấu.

Bây giờ tôi cũng muốn: "Giơ tay đếm thử bao người
   Chung vui Thuỷ quân sông Lô mà năm nay không còn?”

Trong số những người không còn đó, có anh Nguyễn Xuân Quế, giáo sư hàng hải đầu tiên của chúng tôi. Anh đã ra đi vĩnh viễn.

Anh Quế! cho phép tôi gọi anh là ANH như tôi vẫn gọi khi anh còn sống. Anh mất đi, chúng tôi - những người lính Thuỷ quân sông Lô thuở nào vô cùng thương tiếc anh. Thương anh vì anh có đạo đức tốt, tác phong tốt, học vấn tốt, kinh nghiệm nghề nghiệp tốt, nhưng anh đã chưa được "sử dụng" hợp lý. Do đó, những cái tốt của anh chưa được phát huy, cống hiến và phục vụ dân tộc tói mức tối đa. Tiếc vì anh không được "thọ" thêm để thấy đất nước đổi mới, cuộc sống trăm màu ngàn sắc đang đua nở, Tổ quốc đang thay da... đổi thịt như lúc sinh thời anh từng mơ ước. Thương tiếc anh, không phải chỉ than ngắn thở dài. Chúng tôi những người học trò của anh muốn hồi tưởng lại những kỷ niệm sâu sắc về anh để tự rút ra những bài học bổ ích. Tôi chỉ muốn hồi tưởng lại vài kỷ niệm về anh mà cá nhân tôi thấy là sâu sắc và có ý nghĩa nhất.


1. "Không có ai đậu trạng nguyên về hàng hải"

Năm 1950 - 1951, chúng tôi là lính Thuỷ sông Lô. Nói tới Thuỷ quân là nói tới hàng hải. Mà giáo sư hàng hải đầu tiên của chúng tôi là anh Nguyễn Xuân Quế. Tháng 5/1951, Thuỷ quân sông Lô giải tán, chúng tôi được cấp "bằng tốt nghiệp" (giấy chứng nhận), trong đó có 4 câu: "Đã học hết lý thuyết hàng hải đại cương". Thực ra hồi đó, chúng tôi chưa học được gì nhiều. Hoàn cảnh, phương tiện và thời gian còn quá hạn chế. Nhưng "giáo sư" Quế đã cho chúng tôi một bài học trong buổi lên lớp đầu tiên mà chúng tôi ghi nhớ suốt "đời sông nước" của mình. Hôm đó, sau khi thầy trò làm quen nhau, anh bắt đầu giảng bài học hàng hải thứ nhất.

- Hàng hải (anh định nghĩa) nói nôm na là hành trình trên mặt biển. Ngắm mặt biển hiền hoà khi mặt trời mọc, quá đẹp! Quan sát đại dương yên ả dưới trăng thu, rất nên thơ. Nhưng dưới mặt nước có những gì, nào ai nhớ hết, biết hết? và khi mặt nước nổi giận, nào ai lường hết, đo hết? Do vậy có thể nói, những người làm nghề sông nước là những ngưòi "sống ở dương gian mà làm việc ở âm phủ".

Nghỉ một lúc, anh nhấn mạnh: và cũng vì thế, không có ai đậu trạng nguyên về hàng hải.

Hồi đó, thú thực, chúng tôi chưa nhận thức hết ý nghĩa thâm thuý của câu này, chỉ thấy hay về cách dùng từ ngữ trong văn chương để chứng minh rằng: học hàng hải không phải dễ, nhưng thưa các bạn, đã gần 30 năm xuôi ngược trên sông biển, với bao nhiêu va vấp tai nạn về tàu thuyền, càng ngày tôi càng thấm sâu sắc chân lý của giáo sư Quế "không có ai đậu trạng nguyên về hàng hải".


2. "Tôi phải học tiếng Nga"

Từ sau những năm 1956, 1957, tàu bè Liên Xô (cũ) cập cảng Hải Phòng ngày càng nhiều, chuyên gia Liên Xô đến Hải Phòng ngày càng đông. Vì không biết tiếng Nga nên trong giao dịch với thuyền viên và chuyên gia Liên Xô thường mất thời gian và gặp nhiều khó khăn do phải thông qua phiên dịch viên, việc đọc và nghiên cứu tài liệu của Liên Xô cũng hạn chế, anh Quế quyết định: phải tự học tiếng Nga. Một hôm gặp tôi anh bảo: Tớ phải học thêm tiếng Nga gấp, Ai dạy anh? - Tôi hỏi - Mình tự học.

Tôi biết, anh nói là làm. Và 6 tháng sạu, tôi đã thấy anh đọc được sách báo Liên Xô và trực tiếp nói chuyện với chuyên gia Liên Xô.

Qua trò chuyện tìm hiểu, tôi được biết: quá trình công tác của anh là cả một quá trình tự học, tự nghiên cứu không mệt mỏi. Anh thường thổ lộ: Học ở nhà trường chỉ là cái vốn cơ bản. Phải biết dùng cái vốn ấy để "buôn bán" có lời lãi, phải tự học. Do tự học, trình độ chuyên môn của anh ngày càng phát triển cao. Anh đã viết sách, giảng dạy cho các lớp đào tạo cán bộ hàng hải. Qua huấn luyện và thực tập ở Nga về hàng hải và thiên văn (1966-1969), tôi đã từng làm quen với những "bảng tính độ cao và azzimut (đo phương vị) của các thiên thể" của Mỹ, Anh, Nga (TBA-54, BAC-58,...). Về đến Việt Nam, tôi vô cùng khâm phục khi thấy anh Quế, sau năm 1957 cũng đã có "bảng tính độ cao và azzimut (đo phương vị) của các thiên thể", gọi tắt là "THH-57". So với các bảng của Anh, Mỹ, Nga, sai số không đáng kể. Hồi đó đã làm gì có các tính máy như bây giờ. Thế mà với tinh thần quyết tâm và kiên nhẫn, anh đã cho ra bảng THH-57 kịp thời phục vụ cho các tàu bè, các trường hàng hải khi chưa có tài liệu nước ngoài. Cho đến những năm 1971-1972 tôi vẫn đến để nghe anh "huấn thị” về nghề nghiệp. Noi gương anh, chúng tôi cũng tự học không ngừng. Vì không có ai đậu trạng nguyên về hàng hải nên phải học, học nữa, học mãi...


Anh Nguyễn Xuân Quế! Xin anh hãy yên nghỉ. Đừng vương vấn bụi trần. Những điều mà anh hằng lưu tâm mong mỏi cũng là những vấn đề đang được Nhà nước ta tiếp tục đổi mới, cải tiến để đưa đất nước ta tiến lên kịp với thời đại, với trào lưu chung của thế giới. Lịch sử như dòng sông không bao giờ ngừng chảy. Thế hệ con cháu chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thành những công việc mà chúng ta chưa làm được.

Tháng 5 năm 1994
H.Q.H


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 04:17:12 pm
TIẾN RA ĐÔNG BẮC RỒI TRỞ VỀ VIỆT BẮC
(Kỷ niệm về anh Phan Tiền Đạo)

Đại tá Cao Xuân Thự
Nguyên chuyên viên Ban Biên giới Chính phủ


Toàn đội 71 tiến hành tổng kết và nhận nhiệm vụ mới. Anh Phan Tiền Đạo, nguyên là Phó ban nghiên cứu Thuỷ quân của Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp về chuyển đạt nhiệm vụ mới, cùng Ban chỉ huy đội 71 biên chế các đội công tác và trực tiếp chỉ huy đội hành quân về chiến trường ven biển Đông Bắc. Bộ Tổng Tham mưu đã điều anh Nguyễn Việt đi công tác, anh Lê Ngọc Quang về Đại đoàn công pháo 351. Anh Đạo cùng anh Trắc Vinh Nam, anh Lê Trường Đa, anh Nghiêm Xuân Hùng và Thanh Văn Minh trực tiếp chỉ huy đội 71. Các đội trưởng đội công tác về Hải Ninh, Hồng Gai - Cát Bà, Quảng Yên trực tiếp làm trung đội trưởng trong đội hình hành quân.


Mọi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất trước đó một ngày. Tinh mơ một buổi sáng tháng 5 năm 1951, toàn đội xuất phát. Chặng đường của 3 ngày đầu tiên là gặp lại con đường về Thái Nguyên, Nhã Nam, Đèo Cà. Sau đó đội 71 vượt qua quốc lộ 1 đi men theo đường sắt hướng Hữu Lũng - Lạng Sơn, rồi nghỉ đêm tại nhà Ga Bắc Lệ hoang vắng trong chiến tranh để bắt liên lạc với du kích dẫn đường. Sáng hôm sau, đội công tác về tỉnh Hải Ninh do anh Trắc Vinh Nam dẫn đầu bắt đầu tạm biệt anh em, rẽ lên đường An Châu để về Đình Lập, căn cứ của Hải Ninh. Đội 71 tiếp tục hành quân xuyên rừng núi đến một bản người Dao trên vùng núi cao gọi là Đèo Cóc. Sau bữa ăn trưa cơm nắm muối vừng, du kích dẫn đội 71 vượt quãng đường rừng quanh co. Rừng thưa dần, tiếp đến một vùng cỏ tranh và lau sậy mênh mông. Theo tay chỉ của người du kích, chúng tôi đã có thể thấy một vùng hoang tàn đổ nát đầy lau lách của thị trấn Chũ. Nhưng đến khi hoàng hôn xuống thì mới đến gần thị trấn đó. Có lệnh giữ bí mật, không gây tiếng ồn, giãn đội hình, sẵn sàng chiến đấu vượt qua đường nhanh. Chúng tôi vượt qua an toàn. Còn có thể nhận ra dáng dấp một thị trấn có đường ô tô, có nhà gạch, đường bàn cờ khuất trong đám lau sậỵ. Đoàn quân vượt ra bờ sông đi men theo khoảng 1 cây thì dừng lại. Có lệnh phái cảnh giới phía trước, sau và hai bên sườn. Bỗng có tiếng lau sậy sột soạt và một con đò hiện ra, trên có 3 du kích chống sào. Chúng tôi được lệnh yên lặng sang sông. Trời đầy mây, cảnh vật chỉ thấy lờ mờ không nhận được phương hướng. Cuối cùng hơn bảy chục con người đã vượt sông an toàn.


Con đường phía bên kia sông hình như trước đây có làng mạc. Đường đất khá rộng đi qua nhiều vùng trống trải, đôi nơi còn bóng những cây to tán rộng. Chúng tôi đi miết tới tận sáng. Một vài anh quê ở Quảng Yên cho biết, đây là vùng núi của huyện Chí Linh. Qua một nơi gọi là Mai Sưu, rồi đến Bến Tắm, rồi Bắc Mã, tiếp đến một cái chợ rất nhiều đồng bào tản cư và có nhiều bà con người Hoa. Chúng tôi nghĩ đây là vùng căn cứ an toàn của tỉnh Quảng Yên, dừng lại thổi cơm trưa. Đội 71 tiếp tục hành quân đến hoàng hôn thì tới một khu rừng thấp thoáng lán tre nứa. Đây là căn cứ của tỉnh đội Quảng Yên. Trong mái lán rộng có tiếng hát của nữ dân quân.


Sáng hôm sau các đội đi Hồng Gai - Cát Bà và Quảng Yên chuẩn bị lên đường. Anh Đạo công bố Quyết định của Bộ Tổng Tham mưu thành lập Ban chỉ đạo xây dựng lực lượng và phát triển các hoạt động chiến đấu du kích vùng ven biển Đông Bắc gồm có các anh Lê Trường Đa, Thanh Văn Minh, Trần Kỳ, do anh Đạo là Trưởng ban. Hai nhân viên của Ban là Trần Văn Đương và tôi. Các anh Nghiêm Hùng, Quang Cánh, dẫn đội mình đi sang Hồng Gai; anh Trần Minh Thái, Dương Đình Ấu cùng đoàn ở lại để về các địa bàn trong tỉnh. Phút chia tay bịn rịn, chúng tôi ôm lấy Trần Thọ, Trịnh Tuần, Phú Đạt, hẹn ngày gặp lại.


Anh Đạo và anh Đa, Minh, Kỳ còn đi Hồng Quảng để nắm tình hình và làm việc với địa phương. Riêng Đương và tôi phải về ngay Đoan Hùng để mang tất cả hồ sơ cũ của trường Thuỷ quân về Liên khu Việt Bắc. Chúng tôi được chuẩn bị đủ gạo, tiền để đi. Sáng hôm sau hành quân luôn. Thế là chúng tôi mỗi người một ba lô, một túi 4 quả lựu đạn chày, ba ruột tượng gạo, theo đường cũ về bến đò Chữ, tính toán sao cho đến bến đò thì tối, vượt qua thị trấn và rẽ lên đường mòn để về Đèo Cóc. Tuổi trẻ hãng hái, Đương và tôi bàn nhau đi suốt đêm. Qua được đò, chúng tôi theo lối mòn đã được căn dặn, vượt thị trấn, lần mò trong bóng tối. Hôm trước qua đây cảm thấy đường từ Đèo Cóc về Chũ dễ đi, sao hôm nay vòng vèo mãi mà chưa đi hết vùng có tranh và lau lách, có lẽ mình lạc lối rồi chăng? Chúng tôi quyết định dấn bước về phía trước, Đèo Cóc là phía núi rừng xa xa. Đi thêm độ một tiếng đồng hồ thì thấy mỏi và cơn buồn ngủ ập đến. Ngồi nghỉ dưới một gốc cây, chúng tôi ngủ thiếp đi, tỉnh dậy đã gần sáng, bốn bề yên tĩnh, tự kiểm tra thấy không mất hành trang, chúng tôi lại dậy đi tiếp. Thì ra đường mòn chỉ cách chúng tôi vài trăm mét. Về đến Đèo Cóc lúc gà vừa gáy sáng.


Hành trình từ Đèo Cóc về Nhã Nam, rồi Thái Nguyên, Đèo Khế, Châu Tự Do rồi Bình Ca, Đoan Hùng chỉ trong 5 ngày. Làng Nghinh Xuyên bên bờ sông Chảy, nơi Trường Thuỷ quân đặt trường sở nay vắng vẻ lạ thường. Các tài liệu đã chuyển về Liên khu. Chỉ còn gia đình chị Trần Lưu Phương lưu lại trong một lán nhỏ dưới rặng vải ven sông. Vài ngày nữa chị cũng sẽ về Thái Nguyên. Ngày hôm sau chúng tôi lại đi, mãi mãi xa Nghinh Xuyên, Hùng Quan và Sông Lô, Sông Chảy. Chặng đường về Thái Nguyên trở nên quen thuộc. Chúng tôi lại qua Đồng Bẩm, lên Linh Nam, qua khe Mo, đến Long Giàn, nơi trạm đón tiếp của Liên khu Việt Bắc. Trạm cho chúng tôi nghỉ lại một đêm. Đoạn đường này là đoạn đường đi Đình Cả mà chúng tôi đã qua năm ngoái. Sáng hôm sau chúng tôi vào Liên khu bộ Việt Bắc.


Được trạm khách chỉ đường, chúng tôi vượt đường độc đạo rất lầy lội, qua suối, qua rừng về đến Phòng Tham mưu liên khu Việt Bắc. Gặp lại anh Minh, anh Kỳ rất vui mừng. Nghe nói vài ngày nữa anh Đạo và anh Đa sẽ về đến Liên Khu. Thế là chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trước 2 ngày, sau một chuyến đi dài khoảng 600 cây số. Từ đây bắt đầu một chặng đường mới trong đời quân ngũ của chúng tôi.

CXT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 03 Tháng Hai, 2021, 04:21:36 pm
ĐỔ BỘ LÊN ĐẢO CÁT BÀ

Trung tá Trần Minh Thái
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh - Tỉnh Quảng Ninh


Tháng 6-1951, Ban nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu nhân lệnh cử đại bộ phận Đội Thuỷ quân 71 vừa đi học ở Trung Quốc về để tăng cường chiến đấu cho các tỉnh ở miền duyên hải Đông Bắc.


Đội chia thành nhiều bộ phận quân, trong đó có một bộ phận được điều động ra đảo Cát Bà. Bộ phận này vẫn mang bí danh là Đội 71, do đồng chí Dương Đình Ấu làm đội trưởng, tôi (Trần Minh Thái) làm chính trị viên kiêm bí thư chi bộ, gồm trên dưới 50 cán bộ từ cấp tiểu đội đến cấp đại đội, trong đó có nhiều người là dân vùng biển thạo nghề sông nước. Nhiệm vụ của đội là đổ bộ an toàn, bí mật lên đảo Cát Bà làm nòng cốt xây dựng và chiến đấu cho phong trào đánh du kích trên biển. Đội thuộc quyền chỉ huy của tỉnh đội Quảng Yên. Sau gần một tuần hành quân, chúng tôi đã từ Đoan Hùng về tới căn cứ của tỉnh Quảng Yên.


Tỉnh đội giao nhiệm vụ trước mắt cho Đội 71 khi tới Cát Bà là tham gia phong trào chiến tranh du kích ở địa phương và sẵn sàng thực hiện lệnh của Bộ. Trên đường hành quân Đội phải tránh giao chiến với địch để tới Cát Bà an toàn và bí mật. Trung đội trưởng Đàm Nguyệt, nguyên là học viên Thuỷ quân sông Lô khoá 1 là người thông thạo địa hình Quảng Yên nhận nhiệm vụ dẫn đường cho Đội.


Một ngày cuối tháng 6/1951, chúng tôi lên đường. Chúng tôi ngủ ở rừng Thùng một đêm, ở Thượng Yên Công, căn cứ của huyện Yên Hưng một đêm rồi qua Lán Tháp đi Yên Lập. Vùng chúng tôi đi qua thường có thổ phỉ và biệt kích của Pháp lùng sục, phục bắt cán bộ. Đến đêm thứ ba, chúng tôi tới chân chùa Lô cách đường 18 hơn 2000 mét, cách vị trí Pháp ở Yên Lập 4km.


Đêm đến, chúng tôi vượt đường 18 và tới Yên Cư thuộc Yên Hưng. Đây là một làng có hội tề, nhưng là "tề đồng chí". Sau khi nắm tình hình ta và địch ở đây, Đội 71 được đưa vào trú quân ở hang đá Yên Cư - Đại Đán. Vùng này cách các vị trí Pháp ở Yên Lập, tỉnh lỵ Quảng Yên, thị xã Hồng Gai, Bãi Cháy từ 5 đến 15 km theo đường chim bay. Như vậy, Đội 71 lọt vào giữa hai phòng tuyến đường 18 và ven biển, mỗi phía cách Đại Yên (Yên Cư - Đại Đán) 1,5 - 2km, và bốn phía đều gần nhiều vị trí của Pháp.


Vì hang Yên Cư nằm trong cụm núi đá giữa một vùng trống trải, lại thường có biệt kích lùng bắt cán bộ qua lại, do đó đến sớm hôm sau chúng tôi chuyển ra cách rừng ở phía Đông đến Đại Đán để giấu quân. Ở đây nếu không may bị địch phát hiện, chúng tôi có thể dựa vào rừng và đồi để tác chiến, và chờ đến đêm lại rút về phía Bắc đường 18. Còn nếu thuận lợi thì đêm nay chúng tôi có thể vượt qua cụm đảo Đầu Đá ở phía Nam, và hành quân trên biển khoảng 20km nữa là tới Gia Luận, xã địa đầu của đảo Cát Bà.


Sau bữa cơm trưa trong rừng, trên một đồi cây rậm, đơn vị cử cảnh giới và nghỉ trưa thì anh Đàm Nguyệt đã ra bến Đại Đán. Anh đi về phía bến và xuống một số thuyền đậu trên bến. Khoảng 4 giờ thì anh về và xin Đội cử hai người mặc quần áo thường phục đi theo anh xuống thuyền để kèm sát chủ một chiếc thuyền buồm lớn. Anh cho biết là phải dùng cách vừa thuyết phục, vừa bắt buộc họ phải đưa quân ta xuống Cát Bà đêm nay.


Cưỡng chế nhân dân là một việc làm bất đắc dĩ, nhưng nếu ở lại đây thêm một ngày nữa thì rất có thể địch tới càn, ta khó có thể bảo toàn lực lượng cũng như hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Hơn nữa nếu phải tác chiến ở đây thì sẽ ảnh hưởng đến đường đi lại từ Cát Hải vào đất liền, gây bất lợi cho bàn đạp để ém quân và nơi thâm nhập vào vùng địch của bộ đội, du kích, cán bộ cơ sở của huyện Yên Hưng.


Khi trời chạng vạng tối, chúng tôi xuống thuyền. Đây là chiếc thuyền đinh lớn có thể chở 50 - 60 người. Gia đình người chủ thuyền là người Trà Cổ làm nghề đi buôn giữa các tỉnh ven biển. Trông thấy quân ta ăn mặc nghiêm chỉnh, anh em rất vui vẻ và lễ phép, ông cụ chủ thuyền đã thấy yên tâm hơn. Tuy nhiên chúng tôi cũng thấy lo ngại không kém gì gia đình chủ thuyền vì Đàm Nguyệt cho biết: ban đêm hải quân Pháp đi tuần mà gặp bất cứ tàu thuyền nào đi vào vùng Đầu Đá - tuyến giao thông từ Đại Đán ra Cát Hải là chúng có thể nổ súng ngay.


Trước giờ hành quân, chúng tôi phổ biến kế hoạch hành quân sẵn sàng chiến đấu trên biển cho cả Đội. Trừ những người điều khiển thuyền, số còn lại sẽ bố trí theo thế mai phục hai bên mạn, súng và lựu đạn đặt sẵn sàng bên người. Nếu gặp tàu địch thì mọi người trong Đội phải nấp kín, còn mấy người mặc thường phục giả làm người nhà thuyền đưa phương tiện vào gần theo lệnh của bọn giặc. Khi hai bên áp sát thì cử người buộc tàu với thuyền lại để giả như đón Pháp sang khám tàu. Khi có hiệu lệnh, toán xung kích đồng loạt ném lựu đạn vào tàu giặc và nhảy sang chiếm phương tiện của chúng.


Đàm Nguyệt sẽ điều khiển số anh em giả làm nhà thuyền, có trách nhiệm giao dịch với Pháp và buộc thuyền vào tàu. Anh Ấu chỉ huy chung và trực tiếp hạ lệnh rồi cùng xung kích đánh tàu chiến. Tôi chỉ huy hai khẩu trung liên để khống chế hoả lực của tàu địch. Thấy anh em ta điều khiển thuyền thành thạo, ông cụ chủ thuyền có vẻ yên tâm hơn. Lúc này những điều đã học tập được ở đảo Điều Thuận - Trung Quốc đã được vận dụng khá thành thạo. Lần đầu tiên được hành quân trên vùng biển của Tổ quốc trong khung cảnh sẵn sàng chiến đấu cao, ai cũng thấy trong lòng nao nao và hồi hộp. Thuyền luồn qua các đảo trong không khí êm mát của đêm thu. Những hòn núi cao sừng sững toả bóng che cho con thuyền; tạo hình tượng như bao lớp cửa đồ sộ khi đóng, khi mở, đưa đón chúng tôi luồn qua, theo các lạch quanh co.


Gió thổi hiu hiu làm tài công dễ buồn ngủ, nếu không có bầy dĩn liên tục táp vào mặt mũi, chân tay. Quãng nửa đêm, thần kinh chúng tôi căng lên khi nghe trên biển có tiếng máy tàu vọng tới. Thuyền phải đi dạt vào chân núi để được che khuất. Mười lăm phút trôi qua, tiếng động cơ nghe nhỏ dần. Chúng tôi nhanh chóng vượt qua luồng tàu và đi sâu vào vùng biển Cát Hải. Trước mắt chúng tôi đảo Cát Bà ngày càng gần lại. Nhiều lúc tưởng như sát chạm vào chân núi đá mà hoa ra còn ở xa lắc.


Khoảng 3 giờ sáng, thuyền vào gần bờ, nhưng còn phải lội bãi một chặng khá xa nữa. Thay mặt đơn vị, chúng tôi cảm ơn gia đình cụ chủ thuyền và biếu các cụ một số tiền và gạo. Các cụ vui vẻ nhận và xin ủng hộ lại bộ đội để đánh giặc. Những bàn chân thư sinh đạp vào bùn cát mà liêu xiêu bước nhanh về phía trước. Có cậu vác súng và đeo ba lô nặng, vừa bị cắm mảnh sò ở chân này, vội đưa chân kia xuống đỡ thì lại bị cắm nốt vào chân kia, vừa suýt xoa lại vừa buồn cười và cứ dấn bước với hai bàn chân đau.


Thế là qua 5 ngày đêm hành quân qua rừng, qua biển, giữa vòng vây của các phòng tuyến và các vị trí của Pháp, chúng tôi đã đổ bộ thành công lên đảo Cát Bà.


Cát Bà là một đảo có chiều dài hơn 16km, chiều rộng 12km, là đảo đá lớn nhất của huyện Cát Hải. Phía Đông đảo là Vịnh Hạ Long. Trên đảo có vị trí pháo bờ biển và hải quân của Pháp đóng ở phố Cát Bà. Đồ Sơn và Cát Bà là hai cứ điểm lợi hại về pháo binh án ngữ hai bên cửa Nam Triệu, cửa ngõ của Bắc Bộ. Thế mà hòn đảo này lại là căn cứ du kích của ta, trong đó xã Châu Châu, chỉ cách cứ điểm Cát Bà hơn 4km. Đảo bị khống chế bốn bề bởi các tàu chiến của hải quân Pháp. Nguồn lương thực chính trên đảo là bắp ngô, một năm mới có vài lần được ăn gạo do một số thuyền buôn không quản ngại nguy hiểm, luồn qua vòng vây của địch để vào đảo bán hàng. Số bắp do cơ quan huyện đội tăng gia cùng số bắp do nhân dân đóng góp chỉ đủ cho quân và dân trên đảo sinh sống hàng ngày, không có dự trữ dài ngày.


Vũ khí, đạn dược và trang bị của đại đội 919 của huyện cùng du kích cũng chỉ đủ cho việc chiến đấu với quy mô nhỏ và phân tán. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh uỷ Quảng Yên, huyện Cát Hải chỉ được chống càn với quy mô từ tiểu đội trở xuống còn không được dùng từ trung đội trờ lên, nhằm bảo vệ đảo và giao thông liên lạc với đất liền.


Sau khi Đội 71 đổ bộ lên đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, theo quyết định của Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Yên, anh Dương Đình Ấu, đội trưởng đội 71 được bổ nhiệm chức vụ: huyện đội phó, kiêm đại đội phó đại đội 919 thuộc huyện đội Cát Hải và tôi là chính trị viên Đội 71 được bổ nhiệm giữ chức chính trị viên phó huyện đội, kiêm chính trị viên phó đại đội 919 là phó bí thư huyện uỷ; và huyện đội trưởng kiêm đại đội trưởng đại đội 919 là anh Võ Hiệp Cương, nguyên là đại đội trưởng khung khoá 1 của trường Thuỷ quân sông Lô đã được điều động ra đây công tác trước Đội 71 chúng tôi.


Anh Ấu và tôi cùng các anh chỉ huy huyện đội thống nhất với nhau về kế hoạch sử dụng Đội 71, trong khi chờ lệnh chính thức của Tỉnh đội, các cán bộ Đội 71 thâm nhập đại đội 919 để giúp đơn vị này trong huấn luyện và xây dựng. Một số cán bộ, chiến sĩ Đội 71 và đại đội 919 được phân tán về một số xã để đẩy mạnh phong trào dân quân du kích trên đảo.


Lúc này căn cứ Hà Sen - cũng như hầu hết đảo Cát Bà đều là vùng tự do của huyện Cát Hải, chỉ trừ phố Cát Bà, nơi có sở chỉ huy tiểu khu của hải quân Pháp ở phía Nam của đảo.


Chúng tôi cũng tìm ra cách đánh bảo vệ căn cứ có hiệu quả mà vẫn phù hợp với phương châm chiến đấu trong hậu địch do huyện đề ra. Ở các hướng mà Pháp có thể tiến vào, các tổ du kích sẽ đánh tỉa và đeo bám địch từ bên ngoài. Bên trong là các tổ và tiểu đội bộ đội có trang bị súng trường, lựu đạn sẽ thay nhau đánh úp để diệt từng toán địch tiến quân trên các đường độc đạo, nằm giữa hai vách đá đựng đứng. Các bẫy đá là vũ khí giặc rất khiếp sợ. Ngày 2 - 9 - 1951, chúng tôi vô cùng phấn khởi trước thắng lợi của một cuộc chống càn nhỏ. Chỉ có một tổ du kích với một tay súng và bẫy đá, mà ta bắt sống một tên địch, thu một súng trường trong trận đánh chặn một tiểu đội địch từ phố Cát Bà vào.


Năm 1952, quân và dân Hà Sen, trong đó có cán bộ Đội 71 đã đánh thắng nhiều trận càn của quân Pháp vào căn cứ. Từ cuối năm 1952 cho đến hết chiến tranh, giặc không dám càn vào căn cứ của ta nữa.


Trong một trận chiến đấu, anh Tuấn Chi - một cán bộ của Đội 71 đã anh dũng hy sinh. Tôi không thể nào quên người cán bộ quê Thừa Thiên, với vóc dáng thư sinh, tính tình điềm đạm, rất yêu thơ, đã ngã xuống ở một hòn đảo trong vùng địch kề bên Vịnh Hạ Long. Lúc ấy anh Tuấn Chi đang là chính trị viên trung đội thuộc đại đội 919.


Từ cuối năm 1951 đến 1952, nhiều cán bộ của Đội 71 được điều về các đơn vị bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Yên. Anh Ấu và tôi được điều về làm cán bộ thuộc tiểu đoàn Bạch Đằng. Các anh Tràng, Mộc, Đua được điều về đại đội 908 cùng với tôi. Các đồng đội của tôi trong Đội 71 đã hy sinh là anh Dương Đình Ấu, Tuấn Chi, Tràng, Đàm Nguyệt...


Kỷ niệm về cuộc đổ bộ lên đảo Cát Bà và những gì Đội 71 đã làm được, trên một căn cứ du kích rất đặc biệt ngay trên đảo Cát Bà, thuộc vùng địch hậu giữa miền biển Đông Bắc, không bao giờ phai mờ trong ký ức tôi.

Ngày 25 tháng 7 năm 1998
TMT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:17:01 am
ĐỘI 71 THỦY QUÂN CHIẾN ĐẤU DU KÍCH Ở VEN BIỂN ĐÔNG BẮC


Đại tá Nguyễn Việt
Nguyên Chính trị viên Ban nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu - Phó Cục trưởng Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng Tham mưu.
Ghi theo lời kể của đồng chí Vũ Quân, Phi Hoàng, Quang Tiếp, Lê Toàn, Trịnh Tuần, Minh Thái, Xuân Thự...


Vào cuối tháng 4 năm 1951, trong lúc chuẩn bị đưa lực lượng đội Thuỷ binh 71 đi chiến đấu ven biển Đông Bắc (theo kế hoạch đã được duyệt 1950), sắp xếp lại tổ chức Ban nghiên cứu Thủy quân, tiếp tục công tác nghiên cứu xây dụng và tác chiến Thuỷ quân, tiếp tục huấn luyện khoá 2... thì nhận được lệnh Bộ Tổng Tham mưu cho giải thể Ban nghiên cứu Thủy quân (cùng với Ban nghiên cứu Không quân) với lý do tăng cường xây dựng một số đại đoàn chiến đấu chủ lực, giảm quân số ở những cơ quan, đơn vị chưa thật cần thiết, trong đó có cơ quan thuỷ quân và không quân, đưa Đội Thuỷ binh 71 đi chiến đấu ở vùng Đông Bắc, đồng thời chuyển số cán bộ công nhân viên còn lại về cơ quan, trường học hoặc đơn vị thuộc Bộ đóng quân ở khu vực Liên khu 10, Lien khu Việt Bắc.


Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, Ban nghiên cứu Thuỷ quân đã nhanh chóng thực hiện việc giải thể cơ quan, tập trung đưa lực lượng 71 Thuỷ binh đi chiến đấu du kích ven biển, cụ thể như sau:

Chiến đấu ở ven biển Hải Ninh:

- Số cán bộ đội thuỷ binh 71 ra Hải Ninh chiến đấu gồm khoảng 15 đồng chí, anh Trác Vinh Nam, đội phó đội thuỷ quân 71 được chuyển phụ trách tỉnh đội phó tỉnh đội Hải Ninh từ cuối 5/1951 cùng các đồng chí Trần Cang, Vũ Duy Bình, Nguyễn Trịnh Cược, Nguyễn Bá Đức, Vũ Phi Hoàng, Lê Văn Khá, Ngô Văn Mai, Hà Văn Ngữ, Nông Văn Phượng, Phạm Vũ Quân, Trương Văn Thời, Dương Văn Tước, Lê Văn Vỹ... Xuất phát từ Đoan Hùng tháng 6/1951, đi theo đường Bình Ca, Thái Nguyên, Nhã Nam, Hữu Lũng ra đường 1 Chi Lăng, Đồng Mỏ, Lạng Sơn, theo đường 4 xuống Định Lập, rẽ lên Bản Hang cách thị trấn Định Lập 20km về phía Bắc, nơi cơ quan tỉnh đội Hải Ninh đóng quân. Gặp BCH tỉnh đội, mà trực tiếp là tỉnh đội phó Trác Vinh Nam (đã về nhận chức từ cuối 5/1951), anh em được phân công về một số địa phương:


Về huyện đội Móng Cái: 4 đồng chí, Hà Văn Ngữ - Trung đội trưởng, Nguyễn Trịnh Cược - Trung đội phó, Bùi Duy Bình - a trưởng, Nông Văn Phượng- a trưởng. Cả 4 đồng chí đều chuyển về Trung đội 45 (trung đội người Việt) thuộc đại đội địa phương huyện (gồm 3 trung đội: 1 trung đội người Việt, 2 trung đội người Hoa), Trung đội 45 chiến đấu bảo vệ khu căn cứ Pò Hèn - Thán Phún - Tràng Vinh suốt từ 1951-1954.


Về huyện đội Tiên Yên: 4 đồng chí, Nguyễn Bá Đức, trợ lý tác huấn huyện đội, Trần Cang, Đinh Văn Tước, Trương Văn Thời, cả ba đều là tiểu đội trưởng được phân công về đại đội địa phương Tiên Yên.


Về cơ quan tỉnh đội: 4 đồng chí, Lê Văn Vỹ cán bộ trung đội, trợ lý tham mưu tác huấn tỉnh đội, Vũ Phi Hoàng cán bộ trung đội, thư ký BCH tỉnh đội. Phạm Vũ Quân cán bộ trung đội, trưởng ban địch vận tỉnh đội, Năm 1952 đề bạt cán bộ đại đội, về làm Chính trị phó huyện đội Đình Hải (Đình Lặp + Ba Chẽ) kiêm chỉ huy đại đội 35. Năm 1953 về đại đội 54 chủ lực tỉnh làm chính trị viên đại đội. Ngô Văn Mai tiểu đội trưởng bảo vệ tỉnh, sau chuyển sang chỉ huy giao liên tỉnh đội.


Tình hình tỉnh Hải Ninh lúc đó (cuối 1951, đầu 1952) đang rất khó khăn. Địch chiếm đóng rộng, càn quét liên miên, đốt phá làng bản, giết hại nhân dân, cán bộ, thực hiện khủng bố trắng, tung biệt kích thám báo, thổ phỉ phục kích các ngả đường triệt phá tiếp tế, liên lạc giữa các khu căn cứ tỉnh - huyện.     Mặc dù vô vàn khó khăn ác liệt, anh em Thuỷ binh 71 tuy mới đến địa bàn còn nhiều bỡ ngỡ, nhưng đều quyết tâm trụ bám cơ sở, hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, công tác được giao từ cuối 1951 đến 1954.


Ở Móng Cái: khu căn cứ Tràng Vinh - Pò Hèn - Thán Phún, trung đội 45 địa phương huyện đã bền bỉ xây dựng cơ sở giữ dân, giữ đất, liên tục chiến đấu bảo vệ khu căn cứ:

1952, đánh bại 2 cuộc càn lớn quy mô tiểu đoàn địch, phá âm mưu xây dựng đồn bốt ở núi Lý La nhằm uy hiếp khu căn cứ ta.

1953, tổ chức đội công tác đặc biệt luồn sâu vào địch hậu, đánh phá đường giao thông, phá cơ sở vật chất địch trên đường 4 từ Móng Cái đi Lộc Phủ.

4/1953, phá 1 xe GMC diệt 1 tiểu đội địch trên đường Tài Vân - Lộc Phủ.

Ở Tiên Yên: liên tục đánh địch trên đường Đình Lập - Tiên Yên; Đầm Hà - Tiên Yên; Bình Liêu - Tiên Yên, giành dân giữ dân, xây dựng khu căn cứ.    

1952, đã vận động hơn 40 tên phỉ ra đầu hàng mang theo vũ khí ở vùng Khe Quang - Khe Lục. Đánh bại nhiều lần địch tiến công lấn chiếm vùng giáp ranh Điền Xá - Bắc Lãng; phục kích chống càn bảo vệ khu căn cứ Cường Lợi, Lâm Ca, Đồng Thắng (quanh Tiên Yên).

1953, đánh địch ở Văn Mây, Phong Du, trấn giữ cửa ngõ Tiên Yên, Dương Hải, Hà Lâu, bảo vệ hành lang Tiên Yên, Đầm Hà.

1954, phối hợp Điện Biên Phủ phát động hoạt động du kích rộng khắp Tiên Yên, Đầm Hà, Hà Cối. Đánh mạnh trên đường 4 Đầm Hà, Hà Cối, Chúc Bài Sơn, Tân Mài, diệt phỉ, trừ gian, đẩy mạnh xây dựng cơ sở du kích giam giữ chân địch trong khu vực. Trong quá trình chiến đấu lâu dài ác liệt vùng địch tạm chiếm, một số đồng chí Thuỷ binh 71 đã hy sinh anh dũng như:

- Đồng chí Nông Văn Phượng cán bộ trung đội đã hy sinh khi đang truy kích địch trên đồi Cốc Soóng trong trận chống tiểu đoàn địch càn quét khu vực Tràng Vinh tháng 6/1952.

- Đồng chí Lê Văn Vỹ cán bộ tham mưu tác huấn tỉnh xuống xây dựng cơ sở Tiên Yên - Hà Cối đã hy sinh trong trận đánh mìn ở Tằng Sám Phu - Tây Hà Cối, hè 1954.

- Đồng chí Ngô Văn Mai đội trưởng đội giao liên tỉnh đội đã bảo đảm giữ vững liên lạc giữa tỉnh với huyện, trên các nẻo đường nhiều thổ phỉ, thám báo biệt kích địch hoạt động liên tục ngày đêm, trong điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng thiếu thốn, ăn đói, nhịn khát, lội suối trèo đèo vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Đầu 1953, đồng chí Mai đã xung phong nhận nhiệm vụ mang bộc phá lên đánh lô cốt chính trong trận công đồn Thán Phún và đã anh dũng hy sinh tại đây.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:19:48 am
Sang 1954 sau Hiệp định Giơnevơ. Đồng chí Phạm Vũ Quân, đồng chí Vũ Phi Hoàng được gọi về Cục Tác chiến 8/1954, thành lập bộ phận nghiên cứu Hải quân, chuẩn bị xây dựng Cục phòng thủ bờ bể 5/1955.

- Đồng chí Hà Văn Ngữ, Nguyễn Trịnh Cược, Vũ Duy Bình được điều về tiểu đoàn 470 vào quý 3/1955, thuộc Cục Phòng thủ bờ bể, trong đó đồng chí Nguyễn Trịnh Cược, trợ lý tác huấn d470; đồng chí Hà Văn Ngữ, đại đội trưởng tiểu đoàn 470 bảo vệ bán đảo Trà Bình (Trà Cổ) cùng Vũ Duy Bình.

Còn số khác tiếp tục công tác tại địa phương Hải Ninh.

Chiến đấu ven biển đặc khu Hòn Gai cuối 1951 -1954:

Số cán bộ học viên nhận nhiệm vụ đi hoạt động du kích ven biển Đặc khu Hòn Gai khoảng 15 đồng chí:

Cán bộ đại đội: Nghiêm Xuân Hùng, Thanh Văn Minh (sau về Ban chỉ đạo du kích biển liên khu Việt Bắc).

Cán bộ trung đội: Trần Quang Cánh (tức Lê Toàn), Nguyễn Xuân Triết, Đinh Văn Chí, Trần Quang Hậu, Vũ Ngọc Dấu.

Cán bộ tiểu đội: Cúc, Tạn, Cống, Quả, Chỉnh và một số đồng chí nữa.

Cuối tháng 6/1951, hành quân từ Đoan Hùng sang Thái Nguyên qua Bố Hạ về An Châu, Sơn Động đến Thanh Sơn - Vị Loại, nơi đóng quân Đặc khu Hòn Gai.

Cùng đi có đồng chí Phan Tiền Đạo cán bộ Thuỷ quân, trưởng BCĐ du kích biển liên khu Việt Bắc đến trao đổi thống nhất với địa phương về nhiệm vụ xây dựng, hoạt động chiến đấu du kích ven biển Đặc khu Hòn Gai, phân phối sử dụng cán bộ Ban nghiên cứu Thuỷ quân làm nòng cốt chiến đấu...

BCH đặc khu sau khi nghiên cứu địa bàn các đảo và khả năng số cán bộ Thuỷ quân mới về đã quyết định sử dụng tập trung từng tổ đưa ra đảo Quán Lạn, Ngọc Vừng, Dô La... thuộc huyện Cẩm Phả.

Do vùng địch tạm chiếm lan rộng, đường dây liên lạc bị cắt đứt, nên phải đi vòng từ Vị Loại ra Đình Lập sang Bình Liêu, cơ quan tỉnh đội Hải Ninh chuyển về Cẩm Phả, Mông Dương. Sau đó, Đặc khu tạm dừng việc phái ra đảo, sử dụng cả chục đồng chí thuỷ quân (trừ đồng chí Nghiêm Xuân Hùng, Nguyễn Minh Triết, Đinh Văn Chí, Trần Quang Hậu đi nhận công tác khác) về chiến đấu ở đại đội Hồ Chí Minh thuộc đặc khu vào cuối năm 1951.


Đại đội Hồ Chí Minh gồm đa số công nhân mỏ, là đại đội địa phương mỏ, thành lập từ cuối 1946, có vinh dự lớn là mang tên Bác, được giao nhiệm vụ. Xây dựng cơ sở địch hậu ven biển Hòn Gai, chiến đấu bảo vệ căn cứ kháng chiến, bảo vệ nhân dân sản xuất, chuẩn bị chiến trường đón chủ lực đến tác chiến trên địa bàn, tổ chức đường dây đưa đón cán bộ, bộ đội ra vào khu tạm chiếm. Căn cứ của Đại đội ở vùng Hoành Bồ.


Anh em Thuỷ quân nhanh chóng hoà nhập, đã cùng đơn vị chiến đấu hoạt động từ cuối 1951 đến 1954, lập nhiều thành tích xây dựng căn cứ du kích, bảo vệ địa phương ven biển Hòn Gai, diệt nhiều địch, trừ nhiều phỉ và phản động, trong đó nổi lên vài trận như:

1952: Phục kích ở Cựa Gà, diệt 2 xe địch, thu 1 súng cối và trên 100 súng trường Mas. Phục kích Đồng Ho diệt 30 tên, trong đó có 1 quân trưởng, 1 quan 2, 1 quan 1, thu 8 tiểu liên Tulles, 3 súng ngắn cùng nhiều quân trang quân dụng.

6/1954: Tập kích bốt Giếng Đáy, cách Bãi Cháy 8km, diệt và bắt 21 tên (trong đó có vợ chồng tên đồn trưởng người Hoa, thu 20 súng cùng nhiều trang bị kỹ thuật khác).

7/1954: Đang bao vây, pháo kích, uy hiếp bức hàng đồn Đá Trắng gồm 80 tên thì vừa lúc Hiệp định Giơnevơ được ký kết.

Quá trình chiến đấu trên địa bàn Hòn Gai là quá trình vượt qua nhiều khó khăn gian khổ trong nhiều ngày, nhiều tháng, năm. Đơn vị vừa đánh giặc, vừa xây dựng cơ sở địa phương, giữ dân, giành dân, vừa bảo vệ sản xuất, vừa bảo vệ đường dây nối liền khu căn cứ vào sâu trong địch hậu, vừa tiễu phỉ trừ gian. Bọn phỉ hoạt động ác liệt, chúng thường xuyên lùng sục Việt Minh để lấy thưởng. Cứ 1 cái tai của Việt Minh là Tây thưởng 50 kg gạo. Ngoài ra, còn phải tự lực giải quyết lương thực thực phẩm, thương binh... đi lấy gạo mất 6 - 7 ngày luồn rừng ra đến kho gạo vùng Mai Sưu - Tân Mộc; thường xuyên sử dụng một trung đội thay nhau đi lấy gạo; cáng 1 thương binh về quân y ở khu hậu phương thường mất 1 tiểu đội đi cả tuần tới nửa tháng...


Trong thời gian 1951 - 1954, trong số 10 đồng chí Thuỷ quân về đại đội Hồ Chí Minh, tất cả đều chiến đấu dũng cảm, lập công, giữ vững phẩm chất đạo đức quân nhân, đều được khen thưởng. Một số đồng chí bị hy sinh trong chiến đấu như: đồng chí Chỉnh, đồng chí Cúc...

Sau khi hoà bình được lập lại 7/1954, địch vẫn ở lại Hòn Gai theo Hiệp định 300 ngày cho đến 5/1955 mới rút.

Đại đội Hồ Chí Minh được đặc khu giao nhiệm vụ cùng huyện Cẩm Phả tuyên truyền vận động nhân dân các đảo Cái Bầu, Cái Rồng, Quan Lạn, Ngọc Vừng, Dô La, Vạn Hoa... đứng lên xây dựng cơ sở cách mạng, lật đổ chính quyền cũ, lập chính quyền nhân dân.

Đến 5/1955, đại đội cùng Trung đoàn 50 khu Tả Ngạn nhận nhiệm vụ tiếp quản thị xã Hòn Gai.

Đi đầu là đại đội Hồ Chí Minh, địch rút đến đâu, đại đội tiến theo đến đó, từ cuối thị xã đến bến phà Bãi Cháy.

Tiếp quản xong, đại đội được giao nhiệm vụ bảo vệ nhà máy điện Cọc 5 - Hà Tu - Hà Lầm.

Anh em Thuỷ quân tiếp tục công tác, hoạt động trong đội hình đại đội Hồ Chí Minh. Sau đó cấp trên điều động mỗi người một ngả, không có tin của nhau, chỉ được biết vài ba đồng chí:

- Đồng chí Nghiêm Xuân Hùng hy sinh khi về tập huấn ở Sơn Tây 1954.

- Đồng chí Đinh Văn Chí về Ban nghiên cứu Hải quân Cục Tác chiến ngay từ 10/1954, sau đó ít năm chuyển về Cục Quân báo (đã mất).

- Đồng chí Trần Quang Hậu về Bộ Tư lệnh pháo binh (đã mất).

- Đồng chí Trần Quang Cánh về trinh sát quân khu tả ngạn, sau sang đặc công, là Thiếu tướng - Phó Tư lệnh Chính trị Binh chủng Đặc công (đã mất 2005).


Chiến đấu ven biển Quảng Yên (1951-1954):

Đội Thuỷ binh 71 ra chiến đấu ven biển Quảng Yên chia thành hai bộ phận:

- Bộ phận đổ bộ lên đảo Cát Bà (sẽ trình bày ở phần sau).

- Bộ phận về một số huyện như Yên Hưng, Cát Hải, Đông Triều, Kinh Môn..., về tiểu đoàn Bạch Đằng địa phương tỉnh và về cơ quan tham mưu - chính trị tỉnh đội Quảng Yên vào thời điểm đầu tháng 7/1951, quân số khoảng 20 đồng chí như: Trịnh Tuần, Trần Duy Hợi, Nguyễn Quang Tiếp, Nguyễn Phú Đạt, Trần Thọ, Bình, Đỉnh, Mộc...

Địch lúc này chiếm đóng dày đặc chiến trường Quảng Yên, tuyến boong ke vững chắc mới xây dựng dọc đường 18 từ Phả Lại, Đông Triều, Uông Bí, Yên Lập ra đến Bãi Cháy, Hòn Gai. Chúng thường xuyên càn quét, phát triển thổ phỉ, biệt kích, hoạt động ven rừng dãy núi vòng cung Đông Triều, Yên Tử, Hoành Bồ...

Anh em đội Thuỷ binh 71 ra chiến trường Quảng Yên ban đầu còn bỡ ngỡ, nhưng đã nhanh chóng hoà nhập địa bàn, trụ bám cơ sở du kích, cùng quân dân tại chỗ chiến đấu quyết liệt, chống càn quét, diệt nhiều địch, giữ vững và phát triển khu căn cứ du kích trong vùng địch tạm chiếm ờ từng huyện suốt từ cuối 1951 đến 1954 hoà bình được lập lại. Trong quá trình trụ bám lâu dài đã trải qua nhiều cuộc càn quét của địch như: Bôlêrô 1952 vùng Kinh Môn, Đông Triều, Chí Linh, Yên Hưng 1952- 1953, và nhiều trận chiến đấu giành thắng lợi như ở Yên Hưng - Cát Hải, Đông Triều, Kinh Môn... Một số đồng chí đã anh dũng hy sinh ở Quảng Yên như. Đồng chí Dương Đình Ấu - đại đội trưởng từ đảo Cát Bà về đại đội 908 tiểu đoàn Bạch Đằng thuộc tỉnh đội đã hy sinh trong trận chống càn dài ngày ở xã Văn Đức, Chí Linh 1952. Đồng chí Đàm Nguyệt - trung đội trưởng đã hy sinh trên trục đường Mạo Khê, Tràng Bạch 1952. Đồng chí Mộc, Bình, Đỉnh hy sinh trong trận Nhị Chiểu dọc sông Kinh Thầy,...


Một số đồng chí bị địch bắt trong chống càn như: Đồng chí Nguyễn Quang Tiếp cán bộ trung đội bị bắt 1952 ở chiến trường Yên Hưng khi đang vận động địch ra hàng (địch vận) ở thị xã Quảng Yên. Địch đưa về Đoạn Xá - Hải Phòng, sau đến cuối 1953 đưa sang Lào làm tù binh phục vụ lao công, đã chạy trốn được, kịp về chiến đấu bảo vệ đèo Phađin Điện Biên Phủ 1954. Đồng chí Nguyễn Phú Đạt - cán bộ trung đội bị bắt ở xã Xuân Sơn - Đông Triều trong chống càn dọc đường 18, đã kiên cường không cung khai cơ sở du kích, địa điểm cơ quan tỉnh, bị địch đưa đi đày ở Côn Đảo. Nhưng khi dừng chân ở Mỹ Tho - Nam Bộ đã vượt ngục ra chiến đấu trong đội hình bộ đội địa phường Mỹ Tho, đến 1954 tập kết ra Bắc, tiếp tục công tác và chiến đấu, khi nghỉ hưu là đại tá.


Tóm lại, số các đồng chí đội 71 ra chiến trường ven biển Quảng Yên đã nhanh chóng hoà nhập địa bàn, cùng quân dân địa phương chiến đấu anh dũng dài ngày trong lòng địch, hoàn thành nhiệm vụ công tác và chiến đấu.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:21:32 am
Chiến đấu trên đảo Cát Bà 1951-1954:

Tháng 6/1951 bộ phận ra Cát Bà, vẫn mang bí danh đội 71 do đồng chí Dương Đình Ấu làm đội trưởng, đồng chí Trần Minh Thái làm chính trị viên - bí thư chi bộ, gồm trên dưới 40 đồng chí từ cấp tiểu đội, trung đội đến đại đội, thành phần có nhiều đồng chí là dân vùng biển thạo nghề sông nước, trang bị đầy đủ súng đạn bộ binh, có tới 4 trung liên, do đội 71 mang về từ Trung Quốc.


Nhiệm vụ được BCH tỉnh đội Quảng Yên giao là bí mật an toàn đổ bộ lên đảo Cát Bà, làm nòng cốt hoạt động chiến đấu, xây dựng cơ sở, phát động phong trào đánh du kích trên đảo, tránh đánh lớn, chỉ hạn chế trong đánh nhỏ lẻ cấp tiểu đội. Một ngày cuối tháng 6/1951, đội xuất phát ra đảo, người dẫn đường là trung đội trưởng trinh sát Đàm Nguyệt, nguyên học viên Thuỷ quân khoá I, thông thạo địa bàn Quảng Yên, Uông Bí, Yên Hưng, Cát Hải. Đội hành quân, đi theo ven dãy núi Yên Tử, Vàng Danh, Lán Tháp đến Băng Cô, Chùa Lôi, đổ sang Yên Lập, vượt đường 18, vào trú quân tại 1 hang thuộc Yên Cư - Đại Đán (là làng Tề nhưng "Tề kháng chiến"), lọt vào giữa phòng tuyến đường 18 và ven biển của địch, cách các đồn Pháp ở xung quanh chỉ độ 1,5 - 2km, sau 4 ngày đêm hành quân vất vả, ngay sáng hôm sau đến Yên Cư, đồng chí Đàm Nguyệt đi trinh sát tìm thuyền ra đảo.


Gặp một chủ thuyền buồm lớn, là người Trà Cổ đi buôn giữa các vùng ven biển, ta vừa động viên thuyết phục, vừa có ý bắt buộc là bộ đội phải đi ngay, nếu ở lại bị lộ sẽ xảy ra tác chiến, ảnh hưởng đến nhân dân. Sau một thời gian thương lượng, được chủ thuyền đồng ý, anh em chuẩn bị ra đảo, đặt kế hoạch tác chiến trên thuyền nếu gặp địch tuần tiễu, đề xuất vài ba phương án có thể xảy ra. Đến chiều tối, bắt đầu cuộc hành quân trên thuyền buồm ra đảo, cự ly độ trên 20km thì tới xã Gia Luận xã địa đầu phía Bắc của đảo.


Cuộc hành quân đã may mắn không gặp địch, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng động cơ tàu địch từ xa vẳng tới. Đến 3 giờ sáng, thuyền đổ quân xuống bãi sú, phải lội một quãng khá dài mới vào đến bờ. Chỉ huy thay mặt anh em cảm ơn ông chủ thuyên và gửi biếu một số tiền, gạo. Ông chủ vui vẻ nhận, nhưng xin gửi lại để ủng hộ bộ đội đánh giặc, giải phóng quê hương vùng biển. Thế là 5 ngày đêm hành quan luồn rừng, vượt đèo, qua biển giữa vòng vây các tuyến cứ điểm Pháp, đội 71 đã đổ bộ bí mật, an toàn lên đảo Cát Bà.


Cát Bà - một đảo dài 16km, rộng 12km, là đảo lớn nhất của huyện Cát Hải. Ở phía Nam đảo có pháo đài hải quân Pháp ở ngay bên thị trấn Cát Bà. Cát Bà và Đồ Sơn là 2 pháo đài lợi hại án ngữ hai bên cửa Nam Triệu, cửa ngõ Vịnh Bắc Bộ vào Hải Phòng lên Hà Nội. Cát Bà là căn cứ du kích của ta, có đại đội địa phương huyện 919, nay có thêm Đội Thuỷ binh 71 đến tăng cường hoạt động xây dựng phong trào chiến tranh du kích địa phương. Có thể nói ngoài vùng pháo đài địch và thị trấn địch kiểm soát chặt chẽ, còn nhiều nơi trên đảo Cát Bà đều là "vùng ta", nào khu căn cứ Hà Sen, nào xã Chân Châu, Gia Luận... Tuy nhiên, vùng ta vẫn thiếu đói nhiều, lương thực chính trên đảo là bắp ngô, phải ăn rất dè sẻn mới giảm được đói triền miên, ít ngày sau khi đổ bộ lên đảo, cấp trên chỉ định đồng chí Dương Đình Ấu Đội trưởng Đội 71 kiêm huyện đội phó Cát Hải, Đại đội phó Đại đội 919; đồng chí Trần Minh Thái - Chính trị viên Đội 71 kiêm Chính trị phó huyện đội Cát Hải, Chính trị phó Đại đội 919.


Huyện đội trưởng kiêm đại đội trưởng Đại đội 919 là đồng chí Võ Hiệp Cương, nguyên đại đội trưởng Thuỷ quân từ Đoan Hùng mới ra đảo cuối 1950 đầu 1951. Như vậy cả 3, chỉ huy ở Cát Bà đều là quân của Ban Nghiên cứu Thuỷ quân. Quá trình chiến đấu tại đảo từ 1951 đến 1955 là quá trình vừa chiến đấu du kích nhỏ lẻ, vừa xây dựng cơ sở vận động quần chúng, vừa tích cực chống càn quét bảo vệ sản xuất, bảo vệ tính mạng tài sản nhân dân.


Một số trận đánh du kích trên đảo 1951-1954:

2/9/1951: một tổ du kích với bẫy đá đã chống càn thắng lợi ở vùng quanh thị trấn, bắt sống 1 tên địch, thu một súng trường.

1952, quân dân Hà Sen, trong đó có Đội 71 đã đánh nhiều trận chống càn thắng lợi, buộc địch từ cuối 1952 đến 1954 không dám càn vào căn cứ ta. Cũng trong năm 1952, tỉnh điều động một số cán bộ đội 71 đi nhận công tác khác trong tỉnh, huyện, như đồng chí Dương Đình Ấu, Trần Minh Thái về tiểu đoàn Bạch Đằng địa phương tỉnh.

Quá trình chiến đấu dài ngày trên đảo có một số đồng chí hy sinh anh dũng như: Đồng chí Tuấn Chi - Chính trị viên đại đội, đồng chí Tràng, đồng chí Kỵ, đồng chí Đàm Nguyệt... thuộc đại đội 919.

Bộ phận chỉ đạo hoạt động du kích ven biển Đông Bắc thuộc Phòng Tham mưu Liên khu Việt Bắc (1951-1954):

Sau khi giải thể cơ quan Ban nghiên cứu Thuỷ quân, Bộ Tổng Tham mưu chủ trương thành lập một bộ phận chỉ đạo hoạt động, xây dựng du kích ven biển Đông Bắc (tức Ban 6) thuộc Phòng Tham mưu Liên khu Việt Bắc từ cuối tháng 6/1951. Bộ phận này gồm 7 đồng chí: Trưởng ban Phan Tiền Đạo (tức Trần Thông Bảo) cán bộ cấp tiểu đoàn, nguyên cán bộ chỉ huy Ban nghiên cứu Thuỷ quân, vốn là thuyền trưởng tàu buôn Pháp. Thanh Văn Minh, Lê Trường Đa, cán bộ cấp đại đội, đều là Thuỷ binh thời Pháp. Đồng chí Đa chuyên chịu trách nhiệm huấn luyện dân quân du kích toàn liên khu (bao gồm cả du kích biển). Trần Kỳ tốt nghiệp Trường sĩ quan Lục quân, Trung đội trưởng Đội Thuỷ binh 71. Cao Xuân Thự, Trần Văn Đương, học viên Đội Thuỷ binh 71. Văn Bích Liên, nữ văn thư Ban NCTQ (ngay sau khi thành lập bộ phận, chuyển về kho Dược, Cục Quân y).


Nhiệm vụ của bộ phận (ban 6): Theo dõi tình hình địch ta ở ven biển Đông Bắc, Nghiên cứu chỉ đạo xây dựng, hoạt động, chiến đấu du kích ven biển các tỉnh Hải Ninh, Đặc khu Hòn Gai, Quảng Yên, đặc biệt chú trọng các khu căn cứ du kích tỉnh, huyện vùng địch tạm chiếm. Sau một thời gian công tác, sang năm 1952 để giảm biên chế, sáp nhập với cơ quan Tác huấn, Phòng tham mưu Liên khu Việt Bắc, đồng chí Phan Tiền Đạo được chỉ định làm Trưởng ban tác huấn.


Nội dung công việc, ngoài công tác nghiên cứu chỉ đạo tại cơ quan, anh em đều thay nhau xuống địa phương tới các khu căn cứ du kích ven biển, các hải đảo để xâm nhập thực tế, nghiên cứu rút kinh nghiêm xây dựng huấn luyện, hoạt động và chiến đấu, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích ven biển Đông Bắc. Ngoài công tác chuyên môn anh em còn đảm nhiệm một số công tác Đảng tại cơ quan như: Đồng chí Thanh Văn Minh, bí thư chi bộ Phòng Tham mưu, đồng chí Lê Trường Đa, uỷ viên kiểm tra liên chi uỷ liên chi tham mưu - chính trị cơ quan liên khu. Đồng chí Trần Kỳ, Trần Văn Đương, chi uỷ viên chi bộ tham mưu. Quá trình công tác tại cơ quan tham mưu liên khu, số các đồng chí Ban nghiên cứu Thuỷ quân đều tích cực cố gắng công tác, sâu sát cơ sở địa phương, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng chí Trần Kỳ đã hy sinh trong chống càn Dromadaire của Pháp năm 1953 tại địch hậu Vĩnh Phúc. Sang năm 1953, một số đồng chí thuyên chuyển công tác: Đồng chí Phan Tiền Đạo về Cục Tác chiến 1953. Đồng chí Lê Trường Đa chuyển phụ trách tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn vận tải ô tô Tổng cục Hậu cần 1953, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.


Đến 1954, hoà bình lập lại: Đồng chí Phan Tiền Đạo, Thanh Văn Minh được điều về bộ phận nghiên cứu Hải quân Cục Tác chiến từ 10/1954, chuẩn bị thành lập Cục Phòng thủ bờ bể 1955. Đồng chí Lê Trường Đa 1955 về phụ trách Xưởng 46 - xưởng sửa chữa, đóng tàu Hải quân. Đồng chí Cao Xuân Thự đi chiến dịch Đường 13 Đông Bắc, chuẩn bị đánh Đồi Ngô, Cầu Lồ - Lục Nam tháng 6-7/1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Tiếp đến hoà bình lập lại, đi trả tù binh Âu Phi ở Việt Trì 1954.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:26:15 am
TỰ HÀO ĐƯỢC LÀM "GẠCH NỐI" GIỮA
ĐỘI THỦY QUÂN SÔNG LÔ VỚI QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN


Đại tá Trịnh Tuần
Nguyên Chủ nhiệm Chính trị
Quân chủng Hải quân


Tốt nghiệp khoá huấn luyện Thuỷ quân du kích thuộc Đội 71 từ Trung Quốc trở về nước, tôi cũng như bao bạn bè đều có một tâm trạng háo hức mong đợi sớm được giao nhiệm vụ công tác ở bất kỳ một đơn vị nào thuộc ngành Thuỷ quân non trẻ của Quân đội ta. Song niềm vui chưa đến thì nỗi buồn đã làm tiêu tan mọi ước mơ hy vọng, khi chúng tôi được tin Bộ chủ trương giải thể Thuỷ quân. Mặc dù lúc đó chúng tôi hiểu được hoàn đất nước ta đang gặp khó khăn về trang bị và điều kiện hoạt động của Thuỷ quân nhưng do tâm lý tiểu tư sản nôn nóng, thích bay bổng của lính học sinh nên việc giải thể Thuỷ quân đã đem cho chúng tôi một sự hụt hẫng rất lớn.


Vào một buổi sáng đầu Hạ năm 1951, các đại đội học viên được tập hợp trên một bãi đất trống ở bìa rừng làng cỏ ven sông Chảy để đón Thủ trưởng Bộ xuống thăm. Cả đội ngũ thống nhất tề chỉnh trang nghiêm, đang hướng về khán đài thì Thiếu tướng Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuất hiện trong trang phục màu cỏ úa, tóc húi cua. Sau khi nhận báo cáo của trực ban, đồng chí niềm nở nói chuyện với chúng tôi thân mật như một người anh. Đồng chí thông báo cho chúng tôi về tình hình chung, những thuận lợi và bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kể từ sau chiến thắng biên giới phía Bắc, đồng thời cũng nêu lên những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Cuối cùng đồng chí đề cập đến chủ đề chính cần phải đả thông giải thích cho chúng tôi: "Đất nước ta có bờ biển dài và nhiều sông ngòi, nhất định phải có lực lượng thuỷ quân tương xứng để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay chưa có điều kiện để xây dựng thuỷ quân như mong muốn, một mặt vì trang bị và địa bàn cho thuỷ quân hoạt động rất khó khăn, mặt khác Bộ đang cần tập trung nhân lực, vật lực để xây dựng một số đơn vị chủ lực, cần phải cắt giảm quân số và chi tiêu ở những nơi chưa thật cần thiết. Do vậy, Bộ chủ trương giải thể Thuỷ quân và Không quân. Bộ giao cho Ban nghiên cứu Thuỷ quân việc phân bổ số cán bộ học viên ở đây sao cho hợp lý để phát huy được kiến thức quân sự và trình độ văn hoá mà anh em đã được đào tạo. Ngoài việc chuyển đại bộ phận đi học Lục quân, Pháo binh và các đơn vị khác, giữ lại đội hình 71 thuỷ quân đưa đi xây dựng du kích biển ở vùng Đông Bắc theo phương án đã bàn. Số anh em này trực thuộc các tỉnh đội, đặc khu đội vừa hoạt động chiến đấu vừa làm quen với chiến trường sông biển...". Thế là mọi câu hỏi đặt ra đã được giải đáp rõ ràng. Dù nuối tiếc bâng khuâng, chúng tôi đều nhất trí với trên, nhất là số thành viên thuộc đội Thuỷ quân 71, may mắn và vinh dự được giao nhiệm vụ "Ra vùng Đông Bắc hoạt động chiến đấu làm quen với chiến trường sông biển", càng ghi nhớ sâu sắc, đây là những lời có hàm ý: nhắn nhủ, gửi gắm, tin cậy... của cấp trên đối với chúng tôi, nên đã vơi đi phần nào tâm trạng nuối tiếc của mình. Sau buổi họp mặt, một loạt những quyết định điều động được triển khai, Đội 71 cũng được biên chế nhiều bộ phận và chuẩn bị lên đường.


- Về cơ quan tham mưu Liên khu Việt Bắc 7 người do đồng chí Phan Tiền Đạo (nguyên là Phó ban nghiên cứu Hải quân) phụ trách, có nhiệm vụ theo dõi chỉ đạo hoạt động du kích vùng ven biển trong đó có hoạt động cùa Đội 71 Thuỷ quân.

- Về tỉnh đội Hải Ninh, đặc khu đội Hòn Gai, mỗi nơi khoảng 15 người.

- Còn lại khoảng trên 60 người về tỉnh đội Quảng Yên và đổ bộ lên đảo Cát Bà.

Buổi chia tay trước lúc lên đường thật xúc động lưu luyến. Tôi cùng Thọ Sơn, Trần Thọ ngồi tâm sự tới khuya, khi ra về chúng tôi cứ ôm nhau khóc bởi cuộc chia tay không biết còn có ngày gập lại.


Đến Quảng Yên chúng tôi được thông báo tình hình đặc điểm địa lý, so sánh lực lượng địch - ta, sự phát triển không đều giữa các vùng. Nét nổi bật nhất ở đây là chiến tranh du kích đã phát triển mạnh mẽ. Ta đã làm chủ được nhiều vùng rộng lớn từ Kinh Môn, Chí Linh, Đông Triều, Nam Sách, dọc hai bên quốc lộ 18 chiến lược, từ Phả Lại đi Hòn Gai... Quảng Yên thực sự trở thành một địa bàn tranh chấp, giành giật giữa ta và địch, nên rất cần cán bộ để phát triển lực lượng chiến đấu trên sông, biển và các hải đảo.    Tiếp nhận chúng tôi, lãnh đạo chỉ huy địa phương rất mừng. Mọi người đều coi trọng vì chúng tôi không chỉ là những cán bộ chủ lực biệt phái mà còn là những cán bộ có trình độ văn hoá, được đào tạo thuỷ quân từ Trung Quốc về. Nhưng hầu hết chúng tôi còn trẻ, đều là những "lính cậu" mới rời thao trường, chưa từng trải trong hoạt động chiến đấu địch hậu, nên có đôi chút e ngại.


Sáu người được điều về cơ quan tham mưu tỉnh đội là Nguyễn Phú Đạt, Trần Duy Hợi, Trần Thọ, Nguyễn Quang Tiếp và tôi). Số còn lại đông hơn (gần 50 người) được giữ nguyên phiên hiệu Đội 71 do đồng chí Dương Đình Ấu và Trần Minh Thái chỉ huy tiếp tục hành quân bí mật "đổ bộ" lên đảo Cát Bà. Tại đây theo kế hoạch đã định, đồng chí Võ Hiệp Cương, nguyên là Đại đội trưởng Đại đội khung huấn luyện học viên Thuỷ quân đã được điều ra làm huyện đội trưởng kiêm đại đội trưởng đại đội địa phương huyện đảo Cát Hải (gồm 2 đảo Cát Hải, Cát Bà lúc đó đều thuộc tỉnh Quảng Yên). Đồng chí Cương được Bộ giao nhiệm vụ chuẩn bị lực lượng và cơ sở để tiếp nhận Đội Thuỷ binh 71 ra đảo. 


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:28:07 am
Thế rồi tất cả chúng tôi đều lao vào nhiệm vụ mới tại một chiến trường đầy khó khăn gian khổ và ác liệt. Nếu không có nghị lực của tuổi trẻ và nhất là không có sự yêu thương đùm bọc của đồng bào, đồng chí ở vùng địch hậu Quảng Yên lúc đó chúng tôi khó có thể vượt qua. Với mong muốn được thử sức và cống hiến, chúng tôi sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, chấp nhận mọi thử thách và gian lao. Trải qua nhiều cương vị khác nhau, từ trợ lý tham mưu tác chiến, cán sự dân quân, cán sự tổ chức bảo vệ chính trị, rồi làm chính trị viên một đại đội thuộc tiểu đoàn chủ lực của Tỉnh, tôi đã từng trực tiếp đi xuống các đại đội, trung đội truyền đạt kế hoạch và chỉ đạo các chiến đấu, phục kích, tập kích chống càn.... hoặc khi được giao nhiệm vụ vào các vùng trắng, để khôi phục xây dựng cơ sở, phát động đấu tranh chính trị, chiến tranh du kích, phá tề trừ gian....Chúng tôi cùng chia sẻ cùng lăn lộn với bộ đội, với cán bộ và nhân dân địa phương, từng chịu nhiều trận càn khốc liệt như trận càn mang tên "Bolero" năm 1952.


Được theo dõi tình hình từ cơ quan tham mưu tỉnh đội, chúng tôi rất lạc quan trước bước triển khai thuận lợi, suôn sẻ của Đội 71 tại đảo Cát Bà. Toàn đội được hợp nhất với Đại đội 919, đồng chí Dương Đình Ấu được bổ nhiệm là Huyện đội phó kiêm đại đội phó, Trần Minh Thái là chính trị viên phó huyện đội, kiêm chính trị viên phó đại đội. Nhìn hình thức thì 919 là đại đội địa phương cấp huyện, nhưng thực chất là một đại đội rất mạnh mà chiến sĩ được tuyển chọn từ dân quân du kích vùng biển. Đội ngũ cán bộ từ đại đội trung đội, tiểu đội hầu hết đều là cán bộ học viên Thuỷ quân tăng cường.


Đến đây càng thấy ý định của cấp trên thật rõ ràng nhất quán, đưa số cán bộ học viên thuỷ quân ra vùng biển Đông Bắc và đặc biệt là Đội 71 ra đảo Cát Bà là muốn dựa vào đảo, xây dựng và phát triển lực lượng đánh địch trên biển mà đối tượng chính là các tàu hải quân Pháp hoạt động xung quanh đảo có căn cứ tại thị trấn Cát Bà, chỉ cách căn cứ của huyện đội (thuộc các xa Trân Châu, Xuân Đám...) chừng 5 - 6km, nhưng lực bất tòng tâm. Hàng ngày trên đảo chúng ta quan sát, phát hiện các tàu địch ngang nhiên hoạt động trước mắt mình mà không làm gì được.


Điều trăn trở thấm thìa của chúng tôi là: Xây dựng lực lượng phát động chiến tranh du kích trên biển... là một nhiệm vụ khó khăn nặng nề, một sự uỷ thác tin cậy. Chúng tôi đã cố gắng, nhưng thực tế khó khăn quá lớn, khả năng của ta chưa thể vượt qua nên chưa làm được gì đáng kể. Nguyên nhân này trước đó đã được dự báo: "khi mà bộ đội ta còn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu cả những vũ khí thô sơ thông thường trang bị cho bộ đội địa phương thì lấy đâu ra tiền bạc để đóng tàu thuyền, sắm vũ khí cần thiết theo yêu cầu chiến đấu trên biển".


Trong hoạt động và chiến đấu dù ở những đơn vị, những lĩnh vực khác nhau, nhưng đã là thành viên Đội 71 Thuỷ quân, mọi người đều thể hiện được phẩm chất và bản lĩnh kiên cường, dũng cảm đối mặt với kẻ thù trên chiến trường cũng như trong lao tù khi chẳng may bị địch bắt. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng như Dương Đình Ấu, Đàm Nguyệt, Nguyễn Tuấn Chi, bị thương nặng hoặc bị bắt như Trần Minh Thái, Nguyễn Phú Đạt, Nguyễn Quang Tiếp... Bản thân tôi cũng đã nhiều lần rơi vào tình huống nguy hiểm khi bị địch phục kích, bị bao vây và xăm hầm, hoặc bị lũ cuốn khi đang vượt sông Kinh Thầy nhưng đều may mắn vượt qua.


Chúng tôi rất tự hào vì những ngày được sống và chiến đấu trong vùng địch hậu Quảng Yên, tự hoà được Đảng bộ, quân và dân địa phương tin yêu, nuôi dưỡng, chở che như chính con em và người thân của mình.


Thời gian trôi đi, sau chiến dịch Điện Biên Phủ tinh thần quân địch suy sụp rệu rã. Tại chiến trường Quảng Yên, chúng tôi đang hăng hái chiến đấu và chiến thắng thì Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chúng tôi được lệnh chuẩn bị tập kết quân về khu vực quy định. Lúc này tôi đang làm chính trị viên một đại đội chủ lực của tỉnh đội, chưa kịp rút quân về vị trí tập kết thì nhận được lệnh về Bộ nhận công tác mới (lúc đó vào khoảng cuối tháng 8-1954).


Từ huyện Nam Sách nơi đơn vị đang hoạt động, tôi phải quay vào căn cứ Tỉnh đội ở sâu trong rừng thuộc huyện Sơn Động để làm thủ tục thuyên chuyển. Mọi việc được giải quyết nhanh chóng, tôi còn đủ thời gian thăm hỏi và chia tay với các đồng chí thủ trưởng cấp trên và bạn bè. Đến giữa tháng 9, tôi có mặt ở trạm đón tiếp ở Bộ, lúc đó vẫn ở trong rừng thuộc huyện Đại Từ Thái Nguyên. Niềm vui hoà bình cùng với công việc chuẩn bị tiếp quản Thủ Đô, làm cho không khí ở đây thật nhộn nhịp. Sau vài ngày chờ đợi tôi được đại diện cấp trên thông báo quyết định về cục tác chiến/ BTTM. Trước mắt chúng tôi được đồng chí Hùng Sơn phổ biến chính sách, các quy định và những công việc phải làm sau khi vào tiếp quản Thủ đô.


Đoàn chúng tôi trong đội hình cơ quan, hành quân bằng xe vận tải từ phía Sơn Tây qua cửa ô Cầu Giấy, theo đường Hoàng Diệu vào thành đúng vào tối khuya ngày 9-10-1954. Sau thời gian ngắn ổn định nơi ăn ở, chúng tôi được biên chế chính thức về "Ban chuyên trách vùng biển" thuộc Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu với nhiệm vụ theo dõi tình hình vùng biển, chuẩn bị tiếp quản các căn cứ hải quân của Pháp trong khu vực 300 ngày và cảng Hải Phòng; đồng thời nghiên cứu các phương án tổ chức Cục và các lực lượng phòng thủ bờ bể miền Bắc sau khi được hoàn toàn giải phóng. Lúc này trong ban mới có 7 người đều là cán bộ và học viên Thuỷ quân trước đây là Thanh Văn Minh, Đinh Văn Chí, Vũ Phi Hoàng, Phan Tiền Đạo, Nguyễn Xuân Quế, Phạm Vũ Quân và Tôi (Trịnh Tuần) và trên giao cho anh Đạo tạm thời phụ trách. Khi đồng chí Nguyễn Bá Phát cùng một số đồng chí từ Khu V ra, trong đó có Lê Trường Đa (nguyên là đại đội trưởng khung huấn luyện học viên Thuỷ quân), Đinh Xuân Lâm, Phạm Thế Biên, Huỳnh Văn Nhiễu... được bổ sung vào Ban chuyên trách, đồng chí Nguyễn Bá Phát được trên giao chính thức là Trưởng ban. Những ngày đầu người ít, nhiều việc, đồng chí Phát tạm giao cho anh em chúng tôi từng nhóm việc cụ thể: Thanh Văn Minh, Đinh Văn Chí nghiên cứu hệ thống tổ chức cơ quan, đơn vị trực thuộc và công tác hậu cần nội bộ. Anh Phạm Vũ quân, Vũ Phi Hoàng và Trịnh Tuần... được phân công nghiên cứu hệ thống bố phòng và các thành phần lực lượng phòng thủ bảo ven bờ biển. Anh Lê Trường Đa, Nguyễn Xuân Quế và một số cán bộ kỹ thuật nghiên cứu phương án xây dựng lực lượng tàu thuyền...


Đây là công việc rất nặng nề, vượt quá khả năng của chúng tôi. Nhờ có sự chỉ đạo và định hướng rõ ràng của cấp trên, chúng tôi vững tin bắt tay vào việc, vừa đi vừa khảo sát thực tế, vừa tham khảo tài liệu, vừa phác thảo đề cương nghiên cứu. Vì thiếu kiến thức và kinh nghiệm nên phải làm đi làm lại nhiều lần, nhưng chúng tôi không nản lòng. Được sự động viên khích lộ, hướng dẫn của cấp trên mà trực tiếp là đồng chí Trần Văn Quang, Nguyễn Bá Phát và nhiều cán bộ tham mưu trong cơ quan Cục Tác chiến giúp đỡ tận tình, cuối cùng mỗi bộ phận chúng tôi cũng hình thành được phương án được giao và được cấp trên chấp nhận, trong đó có: Phương án biên chế tổ chức cơ quan, trường huấn luyện, xưởng và kế hoạch điều động cán bộ từ các nơi về. Phương án xây dựng lực lượng Phòng thủ bờ biển; các đài trạm quan sát, các khu tuần phòng, các trận đại pháo bờ biển; phương án xây dựng lực lượng tàu thuyền đầu tiên, bao gồm các kế hoạch sưu tầm máy móc phương tiện thuỷ từ các đơn vị, địa phương, tìm kiếm trục vớt các tàu địch bị ta đánh đắm trên các sông để khôi phục và sửa chữa, đóng mới một số ca nô gỗ lắp máy...


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:29:44 am
Khi phương án được triển khai, tôi được phân công đi Cát Bà, anh Vũ Phi Hoàng đi Tiên Yên để thăm dò khảo sát các cơ sở đóng tàu của địa phương. Mỗi chúng tôi đều có báo cáo kết quả chuyến đi, nhưng chỉ có đề nghị mở cơ sở đóng thuyền tại Tiên Yên của anh Hoàng được trên chấp thuận, vì ở đó có sẵn một cơ sở đóng thuyền của địa phương, hơn nữa lại có nguồn gỗ phong phú có thể khai thác.


Đồng thời với việc thông qua các đề án xây dựng tổ chức lực lượng, Bộ Quốc phòng đã ra một loạt các quyết định thành lập Trường huấn luyện bờ bể để đào tạo cán bộ thuỷ thủ và xưởng 46 để sửa chữa phục hồi và đóng mới ca nô, tàu thuyền cho lực lượng bờ biển (cùng ngày 26/4/1955) thành lập cơ quan Cục phòng thủ bờ bể (7/5/1955) trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và sau đó ra quyết định thành lập các đơn vị trong thành phần lực lượng phòng thủ bờ biển. Đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng thay mặt thủ trưởng Bộ đến trụ sở của Cục (lúc đó còn tạm thời đặt tại nhà máy bia Ồmen trên đường Hoàng Hoa Thám - Hà Nội) để truyền đạt nghị quyết của Tổng Quân uỷ và quyết định của Bộ Quốc phòng, trực tiếp giao nhiệm vụ cho Cục Phòng thủ bờ bể (lúc này mới có trên 100 người gồm cả cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên). Trong buổi họp mặt, chúng tôi vô cùng phấn khởi lắng nghe từng lời của đồng chí Thủ trưởng Bộ (đồng chí Hoàng Vần Thái), nhớ lại cách đó 4 năm về trước cũng chính đồng chí đã ân cần giải thích cho anh em học viên chúng tôi thông suốt về chủ trương giải thể Thuỷ quân của Bộ trong một cuộc họp ở bìa rừng làng cỏ bên bờ sông Chảy, thì lần này cũng vẫn là đồng chí với phong thái giản dị và giọng nói ấm áp thân tình như ngày nào, mà sao lại tác động mạnh mẽ đến ý thức và tình cảm của chúng tôi đến thế. Những mong muốn ấp ủ từ lâu của các chàng trai lính Thuỷ sông Lô đã thành hiện thực. Triển vọng tương lai của một Quân chủng Hải quân hiện lên trước mắt chúng tôi. Càng ngày chúng tôi càng thấy rõ Đảng ta, nhân dân ta rất muốn có một lực lượng Hải quân không chỉ từ ngày hôm đó mà ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Quyền Chủ tịch nước, cụ Huỳnh Thúc Kháng ký quyết định thành lập Ngành Hải quân Việt Nam. Rồi đến tháng 3/1949 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký nghị định thành lập Ban nghiên cứu Thuỷ quân và Trường huấn luyện thuỷ quân. Nhưng lúc đó tình hình đất nước còn khó khăn nên đã không thực hiện được hoặc phải giải thể.


Điều mà chúng tôi không thể quên được là hình ảnh đồng chí Hoàng Văn Thái, một trong số các đồng chí lãnh đạo của Bộ đã có nhiều tâm huyết trong việc xây dựng Hải quân và "đỡ đầu" cho lực lượng Hải quân hiện nay ra đời, đồng thời những anh em thuộc "thế hệ lính Thuỷ Sông Lô", chúng tôi cũng thấy rõ và rất biết ơn các anh Nguyễn Việt, Lê Ngọc Quang, Nguyễn Khương, Trần Lưu Phương, Lê Trường Đa... vừa là những cán bộ chỉ huy, vừa là những người anh đã dìu dắt chúng tôi thuở ban đầu và các anh cũng là những người rất nhiệt thành với sự nghiệp xây dựng Hải quân.


Sau khi có quyết định và tổ chức được hình thành như có một động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ các mặt công tác, cứ mỗi ngày qua đi là lại đưa đến những thành quả có thể trông thấy được. Nếu như tháng 4/1955 một bộ phận công nhân tập trung ở bến phà Đen Hà Nội do anh Lê Trường Đa phụ trách bắt đầu triển khai tìm kiếm trục vớt các máy móc phương tiện tàu đắm trên các triền sông, và một bộ phận đi Tiên Yên đóng các thuyền gỗ lắp máy, thì đến tháng 6/1955 ta đã khôi phục xong 2 chiếc ca nô Trombleux và Hoà Bình. Cả hai đều được lắp thêm súng máy và trở thành phương tiện chiến đấu đầu tiên của Hải quân. Tháng 7/1955 sửa chữa khôi phục thêm 4 ca nô khác vừa thu gom từ các nơi về và tháng 8/1955 đóng xong 20 chiếc ca nô gỗ lắp máy GMC được tháo từ ô tô chiến lợi phẩm. Tại buổi lễ thành lập hai Thuỷ đội Sông Lô và Bạch Đằng ngày 20 tháng 8 năm 1955, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí lãnh đạo của Đảng, quân đội như Hoàng Văn Thái, Nguyễn Chánh, Đỗ Mười đã duyệt tàu thuộc các thuỷ đội trên sông Cấm - Hải Phòng, mở đầu giai đoạn lịch sử lực lượng Hải quân non trẻ của nước ta ra đời trước niềm hân hoan phấn khởi của nhân dân.


Quá trình xây dựng và chiến đấu của Hải quân ta tuy trải qua nhiều khó khăn và những bước thăng trầm. Nhưng đã từng bước khắc phục: từ những ca nô gỗ lắp máy đầu tiên, dần dà Hải quân đã được trang bị các tàu tuần tiều vỏ sắt, các tàu phóng lôi, tàu tên lửa và các phương tiện quan sát tương đối hiện đại. Đến nay Hải quân đã thành một Quân chủng gồm nhiều thành phần lực lượng: Có tàu mặt nước, có pháo binh, tên lửa bờ biển, Hải quân đánh bộ... đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy không được may mắn theo lớp 100 anh em sang Trung quốc để đào tạo và nhận về tàu vỏ sắt đầu tiên như các anh Nguyễn Ngọc Giám, Hoàng Lương, nhưng tôi cũng được đồng chí Nguyễn Bá Phát cho đi học lớp cán bộ thuyền đầu tiên của trường 45 thuộc Cục Phòng thủ bờ bể. Học xong chưa kịp xuống thuỷ đội thì anh Trần Phương Lưu Hiệu trưởng và anh Vũ Khổng Tước, chính uỷ của trường lúc đó biết tôi vốn là cán bộ chính trị nên điều động tôi làm trợ lý chính trị cơ quan hiệu bộ lúc đó đang còn rất ít người, mới chỉ có anh Văn Thanh Minh và tôi là người thứ hai. Quyết định này là bước ngoặt nữa trong quá trình công tác Hải quân của tôi, mặc dầu chúng tôi đều quan niệm đã là Hải quân thì phải ở tàu và rất thích được xuống các thuỷ đội. Nhưng vì yêu cầu nhiệm vụ nên phải chấp hành sự phân công của tổ chức. Sau này tôi được cử đi học thêm một số lớp bổ túc về Hải quân và được tham gia nhiều đợt tập huấn cả về chiến thuật, chiến dịch, được đi học tập nghiên cứu tại Học viện Hải quân Liên Xô. Nhưng như đã được sắp đặt, công tác chính trị vẫn là sự nghiệp gắn bó cả đời tôi cho đến lúc nghỉ hưu. Bạn bè thân thiết một số cho rằng tôi là người không may mắn, hoặc chịu thiệt thòi trong công việc. Nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ như vậy và cũng chưa bao giờ tôi so sánh được mất thiệt hơn. Trái lại, tôi luôn tự nhủ mình là một người may mắn, không những may mắn hơn các đồng chí đã hy sinh hoặc bị thương mà còn may mắn hơn nhiều người khác; đó là hai lần Tôi vinh dự được phục vụ sự nghiệp xây dựng Hải quân, lần thứ nhất là "Lính Thuỷ sông Lô" tuy thời gian ngắn nhưng đã để lại cho tôi những kỷ niệm sâu sắc của một thời trai trẻ trong tình bạn bè, tình đồng đội. Ở đây tuy chưa được học nhiều kiến thức Hải  quân hiện đại nhưng đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng và tình cảm rất sâu đậm về Hải quân. Bởi thế sau này khi được gọi trở lại Hải quân gặp những đồng đội cũ, tôi có cảm giác như trở về đại gia đình của chính mình. Tôi yêu mến và gắn bó với Hải quân, bởi Hải quân là nơi tôi đã sống và cống hiến phần lớn cuộc đời của mình và cũng tự hào hơn khi được tham gia làm một cái "gạch nối" giữa hai thời kỳ lịch sử "Thời kỳ Lính thuỷ Sông Lô" và "Thời kỳ Hải quân hiện đại".


Hải Phòng, Xuân Giáp Tuất 1994
T.T


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:35:21 am
TỪ THỦY QUÂN SÔNG LÔ ĐẾN VÙNG BIỂN ĐẶC KHU HỒNG GAI

Thiếu tướng Lê Toàn
Nguyên Phó Tư lệnh Chính trị Binh chủng Đặc công


Sau khi học Lục quân khoá 5 ra trường, đang chờ để được phân công về đơn vị mới, thì khoảng tháng 4/1950 chúng tôi gồm Trần Quang Cánh (Lê Toàn), Trần Minh Thái, Nguyễn Xuân Triết, Lương Văn Ba, Nguyễn Văn Ngoạn... được điều động về một bộ phận tuyển quân của Bộ Tổng Tham mưu do anh La Tuynh phụ trách cùng với một số cán bộ chuyên môn khác vào Thanh Hoá tuyển chọn một số thanh niên, chủ yếu ở các trường Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng... để đưa về Ban Nghiên cứu Thuỷ quân và Ban nghiên cứu Không quân. Trong hoàn cảnh kháng chiến ta còn nhiều thiếu thốn cả về cán bộ chuyên môn và phương tiện nên việc khám tuyển còn rất đơn sơ. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn cũng đã tuyển được trên dưới 200 người, phần lớn là học sinh đang học tại trường, nhưng anh em rất phấn khởi nhập ngũ và hăng hái lên đường.


Trên đường hành quân từ Thanh Hoá ra Phú Thọ, chúng tôi phải đi tắt theo đường rừng, qua Hồi Xuân, La Hán của Thanh Hoá, suối Rút, chợ Bờ, dốc Pheo, dốc Búa, dốc Tù Mù của Hoà Bình, sang Thanh Sơn rồi ngược lên Đoan Hùng (Phú Thọ). Cuộc hành quân đầy gian khổ vất vả, một thử thách lớn đối với các cậu ấm vốn chưa quen gian khổ. Tuy vậy trong không khí chung toàn dân kháng chiến, thà chết chứ quyết không trở lại đời nô lệ, anh em đã động viên, giúp đỡ nhau rất tận tình. Tất cả đã đi đến nơi về đến chốn.


Ra đến đất Đoan Hùng đoàn chúng tôi phân chia thành hai bộ phận: Một bộ phận về Thuỷ quân sông Lô mà lúc đó gọi là Ban  nghiên cứu Thuỷ quân, một bộ phận về Ban nghiên cứu Không quân ở Bình Ca tỉnh Tuyên Quang. Bộ phận chúng tôi về Thuỷ quân được gọi là khoá 2, vì khoá 1 đã học xong chương trình. Chúng tôi được biên chế thành một đại đội có ba trung đội. Đại đội trưởng là anh Trần Lưu Phương quê ở Quảng trị, sau anh Phương là anh Võ Hiệp Cương. Còn ba trung đội trưởng là: B1: Trần Minh Thái, B2 Trần Quang Cánh (tức là tôi), B3 Nguyễn Xuân Triết, anh em ăn ở tại lán trong nhà dân, mỗi nhà vài ba người.


Chúng tôi là cán bộ lục quân, nên làm nhiệm vụ huấn luyện về quân sự và quản lý xây dựng trung đội, còn về phần huấn luyện chuyên môn đã có các thầy giáo chuyên môn giảng dạy. Trong quá trình huấn luyện, giặc Pháp nhiều lần đánh phá bằng không quân và đổ bộ lên Phú Thọ. Vì vậy chúng tôi đã phải di chuyển ba bốn địa điểm. Đến đâu cũng được sự cưu mang đùm bọc của Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị học tập đạt kết quả tốt. Rất vinh dự cho khoá học của chúng tôi đã có lần được đồng chí Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng quân đội về thăm và làm việc với đơn vị.


Khoảng tháng 4/1950, đội 71 ở bên Trung Quốc trở về thì cũng là lúc cấp trên có lệnh giải thể Ban nghiên cứu Thuỷ quân, phân tán về các đơn vị làm nhiệm vụ mới.


Chúng tôi lại phải phân chia thành nhiều bộ phận đi làm các nhiệm vụ khác nhau như: đi học lục quân, đi đơn vị chiến đấu. Hai bộ phận chúng tôi được giao nhiệm vụ biệt phái xuống vùng địch hậu Hồng Gai và Quảng Yên xây dựng du kích miền duyên hải, trong đó: Các anh Võ Hiệp Cương, Trần Minh Thái, Trần Kỳ, Dương Đình Ấu, Lương Văn Ba, Trịnh Tuần xuống vùng Cát Hải, Quảng Yên. Anh Nghiêm Xuân Hùng, tôi, Nguyễn Văn Triết, Chí, Hậu, Dấu, Tạn, Cúc, Cống, Chỉnh... về các đảo của huyện Cẩm Phả thuộc đặc khu Hồng Gai. Cũng từ đó chúng tôi có dịp liên lạc giữa các đoàn.


Đoàn chúng tôi vẽ đặc khu đội Hồng Gai là một bộ phận trực thuộc sự chỉ đạo và quản lý về mọi mật của đặc khu. Rất không may cho chúng tôi là trong thời gian này vùng địch hậu Cẩm Phả có người là cơ sở của ta phản bội đã dẫn đường cho địch đi càn quét, truy lùng, bắt bớ các cơ sở cách mạng và du kích của ta trên các đảo: Quán Lạn, Dô La, Ngọc Vừng, Vạn Cảnh. Vì mất liên lạc với cơ sở, không biết được thật cụ thể tình hình ở hậu địch nơi chúng tôi cần đến nên đoàn chúng tôi phải qua Hải Ninh để nắm tình hình và tìm cách liên lạc với cơ sở. Sau một số ngày hành quân theo trục đường 13 qua An Châu, Đình Lập rồi sang Bình Liêu tìm đến tỉnh đội Hải Ninh mới biết được tình hình địch càn quét khủng bố, không còn người đưa đường và không còn cơ sở để làm chỗ dựa hoạt động, chúng tôi đành phải quay trở về đặc khu với một tâm trạng buồn chán. Nhiệm vụ không thực hiện được, hành quân quay lại với một chặng đường đầy gian khổ vất vả, không tiền, không gạo, có bữa phải ăn cả ổi xanh, sim rừng thay cơm.


Về khu chờ đợi để tình hình ổn định lại đi tiếp nhưng mãi hai, ba tháng sau vẫn chưa đi được. Vì chờ đợi lâu cấp trên đã phải chuyển một số anh em đi đơn vị khác (như các anh Hùng, Chí, Hậu, Triết), còn đa số chúng tôi được bố trí về làm cán bộ ở đại đội Hồ Chí Minh, đơn vị chủ lực của đặc khu. Đại đội này vốn lúc đầu thành lập gồm toàn công nhân mỏ nên lấy tên là đại đội Hồ Chí Minh. Từ ngày thành lập đến khi kết thúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, đại đội này luôn giữ vững truyền thống chiến đấu dũng cảm, lập được nhiều chiến công xuất sắc, được Khu uỷ và nhân dân địa phương tin yêu quý mến. Số cán bộ Thuỷ quân về đây, tuy nhiệm vụ chính chưa thực hiện được, nhưng đã nhanh chóng hoà nhập, góp phần công sức, xương máu của mình vào cuộc chiến đấu giải phóng và bảo vệ khu mỏ, có đồng chí anh dũng hy sinh như đồng chí Chỉnh, đồng chí Cúc... Bẵng đi mấy chục năm chiến đấu trên nhiều chiến trường khác nhau rồi đến ngày hoà bình được lập lại, lại tham gia công tác trên nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương khác nhau và cho mãi đến  vài năm gần đây thì một số anh em cựu binh Thuỷ quân Sông Lô sinh sống trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng và có ngưòi ở rất xa mới lại có dịp gặp lại nhau và thành lập Ban liên lạc Thuỷ quân sông Lô. Mỗi lần gặp nhau tay bắt mặt mừng, bao kỷ niệm từ xa xưa lại có dịp cùng nhau ôn lại. Tuy tuổi đời đã trên dưới 70, tóc đã bạc, sức đã yếu nhưng tâm hồn vẫn tươi trẻ như anh lính Thuỷ sông Lô cách đây gần 50 năm về trước, các bài hát cũ có dịp ngân vang, ngân vang như không bao giờ ngớt.


Hà Nội, ngày 22 tháng 6 năm 1998
L.T


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:41:54 am
ĐÊM HẢI ĐẢO


Trung tá Trần Minh Thái


   Trùm chăn che đầu tưởng là rất kín

   Bóng đêm bên ngoài, cái sợ bên trong

   Người với đảo trên Biển Đông thao thức

   Xoay chiều nào cũng lút giữa mênh mông

   ... Tròng trành đêm

   Nền san hô phập phồng nhẹ thở

   Chòi gác chung chiêng

   Có vì sao nào tuột xuống biển đen

   Để sóng lân tinh chao mình hứng đỡ

   Biển chạy vào trong mây

   Kẻ săn lùng là gió

   Nấp vào đâu giữa khoảng vô cùng

   Tiếng chó sủa cắm vào chân sóng

   Nghe sao mà đơn côi, bé bỏng

   Xa xôi ơi, đất liền!


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:43:55 am
MỘT CHẶNG ĐƯỜNG GHI NHỚ CỦA TÔI


Đại tá Nguyễn Phú Đạt
Chuyên viên nghiên cứu - Tổng cục Chính trị BQP
49-A7- Khương Thượng - Trung Tự


Sau khi giã từ đảo Điều Thuận thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc trở về nước, một bộ phận của Đoàn 71 được về vùng Đông Bắc chiến đấu. Xuất phát từ đặc điểm của Đông Bắc - lúc đó gồm: tỉnh Quảng Yên, đặc khu Hòn Gai và tỉnh Hải Ninh - là một chiến trường có biển và nhiều sông lạch, Bộ Tổng tư lệnh chủ trương - trong khi Hải quân chưa phát triển ra biển được - cử chúng tôi về đây hoạt động, tạo điều kiện cho chúng tôi có thể áp dụng những gì đã học tập.


Bộ phận chúng tôi chia làm hai mũi: một mũi đi Quảng Yên và một mũi đi Hải Ninh. Mũi đi Hải Ninh do anh Trác Vinh Nam lãnh đạo, có anh Vũ Phi Hoàng, anh Phạm Vũ Quân và một số anh em khác, trong đó có anh "Vĩ ò" mà tôi không bao giờ quên: anh là người cùng làng với tôi, tính tình cởi mở, vui tính, đã hy sinh trong một lần dùng mìn đánh xe tăng địch.


Mũi đi Quảng Yên, số lượng đông hơn, khoảng vài chục anh em, trong đó có anh Dương Đình Ấu, Trần Minh Thái, Đàm Nguyệt tức Nguyệt Sám, Trịnh Tuần, Trần Thọ, Trần Duy Hợi tức "Hợi gà" còn gọi là Hợi Lồ Giàng (kỷ niệm Lính thuỷ sông Lô - vì khi anh hát, anh có cái giọng khàn khàn vịt đực không hát được Lô Giàng mà chỉ Lồ Giàng) và tôi, Nguyễn Phú Đạt.


Quảng Yên là một tỉnh mà phong trào đấu tranh trong lòng địch phát triển cao. Quảng Yên lúc đó gồm: Sơn Động (dùng làm căn cứ của tỉnh) Yên Hưng, Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách và một huyện đảo Cát Hải. Mỗi huyện đều có căn cứ du kích, một đại đội bộ đội địa phương làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh du kích của huyện. Nòng cốt cho phong trào đấu tranh du kích của tỉnh là tiểu đoàn Bạch Đằng - một tiểu đoàn lẫy lừng chiến công, sánh ngang với tiểu đoàn Bắc Bắc đã được giải thưởng: lá cờ do Bác Hồ tặng cho đơn vị bộ đội địa phương có nhiều thành tích chiến đấu. Tiểu đoàn Bạch Đằng mang tên con sông Bạch Đằng lịch sử, để lại trong lòng tôi biết bao kỷ niệm.


Ban chỉ huy tỉnh đội lúc đó gồm có đồng chí Nguyễn Anh Vũ, tỉnh đội trưởng - sau này là cán bộ cao cấp trong Bộ Ngoại giao, đồng chí Trịnh Nguyên, Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Quảng Yên, kiêm chính trị viên tỉnh đội - sau này làm Tổng giám đốc Công ty Than Quảng Ninh, đồng chí Vũ Đình Mai, tỉnh đội phó - sau này làm tỉnh đội trưởng tỉnh đội Quảng Ninh và anh Phùng - tỉnh uỷ viên làm chính trị viên phó tỉnh đội, hy sinh năm 1952 trong chiến dịch càn quét "Bolero" của địch.


Chúng tôi về Quảng Yên chưa đầy một năm thì địch mở chiến dịch "Bolero" càn quét các cán cứ du kích các huyện Kinh Môn, Đông Triều, Chí Linh, Nam Sách, trọng tâm là Kinh Môn. Chiến dịch này phối hợp với chiến dịch đánh ra Hoà Bình năm 1952 nhằm thăm dò hướng hoạt động của chủ lực ta trong Thu Đông 52 - 53. Chiến dịch "Bolero" trọng tâm đánh vào huyện Kim Môn với đòn phủ đầu là trận nhảy dù đánh vào Kim Xuyên nhằm tiêu diệt Đại đội 910, đại đội chủ công của tiểu đoàn Bạch Đằng. Chiến dịch càn quét này với chính sách giết sạch, phá sạch, đốt sạch nhằm xoá bỏ khu du kích, bảo vệ đường chiến lược số 5 và bảo vệ thành phố Cảng Hải Phòng, đồng thời thăm dò hướng tiến công của ta trong Thu Đông 52 - 53. Căn cứ vào trận đánh thọc sâu vào khu căn cứ Yên Hưng do đội biệt kích Commando do tên quan tư, chỉ huy phó Commando Bắc Bộ Ducasse chỉ huy, do tôi trực tiếp hỏi cung tên sĩ quan tù binh cao cấp này đã rõ.


Đây là thời kỳ chiến đấu quyết liệt giữa ta và địch ở chiến trường Quảng Yên kể từ sau chiến dịch đường 18 năm 1951. Đó cũng là thời kỳ thử thách của cán bộ, chiến sĩ Đội thuỷ quân 71 được biên chế về chiến trường này, anh em đã chiến đấu quyết liệt và lập nhiều thành tích. Trong trận địch càn quét nhiều ngày liền vào xã Văn Đức, huyện Chí Linh - một căn cứ du kích vững mạnh, do trên một trung đoàn địch tiến hành - anh Dương Đình Ấu, cán bộ đại đội của tiểu đoàn Bạch Đằng, chỉ huy chiến đấu tại thôn Khê Khẩu, xã Văn Đức trong nhiều ngày liền và đã anh dũng hy sinh.


Cũng thời gian đó, anh Trần Minh Thái, cán bộ đại đội của Bạch Đằng cũng chiến đấu tại mặt trận Chí Linh đã bị địch bắn trọng thương trong trận chống càn.


Trong chiến dịch càn quét các khu du kích Quảng Yên này, anh Đàm Nguyệt đã hy sinh trong lúc bám sát theo dõi địch, trên đoạn đường Mạo Khê - Tràng Bạch. Anh là một chiến sỹ tình báo rất nhanh nhẹn, gan dạ, đã từng cung cấp nhiều tin tức địch tình có ích cho việc chỉ đạo tác chiến của tỉnh.


Sau anh Đàm Nguyệt đến anh Đô hy sinh trong khi cùng 1 đại đội của tiểu đoàn Bạch Đằng vượt sông Kinh Thầy vào khu Nhị Chiểu - Kinh Môn. Khu Nhị Chiểu bị địch tàn phá hầu như không còn gì; từ nhà cửa, đến vật nuôi đều bị chúng phá sạch, giết sạch. Tôi cũng được cử đi cùng đại đội 908 vào khu Nhị Chiểu - vì làm nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và nguy hiểm nên tỉnh đội chỉ định cả tiểu đoàn trưởng Chu Bằng Thanh trực tiếp chỉ đạo chiến đấu cho đại đội này.


Chúng tôi cùng nhân dân Nhị Chiểu đã tạm rút lui vào rừng đem theo cả, chó, lợn gà... bí mật vượt sông Kinh Thầy bằng phao nilon, dựa vào khu núi đá để chiến đấu. Sau hơn 1 tuần, trong một trận chiến đấu không cân sức với địch, một số anh em của Đội Thuỷ binh 71 như anh Bình, anh Đỉnh cũng hy sinh, anh Tiếp bị địch bắt ở chiến trường Yên Hưng - địch đưa Anh sang Nam Lào phục vụ cho các cuộc hành quân càn quét của chúng. Anh Tiếp vượt ngục ở Nam Lào, được bộ đội Pathét Lào hướng dẫn chỉ đường về nước.


Tôi cũng bị địch bắt tại mặt trận Đông Triều. Chúng tra tấn dã man, bắt tôi khai ra cơ sở của ta ở xã Xuân Sơn - Đông Triều. Địch đánh tôi chết đi sống lại nhiều lần nhưng không khai thác được gì. Các đồng chí lãnh đạo tỉnh yên tâm vào sự trung thành không khai báo của tôi - nên đã không di chuyển địa điểm.


Địch đưa tôi về giam tại căng (trại) 51 Hải Dương, sau đó đưa về căng Đoàn Xá - Hải Phòng, dụ dỗ tôi làm việc cho chúng, nhưng tôi từ chối. Bằng nhiều biện pháp không được, chúng đưa tôi cùng một số anh em tù binh khác vào Nam bằng một chuyến máy bay C119, giam chúng tôi ở "Khám số 7" Mỹ Tho. Lúc này chúng tôi đã có tổ chức bí mật, một trung đội tự trang bị bằng dao ăn, kìm, búa chờ thời cơ vượt ngục. Chúng tôi thấy đây là thời cơ tốt nhất để vượt ngục, vì trong khi chúng tôi đánh địch ở miền Bắc, trụ ở các hệ thống boong ke kiên cố (vì miền Bắc là chiến trường chính) thì trong Nam địch vẫn duy trì hệ thống đồn bốt cao lênh khênh kiểu "De la tour" - như hồi 1950 ta đánh Đông Khê (vì miền Nam là chiến trường phụ của chúng). Chúng tôi dự tính cuối tuần trăng, tối trời, dễ đánh, nhưng không may, giữa tháng địch đọc danh sách khoảng 50 người, báo trước sáng hôm sau chuyển tù. Chúng tôi biết chúng đưa ra Côn Đảo. Không bỏ lỡ thời cơ, dù trăng sáng vằng vặc trên trời, chúng tôi nhanh chóng vạch kế hoạch "phá khám" vượt ngục.


Vượt ngục thành công. Một số anh em hy sinh. Chúng tôi được tỉnh uỷ Mỹ Tho tiếp nhận và giao nhiệm vụ. Tôi trở lại một đại đội ở Mỹ Tho tiếp tục chiến đấu. Chỉ đánh được vài tháng thì hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Tôi tập kết ra Bắc trong trung đoàn Long - Châu - Sa, trên chiếc tàu thuỷ Liên Xô: Xta-vơ-rô-pôn trong lực lượng bộ đội miền Nam tập kết.


Tôi trở lại công tác tại khu đội Hồng Quảng - vùng mỏ Quảng Ninh - vẫn còn duyên nợ với vùng mỏ. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tôi lại chiến đấu trong lực lượng pháo cao xạ vùng mỏ; chính lực lượng này đã bắn rơi máy bay, bắt sống tên giặc lái đầu tiên An-va-rét, ngày 5 tháng 8 năm 1964.


Nay tôi đã về hưu sau 40 năm hoạt động trong quân đội - kỷ niệm sâu sắc nhất, đậm đà nhất vẫn là vùng mỏ Quảng Ninh.


N.P.Đ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:45:52 am
LẦN ĐẦU ĐI BIỂN


Nguyễn Kim
Giáo viên máy nổ (MECANO) c45 -
Cục Phòng thủ bờ bể - Bộ Tổng Tham mưu


   Tàu vừa mới thoát nơi bến cảng

   Chưa ra khơi đã thoáng Hải Âu

   Chập chờn như cánh chim câu

   Xa gia đình mới cách đâu một ngày

   Bạn bè tiễn tới đây từ giã

   Mà lòng sao như quá bâng khuâng!

   Giang hồ vốn thói phong trần

   Rời quê hương vẫn có phần xót xa!

   Tàu chạy lâu mới ra tới biển

   Nhìn xa xa thoáng hiện chân trời

   Chợt tàu cưỡi sóng biển khơi

   Ngoảnh đầu nhìn lại bờ thời thấy đâu?

   Nỗi nhớ nhà âu sầu biển rộng

   Chao cánh vòng lại bóng Hải Âu!

   Nhìn chú chim bay theo tàu

   Dường như chẳng chút nỗi đau nhớ nhà?

   Cứ bay theo cho ta đỡ nhớ

   Bóng quê hương cho đỡ tủi lòng!...

   Rời buồng làm việc vừa xong

   Lên boong lại thấy lượn tròn Hải Âu

   Bay theo tàu ngủ đâu cho được

   Ôi cánh chim thao thức đêm trường? 

   Lòng ta dầu nặng quê hương

   Vẫn mang duyên nợ đèo bòng biển khơi

   Sáng hôm sau mắt còn ngái ngủ

   Đứng trên boong hít thở khí trời

   Cánh Hải Âu vẫn chơi vơi

   Ngay trên cao phía bầu trời tàu đi

   Giữa đại dương rầm rì tiếng sóng

   Bóng Hải Âu tựa bóng quê hương

   Xa nhà bao nỗi nhớ thương

   Cánh chim làm vợi mọi đường nhớ nhung

   Ôi quê hương thắm thiết vô cùng!.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:47:50 am
HẸN NGÀY VỀ (nhạc)


Đại tá Đỗ Sâm
Nguyên trưởng Ban huấn luyện
nhà trường Bộ Tư lệnh Pháo binh
   

   Nhớ các em vui bên dòng sông xanh ước mơ

   Nhớ các em những đêm hè lời ca vang xa

   Nhớ các em âu yếm bao nhiêu lời thiết tha

   Đời sống vui những chiều em tôi vang tiếng ca

   Rồi giặc tới vắng tiếng thơ dòng sông xót thương

   Rồi giặc tới gieo đau thương trên muôn niềm vui

   Quê hương tôi xa vắng đi bao nhiêu lời thơ

   Tôi ra đi chiến đấu cho ngày mai ước mơ

   Nhớ các em khi hương chiều vương trên khóm tre

   Nhớ các em đôi môi cười dòng sông thương nhớ

   Nhớ các em mái tóc tung bay trong gió quê

   Đời sống vui những chiều ngoài cánh đồng xa lúa về

   Rồi giặc tới tiếng súng vang đồng quê ngát hương

   Rồi giặc tới gieo đau thương trên muôn lời thơ

   Tôi ra đi sông nước mang theo bao lời ca

   Hẹn ngày về chiến thắng trong niềm vui ước mơ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:57:15 am
NGƯỜI LÍNH THỦY SÔNG LÔ


Đại tá Trần Duy Hợi
Nguyên Cục phó Cục Vận chuyển - Tổng cục Hàng không


Sau 45 năm quân ngũ, tôi đã về hưu, nay thuộc người "xưa nay hiếm". Bao lần, nâng niu ngắm nhìn những trang giấy đã hoen ố với bao kỷ niệm, tình cảm, nỗi lòng của một thời trai trẻ Thuỷ quân sông Lô - Đội 71 lại trỗi dậy trong ký ức tôi.


Hình ảnh đẹp đẽ, sinh động, tươi trẻ như một cuốn phim màu rực rỡ hiện lên rõ nét. Tình cảm sâu nặng, tình đồng chí, đồng đội luôn in dấu trong suốt thời gian công tác, chiến đấu trên mảnh đất Đông Bắc - tỉnh Quảng Yên đầy nguy hiểm, khó khăn, gian khổ, nay nghĩ lại tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Tinh thần "Thuỷ quân sông Lô" với lời thể "Giữ danh dự cho Đội 71" đã giúp tôi tăng thêm nhựa sống, thêm nghị lực xông lên phía trước.


Bao nhiêu đồng chí "Lính Thuỷ sông Lô" hiến dâng cả trái tim mình cho mảnh đất Đông Bắc của Tổ quốc, đó là các anh: Vĩ, Nguyệt, Tuấn Chi, Dương Đình Ấu, Mai, Phượng, Chỉnh, Cúc... Tôi lặng người nghĩ đến các anh, cùng hàng triệu người con vô danh khác không hề tiếc tuổi xuân của mình đã hiến dâng cả cuộc đòi để Tổ quốc trường sinh.


Dù sao tôi cũng là người may mắn, còn được nhìn, được hưởng bầu trời thanh bình của Tổ quốc thân yêu. Xa Quảng Yên đã lâu rồi, tôi cũng đã được chuyển công tác và chiến đấu ở nhiều đơn vị khác nhau. Song, những hồi ức về một thời để nhớ luôn in đậm trong ký ức, tôi ghi lại đây những ngày tháng đầu tiên của tôi ở vùng biển Đông Bắc.


Trên đường Đông Bắc: Đây là một số dòng nhật ký từ thời Đội 71 mà tôi còn lưu giữ:

25/5/1951: Đội 71 chia làm mấy bộ phận. Một trung đội sang công pháo, một trung đội sang đoàn 99, ba trung đội ra Đông Bắc, mình cũng ở lớp này bâng khuâng, vui buồn đan xen nhau.

Vì sắp được nhận nhiệm vụ mới, được rèn luyện, thử thách của một số người vẫn cho là "lính cậu". Song nỗi buồn cứ trỗi dậy, vì Lính Thuỷ sông Lô - Đội 71 với bao kỷ niệm, tình đồng đội gắn bó với nhau. Những người ra Đông Bắc thì nỗi day dứt lại nhiều hơn, vì đã là bộ đội chủ lực, được học tập theo bộ đội chính quy, nay lại bị "tước mất danh hiệu bộ đội chủ lực", làm anh lính dân quân, mặc dù vẫn được giải thích là "biệt phái về địa phương".

Mọi người gặp nhau tâm tình ở mọi nơi, tặng nhau vật kỷ niệm, đưa danh sách để ghi lưu niệm. Tuấn Chi viết "Một tác phong hay, mỗi lần chia tay chúng ta ghi lưu niệm cho nhau không ngoài mục đích nhắc nhở tình cảm của chúng ta, động viên nhau hướng tới mục đích cao cả: chiến đấu cho nền độc lập của chúng ta". Cuối cùng chỉ chúc nhau thành công và tiến bộ, vì chúng ta đều là "Người 71", đều yêu sự chiến thắng. Đúng vậy, chúng ta sẽ đón chờ tin vui chiến thắng của nhau.


28/5/1951: Đã biên chế chính thức, mình vẫn ở trung đội 1, lại bước sang một giai đoạn mới; công tác miền địch hậu. Sáng mai bộ phận 99 lên đường. Một không khí lưu luyến bao trùm, những cái bắt tay, xiết chặt ôm nhau với những giọt nước mắt của buổi chia tay. (Gần nhau tình cảm bình thường - Xa nhau mới thấy tình thương dạt dào).


29/5/1951: Tối qua mình xin phép đến bộ phận 99 ngủ mà lòng rạo rực, lưu luyến tâm tình, ngủ chưa đẫy giấc, tiếng còi báo thức vang lên, chuẩn bị lên đường. Những cái bắt tay xiết chặt với những lời hứa, chúc nhau, giữ trong lòng danh hiệu "71".


31/5/1951: Trưa, mình lên gặp anh Việt để chia tay. Anh đã lấy mình lên tiểu ban chính trị, dẫn đắt mình những bước đi đầu tiên làm công tác chính trị, anh cử mình phụ trách phân chi (tổ trưởng Đảng), cử lên lớp chính trị ở đại đội.

Vừa ngồi bắt đầu nói chuyện chia tay, nước mắt tôi đã trào ra; Anh động viên tôi, khuyên giải tôi ra phụ trách đơn vị trong vùng địch phải cố gắng vượt khó khăn, không nhụt chí, phải giữ phẩm chất "Đội 71". Anh còn nói: mình cũng cân nhắc định kéo cậu đi, xong còn muốn để cậu vùng vẫy bay bổng cho cứng cáp; Anh tặng tôi ảnh, đưa cho tôi cuốn sách để tôi viết lưu niệm và cái bắt tay xiết chặt mà lòng bùi ngùi bâng khuâng.


1/6/1951: Sáng dậy từ 3 giờ 30 để hành quân, chiều đến Bình Ca nghỉ lại qua đêm - một thị trấn nhỏ đông vui.


2/6/1951: 3 giờ 30 dậy hành quân, chiều nghỉ lại ở Châu Tự do. Cứ như vậy, sáng dậy sớm hành quân, chiều nghỉ lại. Ngày 14-6 toàn đoàn nghỉ ngơi rút kinh nghiệm đợt hành quân, từng đồng chí kiểm điểm trước tiểu đội. Tôi ngắm nghía nâng niu đọc tờ giấy chứng nhận lần đầu tiên trong đời, nhớ lại hai đồng chí Nguyên, Hải còn nằm lại trên đảo Điều Thuận, (Tsékham - Trung Quốc).


20/6/1951: Đồng chí Thế Hùng - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc thay mặt Thiếu tướng Chu Văn Tấn xuống thăm đơn vị và nói chuyện. Đồng chí nói: chiến trường đang đòi hỏi phải có những sư đoàn chủ lực để đánh lớn. Trong khi đó phải xây dựng những đơn vị địa phương, đơn vị của tỉnh, của huyện, của xã; phát động phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, cài răng lược, đánh địch từ trong lòng địch, đánh nhỏ lẻ, đánh liên tục làm chúng mất ăn mất ngủ, đánh tiêu hao, bắt buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó, để chủ lực đánh tập trung, đánh lớn giành thắng lợi.    Theo yêu cầu của chiến trường, chúng tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ, kể cả trong hậu địch mà không quản nguy hiểm. Nhưng danh hiệu bộ đội chủ lực không còn nữa làm chúng tôi nuối tiếc.


21/6/1951: Bắn xạ kích, tôi được 15 điểm.


22/6/1951: Họp tổ Đảng rồi họp trung đội để xác định nhiệm vụ mới.

8/7/1951: Mười sáu đồng chí đi Cẩm Phả chuẩn bị lên đường. Lệnh trên: tất cả tài liệu phải nộp lại hoặc huỷ để bước vào cuộc đọ sức quyết liệt ở hậu phương địch, giữa sống, chết liền kề nhau. Lần này lòng tôi bâng khâng bịn rịn nhất. Biết bao nguy hiểm, song các anh vẫn vui, háo hức không hề chùn bước, vì các anh tự hào là "Lính Thuỷ sông Lô".

- Đã học khoá 1 Thuỷ quân Sông Lô

- Đã được sang Trung Quốc học lớp hải đội du kích

- Đã được quân đoàn 43 chăm lo, yêu mến, nhân dân đảo Điêu Thuận yêu quý.

- Đã được Thiếu tướng Tham mưu trưởng khen ngợi, hài lòng.

Bây giờ những con người đó được tung vào vùng Đông Bắc để đánh địch. Đại đoàn công pháo, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Việt Bắc, cả đến đoàn xe đêm đêm tiễn ra chiến trường cũng có anh em Thuỷ quân sông Lô - Đội 71 - cái tên nôm na mà trân trọng vậy. Tuy phân tán, xong chỉ có tiến lên phía trước để chiến thắng. Mọi người vẫn chờ mong tin chiến thắng của nhau.


Sống ở cơ quan tỉnh đội Quảng Yên:

Ngày 9/7/1951, tôi họp chi bộ ở tỉnh đội Quảng Yên.

Sáu chúng tôi được phân về tiểu ban tác chiến. Lo chỗ ở, chúng tôi phải vào rừng chặt tre, gỗ, nứa về đóng cọc xuống đất để làm giường nằm, làm bàn viết. Vất vả, gian khổ, thiếu thốn, xong chúng tôi đã hoà mình với cơ quan, được anh em quý mến. Những lúc rảnh rỗi, chúng tôi rủ nhau ra suối tìm một bãi bằng phẳng chặt tre, nứa, dọn sạch để làm sân bóng chuyền. Chúng tôi nhờ anh Trạch ở hậu cần đóng bàn, đẽo vợt để chơi bóng bàn mà kích thước thì không ai biết chính xác.


Tối đến rảnh rỗi, chúng tôi vui đùa, kể chuyện, học hát rồi thành đội văn nghệ mà tôi thường tham gia đóng kịch, như vai "Bà mế" được diễn đi diễn lại nhiều lần. Đội văn nghệ được mời đi phục vụ một số hội nghị như hội nghị tỉnh uỷ, hội nghị chiến sĩ thi đua...


Mới về tỉnh đội một hôm, đồng chí Tân Học - trưởng ban quân sự tỉnh đội giao cho chúng tôi một số tài liệu, nghị quyết, báo cáo, sơ đồ, bản đồ để chúng tôi luân phiên nhau đọc nghiên cứu. Một tháng sau chúng tôi họp tiểu ban tác chiến, từng đồng chí trình bày tình hình ta - địch ở các huyện; âm mưu của địch và chủ trương của ta.


Đồng chí Học thay mặt Ban quân sự hoan nghênh sự cố gắng của chúng tôi, đã nắm được điểm chính. Đồng chí còn khen ngợi chúng tôi có tác phong tốt, đừng có về đây mà bỏ qua đi, cần duy trì lấy nó. Rồi đồng chí phân công:    Đồng chí Hợi, đồng chí Khi đi Đông Triều. Đồng chí Đạt, đồng chí Tuần, đồng chí Chung đi Chí Linh. Đồng chí Tiếp, đồng chí Thọ về tiểu đoàn Bạch Đằng.


Tôi tham gia chiến đấu:

Chiến dịch đường 18, địch bị thất bại nặng. Chúng liên tục mở các đợt càn quét vào các vùng du kích của ta với khẩu lệnh: đốt sạch, giết sạch, phá sạch. Địch thường xuyên càn vào các xóm làng, bắt hàng trăm thanh niên đi phu xây đồn bốt để bảo vộ căn cứ điểm Đông Triều. Ai chống đối hoặc bị nghi ngờ là bị chúng đánh đập dã man rồi bắn chết.

Hôm nay họp cán bộ Đại đội 913, có cả cán bộ trung đội để phổ biến tình hình, giao nhiệm vụ cho các trung đội, tổ chức đánh địch, chống càn quét, bắt bớ, khủng bố của địch.

Tôi được tham gia chuẩn bị chiến đấu với đồng chí Xường - Trung đội trưởng trung đội 1. Tôi đã tham gia lên lớp chỉnh huấn bài "Kẻ thù của dân tộc Việt Nam" và "Mở rộng dân chủ trong bộ đội”. Tôi đã nắm được mục đích yêu cầu, say sưa giảng giải phân tích, cho nên đơn vị đã hiểu được âm mưu tội ác của giặc Pháp xâm lược. Nội bộ hiểu nhau hơn, đoàn kết, gắn bó, quyết tâm đồng lòng trả thù cho đồng bào bị giết hại.


Rạng sáng 25/9/1951, Trung đội 1 báo động hành quân đi phục kích trong đêm tối. Sương giá lạnh, vạch lá đi trên đường mòn, người sau bước theo bóng người trước, không tiếng nói, hạn chế tiếng động xung quanh. Đến Khe Sanh trung đội dừng lại phục kích, chặn đánh địch khi chúng đi tuần tra lúc nửa đêm vào (khoảng 4 giờ 30 phút sáng).

- Tiểu đội 3 có một khẩu trung liên, hai súng trường bố trí trên đỉnh đồi.

- Tiểu đội 2 có 5 khẩu súng trường ở đoạn sau. Tiểu đội 1 có súng trường, lựu đạn ở phía dưới con đường.

Quần áo ướt đẫm; kiến, muỗi thấy hơi người thừa cơ hoạt động. Tôi căng mắt nhìn trong đêm tối, hồi hộp chờ đợi.

Sau hai tiếng đồng hồ chờ đợi, có tiếng chim bay sột soạt, rồi tiếng chân bước rõ hơn. Địch, đúng là địch!

Trung đội trưởng định hạ lệnh bắn, tôi vội lấy tay vỗ vào vai anh, nói trong hơi thở: để nó vào sâu trong trận địa. Giây phút căng thẳng... một phát súng nổ vang, rồi súng liên thanh, lựu đạn nổ ầm vang cả một vùng đồi núi. Tiếng la hét của lính ngụy, tiếng kêu thất thanh của lính Tây trước đòn đánh bất ngờ, chúng không kịp trở tay, chỉ lăn ra đường để tránh đạn. Một phút sau chúng bắn loạn xạ, đủ loại súng - súng trường, tiểu liên, trung liên, cả đạn moóc-chê nữa. Anh em trung đội tiết kiệm từng viên đạn, luôn đổi vị trí bắn.


Mười lăm phút sau, đơn vị bạn bố trí gần thị trấn Đông Triều nổ súng, báo hiệu quân địch ở Đông Triều ra chi viện cho chúng. Một tổ ba người cơ động bắn để yểm hộ cho trung đội luồn về phía sau rút về. Tôi bị một mảnh đạn vào chân đau buốt, rùng mình bước theo đồng chí trung đội trưởng khi lội xuống mương. Chiến thắng đầu tiên sau chỉnh huấn. Buổi trưa liên tục các ông bà, anh chị em ở địa phương đến thăm, tặng hoa, gạo, rau và báo chính thức 5 tên nguỵ chết, 4 tên bị thương, trong đó có hai tên da đen.


Ngày 31/10/1951, tôi cùng anh Hội, anh Thọ ở tiểu đoàn Bạch Đằng về tỉnh đội để dự tổng kết. Đồng chí Học trưởng ban quân sự nói với tôi: thời gian qua đồng chí công tác ở Đông Triều đã góp phần rất lớn trong việc xây dựng đơn vị, đã tham gia chiến đấu. Đồng chí Quynh, đồng chí Ná xin đồng chí ở lại, nhưng tỉnh đội thấy cần đưa đồng chí về huyện Sơn Động để cùng cán bộ đại đội xây dựng đơn vị ở đó. Còn các đồng chí Đạt đi Chí Linh, đồng chí Thọ đi tiểu đoàn, đồng chí Khi xuống Kinh Môn.


Cuối năm tôi được giấy khen của Ban chỉ huy tỉnh đội. Một tờ giấy khen đầu tiên trong đời tôi, tôi sung sướng ngắm nhìn. Tôi đã phấn đấu vươn lên, không phụ lòng mong ước của đồng đội, của anh Việt lúc chia tay. Tôi đã tự khẳng định được bản thân - Lính thuỷ Sông Lô.


Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 1998
T. D. H


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 09 Tháng Hai, 2021, 08:59:21 am
NGUYỄN VĂN TIÊU - NGƯỜI LÍNH THỦY QUÂN
HY SINH TRÊN VỊNH HẠ LONG


Trung tá Trần Minh Thái
Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh tỉnh Quảng Ninh


Năm 1960, khi xuất bản tập hồi ký kháng chiến, "Người dân trên Vịnh Hạ Long" ở Hồng Quảng, tôi có viết một bài về trường hợp hy sinh của anh Tiêu - một cán bộ đã từng theo học ở "Trường Thuỷ quân sông Lô".


Qua những năm chiến tranh và đến hôm nay, tôi không thể tìm lại được tập hồi ký đó. Những người đã kể với tôi về trận đánh mà anh Tiêu đã hy sinh nay cũng đã qua đời. Vì trí nhớ đã giảm sút, đã quên nhiều điều, tôi xin ghi lại phần còn tồn tại trong ký ức tôi.


Vào đầu những năm 1950, giặc Pháp mở một cuộc bình định lớn trên vùng biển thuộc đặc khu Hồng Gai để phá vỡ cơ sở của ta và ngăn ta thâm nhập vào vùng mỏ, vùng đảo. Tên chánh mật thám Béc-du-la thường xuyên đi tuần tra, lùng sục trên cửa sông, trên các luồng lạch ở biển, gây khó khăn cho việc đi lại, hoạt động của cán bộ và việc làm của nhân dân.


Để bảo đảm đường dây chỉ đạo của ta và bảo vệ cơ sở, bảo vệ nhân dân, huyện đội Cẩm Phả chủ trương tổ chức một trận đánh để diệt tên Béc-du-la. Anh Tiêu, cán bộ của huyện Cẩm Phả được giao chỉ huy trận đánh.


Vào một ngày cuối năm 1951, anh Tiêu và 3 du kích xã Hùng Thắng dùng một thuyền gỗ nhỏ, giả làm dân chài lưới đi lại trên Vịnh Hạ Long. Với trang bị súng trường, lựu đạn, dao găm, quân ta cố ý đưa thuyền qua khu vực mà ca nô của Béc-du-la thường hay đi lùng sục.


Khoảng hơn 8 giờ sáng, quân ta đã thấy tàu của tên chánh mật thám từ phía Hồng Gai lao ra. Thấy thuyền ta, giặc tăng tốc độ và đuổi theo. Trên ca nô của địch có hai bố con tên Bée, 1 lái tàu và 1 tên bắn trung liên.


Trong vai chủ thuyền, anh Tiêu làm ra vẻ lúng túng và khúm núm cúi chào tên chánh mật thám. Sau đó sẽ cho thuyền áp mạn buộc vào ca nồ để đón giặc sang khám thuyển với ý định khi buộc xong anh sẽ ra hiệu lệnh cho quân ta nhảy sang chiếm tàu địch. Nào ngờ trước hành động khác thường của 3 nam du kích, bọn giặc đã nghi ngờ. Đó là vì thông thường trên các thuyền dân chài chỉ có những người trong gia đình như vợ chồng chủ thuyền và con cái của họ. Còn ở thuyền này không những có hai người đàn ông lực lưỡng mà còn có hai người đàn bà trông dáng như đàn ông (đó là hai nam mặc quần áo giả nữ).


Có lẽ đã phán đoán là du kích ta, Béc hạ lệnh cho ca nô lùi ra và nổ trung liên dồn dập vào thuyền của ta. Quân ta chống cự mãnh liệt và bắn bị thương một tên giặc. Nhưng do thuyền tròng trành trước sóng do ca nô địch gây nên, rồi thuyền lại bị bắn thủng, nên anh em lần lượt bị thương và bị hy sinh.   


Thi hài của 4 chiến sĩ ta bị chìm xuống biển, nhưng gương chiến đấu dũng cảm của các đồng chí này đã động viên tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân địa phương. Hai xã Hùng Thắng, Thạch Hà mặc dù bị trà soát dữ dội nhưng cơ sở ta không mất, tinh thần kháng chiến bất khuất của nhân dân vẫn sáng chói.


Sự hy sinh cao cả của anh Tiêu - một cán bộ của Đội Thuỷ quân 71 và 3 đồng chí du kích Hùng Thắng đã góp phần vào thành tích rực rỡ của quân và dân ta trong công cuộc giải phóng và bảo vệ vùng thắng cảnh Hạ Long vô giá, ngày nay đã trở thành di sản thiên nhiên của toàn nhân loại.


Quảng Ninh, ngày 30 tháng 7 năm 1998
TMT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:10:55 am
ĐƯỜNG RA ĐÔNG BẮC


Phạm Vũ Quân
Nguyên Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu - Bộ Xây dựng


Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, cuối quý II năm 1951 Ban Nghiên cứu Thuỷ quân tiến hành giải thể, phân tán toàn đơn vị (cả cơ quan nghiên cứu - quản lý và trường đào tạo) sang các ngành bộ binh và pháo binh, trong đó có gần một nửa (khoảng trên một trăm người) được điều động ra tăng cường cho các tỉnh đội thuộc vùng duyên hải Đông Bắc, trải dọc từ Quảng Yên, Hồng Gai đến Hải Ninh  nhằm hướng hoạt động chiến đấu trên biển, theo chủ trương của Bộ Tổng Tham mưu ngay từ khi thành lập Ban nghiên cứu Thuỷ quân.


I. LÚC LÊN ĐƯỜNG:

Đoàn ra Hải Ninh gồm 13 người, đa phần là dân miền biển đã từng quen sông nước được điều động từ một số đơn vị bộ binh sang cùng với một số là học sinh cấp 3 của các trường trung học phổ thông ở Khu 4 và Liên khu Việt Bắc đã được tuyển vào trường Thuỷ quân Sông Lô và đều là những đội viên của Đội Thuỷ quân 71 (gọi tắt là Đội 71) vừa mới tốt nghiệp khoá huấn luyện thuỷ quân du kích tại vùng Biển Đông ở Trung Quốc trở về, gồm có:

1. Vũ Duy Bình   
2. Trần Cang
3. Nguyễn Trịnh Cược
4. Nguyễn Bá Đức
5. Vũ Phi Hoàng
6. Lê Văn Khá
7. Ngô Văn Mai
8. Hà Văn Ngữ
9. Nông Văn Phượng
10. Phạm Vũ Quân
11. Trương Văn Thời
12. Đinh Văn Tước
13. Lê Văn Vỹ


Nhận nhiệm vụ tuy gấp nhưng với niềm phấn khởi, anh em chúng tôi đã hoàn thành trước thời hạn mọi công việc chuẩn bị cần thiết, lưu luyến chia tay thầy, bạn cùng đồng bào nơi đóng quân để kịp lên đường vào một sớm đầu tháng 6 năm 1951. Khác hẳn với lần ở Trung Quốc về, hành quân bộ từ cửa khẩu Đồng Đăng tới căn cứ Bến Giàn trong đội hình của Đội 71, chúng tôi đã phải chia nhau gò lưng mang vác thêm nhiều súng đạn theo phương châm "mang lấy được” và càng nhiều càng tốt để chi viện cho chiến trường, thì lần này đoàn chúng tôi lại đi nhẹ tênh, ngoài những quân trang sẵn có mang từ Trung Quốc về (một ba lô với đầy đủ quân phục, chăn màn, vải nằm, áo rét, ca bát, bi đông....). Tuy vậy những bước chân đi ban đầu của chúng tôi khi rời khỏi Bến Giàn thật là trĩu nặng. Những lời tâm huyết, những nghĩa cử ân tình và những hình ảnh thân thương của mái trường Thuỷ quân của thầy, của bạn và của đồng bào địa phương, làm cho anh em chúng tôi sau khi từ giã mái trường thân yêu cứ lầm lũi bước đi chẳng nói nên lòi. Cho mãi tới ngã ba đầu Lô mọi người đểu chững lại trước cảnh tượng huy hoàng của dòng Chảy trong xanh hoà quyện với dòng Lô bên trong bên đục đang phơi mình dưới ánh nắng ban mai.

   ... "Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng,
   Ra miền Đông Bắc!..."

Giọng khàn khàn nhưng ấm mạnh của Lê Văn Vỹ, phỏng theo điệu "Lên đàng" của Lưu Hữu Phước, từ phía bờ sông đột nhiên vang lên như một hồi kèn giục giã khiến cho mọi người chúng tôi như bừng tỉnh với cảm nhận: "Lên đàng", "Ra miền Đông - Bắc" cũng chính là bước đi tiếp nối để hướng ngành thuỷ quân tương lai, làm cho ai nấy phấn chấn hẳn lên và cảm thấy rằng đây mới là lúc chính thức tạm biệt trường Thuỷ quân thân yêu và mảnh đất Đoan Hùng sâu đậm tình nghĩa quân dân để cùng nhau rảo bước lên đường...


II. CHẶNG ĐƯỜNG HÀNH QUÂN:

1. Đoan Hùng - Lạng Sơn: Rời Đoan Hùng, ngược đường số 2 tới Tuyên Quang, chúng chúng tôi rẽ sang đường 13A, qua phà Bình Ca, rồi lần lượt đi qua những địa danh quen thuộc vẫn còn để lại nhiều dấu ấn khó quên trong chuyến hành quân của chúng tôi khi mới ở Trung Quốc về, như: Sơn Dương, Đèo Khế, Dốc Điệp, Đại Từ, Bờ Đậu,... đến thị xã Thái Nguyên sang đường 16, chúng tôi đi Trại Cau, Mỏ Trạng, Nhã Nam, Đèo Cà...; rồi tới Hữu Lũng, ra quốc lộ 1A, chúng tôi ngược lên Mẹt, Ba Làn, Chi Lăng, Đồng Mỏ, và sau cùng vượt qua dốc Sài Hồ, đoàn chúng tôi đã đến Thị xã Lạng Sơn sau 10 hôm ròng rã hành quân ngày đi đêm nghỉ.


Lúc này cục diện chiến tranh ở miền Bắc đã chuyển sang một bước ngoặt mới, đường số 4 giải phóng đã mờ rộng sự thông thương giữa căn cứ kháng chiến của ta với hậu phương lớn XHCN và tiếp sau chiến thắng Trung Du, ta lại vừa kết thúc thắng lợi Chiến dịch Đường 18, đã bước đầu giành thế chủ động tiến công địch ưên nhiều mặt trận, nên hầu khắp các tuyến đường của liên khu Việt Bắc đều trở nên sôi động bởi các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các đoàn dân công, cán bộ đi công tác và đồng bào buôn bán ngày đêm tấp nập ngược xuôi; đồng thời kéo theo đó là những quán nước, hàng ăn và chợ tạm đua nhau mọc lên ở hai bên đường, càng làm cho quang cảnh thêm nhộn nhịp, đông vui như trong mùa chẩy hội.


Tuy đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn và sự nghiệp kháng chiến còn rất gian lao khốc liệt, song mọi người đều chủ động khắc phục khó khăn, sẵn sàng gạt bỏ mọi riêng tư để tham gia kháng chiến một cách hoàn toàn tự nguyện. Trên các ngả đường đâu đâu cũng vang lên những câu hò, điệu hát, những tiếng cười đùa, nói chuyện râm ran. Sự góp sức chung lòng vì lẽ sống của toàn dân tộc đã làm cho mọi người trở nên gần gũi thân thương, đối xử với nhau bằng những tình cảm và nghĩa cử chân thành tương thân tương ái, cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, sẵn sàng giúp đỡ nhau vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Trong cuộc kháng chiến sôi động của toàn dân, giữa những dòng người hối hả ngược xuôi vì nghĩa lớn này, thì người chiến binh "Anh lính cụ Hồ" luôn luôn là trung tâm của mọi sự ưu ái. Chúng tôi đi tới đâu cũng được đón nhận những tình cảm trìu mến thân thương bằng những lời hát câu hò đùa vui ý nhị của các o dân công và các o thanh niên xung phong, sự chăm sóc ân tình của các mẹ, các chị... Tình cảm nồng thắm và khí thế hào hùng của quân, dân ta đã không ngừng khích lệ, động viên anh em trong đoàn chúng tôi quên cả một nhọc, hăng hái hành quân đến được thị xã Lạng Sơn sớm hơn dự định.

2. Lạng Sơn - Hải Ninh:

Sau thất bại nặng nề và bất ngờ ở Đông Khê, giặc Pháp hốt hoảng rút khỏi Lạng Sơn và các đồn bốt dọc đường số 4 một cách vội vã. Với chúng tôi, từ vùng đồng bằng lên thì ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vật và con người nơi đây có nhiều mới lạ, khác biệt với miền xuôi và càng xa dần Lạng Sơn thì sự khác biệt này càng rõ nét hơn.


Từ Lạng Sơn ra Hải Ninh, chúng tôi theo quốc lộ 4B, con đường đá uốn khúc trải dài giữa hai miền núi trọc, từng bước đi nhìn ra xung quanh chỉ thấy đồi và núi. Vùng biên giới phía Bắc với phong cảnh thiên nhiên thơ mộng và cuộc sống thanh bình của nhân dân đã khiến cho chúng tôi khó có thể tưởng tượng được rằng chính mảnh đất này đã có một thời bị chà đạp dưới gót giày của quân đội Pháp, nếu như trên bước đường đi tới chúng tôi không bắt gặp đây đó vẫn còn rải rác bên đường một vài tháp canh xen lẫn mấy lô cốt... tất cả đều là của giặc Pháp bỏ lại, trống rỗng hoang tàn... Đường chúng tôi đi chếch về phía Đông - Nam và độ cao giảm dần nên khí hậu ngày càng oi bức... Đến thị trấn Lộc Bình, đoàn chúng tôi phải dừng lại và mất trọn cả ngày hôm sau vào tận Bản Chu để lĩnh gạo, cách xa trên 16 cây số, nên mãi đến chiều hôm thứ 3 thì đoàn chúng tôi mới đặt chân được đến Đình Lập, mảnh đất cửa ngõ của tỉnh Hải Ninh nằm trên đường số 4, cách thị xã Lạng Sơn 55 cây số.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:13:57 am
III. ĐẾN CĂN CỨ ĐỊA HẢI NINH:

1. Những cảm nhận ban đầu:

Dù chưa hiểu biết nhiều về Hải Ninh, song những gì mới cảm nhận được ở nơi đây cũng đủ để anh em trong đoàn chúng tôi ý thức được rằng Hải Ninh thật sự là một chiến trường khốc liệt, mà mỗi người chúng tôi cần phải đem hết sức mình với lòng kiên định và quyết tâm cao để làm tròn mọi nhiệm vụ được giao.


Sớm hôm sau, sau khi cáng anh Lê Văn Khá bị sốt cao vào trạm xá quân y điều trị, đoàn lên đường đi Bản Hang để tìm đến cơ quan tỉnh đội Hải Ninh nhận công tác.


2. Gặp lại chỉ huy cũ:

Anh Trác Vinh Nam quê ở Quất Đông - Móng Cái - Hải Ninh, tham gia hoạt động cách mạng sớm. Cuối năm 1946, anh là tiểu đoàn trưởng phụ trách một đơn vị tiếp phòng quân - đơn vị đã nổ phát súng đầu tiên chống trả quân đội Pháp khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ở thủ đô Hà Nội. Anh rất thông thạo tiếng Trung Quốc (biết nói cả tiếng Bắc Kinh và tiếng Quảng Đông), nên đầu năm 1950 đang công tác ở trường quân chính Quân khu III, anh đã được Bộ điều động về làm đội phó Đội 71 đi thực tập ở Trung Quốc và đến tháng 4/1951 khi vừa trở về nước, anh được Bộ điều động ra tăng cường cho Ban chỉ huy tỉnh đội Hải Ninh. Anh là một cán bộ cương nghị, tháo vát và chan hoà gần gũi anh em đồng đội, đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong đơn vị. Khi đặt chân đến Đình Lập, thị trấn tiền duyên của tỉnh Hải Ninh, anh em trong đoàn chúng tôi chỉ mong sớm tìm đến được cơ quan tỉnh đội, không những vì tâm trạng chung nôn nóng đón nhận nhiệm vụ mới mà còn có sự mong mỏi được gặp lại người chỉ huy cũ mà chúng tôi vẫn hằng quý mến.


Thật bất ngờ, vừa đi tói ngôi nhà ngoài cùng, chúng tôi đã thấy anh Trác Vinh Nam tươi cười đón ở cổng. Cả đoàn quên cả lễ tiết tác phong, chạy ùa ra vây quanh lấy anh, tay bắt mặt mừng, thật là cảm động... Anh Nam dẫn chúng tôi vào nhà, phía trước là một gian sảnh khá rộng, ở giữa kê một dãy bàn, có hàng ghế tựa bao quanh theo kiểu phòng họp. Còn khu trong là buồng ở và bếp của gia đình. Anh Nam tranh thủ giới thiệu cho chúng tôi biết về cơ quan tỉnh đội chuyển về bản Hang này đã được hơn một năm, những bộ môn nhiều trang bị cồng kềnh phải làm lán riêng phân tán trong khu vực, còn những bộ phận gọn nhẹ vẫn ở nhờ nhà dân. Ban chỉ huy tỉnh đội cũng ở nhờ trong cụm ba nhà dân này, gồm có ba người: tỉnh đội trưởng là anh Võ Quốc Vinh, tuổi cao, đã có quyết định về nhận công tác mới trên quân khu, nay đang làm việc với các cơ quan tỉnh đội để chuẩn bị tài liệu bàn giao, còn hai tỉnh đội phó thì anh Phương Đình Đặng cũng có quyết định rút đi học xa, chỉ còn lại một mình anh Trác Vinh Nam thường trực. Rồi anh cho biết, trước khi rời Đội 71, anh cũng đã có dịp tiếp kiến anh Hoàng Văn Thái, quán triệt chủ trương của Bộ sẽ đưa số anh em Thuỷ quân sông Lô mới tốt nghiệp ra vùng duyên hải Đông Bắc, nên cũng biết rằng sớm hay muộn cũng sẽ có một số anh em chúng tôi về Hải Ninh và anh vẫn hằng quan tâm, với mong muốn sớm biết được số anh em ra để tiện bố trí sắp xếp công tác cho phù hợp. Cũng do có sự dặn trước của anh mà Ban tổ chức tỉnh đội đã kịp thời báo cáo lên anh tin chúng tôi đến. Song lại đúng vào giữa lúc kế hoạch công tác trong những ngày tới rất bận, không còn thời gian trống, nên anh đã phải bố trí cuộc gặp gỡ một cách đột xuất như thế này.


Sau khi tìm hiểu nguyện vọng, thấy anh em chúng tôi đều tỏ ý mong muốn được ra hoạt động du kích vùng biển, anh Nam ngừng một lát xem đồng hồ, rồi như muốn giành nốt khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại để giúp chúng tôi nắm bắt tình hình, tự xác định được mục tiêu và vị trí chiến đấu trước mắt mà yên tâm với nhiệm vụ mới. Anh tranh thủ giới thiệu sơ lược về đặc điểm tình hình và cục diện chiến tranh trong tỉnh, những bước đi cần thiết để thực hiện chủ trương của Bộ trong việc xây dựng phong trào đấu tranh vũ trang ở vùng duyên hải Hải Ninh, nhiệm vụ  trước mất và tính chất gian khó ác liệt của chiến trường, rồi nhắc nhở động viên anh em chúng tôi tích cực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được phân công. Sau những lời tâm huyết chân tình, anh Nam rất vui khi thấy tất cả anh em chúng tôi đều biểu thị quyết tâm phấn đấu chấp hành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tới đây cũng đã đến lúc phải chia tay, anh Nam tiễn chúng tôi ra tận cổng, lần lượt siết chặt tay từng người và hẹn sẽ có dịp gặp lại.


Chúng tôi cảm động chia tay anh mà trong lòng còn in đậm mãi tình nghĩa cán binh của " Đội 71".


3. Nhiệm vụ được giao:

Sau buổi chia tay anh Trác Vinh Nam, về trạm lưu trú nằm chờ, đến ngày thứ ba thì anh em chúng tôi đều có quyết định điều động đi nhận công tác ở một số đơn vị trực thuộc tỉnh đội. Song cũng phải chờ sau khi đến đơn vị mới nhận công tác thì nhiệm vụ cụ thể của từng người mới được xác định rõ như sau:

- Về huyện đội Móng Cái, gồm có: Hà Văn Ngữ, Trung đội trưởng Trung đội 45 thuộc đại đội địa phương Móng Cái; Nguyễn Trịnh Cược, Trung đội phó Trung đội 45 thuộc đại đội địa phương Móng Cái; Vũ Duy Bình, Tiểu đội trưởng; Nông Văn Phượng, Tiểu đội trưởng. Đại đội địa phương Móng Cái có 3 trung đội, trong đó có Trung đội 45 người Việt, còn Trung đội 46 và 47 đều là người Hoa nên cả 4 anh em mới ra trên đây đều được phân về Trung đội 45.

- Về huyện đội Tiên Yên, gồm có: Nguyễn Bá Đức, cán bộ tham mưu tác huấn huyện đội Tiên Yên; Trần Cang, tiểu đội trưởng; Đinh Văn Tước, tiểu đội trưởng; Trương Văn Thời, tiểu đội trưởng (đại đội địa phương Tiên Yên);

- Về cơ quan tỉnh đội, gồm có: Lê Văn Vỹ, cán bộ Ban tham mưu tác huấn tỉnh đội; Vũ Phi Hoàng, bí thư Ban chỉ huy tỉnh đội; Phạm Vũ Quân, trường tiểu ban địch vận (Ban chính trị tỉnh đội); Ngô Văn Mai, tiểu đội trưởng tiểu đội bảo vệ tỉnh đội.


IV. Hướng đi tiếp nối:

Tới đây, tôi mới chỉ ghi lại được phần "Đường ra Đông Bắc", còn phần chính là "Tình hình hoạt động và chiến đấu của anh em Thuỷ quân sông Lô trên chiến trường Hải Ninh" thì lại chưa ghi lại được, bởi lẽ: Hồi kháng chiến ở Hải Ninh, chiến trường quá rộng và phân tán, giao thông liên lạc khó khăn cách trở, nên từ khi chia tay xuống đơn vị công tác, phần lớn anh em chúng tôi không có điều kiện gặp lại và nắm bắt được tin tức của nhau. Sau hoà bình lập lại (1954) đến nay thì mỗi người một ngả, cũng chưa có liên lạc hoặc tìm gặp lại được nhau.


Tôi mong rằng những anh em tham gia hoạt động trên chiến trường Hải Ninh sẽ sớm tìm lại được nhau để cùng nhau khai thác và cung cấp tiếp những tư liệu quý, góp phần xây dựng truyền thống cho Ngành.


Nhân ngày "Lễ hội dựng bia" ở Bến Giàn trong dịp
kỷ niệm "50 năm Chiến thắng sông Lô” 21-10-1999
P.V.Q


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:15:54 am
MONG ƯỚC VÀ HIỆN THỰC


Phạm Vũ Quân
Nguyên Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu - Bộ Xây dựng


Có tên trong danh sách Thuỷ quân Sông Lô được điều động ra vùng duyên hải Đông Bắc, tôi vô cùng phấn khởi bởi lẽ trong hoàn cảnh chiến trường đang còn chia cắt, toàn bộ vùng duyên hải và mặt biển của ta đang còn bị địch chiếm đóng và kiểm soát thì sự hoạt động trước mắt của Thuỷ quân ta tất yếu phải đi từ hình thái chiến tranh du kích trên sông và ven biển, nên dù cho Ban nghiên cứu Thuỷ quân có giải thể, mà được điều động ra chiến trường Đông Bắc thì chúng tôi vẫn có một địa bàn hoạt động hoàn toàn phù hợp với mục đích và nội dung đào tạo của nhà trường, hướng đi của chúng tôi vẫn không thay đổi và đây chính là thời cơ thuận lợi để chúng tôi có thể phấn đấu hướng tới ngành thuỷ quân tương lai. Điều này đã dấy lên trong chúng tôi niềm vui phấn khởi lên đường ra Đông Bắc với lòng quyết tâm vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ.


Tới Hải Ninh, tôi được giao nhiệm vụ trưởng tiểu ban địch vận trong Ban Chính trị tỉnh đội, một công tác không những hoàn toàn mới mẻ với tôi, mà ngay cả khi tiếp và trao nhiệm vụ cho tôi thì anh Văn Dũng - trưởng Ban Chính trị tỉnh đội cũng cho biết đây là một nhiệm vụ mới, tôi là cán bộ đầu tiên được giao đảm trách và các thành viên trong tiểu ban thì trước mắt chưa cần có trợ lý giúp viộc, nhưng còn có các cán bộ chuyên trách theo dõi và hướng dẫn triển khai công tác địch vận ở các đơn vị cơ sở (các huyện đội và các đơn vị trực thuộc tỉnh đội) nay mai sẽ được cử lên. Tài liệu duy nhất mà tôi được anh Nguyễn Văn Dũng chuyển giao là một bó khoảng trên một ngàn tờ bướm (truyền đơn kêu gọi lính viễn chinh Pháp đòi hồi hương). Do chưa được đào tạo qua trường lớp nào và cũng không có tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ công tác địch vận, nên khi rời Ban chính trị ra vể tôi rất băn khoăn. Lời nói "Vạn sự khởi đầu nan" của anh Văn Dũng lúc chia tay có hàm ý động viên và trấn an tôi "khắc đi - khắc đến" cũng không thể làm vơi đi trong tôi nỗi lo lắng trước trọng trách được giao và những câu hỏi "Phải làm gì và làm như thế nào" cứ luẩn quẩn mãi trong đầu...


Nhưng rồi, có lẽ điều thuận lợi duy nhất mà tôi có được lúc đó là đôi chút kinh nghiệm về công tác quần chúng từ những ngày tôi tham gia hoạt động phong trào Việt Minh, tiếp đến công tác thanh vận sau khởi nghĩa, rồi công tác gây dựng cơ sở địch hậu và công tác tuyên huấn trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, cùng những thông tin trên đài, báo đã giúp tôi tự ý thức rằng: công tác địch vận cũng chỉ là công tác quần chúng trong hàng ngũ địch, là công tác tuyên truyền giác ngộ những người lầm đường bị bọn đế quốc thực dân Pháp và tay sai dụ dỗ, mua chuộc, lừa bịp hay cưỡng bức để lôi kéo họ vào lính, cầm súng đánh thuê cho một cuộc chiến tranh phi nghĩa phản lại hoà bình và độc lập dân tộc, nhằm bảo vệ lợi ích thống trị của chúng, đồng thời vận động họ quay về với chính nghĩa, với gia đình và Tổ quốc. Rồi từ những khái niệm này, tôi suy luận ra các lĩnh vực: đối tượng vận động, nội dung tuyên truyền, phương thức hoạt động và biện pháp tổ chức thực hiện... để lập thành một đề án hoạt động ngắn hạn của tiểu ban địch vận, được Ban chính trị bổ sung rồi thông qua và được tỉnh đội duyệt cho thực hiện, thì cũng vừa là lúc mà các cán bộ lấy từ cơ sở lên cũng đã tề tựu đông đủ. Thế là, được sự đồng ý của Ban chính trị, lấy nội dung đề án hoạt động của tiểu ban địch vận vừa được duyệt để làm nền tảng, chúng tôi mở ngay một cuộc hội thảo chuyên đề về công tác địch vận, nhằm vận dụng trí tuệ của tập thể, người biết hướng dẫn người chưa biết, để cùng trao đổi gợi ý bổ sung cho nhau những kiến thức cần thiết về nội dung và phương pháp nghiệp vụ của công tác địch vận ở cơ sở. Càng trao đổi thảo luận, chúng tôi càng "vỡ" dần ra, có nhiều ý kiến đóng góp rất thiết thực, sát với hoàn cảnh thực tế ở địa phương, đồng thời tranh thủ được những ý kiến chỉ đạo sâu sắc của thủ trưởng tỉnh đội khi đến thăm, làm cho cuộc hội thảo tuy không có sự chuẩn bị một cách có bài bản nhưng cũng đã thật sự trở thành một lớp tập huấn rất bổ ích, đã thiết thực trang bị cho các thành viên tham dự cả về nhận thức và biện pháp nghiệp vụ cụ thể của công tác địch vận ở cơ sở, giúp cho mọi người vững tâm và hăng hái phấn khởi công tác khi trở lại địa bàn hoạt động.


Sau cuộc hội thảo là những ngày xuống thâm nhập công tác cơ sở ở vùng Đầm Hà và Tiên Yên, cùng với sự chắp nối tranh thủ được mối quan hệ chỉ đạo của Ban địch vận Quân khu, đã giúp cho tôi nhanh chóng nắm bắt và thích nghi với nhiệm vụ công tác địch vận được giao. Một điều đáng khích lệ đối với tôi là trong chiến dịch tiễu phỉ của tỉnh ở vùng Khe Quang - Khe Lục vào cuối tháng 11 năm 1951, tôi đã được tỉnh đội tặng bằng khen về thành tích mưu trí dũng cảm xuống khe, bám dân, vận động được hơn bốn chục phỉ địa phương lẩn trốn vào rừng mang súng về nộp.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:18:12 am
Đầu năm 1952, tôi được tỉnh đội đề bạt đại đội phó và bổ nhiệm chính trị viên phó huyện đội Đình Hải. Tại đây tôi được phân công trực tiếp chỉ huy đại đội 35; đại đội địa phương đang làm nhiộm vụ trấn giữ cửa ngõ phía Đông, vùng tiếp giáp giữa Tiên Yên và Đình Lập nằm trên đường số 4, kết hợp với nhiệm vụ cơ động thường trực bảo vệ vùng tự do của huyện. Với cương vị này, tôi đã chỉ huy đơn vị nhiều lần đánh bại các cuộc tấn công cùa địch từ khu căn cứ Tiên Yên thường hay nống ra lấn chiếm các vùng giáp ranh, đập tan âm mưu của chúng định thiết lập thêm các chốt vành đai ở vùng Điền Xá - Bắc Lãng; nhiều lần phục kích tiêu hao các toán biệt kích địch thường hay hoạt động qua lại Khe Vàng - Khe Tát thuộc tuyến vành đai Làng Ngang - Ba Chẽ; và đã phối hợp dìu dắt các đội du kích địa phương chống càn bảo vệ căn cứ thuộc các xã Cường Lợi, Lâm Ca, Đồng Thắng...


Đến cuối năm 1952 thì tôi được cử đi dự một lớp tập huấn "du kích chiến tranh" ngắn hạn do Bộ Tổng Tham mưu mở ở Thái Nguyên. Sang đầu năm 1953 ra trường trở về Hải Ninh, tôi lại được Ban chỉ huy tỉnh đội điều động sang Đại đội 54 thay anh Lê Phan, nguyên chính trị viên của đơn vị, đã có quyết định rút lên làm tham mưu phó tỉnh đội. Đại đội 54 là đơn vị chủ lực của tỉnh nên phạm vi hoạt động rộng và là đơn vị chủ công xung kích trong mọi hoạt động vũ trang tấn công tiêu diột địch cũng như trong thường trực chiến đấu bảo vệ khu căn cứ của vùng giải phóng, đồng thời còn có nhiệm vụ phối hợp hỗ trợ các huyện đội tác chiến theo sự điều động của Ban chỉ huy tỉnh đội. Nhiệm vụ trên đây rất nặng nề và khẩn trương, lại phải triển khai ở một chiến trường rừng núi có nhiều phỉ và biệt kích hoạt động, địa hình hiểm trở chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn lạc hậu và đời sống khó khăn thiếu thốn, đã làm cho Đại đội 54 gặp nhiều khó khăn trong hoạt động quân sự cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Tôi đến Đại đội 54 giữa lúc ban chỉ huy đơn vị chỉ có một mình anh Phan Tài, đại đội trưởng quán xuyến mọi việc khá bận rộn. Khẩn trương kết thúc cuộc hội ý với cán bộ quản lý của đơn vị, anh đứng dậy niềm nở bắt tay tôi rồi kéo sang bàn làm việc. Sau khi trò chuyện thăm hỏi tình hình sức khoẻ và công tác theo thông lệ, thấy tôi trong tư thế sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới, anh đưa ngay tôi vào cuộc bằng sự giới thiệu với tôi khá tỉ mỉ, cặn kẽ về biên chế tổ chức của đơn vị, tình hình ta và địch trên địa bàn, nhiệm vụ được giao và tình hình hoạt động sinh hoạt hàng ngày, cùng với những thuận lợi và khó khăn của đơn vị, rồi anh phân công tôi trong ban chỉ huy đặc trách cồng tác chính trị và hậu cần của đại đội. Lúc này đơn vị đang rải quân hoạt động ở ba khu vực cách nhau hàng chục cây số; Trung đội 34 ở vùng Hà Lâu - Dương Hải, khu đệm giáp ranh với hành lang biệt kích ở làng Ngang miền Tây của vùng Tiên Yên - Đầm Hà; còn Trung đội 36 đóng ở Bản Pạt - Nà Phạ làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội địa phương Bình Liêu bảo vệ vùng căn cứ của tỉnh. Có thêm tôi giúp việc, anh Phan Tài có điều kiện để chăm lo tổ chức các trận đánh tập trung của đơn vị hơn trước, nhưng do thường ngày đơn vị vẫn phải đóng quân phân tán theo thế chân kiềng, vừa để chốt giữ những địa bàn xung yếu, giành thế chủ động bảo vệ vòng ngoài của khu căn cứ, vừa tạo thuận lợi cho các trung đội có điều kiện phối hợp hỗ trợ nhau trong tác chiến trên một chiến trường mà kẻ địch đã tổ chức được một lực lượng biệt kích địa phương khá mạnh để quyết liệt chống phá ta, nên chúng tôi vẫn phải phân tán xuống trực tiếp chỉ đạo các trung đội hoạt động chưa thể nhanh chóng thoát khỏi tình trạng bị động trước những khó khăn thường nhật của đơn vị. Điều lo ngại nhất của chúng tôi là đời sống trong đơn vị quá thiếu thốn: ăn, mặc và thuốc men đều bất cập, làm cho sức khoẻ của anh em giảm sút nghiêm trọng, bệnh tật phát triển nhanh, có những lúc tưởng chừng như mọi người không còn đủ sức để duy trì cuộc chiến đấu lâu dài được. Song tinh thần quyết định hết thẩy, ý chí đã tạo nên sức mạnh, không một anh em nào chùn bước thoái chí trước gian khó, dường như ai cũng muốn gắng gượng tự khắc phục khó khăn riêng để giảm đỡ gánh nặng chung của đơn vị.


Sau Đông - Xuân 1952-1953, cục diện chiến tranh đã có nhiều biến đổi, ta càng đánh càng mạnh, giành quyền chủ động ở nhiều nơi; địch thì ngày càng thất bại và lún dần vào thế bị động. Những đợt thi đua giết giặc lập công để phối hợp với chiến trường chính được liên tiếp phát động đã trở thành nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với đơn vị, mọi người như được tiếp thêm sức mạnh để đạp bằng mọi trở ngại, ra sức thi đua lập công vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tiếp đến Đông Xuân 53-54, sau chiến dịch Tây Bắc là sự mở màn của chiến dịch Điện Biên Phủ, càng làm nức lòng mọi người, đem hết sức mình phấn đấu "Tất cả để chiến thắng". Nhưng càng gần thắng lợi lại càng gian nan, địch đã điên cuồng chống trả lại ta. Ở Hải Ninh sau khi rút hết lính Âu Phi để ném vào chiến trường chính, địch đã triệt để khai thác thế mạnh trong việc dùng người địa phương, vét dân để bổ sung quân số và tăng cường trang bị, hà hơi tiếp sức cho quân nguỵ Voòng A Sáng và các đội biệt kích người dân tộc, tiến hành những cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ Bình Liêu tháng 3/1953 và vào sơn khu Hà Lâu - Phong Du tháng 1/1954; dùng lực lượng biệt kích để đánh úp bộ đội và cơ quan ta; đùng phí và biệt kích, phục kích đánh cướp bóc trên các tuyến đường giao thông trọng yếu như đường Ngàn Chi, đường Phai Xiêm; thậm chí chúng còn dùng những tốp biệt kích nhỏ bắn lén vào cơ quan ta ngay giữa ban ngày... để gây hoang mang trong dân chúng. Đại đội 54 chúng tôi đã cùng bộ đội và dân quân du kích địa phương đánh trả quyết liệt; đã đập tan các cuộc càn quét lớn của địch và gây cho chúng nhiều thương vong; đã đánh bại các cuộc tập kích của chúng vào bản Buông và Hà Lâu; đã nhiều lần phục kích địch trên đường 10 ở khe San - Vân Mây và Đồng Và - Tiên Yên. Rồi sang giữa quý 11/1954 khi mà khắp nơi đang dấy lên phong trào thi đua tấn công, giam chân địch tại địa phương, để phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ đang bước vào giai đoạn quyết định, thì đại đội 54 cùa chúng tôi chấp hành chỉ thị của tỉnh đội, đã nhiều lần luồn vào địch hậu bám đánh địch ở Đông Ngũ, Đồng Thầm; phục kích địch trên đường số 4 Đầm Hà - Hà Cối và trên đường Chúc Bài Sơn - Tấn Mài; phối hợp làm áp lực cho các huyện đội Tiên Yên và Hà Cối phá tề trừ gian và tiến hành các đợt vũ trang tuyên truyền (chăng cờ, biểu ngữ, tuyên truyền tin chiến thắng, tán phát truyền đơn địch vận kêu gọi binh lính người địa phương trong hàng ngũ địch trở về) ở Đường Hoa, Mã Tế Nam và Đông Ngũ..., làm cho địch rất hoang mang lo sợ, không còn dám ngang nhiên hoạt động như trước.


Cuối tháng 7 năm 1954, sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ vừa được ký kết thì tôi nhận được quyết định điều động về Ban địch vận quân khu Việt Bắc, tham gia công tác tiếp quản thị xã Bắc Ninh. Khi công tác chiêu hồi sĩ quan Nguỵ ở đây đã căn bản hoàn thành cũng là lúc tôi đang vô cùng phấn khởi nhận được lệnh vào Thuận Thành để làm công tác binh vận Âu Phi, đồng thời chuẩn bị tham gia công tác tiếp quản Hà Nội, thì lại nhận được quyết định của Bộ Tổng Tham mưu điều động về Cục Tác chiến.


Thế là niềm vui vừa chớm nở trong tôi đã phải xếp lại để nhường bước cho việc đón nhận một nhiệm vụ mới. Tôi xếp ba lô lên đường quay trở lại chiến khu Việt Bắc. Lại ròng rã hành quân, mãi đến chiều hôm thứ ba tôi mới tới được trạm xá của cơ quan Cục Tác chiến, lúc này đang đóng ở một khu rừng của huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Ngồi đợi chừng 20 phút, tôi rất sửng sốt và cảm động khi thấy anh Thanh Văn Minh, rồi anh Vũ Phi Hoàng bất ngờ ùa vào phòng đợi, mừng rỡ bắt tay tôi. Trên đường về cơ quan, hai anh cho tôi biết, còn có cả anh Trịnh Tuần ở Quảng Yên cũng sẽ về trong đợt này và nhóm anh em thuỷ quân chúng tôi mới được hình thành nằm trong biên chế của Cục Tác chiến do anh Phan Tiền Đạo, cán bộ chuyên trách theo dõi thuỷ quân của Cục được cử ra phụ trách, để lo chuẩn bị cho việc thành lập Cục Phòng thủ bờ bể sắp tới.


Ôi vui sướng biết bao! Thế là mong ước trở lại Ngành thuỷ quân của chúng tôi năm xưa đã trở thành hiện thực. Hạnh phúc đến thật quá bất ngờ, làm cho tôi cứ rạo rực, bàng hoàng trong mừng rỡ, chẳng còn biết là thực hay mơ?... Niềm vui của tôi càng được nhân lên gấp bội, khi vào đến cơ quan, thấy mọi người ở đây đang tất bật, hồ hởi, hăng say đóng gói, niêm phong các tài liệu và khẩn trương chuẩn bị hành trang để kịp sẵn sàng chờ lệnh hành quân trở về Thủ đô Hà Nội trong bầu không khí rộn ràng tươi vui, dưới những chiếc loa phóng thanh trong tán cây rừng liên tục âm vang những bản tin và những bài ca chiến thắng...


Hà Nội, ngày 8 tháng 3 năm 1999
Nhân   dịp kỷ niệm 50 năm Thuỷ quân sông Lô
PVQ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:23:19 am
THỦY QUÂN SÔNG LÔ TRÊN MẶT TRẬN MÓNG CÁI


Phạm Vũ Quân
Nguyên Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu - Bộ Xây dựng


Cuối hè 1998, sau đợt nghỉ mát ở Bãi Cháy, tôi đến thăm anh Trác Vinh Nam đang nghỉ hưu ở Hồng Gai, được biết là vào đầu những năm 1990 có tin anh Hà Ngữ đã về nghỉ hưu ở thị xã Móng Cái nhưng không rõ địa chỉ. Với lòng mong muốn thăm lại bạn cũ, đồng thời tranh thủ tìm hiểu thêm về tình hình hoạt động và hoàn cảnh cụ thể của những anh em cựu chiến binh Thuỷ quân sông Lô đã từng tham gia chiến đấu trên chiến trường Hải Ninh trước đây, tôi thu xếp đi Móng Cái. Tới nơi, tôi đến nhiều cơ quan, hỏi thăm một số bà con địa phương nhưng mãi chiều hôm sau mới tìm gặp được anh Hà Ngữ cùng gia đình ở tại xã Quất Đông cách thị xã Móng Cái 12 km. Xa nhau đã gần nửa thế kỷ (47 năm) nay mới có dịp gặp lại, chúng tôi có biết bao nhiêu chuyện để cùng nhau "dốc bầu tâm sự", song tôi chỉ xin ghi lại đây một số nét chính về tình hình hoạt động, chiến đấu của anh em Thuỷ quân sông Lô trên mặt trận Móng Cái trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp qua những chuyện kể của anh Hà Văn Ngữ và anh Trịnh Cược mà tôi đã được gặp lại gần đây.


Cuối tháng 10/1950 giải phóng huyện Đình Lập, đến cuối tháng 12/1950 giải phóng tiếp huyện Bình Liêu, tỉnh Hải Ninh đã tạo dựng được một căn cứ địa kháng chiến khá rộng và vững chắc. Sang đầu năm 1951, khi vùng biên giới Hoa Nam mới được giải phóng, đồng thời sẵn có cơ sở nhân mối trong hậu địch, ta tiến công giải phóng tiếp 3 xã nằm sâu trong vùng sơn khu của huyện Móng Cái là Pò Hèn, Thán Phún và Tràng Vinh. Lúc này, cơ quan lãnh đạo của huyện đã chuyển về xã Lục Chắn giáp ranh với xã Tấn Mài của huyện Hà Cối, đồng thời nối liền một dải với 3 xã mới được giải phóng, tạo thành một khu căn cứ kháng chiến liên hoàn của huyện Móng Cái. Trong các xã mới được giải phóng thì xã Tràng Vinh có một vị trí trọng yếu: phía Bắc và Tây Bắc tiếp giáp với các xã Thán Phún, Pò Hèn và Lục Chắn, phía Nam chỉ cách xã Quất Đông thuộc vùng địch tạm chiếm một dãy núi liền kề với đường số 4, đã trở thành một vùng đệm vừa là của ngỏ và là lá chắn giữa vùng căn cứ của ta và vùng tạm chiếm của địch. Vì vậy, ta chọn Tràng Vinh để lập khu du kích chăn đánh địch bảo vệ vùng căn cứ và bảo vệ cửa ngõ của cán bộ ta ra vào địch hậu; còn địch lấy Tràng Vinh làm trọng điểm để chống phá quyết liệt, triệt hạ cơ sở kháng chiến của ta (ngày thì đem quân đến càn quét, cướp bóc, phá hoại nhà của ruộng vườn và mùa màng, lùng sục bắt bớ cán bộ ra vào địch hậu, tung thám báo, biột kích vào đánh úp bộ đội và du kích ta khi sơ hở...).


Huyện Móng Cái đã điều Trung đội 45 vào chốt ở Tràng Vinh để đánh địch bảo vệ cơ sở. Bốn anh Hà Văn Ngữ, Nguyễn Trịnh Cược, Vũ Duy Bình và Nông Văn Phượng mới ra cũng được đưa về tăng cường cho trung đội này. Khi các anh đến thì thấy Tràng Vinh trong cảnh vườn không nhà trống, hoang tàn. Nhân dân ở đây hầu hết là người Hoa, không chịu được cảnh thường xuyên bị địch quấy nhiễu, cướp phá, bắt bớ, bắn giết..., nên đã đi tìm nơi khác để làm ăn sinh sống. Cán bộ uỷ ban, đoàn thể và du kích địa phương phần bị bắn, bị giết phần thì không chịu được cảnh lùng sục, o ép của địch đã rời khu căn cứ, cá biệt có một số người đã đầu hàng địch, làm tay sai cho chúng quay về phá hoại cơ sở. Cho đến lúc này cả xã Tràng Vinh chỉ còn lại 2 gia đình anh em người Hoa (các ông Chiếng Tài và Chiếng Lộc), phải rời vào khe núi thì mới trụ lại được. Trung đội 45 lúc này cũng đang gặp nhiều khó khăn: trung đội trưởng thì bị trọng thương trong trận chống địch càn vào sơn khu trung tuần tháng trước, đã phải đưa về Quân khu điều trị và huyện đội đã phải cử anh Nguyễn Đăng Ấn, chính trị viên phó trực tiếp xuống chỉ huy đơn vị trong khi chưa có cán bộ thay thế; quân số thì đang thiếu hụt khá nghiêm trọng vì số anh em bị thương vong chưa được bổ sung, tỷ lệ ốm đau cao lại phải thường xuyên dành ra một số người đi lấy gạo cách xa hơn hai chục cây số mà còn hay gặp trắc trở thất thường, mất thời gian và công sức, làm cho quân số trực chiến quá mỏng trước nhiệm vụ phòng chống địch ngày càng khẩn trương và ác liệt; đời sống của anh em trong đơn vị cũng rất khó khăn, không những vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men, thường xuyên chịu cảnh đói rét, rách rưới và ốm đau mà còn vì sinh hoạt và công tác luôn căng thẳng, suốt ngày dãi nắng dầm mưa, đêm đến lại phải rời vào khe núi ngủ lưu động nay đây mai đó để phòng địch đánh úp, được hôm tạnh ráo còn khá, gặp phải đêm mưa thì thật là cơ cực, vải ni lông chẳng có, anh em chỉ còn biết ngồi bó gối tựa lựng vào nhau cho đỡ mỏi rồi trông chờ cho mưa tạnh và mong trời chóng sáng để còn hong khô quần áo mà mặc, trong đơn vị còn có đến một phần ba anh em bị mắc bệnh quáng gà do ăn uống kham khổ thiếu chất, chịu cảnh khiếm thị mỗi khi bóng chiều buông xuống, gây nhiều khó khăn trong sinh hoạt.


Những khó khăn chồng chất của Trung đội 45 lúc này cũng chính là những thách thức vô cùng gay gắt đối với bốn anh em mới đến. Song với trọng trách được giao và trước một tình thế hết sức khẩn trương của đơn vị, các anh đã quyết tâm bắt tay ngay vào nhiệm vụ mới với mục tiêu phấn đấu: khai thác và vận dụng cho được sức mạnh của tập thể để nhanh chóng đưa đơn vị thoát khỏi cảnh bị động trước sức tấn công nhiều mặt của kẻ địch, của bệnh tật và của đói rách thiếu thốn đang ngày càng đè nặng lên đơn vị.


Việc cần tháo gỡ trước hết trong lúc này là cách tổ chức trực chiến thụ động và tốn công sức của đơn vị (sáng nào cũng dàn quân lên chiếm các cao điểm chờ địch, để rồi chiều xuống khi thấy tình hình trong khu vực thật yên ả mới thu quân về nghỉ), làm cho anh em luôn ở trong trạng thái căng thẳng mệt mỏi, không duy trì được sức chiến đấu lâu dài và mọi mặt công tác nuôi dưỡng, xây dựng đơn vị đều bị ngừng trệ. Sau khi tìm hiểu kỹ tình hình hoạt động của địch và khảo sát tỉ mỉ địa lý trong khu vực, anh Hà Ngữ cùng anh Trịnh Cược đã dựa vào lợi thế của địa hình để xây dựng các phương án tác chiến của trung đội theo các hướng tấn công giả định khác nhau của địch. Sau đó các anh tổ chức cho đơn vị diễn tập theo từng phương án một cách thuần thục trên thực địa. Còn việc canh chừng và phòng chống địch tấn công thì chỉ cần bố trí lực lượng trinh sát làm nhiệm vụ cảnh giới trên các trạm quan sát tiền tiêu để kịp thời phát hiện và báo động, khi có địch xuất hiện là ngay lập tức đơn vị được tập hợp và nhanh chóng triển khai vận động chiếm lĩnh trận địa đã định, chủ động chặn đánh địch. Đêm đến thay vì việc rút quân vào khe núi để ngủ như trước đây, các anh đã chọn một số điểm trú quân có điều kiện canh gác và phòng vệ thuận tiện để bố trí đơn vị luân phiên ém quân ngủ qua đêm tại chỗ, vừa đỡ gây thêm sự mệt nhọc không cần thiết cho anh em, vừa thuận tiện cho việc tổ chức ứng chiến của đơn vị được nhanh chóng khi có động. Để bảo đảm thực hiện thắng lợi các chủ trương và phương án tác chiến đã đề ra, các anh luôn quan tâm đến việc nâng cao tính năng động và tinh thần sẵn sàng chiến đấu của đơn vị bằng cách tích cực chăm lo xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, thường xuyên đề cao cảnh giác và tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao. Những việc làm này đã nhanh chóng đem lại cho đơn vị một khí thế mới, một tinh thần hăng say luyện tập và một niềm tin quyết thắng.


Sự đổi mới về phương thức hoạt động không chỉ đem lại lợi ích về mặt quân sự mà còn tạo thuận lợi cho đơn vị có điều kiện để tháo gỡ khó khăn về đời sống đang là một yêu cầu cấp bách để duy trì sức chiến đấu lâu dài của đơn vị. Thực tế tình hình lương thực bị thiếu hụt triền miên đã làm cho anh em trong đơn vị dễ dàng thông suốt và thống nhất với chủ trương mà các anh đã đưa ra họp bàn là không thể trông chờ hoàn toàn vào nguồn cung cấp lương thực của tỉnh lúc này đang còn gặp nhiều khó khăn bất cập, mà bản thân đơn vị phải bắt tay ngay vào việc tăng gia tự cải thiện để thiết thực góp phần khắc phục sự thiếu hụt về lương thực đang gây nhiều khó khăn cho đơn vị. Với sự đồng lòng và quyết tâm của anh em, chẳng bao lâu vườn tược của đồng bào bị giặc tàn phá lại ngày một trở lại xanh tốt và ruộng nương của đồng bào bỏ hoang thì lấy sức người thay lực kéo, lúa khoai lại được gieo trồng. Dần dà đơn vị có thêm rau xanh, củ quả, ngô khoai sắn và cả thóc gạo, rồi tiếp theo là gia cầm gia súc... Không những tự bù đắp được phần lương thực thiếu hụt, mà đơn vị còn đắp đập nuôi cá và đốt than củi đem bán lấy tiền để mua sắm thuốc men, vải che mưa, xà phòng, bàn chải và thuốc đánh răng cho anh em. Đời sống trong đơn vị nhờ vậy mà ngày càng được cải thiện và bệnh tật ốm đau cũng được giảm dần.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:24:32 am
Ở Tràng Vinh trước đây, đêm đến bộ đội ta rời vào núi thì thường là bọn biệt kích và thám báo địch lại kéo vào làng lùng sục, bắt bớ và phục kích cán bộ ta ra vào địch hậu. Nhưng từ khi trung đội 45 chốt quân tại chỗ thì nhiều cuộc đụng độ liên tiếp xảy ra, đã có những tốp biệt kích và thám báo sa vào ổ phục kích của trung đội, làm cho địch rất hoang mang, hoảng sợ, không còn dám hoạt động ngang nhiên như trước. Cũng từ đó, có sự hỗ trợ của bộ đội, đường dây liên lạc ra vào địch hậu của cán bộ ta đã được nối lại và nơi đóng quân của Trung đội 45 dần trở thành nơi trú chân và trạm liên lạc của cán bộ hậu địch. Để bù đắp lại, chính những anh chị em cán bộ này đã là những thành viên tích cực trong việc cung cấp tình hình địch và những nhu yếu phẩm cần thiết cho bộ đội. Do đó để đối phó lại, chỉ tính từ cuối năm 1951 đến giữa năm 1952, địch đã mở hai cuộc càn lớn với quy mô tiểu đoàn, có pháo yểm trợ, tấn công vào xã Tràng Vinh hòng phá hoại cơ sở và tiêu diệt lực lượng ta, nhưng chúng đéu bị thất bại, phải tháo chạy trước sức chống trả và tấn công mãnh liệt của Trung đội 45. Để xoay chuyển tình thế, địch đã đưa một đại đội lính Bảo Hoàng hàng ngày đến dàn quân để bảo vệ số dân công làm đường lên xây đồn trên núi Lý La ở mặt Đông Nam nhằm uy hiếp toàn bộ địa bàn Tràng Vinh, đã bị Trung đội 45 chủ động tích cực tiến công quyết liệt. Ngày nào cũng có súng nổ, dân làm đường bỏ chạy tán loạn, có trận ta phục đánh và truy kích bọn Bảo Hoàng tháo chạy ngay giữa ban ngày, làm xôn xao cả thị xã Móng Cái. Cuối cùng âm mưu xây đồn ở núi Lý La của địch đã hoàn toàn thất bại.


Với tinh thần đoàn kết thương yêu đồng đội, gương mẫu tận tuỵ trong công tác và mưu trí dũng cảm trong chiến đấu, các anh đã được toàn đơn vị tin yêu và đã thiết thực góp phần khắc phục khó khăn xây dựng Trung đội 45 ngày một lớn mạnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, trong đánh địch trừ gian, bảo vệ cơ sờ và sơn khu, đồng thời tạo thuận lợi cho cán bộ ta ra vào hoạt động địch hậu.


Càng nói đến những thành tích cống hiến của các anh (những chiến sĩ thuỷ quân sông Lô trên mặt trận Móng Cái), tôi càng đau xót và thương tiếc anh Nông Văn Phượng. Anh đã anh dũng hy sinh giữa lúc đang dẫn 2 khẩu đội trung liên truy kích địch trên đồi Cốc Soóng trong trận đánh trả một tiểu đoàn địch càn vào xã Tràng Vinh cuối tháng 6/1952. Sau khi kể cho tôi nghe tin này, giọng anh Hà Ngữ (người chỉ huy trận đánh) trầm hẳn xuống: ... "Trận ấy ta thắng, nhưng mất cậu Phượng, thật đau đớn vô cùng! Mình đau đã vậy, mà cả Trung đội 45 cứ ngao ngán mấỵ tháng không nguôi...". Thật vậy, không đau sao được khi mất đi một đồng đội, nhất là lại mất một người đáng quý như anh; luôn hồn nhiên tươi trẻ, hiền lành, trung thực, sẵn sàng nhận phần khó về mình, nhường thuận lợi cho bạn, nhưng lại rất mực dũng cảm, ngoan cường trước kẻ địch. Nhớ thương anh lòng tôi se lại... và rồi, sớm hôm sau anh Hà Ngữ và tôi lên đường vào Tràng Vinh để thăm lại chiến trường xưa và để thắp hương viếng mồ anh Phượng, nhưng khi qua gặp Ban chỉ huy huyện đội Móng Cái chúng tôi mới được biết là toàn bộ thung lũng Tràng Vinh đã trở thành vùng hồ từ cuối 1997, sau khi ta ngăn đập Quất Đông để xây dựng khu phát triển kinh tế thuỷ sản và du lịch của huyện, nên rất tiếc là chuyến đi của chúng tôi không thành.


Bước vào Thu Đông 1953, chấp hành chỉ thị của tỉnh về việc tăng cường đánh địch để phối hợp với chiến trường chính, huyện đội Móng Cái thành lập một đội công tác đặc biệt lấy tên là đội Sơn Hải làm nhiệm vụ luồn sâu vào địch hậu đánh phá các tuyến giao thông và các phương tiện vận tải, thông tin liên lạc và phá hoại về cơ sở vật chất, tiêu hao sinh lực của địch, nhằm gây hoang mang và làm mất ổn định trong hậu phương của chúng. Anh Hà Ngữ và anh Trịnh Cược lại được điều sang phụ trách công tác này và đã chỉ huy đơn vị lập nhiều thành tích mới như: liên tiếp cắt phá đường dây và các thiết bị thông tin liên lạc của địch trên đường số 4 và đường từ Móng Cái đi Lộc Phủ, có những đêm chuyển về hàng chục gánh dây điện đủ các loại; đồng thời nhiều lần chôn mìn, phục đánh xe của địch trên đường số 4 và tháng 4/1953 diệt một xe GMC chở một tiểu đội lính nguỵ trên đường Tài Ván đi Lộc Phủ, đã gây nhiều hoang mang trở ngại cho địch,...


Trong những năm tiếp theo, các anh còn được điều động sang nhiều đơn vị khác công tác với những trọng trách khác nhau, song ở bất kỳ đâu và trên cương vị nào các anh cũng đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và đã liên tục công tác cho đến khi nghỉ hưu sau ngày hoà bình được lập lại trong cả nước (1975).


Điều đáng kể là vào cuối Thu năm 1955, cả ba người còn lại (Ngữ, Cược và Bình) đều được điều động về Tiểu đoàn 470 làm nhiệm vụ phòng thủ bờ biển, trực thuộc Cục Phòng thủ bờ bể (Bộ Tổng Tham mưu) mới được thành lập, trong đó: Anh Trịnh Cược được cử làm trợ lý tham mưu tác huấn của Tiểu đoàn 470; Anh Hà Ngữ và anh Vũ Duy Bình về một đại đội trực thuộc tiểu đoàn 470 đóng ở bán đảo Trà Bình (Trà Cổ), do anh Hà Ngữ làm đại đội trưởng.


Thật lý thú là khi gặp lại nhau ở Quất Đông, tôi kể cho anh Hà Ngữ biết là ngay sau ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ vừa được ký cuối tháng 7/1954, thì các anh Thanh Văn Minh, Vũ Phi Hoàng, Trịnh Tuần và tôi cũng được Bộ điều động về Cục Tác chiến để tham gia vào việc chuẩn bị thành lập Cục Phòng thủ bờ bể mà nay là Quân chủng Hải quân. Anh Hà Ngữ vô cùng mừng rỡ, đập mạnh vào vai tồi "ôi thế là nguyện vọng của anh em chúng mình năm xưa, đến nay đã đạt được rồi!"


Khi chia tay anh Hà Ngữ cùng gia đình ra về, tôi không khỏi bùi ngùi xót thương anh Nồng Văn Phượng, song lại cũng cảm thấy vô cùng vinh dự và tự hào về những gì mà các anh Hà Ngữ, Nguyễn Trịnh Cược, Vũ Duy Bình và Nông Văn Phượng; những người bạn Thuỷ quân sông Lô chúng tôi đã làm được trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp trên mảnh đất Móng Cái gian lao và anh dũng này.


Nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập
Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu 8/3/1999
PVQ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:26:28 am
CHUNG MỘT NIỀM VUI


Hồi ký của đồng chí Nguyễn Khắc Việt


Vào một buổi sáng tháng 5/1955, theo kế hoạch phân công của đơn vị, tôi phụ trách giới thiệu bài xạ kích bắn gián tiếp cho lớp tập huấn cán bộ của Trung đoàn (E84, F351). Đầu giờ chiều hôm đó, tôi được gọi lên gặp Chính uỷ Trung đoàn. Tới phòng làm việc, đồng chí Chính uỷ đã có mặt ở đó, tôi chào đồng chí bằng động tác quen thuộc: “Báo cáo đồng chí Chính uỷ, tôi có mặt”. Đồng chí Tâm vốn là người có tác phong bình dân, đồng chí kéo ghế mời tôi ngồi, rót nước mời tôi uống, song đưa bản quyết định của Bộ Tổng Tham mưu và trao đổi với tôi: “Đồng chí Việt trước đây đã ở lớp Thuỷ quân Sông Lô, nay quân đội ta lại tiếp tục xây dựng Hải quân, trên điều đồng chí về binh chủng mới, không biết đồng chí có suy nghĩ gì không?”


Nối tiếp lời Chính uỷ, tôi nói “Tôi tưởng là Chính uỷ gọi lên chắc để phê bình, nhận xét điều gì trong buổi lên lớp sáng nay, nhưng ngược lại Chính uỷ lại mang đến cho tôi niềm vui lớn là được trở về Hải quân, một nguyện vọng mà tôi hằng ấp ủ kể từ khi giải thể Thuỷ quân Sông Lô (4/1951) đến bây giờ”.


Theo Quyết định của Bộ Tổng Tham mưu điều động tôi về Cục Phòng thủ bờ bể ở Hà Nội, cơ quan Cục tạm thời đóng ở nhà máy bia Ho-men. Về đến Cục, tôi gặp một đồng chí trong Ban tổ chức đón tiếp cán bộ, đồng chí đó xem quyết định của tôi và hướng dẫn cho tôi về nhà số 12 Đặng Thái Thân - cạnh nhà hát lớn chờ phân công nhiệm vụ. Về đến số nhà 12 Đặng Thái Thân, tôi thấy rất nhiều cán bộ đã tập trung ở đó, trong số đó có 5 đồng chí là thuỷ quân Sông Lô gồm: Nguyễn Ngọc Giám, Hoàng Lương, Nguyễn Khắc Việt, Bùi Xuân Thể, Trần Ngọc Lan.


Ở đây gần một tuần, bắt đầu tổ chức biên chế đi các nơi, hai đồng chí Giám và Lương được phân công vào Đoàn 100 đi học và nhận tàu tuần tiễu ở Hải Nam - Trung Quốc. Ba đồng chí Việt, Thê, Lan được điều động về Trường huấn luyện bờ biển (gọi tắt là Trường 45, sau này là trường huấn luyện Hải quân, trường sĩ quan Hải quân và từng bước phát triển thành Học viện Hải quân bây giờ). Địa điểm của trường đóng tại sở Marine cũ ở Hải Phòng, tức khu doanh trại Xưởng 46 hiện nay. Ngày 12/5/1955, ba chúng tôi có mặt ở đây, số người tập trung về trường chưa nhiều, nhưng chỉ ít hôm sau cán bộ chiến sỹ tập trung về mỗi ngày một đông.


Ngày 6/6/1955, khoá 1 trường 45 bắt đầu khai giảng, khoá học có 2 lớp, gồm một lớp cán bộ thuyền khoảng 50 người, một lớp chiến sỹ kỹ thuật các ngành như lái tàu, cơ điện, xạ thủ, thông tin tín hiệu có khoảng 120 người.


Sau một thòi gian tổ chức đã ổn định, tôi thống kê xem có bao nhiêu người từ Thuỷ quân Sông Lô trở về đây, ở hiệu bộ có đồng chí Trần Lưu Phương được bổ nhiệm làm hiộu trưởng Trường 45 (đồng chí Phương trước đây là cán bộ cấp tiểu đoàn làm đại đội trưởng phụ trách khung huấn luyện thuỷ quân Sông Lô) và đồng chí Thanh Văn Minh là trợ lý chính trị hiệu bộ. Học viên lớp cán bộ thuyền gồm các đồng chí Trịnh Tuần, Nguyễn Khắc Việt, Nguyễn Ngọc Văn, Hoàng Quốc Hùng, Bùi Xuân Thê, Trần Ngọc Lan, Bùi Đoàn Cơ, Đàm Cần, Trần Đại Tấn. Như vậy, mới chỉ trong khoảng thời gian gần 1 tháng tôi đã gặp 13 đồng chí là Thuỷ quân sông Lô. Chúng tôi được học chương trình đào tạo cán bộ thuyền trong thời gian khoảng 2 tháng. Những ngày học tập ở đây, mỗi khi có thòi gian rảnh rỗi, anh em Thuỷ quân Sông Lô lại cùng nhau chuyện trò, kể cho nhau nghe những niềm vui của mình như được học cán bộ thuyền là một ngành học mà anh em quan niệm là có “tiền đồ”. Lại được học ở thành phố lớn thứ 2 miền Bắc, nhưng niềm vui lớn nhất là từ thuỷ quân Sông Lô nay được trở về xây dựng Hải quân.


Tháng 7/1955, Cục phòng thủ bờ bể được thành lập, hai thuỷ đội Sông Lô và Bạch Đằng, mỗi thuỷ đội có 10 ca nô gỗ, trên mỗi ca nô có gắn một khẩu 12,7 ly, một khẩu đại liên mác-xim 7,62 ly, ngoài ra còn có trung liên, tiểu liên, súng trường, lựu đạn. Số học viên cán bộ thuyền khoá 1 phần lớn được biên chế xuống hai thuỷ đội với chức danh thuyền trưởng hoặc thuyền phó. Thuỷ đội Sông Lô có các đồng chí Cần, Thê. Thuỷ đội Bạch Đằng có các đồng chí Cơ, Việt, Văn, Hùng, Tấn. Đồng chí Tuần được ở lại trường làm trợ lý chính trị hiệu bộ, đồng chí Lan được ở lại làm cán bộ khung của trường.


Ngày 24/8/1955, lễ thành lập hai thuỷ đội được tổ chức trọng thể tại trường huấn luyện bờ biển bên bờ sông Cấm của thành phố Hải Phòng. Trong buổi lễ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Tổng quân uỷ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và các đồng chí Hoàng Văn Thái - Phó Tổng tham mưu trưởng, đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Nguyễn Chánh về dự và chủ trì buổi lễ.


Trong bài nói chuyện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau khi chuyển lời hỏi thăm ân cần của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến cán bộ, giáo viên, chiến sĩ, công nhân viên... Đại tướng đã căn dặn 2 thuỷ đội: "... Các đồng chí là những người được lựa chọn trong toàn quân về đây để xây dựng binh chủng mới của quân đội nhân dân Việt Nam, hai thuỷ đội cũng là những viên gạch đầu tiên, là tiền thân của lực lượng tàu chiến của Hải quân nhân dân Việt Nam sau nay. Bờ biển ta dài và rộng, trên bờ có đông dân cư, có các trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng, dưới biển có nhiều tài nguyên quý giá, kẻ địch còn đang lén lút phá hoại. Các đồng chí từ con em của nhân dân mà ra nên phải ra sức phát huy truyền thống của quân đội nhân dân anh hùng, hãy dũng cảm khắc phục khó khăn để ỉàm tròn nhiệm vụ bảo vệ bờ biển của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân đân ta”.


Sau buổi lễ ra mắt hai thuỷ đội, ai nấy đều hào hứng phấn khởi để thực hiện cho được lời căn dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:28:02 am
Thuỷ đội Sông Lô phụ trách vùng biển từ Móng Cái đến Cát Bà, thuỷ đội Bạch Đằng phụ trách vùng biển từ Cát Bà đến Ba Lạt. Tinh hình địch căng thẳng, bọn hải phỉ thường cướp bóc nhân dân, bọn phản động tổ chức cưỡng ép nhân dân di cư vào Nam bằng đường biển. Quá trình hoạt động cũng có nhiều khó khăn gian khổ, tàu ta chạy chậm hơn thuyền buồm của bọn hải phỉ khi xuôi gió, xuôi nước, muốn tiếp cận được chúng cũng cần phải am hiểu ít nhiều về chiến thuật trên biển, tàu nhỏ sóng to có lúc sóng phủ kín cả con tàu... Ngày 25/9/1955 là một ngày đáng nhớ, một cơn bão lớn chưa từng thấy trong mấy chục năm qua với sóng gió cấp 10 đến 12 đổ bộ vào ven biển Hải Phòng, Thái Bình. Cán bộ và thuỷ thủ vật lộn với gió bão suốt ngày đêm, có tàu bị mắc cạn, cán bộ và thuỷ thủ phải ngâm mình suốt ngày đêm dưới nước để giữ cho tàu không bị lật, tàu của đồng chí Bùi Xuân Thê bị dạt lên trên bãi cạn cửa sông Văn Úc, cán bộ, chiến sĩ phải vận động nhân dân cùng nhau đào một con rạch để kéo tàu ra biển.    Năm 1957, khi Trường 45 mở khoá 2 đào tạo hai khung cán bộ để đi nhận hai đoàn tàu tuần tiễu ở Trung Quốc. Số anh em Thuỷ quân sông Lô cũ đang công tác ở hai thuỷ đội được điều động về trường học khoá 2 gồm các đồng chí Việt, Thê, Lan, Văn, Cần, về đến trường chúng tôi thấy hai bạn cũ ở Thuỷ quân Sông Lô nữa là Vũ Phi Hoàng và Đào Văn Kỳ. Số anh em thuỷ quân sông Lô được biên chế như sau: đồng chí Việt, Thê, Lan học nghiệp vụ trưởng súng pháo; đồng chí Hoàng và Văn học nghiệp vụ trưởng hàng hải; đồng chí Kỳ học nghiệp vụ trưởng thuỷ vũ; đồng chí Cần học cán bộ thuyền.


Qua chuyện trò tìm hiểu, tôi biết thêm hai đồng chí Hoàng và Tuần thuộc đội 71 Thuỷ quân Sông Lô được điều về tỉnh đội Quảng Ninh hoạt động du kích biển. Sau khi hiộp định Giơ-ne-vơ nãm 1954 được ký kết, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, Tổng quân uỷ và Bộ Tổng Tham mưu có chủ trương xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam. Để có cơ quan giúp việc, Bộ thành lập “Ban chuyên trách vùng biển” nằm trong Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu, Bộ điều động một số đồng chí trước đây ở đội 71 Thuỷ quân Sông Lô về công tác ở bộ phận này gồm các đồng chí Phan Tiền Đạo, Thanh Văn Minh, Đinh Văn Chí, Vũ Phi Hoàng, Trịnh Tuần, Phạm Vũ Quân, Nguyễn Xuân Quế; đồng chí Phan Tiền Đạo được phân công tạm thời làm trưởng ban, sau đó Bộ điều động đồng chí Nguyễn Bá Phát từ Quân khu 5 ra làm trưởng ban “Ban chuyên trách vùng biển”. Tính đến nay đã có 19 đồng chí Thuỷ quân Sông Lô trở về xây dựng Hải quân.


Học xong khoá 2 trường 45, sau khi đi thực tập ở Đoàn 130 tàu tuần tiễu, tôi được điều trờ lại trường làm giáo viên. Lúc này trường đã đổi tên thành Trường sỹ quan Hải quân, tôi cũng rất yên tâm với nhiệm vụ làm giáo viên, đứng về mặt “thăng quan tiến chức” có thể thua kém các đồng chí được điều về các đơn vị hoặc lên cơ quan Quân chủng, nhưng về mặt nâng cao trình độ kiến thức khoa học thì đây là môi trường phát triển tốt.


Về trường một thời gian, đồng chí Nguyễn Văn Khương được trên bổ nhiệm làm hiệu phó. Đồng chí Khương trước đây là Trưởng ban nghiên cứu Thuỷ quân Sông Lô, là một đồng chí có trình độ giỏi về bộ môn hàng hải lúc bấy giờ. Tuy ở vị trí công tác khác nhau, đồng chí Khương là hiệu phó, tôi là giáo viên, nhưng trước đây chúng tôi cùng ở thuỷ quân Sông Lô cho nên ngoài giờ làm việc, tôi lại lên thăm đồng chí Khương, hai anh em lại nói với nhau những chuyện hồi ở ngã ba Sông Lô - Sông Chảy, tôi cũng kể cho đồng chí Khương biết: tính cho đến nay đã có 20 đồng chí từ Thuỷ quân Sông Lô trở về xây dựng Hải quân, tôi điểm lại từng người cho đồng chí Khương nghe và đồng chí cũng bổ sung thêm 3 đồng chí về các đơn vị phòng thủ, đó là các đồng chí Hà Vãn Ngữ, Nguyễn Trịnh Cược và Bùi Duy Bình - cả ba đồng chí cùng ở tiểu đoàn 470. Như vậy, tổng số có 23 đồng chí về xây dựng Hải quân.


Tròn 37 năm về công tác ở Quân chủng Hải quân, tôi đã 4 lần ở cơ quan và trường học, một lần đi học tại Học viện Hải quân Nam Kinh (Trung Quốc), 3 lần về các đơn vị đã tham gia thực tế chiến đấu đánh máy bay, đánh tàu biệt kích và rà phá tháo gỡ thuỷ lôi Mỹ, đã đảm nhiệm các cương vị như: Trưởng khoa giáo viên của Trường sĩ quan Hải quân, cán bộ nghiên cứu biên soạn của Phòng Khoa học quân sự Hải quân; trưởng phòng Quân sự địa phương Hải quân. Đến cuối năm 1992, tôi được nghỉ hưu với quân hàm Đại tá và là người về hưu cuối cùng trong số anh em Thuỷ quân sông Lô trở về với Hải quân. Sau khi nghỉ hưu từ năm 1995 đến năm 1997, Ban tổng kết chiến tranh của Bộ Quốc phòng lại yêu cầu tôi tham gia và làm chủ biên để tài “Phát huy vai trò dân quân tự vệ biển trong chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển” - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản tháng 9/1997 số 53/870 CXB, là một để tài được xếp vào loại xuất sắc và bản thân tôi được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen, ngoài ra tôi còn làm chủ biên cuốn “Lịch sử Phòng quân sự địa phương Hải quân” được Bộ Tư lệnh tặng Bằng khen.


Những năm tháng trở về xây dựng Hải quân, tôi đã được giáo dục và rèn luyện cộng vói sự nỗ lực của bản thân tự mình phấn đấu nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và khoa học quân sự để theo kịp đà phát triển của một Quân chủng kỹ thuật tiến lên chính quy và từng bước hiện đại. Một yếu tố mà làm cho tôi có một sự bền bỉ, kiên trì để nâng cao năng lực trình độ về mọi mặt đó là chỗ dựa về tinh thần của 23 anh em từ Thuỷ quân sông Lô trở về xây dựng Hải quân.


Theo suy nghĩ của tôi, 23 anh em trong quá trình trở về xây dựng Hải quân đều đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xứng đáng là “những viên gạch đầu tiên” như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã căn dặn. Số cán bộ đó trên mọi lĩnh vực công tác, chiến đấu và nghiên cứu khoa học đều đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên giao, một số đã trở thành cán bộ chủ chốt của các đơn vị và cơ quan như đồng chí Khương là hiệu phó Trường sĩ quan Hải quân, đồng chí Phương là hiộu trưởng Trường 45, một số đồng chí là trưởng khoa giáo viên như đồng chí Việt, đồng chí Lương, một số khi được phân công về các đơn vị đã trở thành những cán bộ chỉ huy đưa đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ như đồng chí Đạo là Chỉ huy trưởng Khu tuần phòng 2 và nhiều năm giữ chức Trưởng phòng quân sự địa phương Hải quân; đồng chí Trịnh Tuần là Chính uỷ Trung đoàn 126 Đặc công Hải quân và sau này là Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân, đồng chí Giám là Phó chủ nhiệm Cục Kỹ thuật Hải quân, đồng chí Ngô Thế Lãng là trưởng phòng văn hoá Hải quân, đồng chí Cần là phân đội phó tàu tuần tiễu đã đánh chìm tàu biệt kích địch, đồng chí Kỳ đã cùng tổ công tác của Đại đội 8 công binh Hải quân mò lặn trên sông Mã trục vớt được 5 quả thuỷ lôi MK-52 đem về Bộ Tư lệnh Hải quân giúp cho việc nghiên cứu khoa học, đồng chí Hoàng khi được biệt phái sang Ban Biên giới Chính phủ phụ trách về tuyến biển đã tự phấn đấu nghiên cứu học hỏi và được phong hàm giáo sư.


Tự hào biết mấy, 23 anh em cùng có chung một niềm vui từ Thuỷ quân Sông Lô trở về xây dựng Hải quân đã phấn đấu trưởng thành về mọi mặt để không bị tụt hậu với đà phát triển chung của Hải quân, đã tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc, góp một phần nhỏ tô thêm truyền thống anh hùng của Hải quân với danh hiệu 16 chữ vàng “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng".


NKV


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:30:08 am
TRỞ LẠI TRẠM GIANG


Đại tá Vũ Phi Hoàng
Giáo sư - Giám đốc cơ quạn Thuỷ đạc - Bộ Quốc phòng


Sau này trong công tác tôi đã có dịp quay về Trạm Giang, vùng ven biển tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc, nơi Đội thuỷ quân 71 năm 1950-1951 đã sang huấn luyện học tập kinh nghiệm đổ bộ chiếm đảo Hải Nam năm 1949 của giải phóng quân Trung Quốc.


Vào năm 1968, tôi được cử tham gia một đoàn cán bộ sang Trung Quốc nghiên cứu những cảng nội địa của bạn nằm dọc theo bờ biển từ Trạm Giang qua eo biển Quỳnh Châu đến Vịnh Hạ Long, chuẩn bị cho các tàu nhỏ vài ba trăm tấn của Việt Nam ra và làm nhiệm vụ chuyển tải hàng hoá từ các tàu lớn của các nước chở hàng đến Việt Nam trong trường hợp các cảng Hải Phòng, Hòn Gai bị phong toả không vào được.


Đoàn gồm có gần hai chục người phần lớn là các thuyền trưởng của Cục vận tải biển, của Hải quân và Bộ đội biên phòng do một hoa tiêu lão luyện của Cục vận tải biển làm trưởng đoàn và tôi làm phó trưởng đoàn.


Đoàn đi hoàn toàn bí mật, mang hộ chiếu, thuyền viên của Việt Nam, đi trên một chiếc tàu nhỏ của Cục vận tải biển như một chiếc tàu chở hàng bình thường len lỏi trong Vịnh Hạ Long để đến bảy giờ tối, tới điểm hẹn ở phía Đông đảo Trà Cổ gặp tàu của bạn đến đón và đi theo về cảng Bắc Hải, Trung Quốc.


Từ cảng Bắc Hải đi bằng ô tô về thành phố Quảng Châu, tôi nhớ đến lần từ Ái Khẩu đi về Long Châu cách đây gần 20 năm hành quân trên những chiếc xe tải sau bao nhiêu "ngày nghỉ đêm đi" bằng chân, nay được cơ giới hoá, thú vị quá. Quân ta được phát toàn quần áo sĩ quan "quốc dân Đảng", áo 4 túi, quần đi ngựa phồng ra ở hai bên hông mà bạn mới lấy từ kho quân trang thu được của địch. Ăn mặc vào anh nào cũng cảm thấy oai lắm. Dọc đường đi, dân tình còn nghèo nàn. Để giữ bí mật, ai hỏi cũng trả lời là dân tộc Lầy (một dân tộc thiểu số ở đảo Hải Nam, Trung Quốc).


Ngày nay, chúng tôi đi trên những chiếc xe du lịch sang trọng, ăn mặc quần áo lịch sự như những khách tham quan, đến noi nào nghỉ cũng vào những khách sạn tiện nghi đầy đủ, thật là cách nhau một trời một vực.


Đến Quảng Châu, Cục vận tải biển Hoa Nam tổ chức đón tiếp chu đáo và được đưa xuống chiếc tàu "Hồng Kỳ 10" - một chiếc tàu chở khách 300-400 giường trang bị sang trọng mà chỉ có chúng tôi, ngần ấy cán bộ của bạn và một số người phục vụ.


Trên đường về, khi tàu vào cảng Trạm Giang, đi qua đảo Nào Cháu, đảo Đông Hải, chúng tôi lấy hải đồ ra cố gắng đối chiếu với thực địa để tìm ra hòn đảo Điều Thuận mà chúng tôi đã ở, học tập và gửi lại hai đồng đội nằm lại năm 1951. Nhưng không thể nhận ra được vì trên đảo Nào Cháu đã xây hai chiếc đèn biển, tầm nhìn xa 20 hải lý để hướng dẫn tàu ra vào ban đêm. Trên đảo Đông Hải có xây một chiếc cầu tàu dài, có nhiều tàu to nhỏ cập bến, trên bờ nhà cửa mái đỏ san sát nhau có vẻ như một trung tâm công nghiệp mới. Ở đảo Điều Thuận, nơi ngày trước là đại bản doanh của đoàn thuyền chúng tôi thực tập, bây giờ hình như là một điểm du lịch.


Tôi bỗng nhớ đến một buổi chiều cuối năm 1950, cái chiều định mệnh ấy, đoàn thuyền của chúng tôi cũng đi trên luồng sông này sau buổi học tập trên biển quay trở về bến đậu. Trời trong xanh, nắng dịu, gió thổi vừa phải. Trên chiếc thuyền "Ơ hao", một chiếc thuyền lớn thứ hai trong đội, có đồng chí Vương - dinh trưởng, đồng chí nữ phiên dịch Vương Minh đang ngồi trên mặt boong tán chuyện. Thuyền chạy dọc ngược theo chiều gió nên phải đi vát. Khi xông lèo, cánh buồm rối dây lèo, kẹt cứng lại, gió thổi ngang mạn thuyền. Con thuyền to chở nhẹ, hai cánh buồm lớn dựng gió nhiều nên con thuyền từ từ đổ nghiêng ra. Anh em trên thuyền cũng rất bình tĩnh, thuyền đổ nghiêng đến đâu thì cứ bò dần theo mạn thuyền đến đó, nói thì lâu nhưng sự việc xảy ra rất nhanh. Khi con thuyền nằm úp lật hẳn xuống thì mọi người đã ngồi trên mặt đáy con thuyền úp xuống. Số là con thuyền vốn to, nhưng các nắp cửa khoang lại hẹp, khi úp sấp xuống, nước không kịp chảy vào khoang, cứ nổi trên mặt nước như một cái phao lớn. Tôi còn nhớ đồng chí Đinh Văn Chí tức "Chí Phèo", lúc đó đang học tiếng Trung Quốc với cô phiên dịch Vương Minh, một tay cầm cuốn sổ, một tay cầm bút, khi thuyền đắm, bò lến đến "đáy" thuyền, vẫn còn nguyên cây bút và cuốn sổ như là trong rạp xiếc. Phần lớn đồng chí quần áo còn khô nguyên không hề bị ướt, không một ai bị rơi xuống nước.


Sau khi kiểm tra lại thấy thiếu 2 đồng chí Nam Hải và Bùi Đình Nguyên. Mọi người mới ớ ra vì hai đồng chí này vốn là người dân chài ở Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, bơi lội vào loại giỏi trong đội. Bạn liền tổ chức cử người đi tìm, sau mới thấy một đồng chí nằm kẹt trong khoang, một đồng chí khi chiếc buồm lật cánh, kẹt lại thì thanh ngang của cánh buồm đập vào ngang trán nên đã ngất đi.


Hai đồng chí đã nằm lại trên hòn đảo lối vào của Cảng Trạm Giang. Hôm nay có dịp đi ngang qua mà không sao ghé thăm được, lòng tôi thấy buồn vô hạn.


Sau chuyến đi nghiên cứu kết thúc, số anh em Hải quân được cử đi làm hoa tiêu cho các tàu quân sự của Trung Quốc sang Việt Nam xây dựng các công trình phòng thủ trong quần đảo Hạ Long. Công việc được tiến hành hoàn toàn về ban đêm, bí mật, người ngoài không một ai hay biết. Các cửa miệng hầm đều được nguỵ trang cẩn thận, đất đá đào lên được đưa ra khơi xa để đổ, bí mật đến nỗi nhân dân làm ăn trong vùng đi lại hàng ngày cũng không nhận ra sự khác biệt trước và sau khi thi công các công trình này.


Các đồng chí hoa tiêu của Hải quân đã hoàn thành rất tốt công việc của mình, được bạn biểu dương khen ngợi vì khả năng dẫn đường trong các luồng thuỷ hẹp của Vịnh; đi đêm, tàu chạy với tốc độ cao, không đèn đóm, không phao tiêu nhưng không bao giờ bị va vấp mắc cạn. Ban đêm trong vùng núi đá dày đặc trông xa như một bức tường thành liền nhau. Thuyền trưởng tàu bạn đứng trên đài chỉ huy rất lo ngại, có lúc phải đề nghị giảm tốc độ, nhưng các đồng chí ta vẫn trấn tĩnh "không ngại, đến gần núi đá sẽ mở đường ra cho ta đi thôi". Trước thực tế đó, các thuyền trưởng tàu bạn đã yên tâm tin tưởng và hoàn thành nhiệm vụ theo đúng kế hoạch đã định.


Chuyến đi Trạm Giang đầu tiên và chuyến đi Trạm Giang gần 20 năm sau đã để lại trong lòng tôi biết bao nhiêu nỗi nhớ nhung luyến tiếc.


V.P.H


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:35:01 am
BUỔI GẶP MẶT KHÔNG HÔ NGHIÊM NGHỈ


Đại tá Đỗ Sâm
Nguyên Trưởng Ban huấn luyện nhà trường- Bộ Tư lệnh Pháo binh


Hà Nội đầu xuân Quý Dậu (1993), một số anh chị em lính thuỷ sông Lô đã gặp lại nhau sau hơn bốn mươi năm xa cách. Buổi họp mặt ngắn ngủi nhưng sâu đậm tình nghĩa và để lại nhiều ấn tượng đẹp.    Anh Lê Trường Đa từ quê hương Đà Nẵng ra, người đại đội trưởng thuỷ quân năm xưa gặp lại những học viên thân thiết cũ, xúc động đọc bài thơ vừa sáng tác "Buổi gặp mặt không hô nghiêm nghỉ - Với tình yêu gắn bó suốt cuộc đời".


Với những lời tâm sự của anh Nguyễn Việt, chính trị viên đầu tiên của Ban nghiên cứu thuỷ quân năm xưa, anh kể lại những ngày thuỷ quân sông Lô, sông Chảy, cho đến những ngày tập luyện ở vùng biển Điều Thuận (Tsékham) - Trung Quốc. Bắt chặt tay các anh Minh, Thông, Hương... những cán bộ, giáo viên của nhà trường đã dìu dắt anh em trở thành những người lính thuỷ, tuy mới chỉ là lính thuỷ trên sông thủơ ấy, anh em kể lại một cách say sưa những mẩu chuyện về những bài học neo nút, chèo thuyền... đầu tiên.


Người phụ nữ duy nhất của buổi gặp mặt, chị Liên, nhân viên văn thư của Ban nghiên cứu, cùng anh em ôn lại những buổi lửa trại văn nghệ sau những ngày luyện tập trên sông nước ở Phú Thọ, Tuyên Quang...


Những người ít tuổi nhất có mặt hôm ấy, những chàng trai học viên thuỷ quân: Sơn, Đạt, Sâm, Tiếp, Hoàng, Quân, Trần, Thành, Quát, Thự, Năng... còn măng sữa năm xưa, nay nhiều người đã là ông nội, ông ngoại.


Tuy thời gian không nhiều, họ cũng dành thì giờ để nhắc lại những kỷ niệm trên bốn mươi năm trước đây, tâm sự với nhau về những ngày rời các trường trung học Kháng chiến, Ngô Sĩ Liên, Hùng Vương, Nguyễn Thượng Hiền, Hàn Thuyên, Huỳnh Thúc Kháng, rcri vùng biển Quảng Ninh đến tập trung ở lớp thuỷ quân Đoan Hùng. Họ kể lại những kỷ niệm từ những ngày đi sông ở Phú Thọ, Tuyên Quang đến những ngày đi biển ở Điều Thuận - Trung Quốc, từ những ngày chiến đấu ở vùng biển Quảng Ninh đến ngày khói lửa Điện Biên, những ngày ở chiến trường Khu 4, Quảng Trị, Thừa Thiên, Liên khu 4, Tây Nguyên, Nam Bộ.... Những ngày đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biên giới trên biển của Tổ quốc, những ngày hoạt động quản lý tù binh Pháp, Mỹ, những ngày bị Pháp bắt đày ra đảo Phú Quốc, Cồn Đảo, Xê nô, Savanakhet... Họ nhắc đến những anh chị em còn chưa biết địa chỉ như các anh Khương, Phương, Thuần, Lê Ngọc Quang, Trác Vinh Nam, Trần Trọng Trung, Thăng, Kim, Cảnh, Thái, Triết, Cánh, Ba/ Hợi, Cần, Lương, Thọ, Cược, Hậu, Sa, Luyến, Mãn, Hanh, chị Thùa, chị Ngọc... Họ bùi ngùi thương tiếc các anh đã mất: Quế, Ngọc, Hùng, Kỳ, Hiệu, Âu, Nguyên, N.Hải, Tiên, Vân, Chí, Vỹ, Phượng, Mai, Khá...


Cuối buổi họp, khi Đỗ Sâm giói thiệu và đọc một số trang nhật ký ghi lại những ngày đầu ở thuỷ quân (1/1950) và ghi lại giờ phút tạm biệt, lúc anh chị em chia tay đi các đơn vị nhận nhiệm vụ mới (22/5/1951) đã xúc động cất cao giọng hật lại đoạn cuối bài "Ra đi" - một bài hát quen thuộc mà trước đây các anh chị em học viên Thuỷ quân các khoá 1, khoá 2 thường hát và đã trở thành bài hát chia tay lúc anh em lên đường:

   "Cho đến hôm nay mùa xuân mới
   Lìa rừng tung cánh ruổi muôn phương"
   Đến đây, dường như được sống lại cái không khí xúc động ra đi của ngày xưa ấy, tất cả các anh chị em trong cuộc họp đã cùng hòa nhịp hát vang theo: 
   "Họ đi trừ hết quân xâm lấn
   Họ đi xây đắp lại non sông"

Tiếng hát năng tình sâu đậm ôn lại một thời trai trẻ vang xa như một giàn đồng ca - dàn đồng ca của những người "Lính thuỷ cụ Hổ" - đã từng gắn bó mật thiết với nhau trên rừng, trên sông, trên biển năm xưa sẽ còn mãi mãi tồn tại gắn bó với nhau, với sông, với biển, với quê hương, đất nước.


Hà Nội, Xuân Quý Dậu
ĐS


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:36:38 am
CHẲNG NGỜ


Lê Trường Đa
Nguyên Bí thư Đảng uỷ - Chính trị viên Xưởng 46 -
Cục Phòng thủ bờ bể - Bộ Tổng Tham mưu
Người đại đội trưởng năm xưa, nay đã 69 tuổi
Tặng các anh lớp Thuỷ quân sông Lô


   Thật chẳng ngờ tôi lại gặp may,
   Gọi trúng mánh, gì gì... cũng được,
   Nói triệu phú, khẳm tiền... đều xong hết,
   Duy một điều tôi chấp nhận chẳng xong:
   Đã lâu rồi, hồi tôi còn sung sức
   Tiếp một đoàn trai trẻ hơn tôi,
   Trạc tuổi đời mười chúi đôi mươi
   Cường tráng, đẹp trai,... đều đủ cả
   Họ tòng quân với gương mặt yêu đời
   Vang tiếng hát sau những giờ luyện tập,
   Ăn cơm muối vẫn ngon như bánh ngọt
   Lên giảng đường, nếp đại học văn phong
   Và chẳng ngờ sau cuộc đời người lính
   Tôi mãi mang theo hình ảnh khoá này,
   Sau bốn ba năm, biết bao hoài niệm
   Hạnh ngộ nào, gặp lại các anh đây?
   Buổi gặp gỡ không hô: Nghiêm! Nghỉ!
   Đón từng người lẳng lặng ôm hôn,
   Cùng giấu nhau những dòng nước mắt
   Cố ghìm đi, không bật tiếng khóc oà!
   Rồi vào họp, nói gì tôi chẳng nhớ
   Cứ ngắm nhìn những người lính của tôi
   Khao khát quá, tôi muốn ôm ghì tất cả
   Những nụ hôn cứ tồn đọng trong lòng
   Cũng chẳng ngờ, tôi chấp nhận chẳng xong
   Cả triệu phú, khẳm tiền, đều thua hết,
   Buổi gặp gỡ trào dâng bao kỷ niệm
   Với tình yêu gắn bó suốt cuộc đời.


Hà Nội, Xuân Quý Dậu
LTĐ


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:38:59 am
ANH LÍNH THỦY SÔNG LÔ VỀ VỚI CỘI NGUỒN


Đại tá Trần Duy Thành
Nguyên biên tập viên - Nhà xuất bản Quân đội


Sáng 8/3/1994, hai chiếc xe ca của Bộ Tư lệnh Hải quân xuất phát từ Trạm 66 Cửa Bắc (Hà Nội) đưa đoàn cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô trở về bến Giàn huyện Đoan Hùng tỉnh Vĩnh Phú, nơi cách đây 45 năm (ngày 8/3/1949) là căn cứ thành lập Ban nghiên cứu thuỷ quân trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu.


Anh chị em những người lính thuỷ sông Lô năm xưa, từ Đà Nẵng ra, từ Hải Phòng - Thuỷ Nguyên lên và số đông ở Hà Nội tới, hoà nhập với những anh em Vĩnh Phú, gặp nhau tay bắt mặt mừng, tuy mái đầu đã bạc, tuổi đều quãng 60 - 70, một số đã xấp xỉ 80, nhưng tất thảy đều xúc động hân hoan khôn xiết như mới ngày nào cách đây trên 40 năm còn là những chàng trai, cô gái vô tư, hăng say tình nguyện vào Thuỷ quân đi giết giặc cứu nước.


Trời lất phất mưa bụi chuyển dần sang ấm, khô ráo khi đoàn xe tiến về vùng trung du lúp xúp đồi cọ nương chè. Đi cùng đoàn trên năm mươi cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô còn có hai anh Đào Văn Trường, Phan Phác tuổi đều đã trên 80, nguyên Tổng tham mưu phó, được Bộ lần lượt phân công thay nhau phụ trách Ban nghiên cứu và trường thuỷ quân vào những năm 49-51. Hai anh không quản ngại đường xa sức yếu, đã hoà mình cùng anh em phấn khởi hành quân. Đại diện một số cơ quan hữu quan có: đồng chí Thượng tá Nguyễn Quốc Dũng - Viện lịch sử quân sự, đồng chí Thượng tá Đỗ Xuân Quế - Viện Bảo tàng quân đội. Các anh đều phấn khởi chia xẻ niềm vui cùng hành quân với anh em.


Sau gần 6 giờ xe chạy, đoàn đến đầu cầu Đoan Hùng thì dừng lại. Tại đây đã có đồng chí Hội trưởng cựu chiến binh tỉnh Vĩnh Phú, các đồng chí phó chủ tịch UBND và chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Đoan Hùng chờ đón để hướng dẫn đoàn ngược theo tả ngạn sông Chảy vào phố Giàn, có cả lực lượng công an với các thiết bị thông tin bộ đàm đi hộ tống, thể hiện sự trọng thị của địa phương dành cho đoàn, khiến cho anh chị em rất xúc động.


Đến phố Giàn, lại thêm một bất ngờ mới đối với Đoàn, một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt của đông đảo nhân dân thị xã trong các bộ quần áo đủ màu sắc, với băng cờ biểu ngữ đỏ thắm, trong tiếng trống rộn ràng của các cháu thiếu nhi quàng khăn đỏ xếp hàng chỉnh tề dọc hai bên đường vào hội trường vỗ tay hoan nghênh chào đón Đoàn.


Đoàn cựu chiến binh lính thuỷ sông Lô thực sự xúc động trước tấm lòng nồng nhiệt đón tiếp cùa đồng bào địa phương, nhất là lúc này đã 11 giờ trưa, xe của Đoàn đã đến chậm cả tiếng đồng hồ rồi mà không rõ các cụ, các cô bác, các anh chị và các cháu thanh thiếu nhi đã túc trực ở đây tự bao lâu rồi? Ôi, tình cảm quân dân thật là sâu nặng, thắm thiết biết bao!


Anh chị em trở về căn cứ xưa, nơi đã từng sống những năm tháng kháng chiến nhiều khó khăn gian khổ, với sự đùm bọc yêu thương của nhân dân địa phương đã chia xẻ từng củ khoai, lát sắn, dành từng gian nhà, góc vườn cho đơn vị trú quân, luyện tập và nay vẫn tình cảm xưa, càng nồng thắm sâu đậm hơn, khiến anh chị em cảm thấy mình như những đứa con đi xa lâu ngày nay được trở về ấm áp trong tình thương yêu của quê hương làng xóm, bà con thân thích. Trong và ngoài hội trường đông nghịt người, những bó hoa tươi thắm được các cháu thiếu nhi hân hoan ríu rít trao tặng đồng chí Phó chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Chủ tịch hội cựu chiến binh tỉnh và Đoàn cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô mà đại điện là hai đồng chí cao tuổi nhất nguyên là Tổng tham mưu phó. Các hàng ghế trong hội trường đầy ắp người, xen kẽ giữa các anh chị em thuỷ quân sông Lô là đại diộn của nhân dân hai xã Hùng Quan và Nghinh Xuyên. Còn nhiều đồng bào phải đúng tràn ra cả hai bên hành lang và cửa ra vào. Trên lễ đài, đoàn chủ tịch cuộc mít tinh gồm có:

- Đồng chí Nguyễn Kim Chân - Phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phú.    
- Đồng chí Nguyễn Hiền - Chủ tịch Hội cựu chiến binh tỉnh Vĩnh Phú.
- Đồng chí Chủ tịch HĐND và đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện Đoan Hùng.
- Các đồng chí Bí thư và Chủ tịch UBND cả hai xã sở tại.
- Cùng đồng chí Nguyễn Việt, Trưởng ban liên lạc Đoàn cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô.


Khẩu hiệu "Hoan nghênh các cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô về thăm căn cứ địa phố Giàn" trên nền biểu ngữ đỏ rực căng suốt chính diện hội trường đã nói lên tính chất trọng thị và ý nghĩa sâu sắc của cuộc mít tinh. Lời khai mạc của "chủ" và lời đáp của "khách" chứa đựng ân tình, thuỷ chung, giàu tinh thần cách mạng và mang ý nghĩa giáo dục truyền thống sâu sắc, xuất phát từ tận đáy lòng, từ tình cảm quân dân sâu đậm, lắng đọng từ hơn bốn chục năm, nay mới được dịp bày tỏ.


Tiếp sau là cuộc trao tặng phẩm của đôi bên: Đoàn cựu chiến binh Lính thuỷ sông Lô tặng tỉnh, huyện và xã những bức trướng thêu mang dòng chữ "Quân với dân một ý chí", kèm theo quà tặng cho các cháu học sinh hai xã. Bộ Tư lệnh Hải quân trao tặng địa phương tấm ảnh Bác Hồ mang sắc phục Hải quân lồng trong khung kính mạ vàng - hình ảnh quý báu ghi lại ngày Bác đến thăm Quân chủng lần đầu tiên đánh dấu thành tích lập công xuất sắc của Hải quân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lãnh đạo địa phương tặng đoàn cựu chiến binh Lính thuỷ sông Lô những món quà đặc sản của quê hương như: chè ướp sen Đoan Hùng, bưởi vàng Chí Đám vốn nổi tiếng xưa nay.


Xen kẽ các cuộc trao tặng phẩm là các tiết mục liên hoan văn nghệ của thanh thiếu nhi xã với nội dung khá phong phú. Một tốp anh chị em Lính thuỷ sông Lô cũng tham gia hát vang bài "Có một đoàn trai từ vạn nẻo về đây" và bài "Sông Lô", các bài hát mà cách đây hơn 40 năm tại căn cứ này họ đã từng cất cao tiếng hát hàng ngày, để nhớ lại một thời trai trẻ vô tư tự hào và đầy nhiệt tình yêu nước vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Cuộc gặp mặt kéo dài như chẳng muốn dứt, vì tình cảm quân dân còn chứa chan lưu luyến. Song cuộc hành hương còn phải thực hiện các bước tiếp theo đã đề ra trong kế hoạch. Đoàn ra thăm và chụp ảnh cùng nhân dân địa phương tại nơi bến bãi, căn cứ bến đậu của Thuỷ quân sông Lô năm xưa. Xa xa, hình ảnh người dân chèo thuyền bằng đôi chân điêu luyện dưới lòng sông xanh bát ngát, đôi bờ "xanh um bóng tre" gọi nhớ đến lời hát hào hùng của bài "Trường ca sông Lô" của nhạc sĩ Văn Cao, nay trong khung cảnh hoà bình của đất nước lại càng tô đậm thêm đặc trưng thanh bình và thơ mộng của một vùng sông nước trung du của Việt Bắc. Tiếp đó, Đoàn đến thăm và chụp ảnh kỷ niệm bên tượng đài "Chiến thắng sông Lô" để lưu lại dấu ấn của một trang sử chói lọi chiến công của căn cứ địa kháng chiến Thu Đông 1947, nơi đây cuộc hành quân của giặc Pháp với âm mưu tiêu diệt đầu não của kháng chiến do Bác Hồ lãnh đạo đã hoàn toàn thất bại.


Bữa cơm trưa do UBND huyện Đoan Hùng chiêu đãi đã phải lùi chậm lại, mãi tận 2 giờ chiều, nhưng dường như cả chủ lẫn khách đều quên cả đói mệt, bởi trong lòng mọi người còn tràn đầy những xúc cảm sâu nặng của nghĩa tình.


Chia tay với địa phương Đoan Hùng, Đoàn cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô được lãnh đạo tỉnh mời về thăm di tích đền Hùng, nơi mà nhiều anh chị em Lính thuỷ sông Lô đã từng mơ ước và cũng là lần đầu tiên được về thăm quê hương đất tổ của dân tộc. Bảo tàng Hùng Vương với nét kiến trúc độc đáo tượng trưng cho trời tròn đất vuông giao hoà nhau, đồng thời thể hiện được sự tích bánh dầy, bánh chưng do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế, mới được khánh thành. Nội dung trưng bày phong phú của bảo tàng đã đưa các cựu chiến binh sông Lô hiểu thêm về cội nguồn dân tộc, ai nấy rất xúc động trước hình ảnh Bác Hồ về thăm đền Hùng với lời dạy sâu sắc: "Các Vua Hùng đã có công diữig nước, Bác cháu ta phải gắng công giữ lấy nước". 


Phố Giàn - Đoan Hùng - Đền Hùng - Vĩnh Phú mãi mãi là những địa danh đậm tình nặng nghĩa. Đoàn xe trở về Hà Nội khi hoàng hôn xuống dần, cảnh vật bên ngoài ưở nên tĩnh lặng, song âm vang của núi sông, của đất nước và con người trung du còn đọng mãi sâu lắng trong lòng của mỗi người cựu chiến binh lính thuỷ sông Lô theo nhịp lắc lư ghập ghềnh của bánh xe ca về xuôi. Dù đất trung du có xa dần, nhưng mọi người vẫn thầm mong rồi đây sẽ có ngày trở lại.


Tháng 3/1994
T.D.T


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 12 Tháng Hai, 2021, 09:42:10 am
HÀNH HƯƠNG VỀ THĂM MẸ
(Kính tặng Mẹ, tặng quê hương Đoan Hùng)


Đại tá Nguyễn Xuân Triết
Thành viên Hải Phòng trong đoàn Thuỷ quân sông Lô
về thăm quê Mẹ Đoan Hùng nhân ngày kỷ niệm 45 năm thành lập
Ban NCTQ 8/3/1994)


   Bốn mươi nhăm năm, con mới về thăm mẹ,
   Mẹ đã đi rồi! Con cháu mẹ còn đông
   Tình xưa nghĩa cũ mặn nồng,
   Dẫu rằng xa cách, mang trong tim này
   Trở về thăm mẹ hôm nay,
   Mà như sống lại những ngày năm xưa
   Nhọc nhằn trăm nắng ngàn mưa,
   Mẹ lo cho lũ con xa đủ đầy
   Chiếu gường, nhà cửa mẹ đây
   Bưởi kia, sắn nọ, chè này cho con
   Sông Lô, nhớ cội nhớ nguồn
   Đoan Hùng vẫn nhớ mái trường thuỷ quân.
   Chờ mong đôi mắt mỏi mòn
   Về bên mẹ vẫn tưởng còn trong mơ
   Tình quê nhớ mãi bây giờ,
   Trong vòng tay mẹ, tuổi thơ lại về
   Đàn con xa mẹ, xa quê,
   Mối tình mẫu tử, sức gì cản ngăn?
   Mẹ ơi! Xin mẹ yên tâm,
   Con đi, nhớ mẹ vẫn mong ngày về.


NXT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 01:58:36 pm
KHÚC TÂM TÌNH NGƯỜI LÍNH THỦY SÔNG LÔ


Lê Văn Bằng

   Trở về đất Tổ Hùng Vương
   Sông Lô vẫn đó vẫn vang nghĩa tình
   Về đây mình lại gặp mình
   Dòng sông bạn của thuỷ binh ngày nào
   Sóng cồn lòng vẫn nôn nao
   Dấu chân vệ quốc thuở nào còn không?
   Hôm nay trở lại bến sông
   Ai còn, ai mất chạnh lòng nhớ thương
   Bồi hồi xao xuyến tơ vương
   Bao năm chiến đấu chặng đường trường chinh
   Bạn ơi! Tất cả chúng mình
   Gặp nhau lòng nặng nghĩa tình thương yêu
   Sông Lô khổ luyện sớm chiều
   Ngày đầu thành lập bao nhiêu ngỡ ngàng
   Bến Giàn một thuở dọc ngang
   Đoàn quân vệ quốc sẵn sàng hy sinh
   Đến nay lớn mạnh trưởng thành
   Tàu to, súng lớn tuần canh biển trời
   Trở về hoài niệm xa xôi
   Lòng người lính thuỷ sáng ngời như gương
   Về hưu cuộc sống đời thường
   Sớm hôm sưởi ấm tình thương xóm làng
   Nhớ ngày giặc Mỹ leo thang
   Chiến hạm Ma đốc ngang nhiên cắn càn
   Quân dân đoàn kết xóm làng
   Đồng tâm, hiệp lực đánh tan giăc thù
   Tháng ba, mồng tám, êm ru
   Sông Lô soi bóng người xưa trở về
   Gặp nhau lại tưởng như mê
   Bao năm xa cách lại về bên nhau
   Mắt mờ, má hóp, trán chau
   Gửi lời thăm hỏi đôi câu tâm tình
   Một đời chẳng quản hy sinh
   Về hưu vẫn giữ trọn tình trước sau
   Gặp nhau dù ngắn, hay lâu
   Nghĩa tình đồng đội trước sau cội nguồn
   Tôi về vẫn nhớ bạn luôn
   Một thời để nhớ vui buồn có nhau
   Sông Lô lờ lững nông sâu
   Ngàn năm nhớ mối tình đầu khó phai.


Ngày 18 tháng 10 năm 1997
LVB


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 01:59:15 pm
BỐ TRỞ VỀ


Kính tặng Bác cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô
Nguyễn Thanh Bình
Bí thư huyện đoàn Thanh niên - Đoan Hùng


   Bố trở về, chúng con đã lớn lên
   Bốn mươi năm chiến trường khói lửa
   Đã bao lần chỉ qua nhà ít bữa
   Trọn niềm vui "Mẹ có Bố thật rồi"
   Bố trở về chỉ có thế này thôi
   Chiếc ba lô mang cả đời quân ngũ
   Cả tấm ảnh Mẹ con thời thiếu nữ
   Tập thư nhà nét chữ nhạt vì sương
   Bố trở về với cuộc sống đời thường
   Nhìn "cơ nghiệp" còn bộn bề công việc
   Cuộc sống mới vẫn phải còn bước tiếp
   Gian khổ nhiều, chưa được nghỉ ngơi
   Nhớ khi xưa "thắng giặc, thắng trời"
   Miếng cơm xẻ đôi, chăn sui chia nửa
   "Đầu súng trăng treo", tâm hồn tươi trẻ
   "Lính Cụ Hồ" dân nhớ, dân thương
   Bố chưa quen với "cơ chế thị trường"
   Đời binh nghiệp chỉ quen súng đạn
   Làm kinh tế khó như là "vượt cạn"
   "Giặc đói nghèo" khó hơn "giặc xâm lăng"
   Nhìn cháu nghèo vẫn tới lớp tung tăng
   Bố gửi cháu món quà bé nhỏ
   Bà hàng xóm bên nhà quá khổ
   Gạo trong nhà bố gửi giúp đôi cân
   Bố trở về với mảnh đất quê hương
   Lại tảo tần với cuộc sống đời thường
   Lại lo toan sớm chiều vất vả
   Vững tay chèo sóng cả chẳng ngả nghiêng.
   Anh "lính Cụ Hồ", tiếng gọi thiêng liêng
   Người lính ở đâu, dân tin dân nhớ
   Hết giặc trở về, "trọn tình chồng vợ"
   "Trọn đạo", "trọn đời", khúc hát ngàn năm.


TB


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:00:01 pm
MÀU ÁO LÍNH


Trung tá Trần Minh Thái
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Quảng Ninh


   Sắc xanh nghiêng xuống rừng biên giới
   Sương đọng trên vai áo Bác Hồ
   Ba thời đánh giặc, tôi bên súng
   Mang áo xanh và tên Bác cho
   Xanh theo hương cốm thơm mùa cưới
   Xanh mát cây đa rợp bến đò
   Ai cài mái tóc nhành thiên lý
   Xanh ngả vai người phút tiễn đưa
   Xanh chẳng dành riêng cho chiến trận
   Là dây diệp lục của tâm hồn
   Xanh từ đồng lúa qua trang sử
   Áo Bác Hồ cho xanh núi sông
   Hôm nay lính cũ về sum họp
   Ngưng chén nhìn nhau thoáng giật mình
   Xin ai từng đã mang tên Bác
   Đừng mất trong lòng sắc áo xanh.


TMT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:01:13 pm
NHIỀU THÀNH VIÊN BAN NGHIÊN CỨU THỦY QUÂN ĐÃ ĐƯỢC BỘ TỔNG THAM MƯU GỌI VỀ SAU NGÀY HOÀ BÌNH 1954 ĐỂ THAM GIA CÔNG TÁC CHUẨN BỊ THÀNH LẬP CỤC PHÒNG THỦ BỜ BỂ


Đại tá Vũ Phi Hoàng
Giáo sư - Giám đốc cơ quan Thuỷ đạc- Bộ Quốc phòng


Ngay sau Hội nghị Giơ-ne-vơ, Hoà bình được lập lại, từ tháng 8 -10/1954, một số anh em ở Đội Thuỷ quân 71 được triệu tập về Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu, trước mắt có 7 ngưòi; đồng chí Phan Tiền Đạo, Nguyễn Văn Quế, Thanh Văn Minh, Đinh Văn Chi, Vũ Phi Hoàng, Phạm Vũ Quân, Trịnh Tuần, hình thành một tổ nằm trong Cục Tác chiến, do đồng chí Phan Tiền Đạo phụ trách. Sau đó có anh Nguyễn Bá Phát và một số anh em khác ở liên khu V ra, bắt đầu hình thành Ban nghiên cứu Hải quân trực thuộc Cục Tác chiến và được giao nhiộm vụ nghiên cứu nhiều phương án, trong đó có phương án biên chế tổ chức Hải quân, trường huấn luyện, xưởng sửa chữa đóng tàu thuyền và kế hoạch điều động cán bộ từ các noi về. Phương án xây dựng lực lượng phòng thủ bờ biển, các khu tuần phòng, các trận địa pháo binh bờ biển và các vị trí đặt trạm quan sát dọc bờ biển. Phương án xây dựng lực lượng tàu thuyền, bao gồm các kế hoạch sưu tầm máy móc phương tiện thuỷ, tìm kiếm trục vớt các tàu địch bị ta đánh đắm trên các triền sông, ven biển để khôi phục sửa chữa, đóng mới một số ca nô chiến đấu cho một số thuỷ đội hoạt động được ngay.


Sau khi quân Pháp rút khỏi "Vùng 300 ngày", tỉnh đội Hải Ninh báo cáo có 2 chiếc tàu của Pháp, chống lệnh tập trung, đã chạy ra ẩn náu ở vùng đảo Vĩnh Thực, xin cán bộ ra tiếp quản.


Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã đích thân ký lệnh và Cục trưởng Cục tác chiến Trần Văn Quang đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Vũ Phi Hoàng (vốn trước đây công tác ở tỉnh đội Hải Ninh) lên đường ngay để tiếp quản và đưa về Hải Phòng làm phương tiện hoạt động đầu tiên trên sông nước. Đó là 2 chiếc tàu kéo. Một chiếc vỏ sắt chạy máy hơi nước và sau này được giao cho Bộ Giao thông vận tải làm nhiệm vụ lai dắt tàu cập bến Hải Phòng, và một chiếc tàu gỗ lắp máy diezel được đưa về sửa chữa, lắp đài chỉ huy, trang bị thêm súng 12,7 mm, đổi tên là tàu Hoà Bình.


Đầu tháng 6/1955, tàu Hoà Bình và một chiếc nữa vốn là hoa tiêu được sửa chữa xong, trạng bị vũ khí đầy đủ, đã trở thành những phương tiện chiến đấu đầu tiên của lực lượng phòng thủ bờ biển.


Ngay từ đầu năm 1955, cơ quan đã cử cán bộ đi nhiều nơi khảo sát các cơ sở đóng tàu thuyẻn của nhân dân để đóng một loạt ca nô chiến đấu, trang bị cho 2 thuỷ đội Sông Lô và Bạch Đằng. Ta đã tìm được 2 địa điểm: Một ở Tiên Yên và một ở Quảng Yên vốn là cơ sở sản xuất của nhân dân, có kinh nghiệm đóng tàu thuyền đi biển và có nguồn cung cấp gỗ dồi dào, có thể khai thác ngay tại chỗ rất thuận lợi. Đã có công trường đóng ca nô, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn cần phải khắc phục như bản vẽ kỹ thuật chưa có, chưa duyệt hình thức của chiếc ca nô ra sao, cũng còn nhiẻu ý kiến khác nhau nhưng vừa làm vừa tìm hiểu, cuối cùng ta cũng đã khắc phục được.


Đầu tháng 8/1955 hai công trường này đã cho ra đời 2 chiếc ca nô chiến đấu loại nhỏ đầu tiên, có khả năng đi biển tốt. Ca nô được thiết kế ở giữa có đài chỉ huy, đầu mũi có ụ súng chiến đấu lắp đại liên.


Ngày 20/8/1955 thành lập 2 thuỷ đội. Sau lễ duyệt binh của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, hai thuỷ đội ca nô chiến đấu Sông Lô và Bạch Đằng bắt đầu cuộc diễu binh theo đội hình chiến đấu diễu qua tàu kỳ hạm chở Đại tướng Tổng Tư lệnh và tàu Hoà Bình chở quan khách, cờ đỏ sao vàng tung bay, các chiến sĩ oai nghiêm trên vị trí chiến đấu của mình đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với nhân dân thành phố Cảng. Đó là niềm tự hào của quân đội ta với lực lượng chiến đấu trên sông biển, tiền thân của lực lượng tàu mặt nước của Hải quân nhân dân ta.


Sau lễ duyệt diễu binh, hai thuỷ đội Sông Lô và Bạch Đằng nhận nhiệm vụ tuần tiễu giữ vững trật tự an ninh vùng biển Đông Bắc từ Trà Cổ - Cái Chiên - vịnh Bái Tử Long, vịnh Hạ Long đến đảo Cát Bà, cửa biển Nam Triệu.


Sau khi rút khỏi "Vùng 300 ngày", địch đã cài cắm nhiều cơ sở phản động chống phá ta trên tất cả các mặt kinh tế - chính trị - xã hội, nhất là ở khu vực mỏ Hòn Gai, cửa biển Hải Phòng... Hai thuỷ đội không quản ngại gian khổ, hiểm nguy đã ngày đêm tuần tiễu canh phòng vùng biển Đông Bắc, đập tan nhiều âm mưu phá hoại của bọn phản động tay sai đế quốc, sau những ngày tháng đầu tiên miền Bắc được giải phóng, mở ra một trang mới của lịch sử Hải quân nhân dân. 


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:02:30 pm
TỪ THUỶ QUÂN SÔNG LÔ ĐẾN HẢI QUÂN NHÂN DÂN VÀ CHIẾN CÔNG ĐẦU THÁNG 8 NĂM 1964


Nguyễn Quốc Dũng
Viện trưởng Viện Lịch sử quản sự Việt Nam


Đầu xuân năm 1994, tại phố Giàn, Làng cỏ nằm bên bờ sông Chảy, gần ngã ba với sông Lô - những tên làng, tên phố đã một thời là kỷ niệm sâu sắc với những người "Lính thuỷ sông Lô" đã diễn ra một cuộc gặp đầy xúc động. Sau 45 năm, nhiều người một thời đã là "Lính thuỷ sông Lô" mới được trở về với dòng sông "nước băng qua ngàn sóng xô ven bờ xanh um bóng tre".


Đồng chí Nguyễn Việt, nguyên là chính trị viên Ban nghiên cứu Thuỷ quân năm 1949 còn nhớ lời căn dặn, giao nhiệm vụ của Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng giữa căn cứ Việt Bắc: Nhìn về tương lai rộng mở để xây dụng quân đội tiến lên, đất nước ta với bờ biển vài ba ngàn cây số, nhất định phải có một lực lượng Hải quân hùng mạnh, xứng đáng với lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc đã từng có những lực lượng thuỷ quân lập nên những chiến công hiển hách, lẫy lừng trên sông Bạch Đằng, Lục Đầu Giang. Chính vì mục tiêu đó, căn cứ vào điều kiện thực tế, Bộ Quyết định trước mắt thành lập Ban nghiên cứu Thuỷ quân (đồng thời với Ban nghiên cứu Không quân) để:

- Nghiên cứu những phương án xây dựng và chiến đấu của lực lượng thuỷ quân phù hợp với thực tiễn hiện nay và trong tương lai gần.    - Tập hợp đội ngũ cán bộ, công nhân viên, tạo điều kiện xây dựng cơ sở ban đầu.

- Tuyển mộ, huấn luyện đào tạo một đội ngũ thuỷ quân cách mạng, trẻ, có trình độ khoa học kỹ thuật hàng hải. 


Thực hiện quyết định của Bộ, Ban Nghiên cứu Thuỷ quân được chính thức thành lập ngày 8 tháng 3 năm 1949. Những ngày đầu chỉ có vài ba người, sau tập trung dần, đến cuối năm 1949 đã có doanh trại, cơ sở huấn luyện gồm một số lán trại bên bìa rừng và trên các ngọn đồi, một phần dựa vào các nhà dân ở rải rác ven sông Chảy thuộc khu vực phố Giàn. Đồng chí Nguyễn Văn Khương (trưởng ban) và Trần Đình Vọng (phó ban) đều là người miền Nam, từng là lính thuỷ hoặc làm nghề hàng hải, quen với sóng gió. Về tổ chức, có ba ban chuyên môn và bộ phận hành chính quản trị, hậu cần. Ban hàng hải có anh Quế - một người hiểu biết về hàng hải; anh Vị từng lái tàu ở vùng biển Đông Bắc từ Vịnh Hạ Long đến Bái Tử Long. Ban Thông tin hàng hải (gồm các phương tiên đơn giản như cờ, đèn, kèn) có các anh Ngọc, Thông, Hương. Ban điện cơ máy nổ có anh Thăng nguyên là nhân viên trường kỹ nghệ thực hành, anh Kim (máy nổ). Các ban chuyên môn vừa làm nhiệm vụ nghiên cứu, vừa trực tiếp huấn luyện học viên.    Trong hoàn cảnh kháng chiến và giữa núi rừng Việt Bắc chưa thể có ngay phương tiện bảo đảm cho các lực lượng hoạt động trên sông biển, Ban Nghiên cứu Thuỷ quân chủ trương từng bước xây dựng lực lượng thuỷ quân đánh bộ (thực chất là du kích ven sông biển). Về phương tiện, cố gắng tìm kiếm một số la bàn, máy nổ, phương tiện thông tin đơn giản (cờ, đèn). Đồng thời đề nghị Bộ cho đóng thử một vài chiếc thuyền gắn máy lắp súng đại liên, có thể hoạt động trên sông, khi có điều kiện sẽ tổ chức một đội thuỷ quân trên sông Mã (Thanh Hoá), sông Lam (Nghệ An), sông Lô (đoạn từ Việt Trì đến Tuyên Quang), sông Hồng (đoạn từ Phú Thọ đến Yên Bái).


Gần 200 học viên khoá 1 thuỷ quân tuyển chọn từ các đơn vị bộ binh, dân quân du kích vùng ven biển Đông Bắc gồm những người biết nghề đi biển, chài lưới, một số là học sinh các trường trung học ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc được tổ chức thành một tiểu đoàn huấn luyện do một lính thuỷ cũ - anh Lưu Phương làm tiểu đoàn trưởng và anh Khổng Hiệu làm chính trị viên. Chương trình huấn luyện gổm: chính trị, quân sự, chuyên môn, trong đó có một số nội dung về kỹ thuật, chiến thuật của thuỷ quân như bắn súng trên thuyền, trên ca nô, tập bơi, lặn; tập chèo thuyền, chèo xuồng, tập đổ bộ (từ bờ lên thuyền và từ thuyền nhảy lên tiếp cận bờ, triển khai đội hình chiến đấu); tập sử dụng hải đồ, tìm hướng đi trên biển theo kinh nghiệm của nhân dân (như nhìn trăng sao, theo thuỷ triều, hướng gió), cách sử dụng các phương tiện thông tin đơn giản (cờ, đèn)...


Bước sang năm 1950, theo chỉ thị của Bộ, Ban Nghiên cứu Thuỷ quân khẩn trương chuẩn bị mở lớp huấn luyện cán bộ lính thuỷ đánh bộ, lớp cán bộ hàng hải - lái tàu, lớp điện cơ máy nổ; đồng thời lựa chọn khoảng 100 học viên khoá 1 và khoá 2 tổ chức thành một đại đội mang tên "Đội thuỷ binh 71" sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm đổ bộ đảo của quân đội bạn.


Sáu tháng học tập ở Nào Cháu (Điều Thuận) các chiến sĩ đội thuỷ quân 71 được huấn luyện một số kỹ thuật, chiến thuật bộ binh theo kinh nghiệm của bạn, bước đầu làm quen với sóng gió, tập kéo buồm, lật lèo buồm, đi vát, đi ngược gió trên biển. Một số chiến sĩ được học tập sử dụng máy nổ (xe ô tô vận tải GMC của Mỹ). Cuối khoá học, toàn đội được bạn giới thiệu chiến lệ "chiến dịch đổ bộ đánh chiếm đảo Hải Nam" của giải phóng quân Trung Quốc.


Tháng 4 năm 1951, sau khi hoàn thành khoá huấn luyện, đội Thuỷ quân 71 hành quân về đến làng cỏ, một làng nhỏ ven sông Chảy, kề bên phố Giàn của cơ quan Ban Nghiên cứu Thuỷ quân. Tình hình lúc này đã có nhiều thay đổi. Từ sau chiến thắng biên giới Thu Đông 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta chuyển sang giai đoạn mới. Đồng chí Trịnh Tuần, một chiến sĩ của Đội thuỷ quân 71, sau này là Cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng Hải quân còn nhớ những ngày náo nức chờ đón nhiệm vụ sau khi Đội về nước và câu chuyện thân tình, cởi mở cua đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái khi phân tích tình hình, thông báo chủ trương của Bộ và giao nhiệm vụ mới cho các chiến sĩ Thuỷ quân sông Lô. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chỉ rõ bước phát triển mới của cuộc kháng chiến kể từ sau chiến dịch Biên giới, đồng thời nêu lên những khó khăn mà quân và dân ta phải vượt qua để đưa kháng chiến đến thắng lợi. Đồng chí nói đại ý, đất nước ta có bờ biển dài, vùng biển rộng, có nhiều sông ngòi, nhất định phải có lực lượng thuỷ quân tương xứng để bảo vệ chủ quyển của Tổ quốc. Nhưng trong hoàn cảnh hiện thời, ta chưa có điều kiện để xây dựng lực lượng thuỷ quân như mong muốn. Một mặt vì khả năng trang bị và địa bàn cho thuỷ quân hoạt động rất khó khăn; mặt khác, Bộ đang cần tập trung nhân lực, vật lực để xây dựng một số sư đoàn chủ lực, cần phải cắt giảm quân số và chỉ tiêu ở những đơn vị chưa cần thiết. Do vậy, Bộ chủ trương giải thể các Ban nghiên cứu Thuỷ quân và Không quân. Bộ giao cho Ban nghiên cứu Thuỷ quân việc phân bổ số học viên ở đây sao cho hợp lý để phát huy được những kiến thức văn hoá và nghiệp vụ mà anh em đã được đào tạo. Ngoài việc chuyển đại bộ phận đi đào tạo ở lục quân, pháo binh, cần chú ý chọn một số ạnh em đi xây dựng du kích ở vùng biển Đông Bắc, theo phương án mà trước đây Ban Nghiên cứu Thuỷ quân đã trình Bộ. Số anh em này trực thuộc các tỉnh đội, vừa hoạt động chiến đấu, vừa làm quen với chiến trường sông biển.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:03:19 pm
Thế là, những người lính thuỷ sông Lô lại một lần nữa tạm xa phố Giàn, Làng Cỏ. Phần lớn các chiến sĩ Đội thuỷ binh 71 được điều về vùng duyên hải Đông Bắc, góp phần đẩy mạnh chiến tranh du kích ở các địa bàn ven biển. Về tỉnh đội Quảng Yên có Dương Đình Ấu, Trần Minh Thái, Nguyễn Phú Đạt, Trần Thọ, Trần Duy Hợi, Trịnh Tuần. Về tỉnh đội Hải Ninh có Trác Vinh Nam, Phạm Vũ Quân, Vũ Phi Hoàng, Lê Văn Vỹ, Trịnh Cược, Hà Ngữ, Nông Văn Phượng.


Nhiều học viên khoá 1 và khoá 2 huấn luyện thuỷ quân được điều về đại đoàn công pháo 351. Một số cán bộ Ban Nghiên cứụ Thuỷ quân về nhận công tác ở cơ quan Bộ Tổng tư lệnh.


Kháng chiến thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Tháng 8/1954, trên đường về tiếp quản Thủ đô Hà Nọi, bảy cán bộ từng là lính thuỷ sông Lô đang công tác ở đơn vị, các chiến trường được điều về Cục Tác chiến, tổ chức một bộ phận chuyên trách theo dõi tình hình vùng biển, chuẩn bị tiếp quản thành phố Hải Phòng và nghiên cứu đề án xây dựng lực lượng bảo vệ vùng biển. Tháng 1 năm 1955, đồng chí Nguyễn Bá Phát - Tham mưu trưởng Liên khu 5 được Tổng quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ trực tiếp phụ trách bộ phận này. Ba đề án xây dựng lực lượng và bảo vệ vùng biển phía Bắc được Tổng quân uỷ thông qua trong cuộc họp ngày 13 và 14 tháng 4 năm 1955, gồm:

- Đề án tổ chức, biên chế cơ quan Trường huấn luyện thuỷ quân, xưởng đóng mới, sửa chữa ca nô và kế hoạch chọn lựa, điều động cán bộ, chiến sĩ từng là thuỷ quân sông Lô và từng hoạt động trên các chiến trường sông biển của cả nước về xây dựng thuỷ quân.

- Đề án xây dựng lực lượng phòng thủ bờ biển, gồm các đài, trạm quan sát, các khu tuần phòng và các trận địa pháo bờ biển.

- Đề án xây dựng lực lượng tàu thuyền hoạt động ở ven biển, gồm các việc: tập trung phương tiện thuỷ của các đơn vị, các địa phương; tìm và trục vớt các tàu địch bị ta đánh chìm để khôi phục sửa chữa, chuẩn bị đóng mới một số ca nô gỗ gắn máy.


Nhà máy bia O-men trên đường Hoàng Hoa Thám - Hà Nội là địa điểm đầu tiên được chọn đạt cơ quan Cục Phòng thù bờ bể (thành lập ngày 7 tháng 5 năm 1955).


Nhiều người từng là Lính thuỷ sông Lô 6 năm về trước lại lần lượt được Bộ điều động trở về góp phần xây dựng Cục Phòng thủ bờ bể, sau là Cục Hải quân (1959) và Bộ Tư lệnh Hải quân (1964); xây dựng Trường huấn luyện bờ biển và Xưởng 46 của Hải quân; xây dựng hai thuỷ đội Thuỷ quân sông Lô và Bạch Đằng, tiếp đó là đoàn tàu tuần tiễu 130, đoàn tàu phóng lôi 140 (sau đổi phiên hiệu là 135). Trong trận chiến đấu ngày 2 tháng 8 năm 1964 ở ngoài khoi Vịnh Bắc Bộ, chính Phân đội 3 của Đoàn 135 đã anh dũng đánh đuổi tàu khu trục Ma đốc của Mỹ, bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.


Bác Hồ kính yêu đã chỉ thị cho bộ đội Hải quân: "Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, cố trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó". "Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại, nhưng không được quên những truyền thống đánh giặc xưa kia của tổ tiên. Các chú phải nhớ xây dựng Hải quân của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam, chứ không phải Hải quân của thế giới"6 (Dẫn theo "Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam", NXB QĐND, 11.1985, tr.70-71).


Vâng theo lời dạy của Người, bộ đội Hải quân đã xây dựng, trưởng thành nhanh chóng, từ những cơ sở đầu tiên của Ban nghiên cứu thuỷ quân giữa lòng căn cứ Việt Bắc trờ thành một Quân chủng chiến đấu bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại, lực lượng nòng cốt của toàn dân và toàn quân bảo vộ vùng biển và hải đảo của Tổ quốc.


Trở về với phố Giàn, làng cỏ giữa lòng dân căn cứ địa cách mạng, những người Lính thuỷ sông Lô tay khoác chặt tay, xúc động hát vang bài "Bài ca thuỷ quân du kích". Bài ca do một Lính thuỷ sông Lô, anh Ngô Thế Lãng sáng tác từ ngày ấy và anh Lê Quang Loát cũng là một lính thủy còn thuộc và ghi lại. Lời bài ca có đoạn: "đi xây non sông, xây dựng một tương lai cả một đoàn người mang theo một sức sống oai hùng tiến bước trên con đường xa. Thuỷ quân du kích Việt Nam". Tiếp đó là điệp khúc: "Làn sóng Cam Ranh đang ẩm ầm say mê, làn sóng Nha Trang đang chờ ta. Bạch Đằng réo, nhắc ta xây hạm đội thuỷ binh Việt Nam". Lời bài ca và giọng ca khoẻ khoắn cùa những người đi biển - các chiến sĩ thuỷ quân sông Lô như chung một niềm tin, một ý chí, hướng về tương lai, trên con đường xây dựng, từ đội thuỷ quân du kích đến những hạm đội của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.


NQD


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:03:50 pm
VĂN BIA
ĐẶT TẠI BẾN GIÒN, XÃ HÙNG QUAN,
HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ


Nơi đây, ngày 8/3/1949 thành lập Ban Nghiên cứu Thủy quân - Bộ Tổng Tham mưu.

Được sự tích cực giúp đỡ, động viên, nuôi dưỡng, bảo vệ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ, huyện Đoan Hùng, mà trực tiếp là nhân dân xã Hùng Quan và các xã ven sông Lô - sông Chảy thuộc huyện, đơn vị đã đào tạo được hai khoá sĩ quan Thuỷ quân 1949 - 1951, đã phái hàng trăm cán bộ đi chiến đấu lập nhiều thành tích tại vùng hải đảo ven biển Quảng Ninh 1951 -1954. Sau đó, nhiều đồng chí đã chuyển về xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam.


BỘ TỔNG THAM MƯU
10-1997


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:04:27 pm
NHÂN NGÀY LỄ DỰNG BIA


Đại tá Nguyễn Xuân Triết


   Trang trọng khuôn vàng ghi khắc đá
   Giữa trời khiêm tốn cạnh dòng Lô
   Khúc hát quân hành quanh xóm cũ
   Âm thanh vang vọng tới bây giờ
   Cung đường kháng chiến dài năm tháng
   Nghĩa nặng ân tình chẳng dễ quên
   Tóc bạc da mồi pha sương gió
   Hướng về Đất Tổ nhớ Hùng Quan!


Đoan Hùng 8/3/1997


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:05:26 pm
TRỞ LẠI SÔNG LÔ


Đại tá Trịnh Tuần
Nguyên Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân
Kỷ niệm 50 năm thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân
tháng 3/1949-3/1999


   Mấy chục năm rồi trở lại đây
   Vẫn ngôi làng cũ, những đồi cây
   Dòng Lô uốn lượn quanh bờ cát
   Tình nghĩa sông xưa nước vẫn đầy
   Điểm bước thời gian theo chiến trận
   Bạn cùng lứa lớp, mất còn ai
   Nhớ ngày nào ấy đầu xanh nhánh
   Mà đến hôm nay tóc bạc rồi
   Căng bắp sớm chiều đua luyện tập
   Mồ hôi hoà trộn nước sông này
   Đội thuyền nhè nhẹ vượt qua sóng
   Đời lính thuỷ quân mộng đẹp thay
   Thiếu thốn trăm bề cơm với áo
   Tràn trề một cõi nước và mây
   Ước mong sẽ có ngày ra biển
   "Quân thuỷ" trùng khơi tung cánh bay
   Dẫu muốn nhưng nghèo vươn chưa tới
   Dằn lòng nuối tiếc lúc chia tay
   Sông Lô xa cách từ năm ấy
   Đi khắp nẻo đường khắp đó đây
   Có dịp trùng phùng vui sướng quá
   Mà sao khoé mắt cứ cay cay
   Hải quân nay đã về quê Biển
   Chẳng thể nào quên mảnh đất này.


TT


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:09:57 pm
BÊN DÒNG SÔNG LÔ


Đại tá Thục Phán
Nguyên Chuyên viên Viện Chiến lược - Bộ Quốc Phòng


   Ta về thăm lại quê hương
   Lẫy lừng một thuở chiến trường năm xưa
   Giặc tây - tàu chiến - ca nô
   Gọng kìm đường thuỷ thành mồ thực dân
   Rồi Ban Nghiên cứu Thuỷ quân
   Tháng ba - bốn chín - bên sông ra đời
   Ngày nay, biển rộng sông dài
   Hải quân lớn mạnh sáng ngời vinh quang
   Nhưng dù đi khắp Bắc Nam
   Vẫn không quên được Hùng Quan ngày nào
   Chính quyền, đảng bộ, đồng bào
   Động viên, nuôi dưỡng, gian lao không sờn
   Hôm nay "Uống nước nhớ nguồn"
   Văn bia xây dựng, công ơn ghi cùng
   Quân dân Phú Thọ, Đoan Hùng
   Tình xưa nghĩa cũ thuỷ chung kiên cường
   Làm tròn nhiệm vụ hậu phương
   Góp phần chống Mỹ, lên đường B-C
   Hoà bình, thống nhất, trở về
   Rừng đồi phát triển, ngành nghề tăng cao
   Tuy chưa đầy đủ dồi dào
   Đó đây đã thấy biết bao công trình
   Vững tin truyền thống quê mình
   Kinh tế - văn hoá - an ninh - quốc phòng
   Quân, Dân, Chính, Đảng một lòng
   Dân giàu nước mạnh ta cùng dựng xây.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:11:42 pm
TRÍCH BÀI PHÁT BIỂU CỦA ĐẠI TÁ NGUYỄN VIỆT - TRƯỞNG BAN LIÊN LẠC TRUYỀN THỐNG THỦY QUÂN SÔNG LÔ TẠI LỄ KỶ NIỆM 50 NĂM THUỶ QUÂN SÔNG LÔ Ở HÙNG QUAN - ĐOAN HÙNG


Kính thưa các đồng chí lãnh đạo tỉnh, huyện, xã.

Thưa các cụ, bà con cô bác, anh chị em. Thưa các đồng chí Cựu chiến binh địa phương và Thuỷ quân sông Lô.

Hôm nay trong buổi gặp mặt long trọng kỷ niệm 50 năm Thuỷ quân sông Lô, cho phép tôi thay mặt Ban liên lạc truyền thống Thuỷ quân sông Lô gửi lời chào mừng đầu xuân Kỷ Mão 1999 tới các vị khách quý, các đồng chí lãnh đạo, tới bà con cô bác anh chị em địa phương nhà, kính chúc sức khoẻ - hạnh phúc -   thịnh vượng, vượt chỉ tiêu phấn đấu để xoá đói giảm nghèo, về công nghiệp hoá, hiện đại hoá địa phương. Xin kính gửi lời cám ơn chân thành tới Đảng bộ, nhân dân tỉnh Phú Thọ, huyện Đoan Hùng, xã Hùng Quan, xã Nghinh Xuyên và các xã lân cận đã động viên, giúp đỡ, nuôi dưỡng, bảo vệ các lực lượng thuộc Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bô Tổng Tham mưu, đã giành nhà, giành khoảng sông, mảnh đồi cho chúng tôi xây dựng huấn luyện thuỷ quân trên dọc sông Lô, sông Chảy trong những năm chiến tranh 1949 - 1951 chống thực dân Pháp xâm lược; cũng như ngày nay đã đón tiếp thân tĩnh chúng tôi trở về năm 1994 - 1997 và hôm nay 1999 với tất cả tấm lòng hậu phương bao la, tình cảm quân dân một ý chí mang nhiều truyền thống tốt đẹp.


Nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng sông Lô (1947- 1997) địa phương cũng đã tổ chức xây dựng và khánh thành bia kỷ niệm thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân trên đất Đoan Hùng, để lại một dấu ấn không thể phai mờ trên bờ sông Lô, sông Chảy đã một thời "Thuỷ quân ta luyện binh, chuẩn bị cho những ngày vươn ra biển cả bao la của Tổ quốc của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay".

Thưa các vị, thưa bà con, cô bác, anh chị em!

Nhân dịp kỷ niệm long trọng hôm nay, cho phép chúng tôi được ôn lại một vài nét lịch sử về xây dựng và chiến đấu của thuỷ quân ta trong chiến tranh chống Pháp xâm lược.

Trong khí thế phấn khởi của quân và dân ta "tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công" dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nưđc, Bác Hồ, ngày 8/3/1949 Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bô trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam đã ký quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu (đồng thời với quyết định thành lập Ban nghiên cứu Không quân) theo công lệnh số 604/TCH với nhiệm vụ "Sưu tầm tư liệu cần thiết, nghiên cứu tổ chức và xây dựng những cơ sở đầu tiên cho Ngành thuỷ quân".    Quyết định trên đã nói lên tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng, của Bác Hồ, của Bộ Quốc phòng về việc xây dựng một lực lượng thuỷ quân non trẻ, mặc dù lúc đó có trăm vạn khố khăn, ta đang chiến đấu trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.


Tên "Ban Nghiên cứu Thuỷ quân" là do Bác Hồ gợi ý khi Tổng Tham mưu trưởng sang báo cáo và xin chỉ thị của Bác về sự kiện quan trọng này. Bác Hồ đã chỉ thị đại ý như sau: Để hợp với khả năng thực tế, trước mắt chỉ nên xây dựng Ban nghiên cứu Thuỷ quân và mở lớp thuỷ quân. Như vậy, danh có chính thì hành mới thuận. Công việc mới thành công.


Chấp hành chỉ thị của Bác Hồ, của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Ban Nghiên cứu Thuỷ quân được thành lập và triển khai xây dựng bên bờ sông Lô, sông Chảy trên đất Tổ Hùng Vương thuộc huyện Đoan Hùng.


Sau khi cân nhắc nhiều mặt, lựa chọn nhiều khu vực từ Liên khu 3, Liên khu 4 trở ra Việt Bắc, Bộ Tổng Tham mưu thấy chọn địa điểm xây dựng thuỷ quân ở Đoan Hùng là tương đối hợp hơn cả, so với tình thế và hoàn cảnh lúc bấy giờ. Đoan Hùng vừa gần Trung ương, vừa có địa thế thuận lợi, có sông nước lại có núi đồi kề bên, tạo thế cho xây dựng thuỷ quân trong hoàn  cảnh lực ta còn nhỏ, vũ khí phương tiện kỹ thuật còn thiếu thốn nhiều bề.


Có thể khẳng định Đoan Hùng là nơi tương đối thích hợp hơn cả, nhất là tại đây ta đã trải qua nhiều thử thách có ý nghĩa chiến lược. Trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947 ta đã dành được chiến thắng to lớn, nhấn chìm nhiều tàu chiến giặc Pháp trên địa bàn Đoan Hùng, làm nên chiến thắng lẫy lừng trên mặt trận sông nước lúc bấy giờ. Trong quá trình triển khai xây dựng Ban Nghiên cứu Thuỷ quân trên đất Đoan Hùng kể từ tháng 3/1949, chúng ta đã từng bước tập hợp được một số cán bộ chuyên môn ngành hàng hải, ngành điện cơ, thồng tin liên lạc, tuyển sinh từ vùng địch hậu Đông Bắc - Quảng Ninh, từ một số đơn vị chủ lực, từ các ưường trung học phổ thông ở Trung du, khu 3, khu 4 đề bồi dưỡng, đào tạo được hai khoá sĩ quan thuỷ quân từ 1949 - 1951 với số lượng vài trăm học viên, đã cử một đại đội trên 100 đồng chí cuối năm 1950 - 1951 sang Trung Quốc học tập và rèn luyện theo kinh nghiệm đổ bộ bằng thuyền buồm của giải phóng quân Trung Quốc đánh chiếm giải phóng đảo Hải Nam 1949.


Đến tháng 5/1951 do tình thế mới, buộc phải giải thể Ban Nghiên cứu Thuỷ quân nhưng Bộ Tổng Tham mưu vẫn quyết tâm sử dụng trên 100 đồng chí đã được bồi dưỡng huấn luyện thuỷ quân đi chiến đấu du kích trên biển ở vùng duyên hải và hải đảo Đông Bắc Tổ quốc theo kế hoạch đã định trước.

1. Ra Hải Ninh khoảng 15 đồng chí (như Phạm Vũ Quân, Vỹ, Phượng, Vũ Phi Hoàng....) chiến đấu ven biển từ Bình Liêu - Hà Cối đến Móng Cái. Đồng chí Trác Vinh Nam, đội phó Đội 71 được cử đảm nhiệm tỉnh đội phó tỉnh Hải Ninh.

2. Ra đặc khu Hòn Gai khoảng 15 đồng chí. Chiến đấu xây dựng cơ sở hải đảo trên vịnh Hạ Long, góp phần cùng đặc khu xây dựng đại đội Hồ Chí Minh gồm đa số là công nhân mỏ. Trong số đó có đồng chí Nghiêm Xuân Hùng đại đội trưởng đã hy sinh 1954. Đồng chí Lê Toàn, là Thiếu tướng Phó Tư lệnh Đặc cồng đã nghỉ hưu.

3. Về tỉnh đội Quảng Yên khoảng 20 đồng chí chiến đấu vùng Yên Hưng sông Kinh Thầy - Đông Triều - Kinh Môn.

4. Đổ bộ lên đảo Cát Bà quãng hơn 40 đồng chí tổ chức thành Đội 71 chiến đấu du kích và xây dựng cơ sở trên đảo, do đồng chí Dương Đình Ấu - đại đội trưởng kiêm huyện đội phó Cát Hải đã hy sinh, đồng chí Trần Minh Thái - chính trị viên đại đội - kiêm chính trị phó huyện đội Cát Hải (có mặt hôm nay tại hội trường). Các đồng chí chiến đấu vùng ven biển hải đảo Đông Bằc Tổ quốc đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng và chiến đấu bảo vệ địa phương. Các đồng chí chiến đấu vùng ven biển, hải đảo Đông Bắc Tổ quốc đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng và chiến đấu bảo vệ địa phương. Một số không ít đồng chí đã anh dũng hy sinh (như đồng chí Dương Đình Ấu, Trần Kỳ, Vỹ, Nông Phượng, Nguyệt, Tuân Chi,...) một số đồng chí bị địch bắt khi hoạt động địch hậu (như đồng chí Nguyễn Phú Đạt, Nguyễn Quang Tiếp...) đã giữ vững khí tiết cách mạng và trở về đội ngũ chiến đấu cho tới ngày nay.


Đến tháng 7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Hoà bình được lập lại, ta giải phóng 1/2 đất nước. Bộ Tổng Tham mưu nhanh chóng tập hợp một số cán bộ Thuỷ quân sông Lô cũ (độ 10 đồng chí như Phan Tiền Đạo, Thanh Văn Minh, Vũ Phi Hoàng, Trịnh Tuần, Phạm Vũ Quân...) trở về Cục Tác chiến tháng 10/1954 để nghiên cứu phương án xây dụng và tác chiến phòng thủ bờ bể từ Hải Ninh đến Vĩnh Linh, để sau đó vào 7/5/1955 chính thức thành lập Cục Phòng thủ bờ bể, và phát triển thành Quân chủng Hải quân ngày nay.


Quá trình xây dựng huấn luyện và chiến đấu của Thuỷ quân sông Lô là một quá trình phấn đấu gian khổ trong chiến tranh chống Pháp xâm lược nhưng cũng rất vẻ vang.


Đạt được thành tích kể trên, ngoài phần nỗ lực tích cực của bản thân từng đồng chí, một phần rất quan trọng là đã được Đảng bộ, nhân dân các địa phương (nơi huấn luyện cũng như nơi chiến đấu) đã nhiệt tình động viên, giáo dục, giúp đỡ, nuôi dưỡng, bảo vệ và cùng chiến đấu diệt địch. Trong đó có Đảng bộ, nhân dân Đất tổ Hùng Vương, huyện Đoan Hùng và các xa ven sông Lô, sông Chảy thuộc huyện.


Đoàn kết quân dân một ý chí xây dựng và chiến đấu, không những là nhu cầu chính trị tạo nên sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam, mà đã trở thành một nhu cầu văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể nói chỉ ờ Việt Nam ta, trải qua hàng nghìn năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và gần đây trải qua 30 năm chiến tranh chống Pháp, Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tinh thần đoàn kết đó đã phát triển thành tình cảm gắn bó quân dân, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong quan hộ quân dân một ý chí, mà có lẽ chỉ ở Việt Nam ta mới tạo được truyền thống gắn bó đời đời bền vững như vậy.


Mong rằng tình cảm đó sẽ sống mãi trong lòng chúng ta, trong nhân dân địa phương cũng như trong anh chị em Thuỷ quân sông Lô chúng tôi.


Trước khi dứt lời, cho phép chúng tôi được gửi một vài món quà nhỏ tới địa phương, gọi là tấm lòng của anh chị em chúng tôi. Quà thì nhỏ nhưng tấm lòng thì rộng mở. Xin kính tặng bức sơn mài "Thuyền ta vượt sóng ra khơi", một bó hoa mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 và ít sách vở tặng các cháu học sinh xã nhà.

   Xin được kết thúc bằng một vần thơ:
   "Trở về cội nguồn năm xưa
   Năm mươi năm ấy, bây giờ là đây
   Hùng Quan gặp lại hôm nay
   Quân dân một khối giữa ngày vui xuân..."


N.V


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:16:10 pm
SINH HOẠT TRUYỀN THỐNG THỦY QUÂN SÔNG LÔ


Đại tá Nguyễn Việt
Nguyên Chính trị viên Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu - Phó Cục trưởng Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng Tham mưu


Cuối năm 1992, do tình cờ gặp anh Thanh Văn Minh, nguyên đại đội trưởng Đội Thuỷ quân 71 sông Lô đi học Trung Quốc 1950 -1951, chúng tôi có trao đổi nên cố gắng tập họp số anh em Thuỷ quân sông Lô có mặt ở Hà Nội để sinh hoạt hỏi thăm nhau vào cuối đời khi đã nghỉ hưu.


Nhưng phải ra Tết 1993 buổi họp đó mói được thực hiện thân tình, cảm động sau nhiều năm xa cách. 16 anh chị em đến dự: cán bộ giáo viên có 4: Minh, Đa, Thông, Việt; học viên có 11: Thành, Hoàng, Quát, Trần, Sâm, Thự, Thọ Sơn, Quân, Đạt, Tiếp, Năng, nữ có 1: Liên. Anh chị em đi đến quyết định thành lập Ban liên lạc truyền thống Thuỷ quân sông Lô khu vực Hà Nội, đề nghị gia nhập Ban liên lạc Hải quân khu vực Hà Nội và có buổi sinh hoạt đầu tiên với Hải quân nhân ngày truyền thống 5/8/1993.


Đến cuối năm 1993, Thuỷ quân sông Lô ở Hải Phòng cũng nhóm họp, có mời chúng tôi về dự. Buổi gặp mặt đó có gần 20 bạn, kể cả anh Võ Nhân Huân - Thượng tá - Tham mưu phó Quân chủng, anh Nguyễn Mãi - Thượng tá, cán bộ Cục Chính trị Hải quân.


Chúng tôi thống nhất ý kiến nên tổ chức một cuộc hành hương trở về Làng Giàn - Đoan Hùng. Anh Huân (sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Chuẩn Đô đốc - Phó Tư lệnh Chính trị Quân chủng Hải quân) nhiệt tình ủng hộ, điều luôn một xe con và cử anh Mãi cùng chúng tôi gồm Phạm Vũ Quân, Hoàng Lương và tôi đi tiền trạm về Đoan Hùng chuẩn bị cuộc hành hương.


Sang tháng 3/1994, sau khi được lãnh đạo địa phương đồng ý, nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu 8/3/1949 - 1994, trên 40 anh chị em Thuỷ quân sông Lô khu vực Hà Nội và Hải Phòng hành quân trở về Bến Giàn - Hùng Quan - Đoan Hùng, căn cứ thuỷ quân luyện binh năm xưa. Có bác Đào Văn Trường và Phan Phác - nguyên Tổng tham mưu phó cùng đi. Nhân dân địa phương đón tiếp đông đảo, nhiệt tình, từ các cụ phụ lão, các cháu thanh thiếu niên nam, nữ đến các cựu chiến binh, các đoàn thể quần chúng, bà con cô bác ở xã. Lãnh đạo địa phương đón đoàn có đồng chí Nguyễn Kim Trân - Phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phú, đồng chí Nguyễn Hiền - Thiếu tướng - Chủ tịch Hội cựu chiến binh tỉnh Vĩnh Phú, đồng chí Nguyễn Trọng Dương - Chủ tịch HĐND huyện Đoan Hùng, đồng chí Vũ Khac Kim - Phó chủ tịch UBND huyện, đồng chí Phùng Hoà - Bí thư Đảng uỷ xã Hùng Quan cùng nhiều đồng chí lãnh đạo địa phương khác.


Trong buổi gặp mặt thân tình, đồng chí Nguyễn Mãi đại diện Bộ Tư lệnh Hải quân tặng tỉnh Vĩnh Phú bức ảnh "Bác Hồ đội mũ Hải quân", đồng chí Vũ Phi Hoàng đại diện Thuỷ quân sông Lô tặng huyện Đoan Hùng bức chân đung Bác Hồ "Người chiến sĩ Hải quân vĩ đại"; đồng chí Lê Trường Đa, đồng chí Trịnh Tuần tặng xã Hùng Quan (Bến Giàn), xã Nghinh Xuyên (làng Cỏ) bức trướng chữ vàng "Quân dân một ý chí".


Xong, đi thăm lại khu căn cứ xưa bên dòng sông Chảy trong xanh, thăm tượng đài chiến thắng Sông Lô trên ngã ba đầu Lô, chúng tôi lưu luyến tạm biệt bà con cô bác địa phương ấm tình quân dân, vẫn chưa quên "Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi, xóm làng tôi còn nhớ mãi..." Cảm kích trước chuyến hành hương thành công tốt đẹp, thắm tình đoàn kết quân dân mà mình được tham dự, khi trở về, đồng chí Nguyễn Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự Bộ Quốc phòng có viết một bài đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự tháng 4/1994: "Từ thuỷ quân sông Lô đến Hải quân nhân dân và chiến công tháng 8" khẳng định lịch sử Thuỷ quân sông Lô được xây dựng, huấn luyện trên dòng sông Lô, sông Chảy, Đoan Hùng từ 1949 - 1951, chiến đấu du kích ven biển Đông Bắc Tổ quốc 1951 - 1954, bước đầu góp phần xây dựng Hải quân nhân dân sau này.


Năm 1995, để kỷ niệm 40 năm thành lập Hải quân nhân dân 5/1955 - 5/1995, được sự giúp đỡ tận tình của Bộ Tư lệnh Quân khu 3 và Bộ Tư lệnh Hải quân, chúng tôi tổ chức cuộc hành hương thứ 2. Lần này chúng tôi trở về chiến trường Đông Bắc, nơi thuỷ quân sông Lô chiến đấu du kích trên biển từ năm 1951 - 1954.


Cuộc hành hương trở về Đông Bắc cuối tháng 5/1995 khá quy mô và đã thành công tốt đẹp, vượt mong muốn. Anh chị em đi khá đông, khoảng trên 40 đồng chí, cả quân Hà Nội và Hải Phòng. Quân Hà Nội đi tàu hoả xuống Hải Phòng, được xe Quân khu 3 đón cùng quân Hải Phòng bắt đầu hành quân qua phà Bến Bính tấp nập, phà Rừng mênh mông, thị trấn Quảng Yên thanh bình, đến đồi thông Yên Lập, khu di tích Bác Hồ dừng chân nghỉ trưa đầu những năm 1960. Đồi khá đẹp, yên tĩnh, mát mẻ dưới rặng thông cao vút "ngàn năm vẫn đứng giữa trời mà reo..."


Chúng tôi nghỉ ăn trưa tại đây, xong ra Hạ Long, về nghỉ ở Đoàn an dưỡng Hải quân, được chỉ huy Đoàn ưu ái dành cho những chỗ nghỉ tốt nhất, đẹp nhất, nhìn thẳng ra Vịnh Hạ Long yên ả một màu xanh bất tận của tròi, biển và núi đá lô nhô...


Hôm sau, chúng tôi đi Vịnh Hạ Long bằng tàu du lịch của Hải quân. Tàu nhẹ nhàng lướt qua những dãy đảo huyền ảo, nào Bồ Nâu, Gà Chọi, Trinh Nữ - Hòn Bà... dưới bầu trời trong xanh, mát dịu, thanh bình. Hệ thống hang động trong Vịnh như hang Đầu Gỗ, hang Cửa Dứa, Sửng Sốt... thực sự là những cung điện của thiên đường. "Khi Tổ quốc lâm nguy, Rồng mẹ và đàn rồng con đã đáp xuống trần gian và vĩnh viễn ở lại để chở che cho đất mẹ Việt Nam, cho vùng biển Đông Bắc với thế trận gần 2.000 hòn đảo thiên la địa võng bao vây và nhấn chìm mọi quân thù xâm lược nếu chúng dám đến..."


Theo chương trình, chúng tôi rẽ thăm lữ đoàn tàu phóng lôi trên vịnh. Xuống một tàu, gặp một đoàn thuỷ thủ trẻ mãng, liên hoan ca hát vui vẻ, thân tình. Cảm kích trước mối tình cũ mới, già trẻ, bác Đào Văn Trường mặc dù đã ở độ tuổi 80 cũng xung phong hát một bài ca cách mạng có từ thời Mặt trận bình dân, trước sự ngỡ ngàng của chúng tôi, để lại ấn tượng không thể quên...


Khi chia tay, chúng tôi chụp chung một bức ảnh lịch sử bên hạm tàu phóng lôi rợp cần ăng ten với những dàn vũ khí hiện đại, khiến chợt nhớ tới hạm thuyền buồm 71 năm xưa trên đảo Điều Thuận - Trung Quốc. Quả là một bước trưởng thành nhảy vọt khá dài sau gần nửa thế kỷ.


Từ lữ đoàn tàu phóng lôi, chúng tôi về gặp mặt Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh, Hội CCB tỉnh, Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, cảm ơn lãnh đạo địa phương đã giáo dục động viên, nuôi dưỡng, chỉ đạo Thuỷ quân sông Lô tác chiến và xây dựng trong chiến tranh chống Pháp và nay lại ân cần đón tiếp Đoàn. Đồng chí phó chỉ huy trưởng quân sự tỉnh, đồng chí phó chủ tịch Hội CCB tỉnh (vốn là quân Thuỷ quân sông Lô đổ bộ lên Cát Bà năm 1951), chủ tịch Hội LHPN tỉnh phát biểu hoan nghênh chuyến hành hương nghĩa tình này của Thuỷ quân sông Lô và chúc mừng mọi sự tốt đẹp, coi chúng tôi như người nhà, đi vắng lâu ngày, nay trở về với bà con cô bác địa phương, cùng nhau uống ly rượu tái ngộ...


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:18:21 pm
Ngày hôm sau, cám ơn và bịn rịn chia tay Ban chỉ huy Đoàn an dưỡng, Đoàn về Quảng Yên thăm Lữ đoàn Hải quân đánh bộ đóng trong Thành cổ Vân Đồn, chụp chung ảnh bên bức phù điêu rộng vài chục mét hình mũi tàu cao vút với dòng chữ "Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó..." - Hồ Chí Minh.


Đến thăm huyện uỷ, UBND, mặt trận tổ quốc huyện Yên Hưng, nơi Thuỷ quân sông Lô đã có bộ phận chiến đấu trong chiến tranh chống Pháp. Đồng chí Bí thư huyện uỷ chào mừng đoàn, thông báo thành tích xây dựng và bảo vệ địa phương trong 10 năm đổi mới vừa qua.


Xong, đích thân bí thư dẫn đoàn đi thăm bảo tàng lịch sử chiến thắng Bạch Đằng ở Yên Hưng, thăm bãi cọc Bạch Đằng mới phát hiện bên dòng sông Chanh, ra bến Rừng trên sông Bạch Đằng lịch sử, xa xa dãy núi Tràng Kênh đang trên đà xây dựng, nào xưởng đóng tàu, nào nhà máy xi măng mới khởi công,... thắp nén nhang viếng Đức Trần Hưng Đạo, viếng bà hàng nước có công góp ý chuẩn xác với Đại Vương Hưng Đạo khi người đi trinh sát chuẩn bị trận đánh lịch sử chiến thắng quân Nguyên cuối thế kỷ 13, nay được lập đền thờ bên dòng nước mênh mông luôn gợn sóng của bến đò Rừng nổi tiếng.


Đến trưa, lữ đoàn tổ chức chiêu đãi trọng thể, có mặt Bí thư huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện, chủ tịch mặt trận, lữ đoàn trưởng cùng một số cán bộ cơ quan lữ đoàn. Tất cả đều hồ hởi nâng cốc chúc mừng 40 năm Hải quân nhân dân, chúc mừng Thuỷ quân sông Lô đã góp phần chiến đấu trên quê hương Quảng Yên, chúc mừng thành tích xây dựng và bảo vệ địa phương huyện Yên Hưng, chúc mừng Lữ đoàn hải quân đánh bộ, nối tiếp truyền thống của thuỷ quân đánh bộ trên sông Lô, đang xây dựng huấn luyện chính quy, hiện đại và đang chắc tay súng bảo vệ vững chắc vùng biển Đông Bắc Tổ quốc thân yêu.    Tạm biệt lữ đoàn và Yên Hưng quê hương, đoàn về Hải Phòng, thăm Bộ Tư lệnh Hải quân, chúc mừng Quân chủng 40 tuổi.

Nhiều bất ngờ đã xảy ra.

Vừa đến đầu doanh trại Bộ Tư lệnh, một băng đỏ chạy dài ngang cổng chính mang dòng chữ vàng nổi bật: "Nhiệt liệt chúc mừng các đồng chí cựu chiến binh thuỷ quân sông Lô thăm Quân chủng Hải quân".


Đồng chí Trương Tải, Phó Tư lệnh Quân chủng (Tư lệnh đi công tác miền Nam) cùng nhiều cán bộ chỉ huy cơ quan Bộ Tư lệnh Hải quân tiếp đoàn vừa trân trọng, vừa thân tình tại phòng khách sang trọng của Quân chủng.


Chúng tôi báo cáo tóm tắt lịch sử Thuỷ quân sông Lô từ ngày thành lập xây dựng 1949 - 1951 đến thời gian chiến đấu ở ven biển Đông Bắc 1951-1954, cám ơn Bộ Tư lệnh Hải quân đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc hành hương trở về Đoan Hùng 1994, về Quảng Ninh 1995 và nay lại dành thời gian đón tiếp đoàn tại cơ quan Bộ Tư lệnh. Xin chúc mừng 40 năm ngày thành lập Quân chủng và trao tặng Quân chủng bức ảnh Thuỷ quân sông Lô bên tượng đài chiến thắng Sông Lô chụp 1994, một quyển "Ghi chép và nhớ lại một thời Thuỷ quân sông Lô xây dựng và chiến đấu trong chiến tranh chống Pháp 1949 -1954".


Đồng chí Phó Tư lệnh Quân chủng phát biểu, chúc mừng Đoàn, ghi nhận giai đoạn lịch sử Thuỷ quân sông Lô trong chiến tranh chống Pháp, gửi tặng Đoàn bức ảnh lớn "Bác Hồ đội mũ Hải quân" lồng trong khung kính mạ vàng, tặng mỗi đồng chí cựu chiến binh Thuỷ quân sông Lô đi trong đoàn một huy hiệu Hải quân nhân dân Việt Nam.


Năm 1997, sau 2 năm hành hương về Đông Bắc, chúng tôi bàn với Huyện uỷ, UBND huyện Đoan Hùng đề nghị dựng bia kỷ niệm thành lập Thuỷ quân sông Lô (Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu) tại xã Hùng Quan, trên bến Giàn, coi như một phần chương trình Lễ Hội quy mô cấp Nhà nước kỷ niệm 50 năm chiến thắng sông Lô lịch sử (24/10/1947 - 24/10/1997).


Được địa phương nhiệt liệt tán thành, chúng tôi báo cáo cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Hải quân.


Chủ nhiệm Chính trị cơ quan Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Thiếu tướng Lê Chiêu nhất trí ngay, hoan nghênh chủ trương dựng bia, tạo mọi điều kiện thuận lợi để xúc tiến công việc như cử đồng chí trưởng ban chính sách Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp giải quyết những yêu cầu cần thiết, cấp một số kinh phí xây dựng, cho xe cộ đi lại... Nhờ vậy, công việc dựng bia được khẩn trương triển khai kịp lễ hội chung.


Chúng tôi bàn với Đảng uỷ UBND xã chọn địa điểm ở ngay bên trụ sở UBND xã, nơi trước đây cơ quan Ban Nghiên cứu Thuỷ quân đóng quân, thống nhất mẫu bia, văn bia, phân công địa phương xây dựng bia, còn chúng tôi đặt làm bảng bia, thuê khắc chữ ở Hà Nội, xong đưa lên gắn vào bệ bia...


15h00 ngày 23/10/1997 khánh thành bia thuỷ quân ở Hùng Quan. Chúng tôi từ Hà Nội, Hải Phòng lên Đoan Hùng trên 40 đồng chí. Đại diện Bộ Tổng Tham mưu có đồng chí Trung tướng Đỗ Đức, Phó Tổng tham mưu trưởng, 2 đồng chí Phan Phác, Đào Văn Trường, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng thời kỳ 1949 - 1951, đồng chí Nguyễn Thế Kính - Thượng tá, Trưởng ban chính sách, Cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu.


Đại diện Hải quân có đồng chí Đại tá Nguyễn Vĩnh Trân - Phó Hiệu trưởng Học viện Hải quân, đồng chí Đại tá Nguyễn Thế Trinh - Ban liên lạc Hải quân khu vực Hà Nội.

Về phía địa phương có:

Đồng chí Nguyễn Văn Bưởi - Phó bí thư thường trực, Chủ tịch UBND huyện Đoan Hùng.

Đồng chí Phùng Hoà, Bí thư Đảng uỷ xã Hùng Quan.

Đồng chí Nguyễn Chí Nguyên, Chủ tịch UBND xã Hùng Quan.

Và nhiều đồng chí lãnh đạo cơ quan huyện, xã sở tại, các xã lân cận cùng đông đảo bà con cô bác địa phương.

Tổ chức khánh thành bia do địa phương chủ trì điều hành, có phần mít tinh trong hội trường và phần mở bia thực địa. Người mở bia khánh thành gồm:

Đồng chí Trung tướng Đỗ Đức - Phó Tổng tham mưu trưởng;

Đồng chí Đại tá Nguyễn Vĩnh Trân - Phó hiệu trưởng Học viện Hải quân;

Đồng chí Nguyễn Văn Bưởi - Phó bí thư thường trực, Chủ tịch UBND huyện Đoan Hùng;

Đồng chí Phùng Hoà - Bí thư Đảng uỷ xã Hùng Quan.


Nội dung văn bia được khắc trên đá hoa cương:

"Nơi đây, ngày 8/3/1949 thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu. Được sự tích cực giúp đỡ động viên, nuôi dưỡng, bảo vệ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ, huyện Đoan Hùng, mà trực tiếp là nhân dân xã Hùng Quan và các xã ven sông Lô, sông Chảy thuộc huyện, Đơn vị đã đào tạo được hai khoá sĩ quan thuỷ quân 1949 - 1951, đã phái hàng trăm cán bộ đi chiến đấu lập nhiều thành tích tại vùng hải đảo ven biển Quảng Ninh 1951 - 1954; Sau đó, nhiều đồng chí đã được chuyển về xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam”.

10-1997


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:20:08 pm
Trong lễ khánh thành, lãnh đạo huyện tặng đoàn Thuỷ quân sông Lô bức tranh "Tượng đài chiến thắng sông Lô" mới tôn tạo bên ngã ba đầu sông Lô.


Đoàn Thuỷ quân sông Lô tặng huyện một số hình ảnh Thuỷ quân sông Lô xây dựng huấn luyện tại Đoan Hùng trên sông Lô - sông Chảy những năm 1949 - 1951, tặng xã Hùng Quan, xã Nghinh Xuyên, mổi xã một ảnh khổ to "Bác Hồ dội mũ Hải quân" lồng trong khung kính mạ vàng.


Tối 23/10/1997, giao lưu văn nghệ giữa thanh niên và cựu chiến binh địa phương với Thuỷ quân sông Lô, có tổ văn công Tổng cục Chính trị "Quang Mạo - Thuý Mỵ - Hồng Liên" cùng dàn Organ làm nòng cốt. Tất cả đồng bào già trẻ trai gái trong xã và các xã lân cận đến dự, tăng thêm phần đông vui, nhộn nhịp ở vùng quê vốn yên tĩnh. Các cháu thanh niên nam nữ địa phương cũng đã biểu diễn hết khả năng văn nghệ của mình, có cháu ngâm bài thơ tặng các bác Thuỷ quân sông Lô.

   ”Bố trở về chúng con đã lớn lên
   Bốn mươi năm chiến trường khói lửa 
   Đã bao lần chỉ qua nhà ít bữa
   Trọn niềm vui "Mẹ có bố thật rồi".
   Bố trở về chỉ có thế này thôi
   Chiếc ba lô mang cả đời quân ngũ
   Cả tấm ảnh mẹ con thời thiếu nữ
   Tập thư nhà nét chữ nhạt vì sương..."


Các anh lính thuỷ sông lô quên tuổi già, nào Lê Quang Loát chùm trò, nào Thọ Sơn, Đàm Cần, Vũ Phi Hoàng, nào Đỗ Sâm, Xuân Thự, Hoàng Đại,... đã hăng hái lên hát bè, hát đơn ca, song ca...


Liên hoan xong, mọi người ra về phấn chấn vui vẻ. Chúng tôi phân tán ở từng nhà dân tại thôn xóm lân cận, nhớ lại một thời sinh sống giữa lòng dân. Bà con cô bác tiếp chúng tôi thân tình, đậm đà tình quân dân.


24/10/1997, sáng dậy, chụp chung với gia đình một vài tấm ảnh, ghi vội dòng địa chỉ, chào tạm biệt, hẹn ngày trở lại bến Giàn, Hùng Quan, chúng tôi hành quân ra tượng đài Chiến thắng sông Lô, dự mít tinh chào mừng 50 năm chiến thắng sông Lô lịch sử trang trọng, hùng tráng lễ dựng bia thành lập Thuỷ quân Sông Lô, lại càng xúc động trước những vần thơ của đồng đội - Trần Minh Thái một cán bộ TQSL đã viết.

   "Hôm nay về với miền quê chiến thắng
   Thấy trong lòng không thẹn với sông Lô
   Thắp tuần hương thơm ngát nhớ người xưa
   Những người đã bắn tan tàu chiến giặc
   Những lính thuỷ sông Lô trên khắp nước
   Đã ra đi vĩnh viễn, không về
   Dòng Lô xanh như lịch sử trôi đi
   Cho ta gửi tâm tư thời bạc tóc
   Rồi một ngày khi ta về với đất
   Dưới mạch ngầm, nghe róc rách sông Lô..."


1999, 2 năm sau lễ hội dựng bia là lễ kỷ niệm 50 năm thuỷ quân sông Lô, chúng tôi tổ chức khá trọng thể trong phạm vi khả năng có thể của Hội truyền thống cựu chiến binh, có nghĩa là nặng về tình cảm, còn vật chất thì tương đối đơn giản, tiết kiệm.


8/2/1999, tức 23 Tết âm lịch, một tổ tiền trạm gồm Lê Toàn, Trần Duy Hợi và tôi đi Đoan Hùng chuẩn bị với địa phương, được các đồng chí lãnh đạo địa phương nhiệt tình ủng hộ.


Đồng chí Đỗ Bá Tỵ - thường vụ tỉnh uỷ, chỉ huy trưởng quân sự tỉnh Phú Thọ hứa sẽ đến tham dự lễ hội ở Hùng Quan. Đồng chí Nguyễn Trọng Dương - Bí thư huyện uỷ Đoan Hùng trực tiếp chỉ thị cho cơ quan văn xã tổ chức thực hiện... Chiều tối 23 Tết, đồng chí Phùng Hoà, Nguyễn Chi Nguyên lãnh đạo xã Hùng Quan nhất thiết giữ chúng tôi lại uống chén rượu cúng tết ông Công, để lại một kỷ niệm không thể quên đã gắn bó anh em Thuỷ quân sông Lô với Hùng Quan quê hương.


Ra Tết, anh Lê Toàn, Lê Quang Loát và tôi còn về Bộ Tư lệnh Đặc công mời dự lễ hội, xin một tổ văn công và một tổ chiếu phim phục vụ lễ hội. Đồng chí Truyền vốn người Chi Đám - Đoan Hùng vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tới dự, coi như người quê hương sông Lô nặng nghĩa tình với Thuỷ quân sông Lô.


Song song với việc chuẩn bị lễ hội, chúng tôi cố gắng cho ra mắt tập san "50 năm thuỷ quân sông Lô" với các bài hồi ký, kể chuyện, đến sự kiện nhân chứng... khá phong phú.


Sang tháng 3/1999, chúng tôi triển khai tổ chức Lễ kỷ niêm 50 năm Thuỷ quân Sông Lô ở 3 địa điểm:


6/3/2000 tổ chức tại nhà Bảo tàng chiến thắng B52 phố Đội Cấn - Hà Nội gồm đại bộ phận anh chị em Thuỷ quân sông Lô khu vực Hà Nội khoảng 50 người và một vài chị quả phụ. Quảng Ninh có anh Trần Minh Thái về dự. Khách mời gồm:

Hải quân: đồng chí Đại tá Chử Minh Toa, đại diện cơ quan Bộ Tư lệnh Hải quân, đồng chí đại diện cơ quan chính trị Quân chủng, đồng chí Đại tá Nguyễn Thế Trinh, Bùi Văn Thân - Ban liên lạc truyền thống Hải quân khu vực Hà Nội.

Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Tham mưu: đồng chí Phan Phác - nguyên Tổng tham mưu phó những năm 50, đồng chí Trung tướng Nguyễn Đình Ước - Viện trưởng Viện lịch sử quân sự, đồng chí Thượng tá Nguyễn Thế Kính - Trưởng phòng Chính sách BTTM, Thượng tá Phạm Ngọc Chi - Phó phòng Tuyên huấn BTTM, Trung tướng Khuất Duy Tiến - UBTƯ Hội CCB Việt Nam, Trung tướng Lê Hai - Phó Chủ nhiệm TCCT, nguyên cán bộ Đại đội Ký con - thuỷ quân ngày đầu cách mạng cùng đồng chí Thiếu tướng Bùi Sinh, đồng chí Lê Phú nguyên đại đội trưởng Đại đội ký con.


Đồng chí Trung tướng Lê Hai đại diện Đại đội Ký Con nói lên ý nghĩa lịch sử những trận chiến đấu đánh chiếm tàu Craysắc và một số tàu khác của Pháp 9/1945, trận đổ bộ đảo Cô Tô 10/1945 của Đại đội Ký Con, đánh dấu bước chiến đấu có tính thuỷ quân ngày đầu cách mạng 1945, ý nghĩa lịch sử thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân 1949 vào thời điểm ta đang chiến đấu trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và sau đó 1955 thành lập Cục phòng thủ bờ bể - tiền thân của Hải quân nhân dân Việt Nam ngày nay.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:21:05 pm
Xen kẽ các bài phát biểu là những bài ca, giọng hát và ngâm thơ của anh em Thuỷ quân Sông Lô cùng tổ văn công nghiệp dư Bộ Tư lệnh Đặc công và một số bạn trẻ khác đã nhiệt tình phục vụ lễ hội. Hội trường vang lên những bài ca thuỷ binh Việt Nam, nào:

   "Sóng Bạch Đằng cuộn reo, sóng Cam Ranh ầm vang",
   "Đi xây biên cương, đi san biên cương, xây dựng thuỷ quân chúng ta đi..."
   Đến: "Hôm nay lính cũ về xum họp
   Ngưng chén nhìn nhau thoáng giật mình
   Xin ai đã từng mang tên Bác
   Đừng mất trong lòng sắc áo xanh..."
   Rồi hẹn ngày về:
   "... Giặc tới gieo đau thương trên muôn lời thơ
   Chúng tôi ra đi, hẹn ngày về chiến thắng trong niềm vui nhiều ước mơ..."


8/3/1999, lễ hội chuyển về Đoan Hùng quê hương.

Chúng tôi hành quân độ trên 40 anh chị em Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và đồng chí Kim Long ở Sài Gòn bay ra kịp. Đồng chí Truyền - Phó Tư lệnh Đặc công cùng phu nhân về dự. Địa phương có: đồng chí Đỗ Bá Tỵ - Thường vụ Tỉnh uỷ, chỉ huy trưởng quân sự tỉnh Phú Thọ, đồng chí Nguyễn Trọng Dương - Bí thư huyện uỷ Đoan Hùng, đồng chí Vũ Ngọc Kim - Phó Chủ tịch UBND huyện cùng đông đảo cán bộ lãnh đạo huyện, xã cùng bà con cô bác địa phương.


Tối 9/3, như đã thành truyền thống, cả nghìn đồng bào về dự giao lưu văn hoá giữa Thuỷ quân Sông Lô với địa phương, có tổ văn công Tổng cục Chính trị làm nòng cốt, Quang Mạo - Hồng Liên dù bận biểu diễn ở Hải Phòng cũng đã có mặt vào đúng 7 giờ tối như đã hứa. Đêm liên hoan kéo dài nhưng rồi cũng phải kết thúc vào khoảng 11 giờ đêm. Đồng bào lưu luyến ra về, dẫn theo chị em chúng tôi về nhà mình nghỉ đêm vui vẻ chuyện trò không dứt về những kỷ niệm xưa và không quên hẹn ngày trở lại cũng như mời bà con cô bác về thăm thủ đô.


Sáng 9/3/1999, như đã hẹn trước, chúng tôi về thăm bà con cô bác Làng Cỏ - Nghinh Xuyên, địa điểm đóng quân của Thuỷ quân Sông Lô và cuối năm 1950, đầu năm 1951.


Từ làng Cỏ, chúng tôi ra tượng đài chiến thắng sông Lô, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng của cảnh quan khu vực đầu Lô, nơi diễn ra trận đánh lịch sử trên mặt trận sông nước nhấn chìm nhiều ca nô, tàu chiến giặc Thu Đông 1947, nhấn chìm luôn cả giấc mộng đế quốc Pháp định đánh nhanh, thắng nhanh trong cuộc chiến phi nghĩa xâm lược do chúng gây ra. Chúng tôi trầm ngâm:

   "Đứng trước sông Lô nhớ cội nhớ nguồn
   Nhớ Giàn Cỏ, nhớ mái trường thuỷ quân"... 
   Từ đầu Lô, chúng tôi vê thăm huyện uỷ Đoan Hùng.


Đồng chí Nguyễn Trọng Dương - Bí thư huyện uỷ phát biểu chào mừng 50 năm Thuỷ quân sông Lô và thông báo tình hình kinh tế chính trị xã hội huyện những năm đổi mới.


Từ Chân Mộng - Trạm Thản, chúng tôi về Việt Trì thăm và cám ơn tỉnh uỷ, nhân dân Phú Thọ, đất tổ Hùng Vương đã nuôi dưỡng, giáo dục, động viên, che chở Thuỷ quân sông Lô những năm luyện binh trên sông Lô, sông Chảy, cho dựng bia thành lập Thuỷ quân sông Lô và nay lại ân cần đón tiếp đoàn nhân dịp 50 năm thành lập Thuỷ quân sông Lô.


Đoàn Thuỷ quân sông Lô trao tặng tỉnh uỷ bức sơn mài "Mã đáo thành công" với lời chúc mừng tỉnh đạt nhiều thành tích trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, công nghệ hoá, hiện đại hoá địa phương theo nhịp bước ngựa phi tiến vào thế kỷ 21.


Đồng chí Đại tá Lê Quang Loát, quê ở Mai Tùng - Hạ Hoà -   Phú Thọ cảm động đọc một vài vần thơ ngẫu hứng được về thăm quê hương.

   "Gió Việt Trì làm mát lòng người lính chiến
   Tỉnh uỷ đây rồi nơi gửi gắm niềm tin
   Giang tay rộng mở ngã ba sông lồng lộng
   Ôm ấp chúng con, sưởi ấm tình thương
   Phú Thọ ơi! quê hương ruột thịt của con
   Con xin nguyện mãi mãi xứng đáng là
   Hậu duệ con cháu Hùng Vương đất Tổ..."

Cuộc gặp mặt ấm tình quê hương được kết thúc tốt đẹp bằng một tấm hình chụp chung trước trụ sở tỉnh uỷ trên đại lộ ngã ba sông lộng gió ban chiều Xuân 1999.


12/3/1999, để kết thúc đợt kỷ niệm truyền thống, đoàn đại biểu 20 anh chị em Thuỷ quân sông Lô đến chúc mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp sức khoẻ - hạnh phúc nhân dịp Xuân Kỷ Mão, báo cáo kết quả tốt đẹp lễ kỷ niệm ở Hà Nội và cuộc hành hương về Đoan Hùng - Đất tổ Hùng Vương, được các cấp lãnh  đạo từ tỉnh, huyện đến xã và bà con cô bác địa phương hết lòng động viên, giúp đỡ đã tổ chức chu đáo Lễ hội 50 năm thuỷ quân sông Lô thắm tình đoàn kết quân dân một ý chí.


Đồng chí Lê Ngọc Quang thay mặt đoàn tặng Đại tướng bó hoa mừng xuân, quyển tập san và tập ảnh 50 năm Thuỷ quân sông Lô. Đại tướng vui vẻ nhận rồi niềm nở chuyện trò thân tình, thăm hỏi động viên mọi người. Đại tướng tặng Đoàn quyển "Điện Biên Phủ" mới xuất bản, một thiếp chúc mừng năm mới, căn dặn Thuỷ quân sông Lô luôn xứng đáng là Bộ đội Cụ Hồ, có phần công đầu trong việc thành lập Hải quân...


Xong ra sân chụp chung bức ảnh kỷ niệm "Anh Văn ngót 90, Thuỷ quân sông Lô tuổi 50". Anh chị em quây quần quanh anh, cười vui.


Thấy anh Trần Doãn Hoài Thuỷ quân sông Lô - nhà giáo - nhà sử học có bộ râu tuổi 80 bạc như cước, Đại tướng đến cạnh nâng râu, cười tinh nghịch, quên tuổi già. Trần Doãn Hoài vô cùng xúc động trước tình cảm yêu thương trìu mến của vị Tổng chỉ huy đối với chiến sỹ, của ngưòi Anh cả đối đứa em út của mình.


Cuộc hội ngộ của cán bộ, chiến sĩ "Thuỷ quân Sông Lô" sau 50 năm xa cách ưàn ngập niềm vui và xúc động, tràn ngập tình yêu thương nhớ tiếc những đồng chí, đồng đội đã hy sinh như Dương Đình Ấu, Nguyễn Tuấn Chi, Bùi Kỵ, Bùi Ngự (là hai anh em), Đàm Nguyệt, Lê Văn Vĩ, Lê Văn Khá, Ngô Văn Mai, Nguyễn Văn Tiêu... mà hiện nay di hài còn nằm lại trên vùng ven biển Đồng Bắc hoặc dưới đáy biển Hạ Long.


NV


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:25:56 pm
Tản mạn:


CUỘC HÀNH QUÂN VỀ CỘI NGUỒN


Đỗ Sâm
Nguyên Trưởng ban huấn luyện nhà trường - Bộ Tư lệnh pháo binh
Vài nét ghi nhanh trong cuộc hành hương trở lại phố Giàn (nơi ra đời của Ban Nghiên cứu và trường huấn luyện Thuỷ quân) 8/3/1994


Trong buổi họp mặt ban đầu ngày 7/2/1993 tại Hà Nội, một số anh chị em Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô đã cùng nhau đính hẹn: Tìm kiếm, liên lạc và tập hợp những anh chị em chiến hữu cũ đang công tác trong Quân chủng Hải quân hay đã chuyển đi nơi khác, nắm được ai còn, ai mất. Ra một tập san hồi ký ghi lại những kỷ niệm sâu sắc của thời kỳ luyộn tập Thuỷ quân trên Sông Lô - Sông Chảy; thời kỳ vào lộng ra khơi ở đảo Điểu Thuận (Tsékham )- Trung Quốc; thời kỳ chiến đấu ở vùng Duyên Hải Đông Bắc của Tổ quốc ... Cố gắng tổ chức được một cuộc hành hương trở về "cội nguồn" Đoan Hùng - Phú Thọ, thăm lại và cảm ơn đồng bào phố Giàn - Làng Cỏ đã từng chia ngọt sẻ bùi, giúp đỡ anh chị em trong những ngày đầu rèn luyộn thành "người lính thuỷ Cụ Hồ".


Đến nay các tổ chức Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô đã tập hợp được trên 40 thành viên khu vực Hà Nội và trên 30 thành viên khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Hà Tây và Đà Nẵng, chỉ còn một số anh chị em ở phía Nam là chưa liên lạc được.


Nhân dịp 45 năm ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký nghị định thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân (8/3/1949); được sự giúp đỡ của Quân chủng Hải quân. Ngày 8/3/1994 anh em Cựu chiến binh Thuỷ quân sông Lô đã tổ chức thành công cuộc hành hương trở về Nguồn. Cũng trong dịp này cuốn tập san với những trang hồi ký chân thực sinh động, những bài thơ ca với những tấm ảnh phản ánh những nét tươi trẻ, hăng say thời kỳ Sông Lô - Sông Chảy và trên đảo Điều Thuận những năm 1949 - 1950 của anh em Cựu chiến binh Thuỷ quân sông Lô đã được hoàn thành. Điều đó nói lên, thời lính thuỷ quân Sông Lô thật là cao đẹp, quãng đòi tươi trẻ đầy nhiệt huyết cách mạng với cuộc sống gian khó nhưng vinh quang ấy đã để lại dấu ấn không thể nào quên, nó đã trở thành keo sơn gắn bó anh chị em lại khi tuổi cao đầu bạc, cũng như nó đã khơi dậy trong anh chị em những tình cảm sâu nặng với "cội nguồn". Đây chính là động lực để anh chị em có thể làm nên tất cả.


Trong số trên 50 thành viên của đoàn Cựu chiến binh lính Thuỷ quân Sông Lô tham gia cuộc hành hương về nguồn (ngày 8/3/1994) có: Anh Lê Trường Đa là người đã ở thuỷ quân sớm nhất, từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh tham gia tổ chức thuỷ quân miền Nam Trung bộ ò Đà Nẩng. Năm 1949 khi có quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân, anh được điều động về làm một trong hai đại đội trưởng đầu tiên của trường Thuỷ quân khoá một. Sau ngày hoà binh lập lại năm 1954, cùng anh Nguyễn Bá Phát ở Liên khu 5 ra, anh cũng là một trong những cán bộ thuỷ quân sớm được điều động trở lại tham gia các bộ phận nghiên cứu chuẩn bị cho thành lập tổ chức tiền thân của Quân chủng. Anh Nguyễn Việt, Chính trị viên đầu tiên của Ban Nghiên cứu Thuỷ quân, đã cùng các anh lãnh đạo khác góp phần xây dựng một số cơ sở thuỷ quân trong đó có đội 71, là người đã tích cực đóng góp từ khâu quan hệ đến khâu tổ chức bảo đảm cho cuộc hành hương trở về cội nguồn thành hiện thực. Anh Trịnh Tuần, vào học thuỷ quân ở Điều Thuận, về nước tham gia chiến đấu ở vùng biển Đông Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Anh đã có mặt liên tục công tác và chiến đấu từ những ngày lập lại Quân chủng Hải quân, là chủ nhiệm Chính trị của Quân chủng đến khi về nghỉ hưu. Anh đã cùng anh Trần Lưu Phương và anh Hoàng Lương nhóm họp được một số anh chị em Cựu chiến binh sông Lô ở khu vực Hải Phòng và tạo điều kiện cho Ban liên lạc Cựu chiến binh ở khu vực Hà Nội tiếp xúc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, góp phần tích cực cho việc tổ chức thành công cuộc hành hương trở lại Phố Giàn. Anh được mệnh danh là "gạch nối" giữa lớp Thuỷ quân sông Lô trước kia và Bộ Tư lệnh Hải quân hiện nay.


Anh Vũ Phi Hoàng, từ ngày ở Thuỷ quân sông Lô cho tới nay, với trên 45 năm liên tục gắn bó với biển. Anh đã là đại tá, giáo sư, chuyên gia Hàng Hải của Quân chủng. Hiện nay anh là Tổng thư ký hội khoa học cục khí tượng Thuỷ vãn, anh đã tham dự nhiều Hội nghị quốc tế về biển Việt Nam, ở Hàng Châu, Bắc Kinh - Trung Quốc và ở Băng Dung - Nam Dương.


Anh Đàm Cần là một học viên trường Thuỷ quân khoá một, đi Điều Thuận (Trung Quốc) trong đội 71. Trở về nước anh tham gia kháng chiến chống Pháp ở vùng Đông Bắc; trong kháng chiến chống Mỹ, anh làm phân đội trưởng, phân đội tàu thuộc căn cứ hai của Hải quân. Anh đã nhiều lần trực tiếp chỉ huy đơn vị đánh tàu biệt kích Mỹ - Ngụy ở vùng biển Quân khu 4 trong những năm 1960. Trong một trận đánh, giữa lúc đang truy quét một biên đội tàu biệt kích Ngụy đang tháo chạy về phía Nam, anh kịp thời phát hiện bọn địch xảo quyệt lợi dụng đêm tối cho một chiếc tàu bí mật tách khỏi đội hình vòng về phía sau tập kích vào tàu của ta, lập tức từ tàu chỉ huy, anh hạ lệnh khép chặt vòng vây; và trong một tình huống khẩn trương, không để cho địch kịp chạy thoát, anh đã lợi dụng ưu thế về trọng tải, dũng cảm ra lệnh cho tàu của mình lao thẳng vào nhấn chìm tàu địch cùng với đội thuỷ thủ và bọn biệt kích Nguỵ. Nay anh đang nghỉ hưu cùng con cháu ở vùng Thuỷ Nguyên, anh đã hăng hái tham gia cuộc hành hương theo đoàn về cội nguồn.


Cuộc hành hương về cội nguồn, đã nhanh chóng biến thành nơi hội ngộ của nhiều anh chị em sau trên 40 năm xa cách nay mới có dịp được gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, cùng nhau dốc bầu tâm sự. Câu chuyện râm ran suốt dọc đường; họ hỏi han nhau về gia cảnh, sức khoẻ và công tác, cùng nhau ôn lại những kỷ niộm xa xưa ở phố Giàn làng Cỏ, kể cho nhau nghe những chuyện chiến trường, bạn bè đồng đội, ai còn ai mất...


Kể từ sau ngày cuối tháng 5/1951, mọi người chia tay nhau, tạm biệt mái trường Thuỷ quân Đoan Hùng thân yêu để rồi... "Lìa rừng tung cánh ruổi mụôn phương"... cho đến nay trên 40 năm qua, biết bao nhiêu diễn biến thãng trầm, kể sao cho hết... Song thông qua những nỗi niềm tâm sự và những chuyên kể của anh chị em thì tình hình chung cũng đã dần dần tổng hợp lại, tuy chưa đầy đủ, nhưng cũng có thể tóm tắt đại thể như sau.


Khoảng gần 100 anh em chuyển ra hoạt động ở chiến trường Đông Bắc đã tích cực tham gia xây dựng cơ sở và đấu tranh vũ trang du kích ở các tỉnh Hải Ninh, Hồng Gai, Quảng Yên cho đến hết thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Hầu hết anh chị em đều kiên định ý chí cách mạng; vững vàng chịu đựng gian khó trong sinh hoạt, dũng cảm bền bỉ trong chiến đấu và gây dựng cơ sở, đã trở thành một bộ phận trong đội ngũ cán bộ nòng cốt của các lực lượng vũ trang, đóng góp nhiều thành tích trong cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân địa phương. Có những đồng chí đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu; như các anh Trần Kỳ, Dương Đình Ấu, Trần Hùng, Nguyệt đen... ở mặt trận Hồng Quảng; các anh Lê Văn Sỹ, Bùi Văn Khá, Nguyệt Mai, Lê Văn Thời, Nông Văn Phượng... ở chiến trường Hải Ninh, một số anh bị địch bắt nhưng vẫn giữ vững khí tiết cách mạng, bảo vệ được cơ sở kháng chiến ở địa phương; như anh Nguyễn Phú Đạt, Nguyễn Quang Tiếp...


- Số đông còn lại, trừ một số cán bộ và mấy anh em trong Ban Nghiên cứu chuyển về công tác trên cơ quan Bộ, còn hầu hết đã chuyển sang Pháo binh, đi Trung Quốc tập huấn và nhận khí tài đưa về nước, đã tích cực đóng góp nhiều thành tích ưong xây dựng binh chủng Pháo binh cũng như trong chiến đấu trên các chiến trường chống Pháp, chống Mỹ và giải phóng miền Nam. Nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ trung cao cấp của Binh chủng Pháo binh, như các anh Lê Ngọc Quang, Trần Trung, Đỗ Sâm, Lê Quang Loát, Trần Duy Thành...


Khi cuộc chiến tranh chống Pháp kết thúc, nhiều Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô, phần lớn là số anh em của Đội 71 biệt phái ra vùng Duyên Hải, đã được Bộ lần lượt điều động về tham gia xây dựng Quân chủng Hải quân;


Đợt 1: vào tháng 10 năm 1954 gồm các anh Thanh Văn Minh, Phan Vũ Quân, Vũ Phi Hoàng và Trịnh Tuần do anh Phan Tiền Đạo, cán bộ Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu được cử ra phụ trách, với nhiệm vụ hướng dẫn và sưu tầm nghiên cứu các tài liệu về biển và Hải phận Việt Nam, về thuỷ quân các nước; đồng thời góp phần xây dựng bố phòng Duyên Hải và phương án tổ chức ban đầu của Quân chủng. Năm 1955, Bộ ra Quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể và điều anh Nguyễn Bá Phát (nguyên là Tham mưu trưởng Liên Quân khu 5) ra phụ trách Cục. Anh Phan Tiền Đạo trở lại Cục Tác chiến, còn tất cả anh em được điều về đợt một cùng với anh Đinh Văn Chí mới trở về, trở thành những thành viên chính thức của Cục do anh Nguyễn Bá Phát trực tiếp chỉ huy. Cùng về đợt này còn có anh Lê Trường Đa, anh Nguyễn Văn Quế là cán bộ giảng dạy, huấn luyện của Trường Thuỷ quân Đoan Hùng trước đây, nhưng do nhu cầu của Ngành, các anh được điều động đi xây dựng các đơn vị cơ sở.


Sau ngày thành lập, tình hình tổ chức nhân sự do Cục Phòng thủ bờ bể tăng nhanh; trên cơ quan Cục, ngoài việc bổ sung thêm một số cán bộ chính trị, hậu cần và hành chính từ các đơn vị bộ binh rút về để kiện toàn các bộ môn quản lý. Bộ còn tăng thêm một số cán bộ chuyên môn nghiệp vụ Hàng hải của Hải quân thời Pháp, trong đó có anh Nguyễn Văn Khương, nguyên trưởng Ban Nghiên cứu Thuỷ quân của những năm 49-51, anh là một cán bộ chủ chốt của Ngành, một chuyên gia hàng hải bậc thầy đầu tiên của Hải quân ta. Anh có nhiều công lao trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ hàng hải xuất sắc của Hải quân ta.


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:26:54 pm
Ở đơn vị cơ sở trực thuộc Cục Phòng thủ bờ bể, sau này là Trường Hải quân (C45), xưởng cơ khí tàu thuyền (C46) và các Thuỷ đội cùng một số cơ sở đóng tàu thuyền cũng được xúc tiến hình thành, trong đó có nhiều anh em Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô được rút về làm cán bộ khung của các đơn vị hoặc đưa về trường đào tạo nghiệp vụ, sau này đã trở thành cán bộ nòng cốt của Ngành như các anh: Nguyễn Ngọc Giám, anh Hoàng Lương được bổ sung vào đơn vị C100 đi Trung Quốc tập huấn và đưa về nước 4 tàu tuần tiễu vỏ sắt đầu tiên cho Hải quân ta, do Trung Quốc viện trợ... Các anh Nguyễn Ngọc Văn, Trần Ngọc Lan, Bùi Xuân Thể, Nguyễn Khắc Việt, Trần Đại Tân, Hoàng Quốc Hùng, Đàm Cần... được điều động về trường đào tạo thuyền trưởng và Sĩ quan nghiệp vụ Hằng hải do anh Trần Lưu Phương làm hiệu trưởng, anh Vũ Khổng Tước làm Chính trị viên và anh Thanh Văn Minh làm trợ lý chính trị. Cả hai anh (Phương, Minh) đều là cán bộ trong Ban chỉ huy tiểu đoàn huấn luyộn của trường Thuỷ quân Sông Lô trước đây. Một số anh như anh Lê Trường Đa, Vũ Phi Hoàng... được cử trở lại vùng Duyên hải - Hải Ninh và Quảng Yên để tổ chức cơ sở đóng tàu, thuyền phục vụ cho kế hoạch thành lập các Thuỷ đội.


Cùng với sự hình thành và phát triển của Bộ Tư lệnh Hải quân, hầu hết các anh em Thuỷ quân Sông Lô còn tại ngũ trong Quân chủng đểu đã trở thành cán bộ chủ chốt như anh Nguyễn Ngọc Giám là Cục Phó Cục Kỹ thuật, anh Hoàng Lương là Trưởng phòng Hàng hải, anh Ngô Thế Lãng là trưởng phòng Vãn hoá, anh Trịnh Tuần là chủ nhiệm Chính trị; anh Vũ Phi Hoàng là chuyên gia về hàng hải và những chuyên viên nghiệp vụ của các Ngành như anh Bùi Xuân Thế, Trần Ngọc Lan, Nguyễn Khắc Việt...


Một số anh hiện nay không còn nữa như các anh Nguyễn Ngọc Giám, Ngô Thế Lãng đều là những cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô, đã giành trọn đời mình phấn đấu đến hơi thở cuối cùng. Sau ngày hoà bình lập lại đến nay, có nhiều anh chị em đã chuyển công tác sang hoạt động dân sự trên nhiều lĩnh vực; như các anh Lê Trường Đa, Trác Vinh Nam, Thanh Văn Minh, Phạm Vũ Quân, Nguyễn Thọ Sơn, Phạm Năng, Phùng Thái, Nguyễn Phú Quát, Nguyễn Quang Tiếp, Phan Ngọc Đức, Trần Đình Nghiêm, Đặng Kim Phùng và các chị Nguyễn Thị Thùa, Văn Bích Liên... Ở đâu, trong bất kỳ lĩnh vực nào, các anh chị Thuỷ quân Sông Lô cũng phát huy được truyền thống phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tạo dựng được cương vị trách nhiệm xứng đáng của mình. Trong số đó có nhiều người đã phấn đấu vừa làm vừa học trở thành kỹ sư, bác sỹ, phó tiến sỹ như các anh Phan Ngọc Đức, Phùng Thái, Trần Quang Nghiêm, Phạm Vũ Quân, Phan Phước Mãn, Thái Quang Sa và một số anh có học vị cao như giáo sư Vũ Phi Hoàng, Trần Trúc Vân và giáo sư tiến sỹ Đặng Luyến (anh Luyến không những là giáo sư giỏi trong nước mà còn có nhiều báo cáo khoa học được hoan nghênh trân trọng ngoài quốc tế như Anh, Pháp, Mỹ, Đức...).


Về nữ Cựu chiến binh Sông Lô, điểm lại số ít ỏi ngày ấy có chị Nguyễn Thị Thùa, Văn Bích Liên, và Oanh (Simon). Nhưng từ sau khi chia tay tháng 5 năm 1951, các chị trở về cơ quan Bộ, nên tin tức của các chị thật là ít. Hôm nay trong cuộc hành hương về cội nguồn, thật vui mừng và cảm động, trong đoàn xuất hiện một thành viên nữ là chị Bích Liên - cô văn thư tươi trẻ thời đó nay đã ngoài 60, đã là bà nội, bà ngoại rồi nhưng cũng không quản ngại đường xa vất vả cùng anh em hăng hái hành quân về "cội nguồn".


Trong buổi họp mặt với quân dân Đoan Hùng ở "cội nguồn" - phố Giàn - Làng Cỏ, sau những lời phát biểu đượm tình nghĩa của cả hai bên, là các tiết mục văn nghệ sôi nổi của các cháu thanh, thiếu niên địa phương. Trong không khí rạo rực nghĩa tình này, đoàn Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô cũng hăng hái tham gia góp vui bằng những bài thơ xúc động ca ngợi nghĩa cử giúp đỡ dùm bọc cao đẹp của đất mẹ Đoan Hùng; và những bài ca quen thuộc của trường Thuỷ quân Sông Lô, mà các anh đã từng hát cách đây 40 năm về trước. Tuy không có điều kiện chuẩn bị tập dượt, nhưng bằng tình cảm các anh đã hát rất say sưa và hào hùng. Khi lời ca bài hát "Ra đi" rồi đến bài "Trường ca Sông Lô" vừa dứt thì cả hội trường sôi động hẳn lên, những tràng pháo tay không ngớt, các cháu thiếu nhi tíu tít mang những bó hoa tươi thắm lên tặng. Một số cháu nói "Bố mẹ cháu khen là giọng hát của các Bác vẫn hay và tươi trẻ như hồi còn ở Thuỷ quân trước đây; và có nhiều cô chú đã thuộc bài hát này đã cùng hát theo các bác đấy. (Anh Thọ Sơn cảm động nhận hoa tăng rồi nỗi "Có những bài ca không bao giờ quên các cháu ạ").


Mọi người có mặt tại đây với khoé mắt rưng rưng đều tâm đắc điều này và cũng chính "Buổi họp mặt sâu tình nặng nghĩa hôm nay cũng là bài ca không thể nào quên", nó còn vang vọng mãi trong lòng nhân dân "Cội nguồn" Đoan Hùng, cũng như trong tâm khảm các thành viên của đoàn hành hương Cựu chiến binh Thuỷ quân Sông Lô lần này.


ĐS


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 02:27:39 pm
VỀ VỚI SÔNG LÔ


Trung tá Trần Minh Thái
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Quảng Ninh


   Nỗi nhớ gì như nhớ một dòng sông
   Nơi năm xưa tôi neo đậu một lần
   Một chặng đời của chàng trai lính thuỷ
   Rồi ra đi qua nửa tầm thế kỷ
   Mới biết mình còn mãi nợ sông Lô.
   Nhớ năm nào áo mỏng, cơm chưa no
   Đêm gió núi, ấm bàn tay đồng đội
   Bên nhà sàn nghe hoẵng kêu khắc khoải
   Lính ôm nhau trong nỗi nhớ đồng bằng.
   Có những ngày chèo thuyền vượt qua sông
   Tay học trò vật nhau cùng nước lũ
   Vui nổ trời, hát vang trong rừng cọ
   Vẫn mơ ngày hạm đội vượt trùng dương.
   Nhớ lòng dân nhân hậu đất Hùng Quan
   Nhường nhà cửa cho các con bộ đội
   Biết ơn mẹ cho con vuông vải mới
   Vá áo cho con bằng đường chỉ nghĩa tình.
   Nhớ trưa hè, như lạc giữa vườn xanh
   Lưỡi tê ngọt bưởi Đoan Hùng, Chí Đám.
   Hôm nay về với miền quê chiến thắng.
   Thấy trong lòng không thẹn với sông Lô.
   Thắp tuần hương thơm ngát nhớ người xưa
   Những người đã bắn tan tàu chiến giặc.
   Những lính thuỷ sông Lô trên khắp nước
   Đã ra đi vĩnh viễn không về.
   Dòng Lô xanh như lịch sử trôi đi
   Cho ta gửi tâm tư thời bạc tóc.
   Rồi một ngày khi ta về với đất
   Dưới mạch ngầm, nghe róc rách sông Lô.


Đoan Hùng, 8-3-1979


Tiêu đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)
Gửi bởi: quansuvn trong 13 Tháng Hai, 2021, 07:43:57 pm
DANH SÁCH MỘT SỐ ĐỒNG CHÍ BAN NGHIÊN CỨU THUỶ QUÂN
CHUYỂN VỀ CỤC PHÒNG THỦ BỜ BỂ VÀ HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM SAU NÀY (1954 -1955)[/b

(https://i.imgur.com/gwZM7Hh.jpg)