Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:20:44 am



Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:20:44 am
Tên sách: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ
Tác giả: Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
(Nhà văn Siêu Hải thể hiện)
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2002
Số hóa: macbupda

(https://i.imgur.com/KpijiSR.jpg)

(https://i.imgur.com/XbjufQl.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùn
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:24:27 am
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Đồng chí Lê Thiết Hùng tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, là thành viên của tổ chức yêu nước Tâm Tâm xã, được Bác Hồ giác ngộ, dìu dắt ngay từ những ngày đầu hoạt động. Bác đã trực tiếp kết nạp đồng chí vào tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, Thanh niên cộng sản Đoàn, sau đó vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc), Bác Hồ giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Thiết Hùng vào hoạt động trong quân đội Tưởng Giới Thạch. Những năm tháng khoác áo sĩ quan Quốc dân đảng, trước bao thử thách, cám dỗ đời thường và nếm trải bao gian nguy, tủi cực nhưng ánh sáng và niềm tin của Đảng, của Bác Hồ đã tiếp thêm sức mạnh cho đồng chí Lê Thiết Hùng vững vàng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.

Năm 1941, theo chỉ thị của Bác, đồng chí trở về nước hoạt động cách mạng. Với bản lĩnh và ý chí kiên cường; với kiến thức, kinh nghiệm đấu tranh trên trận tuyến thầm lặng đã qua, đồng chí Lê Thiết Hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác bằng cả tâm huyết, tinh thần nỗ lực đã cùng các đồng chí của mình xây dựng phong trào Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Bắc ngày càng lớn mạnh.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Đồng chí Lê Thiết Hùng được chỉ định làm Khu trưởng Khu IV.

Năm 1946, Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 được ký kết giữa ta và Pháp. Đồng chí được giao nhiệm vụ làm Tổng chỉ huy Tiếp phòng quân và được phong quân hàm Thiếu tướng(1).

Đồng chí Lê Thiết Hùng là một trong những vị tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và liên tục đảm đương nhiều chức vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước: Tổng thanh tra đầu tiên của quân đội kiêm Cục trưởng Cục Quân huấn; Hiệu trưởng Trường bổ túc quân chính trung cấp và là Ủy viên Ban Quân sự Trung ương (1947 - 1950); Hiệu trưởng Trường Lục quân Việt Nam; Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Pháo binh kiêm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Pháo binh (1954 - 1963); Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (1964 - 1970); Phó trưởng ban thường trực Ban CP48 và Phó trưởng ban đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1971 -1978)...

Đồng chí Lê Thiết Hùng đã được Đảng, Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác.

Với tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - người Thầy, người Cha trong trái tim mình, đồng chí Lê Thiết Hùng đã kể lại những kỷ niệm sâu sắc trong những năm tháng được sống gần gũi bên Bác Hồ cho nhà văn Siêu Hải ghi.

Sau khi đồng chí Lê Thiết Hùng mất, tập hồi ký đã được hoàn thành và Tạp chí Lịch sử quân sự đã đăng tải trong 6 số của năm 1986.

Lần này thể theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn hồi ký “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ” của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (nhà văn Siêu Hải thể hiện).

Nhân cuốn sách được xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ Phòng Tư liệu - Thư viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, gia đình đồng chí Lê Thiết Hùng, đại tá - nhà văn Siêu Hải đã nhiệt tình giúp đỡ Nhà xuất bản trong việc chỉnh lý, bổ sung tư liệu cho bản thảo.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn hồi ký: “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ”.


NHÀ XUẤT BẢN
                                                                                                                                                            
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


(1) Đồng chí Lê Thiết Hùng được phong hàm Thiếu tướng theo Nghị định số 185/SL ngày 24-9-1946 đo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - đồng chí Võ Nguyên Giáp ký.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:28:01 am
I

ĐẾN VỚI CÁCH MẠNG

Tháng 1 năm 1923.

Trời u ám. Rét kéo dài. Mạ chiêm ngoài đồng xác xơ run rẩy. Nhìn bồ thóc trong nhà đã gần cạn, ngó cây rơm gày guộc còn sót lại sau vụ gặt vừa qua, người dân xứ Nghệ lại rùng mình trước nạn đói sắp tới.

Tuy vậy, chiều hôm đó mẹ tôi cũng cố gạn mấy đấu gạo, thổi hai nồi cơm đầy. Một để ăn ngay. Một để nắm lại thành nhiều nắm, gói mo cau. Ngày mai (23-1-1923) hai anh Lê Doãn - tức Lê Hồng Phong, Phan Đài - tức Phạm Hồng Thái và tôi lên tàu “ra Hà Nội tìm việc làm”.

Cơm nước xong, gia đình tôi và hai anh quây quần ở gian giữa, trước bàn thờ gia tiên đang nghi ngút hương khói. Người pha chè, người hút thuốc. Ai ai cũng nén xúc động.

Còn tôi hết lên nhà lại xuống bếp nhìn cha, nhìn mẹ, nhìn các em. Tôi chỉ còn sống trong hơi ấm của những người thân thiết nhất nốt đêm nay. Ngày mai tôi đã lên đường. Lúc đó tôi không hề nghĩ rằng mình ra đi làm cách mạng, mà chỉ mong theo gót cha anh ra đi học tập để trở thành một người lính trong “Đội phục quốc quân”, trở về cầm súng đánh Tây, rửa cái nhục mất nước. Lúc đó tôi mới 16 tuổi, sức trai cường tráng nhưng tinh thần luôn u uất trong cảnh tù túng giữa xã hội cá chậu chim lồng.

Câu chuyện hàn huyên trở nên rôm rả từ khi có ông Nguyễn Sinh Khiêm (anh ruột Bác Hồ) bước vào. Bọn thực dân Pháp hèn hạ trả thù gia đình Bác Hồ. Năm 1914, chúng bắt bà Nguyễn Thị Thanh, chị ruột Bác, tra tấn rất dã man rồi giam trong ngục tối sáu, bảy năm. Năm 1916, chúng lại bắt ông Nguyễn Sinh Khiêm. Gần đây chúng mới thả. Bị quản thúc ngặt nghèo, ông phải giả danh thầy địa lý để đi hoạt động. Như thành lệ, mỗi lần qua xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên quê tôi, ông Khiêm đều ghé vào. Ông có thói quen đến nhà bạn chỉ thích ngồi ngoài hè. Gia đình có nước, có rượu cũng mang ra hè. Được biết ngày mai, thêm một lớp con cháu xuất dương, ông vỗ đùi, cười “khà” sảng khoái, nhấp một ngụm rượu, rồi nói: Hậu sinh khả úy, khả úy!

Cả một quá khứ đau thương nhưng hào hùng với những tên người, tên núi, tên sông trong ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh như bừng dậy trong tôi: Đinh Văn Chất với phủ Nghĩa Hưng; Lê Ninh với Hà Tĩnh; Lê Doãn Nhạ, Nguyễn Xuân Ơn với thành phố Vinh và xã Đoài; Tống Duy Tân, Cao Điền với vùng tây nam Thanh Hóa; Đinh Công Tráng với trận Ba Đình... và đỉnh cao là Phan Đình Phùng, Cao Thắng với rừng Ngàn Tươi, núi Vụ Quang...

Giặc khủng bố điên cuồng. Lớp trước ngã xuống, lớp sau kế tục với những phong trào như Đông Du, Duy tân Hội, Việt Nam Quang phục Hội, mà tiêu biểu là Phan Bội Châu, bạn đồng tâm với cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Bác Hồ). Con đường xuất dương của các cụ là sang Thái Lan (lúc đó gọi là Xiêm), Trung Quốc rồi Nhật Bản để nhờ nước Nhật Bản “đồng văn, đồng chủng, phú cường” giúp Việt Nam đánh Pháp, giành độc lập. Nhiều học sinh Việt Nam được đưa sang Nhật học quân sự như các ông Nguyễn Thúc Canh, Lê Khiết, Nguyễn Diễn. Lương Ngọc Quyến, Trần Hữu Lực, Hoàng Trọng Mậu, Lương Thảo Đạt, Hồ Học Lãm, Võ Tùng...

Một số hiện đang ở Trung Quốc, làm võ quan cao cấp như Hồ Học Lãm, Võ Tùng... Nhưng qua câu chuyện của các bậc cha chú thì sự nghiệp của cụ Phan Bội Châu không thành vì thằng Tây cũng như thằng Nhật, thằng Tầu đều “tham tàn, đểu cáng như nhau”. Lần đầu tiên tôi được nghe kể tường tận về trường hợp ra đi làm cách mạng của chú Nguyễn Sinh Côn(1), tức thầy giáo Nguyễn Tất Thành, em ruột ông Nguyễn Sinh Khiêm. Năm đó, theo lời ông Nguyễn Sinh Khiêm thì ông Giải San (Phan Bội Châu) muốn đưa Nguyễn Sinh Côn sang Nhật cùng với một số thanh niên khác. Trước mặt ông Đặng Thái Thân vừa thay mặt Hội, vừa như bậc cha chú. Nguyễn Sinh Côn trân trọng nói, đại ý: Cháu rất quý trọng tấm lòng yêu nước thương nòi của các bác. Nhưng con đường đi của các bác thì cháu không thể theo được. Cháu sẽ tìm con đường đi khác. Ít lâu sau, Nguyễn Sinh Côn sang Pháp, viết báo, lập hội chửi Tây ngay ở Thủ đô Pháp (mà bọn Tây không làm gì được).

Mảnh trăng non đã lặn. Trời đầy sao lấp lánh.

- Thưa bác - Phạm Hồng Thái hỏi - Bác có biết thầy giáo Nguyễn Tất Thành hiện ở đâu ạ?

- Hắn đi lung tung, trời mà biết. Sang Anh, sang Mỹ, qua châu Phi. Chưa biết chừng lúc này đã ở Trung Quốc cũng nên - Ông Khiêm trả lời.

Tôi chìm trong suy tưởng: Viết báo, lập hội chửi Tây có đến vạn năm chẳng suy suyển được cái lông chân của thằng Pháp. Nhưng cũng có cái thú là chửi nó mà nó không làm gì mình được. Tôi nhích sát lại gần các bậc cha chú. Riêng Phạm Hồng Thái, lúc nào cũng dận đôi giày da, vẫn đứng, vẻ tư lự, chốc chốc lại day day đế giày xuống đất.

Trước khi ra về. Ông Nguyễn Sinh Khiêm nắm chặt lấy tay từng người, lắc mạnh. Tôi trẻ nhất, ông lắc lâu hơn. Sau ông nói đủ nghe, giọng trầm trầm:

- Chú nhủ một câu, nhớ lấy: bậc anh hùng trượng phu đã một lần thượng mã thì chớ bao giờ xuống ngựa nếu nghiệp lớn chưa thành.

Đêm đó nằm cạnh bố, tôi thao thức trằn trọc mãi. Tiếng là sống với bố nhưng tôi nào được gần gũi là bao. Thời cụ Phan Đình Phùng, bố tôi chuyên lo về tài chính, thuốc chữa bệnh cho nghĩa quân. Tiếp đến phong trào Đông Du. Quang phục Hội, ngôi nhà tôi lại như một trạm đón tiếp. Mỗi khi bố tôi về lại dẫn theo vài ba người, ăn ở ít ngày, rồi đi. Mọi việc lớn nhỏ trong gia đình đều trút lên vai mẹ tôi - một người mẹ vô vàn mến thương, một mình nuôi sáu đứa con và chồng đi làm cách mạng - kể cả việc lo chu tất cho những đồng chí của chồng thường xuyên lui tới ăn ở trong nhà. Quanh năm ngày tháng, anh em chúng tôi thường chỉ có ngô khoai; cơm gạo nhường cho khách.


(1) Lê Thiết Hùng thường thân mật gọi những người nhiều tuổi hơn mình là chú.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:29:34 am
Một hôm, bọn quan Tây dẫn lính về làng bắn súng ra oai, bắt bớ nhiều người. Bố tôi bị chúng trói giật cánh khuỷu, lôi ra chỗ tập trung. Thằng Tây mặt đỏ như gà chọi đánh ông bằng báng súng đến ngã gục. Chưa hả, nó còn nện giày đinh lên bụng, lên ngực ông. Tôi thét lên một tiếng định xông tới nhưng bị nhiều bà con giữ chặt lại. Ngày ấy, tuy tôi mới mười hai tuổi, nhưng vì là con lớn nhất trong nhà, nên tôi đã phải ra đồng cùng mẹ tôi làm quần quật suốt ngày. Có lần bà thủ thỉ nói với tôi:

- Bố con đã mấy lần khăn gói lên đường thi Hương, thi Hội. Nhưng mục đích chỉ là để bán bài thi cho người khác, lấy tiền để giúp cho anh em đoàn thể. Còn con bây giờ hãy gắng học giỏi để giúp ích cho đời.

- Bố không thích đi làm quan - Tôi nói - con thấy thế cũng phải. Nhưng giá bố cứ thi đỗ...

- Con nói lại, mẹ nghe?

- Đời nay, mọi người còn nhìn nhiều vào bằng nọ sắc kia. Như ông Giải San(1) đấy. Con nghe bố nói, ông bị Tây thù ghét. Nhưng vì ông là người có bằng cấp được xếp vào hàng sĩ phu, nổi tiếng học giỏi, đạo cao đức trọng nên ông hô hào đánh Pháp mọi người mới chịu nghe theo.

Mẹ dừng tay sàng gạo, nhìn tôi hồi lâu nói:

- Gia cảnh mỗi nhà một khác. Nhà ta, đời ông nội cũng thi đỗ, không ra làm quan, về nhà làm việc phúc đức giúp đỡ bà còn làng xã, khước từ lộc nọ, ân kia của triều đình. Vì vậy, mọi người đều kính nể. Đến đời bố con, hệt như ông nội. Cũng chẳng nhất phẩm, nhị phẩm chi cả mà chỉ thích làm một anh bạch đinh(2).

Tôi chợt nhớ lại chuyện ngày xưa mà mẹ tôi thường kể: ... Có một vị tướng rất giỏi, theo vua Lê Lợi đánh giặc từ khi nhà vua dấy nghiệp ở đất Lam Sơn. Sau ngày thắng lợi, Lê Lợi thưởng công cho các tướng sĩ. Tìm mãi, chẳng thấy vị tướng tài đâu. Hỏi ra, mới biết là vị tướng đó sau khi phò vua, cứu nước xong, đã lặng lẽ bỏ đi, không màng gì đến công danh, lợi lộc. Vua Lê Lợi nhớ ơn, tặng cho ông danh hiệu Lê Phán Quan...

Đã hết hạn ba năm tù, bố tôi trở về, trên mình đầy sẹo của những vết thương. Hận nước thù nhà lại càng nung nấu khiến ông quyết tâm chuẩn bị cho tôi xuất dương làm cách mạng sớm hơn dự định. Tôi còn nhớ rõ những buổi trò chuyện với bố tôi trước khi xa gia đình, dấn thân vào con đường mới của cuộc đời. Đó là một buổi chiều đầy cơn gió rít trên nóc nhà. Xa xa là tiếng sủa ông ổng của con chó lài của thằng quan Tây. Thằng này lấy vợ là người ở làng tôi. Vợ nó là một ả hư hỏng. Bố mẹ ả cam tâm sống nhục, dùng đồng tiền phi nghĩa, cất một ngôi nhà lớn giữa làng cho vợ chồng nó. Hồi đầu, mỗi lần thằng “mũi lõ” đi xe song mã về làng, bọn phú hào vận động bà con ra đón. Bị phỉ nhổ, chúng phải dụ dỗ trẻ em bằng kẹo, bánh mong bọn trẻ sẽ theo xe reo hò mỗi bận “quan” về. Lúc đó, tôi và các bạn chừng trên dưới 10 tuổi, chẳng những không ra đón quan mà còn “tặng” cho nó nhiều trận mưa đá. Chúng nó biết tôi là một trong những tay “đầu sỏ” mà không làm gì được. Từ đó; mỗi lần về nhà vợ, thằng Tây này phải đem theo con chó lài hung dữ phòng thân...

Trong đêm mưa gió hôm ấy, thấy tôi luôn trở mình, như hiểu lòng con, bố bảo tôi:

- Bố sinh đúng vào lúc nước mất, nhà tan. Đến lượt con thì quan Tây, quan ta đã đâu vào đấy cả rồi. Thế của chúng hiện vững như bàn thạch. Còn ta, bao ý đồ phục quốc đều liên tiếp thất bại. Máu chảy thành sông, xương phơi thành núi mà vận nước vẫn còn mịt mù... Hồi thằng quan Tây bắt bớ, nó muốn ghép bố vào tội tụ tập trong rừng, âm mưu nghịch loạn để hòng xử bố đi đày chung thân. Nhưng bố không chịu. Rốt cục chẳng có chứng cớ gì, chúng nó phải thả bố ra. Nhưng nó vẫn còn căm bố lắm - Dừng lời trong giây lát, ông nói tiếp - Của đáng tội, bọn hào lý chỉ điểm cho Tây bắt bố cũng chẳng phải là “oan” chút nào. Nhưng việc của bố, bố cứ làm.

Tôi nói với bố:

- Con đi xa chuyến ni, chắc chi có ngày gặp lại bố mẹ và các em con.

Bố tôi khẽ bước xuống đất, tìm điếu thuốc lào, đến bên bàn uống nước. Tôi cũng nhổm dậy ngồi bên thành giường nhìn bố.

- Nước đã mất thì chẳng cái gì còn - Bố tôi nói - kể cả ngai vàng bệ ngọc. Sau vua Hàm Nghi, vua Thành Thái chống Tây, bị bắt đi đày. Thằng toàn quyền Bô, trước khi giải nhà vua đi, còn cố dụ Ngài lần cuối. Hắn nói: chỉ cần nhà vua thuận ra lời tuyên cáo nhận là có lỗi với chính phủ bảo hộ thì nước Đại Pháp sẵn sàng trao trả ngai vàng. Ngài không thèm nhìn mặt hắn, hiên ngang bước đi... Kể đến đây, bố tôi khẽ buông tiếng thở dài, giục tôi ngủ để ngày mai đi sớm.


(1) Phan Bội Châu.
(2) Một người dân bình thường, không chức tước, hàm sắc gì.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:30:15 am
*
*   *

Chuyến đi Thái Lan lần này (1923) của chúng tôi do ông Võ Trọng Ba, hội viên Quang phục Hội đưa đi. Đoàn có mười hai người: Lê Doãn (Lê Hồng Phong), Phan Đài (Phạm Hồng Thái), Trương Văn Lĩnh, Trần Bá Giao, anh Chắt... Dăm bảy người cùng quê Nghệ An, chúng tôi ít nhiều có quen biết nhau. Đây là đoàn ra đi đông nhất sau một thời gian việc đưa đón thanh niên ra nước ngoài của Quang phục Hội bị gián đoạn.

Từng người đi dạo ấy phân tán ra, tập trung ở Vinh, rồi chọn đúng ngày phiên chợ để dễ trà trộn với bà con đáp đò đêm xuôi về Hương Khê, theo đường bộ sang Lào. rồi Thái Lan. Ra đến đường cái lớn, bố tôi còn dặn dò: Con đi lập chí lần này gắng giữ lấy nền nếp, gia phong của dòng họ. Thấy việc nghĩa thì làm, việc phi nghĩa phải tránh xa. Bố mẹ nghèo chẳng có tiền bạc gì để lại cho con, chỉ để lại cho con cái đức làm người. Danh vọng tiền tài muôn nghìn rồi cũng hết. Nhưng cái đức thì vẫn còn. Đi đâu, ở đâu, con cố trau dồi thêm học vấn. Làm cách mạng mà dốt nát lại biếng nhác, không chịu học thì khó mà làm được, con ạ. Đến một quãng vắng bố tôi lại dặn: - Sang tới nơi, con cố tìm cho được ông Giải San. Nếu vì tuổi già, sức yếu hay một duyên có gì khác mà ông không đảm đương được sự nghiệp thì chắc chắn con cũng sẽ gặp minh chủ khác. Thời thế tạo anh hùng mà.

Để hai chú cháu có tiền ăn đường, bố mẹ tôi phải cầm một sào ruộng lấy mười đồng bạc. Ông trao cả cho Lê Hồng Phong là chú tôi.

Nhớ lại hôm bố tôi bị Tây bắt cùng với một số bà con trong làng, khi ông bị chúng giải đi giữa hai hàng lê sáng quắc, tôi lẽo đẽo theo sau cắn răng nuốt hận. Nhiều bạn nhỏ của tôi khóc thút thít, về nhà, mẹ tôi trách nhẹ:

- Con chả thương bố hay sao?

- Thưa mẹ, nếu khóc mà nó tha thì hãy khóc - Tôi đáp - Còn nó chả tha thì khóc làm gì!

Nhưng lần này chia tay với bố, nước mắt tôi chảy ròng ròng.

Bố xiết chặt tay tôi, động viên: Can đảm lên con!

Thuyền đã đầy. Chú Doãn đã xuống nhận chỗ. Bố tôi đặt tay lên vai tôi, nói tiếp: “Từ nay, bố đổi tên cho con là Lê Như Vọng. Vọng có nghĩa là hy vọng. Bố mẹ trông chờ ở con nhiều lắm. Con chớ phụ lòng”.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:32:24 am
*
*   *

Sau mấy tháng băng qua dải Trường Sơn bạt ngàn và miền núi Trung Lào, theo những vệt đường rừng hiểm hóc của những người buôn thuốc phiện lậu, đến đầu mùa hè năm 1923, đoàn chúng tôi mới đặt chân tới Thái Lan, một nước ở châu Á, trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trở thành khu đệm giữa hai tên đế quốc xâm lược Pháp và Anh, nên tạm thời còn giữ được nền độc lập.

Được đi trên một đất nước độc lập, tự do, giữa ban ngày, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng, không phải ngó trước, trông sau, lẩn tránh từng thằng mật thám, thằng quan Tây như khi còn đi trên mảnh đất của Tổ quốc và của nước bạn Lào sao mà sung sướng đến thế! Ngắm nhìn nông thôn đất Thái làng xóm đông vui, cây cối sum suê, ruộng đồng xanh tốt, những rặng cây thốt nốt trĩu quả làm tôi nhớ tới hình ảnh những hàng cau nơi quê nhà. Người dân Thái Lan hiền hậu, ưa làm điều lành, tránh điều ác. Lấy đạo Phật làm quốc đạo, đâu đâu cũng thấy những ngôi chùa vàng mái cong, những vị sư trẻ, già với tấm áo choàng vàng tươi đi đi lại lại. Cửa nhà chùa bao giờ cũng rộng mở sẵn sàng đón khách lỡ độ đường. Nhờ đó mà đoàn của chúng tôi đã được ăn no ngủ yên trong những ngày mới xa Tổ quốc. Chính quyền các địa phương ở Thái giúp đỡ nhiều cho Việt kiều làm ăn sinh sống. Việt kiều được sống quây quần thành từng thôn xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Sống xa Tổ quốc, mọi người càng thương nước, thương nòi, không bỏ qua cơ hội nhỏ nhặt nào để giúp đỡ cách mạng. Ông Châu Mỹ quê ở Can Lộc (Nghệ An) nguyên là một dân buôn thuốc phiện từ Lào và Thái Lan về, đã thành người dẫn đường rất bảo đảm cho nhiều đoàn cán bộ xuất dương. Ông Chước cũng quê ở Nghệ An. làm thợ nề, sang Thái Lan kiếm được đồng nào nuôi cán bộ đồng ấy... Còn biết bao người, bao việc làm âm thầm không tên của Việt kiều ta mà ngày ấy chúng tôi còn chưa biết hết. Nhưng ngày ấy, vì không có tàu xe, phải đi bộ trên những chặng đường dài từ bờ sông Mê Công đến các cơ sở của Hội ở Phi Chít, bản Đông nên chúng tôi đã có dịp gặp lại biết bao kiều bào ta phải bỏ nước ra đi sống trên đất Thái. Từ những lớp người xưa nhất, tránh sự trả thù hèn hạ của cha con Nguyễn Ánh đối với người dân xứ Nghệ luôn tích cực hưởng ứng phong trào khởi nghĩa Tây Sơn đến thế hệ đầu tiên chống Pháp, quyết không chịu để giặc “Quan công sứ” trong tỉnh nhà. Những lớp người ra đi sau phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Kế đến lớp người của Duy tân Hội, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang phục Hội. Có những người đã mãn chiều xế bóng, nặng lòng cố quốc tha hương như ông Cố Khôn, ông Ngô Quảng, là hai ông tướng võ của Phan Đình Phùng... Có những người tóc đã điểm sương nhưng vẫn ngày đêm trăn trở vì nghiệp lớn chưa thành như Đặng Tử Kính, Đặng Thúc Hứa, Võ Trọng Đài, Đặng Tử Mạc, Sáu Tùng, Bà Mọt... Mỗi lớp người có một nỗi đau riêng. Nỗi đau của hai võ tướng Ngô Quảng và Cố Khôn là nỗi đau của những người chí dũng có thừa, chỉ thua thằng Tây vì vũ khí và thiếu người chỉ huy lỗi lạc. Nỗi đau của các ông Đặng Thúc Hứa, Đặng Tử Kính... là nỗi đau của những người chứng kiến sự lật lọng xảo trá của chính phủ Nhật Bản đối với phong trào Đông Du mà do quá ngây thơ, cả tin nên thế hệ các ông, kể cả Phan Bội Châu, đã bị lợi dụng. Con thuyền đã đi chệch hướng quá xa. Chẳng nêu trách cứ vào một ai. Chỉ còn một cách là mọi người cùng chung lưng đấu cật với nhau tìm cho được một hướng đi đúng đắn cho con thuyền cách mạng Việt Nam lướt tới. Vị thuyền trưởng đó là ai bây giờ? Mọi người có nghe nói đến Nguyễn Ái Quốc. Nhưng cũng chưa ai được gặp Người. Tôi nhớ lại những lời bố tôi vẫn nói: Thời thế tạo anh hùng. Thời vận mới ắt phải xuất hiện minh chủ mới.

Chúng tôi dừng lại khá lâu ở Bản Đông. Phải làm để có cái ăn đã. Thế là chúng tôi ngày ngày cặm cụi trên đồng ruộng trại cày của Hội. Trông nom trại là o Đặng Thị Quỳnh Anh tức Mè Nho, người con gái Việt Nam đầu tiên xuất dương trong tổ chức Duy tân Hội. O sang Thái Lan từ năm 1904 đến nay đã tròn hai mươi năm. Nhiệm vụ của Hội trao cho o là trông nom việc trồng trọt, chăn nuôi để có thóc gạo, thực phẩm nuôi cán bộ qua lại đất Thái ngày một nhiều, có dư tiền lập quỹ mua súng đạn về đánh Pháp; đồng thời chăm sóc việc nuôi dạy con em của những lớp người cách mạng xuất dương và của bà con Việt kiều ở Thái Lan, để các cháu khỏi mất đi cốt cách và tâm hồn Việt Nam ở nơi đất khách quê người. Tôi rất cảm phục việc làm bền bỉ, kiên trì của o và của tất cả các vị cách mạng đàn anh khác. Nhưng như thế này thì đến bao giờ mới lấy lại được Nước? Tôi tự hỏi.

Khoảng đầu năm 1924, từ Trung Quốc có thư về, triệu tập số anh em mới sang ngay Quảng Châu. Tài chính của Hội, cộng với số tiền bán lứa lợn của o Quỳnh Anh chỉ đủ cho ba người đi trước: Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái và Lê Quảng Đạt. Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái đều tuấn tú khôi ngô, dáng vẻ “đặc” trí thức tỉnh thành, tuy rằng Phạm Hồng Thái có phần linh lợi hoạt bát và chải chuốt hơn. Hơn hai tháng trời leo đèo lội suối từ quê nhà sang Thái Lan, tôi thấy không lúc nào Phạm Hồng Thái chịu rời bỏ đôi giày da. Bây giờ anh lại tha đôi giày “vạn dặm” đó sang Quảng Châu. Nào có ai hay rằng ba anh mới đi được vài tháng thì tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu giết tên toàn quyền Pháp Méc-lanh đã dội về Thái Lan, làm chấn động dư luận đất nước này. Kiều bào ta ở Thái Lan vừa tiếc thương, vừa tự hào về Phạm Hồng Thái. Đọc báo chí công khai, tiếng bom Sa Diện càng chấn động mạnh mẽ hơn ở Trung Quốc. Và ngay sau đó đã dội về tới Việt Nam. Các anh Vương Thúc Oánh (con rể ông Phan Bội Châu), Mạnh Văn Liệu (Phùng Chí Kiên) vừa ở trong nước sang Thái Lan, phấn khởi cho chúng tôi biết tin thêm là: ngay ngày hôm đó (19-6-1924). bọn thực dân Pháp hốt hoảng đến cao độ, đã ra lệnh giới nghiêm trên toàn Đông Dương.

Riêng tôi đón nhận các nguồn tin tức kể trên với niềm phấn chấn tự hào đặc biệt. Đây là một việc làm “kinh thiên động địa” của Quang phục Hội, hay là một cái gì mới mẻ có liên quan đến vị minh chủ mới? Tôi nóng lòng chờ đợi đến lượt mình sang Trung Quốc. Ngày đó đã là cuối mùa thu năm 1924. Tài chính của Hội vẫn eo hẹp chỉ đủ cấp cho tôi và anh Trương Văn Lĩnh lên đường. Chặng đầu tiên, chúng tôi đáp xe lửa về Băng Cốc, thủ đô Thái Lan. Thành phố Băng Cốc tràn ngập Hoa kiều. Từng dãy phố, dãy nhà hai tầng hình hộp quét vôi trắng lóa, cửa sơn đen, treo những tấm biển quảng cáo to như những bức hoành phi, ghi vài dòng chữ Hán. Có chỗ viết cả tiếng Pháp, tiếng Anh. Qua đó tôi mới biết người Tàu ở đây làm đủ mọi việc. Từ những công ty xuất nhập khẩu lớn, các khách sạn, cao lâu, hiệu buôn, đến người bán rong các món lạc tàu phá xa (lạc rang...). Thế là thế nào nào? Tôi nghĩ, một nước độc lập mà thượng vàng hạ cám đều do người ngoại bang làm cả.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:35:34 am
Ở bến tàu Băng Cốc, hầu như tất cả số anh em công nhân khuân vác cũng là người Tàu. Phần lớn họ không có gia đình, vợ con, ăn ở ngay trên vỉa hè các nhà kho. Có việc thì làm, hết việc lại chạy kiếm cái gì ăn. Tối tối, họ nằm ngả nghiêng vạ vật quanh các bàn đèn thuốc phiện. Những chiếc đèn dầu lạc vàng ệch le lói trên cái nền tối đen thăm thẳm của khu nhà kho. Ngay gần đấy là dãy tòa nhà lầu cao của những ông chủ Hoa kiều, đèn nến sáng choang, hắt ra ngoài trời đêm đủ các loại nhạc Tây, nhạc Tầu xềnh xang xế líu...

Hôm sau, chúng tôi xuống tàu biển sang Hồng Công rồi đáp ca nô về Quảng Châu. Không một ai hỏi thẻ thuế thân, giấy hộ chiếu xuất nhập cảnh. Lúc đó từ Thái Lan đi Hồng Công hay Hồng Công vào Trung Quốc không cần một thứ giấy tờ nào.

Trên đường đi tìm phương cứu nước, cụ Phan Bội Châu định dựa vào nước Nhật Bản duy tân để đánh Pháp thì bị chính phủ Nhật lật lọng trục xuất (1909); định dựa vào Trung Quốc thì bị chính phủ Trung Quốc bắt giam (1913-1915). Cách mạng tháng Mười Nga đối với cụ như “một luồng gió xuân thổi tới” giữa “khói độc mây mù”, như một “tia thái dương” rọi sáng giữa “trời khuya đất ngủ”. “Luồng gió xuân ấy, tia thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội”. Lúc này cụ đang ở Hàng Châu (Trung Quốc) bắt đầu tiếp xúc với con đường cách mạng của chủ nghĩa xã hội khoa học, qua “tâm thư”. Song, phần đông những đồng chí tâm đắc với cụ từ phong trào Đông Du hoặc đã vĩnh viễn nằm xuống nơi đất khách quê người, hoặc vì tuổi già sức yếu không hoạt động được nữa. Nhiều đồng chí phải lưu lạc tìm kế sinh nhai: dạy học, mở hiệu buôn, làm sĩ quan trong quân đội Tưởng Giới Thạch... Một số nhỏ như Nguyễn Hải Thần, Đinh Tế Dân, Trương Bội Công... dần dần đi vào con đường tội lỗi.

Cuối thập kỷ 20, trong Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Châu - Trung Quốc đã hình thành hai nhóm thuộc hai thế hệ già trẻ. Nhóm thứ nhất có Lê Giản Khanh, Lê Cần (tức Cố Tống), Vũ Hồng Anh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc Huy... Nhóm thứ hai có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ... và sau này được bổ sung thêm lớp người chúng tôi: Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái, Lê Quảng Đạt, Trương Văn Lĩnh, rồi Vương Thúc Oánh, Hoàng Văn Ám... Thế hệ trẻ này ra đi làm cách mạng với những khái niệm mới: tự do, bình đẳng, dân chủ, dân quyền, lập hiến, dân sinh... Và nói chung là chúng tôi có nhiều sự bất đồng về chính kiến với lớp đàn anh đi trước... Trong lực lượng trẻ, xuất sắc hơn cả là Hồ Tùng Mậu. Sang Quảng Châu từ năm 1921, có nhiều điều kiện tìm hiểu Cách mạng tháng Mười, Hồ Tùng Mậu đã linh cảm thấy rằng con đường cứu nước, cứu dân phải là con đường cách mạng vô sản như người Nga đã làm.

Vì thế, Hồ Tùng Mậu đã tạm thời lập ra tổ chức Tâm tâm xã để giữ gìn cán bộ nòng cốt cho phong trào. Chúng tôi tới Quảng Châu được hai ngày, Hồ Tùng Mậu đã tìm đến. Vừa trông thấy tôi; ông reo lên:

- Tưởng ai, hóa ra cậu Nghiêm(1) con trai ông Lê Bá Thi.

- Còn chú, cháu nhớ ra rồi - Tôi trả lời. Trong tôi hiện ngay ra hình ảnh chú Mậu - một người tầm thước, vui tính, nói chuyện rất hóm hỉnh, biết nhiều trò chơi, trò quỷ thuật khiến chúng tôi rất thích gần. Gia đình chú Mậu đã ba, bốn đời đánh Pháp. Ông nội, cụ Hồ Bá Kiệt đánh Tây từ lúc chúng mới sang, đã bỏ mình. Bố đẻ, cụ Hồ Bá Ôn, tổng đốc Nam Định, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng bảo vệ thành Nam. Đến Hồ Tùng Mậu là thế hệ thứ ba của dòng họ này đứng lên đánh Pháp(2).

Cuộc tao ngộ nơi đất khách quê người làm cho ba chú cháu mừng vui khôn xiết. Lúc đó, tôi chưa biết Việt Nam ta đã có được lãnh tụ là Nguyễn Ái Quốc, vì ông chỉ xa xôi nói với chúng tôi:

- Hai anh sang đây lúc này là đúng thời vận đấy! Nói xong, ông dặn: Hai anh cứ ở đây. Mai sẽ có một đồng chí đến gặp.

Chúng tôi ở tại gia đình ông Lê Giản Khanh - một chiến sĩ yêu nước cùng thời Phan Bội Châu. Vợ ông là người Trung Quốc, quê ở Quảng Đông. Giờ đây ông Lê Giản Khanh đã vĩnh viễn nằm lại nơi đất khách quê người. Hai trong ba người con trai của ông cũng đã và đang kế tục sự nghiệp của cha mình.

Quả nhiên hôm sau, trước mặt tôi là một đồng chí ngoài ba mươi tuổi, mặc áo ba-đờ-xuy màu tro đã sờn cổ, đầu đội mũ cát két bạc màu, chân đi đôi giày da cũ. Đồng chí đến đúng hẹn và tự xưng là Lý Thụy. Đồng chí Lý Thụy có một vẻ vừa phong trần dầy dạn, vừa ấm áp dễ gần. Với giọng nói miền Trung và đôi mắt rất sáng, với vẻ linh lợi, chân tình, đồng chí Lý Thụy đi vào câu chuyện với chúng tôi một cách rất tự nhiên, thoải mái. Tôi ngạc nhiên khi thấy đồng chí nắm rất chắc tình hình gia đình, tên cha, tên mẹ cùng tâm tư, hoài bão của cả hai chúng tôi chẳng khác nào bà con, cô bác lâu ngày gặp lại. Chuyện trò cởi mở một lát, đồng chí Lý Thụy đưa ra mấy tờ báo:

- Các anh có đọc được chữ Trung Quốc không?

Tôi lướt qua mấy dòng chữ to, trả lời:

- Thưa đồng chí, đọc được chữ, nhưng nghĩa chưa hiểu hết.

- Cố gắng đọc kỹ nhiều lần để tìm ra nghĩa. Hai anh phải giúp đỡ nhau, đọc hết các mục. Không hiểu thì hỏi nhau, vẫn chưa hiểu thì đánh dấu lại, lần sau tôi đến, đem ra hỏi.

Một tuần, gặp đồng chí Lý Thụy ba lần, chúng tôi càng bồn chồn. Lúc thì tưởng tượng đồng chí Lý Thụy giống Nguyễn Sinh Khiêm, lúc thì lại chẳng thấy giống chút nào.


(1) Tên của tôi hồi còn nhỏ ở quê.
(2) Sau này con trai Hồ Tùng Mậu là Hồ Mỹ Xuyên cũng hy sinh trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954).


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:37:58 am
II

TÔI ĐƯỢC BÁC HỒ ĐỔI TÊN

Giữa đợt học tập, Trương Văn Lĩnh và tôi xin phép đồng chí Lý Thụy đi viếng mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái mà cả hai chúng tôi đều coi như người anh lớn của mình. Nghĩa trang Hoàng Hoa Cương không gian trầm lắng. Xa xa dòng sông Châu ngậm ngùi, cắm bó nhang nghi ngút trước tấm bia đá lớn có ghi dòng chữ Hán: “Việt Nam chí sĩ Phạm Hồng Thái chi mộ”(1) lòng tôi đau xót khôn nguôi.

Sang Quảng Châu gặp các chú, các anh, tôi hỏi cặn kẽ về cái chết vẻ vang của Phạm Hồng Thái. Theo lời chỉ dẫn, tôi đến tận dòng con kênh đào chia ranh giới bên này là Quảng Châu, bên kia là tô giới Pháp - Sa Diện. Lòng kênh chỉ rộng chừng hơn chục sải. Thuyền bè san sát. Xa chút nữa là dòng sông Châu, theo kế hoạch thì Phạm Hồng Thái sẽ chạy về phía sông Châu. Có chiếc thuyền của Lê Hồng Phong đón sẵn ở chỗ hẹn. Bị bọn cảnh sát bịt chặt lối ra sông Châu, Phạm Hồng Thái buộc phải tìm đường thoát về phía kênh đào và đã hy sinh. Theo lời bà con Trung Quốc ở bờ con kênh kể lại, Phạm Hồng Thái hy sinh vì lẽ chạy được thoát ra đến bờ kênh thì đã rất mệt, lại vướng giày, tất, quần áo lượt là tề chỉnh... nên đã không gắng gượng bơi vào bờ được.

Tôi quyết tâm đi tìm hiểu ngọn nguồn. Nhưng ở cái thành phố người đông như kiến cỏ, dân nghèo chạy ăn từng bữa, tìm được ra nhân chứng không phải là việc dễ làm. Dọc con kênh, tôi đi đi lại lại, dò hỏi nhiều rồi mà vẫn chưa đâu vào đâu cả. Bỗng một hôm có tiếng người chạy theo tôi:

- Nị là người cách mạng An Nam? Nị đi tìm người vớt được xác liệt sĩ cách mạng An Nam chôn ở nghĩa trang phải không?

Trước mặt tôi là một em bé người Trung Quốc chạc mười tuổi, lanh lợi, dễ thương.

- Sao nị biết?

- Bữa nọ ngộ thấy chú thắp nhang, cúi đầu trước phần mộ - Vừa nói em bé vừa giơ tay chỉ về phía Hoàng Hoa Cương.

- Nị theo ngộ, theo ngộ... Em bước đi thoăn thoắt, dân tôi đi quanh co trong một xóm ngõ nghèo cách bờ kênh không xa.

Một bà mẹ Trung Quốc đang ngồi sàng gạo trước một căn lều lụp xụp, tối tăm ẩm thấp. Động tác sàng gạo hệt như mẹ tôi ở quê nhà. Em bé giới thiệu tôi với bà mẹ, người trực tiếp tham gia vào việc tìm kiếm thi hài Phạm Hồng Thái.

- Phải gặp bố con ông Trương mới rõ mà! - Bà mẹ nói sau khi đã nắm được đầu đuôi ý định của tôi.

Liền mấy buổi, mẹ Cắm - tên của bà - bỏ cả việc chợ dẫn tôi men theo con kênh ra sông Châu đi ngược dòng lên mãi, tìm con thuyền đánh cá của bố con ông Trương. Nhà mẹ rất nghèo. Đồ đạc chỉ có một cái chõng tre và manh chiếu rách. Gia cư tài sản tất cả gộp lại không bằng một bữa ăn sáng của một người giàu có. Hôm đầu tiên bước vào căn lều của mẹ. tôi sững sờ trước hai tấm bài vị bằng giấy hồng điều ghi ngày mất của Quách Cầm, Quách Cán, hai người con trai của mẹ, vừa mới chết cách đây ba năm, cùng tháng, cùng ngày. Gạn hỏi mãi, người mẹ mới nói rõ là các quan tướng đánh nhau, Cầm bị bắt đi theo ông tướng này, Cán bị bắt theo ông tướng kia. Hai anh em giết lộn nhau trong một trận quyết chiến ngay ở Hải Lục Phong (Quảng Đông). Cả hai người đều mất xác. Cả người kể lẫn người nghe đều khóc, ở thế gian này, bà mẹ Việt Nam, bà mẹ Trung Quốc,... tiếng nói có thể khác nhau nhưng những giọt nước mắt thì không một chút khác biệt.

Biết tôi là người cách mạng Việt Nam, mẹ Cắm quyết giúp tìm cho bằng được bố con người dân chài Trung Quốc họ Trương.

- Ngay sáng hôm đó, - Lời ông Trương – biết người đi giết tên toàn quyền Pháp là một nhà ái quốc “An Nam”, xóm chài chúng tôi bảo nhau đi tìm xác giúp, không lấy tiền, cả buổi sáng trời cứ sập sùi, lúc tạnh lúc mưa... Bờ bên ta (Quảng Châu) đông đặc, bờ bên nó (Sa Diện) dân cũng đổ ra xem. Nó cho cảnh sát đuổi, nhưng không được. Mãi mới mò thấy...

Tôi ngồi nghe cha con người dân chài Quảng Châu kể, mắt đỏ hoe, hiểu lõm bõm. Bà Lê Giảng Thanh hôm đó cùng đi phải phiên dịch giúp tôi:

- Đưa xác lên một trường học gần đấy. Đốt lửa, thắp hương trầm lên. Có các nhà chức trách đến khám nghiệm thi thể. Tuy bị ngâm nước cả đêm nhưng mặt mày vẫn tươi tắn, còn nguyên cả quần áo, giày, tất. Người này hào hoa phong nhã đấy. Đồ dùng đem theo chẳng có gì. Cởi đến cái áo lót trong cùng mới tìm thấy một phong bao, bọc năm sáu lần giấy, kín lắm. Dáng chừng khi xuống nước khỏi bị nhòe.

Kể đến đây người dân chài Trung Quốc dừng lại, từ từ lấy thuốc nhồi vào tẩu, châm lửa hút, rồi đưa mắt dượt theo làn khói thuốc đang lởn vởn trong khoang thuyền:

- Trong bao đựng một lá thư ghi vài dòng chữ Hán. Một người đọc to. Tôi nhớ đại ý là: “Việc này là việc của người Việt Nam với tên thực dân Pháp, không liên quan gì đến người Trung Quốc”.

Chi tiết cuối cùng này đã làm tuổi trẻ chiến đấu hy sinh của Phạm Hồng Thái đẹp trọn vẹn.


(1) Mộ chí sĩ Việt Nam Phạm Hồng Thái. Theo một nguồn tư liệu mới công bố thì mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái trước đặt ở Nhị Vọng Cảng (Hoàng cảng). Sau này mới chuyển về nghĩa trang Hoàng Hoa Cương.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:40:05 am
Sau này tôi mới biết rõ thêm là khi tiếng bom nổ ở Sa Diện thì đồng chí Lý Thụy đang ở Mạc Tư Khoa, dự Đại hội quốc tế Cộng sản lần thứ V. Tuy không tán thành việc ám sát cá nhân, nhưng đồng chí Lý Thụy vẫn đánh giá cao khí phách anh hùng của Phạm Hồng Thái đối với phong trào cách mạng của dân ta. Vì lẽ nó đã nổ ra ở nước ngoài, ít nhiều mang tính chất quốc tế, thời đại. Hoàn toàn khác với tiếng súng kíp lẻ tẻ thời Cần Vương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,... mà bọn thực dân còn nỏ mồm gán cho là “giặc cỏ”. Về tới Quảng Châu, đồng chí Lý Thụy đã kính cẩn nghiêng mình trước phần mộ của Phạm Hồng Thái.

Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V khai mạc ngày 17 tháng 6 năm 1924. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong Đại hội này đã đọc bản tham luận sâu sắc về vấn đề các dân tộc thuộc địa. Một ủy ban thường trực các nước thuộc địa thành lập. Nguyễn Ái Quốc được cử làm ủy viên. Nhiều nghị quyết mới về phong trào cách mạng thuộc địa được thông qua. Khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại” được nêu thành khẩu hiệu đấu tranh.

Sau đại hội, đồng chí Nguyễn Ái Quốc với tư cách là ủy viên thường trực Bộ phương Đông trong Quốc tế cộng sản, được phái về góp phần chỉ đạo phát triển phong trào cách mạng ở các nước châu Á và Đông Nam Á. Ở đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi hành động đều vì cách mạng quốc tế và cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc tới Trung Quốc vào những tháng cuối năm 1924, lấy tên là Lý Thụy. Cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 tuy lật đổ được triều đình Mãn Thanh nhưng vẫn không giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Trung Quốc. Đất nước rộng bao la này vẫn ở tình trạng nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Bọn quân phiệt bán nước câu kết chặt chẽ với chủ nghĩa đế quốc xưng hùng xưng bá ở từng địa phương, đẩy đất nước đến tình trạng chia năm xẻ bảy, xung đột liên miên. Cách mạng tháng Mười vĩ đại và ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều tầng lớp xã hội Trung Quốc. Năm 1924, hai nước Liên Xô - Trung Quốc đặt quan hệ ngoại giao. Liên Xô xóa bỏ hết mọi hiệp ước không bình đẳng mà chính phủ Sa hoàng đã cưỡng bức Trung Quốc phải thừa nhận. Do ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào “Ngũ tứ” bùng nổ ở Trung Quốc mở đầu cao trào cách mạng mang tính chất dân tộc dân chủ. Năm 1921, với sự giúp đỡ về lý luận của Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập. Mặt trận thống nhất phản đế phản phong hình thành trong tháng 1 năm 1924 đã tập hợp được các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu trí sản và một bộ phận của giai cấp tư sản dân tộc. Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương hợp tác với Quốc dân đảng nhằm thúc đẩy cao trào đấu tranh chống các thế lực đế quốc xâm lược và các tập đoàn phản động cát cứ. Từ năm 1917, Chính phủ Quốc dân đảng do bác sĩ Tôn Dật Tiên đứng đầu đã xây dựng tỉnh Quảng Đông thành căn cứ địa cách mạng. Với chính sách “liên Nga, dung Cộng”, Tôn Dật Tiên chính thức đề nghị với Chính phủ Liên Xô cử một đoàn cố vấn quân sự sang Trung Quốc giúp đỡ. Tháng 6 năm 1923, Chính phủ Liên Xô đã cử đồng chí Mi-khai-in Bô-rô-đin (đại diện của Quốc tế cộng sản ở miền Nam Trung Quốc lấy bí danh là Ga-lin sang làm cố vấn chính trị bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên và Ban chấp hành Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc. Đồng chí Va-xi-li Blu-khe làm cố vấn chính của Chính phủ Quảng Châu. Năm 1924, với sự giúp đỡ vũ khí, phương tiện của Liên Xô, một trường quân sự chính quy, mỗi khóa đào tạo gần bảy trăm sĩ quan đã được khai giảng ở Hoàng Phố, ngoại ô Quảng Châu. Các đồng chí Nau-mốp, Tai-rốp, Snây được cử làm cố vấn kiêm giảng viên chính trị tại trường quân sự này.

Đồng chí Lý Thụy về Quảng Châu đóng vai người phiên dịch cho đồng chí Bô-rô-đin.

Đối với cách mạng Việt Nam lúc đó, sự có mặt của đồng chí Lý Thụy ở Quảng Châu mang một ý nghĩa trọng đại: Như một con thuyền thiếu người chèo chống, lênh đênh ngoài khơi, không tìm ra phương hướng, đến nay, con thuyền đó đã có một người thuyền trưởng vững vàng tay lái hướng nó vượt qua nhiều thác ghềnh bão tố để đi tới đích.

Qua Hồ Tùng Mậu, đồng chí Lý Thụy xốc lại tất cả các lực lượng cách mạng hiện có ở Quảng Châu, lấy các đồng chí trẻ làm nòng cốt để tổ chức ra một đoàn thể cách mạng mới. Đó là Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Do phải giữ bí mật lực lượng, tài chính eo hẹp, điều kiện sinh sống, ăn ở, trình độ của anh em không đồng đều nên đồng chí Lý Thụy phải huấn luyện, dìu dắt đưa vào tổ chức từng người hoặc hai người một như trường hợp của hai anh em chúng tôi.

Đang lức học tập, tôi được tin bố tôi ở quê nhà bị giặc Pháp bắt tù lần nữa vì tội có con trốn ra nước ngoài theo cộng sản. Đang ăn, tôi buông rơi đũa lúc nào không biết. Bị giặc bắt lần này, bố tôi chắc chỉ có chết mà thôi. Chết trong nỗi niềm u uất. Bất giác tôi nhớ lại bài thơ Thuật hoài của Đặng Dung, một danh tướng thời Trần hết lòng phò vua, giúp nước nhưng sự nghiệp không thành:

... Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma…
(1).

Để khỏi ảnh hưởng đến các đồng chí xung quanh, ban ngày tôi cố ghìm nước mắt, ban đêm, một mình thao thức năm canh. Càng nghĩ đến bố mẹ, tôi càng xót thương da diết. Trong cơn đau vật vã, hình ảnh đồng chí Lý Thụy đã đến với tôi như một sức mạnh vô giá, an ủi động viên, bù đắp vào sự tổn thất của đời tôi. Tôi đã cảm thấy như cuộc đời mình sẽ gắn chặt với con người bình dị lớn lao đó. Hôm giảng bài phẩm chất người cách mạng (lúc đó còn gọi là tư cách người cách mạng), đồng chí Lý Thụy nhiều lần nhấn mạnh đến cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư (lúc đó gọi là vị công vong tư), trung thành tận tụy, suốt đời hy sinh phấn đấu vì mọi người. Có nhiều điểm giống như những lời khuyên bảo tận tình của ông bà, bố mẹ ở quê nhà. Tôi ngồi nghe thấm thía, rung động tới từng đường gân, thớ thịt. Từ đó trong trái tim tôi, Người mãi mãi là người Cha, là người Thày. Tôi tự nguyện suốt đời là người học trò nhỏ của Người.


(1) Tạm dịch là:
Thù trả chưa xong, đầu đã bạc.
Gươm thiêng dưới nguyệt mấy phen mài


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:41:53 am
*
*   *

Thời gian sau, đồng chí Lý Thụy đến ít hơn và chỉ gặp riêng từng người. Một hôm, đồng chí dẫn tôi đến một khu phố đông đúc của Quảng Châu. Có rất nhiều hiệu cao lâu, khách sạn và sòng bạc. Vừa tới đầu phố, mùi chim quay đã thơm lừng. Thế giới thường nói người Tàu sành ăn. Đúng ra là chỉ có người Tàu ở Quảng Đông. Dân Quảng Đông lấy cái ăn là chính, còn ở, mặc thì thế nào cũng xong. Lần đầu tiên tôi được đồng chí dẫn vào một hiệu ăn. Hiệu ăn khá lớn, bàn ghế la liệt cả trên gác, dưới nhà. Khách vào ăn uống nhộn nhịp ồn ào. Tiếng những người hầu bàn xang xang xế xế không sao trộn lẫn được. “Đồng chí Lý Thụy định cho mình thưởng thức món gì đặc biệt đây!”. Dè đâu, đồng chí chỉ gọi một ấm chè ướp sen, hương vị của quê nhà. Xong, hai thày trò đến một vườn hoa cùng ngồi trên một ghế đá.

- Hôm nay tôi giới thiệu anh vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, anh thấy thế nào?

Thật là bất ngờ. Tôi nghẹn ngào xúc động mãi mới nói nên lời.

- Việc này chỉ có tôi và anh biết, không được nói cho người thứ ba biết đấy.

- Thưa... thưa... với những người thân như chú Mậu, chú Doãn... có được không ạ?

- Không cần thiết phải nói.

Thời tiết ngả dần sang mùa hè. Khí hậu ở Quảng Đông gần giống như ở miền Bắc nước ta. Trời quang quẻ. Những lộc non bắt đầu vươn cao xanh tốt. Về nhà gặp Văn Lĩnh, mấy lần tôi suýt buột miệng nói ra. Ít ngày sau đến lượt Trương Văn Lĩnh đi phố với đồng chí Lý Thụy, về nhà Trương Văn Lĩnh chồm lên bá vai tôi lắc mạnh tưởng đến gãy xương. Từ đó hai chúng tôi ngầm hiểu nhau bằng những khóe mắt, nụ cười kín đáo.

Cũng như Văn Lĩnh, tôi đã hoàn toàn dứt được nỗi trăn trở về việc đi tìm minh chủ. Bằng tất cả trực quan của mình, chúng tôi đã nhận thấy đồng chí Lý Thụy là điểm tụ rực sáng của bao nguồn trí tuệ, tinh hoa của dân tộc mà lâu nay chúng tôi thắc thỏm trông chờ.

Được tin đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tức Lý Thụy ở Quảng Châu, cụ Phan Bội Châu lúc đó đang ở Hàng Châu vội biên thư về, ngỏ ý muốn gặp. Đồng chí Lý Thụy viết thư trả lời, xin cụ cho thư thả ít lâu. Thời gian này, đế quốc Pháp câu kết với các thế lực đế quốc phản động khác, đang tìm mọi cách lùng bắt cụ. Do đó từ nhiều năm nay, theo quy ước, mỗi lần định đi đâu cụ đều báo tin cho ông Hồ Học Lãm là người đồng chí tâm huyết của cụ đang là cán bộ cao cấp trong bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng, rất có uy tín trong giới chính trị, xã hội Trung Quốc. Những khi được báo tin, thường là ông Lãm đích thân dẫn cụ Phan đi, nhất là khi phải qua các tô giới của bọn đế quốc. Nhưng không hiểu sao lần này cụ Phan không báo gì cho ông Lãm. Chuyến đi của cụ lần này chỉ có Nguyễn Thượng Huyền ở gần cụ được biết. Y đã ngầm báo cho bọn đế quốc bắt cụ tại tô giới Anh ở Thượng Hải ngày 18 tháng 6 năm 1925.

Được tin sét đánh, tôi đi tìm gặp chú Hồ Tùng Mậu bày tỏ nỗi bất bình, căm phẫn đối với tên phản bội. Chú Mậu kiên nhẫn ngồi nghe, im lặng hồi lâu, rồi mới chậm rãi nói:

- Nếu được lập tòa, chú sẽ xử tội chết chém mấy thằng Ăng-lê và thằng Tây trước đã. Chúng rất cáo già trong việc làm hư hỏng con em các lãnh tụ. Vừa bôi nhọ được thanh danh, vừa làm được các vố lớn. Chúng ta không được coi thường.

- Chung quy vẫn tại mình - Tôi nói - Mình như cây tùng, cây bách thì nó làm gì được.

- Đúng! Muốn được như cây tùng, cây bách phải suốt đời bền gan luyện trí. Không vì tiền tài sắc đẹp, vì phú quý vinh hoa, vì những lời phỉnh nịnh ngon ngọt mà lóa mắt xiêu lòng - Giọng chú Mậu bỗng trầm trầm tha thiết - Bao gương tày liếp rành rành trước mắt chúng ta, bạc đầu làm cách mạng rồi, mà vẫn bị sa ngã đấy.

Việc bọn thống trị Pháp lén lút bắt cụ Phan Bội Châu đã làm dấy lên một phong trào đòi ân xá cho cụ rầm rộ khắp cả Bắc, Trung, Nam. Đây là cơ hội tốt cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc bí mật cử cán bộ, gửi nhiều tài liệu cách mạng về nước thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ. Tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ra đời ở nhiều nơi trong nước. Nhiều tầng lớp thanh niên, trí thức bí mật sang Quảng Châu tìm gặp Nguyễn Ái Quốc: Lưu Quốc Long, Lê Duy Điếm, Quý Mộng Sơn, Đặng Cảnh Tân, Trần Phú, Phạm Trọng Bình, Phan Trọng Đạt, Nguyễn Ngọc Ba...


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:42:35 am
Đồng chí Lý Thụy lại tận tình dìu dắt từng người một. Song lần này sang đây, có điều kiện mở một lớp học lấy tên là Chính trị đặc biệt huấn luyện Ban. Đồng chí Lý Thụy vẫn là giảng viên chính, có thêm một số đồng chí phụ giảng: Hồ Tùng Mậu. Đặng Cảnh Tân...

Thời gian qua đi đã mấy chục năm rồi, đến nay, mỗi khi nghĩ đến việc Đảng và Nhà nước ta đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ đông đảo có trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn vững vàng, tôi không khỏi xúc động nhớ lại những năm 20, cách mạng còn trong buổi sơ khai trứng nước. Lúc ấy cán bộ có điều kiện xuất dương đếm được trên đầu ngón tay. Tuy bận nhiều công việc hết sức trọng đại, đồng chí Lý Thụy vẫn dày công chăm sóc huấn luyện từng người hoặc hai ba người dù chỉ là một hay vài ba tuần lễ. Mãi tới năm 1926, có điều kiện tối thiểu để tập trung thành một lớp huấn luyện hẳn hoi nhưng số học viên do đồng chí trực tiếp đào tạo cũng chỉ khoảng trên dưới mười người. Mà lúc ấy làm sao có được trường sở, ban bệ, tài liệu, văn hiện, sách báo... sinh hoạt đàng hoàng bề thế như bây giờ! Tất cả lúc ấy là vừa làm vừa học, đùm bọc nuôi nhau. Các đồng chí Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn... đến trước, vào học ở trường Hoàng Phố và làm việc để có tiền nuôi chúng tôi đến sau. Đến lượt chúng tôi cũng có trách nhiệm như vậy. Ấy là chưa nói đến việc học ở đất người, luôn phải mắt trước mắt sau, nghe ngóng cảnh giác đề phòng mọi sự phản trắc đánh phá của kẻ thù. Lúc đó, cứ nghĩ đến mình, chưa làm được gì cho cách mạng là chúng tôi day dứt không yên. Chỉ mong học chóng xong để được nhận công tác. Tâm trạng của anh em chúng tôi lúc đó, ai ai cũng mong được về nước hoạt động. Hoặc chí ít cũng được về Thái Lan cho gần Tổ quốc hơn, khi cần “nhảy một bước” là đặt chân tới nước nhà. Hoặc nếu không, cần đi học thêm thì sẽ đi Liên Xô học.

Sau này, tôi ngày càng thấy rõ là trong quá trình bồi dưỡng huấn luyện chúng tôi. đồng chí Lý Thụy đã cân nhắc tình hình, sở trường, sở đoản của từng người để bồi dưỡng, giáo dục, giao việc. Đúng như câu Bác nói sau này mà nhiều người đã biết là “Dụng nhân như dụng mộc”. Cây gỗ thẳng dùng vào việc thẳng, cong dùng vào việc cong. Có đồng chí được cứ về nước hoạt động ngay. Có đồng chí như anh Lê Hồng Phong sau khi tốt nghiệp trường Hoàng Phố được gửi đi Liên Xô học tiếp. Điều mong mỏi nhất của tôi lúc đó là được về nước hay về Thái Lan để hoạt động. Còn nếu như được đi học thêm thì được học tại Liên Xô. Lúc đó đi Liên Xô không phải dễ dàng, phải có thời cơ thuận tiện, lại rất tốn kém. Anh Lê Hồng Phong vừa đi trót lọt thì đường dây liên lạc bị gián đoạn do xung đột quân sự ở miền Bắc Trung Quốc.

Mùa thu năm 1926, đồng chí Lý Thụy giới thiệu Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long và tôi vào học trường võ bị Hoàng Phố dịp khai giảng khóa học mới. Trước mắt được vào trường là may mắn rồi, vì như thế vừa được trau dồi về kiến thức quân sự, vừa giải quyết được cuộc sống hàng ngày luôn khó khăn thiếu thốn, lại có tiền đóng góp vào quỹ cách mạng.

Như trên đã nói, trường Hoàng Phố là do Chính phủ Liên Xô thể theo yêu cầu của bác sĩ Tôn Dật Tiên, nhận giúp đỡ đào tạo cán bộ nòng cốt để thành lập “cách mạng quốc dân quân”. Cơ sở vật chất, trang bị phương tiện, binh khí kỹ thuật của nhà trường đều do Liên Xô đầu tư xây dựng. Điều làm tôi yên tâm và hào hứng là tuy chưa được đi học ở Liên Xô như anh Lê Hồng Phong nhưng học ở đây cũng là được học tư tưởng quân sự, chiến thuật, chiến lược của cuộc cách mạng vô sản do các cố vấn quân sự Liên Xô giảng dạy. Thế nhưng giảng viên trong trường lúc này còn có cả người của Đảng cộng sản Trung Quốc, của Chính phủ cách mạng Tôn Dật Tiên, thậm chí có cả Nguyễn Hải Thần, Đinh Tế Dân, Trương Bội Công là người của Việt Nam Quốc dân đảng đang thoái hóa. Điều đó khiến tôi phải băn khoăn, cảnh giác đề phòng.

Khóa học của chúng tôi có tới bảy trăm học viên, những học viên mới vào đều phải qua chương trình hạ sĩ quan trong sáu tháng. Sau sáu tháng, qua sát hạch, nếu đủ điểm mới được học tiếp chương trình đào tạo sĩ quan. Trong số bảy trăm học viên khóa này có tới gần 100 là người Việt Nam. Tôi hơi thấy làm lạ: sao mà đông thế? Hỏi ra mới biết số thanh niên này là con em Việt kiều ở nhiều nơi trên đất Trung Quốc, phần lớn do Nguyễn Hải Thần, -Trương Bội Công đưa vào học tập. Tìm hiểu thì số thanh niên này phần lớn là tốt nhưng còn quá ngây thơ về chính trị nên bị Nguyễn Hải Thần lợi dụng. Trước khi nhập học, đồng chí Lý Thụy căn dặn chúng tôi rất nhiều điều. Chung quy, đồng chí yêu cầu anh em phải cố gắng chịu khó vượt gian khổ để giỏi cả lý thuyết, giỏi cả động tác thực hành. Đồng chí cũng không quên căn dặn: Không được sao nhãng việc học chính trị. Chính trị - quân sự phải đi đôi. Cách mạng ta sau này rất cần đến đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị giỏi giang.

Song, khóa học mà ba chúng tôi tham gia rơi vào thời điểm không thuận lợi. Sau cái chết của bác sĩ Tôn Dật Tiên (12-3-1925) và sau vụ ám sát Liêu Trọng Khải (20-8-1925) là người tích cực củng cố hợp tác Quốc - Cộng, tình hình Quốc - Cộng hợp tác đã có chiều hướng xấu đi. Tưởng Giới Thạch bắt đầu thực hiện mưu đồ tiếm quyền lãnh đạo Quốc dân Đảng, phản bội đường lối “thân Nga, dung Cộng” của Tôn Trung Sơn.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:43:03 am
Trước tiên, Tưởng sử dụng lực lượng sĩ quan trẻ của trường Hoàng Phố để đánh bọn quân phiệt cát cứ. Khóa học của Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn đã bị đẩy đi đánh nhau với bọn quân phiệt ở Quảng Đông. Đến lượt chúng tôi đang theo học chương trình hạ sĩ quan lại phải đi chặn đánh tên quân phiệt Trần Quýnh Minh từ căn cứ phía tây định tiến về đánh chiếm Quảng Châu. Tôi được điều về một trung đoàn mà Lê Hồng Sơn là trưởng phòng chính trị. Cuộc chiến kéo dài chừng một tuần lễ. Phần thắng thuộc về các đơn vị cách mạng Quốc dân quân do các sĩ quan trẻ ở trường Hoàng Phố chỉ huy. Lần đầu tiên tôi vào trận với ý thức học hỏi rất nghiêm túc, những mong rằng qua thực tế chiến đấu đó vận dụng vào chương trình học tập sĩ quan của tôi sau này.

Sau khi cụ Phan Bội Châu bị bắt, Nguyễn Hải Thần tấp tểnh đòi lên làm lãnh tụ cách mạng Việt Nam. Nguyễn Hải Thần định lợi dụng số đông thanh niên Việt Nam mà ông ta đưa vào học mà tôi vừa nói, tổ chức một cuộc họp để bầu ông ta làm chủ tịch nước Việt Nam ở hải ngoại và tên thổ phỉ Đàm Giám Tây làm tổng tư lệnh. Nguyễn Hải Thần biết chúng tôi cứng đầu nên cố tình lôi kéo mua chuộc. Nắm được tình hình, tôi về báo cáo với đồng chí Lý Thụy, xin cho phá âm mưu ấy.

- Anh làm được không? Đồng chí Lý Thụy hỏi.

- Thưa, làm được ạ!

Đồng chí Lý Thụy đồng ý cho làm, trao đổi với tôi tỉ mỉ về kế hoạch và dặn phải hết sức thận trọng, vì lúc ấy ở trong trường có vài tên nhân viên nguyên trước đây là thổ phỉ chuyên làm nghề đâm thuê chém mướn, gây gổ, giết người. Ở Trung Quốc lúc đó, thuê một kẻ đi giết người là chuyện cơm bữa. Bấy giờ, nghĩ đến việc phải đụng chạm với bọn này, ban đầu tôi cũng thấy rờn rợn. Lại nhớ tới lời bố tôi căn dặn trước lúc lên đường: “Con đi lần này, được thì được lại nước, mất thì mất tuổi thanh xuân của mình”, tôi càng thêm phân vân, suy tính. Nhưng chí đã quyết, vẫn nhất định làm. Tôi phân công Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long tranh thủ đi giác ngộ vận động trước số thanh niên vào loại “dao búa” này nên tỉnh táo nghe theo lẽ phải. Vì thế, sau đó, khi bước vào cuộc họp đông người, thấy cán cân so sánh đã ngả dần về phía chính nghĩa, tôi đứng lên vạch mặt Đàm Giám Tây là một tên thổ phỉ, người Tàu, gây nhiều tội ác với nhân dân hai nước ở vùng biên giới Quảng Đông, Quảng Tây và Nguyễn Hải Thần là một tên đầu cơ chính trị v.v. Và tôi tuyên bố ly khai không hợp tác với tụi này. Những việc làm của tôi lúc ấy phần lớn là theo kế hoạch dặn dò chu đáo của đồng chí Lý Thụy. Sau khi tôi hăng hái “nổ phát súng” đầu tiên Trương Văn Lĩnh và Lưu Quốc Long bố trí ngồi lẫn trong số thanh niên, tiếp tục phát biểu làm nòng cốt cho số anh em này thấy rõ bộ mặt xấu xa của Nguyễn Hải Thần. Tiếng bàn tán hường ứng lan truyền và lập tức nổi lên rầm rộ trong đám thanh niên: Vô lý, sao lại để một tên thổ phỉ gian ác làm tổng tư lệnh? Ta không có người tài giỏi làm tổng tư lệnh được hay sao? Không thể “Hẩu lớ” với bọn thổ phỉ được đâu! Đả đảo thổ phỉ Đàm Giám Tây. Đả đảo Nguyễn Hải Thần. Tổng tư lệnh phải là người Việt Nam ta...

Buổi họp tan. Anh em tự động lục tục bỏ ra về.

Đúng như dự đoán của đồng chí Lý Thụy, ngay sau đó Nguyễn Hải Thần thuê người giết tôi. Do đã đề phòng nên tôi chỉ bị giết hụt. Nguyễn Hải Thần càng thêm bẽ mặt, mất hết ảnh hưởng trong trường.

Từ tám người đầu tiên làm lực lượng cách mạng trẻ có sẵn ở Quảng Châu đầu năm 1925: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Lê Quảng Đạt (sau mất khí tiết), Lâm Đức Thụ (sau phản bội), Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long (Lưu Quy) và tôi, đồng chí Lý Thụy đã tổ chức lại thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Giữa và cuối năm 1926, lực lượng cách mạng trẻ từ trong nước sang càng đông, Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội càng phát triển, đòi hỏi phải có một tổ chức hạt nhân lãnh đạo. Hạt nhân đó là Thanh niên cộng sản Đoàn cũng do đồng chí Lý Thụy tổ chức ra.
 
Sau những lần giao công tác, thử thách, tôi được đồng chí Lý Thụy kết nạp vào Thanh niên cộng sản Đoàn. Lần kết nạp này cũng như lần trước, chỉ có hai người: đồng chí Lý Thụy và tôi. Trong lần này, đồng chí Lý Thụy đổi tên cho tôi là Lê Quốc Vọng.

Tôi đang theo học thì bị ốm nặng, phải điều trị tại bệnh xá nhà trường. Biết tình hình thuốc men ở đây hay bị bớt xén, đồng chí Lý Thụy đưa tôi về nhà Lâm Đức Thụ chạy chữa. Vợ chồng Lâm Đức Thụ thường tỏ ra chân tình niềm nở. Khi hai vợ chồng Thụ có việc sang Hồng Công liền trao cả tòa nhà nhờ tôi trông nom giúp và dặn lại: tiền chợ hàng ngày trong tủ cứ lấy ra chi dùng.

Tuy sức khỏe chưa hồi phục hẳn nhưng mỗi ngày tôi chỉ lấy đủ tiền mua rau. Tiền để trong tủ rất nhiều. Toàn bạc trắng đựng trong các túi vải dài như ruột tượng. Và tôi đã phải băn khoăn: Họ làm gì mà tiền lắm thế? Sao họ không đưa hẳn một món cho mình, mà lại bảo cứ mở tủ ra mà lấy? Một ý nghĩ chợt lóe lên làm tôi choáng váng; trong tổ chức cách mạng phải chăng đã có kẻ ăn ở hai lòng? Họ định phản lại cả đồng chí Lý Thụy hay sao? Gặp đồng chí Lý Thụy, tôi báo cáo lại tường tận.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:45:02 am
*
*   *

Tại trường Hoàng Phố, tôi kết thân với hai bạn học sinh nước ngoài. Một anh người Triều Tiên, họ Phác. Vì cùng là người dân mất nước nên chúng tôi rất thông cảm với nhau. Qua những câu chuyện của anh bạn Triều Tiên, tôi càng thấy rõ là bọn đế quốc da trắng cũng như da vàng đều dã man tàn ác như nhau. Những dân tộc thuộc địa nhỏ yếu không còn con đường nào khác ngoài con đường đoàn kết, liên hiệp nhau lại đấu tranh tự giải phóng cho mình. Như thế cũng là gián tiếp hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc bạn như lời đồng chí Lý Thụy thường dạy bảo. Người bạn thứ hai là anh Đào Trù, người Trung Quốc. Anh Đào Trù học hành rất nghiêm túc, tư cách đứng đắn. Biết tôi là người Việt Nam nên anh thường gần gũi chuyện trò. Tôi cũng rất mến anh. Một hôm, nhân buổi nói chuyện vui sau bữa cơm chiều như lệ thường của học viên nhà trường, chúng tôi tranh luận với nhau thế nào là người có tri thức? Lý lẽ của tôi được nhiều bạn tán thành, nhất là anh bạn Triều Tiên họ Phác. Nhưng có một học sinh Trung Quốc tỏ vẻ bực bội, ngoảnh về phía đông người nói: “Nó là dân An Nam, vong quốc nô, làm gì có tri thức”. Tôi ôn tồn nhưng nghiêm nghị nói với người đó:

- Anh hiểu tri thức là thế nào? Đất nước tôi, dân tộc tôi bị đế quốc Pháp đến xâm lược hòng biến chúng tôi thành nô lệ nên chúng tôi phải đi học để làm cách mạng. Còn Trung Quốc, tiếng là một nước độc lập nhưng bị làm nô lệ cho bao nhiêu tên đế quốc. Vậy mà tôi ít thấy các anh nói đến việc đánh đuổi chúng nó, chỉ thấy nói đến Bắc phạt, anh em trong nhà đánh lẫn nhau. Chúng tôi đi làm cách mạng là chúng tôi có tri thức.

Đào Trù hướng về phía anh học sinh Trung Quốc kia và những học sinh khác bình luận:

- Cứ nghe nó nói thì đủ biết ai là trí thức.

Ít lân sau, nhân lúc chỉ có riêng hai người, Đào Trù tự giới thiệu rồi nói với tôi:

- Tôi muốn giới thiệu anh vào Đảng cộng sản Trung Quốc, anh nghĩ thế nào?

Cảm kích trước thiện ý của Đào Trù; nhưng không tiện từ chối ngay, tôi trả lời: Xin để cho suy nghĩ. Nghe tôi báo cáo lại, đồng chí Lý Thụy gật đầu, cười và lại nhắc nhở tôi về vấn đề giữ bí mật, lẽ sống còn của cách mạng lúc đó.

Ngay từ hồi còn nhỏ, tôi đã ý thức về việc giữ kín mồm miệng, đến nay bước chân vào con đường hoạt động cách mạng, tôi càng thấm thía vì sao đồng chí Lý Thụy luôn nhắc nhở mọi người phải biết giữ bí mật cho tổ chức, đặc biệt, từ sau ngày Tưởng Giới Thạch tiến hành thanh đảng - thực chất là tiêu diệt cộng sản và loại trừ những phần tử tiến bộ ra khỏi bộ máy chuyên chính độc tài của y. Việc thanh đảng xảy ra vào ngày 12 tháng 4 năm 1927 ở khắp các nơi trong đó có trường Hoàng Phố.

Năm 1926, với chức vụ tổng tư lệnh quân đội, Tưởng Giới Thạch đã sử dụng số sĩ quan tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố để xây dựng nhiều đơn vị chiến đấu cho bản thân y. Đồng thời y tạm thời liên minh với một số tên quân phiệt ở miền Nam Trung Quốc mở nhiều cuộc hành binh lớn lên phía bắc (Bắc phạt) nhằm tiêu diệt những tên quân phiệt lãnh chúa không chịu thần phục y. Chỉ gọn trong vòng sáu tháng cuối năm 1926, cả khu vực rộng lớn phía nam sông Dương Tử, bao gồm các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây... dưới quyền kiểm soát của Tưởng Giới Thạch. Tháng 3 năm 1927, Tưởng chiếm xong hai thành phố lớn là Thượng Hải và Nam Kinh. Trong lúc Tưởng Giới Thạch tiến hành Bắc phạt, lực lượng vũ trang của Đảng cộng sản Trung Quốc phát triển mạnh, được bổ sung bằng những đơn vị nguyên vẹn của Quốc dân đảng do những người chỉ huy là cộng sản chạy sang hàng ngũ Hồng quân và đánh thắng nhiều tên quân phiệt, mở rộng căn cứ trong đó có một số vùng mới chiếm được của Tưởng Giới Thạch. Trước sự lớn mạnh của cộng sản, Tưởng buộc phải tiến hành sớm cái gọi là “thanh đảng”.

Hôm đó (12-4-1927), vào một ngày cuối xuân, sương đục nhờ nhờ trên thành phố Quảng Châu, tiếng kèn tập họp nổi lên gay gắt trong trường Hoàng Phố. Từng đơn vị học sinh thuộc các phân khoa bộ binh, pháo binh, công binh... tập họp thành từng khối như thường lệ ở địa điểm quy định. Bọn khủng bố đọc tên những người bị tình nghi là cộng sản ra khỏi hàng. Khi chúng vừa gọi đến tên tôi thì người sĩ quan phụ trách khoa bộ binh liền có ý kiến phản đối: Nó học hành rất tốt, cộng sản gì mà bắt nó.

Tôi thoát chết. Nhưng trong lúc đó, một anh trong số thanh niên do Nguyễn Hải Thần lôi kéo vào trường; không hiểu vì lẽ gì lại tự khai trong lý lịch nhập trường là đảng viên cộng sản. Thế là bọn đao phủ tuyên án, bắn anh chết ngay trước mặt chúng tôi.

Trường hợp thoát nạn bất ngờ của tôi có thể bắt nguồn từ một lý do xa xôi nào đó. Tôi nghĩ thế. Phải chăng đó là do từ thuở nhỏ tôi đã được bố mẹ ân cần dạy dỗ theo nếp sống của gia đình: sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp, trật tự, việc nào ra việc ấy, chỗ nào để chỗ ấy. Lớn lên đi học, nhất là từ lúc tham gia cách mạng, ý thức tổ chức, kỷ luật, tự nguyện tự giác chấp hành mọi quy định dù nhỏ nhặt nhất của cuộc sống tập thể luôn luôn thường trực ở trong tôi. Khi vào trường học lại được đồng chí Lý Thụy căn dặn phải học tốt, gương mẫu về mọi mặt. Vì tin yêu tuyệt đối ở đồng chí, nghiêm chỉnh chấp hành mọi lời răn dạy, nhủ khuyên, tôi đã tỏ ra là một học viên xuất sắc trong học tập, gương mẫu trong chấp hành kỷ luật, nội quy nhà trường, đề cao đạo đức, tác phong khiêm tốn, giản dị nên được thầy yêu, bạn mến. Người sĩ quan phụ trách đó không biết tôi là người Việt Nam nhưng có thể vì có ấn tượng tốt đối với tôi mà bênh vực khiến tôi thoát nạn?


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:45:38 am
Được tin số anh em học sinh vừa do tổ chức Thanh niên ta, vừa do Nguyễn Hải Thần giới thiệu vào học bị khủng bố, tra khảo, anh Lê Hồng Sơn vội tìm đến Nguyễn Hải Thần và Đinh Tế Dân là hai giảng viên chính trị trong trường yêu cầu can thiệp. Nhưng họ đều khiếp nhược và từ chối. Lê Hồng Sơn một mình đứng lên giải quyết.

- Số anh em này sang đây chỉ biết học tập. Anh em có biết cộng sản là gì. Tôi đứng lên bảo lãnh cho anh em - Lê Hồng Sơn dõng dạc nói với bọn khủng bố. Chúng đã bắt giam anh mấy tháng. Nhưng số học sinh Việt Nam thì được yên ổn.

Sau vụ khủng bố, Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long và tôi theo khối học sinh sĩ quan chuyển trường lên học tại Nam Kinh (khối học sinh hạ sĩ quan học tiếp ở Quảng Châu). Không khí trong trường trở nên căng thẳng. Học sinh bị giám sát chia rẽ không ai tin ai nữa Nhóm giảng viên chính trị cộng sản và một số học sinh Trung Quốc, trong đó có Đào Trù đã kịp tránh thoát. Mặc dù bị giám sát chặt chẽ, ba chúng tôi vẫn dũng cảm học tập. Khi mãn khóa, chúng tôi đều tốt nghiệp hạng ưu. Nhà trường bổ nhiệm mỗi người về một đơn vị. Tôi được đưa về trung đoàn, làm trợ lý tham mưu.

Tình hình Trung Quốc vẫn rất lộn xộn. Tưởng Giới Thạch mở đợt khủng bố tiêu diệt cộng sản thì bọn quân phiệt lãnh chúa (có tên vừa mới liên minh với Tưởng) vội câu kết với nhau để chống Tưởng. Thành phố Nam Kinh ở phía nam sông Dương Tử. Phía bắc là của tên quân phiệt Tôn Truyền Phương đang hầm hè với Tưởng Giới Thạch. Tôi vừa về nhận công tác được một tuần thì trung đoàn đã phải vượt sông Dương Tử, tiến vào Nam Kinh đánh Tôn Truyền Phương. Sau mười ngày bị chặn đánh ở Trấn Giang, Tôn Truyền Phương thua, phải chạy lên phía bắc. Lưu Quốc Long chiến đấu ở một đơn vị khác, bị thương phải đi điều trị. Khi tôi tìm đến thăm thì được thư của chú Hồ Tùng Mậu nhắn hai người về Quảng Châu. Mặc dầu vết thương chưa lành, Lưu Quốc Long cũng xin nghỉ phép cùng tôi về gấp Quảng Châu. Tại đây chúng tôi gặp lại đồng chí Lý Thụy. Sau đợt khủng bố tháng 4 vừa qua, đồng chí Lý Thụy phải rút vào hoạt động bí mật. Đồng chí chỉ gặp hai anh em tôi trong chốc lát, dặn chúng tôi ở lại Quảng Châu, đợi liên lạc dẫn đường sang Liên Xô học tập. Hạnh phúc quá bất ngờ, chúng tôi cảm kích đến run rẩy chân tay, quên hết mọi nỗi nhọc nhằn hiểm nguy trước mắt. Trong thời gian chờ đợi, chúng tôi được tổ chức hướng dẫn học tập một số tài liệu về chủ nghĩa cộng sản và tập tài liệu của Liên hiệp các dân tộc bị áp bức trên thế giới.

Vào đầu mùa đông, trời Quảng Châu đầy sương lạnh buốt. Buổi kỷ niệm lễ Song thập (kỷ niệm Cách mạng Tân Hợi - Trung Quốc ngày 10 tháng 10 dương lịch hàng năm) nặng nề nhưng âm ỉ trong cơn sốt nội chiến và khởi nghĩa liên miên ở khắp mấy tỉnh miền nam. Ở Quảng Đông đồng chí Bành Bái nguyên là một địa chủ lớn, bỏ cả cơ nghiệp, theo cách mạng, lãnh đạo nông dân ba lần khởi nghĩa (tháng 4, tháng 7, tháng 10 năm 1927) đánh chiếm lại toàn bộ quê hương mình là huyện Hải Lục Phong. Tôi đã có dịp đến Hải Lục Phong. Đó là vùng đất mênh mông, một tiểu Vạn lý trường thành khép kín, trong đó nhốt hàng chục vạn con người nô lệ dưới quyền sinh quyền sát của một số tên chúa đất, để rồi liên miên tiếp diễn ra bao cảnh nồi da nấu thịt, như hai anh em ruột Quách Cầm, Quách Cán giết hại lẫn nhau. Hình ảnh hai tấm bài vị trên bàn thờ trong nhà mẹ Cắm ở xóm nghèo bên bờ con kênh Sa Diện lại hiện lên rõ mồn một trong trí nhớ của tôi.

Sau khởi nghĩa tháng 10, huyện Hải Lục Phong đã tổ chức được một lực lượng vũ trang đông đảo, sẵn sàng chi viện cho thành phố Quảng Châu nổi dậy.

Ngày 11 tháng 12 năm 1927, cuộc khởi nghĩa Quảng Châu dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Châu do đồng chí Trương Thái Lôi đứng đầu, bùng nổ. Lực lượng vũ trang nòng cốt gồm trên một trăm tay súng thanh niên, trong đó có một sổ học sinh trường quân sự Hoàng Phố, tham gia khởi nghĩa ở Vũ Hán, không thành công, chạy về. Đó là đội quân trẻ tuổi hăng say bồng bột nhưng chưa biết suy nghĩ sâu nông. Bên cạnh họ là hàng chục vạn quần chúng lao động trong thành phố được trang bị giáo mác, gậy gộc, ào ào đổ xuống đường. Khí thế cách mạng ngút trời ngập đất. Quân khởi nghĩa nhanh chóng chiếm được toàn bộ thành phố đập tan bộ máy chính quyền phản động của Tưởng Giới Thạch. Cùng một lúc quân Hải Lục Phong còn đánh chiếm cảng Sơn Dầu, tiến về thành phố; thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, giành toàn thắng. Nhưng quân Hải Lục Phong đã bị bọn quân phiệt địa phương chặn đánh, không tiến lên được, phải rút. Quân khởi nghĩa làm chủ thành phố được một tuần thì rơi vào tình trạng bị bao vây, cô lập.

Một số cán bộ cách mạng Việt Nam trong đó có ba anh em chúng tôi đã trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa, sát cánh với những chiến sĩ cộng sản Trung Quốc, ngày đêm lặn lội nơi chiến lũy.

Kẻ thù đã dìm cuộc khởi nghĩa Quảng Châu trong biển máu. Chỉ trong mấy ngày, xác người đã ngập đường phố. Những tiếng chân bước đi lùng sục huỳnh huỵch. Những tiếng thét trói man rợ. Súng nổ ran khắp nơi khắp chốn. Từng đoàn chiến sĩ cách mạng, trong đó cả hai vợ chồng đồng chí Trương Thái Lôi và từng xâu dài những người dân vô tội bị dẫn đi hành hình. Những họng súng máy xả đạn khủng bố đến đỏ nòng. Từng đám người gục xuống như ngả rạ dọc đường phố. Máu đọng thành từng vũng, xác người trôi lều bều, trương thối trên dòng sông Châu. Thành Quảng Châu sặc mùi tử khí. Trời Quảng Châu thê lương, ảm đạm.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:46:01 am
Tôi được chứng kiến từ đầu đến cuối sự trả thù hèn hạ, điên cuồng của bọn phản động Quốc dân đảng. Ngay từ ngày đầu phản công lấy lại được thành phố, chúng đã sục luôn vào trụ sở của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở phố Văn Minh, bắt mấy cán bộ ta ở đó. Tôi nhanh chân chạy thoát, tìm đến nơi ở của các đồng chí lãnh đạo: Hồ Tùng Mậu, Đặng Thúc Hứa (tức Tú Di)... Tôi nhận chỉ thị của đồng chí Hồ Tùng Mậu phải lập tức đến ngay trường Hoàng Phố xem xét tình hình của một số thanh niên ta vừa từ trong nước ra, đang theo học tại lớp hạ sĩ quan. Tôi vừa đi khỏi nhà thì bọn Quốc dân đảng đến khám xét và bắt giữ đồng chí Hồ Tùng Mậu. Trường Hoàng Phố ở ngoại ô Quảng Châu. Từ ngày đầu có cuộc khởi nghĩa, học sinh bị cấm trại, tước vũ khí, bị không chế rất chặt. Gian nguy lắm tôi mới tới nơi. Trông thấy tôi, bọn khiêu khích (trong số học sinh Trung Quốc) lập tức la ó: Cộng sản đến bắt liên lạc! Và ngay tức khắc tôi bị chúng giữ lại.

- Tôi đến để xem số anh em học sinh Việt Nam hiện ra sao.

- Không biết, bắt giữ lại đã.

Số anh em học sinh Việt Nam thấy có người mình đến và vô cớ bị bắt giữ, lập tức đứng lên phản đối và bảo lãnh cho tôi là vô can, vô tội. “Có gì thì cứ giam chúng tôi còn thả người đó ra”. Sau mấy ngày bị giữ lại nhân viên trong trường có cảm tình với cách mạng, tạo cơ hội cho tôi chạy thoát.

Nhà tù Quảng Châu chột ních người, như một cái thùng bị hơi nén quá lực. Bọn khủng bố buộc phải thả bớt một số người bị bắt ra trong đó có vợ đồng chí Hồ Tùng Mậu. Nhờ đó, tôi nhận được ngay chỉ thị mới là phải cùng với Lê Quốc Long, Trương Văn Lĩnh lánh lên Nam Kinh ngay. Trên đường đi, chúng tôi mang theo thư của Hồ Tùng Mậu giới thiệu ba chúng tôi với ông Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam xuất dương từ năm 1906 trong phong trào Đông Du, hiện là cán bộ cao cấp trong bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng.

Nam Kinh trước đây vốn là cố đô của bọn vua chúa triều Minh chính dòng Hán tộc. Qua nhiều cuộc giao tranh đẫm máu, phản bội lẫn nhau để tranh giành quyền lợi địa vị, nội bộ bọn thống trị Hán tộc đã bị chia rẽ suy yếu, khiến những người Mãn Châu từ trước vẫn bị coi là một dân tộc man di ở phương bắc có cơ hội chinh phục được toàn bộ đất nước Trung Hoa, lập nên triều đại Mãn Thanh định đô ở Bắc Kinh: Triều đại Mãn Thanh cai trị các dân tộc khác bằng những luật lệ hà khắc như bắt đàn ông phải để đuôi sam trên đầu để tỏ sự thần phục. Nam Kinh từ đây đượm không khí quạnh hiu u uất như nuối tiếc một thời oanh liệt đã tàn tạ của bọn thống trị Hán tộc.

Tin tức từ Quảng Châu lọt về đây đã ít lại bị bóp méo rất nhiều. Nhưng những bài học kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Quảng Châu vẫn khuấy động tâm trí tôi trong thời gian chờ đợi lên đường sang Liên Xô học. Lẽ ra tôi đã đi Liên Xô chuyến trước với một đồng chí nữa. Nhưng tôi bị kẹt vì phải tham gia đánh tên quân phiệt Tôn Truyền Phương nên về muộn, phải đợi đi chuyến sau. Đang nóng lòng thì tôi được đồng chí Lê Quảng Đạt tới truyền đạt chỉ thị của đồng chí Lý Thụy:

- Nhiệm vụ của anh có sự thay đổi, không đi Liên Xô nữa và cũng không về nước nữa - Lê Quảng Đạt vừa nói vừa nhìn thẳng vào tôi như để thăm dò, bắt mạch - Nhiệm vụ của anh là ở lại làm sĩ quan trong quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa. Kìa khoan đã, bình tĩnh nghe tôi nói tiếp đã - sở dĩ phải trao cho anh nhiệm vụ này, như anh biết đấy, sau các cuộc khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại, Đảng cộng sản Trung Quốc bị tổn thất nặng nề, chính thức yêu cầu ta chi viện, kể cả việc gài người vào quân đội Quốc dân đảng - Lê Quảng Đạt dừng trong giây lát rồi nói tiếp - Theo lời dặn của đồng chí Lý Thụy, thời gian ở trong quân đội Quốc dân đảng anh cần hết sức tranh thủ học hỏi để nâng cao trình độ quân sự, chiến lược, chiến thuật, sau này về phục vụ Tổ Quốc. Mặt khác nếu Đảng bạn yêu cầu làm giúp việc gì thì phải tích cực làm thật tốt, coi đó như là làm cho mình vậy.

Tôi lặng người đi. Ước mong được đi học trên đất nước của Lê-nin, hay trở về Tổ quốc như vậy là tan vỡ. Rồi đây tôi sẽ phải làm một sĩ quan Quốc dân đảng. Bố mẹ, họ hàng, làng nước, các đồng chí của mình nữa, ai thấu hiểu cho. Và sẽ phải sống bên cạnh bọn đao phủ mặt người dạ thú. Hình ảnh từng đống người dân vô tội bị chết gục trước họng súng liên thanh ở Quảng Châu làm tôi muốn vùng ngay lên phản kháng. Nhưng đây là chỉ thị của đồng chí Lý Thụy.

Suy nghĩ một lát, tôi chậm rãi trả lời: “Tôi sợ không hoàn thành nhiệm vụ. Anh còn lạ gì tính tôi. Không ưa điều gì, hiện ngay lên nét mặt. Ở lâu với chúng, ắt có lúc phải lộ ra. Nó sẽ tóm được”.

Lê Quảng Đạt động viên, an ủi: Đồng chí Lý Thụy rất tin anh mới trao cho anh nhiệm vụ này. Vì biết là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, giàu sang không quyến rũ nổi anh. Nghe đồng chí Hồ Tùng Mậu nói: cân nhắc lựa chọn mãi trong số các đồng chí chúng ta, đồng chí Lý Thụy mới quyết định chọn anh đấy.

Biết nói làm sao được nữa vì đây là chỉ thị của đồng chí Lý Thụy. Tôi chỉ còn biết vâng lời.

Và hai chúng tôi ngồi trao đổi công tác, mật khẩu, mật lệnh, địa chỉ liên lạc với nhau cho đến khuya vẫn chưa dứt ra được.

Cuộc đời hoạt động của tôi bước sang chặng đường mới.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:47:51 am
III

NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT

Trước mặt tôi là một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi tuổi nho nhã, đôn hậu. Ông vừa thay bộ quân phục sĩ quan cao cấp bằng bộ quần áo thường dùng trong nhà. Tôi nhìn thấy ông liệt như những người bà con chú bác tại quê nhà. Không khí căn phòng nhỏ ấm hẳn lên mặc dầu tiết tháng chạp âm lịch ở Nam Kinh rất lạnh.

- Tôi biết tiếng ông cụ thân sinh ra anh từ thời cụ Phan Đình Phùng - Ông Hồ Học Lãm, người đang ngồi trước mặt tôi nói - Cụ chuyên lo về tài chính, dược liệu cho nghĩa quân.

Ông Hồ Học Lãm là anh em con chú con bác với Hồ Tùng Mậu. Ông là anh. Dòng họ Hồ chịu nhiều nỗi đau. Hai cụ thân sinh của Hồ Học Lãm và Hồ Tùng Mậu là hai anh em ruột đều tử tiết vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Đã có một thời ở huyện Quỳnh Lưu - quê ông Hồ Học Lãm, bà con ta nói nhiều đến công tích của người mẹ Hồ Học Lãm: Bà Lụa hay bà hàng lụa. Bà quẩy gánh lụa đi bán khắp các chợ xa gần trong tỉnh, vừa làm tai mắt vừa chắt chiu từng đồng kẽm cho nghĩa quân Phan Đình Phùng. Việc nước, việc nhà đều trọn vẹn. Chồng tử tiết, bà thay chồng nuôi con khôn lớn theo chí hướng của cha ông. Hồ Học Lãm thuộc lớp thanh niên đầu tiên trong phong trào Đông Du xuất dương sang Nhật, theo học tại trường Chấn Vũ, một trường quân sự cao cấp của nước Nhật Bản vừa đánh thắng nước Nga của Sa hoàng. Nhưng ngọt bùi chẳng bõ đắng cay. Trong lúc học chỉ toàn nghe thấy họ khoe khoang nước Nhật giỏi, người Nhật tài, xứng đáng là anh cả toàn châu Á. Họ còn khen cả Pháp cũng có mặt giỏi mặt tài. Hồ Học Lãm cũng như tất cả các du học sinh Việt Nam khác đều tức nổ ruột, nhưng vẫn phải bấm bụng nín thinh vì đã trót sa cơ lỡ bước gửi thân ở nước này. Và điều mà mọi người không thể ngờ tới là chỉ sau vài ba năm, mới xong được một khóa học quân sự, chính phủ Nhật Bản cấu kết với giặc Pháp đã ra lệnh giải tán số anh em du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản vào năm 1908. Năm sau (1909) được Pháp nhả cho chút ít quyền lợi buôn bán, bọn cầm quyền Nhật Bản đã thẳng cánh trục xuất lãnh tụ Phan Bội Châu và số du học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật. Hồ Học Lãm theo cụ Phan về đất nước Trung Hoa đang rối như canh hẹ và được nhận vào học ở trường Bảo Định - trường quân sự cao cấp của Trung Quốc lúc bấy giờ. Học ở Bảo Định, gần kinh đô Bắc Kinh, cũng như học ở trường Chấn Vũ, Nhật Bản, bao giờ Hồ Học Lãm cũng là học sinh xuất sắc về mọi mặt. Cuộc cách mạng Tân Hợi do bác sĩ Tôn Dật Tiên lãnh đạo bùng nổ giữa lúc Hồ Học Lãm tốt nghiệp trường quân sự Bảo Định. Cùng với một số du học sinh Việt Nam khác như Võ Tùng,., ông liền gia nhập các đơn vị quân đội ủng hộ đường lối cách mạng của Tôn Dật Tiên, tiễu trừ bọn quân phiệt cát cứ. Sau nhiều năm ở chiến trường, ông chuyển về làm việc tại cục tác chiến, bộ tổng tham mưu quân đội Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch không còn lạ gì ông Hồ Học Lãm. Cùng học với nhau một lớp ở trường Chấn Vũ, Nhật Bản rồi lại ở trường Bảo Định, Trung Quốc, mọi mặt quân sự, chính, trị, văn hóa ông hơn hẳn. Tốt nghiệp xong, ông Hồ Học Lãm và Tưởng Giới Thạch đều được ra cầm quân đánh bọn quân phiệt cát cứ. Trong một trận chiến đấu, trung đoàn do Tưởng Giới Thạch chỉ huy bị bao vây có nguy cơ tan rã. Người đem quân đến cứu nguy cho Tưởng chính là ông Hồ Học Lãm. Có lẽ cũng vì vậy mà Tưởng rất tri ân ông Hồ Học Lãm. Mặt khác, theo lời ông Hồ Học Lãm nói với tôi sau này thì, thực ra Tướng Giới Thạch không tài cán gì lắm, nhưng cái giỏi của y là biết dùng người, giống như Lưu Bị hay Tống Giang trong cổ sử Trung Quốc. Còn ông Hồ Học Lãm, tất nhiên cũng biết triệt để khai thác lợi thế này đối với Tưởng Giới Thạch trong mấy chục năm liền ở Trung Quốc để phục vụ cách mạng Việt Nam. Nhưng theo tôi, điều cơ bản giúp ông có được uy tín lớn trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp Quốc dân đảng Trung Quốc vẫn là do tư cách đạo đức không chê trách được điều gì của ông, kết hợp với tính hiếu học, luôn tự nâng cao trình độ quân sự, chính trị, nghiệp vụ của mình khiến bọn xấu bụng muốn kèn cựa, làm hại ông cũng không làm gì được. Ngược lại, uy tín của ông ngày càng tăng lên. Tôi nhớ vào thời gian quân phiệt Nhật Bản mở rộng chiến tranh xâm lược Trung Quốc, khoảng năm 1936 - 1937, một hôm ông Hồ Học Lãm về nhà vui vẻ đưa ra 4.000 đồng tiền thưởng. Thì ra Tưởng Giới Thạch, trước tình thế đó, đã ra đầu bài cho tất cả tướng lĩnh cao cấp Quốc dân đảng hiến kế đối phó với quân xâm lược Nhật Bản. Nhiều bản hiến kế của các tướng lĩnh dày cộm, đủ cả bản đồ, phương hướng chiến lược, chiến dịch v.v... Bản của ông rất ngắn gọn, đại ý là: Trung Quốc có 500 triệu dân, chỉ cần mỗi người bỏ ra 1 đồng là có 500 triệu đồng để mua sắm vũ khí chống Nhật. Hoặc được 2 đồng hay 5 đồng thì càng tốt. Sau mới đề cập đến vài đường chiến lược, theo ông nói lại, là rút ra từ những bài học chống ngoại xâm của ông cha ta: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... vận dụng trong điều kiện Trung Quốc lúc đó.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:48:42 am
Lúc ba chúng tôi lên Nam Kinh gặp ông Hồ Học Lãm, cũng là lúc tranh tối tranh sáng trong mưu đồ tiếm quyền lãnh đạo Quốc dân đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch. Có một việc mà chúng rất ngại là số sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Hoàng Phố, nếu thất nghiệp lâu sẽ tìm đường chạy theo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Do đó việc tìm kiếm việc làm của chúng tôi không gặp khó khăn gì mấy. Tuy vậy chúng vẫn bắt mọi người, kể cả chúng tôi, phải sát hạch lại. Sau sát hạch, tôi nhận quân hàm trung úy, về trung đoàn bộ binh. Anh Lưu Quốc Long về một trung đoàn khác, còn anh Trương Văn Lĩnh về một đơn vị công an vũ trang. Chúng tôi tạm chia tay nhau.

Chúng tôi kiếm được việc làm đã giảm một phần khó khăn cho tổ chức ta về tài chính. Lúc đầu tiền lương của tôi là 60 đồng một tháng. Tất cả mọi chi phí tôi tiêu 30 đồng còn gửi vào quỹ cách mạng 30 đồng. Việc đồng chí Lý Thụy cử tôi vào làm sĩ quan quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa lúc đó là vừa để tôi có dịp tranh thủ trang bị cho mình một số kiến thức về quân sự, phục vụ Tổ quốc sau này. Mặt khác, cũng là để tạo điều kiện giúp đỡ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Là trung úy, tôi có thể nhận chức đại đội phó hay trung đội trưởng. Nhưng tôi nghĩ trước mắt mình cần ở gần với anh em binh sĩ, nên đã nhận làm trung đội trưởng trước vẻ ngạc nhiên của viên trung đoàn trưởng, nơi tôi đến nhận công tác.

Quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa vào thời Tưởng Giới Thạch tiếm quyền hoàn toàn mang bản chất một quân đội đế quốc. Giữa sĩ quan và binh lính là hai đẳng cấp rõ rệt. Hàng ngày tôi chỉ huy, huấn luyện, chỉ dẫn anh em binh sĩ theo tác phong nghiêm cách vốn có của tôi về quân phong, quân kỷ, bài bản chính quy. Nhưng trong sinh hoạt, đối xử, xưng hô thường ngày, chắc tôi có nhiều điều khác với các sĩ quan họ thường gặp. Vì thế, anh em binh sĩ trong trung đội tỏ ra mến phục tôi, họ không lẩn tránh chỉ huy như ở các đơn vị khác. Còn cấp đại đội, tiểu đoàn trực tiếp của tôi, thì thấy trung đội của tôi được huấn luyện tốt, thành tích cao, lại ít vi phạm kỷ luật nhất nên rất thích. Họ thường lấy trung đội tôi làm gương trong trung đoàn, tiểu đoàn... Bản thân tôi cũng hết sức tranh thủ mọi thời gian để học hỏi nâng cao trình độ: tháo lắp súng, ném lựu đạn, đâm lê, bò, lê, lăn, toài, phát tiến đình chỉ, trung đội độc lập chiến đấu, hoặc chiến đấu trong đội hình đại đội v.v... Miệng nói, tay làm thực sự. Càng về sau tôi càng rõ chính vì vậy mà anh em binh sĩ cũng ngày càng tin yêu gần gũi tôi hơn. Đồng cấp hoặc kẻ xấu muốn ghen ghét tôi cũng không làm gì được.

Còn nhiệm vụ giúp Đảng bạn thì sao, làm bằng cách nào? Xung quanh là bốn bức tường doanh trại lính gác tuần tiễu suốt ngày đêm. Nhưng rồi chỉ ít lâu sau người của Đảng bạn đã đến tìm tôi. Xin nói rõ thêm lúc đó trình độ còn ấu trĩ, không hiện đại được như bây giờ đâu. Chúng tôi liên lạc với nhau bằng một vài tín hiệu báo trước như đến vườn hoa này, góc phố nọ, làm ám hiệu như: lấy mùi xoa lau mặt ba lần, hoặc hai lần lau cổ. Hay hỏi một câu: có tít-xuy len Hồng Công màu be, có mua không? Và đáp lại bằng câu: tít-xuy Ăng lê có thì tôi mua v.v...

- Chúng tôi sẽ giới thiệu với đồng chí - Người của Đảng bạn nói - ba quần chúng của chúng tôi đến xin gia nhập trung đội của đồng chí. Đồng chí xếp sắp họ vào ba tiểu đội, nếu có thể thì cất nhắc họ lên làm tiểu đội trưởng.

- Họ có biết tôi là thế nào với các đồng chí không? -Tôi hỏi - Giữa tôi và họ có tổ chức sinh hoạt gì không?

- Không! Họ không biết gì cả. Không sinh hoạt gì hết. Chỉ cần đồng chí nhận và làm giúp những điều tôi vừa yêu cầu.

Bài học thanh đảng của Tưởng Giới Thạch tại trường Hoàng Phố và kinh nghiệm Quảng Châu công xã thất bại đã giúp cho tôi nhiều về hoạt động bí mật, nhất là ở trong quân đội Quốc dân đảng.

Ba tân binh này đến trung đội tôi, được ít lâu sau lại có yên cầu là tôi phải kiếm cớ để xin chuyển đến một đơn vị khác.

Thế là thế nào? Tôi tự hỏi. Nhưng thể theo yêu cầu của bạn tôi cũng làm theo. Việc làm của tôi không gặp khó khăn gì, vì đại đội nào cũng muốn xin tôi về để xây dựng cho họ một trung đội mạnh về mọi mặt. Tôi vừa thuyên chuyển được ít lâu thì cả trung đội cũ ấy đào ngũ hết. Hiện tượng này làm tôi vừa lo vừa ngờ ngợ. Tiểu đoàn chỉ nhắc qua loa đến việc đào ngũ đó, rồi thôi. Sau này tôi mới biết là trong quân đội Tưởng Giới Thạch, việc đào ngũ là chuyện thường. Càng đào ngũ càng có nhiều con số ma để bọn chỉ huy hưởng lương và phụ cấp, có nhiều bổng lộc chia nhau. Đến trung đội mới, tôi được giới thiệu nhận thêm hai người nữa. Rồi lại xảy ra hiện tượng đào ngũ như trung đội trước. Tôi bắt đầu nhận ra cách “làm ăn” của bạn. Thì ra, bạn cài người vào các đơn vị của Tưởng rồi vận động để cả người đã được huấn luyện lẫn súng đạn từ hàng ngũ Tưởng kéo sang hàng ngũ của mình. Thật là gọn gàng, nhanh chóng, lại rẻ tiền nữa vì không phải lo cái khoản thiếu vũ khí. Tôi miên man liên tưởng tới ngày mai, nếu đồng chí Lý Thụy trao nhiệm vụ cho về nước xây dựng một đội quân chiến đấu, liệu tôi có thể áp dụng theo cung cách này được chăng? Cứ như thế, trung đội thứ ba đào ngũ, tôi lại về một trung đội thứ tư. Nhưng trong tiểu đoàn đã có những con mắt soi mới của bọn đặc vụ trong quân đội Quốc dân đảng. Một hôm có một tên lính lên xin phép tôi cho hắn về nhà giỗ mẹ. Tôi bảo hắn:

- Đại đội trưởng mới có quyền cho phép. Tôi là trung đội trưởng, không có quyền. Nhưng anh muốn xin về nhà ba hôm thì cứ việc đi, tôi không nói gì đâu, miễn là anh phải hết sức tránh, đừng để bị bắt giữa đường.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Mười, 2020, 07:49:09 am
Người lính cười láu lỉnh, nói:

- Tôi biết trung đội trưởng là thế nào rồi, tôi mới nói thật ra chứ.

Người lính lẻn về nhà thật. Không may giữa đường bị bọn hiến binh bắt, lôi trở về đơn vị, phạt đánh một trăm roi. Cực hình đó làm tôi rất đau lòng. Hôm sau, tôi mua rượu và trứng gà xuống thăm nom xoa bóp cho anh ta. Cảm động, anh ta nói:

- Tôi biết trung đội trưởng rất thương tôi. Tôi sẽ trả thù kẻ đã hành hạ tôi.

Sau này, chính người lính đó đã thành hạt nhân lôi kéo cả trung đội đào ngũ.

Thấy việc làm của tôi sớm muộn sẽ bị lộ, tổ chức chỉ thị cho tôi xin nghỉ việc. Ở quân đội Tưởng Giới Thạch, xin việc làm mới khó, xin thôi thì rất dễ. Vì thế trung đoàn trưởng tuy chấp nhận đơn xin thôi việc của tôi nhưng buộc tôi phải ở lại một thời gian nữa, vì trung đoàn vừa được Tưởng trao cho một nhiệm vụ đặc biệt là cấp tốc chấn chỉnh tổ chức để đi tiếp quản Sơn Đông và Thanh Đảo: Để nhận nhiệm vụ này; nhiều lính mới được bổ sung đến thay thế số lính cũ tuổi cao sức yếu, nhiều sĩ quan trẻ mới tốt nghiệp hoặc đã tốt nghiệp các khóa trước ở trường Võ bị Hoàng Phố được điều động về. Trong đó có bạn cùng khóa với tôi. Quần áo, giày, mũ, súng đạn mới loanh tới tấp được chở về trung đoàn. Không khí trong trung đoàn sôi nổi hẳn lên.

Trung đoàn này là một trong số nhiều trung đoàn đặc biệt đo Tưởng Giới Thạch đích thân tổ chức xây dựng nên được ưu tiên nhiều mặt. Tiến hành cuộc Bắc phạt giai đoạn thứ nhất từ giữa năm 1926, Tưởng Giới Thạch không có lực lượng riêng của mình, đã khôn khéo lợi dụng lực lượng quân sự của từng nhóm quân phiệt cát cứ tạm thời liên minh với y để đánh đổ những tên quân phiệt khác. Những cuộc chém giết lẫn nhau này đã phải trả giá bằng sinh mệnh của hàng vạn binh lính, chưa kể đến sự thiệt hại to lớn về người và của đối với hàng triệu người dân bình thường ở những nơi xảy ra chiến sự. Cuộc Bắc phạt kết thúc giai đoạn một bằng việc Tưởng Giới Thạch đánh chiếm được phần lớn miền Hoa Nam bên bờ phía Nam sông Dương Tử, trong đó có hai thành phố lớn là Nam Kinh và Thượng Hải. Tham vọng của Tưởng là tiếp tục hành quân lên phía Bắc. Nhưng nhóm quân phiệt ở một số tỉnh Hoa Nam vừa đây liên minh với y, liền quay trở lại chống y. Với sự gian hùng xảo trá của mình, Tưởng lại tổ chức được một liên minh mới với nhiều tên quân phiệt khác để tiến hành giai đoạn hai của cuộc Bắc phạt. Y thấy cần phải xây dựng một lực lượng riêng cho mình. Trung đoàn mà tôi đang ở chính là một trong những đơn vị đó. Vào những tháng cuối năm 1928, quân của Tưởng đã đuổi được bọn quân phiệt Trương Tác Lâm, con trai là Trương Học Lương, và tên Trương Tông Tường phải rút về Mãn Châu. Chính vì thế mới có chuyện trung đoàn tôi đi tiếp quản Sơn Đông, Thanh Đảo.

Tuổi trẻ thích đi xa. Được nhích gần lên biên giới Liên Xô tôi cũng thấy hào hứng. Tôi được trao chức vụ quyền đại đội trưởng, xốc cả đại đội lên bằng hành động gương mẫu của mình về tác phong, về tổ chức kỷ luật, sâu sát gần gũi binh lính, hạ sĩ quan.

Vùng Thanh Đảo thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, trước đây vài chục năm là một nhượng địa mà triều đình Mãn Thanh đã nhường cho bọn tư bản Đức. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), nước Đức thua trận, lẽ ra Thanh Đảo phải trả lại cho Trung Quốc, vì Trung Quốc cũng tham gia chiên tranh đánh Đức bên cạnh các nước Đồng minh. Nhưng đế quốc Nhật đã ngang nhiên dùng vũ lực chiếm Thanh Đảo trước sự ghen ăn tức ở của bọn Anh, Pháp, Mỹ v.v... và sự bất bình cao độ của nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ, Để tránh bị cô lập, về hình thức, Nhật đã trao lại vùng Thanh Đảo này cho tên quân phiệt lãnh chúa tỉnh Sơn Đông, tay sai của Nhật. Do chưa nắm hết mọi tình tiết lắt léo ở đây, tôi dẫn đại đội vào tiếp quản Thanh Đảo với niềm vui sướng của một người thấy đất đai Trung Quốc lại trở về với người Trung Quốc. Thế nhưng, chúng tôi tiến vào Thanh Đảo trước thái độ thờ ơ lãnh đạm của người dân Thanh Đảo, cũng như Sơn Đông. Không có ai ở đây tỏ ra coi chúng tôi là những người vào giải phóng cho họ cả.

Thế là thế nào nhỉ? Tôi tự hỏi và chưa dễ gì tìm thấy một câu trả lời cho rõ rệt. Chỉ nhớ rằng ngày ấy, cơ quan tuyên truyền và báo chí công khai của Tưởng Giới Thạch không ngớt lời tán tụng thắng lợi của cuộc hành quân Bắc phạt lần thứ hai này. Nào là từ bao đời nay chưa có một vị hoàng đế nào thống nhất được đất nước Trung Quốc bao la. Lãnh tụ Tôn Dật Tiên cũng chưa làm được. Nhưng giờ đây, dưới quyền lực của Tưởng thống chế (lúc đó Tưởng Giới Thạch tự phong cho mình là thống chế), lá cờ “thanh thiên bạch nhật” (cờ Quốc dân đảng Trung Quốc) đã phấp phới bay cao khắp đất nước Trung Hoa, từ phía nam sông Dương Tử rộng mênh mông, qua sông Hoàng Hà vượt qua Vạn Lý Trường Thành, tràn ngập vượt cả xứ Mãn Châu, Tưởng Giới Thạch khoe là đã thống nhất được đất nước. Thế nhưng, tôi tự hỏi, còn thế lực của bọn lãnh chúa địa phương là Trương Tác Lâm, Trương Tông Tường mà quyền lợi gắn liền với đế quốc Nhật Bản thì sao? Và lòng dân Trung Quốc liệu đã thực sự thống nhất chưa?


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:27:07 am
*
*   *

Đầu năm 1929, theo đơn cũ, tôi được phép thôi việc, trở lại Nam Kinh. Lúc này gia đình ông Hồ Học Lãm đã từ Hàng Châu dọn hẳn lên ở Nam Kinh. Không riêng gì đối với tôi mà với tất cả những người cách mạng Việt Nam qua lại Nam Kinh phần lớn đều được ông Hồ Học Lãm giữ lại gia đình. Ở nhà ông vẫn phảng phất cốt cách, gia phong của một gia đình Việt Nam, kết hợp được hài hòa nhiều nét thuần mỹ thuở xưa với cái tinh khôi hiện đại. Vợ ông là con gái cụ Ngô Quảng, tức Thần Sơn - một trong số rất ít vị tướng võ của Phan Đình Phùng được vinh dự nhận thanh gươm báu của vua Hàm Nghi khi nhà vua rời ra Sơn Phòng, truyền Hịch Cần Vương đánh Pháp. Cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại. Cùng với nhiều tướng sĩ khác cụ Ngô Quảng địu trên lưng mình người con gái băng qua Trường Sơn và đất nước Lào tạm lánh sang Thái Lan mưu đồ phục quốc. Thanh gươm báu vua trao đó hiện nay là vật kỷ niệm rất quý giá của gia đình ông Hồ Học Lãm. Trên con đường đi tìm phương cứu nước, hai vợ chồng ông là hai số phận. Ông bỏ nhà xuất dương lén lút trên một chiếc tàu biển. Tàu cập bến (Trung Quốc) thì cơ sở trên tàu báo tin cho ông biết là ở trên bờ bọn mật thám quốc tế đang đợi đón bắt ông. Ông phải liều nhảy xuống nước, bơi vào bờ. Bị cảm lạnh, từ đó ông mang bệnh xuyễn.

Từ đơn vị về đến Nam Kinh, tôi tới ngay nhà ông Hồ Học Lãm. Chặn một bàn tay lên ngực, ông ngồi chăm chú nghe tôi nói lại những điều mắt thấy tai nghe ở xứ sở quê nhà, sự đàn áp dã man của giặc Pháp và bọn tay sai và thuật lại cuộc sống quây quần, đùm bọc, tấm lòng cố quốc tha hương của đồng bào ta ở Thái. Tôi cũng không, quên phát biểu những cảm nghĩ đầu tiên của mình về đất nước và những con người Trung Quốc. Các buổi nói chuyện của tôi như vậy thường kéo dài đến khuya với ông bà Hồ Học Lãm. Trong những ngày lưu lại, với vốn hiểu biết của mình lúc ấy, tôi đã có đôi lần nói với ông bà Hồ Học Lãm về con đường đi tới của đất nước và đồng chí Nguyễn Ái Quốc theo suy nghĩ của tôi. Vốn là một trí thức nặng lòng vì nước, ông Hồ Học Lãm tâm sự:

- Tôi chưa được gặp ông Nguyễn Ái Quốc lần nào. Nhưng tôi biết tiếng ông từ sau Đại chiến thế giới thứ nhất, ông gửi bản điều trần tới các cường quốc họp Hội nghị tại Véc-xay ở nước Pháp. Từ đó, tôi bắt đầu đặt nhiều hy vọng ở ông. Hiện nay, Nguyễn Ái Quốc thật là vị minh chủ, là người khai sơn phá thạch cho công cuộc cứu nước cứu nòi.

Sau nhiều lần tiếp xúc, trao đổi như thế, một hôm, tôi và Lê Quốc Long đến nhờ ông Hồ Học Lãm xin vào làm trong đội bảo vệ đường sắt để có điều kiện hoạt động. Sau khi thu xếp xong xuôi, ông Hồ Học Lãm cho tôi biết:

- Việc các anh nhờ, tôi đã lo xong. Anh sẽ vào làm trên tuyến Nam Kinh - Thượng Hải. Anh Long tuyến Nam Kinh - Vũ Hán. Được chứ? Còn tôi và gia đình, cách mạng cần giao cho việc gì, các anh cứ nói, chúng tôi sẽ làm hết sức mình.

Lần đầu tiên tôi đặt chân tới Thượng Hải, một thành phố lớn, đông dân nhất của Trung Quốc. Nghe nói có tới năm triệu dân gần bằng dân số của cả xứ Trung Kỳ ở Việt Nam. Sinh sống ra sao, đi lại làm ăn thế nào? Lúc đầu tôi toan tìm đến khu người Trung Quốc ở cho bình dân gần gũi hơn. Nhưng không hiểu có một cái gì cứ lôi cuốn tôi đi ngược lại. Từ ga xe lửa, tôi rảo bước về phía trung tâm thành phố, qua các tô giới Pháp, Anh, Nhật và tô giới công cộng. Một rừng ống khói của các nhà máy dệt, nhà máy tơ, các xưởng cơ khí... đang cuồn cuộn nhả khói. Những tòa nhà cao tầng sừng sững. Những biệt thự lộng lẫy kiến trúc hài hòa, đa dạng. Những nhà thờ đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành mái khum, mái bằng. Những chùa, đền thâm nghiêm, cổ kính, những vườn hoa Hồng Khẩu, Lý Bạch... Những đường phố lớn dài tít tắp, rộng thênh thang mang tên những danh nhân lịch sử: đường Khổng Tử, đường Gióp-phơ-rơ, đường Tôn Trung Sơn, đường Nam Kinh... Từng dãy nhà bốn, năm tầng san sát. Các cửa hàng bóng lộn tủ kính, tủ gương. Những hiệu sách lớn đủ các sách Trung Quốc, Nhật, Anh, Pháp, Mỹ... trong đó có nhiều cuốn tôi đang cần đọc. Những khách sạn lớn tấp nập người ra vào: Anh-pê-ri-an, Đại thế giới... Những nhà ngân hàng, bưu điện, đại lý độc quyền các hãng buôn lớn, xe ô-tô đỗ chật trước vỉa hè. Ồn ào, náo nhiệt đến cao độ. Đủ các loại xe chạy trên mặt đường như mắc cửi. Còn người như bị chen chúc quay cuồng trong cái nhịp sống khẩn trương, hối hả. Cả ngày hôm đó, tôi đi đến vẹt gót giày, như chim chích lạc vào rừng, ù tai, hoa mắt. Chỗ nào cũng muốn ngắm nhìn. Tôi tìm đến khu hải cảng. Chợt nhìn thấy những lá cờ ba sắc trên đoàn tàu chiến Pháp đậu ở bến Ngô Tùng, tôi bước vội sang bến cảng chính, cảnh vật lại làm tôi suy nghĩ, cảng dài rộng vô kể. Nếu so sánh thì cảng Bến Thủy quê tôi như chú mèo đứng cạnh con voi. Tôi nhớ lại một câu nói của đồng chí Lý Thụy: “Chính sách kìm hãm thuộc địa của thằng Pháp thật là độc ác”. Trước mặt tôi lúc này, hàng trăm con tàu buôn vượt biển lớn nhỏ đang buông neo. Hàng trăm con tàu khác đang rập rình cập bến hoặc chuẩn bị nhổ neo. Tiếng còi tàu rúc inh ỏi. Tiếng bánh xe goòng, xe vận tải ra vào. Tiếng cần cẩu rít lên xành xạch. Tiếng la hét của hoa tiêu, thuyền trưởng; Tiếng chân người chạy rầm rập. Loạn xạ, rối mù như chong chóng. Đứng ở đây tôi đã nhận được những ngọn gió giao lưu từ bốn phương trời thổi tới. Trên những con tàu đủ các màu cờ: Nhật, Pháp, Mỹ, Anh, Hà Lan... Có nhiều sắc cờ tôi chưa biết là của nước nào. Từ sườn, bụng những con tàu tuồn xuống bến hàng núi hàng hóa đóng kiện to nhỏ. Thảo nào trong phố ngộn lên những mặt hàng rất lạ, đẹp mắt. Từng đoàn tàu hàng dài dằng dặc, kìn kìn chạy suốt trên những tuyến đường giao thông mà tôi đã từng gặp. Và cũng tại đây, tôi bắt đầu nhận ra những kiểu người mới: những nhà công nghiệp, những thương gia cỡ lớn, thầu khoán, dân áp phe, chủ vận tải, chủ tàu. Thêm các nhà ngoại giao, chính khách, khách du lịch, học sinh du học... Miên man tôi nghĩ tới cụ Phan Bội Châu đã chọn nước Nhật văn minh giàu mạnh sau công cuộc duy tân của nhà vua Minh Trị. Ngược lại, anh học trò Nguyễn Tất Thành từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường Quốc học Huế đã bắt gặp những dòng tư tưởng lớn của Lư Thoa (tức Giảng Giắc Rút-xô), của Mạnh Đức Tư Cưu (tức Mông-tét-ki-ơ)... về tự do, bình đẳng, bác ái trong quan hệ xã hội của loài người. Từ đó trong lòng người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã nung nấu quyết tâm tìm đến nước Pháp, quê hương của Cách mạng tư sản dân quyền (1789). Từ nước Pháp, Người tiếp tục sang Anh, Bỉ, Hà Lan... vòng qua các nước châu Phi, sang tận nước Mỹ... mở rộng chân trời hiểu biết các nền văn minh của nhân loại, vạch ra con đường đi cho đất nước. Riêng tôi, giờ phút này cũng tự thấy được rằng cách mạng Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên... giờ đây đã có một nét gì đó tương đồng, gần gũi và liên quan với nhau chứ không thể bế quan tỏa cảng như bọn vua quan triều Nguyễn đã làm, càng không thể bế quan tỏa cảng về tư tưởng nhận thức, bưng bít mọi luồng thông tin quốc tế đến với dân tộc Việt Nam như bọn thực dân Pháp đang làm ở đất nước ta.

Chỉ ít lâu sau, tôi đã khá quen với Thượng Hải nhất là khu Thành Tàu (khu Trung Quốc do chính quyền Quốc dân đảng quản lý). Nhưng càng quen, càng đau, càng trăn trở với nỗi khổ nhục của nhân dân mình và của nhân dân lao động Trung Quốc. Ngày nào cũng như ngày nào, từ mờ sớm tinh sương, ở đường phố Thượng Hải, ở vùng ngoại ô, đội quân ăn mày với những chiếc áo lá rách mướp, vật vờ lang thang khắp mọi nơi mọi chốn. Bị cái đói cào cấu ruột gan, họ xông ngay vào những đống rác to cao lù lù vừa được xe ô-tô vệ sinh đổ xuống, bới móc ăn ngay tại chỗ những thứ gì có thể ăn được: mẩu bánh mì thừa, khoanh bầu bí nẫu, khúc xương gà...

Đội quân gái điếm cũng đông vô kể, hành nghề ngay giữa ban ngày. Nhiều cô gái trẻ măng, nhác trông ra vẻ phong kín nhụy đào, nào ngờ đã là con người “ăn sương” nơi bến cảng. Tôi thấy ghét cay ghét đắng cái thành phố hải cảng lớn nhất Trung Quốc này. Gió bốn phương trời thổi đến, lành mạnh chưa thấy đâu, mà hung dữ, tai ương chướng họa thì đã rõ ràng cụ thể rồi.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:27:43 am
*
*   *

Trên đoạn đường sắt Nam Kinh, Thượng Hải tàu chạy đêm, chạy ngày, tàu nhanh, tàu chậm có đủ. Là một sĩ quan ở đội bảo vệ đường sắt tôi có thể lên xuống bất cứ đoàn tàu nào, bất cứ nhà ga nào. Người của Đảng cộng sản Trung Quốc được giới thiệu thường đến liên lạc và đặt yêu cầu với tôi, đại loại như:

- Đồng chí chuyển giúp lá thư này tới trạm liên lạc Hoa Viên ở Thượng Hải. Chuyến này nhờ đồng chí bảo đảm cho gói hàng này tới tận tay đồng chí X... Đồng chí dạm hỏi mua được súng đạn của bọn lái súng chưa? Được thì cứ mua, càng nhiều càng tốt, nhưng phải hết sức thận trọng đấy. Ba ngày nữa, nhờ đồng chí bố trí cho bốn anh em ta đi trót lọt lên Thượng Hải, đồng chí cố gắng bảo đảm an toàn tới mức tối đa. Có tin chúng sẽ giải mấy đồng chí ta từ nhà tù Thượng Hải về Nam Kinh, đồng chí để ý theo dõi, có tin tức gì báo ngay cho chúng tôi biết để bố trí đánh tháo ở dọc đường v.v...

Phần lớn những yêu cầu của Đảng bạn, tôi đều hoàn thành mỹ mãn.

Bọn sĩ quan Quốc dân đảng cùng trong đội bảo vệ đường sắt thực chất là bọn đi buôn. Chúng làm giàu rất lớn nhờ công tác này và rất tàn nhẫn. Để che mắt bọn tình báo, đặc vụ, nhiều lần tôi cũng phải đóng kịch, phải tham gia vào các vụ áp phe lớn với chúng, cho chúng ăn nhậu đến tối mắt, tối mũi. Có lúc tôi phải lên gân, lên mặt “anh hùng hảo hớn”. Cũng có lúc phải giả nạt nộ hành khách đi trên tàu. Thậm chí có lần phải tính đến việc thủ tiêu một tên đặc vụ Quốc dân đảng để bảo vệ mười hòm vũ khí mà Đảng bạn rất cần. Nghĩ đến việc phải nhúng tay vào tội sát nhân, tôi thấy rùng mình sởn gáy. Cốt cách của dân tộc mình là lấy điều nhân nghĩa làm đầu. Ông bà, bố mẹ, bà con cô bác cũng dạy tôi làm điều lành, tránh điều ác. Cuối cùng, tôi đạo diễn được số người quen trên tàu rủ tên đặc vụ ngồi vào đám bạc, được thua chi bằng tiền và một cốc rượu mừng. Tên này được mấy ván, hể hả quơ tiền vào túi rồi khà khà tợp từng ly rượu mạnh, say bí tỉ... Tôi càng làm càng có kinh nghiệm, càng được việc hơn. Song nhiều đêm bỗng tỉnh dậy, thao thức. Nhiều đêm tự dưng trăn trở.

Đến hẹn, tôi đi Thượng Hải gặp đồng chí Lê Quảng Đạt.

- Đảng bạn rất tín nhiệm anh. Anh đã làm tốt một phần nhiệm vụ quốc tế mà đồng chí Lý Thụy giao cho. Đồng chí Lý Thụy không chỉ làm việc riêng cho đất nước mình mà còn vì cách mạng các nước châu Á, trong đó có cách mạng Trung Quốc.

Tôi lặng thinh không nói, nửa vui nửa buồn. Vui vì được đồng chí Lý Thụy khen. Buồn vì chưa trau dồi, nâng cao được trình độ quân sự như mong muốn.

Anh Lê Quảng Đạt ân cần nói với tôi:

- Anh cần cố gắng hơn nữa, xứng đáng là người cộng sản Việt Nam, người học trò của đồng chí Lý Thụy.

Làm công tác lưu động thường xuyên trên các đoàn tàu Nam Kinh, Thượng Hải, tôi có dịp nhận thấy nỗi khổ khôn cùng của những người dân thường Trung Quốc, cũng như bộ mặt phản nước hại dân của bè lũ Tưởng Giới Thạch, cả một bộ máy quan liêu thối nát gồm những tên chức sắc, chức dịch đè nặng lên đầu người dân lao động. Trừ những toa hạng nhất, hạng nhì dành cho những người có tiền của, còn những toa rẻ tiền khác chật chội chen lấn đến kinh người. Tôi được chứng kiến cảnh khám xét bắt bớ tịch thu trắng trợn. Một lồng gà, một gánh gạo... mà tiền thuế tới một phần ba. Nhưng phần lớn bọn nhân viên tàn ác này thu bằng hiện vật để chia nhau. Một bồ men rượu chịu thuế bằng nửa số vốn, không có biên lai, chúng bỏ túi. Cảnh trốn chạy trên tàu như chạy giặc. Nhiều chuyến tàu đêm, nhiều người ào ào trèo lên nóc toa tàu. Từ nóc toa này nhảy sang nóc toa kia. Nhiều người hụt chân ngã lăn xuống gầm toa xe đang lăn bánh, chết tươi. Nhiều lúc nhốn nháo, tàu qua cầu sắt, vòm cầu hất trên chục người lố nhố từ trên nóc toa xuống dòng sông đen ngòm thăm thẳm. Mạng người rẻ hơn cỏ rác. Cảnh tượng trên tàu đã bi thảm, quang cảnh dưới đất càng bi thảm hơn. Cha già kéo cày thay trâu, con nhỏ cầm cày. Trâu bò, lợn gà ăn ở chung với người. Một hôm, tàu sắp vào một ga xép, chạy chầm chậm, tôi đứng ở bậc lên xuống, nhìn thấy một đám đông lộn xộn ngay bên cạnh đường ray. Tôi quát thật to bảo họ dạt ra xa nhưng tiếng quát của tôi bị chìm trong gió cuốn. Tàu đến gần đám đông. Một vụ đánh người. Người bị đánh là một người đàn bà có chửa. Kẻ đánh người là hai tên chức dịch trong làng. Hai cái gậy to tướng nện bồm bộp xuống người đàn bà bất hạnh đó như nện vào đống rơm. Người đàn bà hai tay ôm bụng giẫy lên như đỉa phải vôi. Đám đông đứng bao quanh, nín lặng nhìn. Tôi nhảy xổ tới, gạt phăng hai cái gậy ra, túm lấy cổ hai tên hung đồ ghìm đầu chúng xuống, hỏi tội. Thấy bộ quân phục sĩ quan trên người tôi, hai tên này run lên bần bật. Tôi hẩy chúng nó ra. chạy lại đỡ người đàn bà dậy. Nhưng lạ chưa, sau một cái nhìn biết ơn, người đàn bà đó chồm vào tôi, vừa hẩy vừa xua tôi đi một cách dứt khoát.

- Anh không biết đó thôi - Một sĩ quan cùng trong đội bảo vệ đường sắt nói với tôi - Anh bênh vực nó lúc này, hai thằng kia phải chịu. Anh đi rồi, hai thằng kia quay lại đánh chết nó, nên nó phải hẩy anh đi cho nhanh đó mà.

- Thế là thế nào nhỉ? Tôi tự hỏi.

- Ở đâu chẳng thế này - Viên sĩ quan đáp - Lần sau anh mặc xác chúng nó, hơi đâu mà nhúng tay vào. Ơn chẳng được lại bị mắng oan. Lại đây uống cốc rượu với mình đi.

Chén rượu đầy vị đắng cay. Tôi không thể nuốt được.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:28:20 am
Ngày tháng trôi qua, tìm hiểu về vấn đề này, tôi càng thấy rõ. Từ ngàn năm nay, người dân nghèo Trung Quốc sống ở nông thôn như một bầy nô lệ, rẻ hơn một con vật của bọn lãnh chúa. Hồi tôi về huyện Hải Lục Phong ở Quảng Đông hay qua một số vùng quê khác ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô..., tôi thường thấy một tên trưởng thôn cũng có từ một đến hai chục tay súng, sẵn sàng để đàn áp bắn giết người dân cày nghèo. Có nơi một tên xã trưởng có tới một đại đội vũ trang và một nhà tù. Cấp huyện ở đây thì không thể nói được. Uy quyền lớn vô cùng tận. Một tiểu đoàn súng trong tay. Nhà tù của chúng to không kém nhà tù ở Vinh, quê hương xứ Nghệ của tôi. Người tá điền Trung Quốc, cha truyền con nối sống trên mảnh đất cấy rẽ cho địa chủ. không thoát đi đâu được cả. Rồi thì chém giết liên miên. Tên lãnh chúa này đến tiêu diệt tên lãnh chúa khác. Cá lớn nuốt cá bé. Quân phiệt to diệt quân phiệt nhỏ. Người nô lệ không biết theo ai. Rủi mà theo người khác, khi tên chúa đất cũ quay về được thì chỉ có chết hoặc trốn biệt đi một nơi xa xôi nào đó, để tiếp tục làm thân nô lệ cho một tên chúa đất khác.

- Thảo nào họ dửng dưng với những người đến giải thoát cho họ, như trường hợp mình tiến vào Thanh Đảo (Sơn Đông) - Tôi suy nghĩ liên tưởng miên man - Đây là tình hình ở những khu trắng (khu của Tưởng Giới Thạch), những khu đất cũ (khu của các tên quân phiệt cát cứ lớn). Chắc chắn ở các khu đỏ hay khu Xô viết của Đảng cộng sản Trung Quốc tình hình chắc khác hẳn.

Tôi tin là như vậy và càng nhận thức rõ hơn nhiệm vụ của mình đang gánh vác.

Sau vụ “thanh Đảng” (1927) của Tưởng Giới Thạch, và nhất là sau các cuộc khởi nghĩa ở Quảng Châu, Nam Xương... bị thất bại vào năm 1928, cách mạng Trung Quốc bước vào giai đoạn thoái trào. Tổn thất thật to lớn. Hàng nghìn đảng viên ưu tú trong đó có cả hai vợ chồng đồng chí Trương Thái Lôi, Bành Bái... bị giết hại. Hàng vạn quần chúng bị tàn sát. Cơ sở cách mạng ở nông thôn, thành thị bị phá vỡ hàng loạt. Cộng sản vẫn là kẻ thù không đội trời chung của bè lũ Tưởng Giới Thạch. Phải tiêu diệt sạch. Tưởng Giới Thạch ngày đêm mong muốn như vậy. Song những năm 1928, 1929 và 1930, tình hình chưa cho phép y thực hiện cuồng vọng đó. Bọn quân phiệt cát cứ tráo trở như lật bàn tay. Hôm trước bắt tay với Tưởng, hôm sau phản lại ngay. Đầu năm 1928, thế lực của Tưởng mới vươn tới bờ nam sông Dương Tử. Tưởng vẫn cay cú với giai đoạn hai của cuộc Bắc phạt, nên y chỉ giành một phần nhỏ lực lượng hai lần tiến công vào các khu Xô viết ở vùng núi Tỉnh Cương (gần ranh giới hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây). Do bị tổn thất nặng nề từ năm trước (1927), Hồng quân Trung Hoa phải bỏ căn cứ Tỉnh Cương lui về xây dựng căn cứ Thụy Kim ở giáp giới hai tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến vào đầu năm 1929. Nhiều cơ sở bí mật trong đội ngũ công nhân tại Thượng Hải và các thành phố khác được khôi phục. Phong trào có đà phát triển. Ở Quảng Châu, do sự đấu tranh mạnh mẽ của anh em ta trong tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, của Việt kiều được nhân dân Trung Quốc ủng hộ, bọn Quốc dân đảng thống trị đã buộc phải trả lại tự do cho đồng chí Hồ Tùng Mậu và nhiều cán bộ Việt Nam khác sau một năm giam giữ trái phép.

Tôi rất đỗi mừng rỡ với nguồn tin trên. Tôi ao ước được gặp chú Hồ Tùng Mậu để biết thêm tình hình, nhiệm vụ. Mấy năm nay tôi được biết có thêm nhiều lớp thanh niên từ trong nước sang Quảng Châu, Thượng Hải, Hồng Công gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Học tập nghiên cứu “Đường Kách mệnh” xong, nhiều anh may mắn được trở ngay về nước hoạt động, đẩy mạnh phong trào. Một số anh khác đến khu căn cứ của Hồng quân Trung Hoa, vào du kích quân chống chính quyền Tưởng Giới Thạch.

Còn tôi, với công tác hiện giờ, nhớ lại lời căn dặn của đồng chí Lý Thụy, tôi phải giấu kỹ tên tuổi, quốc tịch của mình. Mỗi lần đoàn tàu dừng lại ở Thượng Hải, tôi thường đi dạo trên các đường phố lớn, nhỏ. Gặp một người nào đó mà tôi đoán là người Việt Nam (thường là tôi đoán rất đúng) thấy mừng vui vô hạn, lững thững bước theo người đó một lúc lâu. Cho đến khi chợt nhớ tới nguyên tắc hoạt động, phải bảo đảm bí mật cho những người cách mạng từ trong nước mới sang đây, tôi vội ngoắt đi một hướng khác. Bâng khuâng, tiếc nhớ, bồi hồi. Một hôm, làm việc xong, Lê Quảng Đạt vui vẻ hỏi tôi:

- Bữa trước, cơ sở báo cho tôi biết là có một đồng chí của ta từ trong nước mới sang bị một sĩ quan Quốc dân đảng bám sát, có phải là anh không?

Tôi xác nhận, cả hai cùng cười, về sau mới biết người cách mạng mới sang đó là đồng chí Nguyễn Lương Bằng.

Những người cách mạng Việt Nam ở Thượng Hải, nếu không thật cần thiết đều cố tránh đặt chân vào tô giới Pháp. Thường liên lạc gặp gỡ nhau ở tô giới Anh. Rất ít khi hẹn gặp nhau ở khu vực Quốc dân đảng kiểm soát vì thiếu hẳn trật tự, an ninh xã hội. Tuy biết vậy nhưng có nhiều buổi tôi vẫn lân la đến gần tô giới Pháp. Vì ở đây, có tới hàng vạn đồng bào ta đang sinh sống, làm đủ mọi việc, mọi nghề: giáo học, nhà nghiên cứu, thợ máy, thợ may, thợ da, cắt tóc, mở hiệu buôn... hoặc là lính khố xanh, khố đỏ, thủy thủ, cảnh sát... Vợ con, gia đình họ sang đây ở cũng nhiều. Xa nước, xa nhà đã năm năm tròn, tôi tha thiết muốn được nghe tiếng nói của quê hương, xứ sở. Da diết nhớ tiếng võng đưa kẽo kẹt, tiếng bà ru cháu, những câu ngạn ngữ phương ngôn, những tiếng hát ví, hát lượn đò đưa, một tiếng đàn bầu, đàn nguyệt, một giọng ngâm kiều, một giọng hát cò lả... Có lần tôi theo sát mấy chàng lính thủy Việt Nam vào một hiệu ăn trong tô giới Anh. Tôi tìm một bàn cạnh bàn ăn của họ, lịm người đi nghe họ trò chuyện, giọng Huế, giọng Nam Kỳ (Nam Bộ), giọng Bắc. Giọng nói như chim hót, êm êm như gió thoảng. Khác hẳn với âm ngữ ngộ, ni, mà hàng ngày tôi phải nghe, phải nói. Sau họ tưởng tôi là một tên sĩ quan đặc vụ Quốc dân đảng cộng sự với mật thám Pháp đi rình mò họ. Họ nhìn tôi khinh bỉ rồi lặng lẽ rút lui. Những lúc đó tôi thấy buồn khôn tả...


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:29:40 am
*
*   *

Qua nhiều nguồn thông tin khác, tôi được biết phong trào cách mạng trong nước phát triển khá mạnh. Từ hạt giống Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đầu tiên do đồng chí Lý Thụy ươm trồng ở Quảng Châu đã bắt rễ, lan rộng về nước thành nhiều chi bộ, kỳ bộ Thanh niên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của Tổ quốc. Khí thế cách mạng rất mạnh mẽ. Nhiều nhóm, nhiều chi bộ cộng sản đã được tổ chức, lãnh đạo công nhân, nông dân, dân nghèo thành thị đấu tranh quyết liệt.

Mùa hè ở Nam Kinh cũng có những ngày nóng nắng ngột ngạt. Tôi mặc quân phục chỉnh tề màu bắt nắng, giày mũ ngay ngắn, càng cảm thấy oi ngạt hơn. Hình như tôi vẫn còn lấn cấn với cái vỏ bề ngoài của một sĩ quan Quốc dân đảng. Còn bên trong, bồn chồn, oi nóng bởi không khí chính trị của Tổ quốc và của Đảng cộng sản bạn. Tôi bước những bước dài đến nhà ga xe lửa, lòng như lửa đốt. Hôm qua, tôi nhận được tin: hỏa tốc lên ngay Thượng Hải. Được gặp đồng chí Lý Thụy hay được về nước? Tới Thượng Hải, theo chỉ dẫn, tôi vào tô giới Anh, tìm đến địa điểm liên lạc đặt tại một đường phố nhỏ. Cửa mở thì đồng chí Lý Thụy đã ở ngay trước mặt tôi. Đồng chí mặc bộ quần áo ka-ki Ăng-lê màu vàng rêu đã bàng bạc, chân đi đôi giày vải. Căn phòng nhỏ, chỉ có chiếc giường cá nhân và bộ bàn ghế bằng gỗ gụ đã ngả màu nâu sẫm. Như thế là, kể từ trước khởi nghĩa Quảng Châu đến giờ đã gần hai năm. Trong hai năm đó, đồng chí đã lánh sang Xiêm (Thái Lan), đi Nga và nay đã lại có mặt ở đây. Tôi khựng lại như bị thôi miên, miệng lắp bắp: Đồng chí... Đồng chí...

- Nào, ta vào đây nói chuyện. - Đồng chí Lý Thụy cầm tay tôi dắt vào nhà, trìu mến, thân thương.

- Thế nào, chú đã quen với bộ quân phục mặc hàng ngày chưa?

- Thưa đồng chí, quen rồi ạ.

- Quen thật chưa, nhiệm vụ còn lâu dài đấy.

Tuy cố nén nhưng nét mặt của tôi vẫn xìu xuống. Đồng chí Lý Thụy cười, nói tiếp:

- Tổng bộ có ý định cử chú về nước hoạt động cùng với một số đồng chí khác nữa. Nhưng Đảng bạn lại tha thiết yêu cầu để chú ở lại giúp bạn. Qua đó càng thấy là chú làm việc tốt. Đảng bạn rất tín nhiệm. Chú đồng ý ở lại chứ?

- Thưa, vâng - Tôi khẽ đáp. Nét mặt đồng chí Lý Thụy lộ vẻ vui mừng, nhìn tôi chăm chú một lát rồi nói:

- Lần trước, không trực tiếp giao nhiệm vụ được cho chú, tôi phải gián tiếp qua chú Lê Quảng Đạt. Nhưng chú đã tiếp thu được đúng như ý của tôi. Hôm nay tôi nói rõ thêm nhiệm vụ của chú. Từ nay trở đi, chú làm mạnh hơn nữa công tác điều tra thu thập những điều cơ mật quốc gia của trung ương Quốc dân đảng đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc cả về quân sự lẫn chính trị. - Đồng chí Lý Thụy ngừng lời trong giây lát - Cụ thể là phải biết chúng đang có âm mưu gì đối với bạn: phản tuyên truyền, vu không, ly gián Đảng với quần chúng. Nguy hiểm nhất là cho mật vụ chui sâu vào tổ chức, gây chia rẽ nội bộ, phá hoại từ trong phá ra. Cách mạng càng lớn mạnh, chúng càng tức tối lồng lộn. Rồi đây chắc chắn là chúng sẽ dùng quân sự tiến công vào các căn cứ địa, tiêu diệt cơ quan đầu não của Đảng cộng sản Trung Quốc, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng. Chú cần theo dõi điều tra nắm thật chắc, kịp thời thông báo ngay cho bạn để có biện pháp đối phó tích cực. Đảng bạn yêu cầu như vậy. Tôi cũng thấy cần làm như vậy. Tốt nhất là lấy được những bản kế hoạch quân sự của chúng. Ông Hồ Học Lãm chắc có thế giúp chúng ta được nhiều đấy nhưng phải hết sức bí mật, giữ gìn cho ông tức là cho mình.

- Việc làm của một thám tử - Tôi thốt lêu, không giấu nổi vẻ băn khoăn lo lắng.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:30:04 am
Đồng chí Lý Thụy suy nghĩ trong giây lát, nói:

- Tôi không muốn dùng danh từ đó để chỉ những người cách mạng như chú phải đảm đương những nhiệm vụ tương tự: thám tử Nhật, do thám Anh, mật vụ Tàu, mật thám Pháp... Các nước thực dân đế quốc lập ra các tổ chức do thám hoạt động ở trong nước nhằm chống phá phong trào cách mạng của quần chúng tại chính quốc và các nước thuộc địa, mưu sát truy lùng cán bộ. Ở ngoài nước, chúng có điểm thống nhất là hợp sức đánh phá phong trào cách mạng quốc tế, bắt bớ lãnh tụ. Giữa chúng với nhau thì xâu xé kịch liệt tranh giành quyền lợi. Không xong thì gây xung đột, gây chiến tranh như đại chiến thế giới 1914-1918. Gòn việc làm của chúng ta thì khác. Mục đích là để bảo vệ, phát triển cách mạng trong nước và thế giới, cho dân tộc mình và các dân tộc anh em, tố cáo ngăn chặn các cuộc chiến tranh lớn nhỏ do bọn chúng gây ra.

- Dạ.

Hai người đồng chí, hai thầy trò nắm chặt tay nhau. Đồng chí Lý Thụy tranh thủ truyền đạt lại cho tôi một số kinh nghiệm và phương thức hoạt động bí mật trong lòng địch, kể cả những nỗi day dứt khi bị mọi người xung quanh, cả bạn bè, đồng chí hiểu lầm về mình. Đồng chí cũng không quên nhắc tôi phải tuyệt đối giữ bí mật công tác, không nói hở ra cho một người nào biết.

“Tốt nhất là tự xác định mình hoàn toàn khác với bọn mật vụ, thám tử kia - Tôi tự nhủ với lòng mình - Mình là một người cách mạng, nếu có phải làm công tác của người tình báo thì cũng là tình báo cách mạng”.

Đồng chí Lý Thụy nhìn đồng hồ, đứng dậy chuyển sang ngồi vào chiếc ghế tựa đối diện với tôi.

- Hôm nay, tôi kết nạp đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam - Đồng chí đưa mắt nhìn quanh bốn bức tường nói tiếp - Không có điều kiện trang trí cờ, ảnh,... chỉ có riêng tôi và đồng chí ngồi với nhau thôi, như mấy lần trước.

Tôi nén xúc động dạt dào hồi lâu, bỗng bật lên thành tiếng:

- Thưa đồng chí, ta có Đảng rồi sao?

Đồng chí Lý Thụy suy tư, yên lặng trong chốc lát rồi nói:

- Có từ nhiều năm nay trong trái tim của tôi, của đồng chí và của nhiều đồng chí khác nữa. Nói rộng ra là của hai mươi triệu đồng bào ta đang khát khao độc lập, tự do, công bằng, hạnh phúc. Nhưng đến bây giờ chúng ta mới có điều kiện để tổ chức một Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hôm ấy, đồng chí Lý Thụy nói với tôi về một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, theo cách nói của Lê-nin. Nó hoàn toàn khác như ngày và đêm với các đảng phái tư sản ở các nước đế quốc, tư bản châu Âu, châu Mỹ. Đồng chí đề cập đến mục tiêu chiến đấu trước mắt và lâu dài của Đảng, trách nhiệm nặng nề của từng đảng viên, chi bộ... Đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng. Tôi bước đầu hình dung được là một đảng mà không được quần chúng tin cậy, ủng hộ thì khác nào như cá không có nước!

Câu chuyện giữa hai người đồng chí, hai thầy trò về Đảng và phong trào cách mạng hôm ấy thật là tâm đắc. Tôi trở nên mạnh dạn hơn:

- Thưa, phong trào trong nước lên như vậy, ta đã làm gì được chưa ạ?

Đồng chí Lý Thụy nhìn tôi chăm chú:

- Chú định nói gì đấy? Định vũ trang bạo động phải không? Chưa được đâu, chưa phải lúc, còn lâu đấy. Chú đã đọc lịch sử Công xã Pa-ri, chú lại trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu, chú hiểu vì sao lại thất bại? Máu và nước mắt của nhân dân không phải là nước lã.

Tôi đã trở thành một đảng viên do Bác Hồ trực tiếp kết nạp tại một căn nhà nhỏ ở thành phố Thượng Hải chói chang tháng Tám năm 1929. Đó cũng là ngày tôi được nghe Bác giảng giải nhiều về chuẩn bị lực lượng, đón thời cơ để làm cách mạng như thế nào. Sau này, ngày 3 tháng 2 năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tôi đã chính thức được đứng trong hàng ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:31:47 am
*
*   *

Tủ sách của gia đình ông Hồ Học Lãm có hầu hết mọi cuốn sách mà tôi đang cần đọc. Những cuốn sách kinh điển của Mác - Ăng-ghen và Lê-nin đang bị cấm lưu hành (những sách mác-xít lúc đó ở Trung Quốc đều bị cấm lưu hành). Những cuốn sách quân sự của Ăng-ghen, của Tôn Tử, Ngô Khởi, của Clau-dơ-vít, của Na-pô-lê-ông... Những cuốn sách về danh nhân thế giới. Những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của các nhà văn lớn trên thế giới. Những cuốn lịch sử thế giới từ thời cổ đại La Mã, Hy Lạp... Tôi cũng lục tìm thấy những cuốn nói về những hoạt động do thám của các nước đế quốc Anh, Pháp, Đức. Mỹ... trước và trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Cuốn sách đề cao lên tận mây xanh bọn do thám Nhật thuộc đảng Hắc Long trong cuộc chiến tranh Nhật - Nga những năm đầu thế kỷ 20, với các nhân vật như Phương Lan Cao Tường ghê gớm nhất “... Tưởng là yêu quái hay là thần tiên...”. Và một cuốn mô tả lại các cuộc chạm trán nảy lửa giữa nhà thám tử trứ danh của Trung Quốc Mao Trí với tên trùm thám tử Nhật Bản...

Ông Hồ Học Lãm dành riêng một tủ kính đựng những cuốn sách của dân tộc: Đại Việt sử ký toàn thư, Hoàng Lê nhất thống chí, Hưng Đạo Đại vương truyện… và những sách văn học Việt Nam: Kim Vân Kiều truyện, Nhị độ mai, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm...

Phần lớn các sách báo đều bằng chữ Trung Quốc, còn là chữ Pháp, Anh, một số ít bằng chữ quốc ngữ. Gia đình ông Hồ Học Lãm là một gia đình hiếu học. Ông, bà, hai cô con gái: Hồ Diệc Lan, Hồ Mậu La thường đọc sách đến khuya. Những ngày được nghỉ, tôi tự vạch cho mình một kế hoạch học tập. Ngoài những sách chính trị, quân sự có sự hấp dẫn đặc biệt đối với tôi, tôi còn có người trợ giáo đắc lực về quân sự là ông Hồ Học Lãm. Tôi say mê nghiên cứu những cuộc chiến tranh lớn từ thời cổ đại, cuộc chiến tranh một trăm năm giữa nước Anh và nước Pháp, nhất là các cuộc hành binh lớn của Na-pô-lê-ông trên đất Thụy Điển, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan và diễn biến của cuộc tấn công vào Mạc-tư-khoa của Na-pô-lê-ông... Tôi cũng mải miết nghiên cứu các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc ta từ thời các vua Hùng đến Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... Tôi suy nghĩ trước những trang sử nói về cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, những cuộc hành binh thần tốc của Nguyễn Huệ. Một hôm, tôi hỏi ông Hồ Học Lãm trong lúc đang cùng ông ngồi ở bàn đọc sách rằng nếu sau này ta muốn đánh Pháp giành độc lập thì về quân sự phải làm thế nào? Ông Hồ Học Lãm từ từ bỏ kính ra, chậm rãi nói: Sự nghiệp này rất lớn, lớn lắm, không thể ví như một chiến cuộc thứ tự việc này làm trước, việc kia làm sau, mà phải đồng hành, đồng tiến, ứng biến tùy cơ, nhưng... Nhưng theo tôi thì cái cốt lõi là phải có toàn dân tham gia hưởng ứng thì mới thành công được.

Chuyện trò trao đổi một hồi lâu, mỗi người trở về giường nằm của mình với những suy nghĩ trăn trở riêng tư.

Những ngày đi làm trên tàu, tiếp xúc với bộ mặt thật của xã hội Trung Quốc, tôi tự rút ra được kết luận là chế độ phong kiến, chiến tranh do phong kiến gây ra đã đem lại muôn vàn khổ đau cho dân lành. Đến chế độ tư bản đế quốc thì chẳng những nhân dân Trung Quốc mà cả nhân loại đã bị đẩy vào một biển khổ triền miên. Liệu đến bao giờ dân nước mình, dân Trung Quốc và cả nhân loại được sống trong cảnh thái bình, no ấm? Những băn khoăn như thế thường tôi cũng hay trao đổi cùng ông Hồ Học Lãm. Gia đình ông Hồ Học Lãm có thói quen là sau bữa cơm chiều, cả nhà quây quần nghe thời sự qua chiếc máy thu thanh và chuyện trò trao đổi một lúc. Nghe xong mỗi người mỗi việc. Sau khi nghe thời sự, ông Hồ Học Lãm thường bổ sung tin tức mật mà ông thu lượm được ở bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng cho tôi nghe. Qua đó tôi nắm được tình hình nội chiến ở Trung Quốc đang lan rộng ra rất ác liệt trêu gần một nửa nước Trung Quốc, giữa Tưởng Giới Thạch với Mã Chiếm Sơn, Phùng Ngọc Tường...

Số quân các bên tham chiến tung ra mặt trận lên tới hàng triệu. Ở miền Trung và Nam Trung Hoa, hàng chục vạn quân Quốc dân Đảng liên tục tiến công vào khu căn cứ Thụy Kim của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc ở tỉnh Giang Tây.

- Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết - Tôi nói qua tiếng thở dài.

- Bọn họ (chỉ Tưởng Giới Thạch và mấy tên quân phiệt) rồi sẽ mặc cả với nhau xong thôi - ông Hồ Học Lãm nói - để Tưởng còn quay về phía nam thanh toán lần cuối cùng Đảng Cộng sản và các lực lượng của Hồng quân.

Tôi thấy tim đập mạnh, bật người lên, nói như để trấn an mình:

- Cháu tin là Đảng Cộng sản cũng nhân cơ hội này tạo cho mình một thế có lợi.

Ông Hồ Học Lãm gõ cặp kính sáng khỏi mắt gật đầu, nói thong thả:

- Đúng. Anh nói đúng đấy. Bọn tình báo, gián điệp Quốc dân Đảng đang cố đánh cắp những bản kế hoạch quân sự tối mật của Hồng quân. Tôi chỉ được nghe biết qua loa. Kế hoạch rất lớn và táo bạo lắm đấy.

Tôi ngồi nghe, chìm lắng trong suy tưởng. Kể từ ngày được đồng chí Lý Thụy giao nhiệm vụ, tôi đã nhiều lần định trao đổi với ông Hồ Học Lãm, nhưng cho đến nay vẫn phân vân, chưa dám nói với ông ý định của mình.

Nhớ lại cách đây ít lâu, theo gợi ý của tổ chức ta, tôi đã bố trí ông Hồ Học Lãm lên Thượng Hải. Sau khi trở về ông có nói với tôi là nếu cách mạng cần, ông sẵn sàng về nước tham gia chỉ huy quân sự. Hôm gặp đồng chí Lý Thụy, tôi có báo cáo nhiệt tình của ông Hồ Học Lãm và đặt vấn đề nên kết nạp ông vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí Lý Thụy nói:

- Ông Hồ Học Lãm cùng thời với các cụ Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân là những bậc lão thành cách mạng, hết lòng vì nước vì dân. Ông Hồ Học Lãm tuy chưa phải là một người cộng sản nhưng chúng ta cũng coi cụ như một người trong tổ chức của ta, ông sẽ giúp ích cho ta được rất nhiều đấy - Ngừng lời trong giây lát, đồng chí Lý Thụy nói tiếp - Theo ý của riêng tôi, cứ để ông Lãm như thế này, có lợi hơn, vì tất cả mọi người kể cả Tưởng Giới Thạch, Hà Ứng Khâm... đều tin ông Lãm không phải là cộng sản. Như thế ông dễ làm việc với bọn họ hơn.

Đồng chí Lý Thụy cho biết thêm về tình hình khó khăn của cách mạng Trung Quốc, về bọn Tưởng Giới Thạch đang chuẩn bị mọi mặt tiến công tiêu diệt Hồng quân. Tôi nảy ra ý quyết định trao đổi với Hồ Học Lâm làm thế nào lấy được những kế hoạch tiến công của Quốc dân đảng vào các khu Xô-viết, để giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiệm vụ đồng chí Lý Thụy giao cho tôi vẫn canh cánh bên lòng. Vì thế, một hôm đã khuya lúc chỉ còn lại hai bác cháu, tôi tự thấy cần mạnh dạn nêu ý kiến với ông. Ông nói, giọng trầm, đĩnh đạc:

- Thể xác hình hài của tôi lúc này là Hồ Học Lãm làm tại bộ tổng tham mưu Quốc dân Đảng, còn linh hồn và trái tim tôi thì luôn luôn thuộc về cách mạng. Việc lấy các kế hoạch này, khó khăn lắm đấy, lộ ra thì mất đầu như chơi. Nhưng đã quyết thì làm. Nhất định được.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:34:35 am
*
*   *

Từ mùa hè đến mùa thu năm 1930, Bộ chỉ huy tối cao Hồng quân vẫn thường nhận được những báo cáo mật từ cơ sở chuyển về: địch ra lệnh cấm chuyên chở thóc gạo xuôi theo sông Như Thủy và Công Giang... Bọn thám báo đã đột nhập, liên lạc được với bọn A, B (chống cộng) ở Đông Côn, Phủ Diên, Hậu Bị, Đông Thiên... Nhiều sĩ quan quê ở Phúc Kiến, Giang Tây đã được điều động về bộ tổng tham mưu... Các Sư đoàn của tướng Lưu Hòa Dĩnh, Trương Huy Tân, Đàm Đào Nguyên được bổ sung trang bị, quân số, chuyển dịch về phía Giang Tây... Tất cả đều do ông Hồ Học Lãm và tôi chong đèn gần như thâu đêm để tập hợp những dòng tin ấy.

Bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng tổ chức theo khuôn khổ của quân đội Đức do các cố vấn Đức trực tiếp chỉ đạo. Kỷ luật rất nghiêm ngặt. Sau giờ làm việc, mọi hồ sơ tài liệu đều được niêm phong gửi vào tủ sắt bảo mật. Cán bộ tuyệt đối không được đem theo một mẩu giấy nào về nhà. Người nào biết việc người nấy, tuyệt đối không được nói nội dung công tác của mình đang làm cho người khác biết. Khó khăn và tốn kém lắm, ông Hồ Học Lãm mới moi được trong số các sĩ quan cùng công tác trong bộ tổng tham mưu lúc này, lúc nọ một vài tin tức có liên quan. Nhiều lúc ông phải đi xuống các sư đoàn nghiên cứu, xác định lại. Ông phải nhập tâm những phần việc được trao cho ông soạn thảo và cả những việc của nhiều sĩ quan khác song song cùng làm. Về nhà ông đọc lại từng câu, từng chữ cho tôi ghi lại. Xong, đưa ông xem, sửa chữa, bổ sung những chi tiết chính xác ông vừa gạn lọc xong. Bản đồ quân sự lúc này cũng hiếm, lại không được đem về nhà nên ông phải phỏng theo những bản đồ đường sá, hành chính, vẽ lại cho cụ thể. Đến lượt tôi chuyển giao cho cơ sở của Đảng bạn, cũng phải nhập tâm thuộc lòng như người chủ sự, hướng dẫn lại bằng miệng cho cơ sở nhận, nắm thật vững nội dung, còn giấy tờ chỉ ghi rất vắn tắt, gạch đầu dòng từng đề mục.

Cuối cùng, toàn bộ bản kế hoạch tiến công khu Xô-viết trung ương của Đảng Cộng sản do Tưởng Giới Thạch phê chuẩn đã được ông Hồ Học Lãm và tôi lấy được, gửi tới tay đảng bạn. Phạm vi của cuộc tiến công là vùng tứ giác La Lâm, Nghi Hoàng, Lê Xuyên, Thụy Kim, tọa độ X, Y... Binh lực tham gia từ 10 đến l5 sư đoàn, ước khoảng ba mươi vạn quân. Chia làm nhiều đợt. Thời gian có thể bắt đầu vào những tháng đầu năm 1931.

Ngược lại, tôi được thông báo vắn tắt là Hồng quân cũng có kế hoạch đối phó lớn.

Giữa lúc hai bác cháu chúng tôi đang hồi hộp theo dõi hành động của đôi bên thì được tin đích xác là từ ngày 28 tháng 7, Hồng quân đã mở cuộc tiến công vào các thành phố lớn: Trường Sa, Nam Xương và Vũ Hán. Khẩu hiệu động viên là “Hội sư Vũ Hán, ẩm mã Trường Giang”(1).

- Có thể đây là một cuộc tiến công phá thế chuẩn bị - Ông Hồ Học Lãm nói - Đánh vào thành phố lớn, khó khăn lắm đấy. Liệu có đủ sức không?

Tôi sững sờ trong giây lát.

Những ngày sau tin tức của bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng vẫn do ông Hồ Học Lãm đưa về: Trường Sa, Hồng quân chiếm được mười ngày sau phải rút lui. Thành phố Nam Xương chỉ giữ được hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Còn Vũ Hán thì không vào được... Tuyệt nhiên không có nội công, ngoại kích ở ba thành phố này. Và cũng không có cuộc binh biến nào trong các đơn vị Quốc dân đảng...


(1) Hai cánh quân gặp nhau ở Vũ Hán, cho ngựa uống nước sông Trường Giang.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:36:02 am
*
*   *

Một hôm, tôi đang làm việc trên tàu thì gặp viên đại tá, cục phó cục bảo vệ đường sắt. Hắn chìa ra cho tôi xem tờ báo hàng ngày phát hành ở Thượng Hải. Tờ báo đưa tin về phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh ở Việt Nam. Ít lâu nay tôi đã ngờ viên đại tá này là đặc vụ của Quốc dân đảng. Lão ta hay nói chính trị, có lúc chê bai Tưởng Giới Thạch, đôi lần ca tụng những người cộng sản Trung Quốc, lại hay nói đến Việt Nam. Bề ngoài, hắn thường tỏ ra lịch sự, hào phóng.

Tôi thản nhiên cầm lấy tờ báo đọc.

Thực ra tin về phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh tôi đã được Lưu Quốc Long cho biết trước rồi. Lưu Quốc Long lúc này đã được tổ chức cho thôi việc trên đoạn đường sắt Nam Kinh - Hán Khẩu, bổ sung vào tổ công tác của đồng chí Nguyễn Lương Bằng hoạt động bí mật ở Thượng Hải. Lúc mới nghe tin, tôi vung mạnh hai cánh tay phấn khởi nói: Khởi xướng từ Hưng Nguyên, huyện nhà mình đấy. Lưu Quốc Long cũng không kém phần vung vẩy: - Họp mít tinh ngay ở quê mình, mình có cớ xin về nước rồi.

Tin tức chỉ vẻn vẹn có thế, khiến tôi càng thêm bận tâm suy nghĩ. Nhiều lúc tôi tự trách là đă bị ám ảnh bởi các cuộc khởi nghĩa thất bại ở Trung Quốc nên có phần lo lắng hoài nghi thắng lợi của phong trào trong nước.
 
Tờ báo hôm đó cũng chẳng cung cấp cho thêm được điều gì. Còn viên đại tá cục phó thì vẫn ung dung ngồi trước mặt tôi thản nhiên hút thuốc. Tôi bắt gặp cặp mắt soi mói của lão ta đang ngầm chiếu vào tôi. Mình nghi nó là đặc vụ, thì nó cũng có thể nghi mình là cộng sản. cộng sản Việt Nam.

- Dân Việt Nam anh hùng lắm - viên đại tá nói - chân tay không đánh Pháp. Người Trung Quốc ta phải noi theo: Thương dân Nam Việt lắm - Lão ta ngừng lời, tự tay bật lửa châm vào điếu thuốc của tôi - Nhưng có một điều mà những lãnh tụ cách mạng Việt Nam quên mất là cách mạng Trung Quốc chưa thành công thì cách mạng Việt Nam sao mà thành được. Người đời đã nói: Trung Quốc là cái áo. Nam Việt là cái dài.

Tôi thản nhiên đáp lại:

- Thưa ngài đại tá, người đòi còn nói: áo đã rách, nhưng dải thì vẫn còn.

Ít lâu sau, hắn lại chạm trán với tôi trên toa xe giải khát. Hắn lôi bằng được tôi ngồi vào bàn, gọi rượu ra mời uống. Rồi hắn ra vẻ bề trên ân cần khuyên bảo cấp dưới:

- Lý lẽ của đại úy rành rọt lắm. Nên đề phòng nhiều người khác có thể nghĩ đại úy không phải là một người cộng sản thì cũng là một tên Hán gian lợi hại đấy.

- Thưa ngài đại tá, sinh thời Tôn Tổng lý (tức Tôn Dật Tiên) đỡ đầu cho Hội Đông Á đồng minh(1) ra đời, gồm người Trung Quốc, Việt Nam, Cao Ly (Triều Tiên), Ấn Độ, Phi Luật Tân nhằm giúp đỡ lẫn nhau chống bọn đế quốc. Năm 1912, Tưởng ủy viên trường (tức Tưởng Giới Thạch) cũng cho lập Hội Chấn Hoa Hưng Á Nhân dân các nước châu Á giúp đỡ lẫn nhau lúc này là rất cần thiết, rất hợp đạo lý. Riêng tôi, tôi rất ủng hộ, tán thành những việc làm kể trên của Tôn Tổng lý, của ủy viên trưởng, đâu phải là cộng sản, là Hán gian?

Thêm hai năm (1931-1932) sôi động và căng thẳng đối với tôi. Cuộc hành binh vây quét của Tưởng Giới Thạch vào khu Xô-viết trung ương dây dưa kéo dài trên nửa năm mới kết thúc. Lúc đầu với mười vạn quân, Tưởng định đánh một cú là xong. Nhưng đã phải kéo thành ba đợt. Đợt một từ tháng 12 năm 1930 đến tháng giêng năm 1931. Tưởng phải ngừng tiến công (do quân đội Nhật Bản tràn vào Hoa Bắc). Sáu tháng sau mới mở được đợt hai, lực lượng đông gấp đôi tức là hai mươi vạn. Đợt ba, vào tháng 7, ba mươi vạn quân do đích thân “Trung Hoa đệ nhất kiệt” (tức Tưởng Giới Thạch) chỉ huy. Lại thua liểng xiểng như đợt hai.

Bao lần trái tim của tôi bị thắt lại. Sau các tổn thất to lớn ở Trường Sa, Nam Xương, Vũ Hán, liệu Hồng quân đã hồi phục lại được sức lực chưa?

Tới ngày Tưởng phải chính thức ra lệnh lui quân, kết thúc đợt ba, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Cùng lúc trong bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng đã có tiếng xì xào là phải truy lùng nội phản.

Tưởng Giới Thạch cay cú quyết làm một cú nữa vào tháng 6 năm 1932. Như lần trước, toàn bộ bản kế hoạch tiến công vây quét lớn lần thứ hai này đều qua tay ông Hồ Học Lãm và tôi chuyển tới Bộ tư lệnh Hồng quân. Sau lần vây quét này, Tưởng nói: không thắng nhưng cũng không thua!

Trả giá cho hai lần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế của mình, tôi đã bị bọn đặc vụ Quốc dân đảng đặt dấu hỏi nghi ngờ. Tôi đang lo đối phó thì tin từ trong nước dồn dập tới: bọn thực dân Pháp dìm phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh trong biển máu. Máy bay Pháp ném bom xuống Hưng Nguyên... Hàng xâu người bị bắt đi Côn Lôn, Lao Bảo... Phong trào tụt xuống. Tổng bí thư Trần Phú bị bắt. Thêm một tin tức làm tôi rụng rời: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc sa lưới mật thám Anh ở Hồng Công. Rồi đến tin chú Hồ Tùng Mậu bị thực dân Anh bắt ở Hồng Công, trao cho Pháp đem về Việt Nam...

Tôi vội vàng lên Thượng Hải tìm gặp tổ chức. Đồng chí Lê Quảng Đạt hẹn gặp tôi ngày hôm sau ở vườn hoa Hồng Khẩu tại tô giới Nhật. Đến giờ hẹn tôi tới, lại thoáng nhìn thấy bóng dáng tên đại tá đặc vụ quen thuộc nọ đi trong đám đông nên phải lánh vào một chỗ khuất. Đợi suốt buổi chiều không thấy đồng chí Lê Quảng Đạt đến. Tai biến rồi! - Nghĩ xong, tôi vội vàng đi nơi khác. Hai ngày sau trên tờ báo hàng ngày phát hành ở Thượng Hải, tôi đau đớn đọc các dòng chữ in trên một cột báo: Mấy nhà cách mạng Việt Nam bị đương cục Pháp bắt giữ... một người đã nhảy từ lầu gác ba xuống sân tự vẫn... Dò hỏi ra thì đó là các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Lưu Quốc Long, Lê Quảng Đạt... Người nhảy từ gác ba xuống là Lưu Quốc Long. Cơ sở nhiều nơi hầu như bị phá vỡ cả.

Ban đêm, thành phố Thượng Hải vẫn ồn ào huyên náo tiếng xoa mạt chược, tiếng xóc đĩa, tiếng rao các loại chè cháo “xú dề” như xưa, nhưng lòng tôi cô đơn trống lạnh.


(1) Tên chính thức của Hội là: Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:36:48 am
*
*   *

Chị Hồ Diệc Lan ra mở cửa đón tôi vào nhà. Năm ấy chị vừa tròn hai mươi tuổi. Tóc chấm vai, nét mặt thanh nhã, nếp nhà gia giáo. Khi không có việc gì ra phố, ở nhà bà mẹ và hai chị em Hồ Diệc Lan đều vận áo quần cắt may theo kiểu dân tộc.

- Đương cục Pháp vừa yêu cầu bộ tổng tham mưu ở đây giao anh cho bọn chúng. Chúng tố cáo anh là cộng sản Việt Nam phá hoại - Chị Hồ Diệc Lan nói.

- Không thấy bố tôi nói gì. Nhưng tôi biết chắc chắn là tất cả mọi người kể cả vị tướng lĩnh cao cấp nhất trong bộ tổng tham mưu đều tin bố tôi không bao giờ là cộng sản được.

Tôi đi đi lại lại trong căn phòng suy nghĩ mung lung:

- Để bảo vệ cho bác yên ổn công tác ở đây, tôi sẽ phải đi khỏi nơi này.

Vừa lúc ông Hồ Học Lâm bước vào, nhịp thở của ông hơi khò khè vì cơn hen xuyễn, triệu chứng của những ngày động não căng thẳng, hệt như những ngày hai bác cháu chúng tôi dò từng chữ.

- Anh định ba mươi sáu chước, chước “đào” là hơn đấy à? - Ông Hồ Học Lãm uống một ngụm nước chè nóng - Không phải đi đâu cả. Cứ ở đây. Đi bây giờ là hạ sách. Lạy ông, tôi ở bụi này!

Tôi phải nói rõ ý nghĩ của mình, đồng thời cũng là chỉ thị của tổ chức là phải hết sức bảo vệ, giữ gìn ông. Chừng nào ông còn được tín nhiệm công tác tại bộ tổng tham mưu Quốc dân Đảng thì cách mạng của cả hai dân tộc Việt - Trung có lợi chừng ấy. Nêu không có ông thì làm sao lấy được hai bản kế hoạch quân sự tối mật của Tưởng Giới Thạch gửi tới để Hồng quân biết trước mà đề phòng đối phó thắng lợi.

Ông Hồ Học Lãm ngắt lời tôi:

- Tôi và anh nên coi đây là một nghĩa vụ của mình. Anh cứ yên tâm. Tôi sẽ thu xếp mọi việc ổn thỏa. Tưởng Giới Thạch chưa chịu đâu. Nó còn tiếp tục đánh, đánh nhiều nữa đấy. Chúng ta còn phải khổ công hơn nữa.

Ông Hồ Học Lãm nói rõ cho tôi biết thêm là vì sao tất cả cán bộ từ tướng cao cấp trở xuống trong bộ tổng tham mưu Quốc dân Đảng lại một mực tin tưởng ở ông, phản đối yêu sách láo xược của bọn đương cục Pháp. Vì nội tình bộ tổng tham mưu cũng rối ren như tình hình xã hội Trung Quốc bên ngoài. Có phe đa số của Tưởng Giới Thạch, có cánh của Hà Ứng Khâm. Lại có một số tướng lĩnh ngầm ủng hộ Uông Tinh Vệ đầu hàng Nhật. Một số khác phản đối Tưởng Giới Thạch đòi thực hiện đúng di chúc của Tôn Trung Sơn... Với ông Hồ Học Lãm, tất cả các phe phái đều biết ông là một nhà cách mạng Việt Nam chân chính, được coi như trung lập không ngả theo phe cánh nào, nên đều tranh thủ ông tùy theo động cơ tốt xấu của họ. Ông cũng triệt để lợi dụng mâu thuẫn để thu thập nhiều tin tức có lợi cho cách mạng.

- Ở lâu với họ - Ông nói - Tôi hiểu tất cả, kể cả những việc làm bất chính, bất lương của họ.

Ông mỉm cười, cái cười chua chát về mặt trái của cuộc đời, rồi nói tiếp:

- Cũng may còn có một số người chân chính, biết tôn trọng nhân cách, phẩm giá con người. Ta không nên vơ đũa cả nắm. Ngồi vào bàn làm việc đây, nom rất oai phong, chễm chệ, nhưng tâm trí họ có để vào đây đâu. Mọi việc đều đùn xuống cho cấp dưới làm, rồi quát tháo, nạt nộ. Chỉ khổ cho các sĩ quan trợ tá trẻ. - Ông quay về phía tôi nói tiếp - Còn bọn đặc vụ mà anh hay nhắc đến, phần lớn bọn to đầu chúng nó thuộc về phe cánh của Tưởng Giới Thạch. Tha hồ hống hách lộng quyền, tiêu tiền như rác, biển thủ như ranh. Đứa nào đứa ấy mới làm vài năm đã giàu sụ. Có chuyến tàu hàng về cảng thì việc to bằng trời cũng bỏ đấy chạy vội đi nhận hàng, môi giới, áp phe cái đã...


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:38:00 am
IV

TẠM LÁNH SANG NHẬT BẢN

Bọn đặc vụ tuy hết sức tránh đụng chạm đến ông Hồ Học Lãm, nhưng vẫn không chịu buông tha người em thúc bá của ông (khi nhận tôi về ở trong nhà, ông giới thiệu tôi là người em con chú, con bác với ông). Tôi bị chúng theo dõi lúc đi tàu, lúc về nhà, khi ra phố.

Một hôm tôi vừa bước ra khỏi nhà ga Thượng Hải thì có người khẽ chạm vào gói hành lý của tôi. Nhìn kỹ, thì ra đó là anh bạn Triều Tiên họ Phác cùng khóa học trường Hoàng Phố với tôi. Hại người đã vài lần gặp nhau ở đường phố Nam Kinh và Thượng Hải. Cùng lờ nhau như không hề quen biết. Nhưng qua Trương Văn Lĩnh tôi được biết anh bạn Triều Tiên họ Phác ấy đang hoạt động trong một tổ chức tình báo chống bọn gián điệp Nhật Bản. Cùng hội, cùng thuyền, hiểu nhau cả.

Thấy vậy tôi rảo bước, chen lấn với đám đông hành khách để đuổi kịp anh bạn nọ.

- Cậu nên lánh đi chỗ khác thì hơn - Người bạn Triều Tiên nói nhỏ vào tai tôi rồi đi thẳng.

Tôi về thuật lại với ông Hồ Học Lãm.

- Đúng đấy, lúc này là lúc anh tạm lánh đi một thời gian. Một vị tướng quân họ Trần bạn thân với tôi vừa thu xếp cho tôi một việc phải sang Nhật Bản vài ba tháng. Tướng quân đồng ý cho cả anh cùng đi - ông Hồ Học Lãm ngừng lời, thăm dò thái độ của tôi - Đi sang đấy, việc tôi, tôi làm. Còn anh, nghỉ ngơi, tham quan một đất nước tư bản phương Đông xem sao. Cũng có lợi cho công tác của anh đấy.

Đặt chân lên các hòn đảo Phù Tang, tôi ý thức nhìn nhận con người và đất nước này theo chiều dài lịch sử của nó. Thủ đô Tô-ki-ô rộng lớn và rất hiện đại. Từng tuyến đường rộng thênh thang, dài tít tắp. Ban đêm rực sáng ánh đèn điện huỳnh quang. Nhìn những bộ áo quần ki-mô-nô trắng của các thiếu nữ dưới ánh đèn, người ta có cảm giác như nhìn một cái kim trên một chiếc đĩa bạc. Dọc hai bên đường, từng khu nhà kiến trúc đồ sộ, sân thượng đổ bê-tông, vuông vức sừng sững như những vách đá đánh đai dọc những con đường. Khu hoàng cung ba tầng, ẩn sâu trong một khu vườn rộng, gợi lại cho người ta những tòa lâu đài thâm nghiêm, kín cổng cao tường trong các câu chuyện cổ tích ngày xưa. Phương tiện giao thông rất nhiều và thuận tiện, xe cộ nối đuôi nhau lao vun vút như những dòng chảy xiết, tuy ngược chiều nhưng lại rất êm ả. Chỉ tới ngã năm, ngã sáu đầu đường, hoặc gặp các quảng trường lớn, khách đi bộ hay ngồi trên xe mới được vươn xa đôi chút tầm nhìn. Thành phố Tô-ki-ô được nhiều dòng sông nhỏ, nhiều con kênh nước chảy hiền hòa cắt ngang, cắt dọc thành từng khu riêng biệt. Những khu công nghiệp lớn, ống khói chọc trời. Khu công nhân nhà lợp ngói nâu xám xịt. Khu đại học nổi bật lên cái tháp gạch đỏ của một trường đại học. Khu thương mại giao dịch quốc tế với khách sạn lớn Hoàng cung nhiều tầng, với trụ sở của các hãng buôn lớn v.v... Người dân một nước công kỹ nghệ phát triển có tác phong khẩn trương vô cùng, tranh thủ thời gian từng giờ từng phút, nhưng không chen lấn, đụng độ.

Đoàn xe lửa từ cảng Thần Hổ đưa ông Hồ Học Lãm và tôi về Tô-ki-ô. Nhà ga rất lớn và hiện đại, có mái che, tuyết rơi lả tả. Thấy hai người lạ, vẻ bỡ ngỡ, một phụ nữ Nhật đã chủ động dẫn chúng tôi tới bến xe tắc-xi, dặn anh lái xe đưa về địa chỉ cần tìm ở một vùng ven thành phố. Xe dừng trước cổng. Ông Hồ Học Lãm bấm chuông. Một phụ nữ Nhật chạc ngoài ba mươi tuổi, phúc hậu hiền từ ra mở cửa, cung kính cúi đầu mời hai vị khách vào. Chủ nhân, một ông già trên sáu mươi, vận bộ ki-mô-nô, vẻ chậm chạp, bước ra tận hàng hiên đón. Thì ra, đây chính là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, từ khi sang tới đây mang tên là Nam Nhất Hùng, một nhân vật đã một thời tên tuổi gắn liền với Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước trong phong trào Đông Du, một nhân chứng lịch sử về mưu đồ xâm lâng, làm bá chủ toàn châu Á và một phần thế giới của đế quốc Phù Tang từ đầu thế kỷ hai mươi này. Hồi đó, bọn cầm quyền Nhật Bản đã hạch sách cụ Phan Bội Châu đòi phải tìm bằng được một người Hoàng tộc đưa sang Nhật để tôn làm “minh chủ” cho việc “phục quốc An Nam”. Cụ Phan đành phải lặn lội về nước, mời Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sang. Nắm được lá bài “minh chủ An Nam” rồi, họ giấu biệt Kỳ Ngoại Hầu đi một nơi, không cho tiếp xúc với bất cứ một ai. Âm mưu thâm độc là họ là nuôi dưỡng ông thành một tay sai ngoan ngoãn để phục vụ ý đồ xâm chiếm Việt Nam của họ sau này như họ đã làm ở Đài Loan, ở Cao Ly (Triều Tiên) và gần đây nhất, họ bắt cóc ông Hăng-ri Phổ Nghi dựng lên làm vua bù nhìn “nước Mãn Châu”. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cũng thấy rõ số phận mai sau của mình. Gần ba chục năm bọn cầm quyền Nhật Bản gần như giam lỏng ông trong một ngôi nhà vắng lạnh. Hàng tháng, họ chỉ cho ông vài trăm đồng tiền yên. Hàng ngày chị giúp việc sáng đến, chiều về, làm cơm cho ông ăn theo cách nấu ăn của người Nhật, hết thịt luộc lại thịt nướng hoặc tái nhúng nước sôi, hoặc ăn gỏi (cá).

Ở Nhật Bản, một nước công nghiệp, thịt gia cầm, gia súc bỏ hết đầu, chân, nội tạng. Nhiều hôm đi chợ, tôi chỉ cần khoảng một phần tư số tiền, mua về, thổi nấu thành những món ăn dân tộc: lòng lợn, chân giò ninh, thịt kho tàu, thịt áp chảo, giả ba ba, cá diêu, nem cua, chả nướng... Bữa cơm đậm đà hương vị quê hương. Ba người cùng ăn uống chuyện trò thân mật. Làm như vậy, một phần tôi cũng muốn để khơi gợi và thăm dò thái độ của Kỳ Ngoại Hầu với đất nước, giống nòi.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:39:07 am
Những buổi ông Hồ Học Lãm đi giải quyết nhiệm vụ đặc biệt của mình, Cường Để thường hay tâm sự với tôi. Ông ví thân phận của ông như nàng Kiều, trót bán mình cho mụ Tú Bà, rồi mắc lừa Sở Khanh. Những khi ấy ông thường khẽ ngâm hai câu Kiều: “Biết thân đến bước lạc loài. Nhị đào thà bẻ cho người tình chung...”

- Sao ngài không nghĩ đến chuyện tìm đường về nước? - Tôi hỏi Cường Để.

- Trốn thế nào được, cảnh tôi cá chậu chim lồng. Giả thử có về được lại rơi vào tay bọn cầm quyền Pháp mà thôi.

- Hay về Trung Quốc?

Nét đau khổ hằn lên khuôn mặt nề nề của ông, Kỳ Ngoại Hầu giải thích:

- Về Trung Quốc càng chết, ở bên đó chỗ nào chẳng có thám tử của đảng Hắc Long (một cơ quan gián điệp rất có thế lực ở Nhật Bản). Chúng sẽ điệu tôi về đây ngay lập tức. Nói chuyện xong ông tìm đưa cho tôi một cuốn sách và nói: Anh đọc đi sẽ rõ.

Đó là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu, in lại bằng chữ Nhật. Vài trang đầu có lời giới thiệu của một viên tướng người Nhật Bản. Đại ý là tướng này sang Việt Nam nằm 1883, nghĩa là chỉ sau một năm giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai (1882) để nghiên cứu tình hình. Hắn được tiếp kiến Khâm sai Nguyễn Hữu Độ. Sau buổi tiếp kiến, viên tướng này ngỏ ý xin Khâm sai một cuốn lịch sử dân tộc Việt Nam để đem về Nhật. Phần cuối, tác giả lời giới thiệu đã nêu lên vài nhận xét qua chuyến đi thăm Việt Nam vừa qua. Đại ý là: hai nước Nhật Bản và Việt Nam đều ở châu Á, cùng chung một nền văn hóa Đông phương, hoàn cảnh địa lý, xã hội, dân số... có nhiều điểm gần giống nhau. Nhưng nước Việt Nam đã bị rơi vào ách đô hộ của một cường quốc tư bản phương Tây. Tác giả kêu gọi mọi công dân Nhật Bản phải biết lấy bài học của Việt Nam làm răn, phục vụ công cuộc canh tân để sớm đưa đất nước của Thiên Hoàng thành một quốc gia hùng mạnh ở châu Á và trên thế giới...

- Thì ra từ dạo ấy họ đã để ý đến nước ta - Tôi nói - Chắc bây giờ họ lại càng chú ý hơn.

- Anh nói đúng - Ông Cường Để ngắt lời - Sau Trung Quốc, họ nghiên cứu Việt Nam rất kỹ. Họ hiểu Việt Nam ta hơn cả chúng ta đấy. Anh có được nghe nói nhiều về ông Nguyễn Ái Quốc không? Tôi được biết là gần đây họ theo dõi hành trình của ông Nguyễn Ái Quốc rất chặt chẽ. Ông làm gì, ở đâu, đi đâu họ đều biết. Họ biết cả việc ông hợp nhất được ba phái thành một Đảng Cộng sản Việt Nam, cả việc ông bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Công năm nọ và thoát nạn như thế nào...

Thời gian lưu lại ở Nhật, tôi càng thấm thía lời dạy của đồng chí Lý Thụy: Cách mạng Việt Nam giờ đây là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới và khẩu hiệu hành động của Lê-nin: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc thuộc địa liên hiệp lại”. Tôi tranh thủ mọi thời gian để tìm hiểu về phong trào cách mạng, đảng cộng sản Nhật Bản cũng như nhân dân Nhật Bản.

Tôi tới các khu công nhân, khu những người lao động, tìm đến một số vùng nông thôn, tiếp giáp với thủ đô Tô-ki-ô. Giữa một biển người quay cuồng chuyển động mau lẹ như những chiếc bánh xe nhỏ trong một hệ thống khổng lồ tôi không gặp một ai ra dáng một người cách mạng. Có thể vì là người nước ngoài, ngôn ngữ không thông thạo. Nhưng ngược lại ở đâu tôi cũng gặp nếp sống có văn hóa, lịch sự của người dân Nhật Bản. Trong nhà, ngoài ngõ sạch sẽ. Ở nhà máy, nam cũng như nữ công nhân quần áo rách mướp, nhưng ra tới đường phố đều ăn mặc tinh tươm, không còn nhận ra họ được nữa. Công việc đồng áng ở đây phần lớn đã được làm bằng máy, khác xa với công việc đồng áng ở Việt Nam, nhưng đặc tính cần cù hai sương một nắng của nông dân thì thật giống nhau. Tính hiếu học cũng là một nét đáng quý của người dân Nhật. Anh lái xe ô-tô buýt trên tuyến đường Ghin-da chìa cho tôi xem ba bằng tốt nghiệp đại học của anh ta. Họ phải học chữ, học nghề mới tìm được việc làm. Ở một nước công kỹ nghệ phát triển, thất nghiệp là một tai họa lớn đối với từng người dân, từng gia đình. Tuy vậy tôi vẫn cho rằng một dân tộc hiếu học sẽ sớm vươn tới vầng hào quang của trí tuệ. Mà trí tuệ thì không cùng chung sống với dốt nát, làm bừa, làm ẩu. Các nhà cầm quyền ở đây cũng như ở các nước tư bản khác rất sợ làm ẩu. Hàng ngày tiếp xúc với một số tầng lớp nhân dân Nhật Bản, thuộc nhiều lứa tuổi, tôi nhận thấy bên trong cái vẻ khiêm tốn nhã nhặn của họ là một tinh thần dân tộc rất cao. Người Nhật chỉ thích nói đến chiến thắng, không thích nói đến chiến bại.

Ở đây rất ít người biết đến Việt Nam. Họ đều yên trí tôi là một người Trung Quốc hay Cao Ly. Thật đau đớn xót xa. Trong mấy nghìn năm lịch sử giữ nước và dựng nước, dân tộc Việt Nam ta đâu đến nỗi kém thông minh tài trí, kém cần cù, chịu thương chịu khó. Ấy vậy mà vì sao dân tộc ta khốn khổ đến thế? Tôi thét lên căm phẫn: cả một dân tộc đang phải trả giá rất đắt cho sự ích kỷ, ngu dốt, bảo thủ đến cực kỳ phản động của bọn vua quan nhà Nguyễn từ giữa thế kỷ trước, bằng chính sách bế quan tỏa cảng, ngoảnh mặt đi trước những tiến bộ của khoa học kỹ thuật bên ngoài.

Vua Nhật Minh Trị với công cuộc duy tân đất nước của mình từ năm 1868 đã đưa nước Nhật Bản tới địa vị một cường quốc ở châu Á và thế giới.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:39:46 am
Ở Nhật họ làm được, còn ở ta thì sao không làm được?

Bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, những thông tin về tiến bộ, phát minh khoa học kỹ thuật do sứ giả từ các nước phương Tây đem về, đều bị triều đình Tự Đức gạt bỏ đi hết. Vì sao?

Thế kỷ 17 và 18 ở ta kinh tế hàng hóa đã phát triển, đã manh nha mầm mống tiền tư bản chủ nghĩa. Sau cái chết của Quang Trung Nguyễn Huệ dẫn đến thắng lợi của Nguyễn Ánh với việc thiết lập triều đại Nguyễn Gia Long năm 1802 từng bước bám vào thực dân Pháp. Với chính sách cai trị hà khắc, bế quan tỏa cảng cả về kinh tế, xã hội, tư tưởng... Xung quanh Tự Đức toàn một lũ hủ nho, bảo thủ ngu dốt, tham tàn, ích kỷ, chúng đã bóp chết mọi mầm mống manh nha tiền tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Trong lúc đó ở Nhật, mầm mống tiền tư bản này đã được phát triển thành một thế lực trong triều. Cuộc đấu tranh giữa cái bảo thủ lạc hậu với cái tiến bộ diễn ra gay gắt, đưa đến công cuộc duy tân đất nước của vua Minh Trị. Nhưng rồi nước Nhật hùng cường đó đã trở thành một đế quốc xâm lược cực kỳ hung hãn. Số phận của các dân tộc nhược tiểu châu Á trong đó có Việt Nam rồi sẽ ra sao? “Cách mạng Việt Nam từ nay có chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi sáng dẫn đường”. Câu nói đó của đồng chí Lý Thụy đã tiếp cho tôi một sức mạnh vô biên, một lòng thi tuyệt đỉnh...

Ông Hồ Học Lãm sang Nhật lần này để thu thập một số tin tức tình báo về ý đồ mở rộng chiến tranh xâm lược Trung Quốc của bọn quân phiệt Nhật Bản. Qua lời ông thì trong giới quân phiệt Nhật lúc ấy chia thành hai phái: Phái Bắc tiến chủ trương tiến công Liên Xô giành lại phần đất ở châu Á của đất nước Cách mạng tháng Mười trước, rồi sẽ quay xuống phía nam đánh chiếm toàn bộ các nước châu Á. Phái Nam tiến chủ trương ngược lại: đánh chiếm các nước châu Á thuộc địa của các nước phương Tây trước rồi mới tiến đánh Liên Xô. Phái này đang thắng thế, ráo riết mở rộng đánh chiếm thêm nhiều miền rộng lớn đông dân, nhiều của ở Trung Quốc.

Có đặt chân đến đây, tôi mới thấy rõ rằng đồng chí Lý Thụy không theo cụ Phan Bội Châu sang Nhật là vô cùng đúng đắn. Đồng chí sang thẳng bên Pháp, sang các nước châu Âu, thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên ở nước Pháp. Rồi về với đất nước Liên Xô, tìm đến Lê-nin vĩ đại để vạch ra con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam tiến bước.

Cảnh sát Nhật không thể chấp nhận có hai người Việt Nam đến ăn ở hàng tháng trời tại nhà Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Đối với ông Hồ Học Lãm thuộc thế hệ già họ còn nương nhẹ. Với tôi họ tìm mọi cách gây khó dễ phiền hà. Từ tuần thứ tư trở đi, luôn luôn có người đến nhà: cảnh sát mặc đồng phục, thám tử mặc thường phục. Thậm chí cảnh sát cứu hỏa đến thu thuế cũng lân la hỏi chuyện tôi:

- Anh là người An Nam? Anh sang đây có việc gì? Bao giờ anh trở về?

Một hôm ba người đang ngồi chuyện trò giải trí trong vườn bên cạnh ấm nước chè thì một người mặc thường phục bước vào. Người này theo giới thiệu của ông Cường Để, vẫn thường lui tới nhà. Người đó đem đến chai rượu Sa-kê, rót vào cốc rồi nâng lên chúc tình giao hảo giữa hai nước cùng nòi giống da vàng ở phương Đông, cùng một kẻ thù chung là bọn mũi lõ tóc quăn. Hắn vừa nói vừa làm điệu bộ, vuốt cái mũi (lõ), một bàn tay xòe năm ngón như lưỡi gươm chém “pập” vào cổ. Câu chuyện dẫn dắt thật miên man. Từ nước Nga, qua Đức, sang Pháp, sang Anh vòng tới nước Mỹ rồi lại về Trung Quốc, Nhật Bản... Nói đến nước Pháp, hắn úp hai bàn tay xòe ngang mặt, một bên thấp, một bên cao hơn hẳn: - Pháp là bên này (bên thấp) còn Nhật Bản là bên này (bên cao).

- Còn Hoa Kỳ? Tôi thản nhiên hỏi.

Hắn nheo mắt làm trò, đưa hai bàn tay lên gần ngang nhau. Bàn tay chỉ nước Nhật vẫn nhỉnh hơn một chút ít. Câu chuyện chuyển sang nước Anh. Hắn không xòe hai bàn tay để so sánh nữa. Nhưng lại kể một cuộc đối thoại giữa một người Nhật và một người Anh:

- Người Anh tự hào là mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước của họ. Còn người Nhật chúng tôi cũng rất tự hào là khắp quả địa cầu này, chỗ nào cũng nhìn thấy mặt trời mọc (mặt trời mọc ý nói là cờ của nước Nhật). Nói xong nó nhìn chăm chắm vào tôi.

- Ở nước chúng tôi - Tôi chậm rãi nói - các em bé chăn trâu, lên năm, lên sáu tuổi thường bảo nhau: sáng sớm mặt trời hiền còn muốn nhìn, nhưng chỉ một lát sau, mặt trời ác quá, không nhìn.

Thế là từ sau phút đó hắn hiện nguyên hình là một tên quân phiệt, giả uống rượu, vung gươm, thét lớn một câu ca rất thịnh hành hồi đầu thế kỷ của môn đồ võ sĩ đạo Nhật Bản sau cuộc chiến tranh Nga - Nhật:

... “Tuốt gươm gọi rượu lên lầu. Khí hùng nuốt cả năm châu mới là...”.

Trước tình hình trên ông Hồ Học Lãm bàn riêng với tôi, khuyên tôi nên trở về Trung Quốc trước.

Tôi thu xếp khăn gói trở về. Ông Cường Để ngạc nhiên hỏi:

- Tôi tưởng anh sang đây để đi Nga? Hiện nay con đường sang Nga qua Mãn Châu Lý không đi được nữa. Phải dùng con đường qua Nhật Bản đấy. Tôi đang định dò hỏi giúp anh. Anh về Trung Quốc rồi có định về nước không?

Tôi không trả lời thẳng vào câu hỏi đó, mà chỉ nhấn mạnh đến nguyện vọng tha thiết của tôi là được trở về góp phần cùng đồng bào chiến đấu giải phóng Tổ quốc, quê hương.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:41:34 am
V

TRÊN TRẬN TUYẾN THẦM LẶNG

Cho tới nay, có thêm điều kiện học hỏi, suy ngẫm, tôi càng thấm thía trong việc nhận thức về con đường đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội khoa học của các nhà hoạt động cách mạng, đầu thế kỷ này. Tôi cũng nghĩ nhiều tới ông Hồ Học Lãm, người mà cuộc đời có nhiều gắn bó với sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng ta lãnh đạo. Ông là một gạch nối giữa Duy tân hội, Việt Nam Quang phục Hội của các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ 20 này, tiêu biểu là cụ Phan Bội Châu với Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, tiền thân của Đảng cộng sản Đông Dương do Bác Hồ sáng lập và lãnh đạo.

Nhờ tài đức và luôn học hỏi cầu tiến bộ, ông Hồ Học Lãm đã tự tạo cho mình một chỗ đứng khá vững vàng suốt cuộc đời ông trong giới quân sự, chính trị, xã hội của Trung Hoa dân quốc thời Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch. Khi ông còn là sĩ quan cấp thấp, bất kỳ người Việt Nam nào đến tìm gặp ông mà nói là mới ở trong nước ra là ông hết lòng giúp đỡ. Lần đầu tiên, ba chúng tôi (anh Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long và tôi) đến Nam Kinh đã nhận được ở ông nhiệt tình đó. Lúc đó ông vẫn sống xa vợ con tại khu cư xá của sĩ quan cao cấp. Ông giới thiệu chúng tôi đến ăn ở tại một khách sạn trong thành phố. Người quản lý khách sạn niềm nở nói với chúng tôi:

- Khách của Hồ tiên sinh không lúc nào không có người trú ngụ tại đây. Hàng tháng, Hồ tiên sinh vẫn thanh toán rất sòng phẳng.

Về cuộc sống riêng, ông rất cần kiệm, giản dị. Vì phải cưu mang anh em hoạt động nên với tiền lương của một vị tướng quân Quốc dân đảng, chưa hết tháng đã hết tiền. Bà Hồ Học Lãm và hai người con gái sông ở Hàng Châu không trông chờ gì vào tiền lương của ông.

Tuy nhiên, để tránh sơ suất, ông rất thận trọng. Ví như việc đồng chí Lê Hồng Sơn tức Lê Tản Anh đến bảo lãnh cho số học sinh Việt Nam đang bị khủng bố, liền bị bọn mật vụ bắt giam. Hôm đó, ông đang ngồi chơi với mấy viên tướng Quốc dân đảng ở cư xá sĩ quan. Viên sĩ quan thường trực cư xá đến gặp ông, báo cáo là “có điện gửi tướng quân”. - Điện gì? Ông hỏi và bảo đọc nghe chung tất cả. Bức điện đó là của Lê Tản Anh gửi tới nhờ ông bảo lãnh cho. Thừa biết là ai rồi nhưng ông điềm nhiên nói: - Tôi không quen biết ai tên là Lê Tản Anh, nhưng người Việt Nam nào đã biết tôi, nhờ tôi bảo lãnh thì tôi xin bảo lãnh cho người đó - Mấy viên tướng Quốc dân đảng không nói thêm gì, có nghĩa là họ không phản đối. Ông ra hiệu cho người sĩ quan thường trực về thực hiện ý định của ông. Lê Hồng Sơn nhờ vậy mà thoát khỏi nhà giam của Tưởng Giới Thạch.

Về phần tôi, từ ngày có thư giới thiệu của đồng chí Hồ Tùng Mậu, được nhiều năm ở gần ông, tôi cũng biết là ông đã hết sức khôn khéo, che chắn việc có mặt của tôi trong nhà. Tôi tự nhận thấy mình có cái may hơn nhiều đồng chí khác. Đó là địa chỉ liên lạc công khai và thường xuyên của tôi ở gia đình ông bà Hồ Học Lãm (ngoài ra là các địa chỉ mật luôn luôn phải thay đổi). Nhờ đó mà trong nhiều năm, hoạt động đơn phương, đơn tuyến của tôi trong quân đội Tưởng Giới Thạch cũng không đến nỗi bị biệt tăm tin tức. Cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vừa dội sang Trung Quốc thì may quá, tôi được gặp chị Nguyễn Thị Minh Khai và mấy đồng chí nữa vừa tới Nam Kinh. Chúng tôi gặp nhau mừng vui khôn xiết.

- Xô-viết Nghệ Tĩnh của ta không đơn thuần là một cuộc nổi dậy của bà con dân cày - Chị Minh Khai nói cực kỳ sôi nổi, cặp mắt to tròn rực sáng - Bắt đầu từ ngày mồng Một tháng Năm năm Ba mươi, thợ nhà máy Diêm đình công. Bà con nông dân, mấy nghìn người kéo vào giữa thành phố Vinh biểu tình cùng với anh em công nhân Diêm, xe lửa Tràng Thi, cảng Bến Thủy, học sinh trường Cao Xuân Dục và bà con dân nghèo trong phố. Cò đỏ treo lên cột cao. Tây bắn chết người trước, người sau tiếp tục leo lên cắm cờ. Quần chúng không sợ, thét vang: Đả đảo đế quốc Pháp, đả đảo khủng bố, đả đảo Nam triều phong kiến tay sai của đế quốc, ủng hộ Liên bang Xô-viết! Sau đó các nhà máy tiếp tục đình công. Học sinh các trường bãi khóa. Dân cày quanh vùng góp gạo, tiền ủng hộ công nhân kéo dài đình công đòi bọn chủ phải tăng lương, giảm giờ làm. Nông dân đòi ruộng đất, xóa nợ, bỏ thuế. Mạnh nhất là ở Hưng Nguyên. Thanh Chương, Nam Đàn. Hàng ngàn nông dân, giáo mác, cuốc thuổng tuần hành kéo đến phủ huyện, đốt nhà, đốt ấp bọn địa chủ. Học sinh trường huyện Thanh Chương hăng lắm, đập phá huyện lỵ. Hào lý nhiều nơi xanh mắt, bỏ trốn hoặc nộp sổ, nộp triện. Đảng viên ở đó lãnh đạo lập luôn chính quyền Xô-viết chia lại ruộng đất, bỏ thuế chợ, thuế rượu, thuế đò. Kéo dài đến tháng Chạp cuối năm. Rõ ràng là một liên minh công nông và các tầng lớp dân nghèo khác. Có Đảng lãnh đạo ở khắp các nơi.

- Còn binh lính? - Tôi hỏi.

- Binh lính bị bọn Pháp thúc ép đi đàn áp đoàn biểu tình, họ toàn bắn đi đâu cả. Sau chúng phải dùng lính Tây, lính Lê-dương nên có hy sinh, thiệt hại nhưng tinh thần của bà con, đồng chí ta rất kiên cường.

Bị cuốn hút theo lời kể, mấy lần tôi định hỏi xem chị có biết việc nổi dậy ở xã Hưng Thông, quê tôi ra sao? Bố, mẹ, anh chị em họ hàng của tôi thế nào? Nghe nói cơ quan đầu não của xã đóng ngay tại nhà tôi. Hình ảnh các cuộc mít tinh, biểu tình lập chính quyền Xô- viết xã, chia lại ruộng đất, trấn áp bọn cường hào ác bá, thằng Tây mặt ngựa đã bắt tù cha tôi... tất cả đều hiện lên trong đầu óc tôi như một cuốn phim dài.

Một lần khác, tôi gặp chị, được biết chị đã gặp đồng chí Lý Thụy và được đồng chí Lý Thụy giới thiệu vào làm ở văn phòng chi nhánh Đông phương Bộ của Quốc tế cộng sản. Chị lấy tên là Ả Duy. Tôi lại được chị thông báo cho một số tin tức. Chị nói tiếp về những sự việc tiếp sau cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh:

- Đồng chí Nguyễn Ái Quốc gặp cán bộ trong nước sang, sau khi thu thập tin tức đích xác, lập tức viết báo cáo dài gửi Quốc tế cộng sản, đề nghị Quốc tế cộng sản lên tiếng tố cáo, chặn bàn tay khủng bố của đế quốc Pháp đối với phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh. Đồng thời để nghị Quốc tế cộng sản thừa nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ độc lập, thuộc Quốc tế cộng sản - Giọng chị Minh Khai càng sôi nổi - Quốc tế cộng sản làm to, chấn động cả dư luận Pháp. Tổ chức truy điệu các chiến sĩ Xô-viết Nghệ Tĩnh. Nhiều đại biểu các đảng cộng sản anh em lên phát biểu. Ban chấp hành Quốc tế cộng sản họp, biểu quyết nhất trí thừa nhận Đảng mình là một chi bộ độc lập, chỉ còn đợi Đại hội sắp tới thông qua. Ban chấp hành Quốc tế cộng sản trích ra bốn vạn đồng bạc Đông Dương cứu tế các nạn nhân của Xô-viết Nghệ Tĩnh. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang ở Hồng Công thì nhận được Nghị quyết thừa nhận đó. Đồng chí nhờ đồng chí Duy-Cru trong Ban chấp hành Thanh niên cộng sản quốc tế từ Hồng Công về Xanh-ga-po, ghé qua Sài Gòn báo tin cho Ban chấp hành Trung ương Đảng ta biết. Nghe nói đồng chí Duy-Cru là một đầu mối liên lạc giữa Ban chấp hành Quốc tế với đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí Duy-Cru đặt cơ sở ở Xanh-ga-po. Đồng chí qua Sài Gòn, có gặp anh Trần Phú, Tổng bí thư Đảng ta để báo tin. Rồi đi Xanh-ga-po ngay. Bọn mật thám Pháp ở Đông Dương thấy một người Âu lạ mặt đóng vai phóng viên báo chí đến Nghệ Tĩnh, rồi vào Sài Gòn đi lại một vài nơi, chúng nghi, liền mật báo cho bọn mật thám Anh ở Xanh-ga-po biết. Đồng chí Duy-Cru vừa về tới Xanh-ga-po, chứng bắt giữ và khám xét luôn. Trong cuốn sổ tay của đổng chí, chúng thấy ghi một địa chỉ ở Hồng Công, nhà 186 phố Tam Lung. Bọn mật thám Anh liền ập đến và bắt được đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

Lúc đầu bọn mật thám Anh cũng không biết người bị bắt là Nguyễn Ái Quốc. Sau khi biết, chúng mừng như bắt được vàng. Bọn Pháp từ toàn quyền, thống sứ, khâm sứ, đến chánh cò, chánh cẩm đều ve vãn bọn Anh, mong bọn này trao Nguyễn Ái Quốc cho chúng.

Tôi vội tiếp lời chị:

- Việc đồng chí Nguyễn Ái Quốc được luật sư Lô-dơ-bai cãi giúp cho, tôi xem báo đã rõ cả. Đồng chí thoát nạn, thật là đại hồng phúc cho dân ta.

Chị Minh Khai nhìn tôi, người đồng chí, đồng hương mang lon thiếu tá quân đội Quốc dân đảng và không nhịn được cười.

Chúng tôi ngồi trao đổi với nhau một số kinh nghiệm công tác và hẹn gặp lại lần sau.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:42:21 am
*
*   *

Ông Hồ Học Lãm ở Nhật Bản về sau tôi một thời gian. Chuyến đi này của ông rất tốt. Ông nói tiếng Nhật thành thạo lại có nhiều mối quan hệ cũ, nhờ đó ông đã thu thập được những nguồn tin chính xác về mưu đồ xâm lược Trung Quốc của bọn quân phiệt Nhật Bản. Trước mắt, những năm đầu của thập kỷ thứ ba, chúng chưa thể Nam tiến, đánh xuống miền Hoa Bắc hay Hoa Trung. Như vậy Tưởng Giới Thạch sẽ được rảnh tay tập trung lực lượng tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc, dập tắt phong trào yêu nước của nhân dân Trung Hoa. Còn giữa Tưởng Giới Thạch với bọn quân phiệt cát cứ ở trong nước sẽ vẫn là nội chiến liên miên. “Nhân dân Trung Quốc còn khổ cực đến mức độ nào nữa?”. Tôi luôn luôn tự hỏi mình, ngày đêm trăn trở.

Một hôm, như thường lệ, sau bữa cơm chiều, cả gia đình ông Hồ Học Lãm ngồi quây quần nghe đài, uống nước. Ông Hồ Học Lãm bắt đầu nói với tôi:

- Việc đương cục Pháp tố cáo các anh là cộng sản, liên lạc giữa Hồng Công, Thượng Hải, Nam Kinh, treo giá với bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng bắt được anh là 500.000 tệ (tiền Trung Quốc), tôi đều đã biết. Hiện nay, trong bộ tổng tham mưu họ bàn cãi khả nhiều về anh, tất nhiên có cả tôi. Họ nói: Nếu nó là cộng sản thì nó đã đi Xô Liên rồi, hoặc ở với bọn đỏ trong khu Xô-viết, đời nào nó chịu ở với ta, cúc cung tận tụy làm việc cho ta đến như vậy. Ông còn cho biết đại ý là giữa bọn Pháp và bọn Tưởng chẳng ưa gì nhau. Việc bọn Pháp tố cáo tôi và treo giá đã làm cho nhiều sĩ quan trung cao cấp trong bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng nổi sung, tự ái: Đường đường một cơ quan tham mưu đầu não của Tưởng tổng tài, mắt mù hay sao mà để một tên cộng sản lọt vào được? - Ngay số tiền 500.000 tệ mà Pháp treo giá cũng thành chuyện đàm tiếu khôi hài.

Có một lý do nữa, ông Hồ Học Lãm khiêm tốn không muốn nói ra nhưng theo tôi lại là lý do chủ yếu đó là uy tín rất lớn của ông. Hầu hết các tường lĩnh trong bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng, kể cả Tưởng Giới Thạch, đều không hề tỏ ra nghi ngờ gì ông, nên họ cũng tin rằng tôi không thể là cộng sản hay cảm tình với cộng sản. Ông nói tiếp: - Họ nhận định tôi và anh đều là những người Việt Nam thức thời, ắt phải hiểu thấu đáo là Trung Quốc có hùng mạnh thì mới giúp Việt Nam phục quốc được.

Tuy vậy, bọn mật thám Pháp và mật vụ Quốc dân đảng vẫn tiếp tục theo dõi tôi. Một lần gặp lại anh bạn Triều Tiên quen biết cũ, được biết anh ta đang làm việc tại cơ quan tình báo của Tưởng Giới Thạch, chúng tôi chỉ gặp nhau ở ngoài đường, không hề đến nhà và hỏi địa chỉ của nhau. Anh ta nói nhỏ với tôi: Trước cửa nhà anh thường xuyên có người theo dõi đấy. Nói xong anh vượt nhanh lên phía trước. Tôi về nói lại với ông Hồ Học Lãm. Ông cười bảo với tôi là ông đã được tướng quân họ Trần cùng trong bộ tổng tham mưu cho biết rồi, cứ coi như không có gì xảy ra thì chúng mới không nghi. Trước đó, trong một vài trường hợp thông thường, tôi vẫn liên lạc với một vài đồng chí ta bằng thư từ. Bưu điện của Tưởng Giới Thạch có lệ là lá thư nào không có người nhận thì họ để riêng ra một nơi, ai cần đến đấy mà tìm nhận. Một hôm, một viên sĩ quan đồng cấp bảo tôi đến bưu điện để nhận thư còn lưu lại. Tôi đến tìm thấy mấy lá thư. Có lá đề tên Lê Quốc Vọng, có lá đề Lê Tân Dân. Tôi để ý thấy có người theo dõi. Nếu tôi cầm thư đề tên Lê Quốc Vọng tức tên tôi hồi học ở trường Hoàng Phố thì có thể bị chúng bắt ngay. Tôi chỉ nhận lá thư đề Lê Tân Dân rồi đàng hoàng ra về. Có lần chúng bố trí tôi đến làm việc với một cơ quan bên ngoài mà tôi đoán chắc là cơ quan mật vụ. Đang làm việc bình thường, bỗng nhiên nó hỏi tôi: - Anh có quen ai là Lê Quốc Vọng không? Vừa hỏi nó vừa nhìn xoáy vào mặt tôi. Tôi thản nhiên đáp: - Có quen biết sơ sơ nhưng nhiều năm chẳng hề gặp nó - Tên mật vụ cười, nói: - Nó đi Xô Liên rồi. Tôi trừng mắt nhìn nó rồi nói: - Ông biết, vậy còn hỏi tôi làm gì? Nó cười, xin lỗi xã giao với tôi.

Tôi về kể lại với ông Hồ Học Lãm. Ông ngồi nghe chăm chú, rồi nói như kết luận: - Bọn chúng thường là thế nên ta phải hết sức tỉnh táo. Có lần ông mỉm cười, tự tin: “Cao nhân tắc hữu cao nhân trị”.

Một hôm, đợi cả nhà đã đi ngủ, ông Hồ Học Lãm dẫn tôi vào buồng riêng, cho biết: theo lệnh Tưởng Giới Thạch, bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng bắt đầu triển khai một kế hoạch tiến công quy mô rất lớn vào khu Xô-viết trung ương ở Thụy Kim và các khu khác ở các tỉnh lân cận; làm cỏ, tiêu diệt sạch các đơn vị Hồng quân, đảng viên cộng sản và mọi cơ sở của cách mạng. Theo nhiều nguồn tin, thằng Nhật sắp đánh lớn, chiếm các tỉnh đông dân, nhiều của miền ven biển Hoa Bắc, Hoa Trung, vì vậy, Tưởng Giới Thạch buộc phải hành động trước để tránh hậu họa bị cộng sản và bọn lãnh chúa quân phiệt cát cứ đánh vỗ mặt, đánh sau lưng. Lần này lại có sự tiếp tay hỗ trợ của bọn đế quốc Anh, Pháp và cả Đức nữa. Bọn này vẫn thậm thụt ra vào bộ tổng tham mưu. Quyết liệt lắm đấy.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:42:47 am
Những ngày tiếp sau, cho tới đêm khuya, ông Hồ Học Lãm và tôi vẫn chong đèn ngồi rất lâu trên tấm bản đồ quân sự trải rộng. Có lần chúng tôi nhập vai Tưởng Giới Thạch, lên phương án tác chiến; hoặc ngược lại đứng về phía Hồng quân Trung Hoa đối phó. Có nhiều đêm chúng tôi tranh cãi khá sôi nổi về cách đánh của bên này, cách chống trả của bên kia. Mỗi người bảo vệ giả định của mình. Những tấm bản đồ quân sự của các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, An Huy, Giang Tây, Phúc Kiến... chi chít những mũi tên xanh, đỏ, những ký hiệu sở chỉ huy, trận địa pháo mỗi ngày một đậm nét. Gần như hai chúng tôi đều thuộc lòng địa hình, địa vật xung quanh khu vực Thụy Kim với những tên làng, huyện, tên núi, sông, các đường ngang dọc, các điểm cao, bãi bằng...; thuộc lòng phiên hiệu các quân đoàn, sư đoàn Quốc dân đảng, tên tuổi, cá tính của từng tướng lĩnh chỉ huy các đơn vị dự kiến sắp được tung vào cuộc chiến nay mai. Về phía Hồng quân, chúng tôi cũng nắm chắc được tình hình mạnh yếu của từng đơn vị và các tổ chức cơ sở quần chúng tại các khu Xô-viết. Song tôi vẫn thấy lo lo mỗi khi nhớ lại từ cuộc khởi nghĩa ở Quảng Châu năm 1927 mà tôi trực tiếp tham gia đến kế hoạch “hội sư Vũ Hán, ẩm mã Trường Giang” đánh vào các thành phố của quân Tưởng. Những lần ấy, hễ đánh không xong, phải rút, thì quân đội Tưởng Giới Thạch lại đến tàn sát hàng chục vạn dân lành vô tội. Tôi luôn luôn day dứt; liệu lần này bạn có đứng vững và đập tan được cuộc tiến công lớn của bọn Tưởng hay không? Nhìn về phương Nam, Tổ quốc xa vời. Sau Xô-viết Nghệ Tĩnh, bao khó khăn gian khó đã đến với cách mạng nước ta, Đảng ta: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị bắt các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng, Lê Quảng Đạt, Lưu Quốc Long... lần lượt sa vào tay giặc Pháp. Hôm nghe tin Lưu Quốc Long, người đồng chí nối khố với tôi, nhảy từ trên gác ba xuống, hy sinh, tôi không sao cầm được nước mắt. Còn bao đồng chí khác nữa? Nhiều lúc, tôi muốn xé tan bộ quân phục sĩ quan Quốc dân đảng, liều mình tìm cách về nước ngay để quyết một phen sống mái với giặc. Nhưng nỗi đau gặm nhấm tim gan ấy vơi dần trong tôi trước những tin lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã được đồng chí bạn bè cứu thoát, các đồng chí đảng viên cộng sản như Trần Phú, Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu,... trong nhà tù đế quốc vẫn hiên ngang khí tiết, tổ chức đấu tranh, tìm cách liên lạc với cơ sở đảng bên ngoài. Những cán bộ, đảng viên không bị bắt vẫn tiếp tục hoạt động, nuôi dưỡng tinh thần của quần chúng. Nhờ đó phong trào ở trong nước đã dần dần được phục hồi, tập hợp được các tầng lớp công nông, tiểu thương, tiểu chủ đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, dãn thợ bắt phu ở cả nông thôn lẫn thành thị.

Giữa chừng công việc, tôi lên Thượng Hải chủ động tìm đến người đại diện mới của Đảng cộng sản Trung Quốc mà tôi vừa được giới thiệu để thông báo, phối hợp, đối chiếu với các nguồn thông tin từ phía Đảng bạn thu thập được. Tưởng là ai, hóa ra một bạn đồng học ở trường Võ bị Hoàng Phố trước đây, lúc này mang tên là Toàn Phong. Gặp nhau chúng tôi nắm chặt tay nhau đến đau điếng. Ở Trung Quốc, tình đồng hương, đồng học, đồng khóa là thiêng liêng trong tiềm thức, tập quán dân tộc. Toàn Phong lớn hơn tôi vài tuổi. Hai người hồi học ở trường Hoàng Phố đã có nhiều ý hợp tâm đầu. Tôi không tiện hỏi nhưng cũng đoán Toàn Phong đang giữ một trọng trách nào đó trong Đảng bạn. Toàn Phong tha thiết đề nghị với tôi là tìm mọi cách lấy cho bằng được kế hoạch tiến công lần này của Tưởng Giới Thạch.

- Qua các nguồn tin - Tôi nói - Chúng nghiên cứu rất kỹ sự chỉ đạo tác chiến và cách đánh của Hồng quân để tìm ra một cách đánh có lợi nhất cho chúng.

- Đồng chí thử cho vài dẫn chứng?

- Rút kinh nghiệm các lần trước, đại quân của chúng tiến ào ạt vào địa khu của ta, thường không gặp chủ lực của Hồng quân, đến lúc quân của chúng mệt mỏi mới đánh, hoặc khi chúng lui quân thường mái bị truy kích, nên chúng thường bàn với nhau là làm sao không bị “bọn đỏ” cho vào bẫy.

- Đúng đấy - Toàn Phong đáp, giọng hào hứng - Kinh nghiệm trên hai chục năm tiến hành du kích chiến tranh của Đảng chúng tôi đã đúc kết lại thành những nguyên tắc chỉ đạo tác chiến cho Hồng quân và các lực lượng vũ trang khác trong toàn quốc.

Tôi kiên nhẫn ngồi nghe người đồng chí của Đảng bạn thuyết trình về những điều hay, điều lợi của những nguyên tắc đó.

- Trong quân sự còn vấn đề vận dụng linh hoạt - Tôi nói - Ngay như Nã Phá Luân (Na-pô-lê-ông), một nhà quân sự có tài cũng có nói đại ý là thực địa chi phối cả cách cầm quân. Trong Binh pháp Tôn Tử cũng nói nhiều đến thực tế chiến trường.

Toàn Phong ngắt lời tôi:

- Đúng là có vấn để vận dụng linh hoạt. Nhưng nguyên tắc thì bao giờ cũng là nguyên tắc. Nã Phá Luân dù sao cũng sinh trưởng trước chúng ta hơn một thế kỷ.

Trước khi từ biệt người bạn học cũ, giờ là người cộng tác chặt chẽ với mình, tôi kiên trì nhắc đi nhắc lại: Nó đánh lần này có nhiều cái khác đấy. Trên đường về tôi không khỏi bâng khuâng suy nghĩ. Toàn Phong mới ngày nào còn là học sinh quân, rất trí thức, mà nay đã khác nhiều rồi.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2020, 06:43:17 am
*
*   *

Khoảng vài ba ngày ông Hồ Học Lãm lại cung cấp cho tôi một số chi tiết: - Bí mật lắm. Đích thân Tổng tham mưu trưởng điều hành công việc, thành lập một ban công tác đặc biệt, gọi là Biệt phái Ban. Tổng tham mưu trưởng duyệt danh sách từng người... Tôi cũng có trong danh sách Biệt phái Ban. Số người trong Ban rất hạn chế.

Việc ông Hồ Học Lãm được chỉ định là thành viên tham gia xây dựng kế hoạch tác chiến này là một điều rất thuận lợi cho công việc của tôi. Ông được phân công làm tổ trưởng tổ hậu cần bảo đảm cho gần hai chục quân đoàn, sư đoàn và nhiều đơn vị trọng pháo, súng cối, thiết xa và một vài phi đội máy bay cường kích thám thính, mới được bọn đế quốc Anh - Pháp - Đức viện trợ. Tất cả ước tính một triệu quân.

- Một triệu quân? Tôi thốt lên.

- Một triệu quân. Đúng đấy. Nhưng dự bị đội rất nhiều. Chưa biết rõ ý đồ sử dụng của họ ra sao.

Những ngày tiếp sau, ông Hồ Học Lãm đi làm về, nom rất phờ phạc, ăn uống sút hẳn đi. Ăn xong ông nằm chợp mắt một hồi lâu, có khi cả nhà sắp chuẩn bị đi ngủ ông mới ngồi vào bàn. Ổng nhớ lại và đọc cho tôi ghi những con số rất lớn dự trù về xăng dầu, đạn dược, thuốc nổ, phương tiện vận tải phục vụ, về vật liệu: xi măng, gỗ, đá, sắt thép... Con số về lương thực, thực phẩm càng ghê gớm hơn nữa. Theo ông thì chưa thấy một lần nào họ dự trù ghê gớm như lần này.

Suy nghĩ hồi lâu, ông ngủ luôn trên ghế. Tôi che bớt ánh sáng ngọn đèn canh giấc ngủ cho ông. Những con số năm chục vạn tấn, một triệu tấn, chục triệu tấn cứ như nhảy nhót trước mắt. Có đêm tôi thức trắng, trằn trọc nhưng sớm ra, lại mũ áo chỉnh tề đi làm. Có buổi trưa ông không về. Buổi chiều về nhà ăn cơm xong lại thấy ông đi. Có lúc ông đến cơ quan tiếp tục làm. Có lúc không thấy ông đến cơ quan nhưng đi đến gần nửa đêm mới về. Cả nhà đều biết ông đi là có việc rất cần. Mọi người đều nén lòng không hỏi ông điều gì, khỏi làm ông bị phân tán tư tưởng.

Một hôm, ông về với vẻ mặt tươi tỉnh. Sau bữa cơm chiêu, bỏ qua lệ nghe đài, uống nước, ông kéo tôi vào phòng riêng nói nhỏ:

- Đúng như tôi dự đoán từ lâu, chưa nói cho anh biết. Hôm nay họ vừa giới thiệu riêng với chúng tôi một đoàn võ quan Đức do viên tướng Xiếc-tơ (Seekt) cầm đầu sang làm cố vấn cho Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch đã làm việc xong với họ ở tư thất. Mấy ngày qua ho làm việc riêng với Tổng tham mưu trưởng và tổ lập đồ án tác chiến. Tổ hậu cần của tôi và tổ điều hành của Trần tướng quân cũng không được tham gia. Tuyệt đối bí mật - Ông dừng lại một lúc lâu mới nói tiếp: Lần này các cố vấn Đức cùng với họ thảo luận nghiên cứu kỹ rất kỹ mấy nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của Hồng quân. Rút kinh nghiệm mấy lần trước, các cố vấn Đức bày cho Tưởng đánh theo kiểu trận địa chiến. Chiếm được đâu lập trận địa kiên cố đến đó, có hỏa lực mạnh mẽ của pháo binh chi viện. Đồng thời thực hiện triệt để chính sách “tam quang” (đốt sạch, phá sạch, giết sạch). Cốt để phía bên kia (ý nói Hồng quân) phải húc đầu vào trận địa kiên cố, bị đại quân, đại pháo của họ nghiền nát. Nếu Hồng quân vẫn áp dụng cách đánh vừa du kích vừa vận động thì họ đã được những “vỏ áo giáp” che chở rồi.

Dựa vào nguồn tin chính xác của ông, tôi lập tức tìm cách truyền đạt lại kỹ càng cho Đảng bạn.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:03:28 am
*
*   *

Tháng 10 năm 1933, cuộc đại tiến công quy mô chưa từng có của Tưởng Giới Thạch vào khu Xô-viết trung ương ở ranh giới hai tỉnh Phúc Kiến và Giang Tây bắt đầu. Đích thân Tưởng Giới Thạch và viên thượng tướng Xiêc-tơ (Seekt), cố vấn người Đức trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Phần lớn cơ quan bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng xoay quanh phục vụ. Chiến cuộc không ào ào như sóng dâng, lửa cháy mà thận trọng từng bước. Báo chí công khai, các bản tin mật cũng nói với một mức độ thận trọng vừa phải so với quy mô tầm vóc của nó. Cuộc chiến kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 9 năm sau. Giữa chừng, Tưởng Giới Thạch phải tạm ngừng tiến công do có sự nổi dậy của quân đoàn 19 của Thái Đình Khải ở Phúc Kiến chống lại Tưởng. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân đã bỏ lỡ cơ hội này.

Một năm trời ông Hồ Học Lãm bận túi bụi. Ông phải điều hành công tác hậu cần chiến dịch đòi hỏi ngày càng lớn “càng cấp bách theo quân lệnh”. Nhìn lại việc đánh trả của Hồng quân, nhiều lúc ông phát bực nói với tôi:

- Không hiểu làm sao lúng túng bị động đến thế? Nó đã thay đổi cách đánh rồi mà mình thì cứ khư khư đánh theo lối cũ. Anh hãy giải mã mật điện này rồi tìm cách chuyển ngay cho Hồng quân.

Thời gian này, tôi cũng bị xoay như chong chóng, hết đi lại về gặp các đầu mối liên lạc. Địa điểm gặp nhau từng lúc lại phải thay đổi, cả nhân mối cũng vậy. Sau Toàn Phong lại đến người khác.

Hồng quân theo nguyên tắc chỉ đạo tác chiến cũ, lúc đầu định nhử địch vào sâu mới đánh. Mặc dầu trước đó đã có nhiều ý kiến bàn luận nên chủ động đánh địch từ phía ngoài khu căn cứ. Giữa chừng mới thay đổi. Mở cuộc phản công lớn vào khu trắng (khu Quốc dân đảng) tức vào hậu phương chiến dịch của địch.

- Muộn quá rồi - Ông Hồ Học Lãm được tin, đập tay xuống bàn - Đánh vào khu trắng ở phía bắc Lệ Xuyên - Ông chỉ vào bản đồ - gặp phòng tuyến kiên cố của địch, không thành công. Định phá cái cầu Tự Khê trên tuyến vận chuyển huyết mạch của Bạch quân, cũng không được. Gay go đấy.

Những tin tức tiếp sau về hoạt động của Hồng quân cũng không làm cho mọi người phấn chấn lên chút nào. Hồng quân từ khu trắng ở vòng ngoài chuyển dịch vào tuyến giữa. Ở đâu cũng vấp phải tuyến chiến hào kiên cố của chúng.

Dần dà diễn biến chiến đấu giảm dần tốc độ và cường độ, có lợi cho Tưởng Giới Thạch. Ông Hồ Học Lãm chỉ còn một cách ngầm chi viện cho Hồng quân là trì hoãn hay làm chậm được giờ nào hay giờ ấy công tác tiếp tế hậu cần. Tôi đi gặp người của Đảng bạn cũng không còn nhiều nội dung để trao đổi thông tin nữa. Một sự lo lắng bao trùm.

Cho đến ngày được tin đích xác là toàn bộ các lực lượng vũ trang của Hồng quân và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phải bỏ các khu căn cứ với hàng mấy chục triệu dân, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh theo hướng lên Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Cam Túc, từ bộ tổng tham mưu về, ông Hồ Học Lãm liền gieo mình xuống ghế, ngồi lặng hồi lâu. Tôi ngồi bên cạnh ông, như ngồi trên đống lửa.

- Lẽ ra thì đâu đến nỗi như thế này. Mất hết đất mất hết dân! Nói xong ông đứng dậy. chậm chậm đi vào phòng của mình, khép chặt cửa lại.

Chưa bao giờ tôi thấy trong lòng trống rỗng vô hạn như lúc đó.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:04:11 am
*
*   *

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồng quân Trung Hoa đã bỏ lại toàn bộ các khu căn cứ và hàng chục triệu dân ở mấy tỉnh phía Nam Trung Quốc để rút lui. Trạm liên lạc bí mật giữa Đảng bạn và tôi cũng không còn nữa. Tôi cảm thấy hẫng hẳn đi, chưa biết nên tiếp tục nhiệm vụ mà đồng chí Lý Thụy giao phó như thế nào.

Cùng thời gian này, đồng chí Hà Huy Tập, sau đó là đồng chí Lê Hồng Phong từ Liên Xô đã lần lượt về qua Trung Quốc. Được sự gợi ý của Quốc tế cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong với cương vị Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Quốc tế cộng sản đứng ra thành lập Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương tạm thời làm chức năng của một Ban chấp hành Trung ương, lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong thời gian chờ đợi Đại hội của Đảng họp bầu ra một Ban chấp hành Trung ương mới.

Đến nơi hẹn, tôi được gặp lại đồng chí Lê Hồng Phong, người chú trong gia đình, người đồng chí, người lãnh đạo cấp cao của tổ chức ta lúc đó. Mừng vui khôn tả. Kể từ ngày hai chú cháu bí mật rời quê hương ra đi, thấm thoắt đã trên mười năm. Tôi không còn là một thiếu niên 16. 17 nữa. Còn đồng chí Lê Hồng Phong nay cũng đã ở cương vị một trong những đồng chí lãnh đạo xuất sắc của giai cấp công nhân, của Đảng ta. Cả đêm hôm đó. chúng tôi ngồi bên nhau hàn huyên tâm sự về quê hương đất nước, về phong trào cách mạng chung trên thế giới, về cách mạng Việt Nam và Đông Dương. Qua chuyện trò. tôi cũng sáng ra được nhiều vấn đề. Đồng chí hỏi tôi về tình hình công việc trong hàng ngũ đối phương như thế nào? Tôi lưỡng lự, có nên nói rõ cho đồng chí biết không. Nhớ lại lời căn dặn của đồng chí Lý Thụy: “Chỉ có tôi với chú biết thôi” nên tôi phải nói lảng sang nhiều điều day dứt nội tâm, phần vì bị anh em bạn bè hiểu lầm, phần phải sống đơn phương giữa một bọn thù địch, hàng ngày phải nghe bọn chúng lăng mạ cộng sản, luôn mồm đe dọa tiêu diệt bọn đỏ khát máu... Dường như thông cảm, nhiều lần, Lê Hồng Phong bóp chặt tay tôi, tìm lời động viên khích lệ:

- Lúc đầu, tôi có dự kiến đưa anh vào Ban lãnh đạo hải ngoại, nhưng gặp anh mới rõ công việc của anh đã quá nặng nề phức tạp rồi.

Tôi vội ngắt lời đồng chí, vì không ghìm nén được:

- Cám ơn chú. May mà được chú hiểu cho công việc của cháu. Với công việc hiện tại, cháu tự thấy không thể kiêm nhiệm được việc gì. Chỉ mong làm tốt công việc đồng chí Lý Thụy giao cho. không để xảy ra sơ suất.

Sau lần gặp đó ít lâu, tôi được tin đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII. Trong số đại biểu có chị Nguyễn Thị Minh Khai.

Tháng 3 năm 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất 1 của Đảng ta được tổ chức tại Ma Cao, Trung Quốc. Tôi 1 nhận được giấy triệu tập. Về đến nơi thì Đại hội đã bế mạc. Nhưng tôi được gặp đồng chí Tổng bí thư Hà Huy Tập và được nghe phổ biến Nghị quyết của Đại hội, lòng vui như được trở về với gia đình cộng sản Việt Nam, nhất là khi được tin đồng chí Nguyễn Ái Quốc vẫn mạnh khỏe và cũng tham dự Đại hội VII của Quốc tế cộng sản.

Cũng trong thời gian này, tôi được đồng chí Mạnh Văn Liễu (Phùng Chí Kiên) thay mặt Ban lãnh đạo hải ngoại gặp tôi giao cho một nhiệm vụ đột xuất là theo dõi Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ - đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng cũ vừa từ Côn Minh (thủ phủ Vân Nam) lên Nam Kinh, xem họ có âm mưu gì thì phải kịp thời đấu tranh ngăn chặn. Anh nói giọng không vui: - Người mình với người mình trên đất nước người, cố gắng lôi kéo, phân hóa, cảm hóa họ, chí ít cũng vô hiệu hóa. Anh dặn tiếp: Việc này rất cần đến sự đồng tình nhất trí ủng hộ của ông Hồ Học Lãm.

Lâu nay, đã quen với công việc trong quân đội, mệnh lệnh là mệnh lệnh. Địch thủ phần lớn là bọn đặc vụ Quốc dân đảng, bọn mật thám Pháp, Anh, Nhật. Lần này, một dạng công tác khác nên cách làm cũng phải khác. Vừa lúc ông Hồ Học Lãm đưa cho tôi một lá thư của một người Việt Nam đến Nam Kinh bị bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch bắt giữ, nhờ ông Hồ Học Lãm bảo lãnh. Xem thư thì hóa ra là đồng chí Đông A, người của tổ chức ta phái đến cộng tác với tôi. Ngoài đồng chí Đông A, tổ chức còn phái thêm một vài đồng chí khác nữa.

Qua tìm hiểu, tôi càng rõ Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ... là một bọn đầu cơ chính trị, giả danh cách mạng. Chúng đã phản lại đường lối của Việt Nam Quốc dân đảng hồi còn các lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu, hệt như Tưởng Giới Thạch đã phản lại đường lối Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn.

Sau cuộc bạo động của Việt Nam Quốc dân đảng tháng 2 năm 1930 bị thất bại, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và đồng bọn chạy trốn sang Côn Minh, làm những việc xằng bậy. Gần đây chúng bị tướng Long Vân, tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam trục xuất, bèn chạy lên Nam Kinh, định lôi kéo Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công... khôi phục lại Việt Nam Quốc dân đảng theo đường lối Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên. Và tất nhiên để cầu xin sự giúp đỡ của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Trong đội ngũ Quốc dân đảng Trung Hoa lúc đó, không thiếu gì kẻ đang ôm ấp một ý đồ thâm hiểm sau này đối với đất nước Việt Nam.

Trao đổi trong tổ công tác, tôi phát biểu là ta có mặt ở đây mà không làm, để nó làm xong trước, nhất định nó sẽ tố cáo tổ chức của ta với Quốc dân đảng, sẽ tai hại vô cùng. Bàn đi tính lại, tổ công tác nhất trí dùng hình thức lập một mặt trận lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh Hội có tôn chỉ, mục đích hoạt động là: chống đế quốc Pháp, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, lôi kéo chúng vào nhưng ta phải nắm quyền lãnh đạo. Tổ công tác phân công cho tôi về vận động ông Hồ Học Lãm, với uy tín chính trị của mình, sẽ làm Chủ tịch Mặt trận. Ông Hồ Học Lãm sẽ thuyết phục Nguyễn Hải Thần. Tôi trực tiếp đến gặp Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ. Số anh em khác sẽ đi vận động một số nhân sĩ Việt Nam, bà con Việt kiều và một số nhân sĩ Trung Quốc khác ủng hộ việc thành lập Mặt trận.

- Từ trước tôi đã nói với anh, việc gì có lợi cho dân cho nước là tôi làm, làm với hết sức mình - Ông Hồ Học Lãm vui vẻ nói với tôi như vậy. Và ông đi gặp Nguyễn Hải Thần ngay tức khắc.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:05:17 am
*
*   *

Vũ Hồng Khanh khệ nệ từ trong buồng bước ra, mời tôi ngồi vào bộ tràng kỷ kê ở giữa nhà. Nhà này là của một người Trung Quốc. Trên tường chỗ nào cũng thấy có bàn thờ, dán giấy đỏ. Thờ quỷ thần, thờ ma xó. Vũ Hồng Khanh chẳng khác gì một anh Tàu nghiện, ngực đậm đậm, nước da nhờn nhợt vì nghiện hút. Từ trong góc nhà tối tối, mùi thuốc phiện thơm lừng. Nghiêm Kế Tổ chưa dứt nổi khỏi bàn đèn thuốc phiện nên ra sau. Với bộ quân phục sĩ quan thường dùng, không đeo phù hiệu, quân hàm, tôi trao đổi câu chuyện một cách chậm chạp, ý tứ. Đến khi hiểu được mục đích của tôi đến đây, Vũ Hồng Khanh chồm lên ngay:

- Không được. Không được. Chúng tôi với các ông mục đích, tôn chỉ khác hẳn nhau. Không thể đồng sàng đồng mộng được. Chúng tôi lúc nào cũng vậy: quốc gia trước, quốc tế sau. Ta nói chuyện đến đây là đủ.

Tôi cố nén bực dọc, nói:

- Các ông bảo quốc gia độc lập trước đã. Dân nước nghe các ông, hy sinh tất cả, đánh Tây giành lại độc lập. Độc lập rồi các ông có định nghĩ gì đến họ không? Liệu còn có những kẻ ngồi không ăn bám giàu nứt đố đổ vách, còn những người quần quật suốt năm vẫn bị bóc lột, bòn rút xớ xác không? Có còn những đặc quyền, đặc lợi cho một số ít kẻ bất tài, xu nịnh ăn trên ngồi trốc không? Người dân có được hưởng mọi quyền tự do dân chủ, no cơm ấm áo không? Hay vẫn bị khóa mồm khóa miệng, thằng còng làm cho thằng ngay ăn? Trăm thứ tội, nghìn nỗi bất công đổ xuống đầu người dân. Quốc gia độc lập như thế thì độc lập còn có ý nghĩa gì? Yêu cầu ông nói lại cho rõ nội dung quốc gia độc lập như các ông thường nói như thế nào?

Vũ Hồng Khanh ú ớ, nói nhăng nói cuội một lúc. Cuối cùng hắn đánh trống lảng, nói:

- Thôi ông anh đi, ta hãy nói đến việc đánh Tây giành lại độc lập trước đã.

- Ai đánh? Một dúm người ở đây đánh được hay sao?

- Tất nhiên một dúm người thì không thể làm được nhưng ta còn rất nhiều người bạn tốt sẵn sàng giúp đỡ ta.

Biết là hắn sắp sửa nói gì, tôi cố nén ngồi nghe. Quả nhiên hắn nói nhiều đến sự giúp đỡ của các “nhân sĩ cao cấp” trong Quốc dân đảng Trung Hoa. Hắn còn định ba hoa khoác lác nữa thì Nghiêm Kế Tổ từ buồng trong bước ra. Người hắn còn ám khói thuốc phiện. Vũ Hồng Khanh chỉ là một tên du côn, võ biền. Nhưng Nghiêm Kế Tổ rõ ràng là một con cáo già thâm hiểm. Hắn tỏ vẻ cung kính rạp lưng xuống khi bắt tay tôi. Hắn thét người nhà pha ấm chè ngon nhất và mang rượu Mai Quế Lộ ra. Một điều, hai điều hắn đều gọi tôi là tiên sinh: Tiên sinh dùng trà; Xin nâng cốc chúc sức khỏe của tiên sinh; Chúc sự hội ngộ hôm nay... Tôi thấy lợm giọng nhưng bên ngoài cũng tỏ ra sành sỏi lịch lãm như ai. Câu chuyện xoay quanh cái thú uống các thứ rượu ngon trên đời. Hắn dò hỏi cả mánh khóe áp phe lớn ở đây. Cả hai tên đều há to miệng lên nghe tôi nói về những điều mà chúng đang rất muốn biết - Nhưng tôi lại đây gặp các ông không phải vì những việc này mà muốn hai ông cho biết ý định của các ông sắp tới định làm gì ở đây? Người cầm đầu và thực lực có bao nhiêu, ở đâu, như thế nào? Tôi nhấn mạnh - Để chúng ta hiệp lực chung trong một mặt trận thống nhất đánh Pháp giành độc lập, hạnh phúc cho dân, cho nước.

Nghiêm Kế Tổ giọng vẫn ngọt xớt như mía lùi, nói còn phải xin chỉ thị của cấp trên và của các liên minh khác.

- Các ông định nói liên minh với ông Tú Đại Từ (tức Nguyễn Hải Thần, tôi dùng cách gọi Nguyễn Hải Thần của bọn chúng) phải không? Ông ta đã nhận lời với một vị nhân sĩ người Việt Nam ta rất có uy tín trong chính giới Trung Hoa, kể cả Tưởng ủy viên trưởng tham gia Mặt trận đó rồi. Còn các ông, các ông không thể quay về Côn Minh được đâu. Nhà đương cục Vân Nam đang ra lệnh truy lùng các ông. Mọi việc chúng tôi đều biết cả.

Vũ Hồng Khanh ỉu xìu như gà bị cắt tiết. Còn Nghiêm Kế Tổ lặng đi một lúc nhưng vẫn cố lên gân nói: Muốn sao, việc hợp tác với các ông chúng tôi còn phải bàn trong “Hội” đã. Sẽ sớm trả lời ông.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:06:10 am
Tôi cố lấy giọng ôn tồn:

- Hợp tác với chúng tôi, các ông được lợi nhiều. Chúng ta là những người dân mất nước, sống ở nước ngoài chỉ có con đường thành thật hợp tác với nhau mới làm nên chuyện.

Thấy tôi đã dịu giọng, Nghiêm Kế Tổ lại giở giọng giả tỉnh, giả say nói:

- Tiên sinh đáo để lắm. Quốc gia hay cộng sản đấy?

Đến lượt tôi cũng nửa đùa nửa thật:

- Các ông định hóa tôi từ một sĩ quan của Tưởng ủy viên trưởng thành một người cộng sản? Hay lắm. Xin mời các ông cứ việc giữ ý nghĩ đó. Tôi dằn từng tiếng: Tôi sẵn sàng trở thành người cùng đứng với các ông trong một Mặt trận thống nhất, hoặc thành một đối thủ lợi hại của các ông. Các ông muốn đằng nào cũng được. Nhưng khôn ngoan thì chọn con đường hợp tác.

Ông Hồ Học Lãm đến gặp Nguyễn Hải Thần cũng đạt kết quả. Từ ngày cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt đưa về nước, Nguyễn Hải Thần tự phong cho mình là lãnh tụ Việt Nam quang phục Hội. Nhưng gặp những người như ông Hồ Học Lãm thì không dám ho he lấy nửa câu. Được ông Hồ Học Lãm đến nhà, Nguyễn Hải Thần tỏ ra rất phấn khởi. Rồi khi nghe ông Hồ Học Lãm nói về thành lập một Mặt trận, có cả ông Hồ Học Lãm tham gia, Nguyễn Hải Thần vì lợi ích riêng của bản thân liền đồng ý ngay.

Hôm tổ chức Đại hội thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội, có đông đủ đại biểu các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc, đại diện của Trung ương Quốc dân đảng Trung Hoa, của đương cục Trung Quốc, ông Hồ Học Lãm được bầu làm Chủ tịch Mặt trận. Tôi và Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (hai tên này cũng buộc phải nhận tham gia) và một vài đồng chí khác của ta được bầu làm ủy viên Ban chấp hành. Về tài chính, đương cục Trung Quốc nhận mỗi tháng giúp vài trăm đồng. Mặt trận quyết định hàng tháng ra một tờ báo lấy tên là Việt Thanh.

Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng ta đánh giá cao việc này. Một công hai việc: vừa hợp pháp hóa được tổ chức cách mạng của ta đối với đương cục Trung Quốc và ngăn chặn được âm mưu phản cách mạng của bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ...

Do báo chí công khai ở Nam Kinh có đăng tin về việc này nên ở Mạc Tư Khoa, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nắm được. Và Quốc tế cộng sản cũng biết qua tin tức. Lúc đó là những năm 1935 - 1936. Trước nguy cơ chiến tranh thế giới lan rộng, Quốc tế cộng sản có chủ trương thành lập một mặt trận chống chiến tranh đế quốc bảo vệ hòa bình rộng rãi ở khắp các nước. Việt Nam đã tổ chức được một Mặt trận. Phải chăng theo phương hướng nói trên? Đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau khi đã được báo cáo đầy đủ liền chỉ thị cho Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng ta: Mặt trận là phải có cơ phong trào ở trong nước. Do đó Mặt trận không thể tồn tại và phát triển được ở ngoài nước.

Chấp hành chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Ban lãnh đạo hải ngoại, tôi về báo cáo lại với ông Hồ Học Lãm. Hai bác cháu đều nhất trí: không tuyên bố giải tán nó, nhưng cũng không hoạt động gì thêm nữa, cứ để nó đấy, sau này lúc nào cần sẽ dựng nó dậy.

Bị chặn đứng bàn tay phá hoại ở Nam Kinh, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và đồng bọn đã nhanh chóng tìm đường lén lút trốn về Vân Nam, còn một số anh em khác thì theo ta.

Anh Lê Hồng Phong từ Mạc Tư Khoa về tới Trung Quốc. Gặp anh Lê Hồng Phong lần này, tôi nắm thêm được tình hình nhiều mặt của thời cuộc: Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha, việc hò hét chiến tranh chia lại thị trường thế giới của phát xít Đức. Trục Béc-lin - Rô-ma - Tô-ki-ô hình thành. Quân phiệt Nhật chuẩn bị mở rộng chiến tranh xâm lược lớn Trung Quốc. Cuộc đấu tranh của các đảng của giai cấp công nhân ở các nước châu Âu chống nguy cơ chiến tranh thế giới mới. Thắng lợi của Liên Xô trên mặt trận kinh tế, ngoại giao và củng cố quốc phòng. Mặt trận Bình dân giành thắng lợi ở Pháp và ảnh hưởng của nó tới phong trào cách mạng ở Đông Dương v.v...

- Lẽ ra lần trước tôi đã chuẩn bị về nước hoạt động - Anh Lê Hồng Phong nói - Nhưng vì có giấy triệu tập họp Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII nên không về được. Chị Minh Khai, anh Hoàng Văn Noọn còn ở lại học tiếp ở Đại học Phương Đông. Học xong cũng sẽ về cả, vì ở ta lúc này đang rất thiếu cán bộ.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:06:45 am
Với niềm phấn khởi, hào hứng, anh nói về tình hình chính trị ở nước Pháp: Tháng 2 năm 1934, Đảng cộng sản Pháp thành lập Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân, đẩy lùi đợt tiến công đầu tiên của các thế lực phát xít Đờ-la Rốc (De la Roque), tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ, bảo vệ hòa bình, ngăn chặn chiến tranh. Thắng lợi của Đảng cộng sản Pháp gợi cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý giá để đẩy phong trào lên khi thời cơ đến. Anh còn nói anh đã nghiên cứu rất kỹ, muốn tôi cùng về nước hoạt động với anh lần này.

Nghe Lê Hồng Phong nói, tôi tần ngần hồi lâu. Thấy vậy, anh liền hỏi một cách ý tứ:

- Hình như đồng chí Nguyễn Ái Quốc có giao cho anh nhiệm vụ gì đặc biệt ở đây thì phải?

Tôi đành nói ra một phần nhiệm vụ quốc tế mà đồng chí Lý Thụy đã giao cho tôi.

- Đồng chí Lý Thụy giao riêng việc này cho mình anh hay còn người nào khác nữa?

- Quả thật điều này tôi không được biết. Chắc chỉ một mình tôi thôi.

Anh Lê Hồng Phong nói tiếp: Nếu vậy, anh chưa thể về nước được. Hãy ở lại tiếp tục nhiệm vụ của đồng chí Lý Thụy đã trao. Ngừng giây lát, anh hỏi tôi còn liên lạc được với các đồng chí Trung Quốc không, sắp tới định làm gì?

Từ một năm nay, tôi chỉ được biết tin tức cuộc rút lui lên phía Tây Bắc của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Hoa qua các bản báo cáo gửi về bộ tổng tham mưu Tưởng Giới Thạch do ông Hồ Học Lãm nói lai. Gần đây, theo báo cáo tổng hợp cuối cùng thì “quân Cộng sản” đã tới Báo An và Diên An thuộc tỉnh Thiểm Tây. Cứ theo như báo cáo này thì “quân Cộng sản” đã mười phần chết chín, đợi ngày tan rã. Được tin này cả ông Hồ Học Lãm và tôi đều xót xa vô cùng. Tôi ra sức đi bắt nối liên lạc nhưng vô hiệu. Vì thế gần đây tôi đã quyết định xin về một binh đoàn vận tải cơ giới của Tưởng Giới Thạch để có điều kiện đi theo các đoàn xe hậu cần tiếp tế cho quân khu Thanh Hải của Tưởng. Tôi hy vọng rằng ở những vùng như Sơn Tây, Thiểm Tây có nhiều chỗ khu trắng và khu đỏ xen kẽ với nhau, đến đó sẽ tìm ra manh mối liên lạc.

Sau khi nghe tôi trình bày, đồng chí Lê Hồng Phong hoàn toàn tán thành.

Hôm đó, tôi ngồi nán lại bên anh rất lâu. Tình đồng chí, đồng hương, tình chú cháu trong nhà càng gắn bó hai chúng tôi nơi đất khách quê người. Hôm ấy, Lê Hồng Phong cho tôi biết thêm một chuyện riêng tư. Đó là chuyện đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu và làm chủ hôn ngày cưới của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai tại Mạc Tư Khoa, sau khi bế mạc Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII. Khi chia tay, tôi dặn:
 
- Chú về nước lần này có dịp ghé qua quê nhờ chú xem hộ thày mẹ và các em cháu ra sao. Nếu gặp được thày mẹ cháu, nhờ chú nói hộ cho là cháu vẫn bình an khỏe mạnh, làm đúng những điều thày mẹ cháu thường dạy bảo trước đây. Và cháu không làm một điều gì tổn hại đến thanh danh gia đình, làng nước.

Chúng tôi đưa tiễn nhau một đoạn đường dài hẹn gặp nhau trên mảnh đất thân thương của Tổ quốc. Tôi không ngờ buổi tạm biệt hôm đó lại là buổi vĩnh biệt người đồng chí, người chú của mình.

Hệt như ngày 18 tháng 9 năm 1931 khi cho phá chiếc cầu sắt xe lửa cách Phụng Thiên vài ki-lô-mét để lấy lý do đánh chiếm miền Đông Bắc (tức xứ Mãn Châu), ngày 27 tháng 7 năm 1937, đế quốc Nhật lại bịa ra vụ Lư cầu kiều để có có mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược quy mô tới miền Trung và miền Nam Trung Quốc. Lần trước, chỉ trong hai tháng, chúng đã chiếm được một triệu ki-lô-mét vuông với số dân trên ba chục triệu. Do chính sách đầu hàng của Tưởng Giới Thạch, quân phiệt Nhật càng lấn tới. Tháng 1 năm 1933, chúng ngang nhiên đánh chiếm Nội Mông, Nhiệt Hà, vượt qua Vạn lý trường thành, uy hiếp thủ đô Bắc Kinh và miền Bắc Trung Hoa. Lần này, cũng chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã đánh chiếm xong Thượng Hải, Nam Kinh, Từ Châu, Vũ Hán. Quan quân của Tưởng Giới Thạch bỏ đất, bỏ dân chạy tan tác. Nhân dân Trung Quốc ở các tỉnh lưu vực sông Dương Tử, một lần nữa, kể từ sau lần Nhật đánh Thượng Hải tháng 1 năm 1932, hầu như chẳng được chính quyền Tưởng Giới Thạch chuẩn bị cho chút gì trước khi nổ ra chiến tranh. Lai diễn ra cảnh chết chóc, tàn phá, cửa nhà li tán, mẹ lìa con vợ lìa chồng. Dòng người chạy loạn vô tổ chức chết như ngả rạ vì đói rét, bệnh tật, cướp bóc và bom đạn của máy bay Nhật. Tôi được nhìn tận mắt bao cảnh đau lòng xót xa, nên càng thấy rõ sự man rợ đến cùng cực của đội quân xâm lược đối với các dân tộc yếu kém hơn chúng về kỹ thuật quân sự. Ở Bạng Phụ, một vùng đông dân, bất ngờ bị giặc Nhật tràn đến, nhiều cảnh đàn áp, tàn sát dân lành vô tội đã diễn ra...


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:07:09 am
Sau khi mất Nam Kinh, chính quyền Tưởng Giới Thạch rời đô, về Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, ông Hồ Học Lãm buộc phải theo bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng về Trùng Khánh. Lúc đó tôi đang công tác tại Binh đoàn vận tải số 2 hoạt động ở miền Trung Trung Quốc. Cái tên Trùng Khánh gợi cho tôi câu chuyện Đường Tăng ngày xưa lặn lội lên tận Tây Trúc để học đạo mà dọc đường biết bao lần ma đưa lối, quỷ dẫn đường. Trùng Khánh ngày nay không có đường xe lửa nối với các tỉnh miền đồng bằng, nên Binh đoàn vận tải số 2 với gần hai vạn (biên chế có bảy nghìn chiếc, còn trưng dụng xe của tư nhân trên một vạn chiếc), có nhiệm vụ trước mắt phục vụ cho việc dời đô của Tưởng Giới Thạch về Trùng Khánh, sau đó là bảo đảm việc tiếp tế hậu cần.

Tôi làm việc ở các cung trạm khúc giữa tại các tỉnh Giang Tây, Hồ Nam và một phần Quý Châu, nên có nhiều dịp nắm được các điểm bố trí kho tàng quân sự, các nhà máy phục vụ quốc phòng của Tưởng Giới Thạch. Với lý do cần mở thêm một số cung, trạm dự bị khác, để đi sâu vào các “khu đỏ” - căn cứ cũ của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc và Bát lộ quân ở Thụy Kim, núi Tỉnh Cương và ở Hồ Nam, tôi có dịp quan sát và không khỏi ngạc nhiên khi thấy cả một vùng đất rộng bao la của các khu Xô-viết cũ, nay đã biến thành những khu vực hoang dã, điêu tàn. Rêu phong cỏ dại mọc bên những bức tường cũ. Vườn tược xác xơ. Ruộng bãi thành đồng cỏ dại. Từng đám xương người, xương súc vật; những cột nhà cháy khẳng khiu, mốc đen trong sương gió. Trong tiểu đoàn 2 (thuộc Binh đoàn vận tải số 2) do tôi chỉ huy, không thiếu những sĩ quan và hạ sĩ quan trước đã tham gia các cuộc vây quét của Tưởng Giới Thạch vào các khu căn cứ Xô-viết những năm 1930, 1934. Họ là những nhân chứng sống, sẵn sàng kể lại cho tôi nghe những giờ phút “yêng hùng” của họ khi tiến vào khu Xô-viết. Bắn giết, đốt phá, cướp bóc, hãm hiếp... Bọn chúng tự tố giác lẫn nhau. Có tên, một buổi sáng trong cơn say, chém giết hàng chục mạng người. Có tên tự tay thiêu đốt cả một góc xóm. Bọn lính cướp đi từ cái quần phụ nữ đến đôi giày vải của trẻ em. Nghe bọn chúng kể tôi đau đớn, lặng thầm. Thì ra bản chất của quân đội Nhật Bản đế quốc và đội quân Quốc dân đảng phản động giống nhau như lột.

Một hôm, trong cuộc đi khảo sát tìm địa điểm đặt kho tàng bí mật, tôi đi sâu vào chân núi Tỉnh Cương, căn cứ cũ của Hồng quân Trung Hoa ở giáp hai tỉnh Giang Tây và Hồ Nam. Chiếc xe chỉ huy của tôi bị hỏng hóc dọc đường. Tôi có cớ lững thững đi bộ qua mấy quả đồi rộng. Có lẽ lâu lắm rồi tôi mới có dịp tiếp xúc với vào một căn nhà nát hai gian, vách đất. Quang cảnh vườn tược từ tàu chuối, gốc ổi, cành cam đều gợi lại trong tôi hình ảnh quê hương đất nước. Bà chủ nhà nhìn thấy tôi trong bộ quân phục màu vàng nghệ bước tới khiếp đảm run cầm cập, mắt trước mắt sau tìm đường lẩn trốn. Tôi lên tiếng chào hỏi trước cho bà mẹ khốn khổ đó yên lòng. Trong nhà, ngoài cái phản ọp ẹp, mấy cái thúng trên quang treo, cái nồi con bắc trên bếp... chẳng có gì nữa. Chủ nhà vẫn lấm lét nhìn tôi, cúi gằm xuống khi phải trả lời những câu thăm hỏi của “quan lớn” đứng trước mặt. Nhưng rồi người mẹ đau khổ và từng trải đó đã sớm phát hiện ra ở tôi có cái gì đó không giống những sĩ quan bà đã gặp. Bà dịu giọng, rót bát nước loãng mời. Tôi uống liền một hơi và cảm ơn bà. Chiếc xe đã chữa xong, nhưng tôi quyết định nghỉ lại một đêm, hy vọng qua bà mẹ hiểu được thêm tình hình ở đây. Cả đêm tôi kiên trì ngồi nghe mẹ kể và hiểu ra rằng: sau cuộc khởi nghĩa Quảng Châu, bà và người con trai theo du kích đỏ chạy về khu Xô-viết. Dừng chân ở Phú Điền gần sông Cống Dương, rồi lại lùi về Tiểu Bố, Hưng Quốc. Cuối cùng, định cư tại Tần Á gần Thụy Kim. Con bà tên là Lừu, hoạt động trong nông hội đỏ. Mấy lần Bạch quân (quân Tưởng Giới Thạch) tràn đến, mười phần chắc chết cả mười, nhưng đều thoát nạn. Lần cuối cùng, Bạch quân đem binh mã đến thì Bát lộ quân bí mật rút đi, bỏ lại cơ man nào là du kích, cán bộ ốm đau, thương binh què cụt. Dân chúng chẳng một ai được biết trước để đi theo, đành phó thác mặc trời... Trừ một số ít chạy thoát lên núi, trong đó có mẹ con chú Lừu, tất cả những người còn lại đều bị chúng giết sạch, kể cả ông già, phụ nữ, trẻ em, thương binh, bệnh binh. Gần một năm sau, dân ly tán mới dám mò về thôn trang cũ. Ít lâu sau một đơn vị du kích đến bà con mừng rỡ, vét từng đấu thóc giống ra ủng hộ. Có tin Bạch quân sắp tràn tới, họ lại vội vàng rút lui, bỏ mặc dân làng. Từ đó về sau, hết toán này đến toán khác chẳng hiểu là thổ phỉ hay du kích, hạch sách đủ mọi thứ. Bọn này đi, bọn kia lại đến, hăm dọa khủng bố dân làng, chẳng còn tin ai được nữa.

- Thế chú Lừu hiện ở đâu hở cụ?

Bà mẹ đau khổ lại kể: Lừu mồ côi cha từ thuở nhỏ, sống với mẹ rất hiếu hạnh. Ở Tần Á, Thụy Kim không yên, Lừu bàn với mẹ tìm đến vùng núi Tỉnh Cương với một gia đình quen thuộc. Hai mẹ con đến chỗ ở mới, vừa khai hoang được một vạt ruộng, dựng xong căn nhà thì bọn Bạch quân đến bắt lính. Nghe nói, Lừu trốn thoát, chạy lên Diên An.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:08:31 am
*
*   *

Khoảng năm 1938, rộ lên phong trào thanh niên, trí thức bỏ khu trắng của Tưởng Giới Thạch lên Diên An.

Hồ Diệc Lan, con ông Hồ Học Lãm, học xong trung học, vào công tác ở một công ty nuôi tằm. Cùng một số đồng chí khác, Lan vận động công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Sau đó, cùng một số công nhân bỏ việc. Lúc đó tôi và Hồ Diệc Lan vừa kết hôn được vài tháng - Lan thôi việc là để hợp pháp việc đi học ở trường Thiểm Cơ của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc mở ở khu căn cứ Thiểm Cam Ninh. Cùng đi đợt đó có anh Cao Hồng Lĩnh.

Ở khu căn cứ hai năm, sinh hoạt quá thiếu thốn, gian khổ, sức khỏe giảm sút, Lan mắc bệnh lao phổi. Khoảng năm 1940 sau khi học xong, tổ chức có ý định đưa về Hà Nội hoạt động, làm một trong những đầu mối liên lạc của ta, nhưng bệnh đã phát triển nặng, Lan phải ở lại Trung Quốc chữa bệnh. Sau đó Lan qua đời, chưa qua một kỳ sinh nở...

Chiến tranh xâm lược của đế quốc Nhật đã đẩy Trung Quốc vào nguy cơ mất nước. Tưởng Giới Thạch chỉ đánh Nhật bằng mồm. Còn Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Hoa lúc này thì đánh bằng súng đạn thực sự. Là một cán bộ cao cấp, tôi được nghe phổ biến chỉ thị tối mật của Tưởng ủy viên trưởng. Tưởng vẫn coi Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bát lộ quân là kẻ thù số một, tranh thủ mọi cơ hội, bằng mọi biện pháp để tiêu hao, tiêu diệt. Giữa chừng, tôi nhận được lệnh thuyên chuyển về làm hiệu trưởng một trường huấn luyện đào tạo lái xe tăng, thiết giáp, xe vận tải và thợ sửa chữa các loại xe đó. Tôi coi đây là một cơ hội rất tốt đi sâu vào các binh chủng kỹ thuật, chuyên môn, nên say sưa học lái xe tăng, thiết giáp, các loại xe vận tải, nắm chắc nguyên lý cấu tạo, vận hành của nó. Tiếng đồn “Ngài hiệu trưởng” ngày đêm lăn lộn trên thao trường với binh lính khiến tôi càng thêm được cảm tình của đại bộ phận học viên và sĩ quan. Tôi muốn qua số anh em thợ sửa chữa và số học viên từ nhiều vùng khác nhau tới mà hy vọng bắt được liên lạc với cơ sở của Đảng cộng sản Trung Quốc. Trong số học viên kỹ thuật, có khá đông là Hoa kiều mới từ In-đô-nê-xi-a trở về Trung Quốc, xung phong vào quân đội Quốc dân đảng. Tôi ngạc nhiên tự hỏi: Liệu học xong, họ được đi đánh Nhật, hay lại bị xua đi đánh cộng sản đây?

Giữa khóa, nhà trường tổ chức một đợt hành quân dã ngoại trên một đoạn đường dài từ Hồ Nam tới Quý Châu. Xe cộ rầm rập chạy trên đường. Một hôm, từ sớm tinh mơ, tôi và một số sĩ quan giảng dạy đứng trên mô đất cao duyệt lại tình huống diễn tập trong ngày, nhìn thấy có nhiều xe ô tô hòm kính sang trọng chạy về Quý Dương, thủ phủ tỉnh Quý Châu. Lại cuộc đón rước phiền hà nào đây - tôi nghĩ vậy, nhưng vẫn ra lệnh cho đoàn xe hành tiến. Xe tăng, xe thiết giáp rầm rầm lăn xích trên đường. Gặp đoạn đường xấu, đoàn xe ùn lại, nghềnh ngàng. Vừa lúc đó đoàn xe ô tô sang trọng bon bon đi tới, vướng vào đội hình của chúng tôi. Một viên sĩ quan tùy tùng từ phía dưới hầm hầm chạy lên:

- Đại tá hiệu trưởng xuống gặp ngay Tưởng ủy viên trưởng.

À ra thế! Tôi nghĩ thầm, rồi thản nhiên bước đi. Những khuôn mặt phì nộn từ trong các xe hòm kính bị ùn lại nhăn nhăn, nhó nhó như muốn trút mọi bực dọc vào tôi. Tôi đàng hoàng bước tới chiếc xe hòm kính màu đen bóng lộn đỗ ở quãng giữa đoàn xe. Tưởng Giới Thạch xo ro trong bộ quân phục thống chế, đưa mắt nhìn tôi từ đầu tới chân. Y hơi gầy. Nghe nói y là nghiện thuốc phiện nặng nhưng do dùng nhiều sâm nhung nên cũng không đến nỗi nào.

- Không biết có ta đi qua đây hả?

- Báo cáo (đảng lẽ ra tôi phải báo cáo ủy viên trưởng) tôi không được thông báo gì cả.

- Tập cái gì?

- Báo cáo, tập hành quân đánh Nhật - Tôi dằn giọng vào hai tiếng đánh Nhật.

Trong lúc đó, người sĩ quan phụ tá của tôi đã điều chỉnh xong đội hình, lấy lối cho đoàn xe hòm đi. Tưởng Giới Thạch gườm gườm nhìn tôi. Viên sĩ quan hậu cần đóng sầm cửa xe. Xe lăn bánh rồi mất hút. Xong buổi tập, vừa về tới doanh trại, tôi đã nhận được điện thoại của thiếu tướng trực tiếp chỉ huy:

- Tôi vừa bị Trung Hoa đệ nhất kiệt (tức Tưởng Giới Thạch) xạc cho một trận đấy. Nếu được biết trước tôi sẽ ra lệnh hoãn tập.

- Báo cáo tướng quân, đoàn xe của ủy viên trưởng chỉ phải dừng lại chưa đầy mười lăm phút...

- Thôi được.

Bắt được mật thư của tổ chức ta ở Quảng Tây do ông Hồ Học Lãm chuyển tới, tôi xin nghỉ phép, đi ngay. Trên con đường về phương Nam. nhích dần tới biên giới Tổ quốc, tôi sống trong niềm vui thật sự. Tôi đã được gặp những đồng chí của mình: Phùng Chí Kiên, Cao Hồng Lĩnh, Hoàng Đình Rong và một vài đồng chí khác. Tôi càng phấn khởi khi được biết đồng chí Lý Thụy tức Nguyễn Ái Quốc vốn bặt tin tức từ lâu có địa chỉ liên lạc: Đồng chí Vương, biện sự xứ Bát lộ quân tại Trùng Khánh.   

Qua giới thiệu của anh Phùng Chí Kiên, tôi gặp người đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động bí mật ở mấy tỉnh miền Nam Trung Quốc bí danh là Lôi Chấn.

- Chúng tôi tìm đồng chí như thể tìm chim - Lôi Chấn nói. Còn tôi - tôi đáp: như hạn hán mong được mưa rào. Hai người cộng sản của hai dân tộc vừa làm việc vừa hàn huyên bên cạnh đống than hồng lò sưởi cho đến khuya...

Lần này theo yêu cầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tôi xin chuyển lên Hoa Bắc, công tác tại Binh đoàn vận tải số 1. So với miền Hoa Nam, Hoa Trung thì Hoa Bắc lúc đó là mặt trận sôi động, có phần ác liệt hơn. Vì ở đây cả đế quốc Nhật và bè lũ Tưởng Giới Thạch đều chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bát lộ quân. Binh đoàn vận tải số 1 chạy trên các tuyến đường phía Bắc. Về đây, tôi bắt liên lạc được với đồng chí Lục Quần, đại diện của Đảng bạn ở tỉnh Sơn Tây. Chúng tôi hiện giờ rất cần đến súng đạn - Lục Quần nói. Chỉ một giờ sau, với trí nhớ của mình, tôi đã trao cho người của Đảng bạn một bản sơ đồ vẽ tay đánh dấu vị trí bằng tọa độ hẳn hoi những kho vũ khí, quân dụng, quân nhu (kho chính, kho trung chuyển) của Quốc dân đảng ở hai tỉnh Sơn Tây, Hà Nam và một phần tỉnh Thiểm Tây - Các đồng chí nếu có cơ sở quần chúng tốt ở các vùng kể trên thì có thể dùng một đội võ trang tập kích bất ngờ là có thể lấy được rất nhiều vũ khí - Tôi góp ý kiến với Lục Quần.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:09:00 am
Binh đoàn vận tải số 1 còn có nhiệm vụ tiếp tế hậu cần cho các đơn vị Quốc dân đảng ở Quân khu Tây Bắc thuộc các tỉnh Cam Túc và Tân Cương. Đường vận chuyển rất gieo neo, hiểm trở. Đèo cao dốc đứng, phải qua nhiều sào huyệt của từng toán thổ phỉ hung dữ nổi tiếng từ nhiều năm nay. Thời bình, không một đoàn xe vận tải dân sự hay quân sự nào qua đây mà không bị chặn đánh, cướp bóc hay nộp tiền mãi lộ. Từ khi có chiến tranh, nhất thiết các đoàn xe tải đều phải có xe vũ trang đi hộ tống. Quân Quốc dân đảng cũng như Bát lộ quân đều ra sức tiễu phỉ, nhưng vẫn không sao dẹp yên được. Bọn thổ phỉ như yêu tinh bị chém đầu này mọc đầu khác. Chiến tranh mở rộng, chúng càng quấy nhiễu, cả khu đỏ lẫn khu trắng. Tiểu đoàn vận tải số 106 của binh đoàn vận tải số 1 mà tôi vừa đến là một đơn vị có thành tích, dày dạn kinh nghiệm. Nhưng tìm hiểu kỹ thì nó cũng là một tổ chức buôn lậu, áp phe lớn các mặt hàng vàng bạc, thuốc phiện, hàng cao cấp, hạ cấp... móc nối từ những tên chóp bu trong quân đội, chính quyền cho tới cấp cơ sở.

Trong số 8 đại đội trưởng của tiểu đoàn, mỗi người một tính một nết, một cách xoay sở, vun vén cá nhân nặng nhẹ, ma mãnh khác nhau. Có anh “vua bảo mạng”, dọc đường bị thổ phỉ chặn đánh là bỏ hàng hóa lại, chạy thoát thân. Tướng chạy tất nhiên là lính cũng bỏ chạy, chiến đấu làm gì, chết thiệt thân. Có anh ngổ ngáo, sau khi đánh lui thổ phỉ đem một phần hàng hóa vũ khí đạn dược bán lại cho bọn gian thương, địa chủ lãnh chúa địa phương. Ấy thế mà mọi thứ biên lai giấy tờ nơi xuất, nơi nhận đều rất đầy đủ nghiêm chỉnh Có trường hợp tẩy xóa nhưng làm rất khéo. Có cả những loại giấy tờ giả mạo nữa. Còn báo cáo về những sự cố mất mát ở dọc đường thì đủ mọi lý do, viện đủ bằng chứng và nhân chứng để gỡ tội. Tôi cũng bị hố với họ vài lần đầu. Sau có kinh nghiệm, tôi chỉ nhìn sắc thái nét mặt từng anh là đoán ra được. Có anh, tôi phải dùng đòn cân não đánh phủ đầu, nhưng cái chính mà tôi rút ra được là dựa vào số anh em binh sĩ tốt trong từng đơn vị. Thường tôi áp dụng hình thức giơ cao đánh khẽ, nghiêm khắc răn đe họ lần sau phải lập công chuộc tội, nếu không sẽ lập tòa án binh xét xử theo quân lệnh. Tôi lại không dính dáng gì đến việc áp phe kiếm chác của họ nên lời cảnh cáo của tôi rất có hiệu nghiệm. Tuy vậy để che mắt mọi người kể cả xấu tốt, đôi lúc tôi cũng nhận vài vật biếu xén có tính chất hối lộ của bọn họ, nói là để tặng người yêu.

Theo yêu cầu của tôi, Đảng. Cộng sản Trung Quốc gửi tới tiểu đoàn tôi vài sĩ quan, hạ sĩ quan (bỏ tiền ra mua chức sĩ quan) và một số binh sĩ (tân binh nhập ngũ). Những người này hoàn toàn không biết tôi là ai. Trong số 8 đại đội trưởng, có đại đội trưởng đại đội 3 Dương Tử Kiếm và đại đội trưởng đại đội 7 Trương Quang Minh là tiến bộ hơn cả. Họ thường tỏ vẻ bất bình với chủ trương “bất đề kháng” của Tưởng Giới Thạch và tán thành chủ trương Quốc - Cộng hợp tác trong Mặt trận dân tộc thống nhất kháng Nhật do Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra. Hai anh cũng xoay sở kiếm chác, nhưng còn chút liêm sỉ, giữ gìn nhân cách. Đối với hai anh này đôi lúc tôi tỏ vẻ thông cảm...

Tính ra chưa đầy 6 tháng, tôi đã bố trí được ba lần tiếp tế trên ba chục tấn súng đạn, dụng cụ quân sự, thuốc men cho Bát lộ quân. Một lần, cần giao cho Bát lộ quân hai chục tấn phương tiện thông tin gồm đủ cả máy điện thoại, tổng đài, dây điện và máy thông tin vô tuyến điện, tôi ủy nhiệm cho Dương Tử Kiếm, Trương Quang Minh đi làm. Có người của quân khu đóng giả sĩ quan Quốc dân đảng đến đúng địa điểm đã hẹn để nhận. Tuy vậy không phải lần nào cũng trót lọt. Có lần đến điểm hẹn, tôi cho đoàn xe dừng lại rồi phóng ô tô con lên trước đợi tín hiệu liên lạc, mãi chẳng thấy gì, lại phải cho lệnh đi tiếp. Cũng có lần thổ phỉ lại nhanh chân hơn người của mình, phải nổ súng đánh tan bọn chúng.

Tuy vậy, tôi vẫn phải hết sức cảnh giác đề phòng. Bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch có thể đã đánh hơi thấy việc làm của tôi. Cũng may là ở địa đầu Hoa Bắc này vừa rất xa Trung ương (Trùng Khánh) mà quân Nhật lại rất đông, mạnh, không phải là nơi làm ăn béo bở đối với bọn quan chức sâu mọt Quốc dân đảng, nên bọn chúng cũng ít lần mò lên đây. Nếu buộc phải lên kiểm tra xem xét thì chúng cũng chỉ làm quấy quá cho xong việc. Có lần, tôi đang chỉ huy đoàn xe tiếp tế trên đường thì có đoàn kiểm tra đột xuất đến, bắt dừng lại để kiểm tra, vặn vẹo điều này điều nọ. Cấp trên cũng lui tới sở chỉ huy của tôi luôn. Tôi càng phải thận trọng, biến báo trong suy nghĩ, nói năng và hành động.

Thời gian này thỉnh thoảng tôi cũng nhận được thư của ông Hồ Học Lãm ở Trùng Khánh và thư của anh Mạnh Văn Liễu gửi tới. Qua thư của anh Liễu cũng như thư gia đình kèm theo những tiếng lóng, tín hiệu, ký hiệu mật, tôi đoán biết các anh Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Hoàng Văn Noọn và chị Minh Khai đã về tới nơi, đem ánh sáng của đường lối Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII để bổ khuyết cho đường lối của Đại hội Ma Cao của Đảng ta cho phù hợp với nghị quyết của Đại hội Quốc tế cộng sản, và đề ra những chủ trương thích hợp với tình thế mới.

Tôi đọc thư, lòng vui như hội, cứ ngỡ là mình đang ở Bến Thủy, Vinh đón bố tôi từ trong nhà tù bước ra, vợ chồng con cái gặp nhau, hoặc đang ở Hà Nội, Sài Gòn công tác bên cạnh các đồng chí Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai...

Lúc này ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương: Quốc - Cộng hợp tác trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật từ cuối năm 1937, nhưng thực ra thì cả hai bên đều án binh bất động, cùng chơi con bài “tọa sơn quan hổ đấu”. Hổ Cộng sản đấu với hổ Nhật Bản cho tới lúc cả hai bên cùng mệt nhoài, sứt đầu mẻ trán, đến lúc đó, hổ Quốc dân đảng mới nhập cuộc, giành phần béo bở nhất... Tuy nhiên, lúc này mọi suy nghĩ của tôi đều phải tập trung vào việc tính toán để hạ quyết tâm làm một cú lớn, trao cho bạn một mặt hàng quý hiếm phần lớn là khí tài phương tiện quan trắc đo đạc và thông tin bộ đàm v.v... Chuyến đi này rất xa, gần tới địa phận miền Tân Cương hẻo lánh. Tôi dẫn đầu đoàn xe cùng với đại đội của Dương Tử Kiếm rồi Trương Quang Minh. Tôi dự tính sẽ trao hàng vào lúc xế chiều. Trên đường đi ba lần gặp thổ phỉ, phải chiến đấu mở đường. Hôm sau mới gặp người ra đón. Trao đổi đúng mật hiệu liên lạc.

Việc trao hàng đã được tiến hành rất nhanh chóng thuận lợi, đủ giấy tờ “hợp pháp”. Đoàn xe lập tức quay về. Tôi được khẩn khoản mời ở lại một lát để thủ trưởng quân khu gặp. Nhưng còn bụng dạ nào mà ngồi rốn lại “hiếu hỉ” với nhau được nữa.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:11:11 am
VI

TRỞ VỀ BÊN NGƯỜI

Ngọn lửa chiến tranh quy mô thế giới đã bùng cháy ở trung tâm châu Âu. Bằng chính sách phản động của mình, hai tên đế quốc già nua Anh và Pháp đã nhượng bộ, nhằm khuyến khích phát-xít Đức và Ý chĩa mũi nhọn về phía Liên Xô. Sau khi thôn tính nước Áo, chiếm miền Suy-đét của Tiệp Khắc, quân đội phát-xít đã tiến công đánh chiếm một nửa nước Ba Lan. Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến ngoài miệng với phát-xít Đức. Tại châu Á, trong nội bộ bọn quân phiệt Nhật Bản, phe Bắc tiến sau cuộc đọ sức với Hồng quân Liên Xô và quân đội nhân dân Mông Cổ bị thất bại ở dãy đồi Trương Cao Phong, đã phải lùi một bước. Phe Nam tiến thắng thế, đánh chiếm hầu hết các tỉnh ven biển của Trung Quốc và ráo riết chuẩn bị mở rộng chiến tranh, quy mô lớn trong khu vực Á châu. Báo chí công khai ở Trung Quốc và tin tức trong nội bộ quân đội lúc đó nói nhiều đến hai con đường vận chuyển vũ khí, trang bị cho Tưởng Giới Thạch là con đường từ cảng Hải Phong theo đường sắt đến tỉnh Vân Nam và con đường từ nước Diến Điện (nay là Miến Điện) vào nội địa Trung Quốc. Tôi vừa biên thư cho ông Hồ Học Lãm vừa đưa đơn lên bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng yêu cầu được thuyên chuyển về các đoàn xe ô tô vận tải chuyên chở vũ khí từ Vân Nam đi các nơi. Nhưng không được. Mãi tới lúc quân đội phát-xít Đức ào ạt tiến vào đất Pháp tôi mới nhận được thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - lúc đó lấy bí danh là Vương - do đồng chí Mạnh Văn Liễu - (tức Phùng Chí Kiên) chuyển tới, chỉ thị cho tôi rời bỏ quân đội Quốc dân đảng, tìm mọi cách về Quế Lâm (thủ phủ Quảng Tây) nhận nhiệm vụ mới. Quảng Tây ở sát biên giới của Tổ quốc, về đó có nghĩa là sắp đến ngày được về nước. Thế là sắp toại nguyện sau hơn mười năm mong đợi trông chờ. Mặt khác, đã đến lúc tôi cũng cần phải đi thoát khỏi nơi bọn đặc vụ Quốc dân đảng đang theo dõi. Vì thế, lòng mừng vui, bổi rối xen lẫn thật là khó tả.

Dương Tử Kiếm lúc này đã được cất nhắc lên làm cấp phó của đơn vị, chuẩn bị cho tôi một chuyến xe riêng chu đáo. Khi ra đi, anh nói với tôi:

- Tôi biết Đại hiệu (cách gọi một đại tá trong các sĩ quan Quốc dân đảng) ra đi lần này, không về với chúng tôi đâu.

Tôi thản nhiên đáp lại là việc thay đổi công tác là lẽ thường trong quân đội.

- Ở đây - Dương Tử Kiếm nói tiếp - có người biết việc Đại hiệu giao dịch với phía bên kia (ý nói Bát lộ quân).

Tôi nhìn thẳng vào Dương Tử Kiếm:

- Căn cứ vào đâu mà ông nói như vậy?

Dương Tử Kiếm rút trong túi áo ra tập giấy mỏng đưa cho tôi và nói tiếp.

- Thượng cấp cũng biết, nhưng...

Tôi lướt qua tập giấy. Đó là những bản lưu các mật điện tố giác tôi gửi lên trung tướng tư lệnh binh đoàn vận tải số 1 mà tôi đang công tác tại đó.

- Nhưng - Dương Tử Kiếm nói tiếp - Tôi được biết là tướng quân giữ thái độ trung lập.

- Sao lại trung lập?

- Nhiều lần đọc điện xong tướng quân chẳng nói gì. Mãi sau mới nói: Họ (ý nói Bát lộ quân) cũng là người Trung Quốc. Cho họ ít súng để họ đánh Nhật, chẳng sao cả.

Lúc tôi lên xe, chỉ có một mình Dương Tử Kiếm tiễn chân.

- Chúc Lê Đại hiệu thượng lộ bình an. Lê Đại hiệu cứ yên tâm. Lúc nào thượng cấp hỏi đến, tôi sẽ báo cáo là không rõ Đại hiệu đi đâu, chưa thấy về.

- Cảm tạ tấm lòng của Dương Trung hiệu (cách gọi Dương Tử Kiếm, lúc đó là trung tá). Xin tạm biệt. Mong có ngày gặp lại.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:11:42 am
Để tránh sự theo dõi, truy lùng của bọn đặc vụ, tôi phải tránh những con đường trục lớn từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam dài năm - sáu nghìn ki-lô-mét, lần theo những con đường vòng trên rẻo cao thuộc các tỉnh Hà Bắc, Thái Nguyên, Sơn Tây, Thiểm Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu để về Quảng Tây. Chiếc xe ô tô tải mà Dương Tử Kiếm bố trí đưa đi, sau một ngày đường, tôi liền cho xe quay lại. Người lái xe không khỏi ngạc nhiên vì đã được lệnh lĩnh đủ xăng dầu cho một chuyến đi xa hàng tháng trời. Ngày thường, người lái xe này vẫn có nhiều thiện cảm với tôi.

- Tôi biết Đại hiệu không phải dòng dõi người Hán. Anh lái xe nói, giọng rầu rầu - Đại hiệu là người ở phương Nam không chịu ở lâu trên phương Bắc này mà. Xin Đại hiệu cho tôi đi theo. Cùng trời cuối đất, tôi cũng xin đi...

Nhưng rồi chúng tôi vẫn phải chia tay nhau.

Cuộc hành trình trên nửa vạn cây số này được tiếp tục bằng mọi phương tiện: đi xe ô tô tư nhân, nhờ xe vận tải quân sự, xe bò, xe ngựa hoặc đi bộ tắt qua núi rừng. Qua nhiều vùng trắng, nhiều khu đỏ, nhiều vùng không có chính quyền trắng hay đỏ mà là “vương quốc” của thổ phỉ từ bao đời. Qua khu trắng, tôi dùng giấy công lệnh đặc biệt có chữ ký của Tưởng Giới Thạch và dấu son đỏ chót. Qua các khu đỏ tôi đã được đồng chí Lục Quần chuẩn bị cho một số giấy tờ cần thiết. Nhưng có lần qua một vùng đỏ thuộc huyện Vĩnh Lạc tỉnh Sơn Tây, bị mấy chiến sĩ du kích khám thấy trong gói hành lý có giấy tờ của Quốc dân đảng và phù hiệu, cấp hiệu đại tá tôi vẫn mang theo phòng khi cần đi nhờ xe ô tô vận tải quân sự của Tưởng Giới Thạch, tôi liền bị trói giật cánh khuỷu giải đến một đơn vị Bát lộ quân. Và ngươi ta đem tôi đi xử bắn cùng với một số người khác gọi là Hán gian.

- Trước khi bắn, cho tôi nói vài lời - Tôi khẩn khoản và kiên trì nói.

- Nói cái gì, đồ phản quốc.

- Thì cứ cho phép tôi nói một câu đã.

Cuối cùng, tôi được phép nói. Và sau khi nghe được mối quan hệ giữa tôi và đồng chí Lục Quần, kèm theo các giấy tờ có bút tích đồng chí, người cán bộ chỉ huy đơn vị Bát lộ quân tạm tha tội chết cho tôi. Và cho giải tôi lên cơ quan cấp trên. Sau một tuần bị giam, qua nhiều cấp xét hỏi thẩm vấn kỹ, tôi được gặp một đồng chí bí danh là đồng chí Châu. Thì ra đồng chí Châu là người của quân khu Tây ký sát, biết những việc tôi đã làm, nhờ đó tôi được trả tự do.

Trên đường đi tiếp, tôi bị ốm và khi lần mò được tới thành phố Tây An xinh đẹp và cổ kính thì sức lực trong người tôi hầu như bị kiệt. Tây An cách đây ba bốn năm xảy ra sự kiện: Trương Học Lương bắt cóc Tưởng Giới Thạch trao cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều người Trung Quốc lúc đó chờ đợi một sự trả thù của những người cộng sản. Ngược lại, những người cộng sản đã thuyết phục Trương Học Lương tha cho Tưởng Giới Thạch, buộc hắn phải hợp tác với những người cộng sản cùng đánh Nhật. Chủ trương này đã lấy lại uy tín cho Đảng Cộng sản Trung Quốc rất nhiều. Trong lúc ốm đau, tưởng như không tiếp tục cuộc hành trình được nữa thì tôi gặp một người bạn học cũ ở trường Hoàng Phố lúc đó là trung tướng Tăng Trọng Cơ. Trong mối quan hệ giữa người và người ở xã hội Trung Quốc thì mối quan hệ đồng hương, đồng họ, đồng khóa là quan trọng lắm. Sau khi nhận ra nhau, trung tướng mời tôi về bộ tư lệnh của mình, thuốc men chạy chữa chu đáo. Mười ngày sau, sức khỏe được phục hồi, trung tướng thu xếp cho tôi một chỗ trên máy bay quân sự đi Trùng Khánh.

Trùng Khánh, thủ đô kháng chiến của Tưởng Giới Thạch đến năm 1940 đã được xây dựng thêm, hình thành các khu hành chính, khu ngoại giao, khu quân sự...

Ấn tượng ban đầu của tôi là sự hoạt động khẩn trương nhộn nhịp vừa nổi vừa chìm của các cơ quan đại diện ngoại giao, quân sự, tình báo, gián điệp, kinh tế, thương mại của các nước đế quốc Mỹ, Anh và Pháp. Bọn Pháp có mặt ở đây để làm gì? Không ngoài mục đích để “cạy thày cạy thợ” bám chặt lấy các nước thuộc địa ở Đông Dương và vài nơi khác ở châu Á, Ấn Độ Dương. Đó là những tòa nhà đường hoàng chững chạc của tòa đại sứ Liên Xô, là trụ sở Biện sự xứ của Bát lộ quân. Hồi đó Trùng Khánh đã bắt đầu nếm mùi bom Nhật. Còi báo động hú vang rền rĩ. Lại diễn ra cảnh tượng như ở các nơi khác là trên trời từng đàn máy bay Nhật đến ném bom, dưới đất đông đặc những người dân thường nhốn nhác, chen chúc nhau xuống hầm trú ẩn, hoặc tỏa ra những bãi đất trống, phó thác số mệnh cho sự may rủi. Lố nhố những bộ mặt đầu cơ chiến tranh để làm giàu, bọn buôn quan buôn chức, bọn gián điệp, Hán gian đủ loại. Đến Biện sự xứ Bát lộ quân, tôi được biết cách đây không lâu, đồng chí Vương có ghé qua nơi này. Trong những ngày chờ đợi lấy vé xe ô tô đi Quý Dương, tình cờ tôi gặp lại người đại đội trưởng đại đội học sinh quan Hoàng Phố, lúc này đeo quân hàm thiếu tướng. Thiếu tướng mời tôi vào hiệu ăn Quần Anh, niềm nở đãi một bữa cơm thịnh soạn. Mười bảy năm trong quân đội Quốc dân đảng, lần đầu tiên tôi gặp trường hợp cấp trên chiêu đãi cấp dưới, do đó tôi cảnh giác đề phòng.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:12:12 am
- Anh là một nhà cách mạng Quốc gia An Nam chính thống. Tôi biết anh từ lâu - Thiếu tướng vừa nói vừa thăm dò - Đã có cơ hội thuận lợi nhất để trở về quý quốc, anh thấy thế nào?

- Cám ơn tấm lòng tốt của ngài trước sau đối với tôi.

Thiếu tướng mỉm cười, khẽ gật đầu:

- Anh có muốn lên gặp Tưởng ủy viên trưởng không? Tôi có thể giúp anh việc đó.

- Xin đa tạ ngài. Tôi thấy chẳng có việc gì cần phải lên gặp Tưởng ủy viên trưởng.

Thiếu tướng tiếp tục gọi thêm rượu và món ăn. Qua những câu nói úp mở của người đối thoại tôi nắm ngay được tình hình: Trước tình hình Pháp thua trận ở châu Âu, bọn quân phiệt Nhật Bản sớm muộn sẽ nhảy vào Việt Nam và Ai Lao, Cao Miên.

- Tưởng ủy viên trưởng tuân theo lời di huấn của Tôn Tổng lý rất mực quan tâm tới các tiểu quốc láng giềng trong đó có An Nam quốc - Thiếu tướng nửa tỉnh nửa say tiếp tục lải nhải: Tưởng ủy viên trưởng nhất định không chịu cho bọn giặc lùn (Nhật Bản) nhảy vào An Nam quốc, uy hiếp phần lãnh thổ phía nam Trung Quốc.

Cứ theo những nguồn tin như thế thì rõ là mười phần chắc chín là Quốc dân đảng Trung Quốc đang gấp rút vạch kế hoạch cho quân đội vào Việt Nam trước khi quân Nhật đến. Thảo nào, nhận ra mình là người Việt Nam là chúng vồ vập lấy, để làm tay sai dẫn đường, làm bù nhìn cho chứng. Đất nước có thể biến thành bãi chiến trường giữa mấy bọn kẻ cướp Tàu, Nhật, Tây. Đã có tay sai của Tàu nhất định cũng phải có tay sai của Nhật. Anh em trong nhà lại bị đẩy đi chém giết nhau. Tôi ngồi nghe mà tím ruột nhưng vẫn cố nén, cốt để moi thêm được ở hắn ta một vài điều cần thiết khác nữa. Dường như thấy mình đã quá lời để lộ ra chân tướng, tên cò mồi này giả ề à sang chuyện tào lao khác...

Chờ đợi gần chục ngày, tôi mới lấy được một vé xe đi Quý Dương, thủ phủ tỉnh Quý Châu. Hồi mới đến Trùng Khánh hỏi thăm tôi được biết là ông Hồ Học Lãm lâm bệnh nặng đã phải đi điều trị. Tôi tới bệnh viện thì được biết là ông đã chuyển về bệnh viện Quế Lâm. Một hôm, đang chầu chực ở bến xe Quý Dương tôi rẽ vào hiệu sách Trường Xuân, tìm đến chồng báo chí cũ, tôi choáng người trong giây lát, rồi định thần đọc đi đọc lại các dòng chữ cho hay là quân đội Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và Đồng Đăng ngày 22 tháng 9 năm 1940. Bài báo cay cú không ngớt lời chửi rủa bọn quân phiệt Nhật Bản xâm lược (!). Giở đọc tiếp những số báo sau: “... Nhân dân Việt Nam phất cờ khởi nghĩa ở các vùng phụ cận Lạng Sơn chống Nhật, chống Pháp...”, tôi hồi hộp lục tìm mẩu tin tiếp theo trong chồng báo. Nhưng ngoài mẩu tin đó ra, không còn gì nữa. Kinh nghiệm và nhận thức giúp tôi suy đoán là nó bị xẹp xuống nhiều hơn là phát triển. Trả tiền xong mấy tờ báo, tôi vội ra bến xe để về Quế Lâm, lòng dạ bồn chồn khó tả.

Ông Hồ Học Lãm bị liệt một nửa người từ một năm nay, phải nghỉ việc ở bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng. Thấy tôi, nét vui mừng hiện lên trên khuôn mặt võ vàng của ông. Với cái nhìn thân thương, tư lự ông kéo tôi lại gần giường, nói chậm chậm:

- Anh đã về. Mọi việc tạm ổn nhưng tai họa còn lớn lắm. Anh có mặt lúc này, rất kịp thời.

Lúc đó là tháng 10 năm 1940. Nhưng theo lời ông cho biết vài tháng trước, ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã diễn ra cuộc chạy đua giành giật miếng mồi Đông Dương giữa hai con chó sói Nhật Bản và Quốc dân đảng Trung Hoa. Để phục vụ ý đồ xâm chiếm Đông Dương, bọn Nhật Bản đã dựng lên một đội “phục quốc quân” dọn đường cho chúng đánh vào Lạng Sơn, Đồng Đăng. Đến khi bắt tay được với Pháp, chúng liền bỏ rơi số anh em này mặc cho Pháp trả thù hèn hạ. Còn bọn Tưởng chuẩn bị cho Hoa quân nhập Việt bằng cách sử dụng những phần tử tha hóa trong Việt Nam Quang phục Hội trước đây như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, nhằm thu hút lừa gạt mọi người, nhất là số thanh niên yêu nước của ta vừa chạy sang Trung Quốc để tránh đợt khủng bố dữ dội gần đây của bọn thống trị Pháp. Chúng cũng rất muốn lợi dụng những người cách mạng Việt Nam đã hoạt động lâu ở Trung Quốc, nhưng lại cũng rất sợ họ là cộng sản hoặc nghe theo cộng sản. Riêng với ông Hồ Học Lãm thì cả Quốc dân đảng lẫn bọn Trương Bội Công đều rất muốn lợi dụng uy tín của ông vào mục đích đen tối của chúng. Biết rõ dã tâm của chúng, từ khi còn nằm ở bệnh viện Quý Dương ông đã kịp thời thông báo cho các đồng chí của ta biết để có biện pháp ngăn chặn. Sau đó, ông xin chuyển về bệnh viện Quế Lâm cho được gần biên giới của ta hơn.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:13:07 am
*
*   *

Về gần Tổ quốc, tôi có điều kiện được biết rõ hơn về ngọn lửa Bắc Sơn. Nó vừa bùng lên được một sớm, một chiều đã bị quân thù dập tắt. Máu và nước mắt của đồng bào, đồng chí ta lại nhuộm đỏ cả rừng xanh. Vấn đề ở đây là tinh thần yêu nước, căm thù giặc thì có thừa nhưng vũ khí thì rất thiếu, cán bộ chỉ huy và lực lượng tham gia khởi nghĩa chưa được huấn luyện bao nhiêu. Ngoài ra còn nhiều vấn đề quan trọng khác như thời cơ, phương thức, khi tiến, khi lui của phong trào, vấn đề cục bộ và toàn cục v.v... Nhớ lại bối cảnh lịch sử ra đời của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, tôi nghĩ là nếu cục diện chiến tranh ở châu Âu và châu Á phát triển thành cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai thì cũng là một thời cơ có lợi cho cách mạng Đông Dương phát triển để giành lại độc lập, tự do. Có phải vì thế mà đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về gần biên giới để lãnh đạo phong trào cách mạng nước nhà. Theo lời ông Hồ Học Lãm thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc về đã và đang tập hợp nhiều cán bộ cách mạng hoạt động lâu năm ở ngoài nước và trong nước thành một bộ tham mưu của cách mạng. Như thế, sớm muộn tôi sẽ được gặp. Và chắc chắn sẽ được trao cho đảm đương một nhiệm vụ quân sự, như đồng chí đã từng giao cho tôi cách đây trên mười năm. Tôi đã sẵn sàng chuẩn bị và lần điểm lại những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa của Đảng cộng sản Trung Quốc ở Quảng Châu, Vũ Hán, Nam Xương... đến những việc tôi đã làm trên chục năm qua, phòng khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc hỏi đến.

Đầu tháng 10 năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đáp xe lửa rời Mát-xcơ-va đi về phương đông, tìm đường về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì các tỉnh ven biển Trung Quốc đã bị quân Nhật chiếm đóng nên đến Nô-vô-xi-bếc-xcơ, hành trình của Người chuyển xuống phía Nam, vượt biên giới Xô-Trung vào Tân Cương. Từ Tân Cương Người đi Lan Châu. Tại Lan Châu, Nguyễn Ái Quốc được một cán bộ cao cấp trong quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc đón vào chuẩn bị cho Người một chứng minh thư quốc tịch Trung Quốc với tên là Hồ Quang, cấp bậc thiếu tá. Và từ Lan Châu theo đường dây của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người đến Tây An.

Từ Tây An, Người đi Diên An, rồi lại trở về Tây An. Sau đó Người mới từ Tây An đi Quảng Tây. Đầu năm 1940. Người đặt chân đến Quế Lâm (Quảng Tây).

Thời gian đó, cách mạng Việt Nam và Đông Dương cực kỳ khó khăn. Bọn thống trị Pháp ở Đông Dương lợi dụng tình thế chiến tranh Pháp - Đức ở châu Âu, tiến hành một đợt khủng bố rất gắt gao, tàn khốc ở khắp mọi nơi. Đảng Cộng sản Đông Dương phải rút vào hoạt động bí mật, hầu hết các cơ sở bị tan vỡ. Nhiều đồng chí lãnh đạo, nhiều đảng viên và quần chúng trong tổ chức bị bắt. Việc chắp nối liên lạc ở trong nước đã rất khó, việc liên lạc với các cơ sở đảng ở nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan) càng khó khăn hơn nhiều. Đồng chi Nguyễn Ái Quốc đã về tới Quế Lâm, lại phải đi ngược cao nguyên Vân Quý đến Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam và đã bắt được liên lạc với các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh, Đặng Văn Cáp v.v... và đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp vừa được Trung ương ở trong nước cử ra nước ngoài, ở Côn Minh ít lâu, đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí khác đã quyết định về nước bằng con đường Cao Bằng nên đã chuyển từ Côn Minh về Tĩnh Tây Như vậy là sau nhiều năm bôn ba hoạt động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa khác, giờ đây đồng chí Nguyễn Ái Quốc mới đặt chân được tới gần biên giới địa đầu Tổ quốc, cùng với một nhóm cán bộ ở ngoài nước có thể đếm được trên đầu ngón tay. Con số thật quá ít ỏi nếu so với cả một thế hệ học trò do đồng chí trực tiếp hoặc gián tiếp đào tạo từ những năm hai mươi.

Rồi một buổi chiều ở Tĩnh Tây, tôi được gặp lại đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Thoạt nhìn, đó là một ông già, người gầy, dong dỏng cao, mặc bộ quần áo chàm, đầu vấn khăn, râu cằm đen hình búp măng, dáng đi nhanh nhẹn, từ trên đỉnh dốc đang bước tới. Nhận ra được vầng trán cao, nhất là cặp mắt rất sáng của ông, tôi chỉ “ơ... ơ...” lên được vài tiếng, chạy vội đến nắm chặt lấy tay, rồi lặng người đi rất lâu. Đồng chí Lý Thụy, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Vương đây rồi! Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao. Ngày đó, so với tưởng tượng của tôi sau những năm xa cách, Bác của chúng ta già đi nhanh quá!

- Chú đã về được đến đây - Bác nói giọng run run.

Lát sau, Bác dẫn tôi đến một vạt cỏ xanh. Cả hai cùng ngồi xuốhg, mặt ngoảnh về phương Nam. Tĩnh Tây là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc, giáp giới với hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn của ta. Đồi núi trùng điệp nhấp nhô trải dài xa tít tắp.

Tôi được ở với Bác ít ngày, vừa để lấy lại sức sau một chuyến đi dài ngày, vừa để báo cáo tường tận lại với Bác mọi việc tôi đã làm trong thời gian qua.

Bác ngồi chăm chú nghe, không ngắt lời tôi lần nào, thỉnh thoảng Bác nhắc tôi nói gọn hơn, rõ hơn. Khi tôi báo cáo đến phần hoạt động trong bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng, cùng với ông Hồ Học Lãm thu thập tin tức, lấy được toàn bộ các kế hoạch tuyệt mật của Tưởng Giới Thạch năm lần tiến công vào khu Xô-viết trung ương của Đảng cộng sản Trung Quốc v.v... Bác nói:

- Ông Hồ Học Lãm là một nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, cùng thời với cụ Phan Sào Nam. Chúng ta không thể quên công lao của ông. Còn chú, làm được như vậy là tốt, rất tốt. Lúc mới trao nhiệm vụ cho chú tôi cân nhắc mãi. Vì chú chưa hề được qua một lớp huấn luyện nào, lại đơn thương độc mã hoạt động giữa sào huyệt của địch. Nhưng tôi tin là chú làm được. Qua vài lần theo dõi báo cáo thấy chú làm tốt, tôi rất yên tâm, hiện nay Đảng bạn yêu cầu chú ở lại cộng tác lâu dài với họ.

- Thưa đồng chí - Tôi nói - trong lúc làm, không bao giờ tôi có ý nghĩ là mình làm ơn cho bạn, hoặc có đi có lại giữa hai bên. Mà luôn nghĩ là làm cho bạn tức là làm cho ta, nên dồn tất cả tâm lực để hoàn thành cho thật tốt. Lúc đầu có bỡ ngỡ thật, sau quen dần, có thêm kinh nghiệm. Chỉ tiếc là hồi ở bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng, nó đã gọi tôi đi thi và tôi đỗ vào trường quân báo. Sau có lẽ bọn đặc vụ vẫn nghi ngờ nên chúng lờ đi. Trước đó, có lần nó bảo đi khám sức khỏe, sát hạch vào trường đào tạo phi công, tôi đã trúng tuyển nhưng rồi cũng chẳng thấy nó gọi đi.

Cho đến nay nhớ lại những buổi trưa mùa đông, ngồi ngoài nắng báo cáo với Bác, hoặc những lúc đêm khuya cùng đắp tấm chăn chiên với Bác, tôi chợt thấy lòng dạ lâng lâng, cứ ngỡ là đang được nằm cạnh người cha đẻ thân thương của mình ở quê nhà... Bác là người cha tinh thần đã và đang dẫn dắt tôi đi trọn đời với cách mạng.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:14:18 am
Hôm ấy, tôi đã báo cáo với Bác xong những việc sau cùng kể từ khi rồi bỏ quân đội Quốc dân đảng đi từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam tìm đường về biên giới. Bác chăm chú nghe với vẻ tin yêu, cảm thông sâu sắc.

- Chú đã đi nhiều, làm nhiều nhưng từ trước đến nay chủ yếu là làm cho bạn. Còn từ bây giờ mới là làm cho dân cho nước. Thế chú muốn nhận công tác gì nào?

- Thưa Bác, tùy cách mạng phân công. Việc gì tự xét thấy khả năng làm được, tôi xin hứa là sẽ làm hết sức mình.

- Trong số anh em ta ở đây - Bác cười rồi nói tiếp - Chú là bậc “phú hào” về khả năng quân sự đấy. Chú sẽ nhận một công tác quân sự. Chú đã chuẩn bị được những gì rồi? Bác hẹn tôi hôm sau làm việc tiếp.

Cả đêm đó tôi chìm trong suy tư trằn trọc. “... Thời cơ đang đến với chúng ta...”, tôi nhớ đinh ninh nhận định đó của Bác, nhân một buổi Bác phân tích cho nghe về cuộc chiến tranh thế giới đang diễn ra ở châu Âu và châu Á. Bác khẳng định là Đức, Ý, Nhật nhất định sẽ bị thua. Liên Xô nhất định sẽ chiến thắng vẻ vang. Nếu chiến tranh mang bao tai họa cho các dân tộc thì ngược lại cũng tạo cơ hội cho các dân tộc nhất là các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh giành độc lập tự do, dân chủ. Sắp tới đây nếu được Bác giao nhiệm vụ liệu tôi phải làm gì để nhanh chóng tổ chức được lực lượng đứng dậy cầm súng đánh cả Pháp lẫn Nhật giành lại quyền sống? Nhưng đánh bằng cách nào, vũ khí lấy ở đâu, tổ chức lực lượng ra sao, đội ngũ cán bộ chỉ huy đào tạo thế nào? Liệu có thể như tôi đã làm là gài người của ta vào hàng ngũ đối phương để tổ chức cho từng trung đội hay đại đội binh lính chạy sang hàng ngũ cách mạng được không? Hoặc như Đảng bạn đã làm là tuyên truyền giác ngộ từng cá nhân người tiểu đoàn trưởng hay trung đoàn trưởng của Quốc dân đảng đi theo cách mạng tức là được cả một tiểu đoàn hay trung đoàn quân vũ khí đầy đủ bổ sung vào đội ngũ của mình, về súng đạn, có phải như tôi đã bí mật tổ chức chuyển giao hàng chục, hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược từ phía Quốc dân đảng tới tay Bát lộ quân? Rồi tôi cũng tự giải đáp được: Hoàn cảnh Việt Nam khác rất nhiều so với hoàn cảnh Trung Quốc. Ta không thể làm như bạn đã làm. Tôi đã sống và hoạt động ngót mười tám năm ở Trung Quốc. Bên ngoài là một sĩ quan cao cấp của Quốc dân đảng, nhưng bề trong lại làm việc cho Đảng cộng sản Trung Quốc. Đồng thời, tôi lại là một người cách mạng Việt Nam, người học trò nhỏ của đồng chí Nguyễn Ái Quốc còn có nhiệm vụ đối với quốc gia dân tộc. Tôi đã dành gần như toàn bộ thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu, đối chiếu những việc làm của cả hai bên Quốc - Cộng. Từ nhiệm vụ chính trị quyết định nhiệm vụ quân sự hay ngược lại mọi việc đều dùng quân sự để giải quyết? Tôi đã ở trong quân đội Quốc dân Đảng nên hiểu rất rõ bản chất phản cách mạng, phản nhân dân của đội quân ấy. Những năm cuối thập kỷ hai và đầu thập kỷ ba ở Trung Quốc đã diễn ra năm lần vây quét và chống vây quét của cả hai bên, dẫn đến cuộc Vạn lý trường chinh của các chiến sĩ cách mạng Trung Quốc. Tôi có nhiều dịp đi sâu vào các khu đỏ, căn cứ của cách mạng. Đâu đâu cũng lặp lại hiện tượng là sau khi Hồng quân đã rút đi thì tất cả những người dân, đặc biệt là thanh niên đều phải bỏ trốn hết lên rừng, hoặc phiêu bạt hẳn đi một nơi khác. Nếu không quân lính Tưởng Giới Thạch đến thì họ sẽ bị chúng giết sạch sành sanh. Trách nhiệm của những người cách mạng trước sinh mệnh của đông đảo quần chúng nặng nề biết chừng nào? Từ tháng 7 năm 1937, quân phiệt Nhật Bản đã mở rộng chiến tranh trên lục địa Trung Quốc, đánh chiếm nhiều nơi. Vận mệnh của hàng trăm triệu nhân dân Trung Quốc đang bị đe dọa nghiêm trọng. Đảng cộng sản Trung Quốc đề ra chủ trương Quốc - Cộng hợp tác chống Nhật trong Mặt trận dân tộc thống nhất và phát động chiến tranh du kích ở khắp nơi. Nghe nói ở các khu đỏ, nông dân đã được chia ruộng đất, được tổ chức vào Nông hội... ở các vùng của Tưởng Giới Thạch và vùng Nhật kiểm soát, phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, công nhân, dân nghèo thành thị ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tưởng Giới Thạch cũng hô hào đánh Nhật đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng thực ra chúng đánh Nhật thì ít, đánh lại cộng sản thì nhiều. Tất cả những điều tai nghe mắt thấy ấy khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều...

Những suy nghĩ đó tôi đều trình bày hết với Bác. Và cũng như những lần trước, Bác vẫn ngồi chăm chú nghe từ đầu đến cuối. Thỉnh thoảng Bác đặt câu hỏi để tôi trả lời. Chẳng hạn, chú ở trong vùng Quốc dân đảng, chú đã thấy nhân dân Trung Quốc được hướng dẫn chuẩn bị ra sao trước khi đi vào cuộc kháng chiến chống Nhật, hoặc thái độ của các tầng lớp xã hội đối với kháng chiến ra sao, chú có nhận xét gì không?...

Bằng những câu hỏi cụ thể, Bác đi vào vấn đề cần nêu một cách rất tự nhiên, dễ hiểu. Tôi như bừng tỉnh trước những vấn đề rất lớn của cách mạng mà không sao tự giải đáp được. Thì ra những điều Bác nói với tôi hôm đó vẫn là những điều cơ bản mà Bác đã giảng giải cho tôi và Trương Văn Lĩnh lúc mới gặp Bác ở Quảng Châu vào cuối năm 1924 đầu năm 1925: “... Cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một, hai người...”. “Cách mạng thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả các giai cấp áp bức mình...”. “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi...”. “...Cách mạng thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công...”.

Bác nói tiếp:

- Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị. Nói chính trị - quân sự đi đôi thì dễ, nhưng làm thì khó, sai một ly đi một dặm.

Về tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng sau này của ta, Bác nhấn mạnh đến bản chất của nó phải là bản chất của giai cấp vô sản, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ta. Phải đi từ bước thấp đến bước cao. Bác cười, nhìn tôi nói:

- Chú quen có sẵn từng trung đoàn, sư đoàn người ta trao cho chỉ huy, giờ chú phải tự đi chọn từng người một, huấn luyện cho họ thành chiến sĩ du kích, rồi đào tạo họ thành cán bộ, tung họ đi huấn luyện người khác. Cứ như thế mà nhân lên.

Nhận thấy tôi băn khoăn về vấn đề vũ khí, Bác giảng giải:

- Ta không sợ thiếu súng, chỉ sợ thiếu người cầm súng thôi.

Bác vạch ra những bước đi sắp tới:

- Chúng ta trở về Tổ quốc, việc trước tiên là phải có chỗ đứng chân. Lúc đầu là một điểm nhỏ sau mở rộng thành điểm to, rồi thành căn cứ. Chỗ đứng chân phải vững chắc. Vững chắc nhất là lòng dân.

Càng ngồi nghe Bác giảng giải tôi càng hiểu rõ những điều Bác dạy bảo hoàn toàn khác hẳn những điều mà tôi đã chiêm nghiệm được sau nhiều năm hoạt động ở Trung Quốc theo dõi những việc làm của bạn.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:14:48 am
*
*   *

Việc đầu tiên của tôi là được đồng chí Nguyễn Ái Quốc phân công cùng một số đồng chí đi về hướng Đông Nam dọc theo biên giới từ Tĩnh Tây về đến Long Châu, chuẩn bị cơ sở, tìm đường về Thất Khê - Lạng Sơn nhằm liên lạc với lực lượng cách mạng ở trong nước. Trong lúc đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh... và số bốn mươi ba cán bộ ta chạy sang Trung Quốc trở về Cao Bằng, đặt đại bản doanh tại hang Pắc Bó.

Vào những ngày đầu tháng 5 năm 1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Pắc Bó. Có thể nói sau hội nghị hợp nhất Đảng ở Hồng Công ngày 3 tháng 2 năm 1930, cuộc hội nghị của Trung ương lần này là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc trên con đường đi tới độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Với đồng chí Nguyễn Ái Quốc, sau ba mươi năm bôn ba nước ngoài, đây là lần đầu tiên đồng chí được họp ở trong nước với các đồng chí trong Ban chấp hành Trung ương Đảng. Phải mất tới nửa năm từ lúc triệu tập, chuẩn bị cho đến lúc họp. Đại biểu tham dự gồm mười bốn đồng chí trong cả nước. Tốn bao công sức, các đồng chí đại biểu Nam Kỳ, Trung Kỳ mới ra được tới ngoài Bắc. Con đường đi lên Pắc Bó của các đại biểu thật là gian nan đầy trắc trở. Đi bên cạnh những họng súng, những đội tuần tra lùng bắt của địch. Đường dây liên lạc trong nước chưa thông, phải đi đường vòng sang đất Trung Quốc. Rồi lại vòng về Việt Nam. Tôi nhạy cảm ngay với những khó khăn rất to lớn mà cách mạng gặp phải.

Trên đường về Cao Bằng, theo chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tôi gặp các anh Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh ở Hạ Đông, Tĩnh Tây, Trung Quốc và không khỏi ngạc nhiên, mừng rỡ khi thấy các đồng chí lãnh đạo chủ chốt lăn lộn với phong trào ở trong nước, giữa nanh vuốt của Pháp, Nhật đều còn rất trẻ và đầy nhựa sống.

Dưới sự chủ tọa của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (bí danh là Thu Sơn), Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh và đề ra chủ trương chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Hai căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng được duy trì, củng cố và phát triển thành hai trung tâm của công cuộc chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa tại Việt Bắc. Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương gồm chín đồng chí. Hội nghị đã nhất trí suy tôn đồng chí Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ tối cao của Đảng. Đồng chí Trường Chinh đảm đương trọng trách Tổng bí thư theo quyết định của Hội nghị. Đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng được cử về cùng với một số đồng chí khác mở rộng khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và chỉ huy đội du kích Bắc Sơn. Cao Bằng được chọn làm căn cứ địa đầu tiên của cách mạng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo mở đường tiến xuống phía Nam bắt liên lạc với phong trào toàn quốc.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:15:36 am
*
*   *

Lúc này phát-xít Đức ồ ạt tiến công vào đất nước quê hương của Cách mạng tháng Mười. Hồng quân phải tạm thời rút lui trên hầu hết các mặt trận. Báo chí Đức huênh hoang tuyên bố sẽ đánh bại nước Nga trong vòng mười tuần lễ. Nhiều đồng chí tỏ vẻ lo ngai Nhưng trước sau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc vẫn khẳng định là Liên Xô sẽ thắng, phát-xít Đức sẽ bại. Từ tình hình ở châu Âu, đồng chí nhận định là chiến tranh lớn sớm muộn sẽ nổ ra ở châu Á - Thái Bình Dương. Đồng chí còn chỉ ra rằng trong chiến tranh thế giới 1914-1918 đã ra đời một Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết thì sau cuộc chiến tranh thế giới lần này chắc chắn sẽ ra đời nhiều nước độc lập, dân chủ, xã hội chủ nghĩa khác. Và đây là một thời cơ tốt nhất cho nhân dân ta phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Theo ý của Bác (từ Hội nghị Trung ương lần thứ tám các đồng chí Trung ương bắt đầu gọi đồng chí Nguyễn Ái Quốc là Bác), các đội tự vệ chiến đấu, lựa chọn trong lực lượng tự vệ những đồng chí trung kiên hăng hái nhất, đã được tổ chức.

Tôi được giao nhiệm vụ cùng với một số đồng chí khác mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên ở trong nước nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự cho phong trao cách mạng đang phát triển ở khắp các nơi. Bác xem xet rất tỉ mỉ chương trình, kế hoạch thời gian và đối tượng huấn luyện, cắt bỏ tất cả những chỗ không thích hợp. Hàng ngày, Bác đến theo dõi, kiểm tra lớp học, động viên học viên, giáo viên, học và dạy tốt hơn nữa.

Mấy khóa huấn luyện từ năm đến bảy ngày đều đạt kết quả tốt. Các học viên tốt nghiệp trở về địa phương làm nòng cốt phát triển phong trào học tập quân sự, xây dựng thêm nhiều đội tự vệ chiến đấu.

Một lần khác, Bác nói với tôi:

- Vũ trang khởi nghĩa cần rất nhiều cán bộ quân sự. Chú cứ chuẩn bị trước đi, nay mai căn cứ địa được mở rộng, lực lượng cách mạng phát triển, ta sẽ mở lớp cao hơn.

Bọn Pháp, Nhật đánh hơi thấy hoạt động vũ trang của ta đã nhen nhóm, liền tiến hành nhiều cuộc hành quân khủng bố, đàn áp ở vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai và ở Hòa An, Nguyên Bình, Cao Bằng. Nhiều cán bộ ta đã lăn lộn với dân bản, dùng nhiều hình thức đấu tranh thích hợp, hạn chế đến mức thấp nhất sự thiệt hại về người và của, bảo vệ được cán bộ của Đảng.

Đã đến lúc cần phải thành lập một đội du kích tập trung làm nòng cốt để bảo vệ và phát triển phong trào, Bác cho gọi tôi đến và giao nhiệm vụ:

- Trước chú quen chỉ huy hàng nghìn người bây giờ chú thử chỉ huy chục người xem khác nhau ở chỗ nào?...

Những lời Bác ân cần dạy bảo khi tôi mới về Pắc Bó, trong đêm khuya khoắt cùng nằm một ổ lá rừng lại vang lên: Tuyệt đại bộ phận nhân dân ta, ai mà không căm ghét Pháp và Nhật. Chỉ cần có cán bộ đến tuyên truyền vận động, khơi lên lòng yêu nước, căm thù giặc của họ, tổ chức họ vào các hội cứu quốc, hoặc vào các đội tự vệ rồi tự vệ chiến đấu. Ở tự vệ, họ đã được trau dồi ý thức phục vụ nhân dân nên khi được chọn vào các đội vũ trang tập trung, ý thức đó càng sâu sắc thêm... Từ bó đũa ta chọn cột cờ, bồi dưỡng thành cán bộ. Cán bộ phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Cán bộ phải giác ngộ chính trị, giỏi quân sự để giáo dục rèn luyện được chiến sĩ. Một buổi khác, Bác lại nói: Cán bộ phải hết lòng thương yêu chiến sĩ. Chiến sĩ ăn rồi cán bộ mới được ăn. Chiến sĩ chưa đi ngủ, cán bộ chưa được ngủ...

Tôi được giao nhiệm vụ làm chính trị viên, phụ trách về mặt Đảng trong đội vũ trang tập trung này. Anh Lê Quảng Ba phụ trách đội trưởng. Nhằm xây dựng nền nếp cho các lực lượng vũ trang cách mạng sau này, tự tay Bác biên soạn Mười điều kỷ luật và tài liệu Chiến thuật cơ bản của du kích để toàn đội học tập.

Biết chúng tôi băn khoăn nhiều về vấn đề vũ khí, Bác vạch ra hai nguồn tìm kiếm vũ khí. Một là từ trong tay giặc, hai là ở trong nhân dân. Nhân dân sẽ bằng mọi cách tự tạo ra vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang con em của mình. Nhưng đến một lúc nào đó thì nguồn cung cấp vũ khí chủ yếu cho ta lại từ trong tay giặc. Bác đề ra khẩu hiệu: lấy súng giặc để giết giặc. Mỗi viên đạn là một quân thù.

Một lần, nhân chúng tôi thảo luận với nhau về các vấn đề quân sự, Bác tham gia ý kiến:

- Ở ta có người học quân sự của Tàu, lại có người học của Tây. Nhưng không được quên là chúng ta còn có nền quân sự truyền thống quý giá của ông cha. Cái nào hay, tốt, phù hợp với ta thì ta nghiên cứu áp dụng.

Bác điểm lại các cuộc chiến tranh giữ nước của các triều Lý. Trần, Hồ...; các cuộc khởi nghĩa vũ trang tiến tới chiến tranh giải phóng dân tộc của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung..., vạch ra những nguyên nhân thắng lợi cũng như thất bại. Bác nhắc lại câu nói của Hồ Nguyên Trừng: “Không sợ địch, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”. Trong nhiều đêm. Bác nói đến từng bước phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, rút ra được những bài học như vấn đề xây dựng căn cứ địa lúc đầu ở Lam Sơn. Vấn đề mở rộng địa bàn đánh chiếm Nghệ An, tích lũy thêm lực lượng, mở rộng thanh thế. Từ đó tiến quân ra Bắc Hà, bao vây Đông Quan diệt viện binh của Liễu Thăng, đánh thành Xương Giang, giải phóng hoàn toàn đất nước. Nói đến đâu, Bác đối chiếu ngay vào tình hình của cách mạng hiện nay. Ở gần Bác, như nhiều đồng chí khác, tôi ngày càng sáng tỏ, thấm sâu thêm những điều cơ bản của đường lối quân sự của Đảng ta mà Bác là một nhà kiến trúc sư vĩ đại.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:16:58 am
*
*   *

Vào những ngày tháng cuối của năm 1941, chiến tranh đã bùng nổ ở châu Á - Thái Bình Dương giữa quân phiệt Nhật và các nước đế quốc Anh, Mỹ, Hà Lan...

Lịch sử đã trao cho Đảng ta và Bác trách nhiệm trọng đại đối với vận mệnh của toàn dân tộc.

Kể từ ngày Bác về nước, tiếp đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp ở Pắc Bó, đến cuối năm 1941 căn cứ địa Cao Bằng đã được xây dựng củng cố như một vị trí đầu cầu có tầm quan trọng rất lớn đến quá trình phát triển của tình hình.

Bước vào năm 1942, Bác đề ra nhiều nhiệm vụ cụ thể nhằm củng cố và mở rộng hơn nữa vị trí đầu cầu này. Bác giao trách nhiệm cho anh Võ Nguyên Giáp có tôi cộng tác phối hợp với Tỉnh ủy Cao Bằng phụ trách Ban xung phong Nam tiến đánh thông xuống các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, nối liền với căn cứ cách mạng cắm sâu vào đất địch, từ đó bắt liên lạc với Trung ương và phong trào cách mạng ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

Con đường Nam tiến như sợi chỉ đỏ vắt qua các triền núi cheo leo và những cánh đồng bậc thang cạnh các bản của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Mèo... Con đường được tạo nên bằng công tác tuyên truyền vận động giác ngộ tổ chức từng người, từng gia đình vào các hội cứu quốc, tiến tới toàn bản, toàn tổng rồi toàn châu. Con đường của lòng tin tưởng tuyệt đối, của tình thương yêu không hạn độ của đồng bào đối với cách mạng, với cán bộ của Đảng. Con đường mà kẻ địch khủng bố, đàn áp ác liệt đến tột độ cũng không xóa bỏ nổi.

Từ Kim Mã qua Gia Bằng, Cẩm Lý rồi Nà Dá,... anh Văn (bí danh của anh Võ Nguyên Giáp) mở thông đường ở vùng thấp, còn tôi trên vùng cao. Từng thời gian chúng tôi thay nhau về báo cáo với Bác.

Con đường Nam tiến từ Nguyên Bình đã vươn qua Ngân Sơn, Chợ Rã, nối liền với Đại Từ, Chợ Chu... và rẽ ngoặt sang Đình Cả, La Hiên... Trong thời gian này, tôi nhớ một kỷ niệm là: Một lần, theo sự giới thiệu của anh Võ Nguyên Giáp, tôi cùng đi với anh Đồng Minh (dân tộc Mán) lên hoạt động tại một bản của đồng bào Mán trắng trên triền núi Phia Boóc. Tôi tới nhà cụ Khóa, cả nhà thấy cán bộ đến đều tay bắt mặt mừng như đã quen biết nhau từ lâu. Rồi cả bản đến để được nhìn mặt cán bộ. Tôi vừa quét dọn chuồng trại vừa nói chuyện với mọi người, cắt tóc rồi tắm rửa cho các cháu nhỏ, cho lợn cho gà ăn, ban đêm bên cạnh nồi cám lợn là lúc tôi rỉ rả khêu gợi những nỗi khổ cực của đồng bào, duyên cớ bởi vì ai? Riêng cụ Khóa, người già nhất bản tỏ vẻ lạnh nhạt. Anh Khóa con trai cụ thường phải nói đỡ: “Người già khó tính mà”. Nhưng chỉ ít ngày sau, cụ Khóa trỏ nên vồn vã, cởi mở. Cụ rót chén rượu mời tôi uống chung, rồi nói: “Tao thấy cán bộ đến không đòi thịt, đòi rượu, đòi gái như thằng quan châu. Người Mán ăn cái gì cán bộ ăn cái ấy. Bảo cán bộ ngồi chỗ nào, cán bộ ngồi chỗ ấy. Đêm cán bộ không nằm chỗ cao hơn người già, không đạp chân vào giá bàn thờ. Cán bộ chưa biết hết tiếng nói (tiếng Mán) nhưng cán bộ tốt lắm, tốt lắm”.

Sau này mỗi lần nhớ tới chuyến đi này tôi càng nhận thức sâu sắc hơn về niềm khát vọng rất mãnh liệt về sự bình đẳng dân tộc của các dân tộc ít người. Lần đó, cụ Khóa đã hô hào tất cả mọi người trong bản từ già, trẻ, nam, nữ đều gia nhập các Hội cứu quốc, anh Khóa là đầu mối dẫn tôi sang các bản khác dọc theo triền núi. Lớp học quân sự cho tự vệ cũng được mở ngay tại rừng sau nhà cụ Khóa.

Chính trong thời gian này, ông Hồ Học Lãm đã qua đời tại Quế Lâm. Tôi nhận được tin này rất muộn. Song, mỗi lần nhớ tới ông tôi không khỏi thương cảm một nhà chí sĩ cách mạng đã rời Tổ quốc ra đi cùng với cụ Phan Bội Châu mưu cầu nghiệp lớn, nhưng suốt đời ngậm đắng nuốt cay. Có lẽ điều an ủi duy nhất của ông là về cuối đời đã nhìn thấy một ngôi sao để mà ngóng trông cho vận nước. Ngôi sao đó là tên tuổi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

Mộ của ông đặt trên một sườn đồi, dưới một hàng cây trúc quân tử, mặt ngoảnh về phương Nam hướng về Tổ quốc.

Tuy khuất bóng ông, căn nhà vẫn là nơi lui tới của nhiều người cách mạng Việt Nam, của kiều bào ta và của những người cách mạng Trung Quốc thực lòng ủng hộ cuộc đấu tranh của chúng ta.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:31:32 am
Tin ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch Đồng Minh kháng Nhật của Việt Nam sang Trung Quốc gặp chính phủ Quốc dân đảng bàn về việc phối hợp đánh Nhật, vô cớ bị bắt đã gây dư luận xôn xao căm phẫn ở nhiều huyện, tỉnh dọc biên giới Việt - Trung. Vì chưa biết tin ông Hồ Học Lãm đã mất, nhiều thư từ vẫn gửi tới ông, trong đó có thư của ông bà Tống Minh Phương ở Côn Minh, ông Hồ Ngọc Thành ở Long Châu... Bà Hồ Học Lãm chìm trong lo âu khắc khoải. Nhớ lại hồi còn nằm trên giường bệnh, ông thường nói với bà: Ông Nguyễn Ái Quốc đã về, hồi sinh cho dân tộc. Sau đó, nói chuyện với một vài đồng chí và thấy chồng bà nhắc lại đến đồng chí Vương với sự cung kính đặc biệt, như những lức nói đến ông Nguyễn Ái Quốc.

Qua những thư từ gửi về gia đình, bà Hồ Học Lãm viết nhiều đơn từ khiếu nại, minh oan cho ông Hồ Chí Minh. Trong các thư gửi đến các bạn thân thiết cũ của chồng ở Trùng Khánh hoặc gửi tới tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh đệ tứ Quân khu: Trần Bảo Xương, chủ nhiệm chính trị; Nhan Tăng Vũ, sư đoàn trưởng sư đoàn Quốc dân đảng ở Quảng Tây.... bà Hồ Học Lãm đều nhận ông Hồ Chí Minh là người em họ gần với ông Hồ Học Lãm. Bà đề nghị phải trả tự do ngay cho ông Hồ Chí Minh. Bà cũng gửi một bản điều trần lên Tưởng Giới Thạch. Đồng thời, nhờ nhiều bạn hữu trong đó có trung úy Quốc dân đảng La Thành Phương tìm xem ông Hồ Chí Minh hiện bị giam giữ ở nhà lao nào, để bà tới thăm.

Ít ngày sau do sự giúp đỡ của bạn bè, bà Hồ Học Lãm và con gái là chị Hồ Mậu La được biết đích xác là ông Hồ Chí Minh vừa bị giải về nhà giam Liễu Châu. Hai mẹ con vội vã lên đường.

Nhà tù Liễu Châu vốn là trại giam cũ của tên lãnh chúa, nay được cải tạo mở rộng thêm để giam giữ nhiều người, nom vá víu, lổn nhổn, nặng nề, gai góc. Hôm bà tới thăm trời nồm khó thở, ướt láp nháp. Nhà tù Liễu Châu như một con quái vật khổng lồ chết rữa hôi hám ngột ngạt đến ghê rợn.

Lúc đầu, bọn cai ngục chỉ cho phép bà Hồ Học Lãm gửi quà. Đấu tranh mãi, nhất là được sự ủng hộ của nhiều người Trung Quốc lương thiện và có thế lực chúng buộc phải để mẹ con bà Hồ Học Lãm vào thăm. Nhưng chúng chỉ cho đứng ở bên này lối đi, nhìn mặt nhau qua một cánh cửa sổ nhỏ có song sắt.

Một tiếng rít rợn người của tấm cửa sắt vừa hé mở, qua vầng ánh sáng vàng vọt hai mẹ con bà Hồ Học Lãm thoáng nhìn thấy một bóng người khoan thai đi tới. Khuôn mặt và nửa người phía trên của ông Hồ Chí Minh hiện ra giữa khuôn cửa sổ, võ vàng, xanh nhớt, nhưng thần thái của ông, qua ánh mắt vẫn rực sáng, tự tin. Một nụ cười rất lạc quan nở trên môi.

Chị Hồ Mậu La nhận ngay ra được cặp mắt đó. Đồng chí Vương đây rồi! Cả hai mẹ con đều thổn thức nghẹn ngào hồi lâu.

Bọn Quốc dân đảng phần nào biết được ông Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, kẻ thù nguy hiểm số một nên chúng ra sức bưng bít mọi tin tức bằng cách liên tục giải ông từ nhà lao này sang nhà lao khác để mọi người khó theo dõi.

Được tổ chức ta phân công, dựa vào sự giúp đỡ của nhiều nhân sĩ tiến bộ Trung Quốc, chị Hồ Mậu La luôn luôn đưa tin ông Hồ Chí Minh hiện bị giam giữ ở nhà lao nào, ngày nào bị giải đến nhà lao nào, tình hình sức khỏe hiện ra sao... gây thành dư luận rộng rãi nhằm bảo vệ ông Hồ Chí Minh, chặn đứng âm mưu hãm hại của chúng đối với lãnh tụ của ta.

Năm tháng khắc nghiệt cứ trôi qua. Bao chuyển biến mới trên bình diện rộng của cuộc chiến tranh thế giới đã diễn ra trong lúc con thuyền cách mạng Việt Nam vắng sự chỉ đạo của Bác. Bọn phát-xít và quân phiệt Đức, Ý, Nhật đã bị đánh lùi ở tất cả các mặt trận và bị thiệt hại nặng nề. Tại Trung Quốc, dưới sức ép của đông đảo nhân dân, chính quyền Tưởng Giới Thạch buộc phải tuyên chiến với Nhật để đứng hẳn về phía Đồng minh chống phát-xít. Trong thế phản công đánh bại hoàn toàn quân phiệt Nhật, Bộ tư lệnh Đồng minh Châu Á - Thái Bình Dương đã đề ra một dự kiến cho quân đổ bộ lên bán đảo Đông Dương, chia cắt chiến lược thế trận của quân Nhật từ vùng Đông Bắc Á xuống vùng Đông Nam Á. Chính quyền phản động Tưởng Giới Thạch không thể không triệt để lợi dụng cơ hội này để thỏa mãn mưu đồ ấp ủ từ lâu là thôn tính Việt Nam và các nước Đông Dương. Kế hoạch cho Hoa quân nhập Việt lại được đề ra, ráo riết chuẩn bị tích cực hơn, thâm độc hơn. Song, so với âm mưu Hoa quân nhập Việt lần trước thì lần này tình thế đã thay đổi. Cách mạng Việt Nam và Đông Dương đã lớn mạnh. “Hoa quân” muốn “nhập Việt” không thể không bắt tay phối hợp hành động với các lực lượng đồng minh kháng Nhật ở Việt Nam và Đông Dương. Do những điều kể trên và phần quan trọng là sự phản đối liên tiếp của các đoàn thể cách mạng Việt Nam và một số chính giới Trung Quốc về việc giam giữ trái phép ông Hồ Chí Minh, tướng Trương Phát Khuê, kẻ trực tiếp thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” đã phải chùn tay. Chúng đã phải để ông Hồ Chí Minh hưởng chế độ “tù chính trị”, sau đó giam lỏng, giám sát ông tại Tư lệnh bộ Đệ tứ Quân khu. Hai mẹ con bà Hồ Học Lãm vài lần đến thăm hỏi ông, khi về vừa mừng vừa lo. Mừng là vì hầu như tất cả Tư lệnh bộ, nhất là số sĩ quan trẻ đều rất cảm phục và quý mến ông Hồ Chí Minh. Họ thấy ở ông một sự uyên bác về mọi mặt, một nghị lực phi thường và rất dễ gần gũi. Ông nói chuyện thời sự hoặc viết báo phân tích tình hình rất sâu sắc và dễ hiểu. Nói hoặc viết, bài nào cũng toát lên tinh thần là hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc phải đoàn kết tương trợ lẫn nhau mới chiến thắng được quân phiệt Nhật. Những người có lương tri đều nhất trí đánh giá ông là một người Việt Nam rất yêu nước, luôn luôn nghĩ đến đất nước và dân tộc mình, đồng thời là người bạn chân thành của nhân dân Trung Quốc, luôn gắn bó lợi ích của hai dân tộc láng giềng với nhau. Thái độ của một số kẻ chóp bu ở Tư lệnh bộ, nhất là bọn đặc vụ Quốc dân đảng thì khác hẳn. Bề ngoài thì thưa gửi rất cung kính lễ độ nhưng bên trong thì ra sức bới lông tìm vết. Mùa rét như cắt ruột, thấy ông tập luyện rồi nhảy xuống dòng sông Liễu Giang vùng vẫy thỏa thuê, là chúng xem như đó là bằng chứng chứng tỏ rằng ông chính là Nguyễn Ái Quốc, vì sống lâu ở bên Nga nên thích nghi với cái rét rợn người. Chúng khéo bố trí để tướng Trương Phát Khuê vào một buổi sớm cực rét được nhìn thấy tận mắt “ông già phương Nam chịu rét giỏi hơn rất nhiều người phương Bắc”. Bà Hồ Học Lãm và người con gái rất phiền lòng khi thấy có nhiều người xấu trong các tổ chức gọi là “Việt Nam cách mệnh đồng minh hội” do chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc dựng lên làm tay sai cho chúng dẫn đường cho “Hoa quân nhập Việt” sau này, thường ton hót với chủ là ông Hồ Chí Minh là lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Bản thân tướng Trương Phát Khuê và bộ hạ thân tín đều khét tiếng là những kẻ diệt cộng không ghê tay. Qua các con đường tình báo đặc vụ ở Hoa Nam, ở Trùng Khánh, Trương Phát Khuê cũng thừa biết ông Hồ nếu không phải là Nguyễn Ái Quốc thì cũng là một nhân vật cộng sản lỗi lạc, kẻ thù số một của họ. Nhưng Trương vẫn còn phân vân chưa dám hạ sát ông, phần vì sợ dư luận rộng rãi, phần vì đức độ, cốt cách của ông. Trước dư luận và ngay cả ở trong lao tù, nhất cử nhất động của ông đều vì công cuộc kháng Nhật đến thắng lợi. Thành ra, chúng cũng chưa tạo ra được bằng cớ nào để kết tội ông. Mặt khác, Trương còn mưu toan một nước cờ cao khác là làm sao ép được ông vào cái tổ chức Đồng minh hội, khoác cho tổ chức đó một cái nội dung mới, phục vụ cho việc “Hoa quân nhập Việt” dễ dàng thuận lợi hơn.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:32:07 am
Một hôm, từ chỗ giam ông Hồ Chí Minh, chị Hồ Mậu La dẫn về nhà một người bạn của bố. Bà Hồ Học Lãm lúc đầu không nhận ra người bạn tri kỷ mà hồi còn sống, chồng bà thường nhắc đến với bao nỗi xúc động sâu xa. Người bạn đó là Đinh Chương Dương. Thuở nhỏ Đinh Chương Dương là một chiến sĩ giao thông (liên lạc) cho thủ lĩnh nghĩa quân Đinh Công Tráng trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình ở quê nhà. Đến phong trào Đông Du, ông cùng với Hồ Học Lãm và một số đồng chí khác theo cụ Phan Bội Châu sang Nhật: Hồ Học Lãm và các bạn ở lại học quân sự. Riêng Đinh Chương Dương theo chỉ thị của Phan Bội Châu trở về Việt Nam cùng với Lê Duy Điếm và một số đồng chí khác làm nhiệm vụ dẫn đường cho các chuyến đi Đông Du tiếp sau. Bị Chính phủ Nhật phản bội, phong trào Đông Du tan rã, Đinh Chương Dương lại đảm đương nhiệm vụ đưa đón thanh niên ta từ trong nước sang Quảng Châu, Trung Quốc tìm đến Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Khi tổ chức này về nước phát triển thành nhiều chi bộ ở các tỉnh, Đinh Chương Dương tham gia chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Thanh Hóa, tích cực hoạt động thành lập nhiều chi bộ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bị đế quốc Pháp bắt tù hai lần. Sau khi ra tù, Đinh Chương Dương lại tiếp tục hoạt động.

Tin lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc được thông báo về Hà Nội vào cuối năm 1943 đầu năm 1944. Cách mạng trong nước lúc đó đang gặp vô vàn khó khăn. Phong trào đang bị khủng bố đàn áp dữ dội. Cơ sở bị vỡ. Nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt bị bắt. Ở Hà Nội lúc đó chỉ còn một số rất ít cơ sở của Đảng. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng vừa thoát khỏi nhà tù đế quốc đang nương náu tại gia đình riêng của anh chị Vũ Đình, đảng viên ở phố Hàng Bạc - Hà Nội. Thấy sự cần thiết phải tổ chức một phái đoàn với danh nghĩa là tổ chức Đồng minh kháng Nhật ở Việt Nam và Đông Dương sang Quảng Tây gặp nhà đương cục Trung Quốc đòi trả lại tự do ngay cho ông Hồ Chí Minh để ông về lãnh đạo kháng Nhật, đồng chí Vũ Đình đã đi tìm gặp đồng chí Đinh Chương Dương bàn bạc cụ thể:

- Đã thế, tôi phải đi ngay lập tức, gặp Trương Phát Khuê - Đinh Chương Dương nói.

- Hình như anh không nói được tiếng Quan hỏa (tiếng phổ thông của Trung Quốc, chính quyền Tưởng Giới Thạch đang dùng làm tiếng nói chính thống trong mọi giao dịch giữa các dân tộc có tiếng nói khác nhau ở Trung Quốc).

- Tôi không nói được, sẽ bút đàm.

- Càng hay, nó càng tin anh chính cống từ trong nước ra.

Phái đoàn Đinh Chương Dương với danh nghĩa Đồng minh hội kháng Nhật của Việt Nam vượt biên giới sang Quảng Tây. Được sự giúp đỡ của nhiều nhân sĩ và những người cách mạng Trung Quốc, đoàn đã gặp Trương Phát Khuê.

Trong cuộc gặp ấy, trong lúc bút đàm, khi nói về mối bang giao giữa hai nước, Trương Phát Khuê hay dùng điển tích. Đinh Chương Dương cũng dẫn nhiều điển tích xa xưa và hai bên tỏ ra tâm đắc với nhau. Trong cuộc bút đàm này, khi nói đến việc ông Hồ Chí Minh, Đinh Chương Dương nhiều lần cho hắn biết đó là một yếu nhân trong tổ chức Đồng minh hội kháng Nhật - một tổ chức rất có uy tín ở trong nước, đang tập hợp được mọi tầng lớp sĩ - nông - công - thương để đánh Nhật, Pháp. Đinh Chương Dương cũng nói rõ lý do ông sang gặp Chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc để bàn việc hợp tác đánh Nhật và phản đối việc giam giữ ông Hồ Chí Minh, yêu cầu trả lại tự do cho ông.

Cách mạng càng lớn mạnh thì kẻ thù càng hung bạo. Năm 1943 và 1944, trên toàn quốc và riêng ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng ta phải đương đầu với nhiều đợt khủng bố triền miên cực kỳ man rợ của Pháp, Nhật. Bao thủ đoạn đàn áp chém giết, phỉnh phờ mua chuộc chia rẽ mà bọn thống trị Pháp, Nhật tích lũy được gần một trăm năm ở ba xứ Đông Dương, ở Cao Ly (Triều Tiên), Mãn Châu và Trung Quốc... đều được đem ra áp dụng. Lòng người dân, người cán bộ cách mạng quặn đau khi đứng ở trên cao nhìn xuống từng đám cháy lớn thiêu đốt làng bản cuồn cuộn đen ngòm cả một góc trời. Bóng bọn lính bị xua đi chém giết những người dân lành vàng cả cánh đồng. Lúa non, bắp mới cũng bị đốt cháy ra tro. Trâu, bò, lợn, gà chết thối rữa. Những người còn sống sót thì bị cào nhà phá vườn, chúng dồn về sống tập trung vào một chỗ. Mang một dúm gạo, một bắp ngô ra ngoài cũng bị gán cho là đi tiếp tế Việt Minh, bị xử bắn ngay tại chỗ.

Song giặc càng đàn áp bao nhiêu thì ngọn lửa cách mạng càng hừng hực nóng bỏng bấy nhiêu. Trước tình hình bị đàn áp khủng bố dữ dội có thể dẫn đến sự rã rời của khí thế cách mạng, tan vỡ hết cơ sở, liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng đã thông qua chủ trương khởi nghĩa.

May mắn thay, cuộc khởi nghĩa sắp bùng nổ thì Bác về tới Cao Bằng. Nghe báo cáo của liên tỉnh ủy xong. Bác phân tích tình hình toàn cục và chỉ thị đình chỉ khởi nghĩa, cứu được cho phong trào một tổn thất khó lường trước được. Tình thế cách mạng lúc này đã thay đổi nhiều. Bác phân tích thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa đến. Cần phải có cách giải quyết mới linh hoạt hơn, phù hợp với hoàn cảnh mới. Bác triệu tập cuộc họp với các cán bộ chủ chốt, đề ra việc thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, với phương châm hoạt động là quân sự phải phục vụ chính trị tác chiến để gây ảnh hưởng cách mạng trong nhân dân nhằm mở rộng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang toàn dân. Bác trao nhiệm vụ trọng đại này cho đồng chí Võ Nguyên Giáp.

Do liên lạc khó khăn, tôi nhận được giấy triệu tập họp chậm. Mặc dù bị cơn sốt rét dữ dội hành hạ, tôi tranh thủ ngày đêm sớm về nơi Bác ở.

- Chú đã về đấy à, sao gầy yếu thế?

Đúng ra đó là câu tôi phải hỏi Bác. Tôi nghĩ vậy và không sao thốt nên lời. Tóc Bác bạc hơn nhiều. Răng rụng, thân hình sắt lại trong bộ quần áo chàm. Bác kéo tay tôi vào tấm ván vừa là chỗ Bác nằm vừa là chỗ ngồi để đánh máy chữ, rồi nói:

- Nhờ đồng chí, nhờ anh em, mình đã tai qua nạn khỏi. Ta lại cộng tác với nhau, làm việc hăng hơn nữa, nếu không thì không kịp được.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:32:42 am
Thời gian này được làm việc ở gần Bác, tôi thấy Bác luôn nhắc đến vấn đề thời cơ của cách mạng Việt Nam. Đó là ngày tận số của chủ nghĩa phát-xít Hít-le ở châu Âu, là việc tham chiến của Hồng quân Liên Xô giáng đòn quyết định vào sự sụp đổ hoàn toàn của quân phiệt Nhật Bản ở châu Á - Thái Bình Dương, là sớm muộn quân phiệt Nhật phải lật đổ thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Tôi phát biểu luôn với Bác là nếu Nhật đánh Pháp sẽ là cơ hội thuận tiện cho ta tước được nhiều vũ khí của cả giặc Pháp và giặc Nhật, và tôi mong ngày đó đến càng sớm càng hay.

Bác cười, nói vui:

- Chú lại mong “hành tai lạc họa” đấy à? Nhưng thôi. Lần này thì có lẽ phải chuẩn bị lấy súng đi thì vừa.

... Trước đây có một vài đồng chí gặp tôi nhắc lại lời tiên đoán của Bác viết trong cuốn sử Lịch sử nước ta diễn ca dùng để huấn luyện cán bộ từ hồi ở Pắc Bó trong đó có câu kết “Bốn lăm (45) cách mạng thành công” và hỏi tôi xem tôi ở gần Bác có được Bác dẫn giải cụ thể gì không? Tôi không thể nào trả lời rằng “có” hay “không” vì đã quá lâu ngày, mặc dù câu thơ ấy tôi có nhớ. Thế nhưng có điều tôi không quên được là một hôm Bác hỏi tôi đại ý là “sắp tới về Hà Nội chú thích nhận công tác gì?”. Lúc đó tôi hơi ngớ người ra, sau ngẫm nghĩ lại, mới thấy là từ trước năm 1940, Bác chưa hề hỏi tôi như thế bao giờ. Lúc đó tôi trả lời Bác đại ý là tôi có lòng tin tuyệt đối là cách mạng nhất định sẽ thành công, Trung ương Đảng và Bác nhất định sẽ về thủ đô, còn bản thân tôi chưa nghĩ đến việc, đó vì chưa biết là đến ngày đó mình còn sống hay chết?

- Cứ coi như vẫn mạnh giỏi đi - Bác nói tiếp.

- Thưa Bác, lúc này cách mạng còn phải hoạt động bất hợp pháp, bí mật, địa bàn chưa rộng lắm, nhiệm vụ tuy rất nguy hiểm khó khăn nhưng cũng không đến nỗi bề bộn phức tạp lắm, nên tôi tự thấy việc gì cũng có thể làm được. Tôi dẫn chứng thêm lời nói của Lê-nin là giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó khăn hơn nhiều, rồi nói tiếp: đến lúc đó thì mỗi cán bộ nên tự lựa sức mình làm được việc nào thì nhận việc đó. Mà đã nhận thì phải làm hết sức mình vì cách mạng. Còn ngược lại, không làm nổi hoặc cố vươn lên cũng không nổi mà cứ nhận thì chỉ gây tổn hại cho cách mạng.

Bác hỏi lại lần nữa nên tôi phải nói thật ý nghĩ của mình:

- Thưa Bác, về phần tôi thì tôi sẵn sàng làm theo sự phân công của cách mạng. Giả thử bảo tôi về công tác ở nông thôn tôi cũng rất sẵn sàng.

Bác cười vui:

- Lại thích vui thú điền viên rồi!...

Sau ngày 9 tháng 3 Nhật đảo chính Pháp, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng ta, nhiệm vụ chuẩn bị tổng khởi nghĩa phát triển mạnh mẽ khắp các nơi. Hôm được tin quân ta tiêu diệt bọn Nhật đóng ở Tam Đảo, chúng tôi phấn khởi hào hứng tưởng như thừa thắng xốc tới thẳng về miền xuôi ngay được. Đối với Bác, sự vui mừng chỉ thoảng qua. Bác nói:

- Tích cực chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước lúc này cũng chính là tích cực chuẩn bị cho toàn dân sẵn sàng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ chính quyền cách mạng. Vì bọn thực dân phản động Pháp nhất định sẽ quay trở lại đánh chiếm Đông Dương lần nữa.

Lời giáo huấn của Bác ngay lúc đó đã tác động mạnh đến chúng tôi, làm cho chúng tôi đỡ “lạc quan tếu”, đỡ đơn giản hóa đi nhiều.

Khi được tin quân đội Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân Đồng minh sẽ vào Đông Dương làm nhiệm vụ tước khí giới của quân Nhật bại trận đầu hàng, từ vĩ tuyến 16 trở lên, còn từ vĩ tuyến 16 trở vào sẽ do quân đội Anh, tôi cảm nhận thấy một tình thế cực kỳ nguy hiểm, rối ren phức tạp sẽ đến với vận mệnh của nước ta. Trên chục năm trong quân đội Tưởng Giới Thạch tôi còn lạ gì cái đội quân ô hợp, đói rách, thổ phỉ này kể cả quân lẫn tướng! Thảo nào chúng ráo riết chuẩn bị từ lâu kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” đến thế! Tôi cũng không lạ gì lòng lang dạ sói của bọn thực dân phản động Anh và Pháp... đối với các dân tộc thuộc địa ở châu Á qua nhiều lần chạm trán với chúng ở Thượng Hải, Nam Kinh... Càng nghĩ tôi càng thấy bồn chồn không yên. Một hôm, được về gặp Bác, đêm khuya làm việc xong, tôi mạnh dạn trình bày với Bác nỗi lo canh cánh bên lòng.

Bác chăm chú ngồi nghe, xong hỏi lại tôi:

- Giữa thằng Pháp và thằng Tưởng, thằng nào nguy hiểm hơn?

- Thưa Bác cả hai đều nguy hiểm, nhưng mỗi thằng nguy hiểm một cách khác nhau - Tôi trả lời.

- Cả hai đều là kẻ thù nguy hiểm cả - Bác nói - Nhưng một thằng ở xa, còn một thằng ở gần, ở sát nách ta. Theo chú, thù nào nguy hiểm hơn, đáng gờm hơn?


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:33:10 am
*
*   *

Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 được ký kết giữa ta và Pháp. Bằng việc hạ bút ký hiệp định. Bác đã gạt được 20 vạn quân Tưởng ra khỏi vòng chiến. Chỉ còn lại Pháp, Bác sẽ nói chuyện sau với chúng.

Vào một ngày cuối tháng 3 năm 1946, tôi đang công tác tại Quân khu 4 thì được điện của Chủ tịch nước gọi ra Hà Nội.

Dọc đường, bóng dáng bọn Tàu phù quần áo vàng hoen ố, những chiếc mũ bình thiên đội lệch trên đầu bọn sĩ quan Quốc dân đảng gợi lại trong tôi cả quãng thời gian cay đắng phải sống chung với chúng vì nhiệm vụ quốc tế mà hồi đó đồng chí Lý Thụy giao cho. Chiếc xe đưa tôi đến vùng ngoại ô Hà Nội. Lại đập vào mắt tôi những chiếc mũ nồi đỏ, mũ nồi xanh, mũ sắt sơn trắng của bọn lính Pháp vừa được phép vào một số tỉnh miền Bắc Việt Nam theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Hình ảnh những thằng Tây mặt đỏ như gà chọi đã hai lần đến đánh đập bắt trói cha tôi đi tù, như sống lại làm nhức nhối tâm can.

Xe dừng lại trước cửa Bắc Bộ phủ. Tôi bước vội lên các bậc thêm cao, hồi hộp như những lần được về gặp Bác trước đây. Bác ngừng tay đánh máy vừa đứng dậy vừa hỏi:

- Chú đi bộ hay đi xe về đây?

- Thưa Bác, tôi đi xe về cho nhanh - Tôi đáp, và nghĩ ngay đến buổi nói chuyện với Bác hồi đầu năm, kết thúc bằng câu nói vui của Bác: “Lại thích vui thú điền viên rồi!”.

Bác dẫn tôi về phía bàn tiếp khách.

Uống chén nước xong, Bác bắt đầu nói:

- Theo điều khoản phụ lục về quân sự của Hiệp định vừa ký, Chính phủ ta sẽ tổ chức một đội quân tiếp phòng cùng với quân Pháp thi hành Hiệp định, cần một thiếu tướng để chỉ huy, giao dịch với Pháp. Bác giao cho chú làm việc này.

Tôi suy nghĩ rồi nói:

- Tôi tự xét thấy chưa quen làm việc với bọn Pháp, ít am hiểu bọn chúng. Đề nghị Bác chọn một đồng chí khác có năng lực về mặt này thì hơn.

- Chú định thay mặt Ban Thường vụ Trung ương quyết định vấn đề cán bộ đấy à? Bác đã cân nhắc kỹ, việc này chú làm được, chú nhận đi.

Lúc tiễn tôi ra xe, Bác nói tiếp:

- Tướng Va-luy, Xa-lăng... và cả Xanh-tơ-ny nữa, lúc này đều có mặt ở Hà Nội. Mấy năm qua họ nằm ở Côn Minh, hoạt động ráo riết để nắm tình hình của ta. Nhiệm vụ của chú nặng nề đấy...

Thế là, tôi lại được Bác giao cho một nhiệm vụ quan trọng. Tôi không ngờ lại được làm tướng của quân đội ta. Sau này, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tôi còn được Đảng và Bác giao cho giữ nhiều trọng trách khác của Quân đội và của Nhà nước. Song tất cả đều đã được Bác dạy dỗ, chuẩn bị cho từ những năm tháng xa nhà, xa quê hương, xa Tổ quốc của thập kỷ 20 và 30 trong những năm “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ”.


Tiêu đề: Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ - Thiếu tướng Lê Thiết Hùng
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2020, 08:42:35 am
(https://i.imgur.com/xx7dkk5.jpg)

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm sân bay Bạch Mai. Đồng chí Lê Thiết Hùng (người đứng bên trái) - Tổng chỉ huy Tiếp phòng quân và đồng chí Trần Duy Hưng - Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội trong đoàn tháp tùng, bảo vệ của Bác (năm 1946).

(https://i.imgur.com/YUFI9sz.jpg)

Bác Hồ với các tướng lĩnh quân đội
Trong ảnh:
Hàng đầu, từ trái qua phải: Các đồng chí Tạ Xuân Thu, Lê Thiết Hùng, Văn Tiến Dũng, Bằng Giang.
Hàng sau: Các đồng chí Lê Hiến Mai, Hoàng Văn Thái, Trần Quý Hai, Quang Trung v.v...


(https://i.imgur.com/MzO2TLr.jpg)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Lê Thiết Hùng tại chiến khu Việt Bắc (năm 1948)

(https://i.imgur.com/rutg0f7.jpg)

Đồng chí Lê Thiết Hùng (người đứng bên trái) và đồng chí Trần Văn Trà trong phái đoàn quân - dân - chính - đảng miền Nam lần đầu ra chiến khu Việt Bắc (ảnh chụp năm 1949)

(https://i.imgur.com/j917oo8.jpg)

Đồng chí Hoàng Văn Thái và đồng chí Lê Thiết Hùng (người đứng bên trái) - Ảnh chụp năm 1948)

(https://i.imgur.com/n2ERXjQ.jpg)

Đồng chí Lê Thiết Hùng (người đứng bên trái) và "lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn tại chiến khu Việt Bắc năm 1949.

(https://i.imgur.com/xWiK8xj.jpg)

Đồng chí Lê Thiết Hùng (người đứng bên trái) và đồng chí Vương Thừa Vũ (ảnh chụp năm 1946).

(https://i.imgur.com/WP3mbOz.jpg)

Đồng chí Lê Thiết Hùng và mẹ, cùng vợ và con gái trước ngày lên đường sang làm Đại sứ tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (năm 1963)

(https://i.imgur.com/Wvkjwiz.jpg)

Tang lễ đồng chí Lê Thiết Hùng
Trong ảnh: Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội đưa linh cữu đồng chí Lê Thiết Hùng về nơi an nghỉ cuối cùng (năm 1986).


(https://i.imgur.com/oU9eWbd.jpg)

Bàn thờ gia tộc họ Lê được lập ở Đông Thôn (Hưng Nguyên, Nghệ An), có ảnh đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Lê Thiết Hùng