Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:04:19 pm



Tiêu đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:04:19 pm
(http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2018/9/8/7/bia%20tong%20tien%20cong%2068.jpg)


CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ

Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật
Năm xuất bản: 2017

Nguồn: dangcongsan.vn





BAN CHỈ ĐẠO

Thượng tướng LÊ CHIÊM   Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban

LÂM PHƯƠNG THANH   Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương - Đồng Trưởng ban

TẤT THÀNH CANG   Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Trưởng ban

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA   Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Phó Trưởng ban

Trung tướng VÕ MINH LƯƠNG   Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7 - Phó Trưởng ban

Thiếu tướng NGUYỄN HOÀNG NHIÊN   Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Phó Trưởng ban

THÂN THỊ THƯ   Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Phó Trưởng ban

NGUYỄN THỊ THU   Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

Thiếu tướng NGUYỄN VĂN BỔNG   Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng - Ủy viên

Thiếu tướng HỒ BÁ VINH   Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị - Ủy viên

Thiếu tướng LƯU SỸ QUÝ   Cục trưởng Cục Tài chính, Bộ Quốc phòng - Ủy viên

Thiếu tướng NGUYỄN NGỌC LƯỢNG   Cục trưởng Cục Hậu cần, Bộ Tổng Tham mưu - Ủy viên

Thiếu tướng TRƯƠNG VĂN HAI   Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

NGUYỄN THỊ THU HÀ    Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương - Ủy viên

THÁI THỊ BÍCH LIÊN   Thành ủy viên, Chánh Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

VÕ VĂN HOAN   Thành ủy viên, Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

Đại tá TRƯƠNG MAI HƯƠNG   Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ủy viên



BAN TỔ CHỨC

Thiếu tướng NGUYỄN XUÂN NGHỊ   Phó Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng - Trưởng ban

NGUYỄN THỊ THU   Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Trưởng ban

Thiếu tướng LÊ BỬU TUẤN   Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 7 - Phó Trưởng ban

DƯƠNG THẾ TRUNG   Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Phó Trưởng ban

ĐỖ QUANG LƯU   Phó Chánh Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Phó Trưởng ban

NGUYỄN THANH TÙNG   Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - Phó Trưởng ban

Đại tá DƯƠNG HỒNG ANH   Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Phó Trưởng ban

Thiếu tướng DƯƠNG ĐỨC THIỆN   Cục trưởng Cục Bảo vệ, Tổng cục Chính trị - Ủy viên

Đại tá LÂM VĂN YÊN   Phó Cục trưởng Cục Hậu cần, Bộ Tổng Tham mưu - Ủy viên

Đại tá THÂN VĂN LONG   Văn phòng Bộ Quốc phòng - Ủy viên

Đại tá NGUYỄN VĂN LƯỢNG   Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt  Nam - Ủy viên

Đại tá VŨ NGỌC THẮNG   Chánh Văn phòng Quân khu 7 - Ủy viên

Thượng tá NGUYỄN THANH PHONG   Chánh Văn phòng Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

Đại tá LÊ HỒNG ĐIỆP   Trưởng phòng Khoa học quân sự, Quân khu 7 - Ủy viên

Thượng tá PHẠM VĂN NĂM   Trưởng phòng Tài chính, Bộ Tổng Tham mưu - Ủy viên

Trung tá NGUYỄN NGỌC TÙNG   Trưởng phòng Chính trị - Hành chính, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Ủy viên



 

BAN NỘI DUNG

Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN   Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Trưởng ban

Trung tướng, ThS. PHẠM VĂN DỸ   Chính ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 7 - Phó Trưởng ban

Thiếu tướng NGUYỄN PHƯƠNG DIỆN   Nguyên Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị - Phó Trưởng ban

Đại tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG   Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Phó Trưởng ban

Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN LƯỢNG   Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ủy viên

Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN HUY THỤC   Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ủy viên

Đại tá, TS. ĐỖ NGỌC TUYÊN   Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tư tưởng quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ủy viên

Đại tá, TS. LÊ ĐỨC HẠNH   Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử quân sự thế giới, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ủy viên

ĐINH THỊ MAI   Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương - Ủy viên

DƯƠNG THẾ TRUNG   Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

NGUYỄN VÕ CƯỜNG    Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Ủy viên

Trung tá LÊ QUANG LẠNG   Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ủy viên



TỔ CHỨC THỰC HIỆN

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:07:31 pm
LỜI NHÀ XUẤT BẢN


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử trọng đại, một dấu mốc quan trọng, mở ra bước ngoặt căn bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Trước nguy cơ phá sản của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", cuối năm 1965, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân Mỹ và quân đội các nước đồng minh của Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời dùng không quân và hải quân đánh phá ác liệt miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Song, sau ba năm trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, với hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân Mỹ và đồng minh vẫn không tiêu diệt được Quân giải phóng và bình định được miền Nam, mà còn làm cho nước Mỹ ngày càng sa lầy vào "đường hầm không có lối thoát".

Để chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, giành thắng lợi quyết định, làm thay đổi cục diện chiến tranh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc đánh thẳng vào các đô thị, các cơ quan đầu não, trung tâm chính trị, quân sự, hậu cần của địch bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, đêm 30 rạng ngày 31-12-1968, quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào hầu hết các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự… trên toàn miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn - trung tâm đầu não chính trị, quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Mặc dù bị tổn thất lớn, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã giáng cho địch một đòn chí tử, làm chấn động nước Mỹ, đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari, đơn phương ngừng ném bom không điều kiện miền Bắc, từng bước "phi Mỹ hóa" chiến tranh, rút quân về nước.

Nhân kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Bộ Quốc phòng phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử".

Trên cơ sở các bài viết tham gia Hội thảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử. Cuốn sách gồm ba phần:

Phần thứ nhất: Những vấn đề chung.

Phần thứ hai: Tổng tiến công và nổi dậy Xuân  1968 - Ý chí và sức mạnh Việt Nam.

Phần thứ ba: Giá trị lịch sử và hiện thực.

Nội dung cuốn sách phản ánh một cách tương đối toàn diện và có hệ thống quá trình chuẩn bị và tiến hành  cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như ý nghĩa to lớn, những bài học kinh nghiệm quý báu của sự kiện lịch sử trọng đại này.

Tuy các tác giả, Ban Tổ chức Hội thảo và Nhà xuất bản đã rất cố gắng, nhưng cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.

Tháng 12 năm 2017

   NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:11:42 pm
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO KHOA HỌC
"CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
"



Thượng tướng LÊ CHIÊM*



- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng;
- Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, tướng lĩnh, sĩ quan;
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Thành ủy, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố;
- Thưa các nhà khoa học cùng toàn thể quý vị đại biểu!


Thực hiện Kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng và ý kiến chỉ đạo của đồng chí Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc tổ chức kỷ niệm một số ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong hai năm (2017-2018); hôm nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh - nơi 50 năm trước đây là trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Bộ Quốc phòng phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học cấp Quốc gia với chủ đề: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử".

Thay mặt Ban Chỉ đạo, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, các quý vị đại biểu, khách quý cùng toàn thể các đồng chí về dự Hội thảo khoa học quan trọng này. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt; chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.

Thưa các đồng chí!

Cách đây tròn 50 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta với quyết tâm sắt đá, bằng trí thông minh, sáng tạo, lòng quả cảm, bản lĩnh kiên cường của con người Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, giành thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tạo ra bước ngoặt chiến lược, có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, để lại những bài học lịch sử quý giá.

Cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định, trở thành biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách quật cường và khát vọng hòa bình, độc lập của toàn thể dân tộc; thể hiện nghệ thuật chiến tranh cách mạng, sức sáng tạo vượt bậc của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

 Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn về thế bố trí chiến lược trên chiến trường, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, mở ra điều kiện và thời cơ cho những đòn tiến công tiếp theo mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thông qua cuộc Hội thảo này, cùng với độ lùi của thời gian, với tầm nhìn mới, tư liệu mới, chúng ta tập trung luận giải sâu sắc hơn nữa về sự kiện lịch sử quan trọng này, đúc kết những bài học lịch sử quý báu để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Thưa các đồng chí!

Cuộc Hội thảo khoa học lần này là một trong những hoạt động thiết thực kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời góp phần tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ; tinh thần quật khởi, truyền thống đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Với tầm vóc và ý nghĩa đó, cuộc Hội thảo lần này nhằm khẳng định và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề sau:

- Bối cảnh chung trong nước, quốc tế và khu vực có liên quan đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

- Chủ trương và quyết tâm chiến lược mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quá trình chuẩn bị mọi mặt của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam; sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam.

- Diễn biến, kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy; hoạt động đối phó của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

- Sự phối hợp của quân và dân cả nước, hậu phương lớn miền Bắc, của các hướng, các mặt trận trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; tinh thần chiến đấu hy sinh cao cả của quân và dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

- Những nhận định, đánh giá của quốc tế về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy; sự quan tâm ủng hộ của các chính phủ và nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam nói chung, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng. Đồng thời, góp phần phản bác những luận điệu xuyên tạc, bóp méo lịch sử, phủ nhận giá trị của sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

- Tầm vóc, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, vận dụng vào giai đoạn sau của cuộc kháng chiến cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trên tất cả tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội thảo khoa học "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử".

Xin trân trọng cảm ơn!    



-----------------------------------------------------------------
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo Hội thảo.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:18:12 pm
BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC
"CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ"


Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA*



- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng;
- Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, tướng lĩnh, sĩ quan;
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Thành ủy, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố;
- Thưa các nhà khoa học cùng toàn thể quý vị đại biểu!


Cách đây 50 năm, thực hiện chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lực lượng vũ trang cách mạng cùng toàn thể quần chúng nhân dân đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng loạt đánh vào hầu hết các đô thị, căn cứ quân sự, cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên khắp chiến trường miền Nam. Đòn tiến công bất ngờ của quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, toàn diện cả về chính trị, quân sự và ngoại giao, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự, ngừng ném bom đánh phá miền Bắc và chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng; lòng quả cảm, trí thông minh, anh dũng của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; sự kế thừa và phát huy lên tầm cao mới truyền thống đánh giặc và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Kính thưa các đồng chí, các vị đại biểu!

Đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân Mỹ và quân đội các nước đồng minh vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam; đồng thời, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc; nhằm "đánh gãy xương sống Việt cộng" ở miền Nam, "đẩy lùi miền Bắc về thời kỳ đồ đá", nhanh chóng giành thắng lợi để kết thúc chiến tranh. Nhưng, sau ba năm trực tiếp tham chiến với hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân Mỹ đã không giành thắng lợi trong việc tìm diệt Quân giải phóng và bình định toàn miền Nam, mà ngược lại, còn làm cho nước Mỹ ngày càng sa lầy vào tình thế "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược. Nhận thấy tình hình bế tắc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc, đưa cuộc chiến tranh phát triển lên bước cao nhất, đó là dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (1-1968), quân và dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Từ đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 đến ngày 25-2-1968, quân và dân miền Nam đã tiến công vào 4/6 thành phố, 37/44 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ, trong đó có 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ và 30 sân bay cùng hệ thống kho tàng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, và trên khắp các địa bàn vùng nông thôn bị địch tạm chiếm. Cuộc Tổng tiến công chiến lược của quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Lần đầu tiên, trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã tiến công hàng loạt đô thị, đánh thẳng vào những trung tâm đầu não chính trị, quân sự, hậu phương trọng yếu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, gây cho chúng những tổn thất lớn, làm chấn động nước Mỹ, đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường, lung lay ý chí xâm lược của Mỹ.

Thưa các đồng chí, các vị đại biểu!

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một trong những mốc quan trọng, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc to lớn, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, và thực sự là cuộc tổng diễn tập cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Đánh giá về sự kiện lịch sử trọng đại này, Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (6-1973) đã khẳng định: "Thắng lợi của cuộc tiến công Tết Mậu Thân là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari, chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hóa" chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh... Sự kiện này chứng minh rực rỡ sức mạnh của phong trào cách mạng của quần chúng và sức mạnh của chiến tranh nhân dân ở miền Nam" .

Tại cuộc Hội thảo này, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 100 báo cáo tham luận khoa học của các đồng chí lãnh đạo, nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan Trung ương, các địa phương, các tướng lĩnh, sĩ quan, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Trên cơ sở chủ đề cuộc Hội thảo: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử", bằng tư duy khách quan, khoa học và cách tiếp cận mới, Hội thảo tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, phân tích tình hình quốc tế và trong nước; âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong chiến lược "chiến tranh cục bộ"; khả năng, biện pháp ứng phó của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trước đòn tiến công chiến lược bất ngờ của quân và dân ta.

Hai là, khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy; phân tích quá trình chuẩn bị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam, sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ thế giới đối với cách mạng Việt Nam.

Ba là, tái hiện diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân trên khắp chiến trường miền Nam; nêu bật nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công, trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng, khả năng cơ động và thực hành chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, sự phối hợp hiệp đồng chiến đấu và phục vụ chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường; phân tích tác động, ảnh hưởng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đến thế và lực của cả ta và Mỹ... Trên cơ sở đó đưa ra những nhận định, đánh giá toàn diện, sâu sắc và khách quan hơn về tầm vóc, ý nghĩa, giá trị lịch sử cũng như những hạn chế, khuyết điểm cả trong chỉ đạo, thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Bốn là, tiếp tục đúc rút bài học lịch sử có giá trị lý luận, thực tiễn về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để vận dụng, phát huy vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Những bài học lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng, về nghệ thuật tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, về nghệ thuật quân sự tạo thời cơ, chớp thời cơ, các phương thức tác chiến, về công tác bảo đảm... sẽ góp phần vận dụng vào quá trình xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới.

Ban Chỉ đạo tin tưởng rằng, các tham luận sẽ góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đó là nền tảng khoa học vững chắc trong cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch, phản động; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, bồi đắp tinh thân yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Xin trân trọng cảm ơn!



------------------------------------------------------------------
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Hội thảo.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:21:04 pm
PHÁT BIỂU CHÀO MỪNG HỘI THẢO KHOA HỌC
"CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ"



THÀNH ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng;
- Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, tướng lĩnh, sĩ quan;
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Thành ủy, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố;
- Thưa các nhà khoa học cùng toàn thể quý vị đại biểu!


Cách đây vừa tròn 50 năm, mùa Xuân năm 1968, nhân dân ta, từ Nam đến Bắc nhộn nhịp bước vào năm mới, đón Tết Mậu Thân, đón thơ chúc Tết của Bác Hồ kính yêu:

"Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà ...".

Cũng đúng vào thời điểm ấy, bằng tinh thần dũng cảm vô song, mưu lược, tài ba, cùng với các lực lượng cách mạng và các đơn vị chủ lực, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã mở đầu xuất sắc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, Đài Phát thanh, những nơi được coi là "bất khả xâm phạm" đều bị tấn công; Nhà Trắng và Lầu Năm Góc "rung chuyển", làn sóng phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam được "thổi bùng lên" trên toàn nước Mỹ và cả thế giới.

Hôm nay, Thành phố Hồ Chí Minh trân trọng đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng, lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương, các đồng chí đại diện các quân, binh chủng, quân khu, quân đoàn, các đồng chí lãnh đạo các tỉnh, thành phố, các nhà khoa học, đặc biệt là sự hiện diện của các đồng chí Anh hùng lực lượng vũ trang, đại diện các đội biệt động Sài Gòn cùng với các lực lượng đã làm nên chiến thắng vang dội Mậu Thân 1968 và quý đại biểu từ các vùng miền đất nước về dự Hội thảo khoa học cấp quốc gia "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử" do Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cùng nhiều hoạt động có ý nghĩa sâu sắc, thiết thực kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968-2018). Thay mặt Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, tôi nồng nhiệt chào mừng và trân trọng gửi đến các đồng chí, quý đại biểu và các bạn tình cảm sâu đậm, quý mến nhất của Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Kính thưa các đồng chí!

Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đứng trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng lên, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" ồ ạt đưa quân Mỹ và đồng minh vào miền Nam, gây chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc hòng cắt đứt sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Tại miền Nam, với sức mạnh kinh tế, quân sự của một quốc gia hùng mạnh, lúc cao nhất hơn 50 vạn quân Mỹ, đồng minh và hơn 1 triệu quân Sài Gòn, đế quốc Mỹ muốn nhanh chóng đánh bại chủ lực cách mạng, giành lại thế chủ động trên chiến trường, bình định toàn miền Nam, kết thúc chiến tranh Việt Nam trong tư thế "kẻ chiến thắng".

Đế quốc Mỹ cho rằng, với những hậu quả tàn khốc của bom đạn, cùng với những hành động tàn sát dã man mà lính Mỹ và tay sai đã gây ra, người dân Việt Nam phải chịu khuất phục! Nhưng chúng đã lầm. Mỹ chưa hiểu hết về dân tộc Việt Nam, về con người và văn hóa Việt Nam - một dân tộc với những con người nhân hậu, hòa hiếu, trọng tình, trọng nghĩa nhưng lại đầy khí phách hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng chiến đấu với quyết tâm "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"; với một niềm tin mãnh liệt vào chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!".

Quân và dân ta ở miền Nam đã hiên ngang trên tuyến đầu chống Mỹ, cứu nước, trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ, đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, làm nên những chiến thắng vang dội... gây cho quân Mỹ và tay sai những thiệt hại nặng nề. Cả bộ máy chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, cùng bộ máy tuyên truyền của chính quyền Mỹ đã lừa bịp nhân dân thế giới và chính người dân Mỹ rằng "đã thấy ánh sáng cuối đường hầm", Mỹ đang giành thắng lợi và sẽ sớm kết thúc cuộc chiến trong "danh dự".

Nắm vững thời cơ chiến lược, nhằm đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, chủ động chuẩn bị cho mặt trận ngoại giao, Trung ương Đảng đã quyết định phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, các căn cứ quân sự chủ yếu của địch trên toàn miền Nam. Cùng với các hoạt động quân sự phối hợp quy mô lớn, nhất là mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã đồng loạt tiến công địch. Tại Sài Gòn, công tác chuẩn bị bí mật, công phu, được sự chở che, đùm bọc của nhiều giới, nhiều tầng lớp nhân dân, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã đồng loạt tấn công các mục tiêu quan trọng của chiến trường trọng điểm; vượt qua hệ thống đồn bốt dày đặc của địch, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu đã cùng biệt động Sài Gòn đánh thẳng vào Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Với lực lượng tuy nhỏ, nhưng quyết tâm và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời, nhân dân và lực lượng vũ trang Sài Gòn đã góp phần làm nên một kỳ tích của chiến tranh nhân dân Việt Nam: đưa cuộc chiến vào tận sào huyệt của kẻ thù, chính trường nước Mỹ dao động nhất kể từ đầu cuộc chiến tranh.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một bất ngờ lớn đối với đế quốc Mỹ, cả về thời gian, quy mô, phương thức và mức độ quyết liệt; giáng một đòn quyết định làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của những kẻ cầm đầu hiếu chiến Mỹ, làm bùng lên mạnh mẽ phong trào phản chiến ngay tại nước Mỹ và nhiều quốc gia trên thế giới, thức tỉnh các tầng lớp nhân dân tiến bộ vì tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Sau thất bại Mậu Thân, Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán, để rồi 4 năm sau phải ký kết Hiệp định Pari rút quân Mỹ về nước.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, quân sự và ngoại giao. Đó là thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới; là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, ý chí và quyết tâm chống Mỹ, cứu nước, tinh thần đấu tranh vì một quốc gia thống nhất của nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân và lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh. Những trận đánh lẫy lừng trong Mậu Thân và những hy sinh to lớn của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta đã góp phần làm nên một "tượng đài bất tử", một dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ.

Kính thưa các đồng chí!

Mang trong mình truyền thống Sài Gòn - Gia Định quật khởi, là chiến trường trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đảng bộ, nhân dân, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã vượt qua khó khăn, tổn thất sau Mậu Thân, chuẩn bị lực lượng và thế trận để cùng cả nước, vì cả nước làm nên một Đại thắng mùa Xuân 1975.

Để xứng đáng với thế hệ cha anh, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh "vì cả nước, cùng cả nước" tiếp tục chung sức, đồng lòng vượt mọi khó khăn, thử thách, "đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, tạo chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước" .

Từ Hội thảo khoa học quan trọng này, quân và dân Thành phố Hồ Chí Minh chắc chắn sẽ tiếp thu được nhiều nội dung sâu sắc, tiếp tục vun đắp truyền thống cách mạng hào hùng và lòng yêu nước, trân trọng và gìn giữ những thành quả mà ông cha ta bao đời nay đã dày công xây dựng. Đảng bộ và nhân dân Thành phố tiếp tục phấn đấu "đi trước, về đích trước" trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; nguyện tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, năng động, sáng tạo, đồng lòng, chung sức phát huy mọi nguồn lực, quyết tâm xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, xứng đáng với thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh - Thành phố Anh hùng.

Thay mặt lãnh đạo và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, những người đã góp công sức và cả máu xương để cùng nhau viết nên thiên anh hùng ca Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi tự hào. Kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương, các vị cán bộ lão thành cách mạng, các đồng chí, quý vị đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúc cuộc hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!  


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:26:40 pm
PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG




PHÁT HUY TINH THẦN QUYẾT CHIẾN, QUYẾT THẮNG CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI,
XÂY DỰNG  VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC



Đại tướng TRẦN ĐẠI QUANG


Cách đây tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đồng loạt mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, viết thêm trang sử hào hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra trong bối cảnh đế quốc Mỹ ngoan cố leo thang chiến tranh, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến. Đế quốc Mỹ đã huy động bộ máy chiến tranh khổng lồ với các lực lượng hải, lục, không quân được trang bị tối tân nhất để chống lại nhân dân ta với ý đồ chiến lược hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến ở miền Nam, phá hoại và xâm lấn miền Bắc, đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á.

Quán triệt sâu sắc và thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết số 154-NQ/TW, ngày 27-1-1967 của Bộ Chính trị (khóa III) về đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam (tháng 10 và 11-1966): "ra sức đánh bại cuộc phản công chiến lược lớn lần thứ hai của bọn xâm lược Mỹ, làm thất bại các mục tiêu lớn của chúng, giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, tạo điều kiện và thời cơ cho các đợt hoạt động lớn tiếp theo, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương" , quân và dân ta đã phát huy thế mạnh, thế chủ động tấn công địch, kiên cường chiến đấu, đánh và thắng lớn trên khắp các chiến trường, đặc biệt là ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Trị - Thiên, bẻ gãy các cuộc phản công chiến lược của địch ở miền Nam và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc.

Nhận định thời cơ thuận lợi chuyển cuộc kháng chiến của dân tộc ta sang một bước phát triển mới, trên cơ sở đã có chuẩn bị từ trước và lợi dụng yếu tố bất ngờ trong dịp Tết Nguyên đán, Trung ương Đảng đã "hạ quyết tâm mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đầu Xuân Mậu Thân, nhằm mục đích giáng cho đế quốc Mỹ một đòn thất bại nặng về quân sự và chính trị, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và cùng ta giải quyết cuộc chiến tranh theo những điều kiện có lợi cho ta" . Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, ta đã huy động hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, tập kết một khối lượng lớn vũ khí, trang thiết bị mà địch không hay biết. Khí thế của bộ đội và của quần chúng cách mạng lên cao, vượt lên khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, đánh vào các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế, các căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy, các thành phố, thị xã, đồng thời đánh địch khắp các vùng nông thôn bị tạm chiếm; tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực và phá hủy một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch với đội quân lúc đó lên tới trên một triệu hai mươi vạn quân Mỹ, ngụy và chư hầu, được trang bị vũ khí hiện đại. Trong đó, có những trận gây tiếng vang mạnh mẽ trong nước và trên thế giới, như trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của ngụy quyền Sài Gòn và 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế... Phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với các cuộc tiến công vào đô thị của các lực lượng vũ trang, nhân dân Nam Bộ đã nổi dậy, phá rã phần lớn bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền ở thôn, xã, giành quyền làm chủ ở nhiều vùng, mở rộng và củng cố vùng giải phóng.

Cùng với thắng lợi trong hai mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và tại mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giành thắng lợi to lớn chỉ sau ba năm, kể từ khi địch chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", trong bối cảnh địch đã leo thang đến mức cao nhất, tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường; xuống thang chiến tranh, chuyển hướng sang "phi Mỹ hóa", "Việt Nam hóa" chiến tranh, bắt đầu rút quân về nước; chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi Tết Mậu Thân của quân và dân ta đã thúc đẩy nhân dân Mỹ đấu tranh mạnh mẽ hơn với chính quyền Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược, đưa con em của họ về nước. Nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới càng thấy rõ sức mạnh và tính tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chính nghĩa của dân tộc ta, thấy rõ thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ và ngày càng ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy này đánh dấu một bước phát triển mới về nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam, kết hợp tốt ba mũi giáp công là vũ trang, chính trị, binh vận, giữa tiến công và nổi dậy - nổi dậy và tiến công giành quyền làm chủ của nhân dân, hướng chính là mở mặt trận tiến công và vây ép địch ở thành thị, chủ yếu là các thành phố lớn, đồng thời diệt ác phá kìm, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở và làm tan rã hàng ngũ của địch. Đây là phương châm chiến lược xuyên suốt quá trình đấu tranh cách mạng, đã được phát huy nhuần nhuyễn, toàn diện trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân cũng như đến Đại thắng mùa Xuân 1975, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trở thành biểu tượng của tinh thần quyết chiến, quyết thắng, khí phách kiên cường, sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; đánh dấu bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam về tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ.

Sau thắng lợi vĩ đại này, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã chuyển sang giai đoạn cách mạng mới với những thời cơ, thuận lợi mới để thực hiện mong ước của Bác Hồ kính yêu "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi to lớn này trước hết là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trên cơ sở nắm chắc tư tưởng cách mạng tiến công, vận dụng đúng đắn quy luật chiến tranh nhân dân, thắng từng bước, đẩy lùi và đánh bại địch từng bước; hạ quyết tâm chiến lược chính xác, táo bạo, chọn đúng phương hướng tiến công, sử dụng đúng lực lượng, làm tốt công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng. Thắng lợi này còn là kết quả của sự phát huy mạnh mẽ trí sáng tạo, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc của quân và dân ta. Đó cũng là kết quả của cả một quá trình tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm từ truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc ta và vận dụng sáng tạo tinh hoa nghệ thuật chiến tranh của nhân loại bằng đường lối độc lập, tự chủ để tìm ra cách đánh Mỹ, "lấy nhỏ đánh lớn", "lấy ít địch nhiều", lấy trí tuệ và sức mạnh Việt Nam để thắng Mỹ. Đó là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, là khí phách Việt Nam được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ trong những thời điểm thử thách ác liệt nhất vì sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng và dân tộc ta.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thể hiện sức mạnh vô song của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; để lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là khát vọng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", là niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối và chỉ đạo chiến lược đấu tranh cách mạng; là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là tinh thần quyết chiến, quyết thắng, dám đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng.

Kỷ niệm 50 năm thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vào thời điểm công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và đang đứng trước thời cơ, vận hội phát triển mới với những khó khăn, thách thức đan xen, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh to lớn, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong hòa bình, đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Đất nước ta ngày càng lớn mạnh. Nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn đang và sẽ đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, chuyển thách thức thành thời cơ để phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời đề ra chủ trương, chính sách xử lý có hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta. Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã, đang và sẽ tiếp tục cổ vũ mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó khăn, thử thách, tranh thủ cơ hội mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Năm, 2020, 04:33:18 pm
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
BẢN LĨNH VÀ TRÍ TUỆ VIỆT NAM THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH



Đại tướng LÊ ĐỨC ANH*


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam. Nhưng cho đến bây giờ, nhiều nhà nghiên cứu quân sự, kể cả bộ máy chiến tranh của Mỹ vẫn cố tìm hiểu bằng cách gì mà ta triển khai được lực lượng trên diện rộng toàn miền Nam, bằng cách gì mà ta đồng loạt nổ súng tiến công ở tất cả các đô thị, tỉnh lỵ mà vẫn giữ được tuyệt đối bí mật? Lúc đó, Trung ương Cục gọi riêng từng đồng chí bí thư tỉnh ủy lên giao nhiệm vụ, căn dặn, "hiệp đồng"; và như vậy, mỗi tỉnh chỉ duy nhất một người biết rõ "giờ G, ngày N" - thời điểm nổ súng tiến công. Trong đó, biết bao nhiêu công tác phải triển khai, bao nhiêu công việc phải chuẩn bị. Điều này nói lên sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh tài tình, sáng tạo của Trung ương Đảng ta và ý thức trách nhiệm rất cao, sự thống nhất cả trong ý chí và hành động, sự nghiêm minh của kỷ luật chiến trường đã quyện trong ý thức tự giác, lòng trung thành và phẩm chất mẫu mực của những người đứng đầu và đại diện cho sự lãnh đạo của Đảng tại các địa phương, và toàn thể cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị lực lượng vũ trang ba thứ quân. Ngay sự thống nhất về ý chí và hành động đã tạo nên sức mạnh tiến công đối với quân thù.

Thời điểm đó, tôi đang đảm trách Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền (mật danh là B2). Việc phổ biến kế hoạch tác chiến thì anh Nguyễn Văn Linh, Chính ủy và anh Hoàng Văn Thái, Tư lệnh; Mặt trận Sài Gòn - Gia Định có anh Võ Văn Kiệt và anh Trần Hải Phụng về dự. Ta đã giữ được bí mật đến tận giờ nổ súng mặc dù thời gian chuẩn bị có thể nói là gấp. Yêu cầu đề ra là phải nhanh chóng đưa được một khối lượng rất lớn vũ khí và phương tiện chiến đấu vào ém sát các mục tiêu dự định tiến công trong sự canh gác, kiểm soát rất gắt gao của địch, nhất là thành phố Sài Gòn - Gia Định, sào huyệt, cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tất cả những cái gì lo trước được, ta đã tính toán chuẩn bị, nhất là việc xây dựng các cơ sở cách mạng quần chúng, hồi đó gọi là các "lõm" ngay trong lòng đô thị mà địch đang chiếm giữ. Chẳng hạn như Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định, ngay từ năm 1965 đã chỉ đạo lực lượng biệt động xây dựng các hầm chứa vũ khí và ém quân trong nội thành. Tính đến cuối năm 1967, ta đã thiết lập được 19 "lõm" chính trị ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch, bao gồm 325 gia đình cơ sở, tạo nên 400 điểm ém quân và 12 kho vũ khí. Với kỹ thuật ngụy trang tài tình, khôn khéo và mưu trí, các đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyển vào nội thành một khối lượng lớn vũ khí chuẩn bị cho chiến đấu, gồm: 450kg thuốc nổ TNT, 100 súng K54, 50 súng AK, hàng chục súng - đạn B40, 3 khẩu cối, 1 khẩu ĐKZ và 90 quả đạn. Đợt 2 cuộc tiến công còn vận chuyển được 12 xe vũ khí vào khu vực Phú Thọ Hòa...

Cuộc tiến công táo bạo của ta đã làm cho bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ sững sờ, choáng váng. Chỉ trong 24 giờ đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của kẻ địch, tất cả thành phố, tỉnh lỵ mà trước đó hầu như đứng ngoài cuộc chiến, bất ngờ bị tiến công đồng loạt. Các mục tiêu quan trọng nhất, từ Bộ Tổng Tham mưu đến Biệt khu Thủ đô, từ Dinh Tổng thống đến Toà Đại sứ Mỹ đều bị đánh phá ác liệt. Cái thế của hai bên trong chiến tranh bỗng chốc bị đảo lộn, "hậu phương yên ấm" của kẻ địch bỗng chốc trở thành tiền tuyến nóng bỏng. Trong lúc Mỹ và chính quyền Sài Gòn có hơn 1 triệu quân lại bố trí trong thế phòng thủ liên hoàn, chặt chẽ mà chúng hoàn toàn bất ngờ. Có thể nói là đợt đầu tiên chúng ta đánh thật là tuyệt vời. Ta đã ra đòn bất ngờ và đánh trúng vào "hệ thần kinh trung ương" của địch, đã làm cho Tòa Bạch ốc Hoa Kỳ bàng hoàng...

Trước tổng tiến công, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền tiến hành tổ chức bố trí chiến trường. Theo đó, Mặt trận Sài Gòn - Gia Định có hai "Sở chỉ huy tiền phương". Anh Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ và tôi phụ trách Tiền phương Bắc, còn gọi là Tiền phương 1. Anh Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Trần Hải Phụng phụ trách Tiền phương Nam, còn gọi là Tiền phương 2. Tiền phương 1 phụ trách chủ lực hướng bắc, tây bắc và đông thành phố; lực lượng bao gồm: các phân khu 1, 4, 5 và một phần Phân khu 2 (tức Củ Chi, Hóc Môn, Dĩ An, Gò Vấp, Lái Thiêu, Thủ Đức, một phần Bình Tân); mục tiêu đánh là khu Quán Tre, một nửa sân bay Tân Sơn Nhất, các căn cứ quân sự ở Gò Vấp, thị xã Gia Định, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, đồng thời phụ trách các tiểu đoàn chiếm lĩnh nối tiếp biệt động nội thành. Tiền phương 2 phụ trách hướng nam và một phần tây nam; lực lượng gồm toàn bộ lực lượng biệt động và quần chúng vũ trang nội thành từ Quận 1 đến Quận 8. Các đơn vị biệt động đánh các mục tiêu: Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân, Kho xăng Nhà Bè, Tổng nha Cảnh sát và một nửa sân bay Tân Sơn Nhất; phát động quần chúng chiếm các khu lao động, chờ đón quân chủ lực vào nội thành...

Sát thời điểm tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức Sở chỉ huy cơ bản do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, đồng thời cử cán bộ phụ trách các cánh tiền phương. Lúc này tôi được phân công chỉ huy bộ đội tiến công ở hướng tây nam Sài Gòn, từ Long An đánh vào khu vực Quận 5, vào Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát đô thành. Sở chỉ huy của tôi đặt ở bên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Trước khi nổ súng, tôi được tăng cường một tiểu đoàn của Long An do anh Hai Hoàng làm Tiểu đoàn trưởng. Đưa Trung đoàn 3 vào áp sát Quận 6, gần tới Phú Lâm, bắn cối xong thì đột kích vào trung tâm Phú Lâm. Các đơn vị đó đánh rất giỏi, thọc sâu vào Quận 5, rồi tiến công tới Ngã tư Bảy Hiền thuộc quận Tân Bình, ở lại một ngày; quân địch bu tới, ta đánh; sau đó, khi có lệnh cấp trên, tôi cho các đơn vị rút ra. Đồng bào Hoa kiều đã chỉ dẫn cho bộ đội đục xuyên các tường nhà để bí mật rút ra. Chỗ nào không đục được thì vận động trên mái nhà. Còn thương binh thì bà con người Hoa mang đi giấu, cứu chữa và nuôi dưỡng.

Trở lại tình hình trước Mậu Thân 1968, ngay sau khi chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa hơn 40 vạn quân viễn chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam, cùng với đội quân của một số nước chư hầu và lực lượng quân đội Sài Gòn được bắt lính tăng cường, cùng với một khối lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh chưa từng có với kỹ nghệ hiện đại tối tân. Chúng quyết liệt và táo bạo mở liên tục các cuộc hành quân với hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" hòng giải quyết chiến tranh trong một thời gian ngắn. Nhưng, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo, với đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, quân và dân ta đã đánh bại cả hai cuộc hành quân chiến lược ở hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của chúng ở miền Nam (điển hình là các trận chiến: Pleime và thung lũng Iađrăng, hai cuộc hành quân Áttơnborô và Gianxơnxiti); đồng thời đánh bại một bước chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ trên miền Bắc. Đến nửa cuối năm 1967, Mỹ tiếp tục tăng quân và phương tiện chiến tranh để toan tính một cuộc phản công lần thứ ba với số quân 120 vạn, trong đó có 50 vạn quân chiến đấu Mỹ, tuy nhiên chúng bắt đầu lộ rõ sự dao động và lúng túng.  

Giữa lúc đế quốc Mỹ đang ở thế "ngập ngừng" về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ có dấu hiệu dao động rõ và đúng thời điểm rất nhạy cảm của năm bầu cử Tổng thống Mỹ, Đảng ta đã quyết định giáng một đòn bất ngờ, thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, bằng cách chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, tạo ra một bước ngoặt lớn làm thay đổi cục diện chiến tranh.

Như kế hoạch đã định, cuối tháng 1-1968, ta bắt đầu mở đợt hoạt động lớn ở mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, xem như một đòn chính của bộ đội chủ lực ta, nhằm đánh lạc hướng, thu hút quân cơ động của Mỹ, vây hãm, giam chân và tiêu hao chúng, nhằm tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy. Lập tức, tướng Oétmolen điều quân tăng cường giữ và cho máy bay ném bom dữ dội, rồi chở quân đổ bộ xuống khu vực Tà Cơn - Khe Sanh. Trước và sau Tết, quân ta tiếp tục bao vây Khe Sanh, dùng các loại hỏa lực tiến công và đánh lấn khiến cho Bộ Quốc phòng Mỹ tính tới khả năng ta có thể tạo ra một cái "giống như Điện Biên Phủ". Thế là quân Mỹ đã rơi vào "bẫy" của ta; đồng nghĩa rơi vào tình thế "cá voi mắc cạn".

Cùng thời điểm này, trên chiến trường nước bạn Lào, từ ngày 12 đến ngày 27-1-1967, quân đội Pathét Lào và Quân tình nguyện Việt Nam giành thắng lợi lớn trong Chiến dịch Nậm Bạc. Chiến thắng này vừa là khởi đầu, vừa là sự phối hợp nhịp nhàng với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của chúng ta. Quân và dân miền Nam đã nhằm đúng vào đêm giao thừa của Tết Nguyên đán, đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền, đánh vào 4 thành phố lớn, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn địch, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của chúng. Nhiều trận đánh đã gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ và có tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới, như: Trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, vào Dinh Tổng thống, Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa, Đài Phát thanh Sài Gòn, 25 ngày đêm ta làm chủ thành phố Huế... Chúng ta đã ra những đòn sấm sét ngay trong lúc mà lực lượng quân Mỹ, chính quyền Sài Gòn và một số nước đồng minh của Mỹ còn đông trên 1 triệu 20 vạn tên, nắm trong tay những phương tiện chiến tranh hiện đại và khổng lồ, đứng chân trong những căn cứ được phòng thủ vững chắc. Chúng ta đã đánh vào tận hang ổ của chúng và đã giành thắng lợi chưa từng có.

Đòn tiến công Mậu Thân 1968 đã gây chấn động cả nước Mỹ. Khắp các bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ rộ lên những cuộc biểu tình chống chiến tranh. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Mỹ với cuộc chiến này. Nội bộ các cố vấn thân cận của Tổng thống Mỹ diễn ra sự chia rẽ gay gắt. Tướng Oétmolen, Tổng Chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam, bị cách chức, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mắc Namara xin từ chức. Ngày 25-3-1968, Tổng thống Giônxơn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Clípphớt (mới thay Mắc Namara) phải triệu tập một cuộc họp gọi là "Những người am hiểu và khôn ngoan nhất", mà thực chất là 14 quan chức cấp cao "diều hâu nhất" trong phái "diều hâu". Sau 3 ngày tranh cãi, 10/14 người đã tán đồng chấm dứt leo thang chiến tranh và có biện pháp rút lui ra khỏi cuộc chiến 1. Ngày 31-3-1968, Giônxơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị đàm phán song phương với ta tại Pari và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Đây là sự công khai thừa nhận chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ đã phá sản, ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ hiếu chiến đã thật sự bị lung lay. Tuy chúng ta có khuyết điểm là sau đợt 2 đã chậm chuyển hướng tiến công về vùng nông thôn nên bị nhiều tổn thất; nhưng thất bại của đế quốc Mỹ trong "chiến tranh cục bộ" đã không thể nào cứu vãn được.

Tôi muốn nói thêm về lực lượng biệt động. Đây là một sáng tạo về hình thức tổ chức lực lượng vũ trang của Đảng ta - gọn nhẹ, bí mật, linh hoạt, nằm trong dân, hòa vào dân, thường xuyên hoạt động trong lòng địch. Biệt động là lực lượng chiến đấu, thực hiện những đòn đánh hiểm, táo bạo, bất ngờ vào cơ quan đầu não và các mục tiêu quan trọng của địch ở các đô thị. Lực lượng biệt động Nam Bộ ra đời từ kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển mạnh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là ở Sài Gòn - Gia Định. Sự ra đời, trưởng thành của lực lượng này đánh dấu bước phát triển mới của chiến tranh nhân dân và là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng biệt động đã mở đầu xuất sắc cuộc tiến công ở Sài Gòn và các đô thị. Với tinh thần dũng cảm vô song, lối đánh táo bạo và thông minh, và sự hy sinh to lớn của lực lượng biệt động đã góp phần xứng đáng trong việc tạo nên hiệu quả chiến lược lớn của cuộc tổng tiến công, đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ 2. Đây là kết quả của quá trình chuẩn bị, xây dựng thế trận, xây dựng lực lượng trong nhiều năm trước đó, trong đó có kết quả xây dựng cơ sở chính trị và cơ sở vũ trang ở các đô thị theo phương châm của Đảng: Đánh địch trên ba vùng chiến lược.

Với tầm nhìn xa trông rộng, từ lâu, Bác Hồ và Bộ Chính trị đã nhận thấy rằng ta không đủ sức để đánh bại cùng một lúc cả đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn để giành thắng lợi hoàn toàn, nên đã chủ trương chia thành hai "nhịp": đánh cho "Mỹ cút" rồi tiến tới đánh cho "ngụy nhào". Và, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cùng những cú "đánh bồi" trong những đợt tiếp theo đã tạo nên một đòn đánh "đủ đô", đủ sức nặng làm nhụt ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, nhất là những chính khách trong phái "diều hâu", tạo ra bước ngoặt về chiến lược của cuộc chiến tranh, buộc chúng phải xuống thang, ngồi vào bàn đàm phán để dẫn tới ký kết Hiệp định Pari năm 1973, thừa nhận "độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam", rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã thực hiện được quyết tâm chiến lược "đánh cho Mỹ cút" một cách vẻ vang.
 



------------------------------------------------------------------
* Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Danh sách 14 vị thuộc phái "diều hâu" đến họp gồm: Acheson, Goldberg, George Ball, Megxorge Bundy, Henry Cabot Lodge, Abe Fortas, Douglas Dillion, John J.Me Cloy, Robert Murphy, Maxwell Taylor, Omar Pnadly, Mathew Ridway, Rusk, Rostows; tất nhiên còn có Johnson, Wheeler và Clifford. Chỉ trừ có Bradley Murphy, Fortas và Taylor, còn lại tất cả đều muốn rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam (Tổng thuật qua tài liệu của Mỹ của Thiếu tướng tình báo Nguyễn Đôn Tự).

2. Đến cuối năm 1967, quân và dân miền Nam phải đương đầu với 1,6 triệu quân Mỹ, đồng minh Mỹ và quân đội Sài Gòn (48 vạn lính Mỹ, 66 nghìn lính đồng minh, 998 nghìn lính quân đội Sài Gòn gồm cả chủ lực, bảo an dân vệ và cảnh sát vũ trang, trong đó, gần một nửa là quân chủ lực).


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Năm, 2020, 06:44:04 am
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
Ý CHÍ QUYẾT CHIẾN, QUYẾT THẮNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM



Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH*


Cách đây đúng 50 năm, mùa Xuân Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta với ý chí quyết chiến, quyết thắng, đạp bằng mọi khó khăn, thử thách, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đồng loạt đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn tại các thành phố, thị xã và hầu khắp vùng nông thôn rộng lớn trên toàn miền Nam; đồng thời, đẩy mạnh tiến công tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực, vũ khí và phương tiện chiến tranh, giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sau nửa thế kỷ, chúng ta có thêm những cứ liệu lịch sử để nhìn nhận toàn diện hơn, sâu sắc hơn về sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; càng thêm tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc, đồng thời biết trân trọng một biểu tượng sáng ngời - tiêu biểu cho ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam trong "cuộc đụng đầu lịch sử" với đế quốc Mỹ xâm lược.

Với ý nghĩa đó, bài tham luận này tập trung làm rõ ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam, một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trước hết, ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ trong đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, tiêu biểu cho quyết tâm kháng chiến của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước thử thách ngặt nghèo của lịch sử.

Từ đầu năm 1965, khi chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân một số nước đồng minh cùng nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào tham chiến trực tiếp ở miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Đây là bước leo thang thể hiện nỗ lực cao nhất của Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược, đặt cuộc kháng chiến của nhân dân ta trước tình thế vô cùng khó khăn.

Trên cơ sở phân tích toàn diện bối cảnh lịch sử, đánh giá đúng tình hình địch, ta, từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3-1965), đặc biệt là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 12 (12-1965), Đảng ta đã kịp thời đề ra quyết tâm: "Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà" . Từ quyết tâm ấy, Đảng ta tiếp tục phát động và đưa cuộc chiến tranh nhân dân lên một bước phát triển cao hơn, lấy tư tưởng chiến lược cách mạng tiến công làm nền tảng, đó là: kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công địch bằng cả chính trị, quân sự, ngoại giao; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đánh địch trên khắp ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị); tiến công kiên quyết, liên tục từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ lên toàn bộ...

Nhờ có đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, quân và dân ta đã bước vào "cuộc đụng đầu lịch sử" chống đế quốc Mỹ với khí thế sục sôi chưa từng có, trở thành cao trào thi đua sôi nổi nhanh chóng lan rộng ra cả nước. Ở miền Bắc có những phong trào: "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ ba đảm đang", "Hai giỏi", "Ba nhất", "Tay cày tay súng, tay búa tay súng", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... Quân và dân trên các nẻo đường vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam nêu cao quyết tâm giữ vững mạch máu giao thông, với các khẩu hiệu hành động "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến"...

Trên chiến trường miền Nam nổi lên những phong trào: "Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt", thi đua phấn đấu đạt danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ"... Với ý chí quyết tâm cao độ, quân và dân miền Nam không những đánh bại những cuộc hành quân "tìm diệt", lần lượt đập tan các cuộc phản công chiến lược của địch trong các mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, mà còn mở những chiến dịch tiêu diệt lớn quân địch; đồng thời, vận dụng linh hoạt nhiều phương thức tác chiến chiến lược đánh cả vào hậu cứ, kho tàng, những tuyến giao thông quan trọng, thực sự tạo ra nhiều khó khăn, gây bất ngờ đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Quá trình chiến đấu giành thắng lợi từng bước, đánh bại từng mục tiêu, thủ đoạn hành động của địch trong những năm 1965 đến 1967 cũng đồng thời là quá trình quân và dân ta tích cực phát triển lực lượng, tổ chức thế trận... chuẩn bị cho đòn tiến công quyết định, tạo bước phát triển nhảy vọt của chiến tranh nhân dân.

Ý chí quyết chiến, quyết thắng thể hiện ở quyết định mang tính lịch sử của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam: mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cuối năm 1967, cục diện chiến trường và tình hình quốc tế liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Về phía Mỹ, dù nỗ lực leo thang chiến tranh đến đỉnh cao, nắm trong tay đội quân xâm lược đông đảo hơn 1,2 triệu tên (trong đó có hơn nửa triệu quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh), song vẫn không đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra, trái lại, phải chịu nhiều tổn thất to lớn. Phong trào phản đối chiến tranh trong các tầng lớp nhân dân Mỹ diễn ra mạnh mẽ. Nội bộ chính quyền Tổng thống Giônxơn chia rẽ thành nhiều phe phái với các quan điểm, lập trường khác nhau... Đây cũng là thời điểm "nhạy cảm" về chính trị, bởi nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào cuộc vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới diễn ra vào năm 1968. Một thất bại lớn về quân sự (nếu diễn ra) ở chiến trường Việt Nam sẽ tác động rất mạnh đến tình hình nước Mỹ, có thể làm xoay chuyển toàn bộ đường lối, chính sách theo đuổi chiến tranh. Lúc này, đối với chính quyền Mỹ, cuộc chiến tranh tại miền Nam trở nên khó lường định hơn lúc nào hết.
 
Về phía ta, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, vừa bảo đảm tiềm lực đánh lâu dài, đồng thời sẵn sàng cho khả năng chớp thời cơ giành thắng lợi quyết định. Trên chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng phát triển lớn mạnh, đứng chân tại những địa bàn chiến lược từ Quảng Trị, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, trực tiếp đe dọa không chỉ vùng nông thôn, ngoại tuyến mà ngay tại các thành phố lớn do địch kiểm soát. Vùng giải phóng được củng cố và giữ vững. Thế trận chiến tranh nhân dân phát triển mạnh. Phong trào đấu tranh chính trị (nhất là ở đô thị) chuyển biến tích cực cả về hình thức và nội dung, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao. Vượt qua sự đánh phá quyết liệt của bom đạn Mỹ, quân và dân miền Bắc ra sức đẩy mạnh sản xuất, thực hiện nghĩa vụ hậu phương chi viện cho chiến trường miền Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho cuộc kháng chiến. Hoạt động ngoại giao cách mạng đạt được nhiều kết quả quan trọng, làm rõ tính chính nghĩa của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; đồng thời, đấu tranh phân hóa, cô lập đối phương trên trường quốc tế, làm rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Nhìn nhận một cách tổng quát, cách mạng đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, còn Mỹ đang ở thế thua, thế bị động, "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược.

Trên cơ sở nắm bắt tình hình thực tế, phân tích đúng xu thế vận động, chiều hướng chiến tranh, sau nhiều lần nghiên cứu, thảo luận, Hội nghị Bộ Chính trị (cuối tháng 12-1967) và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (1-1968) đề ra quyết tâm: "... Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất..."; "... chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định" . Theo đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy sẽ được tiến hành vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bao gồm hai hướng chiến lược: hướng tiến công chủ yếu nhằm vào các thành thị, đánh sập các cơ quan đầu não chiến tranh, các trung tâm chỉ huy, hậu cứ và các phương tiện giao thông vận tải chiến lược của địch; hướng phối hợp quan trọng là mở chiến dịch lớn vùng rừng núi, trọng điểm là mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, nhằm tiêu diệt, nghi binh, thu hút, giam chân một bộ phận lớn quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận đô thị và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn. Tất cả nỗ lực đó đều hướng đến mục tiêu: "Giáng cho địch một đòn thật mạnh và hiểm, bất ngờ và đồng loạt, làm cho Mỹ phải lung lay ý chí xâm lược, tạo nên sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta" . Đây thực sự là tư duy quân sự mới trong chỉ đạo chiến lược của Đảng, khiến cho đối phương không thể nghĩ tới, khi hành động diễn ra sẽ không kịp trở tay. Đặt trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự, tiềm lực vật chất của địch vẫn còn rất lớn, thì chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 với cách đánh táo bạo, bất ngờ thực sự là một quyết tâm rất lớn, thể hiện bản lĩnh và tầm cao trí tuệ của Đảng ta trong việc nắm bắt và chớp thời cơ, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng dẫn dắt cả dân tộc bước vào "trận đánh lịch sử" với khí thế sục sôi nhất, như đồng chí Lê Duẩn khẳng định: "Khi đã có thời cơ thuận lợi, nếu chúng ta biết làm và làm đúng, có sự nỗ lực vượt bậc thì lực lượng ít cũng có thể tạo nên sức mạnh bảo đảm giành được thắng lợi rất to lớn, rất quan trọng" .




-------------------------------------------------------------------------------
* Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Năm, 2020, 06:48:15 am
Ý chí quyết chiến, quyết thắng được biểu hiện ở hành động kiên trì, bí mật, quyết liệt, dũng mãnh của quân và dân ta trong chuẩn bị và thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Chấp hành chủ trương chiến lược do Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra, dù thời gian rất gấp, nhưng với quyết tâm cao độ, quân và dân ta ra sức chuẩn bị mọi mặt với tinh thần, khí thế sục sôi. Trên miền Bắc, chỉ từ tháng 12-1967 đến tháng 1-1968, hàng chục ngàn tấn vật chất theo các đoàn quân di chuyển vào Nam. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn tiếp tục được củng cố, mở rộng, không ngừng vươn xa đến các chiến trường, vươn sâu vào từng mặt trận, kịp thời phục vụ yêu cầu, nhiệm vụ mới đề ra. Các quân khu miền Nam khẩn trương tổ chức lực lượng, chuẩn bị thế trận với khả năng cao nhất cho trận quyết chiến lịch sử sắp diễn ra. Nhân dân vùng địch tạm chiếm tích cực vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược về cất giấu ở các vùng ven đô. Các đoàn cán bộ bằng nhiều con đường khác nhau thâm nhập vào đô thị, phối hợp cùng cơ sở tại chỗ tiến hành các mặt công tác, sẵn sàng cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa... Công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công diễn ra trên quy mô rộng lớn chưa từng có. Mặc dù hệ thống phòng giữ, kiểm tra, kiểm soát của địch hết sức gắt gao, mạng lưới an ninh, tình báo của chúng giăng ở khắp nơi, nhưng ta vẫn giữ được bí mật công tác chuẩn bị và kế hoạch hành động cho đến lúc khởi sự. Đó là một thành công rất lớn, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của kẻ thù. Thành công ấy không chỉ do ý thức tổ chức, chấp hành kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ, mà còn cho thấy ý chí, quyết tâm to lớn, khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của đồng bào miền Nam, chỉ chờ thời khắc bùng lên.

Thực hiện kế hoạch nghi binh, thu hút một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đêm 20, rạng ngày 21-1-1968, quân ta nổ súng mở đợt hoạt động quân sự lớn tại mặt trận Đường 9 - Khe Sanh. Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam nhận định: mục tiêu chủ yếu và cố gắng cao nhất của Quân giải phóng là tiêu diệt Khe Sanh, biến Khe Sanh thành một "Điện Biên Phủ" đối với Mỹ, sau đó chiếm giữ hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên để tạo đà đi vào thương lượng. Từ nhận định đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tập trung quân cơ động cùng các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh để đối phó với ta. Tình hình chiến sự vùng giới tuyến quân sự tạm thời ở Nam Việt Nam như "thỏi nam châm cực mạnh" thu hút sự quan tâm theo dõi của cả chính quyền, các hãng truyền thông cùng đông đảo nhân dân Mỹ.

Trong khi mọi sự chú ý của phía Mỹ đổ dồn vào mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, thì đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (đêm mùng một rạng ngày mùng hai Tết Mậu Thân 1968), quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ; đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn... Đặc biệt, những trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn,... thực sự đã tạo nên chấn động lớn. Tại các vùng nông thôn, được lực lượng vũ trang cách mạng giúp sức, nhân dân nổi dậy đập tan từng mảng ách kìm kẹp, giành thế chủ động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế, Mỹ và chính quyền Sài Gòn, sau cơn choáng váng ban đầu, tập trung phản kích quyết liệt. Dù trong điều kiện chiến đấu ác liệt, lực lượng gặp nhiều bất lợi, nhưng cán bộ, chiến sĩ khắp chiến trường vẫn kiên cường trụ bám mục tiêu. Tại Khe Sanh, quân Mỹ tập trung đánh phá rất ác liệt, nhưng cán bộ, chiến sĩ giải phóng ngày đêm kiên quyết giữ vững trận địa bao vây, đẩy bộ phận quân viễn chinh vào tình thế khốn cùng, buộc địch phải đưa quân ứng cứu, tạo điều kiện cho quân và dân các chiến trường đẩy mạnh đấu tranh. Tại cố đô Huế, trong điều kiện lực lượng có nhiều hao hụt, nhưng quân ta vẫn kiên cường bám trụ từng căn nhà, từng góc phố, đánh bại liên tiếp các cuộc phản kích của địch, làm chủ thành phố 25 ngày đêm. Bộ đội đặc công, biệt động đánh vào những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng của địch ở hầu khắp các thành phố. Vượt qua mưa bom, bão đạn của quân thù, nhân dân vẫn ngày đêm sát cánh chiến đấu, gùi lương, tải đạn, cứu chữa thương binh, chôn cất tử sĩ... Từ nông thôn đến thành thị, từ Khe Sanh đến miền Đông Nam Bộ về mũi Cà Mau... nơi đâu cũng ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng với sức mạnh quật khởi trước sự chống trả điên cuồng của quân xâm lược.

Dù chưa đạt được mục tiêu cao nhất đặt ra, song cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thực sự là "đòn sấm sét" làm chính quyền, quân đội Mỹ và Sài Gòn choáng váng, gây kinh ngạc đối với nhân dân Mỹ và thu hút sự quan tâm của dư luận thế giới. Phong trào phản đối chiến tranh trong các tầng lớp nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới lên cao. Đội quân viễn chinh đông đảo, thiện chiến đã chịu thất bại to lớn. Ý chí xâm lược bị suy sụp, buộc Chính phủ Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, phát huy kết quả đã đạt được, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta liên tiếp mở các đợt tiến công đánh bại ý chí xâm lược, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được.

Đặt trong bối cảnh quốc tế những năm 60 của thế kỷ XX, khi tư tưởng "phục Mỹ, sợ Mỹ" vẫn còn khá phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, thì thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vang dội Xuân Mậu Thân 1968 là sự cổ vũ, động viên tinh thần rất to lớn. Thắng lợi ấy được tạo nên do nhiều yếu tố, từ đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, từ chủ nghĩa yêu nước nồng nàn đến sự giác ngộ về lý tưởng, mục tiêu, chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", được biểu hiện tập trung ở ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc Việt Nam.

Trong không khí cả nước đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, để phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng năm xưa vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt một số yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, tiếp tục nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trước hết là thắng lợi của đường lối độc lập, tự chủ. Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ, chúng ta đã điều hành cuộc chiến tranh rất chủ động, sáng tạo, biết khởi sự cuộc chiến tranh đúng lúc, thúc đẩy giành thắng lợi quyết định và kết thúc chiến tranh vào thời điểm có lợi nhất, bảo đảm giành thắng lợi trọn vẹn. Cũng chính nhờ có sự độc lập, tự chủ nên Đảng ta đã phát huy bản lĩnh và tầm cao trí tuệ, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để thắng Mỹ, đồng thời hạn chế được những tác động, ảnh hưởng đến mục tiêu của cuộc kháng chiến. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đang đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Đảng ta đề ra chủ trương tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ những thuận lợi, những nguồn lực từ bên ngoài để góp phần xây dựng, phát triển đất nước, song vẫn khẳng định phải luôn giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh nội lực là chính, coi đó là nền tảng có ý nghĩa quyết định đến thành công của công cuộc đổi mới. Việc phát huy sức mạnh nội lực đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trước mắt cần tập trung thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra. Điều đó thể hiện sự kiên định đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng phát huy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ.

Chủ nghĩa yêu nước chính là động lực giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, khẳng định sự trường tồn cùng lịch sử. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tinh thần yêu nước đã được phát huy cao độ thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giúp quân và dân ta đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, quyết chí, bền gan, "biết đánh và biết thắng" quân xâm lược, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Có thể khẳng định, bài học về tinh thần "yêu nước, thương nòi", của ý chí quyết chiến, quyết thắng được biểu hiện sinh động qua sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đến nay vẫn còn nguyên giá trị và nóng hổi tính thời sự. Ngày nay, tinh thần yêu nước vẫn là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc đối với các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ cần tiếp tục được phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhằm nâng cao giác ngộ chính trị bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, đồng thời bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, ý thức trách nhiệm của mỗi người dân cùng chung tay xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, chống lại những quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền bôi nhọ, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với lịch sử đấu tranh cách mạng. Để đạt mục đích, yêu cầu đề ra, chúng ta cần tích cực, thường xuyên phát động các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải nhận thức đây không chỉ là trách nhiệm của công tác tuyên truyền, của ngành giáo dục, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.

Ba là, phát huy vai trò to lớn của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Kế thừa truyền thống "chung sức, đồng lòng" của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lên tầm cao mới theo tư tưởng "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi miền Nam, Bắc tuy mục tiêu, cương lĩnh cụ thể, hình thức tổ chức, cơ cấu thành phần có nhiều điểm khác nhau, nhưng đều nhằm mục tiêu chung là đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân. Nhờ đó, chúng ta huy động được lực lượng rộng lớn, tập trung được sức mạnh tổng hợp, nhất là trong những thời điểm quyết định như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Để củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện mới hiện nay, đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để nhân dân nắm rõ mọi chủ trương, đường lối của Đảng, tạo điều kiện cho nhân dân phát huy hơn nữa quyền dân chủ, trên cơ sở đó xây dựng bền chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; mặt khác, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, tạo nên sự đồng thuận toàn xã hội, góp phần tạo không khí thi đua sôi nổi hoàn thành thắng lợi các mục tiêu nghị quyết đại hội Đảng các cấp đề ra.

Bốn là, thực hiện tốt công tác chính sách, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Việt Nam là đất nước có nhiều tộc người cùng sinh sống lâu đời. Trong những năm kháng chiến, đặc biệt là trước và sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địa bàn trung du, miền núi (nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số) là căn cứ kháng chiến, nơi đứng chân của lực lượng cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện nguyên tắc: "tất cả các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển", đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển mọi mặt đời sống, giúp đỡ đồng bào các dân tộc, góp phần xóa đói giảm nghèo và được đồng bào dân tộc thiểu số đồng tình, ủng hộ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình kinh tế - xã hội ở những vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước tiếp tục tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thực hiện mưu đồ chính trị chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, việc thực hiện tốt chính sách chăm lo phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa trở thành một trong những nhiệm vụ rất cấp thiết hiện tại, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Điều đó đòi hỏi tất cả các ngành, các cấp, mọi cán bộ, đảng viên cần quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, chính sách chăm lo, phát triển đối với đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước, không để các thế lực phản động lợi dụng tăng cường các hoạt động chống phá, gây mất ổn định an ninh, chính trị.

Năm là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong mọi tình huống.

Tiến trình 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975) đã cho thấy: Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc luôn là một nội dung lớn, một bài học sâu sắc được đúc rút trong toàn bộ đường lối, chủ trương chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng ta. Điều đó xuất phát không chỉ từ yêu cầu, quy luật của chiến tranh, mà còn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi kẻ thù của dân tộc ta là những đội quân xâm lược hung bạo, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Nhờ đó, thế trận chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ, tạo thành sức mạnh to lớn, vừa có khả năng thực hiện giam chân, chia cắt, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, vừa sẵn sàng chớp thời cơ giáng cho chúng những "đòn sấm sét", mà cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là minh chứng điển hình.

Trong giai đoạn hiện nay, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, xây dựng Đảng và Nhà nước, giữ vững môi trường chính trị ổn định, Đảng ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về mọi mặt theo phương châm "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại"; bảo đảm cho quân đội, công an luôn là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh, tiếp tục phát huy, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam truyền thống, đồng thời chủ động, sáng tạo làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến công nghệ cao; trên cơ sở đó làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm đến an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Năm, 2020, 06:55:21 am
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN NGOẠI GIAO
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968


PHẠM BÌNH MINH*


Năm 1968, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra, quân và dân ta đã nỗ lực vượt bậc, khắc phục mọi khó khăn mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam, giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường. Trong thời điểm bước ngoặt quyết định ấy, mặt trận ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ và tạo thế cho tiến công quân sự, đồng thời, phát huy kết quả giành được trên chiến trường để đấu tranh đạt tới những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn hơn.

Ngoại giao tạo thế cho tổng tiến công và nổi dậy

Vào năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh cùng nhiều loại vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến tại miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ném bom, bắn phá miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng, quân và dân ta kiên quyết đấu tranh, từng bước làm thất bại các hành động xâm lược, mà quan trọng và trực tiếp nhất là đập tan hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ - chính quyền Sài Gòn trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967.

Việc leo thang chiến tranh tại Việt Nam, nhất là hoạt động ném bom đánh phá miền Bắc, tàn phá và gây rất nhiều tổn thất cho thường dân, đã khiến nhân dân tiến bộ thế giới ngày càng quan ngại. Chính phủ nhiều nước, nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới đã yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh, kêu gọi các bên liên quan đi vào đàm phán tìm giải pháp chính trị, ngoại giao. Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Canađa, Tổng thống Pháp... bày tỏ sẵn sàng làm trung gian hòa giải, đề nghị Mỹ tôn trọng độc lập, thống nhất của Việt Nam, sớm đi vào thương lượng hòa bình. Trong bối cảnh đó, chính quyền Giônxơn đã tiến hành một đợt vận động ngoại giao lớn chưa từng có, cử các đặc phái viên đi hơn 40 nước, gửi thư cho nguyên thủ của hơn 100 quốc gia  và nhiều động thái khác nhằm thuyết phục, biện minh cho hành động xâm lược.

Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 13 (1-1967) nhất trí đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chỉ rõ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. "Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động" . Về nhiệm vụ cụ thể, mặt trận ngoại giao có nhiệm vụ đề cao lập trường 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1 và tuyên bố 5 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam 2, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em, nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.

Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 28-1-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, khi trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài nêu rõ lập trường của ta: "... Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ có thể nói chuyện" . Quan điểm của chính quyền Tổng thống Giônxơn vẫn là đàm phán có điều kiện ("có đi, có lại"), tức là Mỹ sẽ ngừng ném bom đánh phá miền Bắc Việt Nam nếu việc đó không bị lợi dụng và nhanh chóng dẫn tới các cuộc thảo luận có hiệu quả.

Cuối năm 1967, ngoại giao Việt Nam đi thêm một nước cờ quyết đoán hơn, phát huy mạnh mẽ thế chủ động. Ngày 29-12-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: "Sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề có liên quan" . Nội dung tuyên bố này cơ bản giống với tuyên bố ngày 28-1-1967, nhưng đã chuyển từ "có thể nói chuyện" sang dứt khoát "sẽ nói chuyện".

Việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ động nêu khả năng đàm phán hòa bình là một chiến lược ngoại giao đúng đắn và đúng thời điểm, được đông đảo dư luận quốc tế ủng hộ. Việc ta gắn thương lượng với việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc cũng làm đậm thêm tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta, đồng thời làm rõ hành động vi phạm chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Mỹ đối với một quốc gia độc lập, có chủ quyền, được quốc tế công nhận tại Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Các nước xã hội chủ nghĩa, phần lớn các nước Không liên kết, các phong trào hòa bình, thậm chí một số nước phương Tây (Na Uy, Thụy Điển...) đều lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ tuyên bố của ta, tạo sức ép quốc tế rất lớn yêu cầu Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải có giải pháp kết thúc chiến tranh.

Mặt khác, việc ta đưa ra tuyên bố quan trọng như trên ngay trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 khiến đối phương có phần chủ quan, cho rằng Việt Nam đã yếu thế, buộc phải "xuống nước", từ đó đánh giá thấp khả năng ta tiến hành "đánh lớn". Như vậy, mặt trận ngoại giao đã góp phần quan trọng, mở rộng mặt trận nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta; đồng thời, bảo đảm yếu tố bí mật cả ở cấp chiến lược và chiến thuật, qua đó giữ được thế chủ động chiến trường khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. 




------------------------------------------------------------------
* Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

1. Được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra ngày 8-4-1965, bao gồm: 1- Xác nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, phía Mỹ phải rút quân đội, nhân viên quân sự, các loại vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, triệt phá các căn cứ quân sự, chấm dứt can thiệp ở miền Nam, các hành động quân sự chống miền Bắc Việt Nam. 2- Hai miền đều không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có căn cứ quân sự, nhân viên quân sự nước ngoài trên đất của mình. 3- Công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, không có can thiệp của nước ngoài.

2. Được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đưa ra ngày 22-3-1965, bao gồm: 1- Lên án Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, là kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ thô bạo. 2- Nhân dân miền Nam kiên quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống nhất đất nước. 3- Nhân dân và Quân giải phóng miền Nam quyết hoàn thành đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. 4- Nhân dân miền Nam biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu. 5- Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Năm, 2020, 08:09:49 am
Mặt trận ngoại giao - sức mạnh cộng hưởng cho thắng lợi trên chiến trường

Trong thời gian diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, mặt trận ngoại giao liên tục triển khai các mũi tiến công để tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ của bạn bè và dư luận thế giới. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đi nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với lãnh đạo và nhiều tầng lớp xã hội để làm rõ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Phong trào quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng dâng cao. Hàng ngàn cuộc míttinh, biểu tình, tuần hành "Vì Việt Nam" đã diễn ra tại nhiều thủ đô lớn trên thế giới. Sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ và bè bạn quốc tế là nguồn cổ vũ, động viên vô giá đối với cán bộ, chiến sĩ ta, góp phần tạo ra niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp chính nghĩa và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Một nhiệm vụ rất quan trọng của mặt trận đối ngoại thời điểm này là cần phát huy mạnh mẽ các hình thức hoạt động để tranh thủ sự ủng hộ ngay trong lòng nước Mỹ, thông qua các phong trào phản chiến của chính các tầng lớp nhân dân Mỹ. Các đề xuất đàm phán, tính chính nghĩa và thái độ tích cực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là tại các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế... đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng về "chiến thắng" của Mỹ tại Việt Nam, khiến phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao hơn bao giờ hết. Ta cũng khéo léo triển khai các biện pháp như mời một số nhà báo, phóng viên Mỹ vào miền Bắc để tận mắt chứng kiến và đưa tin trung thực, khách quan về sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn đối với dân thường Việt Nam. Chính những tin tức, hình ảnh, bài viết của các nhà báo đã tạo ra sức mạnh cộng hưởng, tiếp thêm động lực cho các phong trào phản chiến diễn ra ngày càng rầm rộ, sục sôi, quyết liệt với sự tham gia của hàng chục ngàn trí thức, sinh viên và các giới tại nhiều thành phố lớn tại Mỹ. Hàng vạn thanh niên Mỹ chống quân dịch. Ngày càng có nhiều nghị sĩ Mỹ đòi chính quyền Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh tại Việt Nam và đi vào thương lượng thực chất. Tỷ lệ ủng hộ đường lối tiến hành chiến tranh của chính quyền Giônxơn giảm sút nghiêm trọng. Những cuộc bỏ phiếu thăm dò cho thấy phần đông công chúng "có niềm tin vững chắc rằng Mỹ đã sa lầy một cách vô vọng cùng với nỗi nghi ngờ ngày càng tăng đối với khả năng Giônxơn phá thế bế tắc" . Còn nhà sử học Mỹ G. Côncô khẳng định: chính quyền phải đương đầu với một tình hình chưa từng có, "sự nhất trí về chính sách đối ngoại giữa cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp và công chúng bị sụp đổ hoàn toàn" . Khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, ngoại giao ta đã phát huy được thế chính nghĩa, thế thắng của nhân dân ta, đóng góp quyết định trong việc hình thành mặt trân nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, thực sự kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Mặt trận ngoại giao cũng đã thành công trong việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những khó khăn, Trung ương Đảng đã rất sáng suốt, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì trao đổi, tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè. Sự trao đổi chân thành, kiên định, ở cấp cao đã giúp ta tiếp tục duy trì, đẩy mạnh sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cả về tinh thần và vật chất, nhất là trong thời gian ta đang tập trung nhân lực, vật lực cho tổng tiến công.

Góp phần củng cố thắng lợi trên chiến trường

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 còn là kết quả của sự kết hợp tài tình mang tính chiến lược giữa thắng lợi trên chiến trường và mặt trận ngoại giao.

Thứ nhất, mặt trận ngoại giao đã nắm bắt kịp thời, hiệu quả thắng lợi chiến lược của đợt 1 tổng tiến công để buộc Mỹ đi vào đàm phán trên cơ sở có lợi cho ta. Đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (đúng vào dịp Tết Mậu Thân), các lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công địch trên toàn chiến trường miền Nam, đánh thẳng vào rất nhiều cơ sở đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã. Đợt 1 của Tổng tiến công đã giáng đòn "choáng váng", buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn, ngày 31-3-1968, phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom khu vực bắc vĩ tuyến 20, "sẵn sàng tiến tới hòa bình thông qua thương lượng" và sẽ cử đại diện Mỹ đến bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Tuyên bố này của Giônxơn chính là sự thừa nhận thất bại trong leo thang chiến tranh ở miền Bắc và "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đồng thời cũng là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo nhưng hết sức cương quyết trong việc buộc Mỹ đi vào đàm phán theo những điều kiện có lợi cho ta.

Mặc dù đề nghị của Mỹ chưa đáp ứng yêu cầu hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng ta đã quyết định nắm lấy cơ hội mở ra đàm phán trực tiếp với Mỹ để kiềm chế, kéo Mỹ vừa đàm phán vừa xuống thang chiến tranh; đồng thời giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thiện chí đàm phán, tranh thủ dư luận và bạn bè quốc tế, trước mắt là hỗ trợ các đợt tiếp theo của Tổng tiến công, chia lửa với chiến trường. Ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố: sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện. Tuyên bố này của ta thực sự gây bất ngờ đối với phía Mỹ, bởi trong chính giới Oasinhtơn nhiều nhân vật có ảnh hưởng chính trị chưa nghĩ tới khả năng đàm phán khi chiến trường còn đang diễn biến quyết liệt. Dư luận chung nhìn nhận đây thực sự là cơ hội để dẫn đến hòa bình, thúc giục Tổng thống Giônxơn cam kết giữ đúng lời tuyên bố ngày 31-3-1968. Chính quyền Mỹ tỏ ra lúng túng, tranh thủ điều kiện mới, ta tiếp tục tiến công về ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chứ không chỉ ngừng từ phía bắc vĩ tuyến 20 trở ra, đồng thời phối hợp với quân và dân ta trên chiến trường để bắt đầu hình thành cục diện đánh - đàm.

Thứ hai, ngoại giao đã tạo sức ép quốc tế đối với Mỹ, nêu cao chính nghĩa để tranh thủ ủng hộ quốc tế đối với cuộc Tổng tiến công. Trong suốt đợt 1, các cơ quan ngoại giao và thông tấn của ta thường xuyên tiếp xúc, đưa tin đề cao lập trường chính nghĩa của ta. Từ tháng 5-1968, ta chính thức mở đàm phán với Mỹ tại Pari, nơi có sự hiện diện đông đảo của giới ngoại giao và báo chí quốc tế để có thể khuếch trương thắng lợi và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Suốt thời gian diễn ra đợt 2 và đợt 3 của tổng tiến công, tại bàn đàm phán, ta kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ xuống thang chiến tranh ở miền Nam, chấm dứt hoàn toàn ném bom không điều kiện miền Bắc; đồng thời, kiên quyết bác bỏ các đề xuất không hợp lý của Mỹ về quân sự như: khôi phục khu phi quân sự, không bắn pháo vào các thành phố lớn, không tăng chi viện cho miền Nam. Như vậy, thành công của đấu tranh ngoại giao đã trực tiếp đóng góp cho các thắng lợi trên chiến trường.

Thứ ba, mặt trận ngoại giao đã phát huy thành quả trên chiến trường để buộc Mỹ chính thức xuống thang chiến tranh, công nhận địa vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để tiến tới ký kết Hiệp định Pari lịch sử tháng 1-1973. Trong suốt quá trình thương lượng từ tháng 5 đến tháng 10-1968, ta đã kiên trì yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để thay đổi cục diện chiến lược của chiến tranh, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam. Đến ngày 1-11-1968, Mỹ đã tuyên bố chấp nhận ngừng ném bom toàn miền Bắc, chấp nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán bốn bên . Qua kênh đàm phán tại Pari, Mỹ đã thông báo trước cho ta về nội dung này. Ngày 2-11-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố: Để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Việt Nam thì Chính phủ Mỹ phải từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đối với Việt Nam.

Việc ta quyết định chấp nhận đàm phán bốn bên đồng thời vẫn duy trì kênh đàm phán trực tiếp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Mỹ đã góp phần "trói chân" Mỹ vào đàm phán Pari, phát huy thành quả to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Điều đó càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh chính quyền R. Níchxơn mới thắng cử sẽ có điều chỉnh chiến lược đối với chiến tranh tại Việt Nam, song không thể từ bỏ đàm phán. Việc ta buộc Mỹ chấp nhận vai trò của Mặt trận cũng góp phần phân hóa Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Việc đạt thỏa thuận về đàm phán bốn bên cũng là minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối của Đảng ta khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn thể đồng bào, chiến sĩ miền Nam, nhất là trong bối cảnh ta gặp nhiều khó khăn về lực lượng, thế đứng chân trong các năm 1969-1970.

Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động ngoại giao năm Mậu Thân

Hoạt động trên mặt trận ngoại giao trong thời gian diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, mở ra cục diện "vừa đánh, vừa đàm" đưa sự nghiệp kháng chiến sang trang mới. Từ thực tiễn đấu tranh đó, có thể rút ra một số bài học quan trọng sau:

Một là, giữ vững nguyên tắc kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, tạo sức mạnh tổng hợp; đồng thời đấu tranh ngoại giao cần phát huy tinh thần độc lập, tích cực, chủ động nhằm đạt được mục tiêu chiến lược cách mạng đề ra. Nhờ vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp khác nhau, mặt trận ngoại giao đã góp phần đánh lạc hướng nhận định, khoét sâu sai lầm chiến lược của đối phương; đồng thời giữ vững thành quả trên chiến trường bằng những cam kết công khai của đối phương, khuếch trương thắng lợi và tranh thủ sự ủng hộ to lớn về tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế, trực tiếp đóng góp vào chiến thắng và chi viện cho chiến trường.

Hai là, trên cơ sở nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng, theo dõi chặt chẽ những diễn biến tình hình khu vực, trên trường quốc tế có liên quan, mặt trận ngoại giao cần có bước đi phù hợp, nhằm tranh thủ tối đa những thuận lợi, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng trong nước. Dù bối cảnh quốc tế cuối những năm 60 của thế kỷ XX và phong trào cách mạng thế giới có diễn biến rất phức tạp, nhất là mâu thuẫn giữa Liên Xô với Trung Quốc trở nên gay gắt, nhưng nhờ có chiến lược, sách lược đúng đắn, cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn tranh thủ được sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhiều nước, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Ba là, phát huy nhiều hình thức, biện pháp tiến công trực diện kẻ thù, khai thác tối đa mâu thuẫn nội bộ, đẩy đối phương vào tình thế ngày càng bị cô lập. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, ngoại giao ta đã góp phần to lớn thúc đẩy phong trào phản chiến của các tầng lớp nhân dân Mỹ dâng cao, tạo áp lực lớn đối với chính quyền Giônxơn; đồng thời đẩy mạnh tố cáo thái độ ngoan cố, hiếu chiến cùng thủ đoạn lừa bịp của Mỹ, làm tăng mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Sài Gòn..., tạo lợi thế trong cục diện "đánh - đàm" tại Hội nghị Pari, qua đó phát huy những thắng lợi đã đạt được, đồng thời góp phần khắc phục được những khó khăn ở chiến trường, nhất là tổng tiến công đợt 2 và đợt 3.

Sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã trôi qua tròn nửa thế kỷ, song tầm vóc, ý nghĩa của sự kiện lịch sử trọng đại này trường tồn cùng thời gian. Trong thời điểm bước ngoặt đó, mặt trận ngoại giao tự hào đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng. Những kinh nghiệm, những bài học hay về sự kết hợp đấu tranh ngoại giao và đấu tranh quân sự trong tổng tiến công cho tới nay vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta cần nghiên cứu vận dụng, phát huy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:19:15 am
CÔNG AN NHÂN DÂN
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tướng, GS.TS. TÔ LÂM
Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an


Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là mốc son tiêu biểu, một bước ngoặt quyết định -  đòn tấn công chiến lược, bất ngờ với quy mô lớn vào sào huyệt của đối phương ở các thành phố, thị xã lớn trên toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công đã làm đảo lộn thế chiến lược của địch, phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược và buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là một cuộc "tập dượt chiến lược" để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi đó là kết tinh của ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" ; là kết quả của cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng, mưu trí, sáng tạo, sự hy sinh oanh liệt của đồng bào, chiến sĩ hai miền Nam - Bắc, trong đó có những đóng góp quan trọng của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam.

Thất bại trong chiến dịch mùa khô thứ nhất, từ giữa năm 1966, Mỹ tiếp tục đưa thêm quân đội viễn chinh vào chiến trường miền Nam và ném bom bắn phá miền Bắc ngày càng ác liệt. Trước hành động điên cuồng của địch, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Giữa lúc cuộc chiến leo thang đến đỉnh cao nhất, Bộ Chính trị họp bàn về hướng tấn công chiến lược năm 1968 và sau đó Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 thông qua chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1967 và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 về "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" ; Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Bộ Công an đã sớm đề ra các chủ trương, quyết định có tính chiến lược về công tác an ninh. Ngay từ ngày 15-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ban hành Chỉ thị số 32/CT về nhiệm vụ, phương hướng công tác an ninh trong thời gian sắp tới, nêu rõ: "Phải hướng vào các đô thị, thị xã, thị trấn và các vùng yếu kết hợp với lực lượng vũ trang, chính trị của quần chúng để đẩy mạnh trừ gian diệt ác ôn, đánh rã bộ máy kìm kẹp, hạ uy thế địch, tạo thế cho phong trào cách mạng của quần chúng nổi dậy tiến lên tiêu diệt các cơ quan đầu não, các tổ chức công an, tình báo địch, các đảng phái phản động, đánh tan các cơ sở phản động của địch một cách triệt để, góp phần đánh sập chính quyền Sài Gòn từ Trung ương đến tận cơ sở, giành chính quyền về tay nhân dân; tích cực nắm vững tình hình địch, tích cực chuẩn bị lực lượng chuyên môn để triệt, để truy kích địch, bảo vệ chính quyền cách mạng sau này". Tiếp sau đó, ngày 14-1-1968, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 22 đã nhận định năm 1968 có vị trí quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước trên cả hai miền nước ta và xác định công tác an ninh tập trung thực hiện tốt ba nhiệm vụ cơ bản là: 1- Ra sức giữ vững an ninh miền Bắc nhằm phục vụ tốt công cuộc xây dựng kinh tế và sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc và chi viện miền Nam; 2- Chi viện tốt cho công tác an ninh miền Nam, đảm bảo yêu cầu trước mắt, đồng thời đáp ứng kịp tình hình cách mạng khi có chuyển biến lớn; 3- Ra sức bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, cải tiến công tác, cải tiến tổ chức và lề lối làm việc, tổng kết kinh nghiệm và xây dựng lý luận nghiệp vụ, nhằm bảo đảm thực hiện tốt hai nhiệm vụ trên.

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Công an, Trung ương Cục miền Nam và cấp ủy đảng các cấp, lực lượng an ninh miền Nam đã huy động hơn 3.000 cán bộ, chiến sĩ an ninh thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch được phân công, kết hợp với lực lượng tại chỗ tiến công vào các cơ quan đầu não, bộ máy kìm kẹp an ninh, cảnh sát, hệ thống giao thông, sân bay, kho tàng, trại giam của địch trong các đô thị và lập nên những chiến công lớn. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt, cam go, phức tạp đó, hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ an ninh và hàng trăm cơ sở của lực lượng an ninh đã hy sinh anh dũng, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ bị địch bắt và giam giữ tù đày trong các nhà giam của địch. Vai trò và những đóng góp to lớn của lực lượng Công an nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được thể hiện trên các nội dung chính sau:

Thứ nhất, lực lượng công an đã chủ động chuẩn bị toàn diện về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Ngày 19-12-1967, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn thành lập Phòng theo dõi tình hình miền Nam nhằm nghiên cứu góp ý kiến kịp thời các chủ trương, chính sách, biện pháp đấu tranh chống mọi hoạt động tình báo gián điệp, phá hoại của đế quốc Mỹ và tay sai, phục vụ cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa đang đến gần. Cuối năm 1967, Bộ Công an đã triệu tập 776 cán bộ, mở 4 lớp học tại nơi sơ tán, bồi dưỡng mọi mặt chuẩn bị chi viện cho an ninh miền Nam; tháng 1-1968, tất cả cán bộ, chiến sĩ này cùng hàng trăm tấn vũ khí, tài liệu, phương tiện thông tin liên lạc được chi viện cho các chiến trường miền Nam. Công an nhân dân là một trong những lực lượng chi viện chiến trường miền Nam sớm nhất, đúng lúc, kịp thời, toàn diện về cán bộ, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, hậu cần... góp phần quan trọng làm chuyển biến tương quan lực lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc Tổng tiến công.

Thiết thực hưởng ứng cuộc tiến công toàn diện của quân dân miền Nam, ở miền Bắc, lực lượng Công an nhân dân đẩy mạnh thi đua, đấu tranh làm thất bại chiến tranh gián điệp và chiến tranh tâm lý của địch, giữ gìn trật tự, an ninh để bảo vệ miền Bắc. Tại miền Nam, Ban an ninh tất cả các khu, phân khu, tỉnh thành đều có kế hoạch toàn diện về công tác bảo vệ, bố trí lực lượng tham gia các mũi tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, các vùng nông thôn địch còn tạm chiếm. Trong toàn miền đã xây dựng được thêm 117 cơ sở mới và 1.198 cơ sở bí mật trong các cơ quan tình báo, cảnh sát, đoàn bình định, ngụy quyền, đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Mạng lưới giao liên được tăng cường, các tổ cơ yếu, điện đài, trinh sát kỹ thuật, thông tin liên lạc được hình thành phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và phục vụ công tác đánh địch.

Ở các vùng căn cứ giải phóng như Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định), Tây Ninh, Long Xuyên, Châu Đốc, an ninh địa phương đã tham gia công tác vận động tân binh, bảo vệ hàng vạn dân công, hàng trăm tàu thuyền đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí đạn dược, lương thực... từ căn cứ vào các thành phố, thị xã. Bộ phận kỹ thuật nghiệp vụ của Bộ tăng cường làm ra hàng nghìn giấy căn cước "Rồng xanh", giấy "miễn quân dịch", "sự vụ lệnh" giống như của địch để cấp cho cán bộ, chiến sĩ ta vào đô thị hoạt động.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Ban An ninh Trung ương Cục và Ban an ninh các địa phương đều kiện toàn lại tổ chức, cán bộ nhằm tăng cường cho các chiến trường chính và khu trọng điểm. An ninh khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định được tổ chức thành 6 phân khu. Giải thể Ban An ninh miền Đông Nam Bộ (T1), rút đội trinh sát bảo vệ chính trị và ban bảo vệ căn cứ 105 về thành lập đại đội an ninh vũ trang. Ngày 15-12-1967, Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định còn thành lập đơn vị an ninh vũ trang với nhiệm vụ đánh vào mục tiêu Tổng nha Cảnh sát và Nha Cảnh sát đô thành. Lực lượng trinh sát vũ trang cũng được tăng cường, biên chế thành 2 đội làm nhiệm vụ tiêu diệt bọn tình báo đầu sỏ, cảnh sát ác ôn. Ngoài ra, Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định còn cử một tổ tiền trạm xuống địa bàn để xây dựng căn cứ cho Bộ Tư lệnh Tiền phương.

Thứ hai, bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình địch; tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, dẫn đường, phối hợp với Quân giải phóng và nhân dân đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, phá rã bộ máy kìm kẹp, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch, tạo thế cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

Lực lượng An ninh miền Nam đã tập trung nắm các cơ quan, tổ chức, trụ sở công khai, bí mật của địch, các kho cất giấu tài liệu, các đảng phái phản động; nắm chắc danh sách, nhận dạng, lý lịch của số cầm đầu ác ôn trong ngụy quyền, số chỉ huy quân sự, tình báo, an ninh quân đội Mỹ - Sài Gòn, cảnh sát, số chiêu hồi bình định chiến tranh tâm lý, chỉ huy trong các trung tâm cải huấn... Những thông tin, tình hình này đã phục vụ đắc lực cho kế hoạch tổng tiến công của quân và dân ta vào đầu năm 1968.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, các lực lượng vũ trang miền Nam đã mở một cuộc tổng tiến công trên toàn chiến trường, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, hàng trăm quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sân bay, bến cảng, sở chỉ huy của địch. An ninh miền Nam đã huy động toàn bộ lực lượng cùng với các lực lượng vũ trang khác và quần chúng nhân dân thực hiện "hai chân", "ba mũi" giáp công xuyên suốt trong cả quá trình chiến tranh cách mạng ở miền Nam; tổ chức thành công lối đánh dũng mãnh, táo bạo, bất ngờ, đồng loạt, nhằm trúng các mục tiêu "yết hầu", "huyết mạch", "tim óc" của địch; trong đợt I, ta đã bắt, diệt 15.135 gián điệp, tình báo, trong đó có 1.359 tình báo, 1.766 cảnh sát, 632 bình định nông thôn, 492 ác ôn, 3.409 tên đầu sỏ; giải phóng hầu hết các nhà lao (trung tâm cải huấn) và trại giam, giải thoát hơn 6.000 cán bộ và đồng bào yêu nước; tham gia phá vỡ 4.200 ấp chiến lược, giải phóng thêm 1,4 triệu dân. Hệ thống ngụy quyền cùng bộ máy kìm kẹp của địch bị phá rã nặng nề; khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch bị phá hủy.

Tại khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, An ninh T4 đã huy động mọi lực lượng hoàn thành nhiệm vụ trừ gian diệt ác và những đối tượng đầu sỏ quan trọng, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở cơ sở. Đặc biệt, 12 cán bộ, chiến sĩ phân đội An ninh vũ trang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, dẫn đường đưa một bộ phận Bộ Tư lệnh Tiền phương II luồn sâu vào trung tâm thành phố, đã chiến đấu anh dũng, hy sinh đến người cuối cùng trên đường phố Quận 11 để tạo điều kiện cho lãnh đạo rút lui an toàn.
Tại Huế, trong đợt Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng an ninh và bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đồng loạt tiến công vào các mục tiêu trọng điểm và nhanh chóng chiếm phần lớn các vị trí trong thành phố, giải phóng hàng chục xã, hàng trăm thôn với hàng chục vạn dân và giữ thành phố trong 25 ngày đêm.

Tại các địa phương khác như: Tây Ninh, Biên Hòa, Bà Rịa, Bình Dương, Long An, Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Phong, Cần Thơ, Vĩnh Long... lực lượng an ninh các địa phương đã giữ vai trò nòng cốt trong công tác mở đường, nắm tình hình, cùng với các lực lượng vũ trang giải phóng, quần chúng nhân dân đồng loạt tiến công vào các trụ sở của địch, trừng trị ác ôn ngoan cố, tìm bắt tề điệp, cảnh sát, chiêu hồi bình định, phá thế kìm kẹp của địch. Các chiến sĩ an ninh đã phát động quần chúng bảo mật phòng gian, vận động nhân dân làm hầm hào phòng địch đánh phá, giáo dục gia đình có người theo địch trở về, xây dựng xã chiến đấu, kiên quyết giữ vững quyền làm chủ ở ấp, xã; nhanh chóng, kịp thời khai thác những tên địch bị bắt và những tên đầu hàng, đầu thú phục vụ kế hoạch tiến công và nổi dậy xóa bỏ bộ máy kìm kẹp của địch.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:21:36 am
Thứ ba, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, bí mật, an toàn, kịp thời truyền đạt những chỉ đạo, mật lệnh của Trung ương Đảng, Đảng đoàn, lãnh đạo Bộ Công an về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, thắng hay bại của cuộc chiến tranh một phần lớn do biết giữ bí mật hay không biết giữ bí mật quyết định. Trong bài "Giữ bí mật" đăng trên báo Sự thật, số 97, ngày 30-7-1948 với bút danh A.G, Người viết: "Ta biết giữ bí mật, thì bọn Việt gian mật thám khó mà hoạt động. Ta biết giữ bí mật, thì dù địch có trăm tai, ngàn mắt, cũng không dò được tin tức của ta. Vì vậy, biết giữ bí mật, tức là đã nắm chắc một phần thắng lợi trong tay ta". Quán triệt tư tưởng của Người, lực lượng Cơ yếu Công an miền Bắc và An ninh miền Nam ở nhiều địa bàn khác nhau, từ các căn cứ chiến đấu, vùng giải phóng đến tận sào huyệt của kẻ thù ở Sài Gòn, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, mưu trí, dũng cảm bảo vệ tài liệu mật mã, chuyển báo bí mật an toàn về Bộ Công an hàng nghìn nguồn tin tình báo có giá trị chiến lược, giúp Bộ Chính trị, Đảng đoàn và lãnh đạo Bộ Công an kịp thời đánh giá tình hình và đưa ra các chủ trương chỉ đạo sâu sát đối với cách mạng miền Nam. Tháng 12-1967, Cơ yếu An ninh Trung ương Cục đã kịp thời giải mã bức điện tuyệt mật về "Kế hoạch Mậu Thân (1968)" được chuyển từ miền Bắc vào qua đường Phnôm Pênh (Campuchia). Nội dung kế hoạch được đảm bảo tuyệt đối bí mật về ngày, giờ tấn công và nổi dậy của toàn quân và dân miền Nam. Cơ yếu Công an nhân dân ở hai miền Nam - Bắc đã mã dịch chuyển báo kịp thời, an toàn một tài liệu cực kỳ quan trọng của lãnh đạo Bộ Công an về một số vấn đề xung quanh việc quản lý các đô thị mới giải phóng cho An ninh Trung ương Cục chỉ đạo các đơn vị an ninh cơ sở miền Nam tổ chức thực hiện. Sau này, khi đánh giá vai trò và những đóng góp to lớn của công tác cơ yếu Công an nhân dân, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: "Trong mấy chục năm qua, chúng ta đánh giặc, chúng ta biết được rằng: Những lúc quan trọng nhất, những vấn đề bí mật nhất của ta không bị lộ. Các đồng chí đã góp phần rất quan trọng vào việc giữ bí mật, vào sức mạnh chung để giành thắng lợi" .

Thứ tư, đẩy mạnh phong trào phòng gian bảo mật; bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, các Bộ Tư lệnh Tiền phương tham gia công tác chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở địa phương.

Trước tình hình địch đánh phá ác liệt, để thực hiện mục tiêu bảo vệ an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não trong mọi tình huống, Ban An ninh Trung ương Cục đã hết sức chú trọng chỉ đạo, hướng dẫn công tác bảo vệ, nâng cao cảnh giác, phòng gian bảo mật; nhiều kế hoạch chống thám báo, trinh sát, do thám, biệt kích, gián điệp được vạch ra và triển khai thực hiện hiệu quả. Lực lượng an ninh đã đấu tranh làm thất bại nhiều hoạt động tình báo, gián điệp của địch; phối hợp với các lực lượng chức năng của quân đội, cơ quan các cấp rà soát làm trong sạch nội bộ, tuần tra, canh gác vũ trang đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối về địa điểm đóng quân, trụ sở cơ quan Trung ương Cục miền Nam, các khu ủy, nơi cất giấu vũ khí, đạn dược, hầm nuôi giấu cán bộ trong khu vực nội đô; bảo vệ tuyệt đối an toàn các nhân sĩ, trí thức trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Thứ năm, chủ động phục hồi lực lượng tại những vùng địch phản công chiếm giữ; kiên cường bám đất, bám dân, vừa khôi phục sinh hoạt bình thường của nhân dân vừa nhanh chóng bảo đảm trật tự trị an địa bàn.

Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địch tập trung lực lượng phản kích rất quyết liệt, gây cho ta nhiều thiệt hại, trong đó có lực lượng an ninh. Nhiều cơ sở an ninh bị vỡ, có nơi hầu như "trắng tay", phải mất một thời gian dài mới khôi phục được. Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn của lực lượng an ninh miền Nam. Trong bối cảnh vô cùng phức tạp và ác liệt đó, để xây dựng và củng cổ tổ chức cơ sở an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, ngoài các lực lượng vũ trang bám chặt địa bàn đánh địch với khẩu hiệu "Một tấc không đi, một ly không rời", ban lãnh đạo đặc khu Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo phân tán nhỏ căn cứ và nới rộng bàn đạp ra các tỉnh xung quanh làm nơi đứng chân; xây dựng nhiều đầu mối giao liên an ninh đảm bảo sự chi viện bên ngoài vào đô thị, đồng thời đón nhận sự chi viện của an ninh miền Nam và Bộ Công an về cán bộ, vũ khí, tài chính... Cuối năm 1968, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Ban An ninh T4 chỉ đạo lực lượng trinh sát vũ trang chuyển hướng kịp thời; thông qua vận động giác ngộ quần chúng tham gia các phong trào công khai chống địch như phong trào công nhân, sinh viên, học sinh, phụ nữ để tuyển chọn vào lực lượng an ninh mật, điệp báo, tạo chỗ ăn, ở cho cán bộ, chiến sĩ an ninh...; thông qua xây dựng "lõm" chính trị trong nội đô để xây dựng lực lượng an ninh rộng khắp. Ban an ninh và một số cán bộ còn bám được địa bàn nội đô móc ráp lại cơ sở bị gián đoạn, hình thành mạng lưới điệp báo trong nội thành.

Cùng với đó, lực lượng an ninh chủ động nghiên cứu, đề xuất cấp ủy và nhanh chóng triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn ngừa các thủ đoạn chia rẽ, lôi kéo, phá hoại của địch, bảo đảm trật tự trị an địa bàn; phối hợp cùng với các lực lượng khác khôi phục sinh hoạt bình thường của quần chúng nhân dân.

Qua ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng An ninh miền Nam đã góp phần to lớn vào thắng lợi chung của quân và dân cả nước, giáng một đòn chí tử vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh trúng, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của bộ máy chính quyền Sài Gòn, làm rung động dư luận quốc tế và chính giới Hoa Kỳ.
Kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (1968-2018) là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại truyền thống vẻ vang, những chiến công oanh liệt trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc. Chúng ta thành kính tôn vinh, bày tỏ lòng tri ân sâu sắc trước những cống hiến, hy sinh to lớn của quân, dân ta, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đã làm nên chiến công lịch sử trọng đại này.

Tiếp tục phát huy tinh thần Tổng tiến công và nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp, giúp đỡ của các lực lượng và sự đùm bọc, che chở, ủng hộ của nhân dân, lực lượng Công an nhân dân luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, hun đúc bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nòng cốt trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, mãi xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:26:40 am
SỨC MẠNH CHÍNH TRỊ, TINH THẦN - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tướng LƯƠNG CƯỜNG
Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam



1. Cách đây 50 năm, vào đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (đêm mồng một Tết Mậu Thân), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đã diễn ra trên ba vùng chiến lược: nông thôn đồng bằng, đô thị và miền núi. Tại địa bàn đô thị, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4/6 thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định và Huế, 37/44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn ở miền Nam Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã tiến công vào nhiều cơ quan đầu não của địch, như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn,... Tại địa bàn nông thôn đồng bằng, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng nhân dân đã nổi dậy, đập tan bộ máy chính quyền của địch ở nhiều nơi, giành quyền làm chủ, xây dựng, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.

Lần đầu tiên sau nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của quân Mỹ, chính quyền và quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã bị quân ta tiến công; hậu phương, hậu cứ chiến tranh của địch trở thành chiến trường - nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều ngày, có nơi kéo dài hàng tháng.

Quân và dân ta đã đánh mạnh, đánh hiểm, đánh trúng vào 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8/11 bộ tư lệnh sư đoàn quân ngụy Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh dã chiến của Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông; tiêu diệt nhiều tên địch, phá hủy hơn 34% vật tư, phương tiện chiến tranh của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn, đưa chiến tranh cách mạng vào trung tâm thành phố, nơi đầu não của kẻ thù, làm rối loạn hậu phương địch; giáng đòn chí mạng và làm suy giảm uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được ghi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam như là một mốc son chói lọi, một chiến thắng mang tính quyết định: đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, thương lượng với ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là một cuộc tập dượt lớn chuẩn bị cho giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975.

Sức mạnh làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là sức mạnh tổng hợp của đất nước, trong đó sức mạnh chính trị, tinh thần được phát huy cao độ, là nhân tố có vai trò quyết định, được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Một là, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là động lực to lớn, chiếm ưu thế tuyệt đối so với quân Mỹ và tay sai trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Xem xét nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nếu chỉ dựa trên quan điểm vũ khí luận thì không thể đưa ra được lời giải đáp đúng đắn. Bởi vì, vào cuối năm 1967, ở chiến trường miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ đã huy động 480.000 quân Mỹ (70% lục quân, 60% không quân, 40% hải quân, 60% lực lượng lính thủy đánh bộ); 68.800 quân của các nước chư hầu; 552.000 quân của quân đội ngụy quyền để thực hiện mục tiêu thôn tính nước ta. Trong tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra thì đối phương có ưu thế hơn ta về quân số, vũ khí và trang bị kỹ thuật quân sự.

Trong chiến tranh, để giành thắng lợi, nhất thiết phải tạo ra sức mạnh vượt trội so với kẻ thù. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là cơ sở, "chất keo" kết dính các nhân tố khác, quy tụ, tập hợp, khơi dậy và nhân lên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc, làm chuyển hóa lực lượng, thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội về mọi mặt so với quân địch. Vì vậy, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là một trong những nhân tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Sức mạnh chính trị, tinh thần đã góp phần làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, là sự kết tinh, hội tụ ý chí quyết tâm đánh giặc và thắng giặc của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam và sự kiên trung, anh dũng, kiên quyết chống kẻ thù xâm lược, cứu nước, cứu nhà của nhân dân cả nước; là sức mạnh tổng hợp của đất nước và của chế độ xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại.

Đánh giá nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thắng lợi đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và của sức mạnh toàn dân đoàn kết quyết chiến quyết thắng, thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp" .

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự hội tụ và phát huy cao độ sức mạnh chính trị, tinh thần của dân tộc, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai miền Nam, Bắc nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa, thiêng liêng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm sắt đá, quân và dân ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; giành độc lập, tự do cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong phong trào Đồng khởi những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, sau đó là các chiến thắng Ấp Bắc, Vạn Tường, chiến thắng trong chiến dịch mùa khô năm 1967 đã góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ cũng như thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc là thực tế sinh động, phản ánh "ưu thế tuyệt đối" về chính trị, tinh thần của quân và dân ta so với quân xâm lược và bè lũ tay sai.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là ưu thế về sức mạnh của "lòng dân", của những người chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cao cả; ưu thế về tinh thần, ý chí quyết tâm chiến đấu của những người dân yêu nước, đầy khát vọng và mong muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do; kiên quyết chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thể hiện rõ ở chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của nhân dân ta.
Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta luôn được tăng cường trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Dựa trên sức mạnh chính trị, tinh thần, quân và dân ta đã tạo ra thế và lực để mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhờ đó, thế và lực của ta không ngừng phát triển, tạo ra những tiền đề mới để giải phóng miền Nam.

 Hai là, sức mạnh chính trị, tinh thần là nhân tố quyết định chuyển hóa lực lượng, thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội so với quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tinh thần yêu nước, tình yêu quê hương, khát vọng sống hòa bình, độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và lẽ sống của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã được phát huy và nhân lên thành sức mạnh, góp phần chuyển hóa thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội so với quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc đã được biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật để bổ sung cho mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên hơn 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích và tự vệ). Trong hai năm 1967 và 1968, các chiến sĩ vận tải, thanh niên xung phong, hải quân ở miền Bắc đã vượt Trường Sơn và biển cả để chi viện cho chiến trường miền Nam: 118.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh..., đã phục vụ đắc lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Sức mạnh chính trị, tinh thần của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là động lực có uy thế tuyệt đối để quân và dân ta vượt mọi thử thách, khó khăn, gian khổ; phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo trong chiến đấu, nâng cao hiệu quả sử dụng vũ khí, trang bị để tìm ra cách đánh hay, phù hợp, giành được thắng lợi. Lý tưởng, lẽ sống "cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù", tinh thần "cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc" của quân và dân ta được phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Sự dũng cảm, kiên cường, mưu trí và sáng tạo trong chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên khắp miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Hình ảnh anh Giải phóng quân mặc dù đã hy sinh khi tiến công địch ở sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng tay vẫn ôm chặt súng hướng nòng về phía địch làm cho kẻ thù khiếp sợ, được nhà thơ Lê Anh Xuân khắc họa trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam, nói lên sự hiên ngang, bất khuất của các chiến sĩ Giải phóng quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 1.

Sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn của quân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã được những người bên kia chiến tuyến thừa nhận và khâm phục. Thượng nghị sĩ R.Kennơđi đã phải thốt lên rằng: "Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp đầy đủ trang bị, vũ khí hiện đại lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công". Trung tướng B.Traino, người từng có mặt ở chiến trường miền Nam Việt Nam, nhận xét: "Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập...". Sau này, trong hồi ký, Tổng thống Mỹ L.B.Giônxơn xác nhận: Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là "một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ", "cố gắng của đối phương đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ", nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đã thất bại".




--------------------------------------------------------------
1. "Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
   Nhưng Anh gượng đứng lên tỳ súng trên xác trực thăng
   Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
   Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng
   Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
   Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
   Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
   Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
".
                   (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:28:45 am
Ba là, sức mạnh chính trị, tinh thần đã quy tụ, khơi dậy và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Khát vọng sống hòa bình và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta được tập hợp, khơi dậy và phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Vào thời điểm ấy, Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam" (12-1967), đã xác định chủ trương: Động viên những nỗ lực lớn nhất của quân dân hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. Khẩu hiệu trung tâm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được Nghị quyết xác định là: Độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất, chấm dứt chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ rút quân về nước, chủ quyền thuộc về người Việt Nam.

Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Quân giải phóng miền Nam đã huy động được phần lớn nhân dân trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô, cất giấu và cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra, và xây dựng được phong trào "hũ gạo nuôi quân". Lực lượng quần chúng kết hợp với các đơn vị vận tải của Quân giải phóng đã chuyển hàng trăm tấn hàng từ vùng Mỏ Vẹt xuống vùng Tây Nam Sài Gòn. Quân giải phóng đã huy động hàng trăm xe bò chở hàng từ Mỏ Vẹt xuống Hóc Môn, Gò Vấp. Trước Tết Mậu Thân, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực, sau đó, cứ mỗi tuần lại quyên góp một lần (do Hội Phụ nữ phát động). Các huyện đều thành lập đội cung cấp để huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Các gia đình đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí...

Đánh giá hiệu quả tham gia của quần chúng nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đại tướng Lê Đức Anh viết: "Quần chúng đã tham gia tích cực vào cuộc chuẩn bị cho đợt tiến công này và sau khi nổ súng đã tham gia đông đảo bằng nhiều hình thức trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân đã trinh sát, nắm tình hình, dẫn đường, che giấu bộ đội và tích cực tham gia chiến đấu, tiếp tế cơm nước cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh rồi đưa về căn cứ. Nhiều người, nhiều trường hợp cả gia đình bị bắt, khủng bố, tù đày... vẫn một lòng hướng về cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước" .

Nhờ xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân và sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của quần chúng nhân dân nên Quân giải phóng đã đồng loạt nổ súng và tiến công địch trên các địa bàn rộng khắp miền Nam. Điều này khiến cho quân địch kinh hoàng, khiếp sợ. Sự ủng hộ của nhân dân miền Nam đối với Quân giải phóng được nhà sử học Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: "Khắp thế giới ngạc nhiên và phục "Việt cộng" tổ chức cách nào mà Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài Gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền biết. Trái lại, mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của Việt Nam Cộng hòa họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại hoài" .

2. Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, là ưu thế tuyệt đối của ta so với quân địch, là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, qua đó đã chứng minh quan điểm đúng đắn của V.I. Lênin về vai trò của nhân tố tinh thần: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy" . Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được nhân lên và phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và là nhân tố quyết định thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975, "đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nhiều thuận lợi, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia - dân tộc, tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống và các hình thái chiến tranh kiểu mới. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, ngày càng phức tạp hơn. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày càng được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn. Điều đó tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò sức mạnh chính trị, tinh thần làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai nếu xảy ra, có thể kẻ thù vẫn chiếm ưu thế về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, nhưng ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần cũng như sức mạnh tổng hợp vẫn thuộc về quân và dân ta. Đây là cơ sở vững chắc để củng cố lòng tin của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, để tăng cường sức mạnh chính trị, tinh thần, làm cơ sở nâng cao sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương, cả hệ thống chính trị phải thật sự quan tâm chăm lo xây dựng "thế trận lòng dân", phát huy sức mạnh nhân tố chính trị, tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống chống giặc ngoại xâm, ý thức tự lực, tự cường; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:34:12 am
BỘ TỔNG THAM MƯU TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tướng, TS. PHAN VĂN GIANG
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng


Vào thời điểm Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta ở miền Nam đã mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đồng loạt đánh vào 4/6 thành phố lớn, 37/44 thị xã, 64 thị trấn, chi khu, quận lỵ, sân bay, căn cứ hậu cần... của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên chiến trường miền Nam. Đây là cuộc tập kích chiến lược của ta có quy mô rộng lớn nhất, cường độ mãnh liệt nhất từ trước đến thời điểm đó. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm cho quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân đồng minh của Mỹ thiệt hại nặng nề 1, gây kinh hoàng cho nước Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, tạo ra sự thay đổi đột biến của cuộc chiến tranh. Quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn từ Trung ương đến địa phương bị tê liệt chỉ huy, rối loạn hiệp đồng. Nội bộ Mỹ và Sài Gòn mâu thuẫn, đổ lỗi cho nhau. Thế trận chiến lược của Mỹ ở chiến trường miền Nam bị đảo lộn từ thế chủ động phản công chiến lược, buộc phải chuyển vào phòng ngự bị động chống đỡ ngay tại địa bàn thành phố, thị xã. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 làm cho các tầng lớp nhân dân trên toàn nước Mỹ xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Nội các Mỹ bị phân hóa, chia rẽ sâu sắc. Tổng thống Giônxơn phải triệu tập cuộc họp khẩn cấp để thảo luận về cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Đối với ta, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố, trong đó, vai trò của Bộ Tổng Tham mưu trong giai đoạn tiến công địch, có ý nghĩa quan trọng, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau.

Một là, tổ chức hoạt động tác chiến nghi binh, tạo lập thế trận, nắm chắc thời cơ đồng loạt nổ súng tiến công địch.

Tính đến tháng 12-1967, về so sánh tương quan lực lượng, địch vẫn mạnh hơn ta. Các cơ quan chỉ huy đầu não trọng yếu của địch, như: Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế và các thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam, được bố trí lực lượng bảo vệ nhiều lớp, nghiêm ngặt, do đó, việc ta đưa lực lượng vào tiếp cận, tạo lập thế trận đồng loạt tiến công các mục tiêu là vấn đề rất khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, trên cơ sở quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các lực lượng của ta tổ chức một số hoạt động tác chiến nhằm nghi binh, thu hút, giam chân chủ lực địch, kéo sự chú ý của chúng về một hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cơ động tiếp cận, áp sát mục tiêu, hình thành thế trận đồng loạt tiến công thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với nước bạn Lào mở Chiến dịch Nậm Bạc và chỉ đạo Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh tiến công nghi binh, thu hút, giam chân địch. Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu chủ động phối hợp với Tổng cục Chính trị, Bộ Ngoại giao và các phương tiện truyền thông, tập trung tuyên truyền hoạt động tác chiến của ta trên các hướng nghi binh, hạn chế tuyên truyền trên hướng thành phố, thị xã. Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các sư đoàn chủ lực của ta từ miền Bắc vào, đang đứng chân trên chiến trường miền Nam, cơ động tập kết, hình thành thế bao vây, uy hiếp địch ở Khe Sanh. Trước các hoạt động nghi binh của ta, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn bị dồn hết tâm trí về hướng nghi binh, chủ quan bỏ hở vùng thành phố, thị xã, tạo ra điều kiện thuận lợi cho lực lượng của ta cơ động, áp sát mục tiêu, tạo lập thế trận đồng loạt tiến công, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Thực tế đã chứng minh, ngay sau khi Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo mở Chiến dịch Nậm Bạc và Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, Tổng thống Giônxơn đã chỉ thị cho tướng Taylo thành lập ngay "Phòng tình hình đặc biệt" tại Nhà Trắng. Theo đó, Tổng thống Mỹ đích thân theo dõi chiến sự ở Đường 9 - Khe Sanh và chỉ thị tướng Oétmolen phải hành động ngay, đồng thời yêu cầu Hội đồng Tham mưu liên quân Mỹ "ký tên bằng máu" cam kết bảo vệ Khe Sanh bằng bất cứ giá nào . Bị trúng đòn nghi binh chiến lược của ta, Lầu Năm Góc và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gòn buộc phải hủy kế hoạch phản công chiến lược vào miền Đông Nam Bộ. Đồng thời, điều động Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, cùng hai lữ đoàn dù thuộc Sư đoàn 101 Mỹ, sử dụng máy bay B52 ném bom 15 đến 20 lần/ngày và điều động nhiều lực lượng, phương tiện quân sự khác, chi viện cho lực lượng của chúng ở Đường 9 - Khe Sanh. Trong khi đó, cơ quan chỉ huy đầu não và căn cứ quân sự của địch ở các thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam bị buông lỏng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các sư đoàn, trung đoàn chủ lực Miền, đơn vị binh chủng tổ chức từng bước rời căn cứ cơ động áp sát mục tiêu, tạo lập thế trận đồng loạt tiến công một cách thuận lợi.

Lo sợ trước các hoạt động tác chiến của ta, mặc dù thời khắc giao thừa Tết Mậu Thân 1968 đã đến, trong khi quân Mỹ thực hiện nghiêm mệnh lệnh cấm trại, sẵn sàng chiến đấu, thì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và quân đội Sài Gòn vẫn về nghỉ Tết cùng gia đình. Lực lượng trực của quân đội Sài Gòn ở các mục tiêu trong thành phố, thị xã trên khắp chiến trường miền Nam chỉ còn 50%, các tuyến ra vào thành phố có nhiều sơ hở. Nắm chắc thời cơ đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các lực lượng đồng loạt nổ súng tiến công vào các mục tiêu của địch ở thành phố, thị xã trên khắp chiến trường miền Nam, làm cho Mỹ và Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, tê liệt chỉ huy, rối loạn hiệp đồng, lúng túng, bị động chống đỡ. Quân chủ lực của địch ở Đường 9 - Khe Sanh, từng giờ phải phân tán lực lượng, vắt sức, tìm mọi cách đối phó với đòn vây ép, giam chân của ta, không còn khả năng chi viện, ứng cứu giải tỏa cho lực lượng của chúng đang bị tiến công ở thành phố, thị xã.

Hai là, nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng và thế trận trong quá trình tác chiến.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được tiến hành đồng loạt trên phạm vi rộng, mục tiêu tiến công là các trung tâm đầu não chỉ huy trọng yếu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế..., vì vậy, quá trình chỉ đạo, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng, thế trận tác chiến.

Đối với chiến trường Sài Gòn - Gia Định, đây là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam, là trọng điểm quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Sau khi các lực lượng nổ súng tiến công, đánh chiếm được một phần Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Tòa Đại sứ Mỹ, Tổng nha Cảnh sát..., địch tổ chức phản kích mạnh. Trên hướng tây và tây nam Sài Gòn - Gia Định, quân số của ta bị tổn thất, sức tiến công giảm, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức Tiểu đoàn 6 Bình Tân, vừa đánh địch, vừa củng cố lực lượng. Ở hướng nam, Tiểu đoàn 1 Đồng Nai tiến công địch ở thị xã Tân An, quá trình đánh chiếm mục tiêu bị địch phản kích mạnh, lực lượng, phương tiện bị tiêu hao, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo bộ phận này cơ động về Hưng Long, phối hợp với các lực lượng chiến đấu.

Ở các vùng phụ cận, ngoại vi thành phố Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình, kịp thời chỉ đạo các đơn vị điều chỉnh lực lượng, thế trận, xử trí các tình huống tác chiến, giữ vững địa bàn, bảo toàn lực lượng, tạo thế, tạo lực cho các hoạt động tác chiến tiếp theo.

Do công tác hiệp đồng tác chiến giữa các đội biệt động và tiểu đoàn tiến công mũi nhọn cùng quần chúng nổi dậy ở một số hướng nội đô Sài Gòn còn sơ hở, thiếu chặt chẽ nên bị địch chặn đánh, lực lượng thiệt hại nặng, Bộ Tổng Tham mưu đã đề xuất Bộ Quốc phòng, Quân ủy Trung ương kịp thời điều chỉnh lực lượng, thế trận để đánh địch. Trong đó, chỉ đạo lực lượng trên từng hướng, khắc phục khó khăn, kiên quyết giữ vững mục tiêu chiếm được, đẩy mạnh tác chiến ở trung tâm và xung quanh Sài Gòn; kết hợp cùng quần chúng nổi dậy, hình thành thế trận bao vây nhiều tầng, nhiều lớp, thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, tiêu hao, tiêu diệt quân viễn chinh Mỹ - ngụy Sài Gòn, giành thắng lợi.

Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên theo dõi, bám sát tình hình, chỉ đạo từng lực lượng, từng hướng tiến công ở cả nội và ngoại đô Sài Gòn, kịp thời rút kinh nghiệm, điều chỉnh lực lượng, giữ vững thế trận tác chiến trong suốt quá trình đánh địch.

Đối với chiến trường Huế, là một trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, do làm tốt công tác chuẩn bị nên các lực lượng vũ trang phối hợp với quần chúng nổi dậy phát triển tiến công thuận lợi, đánh chiếm được nhiều mục tiêu quan trọng của địch. Nhằm nhanh chóng đánh chiếm mục tiêu còn lại, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng cho Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị sử dụng pháo binh tập kích vào các mục tiêu, căn cứ địch ở Đông Hà và phía đông và tây Đường 9. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trị - Thiên sử dụng một lực lượng nhỏ tiêu diệt quân địch trong thành phố, lực lượng lớn còn lại nhanh chóng củng cố mọi mặt, sẵn sàng cơ động đánh địch phản kích trên các hướng, giữ vững mục tiêu và mở rộng địa bàn tác chiến.

Trong quá trình tác chiến, địch tổ chức phản kích với lực lượng lớn, một số hướng của ta gặp khó khăn. Nắm chắc tình hình, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Quân khu Trị - Thiên và các lực lượng tập trung sức mạnh đánh gãy cánh quân địch ở phía bắc, phát động nhân dân đánh cắt giao thông, phá cầu vào thành phố Huế; động viên bộ đội khắc phục khó khăn, tiết kiệm đạn, tích cực đánh địch phản kích, giữ vững trận địa. Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Quân khu Trị - Thiên điều chỉnh lực lượng, thế trận, rút hai tiểu đoàn đứng chân ở Phú Lộc cơ động lên nam Phú Bài đánh địch phản kích, giữ vững mục tiêu. Để tiêu diệt đồn Mang Cá nhanh, hiệu quả, Bộ Tổng Tham mưu đã điều chỉnh lực lượng, tăng cường Trung đoàn 8 cho Quân khu 5, chỉ đạo các lực lượng dùng thuốc nổ mạnh và sử dụng đặc công, súng phun lửa đánh địch. Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng điều Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, Mặt trận Đường 9 tăng cường cho Mặt trận Trị - Thiên, chỉ đạo các lực lượng kết hợp phòng ngự với tiến công liên tục và quần chúng nổi dậy, giữ vững mục tiêu. Bên cạnh đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị tiếp tục điều tiểu đoàn công binh, đại đội xe tăng PT76, tiểu đoàn pháo 85mm..., tăng sức chiến đấu cho Mặt trận Trị - Thiên; chỉ đạo Đoàn 559 tích cực vận chuyển đạn, làm thông đường 12, đưa xe tăng PT76 và pháo nòng dài Đ74 vào vị trí theo kế hoạch; chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân sử dụng máy bay tiếp tế vật chất cho ta và ném bom vào căn cứ của địch ở Phú Bài; thống nhất với Tổng cục Hậu cần bảo đảm phương tiện vận tải cho lực lượng tác chiến ở Huế. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu bám sát diễn biến tình hình, chỉ đạo các lực lượng kịp thời xử trí tình huống tác chiến, kiên cường đánh địch phản kích, giữ vững mục tiêu.

Nhờ nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng, thế trận tác chiến hợp lý, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo lực lượng của ta nhanh chóng tiến công giải phóng thành phố Huế, trụ bám các mục tiêu trong thời gian dài.

Đối với chiến trường Đà Nẵng, là một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, sau khi nổ súng đánh chiếm được một phần các mục tiêu quan trọng, lực lượng của ta bị địch chặn đánh quyết liệt, tỷ lệ thương vong cao, sức tiến công giảm sút. Nắm chắc tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quân khu 5 một trung đoàn; đồng thời điều động Đại đội đặc công 25 Đà Nẵng tiến công phá hủy trạm rađa của địch ở Phước Tường, cắt đứt sự quan sát, phát hiện của chúng. Trên hướng nam thành phố Đà Nẵng, Sư đoàn 2 Quân khu 5 trong quá trình tiến công bị địch sử dụng hỏa lực không quân, pháo binh ngăn chặn, lực lượng bị tổn thất, quần chúng nổi dậy không đủ sức hỗ trợ. Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Sư đoàn 2 tạm lui về phía sau, củng cố lực lượng, sẵn sàng cơ động đánh địch ứng cứu giải tỏa. Ở thị xã Hội An, khi lực lượng của ta đã đánh chiếm được một phần mục tiêu, địch lợi dụng lợi thế quân đông, hỏa lực mạnh, tổ chức đánh chặn quyết liệt, quân số của ta thương vong cao. Bộ Tổng Tham mưu đã điều chỉnh Tiểu đoàn 2 Quảng Đà và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 31 tạm chuyển sang bám đánh địch ở ven thị xã, vừa đánh, vừa củng cố lực lượng, sẵn sàng chi viện cho các bộ phận.

Những hướng tác chiến phát triển thuận lợi, như: Quảng Đà, Tây Nguyên, Đồng bằng Khu 5..., Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo, động viên các lực lượng phát huy khí thế tiến công, mở rộng các mục tiêu chiếm được, tăng cường phát động quần chúng chuẩn bị đánh địch phản kích, thực hiện tốt công tác binh vận, mạnh dạn đưa lực lượng ra chốt, cắt giao thông đường 14, 19, 21 để cô lập địch.

Tuy nhiên, đến tháng 3-1968, công tác hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn tiến công và quần chúng nổi dậy trên các hướng thiếu chặt chẽ, lực lượng của ta bị tiêu hao nhiều, sức tiến công trên các hướng giảm dần, trong khi quân địch từng bước phục hồi, chúng dồn lực lượng co về giữ các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự và mở các cuộc hành quân lớn, càn quét. Căn cứ vào chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và kết quả phân tích, đánh giá tình hình, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các lực lượng kết thúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời đề ra chủ trương hoạt động tác chiến tiếp theo.
 
Như vậy, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã giáng một đòn chí tử, đánh sập ý chí xâm lược Việt Nam và Đông Dương của giới cầm quyền Mỹ, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh có lợi cho ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta ở miền Nam Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật quân sự, trong đó, vai trò chỉ đạo tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì thế, đội ngũ cán bộ chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo những bài học này, nâng cao chất lượng huấn luyện, chiến đấu sát chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.



--------------------------------------------------------------
1. Quân đội Sài Gòn bị thương vong gần 21.000 người; quân Mỹ cùng đồng minh bị thương vong hơn 24.000 người; gần 2.500 máy bay, 1.700 xe tăng, bọc thép, 350 khẩu pháo, 280 tàu xuồng và 1.368 tấn vật tư chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn bị phá hủy, chiếm 34% tổng số dự trữ chiến tranh ở Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:39:31 am
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - SAU 50 NĂM NHÌN LẠI



Thượng tướng LÊ CHIÊM
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng


Cách đây vừa tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy rộng khắp, từ Đường 9 - Khe Sanh đến đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ở Sài Gòn - Gia Định, Huế và hàng loạt thị xã, thị trấn, căn cứ quân sự. Trong gần hai tháng, ta đã chiếm giữ và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm, vây hãm địch nhiều ngày ở Khe Sanh, tiến công và nổi dậy ở nhiều vùng nông thôn bị địch chiếm giữ, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh, dự trữ hậu cần hiện đại nhất của địch, giải phóng hàng triệu đồng bào, đưa chiến tranh vào sâu trong hậu phương của địch.

Cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định là một sự kiện có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Từ thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 có thể rút ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, để tạo cú sốc lớn không chỉ đối với chính quyền và quân đội Sài Gòn mà còn làm chấn động cả nước Mỹ, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn nỗ lực tạo thời cơ, nắm bắt và lựa chọn thời cơ, kịp thời đề ra chủ trương chiến lược, tiến công và nổi dậy, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh.

Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", từ năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam nhằm "bẻ gãy xương sống Việt cộng" và "chụp bắt cơ quan đầu não" kháng chiến của ta; đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Trước âm mưu và thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ, cách mạng và cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước tình thế hết sức khó khăn. Với lực lượng đông và vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, Mỹ đã mở các cuộc hành quân "tìm diệt" bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não chỉ đạo kháng chiến bằng hai cuộc phản công chiến lược lớn mùa khô 1965-1966 và mùa khô 1966-1967; đồng thời, dùng không quân và hải quân leo thang đánh phá miền Bắc.

Nắm vững tư tưởng tiến công, tích cực chủ động cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, quân và dân ta trên khắp các chiến trường đẩy mạnh các hoạt động buộc địch trong tình trạng bị động, lúng túng đối phó. Gọng kìm "tìm diệt" của Mỹ - ngụy bị bẻ gãy; kế hoạch "bình định" cũng không đạt kết quả. Năm 1967, chính quyền Sài Gòn chỉ kiểm soát được 5.400 trong tổng số 16.293 ấp trên toàn miền Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng bị thất bại.

Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng, từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị họp bàn chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Tại cuộc họp này, Bộ Chính trị nhận định: Mỹ đang thất bại lớn, nếu có tăng quân cũng không giải quyết được gì, mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc. Tuy nhiên, "Mỹ còn rất ngoan cố... đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi". Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã chính thức thông qua kế hoạch chiến lược năm 1968. Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 14 họp thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định"  cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Để giành thắng lợi trong chiến tranh, việc chọn thời cơ là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Nhận thức được vấn đề này, Đảng ta đã chọn năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, năm mà tình hình nước Mỹ rất nhạy cảm về chính trị. Hơn nữa vào thời điểm này, sau ba năm đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, nhưng mục tiêu "bẻ gãy xương sống Việt cộng" cơ bản bị phá sản sau những thất bại trong các cuộc tiến công chiến lược vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 và những cố gắng leo thang đánh phá miền Bắc. Những cố gắng của Mỹ vào thời điểm này đã gần đến đỉnh điểm. Tính đến tháng 12-1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam gần nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh, 30% lực lượng không quân chiến thuật, hơn 30% lực lượng hải quân của nước Mỹ. Lực lượng dự bị dành cho chiến lược "chiến tranh cục bộ" đã được sử dụng hết, thậm chí phải huy động một phần dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu. Chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tính đến năm 1968 đã lên tới gần 70 tỷ đôla (gấp ba lần cuộc chiến tranh ở Triều Tiên). Gánh nặng này đã ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và làm cho Quốc hội Mỹ phân hóa sâu sắc.

Năm 1968 hội tụ các điều kiện thuận lợi cả về quân sự và chính trị cho ta giành thắng lợi lớn. Thời cơ này được tạo ra và nắm bắt đúng lúc, không sớm và cũng không muộn. Tình hình chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho nội bộ chính quyền Mỹ chia rẽ, đang ở thế ngập ngừng về chiến lược. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam dâng cao, lan tràn khắp nước Mỹ.

Trong khi đó, mặc dù vẫn còn một số hạn chế như vấn đề bổ sung lực lượng, khả năng tiêu diệt những đơn vị lớn của Mỹ... song các đơn vị của ta đã có thể thực hành tác chiến và giành thắng lợi cả về mặt chiến lược và chiến thuật. Các lực lượng vũ trang đã có những tiến bộ vượt bậc và vận dụng thành công những phương thức tác chiến độc đáo và linh hoạt, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Quyền làm chủ được mở rộng; thế bao vây xung quanh các đô thị, căn cứ Mỹ, quân đội Sài Gòn được hình thành; phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển đi vào chiều sâu, hiệu quả ngày càng lớn.

Từ những phân tính trên, Đảng ta khẳng định "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn", cho phép chúng ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Thứ hai, xác định hình thức và phương thức tiến công địch.

Căn cứ vào các nghị quyết của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh - Quân ủy Trung ương đã xây dựng phương án trong đó xác định: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, "một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn" . Thời gian tiến hành tổng tiến công được chọn vào Tết Mậu Thân. Quân ủy Trung ương chỉ đạo các mặt trận, chiến trường khẩn trương sắp xếp, điều chỉnh các mặt công tác phù hợp với yêu cầu tổng tiến công trên toàn miền Nam.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã làm cho địch bất ngờ cả về chiến lược, chiến thuật và mục tiêu, cũng như về thời điểm tiến công. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh mở màn trước Tổng tiến công Tết Mậu Thân 10 ngày đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn phán đoán sẽ có một "Điện Biên Phủ" tại Khe Sanh. Nhưng ta mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh chỉ là một hướng để nghi binh, phân tán và giam chân địch nhằm đưa chiến tranh quy mô lớn vào các thành phố, thị xã và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sân bay, sở chỉ huy. Trong điều kiện địch còn khá mạnh, hơn một triệu quân với tiềm lực chiến tranh dồi dào nên để giành thắng lợi quyết định, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cân nhắc rất kỹ để chọn hình thức, phương pháp tiến công phù hợp. Yếu tố bí mật, bất ngờ đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn luôn bị động, phân tán lực lượng đối phó và không phát huy được sức mạnh của vũ khí, trang bị vượt trội. Quân ta chủ động tiến công vào nơi địch không phòng bị, vào thời điểm Tết, địch không ngờ nhất. Tiến công vào các mục tiêu này đã tác động nhanh chóng, sâu sắc cả về chính trị và quân sự, gây nên những đột biến trong đối sách chiến lược cũng như cục diện chung của chiến tranh ở miền Nam.

Khi quân Mỹ, quân đội Sài Gòn tập trung dồn chủ lực đối phó ở Khe Sanh, đêm 30, rạng sáng ngày 31-1-1968, quân ta đồng loạt tiến công trên toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là cách đánh chưa từng diễn ra, khiến Mỹ, chính quyền Sài Gòn không hề nghĩ tới và cũng không thể nghĩ tới.‎ Đó là sự sáng tạo của phương châm đánh địch trên cả "ba vùng chiến lược". Nếu không có ba vùng chiến lược được xây dựng từ nhiều năm trước với những cơ sở vững mạnh và quần chúng đông đảo ủng hộ thì không thể có chiến tranh ở thành thị‏,‏ nhất là ở các thành phố trọng điểm Sài Gòn - Huế - Đà‎ Nẵng là những trung tâm chính trị, quân sự. Đánh vào đây là đánh vào các cơ quan đầu não, các trung tâm chỉ huy‎‏,‏ đánh vào sinh lực cao nhất của địch, chỗ hiểm yếu, dễ chấn động và nhạy cảm nhất của chúng‏.‏ Như vậy, chủ trương mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc, xuống thang chiến tranh và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán chính là chủ trương "biết thắng Mỹ" vừa với sức ta, mở ra một giai đoạn mới "vừa đánh vừa đàm", phù hợp với truyền thống quân sự của dân tộc.

Chính cuộc tiến công táo bạo này đã làm rung chuyển cả Nhà Trắng, gây chấn động dữ dội không chỉ ở nước Mỹ mà cả thế giới. Hãng thông tấn AFP của Pháp, ngày 3-2-1968 đã đưa tin: "Đây chắc chắn là chiến trường rộng lớn nhất trong các cuộc chiến tranh. Toàn bộ nước Việt Nam đều bốc lửa từ Khe Sanh đến Cà Mau"; "sức mạnh Huê Kỳ đã mất uy thế. Đội quân mạnh nhất thế giới đã bị đẩy vào tuyến phòng ngự trên toàn lãnh thổ" . Còn Maicơn Máclia trong cuốn Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày nhận xét: "Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều bất ngờ nhưng không có bất ngờ nào làm người ta phải sửng sốt nhiều hơn trận tiến công Tết. Đặc biệt, nó lại diễn ra ngay trong Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, nơi từng nhiều lần tuyên bố rằng tình hình tồi tệ đã qua rồi" . Quả vậy, với việc lựa chọn hình thức tiến công và nổi dậy đồng loạt, bằng sự phối hợp giữa các chiến trường, Mậu Thân 1968 đã trở thành một trận quyết chiến chiến lược làm thay đổi hoàn toàn cục diện cuộc kháng chiến. Đây thực sự là một sáng tạo độc đáo của Đảng ta về nghệ thuật lựa chọn hình thức và phương thức tiến công địch.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:41:22 am
Thứ ba, chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu táo bạo, bất ngờ.

Chọn đô thị làm hướng tiến công chủ yếu là ta đã chọn vào nơi hiểm yếu nhất của kẻ thù. Lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta đưa chiến tranh vào đô thị, thực hiện một đòn đánh hiểm vào cơ quan đầu não của địch. Với lực lượng quân sự tinh nhuệ như đặc công, biệt động, kết hợp với mũi tiến công của lực lượng xung kích và các cuộc nổi dậy của quần chúng, các mục tiêu trọng yếu của địch trong đô thị đều bị Quân giải phóng tiến công và làm chủ. Với mục tiêu tiến công táo bạo, bất ngờ này, Thượng nghị sĩ Mỹ Rôbớt Kennơđi phải thốt lên: Tại sao nửa triệu lính Mỹ có 70 vạn lính Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công?

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngay cả khi quân và dân ta đã giải phóng được nhiều vùng nông thôn, rừng núi và đồng bằng rộng lớn, chúng ta cũng không chủ trương mở một cuộc tổng tiến công vào các đô thị để kết thúc cuộc kháng chiến. Với việc lựa chọn hướng và mục tiêu tiến công đánh đòn quyết định, việc tìm ra cách đánh tối ưu nhằm tạo hiệu lực chiến lược trên cơ sở tương quan lực lượng và vũ khí trang bị, cũng như việc phối hợp giữa các chiến trường, mặt trận trên quy mô toàn miền, cả nước đã làm cho cuộc tiến công trong Tết Mậu Thân trở thành một trận quyết chiến chiến lược chưa từng có trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là một sáng tạo độc đáo trong tư duy chiến lược của Đảng, một điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Thứ tư, huy động và phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong cuộc tiến công vào hệ thống dinh lũy sào huyệt của địch.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, ngay từ đầu năm 1967, cán bộ, đảng viên liên tục được bí mật tăng cường vào đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm nghiên cứu mục tiêu, gây dựng cơ sở, tạo chỗ đứng chân, bảo đảm vật chất cho các hoạt động chiến đấu, xây dựng hệ thống hầm chứa vũ khí và vận chuyển vũ khí từ căn cứ vào ém sẵn trong nội thành, phục vụ yêu cầu tác chiến. Các cơ sở cách mạng bí mật được hình thành, trong đó riêng Ban bảo đảm thuộc biệt động Thành đã xây dựng được 19 "lõm chính trị", "lõm" căn cứ gồm 325 gia đình công nhân và lao động trung kiên ... Bên cạnh đó, lực lượng quần chúng yêu nước, nhất là các nhân sĩ, trí thức được các tổ chức như Trí vận, Hoa vận, Công vận, Phụ vận... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai trở thành đội quân chính trị hùng hậu sẵn sàng tham gia tổng tiến công.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, chúng ta đã huy động tổng lực từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đến đặc công, biệt động... Sức mạnh tổng hợp của lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, bằng ba mũi giáp công; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và nhỏ được phát huy, thể hiện nghệ thuật đánh địch bằng mưu cao, kế hiểm.

Mặc dù thời gian chuẩn bị trực tiếp cho nhiệm vụ chiến lược không nhiều, trong khi có quá nhiều khó khăn về vũ khí trang bị, lương thực và chia cắt về chiến trường... nhưng tất cả đều nổ súng đúng mục tiêu và thời gian quy định "với một sự hợp đồng về chiến lược tuyệt diệu" . Đó chính là kết quả của trí thông minh, lòng quả cảm, với khát vọng cháy bỏng về một nền hòa bình, thống nhất, từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo cuộc chiến tranh đến những địa phương, đơn vị vũ trang, những tổ, đội biệt động, những chiến sĩ mới nhập ngũ trong đêm giao thừa, những người dân một lòng trung thành với cách mạng... đã biến những điều không thể trở thành hiện thực. Miền Bắc dồn sức chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn nhanh chóng mở rộng, tăng sức vận chuyển. Miền Nam khẩn trương chuẩn bị thế trận và lực lượng, hình thành các phương án công kích về quân sự và nổi dậy của quần chúng.

Dựa vào sự đùm bọc, đồng thuận, giúp đỡ, chở che, tham gia tích cực của nhân dân, các đơn vị đã triển khai thành công lối đánh dũng mãnh, táo bạo, bất ngờ, đồng loạt, nhằm trúng các mục tiêu yết hầu "huyết mạch", "tim óc" của địch ở các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của chính quyền Sài Gòn, các sở chỉ huy, các bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, sân bay, bến cảng, kho tàng, đầu mối giao thông... Đó là những mục tiêu tập trung sinh lực của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, cuộc tiến công vào Tòa Đại sứ Mỹ của các chiến sĩ biệt động Quân giải phóng vượt xa ý nghĩa của một trận đánh thông thường, gây tiếng vang lớn trên khắp thế giới và ở nước Mỹ.

Với tư duy "không thể đánh theo lối cũ", cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã giải quyết bài toán "thế nhùng nhằng, giằng co" được Bộ Chính trị giao cho "Tổ kế hoạch" trong hội nghị tháng 6-1967 và tạo nên chuyển biến lớn trên chiến trường. Tết Mậu Thân và những tác động của nó đã hiện thực hóa mục tiêu chiến lược: Phơi bày toàn bộ quá trình thất bại của Mỹ trên chiến trường cả về quân sự, chính trị; sự bất lực của một đạo quân đông tới gần 1,3 triệu, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Cũng chính từ bản đồng ca được cất lên trong Xuân Mậu Thân 1968, đã buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn phải công khai tuyên bố: đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan trọng hơn, Mỹ buộc phải rút dần quân ra khỏi miền Nam Việt Nam trong khi chưa một mục tiêu nào được thực hiện. Việc trút bỏ gánh nặng chiến tranh lên vai chính quyền và quân đội Sài Gòn - một lực lượng vốn đã bại trận trước khi quân Mỹ buộc phải tham chiến và ngày càng phụ thuộc vào sự hiện diện của quân Mỹ về thực chất, đã làm cho Mỹ phải phụ thuộc vào chính kẻ đã và đang phụ thuộc vào mình.

Với tất cả những lý do đó, cho dù sau Tết Mậu Thân 1968, cuộc chiến vẫn còn kéo dài và rất quyết liệt - phải 5 năm sau Mỹ mới rút hết quân và 7 năm sau, chính quyền Sài Gòn mới sụp đổ hoàn toàn, nhưng với quyết định ngày 31-3-1968 của Tổng thống Mỹ Giônxơn, về thực chất, số phận cuộc chiến giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam đã được định đoạt.

Tuy chưa đạt được yêu cầu theo khả năng thứ nhất - một trong ba khả năng mà Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 dự kiến, nhưng thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn và quyết tâm to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên mọi lĩnh vực, kinh tế đạt mức tăng trưởng cao, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và khẳng định. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng xuất hiện nhiều nguy cơ, khó khăn, thách thức, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế để tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam với những thủ đoạn mới, tinh vi, thâm độc, nguy hiểm.

Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, cũng là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống vẻ vang của dân tộc, bản chất truyền thống tốt đẹp và những chiến công oanh liệt của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Nghiêng mình tưởng nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ, nhớ về thắng lợi Mậu Thân để suy nghĩ sâu sắc hơn về những nhân tố làm nên chiến thắng. Đó là khát vọng cháy bỏng của những người dân yêu nước Việt Nam về một nền hòa bình, độc lập, tự do cho Tổ quốc; đó là sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong nắm chắc tư tưởng tiến công, hạ quyết tâm chiến lược chính xác, táo bạo và chọn đúng phương hướng cũng như thời cơ cụ thể; đó là niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của toàn quân, toàn dân ta; đó còn là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm tạo nên sức mạnh to lớn; là tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia trên tinh thần vô sản quốc tế trong sáng.

Trân trọng lịch sử, những bài học kinh nghiệm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cần được kế thừa và phát huy trong công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới, đòi hỏi toàn quân tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, chủ động khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Với cơ sở và niềm tin từ thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, với sự nỗ lực cao nhất của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:47:38 am
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
HIỆN THỰC HÓA CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG: "ĐÁNH CHO MỸ CÚT, ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO"




LÂM PHƯƠNG THANH
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương


Cách đây tròn 50 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Thắng lợi đó đã giáng đòn quyết định làm phá sản cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ", buộc đế quốc Mỹ phải từng bước xuống thang chiến tranh, rút quân về nước và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari (13-5-1968) để cuối cùng đi tới ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973). Với việc ký kết Hiệp định Pari, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi có tính chất quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải rút quân viễn chinh về nước, mở ra thời cơ và điều kiện thuận lợi cho ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 bắt nguồn từ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, được sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Năm mươi năm đã trôi qua, càng giúp chúng ta nhận thức sâu sắc về điều đó.

1. Nhìn lại lịch sử, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nhưng đế quốc Mỹ đã trắng trợn phá hoại Hiệp định, nhảy vào miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Trong suốt hơn 10 năm đầu chiến tranh (1954-1965), nhất là 4 năm thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", mặc dù đã bỏ ra rất nhiều tiền của, công sức, thực hiện nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm dập tắt phong trào cách mạng miền Nam, nhưng chúng không đạt được mục tiêu và ngày càng sa lầy, bị động. Trước tình thế đó, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam, đồng thời sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam.

Trước âm mưu và thủ đoạn mới của kẻ thù, vấn đề hạ quyết tâm đánh Mỹ, tìm ra cách đánh Mỹ, thắng Mỹ trở thành một đòi hỏi rất bức thiết. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11, khóa III họp tháng 3-1965, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ: "Tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra" . Hội nghị cũng đề ra yêu cầu đẩy mạnh kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và ngoại giao. Đấu tranh quân sự ngày càng giữ vị trí, vai trò quan trọng theo phương hướng: Tập trung đánh những trận tiêu diệt quân chủ lực cơ động ngụy, làm suy yếu chỗ dựa về bình định của địch, đồng thời khẩn trương xây dựng quyết tâm; chuẩn bị chu đáo, đánh thắng những trận phủ đầu quân Mỹ, tiếp tục đẩy chúng vào tình thế bị động.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược thắng Mỹ ngay từ đầu của Hội nghị Trung ương 11, với quyết tâm "dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"2, quân và dân miền Nam đã nỗ lực phát huy sức mạnh chính trị và quân sự, tiến công và nổi dậy, anh dũng chiến đấu và đánh thắng quân Mỹ ngay từ những trận đầu. Đó là trận Núi Thành (Quảng Nam, 5-1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi, 8-1965), chiến dịch Plâyme (từ ngày 19-10 đến ngày 26-11-1965), chiến thắng Đất Cuốc, Bầu Bàng. Từ kết quả thực tế, sau những trận thắng phủ đầu quân Mỹ, chúng ta đã tìm ra cách đánh Mỹ và thắng Mỹ, "Ta sẽ bắt quân Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta, nên ta nhất định thắng".

Từ kết quả đấu tranh thực tế trên cả hai miền Nam - Bắc; trên cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực lượng so sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; tin tưởng vào sức mạnh to lớn của nhân dân, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa III) tháng 12-1965 đã hạ quyết tâm chiến lược: "... kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào". Đây là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng trước thử thách sống còn của dân tộc, thể hiện tư tưởng chiến lược tiến công của Đảng và ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Theo đó, phương hướng chiến lược chung được xác định: "Trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam". Đặc biệt vấn đề "Ta sẽ thắng như thế nào" được Hội nghị Trung ương 12 thảo luận kỹ lưỡng. Đảng ta chủ trương: "giành thắng lợi quyết định" không bao hàm ý nghĩa tiêu diệt toàn bộ lực lượng quân sự địch, mà đó là: "đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ", tiến tới thực hiện mục tiêu thống nhất nước nhà".

Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Hội nghị Trung ương 12 đã trở thành ý chí, hành động cách mạng của nhân dân và các lực lượng vũ trang trên cả nước. Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ - ngụy. Hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" bị bẻ gãy, các cuộc hành quân chiến lược như Xêđaphôn, Gianxơnxiti lần lượt bị thất bại thảm hại. Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ bị quân và dân ta trừng trị thích đáng.

Chiến công của quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đã tạo ra thế và  lực mới cho cuộc Tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

Tháng 5-1967, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình, xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968. Trong hai ngày 30-6 và 1-7-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp, xác định khả năng giành thắng lợi quyết định bằng tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Bộ Chính trị cho rằng, thời cơ tốt nhất là Đông - Xuân 1967-1968 và Hè 1968 hoặc sớm hơn; đồng thời cũng cần chuẩn bị kế hoạch cho những năm tiếp theo với tư tưởng kiên trì đánh lâu dài.

Nắm bắt chặt chẽ diễn biến, đồng thời nhận định chính xác khả năng phát triển của chiến tranh cách mạng ở miền Nam cũng như cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của miền Bắc, nhìn thấy rõ sự lúng túng "tiến thoái lưỡng nan" của giới cầm quyền Mỹ, tháng 8-1967, khi họp bàn về kế hoạch chiến lược của Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định, điều kiện kinh tế và chính trị của nước Mỹ cho thấy đã đến lúc Mỹ phải kết thúc chiến tranh. Vì vậy, ta phải đánh cho chúng thua để rút ra khỏi miền Nam Việt Nam. Bộ Tổng Tham mưu phải lập kế hoạch đầy đủ hơn, chỉ đạo linh hoạt, chuẩn bị hậu cần tại chỗ chu đáo. Tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 20 đến ngày 24-10), bản kế hoạch (sau khi đã được góp ý và sửa chữa bổ sung) được đưa ra thảo luận và thông qua thành Nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa (lúc này được mang mật danh "Quyết tâm chiến lược mùa Thu"). Yêu cầu đặt ra trong cuộc tổng tiến công chiến lược là "kiên quyết tổng công kích - tổng khởi nghĩa đánh đổ Mỹ - ngụy, giành chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của Mỹ, cô lập chúng buộc chúng phải chịu thua và rút khỏi miền Nam, chấm dứt oanh tạc miền Bắc; kiên quyết tiêu diệt và làm tan rã căn bản ngụy quân, ngụy quyền, các tổ chức phản động" .

Bám sát và phân tích chính xác động thái chiến trường, tình hình nước Mỹ và thế giới, Hội nghị Bộ Chính trị đầu tháng 12-1967 đã quyết định: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định", "dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" nhằm "đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà" . Bộ Chính trị xác định cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất ác liệt và phức tạp.

Để giữ bí mật ý đồ chiến lược, tháng 1-1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Kim Bôi, Hòa Bình, thảo luận và thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị Trung ương chỉ rõ: "Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thời điểm này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn, nhảy vọt bằng cách đánh mới, táo bạo vào tất cả các thành phố, thị xã, mà hướng hiểm yếu, trọng điểm là Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng" .

Ngày 18-1-1968, Bộ Chính trị họp, trọng tâm bàn về thời điểm tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Ngày 19-1-1968, sau khi rà soát lại chủ trương, quyết tâm, kế hoạch và phân tích tình hình mọi mặt, Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam trong năm 1968. Thời gian phối hợp hành động toàn miền Nam được chọn là Tết Mậu Thân 1968 làm mốc tổng tiến công đồng loạt cho các chiến trường trọng điểm. Đây là thời gian có yếu tố bất ngờ nhất.

Như vậy, quá trình hình thành quyết tâm tổng tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân đã diễn ra suốt hai năm 1966-1967. Trong thời gian này, biện pháp chiến lược nhằm thực hiện quyết tâm giành thắng lợi quyết định của Trung ương được thảo luận nhiều lần, ở nhiều cấp. Quá trình thảo luận để hình thành quyết tâm chiến lược Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở miền Nam ngày càng rõ và cụ thể thêm; đồng thời, phương hướng quyết tâm cũng xác định cụ thể hơn, cao hơn. Trong suốt quá trình đó, những thông tin từ tình báo chiến lược, từ thực tế chiến trường, nhất là việc Mỹ tăng quân cho thấy đế quốc Mỹ đang tìm kiếm một thắng lợi lớn để giành ưu thế và thoát ra khỏi tình thế bị động chiến lược. Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ đang trù tính một cuộc phản công chiến lược lần thứ ba vào mùa khô 1967-1968, cùng với đó là bước leo thang đánh phá miền Bắc nhằm giành lợi thế quân sự, hòng tiến tới đàm phán trên thế mạnh, làm cơ sở cho việc tái tranh cử của L. Giônxơn trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968.

Quán triệt và thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân ta trên khắp các chiến trường khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho tổng tiến công và nổi dậy. Đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, mọi công tác chuẩn bị về cơ bản đã hoàn thành. Cả dân tộc đã sẵn sàng bước vào trận đánh quyết định nhằm tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 16 Tháng Năm, 2020, 09:49:43 am
2. Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được phát động trên khắp miền Nam từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau. Quân và dân ta đã đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, kho tàng. Hàng triệu quần chúng đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Hầu hết các cơ quan đầu não của địch từ trung ương đến địa phương đều bị tiến công. Các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân, trong đó có 4 vạn quân Mỹ, 600 ấp chiến lược, giải phóng trên 100 xã với 1,6 triệu dân. Đặc biệt, trận đánh thẳng vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của địch ở Sài Gòn và 25 ngày làm chủ thành phố Huế... đã gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ, làm rúng động xã hội Mỹ, nhân dân Mỹ bàng hoàng, khuynh hướng muốn chấm dứt chiến tranh trở thành áp đảo ở nước Mỹ.

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên quy mô lớn, đánh vào hầu hết các vị trí, đặc biệt là các cơ quan đầu não địch ở Mậu Thân 1968 là một nét độc đáo, sáng tạo, một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi công phu, bằng tư duy độc lập, sáng tạo trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng nước ta và thế giới để Đảng ta tìm ra cách đánh Mỹ và đánh thắng quân Mỹ ở miền Nam, bảo vệ được miền Bắc, không làm cho chiến tranh lan rộng ra.

Những kinh nghiệm nắm bắt thời cơ giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kinh nghiệm luồn sâu, đánh thẳng vào lòng địch trong kháng chiến chống Pháp và bài học đánh địch bằng 2 chân, 3 mũi, 3 vùng ở miền Nam trong những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, cũng như kinh nghiệm đánh đế quốc Mỹ của một số nước trên thế giới được Đảng ta suy ngẫm, chắt lọc. Đảng ta đã nung nấu và có sự chuẩn bị kỹ càng, toàn diện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: từ chủ trương lớn đến các biện pháp, mục tiêu cụ thể cũng như mức độ kết quả. Toàn bộ quá trình chuẩn bị kế hoạch cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra một thời gian dài, được đặc biệt giữ bí mật. Chính vì vậy trong một thời gian tương đối ngắn, chúng ta đã đưa cuộc chiến đấu quy mô lớn vào tận sào huyệt của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề về sinh lực, phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần, "khi cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra, Mỹ và chính quyền ngụy hoàn toàn bị bất ngờ về quy mô, tính chất, địa điểm, mục tiêu, lực lượng và thời điểm tiến công" .

 So với mục tiêu ban đầu, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chưa đạt được đạt được khả năng cao nhất, nhưng đã xoay chuyển được cục diện tình hình mà trước đó ta chưa bao giờ tạo được, đó là buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Từ chỗ cho rằng có thể chiến thắng về quân sự, đè bẹp sự kháng cự của quân và dân ta bằng việc ồ ạt đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam, giới cầm quyền Mỹ nhận thấy có thể sẽ thua nếu tiếp tục kéo dài chiến tranh. Kết quả thăm dò dư luận ngày 25-3-1968 cho thấy: "80% người Mỹ coi cuộc tấn công Tết là một đòn làm thất bại những mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam. Tướng Oétmolen cũng phải thừa nhận: "Đây là khúc ngoặt của cuộc chiến tranh. Lẽ ra là khúc ngoặt đi đến thành công nhưng đây lại là khúc ngoặt đi đến thất bại" .
 
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị, tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh của Mỹ trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy - một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ, như chính giới Mỹ thừa nhận. Nước Mỹ chia rẽ sâu sắc. Ngày 31-3-1968, L. Giônxơn thông báo quyết định đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Pari và tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai - chấm dứt cuộc đời chính trị của Tổng thống L. Giônxơn - "Tổng thống lâm nạn" - theo cách gọi của truyền thông Mỹ.

Thắng lợi to lớn và quan trọng nhất trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của chúng ta là đã tạo ra một sự thay đổi đột biến của cục diện chiến tranh trên cả ba mặt về thế chiến lược, về lực lượng và về chính trị; mở ra một giai đoạn mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta - giai đoạn "vừa đánh vừa đàm" - đi tới kết thúc cuộc chiến tranh theo truyền thống quân sự Việt Nam. Đúng như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định: thắng lợi này "đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari" .

Trải qua 5 năm đấu trí, đấu lực quyết liệt, kết hợp với tiến công quân sự, chính trị trên chiến trường là chính, đặc biệt là qua chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không 1972" của quân, dân miền Bắc, chính quyền Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-1-1973).

Quyết định rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam sau khi ký Hiệp định Pari, cũng đồng nghĩa với việc Mỹ trút gánh nặng chiến tranh sang chính quyền tay sai ngụy - lực lượng vốn đã bại trận trước khi quân Mỹ tham chiến và ngày càng phụ thuộc vào sự hiện diện của quân Mỹ. Về thực chất, số phận cuộc chiến giữa giới cầm quyền Mỹ và chính quyền tay sai ngụy với nhân dân Việt Nam đã được định đoạt. Và hai năm sau, khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam (cuối tháng 3-1973), chính quyền tay sai ngụy mặc dù vẫn được Mỹ viện trợ, song đã không thể tồn tại.

Mỹ buộc phải cút, ngụy ắt phải nhào. Bước vào đầu Xuân năm 1975, thời cơ lớn giải phóng miền Nam đã mở ra với dân tộc ta. Bằng bốn chiến dịch tiến công như vũ bão: Tây Nguyên, Trị Thiên - Huế, Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã đập tan mọi kháng cự của địch, chính quyền tay sai ngụy sụp đổ hoàn toàn ngày 30-4-1975 chỉ sau 55 ngày đêm kể từ khi Quân giải phóng miền Nam bắt đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

Ngày 30-4-1975 trở thành ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam - một mốc son vàng trong lịch sử, đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẻ vang của nhân dân ta; hoàn thành chủ trương chiến lược hai bước của Đảng và mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để lại cho chúng ta nhiều bài học lịch sử quý báu. Đó là bài học về kiên định lập trường, tư tưởng cách mạng tiến công, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bài học về sự chủ động, sáng tạo, sắc bén trong lãnh đạo, chỉ đạo trên từng địa bàn cụ thể, về chọn thời cơ và thời điểm phát động tổng tiến công và nổi dậy, về đánh giá khả năng và sức mạnh của kẻ thù; về xác định mục tiêu, phương thức và sử dụng lực lượng tiến công...

Kỷ niệm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là dịp chúng ta tiếp tục khẳng định tầm vóc và ý nghĩa lớn lao của sự kiện; khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; tôn vinh và tri ân những cống hiến, hy sinh to lớn của quân và dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đây cũng là dịp để chúng ta phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống đoàn kết; kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo những bài học lịch sử trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước yêu cầu mới.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 07:06:28 am
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968  -
SỰ THỐNG NHẤT GIỮA Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN



Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam


Từ giữa năm 1965, sau khi chiến lược "chiến tranh đặc biệt" thất bại, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đổ quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam. Thực hiện chiến lược này, Mỹ sử dụng hai gọng kìm "tìm - diệt" và "bình định nông thôn". Theo đó, chúng tiến hành hàng ngàn cuộc hành quân với quy mô lớn nhỏ khác nhau trên khắp chiến trường miền Nam, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não, đơn vị chủ lực Quân giải phóng và cơ sở cách mạng của ta, gây nên biết bao hy sinh, mất mát, đau thương cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam.

Trước tình hình trên, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh thống nhất nhận định: Để đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" không thể dùng cách đánh thông thường, mà phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể thắng dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh quân sự; đồng thời, chỉ đạo các cấp ủy miền Nam, các bộ tư lệnh chiến trường rà soát tình hình, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của ta và địch; nắm ý đồ của Mỹ trong mùa khô 1967-1968, tạo thế chủ động trên chiến trường, tiến tới giành thắng lợi to lớn hơn.

Tại Hội nghị Trung ương 14 khóa III (1-1968), Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: Để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, giành thắng lợi quyết định, phải tạo được bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh. Muốn vậy, không thể tiến từng bước, tuần tự... mà phải tạo bước nhảy vọt bằng chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam, giáng đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ,... Hội nghị chỉ rõ hướng tiến công lần này là các thành phố, thị xã, thị trấn và cơ quan đầu não chiến tranh, trung tâm chỉ huy, hậu cứ của địch, lấy ba thành phố lớn là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng làm trọng điểm; kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng trên cả ba vùng chiến lược, nhằm giáng đòn thật mạnh, bất ngờ, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, tạo sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta,...

Để xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, các cấp ủy đảng trong và ngoài quân đội, cơ quan chính trị các cấp đã chủ động làm tốt công tác tư tưởng ngay từ khi Mỹ đổ quân vào miền Nam, nhất là từ cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Công tác giáo dục đã tập trung khơi dậy lòng căm thù giặc, vạch trần tội ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn gây ra cho đồng bào miền Nam và bản chất hiếu chiến, xâm lược của chúng; khẳng định sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa, tất thắng của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh này. Đồng thời cổ vũ truyền thống yêu nước, tinh thần quật khởi, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược; làm cho quân và dân ta thấm sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"; "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi" .

Trong quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, công tác tư tưởng còn chú trọng xây dựng quyết tâm chiến đấu và phục vụ chiến đấu cho từng lực lượng, từng hướng chiến trường; làm rõ thắng lợi, sự phát triển của ta và sự thất bại của địch trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967. Nhờ đó, tinh thần "Cả nước ra trận", "Tất cả xuống đường", "Tất cả để chiến thắng",... đã trở thành khẩu hiệu hành động, tiếng gọi thiêng liêng thôi thúc mọi người hành động. Với ý chí quyết tâm ấy, nhiều phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ" đã nhanh chóng lan tỏa khắp chiến trường.

Phát huy thế trận chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân giải phóng đã huy động được lực lượng lớn đồng bào các tỉnh miền Đông Nam Bộ tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Nhiệm vụ của lực lượng này là vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô; cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra. Thực hiện phong trào xây dựng "hũ gạo nuôi quân", trước Tết Mậu Thân 1968, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực và mỗi tuần quyên góp một lần do Hội Phụ nữ phát động. Các huyện đều thành lập đội cung cấp, huy động lương thực, thực phẩm phục vụ Tổng tiến công và nổi dậy. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Nhiều hộ gia đình đào hầm nuôi giấu thương binh, cất giấu vũ khí. Điển hình như gia đình bà Nguyên (Má Bảy) ở Trảng Bàng, đào hầm giấu 45 tấn vũ khí tại vị trí cách đồn Mỹ chỉ 1 km. Đến đầu năm 1968, Quân giải phóng đã xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình, 12 kho vũ khí, 400 điểm ém quân, phần lớn ở gần các mục tiêu dự kiến sẽ đánh chiếm. Tinh thần đó của đồng bào miền Nam đã được nhà sử học Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: "Khắp thế giới ngạc nhiên và phục "Việt cộng" tổ chức cách nào mà Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài Gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền biết. Trái lại mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của Việt Nam Cộng hòa họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại hoài" .

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo và quyết tâm chiến lược của Đảng cùng phong trào nổi dậy rộng khắp của quần chúng, đêm 30, rạng ngày 31-1-1968 (đêm giao thừa), quân và dân miền Nam, từ Trị - Thiên đến Khu 5 và Nam Bộ đã đồng loạt tiến công và nổi dậy, hướng trọng điểm nhằm vào các thành phố, thị xã, nhất là ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng, gây cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn những tổn thất lớn về nhân lực, vật lực, choáng váng về tinh thần và bị động, lúng túng trên tất cả các vùng chiến lược trong nhiều ngày. Ở Huế, ta đã làm chủ hoàn toàn thành phố, tổ chức chính quyền cách mạng, chiếm giữ 25 ngày, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Tại Sài Gòn - Gia Định, quân và dân ta đã đánh trúng nhiều mục tiêu đầu não, như: Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Gia Long, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn,... đồng thời, làm tê liệt, ngưng trệ hệ thống giao thông, thông tin liên lạc của địch trong nhiều ngày, nhiều giờ. Phối hợp với các mũi tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng ở nông thôn và thành thị đồng loạt nổi dậy, phá tan "ấp chiến lược", giành quyền làm chủ ở nhiều nơi, tạo điều kiện mở rộng vùng giải phóng, v.v..

Có thể nói, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là đòn đánh chí tử đối với quân xâm lược Mỹ, làm choáng váng nước Mỹ, làm cho chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ ở miền Nam Việt Nam bị phá sản hoàn toàn. Tuy chưa mang lại thắng lợi trọn vẹn, thậm chí sau đó ta còn gặp những khó khăn, tổn thất nhất định khi địch tổ chức lực lượng phản kích, nhưng đây là một thắng lợi mang tầm vóc lịch sử; bước phát triển tất yếu trong chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam. Thắng lợi này đã thể hiện ý chí quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ, khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tạo bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, đồng thời khẳng định sức mạnh của sự thống nhất giữa "ý Đảng" và "lòng dân". Càng trong lúc gian khổ, ác liệt, hy sinh, mối quan hệ này càng thể hiện rõ nét, trở thành bài học vô giá không chỉ trong giai đoạn lịch sử lúc đó, mà còn có giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, song còn nhiều khó khăn, thách thức; các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, "phi chính trị hóa", "dân sự hóa" quân đội. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng đã làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Điều đó đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục phát huy bài học về sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân" của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 chỉ ra rằng, "ý Đảng, lòng dân" luôn hòa quyện, thống nhất, gắn chặt với nhau, tạo nên sức mạnh vô địch của chủ nghĩa anh hùng cách mạng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Càng những lúc khó khăn, phức tạp thì "ý Đảng, lòng dân" càng được tăng cường và thống nhất với nhau. "Ý Đảng" được biểu hiện tập trung ở đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng phải đúng đắn, xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. "Lòng dân" được thể hiện ở niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và việc chấp hành đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng do Đảng lãnh đạo; mục tiêu, lợi ích cao nhất của Đảng là phục vụ nhân dân, vì mục tiêu, lợi ích của quần chúng nhân dân.

Để thực hiện điều đó, Đảng ta luôn tự đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trên cơ sở nắm vững quy luật khách quan, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Đảng tập trung lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường quốc phòng - an ninh; nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Đồng thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là "công bộc" của dân, "dĩ công vi thượng", gắn bó mật thiết với nhân dân; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và phong cách làm việc theo kiểu "quan cách mạng", xa dân, không bám nắm cơ sở, không hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân. Đảng đã và đang tạo mọi điều kiện thuận lợi, như: Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, mở rộng dân chủ ở cơ sở,... để nhân dân tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) vào hoạch định đường lối và xây dựng Đảng, góp phần để công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiếp tục được đẩy mạnh, đạt được những thành tích quan trọng trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, thực sự là của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do đó, sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân" còn được thể hiện thông qua hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Vì thế, cần tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Theo đó, cần phải coi trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế kiểm tra, giám sát các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền theo hướng phục vụ tốt nhất cho người dân. Đặc biệt, cần coi trọng phát huy vai trò của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhằm thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, giải quyết những vấn đề bức xúc trong xã hội, như: Xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền và tầng lớp dân cư; tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện an sinh xã hội,... tạo sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là biểu hiện sinh động về sự thống nhất biện chứng "ý Đảng, lòng dân" trong thời kỳ đất nước hội nhập, phát triển. Đồng thời, giữ vững kỷ cương phép nước, nâng cao hiệu quả thực thi thượng tôn của pháp luật; quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân đi đôi với kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện lợi dụng quyền dân chủ, vi phạm pháp luật, có những hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, xâm phạm quyền công dân, gây tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, nâng cao ý thức phục vụ, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng,... trong các cơ quan công quyền.

Ba là, đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong vận động, tập hợp nhân dân. Là thành viên trong hệ thống chính trị và là cơ sở chính trị của hệ thống chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vận động, giáo dục và thu hút các lực lượng xã hội vào thực hiện phong trào hành động cách mạng của Đảng, xây dựng "ý Đảng, lòng dân". Vì vậy, Mặt trận Tổ quốc cần phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương. Tổ chức tốt phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, trọng tâm là các cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", "Ngày vì người nghèo" và "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam",... tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong tình hình hiện nay, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp cần chú trọng kiện toàn tổ chức, tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động theo phương châm "Hướng về cơ sở, bám cơ sở"; thường xuyên phối hợp, gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân, kịp thời tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở. Đồng thời, nâng cao chất lượng phản biện, giám sát xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; động viên toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, xóa đói, giảm nghèo và các hủ tục lạc hậu, v.v..

Bốn là, phát huy vai trò của quân đội trong tiến hành công tác dân vận, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng, có mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Trong tình hình mới, quân đội cần phát huy vai trò "đội quân công tác", tích cực tiến hành công tác dân vận, góp phần quan trọng vào việc tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc, thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân". Trên cơ sở chương trình, nội dung hoạt động đã xác định, công tác dân vận trong quân đội cần đặt trọng tâm vào tham gia xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở; giúp dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", không bị lôi kéo vào những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước, quân đội với nhân dân; nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, tích cực tham gia xây dựng "thế trận quốc phòng toàn dân", "thế trận an ninh nhân dân", thực hiện các phong trào, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội biên phòng, đơn vị kinh tế - quốc phòng hoạt động trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo cần đẩy mạnh công tác dân vận, tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, bài trừ hủ tục, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, v.v..

Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm về sự thống nhất giữa "ý Đảng, lòng dân" trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vào thực tiễn hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết. Thực hiện tốt điều đó, sẽ góp phần quan trọng tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, làm cho Đảng hiểu dân, dân tin Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 07:11:40 am
ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN SÀI GÒN - GIA ĐỊNH ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO TIẾN CÔNG VŨ TRANG,
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ, NỖ LỰC XÂY DỰNG THỰC LỰC CÁCH MẠNG,
SẴN SÀNG CHUẨN BỊ CHO THỜI CƠ MỚI (1965-1967)



TẤT THÀNH CANG
Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong Xuân Mậu Thân 1968 là một mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự kiện ấy làm chấn động từ Lầu Năm Góc đến tòa Nhà Trắng, tạo ra làn sóng phản chiến trong từng gia đình người Mỹ và lan rộng khắp thế giới; làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Pari, đồng thời mở ra khả năng cho ta thực hiện mục tiêu khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để góp phần quan trọng làm nên những chiến công trên chiến trường trọng điểm, Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn - Gia Định dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục và Trung ương Đảng đã nỗ lực vượt lên chính mình vừa đấu tranh chính trị, vừa đấu tranh vũ trang, vừa xây dựng lực lượng chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt cho thời cơ chiến lược.

Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn - Gia Định đẩy mạnh phong trào tiến công vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị

Tháng 3-1964, chuẩn bị cho "Kế hoạch X", Khu Sài Gòn - Gia Định gấp rút xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, quân sự, trong đó tập trung xây dựng các đội biệt động mạnh đủ sức đánh chiếm các mục tiêu chiến lược; và 5 tiểu đoàn mũi nhọn. Đầu tháng 1-1965, Khu Sài Gòn - Gia Định tổ chức một trung tâm huấn luyện bí mật ở Lò Gò, Tân Biên (Tây Ninh) với bí danh là Đoàn 165A. Đoàn Biệt động với mật danh F100 cũng được thành lập. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đoàn F100 đã phát triển được 9 đội biệt động nội đô (từ số 3 đến số 11), mỗi đội có từ 15 đến 20 người; 3 đội đặc công biệt động ven đô và 3 đội đặc công nước. Các cơ sở, các lõm chính trị cùng nhiều hầm chứa vũ khí được bí mật triển khai như hầm ở số nhà 65 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, số 189/A đường Trần Quốc Toản... Nhiều lõm du kích ven đô được mở rộng ở Phước Đước (Nhà Bè); An Nhơn, An Phú Đông (Gò Môn); Tam Bình, Tam Hiệp (Dĩ An); Tăng Nhơn Phú (Thủ Đức); Vĩnh Lộc (Bình Chánh)... để tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang áp sát nội thành.

Ban Cán sự Đảng và các đảng bộ cơ sở trọng yếu được củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ. Tính đến tháng 6-1965, nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn có 647 đảng viên, trong đó có 311 đảng viên hoạt động ở cơ sở. Các chi bộ và đảng viên đều được học tập về đường lối, chủ trương của Đảng; về 5 bước công tác cách mạng; về kinh nghiệm giữ bí mật; về tu dưỡng đạo đức, khí tiết của người chiến sĩ cách mạng và được phân công nắm quần chúng qua hội viên các đoàn thể và quần chúng nòng cốt.

Trước nguy cơ thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", tháng 3-1965, chính quyền Mỹ đưa quân trực tiếp vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Trước hành động leo thang chiến tranh, phong trào toàn dân chống Mỹ diễn ra ngày càng quyết liệt. Mục tiêu chống Mỹ, lật đổ chính quyền Thiệu - Kỳ là nội dung chủ yếu của cao trào đấu tranh chính trị ở đô thị vào cuối mùa khô 1965-1966. Ba tháng đầu năm 1966 đã nổ ra 125 cuộc đấu tranh của công nhân lao động. Tháng 4-1966, "Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc" được thành lập, bao gồm nhiều giới đồng bào, trong đó có 70 giáo sư, nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng. Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc chống những nọc độc của văn hóa Mỹ kết hợp với đấu tranh công khai trên mặt trận báo chí diễn ra sôi nổi, phong phú. Công nhân các ngành vận tải, giày Bata, dầu Esso, dệt Đông Á, điện, nước, xích lô, thuốc lá MIC, rượu Bình Tây liên tiếp đình công, bãi công đòi tăng lương, đòi tự do nghiệp đoàn, đòi giải quyết tình trạng vật giá leo thang. Ngày 26-12-1966, hơn 5.000 công nhân cảng Sài Gòn đình công phản đối việc sa thải công nhân vô cớ. Cuộc đình công kéo dài, địch phải đưa 4 tiểu đoàn lính Mỹ vào thay thế việc bốc dỡ hàng. Anh em công nhân đã chống trả quyết liệt không chịu rời cảng, không để cho lính Mỹ vào bốc dỡ thay. Cảng Sài Gòn bị tê liệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch quân sự của địch. Ngày 30-12-1966, để hỗ trợ cuộc đấu tranh của công nhân cảng, Liên hiệp Nghiệp đoàn Đô thành kêu gọi tất cả công nhân lao động toàn thành phố tổng đình công. Hàng loạt nhà máy, công xưởng hưởng ứng đình công 12 tiếng đồng hồ trong ngày.

Khí thế đấu tranh thắng lợi ở ngoại thành và trên toàn chiến trường miền Nam đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang nội thành ngày càng phát triển. Các đội biệt động thuộc Ban Hoa vận, các đội an ninh nội thành diệt nhiều tên mật vụ nợ máu, nhiều tên đầu sỏ trong chính quyền Sài Gòn; tình báo viên, cảnh sát ác ôn và lực lượng chiêu hồi chỉ điểm 1.

Phối hợp với các hoạt động, đêm 12-6-1966, Tiểu đoàn 8 của Quân khu cùng với Biệt động F100 và Tiểu đoàn 6 Tân Bình bắn 400 quả đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy 67 máy bay các loại, 13 xe quân sự và nhiều phương tiện chiến tranh. Đêm 17-8-1966, hưởng ứng lời kêu gọi ngày 20-7-1966 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháo binh Sài Gòn - Gia Định bắn vào căn cứ hậu cần của Mỹ ở Ngã tư Bảy Hiền, phá hủy và phá hỏng gần 100 xe quân sự, tiêu diệt và làm bị thương 167 nhân viên kỹ thuật Mỹ và Niu Dilân. Ngày 1-11-1965, bộ đội Rừng Sác nã đạn pháo vào khu vực kỳ đài trong lễ "Quốc khánh" Đệ nhị Cộng hòa.

Đêm 3-2-1966, các mũi đặc công thuộc Đội 2 biệt động của Quân khu do đồng chí Nguyễn Văn Kịp (Đồng Đen) chỉ huy bí mật lọt vào sân bay Tân Sơn Nhất, một mũi của ta bị địch phát hiện tại đường băng số 2 buộc phải nổ súng trước giờ hẹn. Cuộc chiến đấu giáp lá cà diễn ra quyết liệt, sau 5 tiếng đồng hồ "đại náo" sân bay, đến hừng sáng, với sự giúp đỡ của đồng bào và binh sĩ yêu nước, các chiến sĩ đặc công rút về căn cứ an toàn. Phối hợp với trận đánh sân bay, Đội biệt động 68 tập kích cư xá của bọn cố vấn chiến tranh tâm lý ở đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng Tháng Tám), diệt 30 tên Mỹ.

Bước sang năm 1967, nội dung, hình thức phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở nội thành càng phát triển đa dạng và phong phú. Cùng với những cuộc đấu tranh thường xuyên cho yêu cầu dân sinh, dân chủ, phong trào đấu tranh đòi hòa bình, dân chủ, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi Nội các của Thiệu - Kỳ phải từ chức diễn ra càng sôi nổi. Phong trào học sinh, sinh viên ngày càng phát huy mạnh mẽ, phong phú, đa dạng hòa nhịp với cao trào đấu tranh không ngừng của các tầng lớp nhân dân. Tổ chức "Lực lượng quốc gia tiến bộ" được thành lập, tập hợp đông đảo các tầng lớp trí thức, nhân sĩ, tín đồ các tôn giáo, trong đó có nhiều viên chức cao cấp của chính quyền Sài Gòn, cùng đấu tranh cho yêu cầu hòa bình, dân chủ và quyền tự quyết của dân tộc, chĩa mũi nhọn vào bọn xâm lược Mỹ và Nội các của Thiệu - Kỳ.

Từ ngày 9 đến ngày 21-9-1967, hàng ngàn sinh viên các trường đại học bỏ thi, xuống đường biểu tình, tổ chức mít tinh tố cáo bầu cử gian lận của Thiệu - Kỳ trong cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ II. Ngày 28-9-1967, hơn 300 nhà sư từ chùa Ấn Quang kéo đến Dinh Tổng thống đòi Nguyễn Văn Thiệu phải hủy bỏ "Hiến chương Phật giáo". Trước khí thế đấu tranh quyết liệt của học sinh, sinh viên và quần chúng lao động, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giới nghiêm trong toàn thành phố. Tháng 11-1967, học sinh, sinh viên các trường trung học và đại học Sài Gòn - Gia Định liên tiếp mở chiến dịch đấu tranh, kêu gọi đồng bào xuống đường đòi lật đổ Thiệu - Kỳ, đòi quân Mỹ xâm lược rút về nước. Các chiến sĩ biệt động nội thành tập trung đánh vào quân Mỹ và bọn tay sai ác ôn như đánh vào cư xá sĩ quan Mỹ ở đường Gia Phú, Đồng Khánh, Võ Di Nguy, Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Thoại, Sư Vạn Hạnh, Yên Đổ, Lam Sơn... và các đồn bốt cảnh sát ác ôn ở Ngô Quyền, Tôn Thất Thuyết, Quận 3, Thị Nghè.

Trên vùng ven, các đơn vị vũ trang nhân dân giữ vững thế chủ động tiến công. Trong ba tháng 7, 8 và 9-1967, Tiểu đoàn Quyết Thắng đã phối hợp với bộ đội địa phương và du kích Củ Chi đánh nhiều trận, đặc biệt là tập trung đánh những đoàn xe cơ giới của địch đi ủi phá xóm làng, phá hủy hàng trăm xe địch. Các tiểu đoàn địa phương của Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Rừng Sác, Bình Chánh... đều lập nhiều chiến công. Bộ đội Rừng Sác cũng liên tiếp lập nhiều chiến công làm kinh hồn, bạt vía kẻ thù.

Đến cuối năm 1967, các vùng ven Sài Gòn đã được mở rộng thành thế liên hoàn giữa các vùng du kích và lõm căn cứ, tạo điều kiện thuận lợi đưa lực lượng của ta áp sát đô thị. Ta đã làm chủ về đêm nhiều vùng ở Bình Chánh, Tân Bình, Nhà Bè, phía tây nam cũng như phía đông bắc Thủ Đức. Địch co lại cố thủ trong các đồn bốt. Nhiều nơi cán bộ ta có thể ra vào, đi lại giữa ban ngày. Đơn vị vũ trang của các Quận 7, 8 đánh trả nhiều trận càn, vây ráp của địch ở các vùng ven Hố Bần, Phong Đức, Rạch Bà Tàng, Khu Cầu Sập, Rạch Lồng Đèn... Nhiều cuộc tuyên truyền vũ trang đã diễn ra sôi nổi ở các quận ven đô. Hành lang từ xa lộ Sài Gòn - Biên Hoà qua vùng Bưng Sáu Xã, thông sang Long Phước Thôn, đã bảo đảm đường dây của Khu từ Vàm Nước ra Đông Môn - Long Thành được thông suốt. Đêm 20-10-1967, biệt động của ta bắn cối 60 ly vào Dinh Độc Lập giữa lúc đang diễn ra lễ đăng quang Tổng thống của Nguyễn Văn Thiệu, trong lễ đó có mặt của Phó Tổng thống Mỹ Hămphơrây.

Những trận đánh Mỹ và phong trào đấu tranh liên tục diễn ra ngay tại nội thành cho thấy thế trận chiến tranh nhân dân đang phát triển ở ngay trung tâm sào huyệt của địch, khiến cho Sài Gòn không còn là hậu phương an toàn của chúng.



---------------------------------------------------------------
1. Trận diệt tên Trần Văn Văn - Chủ tịch Quốc hội Sài Gòn (tên này định ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu) tại góc đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) - Phan Kế Bính vào sáng ngày 14-4-1966 khiến cho các phe nhóm đối lập với Nguyễn Văn Thiệu nghi Thiệu dùng tay chân thanh toán tên này. Cũng hôm đó, một quả mìn hẹn giờ của ta cài trên xe cảnh sát chạy vào Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia đã phát nổ, làm chết và bị thương 17 tên địch. Các đội biệt động cũng đã tiến hành nhiều trận đánh vào quân Mỹ tại Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 07:18:04 am
Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định nỗ lực phát triển lực lượng cách mạng, ráo riết chuẩn bị mọi mặt, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ cho thời cơ mới

Tháng 3-1966, Hội nghị cán bộ nội thành lần thứ 1 nhận định là ta đang chuyển sang bước ngoặt mới mà nội dung chủ yếu là Đảng ta đã thiết lập được quyền lãnh đạo phong trào, đánh bại ảnh hưởng của các xu thế phản động và thoả hiệp. Tháng 4-1966, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định họp để đánh giá toàn diện tình hình nông thôn, đô thị trong năm 1965 và đề ra Nghị quyết công tác cho Đảng bộ Khu Sài Gòn - Gia Định trong hai năm 1966-1967, với quyết tâm đưa lên cao trào toàn dân chống đế quốc Mỹ, góp phần đánh bại "chiến tranh cục bộ" của chúng . Nghị quyết của Khu ủy đã vạch ra mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ, mâu thuẫn giữa nguyện vọng hòa bình của nhân dân với chính sách mở rộng chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ và mâu thuẫn giữa quyền lợi thiết thân của quần chúng với chính sách vơ vét bóc lột tận cùng của địch để tiếp tục cuộc chiến tranh ngày càng phát triển gay gắt. Về phong trào cách mạng, Nghị quyết Hội nghị Khu ủy nhận định: "... Một bước ngoặt quan trọng trong đời sống chính trị ở đô thị... đồng thời cũng đánh dấu bước trưởng thành mới của lực lượng quần chúng". Nghị quyết còn nêu ra nhiều mặt công tác cụ thể cho từng vùng đô thị và nông thôn.

Thực lực cách mạng của Đảng bộ Khu Sài Gòn - Gia Định từ tháng 4-1965 đến tháng 4-1966 được phát triển khá nhanh. Đảng viên toàn khu vực tăng gần 100%; đoàn viên tăng 100%; hội viên đoàn thể tăng 300%; quần chúng cảm tình tích cực tăng trên 300%. Lực lượng vũ trang ba thứ quân đều phát triển nhanh. Ngoài Tiểu đoàn Quyết Thắng là đơn vị chủ lực của Khu, các cánh đều có tiểu đoàn bộ đội địa phương và các xã đều có các đơn vị du kích tập trung từ tiểu đội đến trung đội. Ở các xã, ấp còn bị địch kìm kẹp, có du kích mật và tự vệ mật. Tại nội thành, ngoài lực lượng biệt động của Khu, mỗi ngành, đoàn thể đều lập những tổ, đội biệt động hoặc trinh sát vũ trang và tự vệ mật. Chất lượng của các lực lượng vũ trang ngày càng được nâng cao 1.

Sau Nghị quyết 8 của Khu ủy (4-1966), do yêu cầu phát triển nhanh thực lực và sự trưởng thành của cơ sở đảng, nhiều chi bộ ở các địa bàn phường, khu vực hay chợ, trường học... được thành lập. Tháng 3-1966, Ban Cán sự Đảng ở nội thành Sài Gòn đã họp và đánh giá đúng mức về bước sự phát triển vượt bậc của phong trào chính trị, vũ trang ở đô thị, đồng thời phân tích những khó khăn và thiếu sót quan trọng của các cơ sở đảng, đặc biệt là vấn đề xây dựng và phát triển thực lực cách mạng chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.

Trong các mặt công tác, Khu ủy đặc biệt chú trọng chỉ đạo việc củng cố các cơ sở Đảng, phát triển Đảng trong công nhân lao động, học sinh, sinh viên ưu tú; điều phối số cán bộ lãnh đạo từ ngoài vào để tăng cường công tác lãnh đạo các vùng ven và nội đô; quan tâm đến việc tăng cường nòng cốt nắm lấy các tổ chức công khai, hợp pháp, nửa công khai. Đảng bộ quyết tâm sử dụng các hình thức công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp để đưa phong trào đi lên, đồng thời che giấu và bảo tồn các cơ sở bí mật. Trong những tháng cuối năm 1967, trọng tâm công tác của các cơ sở nội thành là tổ chức hệ thống nòng cốt trong các tổ chức công khai, nửa công khai. Nhờ đó, ta có một số lượng nòng cốt quần chúng đáng kể trong các tổ chức Tổng Liên đoàn Lao động, Liên hiệp các nghiệp đoàn tự do, Tổng hội Sinh viên, Tổng hội Học sinh, Phong trào Dân tộc tự quyết, Nghiệp đoàn Ký giả, Lực lượng Quốc gia tiến bộ, Lực lượng bảo vệ Văn hóa dân tộc, Hội bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm phụ nữ, Hội Ái hữu nghệ sĩ, Nghiệp đoàn Giáo chức.

Trên mặt trận thông tin báo chí, ngoài việc đưa người vào hướng dẫn các báo công khai, Khu ủy chủ trương mở rộng diện báo chí nửa công khai của các giới; hướng dẫn nhiều nghiệp đoàn ra nội san 2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí đã góp phần rất quan trọng trong công tác giáo dục tư tưởng, phổ biến thông tin, hướng dẫn dư luận đông đảo quần chúng Sài Gòn - Gia Định và các đô thị miền Nam.

Về xây dựng cơ sở, ta đã chuẩn bị các kho bí mật để cất giấu vũ khí, những chỗ ém quân và tổ chức việc vận chuyển vũ khí từ ngoài vào nội thành. Tháng 7-1965, đồng chí Đỗ Văn Căn xây dựng kho bí mật đầu tiên, chứa được vũ khí tại số nhà 183/4 Trần Quốc Toản (nay là Đường 3/2) đối diện với Cơ quan viện trợ Mỹ, ngay cạnh Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô.

Từ năm 1966 đến năm 1967, các đơn vị như A20, A30 được giao đặc trách việc xây hầm và vận chuyển vũ khí. Thực hiện nghiêm ngặt phương châm "bốn hóa", đến cuối năm 1967, ta đã xây dựng được 13 hầm vũ khí phục vụ cho các mục tiêu chiến lược 3. Nhiều cơ sở để đặt Sở chỉ huy (như nhà số 7 Yên Đổ - tiệm phở Bình) và nhiều hầm bí mật làm nơi trú ẩn cho cán bộ và chiến sĩ từ ngoài vào cũng được khẩn trương xây dựng.

Tháng 5-1967, Hội nghị lần thứ năm của Trung ương Cục miền Nam đề ra nhiệm vụ cho toàn Miền: "Phải đẩy mạnh chủ động tấn công và phản công liên tục; tiếp tục đánh bại hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định"; tiếp tục đẩy địch vào thế bị động phòng ngự; xây dựng 3 thứ quân của ta vững mạnh, tạo điều kiện giành thắng lợi ngày càng lớn; tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ và quân dân toàn Khu là: "Đẩy mạnh hơn nữa phong trào tiến công vũ trang và đấu tranh chính trị trong nội thành nhằm làm cho Mỹ - Thiệu ngày càng bị động đối phó với ta ngay tại sào huyệt của chúng, gắn liền với đẩy mạnh phong trào chống phá bình định, phá thế kìm kẹp của địch ở các vùng nông thôn ven đô. Nỗ lực xây dựng thực lực cách mạng, đặc biệt là xây dựng cơ sở nòng cốt trong các tổ chức công khai cũng như phát triển lực lượng vũ trang, tự vệ mật, tạo thêm nhiều căn cứ, nhiều cơ sở vật chất hậu cần tại chỗ, sẵn sàng phục vụ cho thời cơ mới"3. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các phong trào theo tinh thần và nội dung của Nghị quyết 8 được đề ra từ tháng 4-1966, trong đó có những yêu cầu quan trọng về phần đô thị như sau: "Ra sức hình thành và phát triển cao trào chính trị của quần chúng dưới các khẩu hiệu chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, chĩa mũi nhọn tấn công vào Mỹ và tay sai..."; "... Có nhiều phong trào đấu tranh từ nhiều phía khác nhau, có thấp, có cao, có nhỏ, có lớn, có bí mật, có công khai tấn công địch, có phong trào kinh tế, có phong trào chính trị, có phong trào quần chúng cơ bản và quần chúng tiểu tư sản, quần chúng bên trên... Cần chú ý nhiều hơn nữa phong trào văn hóa, chống các ảnh hưởng văn hóa đồi trụy và chống các loại triết học phản động của các phe phái, tạo nhiều khả năng tập hợp thật nhiều giới đồng bào tham gia thành một mặt trận đấu tranh văn hóa; từ đó mà chuyển dần từng bước thành những phong trào chính trị chống Mỹ rộng lớn..." .

Quán triệt chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngay từ tháng 10-1967, Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo quân và dân trên các chiến trường ra sức chuẩn bị mọi mặt cho "Tết Mậu Thân" 1968. Trên cơ sở đó, tháng 10-1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Ðịnh tổ chức hội nghị mở rộng để tiếp thu Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục, đề ra kế hoạch, mục tiêu Tổng tiến công và nổi dậy, nhằm thực hiện hai nhiệm vụ lớn: Ðánh chiếm các căn cứ đầu não của địch tại Sài Gòn và phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Về quân sự được tổ chức thành ba khối: Khối biệt động, Khối các phân khu, Khối chủ lực Miền. Trong đó, Khối biệt động gồm cụm 3-4-5, cụm 6-7-9, cụm 1-2-8 với hơn 100 chiến đấu viên có nhiệm vụ tiến công vào các mục tiêu đầu não của địch như: Dinh Ðộc Lập, Ðại sứ quán Mỹ, Ðài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân...; Khối phân khu gồm các lực lượng vũ trang Phân khu và được tăng cường thêm 15 tiểu đoàn chủ lực khác trong đó có Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Tiểu đoàn 3 Gò Vấp - Hóc Môn, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 Đặc công Gia Ðịnh... có nhiệm vụ tiếp ứng cho các đơn vị biệt động chiếm lĩnh mục tiêu trong nội đô; khối chủ lực Miền có ba sư đoàn bộ binh 5, 7, 9 và một sư đoàn pháo binh, Trung đoàn bộ binh 88 và một số lực lượng thuộc các binh chủng khác có nhiệm vụ tiến công các căn cứ của địch, ngăn chặn không cho chúng về ứng cứu Sài Gòn.

Ðể thực hiện nhiệm vụ nổi dậy, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, ngay từ đầu năm 1967, nhiều cán bộ đảng được bí mật tăng cường vào đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm điều nghiên mục tiêu, gây dựng cơ sở, cất giấu vũ khí, in truyền đơn, viết khẩu hiệu... chuẩn bị cho những mục tiêu lớn. Trên cơ sở đó, gần 400 cơ sở cách mạng, "lõm" chính trị, kho vũ khí bí mật được hình thành ngay trong lòng Sài Gòn, điển hình như ở Nhi Tỳ Quảng Ðông, đường Trần Quốc Thảo (Quận 3), Cao Ðạt (Quận 5), Minh Phụng, Cây Gõ (Quận 6), Trường đua Phú Thọ (Quận 11). Bên cạnh đó, lực lượng quần chúng yêu nước nhất là nhân sĩ, trí thức được các tổ chức của Đảng như Trí vận, Hoa vận, Công vận, Phụ vận,... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, Phong trào Dân tộc tự quyết, Nghiệp đoàn ký giả, Lực lượng Quốc gia tiến bộ, Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc, Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Hội Ái hữu nghệ sĩ, Nghiệp đoàn giáo học tư thục Việt Nam, Nghiệp đoàn giáo chức cách mạng, Hội Ái hữu giáo chức công lập bậc tiểu học, Nghiệp đoàn giáo dục tư thục người Việt gốc Hoa, Hội Kỹ sư và kỹ thuật gia Việt Nam... Ðây chính là đội quân chính trị hùng hậu để tham gia khởi nghĩa khi Tổng tiến công về quân sự.

Tính đến cuối tháng 12-1967, mọi công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cơ bản đã hoàn tất. Tài lực, vật lực và lực lượng ba thứ quân của thành phố cùng với lực lượng nổi dậy đều ở tư thế sẵn sàng nhập cuộc.

Có thể nói, trong hai mặt tổng công kích và tổng khởi nghĩa, nếu như sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang Miền nhằm đảm bảo mục tiêu tổng công kích thì công tác đô thị được đặt ở vị trí hàng đầu trong chỉ đạo của Trung ương Đảng cũng như Trung ương Cục nhằm bảo đảm mục tiêu tổng khởi nghĩa, trong đó, trọng tâm là Khu Sài Gòn - Gia Định. Có thể khẳng định, nếu không có nhân dân và lực lượng chính trị tại chỗ thì sẽ không thể tổ chức được biệt động ém sẵn trong nội thành, không có nhân dân và lực lượng chính trị tại chỗ thì sẽ không đưa được vũ khí vào nội thành; không có nhân dân và lực lượng chính trị tại chỗ thì không thể đưa được các tiểu đoàn mũi nhọn vào đánh trong nội đô; không có nhân dân và lực lượng chính trị tại chỗ thì sẽ không thể giải quyết được công tác thương binh, công tác tiếp tế là những mặt công tác mà không có tổ chức hậu cần nào của quân đội khi đó có thể giải quyết được. Từ đó, có thể thấy rõ, dưới sự chỉ đạo và hỗ trợ của Trung ương Đảng và Trung ương Cục, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã thực hiện tốt công tác chuẩn bị mọi mặt cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trong đó nổi bật nhất chính là việc xây dựng các lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang tại chỗ. Chính sự chuẩn bị đó đã góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đồng thời, đó cũng chính là bài học kinh nghiệm sâu sắc về chiến tranh nhân dân, sức mạnh lòng dân của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ thành phố, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay chúng ta cần phải tiếp tục phát huy.





---------------------------------------------------------------
1. Đầu năm 1967, số đảng viên trong lực lượng vũ trang thuộc các huyện ngoại thành là: Dĩ An có 14 đảng viên trong số 86 tay súng; Bình Tân có 43 đảng viên trong số 451 tay súng; Thủ Đức có 17 đảng viên trong số 217 tay súng; Nhà Bè có 40 đảng viên trong số 281 tay súng; Gò Môn có 40 đảng viên trong số 561 tay súng; Củ Chi có 82 đảng viên trong số 1.652 tay súng.

2. Nghiệp đoàn xe lam, Nghiệp đoàn hỏa xa, Nghiệp đoàn thuốc lá Bastos. Ngoài tờ Sinh viên và Học sinh, còn có tờ Tin tưởng của Đại học Vạn Hạnh; Hướng mới của Đại học Y khoa; Khoa học của Đại học Khoa học; Nhân bản của Đại học Sư phạm; Hướng đi của Đại học Văn khoa; Bông súng của Đại học Dược khoa; Đất nước của Trường Luật; Tiếng nói của Trường Trung học Cao Thắng; Áo tím của Trường Gia Long; Tuổi trẻ và ngòi bút của Trường Pétrus Ký... Trong giáo chức cũng có tờ Tự quyết.

3.Trong đó hầm tại nhà 287/70 đường Trần Quý Cáp chứa được 350 kg thuốc nổ, 10 tiểu liên AK, 3.000 viên đạn, 50 lựu đạn và cả súng B40... Riêng các đơn vị lo về quân nhu, cũng đã xây dựng được 19 "lõm" chính trị gồm 325 gia đình tích cực cách mạng.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 07:23:25 am
NÉT ĐẶC SẮC CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 TẠI SÀI GÒN - GIA ĐỊNH



Trung tướng VÕ MINH LƯƠNG
Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7


Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, ta tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên chiến trường rộng lớn, tập trung vào các đô thị, trọng tâm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế mà vẫn giữ được yếu tố bất ngờ tới giờ nổ súng, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch trên toàn miền Nam. Nét đặc sắc của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Sài Gòn - Gia Định biểu hiện ở sự độc lập, sáng tạo, tài mưu lược của Đảng ta trong nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc; đồng thời là biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân ta. Thắng lợi này đã để lại những bài học vô giá, in đậm trong lịch sử như những dấu son chói lọi về một thời kỳ oanh liệt của Đảng trong nghệ thuật chỉ đạo; của dân tộc, quân đội và nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và thống nhất đất nước.

Thứ nhất, Đảng ta đã nhạy bén nắm bắt thời cơ, kịp thời đề ra chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo.

Ở miền Nam, hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ - chính quyền Sài Gòn không những không đạt được kết quả gì đáng kể, trái lại còn bị thiệt hại nặng nề. Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng bị trừng trị đích đáng. Nội bộ chính quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc. Phong trào phản đối chiến tranh dâng cao khắp nước Mỹ... Hơn nữa, năm 1968 lại là năm bầu cử Tổng thống Mỹ - thời điểm rất nhạy cảm về chính trị. Điều này buộc Tổng thống đương nhiệm Giônxơn phải tính toán, thận trọng để đưa ra các quyết sách, nhất là đường lối chiến tranh Việt Nam nhằm tạo sự ủng hộ của cử tri trong cuộc chạy đua vận động tranh cử. Tình hình trên cho thấy, mặc dù lực lượng quân sự Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn rất đông, tiềm lực chiến tranh còn mạnh, nhưng thực tế chiến trường đã đẩy đế quốc Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Trong khi đó, mặc dù còn một số hạn chế, song ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi. Lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh, các lực lượng vũ trang đã có những bước tiến vượt bậc, vận dụng những phương thức tác chiến chiến lược độc đáo, linh hoạt, diệt được nhiều sinh lực địch. Ta giữ vững và mở rộng quyền làm chủ, hình thành thế bao vây xung quanh các căn cứ, thị xã, đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở các đô thị.

Trên cơ sở đánh giá cụ thể so sánh tương quan lực lượng địch - ta, Hội nghị Bộ Chính trị (12-1967) nhận định: "Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Tình hình đó cho phép chúng ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định" .

Chủ trương của Bộ Chính trị được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (1-1968) với việc xác định mục tiêu chiến lược của tổng công kích, tổng khởi nghĩa là:

"a) Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân nguỵ, đánh đổ nguỵ quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

b) Tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam.

c) Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc" .

Đây là một chủ trương táo bạo, đúng đắn và kịp thời của Đảng, thể hiện sự nhạy bén nắm bắt thời cơ chiến lược trong chỉ đạo chiến tranh, bởi năm 1968 đã hội tụ đủ các điều kiện về chính trị, quân sự, ngoại giao để ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi lớn. Nếu quá sớm, ta chưa đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược của địch vào năm 1965-1966 và 1966-1967 thì đế quốc Mỹ không chịu thua vì còn quỹ thời gian để triển khai đầy đủ chiến lược "chiến tranh cục bộ". Nếu để muộn cuộc tiến công sau năm bầu cử tổng thống Mỹ thì áp lực quân sự khó làm rung chuyển nước Mỹ, buộc Giônxơn phải thay đổi chính sách về Việt Nam.

Đặc sắc hơn, Đảng ta chọn thời điểm mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Nguyên đán - đúng vào đêm giao thừa, là lúc địch dễ sơ hở, chủ quan. Thực tế cho thấy, vào những ngày này, lực lượng quân đội Sài Gòn chỉ còn khoảng 50% quân số có mặt tại đơn vị. Điều đó rất thuận lợi cho ta đánh chiếm các mục tiêu.

Thứ hai, chọn hướng, mục tiêu táo bạo, bất ngờ và hình thức, phương pháp tiến công phù hợp, hiệu quả.

Khác với các hoạt động tác chiến trước đó, khi ta thường nhằm vào các vùng nông thôn, đồng bằng và rừng núi (nơi địch tương đối yếu), trong đợt tổng tiến công này, ta chọn hướng công kích chủ yếu là các thành thị, nhất là các thành phố lớn (trọng tâm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế) - nơi tập trung bộ máy quân sự và hành chính của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ta đã thực hiện một đòn đánh hiểm, đánh đau, đánh vào yết hầu, vào "trung ương thần kinh địch". Bằng đòn đánh này, ta đã phơi bày đầy đủ sự thất bại về quân sự và sự yếu kém trong tiến hành chiến tranh của địch. Chính Oétmolen, Tổng Chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam lúc đó đã thừa nhận: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận đối phương đã giáng cho chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề" . Ở Sài Gòn - Gia Định, các mục tiêu trọng yếu được xác định là Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát... Đó là những nơi tập trung sinh lực mạnh và khá nhạy cảm trong bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam. Đánh được các mục tiêu này chắc chắn sẽ gây tiếng vang, tạo ảnh hưởng lớn đến cục diện chiến tranh. Vì thế, đây là một quyết định táo bạo của ta và chưa từng được thực hiện kể từ khi Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam. Chỉ tính riêng việc ta đánh và chiếm giữ Tòa Đại sứ Mỹ trong nhiều giờ đã tạo hiệu ứng lớn. Đôn Obơcđoiphơ đã nhận xét trong tác phẩm Tết: "Xem ra toàn thế giới đang hướng về sứ quán và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định" .

Cùng với việc chọn mục tiêu bất ngờ, Đảng ta còn chọn hình thức và phương pháp tiến công độc đáo, đặc sắc. Lúc đầu Bộ Tổng Tham mưu đề xuất phương án tác chiến trong Đông - Xuân 1967-1968, sử dụng lực lượng quân sự là chính, đánh những trận tiêu diệt lớn, với chỉ tiêu, định mức tiêu diệt địch quy mô cao. Cách đánh này khó có thể tạo được chuyển biến trong chiến lược, trong khi tình hình lúc đó có thể cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Nhưng chuyển như thế nào?

Sau khi cân nhắc, tính toán kỹ các khả năng, Bộ Chính trị quyết định chọn phương thức tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt dưới nhiều hình thức, bằng nhiều lực lượng, trên khắp các địa bàn chiến lược, buộc địch phải căng kéo lực lượng đối phó ở khắp nơi. Tại Sài Gòn - Gia Định, chia thành 6 phân khu, bố trí lực lượng thành 5 mũi tiến công vào nội đô Sài Gòn. Đặc biệt, phân khu 6 (các quận nội thành) có 11 đội đặc công, biệt động, tổ chức thành 3 cụm (Đông, Nam, Bắc). Các phân khu khác có từ 4 đến 6 tiểu đoàn bộ binh, tổ chức thành những tiểu đoàn mũi nhọn hướng vào nội đô để phối hợp và tiếp ứng cho các đội đặc công, biệt động. Nhiều cán bộ, đảng viên được bí mật tăng cường vào Sài Gòn nhằm điều nghiên mục tiêu, gây dựng cơ sở, cất giấu vũ khí... gần 400 cơ sở cách mạng, "lõm chính trị", kho vũ khí bí mật được hình thành ngay trong lòng nội đô Sài Gòn.

Sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 thực sự đã sáng tạo ra một hình thức tiến công chiến lược mới, đồng loạt, với một lực lượng không nhiều, bằng sự phối hợp giữa các chiến trường trên quy mô toàn miền, ta đã tạo hiệu ứng mang tính chiến lược, làm thay đổi hoàn toàn cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ - một đế quốc "siêu cường". Mắcxoen Taylo, cựu đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã từng viết trong hồi ký của mình: "Những điều bất ngờ thực sự mà cuộc tiến công Tết 1968 đã gây cho tôi không phải là việc đối phương đã mở được một cuộc tiến công lớn mà chính là việc họ đã mở cùng một lúc nhiều trận tiến công mãnh liệt đến như thế" .

Từ phân tích trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đảng ta đã phát hiện thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời, xác định mục tiêu tiến công chủ yếu một cách táo bạo và tìm ra phương thức tiến công mới. Đây thực sự là một sáng tạo độc đáo trong tư duy chiến lược của Đảng, một điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, ta dùng lực lượng tinh nhuệ thực hiện đòn đánh bất ngờ vào các cơ quan đầu não của bộ máy chiến tranh Mỹ, chính quyền Sài Gòn.

Sự kiện Mậu Thân được tiến hành trong điều kiện lực lượng quân sự địch vẫn còn hơn một triệu tên, bộ máy chiến tranh của địch vẫn còn hiệu lực và tiềm lực chiến tranh của chúng còn mạnh. Để đạt được mục tiêu chiến lược đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, Đảng ta chủ trương sử dụng một cách tốt nhất lực lượng tinh nhuệ của ta, dùng binh lực và hỏa lực mạnh đánh vào các binh đoàn chủ lực địch, đánh mạnh vào thành phố, tạo điều kiện cho hàng triệu quần chúng ở thành thị và các vùng ven bị tạm chiếm nổi dậy khởi nghĩa; phối hợp với lực lượng quân sự của ta tiêu diệt, đánh sập bộ máy đầu não của chính quyền Sài Gòn, làm tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh Mỹ, chính quyền Sài Gòn, biến hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của địch thành hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của ta, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng có lợi cho ta.

Để đáp ứng nhiệm vụ đó, Quân khu Sài Gòn - Gia Định được giao nhiệm vụ xây dựng một lực lượng đặc công, biệt động mạnh, có tổ chức thống nhất, chuẩn bị các điều kiện bảo đảm, có thể cùng một lúc bất ngờ tiến công chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của địch khi có thời cơ chiến lược.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4 thành phố lớn, trọng tâm là Sài Gòn - Gia Định. Ta sử dụng một số đơn vị bộ đội chủ lực đánh chiếm các mục tiêu, kìm chân các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn chủ lực địch, tạo điều kiện cho lực lượng đặc biệt tinh nhuệ là các đội đặc công, biệt động, bất ngờ đánh chiếm một số cơ quan đầu não trung ương của địch.

Phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu vượt qua hệ thống đồn bốt dày đặc của địch vào thành phố tiến công địch. Điển hình như: Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn (Tiểu đoàn 2 Gò Môn); căn cứ Cổ Loa, Phù Đổng (Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng); doanh trại của địch ở Quận 5, Quận 10, Quận 11, Sư Vạn Hạnh, Vườn Lài, cư xá Hỏa Xa (Tiểu đoàn 6 Bình Tân).... Cùng với các mũi tiến công của các đơn vị chủ lực, dân quân du kích địa phương quy mô cấp tiểu đội, trung đội, đại đội đã kết hợp với bộ đội các phân khu tiến công vào hệ thống đồn bốt của địch. Các sư đoàn, trung đoàn chủ lực của ta ở vòng ngoài đón đánh không cho các đơn vị chủ lực địch tăng viện vào vùng ven và nội thành, giữ phía sau cho các tiểu đoàn mũi nhọn.

Trước đòn tiến công mạnh mẽ, bất ngờ và rộng khắp của ta, địch buộc phải rút lực lượng ở các nơi về cứu nguy cho đô thị, bỏ hở vùng nông thôn rộng lớn. Nắm vững thời cơ, lực lượng vũ trang giải phóng đã hỗ trợ cho nhân dân các địa phương đồng loạt nổi dậy đánh vào bộ máy kìm kẹp của địch ở khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, miền núi; tiêu diệt và phá hủy một bộ phận lớn sinh lực, phương tiện chiến tranh, làm đảo lộn chiến lược quân sự của Mỹ, chính quyền Sài Gòn.

Thứ tư, phát huy "thế trận lòng dân", tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tạo nguồn sức mạnh trên quy mô rộng lớn.

Tại Sài Gòn - Gia Định, "thế trận lòng dân" đã được triển khai rộng khắp, vừa có diện rộng vừa có chiều sâu. Quần chúng đã tham gia tích cực vào sự chuẩn bị cho chiến dịch. Sự tham gia đông đảo và hăng hái của mọi tầng lớp nhân dân, già, trẻ, thanh niên, phụ nữ, các tôn giáo... phản ánh sâu sắc "thế trận lòng dân". Ý chí quyết tâm cao, lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, cùng với khát vọng độc lập, tự do và thống nhất đất nước của quần chúng nhân dân là nguồn sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Trước đó, thành phố đã xây dựng được 19 "lõm chính trị", "lõm" căn cứ gồm 325 gia đình công nhân và lao động. Lực lượng phụ nữ Sài Gòn - Gia Định tham gia nhiều trong các đội biệt động, lực lượng vũ trang địa phương, giao liên, dân công và cứu thương; đóng vai trò quan trọng trong xây dựng cơ sở chính trị trong lòng thành phố, xây dựng thế căn cứ "nhân tâm" vững chắc trong các khu dân cư, các chợ... Đồng thời, nhiều thanh niên, sinh viên, học sinh đã cầm vũ khí sát cánh chiến đấu cùng các chiến sĩ Quân giải phóng. Lực lượng Thành đoàn hoạt động mạnh ở khu xóm Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Thông, Lê Văn Duyệt, khu vực chùa Ấn Quang... Sau những tuần đầu của Tết Mậu Thân, Tổng hội Sinh viên được thành lập, tập hợp hơn 500 người cứu trợ đồng bào bị nạn. Các tầng lớp khác như: giáo chức, văn nghệ sĩ và nông dân ở các vùng ven đã tham gia tích cực hỗ trợ cho lực lượng vũ trang, lực lượng đấu tranh chính trị của công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh. Đồng bào các giới đã cùng lực lượng vũ trang đánh chiếm Tòa hành chính ở Quận 5, Quận 4, thị trấn Hóc Môn...

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cho thấy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong việc phối hợp với các lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch, giành quyền làm chủ. Nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã tạo ra một thế trận tiến công thường xuyên và hiểm hóc trên cả chính diện và sau lưng địch, thực hiện bám trụ tại chỗ, "một tấc không đi, một ly không rời", đánh địch khắp nơi, vây hãm chúng vào thế bị động, lúng túng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiến công địch. Sự nổi dậy, chiến đấu rộng khắp của nhân dân thực sự là chỗ dựa vững chắc để các đơn vị chủ lực của ta đánh những đòn quyết định. Nhiều đơn vị chủ lực bí mật đứng vững được ngay tại cửa ngõ Sài Gòn là bởi ta có chỗ dựa chắc vào dân, vào các tổ chức đảng và cơ sở cách mạng ở địa phương. Đây là nhân tố đặc biệt quan trọng bảo đảm cho các đơn vị chủ lực hoàn thành nhiệm vụ tiến công địch. Không có nhân dân thì ta không thể nắm tình hình, bộ đội khó có thể vượt qua các tuyến ngăn chặn dày đặc của địch để vào, ém quân bí mật trong lòng thành phố - nơi gần sát các cơ quan đầu não của địch, cũng không thể có khối lượng lớn vũ khí để chiến đấu. Nhân dân còn trực tiếp tham gia chiến đấu, tiếp tế lương thực, che chở và nuôi dưỡng bộ đội.

Đây thực sự là một cuộc phát động cách mạng trong quần chúng với quy mô khá lớn ngay ở sào huyệt quan trọng nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài có sự tham gia của đông đảo quần chúng, xây dựng lực lượng cơ sở chính trị song song với lực lượng vũ trang theo phương châm đánh địch trên cả ba vùng chiến lược của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Nửa thế kỷ đã qua đi, nhưng độ lùi thời gian ấy càng làm cho chúng ta nhìn nhận, đánh giá khách quan, sâu sắc và toàn diện hơn vị thế của chiến thắng Mậu Thân 1968 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Chiến thắng Mậu Thân 1968 là chiến thắng có ý nghĩa lịch sử như một mắt xích quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, buộc đế quốc Mỹ phải thừa nhận đã thất bại trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" và đưa quân Mỹ về nước.

Sự kiện Mậu Thân mãi mãi là trang sử oanh liệt của quân và dân ta, ghi dấu ấn trong lịch sử dân tộc bằng chiến thắng vẻ vang với vai trò lãnh đạo của Đảng, nổi bật nhất là năng lực vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chọn thời cơ, trong đề ra chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo; chiến thắng Mậu Thân 1968 còn là sự sáng suốt trong lựa chọn mục tiêu, phương pháp tiến công phù hợp, hiệu quả; là tinh thần dũng cảm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cùng toàn dân để làm nên chiến thắng với khát vọng hòa bình và ý chí thống nhất đất nước.

Ngày nay, những nét đặc sắc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn nguyên giá trị. Những kinh nghiệm ấy rất cần được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo để tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 08:14:26 am
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
CUỘC TỔNG DIỄN TẬP CHO ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975



Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN
Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Đòn tiến công này đã gây cho giới cầm quyền Nhà Trắng một cú "choáng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí chiến lược, phá vỡ kế hoạch tác chiến của quân Mỹ, làm rung chuyển nước Mỹ; buộc Tổng thống Mỹ L.B Giônxơn phải tuyên bố xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với ta ở Pari và không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ hai. Đồng thời, đã đánh bại về cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, mở ra khả năng cho ta hiện thực hóa tư tưởng "đánh cho Mỹ cút", để tiến tới "đánh cho ngụy nhào" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là rất to lớn, nhưng cũng bộc lộ một số khuyết điểm đã được chỉ ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21, khóa III (6-1973) và ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các tướng lĩnh và các nhà khoa học nêu ra tại những cuộc Hội thảo khoa học trước đây. Nhưng hơn hết, sự kiện này đã để lại nhiều bài học quý giá, đánh dấu một bước phát triển cao về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó thực sự là cuộc tổng diễn tập cho Đại thắng mùa Xuân 1975, được biểu hiện trên những vấn đề sau:

1. Nghiên cứu, đánh giá đúng về địch, có chủ trương chiến lược phù hợp, xây dựng quyết tâm chính xác

Nghiên cứu, đánh giá đúng đối phương là cơ sở rất quan trọng giữ vị trí tiền đề cho việc hoạch định chủ trương và quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác - một trong những yếu tố cốt lõi để giành thắng lợi chiến tranh. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta xác định chủ trương và thực hiện quyết tâm là tổng công kích - tổng khởi nghĩa; với mục tiêu được lựa chọn là đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố, đặc biệt là Sài Gòn, Đà Nẵng và Huế, các thị xã, thị trấn, chi khu quân sự, quận lỵ, các sân bay và căn cứ hậu cần của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam. Trước đối tượng quân Mỹ, được đưa vào chiến trường miền Nam với vai trò là lực lượng tác chiến chủ yếu và quân đồng minh của Mỹ cùng với quân đội Sài Gòn đã được hiện đại hóa, nâng tổng quân địch lên tới 1,2 triệu, chủ lực của ta ở miền Nam ít hơn rất nhiều lần cả về quân số và vũ khí, trang bị 1. Đặc biệt, lực lượng nòng cốt để thực hiện cuộc Tổng tiến công chủ yếu vào các mục tiêu trọng yếu trong nội đô là lực lượng đặc công, biệt động. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phối hợp tác chiến giữa các lực lượng đặc công, biệt động với các đơn vị chủ lực không kịp thời; sự nổi dậy của quần chúng để giành quyền làm chủ (tổng khởi nghĩa) đã không diễn ra... Do vậy, tuy giành được thắng lợi lớn nhưng ta cũng mắc phải nhiều khuyết điểm dẫn đến tổn thất nặng nề về lực lượng và địa bàn đứng chân. Hệ quả đó đã được Đảng ta chỉ rõ tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 khóa III, đó là: Do nhận thức chưa thật sát đúng tình hình, nên lúc đầu ta đã đề ra chủ trương tổng khởi nghĩa ngay trong lúc chiến tranh đang diễn ra quyết liệt, địch còn khá mạnh, là không thực tế. Cuộc tiến công kéo dài, yếu tố bí mật không còn, không thay đổi hướng tiến công về vùng nông thôn, mà vẫn tập trung vào vùng đô thị, trong khi quân địch đã củng cố được lực lượng, gây cho ta nhiều tổn thất và khó khăn về sau...

Từ kinh nghiệm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá đúng, sát tình hình địch, Trung ương Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề ra chủ trương chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm (1975-1976)... Cùng với đó, từ cuối năm 1974, ta tổ chức những hoạt động tác chiến trên các chiến trường khác nhau, nhằm đánh giá sát đúng sức mạnh của quân đội Sài Gòn và khả năng can thiệp trở lại của Mỹ.

Nghiên cứu kỹ tình hình địch, đánh giá đúng khả năng của ta nhất là từ thực tiễn chiến trường, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng vào cuối năm 1974, đầu năm 1975 2, đã thông qua: Kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976.

Sau thời gian tiến hành các công tác chuẩn bị, ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công vào nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Trong quá trình chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, do luôn theo dõi sát diễn biến tình hình, lực lượng và thế trận của địch, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã kịp thời điều chỉnh quyết tâm, chuyển sang tổng tiến công chiến lược, tạo và thúc đẩy thời cơ giành thắng lợi, nhanh chóng và liên tiếp mở các chiến dịch tiếp theo. Cùng với sự phát triển của các chiến dịch, Bộ Chính trị, Thường trực Quân ủy Trung ương đã kịp thời chỉ đạo các địa phương phối hợp với các binh đoàn chủ lực nhanh chóng nổi dậy giành quyền làm chủ... Do đó, chỉ sau hơn 50 ngày đêm chiến đấu, bằng các đòn tiến công của các binh đoàn chủ lực phối hợp tác chiến với các lực lượng vũ trang địa phương và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân, ta đã làm nên thắng lợi vĩ đại mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

2. Chủ động tạo thế và lực, có cách đánh sáng tạo là yếu tố quan trọng để giành thắng lợi

Trong bước chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khi đánh giá về thế của địch, ta cho rằng: đến mùa Thu 1967, sau hai cuộc phản công chiến lược 1965-1966 và 1966-1967 ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc không đạt được mục tiêu đặt ra, Mỹ càng bị sa lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam và đang ở tình thế "tiến thoái lưỡng nan", bị động về chiến lược. Trong lúc đó, ta đang ở thế thắng, thế chủ động, địch đang ở thế thua, thế bị động, lực lượng quân sự của địch còn rất đông, tiềm lực chiến tranh của chúng còn lớn, nhưng trước những thất bại liên tiếp ở cả hai miền Nam - Bắc, giới cầm quyền nước Mỹ đã bị phân hóa thành nhiều phe phái đối lập giữa hòa và chiến... Tình hình trên đòi hỏi ta phải có một tư duy chiến lược mới, sáng tạo để tìm ra cách đánh thích hợp nhất bao gồm cả mục tiêu, hướng tiến công, phương thức và thời điểm tiến công.

Cùng với thế trận ta đã tạo lập được sau những năm đầu chống chiến lược "chiến tranh cục bộ", bộ đội chủ lực ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trong năm 1967, các chiến dịch diễn ra không dừng lại ở cấp sư đoàn mà đã phát triển tới cấp liên sư đoàn (Chiến dịch Lộc Ninh từ ngày 27-10 đến ngày 10-12-1967 có sự tham gia của 3 sư đoàn: 5, 7, 9)..., các đơn vị biệt động, đặc công phát triển rất mạnh, đặc biệt là ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế...; phong trào du kích chiến tranh phát triển rộng khắp không chỉ ở vùng nông thôn mà ở cả các đô thị.

Như vậy, tình hình thực tế trên chiến trường lúc này đã cho phép ta có thể tiến hành một cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, giáng cho quân địch những đòn sấm sét, làm thay đổi cục diện chiến tranh.

Việc mở cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa để làm chuyển hóa căn bản cuộc chiến tranh, vấn đề quan trọng là chọn hướng tiến công cho đúng, có cách đánh hay cả về quân sự và chính trị, cả tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, cả chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực và chiến tranh nhân dân địa phương, phải chọn đúng thời cơ để tạo được bất ngờ lớn nhất. Tuy nhiên, thực tiễn ở miền Nam lúc bấy giờ, mặc dù ta đã xây dựng được một số đơn vị chủ lực, đã tiến hành chiến tranh nhân dân, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch ở cả ba vùng chiến lược...; nhưng cũng chưa thể xem là lực lượng quân sự của ta lúc bấy giờ đủ mạnh để mở cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở các đô thị với mục đích đề ra như trên. Còn về chính trị, trong phong trào quần chúng tuy đã có những cuộc mít tinh, biểu tình của học sinh, sinh viên ở Sài Gòn và các thành phố, thị xã khác; nội bộ chính quyền địch cũng có những bất đồng, nhưng đây chưa phải là tiền đề của phong trào cách mạng của quần chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa. Lực lượng đánh vào các đô thị phần lớn là đặc công, biệt động, chưa có các binh đoàn chủ lực phối hợp nên kết quả đạt được là rất hạn chế.

Những nhận định và đánh giá của ta lúc bấy giờ còn mang nặng tính chủ quan, chưa đầy đủ về sức mạnh của quân địch mà cũng chưa đánh giá đúng về khả năng của ta, nhất là khả năng tổng khởi nghĩa giành chính quyền của quần chúng. Do vậy, khi cuộc tổng tiến công diễn ra, về chủ lực ta không đủ sức chiếm và giữ các mục tiêu cần đánh chiếm, sự nổi dậy của quần chúng tuy có diễn ra ở một số nơi nhưng chưa thể tạo nên khởi nghĩa để chiếm chính quyền của địch. Sự phối hợp giữa các lực lượng chưa kịp thời, dẫn tới cuộc tổng tiến công không đạt được nhiều kết quả như mong muốn. Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đồng chí Lê Đức Thọ sau này có nhận định: ... Cuộc Tổng tiến công ấy đã mắc sai lầm là chủ quan, đánh giá không đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, đánh giá cao về phong trào quần chúng nổi dậy và khởi nghĩa ở đô thị. Năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 có nêu: Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với thực tế lúc đó, chưa thấy những cố gắng mới lúc đó của địch, những khó khăn của ta, cho nên ta gặp khó khăn trong một thời gian.

Rút kinh nghiệm từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, để chuẩn bị cho kế hoạch tiến công chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, ta đã tiến hành công tác chuẩn bị rất chu đáo cả về thế và lực. Riêng về lực lượng ta đã liên tiếp thành lập 4 quân đoàn chủ lực và tiếp đó là Đoàn 232 3, về cơ sở, vật chất, ta tiếp tục mở rộng và phát triển tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, tăng cường vận chuyển vũ khí và trang thiết bị phục vụ chiến tranh vào tới tận Bù Gia Mập (miền Đông Nam Bộ) 4. Đặc biệt, ta đã tạo được thế và lực để đủ sức đánh dứt điểm Buôn Ma Thuột, trận mở đầu chiến dịch Tây Nguyên, đồng thời cũng là trận mở đầu cuộc tiến công chiến lược, rồi trở thành cuộc tổng tiến công chiến lược. Ta có đủ sức mạnh để tiến hành ba chiến dịch tiếp theo là Nam Ngãi, Huế, Đà Nẵng, tiếp đó tổ chức cánh quân Duyên Hải, quét sạch quân địch ở đồng bằng miền Trung, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng 2 quân khu địch với khoảng 35% tổng số lực lượng quân đội của chúng, giải phóng một vùng rộng lớn, gồm 16 tỉnh, 6 thành phố, với 8 triệu dân, tạo ra thế mới, lực mới đủ khả năng nhanh chóng tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định và đồng bằng sông Cửu Long.

Đến chiến dịch Hồ Chí Minh ta đã tập trung lực lượng chủ lực xung quanh Sài Gòn tương đương với 5 quân đoàn cùng với số quân địa phương của miền Đông Nam Bộ lên tới gần 50 vạn người. Riêng chủ lực có 15 sư đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn đặc công, hơn 50 tiểu đoàn pháo binh với gần 800 khẩu pháo lớn, hơn 80 tiểu đoàn pháo phòng không với hơn 1.000 khẩu pháo, 15 tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp với gần 500 chiếc, hơn 20 tiểu đoàn công binh, hơn 20 tiểu đoàn thông tin liên lạc...

Về cách đánh của ta vừa luồn sâu, ém sẵn trong nội thành và vùng ven đồng bằng nhiều đơn vị tinh nhuệ, chia cắt địch, vừa thực hành tiêu diệt từng sư đoàn địch, từng cụm phòng thủ của chúng ở vòng ngoài, rồi dùng những binh đoàn cơ giới thọc sâu rất nhanh vào nội thành, kết hợp với lực lượng tinh nhuệ - biệt động, đặc công - đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu một cách thuận lợi, ít tổn thất. Trong khi đó quần chúng ở cơ sở một số nơi vùng ven đô và cả nội đô cùng lực lượng vũ trang địa phương nổi dậy, giành quyền làm chủ. Và khi chính quyền trung ương ở Sài Gòn đầu hàng, thì toàn bộ địch còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long cũng bị lực lượng chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, binh vận cùng nhân dân phối hợp tiến công nhanh chóng giải phóng địa bàn, đi đến kết thúc toàn bộ cuộc chiến tranh.






---------------------------------------------------------------
1. Đến cuối năm 1967, trên chiến trường miền Nam, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương là 277.000 người.

2. Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng diễn ra từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975, ngoài các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, có các đồng chí trong Quân ủy Trung ương, các đồng chí Tổng Tham mưu phó phụ trách tác chiến, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường. Bộ Chính trị thông qua Kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.6.

3. Quân đoàn 1 thành lập ngày 24-10-1973; Quân đoàn 2 thành lập ngày 17-5-1974; Quân đoàn 4 có quyết định thành lập từ ngày 20-7-1974, nhưng mãi tới đầu năm 1975, mới hình thành, gồm 3 sư đoàn (9, 7, 34a), cùng các lữ đoàn, trung đoàn binh chủng kỹ thuật, các đơn vị bảo đảm; Quân đoàn 3 thành lập ngày 27-3-1975, khi chiến dịch Tây Nguyên gần kết thúc, gồm 3 sư đoàn bộ binh (320, 10, 316) và các đơn vị binh chủng của mặt trận Tây Nguyên. Ngoài 4 quân đoàn còn có Binh đoàn 232 tương đương cấp quân đoàn, được thành lập gấp theo ý định giải phóng Sài Gòn. Đoàn 232 được thành lập trên cơ sở các lực lượng của Bộ Tư lệnh Miền (B2), Quân khu 8, Quân khu 9 và của Bộ tăng cường vào, gồm các Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) Sư đoàn 3, 5 (Bộ Tư lệnh Miền) và Sư đoàn 8 (Quân khu 8 ).

4. Theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, t.VIII, tr.230: Đến đầu năm 1975, khối lượng hàng hóa, vũ khí, đạn dược, lượng thực, thực phẩm và xăng dầu đã vận chuyển và dự trữ trên từng hướng chiến trường, cụ thể: Trị - Thiên dự trữ 29.000 tấn vật chất, trong đó có 2.000 tấn vũ khí, đạn dược và hàng chục ngàn mét khối xăng dầu; Khu 5 dự trữ hơn 77.000 tấn, trong đó có hơn 10.500 tấn vũ khí, đạn dược, 5.200 tấn xăng dầu, 36.300 tấn lương thực; Tây Nguyên dự trữ hơn 53.000 tấn, trong đó có gần 800 tấn đạn và 28.600 tấn lương thực, thực phẩm; Đông Nam Bộ, hậu cần Miền dự trữ được hơn 102.000 tấn và tổ chức khai thác tại chỗ hơn 900 tấn. Ta đã xây dựng được hệ thống đường vận tải và hành quân trên dãy Trường Sơn có tổng chiều dài: 16.790 km, gồm có 6.810 km đường trục dọc, 4.980 km đường trục ngang và 5.000 km đường vòng tránh. Hệ thống đường chiến dịch do các chiến trường mở lên đến 6.000km. Hệ thống đường ống dẫn xăng dầu dài 1.712 km vào đến Bù Gia Mập (miền Đông Nam Bộ)...



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 11:00:46 am
3. Khéo nghi binh, lừa địch, tạo bí mật, bất ngờ; chọn chiến trường mở đầu phù hợp

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một thành công của nghệ thuật nghi binh lừa địch, giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ. Do đó, trong đợt 1, ta đã giành được nhiều thắng lợi, đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng; địch bị động, bất ngờ trong đối phó. Thực hiện kế hoạch nghi binh thu hút quân Mỹ và quân Sài Gòn cũng là hướng tiến công phối hợp với hướng tiến công chính vào các đô thị. Ngày 20-1, ta mở chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh Xuân - Hè 1968; ngày 27-1-1968, Liên quân Lào - Việt mở Chiến dịch Nậm Bạc. Mặt trận Khe Sanh đã thu hút và giam chân 17/33 sư đoàn quân địch, làm cho địch tin rằng trong năm 1968, quân và dân miền Nam chỉ đủ khả năng tiến công ở Mặt trận Khe Sanh mà không đủ lực tiến công vào các khu vực khác, nên chúng đã tập trung lực lượng để đối phó trên hướng này là chủ yếu. Khi đánh giá về các sự kiện trên, H. Kítxinhgiơ trong cuốn sách Thương lượng về Việt Nam có viết: Trong Xuân Mậu Thân, Oétmolen đã điều 94% lực lượng tinh nhuệ nhất của Mỹ lên những nơi chỉ chiếm 4% dân số Việt Nam ở vùng rừng núi, trong đó có chiến trường Đường 9 - Khe Sanh. Và thú nhận: Hà Nội đã chơi trò "người đấu bò" lừa được con bò tót Mỹ ra vòng ngoài rồi dùng lực lượng quân sự, chính trị của họ bất thần đánh ập vào các đô thị phía trong nơi mà Mỹ sơ hở làm cho bộ chỉ huy Mỹ không kịp trở tay.

Như vậy, chủ trương của ta là căng địch trên khắp các chiến trường, kéo quân chủ lực, nhất là quân Mỹ ra các khu vực lựa chọn (rừng núi, giáp ranh) tiêu diệt bộ phận và giam chân các binh đoàn quân Mỹ. Đó là một đòn đánh chính, một hướng tiến công của bộ đội chủ lực. Không phải là đơn thuần nghi binh mà là một hướng phối hợp quan trọng. Một đòn chính nữa là đưa chiến tranh vào thành thị. Đây là hướng rất hiểm, đồng thời là hướng chủ yếu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nhằm đánh ập vào các thành thị, hệ thống trung tâm đầu não chỉ huy, các kho tàng, các sân bay, bằng lực lượng quân sự tinh nhuệ là chính cùng với lực lượng chính trị của quần chúng cách mạng, kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh địch vận.

Cùng với đòn tiến công ở Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, đúng vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân, ở miền Nam quân và dân ta thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đánh vào 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần... Nhân dân nông thôn Nam Bộ và miền Trung Trung Bộ tiến công và nổi dậy dồn dập phá rã hàng mảng lớn bộ máy kìm kẹp, bức hàng, bức rút hàng trăm đồn, bốt. Quân đội Sài Gòn tan rã từng mảng lớn... Đây thực sự là một đòn tiến công bất ngờ đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Như trong cuốn sách Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Maicơn Máclia viết: Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều bất ngờ, nhưng không có bất ngờ nào làm người ta phải sửng sốt hơn trận tiến công Tết. Đặc biệt nó diễn ra ngay trong Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Còn tờ Thời báo của Mỹ số ra ngày 9-2-1968 bình luận: ...chắc chắn là một hành động bất ngờ thần thánh. Giới quân sự Mỹ cho rằng vũ khí mạnh nhất của cuộc tiến công Tết là sự bất ngờ. Báo chí phương Tây hồi đó mô tả cuộc tiến công Tết là một tiếng sét nện đúng đỉnh Nhà Trắng. Với ta cho đến thời điểm này, đây là cuộc động binh lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc.

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã để lại bài học về nghệ thuật nghi binh, lừa địch, giữ bí mật, bất ngờ và lựa chọn mục tiêu mở đầu cuộc tiến công chiến lược. Do tổ chức tốt việc nghi binh, lừa địch, giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ và lựa chọn mục tiêu tiến công là các trung tâm đầu não của quân địch ở các đô thị, ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, gây cho quân Mỹ, quân Sài Gòn nhiều thiệt hại và liên tục bị động đối phó.

Từ kinh nghiệm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, về chiến lược giải phóng miền Nam, ban đầu ta lựa chọn nam Tây Nguyên là hướng chiến lược chủ yếu với mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Khác với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta không chọn mục tiêu mở đầu vào khu vực thành phố, đô thị ở đồng bằng, mà chọn mục tiêu mở đầu ở địa bàn rừng núi, nơi mà quân địch không mạnh, khó cơ động ứng cứu, chi viện; đồng thời là nơi ta có thể che giấu và tập trung lực lượng; nơi có điều kiện bí mật cơ động áp sát, bất ngờ tiến công tiêu diệt các mục tiêu cần đánh chiếm và thuận lợi cho việc tổ chức ngăn chặn, chia cắt quân địch ứng cứu, tăng viện...

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra, ta đã tiến hành nghi binh, lừa địch rất tốt, thu hút và giam chân phần lớn quân địch ở Bắc Tây Nguyên. Khi các sư đoàn chủ lực của ta bí mật, bất ngờ tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, quân địch hoàn toàn bất ngờ, liên tục bị động, lúng túng trong đối phó và cuối cùng phải tháo chạy khỏi Tây Nguyên, tạo ra thế trận và thời cơ mới để ta tiến hành các chiến dịch tiếp theo giải phóng vùng đồng bằng ven biển miền Trung, tiến về Sài Gòn - Gia Định, đánh trận quyết chiến chiến lược giành toàn thắng.

4. Chớp thời cơ, nhanh chóng điều chỉnh quyết tâm chiến lược tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đợt 1 ta đã giành thắng lợi vang dội, gây cho quân Mỹ và quân đội Sài Gòn nhiều tổn thất và lúng túng, bị động trong đối phó. Tuy nhiên, sau Tết quân địch đã chuyển chiến lược, ra sức thực hiện biện pháp "quét và giữ". Chúng đã kéo quân về phòng thủ dày đặc tuyến thành thị, yếu tố bất ngờ không còn nữa. Sức của ta đã sút giảm nhiều, cơ sở chính trị đã bộc lộ và tan rã, căn cứ đứng chân ở các vùng nông thôn bị bỏ lỏng. Trong khi đó quân địch lại tăng cường các cuộc phản kích, nhất là bằng các chương trình "bình định" kế tiếp nhau. Chỗ đứng chân của ta bị thu hẹp và đẩy lùi ở nhiều vùng rộng lớn. Nhưng ta vẫn tiếp tục mở các đợt tiến công tiếp theo và vẫn giữ mục tiêu là các đô thị, nên đã chịu nhiều tổn thất. Đó là những khuyết điểm, sai lầm đúng như Kết luận của Bộ Chính trị đã xác định: Đây không chỉ là mức khuyết điểm mà là một sai lầm về chỉ đạo chiến lược; rằng sau thắng lợi Tết ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây ra cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.

Từ bài học của Xuân Mậu Thân, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ban đầu ta xây dựng quyết tâm chiến lược là tiến hành cuộc tiến công chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Nhưng sau chiến thắng Tây Nguyên có ý nghĩa chiến lược, ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chuyển Kế hoạch cuộc tiến công chiến lược 1975 thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975.

Nắm chắc thời cơ và chớp thời cơ là nét nghệ thuật đặc sắc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thực tế cho thấy ngay trong khi chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra, Trung ương Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã luôn bám sát mọi động thái của địch và hoạt động tác chiến trên chiến trường, kịp thời chỉ đạo các địa phương ở Trị - Thiên và Quân khu 5 thực hiện những chiến dịch địa phương và các đợt hoạt động mạnh, coi đây là hướng phối hợp chiến lược quan trọng. Phát huy thắng lợi trên chiến trường Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nhanh chóng hạ quyết tâm mở các chiến dịch Nam Ngãi, Huế, Đà Nẵng, tổ chức cánh quân Duyên Hải, tăng cường lực lượng, tổ chức tiến công với tinh thần "thần tốc, táo bạo, bất ngờ", nhanh chóng tiến về hội quân để giải phóng Sài Gòn - Gia Định và giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian ngắn nhất.

Tóm lại, những kinh nghiệm từ Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã thực sự là bài học sâu sắc, ý nghĩa như một cuộc tổng diễn tập để 7 năm sau đó, khi thời cơ đã chín muồi, quân và dân ta tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong mùa Xuân Ất Mão 1975. Như vậy, Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sự kiểm chứng cho những vấn đề đã được đặt ra từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Trong đó, nổi bật lên những vấn đề về chỉ đạo và điều hành chiến tranh là phải đánh giá đúng về địch, về ta; có chủ trương, quyết tâm chiến lược chính xác; phối hợp chặt chẽ khả năng chiến đấu của ba thứ quân; phát huy được sức mạnh của mọi lực lượng và của toàn dân tham gia đánh giặc; tiến hành công tác chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực hơn hẳn đối phương; lựa chọn chiến trường mở đầu đúng, phù hợp với khả năng của ta; nắm chắc thời cơ, nhanh chóng chớp thời cơ, kịp thời điều chỉnh quyết tâm (cả ở chiến thuật, chiến dịch và chiến lược); có cách đánh sáng tạo; chỉ huy, điều hành tác chiến kiên quyết, linh hoạt, táo bạo, bí mật, bất ngờ với tinh thần quyết chiến, quyết thắng thì nhất định sẽ giành thắng lợi.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 11:06:37 am
SỰ CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng, PGS.TS. NGUYỄN VĂN BẠO
Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng


Cách đây 50 năm, từ đêm 30-1 đến ngày 25-2-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của quân và dân miền Nam đã diễn ra vô cùng mãnh liệt, đồng loạt đánh vào 4 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ trên khắp miền Nam. Quân giải phóng đã đánh trúng hầu hết các cơ quan đầu não từ Trung ương đến địa phương của địch; tiến công 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần... Trong đó có những trận gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ và có tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới như trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của chính quyền Sài Gòn và đặc biệt đã làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm... Chính những đòn tiến công với quy mô rộng lớn, mãnh liệt đó đã làm tổn hại nặng nề sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn với sự thương vong của 101.000 quân Mỹ và quân đội Sài Gòn , cùng 1.368.000 tấn vật tư chiến tranh, chiếm 34% dự trữ chiến tranh của địch; gần 20 vạn binh lính Sài Gòn hoang mang đào, rã ngũ. Hệ thống chính quyền cùng bộ máy kìm kẹp của chúng ở nhiều vùng nông thôn đồng bằng, rừng núi đã bị phá vỡ, chương trình "bình định" bị thiệt hại nặng ở nhiều nơi.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một chiến công rất oanh liệt và có vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là thắng lợi đã tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải bước đầu xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi để quân và dân Việt Nam thực hiện mục tiêu chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đánh dấu thành công nổi bật về chỉ đạo chiến lược, thể hiện sự sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam và đây là bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam.

1. Điểm nổi bật trong chỉ đạo chiến lược của Đảng là xác định phương pháp tiến công táo bạo với cách đánh hoàn toàn mới

Tháng 1 - 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14. Sau khi phân tích, đánh giá âm mưu cơ bản và thất bại của địch trong thời gian qua, khả năng của chúng sắp tới; đánh giá những mặt mạnh và những mặt yếu của ta, Trung ương kết luận: "Những điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định" .

Từ kết luận trên, Trung ương Đảng xác định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định".

Từ phương hướng, nhiệm vụ đó, Đảng đã lựa chọn và quyết định thực hiện phương pháp tiến công đồng loạt dưới nhiều hình thức (quân sự, chính trị, binh vận) bằng nhiều lực lượng (chủ lực, đặc công, biệt động, lực lượng tại chỗ...) tiến công vào hầu khắp các đô thị, cơ quan đầu não, nơi chính quyền địch mạnh. Cuộc tiến công mãnh liệt vào các mục tiêu xung yếu ở Sài Gòn, Gia Định - nơi tập trung cơ quan đầu não cao nhất của địch đã có ảnh hưởng rất rộng lớn, sâu sắc. Với quy mô to lớn và tính chất đồng loạt, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là hình thức tiến công chiến lược táo bạo và hoàn toàn mới với hiệu lực chiến đấu "cộng hưởng" lớn chưa từng có, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Chính cuộc tiến công táo bạo với cách đánh hoàn toàn mới này đã làm cho những người điều hành chiến tranh Hoa Kỳ sững sờ, choáng váng. Chỉ trong 24 tiếng đồng hồ đầu tiên trong đợt tiến công, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch, tất cả các thành phố, tỉnh lỵ trước đó hầu như "đứng ngoài cuộc chiến tranh" đều bị tiến công đồng loạt. Chính tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ lúc đó ở miền Nam Việt Nam, đã phải thừa nhận: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận đối phương đã giáng cho chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề". Đối với nước Mỹ thì Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã tạo ra "Một cảm giác thất vọng, u sầu bao chùm chính giới Oasinhtơn. Chính phủ bị xúc động" .

2. Lựa chọn thời cơ đúng để đạt hiệu quả cao, tạo ra bước ngoặt quyết định của chiến tranh

Chọn thời cơ là một vấn đề có tầm đặc biệt quan trọng để tiến hành chiến tranh thắng lợi. Muốn có thời cơ, phải biết dự kiến và biết tạo thời cơ; khi thời cơ xuất hiện phải nắm vững và phải chớp lấy thời cơ không được bỏ lỡ. Nguyễn Trãi - nhà chính trị, ngoại giao kinh bang tế thế, nhà chiến lược lớn của dân tộc, đã chỉ rõ: Người giỏi dùng binh là ở chỗ biết rõ thời thế. Được thời, có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn; mất thời, không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên hóa ra nguy; sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay.

Nhận thức đúng vấn đề này, Đảng ta đã chọn thời cơ vào năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, năm mà tình hình nước Mỹ rất nhạy cảm về chính trị. Vào thời điểm này, Mỹ đã trải qua ba năm đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Chúng đã từng mở hai cuộc phản công chiến lược vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 nhưng không đạt được kết quả gì đáng kể, trái lại chúng còn bị quân, dân miền Nam đánh cho thiệt hại nặng nề và thất bại hoàn toàn trong mục tiêu chiến lược "bẻ gãy xương sống Việt cộng". Đồng thời, những bước leo thang đánh phá miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng không xoay chuyển được tình thế. Những cố gắng của Mỹ vào thời điểm này đã gần đến đỉnh cao. Tính đến tháng 12 - 1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, 30% lực lượng không quân chiến thuật, hơn 30% lực lượng hải quân. Lực lượng dự trữ dành cho một cuộc "chiến tranh cục bộ", Mỹ đã dùng hết, thậm chí còn sử dụng cả một phần lực lượng dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu, chi phí cho chiến tranh Việt Nam đến năm 1968 lên tới gần 70 tỉ đô la (gấp 3 lần chiến tranh Triều Tiên). Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và xây dựng quốc phòng của Mỹ. Đế quốc Mỹ đang trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan". Về phía ta, đây là lúc lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó và đang nắm quyền chủ động trên chiến trường.

Từ những phân tích đánh giá trên, Đảng ta khẳng định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn", tình hình đó cho phép chúng ta "có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định".
Thời điểm năm 1968 hội tụ các điều kiện thuận lợi cả về quân sự và chính trị cho giành thắng lợi lớn theo ý định của ta. Thời cơ này được ta tạo ra và nắm bắt đúng lúc, không sớm và cũng không muộn. Nếu đánh sớm, ta chưa làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 thì Mỹ sẽ chưa chịu thua vì còn cả quỹ thời gian và lực lượng để triển khai đầy đủ chiến lược "chiến tranh cục bộ". Nếu ta để muộn, cuộc tổng tiến công diễn ra sau năm bầu cử Tổng thống Mỹ thì áp lực quân sự khó làm rung chuyển nước Mỹ, khó làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền. Độc đáo hơn, ta chọn thời cơ tiến công vào dịp Tết Nguyên đán - đúng đêm giao thừa, lúc mà địch sơ hở, chủ quan. Vì thế, khi ta tiến công, địch hoàn toàn bị bất ngờ. Chúng không chỉ bất ngờ về thời gian mà còn bất ngờ về mục tiêu bị tiến công là các đô thị, các căn cứ quan trọng và bất ngờ cả về quy mô của cuộc tiến công khi ta không đánh vào vài chục điểm nhỏ như phán đoán của tình báo địch, mà đánh đồng loạt trên khắp chiến trường miền Nam.

3. Lựa chọn đúng hướng tiến công chủ yếu

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mâu Thân 1968 được Đảng lựa chọn nhằm vào đô thị, nơi tập trung các cơ quan đầu não Trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn. Đó là những mục tiêu tập trung sinh lực cao cấp của cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam. Cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn cho rằng lực lượng ta ít kinh nghiệm đánh thành phố và chưa có khả năng đánh vào các trung tâm đầu não của chúng. Hơn nữa, từ năm 1968, ta chủ động mở Mặt trận Đường 9, coi đây là một hướng tiến công của quân chủ lực để tiêu hao, tiêu diệt địch, đồng thời kéo một lực lượng lớn quân Mỹ ra giam chân tại Khe Sanh. Vào đúng lúc tướng Oétmolen đang cố gắng điều động lực lượng lên "cố giữ bằng được cái chốt Khe Sanh" thì "Việt cộng lại mở một loạt trận tiến công táo bạo và bất ngờ vào hầu hết các căn cứ Mỹ và nguỵ ở Nam Việt Nam".

Có thể nói, chọn đánh vào đô thị làm hướng tiến công chủ yếu là ta đã chọn đánh vào nơi hiểm yếu nhất của kẻ thù. Đòn hiểm yếu đó đã phơi bày đầy đủ sự thất bại về quân sự và sự yếu kém của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên trong suốt gần 15 năm kháng chiến, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị, thực hiện một đòn đánh hiểm, đánh đau, đánh vào "trung ương thần kinh địch". Rôbơt Kennơđi, Thượng nghị sĩ Mỹ đã phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ với 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và trên biển, được cung cấp hết sức đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công?

4. Tổ chức, bố trí và điều động lực lượng thực hiện nghi binh, lừa địch để tiến công gây bất ngờ lớn đối với địch

Để thực hiện tiêu diệt, tiêu hao, vừa nghi binh thu hút, giam chân một phần lực lượng quân cơ động Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chính tổng tiến công và nổi dậy ở thành thị, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã chỉ đạo lực lượng vũ trang nổ súng đánh địch ở Khe Sanh. Chính hoạt động này đã thu hút được sự chú ý của địch ra vùng giới tuyến và giam chân một nửa lực lượng của Mỹ ở miền Nam gồm 17 trên tổng số 33 lữ đoàn , buộc chúng phải phân tán lực lượng trên nhiều khu vực chiến trường. Nhận xét về tài nghệ nghi binh của ta, Maicơn Máclia, tác giả cuốn sách Việt Nam cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, đã viết: Nhưng rồi các trận đánh trong Tết Mậu Thân làm người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc bao vây bỏ đấy mà thôi. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh. Sách Việt Nam - Giờ quyết định của Hãng thông tấn Pháp AFP tiết lộ: Những sai lầm nặng nhất của các tổ chức tình báo - không còn nghi ngờ chút nào - là không tin rằng Việt cộng có thể huy động được số người đông đảo và ném ra những cuộc tiến công hết sức ác liệt với một sự hợp đồng chặt chẽ và một cường độ lớn như vậy.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dù chưa đạt được mục tiêu chiến lược "giành thắng lợi quyết định", chưa đạt được theo khả năng thứ nhất: Ta thắng lớn, Mỹ buộc phải chịu thua, phải thương lượng với ta để kết thúc chiến tranh; ta còn có những sai lầm, khuyết điểm. Nhưng đây là cuộc động binh lớn nhất trong lịch sử chống Mỹ, cứu nước từ năm 1954 đến lúc này. Lần đầu tiên ta đưa chiến tranh tới hang ổ của kẻ thù, làm đảo lộn kế hoạch chiến tranh và thế bố trí chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Do thất bại nặng nề này, Tổng thống L. Giônxơn phải tuyên bố: Đơn phương chấm dứt không điều kiện việc đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; loại bỏ mọi cuộc leo thang lớn; huỷ bỏ kế hoạch chiến lược "tìm và diệt" quay sang thực hiện "quét và giữ", đẩy tới sự thất bại hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ". Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: "Ta đã thắng rất to, địch đã thua rất nặng nề. Rõ ràng trận này đã mở ra một bước ngoặt chiến lược đánh dấu thời kỳ Mỹ phải xuống thang chiến tranh do thất bại trong "chiến tranh cục bộ" . Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 chứng tỏ khả năng và tài nghệ chỉ đạo chiến lược, chỉ đạo chiến tranh tài tình, sắc bén, táo bạo của Đảng ta.

Từ những thành công về chỉ đạo chiến lược của Đảng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho chúng ta bài học lớn để tiếp tục vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là nêu cao ý chí kiên cường, táo bạo, dám nghĩ, dám làm và quyết tâm cao, kết hợp với trí tuệ sáng tạo tuyệt vời của con người Việt Nam xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu. Đồng thời, luôn xuất phát từ thực tiễn, dựa vào dân, tin tưởng ở nhân dân, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tranh thủ thời cơ, kịp thời đề ra những bước đi, những quyết sách phù hợp với quy luật khách quan, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 11:10:07 am
CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG 9 - KHE SANH XUÂN HÈ 1968 ĐÒN NGHI BINH CHIẾN LƯỢC
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Trung tướng HUỲNH NGỌC HÀ
Cục trưởng Cục Tác chiến


Mưu cao nhất là mưu lừa địch, kế hay nhất là kế điều địch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), hoạt động nghi binh đã được chúng ta vận dụng rất linh hoạt, điển hình như các chiến dịch Bắc Tây Nguyên (1972), Tây Nguyên (1975)... Đặc biệt, đòn nghi binh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968) đã thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn (chủ yếu quân Mỹ), tạo điều kiện thuận lợi cho toàn miền Nam thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thắng lợi.

Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968) đã thể hiện nghệ thuật chỉ đạo nghi binh chiến lược tuyệt vời của Bộ Thống soái tối cao, khiến Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh giá sai tình hình, hoàn toàn bị bất ngờ về quy mô, thời gian của đòn chiến lược Xuân Mậu Thân, nổi bật một số vấn đề đó là:

Một là, quán triệt sâu sắc đường lối quân sự của Đảng, kế thừa và phát huy nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam; chỉ đạo, chỉ huy kiên quyết giành thắng lợi.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 (khóa III) của Đảng đã xác định: Trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phải động viên và tập trung lực lượng của cả nước, cố gắng cao độ đập tan âm mưu của địch, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước . Tiếp đó, từ ngày 27 đến ngày 29-4-1967, Bộ Chính trị (tổ 5 người) và Thường trực Quân ủy Trung ương họp bàn kế hoạch chiến lược giành thắng lợi quyết định ở miền Nam. Hội nghị triệu tập cán bộ Cục Tác chiến, Cục Tình báo đến báo cáo. Hội nghị kết luận: Ta một mặt phải nắm chắc vấn đề đánh lâu dài; mặt khác phải nỗ lực để buộc Mỹ phải chịu thua trong năm 1968. Theo đó, các lực lượng vũ trang phải tổ chức những đợt hoạt động lớn, bắt đầu ngay từ mùa mưa năm 1967, nhằm tiêu diệt bằng được các đơn vị tinh nhuệ (các trung đoàn, sư đoàn chủ lực) của địch, đánh phá mạnh giao thông, hậu cứ Mỹ. Hoạt động quân sự phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, thể hiện dưới hình thức ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận).

Tháng 6-1967, Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục và các khu ủy toàn miền Nam: phải kiên quyết giành ưu thế quân sự, chính trị; phải tiến lên giành chủ động chiến dịch và buộc địch phải chuyển vào thế phòng ngự trên ba chiến trường quyết định:

Chiến trường quyết định thứ nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn và miền Đông Nam Bộ: Thực hiện bao vây chặt Sài Gòn - Chợ Lớn, buộc địch phải phân tán một lực lượng quan trọng, tiêu diệt từng đơn vị lớn quân Mỹ, quân đội Sài Gòn ở các vùng rừng và giáp ranh thành phố.
Chiến trường quyết định thứ hai là từ Đường 9 qua Trị - Thiên đến Quảng Đà, Quảng Nam: Phải căng địch ra và đánh mạnh vào thủy quân lục chiến Mỹ ở hai đầu. Phải tiêu diệt một bộ phận quan trọng thủy quân lục chiến Mỹ, đánh quỵ 2 sư đoàn quân đội Sài Gòn, đánh phá các căn cứ lớn của địch ở Đường 9, cắt đứt đường giao thông huyết mạch, buộc chúng phải chuyển vào phòng ngự bị động trên toàn Vùng chiến thuật 1.

Chiến trường quyết định thứ ba là đồng bằng, giáp ranh Khu 5 và Tây Nguyên: Bao vây, tiến công mạnh các căn cứ và đường giao thông chiến lược của địch; tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, đánh quỵ các sư đoàn 2, 22 quân đội Sài Gòn; tiêu diệt nhiều tiểu đoàn quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên; phá tan kế hoạch "bình định" của địch, cố gắng giải phóng một số thị trấn, thị xã. Ngoài ra, các chiến trường Phân khu Nam của Khu 5 và đồng bằng Nam Bộ là những chiến trường phối hợp rất quan trọng cần phải cố gắng đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh bại kế hoạch "bình định" của địch, giữ vững và mở rộng quyền làm chủ của ta.

Ngày 6-12-1967, Quân ủy Trung ương quyết định lập Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh. Đồng chí Lê Quang Đạo, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy; Trần Quý Hai, Phó Bí thư, Tư lệnh. Nhiệm vụ của Mặt trận là tổ chức tác chiến hiệp đồng binh chủng, tiêu hao một bộ phận quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, thu hút địch ra Đường 9, tạo điều kiện cho các chiến trường khác đánh địch.

Từ ngày 20-1 đến ngày 15-7-1968, ta mở chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh, từ Cửa Việt đến biên giới Việt Nam - Lào, với lực lượng tương đương quân đoàn tăng cường, do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo. Sau 170 ngày đêm kiên cường chiến đấu, ta diệt và bắt sống 11.900 tên địch, phá hủy 78 xe quân sự, bắn cháy và phá hủy 197 máy bay các loại, bắn chìm, hỏng 80 tàu vận tải của địch...

Hai là, đòn nghi binh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh nằm trong tổng thể kế hoạch nghi binh chiến lược Tết Mậu Thân 1968, được xây dựng và tổ chức thực hiện toàn diện, chặt chẽ, hiệu quả, giữ bí mật tuyệt đối.

Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đó là: thu hút lực lượng cơ động của địch ra vòng ngoài để đánh tiêu diệt, tạo thời cơ công kích mãnh liệt vào các thành thị, thành phố lớn, đây cũng là một phần trong kế hoạch nghi binh chiến lược của ta.

Trung tuần tháng 11-1967, qua nắm tình hình, ta nhận thấy: Mỹ đã biết được nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965) với nội dung cơ bản là ta tranh thủ tìm kiếm một số thắng lợi quân sự nhằm làm chuyển biến cục diện chiến tranh, phục vụ thương lượng. Từ đó, Mỹ đánh giá ta không đủ khả năng làm một "Điện Biên Phủ 1968". Kế hoạch nghi binh là phải khiến địch tin chắc vào đánh giá trên của chúng. Triển khai thực hiện, Cục Tác chiến đã dự thảo kế hoạch nghi binh chiến lược phục vụ tổng công kích - tổng khởi nghĩa; đồng thời xây dựng một loạt kế hoạch nghi binh của Trung ương, của các địa phương, phối hợp với cả các cơ quan Cục Tình báo, Bộ Ngoại giao, cơ quan lãnh đạo báo chí phát thanh... Ngày 14-11-1967, kế hoạch này được đồng chí Văn Tiến Dũng thông qua.

Về quân sự, trên Mặt trận Đường 9, ta xác định dùng đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch. Đây là chiến dịch do Bộ mở và trực tiếp chỉ đạo, sử dụng hơn 4 sư đoàn chiến đấu hiệp đồng binh chủng; tiến công 3 trung đoàn tăng cường thuộc Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến, Sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ và một số lực lượng khác của quân đội Sài Gòn. Vận dụng phương pháp tác chiến là phong tỏa cảng Cửa Việt, tiêu diệt các cứ điểm vòng ngoài (Hướng Hóa, Huội San, Đường 9, Cam Lộ...), nhằm cô lập quân Mỹ ở thung lũng Khe Sanh; bao vây lực lượng địch phòng ngự, tiêu diệt lực lượng địch ứng cứu giải tỏa bên ngoài, đe dọa tiêu diệt gọn quân địch, buộc địch phải rút khỏi Khe Sanh.

Hướng Nam Bộ, ta đánh lên Lộc Ninh, Phước Quả, tập trung đẩy mạnh phá ấp chiến lược, giành dân, đánh tiêu diệt quân đội Sài Gòn, đánh phá giao thông... Đồng thời, ta đã thảo một "mệnh lệnh giả" giao nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang Tây Ninh mở cuộc tiến công quân Mỹ và phối hợp tác chiến các nơi bằng chống phá bình định. Đúng như kế hoạch, mệnh lệnh nghi binh đó đã rơi vào tay địch. Lập tức Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn tập trung nghiên cứu và tìm mọi biện pháp để tăng cường lực lượng đối phó hướng Tây Ninh, càn quét vòng ngoài; hệ quả là đã tạo ra sơ hở trong các thành phố, thị xã.

Trên hướng Tây Nguyên, ta tăng cường hoạt động ở Gia Lai, Buôn Ma Thuột, cắt các đường 19, 21, 14; tạo thời cơ đánh địch ở Bình Định, An Khê. Hướng Trị Thiên, ta liên tục tiến công địch, mở rộng đồng bằng, vây ép đô thị, làm tan rã những đơn vị chính quy của địch đang suy sụp về tinh thần...

Về tuyên truyền - ngoại giao, vị trí đặc biệt của Khe Sanh giống như "cái mỏ neo" trong bản đồ quân sự của Mỹ, là trung tâm chỉ huy của hàng rào điện tử Mắc Namara, phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ Nam sông Bến Hải. Khe Sanh - Quảng Trị được xây dựng thành một tập đoàn phòng ngự mạnh, liên hoàn, kiên cố nhất của Mỹ ở địa đầu miền Nam Việt Nam. Quân Mỹ đang có ý định "thả mồi ngon" để lừa ta phải chiến đấu theo cách đánh quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là "nam châm hút quân Bắc Việt", để Hoa Kỳ dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận "Điện Biên Phủ đảo ngược".
 
"Tương kế, tựu kế", Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo khéo léo để lộ kế hoạch với địch, thực hiện một bước nhỏ trong toàn bộ kế hoạch nghi binh; một mặt chỉ đạo Đảng ủy Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ; mặt khác chỉ đạo cơ quan báo chí phát thanh hạn chế tuyên truyền những trận đánh đô thị mà tập trung vào những hướng nghi binh... Khe Sanh đã thu hút được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận Mỹ, những mối lo ngại về cái dớp "Điện Biên Phủ" vẫn lơ lửng trong "Phòng Bầu dục"...

Mặt khác, theo đề nghị của Trung Quốc, Trung ương đồng ý cho bạn đưa một số đoàn cán bộ quân sự vào nghiên cứu tình hình miền Nam (năm 1967, vào Tây Nguyên có 2 đoàn, Khu 5 có 1 đoàn). Bộ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chuẩn bị và tiếp nhận thân tình, thông báo toàn diện về kinh nghiệm ta đánh Mỹ... Trong quá trình làm việc với bạn phải giữ đúng nguyên tắc, nội dung làm việc phải chuẩn bị chu đáo, số liệu chính xác và thống nhất...

Những động thái trên càng khiến Tổng thống Giônxơn cũng có nhận định rằng Khe Sanh sẽ là một Điện Biên Phủ thứ hai; và đã triển khai làm cả sa bàn Khe Sanh ở Oasinhtơn. Thậm chí, ông ta còn yêu cầu tướng Oétmolen – Tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam - phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh vì đó là danh dự của nước Mỹ. Mỹ đã sử dụng các lực lượng của Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến và Sư đoàn 1 kỵ binh không vận cùng với hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế, kể cả máy bay chiến lược B52 tại Khe Sanh...

Đêm ngày 20 rạng ngày 21-1-1968, pháo binh chiến dịch của Sư đoàn 304 phát hỏa mở màn chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh. Tiếp theo, ta phong tỏa cảng Cửa Việt, tiêu diệt các căn cứ Hướng Hóa, Huội San, đánh thiệt hại lực lượng Mỹ trên Đường 9... Sức ép của ta ở Đường 9 - Khe Sanh ngày càng tăng đã làm cho Bộ Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam thực sự lo ngại, buộc phải tăng quân lên 43 tiểu đoàn chủ lực (25 tiểu đoàn quân Mỹ) với tổng quân số 69.490 lính (40.800 lính Mỹ), cho không quân ném bom Khe Sanh và khu vực giới tuyến, đồng thời thiếp lập một sở chỉ huy tại Phú Bài (Huế) để chỉ huy lực lượng đánh trả các cuộc tiến công của ta trên Đường 9 - Khe Sanh. Đến đây, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đã hoàn thành nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân miền Nam đã đồng loạt nổ súng tiến công vào hầu hết các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy, từ trung ương đến địa phương, gồm: 4/6 thành phố lớn (trong đó có Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế); 37/44 thị xã, 64/242 thị trấn (thị tứ), quận lỵ khắp miền Nam, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, bộ tư lệnh các biệt khu 1, 2 của Mỹ, 30 sân bay... Phối hợp với đòn tiến công của các lực lượng vũ trang, nhân dân nhiều vùng nông thôn đã nổi dậy phá kìm kẹp của chính quyền ấp, xã.

Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đạt được các mục tiêu: tiêu diệt một phần lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ và quân đội Sài Gòn, giành quyền kiểm soát Khe Sanh, không còn căn cứ nào có thể uy hiếp trực tiếp tuyến đường cùng dòng hàng đưa ra tiền tuyến; giam chân, thu hút lực lượng tinh nhuệ của Mỹ - quân đội Sài Gòn, tạo điều kiện cho tổng tiến công ở các đô thị giành thắng lợi.

Hoạt động nghi binh chiến lược là một trong những giải pháp tác chiến quan trọng để thực hiện phương thức tác chiến. Để hoạt động nghi binh tiếp tục phát huy hiệu quả trong điều kiện mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), địch chủ yếu sử dụng vũ khí, trang thiết bị công nghệ cao, đòi hỏi phải tiếp tục quan tâm nghiên cứu, chuẩn bị trước từ thời bình trên toàn diện các mặt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 02:13:55 pm
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG, KẾ HOẠCH
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN LƯỢNG
Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Đầu năm 1967, sau những thất bại liên tiếp của hai chiến dịch phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, chính quyền Mỹ bắt đầu hoài nghi về khả năng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nội bộ giới cầm quyền Mỹ ngày càng mâu thuẫn, bất đồng sâu sắc, nhất là giữa quan điểm tiếp tục mở rộng leo thang chiến tranh xâm lược hay hạn chế dần sự tham dự của nước Mỹ vào cuộc chiến tranh. Cùng lúc đó, phong trào phản đối cuộc chiến tranh tại Việt Nam, đòi Tổng thống Mỹ Giônxơn phải rút quân ngày càng lan rộng trên khắp nước Mỹ. Nhiều nghị sĩ Mỹ đã nhìn thấy "tương lai không thể lường trước được của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm rã rời ý chí dân tộc Mỹ" . Những mâu thuẫn, bất đồng đó lại càng trở nên gay gắt, khi năm bầu cử tổng thống Mỹ (1968) đã tới gần, triển vọng về cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài và có nguy cơ thất bại đã uy hiếp nặng nề khả năng tái cử nhiệm kỳ hai của Tổng thống Giônxơn.

Về phía ta, sau hơn hai năm đối đầu trực tiếp với quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trong chiến lược "chiến tranh cục bộ", quân và dân ta vẫn giữ vững quyền chủ động về chiến lược, vùng giải phóng được mở rộng ở cả rừng núi, nông thôn đồng bằng và xung quanh đô thị; lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang phát triển lớn mạnh hơn bất cứ thời điểm nào trước đó. Miền Bắc vẫn đứng vững sau hơn ba năm bị không quân và hải quân Mỹ đánh phá quyết liệt, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tích cực chi viện ngày càng lớn cho chiến trường miền Nam.

Theo dõi sát diễn biến của chiến trường, ngày 18-4-1966, Bộ Tổng Tham mưu họp quyết định giao đồng chí Nguyễn Văn Vịnh - Phó Tổng Tham mưu trưởng chịu trách nhiệm xây dựng "Kế hoạch chiến lược từ Hè 1967 đến Hè 1968" trên cơ sở "Đề án kế hoạch chiến lược năm 1967" đã được xây dựng trước đó. Bộ Tổng Tham mưu nêu rõ yêu cầu là phải xây dựng một kế hoạch chiến lược để ta có thể làm chủ cục diện chiến trường: "đẩy địch về phòng ngự, mất ý chí và khả năng tấn công". Mốc kế hoạch xác định từ Hè 1967 đến Hè 1968 bởi nhiều lý do, trong đó có tính tới yếu tố chính trị khi chính quyền Sài Gòn tiến hành tổng tuyển cử tháng 9-1967 và bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11-1968 .

Trong các ngày từ 27 đến 29-4-1967, bản dự thảo "Kế hoạch chiến lược từ Hè 1967 đến Hè 1968" được đưa ra thảo luận trong cuộc họp mở rộng của Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương 1. Về quyết tâm của ta trong thời gian sắp tới, Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương nhất trí những vấn đề cơ bản trong Kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu và lưu ý: một mặt phải nắm chắc phương châm chiến lược đánh lâu dài; mặt khác phải nỗ lực để buộc Mỹ phải chịu thua trong năm 1968. Để thực hiện chủ trương trên, các lực lượng vũ trang phải tổ chức những đợt hoạt động lớn, bắt đầu ngay từ mùa mưa năm 1967, nhằm tiêu diệt các đơn vị tinh nhuệ, tiêu diệt các trung đoàn, sư đoàn chủ lực địch, đánh phá mạnh giao thông, hậu cứ Mỹ. Hoạt động quân sự phải kết hợp với phát động quần chúng ở các đô thị lớn vùng dậy... Trên cơ sở đó, ta chủ động đấu tranh ngoại giao, mở một con đường cho Mỹ rút khỏi miền Nam.

Trên cơ sở bản dự thảo "Kế hoạch chiến lược từ Hè 1967 đến Hè 1968", Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các chiến trường xây dựng kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 - 1968, đồng thời cử nhiều đoàn cán bộ của Bộ Tổng Tham mưu vào các chiến trường nắm tình hình, đôn đốc kiểm tra việc chuẩn bị lực lượng, vật chất theo phương hướng mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn. Cũng trong thời điểm này, theo đề xuất của Bộ Tổng Tham mưu, các đồng chí Nguyễn Chí Thanh (Chính ủy Quân giải phóng miền Nam), Lê Đức Anh (Bộ Tư lệnh Miền), Nguyễn Đôn (Tư lệnh Quân khu 5), Chu Huy Mân (Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên) được triệu tập ra báo cáo tình hình với Quân ủy Trung ương và tham gia xây dựng "Kế hoạch chiến lược từ Hè 1967 đến Hè 1968".

Tháng 5-1967, sau khi nghe báo cáo thực tế của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, Bộ Chính trị tổ chức phiên họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, Hội nghị đã thông qua quyết tâm chiến lược, trong đó xác định: "Nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phát huy mạnh mẽ chiến thắng to lớn trong mùa khô vừa qua, ra sức đẩy mạnh những cố gắng của ta đến mức cao nhất nhằm giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn" . Vấn đề giành thắng lợi trong một "thời gian tương đối ngắn" là bao lâu? Hội nghị chưa xác định cụ thể, nhưng nội dung "giành thắng lợi quyết định" đã được Hội nghị Bộ Chính trị xác định rõ thông qua phương hướng chiến lược mà: "Mục tiêu chiến lược và cục diện chiến trường trong thời gian tới cần đạt được yêu cầu là triển khai thế chủ động và thế tiến công của ta trên quy mô chiến lược, chiến dịch và trên những hướng chiến trường chủ yếu... buộc địch phải chuyển vào thế phòng ngự...". Về mục tiêu tác chiến, Hội nghị cũng chỉ rõ: "đối với quân Mỹ, trong vòng một năm, cố tiêu diệt từ 3 đến 5 lữ đoàn... Đối với quân ngụy, cố gắng tiêu diệt một số chiến đoàn hoặc trung đoàn, đánh quỵ từ 3 đến 5 sư đoàn...". Về cách đánh, Bộ Chính trị chỉ rõ, cần vận dụng linh hoạt 6 phương thức đánh và kiên quyết thực hiện cho được một số trận đánh lớn có tính chất quyết chiến quan trọng.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị Bộ Tổng Tham mưu và bộ tư lệnh các chiến trường gấp rút triển khai mọi mặt các công tác chuẩn bị, bắt tay xây dựng các phương án, các kế hoạch tác chiến cho Thu - Đông 1967 nhằm sẵn sàng đón nắm thời cơ, đánh những đòn "thôi động" lớn có tác dụng xoay chuyển cục diện chiến trường.

Vấn đề lớn đặt ra đối với Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh các chiến trường lúc này là làm thế nào để lực lượng vũ trang của ta có thể tiến hành tác chiến đạt hiệu suất cao như dự kiến của Bộ Chính trị. Qua hơn 2 năm đọ sức với quân đội Mỹ (1965 - 1967), ngoài tiểu đoàn Mỹ bị tiêu diệt ở Ia Đrăng tháng 11-1965, ta chưa đánh tiêu diệt gọn được một đơn vị Mỹ cấp tiểu đoàn nào khác. Với yêu cầu "đánh tiêu diệt 3 đến 5 lữ đoàn Mỹ" chắc chắn ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì khả năng đánh tiêu diệt lớn của bộ đội chủ lực ta còn hạn chế, không thể khắc phục ngay trong một thời gian ngắn. Mặt khác, đối với quân Mỹ có hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, lại có ưu thế áp đảo trên không, trên sông, trên biển, thì khả năng tiến hành các trận đánh lớn, bao vây để tiêu diệt như ta đã từng làm đối với quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ là không hiện thực, thậm chí có thể nhanh chóng bị thất bại. Nhưng nếu lại cứ tiếp tục mở các đợt hoạt động quân sự như trước, đánh theo lối cũ, đánh theo mùa đợt thì địch có thời gian hồi phục, tình hình sẽ nhùng nhằng, kéo dài, không thể gây chuyển biến gì lớn. Về chiến lược, không tranh thủ được thời cơ có lợi, không đáp ứng được tình thế đã mở ra.

Trong khi Bộ Tổng Tham mưu còn đang xác định mục tiêu, cách đánh thì trong một cuộc họp với Quân ủy Trung ương về kế hoạch chiến lược năm 1968, đồng chí Lê Duẩn đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt địch tại các thành phố, thị xã, nơi địch cho là an toàn nhất cũng là nơi chúng có nhiều sơ hở, chủ quan. Theo đồng chí, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã mới có thể tạo nên làn sóng đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam và nước Mỹ, tạo nên những đòn quyết định đánh bại hoàn toàn chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ. Đề xuất của đồng chí Lê Duẩn được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua và được giữ bí mật tuyệt đối. Chỉ những lãnh đạo, chỉ huy cao cấp nhất của Trung ương Cục, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Bộ Tư lệnh các chiến trường mới được truyền đạt để hoạch định kế hoạch chiến lược của từng vùng trong năm 1968.

Tuy nhiên, lúc này lại nảy sinh vấn đề cần giải quyết: nếu xác định mục tiêu chủ yếu là thành thị thì ta sẽ sử dụng cách đánh như thế nào? mục tiêu then chốt là ở đâu? liệu bộ đội ta có đủ sức đánh vào thành phố và trụ vững ở đó trong điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch còn hết sức chênh lệch? Qua trao đổi, các chiến trường đều thống nhất khẳng định bộ đội ta đủ khả năng đánh được vào thành phố, tuy nhiên sau khi đánh được vào thành phố thì có trụ lại và giữ được hay không còn tùy theo phản ứng của Mỹ và khả năng ủng hộ của quần chúng nhân dân ở trong nội thành cũng như ở vùng ven.

Trong tháng 8-1967, Bộ Tổng Tham mưu tiếp tục bổ sung, hoàn thiện kế hoạch đánh lớn vào đô thị ở miền Nam. Đến cuối tháng 8-1967, trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương cũng như ý kiến của các lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, cách đánh mới - tiến công vào các trung tâm đầu não của chính quyền Sài Gòn bằng hình thức tổng tiến công kết hợp với nổi dậy (tổng công kích kết hợp với tổng khởi nghĩa) đã chính thức hình thành. Ta xác định: chỉ có tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa mới có thể phát huy được tối đa sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân mà ta đang tiến hành, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho ta; chỉ có tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, kết hợp chặt chẽ sức mạnh quân sự với sức mạnh của quần chúng nhân dân, các lực lượng vũ trang của ta mới có khả năng tiến đánh và trụ vững ở các thành thị, hạn chế được tối đa những phản ứng tiêu cực nhất từ phía quân đội và chính quyền Mỹ.

Ngày 9-9-1967, đồng chí Lê Đức Anh (Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam) báo cáo Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương "Kế hoạch Tổng công kích - tổng khởi nghĩa" của Trung ương Cục, kế hoạch nêu rõ: Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền nhất trí với nhận định tình hình của Bộ Chính trị, quán triệt quyết tâm tranh thủ giành thắng lợi quyết định. Trung ương Cục dự kiến tổ chức 27 tiểu đoàn địa phương, 9 đội biệt động thành cùng 7 trung đoàn chủ lực của các sư đoàn 5, 7, 9 tạo thành 5 cánh quân bao vây, tiến công Sài Gòn, chiếm Chợ Lớn. Phương châm tổng công kích - tổng khởi nghĩa là tiến hành nhanh, giải quyết nhanh. Kế hoạch nêu rõ khả năng của ta: cố gắng giữ thành phố trong 5 - 6 tháng, thành lập chính phủ liên hiệp, có cả thành phần trung lập, thân Mỹ, thân Pháp buộc chính quyền Mỹ không có lý do can thiệp, đồng thời kêu gọi quân Mỹ ở đâu thì giữ nguyên ở đó, hoặc tập hợp về Đà Nẵng, Chu Lai, Quy Nhơn, Cam Ranh, rút dần khỏi Việt Nam.

Sau khi thảo luận, Bộ Chính trị đồng ý với Kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Trung ương Cục và xác định Sài Gòn - Chợ Lớn là hướng chủ yếu của toàn miền Nam, đồng thời giao Bộ Tổng Tham mưu dự thảo "Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 - 1968".




---------------------------------------------------------------
1. Gồm có các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Nguyễn Văn Vịnh, Lê Quang Đạo, Đinh Đức Thiện cùng một số cán bộ Cục Tình báo và Tác chiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 02:18:05 pm
Trong các ngày từ 20 đến 24-10-1967, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng bàn về "Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968" ở chiến trường miền Nam 1. Tại hội nghị, Bộ Chính trị xác định rõ, cho đến thời điểm này, thời cơ chiến lược đã xuất hiện. Muốn chớp thời cơ trong điều kiện so sánh lực lượng vũ trang trên chiến trường vẫn nghiêng hẳn về phía địch thì hướng tiến công chiến lược của ta là nhằm vào các đô thị trên toàn miền Nam. Về phương pháp, dùng hình thức cao nhất của chiến tranh cách mạng là tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Về phương thức, tiến hành tiến công và nổi dậy đồng loạt. Đây là một phương hướng mà lúc đó Mỹ và chính quyền Sài Gòn "không hề nghĩ tới và cũng không thể nghĩ tới".

Các ý kiến tại hội nghị cũng phân tích, bàn bạc nhiều về vấn đề thời cơ, khả năng đánh thành phố của bộ đội, khả năng nổi dậy của quần chúng, biện pháp khắc phục khó khăn... Khi thảo luận, Bộ Chính trị chủ động đặt vấn đề: chủ trương tổng công kích - tổng khởi nghĩa có đúng không? có gì phiêu lưu hay không? phải nghiên cứu thật kỹ để có kết luận trong hội nghị tới. Về ba trường hợp có thể giành thắng lợi: mức cao, giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam; mức thứ hai, căn bản giành thắng lợi, nhưng địch co lại cố thủ một số nơi, tiếp tục cuộc chiến tranh; mức ba, chỉ thắng được một phần; trong thảo luận còn có ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung đều quyết tâm cố gắng giành thắng lợi ở mức cao nhất. Kết thúc hội nghị, đồng chí Trường Chinh kết luận: Về quân sự, đánh vào thành phố là có khả năng, nhưng vấn đề khởi nghĩa phải nghiên cứu thêm và chờ ý kiến của một số đồng chí lãnh đạo nữa sẽ quyết định trong cuộc họp sau.

Để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên chiến trường miền Nam, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ thị cho các chiến trường đẩy mạnh các đợt hoạt động Đông 1967. Thực hiện chỉ thị trên, tại chiến trường Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền mở Chiến dịch Lộc Ninh - Đường 13 tiêu diệt một bộ phận quan trọng Sư đoàn bộ binh 1 Mỹ và Sư đoàn bộ binh 5 quân đội Sài Gòn. Phối hợp chặt chẽ với Chiến dịch Lộc Ninh, ngày 3-11-1967, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên mở Chiến dịch Đắc Tô đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 4) và Lữ đoàn dù 173 quân Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4.000 tên địch... Trên địa bàn Khu 5, Khu 9 ta đẩy mạnh tiến công địch ở nhiều thị xã, quận lỵ, chi khu quân sự như Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Cần Giuộc, Hậu Nghĩa, Tịnh Biên (Châu Đốc), Cao Lãnh (Sa Đéc)... Trên hướng trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định hợp nhất và phân chia địa bàn thành 6 phân khu với 5 mũi tiến công sẵn sàng tiến công vào nội đô Sài Gòn.

Trước tình hình căng thẳng trên khắp toàn Miền và đặc biệt khi phát hiện các cuộc chuyển quân lớn của bộ đội chủ lực ta ở giáp Khe Sanh (Quảng Trị), Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải bỏ dở kế hoạch phản công chiến lược lần thứ ba, đưa lực lượng về tăng cường phòng thủ xung quanh Sài Gòn và Trị Thiên. Thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn, lực lượng bị căng mỏng trên các chiến trường và lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược. Đây là thất bại lớn về chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày 28-12-1967, Hội nghị Bộ Chính trị họp dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở bám sát, nắm chắc và phân tích toàn diện động thái chiến trường, tình hình nước Mỹ và thế giới, Bộ Chính trị chính thức thông qua "Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta" đồng thời hạ quyết tâm: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định".

Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Bộ Chính trị khẳng định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Mục tiêu chiến lược của tổng công kích, tổng khởi nghĩa là: Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam. Trên cơ sở đó: đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.

Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh vào thành phố của lực lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo đã được Quân ủy Trung ương phê duyệt. Phương án xác định: "Để thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, một mặt, phải biết điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng và sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch...; mặt khác, đòn chính của ta phải nhằm vào các thành thị quan trọng, kết hợp lực lượng xung kích về quân sự với lực lượng chính trị của quần chúng ở các thành thị và vùng nông thôn kế cận vùng dậy đánh sụp các cơ quan đầu não của Mỹ và ngụy, đánh phá các hậu cứ, các cơ sở hậu cần, các trung tâm thông tin và các phương tiện giao thông vận tải chiến lược của địch... đồng thời, kêu gọi binh lính ngụy quay lại cùng với nhân dân khởi nghĩa. Đó là đòn đánh ác liệt nhất đánh vào óc, tim, mạch máu của địch...".

Để thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh xác định thời gian tiến hành nghi binh trên chiến trường Lào (bằng chiến dịch Nậm Bạc) sẽ triển khai trước Tết 15 đến 20 ngày; thời gian nổ súng ở Đường 9 - Khe Sanh trước Tết 10 ngày và thời gian tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa đồng loạt ở các chiến trường chính và trọng điểm được xác định là đúng 0 giờ đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968.

Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp tại Kim Bôi (Hòa Bình). Sau khi thảo luận, hội nghị đã chính thức thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên chiến trường miền Nam để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị Trung ương quyết định lấy Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 làm Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14.

Từ 0 giờ ngày 30-1 đến 0 giờ ngày 31-1-1968, quân ta bất thần đồng loạt nổ súng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam. Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa đầy táo bạo, bất ngờ của ta trong Tết Mậu Thân, đặc biệt là các trận đánh của Quân giải phóng vào Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn... cùng sự kiện thành phố Huế "thất thủ" trong 25 ngày đêm đã gây choáng váng cho chính trường nước Mỹ. Nhân dân Mỹ thấy nước Mỹ đang lao vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đẫm máu; đang lún sâu vào một đường hầm không có lối thoát. Sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ lan rộng và lên cao chưa từng có.

Quốc hội Mỹ cũng đã phải tổ chức cuộc họp gấp để xem xét toàn bộ chính sách và chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp đó, phần lớn quan chức cao cấp trong chính quyền và giới tài phiệt nhận thức rõ ràng rằng: Mỹ không thể giành chiến thắng quân sự ở Việt Nam với cái giá có thể chấp nhận được.

Do bị tổn thất trên chiến trường cùng những áp lực từ nhân dân và chính giới Mỹ, ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố: ngừng ném bom miền bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị đàm phán với ta tại Pari về lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một quyết định lịch sử, một chủ trương táo bạo, đúng đắn, sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng. Trong quá trình hình thành chủ trương và đi đến quyết định tổng tiến công và nổi dậy, Đảng đã phát hiện, nắm bắt đúng thời cơ chiến lược; hạ quyết tâm chính xác, kịp thời; xác định hướng tấn công chủ yếu táo bạo, đúng chỗ hiểm yếu của địch cùng với việc sáng tạo hình thức tiến công mới đã làm cho đòn Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 giành được thắng lợi to lớn, trở thành một trận quyết chiến chiến lược, một bước ngoặt quyết định thay đổi hoàn toàn cục diện chiến tranh.
 




---------------------------------------------------------------
1. Tham dự gồm các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Lê Đức Thọ (đồng chí Lê Duẩn  và đồng chí Võ Nguyên Giáp vì lý do sức khỏe và đi chữa bệnh nên vắng mặt). Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng và Ủy viên Quân ủy Trung ương: Tố Hữu, Lê Văn Lương, Song Hào, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Quý Hai. Ngoài ra còn có Cục trưởng Tình báo Lê Trọng Nghĩa,  Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Ngọc Hiền và đại diện các chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 02:33:26 pm
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968 -
THÀNH QUẢ CHỈ ĐẠO CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG



PGS.TS. VŨ QUANG HIỂN
Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

Để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Việt Nam thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, với tư tưởng chiến lược tiến công, phương châm chiến lược đánh lâu dài và nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, đặc biệt là giành thắng lợi quyết định, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ để buộc chúng đi vào đàm phán và rút quân.

Trên cơ sở những biến chuyển của tình hình chiến trường sau hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định đưa cuộc chiến tranh nhân dân lên đỉnh cao, phát triển từ cục bộ thành toàn bộ, mở cuộc "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa" trên toàn miền Nam, nhằm hướng chủ yếu là các đô thị.

Mặc dù không đạt mục tiêu tối đa, thậm chí bị tổn thất nhiều về lực lượng trong các đợt 2 và 3, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã tạo ra bước ngoặt đi xuống của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, đồng thời mở ra bước phát triển có ý nghĩa chiến lược của chiến tranh nhân dân, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới với đặc điểm nổi bật là kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. Đó chính là thành quả lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng, đặc biệt là chỉ đạo thực hiện phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, từng bước đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi, thống nhất đất nước đến thành công.

1. Chỉ đạo phát triển chiến tranh nhân dân từ cục bộ thành toàn bộ, giành thắng lợi quyết định

Với phong trào "Đồng khởi" (1959-1960), cách mạng miền Nam phát triển thành chiến tranh cách mạng. Để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến trước quân xâm lược là một cường quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới, có chiến lược toàn cầu, mà trọng tâm trong thời kỳ 1954-1975 là xâm lược Việt Nam, thì không thể chỉ cần có tinh thần quyết đánh và quyết thắng, mà còn phải biết đánh và biết thắng.

Đi từ giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn là một quy luật của đấu tranh cách mạng. Để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam cần có một thắng lợi quyết định, nhằm tạo ra bước ngoặt của chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước.

Ý tưởng giành thắng lợi quyết định bằng một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa đã xuất hiện trong tư duy quân sự của Đảng từ rất sớm, ngay trong giai đoạn Mỹ tiến hành chiến lược "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam 1. Trung ương Cục miền Nam (tháng 1-1965) đã sớm xác định: Mỹ có thể đưa thêm quân vào miền Nam, "nên cần chuẩn bị tư tưởng thật vững vàng trong tình thế quyết thắng giặc Mỹ. Chống các loại tư tưởng ngán Mỹ, sợ Mỹ và sợ lâu dài ác liệt, ảo tưởng hòa bình".

Đúng như nhận định trên, từ năm 1965, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, liên tiếp mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 nhằm "bẻ gãy xương sống Việt cộng", đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cùng với việc leo thang chiến tranh, trong tuyên bố Baltimore (ngày 8-4-1965), Tổng thống Giônxơn còn đề nghị "đàm phán không điều kiện" nhằm che đậy hành động xâm lược và đánh lạc hướng dư luận quốc tế.

Trong khi Mỹ đang hăm hở giành thắng lợi bằng quân sự thì Việt Nam chưa thể sử dụng giải pháp ngoại giao 2. Vì thế, cần có một thắng lợi quyết định, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Phương hướng tiến công vào thành phố được các nhà lãnh đạo Việt Nam nghĩ đến khá sớm. Trong thư của Tổng Bí thư Lê Duẩn gửi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (tháng 2-1965) có viết: "Vấn đề hiện nay của chúng ta là tiếp tục mở rộng sự kiểm soát tại vùng nông thôn và chuẩn bị thực hiện một cuộc tổng khởi nghĩa. Các đô thị sẽ trở thành điểm trọng tâm cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới".

Tư tưởng giành thắng lợi quyết định tiếp tục được Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (3-1965) khẳng định. Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về công tác chính trị tư tưởng (cuối tháng 3-1965), xác định quyết tâm đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

Tháng 4-1965, Bí thư Trung ương Cục miền Nam chỉ rõ: "Đánh một kẻ thù như đế quốc Mỹ không phải dễ dàng, không phải chỉ đem gan góc ra mà phải có đường lối chiến lược, chiến thuật giỏi" . Vì thế, cần phải thấu triệt và vận dụng sáng tạo các quan điểm cơ bản của Đảng về chiến tranh nhân dân ở miền Nam, mà trước hết là quan điểm thực tiễn. Theo đồng chí, phải vận dụng quan điểm toàn diện để đánh giá so sánh lực lượng giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc Mỹ. "Nếu tính toán đầu người, đầu súng, mật độ hỏa lực pháo binh, máy bay, cơ giới... của địch một cách máy móc, sách vở thì không thể tìm ra đáp án đúng cho các kế hoạch tác chiến của ta".

Sau những trận đầu thắng Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam) và Vạn Tường (Quảng Ngãi), đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam - chỉ rõ: "Nếu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Liên Xô, trận Xtalingrát là một bước ngoặt chứng tỏ rằng quân phát xít Hítle không phải là không thể đánh bại được, thì chúng ta có thể coi trận Vạn Tường là bước ngoặt, chứng minh một cách hùng hồn rằng Quân giải phóng miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại được quân đội Mỹ trong điều kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về binh khí, hỏa lực so với Quân giải phóng".

Phong trào "Thi đua đánh Mỹ, diệt ngụy" dâng lên sôi nổi khắp miền Nam 3, chứng tỏ "quân và dân ta ở miền Nam có đủ khả năng đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ dù chúng đưa thêm vào miền Nam mấy chục vạn quân nữa". Đó là cơ sở thực tiễn để Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1965) xác định chủ trương và nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng giặc Mỹ.

Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từng bước bẻ gãy các cuộc phản công chiến lược quy mô lớn của Mỹ trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Đại sứ C. Lốt (Cabot Lodge) báo cáo về Mỹ rằng: "Mỹ không tiêu diệt được một đơn vị chính quy nào của Việt cộng, không ngăn chặn được du kích phát triển, lực lượng Mỹ không khắc phục được tình hình ngày càng xấu đi, quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng và vẫn bị động".

Tháng 6-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương bàn định một bước đi có ý nghĩa quyết định, khai thác "yếu tố chính trị" 4 diễn ra ở Mỹ năm 1968, tạo bước ngoặt của cuộc chiến tranh, nhằm làm cho Mỹ phải nản chí và bỏ cuộc. Trong các tháng 7 và 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu bắt đầu xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị và Chỉ thị của Quân ủy Trung ương. Trong tương quan lực lượng về quân sự trên chiến trường, việc đánh tiêu diệt cấp chiến dịch, chiến lược là điều không khả thi, mà cần phải "tìm cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công, đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu não chính trị, quân sự ở các thành phố, thị xã. Tiến công vào các thành phố, thị xã sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung chuyển nước Mỹ. Qua đó, ta chứng minh cho Mỹ thấy chúng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, do đó phải tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam".

Tháng 12-1967, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Nghị quyết của Bộ Chính trị được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1968) thông qua với tiêu đề Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trung ương Đảng quyết định "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Nghị quyết Trung ương 14 nhấn mạnh: "cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp, kết hợp tiến công quân sự với tiến công chính trị, thực hành ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược và phối hợp với tiến công ngoại giao. Đó là một giai đoạn bao gồm nhiều chiến dịch lớn của lực lượng vũ trang cách mạng ở các vùng chiến lược quan trọng kết hợp với những cuộc nổi dậy dưới nhiều hình thức của quần chúng nhân dân cách mạng ở các thành thị và vùng nông thôn còn bị tạm chiếm, bao gồm những cuộc công kích kết hợp với những cuộc khởi nghĩa tại "đô thành" của địch và các thành phố lớn...".

Phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo và được Quân uỷ Trung ương nhất trí đã xác định ba chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng và Huế. Hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh 5.

Như vậy, ý đồ giành thắng lợi quyết định của Đảng xuất hiện từ những năm chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt" và hình thành rõ nét sau thắng lợi trong hai mùa khô chống chiến lược "chiến tranh cục bộ". Từ giữa năm 1967 đến đầu năm 1968, Trung ương Đảng ngày càng thấy rõ sự cần thiết và đi đến quyết định táo bạo, độc đáo, chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, bất ngờ giáng đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho cuộc chiến tranh cách mạng phát triển từ cục bộ thành toàn bộ.




--------------------------------------------------------------
1. Hội nghị Bộ Chính trị (cuối năm 1962) phân tích tình hình, chỉ rõ khả năng "cần phải ra sức súc tích và biết che giấu lực lượng, nắm vững thời cơ để có thể tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, làm thất bại âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.24, tr.908). Tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định "tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ là hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam để đạt tới toàn thắng" trước khi Mỹ quyết định có điều quân Mỹ tới cứu chế độ Việt Nam Cộng hòa hay không. Trong khi vẫn khẳng định phương châm chiến lược đánh lâu dài, Hội nghị chủ trương cần một nỗ lực tối đa nhằm "tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới". Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược của các lực lượng vũ trang tại miền Nam là "làm tan rã quân đội tay sai, công cụ chủ yếu của chế độ địch, tạo điều kiện để thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền phản động ở miền Nam" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.822, 839, 840).

2. Việt Nam quyết tâm chiến đấu với khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và chưa đề cập tới vấn đề đàm phán. Lập trường cứng rắn đó thể hiện trong Tuyên bố bốn điểm ngày 8-4-1965 của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: 1- Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam; 2- Mỹ rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam; 3- Mỹ thừa nhận: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một thực thể chính trị để thương lượng; 4- Hai miền Nam, Bắc Việt Nam không có liên minh quân sự với nước ngoài. Công việc nội bộ của Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết (Báo Nhân dân, số ra ngày 5-4-1965).

3. Sau chiến thắng Vạn Tường, quân và dân miền Nam tiếp tục tiến lên giành được những thắng lợi mới ở Đất Cuốc, Plâyme, Bàu Bàng,...

4. Nội bộ giới cầm quyền và giới chính trị Mỹ có sự phân hóa. Trong khi phái "chủ chiến" yêu cầu tăng quân và mở rộng đánh phá miền Bắc Việt Nam, thì phái ôn hòa lại muốn tìm một giải pháp hòa bình. Năm 1968 là năm diễn ra cuộc bầu cử tổng thống ở nước Mỹ. Đây là lúc sức ép của vấn đề chiến tranh Việt Nam ở Mỹ gia tăng, phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ lên mạnh.

Trước Tết Mậu Thân 10 ngày, Quân giải phóng nổ súng mở màn Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, tấn công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, buộc Mỹ điều lực lượng chủ lực đối phó, đánh lạc hướng để giữ bí mật hướng trọng điểm.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 17 Tháng Năm, 2020, 02:47:49 pm
2. Chỉ đạo nâng đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận, tạo điều kiện và phối hợp với các mặt trận quân sự và chính trị, chuẩn bị giành thắng lợi quyết định

Trên cơ sở thắng lợi về quân sự và chính trị trên chiến trường trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, nhận thấy khả năng phát huy vai trò tích cực và chủ động của đấu tranh ngoại giao, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1967) quyết định nâng đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận 1. Đó là một trong những quyết sách quan trọng thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược và giữ thế chủ động trong đấu tranh ngoại giao, nhằm phối hợp và hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường 2.

Không thể "bẻ gãy xương sống của Việt cộng", lại bị động trước những động thái ngoại giao của Việt Nam, giới cầm quyền và giới chính trị Mỹ có sự phân hóa. Trong khi phái "chủ chiến" yêu cầu tăng quân và mở rộng đánh phá miền Bắc Việt Nam, thì phái ôn hòa lại muốn tìm một giải pháp hòa bình. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tỏ ra chán nản về kết quả hoạt động quân sự cũng như những tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và lo ngại khả năng có thể mở rộng chiến tranh với các đồng minh của Việt Nam. Mắc Namara nhiều lần đưa ra kiến nghị rút quân Mỹ về nước 3. Ngược lại, phái "diều hâu" lại muốn tăng cường chiến tranh. Tại cuộc họp kín với Ủy ban quân lực của Quốc hội Mỹ (ngày 16-11-1967), tướng Oétmolen cho rằng, Mỹ có thể quét sạch đối phương ra khỏi miền Nam Việt Nam trong hai năm nữa. Oétmolen đề nghị Tổng thống Giônxơn tăng thêm quân để giành chiến thắng về quân sự ở Nam Việt Nam.

Cho dù cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền Mỹ kéo dài, nhưng tình hình thực tế buộc Tổng thống Giônxơn phải tính đến việc xuống thang chiến tranh: không tăng thêm nhiều quân tới Nam Việt Nam, không đưa lục quân mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, đồng thời chấp thuận cho Mắc Namara nhờ một số nhân vật làm trung gian tiếp xúc với Hà Nội để đàm phán 4. Tư duy của Giônxơn bắt đầu xuất hiện bước lùi đáng kể.

Trong khi đó, dư luận thế giới đều tập trung ủng hộ lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đòi Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc. Nhiều đồng minh của Mỹ như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Na Uy..., nhiều nhân vật quốc tế quan trọng như Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Đức Giáo hoàng,... đều không đồng tình với lập trường của Mỹ. Chính Giônxơn cũng thấy rằng: "Tất cả những người nào trên thế giới được Hoa Kỳ vận động hoặc tự chủ động làm, dù là người Ba Lan, người Ý, người Thụy Điển, người Ấn Độ, ông Tổng Thư ký Liên hiệp quốc hay các nhà báo nào đó đều có tư tưởng cho rằng điều mà Việt Nam đề nghị là duy nhất đúng chứ không phải điều Hoa Kỳ đề nghị là đúng".

Mặc dù tình hình chiến trường, quốc tế và trong nước đều không có lợi cho chính quyền Mỹ trong việc theo đuổi cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng phái "diều hâu" vẫn quyết giành thắng lợi bằng quân sự. Con đường đàm phán hòa bình đã xuất hiện chập chờn trong một số người có đầu óc thực tế ở Mỹ, nhưng vẫn còn xa vời. Tổng thống Giônxơn vẫn chưa có quyết định dứt khoát, trước những đề nghị của Mắc Namara.

Ngày 28-12-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố với nội dung: sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề có liên quan.

Từ chỗ buộc đế quốc Mỹ "có thể nói chuyện" (ngày 28-1-1967) đến "sẽ nói chuyện" (ngày 28-12-1967) là một bước tiến mới của ngoại giao Việt Nam. Việc đàm phán với Mỹ không chỉ còn là một khả năng, mà đã được khẳng định. Tuyên bố đó có tác dụng đẩy Mỹ tiếp tục đi vào thế xuống thang không thể từ chối, đồng thời phối hợp với dư luận thế giới đang đòi Mỹ chấm dứt ném bom để đi vào đàm phán, nhưng điều quan trọng hơn là những động thái ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong năm 1967 đã làm cho Mỹ mất phương hướng, không thể đánh giá đúng khả năng đánh lớn của Việt Nam, giúp Việt Nam che giấu ý đồ tiến công chiến lược vào dịp Tết Mậu Thân 1968 và tạo bất ngờ cho phía Mỹ.

Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của đấu tranh ngoại giao "phải nhằm tiến công địch trong lúc chúng đang lúng túng, bị động cả về quân sự và chính trị; đồng thời phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta. Phải chuẩn bị những phương án cần thiết để khi tình hình bắt buộc địch phải thương lượng với ta thì ta có thể luôn luôn giữ vững thế chủ động trong quá trình đàm phán".

3. Chỉ đạo mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đánh thẳng vào sào huyệt của đối phương, mở ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được chuẩn bị tích cực. Tết Mậu Thân 1968, các lực lượng vũ trang giải phóng và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy, nhằm hướng chủ yếu là các đô thị, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Theo sách giáo khoa của Học viện Quân sự West Point (Mỹ), "Điều đầu tiên cần nói về cuộc tổng tiến công là tình báo của đồng minh (tức tình báo Sài Gòn - T.G) đã thất bại ngang với trận Trân Châu Cảng năm 1941 và trận tiến công Ardennes năm 1944. Việt Nam đã giành được sự bất ngờ hoàn toàn".

Bằng một chiến lược tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam: kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; kết hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng; kết hợp ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp làm chủ để tiêu diệt địch với tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ..., cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã tận dụng được yếu tố bí mật, bất ngờ, giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện.

Mặc dù không đạt được kết quả tối đa, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới. Theo Kítxinhgiơ, sự kiện Tết Mậu Thân đã "làm cho toàn bộ chiến lược đang lên của Hoa Kỳ bị lật nhào".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chứng tỏ nhân dân miền Nam không ủng hộ Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn thừa nhận: "Các khu phố dân sự lại bỏ ngỏ cho địch thao túng, để cho chúng dấy động lên những hoạt động chính trị trong suốt thời gian chiếm đóng" . Hãng AP ngày 6-2-1968 đưa tin: "Hai nhà ngoại giao Nhật chứng kiến cuộc tấn công của cộng sản vào Huế nói: họ có cảm tưởng là dân chúng đồng tình với Việt cộng. Họ cho biết rằng khi Việt cộng vào Huế thì họ được quần chúng hoan nghênh... Dân chúng không có gì tỏ ra là sợ hãi và hình như họ quá thân thuộc". Hãng AFP ngày 7-2-1968 cho biết: tại thành phố Huế "bộ máy cổ động chính trị và hệ thống hoạt động bí mật ở nội thành của Mặt trận đã bắt tay hoạt động. Rõ ràng là Mặt trận có thể tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này và họ có thể huy động rất nhiều người tự nguyện ra làm việc cho họ".

Sự kiện Tết Mậu Thân đã làm nản chí những người thuộc phái diều hâu ở Mỹ. Cliffort, một con người "cứng rắn", kẻ "diều hâu" nhất trong phái "diều hâu", được Tổng thống Giônxơn chọn thay cho Mắc Namara làm Bộ trưởng Quốc phòng (ngày 1-3-1968), lại chính là người muốn Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh một cách cương quyết nhất. Tại cuộc tham khảo ý kiến ngày 25 và 26-3-1968, "phần đông nhóm cố vấn cấp cao tán thành chấm dứt leo thang và có những biện pháp đi đến tách ra khỏi chiến tranh, đi từ hạn chế ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến giảm các lực lượng Mỹ và chuyển giao nhiều trách nhiệm chiến tranh cho Việt Nam Cộng hòa". Tết Mậu Thân "làm cho phe chống đối mạnh lên. Mùa hè năm 1968, những người Mỹ nghĩ rằng, gửi quân sang Việt Nam là một sai lầm đã vượt xa những người ủng hộ" . Cựu Tổng thống Mỹ Aixenhao nói: "Tôi chưa bao giờ gặp phải một tình thế đáng buồn như tình cảnh hiện nay của nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc về một cuộc chiến tranh" .

Trước sức ép từ nhiều phía, Tổng thống Giônxơn quyết định không tăng thêm quân Mỹ tới Việt Nam theo yêu cầu của Oétmolen. Ngày 31-3-1968, Giônxơn tuyên bố xuống thang chiến tranh: ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; không tham gia tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai; sẵn sàng đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đi đến kết thúc chiến tranh; mở rộng lực lượng quân sự của Sài Gòn để họ có thể dần dần thay thế vai trò của Mỹ.

Tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra của Giônxơn chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn bắn phá miền Bắc và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), nhưng nó thể hiện rõ sự thay đổi chiến lược của Mỹ: xuống thang chiến tranh. Để thúc đẩy xu thế đó và phối hợp với hoạt động quân sự trên chiến trường, ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố "sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện" 5.

 Như vậy, từ chỗ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô ngày càng lớn, cường độ ngày càng ác liệt, đế quốc Mỹ đã phải quyết định xuống thang chiến tranh, đơn phương ngừng ném bom và ngồi vào bàn đàm phán. Từ chỗ ồ ạt đổ lực lượng quân sự vào miền Nam để tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", Mỹ phải tính đến việc rút quân viễn chinh khỏi miền Nam bằng cách tuyên bố "phi Mỹ hoá" chiến tranh, tiến tới thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Những động thái đó chứng tỏ bước ngoặt đi xuống của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tướng Oétmolen, Tổng Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam thừa nhận: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận đối phương đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề" . Nhà sử học Mỹ G. Kôncô (Gabriel Kolko) đánh giá thắng lợi của Tết Mậu Thân 1968: "Cuộc tiến công đã đem lại tất cả những quá trình này đến đỉnh điểm và theo quan điểm này Cộng sản đã đạt tới một lợi thế quyết định trong toàn bộ cuộc chiến đấu của họ".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là thành quả chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng, một thắng lợi của tư tưởng chiến lược tiến công và nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, của nghệ thuật tạo bất ngờ trên cả ba phương diện: chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; có ý nghĩa chính trị và quân sự to lớn, làm cho ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị lung lay, "tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh", đưa chiến tranh cách mạng Việt Nam phát triển sang thời kỳ mới với cục diện "vừa đánh vừa đàm" và đặc điểm nổi bật là sự kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng".





--------------------------------------------------------------
1. Nghị quyết Hội nghị 13 khẳng định: "Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động". Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt của mặt trận ngoại giao là "cần tập trung vào khẩu hiệu đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.28, tr.174, 176).

2. Từ năm 1966 trở về trước, phía Việt Nam nhiều lần tuyên bố đòi Mỹ phải rút hết quân ra khỏi miền Nam trước khi có bất cứ một cuộc nói chuyện nào giữa Việt Nam và Mỹ, thì giờ đây, sau khi đã tạo được thế và lực trên chiến trường, ngày 28-1-1967, thực hiện sách lược đấu tranh mới, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố "có thể nói chuyện" với Hoa Kỳ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Đầu năm 1967, Mắc Namara kiến nghị với Tổng thống Giônxơn về việc ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam phía trên vĩ tuyến 20. Tháng 8-1867, ông nói tại Ban Quân lực Thượng nghị viện: "Tính chất khốc liệt và kéo dài của cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam tạo ra mong muốn phải thay đổi nó bằng một kiểu oanh kích mới chống Bắc Việt Nam. Nhưng dù mong muốn thế nào, một sự thay đổi như vậy đối với tôi là hoàn toàn ảo tưởng. Theo đuổi mục tiêu này không chỉ là điều vô vọng mà còn mạo hiểm sinh mạng Mỹ và dân tộc chúng ta, đó là điều tôi không thể không kiến nghị" (Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.287). Tháng 11-1967, Mắc Namara lại kiến nghị với Tổng thống Mỹ "ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Tuyên bố không tiếp tục gửi quân sang miền Nam Việt Nam và xem xét những cuộc hành quân quân sự của Mỹ nhằm giảm bớt thương vong, giảm bớt sự tàn phá đất nước Việt Nam và chuyển vai trò ngày càng lớn lao cho lực lượng quân sự miền Nam Việt Nam" (Don Oberdorfer: Tết, Nxb. Tổng hợp An Giang, 1998, tr.58-61).

4. Giônxơn cho Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara, Bộ trưởng Ngoại giao Đin Ratxcơ dùng Kítxinhgiơ thông qua Maccôvích va Ôbrắc (là hai người Pháp) tiếp xúc với Hà Nội trình bày quan điểm của Mỹ về chấm dứt ném bom để đàm phán (kế hoạch Pensyvannia). Kế hoạch này kéo dài 2 tháng, nhưng không thành. Tuy nhiên, nhóm chủ hòa đề nghị duy trì kênh tiếp xúc đó và đưa thành đề nghị công khai với "công thức San Antôniô" - thể hiện qua tuyên bố của Giônxơn ngày 29-9-1967 tại Hội nghị lập hiến toàn quốc tại San Antôniô: "Mỹ sẵn sàng ngừng mọi hành động bắn phá bằng không quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam khi nào sáng kiến này nhanh chóng dẫn tới cuộc thảo luận có hiệu quả".


5. Sau khoảng một tháng trao đổi ý kiến về địa điểm cuộc tiếp xúc Việt - Mỹ, ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán chính thức tại Pari giữa hai đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ bắt đầu. Đến tháng 11-1968, Mỹ ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc. Ngày 25-1-1969, Hội nghị Pari với sự tham gia của bốn bên khai mạc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Năm, 2020, 01:29:11 pm
NHẬN DIỆN THẦN KHÍ LỊCH SỬ CỦA SỰ KIỆN MẬU THÂN 1968



PGS.TS. TRẦN VIẾT LƯU
Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Tuyên giáo Trung ương


1. Nhớ về một số mùa xuân hào hùng của dân tộc

Mùa Xuân năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, thực hiện lời thề: "Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng"; nhờ đó hiệu triệu được nghĩa khí muôn dân, quét sạch quân Đông Hán (Trung Quốc), lấy lại nền tự chủ cho dòng dõi Vua Hùng. Nối tiếp truyền thống của Hai Bà Trưng, Bà Triệu cũng tỏ rõ chí khí của người phụ nữ Việt Nam với câu nói nổi tiếng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình ở Biển Đông, quét sạch quân Ngô, cởi ách nô lệ chứ không chịu làm tì thiếp người". Mùa Xuân năm 542, Lý Bí cùng các nghĩa binh vùng dậy đánh đuổi quân đô hộ nhà Lương (Trung Quốc); đến mùa Xuân năm 544, sau hai lần đập tan đòn phản công của giặc, Lý Bí tự xưng Hoàng đế (đặt hiệu là Lý Nam Đế), lấy tên nước là Vạn Xuân, với lòng mong ước non sông gấm vóc này mãi trường tồn, hưng thịnh. Mùa Xuân Mậu Tuất 1418, trong cảnh nước nhà rên xiết dưới ngọn lửa hung tàn của giặc Minh, tại nơi núi rừng hiểm trở, hoang vắng của xứ Thanh, Lê Lợi và 18 nghĩa sĩ đã "cắt máu ăn thề", quyết lấy lại giang sơn gấm vóc. Sau 10 năm "nếm mật nằm gai", đốm lửa Lam Sơn đã bùng lên thành cơn bão táp quét sạch bóng quân xâm lăng, mang lại thái bình cho muôn dân. Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa của Hoàng đế Quang Trung đã khiến cho quân Thanh xâm lược "chích luân bất phản, phiến giáp bất hoàn". Sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bản anh hùng ca bất diệt, mang thần khí của lịch sử hào hùng qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

2. Kết nối mạch nguồn lịch sử để tái hiện thần khí cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai ở thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt đã phát đi bài "Thơ Thần" trên phòng tuyến sông Như Nguyệt "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Ở thế kỷ XIII, trước vó ngựa hung hãn của quân Mông - Nguyên, Trần Hưng Đạo đã dồn hết tâm lực viết nên Hịch tướng sĩ: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa, cũng nguyện xin làm". Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã viết trong Đại cáo bình Ngô: "Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc - Nam cũng khác". Thế kỷ XVIII, Quang Trung đã khích lệ tinh thần tướng sĩ trước khi bước vào trận quyết chiến với quân Thanh ở Thăng Long: "Đánh cho chúng biết nước Nam anh hùng là có chủ". Đó không còn là lời của riêng Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi hay Quang Trung, mà đó chính là hồn thiêng sông núi qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc Việt Nam.

Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang ấy, ngày 2-9-1945, thay mặt nhân dân cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trong đó có câu kết: "Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy". Cơ sở vững chắc để Bác Hồ tuyên ngôn đanh thép như vậy, chắc chắn là vì Người đã thấy rõ được sức mạnh truyền thống lịch sử từ cội nguồn dân tộc (tác phẩm đầu tiên Người viết khi về Pác Bó chính là cuốn Lịch sử nước ta), sức mạnh lịch sử của đồng bào ta đã được đốt thành ngọn lửa thần kỳ trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Mùa thu Ất Dậu 1945, với những thứ vũ khí rất thô sơ, với một đội quân chính quy mới được thành lập còn non trẻ về kinh nghiệm trận mạc, còn rất mỏng về lực lượng, nhưng nhờ có sự hậu thuẫn của toàn dân, chúng ta đã giành được chính quyền, đó là điều kỳ diệu mà lịch sử Việt Nam viết nên trong những trang sử đấu tranh giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX, là ánh hào quang giữa đêm đen chủ nghĩa thực dân, gieo niềm tin cho những dân tộc bị xiềng xích vùng lên giải phóng, thay đổi thân phận. Lời tuyên ngôn đanh thép ấy, lập tức linh nghiệm ngay khi dân tộc ta buộc phải cầm súng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Chiến thắng Điện Biên Phủ là nấc thang mới của ý chí sắt thép từ trong lòng những người áo vải, yêu quê hương, đất nước đã "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa", "lấy thân mình lấp lỗ châu mai", ôm súng xông lên ào ào như vũ bão, buộc lũ giặc phải giương cờ trắng trên cái mà chúng gọi là "pháo đài không thể công phá". Chiến thắng Điện Biên Phủ như hồi kèn thắng trận, như khúc khải hoàn ca không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn là tiếng nói của lịch sử nhân loại, bởi sau đó mấy năm đã có gần 20 nước ở Mỹ Latinh và châu Phi vùng lên giành độc lập.

3. Tết Mậu Thân 1968 - Tết của niềm tin tất thắng

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã chủ động chuẩn bị cho ván bài quân sự, chính trị, hòng lấy miền Nam Việt Nam làm "chốt chặn" cản bước phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Khi quân Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Thay vì tôn trọng Hiệp định Giơnevơ, thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử để thống nhất đất nước Việt Nam, chính quyền Mỹ - Diệm đã dựng lũy thép gai, nhà tù, lê máy chém khắp miền Nam tàn sát dã man đồng bào ta, bắt đồng bào ta phải "tố cộng, diệt cộng"; ngăn cách lòng dân với Đảng, chia cắt lâu dài non sông nước Việt.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (năm 1959) đã tạo ra bước ngoặt của cách mạng miền Nam. Phong trào Đồng khởi vào cuối năm 1959, đầu năm 1960 là luồng sinh khí mới, báo hiệu thắng lợi tất yếu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Mùa Xuân Mậu Thân 1968, cả miền Nam Việt Nam vùng lên quật khởi, bên ngoài đánh vào, bên trong nổi dậy; làm rung chuyển bộ máy chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai, khiến cho Lầu Năm Góc bàng hoàng, sửng sốt, mở ra một bước ngoặt mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của đồng bào hai miền Nam - Bắc Việt Nam. Cho dù cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 chưa giải phóng được miền Nam, nhưng sự kiện này như ngọn lửa bất diệt, thể hiện khát vọng của một dân tộc với chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" trong thời đại Hồ Chí Minh. Sau sự kiện Mậu Thân 1968, đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Pari. Nếu như khi quân Mỹ mới đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, quân và dân ta không hề run sợ, dám "nắm lấy thắt lưng địch mà đánh", thì trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dân tộc ta đã cho đế quốc Mỹ thấy rằng, đất này là cõi thiêng của lòng ái quốc, nếu quân xâm lược nếu liều lĩnh xông vào chắc chắn sẽ "không có đường ra".

4. Đôi điều suy ngẫm cho đất nước hôm nay và mai sau

Ở nước Mỹ, có một bức tường đá hình chữ V (gọi là Bức tường tưởng niệm chiến tranh Việt Nam) có ghi danh hơn 58 ngàn lính Mỹ tử nạn hoặc mất tích trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ở Việt Nam, có vô số nghĩa trang, trong đó lớn nhất là Nghĩa trang Trường Sơn, có nhiều tượng đài chiến thắng, nhưng đáng lưu ý nhất là Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam. Chiến tranh qua đi, để lại sự mất mát, đau thương cho người dân vô tội. Tết Mậu Thân 1968, Tết của lòng quả cảm, nhưng cũng là Tết của sự mất mát, hy sinh vô bờ bến; khắp cả miền Nam khi đó ào ào nổi dậy như triều dâng thác đổ... khiến cho quân thù không kịp trở tay. Từ trạng thái quân thù muốn tìm mọi cách để đẩy càng xa càng tốt lực lượng cách mạng ra khỏi thành thị, thì chỉ trong khoảnh khắc giao thừa Mậu Thân 1968, tiếng súng của quân ta như hồi kèn xung trận, đưa khí thế cách mạng đến mọi nơi, mọi chỗ trên khắp miền Nam Việt Nam, đẩy quan thầy Mỹ và bè lũ tay sai vào thảm lửa. Nội các Sài Gòn lục đục thay quân đổi tướng, liên minh Mỹ - chính quyền Sài Gòn đổ vỡ niềm tin, chính trường nước Mỹ sôi sục. Thế cờ của Mỹ tại Nam Việt Nam từ đó lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, trụ không được muốn rút cũng không xong. Cảm nhận được kết cục bi đát, đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Pari để tìm đường rút lui trong danh dự. Cái gì đến rồi cũng phải đến, như lời tiên tri của Bác Hồ ngay ở đầu bản Di chúc thiêng liêng của Người: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn" . Niềm tin tất thắng ấy như một sức mạnh tinh thần, tiếp thêm sức mạnh nội sinh cho dân tộc "Tiến lên toàn thắng ắt về ta" trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Giờ đây, sau nửa thế kỷ diễn ra sự kiện Mậu Thân 1968, hai nước Việt - Mỹ đã khép lại quá khứ đau thương, để "hướng tới tương lai". Trong chuyến thăm Việt Nam mới đây (12-11-2017), Tổng thống Mỹ đã phát biểu: "Việt Nam là một trong những điều kỳ diệu trên thế giới". Chúng ta cảm ơn những ai đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ chân thành, tôn trọng những ai có lời khen khích lệ, nhưng chắc chắn không vì thế mà kiêu ngạo, ngược lại sẽ luôn ngẩng cao đầu, kiên định trên dặm trường thiên lý. Chúng ta đi lên từ điểm tựa của hào khí ngàn năm giữ nước và dựng nước, dũng mãnh như thuở nào Phù Đổng nhổ tre làng đánh đuổi giặc Ân.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Năm, 2020, 01:34:02 pm
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 TRONG HÀNH TRÌNH
ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC



TS. VĂN THỊ THANH MAI
Phó Tổng biên tập Tạp chí Tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 "là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước". Sự kiện Mậu Thân là một nhân tố chủ yếu, quyết định buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán Pari, mở đầu cho những thắng lợi quan trọng và cơ hội hòa bình, thống nhất đất nước Việt Nam.

Bị sa lầy trong cuộc chiến ở Việt Nam, song vẫn còn binh lực mạnh và chưa muốn xuống thang chiến tranh, nên đế quốc Mỹ càng điên cuồng muốn dốc toàn lực để phá thế bế tắc. Tuy nhiên, thắng lợi của quân, dân miền Nam trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 đã làm thất bại một bước quan trọng chương trình "bình định" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, khiến Mỹ "bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ" và lâm vào thế bị động. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 4-1967 chủ trương tiếp tục phát huy thắng lợi và chuẩn bị mọi mặt để đưa cách mạng tiến lên giành thắng lợi mới. Tháng 6-1967, Bộ Chính trị tiếp tục thảo luận kỹ dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 và nhận định: về phía ta, "thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn" . Theo đó, Hội nghị dự kiến sẽ giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn, phải tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Mỹ, làm mất khả năng tiến công của chúng; đồng thời phải tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không còn là lực lượng chiến lược trong tiến công và phòng ngự mà Mỹ dựa vào đó để tiến hành chiến tranh.

1. Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp. Thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc và thảo luận; quyết định lựa chọn phương án tiến công mới, bất ngờ - đó là đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Sau Hội nghị này, tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta; trong đó, chủ trương chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Bộ Chính trị quyết định động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc tập trung và nỗ lực đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất bằng "tổng công kích và tổng khởi nghĩa" để giành thắng lợi quyết định.

Đầu năm 1968, các điều kiện về chính trị, quân sự, ngoại giao để mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã hội đủ. Trong thư gửi Trung ương Cục miền Nam ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn viết: "Từ ba, bốn năm nay ta đã chuẩn bị lực lượng và thế trận cho trận quyết chiến chiến lược này. Song vì nhiều lý do, lực lượng ta chuẩn bị chưa đầy đủ. Tuy vậy, như Trung ương đã phân tích, khi có nhiều thời cơ thuận lợi, nếu chúng ta biết làm và làm đúng, có sự nỗ lực vượt bậc thì lực lượng ít cũng có thể tạo nên sức mạnh, bảo đảm giành thắng lợi rất to lớn, rất quan trọng" . Tiếp đó, tháng 1-1968, Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 về quyết định thực hiện "tổng công kích - tổng khởi nghĩa". Theo đó, hướng tiến công chủ yếu là đô thị; trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế; mục tiêu tiến công là các cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các trung tâm chỉ huy, các hậu cứ, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa phá hủy phương tiện chiến tranh của chúng; phương châm tiến công là quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng; thời gian tiến công được dự kiến trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân 1968.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và nêu cao tinh thần, ý chí cách mạng tiến công, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã tiến công và nổi dậy tại các thành phố, thị xã, trọng tâm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, gây cho địch tổn thất lớn. Do bị bất ngờ, địch bị động, đối phó lúng túng ở tất cả các vùng chiến lược; quân ta đã đánh chiếm và làm chủ nhiều địa bàn trong nhiều ngày.

Tại Sài Gòn - Gia Định, ta tiến công vào các mục tiêu quan trọng: Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, Đài Phát thanh Sài Gòn, Tổng nha Cảnh sát, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất... Tại Thừa Thiên Huế, lực lượng vũ trang tiến công vào 40 mục tiêu trong nội, ngoại thành, giải phóng phần lớn thành phố với trên 90% số dân; đánh chiếm hầu hết các vị trí quân sự, đầu não của địch, các đồn bốt, căn cứ hậu cần (trừ căn cứ Phú Bài); tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội và chính quyền địch, đánh chiếm hai nhà lao và giải thoát trên hai ngàn chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước đang bị địch giam cầm; làm chủ gần hết thành phố Huế, giải phóng đại bộ phận nông thôn, v.v.. Tại thành phố Đà Nẵng, đêm 29 rạng ngày 30-1-1968, lực lượng pháo binh, đặc công, bộ binh, biệt động đánh phá các sân bay, trận địa pháo, kho tàng; chiếm một số mục tiêu trong thành phố để hỗ trợ cho quần chúng từ bên ngoài kéo vào phối hợp với quần chúng bên trong nổi dậy giành chính quyền. Tuy nhiên, do việc nắm tình hình chưa chắc, lại bị địch tập trung lực lượng chặn đánh quyết liệt nên phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân bên trong thành phố không thực hiện được theo kế hoạch...

Kết thúc đợt 1 (từ ngày 30-1 đến ngày 25-2-1968), Bộ Chính trị Trung ương Đảng (họp ngày 24-4-1968) đã nhận định: Tổng tiến công và nổi dậy đã giành thắng lợi to lớn, toàn diện, tạo nên bước ngoặt mới trong cục diện chiến tranh hết sức có lợi cho ta, gây bất lợi cho địch; đế quốc Mỹ thất bại nặng nề, ý chí xâm lược đã bị lung lay . Phân tích kết quả đợt 2 (từ ngày 5-5 đến ngày 15-6-1968) và đánh giá chung 2 đợt, Bộ Chính trị (họp tháng 8-1968) nhận định: Chúng ta "đã giành thắng lợi to lớn, toàn diện chưa từng có" ...; và có thể nói, "cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các thành thị lớn là mũi nhọn thọc vào yết hầu của địch, có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ chiến trường và toàn cuộc chiến tranh" .

2. Với Mậu Thân, lần đầu tiên, quân và dân ta đã tiến công đồng loạt vào hậu cứ của địch tại các đô thị. Cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều tuần, nhiều tháng đã làm thương vong nặng nề cả quân số và phương tiện chiến tranh của địch; làm cho Mỹ - chính quyền Sài Gòn hoang mang, dao động, "làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ", làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ; buộc Chính phủ Mỹ phải chấp nhận rằng không thể dùng lực lượng quân viễn chinh Mỹ để giành chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của quân Mỹ, làm rung chuyển nước Mỹ và "sau Tết, niềm tin của công chúng (Mỹ) đối với sự lãnh đạo của Tổng thống Giônxơn bị xói mòn nghiêm trọng" .

Sự kiện Tết Mậu Thân cho thấy chính quyền và quân đội Sài Gòn không đủ khả năng đứng vững một cách độc lập để "chống Cộng" như Mỹ - chính quyền Sài Gòn mong muốn. Mậu Thân 1968 là một "thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra một bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari; chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hóa" chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh" .

Nhìn nhận về thắng lợi trong cuộc tiến công Mậu Thân, Jeff Stein và Marc Leepson nêu rõ: "Mặc dù Cộng sản bị thiệt hại về mặt quân sự và chịu tổn thất to lớn, nhưng đó là sự tuyên cáo của lịch sử là họ đã giành được thắng lợi chiến lược có ý nghĩa quyết định. Người Mỹ đã bị mất niềm tin vào những dự đoán tốt đẹp của chính quyền Giônxơn và đi đến kết cục là cuộc chiến sẽ phải kéo dài trong nhiều năm nữa" .
Với Mậu Thân, ta có thêm điều kiện để mở mặt trận tiến công ngoại giao, mở ra cục diện "vừa đánh, vừa đàm", buộc Mỹ chấp nhận họp Hội nghị bốn bên ở Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, tạo bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Ngày 25-1-1969, Hội nghị Pari về Việt Nam với sự tham gia của bốn bên họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn "vừa đánh, vừa đàm" đúng như dự kiến của Trung ương Đảng.

Để đánh cho "Mỹ cút" rồi tiến tới đánh cho "ngụy nhào", trên cơ sở phân tích tình hình, Bộ Chính trị chủ trương động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đánh mạnh, buộc Mỹ phải chấp nhận một giải pháp chính trị là rút hết quân, kết thúc chiến tranh. Theo đó, các cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam cuối năm 1971 đầu năm 1972 đã giáng một đòn mạnh vào chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch. Đặc biệt, chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" cuối năm 1972 đã làm thất bại ý đồ "đàm phán trên thế mạnh" của Mỹ. Cuối cùng, sau nhiều trở ngại, ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Trung tâm hội nghị quốc tế khách sạn Hoàng gia, đường Klêbe, Pari (Pháp).

Ngày 24-5-1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng, khẳng định quyết tâm: Đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của địch; giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để chủ động đối phó với địch trong mọi tình huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thấu triệt và phát huy tư tưởng cách mạng tiến công, kiên định quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 10-1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt trên các chiến trường họp, đã xác định: Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc, dân chủ... Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác; đồng thời thống nhất kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Hướng về miền Nam ruột thịt, ngay từ những tháng cuối năm 1974, quân và dân ta kiên quyết phản công địch, chủ động mở những cuộc tiến công mới, dồn sức mạnh vật chất và tinh thần của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, mở ra thời kỳ phát triển nhảy vọt để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam mùa Xuân năm 1975.

Nửa thế kỷ sau sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có thể khẳng định rằng: Đánh giá đúng tình hình thực tiễn, hiểu đúng về lịch sử chính là thiết thực nhân nguồn sức mạnh nội sinh của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất đất nước; và đó cũng chính là góp phần phát huy thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân trong hành trình đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong 21 năm đầy gian nan và thử thách tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta, nhân dân ta đã biết tạo dựng thời cơ và nhạy bén nắm vững thời cơ; kịp thời đề ra chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo; biết chọn thời điểm mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tấn công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trong đó, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một dấu ấn quan trọng, không thể phai mờ.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Năm, 2020, 02:01:57 pm
NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, PGS.TS. HOÀNG XUÂN NHIÊN
Học viện Quốc phòng


Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của quân và dân Việt Nam (1954-1975), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới truyền thống đánh giặc và nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam. Có được thắng lợi trong Xuân Mậu Thân 1968 là do ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về chỉ đạo điều hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự, trong đó có một nội dung lớn về nghệ thuật tác chiến ở nhiều quy mô, cấp độ khác nhau... Để góp phần làm rõ những nét đặc sắc đó, bài viết đi sâu phân tích một số vấn đề nổi bật được đúc rút trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chủ yếu trong đợt 1 (tức là đợt Tết Mậu Thân), cụ thể như sau:

Thứ nhất, nghệ thuật nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Trong tác chiến, thời cơ là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng mà mỗi bên tham chiến cần tích cực tạo ra (tạo thời cơ) hoặc chủ động phát hiện, kịp thời chớp lấy (nắm thời cơ) để làm tăng sức mạnh gấp bội của thế, của lực nhằm giành ưu thế trong chiến tranh, chiến cục hay trong các chiến dịch, trận đánh... Ở vào hoàn cảnh của một nước nhỏ phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn có ưu thế vượt trội hơn về nhiều mặt, Đảng ta luôn coi trọng vận dụng yếu tố thời cơ, tích cực tạo ra, nắm bắt thời cơ chiến lược, thúc đẩy và chớp lấy thời cơ có lợi để hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chủ động đánh địch, giành thắng lợi trong cuộc chiến... Cụ thể, ngay từ cuối năm 1965, khi ta nhận thấy đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn chuyển chiến lược từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ", trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (12-1965) đã chỉ ra phương hướng giành thắng lợi trong chiến tranh, đó là: Trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, chúng ta "cần cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam" 1. Phương châm chiến lược đó đã quán xuyến trong từng chiến dịch, từng đợt hoạt động quân sự và chính trị từ sau năm 1965.

Đồng thời, khi phân tích tình hình địch, Đảng ta cũng nhận thấy: Mặc dù quân số địch lên tới mức cao, nhưng tất cả ưu thế về binh lực, hỏa lực và sức cơ động của chúng bị hạn chế rất nhiều trước thế trận và cách đánh của ta. Những chỗ yếu của địch không được khắc phục mà ngày càng bị khoét sâu thêm, đặc biệt là chỗ yếu về chính trị. Vì thế, mặc dù địch vẫn còn rất chủ quan, nhưng nhìn chung, "xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước" , nhất là "so với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao"3. Như vậy, địch vẫn đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn... đây là một nhận định rất quan trọng, có ý nghĩa lớn để xác định thời điểm tiến hành đòn đánh quyết định trong việc hoạch định kế hoạch chiến lược "Tết Mậu Thân". Đồng thời, Đảng ta còn nhận thấy những khó khăn đó trong nội bộ nước Mỹ càng bị nhân lên khi mà chính quyền Giônxơn đang gặp phải những khó khăn to lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, ngoại giao do hậu quả bị sa lầy trong chiến tranh Việt Nam và năm vận động bầu cử Tổng thống ở Mỹ đang xích lại gần... Mặt khác, về phía ta, mặc dù ta vẫn còn nhiều khó khăn, nhược điểm (cả về tổ chức lực lượng, về khả năng đánh tiêu diệt lớn, về đảm bảo hậu cần, về phong trào ở đô thị...) nhưng diễn biến cơ bản của tình hình vẫn cho thấy ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi.

Từ những phân tích, đánh giá diễn biến và xu thế phát triển của tình hình như vậy, Đảng ta đã đi tới nhận định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược" . Tình hình đó cho phép chúng ta có thể lợi dụng để buộc Chính phủ Mỹ phải quyết định chấm dứt chiến tranh "có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"...2. Trên cơ sở đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ", Đảng ta đã luôn luôn kiên định chủ trương "giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam"- chủ trương đó quán xuyến suốt gần ba năm (1965-1967) mà Hội nghị Trung ương 12 (12-1965) và Hội nghị Trung ương 13 (1-1967) đã dự kiến. Do đó, khi phát hiện thấy động thái mới của địch sau mùa khô 1966-1967, Đảng ta đã sớm dự kiến được xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, kịp thời phát hiện được thời cơ để hạ quyết tâm chiến lược bằng việc mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Rõ ràng, đây là một quyết định quan trọng sau ba năm tạo thời cơ, chờ đón thời cơ và chớp lấy thời cơ để "giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam" của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng. Thực tế cũng đã cho thấy đây là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Thứ hai, nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu và nghi binh lừa địch.

Trong đợt Tết Mậu Thân 1968, hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng; hướng phối hợp chiến lược quan trọng là mở chiến dịch lớn ở Đường 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ, căng kéo và kìm chân địch trên mặt trận này để hỗ trợ cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu, đồng thời nghi binh thu hút địch. Trong đó, hướng tiến công chủ yếu nhằm vào đô thị miền Nam thực sự đã là một bất ngờ lớn, khiến cho địch trên chiến trường không kịp trở tay, khiến cho giới lãnh đạo Mỹ ở Oasinhtơn ngày đó đã phải "sững sờ, choáng váng". Đây là lần đầu tiên trong suốt bao năm ròng kháng chiến, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị; hoạt động đó đã biến hậu phương và hậu cứ của địch thành chiến trường của ta. Đó là một thành công lớn của Đảng trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh - nghệ thuật đánh hiểm, đánh đau, đánh vào "yết hầu", vào "trung ương thần kinh địch". Đòn tiến công của ta đã nhằm trúng vào các cơ quan đầu não trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn (các Sở chỉ huy, sân bay, bến cảng, kho tàng, căn cứ truyền tin, đầu mối giao thông); đó là các mục tiêu "yết hầu", "huyết mạch", "tim óc" của địch; là những mục tiêu tập trung sinh lực cao cấp của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam; trong đó Tòa Đại sứ Mỹ - nơi biểu trưng cho quyền uy của Mỹ tại miền Nam Việt Nam - đã bị ta tiến công và bị chiếm giữ trong nhiều giờ. Trận đánh vào sứ quán Mỹ vượt xa tầm vóc chiến thuật và ý nghĩa của một trận đánh cụ thể, khi toàn thế giới hướng về đó và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định bởi việc giành giật quyền kiểm soát "sứ quán" của cả hai bên.

Đặc biệt, các hoạt động nghi binh chiến lược nhằm phân tán lực lượng chủ lực địch, làm lạc hướng sự đề phòng của chúng đã được các cơ quan chỉ đạo chiến lược và các cấp chỉ huy chiến trường của ta triển khai thực hiện: Từ những tháng cuối năm 1967, một số chiến dịch ở vùng ven biên giới, ở Tây Nguyên liên tiếp được mở, các hoạt động quân sự ở vùng ven đô thị và ở vùng nông thôn đồng bằng được duy trì... Các hoạt động đó khiến địch nhận định ta không còn khả năng mở các chiến dịch ở đồng bằng như trước. Trên mặt trận ngoại giao, tháng 12-1967, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố phóng thích 2 tù binh Mỹ và ngỏ ý sẽ đi vào đàm phán với Mỹ. Điều đáng lưu ý là trước đó, chưa bao giờ ta công khai tuyên bố sẽ làm gì nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Tín hiệu ngoại giao này càng làm cho nội bộ chính quyền Mỹ bị phân hóa. Nhưng điều quan trọng hơn là giới lãnh đạo Mỹ càng thêm tin tưởng vào "sự suy yếu trên mặt trận quân sự của Việt Nam". Nhất là, bước sang tháng 1-1968, ta đã chủ động mở hai chiến dịch quân sự lớn (một ở Nậm Bạc và một ở Đường 9 - Khe Sanh). Ngay lập tức, Khe Sanh đã thu hút sự chú ý của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo Oasinhtơn. Sau này, một tác giả Mỹ là Maicơn Mắclia, đã bình luận rằng: đạn pháo của chủ lực miền Bắc dội xuống Khe Sanh đã "rơi ngay vào thủ đô Oasinhtơn". Giới lãnh đạo Mỹ khi đó nhận định Khe Sanh là một "Điện Biên Phủ" trong ý đồ chiến lược của Bộ Thống soái Việt Nam. Vì vậy, Giônxơn đã lệnh cho Tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải cam kết giữ Khe Sanh bằng mọi giá... Chính sự phán đoán sai lầm này của Mỹ đã buộc Mỹ phải chịu hậu quả nặng nề trong dịp Tết Mậu Thân. Rõ ràng, nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thể hiện rất rõ trong nghệ thuật chọn hướng, chọn mục tiêu và nghi binh lừa địch.

Thứ ba, nghệ thuật tiến công bằng phương thức tác chiến mới, giành thế bất ngờ, đưa chiến tranh vào đô thị.

Khi nghiên cứu về lịch sử chiến tranh và nghệ thuật tác chiến, cho thấy: Thông thường, khi chiến tranh sắp đến hồi kết thúc, phía mạnh hơn và chiến thắng mới có thể mở những cuộc tiến công chiến lược lớn vào sào huyệt của đối phương. Thế nhưng, phương thức tác chiến (cách đánh) của ta trong Tết Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị, nó vượt ra ngoài dự lường và mọi sự tính toán trước đó của Nhà Trắng - Lầu Năm Góc, của Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV) ở Sài Gòn; vì nó diễn ra trong bối cảnh địch leo thang đến đỉnh cao 2; khi mà tướng Oétmolen đang chuẩn bị đợt phản công thứ ba sau những thất bại của quân đội Mỹ trong hai mùa khô (1965-1966 và 1966-1967); lực lượng ta dùng là lực lượng tổng hợp (cả quân sự, chính trị), nhất là lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng... Bởi vậy, không phải tới bây giờ mà ngay từ ngày đó, một số nhà nghiên cứu Mỹ đã cho rằng vũ khí mạnh nhất của ta trong cuộc tiến công Tết Mậu Thân là sự bất ngờ. Họ đánh giá "Tết Mậu Thân" là cuộc tiến công "xuất thần"; nó đã "chộp đúng" Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam và giới lãnh đạo Oasinhtơn vào đúng lúc bất ngờ nhất, làm sửng sốt một nước Mỹ vốn đầy kiêu hãnh và tự tin ở tiềm lực quân sự và kinh tế to lớn của mình.

Thành công trong Tết Mậu Thân của ta về giữ bí mật toàn bộ ý định, hoạt động cho đến khi nổ súng đã góp phần làm cho địch bị bất ngờ lớn và đương nhiên là một đảm bảo cho chiến thắng của ta cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Một trong những bí mật quan trọng nhất làm cho sự kiện Tết Mậu Thân có tiếng vang trên toàn thế giới và kẻ địch hoàn toàn bị bất ngờ không thể nào phán đoán nổi, đó là cách đánh về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu; khi mà chỉ trong khoảng 24 tiếng đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch đều bị tiến công, kể cả những nơi tối quan trọng như Bộ Tổng Tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn và Tòa Đại sứ Mỹ... Các lực lượng vũ trang của ta đã thực hiện đánh địch từ trong nội đô đánh ra, kết hợp với từ bên ngoài đánh vào, đồng loạt khắp các nơi, bằng nhiều kiểu đánh của từng người, từng đơn vị lớn, nhỏ khác nhau, có sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy bằng mọi cách của quần chúng cách mạng với lực lượng vũ trang khiến cho địch đã bị bất ngờ càng thêm bất ngờ và lúng túng; đồng thời làm cho cái thế của đôi bên trong chiến tranh bỗng chốc bị đảo ngược (hậu phương của địch thành tiền tuyến và tiền tuyến của địch hóa hậu phương). Các đơn vị thiện chiến được tung đi xa đến tận "xứ sở của địch" để "tìm và diệt", thình lình nhận được lệnh cấp tốc chạy về "xứ sở của mình" để cứu nguy cho các cơ quan đầu não, cố ngăn chặn và phản kích rồi từ đó cố "quét và giữ" cho đến khi rút lui khỏi cuộc chiến... Rõ ràng, đây là một cách đánh rất độc đáo của chiến tranh cách mạng kết hợp với khởi nghĩa vũ trang.

Tuy nhiên, bí mật bất ngờ mà ta làm được trong Tết Mậu Thân 1968 không chỉ là ngày, giờ nổ súng tiến công và cách đánh tài tình của một cuộc chiến tranh nhân dân cách mạng phát triển đến cao độ, mà đó còn là cuộc tiến công với một quy mô lớn, diễn ra trên toàn bộ miền Nam 3, với mức độ hết sức mãnh liệt của các trận đánh; nhất là việc đó kéo dài hơn nửa năm trời mà quân địch không thể nào nghĩ được, không lường nổi ý chí, sự dẻo dai, sự dồi dào về phương tiện cũng như sức lực của đối phương mà trước đó chúng đánh giá rất thấp. Bởi vậy, tài liệu mật của Lầu Năm Góc đã thú nhận "... Cuộc tiến công (Tết Mậu Thân) đã làm cho Nhà Trắng và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bị bất ngờ về sức mạnh, thời gian kéo dài và mức độ ác liệt của cuộc tiến công đã kéo dài sự kinh ngạc này"; còn tờ Thời báo Mỹ số ra ngày 9-2-1968 gọi đây "chắc chắn là một hành động bất ngờ "thần thánh", một lực lượng địch tản mát và không ai thấy được, bị săn đuổi khắp nơi không lúc nào ngừng, bỗng dưng xuất hiện và đồng loạt tiến công ở hàng trăm trận địa trên khắp nước" .

Thứ tư, nghệ thuật tổ chức bố trí và sử dụng lực lượng, phát huy mạnh mẽ nhân tố con người.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được khởi xướng trong điều kiện lực lượng quân sự của địch tại miền Nam vẫn còn gần 1 triệu 200 nghìn tên, bộ máy chiến tranh của địch vẫn còn hiệu lực và tiềm lực chiến tranh của chúng còn dồi dào. Để đạt được mục tiêu chiến lược đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, Đảng ta chủ trương trong Tết Mậu Thân, dùng binh lực và hỏa lực mạnh của ta đánh vào các binh đoàn chủ lực địch, đánh mạnh vào Sài Gòn và các thành phố khác, tạo điều kiện cho hàng triệu quần chúng ở đô thị và các vùng nông thôn tạm bị chiếm nổi dậy khởi nghĩa, phối hợp với lực lượng quân sự của ta tiêu diệt và làm tan rã quân địch, đánh đổ bộ máy đầu não của chính quyền Sài Gòn, làm rối loạn và tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, biến hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của địch thành hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của ta, làm thay đổi lực lượng so sánh một cách mau chóng và có lợi cho ta, bất lợi cho địch.

Theo phương hướng đó, trước và trong Tết Mậu Thân, các đơn vị bộ đội chủ lực ta đã mở một số chiến dịch ở vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền Tây Trị - Thiên nhằm kéo một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ lên chiến trường rừng núi, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công và nổi dậy ở các đô thị bị Mỹ, chính quyền Sài Gòn chiếm đóng. Ở các đô thị và ở vùng ven, ta sử dụng một số đơn vị bộ đội chủ lực đánh chiếm các mục tiêu, kìm chân các sư đoàn, trung đoàn chủ lực địch, tạo điều kiện cho lực lượng đặc biệt tinh nhuệ là các đội đặc công, biệt động, bất ngờ đánh chiếm một số cơ quan đầu não tại trung ương và địa phương của địch. Từ vùng ven, các tiểu đoàn mũi nhọn được tổ chức và trang bị gọn nhẹ, nhanh chóng đánh chiếm những mục tiêu được phân công. Một số tiểu đoàn đã tiến được vào các khu vực mục tiêu nằm sâu trong nội thành, trụ lại đánh địch phản kích trong nhiều ngày. Đồng thời, ta sử dụng pháo cối và rốc két đánh vào nhiều mục tiêu khác như sân bay, Sở chỉ huy, trung tâm thông tin của địch... Phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn, các đội vũ trang và bán vũ trang của các ban ngành, đoàn thể như Thanh niên, Công vận, Phụ vận, Hoa vận... cơ động đánh địch trên đường phố. Ở vòng ngoài, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực của ta đón đánh không cho các đơn vị chủ lực địch tăng viện vào vùng ven và nội thành, giữ phía sau cho các tiểu đoàn mũi nhọn... song, tiêu điểm sự phát triển mới và đặc sắc của nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chính là nghệ thuật tổ chức bố trí, sử dụng và phương thức tác chiến sáng tạo, linh hoạt của lực lượng biệt động. Bằng tinh thần dũng cảm vô song, lực lượng biệt động đã mở đầu xuất sắc cuộc tiến công ở Sài Gòn và các đô thị, góp phần tạo nên hiệu lực chiến lược lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Cũng trong đợt Tết, do yêu cầu giữ bí mật tuyệt đối để giáng đòn bất ngờ cho địch, nên ta đã chỉ đạo cho quần chúng không nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ khóm, phường cùng lúc với lực lượng biệt động và các tiểu đoàn chủ lực đánh vào các cứ điểm quy định, nhưng quần chúng đã tích cực tham gia vào công tác chuẩn bị cho đợt tiến công Tết, cũng như sau khi nổ súng họ đã tham gia rất đông đảo, trực tiếp và gián tiếp bằng nhiều hình thức trên nhiều lĩnh vực khác nhau... Với việc bố trí, tổ chức và sử dụng lực lượng như vậy, quân và dân ta trên chiến trường đã phát huy được đầy đủ và mạnh mẽ khí thế tiến công (nhất là trong đợt Tết), khiến cho giới lãnh đạo Oasinhtơn nhận thấy lực lượng quân sự của Mỹ không thể nào khuất phục nổi nhân dân Việt Nam... Đó là một thành công nổi bật trong nghệ thuật bố trí và sử dụng lực lượng, cũng như tổ chức tiến hành công tác bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của Đảng ta; nghệ thuật đó đã phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, lấy ít địch nhiều, lấy trí tuệ người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Những kinh nghiệm quý trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 về nghệ thuật tác chiến, những bài học lớn về dựa chắc vào dân, biết khơi dậy, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân; biết kết hợp chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam với trí tuệ sáng tạo của Bộ Thống soái tối cao, của đông đảo quần chúng nhân dân... không chỉ có giá trị trong dự báo, hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới, trong định hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị sức mạnh về mọi mặt của thế trận chiến tranh nhân dân hiện nay, mà còn có ý nghĩa rất thiết thực đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc chiến chống nghèo nàn, lạc hậu, chống "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến, tự chuyển hóa", cũng như giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho toàn dân. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam dạn dày kinh nghiệm, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước sẽ thành công; quân và dân ta có đủ nghị lực, niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi thử thách, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.




-----------------------------------------------------------------
1. Cần lưu ý, ở Nghị quyết này, khái niệm "giành thắng lợi quyết định" không bao hàm ý nghĩa là tiêu diệt toàn bộ lực lượng quân sự của địch (khác hẳn với "giành thắng lợi hoàn toàn" là giành "toàn thắng"), mà thực chất chỉ là "đè bẹp ý chí xâm lược" của đế quốc Mỹ, thực hiện mục tiêu về độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.637-638.

2. Thời điểm đó, trên chiến trường miền Nam có trên 50 vạn quân viễn chinh Mỹ và chư hầu cùng với đội quân được hiện đại hóa của quân đội Sài Gòn, tất cả là khoảng 1 triệu 20 vạn quân.

3. Đúng vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân (đêm 30 và rạng 31-1-1968) quân và dân miền Nam đồng loạt Tổng tiến công và nổi dậy, đánh vào 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân khu - quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn địch, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần. Tại Sài Gòn, bộ đội đặc công và biệt động đánh thẳng vào Tòa Đại sứ Mỹ. Ta làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 06:50:07 am
"CHIẾN TRANH CỤC BỘ" - NẤC THANG CAO NHẤT
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA ĐẾ QUỐC MỸ



Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN HUY THỤC
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng



Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với 3 chỗ dựa cơ bản là quân đội, chính quyền Sài Gòn và ấp chiến lược - bộ phận cơ bản trong chiến lược quân sự toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" do Mỹ hoạch định và đổ tiền của, vũ khí, đưa hàng vạn cố vấn, chuyên gia sang trực tiếp chỉ huy, điều hành nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, trải qua hơn 4 năm ròng, với bao hy vọng đã hoàn toàn phá sản. Đây là minh chứng cho việc "Mỹ đang chơi một ván cờ thua ở Việt Nam" . Nhưng vì "cam kết" với đồng minh, cao hơn là sự tồn vong của chiến lược quân sự toàn cầu và thanh danh của một siêu cường hàng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa, giới cầm quyền Nhà Trắng quyết định leo thêm một nấc thang mới - triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

"Chiến tranh cục bộ" - chiến lược quân sự của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam (1965-1968). Quân Mỹ đảm nhiệm vai trò lực lượng cơ động chủ yếu trong các cuộc hành quân tìm diệt bộ đội chủ lực Quân giải phóng miền Nam và làm chỗ dựa cho chính quyền, quân đội Sài Gòn. Đây là nhiệm vụ hàng đầu và cũng là mục tiêu chủ yếu, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh bình định và kết hợp với việc tiến hành chiến tranh phá hoại, ngăn chặn sự chi viện nhân lực, vật lực của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam ...

Tính chất pháp lý của bước chuyển chiến lược trên được thể hiện qua văn bản Bị vong lục số 328/NSAM của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (6-4-1965), với những điều khoản cốt yếu như sau: tăng thêm 18.000 đến 20.000 quân để bổ sung cho các đơn vị hiện có và cung cấp số nhân viên hậu cần thiết yếu; triển khai 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một phi đoàn của lính thủy đánh bộ cùng những bộ phận kết hợp về chỉ huy và hỗ trợ; thăm dò khả năng triển khai quân sang Nam Việt Nam của Chính phủ Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan ... Có thể coi đây là dấu mốc chính thức bắt đầu của chiến lược "chiến tranh cục bộ" trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Cùng với triển khai quân chiến đấu vào miền Nam, Mỹ sử dụng không quân đánh phá ác liệt tuyến vận tải chiến lược Tây Trường Sơn (đoạn chạy qua địa phận Trung - Hạ Lào); gây sức ép với Chính phủ Xihanúc (Campuchia) chống Việt Nam. Với hành động này, Mỹ hy vọng sẽ tạo ra một thế chiến lược mới, chủ động bao vây, cô lập cách mạng miền Nam, góp phần ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trên cơ sở đó, Mỹ sẽ tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, phá chiến tranh du kích, tiến hành bình định nông thôn, giành lại quyền chủ động chiến trường; đồng thời sử dụng không quân đánh phá với quy mô hủy diệt, nhằm đưa miền Bắc "trở về thời kỳ đồ đá", làm kiệt quệ tiềm lực của hậu phương chiến lược, làm lung lay ý chí kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam. Qua đó, Mỹ không chỉ nhằm củng cố uy danh ở Việt Nam, Đông Dương và Đông Nam Á, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo thế giới tự do, mà hơn thế còn để "chứng tỏ" cho thế giới thấy được sức mạnh kiêu hùng và khả năng đè bẹp, tiêu diệt bất cứ cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng nào, răn đe phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.

Cụ thể hóa chiến lược "chiến tranh cục bộ", ngày 1-5-1965, Tư lệnh quân chiến đấu Mỹ ở miền Nam Việt Nam - tướng Oétmolen, đệ trình lên Nhà Trắng Chương trình hợp tác gồm ba nội dung: tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt, nhằm đánh bại phong trào cách mạng miền Nam trong vòng hai năm đến hai năm rưỡi (giữa năm 1965 đến giữa hoặc cuối năm 1967). Nhưng, ngay sau đó nhận thấy Quân giải phóng đẩy mạnh cường độ tác chiến, nhất là phát hiện được dấu hiệu chủ lực ta tập trung về Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên (tháng 5-1965), Oétmolen lập tức kiến nghị Nhà Trắng gia tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 44 tiểu đoàn (7-6-1965) và được toàn quyền điều hành tác chiến (13-6-1965).

Mặc dù phải đối mặt với không ít ý kiến trái chiều cả ở trong và ngoài nước, nhưng với uy quyền của ông chủ Nhà Trắng, được phái "Diều hâu" hậu thuẫn, ngày 17- 7-1965, L. Giônxơn quyết định nâng số quân Mỹ và đồng minh ở Nam Việt Nam lên 206.451 (quân Mỹ là 184.314). Theo đó, đến tháng 12-1965, tổng cộng cả quân Mỹ, đồng minh và Việt Nam Cộng hòa đạt tới 726.772 người; gồm: 14 sư đoàn, 9 trung đoàn, 21 tiểu đoàn độc lập (cả thảy 230 tiểu đoàn); lực lượng yểm trợ có pháo binh: 50 tiểu đoàn, 3 đại đội (966 khẩu các loại), cơ giới: 11 tiểu đoàn, 5 đại đội (1.396 xe), không quân: 2.186 máy bay các loại, hải quân: 341 tàu xuồng chiến đấu. Ngoài ra, quân đội Việt Nam Cộng hòa còn tổ chức thêm 284 đơn vị, trong đó đã đưa vào tác chiến 14 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn quân cảnh, 5 chi đoàn thiết vận, 5 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn truyền tin, 2 phi đoàn khu trục, 3 hải đoàn xung phong và 214 đại đội địa phương quân . Có thể khẳng định rằng, quyết định "táo bạo" của L. Giônxơn đã đưa nước Mỹ "vượt qua ngưỡng cửa giấu mặt, trá hình" bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam Việt Nam. Đây là bước ngoặt về chiến lược chiến tranh Việt Nam của giới cầm quyền Nhà Trắng - quân viễn chinh Mỹ đóng vai trò là lực lượng chủ yếu, trực tiếp tiến hành chiến tranh.

Đồng thời với tăng quân, hệ thống cơ quan chỉ huy cũng khẩn trương được hoàn thiện và tăng cường. Đó là, Bộ Tư lệnh quân chiến đấu Mỹ ở Việt Nam (MACV) được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, với hai nhiệm vụ: chỉ huy lực lượng hải, lục, không quân tác chiến trên phạm vi Nam Việt Nam, trực tiếp cố vấn và yểm trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mặt khác, các bộ tư lệnh lục quân, hải quân và không quân nhanh chóng được thành lập (cuối năm 1965). Lực lượng không quân Mỹ được triển khai vào Đà Nẵng, Biên Hòa, Tân Sơn Nhất... Hạm đội 7 Mỹ thường trực ngày đêm tuần tiễu trên địa phận lãnh hải Nam Việt Nam. Việc đánh phá miền Bắc cũng do Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương đảm trách.

Đặc biệt, để khắc phục triệt để tình trạng đảo chính, phản đảo chính triền miên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa - "công cụ" để Mỹ thực hiện chính sách thực dân mới, Mỹ đã tiến hành dàn xếp đưa Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu lên cầm đầu "Ủy ban lãnh đạo quốc gia" và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ quản lãnh "Ủy ban hành pháp Trung ương". Thực chất đây là sự phân quyền cho đại diện hai nhóm tướng lĩnh quân đội thân Mỹ được hợp hiến, hợp pháp hóa (19-6-1965). Đến đây, tình trạng khủng hoảng chính trị ở Nam Việt Nam cơ bản được giải quyết.

Khi đã có lực lượng mạnh, hệ thống bộ máy chỉ đạo, chỉ huy được củng cố, kiện toàn..., vào mùa khô 1965-1966, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất 1, nhằm: Tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực đối phương, giành chủ động trên chiến trường, nhanh chóng lật ngược thế trận, làm cho đối phương từ "người đi săn trở thành người bị săn"; bình định có trọng điểm để giành dân, đánh phá hậu cần dự trữ của đối phương; ổn định tình hình chính trị, củng cố quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hòa; khai thông hệ thống giao thông giữa các căn cứ với nhau; đánh phá miền Bắc, cô lập miền Nam.

Có thể khẳng định, cuộc phản công lần thứ nhất là nỗ lực vượt bậc của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam 2; nhưng rốt cục, chúng không những không đánh bại được Quân giải phóng miền Nam, mà tổn thất thì rất nặng nề 3 . Chính C. Lốtgiơ - Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn thú nhận: Mỹ đã không làm hao tổn được Việt cộng, không tiêu diệt được một đơn vị nào của Việt cộng, không ngăn chặn được du kích phát triển. Quân đội Việt Nam Cộng hòa giảm chất lượng nhanh chóng. Lực lượng Mỹ tăng cường bổ sung không kịp, khả năng tiếp viện hạn chế... Như vậy, sự kiện mùa khô 1965-1966 là "tiếng chuông cảnh báo" cho sự thất bại của "chiến tranh cục bộ".

Dù vậy, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, giới cầm quyền Nhà Trắng chỉ thị cho MACV, bằng mọi cách cố giằng co với Việt cộng trong mùa mưa, đồng thời gia tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 40 vạn, xây dựng phương án mở tiếp các cuộc phản công mùa khô 1966-1967 và 1967-1968, quyết đánh bại Việt cộng, hoặc chí ít cũng góp phần cải thiện được kết cục chiến trường theo chiều hướng có lợi cho Mỹ.

"Tìm ra" nguyên nhân thất bại của mùa khô lần thứ nhất là do chỉ đặt nặng về quân sự mà coi nhẹ xây dựng nông thôn, nên khi mở cuộc phản công mùa khô lần thứ hai (10-1966 - 6-1967), Mỹ đồng thời tiến hành hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định". Với gọng kìm "tìm diệt", chúng ưu tiên tiến công vào hệ thống căn cứ của ta ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy (Đông Nam Bộ), trọng điểm là Chiến khu C, nhằm diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực Quân giải phóng kết hợp với mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn, kiềm chế ta ở hướng Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, tích cực phòng ngự ở Đường 9, Trị - Thiên. Bên cạnh đó, chúng đẩy mạnh leo thang đánh phá miền Bắc, góp phần làm chuyển biến cục diện chiến tranh vào giữa hoặc cuối năm 1967...




---------------------------------------------------------------
1. Thời gian tiến hành cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất được xác định là từ 25-12-1965 đến tháng 6-1966, nhưng thực tế đã phải kết thúc sớm hơn dự kiến để đối phó với kế hoạch mùa mưa của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, bắt đầu vào tháng 5-1966.

2 . Với 206.772 quân Mỹ và quân đồng minh cùng 520.000 quân Việt Nam Cộng hòa (được tăng cường thêm trong 6 tháng đầu năm 1966), chúng đã sử dụng tới 78% quân Mỹ và quân đồng minh, hơn một nửa lực lượng tổng trù bị cùng với lực lượng chủ lực và địa phương của quân lực Việt Nam Cộng hòa trên các hướng phản công tại các vùng chiến thuật… để mở 1.880 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên (có 253 cuộc của quân Mỹ và quân đồng minh); về mục đích, có 80,5% nhằm "tìm diệt" hoặc đối phó với ta, 1,25% nhằm bình định, 18,25% nhằm tiếp viện mở đường.

3 . Theo thống kê của Trung tâm hành quân Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa, từ tháng 10-1965 đến tháng 6-1966, chúng đã bị thiệt hại 51.000 cán binh, mất 9.400 vũ khí, 300 máy bay các loại và 38 tàu thuyền chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 06:56:11 am
Thực hiện cuộc phản công lần thứ hai, ngoài lực lượng chủ chốt là 395.000 quân Mỹ thuộc 7 sư đoàn, 8 lữ đoàn, MACV còn huy động toàn bộ quân đồng minh và quân Việt Nam Cộng hòa vào cuộc. Tuy lực lượng ưu thế như vậy, nhưng chúng chỉ tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ; hình thành nên ba cánh quân đánh vào hệ thống căn cứ của ta, gồm: cánh thứ nhất, đánh cụm căn cứ Bắc Sài Gòn [Chiến khu C, khu Tam Giác Sắt (Củ Chi - Bến Súc - Trảng Bàng) và Chiến khu D]; cánh thứ hai, đánh căn cứ Đông Sài Gòn (Bình Tuy, Phước Tuy); cánh thứ ba, đánh khu vực Long An, Mỹ Tho, chặn cửa ngõ phía tây Sài Gòn.

Trong khoảng thời gian từ tháng 10-1966 đến tháng 4-1967, riêng quân Mỹ đã mở 127 cuộc hành quân, trong đó then chốt nhất là Áttơnborơ (Attleboro), Xiđaphôn (Cedarfall) và Gianxơnxiti (Junctioncity), với lực lượng 66 tiểu đoàn mỗi ngày, đánh cụm căn cứ Bắc Sài Gòn, nhằm tiêu hao chủ lực Sư đoàn 9 và Trung đoàn 101, xóa sổ Chiến khu C, diệt cơ quan Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền của ta.

Ở Trị - Thiên, liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tổ chức phòng ngự ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, ngăn chặn hoạt động của lực lượng vũ trang ta ở nam giới tuyến, từng bước mở rộng phạm vi hoạt động xuống phía nam, hỗ trợ bình định địa bàn dọc quốc lộ 1, quanh thị xã, thị trấn nhất là Đà Nẵng, đồng thời tăng cường phá căn cứ địa của ta ở miền tây Quảng Ngãi.

Trên hướng đồng bằng Khu 5 và Tây Nguyên, địch tăng cường hành quân tìm diệt chủ lực Quân giải phóng (Sư đoàn Sao Vàng), đánh phá các căn cứ vùng cận sơn, yểm trợ bình định vùng đồng bằng, kiềm chế hoạt động của ta ở giáp biên giới, vùng liên ranh giới Pleiku - Kon Tum...

Ở đồng bằng sông Cửu Long, địch tập trung đánh phá vùng Định Tường, Vĩnh Long, Kiến Phong, Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương Thiện, An Xuyên.

Về gọng kìm "bình định", với phương thức tiến chậm, giữ chắc, có trọng điểm, càn quét ở đâu bình định ở đó, tạo thế liên hoàn theo vết dầu loang, dưới sự chỉ đạo của Cômơ - trợ lý đặc trách bình định của Tổng thống Mỹ, quân lực Việt Nam Cộng hòa tập trung 53 tiểu đoàn chủ lực, 177 đại đội địa phương quân, 5 đại đội cảnh sát dã chiến, 559 trung đội nghĩa quân và 552 đoàn cán bộ xây dựng nông thôn, với tổng quân số khoảng 37.000, có sự yểm trợ của quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ, dùng bom pháo tập kích dữ dội kết hợp với hành quân càn quét, tàn phá các thôn ấp phục vụ chương trình bình định; trọng điểm là vành đai Sài Gòn, Long Khánh, Phước Tuy, Long An, Tây Ninh, Bình Dương (Vùng 3 chiến thuật); Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, Tuy Hòa, Lâm Đồng, Pleiku, Kon Tum (Vùng 1 và 2 chiến thuật); Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Kiến Phong (Vùng 4 chiến thuật). Riêng với chỉ tiêu dồn dân lập ấp đặt ra năm 1967 là 1.075 ấp 1.

Hành động đánh phá tàn khốc, dài ngày, có trọng điểm của địch đã gây cho ta những tổn thất nặng nề về lực lượng, vũ khí, cơ sở hậu cần; kế hoạch vận chuyển từng nơi, từng lúc bị gián đoạn, nhiều căn cứ bàn đạp bị đánh chiếm, số lượng lớn dân cư bị xúc vào ấp đời mới...; nhưng chung cuộc, mục tiêu đặt ra cho cuộc phản công mùa khô 1966-1967 vẫn không đạt được. Nghiêm trọng hơn, địch ngày càng lâm sâu vào trạng huống giằng co giữa phân tán để bình định và tập trung để tìm diệt, thế bố trí chiến lược bị đảo lộn, lực lượng cơ động phân tán, dàn mỏng, căng kéo khắp các vùng miền. Lực lượng cơ động Mỹ chỉ còn 45,7%, sức phản công sa sút nhiều.

Thất bại đau đớn và liên tiếp trong hai mùa khô ở chiến trường miền Nam đã đẩy nội tình giới cầm quyền Mỹ lâm vào tình trạng phân cực, chia rẽ sâu sắc. Ngay lúc cuộc phản công mùa khô lần thứ hai còn chưa kết thúc, tướng Oétmolen đã kiến nghị Tổng thống Mỹ tăng từ 10 đến 20 vạn quân cho Nam Việt Nam; thậm chí chúng còn đòi sử dụng lục quân tiến công miền Bắc Việt Nam... Tuy vẫn có những quan điểm trái ngược nhau trong nội bộ giới cầm quyền Nhà Trắng, nhưng trong Thông điệp liên bang (4-8-1967), L. Giônxơn công khai tuyên bố tăng thêm 55.000 quân, đưa tổng quân chiến đấu Mỹ ở Nam Việt Nam lên 525.000 người (chiếm tới 40% số sư đoàn bộ binh, 30% lực lượng không quân chiến thuật, 60% không quân chiến lược, 1/3 lực lượng hải quân của quân đội Mỹ). Đến cuối 1967, tổng cộng cả quân Mỹ, đồng minh và Việt Nam Cộng hòa đã đạt tới mức kỷ lục 1.089.800 (gồm 22 sư đoàn, 17 trung đoàn); trong đó, quân Mỹ là 480.000 (9 sư đoàn, 3 lữ đoàn), quân đồng minh của Mỹ là 57.000 người (2 sư đoàn, 3 trung đoàn), chưa tính lực lượng tham chiến gián tiếp, thì tỷ lệ tương quan địch - ta trên chiến trường chênh lệch nhau khá rõ rệt, cụ thể: Vùng 1 chiến thuật là 2,9/1; Vùng 2 chiến thuật là 3,8/1; Vùng 3 chiến thuật là 4/1 và Vùng 4 chiến thuật là 2,1/1.Dù vậy, giới cầm quyền Nhà Trắng cũng phải đối mặt với một thực tế là phong trào phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam diễn ra liên tục, mạnh mẽ trên nhiều thành phố nước Mỹ, thu hút rộng rãi các tầng lớp, trong đó có cả thống đốc bang, nghị sĩ Quốc hội hai viện tham gia.

Bước sang 1968 - năm bầu cử Tổng thống Mỹ (11-1968), MACV quyết định mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ ba (1967-1968), trên hướng đông Nam Bộ. Theo đó, chúng sử dụng lực lượng khoảng 5 sư đoàn quân Mỹ 2, trung đoàn quân Úc, lữ đoàn bộ binh Thái Lan kết hợp với 3 sư đoàn, 2 lữ đoàn Việt Nam Cộng hòa, mở các cuộc hành quân đánh vào Chiến khu C, Chiến khu D, nhằm tiêu diệt các sư đoàn chủ lực 5, 7, 9 của ta, "nới rộng" khu vực an ninh tỉnh Gia Định ra các vùng lân cận, đẩy mạnh gấp đôi nỗ lực bình định nông thôn so với năm 1967. Đối với hướng phối hợp Trung Trung Bộ, địch tập trung ngăn chặn ta xâm nhập dọc biên giới Việt - Lào, trọng điểm là Pleiku, Kon Tum; tìm diệt các sư đoàn chủ lực Khu 5, phá căn cứ, hỗ trợ cho kế hoạch bình định khu vực địa bàn duyên hải của ta. Ở khu vực giới tuyến, chúng tập trung ngăn chặn thâm nhập của ta qua khu phi quân sự và biên giới Việt - Lào, tìm diệt quân chủ lực, phá căn cứ, duy trì mức độ bình định như năm 1967. Tại đồng bằng sông Cửu Long, địch gia tăng cường độ hành quân bình định kết hợp với mở rộng khu vực an ninh tại các địa bàn trọng điểm như Gò Công, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Bình, Vĩnh Long, Sa Đéc, Phong Dinh, Ba Xuyên, Bạc Liêu, một phần lãnh thổ của hai tỉnh Kiên Giang và Chương Thiện. Thời gian của cuộc phản công lần thứ ba dự kiến là từ tháng 12-1967 đến tháng 4-1968.

Ngay khi đang chuẩn bị kế hoạch phản công lần thứ ba, địch đã bị lực lượng vũ trang ta đánh đòn bất ngờ, gây thiệt hại nặng ở Phước Long (27-10-1967), Lộc Ninh (29-10-1967)...; MACV nhanh chóng dồn lực lượng lên phía bắc Sài Gòn 3 , hình thành thế bao vây các chiến khu C và D.

Ngày 8-12-1967, theo kế hoạch đề ra, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ mở cuộc hành quân mang tên Yellow-stone và Sataroga, đánh vào Chiến khu C, chiếm Kà Tum, Bồ Túc, Bầu Châm - mở màn cho cuộc phản công mùa khô lần thứ ba (1967 - 1968), bất ngờ phát hiện dấu hiệu ta chuyển quân lớn vào các hướng chiến trường nên phải phân tán lực lượng ra đối phó. Đặc biệt, khi ta mở đợt tiến công trên chiến trường Tây Nguyên, tướng Oétmolen vội lệnh cho Sư đoàn 4 bộ binh Mỹ phải phân tán lực lượng ra để giữ Buôn Ma Thuột, đồng thời rút quân dù Việt Nam Cộng hòa ở các vùng 1 và 2 chiến thuật kết hợp với Lữ đoàn 173 dù và 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ đồng bằng lên tăng cường cho Tây Nguyên. Khi Tây Nguyên còn chưa bình ổn xong thì đêm 20 rạng 21-1-1968, cụm cứ điểm phòng ngự chiến lược Đường 9 - Khe Sanh của địch bị chủ lực ta tiến công. Ngay lập tức, Oétmolen lại phải dồn lực lượng ra giữ phía bắc Trị - Thiên, lập Bộ Tư lệnh tiền phương do tướng Abram chỉ huy, hủy bỏ kế hoạch mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ ba, rút các lực lượng đang hành quân đánh vào các chiến khu C và D về giữ Sài Gòn, đưa Sư đoàn 1 kỵ binh không vận và 2 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 101 dù ra tăng cường cho chiến trường Trị - Thiên.

Như vậy, tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", giới cầm quyền Nhà Trắng đã "xét lại" luận thuyết "chủ nghĩa thực dân mới" do chính mình nghiên cứu hoạch định ra trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những thất bại của chủ nghĩa thực dân cũ mà người Pháp là đại diện trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của các nước đế quốc. Nói một cách khác, người Mỹ đã "bước theo vết chân" của người Pháp ngay trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, xét về quy mô lực lượng, vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, phương tiện chiến tranh và nhất là trình độ công nghệ thì người Mỹ vượt trội hơn người Pháp rất nhiều lần. Thậm chí người Mỹ đã "quốc tế hóa" được cuộc chiến tranh Việt Nam, lôi kéo được nhiều quốc gia đồng minh mang quân đội vào tham chiến trên chiến trường Việt Nam, huy động quân sang chiến trường Việt Nam chiến đấu gia tăng từ vài vạn lên tới hơn nửa triệu chỉ trong 4 năm (1965-1968) gắn liền với các cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 mà quân chiến đấu Mỹ là chủ thể, có quy mô lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến tranh thuộc hàng lớn nhất, gây nên sự thảm khốc nhất và tổn thất cho cả hai bên cũng là lớn nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi chung cuộc, như chính Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara đã nhận ra rằng: Mỹ đã không hiểu được con người và truyền thống quật cường của người Việt Nam, nên cho dù đã leo lên đến nấc thang cao nhất "chiến tranh cục bộ" - người Mỹ trực tiếp tham chiến cũng không đảo ngược được tình thế chiến tranh. Đúng lúc nội tình nước Mỹ cũng như tình thế trên chiến trường Việt Nam chao đảo nhất, quân và dân ta ở miền Nam thực hiện đòn đánh quyết định Mậu Thân, làm phá sản "chiến tranh cục bộ", buộc Mỹ xuống thang chiến tranh. Như vậy, "chiến tranh cục bộ" là nấc thang cao nhất và cũng là sự "bắt đầu cáo chung" của người Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.




---------------------------------------------------------------
1. Theo báo cáo của Tổng trưởng xây dựng nông thôn chính quyền Việt Nam Cộng hòa (12-12-1967), kết quả bình định trong năm 1967 chỉ bằng 40% kế hoạch dự trù (429 ấp/1.062 ấp và 602.469 dân/1.347.510 dân), trên thực tế còn thấp hơn nhiều.

2. Sư đoàn 101 dù từ Mỹ mới sang, Sư đoàn 1 kỵ binh không vận từ Vùng 2 chiến thuật vào, các sư đoàn 1 và 25 bộ binh, Lữ đoàn 173 dù, Trung đoàn 11 thiết giáp.

3. Lữ đoàn 199 lên bắc Sài Gòn, Sư đoàn 1 bộ binh lên Hớn Quản, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh lên Tây Ninh, Trung đoàn 11 thiết giáp lên Bình Long, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 101 từ Vùng 2 chiến thuật vào Sông Bé.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:05:13 am
BỘ TỔNG THAM MƯU TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968



Đại tá, ThS. VƯƠNG VĂN YÊN
Trưởng ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử Bộ Tổng Tham mưu




Cách đây 50 năm, vào thời điểm Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta ở miền Nam đã mở đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy, đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn và Huế, Đà Nẵng cùng với các thị xã, thị trấn, chi khu, quận lỵ, sân bay, căn cứ hậu cần của Mỹ, chính quyền Sài Gòn trên toàn chiến trường miền Nam. Kết quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, tạo thay đổi đột biến cuộc chiến tranh. Thế trận chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, từ chủ động "tìm diệt" phải chuyển sang thế phòng thủ ngay trên địa bàn thành phố, thị xã. Các tầng lớp nhân dân, nhất là lực lượng sinh viên ở hầu hết các bang trên toàn nước Mỹ đã tràn xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Nhà Trắng đối với cuộc chiến tranh này. Nội các của Tổng thống Mỹ bị phân hóa, chia rẽ gay gắt. Tổng thống Giônxơn phải triệu tập một cuộc họp khẩn cấp "những người am hiểu nhất" để thảo luận về cuộc chiến tranh, đa số "nhà thông thái" đều nhất trí chấm dứt leo thang chiến tranh, từng bước rút quân về nước. Về ta, thắng lợi này đã mở ra cục diện mới, tạo ra thế và lực mới có lợi, nhằm tiến tới những thắng lợi to lớn hơn.

Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả của nhiều nhân tố, trong đó, vai trò chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu đối với lực lượng vũ trang cả nước trong giai đoạn chuẩn bị có ý nghĩa quyết định, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, tập trung chỉ đạo phòng, ban trong cơ quan và chiến trường miền Nam xây dựng hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến đúng phương châm, sát địa bàn.

Quán triệt Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, ngày 20-6-1967 về lãnh đạo thực hiện "Quyết tâm chiến lược trước mắt" của Thường vụ Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu đã chủ động chỉ đạo các chiến trường miền Nam xây dựng kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 - 1968. Đồng thời, cử một số đoàn cán bộ đến các chiến trường nắm tình hình, tranh thủ ý kiến của lãnh đạo, chỉ huy của các đơn vị để hoàn thiện Dự thảo "Quyết tâm chiến lược trước mắt" của Thường vụ Trung ương; qua đó đề xuất một số đồng chí cán bộ chủ chốt thuộc Bộ Chỉ huy Miền, Quân khu 5, Quân giải phóng miền Nam, mặt trận Tây Nguyên tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược.

Trong quá trình xây dựng kế hoạch Đông - Xuân 1967-1968, Bộ Tổng Tham mưu nhận thấy, nếu ta tiếp tục mở các đợt hoạt động quân sự như trước sẽ không tận dụng được thời cơ, không tạo được bước ngoặt lớn, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra theo hướng giằng co kéo dài. Hơn nữa, trước đối tượng tác chiến là quân Mỹ có hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, ứng cứu giải tỏa nhanh, chiếm ưu thế trên không, trên biển, thì việc sử dụng phương án bao vây để tiêu diệt chúng như đã làm đối với quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 hiệu quả sẽ không cao.

Để giải quyết vấn đề này, trên cơ sở nắm chắc ý định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về chuyển hướng tiến công từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não của địch ở các thành phố, thị xã để tạo sự bất ngờ, đột biến lớn về chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đã thành lập "Tổ kế hoạch", do đồng chí Cục trưởng Cục Tác chiến phụ trách, xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược đúng phương châm, sát địa bàn hoạt động. Trong quá trình xây dựng, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên bám sát các chiến trường, trao đổi với cán bộ, chỉ huy về khả năng, hành động của bộ đội khi đánh chiếm thành phố, thị xã, hay khả năng nổi dậy của quần chúng, khả năng binh biến của địch khi bị ta tiến công để xây dựng, điều chỉnh kế hoạch sát yêu cầu, nhiệm vụ. Tháng 7-1967, Bộ Tổng Tham mưu báo cáo Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về chủ trương và kế hoạch đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam lên bước phát triển mới. Kế hoạch xác định: tập trung nỗ lực cao nhất thực hiện cho bằng được khả năng có thể giành thắng lợi bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Dự kiến thời gian thực hiện trong Đông - Xuân 1967-1968 hoặc có thể sớm hơn; đồng thời dự kiến kế hoạch năm 1968 - 1969 và chuẩn bị tư tưởng đánh lâu dài. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu dự kiến kế hoạch sẽ mở đợt hoạt động mùa Đông, cao điểm là các tháng 2, tháng 3-1968 và đợt hoạt động mùa Hè với cao điểm là tháng 4, tháng 5-1968. Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp bàn kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 ở chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Tình báo, Cục Tác chiến báo cáo tình hình và mời đồng chí Tổng Tham mưu trưởng trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 với hội nghị. Trong đó, mục tiêu trọng tâm của kế hoạch là chuyển hướng tiến công chiến lược vào thành phố, thị xã bằng tổng công kích và khởi nghĩa; đồng thời đề xuất 4 nguyên tắc: tiến công bất ngờ; tiến công đồng loạt, khắp nơi cùng lúc; dùng bạo lực mạnh mẽ nhất, tập trung nhất, tiến công kiên quyết, liên tục; đánh cả quân viễn chinh Mỹ và quân đội Sài Gòn. Cùng với đó, chỉ huy các chiến trường miền Nam báo cáo kế hoạch tác chiến của mình với Bộ Chính trị. Trên cơ sở đó, hội nghị thảo luận, kết luận và giao cho Bộ Tổng Tham mưu nắm chắc nội dung để bổ sung, điều chỉnh kế hoạch tác chiến đúng ý định. Ngay sau hội nghị kết thúc, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo "Tổ kế hoạch" nhanh chóng điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 theo kết luận của Bộ Chính trị. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chức năng cử cán bộ đến các chiến trường hướng dẫn, giúp đỡ đơn vị hoàn thiện kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1967-1968. Để kế hoạch tác chiến bảo đảm bí mật, Bộ Tổng Tham mưu cử cán bộ đến từng chiến trường phổ biến quyết tâm tác chiến chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp.

Mặt khác, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Tình báo chuẩn bị bản đồ có minh họa chi tiết địa bàn thành phố, thị xã trên toàn miền Nam; xác định đầy đủ các yếu tố về địa hình, địa vật, đường phố, nhà cửa, công trình..., qua đó, nghiên cứu đánh giá địa hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, rút ra giá trị mạnh, yếu của địa hình, dự kiến những tình huống có thể xảy ra và cách xử trí; chỉ đạo Học viện Quân sự cấp cao tổng kết những trận đánh cả tiến công và phòng ngự trong kháng chiến chống Pháp ở Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, chỉ đạo Cục Tác chiến, Bộ Tư lệnh Đặc công tổng hợp và thuyết minh những trận đánh của lực lượng vũ trang ở miền Nam trong những năm gần đây, nhất là những trận đánh trong thành phố, thị xã, để rút ra kinh nghiệm hay, bổ sung hoàn thiện cách đánh trong kế hoạch tác chiến Xuân 1968.

Tháng 10-1967, trên cơ sở nghiên cứu đánh giá đặc thù của từng chiến trường và quyết tâm, kế hoạch tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân khu, quân chủng, binh chủng, các sư đoàn trực thuộc.

Ở miền Nam, sau khi nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng về kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tháng 10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện trên toàn chiến trường với mật danh: Nghị quyết Quang Trung, xác định Đông Nam Bộ và Sài Gòn làm trọng điểm và là hướng tiến công chủ yếu. Ngay sau đó, Trung ương Cục miền Nam họp bàn xây dựng kế hoạch chuẩn bị tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định; đồng thời giải thể Quân khu 7, Quân khu Sài Gòn - Gia Định và tổ chức lại chiến trường miền Đông. Để xác định rõ các mục tiêu tiến công trong kế hoạch tác chiến, Trung ương Cục miền Nam xác định thành lập Khu trọng điểm gồm: Sài Gòn - Gia Định và một số tỉnh lân cận. Khu trọng điểm được chia thành 6 phân khu, trong đó 5 phân khu vòng ngoài và 1 phân khu nội thành. Theo đó, các đơn vị được phân công đảm nhiệm tác chiến ở từng phân khu chủ động đưa lực lượng, vũ khí ém sẵn ở các địa bàn, phối hợp với lực lượng nổi dậy từ bên trong, tạo ra thế trận bí mật áp sát.
Trên cơ sở kế hoạch dự thảo tác chiến chiến lược do Bộ Tổng Tham mưu xây dựng, Quân khu 5 tổ chức xây dựng kế hoạch tác chiến sát yêu cầu, nhiệm vụ. Trong đó, hướng tiến công chủ yếu theo kế hoạch xác định là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Đà, trong đó Đà Nẵng là trọng điểm. Hướng phối hợp là Bình Định và Phân khu Nam (Phú Yên - Khánh Hòa). Hướng Tây Nguyên là chiến trường đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch.

Cuối tháng 10-1967, tình hình địch trên chiến trường miền Nam có nhiều thay đổi, chúng tăng cường lực lượng, xây dựng thêm một số cứ điểm, sân bay, đưa thêm quân dự bị chiến lược ra khu vực Đường 9, nhằm ngăn chặn các hoạt động chi viện của ta từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu gấp rút xây dựng kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Kế hoạch xác định, mặt trận Đường 9 có vai trò quan trọng nhằm nghi binh thu hút, kéo địch ra ngoài căn cứ để tiêu diệt, kết hợp với quần chúng khởi nghĩa, giam chân quân Mỹ và diệt quân địch ở Vùng 1 chiến thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận Huế, Đà Nẵng và toàn chiến trường miền Nam đánh địch. Nhận thức rõ tính chất quan trọng của mặt trận Đường 9, Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị thảo luận về kế hoạch tác chiến Đường 9. Sau khi hội nghị kết thúc, Bộ Tổng Tham mưu và Cục Tác chiến thống nhất với Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và Bộ Tư lệnh Quân khu 4 về công tác chỉ huy, hiệp đồng giữa hai bên.

Chiến trường Trị - Thiên - Huế là một trong ba trọng điểm của chiến trường miền Nam, trong đó, thành phố Huế được xác định là mặt trận trọng điểm, Nam Quảng Trị và Phú Lộc là mặt trận phối hợp. Vì thế kế hoạch tác chiến ở mặt trận Huế được chia thành 2 cánh. Cánh Bắc là hướng tiến công chủ yếu, gồm tả ngạn sông Hương và huyện Hương Trà. Còn cánh Nam là hướng tiến công quan trọng và là hướng đánh địch phản kích.

Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu còn chỉ thị cho các chiến trường gấp rút xây dựng các phương án tác chiến để mở đợt hoạt động Thu - Đông 1967, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế bị động, tạo đà cho bước chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến lược của ta vào Xuân năm 1968. Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, các chiến trường miền Đông Nam Bộ, và chiến trường Quân khu 5 đến chiến trường Tây Nguyên đã chủ động mở một số chiến dịch để tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy địch lún sâu vào thế bị động phòng ngự, tinh thần sa sút, quân đội Sài Gòn đào ngũ nhiều (trung bình mỗi tháng một vạn tên)1. Như vậy, đến cuối năm 1967, mọi công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhất là kế hoạch tác chiến trên chiến trường miền Nam đã được xây dựng hoàn chỉnh, bảo đảm đúng phương châm, sát địa bàn tác chiến, góp phần quan trọng đánh thắng ý chí xâm lược của Mỹ.

Hai là, chỉ đạo các quân khu tăng cường huấn luyện, nâng cao trình độ tác chiến cho bộ đội, đáp ứng nhiệm vụ ở chiến trường miền Nam.

Để đánh thắng quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trước hết, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Quân huấn phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trong toàn quân, nhất là những đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Nội dung trọng tâm là thống nhất cách đánh, nội dung, phương pháp huấn luyện đánh lớn ở địa bàn thành phố, thị xã; giải quyết những khó khăn, vướng mắc, vấn đề đặt ra trong tác chiến hiệp đồng binh chủng, phục vụ yêu cầu đánh lớn trên chiến trường miền Nam. Trong đó, đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp giới thiệu cho lớp tập huấn về "Vấn đề đánh tiêu diệt lớn của sư đoàn, trung đoàn". Đồng thời, chỉ đạo Cục Quân huấn phối hợp với các cơ quan, đơn vị nhanh chóng biên soạn tài liệu "Về đánh tiêu diệt lớn của sư đoàn, trung đoàn", "Đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn đánh địch trong công sự vững chắc" gửi các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên để nghiên cứu vận dụng. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, những cán bộ đã được tập huấn, nhanh chóng về tổ chức huấn luyện cán bộ và chỉ đạo công tác huấn luyện của đơn vị, sát điều kiện thực tế chiến trường.

Đối với các đơn vị bộ đội chủ lực, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo tập trung giáo dục, huấn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng cho bộ đội, xây dựng niềm tin vào khả năng đánh tiêu diệt, đánh tập trung trong điều kiện chiến đấu ác liệt; nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp trong điều kiện đánh lớn ở địa bàn thành phố, thị xã. Trong huấn luyện quân sự, các sư đoàn thường xuyên nghiên cứu nắm chắc đặc điểm địch, ta, địa hình ở thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam, kịp thời điều chỉnh nội dung, chương trình huấn luyện phù hợp cách đánh. Về huấn luyện chiến thuật, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các đơn vị tập trung rèn luyện chiến thuật cá nhân, phân đội, kết hợp giữa huấn luyện và truyền thụ những kinh nghiệm chiến đấu hay cho bộ đội; huấn luyện thành thạo giữa đánh tập trung và đánh tiêu diệt địch trong thành phố, thị xã. Đồng thời, huấn luyện nâng cao sức cơ động hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng; nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị có trong biên chế; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, phương pháp chiến đấu phù hợp điều kiện thực tế của từng chiến trường.

Để bảo đảm lực lượng đặc công đánh địch trong thành phố, thị xã, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Quân ủy Trung ương thành lập Binh chủng Đặc công (tháng 3-1967). Ngay sau ngày thành lập, Binh chủng Đặc công đã tích cực tổ chức huấn luyện, đào tạo cán bộ, chiến sĩ tăng cường cho các chiến trường. Trong năm 1967, Binh chủng đã huấn luyện được gần 4.000 chiến sĩ đặc công và 1.000 cán bộ trung đội, đại đội, tiểu đoàn, tăng cường cho chiến trường miền Nam hơn 2.500 cán bộ, chiến sĩ.

Các đơn vị quân chủng, binh chủng, cơ quan, nhà trường, nhất là các sư đoàn, trung đoàn cơ động, lực lượng phòng không - không quân, nhanh chóng hoàn thành chương trình huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật binh chủng và huấn luyện dã ngoại để rèn luyện nâng cao khả năng tác chiến phối hợp trên các chiến trường. Trong quá trình huấn luyện chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên chỉ đạo nhiều đoàn cán bộ xuống các chiến trường để kiểm tra, hướng dẫn, giúp đỡ các đơn vị giải quyết khó khăn, vướng mắc về nội dung, phương pháp huấn luyện phù hợp với cách đánh trong thành phố, thị xã.

Đối với các đơn vị lực lượng vũ trang địa phương, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo tập trung huấn luyện nâng cao khả năng tác chiến rộng khắp, nâng cao hiệu quả tác chiến phối hợp với bộ đội chủ lực trên địa bàn thành phố, thị xã; xây dựng lực lượng dân quân du kích mạnh, bảo đảm cho các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện giải phóng miền Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế. Thông qua đó, chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang các đơn vị, trình độ chỉ huy tham mưu tác chiến của đội ngũ cán bộ các cấp từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách đánh mới ở địa bàn thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:08:18 am
Ba là, điều chỉnh lực lượng, tăng cường sức mạnh chiến đấu cho chiến trường miền Nam.

Thực tế đã cho thấy, cuối năm 1967, quân Mỹ, quân đội Sài Gòn trên chiến trường miền Nam có khoảng 1.200.000 tên, trong đó, quân Mỹ gần 500.000 tên, được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, sức cơ động cao, khả năng ứng cứu giải tỏa nhanh. Về ta, mặc dù chúng ta đã đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của địch năm 1965-1966 và 1966-1967 và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của chúng ra miền Bắc, nhưng về so sánh tương quan lực lượng địch vẫn mạnh hơn ta. Để tăng cường sức mạnh chiến đấu cho các mặt trận trên chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các chiến trường, nhất là chiến trường miền Bắc đẩy mạnh công tác tuyển quân, xây dựng lực lượng kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam. Năm 1967, chiến trường miền Bắc đã chi viện cho chiến trường miền Nam hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu trên các mặt trận.

 Đối với chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo Khu trọng điểm đẩy mạnh công tác tuyển quân, xây dựng lực lượng theo yêu cầu tổng công kích - tổng khởi nghĩa, vừa bảo đảm các hoạt động tác chiến thường xuyên trong mùa khô 1967-1968, vừa tránh sự chú ý của địch. Cùng với công tác xây dựng lực lượng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Bộ Chỉ huy Miền nghiên cứu điều chỉnh lực lượng phù hợp ở các chiến trường, tập trung ưu tiên lực lượng, phương tiện cho Khu trọng điểm (Sài Gòn), bảo đảm thành phần: biệt động thành, đặc công, lực lượng nổi dậy (dân quân tự vệ, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân) từ trong đánh ra và lực lượng các đơn vị chủ lực từ ngoài đánh vào. Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo mặt trận Tây Nguyên và các đơn vị mới từ miền Bắc vào, tăng cường lực lượng, phương tiện cho khối chủ lực trên các chiến trường miền Nam, nhất là các mặt trận trọng điểm. Các đơn vị này được bố trí ven các hướng bắc, tây bắc và đông Sài Gòn, có nhiệm vụ tiến công ngăn chặn các sư đoàn quân Mỹ, quân đội Sài Gòn cơ động từ ngoại thành về ứng cứu cho quân địch ở nội thành Sài Gòn. Để các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tích cực tham gia chiến đấu, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh công tác dân vận, công tác tuyên huấn, binh vận, phát huy phong trào tất cả tập trung cho tiền tuyến. Nhờ đó, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân trên toàn chiến trường, góp phần cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi.

Đối với chiến trường Quân khu 5, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các đơn vị vừa tập trung xây dựng lực lượng, vừa chủ động phối hợp cùng nhân dân phá kìm kẹp của địch ở đô thị và các vùng ven, tạo ra thế và lực có lợi để thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên toàn địa bàn. Tính đến cuối năm 1967, Quân khu 5 có tổng 74.000 quân, trong đó 46.000 quân chủ lực, 12.000 quân lực lượng vũ trang địa phương và 7.000 quân lực lượng khác; Bộ Tổng Tham mưu đã tăng cường cho Quân khu 5 đủ 95.000 quân.
 
Đối với chiến trường Trị - Thiên, đặc biệt là mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, đây là mặt trận quan trọng, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức huy động tăng cường cho mặt trận này một số sư đoàn chủ lực với quân số khoảng 6,6 vạn (chưa kể quân số ở Quảng Bình, Vĩnh Linh), bảo đảm đủ sức nghi binh, thu hút, giam chân lực lượng chủ lực của địch, làm cho địch phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác tiêu diệt địch. Ngoài ra, Bộ Tổng Tham mưu còn điều động thêm cho Quân khu Trị - Thiên một số trung đoàn bộ binh, công binh, tàu thuyền, pháo binh, phòng không và một số tiểu đoàn xe tăng, thông tin, để tăng cường lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho các đơn vị.

Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù không phải là chiến trường trọng điểm, nhưng Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân khu 8 và 9, tích cực tuyển quân, mở rộng tổ chức biên chế, sẵn sàng bổ sung lực lượng cho các mặt trận trên chiến trường miền Nam khi có lệnh.

Những chiến trường do Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo, Bộ Tổng Tham mưu đã chủ động xây dựng hoàn thành dự thảo kế hoạch tổ chức sử dụng lực lượng với nhiều phương án. Bằng các biện pháp chỉ đạo tích cực, sâu sát, kịp thời của Bộ Tổng Tham mưu, cuối năm 1967, lực lượng vũ trang Quân giải phóng ở chiến trường miền Nam lên đến 220.000 bộ đội chủ lực, 57.000 bộ đội địa phương, các mặt trận đều được bổ sung quân số đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, sẵn sàng cơ động chiến đấu khi có lệnh.

Bốn là, chuẩn bị tốt công tác bảo đảm chính sách, hậu cần, kỹ thuật cho chiến trường miền Nam.

Đây là nội dung quan trọng, bởi làm tốt công tác bảo đảm sẽ góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu các lực lượng trên các chiến trường, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Trước hết, để bộ đội yên tâm tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các chiến trường triển khai thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội. Đồng thời, chỉ đạo cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị nghiên cứu đề xuất với Đảng, Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số chế độ, chính sách đối với quân nhân đi chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia. Trong đó, mỗi quân khu, quân chủng, binh chủng và Đoàn 559 tổ chức 1 đoàn, đội điều dưỡng làm nhiệm vụ thu dung, nuôi dưỡng và giải quyết chính sách thương binh, bệnh binh cho bộ đội. Các thương binh, bệnh binh nhẹ sau khi điều trị sẽ được giải quyết về đơn vị cũ hoặc bổ sung vào các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Số thương binh, bệnh binh nặng không còn khả năng chiến đấu thì giải quyết chính sách phù hợp theo mức độ thương tật: xuất ngũ, phục viên, chuyển ngành, hoặc chuyển vào các trung tâm điều dưỡng của Bộ Nội vụ. Những thương binh, bệnh binh quê ở chiến trường miền Nam, căn cứ vào mức độ thương tật, nếu còn sức khỏe thì Cục Quân lực có kế hoạch tiếp tục sử dụng và có nguyện vọng ở lại ngoài Bắc sẽ được Bộ Tổng Tham mưu bố trí học tập, bồi dưỡng, từng bước thay thế anh em ở cơ sở, cơ quan, đơn vị chiến đấu. Để khắc phục những khó khăn, bất cập, đáp ứng nhu cầu động viên lực lượng chiến đấu cho các chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất với Đảng, Chính phủ bổ sung, sửa đổi Luật nghĩa vụ quân sự sát với điều kiện chiến tranh. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo cơ quan chức năng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và quy định cụ thể về công tác tuyển quân đối với các địa phương, các cấp, các ngành 1. Mặc dù chiến tranh đang diễn ra trong giai đoạn ác liệt nhất, nhưng nhờ có chính sách đúng, Luật nghĩa vụ quân sự phù hợp, chúng ta đã động viên được hàng trăm cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý trình độ đại học, trung học, bổ sung cho quân đội.

Cùng với thực hiện công tác chính sách, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các chiến trường bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo chiến trường miền Bắc vận chuyển 3 vạn tấn lương thực, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam và chỉ đạo Bộ Chỉ huy Miền tổ chức 5 đoàn hậu cần, kỹ thuật khu vực, vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ cho các mặt trận. Trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Đoàn 559 mở rộng mạng đường, tăng thêm lực lượng, phương tiện, đổi mới phương pháp vận chuyển, đã đem lại hiệu quả thiết thực. Chỉ tính những tháng cuối năm 1967, tuyến vận tải chiến lược đã nhận từ miền Bắc vận chuyển vào chiến trường miền Nam một khối lượng lương thực, vũ khí lớn gấp 6 lần năm 1965. Mặt khác, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các chiến trường nghiên cứu cải thiện công tác nuôi quân, chăm lo đời sống, nâng cao sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo cấm trại 4 sư đoàn chủ lực trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường trọng điểm, tập trung chăm lo, bồi dưỡng nâng cao sức khỏe cho bộ đội, sẵn sàng bước vào chiến đấu. Hệ thống căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật trên mỗi chiến trường đều được chuẩn bị chu đáo, từ bệnh viện dã chiến đến các kho hậu cần, trạm sửa chữa kỹ thuật ở các mặt trận của chiến trường miền Nam được thành lập, sẵn sàng thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ.

Với sự chuẩn bị kế hoạch chu đáo, sát với thực tế, xây dựng và tổ chức lực lượng đáp ứng yêu cầu, Bộ Tổng Tham mưu đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và để lại nhiều bài học quý còn nguyên giá trị về vai trò chỉ đạo, điều hành của Bộ Tổng Tham mưu đối với các chiến trường trong giai đoạn chuẩn bị tác chiến.




---------------------------------------------------------------
1. Chỉ tuyển thanh niên từ 18 đến 32 tuổi (trường hợp đặc biệt có thể đến 35 tuổi, nhưng phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn), trừ các ngành giao thông vận tải, địa chất, cơ khí. Chỉ động viên giáo viên cấp 1 nếu có người thay thế.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:23:06 am
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
ĐÒN QUYẾT ĐỊNH BUỘC MỸ PHẢI XUỐNG THANG CHIẾN TRANH



PGS.TS. HÀ MINH HỒNG
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


Trong chiến tranh hiện đại, leo thang hay xuống thang là cách nói bằng hình ảnh những hành động đẩy mạnh hoặc phải kết thúc chiến tranh, trong đó thắng lợi hay thất bại về quân sự được đặt ra như một vấn đề quyết định nhất.

Vấn đề leo thang của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam

Leo thang chiến tranh là phương thức thực hiện các chiến lược quân sự của Mỹ trong chiến tranh, bằng cách từng bước tăng cường và mở rộng phạm vi, quy mô của chiến tranh, vừa thăm dò, vừa răn đe đối phương, tạo ra tình trạng chiến tranh ngày càng ác liệt, phức tạp.

Quá trình leo thang của đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam diễn ra từ sau năm 1960 và tăng tốc từ đầu năm 1965, đến cuối năm 1967 đã đạt đến những nấc thang cao nhất.

Từ cuối năm 1960, đối phó với phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam và chuyển thế chiến lược của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ áp dụng chiến lược chiến tranh đặc biệt với mục tiêu "chống nổi dậy". Thực chất của bước leo thang này là tăng nhanh thực lực quân đội Sài Gòn 1. Chính quyền Sài Gòn sẽ có quân đội đủ khả năng chiến đấu chống chiến tranh du kích, dập tắt cuộc đấu tranh của quân và dân miền Nam sau Đồng khởi.

Cùng lúc đó, đế quốc Mỹ tung các lực lượng gián điệp, biệt kích, người nhái ra miền Bắc để nắm tình hình, thực hiện phá hoại và chuẩn bị cho những bước leo thang chiến tranh trong những giai đoạn sau; cho máy bay, tàu chiến hoạt động ra ngoài vùng vĩ tuyến 20 để do thám và khiêu khích, sẵn sàng cho những bước phiêu lưu quân sự.

Đối phó với tình hình phát triển ngày càng mạnh của Quân giải phóng miền Nam và để cứu nguy cho chính quyền và quân đội Sài Gòn trong cuộc khủng hoảng toàn diện và kéo dài, từ cuối năm 1963 đến cuối năm 1964, Mỹ chuẩn bị ráo riết cho bước leo thang mở rộng chiến tranh Việt Nam 2.

Từ đầu năm 1965, bất chấp dư luận và không cần ngọn cờ Liên hợp quốc, Tổng thống Mỹ được phép đưa thực binh Mỹ vào miền Nam và chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam; đồng thời thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Đế quốc Mỹ cũng từng bước đưa quân đội các nước đồng minh (Nam Hàn, Philíppin, Thái Lan, Niu Dilân, Úc...) vào miền Nam nhằm đánh lừa dư luận và chia sẻ gánh nặng chiến tranh.

Những năm 1965-1967, thực binh Mỹ tăng nhanh từ vài chục vạn quân đến nửa triệu quân, thực hiện chiến thuật phản công tìm diệt Quân giải phóng miền Nam, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não (các căn cứ địa cách mạng) của kháng chiến ở miền Nam; đồng thời mở nhiều chiến dịch đánh phá bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, nhằm phá hoại tất cả các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, kể cả hệ thống đê điều, thủy lợi, tạo ra "thiên tai" phá hoại mùa màng và đời sống nhân dân miền Bắc; cùng lúc đó ra sức đánh phá toàn bộ hệ thống đường giao thông và tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn (Đoàn 559), đồng thời thiết lập hàng rào điện tử Mắc Namara nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người sức của từ miền Bắc vào miền Nam.

Với những bước đi như vậy, đế quốc Mỹ sẽ có khả năng leo thang cao đến đâu trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam?

Một là, Mỹ giàu và mạnh nhất thế giới (thời điểm xâm lược Việt Nam, Mỹ có 6.000.000 lục quân...) do đó việc leo thang bằng cách tăng quân và vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại, thực hiện tác chiến theo cách thức của đội quân nhà nghề kiểu Mỹ đến năm 1967 là chưa có giới hạn; đế quốc Mỹ có 34 nước và vùng lãnh thổ làm đồng minh và đồng lõa với Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, trong đó các đồng minh của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đều thống nhất với Mỹ trong việc chống "nguy cơ cộng sản" và ngăn chặn tình trạng đôminô. Như vậy, chiến lược chiến tranh leo thang của Mỹ chưa có dấu hiệu thay đổi.

Hai là, tham vọng và quyền lợi của Mỹ trong chiến lược toàn cầu tuy không cho phép Mỹ dốc toàn lực vào Việt Nam, nhưng vấn đề thắng - thua trong cuộc chiến này - nhất là về quân sự không cho phép Mỹ ngưng leo thang và càng không thể xuống thang chiến tranh; Mỹ chưa có tiền lệ xuống thang khi chiến tranh đang tiếp diễn và càng không có tiền lệ thua hoặc hòa trong truyền thống quân sự và lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ.

Ba là, cũng theo "truyền thống" để kết thúc chiến tranh, thông thường một trong các bên tham chiến thực hiện đòn đánh tiêu diệt chiến dịch lớn hoặc đánh tiêu diệt chiến dịch lực lượng quân sự, chính trị đối phương, buộc đối phương phải chịu thua về quân sự. Thực tế so sánh tương quan lực lượng Quân giải phóng miền Nam và thực binh Mỹ ở miền Nam về quân số, vũ khí trang bị, sức cơ động và tính hiện đại đều chênh lệch rất lớn; việc Quân giải phóng miền Nam đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam là điều gần như không thể. Trong khi đó đến cuối năm 1967, Tổng thống Giônxơn vẫn tin rằng Mỹ sẽ kết thúc chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam bằng một thắng lợi quân sự.

Chính trong bối cảnh đó, đế quốc Mỹ bất ngờ phải đối phó với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta vào dịp Tết Mậu Thân 1968 trên khắp miền Nam Việt Nam.

Đòn bất ngờ quyết định

Ở chiến trường miền Nam, với hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967), quân đội Mỹ vẫn không thay đổi được cục diện chiến trường và ngày càng bị sa lầy vào cuộc chiến ở Việt Nam.

Nắm bắt được tình hình tiến thoái lưỡng nan về mặt chiến lược của Mỹ và xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước , tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương chuẩn bị một đòn đánh quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt trong cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Tại Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1968), Bí thư thứ nhất Lê Duẩn khẳng định: "phải chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn đó là chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý tưởng từ lâu và đến cuối năm 1967 đầu 1968 việc chuẩn bị trực tiếp cho kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa càng khẩn trương, hối thúc. Trên toàn chiến trường miền Nam cả nông thôn và đô thị, cả khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định và chiến trường nghi binh lừa địch đều tập trung vào thực hiện cho bằng được với ý chí quyết tâm cao nhất cho giờ phút quyết định.

Thực tế Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giáng cho đối phương đòn bất ngờ về quân sự được thể hiện trên các phương diện:

- Bất ngờ về thời điểm và quy mô: tướng Oétmolen từng báo cáo trước Hội đồng phái bộ Mỹ ngày 15-1-1968 "tôi thấy khả năng là 60 đến 40% đối phương sẽ đánh trước Tết, có thể vào ngày 25-1"; tướng Davítxơn lại thấy "khả năng là 40-60% đối phương sẽ đánh sau Tết"; nhưng cuộc tổng tiến công nổ ra không phải "trước" hoặc "sau" mà đúng vào ngày Tết, ngoài dự kiến của Oétmolen và Đantxơn3. Quy mô tiến công trên toàn chiến trường kể cả trên tất cả các đô thị miền Nam, đánh vào trung tâm của 4 thành phố lớn nhất miền Nam Việt Nam và tiến công 30 tỉnh lị từ đồng bằng sông Cửu Long đến khu vực phi quân sự (DMZ). Hãng Reuters (Anh) ngày 3-2-1968 bình luận: "Quy mô và tính chất ác liệt của các trận tấn công phối hợp ở Sài Gòn và ở các trung tâm chủ chốt khác tại Nam Việt Nam làm cho Mỹ và các nước đồng minh rất đỗi ngạc nhiên".

- Bất ngờ về phương hướng và phương thức tác chiến: Mỹ bị lôi kéo tập trung ra chiến trường Khe Sanh, sa vào kế hoạch nghi binh hoàn hảo và bị đòn bất ngờ, táo bạo của Quân giải phóng ở đầu não lớn nhất là Sài Gòn; Mỹ tưởng đánh vào đô thị chỉ là đòn nghi binh để tập trung đánh ở chiến trường rừng núi hòng làm một "Điện Biên Phủ thứ 2", nhưng tại chiến trường chính là Sài Gòn, Mỹ và toàn bộ bộ máy chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam bị đánh hiểm bằng lực lượng đột kích của biệt động thành. Chính sách giáo khoa quân sự của Mỹ thú nhận: "Điều đầu tiên cần nói về cuộc tổng tiến công là tình báo của đồng minh đã thất bại ngang với trận Trân Châu Cảng năm 1941 và trận tiến công Ardennes năm 1944. Việt Nam đã giành được sự bất ngờ hoàn toàn".

- Bất ngờ về mục tiêu: Quân giải phóng đã "kéo cho được lực lượng cơ động của địch ra ngoài để tiêu diệt và đánh mạnh vào các đơn vị chủ lực lớn của địch", nhằm đúng hướng công kích chủ yếu là các thành thị, nhất là những thành thị lớn" - nơi tập trung lực lượng và bộ máy đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn...; tiến công hàng loạt và đánh phá mạnh mẽ những nơi yết hầu của địch, những cơ quan đầu não và then chốt, những Sở chỉ huy quan trọng của Mỹ... chiếm giữ hoặc phá hoại được nhiều cơ sở hậu cần, kho vũ khí, đạn dược, xăng dầu, phương tiện vận tải, lương thực, những sân bay, hải cảng, đầu mối giao thông, những trung tâm thông tin, tuyên truyền và đài phát thanh... tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và làm tê liệt sức đề kháng của chúng . Lực lượng biệt động thuộc Phân khu 6 trong ngày mồng 2 Tết Mậu Thân 1968 (lịch âm miền Nam, tức ngày 31-1-1968) tiến công 6/9 mục tiêu chủ yếu, chiến đấu rất dũng cảm, chiếm được Đài Phát thanh và Tòa Đại sứ Mỹ, giữ trong thời gian ngắn. Hãng Reuters ngày 5-2-1968 thống kê: "Mỹ có đến nửa triệu quân ở Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và đã tiêu mỗi ngày 60 triệu đôla mà vẫn không bảo vệ được một tấc vuông đất nào ở miền Nam Việt Nam cả".

Buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh

Từ cuối năm 1967, khi cuộc chiến tranh leo thang còn đang tiếp tục, nước Mỹ đã xuất hiện những dấu hiệu mới. Rõ rệt nhất là Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara - người từng khởi xướng việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam và đề xuất việc leo thang chiến tranh, nhưng sau đó lại tự nghi vấn chính sách của Mỹ và cuối cùng thì chủ trương kết thúc chiến tranh bằng thương lượng. Trước sự bi quan về triển vọng của chiến tranh Việt Nam và thất vọng về sự bất hợp tác của Tổng thống, ngày 29-2-1968 Mắc Namara từ chức Bộ trưởng Quốc phòng; Tổng thống Giônxơn nhanh chóng chấp thuận và đưa cố vấn của mình là Cờlác Cờlípphớt lên thay.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam trong đó việc đột kích vào các vị trí quan trọng của bộ máy chiến tranh tại Sài Gòn, gây bàng hoàng cho các chính giới ở Mỹ và tác động mạnh mẽ đến Quốc hội Mỹ, gây mất niềm tin sâu sắc trong dư luận nhân dân Mỹ. Ngày 20-2-1968, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ yêu cầu điều trần về chính sách của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Vịnh Bắc Bộ dẫn đến Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ làm cơ sở pháp lý cho việc leo thang chiến tranh.

Tiếp đó, Quốc hội Mỹ phản đối yêu cầu của tướng Oétmolen - Tư lệnh liên quân Mỹ ở Nam Việt Nam về tăng thêm 206.000 quân, không tin vào đường lối chiến tranh và chiến thuật tác chiến của quân đội Mỹ ở chiến trường Việt Nam. Tình hình đó dẫn đến việc Tổng thống Mỹ không thể chấp nhận tăng quân để tiếp tục leo thang chiến tranh.

Đầu tháng 3-1968, Tổng thống Giônxơn triệu hồi tướng Oétmolen từ Việt Nam về Mỹ và đưa tướng Abờram sang thay làm Chỉ huy lực lượng liên quân Mỹ tại Việt Nam.

Tổng thống Giônxơn thấy cần thiết phải có những tuyên bố về tình hình và ông triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong hai ngày nhóm họp (25 và 26-3-1968), các cố vấn cấp cao Oasinhtơn bày tỏ quan điểm về chiến lược của Mỹ ở Việt Nam và Tổng thống kết luận: "Theo như tôi hiểu... tất cả mọi người đều đề nghị rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam" .
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn quyết định đình chỉ 30 ngày mọi cuộc ném bom hoặc bắn phá lãnh thổ miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; đồng thời cử đại diện tiếp xúc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho mời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ để trấn an chế độ Sài Gòn.

Đêm chủ nhật 31-3-1968 (lúc 21 giờ), truyền hình liên bang Hoa Kỳ phát đi bài phát biểu của Tổng thống Giônxơn dài 45 phút nói về những quyết định hệ trọng bậc nhất của quốc gia cũng như của cá nhân ông, trong đó có những nội dung lớn là: Mỹ đơn phương chấm dứt ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chấm dứt thời kỳ Mỹ "tăng cường cam kết đưa các lực lượng quân Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ"; tăng nhanh việc trang bị cho quân đội Nam Việt Nam, tạo cho đội quân này khả năng phòng thủ Nam Việt Nam. Cuối cùng, ông tuyên bố: "Tôi sẽ không tìm kiếm và sẽ không chấp nhận sự đề cử của Đảng tôi ra ứng cử Tổng thống một nhiệm kỳ mới nữa".

Như vậy, quyết định đêm ngày 31-3-1968 của Tổng thống Giônxơn là biểu hiện cao nhất, rõ ràng nhất của chuỗi dài xuống thang chiến tranh của Mỹ trước tác động của đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968 với ba bước đi cụ thể:

1- Không tiếp tục tăng quân sang miền Nam, triệu hồi tướng tư lệnh chiến trường từ miền Nam về Mỹ, không tiếp tục thực hiện hoạt động tác chiến phản công "tìm diệt" ở chiến trường miền Nam... Chiến lược "chiến tranh cục bộ" coi như phá sản và phải thừa nhận trong thực tế không thể dùng lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ để thắng trong chiến tranh ở Việt Nam.

2- Ngưng ném bom miền Bắc, đáp ứng điều kiện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về nói chuyện hòa bình giải quyết chiến tranh bằng đàm phán, dẫn đến chấm dứt chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, chấp nhận thực tế không thể ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bên đàm phán kết thúc chiến tranh.

3- Phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh để chuyển giao cuộc chiến cho Việt Nam Cộng hòa, giải quyết nội tình nước Mỹ đang bị chia rẽ về chiến tranh Việt Nam và cố gắng duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Tổng thống đương nhiệm không tiếp tục ra ứng cử nhiệm kỳ mới vì không tìm thấy cách giải bài toán chiến tranh Việt Nam, như là cách chấp nhận thua cuộc.

Xuống thang chiến tranh trong khi đang tham chiến là đột phá rất khó xảy ra, nhất là khi cuộc chiến ấy đang còn nhiều khả năng leo thang với nhiều cố gắng tìm kiếm thắng lợi về quân sự; càng không thể xuống thang chiến tranh đối với đội quân tham chiến của một đế quốc lớn mạnh còn rất đông trên chiến trường, vũ khí hiện đại và sức cơ động hơn hẳn đối phương trong cuộc chiến. Vậy nên quyết định xuống thang chiến tranh của Tổng thống Giônxơn là một đột phá bất ngờ nhưng không thể khác được trước tác động của đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968; sự lựa chọn không thể khác được như thế mang bản chất một sự thất bại quân sự trong chiến tranh.

Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là đòn quân sự và chính trị đánh vào ý chí chiến tranh của Mỹ, đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các thành thị... đã giáng một đòn bất ngờ rất lớn, làm cho quân Mỹ - nguỵ hoang mang, dao động mạnh... buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự của chúng... đã kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Thực hiện đòn Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta không chỉ đạt được mục đích kéo Mỹ xuống thang chiến tranh (lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của Mỹ), mà còn có ý nghĩa làm ngã ngũ thắng - bại cuộc chiến tranh này.

Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ mùa Xuân tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, một thời kỳ mới phát triển mới đã mở ra - thời kỳ vừa đánh vừa đàm, nhằm mục tiêu giành thắng lợi quyết định, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.




-------------------------------------------------------------------
1. Đến năm 1962, quân Sài Gòn có lực lượng 354.000 quân, trong đó có gần 200.000 chủ lực trang bị hiện đại theo kiểu Mỹ, tác chiến theo "chiến thuật tân kỳ" của Mỹ. Lực lượng nòng cốt này còn có sự hỗ trợ trực tiếp của 2.630 cố vấn Mỹ, 8.280 quân thuộc lực lượng đặc nhiệm Mỹ, 257 máy bay chiến đấu, 364 xe thiết giáp...

2. Gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ để thúc đẩy Quốc hội Mỹ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ; thực hiện "trả đũa" đối với các hoạt động quân sự của Quân giải phóng ở miền Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:28:21 am
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
THẤT BẠI CỦA MỸ VÀ BƯỚC CHUYỂN CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM



Đại tá, TS. LÊ HỒNG ĐIỆP
Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7


Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng địch - ta và nhận thấy thế "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược của Mỹ khi thời điểm vận động tranh cử Tổng thống Mỹ đang đến gần, cuối năm 1967, Bộ Chính trị quyết định phải tạo một bước nhảy vọt thông qua chọn hướng chiến lược hiểm, dùng cách đánh mới, giáng một đòn bất ngờ, thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Thực hiện chủ trương của Đảng, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân ta đã đồng loạt mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào hầu hết các thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn và các căn cứ quân sự, hậu cần, Sở chỉ huy lớn của địch trên toàn miền Nam. Đây là cuộc ra quân với quy mô lớn, toàn diện và có khí thế cách mạng cao nhất kể từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến lúc bấy giờ và cũng là lần đầu tiên ta tiến công táo bạo, bất ngờ vào sào huyệt của kẻ thù. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã tác động nhiều mặt đến nước Mỹ.

Thứ nhất, nó đã làm lung lay ý chí xâm lược, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.

Đòn Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một chiến thắng lịch sử có tác động mạnh mẽ đến cục diện chung của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ tại Việt Nam. Đây là một bất ngờ lớn làm Mỹ choáng váng. Sau sự kiện Mậu Thân 1968, ngày 1-3-1968, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara, một trong những kiến trúc sư của chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam phải từ chức vì không tìm thấy lối ra cho cuộc chiến. Ngày 25-3-1968, Tổng thống Mỹ triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia để xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá tình hình và xu hướng của cuộc chiến ở chiến trường miền Nam, cũng như tại chính trường nước Mỹ, Tổng thống Giônxơn phải đi đến những quyết định:

- Ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra và tìm giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh.
- Từ bỏ chiến lược "tìm và diệt" thay bằng chiến lược "quét và giữ".
- Từng bước thực hiện "phi Mỹ hóa chiến tranh", giảm dần sự dính líu trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Như vậy, thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chuyển sang chiến lược phòng ngự và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Thứ hai, làm rúng động xã hội Mỹ, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới.

Đòn Tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 như một "quả bom" nổ giữa chính trường nước Mỹ, đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ, khiến cho chính quyền Mỹ choáng váng. Qua sự kiện Tết Mậu Thân, công chúng Mỹ nhận thấy mình đang bị Chính phủ lừa dối. Do đó, phong trào phản đối chiến tranh ngày càng lên cao. Nhiều người trong chính giới Mỹ cũng bắt đầu đề nghị xem xét lại chính sách của Mỹ với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 27-2-1968, Crokite, phóng viên của Hãng truyền hình CBS Mỹ đến Sài Gòn tận mắt xem xét tình hình đã bình luận: "Giờ đây, có lẽ điều chắc chắn hơn bao giờ hết là cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam sẽ đi vào bế tắc" và nói thêm rằng "chỉ còn một cách để người Mỹ thoát khỏi vũng lầy là thương lượng với Hà Nội" . Quan trọng hơn, Tết Mậu Thân đã tác động mạnh vào nội tình nước Mỹ, tạo nên bước ngoặt trong chính sách của chính quyền Mỹ đối với cuộc chiến tranh. Trước khi sự kiện Tết Mậu Thân xảy ra, có lẽ chưa bao giờ người dân nước Mỹ được chứng kiến cảnh "Việt cộng" tiến công đồng loạt vào hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Đúng như nhận định của Mắcxoen Taylo, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Giônxơn trong cuốn Hồi ký Thanh gươm và lưỡi cày xuất bản năm 1972: "Ngày 31-1-1968, quân địch (tức Quân giải phóng) tiến công và chỉ trong vòng 2 ngày họ đã tiến vào 5 đô thị lớn, 39 tỉnh lỵ và nhiều thành phố. Những trận tiến công của họ đã được báo chí Mỹ tường thuật dưới dạng những hàng tít lớn, được chiếu trên các màn ảnh vô tuyến truyền hình và đã làm cho phần lớn dân chúng Mỹ và một số quan chức kinh hoàng. Phải rất lâu họ mới hoàn hồn và trong một số trường hợp sự hoàn hồn đó mãi mãi không bao giờ được khôi phục lại hoàn toàn" .

Quả vậy, nhờ có sự kiện "Tết", qua phương tiện thông tin đại chúng, nhất là truyền hình, lần đầu tiên, những hình ảnh tàn phá, chết chóc của chiến tranh đã len lỏi vào hàng triệu gia đình người Mỹ. Đặc biệt, với việc "Việt cộng" tiến công Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đã gây một chấn động lớn làm thay đổi hoàn toàn nhận thức của người dân Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Nếu trước đó, họ còn tin vào những thông báo lạc quan, thì nay, với những gì được nhìn thấy trên truyền hình, họ cho rằng "Việt cộng mạnh hơn nhiều" so với những tuyên bố trước đây của Tổng thống Giônxơn và tướng Oétmolen, Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, người dân và không ít chính giới Mỹ đặt ra hàng loạt câu hỏi: Sự tàn phá, chết chóc do bom đạn Mỹ gây ra ở Việt Nam nhằm đạt mục đích gì? Chồng con họ hy sinh và tàn phế có phải vì lợi ích chính đáng của nước Mỹ không? Thái độ chung của người Mỹ đều cho rằng: "Tham gia vào công việc ở Việt Nam là một sai lầm". Lòng tin của quần chúng đối với Tổng thống đương nhiệm bị giảm sút mạnh.

Trước thực tế đó, Quốc hội Mỹ phải xem xét lại toàn bộ chính sách và chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Dư luận Mỹ và phần lớn nghị sĩ Quốc hội, quan chức cao cấp trong chính quyền và giới tài phiệt nhận thức rõ: Mỹ không thể giành chiến thắng ở miền Nam; Mỹ cũng không giành lại quyền chủ động trên chiến trường cho dù tăng quân và tiền của.

Không chỉ tác động vào chính trường nước Mỹ, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân còn tác động mạnh mẽ vào dư luận quốc tế. Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ, giúp đỡ mạnh mẽ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao. Bạn bè quốc tế tiếp xúc với cán bộ Việt Nam đều khen ngợi, cảm phục. Sức ép quốc tế đòi Mỹ xuống thang tăng mạnh. Lãnh đạo nhiều nước như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Thụy Điển,... cùng nhiều nhân vật quốc tế, trong đó có Tổng thư ký Liên hợp quốc U Than đều đồng loạt lên tiếng yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom, thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân 1968 có tác động sâu sắc và toàn diện vào nội tình nước Mỹ. Nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, chính giới phân hóa, tiếng nói của phái chủ hòa trong Quốc hội và chính quyền ngày càng mạnh mẽ, sức ép quốc tế cũng tăng. Chính quyền Giônxơn lâm vào thế bị bao vây và khủng hoảng trầm trọng. Nhân dân thế giới hướng về Việt Nam với tinh thần mến phục và đẩy mạnh phong trào phản đối chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Thứ ba, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước và cách mạng của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy chiến tranh du kích phát triển mạnh ở miền Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 với trọng điểm Sài Gòn là thắng lợi to lớn cả về chính trị lẫn quân sự. Việc các đội biệt động Quân giải phóng đánh vào những trọng điểm, đặc biệt là Đại sứ quán Mỹ đã làm cho chính quyền Mỹ hết sức choáng váng, nhụt ý chí xâm lược và phải nghĩ đến những biện pháp kết thúc cuộc chiến. Với nhân dân Sài Gòn và các đô thị khác ở Nam Bộ, Mậu Thân đã giúp những người bấy lâu bị khống chế tin tức và sự xuyên tạc của địch, được tận mắt nhìn thấy những chiến sĩ Quân giải phóng bằng xương bằng thịt, với rất nhiều thiện cảm và ấn tượng tốt đẹp. Họ cũng đã nhận rõ âm mưu xuyên tạc của các cơ quan tuyên truyền, chiến tranh tâm lý của địch về người chiến sĩ cách mạng. Xét về khía cạnh này, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là bằng chứng chân thực, sống động nhất khiến cho quần chúng thành thị cùng các tầng lớp nhân dân nhiều địa phương toàn Miền hiểu rõ hơn mục đích cách mạng dưới ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Với lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chiến tranh du kích ở miền Nam đã phát triển lên một tầm cao mới.

Đánh giá về vấn đề này, Bộ Chỉ huy Miền khẳng định: trong năm 1969, chiến tranh du kích ở miền Nam "hoạt động mạnh mẽ, đều khắp, đánh trúng, đánh sâu vào sào huyệt của địch; giữ thế trận liên tục tiến công ở thành thị và các vùng gần thành thị, làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh chính trị, diệt ác, phá kìm, bước đầu làm thất bại âm mưu "bình định cấp tốc"; vận dụng nhiều cách đánh sáng tạo có hiệu suất chiến đấu cao".

 Quả vậy, sau sự kiện Mậu Thân 1968, chiến tranh du kích ở miền Nam liên tiếp mở trên 10 đợt tiến công đồng loạt. Du kích tiến công từng đợt trên phạm vi rộng lớn gồm nhiều tỉnh, thành phố. Đó là điều kiện khiến địch bị phân tán, dễ lộ chỗ yếu. Du kích đồng thời đánh bất ngờ vào hầu hết các thành thị, thị trấn, cơ quan hành chính, Sở chỉ huy quân sự, kho tàng, đường giao thông của địch. Hiệu quả tiến công của du kích cao hơn lúc nào hết. Từ tháng 6 đến tháng 11-1969 chiến tranh du kích đã tiêu diệt 80.000 quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân các nước đồng minh.

Ở Sài Gòn, du kích hoạt động khắp 8 quận nội thành. Du kích đánh vào các sân bay, bến cảng, kho tàng... Đó là các đòn đánh rất hiểm vào sâu trong lòng địch. So với năm 1968 thì năm 1969 số trận tiến công, mức tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh địch của chiến tranh du kích ở các thành thị tăng gấp 3 lần và tăng gấp 5 lần ở Mỹ Tho, Cần Thơ, Bến Tre cùng các thị xã, thị trấn khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ tính trong 3 tháng (8, 9, 10 - 1969), ở thành phố Cần Thơ, du kích mở 30 trận tiến công, diệt 750 tên địch.

Thứ tư, mở ra cục diện mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, làm suy yếu địch, tạo thế và lực cho ta trong quá trình đấu tranh đi đến thắng lợi cuối cùng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã mở ra cục diện mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, trong đó chiến trường Nam Bộ là một trọng điểm lớn. Đối với địch, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, nhất là trong đợt Tết Nguyên đán đã đánh cho chúng những đòn bất ngờ và gây cho chúng những tổn thất lớn về sinh lực và vật lực. Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Sài Gòn thú nhận, trong 2 tháng (tháng 2 và 3 - 1968), quân đội Sài Gòn bị tổn thất 20.977 quân (trong đó chết là 4.954), quân Mỹ và đồng minh tổn thất 24.013 quân (trong đó chết là 4.124).

Không chỉ gây tổn thất lớn cho địch, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 còn tạo thế và lực mới cho các lực lượng vũ trang nhân dân càng đánh càng mạnh, chất lượng, hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Điển hình là Chiến dịch Tây Ninh (từ ngày 17-8 đến 21-9-1968). Trên một địa bàn tương đối hẹp, với một lực lượng có hạn, Quân giải phóng miền Nam đã tiêu diệt hơn 14.000 tên địch (trong đó có 10.000 lính Mỹ, tương đương với số địch bị diệt trong cuộc hành quân Gianxơnxiti), phá hủy 1.355 xe quân sự; bắn rơi 85 máy bay; bắn chìm 19 xuồng chiến đấu. "Riêng ở Tây Ninh, bình quân mỗi ngày trong hơn một tháng, ta diệt 400 tên địch, 40 xe quân sự, 4 đại bác và súng cối hạng nặng, 2 máy bay; cứ 2 ngày ta diệt 1 tiểu đoàn địch".

 Thắng lợi trên chiến trường tạo nên thế và lực mới cho cách mạng miền Nam: ta có thế tiến công toàn diện, liên tục, đồng loạt trên các chiến trường; có thế phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân, ba mũi giáp công, trên cả ba vùng. Quan trọng hơn là sau Tết Mậu Thân 1968, ta đã củng cố được niềm tin tất thắng trong lòng dân. Đồng thời, ta tạo ra thế của mặt trận chống Mỹ, cứu nước với sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa và của nhân dân thế giới ngày càng mạnh mẽ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã thu được những thắng lợi to lớn và căn bản trên tất cả các mặt chính trị, quân sự và ngoại giao. Trên cơ sở thế và lực mới, quân dân miền Nam tiếp tục chiến đấu, vượt qua mọi gian khổ, ác liệt, hy sinh tạo ra những điều kiện và thời cơ mới. Thực tế chiến trường đã chứng minh rằng, chỉ một thời gian ngắn sau đó ta đã tạo được thế trận chủ động, giáng đòn liên tiếp gây nhiều thất bại cho địch trong mùa khô 1971-1972 và sau đó tháng l-1973 buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, chấp nhận thất bại, rút quân Mỹ về nước, đúng như Thượng tướng Trần Văn Trà đã khẳng định: "Không có Tết Mậu Thân thì không có ngày 30-4-1975".

Âm hưởng thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân vẫn vang vọng mãi, là niềm tự hào về sự sáng tạo độc đáo trong cuộc chiến tranh nhân dân thời đại Hồ Chí Minh. Kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại một sự kiện lớn đánh dấu một mốc son trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc. Đó cũng là dịp để chúng ta giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và phát huy tinh thần tiến công cách mạng trong mỗi con người, từng việc làm cụ thể, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:33:34 am
CÁCH ĐÁNH ĐỘC ĐÁO, SÁNG TẠO
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, ThS. PHẠM ANH TUẤN
Trưởng ban Sau đại học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một chiến công rất oanh liệt và có vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta‏.‏ Đây là một thắng lợi đã tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Thành công lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự của ta trong Tết Mậu Thân 1968 là đã tìm ra và thực hiện thành công cách đánh mới, một cách đánh độc đáo, sáng tạo vượt ra ngoài dự đoán và mọi sự tính toán trước đó của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, vượt lên mọi tư duy quân sự đơn thuần.
 
Trong lịch sử dân tộc ta đã có những cuộc tiến công lớn, những trận quyết chiến chiến lược chống giặc ngoại xâm, dưới tài thao lược của những người lãnh đạo kiệt xuất, nhân dân ta đã vượt qua mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Kể từ khi Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân ta đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng cuối năm 938, chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, đến trước cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mở đầu năm 1858, trong hơn 9 thế kỷ, dân tộc ta tiến hành 7 cuộc kháng chiến thắng lợi 1. Tùy theo so sánh lực lượng và hoàn cảnh cụ thể của mỗi cuộc kháng chiến, tổ tiên ta đều có nghệ thuật đánh giặc đặc sắc, tìm ra cách đánh độc đáo, sáng tạo thể hiện trong các trận quyết chiến chiến lược giành thắng lợi kết thúc chiến tranh.

Cách đánh mới trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là sự kế thừa, là bước tiếp nối đầy sáng tạo truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", đồng thời leo thang phá hoại miền Bắc. Trước những diễn biến mới, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (tháng 12-1965) đã phân tích và khẳng định sức mạnh của Mỹ không phải là vô hạn. Ta có thể hạn chế những chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của Mỹ để giành thắng lợi. Trên cơ sở đánh giá đúng cả mặt mạnh và mặt yếu của địch, thế và lực của ta, Ðảng ta chỉ rõ: Cần tiếp tục giữ vững và phát huy thế chiến lược tiến công, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, trong đó đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp, để đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp tục tiến lên.

Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Bộ Chính trị cho rằng Mỹ đang thất bại lớn, dù chúng có tăng quân cũng không thể khắc phục được, vì nội bộ mâu thuẫn sâu sắc và đang bị cô lập. Tuy nhiên, Mỹ còn rất ngoan cố, đang cố gắng tăng cường lực lượng để ổn định tình hình quân sự, chính trị ở Nam Việt Nam. Để đưa cách mạng miền Nam có bước phát triển nhảy vọt, đánh mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra bước ngoặt căn bản, Bộ Chính trị quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 14 đã thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa (sau này là tổng tiến công và nổi dậy) để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Cũng trong thời gian này, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế; hướng phối hợp quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn . Đánh thẳng vào các cơ quan đầu não quan trọng nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở nhiều thành phố, thị xã, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nhân dân để đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ thể hiện bước phát triển mới về cách đánh của ta.

Để chuẩn bị cho Tết Mậu Thân và thực hiện cách đánh mới, từ năm 1965 ta đã triển khai nhiều biện pháp, tiến hành mọi công tác chuẩn bị. Tính đến cuối năm 1967, ta đã thiết lập được 19 "lõm chính trị" ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch gồm: 325 gia đình cơ sở, 400 điểm ém quân, 12 kho vũ khí; thiết lập đường dây liên lạc và chuyển vũ khí vào gần các mục tiêu tiến công, sẵn sàng đón và đáp ứng thời cơ chiến lược. Ðây là thắng lợi lớn của phương châm đánh địch trên ba vùng chiến lược, là một trong những cơ sở quan trọng để Ðảng ta hạ quyết tâm đưa chiến tranh vào đô thị, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Thực hiện kế hoạch đã định, ngày 20-1-1968, ta mở màn chiến dịch Ðường 9 - Khe Sanh nhằm đánh lạc hướng, thu hút một bộ phận đáng kể quân cơ động của Mỹ; vây hãm, giam chân và tiêu hao chúng, tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy. Cùng thời điểm này, trên chiến trường nước bạn Lào, từ ngày 12 đến ngày 27 -1-1968, quân đội Pathét Lào và Quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch Nậm Bạc. Chiến thắng này là sự phối hợp nhịp nhàng với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Ðêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, gồm 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn địch, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của chúng. Trong đó, có những trận đánh gây chấn động lớn như trận đánh vào Dinh Ðộc lập, Bộ Tổng Tham mưu, Ðài Phát thanh Sài Gòn và Tòa Ðại sứ Mỹ và đặc biệt ta đã làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm. Tờ Thời báo Mỹ số ra ngày 9 -2-1968 gọi đây "chắc chắn là một hành động bất ngờ thần thánh, một lực lượng địch tản mát và không ai thấy được, bị săn đuổi khắp nơi, không lúc nào ngừng, bỗng dưng xuất hiện và đồng loạt tiến công ở hàng trăm trận địa trên khắp nước" .

Thành công lớn trong Tết Mậu Thân của ta là tìm ra cách đánh mới và giữ được bí mật cách đánh về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, không thể phán đoán nổi. Chỉ trong 24 tiếng đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của kẻ địch, tất cả thành phố, tỉnh lỵ đều bị đồng loạt tiến công, kể cả các vị trí trọng yếu như Bộ Tổng Tham mưu đến Biệt khu Thủ đô, từ Dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn đến Toà Đại sứ Mỹ. Đây là một cách đánh rất độc đáo, ta không chỉ tiến công tuần tự từ ngoài vào trong mà kết hợp từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, dưới nhiều hình thức (quân sự, chính trị, binh vận), bằng nhiều lực lượng (chủ lực, đặc công, biệt động, lực lượng tại chỗ...), kết hợp giữa tiến công và nổi dậy đồng loạt, rộng khắp trên toàn chiến trường miền Nam. Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1968-1972) nhận định: Cách đánh của Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị trong chiến tranh từ trước đến nay mà lực lượng ta dùng là lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, trong nước và ngoài nước. Cách đánh trong Tết Mậu Thân 1968 rất sáng tạo, trước hết là xác định về hướng tiến công chủ yếu, mục tiêu tiến công chủ yếu, ta nhằm vào các đô thị ở miền Nam. Đây là đòn tiến công bất ngờ lớn, khiến cho quân địch không kịp trở tay, làm cho giới lãnh đạo Mỹ phải sững sờ, choáng váng. Đòn tiến công của ta đã nhằm trúng vào các mục tiêu yết hầu, huyết mạch của địch, bao gồm các cơ quan đầu não trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn, các Sở chỉ huy, sân bay, bến cảng, kho tàng, căn cứ truyền tin, đầu mối giao thông, đặc biệt là đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam. Địch vẫn cho rằng bộ đội ta ít kinh nghiệm đánh thành phố và chưa có khả năng đánh vào các trung tâm đầu não của chúng. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm kháng chiến, ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị, biến hậu phương và hậu cứ địch thành chiến trường của ta. Còn Rôbớt Kennơđi - Thượng nghị sĩ Mỹ đã phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công.

Chọn thời điểm tiến công vào dịp Tết Nguyên đán - đúng đêm giao thừa, lúc mà địch dễ bộc lộ sơ hở, chủ quan và lơi lỏng nhất, các đơn vị quân đội Sài Gòn chỉ còn một nửa quân số thực hiện nhiệm vụ, khiến cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn vô cùng lúng túng trong việc ứng phó. Đồng thời, bước vào năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, năm mà tình hình nước Mỹ rất nhạy cảm về chính trị. Vào thời điểm này, Mỹ đã qua 8 năm trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Chúng cũng đã từng mở hai cuộc phản cộng chiến lược lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 nhưng không đạt được kết quả gì đáng kể, trái lại chúng còn bị quân và dân miền Nam đánh cho thiệt hại nặng nề và thất bại hoàn toàn trong mục tiêu chiến lược "bẻ gãy xương sống Việt Cộng". Leo thang đánh phá miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng không xoay chuyển được tình thế. Tính đến tháng 12-1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, 30% lực lượng không quân chiến thuật, 1/3 lực lượng hải quân, đã sử dụng hết lực lượng dự trữ dành cho một cuộc "chiến tranh cục bộ". Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu của Mỹ. Đế quốc Mỹ đang trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan". Về phía ta, đây là lúc các lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó và ta đang nắm quyền chủ động trên chiến trường. Từ những phân tích đánh giá trên, Đảng ta đã khẳng định: "chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn", tình hình đó cho phép chúng ta "có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định".

 Tết Mậu Thân 1968 giành được thắng lợi rất to lớn, đã trực tiếp đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt chiến lược quan trọng nhất của cuộc chiến tranh làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ. Nó đã làm cho Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, từ tiến công "tìm và diệt" qua phòng ngự "quét và giữ" để xuống thang chiến tranh, chuyển sang "phi Mỹ hóa" rồi "Việt Nam hóa chiến tranh" dần dần rút quân Mỹ về nước, ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra đến chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari và tiến tới kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào ngày 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

 Cách đánh độc đáo, sáng tạo trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng, đó là truyền thống dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng những kẻ thù lớn mạnh. Đó là truyền thống lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Cách đánh trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới, trong điều kiện mới truyền thống đánh giặc giữ nước và nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam.
 



-----------------------------------------------------------------
1. Đó là các cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 980-981 và năm 1075-1077, chống quân Mông Cổ năm 1258, quân Nguyên năm 1285 và năm 1287-1288, chống quân Xiêm năm 1784-1785, chống quân Thanh năm 1788-1789.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:39:02 am
NƯỚC MỸ THẬP NIÊN 60 THẾ KỶ XX VÀ CUỘC CHIẾN TRANH Ở VIỆT NAM



PGS.TS. TRẦN THIỆN THANH
Phó Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội


Nhìn tổng thể, trong thập niên 60 của thế kỷ XX, chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi "mục tiêu mang tính bá quyền về một hệ thống thế giới hội nhập đơn nhất"  do Mỹ chi phối, được Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ thông qua vào đầu năm 1950. Nếu cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), chính sách tái vũ trang Tây Đức của Mỹ (1950-1954)... là những minh chứng rõ ràng của sự thực thi chính sách này trong thập niên 50, thì cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ ở Việt Nam là điển hình cho chính sách nhất quán mà Mỹ thực hiện xuyên suốt hai thập niên 50 và 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 và tác động của sự kiện này đối với tình hình nước Mỹ cũng như thay đổi trong tương quan lực lượng giữa Mỹ và các lực lượng cạnh tranh với Mỹ đã làm thay đổi căn bản sự lựa chọn chính sách đối ngoại của Mỹ vào cuối những năm 60.

1. Sự suy giảm tương đối địa vị kinh tế, quân sự; những bất ổn về chính trị, xã hội trong nước và các thất bại trên chiến trường miền Nam Việt Nam - Tác nhân quan trọng dẫn đến sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ từ "chiến tranh đặc biệt" (1961-1965) sang "chiến tranh cục bộ" (1965-1968)

Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trên cơ sở những điều kiện thuận lợi về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, thế mạnh về khoa học - kỹ thuật cũng như ưu thế mà nước Mỹ đã xác lập từ giai đoạn "đỉnh cao" trong những năm đầu hậu Chiến tranh thế giới thứ hai..., nền kinh tế Mỹ tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Trong những năm 1961-1965, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm của Mỹ là 5%, GDP trung bình hằng năm (tính theo giá trị hiện hành của đồng USD trong giai đoạn 1961-1965) đạt mức 647,3 tỷ USD, GDP theo đầu người trung bình hằng năm là 3.417,26 USD.

Tuy nhiên, so với những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong nửa đầu thập niên 60, ưu thế kinh tế, tài chính của Mỹ trong thế giới tư bản bị giảm sút với các biểu hiện: 1- Nhịp độ phát triển kinh tế của Mỹ so với Tây Âu và Nhật Bản bắt đầu chậm hơn, tỷ trọng công nghiệp giảm sút. Tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình hằng năm trong những năm 1961-1965 cao hơn Anh, thấp hơn Pháp và chỉ xấp xỉ bằng 1/2 so với Nhật Bản. Tỷ lệ tăng trưởng hằng năm về sản lượng nội địa gộp (PIB theo khối lượng) của Mỹ trong những năm 1960-1970 là 3,8%, cũng chỉ cao hơn Anh (2,8%), trong khi thấp hơn Cộng hòa Liên bang Đức (4,7%), Pháp (5,6%) và Nhật Bản (11,2%) . 2- Tỷ giá của đồng USD bị suy yếu nghiêm trọng với tốc độ mất giá hằng năm trong giai đoạn 1960-1969 là 2,2% .

Trong khi đó, trải qua 1,5 thập kỷ kể từ năm 1950, mặc dù còn có những sai lầm và thiếu sót trong việc đề ra và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân cũng như tình trạng phát triển thiếu cân đối giữa các lĩnh vực kinh tế, nhưng Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành quốc gia công nghiệp hùng mạnh. Với vị trí là nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất, hùng mạnh nhất, Liên Xô đã giúp đỡ tích cực và to lớn về vật chất và tinh thần cho các nước xã hội chủ nghĩa cũng như cho phong trào cách mạng thế giới.

Với sự tham gia tích cực của Liên Xô, sự mở rộng thành phần, gia tăng số nước tham gia với tư cách quan sát viên và thông qua Điều lệ năm 1959, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tiếp tục củng cố và hoàn thiện sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, phát triển sự liên hiệp quốc tế xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ về kỹ thuật, góp phần giảm sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên. Trong những năm 1951-1973, sản lượng công nghiệp của khối SEV so với toàn thế giới tăng từ 18% lên 33%, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm là khoảng 10%. Cùng với đó, những hoạt động của Tổ chức hiệp ước Vácsava 1 đã dẫn tới sự đối đầu về quân sự với Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) - một công cụ của chính sách mở rộng ảnh hưởng của Mỹ. Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã dần tạo nên thế cân bằng chiến lược về sức mạnh quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Sự phát triển của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và dân chủ cũng đặt ra những trở ngại trên con đường thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ. Ra đời từ phong trào phi thực dân hóa mạnh mẽ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đến những năm 60, các quốc gia độc lập non trẻ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh tiếp tục gia tăng về số lượng và phát triển mạnh mẽ ý thức liên kết đấu tranh. Biểu hiện tập trung là sự hình thành Phong trào Không liên kết vào tháng 9-1961. Chỉ trong vòng chưa đầy một thập niên, số thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết đã tăng từ 25 (Hội nghị Bengrát tháng 9-1961) lên 47 (Hội nghị Cairo 1964). Sự phát triển của Phong trào này trong đời sống chính trị thế giới đã hình thành nên "thế giới thứ ba" và trở thành lực lượng chính trị quan trọng mới nổi lên sau chiến tranh. Tỷ trọng tương ứng của "ba thế giới" tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa và "thế giới thứ ba" trong sản xuất công nghiệp và thương mại thế giới năm 1963 lần lượt là 62% (trong đó Mỹ 32%), 29% (trong đó Liên Xô 19%) và 9% (số liệu về công nghiệp); 63% (trong đó Mỹ 11%), 12% (trong đó Liên Xô 5%) và 25% (số liệu về thương mại).

Có thể nói, sự lớn mạnh của Liên Xô, thay đổi về tương quan sức mạnh quân sự giữa hai khối nước và vai trò ngày càng tăng của "thế giới thứ ba", trong đó có Cuba (chỉ cách Mỹ 144 km tính từ Phloriđa) đang tiến lên theo đường hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra thách thức đối với Mỹ và chi phối chính sách đối ngoại của nước này theo hướng thúc đẩy nhu cầu thắt chặt mối quan hệ với các đồng minh có ý nghĩa chiến lược ở từng khu vực và tiếp tục thành lập các khối quân sự, liên minh quân sự nhằm hỗ trợ cho khối NATO, bao vây Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn sự phát triển của phong trào phi thực dân hóa tại các thuộc địa, lãnh thổ phụ thuộc của Mỹ. Những diễn tiến này cộng với tác động của sự kiện Trung Quốc thử quả bom hạt nhân đầu tiên tháng 10-1964 và phóng thử tên lửa đất đối đất mang đầu đạn hạt nhân có thể tới bất kỳ mục tiêu nào ở Đông Á vào hai năm sau đó, đã đưa Trung Quốc - nước có diện tích lớn hơn châu Đại Dương và gần bằng châu Âu, với kho vũ khí hạt nhân của mình thành tác nhân quan trọng đối với Hoa Kỳ trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược ở miền Nam Việt Nam, nhất là trong bối cảnh sức mạnh quân sự của Mỹ cũng giảm sút.

Diễn tiến của cuộc chiến tranh Việt Nam là một trong những bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy rõ sức mạnh quân sự của Mỹ đã phải lùi bước trước lòng yêu nước và sức mạnh của quân và dân Việt Nam. Liên minh "chống cộng" mà Mỹ xác lập với chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm trong những năm 1956-1960, cùng với đó là việc thực thi những biện pháp để gạt hẳn mọi ảnh hưởng còn lại của Pháp, củng cố thế lực của Mỹ và xây dựng chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam với những khoản chi khổng lồ cho đào luyện bộ máy, viện trợ ồ ạt về kinh tế, quân sự... một mặt khiến Mỹ dần nắm vai trò chủ đạo trong việc quyết định từ đường lối, chính sách đến các hoạt động cụ thể của chính quyền miền Nam và biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, mặt khác đã gây nên tình trạng bất ổn định sâu sắc ở miền Nam. Nhân dân miền Nam đã phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt mà đỉnh cao là phong trào Đồng khởi năm 1960. Trong cao trào Đồng khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (20-12-1960) đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Từ đây, phong trào cách mạng miền Nam có sự chuyển biến mới, từ đấu tranh chính trị chuyển sang đấu tranh vũ trang. Đồng thời báo hiệu thời kỳ Mỹ nhúng sâu hơn vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" - một sự cụ thể hóa điển hình của chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" và sự gia tăng viện trợ, cố vấn Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa trong những năm 1961-1965 đã thúc đẩy quân lực Nam Việt Nam phát triển nhanh chóng, gây không ít khó khăn cho lực lượng cách mạng miền Nam, nhưng trên thực tế, Mỹ đã không thực hiện được mục tiêu đánh bại phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam. Những thắng lợi của Quân giải phóng miền Nam trong trận Ấp Bắc (2-1-1963), chiến dịch Bình Giã (tháng 12-1964) từng bước đập tan hệ thống "ấp chiến lược" - biện pháp xương sống của Mỹ để ly khai lực lượng cách mạng với dân chúng. Sự sa lầy trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt" khiến chính quyền Kennơđi bắt đầu nhận lấy những chỉ trích và phản đối rằng cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam là phi nghĩa, bôi nhọ danh dự nước Mỹ. Sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền ở miền Nam Việt Nam ngày 11-6-1963 đã gây chấn động dư luận thế giới cũng như tạo ra phong trào phản đối sự lộng hành "gia đình trị" của Chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính sách "Chìm hoặc bơi cùng Ngô Đình Diệm"  của Mỹ bắt đầu thay đổi. Mỹ đã loại bỏ Diệm vào tháng 11-1963.

Trước các thất bại liên tiếp trên chiến trường và tình hình chính trị rối loạn tại miền Nam Việt Nam với hơn 10 cuộc đảo chính, thanh trừng lẫn nhau (từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965), Chính phủ Mỹ quyết định hủy bỏ kế hoạch Xtalây - Taylo và đưa quân đội sang trực tiếp tham chiến để giữ miền Nam khỏi rơi vào tay "cộng sản". Chiến lược "chiến tranh cục bộ" được tiến hành bằng lực lượng quân viễn chinh Mỹ, quân của một số nước thân Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và quân của chính quyền Sài Gòn. Khác với chiến lược "chiến tranh đặc biệt", lần này quân Mỹ giữ vai trò chủ lực và không ngừng tăng về số lượng và trang bị. "Những khoản chi phí trực tiếp cho chiến tranh cũng tăng lên hàng chục lần. Năm 1965 là 4,6 tỷ đôla. Năm 1966: 25 tỷ" . Năm 1967, năm mà Mỹ thực hiện bước leo thang cao nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, cũng là năm số binh lính Mỹ hoạt động ở nước ngoài đạt đỉnh cao với 1.228.538 người (chiếm 36% tổng lực lượng đang hoạt động). Trong đó, hơn 450.000 quân tham chiến ở Việt Nam. Năm 1968, trên chiến trường miền Nam có sự hiện diện của 537.377 quân Mỹ - chiếm gần 45% trong tổng số lính Mỹ đang hoạt động ở nước ngoài vào thời điểm đó. Đây cũng là lực lượng quân sự lớn nhất được triển khai ở nước ngoài không chỉ của Mỹ mà còn của bất kỳ quốc gia nào kể từ năm 1957 (và cho tới năm 2016).




---------------------------------------------------------------
1. Ngày 14-5-1955, các nước Anbani (rút khỏi tổ chức Vácsava năm 1961), Ba Lan, Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hunggari, Liên Xô, Rumani và Tiệp Khắc họp tại Vácsava thỏa thuận ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ. Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 5-6-1955 với thời hạn 20 năm (có thể gia hạn), đánh dấu sự ra đời của Tổ chức hiệp ước Vácsava (mang tính chất là một liên minh phòng thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu) nhằm duy trì hòa bình, an ninh của châu Âu, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 10:41:31 am
2. Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 cùng yêu cầu cấp thiết phải quay về củng cố kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và nắm lại đồng minh, tiếp tục kiềm chế Liên Xô - những nhân tố quyết định sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Mỹ: Học thuyết Níchxơn và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh"

Mặc dù đã leo lên mức thang cao nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng đến cuối năm 1967, Mỹ vẫn không thể đảo ngược được thế trận ở miền Nam. Mục tiêu giành thắng lợi quyết định trên chiến trường trong thời gian ngắn khi tiến hành cuộc tiến công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) và lần thứ hai (1966-1967) của Mỹ không những thất bại mà còn khiến Mỹ phải đối diện với nguy cơ của một "Điện Biên Phủ" tại Khe Sanh trong năm 1967. Cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc cũng không đạt được kết quả như mong đợi là chặn đường tiếp viện từ các nước vào Việt Nam, ngăn miền Bắc chi viện cho miền Nam và hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc. Ngược lại, Mỹ bị thiệt hại nặng nề với hàng nghìn máy bay các loại bị quân và dân miền Bắc bắn rơi, nhiều phi công bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống.

Trong khi đó, tại nước Mỹ, nửa cuối thập niên 60 của thế kỷ XX nổi lên và tiếp diễn nhiều vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa nổi cộm. Hai mục tiêu cơ bản trong chính sách đối nội mà chính quyền Tổng thống L. Giônxơn tiếp tục theo đuổi (từ thời Tổng thống G. Kennơđi) gồm duy trì sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính quyền liên bang trong "cuộc chiến chống đói nghèo".

Với mục tiêu thứ nhất, Mỹ tiếp tục duy trì vị thế nền kinh tế số một thế giới. Năm 1967, Mỹ vẫn chiếm 47% tổng sản lượng công nghiệp thế giới, lớn hơn tổng sản lượng của các nước Tây Âu, Nhật và Canađa cộng lại (khoảng 43,3%) . Tuy nhiên, mức lạm phát của nền kinh tế bắt đầu tăng lên. Từ chỗ duy trì ở tỷ lệ khoảng 2% trong nửa đầu thập niên 60, năm 1967, con số này tăng thành 3%, rồi 4% năm 1968 .

Với "cuộc chiến chống đói nghèo", chương trình "Xã hội vĩ đại" một mặt làm dịu bớt phần nào tình trạng nghèo khổ cũng như khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội Mỹ, nhưng trên thực tế, tốc độ thực thi các đạo luật, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề quyền công dân diễn ra chậm chạp. Đại bộ phận người da đen vẫn chưa thể hòa nhập vào xã hội của người da trắng. Phong trào đấu tranh giành quyền bình đẳng cho phụ nữ, phong trào của người Mỹ gốc Mỹ Latinh và người da đỏ bản địa, phong trào của nhóm Cánh tả mới... đều dâng cao mạnh mẽ.

Trong bối cảnh đó, cuộc Tổng tiến công đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 và nổi dậy đồng loạt trong năm 1968 - đỉnh cao nhất  của quân và dân miền Nam trong quá trình đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ không chỉ là đòn giáng mạnh vào các nỗ lực chiến tranh của Mỹ, tạo ra bước chuyển mang tính quyết định, chấm dứt leo thang chiến tranh ở Việt Nam mà còn làm trầm trọng hơn những vấn đề nội tại ở chính nước Mỹ và "nới lỏng" hơn quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh.

Việc lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Huế làm chủ thành phố gần một tháng; lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam tiến công thẳng vào những vị trí quan trọng của Mỹ tại Sài Gòn - nơi mà người Mỹ tin rằng đó phải là nơi "an toàn nhất" như Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh... trong đợt tiến công Tết Mậu Thân đã tác động mạnh đến quan điểm của đông đảo người Mỹ; rằng Mỹ sẽ không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Những thước phim chiếu trên truyền hình Mỹ ghi lại cảnh một sĩ quan quân đội Sài Gòn chĩa súng bắn vào đầu một người lính cách mạng miền Nam và bỏ mặc người lính nằm chết, máu chảy tràn trên đường phố Sài Gòn đã trở thành sự kiện tiếp theo gây chấn động mạnh và tạo ra bước ngoặt trong phong trào phản chiến ở Mỹ hơn bất cứ sự kiện đơn lẻ nào trước đó. Phong trào phản chiến không còn chỉ giới hạn ở hành động của một bộ phận sinh viên hay của số ít chính khách Mỹ mà có sự thay đổi cả về chất và lượng. Trong những tuần tiếp theo, nhiều tờ báo hàng đầu của Mỹ bắt đầu đăng tải những bài viết kêu gọi giảm leo thang chiến tranh. Tờ Time và Newsweek đã cho đăng những bài báo phơi bày sự thật chiến tranh và thúc giục Mỹ rút quân khỏi miền Nam. Các nhà bình luận trên truyền hình cũng bắt đầu bày tỏ nghi ngờ về các quyết sách của Mỹ. Tiêu biểu là bản tin đặc biệt kéo dài 30 phút phát trên đài CBS ngày 27-2-1968, Walter Cronkite - người dẫn chương trình đồng thời cũng là phóng viên chiến trường vừa trở về từ miền Nam Việt Nam gọi cuộc chiến tranh tại Việt Nam là cuộc chiến bế tắc, vô vọng và thúc giục Chính phủ Mỹ rút quân. Trong khi tỷ lệ phản đối cuộc chiến tranh tại Việt Nam tăng lên gấp đôi trong vòng vài tuần sau Tết Mậu Thân thì tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Giônxơn giảm xuống chỉ còn 35%, mức thấp nhất so với các tổng thống tiền nhiệm kể từ những ngày đen tối nhất của nội các Truman . Tháng 3-1968, Tổng thống Giônxơn, bất lợi bởi "khoảng cách tin cậy" giữa lời hứa và việc làm, đã phải tuyên bố ngừng ném bom vô điều kiện miền Bắc và quyết định không ra tái tranh cử tổng thống.

Cùng với phong trào phản chiến, cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ngày càng lan rộng. Sau vụ ám sát nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Máctin Luthơ King ngày 4-4-1968, nhiều cuộc bạo loạn đã bùng phát tại trên 60 thành phố của Mỹ. Con số 43 người thiệt mạng, trên 3.000 người bị thương và khoảng 27.000 người bị bắt giữ  đã phản ánh rõ nét nhất tình trạng bất ổn gắn với lý do chủng tộc trong suốt chiều dài lịch sử nước Mỹ. Vụ ám sát R.F. Kennơđi - ứng cử viên hàng đầu cho đề cử của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm 1968, đồng thời là chính khách nổi tiếng với quan điểm chống chiến tranh là sự kiện gây chấn động tiếp theo của một năm 1968 vốn đã đầy những sự kiện khiến nhiều nhà quan sát đi đến kết luận rằng nước Mỹ đang ở bên bờ của sự biến đổi xã hội mang tính căn bản.

Khi "cả thế giới đang quan sát" những gì diễn ra tại Mỹ (lời của những người biểu tình chống chiến tranh tại Công viên Grant trong thời gian diễn ra Đại hội của Đảng Dân chủ năm 1968), thì trong số những đồng minh của Mỹ: Chính phủ Pháp có thái độ phản đối cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam; chính sách ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam của Chính phủ Anh và Cộng hòa Liên bang Đức vấp phải sự phản đối từ nhiều tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và nhân dân tiến bộ ở trong nước. Tại Nhật Bản, phong trào "Liên minh thị dân vì hòa bình cho Việt Nam" (Beheiren, bắt đầu hoạt động từ năm 1965) tiến hành nhiều hoạt động phản chiến phong phú và liên tục, nhằm phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam... Trong khi đó, đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng toàn cầu của Mỹ là Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ).

Trong bối cảnh mâu thuẫn giữa một nền kinh tế đang chững lại, với những chi phí quân sự ngày càng tăng và sự bùng phát những cuộc nổi dậy ở trong nước, một học thuyết đối ngoại mới của Mỹ đã được đưa ra - Học thuyết Níchxơn (tháng 7-1969). Luận điểm chính của học thuyết này là: "Hoa Kỳ sẽ tham gia vào việc phòng thủ và sự phát triển của các đồng minh và bạn bè, nhưng Mỹ không thể - và sẽ không - vạch ra tất cả các kế hoạch, xây dựng mọi chương trình, thực hiện tất cả các quyết định và đảm nhận toàn bộ trách nhiệm phòng thủ ở thế giới tự do" . Theo nhận định của Mỹ, nguy cơ đe dọa lớn nhất với Mỹ lúc này không hẳn là chủ nghĩa cộng sản mà là tình trạng "mất trật tự", đặc biệt là những nhà cách mạng muốn "phá vỡ trật tự". Níchxơn và Cố vấn An ninh quốc gia Kítxinhgiơ tin rằng lợi ích của Mỹ có thể được bảo vệ bằng cách cùng với Nhật Bản, Trung Quốc và thậm chí là Liên Xô hợp tác với nhau, đặc biệt là trong việc chống lại các cuộc cách mạng. Vì vậy, cùng với việc đề ra chiến lược "Hòa dịu" với Trung Quốc và Liên Xô, vấn đề chia sẻ trách nhiệm với các đồng minh được Mỹ đặc biệt lưu tâm. Với cuộc chiến tranh ở Việt Nam, sự điều chỉnh chính sách đó được thể hiện ở việc thay thế chiến lược "chiến tranh cục bộ" bằng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" - thực chất vẫn là dựa vào sức mạnh về quân sự của Mỹ, nhưng tận dụng tối đa khả năng của quân đội Sài Gòn để chiến đấu thay thế quân đội Mỹ rút dần về nước.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 03:25:31 pm
PHẦN THỨ HAI

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - Ý CHÍ VÀ SỨC MẠNH VIỆT NAM




QUÂN VÀ DÂN SÀI GÒN - GIA ĐỊNH VỚI CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
CHO CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Sài Gòn dưới chế độ Mỹ - ngụy là thành phố lớn nhất miền Nam, là "thủ đô" của Việt Nam Cộng hòa với hơn 3 triệu dân sinh sống ở 12 quận và 6 huyện ngoại thành. Đây là nơi tập trung các cơ quan đầu não của địch, là căn cứ quân sự lớn của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á. Bởi vậy, được Mỹ và quân đội Sài Gòn bảo vệ rất cẩn mật, chúng tổ chức ra ba vành đai phòng thủ để ngăn chặn ta từ xa. Bộ binh cơ giới và trực thăng của Mỹ bảo vệ vòng ngoài. Lực lượng chủ lực của ngụy bảo vệ khu trung tâm. Vùng ven đô và trong nội thành là mạng lưới cảnh sát, quân cảnh, mật thám, mật báo viên, phòng vệ dân sự gồm hàng chục vạn tên.

Với sự kiểm soát chặt chẽ địa bàn bằng các hoạt động càn quét, lục soát, bắt bớ của địch, ta muốn tổ chức và duy trì thường xuyên các hoạt động chiến đấu ở nội đô, đặc biệt là việc chuẩn bị vũ khí cho kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy là một công tác cực kỳ phức tạp và khó khăn. Nhưng nếu không làm tốt công tác bảo đảm sẽ không thể duy trì và phát triển các cuộc chiến đấu ở nội thành, không thể thực hiện được chủ trương chiến lược "Đưa chiến tranh vào trong lòng địch" của Đảng ta.
 
Cuối năm 1964 đầu 1965, cục diện chiến trường đã xuất hiện khả năng giành những thắng lợi lớn. Để nắm chắc tình hình chiến trường, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định cùng kiểm tra, chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch tiến công quân sự vào một số mục tiêu quan trọng trong thành phố và kế hoạch huy động lực lượng kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng, nhằm làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Đó là kế hoạch của mùa khô 1964-1965, thường gọi là "Kế hoạch X".

 Tháng 4-1965, tại Suối Dây (Tây Ninh) Khu ủy Sài Gòn - Gia Định họp quán triệt Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 11 và triển khai nhiệm vụ theo "Kế hoạch X", mọi công tác được chuẩn bị tích cực, khẩn trương để đánh thắng địch ở mức cao nhất. Quân khu Sài Gòn - Gia Định được giao nhiệm vụ xây dựng một lực lượng biệt động mạnh, có tổ chức thống nhất, chuẩn bị các điều kiện bảo đảm để có thể cùng một lúc bất ngờ công kích chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn - Gia Định khi có thời cơ. Đoàn Biệt động F100 ra đời để đáp ứng nhiệm vụ ấy. Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền và Quân khu đã xác định 25 mục tiêu trọng điểm ở Sài Gòn và được xếp là "loại A" mà sau này 9 mục tiêu trong số đó được chọn là điểm tấn công vào mùa Xuân Mậu Thân 1968. Do vậy, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã chỉ đạo thành lập đơn vị A20 làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí từ căn cứ ngoài vào nội thành, A30 là đơn vị cất giấu vũ khí tại các cơ sở nội, ngoại thành. Đồng thời xây dựng các "lõm căn cứ" ngay trong nội thành và vùng ven, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. "Kế hoạch X" đang được chuẩn bị gấp rút thì Mỹ đổ quân xây dựng căn cứ ở miền Đông Nam Bộ, chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ". Như vậy, phương án giành thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh trong thời kỳ "chiến tranh đặc biệt" cũng như "Kế hoạch X" không thực hiện được, nhưng công tác bảo đảm vẫn được tiếp tục để chuẩn bị cho một cuộc tấn công mới khi có thời cơ.

Sau khi quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công mùa khô lần thứ 2 của Mỹ và quân đội Sài Gòn (Đông - Xuân 1966-1967) làm phá sản chiến lược hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" của chúng, tình thế đã mở ra triển vọng to lớn cho quân và dân ta đánh bại một bước chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Năm 1967, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về việc "Chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định... Để thực hiện thành công nghị quyết này, nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của cách mạng Việt Nam là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả 2 miền Nam, Bắc đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất bằng phương pháp Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định...".

Trung tuần tháng 10-1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức Hội nghị mở rộng tại chiến khu Dương Minh Châu để quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục về Tổng tiến công và nổi dậy, trước mắt thực hiện tốt công tác chuẩn bị, bao gồm: Tổ chức lại chiến trường, bổ sung cán bộ cho các ngành, các giới, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực cách mạng. Kiên trì phương châm tích cực chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định khi có thời cơ.

Trong điều kiện địch khủng bố, ngăn chặn hết sức quyết liệt thì việc bí mật tổ chức vận chuyển vũ khí vào ém sẵn trong thành phố là một công việc hết sức khó khăn và đầy nguy hiểm. Khâu này đòi hỏi không chỉ dựa vào lòng dũng cảm, trí thông minh của mỗi cán bộ, chiến sĩ và các cơ sở quần chúng, của hệ thống hành lang đã được xây dựng từ vùng giải phóng Củ Chi vào nội thành, mà còn đòi hỏi phải có năng lực chỉ huy hiệp đồng, phát huy sức mạnh của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan để linh hoạt tổ chức vận chuyển vượt qua các âm mưu, thủ đoạn ngăn chặn của địch.

Trên những hành lang chiến lược nối liền vùng căn cứ giải phóng và từ đất Campuchia vào nội thành Sài Gòn, A20, A30 đã xây dựng được các căn cứ xuất phát, cứ bàn đạp, căn cứ bản lề, những điểm nút giao liên, người đầu cầu, hành lang... tương đối vững chắc, an toàn. Đặc biệt tại các "bàn đạp" Thái Mỹ (Củ Chi), Bàu Mây Tịnh, Tịnh Phong (Trảng Bàng)... Khu ủy và đồng chí Trần Hải Phụng, đồng chí Tư Quỳ, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) trong Bộ Chỉ huy Quân khu và các cán bộ cụm, đội thường xuyên có mặt làm việc với các đầu mối trong Sài Gòn và chỉ đạo các nhiệm vụ tiếp theo. Nhờ công tác tổ chức được tiến hành bí mật, khẩn trương, chu đáo với tinh thần sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ cách mạng của cán bộ, chiến sĩ biệt động nên đến cuối năm 1965, cả hai đội A20 và A30 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xây dựng được một hệ thống kho hầm bí mật chứa vũ khí sát các mục tiêu chiến lược của địch. Mỗi mục tiêu đều được "dành sẵn" từ 1 đến 3 hầm vũ khí chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân. Trong số các hầm vũ khí đó, trước hết phải kể đến:

Kho vũ khí ở nhà số 65 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quận 1) là hiệu may Quốc Anh của gia đình đồng chí Trần Phú Cương và vợ là Trần Thị Út là chiến sĩ biệt động phục vụ tiến công Đài Phát thanh Sài Gòn.

Kho nhà số 436/58 Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng Tháng Tám - Quận 3) của gia đình đồng chí Lê Tấn Quốc (Bảy Rau Muống). Kho này kết hợp với kho đồng chí Trần Văn Lai phục vụ tiến công Dinh Độc Lập.

Hầm nhà số 287/70 Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần - Quận 3) của gia đình đồng chí Trần Văn Lai (tức Mai Hồng Quế) phục vụ tiến công Dinh Độc Lập.

Hầm nhà số 348/38B ấp Bác Ái, xã Bình Hoà (nay là đường Phan Văn Trị, Phường 11, Quận Bình Thạnh) của gia đình đồng chí Trần Văn Miêng, vợ là Võ Thị Sang.

Hầm nhà số 248/27 Nguyễn Huỳnh Đức (nay là đường Huỳnh Văn Bánh, Quận Phú Nhuận) của gia đình bà Bùi Thị Lý xây dựng hai hầm phục vụ tiến công Bộ Tổng Tham mưu Sài Gòn.

 Hầm nhà số 281/26/29 Trương Minh Ký - Phú Nhuận (nay là Lê Văn Sĩ - Quận Tân Bình) của gia đình đồng chí Phan Văn Bảy, phục vụ tiến công Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn.

Hầm nhà số 59 Phan Thanh Giản, Đa Kao, Quận 1 (nay là đường Điện Biên Phủ) của gia đình bà Nguyễn Thị Huệ (Hai Phê) phục vụ tiến công Toà Đại sứ Mỹ.

Hầm nhà số 93/22 Cường Để (nay là đường Bùi Đình Túy, quận Bình Thạnh) của gia đình đồng chí Tô Minh Liêm (Mười Lợi) phục vụ tiến công Bộ Tư lệnh Hải quân Sài Gòn.

Hầm nhà số 183/4 đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2, Quận 10) của gia đình đồng chí Đỗ Văn Căn (Ba Mủ), cơ sở này chuẩn bị vũ khí đánh Biệt khu Thủ đô, nhưng không thực hiện được nên hầm vũ khí vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày giải phóng Sài Gòn năm 1975).

Hầm nhà số 8/4 Vườn Chuối, Quận 3 của gia đình đồng chí Lâm Thị Ẩn phục vụ trận đánh bắn cối 82 ly vào Tổng hành dinh tướng Oétmolen tại góc đường Nguyễn Du - Pasteur ngày 13-2-1967.

Hầm nhà số 62/1 đường Dương Công Trừng (nay là số 62/10B đường Nguyễn Thị Nhỏ, Quận Tân Bình) của gia đình đồng chí Nguyễn Nhật Hiểu, cơ sở này chứa súng đạn, chất nổ tấn công Đài Truyền hình Sài Gòn trong đợt 2 Mậu Thân.

Hầm ở Hương lộ 14 của gia đình đồng chí Trần Thị Bi, chứa khẩu cối 82 ly bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất tháng 7-1967.

Hầm nhà số 171 đường Bạch Đằng, Hàng Xanh, Quận Bình Thạnh của gia đình đồng chí Vũ Bá Tài, nơi trú đóng của 8 cán bộ, chiến sĩ cơ yếu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân.

Đặc biệt, tiệm Phở Bình số 7 Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng, Quận 3) của gia đình ông Ngô Toại là Sở chỉ huy tiền phương của Phân khu 6 ngay trước giờ xuất quân và trong đợt 1 có mặt các đồng chí Võ Văn Thạnh - Chính ủy Phân khu và Nguyễn Đức Hùng - Tham mưu trưởng - chỉ huy trưởng F100, phát lệnh tiến công đánh các mục tiêu ở nội đô Sài Gòn.

Số lượng vũ khí mỗi hầm gần 1 tấn, thông thường gồm: 350kg thuốc nổ TNT hoặc C4; 1 hộp kíp nổ; 10 khẩu AK và 3.000 viên đạn; 3 khẩu súng ngắn và 200 viên đạn; 2 khẩu B40 và 20 quả đạn; 20 quả mìn; 50 lựu đạn...

Việc xây dựng các căn hầm cùng với quá trình tiếp nhận, cất giấu, bảo vệ và bảo quản khối lượng vũ khí trong lòng địch là một chuỗi công việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm, đòi hỏi người thực hiện nhiệm vụ ngoài kinh nghiệm hoạt động bí mật, trí thông minh phải chấp nhận những gian khổ hy sinh. Các đồng chí phải tự mua vật liệu và xây cất. Phải giữ bí mật tuyệt đối cả với những người thân trong gia đình. Ngay bản thân các đồng chí xây xong hầm mới được biết sẽ dùng hầm để cất giấu vũ khí tại gia đình họ. Ngoài việc bảo vệ an toàn cho kho vũ khí, hằng ngày, hằng giờ họ phải sống và chiến đấu thầm lặng với kẻ thù. Những hầm cất giấu vũ khí này để đánh mục tiêu nào và sử dụng lúc nào thì không được biết. Có thể nói, mỗi căn hầm vũ khí được xây dựng trong nội đô đều là những kỳ công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Để đưa vũ khí vào thành phố, công tác nghi trang, ngụy trang đóng vai trò quyết định, công tác không chỉ đòi hỏi che được mắt địch mà còn phải bảo đảm đồng bộ các loại vũ khí cho mỗi hầm trong mỗi lần vận chuyển. Để giữ bí mật, bảo vệ Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định chỉ thị mỗi hầm chỉ tiếp nhận một lần vũ khí.

Sau khi hoàn thành việc ngụy trang, nghi trang, đội A20 tổ chức vận chuyển vũ khí vào thành phố theo ba chặng cơ bản: Chặng thứ nhất: từ căn cứ giải phóng đến căn cứ bàn đạp (ở vùng giáp ranh); chặng thứ hai: từ căn cứ bàn đạp lên trục lộ giao thông (do địch kiểm soát); chặng thứ ba: di chuyển trên đường giao thông vào nội thành.

Ở cả ba chặng trên, tuyệt đại bộ phận lực lượng vận chuyển (kể cả các chiến sĩ thuộc Đội A20) đều không biết mình chuyên chở thứ hàng gì. Ở khâu cuối cùng, người nhận vũ khí (thuộc A30) và người chở vũ khí đến cũng không được phép giáp mặt nhau, không biết giao cho ai, nhận của ai.

Với cách tổ chức trên, hàng chục tấn vũ khí trong đó có cả ĐKZ, cối, B40, B41, AK và các loại thuốc nổ... đã được bí mật vận chuyển an toàn vào thành phố, ém sẵn cạnh các mục tiêu, hoàn toàn bất ngờ đối với địch. Người góp nhiều công sức cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này là đồng chí Nguyễn Văn Chiểu (Năm Chiểu) - Thư ký Công đoàn cao su giải phóng đồng thời là một chiến sĩ biệt động ưu tú. Chính đồng chí là người đứng ra môi giới thuê lại hàng chục đồn điền cao su ở Củ Chi, Bến Cát và phân công cho các đồng chí như: Sáu Ân, Sáu Mia, Tư Gia, Bảy Huệ... đứng ra tổ chức sản xuất, các đồng chí làm nhiệm vụ vận chuyển như đồng chí Ba Bảo, Năm Phùng (lái xe ô tô), Chín Ten, Mười Tùng (vận chuyển bằng xe bò), Chín Khổ (vận chuyển bằng đường sông)... là những người lập nhiều thành tích trong nhiệm vụ vận chuyển vũ khí.

Ngoài cách tổ chức trên, các lực lượng biệt động còn sử dụng lực lượng giao liên, hoặc tự chiến đấu viên vận chuyển vũ khí bằng đường bộ hoặc đường sông. Cách thức và phương pháp, chiến thuật vận chuyển chủ yếu là ngụy trang theo phương tiện, đồ nghề, hàng hóa. Cách này chủ yếu là vận chuyển các vũ khí nhẹ và gọn như lựu đạn, súng ngắn, thuốc nổ...

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong thành phố, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã tổ chức lực lượng thành ba khối: khối biệt động, khối các phân khu, khối đoàn thể. Trong đó, khối biệt động gồm cụm 345, cụm 679 và cụm 128 với hơn 100 chiến đấu viên, có nhiệm vụ tấn công vào các mục tiêu đầu não của địch như: Dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Đài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân... Các lực lượng vũ trang phân khu được tăng cường thêm 15 tiểu đoàn chủ lực trong đó có Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Tiểu đoàn 7 Củ Chi, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 3 Gò Vấp - Hóc Môn, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định,... có nhiệm vụ tiếp ứng cho các đơn vị biệt động chiếm lĩnh mục tiêu trong nội đô; khối chủ lực Miền có ba sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, một sư đoàn pháo binh, Trung đoàn bộ binh 88 và một số lực lượng thuộc các binh chủng khác có nhiệm vụ tấn công các căn cứ của địch và ngăn chặn không cho chúng về ứng cứu Sài Gòn.

Trước đó, thực hiện nhiệm vụ nổi dậy, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, ngay từ đầu năm 1967, Khu ủy đã cử nhiều cán bộ tăng cường vào đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm nghiên cứu mục tiêu, gây dựng cơ sở, in truyền đơn, khẩu hiệu... chuẩn bị cho tổng tiến công. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, đến đầu năm 1968, ta đã có gần 400 cơ sở cách mạng, "lõm chính trị" trong lòng đô thành Sài Gòn, điển hình như ở căn cứ Nhị Tỳ Quảng Đông, đường Trần Quốc Thảo (Quận 3), đường Cao Đạt (Quận 5), đường Minh Phụng, Cây Gõ (Quận 6), Trường đua Phú Thọ (Quận 11). Bên cạnh đó, từ tháng 6-1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định còn tổ chức lực lượng thanh niên thành ba nhóm chính: nhóm vũ trang, nhóm vũ trang tuyên truyền và nhóm chính trị công khai. Trong đó, nhóm vũ trang có nhiệm vụ làm "thê đội 2" cho lực lượng biệt động tấn công vào các mục tiêu quan trọng của địch trong nội đô; nhóm vũ trang tuyên truyền có nhiệm phát động quần chúng diệt ác phá kềm, kiểm soát các địa bàn cơ sở; nhóm chính trị công khai có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng thứ ba, các giới, tuyên truyền, vận động quần chúng nổi dậy tiếp ứng cho lực lượng vũ trang nhằm chiếm lĩnh các mục tiêu quan trọng đã định trước. Cùng với việc tổ chức thanh niên, lực lượng quần chúng yêu nước nhất là nhân sĩ, trí thức được các tổ chức như: Trí vận, Hoa vận, Công vận, Phụ vận... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, Phong trào dân tộc tự quyết, Nghiệp đoàn ký giả, Lực lượng Quốc gia tiến bộ, Hội Ái hữu nghệ sĩ, Nghiệp đoàn Giáo học tư thục Việt Nam, Nghiệp đoàn Giáo chức cách mạng, Hội Kỹ sư và Kỹ thuật gia Việt Nam... Đây chính là những đội quân chính trị hùng hậu để tham gia khởi nghĩa khi tổng tiến công nổ ra.

Nhờ làm tốt công tác tổ chức, đến trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, riêng trong nội thành Sài Gòn đã có 11 đội biệt động cấp thành phố, 50 đội biệt động cấp quận, huyện và của các đoàn thể, cùng với đó là hàng trăm cơ sở tồn tại ở hầu hết các quận, huyện. Điển hình như:

Khu vực Phú Nhuận có 50 cơ sở; Khu vực chợ Vườn Chuối (Quận 3) có 15 cơ sở; Xóm Chùa Tân Định: 30 cơ sở; Xóm lao động cầu Công Lý: 10 cơ sở; Khu vực Chí Hoà, Hoà Hưng: 30 cơ sở; Khu vực đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn: 10 cơ sở; Xóm lao động Bàn Cờ: 15 cơ sở... Các cơ sở này đã chuẩn bị hàng tấn lương thực, thực phẩm, mua sắm trang bị cho lực lượng biệt động và các lực lượng hoạt động trong nội đô gồm: 419 xe gắn máy các loại, 52 xe du lịch, 32 xe vận tải nặng và nhẹ, 2 xe bồn chở xăng, 500 xe đạp, 40 xích lô đạp, 23 xích lô máy, 28 xe lambro, 50 xe lambretta, 50 xuồng, 38 ghe máy, từ 3 đến 5 tấn, 2 ca nô, 15 đội cấp cứu, nuôi dưỡng thương binh và hàng trăm ký thuốc chữa bệnh...

Tính đến hạ tuần tháng 12-1967, công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cơ bản đã hoàn tất. Tài lực, vật lực và lực lượng ba thứ quân của thành phố cùng với lực lượng nổi dậy đều ở tư thế sẵn sàng đợi lệnh.

Để có được kết quả trên, trong suốt quá trình chỉ đạo, Khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định luôn bám sát sự chỉ đạo của Đảng, dựa vào nhân dân đã xây dựng lực lượng chiến đấu tại chỗ, hậu cần, kỹ thuật bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Chính nhờ dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong công tác bảo đảm hậu cần tại chỗ nên các lực lượng biệt động mới có thể duy trì và mở rộng được hoạt động chiến đấu trong thành phố, khiến kẻ thù luôn mất ăn, mất ngủ. Đặc biệt những trận đánh của biệt động Sài Gòn vào các mục tiêu đầu não của địch trong đợt 1 của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm chấn động cả nước Mỹ. Những kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo công tác bảo đảm vũ khí cho biệt động thành chiến đấu là một mẫu mực trong thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng mà người tổ chức thực hiện trực tiếp là Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, nhân dân và các chiến sĩ biệt động Sài Gòn - Gia Định đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 24 Tháng Năm, 2020, 03:35:40 pm
LỰC LƯỢNG AN NINH T4
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Trung tướng LÊ ĐÔNG PHONG
Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cùng với quân và dân Khu Sài Gòn - Gia Định, lực lượng An ninh T4 đã chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần đánh bại cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của địch, tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Từ cuối năm 1967, Bộ Chính trị đã nhận định diễn biến cơ bản tình hình là ta ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động, tình hình cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang thời kỳ mới: thời kỳ giành thắng lợi quyết định, nếu địch không có thể phản công chiến lược thì ta tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Từ đó, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định hạ quyết tâm động viên mọi lực lượng với khí thế và nỗ lực cao nhất để thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn; phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, đánh đổ chính quyền các cấp của địch.

Quán triệt những chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục, Khu ủy, An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định 1 đã khẩn trương sắp xếp và bố trí lực lượng chỉ đạo các bộ phận: điệp báo, bảo vệ chính trị, bảo vệ nội bộ, trinh sát vũ trang, an ninh vũ trang... làm trong sạch địa bàn, bảo vệ khu căn cứ của ta, tăng cường mạng lưới thông tin liên lạc, nắm chắc tình hình các mục tiêu quan trọng. Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, các ban, ngành an ninh phân khu đều có 2 bộ phận chỉ đạo: Bộ phận "xã hội hóa" ở nội đô, hoạt động công khai hợp pháp và một bộ phận ở căn cứ vùng ven hoặc vùng giải phóng.

Lúc này Ban lãnh đạo an ninh Sài Gòn - Gia Định được phân công về hai cánh quân chủ lực (cánh Nam và cánh Bắc). Các tiểu ban (B) trực thuộc An ninh khu theo sát Bộ Tư lệnh Tiền phương, còn đại bộ phận được tổ chức thành các tổ, đội tham gia tấn công vào nội thành.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trinh sát vũ trang nội đô đã khẩn trương phát triển lực lượng, tạo chỗ đứng chân cho lực lượng bên ngoài vào và phối hợp đánh các trận lớn hơn kể cả đánh phá các trụ sở của các cơ quan hành chính của địch, trụ sở các báo chí phản động, khách sạn, nhà hàng - nơi tập trung ăn uống của các phần tử gián điệp, phản động...
Bộ phận điệp báo cũng đã tiến hành xây dựng cơ sở bí mật 2, các hộp thư để phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Bộ phận kỹ thuật đã sản xuất nhiều giấy tờ, căn cước, giấy miễn hoãn quân dịch của địch cung cấp cho cán bộ vào nội thành hoạt động, cung cấp "giấy tờ hợp pháp" cho lực lượng biệt động để tiến vào các mục tiêu trước giờ nổ súng. Ta đã nghiên cứu, sản xuất được "thẻ căn cước bọc nhựa" giả 3 .

Lực lượng an ninh các phân khu đã tham gia tuyển chọn hàng ngàn tân binh, huy động hàng chục ngàn dân công ở các vùng giải phóng và các ấp chiến lược. Huy động quần chúng cách mạng ở Ba Thu (là căn cứ cách mạng của vùng Tây Nam Bộ, khoảng giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, nay thuộc xã Mỹ Quý Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An), Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ hỗ trợ các mũi tiến quân ở phía nam. Tổ chức hàng trăm tàu thuyền đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí từ Ba Thu, Bến Lức (Long An) về Tân Tạo, Tân Nhật (Bình Chánh) cung cấp cho cánh quân chủ lực tiến vào nội đô Sài Gòn. Trực tiếp vận động nhân dân góp gạo, nấu bánh tiếp tế nuôi quân...

Cuối năm 1967, hầu hết Ban an ninh các cấp đã có kế hoạch toàn diện về công tác bảo vệ, bố trí lực lượng tham gia các mũi tiến công thị xã, thị trấn nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ở các vùng ven Bình Tân, Gò Vấp, Hóc Môn, Nhà Bè, Thủ Đức, v.v. vùng căn cứ giải phóng Củ Chi, lực lượng an ninh địa phương đã tham gia công tác bổ sung lực lượng, dân công, tàu thuyền đưa đón cán bộ, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược vào thành phố, các cán bộ điệp báo, trinh sát vũ trang bám trụ nội thành, giao liên vào nội thành xây dựng cơ sở, các hộp thư. Đây là mặt trận cam go, nguy hiểm khôn lường nhiều đồng chí giao liên đã hy sinh hoặc bị bắt, tù đày nhưng trong mọi hoàn cảnh, các chiến sĩ giao liên vẫn luôn đáp ứng được nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ tốt các trận đánh và dẫn đường cho quân ta tiến vào thành phố.

An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định tăng cường hoạt động cho các cánh Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Dĩ An, Nhà Bè, Bình Tân. Tại nhiều xã giải phóng có từ 3 đến 5 đồng chí làm công tác an ninh gồm, 1 trưởng ban phụ trách chung và trực tiếp làm công tác bảo vệ Đảng, xây dựng cơ sở mật trong tổ chức địch ở địa phương, 1 phó ban phụ trách phong trào và công tác bảo vệ chính trị, cùng 2 ủy viên hỗ trợ giúp đỡ an ninh ấp. Tăng cường một số bộ phận điệp báo, trinh sát vũ trang xuống các vùng xung yếu, từ đó lực lượng An ninh T4 và an ninh các phân khu đã góp phần tích cực trong công tác bảo vệ Đảng, các ban ngành đoàn thể cách mạng, bảo vệ kho tàng, di chuyển đóng quân và bảo vệ các mũi tiến công, các đường dây giao thông liên lạc, giữ vững và phát triển các lõm chính trị sát đô thị.

Phá vụ nội gián ở Thành Đoàn, tiêu diệt tên Nguyễn Xuân Chữ - Bộ trưởng Chiến tranh tâm lý chính quyền Sài Gòn. Trong trận chiến đấu với một trung đội Mỹ đánh vào ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, lực lượng điệp báo đã làm tốt vai trò cung cấp thông tin, dự báo quy mô tấn công của địch, để lãnh đạo Khu chỉ đạo lực lượng trinh sát vũ trang, an ninh vũ trang cùng các lực lượng du kích chiến đấu ngoan cường tiêu diệt 27 tên địch, phá hủy 4 xe M113 4.

Tháng 12-1967, đồng chí Ba Mẫu phụ trách hậu cần trinh sát vũ trang đã tổ chức chuyển hàng trăm khẩu súng AK, K54, hàng tạ thuốc nổ và một số hỏa tiễn H12 từ căn cứ địa Củ Chi qua cầu Bến Lức đến Hàm Tử, đưa vào cất giấu ở chợ Hòa Bình (Quận 5). Trên khắp các nẻo đường thủy bộ, mọi phương tiện từ xe du lịch, xe honda, ghe thuyền, xe tải chở gỗ được ngụy trang chở vũ khí vào nội thành 5. Bên cạnh công tác vận chuyển vũ khí, lực lượng An ninh T4 đã tổ chức đưa đón nhiều cán bộ vào nội thành an toàn.

Phối hợp, hiệp đồng cùng với các đơn vị, mở màn cho đợt tấn công của lực lượng An ninh T4, bộ phận điệp báo đã điểm hỏa làm hiệu lệnh tấn công 6.

Phân đội an ninh vũ trang gồm 12 cán bộ, chiến sĩ, có nhiệm vụ bí mật đưa bộ phận Bộ Tư lệnh Tiền phương II luồn sâu vào trung tâm thành phố, dưới sự dẫn đường của nữ giao liên Đoàn Lệ Phong, luồn qua nhiều đồn bốt địch, bí mật áp sát trường đua Phú Thọ, chợ Thiếc an toàn. Tuy nhiên, do bị địch phát hiện, nên đoàn chỉ để lại phân đội an ninh vũ trang với nhiệm vụ kiềm chân và tiêu diệt địch, bảo vệ các đồng chí cán bộ chuyển ra khu vực an toàn. Hơn 7 ngày chiến đấu, 12 cán bộ, chiến sĩ phân đội An ninh vũ trang T4, đã anh dũng hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho Bộ Tư lệnh Tiền phương II 7.

Hai đội trinh sát vũ trang mới thành lập được giao nhiệm vụ phối hợp với các tiểu đoàn mũi nhọn đánh chiếm Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn và Nha cảnh sát đô thành. Đội 1 gồm 15 đồng chí, được giao nhiệm vụ đi cùng các tiểu đoàn tiền phương 2 tấn công Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn 8 . Trên đường tiến quân từ sông Vàm Cỏ Đông vào nội thành, Đội 1 đụng độ với quân địch, diệt 37 cảnh sát. Mặc dù một số bị thương vong và bị bắt nhưng trong 3 đêm đã diệt 28 tên, 1 trung đội, đánh tiêu hao 1 đại đội địch. Đội 2 có 24 đồng chí, có nhiệm vụ tiến công Nha cảnh sát đô thành theo hướng Phú Thọ Hòa. Bị địch chặn lại, Đội đã phối hợp với các cánh quân khác (Đoàn 10) và lực lượng nổi dậy tại chỗ diệt ác trừ gian, trừng trị 25 cảnh sát mật vụ, diệt 1 đại đội địch, bắn cháy 8 xe M113, bắt rơi 2 trực thăng.

Phối hợp với các mũi tiến công, một đơn vị an ninh vũ trang do đồng chí Năm Nón chỉ huy phối hợp với lực lượng địa phương tiến vào quận 7, đánh địch ở Cầu Sập.

Một đơn vị trinh sát vũ trang do đồng chí Sáu Hạnh, Tư Hưng chỉ huy tiến công vào biệt thự số 80 Trương Minh Giảng (nay là Trần Quốc Thảo), quân ta đã tiêu diệt 11 cảnh sát, 2 biệt động quân, bắn cháy 1 xe bọc thép, 2 xe tuần tiễu. Mục tiêu ban đầu được xác định là nhà Nguyễn Văn Thiệu, nhưng do điều nghiên không chính xác (thực ra là Tòa Đại sứ Philíppin).

Qua đợt 1, lực lượng An ninh T4 đã diệt 348 sinh lực địch, trong đó 102 tên cảnh sát có nhiều nợ máu, góp phần phá thế kìm kẹp của địch, làm cho nội bộ địch hoang mang lo sợ. Riêng ở nội đô ta đã đánh 22 trận lớn nhỏ, cảnh cáo tại chỗ 35 tên, vận động rã ngũ 15 tên.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, phần lớn cơ sở điệp báo, an ninh khu vực, lực lượng trinh sát vũ trang bị lộ và bị bắt hàng loạt. Quán triệt chủ trương của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, số cán bộ an ninh hoạt động hợp pháp trong vùng địch kiên trì bám trụ, dựa vào quần chúng vừa đánh địch vừa củng cố, gây dựng lại tổ chức, từng bước tăng cường quân số và trang bị vũ khí, phương tiện công tác và chiến đấu. Nắm vững phương châm "đánh sâu, đánh hiểm, đánh trúng đối tượng", lực lượng trinh sát vũ trang nội đô và lực lượng điệp báo An ninh T4 đẩy mạnh công tác tấn công chính trị bằng cách gửi truyền đơn cho cảnh sát và khóm trưởng làm cho chúng hoang mang lo sợ, trút bỏ cảnh phục.

Tháng 5-1968, nhiều đơn vị vũ trang thuộc An ninh T4 đã phối hợp với các phân khu chiến đấu anh dũng tiếp tục tấn công nhiều mục tiêu trên toàn Khu Sài Gòn - Gia Định. Lực lượng an ninh các huyện cũng phối hợp với bộ đội địa phương và du kích tổ chức tấn công địch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy. Thông qua phong trào quần chúng "bảo mật phòng gian" kết hợp với nhiều biện pháp nghiệp vụ, lực lượng An ninh T4 đã phát hiện hàng trăm vụ nội gián, bắt và trừng trị nhiều tên.

Trên mặt trận liên lạc kỹ thuật, bộ phận cơ yếu ngày đêm giữ vững mạng liên lạc mật mã được thông suốt giữa an ninh Sài Gòn - Gia Định với Khu ủy và Trung ương Cục. Cán bộ cơ yếu an ninh Sài Gòn - Gia Định hoạt động và chiến đấu ở nhiều địa bàn khác nhau, đã mưu trí, dũng cảm bảo vệ tài liệu, mật mã bí mật an toàn. Công tác phòng gian bảo mật, đặc biệt là giữ bí mật về ý đồ chiến lược của Đảng được tuân thủ nghiêm ngặt; các kế hoạch bảo vệ tài liệu, bảo vệ tổ chức cán bộ được tiến hành ở tất cả các cấp.

Chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng An ninh T4 cùng với quân và dân khu Sài Gòn - Gia Định đã tiêu diệt và làm tan rã một số lượng lớn sinh lực địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Lực lượng ta phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, thu được nhiều kinh nghiệm quý báu, nhất là trong việc đánh giá địch và ta. Vùng giải phóng được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân được củng cố và phát triển. Từ đó tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền Nam tiến tới thắng lợi cuối cùng.




---------------------------------------------------------------
1. Gọi tắt là An ninh T4 (tiền thân của lực lượng Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), được thành lập ngày 19-3-1961. Ngày 19-3-1961, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương nhanh chóng củng cố xây dựng lực lượng và phát triển bộ máy tổ chức an ninh để làm tham mưu cho Đảng và làm nòng cốt cho phong trào quần chúng. Ban bảo vệ an ninh được thành lập gồm có 4 bộ phận: bộ phận văn phòng, bộ phận nông thôn, bộ phận đô thị và bộ phận vũ trang. Năm 1962, các tiểu ban thuộc An ninh T4 được thành lập gồm 10B từ B1 đến B10.

2. Tháng 11-1967, Ban An ninh T4 đã điều động đồng chí Đỗ Thạnh (Ba Dũng) - Trưởng ban Điệp báo vào thành để xây dựng cơ sở bí mật như: Tư Bụng, Mười Hậu, Tư Trương tại Bình Thới (Quận 11). Điều động Sáu Tỳ vào thành để xây dựng hộp thư và một số đồng chí khác cũng vào thành; đồng chí Hai Phong xây dựng được 3 cơ sở an ninh mật, 5 tổ trinh sát vũ trang, 3 lõm chính trị, ngoài ra còn có nhiều cơ sở khác.

3. Lúc đầu địch dùng loại ép plastic trơn được bán rộng rãi trên thị trường; sau đó địch đổi thẻ căn cước bọc nhựa ép plastic có vân nổi, ta đã tổ chức móc nối mua loại plastic này ở Campuchia để làm giả. Đến 1969, địch đổi thẻ căn cước bọc nhựa plastic có hình những con rồng màu xanh (loại này được đặc chế, chỉ có bộ phận làm giấy căn cước cảnh sát Sài Gòn sử dụng) nhưng ta cũng làm giả được.

4. Cay cú trước thất bại với một lực lượng an ninh nội đô vừa mới được thành lập, ngày 8-1-1966, quân đội Mỹ - quân đội Sài Gòn huy động 12.000 quân, 600 pháo, cối, 600 xe cơ giới, số lượng lớn máy bay chiến đấu, tấn công vào căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, mặc dù tương quan lực lượng giữa ta và địch không cân bằng, nhưng lực lượng An ninh T4 đã phối hợp với quân và dân địa phương, chiến đấu tiêu diệt gần 100 tên địch, bắn rơi 11 máy bay, 1 xe M113...

5. Cán bộ nữ xin đi quá giang xe lính Mỹ chuyển thư từ, giả vợ chồng, tình nhân của tướng tá ngụy để chuyển thư, vũ khí trên những chuyến xe du lịch sang trọng... Các trạm giao liên điệp báo, trinh sát vũ trang dọc theo quốc lộ 22, từ Dĩ An dùng xe lam chở vũ khí vào nội đô, bên trong chất đầy rau quả, bên dưới là súng AK, AK báng gỗ, báng xếp, đạn dược. Nhiều chị em giao liên đi vào nội thành "tặng quà Tết cho bà con họ hàng" bằng những đòn bánh tét nhưng bên trong là thuốc nổ TNT, C4. Anh Tư Thông (cơ sở của đồng chí Hai Phong), lái ô tô từ nội thành ra nhận vũ khí, đạn dược chất nổ, rau quả ngụy trang ở trên xe. Xe chở hèm (bọc gói kín súng đạn nhét vào các thùng đựng hèm) từ Long Bình, Củ Chi về Sài Gòn; anh còn sử dụng xe Jeep biển số quân Mỹ với vai đại úy quân đội Sài Gòn, lợi dụng lúc nhá nhem tối qua các trạm gác an toàn.

6. Đồng chí Ba Dũng đã lập kế hoạch trừng trị tên Linh Quang Viên (Trung tướng Đặc ủy trưởng Đặc ủy Trung ương tình báo Sài Gòn). Đúng 1 giờ kém 15 phút ngày mồng 2 Tết, tổ điệp báo đã bí mật vào cổng nhà tên Viên đặt chất nổ và kích nổ, tên Viên chạy ra cửa sau thoát chết, tiếng nổ phát ra làm hiệu lệnh tấn công cho lực lượng an ninh trong thành phố.

7. Phân đội an ninh vũ trang bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương II được Chính phủ truy tặng danh hiệu "Đơn vị anh hùng", riêng đồng chí Nguyễn Minh Hoàng, một chiến sĩ tiêu biểu đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng được truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang". Đơn vị trinh sát đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, 8 đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất, hạng Hai, Quân khu T4 tặng cho cá nhân 25 bằng khen.

8 . Mục tiêu Tổng nha Cảnh sát được giao cho cụm biệt động 7 - 8 đánh chiếm trước khi quân chủ lực đến. Đến giờ G đơn vị này còn ở Tân Nhựt (Bình Chánh) nên ta không đánh được mục tiêu này trong Tết Mậu Thân.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 10:44:41 am
NHÌN NHẬN VỀ THẾ TRẬN CÁCH MẠNG MIỀN NAM
SAU TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968,
MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC



Trung tướng, PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC HẢI
Viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng
   


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bản hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là dấu ấn trong lịch sử giải phóng dân tộc. Sau 50 năm nhìn lại sự kiện lịch sử, chúng ta có thể rút ra nhiều vấn đề mang tầm chiến lược và những bài học sâu sắc vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thứ nhất, ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Vào thời điểm Tết Mậu Thân 1968 (ngày 30 và 31-1-1968), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đồng loạt nổ ra trên toàn chiến trường miền Nam, đặc biệt ở Sài Gòn, Huế và nhiều thị xã, thị trấn, các căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra trong bối cảnh quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và các nước đồng minh của chúng tham chiến với một lực lượng quân sự lớn lên tới trên 1.300.000 quân, có vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, được phòng thủ vững chắc. Với tư duy chỉ đạo chiến lược táo bạo, bất ngờ, ta đã đánh thẳng vào các vị trí quan trọng nhất của địch như: Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn, tiến công làm chủ thành phố Huế và hầu khắp các vùng nông thôn rộng lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch, bao gồm cả các thành phố, tỉnh lỵ đều bị tấn công đồng loạt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 không chỉ diễn ra một đợt mà diễn ra nhiều đợt, không chỉ tiến công tuần tự từ ngoài vào mà còn kết hợp từ trong ra, khiến địch bất ngờ, choáng váng.

Đây là một sự kiện lớn, đánh dấu mốc quan trọng có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến tranh nhân dân tổng lực của ta, giáng một đòn quyết định, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm rung chuyển nước Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân viễn chinh ra khỏi miền Nam, chấp nhận thương lượng để có thể kết thúc chiến tranh trong danh dự. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chúng ta đã huy động tổng lực từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, lực lượng đặc công, biệt động..., được nhân dân hết lòng ủng hộ, tích cực phối hợp tham gia chiến đấu; kết hợp chặt chẽ giữa nổi dậy của quần chúng, sự chuẩn bị rất công phu của các lực lượng, giữ được bí mật tuyệt đối của các cấp, các địa phương, đơn vị, sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta để làm nên một kỳ tích "có một không hai" trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp giữa lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, bằng ba mũi giáp công; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và nhỏ; thể hiện nghệ thuật đánh địch bằng mưu cao, kế hiểm. Đánh giá về thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng... giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc" . Bộ Chính trị đánh giá: "Thắng lợi của cuộc tiến công Tết Mậu Thân là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra một bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari, chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hoá" chiến tranh mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh" .

Thứ hai, nhìn nhận về thế trận cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Một là, "thế trận lòng dân" trong chiến tranh nhân dân của cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ cả ở trong nước và trên trường quốc tế sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cuộc chiến tranh chống xâm lược mà Đảng và nhân dân ta tiến hành là cuộc chiến tranh nhân dân, vì vậy, thế trận quan trọng nhất của cuộc chiến tranh này là thế trận lòng dân. Có thể khẳng định, thế trận lòng dân vững mạnh và phát triển, thì dù kẻ thù to lớn đến đâu, sớm muộn sẽ thất bại và ngược lại. Điều quan trọng nhất là, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế trận lòng dân của cách mạng miền Nam tăng cao cả ở trong nước và trên trường quốc tế.

Xét về thế trận lòng dân ở trong nước, sau Tổng tiến công và nổi dậy, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành các hoạt động trả thù hết sức man rợ, hàng loạt cơ sở cách mạng, những người có cảm tình với cách mạng bị bắt bớ, tù đày và giết hại. Riêng ở Huế, hàng ngàn người bị chết và mất tích. Ở Sài Gòn và nhiều đô thị khác trên toàn miền Nam, nhiều chiến sĩ cách mạng bị tra tấn, tù đày và giết hại. Chúng tưởng rằng, bằng hành động dã man đó sẽ đè bẹp ý chí cách mạng vì độc lập, tự do của dân tộc, nhưng chính sự tàn bạo của kẻ thù, đã làm cho tình yêu quê hương, đất nước dâng cao trong lòng đồng bào miền Nam cũng như cả nước. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế trận lòng dân của cách mạng miền Nam không hề giảm sút, mà nó đang bốc cháy một cách âm thầm, mãnh liệt và sẽ bùng lên thiêu trụi hết bọn cướp nước và lũ bán nước, khi thời cơ đến. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã chứng minh rất hùng hồn cho điều đó, chỉ sau Xuân Mậu Thân 1968 có 7 năm, một khoảng thời gian không lớn. Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn được quan thầy Mỹ dày công xây dựng, là điều không thể tránh khỏi. Phải nhìn nhận một cách khách quan, khoa học như vậy, thì mới thấy được cái thế trận lòng dân vững chãi và đang lên của cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Xét về thế trận lòng dân của cách mạng miền Nam trên trường quốc tế, có lẽ những người giàu trí tưởng tượng nhất cũng không thể hình dung được. Bởi lẽ, chỉ sau một đêm thôi, khi mà Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu... bị tấn công, cả nước Mỹ bàng hoàng, rúng động, Tổng thống Giônxơn trở thành tổng thống chiến tranh bị lên án mạnh mẽ. Tại Hoa Kỳ, các nhà bình luận có uy tín thi nhau bình luận bất lợi cho Hoa Kỳ. W. Lippman (Newsweek 11-3-1968) tiên đoán Hoa Kỳ sẽ thất bại tại Việt Nam. Đài truyền hình NBC trong một chương trình đặc biệt về Việt Nam ngày 10-3-1968 kết luận, bỏ mọi chuyện khác ra ngoài, đã đến lúc chúng ta phải quyết định có cần phải phá hủy Việt Nam để cứu Việt Nam không. Tuần báo Time viết: năm 1968 cho chúng ta thấy một sự thật là, chiến thắng - hay ngay cả một cuộc thương thuyết thuận lợi - không ở trong tầm tay của quốc gia mạnh nhất thế giới. Đêm ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn tuyên bố đơn phương ngừng dội bom phía trên vĩ tuyến 20, không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai, và kêu gọi Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị. Nhân dân Mỹ từ chỗ bị lừa gạt, ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của quân đội Mỹ đối với Việt Nam đã phản chiến mạnh mẽ, nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, sức mạnh chính trị của đội quân xâm lược bị lung lay tận gốc rễ, vì thế sức mạnh quân sự giảm, đầu năm 1969, quân đội Mỹ bắt đầu rút quân về nước. Trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào, khi mà thế trận lòng dân được phát huy, thì cuộc chiến đó nhất định sẽ đi đến kết cục có lợi. Sự chuyển hóa nhanh chóng về thế trận lòng dân trên trường quốc tế, đã tạo thế, tạo lực cho cách mạng miền Nam, tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa căn bản về chất.

Hai là, thế trận quân sự của cách mạng miền Nam được củng cố và phát triển cả về xây dựng lực lượng và nghệ thuật quân sự.

Nét đặc sắc sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thể hiện tính bất ngờ, quyết đoán trong việc lựa chọn thời gian, không gian, chọn hướng tiến công, mục tiêu tiến công kết hợp với chỉ đạo và điều hành chiến tranh của Đảng ta tạo nên một hiện tượng "độc nhất vô nhị" hiếm có trong lịch sử chiến tranh. Lựa chọn địa bàn đô thị, thành phố là hướng công kích và khởi nghĩa chủ yếu, trong đó trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, nơi tập trung sinh lực cấp cao của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, sào huyệt đầu não, trung tâm chỉ huy. Về quy mô, đánh rộng khắp đồng loạt trên toàn chiến trường khiến địch không lường được. Đặc biệt chọn thời gian tiến công vào giữa đêm giao thừa - Tết Nguyên đán, thời điểm mà địch không ngờ tới. Giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng, sử dụng lực lượng quân sự tinh nhuệ (đặc công, biệt động) kết hợp mũi tiến công của lực lượng xung kích với những cuộc nổi dậy của quần chúng tại chỗ và vùng nông thôn kế cận, phối hợp quân sự và chính trị, thành thị và nông thôn. Đồng thời, ta thực hiện kéo chủ lực địch ra những chiến trường ta chuẩn bị để giam chân, tiêu diệt địch, làm chúng khó phán đoán ý định của ta, tạo điều kiện thuận lợi cho thành thị tiến công và nổi dậy.

Sự sáng tạo về nghệ thuật quân sự của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thể hiện trong cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và cả trong lịch sử chiến tranh thế giới. Đó là sự vận dụng phương châm "ba vùng chiến lược", sử dụng hai lực lượng chính trị và quân sự để giành thắng lợi cả chính trị và quân sự, sáng tạo về hình thức tiến công đồng loạt để tạo hiệu ứng như một đòn "sét đánh". Thế trận chiến tranh nhân dân của ta cho phép có thể đánh địch ở cả những nơi chúng cho là "bất khả xâm phạm". Chúng ta đã chủ động cả về thời gian và không gian.

Ba là, tạo đột phá về ngoại giao.

Thế trận ngoại giao trước Tổng tiến công không tiến triển. Đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Pari rất khó khăn do ta chưa có các đòn đánh quân sự lớn. Đối với thế giới, một bộ phận dư luận chưa thực sự quan tâm, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh của ta. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế trận ngoại giao của cách mạng miền Nam được cải thiện hơn nhiều. Thắng lợi của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị đã tạo điều kiện cho thế trận ngoại giao phát triển. Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, thắng lợi trên bàn hội nghị ngoại giao chính là quyết định thắng lợi ở chiến trường.

Tại Hội nghị Pari, Mỹ phải thay đổi thái độ với chúng ta, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng có tiếng nói bình đẳng trong hội nghị. Hoạt động ngoại giao của ta đã làm cho nhân dân Mỹ bừng tỉnh, nhận thấy nước Mỹ đang lao vào cuộc chiến tranh đẫm máu, đang lún sâu vào đường hầm không lối thoát; cao trào chống chiến tranh ở Mỹ đã lan rộng và lên cao chưa từng có, phong trào ủng hộ nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mỹ phát triển mạnh.

Bốn là, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế bố trí vùng chiến lược, lực lượng và hậu cần, kỹ thuật của cách mạng miền Nam có biến động lớn gặp nhiều khó khăn.

Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các lực lượng vũ trang trên toàn miền Nam hình thành thế bố trí trên ba vùng chiến lược, đó là rừng núi, đồng bằng và đô thị. Chính thế bố trí chiến lược này đã tạo thế, tạo lực để quân ta tiến hành ba mũi giáp công làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam. Sự bộc lộ toàn bộ lực lượng trên tất cả các đô thị với quyết tâm dồn toàn lực lượng cho trận đánh cuối cùng, khi bị địch phản công đánh trả, thế bố trí chiến lược này bị phá vỡ. Với lực lượng, vũ khí, phương tiện lớn hơn gấp nhiều lần, quân địch đã đẩy lực lượng của ta ra khỏi các đô thị và vùng ven đô. Chẳng hạn, trên địa bàn Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, sau khi chống trả với đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5, đế quốc Mỹ đã tập trung 38 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn quân các nước phụ thuộc Mỹ và 61 tiểu đoàn chủ lực của quân đội Sài Gòn, tổng cộng 90.000 quân cùng lực lượng địa phương tại chỗ tổ chức hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn, với chiều sâu khoảng 100 km, chia làm ba tuyến. Đứng trước tình hình này, Bộ Chính trị chấp nhận: trong đợt 3, trọng tâm tiến công được chuyển ra vòng ngoài, hướng chủ yếu là địa bàn hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, các địa bàn còn lại là hướng phối hợp. Riêng với nội đô Sài Gòn - Gia Định và các thành phố, thị xã khác chủ yếu sử dụng lực lượng pháo binh và biệt động, đặc công bí mật luồn sâu tập kích vào các mục tiêu quan trọng, gây mất ổn định trong các cơ quan chỉ huy đầu não của địch; đồng thời, đưa cán bộ thâm nhập vào nội thành củng cố, ráp nối lại các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, từng bước củng cố lại phong trào.

Về lực lượng, theo thống kê chính thức của Quân giải phóng miền Nam, cả năm 1968 ta loại khỏi vòng chiến đấu 630.000/1.300.000 quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh, tổn thất của ta sau 3 đợt tổng tiến công và nổi dậy là 113.000/300.000 quân. Lực lượng Biệt động Sài Gòn, có những tổ, đội hy sinh toàn bộ, đây là tổn thất rất lớn, bởi đó là lực lượng tác chiến tinh nhuệ nhất của ta hoạt động trong đô thị. Điều đó đòi hỏi phải có sự bổ sung kịp thời từ miền Bắc và tại chỗ, thì mới đáp ứng cho nhu cầu tác chiến của chiến dịch quân sự tiếp theo.

Sau Tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thu hẹp. Do các tổ chức chính trị ngầm chuyên vận động nhân dân đã bị lộ nên trong năm 1969, tại nhiều nơi trên chiến trường, Quân giải phóng bị mất nguồn tiếp tế từ nhân dân. Quân ta phải rút về nông thôn, rừng núi hoặc di chuyển sang biên giới các nước bạn Lào và Campuchia. Mặt khác, với việc chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, quân địch có điều kiện tập trung lực lượng đánh phá khốc liệt hơn các tuyến đường vận chuyển của ta, do đó việc cung cấp hậu cần, kỹ thuật từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam khó khăn hơn rất nhiều, nhất là khu vực Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Đó là những khó khăn mà chiến trường miền Nam phải vượt qua sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Thứ ba, một số bài học vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

Một là, xây dựng "thế trận lòng dân" trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

Đây là bài học hàng đầu, bởi vì, thế trận lòng dân là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng nước ta, trong mọi thời kỳ. Nếu để mất thế trận lòng dân, thì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc không thành công. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhờ có thế trận lòng dân vững chắc và vượt ra khỏi biên giới quốc gia đã giúp chúng ta khắc phục mọi khó khăn, gian khổ đi đến thắng lợi cuối cùng vào mùa Xuân 1975. Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đang đặt ra cho nước ta nhiều thách thức, khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ được hoàn thành khi thế trận lòng dân của đất nước và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế ngày càng vững chắc và mạnh mẽ.

Hai là, xây dựng thế bố trí lực lượng rộng khắp đủ mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bài học này hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay, bởi vì, nền kinh tế nước ta đang phát triển nhanh cả về quy mô và trình độ. Điều đó đòi hỏi, phải xây dựng một nền quốc phòng toàn dân đủ mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Bố trí lực lượng rộng khắp đủ mạnh đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc là một đòi hỏi mang tính thường xuyên, liên tục. Sự hẫng hụt về lực lượng trong các đô thị lớn ở miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy, đó là khó khăn lớn cho toàn cục của cuộc chiến chống quân xâm lược. Trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao nếu xảy ra trong tương lai, tốc độ, quy mô tác chiến sẽ diễn ra rất nhanh và rộng lớn. Vì vậy, ngay từ trong thời bình cần có sự chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ về lực lượng nhằm giữ thế chủ động cho đất nước trước mọi tình huống có thể xảy ra.

Ba là, bố trí lực lượng bảo đảm hậu cần, kỹ thuật trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao bảo vệ Tổ quốc.

Bài học này giữ vị trí cực kỳ quan trọng, bởi vì, trong chiến tranh hiện đại, nhu cầu về hậu cần, kỹ thuật rất lớn, nếu không chuẩn bị kỹ lưỡng trong thời bình, thì khi có chiến tranh xảy ra sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trong khi quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và chư hầu được cung cấp đầy đủ hậu cần, kỹ thuật thì quân đội ta trên chiến trường miền Nam bị hao hụt và thiếu thốn lại bị kẻ thù đánh phá ác liệt ngăn chặn mọi đường tiếp tế. Chính vì thế, bài học này vẫn giữ nguyên giá trị đối với chúng ta trong chuẩn bị và tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân công nghệ cao, bảo vệ Tổ quốc, nếu xảy ra trong tương lai.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đi vào chiều sâu lịch sử của dân tộc. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968-2018), cần nhìn nhận một cách khách quan, khoa học về nhiều mặt, trong đó có vấn đề về thế trận của cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Một mặt, nhằm tri ân sâu sắc những chiến công oanh liệt của cha anh, mặt khác rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 10:51:25 am
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
THAM GIA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng TRƯƠNG VĂN HAI
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã thể hiện sức mạnh, ý chí, quyết tâm cao độ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần làm nên những chiến công lịch sử 50 năm trước. Quá trình giành thắng lợi của lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định được thể hiện qua những nội dung sau:

1. Tổ chức và xây dựng lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ chiến lược

Căn cứ ý định và phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định...", Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo quân và dân trên các chiến trường, đặc biệt là Mặt trận Sài Gòn - Gia Định ra sức chuẩn bị mọi mặt cho "Tết Mậu Thân" 1968. Trước tình hình đó, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức Hội nghị mở rộng để tiếp thu Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục, đề ra kế hoạch, mục tiêu Tổng tiến công và nổi dậy. Nhiệm vụ của Mặt trận là tiến công các căn cứ đầu não của địch tại Sài Gòn; phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành chính quyền; đồng thời, cùng với lực lượng của Phân khu và của Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân. Yêu cầu trước mắt là phải tổ chức lại chiến trường, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, thực hiện 2 nhiệm vụ chính.

Do tính chất đặc biệt quan trọng của Sài Gòn - Gia Định trong Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu Sài Gòn - Gia Định, tổ chức lại chiến trường miền Đông theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Trên cơ sở 5 cánh trước đây, Sài Gòn - Gia Định và một phần của các tỉnh lân cận hình thành 5 phân khu, đồng thời là 5 mũi tiến công vào nội đô gồm: Phân khu 1, hướng tây bắc; Phân khu 2 và 3, hướng tây và tây nam; Phân khu 4, hướng đông bắc; Phân khu 5, hướng bắc; phân khu nội thành (Phân khu 6) phụ trách lực lượng Biệt động, Thành Đoàn, Công vận, Hoa vận, Phụ vận và các cơ sở Đảng ở các "lõm" chính trị. Trên các hướng của 5 phân khu, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh đơn vị địa phương và hoả lực của Miền.

Trung ương Cục thành lập 2 cơ quan: tiền phương Bắc và tiền phương Nam theo sát chỉ đạo Mặt trận Sài Gòn - Gia Định. Công tác hậu cần phục vụ các đơn vị chủ lực do Miền đảm nhiệm kết hợp với hậu cần tại chỗ của các phân khu, đơn vị, địa phương, trước ngày N của chiến dịch, các lực lượng đã vận chuyển xuống vùng trung tuyến, vùng ven, gạo, thực phẩm, vũ khí cho các đơn vị. Riêng lực lượng Biệt động đã chuẩn bị được gần 400 cơ sở, trong đó có nhiều điểm trú ém quân và hầm chứa vũ khí. Các địa phương ở vùng trung tuyến đã huy động hàng chục vạn ngày công vận tải hậu cần ra tuyến trước.

Nhiệm vụ của các đơn vị được phân công như sau:

Các đơn vị Biệt động mang bí số từ 1 đến 9 sau đó thành lập thêm đội Biệt động 11 làm nhiệm vụ đánh các mục tiêu ở nội đô và các đơn vị của lực lượng vũ trang Thành phố phối hợp với các đơn vị tiến công địch ở các hướng:

Ở hướng tây bắc (Phân khu 1), Tiểu đoàn Quyết Thắng 1, Tiểu đoàn Quyết Thắng 2, Tiểu đoàn 8 pháo binh phối hợp với Trung đoàn 16, Trung Đoàn 88, Tiểu đoàn đặc công 429, Sư đoàn 9 tiến công địch từ hướng tây bắc vào nội đô.

Ở hướng tây (Phân khu 2), Tiểu đoàn 6 Bình Tân phối hợp với Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 269 của Quân khu 8 và các Tiểu đoàn 16, 12, Tiểu đoàn pháo binh của Quân khu 8 và 2 Đại đội trinh sát làm nhiệm vụ đánh địch ở hướng tây thành phố.

Ở hướng nam (Phân khu 3), Tiểu đoàn 5 Nhà Bè phối hợp với Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn pháo Kiến Tường (Long An) và Tiểu đoàn Phú Lợi tiến công địch ở hướng nam thành phố.

Ở hướng đông (Phân khu 4) Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 10 đặc công Rừng Sác và Trung đoàn 3, Trung đoàn 4, Sư đoàn 7 của Miền tiến công địch ở hướng đông thành phố.

Ở hướng bắc (Phân khu 5) Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, các đơn vị địa phương Quận 8 phối hợp với Trung đoàn Đồng Nai, Tiểu đoàn 3 Dĩ An tiến công địch ở hướng bắc thành phố.

Đêm 30 rạng 31-1-1968 (tức đêm mùng 1 rạng ngày mùng 2 Tết Mậu Thân), các đơn vị mũi nhọn và biệt động đã đồng loạt nổ súng tiến công nhiều mục tiêu ở nội ngoại thành Sài Gòn. Lực lượng biệt động do đột nhập bằng đường hợp pháp nên ngay từ phút đầu đã vào ém quân gần các mục tiêu đầu não như: Dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Đài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân...

2. Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, từ đêm ngày 30 rạng 31-1-1968 đến ngày 28-2-1968

Tại Dinh Độc Lập, Đội 5 biệt động gồm 17 cán bộ, chiến sĩ triển khai đội hình xuất phát tiến công. Tuy nhiên, do chênh lệch về lực lượng, vũ khí, trang bị và địch tổ chức phòng ngự kiên cố nên đơn vị phải triển khai đội hình chiến đấu trên đường Nguyễn Du. Sau đó rút vào nhà số 56 Thủ Khoa Huân và tổ chức cố thủ trên tầng 3.

Tại Bộ Tổng Tham mưu, Cụm biệt động 679 gồm 27 cán bộ, chiến sĩ tấn công vào cổng số 4 (ngã ba Trương Quốc Dung - Võ Tánh, nay là đường Hoàng Văn Thụ). Địch chống trả quyết liệt ngay từ đầu nên các mũi xung kích không phát triển vào được bên trong căn cứ, phải trụ lại dọc các ngôi nhà kế cận, lợi dụng địa hình chiến đấu. Tiêu diệt và làm bị thương gần 100 tên, bắn cháy 2 xe GMC và phá hủy 1 súng đại liên.
Phối hợp với cụm biệt động, Tiểu đoàn 2 Gò Môn nổ súng tấn công cổng số 5 Bộ Tổng Tham mưu, chiếm được Trường Sinh ngữ, phòng hành chính, dãy nhà sĩ quan và hội trường.

Tại Đại sứ quán Mỹ, các chiến sĩ Đội 11 dùng tiểu liên diệt lính gác ở cổng chính ở đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Sau đó dùng bộc phá đánh lô cốt góc đường Mạc Đĩnh Chi - Thống Nhất và đột nhập vào trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ. Một tổ án ngữ khống chế cổng chính, để tổ xung kích đánh vào Tòa Đại sứ, chiếm tầng trệt, bắt tù binh Mỹ.

Bị tấn công bất ngờ, địch rối loạn, chống trả yếu. Tình thế thuận lợi, tổ của đồng chí Ngô Thanh Vân (Ba Đen) chiếm được tầng 1 và phát triển đến tầng 3, bắt một số tù binh. Mặc dù bị lực lượng hỗn hợp Mỹ và Sài Gòn đến phản kích tái chiếm Đại sứ quán nhưng Đội 11 Biệt động đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chiếm giữ Tòa Đại sứ Mỹ từ tầng trệt đến tầng 3, giữ trận địa được 6 giờ.

Tại Đài Phát thanh Sài Gòn, Đội 4 biệt động tiếp cận trước cổng đài, nhanh chóng chiếm được khu vực đài phát sóng ở tầng một 1.

Trước sự phản kích quyết liệt của địch, các chiến sĩ biệt động kiên quyết giữ vững trận địa.

Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, Đội 3 Biệt động gồm 16 cán bộ, chiến sĩ sử dụng bộc phá đánh sập lô cốt đầu tiên làm hiệu lệnh cho toàn đội xung phong. Địch trong căn cứ đánh trả quyết liệt, các tàu dưới sông dùng hỏa lực bắn đổ đạn vào đội hình của ta.

Ở hướng tây bắc, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng phối hợp với các đơn vị đánh chiếm căn cứ Cổ Loa, Phù Đổng, giữ trận địa được 2 ngày, sau đó chuyển về khu ngã năm Bình Hòa và ngã ba Cây Thị sát Tòa thị chính và Bộ Chỉ huy tiểu khu Gia Định, phát động quần chúng nổi dậy và trụ lại chiến đấu nhiều ngày. Lực lượng vũ trang Tân Bình đánh địch ở Cầu Ván, Cầu Sắt... Lực lượng vũ trang Bình Chánh giải phóng đồn Hưng Long.

Ở hướng tây, Tiểu đoàn 6 Bình Tân thọc sâu theo trục lộ Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2), đánh địch ở Quận 5, Quận 10, Quận 11 khu vực Sư Vạn Hạnh, Vườn Lài, cư xá Hỏa Xa...

Các Tiểu đoàn của Phân khu 3 đánh chiếm các mục tiêu ở Quận 6 và 8; chiếm cầu số 3, các kho gạo bến Bình Đông, phía bắc cầu Nhị Thiên Đường; một mũi thọc sâu đến đường Hậu Giang, Tháp Mười, Dương Công Trừng, Chợ Thiếc... cùng với cánh Hoa vận phát động quần chúng giành quyền làm chủ ở nhiều khu vực.

Ở hướng bắc, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức phối hợp với các đơn vị chiếm được cù lao Bình Quới Tây, trụ lại đánh phản kích nhiều ngày.

Lực lượng vũ trang Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình, Bình Chánh, Tiểu đoàn 7 Củ Chi phối hợp với các đơn vị chủ lực đánh địch ở các bốt Quới Xuân, Thạnh Lộc, An Phú Đông, Tân Thời Hiệp, Đông Thạnh, Nhị Bình, Vàm Thuật...

Ở phía đông nam, hỗ trợ cho lực lượng địa phương, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đánh chiếm đồn Phú Hữu, Lý Nhơn, đồn Đông Hòa, Long Thạnh và 6 ấp chiến lược khác. Đội 5 đột nhập cảng Nhà Bè, đánh chìm tàu trọng tải 10.650 tấn...

Đêm 17-2, ta mở cao điểm 2 của đợt 1, các đơn vị của cấp trên và lực lượng vũ trang thành phố tập kích sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh MACV, Tổng nha Cảnh sát, đài rađa Phú Lâm, gây cho địch nhiều thương vong, phá hủy nhiều máy bay; tấn công Sở chỉ huy, chiếm Sở chỉ huy Tiểu đoàn 3 dù ở Tân Thới Hiệp (Hóc Môn), đột kích vào kho xăng Vũng Bèo; đánh Tiểu đoàn 30 Biệt động quân ở Phú Lâm và Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 Mỹ ở Vĩnh Lộc (Bình Chánh), phá sập cầu Gò Dưa, cầu Giồng Ông Tố, cầu kinh Thanh Đa...

Nhìn chung, các tiểu đoàn mũi nhọn và các lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chiến đấu, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, dũng mãnh tiến công và chiến đấu anh dũng trên mặt trận nội đô và ven đô. Nổi bật nhất là các đơn vị Biệt động, Tiểu đoàn Quyết thắng, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 7 Củ Chi, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

3. Tổng tiến công và nổi dậy đợt 2, từ đêm ngày 4 rạng ngày 5-5-1968 đến ngày 18-6-1968

Ở nội đô, các đội vũ trang tuyên truyền, Biệt động các đoàn thể nổi dậy ở vùng Chợ Thiếc, đường Cao Đạt, Bắc cầu chữ Y, đánh chiếm Tòa hành chính Quận 5, khu vực cầu Ông Lãnh, cầu Kho, chợ Năng Xi, đường Trần Hưng Đạo - Quận 2, khu Bàn Cờ - Quận 3, khu xóm Chiếu - Quận 4, ngã tư Bảy Hiền...

Ở hướng tây bắc, Trung đoàn Quyết Thắng phối hợp với Trung đoàn 16 của Miền tiến công tỉnh lỵ Gia Định, khu vực Gò Vấp, Tân Sơn Nhất, đánh chiếm cầu Hang, cầu Băng Ki, xóm Cây Thị, xóm Thơm, xóm Gà, sở Rác, một phần đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, làm chủ 18 ngày đêm trong thành Gia Định.

Ở hướng tây và tây nam, Tiểu đoàn 6 Bình Tân phối hợp với Tiểu đoàn 267, 269 (Phân khu 2), Tiểu đoàn 308 Trà Vinh, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9, một số đơn vị và lực lượng vũ trang đoàn thể, đánh địch ở cư xá Phú Lâm, Quận 6, trường đua Phú Thọ, ngã tư Bảy Hiền, Biệt khu Thủ Đô, cầu Tre, đường Hậu Giang, làm chủ ở một số khu vực Chợ Lớn và khu vực đường Nguyễn Văn Thoại, chợ An Đông.
Ở hướng nam, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè phối hợp với các đơn vị của Phân khu 3 tiến công vào Quận 4, Quận 8, chiếm giữ cầu chữ Y, đánh Tổng nha Cảnh sát, phát triển vào Quận 1, Quận 2.

Ở hướng đông bắc, Tiểu đoàn 4 Gia Định phối hợp với Tiểu Đoàn 3 Dĩ An, Trung đoàn Đồng Nai đánh địch ở khu vực ngã tư Hàng Xanh, Thị Nghè, Quận 3.

Ở hướng đông, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức phối hợp với các đơn vị của Phân khu 4 và Tiểu đoàn pháo binh, pháo kích vào Bộ Tư lệnh Hải quân, khu Tân Cảng, kho Nhà Bè, Dinh Độc Lập.

Ở hướng đông nam, Trung đoàn 10 có nhiệm vụ đánh tàu địch trên sông Lòng Tàu, Xoài Rạp và đánh các kho tàng, cơ quan đầu não của địch.

Lực lượng vũ trang Quận 8 bám trụ đánh địch ở Bến Đá, cầu Sập, Hố Bần, rạch Bà Tàng, cầu Kiệt, đường Âu Dương Lân, Phạm Thế Hiển.
Tổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, từ ngày 31-1-1968 đến hết đợt 2, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 47.000 tên địch (phần lớn là rã ngũ, đào ngũ), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 21 tiểu đoàn, 97 đại đội quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân đồng minh của Mỹ, bắn rơi và phá hủy hàng chục máy bay các loại, phá hủy gần 1.000 xe quân sự, trong đó có hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, đánh sập 19 cầu cống, tiêu diệt, bức hàng, bức rút 150 đồn bốt. Trong những chiến công to lớn của lực lượng vũ trang thành phố, có sự đóng góp xuất sắc của lực lượng Biệt động Sài Gòn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã làm chấn động nước Mỹ, đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây là một thắng lợi to lớn cả về chính trị, quân sự và ngoại giao.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng với cả nước, với miền Nam thành đồng, bất khuất, với thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu, chiến công của lực lượng vũ trang thành phố sẽ sống mãi và là hành trang của thế hệ trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi chúng ta và các thế hệ mai sau có thể nhìn rõ ở đó sức mạnh phi thường của lòng yêu nước tuyệt vời, của trí thông minh, sáng tạo, của nghệ thuật chiến tranh nhân dân giành thế chủ động, tạo bí mật, bất ngờ chiến lược, biết đánh và biết chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nội dậy Mậu Thân 1968.



-----------------------------------------------------------------
1. Theo hiệp đồng của ta, một bộ phận nhân viên kỹ thuật của Đài Phát thanh Giải phóng sẽ đến đọc bản "Tuyên bố của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam" và "Lời kêu gọi ngụy quân ngụy quyền", nhưng lực lượng này không thể cơ động đến mục tiêu đúng như dự kiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 10:57:51 am
LỰC LƯỢNG PHÁO BINH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng HOÀNG QUANG THUẬN
Chính ủy Binh chủng Pháo binh


Cách đây vừa tròn 50 năm, vào thời điểm quân đội viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường lên tới trên 50 vạn, cộng với quân đội Sài Gòn và quân một số nước đồng minh của Mỹ là trên một triệu, được trang bị vũ khí hiện đại, cũng là thời điểm ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng nhiều thị xã, thị trấn và căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, gây chấn động nước Mỹ và dư luận thế giới.

Cùng với các lực lượng tham gia, pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 có nhiệm vụ: Chi viện cho bộ binh đánh chiếm, giữ các căn cứ thị trấn, thị xã, quận lỵ, thành phố; tiêu diệt sinh lực địch trong và ngoài công sự. Tập kích hỏa lực vào các cơ quan đầu não, sở chỉ huy các cấp, các trận địa hỏa lực, khu trung tâm thông tin, kho tàng, sân bay, bến cảng, đầu mối giao thông; làm rối loạn hệ thống chỉ huy; ngăn chặn sự tiếp tế chi viện của địch.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta đã tổ chức xây dựng lực lượng pháo binh đều khắp ba thứ quân; tổ chức tăng cường lực lượng, trang bị pháo cho các mặt trận và chỉ đạo các mặt trận tiếp nhận hoặc tổ chức tiểu đoàn pháo cối nhỏ trang bị ĐKB, H12, cối 82mm; phát triển mạnh pháo binh bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, nhất là vùng trọng điểm; trang bị pháo, cối mang vác. Đến cuối năm 1967, các tỉnh có đại đội pháo, một số tỉnh có tiểu đoàn pháo, một số huyện có đại đội pháo cối; các huyện, xã vùng tranh chấp, vùng giáp ranh, vùng bao quanh căn cứ lớn đều tổ chức các khẩu đội, trung đội súng cối, trong đó có nhiều đội nữ pháo binh, làm cơ sở để pháo binh các mặt trận liên tục bắn phá các mục tiêu ở cả ba vùng rừng núi, đồng bằng và thành thị trên toàn miền Nam. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Pháo binh cũng đề nghị Bộ điều động nhiều đơn vị pháo phản lực, pháo xe kéo hành quân vào chiến trường. Đầu năm 1968, ngoài pháo binh được biên chế trong các trung đoàn, sư đoàn bộ binh, lực lượng pháo cơ động thuộc Bộ Tư lệnh Miền và các quân khu, mặt trận đã tăng lên đáng kể.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, Binh chủng đã chủ động chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị đường hành quân vào trận địa và đo đạc đội hình chiến đấu, xác định mục tiêu bắn; việc đảm bảo đạn dược cho chiến trường cũng được lập kế hoạch chi tiết để pháo binh có thể đánh liên tục và trên diện rộng. Hàng trăm tấn khí tài trinh sát, thông tin, phụ tùng thay thế cho xe pháo cùng thuốc men, nhu yếu phẩm được gửi vào chiến trường góp phần nâng cao khả năng chiến đấu của các đơn vị.

Do công tác chuẩn bị chiến trường và lực lượng tốt, nên pháo binh đã hình thành được thế bố trí rộng khắp, đủ sức tiến công liên tục, dài ngày.

 Hoạt động chiến đấu của pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 được chia thành 2 đợt.

Kết quả tác chiến của pháo binh trong đợt 1, từ ngày 30-1 đến ngày 31-3-1968, lực lượng pháo binh đã thực hiện 652 trận đánh hiệp đồng và độc lập lớn (trung bình mỗi ngày đánh 11 trận), tiêu diệt 14.519 quân Mỹ và Sài Gòn (chiếm 33% tổng số địch bị diệt trên miền Nam); phá hủy 1.452 máy bay các loại (chiếm 62% tổng số máy bay bị diệt trên toàn miền Nam ở 42 sân bay); phá hủy 1.431 xe cơ giới các loại; phá hủy 159 khẩu pháo hạng nặng gồm các loại 105, 155, 175 ly cùng hàng trăm khẩu pháo, cối nhỏ; bắn phá 242 kho hậu cần của địch, làm cháy 10 vạn lít xăng, hủy hàng ngàn tấn bom, đạn. Pháo binh đã tham gia đánh địch vận chuyển đường sông, bắn chìm 47 tàu chiến và tàu vận tải lớn của địch. Đặc biệt, ngày 8-2, trên sông Cổ Chiên (Vĩnh Long), bộ đội pháo binh bắn chìm 9 tàu, phá hủy 6 pháo, diệt 600 tên lính Mỹ; ngày 5-3, bắn chìm một lúc 6 tàu chở quân và tiếp tế trên sông Cà Mau; ngày 21-2, bắn chìm 3 tàu lớn, diệt 100 tên địch.

Tháng 4-1968, Bộ Chính trị ra nghị quyết chỉ đạo tiếp tục mở đợt tiến công thứ 2. Thời gian này, địch đã có sự chuẩn bị từ trước, tập trung 2/3 lực lượng Mỹ và toàn bộ lực lượng quân đội Sài Gòn, cố giữ các thành phố lớn, nhất là xung quanh Sài Gòn.

Kết quả trong đợt 2 (từ ngày 4-5 đến ngày 7-8-1968), riêng pháo binh miền Đông Nam Bộ đã tiêu diệt trên 3.000 tên địch trong đó phần lớn là sinh lực kỹ thuật, lực lượng bảo vệ nội thành và quân cơ động Mỹ; phá hủy một số lớn phương tiện cơ động, dự trữ hậu cần, bom đạn, nhiên liệu, khống chế phá hoại một số sân bay, hải cảng quan trọng nhất của địch. Ngoài ra pháo binh còn thu hút, cầm chân một bộ phận hỏa lực cơ động của địch, căng địch ra, hỗ trợ cho những khu vực trọng điểm.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các hình thức chiến thuật đều có những bước phát triển mới, điển hình là chiến thuật công kiên, chiến thuật vây lấn và đặc biệt là chiến thuật độc lập tập kích hỏa lực. Trong tổ chức hỏa lực đã có bước phát triển mới, vừa kết hợp các trận địa đại đội, tiểu đoàn pháo binh với tổ chức cụm pháo binh quy mô 4 tiểu đoàn pháo xe kéo; kết hợp nhiều loại pháo bắn thẳng, bắn gián tiếp, pháo mang vác, pháo xe kéo, pháo rãnh xoắn, pháo phản lực; tổ chức pháo binh nhiều cấp, tạo thành hỏa lực pháo binh nhiều tầng, nhiều lớp tập trung vào hướng, khu vực mục tiêu tiến công chủ yếu, tạo ưu thế đánh thắng địch.

 Về chiến thuật công kiên: Lần đầu tiên trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, pháo binh chi viện cho bộ binh, xe tăng đánh địch trong công sự vững chắc. Trong trận Làng Vây, bộ đội pháo binh đã giải quyết được vấn đề hiệp đồng chiến đấu cùng bộ binh, xe tăng, giữa xe tăng tiến công với hỏa lực pháo binh chi viện tiến công. Các trận chiến đấu đã đánh dấu sự phát triển của chiến thuật pháo binh.
Chiến thuật vây lấn có bước phát triển về quy mô. Ta sử dụng hai trung đoàn pháo binh 675 và 45 với 24 khẩu Đ74 và 36 khẩu ĐKB tham gia tập kích hỏa lực vào Tà Cơn và vây hãm Tà Cơn. Trong 54 ngày đêm đánh vây lấn, pháo binh đã chi viện cho các binh chủng từ vây hãm phát triển thành vây lấn. Ngoài pháo binh chiến dịch, ta còn dùng súng cối, ĐKZ đánh sân bay, bắn phá cắt tiếp tế đường bộ, hạn chế tiếp tế đường không, buộc địch sớm đưa quân giải tỏa Tà Cơn theo đúng dự kiến của ta.

Chiến thuật tập kích tuy không lớn về quy mô nhưng rất phong phú về cách đánh và sự chỉ đạo vận dụng chiến thuật, nhất là các trận luồn sâu tập kích hỏa lực trong nội thành Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, đánh vào tận cơ quan đầu não địch, tạo nên một số trận đánh của pháo binh đạt hiệu suất cao như tập kích sân bay Kon Tum với 9 viên đạn ĐKB phá hủy 16 máy bay; trận tập kích kho xăng Nhà Bè với 14 viên ĐKB làm cháy 5 triệu lít xăng; trận tập kích sân bay Pleiku với 30 viên đạn cối 82mm phá hỏng 20 máy bay. Quá trình phát triển chiến thuật tập kích đã góp phần giành quyền chủ động trên chiến trường và thúc đẩy các hình thức chiến thuật khác phát triển.

Về quy mô tuy không lớn nhưng đã có bước phát triển về cơ động lực lượng. Ta đã đưa một lực lượng lớn pháo, đạn qua vùng địch chiếm đóng, vào sát mục tiêu để bất ngờ tập kích hỏa lực vào sào huyệt của địch và phối hợp thực hiện nhiều trận tập kích trong cùng một thời điểm.

Lực lượng pháo binh tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, gồm hầu hết các loại pháo trực thuộc các Bộ Chỉ huy Miền, pháo trong biên chế của các đơn vị chủ lực, pháo của tỉnh đội, huyện đội, súng cối của dân quân xã; tổng số lực lượng pháo tham gia, chỉ tính pháo dự bị quân khu trở lên có 56 tiểu đoàn pháo cối, gồm 34 tiểu đoàn pháo mang vác và 22 tiểu đoàn pháo xe kéo, từ pháo chiến thuật đến pháo chiến dịch; đặc biệt với sự xuất hiện của các loại pháo có tầm bắn xa, uy lực lớn nhưng trọng lượng nhẹ có thể mang vác cá nhân, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội pháo binh như A12, ĐKB.

Tổng kết trong 2 đợt tổng tiến công của 6 tháng đầu năm 1968, pháo binh miền Nam đã tham gia chiến đấu 2.030 trận, bao gồm 416 trận hiệp đồng với các binh chủng bạn và 1.614 trận đánh độc lập, tiêu diệt gần 25.800 tên địch, phá hủy 385 pháo cối, 2.149 máy bay, 2.064 xe cơ giới, 508 kho tàng các loại. Kết quả chiến đấu của lực lượng pháo binh trong 2 đợt tổng tiến công và nổi dậy đầu năm 1968 đã chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng, lập thành tích to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao; góp phần thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương trong tổng tiến công và nổi dậy.

Đánh giá vai trò của lực lượng pháo binh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục miền Nam nhận xét: Trong chiến thắng chung, pháo binh đã với tới những mục tiêu quan trọng trong trung tâm các thành phố mà bộ đội đặc công chưa vào tới. Pháo binh đã đánh phá liên tục kéo dài trong lúc bộ binh phải tạm dừng lại, rút ra củng cố. Hoạt động của pháo binh đã buộc địch phải điều chỉnh lực lượng lớn về tăng cường phòng thủ các vành đai và ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự.

Từ thực tế sử dụng pháo binh trong chiến đấu và vai trò của pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, sử dụng pháo binh rộng khắp, tạo thành những đợt đánh đồng loạt, đánh liên tục trong chiến đấu và trong chiến dịch.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy được chia ra nhiều đợt, mở đầu bằng các trận bắn phá đồng loạt của hoả lực pháo binh. Suốt từ bắc Quảng Trị đến đồng bằng Nam Bộ, pháo binh đã chiến đấu với quy mô rộng lớn chưa từng có, các loại pháo các cỡ lớn, nhỏ, mang vác, xe kéo được sử dụng hầu hết trong các trận tiến công. Ngoài các đơn vị pháo binh trực thuộc các Bộ Chỉ huy chiến trường Miền và quân khu, pháo trong biên chế các đơn vị chủ lực và pháo của tỉnh đội, huyện đội đều phát huy cao nhất hoả lực tiến công địch.

Hoạt động chiến đấu của pháo binh được thực hiện theo kế hoạch của từng chiến trường đồng thời cũng được thực hiện theo ý đồ chiến lược, hình thành thế tiến công rộng lớn của hoả lực pháo binh kết hợp với các binh chủng khác trong tổng tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng đều khắp miền Nam. Nhờ việc phân công mục tiêu, bố trí lực lượng và hiệp đồng thời gian chặt chẽ, chỉ trong một đêm hoặc vài đêm, hàng loạt căn cứ địch ở rất xa nhau đều cùng bị bắn phá, làm cho quân địch bị căng ra không thể ứng cứu cho nhau hiệu quả.

Qua thực tiễn chiến đấu, pháo binh đã hiệp đồng với các binh chủng bạn và độc lập tham gia chiến đấu rộng rãi, đều khắp, đồng loạt và liên tục, đạt hiệu quả tốt. Hoạt động đều khắp và liên tục của pháo binh đã gây thiệt hại nặng cho địch, buộc chúng vào thế bị động, lúng túng giam mình trong các căn cứ phòng thủ, luôn luôn bị tiêu hao, tiêu diệt, gây căng thẳng cho địch, hạn chế sự cơ động đối phó, hoạt động lùng sục giải toả của chúng; mặt khác tạo thế tiến công của ta không bị gián đoạn, phát huy được thế chủ động tiến công, vừa đánh vừa bổ sung bồi dưỡng lực lượng, chuẩn bị cho những đợt chiến đấu lớn hơn.

Hai là, nâng cao hiệu suất chiến đấu trong mọi hình thức tác chiến.

Nâng cao hiệu suất chiến đấu đối với pháo binh là một yêu cầu của đánh tiêu diệt cần phải đạt được. Trong 2 đợt tổng tiến công, một số trận đặc biệt đạt hiệu suất chiến đấu cao như Đồng Lâm, Đông Hà, Cửa Việt, Nhà Bè, đã tiêu diệt được nhiều sinh lực có giá trị, nhất là sinh lực cao cấp của địch; phá huỷ được nhiều phương tiện kỹ thuật quân sự quan trọng (máy bay, bom đạn, xăng dầu, trạm rađa, thông tin điện tử...), làm suy yếu chỗ mạnh của địch buộc chúng phải bị động lúng túng về chiến dịch, chiến thuật; sử dụng lực lượng và đạn dược hợp lý, kết quả tiêu diệt nhiều địch; tỉ lệ và số thương vong trong các trận đánh thường thấp.

Hiệu suất chiến đấu cao của pháo binh góp phần vào thắng lợi trong từng trận đánh và trong các chiến dịch. Những tổn thất nghiêm trọng của địch trong thời gian ngắn do pháo binh ta gây ra buộc địch phải bị động đối phó, đảo lộn nhiều kế hoạch, tác động mạnh đến hoạt động chiến thuật, chiến dịch và cả về chiến lược của địch. Việc nâng cao hiệu suất chiến đấu góp phần tiết kiệm đạn trong điều kiện tiếp tế, bổ sung của ta còn gặp nhiều khó khăn.

Ba là, nhận thức đúng đắn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo hai cách đánh của pháo binh trong mọi hình thức tác chiến.

Trong 2 đợt tổng tiến công, pháo binh chưa đánh được nhiều trận hiệp đồng tiêu diệt lớn, song đã phát triển khá phong phú ở nhiều hình thức tác chiến và có những kinh nghiệm tốt. Trong đánh hiệp đồng, pháo binh đã chi viện cho bộ binh, xe tăng đánh cứ điểm Làng Vây làm tê liệt sở chỉ huy, khu trung tâm thông tin, hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ. Pháo binh còn chi viện cho bộ binh đánh nhiều trận hiệp đồng để tiêu diệt quân địch ở Khâm Đức (Khu 5); đánh địch ứng cứu xung quanh Sài Gòn và giữ cầu chữ Y phía nam Sài Gòn. Trong đánh chiếm và giữ thành phố, lần đầu tiên pháo binh chi viện cho bộ binh chiếm giữ Huế 25 ngày đêm (2-1968) và chiếm giữ từng khu, từng quận trong đợt 2 tiến công vào Sài Gòn (6-1968).

Trong đánh hiệp đồng, để thực hiện mục đích chung của trận đánh, ngoài tinh thần sẵn sàng chi viện, lực lượng pháo binh còn phải có tinh thần tích cực, chủ động, mạnh dạn đề đạt ý kiến về cách đánh với bộ binh, thường xuyên nghiên cứu cách đánh cho phù hợp với sự phát triển của tình hình.

Trước yêu cầu nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch ngày càng cao, pháo binh đã vận dụng lối đánh độc lập, giành thắng lợi lớn và có khá nhiều kinh nghiệm phong phú. Với cách đánh độc lập, pháo binh đã phát triển mạnh với nhiều hình thức sáng tạo, từ chỗ bôn tập đánh một trận rồi rút ra đến luồn sâu trụ lại đánh dài ngày; đánh sân bay địch phải ngừng hoạt động trong một thời gian như trận tập kích hỏa lực ở Tà Cơn, Phú Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất. Pháo binh ta đã đánh vào những mục tiêu trọng điểm, như đánh vào các cơ quan đầu não của địch, căn cứ hậu cần, đường giao thông huyết mạch, đánh quân cơ động địch; đã phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Pháo binh 3 thứ quân đã chiến đấu liên tục, đánh đều khắp với nhiều trận đánh đạt hiệu quả cao. Phối hợp với các lực lượng vũ trang khác, pháo binh cũng đồng thời tiến công vào cơ sở chính quyền Sài Gòn, vào sào huyệt bọn đầu sỏ ác ôn, góp phần làm suy yếu bộ máy đàn áp phản cách mạng, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Bằng các trận đánh độc lập, chỉ trong đợt đầu tổng tiến công, pháo binh đã tiêu diệt và phá huỷ 63% số máy bay và 40% quân Mỹ trong toàn bộ số máy bay và số quân Mỹ bị diệt.

Bốn là, vừa chiến đấu vừa xây dựng, phát triển lực lượng pháo binh có chất lượng tốt.

Để đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến đấu, nhiều đơn vị pháo binh xây dựng ở hậu phương chỉ được củng cố tổ chức, bồi dưỡng quyết tâm, huấn luyện kỹ thuật trong thời gian ngắn là đã lên đường đi làm nhiệm vụ. Trong quá trình hành quân vào chiến trường phải tranh thủ huấn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đến nơi phải gấp rút chiến đấu mà vẫn bảo đảm đánh thắng ngay trận đầu. Các đơn vị đang chiến đấu ở chiến trường cũng tranh thủ thời gian đệm giữa 2 đợt tổng tiến công để bồi dưỡng cán bộ và nhân viên kỹ thuật, nhằm đáp ứng yêu cầu chiến đấu; thường xuyên sơ kết, rút kinh nghiệm từng trận, từng đợt để nâng cao trình độ chỉ huy kỹ chiến thuật. Các đơn vị pháo xe kéo lần đầu tiên vào chiến trường đã có những tiến bộ rõ rệt sau những ngày chiến đấu ác liệt. Trung đoàn 675 trong quá trình chiến đấu đã phát triển thành 2 trung đoàn. Trung đoàn 675B kịp tăng cường cho chiến trường tây Trị Thiên tác chiến ở A Sầu, A Lưới v.v..

Việc một đơn vị sử dụng nhiều loại pháo ở một số chiến trường đã được thực hiện tốt như ở Tây Nguyên, Nam Bộ. Có đơn vị đã sử dụng được cả 5 loại pháo như: ĐKB, cối 120 mm, cối 82 mm, ĐKZ 75 và sơn pháo 75 mm, chứng tỏ cán bộ, chiến sĩ pháo binh ta đã thể hiện tinh thần tích cực tiêu diệt địch, tận dụng mọi khả năng vũ khí đạn dược sẵn có của chiến trường, đáp ứng được yêu cầu liên tục, kịp thời trong chiến đấu.

Có thể nói, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã thể hiện sức mạnh của nhiều thành phần lực lượng; trong đó, có sức mạnh to lớn của lực lượng pháo binh Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cách mạng ở nước ta, pháo binh đã tiến hành thắng lợi một cuộc tập kích hỏa lực chiến lược đều khắp vào nhiều mục tiêu trọng yếu trên chiến trường Nam, gây cho địch bị động, lúng túng và thiệt hại rất lớn về phương tiện chiến tranh. Sức mạnh đó là nghệ thuật xây dựng lực lượng chiến lược, tập trung lực lượng trong từng chiến dịch, từng trận đánh cụ thể, đặc biệt trong các trận then chốt, quyết định để giành thắng lợi; đồng thời là sự vận dụng phương pháp, kỹ năng tác chiến linh hoạt, sáng tạo. Với khả năng tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng quân binh chủng tốt, pháo binh xứng đáng với vai trò là hỏa lực chủ yếu của lục quân và là hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội ta.

Với những thành tích và kinh nghiệm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bộ đội pháo binh cùng toàn dân, toàn quân vững vàng bước vào một thời kỳ chiến đấu mới, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Hiện tại và trong tương lai, lực lượng pháo binh Việt Nam vẫn luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong tác chiến. Những bài học về nghệ thuật sử dụng pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 vẫn có ý nghĩa quan trọng trong huấn luyện và chiến đấu của bộ đội pháo binh ngày nay.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 11:21:05 am
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁC PHÂN KHU
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THẬN 1968



LÊ HOÀNG QUÂN
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Bí thư Thành ủy,
nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

PGS.TS. PHAN XUÂN BIÊN
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một mốc son lịch sử chói lọi, đánh dấu bước ngoặc lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX. 50 năm trôi qua đã có biết bao công trình tổng kết, hội thảo khoa học, sách chuyên khảo đánh giá, phân tích nhiều khía cạnh khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau về sự kiện lịch sử trọng đại này. Chúng tôi cũng đã có những ý kiến về chủ đề này. Năm nay, được Ban Tổ chức Hội thảo cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm Mậu Thân 1968 "phân công" viết tham luận về "lực lượng vũ trang các phân khu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968", xin nêu một số điểm sau đây.

1. Chuyển hướng tiến công chiến lược, từ đánh địch vùng rừng núi sang chiến trường đô thị - một sáng tạo vĩ đại

Đến năm 1967, Mỹ thực hiện "chiến tranh cục bộ" được 2 năm, quân và dân ta đã trải qua 2 mùa chiến dịch trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ, làm thất bại một bước quan trọng chiến lược "chiến tranh cục bộ". Trên cơ sở đó, ta bước vào xây dựng kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 nhằm tiếp tục nâng cao khả năng, hiệu quả tác chiến của quân ta, phấn đấu đã diệt được tiểu đoàn Mỹ tiến lên diệt trung đoàn, lữ đoàn; diệt trung đoàn, sư đoàn quân đội Sài Gòn; đặc biệt là phải diệt gọn. Để đạt được mục tiêu đó không dễ, song giả như có đạt được thì cũng chưa tạo nên được sự chuyển biến chiến lược, và như vậy thì khó tạo nên chiến thắng mang tính quyết định, mà sẽ nhùng nhằng mãi, không thể "hạ thủ" đối phương. Trong tình hình đó, những khối óc sáng tạo, những tư duy táo bạo xuất hiện, đột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược từ chiến trường nông thôn, rừng núi, đánh thẳng vào các thành phố, căn cứ trung tâm, là đầu não, sào huyệt của địch. Công sức, trí tuệ của Bộ Tổng Tham mưu, Quân ủy Trung ương đến sự quyết tâm chiến lược, chỉ đạo sắc bén của Bộ Chính trị, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành chủ trương chiến lược tổng tiến công và tổng công kích Tết Mậu Thân 1968. Từ Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5 rồi tháng 6, tháng 7-1967, đặc biệt là Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1967 trong 5 ngày (20-10 đến 24-10), về cơ bản, đã hình thành chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968 là bất ngờ, đồng loạt tấn công vào các đô thị trên toàn chiến trường miền Nam. Và đến cuối tháng 12-1967, Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch chiến lược năm 1968, sau đó thông qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương bằng Nghị quyết số 14-NQ/TW quyết định "tổng công kích, tổng khởi nghĩa", với mục tiêu giành thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Theo đó, hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành phố trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng. Trong đó, Sài Gòn - Gia Định là địa bàn đặc biệt, là thủ phủ của các cơ quan đầu não của bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, là chiến trường trọng điểm của hướng tiến công chiến lược trọng điểm Xuân Mậu Thân 1968.

2. Sắp xếp lại lực lượng, hình thành các phân khu của khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định

Quán triệt chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo các địa phương, các đơn vị ra sức chuẩn bị mọi mặt để khi có thời cơ sẽ thực hiện tấn công địch bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Trong đó, đặc biệt chỉ đạo hướng tấn công trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới. Theo đó, ngày 25-10-1967, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Quân khu Miền Đông, tổ chức lại chiến trường, trong đó thành lập khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định do Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo. Khu trọng điểm bao gồm địa bàn Sài Gòn - Gia Định và các địa phương giáp ranh thuộc các tỉnh lân cận của Sài Gòn - Gia Định, được chia thành 5 phân khu để hình thành 5 mũi tấn công vào nội đô, đồng thời có một phân khu nội đô. Trở lại lịch sử giai đoạn cuối của "chiến tranh đặc biệt", thế và lực cách mạng phát triển sau những chiến thắng oanh liệt, cục diện chiến trường đã xuất hiện khả năng giành những thắng lợi lớn. Trung ương Cục, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Chí Thanh và Nguyễn Văn Linh cùng Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo kế hoạch chuẩn bị tiến công quân sự vào một số mục tiêu quan trọng trong Thành phố kết hợp nổi dậy của quần chúng, làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch. Đó là kế hoạch mùa khô 1964-1965, thường gọi là "Kế hoạch X". Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã nỗ lực xây dựng các loại lực lượng gồm 8 tiểu đoàn chủ lực và địa phương; hơn 3.000 quân du kích, tổng cộng lực lượng vũ trang quân khu hơn 9.000 người, tương đương với lực lượng vũ trang của toàn quân khu miền Đông . Địa bàn Sài Gòn - Gia Định được chia thành 5 cánh; mỗi cánh có phần địa bàn nông thôn và 1 phần đô thị. Chính 5 cánh này được mở rộng thêm phần địa bàn của các tỉnh lân cận, hình thành 5 phân khu (từ phân khu 1 đến phân khu 5); còn phân khu nội đô là phân khu 6. Lực lượng vũ trang của Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã được xây dựng từ 1961 đến nay đóng vai trò nòng cốt của lực lượng các Phân khu của khu trọng điểm chuẩn bị tấn công địch vào mùa Xuân 1968.

- Phân khu 1 gồm các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp (Gia Định) cùng với Bến Cát, Dầu Tiếng (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh) do đồng chí Trần Đình Xu làm tư lệnh.

- Phân khu 2 gồm Tân Bình, Bắc Bình Chánh, các quận 3, 5, 6 (Sài Gòn - Gia Định) và các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ (Long An) do đồng chí Ba Long, sau đó là đồng chí Nguyễn Văn Sĩ làm tư lệnh.

- Phân khu 3 gồm các quận 2, 4, 7, 8, Nhà Bè, Nam Bình Chánh, (Sài Gòn - Gia Định) và các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) do đồng chí Tư Thân làm tư lệnh.

- Phân khu 4 gồm Thủ Đức, Thạnh Mỹ Tây (Gia Định) và Long Thành - Biên Hòa, Nhơn Trạch do đồng chí Lương Văn Nho làm tư lệnh.

- Phân khu 5 gồm Phú Nhuận, Bình Hòa (Gia Định) và Tân Uyên, Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An (Bình Dương) do đồng chí Nam Thu làm Chính ủy. N.C.S tư lệnh, sau bị bắt và đầu hàng.

- Phân khu 6 phụ trách nội thành gồm lực lượng biệt động, võ trang Thành Đoàn, Hoa Vận, Phụ Vận... do đồng chí Trần Hải Phụng làm tư lệnh.

Căn cứ vào vị trí, vai trò và mục tiêu, nhiệm vụ của từng Phân khu mà bố trí lực lượng phù hợp để tạo nên những cánh tấn công thọc sâu sắc bén. Phân khu 6 làm nhiệm vụ "khai hỏa" mở đầu cuộc tiến công theo giờ G ngay tại sào huyệt của địch nên chủ yếu là lực lượng biệt động Thành và lực lượng võ trang của các cánh như Thành Đoàn làm thê đội 2, Hoa vận phối hợp... Ở Phân khu 1 từ hướng tây bắc là một hướng tấn công quan trọng với nhiều đơn vị của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, nên được bố trí lực lượng khá mạnh, gồm Tiểu đoàn Quyết Thắng 1, 2, tiểu đoàn pháo binh 8. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Miền tăng cường thêm Trung đoàn 16, Trung đoàn 88, Tiểu đoàn pháo binh 9, Tiểu đoàn đặc công 429 và lực lượng dự bị phía sau là Sư đoàn 9 chủ lực Miền. Ở Phân khu 2 từ hướng tây và tây nam gồm có Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 267 và 269 của Quân khu 8, các Tiểu đoàn 16 và 12 (đặc công), 1 tiểu đoàn pháo... Ở Phân khu 3, từ hướng nam có Tiểu đoàn 5 Nhà Bè và Tiểu đoàn 1, 2 của Long An, Tiểu đoàn Phú Lợi 2, Tiểu đoàn pháo binh Kiến Tường. Ở Phân khu 4 từ hướng đông có Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn đặc công 10, được tăng cường Trung đoàn 3, Trung đoàn 4 của Sư 7 chủ lực Miền. Ở Phân khu 5, có Trung đoàn Đồng Nai và Tiểu đoàn 3 Dĩ An.

Theo đó, lực lượng của các Phân khu của khu trọng điểm có nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu quan trọng nhất nội thành Sài Gòn như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Tổng nha Cảnh sát... với sự khai hỏa là lực lượng biệt động của Phân khu 6, chiếm giữ trong 2 giờ, sau đó các Tiểu đoàn mũi nhọn từ các cánh quân đồng loạt tiến về các mục tiêu, thôi động cả thành phố cùng các lực lượng tiến công bằng mọi hình thức để giành thắng lợi quyết định.

3. Các phân khu vào trận, những trận đánh tiêu biểu, góp phần quan trọng làm nên Mậu Thân 1968 lịch sử

Theo Lời chúc Tết của Bác Hồ "Tiến lên toàn thắng ắt về ta" - hiệu lệnh tấn công Tết Mậu Thân 1968, đêm 30 rạng 31-1-1968 1, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định, đại diện là lực lượng biệt động Phân khu 6 đã đồng loạt tấn công các mục tiêu của chiến trường trọng điểm. Đội 5 biệt động tấn công Dinh Độc Lập trước giờ G 2 phút, từ 1 giờ 57 phút ngày mùng hai Tết, chống cự đến sáng ngày mùng 3 Tết, vượt xa kế hoạch 2 giờ đánh giữ mục tiêu được giao. Đã bắn cháy 2 xe Jeep, diệt gần 50 tên, 17 cán bộ, chiến sĩ đánh vào Dinh Độc Lập đã hy sinh 10 người, còn lại bị thương rồi bị bắt.

Đặc biệt và có tiếng vang xa nhất, rúng động cả nước Mỹ và thế giới là trận đánh của biệt động Phân khu 6 vào mục tiêu Đại sứ quán Mỹ. Đây là mục tiêu được Bộ Tư lệnh Tiền Phương 2 (gồm đồng chí Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Trần Hải Phụng) "bổ sung" vào ngày 25-1-1968 và giao cho Đội 11 Biệt động Phân khu 6 đảm nhiệm. Dù thời gian rất ngắn, song Bộ Chỉ huy Phân khu đã tích cực chuẩn bị khá đầy đủ, để đúng giờ G, 16 cán bộ, chiến sĩ Đội 11 do đồng chí Ba Đen vốn là người lo các cơ sở cất giấu vũ khí của A30 trực tiếp chỉ huy tấn công vào đầu não quân Mỹ xâm lược. Các chiến sĩ đã tiêu diệt lính gác, bắn thủng tường rào, xông vào bên trong Tòa Đại sứ quán, chiếm tầng 1, phát triển lên đến tầng 3. Đơn vị đã chiếm giữ mục tiêu được hơn 6 giờ, chống trả quyết liệt sự phản công của đông đảo lực lượng địch; 5 binh sĩ Mỹ tử vong tại trận, 22 bị trọng thương chết tại bệnh viện và 14 bị thương. Ta hy sinh tại chỗ 15 chiến sĩ, đồng chí Ba Đen bị bắt. Đây là trận đánh tiêu biểu, làm rúng động toàn xã hội Mỹ và thế giới; làm cho nhân dân Mỹ bàng hoàng, hiểu rõ hơn về "sức mạnh", "thế và lực" thực chất của quân viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam, từ đó tạo nên sức ép dư luận mạnh mẽ, tạo khuynh hướng đòi chấm dứt chiến tranh, phong trào phản chiến của lính Mỹ...

Tại mục tiêu Bộ Tư lệnh Hải quân, đội 3 biệt động Thành gồm 16 chiến sĩ do đồng chí Bảy Lốp chỉ huy, đã chiến đấu ngoan cường từ 2 giờ đến 6 giờ sáng ngày mùng 2 Tết, diệt 12 tên địch, có 2 tên Mỹ. Nhưng tổn thất của ta quá lớn - 14 đồng chí hy sinh, 2 người bị bắt, trong đó đồng chí Bảy Lốp đã bị tên giám đốc Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn Nguyễn Ngọc Loan bắn chết trên đường phố 2.

Tại mục tiêu Đài Phát thanh Sài Gòn, đội 4 biệt động Phân khu 6 gồm 14 cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu ngoan cường ngay từ phút đầu nổ súng. Chỉ 5 phút, đơn vị đã chiếm được khu vực Đài Phát thanh ở lầu 1, nhưng không có bộ phận kỹ thuật của ta, nên không phát được Tuyên bố của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam kêu gọi chính quyền Sài Gòn, làm hạn chế tác động của chiến thắng. Sau 4 giờ 31 phút chiếm giữ mục tiêu, vượt xa kế hoạch Bộ Chỉ huy Phân khu 6 giao, 10 chiến sĩ đội 4 đã anh dũng hy sinh. Ta đã tiêu diệt được 38 tên địch, bắn cháy 1 xe bọc thép, 1 xe GMC.

Tại mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu, cụm biệt động 6-9 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ đã tiến công vào cổng số 4 ngã ba Trương Quốc Dung - Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ). Vì địch chống trả quyết liệt, ta không vào được bên trong căn cứ, nhưng các chiến sĩ biệt động đã chiến đấu anh dũng, ngoan cường chống trả địch vô cùng ác liệt, tiêu diệt và làm bị thương gần 100 tên, 2 xe GMC. Ta có 10 người hy sinh, 4 người bị bắt, 3 người mất tích.

Phối hợp với lực lượng biệt động của Phân khu 6, các tiểu đoàn mũi nhọn của các Phân khu trong khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định cũng như các lực lượng phối thuộc trên các hướng đã xuất kích tấn công địch bằng nhiều mũi. Tiêu biểu là lực lượng của Phân khu 1 từ hướng bắc, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng đã đánh vào căn cứ pháo binh Cổ Loa và thiết giáp Phù Đổng, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều vũ khí của địch; chiếm giữ mục tiêu trong nhiều ngày. Trong đợt cao điểm 1 của đợt 1 Tổng tiến công Mậu Thân, từ ngày 31-1 đến 8-2-1968, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng diệt 750 tên địch, bắt gần 100 tù binh, bắn cháy 22 chiến xa... Tiếp theo đợt "đệm" hay cao điểm 2 của đợt 1, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng cùng các đơn vị khác như Tiểu đoàn 2 Quyết Thắng, Tiểu đoàn Gia Định 4, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 liên tiếp tấn công địch khắp các địa bàn của hướng tây bắc. Nhìn chung trong đợt 1 Tổng tiến công Mậu Thân, Phân khu 1 đã độc lập và phối hợp tác chiến 156 trận, diệt 1.803 tên địch, thu nhiều vũ khí, bức rút 15 bốt, giải phóng 12 khu ấp chiến lược, đưa hàng trăm gia đình trở về đất cũ, bám trụ, chiến đấu.

Bước vào đợt 2 (từ ngày 4-5 đến ngày 18-6-1968), lực lượng vũ trang Phân khu 1 tiếp tục tấn công địch từ hướng tây bắc, gồm Trung đoàn Quyết Thắng phối hợp với các Trung đoàn của Miền đánh địch ở khu vực Xóm Mới, Cây Xoài, An Nhơn (Gò Vấp) tiêu diệt hàng trăm tên địch; sau đó phối hợp với Trung đoàn Đồng Nai, tấn công địch ở thành Gia Định, quần nhau với địch suốt 18 ngày đêm, tiêu diệt và làm bị thương khoảng 500 tên địch. Có thể nói, Trung đoàn Quyết Thắng, đơn vị chủ công của Phân khu 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đánh sâu vào thành phố, chiếm được nhiều mục tiêu quan trọng, diệt hàng ngàn tên địch, hàng chục xe tăng, thiết giáp, máy bay. Song đã bị tổn thất gần hai phần ba quân số.

Từ hướng tây và tây nam do Phân khu 2 phụ trách. Do địch chống trả quyết liệt nên nhiều đơn vị phải chuyển mục tiêu, đánh địch tùy theo tình thế. Riêng Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã đột phá thọc sâu vào nội đô và tác chiến đạt hiệu quả cao từ Tân Nhựt (Bình Chánh) qua Phú Thọ Hòa rồi đến Trường đua Phú Thọ kịp nổ súng vào đêm mở màn chiến dịch; tấn công biệt đoàn cảnh sát dã chiến 222, chi khu cảnh sát Nguyễn Văn Thoại, trại cảnh sát dã chiến Trần Quốc Toản, phát triển qua Bà Hạt, Nguyễn Kim, Nguyễn Tri Phương - Quận 10. Đêm ngày 2-2, tiểu đoàn tổ chức mít tinh tại Ngã Bảy Lý Thái Tổ, tuyên truyền chiến thắng của lực lượng quân giải phóng. Dù địch đã liên tiếp điều quân bao vây các đại đội, các mũi tấn công của tiểu đoàn, nhưng Tiểu đoàn 6 Bình Tân vẫn kiên cường tấn công địch từ mọi nơi. Tính từ ngày 1 đến 14-2-1968, Trung đội 1, Tiểu đoàn Bình Tân đã chiến đấu liên tục, thọc sâu nhất là đến quận 3, ra Tân Nhựt, An Lạc, diệt và làm bị thương gần 500 tên địch. Đồng thời tiểu đoàn cũng bị tổn thất nặng, hy sinh, bị thương, bị bắt, mất tích 380 cán bộ, chiến sĩ. So với mục tiêu, kế hoạch đặt ra, Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã hoàn thành xuất sắc với một quyết tâm cao độ. Trong đợt 2, Tiểu đoàn 6 Bình Tân được phân công phối hợp với Tiểu đoàn 267, 269 (Phân khu 2) cùng Tiểu đoàn 308 Trà Vinh và lực lượng Sư đoàn 9 chủ lực Miền tấn công vào Phú Lâm, quận 6 đến Trường đua Phú Thọ, Bảy Hiền, Biệt khu thủ đô, tiến đến quận 3. Đêm 25-5-1968, Tiểu đoàn 6 Bình Tân cùng các đội phối thuộc đã đánh chiếm cư xá Phú Lâm A, Cầu Tre, Hậu Giang và mở rộng vào nội thành cho đến đầu tháng 6 mới kết thúc. Như vậy, trong 2 đợt tổng tiến công Mậu Thân, trên hướng tây nam, Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã hoàn thành xuất sắc vai trò tiểu đoàn mũi nhọn, ba lần tấn công vào nội thành, đánh trên 30 trận lớn nhỏ, diệt 138 tên địch và các phương tiện chiến tranh của địch. Toàn tiểu đoàn bị tổn thất khoảng hai phần ba quân số.

Ở hướng đông, đông bắc, hướng nam, các Phân khu 4, 5, 3 cũng đã phối hợp vào trận ngay từ đêm 31-1 và tham gia cả đợt hai. Tiêu biểu trong đợt 1, lực lượng vũ trang Phân khu 3 như Tiểu đoàn 2 Long An đã tiến công từ quốc lộ 4 sang cầu Nhị Thiên Đường, vào phường Chánh Hưng, Bình An (quận 8); Tiểu đoàn 1 Long An tấn công chốt ngã ba Bến Đá, chiếm bến Phạm Thế Hiển. Tiểu đoàn Phú Lợi đánh chiếm khu vực Bình Điền, phát triển qua Phú Định (quận 6), đánh ra Đa Phước...

Trên hướng Phân khu 4 và Phân khu 5, Tiểu đoàn Dĩ An thọc sâu đánh chiếm các chi khu cảnh sát, và kiên cường đánh địch phản kích suốt cả ngày 1-2. Sau đó tiếp tục đánh địch ở xã Bình Quới Tây. Tiểu đoàn 1 Thủ Đức, cùng biệt động của huyện tấn công địch ở khu vực cầu Sài Gòn. Sang đợt 2, lực lượng Phân khu 3 gồm 4 tiểu đoàn được phân công phối hợp với Tiểu đoàn 5 Nhà Bè tấn công vào quận 4, quận 8, chiếm cầu Chữ Y. Phân khu 4 và Phân khu 5 ở hướng đông Bắc và hướng đông phối hợp với Tiểu đoàn 4 Gia Định tấn công Gò Vấp, lên Bình Hòa; Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 2 Phân khu 4 tấn công cầu Sài Gòn, quận 9 (Thủ Thiêm) và phát triển vào nội thành. Bước vào chiến dịch (từ ngày 5-5), các đơn vị được phân công đã đánh vào cầu Sài Gòn, chiếm Thạnh Mỹ Lợi, Bình Trưng. Hai tiểu đoàn Phân khu 5 đánh vào khu vực cầu Bình Triệu, cầu Bình Lợi và ngã tư Hàng Xanh, tiến đến cầu Phan Thanh Giản; pháo kích vào Tân Cảng.

Như vậy, qua 2 đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Lực lượng vũ trang các Phân khu thuộc khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định bao gồm lực lượng vũ trang của quân khu Sài Gòn - Gia Định trước đây với các đơn vị tăng cường của các tỉnh lân cận và của Miền đã vào cuộc nhịp nhàng với các chiến trường trên toàn miền Nam. Qua 2 đợt, trên các hướng tiến công, lực lượng vũ trang các phân khu đã loại khỏi vòng chiến đấu 47.000 tên địch (có gần 20.500 quân Mỹ và quân các nước đồng minh); tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 21 tiểu đoàn, 97 đại đội quân Mỹ - quân đội Sài Gòn và quân các nước đồng minh; bắn rơi và phá hủy 500 máy bay các loại; phá hủy 1.480 xe quân sự, trong đó có 630 xe tăng và thiết giáp; tiêu diệt, bức rút, bức, bức hàng 150 đồn bốt . Với kết quả ấy lực lượng võ trang các phân khu của khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định đã góp phần xứng đáng làm nên Mậu Thân 1968 lịch sử, mở ra một cục diện mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải "xuống thang" chiến tranh, làm sụp đổ chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, mở ra thời cơ để đánh cho "Mỹ cút, ngụy nhào".

4. Một vài suy nghĩ từ những người lính thuộc lực lượng vũ trang các phân khu trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định

- Lực lượng vũ trang các phân khu của khu trọng điểm trong Mậu Thân 1968, mà chủ yếu là lực lượng của quân khu Sài Gòn - Gia Định trước và sau Mậu Thân bao gồm đặc công biệt động, bộ đội địa phương, quân chủ lực rất đỗi tự hào đã có những đóng góp quan trọng, từ trí tuệ, ý chí quyết tâm, tài mưu lược, chiến đấu, dũng cảm kiên cường đến sự hy sinh cao quý làm nên chiến thắng vĩ đại của Mậu Thân, mãi mãi được ghi đậm trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Trong đó, lực lượng biệt động Thành thuộc Phân khu 6 đã mở đầu xuất sắc cuộc tổng tiến công ở Sài Gòn - Gia Định và các đô thị, gây chấn động lớn, "đã lập công đầu" của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Các Tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu, đặc biệt Tiểu đoàn Quyết Thắng, Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

- Thành tích to lớn trên đây chính là kết quả của quá trình xây dựng lực lượng vũ trang của chiến trường đô thị đầy sáng tạo, nhạy bén và căn cơ. Ngay từ khi mới thành lập Quân khu Sài Gòn - Gia Định 1961, Khu ủy và Bộ Chỉ huy Quân khu đã chủ trương tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang đa dạng, vùng Củ Chi ngoại thành thì tổ chức các đơn vị tập trung; vùng ven Sài Gòn thì tổ chức du kích, tự vệ mật, hoạt động theo phương châm: đánh đau, đánh hiểm nhưng không lộ mặt, vẫn "công khai" trong vùng tạm chiếm. Sau đó tổ chức lực lượng trinh sát quân báo hoạt động nội thành và dần dần xây dựng lực lượng biệt động. Hoàn thiện ba thứ quân, ba vùng nối kết nhau: nông thôn ngoại thành, ngoại ô và nội đô. Nhờ vậy phong trào chiến tranh du kích bằng lực lượng vũ trang công khai và bí mật kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị, tạo nên ngọn đòn tấn công mạnh mẽ của cách mạng ngay tại sào huyệt của kẻ thù. Đồng thời, lực lượng biệt động Thành tiến hành những trận đánh giành thắng lợi vang dội, như Rạp chiếu bóng Kinh Đô, Khách sạn Caravelle, cư xá Brink, tàu U.S Card, Đại sứ quán Mỹ... Đặc biệt chuẩn bị "Kế hoạch X" của mùa khô 1964-1965 với 25 mục tiêu xếp loại "A" mà trong đó có 9 mục tiêu được chọn làm điểm tấn công vào Xuân Mậu Thân 1968. Công tác bảo đảm với hai đơn vị A20, A30, vận chuyển, bảo quản vũ khí được thực hiện từ "Kế hoạch X" đã được phát huy hiệu quả trong chiến dịch Mậu Thân. Như vậy Sài Gòn - Gia Định đã "đi trước" một bước", nhờ đó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

- Thắng lợi nào cũng có sự hy sinh, tổn thất. Đó là sự thật lịch sử khách quan. Không làm lại lịch sử được, nhưng lịch sử cho ta những bài học quý giá và có thể giải quyết được những hậu quả lịch sử. Bài học từ sự thành công của Mậu Thân được áp dụng trong thời kỳ kháng chiến sau đó và trong thời bình sau năm 1975 là sự sáng suốt, táo bạo tìm ra hướng tấn công mới; bí mật, bất ngờ tạo nên sức mạnh mới trong tương quan lực lượng, trong khó khăn thử thách. Trong lúc địch còn mạnh, nhất là ở Thành phố, song lại là nơi chúng rất chủ quan, sơ hở. Đánh vào đó sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, và thực tế đợt 1 chúng ta đã giành thắng lợi lớn. Trong thời bình, nhất là 10 năm đầu giải phóng, ta đã có nhiều kế hoạch để khắc phục hậu quả chiến tranh, tìm đường phát triển, song ngày càng khủng hoảng. Trong điều kiện đó Thành phố đã tìm cách đổi mới, phải đột phá, và đã thành công.

Đồng thời, từ những tổn thất của sự kiện Mậu Thân 1968 cũng cho ta những bài học bổ ích. Trước hết là nhận định, đánh giá phải chuẩn xác; phương châm, giải pháp phải phù hợp, không duy ý chí, chủ quan. Mục tiêu của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 được đặt ra quá cao, không phù hợp với tương quan lực lượng lúc bấy giờ. Sự tính toán phối hợp giữa bộ đội biệt động, các thê đội 2 hỗ trợ biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn phải vượt qua nhiều chướng ngại đã không chính xác nên không thực hiện được, làm cho biệt động Phân khu 6 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không chỉ giữ mục tiêu 2 giờ mà còn hơn nhiều, nhưng rồi phải chịu tổn thất gần như hoàn toàn. Các đơn vị mũi nhọn cũng mất hai phần ba quân số. Sau đợt 1, tình hình địch - ta đã thay đổi theo hướng có lợi cho địch, dù ta vẫn nêu cao tinh thần quyết chiến, tiếp tục giáng những đòn quyết định vào ý chí xâm lược của kẻ địch song phải chịu tổn thất nặng nề. Rõ ràng, mục tiêu cao, tính toán chưa sát, lại quyết tâm cao, nên lâm vào tình trạng "khát nước" (theo cách nói của người trong cuộc ở Sài Gòn - Gia Định sau Mậu Thân). Tổng khởi nghĩa không diễn ra như chủ trương "Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa", lại kéo dài tấn công vào đô thị, chậm chuyển hướng về vùng nông thôn rộng lớn, làm cho tình hình ngày càng khó khăn. Sau Mậu Thân 1968, Phân khu 6 cùng Khu ủy Sài Gòn - Gia Định phải trải qua cuộc "hành quân 1.000 ngày không nghỉ" 3 .

Lực lượng biệt động làm nên chiến công đầu vang dội trong Tết Mậu Thân 1968 nay không còn nữa, nhiều người hy sinh, rất ít người có mộ phần, một số "ra quân" về với đời thường gặp không ít khó khăn. Anh em còn lại, những người thân thỉnh thoảng có làm giỗ tưởng niệm những chiến sĩ đã khuất, cũng chạy vạy chung tay lo toan ít nhiều cho những người có cuộc sống thiếu thốn, nhưng có lẽ nên có chính sách đãi ngộ phù hợp, gìn giữ và phát huy đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta.
 



-----------------------------------------------------------------
1. Ở chiến trường Thừa Thiên Huế tấn công vào đêm giao thừa, trước 1 ngày do đổi lịch.

2. Đồng chí Tư Chu (Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Phân khu 6, đã ghi dưới bức ảnh Nguyễn Ngọc Loan dí súng bắn anh Bảy Lốp "Mối thù này phải trả!". Đợt 2, Nguyễn Ngọc Loan bị bắn trọng thương.

3. Xem sơ đồ Khu di tích lịch sử của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tại huyện Mỏ Cày (Bến Tre).


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 01:57:53 pm
VAI TRÒ CỦA CỤC THAM MƯU MIỀN
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng LÊ BỬU TUẤN
Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân khu 7


Bước vào giai đoạn 1967-1968, với vai trò là cơ quan tham mưu, chỉ huy cấp chiến dịch, chiến lược, Cục Tham mưu Miền đã chủ động tham mưu, đề xuất cho Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang B2 kiên quyết giữ vững tinh thần tiến công cách mạng, xây dựng, củng cố và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn; tổ chức và điều chỉnh chiến trường, phân bổ lực lượng trên từng hướng tiến công, bảo đảm giữ vững quyền chủ động chiến lược, phát huy hiệu quả cao nhất, tạo điều kiện cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra đúng kế hoạch. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Cục Tham mưu Miền đã tổ chức có hiệu quả mạng lưới nắm địch, nghiên cứu và phân tích tình hình địch - ta một cách toàn diện, giúp cho Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền chỉ huy, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thống nhất trên toàn chiến trường, giành thắng lợi to lớn, làm thay đổi cục diện chiến tranh.

1. Nắm và đánh giá tình hình địch - ta, tham mưu cho Bộ Chỉ huy Miền tổ chức lại chiến trường và lực lượng chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân ở B2

Hội nghị tháng 6-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: Thắng lợi Đông - Xuân 1966-1967 của ta là thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị đề ra chủ trương đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam lên bước phát triển mới, với nội dung chủ yếu là chuyển hướng trọng tâm tiến công từ vùng rừng núi, nông thôn vào các đô thị sào huyệt đầu não của địch, giáng cho địch một đòn quyết định, giành thắng lợi to lớn, tạo nên sự chuyển biến nhảy vọt.

Để chuẩn bị cho cuộc tiến công vào đô thị chủ yếu là Sài Gòn, Bộ Chỉ huy Miền đã giao cho các cơ quan giúp Quân khu Sài Gòn - Gia Định tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các tiểu đoàn mũi nhọn. Cơ quan tham mưu khẩn trương xây dựng kế hoạch tiến công địch trên cơ sở "Kế hoạch X" trước đây1.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Chỉ huy, bên cạnh việc tham mưu chỉ đạo các đơn vị địa phương chiến đấu đánh địch trong mùa mưa, tháng 7-1967, Cục Tham mưu đã thành lập một bộ phận chuyên trách xây dựng "Kế hoạch X" do đồng chí Trần Văn Danh phụ trách. Trong một thời gian ngắn, Phòng Quân lực, Quân huấn đã xây dựng xong tổ chức, biên chế lực lượng, trang bị và tài liệu huấn luyện kỹ, chiến thuật tác chiến trong thành phố cho các tiểu đoàn mũi nhọn. Cục cũng đã cử cán bộ trực tiếp xuống căn cứ Lò Gò theo dõi các tiểu đoàn mũi nhọn huấn luyện. Tuy phải tập trung theo dõi, tổng hợp tình hình hoạt động của các quân khu trong đợt hoạt động Hè - Thu 1967 và triển khai kế hoạch tiến công địch tại Lộc Ninh, Bù Đốp đầu mùa khô 1967-1968, nhưng đến tháng 9-1967, Cục Tham mưu đã hoàn thành dự thảo kế hoạch 5 mũi tiến công vào Sài Gòn - Gia Định và các mục tiêu đánh chiếm trong nội đô Sài Gòn; phân công các tổ trinh sát bằng nhiều phương thức tiếp cận nghiên cứu các mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn.

Ngày 25-10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên chiến trường B2 (Nghị quyết Quang Trung). Ngày 4-11-1967, Trung ương Cục miền Nam tổ chức hội nghị mở rộng quán triệt Nghị quyết Quang Trung. Tại hội nghị, đồng chí Hoàng Văn Thái được bổ nhiệm làm Tư lệnh Miền. Trên cơ sở giải thể Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Quân khu miền Đông cũng như yêu cầu thực tế của chiến trường, cấp trên quyết định thành lập 6 phân khu, từ phân khu 1 đến phân khu 5, mỗi phân khu có từ 2 đến 4 tiểu đoàn mũi nhọn, trang bị gọn nhẹ, hình thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn. Phân khu 6 là phân khu nội đô chỉ huy lực lượng biệt động thành, tự vệ thành, quần chúng cách mạng tiến công các mục tiêu đầu não của địch và nổi dậy giành chính quyền.

Để bảo đảm cho tổng tiến công giành thắng lợi, Cục Tham mưu phải triển khai gấp nhiều công việc do Bộ Chỉ huy Miền yêu cầu. Tuy đã có sự chuẩn bị trước, nhưng từ thủ trưởng cơ quan đến các trợ lý của Cục đều chưa hình dung hết khối lượng và tính chất công việc. Mặc dù vậy, do chủ động khắc phục khó khăn nên kế hoạch tổng tiến công của lực lượng vũ trang B2 và kế hoạch tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định vẫn liên tục được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện. Theo đó, Phân khu 1 gồm: Tiểu đoàn Quyết Thắng, Tiểu đoàn Gò Môn, Tiểu đoàn 4 đặc công, tăng cường Trung đoàn 16 có nhiệm vụ tiến công hướng bắc - tây bắc Sài Gòn; Phân khu 2 gồm Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 269, Tiểu đoàn Bình Tân, Tiểu đoàn 12 đặc công, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn pháo vác vai, 2 đội trinh sát, tiến công hướng tây nam; Phân khu 3 gồm Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An, Tiểu đoàn Phú Lợi 2, Tiểu đoàn Đồng Nai, Tiểu đoàn pháo Kiến Tường, Tiểu đoàn đặc công, tiến công hướng nam; Phân khu 4 gồm Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn đặc công được tăng cường, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9, tiến công hướng đông bắc; Phân khu 5 gồm Tiểu đoàn 3 Dĩ An và Trung đoàn Đồng Nai tiến công từ hướng bắc; Phân khu 6 phụ trách nội đô, gồm 3 cụm biệt động, tiến công các mục tiêu đã được phân công. Lực lượng còn lại của Sư đoàn 9 tiến công quân trường Quang Trung, Trung tâm viễn thông Quán Tre, ngăn chặn không cho Sư đoàn 25 địch về ứng cứu cho Sài Gòn. Sư đoàn bộ binh 5, được tăng cường Tiểu đoàn đặc công, Trung đoàn pháo binh 724, lực lượng vũ trang Biên Hòa, tiến công sân bay Biên Hòa, Bộ Tư lệnh dã chiến 2 Mỹ và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3. Kế hoạch được Quân ủy và Trung ương Cục thông qua vào cuối tháng 12-1967.

Song song với chỉ đạo các đơn vị địa phương chuẩn bị tổng tiến công và nổi dậy, Đảng ủy Cục Tham mưu còn ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo Đảng bộ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xuống đường tiến công và nổi dậy. 100% cán bộ, đảng viên của Đảng bộ xung phong xuống đường chiến đấu. Các phòng, ban đã lập danh sách lực lượng làm nhiệm vụ ở Sở chỉ huy tiền phương, các phái viên theo từng mũi tiến công vào Sài Gòn và nhanh chóng triển khai nhiệm vụ. Những phòng phải triển khai lực lượng trên các hướng là Phòng Quân báo, Phòng Thông tin, Phòng Đặc công cơ giới và Phòng Quân lực.

Đầu tháng 1-1968, Cục Tham mưu Miền đã tiến hành thu thập và thể hiện được toàn bộ các mục tiêu quan trọng của địch bố trí trong các thành phố, thị xã ở Đông Nam Bộ. Các cụm trinh sát công khai dẫn nhiều đồng chí trong Bộ Chỉ huy Miền, chỉ huy các phân khu trực tiếp vào nội đô Sài Gòn quan sát mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha Cảnh sát, Đặc ủy trung ương tình báo 2... Tiểu đoàn Trinh sát 46 triển khai Đại đội 2 tăng cường cho Sư đoàn 5 trinh sát nắm địch tại Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy và sân bay Biên Hòa, Đại đội 1 và Đại đội 3 xuống Bưng Còng (nam Bến Cát) phục vụ Bộ Chỉ huy tiền phương Bắc. Cùng thời gian, Cục Tham mưu Miền đã triển khai các cụm thông tin vô tuyến điện, các tổ thông tin vận động xuống Rạch Tra (Hóc Môn) triển khai mạng liên lạc phục vụ Tư lệnh tiền phương chỉ đạo, chỉ huy Phân khu 1 và Sư đoàn bộ binh 9 triển khai nhiệm vụ. Phòng Thông tin cung cấp khí tài và điều động nhân viên kỹ thuật giúp đỡ các phân khu thành lập ban thông tin, mỗi phân khu có 1 đài 15W, các tiểu đoàn mũi nhọn được trang bị tổ thông tin vô tuyến điện đủ theo biên chế. Để chuẩn bị cho tổng tiến công, một ngày mạng thông tin toàn Miền phát hàng trăm bức điện, triển khai hàng trăm kilômét dây hữu tuyến điện đi các hướng. Do chấp hành nghiêm quy chế bảo mật, tổ chức chôn dây thông tin và ngụy trang khéo léo, nên địch gần như không phát hiện được gì cho đến trước giờ tổng tiến công.

2. Vừa chỉ đạo, vừa tham mưu cho Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo, điều chỉnh, bổ sung lực lượng, mục tiêu và rút kinh nghiệm trong quá trình Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân ở B2

Đêm 30 rạng 31-1-1968, các đội biệt động thành tiến công vào 6 mục tiêu chiến lược (Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn, Dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh hải quân, Tòa Đại sứ Mỹ, sân bay Tân Sơn Nhất), trong đó có 4 mục tiêu ta đã chiếm toàn bộ hoặc một phần trong nhiều giờ (Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh Sài Gòn, cổng số 4 căn cứ Bộ Tổng Tham mưu). Từ 5 giờ sáng ngày 31-1 đến hết ngày 1-2, các tiểu đoàn mũi nhọn trên 5 hướng tổ chức đánh chiếm các mục tiêu được phân công và đánh địch phản kích. Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại cổng số 4 Bộ Tổng Tham mưu, tại ngã ba Cây Thị, chợ Bàn Cờ, cầu Tham Lương, trường đua Phú Thọ. Do các đơn vị tăng viện không đến kịp và bị địch ngăn chặn nguồn tiếp viện từ phía sau, các tiểu đoàn mũi nhọn phải lùi ra ngoài vùng ven đô. Riêng hướng Phân khu 2, Phân khu 3 còn một bộ phận của Tiểu đoàn Bình Tân, Tiểu đoàn 267, 16, 269 trụ lại chiến đấu đến ngày 7-1-1968. Hiệp đồng với lực lượng đánh nội đô, Sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Trung đoàn 16, Tiểu đoàn Phú Lợi đồng loạt tiến công các mục tiêu sân bay Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, thị xã Thủ Dầu Một, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tiêu diệt và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

 Tổng tiến công đồng loạt trên nhiều hướng, đánh nhiều mục tiêu, đánh trực tiếp vào cơ quan đầu não chỉ đạo, chỉ huy chiến tranh của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân vào Sài Gòn đã giành thắng lợi lớn về quân sự và chính trị. Tại Quân khu 8, Quân khu 9, đồng loạt tiến công ở các trọng điểm trong đêm 31-1, các đơn vị Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 và Tiểu đoàn 504 của Quân khu 8 tiến công thành phố Mỹ Tho; Tiểu đoàn bộ binh của tỉnh Bến Tre tiến công thị xã Bến Tre. Tại thành phố Cần Thơ, Quân khu ủy Khu 9 đã trực tiếp chỉ đạo 3 tiểu đoàn tập trung của tỉnh (Tây Đô, 303, 309) và lực lượng biệt động tiến công vào thành phố Cần Thơ. Các đơn vị của ta đánh chiếm được nhiều mục tiêu tại Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, gây cho địch nhiều thiệt hại. Mỹ, ngụy bàng hoàng trước đòn đánh bất ngờ của ta. Ngày 17-2-1968, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ phải cay đắng báo cáo với Tổng thống Mỹ rằng: "Cuộc tấn công ban đầu của Việt cộng đã gần thành công ở hàng chục điểm. Để tránh thất bại chỉ có thể có những biện pháp phản ứng kịp thời" .
Tuy bị bất ngờ, choáng váng những giờ đầu nhưng sáng ngày 31-1, Mỹ, ngụy đã tổ chức lực lượng phản kích quyết liệt vào các mũi tiến công của ta. Các đội biệt động Thành bị thương vong, tổn thất đến 80% quân số. Hướng tiến công của Phân khu 1, Phân khu 4 và Sư đoàn 5 bị mất liên lạc với Bộ Chỉ huy tiền phương. Phần lớn các tiểu đoàn mũi nhọn thọc sâu vào nội đô không còn giữ được liên lạc với cấp trên. Các đơn vị phải độc lập chiến đấu trong sự phản kích quyết liệt của địch.

Trong những ngày ác liệt, cán bộ, chiến sĩ Cục Tham mưu đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh bám sát các hướng. Khi chiến sự xảy ra, Cục đã cử cán bộ tác chiến trực tiếp xuống những đơn vị mất liên lạc để nắm tình hình, trực tác chiến kịp thời tổng hợp tình hình chiến trường báo cáo Bộ Chỉ huy Tiền phương. Để bảo đảm thông tin, Cục đã tổ chức triển khai 3 phương tiện thông tin để phục vụ chỉ huy. Địch đánh phá ác liệt, đường dây hữu tuyến điện đứt nhiều lần nhưng các tổ, trạm thông tin vẫn kiên cường khắc phục, đã có 2 tổ đài 15W bị trúng bom, hầu hết các đài 2W đi tăng cường cho các tiểu đoàn mũi nhọn đều hy sinh, nhưng tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ không hề giảm. Các cơ quan còn lại của Cục đã phối hợp với cơ quan của Cục Chính trị làm công tác động viên chiến trường, củng cố bổ sung quân, cấp phát vũ khí trang bị để các đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Từ đêm 19-2 đến 7-3-1968, lực lượng vũ trang B2 thực hiện cao điểm 2 của đợt 1 tổng tiến công và nổi dậy, với các mục tiêu: sân bay Tân Sơn Nhất, khu kho Hạnh Thông Tây, kho Nhà Bè, Biệt khu Thủ đô, khám Chí Hòa và một số mục tiêu tại quận 5, 7, 8. Do tính bất ngờ không còn, địch tăng cường phòng thủ nhiều tuyến quanh Sài Gòn nên hầu hết các đơn vị của ta không thọc sâu được vào trong nội đô, mà chỉ thực hiện pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất 3 lần vào các đêm (17-2, 24-2, 2-3) và pháo kích vào Biệt khu Thủ đô, kho xăng An Nhơn, Nha Cảnh sát đô thành. Cao điểm 2 đã gây cho địch một số thiệt hại nhưng về phía ta lực lượng bị tổn thất lớn.

Kết thúc đợt 1 tổng tiến công và nổi dậy, Bộ Chỉ huy Miền đánh giá bên cạnh những thắng lợi có ý nghĩa to lớn về chính trị, quân sự gây chấn động trong nước và quốc tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại chiến trường B2 còn bộc lộ những điểm yếu. Đó là hướng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Khu 8, Quân khu 10 hoạt động quân sự chưa tương xứng với yêu cầu của tổng tiến công và nổi dậy. Tại trọng điểm Sài Gòn - Gia Định ngay khi nổ súng, chỉ huy tiền phương, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền không nắm được đầy đủ tình hình phía trước, các đơn vị cũng không giữ được liên lạc các cánh và đơn vị bạn. Vì vậy, việc chỉ huy, điều động chi viện cho nhau trong chiến đấu rất hạn chế. Những hạn chế này là do sự thiếu sót trong công tác tham mưu, ta không lường hết được các tình huống cần giải quyết trong cuộc tiến công quy mô lớn.

*
*        *

Trong giai đoạn cách mạng mới, tình hình thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp khó lường. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", "bạo loạn lật đổ" nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tình hình trên đặt ra cho quân đội ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề, Bộ Tham mưu Quân khu 7 cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tốt các bài học kinh nghiệm của Cục Tham mưu Miền trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Đồng thời, với vai trò là cơ quan trung tâm chỉ huy, hiệp đồng của lực lượng vũ trang Quân khu 7, Bộ Tham mưu Quân khu 7 cần tập trung thực hiện một số nội dung sau:

1- Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu về công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ đột xuất khác; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tổ chức biên chế tinh gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao; nâng cao chất lượng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng các tuyến phòng thủ và khu vực phòng thủ các cấp trên địa bàn Quân khu 7.

2- Luôn luôn cảnh giác, nắm chắc tình hình địch, bạn, ta một cách toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Tham mưu là phải tổ chức nắm địch, nắm ta rõ ràng, bày mưu kế khôn khéo, tổ chức chỉ huy thông suốt, bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù... Để thực hiện tốt lời dạy của Bác, Bộ Tham mưu Quân khu cần phải nắm chắc diễn biến tình hình khu vực và trên thế giới, ý đồ chiến lược của các nước lớn, các khối, nhất là các nước có biên giới với địa bàn Quân khu 7, các tổ chức hoạt động trên địa bàn Quân khu. Đồng thời, thực hiện tốt Nghị định số 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ phối hợp chặt chẽ với công an và cơ quan chức năng thường xuyên nắm chắc tình hình, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, tham mưu xử lý kịp thời, chính xác ngay từ cơ sở, không để mắc mưu tạo cớ, không để bị động, bất ngờ.

3- Tổ chức quán triệt nghiêm túc các chỉ lệnh, mệnh lệnh, kế hoạch, chương trình, nội dung huấn luyện, nhất là Nghị quyết 765 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức trách nhiệm, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ huấn luyện. Nội dung huấn luyện được tiến hành toàn diện, coi trọng cả huấn luyện chính trị, quân sự, điều lệnh, huấn luyện chuyên ngành và huấn luyện thể lực cho bộ đội. Trong đó, đặc biệt coi trọng duy trì nghiêm chế độ huấn luyện tại chức, tập huấn, bồi dưỡng các nội dung về tham mưu tác chiến cấp chiến dịch.

4- Xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan Bộ Tham mưu Quân khu vững mạnh toàn diện, tổ chức biên chế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Các cơ quan, đơn vị quán triệt, thực hiện nghiêm chỉ thị, quy định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và của Bộ Tư lệnh Quân khu về xây dựng nền nếp chính quy, quản lý, rèn luyện kỷ luật; duy trì nghiêm túc chế độ làm việc, nền nếp công tác. Bộ Tham mưu làm tốt chức năng tham mưu cho Bộ Tư lệnh Quân khu nhiều chủ trương, biện pháp xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật đối với lực lượng vũ trang Quân khu; kiểm tra, đôn đốc các đơn vị duy trì nghiêm kỷ luật.




-----------------------------------------------------------------
1. "Kế hoạch X" đã được Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo cơ quan Tham mưu Miền chuẩn bị từ cuối năm 1964, theo kế hoạch, ta tổ chức tiến công vào Sài Gòn trên 5 hướng.

2. Cụm Điệp báo chiến dịch do đồng chí Hoàng Đạo phụ trách đã trực tiếp đưa đồng chí Trần Đình Xu, Tư lệnh Phân khu 1 đi theo đường hợp pháp vào trinh sát các mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn về căn cứ an toàn. Xem Lịch sử Phòng Quân báo Miền, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 03:01:56 pm
TỔ CHỨC, BẢO ĐẢM THÔNG TIN LIÊN LẠC
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng KHÚC ĐĂNG TUẤN
Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc


Cách đây 50 năm, cùng với thắng lợi của quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, từ ngày 30-1 đến ngày 31-3-1968, quân và dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trên ba vùng chiến lược và giành được thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đó, cùng với quân và dân cả nước, trực tiếp là quân và dân miền Nam, bộ đội thông tin liên lạc đã phát huy cao độ ý chí quyết chiến, quyết thắng, khắc phục khó khăn, gian khổ, vượt qua những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, ngay từ những ngày đầu tháng 1-1968, Cục Thông tin liên lạc đã được Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị "Tăng cường khả năng bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy từ Bộ đến các chiến trường được vững chắc hơn theo yêu cầu mới". Quán triệt chỉ thị của trên, Cục Thông tin liên lạc đã chỉ đạo, chỉ huy xây dựng lực lượng, triển khai củng cố các tổng trạm thông tin của Bộ, kể cả các tổng trạm dự bị cách xa Hà Nội.

Về xây dựng lực lượng: Trong tình hình cả nước có chiến tranh, Cục Thông tin liên lạc xác định phương châm xây dựng lực lượng là: "Vừa chiến đấu, vừa xây dựng" yêu cầu bảo đảm đủ số lượng nhưng hết sức chú trọng chất lượng; nhất là công tác huấn luyện. Cục còn chỉ đạo các đơn vị xác định nội dung, phương pháp và thời gian huấn luyện cho phù hợp. Đối với các đơn vị chưa có nhiệm vụ chiến đấu sau giai đoạn huấn luyện tập trung thì phối hợp với bộ đội binh chủng hợp thành để diễn tập. Các đơn vị đang phục vụ chiến đấu phải kết hợp huấn luyện với thực tế công tác. Trong hoàn cảnh nào, nội dung huấn luyện cũng phải bám sát nhiệm vụ của đơn vị, thực tế chiến đấu cũng như yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy trong tác chiến. Trước yêu cầu phải có đủ số lượng cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị và nhân viên kỹ thuật để bổ sung cho các đơn vị mới thành lập và tăng cường cho chiến trường, ngày 21-5-1965, Trường Sĩ quan thông tin trực thuộc Cục Thông tin liên lạc được thành lập có nhiệm vụ tổ chức những lớp đào tạo cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị sơ cấp ngắn hạn (3 tháng, 6 tháng); cán bộ trung cấp kỹ thuật (1 năm) tập trung vào những nội dung cần thiết nhất. Tiếp đó, đến tháng 3-1967, Trường Kỹ thuật thông tin cũng được thành lập với nhiệm vụ đào tạo cán bộ và nhân viên kỹ thuật trung cấp. Đến năm 1968, các trường đã đào tạo, bồi dưỡng được trên 2.000 cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị, nhân viên kỹ thuật, kịp thời bổ sung cho các chiến trường. Trong 4 năm (1965-1968) Cục đã tăng cường cho các mặt trận trên chiến trường miền Nam 1.836 cán bộ và nhân viên kỹ thuật, 37 cơ công sơ cấp, 45 trung cấp kỹ thuật, 32 đài trưởng và 880 báo vụ, 11 tiểu đoàn, 3 đại đội thông tin.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, cũng như quản lý lực lượng thông tin trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 31-1-1968, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc. Đây là một sự kiện lớn đánh dấu bước ngoặt lịch sử của Binh chủng trên con đường tiến lên xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Ngay sau khi thành lập, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Binh chủng đã nhanh chóng kiện toàn các cơ quan giúp việc như tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; xây dựng các chế độ công tác, nhằm thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ được giao.

Về hệ thống thông tin: Đối với thông tin vô tuyến điện, Bộ Tư lệnh chủ trương tăng cường số lượng máy mới có độ nhạy cao và công suất lớn ở các trung tâm thu phát vô tuyến điện; sử dụng vô tuyến điện sóng ngắn bảo đảm liên lạc để Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo, chỉ huy kịp thời đến Bộ Chỉ huy Miền, các quân khu, tỉnh đội, vượt cấp tới một số sư đoàn, trung đoàn đánh vào các căn cứ quan trọng của địch tại Sài Gòn, Huế, Cần Thơ... Đài phát điện chung và hệ thống đài canh của Bộ, của các quân khu, Miền được tổ chức chặt chẽ và liên tục bảo đảm liên lạc và hiệp đồng cho các đơn vị trong khi cơ động chiến đấu. Vô tuyến điện sóng cực ngắn là phương tiện chủ yếu bảo đảm tốt cho chỉ huy đánh địch trong thành phố, thị xã... nhất là các đơn vị đặc công, biệt động luồn sâu đánh hiểm.

Thông tin hữu tuyến điện, vô tuyến điện tiếp sức, đặt thêm các máy tải ba nhiều kênh ở tổng trạm của Bộ và các trạm cơ vụ đi các hướng, nhất là đường trục vào chiến trường miền Nam. Cán bộ được tăng cường trực tiếp từng phiên ca trong các trạm máy, kiểm tra duy trì các chế độ và điều hành chặt chẽ ở từng trạm, từng tổng trạm và trên các trục từ Bộ đi các đơn vị, nhất là trục hữu tuyến điện và vô tuyến điện tiếp sức đi Trị - Thiên, Tây Nguyên vào chiến trường miền Nam. Ở chiến trường Trị - Thiên và Tây Nguyên, Cục Thông tin liên lạc đã xây dựng tuyến dây trần, vô tuyến điện tiếp sức từ Bộ Tổng Tham mưu đến trạm cơ vụ A72 (Quảng Bình); giao cho Trung đoàn 134 triển khai tuyến dây trần từ trạm cơ vụ A72 (Quảng Bình) vào Quân khu Trị - Thiên dài hơn 300km, đồng thời thay thế các máy tải ba ít kênh bằng các máy nhiều kênh, tổ chức hàng trăm trạm cơ vụ bảo đảm thông tin cho mặt trận Đường 9 - Khe Sanh và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968.

Thông tin chuyển đạt đã bảo đảm vận chuyển kịp thời công văn, tài liệu... từ Hà Nội vào các quân khu, mặt trận ở miền Nam theo tuyến vận tải 559. Ở chiến trường miền Nam, thông tin chuyển đạt kết hợp với thông tin nhân dân được tổ chức chặt chẽ và làm tốt nhiệm vụ chuyển đạt công văn, chỉ thị, báo cáo, dẫn đường, đưa đón cán bộ ra, vào vùng địch kiểm soát.

Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Cục Thông tin liên lạc chỉ đạo các đơn vị thông tin ở miền Bắc sử dụng hết sức tiết kiệm phương tiện khí tài hiện có, dành dây máy tốt nhất cho các đơn vị thông tin ở chiến trường miền Nam. Một khối lượng lớn trang bị kỹ thuật thông tin có chất lượng tốt được khẩn trương chuyển vào chiến trường sớm hơn dự kiến để kịp bảo đảm cho chiến đấu (từ năm 1965 đến năm 1968 đã chuyển vào chiến trường miền Nam 2.692 máy vô tuyến điện các loại, 843 tổng đài, 12.058 máy điện thoại, 137 tổ máy phát điện quay tay). Nhờ những cố gắng trên, cơ quan thông tin các mặt trận đã kịp thời bổ sung lượng tiêu hao, trang bị cho những đơn vị mới thành lập, một phần cho lực lượng vũ trang địa phương và có một phần lực lượng dự bị cho các hoạt động tiếp sau.

Về tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc: Ở Mặt trận Sài Gòn - Gia Định, sau đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, các đơn vị biệt động, đặc công ta nhanh chóng thọc sâu vào các mục tiêu được phân công. Tuy bị máy bay lên thẳng, máy bay trinh sát địch phát hiện, bắn xối xả vào đội hình, nhưng các chiến sĩ bộ đàm vẫn bám sát đơn vị để giữ liên lạc (chiến sĩ Phạm Thái Hòa bị bom địch hất xuống bờ sông, tay phải bị thương, đã tự băng bó và tiếp tục giữ vững liên lạc với Sở chỉ huy sư đoàn. Chiến sĩ Trần Văn Can ba lần bị thương vẫn không chịu rời máy, kiên quyết bám trụ bên cầu để giữ liên lạc). Do địch phản kích quyết liệt, trong khi đó Sở chỉ huy phải di chuyển liên tục nhưng để đảm bảo thông tin thông suốt, liên lạc vô tuyến điện phải tiến hành trên xuồng ở sông Sài Gòn, mỗi ngày chỉ có một phiên làm việc vào 12 giờ đêm, sau đó lại cất giấu máy và chuẩn bị chiến đấu.

Trong đợt 2 (từ ngày 1 đến ngày 12-3-1968), Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương kiên quyết giữ vững bàn đạp từ ngoại ô nối liền với những khu vực đã chiếm ở nội thành (như Phú Thọ Hòa, phía bắc cầu chữ Y...), sử dụng các Sư đoàn bộ binh 9 (thiếu), Sư đoàn bộ binh 7, Đoàn đặc công 117 và các đơn vị biệt động đánh từ Long An sang hướng Bà Quẹo. Để đảm bảo hoạt động cho các lực lượng, cơ quan thông tin đã tổ chức hai đài 102E, sáu tổ đài PRC25, một phân đội hữu tuyến điện và thông tin chuyển đạt đi theo Sở chỉ huy tiền phương (đặt tại khu vực Mành Manh, sông Vàm Cỏ Đông). Hữu tuyến điện được tổ chức từ Sở chỉ huy đến Sư đoàn bộ binh 7. Thông tin chuyển đạt sử dụng chiến sĩ người địa phương thông thuộc địa hình ở khu vực tác chiến để bảo đảm liên lạc. Mở màn đợt 2, các đơn vị thông tin đã phục vụ cho pháo binh ta bắn phá vào 16 vị trí địch trong nội thành. Máy bộ đàm đi theo các mũi tiến công đã giữ vững liên lạc với Sở chỉ huy tiền phương. Tổ thông tin gồm chiến sĩ bộ đàm Dương Tuấn Nghĩa và chiến sĩ chuyển đạt Lưu Phước Lượng của Sư đoàn 9 đã phối hợp với tổ trinh sát đặc công trụ bám nhiều ngày trên tầng 5 của một ngôi nhà ở góc đường Phú Nhuận, theo dõi địch và báo cho pháo binh ta bắn rất chính xác. Trung đoàn 2 Sư đoàn 9 đánh vào ngã tư Bảy Hiền, điện đài bị lạc, cơ quan thông tin đã kịp thời đưa một máy K63 xuống và chọn điểm cao đặt máy, bảo đảm liên lạc tốt với Sở chỉ huy chiến dịch và liên lạc hiệp đồng chặt chẽ với Sư đoàn 7 ở vòng ngoài.

Các phân đội thông tin thuộc Sư đoàn 7, 9, Đoàn đặc công 117 vừa giữ vững liên lạc, vừa dũng cảm chiến đấu với địch, đã bảo đảm cho chỉ huy nhiều trận đánh giành thắng lợi lớn; điển hình là trận đánh chìm hai tàu trên sông Lòng Tàu, diệt 250 tên địch, phá hủy 20 máy bay lên thẳng và 5.000 viên đạn pháo.

Trong đợt 3, Sở chỉ huy tiền phương di chuyển lên Bắc Tây Ninh, sử dụng Sư đoàn 9 làm lực lượng chủ yếu đánh địch tiến công lên Tây Ninh. Việc tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc lúc này lấy vô tuyến điện sóng ngắn là chủ yếu. Một tổ vô tuyến điện gồm ba chiến sĩ mang theo một máy Sinen làm việc ở bộ phận quân báo trụ bám ở ấp Bảo Công, xã An Ninh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Địch càn quét rất ác liệt, tổ đài phải xuống hầm bí mật tránh địch nhiều lần nhưng vẫn bảo đảm an toàn cả về máy và người, giữ vững liên lạc với Sở chỉ huy tiền phương. Trong một đợt càn quét, địch tìm được hầm, anh em đã đội nắp hầm nhảy lên ném lựu đạn tiêu diệt địch và thoát vây.
Ở Quân khu 9, để bảo đảm cho Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị hoạt động trong vùng địch tạm chiếm, từ năm 1967 theo chủ trương chung của Quân khu, cơ quan thông tin đã cử cán bộ xuống cơ sở tham gia phát động phong trào chiến tranh du kích, xây dựng xã, ấp chiến đấu kết hợp với xây dựng mạng lưới thông tin nhân dân từ ấp, xã lên huyện, tỉnh.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trọng điểm của tiến công quân sự là thành phố Cần Thơ (hướng chủ yếu) và các thị xã Rạch Giá, Cà Mau, Chương Thiện. Từ Sở chỉ huy tiền phương, quân khu đã tổ chức vô tuyến điện sóng ngắn kết hợp với sử dụng hệ thống giao liên của Khu ủy để liên lạc với các trung đoàn 1, 2 chủ lực và với các tỉnh, thành. Do được chuẩn bị chu đáo nên mệnh lệnh tổng tiến công được chuyển kịp thời đến các đơn vị, góp phần bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ cho cuộc tổng tiến công. Khi Sở chỉ huy tiền phương quân khu di chuyển xuống phía nam thành phố Cần Thơ, các điện đài sóng ngắn ở Sở chỉ huy được đặt trên xuồng nhưng vẫn tiếp tục bảo đảm liên lạc chặt chẽ với các đơn vị. Trước các đợt phản kích quyết liệt của địch, Trung đoàn 1 chủ lực của Quân khu trụ bám đánh địch. Đại đội thông tin trung đoàn đã giữ vững liên lạc với cấp trên và với các tiểu đoàn, dũng cảm chiến đấu chống địch càn quét, bảo vệ Sở chỉ huy, bảo vệ đài, trạm thông tin.

Ở Quân khu 8, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Quân khu có nhiệm vụ đánh vào thành phố Mỹ Tho (hướng chủ yếu), căn cứ Đồng Tâm, Long An và bắc đường số 4. Đại đội thông tin 250 Quân khu đảm nhiệm tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc bảo đảm cho Sở chỉ huy tiền phương Quân khu chỉ huy các trung đoàn 1, 2 chủ lực và các tỉnh đội bằng vô tuyến điện sóng ngắn, kết hợp với sử dụng hệ thống giao liên của Khu ủy. Đại đội thông tin vừa phục vụ chiến đấu tốt, vừa tham gia chiến đấu chống càn. Trong trận đánh địch tiến công vào Sở chỉ huy tiền phương Quân khu (2-1968), một bộ phận của đại đội thông tin với 8 khẩu AK đã diệt gọn 1 đại đội biệt kích ngụy gồm 85 tên.
Ở Quân khu 5 và Mặt trận Tây Nguyên, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tổ chức hệ thống thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện sóng ngắn, kết hợp với hệ thống giao liên, chỉ huy các đơn vị đánh trúng vào các mục tiêu chủ yếu ở ba thị xã lớn là Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột và tiến công đồng loạt các thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, các thị xã Hội An, Quy Nhơn, Tuy Hòa, giành thắng lợi to lớn.

Ở Mặt trận Trị - Thiên, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Tiểu đoàn Thông tin 813 Mặt trận được giao nhiệm vụ tổ chức thông tin liên lạc từ Sở chỉ huy tiền phương Mặt trận đến Trung đoàn 6 chủ lực đánh vào thành phố Huế. Mặc dù không được nghiên cứu địa hình trước, nhưng phân đội hữu tuyến điện đã vận dụng phương pháp đơn vị đi tới đâu rải dây theo tới đó, kết hợp sử dụng một máy PRC-25 bám sát trung đoàn hành quân liên lạc qua đài chuyển tiếp đặt trên điểm cao Hòn Vượn, đã bảo đảm cho Sở chỉ huy tiền phương liên lạc hữu tuyến điện, vô tuyến điện sóng cực ngắn thông suốt với Trung đoàn. Đại đội thông tin Trung đoàn đã tổ chức, sử dụng hữu tuyến điện, vô tuyến điện sóng cực ngắn kết hợp với thông tin chuyển đạt bảo đảm cho chỉ huy chặt chẽ các cánh quân phát triển sâu vào nội thành. Đây là lần đầu tiên bộ đội thông tin liên lạc triển khai đường dây trong một thành phố lớn ở miền Nam, đạt hiệu suất sử dụng cao.

Tại Mặt trận Quảng Trị, đêm 30 Tết, lực lượng thông tin của Quân khu đi theo Sở chỉ huy Mặt trận gồm một trung đội vô tuyến điện trang bị hai máy vô tuyến điện sóng ngắn, một tiểu đội hữu tuyến điện xuống khu vực Hải Lăng, kết hợp với trung đội thông tin chuyển đạt lót sẵn, triển khai hệ thống thông tin liên lạc bảo đảm cho chỉ huy các đơn vị đánh vào căn cứ La Vang, quận lỵ Hải Lăng và thị xã Quảng Trị. Mặc dù quân địch phản kích quyết liệt, kết hợp với máy bay và các loại pháo từ ngoài biển, từ căn cứ Ái Tử và thị xã bắn phá dữ dội, nhưng nhờ tổ chức, sử dụng vô tuyến điện sóng ngắn 15W nên thông tin liên lạc giữa các đơn vị và với Sở chỉ huy Mặt trận vẫn bảo đảm tốt.

Bên cạnh nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bộ đội thông tin liên lạc còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế - duy trì liên lạc vững chắc cho chỉ đạo, chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội Pathét Lào giành thắng lợi to lớn.

Tháng 1-1968, phối hợp với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của ta, quân đội Pathét Lào cùng với quân tình nguyện Việt Nam đã mở chiến dịch Nậm Bạc nhằm khôi phục và củng cố vùng giải phóng Tây Bắc Thượng Lào. Để đảm bảo thông tin cho hướng hoạt động này, cơ quan thông tin Quân khu Tây Bắc được sự giúp đỡ của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc và sự hiệp đồng tích cực của bộ đội thông tin Đoàn 959 đã cùng với bạn tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy chiến dịch. Tiểu đoàn thông tin Sư đoàn bộ binh 316 quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng chủ yếu của chiến dịch được trang bị đầy đủ theo tổ chức biên chế, có điện đài 15W trang bị đến tiểu đoàn bộ binh, đã cùng với bạn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc bảo đảm cho chỉ huy các đơn vị ta và bạn nổ súng tiến công đồng loạt các cụm cứ điểm địch ở Nậm Bạc và chuyển sang truy quét địch phá vây rút chạy. Sau 16 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 6-12 đến ngày 27-1-1968), chiến dịch đã giành thắng lợi hoàn toàn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 3.000 địch (có hơn 2.000 tên bị bắt sống), giải phóng trên một vạn dân, thu nhiều vũ khí. Qua chiến dịch này, bộ đội thông tin liên lạc của ta và bạn đã thu được nhiều kinh nghiệm về tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc ở địa hình rừng núi trong một chiến dịch tiến công đánh cụm cứ điểm và đánh địch rút chạy; qua đó, củng cố thêm một bước tinh thần liên minh đoàn kết chiến đấu, giúp bạn nhanh chóng xây dựng lực lượng để có thể tự lực đảm nhiệm công tác bảo đảm thông tin liên lạc trong các chiến dịch sau.

Cùng với thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam Xuân Mậu Thân 1968 và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế đối với nước bạn Lào, Binh chủng Thông tin đã có sự trưởng thành trên nhiều mặt như: chính trị, tư tưởng, tổ chức, bảo đảm thông tin liên lạc, xây dựng lực lượng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong suốt quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Bộ Tư lệnh Thông tin đã thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

Một là, quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong tình hình và nhiệm vụ mới, xây dựng quyết tâm, ý chí chiến đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ giữ vững thông tin liên lạc cho lãnh đạo chỉ huy các mặt trận giành thắng lợi. Toàn Binh chủng đã dấy lên phong trào thi đua "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" và nhiều hành động thiết thực như: "Dây là ruột, cột là xương, liên lạc là mạch máu"... có ý nghĩa, nội dung thiết thực, đạt hiệu quả cao.

Hai là, làm tốt công tác chuẩn bị các mặt, nhất là lực lượng, phương tiện thông tin kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Binh chủng đã tập trung xây dựng lực lượng, đặc biệt là đào tạo bồi dưỡng cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị và nhân viên kỹ thuật, chi viện cho các đơn vị ở miền Bắc và chiến trường miền Nam.

Công tác bảo đảm phương tiện thông tin cho các mặt trận ở chiến trường miền Nam được tiến hành tích cực và khẩn trương. Binh chủng đã chỉ đạo các đơn vị thông tin miền Bắc sử dụng hết sức tiết kiệm phương tiện khí tài hiện có, dành dây máy tốt cho các đơn vị thông tin ở chiến trường miền Nam. Do đó các mặt trận đã có thêm nhiều phương tiện thông tin (kể cả các loại phương tiện thông tin mới) để bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Ba là, binh chủng chỉ đạo, sử dụng phương tiện thông tin phù hợp trong từng giai đoạn ở các mặt trận. Tăng cường kiểm tra duy trì nền nếp chế độ công tác thông tin liên lạc ở từng trạm, từng tổng trạm và trên trục từ Bộ đi vào chiến trường. Nhờ đó, các đơn vị trên chiến trường miền Nam, miền Trung, Tây Nguyên, các đơn vị quân chủng, tỉnh thành trong cả nước đã tổ chức và bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, nhất là bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ đạo, chỉ huy thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam, cũng như thắng lợi đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế đối với nước bạn Lào.

Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam, cũng như thắng lợi đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế đối với nước bạn Lào có những đóng góp quan trọng của bộ đội thông tin liên lạc. Tháng 11-1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên dương: "Bộ đội thông tin liên lạc hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, trưởng thành nhanh chóng, chiến thắng vẻ vang". Những thành tích đó đã được Bộ Tổng Tham mưu nhận xét trong Hội nghị chủ nhiệm thông tin toàn quân năm 1969: "Bộ đội thông tin liên lạc đã đóng góp vào thắng lợi to lớn của năm 1968, đặc biệt là thắng lợi to lớn, toàn diện, vững chắc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam mùa Xuân 1968".

Trong giai đoạn hiện nay, Binh chủng Thông tin liên lạc đã tham mưu cho Bộ Quốc phòng đầu tư nhiều trang thiết bị thông tin hiện đại cho các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng, tỉnh thành trong cả nước như: Trang bị tổng đài kỹ thuật số, mạng truyền số liệu MISTEN, thông tin vệ tinh, các xe thông tin cơ động... Để kế thừa và phát huy truyền thống của bộ đội thông tin liên lạc anh hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng, cán bộ, chiến sĩ thông tin toàn quân phải không ngừng học tập, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực chuyên môn; khai thác thành thạo trang bị khí tài, vươn lên làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến; đoàn kết, hiệp đồng xây dựng Binh chủng Thông tin hiện đại. Thực hiện thành công chiến lược hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc quân sự, bảo đảm thông tin liên lạc kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn cho Đảng, Nhà nước, quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 03:13:24 pm
CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng TRẦN HỮU TÀI
Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7


Sau thắng lợi đánh bại các cuộc hành quân mùa khô của Mỹ (1965-1966, 1966-1967), Trung ương Đảng nhận định: Địch đã thất bại một bước rất cơ bản trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" và đang lúng túng, bị động về chiến lược, chiến dịch. Trước tình hình đó, Trung ương chỉ đạo quyết tâm chiến lược mới là: "Khẩn trương tranh thủ thời gian, tạo mọi điều kiện, thời cơ giành thắng lợi liên tục, toàn diện và ngày càng lớn". Năm 1967, Cục Chính trị Miền triển khai đợt sinh hoạt chính trị trong các lực lượng vũ trang nhằm quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương về thực hiện cuộc vận động "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Tổ chức Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn miền Nam (năm 1967) trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, phong tặng 471 cán bộ, chiến sĩ toàn miền Nam là Anh hùng lực lượng vũ trang và Chiến sĩ thi đua; nhiều địa phương, đơn vị, tập thể và cá nhân được khen thưởng, phong tặng danh hiệu Anh hùng, Huân chương giải phóng và cờ mang dòng chữ "Trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời, chiến thắng vẻ vang". Riêng quân và dân miền Đông Nam Bộ được phong tặng 20/47 1 Anh hùng lực lượng vũ trang toàn miền Nam . Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua đã tạo động lực, niềm tin, sức mạnh mới làm dấy lên tinh thần đoàn kết, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tạo ra phong trào thi đua sôi nổi "Học tập thành tích các anh hùng, dũng sĩ, thi đua giết giặc lập công", được triển khai toàn diện trong quân và dân miền Đông Nam Bộ.

Thực hiện Chỉ thị của Trung ương về "tổng công kích, tổng khởi nghĩa", ngày 25-10-1967, Trung ương Cục ra Nghị quyết "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" trên chiến trường B2 (Nghị quyết Quang Trung); chiến trường miền Đông Nam Bộ được xác định là hướng trọng điểm của chiến dịch. Để chuẩn bị cho "tổng công kích, tổng khởi nghĩa", tháng 12 - 1967, Bộ Chỉ huy Miền quyết định giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập 6 phân khu (1, 2, 3, 4 ,5 ,6) còn lại ba tỉnh độc lập trực thuộc Quân ủy Miền (Biên Hòa U1, Bà Rịa - Vũng Tàu và Tây Ninh) 2. Ngày 2-1-1968, tại căn cứ Ba Thu huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, Trung ương Cục triển khai kế hoạch "tổng công kích, tổng khởi nghĩa"; Đảng ủy các phân khu tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chặt chẽ và thống nhất từ trên xuống; chỉ đạo Phòng Chính trị nắm chắc tình hình, chủ động khẩn trương hướng dẫn các nội dung công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị lực lượng vũ trang miền Đông, nổi bật đó là:

Về công tác tư tưởng: Khẩn trương tổ chức hội nghị bàn về công tác đảng, công tác chính trị trước và trong tổng công kích; xác định nhiệm vụ hàng đầu là làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chỉ đạo tổ chức quán triệt thực hiện cuộc vận động "ba dân chủ" trong đơn vị, quán triệt đến mọi cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí, phát huy bản chất giai cấp công nhân quyết tâm chiến đấu sắt đá, kiên cường, tiến công địch mãnh liệt, dồn dập và liên tục; phát động phong trào thi đua "tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt"; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phối hợp, hiệp đồng tác chiến đánh bại các cuộc hành quân của địch; phát động phong trào quần chúng, thanh niên và sinh viên thi đua xung phong "xuống đường giải phóng quê hương".

Về xây xựng Đảng: Các phân khu chỉ đạo các đơn vị tổ chức học tập Nghị quyết của Trung ương Cục và nghị quyết của Phân khu ủy về thực hiện "tổng công kích, tổng khởi nghĩa"; các chi bộ, đảng bộ phải tiến hành đợt sinh hoạt kiểm điểm 1 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng "chi bộ ba tốt", "đảng viên ba tốt", củng cố kiện toàn cấp ủy chi bộ, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ trước khi bước vào thực hiện "tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Tổ chức rà soát sắp xếp đủ cán bộ cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu, dự kiến số lượng cán bộ thay thế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; tổ chức tập huấn cán bộ về chỉ huy chiến đấu trong địa hình đô thị và tiến công mục tiêu trong thành phố. Các phân khu đều xây dựng được các tiểu đoàn, đại đội và bộ đội quận, huyện.

Lãnh đạo kiện toàn, sắp xếp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các phân khu: Chấp hành Nghị quyết của Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định khẩn trương tổ chức kiện toàn, sắp xếp lại cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tăng cường cho các phân khu :

Phân khu 1, đồng chí Trần Đình Xu (Ba Đình) làm Tư lệnh phân khu; đồng chí Tư Trường làm Chính ủy. Phân khu 2, đồng chí Lê Văn Nhỏ làm Tư lệnh; đồng chí Võ Trần Chí làm Chính ủy. Phân khu 3, đồng chí Huỳnh Công Thân là Tư lệnh; đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) làm Chính ủy. Phân khu 4, đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh; đồng chí Đoàn Công Chánh (Sáu bảo) làm Chính ủy. Phân khu 5, đồng chí Nguyễn Chí Sình làm Tư lệnh; đồng chí Hoàng Minh Đạo (Năm Thu) làm Chính ủy (sau tiến công đợt 2, đồng chí Nguyễn Văn Bứa làm Tư lệnh). Phân khu 6, đồng chí Trần Hải Phụng làm Tư lệnh; đồng chí Võ Văn Thạnh làm Chính ủy. Sau tiến công đợt 2, kiện toàn lại đồng chí Trần Bạch Đằng làm Bí thư, Nguyễn Thái Sơn làm Phó Bí thư, Trần Hải Phụng làm Chỉ huy trưởng, Võ Văn Thạnh làm Chính ủy, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) làm Phó Chỉ huy trưởng, kiêm Tham mưu trưởng phân khu ủy.
 
Đồng thời, tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang các cấp tỉnh, huyện; lực lượng du kích xã được xây dựng phát triển mạnh mẽ và xác định đây là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.

Lãnh đạo lực lượng vũ trang tham gia các đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa: Chiến dịch Mậu Thân được thực hiện thành 3 đợt (đợt 1 trong tháng 1 và tháng 2; đợt 2 trong tháng 5 và tháng 6; đợt 3 trong tháng 8 và tháng 9-1968).

Đợt 1, vào hồi 23 giờ ngày 30-1-1968 tại Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6, sau khi giao nhiệm vụ cho các đội biệt động, đồng chí Võ Văn Thạnh nhắc lại lời thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" và trịnh trọng đọc lời hiệu triệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các phân khu chỉ đạo các lực lượng phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích chuẩn bị tinh thần tiến công vào các mục tiêu; Phân khu nội đô vừa thực hiện nhiệm vụ đánh địch vừa vận động quần chúng tham gia vào chiến dịch. Thực hiện theo hiệp đồng đến giờ "G", các lực lượng Phân khu 2 đã nổ súng đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất; Phân khu 6 nổ súng tấn công vào trung tâm đầu não của đối phương là: Bộ Tổng Tham mưu; Dinh Độc Lập; Đài Phát thanh Sài Gòn; Đại sứ quán Mỹ và Bộ Tư lệnh hải quân Mỹ. Cuộc chiến trên các hướng diễn ra rất ác liệt, ta đã tiêu diệt nhiều lực lượng, phương tiện của địch; Mỹ tăng cường thêm lực lượng, ta gặp nhiều khó khăn do lực lượng còn mỏng so với yêu cầu nhiệm vụ; việc nắm địch và hiệp đồng với các lực lượng còn những hạn chế, nên ta hy sinh tương đối nhiều, đặc biệt, gần 80% các chiến sĩ biệt động Thành hy sinh và bị bắt . Tuy nhiên, với kết quả đợt 1 đạt được, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 6 đánh giá: "Đợt 1 đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm thay đổi nhanh chóng tương quan lực lượng giữa ta và địch..., mở ra cục diện mới trong sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, đặt cơ sở vững chắc đưa tổng công kích, tổng khởi nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn".

Kết thúc đợt 1, chiến trường Đông Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, các phân khu (1, 4, 5, 6) bị tổn thất lớn, một số đơn vị cán bộ, chiến sĩ xuất hiện tư tưởng dao động, ngán ngại khó khăn, thiếu tin tưởng vào thắng lợi. Cơ quan chính trị các phân khu tiếp tục đề xuất kiện toàn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ; tiếp tục quán triệt định hướng chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; quán triệt Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Cục, ngày 4-2-1968, về "phát huy thắng lợi đã giành được, tiếp tục công kích cao điểm 2"; tiếp tục động viên cán bộ, chiến sĩ, vận động phong trào quần chúng thực hiện tiến công đợt 2 và làm tốt công tác binh vận trong chiến đấu. Đêm 5-5-1968 đợt 2 bắt đầu, các lực lượng tiến công vào các trung tâm đầu não của địch: Dinh Độc Lập, Nha Cảnh sát, Tân Cảng; các đội tự vệ vũ trang của Thành đoàn, tự vệ vũ trang tiến công vào trụ sở hành chính Quận 5; Phân khu 5 thọc sâu vào quận 6, 8 và Nhà máy điện. Quân và dân phối hợp chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, tiêu diệt, tiêu hao được nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch; vừa chiến đấu vừa thông báo, thông tin kết quả thắng lợi, từ đó củng cố niềm tin, tinh thần chiến đấu ngày càng cao và hiệu quả tốt. Ngày 18-6-1968, đợt 2 kết thúc, ta đã đạt được mục tiêu và tiếp tục gây chấn động dư luận trong nước cũng như trên thế giới, làm lung lay ý chí của giới cầm quyền Mỹ.

 Tháng 8-1968, Bộ Chính trị chủ trương tiến hành "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" đợt 3, mục đích là làm cho địch bị thất bại nặng nề, buộc chúng phải tìm giải pháp chính trị chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Tuy nhiên, sau đợt 2, Mỹ - chính quyền Sài Gòn huy động lực lượng lớn tổ chức phòng ngự mạnh quanh Sài Gòn, đồng thời chúng thực hiện các cuộc hành quân bình định, kiểm soát chặt chẽ vùng ven đô, hành quân càn quét ở vùng trung tuyến, sử dụng phi pháo, B52 đánh phá hủy, diệt các căn cứ của ta ở vùng rừng, núi. Căn cứ vào đặc điểm chiến trường, Quân ủy Miền báo cáo Bộ Chính trị những khó khăn tại mặt trận Sài Gòn - Gia Định và đề nghị cho chuyển hướng trọng điểm tiến công từ nội đô ra trung tuyến, và được chấp nhận. Để giảm bớt những khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang các phân khu, tháng 7-1968, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Cán sự đảng T7 và Bộ Tư lệnh T7, trực tiếp chỉ đạo các đơn vị vũ trang ở chiến trường phía đông Sài Gòn gồm các tỉnh Biên hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long Khánh, do đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Ngọc Tân làm Chính ủy.

Cùng với việc thành lập Ban Cán sự đảng T7, Trung ương Cục quyết định thành lập Thành ủy Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, Thường vụ Thành ủy trực tiếp lãnh đạo Phân khu 6 đảm nhiệm toàn bộ quân khu nội ô Sài Gòn. Công tác cán bộ đòi hỏi cần phải nhanh chóng ổn định để thực hiện đợt 3; sắp xếp, bố trí kiện toàn Phòng Chính trị của Bộ Tư lệnh T7 và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, mỗi phòng được biên chế thành 5 ban (Tuyên huấn, Tổ chức, Cán bộ, Dân vận, Bảo vệ an ninh), quân số khoảng 25 đồng chí.

Bộ Tư lệnh T7 và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo Phòng Chính trị nắm chắc tình hình và làm tốt công tác truyên truyền, thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, hướng dẫn các đơn vị mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, niềm tin thắng lợi; khắc phục tư tưởng hoài nghi, dao động, cho rằng địch mạnh, nhưng chưa thấy hết khả năng to lớn của cách mạng; khắc phục những hạn chế của cấp ủy đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị để quyết tâm giành thắng lợi lớn. Phát động phong trào thi đua diệt Mỹ và phong trào xây dựng "chi bộ ba tốt" và làm tốt công tác động viên khen thưởng trong quá trình chiến đấu với các danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ", "Dũng sĩ diệt xe cơ giới Mỹ". Tích cực làm tốt công tác dân vận, đã huy động được hơn 6.000 dân công đào đường, phá giao thông trên tỉnh lộ 2 và quốc lộ 15, đồng thời vận động các tầng lớp quần chúng tham gia vào tổng khởi nghĩa trên khắp các địa bàn.

Các lực lượng miền Đông Nam Bộ phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực Miền thực hiện tác chiến, tiến công trên địa bàn Tây Ninh, Bình Long, Dầu Tiếng; Sư đoàn 5 phối hợp với Sư đoàn 9 tiêu diệt nhiều tiểu đoàn địch và phá hủy hàng trăm xe quân sự, làm phá sản kế hoạch "quét giữ" và "bình định" của Mỹ. Dù vậy, thắng lợi của ta cũng chưa đủ làm thay đổi tình hình trên chiến trường B2 nói chung và ở Đông Nam Bộ nói riêng. Giai đoạn này, lực lượng cách mạng của ta hết sức khó khăn; Mỹ, ngụy tăng cường điều động và chi viện lực lượng, đẩy mạnh kế hoạch cấp tốc "bình định" để chiếm lại các vị trí đã mất. Trước tình hình đó, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền cùng các đơn vị chủ lực phải di chuyển về căn cứ bên kia biên giới Campuchia; các đơn vị của Bộ Tư lệnh T7, Phân khu 2 và Sài Gòn - Gia Định phải trụ lại chiến đấu rất ác liệt, vô cùng khó khăn và gian khổ. Các lực lượng được tiếp tục quán triệt nhiệm vụ quan trọng là: "Làm cho các cấp nhận rõ hơn nữa tính chất mới của giai đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa là liên tục tiến công, liên tục nổi dậy, kết hợp cao điểm với thường xuyên, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn". Riêng các khu và phân khu cần nắm vững thời cơ, kiên quyết tiến công giành thắng lợi to lớn cho Đông Xuân, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Sau khi được quán triệt sâu sắc chỉ thị của Trung ương Cục và Quân ủy Miền, hoạt động giai đoạn 2 của đợt 3 thực hiện với khí thế sôi nổi; bộ đội chủ lực tiếp tục thực hiện được những trận đánh xuất sắc; lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định và các phân khu vừa tiến công vừa đánh phản kích giữ các địa bàn, tạo được những cao điểm của tiến công, hạn chế được một phần lấn chiếm của địch. Đợt 3 đã giành được những thắng lợi to lớn nhất từ trước tới nay; đã thực hiện được nhiều trận đánh, tiêu diệt được nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Góp phần củng cố, phát triển thế chủ động tiến công và bao vây địch, cho thấy chủ trương chuyển hướng tiến công chủ yếu ra vòng ngoài đô thị là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tế của chiến trường.

Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã để lại kết quả và kinh nghiệm cho lực lượng vũ trang miền Đông như sau:

Ưu điểm: Cấp ủy, chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ luôn nắm chắc quan điểm, phương châm lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy Miền; kịp thời đề xuất chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm vụ đúng, sát thực tế. Triển khai thống nhất từ trên xuống một cách toàn diện có trọng tâm, trọng điểm. Phương pháp, hình thức, nội dung tiến hành công tác đảng, công tác chính trị thực hiện linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nhiệm vụ và sát tình hình thực tế. Cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy các cấp luôn theo sát, nắm vững tư tưởng trong từng giai đoạn; triển khai tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là trong từng giai đoạn khó khăn. Kịp thời giải quyết tư tưởng, củng cố kiện toàn tổ chức, xốc lại lực lượng trên từng hướng, mũi, đơn vị bị tổn thất; giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự thắng lợi của cách mạng; chống tư tưởng dao động, hoài nghi trong cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ. Kịp thời kiện toàn cấp ủy, tổ chức biên chế, sắp xếp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong khi chiến trường có nhiều thay đổi. Coi trọng công tác chính sách trong chiến đấu, công tác vận động nhân dân địa bàn chiến đấu; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với công tác binh vận, địch vận, làm tan rã lực lượng địch, tạo sự tin tưởng của các tầng lớp nhân dân hướng về cách mạng, giải quyết hậu quả chiến đấu.

Sau tổng tiến công đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời rút kinh nghiệm, chống chủ quan, đơn giản, củng cố ý chí quyết tâm; chấn chỉnh củng cố tổ chức, bình xét khen thưởng, điều chuyển thương binh, quản lý chặt chẽ bộ đội, chống hữu khuynh tiêu cực, bạc nhược, dao động khi địch phản công.

Nhược điểm: Việc nhận định, đánh giá tình hình, lường trước sự việc còn hạn chế, mơ hồ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa thường xuyên; việc phổ biến chủ trương, quyết tâm chiến lược của Đảng chưa kỹ, nhận thức giữa lý thuyết và thực tế còn khoảng cách xa, biểu hiện đó là "khi học Nghị quyết của Trung ương thấy địch mỏng như lá lúa, về chiến trường thấy địch dày hơn da trâu", từ đó xác định mục tiêu không rõ ràng, không biết còn tổng công kích, tổng khởi nghĩa nữa hay không? Đó là vấn đề ở một số cán bộ, đảng viên, làm giảm động lực và niềm tin vào sự thắng lợi. Chưa kịp thời động viên trong quá trình chiến đấu, do một phần lực lượng cán bộ chính trị còn thiếu, mỏng. Chỉ đạo kết hợp đấu tranh trên các mặt quân sự - ngoại giao, binh vận còn hạn chế. Công tác vận động quần chúng chưa cao nên lực lượng quần chúng ở các vùng trọng điểm đô thị tham gia còn ít so với dự định, chưa đạt như mong muốn chiến lược của Đảng là tổng công kích và tổng khởi nghĩa.

Từ thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, phải thường xuyên nắm vững quan điểm chiến lược của Đảng, tình hình chiến trường; đặt niềm tin vào chính nghĩa của cách mạng, đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo toàn điện, thống nhất và quyết tâm giành thắng lợi trong thực hiện nhiệm vụ. Phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức trong đấu tranh cách mạng, đặc biệt sức mạnh quần chúng của các tầng lớp nhân dân trong việc kết hợp thực hiện chiến lược "tổng công kích và tổng khởi nghĩa".

Hai là, thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ một cách đầy đủ; giáo dục phải gắn với thực tiễn, tạo niềm tin và ý chí, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Ba là, phát huy vai trò của cấp ủy, chỉ huy, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng tổ chức đảng; công tác đảng phải tiến hành thường xuyên, nhạy bén, sáng tạo; phát động các nội dung, phong trào thi đua tạo khí thế trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, thường xuyên nghiên cứu tình hình chiến trường, mạnh dạn đề xuất những nội dung, giải pháp sát, đúng, kịp thời trong thực hành tác chiến và chuyển mục tiêu chiến lược; khẩn trương kiện toàn cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong các nhiệm vụ; chỉ huy chiến đấu kiên quyết, tiến công liên tục để giành ưu thế.





-----------------------------------------------------------------
1. Anh hùng gồm: Nguyễn Văn Lên, Tô Văn Dực, Nguyễn Văn Tăng, Nguyễn Văn Lịch, Phạm Văn Cội, Nguyễn Thị Hạnh. Dũng sĩ diệt Mỹ gồm: Ông Ngang, Nguyễn Thị Tiệp; tập thể, đơn vị địa phương được tuyên dương "Củ Chi đất thép thành đồng", "Long An trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc". Xem Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2000).

2. Địa bàn Phân khu 1 gồm: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Phú Nhuận, Trảng Bàng. Phân khu 2: Quận 5, 6, 10, 11, Bình Chánh, các huyện phía tây bắc của Long An. Phân khu 3: các quận 2, 4, 8, Nhà Bè, Cần Đước, Cần Giuộc. Phân khu 4: Thủ Đức, Long Thành, Nhơn Trạch, Thạnh Mỹ Tây, Q 1, Q 9. Phân khu 5: Lái Thiêu, Dĩ An, một phần Bắc Thủ Đức, Phú Nhuận, Bình Hòa. Phân khu 6 là địa bàn nội ô Sài Gòn. Xem Lịch sử Đảng bộ Quân khu 7 (1945-2005), tr.282.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 03:25:03 pm
PHÁT HUY KHÍ THẾ "THÁC ĐỔ, TRIỀU DÂNG"
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY



Đại tá, TS. NGUYỄN NHƯ TRÚC
Trưởng phòng Tuyên truyền - Cổ động, Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị


Chiến thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đi vào lịch sử như một biểu tượng của trí tuệ và khí phách dân tộc Việt Nam, là mốc son đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, khắc ghi sự phát triển cao về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng, Bác Hồ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 như một cơn "sóng thần" ập vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Cả Mỹ và quân đội Sài Gòn đều bất ngờ, không lường định được sức mạnh, thời gian, không gian, cường độ, lực lượng, khả năng phối hợp và địa điểm, mục tiêu... của cuộc tổng tiến công. Về mặt chiến lược, đế quốc Mỹ đã thua cuộc từ mùa Xuân năm 1968; sau một tháng, tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam, bị cách chức, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ chức. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố ba điểm: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari; không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ hai... Đây là sự thừa nhận đầu tiên nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ - chiến lược chiến tranh quan trọng nhất được Mỹ công phu chuẩn bị và đánh giá cao trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" vào thập niên 60 của thế kỷ XX. Đến tháng 5-1968, Mỹ phải bắt đầu khởi động quá trình đàm phán với ta về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Trong những đoàn quân hùng mạnh tiến lên phía trước, khí thế mỗi chiến sĩ ta đều mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước, niềm tin, hy vọng và ý chí quyết thắng để cho đất nước hoàn toàn giải phóng, giang sơn thu về một mối, đồng bào Nam, Bắc được sum họp một nhà. Khí thế đó được biểu hiện bằng tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược, quyết tâm hoàn thành xuất sắc bất cứ nhiệm vụ nào; bằng việc quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa III (tháng 1-1968): "Trong quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc: Tập trung lực lượng quân sự và chính trị đến mức cao nhất, chiến lược chính; kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ; phải biết giành thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả và bẻ gẫy các cuộc phản công của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất" . Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự địch bị tiến công đồng loạt... Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã minh chứng cho tinh thần bất diệt, cho khí thế hào hùng của cả dân tộc Việt Nam và thắng lợi đó đã tạo nên một hơi thở mới, một làn gió mới trong mỗi người dân, người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Có được khí thế "thác đổ, triều dâng" đó là do chúng ta đã biết tận dụng thế chiến lược, nắm chắc thời cơ và có phương pháp tiến hành công tác tư tưởng sinh động, đúng lúc, kịp thời, ngắn gọn, hiệu quả; kết hợp chặt chẽ giữa động viên và hướng dẫn hành động cụ thể, giữa vấn đề tư tưởng với vấn đề tổ chức; biết nắm đúng và tập trung đúng vào đối tượng. Nhờ vậy, chúng ta đã có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, có năng lực hành động giỏi, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, có cách đánh đột kích mạnh, tiến công nhanh, giành thế áp đảo; sự chỉ huy linh hoạt, sáng tạo, tạo nên một sức mạnh phi thường nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của địch, lập nên chiến công kỳ diệu, góp phần giành toàn thắng của cuộc kháng chiến.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; thắng lợi đó là sự hội tụ của nhiều nhân tố, nhưng trước hết đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược tài giỏi của Đảng, biết kết hợp chủ nghĩa anh hùng cách mạng với trí tuệ của con người Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khí thế "thác đổ, triều dâng" được thể hiện đầy đủ nhất và sinh động nhất. Đây là một cuộc động binh và huy động quần chúng có quy mô lớn nhất từ trước tới thời điểm đó với phương thức tiến công đồng loạt cả quân sự, chính trị, binh vận, thực hiện ba mũi giáp công trên cả "ba vùng chiến lược" để tạo nên hiệu lực tổng hợp như một "đòn sét đánh". Với cuộc động binh đó, ta đã chuyển hướng từ lối tác chiến thông thường sang lối đánh mới, linh hoạt, sáng tạo trong lựa chọn hướng, mục tiêu chiến lược. Nhờ có sáng tạo và linh hoạt, ta đã đưa được hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược vào ngay trong sào huyệt địch, trong lúc địch có cả một mạng lưới an ninh và tình báo rộng khắp.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một đòn quyết định đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, mở ra bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến. Bước ngoặt lịch sử đó không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang có những thuận lợi, nhưng cũng không ít những thách thức. Để phát huy những bài học từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi của một quá trình đánh giá đúng tình hình, có tầm nhìn chiến lược, kiên định mục tiêu cơ bản và lâu dài của dân tộc, của cách mạng; phân tích đúng tình hình, tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ để đề ra được những chủ trương, chỉ đạo chiến lược sáng tạo và sắc bén. Vận dụng bài học đó vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải nắm chắc quy luật và truyền thống "dựng nước đi đôi với giữ nước" của dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hết sức sáng tạo trong chỉ đạo thực tiễn, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Phải xác định rõ: Mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Coi sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định; lấy ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng vững mạnh làm điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Xây dựng chí căm thù giặc sâu sắc; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng quả cảm, ý chí quyết chiến, quyết thắng, trí thông minh, sáng tạo, truyền thống chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Thứ hai, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và yếu tố chính trị - tinh thần.

Chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, ý thức tự lực, tự cường; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân", tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; xây dựng lòng tin và nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, sự đồng thuận xã hội phát huy sức mạnh tổng hợp và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động làm ly tán lòng dân, phá hoại thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Xây dựng, phát huy tốt yếu tố chính trị - tinh thần của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là nhân tố làm chuyển hóa so sánh lực lượng để "lấy ít địch nhiều", "lấy nhỏ thắng lớn". Đó là nét độc đáo của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam và cần nhân lên trong điều kiện mới. Phát huy yếu tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, khơi dậy tinh thần yêu nước, quả cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu, trí thông minh, sáng tạo, truyền thống chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Thứ ba, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, làm nền tảng của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn sự kiện lịch sử Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ, của thế trận chiến tranh nhân dân. Vì vậy, để phát huy bài học đó, ngay từ thời bình phải chăm lo xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thành thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, trong đó tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị, phát triển vững chắc về kinh tế, ổn định về xã hội. Trên cơ sở tạo thế bố trí chiến lược chung của cả nước, chú trọng vào các khu vực phòng thủ then chốt, các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế ngay trong từng dự án cũng như trong quy hoạch của từng địa phương và tổng thể cả nước. Chăm lo, bảo đảm tốt đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí nhằm củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, hiện đại, vững mạnh làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các lực lượng và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đóng vai trò chủ đạo. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Theo đó, chúng ta phải thường xuyên xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội và các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nhằm bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án "Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong tình hình mới", gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện tốt phong trào Thi đua quyết thắng cùng các cuộc vận động, nhất là cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ".

Sau 50 năm nhìn lại, khí thế "thác đổ, triều dâng" trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là vô cùng sâu sắc và có ý nghĩa chiến lược. Đó không chỉ là bài học lịch sử, mà còn là động lực to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 này là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống, nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và hiện thực của nó trong bối cảnh cách mạng mới. Trên cơ sở đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục phát huy khí thế "thác đổ, triều dâng" cùng những bài học kinh nghiệm, quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X trong thời kỳ hội nhập, phát triển.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 28 Tháng Năm, 2020, 03:30:40 pm
PHỐI HỢP TÁC CHIẾN GIỮA CÁC LỰC LƯỢNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tổ chức quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cách đây 50 năm, Đảng ta đã huy động nhiều lực lượng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng loạt tại hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát, chiếm đóng ở miền Nam, giành thắng lợi to lớn, tạo ra bước ngoặt chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với kết cục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài viết này chỉ đề cập sự phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, chủ yếu là lực lượng chủ lực (bộ binh, pháo binh), lực lượng tinh nhuệ (đặc công, biệt động) và lực lượng vũ trang địa phương trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

1. Chuẩn bị lực lượng mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Trước thời cơ cách mạng xuất hiện, tháng 6-1967, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua quyết tâm chiến lược, trong đó xác định giành thắng lợi quyết định, dự kiến trong năm 1968 và khẳng định, ta phải đánh cho Mỹ buộc phải thua về quân sự, tạo chuyển biến nhảy vọt cho cục diện chiến tranh cách mạng ở miền Nam thay đổi hẳn có lợi cho ta.

Trong điều kiện ở miền Nam địch có hơn một triệu quân (gồm 542.000 quân Mỹ, 57.800 quân các nước đồng minh của Mỹ và 650.000 quân Sài Gòn), Trung ương Đảng chủ trương: Nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang của ta lớn mạnh vượt bậc, làm thay đổi hẳn lực lượng so sánh giữa ta và địch. Đồng thời chỉ rõ: "Nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc trong thời gian trước mắt là phải bảo đảm... chi viện cho miền Nam, phục vụ tốt nhất cho cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi" .

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14, trên cả hai miền Nam - Bắc đều khẩn trương làm công tác chuẩn bị mọi mặt. Ngay sau khi Bộ Chính trị thông qua quyết tâm chiến lược giành thắng lợi quyết định (dự kiến trong năm 1968), từ giữa năm 1967, Quân ủy Trung ương đã trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc chuẩn bị lực lượng, đặc biệt là huấn luyện, nâng cao trình độ của lực lượng chủ lực đánh tiêu diệt lớn quân địch. Khối lực lượng chủ lực của Bộ (các sư đoàn 308, 304, 320, 312) được kiện toàn về tổ chức biên chế, bổ sung vũ khí trang bị. Sau lớp tập huấn của Bộ (7-1967) về phối hợp tác chiến hiệp đồng binh chủng, các đơn vị chủ lực mở đợt sinh hoạt chính trị và tập huấn quân sự cho cán bộ các cấp. Tiếp đó, các sư đoàn chủ lực và một số đơn vị binh chủng đẩy mạnh huấn luyện về phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, nâng cao trình độ chiến đấu trong thành phố, thị xã, sẵn sàng cơ động vào chiến trường miền Nam khi có lệnh.

Thực hiện nhiệm vụ chi viện lực lượng cho miền Nam đánh Mỹ, đến cuối năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật hành quân vào các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ, nâng tổng số lực lượng vũ trang ta ở miền Nam tăng lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương, không kể lực lượng dân quân, du kích, tự vệ .

Ở miền Nam, thực hiện kế hoạch chuẩn bị lực lượng cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã được Bộ Chính trị thông qua, từ tháng 10-1967, các chiến trường chú trọng củng cố, phát triển lực lượng vũ trang tại chỗ, thành lập thêm các đơn vị: Trung đoàn Quyết Thắng (Đông Nam Bộ), Trung đoàn 401 đặc công (Khu 5), Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 và 2 tiểu đoàn (Quân khu 8), Tiểu đoàn 307 và một lữ đoàn (Quân khu 9).

Khối lực lượng chủ lực Miền có 3 sư đoàn bộ binh (9, 5, 7), Đoàn pháo binh 69 (tương đương sư đoàn) được tăng cường Trung đoàn 88 bộ binh (Mặt trận Tây Nguyên), Trung đoàn 568 và 6 tiểu đoàn bộ binh cùng một số đơn vị binh chủng hành quân từ miền Bắc vào, được gấp rút củng cố, huấn luyện nâng cao trình độ chiến đấu sát với thực tế chiến trường.

Căn cứ vào nhiệm vụ trên giao, các chiến trường khẩn trương điều động, bố trí lực lượng áp sát các mục tiêu, sẵn sàng chiến đấu. Ở miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm tổng tiến công, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập "Khu trọng điểm" gồm Sài Gòn và một số huyện thuộc các tỉnh lân cận. Khu trọng điểm gồm 6 phân khu, trong đó lực lượng Phân khu 6 (các quận nội thành) có 11 đội biệt động , hoạt động trên 3 hướng (đông, nam, bắc), có nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu đầu não của địch như: Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh Sài Gòn, Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tư lệnh hải quân, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Biệt khu Thủ đô... Lực lượng của 5 phân khu (1, 2, 3, 4, 5) có 3 trung đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, hình thành 5 hướng (bắc và tây bắc, tây và tây nam, nam, đông, đông bắc) có nhiệm vụ tiếp ứng các đơn vị đặc công, biệt động chiếm lĩnh các mục tiêu trong nội đô Sài Gòn.

Lực lượng ở vùng ven và vành đai Sài Gòn có 3 sư đoàn bộ binh (9, 5, 7), Đoàn 69 pháo binh (thiếu) chủ lực Miền được tăng cường Trung đoàn 88 bộ binh (Mặt trận Tây Nguyên) và một số lực lượng thuộc các đơn vị binh chủng kỹ thuật có nhiệm vụ tiến công các căn cứ của địch ở vòng ngoài, kìm giữ và ngăn chặn không cho chúng cơ động vào ứng cứu Sài Gòn.

Tại chiến trường Trị - Thiên, lực lượng chủ lực Quân khu Trị - Thiên có Trung đoàn 6 bộ binh được tăng cường 3 trung đoàn: Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304), Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324), Trung đoàn 8 (Sư đoàn 325 C) và 4 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 15 đội biệt động thành và một số đơn vị binh chủng. Khu ủy và Quân khu ủy Trị - Thiên xác định: Thành phố Huế là trọng điểm của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Lực lượng tiến công vào thành phố Huế gồm có 3 trung đoàn (6, 8, 9), 2 tiểu đoàn (802, 810) bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, chia làm 2 cánh: Cánh Bắc (hướng chính) và cánh Nam (hướng phối hợp) đánh vào nội thành và đánh địch phản kích từ ngoài vào thành phố. Lực lượng vũ trang ở các địa phương có 5 đoàn (4, 5, 6, 7 và 31), đảm nhiệm từng hướng tiến công trên địa bàn quân khu.

Trên địa bàn Quân khu 5, Bộ Tư lệnh Quân khu chia chiến trường thành 4 hướng tiến công (Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên - Khánh Hòa, Tây Nguyên), trong đó Quảng Nam - Đà Nẵng là hướng chủ yếu, thành phố Đà Nẵng là trọng điểm. Lực lượng trực thuộc Mặt trận 4 (Đà Nẵng) có Trung đoàn 31 (thiếu) và 3 tiểu đoàn bộ binh, Trung đoàn 575 pháo hỏa tiễn ĐKB, chia thành các tiểu đoàn mũi nhọn (bộ binh, đặc công), cùng biệt động thành phố và tự vệ mật đánh chiếm các mục tiêu then chốt ở nội thành. Ở vòng ngoài, lực lượng chủ lực Quân khu 5 (Sư đoàn 2 bộ binh) đánh chiếm quận lỵ Duy Xuyên, khu trung tuyến Gò Nổi, đường 104, dãy Dương Thông, chia cắt giữa Đà Nẵng và Chu Lai. Lực lượng vũ trang trên hướng Bình Định có Sư đoàn 3 bộ binh, Tiểu đoàn 407 đặc công (Quân khu 5); hướng Phú Yên - Khánh Hòa có 2 trung đoàn (10, 20) bộ binh; hướng Tây Nguyên có Sư đoàn 1, 3 trung đoàn (24, 33, 95) bộ binh và lực lượng vũ trang địa phương tiến công quân sự, kết hợp nổi dậy của quần chúng để giành chính quyền.

Đồng bằng sông Cửu Long tuy không phải là trọng điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục vẫn chỉ đạo các quân khu 8, 9 bố trí lại lực lượng vũ trang phù hợp từng địa phương. Lực lượng Quân khu 8 có 5 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội đặc công, 4 đại đội công binh và một số đại đội binh chủng cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công trọng điểm 1 - thành phố Mỹ Tho và trọng điểm 2 - thị xã Bến Tre. Lực lượng vũ trang Quân khu 9 có 4 tiểu đoàn (303, 307, 309, Tây Đô), một số đội đặc công đảm nhiệm tiến công trọng điểm 1 - thành phố Cần Thơ và 3 tiểu đoàn (306, 308, 857), bộ đội địa phương huyện Châu Thành tiến công trọng điểm 2 - thị xã Vĩnh Long.

Trong khi đó, lực lượng vũ trang Quân khu 6 có 2 tiểu đoàn 840 và 842 bộ binh, một số đơn vị đặc công và lực lượng vũ trang thị xã có nhiệm vụ tiến công thị xã Phan Thiết; đồng thời 2 tiểu đoàn 145 và 186 bộ binh phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động thị xã và tỉnh Tuyên Đức tiến công thành phố Đà Lạt.

Như vậy, đến đầu năm 1968, trên tất cả các chiến trường ở miền Nam, mọi công tác chuẩn bị của quân và dân ta, trong đó việc chuẩn bị các lực lượng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 về cơ bản đã hoàn thành, bảo đảm bí mật. Các lực lượng vũ trang miền Nam sẵn sàng chờ giờ G để phối hợp tiến công đồng loạt, bất ngờ vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, nhất là các trung tâm đầu não chính trị, quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy, quyết tâm giành thắng lợi cao nhất.

2. Phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 
 
Trong lúc quân Mỹ và quân Sài Gòn phải tập trung sức lực đối phó với chủ lực Quân giải phóng miền Nam tại Khe Sanh, từ đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 - theo lịch miền Nam), các lực lượng vũ trang ta ở miền Nam bất ngờ, đồng loạt tiến công, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, trọng điểm là các thành phố lớn Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng.

Theo kế hoạch, Sài Gòn là trọng điểm lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, bởi đây là trung tâm đầu não chính trị, quân sự, chỉ đạo toàn bộ bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn tại miền Nam. Ở nội thành, lực lượng biệt động đồng loạt, bất ngờ tiến công vào Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, Đại sứ quán Mỹ. Phối hợp với lực lượng biệt động, lực lượng vũ trang, bán vũ trang của các ngành, các giới đánh địch tại chỗ và phát động quần chúng nổi dậy, giành quyền làm chủ ở một số khu vực nội thành; đồng thời, lực lượng vũ trang của các phân khu 1, 2, 3, 4 và 5 ở các vùng ven đô và lân cận tiến công đánh chiếm một số mục tiêu địch.

Ở vòng ngoài, lực lượng chủ lực Miền (các sư đoàn 5, 9, 7) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh vào các Sở chỉ huy, kho tàng, căn cứ xuất phát tiến công của địch như: Bộ Chỉ huy dã chiến 2 Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn, Sở chỉ huy Sư đoàn 25 quân đội Sài Gòn, sân bay Biên Hòa, kho Long Bình... ngăn chặn và kìm chế không cho địch đưa lực lượng từ ngoài vào ứng cứu nội thành. Sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa lực lượng bộ đội đặc công, biệt động tiến công vào 6/9 mục tiêu quan trọng của địch trong nội thành, cùng với những đòn tiến công mạnh mẽ của lực lượng chủ lực Miền và lực lượng vũ trang địa phương đánh táo bạo, hiểm hóc vào các Sở chỉ huy, căn cứ địch ở vùng ven Sài Gòn đã làm rối loạn hậu phương của chúng, gây tiếng vang lớn trong nước, làm chấn động cả nước Mỹ và lan rộng ra thế giới.

Cùng thời gian này, tại các thành phố lớn Huế, Đà Nẵng cũng như nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ khác trên toàn miền Nam, do công tác chuẩn bị và trình độ phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, chủ yếu là lực lượng chủ lực (bộ binh, pháo binh), lực lượng tinh nhuệ (đặc công, biệt động) và lực lượng vũ trang địa phương, do so sánh lực lượng địch mạnh hơn ta, cũng như phản ứng quyết liệt của Mỹ và quân đội Sài Gòn, nên diễn biến và hiệu quả phối hợp tác chiến giữa các lực lượng của ta ở từng nơi cũng có mức độ khác nhau.

Tại thành phố Huế, trọng điểm thứ hai của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, theo kế hoạch, 2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, sau khi lực lượng pháo binh bắn đồng loạt vào các vị trí địch, lực lượng vũ trang ta trên hai cánh Bắc và Nam đồng loạt đánh vào 40 mục tiêu địch trong và ngoại thành Huế. Ở cánh Bắc, lực lượng chủ lực (Đại đội 1 và 2 thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 9 bộ binh) phối hợp với bộ đội đặc công, tiến đánh đồn Mang Cá, sân bay Tây Lộc. Trong khi đó, một bộ phận lực lượng chủ lực khác (đại đội 3 và 4) tiến công đánh chiếm khu Cột Cờ và toàn bộ khu Đại Nội. Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được kéo lên trên cột cờ, báo hiệu ta đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Phối hợp với đòn tiến công đánh chiếm nội thành, lực lượng chủ lực (các tiểu đoàn 806, 816 thuộc Trung đoàn 9 bộ binh) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công các vị trí địch ở vòng ngoài (An Hòa, Đốc Sơ, La Chữ, Quế Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ), gây cho địch một số thiệt hại.

Ở cánh Nam, do đường hành quân xa, lại bị địch phục kích ngăn chặn, nên lực lượng chủ lực ta (gồm tiểu đoàn 815 và 818 thuộc Trung đoàn 9 bộ binh, tiểu đoàn 840 và 810 bộ binh thuộc Đoàn 5), tiến công vào nội thành chậm so với kế hoạch đề ra. Bộ phận lực lượng chủ lực này đã phối hợp với bộ đội đặc công tiến công đánh chiếm Đài Phát thanh, Trường Quốc học Huế, Trường Đồng Khánh, Tòa tỉnh trưởng... Ở vòng ngoài, một bộ phận lực lượng của Trung đoàn 9 bộ binh còn lại phối hợp với đặc công tiến công địch ở Tam Thai, Nam Giao, khu nhà thờ Phước Quả, các trại Lê Lợi, Quang Trung, gây cho địch thiệt hại nặng. Kết quả phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở Huế giành thắng lợi lớn. Mặt trận Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố ra đời và Ủy ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên - Huế được thành lập.

Đối với Đà Nẵng, trọng điểm thứ ba của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, sau khi lực lượng pháo binh ta bắn phá các sân bay Đà Nẵng, Nước Mặn và lực lượng biệt động, tự vệ đánh chiếm một số mục tiêu ở nội thành ngày 30-1, thì ở phía bắc, lực lượng bộ binh (Trung đoàn 31), công binh và lực lượng vũ trang Khu 1 tiến công đồn Nhất và đánh chiếm thị trấn Nam Ô. Ở phía nam, lực lượng đặc công (Tiểu đoàn 89) và lực lượng vũ trang Khu 2 tiến công Sở chỉ huy Trung đoàn 51 quân Sài Gòn. Ở nội thành, lực lượng Tiểu đoàn 1 bộ binh đánh vào Sở chỉ huy Quân đoàn 1 bị chặn lại. Trong khi đó, lực lượng chủ lực (Sư đoàn 2 bộ binh), do nhận được lệnh hoãn ngày nổ súng, nên rút về tuyến sau. Vì thế, kế hoạch phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong và ngoại vi Đà Nẵng không thực hiện được.

Phối hợp với ba trọng điểm lớn Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng, lực lượng vũ trang ta trên các chiến trường tiến công vào nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, căn cứ, sân bay, kho tàng địch. Ở miền Đông Nam Bộ, lực lượng bộ đội chủ lực, đặc công, biệt động tiến công sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, Bộ Chỉ huy dã chiến 2 của Mỹ ở Biên Hòa; Tòa hành chính Thủ Dầu Một, Dinh Tỉnh trưởng, Ty Cảnh sát trong thị xã An Lộc và thị trấn Phước Bình.

Tại Quân khu 8, các lực lượng bộ binh, pháo binh, đặc công, biệt động phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công các thị xã Mỹ Tho, Bến Tre và một số căn cứ của địch. Ở Quân khu 9, các lực lượng bộ binh, pháo binh phối hợp với biệt động tiến công hai trọng điểm thành phố Cần Thơ và thị xã Vĩnh Long. Phối hợp với đòn tiến công quân sự ở các thị xã, thành phố, tại nhiều vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng vũ trang địa phương tiến công hỗ trợ quần chúng nổi dậy, phá ách kìm kẹp của địch ở nhiều xã, ấp, giành quyền làm chủ.

Tại Tây Nguyên, các lực lượng vũ trang ta được lực lượng chính trị của quần chúng hỗ trợ, tiến công làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) trong 6 ngày, làm chủ một phần các thị xã Kon Tum, Pleiku và chiếm giữ căn cứ Tân Cảnh. Ở đồng bằng Khu 5, lực lượng vũ trang địa phương đồng loạt tiến công vào các thành phố Quy Nhơn, Nha Trang; các thị xã Hội An, Tuy Hòa và 40 thị trấn. Ở Quân khu 6, lực lượng vũ trang ta tiến công thị xã Phan Thiết, thành phố Đà Lạt, gây cho địch một số thiệt hại.

Nhìn chung, trong những ngày đầu Tổng tiến công và nổi dậy, các lực lượng vũ trang của ta đã phối hợp tác chiến, đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng của địch ở hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam, tiêu hao một phần sinh lực địch, phá hủy một số phương tiện chiến tranh của chúng, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ.

Sau một thời gian củng cố tổ chức, chấn chỉnh lại lực lượng, từ ngày 17-2, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta trên toàn miền Nam lại đồng loạt tiến công vào hàng chục thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ và nhiều căn cứ quân sự của địch. Tại Huế, lực lượng chủ lực ta ở nội đô được tăng cường khá đông, nhưng địch tập trung phản kích quyết liệt và dùng máy bay ném bom, bắn phá dồn ta vào trong thành nội. Ở cánh Nam, chỉ có một bộ phận nhỏ lực lượng ta ở khu Tam Giá đánh nhỏ, kìm chân địch, còn đại bộ phận lực lượng chủ lực phải rút ra vùng ven sông An Cựu, Vân Dương. Trong khi đó, hoạt động tác chiến của ta ở Đường 9 - Khe Sanh và các nơi khác không đủ sức mạnh để phân tán lực lượng địch. Những cố gắng của lực lượng chủ lực ta ở cánh Bắc chỉ tiêu hao một bộ phận nhỏ lực lượng địch, không tạo được sự chuyển biến tình hình. Địch phản kích dữ dội, dồn lực lượng ta về phía tây. Trước tình hình đó, ngày 25-2-1968, toàn bộ lực lượng ta được lệnh của Khu ủy Trị - Thiên và chỉ huy Mặt trận Huế đã bí mật rút khỏi thành phố ra phía ngoài an toàn.

Trong khi đó, tại Sài Gòn, do lực lượng chủ lực ta không tiến vào được nội đô, nên bộ phận lực lượng đặc công, biệt động và các tiểu đoàn mũi nhọn chiến đấu bên trong lâm vào tình thế đơn độc, lực lượng bị tiêu hao, phải rút ra vùng ven củng cố, tiếp tục chiến đấu. Sau hơn một tuần phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong nội thành và vùng ven đô, gây cho địch một số thiệt hại, lực lượng ta gặp khó khăn. Địch tập trung lực lượng phản kích dữ dội, gây cho ta tổn thất lớn. Trước tình hình đó, ngày 28-2-1968, ta kết thúc cuộc Tổng tiến công ở Sài Gòn.

Cùng thời gian này, ở Nam Bộ, các lực lượng vũ trang ta phối hợp tác chiến ở 11 thị xã, 17 thị trấn, 7 sân bay; ở Tây Nguyên, ta phối hợp tác chiến trong hơn 100 trận; ở cực Nam Trung Bộ, lực lượng ta phối hợp tác chiến ở hai trọng điểm là thị xã Phan Thiết và thành phố Đà Lạt... Những ngày đầu tháng 3-1968, ta còn tiến công một số thị xã, thị trấn, song nhìn chung, áp lực phối hợp tác chiến giữa các lực lượng của ta giảm dần, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn miền Nam kết thúc.

Trong điều kiện so sánh lực lượng, địch hơn hẳn, ta khó có thể thực hiện đánh tiêu diệt lớn quân địch, thì việc tổ chức phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, chủ yếu là lực lượng chủ lực (bộ binh, pháo binh), lực lượng tinh nhuệ (đặc công, biệt động) và lực lượng vũ trang địa phương đánh thẳng vào trung tâm đầu não chính trị, quân sự của địch ở các thành phố lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, kết hợp với nổi dậy của quần chúng là một quyết định sáng suốt, táo bạo của Đảng ta.

Dù còn một số hạn chế, nhưng quá trình phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, nhất là phối hợp tác chiến trong các thành phố trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 có ý nghĩa hết sức quan trọng và để lại những bài học kinh nghiệm quý giá. Đó là việc chuẩn bị về lực lượng, về nghệ thuật phối hợp tác chiến giữa các lực lượng của ta đánh đồng loạt, bất ngờ vào hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát, chiếm đóng; là sự phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong nội thành và phối hợp tác chiến giữa các lực lượng ngoại thành với các lực lượng nội thành. Đây là cơ sở quan trọng để cho quân đội ta nói riêng, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam nói chung tiếp tục kế thừa, phát triển cả về lý luận và thực tiễn, nâng cao hiệu quả phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong những trận đánh lớn có ý nghĩa chiến dịch, chiến lược, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Chính vì vậy, sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cần tiếp tục được nghiên cứu, kế thừa và vận dụng sáng tạo trong công tác xây dựng, đào tạo và huấn luyện bộ đội, nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh chiến đấu hoàn thành tốt chức năng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 29 Tháng Năm, 2020, 03:27:09 pm
CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. ĐỖ NGỌC TUYÊN
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tư tưởng quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Vào thời khắc Giao thừa 50 năm trước đây - Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã đồng loạt nổi dậy tiến công địch, giành thắng lợi to lớn. Bài viết này tập trung làm rõ những hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chủ yếu trong Tết Mậu Thân 1968.

Thứ nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy.

Đảng ta xác định nhiệm vụ trung tâm trước mắt của Đảng là tập trung toàn lực lãnh đạo, chỉ đạo cuộc "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" cho đến toàn thắng. Vì vậy, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" đẩy chiến tranh xâm lược lên nấc thang cao nhất, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (ngày 27-1-1967) họp, tán thành chủ trương của Bộ Chính trị: "động viên và đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại cuộc "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại của chúng ở miền Bắc nước ta, đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn" ; chỉ rõ: "Ở miền Nam,... giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, tạo điều kiện và thời cơ cho các đợt hoạt động lớn tiếp theo, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương".

Tiếp theo, trong các tháng 2, 5, 6 - 1967, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Trung ương Cục miền Nam đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị đánh giá tình hình, nhiệm vụ quân sự cũng như xác định chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta lên bước phát triển mới. Cũng trong các tháng 5, 6, Trung ương Cục và Thường vụ Trung ương Cục đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị về công tác quân sự, xây dựng Đảng, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, giáo dục, tuyên truyền vận động quần chúng. Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ Chính trị về tổng công kích, tổng khởi nghĩa (10-1967), căn cứ vào quyết tâm, chủ trương chiến lược của Đảng, ngay cuối tháng 10, Trung ương Cục ra Nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa (mật danh Nghị quyết Quang Trung). Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền, với tinh thần rất khẩn trương, đã lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang và các địa phương đẩy mạnh tiến công địch, gấp rút chuẩn bị chiến trường, lực lượng theo yêu cầu tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Đầu tháng 11-1967, Tổng cục Chính trị điện chỉ đạo Cục Chính trị Miền phương hướng, nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị năm 1968, nhấn mạnh: "triệt để chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, kiên quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu, xây dựng và công tác, giành thắng lợi lớn nhất trên chiến trường và trong bất cứ tình huống nào".

Tháng 12-1967, Quân ủy Miền ra chỉ thị về công tác chính trị, nội dung tập trung vào giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm đánh và thắng Mỹ; thực hiện tốt đường lối quân sự, phương châm đấu tranh và sáu phương thức tác chiến 1; chỉ rõ công tác đảng, công tác chính trị phải toàn diện, nhưng nắm chắc ba khâu: công tác tư tưởng, công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ, hướng vào thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng; nhấn mạnh "dù hoàn cảnh nào cũng đạp bằng mọi trở ngại, với dũng khí phi thường, kiên quyết đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn".

Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 đã thống nhất chủ trương của Bộ Chính trị (12-1967), khẳng định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta... là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, sau nhiều tháng nghiên cứu, trao đổi, Quân ủy Trung ương báo cáo với Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh phương hướng, mục tiêu, cách sử dụng lực lượng tổng tiến công và nổi dậy, đặc biệt là chọn được cách đánh thật hiểm, thật đau, đạt tới hiệu lực chiến lược làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta, đó là: Hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách mạng vào thành thị, nhất loạt đánh vào thành phố, thị xã, thị trấn, trung tâm đầu não của địch và kết hợp công kích quân sự với khởi nghĩa quần chúng. Đồng thời phân tán, kéo chủ lực địch ra các chiến trường ta đã chuẩn bị để nghi binh, thu hút, giam chân và tiêu hao, tiêu diệt lớn quân Mỹ, làm cho chúng không phán đoán được ý định chiến lược của ta, tạo điều kiện cho các địa phương, nhất là thành thị thực hành tiến công và nổi dậy.

Thứ hai, khẩn trương sắp xếp, kiện toàn cấp ủy, chỉ huy, cán bộ và biên chế, trang bị.

Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất, chặt chẽ trên toàn miền Nam tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi, công tác tổ chức tập trung chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức; sắp xếp và kiện toàn cấp ủy, chỉ huy, đội ngũ cán bộ và tổ chức biên chế, trang bị. Xây dựng các kế hoạch tiến công quân sự và nổi dậy; tiến hành công tác dân vận, binh địch vận, thương binh, tử sĩ; chấp hành chính sách trong chiến đấu; bổ sung, thay thế trong quá trình chiến đấu; phát triển đảng viên, đoàn viên... để khi tổng tiến công và nổi dậy diễn ra dựa vào đó thực hiện.

Trên cơ sở các quyết nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thành lập Binh chủng Đặc công (19-3-1967); các bộ tư lệnh binh chủng Ra đa, Tên lửa, Không quân thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân (24-3-1967). Ngày 19-5-1967, Bộ Chính trị quyết định bộ máy lãnh đạo của Đảng ở miền Nam 2. Sau khi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mất 3, tháng 10-1967, Bộ Chính trị kiện toàn lại tổ chức lãnh đạo, chỉ huy ở miền Nam 4. Cũng trong tháng 10-1967, để thực hiện nhiệm vụ tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu 1 miền Đông và Quân khu 4 Sài Gòn - Gia Định để thành lập Khu trọng điểm; chia khu này thành 6 phân khu. Về mặt quân sự, thành lập hai bộ chỉ huy tiền phương 1 và 2 (còn gọi là Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Nam) để phụ trách các mũi phía nam, tây nam, lực lượng nội thành và các mũi phía đông, bắc, các đơn vị chủ lực Miền. Toàn bộ lực lượng vũ trang chiến đấu trên mặt trận Sài Gòn - Gia Định được chia lại thành ba khối (biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn, chủ lực Miền).

Cũng trong tháng 10-1967, nhằm bảo đảm thông suốt việc tiếp tế vũ khí, lương thực cho lực lượng vũ trang, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức 5 đoàn hậu cần khu vực tương đương 5 trung đoàn. Trước đó (tháng 5-1967), Trung ương Cục đã thành lập Đoàn 70 trực thuộc Cục Hậu cần Miền để đảm đương nhiệm vụ đón nhận hàng chi viện của Trung ương cho chiến trường B2; kết hợp với các đoàn hậu cần khác tạo ra mạng lưới hậu cần liên hoàn từ Chiến khu Đ xuống đến Bình Dương - Biên Hòa, Bà Rịa để đảm bảo cho lực lượng chủ lực Miền, quân khu hoạt động. Phục vụ cho đòn tiến công vào đô thị, Phòng Quân báo, Phòng Thông tin Miền gấp rút sưu tầm bản đồ các thành phố, thị xã; điều tra, nghiên cứu các mục tiêu; đưa đón cán bộ chỉ huy vào, ra nội thành các thành phố, thị xã; chuẩn bị lực lượng trinh sát dẫn đường và tổ chức mạng thông tin, liên lạc bảo đảm cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy...

Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, địa bàn tác chiến và lực lượng quân sự, chính trị ở các hướng chiến trường, khu, mặt trận được tổ chức lại và tăng cường: Khu 5 chia thành bốn hướng tiến công (Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Tây Nguyên, Phú Yên - Khánh Hòa) với tỉnh Quảng Đà là chiến trường chính và thành phố Đà Nẵng là trọng điểm; thành lập trung đoàn đặc công đầu tiên để đánh chiếm thị xã Quảng Ngãi. Ở Trị - Thiên 5, Bộ Chính trị quyết định thành lập Quân khu Trị - Thiên - Huế trực thuộc Trung ương về Đảng, trực thuộc Quân ủy Trung ương về quân sự và bổ nhiệm các đồng chí chủ trì, chủ chốt về chính trị, quân sự của Quân khu. Tăng cường lực lượng, chia Quân khu làm ba mặt trận (thành phố Huế, phía bắc, phía nam) với thành phố Huế là mặt trận chủ yếu. Ngay tại Huế, cũng chia thành hai cánh (cánh Bắc, cánh Nam) và kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt.

Ở miền Bắc, cuối tháng 7 -1967, Quân ủy Trung ương mở lớp tập huấn cho 150 cán bộ trung, cao cấp thuộc các tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và các binh đoàn cơ động về tình hình, nhiệm vụ mới và nhiều vấn đề trong tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Tháng 8, Bộ Quốc phòng đề nghị Chính phủ điều động 100 sinh viên khoa tiếng Anh năm thứ 3 và thứ 4 vào quân đội. Từ tháng 8-1967, đảng ủy và chỉ huy các sư đoàn dự bị chiến lược (304, 308, 312, 320) gấp rút kiện toàn tổ chức, lực lượng, biên chế, trang bị vũ khí; huấn luyện nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng. Lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển, giao thông vận tải, công binh... chấn chỉnh tổ chức, tăng cường số lượng, hoàn chỉnh thế trận nhằm bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho chiến trường 6. Trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, Đoàn 559 mở rộng hệ thống đường, tăng lực lượng và phương tiện, cải tiến phương pháp vận chuyển, bảo vệ vận chuyển.

Tháng 9, Hội đồng Chính phủ tổ chức Hội nghị phòng không nhân dân để rút kinh nghiệm công tác phòng không, duy trì và bảo đảm sinh hoạt, sản xuất trong điều kiện địch đánh phá ác liệt. Công tác tuyển quân được xúc tiến mạnh mẽ 7. Lực lượng Đài Phát thanh và Thông tấn xã Giải phóng, Ban Huấn học được Thường vụ Trung ương Cục tăng cường. Các bộ phận tuyên huấn được giữ nguyên và tăng cường về nhân lực, phương tiện hoạt động.

Ngày 6-12-1967, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 để lãnh đạo và chỉ huy các đơn vị tác chiến tiêu diệt địch, nghi binh chiến lược và thu hút, kìm giữ một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động quân Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho các trọng điểm tiến công và nổi dậy, trực tiếp là Trị - Thiên, Huế.

Thứ ba, bảo vệ an toàn tuyệt đối con người, vũ khí trang bị và những vấn đề cơ mật về ý đồ, chủ trương chiến lược, kế hoạch tác chiến.

Để đáp ứng nhu cầu chiến trường, lực lượng động viên vào quân đội nhiều, dồn dập, đa dạng thành phần nhưng công tác kiểm tra, tuyển lựa vẫn được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất lượng chính trị. Tuy địch đẩy mạnh các hoạt động tình báo, gián điệp, chiến tranh tâm lý nhưng công tác đấu tranh đã vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn của chúng. Mọi chủ trương, kế hoạch chiến lược cơ mật; các hoạt động chiến đấu, hành quân, trú quân, vận chuyển, sơ tán kho tàng, cơ quan... được bảo đảm bí mật, an toàn.

Tháng 9-1966, Tổng cục Chính trị ban hành Chỉ thị số 106/CT-H về "Một số vấn đề về công tác bảo vệ đối với các đơn vị chiến đấu ở chiến trường miền Nam", chỉ ra những đặc điểm, khó khăn và chỉ rõ những công việc mà lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ bảo vệ các cấp phải tiến hành nhằm giữ bí mật, an toàn cho bộ đội. Tháng 11-1967, Bộ Tổng Tham mưu phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường kế hoạch nghi binh chiến lược 8. Cũng trong tháng 11, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 42/CT-H về tăng cường công tác giữ bí mật quân sự. Đầu tháng 12, theo yêu cầu của chiến trường, đoàn cán bộ Cục bảo vệ của Tổng cục Chính trị vào chỉ đạo công tác bảo vệ ở Mặt trận Trị - Thiên (B4) và Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5). Ngoài ra, công tác bảo vệ còn tập trung bảo vệ ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, quân đội; tiềm lực quốc phòng và các cơ quan đầu não, kho tàng, căn cứ, nơi đóng, trú quân; ý đồ chiến lược, chủ trương chiến dịch, phương án tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang; chống tình báo, gián điệp... với trọng tâm, trọng điểm là bảo vệ ý đồ, chủ trương chiến lược, kế hoạch tác chiến.

Để giữ bí mật tuyệt đối, chủ trương và kế hoạch tác chiến thật chỉ được phổ biến cho các chiến trường trực tiếp bằng miệng thông qua các phái viên của Bộ Tổng Tư lệnh hoặc cán bộ chủ chốt ở chiến trường phái ra Hà Nội nhận lệnh. Trước ngày mở màn chiến dịch một tháng, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền mới trực tiếp truyền đạt quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng cho các bí thư khu ủy và nhắc các khu ủy chỉ đạo làm tốt công tác bảo vệ.

Nhằm xây dựng quyết tâm chiến đấu cụ thể với từng hướng chiến trường, lực lượng tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tuyến trước và tuyến sau, các đơn vị coi trọng quán triệt tình hình, nhiệm vụ trên chiến trường, làm rõ thắng lợi và sự phát triển chính trị, quân sự của ta; thất bại của địch trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Nhận thức rõ đây là thời cơ tốt để quân, dân ta giáng cho đế quốc Mỹ một đòn thật nặng làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" và các kế hoạch, biện pháp chiến tranh, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, đưa chiến tranh cách mạng phát triển lên giai đoạn cao nhất. Về thời cơ cụ thể, làm rõ việc ta tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Nguyên đán là thời điểm kẻ thù bất ngờ và sơ hở nhất; cách đánh của ta là một cách đánh mà địch chưa hề thấy và không thể nghĩ tới.

Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua, tạo động lực cho Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt.

Sau khi có nghị quyết, chỉ thị của Đảng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, Quân ủy và Cục Chính trị Miền chỉ đạo các khu ủy, quân khu ủy, các đơn vị lực lượng vũ trang triển khai đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng về cuộc vận động "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Đồng thời, tích cực tiến hành công tác chính trị tư tưởng, tập trung vào vạch rõ tội ác mà Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn gây ra đối với nhân dân cả nước; bản chất hiếu chiến của đế quốc Mỹ; cổ vũ mọi người phát huy truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi".

Để động viên quân và dân cả nước dốc sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tháng 1-1967, Đảng và Nhà nước tổ chức Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước trên miền Bắc trong các lĩnh vực và Đại hội thi đua các đội Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự, căn dặn các đại biểu "ra sức học tập, cố gắng tiến bộ, tiến bộ nữa, tiến bộ mãi, phải khiêm tốn, không được kiêu ngạo..."; "Các cháu nào đã là anh hùng, thì phải cố gắng tiến nữa, các cháu nào chưa là anh hùng thì phấn đấu để trở thành anh hùng" . Giữa tháng 9, Trung ương Cục và Quân ủy Miền tổ chức Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ hai, trong điện gửi Đại hội, Người khẳng định: "Năm 1965, Đại hội anh hùng miền Nam lần thứ nhất là Đại hội đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của giặc Mỹ. Đại hội anh hùng lần này là Đại hội của những người sẽ đánh thắng "chiến tranh cục bộ" của chúng" . Những hoạt động quan trọng này không chỉ thể hiện sự quan tâm, động viên to lớn của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối với lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn góp phần tạo ra động lực cách mạng mạnh mẽ, cổ vũ và động viên mọi người phấn đấu làm tròn mọi nhiệm vụ.

Thứ năm, quan tâm công tác binh, địch vận và chính sách.

Thực hiện chủ trương đánh địch bằng hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh, kết hợp ba mũi giáp công và đấu tranh ngoại giao, bốn bám, sáu phương thức tác chiến của Đảng, trong quá trình chuẩn bị, tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, công tác binh địch vận được tiến hành liên tục, khẩn trương với nhiều nội dung và bằng nhiều hình thức. Trong đó, đã đẩy mạnh kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh địch vận và sử dụng tốt nhất lực lượng ta, đồng thời kêu gọi binh lính quân đội Sài Gòn khởi nghĩa; đưa cán bộ binh địch vận về các vùng trọng điểm, bám sát đối tượng, dự kiến đúng tình huống, xây dựng các phương án, kế hoạch chủ động đối phó khi địch tan rã hàng loạt hoặc có ly khai, binh biến lớn, có nhiều tù binh, hàng binh; vận động tổ chức lực lượng quần chúng, gia đình binh sĩ quân đội Sài Gòn là cơ sở của cách mạng nổi dậy. Tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và rải truyền đơn để tranh thủ, trung lập một số đơn vị quân Mỹ, Nam Triều Tiên; nêu rõ chính sách tám điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đối với sĩ quan, binh lính, cảnh sát; chính sách 4 điểm đối với nhân viên chính quyền Sài Gòn. Đưa ra chủ trương ngừng tấn công quân sự trong dịp Tết để tạo điều kiện cho binh lính quân đội Sài Gòn bỏ ngũ, phân tán lực lượng. Vận động một số tề xã, tề ấp, cảnh sát, nhân dân tự vệ tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực cho các trọng điểm...

Công tác chính sách đã bám sát chủ trương của Đảng, những hoạt động trên các chiến trường, tập trung vào khắc phục mọi khó khăn để củng cố hậu phương và chi viện cho tiền tuyến; tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân miền Bắc; đồng thời động viên sức người, sức của đến mức cao nhất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của cả hai miền; động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân chịu đựng thiếu thốn để chi viện cho tiền tuyến, bảo đảm cho miền Nam giành được thắng lợi quyết định. Xây dựng các kế hoạch bảo đảm; thương binh, liệt sĩ; cứu chữa, vận chuyển, điều trị, điều dưỡng thương binh... để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh quy mô lớn.

Thông qua các hoạt động, công tác đảng, công tác chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta 9, giáng một đòn quyết định làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, mở đầu quá trình đi xuống về chiến lược, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh kết quả, thắng lợi đạt được, công tác đảng, công tác chính trị ở một số hướng, một số nơi cũng còn có những khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị vật chất, tinh thần và cách đánh; đánh giá tình hình, nhất là về lực lượng chính trị của quần chúng ở thành thị và khả năng, phản ứng của địch; xác định mục tiêu, kế hoạch công kích quân sự và hiệp đồng tác chiến của các lực lượng, các chiến trường, giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng...

Những thành công và hạn chế của công tác đảng, công tác chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ là những kinh nghiệm quý cho lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức hoạt động quân sự, xây dựng lực lượng, phát triển nghệ thuật quân sự, đặc biệt là lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tác chiến trong thành phố, mà còn góp phần làm phong phú, phát triển lý luận, thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị và làm tiền đề cho những thắng lợi sau này để giành thắng lợi trọn vẹn trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.




-----------------------------------------------------------------
1. Sáu phương thức tác chiến là: 1- Đẩy mạnh hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực tập trung trong những chiến dịch vừa và lớn, dưới hình thức tiến công hoặc chủ động phản công địch; 2- Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình độ cao; 3- Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, hải cảng, cơ quan đầu não; 4- Triệt phá các đường giao thông thuỷ bộ quan trọng, tạo thế bao vây, chia cắt địch; 5- Đẩy mạnh hoạt động ở các đô thị; 6- Tác chiến kết hợp với binh biến; triển khai công tác binh vận, ngụy vận trên quy mô chiến lược.

2. Theo đó, Quân ủy Miền do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư; Phó Bí thư là các đồng chí Trần Văn Trà, Trần Độ; Ủy viên là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đồng Văn Cống, Nguyễn Hữu Xuyến, Lê Đức Anh, Nguyễn Thị Định và Anh Thi (hậu cần). Bộ Chỉ huy Miền do đồng chí Nguyễn Văn Linh (Bảy Linh) làm Chính ủy; đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh; Phó Chính ủy là đồng chí Trần Độ; Phó Tư lệnh là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đồng Văn Cống, Nguyễn Hữu Xuyến, Lê Đức Anh, Nguyễn Thị Định.

3. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, từ trần tại Hà Nội ngày 6-7-1967.

4. Thường vụ Trung ương Cục là đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đáng, Phạm Văn Xô, Trần Nam Trung, Hoàng Văn Thái, do đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Bí thư Trung ương Cục; Phó Bí thư là các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đáng, Hoàng Văn Thái; Quân ủy Miền do đồng chí Phạm Hùng làm Bí thư; Phó Bí thư là đồng chí Nguyễn Văn Linh và Hoàng Văn Thái; các ủy viên gồm: Phạm Văn Xô, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Lê Văn Tưởng; Thường trực Quân ủy Miền là đồng chí Hoàng Văn Thái, Phạm Văn Xô, Trần Độ, Lê Đức Anh, Lê Văn Tưởng. Bộ Chỉ huy Miền do đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy; Phó Chính ủy là các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Trần Độ; Tư lệnh là đồng chí Hoàng Văn Thái; Phó Tư lệnh là các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Hữu Xuyến, Đồng Văn Cống; Tham mưu trưởng là đồng chí Lê Đức Anh; Chủ nhiệm Chính trị là đồng chí Lê Văn Tưởng; Chủ nhiệm Hậu cần là đồng chí Nguyễn Văn Thi.

5. Trước đây là một phân khu của Quân khu 5, tháng 2-1966, Quân ủy Trung ương quyết định tách phân khu Trị Thiên - Huế khỏi Quân khu 5.

6. So với năm 1965, đến cuối năm 1967, số trung đoàn, tiểu đoàn pháo cao xạ tăng từ 2,5 đến 4,7 lần; số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần, các trận địa ra đa, cảnh giới tăng 2 lần. Các lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng, của các quân khu cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng.

7. Trong năm 1967, số quân rời miền Bắc vào chiến trường miền Nam chiến đấu tăng gần 1,5 lần so với năm 1966. Từ quý II năm 1967 đến quý I năm 1968, 155.000 quân đã được đưa vào miền Nam.

8. Nhằm mục đích đó, một bản kế hoạch tác chiến giả đã được gửi cho các cấp lãnh đạo, chỉ huy tại các chiến trường miền Nam. Sau này, trong hồi ký Tường trình của một quân nhân, tướng Oétmolen cho biết vào tháng 11-1967, họ đã thu được một tài liệu quan trọng về kế hoạch quân sự năm 1968 của đối phương ở một địa điểm gần Đắc Tô. Tài liệu đó là bản kế hoạch tác chiến giả của ta. Đây chính là một trong những căn cứ để Mỹ nhận định sai về chủ trương chiến lược của ta trong Tết Mậu Thân 1968.

9. Diệt và làm tan rã 150.000 tên địch, trong đó có hàng nghìn lính Mỹ và chư hầu, phá hủy 34% vật tư dự trữ chiến tranh của Mỹ ở miền Nam, phá 4.200 "ấp chiến lược", giải phóng thêm 1,4 triệu dân.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 29 Tháng Năm, 2020, 03:37:01 pm
HẬU PHƯƠNG ĐỐI VỚI
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh


Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng đã sớm xác định miền Bắc là hậu phương lớn của miền Nam, sớm định hướng xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là quyết tâm đúng đắn, là cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Tại Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 1-1959), Đảng xác định đúng đắn phương pháp cách mạng miền Nam, đồng thời chỉ rõ: "Miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa một mặt là theo quy luật phát triển khách quan của xã hội miền Bắc, vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân miền Bắc. Mặt khác là tích cực gánh vào phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng cả nước" .

Trong quá trình xây dựng hậu phương, Đảng và Chính phủ đã phát động trong toàn quân, toàn dân nhiều cuộc vận động chính trị, các phong trào thi đua yêu nước. Những phong trào này có tác dụng tốt, tạo nên niềm cổ vũ và động viên tinh thần to lớn cho toàn dân ở hậu phương thi đua hoàn thành nhiệm vụ. Đảng và Nhà nước tiến hành động viên toàn bộ nền kinh tế, đồng thời tranh thủ tối đa sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa để phục vụ cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trên đồng ruộng, trong nhà máy khẩu hiệu hành động lúc này là "Tất cả vì đồng bào miền Nam ruột thịt", "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Mỗi người làm việc bằng hai"...

Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam xác định động viên kinh tế cục bộ, tiến hành huy động lực lượng và vũ khí, trang bị, hậu cần tại chỗ là chủ yếu; đồng thời, tích cực, chủ động tiếp nhận sự hỗ trợ về vũ khí từ miền Bắc gửi vào. Thực hiện chủ trương này, Đoàn 559 và 759 lần lượt được thành lập có nhiệm vụ tổ chức vận tải vũ khí, trang bị bằng cả đường biển và đường bộ cho chiến trường miền Nam. Tổng kết thời kỳ 1962-1965 cho thấy, 83% vũ khí được sản xuất, huy động tại chỗ; 13% được vận chuyển từ miền Bắc vào . Đầu năm 1962, đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn được mở, nhờ đó khối lượng hàng hóa đưa vào Nam càng nhiều hơn. Cũng trong năm 1962, đường vận tải trên biển từ miền Bắc vào đến Rạch Giá (miền Tây Nam Bộ) được mở, chiến sĩ Đoàn 759 đã chuyển vào Nam 1.430 tấn vũ khí. Từ năm 1961-1963, miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 4 vạn cán bộ, chiến sĩ, 165.000 khẩu súng, 7.000 tấn lương thực, 34 tấn thuốc men và 2.000 tấn vật tư khác .

Muốn hậu phương vững mạnh, không thể thiếu tiềm lực kinh tế. Xây dựng hậu phương về kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định để đảm nhận vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến. Việt Nam thường tiến hành chiến tranh trong điều kiện lâu dài, tự lực cánh sinh là chính nên càng phải coi trọng chuẩn bị hậu phương về kinh tế để chăm lo mọi mặt cho chiến sĩ "thực túc thì binh cường", đồng thời chuẩn bị vũ khí, đạn dược phục vụ cho tiền tuyến. Kinh tế hậu phương có phát triển mới đủ điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân ở hậu phương, duy trì và bồi dưỡng được sức dân trong điều kiện chiến tranh ác liệt kéo dài. Từ năm 1965, miền Bắc đã xây dựng được 18.600 hợp tác xã bậc cao, gần 700 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn thóc/hécta/năm; 90% hàng tiêu dùng thiết yếu và một phần tư liệu sản xuất do các ngành công nghiệp trong nước bảo đảm; hệ thống giao thông vận tải, bưu điện được mở rộng và nâng cấp thêm phương tiện, máy móc thiết bị mới .

Số lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương cũng như dân quân tự vệ ở miền Bắc không ngừng tăng nhanh. Bộ đội được huấn luyện và chuyển vào chiến đấu trong chiến trường, dân quân tự vệ được huấn luyện theo định kỳ, đảm nhận vai trò nòng cốt trong bảo đảm trật tự trị an, phục vụ chiến đấu tại các địa phương. Cùng với việc tập trung xây dựng lực lượng thường trực, hậu phương miền Bắc cũng đồng thời xây dựng lực lượng hậu bị: năm 1962 có gần 1 triệu người đăng ký ngạch dự bị. Vũ khí trang bị từng bước được hiện đại.

Những năm 1961-1965, trên toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua "mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt" theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tổng số bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu tăng 14 lần so với năm 1960 là 17.427 người, vũ khí và phương tiện chiến tranh chuyển vào Nam là 3.435 tấn, tăng 10 lần so với năm 1960 . Với những thành tựu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng lực lượng vũ trang của miền Bắc đã tạo điều kiện cho hậu phương miền Bắc liên tục chi viện cho miền Nam với quy mô và mức độ ngày càng tăng. Phát huy vai trò của hậu phương chiến lược, miền Bắc đã không ngừng vươn lên chi viện sức người sức của cho chiến trường.

Nếu tính cả thời kỳ từ năm 1965-1972, hậu phương miền Bắc đã chi viện cho miền Nam 614.051 súng bộ binh, 35.599 súng B40, B41; 1.785 khẩu DKZ, 8.494 cối, 559 khẩu pháo hỏa tiễn, 75 pháo 122 ly và 130 ly, 2.086 súng máy cao xạ, 195 pháo cao xạ 37 ly, 113 xe tăng, 50 xe bọc thép, 6.600 máy vô tuyến điện, 12.565 máy hữu tuyến điện, 1.002 ô tô vận tải kéo pháo, 93 xe xích kéo pháo . Riêng năm 1968, từ miền Bắc đã đưa vào miền Nam 14 vạn quân, gấp 3 lần năm 1965; 7 vạn tấn hàng, gấp 8 lần năm 1965 .

Riêng trong năm 1968, ngành giao thông vận tải đã có hơn 120.000 người trong biên chế chính thức, chưa kể hàng chục vạn thanh niên xung phong được huy động để phục vụ trên khắp các tuyến đường từ hậu phương ra tiền tuyến. Miền Bắc đã huy động trên 267 triệu ngày công theo chế độ dân công thời chiến để bảo đảm giao thông, làm trận địa, sửa chữa sân bay, bến cảng, vận chuyển vật chất, thương bệnh binh... Số lượng xe ô tô vận tải cung cấp cho quân đội để bảo đảm cho chiến trường miền Nam chiếm 70% tổng số ô tô vận tải cả nước. Mức huy động lương thực chiếm 20% tổng sản lượng lương thực của miền Bắc. Với những cố gắng phi thường đó, để chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hậu phương miền Bắc chuyển giao cho chiến trường gần 100.000 tấn vật chất, khối lượng này gấp hàng chục lần so với giai đoạn 1961-1964 .

Qua số liệu thống kê và thực tế cho thấy, để có được lương thực chi viện cho tiền tuyến miền Nam, 1 tấn lương thực từ hậu phương miền Bắc khi vào đến chiến trường Trị - Thiên thì hậu phương miền Bắc đã phải chuẩn bị 12 tấn, đó là chưa kể đến sự hy sinh xương máu của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm công tác vận chuyển . Để vận chuyển hàng hóa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, hậu phương miền Bắc đã tập trung củng cố phát triển hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy... huy động tất cả khả năng giao thông vận tải để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm vận chuyển kịp thời, đầy đủ. Chỉ tính riêng đường Hồ Chí Minh - tuyến đường vận chuyển chiến lược chi viện từ miền Bắc vào Nam, qua 15 năm xây dựng và chiến đấu, đường Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành tuyến hậu cần chiến lược, phát huy tác dụng tối đa và tích cực đối với chiến trường miền Nam. Với trên 16.000 km đường bộ, 1.400 km đường ống, hơn 6.000 xe vận tải các loại, một khối lượng rất lớn lương thực, vũ khí, xăng dầu, trang bị đã được vận chuyển về chiến trường.

Nhằm tổng động viên cao độ toàn quân, toàn dân cho cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng ban hành các nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo các mặt công tác: Nghị quyết số 119-NQ/TW, ngày 7-5-1965, về công tác giao thông vận tải; Chỉ thị số 99-CT/TW, ngày 8-6-1965, về công tác vận động phụ nữ; Chỉ thị số 102-CT/TW, ngày 3-7-1965, về công tác giáo dục tư tưởng chính trị; Chỉ thị số 105-CT/TW, ngày 29-7-1965, về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động thanh niên trong tình hình mới... Đặc biệt, ngày 25-9-1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 181-NQ/TW về công tác vận động thanh niên: "Các cấp ủy Đảng, các ngành và Đoàn Thanh niên cần làm cho thanh niên có tinh thần quyết chiến quyết thắng, không sợ gian khổ hy sinh, sẵn sàng hiến thân vì độc lập tự do của Tổ quốc. Trên cơ sở đó mà động viên hăng hái tòng quân, tích cực xây dựng dân quân tự vệ, giữ gìn trật tự trị an, phòng không nhân dân và phục vụ chiến đấu" .

Ở miền Bắc có các phong trào "Phụ nữ ba đảm đang", "Thanh niên ba sẵn sàng" (chỉ trong 4 tháng từ tháng 2 đến tháng 5-1965, có 2,5 triệu thanh niên miền Bắc tình nguyện ghi tên "Ba sẵn sàng"; trong 3 tháng từ tháng 3 đến tháng 5-1965 có 1,7 triệu phụ nữ miền Bắc ghi tên tình nguyện "Ba đảm đang") ; "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Trên các tuyến giao thông của hậu phương miền Bắc chi viện cho tiền tuyến miền Nam là phong trào "Xe chưa qua, nhà không tiếc", trên đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn có phong trào "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến". Đây không chỉ là những khẩu hiệu có sức động viên cổ vũ rất lớn, mà còn là phương hướng hành động của hàng chục triệu quần chúng hậu phương miền Bắc sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh vì miền Nam thân yêu, vì độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh thần "cả nước ra trận", "toàn dân đánh Mỹ, cứu nước".

Tháng 7-1966, Hội đồng Quốc phòng đã họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công bố Lệnh động viên cục bộ và Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước của Bác, cổ vũ mạnh mẽ tuổi trẻ hăng hái gia nhập lực lượng vũ trang, tòng quân cứu nước. Thời kỳ 1965-1968, quá nửa lực lượng và gần 80% vũ khí, đạn dược, phương tiện kỹ thuật sử dụng trên chiến trường miền Nam là do hậu phương miền Bắc đưa vào; 888.641 lượt thanh niên miền Bắc vượt núi băng rừng vào miền Nam chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Riêng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, hậu phương miền Bắc đã động viên 311.749 thanh niên vào bộ đội, bổ sung cho chiến trường miền Nam 141.081 người .

Nhờ có phương thức động viên kinh tế linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn đất nước, Đảng và Chính phủ đã tập trung được sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp để vận hành nền kinh tế và huy động các nguồn lực kinh tế trong nước và quốc tế đáp ứng cho các nhu cầu chiến đấu và sinh hoạt của quân, dân. Chính cơ chế kinh tế này đã tạo ra khả năng huy động tối đa mọi nguồn lực kinh tế của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ cho nước ta.

Cùng với hậu phương chiến lược miền Bắc, hậu phương tại chỗ miền Nam cũng đã góp phần không nhỏ tiến tới giành thắng lợi cho chiến trường qua việc tiếp tế vận chuyển lương thực, vũ khí ra tiền tuyến. Đặc biệt, riêng trong năm Mậu Thân 1968, để bảo đảm thắng lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước mắt là hoàn thành nhiệm vụ đợt 1 vào mùa Xuân (bắt đầu từ 30-1 đến 25-2-1968), nhân dân miền Nam trên khắp các vùng giải phóng và ngay cả trong vùng địch tạm chiếm sôi nổi phục vụ chiến trường để bộ đội kịp giờ nổ súng đồng loạt. Tích trữ lương thực, thực phẩm, cất giấu vũ khí, chuẩn bị tiếp tế được tiến hành chu đáo. Hơn 1.100 tấn gạo đã được chuẩn bị sẵn sàng ở vùng đồng bằng cùng với 700 dân công được huy động phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 .

Với hậu phương tại chỗ miền Nam, Trung ương Cục đã chỉ đạo các cơ quan hậu cần, kỹ thuật sử dụng linh hoạt nhiều phương thức, vừa tiếp nhận một cách hiệu quả sức người, sức của được đưa từ miền Bắc vào, vừa khai thác được nguồn nhân lực và cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật tại chỗ, trong lòng địch cũng như ở các nước trong khu vực, tăng cường tiềm lực cho hậu phương tại chỗ miền Nam, phục vụ chiến trường. Chẳng hạn, nhiều loại lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí, phương tiện được mua từ trong vùng địch chiếm đóng hoặc từ Campuchia, Thái Lan chuyển về chiến khu phục vụ cho kháng chiến. Riêng ngành quân giới miền Đông Nam Bộ thu mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị để sản xuất vũ khí và xây dựng kho tàng trị giá 863.311.142 đồng (tiền chế độ Sài Gòn) và 240.065.982 ria (tiền Campuchia). Cùng với hoạt động mua bán, đã diễn ra các hoạt động thu lượm vũ khí, trang bị, bom mìn lép của địch với một khối lượng rất lớn để sản xuất súng, mìn, lựu đạn... đánh địch. Theo thống kê, từ năm 1962 đến năm 1975 các chiến sĩ hậu cần miền Nam đã thu về chiến lợi phẩm là 23.149 tấn vũ khí, sản xuất 1.533 tấn vũ khí và hàng ngàn xe các loại .

Như vậy, công tác hậu cần cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được Trung ương Đảng, Chính phủ và toàn quân, toàn dân chuẩn bị chu đáo và gấp rút, tranh thủ được thời cơ chiến lược. Ngay trong tháng 11-1967, miền Nam đã được hậu phương miền Bắc giao gấp 3.270 tấn hàng các loại; riêng mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nhận đủ 1.800 tấn, chiến trường Lào nhận đủ 500 tấn, súng chống tăng B40 và súng máy phòng không 12,7 ly chuyển từ hậu phương miền Nam vào đã được trang bị ngay cho các lực lượng chiến đấu . Kết quả vận chuyển trong tháng 11-1967 cao hơn các năm trước khẳng định bước tiến về công tác tổ chức chỉ huy vận tải, vận chuyển cơ giới theo đội hình chiến thuật. Đến giữa tháng 1-1968, việc chuẩn bị hậu cần cho nhiệm vụ "chiến lược mới" hoàn thành để ngày 30-1-1968, quân và dân ta tổng tiến công nổi dậy đồng loạt trên khắp các chiến trường, đặc biệt là tiến công và nổi dậy ở hầu hết các đô thị miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi, có một vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược chiến tranh của Mỹ và có ảnh hưởng quốc tế to lớn. Chính tướng Oétmolen về sau đã phải thừa nhận: "Đây là một khúc ngoặt của cuộc chiến tranh... Khúc ngoặt đi đến thất bại" . Thắng lợi đó thể hiện sự chỉ đạo sắc bén, tài tình của Đảng là phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, chuẩn bị hậu cần chu đáo, sự chi viện lớn lao và có ý nghĩa quyết định của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến giành được thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 29 Tháng Năm, 2020, 03:46:27 pm
CÔNG TÁC HOA VẬN VÙNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



NGUYỄN THỊ LỆ
Ủy viên Ban Thường vụ,
Trưởng ban Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Trong mọi giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử của đất nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc luôn kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kỷ niệm 50 năm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyền tự hào về sự tiếp nối truyền thống của các thế hệ trong gìn giữ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ, ngay tại trung tâm đầu não, thủ phủ của chính quyền Sài Gòn, sự đoàn kết gắn bó, anh dũng chiến đấu, không tiếc máu xương của cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định, trong đó có sự đóng góp to lớn của người Hoa, đã khẳng định thế trận lòng dân, tinh thần đoàn kết toàn dân có khả năng tạo ra sức mạnh phi thường, làm chuyển biến tình hình cục diện, tạo bước ngoặt mới mang tính quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Công tác chuẩn bị lực lượng, vận động tập hợp người Hoa

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, cục diện chiến trường miền Nam diễn ra quyết liệt, Bộ Chính trị quyết định giao Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuẩn bị các bước cho cuộc tiến công vào tất cả đô thị, nơi tập trung lực lượng quân sự, chính trị chủ yếu của địch. Trước tình hình nhiệm vụ mới, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã xác định một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi cho cuộc tổng tiến công này, đó chính là phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, sức mạnh của lòng dân, tập hợp khối đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng cách mạng để bước vào cuộc chiến. Công tác tuyên truyền vận động quần chúng lúc bấy giờ được thực hiện sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, trong các giới, các dân tộc, tôn giáo.

Đầu năm 1967, công tác vận động cách mạng trong đồng bào người Hoa đã chính thức chuyển sang một giai đoạn mới, mang tính chất toàn diện và rộng khắp chứ không giới hạn trong lực lượng công nhân, lao động như trước đây. Để đáp ứng yêu cầu công tác vận động quần chúng người Hoa ở đô thị, Đặc khu Ủy Sài Gòn - Gia Định (T4) đã quyết định chuyển Ban Cán sự công vận người Hoa thành phố thành Đảng ủy kiêm Ban Hoa vận Đặc khu Sài Gòn - Gia Định (gọi tắt là Ban Hoa vận T4). Ban Hoa vận T4 đã quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, vận dụng tài tình đường lối đấu tranh chính trị, thể hiện được phương châm và nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự nội thành, đó là: phát huy tối đa tính sáng tạo của cơ sở; triển khai tiến công địch một cách linh hoạt, cơ động, táo bạo, bí mật, bất ngờ; lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều, dồn kẻ địch vào thế phải bị động đối phó. Với đặc thù rất riêng, Ban Hoa vận T4 dưới sự chỉ đạo của Khu ủy đã vận dụng đường lối đấu tranh chính trị của Đảng, tập hợp, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng trong khắp các thành phần, tầng lớp đồng bào người Hoa.

Ban Hoa vận T4 đã thành lập 5 ban cán sự trực thuộc gồm: Ban Cán sự quân sự, Ban Cán sự công vận, Ban Cán sự học vận, Ban Cán sự xóm lao động và Ban Cán sự tư sản vận - kinh tài. Ngoại trừ Ban Cán sự tư sản vận - kinh tài, cả 4 ban cán sự còn lại đều có đội vũ trang và đội vũ trang tuyên truyền. Ngoài ra, Ban Hoa vận T4 còn thành lập 2 bộ phận chuyên môn là Ban Tuyên huấn kiêm công tác xuất bản báo chí chữ Hoa và bộ phận căn cứ Hoa vận T4. Chỉ trong thời gian ngắn, các ban cán sự nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng, củng cố tổ chức lãnh đạo, thể hiện vai trò là cầu nối giúp Đảng ủy lãnh đạo phong trào sâu sát và nhạy bén hơn; phát huy được tính sáng tạo trong đấu tranh của các tổ chức hạt nhân trực thuộc.

Dưới sự nỗ lực hoạt động của các đồng chí trong Ban Cán sự công vận, phong trào cách mạng trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động là người Hoa đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đấu tranh liên tục từ thấp đến cao, từ lẻ tẻ đến những cuộc vận động rộng lớn trong toàn thành phố; từ những xí nghiệp có công nhân người Hoa đứng lên đấu tranh đến sự đoàn kết với những xí nghiệp có công nhân người Kinh và hình thành nên một phong trào chung của giai cấp công nhân thành phố, đánh thẳng vào cơ quan đầu nào của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ban Cán sự công vận, cùng với các cán bộ cách mạng người Hoa tiêu biểu 1 và những lực lượng tích cực trong công nhân người Hoa đã trực tiếp chiến đấu, thâm nhập vào các tổ chức hợp pháp của địch để hoạt động, nhất là các nghiệp đoàn ngành dệt, nhựa, pha lê, cơ khí, in ấn, nhà hàng...

Ở các nhà máy tập trung đông công nhân người Hoa đều có chi bộ đảng và tổ chức chi hội công nhân giải phóng lãnh đạo, dẫn dắt công nhân, lao động là người Hoa tham gia các phong trào đấu tranh của công nhân, lao động với nhiều hình thức phong phú. Có khi là sự nổi dậy của công nhân nhiều quận, gắn kết với nhau trên nhiều địa bàn; có khi xảy ra riêng lẻ tại một quận hoặc trong từng nhà máy, xí nghiệp. Từ những cuộc đấu tranh đó, phong trào dần lớn mạnh đưa đến sự ra đời của các nghiệp đoàn như: Nghiệp đoàn Xà bông Trương Văn Bền, Nghiệp đoàn Chợ Bình Tây, Nghiệp đoàn Rượu Bình Tây, Nghiệp đoàn Pin Viễn Đông. Song song với phong trào đấu tranh của công nhân tại nội thành, cùng với Ban Hoa vận Trung ương Cục, Ban Hoa vận T4 đã vận động hàng trăm thanh niên, công nhân người Hoa vào vùng giải phóng, tăng cường cho lực lượng chủ lực của Khu và Miền.

Với sự nỗ lực hoạt động tích cực, đến cuối năm 1967 đã có một số chi bộ trực thuộc Ban Cán sự xóm lao động bám chắc ở các địa bàn có đông đồng bào Hoa là lao động nghèo cư trú. Các ban cán sự học vận, quân sự, tư sản vận - kinh tài đều phát triển lực lượng, có chi bộ đảng trực thuộc.

Công tác hậu cần, tuyên huấn được Ban Hoa vận T4 đẩy mạnh hoạt động, giữ liên lạc thông suốt, bí mật, an toàn trong suốt giai đoạn nổi dậy, góp phần vào việc phổ biến các tài liệu, tin tức, đưa chủ trương, chỉ thị của Đảng đến với các chiến sĩ và đồng bào ở vùng Sài Gòn - Gia Định. Ban Hoa vận T4 xây dựng được lực lượng giao liên mà các chiến sĩ hầu hết là các đồng chí nữ rất khéo léo, dũng cảm, ngoan cường, mưu trí trong chuyển tải một khối lượng lớn vũ khí, chất nổ từ vùng căn cứ vào nội đô. "Trong điều kiện kẻ địch kềm kẹp, kiểm soát rất gắt gao, những chiến sĩ hậu cần vừa kiên trì, vừa mạo hiểm, vẫn lần lượt chuyển từng khẩu súng ngắn, từng quả lựu đạn từ vùng căn cứ cách mạng vào thành phố rất an toàn. Có chiến sĩ, tay bồng con nhỏ, tay xách giỏ bí rợ, thức ăn, sữa uống cho cháu bé, nhưng trong ruột quả bí lại là một quả lựu đạn, lúc khác là khẩu súng ngắn, đã băng đồng hàng chục cây số để ra lộ đón xe. Hắc Muối - thuộc bộ phận hậu cần của Ban quân sự - có chồng bị tật nguyền, bản thân có mang gần đến ngày sinh, vẫn liên tục cải trang, vào căn cứ chuyển từng ký thuốc nổ vào thành phố" .

 Đặc biệt, một số đồng chí sáng tạo, tìm tòi, nghiên cứu chế tạo chiếc thùng xe tải hai đáy, chuyển súng đạn từ Lộc Ninh về Sài Gòn một cách an toàn mà quân địch không hề hay biết. Góp gió thành bão, bộ phận hậu cần của Ban Cán sự quân sự đã góp dần được một số vũ khí để cung cấp cho các đơn vị vũ trang Hoa vận nội thành 6 tấn thuốc nổ và một số súng AK, cối 60 ly và B40 . Nhiều người Hoa đã tự nguyện dùng ngay căn nhà của mình làm nơi cất giữ vũ khí, che giấu cán bộ, làm điểm hẹn, nơi huấn luyện quân sự cho chiến sĩ. Có cơ sở lộ tung tích, bị địch bắt giam, bị tra khảo đánh đập dã man vẫn tuyệt đối trung thành với cách mạng, kiên quyết không khai báo nơi cất vũ khí ngay trong nhà mình.

Trên mặt trận báo chí và giáo dục, những lực lượng yêu nước trong người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã có những hoạt động khá sôi nổi, từ những truyền đơn vận động bà con người Hoa đến bản tin giải phóng dành riêng cho bà con người Hoa trực tiếp xuất bản tại Sài Gòn, như Tân Việt Hoa, báo Công Nhân (sau đổi tên thành báo Giải phóng) in bằng chữ Hoa đã phát hành hàng ngàn số đến tay bạn đọc (tờ báo này là tiền thân của báo Sài Gòn Giải phóng tiếng Hoa hiện nay).

Cũng như tất cả cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở nội thành bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng Hoa vận hầu hết đều tự lực trang trải mọi chi phí hoạt động, một số nhờ vào sự đùm bọc của các cơ sở.

Đồng bào người Hoa trong tổng tiến công và nổi dậy

Để chuẩn bị cho đợt Tổng công kích Mậu Thân 1968, Ban Hoa vận chủ trương cho các ban cán sự đề ra kế hoạch hành động của riêng mình, phát huy tính sáng tạo, nhạy bén của từng đơn vị; Ban Hoa vận chỉ tập trung chỉ đạo phối hợp kế hoạch và trực tiếp ở các địa bàn, các mục tiêu tấn công then chốt và phân công lực lượng nội thành bám sát địa bàn, bố trí một số người có trách nhiệm hướng dẫn cánh quân Tây Nam tiến vào Thành phố.

Ban Hoa vận T4 tiến hành sắp xếp lại tổ chức, điều động tăng cường cán bộ, chiến sĩ cho 4 ban cán sự là quân sự, công vận, xóm lao động và học vận; lên sơ đồ xây dựng phương án tác chiến cho từng mục tiêu, xây dựng thêm nhiều lực lượng, bổ sung thêm lực lượng giao liên, đáp ứng yêu cầu hậu cần chuyển tải, phân phối vũ khí, chất nổ đã tiếp nhận cho các đơn vị thuộc Ban Hoa vận T4 trong nội thành.

Đúng giờ theo kế hoạch, lực lượng vũ trang và chính trị Hoa vận theo mục tiêu và địa bàn đã phân công đồng loạt tiến công địch tại các khu vực. Đơn vị vũ trang cánh Hoa vận có nhiệm vụ đánh chiếm 9 điểm lớn, trong đó có bốt Bà Hòa (đường Hồng Bàng), bốt Ngô Quyền (Quận 5) là cơ quan mật vụ khét tiếng ác ôn của ngụy trên địa bàn Quận 5. Các đội vũ trang của cánh Hoa vận đã phát động quần chúng nổi dậy làm chủ tạm thời được một số khu vực. Đáng chú ý, mở đầu cuộc tấn công đánh vào bốt Bà Hòa và bốt Ngô Quyền để giải phóng những cán bộ chiến sĩ bị địch giam cầm, đánh chiếm Tòa hành chính Quận 5, cờ Mặt trận Giải phóng lần đầu tiên tung bay trên bầu trời Chợ Lớn. Các đội vũ trang người Hoa tổ chức đánh trả nhiều đợt tiến công của hàng trăm tên lính dù, cảnh sát, biệt kích có xe tăng yểm trợ đánh vào các vùng căn cứ "lõm" của nhân dân ta. Các đội vũ trang còn đánh sập các tòa báo bằng chữ Hoa phản động, tiến công vào Tòa hành chính và Ty Cứu hỏa Quận 6... Tại địa bàn Chợ Lớn, đội vũ trang Hoa vận đã thực hiện 36 trận đánh tiêu diệt nhiều sinh lực và cơ sở vật chất của địch.

Lực lượng Hoa vận được đông đảo bà con người Việt, người Hoa hết lòng đùm bọc che chở và giúp đỡ. Ban Cán sự xóm lao động vận động đồng bào lao động người Hoa tích cực nổi dậy và tiến công vũ trang vào các lực lượng Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Với phương châm tự lực, tìm địch mà diệt, lấy vũ khí địch để tự trang bị cho ta, các chi bộ, các đội công tác đã dấy lên phong trào thi đua đánh địch đều khắp, táo bạo và bất ngờ ngay trên đường phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại khu vực Chợ Thiết, nhân dân ta ở khu vực Phó Cơ Điều, trong đó có nhiều đồng bào người Hoa, đã vùng dậy diệt ác ôn, giành chính quyền, xây dựng căn cứ "lõm" ngay ở nội thành, tổ chức các đội vũ trang chiến đấu bảo vệ khu vực này. Ở khu vực ba Lò - Lò Gốm, Lò Siêu, Lò Gạch (nay thuộc Quận 6), nhân dân nổi dậy xây dựng căn cứ lõm và tổ chức cất giấu vũ khí. Ở khu vực Bình Thới, Phú Thọ (nay thuộc Quận 11), khu Cầu Tre, Vườn Lài (nay thuộc Quận Tân Bình), nhân dân và bà con người Hoa đã đánh đuổi quân lính và chính quyền địa phương, lập ra chính quyền cách mạng, tuyển chọn hàng trăm thanh niên người Hoa đưa ra vùng ven để huấn luyện quân sự, thành lập những đơn vị vũ trang tham gia các trận tiến công vào nội đô Sài Gòn.

Cánh Ban Cán sự học vận phối hợp hành động bằng nhiều hình thức sôi nổi, tập trung các hoạt động tuyên truyền đa dạng với nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất là rải truyền đơn trên xe chuyên chở công nhân, các chợ, rạp chiếu bóng; treo cờ Mặt trận Giải phóng, thả bong bóng có treo truyền đơn, trương khẩu hiệu ngay tại các trường Hoa văn và ở nhiều nhà máy có đông công nhân người Hoa.

Tuy lực lượng cách mạng bị tổn thất, nhưng khí thế cách mạng lại dâng cao hơn bao giờ hết. Khâm phục và học tập những tấm gương gan dạ, chiến đấu chẳng ngại hy sinh của các chiến sĩ, đồng bào người Hoa càng gắn bó chặt chẽ hơn với cách mạng, sẵn sàng tham gia và đưa con em vào vùng giải phóng, gia nhập bộ đội. Lực lượng của ta vì thế càng được củng cố và phát triển ngày càng mạnh, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:

"Vì độc lập, tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị con người,
Vì muôn đời hoa lá xanh tươi,
Ta quyết thắng, giành mùa xuân đẹp nhất"
2.

Thật khó để kể hết những mất mát, hy sinh của đồng bào người Hoa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bởi trong cuộc chiến đấu đó, 235 chiến sĩ người Hoa đã hy sinh, trong đó có 74 liệt sĩ thuộc lực lượng Hoa vận; biết bao cán bộ, chiến sĩ Ban Hoa vận, những chiến sĩ, học sinh, sinh viên, công nhân, lao động người Hoa bị thương, bị địch bắt, tù đày. Bao máu xương của cán bộ, chiến sĩ, quần chúng nhân dân là người Hoa hòa vào máu xương của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc khác, thấm đẫm trên từng mảnh đất Sài Gòn - Gia Định, càng làm thắm đỏ màu cờ Quân giải phóng.

Lịch sử mãi mãi ghi nhận những công lao đóng góp, sự hy sinh của các thế hệ, các tầng lớp nhân dân các dân tộc, trong đó có đồng bào người Hoa trong cuộc tiến công Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng và công cuộc giải phóng dân tộc nói chung. Những đóng góp của đồng bào người Hoa đã được Đảng và Nhà nước trân trọng và ghi công. Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 4 tập thể và 8 danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng; Ban Hoa vận Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; cán bộ và đồng bào người Hoa Thành phố Hồ Chí Minh được tặng thưởng Huân chương Độc Lập hạng Nhất. Ngoài ra, còn có 25 cán bộ, chiến sĩ người Hoa được tặng Huân chương Độc lập; hơn 200 cá nhân được tặng Huân chương Kháng chiến và hơn 300 cá nhân được tặng huân, huy chương kháng chiến các loại...

Bài học kinh nghiệm được rút ra từ công tác vận động người Hoa ở Sài Gòn - Gia Định tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bài học về đề ra chủ trương, chính sách phù hợp, đi sâu vào đồng bào người Hoa, kiên trì quan điểm tin tưởng và dựa vào quần chúng, luôn bám sát quần chúng, bám sát địa bàn để vận động, tổ chức lực lượng; xây dựng lực lượng Ban Hoa vận tổ chức thực hiện quan điểm đoàn kết cộng đồng trong người Hoa với các dân tộc anh em khác, tạo được lòng tin yêu đối với quần chúng, được quần chúng đùm bọc, che chở, bảo vệ ngay trong tình hình căng thẳng nhất cũng như sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi của cán bộ, nổi dậy phối hợp cùng với lực lượng vũ trang tạo thành sức mạnh cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Bài học này tiếp tục được Đảng ta vận dụng và phát triển trong chuẩn bị lực lượng và thế trận lòng dân, để cán bộ chiến sĩ, nhân dân Sài Gòn - Gia Định cùng cả nước, vì cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối.

Năm mươi năm đã trôi qua, những kinh nghiệm về công tác Hoa vận trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục là bài học quý báu để Ðảng bộ, chính quyền thành phố vận dụng trong công cuộc xây dựng và phát triển thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình.



-----------------------------------------------------------------
1. Gồm các đồng chí: Lâm Tư Quang, Dư Huệ Liên, Quách Lan Anh, Ngô Tú Thanh, Mã Lê Trân, Khổng Quế Kình, Lư Yến Linh.

2. Tố Hữu: Bài ca Xuân 68.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Sáu, 2020, 04:41:52 pm
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ở SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH
TẾT MẬU THÂN 1968




TS. LÊ HỮU PHƯỚC
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


Với quyết tâm "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định", sau Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trong hai ngày 30-6 và 1-7-1967, Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam: "Phải tiến công mạnh về quân sự và chính trị vào các thành phố và thị trấn, các trung tâm chính trị... tạo điều kiện tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa... Chiến trường quyết định thứ nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn và miền Đông Nam Bộ".

Tháng 10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa (Nghị quyết Quang Trung), quyết định lấy miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn làm trọng điểm tiến công và nổi dậy, hướng tiến công chủ yếu là Sài Gòn. Ngày 25-10-1967, Trung ương Cục quyết định giải thể Khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập Khu trọng điểm và 6 phân khu; đồng thời xác định nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, góp phần cùng toàn Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam, hai mũi tiến công và nổi dậy trên địa bàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) vào Tết Mậu Thân 1968, đã giáng một đòn thôi động bất ngờ vào sào huyệt của đối phương, góp phần đặc biệt quan trọng tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ghi lại dấu ấn độc đáo và những nét son tươi thắm trong lịch sử chiến tranh cách mạng của cả nước và của vùng đất "Thành đồng Tổ quốc".

Đưa chiến tranh vào tận sào huyệt đầu não của đối phương

Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954 cho đến trước Tết Mậu Thân 1968, nét nổi bật trong phong trào cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định là đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức, quy mô và mức độ khác nhau. Đấu tranh vũ trang giới hạn trong các hoạt động trừ gian, diệt ác của lực lượng đặc công, biệt động nội thành và những đợt pháo kích không thường xuyên vào các căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn ở vùng ven. "Thủ đô Sài Gòn" vẫn được đế quốc Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu xem là hậu cứ an toàn. Cho đến tháng 11-1967, phía Mỹ vẫn tự tin nhận định: "Cộng sản" chưa đủ mạnh để tạo thắng lợi quân sự, chưa có khả năng bước sang giai đoạn tổng phản công, chỉ có khả năng bảo tồn lực lượng chờ khi Mỹ rút sẽ tổng tiến công vào quân đội Sài Gòn.

Vào thời điểm đầu năm 1968, lực lượng đối phương bảo vệ ba vòng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có khoảng 4 sư đoàn bộ binh Mỹ, 4 sư đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn, 8 tiểu đoàn dù và thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn an ninh thủ đô, 20 vạn bảo an - dân vệ - cảnh sát dã chiến, hàng ngàn học viên quân sự và hàng vạn thanh niên chiến đấu... Tính chung trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trước thời điểm tổng công kích - tổng khởi nghĩa, số đơn vị chủ lực cơ động Mỹ và quân đội Sài Gòn tương đương 9 sư đoàn (không kể lực lượng Sư đoàn 1 kỵ binh bay và các đơn vị quân chủng kỹ thuật của Mỹ); trong khi khối chủ lực cơ động Quân giải phóng chỉ có 3 sư đoàn bộ binh (Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9), 1 sư đoàn pháo và một số trung đoàn độc lập. Xét về tương quan lực lượng, phía Mỹ và quân đội Sài Gòn hoàn toàn áp đảo về quân số, chưa kể ưu thế vượt trội về trang bị vũ khí và hệ thống bố phòng tại các cơ quan đầu não, các vị trí trọng yếu.

Chính vì vậy, những trận đánh "xuất quỷ nhập thần" của khối Biệt động Thành tiến công 6/9 mục tiêu đầu não - trong đó có 5 mục tiêu trọng yếu nhất tại trung tâm thành phố Sài Gòn mở đầu đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho chế độ Mỹ - ngụy và làm chấn động dư luận trong cũng như ngoài nước. Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, Tòa Đại sứ Mỹ... những vị trí tưởng chừng bất khả xâm phạm đều bị tập kích và uy hiếp nặng nề, có nơi lực lượng vũ trang cách mạng đã giành được quyền làm chủ. Phối hợp cùng Biệt động Thành, các tiểu đoàn mũi nhọn thuộc các phân khu cũng nhanh chóng cơ động lực lượng tiếp cận địa bàn được phân công đảm trách.

Bảy ngày cao điểm tập kích chiến lược của đợt 1 Mậu Thân đã buộc tướng Oétmolen - Tư lệnh Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV), Tư lệnh Lục quân quân đội Mỹ phải thừa nhận: "Đối phương đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề; họ đã đưa chiến tranh vào các thành phố, đô thị, đã gây thương vong và thiệt hại nghiêm trọng cho chúng ta". Báo chí Mỹ và báo chí Sài Gòn cho rằng "chiến tranh đã vào tận giường ngủ" của Đại sứ Bâncơ, của tướng Oétmolen, của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu... Đặc biệt, trận tập kích Tòa Đại sứ Mỹ trở thành cú sốc mạnh mẽ đối với cả nước Mỹ, như nhận định của nhà báo Ôbơđophơ: "Sứ quán Mỹ là nơi mà lá cờ sao và vạch của Hoa Kỳ chính thức cắm trên đất Việt Nam, đó là trung tâm tượng trưng cho nỗ lực của người Mỹ. Khi được tin sứ quán Mỹ bị tiến công, mọi người đều hiểu rằng, Việt cộng đang tiến công vào trái tim của nước Mỹ ở giữa Sài Gòn".

Đưa chiến tranh vào tận sào huyệt đối phương, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ngay từ đợt 1 cũng đồng thời "đưa chiến tranh vào lòng nước Mỹ". Tổng thống Giônxơn thừa nhận, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã "bị một đòn choáng váng". Cựu tổng thống Aixenhao cho rằng: Chưa bao giờ gặp phải tình trạng đáng buồn như tình cảnh hiện nay của nước Mỹ, bị chia rẽ sâu sắc vì cuộc chiến tranh (phát biểu ngày 27-3-1968). Hồi ký của tướng Taylo viết: "Những quan chức trong Bộ Quốc phòng Mỹ cảm thấy rằng cuộc tiến công của đối phương năm 1968 chứng minh là Mỹ không bao giờ có thể đạt được thành công ở Việt Nam bằng những phương tiện quân sự. Lần đầu tiên trong lịch sử 200 năm của mình, quân đội Mỹ đã bị đánh bại trong một trận quyết chiến chiến lược, dẫn đến hậu quả đặt Mỹ vào vị trí thua trận trong một cuộc chiến tranh. Những trận tiến công của đối phương được báo chí Mỹ tường thuật bằng những tít lớn, đã được chiếu trên truyền hình Mỹ và đã làm cho dân chúng Mỹ, quan chức Mỹ kinh hoàng". Nhà báo Ôbơđophơ cho biết thêm ý kiến của một số tướng lĩnh và chính khách khác của Mỹ, như: "Cuộc tiến công Mậu Thân chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát gì được đất nước này", "Tết Mậu Thân đã đập tan cái mặt nạ của những ảo tưởng từng che đậy không cho Mỹ nhìn thấy hoàn cảnh thực của mình" ...

Hệ quả trực tiếp của đợt 1 Mậu Thân là hàng loạt nhân vật quan trọng trong chính giới và quân đội Mỹ hoặc bị thay thế, hoặc bị triệu hồi về nước như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mắc Namara, Tư lệnh Oétmolen... Ngay cả Tổng thống Mỹ Giônxơn cũng buộc phải tuyên bố không ứng cử vào nhiệm kỳ thứ hai. Tiếp đó, giới lãnh đạo Mỹ buộc phải xét lại toàn bộ đường lối tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, xuống thang chiến tranh và chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bằng việc đưa chiến tranh vào tận sào huyệt đối phương, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, quân và dân miền Nam đã tạo ra "một cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng, khiến cho Mỹ - ngụy không hề nghĩ tới và cũng không thể nghĩ tới" .

Tích cực nổi dậy, phối hợp và hỗ trợ tiến công

Thực hiện "Nghị quyết Quang Trung" của Trung ương Cục miền Nam, tháng 10-1967, Khu trọng điểm được thành lập bao gồm Khu Sài Gòn - Gia Định (cũ) và một phần địa bàn các tỉnh tiếp giáp. Khu trọng điểm chia thành 6 phân khu, với hai Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Nam. Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc trực tiếp chỉ huy các mũi tiến công từ phía bắc, tây bắc và phía đông, đông bắc thành phố, gồm các Phân khu 1, 4, 5 và lực lượng chủ lực Miền. Bộ Tư lệnh tiền phương Nam chỉ huy các mũi phía nam và một phần tây nam, gồm các phân khu 2, 3, 6; đồng thời lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở nội thành.

Tuy số quần chúng cốt cán trong nội thành chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong cộng đồng dân cư, nhưng phong trào đấu tranh công khai đã phát triển khá mạnh ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định từ nhiều năm trước. Mặt khác, cách mạng đã xây dựng được nhiều cơ sở và nắm được nhiều tổ chức quần chúng như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc, Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Nghiệp đoàn ký giả...

Với niềm tin quần chúng sẵn sàng tham gia nổi dậy giành quyền làm chủ khi lực lượng vũ trang cách mạng tiến công địch, Khu ủy chỉ đạo và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ chức, từng đoàn thể, từng bộ phận. Ban Tuyên huấn có nhiệm vụ tuyên truyền phát động quần chúng đấu tranh trên mặt trận dư luận - tư tưởng, đưa người vào các cơ quan báo, đài để có thể ra báo công khai khi có điều kiện. Ban Công vận giao lại cơ sở thuộc các ngành nghề cho quận, huyện lãnh đạo để khởi nghĩa ở địa bàn dân cư; riêng bộ phận Công vận nội thành trực tiếp lãnh đạo nổi dậy tại các nơi quan trọng như Nhà đèn Chợ Quán, Xí nghiệp Hỏa xa, Cư xá Đô Thành, xóm lao động Chuồng Bò... Ban Phụ vận làm nòng cốt nổi dậy ở các phường, khóm, chợ, khu lao động... Ban Hoa vận có nhiệm vụ vận động đồng bào người Hoa nổi dậy và bố trí dẫn đường cho cánh quân Tây Nam đánh vào thành phố. Ban Trí vận hướng dẫn các cơ sở trong đội ngũ công chức, tư chức xuống đường hỗ trợ mũi tiến công quân sự. Đặc biệt, lực lượng của Thành đoàn Thanh niên được chia thành ba bộ phận: Đội vũ trang biệt động làm "thê đội 2" cho các đội biệt động của Quân khu, có nhiệm vụ tấn công các mục tiêu chiến lược và mục tiêu quan trọng; lực lượng chính trị vũ trang làm nhiệm vụ tuyên truyền vũ trang, phát động quần chúng nổi dậy; lực lượng chính trị công khai làm công tác đối ngoại và tập hợp, vận động các tầng lớp trí thức, nhân sĩ, chức sắc tôn giáo...

Kế hoạch chuẩn bị nổi dậy tuy chưa thật chu toàn, nhưng đều được các tổ chức, các đoàn thể khẩn trương thực hiện với quyết tâm cao nhất. Tiếc rằng, "phần lớn các lực lượng chính trị, vũ trang của các đoàn thể quần chúng không nhận được thông báo về giờ hành động ("giờ G"), hoặc người đi nhận lệnh gặp trắc trở không về kịp" . Dù vậy, diễn biến thực tế của đợt 1 Mậu Thân đã cho thấy khí thế nổi dậy và ý chí kiên cường của quần chúng cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong điều kiện hết sức khó khăn, bất lợi.

Bước sang đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy (từ 5-5 đến 18-6-1968), chấp hành chỉ đạo của cấp trên, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định quyết tâm thực hiện ba mục tiêu chính: 1- Chiếm lĩnh các khu vực đông dân cư trong thành phố, xây dựng chính quyền cách mạng, tiêu diệt sinh lực địch; 2- Phát động cao trào chiến tranh du kích, hình thành thế liên hoàn nội - ngoại thành, giữ vững thế tiến công; 3- Phát triển lực lượng chính trị, lực lượng quân sự với những bước nhảy vọt.

Rút kinh nghiệm đợt 1, Khu ủy (chủ yếu là Ban Cán sự Phân khu 6) đề ra kế hoạch cụ thể phát động khởi nghĩa, thành lập ban lãnh đạo khởi nghĩa song song với ban chỉ huy quân sự. Các ban, ngành, đoàn thể được phân công nhiệm vụ rõ ràng, kết hợp chặt chẽ với lực lượng cơ sở ở các quận, phường. Do đó, trong đợt 2, "những hoạt động vũ trang và chính trị của các lực lượng Thành đoàn, Hoa vận, Phụ vận, An ninh vũ trang, Tuyên huấn đã có nhiều thành tích nổi bật" .

Dù không còn yếu tố bất ngờ, các mũi vũ trang vẫn lập nhiều chiến công ở Đài Truyền hình, cầu Phan Thanh Giản, khu vực Thị Nghè, đường Minh Mạng... Phối hợp với tiến công quân sự, các đội tuyên truyền nội đô phát động quần chúng nổi dậy làm chủ ở nhiều khu vực thuộc Quận 5 (đánh chiếm Tòa hành chính và một số công sở, diệt ác, làm chủ các khu vực Lò Gốm, Lò Gạch, Lò Siêu, Khóm 1 phường Trang Tử, Khóm 6 phường Phú Lâm). Những nơi các tiểu đoàn mũi nhọn không vào được (như các quận 1, 2, 3, Phú Nhuận...) vẫn có các đội tuyên truyền vũ trang và cơ sở tại chỗ diệt ác trừ gian, phá cơ sở kinh tế của địch, đốt xe quân sự, phá cầu, rải truyền đơn, căng biểu ngữ, tổ chức họp đồng bào... Cơ sở quần chúng trong công nhân, lao động, học sinh, sinh viên, phụ nữ... tích cực tham gia tiếp tế, tải thương, dẫn đường cho lực lượng vũ trang... Đồng thời, quần chúng cách mạng còn hưởng ứng treo cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, xé bỏ cờ Việt Nam Cộng hòa, tờ khai gia đình của chính quyền Sài Gòn... Nhờ sự nổi dậy và hỗ trợ của quần chúng, lực lượng vũ trang cách mạng đã bám trụ chiến đấu nhiều ngày tại nội thành.

Ở vùng ven, "tổng cộng có trên 8.000 quần chúng tham gia bao vây đồn bốt, gần 12.000 lượt người đấu tranh chính trị, trên 4.000 gia đình rời bỏ ấp chiến lược trở về ruộng vườn cũ làm ăn"2. Những hoạt động bền bỉ, kiên cường đó góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của tổng tiến công và nổi dậy.

"Thế trận lòng dân" trong tổng tiến công và nổi dậy

Trong hoàn cảnh tương quan lực lượng cách mạng - phản cách mạng quá chênh lệch (nhất là trong đợt 2 và đợt 3 Mậu Thân 1968), càng thấy rõ hơn ý nghĩa và giá trị của những đóng góp, hy sinh, của tấm lòng son sắt kiên trung mà người dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dành cho cách mạng. Trong những ngày chiến sự diễn ra cam go, ác liệt, đồng bào các phường, các quận nội thành hết lòng che chở, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ đưa chiến tranh vào sào huyệt địch. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, khi còn là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, từng nêu rõ: "Nếu chúng ta biết rằng một cái hầm nuôi giấu cán bộ, cất chứa vũ khí đào ngay trong lòng thành phố vừa khó khăn, vừa nguy hiểm đến chừng nào đối với bản thân và gia đình người dân dưới chế độ phát xít Mỹ - ngụy, thì chúng ta mới hiểu tầm vóc cách mạng của nhân dân sống trong lòng địch".

Ở vùng ven, vùng ngoại thành, nhân dân sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thương binh với con số thương vong không ít lần vượt xa dự kiến. Ở quận Củ Chi, đồng bào xã Nhuận Đức nhận nuôi 700 thương binh, đồng bào xã Bình Mỹ nuôi toàn bộ thương binh của cánh quân đánh vào Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn. Ở Gò Vấp, Ban Chỉ huy Trung đoàn Đồng Nai và 15 thương binh nặng của Phân khu 1 được nhân dân che chở, chăm sóc và đưa ra căn cứ an toàn... Lòng dân đã kết thành những lá chắn thép để nuôi giấu, bảo vệ cho lực lượng vũ trang với quân số lên đến sư đoàn, binh đoàn trong cả ba đợt tổng tiến công và nổi dậy.

Bên cạnh đó, hình ảnh những đoàn nam nữ dân công - biểu tượng của hậu cần nhân dân phục vụ chiến đấu - càng tô đậm thêm "thế trận lòng dân" trong Mậu Thân 1968. Trên cửa ngõ tây nam Sài Gòn, từng đợt từ 300 đến 700 dân công nối tiếp nhau lên đường phục vụ tổng tiến công. Trên đồng bưng xã Vĩnh Lộc (Bình Chánh), khi đoàn nữ dân công 33 người ngã xuống vì bị trực thăng Mỹ phát hiện, lập tức hàng trăm người dân trong khu vực tình nguyện thay thế làm nhiệm vụ. Đó là những biểu tượng của mặt trận đấu tranh chống phá bình định, làm thất bại ý đồ kìm kẹp, khống chế trái tim, khối óc của người dân mà đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ráo riết thực hiện. Cũng chính nhờ "thế trận lòng dân", nên tuy "chúng ta có mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình...; đề ra yêu cầu chưa thật sát với thực tế; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay...; không đánh giá hết âm mưu của địch trong kế hoạch bình định nông thôn...", làm cho cách mạng gặp rất nhiều khó khăn nhưng phong trào cách mạng trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng tạo ra bước ngoặt chuyển sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Sáu, 2020, 04:45:45 pm
CỦ CHI - ĐẤT THÉP THÀNH ĐỒNG, LÁ CỜ ĐẦU
CỦA PHONG TRÀO DU KÍCH CHIẾN TRANH



TRƯƠNG VĂN THỐNG
Thành ủy viên, Bí thư Huyện ủy huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh


Cách đây vừa tròn 50 năm, trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta tiến hành một chiến dịch quân sự lớn, tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - đó là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bộ Chính trị đã đánh giá: Mậu Thân 1968 là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pari, chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hóa" chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh.

Ngày 17-9-1967, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng toàn miền Nam lần thứ hai. Tại Đại hội này, Củ Chi được phong tặng danh hiệu "Đất thép thành đồng" và phần thưởng Huân chương Thành đồng hạng Ba; phong và truy phong 5 chiến sĩ danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bốn chữ vàng "Đất thép thành đồng" mà quân, dân Củ Chi được phong tặng được khắc ghi bằng những chiến công oanh liệt của những tập thể và cá nhân, của sự hy sinh xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Từ việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị và vũ trang, bước đầu là diệt ác, phá kìm, phá ấp chiến lược, làm mất hiệu lực nhiều ấp, đến đánh thắng các trận càn Crimp (bóc vỏ trái đất), những cuộc hành quân quy mô lớn như Xiđa Phôn tấn công khu tam giác sắt Củ Chi - Trảng Bàng - Dầu Tiếng.

Phong tặng danh hiệu "Đất thép thành đồng" cho quân, dân Củ Chi là sự ghi nhận, khích lệ niềm vinh dự, tự hào, động viên tinh thần cho quân, dân Củ Chi và các lực lượng vũ trang cách mạng ở địa phương nỗ lực, hăng say chiến đấu đánh cho "Mỹ cút, ngụy nhào", góp phần cùng với toàn Miền làm nên sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vang dội, ghi dấu mốc son trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Nói đến Củ Chi là nói đến chiến tranh du kích và những kinh nghiệm, khả năng đánh Mỹ của chiến tranh nhân dân địa phương được rút ra từ Đại hội "Dũng sĩ diệt Mỹ", đó là:

1- Ai cũng đánh được Mỹ.
2- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.
3- Nhiều đánh được, ít cũng đánh được, một người, một tổ đều đánh được.
4- Ở đâu cũng đánh được Mỹ, chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch là đánh được.
5- Ngày cũng đánh được, đêm cũng đánh được.
6- Địch phản công là cơ hội để diệt chúng.
7- Đánh ở phía trước, đánh trong hậu cứ địch. Đánh đều khắp, làm cho địch bị động, bối rối càng dễ đánh hơn.
8- Đánh địch trong ấp chiến lược và cả ngoài xã, ấp chiến đấu.
9- Có khả năng thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ như bộ binh, xe tăng, máy bay, biệt kích.
10- Đánh bằng vũ trang, bằng chính trị và cả bằng binh vận làm cho địch tan rã nhanh chóng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng chiến tranh nhân dân, lực lượng du kích trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ không chỉ có thanh niên trai tráng, mà còn có lực lượng nữ du kích, có cả những người trung niên tham gia, các em thiếu niên và người lớn tuổi. Họ vốn là những nông dân chân chất, hiền lành, nhưng đứng trước cảnh nước mất, nhà tan, nhìn đồng bào vô tội bị kẻ thù giết hại dã man, khiến lòng căm thù, uất hận trào dâng, biến họ thành những "dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy". Du kích Củ Chi chính là nhân dân, nhân dân cũng chính là du kích. Ngày cày cấy, đêm vót chông, đào địa đạo, giặc càn quét thì cầm súng, ôm mìn chiến đấu, phục kích tiêu diệt kẻ thù hung bạo.

Đội nữ du kích Củ Chi ra đời năm 1965 đã sát cánh cùng lực lượng du kích các xã trên địa bàn huyện cầm súng bảo vệ quê hương, với phương châm "bám thắt lưng địch mà đánh", là minh chứng hùng hồn của tinh thần "Một tấc không đi, một ly không rời", kiên cường bám trụ chiến đấu, góp phần đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét, tiêu hao nhiều sinh lực địch.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, Củ Chi là hậu phương lớn, du kích chiến tranh ở Củ Chi có vai trò rất quan trọng, là lực lượng tiên phong phá đồn, bốt, tua, mở đường cho chủ lực ta thọc sâu vào nội thành; phá cầu, phá đường chuẩn bị cho nội tuyến bên trong. Du kích Củ Chi góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong gian khó đã xuất hiện nhiều tấm gương mưu trí, dũng cảm, sáng tạo như: liệt sĩ Phạm Văn Cội - xã đội trưởng Nhuận Đức, quận Củ Chi trí dũng song toàn, chỉ huy giỏi, lãnh đạo tốt, lá cờ đầu của phong trào thi đua diệt Mỹ; liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch - chiến sĩ trinh sát, bộ đội địa phương, 18 tuổi đời, một tuổi quân luôn trung thành và tâm niệm "Sống thì làm cách mạng đến cùng, nếu cần hy sinh thì hy sinh cho xứng đáng". Đồng chí dũng cảm tấn công địch đến hơi thở cuối cùng, bị thương gãy nát cả hai chân vẫn mưu trí dẫn dắt địch đến rồi dùng lựu đạn diệt 2 tên Mỹ và 8 lính đánh thuê Pắc Chung Hi, nêu tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng; đó là các chiến sĩ biệt động Bành Văn Trân, Nguyễn Văn Tăng đã chủ động, dũng cảm, ngoan cường, mưu trí, linh hoạt chiến đấu táo bạo ngay trong lòng địch, làm cho kẻ thù khiếp sợ; chiến sĩ du kích Củ Chi Tô Văn Đực với quyết tâm diệt địch và ý thức tự lực cánh sinh cao đã sáng tạo trong tự tạo vũ khí mìn giật, mìn tự tạo để diệt địch; thanh niên nam nữ vốn chân chất, hiền lành đã tham gia du kích, đào địa đạo, cầm súng phục kích tiêu diệt quân thù, thành dũng sĩ diệt Mỹ.

Để tồn tại dưới bom pháo kẻ thù, 250 km đường ngầm trong lòng đất đã được quân dân Củ Chi đào suốt 30 năm, nối xã này với xã kia, đưa cuộc sống vào lòng đất. Địa đạo, các giao thông hào, ụ chiến đấu, hầm chông, bãi trái... ngăn bước quân thù, bảo vệ cuộc sống chiến đấu của người dân Củ Chi trong lòng đất thép anh hùng. Kế thừa truyền thống của cha ông, Củ Chi đã phát huy sức mạnh của nhân dân trong đánh Mỹ, không phải lực lượng vũ trang mới tiêu diệt địch, mà ngay bất cứ người dân thường nào, già, trẻ, gái, trai, thiếu niên đều đánh được địch; linh hoạt trong cách đánh bằng chính vũ khí của mình, dùng vũ khí địch đánh địch. Những quả mìn gạt, mìn cán tự tạo của các chiến sĩ quân giới từ những quả bom chưa nổ trong số 500.000 tấn bom đạn mà Mỹ đã đổ xuống vùng đất này đã giúp du kích Củ Chi lập nên nhiều chiến tích lẫy lừng. Nhà nhà, người người trở thành dũng sĩ diệt xe tăng. "Lòng dân nổi dậy - ngày xuống đường - đêm không ngủ. Đạp rào gai - che họng súng. Liều thân mình cho Tổ quốc tồn sinh". Từ lòng đất, du kích Củ Chi thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh tan hàng trăm trận càn của địch với đầy đủ các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất. Xây dựng vành đai diệt Mỹ nhiều tầng, nhiều lớp, thực hiện phong trào thi đua diệt Mỹ liên tục, làm cho đội quân xâm lược nhà nghề tinh nhuệ nhất của địch (Sư đoàn 1 - Anh Cả đỏ, Sư đoàn 25 - Tia chớp Nhiệt đới) phải kinh hoàng, góp phần cùng lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn và cả nước làm suy sụp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Quân và dân Củ Chi phối hợp nhịp nhàng cả ba mũi quân sự, chính trị, binh vận, đẩy mạnh tiến công địch đều khắp toàn huyện. Vùng giải phóng Củ Chi ngày càng mở rộng, hình thành thế vây lấn địch, tinh thần chiến đấu của địch sa sút nhanh chóng, lâm vào thế phòng ngự co cụm. Bám trụ để đánh địch là truyền thống của quân và dân Củ Chi, người cán bộ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải bám trụ trong tư thế chiến đấu, bám trụ để lãnh đạo, đưa tiếng nói của Đảng về với nhân dân. Yêu cầu bám trụ là duy trì sự có mặt của lực lượng cách mạng để quần chúng tin tưởng, một số mẹ bộc bạch: "Tụi bây, lâu lâu, đi qua đi lại, tao thấy tụi bây, tin là có cách mạng được rồi".

Nhìn lại mấy mươi năm kiên cường giữ đất, "hứng bom, đội pháo" bảo vệ xóm làng, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân Củ Chi đã thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng sáng ngời, nêu tấm gương hy sinh quả cảm "bất cứ giá nào cũng giữ đất Củ Chi" và cùng với cán bộ, chiến sĩ của Sài Gòn - Gia Định, của các tỉnh bạn chi viện giữ vững tay súng, từng bước đẩy lùi quân địch, mở rộng vùng giải phóng tiến đến ngày toàn thắng.

Qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua, tại Củ Chi "đất thép thành đồng", những người dân bình thường trở thành người lính, từ người lính cầm súng bảo vệ xóm làng trở thành những vị tướng chỉ huy xông pha trận mạc như: Thiếu tướng Tô Ký, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Lâm, Thiếu tướng Trần Mân, Thiếu tướng Nguyễn Văn Chia, Thiếu tướng Cao Long Hỷ, Thượng tướng Phan Trung Kiên...

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, một số bài học kinh nghiệm được rút ra là:

Thứ nhất, lãnh đạo phải xuất phát từ thực tiễn, vận dụng đúng đắn, linh hoạt đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng, từ đó đề ra phương châm, nhiệm vụ và có biện pháp thực hiện cụ thể, sát hợp với vị trí và đặc điểm của Củ Chi.

Thứ hai, thực hiện tốt tư tưởng tiến công liên tục, tinh thần làm chủ, làm chủ để tiếp tục tiến công.

Thứ ba, thực hiện tốt bài học "Dân là gốc"; gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; phối hợp nhịp nhàng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận.

Thứ tư, tổ chức hậu cần tại chỗ, tiếp nhận tốt sự chi viện to lớn về sức người, sức của của đồng bào cả nước cho công cuộc kháng chiến.

 Tự hào truyền thống "Đất thép thành đồng", quê hương Củ Chi anh hùng, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân Củ Chi càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xây dựng huyện Củ Chi sớm trở thành huyện văn hóa nông thôn mới, giàu đẹp, văn minh, nghĩa tình.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Sáu, 2020, 04:49:30 pm
HOẠT ĐỘNG PHỤ VẬN SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Cách đây 50 năm, với ý chí sắt đá "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và niềm tin mãnh liệt "địch nhất định thua, ta nhất định thắng" , quân và dân cả nước ta, Nam - Bắc một lòng quyết tâm đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ và tay sai. Đặc biệt, lời thơ chúc Tết của Bác Hồ vang lên trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 từ Hà Nội: "Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!"2 trở thành lời hiệu lệnh, niềm tin chiến thắng thôi thúc hàng triệu trái tim yêu nước cùng một lúc tiến công địch trên khắp các chiến trường, trong đó, Sài Gòn - Gia Định là địa bàn trọng điểm.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là của Trung ương Cục, quân và dân miền Nam đã đưa chiến tranh nhân dân phát triển lên đỉnh cao, đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy. Công tác tuyên truyền, vận động và hoạt động phụ vận Sài Gòn - Gia Định đã góp phần quan trọng động viên đông đảo lực lượng phụ nữ tham gia, từ quá trình chuẩn bị đến tiến trình tổng tiến công và nổi dậy bằng ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, cán bộ, hội viên phụ nữ Sài Gòn - Gia Định và quần chúng phụ nữ được tuyên truyền, giáo dục, học tập về tình hình mới, nhiệm vụ mới, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, quyết tâm tiến lên giành thắng lợi mới. Hội viên phụ nữ Sài Gòn - Gia Định tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước, tham gia phong trào "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Những cán bộ nữ có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nội thành được phân công xuống các địa bàn trực tiếp phụ trách xây dựng cơ sở. Chỉ trong thời gian ngắn, nhiều cơ sở chính trị trong quần chúng được gây dựng. Công tác chuẩn bị chiến trường cũng được các cấp Hội tiến hành hết sức khẩn trương. Hàng chục vạn phụ nữ đã tham gia các đội nữ dân công, nữ thanh niên xung phong, cấp dưỡng nuôi quân, tiếp tế đạn dược, lương thực, tải thương, xây dựng công sự...

Trong khi chờ lệnh tổng tiến công, chị em hăng hái tham gia mọi công tác, tích cực đấu tranh. Mỗi người mỗi nhiệm vụ, sẵn sàng cho cuộc nổi dậy với tinh thần sôi sục, bừng bừng khí thế. Các mẹ, các chị chuẩn bị gậy gộc, giáo mác, trống mõ. Phong trào Hội mẹ chiến sĩ có bước phát triển mạnh mẽ. Với tinh thần yêu nước, thương con, các mẹ đã sẵn sàng làm nòng cốt, xung phong trên các mặt công tác, bất chấp nguy hiểm, vận động chị em đưa chồng con đi chiến đấu, khuyến khích con cháu đi tòng quân, vận tải, tiếp tế chiến trường, ủng hộ bộ đội, nuôi dưỡng thương binh, giác ngộ và động viên các gia đình có con em đi lính trong quân đội Sài Gòn tham gia đội ngũ đấu tranh cách mạng.

Công tác tuyên truyền, vận động nuôi quân được chị em đặc biệt hưởng ứng bằng những việc làm cụ thể và vô cùng cảm động. Có chị sẵn sàng cùng chồng, con cầm ruộng lấy tiền ủng hộ cán bộ, bộ đội; đóng góp tiền mua thuốc men ủng hộ cách mạng. Nhiều điểm tập kết tuy xa xôi, cách trở với đất liền nhưng từng xuồng lương thực, vật dụng... bằng mọi cách vẫn được vận chuyển về các căn cứ cách mạng.

Phụ nữ đóng vai trò chính trên mặt trận giao thông vận tải. Nhiều đơn vị nữ vận tải được thành lập ở khắp nơi, từ bưng biền đến các vùng giáp ranh và trong đô thị. Tại Sài Gòn - Gia Định, nhiều chị đã ngụy trang, dùng mọi phương tiện như xuồng, ghe, xe đò, xích lô chuyển vũ khí xuống từng cơ sở. Nhiều bà mẹ tuổi 50, 60 hay các bé gái tuổi 11, 12 cũng mang đạn dược, lội nước suốt đêm dưới làn bom, pháo của địch để phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Với tinh thần quả cảm của "Đội quân tóc dài" phụ nữ Nam Bộ, Phụ vận và Phụ nữ Giải phóng Sài Gòn - Gia Định, các tổ chức phụ nữ công khai và nửa công khai đã dồn tổng lực chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công. Theo chỉ đạo của Khu ủy, các Ủy viên Ban và cán bộ phụ vận, cán bộ nữ các liên quận đã thâm nhập và cài cắm ổn định ở nội thành (từ 1966-1967), được phân công phụ trách một số điểm trọng yếu trong tổng tấn công, như đồng chí Đỗ Hữu Bích (Ba Bích) và Hai Thảo (Quận 1), đồng chí Phạm Thị Sứ (Năm Bắc) và Vũ Xuân Lý (Bảy Lợi, Quận 10), đồng chí Lê Thị Huệ (Chín Trang, Quận 6), đồng chí Trần Thị Mười Ngọc (Bảy Nghĩa, Quận 5), đồng chí Nguyễn Thị Minh (Ba Hà Bà Chiểu), đồng chí Huỳnh Thị Tuyết (Ba Khanh, Quận Gò Vấp)... khẩn trương gây dựng cơ sở quần chúng, xây dựng "lõm chính trị", tuyên truyền, vận động và giáo dục thanh niên trốn lính để tổ chức vào tự vệ mật, chuẩn bị gạo và thuốc men, hậu cần tại chỗ; chọn gia đình cách mạng nuôi giấu cán bộ vào nội thành hoạt động, xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt cho tổng khởi nghĩa...

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, lực lượng phụ nữ Sài Gòn - Gia Định từ nông thôn đến thành thị, nhất là nữ thanh niên luôn phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang, khi làm công tác vũ trang tuyên truyền, rải truyền đơn, treo khẩu hiệu, khi thì phục vụ chiến đấu hoặc trực tiếp cầm súng chiến đấu.

Phong trào phụ nữ đấu tranh chống địch ngày càng phát triển. Đường lối chiến lược và phương châm "hai chân" (chính trị, quân sự), "ba mũi" (chính trị, quân sự, binh vận) được vận dụng linh hoạt, sáng tạo; các loại vũ khí thô sơ như chông tre, lựu đạn, mìn tự tạo, súng bộ binh đến vũ khí đòi hỏi kỹ thuật cao như pháo đều được chị em sử dụng thuần thục. Với cách đánh vô cùng phong phú, lúc độc lập, khi phối hợp, lúc phân tán, khi tập trung, vừa đánh thật, vừa đánh giả khiến địch phải dàn mỏng lực lượng, bị động đối phó khắp nơi. Các chị còn biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, kết hợp quân sự, chính trị và binh vận, vừa chặn địch phản kích, vừa phát động quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp, xây dựng cơ sở chính trị trong các đô thị và vùng ven.

Với sự chủ động, tích cực, sáng tạo, Hội Phụ nữ đã xây dựng được 12/40 "lõm chính trị" trong nội đô: "lõm chính trị" Quận 6 do đồng chí Lê Thị Huệ (Chín Trang) là địa điểm trú quân, hậu cần và dẫn đường bộ đội. Nhà chị Nguyễn Liễu Mai (số 1A Mai Xuân Thưởng, Quận 6) và Xí nghiệp dép của gia đình chị Tư (Lê Đại Hành, Quận 11) đã nuôi giấu, bảo vệ an toàn Ban Chỉ huy Tiền phương Phân khu II trụ tại nội đô trong đợt 1 tổng tiến công. Phụ nữ Tân Bình, Bà Quẹo, Gò Vấp, Quận 7, Quận 8 tham gia diệt ác phá kìm, tiếp tế hậu cần, dẫn đường bộ đội, tải đạn, chuyển thương. Chị em Quận 8 còn vận động được 200 thanh niên tòng quân đi theo bộ đội. Phụ nữ Bình Chánh lo xuồng ghe chuyển quân, vận động nhà thuốc Quỳnh Mai tiếp tế thuốc cứu thương. Phụ nữ Hóc Môn vận động cơ sở tề ấp chở gạo tiếp tế Trung đoàn Quyết Thắng.

Để phát huy thanh thế cho cách mạng, Ban Phụ vận chủ trương phối hợp với các đơn vị mở cuộc tuyên truyền xung phong đột xuất. Trong vòng hai tuần lễ, 30.000 truyền đơn, 3.500 bản in thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phân phát tại Xóm Chiếu, Cầu Bông và 5 chợ.

Ở nhiều địa phương, tổ chức Phụ vận đã vận động quần chúng phụ nữ nổi dậy, căng khẩu hiệu, treo biểu ngữ, đốt cờ ba que, treo cờ giải phóng, xé tờ khai gia đình, diệt ác ôn và uy hiếp tòa hành chính địa phương. Lực lượng quần chúng phụ nữ yêu nước còn tổ chức hàng nghìn cuộc vũ trang tuyên truyền ở vùng ven, vùng sâu, vùng yếu, các khu ấp chiến lược, phá rã một mảng lớn cơ sở tề ngụy, diệt nhiều tề điệp, cảnh sát, bình định, ác ôn, vận động hàng chục vạn gia đình binh sĩ, làm rã ngũ hàng vạn bảo an, dân vệ...

Công tác phục vụ chiến trường của phụ nữ được đẩy mạnh hơn với khí thế sục sôi. Được tuyên truyền, vận động và với ý chí căm thù giặc, chị em nô nức đi dân công, chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực cho mặt trận và chuyển thương binh.

Từ ngày 30-1 đến ngày 25-2-1968, khi lực lượng vũ trang ta tiến công và trụ lại ở nội thành Sài Gòn 27 ngày thì tại khu tứ giác Vườn Lài - Minh Mạng do chị Phạm Thị Sứ (Năm Bắc) và chị Vũ Xuân Lý (Bảy Lợi) phụ trách, đã đưa lực lượng xung kích kéo cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tung đuốc sáng rực, đón Tiểu đoàn 6 Lê Minh Xuân tấn công sâu vào vùng này, phát động quần chúng bám trụ 10 ngày. Địch phản kích ác liệt, phụ nữ nổi dậy bằng hình thức tản cư, đưa thương binh ra khỏi trận địa khi giặc bắn đạn lửa đốt nhà, hủy diệt.

Đặc biệt, chị em giao liên công khai đảm bảo xuất sắc mạch máu thông tin liên lạc trên, dưới, trong, ngoài thông suốt trong tổng tiến công. Lực lượng nữ Tự vệ nội thành và ven đô phối hợp phá kìm, chiến đấu rất dũng cảm: chị Tám Gờ một mình diệt 5 ác ôn ở phường Rạch Cát, chị Hiếu công nhân hãng rượu Bình Tây chỉ với một tay đã dùng súng ngắn diệt 2 ác ôn ở cầu số 3 phường Bình Đông... . Đồng chí Lê Thị Riêng, Trưởng ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định, bị địch sát hại đêm mồng 2 Tết.

Đợt 2 Mậu Thân nổ súng đêm 5-5-1968. Trung đoàn 6 Lê Minh Xuân vẫn là mũi nhọn tấn công vào hướng Quận 5 (Chợ Lớn). Đội Tự vệ Lê Thị Riêng của Phụ vận do đồng chí Hồng Quân chỉ huy, phối hợp với lực lượng biệt động Đoàn Thanh niên Quận 2, chủ động nổ súng chiến đấu từ 4 giờ sáng 5-5 đánh chiếm vùng Cầu Kho, Đề Thám. Trước sự chống trả quyết liệt của địch, đồng chí Lê Thị Bạch Cát (Ba Xuân) hy sinh, đồng chí Hồng Quân tự chặt đứt cánh tay bị thương nén đau đớn để điều hành đơn vị rút quân. Lực lượng Tự vệ của Phụ vận ở Bàn Cờ, Vườn Chuối, Xóm Chùa, Bà Chiểu, Cầu Tre, Phú Thọ, Phú Định... đã phối hợp các đơn vị bạn võ trang tuyên truyền phát động quần chúng, trấn áp ác ôn và trinh sát dẫn đường bộ đội. Các đội viên Tiểu đoàn Lê Thị Riêng đã chiếm lĩnh khu vực cầu Ông Lãnh, Bùi Viện, Đề Thám, Cô Bắc, Cô Giang, tập trung nhiều cảnh sát và nhân viên chính quyền Sài Gòn trong khu vực để giáo dục, tuyên truyền và vận động nhân dân làm chướng ngại vật, công sự...

Các cứ địa cách mạng như: nhà chị Trần Thị Ngọc Sương tại số 51/10/14 Cao Thắng, Quận 3 do cán bộ Phụ vận vận động xây dựng đã trở thành nơi gặp gỡ hội họp của Ban Phụ vận dưới danh nghĩa là trại tiếp cư; trường Phan Đình Phùng (số 491/7 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) là trạm cứu thương cho bộ đội và dân tỵ nạn, dưới danh nghĩa là trại tiếp cư. Có nhiều chị còn tham gia trực tiếp chỉ đạo việc chăm sóc thương binh và quyên góp thuốc men gửi về trạm cấp cứu của ta ở Linh Xuân - Thủ Đức.

Tết Mậu Thân năm 1968, bão táp cách mạng dồn dập nổi lên khắp miền Nam, đưa chiến tranh vào tận sào huyệt của kẻ thù. Đội ngũ cán bộ Hội huy động hàng triệu phụ nữ xuống đường ngay trong những ngày đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tham gia đánh chiếm các công sở, bao vây cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn. Ở các địa phương, đông đảo chị em tham gia bao vây đồn bốt giặc, phá tan hàng loạt ấp chiến lược, vận động gia đình binh sĩ trong quân đội Sài Gòn tham gia phong trào khởi nghĩa của quần chúng.

Nhiều cuộc biểu tình do phụ nữ chủ trì nổ ra khắp nơi, như cuộc biểu tình của Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ; đội nữ biệt động Phân Khu 6... Các cuộc đấu tranh chống bắt lính, chống dồn dân lập "ấp chiến lược", chống bắn pháo, rải chất độc hóa học, đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng... diễn ra sục sôi khắp miền Nam nói chung và Sài Gòn - Gia Định nói riêng. Ở nội đô, Phụ vận vận động nữ công nhân, sinh viên, học sinh, tiểu thương, trí thức, ni sư, Phật tử... xuống đường biểu dương lực lượng và khí thế cách mạng, giương cao biểu ngữ với tinh thần quật khởi, yêu nước, quyết đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Phát huy thế trận chiến tranh nhân dân, Hội Phụ nữ đã huy động lực lượng hội viên phụ nữ tham gia phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Với nhiệm vụ chính là vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô cất giấu, cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra và xây dựng "hũ gạo nuôi quân". Cán bộ Phụ vận đã vận động chị em phụ nữ, mỗi gia đình để sẵn 5 lon gạo đón chủ lực; sau đó, cứ mỗi tuần quyên góp một lần.

Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định lãnh đạo các tổ chức phụ nữ công khai, bán công khai và bí mật tập trung lực lượng chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, góp phần tạo nên những chiến công vang dội. Nhiều cán bộ phụ vận đã rất dũng cảm, mưu trí, thâm nhập và cài cắm ổn định ở nội thành, gây dựng cơ sở quần chúng, xây dựng, giáo dục thanh niên trốn lính tham gia vào tổ chức tự vệ mật, chuẩn bị gạo và thuốc men, hậu cần tại chỗ. Nhiều tổ vũ trang tuyên truyền được thành lập ở các địa bàn trọng điểm khắp nội thành.

Sự tham gia của các cán bộ, chiến sĩ Ban Phụ vận đã góp phần vào chiến thắng quan trọng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, buộc chính quyền Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 và ngồi vào bàn đàm phán tại Pari. Đoàn cán bộ Ban Phụ vận do đồng chí Nguyễn Thị Bình - Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cùng với các đồng chí Đỗ Duy Liên, Nguyễn Thị Chơn (Phụ vận Sài Gòn), đồng chí Nguyễn Ngọc Dung, Phan Thị Minh, Nguyễn Bình Thanh... (Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam) vững vàng, kiên cường đấu trí với địch trực tiếp trong gần 5 năm.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với nhân dân cả nước, lực lượng phụ nữ Sài Gòn - Gia Định đã góp phần làm nên nhiều chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Hoạt động phụ vận trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 góp phần thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng trong quần chúng, hiệu triệu công khai các tầng lớp phụ nữ thành phố, xây dựng và củng cố cơ sở, đưa phong trào phụ nữ tiến công mạnh mẽ cùng với phong trào các giới, làm nên sự thành công của chiến lược "thế trận lòng dân". Chúng ta đã buộc đế quốc Mỹ phải đương đầu với một cuộc chiến tranh nhân dân kỳ diệu mà trong đó thu hút hàng triệu phụ nữ vào cuộc cách mạng và kháng chiến với lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, là lực lượng kiên cường, dũng cảm trong đấu tranh, trung kiên, bất khuất trong lao tù, luôn xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ kính yêu đã trao tặng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Sáu, 2020, 04:55:51 pm
CÔNG TÁC ĐIỆP BÁO, QUÂN BÁO, AN NINH
KHU TRỌNG ĐIỂM SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. PHAN THANH LONG
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Công an


Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định" , Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (1-1968) xác định: "Dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Hướng tấn công chủ yếu là đô thị. Trọng điểm là các thành phố Sài Gòn - Đà Nẵng - Huế - đầu não hậu phương chiến lược của đối phương, tạo "thôi động" lớn về chính trị, ngoại giao; làm cho Mỹ phải lung lay ý chí xâm lược, tạo nên sự thay đổi cơ bản về cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Trước đó, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngày 25-10-1967, Trung ương Cục miền Nam họp ra nghị quyết về tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa chiến trường B2 với mật danh là "Nghị quyết Quang Trung". Nghị quyết Quang Trung thể hiện tinh thần cơ bản quyết tâm mục tiêu tổng công kích, tổng khởi nghĩa mà Bộ Chính trị đã nêu ra trên đây, được cụ thể hóa ở chiến trường B2 với trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định. Tháng 12-1967, Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị gửi các T (quân khu) hướng dẫn việc chuẩn bị và tiến hành công kích tổng khởi nghĩa ở các thành phố và thị xã, thị trấn, mỗi địa phương phải xác định trọng điểm của mình, đồng thời cần phải sẵn sàng chuẩn bị đánh địch phản kích, đập tan mọi âm mưu phản kích của chúng ngay từ đầu, đã thể hiện tinh thần chủ động tiến công, chủ động phòng ngừa nếu khó khăn xảy ra.

Với quyết tâm trên, ngày 4-11-1967, Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị toàn thể để triển khai ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về chuẩn bị tổng công kích, tổng khởi nghĩa và củng cố tổ chức lãnh đạo chiến trường B2. Tại Hội nghị quan trọng này, đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị - Phó Thủ tướng Chính phủ chính thức nhận nhiệm vụ Bí thư Trung ương Cục, Bí thư Quân ủy Miền, Chính ủy các lực lượng vũ trang nhân dân quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phan Văn Đáng, Hoàng Văn Thái làm Phó Bí thư Trung ương Cục. Hội nghị quyết định thành lập Khu ủy Sài Gòn - Gia Định và củng cố Bộ Tư lệnh Khu. Theo đó, Khu Sài Gòn - Gia Định gồm 33 thành viên, trong đó có 25 thành viên chính thức, 8 ủy viên dự khuyết. Bộ Tư lệnh khu Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Chính ủy, Tư lệnh là đồng chí Trần Văn Trà, Tham mưu trưởng là đồng chí Trần Đình Xu.

 Khu trọng điểm được thành lập gồm Sài Gòn - Gia Định và một phần đất của các tỉnh tiếp giáp với Sài Gòn và được mở rộng thêm các vùng thuộc miền Đông Nam Bộ. Khu trọng điểm được chia thành 6 phân khu; mỗi phân khu có Khu ủy và Ban chỉ huy quân sự. Khu trọng điểm đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục, Võ Văn Kiệt và Trần Văn Trà - Uỷ viên Trung ương Cục.

 Đảng ủy khu trọng điểm tổ chức ra hai phân ban lãnh đạo của 2 bộ tư lệnh tiền phương: Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc (I) gồm các đồng chí: Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ; Bộ Tư lệnh tiền phương Nam (II) gồm các đồng chí: Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Trần Hải Phụng. Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc trực tiếp chỉ huy các mũi tiến công từ hướng bắc, tây bắc, phía đông và đông bắc thành phố, gồm các phân khu 1, 4, 5 và lực lượng chủ lực Miền. Bộ Tư lệnh tiền phương Nam chỉ huy các mũi phía Nam, một phần Tây Nam, gồm phân khu 2, 3, 6, đồng thời lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở nội thành. Công tác phòng gian bảo mật, đặc biệt là giữ bí mật về ý đồ chiến lược của Đảng, được tuân thủ nghiêm ngặt; các kế hoạch bảo vệ tài liệu, bảo vệ tổ chức cán bộ được tiến hành ở tất cả các cấp. Quân ủy Trung ương và Miền tiến hành hoạt động nghi binh chiến lược để lôi kéo sự chú ý và lực lượng của địch sang các chiến trường miền Đông Nam Bộ; do đó, ta vẫn giữ được bí mật, bất ngờ của đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố với quy mô lớn trên toàn miền Nam đến giờ chót.

 Trên cơ sở năm cánh quân có từ năm 1965, được sự chi viện của trên, an ninh các phân khu được thành lập, trực thuộc các phân khu ủy. Ngày 15-1-1968, An ninh Trung ương Cục tăng cường cho T4 30 cán bộ trung, sơ cấp để bố trí vào các phân khu. An ninh các phân khu tuyển thêm nhiều tân binh từ vùng giải phóng để tăng cường lực lượng. Lực lượng chiến đấu chủ yếu là điệp báo, an ninh vũ trang, trinh sát vũ trang, trinh sát vũ trang nội đô.

Lực lượng điệp báo, quân báo được điều động vào nội thành chuẩn bị cho Tổng công kích và nổi dậy. Tháng 11-1967, đồng chí Đỗ Thạnh (Ba Dũng), Phó Ban điệp báo và một số đồng chí cốt cán vào nội thành rà lại mạng lưới điệp báo, xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ "lõm chính trị", căn cứ "lõm" trong nội thành và chuẩn bị các điều kiện chiến đấu.

Kết hợp với Phòng quân báo Miền, sưu tầm các bản đồ thị xã, thị trấn các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các quận nội thành Sài Gòn - Gia Định; điều tra những mục tiêu quan trọng trong nội thành Sài Gòn như: Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha Cảnh sát, Nha cảnh sát Đô thành Sài Gòn, Đặc ủy Trung ương tình báo, Nha an ninh quân đội...; nắm chắc tình hình một số chi khu và mục tiêu quan trọng như Tổng kho Long Bình, sân bay Biên Hòa. Điệp báo và Quân báo đã đưa đón một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy an ninh, quân sự vào nội thành khảo sát thực địa, đảm bảo bí mật an toàn; chuẩn bị lực lượng trinh sát dẫn đường các mũi tiến công nội thành, các mục tiêu quan trọng, nắm chắc các động thái địch, phục vụ tốt cho Bộ Chỉ huy tiền phương.

Công tác giao liên được tăng cường cho vận chuyển vũ khí, đưa các tổ vào nội thành tạo thế làm ăn hợp pháp, phục vụ kịp thời cho lãnh đạo chỉ huy. Lợi dụng ngày nghỉ tết Nôen năm 1967, ta tranh thủ vượt sông Vàm Cỏ Đông qua Quốc lộ 22 (nay là Quốc lộ 1) để chuyển vũ khí vào nội thành bằng ghe hai đáy xuôi theo sông Vàm Cỏ, rạch Cây Khô vào rạch Bến Nghé, bố trí cơ sở đón ở đó đưa vũ khí, đạn dược, chất nổ C4, TNT được gói trong các bánh tét vào những ngày giáp tết được vận chuyển vào nội thành che giấu. Các trạm giao liên của điệp báo, trinh sát vũ trang dọc theo quốc lộ dùng xe lam chở súng đạn vào nội thành, bên trên chất đầy rau quả để nghi trang. Chúng ta còn dùng xe Jeep biển số quân đội Sài Gòn, người của ta đóng vai đại úy quân đội Sài Gòn lợi dụng giờ nhá nhem tối qua các trạm gác. Ngày 15-12-1967, tổ bảo vệ giao liên, văn phòng được tổ chức lại gọn nhẹ, gồm 26 đồng chí vào nội thành xây dựng lại các hộp thư, đồng thời theo sát các mũi tiến công của quân chủ lực đánh vào các mục tiêu trọng điểm Tổng nha Cảnh sát Đô thành. Ngày 15-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị số 32/CT-NT đề ra nội dung của công tác an ninh là: "Phải phục vụ quyết tâm chiến lược của Đảng, hướng vào các đô thị vùng yếu, kết hợp lực lượng vũ trang, chính trị của quần chúng để đẩy mạnh trừ gian diệt ác ôn... tạo thế cho phong trào cách mạng của quần chúng nổi dậy tiến lên tiêu diệt cả cơ quan đầu não, các tổ chức công an tình báo Mỹ - ngụy, các đảng phái phản động, đánh tan các cơ sở của địch một cách triệt để, giành chính quyền về tay nhân dân..."  . Thành ủy giao Ban An ninh nhiệm vụ trừ gian, diệt ác nhắm vào hai loại mục tiêu: Bọn đầu sỏ, bọn cao cấp và bọn tình báo, an ninh cảnh sát ác ôn trong chính quyền cơ sở địch.

 Trên toàn chiến trường miền Nam, cuộc tổng công kích chiến lược vào các đô thị đã mở ra đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, đồng loạt tiến công trên toàn miền Nam, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, sân bay, kho tàng, Sở chỉ huy. Lực lượng an ninh khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định phối hợp với các chiến trường chính đánh 372 trận lớn, nhỏ, tiêu diệt 4.575 tên địch các loại, trong đó có 1.124 tên Mỹ, có 9 sĩ quan cấp tá, bắt sống 129 tên, có 1 tên tư lệnh sư đoàn, 1 tên tỉnh trưởng; bắn cháy và phá hủy 105 xe quân sự các loại, 63 máy bay, bắn chìm 1 tàu, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng . "Phân đội 2 bảo vệ Bộ Tư lệnh tiền phương II được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang công an nhân dân. Đồng chí Nguyễn Minh Hoàng thuộc an ninh T4 được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đơn vị trinh sát được tặng thưởng Huân chương hạng Nhì; 8 đồng chí được tặng thưởng Huân chương hạng Nhất, hạng Nhì".

 Thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968 là một sự thật lịch sử. Những bài học thắng lợi và thiếu sót là những kinh nghiệm quý giá cho chặng đường tiếp theo dẫn đến ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (tháng 1-1973) là vô cùng bổ ích cho chặng đường kết thúc chiến tranh bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy toàn thắng trong Xuân 1975, đưa dân tộc ta vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Sáu, 2020, 05:04:41 pm
CÔNG TÁC TRÍ VẬN Ở SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ CHO TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
 XUÂN MẬU THÂN 1968



TS. HỒ SƠN DIỆP
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 25-10-1967, Trung ương Cục miền Nam tổ chức Hội nghị, ban hành Nghị quyết Quang Trung: Tiến hành "Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa".

Ở Sài Gòn - Gia Định, lực lượng trí vận tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng các cơ sở nòng cốt trong các tổ chức quần chúng bí mật, công khai, nửa công khai, chuẩn bị lực lượng quần chúng, chuẩn bị nổi dậy "Tổng khởi nghĩa"; cài, cắm cán bộ nòng cốt vào các cơ quan báo, đài, Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc, Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Phong trào Dân tộc tự quyết, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Nghiệp đoàn ký giả... nhằm tập hợp tầng lớp nhân sĩ, trí thức thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, giương cao ngọn cờ "hòa bình trung lập" đấu tranh trên mặt trận dư luận...

Từ năm 1965, thực hiện "Kế hoạch X" của Trung ương Cục, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã triển khai xây dựng năm tiểu đoàn "mũi nhọn", phát triển lực lượng biệt động, thành lập các đội vũ trang chiến đấu, các trung tâm huấn luyện bí mật quân sự, chính trị bí mật, phát triển các cơ sở cách mạng, "lõm" đứng chân, đẩy mạnh phong trào đấu tranh đô thị... Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát được rút về Trung ương Cục nhận công tác mới, đồng chí Tạ Bá Tòng (Khu ủy viên) được cử làm Trưởng ban Trí vận - Mặt trận 1. Ban chia thành hai phân ban: phân ban hoạt động trong nội thành và phân ban hoạt động ở chiến khu. Trong đó, phân ban hoạt động nội thành có nhiệm vụ vận động, tập hợp nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc, giáo giới, văn nghệ sĩ, báo chí, người Hoa, tôn giáo... giương cao ngọn cờ "hòa bình trung lập", đấu tranh chống chiến tranh, chống sự can thiệp của Mỹ, đòi quân đội Mỹ, quân đội đồng minh của Mỹ rút quân về nước;... Phân ban hoạt động ở chiến khu có nhiệm vụ lập đội vũ trang, xây dựng căn cứ, bảo vệ lãnh đạo và cán bộ cách mạng từ nội thành ra căn cứ làm việc, học tập, đồng thời tổ chức giao liên hai chiều từ căn cứ vào nội thành Sài Gòn hoặc đến các cơ quan của Khu ủy...

Ở nội thành, tính đến trước Tết Mậu Thân 1968, đội ngũ nhân sĩ, trí thức khá đông đảo, tham gia hầu hết trên các lĩnh vực từ chính trị, quân sự, đến kinh tế, văn hóa, xã hội của chính quyền Sài Gòn. Chỉ tính riêng ngành giáo dục, trong những năm 1960-1961, cả miền Nam có 24.533 giáo viên tiểu học, 6.607 giáo viên trung học, 595 giáo viên đại học, 419 giáo viên bậc cao đẳng, trung học chuyên nghiệp . Đến những năm 1967-1968, miền Nam đã có đến 27.572 giáo viên, 4.453 giáo viên công lập; 1.155 giáo viên bán công, 7.084 giáo viên, 7.730 giáo viên tư thục (con số này chưa tính các giáo viên hiện đang giữ các chức vụ khác) . Ngoài ra, Niên giám thống kê Việt Nam Cộng hòa còn cho biết, bình quân mỗi năm các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp trên toàn miền Nam (chủ yếu là ở Sài Gòn) có khoảng từ 4 đến 5 vạn sinh viên tốt nghiệp, nếu năm 1963, số lượng những "người có bằng cấp hơn 6 vạn"; năm 1965, con số này dao động từ 13 đến 15 vạn, và đến năm 1968 đã lên tới con số 25 đến 30 vạn, đó là chưa kể số sinh viên hằng năm du học tại phương Tây tốt nghiệp về nước.

Số sinh viên nói trên sau khi tốt nghiệp, có đến 60% bị Chính phủ Sài Gòn bắt lính, số còn lại chủ yếu trở thành "những cán bộ, công chức làm tay sai cho chế độ Mỹ-ngụy", "hay ít ra cũng biến họ thành những người an phận thủ thường xa rời cuộc đấu tranh của dân tộc".

Báo cáo của Thượng nghị sĩ Kennơđi (Mỹ) cho biết: Ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1967, mỗi năm có khoảng từ 100.000 đến 150.000 thường dân bị thương, trong đó có khoảng ¼ tử vong và tối thiểu có 35.000 thường dân tàn tật vĩnh viễn. Đứng trước thực trạng đau buồn đó, đội ngũ trí thức ở Sài Gòn - Gia Định phân hóa mạnh mẽ, ngoài bộ phận thân chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, còn có không ít trí thức chủ trương trung lập và đông đảo trí thức mất phương hướng trước vòng xoáy dồn dập của cuộc chiến tranh tàn khốc... Trong khi đó "Ánh sáng lý tưởng tỏa từ trong chiến khu và từ bên kia nửa phần Tổ quốc không dễ dàng đến với tất cả thanh niên và trí thức miền Nam, tổ chức chỉ đến với một số người chọn lọc, thường qua một số trung gian bí mật mà một người bình thường không thể nào bắt liên lạc được". Do đó, nhiệm vụ của phân Ban Trí vận - Mặt trận là làm cho nhân sĩ trí thức, sinh viên, học sinh và các giới đồng bào... hiểu rõ bản chất của cuộc chiến, hiểu rõ cái ranh giới giữa kẻ đi xâm lược và người bị xâm lược; hiểu rõ nhân dân Việt Nam đang thực hành cuộc chiến tranh cách mạng để giành lại tự do, độc lập cho dân tộc; hiểu rõ "người Mỹ là kẻ xâm lăng và người Việt Nam nào cũng có bổn phận đuổi người Mỹ ra khỏi nước nhà...".

Ở Sài Gòn - Gia Định, sống dưới sự kiểm soát gắt gao của "chế độ Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, con đẻ của nhóm quân nhân, một nhóm độc tài quân phiệt có từ trong bản chất"6 với hệ thống cảnh sát, mật vụ, an ninh quân đội, tình báo... dày đặc, luôn rình rập, "thả lưới, quẳng câu"... nên công tác trí vận vô cùng khó khăn. Do vậy, phân ban Trí vận - Mặt trận phải tạo vỏ bọc kín đáo, tìm điều kiện thuận lợi, từ rỉ tai, nói nhỏ vạch trần âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ, đến xâu chuỗi, tuyên truyền, tập hợp nhân sĩ, trí thức... nâng cao dần nhận thức chính trị, từng bước đưa họ tham gia vào các hoạt động yêu nước từ thấp đến cao, góp phần xây dựng những phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị. Hoạt động hết mình của lực lượng trí vận trong các phân tiểu ban: nhân sĩ, trí thức vận, giáo vận, tư sản vận, phật giáo vận... đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận.

Phân tiểu ban Trí vận đã thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức và công chức Sài Gòn tham gia cách mạng, điển hình như Nguyễn Trí Độ, Phan Văn Mỹ, Đinh Xáng, Lương Lê Đồng, giáo sư Nguyễn Văn Cứng, luật sư Trịnh Đình Thảo, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết, Match Tares, Trương Kim Soa, Nguyễn Ngọc Chương, Nguyễn Hữu Khương, Trần Minh Linh, Trần Văn Khá, Đào Kim Sang...

Phân tiểu ban Giáo vận, tập hợp được nhiều nhà giáo yêu nước, từng bước đưa phong trào đấu tranh, điển hình như Lê Minh Triết, Võ Môn (Hai Trọng), Phan Thị Nở, Lê Văn Thời, Lưu Văn Lê, Đặng Thị Mai, Trương Văn Đức, Lương Lê Đồng, Võ Thanh Bằng... Đặc biệt, sự ra đời của Hội Nhà giáo yêu nước Khu Sài Gòn - Gia Định (1965), Hội liên hiệp Giáo chức Việt Nam (1966)... đã tạo nên bước phát triển mạnh mẽ của phong trào giáo giới.

Phân tiểu ban Tư sản không những đã vận động, thuyết phục được nhiều nhà tư sản dân tộc, chủ hãng xưởng lớn... tham gia cách mạng như Khương Hạp, Nguyễn Quốc Ngọc, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Văn Thống, Trần Văn Bảy, Nguyễn Bá Nghè, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Phước Thị Phần...; mà còn thành lập được chi bộ Đảng do Lê Thị Nuôi (Việt Hạnh) làm Bí thư. Đồng thời biến nhà 157D/1 đường Nguyễn Trãi, quận 5, Chợ Lớn thành cơ sở cách mạng, địa điểm liên lạc, nơi phân phối tài liệu, truyền đơn, sách báo cách mạng do Nhà in bí mật Trí Thức Mới ấn hành và là nơi làm việc thường xuyên của Tạ Bá Tòng - Trưởng Ban Trí vận - Mặt trận khu Sài Gòn - Gia Định...

Phân tiểu ban Phật giáo vận đã vận động, thuyết phục được nhiều trí thức Phật giáo tham gia cách mạng như nhà nghiên cứu Phật giáo Võ Đình Cường, Thượng tọa Thích Huệ Hưng, Đại đức Thích Như Chánh, Đại đức Thích Minh Nguyệt... Tất cả họ đều không sợ nguy hiểm, sẵn sàng giúp đỡ, tạo điều kiện cho cán bộ cách mạng hoạt động trong nội đô...

Để thuận lợi cho hoạt động trong nội thành, năm 1965, Ban Trí vận - Mặt trận xuất bản tờ tạp chí Trí thức mới và bản tin Sài Gòn vùng lên do Giáo sư Lê Văn Huấn làm Chủ nhiệm, Vương Văn Lễ (Chín Quyền) làm Chủ bút kiêm Thư ký tòa soạn. Lúc đầu tờ tạp chí và bản tin in trong căn cứ rồi chuyển vào thành phố bằng con đường giao liên bí mật, mỗi số khoảng 500 - 600 bản, mỗi bản dày 100 trang, khổ (13x18 cm). Xuất bản được vài số thì tờ tạp chí Trí thức mới và bản tin Sài Gòn vùng lên phải đình bản vì thiếu vật tư và việc đưa báo từ căn cứ vào nội thành quá nguy hiểm do phải vượt qua nhiều trạm kiểm soát gắt gao của chính quyền Sài Gòn. Đến năm 1967, theo chủ trương của Khu ủy, tờ tạp chí Trí thức mới và bản tin Sài Gòn vùng lên phải bám trụ trong nội thành để có điều kiện tiếp cận quần chúng. Ban Trí vận - Mặt trận quyết định đưa Ban biên tập và xưởng in vào nội thành, lúc thì ở cơ sở Tân Định, lúc ở đường Phạm Thế Hiển, Quận 8, nhà in được bố trí trong một hầm bí mật... việc viết, in và phát hành vô cùng khó khăn và nguy hiểm...

Cùng với tờ Trí thức mới và bản tin Sài Gòn vùng lên, năm 1966, tờ Tiếng nói trí thức được xuất bản công khai tại Sài Gòn nhằm mục đích tập hợp giới trí thức đấu tranh cho "Độc lập, Tự do, Dân chủ, Dân sinh và Hòa bình" ở miền Nam. Tờ báo do Nguyễn Văn Kiết làm Chủ nhiệm; Thanh Lan làm Thư ký tòa soạn. Số đầu tiên phát hành không nhiều, nhưng được trí thức, sinh viên, học sinh đón nhận.

Trong những năm 1965, 1966 và 1967 "ở các đô thị miền Nam, quần chúng cơ bản ngày càng kiên quyết cách mạng, các tầng lớp trung gian ngày càng ngả về ta. Các phong trào đấu tranh đòi hòa bình dân chủ, tán thành trung lập, chống lệ thuộc đế quốc Mỹ ngày càng phát triển" . Điển hình là cuộc biểu tình của gần 50.000 trí thức, sinh viên, học sinh, công nhân và đồng bào Phật giáo Sài Gòn chống Mỹ (1-5-1965); cuộc biểu tình đòi đế quốc Mỹ rút quân về nước của hơn 30.000 nhân sĩ, trí thức, giáo chức, sinh viên, học sinh nhân Ngày Quốc tế Lao động (1-5-1966); sinh viên, học sinh xuống đường đốt cháy xe Mỹ và hô vang khẩu hiệu "mạng người Việt Nam không thể đổi bằng đô la và bom đạn Mỹ" (5-5-1966); cuộc biểu tình chống bắt quân dịch học đường của giới giáo chức, ký giả, sinh viên, học sinh tại Sài Gòn (8-1965); cuộc hội thảo chống Mỹ của khoảng 1.100 trí thức, sinh viên, học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn (5-6-1966); cuộc biểu tình của trí thức, sinh viên, học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn vận động quần chúng tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến của chính phủ Sài Gòn (11, 12-1966); cuộc hội thảo khoa học của nhân sĩ, trí thức, nhà báo, luật sư, giáo chức, doanh nhân Sài Gòn - Chợ Lớn bàn về việc Mỹ xâm lược Việt Nam và ra bản tuyên ngôn đòi Mỹ giao lại chủ quyền về kinh tế, đất đai và cơ sở hạ tầng cho người Việt Nam (2-1967). Cuộc mít tinh, biểu tình của giáo chức, sinh viên, học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn đòi Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam, đòi Mỹ rút quân đội về nước (9-1967)...

Cùng với phong trào đấu tranh chống Mỹ, bài Mỹ, vấn đề đấu tranh bảo vệ nhân phẩm và nền văn hóa Việt Nam trước sự xâm lăng của văn hóa Mỹ cũng được đặt ra một cách bức thiết. Trí thức, văn nghệ sĩ, các tầng lớp nhân dân cùng với các nhà tu hành liên tục mở các cuộc hội thảo khoa học tìm biện pháp bảo vệ nhân phẩm Việt Nam, bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Các tổ chức yêu nước lần lượt ra đời như Hội bạn trẻ Việt Nam, Nghiệp đoàn Ký giả Việt Nam, Lực lượng bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên, Hội Bảo vệ nhân phẩm phụ nữ (26-6-1966)... Trí thức, nhà báo tập trung "truy tầm nguyên nhân gây ra tệ dị đoan, lên án những sản phẩm dâm ô, những thủ phạm làm tan nát xã hội" . Tháng 4-1966, gần 70 trí thức soạn thảo bản Tuyên ngôn trong đó có đoạn viết: "Văn nghệ lai căng đồi trụy, phim ảnh, tân nhạc, tiểu thuyết, báo chí đầu độc tinh thần thanh niên, đe dọa tiêu diệt truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta - một dân tộc quật cường với 4.000 năm lịch sử đã từng chiến đấu oanh liệt vẻ vang để được độc lập tự tôn"; "văn nghệ sa đọa là kết quả tất nhiên của một chế độ không dân chủ, dung túng sự sa đọa, cản trở tính dân tộc;... văn nghệ nước ngoài tràn vào phá hoại tinh thần dân tộc và truyền thống cao đẹp Việt Nam". Tiếp đó, giới trí thức yêu nước thành lập Ban vận động rồi tiến hành Đại hội thành lập Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc ngay tại Tòa Đô chính Sài Gòn (7-8-1966).

Từ đầu năm 1967, báo chí ở các đô thị và vùng tạm chiếm luôn luôn xuất hiện các bài viết, bài nghiên cứu với nội dung: "Hiện tình của văn hóa và trách nhiệm của chúng ta", "một thực trạng văn hóa đòi hỏi sự quan tâm của mọi người"; "phải cứu lấy văn hóa Việt Nam", "chúng ta làm gì và sẽ làm gì?"... Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc đề ra nhiệm vụ: bài trừ văn hóa đồi trụy, lai căng, mất gốc, chống văn hóa ngoại lai, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc dựa trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, gạn lọc và phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống nhằm xây dựng nền văn hóa dân tộc hiện đại. Trí thức tổ chức các cuộc hội thảo về các đề tài: "Văn hóa dân tộc!, Thế nào là văn hóa dân tộc?"; "Thực trạng văn hóa và đòi hỏi sự quan tâm của mọi người"; "Phải cứu lấy văn hóa của chúng ta"; "Nội dung, tính chất, cơ sở truyền thống lập quốc, chống xâm lăng"; "Những hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn nghệ"; "Chúng ta làm gì và sẽ làm gì để bảo vệ nền văn hóa dân tộc?"; Vai trò của nhà giáo trong công cuộc phát huy tinh thần văn hóa dân tộc"...

Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc của giới trí thức yêu nước đã đánh thức mạnh mẽ tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc trong giới học sinh, sinh viên. Do vậy, phong trào hát sử ca ra đời và lan nhanh trong các trường phổ thông, đại học làm bừng lên khí thế cách mạng hào hùng của dân tộc. Những bài sử ca như: Đêm Mê Linh, Hội nghị Diên Hồng, Gò Đống Đa, Hoa Lư, Thăng Long hành khúc... được giới học sinh, sinh viên biểu diễn nhằm ca ngợi những chiến thắng vang dội của cha ông ta trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm... Ngoài ra, học sinh, sinh viên còn trình diễn nhiều bản nhạc yêu nước, tiến bộ như: Khúc khải hoàn, Lên đàng, Du lịch sông Thao, Tiếng hát sông Lô, Bà Mẹ Gio Linh, Tiếng trống Hạ Hồi, Hoàng Hoa Thám... của Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Hoàng Quý, Trần Văn Khê, Đỗ Nhuận... Phong trào ca hát về đề tài lịch sử, đề tài kháng chiến cứ thế ngày một lan rộng và trở thành phương cách chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, khơi thổi ngọn lửa yêu nước và truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc Việt Nam trong lòng mọi người dân Việt Nam.

Trong những tháng cuối năm 1967, để chuẩn bị cho Tết Mậu Thân, phong trào đấu tranh của giáo chức, sinh viên, học sinh diễn ra dồn dập. Sinh viên các trường Văn khoa, Sư phạm, Khoa học, Y Dược... bãi khóa, bãi thi, tổ chức hội thảo, mít tinh... phản đối chính quyền Sài Gòn độc tài phát xít, đòi Mỹ rút quân về nước (9-1967). Sinh viên liên viện Đại học Sài Gòn - Vạn Hạnh - Cần Thơ - Đà Lạt tổ chức mít tinh, tuần hành đòi quân đội nước ngoài rút khỏi miền Nam Việt Nam (24-9-1967). Sinh viên, học sinh bí mật treo cờ giải phóng, rải truyền đơn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tại các trường Nông Lâm Súc, Bồ Đề, Đức Trí, Y Dược, Khoa học, Phan Sào Nam, Lê Văn Duyệt, Petrus Ký, Gia Long, Cao Thắng,... kêu gọi nhân dân Sài Gòn nổi dậy chống chính quyền Sài Gòn. Tổng hội Sinh viên, Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn tập hợp hàng chục ngàn sinh viên, học sinh của 21 phân khoa Đại học, 53 trường trung học và Đoàn văn nghệ Bừng Sáng tổ chức hội diễn văn nghệ mừng Tết Quang Trung, chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa (26-1-1968) ...

Rõ ràng rằng công tác trí vận Khu ủy đã góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị trong những năm 1965-1967, đồng thời chuẩn bị lực lượng, tập dượt kỹ lưỡng cho cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân 1968.

Ở căn cứ, đội vũ trang của Ban Trí vận - Mặt trận được kiện toàn. Trong tổng số 23 thành viên có 7 đảng viên, 11 đoàn viên do Trần Văn Bắc (Sáu Điền) phụ trách. Dù số lượng ít nhưng hân ban được tuyển lựa kỹ lưỡng nên các thành viên rất trung kiên, gan dạ, không quản ngại mưa bom bão đạn, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh. Đến năm 1967, phân ban do kỹ sư Đặng Xuân Phong làm Trưởng phân ban... Ngoài ra, phân ban còn có kỹ sư Đặng Xuân Phong, bác sĩ Dương Quang Trung, bác sĩ Ủ Thị Anh, nhà giáo Bùi Thị Nga...

Trong những năm 1965-1967, phân ban đã xây dựng nhiều bàn đạp đứng chân ở Củ Chi, Long An, Mỹ Tho, Trà Vinh, Bến Tre, Tây Ninh, Long Thành, Bình Chánh, Bến Lức, Ba Thu;... Nhiều chuyến đi công tác bị đối phương phục kích, anh em đã dũng cảm chiến đấu, bảo vệ thư từ, tài liệu. Tính đến năm 1967, phân ban có 9 người hy sinh, 5 người bị thương, tuy nhiên anh em vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện thành công hàng ngàn chuyến giao liên đưa thư từ, tài liệu, đưa đón nhân sĩ, trí thức... ra, vào căn cứ; bảo đảm liên lạc thông suốt giữa mật khu với nội thành Sài Gòn.

Cuối năm 1967, Trung ương Cục ban hành Nghị quyết Quang Trung chuẩn bị tổng công kích - tổng khởi nghĩa, bộ máy lãnh đạo Khu ủy được sắp xếp theo năm cánh áp sát Sài Gòn, các ban ngành đoàn thể cũng được chia cho từng cánh, trong đó Phân ban Trí vận - Mặt trận thuộc Phân khu 6.

*
*         *

Tết Mậu Thân 1968, Quân giải phóng đồng loạt tiến công vào các mục tiêu quân sự của đối phương ở nội thành, nội thị thuộc các tỉnh thành trên toàn miền Nam. Tại Sài Gòn phân Ban Trí vận - Mặt trận tham gia tích cực cùng Quân giải phóng tấn công các vị trí quân sự quan trọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Sau đợt 1 Mậu Thân, mặt trận thứ hai được Trung ương Cục và Khu ủy giao cho Ban Trí vận - Mặt trận chuẩn bị, giương cao ngọn cờ "hòa bình trung lập" trên mặt trận đấu tranh "dư luận" đã được hoàn tất. Ngày 20-4-1968, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, cùng Ủy ban Liên minh đô thành Sài Gòn - Gia Định ra đời với sự tham gia của đông đảo nhân sĩ, trí thức, chính khách và nhiều nhà tư sản dân tộc nổi tiếng tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam. Tiếp đó, Ban Trí vận - Mặt trận đã sử dụng toàn bộ đường dây giao liên bí mật, công khai, nửa công khai từ nội thành ra vùng ven đón đưa và bảo vệ an toàn cho các nhân sĩ, trí thức, chính khách, tư sản dân tộc, điền chủ, sinh viên... từ Sài Gòn ra chiến khu, vùng căn cứ.

Công tác trí vận Sài Gòn - Gia Định đã góp phần quan trọng vào cuộc "tổng công kích - tổng khởi nghĩa" Xuân Mậu Thân 1968 - góp phần tạo nên cột mốc lịch sử sáng ngời chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.




------------------------------------------------------------------
1. Tiền thân của Ban Trí vận là Chi bộ Trí thức trực thuộc Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn (thành lập tháng 12-1947). Chi bộ do Luật sư Hoàng Quốc Tân làm Bí thư, có nhiệm vụ vận động trí thức, công chức ở Sài Gòn - Chợ Lớn tham gia đấu tranh cách mạng. Tháng 11-1954, Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương thành lập các ban Công vận, Phụ vận, Trí vận (bao gồm cả Tư sản vận)... Trên cơ sở đó, cuối năm 1956, Ban Trí vận Khu Sài Gòn - Chợ Lớn chính thức được thành lập do dược sĩ Phạm Thị Yên làm Trưởng ban, Trương Bội Hoàn phụ trách tuyên huấn, Bùi Thị Nga phụ trách phong trào. Năm 1961, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ mới, Chiến trường B2 được tổ chức thành các quân khu, hình thức tổ chức quân sự theo lãnh thổ (mật danh quân sự là T). Theo đó: ngày 19-3-1961, Ban Trí vận Khu Sài Gòn - Gia Định tái thành lập do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Sài Gòn - Gia Định kiêm Trưởng ban. Ban Trí vận làm nhiệm vụ Trí vận - Mặt trận, do vậy mà từ đó gọi là Ban Trí vận - Mặt trận khu Sài Gòn - Gia Định.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:08:46 am
HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ CỦA THÀNH ỦY SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



TS. DƯƠNG KIỀU LINH
Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
- Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã xác định rõ tầm quan trọng của hoạt động báo chí trong sự nghiệp cách mạng và lãnh đạo chặt chẽ hoạt động báo chí, sử dụng báo chí làm vũ khí sắc bén chống lại âm mưu lũng đoạn của kẻ thù, đồng thời, sử dụng báo chí làm phương tiện tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, hướng dẫn quần chúng cách mạng phương pháp hoạt động trong lòng địch. Báo chí là một trong những nội dung quan trọng của công tác đô thị; hoạt động báo chí được coi là một mũi chiến lược quan trọng để đấu tranh trên mặt trận chính trị tư tưởng và là nội dung trong phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam. Do đó, trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, báo chí được coi là một trong các mũi tấn công kẻ thù và được chuẩn bị khá chu đáo.

Trước, trong và sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, hoạt động của trận địa báo chí ở Sài Gòn khá sôi nổi, với những hình thức tổ chức và hoạt động đa dạng, phong phú. Căn cứ vào điều kiện hoạt động thực tế và các mục tiêu cách mạng, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đã chủ trương xây dựng lực lượng hoạt động cả trong thế hợp pháp và bất hợp pháp; với ba hình thức hoạt động công khai, nửa công khai và bí mật; các hoạt động được thực hiện cả trong nội đô Sài Gòn, vùng ngoại ô và trong chiến khu, cũng được tổ chức ở những quy mô, mức độ và phương thức hoạt động khác nhau:

Thứ nhất là dòng báo chí công khai.

Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đã chỉ đạo lực lượng báo chí nội thành tiếp tục lợi dụng những tờ báo công khai, hợp pháp (có giấy phép do Bộ Thông tin của chính quyền Sài Gòn cấp) nhưng có các yếu tố tiến bộ và yêu nước mà lực lượng cách mạng có thể chi phối được trong những điều kiện và thời điểm nhất định. Sự nhận thức và chỉ đạo báo chí công khai trong nội thành thể hiện cách nhìn toàn diện về phong trào đô thị, về cách đánh giá đúng đắn và cần thiết về vai trò quần chúng nhân dân.

Do đặc tính công khai nên nội dung đấu tranh của dòng báo chí có giới hạn, chỉ dừng lại ở mức độ đấu tranh đòi các quyền lợi chính đáng, thiết yếu của người dân như quyền dân sinh, dân chủ, hòa bình, chống các chính sách hà khắc chứ không thể trực tiếp tuyên truyền chống chính quyền, phổ biến đường lối, chủ trương cách mạng. Vì vậy, vào thời điểm sự kiện Mậu Thân diễn ra, kết quả chi phối của dòng báo chí công khai có một số hạn chế. Dù vậy, trong đợt 1 của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 hoạt động của dòng công khai đã được tổ chức hiệu quả.

Sau đợt 1 của cuộc tấn công, vì điều kiện hoạt động đã thay đổi nên không phải lúc nào báo chí cũng có được sự chỉ đạo cụ thể, sát sao của Đảng bộ. Lực lượng cán bộ, chiến sĩ báo chí nội thành luôn phải có sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong quá trình hoạt động dựa trên cơ sở chỉ đạo chung về chủ trương đấu tranh chính trị, yêu cầu, nhiệm vụ của báo chí trên mặt trận chính trị - văn hóa - tư tưởng. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể tại mỗi thời điểm mà các cán bộ, chiến sĩ báo chí có sự ứng phó linh hoạt, vừa mang lại hiệu quả công việc, vừa đảm bảo bí mật cơ sở. Từ đặc điểm và kết quả của hoạt động báo chí công khai trong tổng tiến công và nổi dậy đã khẳng định rõ bản lĩnh, năng lực, trí tuệ của đội ngũ báo chí nội thành. Phải là những người anh dũng, kiên cường, có tư duy nhanh nhạy, sắc bén, linh hoạt và yêu nghề báo, hiểu độc giả, hiểu quần chúng thì những chiến sĩ báo chí nội thành mới đủ khả năng bám trụ và hoạt động hiệu quả trên trận tuyến này. Nhiều cán bộ, chiến sĩ, ký giả nội thành đã bị địch bắt bớ, tra tấn, giam cầm hoặc hy sinh.

Thứ hai là dòng báo chí nửa công khai.

Là những tờ báo không có giấy phép của Bộ Thông tin nhưng vẫn phát hành công khai để tặng hoặc bán. Dòng báo chí này chủ yếu do lực lượng học sinh, sinh viên thực hiện dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy và Thành đoàn Thanh niên Sài Gòn - Gia Định. Với chủ trương xây dựng đội ngũ nòng cốt trẻ khá đông trong các tờ báo, coi báo chí là một mũi chiến lược quan trọng đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng. Từ đó, báo chí đã trở thành một phương tiện tuyên truyền, vận động cách mạng tích cực và hiệu quả, tạo hiệu ứng tốt trong tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên Sài Gòn.

Thực hiện chủ trương của Thành ủy, cuối năm 1967 đầu năm 1968, chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, phong trào học sinh, sinh viên giành được nhiều "ghế" trong Ban Chấp hành Tổng hội 1, nên hoạt động báo chí trong phong trào học sinh, sinh viên rất được chú trọng và có điều kiện phát triển mạnh và trở thành điển hình cho dòng báo chí nửa công khai, phù hợp với phương châm chỉ đạo của phong trào cách mạng đô thị.

Khi sự kiện Mậu Thân diễn ra, nội dung được thể hiện trên các tờ báo do sinh viên, học sinh Sài Gòn thực hiện đều truyền tải các nội dung trọng tâm là cổ động tinh thần yêu nước, chống chiến tranh, chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đòi hòa bình, độc lập và thống nhất. Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn trên trận địa báo chí luôn gắn liền với phong trào đấu tranh chung ở các đô thị miền Nam Việt Nam. Đến giữa năm 1968, vào đợt 2 của cuộc tổng tấn công, nhận thấy nguy cơ lớn từ phong trào học sinh, sinh viên, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn xúc tiến mở các đợt tiến công mạnh mẽ vào phong trào này nhằm dập tắt ngăn chặn khả năng lây lan nhanh chóng của nó. Nguyễn Văn Thiệu ban hành hàng loạt quân luật, bắt bớ các "thủ lãnh" phong trào, lập tòa án mặt trận xử án "báo sinh viên" và Chủ tịch Tổng hội.

Thứ ba là dòng báo chí bí mật (báo chí cách mạng).

Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động của dòng báo chí công khai, nửa công khai, nửa bí mật, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định còn chú trọng phát triển dòng báo chí bí mật ngay trong nội thành và lãnh đạo Thành ủy đặc biệt nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ hai dòng báo chí công khai và bí mật, hỗ trợ lẫn nhau, cùng thực hiện nhiệm vụ chung do thực tiễn cách mạng thời kỳ này đặt ra.

Dòng báo chí này gồm hai bộ phận: Một là, những tờ báo được xuất bản ở chiến khu, sau đó bí mật đưa về phát hành trong nội thành Sài Gòn. Trước đó, nhiều tờ báo cách mạng đã xuất hiện ở nội thành Sài Gòn nhằm mục đích tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đấu tranh cách mạng của Đảng tới người dân Sài Gòn, nên khi chuẩn bị cho đợt tấn công quan trọng này, công tác báo chí cũng được tăng cường. Hai là, những tờ báo bí mật được xuất bản ngay trong nội thành, bộ phận này nhằm đáp ứng những yêu cầu nhanh chóng, khẩn trương về mặt thông tin, đồng thời khắc phục những khó khăn, nguy hiểm của việc vận chuyển và phát hành báo chí từ vùng giải phóng vào nội đô Sài Gòn.

Để duy trì hoạt động trong nội thành, "trụ sở" của các tờ báo bí mật thường được ngụy trang bằng 2 cách. Cách thứ nhất là thuê nhà, ngụy trang thành cửa hàng kinh doanh như tiệm may, nhà thuốc,... máy móc và các vật dụng in được cất giấu dưới những hầm bí mật ngay trong nhà. Ban ngày hoạt động kinh doanh bình thường, ban đêm, những chiếc tủ, thùng đựng hàng trở thành một "tòa soạn" báo. Cách thứ hai là đào hầm bí mật, chui xuống dưới để đánh máy, thường các hầm này phải cài sẵn mìn, nếu bị lộ, phải phi tang toàn bộ bài vở và "tòa soạn".

Để trực tiếp chỉ đạo sát sao, chặt chẽ công tác nội thành, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định quyết định thành lập Ban Chỉ đạo phối hợp các lực lượng đấu tranh chính trị ở nội thành Sài Gòn do đồng chí Trần Trọng Tân làm Trưởng ban. Hoạt động báo chí trong Ban rất được chú trọng, Ban Cán sự ký giả do đồng chí Trần Trọng Tân trực tiếp phụ trách.

Ngay từ cuối năm 1967 đầu năm 1968, Ban Tuyên huấn Trung ương Cục phân công cụ thể cho các bộ phận như Đài Phát thanh Giải phóng, Thông tấn xã Giải phóng, Báo Giải phóng, Ban Tuyên truyền đối ngoại về nội dung tuyên truyền và sự phối hợp công tác để phục vụ nhiệm vụ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết. Bộ phận báo chí phát thanh đã có sự phối hợp chuẩn bị rất công phu. Máy móc thiết bị cơ động, phóng viên chiến trường sẵn sàng cho những tin bài tường thuật trực tiếp chờ khi có tin bộ đội ta đánh chiếm Đài Phát thanh - Truyền hình Sài Gòn. Tiểu ban Báo chí thuộc Ban Trí vận được giao nhiệm vụ thực hiện công tác phối hợp với Ban Tuyên truyền đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng phát đi những tin tức quân sự và tình hình tiến công của Quân giải phóng khi vào tới các đô thị, chuẩn bị các nội dung đăng trên Báo Giải phóng và Đài Phát thanh, liên lạc trực tiếp với các phân xã Thông tấn xã Giải phóng ở nước ngoài. Vì thế, trong thời gian diễn ra đợt 1 của cuộc tổng tấn công, các tin tức được truyền đi rộng khắp qua làn sóng phát thanh và báo chí. Các nhà báo như Tân Đức, Võ Nhân Lý... cùng với nhiều đồng nghiệp - chiến sĩ giải phóng túc trực bên các thiết bị kỹ thuật tuy thô sơ, nhưng được sử dụng tối đa công năng cho yêu cầu thông tin về cuộc tấn công lịch sử. Họ đã viết hàng trăm bài báo, bản tin về tình hình chiến sự đến người đọc, người nghe của cả nước, cả thế giới đang quan tâm đến cuộc chiến ác liệt. Cũng ngay trong đợt 1 của cuộc tấn công, hàng ngàn độc giả đã xúc động khi được nghe bài thơ "Dáng đứng Việt Nam" của nhà thơ liệt sĩ Lê Anh Xuân qua làn sóng của Đài Phát thanh Giải phóng và Báo Giải phóng.

Từ đầu tháng 1-1968, Ban phụ trách Báo Cờ Giải phóng đã tổ chức được bộ phận in và hình thành mạng lưới phát hành báo trong nội thành. Nhà in lấy cơ sở in công khai của đồng chí Tư Cao và đồng chí Năm Lăng đặt gần chợ Bà Chiểu; Tòa soạn đặt tại nhà đồng chí Sáu Thứ, trong khu xóm lao động Cầu Bông. Ngay sau khi tạm ổn định cơ sở in ấn và mạng lưới phát hành, tờ báo đã nhận được lệnh chiến đấu của đồng chí Trần Trọng Tân (Trưởng Ban chỉ đạo phối hợp các lực lượng đấu tranh chính trị ở nội thành Sài Gòn) chỉ đạo in tờ Cờ Giải Phóng trong đêm mồng một Tết và phát hành rộng rãi vào sáng mồng hai Tết, khi lực lượng vũ trang đã chiếm lĩnh các cửa ngõ vào Sài Gòn . Nội dung tờ báo là bản hiệu triệu của một tổ chức tiến bộ, lấy danh nghĩa là "Mặt trận dân tộc, dân chủ và hòa bình" của địa phương. Để phục vụ tốt nhất cho tổng tiến công và nổi dậy, các số ra của báo được phát thanh đọc chậm. Cùng với số báo được in ngay trong nội thành Sài Gòn còn có các bản được in ở vùng giải phóng. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Cờ Giải Phóng in trong nội thành đã kịp thời cung cấp thông tin về chủ trương, đường lối, mục tiêu của Đảng khi tiến hành chiến dịch cho quần chúng nhân dân, để quần chúng hiểu và ủng hộ. Bằng phương thức biên tập, in ấn và phát hành như vậy, Báo Cờ Giải phóng - tiếng nói của nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã tồn tại trong lòng Sài Gòn cho đến ngày toàn thắng, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.

Cũng trong những ngày quyết liệt diễn ra Tổng tiến công và nổi dậy, vào thời điểm tháng 4-1968, khi đợt tấn công lần 2 đã gặp một số tổn thất, Thành ủy vẫn chủ trương tăng cường công tác báo chí. Đó là phương châm chỉ đạo theo sát tình hình, tranh thủ đến mức tối đa sự ủng hộ của người dân đô thị, tìm mọi cách đưa thông tin về cuộc chiến nhanh nhất đến cho người dân. Ban Tuyên huấn Trung ương Cục đã tăng cường phát hành tờ Cờ Giải phóng vào đô thị qua đầu mối bí mật của nội thành. Nhiều cán bộ đóng giả thành dân thường đi buôn bán, phụ nữ đang nuôi con nhỏ chỉ mang theo từ một đến hai tờ báo Cờ Giải phóng giấu vào đồ dùng của các em bé như tã lót, sữa, bình cháo... hoặc cắt manchette báo Chính luận, Sài Gòn mới là những tờ báo công khai của Sài Gòn lúc đó để dán đè lên báo Cờ Giải phóng để mang vào nội thành. Mỗi lần chuyển được một tờ báo bí mật là mang tới một thông tin quý giá cho người dân... Có người không cầm được nước mắt, nghẹn ngào thốt lên: Nhìn thấy tờ báo Cờ Giải phóng là thấy cách mạng còn...

Ban Tuyên huấn Khu ủy còn chỉ đạo bộ phận phục vụ công tác in ấn, xuất bản báo chí và truyền đơn, in cờ và Lời kêu gọi, Bản tuyên bố của Mặt trận, in giả thẻ căn cước của chính quyền Sài Gòn. Công tác này do các đồng chí Tám Gân, Chín Mễ, Ba Nhiễu, Ba Kích, Bảy Lợi, Tám Kiểng ... phụ trách và đóng góp quan trọng cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 và cả sau này.

Tạp chí Trí Thức mới tham gia tích cực khi chiến dịch nổ ra. Ban đầu được in từ chiến khu Củ Chi rồi chuyển vào nội thành để phân phối đến các cơ sở. Về sau, Ban Trí vận tìm cách xây dựng được cơ sở in ngay trong nội thành nên việc in ấn và phát hành tạp chí được tốt hơn. Sau này việc in ấn và phát hành Tạp chí Trí Thức mới gặp nhiều khó khăn, cơ sở bị đứt liên lạc, máy móc, phương tiện in ấn bị phá hủy, chính quyền Sài Gòn nắm quyền kiểm soát giấy và mực in, coi đây là mặt hàng quốc cấm.

Hoạt động báo chí trong điều kiện chính quyền nằm trong tay đối phương nên thường không ổn định, khó nhất quán hoàn toàn về cả nội dung và hình thức, dù hoạt động ở thế công khai, nửa công khai hay bí mật cũng đều phải có sự linh hoạt theo chuyển biến của thời cuộc. Lực lượng cán bộ, chiến sĩ hoạt động trong hai dòng báo này cũng thường xuyên biến đổi. Sau Chiến dịch Mậu Thân, rất nhiều ký giả bị lộ phải lập tức rút vào chiến khu. Dù vậy, những thành quả đạt được trên trận tuyến này đã chứng tỏ bản lĩnh, khí phách và trí tuệ của các cán bộ, chiến sĩ báo chí mà theo nhận xét của nhà báo Trần Bạch Đằng, đó là: "Rất linh hoạt, rất thực tiễn, không bao giờ chịu dừng lại, luôn tìm cách đổi mới, làm tốt hơn cái hôm qua đã làm, không bị giáo điều, luôn tìm những cái mới, cái thiết thực, đưa ra những chuyện mới mẻ về nghiệp vụ..." .

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhận thấy báo chí cách mạng là nguy cơ đe dọa không nhỏ cho chính quyền nên Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định đóng cửa nhiều tờ báo, tăng cường vật chất cho báo chí thân chính quyền hoạt động. Sau đó, trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của báo chí, chính quyền Sài Gòn buộc phải nhượng bộ, rút thời hạn đóng cửa các báo xuống còn ba ngày. Các chiến sĩ có mặt trong một số nhật báo yêu nước, tiến bộ như Dân chúng, Dân chủ, Tin sáng, Chánh đạo, Dân tiến, Miền Nam, Sống mới, Tin sớm, Quảng Đức, Điện tín, Thần chung... tiếp tục kiên trì, bền bỉ trong việc in đăng các bài về chống văn hóa đồi trụy, lai căng, mất gốc, bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ...

Nghiên cứu hoạt động báo chí của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 góp phần làm rõ thêm một kênh thông tin để hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn từ nhiều khía cạnh về cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc, bổ sung nguồn tư liệu quan trọng về quá trình lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Đồng thời, những kinh nghiệm lãnh đạo hoạt động báo chí của Khu ủy, rồi Thành ủy Sài Gòn - Gia Định trong quá khứ sẽ góp phần giúp cho việc lãnh đạo hoạt động báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thêm hiệu quả.
 



-----------------------------------------------------------------
1. Trong đó: Nguyễn Văn Quỳ (Đại học Nông Lâm Súc) giữ chức Chủ tịch Tổng hội, Huỳnh Tấn Mẫm (Phó Chủ tịch ban đại diện Y khoa) làm Phó Chủ tịch Nội vụ, Nguyễn Hoàng Trúc (Đại học Nông Lâm Súc) làm Phó Tổng Thư ký, Nguyễn Thị Yến (Đại học Văn khoa) làm thủ quỹ. Trong bảy ủy viên, lực lượng cách mạng nắm Ủy viên văn nghệ (Nguyễn Văn Sanh), Ủy viên báo chí - phát thanh (Tô Thị Thủy) và Tổng Ủy viên liên lạc (Nguyễn Tuấn Kiệt).


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:13:34 am
BẢO ĐẢM VŨ KHÍ CHO LỰC LƯỢNG ĐẶC CÔNG BIỆT ĐỘNG
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, ThS. NGÔ NHẬT DƯƠNG
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Kỹ thuật quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng đặc công biệt động đảm nhiệm tiến công các mục tiêu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, chiến dịch nằm sâu trong các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam Việt Nam. Để giúp bộ đội đặc công biệt động hoàn thành nhiệm vụ quan trọng trên, công tác bảo đảm vũ khí là rất nặng nề, khó khăn và đầy phức tạp.

Bảo đảm vũ khí cho lực lượng đặc công biệt động trên các chiến trường miền Nam trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Ở miền Bắc, tháng 9-1967, Đảng ủy Binh chủng Đặc công họp nghiên cứu quán triệt tình hình nhiệm vụ theo chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng. Hội nghị thảo luận đánh giá công tác xây dựng lực lượng và chi viện chiến trường miền Nam; đồng thời đề ra kế hoạch chuẩn bị vật chất, vũ khí trang bị cho tổng tiến công khi có thời cơ chiến lược.

Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, vũ khí trang bị của lực lượng đặc công được tăng cường và đổi mới. Trong năm 1967, Binh chủng Đặc công đã tiếp nhận gần 200 tấn vũ khí, khí tài, đạn dược và thuốc nổ, trong đó có hơn 1.000 khẩu tiểu liên AK báng gấp, cùng các loại vũ khí có uy lực mạnh, gọn. Đến cuối năm 1967, ngay sau khi bộ đội đặc công được huấn luyện xong và tăng cường cho các chiến trường, Binh chủng đã bảo đảm đầy đủ vũ khí trang bị theo thực binh cho các đơn vị gồm: 1 tiểu đoàn, 40 đội, 7 khung tiểu đoàn, 50 khung đội và 98 cán bộ kỹ thuật cùng nhân viên quân khí cho các chiến trường miền Nam. Toàn bộ số vũ khí vào chiến trường đều được tiến hành kiểm tra bảo đảm chất lượng kỹ thuật tốt; các loại trang bị như xẻng, cuốc, dây súng, túi đựng lựu đạn, thủ pháo, băng đạn được cấp mới. Với sự giúp đỡ của Cục Quân khí, Binh chủng còn tổ chức các dây chuyển bao gói chi viện gấp 59 tấn vũ khí đặc chủng gồm AK báng gấp, thuốc nổ C4 và các loại ngòi nổ cho chiến trường Khu 5, Nam Bộ.

Ở miền Nam, công tác chuẩn bị cho tổng tiến công được tiến hành sớm. Trên các chiến trường trọng điểm, lực lượng đặc công biệt động được tăng cường vũ khí trang bị cả về số lượng, chất lượng và chủng loại bảo đảm đủ sức mạnh đánh chiếm những mục tiêu trọng yếu nhất:

Ở Khu 5, tháng 7-1967, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Trung đoàn đặc công 401. Trung đoàn được trang bị chủ yếu là bộc phá, thủ pháo, mìn, ngòi nổ, súng (AK, B40, cối 60 và ĐKZ-75)... Trạm quân giới của Tiểu đoàn đặc công 406 chuyển về thực hiện công tác bảo đảm kỹ thuật quân khí cho Trung đoàn. Các tiểu đoàn đặc công thuộc Quân khu 5 và tỉnh được tăng cường biên chế đủ nhân viên quân khí nên tự sửa chữa được vũ khí; kết cấu các khối nổ, bộc phá, thủ pháo.

Tại Trị - Thiên, tháng 10-1967, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên đã chỉ thị cho Thành ủy và Thành đội Huế khẩn trương chuẩn bị vũ khí đánh các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến. Tháng 12-1967, Thành đội Huế thành lập 2 tiểu đoàn đặc công 1 và 2 được trang bị thuốc nổ, lựu đạn, mìn; súng (AK, B40, cối và ĐKZ). Lực lượng bảo đảm kỹ thuật ở tiểu đoàn đặc công có trợ lý và 1 tổ quân khí (5 người), ở đại đội đặc công có tổ quân khí (3 người) để hướng dẫn, kiểm tra việc bảo quản, bảo dưỡng vũ khí, đạn dược và kết cấu các loại bộc phá, thủ pháo. Các đội biệt động và cơ sở của Thành đội được củng cố và chuẩn bị làm hầm bí mật để tiếp nhận vũ khí trang bị. Trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, các đơn vị đặc công biệt động thuộc Mặt trận, sư đoàn và tỉnh Quảng Trị được bố trí ở thị xã, các mục tiêu trọng điểm; về vũ khí, do các đơn vị ở gần miền Bắc nên công tác bảo đảm có nhiều thuận lợi: khối lượng vũ khí nhận được khá dồi dào, đồng bộ tính năng kỹ chiến thuật; được nhiều cán bộ kỹ thuật và thợ quân khí ở Cục Quân khí và Bộ Tư lệnh Đặc công vào tăng cường lắp ráp vũ khí, hướng dẫn sử dụng mìn và ngòi nổ.

Ở Nam Bộ, tháng 5-1967, Phòng Đặc công - Cơ giới được thành lập mang phiên hiệu J16. Lực lượng trực thuộc Phòng có 2 liên đội và 1 trạm quân giới. Các đơn vị đặc công độc lập và trong sư đoàn trực thuộc các quân khu (5, 6, 7, 8, 9) nhận lệnh khẩn trương chuẩn bị mục tiêu và vũ khí trang bị cho Tổng tiến công. Đặc biệt ở Quân khu Sài Gòn - Gia Định, tháng 11-1967, Đội biệt động F100 được tách ra thành lập ba cụm biệt động gồm 10 đội chiến đấu và 2 đội bảo đảm thuộc Bộ Tư lệnh Phân khu 6, làm nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu chiến lược đã định. Trên khu vực trọng điểm này, có 6 đoàn hậu cần khu vực, hậu cần phân khu. Ở khu vực nội đô bố trí 15 điểm vũ khí "lót ổ", trong đó có 13 hầm bí mật chứa vũ khí bảo đảm cho đặc công biệt động tiến công các mục tiêu chiến lược .

Để lót lực lượng và vũ khí vào hang ổ địch, lực lượng đặc công biệt động đã bí mật, kiên trì xây dựng được hệ thống hành lang, cơ sở và kho hầm để vận chuyển, ém giấu lực lượng, vũ khí trang bị trong hậu phương địch. Trên các địa bàn chiến lược, đặc biệt ở các thành phố, thị xã lớn, quan trọng như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ..., đặc công biệt động đã xây dựng được hàng chục cơ sở, kho hầm trú ém quân, cất giấu vũ khí. Nhờ có địa bàn đứng chân vững chắc, có hành lang đi lại, các đơn vị đặc công biệt động đã tổ chức vận chuyển an toàn hàng trăm tấn vũ khí từ căn cứ qua vùng ven vào thành phố.

Ở Sài Gòn, tháng 10-1967, hai đơn vị A20 và A30 nhận lệnh gấp rút vận chuyển vũ khí, mua sắm phương tiện cất giấu ở nội thành và tại các điểm gần mục tiêu chiến lược đã chỉ định. Nhiệm vụ hết sức khó khăn, nguy hiểm và phức tạp, nhưng cán bộ, chiến sĩ đơn vị A20, A30 và cơ sở đã mưu trí, dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuối năm 1967, cả 13 kho hầm bí mật của đặc công biệt động đã chứa đầy vũ khí. Căn hầm trong gia đình đồng chí Trần Văn Lai chứa 350kg thuốc nổ và 1 hộp kíp, 10 khẩu AK và 3.000 viên đạn, 2 khẩu B40 và 20 viên đạn, 50 lựu đạn, 1 súng ngắn và 50 viên đạn . Căn hầm trong gia đình đồng chí Lê Tấn Quốc ở đường Lê Văn Duyệt chứa hàng tấn vũ khí.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, các chiến trường nhanh chóng điều động lực lượng, chuẩn bị vũ khí trang bị. Các đơn vị đặc công biệt động có vũ khí trang bị mạnh, kinh nghiệm chiến đấu tốt bố trí ở các khu vực trọng điểm, được phân công đánh chiếm các mục tiêu quan trọng nhất. Một yêu cầu cấp bách đặt ra và quán triệt trong lực lượng đặc công biệt động là phải nhận rõ thời cơ, quyết tâm chuẩn bị tốt, đủ, đồng bộ vũ khí trang bị phục vụ chiến đấu và chiến thắng.

Bảo đảm vũ khí cho lực lượng đặc công biệt động trong quá trình thực hành Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, từ đêm 29 đến ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta nổ ra đồng loạt ở toàn miền Nam. Các đơn vị đặc công biệt động đánh chiếm các cơ quan đầu não, sân bay, kho tàng, căn cứ địch ở Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku, Nha Trang, Sài Gòn và các đô thị ở đồng bằng sông Cửu Long...

Tại Sài Gòn, căn hầm ở nhà số 7, đường Yên Đỗ, được sử dụng làm Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Tiền phương Phân khu 6. Các kho hầm vũ khí qua kiểm tra phát hiện một hầm chứa đạn B40 thiếu liều phóng, 3 khẩu AK bị rỉ và gãy lò xo đã nhanh chóng được sửa chữa, bổ sung kịp thời; thuốc nổ đã kết cấu thành những trái bộc phá, thủ pháo theo yêu cầu sử dụng; mọi công việc bảo đảm cho vũ khí, phương tiện hoạt động được hoàn thành.

Kho hầm vũ khí nhà số 65 gồm thuốc và kíp nổ được kết cấu thành bộc phá, thủ pháo. Lựu đạn, súng (AK, K54, B40) và 2 ô tô, 1 mô tô ém giấu tại đây được trang bị cho Đội biệt động 4 đánh chiếm Đài Phát thanh. Do được chuẩn bị chu đáo về vũ khí nên chỉ sau ít phút ta đã đánh chiếm được mục tiêu. Suốt 3 giờ chiến đấu liên tục, quyết liệt với xe tăng, bộ binh địch, súng đạn, thủ pháo trong tay các chiến sĩ Đội biệt động 4 phát huy uy lực đánh thiệt hại nặng 1 đại đội dù và 1 trung đội bảo an địch. Đến sáng, do không có lực lượng đến tiếp quản nên các chiến sĩ buộc phải sử dụng 20kg bộc phá phá hủy máy móc, thiết bị phát thanh.

Phân khu 6 đảm nhiệm thêm mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ, nhưng vũ khí ém trong nội thành đã phân phát hết cho các đội biệt động. Lực lượng bảo đảm đã tổ chức vận chuyển được một số vũ khí từ Trảng Bàng về Sài Gòn, nhưng do cơ sở trong nội thành bị lộ nên chiếc xe chở hàng tấn thuốc nổ, vũ khí chạy trên đường phố mà vẫn không tìm được chỗ cất giấu. Đến sáng mùng 1 Tết, Đội biệt động 11 do đồng chí Ngô Thanh Vân (Ba Đen) đã vận động, thuyết phục được chủ ngôi nhà số 59 đường Phan Thanh Giản cho xe vào nhà giấu 12 khẩu AK, 3 khẩu B40, 200kg thuốc nổ TNT, 2 khẩu súng ngắn, 100 quả lựu đạn và 23 chiến sĩ . Sáng hôm sau, toàn bộ lực lượng và số vũ khí trên được chuyển lên 2 chiếc xe đi đánh Đại sứ quán Mỹ. Cuộc chiến đấu diễn ra ở đây vô cùng quyết liệt; súng, đạn, thủ pháo của ta được bảo đảm đủ, tốt, kịp thời đã phát huy uy lực giúp Đội biệt động 11 giành giật với địch từng căn phòng, từng bậc cầu thang.

Ba căn hầm vũ khí ở số nhà 348/38 đường Bắc Ái, 284/26/9 Trương Minh Ký, 246/25 Nguyễn Huỳnh Đức trang bị đủ cho Cụm biệt động 6-7-9 đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu địch. Toàn bộ vũ khí trong căn hầm nhà số 287/70 Trần Quý Cáp đủ trang bị cho toàn Đội biệt động 5 đánh chiếm Dinh Độc Lập; 2 xe ô tô và 1 mô tô tạo thuận lợi cho đội cải trang hợp pháp tiếp cận mục tiêu; súng B40 và các loại hỏa lực của ta đã bắn cháy 2 xe Jeep, diệt một số địch. Kho vũ khí nhà số 183/4 Trần Quốc Toản dành cho Cụm biệt động 1-2-8 đánh chiếm Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát. Toàn bộ vũ khí trong kho hầm ở khóm 4, phường 7 và xe du lịch được cấp cho Đội biệt động 3 đánh Bộ Tư lệnh Hải quân địch; đạn, bộc phá, thủ pháo, lựu đạn do các chiến sĩ sử dụng nổ tốt bảo đảm tiêu diệt được nhiều địch.

Cùng thời gian này, ở khắp các nơi trong nội đô vùng ven Sài Gòn, các đơn vị đặc công biệt động phối hợp với đơn vị bạn đánh chiếm nhiều mục tiêu. Các kho Hạnh Thông Tây, căn cứ pháo binh Cổ Loa, Bộ Tư lệnh Thiết giáp Phù Đổng, nam sân bay Tân Sơn Nhất, kho Nhà Bè, Thành Tuy Hạ, bưng Vĩnh Lộc bị vũ khí của đặc công phá hủy, phá hỏng nhiều máy bay, bom đạn, xăng dầu và phương tiện kỹ thuật... Chỉ tính riêng trong đợt 1 tiến công vào mục tiêu Sài Gòn, Hậu cần Tiền phương của Quân ủy và Chỉ huy Miền đã cấp phát bảo đảm cho tác chiến cho các đơn vị được 132 tấn đạn .

Ở Trị - Thiên, vũ khí trang bị của 3 tiểu đoàn đặc công, 10 đội biệt động tham gia tiến công Huế được kiểm tra kỹ thuật lần cuối tại căn cứ. Tất cả bộc phá, thủ pháo, súng, đạn và phương tiện vượt sông được chuẩn bị. Trên địa bàn Huế, vũ khí của lực lượng đặc công biệt động không được "lót ổ" trước trong nội đô mà phải cùng một lúc trên vai, trên lưng chiến sĩ hành quân từ căn cứ đến mục tiêu. Do vậy trên đường hành quân, các biện pháp bảo đảm kỹ thuật để tránh máy bay, phi pháo địch, qua rừng và đèo dốc, hầm hố trú ẩn bí mật ở vùng giáp ranh, ni lông làm phao và phương tiện đưa bộ đội, vũ khí trang bị vượt sông đều được tính toán chuẩn bị trước. Vì vậy, bộ đội đặc công được bảo đảm an toàn, vũ khí trang bị không bị ngấm nước và tới vị trí tập kết chiến đấu đúng kế hoạch, thời gian quy định.

Sáng 31-1-1968, pháo ĐKB và ĐKZ của ta bắn dồn dập 124 quả đạn vào khu Tam Giác, Ấp 5, Động Toàn mở đầu cuộc tiến công. Ở phía bắc, Tiểu đoàn đặc công 12 được trang bị đủ bộc phá, thủ pháo, súng (AK, B40, cối, ĐKZ)... cùng với 2 tiểu đoàn bộ binh đánh chiếm sân bay Tây Lộc, khu Đại Nội. Trong cuộc tiến công ở thành phố Huế, lực lượng đặc công biệt động sử dụng các loại vũ khí đặc chủng mới được cải tiến đã phát huy hiệu quả cao và uy lực mạnh tạo điều kiện tốt cho việc đánh chiếm và chốt giữ thành phố Huế 25 ngày đêm.

Từ thực tiễn hoạt động công tác bảo đảm vũ khí cho lực lượng đặc công nói chung, đặc công biệt động nói riêng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có thể rút ra được một số kinh nghiệm như sau:

Một là, dựa vào dân để xây dựng hệ thống kho (hầm) vũ khí dự trữ sẵn sàng trong nội đô phục vụ yêu cầu tác chiến của lực lượng đặc công biệt động.

Việc xây dựng các căn hầm trong nội đô để tiếp nhận, cất giấu, bảo vệ và bảo quản vũ khí cho lực lượng đặc công biệt động là công việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm đòi hỏi phải giữ bí mật tuyệt đối, ngay cả với người xây hầm và gia đình mình. Để làm được những kỳ công đó, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã dựa vào nhân dân, kiên trì, khẩn trương xây dựng lực lượng, tạo chỗ đứng chân, tạo nguồn cung cấp phục vụ tác chiến. Ngay sau Hiệp định Giơnevơ (tháng 7-1954), Khu ủy đã phân công một số cán bộ có kinh nghiệm bám trụ, dựa vào phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, xây dựng nên các cơ sở trong nhân dân. Đầu những năm 1960, ta đã xây dựng được các "lõm" chính trị, các khu căn cứ ngay trong nội đô làm nơi cất giấu vũ khí và bảo đảm phương tiện hoạt động. Đến trước ngày tổng tiến công, lực lượng đặc công biệt động Sài Gòn đã xây dựng được 19 "lõm" chính trị với 325 gia đình cùng hàng ngàn cơ sở.

Trên cơ sở dự kiến phương án đón thời cơ chiến lược, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã thành lập Ban bảo đảm gồm hai đội A20 và A30 chuyên làm nhiệm vụ xây hầm cất giấu vũ khí. Nhờ công tác tổ chức được tiến hành khẩn trương, chu đáo, cùng tinh thần tận tụy, sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ đặc công biệt động và đặc biệt là sự giúp đỡ của nhân dân nên đến cuối năm 1965, cả hai đội A20 và A30 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xây dựng được một hệ thống kho hầm bí mật chứa vũ khí sát các vị trí chiến lược của địch. Mỗi mục tiêu đều được bố trí từ 1 đến 3 hầm vũ khí với lượng vũ khí mỗi hầm khoảng 1 tấn.

Công việc xây dựng hầm cất chứa vũ khí trong vùng địch là cuộc chiến đấu âm thầm, lặng lẽ. Những người trong cuộc chiến đấu đó bao gồm cả già, trẻ, gái, trai, những quân nhân và người dân đã tự nguyện góp phương tiện, nhà cửa; không quản hy sinh, gian khổ làm nhiệm vụ xây dựng, bảo quản an toàn vũ khí trang bị, góp phần bảo đảm cho đặc công biệt động chiến đấu và chiến thắng.

Hai là, tổ chức vận chuyển vũ khí an toàn từ căn cứ vào trong nội đô phục vụ yêu cầu tác chiến của lực lượng đặc công biệt động.

Việc bí mật tổ chức vận chuyển vũ khí an toàn vào trong nội đô là nhiệm vụ then chốt trong công tác kỹ thuật chuẩn bị cho tổng tiến công. Nhiệm vụ này đòi hỏi không những chỉ dựa vào lòng dũng cảm, trí thông minh của mỗi cán bộ, chiến sĩ và các cơ sở quần chúng, vào chất lượng của hệ thống hành lang đã xây dựng từ vùng giải phóng vào nội thành, mà còn đòi hỏi phải có năng lực chỉ huy hiệp đồng, biết phát huy sức mạnh của nhiều yếu tố để linh hoạt tổ chức vận chuyển.

Để đưa vũ khí vào nội đô, công tác ngụy trang, nghi trang đóng vai trò quyết định. Công tác này đòi hỏi sự tỉ mỉ, linh hoạt và khéo léo.
Sau khi hoàn thành việc ngụy trang, nghi trang, ta tổ chức vận chuyển vũ khí vào thành phố theo các tuyến. Tuyến 1: từ căn cứ giải phóng đến căn cứ bàn đạp (vùng giáp ranh); tuyến 2: từ căn cứ bàn đạp lên trục đường giao thông (do địch kiểm soát); tuyến 3: từ trục đường giao thông vào cơ sở nội thành. Ở các tuyến trên, hầu hết lực lượng vận chuyển đều không biết mình chuyên chở hàng gì; người nhận và giao vũ khí không được phép giáp mặt nhau và không biết giao cho ai, nhận của ai... Để vận chuyển vũ khí đến đích và an toàn đòi hỏi phải có sự hiệp đồng chặt chẽ, chính xác bằng ký, tín hiệu giữa các tuyến, giữa người chuyển và người nhận. Hệ thống ký, tín hiệu trên do người chỉ huy cao nhất phát ra. Vũ khí được giao ở các địa điểm thích hợp do người nhận lựa chọn (thường ở trước nhà gia đình cơ sở của người nhận). Tại vị trí đó, đúng ngày, giờ đã định sẽ có ám, tín hiệu hiệp đồng, người chuyển vũ khí nếu nhận thấy tín hiệu an toàn cứ việc dỡ hàng xuống rồi rời khỏi vị trí. Với cách tổ chức trên, hàng trăm tấn vũ khí trong đó có cả súng (ĐKZ, cối, B40, B41)... được bí mật vận chuyển an toàn vào thành phố, ém sẵn cạnh các mục tiêu, hoàn toàn bất ngờ đối với địch.

Ba là, ưu tiên bảo đảm kịp thời, đầy đủ vũ khí trang bị có tình trạng kỹ thuật tốt, đồng bộ, có sức công phá cao, phù hợp cách đánh của đặc công biệt động.

Trong tổng tiến công và nổi dậy, với việc ưu tiên bảo đảm kịp thời, đầy đủ vũ khí có sức công phá cao, uy lực mạnh, gọn, mang đeo thuận lợi, phù hợp với cách đánh đặc công như tiểu liên AK báng gấp, các loại súng chống tăng B40, súng cối và ĐKZ; bộc phá, thủ pháo, thuốc nổ, mìn và thủy lôi; các loại ngòi nổ có vị trí đặc biệt đối với lực lượng đặc công biệt động. Tại những nơi này, hầu hết bộc phá, thủ pháo, đạn đều nổ đúng ý định làm tăng hiệu quả của nghệ thuật tập kích độc đáo, tạo điều kiện rất thuận lợi cho lực lượng đặc công biệt động chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ tiêu diệt, đánh chiếm và chốt giữ các mục tiêu được phân công. Ngoài ra, tất cả trang bị (ô tô, mô tô) không có hỏng hóc tạo thuận lợi cho bộ đội hành quân tiếp cận mục tiêu nhanh, bất ngờ.

Mặt khác, ngành Kỹ thuật còn nghiên cứu cải tiến vũ khí hiện có trên các chiến trường phục vụ yêu cầu chiến đấu của lực lượng đặc công biệt động. Đặc biệt, ngòi nổ MY8 được các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật thuộc Cục Kỹ thuật, Cục Quân giới và nhà máy Zl, Z2 nghiên cứu cải tiến, có ưu điểm rất gọn, nhẹ (dài 110mm, đường kính 8mm), dễ cất giấu, dễ vận chuyển. Nhờ sự cải tiến đó, chỉ sau một thời gian ngắn, nhiều loại vũ khí đặc chủng mới được nghiên cứu cải tiến, ứng dụng và chi viện chiến trường góp phần nâng cao sức chiến đấu của bộ đội đặc công biệt động. Việc ưu tiên bảo đảm kịp thời, đầy đủ, đồng bộ vũ khí có tình trạng kỹ thuật tốt cũng như nghiên cứu cải tiến thành công một số loại vũ khí đã tạo nên hiệu quả chiến đấu cao, góp phần thúc đẩy nghệ thuật tác chiến đặc công biệt động phát triển.

Như vậy, bảo đảm vũ khí cho lực lượng đặc công biệt động đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Với thắng lợi đó, quân và dân ta đã giáng đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc địch phải thay đổi chiến lược chiến tranh và cùng với ta đàm phán hòa bình tại Hội nghị Pari. Trong tương lai, đặc công biệt động vẫn là lực lượng quan trọng để tiến công các căn cứ xuất phát, các khu tập kết lực lượng, phương tiện chiến tranh từ xa trên đất liền trong giai đoạn địch chuẩn bị chiến tranh; tiến công tiêu diệt các mục tiêu chủ yếu, quan trọng của địch trong địa bàn thành thị và vùng biên giới bị địch chiếm đóng.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:20:46 am
ĐẶC CÔNG, BIỆT ĐỘNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬYXUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá VŨ HỒNG QUANG
Phó Chính ủy Binh chủng Đặc công


Thực hiện kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968, đến những tháng cuối năm 1967, công tác chuẩn bị của đặc công, biệt động tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy càng được đẩy mạnh. Lực lượng ở miền Bắc và các loại vũ khí, phương tiện đặc chủng liên tục được tăng cường cho chiến trường miền Nam. Những đoàn cán bộ chỉ đạo hoạt động tác chiến đặc công đã có mặt tại chiến trường, tích cực làm tham mưu cho Bộ và tư lệnh các mặt trận về việc xây dựng, sử dụng đặc công; đồng thời trực tiếp chỉ đạo các lực lượng đặc công đẩy nhanh hơn nữa tiến độ, nâng cao chất lượng, hiệu quả chuẩn bị mọi mặt. Các đơn vị đặc công trên các chiến trường đã tích cực bám địa bàn, xây dựng lực lượng và củng cố thế trận, chuẩn bị mục tiêu, tranh thủ lót sẵn thêm lượng dự trữ vật chất hậu cần, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của trận quyết chiến sắp tới.

Trước Tết Mậu Thân 1968 khoảng hai tháng, các lực lượng đặc công, biệt động có nhiệm vụ tiến công các mục tiêu trong đô thị đã có mặt tại các bàn đạp, căn cứ lõm hoặc tại các cơ sở mật trong thành phố, thị xã... sẵn sàng tiến công khi có lệnh. Lần đầu tiên, lực lượng đặc công, biệt động tham gia tác chiến với một quy mô lớn.

Hầu hết các tỉnh đều có lực lượng đặc công, biệt động trực thuộc và được tăng cường của cấp trên, sẵn sàng tiến công tiêu diệt mục tiêu trong thị xã, thị trấn: Ở thành phố Huế: 3 tiểu đoàn đặc công bộ là K1, K2, 12 và 10 đội đặc công biệt động; ở thành phố Đà Nẵng: 2 tiểu đoàn đặc công 487, 489 và Đội biệt động Lê Độ; ở thị xã Hội An và thị xã Tam Kỳ, thị xã Quy Nhơn: 3 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ (mỗi thị xã 1 tiểu đoàn đặc công hóa, lúc đó gọi là tiểu đoàn mũi nhọn); thị xã Quảng Ngãi: Trung đoàn Đặc công 401 của quân khu và 1 tiểu đoàn đặc công của tỉnh; thị xã Tuy Hoà và Vũng Rô: Tiểu đoàn Đặc công 403 và các đại đội đặc công độc lập 201, 202, 25; thành phố Nha Trang và Cam Ranh: 3 đại đội đặc công bộ K88, K90, K91 và 2 đại đội đặc công nước K92, K93; thị xã Kon Tum: Tiểu đoàn Đặc công 406; thị xã Pleiku và An Khê: 3 tiểu đoàn đặc công 407, 408, 450 và 2 đại đội độc lập; thị xã Buôn Ma Thuột: Tiểu đoàn Đặc công 401. Đặc biệt ở thành phố Sài Gòn, nơi tập trung các cơ quan đầu não chỉ đạo, điều hành cuộc chiến tranh Việt Nam, ta đã tập trung lực lượng đặc công, biệt động nhiều và mạnh nhất. Riêng Phân khu 6 (các quận nội thành), ta bố trí 11 đội biệt động, tổ chức thành 3 cụm (3-4-5; 6-7-9 và 1-2-8). Các phân khu khác ở ven đô, mỗi phân khu đều có 1 đến 2 tiểu đoàn đặc công, 2 đến 4 tiểu đoàn bộ binh mũi nhọn (đặc công hoá) hướng vào nội đô để phối hợp, tiếp sức cho các cụm, đội biệt động. Ngoài ra, còn có đặc công của các sư đoàn bộ binh 5, 7, 9 và đặc công các địa phương như Bình Tân, Dĩ An, Gò Môn, Nhà Bè, Thủ Đức...

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, các lực lượng vũ trang ta đồng loạt tiến công vào hầu hết các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam Việt Nam, trọng điểm là những thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế.

Tại Sài Gòn, các đội, cụm biệt động tập kích đồng loạt vào các cơ quan đầu não Mỹ - ngụy, gây chấn động dư luận trong nước và thế giới, không những chỉ quân viễn chinh Mỹ và quân đội, chính quyền Sài Gòn hoang mang cực độ mà cả Nhà Trắng cũng bàng hoàng, sửng sốt.
Lúc 2 giờ sáng 31-1, một đội biệt động 17 chiến sĩ tiếp cận Tòa Đại sứ quán Mỹ, nhanh chóng diệt lính gác, dùng bộc phá đánh sập tường bao, thọc thẳng vào toà nhà chính, chiếm giữ tầng một, diệt nhiều quân cảnh, đẩy lùi các đợt phản kích của địch. Đến 9 giờ sáng, địch dùng trực thăng đổ quân đánh từ sân thượng xuống, phối hợp với quân từ nhà Đại sứ Pháp đánh sang, trận đánh không cân sức diễn ra gay go, quyết liệt, các chiến sĩ biệt động đã anh dũng chiến đấu, giành giật với địch từng bậc cầu thang, từng căn phòng. Lực lượng sinh viên, học sinh không đến chi viện được theo như kế hoạch. Toàn đội biệt động đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng. 15 chiến sĩ đã hy sinh, 2 chiến sĩ bị thương và bị bắt.

Cùng thời gian trên, nhiều mục tiêu quan trọng khác đều bị biệt động tiến công đồng loạt. Tại Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, ở cổng số 4 và 5 bị một bộ phận Tiểu đoàn đặc công 4 cùng với Tiểu đoàn bộ binh 2 (mũi nhọn) của Phân khu 1 (Hóc Môn, Gò Vấp) tiến công, một phần khu vực Bộ Tổng Tham mưu và nhiều vị trí quan trọng bị đánh chiếm. Trong lúc đó, tại cổng số 2 và cổng Phi Long cũng bị Cụm biệt động 679 uy hiếp mạnh. Song, lực lượng của ta và của địch quá chênh lệch, các đơn vị chiến đấu cầm cự với địch ở Bộ Tổng Tham mưu của chúng được gần hai ngày, vượt thời gian dài so với kế hoạch. Do không có lực lượng đến tiếp ứng, đến 14 giờ ngày 1-2-1968, các đơn vị biệt động không còn đạn, buộc phải phân tán lực lượng về các cơ sở.

Tại Đài Phát thanh Sài Gòn, Cụm biệt động 345 sử dụng 12 chiến sĩ tiếp cận mục tiêu, diệt lực lượng bảo vệ, chiếm giữ đài chờ kỹ thuật viên vào phát sóng kêu gọi quân dân toàn Miền nổi dậy nhưng không có đơn vị nào vào tiếp ứng, kỹ thuật viên phát thanh cũng không đến. Trước sự phản kích quyết liệt của địch, buộc ta phải phá hủy đài và tiếp tục chiến đấu, 10 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh.

Tại Dinh Độc Lập, Cụm biệt động 345 sử dụng Đội 5 gồm 15 chiến sĩ (có 1 nữ) cơ động bằng xe ô tô đến tiếp cận mục tiêu. Do bộc phá không nổ, không phá được tường bao, xe ô tô chứa chất nổ không lọt được vào bên trong, nhưng tổ đột phá đã nhanh chóng nhảy vào bên trong cổng. Địch bắn chặn dữ dội, toàn đội phải lui ra, bị địch bao vây phong tỏa, ta vừa rút vừa chiến đấu trên đường Nguyễn Du, bắn cháy 3 xe Zeep, diệt nhiều lính nguỵ, nhưng ta cũng bị thương vong dần, lại không có lực lượng đến tiếp ứng theo kế hoạch. Cuối cùng toàn đội đã hy sinh.

Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, Đội biệt động 3 thuộc Cụm 345 có 16 chiến sĩ cơ động bằng ô tô đến tiếp cận mục tiêu tại cổng chính, diệt lính gác, lao ngay vào bên trong, tỏa ra đánh chiếm các vị trí dưới làn đạn xối xả của địch, quân số bị hao hụt nhanh chóng, số còn lại cầm cự đến sáng vẫn không thấy lực lượng bên ngoài vào. Cuối cùng, 14 chiến sĩ hy sinh, chỉ còn 2 chiến sĩ (có 1 nữ) vượt được vòng vây về ẩn nấp ở cơ sở.

Ở Nhà lao Chí Hoà, Đội biệt động 90C không thực hiện được ý định tiến công tiêu diệt bọn cai ngục, giải thoát tù nhân vì trên đường cơ động đã phải chiến đấu và rút lui. Cụm biệt động 128 đảm nhiệm tiến công Tổng nha Cảnh sát và Biệt khu Thủ đô cũng không hoàn thành nhiệm vụ vì không tiếp cận được mục tiêu.

Các mục tiêu ven đô như Tổng kho Hạnh Thông Tây (Gò Vấp), căn cứ pháo binh Cổ Loa (Gò Vấp), căn cứ thiết giáp Phù Đổng, sân bay Tân Sơn Nhất... cũng bị các đơn vị đặc công, biệt động tập kích gây cho địch nhiều tổn thất.

Sát với Sài Gòn, các tỉnh Tây Ninh, Biên Hoà, Long An... các mục tiêu trong thị xã cũng bị tiến công đồng loạt. Điển hình như ở Biên Hoà, hàng trăm máy bay bị phá huỷ, hàng nghìn tấn bom đạn bị đánh nổ, nhưng ta cũng bị thương vong lớn.

Ở chiến trường Trị - Thiên, trọng điểm của cuộc Tổng tiến công là thành phố Huế. Tại đây, trước ngày Tổng tiến công, các đơn vị biệt động thành đã ém sẵn trong thành phố, các đơn vị đặc công, bộ binh cũng đều tập kết trong các bàn đạp trên hành lang. Vì vậy, ngay từ những phút đầu, các đơn vị đặc công, biệt động đã đánh trúng mục tiêu được giao như khách sạn Thuận Hoá, khách sạn Hương Giang, Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn ở Mang Cá, sân bay Tây Lộc... Nhưng tại các mục tiêu này, đặc công không chiếm giữ được lâu vì quân số ít, vũ khí trang bị có hạn, lực lượng tiếp ứng không đến kịp, nên phải rút ra ngoài phối hợp với bộ binh vây ép trong suốt quá trình tổng tiến công ở Huế.

Ở khu vực Đại Nội, Đại đội 1 của Tiểu đoàn đặc công 12 cùng với bộ binh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, diệt gọn địch, chiếm giữ chắc mục tiêu được phân công, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang và nhân dân phát triển tiến công đánh chiếm thành phố. Từ ngày 8-1, các vị trí địch trong nội thành và vùng ven căn bản đã bị tiêu diệt, tiếp theo ta đánh địch phản kích, giữ quyền làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm.

Ở Khu 5 và Tây Nguyên, hầu hết các thành phố, thị xã đều bị đặc công, biệt động tiến công. Các Sở chỉ huy của địch từ tiểu đoàn đến quân đoàn và nhiều sân bay, kho tàng, bến cảng bị tập kích. Nhưng ở đây, việc thực hiện đánh đồng loạt không thống nhất, do hiệp đồng thiếu chặt chẽ và một số địa phương hiểu thời khắc giao thừa khác nhau nên có nơi đánh trước, có nơi đánh sau, gây khó khăn cho các đơn vị đánh sau khi yếu tố bí mật bất ngờ không còn.

Như vậy, trong hai tháng thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, ngay từ những phút đầu đến suốt quá trình của đợt tổng tiến công, đặc công, biệt động đã ra quân với một lực lượng hùng hậu nhất từ trước đến thời điểm này, có thể nói đã huy động toàn bộ lực lượng có trong tay, gồm cả đặc công chủ lực, đặc công địa phương và đặc công du kích làm mũi nhọn sắc bén, luồn sâu, thọc sâu vào hậu phương địch. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, bằng trí thông minh, trình độ chiến thuật điêu luyện và tinh thần dũng cảm vô song, lòng yêu nước cao độ "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", các đơn vị đặc công, biệt động đã mở màn xuất sắc cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy bằng loạt trận đánh vào các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam. Đặc biệt là ở Sài Gòn, lực lượng biệt động đã đánh trúng cơ quan đầu não chiến lược của Mỹ, chính quyền Sài Gòn gây chấn động mạnh cho cả nước Mỹ, có thể nói lực lượng biệt động đã lập công đầu.

Ở các địa bàn khác cũng vậy, từ Trị - Thiên đến Khu 5 và Tây Nguyên, ngay từ những phút đầu của "giờ G", những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng trong hầu hết các thành phố, thị xã đều do các đơn vị đặc công, biệt động nổ súng tiến công đầu tiên; các lực lượng vũ trang và nhân dân thường lấy tiếng súng của đặc công, biệt động làm hiệu lệnh nổ súng chung cho cuộc tiến công trong địa bàn, địa phương mình.
Những chiến công xuất sắc, chiến thắng vang dội của lực lượng đặc công, biệt động ở Sài Gòn và các thành phố, thị xã khác trong những ngày Tết Mậu Thân 1968 là một đỉnh cao thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam, chúng ta đã thực sự đưa được chiến tranh nhân dân vào đô thị, biến hậu phương địch thành chiến trường của ta, tạo nên sức mạnh và hiệu quả của cuộc tổng tiến công chiến lược, đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang, chấp nhận đàm phán với ta để tìm giải pháp kết thúc chiến tranh ở Việt Nam.

Tuy nhiên, tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đặc công, biệt động đã huy động hết lực lượng có trong tay, mà tác chiến chủ yếu ở địa bàn đô thị sâu trong hậu phương địch với hy sinh to lớn như vậy đã để lại cho đặc công, biệt động những tổn thất không nhỏ. Sau tổng tiến công, hầu hết lực lượng còn lại ở đô thị bị bộc lộ, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị địch truy lùng gắt gao, nhiều cơ sở mật bị địch bóc gỡ, phải mất thêm thời gian mới khôi phục lại được.

Qua cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đối với đặc công, biệt động tham gia với vai trò là lực lượng mũi nhọn luồn sâu, tiến công những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng trong đô thị, có thể rút ra một số vấn đề sau:

Một là, phải thấu suốt và chấp hành nghiêm sự lãnh đạo của Đảng, của quân đội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đặc công, biệt động từng bước phát triển. Lúc đầu chỉ là những tổ, đội nhỏ, lẻ biên chế trong các đơn vị vũ trang địa phương, sau dần phát triển lên thành tiểu đoàn, trung đoàn, rồi nhiều tiểu đoàn, trung đoàn và vươn tới đỉnh cao về quy mô tổ chức là một binh chủng. Cùng với sự phát triển về lực lượng, nghệ thuật tác chiến cũng phát triển theo, từng bước được hoàn chỉnh cả về lý luận và thực tiễn. Có sự phát triển đó là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, của quân đội đã xác định cho đặc công, biệt động về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và thường xuyên chăm lo, chỉ đạo, tạo điều kiện để đặc công, biệt động phát huy được vai trò của mình.

Trong thực tế chiến đấu, đặc công, biệt động luôn quán triệt, thấu suốt và chấp hành nghiêm các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về xây dựng và tác chiến của Đảng, lấy đó làm nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi. Trong đó, những tư tưởng chính về chỉ đạo tác chiến được đặc biệt coi trọng là "lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn", "bí mật bất ngờ, đánh nhanh, đánh trúng, đánh hiểm", "đặc biệt dũng cảm, tiến công kiên quyết, táo bạo", "đặc công, biệt động phải đi sâu vào hậu phương địch, tìm những mục tiêu có giá trị để đánh"... Những tư tưởng ấy đã thấm nhuần trong từng cán bộ, chiến sĩ và biến thành sức mạnh hành động của đặc công, biệt động trong suốt chặng đường kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trước khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 diễn ra, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và quân đội, các lực lượng đặc công, biệt động đã xây dựng được lực lượng và một thế trận hoàn chỉnh trong thế trận chung của chiến tranh nhân dân Việt Nam ngay trong hậu phương địch. Vì vậy, đến khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra thì lực lượng đặc công đã thực hiện tốt vai trò xung kích, mũi nhọn tiến công các cơ quan đầu não địch trong đô thị, giành được những chiến công xuất sắc, góp phần làm nên thắng lợi chung của cuộc tổng tiến công.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, để đặc công, biệt động tiếp tục phát huy được vai trò mũi nhọn cùng với quân, dân cả nước bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì việc không ngừng củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng lại càng cần thiết hơn lúc nào hết, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thường xuyên quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân; chấp hành nghiêm các mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ về tổ chức lực lượng, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu... Từ đó, xây dựng Binh chủng và các đơn vị đặc công, biệt động nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và khả năng chiến đấu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hai là, công tác chuẩn bị mọi mặt cho đặc công, biệt động tham gia tác chiến phải được tiến hành chu đáo trước một bước.

Địa bàn hoạt động tác chiến của đặc công, biệt động là sâu trong hậu phương địch, nếu không chuẩn bị chu đáo sẽ không thực hiện được "bí mật bất ngờ, đánh trúng, đánh nhanh, đánh hiểm" và như vậy cũng tức là không thực hiện được chức năng làm lực lượng mũi nhọn, không hoàn thành nhiệm vụ tiến công tiêu diệt các mục tiêu hiểm yếu, quan trọng... Công tác chuẩn bị cho đặc công, biệt động tham gia tác chiến gồm nhiều nội dung như chuẩn bị con người; chuẩn bị hành lang, bàn đạp, cơ sở; chuẩn bị phương án, kế hoạch tác chiến; chuẩn bị vật chất hậu cần, kỹ thuật... Chỉ riêng công tác chuẩn bị vũ khí, trang bị trong nội dung chuẩn bị vật chất hậu cần, kỹ thuật, đã cho thấy đây là công việc cực kỳ khó khăn, gian khổ, phức tạp, vô cùng nguy hiểm.

Vũ khí chiến đấu trong đô thị của đặc công, biệt động là các loại mìn, lựu đạn, súng tiểu liên, súng ngắn và các loại thuốc nổ. Trong đó, chủ yếu nhất là thuốc nổ được chắp nối, kết cấu thành các loại thủ pháo, bộc phá, lượng nổ với các trọng lượng, kích cỡ khác nhau và các cách gây nổ khác nhau. Các loại vũ khí đó, việc khai thác tại chỗ ngay trong đô thị đang bị địch chiếm đóng là rất hạn chế mà phải vận chuyển theo các hành lang bí mật từ ngoài vào. Quá trình vận chuyển, người làm nhiệm vụ chuyên chở phải có "vỏ bọc" hợp pháp, có công việc thích hợp, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; phương tiện, vũ khí cũng phải được ngụy trang, nghi trang khéo léo dưới các dạng hàng hóa phù hợp với từng địa bàn nhằm che mắt sự soi mói, kiểm tra, kiểm soát của địch. Khi đã chuyển từ bên ngoài vào, còn phải có cơ sở cất giấu bí mật trong nội đô, cơ sở cất giấu cũng phải có "vỏ bọc" hợp pháp, địa điểm cất giấu phải có đủ các điều kiện, vừa bảo đảm giữ được chất lượng vũ khí, vừa có tính bất ngờ, tránh được mọi thủ đoạn kiểm tra, phát hiện của địch, đồng thời phải tiện cho việc cấp phát và sử dụng... Để chuẩn bị một khối lượng lớn vũ khí trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chỉ tính riêng cho biệt động Sài Gòn tác chiến trong đô thị, công tác chuẩn bị vũ khí đã được tiến hành từ nhiều năm trước đó, đến trước khi diễn ra cuộc Tổng tiến công khoảng ba tháng, ta đã có 13 hầm chứa vũ khí với trữ lượng hàng chục tấn gồm các loại thuốc nổ, mìn, lựu đạn, súng AK, súng ngắn, B40, B41... Tiêu biểu như hầm vũ khí ở gia đình đồng chí Đỗ Văn Căn gần với Biệt khu Thủ đô và Cơ quan viện trợ Mỹ, chứa 50 kg đạn, 20 lựu đạn...; hầm vũ khí ở gia đình đồng chí Trần Văn Lai chứa 350 kg thuốc nổ, 10 tiểu liên AK, 3.000 viên đạn, 2 súng B40, B41, 20 quả đạn, 50 lựu đạn, 1 súng ngắn...; hầm vũ khí ở gia đình đồng chí Trần Tấn Quốc chứa hàng chục tấn... Do vũ khí được chuẩn bị trước nên đã bảo đảm cho các đơn vị đặc công, biệt động sử dụng kịp thời khi có lệnh tổng tiến công, phát huy được vai trò mũi nhọn lập công xuất sắc, góp phần làm nên thắng lợi trong cuộc tiến công vào các đô thị trong Mậu Thân 1968.

Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đặc công, biệt động tiếp tục được Đảng, Nhà nước và quân đội giao làm lực lượng mũi nhọn thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, đặc công, biệt động đã và đang tích cực tiến hành công tác chuẩn bị mọi mặt về xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận đặc công trong thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và mua sắm vũ khí, trang bị phù hợp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ba là, phải bảo đảm chặt chẽ sự phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa đặc công, biệt động với các lực lượng trong tổng tiến công.

Tác chiến của đặc công, biệt động đòi hỏi hiệp đồng phải chặt chẽ và cụ thể. Không những hiệp đồng giữa các đơn vị đặc công, biệt động với nhau mà còn phối hợp, hiệp đồng với các lực lượng khác. Thực tế trong tổng tiến công, đặc công, biệt động đã tổ chức hiệp đồng chặt chẽ về thời gian và mục tiêu ở quy mô rộng lớn trên toàn miền. Để đưa một lực lượng lớn luồn sâu, thọc sâu, đánh tập kích bí mật vào sau lưng địch, trong lòng địch thì phải hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng thì mới tạo cho mình một hậu thuẫn vững chắc, giúp cho đặc công, biệt động khắc phục được những khó khăn, nhược điểm, phát huy ưu điểm hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Qua cuộc tổng tiến công có thể rút ra kinh nghiệm đối với các binh chủng là, trong chiến đấu hiệp đồng, nếu biết khai thác khả năng chiến đấu của đặc công, biệt động, sử dụng đúng đặc điểm và yêu cầu chiến đấu thì càng phát huy tốt hơn nữa kết quả chiến thắng. Sự phối hợp đó tạo nên các trận đánh rất táo bạo, mưu trí, xử trí tốt những tình huống khó khăn, bất lợi. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi to lớn, trong một số trận cụ thể, việc hiệp đồng giữa các bộ phận, giữa đặc công với các lực lượng khác cũng còn thiếu chặt chẽ, không được như kế hoạch, khiến nhiều đơn vị đặc công, biệt động phải chiến đấu gần như "đơn thương độc mã", quân số ít, vũ khí trang bị có hạn, phải kéo dài thời gian trụ bám giữa hang ổ địch, khó tránh khỏi tổn thất, có đơn vị hy sinh đến người cuối cùng (trận đánh vào Đại sứ quán Mỹ).

Những bài học kinh nghiệm về phối hợp, hiệp đồng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của đặc công, biệt động đã được các đơn vị đặc công, biệt động vận dụng có hiệu quả trong các chiến dịch Tây Nguyên, Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 cũng như trong các hoạt động, tác chiến đặc công trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia sau này. Ngày nay, trước những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đặc công, biệt động được Đảng và quân đội giao cho những nhiệm vụ quan trọng, là một trong những lực lượng tiên phong thực hiện các nhiệm vụ A2, chống khủng bố. Vì vậy, các bài học kinh nghiệm tác chiến trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 vẫn cần được nghiên cứu vận dụng vào huấn luyện để nâng cao lòng tự hào về truyền thống, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội.

Kỷ niệm 50 năm (1968-2018) thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ghi chép lại những diễn biến chính và rút ra một số vấn đề có tính kinh nghiệm của đặc công, biệt động khi tham gia tổng tiến công, từ đó khẳng định thêm một lần nữa, nhận thức sâu sắc hơn về sự sáng tạo của Đảng trong việc kế thừa, phát triển nghệ thuật đánh giặc của dân tộc ta, đã sáng suốt hoạch định đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân và xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ cho Binh chủng Đặc công.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:27:45 am
LỰC LƯỢNG TĂNG - THIẾT GIÁP
TRONG ĐÒN NGHI BINH CHIẾN LƯỢC ĐƯỜNG 9 - KHE SANH XUÂN - HÈ 1968
             


Đại tá ĐỖ ĐÌNH THANH
Phó Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp


Cuối năm 1967, thời cơ "chiến lược mới" có lợi cho cách mạng miền Nam đã xuất hiện. Đó là cơ sở để Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đi đến kết luận: "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định" . Theo đó, phương án xác định: Đòn tiến công của bộ đội chủ lực trên hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, tạo điều kiện cho các chiến trường khác hoàn thành nhiệm vụ tiến công và nổi dậy đồng loạt, trước hết là cho Trị - Thiên - Huế và các thành phố lớn.

Thực hiện ý định chiến lược của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng đã tập trung nhiều sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng kỹ thuật, mở chiến dịch tác chiến binh chủng hợp thành tiến công Đường 9 - Khe Sanh vào Xuân - Hè năm 1968. Đây là đòn nghi binh chiến lược nhằm kéo quân chủ lực của địch ra Đường số 9, tiêu diệt và giam chân chúng tại đây, tạo điều kiện để toàn miền Nam thực hiện đòn chiến lược Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Căn cứ Khe Sanh bao gồm cứ điểm Làng Vây, chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn, được xem như "cái mỏ neo" trong hệ thống phòng thủ chiến lược của địch ở Nam khu phi quân sự, đồng thời là một vị trí có giá trị trong việc kiểm soát đường mòn Hồ Chí Minh và bảo vệ Vùng 1 chiến thuật; là trung tâm chỉ huy của hàng rào điện tử Mc Namara mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, con đường huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam. Chính vì vậy, căn cứ Khe Sanh đã được Mỹ xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, có vị trí đặc biệt quan trọng trong bản đồ quân sự của Mỹ, chính quyền Sài Gòn. Đập tan tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, chúng ta còn nhổ được "cái gai" mà Mỹ định "găm" vào đường Hồ Chí Minh. Mặt khác, Đường 9 - Khe Sanh là khu vực giáp ranh, gần hậu phương lớn miền Bắc, ta có điều kiện bảo đảm và mở đường để đưa xe tăng vượt Trường Sơn vào chiến trường, có điều kiện mở chiến dịch hiệp đồng binh chủng để thực hiện thắng lợi đòn nghi binh chiến lược. Chính vì vậy mà Bộ đã quyết định đưa tăng - thiết giáp vào tham gia đòn nghi binh chiến lược Đường 9 - Khe Sanh.

Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp quyết định sử dụng 1 tiểu đoàn xe tăng (thiếu) gồm Đại đội tăng 9/dT3 và Đại đội tăng 3/dT1 thuộc Trung đoàn xe tăng 203, lấy phiên hiệu là Đoàn 198, được trang bị 22 xe PT76 và một số phân đội bảo đảm cùng đoàn cán bộ Bộ Tư lệnh cơ động vào Mặt trận B5 sẵn sàng tham gia chiến đấu. Cùng với đó, Binh chủng đã thành lập một Sở chỉ huy nhẹ, do Phó Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo Đoàn 198 chuẩn bị chu đáo mọi mặt và thực hiện nhiệm vụ tác chiến chiến dịch.

Sau gần 50 ngày đêm hành quân, Đoàn 198 đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, sự đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Đến ngày 21-12-1967, Đoàn đã vư¬¬ợt chặng đường 1.350 km, đưa 100% quân số, trang bị vào khu tập kết chiến dịch ở Nậm Khang (phía nam đèo Văng Mu, trên trục Đường 128, cách cụm cứ điểm Huội San trên đất bạn Lào khoảng 70 km về phía tây).

Tháng 1-1968, Đoàn nhận lệnh phối thuộc cho bộ binh tham gia chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh, được chỉ huy binh chủng hợp thành sử dụng tập trung trong hai trận then chốt của đợt 1 chiến dịch.

- Trận then chốt thứ nhất: Đêm 23-1-1968, Đoàn 198 (11 xe PT76) phối thuộc cho d1/e24/fBB304 tiến công địch phòng ngự ở Tà Mây - cứ điểm then chốt trong cụm cứ điểm Huội San, trên đất bạn Lào, sát với biên giới nước ta, do 1 tiểu đoàn ngụy Lào chốt giữ. Đây là trận đánh đột phá, mở đường cho các lực lượng của ta tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, buộc địch trong trung tâm phải ra ứng cứu, giải tỏa để ta tiêu diệt chúng ngoài công sự. Sự xuất hiện của xe tăng đã làm cho địch bất ngờ, hoảng loạn, chống cự yếu ớt. Chỉ trong một thời gian ngắn, Tà Mây và toàn bộ cụm cứ điểm Huội San đã bị ta đánh chiếm, cT3 cùng bộ binh tiêu diệt nhiều địch, bắt sống 300 tên, thu nhiều vũ khí. Lực lượng địch còn lại (khoảng 400 tên) buộc phải rút chạy về cứ điểm Làng Vây, một cứ điểm tiền tiêu của tập đoàn cứ điểm Khe Sanh.

- Trận then chốt thứ hai: Đêm mồng 6 rạng sáng 7-2-1968, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng 2 đại đội (16 xe PT76) phối thuộc cho e24/fBB304 đột phá tiến công địch phòng ngự ở cứ điểm Làng Vây do 600 tên biệt kích nguỵ chốt giữ cùng 400 tên tàn quân từ Huội San co cụm về và khoảng 30 tên cố vấn Mỹ. Với cách đánh sáng tạo, chọn hướng tiến công phù hợp, tăng - thiết giáp đã lợi dụng sông Sê Pôn để cơ động, bảo đảm được yếu tố bí mật, bất ngờ, xe tăng triển khai trên hai hướng tiến công đã phát huy sức mạnh hỏa lực và khả năng cơ động, hiệp đồng cùng bộ binh đột phá tiêu diệt địch trong thời gian ngắn (khoảng 4 giờ), đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Chiến thắng Tà Mây - Làng Vây có ý nghĩa rất quan trọng trong đòn nghi binh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh Xuân - Hè 1968. Bộ đội xe tăng cùng bộ binh đã tiêu diệt và bắt sống nhiều sinh lực địch; phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh; phá vỡ một mảng lớn tuyến phòng ngự kiên cố của địch ở phía tây Đường 9, giải phóng đoạn Đường số 9 từ Huội San đến Cà Lu, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa, cửa ngõ của tuyến vận tải chiến lược 559; mở rộng bàn đạp cho binh chủng hợp thành vây hãm Tà Cơn và triển khai các hoạt động tác chiến trong các đợt tiếp theo của chiến dịch, buộc địch ở tuyến phòng thủ Đường 9 phải điều lực lượng cơ động cùng với một khối lượng lớn binh khí, kỹ thuật ra tăng viện, ứng cứu để binh chủng hợp thành giam chân, tiến công tiêu diệt chúng trong một thời gian dài, tạo điều kiện cho các hoạt động tiến công, nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta trên toàn chiến trường miền Nam, trước hết là cho chiến trường Trị - Thiên - Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Thắng lợi của đòn nghi binh chiến lược Đường 9 - Khe Sanh đã góp phần quan trọng trong thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn miền Nam, mà trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên - Huế. Thắng lợi đó đã buộc Mỹ phải ngừng ném bom phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, ngồi vào bàn đàm phán tại Pari.

Đối với bộ đội tăng - thiết giáp, việc hoàn thành nhiệm vụ trong hai trận đầu ra quân không những gây được tiếng vang lớn, tạo đư¬ợc niềm tin của binh chủng hợp thành vào lực lượng tăng - thiết giáp mà còn trực tiếp khẳng định vai trò lực lượng tăng - thiết giáp trong nhiệm vụ thực hiện đòn nghi binh chiến lược trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Đó là: khả năng cơ động, sức mạnh hỏa lực, khả năng tự bảo vệ, là lực lượng đột kích quan trọng trong tác chiến hiệp đồng binh chủng. Qua thực tiễn chiến đấu đã khẳng định xe tăng tuy nặng nề, cồng kềnh, tiếng ồn lớn nhưng có khả năng và biện pháp để tiếp cận địch mà vẫn giữ được yếu tố bí mật, tạo được bất ngờ. Các trận đánh then chốt chiến dịch có xe tăng tham gia sẽ làm tăng sức mạnh đột phá, đột kích, có điều kiện nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm mục tiêu chủ yếu, rút ngắn thời gian tác chiến.

Ngay sau chiến thắng Tà Mây - Làng Vây, lực lượng tăng - thiết giáp được tăng cường bổ sung cho các chiến trường ngày càng nhiều hơn. Năm 1971, ta đã sử dụng 3 tiểu đoàn tăng tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào; năm 1972, tăng - thiết giáp sử dụng tương đương 4 trung đoàn trong cuộc tiến công chiến lược 1972; năm 1975, tăng - thiết giáp sử dụng 9 trung/lữ đoàn và một số tiểu đoàn độc lập trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Kết thúc chiến tranh giải phóng một thời gian ngắn, lực lượng tăng - thiết giáp lại cùng quân, dân cả nước bước vào cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc trong những năm 1977- 1979.

Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh còn mang lại một ý nghĩa lịch sử to lớn đối với Binh chủng Tăng - Thiết giáp, là niềm tự hào và mở đầu cho truyền thống vinh quang "Đã ra quân là đánh thắng" của bộ đội tăng - thiết giáp. Truyền thống ấy được bộ đội tăng - thiết giáp kế thừa, phát huy và tô thắm thêm trong suốt 211 trận chiến đấu trong chiến tranh giải phóng, hơn 600 trận chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế.

Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh đã mở ra một trang sử mới về nghệ thuật sử dụng tăng - thiết giáp trong các loại hình chiến dịch; đồng thời để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu được bộ đội tăng - thiết giáp đúc rút và vận dụng một cách sáng tạo, hiệu quả trong những chiến dịch tiếp theo. Điển hình là các bài học về: nghệ thuật chọn đường cơ động nơi địch hoàn toàn không ngờ tới; nghệ thuật chọn hướng và mục tiêu tiến công vào nơi địch phòng ngự sơ hở, mỏng yếu, nơi ta có điều kiện triển khai lực lượng binh khí kỹ thuật, có điều kiện đánh nhanh vào mục tiêu chủ yếu; nghệ thuật sử dụng lực lượng tập trung có trọng điểm, ưu tiên cho hướng tiến công chủ yếu, có lực lượng bắn ngắm trực tiếp, có lực lượng đột phá, có lực lượng thọc sâu; công tác bảo đảm các mặt chu đáo, chặt chẽ và sáng tạo từ bảo đảm trinh sát, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật đến bảo đảm cơ động, nguỵ trang giữ bí mật.

Ngày nay, những bài học kinh nghiệm của bộ đội xe tăng trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh Xuân - Hè 1968 vẫn còn nguyên giá trị, đang và sẽ tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong quá trình giảng dạy, huấn luyện ở các nhà trường, đơn vị tăng - thiết giáp nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tăng - thiết giáp vẫn là loại vũ khí chiến đấu không thể thiếu trên chiến trường, bộ đội tăng - thiết giáp ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội ta, kể cả trong chống chiến tranh xâm lược của kẻ thù, trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và trong ngăn ngừa, trấn áp bạo loạn có vũ trang. Trên cơ sở đường lối quân sự của Đảng, Quân đội ta vẫn xác định tăng - thiết giáp là một bộ phận lực lượng trong đội hình tác chiến binh chủng hợp thành, là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam trong những trận đánh then chốt, then chốt quyết định, tăng - thiết giáp cùng bộ binh là lực lượng đột kích chủ yếu. Trong tác chiến tiến công, tăng - thiết giáp có thể dẫn dắt, chi viện hoặc cùng bộ binh chọc thẳng vào Sở chỉ huy, khu thông tin, trận địa pháo, cụm lực lượng chính của địch khi chúng phòng ngự, co cụm, tạm dừng; thọc sâu, vu hồi hoặc đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển, làm cho chúng bị động đối phó, chỉ huy rối loạn, tạo điều kiện để bộ binh cùng các lực lượng của binh chủng hợp thành tiêu diệt gọn địch, dứt điểm trận đánh nhanh, giảm bớt thương vong, tổn thất.

Trong tác chiến phòng ngự, tăng - thiết giáp chủ yếu được sử dụng làm lực lượng cơ động tiến công cùng các đơn vị binh chủng hợp thành thực hiện phản kích nhanh, mạnh, đúng thời cơ hoặc dựa vào thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được xây dựng thời bình, tổ chức bộ phận phòng ngự trận địa giữ vững mục tiêu, khu vực then chốt, làm tăng khả năng cơ động, tính chủ động và tính vững chắc của thế trận phòng ngự, đánh bại các hướng, mũi tiến công của địch, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công, tiến công.

Để phát huy vai trò là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân và bảo đảm cho tăng - thiết giáp hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong điều kiện tác chiến mới, trước đối tượng địch có trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại, tiên tiến, ưu thế về hoả lực có độ chính xác và uy lực lớn, khả năng trinh sát phát hiện mục tiêu nhanh..., đòi hỏi bộ đội tăng - thiết giáp không ngừng phát triển toàn diện, cả về lực lượng, trang bị vũ khí kỹ thuật, phương pháp tác chiến và huấn luyện chiến đấu; từng bước nâng cấp, cải tiến, hiện đại hóa trang bị cho tăng - thiết giáp, tập trung vào cải tiến nâng cấp hệ thống tự động hóa điều khiển hoả lực trên xe, trang bị thông tin chỉ huy và một phần hệ thống vận hành để bảo đảm cho tăng - thiết giáp có khả năng chống lại vũ khí, trang bị của địch, đồng thời từng bước mua sắm các loại xe tăng, thiết giáp thế hệ mới trang bị cho Binh chủng. Tập trung nghiên cứu nhiều giải pháp nhằm nâng cao khả năng tồn tại và duy trì sức chiến đấu liên tục, dài ngày cho tăng - thiết giáp, nhất là trong phòng tránh, đánh trả vũ khí công nghệ cao để tạo thành sức mạnh tổng hợp, giành hiệu suất chiến đấu cao.

Phát huy truyền thống vẻ vang của Binh chủng anh hùng, hơn lúc nào hết, cán bộ, chiến sĩ tăng - thiết giáp cần phải chủ động, sáng tạo, cố gắng hơn nữa trong việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo cương vị, chức trách của mình. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, bộ đội tăng - thiết giáp cần phải thống nhất nhận thức, thống nhất hành động, tạo thành sức mạnh tổng hợp hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong mọi tình huống.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:39:25 am
VỀ HAI ĐỢT TIẾN CÔNG SAU TẾT MẬU THÂN 1968



Đại tá, PGS.TS. HỒ KHANG
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Đã 50 năm trôi qua kể từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 nổ ra với hướng tiến công chính là các đô thị trên toàn miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, khoảng thời gian tương đối dài đó vẫn không hề làm cho sự kiện lịch sử này bị lãng quên; trái lại, nó vẫn luôn sống động trong ký ức của nhiều người dân Việt Nam, lôi cuốn giới chính trị, quân sự, sử học, báo chí... tìm hiểu, nghiên cứu về nó, nhằm nhận rõ nhiều vấn đề xung quanh sự kiện lịch sử độc đáo này. Những đợt tiến công sau Tết của Quân giải phóng là một trong những vấn đề như thế và sự mô tả, luận giải về những đợt tiến công này dù khá phong phú nhưng chưa bao giờ là đủ; nó luôn đòi hỏi được phân tích, bình giải một cách kỹ lưỡng hơn nữa, sâu hơn nữa.

1. Sau gần hai tháng Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 diễn ra, quân, dân miền Nam đã tiêu diệt và làm tan rã khoảng 160.000 binh lính đối phương (trong đó có 55.000 binh lính Mỹ), tiêu diệt gọn 32 tiểu đoàn bộ binh (trong đó có 4 tiểu đoàn Mỹ); diệt 1 trung đoàn và 6 chi đoàn cơ giới, 253 đại đội (có 73 đại đội Mỹ), làm tan rã 25 vạn binh lính của quân đội Sài Gòn (chiếm khoảng 1/2 tổng số quân), phá hủy và bắn rơi 2.578 máy bay (chiếm 58% tổng số máy bay của đối phương ở miền Nam Việt Nam); phá 3 căn cứ hải quân, 57 kho bom đạn, phá hủy 1.400.000 tấn vật tư quân sự. Riêng ở Trị - Thiên - Huế, hầu hết nông thôn hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên được giải phóng với 296 thôn, trong đó có 240 thôn đã xây dựng được chính quyền cách mạng. Những thắng lợi nói trên là rất to lớn và toàn diện, đã đưa thế chiến lược tiến công của chiến tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước phát triển lên một bước mới. Nhìn chung, qua hai tháng tổng tiến công của quân, dân miền Nam, quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn bị tổn thất nặng nề về người và phương tiện chiến tranh, sa sút về tinh thần, bị cô lập thêm về chính trị, suy yếu về kinh tế. Cả binh lính Mỹ và quân đội Sài Gòn đều ngập sâu trong thế bị động và tiêu cực, chiến lược chiến tranh bị phá sản đột ngột, ý chí tiến hành chiến tranh bị đổ vỡ một bước nghiêm trọng. Mặc dù vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn cố gắng tổng động viên sức mạnh mọi mặt, tập trung lực lượng, tiến hành các hoạt động phản công trên nhiều địa bàn với những cuộc hành quân quy mô lớn nhằm đánh bật lực lượng vũ trang cách mạng ra xa các đô thị, khôi phục lại các tuyến đường giao thông chiến lược đã bị cắt đứt để giành lại thế chủ động trên các khu vực trọng yếu. Thêm vào đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đồng thời tăng cường đàn áp, khủng bố ác liệt các cơ sở cách mạng, ráo riết tiến hành "bình định" nhằm giành lại các vùng nông thôn đồng bằng, đặc biệt là các vùng trọng điểm vừa bị mất.

Dù bị những tổn thất to lớn trong đợt 1 của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, song, tính đến tháng 4-1968, tổng quân số quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn ở miền Nam vẫn có tới 1.066.000 binh lính (trong đó có 516.000 lính Mỹ và 492.000 binh lính của quân đội Sài Gòn, 58.000 quân đồng minh của Mỹ), 3.800 máy bay (trong đó có 790 máy bay chiến đấu). Ngoài ra, để cứu vãn tình thế trên chiến trường, đế quốc Mỹ, chính quyền Sài Gòn dự định tiếp tục tăng thêm quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam để đến tháng 8-1968 sẽ đạt 550.000 quân và đến cuối năm 1968 sẽ bắt thêm lính, bổ sung 26.800 lính mới cho quân đội Sài Gòn. Với một lực lượng như vậy cùng với những phương tiện chiến tranh hiện đại, đội quân đông đảo này sẽ gây ra những khó khăn nghiêm trọng và to lớn cho cách mạng miền Nam. Nếu không tiếp tục đánh tiêu hao sinh lực đối phương, đánh gục ý chí, âm mưu tiến hành chiến tranh của cả đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, thì những thành quả giành được ở đợt 1 của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 rất có thể sẽ bị hạn chế nhiều phần. Lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam phân tích: Nếu Quân giải phóng đẩy mạnh hoạt động quân sự, tiêu diệt một bộ phận lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn, thì dù có tăng quân, thế phòng ngự của đối phương vẫn sẽ trống rỗng. Bộ Tổng Tham mưu giải thích rõ thêm: Nếu quân đội Mỹ vào đông, Quân giải phóng đánh mạnh vào các căn cứ hậu cần, phá hủy nặng phương tiện chiến tranh, thì lực lượng bộ binh của Mỹ và quân đội Sài Gòn dù có tăng nhanh thì sức chiến đấu cũng không đáng kể.

Nhận định, đánh giá tình hình mọi mặt, cân nhắc kỹ lưỡng mọi phương án hành động, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định tiếp tục tiến hành những đợt tiến công lớn nhằm giành ưu thế trên chiến trường, bảo vệ kết quả quân sự của đợt 1; đồng thời, thúc đẩy cuộc đàm phán trên bàn Hội nghị Pari với những điều kiện có lợi nhất 1.

2. Thực hiện chủ trương nói trên, ngay từ đầu tháng 3-1968, trong cuộc hội ý với Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương Song Hào, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Văn Tiến Dũng đã trình bày dự kiến kế hoạch tác chiến tiếp theo ở miền Nam Việt Nam. Kết thúc cuộc hội ý, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: Kế hoạch tác chiến chia làm 3 đợt lớn, tập trung nỗ lực giành thắng lợi lớn về quân sự, chính trị; đối tượng tác chiến trong các đợt phải nhằm tiêu diệt sinh lực đối phương, nhất là lực lượng cơ động, hỗ trợ việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị, lập chính quyền cách mạng; dự định tập trung cố gắng chiến đấu vào Vùng 1 của đối phương.

Cuối tháng 3-1968, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu hội ý với Cục Tác chiến về thời gian bắt đầu mở đợt Tổng công kích đợt 2 trên chiến trường miền Nam 2. Qua phân tích tình hình cụ thể trên từng chiến trường, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu và Cục Tác chiến thống nhất dự kiến thời gian chung của tiến công đợt 2 trên toàn chiến trường bắt đầu từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1968, cao điểm là từ ngày 15-5-1968. Tiếp đó, trong các ngày 3 và 4-4-1968, các đồng chí trong Bộ Chính trị họp bàn về kế hoạch chiến lược Hè - Thu 1968 3, xác định: Phương châm trong đợt tiến công Hè - Thu 1968 là nắm vững thời cơ, động viên phát huy hết sức mạnh để đẩy mạnh hoạt động quân sự và chính trị, kết hợp hoạt động thường xuyên với từng đợt lớn, đánh những đòn nối tiếp dồn dập, kết hợp công kích và nổi dậy của quần chúng, tranh thủ giành thắng lợi quyết định; đồng thời, chuẩn bị điều kiện thuận lợi để nếu chiến tranh kéo dài thì tiếp tục chiến đấu để giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 6-4-1968, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng làm việc với Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, bàn kỹ hơn về kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong Hè - Thu 1968, thống nhất kế hoạch hoạt động và thời gian của các đợt tiến công; theo đó, đợt 2 bắt đầu từ đêm mồng 4, rạng ngày 5-5-1968.

Ngày 24-4-1968, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về phương hướng giành thắng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam, trong đó nêu rõ: "Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy khí thế chiến thắng, tiếp tục phát triển tiến công toàn diện, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa (...), càng đánh, càng mạnh, đẩy kẻ địch vào thế thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã không sao gượng dậy được, nhằm đi tới giành thắng lợi quyết định". Bộ Chính trị nhấn mạnh mục tiêu của các đợt tiến công sau Tết là: "Liên tục đánh vào các đô thị nhằm siết chặt vòng vây, tạo ra tình trạng khủng hoảng thường xuyên ở đó, phát động quần chúng nổi dậy mạnh mẽ giành và giữ chính quyền, làm cho địch rối loạn, không ổn định và mất dần chỗ dựa". Ngoài mục tiêu đó, các đợt tiến công sau Tết còn nhằm "giải phóng đại bộ phận nông thôn, tiến tới giành toàn bộ nông thôn - vùng hậu phương rộng lớn của ta"; đồng thời, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của đối phương, làm tổn thất nặng nề hơn nữa cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh, làm cho đối phương bị suy yếu nghiêm trọng không sao gượng dậy được.

Như vậy, trong suốt hai tháng 3 và tháng 4-1968, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương cùng Bộ Tổng Tham mưu, Cục Tác chiến đã bàn soạn kế hoạch quân sự cho các đợt tổng công kích tiếp theo một cách vừa kỹ lưỡng, vừa toàn diện, vừa cụ thể. Quá trình phân tích tình hình, ra quyết định và xác định các chủ trương, biện pháp tiến hành các đợt tiến công sau Tết cho thấy mục tiêu, ý đồ của các cấp chiến lược được cân nhắc một cách cẩn trọng đặt trên việc hoàn thành mục tiêu chung, lớn nhất là tạo ra những điều kiện, tiền đề vững chắc và hiện thực nhanh chóng nhằm đưa công cuộc thống nhất đất nước đến đích cuối cùng.

Sau quá trình chuẩn bị mọi mặt, theo đúng kế hoạch, Bộ Tổng Tham mưu đã thống nhất với các chiến trường từ ngày 6-4-1968, hồi 1 giờ sáng 5-5-1968, các lực lượng vũ trang miền Nam đồng loạt tiến công vào 116 mục tiêu trên toàn chiến trường; trong đó có 3 thành phố lớn là Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, 21 tỉnh lỵ, 29 quận, 24 sân bay và một số Sở chỉ huy sư đoàn của Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa. Như vậy, các cơ quan quân sự, chính trị của Mỹ và quân đội, chính quyền Sài Gòn ở khắp các đô thị tại miền Nam đều bị tiến công. Có điều, đợt tiến công này bị lộ về thời gian , gây ra cho Quân giải phóng nhiều khó khăn, bất lợi.






-----------------------------------------------------------------
1. Đến ngày 31-3-1968, do tác động của "đòn Tết Mậu Thân", phía Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh, tuyên bố sẵn sàng cử đại diện đi vào đàm phán với phía Việt Nam, nhưng trên thực tế, đế quốc Mỹ vẫn duy trì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, vẫn duy trì các chuyến bay trinh sát đường không trên vùng trời, vùng biển miền Bắc và vẫn để ngỏ khả năng sẵn sàng ném bom trở lại toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cần. Thực tế đã cho thấy rằng, dù cho Mỹ có thực sự muốn ngồi vào bàn đàm phán từ đầu tháng 4-1968 đi chăng nữa thì đó cũng là ngồi vào bàn trên thế mạnh. Theo hồi ký của Giônxơn thì trong cuộc họp giữa Tổng thống với các quan chức hàng đầu trong Chính phủ Mỹ, ngày 9-4-1968 để bàn về việc cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Rốtxtâu - cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ - đã bình luận việc Hà Nội chấp nhận cử đại diện đàm phán với Mỹ chính là đã "tự thừa nhận họ (tức Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - T.G) đã ở vào một tình thế quân sự suy yếu". Xem Linđơn. B. Giônxơn (Hồi ký): Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự - Bộ Quốc phòng sao lục, 2010, tr.268.

2. Tham dự có các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Phùng Thế Tài, Lê Ngọc Hiền và Phan Hàm.

3. Dự họp còn có các đồng chí: Lê Văn Lương, Lê Trọng Tấn, Lê Ngọc Hiền.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:46:08 am
3. Nhìn tổng thể, diễn biến hai đợt tiến công sau Tết (đợt 2 và đợt 3) diễn ra như sau:

Từ ngày 5 đến 21-5-1968, tại Sài Gòn - Gia Định, Quân giải phóng đồng loạt tiến công vào Tổng nha Cảnh sát, tòa Đô thành, khu nhà ở của Đại sứ quán Mỹ, Dinh Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, Đài Phát thanh, Đài vô tuyến truyền hình... làm chủ nhiều nơi trong nội thành Sài Gòn. Nổi bật là các trận đánh của các đội biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu 1, 3 và 4. Ở cầu chữ Y, ngã tư Bảy Hiền, khu vực Phú Thọ Hòa... là những nơi chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt. Tại Trị - Thiên - Huế, nổi bật là trận đánh đêm 20-5-1968 vào ấp 5 Động Tòa (Tây Nam Huế), phá hủy hơn 100 xe quân sự của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đêm 19-5-1968, trong trận đánh vào Đồng Lâm, Quân giải phóng đã tiêu diệt 1.600 binh lính thuộc sư đoàn kỵ binh bay Mỹ. Trận phục kích ngày 6-5-1968 trên sông Hương đã tiêu diệt nhiều binh lính Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đặc biệt, khi quân đội Sài Gòn tiến công A Lưới (ngày 16-5-1968) đã bị lực lượng vũ trang cách mạng chặn đánh, diệt 2.197 binh lính, bắn rơi 72 máy bay trực thăng, bắn cháy/phá hủy 33 xe và 33 pháo các loại. Tại Trung và Trung Nam Bộ, Quân giải phóng đã tiến công và pháo kích vào các thành phố, thị xã như Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Phan Thiết... Đặc biệt, từ đầu tháng 5 đến đầu tháng 6-1968, trong trận đánh ở núi Ngang (Quảng Nam), Quân giải phóng đã tiêu diệt 2.000 binh lính đối phương, phá hủy 74 máy bay, 33 xe tăng. Ở đồng bằng sông Cửu Long, Quân giải phóng tiến công đối phương khắp các tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cà Mau...

Sơ bộ nhận xét về tình hình những ngày đầu tổng công kích đợt 2, Thường trực Quân ủy Trung ương cho rằng, "mặc dù địch có đề phòng, chuẩn bị đối phó và có những hoạt động phá chuẩn bị tiến công của ta, nhưng cuộc tiến công lần này đã bước đầu thu được thắng lợi, nổ ra đúng lúc, phối hợp tốt với đấu tranh ngoại giao". Thường trực Quân ủy Trung ương đánh giá cao hiệu quả của các cuộc tiến công ở Sài Gòn, phía bắc Vùng 1, Tây Nguyên và Khu 5. Thường trực Quân ủy Trung ương cũng lưu ý thêm về việc cần chú trọng các cuộc chiến đấu ở vùng ven, giữ vững, mở rộng bàn đạp, nhấn mạnh phải luôn tuân thủ phương châm "càng đánh càng mạnh"; "giữ vững và phát triển lực lượng".
Ngày 30-5-1968, Cục Tác chiến (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) tiến hành sơ kết đợt 2 cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam. Theo tổng hợp của Cục Tác chiến: ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 27.000 binh lính đối phương, bắn rơi 1.000 máy bay và phá hủy trên 173.000 tấn hàng quân sự . Với những thiệt hại nặng nề như vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã rơi vào tình trạng suy yếu và khủng hoảng nhiều mặt. Tính đến ngày 15-6-1968, tổng lực lượng chủ lực của Mỹ và quân đội Sài Gòn trên toàn chiến trường chỉ còn: 1.062.000 binh lính (trong đó có 520.000 lính Mỹ, 482.000 binh lính Việt Nam Cộng hòa, 60.000 quân đồng minh của Mỹ); 3.400 máy bay các loại; 116 tiểu đoàn pháo; 38 tiểu đoàn và 10 đại đội xe tăng; lực lượng địa phương có 246.000 binh lính (90.000 bảo an, 85.000 dân vệ, 67.000 cảnh sát). Báo cáo của Cục Tác chiến cũng nhấn mạnh, ngoài những thiệt hại vật chất, điều quan trọng là đối phương tiếp tục bị suy yếu và hoang mang hơn, mâu thuẫn nội bộ càng lục đục, tinh thần binh lính sa sút nghiêm trọng, mâu thuẫn giữa nhân dân Mỹ với giới cầm quyền Mỹ ngày càng cao, đối phương bị lún sâu thêm vào thế phòng ngự bị động. Thật vậy, các đợt tiến công quyết liệt, liên miên của Quân giải phóng đã khiến binh lính Mỹ và quân đội Sài Gòn thối chí và bạc nhược về tinh thần. Tỷ lệ đào ngũ của quân đội Sài Gòn cao hơn bao giờ hết. Stên (Jeff Stein) và Lipxơn (Marc Leepson) - hai tác giả cuốn Sổ tay sự kiện chiến tranh Việt Nam, nhận xét: ""Việt Nam hóa chiến tranh" đã đặt gánh nặng quá lớn lên quân đội Sài Gòn, do đó nảy sinh một vấn đề chủ yếu trong quân đội Sài Gòn (...) - tệ đào ngũ" . Hơring (George.C. Herring) cho biết: Vào cuối năm 1968, các cố vấn Mỹ xếp hạng 2 sư đoàn quân đội Sài Gòn là "cực kỳ kém", 8 sư đoàn chỉ ở mức "khá lên" và chỉ một sư đoàn là "giỏi" . Trong Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Kôncô (Gabriel Kolko) khẳng định: "Tỷ lệ đào ngũ của quân đội Việt Nam Cộng hòa đạt đỉnh cao hơn bao giờ hết; nhìn toàn bộ, năm 1968 là năm xấu nhất của cuộc chiến tranh cho đến năm 1975. Các tiểu đoàn bộ binh của Việt Nam Cộng hòa trong hai tuần đầu của tháng Hai chỉ có một nửa số quân, các lực lượng biệt động ưu tú lại còn thấp hơn. Bốn trong chín tiểu đoàn không vận không còn hiệu lực chiến đấu. Các quan chức Mỹ vô cùng bất bình về tình hình không kỷ luật và nạn cướp phá của họ suốt giai đoạn đó". Dưới nhan đề Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, tác giả Xêrari (Laurent Cérari) ghi nhận rằng, trong các đơn vị quân Mỹ từ năm 1968, nạn xung đột chủng tộc trong binh lính Mỹ tăng nhanh, hiện tượng không tuân lệnh chỉ huy lan rộng trong các đơn vị lục quân, hải quân và không quân Mỹ, tình trạng sử dụng ma tuý và những vụ tiến công sĩ quan bằng lựu đạn đã phổ biến. Stên và Lipxơn cho biết thêm: "Ý chí (của quân Mỹ trên chiến trường - T.G) bị chôn vùi, do dự khi bước vào cuộc chiến, sử dụng ma túy gia tăng, phá vỡ kỷ luật quân đội, tệ tham nhũng và tăng thêm số sĩ quan đào ngũ". Thậm chí, những người lính sư đoàn bộ binh số một "Anh cả đỏ" giờ đây gọi Sư đoàn này là "Anh cả chết".

Kết thúc đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy, từ ngày 17-8-1968 đến 30-9-1968, quân và dân miền Nam tiếp tục mở đợt 3 tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đánh vào 27 thành phố, thị xã, 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 17 sân bay, 3 khu kho, 6 Bộ Tư lệnh sư đoàn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tại Sài Gòn, từ ngày 17-8 đến 21-9-1968, Quân giải phóng đã pháo kích nhà Quốc hội của chính quyền Sài Gòn và Bộ Tham mưu hành quân của quân đội Sài Gòn. Tại Đường số 9 - Trị Thiên - Huế, từ ngày 17-8-1968 đến 14-9-1968, các lực lượng vũ trang cách mạng tiếp tục tiến công đối phương và chặn đánh lực lượng hành quân ra vùng rừng núi. Bị vây hãm, ngày 7-7-1968, quân đội Sài Gòn đã buộc phải rút khỏi Tà Cơn, Đường số 9, một vùng rộng lớn từ Lao Bảo đến Ca Lu được giải phóng. Tại Trung Bộ, từ ngày 22 đến 24-8-1968, Quân giải phóng pháo kích vào thành phố Đà Nẵng và các thị xã như Hội An, Tam Kỳ, Hòa Vang, Vĩnh Điện. Quân giải phóng đã tiến công Đài Phát thanh Đà Nẵng, các căn cứ quân sự trên núi Non Nước, bán đảo Sơn Trà, đánh thiệt hại 2 trung đoàn cơ động của quân đội Sài Gòn và một bộ phận sư đoàn Amêricơn Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 23.000 binh lính đối phương. Ở Tây Ninh, các lực lượng vũ trang cách mạng tiến công khu tòa thánh, căn cứ Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ ở Trảng Lớn, lực lượng đặc biệt của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Cà Tum, đài truyền tin Mỹ ở núi Bà Đen, căn cứ Mỹ ở Chà Là, Bến Củi, loại khỏi vòng chiến đấu 14.000 binh lính đối phương (trong đó có 10.000 binh lính Mỹ), bắn rơi, phá hủy 85 máy bay, phá hỏng 1.335 xe quân sự. Lực lượng vũ trang cách mạng ở Bình Long tiến công vào Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ tại Lộc Ninh, tiêu diệt 1.600 lính.

Tổng kết đợt 1 và đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy, Cục Tác chiến (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) kết luận như sau:

Về ưu điểm: 1- Lực lượng vũ trang cách mạng hoàn thành tốt nhiệm vụ, chiến đấu tốt ở nội thành Sài Gòn, còn ở vùng ven luôn tạo được thế uy hiếp, vây ép Sài Gòn; làm chủ Huế trong một khoảng thời gian khá dài; 2- Đã tiêu diệt được một bộ phận lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm suy yếu một cách căn bản cơ sở vật chất, lực lượng hậu cần của đối phương; 3- Tạo thế chiến tranh du kích rộng khắp ở nông thôn đồng bằng, làm chủ thành phố, xây dựng chỗ đứng chân ở các khu vực miền núi; 4- Tiếp tục đánh bại ý chí tiến hành chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn, đẩy đối phương vào thế khủng hoảng trầm trọng.

Về khuyết, nhược điểm: 1- Chưa tiêu diệt được các cơ quan đầu não của đối phương ở các thành phố lớn; 2- Công tác vận động quần chúng nổi dậy làm còn yếu; 3- Công tác địch vận chưa đạt yêu cầu; 4- Chưa đánh tiêu diệt lớn ở chiến trường rừng núi; 5- Nhiều lúc sự phối hợp giữa Mặt trận Đường 9 với Sài Gòn và Huế không kịp thời; 6- Lực lượng Quân giải phóng cũng bị tổn thất khá nặng nề.

Nhìn lại các đợt tiến công tháng 5 và tháng 8-1968 của quân và dân miền Nam trên chiến trường với những khó khăn, tổn thất, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả đã xem như đó là một hạn chế về tầm nhìn hoặc sai lầm của các cấp chỉ đạo chiến lược mà hậu quả của sai lầm này đã làm cho cục diện chiến trường sau "Tết Mậu Thân" trở nên "xấu hơn trước năm 1968", cách mạng miền Nam lâm vào "thời kỳ đen tối". Nếu chỉ nhìn trên thực tế của chiến trường lúc ấy, những ý kiến trên đây có phần xác đáng. Tuy nhiên, nếu như 111.360 cán bộ, bộ đội lực lượng vũ trang giải phóng cùng hàng vạn quần chúng đã hy sinh và bị thương trong năm 1968 thì cũng trong năm này, số thương vong của quân Mỹ đã "gia tăng ghê gớm, nó gần gấp hai lần tổng số thương vong của tất cả các năm trước đó cộng lại - 30.610 người so với 16.210 người". Chỉ trong sáu tháng đầu năm 1968, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã bị tổn thất 101.400 binh lính; Nam Việt Nam (tức quân đội Sài Gòn) trung bình tổn thất 500 người mỗi tuần. Qua những con số thương vong này, có thể hình dung được phần nào sự ác liệt của hai đợt tiến công sau Tết Mậu Thân 1968 - một sự ác liệt mà quân và dân ta buộc phải chấp nhận nhằm khẳng định ý chí, khẳng định tư thế của mình trên chiến trường để thông qua đó, giành lợi thế trên bàn đàm phán. Quân và dân Việt Nam đã phải hy sinh máu xương, phải gồng mình lên, chấp nhận những mất mát để hướng về và chuẩn bị cho cuộc chạy đua nước rút tới đích - giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thực vậy, nếu không có những hy sinh, tổn thất của những đợt tiến công sau Tết ngày đó, rất có thể những thành quả đạt được trong cuộc tiến công đợt 1 đã không được bảo đảm và phát huy, chúng ta không thể rút ngắn ngày kết thúc chiến tranh như đã diễn ra: Đưa sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam từ ba năm rồi hai năm trong kế hoạch, rút xuống chỉ còn 55 ngày đêm chiến đấu mà giành lại được một Sài Gòn hầu như nguyên vẹn.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:49:25 am
PHỤ NỮ MIỀN NAM
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



NGUYỄN THỊ TUYẾT
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam


Trong lịch sử Việt Nam, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi khắc sâu như một bản anh hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đồng thời để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu có thể vận dụng, phát triển trong điều kiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trên toàn chiến trường miền Nam Xuân Mậu Thân 1968 là một đòn bất ngờ, táo bạo..., đã tiêu diệt, phá hủy nhiều vũ khí, sinh lực của địch; làm cho chính quyền Mỹ choáng váng và làm lung lay ý chí xâm lược, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ ở Việt Nam.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Phụ nữ miền Nam là lực lượng quan trọng trong công tác hậu phương quân đội, phục vụ chiến trường. Hàng vạn chị em phụ nữ tham gia các đội dân công, thanh niên xung phong; tham gia hoạt động tình báo, giao liên, tải lương, tải đạn, xây dựng kho vũ khí bí mật ở nội đô, ủng hộ lương thực, thực phẩm cho bộ đội, tham gia các đội du kích, biệt động... Những hoạt động này được thực hiện đồng loạt ở các tỉnh từ nông thôn đến thành thị và tạo nên cơ sở hậu cần - kỹ thuật chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân. Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn tìm mọi cách đàn áp nhưng không làm giảm được khí thế tham gia nổi dậy của phụ nữ - những con người luôn có mặt ở khắp mọi nơi trong lòng địch, ngoài tiền tuyến: khi làm công tác vũ trang tuyên truyền, rải truyền đơn, treo khẩu hiệu, khi phục vụ chiến đấu hoặc trực tiếp chiến đấu, diệt ác ôn giữa ban ngày. Bên cạnh đó, nhiệm vụ tập kết tạo kho vũ khí trong nội đô là công việc tối quan trọng. Nhiều câu chuyện kể về các cô, các chị thực sự như những cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm đối với tính mạng, nhưng với tinh thần dũng cảm, xả thân, thông minh, sáng tạo, nhanh trí, các cô, các chị đã vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ như khi vận chuyển vũ khí, có chị đóng giả là người di cư, mặc đồ kiểu tư sản, cho súng đạn vào vali quần áo chở bằng xe máy, qua mặt tên cảnh sát còn chào, không hề tỏ ra sợ sệt. Một trong những người phụ nữ gan dạ thời đó là má Sáu Hòa. Má được giao nhiệm vụ tổ chức xây dựng, thành lập hệ thống kho vũ khí trong nội đô. Má đã làm nghề may, buôn bán để che mắt địch. Má cùng những chị em khác tổ chức công việc buôn trái dừa, mỗi chuyến hàng vận chuyển 500 trái nhưng chỉ có khoảng 50 trái là dừa thật, còn lại đều bị đục bỏ nước, chèn chất nổ TNT để chuyển vào thành phố. Rồi má chuyển từ buôn trái dừa sang buôn than, gạo, và các loại trái cây. Mỗi lần nhập hàng là một lần vũ khí được chuyển thêm vào kho vũ khí của bên ta. Đây thực sự là công việc khó, đòi hỏi người thực hiện không chỉ gan dạ, dũng cảm mà còn phải thông minh, linh hoạt, biết cách xoay chuyển tình thế khi cần thiết. Trong suốt 3 năm chuẩn bị, hệ thống kho vũ khí được mở rộng bởi những chị em phụ nữ như má Sáu Hòa.

Bên cạnh đó là câu chuyện về những người mẹ, những bà má dành hết tình thương của mình để nuôi giấu cán bộ mà không màng đến nguy hiểm. Họ là những người âm thầm phía sau bao bọc, chở che hết lượt con này đến lượt con khác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Những lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam được các mẹ, các chị ở khắp các tỉnh miền Nam âm thầm tự may để chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, và hiện nay ở Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam còn lưu giữ nhiều lá cờ như vậy. Một trong những người phụ nữ đã tự may những lá cờ chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 là bà Trần Thị Xua ở ấp Phú Hưng, Phù Hựu, Châu Thành, Đồng Tháp.

Đêm giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968, khi tiếng súng tổng tiến công đồng loạt nổ ra khắp các tỉnh miền Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chỉ đạo các cấp Hội vận động hội viên cùng nhân dân địa phương sẵn sàng nổi dậy. Trong các thành phố, khi lực lượng Quân giải phóng vừa giành thắng lợi trong chiến đấu thì lực lượng chính trị xuất hiện, ngăn chặn bước phản công của địch, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang kịp thời rút đi. Hơn 11 triệu lượt phụ nữ từ thành thị đến nông thôn đã tham gia nổi dậy diệt ác, phá kìm, làm tan rã từng mảng bộ máy chính quyền Sài Gòn cấp cơ sở, tiến công vào thị xã, thị trấn, giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Tại Mỹ Tho, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp, hơn 40.000 phụ nữ và nhân dân theo từng đại đội, tiểu đoàn bộ đội kéo vào thành phố, thị xã phối hợp với quần chúng biểu tình. Ở Tây Ninh, nhân lúc tiếng pháo giao thừa, được chị em nội tuyến dẫn đường, bộ đội lần lượt tiến công vào các cơ quan chính quyền, đồn trại của quân đội Sài Gòn trong thị xã, đông đảo nhân dân kéo vào gây áp lực với địch.

 Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, khi có tiếng pháo giao thừa đón Xuân sang cũng là lúc tiếng súng tập kích của bộ đội ta nổ giòn giã. Các má, các chị được chuẩn bị tư tưởng, khi đón nhận những tiếng súng "phát lệnh" đã hành động ngay. Liên tục trong 10 ngày, bắt đầu từ ngày mồng 5 Tết, địch đổ quân xuống các trục lộ, dùng xe tăng, cối M79 phản kích lại quân ta. Hàng ngàn đồng bào, đi đầu là các má, các chị đã dũng cảm mang theo đồ đạc, quần áo gọn nhẹ, dắt con nhỏ, khiêng người bị thương ra đường Minh Mạng, ra công trường Ngã Bảy đấu tranh... Nổi bật là hoạt động của đơn vị biệt động Thành Sài Gòn: Ngày 27-1-1968, đơn vị nữ biệt động Thành đã phối hợp với các nhóm tự vệ vũ trang của Ban Phụ vận thực hiện cuộc tuyên truyền công khai tại chợ Bến Thành. Đồng chí Đào Hồng Nga được Ban Phụ vận và Đảng ủy 36 chợ Đô Thành giao nhiệm vụ làm diễn giả. Giữa chợ Bến Thành, chị đứng lên dõng dạc chuyển lời chúc Tết của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và lực lượng giải phóng miền Nam đến với đồng bào Sài Gòn và kêu gọi đồng bào kháng chiến... Trong đợt tổng công kích và nổi dậy này, người dân Sài Gòn chứng kiến những hình ảnh chiến đấu ngoan cường của đơn vị nữ biệt động Sài Gòn - Gia Định (Đơn vị được đổi tên là Tiểu đoàn Lê Thị Riêng ngày 8-3-1968). Đây là tiểu đoàn biệt động nữ đầu tiên và duy nhất của Thành phố trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Các đội tự vệ trong Tiểu đoàn Lê Thị Riêng dũng cảm thọc sâu đánh vào trung tâm Sài Gòn, tham gia đánh Tòa hành chính quận 5, treo cờ cách mạng lên cột cờ Tòa hành chính, bám sát lực lượng đánh vào cơ quan Tổng Tham mưu của quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, các cơ quan đầu não quan trọng của địch.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chúng ta không thể không nhắc đến Tiểu đội du kích 11 cô gái sông Hương (Huế). Lúc đó, không chỉ người dân thành Huế mà cả các chiến sĩ của chúng ta đều nhớ mãi khẩu hiệu "Thà hy sinh, nhất định không rời trận địa" của Tiểu đội du kích 11 cô gái sông Hương. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, tháng 6-1967, Thành ủy Huế đã giao cho Tiểu đội nhiệm vụ dẫn đường, đưa bộ đội tiến công vào các mục tiêu ở thành phố Huế, đồng thời trực tiếp đánh giặc. Vì hoạt động bí mật nên cả 11 chị em trong Tiểu đội đều phải làm mọi cách để che giấu tên tuổi, thân phận của mình, thậm chí người trong gia đình cũng không hề biết. Để hoàn thành nhiệm vụ dẫn đường, Tiểu đội phải bám địa bàn, nghiên cứu kỹ lưỡng từng đoạn đường để đưa bộ đội vào thành Huế mà không rơi vào bẫy của địch. Họ thường cải trang làm người bán rau, bán cá, người đưa thư... để có thể nắm tường tận các điểm chốt của địch nhằm dễ bề đối phó. Với lòng can đảm, tinh thần xả thân và trách nhiệm cao, 11 cô gái kiên trì bám trụ, phối hợp cùng bộ đội đánh lui một tiểu đoàn lính Mỹ thiện chiến, được trang bị vũ khí hiện đại, gây cho địch nhiều thương vong, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và tặng bài thơ:

"Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường,
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường.
Bác khen các cháu dân quân gái,
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương".


Trong những ngày tháng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, còn rất nhiều, rất nhiều chị em phụ nữ gan dạ, dũng cảm tham gia vận động bà con, người dân theo cách mạng.

Chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 đã qua đi vừa tròn nửa thế kỷ, nhưng ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vẫn còn nguyên giá trị trong cuộc sống hôm nay. Cách mạng nước ta hiện nay bên cạnh những nhân tố thuận lợi thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, thì chúng ta cũng đang phải vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nhất là việc các thế lực thù địch chống phá bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn, lật đổ, âm mưu thúc đẩy "tự diễn biến", tạo cớ can thiệp dưới nhiều hình thức. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với vai trò của mình sẽ tiếp tục định hướng, tổ chức giáo dục cho hội viên phụ nữ cả nước nắm chắc tình hình, xử lý được các tình huống bất ngờ, phức tạp có ảnh hưởng đến chính trị hoặc sự phát triển chung của đất nước. Bên cạnh đó, Hội còn động viên, thúc đẩy phụ nữ tích cực tham gia, học hỏi phát triển để nâng cao năng lực cho bản thân, gia đình, xã hội; có nhận thức đúng đắn, đẩy lùi những nguy cơ xấu ảnh hưởng đến nền hòa bình của đất nước. Đồng thời, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần tạo dựng được mạng lưới đồng bộ liên kết ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, cả trong và ngoài nước. Mạng lưới này cần phải có sự đoàn kết, và có định hướng phát triển cả về kinh tế, văn hóa vừa ở góc độ gìn giữ vừa ở góc độ thích ứng phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Bên cạnh đó, không được quên những giá trị văn hóa truyền thống được tạo dựng nên từ thời Bà Trưng, Bà Triệu. Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn có vai trò quan trọng từ cả trong gia đình đến ngoài xã hội; góp phần tạo nên những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của dân tộc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 09:53:57 am
SƯ ĐOÀN 5 TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá THÁI THÀNH ĐỨC
Chính ủy Sư đoàn 5


Sau những ngày chiến đấu gian khổ ở chiến trường vùng sâu Bà Rịa - Long Khánh, Sư đoàn 5 hành quân trở về Kho Xanh - Phước Long để củng cố. Tháng 9-1967, Trung đoàn 88 (Trung đoàn Tu Vũ) thuộc Sư đoàn 308 được tăng cường về đội hình chiến đấu của Sư đoàn. Đến đầu tháng 11-1967, Sư đoàn đã kiện toàn, củng cố được 3 trung đoàn bộ binh: Trung đoàn 4, Trung đoàn 5, Trung đoàn 88 và 9 Tiểu đoàn trực thuộc 1.

1. Chiến đấu ở Mặt trận Biên Hòa (Đông Sài Gòn)

Ngày 20-1-1968, Trung đoàn 5 và các đơn vị trực thuộc Sư đoàn được lệnh ra quân tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đêm 29-1, Trung đoàn 5 đã vượt sông Đồng Nai về vị trí tập kết ở ấp 3 xã Tân Định. Các đơn vị trực thuộc hành quân đến Sở chỉ huy tiền phương tại hóc Ông Tạ. Trung đoàn 4 từ căn cứ Suối Quýt (phía tây Đường số 2) hành quân về Tây Trảng Bom. Tiểu đoàn 2 - đơn vị thọc sâu cơ động xuống Bưng 6 (xã Thủ Đức) chuẩn bị thực hiện tiến công các mục tiêu liên trường huấn luyện Thủ Đức, cầu Đồng Nai, nhà máy điện Thủ Đức.

Đêm 31-1, các đơn vị xuất phát chiếm lĩnh mục tiêu theo kế hoạch. Đến 23 giờ 50, đội hình chiến đấu của Sư đoàn và các lực lượng vũ trang Biên Hòa mới có 3 tiểu đoàn, 1 đại đội và các đơn vị pháo binh chiếm lĩnh xong; 3 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công bị địch ngăn chặn, chưa vào được vị trí xuất phát tiến công. Trước tình hình trên, Bộ Chỉ huy mặt trận quyết định nổ súng theo giờ G.

Tại mặt trận Biên Hòa, sau 30 phút chiến đấu, toàn Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 4) đã vượt qua 3 lớp rào, cùng lực lượng của Tiểu đoàn đặc công phối hợp chiến đấu tiêu diệt tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ án ngữ ở phía đông bắc sân bay. Tuy đã bị thiệt hại nặng, nhưng được sự chi viện của xe tăng và pháo binh, địch vẫn ngoan cố phản kích ngăn chặn ta, làm cho Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn đặc công không tiến được sâu vào trong sân bay. Rạng sáng, ở hướng đông nam sân bay, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4) cũng bắt đầu nổ súng. Đến 5 giờ ngày l-2, địch bắt đầu mở các đợt phản kích mạnh. Vào 5 giờ 30, địch dùng máy bay đánh phá, ném bom napan vào Sở chỉ huy Trung đoàn 4. Vào 7 giờ sáng, 1 tiểu đoàn địch cùng 2 chi đoàn thiết giáp bao vây ba mặt Tiểu đoàn đặc công và Tiểu đoàn 1. Lúc 11 giờ, Trung đoàn 4 lùi về Sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn tại cứ "Mô tô" tiếp tục tổ chức trận địa phòng ngự đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, diệt 5 xe M113 và nhiều tên địch.

Tại hướng Trung đoàn 5, sau 30 phút chiến đấu, Đại đội 6 (Tiểu đoàn 2) vượt qua cửa mở tiến vào sân bay dã chiến thuộc Bộ Tư lệnh dã chiến II, bắn cháy 5 trực thăng; địch lùi vào bên trong chống trả ta quyết liệt. Lúc 4 giờ, địch tăng cường 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 1 chi đội xe thiết giáp tập trung phản kích vào Tiểu đoàn 2, kết hợp dùng trực thăng bắn phá quyết liệt vào đội hình của Đại đội 7, Đại đội 8. Sáng ngày 1-12, địch tung lực lượng vây chặt Đại đội 6 đã thọc sâu vào bên trong sân bay trực thăng.

Hướng tiến công của Tiểu đoàn 1 cũng gặp khó khăn. Đến 5 giờ, Tiểu đoàn vẫn chưa phát triển vào đến mục tiêu quy định. Mũi tiến công của Tiểu đoàn 3 từ 1 giờ đến 4 giờ, ta và địch liên tục giành giật nhau quyết liệt. Lúc 5 giờ, địch tăng cường một tiểu đoàn kết hợp cùng xe tăng đánh vào Tiểu đoàn 3.

Từ sáng ngày 31-1, Tiểu đoàn 3 mất liên lạc với Trung đoàn. 17 giờ, Tiểu đoàn 3 rời khỏi trận địa, trên đường rút bị địch tiếp tục dùng máy bay, pháo binh đánh chặn, gây cho Tiểu đoàn thương vong lớn. Ở mũi thọc sâu của Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4) do đồng chí Tư On - Tiểu đoàn trưởng chỉ huy phối hợp với lực lượng vũ trang Phân khu 4 và du kích tự vệ Thủ Đức tấn công Trường Sĩ quan Thủ Đức. Địch tập trung đánh vào đội hình Tiểu đoàn 2, ta vừa cầm cự vừa lui về vùng bưng 6 xã. Tiểu đoàn 2 tiếp tục trụ lại chiến đấu đánh địch phản kích trên khu vực xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, nhà máy điện Thủ Đức và sau đó được Bộ Chỉ huy biên chế về đội hình chiến đấu của Phân khu 4.

Giữa tháng 2-1968, ta thực hiện bước 2 của đợt 1 cuộc Tổng tiến công. Tại mặt trận Biên Hòa, Trung đoàn 4 và bộ đội địa phương Biên Hòa đã liên tục chiến đấu tập kích các cụm địch đóng dã ngoại ở khu vực Trảng Bom và tổng kho Long Bình. Đêm 18-2, Trung đoàn 4 tổ chức tập kích cụm bộ binh cơ giới Mỹ ở Bắc Trảng Bom 2 km. Sau 2 giờ chiến đấu, Tiểu đoàn 3 và 2 đại đội của Tiểu đoàn 1 đã tiêu diệt toàn bộ cụm địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch, bắn cháy 7 xe quân sự. Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 phối hợp cùng đại đội ĐKZ của Trung đoàn 724 và đại đội địa phương Biên Hòa pháo kích vào tổng kho Long Bình, đốt cháy 2 kho đạn, tiêu diệt 1 đại đội địch.

Kết thúc đợt 1 tổng tiến công (từ 31-1 đến 15-3-1968), các đơn vị của Sư đoàn 5 đã tiêu diệt hàng nghìn tên địch, bắn cháy 119 xe quân sự, 5 máy bay, phá hủy 2 kho đạn và nhiều trang bị vật chất chiến tranh của địch. Với những nỗ lực và thành tích đã đạt được, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4) được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, các đồng chí Nguyễn Văn Chánh và Võ Văn Tăng được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì.

2. Chiến đấu tại Trảng Bàng, Dương Minh Châu (Tây Ninh)

Tháng 4-1968, Sư đoàn có sự thay đổi biên chế lực lượng. Trung đoàn 4 tiếp tục ở lại hoạt động độc lập tại chiến trường Bà Rịa - Long Khánh - Biên Hòa, tăng cường trong đội hình chiến đấu của Quân khu miền Đông. Trung đoàn 5 và các đơn vị trực thuộc Sư đoàn được lệnh hành quân cơ động về mặt trận vùng Tây Bắc Sài Gòn, chiến đấu đánh địch trên địa bàn Trảng Bàng, Dầu Tiếng, Dương Minh Châu. Ngày 7-5-1968, Phó Tư lệnh Miền Lê Trọng Tấn đến kiểm tra và giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 5 chiến đấu kìm chân Sư đoàn 25 Mỹ tại Trảng Bàng và sẵn sàng làm dự bị cho Sư đoàn 9 thọc sâu vào Sài Gòn.

Phát hiện lực lượng lớn của ta di chuyển về mặt trận Bắc Củ Chi, địch vội tung một lực lượng gồm các đơn vị Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4), Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 25) Sư đoàn 1 kỵ binh thiết giáp và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 22) Sư đoàn 25 bộ binh cơ giới Mỹ, có sự chi viện của không quân, pháo binh tổ chức càn quét vào khu vực Bắc Trảng Bàng và Củ Chi. Ngày 11-5, Bộ Chỉ huy Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 5 chuyển sang đánh địch đang càn quét ở Trảng Bàng, buộc chúng phải đối phó không thực hiện được ý định phản kích tiêu diệt lực lượng ta. Ngày 14-5, Tiểu đoàn 1, Sư đoàn 25 Mỹ được trực thăng đổ xuống Trung Hòa tổ chức càn quét vào Tầm Đinh - Trảng Cỏ. Lực lượng địa phương Trảng Bàng và Tiểu đoàn 1 đẩy lui 3 đợt phản kích của địch, khiến quân Mỹ không tiến được sâu vào trong, phải lùi ra cụm lại ở Trảng Ông Lên.

Ngày 18-5, được Sư đoàn tăng cường 1 phân đội hỏa lực H12, Trung đoàn 5 triển khai kế hoạch tiến công tiêu diệt địch. Tiểu đoàn 1 được tăng cường 2 khẩu cối của Trung đoàn tập kích tiêu diệt đoàn bộ binh cơ giới tại Trảng Ông Lên, Tiểu đoàn 2 được tăng cường 12 quả hỏa tiễn H12 tập kích tiêu diệt cụm địch ở Cầu Xe lần thứ 3. Đêm 18-5, Tiểu đoàn 1 bí mật bố trí chốt chặn, đúng 24 giờ, Tiểu đoàn nổ súng tiến công địch, sau 40 phút chiến đấu quyết liệt, tiêu diệt 150 tên địch, thu 18 súng, 1 máy PRC25 và nhiều trang bị của địch. Hướng Tiểu đoàn 3, ta tổ chức lực lượng phối hợp đánh cụm địch đóng chốt tại Cầu Cát, diệt 11 xe cơ giới và nhiều tên địch, cắt đứt giao thông trên trục đường liên tỉnh số 26. Trên hướng chủ yếu Tiểu đoàn 2 được tăng cường hỏa lực của Sư đoàn tổ chức tập kích hỏa lực vào quân Mỹ ở Cầu Xe, phá hủy 38 xe quân sự, đánh cháy 4 nhà lính. Ngày 21-8, Trung đoàn 5 sử dụng Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 tập kích lần thứ 4 vào tiểu đoàn bộ binh cơ giới thuộc Sư đoàn 25 tại Bàu Me vào 0 giờ ngày 21-5, diệt một số tên địch, bắn cháy 19 xe cơ giới.

Sau 4 lần liên tục tập kích, pháo kích, Trung đoàn 5 đã đánh quỵ Tiểu đoàn 2 bộ binh cơ giới thuộc Trung đoàn 22, Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, làm cho chúng không còn khả năng tham gia càn quét theo kế hoạch. Để cứu vãn tình thế, ngày 22-5, quân Mỹ huy động hàng chục đợt B52 và các loại máy bay đánh phá các khu vực Bời Lời, Trảng Cỏ, Sa Nhỏ 1, Sa Nhỏ 2.

Ngày 22-5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 5 được tăng cường Tiểu đoàn 3 đã chủ động chặn đánh quân Mỹ tại Trảng Sa. Sau một ngày chiến đấu, ta đẩy lùi 7 đợt phản kích của bộ binh và xe tăng dịch, tiêu diệt 4 xe tăng, bảo vệ được trận địa. Ngày 24-5, Tiểu đoàn 3 tiếp tục cơ động phối hợp với các đại đội trực thuộc của Trung đoàn đánh địch ở Sa Nhỏ, Trảng Cỏ, tiêu diệt 11 xe tăng, xe thiết giáp và nhiều tên địch, buộc chúng phải tháo lui, chấm dứt cuộc càn.

Tổng cộng trong 10 ngày liên tục chiến đấu, Trung đoàn 5 đã tổ chức đánh địch 11 trận (trong đó có 2 trận cấp trung đoàn thiếu, 9 trận cấp tiểu đoàn, đại đội), tiêu diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy 2 máy bay. Trung đoàn đã phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương và các đơn vị bạn đánh bại cuộc càn quét của quân Mỹ ở địa bàn Bắc Trảng Bàng. Sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, Trung đoàn 5 được lệnh trở về cứ K10 (Đồng Ban) để củng cố và chuẩn bị cho kế hoạch đợt 3 của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Tháng 7-1968, Sư đoàn 5 tiếp nhận Trung đoàn 33 và Trung đoàn 88 vào đội hình chiến đấu của mình.

Nhiệm vụ của Sư đoàn trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy là phối hợp cùng Sư đoàn 9, Trung đoàn 174, Tiểu đoàn đặc công và Trung đoàn pháo binh Miền mở chiến dịch Tây Ninh - Dầu Tiếng kéo lực lượng 2 lữ đoàn của Sư đoàn "Tia chớp nhiệt đới" và Lữ đoàn 1 Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ ra ngoài để tiêu diệt, mở rộng vùng giải phóng Đông Bắc Tây Ninh, đánh bại kế hoạch hành quân phản kích của quân Mỹ vào địa bàn Tây Ninh - Dầu Tiếng. Sư đoàn được củng cố, bổ sung đủ 3 trung đoàn (Trung đoàn 5, Trung đoàn 88, Trung đoàn 33) và các tiểu đoàn trực thuộc (1 tiểu đoàn ĐKZ, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn quân y, 1 tiểu đoàn vận tải). Đồng chí Võ Minh Như (Chín Hiền) được điều về làm Sư đoàn trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn. Ngày 15-8, Trung đoàn 33 được Bộ Chỉ huy Sư đoàn giao nhiệm vụ phục kích lực lượng ứng cứu của quân Mỹ tại khu vực Bến Củi, mở màn đợt hoạt động của Sư đoàn, tạo điều kiện cho đơn vị bạn tiến công các mục tiêu Trảng Lớn, Trà Phí, Tua Hai, đồng thời phối hợp cùng Trung đoàn 5, Trung đoàn 88 đánh chiếm sân bay Bến Củi, căn cứ Gò Da và các cụm địch đóng dã ngoại trên đường 26 và 22.

Ngày 17-8, Trung đoàn 33 tổ chức hành quân vào vị trí chiến đấu tại khu vực Làng 2, Làng 3 Bến Củi, triển khai trận địa phục kích từ suối Ông Hùng đến Làng 3, Bến Củi, sẵn sàng chờ quân Mỹ đến. Sau một ngày chiến đấu, ta tiêu diệt 3 xe tăng, đánh thiệt hại 1 đại đội địch, nhưng chưa diệt được đội hình lớn xe cơ giới và bộ binh Mỹ.

Ngày 19-8, quân Mỹ tổ chức 2 cánh quân gồm cả bộ binh và thiết giáp tiến hành giải tỏa Đường số 2 đoạn Bến Củi - suối Ông Hùng. Cánh quân thứ nhất gồm 5 xe tăng M113 và 1 đại đội Mỹ từ ngã ba Đất Sét đánh vào Tây Bắc Bến Củi. Cánh thứ 2 gồm 46 xe thiết giáp và 1 tiểu đoàn bộ binh Mỹ từ Dầu Tiếng theo trục Đường số 2 đánh vào khu vực Làng 2, Làng 3 Bến Củi. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung đoàn trưởng Ma Văn Minh, Tiểu đoàn 8 chặn đánh địch tại Trảng Trường, các tiểu đoàn của Trung đoàn 33 bám sát quân Mỹ, hình thành thế vây chặn trên hai ngả rút quân của chúng về Dầu Tiếng, Tây Ninh. Ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ, bắn cháy 47 xe cơ giới, trong đó có 33 xe M41 và xe M113, diệt tại chỗ hơn 100 tên địch, thu 2 khẩu 12,7 ly, 6 đại liên, 6 trung liên, 16 M79, 3 M72, 5 ống nhòm và 1 máy PRC25. Ngày 21-8, Trung đoàn 33 tiếp tục tổ chức tập kích cụm dã ngoại quân Mỹ tại bàu Tà Keng, diệt thêm nhiều tên địch, bắn cháy 2 trực thăng và liên tục chặn đánh xe cơ giới địch trên Đường số 2.

Trên trục Đường số 2, tại mặt trận Đường 26, khu vực Trảng Bàng, liên tục trong 3 ngày 19, 20, 21-8, Trung đoàn 88 tổ chức phục kích, tập kích các cụm bộ binh cơ giới Mỹ, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch và 1 chi đoàn xe bọc thép, cắt đứt giao thông trên Đường số 26. Ngày 23-8, Trung đoàn 88 được lệnh khẩn trương cơ động thọc sâu về Tây Bắc Gò Dầu, tổ chức đánh lực lượng vận tải cơ giới của địch đang từ Củ Chi lên cứu viện cho quân Mỹ ở Tây Ninh. Đêm 24-8, các đơn vị của Trung đoàn 88 thực hành chiếm lĩnh và tổ chức ngụy trang trận địa. Quân địch số bị tiêu diệt, số còn lại bỏ xe tháo chạy tán loạn. Tiểu đoàn 9, đại đội đặc công và 2 trung đội du kích bắn cháy 96 xe cơ giới (17 xe M41 và xe M113), bắn rơi 2 trực thăng. Ta thu 5 súng đại liên và nhiều trang bị quân sự, bắt 5 tù binh. Vào 12 giờ 30, ta đã hình thành thế bố trí đánh lực lượng giải tỏa của địch. Máy bay Mỹ và các trận địa pháo ở tua Trảng Bàng, Gò Chùa oanh kích, dùng máy bay thả hơi cay "CS" vào trận địa, cả Đại đội 10 và Đại đội 11 bị nhiễm hơi độc. Lực lượng phòng không của Trung đoàn bắn cháy 5 máy bay, khiến những chiếc còn lại phải lên cao vòng xa ngoài trận địa, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh củng cố công sự chuẩn bị chiến đấu.

Dựa vào lực lượng đông, hỏa lực mạnh, quân Mỹ chia thành nhiều mũi đột kích vào trận địa của Đại đội 11. Đảm nhận nhiệm vụ phòng ngự ở sườn trái của trận địa, Trung đội 1 bắn cháy 5 xe tăng, đẩy lùi 1 đại đội địch. Sau gần một giờ phản kích không phá được trận địa ta, quân Mỹ lui ra tiếp tục dùng máy bay, pháo binh bắn phá và chia làm 3 mũi tấn công vào Đại đội 10 và Đại đội 9, còn lại một bộ phận đánh vào Sở chỉ huy Tiểu đoàn. Lúc 16 giờ, quân Mỹ tiếp tục đưa máy bay lên thả hơi cay vào trận địa của ta, nhưng lúc này gió Tây Nam thổi mạnh nên hơi ngạt thả xuống lại bay trùm lên đoàn xe của chúng. Lập tức Trung đoàn trưởng lệnh cho Đại đội 1 của Tiểu đoàn 7 vận động đánh áp vào phía sau cánh trái của quân Mỹ. Lúc 18 giờ, trận đánh kết thúc, tàn quân địch lui về Trảng Bàng, bỏ lại trận địa 147 xác xe cơ giới các loại, trong đó có 33 xe M41 và M113, 15 xe Jeep có gắn đại liên, 99 xe vận tải và rất nhiều xác chết. Trung đoàn 88 hoàn toàn làm chủ trận địa.

Chiến thắng vang dội tại Nam Đá Hàng làm nức lòng và tăng thêm khí thế thi đua diệt Mỹ trong toàn Sư đoàn. Với lực lượng 1 trung đoàn (thiếu), số trực tiếp tham gia chiến đấu chỉ có 280 đồng chí, trong 1 ngày, Trung đoàn 88 đã tiêu diệt 1 đại đội bộ binh cơ giới Mỹ, 1 đại đội thiết giáp, 1 đại đội vận tải, 1 đại đội công binh và 2 trung đội quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắt sống nhiều tù binh, thu 127 súng các loại (có 3 đại liên), 1 máy thông tin 15W, 1 máy dò mìn và rất nhiều trang bị khí tài quân sự. Trận đánh cũng gây một tiếng vang lớn trong vùng, đồng bào và lực lượng vũ trang địa phương tin tưởng hơn vào sức mạnh của chủ lực Quân giải phóng, tích cực ủng hộ cách mạng.

Phát huy thắng lợi đó, Bộ Chỉ huy Miền chủ trương mở đợt tổng công kích và nổi dậy vào tháng 8-1968. Giờ nổ súng thống nhất trên toàn miền là đêm 17-8-1968. Sư đoàn 5 được giao nhiệm vụ tiêu diệt tiểu đoàn địch tại Chà Là trong đêm 17 để làm ngòi nổ lệnh chung Chà Là (Gò Da).

Đến 17 giờ ngày 17-8, Trung đoàn hành quân vào chiếm lĩnh trận địa nhưng không thể phát triển được lực lượng. Bộ Chỉ huy Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 5 tiêu diệt tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ tại Chà Là (lần 2) trong đêm 20 rạng sáng ngày 21-8. Trung đoàn điều chỉnh bổ sung lực lượng hành quân chiếm lĩnh các vị trí an toàn, đúng thời gian. Sau 3 giờ chiến đấu quyết liệt, quân ta cơ bản làm chủ trận địa, bắn cháy 40 xe tăng, thiết giáp. Ngày 21-8, địch tiếp tục đổ quân xuống Chà Là, Trung đoàn được lệnh đánh địch ở Chà Là (Gò Da) lần thứ ba. Ngày 24-8, được Sư đoàn tăng cường Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 83), Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 88) và 1 đại đội H12 phối hợp cùng Trung đoàn 5 tiến công mục tiêu Gò Da lần thứ ba. Đến 2 giờ sáng ngày 27-8, các mục tiêu cơ bản bị diệt.

Kết quả tập kích lần thứ 3, Trung đoàn 5 và các đơn vị tăng cường đã cơ bản đánh chiếm hoàn toàn mục tiêu Gò Da, diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắn cháy và phá hủy 55 xe quân sự, phá hỏng 8 khẩu pháo 105mm và 106mm, bắn rơi 2 trực thăng. Ta hy sinh 32 đồng chí, bị thương 135 đồng chí. Trong trận tập kích này, Trung đoàn 5 đã thực hiện thành công chiến thuật tiến công cụm bộ binh cơ giới Mỹ phòng ngự liên hoàn trong công sự. Tiếp đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Ninh, Dầu Tiếng chỉ thị cho Sư đoàn 5 tổ chức lực lượng đánh bồi, đánh nhồi vào các cụm phòng ngự của quân Mỹ ở khu vực Chà Là, Bến Củi và tuyến đồn bốt địch dọc đường số 2 và 26, phối hợp cùng các đơn vị của Sư đoàn 9 tiến công các mục tiêu ở hướng đông và đông nam thị xã Tây Ninh, hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương mở rộng vùng giải phóng và tiêu hao sinh lực của lực lượng tổng trù bị và Lữ đoàn 1 bộ binh cơ giới Mỹ trong bước 2 của chiến dịch.

Ngày 12-9, Trung đoàn 88 của Sư đoàn 5 đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 Lữ đoàn 2 Mỹ, tiêu diệt 46 xe tăng, bắn rơi 6 máy bay. Ngày 14-9, Trung đoàn 88 tiếp tục tổ chức chống càn, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn bộ binh Mỹ, bắn cháy 2 máy bay. Ngày 16-9, Trung đoàn 5 tổ chức lực lượng tập kích cụm địch ở phía Bắc sân bay Bến Củi, đánh thiệt hại 2 đại đội bộ binh cơ giới hỗn hợp Mỹ. Đêm 17-9, Trung đoàn 5 tiếp tục dùng hỏa lực của 1 đại đội cối 82mm và 1 đại đội H12 tập kích sân bay Bến Củi lần thứ 2, gây cho địch nhiều thiệt hại. Từ ngày 19-9, địch liên tiếp đổ trực thăng càn quét vào khu vực Bàu Me, Bời Lời, Đồng Lớn. Trước diễn biến tình hình trên, Bộ Chỉ huy Sư đoàn điều Trung đoàn 33 đang tập kết chuẩn bị đánh các cụm địch đóng dã ngoại và đánh phá giao thông tại khu vực Cầu Kho, ngã ba Đất Sét, Trảng Dài cơ động về hướng bắc tập kích tiêu diệt quân kỵ binh không vận Mỹ ở Bàu Me. Ngày 20-9, Trung đoàn đã kịp thời nổ súng tiêu diệt một đại đội Mỹ khi chúng vừa đổ xuống bàu Tà Keng, diệt nhiều tên địch, bắn cháy 2 trực thăng. Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 88 tổ chức trận địa phục kích tại Đồng Lớn, tiêu diệt gọn 1 đại đội địch. Đại đội cối 82mm của Trung đoàn phối thuộc với Tiểu đoàn 9 chỉ với 45 quả đạn và 2 khẩu đội đã tổ chức tập kích tiêu diệt 1 đại đội kỵ binh không vận địch khi chúng vừa đổ quân xuống Đông Nam Đồng Lớn, diệt và làm bị thương hàng chục tên địch.

Sau 2 lần ta liên tiếp tập kích tiêu diệt địch tại sân bay Bến Củi, ngày 17-9, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ tổ chức 2 tiểu đoàn bộ binh và 167 xe cơ giới tiến hành giải tỏa càn quét dọc trục Đường số 2 và khu vực xung quanh sân bay Bến Củi. Trung đoàn 5 tiến công tiêu diệt lực lượng gồm 2 đại đội bộ binh, 100 xe cơ giới, 1 đại đội cối 106,7mm, bắn rơi 2 máy bay trực thăng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Trận thắng giòn giã lần thứ 3 tại sân bay Bến Củi của Trung đoàn 5 đã kết thúc đợt 3 tổng tiến công trên hướng Tây Ninh của Sư đoàn.

Tổng kết đợt 3 tổng tiến công, từ 17-8 đến 23-9-1968, Sư đoàn 5 đã tổ chức đánh 19 trận quy mô cấp trung đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 6 tiểu đoàn địch, bắn cháy 590 xe cơ giới các loại, phá hủy 24 khẩu pháo 105mm và cối 106,7mm, bắt 5 tù binh, thu 163 súng các loại và nhiều trang bị chiến tranh. Với nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt để chiến đấu, liên tục đánh thắng, liên tục lập công xuất sắc, Sư đoàn 5 đã được Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền tặng cờ thưởng luân lưu "Quyết chiến quyết thắng" và Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhì. Các Trung đoàn 5, Trung đoàn 88, Trung đoàn 33, Tiểu đoàn 22 ĐKZ, Tiểu đoàn 31 và Trung đoàn 4 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Những thành tích, chiến công, phần thưởng cao quý của các đơn vị trên đây trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là nguồn cổ vũ lớn lao, động viên cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn tiếp tục tiến lên chiến đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao trong chiến dịch mùa Xuân và chiến dịch Hè - Thu 1969 tại địa bàn vùng Đông và Đông Bắc Sài Gòn.




------------------------------------------------------------------
1. Cuối tháng 11-1967, Trung đoàn 88 được lệnh trở về trực thuộc Bộ Chỉ huy Miền hoạt động ở chiến trường Bắc Tây Ninh, Lộc Ninh.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 10:00:55 am
SƯ ĐOÀN BỘ BINH 9 TRONG CUỘC
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



Đại tá LÊ ANH TUẤN
Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 9 Quân đoàn 4


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một bản anh hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đồng thời để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự để vận dụng, phát triển trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Sư đoàn bộ binh 9 được thành lập ngày 2-9-1965 tại một khu rừng bên bờ Suối Nhung, căn cứ Mã Đà, Chiến khu D thuộc huyện Phước Thành (nay là xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), là một trong những đơn vị chủ lực đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Sư đoàn đã lập nên nhiều chiến công xuất sắc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế giúp Campuchia. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong xây dựng và chiến đấu, Sư đoàn đã được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý khác.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Sư đoàn bộ binh 9 đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân viễn chinh ra khỏi miền Nam, chấp nhận thương lượng để có thể kết thúc chiến tranh trong danh dự.

Thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của Trung ương Đảng, Sư đoàn 9 và các đơn vị chủ lực Miền được giao nhiệm vụ tiến công vào các căn cứ địch ở vòng ngoài, kiềm chế và ngăn chặn các sư đoàn Mỹ và quân đội Sài Gòn, không cho chúng đưa lực lượng về Sài Gòn, bảo đảm phía sau cho lực lượng vũ trang các phân khu hoạt động.

 Quán triệt mệnh lệnh của cấp trên, cuối tháng 12-1967, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bắt đầu hành quân hướng về đồng bằng. Trên đường hành quân, Sư đoàn trưởng Tạ Minh Khâm giao nhiệm vụ cho các trung đoàn vừa hành quân vừa chiến đấu để bảo đảm đúng kế hoạch thời gian quy định.

Đêm mồng 1-1-1968, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 phối hợp chặt chẽ, hành quân chiếm lĩnh vị trí tập kết bí mật, an toàn, nổ súng diệt gọn cụm chốt của quân Mỹ ở ngã ba Bà Chiêm, mở đường cho các đơn vị bạn vượt qua tuyến phòng thủ phía bắc Sài Gòn của địch. Sau chiến thắng ở ngã ba Bà Chiêm, toàn Sư đoàn tranh thủ thời gian huấn luyện, bổ sung cách đánh ở làng mạc, ruộng đồng trống trải, tập đánh xe tăng, xe M113, tổ chức nguỵ trang, giấu quân, đào công sự... Cùng với các hoạt động huấn luyện, các đơn vị đều tổ chức sinh hoạt chính trị, xây dựng quyết tâm chiến đấu, học tập 7 điều căn dặn của Bác Hồ cho cán bộ, chiến sĩ. Để bảo đảm tuyệt đối giữ bí mật cho đến giờ nổ súng, Sư đoàn trưởng Tạ Minh Khâm và Chính ủy Nguyễn Văn Tòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho các trung đoàn trưởng và chính ủy.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (tức đêm mồng 1 Tết Mậu Thân), quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở nhiều thành phố, thị xã miền Nam. Tại Sài Gòn - Gia Định, bộ đội đặc công, biệt động đồng loạt tiến công các cơ quan đầu não quan trọng nhất của Mỹ - chính quyền Sài Gòn như Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Biệt khu Thủ đô, Đài Phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất... Các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu tiến công các vị trí địch ở vùng ven. Một số đơn vị vượt qua tuyến ngăn chặn của địch tiến sâu vào nội thành, phối hợp chiến đấu với bộ đội đặc công và biệt động. Phối hợp với các lực lượng, các sư đoàn chủ lực Miền tiến công các căn cứ quân sự, Sở chỉ huy các sư đoàn quân Mỹ - quân đội Sài Gòn ở vòng ngoài, kiềm chế không cho chúng đưa lực lượng về nội thành.

Đối với Sư đoàn 9, Trung đoàn 1 được giao nhiệm vụ tiến công Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Để bảo đảm nổ súng đúng thời gian theo kế hoạch, Tiểu đoàn 3 được lệnh cơ động trước.

Trung tâm huấn luyện Quang Trung là một căn cứ quân sự lớn của Mỹ - quân đội Sài Gòn, cách nội thành Sài Gòn hơn 10km về phía tây bắc. Ở đây thường xuyên có khoảng 16.000 tân binh; xung quanh căn cứ có hệ thống bố phòng cẩn mật, chắc chắn, mạng đường cơ động thuận lợi và có nhiều căn cứ không quân, trận địa pháo binh yểm trợ hoả lực.

Ngày 31-1-1968, Phó Chính ủy Trung đoàn 1 Nguyễn Văn Sơ trực tiếp chỉ huy một bộ phận của Tiểu đoàn 3, luồn lách qua tuyến phòng thủ của địch ở vùng ven, áp sát mục tiêu. Mặc dù đại bộ phận đơn vị chưa kịp cơ động đến, trong khi đó, lực lượng địch lại quá đông, vũ khí, trang bị hiện đại, nhưng để phối hợp chung với toàn chiến trường, đồng chí Nguyễn Văn Sơ quyết định cho các mũi đồng loạt xung phong. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt 5 giờ, bộ đội ta vừa tổ chức đánh bộ binh, bắn máy bay, vừa vận chuyển thương binh, tử sĩ về phía sau. Kết thúc đợt tiến công vào Trung tâm huấn luyện Quang Trung, ta đã tiêu diệt 300 tên địch, phá hủy trung tâm phát thanh của địch. Với lực lượng rất chênh lệch, nhưng cán bộ, chiến sĩ Đại đội 12 Tiểu đoàn 3 đã trụ bám đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Phó Chính ủy trung đoàn Nguyễn Văn Sơ vừa động viên các chiến sĩ, vừa tổ chức, chỉ huy chiến đấu giữ vững trận địa vừa cầm súng chiến đấu 1. Gương chiến đấu của đồng chí đã cổ vũ tinh thần, ý chí chiến đấu kiên cường của cán bộ, chiến sĩ Đại đội 12 trong bám trụ trận địa, kiềm chế quân địch, không cho chúng đưa lực lượng tân binh địch ở đây về Sài Gòn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Theo kế hoạch, nhiệm vụ của Trung đoàn 1 là tiến công Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Tuy nhiên, do không kịp cơ động nên chỉ có Tiểu đoàn 3 nổ súng theo đúng kế hoạch. Trong khi đó trước sự tiến công của Quân giải phóng, địch tung lực lượng từ Thới Tam Thôn (Hóc Môn) ra chi viện, giải toả. Trước tình hình trên, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 1 tổ chức lực lượng đánh địch chi viện. Sau 10 ngày chiến đấu liên tục (từ ngày 4 đến 13-2-1968) với tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, táo bạo, linh hoạt, lại được sự đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân địa phương, Trung đoàn 1 khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, loại khỏi vòng chiến đấu 856 tên địch, bắn rơi 23 máy bay, bắn hỏng 56 xe quân sự, phá hủy 2 khẩu pháo và thu 115 khẩu súng các loại.

Nhằm ngăn chặn sự cơ động ứng cứu và co cụm của địch, Trung đoàn bộ binh 2 được giao nhiệm vụ chốt chặn trên đường số 22, đoạn giữa Quang Trung với Hóc Môn qua xã Tân Phú Trung huyện Củ Chi, ngăn chặn Sư đoàn 25 quân đội Sài Gòn ở Đồng Dù.

Dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, lợi dụng địa hình, địa vật để giấu quân và cơ động lực lượng, tranh thủ củng cố công sự, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Năm Thông đã kiên cường chốt, chặn và đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa. Có ngày, từ 3 giờ sáng đến 6 giờ chiều, địch huy động 170 lượt xe tăng, xe bọc thép, mở liên tiếp nhiều đợt phản kích. Bom, pháo địch phá nát các vườn cây trái, phá hủy nhiều nhà dân, giết chết hàng chục dân thường, nhưng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 đã chiến đấu ngoan cường, giải phóng, làm chủ đoạn Đường 1 đi qua xã Tân Phú Trung cho đến khi có lệnh rút khỏi trận địa.

Trong khi đó, hai Tiểu đoàn 5 và 6 phối hợp với du kích địa phương diệt và bức hàng một số đồn bảo an, dân vệ ở vùng ven căn cứ Đồng Dù. Cán bộ chỉ huy các đội du kích cùng phối hợp chỉ huy với các tiểu đoàn, thông báo kết quả nắm địch của du kích và dẫn đường cho bộ đội cơ động chiến đấu.

Bị ta uy hiếp mạnh, lực lượng địch trong căn cứ Đồng Dù yêu cầu máy bay ném bom và liên tục bắn pháo vào các khu vực nghi ngờ có bộ đội ta. Có lần trận địa Tiểu đoàn 5 bị trúng bom địch, 70 cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh.

Phát hiện quân địch tập trung lực lượng chuẩn bị mở cuộc phản kích lớn, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 5 cùng với cấp ủy đảng địa phương tổ chức cho nhân dân sơ tán và chuẩn bị phương án kiên quyết trụ bám đánh địch. Tình huống chiến đấu rất khẩn trương. Trụ lại đánh địch, tình huống chiến đấu sẽ vô cùng ác liệt vì địch có ưu thế về quân số, hỏa lực phi pháo và cơ giới. Nhưng nếu giành thắng lợi sẽ có tác động ảnh hưởng chính trị tốt đối với nhân dân vùng địch tạm chiếm, góp phần thực hiện mục tiêu của cuộc tiến công chiến lược. Với quyết tâm và sự nhất trí cao, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đã phân công cán bộ xuống từng tiểu đội quán triệt quyết tâm đến từng chiến sĩ, đồng thời tổ chức cho bộ đội đào đắp công sự, bố trí lại lực lượng sẵn sàng đánh địch.

Ngày hôm sau, trận đánh diễn ra ác liệt từ sáng sớm. Sau mỗi lần phản kích thất bại, quân địch lại gọi máy bay đến ném bom, gọi pháo bắn vào trận địa ta. Nhiều công sự bị phá hủy, nhà dân bị cháy, cây cối bị gãy gập. Nhưng quân địch vẫn không thể đột phá được trận địa của Tiểu đoàn 5. Trong đợt tiến công cuối cùng của địch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn mưu trí chờ cho một số xe địch lọt vào hẳn khu vực trận địa đã bố trí mới tập trung lực lượng đánh bật bộ binh địch ra xa, tạo điều kiện cho tổ diệt cơ giới bắn cháy 2 xe, bắt 1 xe.

Cùng thời gian, trên hướng bắc, đông bắc Sài Gòn, Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Chín Mây và Chính ủy Hai Hêm chỉ huy tiến công chi khu quân sự Thủ Đức, Tổng kho Long Bình và khu vực cầu Băng Ky (Bình Thạnh), đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thủy quân lục chiến ngụy.

Sau đợt 1, theo quyết định của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, Sư đoàn dãn lực lượng ra để củng cố, bổ sung quân số, trang bị; đồng thời tiếp tục giữ một số bàn đạp ở phía bắc Sài Gòn, chuẩn bị các đợt tiến công mới.

Tháng 4-1968, Hội nghị Trung ương Cục chủ trương mở đợt tiến công thứ hai trong mùa Hè 1968, nhằm tiếp tục tiến công địch và phát động quần chúng nổi dậy ở các đô thị.

Trong đợt 2 này, Sư đoàn chuyển về hướng tây và tây nam Sài Gòn, dựa vào vùng nông thôn các tỉnh Long An, Chợ Lớn làm bàn đạp tiến vào nội đô. Khác với đợt 1, các đơn vị đều gặp nhiều khó khăn do không còn yếu tố bí mật bất ngờ; địch đã tăng cường 50 tiểu đoàn về Sài Gòn, tổ chức ba tuyến phòng thủ tương đối chặt chẽ. Trong khi đó, quân số, trang bị của các đơn vị trong Sư đoàn chưa kịp bổ sung. Mặt khác, thế phối hợp giữa lực lượng bên trong với bên ngoài thành phố và các tỉnh trên toàn miền cũng không được như đợt 1. Hướng tiến công mới của Sư đoàn là vùng đồng bằng trống trải, dày đặc đồn bốt địch. Để tiếp cận mục tiêu, bộ đội phải lội qua nhiều đầm lầy, kênh rạch, vượt qua nhiều đồn, bốt và tuyến ngăn chặn của địch. Chủ động khắc phục khó khăn, quyết tâm đánh địch, đêm mồng 5-5-1968, các đơn vị của Sư đoàn đã cơ động và tập kết tại các vị trí quy định trong nội thành.

Ngày 6-5-1968, Tiểu đoàn 1 và Đại đội 7 (Tiểu đoàn 2), Trung đoàn 1 được lệnh nổ súng đánh chiếm trường đua Phú Thọ. Tiếp đó, trong những ngày từ 6 đến 8-5, Trung đoàn 1 phối hợp với Tiểu đoàn 2 (Phân khu 2) đánh lui nhiều đợt phản kích của các tiểu đoàn 33, 35, 38 biệt động ngụy có xe tăng, máy bay yểm trợ ở các khu vực Minh Phụng, Đường 46, trường đua Phú Thọ... Chiến sĩ Nguyễn Hồng Phúc, lần đầu tiên ra trận đã bắn 4 quả đạn B40, diệt 4 xe tăng địch. Chiến sĩ mới Lê Trung Lâm sử dụng trung liên RPĐ diệt 45 tên. Trong 4 ngày chiến đấu ở nội thành, Trung đoàn 1 đã diệt 200 tên Mỹ, ngụy, bắn cháy 31 xe tăng, xe bọc thép, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Nhưng do lực lượng quá chênh lệch, điều kiện chiến đấu khó khăn, Trung đoàn 1 được lệnh rút ra khỏi nội thành về hoạt động ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn (đêm mồng 9-5).

Trong khi đó, cũng vào ngày 6-5, Trung đoàn 2 vượt qua bưng Vĩnh Lộc và các tuyến phòng thủ của địch, tiến vào khu vực Bà Quẹo, ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ Hoà, sân vận động Cộng Hòa (có đơn vị vào đến đường Sư Vạn Hạnh). Dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Quách Thanh Quang, Chính trị viên Trần Long, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 bám trụ ở khu nghĩa địa gần ngã tư Bảy Hiền, đánh lui hàng chục đợt phản kích của Tiểu đoàn 7 dù ngụy có xe tăng và máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ, diệt tên đại tá cảnh sát Lưu Kim Cương. Với khẩu trung liên và lựu đạn, chiến sĩ mới Đặng Văn Tuyết ở Đại đội 1, Tiểu đoàn 4 diệt hàng chục tên địch trên đường phố. Ngày 7-5, Tiểu đoàn 4 được lệnh rút ra phía tây Bà Quẹo, sau đó cơ động về gần bưng Vĩnh Lộc, Đức Hòa (Long An).

Ngày 8-5, được trinh sát báo tin một cụm bộ binh và cơ giới Mỹ chốt ở xã Mỹ Hạnh (Đức Hòa, Long An), Trung đoàn trưởng Trương Văn Đàng giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 6 do Tiểu đoàn trưởng Trịnh Hồng Ngọc và Chính trị viên Đoàn Phúc Hạnh chỉ huy trận vận động tập kích. Mặc dù cự ly vận động xa, phải vượt qua ruộng nước, địa hình trống trải, nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với 84 cán bộ, chiến sĩ được trang bị B40, Tiểu đoàn 6 đã đánh trận vận động tập kích xuất sắc, phá hủy và hỏng 96 xe (chủ yếu là xe tăng M41, xe bọc thép M113), 12 khẩu pháo, bắn cháy 7 máy bay lên thẳng. Hai ngày sau (ngày 10-5), Tiểu đoàn 6 lại vận động tập kích cụm quân địch ở Vĩnh Lộc, phá hủy và hỏng 54 xe, 13 khẩu pháo của địch. Trung đội trưởng Lê Sơn Hà, Đại đội 13 lập công xuất sắc, được tặng danh hiệu "Dũng sĩ diệt cơ giới".

Cuối tháng 5-1968, Trung đoàn 2 được lệnh rút ra đánh địch ở vùng ven thành phố. Mặc dù quân số và trang bị của các đơn vị đều bị tiêu hao, thế tiến công suy giảm nhiều, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ, anh dũng chiến đấu. Có đại đội chỉ với 25 cán bộ, chiến sĩ trong trận vận động tập kích cụm cơ giới Mỹ ở Xuân Thới Đông, đã phá hủy 31 xe tăng, xe bọc thép, 3 khẩu pháo, loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 tên địch.

Trong những ngày đầu đợt 2, Trung đoàn 3 bị quân địch chặn đánh quyết liệt trên các cánh đồng nước ở khu vực huyện Bình Chánh nên đã không kịp vào tiếp ứng cho lực lượng của Phân khu 2 theo kế hoạch. Nhưng sau đó (từ ngày 25-5 đến ngày 18-6) Trung đoàn 3 lại vào được nội thành theo hướng tây. Đêm 25-5, Tiểu đoàn 8 cùng một bộ phận lực lượng Phân khu 2 tiến công Phú Lâm, Phú Định, Cầu Tre. Đêm 28-5, Tiểu đoàn 7 được lệnh vào thay thế Tiểu đoàn 8, nhưng khi vào đến Quận 6, Tiểu đoàn 8 đã chiến đấu quyết liệt với 5 tiểu đoàn địch (3 tiểu đoàn biệt động quân 35, 36, 38, tiểu đoàn 2 thủy quân lục chiến, 2 đại đội cảnh sát dã chiến). Ngày 7-6, Trung đoàn 3 được lệnh rút ra khỏi nội thành.

Trong đợt 2 này, Sư đoàn làm nhiệm vụ chiến đấu trên nhiều đường phố Sài Gòn. Do ta chậm chuyển hướng và cách đánh sau đợt 1, đợt tiến công thứ hai diễn ra khi địch đã tăng cường lực lượng và tổ chức ngăn chặn trên tất cả các hướng. Trên 5.000 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn đã anh dũng ngã xuống trên đường phố, để lại tình cảm tiếc thương trong lòng người dân Sài Gòn.

Cuối tháng 6-1968, toàn bộ lực lượng còn lại của Sư đoàn được lệnh rút lên sát biên giới Việt Nam - Campuchia. Nhận định tình hình đã thay đổi, không thể đưa chủ lực đánh tiếp vào Sài Gòn và các thị xã như ý định, tháng 7-1968, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định chuyển hướng hoạt động, huy động phần lớn các đơn vị chủ lực Miền mở chiến dịch tiến công địch trên hướng tây bắc và bắc Sài Gòn đánh vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, kéo lực lượng địch ở tuyến giữa và tuyến trong ra, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang các phân khu hoạt động.

Ở Tây Ninh, Sư đoàn bộ binh cơ giới 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, bố trí Lữ đoàn 1 ở khu vực ven thị xã, trong đó 1 tiểu đoàn ở Trảng Lớn, 1 tiểu đoàn ở Trà Phí, 1 tiểu đoàn ở Chà Là; Lữ đoàn 3 đứng ở khu vực Dầu Tiếng, Bến Củi; Lữ đoàn 2 (thê đội 2) đứng ở Củ Chi.

Mở màn chiến dịch, đêm 17-8-1968, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 3 tiến công cụm quân Mỹ ở Trà Phí cách thị xã Tây Ninh 5 km về phía Bắc. Các mũi tiến công của trung đoàn giữ bí mật khi chiếm lĩnh trận địa, lợi dụng lúc pháo bắn để tiếp cận, đột phá hướng chủ yếu chính xác và phát huy tốt các loại hỏa khí diệt tăng, diệt lô cốt địch. Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Quân Mỹ chết và bị thương hơn 400 tên, 33 xe tăng, xe bọc thép, sáu khẩu pháo 105, hai khẩu cối 106,7 mm bị phá hủy. Cùng ngày, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 tập kích cụm quân Mỹ ở bắc Trảng Lớn, loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên. Chiến dịch mở đầu khá tốt, nhưng do sức tiến công của ta chưa đủ mạnh, một số trận không dứt điểm, địch không ra ứng cứu giải tỏa nên Sư đoàn và các đơn vị bạn không có điều kiện đánh địch ngoài công sự như ý định và kế hoạch chiến dịch.

Ngày 19-8, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Trung đoàn 3 (thiếu Tiểu đoàn 7), tập kích quân địch ở Trà Phí lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu 600 tên, phá hủy 82 xe quân sự, 10 khẩu pháo, bắn rơi 4 máy bay. Ngày 22 và 26-8, Trung đoàn 2 tập kích "ấp chiến lược" Bến Sỏi và cụm quân Mỹ đóng dã ngoại ở tây Bến Sỏi, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Từ ngày 10 đến ngày 28-9, chiến dịch chuyển sang đợt 2. Hướng chủ yếu (Tây Ninh), Trung đoàn 1 phối hợp với Trung đoàn 2 tập kích cụm quân Mỹ ở Lâm Vô, Bến Sỏi, buộc quân Mỹ phải tăng viện bằng cơ giới và đổ bộ đường không bằng máy bay lên thẳng, tạo điều kiện cho Trung đoàn 3 và Trung đoàn 88 vận động phục kích, diệt cơ giới và sinh lực địch trên đường 22, 26, liên tỉnh lộ 4, tập kích địch ở Bến Củi, Bến Sắn. Đêm 19-9, Trung đoàn 2 cài thế, dùng 1 tiểu đoàn diệt đồn Tàbăngrôbon do 1 đại đội bảo an ngụy đóng giữ, dụ quân địch lên cứu viện, tạo điều kiện cho bộ phận lớn lực lượng của trung đoàn vận động tập kích, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 2 đại đội biệt kích ngụy, bắn rơi chiếc máy bay lên thẳng chở Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh số 1 "Anh cả đỏ" Mỹ.

Đêm 22-12-1968, Trung đoàn 2 phối hợp với du kích địa phương vận động tập kích đánh thiệt hại nặng cụm quân Mỹ vừa đóng quân dã ngoại ở Bến Cầu. Đêm 24-1-1969, Trung đoàn 2 tiếp tục tiến công ấp chiến lược Trà Cao và sau đó trong nhiều ngày, tại khu vực Trà Cao - Gò Ngãi - ngã ba Bà Xẩm huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Trung đoàn đã kiên cường bám trụ, liên tục thực hiện 11 trận tập kích cụm tiểu đoàn quân Mỹ khi chúng vừa đổ quân đóng chốt tại Trà Cao; tiêu diệt, tiêu hao nhiều đơn vị của Mỹ - quân đội Sài Gòn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Sư đoàn đã đánh 524 trận, làm thương vong 31.544 quân Mỹ và quân Sài Gòn; đánh thiệt hại 17 tiểu đoàn; phá hủy 1.441 xe quân sự; bắn rơi và phá hủy 394 máy bay các loại.

Mặc dù chưa hoàn thành trọn vẹn các nhiệm vụ được phân công, nhưng bằng xương máu, lòng quả cảm và quyết tâm chiến đấu triệt để, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 9 đã trực tiếp nhận nhiệm vụ bám đánh và chiến đấu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, góp phần cùng quân và dân cả nước lập nên kỳ tích: đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt căn bản của chiến tranh.

Với truyền thống của một đơn vị anh hùng, có bề dày kinh nghiệm của một đội quân chiến đấu, công tác, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ binh 9 đã và đang viết tiếp những trang sử mới, xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và Quân đoàn 4 thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




----------------------------------------------------------------
1. Với những thành tích đạt được, ngày 20-12-1969, đồng chí Nguyễn Văn Sơ được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 02:40:09 pm
QUÂN VÀ DÂN TỈNH LONG AN
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY LONG AN


Với 1,4 triệu quân, đế quốc Mỹ và lực lượng tay sai đã không thực hiện được mục tiêu "tìm diệt - bình định" trong cục diện chiến trường miền Nam vẫn chưa chuyển biến có lợi cho Mỹ. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc cũng không ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương chiến lược cho chiến trường miền Nam. Chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho nội bộ giới cầm quyền Mỹ bị phân hóa và chia rẽ sâu sắc. Phong trào đấu tranh chống Mỹ, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lan rộng trên thế giới và trong lòng nước Mỹ . Tại Sài Gòn, "tham nhũng tràn lan, chính quyền chỉ thực sự kiểm soát các lõm, mục nát từ trong cơ cấu. Mặt trận Dân tộc Giải phóng tiếp tục kiểm soát nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam... quân đội Việt Nam Cộng hòa mệt mỏi, thụ động có xu hướng thỏa hiệp...".

Tình hình thế giới và trong nước đã tạo điều kiện cho Đảng ta phân tích và hình thành những chiến lược lớn. Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, diễn ra đồng loạt trên toàn miền Nam, tiến công chủ yếu vào các sào huyệt, căn cứ trung tâm của địch ở thành thị, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Theo chỉ thị của Trung ương Cục, địa bàn tỉnh Long An và một số quận, huyện hướng tây nam Sài Gòn - Gia Định được sáp nhập thành 2 phân khu, lấy quốc lộ 4 (quốc lộ 1 ngày nay) làm ranh giới. Phân khu 2 gồm các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Thủ Thừa, Bình Chánh, Tân Bình... có nhiệm vụ thực hiện tiến công từ hướng tây bắc vào các mục tiêu: Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất. Phân khu 3 gồm các huyện Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ, các quận 4, 7, Nhà Bè... tấn công vào tây nam Sài Gòn với mục tiêu quan trọng là Tổng nha Cảnh sát, Bộ Tư lệnh hải quân và hỗ trợ quần chúng thành phố nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành chính quyền. Tỉnh Kiến Tường được Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 8 giao nhiệm vụ tiến công dứt điểm thị xã Mộc Hóa, hỗ trợ phát động quần chúng nổi dậy giải phóng quận lỵ, nông thôn và bảo đảm hành lang vận chuyển từ biên giới tới vùng trọng điểm Mỹ Tho.

Theo chỉ đạo chiến lược của Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền, Đảng bộ Phân khu 2, Phân khu 3 tiến hành công tác chuẩn bị cho các nhiệm vụ đảm nhiệm tấn công trên một nửa địa bàn thành phố với phần lớn các mục tiêu quân sự, chính trị quan trọng, đồng thời bám sát vùng ven, chuẩn bị cho các đợt tiến công tiếp theo vào thành phố, chiến đấu, bảo vệ vùng giải phóng. Đây là những nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng bộ và quân, dân hai phân khu. Trên thực tế, quân và dân Long An chưa thực hành và tích lũy được kinh nghiệm chiến đấu trong thành phố. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng bộ cùng với quân và dân hai phân khu đã tích cực, bí mật, khẩn trương triển khai các mặt công tác, đảm bảo an toàn tuyệt đối, đúng thời gian quy định.

Công việc đầu tiên là các phân khu nhanh chóng ổn định tổ chức, nắm chắc lại các tổ chức đảng và cơ sở cách mạng, cơ sở quần chúng cách mạng trong nội thành, đây là mũi tấn công có vai trò quyết định đối với đợt tổng khởi nghĩa. Đồng thời, tranh thủ tận dụng cơ sở binh vận nội thành kết hợp bản đồ của thành phố, xác định rõ các mục tiêu tiến công.

Nhằm đảm bảo lực lượng cho mỗi phân khu từ 6 - 7 tiểu đoàn, các phân khu ủy quyết định huy động phần lớn lực lượng của bộ đội địa phương các huyện, du kích các xã và thanh niên mới nhập ngũ2. Đến cuối năm 1967, quân số cũng như quân trang đã được trang bị đầy đủ và tương đối mạnh. Công tác bảo đảm vật chất, hậu cần, kỹ thuật cũng được tích cực triển khai trong điều kiện khó khăn, gian khổ và nguy hiểm. Địa hình Long An trống trải, sình lầy, bị chia cắt, trong khi đó quãng đường cơ động dài (hơn 80km) lại bị phong tỏa, kiểm soát gắt gao . Nhận thức được những khó khăn cũng như xác định vai trò to lớn của nhân dân, bộ chỉ huy các phân khu đã chủ động phối hợp với các cơ quan thành lập hội đồng cung cấp, cùng huy động, động viên nhân dân các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Thủ Thừa, Bến Lức, Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí. Hàng chục ngàn người dân, hàng ngàn gia đình yêu nước của tỉnh đã tham gia vào các đội tải lương thực, tải đạn trong nhiều tháng. Phát hiện các hoạt động của ta, địch tổ chức đánh phá các tuyến vận chuyển (bắn pháo, ném bom, đổ biệt kích, thả máy ghi tiếng động, rải chất độc hóa học...). Tuy nhiên, các tuyến vận chuyển của ta vẫn kiên trì và hoạt động hiệu quả.

Tại Kiến Tường, nhằm tăng cường các vùng 4, 6, 8, Khu ủy chỉ định bổ sung cho Kiến Tường 5 đồng chí tỉnh ủy viên trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy. Tiểu đoàn 504 tập trung kiện toàn, trong đó chú trọng xây dựng, củng cố lực lượng đấu tranh chính trị, rà soát các cơ sở binh vận và móc nối liên lạc với các cơ sở nội tuyến. Trước những diễn biến mới và yêu cầu của chiến trường, Quân khu 8 quyết định điều Tiểu đoàn 504 tham gia vào đội hình của quân khu tăng cường lực lượng cho trọng điểm 1 (thành phố Mỹ Tho). Để bảo đảm quân số, Tỉnh ủy Kiến Tường đã nhanh chóng huy động, rút lực lượng từ bộ đội các vùng 4, 6, 8 và du kích đã qua chiến đấu thành lập hai đại đội bộ binh mang phiên hiệu Tiểu đoàn 504B, củng cố lại hai đại đội đặc công, đội biệt động thị xã Mộc Hóa, đại đội pháo cối. Mục tiêu chiến lược là Dinh Tỉnh trưởng, Tỉnh đoàn bảo an, Ty Cảnh sát, Đài Phát thanh, sân bay...

Vào lúc 3 giờ sáng mùng 1 Tết âm lịch (tức ngày 30-1-1968), từ chiến trường trọng điểm Chợ Lớn - Gia Định, các phân khu nhận lệnh chiến đấu. Mặc dù chưa có sự thống nhất thời gian hiệp đồng tác chiến nhưng các phân khu đã chủ động khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm mệnh lệnh, khẩn trương tập trung binh lực hành quân tiến công vào Sài Gòn.

Phân khu 2, sau khi vượt 20km đường bộ, cánh thứ nhất gồm Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 12 đặc công chia làm hai mũi đánh vào đầu đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy được một số máy bay, diệt được nhiều tên lính nhảy dù. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng, các đơn vị của ta phải rút ra bám trụ và phản kích đẩy lui các đợt tấn công quyết liệt của địch ở khu vực ngã ba Bà Quẹo đến cầu Tham Lương. Cánh thứ hai gồm Tiểu đoàn 6 Bình Tân và Tiểu đoàn 269 đã thọc sâu vào khu vực Phú Thọ Hòa, đánh chiếm đường Trần Quốc Toản, trụ lại trên một khu vực khá rộng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Sau một tuần bám trụ, do thiếu tiếp tế lương thực, đạn dược, các đơn vị phải lui về vùng ven phía tây Sài Gòn.

Phân khu 3, do thiếu lực lượng dẫn đường trong khi phải vượt qua nhiều sông rạch nên đến rạng sáng hôm sau mới cơ động đến vùng ven thành phố phối hợp với các lực lượng tiến hành tiến công vào các quận 8, 4 và Nhà Bè. Tuy nhiên, do thiếu vũ khí, đạn dược nên các tiểu đoàn rút ra vùng ven chiến đấu chống càn và chờ lệnh. Phối hợp với các lực lượng, Phân khu 6 tiến công vào nội thành đánh chiếm gây thiệt hại nhiều mục tiêu quan trọng như Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tòa Đại sứ, khu Hậu cần.

Tại Kiến Tường, ngày 31-1-1968, nhận lệnh của Quân khu, Ban Chỉ huy thống nhất của tỉnh triển khai theo hai hướng cánh Đông và cánh Tây tiến công vào thị xã Mộc Hóa. Do gặp phi pháo của lực lượng hành quân Cửu Long 2 của địch, nên đến giờ G cánh Đông vẫn chưa áp sát được các mục tiêu. Về phía cánh Tây, bộ phận đặc công và trinh sát đã bám sát mục tiêu sân bay. Tuy nhiên, do chưa có tín hiệu hiệp đồng từ cánh Đông, trong khi đó lực lượng phòng thủ của địch đã phát hiện các hoạt động của ta nên đã lập tức đưa pháo, lực lượng bảo an bao vây. Trước sự chống cự quyết liệt của địch, các đơn vị đã chủ động tổ chức lực lượng phản kích và rút dần về điểm tập kết. Ngày 2-2-1968, lực lượng cánh Đông tiếp tục nổ súng, tấn công vào các mục tiêu nhà lao, Dinh tỉnh trưởng và Tòa hành chính. Tại chiến trường trọng điểm Mỹ Tho, lực lượng Tiểu đoàn 504A sau khi xuất sắc tham chiến nhiều trận đánh giành thắng lợi, được lệnh trở về Kiến Tường đánh địch, bảo vệ hành lang biên giới và củng cố lực lượng chuẩn bị cho các đợt tiến công tiếp theo.

Sau đợt 1, các phân khu 2, 3 nhận lệnh bám vùng ven thành phố sẵn sàng tiến công đợt 2. Phân khu 2, Phân khu 3 tập trung lãnh đạo tư tưởng cho lực lượng vũ trang, đúc rút kinh nghiệm, bài học của đợt 1, động viên bộ đội giữ vững tinh thần chiến đấu, đồng thời phải chiến đấu chống lại các đợt càn ở các vùng ven. Tuy nhiên, các đơn vị vẫn đứng vững ở những vị trí quy định và sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Thực hiện yêu cầu "đưa lực lượng tiến công thọc sâu vào nội đô Sài Gòn, diệt địch, trụ lại đánh địch phản kích càng sâu càng tốt" , đêm 5-5-1968, Phân khu 2, Phân khu 3 nhận mệnh lệnh tiến công đợt 2 vào nội thành Sài Gòn. Trên hướng Phân khu 2, cánh thứ nhất phối hợp với Sư đoàn 9 tiến về Bộ Tổng Tham mưu tiêu diệt nhiều tên rồi lui về trụ lại khu vực Bà Quẹo. Cánh thứ hai, Trung đoàn 2 tấn công theo hướng Phú Thọ Hòa, chiếm đường Trần Quốc Toản, sân vận động Cộng Hòa. Hướng Phân khu 3, lực lượng của ta được chia thành hai cánh: Cánh thứ nhất đánh vào khu vực Phú Lâm, Cầu Tre trụ một thời gian rồi rút về vùng ven; cánh thứ hai gồm Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An tiến công Hưng Long, Đa Phước đánh chiếm cầu Chữ Y, một phần đường Phạm Thế Hiển. Tại đây, nhiều cuộc giao tranh ác liệt diễn ra liên tục suốt 7 ngày đêm, ta và địch giành giật nhau từng ngôi nhà, góc phố, con đường.

Tại Kiến Tường, lực lượng chủ yếu là Tiểu đoàn 504 được kiện toàn tiến về thị xã Tân An. Tại đây, địch đã bố trí hệ thống phòng thủ dày đặc với 1 tiểu đoàn, 1 liên đoàn bảo an, 2 tổng đoàn dân vệ và các lực lượng thiết giáp, hải quân. Tiểu đoàn 504 đã tổ chức các trận đánh ở các vùng ven và giành được nhiều thắng lợi tại Châu Thành, Vĩnh Công, Bình Tâm, An Vĩnh Ngãi.

Kết thúc hai đợt tấn công trên hướng của Phân khu 2, Phân khu 3 và tỉnh Kiến Tường đã thực hiện được yêu cầu của cấp chiến lược đề ra là đưa lực lượng vào sâu thành phố, bám trụ được nhiều ngày, bảo vệ được đường hành lang chiến lược, tạo ra những khu vực chiến sự quy mô lớn, thu hút lực lượng địch khá đông và tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Nhìn toàn cuộc, tỉnh Long An có hai khu vực là vùng ven Sài Gòn và vùng biên giới, nên trong kháng chiến, nhất là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tỉnh có nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt là tiêu diệt sinh lực địch, đánh phá bình định, tạo bàn đạp tấn công Sài Gòn và bảo đảm hành lang chiến lược . Trên thực tế, quân và dân tỉnh Long An không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xuyên suốt đó, mà còn trực tiếp tham gia hai trong sáu mũi tiến công thuộc khu trọng điểm chiến lược, tấn công vào các cơ quan đầu não của địch tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Qua hai đợt lãnh đạo quân và dân Long An tham gia tổng tiến công với nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, bằng ý chí tự lực, tự cường, Đảng bộ tỉnh Long An đã hoàn thành xuất sắc ba trọng trách do Trung ương Cục và Quân ủy Miền giao: tổ chức lãnh đạo toàn quân, toàn dân thực hiện nhiệm vụ chiến lược tấn công thành phố Sài Gòn - Gia Định, lãnh đạo và động viên tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn, với nhiệm vụ bám trụ vùng ven nhằm thực hiện cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa và bảo đảm hành lang biên giới. Những đóng góp, hy sinh của quân và dân Long An là to lớn, thể hiện bản lĩnh, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí kiên cường và tinh thần chấp hành mệnh lệnh vô điều kiện vì thắng lợi chung; đồng thời, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc trong công tác lãnh đạo, phát động quân và dân tham gia đánh giặc, giữ nước. Đó là truyền thống quý báu của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xứng với danh hiệu "Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc" do Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trao tặng ngày 17-9-1967.

Thắng lợi của cuộc tiến công Xuân Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm giảm ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam tại hội nghị Pari. Từ kết quả thắng lợi trên, Đảng bộ tỉnh Long An đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc:

Một là, phát huy cao độ ý thức tổ chức chấp hành chủ trương, đường lối chung của Đảng để phục vụ theo yêu cầu chiến lược trong điều kiện phải bảo đảm tuyệt đối tính bí mật, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Long An chấp hành nghiêm chủ trương, sẵn sàng triển khai nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, khác nhau (tấn công các cứ điểm quan trọng, chấp nhận giao tranh với địch trên mặt trận đường phố). Sau khi kết thúc các đợt tấn công, lực lượng vũ trang tỉnh nhận lệnh bám trụ vùng ven, tổ chức các đợt chống càn của địch đồng thời củng cố, ổn định quân số và sẵn sàng tấn công theo chỉ đạo. Bằng quyết tâm, nghị lực và trí tuệ, Đảng bộ tỉnh Long An đã đoàn kết vượt qua khó khăn, tuân thủ sự chỉ đạo chung, tổ chức và lãnh đạo quân, dân phối hợp hiệu quả cùng các mặt trận khác, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, tinh thần chủ động của Đảng bộ và quân, dân tỉnh Long An được phát huy cao độ, biểu hiện cụ thể trên các mặt công tác chuẩn bị, đáp ứng quân số, chuyển tải khí tài, lương thực đợt tổng công kích, công tác vận động quần chúng nhân dân Phân khu 2, Phân khu 3 tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến lược là mốc son trong chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ Long An. Hàng trăm tấn vũ khí, lương thực đã được quân và dân Long An vận chuyển vượt qua nhiều chốt chặn, càn quét gắt gao của địch, đến các lõm căn cứ vùng ven, đưa vào nội thành. Tại Kiến Tường, trước giờ nổ súng 48 giờ, Đảng bộ tỉnh Kiến Tường đã động viên, huy động lực lượng bộ đội từ các vùng thành 2 đại đội bộ binh mang phiên hiệu Tiểu đoàn 504B cơ động đến chiến trường trọng điểm Mỹ Tho. Qua đó cho thấy, tình yêu quê hương đất nước, khát vọng tự do và tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu ngoan cường của quân và dân nếu được nuôi dưỡng, khơi gợi, động viên sẽ được phát huy cao độ trong những thời điểm cam go.

Ba là, công tác động viên tinh thần chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ hy sinh, tinh thần gương mẫu của đảng viên, chiến sĩ là bước trưởng thành trong chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ tỉnh Long An. Đảng bộ các phân khu 2, 3, Kiến Tường đã quán triệt tư tưởng chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, quần chúng cách mạng, động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ nỗ lực vượt bậc, sẵn sàng tham gia cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa đi đến giành thắng lợi quyết định. Từ đó, tạo ra khí thế cách mạng sôi nổi chưa từng có trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Long An. Tinh thần chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ, hy sinh, tinh thần gương mẫu của đơn vị, cán bộ, chiến sĩ được biểu hiện cụ thể qua các đợt hành quân, các đợt bám trụ vùng ven đầy gian khổ, tổn thất hoặc hăng hái tham gia các mặt trận có nhiều giao tranh ác liệt, mất mát, hy sinh. Nhiều trận đánh oanh liệt như trận cầu Chữ Y, trận Tân Sơn Nhất (Sài Gòn), trận kênh Nguyễn Văn Trỗi (Kiến Tường); nhiều tấm gương đơn vị lực lượng vũ trang anh hùng tiêu biểu như Tiểu đoàn 1 Long An, Tiểu đoàn 504; hàng trăm cán bộ, chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hy sinh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc tổng tiến công. Điều đó khẳng định sự trưởng thành trong lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ tỉnh Long An đi đến thắng lợi cuối cùng.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 02:53:44 pm
QUÂN VÀ DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một đòn tấn công chiến lược, bất ngờ, với quy mô lớn vào sào huyệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở các thành phố, thị xã lớn trên toàn miền Nam, mở ra một bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; cơ bản làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari để bàn việc chấm dứt chiến tranh. Trong cuộc Tổng tiến công này, cùng với quân dân miền Nam, quân và dân tỉnh Bình Dương đã có đóng góp quan trọng góp phần làm nên chiến thắng trên mặt trận miền Đông Nam Bộ.

Theo tổ chức mới, địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) thuộc 2 phân khu: 1 và 5; trong đó, Phân khu 5 hướng bắc Sài Gòn gồm các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Châu Thành (bao gồm các xã Chánh Phú Hòa, Thới Hòa, Tân Định, Tân An, Tương Bình Hiệp của huyện Bến Cát giao về cho Châu Thành), thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Dĩ An và một phần Phân khu 1 gồm các huyện Bến Cát, Dầu Tiếng. Các cơ quan của tỉnh Thủ Dầu Một là nòng cốt tổ chức cơ quan Phân khu 5. Cơ cấu tổ chức đảng, các đoàn thể, lực lượng vũ trang của các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát vẫn giữ nguyên khi chuyển giao về cho Phân khu 1. Đồng thời, một số cán bộ Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Thủ Dầu Một được bổ sung cho Phân khu 1. Ngay sau đó, các cơ quan của tỉnh Thủ Dầu Một chuyển từ căn cứ Long Nguyên - Bến Cát về Chiến khu D. Phân khu ủy chỉ đạo các huyện thị, các lực lượng khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy.

Thực hiện Nghị quyết Quang Trung, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã triển khai cho các địa phương huyện, thị, lực lượng vũ trang tích cực làm công tác chuẩn bị, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chủ động xây dựng và giữ vững vùng căn cứ (vùng giải phóng rộng lớn với khoảng trên 15.000 dân), gấp rút xây dựng phát triển thực lực mọi mặt theo kịp tình hình khi thời cơ đến. Đến tháng 1-1968, quân và dân Thủ Dầu Một đã chuẩn bị được 1.500 tấn lương thực; 750 tấn vũ khí, đạn dược; đội ngũ cán bộ được bổ sung và kiện toàn đầy đủ, lực lượng vũ trang phân khu có Trung đoàn Đồng Nai gồm 4 tiểu đoàn (K1, K2, K3, K4), các đại đội 12,7 ly, cối, ĐKB, công binh, đặc công, trinh sát. Mỗi huyện, thị có 1 đại đội, riêng thị xã có thêm đội Biệt động; ở các huyện có thêm Trung đội nữ pháo binh. Lực lượng tập trung và các đại đội của huyện được tổ chức biên chế đủ, tỷ lệ đảng viên từ 20 - 37%. Các cơ sở được phát triển rộng khắp, toàn tỉnh có trên 900 đoàn viên ở cơ sở, các tổ chức quần chúng khác có trên 9.000 hội viên. Các phương án tác chiến được chuẩn bị, hiệp đồng, luyện tập chu đáo.

Trong khi đó, lực lượng địch trên chiến trường Phân khu 5 đến cuối năm 1967 đã có tương đương 3 sư đoàn với một hệ thống bố phòng có thể chi viện cho nhau cả về hỏa lực, binh lực khi cần.

Trong đợt 1 Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, để giữ triệt để yếu tố bí mật, bất ngờ trước giờ nổ súng, chỉ huy các phân khu chỉ được biết nhiệm vụ cụ thể trước 48 giờ. Tuy vậy, mọi công tác chuẩn bị vẫn được gấp rút tiến hành. Nhiệm vụ tổng quát và phương thức sử dụng lực lượng của Phân khu 5 là: Sử dụng một phần lực lượng của Phân khu (K1, K3) thọc sâu vào nội thành tiếp sức cho đặc công và biệt động trong nội thành đánh chiếm và giữ Đài Phát thanh Sài Gòn, Đại sứ quán Mỹ; sử dụng K2, K4 cùng đội biệt động thị xã, đặc công của phân khu (có sự chi viện của đại đội hỏa lực phân khu) đánh chiếm thành Công binh, Tòa hành chính, phối hợp với quần chúng nổi dậy chiếm thị xã, thiết lập chính quyền cách mạng; các huyện còn lại, sử dụng lực lượng hiện có đánh chiếm các mục tiêu trên địa bàn của huyện, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kiềm, giành quyền làm chủ. Phối hợp với Sư đoàn 7 đánh Sư đoàn 5 quân đội Sài Gòn tại Bến Cát, Phú Giáo, không cho địch chi viện vào Sài Gòn.

Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất các lực lượng trên địa bàn Phân khu 5 trong Tổng tiến công và nổi dậy, hướng Phân khu 5 thành lập Ban Chỉ huy thống nhất, do đồng chí Hoàng Cầm, đại diện Bộ Chỉ huy Miền làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Minh Đạo, Bí thư Phân khu ủy, làm Chính ủy. Trên hai hướng chính của Phân khu 5 (nội đô và thị xã Thủ Dầu Một), phân khu tổ chức hai Sở chỉ huy tiền phương để chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp các lực lượng trên từng hướng.

Đúng 0 giờ ngày 31-1-1968, tức đêm mùng 2 Tết Mậu Thân, cùng với toàn Miền, quân và dân Phân khu 5 đồng loạt nổ súng tấn công, nổi dậy khắp trong địa bàn Phân khu. Trên hướng đánh vào nội đô, đêm 31-1 rạng ngày 1-2-1968, Tiểu đoàn 3 (K3) nghi trang bí mật thọc sâu, bất ngờ tiến công và đánh chiếm chi khu cảnh sát Hàng Xanh. Ta làm chủ khu vực lúc 2 giờ sáng. Sáng ngày 1-2-1968, nhờ có cơ sở nội thành dẫn đường, Tiểu đoàn 3 di chuyển qua khu vực Cầu Sơn tiếp tục chiến đấu. Tại thị xã Thủ Dầu Một, 3 giờ sáng ngày 1-2-1968, Tiểu đoàn Phú Lợi (K4) cùng Đại đội đặc công Phân khu, Đội Biệt động thị xã nổ súng đánh chiếm thành Công binh. Tiểu đoàn 2 và Đại đội 12,7 ly của Phân khu nổ súng tiến công Ty Cảnh sát. Phối hợp với lực lượng Phân khu, lực lượng tại chỗ của thị xã, huyện Châu Thành tiến công tiêu diệt và bức rút nhiều đồn bốt địch như: Bốt Nhà Hơi, Tua chùa Úp Nồi, Bốt Bà Lụa, Đồn Bến Thế, Bưng Cầu, Tua Ngã tư Sở Sao..., kêu gọi binh lính mang súng trở về với nhân dân. Ta làm chủ tình hình ấp Chánh Trong, Lò Chén, ấp Chánh Ngoài. Các địa phương còn lại nổ súng đánh chiếm và làm chủ các mục tiêu theo kế hoạch.

Sau thắng lợi của đợt tiến công Tết Mậu Thân, chấp hành Chỉ thị ngày 23-3-1968 của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục chủ trương mở đợt tiến công lần thứ hai. Nhiệm vụ của Phân khu 5 trong đợt 2 là: Sử dụng lực lượng Trung đoàn Đồng Nai cùng với Tiểu đoàn 4 Quyết thắng (Sài Gòn - Gia Định) tấn công khu vực Gò Vấp, phát triển về phía Bình Hòa, Hàng Xanh, Thị Nghè, Quận 3, phát triển vào nội thành, đánh chiếm Khu an ninh quân đội và Đài Phát thanh Sài Gòn. Đêm ngày 4 rạng 5-5-1968, đội "cảm tử" của Trung đoàn Đồng Nai hành quân bằng xe vận tải bất ngờ tiến công bốt gác ở cầu Thị Nghè, chiếm các cao ốc đường Tự Đức, giữ đường cho Tiểu đoàn 3, 4 vào đánh chiếm Khu an ninh quân đội và Đài Phát thanh Sài Gòn. Bị bất ngờ, hải quân địch đóng gần bốt Thị Nghè bỏ chạy tán loạn. Đêm 13 rạng ngày 14-5-1968, Trung đoàn Đồng Nai dùng thuyền câu vượt sông Sài Gòn - ngã ba sông Rạch Cát, tiếp tục tiến công về hướng ngã ba Cây Thị, ngã năm Bình Hòa. Sau 10 ngày chiến đấu, ta đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn thủy quân lục chiến, tiểu đoàn dù, 3 đại đội cảnh sát dã chiến, Tiểu đoàn 38 biệt động quân, bắn cháy 7 xe tăng, xe bọc thép, sau đó được lệnh rút về An Phú Đông củng cố, chuẩn bị sẵn sàng trở lại chiến đấu.

Liên tục từ tháng 6-1968 đến cuối tháng 8-1968, các tiểu đoàn của Trung đoàn Đồng Nai liên tục thay nhau chiến đấu, bám trụ cùng lực lượng các huyện đánh bại chiến dịch "Nguyễn Trãi II" của địch với mục tiêu đánh phá mạnh vành đai Sài Gòn - Gia Định để hỗ trợ cho chương trình "bình định cấp tốc".

Tính chung trong 3 đợt (cả nội đô, trên địa bàn Phân khu và huyện Dầu Tiếng, Bến Cát) quân, dân Thủ Dầu Một đã diệt, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên (đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn, 3 đại đội bộ binh Mỹ, 7 tiểu đoàn, 9 đại đội quân Sài Gòn), bắn cháy và phá hủy 30 xe tăng, xe bọc thép; làm tan rã và tê liệt bộ máy kìm kẹp ở nông thôn, làm đảo lộn thế bố trí của địch, buộc chúng phải đưa quân về phòng ngự; vùng giải phóng mở rộng áp sát thị xã và Sài Gòn. Khí thế quần chúng sôi nổi, thực lực cách mạng phát triển (kết nạp 145 đảng viên, xây dựng 386 du kích xã, ấp, động viên 300 thanh niên tòng quân, kết nạp được 3.867 hội viên giải phóng, đào tạo được một số cán bộ từ cơ sở lên). Lực lượng vũ trang địa phương đã vận dụng nhiều cách đánh phong phú, đa dạng, sáng tạo như kết hợp địa đạo chiến với ô ụ chiến đấu, sử dụng thành thạo các loại vũ khí thô sơ, tự tạo, nâng giá trị cách đánh thành chiến thuật, hiệu quả chiến đấu cao, độc đáo, sáng tạo; quân và dân phân khu đều dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu, còn một người cũng đánh, một tổ cũng bám trụ chiến đấu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân tỉnh Thủ Dầu Một trong Mậu Thân 1968, đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng trên mặt trận Sài Gòn - Gia Định, cùng quân và dân cả nước giáng một đòn chí mạng, bất ngờ vào cơ quan đầu não và hậu phương của Mỹ - chính quyền Sài Gòn; đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện của địch; đánh bại cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm phá sản kế hoạch "tìm diệt và bình định" của địch, làm cho làn sóng phản đối chiến tranh trong nước Mỹ dâng cao, chính quyền Mỹ bị khủng hoảng và làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mỹ, buộc Mỹ phải thừa nhận không thể chiến thắng bằng quân sự, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh ở miền Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân tỉnh Thủ Dầu Một trong Mậu Thân 1968 thể hiện sự quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đường lối đúng đắn của Khu ủy, Tỉnh ủy; sự nỗ lực, tinh thần hy sinh, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân tỉnh Thủ Dầu Một.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một, các trận đánh, nhất là Hàng Xanh, ngã ba Cây Thị, ngã Năm Bình Hòa... tiêu biểu về quy mô và tính chất ác liệt. Đây cũng là lần đầu tiên ta dùng một lực lượng lớn tổng hợp đánh vào nội đô, trung tâm đầu não của địch và bám trụ, giằng co với địch nhiều ngày. Qua đó cho thấy sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang phân khu; cán bộ, chiến sĩ được tôi luyện, thử thách trong lửa đạn, kinh nghiệm chiến đấu ngày càng dày dạn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tỉnh Thủ Dầu Một được xem là một trong những trọng điểm của miền Đông Nam Bộ. Mặc dù, ta chưa giành được thắng lợi như mong muốn nhưng có ý nghĩa chính trị to lớn. Đó là bước tập dượt đầu tiên cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 sau này giành thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời, cũng để lại nhiều bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn quý báu trong công tác chuẩn bị, tác chiến trong đô thị, phối hợp, hiệp đồng quân binh chủng... có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, được cấp ủy, chính quyền, quân, dân tỉnh Bình Dương vận dụng và giành thắng lợi vẻ vang trong thời gian còn lại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, góp phần to lớn cùng quân và dân cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và bảo vệ biên giới Tây Nam cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 03:11:11 pm
KHU 6 TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



ThS. NGUYỄN THÀNH TÀI
Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Thuận


Tháng 10-1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập các chiến khu. Khi đó, Chiến khu 6 bao gồm các tỉnh từ Phú Yên trở vào Bình Thuận và các tỉnh Nam Tây Nguyên 1. Tháng 5-1961, Bộ Chính trị quyết định thành lập Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 6 gồm các tỉnh Đắk Lắk, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng 2, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam do đồng chí Trần Lê (Liên Khu ủy viên Khu 5, Bí thư Liên tỉnh 3) làm Bí thư Khu ủy, đồng chí Yblock Êban làm quyền Tư lệnh Quân khu 3. Đến tháng 10-1966, Trung ương Cục, Quân ủy Miền điều chỉnh chiến trường, tách một số tỉnh thuộc địa bàn Khu 6 thành lập Khu 10; Khu 6 còn lại các tỉnh: Lâm Đồng (gồm cả tỉnh Tuyên Đức) 4, Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, là địa bàn nằm xa sự chỉ đạo của Trung ương, nhưng quân và dân Khu 6 đã góp phần cùng cả nước làm nên một mùa Xuân đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Tháng 1-1968, tại Hội nghị lần thứ 14, Bộ Chính trị nhận định: "... do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và do những thắng lợi to lớn của ta, trong đông - xuân này, địch khó có khả năng mở cuộc "phản công mùa khô" lần thứ ba. Xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước". Từ đó, Bộ Chính trị nhận thấy cần "đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định".

Ngày 8-1-1968, Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu nhận được quyết định của Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền về Tổng tiến công và nổi dậy, do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) - Phó Tư lệnh Miền trực tiếp về Khu 6 truyền đạt (trên đường đi đồng chí bị đụng địch càn nên Quân khu tiến công địch chậm mất một tuần so với kế hoạch). Nhiệm vụ Khu 6 là phối hợp với toàn Miền, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đánh vào các thị trấn, thị xã, khu vực quan trọng của đối phương; trong đó, cố gắng tập trung dứt điểm Phan Thiết và Đà Lạt; trong đó Phan Thiết là trọng điểm số một. Thường vụ Khu ủy Khu 6, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu hạ quyết tâm, ngoài việc làm chủ hai thị xã, còn cố gắng giải phóng toàn bộ nông thôn các tỉnh Bình Thuận - Ninh Thuận - Lâm Đồng.

Lực lượng tham gia tấn công Phan Thiết gồm Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 482, các đơn vị đặc công của tỉnh Bình Thuận, đơn vị vũ trang thị xã và lực lượng chính trị địa phương. Lực lượng tham gia đánh Đà Lạt gồm Tiểu đoàn 186 (Tiểu đoàn lá bép), Tiểu đoàn 145, các đơn vị đặc công thị xã và tỉnh Lâm Đồng, lực lượng chính trị địa phương. Do nhận được chỉ thị của Trung ương Cục chậm (ngày 8-1-1968), thời gian chuẩn bị ít, công tác tổ chức còn thiếu sót, nên ngày 29-1-1968, khi nhận được lệnh của Trung ương Cục về "giờ G", nhưng các đơn vị chủ lực chưa sẵn sàng và chưa đến kịp mục tiêu 5. Việc Khu 6 tổ chức đánh chậm hơn so với các nơi khác ở miền Nam là mất thời cơ, không còn yếu tố bất ngờ. Mặc dù vậy, nhờ làm tốt công tác động viên chính trị, với tinh thần quyết tâm cao và chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, nên các đơn vị trong Quân khu đã bước vào cuộc tổng tiến công theo tinh thần "kịp bao nhiêu đánh bấy nhiêu, kịp lúc nào đánh lúc ấy", năng động giải quyết tổ chức hiệp đồng trong quá trình chiến đấu để tiến công địch.

Đợt 1, tại trọng điểm Phan Thiết, lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận chia thành ba mũi đánh vào các mục tiêu quan trọng trong thị xã. Đêm 31-1 rạng sáng 1-2-1968 (đêm mùng 2 rạng ngày mùng 3 Tết Mậu Thân 1968) 6, hai cánh quân nổ súng tấn công các mục tiêu đã định trong nội ô. Cánh quân còn lại chủ yếu do việc thông tin liên lạc chậm trễ 7, nổ súng chậm hơn (tối 2-2-1968). Tuy sự phối hợp tác chiến tại trọng điểm Phan Thiết chưa được đồng bộ, nhưng đây vẫn là nơi chiến sự diễn ra quyết liệt nhất. Địch sử dụng pháo ở hạm đội ngoài biển và máy bay thả bom vào các khu nội thị và ngoại ô, bất chấp, gây nhiều đám cháy, phá hoại nhà cửa. Đồng bào phải chạy lánh khỏi vùng chiến sự, nhưng cũng có đồng bào ở lại cùng bộ đội làm công sự tránh đạn pháo, cứu chữa nhà cháy, tiếp tế cơm nước cho bộ đội... Qua bốn ngày đêm chiến đấu liên tục, đêm ngày 4-2, lực lượng ta rút ra ngoài củng cố lực lượng, bám trụ đánh địch phản kích.

Tại Đà Lạt, đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, Bộ Chỉ huy Tiền phương điều gấp bộ đội địa phương các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương cũng chia thành ba hướng tấn công nội ô với tinh thần "lực lượng đến được bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu". Tuy vậy, do chưa chuẩn bị và đường xa, điều kiện cơ động gặp nhiều khó khăn nên tiếp cận mục tiêu chậm, đến đêm ngày 31-1 rạng ngày 1-2-1968 ta mới nổ súng tấn công. Riêng đơn vị chủ công mãi đến đêm ngày 4-2 mới đến kịp để tham chiến. Địch phòng thủ tại Đà Lạt có chỗ yếu, sơ hở, nhưng do ta vào chậm, lực lượng lại ít, phân tán, nên địch đã được báo động, có điều kiện và thời gian cố thủ những nơi trọng yếu. Trong những ngày lực lượng vũ trang tấn công địch, cơ sở cốt cán bên trong Đà Lạt đã vận động quần chúng nổi dậy. Những nơi lực lượng vũ trang bám trụ, mặc dù địch phản kích ác liệt, nhưng đồng bào vẫn tham gia tải thương, tải đạn, tiếp tế lương thực cho bộ đội. Ngày 5-2-1968, lực lượng tham chiến rút ra ngoài, để lại một tiểu đoàn chặn địch truy kích.

Phối hợp với trọng điểm Phan Thiết và Đà Lạt, đêm ngày 31-1, lực lượng đặc công tỉnh Ninh Thuận đột nhập vào thị xã Phan Rang diệt bọn quân cảnh ngụy, thu một số súng. Một bộ phận khác đột nhập vào sân bay Thành Sơn bắn cháy một máy bay Dakota.

Trong khi lực lượng tại Phan Thiết chuyển ra vùng ven tiếp tục ép địch trong thị xã, vừa củng cố lực lượng, vừa mở rộng vùng nông thôn, thì nhận được chỉ thị của Bộ Tư lệnh Miền: tấn công đợt 2 vào ngày 17-2-1968, trọng điểm vẫn là Phan Thiết và Đà Lạt.
 
Đợt 2, ở trọng điểm Phan Thiết, công tác tổ chức, chuẩn bị được tiến hành chu đáo, lực lượng tham gia tấn công được điều chỉnh, bổ sung, tăng cường vũ khí, đạn dược, công tác hiệp đồng chiến đấu được chặt chẽ. Đêm ngày 17-2-1968, hai cánh quân đồng thời tấn công các mục tiêu trong thị xã nhưng rất tiếc do thủy triều lên, còn một cánh quân không vượt được sông Cà Ty, nên phải bám trụ bên ngoài tạo thế vây ép thị xã. Đến đêm ngày 21-2, được lệnh của Bộ Chỉ huy Tiền phương, các đơn vị đánh Phan Thiết chuyển ra bám trụ ở vùng ven, vừa đánh địch bung ra tìm lực lượng ta, vừa tổ chức những mũi thọc sâu đánh vào nội ô; đồng thời tổ chức đánh địch, giành dân ở vùng nông thôn.

Tại Đà Lạt, đêm ngày 17-2-1968, các lực lượng vũ trang mở cuộc tiến công vào nội ô. Lực lượng địch bị tiêu hao nhiều qua đợt 1, nên đã tăng cường thêm quân, có cả lính Mỹ và Nam Hàn. Vì vậy, lực lượng tấn công của ta gặp sự phản kháng quyết liệt của địch nên không tiến được vào trung tâm thành phố. Đêm ngày 18-2, ta lại tổ chức tiến công vào nội thị nhưng không đạt kết quả. Suốt ngày 19-2, địch dùng pháo đánh phá và chọc thủng được phòng tuyến của ta. Một bộ phận lực lượng ta mất sức chiến đấu nên đến tối đã rút lui. Đến ngày 21-2, trước tình hình địch tăng cường phòng giữ Đà Lạt, Bộ Chỉ huy Tiền phương quyết định chuyển lực lượng ra khỏi nội đô, hoạt động ở nông thôn, trọng điểm là huyện Đức Trọng. Trong thị xã chỉ để lại một lực lượng và các đội biệt động tiếp tục đánh nhỏ, kìm giữ địch.

Phối hợp với trọng điểm Phan Thiết và Đà Lạt, lực lượng đặc công tỉnh Ninh Thuận đột nhập vào sân bay Thành Sơn lần thứ hai, bắn cháy một máy bay. Sau đó, ta dùng pháo liên tục bắn phá sân bay, các máy bay không thể cất cánh được. Một lực lượng khác của tỉnh phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích đánh phá và chia cắt đường Phan Rang - Đà Lạt trong nhiều ngày.

Đợt 3, đêm ngày 11-3 rạng sáng ngày 12-3, lực lượng vũ trang Bình Thuận tấn công và làm chủ yếu khu Phú Long, đánh sập cầu Phú Long (cách Phan Thiết 7km về hướng đông bắc). Địch đưa quân từ Phan Thiết ra ứng cứu, lọt vào trận địa phục kích của ta, bị thiệt hại nặng về sinh lực, buộc phải lui quân. Ta thu nhiều vũ khí, đạn dược, huy động xe chở về vùng căn cứ.

Thượng tuần tháng 3-1968, lực lượng vũ trang Lâm Đồng nổ súng tấn công yếu khu cảnh sát Tùng Nghĩa, đánh diệt đồn Phú Hội, đánh thiệt hại 2 đại đội bảo an từ chi khu Đức Trọng tiếp viện, làm chủ thị trấn Tùng Nghĩa. Bộ đội địa phương và các đội công tác các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương, Di Linh đã đánh phá giao thông, giành quyền làm chủ một số ấp trên các tuyến đường quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, quần chúng nổi dậy chiếm trụ sở, bắt tề, phá hàng rào ấp chiến lược.

Trong đợt cao điểm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, từ ngày 31-1 đến 15-3-1968, quân và dân Khu 6 đã loại khỏi vòng chiến đấu 11.000 tên địch (gần 8.800 tên bị diệt, 2.200 tên đào, rã ngũ); diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn, 1 chi đoàn xe bọc thép, 22 đại đội và 37 trung đội; bức rút 37 đồn bốt, phá hủy nhiều ấp chiến lược; bắn rơi và phá hủy 60 máy bay, đánh hỏng 126 xe quân sự (có 37 xe bọc thép); phá hủy 9 kho xăng dầu, 5 kho vũ khí, đánh sập 52 cầu cống, cắt đứt và làm gián đoạn từng lúc hầu hết các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn. Phối hợp với quân sự, quần chúng nhân dân đã nổi dậy giải phóng 20 xã, 102 ấp với 50.000 dân.

Tuy khả năng có hạn, nhưng Khu 6 đã chấp hành nghiêm chỉ thị của trên cố gắng phối hợp tốt với cao điểm Tổng tiến công nổi dậy trong toàn miền Nam, cùng một lúc tiến công vào hai thị xã lớn, đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày, nhiều khu vực và mục tiêu quan trọng. Tuy không dứt điểm được nhưng đã gây thiệt hại nặng, làm cơ quan đầu não cấp tỉnh của địch có lúc bị tê liệt, rối loạn. Kế hoạch bình định nông thôn của địch bị đánh mạnh, hệ thống kìm kẹp nhiều nơi bị tan rã, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Qua đó góp phần cùng toàn miền Nam làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Tuy vậy, cuộc Tổng tiến công có những hạn chế như: công tác tổ chức và chuẩn bị còn thiếu sót; sự chỉ đạo ở một số địa phương chưa thật khẩn trương, quyết liệt nên chưa đạt được mục tiêu đề ra ban đầu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Khu 6 đã đi vào lịch sử, với truyền thống khắc phục khó khăn, tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng, vượt qua khó khăn, thử thách, không ngại hy sinh, kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, tích cực đánh theo yêu cầu, quyết giành thắng lợi.




-----------------------------------------------------------------
1. Tháng 11-1946, các chiến khu đổi thành khu.
2. Lâm Viên, Đồng Nai Thượng hiện nay là tỉnh Lâm Đồng và một phần tỉnh Đồng Nai.
3. Năm 1963, đồng chí Nguyễn Minh Châu thay làm Tư lệnh Quân khu 6.
4. Do chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập năm 1958 trên cơ sở đô thị Đà Lạt và các quận Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương.
5. Đêm 21-1-1968, cơ yếu nhận lệnh từ Trung ương Cục, trong lúc đồng chí Bí thư Khu ủy đi Tuyên Đức, Tư lệnh Quân khu được phân công trực đang đi Bắc Bình. Ngay trong đêm, liên lạc xuống cơ quan Tỉnh ủy Bình Thuận báo cho đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận về cơ quan Khu nhận lệnh. Sáng ngày 29-1, lệnh của Miền mới chuyển đến các tỉnh và đơn vị, chiều ngày 29-1, đồng chí Tư lệnh Quân khu về đến cơ quan, kế hoạch cụ thể mới bắt đầu triển khai.
6. Chậm một ngày so với toàn Miền (đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, tức đêm mùng 1 rạng sáng ngày mùng 2 Tết Mậu Thân).
7. Theo dự định, sau khi ăn Tết xong, Quân khu sẽ sử dụng đơn vị này phối hợp với bộ đội địa phương đánh diệt một cứ điểm cách Phan Thiết khoảng 50 km về hướng đông bắc. Vì thế trong khi chưa biết được thông tin cũng như ngày giờ cụ thể của cuộc Tổng tiến công, đơn vị đã hành quân, vừa ăn Tết, nhằm kịp thời chuẩn bị tiếp cận mục tiêu cho nhiệm vụ được giao.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 03:25:00 pm
QUÂN VÀ DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968


THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY BÀ RỊA - VŨNG TÀU


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và một phần địa bàn tỉnh Đồng Nai) là cửa ngõ phía bắc Sài Gòn. Với vị trí quan trọng đó, kẻ thù đã tập trung mọi nỗ lực để xây dựng địa bàn thành tuyến phòng ngự vững chắc, lá chắn cuối cùng để bảo vệ Sài Gòn.

Sau hơn hai năm tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", lực lượng địch trên địa bàn tỉnh gồm: 3 Lữ đoàn quân Mỹ (Lữ đoàn dù 173, 2 Lữ đoàn bộ binh 199, 314), Trung đoàn thiết giáp số 11 tại căn cứ Suối Râm - Long Khánh, các cụm pháo ở Gia Ray, Sông Thao, Trảng Bom, Suối Dĩa. Quân đồng minh có: 1 trung đoàn quân Thái Lan ở Long Thành, Nhơn Trạch; 1 chiến đoàn quân Úc, Tân Tây Lan đóng ở Bà Rịa. Quân chủ lực ngụy có: 5 tiểu đoàn bộ binh (thuộc Sư đoàn 18 bộ binh), 46 đại đội bảo an, 5 tiểu đoàn lính dù và lính thủy đánh bộ, 7 đại đội trợ chiến, 2 tiểu đoàn biệt động quân, chưa kể lực lượng cảnh sát dã chiến, phòng vệ dân sự... Tương quan lực lượng giữa ta và địch là khá chênh lệch; do đó, nhiệm vụ của quân và dân Bà Rịa - Long Khánh hết sức nặng nề và khó khăn.

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968, tháng 10-1967, Trung ương Cục đã bố trí lại chiến trường, giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập Khu trọng điểm gồm 6 phân khu, tổ chức thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn; các huyện Long Thành và Nhơn Trạch thuộc tỉnh Long - Bà - Biên được sáp nhập với Thủ Đức và Quận 1 (Sài Gòn) để thành lập Phân khu 4. Địa bàn còn lại thành lập tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (bao gồm: thị xã Cấp (Vũng Tàu), thị xã Bà Rịa và thị xã Long Khánh; các huyện: Long Đất, Xuyên Mộc, Xuân Lộc, Định Quán, Cao Su), do đồng chí Lê Đình Nhơn (Chín Lê) làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Phạm Văn Hy (Tư Hy), Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) làm Phó Bí thư. Lực lượng vũ trang tỉnh lúc bấy giờ có các đơn vị bộ đội tập trung gồm: Tiểu đoàn 445, 440; cấp huyện có các đại đội bộ binh như C41 (Châu Đức), C25 (Long Đất), C51 (Xuyên Mộc); các đơn vị biệt động thị xã Bà Rịa, Vũng Tàu, Long Khánh. Ban Chỉ huy Tỉnh đội Bà Rịa - Long Khánh gồm có đồng chí Đặng Hữu Thuấn (Út Đặng) là Tỉnh đội trưởng; các đồng chí Phạm Lạc (Tư Lạc) và Đỗ Văn Chương (Ba Liên) là Tỉnh đội phó.

Tháng 11-1967, theo sự chỉ đạo của Trung ương Cục, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã chỉ đạo các địa phương tăng cường xây dựng và củng cố lực lượng, xây dựng cơ sở nội tuyến, đẩy mạnh công tác binh địch vận, chuẩn bị địa bàn và các điều kiện cần thiết cho một cuộc tiến công toàn diện, rộng lớn. Đồng thời, thành lập Đoàn 30 làm nhiệm vụ vận tải vũ khí từ sông Đồng Nai về các căn cứ của tỉnh và cung cấp cho các đơn vị (chủ yếu là đạn cối và súng bộ binh). Đến cuối năm 1967, phong trào cách mạng ở tỉnh có những bước chuyển biến mới; lực lượng vũ trang tỉnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chỉ huy và cơ sở cách mạng được tôi luyện và trưởng thành trong chiến đấu, sẵn sàng đón đợi thời cơ chiến lược.

Trong hai ngày 26 và 27-1-1968, tại căn cứ Tỉnh đội ở phía bắc Suối Sách - Sông Ray, đồng chí Nguyễn Ngọc Tân (Hai Lực), đặc phái viên của Trung ương Cục về truyền đạt chỉ đạo của Trung ương Cục và thông qua kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tỉnh đã bố trí lại chiến trường và lực lượng; phân công cán bộ phụ trách các địa bàn trọng điểm; riêng các đơn vị bộ đội tập trung tỉnh (Tiểu đoàn 445, Tiểu đoàn 440) làm nòng cốt tiến công quyết liệt vào cơ quan đầu não của địch tại thị xã, thị trấn; tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân nổi dậy, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ.

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã ban hành Nghị quyết lãnh đạo, trong đó nêu rõ: "Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh nỗ lực phi thường, quyết tâm cao độ, thực hiện nhiệm vụ tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên toàn chiến trường bằng 3 mũi giáp công mạnh mẽ... phương thức tiến công và nổi dậy là: Kết hợp đánh bên trong và đánh bên ngoài; tiến công đồng loạt, nhưng có trọng điểm; tập trung lực lượng và các mục tiêu then chốt; đánh đòn quyết định làm rung chuyển hệ thống địch trên toàn tỉnh; trọng tâm tiến công và nổi dậy là làm chủ hai thị xã Bà Rịa, Long Khánh" và quyết định thành lập 2 ban chỉ huy tiền phương bao gồm:

Ban Chỉ huy tại Mặt trận thị xã Bà Rịa do đồng chí Lê Đình Nhơn (Chín Lê), Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy; đồng chí Đặng Hữu Thuấn (Út Đặng), Tỉnh đội trưởng là Chỉ huy trưởng Mặt trận; đồng chí Phạm Văn Hy, Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Phó Chính ủy. Tiểu đoàn bộ binh 445 (bộ đội tỉnh) có nhiệm vụ tiến công vào Tỉnh đoàn bảo an, Dinh tỉnh trưởng, khu tiếp vận, tiểu khu quân sự, trại giam, các đồn chốt; lực lượng biệt động thị xã Bà Rịa có nhiệm vụ tiến công vào bộ máy tề ngụy và bốt xã Long Hương, hỗ trợ cho phong trào quần chúng diệt ác, phá kìm.

Ban Chỉ huy tại Mặt trận thị xã Long Khánh do đồng chí Lê Sắc Nghi, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Chính ủy Mặt trận; đồng chí Phạm Lạc, Tỉnh đội phó là Chỉ huy trưởng Mặt trận. Tiểu đoàn bộ binh 440 có nhiệm vụ: làm nòng cốt tiến công làm chủ thị xã Long Khánh, các huyện Xuân Lộc, Định Quán; phối hợp với lực lượng vũ trang các huyện và Đội biệt động thị xã Long Khánh đánh chiếm các cứ điểm, đồn chốt ở các vùng phụ cận, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Đồng thời, Tỉnh ủy quyết định giải thể Ban Cán sự huyện Xuyên Mộc, thành lập lại Huyện ủy Xuyên Mộc nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng trên địa bàn. Đồng chí Sáu Lùn giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Dương Văn Đông (Ba Bộ) là Phó Bí thư, đồng chí Bảy Thùng là Huyện đội trưởng.

Đêm 30 và ngày mùng 1 Tết Mậu Thân 1968, cả miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy. Tại Bà Rịa: rạng sáng mùng 2 Tết (chậm hơn 1 ngày so với kế hoạch), Tiểu đoàn 445 hành quân cấp tốc từ căn cứ Núi Dinh về Bà Rịa, triển khai tiến công đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã như Tỉnh đoàn bảo an, Dinh tỉnh trưởng và một số mục tiêu quan trọng khác. Địch phản kích dữ dội ở khu vực Nhà đèn, nhưng bộ đội Tiểu đoàn 445 đã chiến đấu dũng cảm, bảo vệ chỉ huy sở, giữ vững trận địa.

Đội biệt động thị xã Bà Rịa đã nổ súng đánh chiếm trụ sở xã Long Hương, phối hợp với lực lượng an ninh vũ trang phát động quần chúng nổi dậy, truy lùng bọn ác ôn. Tuy nhiên, ta không chiếm được bốt Long Hương và giải phóng xã như yêu cầu đặt ra. Lực lượng vũ trang các huyện Long Đất, Châu Đức, Cao Su đã nổ súng tiến công đánh chiếm các mục tiêu: chi khu Long Lễ, thị trấn Đất Đỏ, Dinh Quận trưởng Long Điền, chi thông tin; đồn điền Ông Quế, Hàng Gòn, An Lộc, Cẩm Mỹ.

Tại thị xã Long Khánh: Tiểu đoàn 440 (bộ đội tỉnh), Đại đội K8 (Xuân Lộc) và Đội biệt động thị xã Long Khánh tiến công đánh chiếm các mục tiêu: Khu 33 chiến thuật, trụ sở CIA (Mỹ), Tòa hành chính tỉnh Long Khánh (của chính quyền Sài Gòn), sân bay dã chiến, Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 18. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng chênh lệch, quân địch phản kích quyết liệt, bộ đội ta bị thương vong nhiều, phải rút về căn cứ để củng cố lực lượng.

Kết thúc đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân địch trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Long Khánh bị tổn thất nặng nề. Đây là thắng lợi to lớn của quân và dân toàn tỉnh: Lần đầu tiên tổng tiến công và nổi dậy ở tỉnh lỵ và các chi khu, quận lỵ trong tỉnh; phát huy sức mạnh ba mũi giáp công, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, đưa chiến tranh vào tận "hang ổ" của Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Qua đó, giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Đợt 2 (từ ngày 5-5 đến ngày 18-6-1968), thực hiện chỉ đạo của Trung ương Cục và Ban Cán sự T7 1, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Long Khánh thực hiện đợt tiến công thứ hai vào các thị trấn Long Điền, Đất Đỏ, cứ điểm đồi Con Chim (yếu khu Cẩm Mỹ), tổ chức chốt chặn, đánh địch phản kích. Trong trận đánh đồi Con Chim, bộ đội bắn cháy 16 xe tăng M.41 của Trung đoàn thiết giáp số 11 (Mỹ). Bộ đội các huyện Long Đất, Châu Đức chiến đấu dũng cảm, bảo vệ vững chắc căn cứ Minh Đạm, căn cứ Suối Thề và một số địa bàn trọng yếu của tỉnh.
Kết thúc đợt 2, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm, đánh giá tình hình nhiệm vụ và đề ra phương hướng công tác trong tình hình mới. Hội nghị khẳng định: ưu điểm lớn nhất của quân và dân tỉnh là đã "Quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh cách mạng của Đảng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, kiên quyết thi hành mệnh lệnh của cấp trên dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào". Tuy nhiên, công tác kiểm tra và chuẩn bị cho quần chúng nổi dậy chưa được chu đáo; tư tưởng "lạc quan tếu" về một khả năng "dứt điểm" trong đợt 1 đã làm ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân (do bị tổn thất, hy sinh, bị địch khủng bố...). Vì vậy, Tỉnh ủy chỉ đạo: "Tiếp tục tiến công tiêu diệt sinh lực địch, nhưng phải chuẩn bị cơ sở quần chúng thật chu đáo, phải củng cố xây dựng lại các cơ sở bí mật, tránh bộc lộ lực lượng bên trong. Khi có thời cơ thuận lợi, lực lượng vũ trang tỉnh làm nòng cốt, kết hợp đấu tranh vũ trang với nổi dậy của quần chúng để giành quyền làm chủ"; nhiệm vụ của quân và dân trong tỉnh là khẩn trương củng cố lại căn cứ địa, củng cố tổ chức biên chế, lực lượng và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân địa phương phát triển vững chắc, khôi phục thế và lực của cách mạng trên địa bàn tỉnh.

Từ cuối năm 1968, Mỹ và chính quyền Sài Gòn điều chỉnh chiến lược, triển khai thực hiện chương trình "bình định cấp tốc" nhằm giành lại những địa bàn xung yếu, đánh bật các cơ sở cách mạng, củng cố bộ máy cơ sở hạ tầng của chúng; trọng điểm bình định của chúng là tập trung ở các vùng xung yếu, đông dân, vùng ven đô, dọc theo các trục lộ quan trọng. Riêng tại tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Mỹ và quân đội Sài Gòn điều về 11 đoàn bình định (mỗi đoàn có từ 30 đến 60 tên), phối hợp với các đơn vị như: Lữ đoàn dù 2, Sư đoàn bộ binh 18, Chiến đoàn Hoàng gia Úc. Tại Vùng 3 chiến thuật, lực lượng bảo an tiểu khu, kết hợp cảnh sát dã chiến tiến hành các cuộc hành quân bình định. Kể từ đây, quân và dân Bà Rịa - Long Khánh tập trung mọi nỗ lực, phá tan âm mưu bình định cấp tốc của Mỹ và quân đội Sài Gòn, duy trì thế đấu tranh chính trị, binh vận cho quần chúng, làm tan rã lực lượng phòng vệ dân sự, khôi phục thế và lực của cách mạng.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, trực tiếp là Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã dũng cảm chiến đấu, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của quân và dân toàn miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh.

Tròn nửa thế kỷ đã trôi qua, tinh thần tiến công cách mạng, không ngại hy sinh gian khổ; lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 mãi mãi là truyền thống tốt đẹp, là những kinh nghiệm quý báu để quân và dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay vận dụng một cách sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




-----------------------------------------------------------------
1. Tháng 6-1968, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Chỉ đạo khu trọng điểm gồm các tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Biên Hòa, Tây Ninh, quyết định thành lập Ban Cán sự T7 và Bộ Chỉ huy tiền phương Quân khu 7 để chỉ đạo Bà Rịa - Long Khánh và Phân khu 4.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 03:34:52 pm
QUÂN VÀ DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY LÂM ĐỒNG


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Lâm Đồng 1 là hậu phương của địch, nơi chúng có ưu thế gấp nhiều lần so với ta về lực lượng, phương tiện, hỏa lực, sức cơ động. Nhiều cơ sở đào tạo, cung cấp nhân lực cho quân đội và chính quyền Sài Gòn được tập trung xây dựng và hoạt động.

Về phía ta, đây là chiến trường gây cơ sở, xây dựng, cất giấu lực lượng, mở rộng căn cứ cách mạng, xây dựng và bảo vệ hành lang chiến lược Bắc - Nam, làm bàn đạp xuất phát đánh địch trên các hướng, nhằm tạo thế, lực cho phong trào cách mạng địa phương vừa đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam.

Đầu năm 1968, sau khi nhận được chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Trần Lê, Bí thư Khu ủy Khu 6 triệu tập các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng và Tuyên Đức họp Hội nghị ở Lán Tranh (nay thuộc huyện Lâm Hà) để phổ biến Nghị quyết Khu ủy và giao nhiệm vụ cho từng tỉnh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy. Các đồng chí cán bộ Khu ủy và Quân khu ủy trực tiếp chỉ đạo các địa bàn, nhất là hai trọng điểm Đà Lạt và Phan Thiết (Bình Thuận). Khu ủy điều hai tiểu đoàn 186 và 145 đang hoạt động tại Lâm Đồng lên tăng cường cho chiến trường Đà Lạt - Tuyên Đức.

Nhận được chỉ thị của Khu ủy, Tỉnh ủy Lâm Đồng triển khai kế hoạch, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Do lực lượng vũ trang của tỉnh phần lớn chi viện cho chiến trường Đà Lạt - Tuyên Đức nên Tỉnh uỷ chủ trương rút một số thanh niên ở các cơ quan và du kích căn cứ thành lập hai đại đội bộ đội địa phương; huy động dân công vùng căn cứ làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí; thành lập Ban chỉ đạo tiền phương, chọn Di Linh làm trọng điểm, quyết tâm làm chủ đoạn đường từ đèo B’Lao đến đèo Chuối (Quốc lộ 20) để cô lập thị xã B’Lao, đồng thời chỉ thị cho cơ sở bên trong nắm tình hình, khi có thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, lực lượng vũ trang của tỉnh và các huyện đồng loạt tiến công vào thị trấn Di Linh, thị xã B’Lao và một số ấp chiến lược dọc Quốc lộ 20. Do lực lượng ta ít, thời gian chuẩn bị gấp nên khi địch phản kích quyết liệt, các đơn vị phải rút ra trụ lại vùng nông thôn.

Ngày 18-3-1968, các đại đội 210, 212 của tỉnh và đại đội 742 (K3) phục kích đánh Đại đội 407 thám kích có cố vấn Mỹ chỉ huy ở đồi Nguyên Ngọc, diệt gần 100 tên địch, bắt sống hai tên cố vấn Mỹ. Cùng thời gian trên, đội biệt động thị xã B’Lao và đơn vị 715 đặc công tiêu diệt trung đội dân vệ ở ấp An Lạc, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá kìm, giành quyền làm chủ... Qua đợt tiến công, tuy lực lượng ít và chưa thực hiện được nhiệm vụ của Tỉnh ủy đề ra, nhưng quân và dân Lâm Đồng đã đánh địch trên nhiều địa bàn, buộc chúng phải giãn lực lượng để đối phó, góp phần chia lửa cùng chiến trường Đà Lạt - Tuyên Đức.

Sau Tết Mậu Thân 1968, tại Lâm Đồng, địch đẩy mạnh bình định nông thôn để giành dân, chiếm đất. Hệ thống kìm kẹp và bộ máy chính quyền Sài Gòn ở cơ sở được tăng cường và củng cố hơn trước. Trong các ấp chiến lược, ngoài lực lượng kìm kẹp công khai còn có tổ chức hoạt động chìm để nắm dân và theo dõi các hoạt động của ta. Chúng tiến hành phân loại từng đối tượng, kiểm soát chặt chẽ những gia đình có người thân tham gia cách mạng, tạo ra sự ngăn cách giữa các tầng lớp nhân dân, hòng cắt đứt sự liên lạc giữa lực lượng bên ngoài với cơ sở cách mạng và nhân dân ta trong vùng chúng kiểm soát.

Trước những âm mưu và thủ đoạn mới của địch, Tỉnh uỷ chủ trương chuyển hướng hoạt động, các đội công tác được củng cố và tăng cường thêm lực lượng để bám dân, với phương châm "Bám dân đến đâu thì trụ lại đến đó, kiên quyết không cho địch tái chiếm". Rút kinh nghiệm qua hai đợt tiến công đầu mùa Xuân 1968, trong đợt hoạt động Hè - Thu, lực lượng vũ trang tỉnh nhanh chóng củng cố tổ chức, xác định quyết tâm thực hiện nhiệm vụ tấn công tiêu diệt địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ.

Trong năm 1968, với khí thế liên tục tấn công, quân và dân trong tỉnh đã đánh địch hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên, làm thất bại những mục tiêu cơ bản trong kế hoạch bình định và chiến lược "quét và giữ" của Mỹ - quân Sài Gòn khiến trong vùng chúng kiểm soát không còn nơi nào là an toàn và bất khả xâm phạm.

Đến cuối năm 1968, vùng căn cứ đã thành lập được chính quyền ở căn cứ Bắc và Nam (tương đương cấp huyện), 17 hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã, 11 ban chấp hành nông hội, 11 ban chấp hành thanh niên và 10 ban chấp hành phụ nữ xã. Hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở từng bước đi vào nền nếp và sát phong trào hơn trước.

Vùng căn cứ đã thật sự trở thành hậu phương trực tiếp, là nơi cung cấp sức người, sức của cho phía trước đánh địch. Đó là điều kiện thuận lợi để Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương phát triển mạnh mẽ, vững chắc.

Tại tỉnh Tuyên Đức, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, Khu uỷ chọn thị xã Đà Lạt làm trọng điểm 2 (thị xã Phan Thiết là trọng điểm 1). Do thời gian chuẩn bị khẩn trương và điều kiện cơ động gặp nhiều khó khăn, nên đến ngày nổ súng tấn công, hai tiểu đoàn tăng cường vẫn chưa cơ động đến vị trí tập kết. Trước tình hình đó, Đảng ủy Mặt trận quyết định: dù bất cứ giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ Khu ủy giao, các đơn vị bộ đội địa phương huyện được điều động gấp lên tăng cường cho các hướng tấn công vào Đà Lạt, còn ở vùng nông thôn do các đội công tác đảm nhận, cán bộ Tỉnh ủy được phân công xuống các hướng trực tiếp chỉ đạo.

Trong những ngày lực lượng vũ trang tiến công địch, các cơ sở cốt cán bên trong Đà Lạt đã vận động quần chúng ở nhiều phường, ấp nổi dậy phá bộ máy kìm kẹp của địch. Ở những nơi lực lượng vũ trang bám trụ, mặc dù địch phản kích ác liệt, dùng máy bay ném bom, bắn phá, nhưng đồng bào đã dũng cảm vượt qua bom đạn để tiếp tế cho bộ đội, tải thương, nắm tình hình hoạt động của địch báo cho các đơn vị. Trong cuộc chiến đấu này, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân. Một số đồng chí đã được kết nạp vào Đảng ngay tại địa bàn hoạt động và có nhiều người đã anh dũng hy sinh.

Mặc dù có sự chuẩn bị, nhưng địch vẫn bị bất ngờ trước các hoạt động tiến công liên tục của ta, chúng tăng cường đến Đà Lạt 1 tiểu đoàn Cộng hòa, 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 biệt đoàn cảnh sát phối hợp với lực lượng tại chỗ tổ chức phòng thủ xung quanh thị xã và các vị trí quan trọng.

Bước sang đợt 2, các đơn vị vẫn tập trung tấn công vào Đà Lạt. Trước tình hình địch tăng cường lực lượng phòng giữ và phản kích quyết liệt, nên Đảng ủy Mặt trận và Tỉnh ủy Tuyên Đức chủ trương đưa phần lớn lực lượng ra hoạt động ở vùng nông thôn, nhằm kéo địch trong thị xã ra ngoài để tiêu diệt, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá kìm, giành quyền làm chủ.

Qua hai đợt hoạt động cao điểm Xuân 1968, quân và dân tỉnh Tuyên Đức đã phối hợp với hai tiểu đoàn của Khu ủy đánh 180 trận. Kết hợp với hoạt động quân sự, các đơn vị còn tổ chức trên 100 cuộc míttinh với gần 5.000 lượt người tham gia, phát động quần chúng diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ ở 6 ấp.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị (4-1968) về việc tiếp tục mở đợt tấn công và nổi dậy mùa Hè 1968, Tỉnh ủy chọn huyện Đức Trọng làm địa bàn trọng điểm, đồng thời dùng lực lượng đặc công, biệt động đánh vào một số vị trí quan trọng của địch ở Đà Lạt; sử dụng hỏa lực mạnh bắn vào sân bay Cam Ly, Trường Võ bị và các trận địa pháo của địch. Sau những đợt tổng tiến công, nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam, từ giữa năm 1968, Mỹ - ngụy thực hiện chiến lược "quét và giữ", nhằm đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã, thị trấn và giành lại những vùng nông thôn bị mất. Ở Tuyên Đức, địch tập trung lực lượng phản kích, đánh phá phong trào cách mạng quyết liệt hơn trước. Càn quét, đánh phá đến đâu chúng gom dân vào các ấp chiến lược, củng cố bộ máy kìm tại chỗ, tiến hành nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đánh phá cơ sở cách mạng bên trong. Chúng đẩy mạnh bao vây kinh tế, cho máy bay bắn phá, rải chất độc hóa học ở những khu vực sản xuất và hậu cứ của ta.

Trong đợt hoạt động Thu - Đông 1968, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về lương thực, vũ khí, nhưng theo chủ trương chung, lực lượng vũ trang trong tỉnh vẫn liên tục tấn công địch ở quận lỵ, tiêu diệt bộ máy kìm tại chỗ và xây dựng cơ sở cách mạng bên trong.

Qua một năm liên tục tiến công địch, phong trào cách mạng tỉnh Tuyên Đức đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Quân và dân trong tỉnh đánh địch trên 500 trận, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Hoạt động quân sự có tác động hỗ trợ cho phong trào diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ của quần chúng. Điểm nổi bật của phong trào là vừa đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị, binh vận, vừa chú trọng xây dựng thực lực cách mạng tại chỗ, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.

Thắng lợi trong Xuân Mậu Thân 1968 mà Lâm Đồng đạt được bắt nguồn trước hết từ đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài giỏi của Trung ương Đảng, của Khu ủy, của Liên tỉnh 3 và sự chi viện, giúp đỡ to lớn về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, của tình đoàn kết chiến đấu chung một chiến trường của Đảng bộ, quân và dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Những bài học kinh nghiệm về đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng được vận dụng vào thực tiễn địa phương đã làm rõ tính chủ động, sáng tạo của Lâm Đồng, cụ thể là:

Nhân tố hàng đầu bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng là việc xây dựng hệ thống tổ chức lãnh đạo. Mở phong trào đến đâu hình thành tổ chức lãnh đạo đến đó. Qua rèn luyện thử thách, Đảng bộ Tỉnh đã không ngừng được xây dựng, củng cố và trở thành hạt nhân lãnh đạo, là bộ tham mưu có kinh nghiệm của phong trào cách mạng, được nhân dân tin yêu, gắn bó và đùm bọc.

Đảng bộ tỉnh luôn rất coi trọng và quán triệt nguyên tắc trong xây dựng và lãnh đạo lực lượng vũ trang cách mạng. Lâm Đồng không phải là địa bàn hoạt động của các đơn vị chủ lực lớn, nên việc xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh lớn mạnh có ý nghĩa rất quan trọng. Lực lượng vũ trang Lâm Đồng vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từng bước trưởng thành ba thứ quân, phối hợp chặt chẽ các lực lượng, đánh địch cả phía trước và phía sau, vừa bảo vệ vững chắc căn cứ cách mạng, vừa đánh vào hậu phương và căn cứ của địch trong đô thị, hỗ trợ nhân dân vùng địch tạm chiếm nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Lực lượng vũ trang Tỉnh đã thực sự là nòng cốt của chiến tranh nhân dân, xứng đáng với lòng tin yêu, quý mến của nhân dân, viết nên truyền thống "Trung thành vô hạn - Đoàn kết kỷ cương - Tự lực tự cường - Quyết chiến quyết thắng".

Quán triệt và thực hiện sáng tạo quan điểm tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính. Do điều kiện địa lý tự nhiên khắc nghiệt, đi lại khó khăn, lại xa sự chỉ đạo, chi viện của Trung ương nên chiến trường Cực Nam Trung Bộ nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các lực lượng cách mạng luôn nêu cao quyết tâm chủ động khắc phục khó khăn, kiên trì bám chiến trường, bám dân, bám phong trào, vừa đánh địch, vừa xây dựng và phát triển lực lượng, vừa sản xuất tại chỗ. Không có nơi nào, lúc nào lực lượng cách mạng thoát ly khỏi địa bàn công tác ngay cả ở những địa bàn, thời điểm khó khăn nhất.

Đồng thời với việc vận dụng linh hoạt phương châm, phương thức công tác đô thị phải luôn thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng gắn với xây dựng vùng căn cứ cách mạng vững mạnh. Vùng cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn Lâm Đồng là những vùng rất mới, nơi hành lang và căn cứ cách mạng được xây dựng. Lợi dụng đặc điểm này, địch dùng mọi âm mưu, thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo đồng bào, gây chia rẽ giữa các dân tộc. Vì vậy, trong vận động, tuyên truyền phải làm cho nhân dân hiểu rõ chính sách của Đảng, luôn lấy đoàn kết để tạo nên sức mạnh, bình đẳng là nguyên tắc cơ bản, tương trợ là mối quan hệ thiết yếu giữa các dân tộc. Mọi hành động và thái độ đối xử của cán bộ, chiến sĩ đều phải thực sự chân thành mới tập hợp được quần chúng tự giác làm cách mạng. Để xây dựng căn cứ vững mạnh, Đảng bộ Tỉnh luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc. Những cán bộ, đảng viên là người tại chỗ đã phát huy được vai trò lãnh đạo trong các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng, là lực lượng nòng cốt trong việc vận động đồng bào thực hiện các phong trào cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn các đội vũ trang tuyên truyền đã vận động hơn 10.000 đồng bào tham gia cách mạng, xây dựng các vùng căn cứ phía Nam và phía Bắc đường 20 (tỉnh Lâm Đồng cũ), phía Tây Bắc tỉnh Tuyên Đức (cũ). Vùng căn cứ của Tỉnh đã trở thành hậu phương trực tiếp vững chắc, là nơi cung cấp sức người, sức của cho phía trước đánh địch.

Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 của quân và dân tỉnh Lâm Đồng đạt được, bắt nguồn trước hết từ đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy 5, Khu ủy 6, Liên tỉnh 3, sự chi viện, giúp đỡ to lớn về sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc, của tình đoàn kết chiến đấu chung một chiến trường của Đảng bộ và quân dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên.




------------------------------------------------------------------
1. Tỉnh Lâm Đồng lúc bấy giờ là 2 tỉnh: Lâm Đồng (cũ) gồm các huyện: Bảo Lâm, Di Linh, Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên và tỉnh Tuyên Đức gồm thị xã Đà Lạt và các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương, Lâm Hà, Đam Rông hiện nay.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 04:07:28 pm
MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ BẢO ĐẢM TÁC CHIẾN
BIỆT ĐỘNG TẠI SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tá TRẦN HUY ĐỊNH
Trưởng ban Lịch sử quân sự - Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7


Sài Gòn là thành phố lớn nhất miền Nam, nơi tập trung các cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn nên được bảo vệ rất cẩn mật. Vùng ven đô và nội thành, địch triển khai mạng lưới an ninh, cảnh sát, do thám, dân vệ. Khu trung tuyến do lực lượng biệt động quân tinh nhuệ bảo vệ. Tuyến phòng thủ vòng ngoài giáp các tỉnh phụ cận, do quân Mỹ và chư hầu án ngữ, phối hợp với lực lượng chủ lực và tổng trừ bị, cùng các loại phương tiện chiến tranh hiện đại, thực hiện hành quân tìm diệt, gom dân vào ấp chiến lược quanh các đồn, chốt và trục giao thông. Thực hiện chủ trương chiến lược "đưa chiến tranh vào lòng địch", việc bảo đảm cho các lực lượng Biệt động tác chiến tại Sài Gòn - Gia Định, đặc biệt là vũ khí trang bị trong suốt cuộc kháng chiến nói chung cũng như trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn đòi hỏi một quá trình chuẩn bị lâu dài, công phu, bí mật.

Một là, dựa vào dân, xây dựng lõm chính trị tạo chỗ đứng chân bí mật, liên hoàn, vững chắc ngay trong sào huyệt kẻ thù.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các lõm chính trị ở đô thị (chủ yếu tập trung tại Sài Gòn) gắn liền với phong trào đấu tranh cách mạng tại miền Nam. Các lõm chính trị thường hình thành tại các khu dân cư lao động nghèo gần các cơ quan đầu não, đồn bốt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Dựa vào dân, các lõm chính trị này trở thành căn cứ cách mạng tồn tại ngay trong lòng địch và ngày càng phát triển hoàn chỉnh từ tổ chức đảng, chính quyền cách mạng cho đến lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị... trong đó có nhiều cơ sở của lực lượng biệt động.

Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã dựa vào quần chúng, bám chắc cấp ủy và lực lượng vũ trang địa phương, chấp nhận mọi hy sinh, kiên trì "ba hóa" bao gồm "hợp pháp hóa, nghề nghiệp hóa, quần chúng hóa". Đến cuối năm 1967, các đơn vị bảo đảm đã xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình, có 11 cơ sở ém vũ khí và phương tiện di chuyển, 13 cơ sở khác có hầm chứa vũ khí cho các mục tiêu chiến lược. Từ 19 lõm chính trị, ta tạo nên khoảng 400 điểm ém quân. Tiêu biểu là các lõm ở các ấp Bác Ái, cầu Bông (Gia Định), khu lao động Bàn Cờ (Quận 3), khu Xóm Chùa, Tân Định (Quận 1)... Một số cơ sở có hầm trú ém quân và vũ khí... phục vụ các trận đánh quan trọng như hầm tại số 287/70 Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) do Trần Văn Lai (Mai Hồng Quế) xây dựng; hầm tại số 438/58 đường Lê Văn Duyệt (Cách mạng Tháng Tám) do vợ chồng Lê Tấn Quốc (Bảy rau muống) xây dựng; hầm tại số 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quận 1) cách Đài Phát thanh Sài Gòn không đầy 100 mét, do Trần Phú Cương (Năm Mộc) xây dựng...

Do lực lượng biệt động không có tổ chức cơ quan và phân đội hậu cần, nên công tác bảo đảm phải dựa vào cơ sở mật trong nội đô. Các cơ sở mật có nhiệm vụ đảm bảo tài chính, vũ khí, phương tiện đi lại... cho hoạt động tác chiến biệt động. Đây là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên phải đối mặt với nguy hiểm. Người của cơ sở mật phải tạo "vỏ bọc" để tự mưu sinh và tự đảm bảo cho hoạt động chiến đấu. Khi cần thiết, cơ sở mật được cơ quan kinh tài của địa phương hoặc của các tổ chức quần chúng chi viện về tài chính. Tháng 9-1964, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định thành lập Ban Bảo đảm chiến đấu cho biệt động Thành, gồm hai đội mang mật danh là A20 và A30 1. Việc lựa chọn cán bộ, chiến sĩ biệt động đưa vào các đội A20 cũng như A30 được Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định tiến hành rất cẩn trọng theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, do đích thân Tư lệnh Quân khu duyệt từng người. Các đồng chí đó đều phải là những cán bộ, đảng viên trung kiên, đã có quá trình thử thách trong lao tù, đã từng chịu đựng mọi thủ đoạn tra tấn của địch. Tất cả đều phải có nghề nghiệp ổn định, đã tạo được "vỏ bọc" vững chắc, sống hợp pháp trong thành phố. Đây là hai tiêu chuẩn đầu tiên và cũng là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất để lựa chọn những người làm nhiệm vụ này. Ngoài ra, các đồng chí đều đã từng trực tiếp chiến đấu hoặc tham gia phục vụ chiến đấu và là những cán bộ, chiến sĩ giỏi làm công tác vận động quần chúng. Khi được chọn vào A20 hoặc A30, những người này tạm rút khỏi các hoạt động chiến đấu trực tiếp.

Ngoài việc xây dựng cơ sở mật để phục vụ chiến đấu theo từng nhiệm vụ, từng đợt hoạt động, ta còn thường xuyên xây dựng mạng lưới hậu cần trong nhân dân, tổ chức lượng dự trữ phù hợp ở từng khu vực theo hướng lâu dài để khi cần là bảo đảm được. Khai thác thế trận hậu cần nhân dân đối với lực lượng biệt động có 2 cách: một là, thông qua cấp ủy, cơ quan quân sự, kinh tài địa phương móc nối với các cơ sở quần chúng để thu mua; hai là, dựa vào sự ủng hộ, giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân với nhiều hình thức như trực tiếp nuôi dưỡng, giúp tiền, giúp vật chất, chăm sóc khi ốm đau, cấp cứu điều trị khi bị thương, che giấu bảo vệ khi hoạt động giữa lòng địch...

Đặc biệt trong việc tổ chức mua sắm, sử dụng phương tiện đi lại và chiến đấu phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người sử dụng, không để địch phát hiện những sơ hở của thủ tục sở hữu, từ đó làm lộ tung tích chủ phương tiện. Các phương tiện cũng phải phù hợp "mốt" với từng lứa tuổi, từng thời gian... bảo đảm không để địch phát hiện dấu hiệu khác thường. Tổ chức mua sắm phương tiện cho công tác chuẩn bị chiến đấu khi có thời cơ chiến lược phải được tiến hành hết sức căn cơ; phải do những người, những cơ sở có "vỏ bọc" vững chắc làm chủ sở hữu phương tiện.

Hai là, xây dựng căn cứ hậu cần - kỹ thuật hoàn chỉnh ở các bàn đạp vùng ngoại ô, tạo chỗ dựa vững chắc cho cơ sở trong nội đô.

Để bảo đảm cho tác chiến biệt động phải có một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ ngoài vào trong. Ngoài việc xây dựng cơ sở ở nội đô còn phải xây dựng bàn đạp vững chắc ở các căn cứ vùng ven. Những bàn đạp này thuộc vùng căn cứ du kích nên có cách tiến hành xây dựng riêng, khác hẳn với những yêu cầu và cách tiến hành xây dựng trong vùng tranh chấp, nhất là ở vùng địch kiểm soát hoàn toàn. Bàn đạp phải được xây dựng sát ven đô, gần với chiến trường nội đô, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, nối liền giữa cơ quan chỉ đạo ở bên ngoài với các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở bên trong.

Kinh nghiệm cho thấy, ở Sài Gòn, địch rất chú trọng đánh phá vùng ven. Chúng thường xuyên dùng nhiều lực lượng càn quét, áp dụng nhiều thủ đoạn, nguy hiểm nhất là mạng lưới mật báo, gián điệp. Nếu ta không tích cực tạo các bàn đạp vững chắc ở vùng ven, đặc biệt là vùng sâu, vùng yếu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chỗ đứng và thế đứng của lực lượng chi viện cho các cơ sở ở bên trong. Chính vì vậy, dù địch đánh phá khốc liệt nhưng yêu cầu đặt ra đối với lực lượng bảo đảm là phải tạo được thế đứng áp sát đô thị. Vừa tạo thế đứng ở bên ngoài ấp chiến lược, vừa chuẩn bị cơ sở ngay bên trong ấp chiến lược. Ở những vùng mà nhân dân bị địch xáo trộn, kìm kẹp chặt, cần phải kiên quyết tạo lõm chính trị; phát triển cơ sở quần chúng cảm tình và dần dần hình thành chỗ đứng, thế đứng vững chắc. Đối với các bàn đạp ở vùng tranh chấp hoặc dựa lưng vào vùng giải phóng thì tập trung tạo nhiều cửa ngõ, mở nhiều tuyến đường dự phòng khi bị địch đánh phá càn quét thường xuyên thì tổ chức giao thông, liên lạc vào nội đô bằng các hành lang và tuyến đường dự phòng đó. Phải kết hợp chặt chẽ với địa phương, với các lực lượng khác để bảo vệ và mở rộng bàn đạp; tổ chức chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu tốt góp phần cùng địa phương đưa thế và lực cách mạng lên cao. Khi phong trào vùng ven phát triển, từng bước giành quyền làm chủ ở ấp xã thì thế đứng và chỗ đứng của bàn đạp sẽ càng thêm vững chắc.

Chú trọng xây dựng, đào tạo cán bộ tại bàn đạp có tinh thần bám trụ, có ý chí tiến công địch. Các lực lượng này phải biết tự xoay sở, linh hoạt trong công tác. Trước hết phải là những cán bộ giỏi về công tác vận động quần chúng mới bám được phong trào, bám địa bàn lâu dài.
Ba là, xây dựng tuyến hành lang vận chuyển bí mật, thông suốt và hệ thống kho hầm trú giấu trong nội đô an toàn, vững chắc, thuận tiện.
Các trục lộ đều là tuyến giao thông cơ bản, quan trọng cho cả ta và địch. Vì vậy, Mỹ - quân đội Sài Gòn thường xuyên dùng lực lượng càn quét, đánh phá hành lang hai bên các trục lộ nhằm đẩy lực lượng và cơ sở cách mạng ra xa, biến trục lộ thành con đường chỉ dành riêng cho nhu cầu quân sự, kinh tế, giao thông của chúng. Khi địch phát hiện ta sử dụng những trục lộ này thì chúng tăng cường kiểm soát, đánh phá... trọng điểm là các đoạn đường xuyên qua vùng có hoạt động của ta. Trên các con sông, Mỹ - quân đội Sài Gòn thiết lập đội giang cảnh, trạm kiểm soát lưu động, trạm kiểm soát cố định. Các đoạn sông qua vùng có chiến sự, chúng dùng thuốc độc hóa học phát quang và máy bay trinh sát, vũ trang bắn phá bừa bãi vào các loại ghe xuồng không phải trong đoàn vận chuyển của chúng.

Nếu chiến tranh phát triển sâu vào trung tâm đầu não của địch thì sự đối phó của chúng càng tinh vi, quyết liệt. Trong khi đó, nhiệm vụ và phương thức tác chiến của lực lượng biệt động đòi hỏi khối lượng vũ khí nhiều hơn, tin tức chính xác và nhanh chóng hơn, cán bộ chỉ đạo sát thực tế hơn; bởi vậy, công tác vận chuyển, xây dựng hầm chứa, kho chứa và công tác giao liên cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Về công tác vận chuyển: Phải luôn luôn nắm vững hoạt động của địch trên các tuyến đường vận chuyển, hiểu rõ được hoạt động của từng sắc lính, hành động của chúng lúc kiểm tra, thậm chí hiểu được cá tính những tên thường đi lại hoặc đứng kiểm tra ở các trạm kiểm soát ra vào thành phố.

Phải phát huy tính sáng tạo trong công tác ngụy trang, hóa trang. Luôn luôn rút kinh nghiệm, cải tiến cho phù hợp với từng loại hàng hóa, từng tuyến đường và đặc điểm sinh hoạt của từng địa phương. Tùy tình hình mà thay đổi thích hợp, nhưng phải bảo đảm yêu cầu "quần chúng không chú ý, địch không nghi ngờ". Quá trình vận chuyển phải luôn luôn cải tiến về kỹ thuật, ngụy trang, thay đổi giờ giấc, lộ trình; táo bạo nhưng không mạo hiểm; vững chắc nhưng linh hoạt, mưu trí. Thường chọn người có vỏ bọc thích hợp như lái xe, người đi buôn, chủ hãng vận tải... Thực tế cho thấy, để đưa vũ khí vào thành phố, công tác nghi trang, ngụy trang đóng vai trò quyết định. Hình thức ngụy trang phải phù hợp với hàng hóa sản xuất ở khu vực, phù hợp với nghề nghiệp của người giữ kho vũ khí trong nội đô (thuộc A30). Ngụy trang phải bảo đảm đồng bộ loại vũ khí cho mỗi hầm trong mỗi lần vận chuyển. Để giữ bí mật, bảo vệ an toàn cho những người xây hầm giữ vũ khí, theo chỉ thị của Khu ủy, mỗi hầm chỉ tiếp nhận hàng một lần. Tạo được cách ngụy trang và nghi trang ở mức cao sẽ bảo đảm thành công, giúp người vận chuyển thêm bình tĩnh khi phải đối phó với kẻ thù. Việc này đòi hỏi những người chuyên làm nhiệm vụ ngụy trang, nghi trang phải hết sức sáng tạo, có trình độ chuyên môn "bậc thầy". Các kỹ xảo ngụy trang và người làm công tác ngụy trang, nghi trang phải được giữ gìn, bảo vệ bằng các biện pháp bảo mật cao nhất. Những người làm công tác này chỉ trực tiếp tiếp xúc với Tư lệnh Quân khu, Trưởng ban bảo đảm, đội trưởng và chính trị viên A20. Sau khi hoàn thành việc ngụy trang, nghi trang, A20 tổ chức vận chuyển vũ khí vào thành phố theo 3 chặng cơ bản. Ở cả ba chặng trên, tuyệt đại bộ phận vận chuyển (kể cả các chiến sĩ thuộc A20) đều không biết mình chuyên chở thứ hàng gì. Ở khâu cuối, người nhận vũ khí (thuộc A30) và người chở vũ khí đến (thuộc A20) cũng không được giáp mặt nhau, không biết giao cho ai, nhận của ai.

Để bảo đảm vận chuyển đến đích và an toàn đòi hỏi phải có sự hiệp đồng chặt chẽ, chính xác hoàn toàn bằng ký, tín hiệu giữa các tuyến, giữa người vận chuyển và người nhận. Hệ thống ký, tín hiệu do người chỉ huy cao nhất phát ra. Đây là sự hiệp đồng chiến đấu giữa A20 và A30, giữa hai đội này với Ban bảo đảm và Quân khu, tạo nên sự ăn ý giữa cuối tuyến hai và đầu tuyến ba (thuộc A20) nối liền cuối tuyến ba và người phụ trách cất giấu vũ khí (thuộc A30). Vũ khí được giao ở các địa điểm thích hợp do người nhận lựa chọn, địa điểm thường ở trước nhà gia đình cơ sở của người nhận, theo thời gian đã định và có ký, tín hiệu đã hiệp đồng.

Ngoài cách tổ chức trên, các lực lượng biệt động (nhất là biệt động cấp quận và của các đoàn thể) vẫn dùng giao liên hoặc bản thân chiến đấu viên vận chuyển hàng bằng đường bộ hoặc đường sông. Cách thức vận chuyển chủ yếu là ngụy trang theo phương tiện, theo đồ nghề của mình. Cách này chủ yếu chỉ chuyển các vũ khí nhẹ và gọn.

Về xây dựng hầm chứa và kho chứa: Xây dựng hầm chứa, kho chứa ở nội thành để cất giấu các loại vũ khí, trang bị phục vụ các yêu cầu chiến đấu là một việc làm hết sức phức tạp, nguy hiểm đến tính mạng con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến yêu cầu bí mật của hoạt động biệt động. Nó đòi hỏi người chỉ đạo phải có tầm nhìn xa, bao quát, phục vụ cả đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh liên tục thường xuyên, đánh khi có thời cơ chiến dịch, chiến lược.

Xây dựng hầm chứa, kho chứa có liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu, đến ý đồ chiến lược cho nên phải căn cứ vào nhiệm vụ quân sự ở nội thành, căn cứ vào phương thức tác chiến của từng lực lượng mà tính toán đến vị trí, cấu trúc, quy mô kho, số lượng các phương tiện vận chuyển, số lượng các cơ sở.

Quy luật hình thành, phát triển của một cơ sở kho cũng giống như quy luật hình thành và phát triển của lực lượng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, phải thông qua vận động và quần chúng tham gia hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Công tác xây dựng hầm, kho chứa phải lấy xây dựng con người là cơ bản, nhưng về biện pháp tổ chức lại là khâu quan trọng, quyết định sự thành bại. Bởi vì có tổ chức chu đáo, tinh vi mới che mắt được địch. Biện pháp tổ chức phải được tính toán chi tiết, cẩn trọng từ khâu vận chuyển, đến việc bốc vác hàng đưa vào kho, hầm chứa... một hành động sơ xuất là có thể ảnh hưởng đến cả tổ chức.

Đồng chí Ba Mủ (tức Đỗ Văn Căn) là đảng viên, năm 1954 được gài lại hoạt động đơn tuyến ở Nghiệp đoàn thợ bạc, khi được giao nhiệm vụ đã cùng vợ là Nguyễn Thị Cúc và 5 con bán nhà ở Tân Định đến mua căn nhà 183/4 đường Trần Quốc Toản (Quận 10) ngay sát Biệt khu thủ đô, trước cửa cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ và đồng minh (ICCS). Theo lệnh trên, đồng chí bỏ nghề thợ bạc, chuyển sang nghề cán mủ cao su nhằm tạo nên "vỏ bọc" hợp pháp để gần một năm sau (10-1965) vận chuyển hơn một tấn vũ khí được giấu trong các bành mủ về cất giữ ở căn hầm do đồng chí xây dựng ngay cửa ra vào (nơi hằng ngày vợ chồng, con cái dùng làm chỗ ăn, ngủ, tiếp khách). Quá trình đào hầm và vận chuyển cất giấu vũ khí, vợ con Ba Căn không hề hay biết, mặc dù cả hai vợ chồng đều cùng trong một đội biệt động. Mãi sau này chị Cúc mới được cấp trên thông báo cho biết vị trí chính xác của căn hầm. Sau đợt 2 của cuộc Tổng tiến công, đồng chí Ba Căn bị địch bắt, song căn hầm vũ khí vẫn được đồng chí Cúc bảo vệ an toàn 2. Bản thân đồng chí Cúc cũng xây một căn hầm khác chứa vũ khí dưới đáy của bể cá cảnh ở căn nhà thứ hai do đồng chí đứng tên.

Về công tác giao liên: Giao liên là một bộ phận đặc biệt quan trọng của công tác chỉ huy, bảo đảm cho hoạt động tác chiến biệt động. Nó giữ mối quan hệ từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong và ngược lại. Giao liên phục vụ cho chỉ đạo các mặt công tác được nhanh chóng, bí mật, chính xác. Tận dụng mọi khả năng hợp pháp của quần chúng mà tổ chức hệ thống giao liên hợp pháp.

Giao liên hợp pháp là phương thức liên lạc trực tiếp, cơ động, không phức tạp về kỹ thuật, lại có thể tuyển chọn, sử dụng rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Hoạt động trong lòng địch, người nào có điều kiện hợp pháp đều có khả năng làm công tác giao liên. Nhưng địch cũng phát hiện và nắm được phương thức hoạt động của ta trong đô thị, chúng biết rõ ta chỉ huy, chỉ đạo từ bên ngoài vào nội đô thông qua công tác giao liên. Do đó, địch tập trung đánh vào khâu giao liên bằng nhiều thủ đoạn. Chúng theo dõi ta từ các cửa ngõ, những nơi nghi có bàn đạp của ta. Khi bắt được người nào thì chúng mua chuộc dụ dỗ, khống chế khai thác ngay để tiến công lại ta. Vì vậy, một số cơ sở bị vỡ, bị tổn thất dây chuyền là do khâu giao liên.

Giao liên hợp pháp có thể chia làm 2 loại: giao liên thoát ly và giao liên tại nghiệp. Giao liên thoát ly có nhược điểm ra vào khó khăn dù có giấy tờ giả; còn giao liên tại nghiệp đã "ba hóa", trong tình huống địch kiểm soát gắt gao vẫn có thể hoạt động. Giao liên tại nghiệp có nhiều ưu điểm, vì số này xuất thân từ trong quần chúng, hợp pháp, dễ đi lại và hoạt động hiệu quả, lâu dài. Trong nội đô, tổ chức sử dụng giao liên tại nghiệp là hình thức chủ yếu và phổ biến.

Như vậy, qua một số bài học chủ yếu nói trên cho thấy công tác bảo đảm tác chiến biệt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng thực chất là công tác hậu cần - kỹ thuật được tiến hành trong điều kiện tác chiến đặc biệt. Đây là hoạt động tổng hợp của cả ba mặt công tác lớn: chính trị, quân sự và hậu cần - kỹ thuật được tiến hành trong bước phát triển mới của thế trận hậu cần nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong quá trình tổ chức bảo đảm, chính nhờ dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh to lớn của "thế trận lòng dân", cho nên lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Định mới có thể duy trì thường xuyên và mở rộng các hoạt động tác chiến ngay trong sào huyệt kẻ thù; giành những thắng lợi quyết định làm chấn động cả nước Mỹ. Những kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo, thực hành bảo đảm cho tác chiến biệt động tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi còn nguyên giá trị để chúng ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




------------------------------------------------------------------
1. Đội A20 chuyên lo tổ chức vận chuyển vũ khí từ căn cứ vào thành phố do đồng chí Đỗ Tấn Phong (Ba Phong) làm Đội trưởng, đồng chí Dương Long Sang (Hai Sang) làm Chính trị viên. Còn Đội A30 chuyên lo xây dựng hầm cất giấu vũ khí, do đồng chí Ngô Thành Vân (Ba Đen) làm Đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Trí (Hai Trí) làm Chính trị viên.

2. Căn hầm chứa vũ khí này dự kiến để đánh Biệt khu thủ đô trong dịp Tết Mậu Thân 1968. Nhưng do cánh quân đánh mục tiêu này bị địch chặn ở vòng ngoài, không vào được nội đô nên kho vũ khí không dùng đến và tiếp tục được giữ gìn để phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Bảy, 2020, 04:33:19 pm
QUÂN VÀ DÂN ĐÀ NẴNG TRONG
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG XUÂN MẬU THÂN 1968



ĐẶNG VIỆT DŨNG
Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cùng với Sài Gòn, Huế, thành phố Đà Nẵng được xác định là một địa bàn trọng điểm, hướng công kích chủ yếu. Trong tham luận này, để có góc nhìn khách quan khoa học, qua các tư liệu lịch sử hiện đang được lưu trữ tại Thành ủy Đà Nẵng và tài liệu của chính quyền Sài Gòn được lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh), chúng tôi làm rõ vai trò to lớn của quân và dân Đà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời rút ra một số kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đặc Khu ủy Quảng Đà.

Liên tiếp hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện chiến lược "tìm và diệt" với hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định", từ "gờm sợ Mỹ", lực lượng vũ trang và du kích Đà Nẵng và Quảng Đà đã sáng tạo nhiều cách đánh Mỹ hiệu quả, lập được nhiều chiến công; thế và lực của phong trào cách mạng trong tỉnh không ngừng được tăng lên. Tính đến cuối năm 1967, với phong trào "toàn dân đánh Mỹ", "toàn tỉnh là một vành đai", triệt để thực hiện khẩu hiệu "Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch"..., quân và dân Quảng Đà đã góp phần làm cho Mỹ - chính quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng bị động, lúng túng.

Với những thắng lợi về quân sự và chính trị trong hai năm trực tiếp đối đầu với quân Mỹ, tháng 7-1967, Bộ Chính trị nhận định: Ta đã đánh bại một bước rất cơ bản của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, thế và lực của ta có những tiến bộ cho phép đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Tháng 10-1967, Khu ủy khu 5 quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà 1 nhằm kết hợp chặc chẽ và phát huy cao độ sự hỗ trợ giữa ba vùng chiến lược, giữa ba mũi giáp công chính trị - quân sự - binh địch vận, trong đó tập trung chủ yếu cho đô thị Đà Nẵng 2, trực tiếp là phục vụ cho Xuân Mậu Thân 1968 theo chủ trương của Trung ương Đảng.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, các ngành, các cấp của mỗi địa phương đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đào hầm bí mật để phục vụ cho lực lượng chủ lực ở trên cứ về ém quân đánh vào Đà Nẵng. Nhiều gia đình tại Hội An, Điện Bàn, Đại Lộc và nhất là Hòa Vang đã làm phên đôi, đào hầm chôn cất vũ khí, nuôi giấu cán bộ, bộ đội; thực hiện quyên góp vàng, bạc, tiền, gạo... cho tổng tiến công; đồng thời, hàng ngàn thanh niên nam, nữ khắp Quảng Đà đã hăng hái tham gia tải đạn, đưa vũ khí từ A Sờ, A Lưới (Thừa Thiên - Huế) về phục vụ tổng tiến công. Riêng "trong tháng 8-1967, hàng nghìn dân công có cả những cụ già, em bé trong vùng Mỹ đóng quân, trong trại tập trung cùng tham gia phục vụ tiền tuyến. Nhân dân vùng Đông của Duy Xuyên sát bên đồn địch đã bảo đảm đưa hàng nghìn bộ đội qua sông, nhân dân vùng Đông huyện Điện Bàn, thị xã Hội An đã cất giấu một lực lượng lớn bộ đội và phục vụ tốt toàn bộ công tác hậu phương ngay giữa vùng Mỹ đóng... Từ lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân đã dốc tài sản đóng góp cho kháng chiến, có em bé đã cởi cả khuyên vàng đóng góp quỹ nuôi quân, có người bị nhốt trong trại tập trung vẫn tìm cách đem gạo nuôi du kích" ; "Tùy theo từng xóm, nếu xóm nào dân theo ta nhiều và ở xa địch thì đến tối cán bộ mới vào, vận động bà con tập trung lại rồi nói chuyện; còn những nơi gần đồn địch thì cơ sở của ta đến từng nhà rỉ tai, tuyên truyền miệng là chính. Mọi công việc được tiến hành bí mật, lặng lẽ nhưng cũng hết sức khẩn trương, sôi nổi. Bên trong các khu dồn, chi bộ hợp pháp của ta cũng đã xây dựng được các trung đội đấu tranh chính trị mà nòng cốt là các gia đình binh sĩ ngụy".

Trong công tác chuẩn bị cho đòn tiến công chiến lược, khi nhân dân vùng nông thôn tập trung đảm bảo hậu cần, thành lập các đội quân đấu tranh chính trị để sẵn sàng "nhập thị" thì nhân dân thành phố có vai trò to lớn trong việc đưa, nuôi giấu, che chở các đồng chí lãnh đạo của Đặc Khu ủy Quảng Đà vào nội đô, trực tiếp chỉ đạo việc nổi dậy. Điều đáng nói là, chuẩn bị cho một chiến dịch lớn, huy động đến hàng chục nghìn người tham gia, song yếu tố bí mật tại chiến trường Quảng Đà vẫn được giữ vững đến phút chót, kẻ địch không tài nào biết được. Báo cáo mật của chính quyền Sài Gòn lúc đó về Đà Nẵng cho thấy đối phương không hề phát hiện được công tác chuẩn bị ở Đà Nẵng: "Tại duyên hải Trung phần, Quân giải phóng đang có chủ trương cô lập các đô thị, phong toả giao thông trên quốc lộ 1A và đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, đáng lưu ý là các khu vực phía nam của Thừa Thiên Huế, chung quanh Đà Nẵng, ranh giới Nam Tín và Phú Yên". Ngoài ra, để đánh lạc hướng địch, ta thực hiện nhiều trận đánh nghi binh và "mở đợt hoạt động mạnh ở các khu vực Đại Lộc, Điện Bàn (Quảng Nam) và Phù Cát (Bình Định)".

Về lực lượng quân sự, để chuẩn bị cho tổng tiến công, tháng 7-1967, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 thành lập Mặt trận 4 Quảng Đà nhằm thống nhất chỉ huy ba thứ quân (lực lượng vũ trang của Tỉnh đội Quảng Đà, Thành đội Đà Nẵng và một số đơn vị chủ lực của Quân khu 5). Đồng chí Hồ Nghinh, Ủy viên Khu ủy Khu 5, được cử làm Chính ủy; Đại tá Võ Thứ được cử làm Tư lệnh Mặt trận. Trước Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Thường vụ Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Trương Chí Cương, Phó Bí thư Khu ủy, trực tiếp làm Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà, đồng chí Hồ Nghinh và đồng chí Trần Thận làm Phó Bí thư. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 cử đồng chí Nguyễn Chánh (Bình), Phó Tư lệnh Quân khu 5, làm Tư lệnh Mặt trận 4. Đồng thời, Quân khu bổ sung cho Mặt trận 4 hai trung đoàn pháo 575, 577 và Trung đoàn bộ binh 31. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa kết nghĩa đưa Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn (D91) vào trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Quảng Đà.

Đà Nẵng là một thành phố, là một căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn nên kế hoạch tiến công, nổi dậy được đề ra cũng khác với các địa phương khác. Tinh thần chỉ đạo của Đặc Khu ủy Quảng Đà là: "Đánh vào Đà Nẵng nhằm làm tê liệt và thiệt hại nặng các cơ sở hậu cần, trận địa pháo, sân bay; chiếm lĩnh một số điểm khống chế thành phố; cắt đứt các đường giao thông vào thành phố. Sử dụng một bộ phận bộ binh phối hợp với biệt động thành đánh chiếm một số mục tiêu chủ chốt trong thành phố và trụ lại để hỗ trợ quần chúng bên ngoài vào và bên trong nổi dậy chiếm lĩnh các mục tiêu quân sự, chính trị, cướp chính quyền của địch". Theo đó, lực lượng nổi dậy tại Đà Nẵng gồm có lực lượng tại chỗ và từ nông thôn tiến vào, trong đó, lực lượng xung kích từ nông thôn được chia làm ba cánh, phân thành 6 mũi có trang bị súng, dao, mác, gậy vào thành phố với ba nhiệm vụ: khởi nghĩa, binh vận và vũ trang tác chiến trên đường đi. Đặc Khu ủy Quảng Đà đưa một số cán bộ trung kiên, am hiểu tình hình vào đứng chân tại nội thành để chỉ đạo phong trào. Nhiều cán bộ binh vận được tung vào Đà Nẵng và cơ sở binh vận của ta đưa "tối hậu thư" tấn công tư tưởng Hoàng Xuân Lãm - Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1, trước khi Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra.

Theo kế hoạch, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được xác định là vào đêm giao thừa theo niên lịch miền Nam, tức là vào đêm 29 rạng 30-1-1968 3 . Song, chiều 29 Tết, Khu ủy Khu 5 và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 nhận được lệnh của Bộ Tổng Tham mưu lui thời gian nổ súng lại 24 giờ để phối hợp toàn Miền 4. Nhận được lệnh của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Đặc Khu ủy Quảng Đà và Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 lệnh hỏa tốc cho các địa phương, đơn vị, hoãn giờ nổ súng một ngày. Tuy nhiên, chỉ có Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5 (đơn vị có nhiệm vụ đánh địch ở phía nam thành phố) và Khu 2 - Hòa Vang nhận được lệnh, còn các nơi khác thì không đến kịp. Vì vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Đà Nẵng đã nổ ra theo kế hoạch đã định từ trước.

Tại thành phố Đà Nẵng, lúc 2 giờ 20 phút ngày 30-1-1968, ta pháo kích vào sân bay Nước Mặn phát lệnh tiến công và nổi dậy. Thành phố Đà Nẵng và các vùng phụ cận rung chuyển trong tiếng đạn pháo. Lực lượng bộ binh của Mặt trận 4 triển khai đội hình chiến đấu, nhanh chóng làm chủ cửa ngõ phía bắc và phía nam của thành phố. Ta đánh chiếm một trong ba cao điểm của quân Mỹ ở núi Phước Tường, phá nát khu rađa, khu thông tin, làm rối loạn hệ thống phòng ngự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở phía tây thành phố 5. Tuy nhiên, mũi chủ công chính diện đánh vào thành phố đã vấp phải sự phản kháng dữ dội của địch và bị tổn thất nặng. Đơn vị R20 (Tiểu đoàn 1 Quảng Đà) được giao nhiệm vụ đánh Sở chỉ huy Quân đoàn 1 của địch, nhưng bị địch phát hiện không thể vượt sông Cẩm Lệ. Chỉ có Trung đội 1 (có 57 chiến sĩ) thuộc Đại đội 1 của R20 và một trung đội của Khu 3 Hòa Vang vượt qua sông, vào tại khu vực chùa Bà Quảng (Hòa Cường). Khi pháo của ta dội vào sân bay Nước Mặn phát lệnh tiến công, 57 chiến sĩ đã anh dũng vượt qua cửa các lớp rào, đánh vào Sở chỉ huy Quân đoàn 1. Mồng một Tết Mậu Thân, Hãng AFP đã loan tin: "Tại Đà Nẵng, căn cứ liên hợp thủy - hải - lục quân hùng mạnh của Hoa Kỳ đã bị cộng quân pháo kích dữ dội cả đêm, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 cũng bị tấn công dữ dội... những cuộc pháo kích đã làm tê liệt hoạt động của các trực thăng và máy bay chiến đấu của Mỹ". Báo cáo của Phạm Văn Sơn - Trưởng Quân sử, P5 Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, tổng thuật tình hình tiến công Tết Mậu Thân của Quân giải phóng trên khắp đô thị miền Nam đã đề cập diễn biến tại Đà Nẵng như sau: "Lúc 1 giờ 40 phút, Quân giải phóng tấn công, pháo kích và đột nhập vào Tổng hành dinh Quân đoàn 1 của chính quyền Sài Gòn. Cũng trong đêm này, Quân giải phóng đột nhập vào chi khu Hội An, pháo kích thị xã Quảng Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước cách Đà Nẵng chừng 4 km".

Phối hợp với mũi tiến công quân sự, với quyết tâm "Thiệu - Kỳ không đổ, không giỗ, không tết", các cánh quân khởi nghĩa vùng căn cứ Hòa Vang - Điện Bàn tiến vào Đà Nẵng. Ở cánh Khu 3 Hòa Vang, ta huy động được 7.400 quần chúng, phân thành 15 đại đội, trong đó có 8 đại đội xung kích vùng cát Hòa Vang - Điện Bàn vượt qua nhiều ấp chiến lược, đồn bốt, từ các hành lang đầy bom đạn và pháo địch tiến về tụ quân tại bàn đạp Trung Lương. Vào lúc 5 giờ sáng mồng một Tết, khi có lệnh vượt sông vào thành phố, cả cánh quân khởi nghĩa đổ ra bờ sông Cẩm Lệ. Ta huy động 100 chiếc thuyền và 3 ca nô để chở quân khởi nghĩa qua sông nhưng bị quân đội Sài Gòn đóng tại ấp chiến lược Cồn Dầu nổ súng ngăn chặn. Bọn thủy quân lục chiến Mỹ đóng tại Non Nước đã nã pháo, kết hợp đưa máy bay, xe tăng và bộ binh đến chặn đường tiến công của quân khởi nghĩa. Cánh Khu 2 Hòa Vang, ngoài 3.000 quần chúng vào trước nội thành, ta đã huy động đội quân xung kích 3.000 người tiến vào thành phố. Do Khu 2 nhận được lệnh hoãn "giờ G" nên phần lớn quần chúng dừng lại và chuyển sang phá ấp chiến lược của địch tại các địa phương vùng ven. Cánh A, B Điện Bàn, ngoài hàng nghìn quần chúng đã vào Đà Nẵng trước Tết, 4.600 quần chúng được phân thành 22 đại đội tiến vào thành phố, nhưng vừa xuất quân thì nhận lệnh hoãn giờ khởi nghĩa. Ở khu vực trung tâm thành phố lúc 6 giờ sáng mồng Một Tết, tại chùa Tỉnh giáo hội Phật giáo Đà Nẵng, cán bộ và cơ sở ta huy động 400-500 học sinh và quần chúng tổ chức biểu tình, nhưng liền sau đó cảnh sát chính quyền Sài Gòn đến đàn áp và giải tán, bắt một số cốt cán của ta.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ở Quảng Đà, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.000 tên địch, gồm quân đội Sài Gòn, quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên, phá hủy và bắn rơi 192 máy bay, đánh cháy 40 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 49 khẩu pháo và nhiều kho tàng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại Đà Nẵng nói riêng, Quảng Đà nói chung đã huy động được một lực lượng lớn và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tiến công tiêu diệt giặc của quân và dân ta. Dù Đà Nẵng là vùng nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, song quân và dân ta đã bất chấp hy sinh, gian khổ, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, hỗ trợ đắc lực cho kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam.

Dù chưa đạt so với yêu cầu, song, quân và dân Đà Nẵng đã góp phần cùng toàn miền Nam và cả nước giáng một đòn nặng nề vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Ngày 31-3-1968, chính quyền Mỹ chính thức tuyên bố ngừng mọi hoạt động bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với Chính phủ ta. Với quyết định này, chính quyền Mỹ đã mặc nhiên thừa nhận sự thất bại quân sự, chính trị trên chiến trường Việt Nam và sự phá sản hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ". Đây là một thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện mà cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 mang lại.

Tuy nhiên, trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà và Bộ Chỉ huy quân sự Mặt trận 4 đã không quán triệt sự chỉ đạo của trên: "Vùng 1 chiến thuật là trọng điểm tiến công quân sự của ta trong toàn miền Nam. Đà Nẵng là thành phố quan trọng, đồng thời là căn cứ liên hiệp của Mỹ, cho nên không thể coi nhẹ công kích quân sự được". Do lệnh khởi nghĩa không đồng bộ nên các mũi tiến công quân sự của ta đều không vào được thành phố, lực lượng biệt động tại chỗ không đủ sức hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, trong lúc đó, các cánh quân khởi nghĩa từ vùng ven kéo vào nội thành bị địch chặn lại, cuộc nổi dậy của nhân dân trong thành phố bị địch đàn áp, giải tán. Lực lượng của ta bị nhiều tổn thất. Tiểu đoàn 1 Quảng Đà (đơn vị R20) bị tổn thất nặng, chỉ còn một số chiến sĩ. Hàng trăm cán bộ cơ sở, quần chúng hy sinh và bị địch bắt. Đảng bộ xã Hòa Hải của Khu 3 Hòa Vang (nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) gồm 100 đảng viên, chỉ còn 20 đồng chí. Đảng bộ xã Hòa Long (nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) có 60 đảng viên chỉ còn 4 đồng chí. Có xã, lực lượng du kích chỉ còn sống đôi ba người. Hai đồng chí Ủy viên Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà: Mai Đăng Chơn, Nguyễn Hữu Đức, đồng chí Nguyễn Minh Huy - Phó ban đấu tranh chính trị - cùng với nhiều đồng chí, đồng bào đã hy sinh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy này.

Qua Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cho chúng ta những bài học quý báu: Thứ nhất, bài học về chuẩn bị chiến trường, đánh giá thực lực giữa ta và địch. Cụ thể là, đối với Đà Nẵng, sự chỉ đạo của ta trong Xuân Mậu Thân nặng về bài học kinh nghiệm nổi dậy làm chủ thành phố 76 ngày đêm năm 1966, với việc phát động quần chúng xuống đường, lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch, làm binh biến ly khai, coi nhẹ tấn công vũ trang đánh địch. Bài học này, đã được Đặc Khu ủy Quảng Đà vận dụng hiệu quả trong giai đoạn cách mạng từ năm 1968 đến thắng lợi mùa Xuân năm 1975. Thứ hai, bài học về sự tin dân, hiểu dân, sống trong dân, chiến trường trong dân. Chỉ có tin dân, dựa vào dân, đi vào trong dân mới có thể thực hiện được nhiệm vụ giữ dân, giành dân, giành quyền làm chủ về tay nhân dân; mới xây dựng được lực lượng cơ bản của cách mạng. Điều này thể hiện rõ trong phương châm "Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám địch, cấp trên bám cấp dưới" của Đặc Khu ủy Quảng Đà. Bài học này được Đặc Khu ủy Quảng Đà phát huy tạo thành một nguồn sức mạnh to lớn, nhất là kinh nghiệm đánh vào các cơ quan đầu não của địch nằm sâu trong lòng thành phố trong những lần tiến công đánh chiếm và giải phóng thành phố Đà Nẵng sau này.




------------------------------------------------------------------
1. Đặc khu Quảng Đà chia Đà Nẵng thành 3 quận (Quận I, Quận II, Quận III), chia Hòa Vang thành 3 khu (Khu I, Khu II, Khu III), đồng thời tiến hành tổ chức củng cố các cấp ủy địa phương và đơn vị. Trên chiến trường miền Nam lúc bấy giờ chỉ có hai đặc khu: Đặc Khu Sài Gòn - Gia Định và Đặc khu Quảng Đà. Điều này thể hiện Trung ương Đảng và Khu ủy khu 5 đã nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò, tính chất quan trọng chiến lược của hai nơi này.

2. Cách mạng có hai vấn đề đô thị và nông thôn: Liên Xô: Đô thị và nông thôn; Trung Quốc: nông thôn bao vây thành thị. Ở Việt Nam, vừa nông thôn vừa thành thị, hai nơi đều là chiến lược, nhưng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thì trung tâm là thành phố; nông thôn là "tay chân", đô thị là "tim óc", đâm vào "tim óc" địch sẽ chết.

3. Cuối năm 1967, Chính phủ ta đổi lịch theo múi giờ Hà Nội (múi giờ thứ 7), theo đó, đêm giao thừa giữa lịch mới của miền Bắc và lịch cũ ở miền Nam (tính theo múi giờ thứ 8 ) cách nhau một ngày. Mùng Một Tết Mậu Thân ở miền Bắc nhằm ngày 29-1-1968 và ở miền Nam là ngày 30-1-1968.

4. Theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, "ngày N" được lùi lại 24 giờ, tức chuyển từ đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 sang đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (tức là vào đêm mồng Một rạng mồng Hai Tết Mậu Thân theo lịch miền Nam).

5. Ở hướng bắc, Trung đoàn 31 bộ binh (thiếu), Tiểu đoàn 487 đặc công, Đại đội công binh Hải Vân, Đại đội 1 bộ binh địa phương và du kích Khu 1 Hoà Vang tiến công một loạt chốt điểm từ đồn Nhất, trận địa tên lửa phòng không trên đèo Hải Vân đến Nam Ô. Phân đội đặc công nước đánh tàu Lôri ở vịnh Đà Nẵng. Ở hướng tây, Tiểu đoàn 35 đặc công của Quân khu 5 tập kích khu rađa, thông tin trên núi Phước Tường. Ở phía nam, Tiểu đoàn 489 đặc công và bộ đội, du kích Khu 2 Hòa Vang tiến công Trung đoàn 52 quân đội Sài Gòn ở Miếu Bông, bãi xe cơ giới Cẩm Bình, đánh chiếm Cầu Đỏ và một số vị trí ở Nam sông Cẩm Lệ.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:45:57 am
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK



THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY ĐẮK LẮK


Với thắng lợi liên tiếp trong hai mùa khô 1965-1966, 1966-1967, thế và lực của ta ngày càng phát triển; cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đứng trước những triển vọng lớn.

Trong bối cảnh đó, tháng 6-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp nhận định: địch đã thất bại một bước cơ bản trong cuộc "chiến tranh cục bộ", đang lúng túng, bị động cả về chiến lược, sách lược... Còn về ta: cả về thế và lực đã có nhiều tiến bộ. Ta cần chuẩn bị đánh cho địch một đòn quyết định, giành thắng lợi lớn, tạo sự chuyển biến nhảy vọt, buộc Mỹ phải thua về quân sự.

Tiếp theo, tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp, trên cơ sở phân tích tình hình, đánh giá âm mưu cơ bản và thất bại của địch trong năm 1967, khả năng của chúng sắp tới; đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của ta, Bộ Chính trị hạ quyết tâm: chuyển cuộc chiến tranh của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Bộ Chính trị xác định: nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.

Trên cơ sở hạ quyết tâm chiến lược, cuối tháng 12-1967, Tây Nguyên được phổ biến quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và thống nhất: Động viên toàn thể lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc nỗ lực vượt bậc, tiến công liên tục, toàn diện và triệt để, thực hiện bằng được quyết tâm chiến lược của Đảng, đồng thời phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường và sẵn sàng ứng phó một cách chủ động, mạnh mẽ nếu chiến tranh kéo dài.

Để thống nhất chỉ đạo và chỉ huy, phối hợp giữa hai lực lượng và ba thứ quân trên chiến trường, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận mở hội nghị liên tịch với các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, cùng bàn bạc cách phối hợp hoạt động giữa chủ lực và địa phương, giữa tiến công và nổi dậy. Mục tiêu chính được xác định là 3 thị xã: Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kon Tum.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương, của Khu uỷ 5 và Mặt trận Tây Nguyên, cuối năm 1967, Tỉnh uỷ Đắk Lắk họp bàn kế hoạch khẩn trương chuẩn bị các mặt cho đợt hoạt động, tập trung vào chiến trường trọng điểm là thị xã Buôn Ma Thuột. Về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy cuộc tiến công và nổi dậy, ở tỉnh đã thành lập Ban Chỉ huy chung do đồng chí Trương Cao Dũng, Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Bốn Đạo (Nguyễn Xuân Nguyên), Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy. Ở thị xã Buôn Ma Thuột tổ chức hai ban chỉ huy ở cánh Nam và cánh Bắc. Ban Chỉ huy chung đã xác định nhiệm vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Đắk Lắk như sau:

1- Tích cực phối hợp với chiến trường tiêu diệt nhiều sinh lực địch trước ngày tổng tiến công và nổi dậy nhằm thu hút địch ra ngoài thị xã, ghìm chân chúng ở đó đồng thời đánh phá kho tàng, một số cơ quan đầu não, làm tan rã hệ thống tổ chức quân đội và chính quyền Sài Gòn; tập dượt và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh diệt ác, mở rộng cơ sở chính trị trong và chung quanh thị xã.

2- Triệt để chấp hành giờ nổ súng tiến công địch, huy động toàn bộ lực lượng quân sự, chính trị, binh vận tiến công vào trọng điểm thị xã Buôn Ma Thuột, nhằm tiêu diệt một số mục tiêu trong hệ thống phòng thủ chủ yếu của địch, trọng điểm là các cơ quan đầu não chính quyền và quân đội địch từ cấp tỉnh đến cấp xã, chiếm công sở, phương tiện thông tin, đài phát thanh, làm tê liệt hệ thống thông tin của địch. Đánh chiếm thị xã và các ấp chung quanh, hỗ trợ quần chúng cùng lực lượng vũ trang bao vây tiêu diệt đầu sỏ ác ôn, động viên các lực lượng vũ trang kiên quyết bám trụ thị xã và phát triển thắng lợi ra toàn tỉnh.

Cuối năm 1967, trên chiến trường Đắk Lắk, địch có 2 tiểu khu, 11 quận lỵ, chi khu, 22 cứ điểm; về lực lượng có 2 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn thiết giáp cùng với lực lượng Sư đoàn bộ binh 23, khoảng 6.000 quân. Bảo an có 1 chiến đoàn và 8 đại đội, thám báo 9 đại đội, cảnh sát 5 đại đội và 250 đại đội dân vệ... Quân Mỹ có 450 cố vấn và 1 đại đội công binh đang làm Đường 14.

Lực lượng của ta có Trung đoàn 33 và 2 tiểu đoàn chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên vừa được bổ sung. Bộ đội địa phương tỉnh có 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội bộ binh, các đội trợ chiến, công binh vận tải và các phân đội thông tin trinh sát, bộ đội huyện mỗi nơi có 1 trung đội. Thị xã Buôn Ma Thuột có hai trung đội xung kích ở cánh Bắc và cánh Nam. Du kích toàn tỉnh có khoảng 1.200 người.

Trong thị xã Buôn Ma Thuột, cơ sở chính trị của ta khá mạnh, có trên 200 trung kiên cốt cán, các đội tự vệ mật hoạt động diệt ác, trừ gian trong nội thị. Về chi bộ Đảng, cuối năm 1967, nội thị có 1 chi bộ, 3 đảng viên sống hợp pháp. Lúc chuẩn bị tổng tiến công ta đưa vào thêm 6 cán bộ, đảng viên bất hợp pháp và kết nạp thêm 7 đảng viên mới, thành lập thêm 3 chi bộ, lập đội vệ quốc tử, đội phát động quần chúng, đội binh vận, đội giao liên dẫn đường cho bộ đội và đón dẫn các đoàn biểu tình từ ngoài vào. Ta cũng chuẩn bị một số hầm bí mật trong các cơ sở nội tuyến để giấu cán bộ chỉ đạo và thương binh, chuẩn bị 20 tấn gạo ở căn cứ bàn đạp và trong nội thị. Cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch lúc này cũng khá đông, ta có cơ sở ở Sư đoàn bộ binh 23, ở khu kho Mai Hắc Đế, ở khu thiết giáp, khu pháo binh và một số nơi khác. Nhìn chung, công tác chuẩn bị trong thị xã làm tốt, đảm bảo được yếu tố bí mật, bất ngờ cho đến giờ nổ súng. Ở các huyện nông thôn, ta phát động quần chúng tổ chức lực lượng nổi dậy thành từng trung đội, đại đội có cán bộ nòng cốt chỉ đạo, động viên nhân dân chuẩn bị lương thực phục vụ cho đợt hoạt động.

Ngoài ra, ta có tổ chức các hoạt động nghi binh để kéo theo sự chú ý đối phó của địch ra vùng ven như tiến công vào quận lỵ Lạc Thiện (22-11-1968); ở Buôn Hồ, lực lượng của ta đánh vào các ấp buôn Trinh, buôn A Nua, ấp Cuôr Đăng và phục kích đánh địch ở đèo Hà Lan trên Đường 14. Những hoạt động nghi binh của ta đã kéo sự chú ý đối phó của địch ra vùng ven, tạo điều kiện cho lực lượng của ta áp sát vào thị xã nhưng vẫn đảm bảo được tính bất ngờ.

Cuộc tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột bắt đầu vào lúc 0 giờ 45 phút ngày 30-1-1968. Ở cánh Nam, Tiểu đoàn 301, bộ đội địa phương tỉnh tiến công vào Ty Ngân khố và phát triển đánh sang Tòa hành chính, đánh chiếm và làm chủ hai mục tiêu này trong 3 ngày Tết. Sáng mồng 1 Tết, bộ phận của tiểu đoàn này tiến công vào tiểu khu bảo an, tuy nhiên mục tiêu này địch có công sự kiên cố, hỏa lực mạnh nên ta không làm chủ được. Cũng trong thời gian này một đại đội của tỉnh có cơ sở dẫn đường đã đánh vào nhà lao Buôn Ma Thuột để giải thoát cho các đồng chí, đồng bào đang bị địch giam giữ.

Ở cánh Tây Nam, Tiểu đoàn 39 tiến công dồn dập vào Đài phát thanh Buôn Ma Thuột và trường huấn luyện, tiêu diệt 1 đại đội bảo an, bắt sống 3 tên Mỹ và làm chủ được hai mục tiêu này.

Mũi tiến công quan trọng nhất ở cánh Nam là Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 33 nhận nhiệm vụ đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 23 và tiếp nối liên lạc với cánh Bắc trong thị xã nhưng trên đường tiếp cận mục tiêu gặp địch phải tác chiến kéo dài, người dẫn đường bị thương nên không liên lạc được với cánh Bắc.

Ở cánh Bắc, đêm 30 Tết, lực lượng của ta đã tiến công vào thị xã nhưng không liên lạc được với cánh Nam theo kế hoạch hiệp đồng. Trưa ngày mồng 1, địch đưa xe tăng ra phản kích quyết liệt, buộc quân ta ở cánh Bắc phải rút lui. Tối mồng 2 Tết, lực lượng của ta đánh vào khu pháo binh, tiêu diệt một số địch nhưng không dứt điểm được.

Trước sức tiến công dồn dập, đồng loạt và bất ngờ của ta, các cứ điểm của địch hoảng hốt không kịp phản ứng. Mười phút sau địch mới chống trả quyết liệt bằng máy bay lên thẳng, bắn phá ác liệt vào khu thiết giáp. Trong những ngày 1, 2, 3 Tết, địch dùng bộ binh và máy bay bắn phá ác liệt vào các khu dân cư trong nội thị. Ta phát triển tiến công giành giật với địch từng mục tiêu trong thị xã. Trưa ngày 3, địch dùng máy bay đổ các trung đoàn 45 và 53 xuống sân bay Buôn Ma Thuột để phản kích, đánh chiếm lại các mục tiêu đã mất trong thị xã. Sau ngày mùng 4 Tết, địch đổ Lữ đoàn 173 dù Mỹ ở Pleiku vào để hỗ trợ quân đội Sài Gòn, lực lượng của ta chuyển sang đánh địch ở vùng ven. Lực lượng vũ trang các huyện cũng đồng loạt tiến công địch ở Buôn Hồ, Phước An, Lắk, Tây Cheo Reo.
 
Trong lúc lực lượng vũ trang tiến công thị xã thì ở một số đường phố trong thị xã Buôn Ma Thuột, quần chúng đã xuống đường chiếm các trụ sở ở thôn ấp, xé cờ và khẩu hiệu của địch, treo cờ cách mạng và rải truyền đơn, lùng bắt bọn ác ôn, kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Tại chùa Khải Đoan, sáng mùng 1 Tết, gần 7.000 đồng bào đã tập trung trước sân nghe tuyên truyền, giải thích đường lối cách mạng. Tại nhà thờ trung tâm thị xã và vườn cao su cổng số 3, trên 5.000 đồng bào cũng tập trung biểu dương khí thế cách mạng.

Ở nông thôn, quần chúng các huyện Buôn Hồ, Bắc Buôn Ma Thuột, Lắk kéo về thị xã Buôn Ma Thuột. Cánh Bắc có trên 6.000 người, phần lớn là đồng bào các dân tộc huyện Tây Cheo Reo, Buôn Hồ kéo ra Đường 14 đến buôn Cuôr Đăng thì bị địch chặn lại, chúng xả súng vào đoàn người. Trước tình thế đó, cán bộ lãnh đạo đã quyết định chuyển đồng bào về phía Từ Cung để củng cố lực lượng. Ở cánh Nam có 2.500 người, có cả đồng bào Kinh và Thượng ở huyện Lắk và vùng ven Buôn Ma Thuột kéo về Ea Kao thì bị địch chặn lại.

Cánh đông nhất và đấu tranh quyết liệt nhất là ở phía Đông, với trên 9.000 người gồm đồng bào Kinh ở các khu dinh điền giải phóng và đồng bào các dân tộc Krông Bông - vùng căn cứ kháng chiến của tỉnh theo Đường 21 tiến về thị xã, trên đường đi có nhiều đồng bào hai bên đường gia nhập thêm. Đến cách thị xã khoảng 9 km thì bị địch chặn lại đàn áp khốc liệt, đồng bào sôi sục căm thù, người trước ngã xuống, người sau xông lên trước làn đạn của địch. Cuộc chiến đấu của đồng bào với bọn khát máu đã diễn ra quyết liệt, địch đã gây thương vong trên 200 người, đoàn biểu tình không tiến vào thị xã được.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân như một đòn sét đánh đối với đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chỉ tính riêng trong đợt tiến công và nổi dậy đợt 1, quân và dân trong tỉnh đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 tên địch, bắt sống 85 tên, trong đó có 3 tên Mỹ, đánh quỵ 1 tiểu đoàn và 1 đại đội, bắn cháy 13 xe M113, phá hủy 19 máy bay, 150 xe quân sự, 12 kho xăng dầu, bom đạn, thu nhiều vũ khí, đạn dược của địch. Đánh chiếm và làm chủ một số vị trí quan trọng của địch trong thị xã từ 3 đến 5 ngày. Ở nông thôn, ta phá ấp chiến lược, trên 5.000 dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Đắk Lắk, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 thực sự là cuộc huy động lực lượng có quy mô lớn, có ý nghĩa "tập dượt" cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 sau này. Tuy hoạt động quân sự chưa đạt yêu cầu cao, chưa thực hiện được kế hoạch hiệp đồng giữa cánh Nam và cánh Bắc; đòn tiến công quân sự của ta chưa đủ mạnh để áp đảo địch, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy kéo vào thị xã; địch còn khả năng điều quân phản kích gây tổn thất lớn cho lực lượng quần chúng; nhưng thắng lợi của Tết Mậu Thân với trình độ tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy và ý chí quyết tâm, với tinh thần chiến đấu hy sinh dũng cảm, kiên cường, bất khuất của quân và dân các dân tộc trong tỉnh, sẽ mãi mãi là bản anh hùng ca bất diệt mà Đảng bộ, quân và dân Đắk Lắk đã góp phần vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:51:34 am
LỰC LƯỢNG ĐẶC CÔNG, BIỆT ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 5
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá NGUYỄN THỊ THU HIỀN
Trưởng ban Tổng kết Lịch sử Công tác Đảng, Công tác Chính trị Quân khu 5



Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân và dân Khu 5 đã phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng quân sự và chính trị, đồng loạt tiến công và nổi dậy, từ đồng bằng ven biển đến Tây Nguyên. Là lực lượng mũi nhọn tiến công sâu vào hậu phương đô thị của địch, lực lượng đặc công, biệt động góp phần tích cực cùng quân dân Quân khu 5 nói riêng và miền Nam nói chung tạo ra một bước ngoặt vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Bám sát và phân tích tình hình chiến trường, nước Mỹ cũng như tình hình thế giới, Bộ Chính trị nhận định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược" . Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định: "... động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Đây là "nhiệm vụ trọng đại và cấp bách", nhằm giáng cho địch một đòn thật mạnh, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và từ tình hình thực tiễn của địa phương, Khu ủy và Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định tập trung lực lượng của ba thứ quân tiến công đồng loạt, liên tục, mạnh mẽ từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa, từ đồng bằng lên miền núi, tiêu diệt lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, kết hợp với những cuộc khởi nghĩa quy mô và quyết liệt của quần chúng giành thắng lợi. Mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương đều dồn sức tập trung chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, với quyết tâm cao "sẵn sàng hy sinh cho thắng lợi quyết định".

Trên cơ sở quyết tâm tác chiến chiến dịch, Khu ủy, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu giao nhiệm vụ tiến công quân sự trên các hướng cho các đơn vị trên toàn chiến trường 1.

Lực lượng đặc công, biệt động tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 có nhiệm vụ đánh sâu vào thành phố, thị xã, căn cứ quân sự và kho vật tư chiến lược của địch. Từ giữa năm 1965, lực lượng đặc công đã xây dựng được: Đặc công cơ động, Đặc công chuyên trách và Đặc công biệt động. Lực lượng biệt động phát triển mạnh ở các thành phố, thị xã: Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang, Buôn Ma Thuột. Trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, lực lượng đặc công, biệt động đã đánh nhiều trận xuất sắc, góp phần tiêu hao nhiều sinh lực địch.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, lực lượng đặc công có nhiệm vụ đánh vào đô thị được bố trí như sau: Căn cứ Đà Nẵng: 2 tiểu đoàn 487, 489 và Biệt động Lê Độ. Thị xã Hội An: Tiểu đoàn 2 bộ binh đã được huấn luyện đặc công. Thị xã Tam Kỳ: 1 liên đội. Thị xã Quảng Ngãi: Trung đoàn 401 và tiểu đoàn đặc công của tỉnh. Thị xã Quy Nhơn: 1 tiểu đoàn (4 đại đội). Thị xã Tuy Hòa và Vũng Rô: Tiểu đoàn 430 và các đại đội 201, 202, 25. Nha Trang và Cam Ranh: 3 đại đội K88, K90, K91 và 2 đại đội đặc công nước K92, K93. Thị xã Kon Tum: Tiểu đoàn 406. Thị xã Pleiku và An Khê: 3 tiểu đoàn 407, 408, 450 và 2 đại đội. Thị xã Buôn Ma Thuột: Tiểu đoàn 401.

Trong lúc các lực lượng sẵn sàng xuất kích thì Quân khu nhận được lệnh lui thời gian nổ súng lại một ngày để thống nhất phối hợp với toàn Miền. Quân khu cấp tốc lệnh cho các đơn vị, nhưng một số đơn vị không kịp nhận được lệnh, vẫn nổ súng theo thời gian cũ.
Lúc 23 giờ ngày 29-1-1968, lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hòa nổ súng tiến công vào sân bay Nha Trang, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 trên chiến trường miền Nam.

Trước đó, tự vệ nội thị Nha Trang đã "xâu chuỗi" các cơ sở cách mạng theo từng nhóm; tuyên truyền phát huy ý chí cách mạng cho những người thân, đưa họ vào hoạt động trong tổ chức, động viên đóng góp tiền cho chiến khu, phát hiện và lập danh sách chỉ điểm, cô lập chúng, giúp đỡ thanh niên trốn lính, đấu tranh chống bắt lính, mua hàng "quốc cấm" cho chiến khu... Tài liệu tuyên truyền được đánh máy ngay tại nhà cơ sở ở nội thị. Tự vệ nội thị Nha Trang tích cực may cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam loại lớn, loại nhỏ; khẩn trương đón lực lượng từ ngoài vào thị xã, chuẩn bị nhân sự thành lập chính quyền cách mạng.

Ở thị xã Nha Trang, đúng 23 giờ ngày 29-1, các chiến sĩ đặc công của 2 đại đội K90 và K91 bất ngờ nổ súng và làm chủ tỉnh đường, tiểu khu, Sở tiếp vận 5, sau đó phát triển đánh sang Sở chỉ huy Việt - Mỹ - Hàn và một số cơ quan của địch ở đường Yersin và đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú); cùng lúc đó Đại đội K88 đánh vào khu vực Đài Phát thanh. Trên hướng Cam Ranh, các đại đội K92, K93 đánh vào sân bay và cảng quân sự, phá hủy 12 máy bay và đánh chìm một tàu vận tải 8.000 tấn.

Ở Phú Yên, đúng 0 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, cán bộ, chiến sĩ đặc công với khẩu hiệu "nhằm thẳng mục tiêu mà tiến, nhằm thẳng quân thù mà bắn" đã đồng loạt đánh vào khu cố vấn Mỹ, Sở chỉ huy Trung đoàn 47 quân Sài Gòn, Ty Cảnh sát, sân bay Đông Tác, sân bay lên thẳng Thọ Lâm, Sở chỉ huy Trung đoàn 28 Bạch Mã, trận địa pháo Hảo Sơn..., diệt hàng trăm quân Mỹ, quân Sài Gòn và Nam Triều Tiên, phá hủy 29 máy bay các loại, 8 đại bác, nhiều xe quân sự, phương tiện chiến tranh.

Ở Quy Nhơn, lực lượng vòng ngoài của ta kiên cường đánh chặn, thu hút, kiềm giữ địch, tạo điều kiện cho các đơn vị đánh bên trong luồn vào. Lúc 1 giờ 15 phút ngày 30-1-1968, Đội Biệt động Quy Nhơn phối hợp với Tiểu đoàn 50, Tiểu đoàn đặc công Liên ấp 3 và lực lượng tự vệ tiến công đánh chiếm Đài Phát thanh và khu quân trấn, diệt và bắt sống toàn bộ quân địch chiếm đóng ở hai khu vực này, giải thoát 22 cán bộ và cơ sở, trong đó có đồng chí bí thư thị ủy. Đây là chiến công lớn trong Tết Mậu Thân trên chiến trường Bình Định. Đại đội đặc công Đ20 đánh kho đạn Đèo Son. Đại đội đặc công nước 598 bắn chìm 2 bo bo của địch.

Ở Đà Nẵng, trước ngày Tổng tiến công và nổi dậy, lực lượng giao liên tăng cường đưa vũ khí, trang bị lót vào các căn cứ lõm; một số cán bộ lãnh đạo cải trang, bí mật vào nội thành. Tại căn cứ lõm Hồng Phước, các cơ sở cách mạng đào hầm bí mật kiên cố trong lòng cát. Các khu vực đều có "bí danh": B1 (Hồng Phước), B2 (Đa Phước), B3 (Đà Sơn), B4 (Khánh Sơn), B5 (Hòa Mỹ), B6 (Hòa Phú), B7 (Phước Lý), B8 (Trung Nghĩa), B9 (Hòa An), B10 (Phước Tường), B11 (Đông Phước), B12 (Nghi An) để giữ bí mật. Chuẩn bị cho Tết Mậu Thân, các căn cứ đã đón gần 100 cán bộ, chiến sĩ từ các quận nội thành về nhận kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy. Tại Hồng Phước, các cơ sở cách mạng, giao liên có sáng kiến đục lỗ các khúc gỗ lớn, nhét lựu đạn, thuốc nổ vào trong, đập toe đầu gỗ để xóa dấu vết, dùng xe lam, xe đò đưa vào nội thành trang bị cho lực lượng biệt động.

Đúng 2 giờ 30 phút ngày 30-1, cùng lúc với tiếng súng của các đơn vị, hỏa tiễn bắn vào sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, các đơn vị đặc công nhanh chóng đánh chiếm khu rađa ở điểm cao Phước Tường, Sở chỉ huy Trung đoàn 51 quân đội Sài Gòn ở Miếu Bông. Lực lượng biệt động đánh vào Đài Phát thanh, Quân vụ thị trấn, Tòa thị chính...

Chấp hành lệnh lùi thời gian nổ súng lại 24 giờ, đúng 1 giờ 30 phút ngày 31-1, Liên đội đặc công tỉnh Quảng Nam đánh vào thị xã Tam Kỳ. Mặc dù lúc này quân địch đã đề phòng cẩn mật, nhưng lực lượng đặc công đã nhanh chóng đánh chiếm khu vực nhà ga, diệt một số lô cốt, phá vỡ một mảng tuyến phòng thủ phía tây, sau đó phát triển vào đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 2 quân Sài Gòn, trận địa pháo, đốt và phá các kho xăng, kho đạn, phối hợp với bộ binh đánh vào tỉnh đường, trại bảo an, bãi xe cơ giới. Cùng đêm, Tiểu đoàn đặc công 409 tiến công sân bay và Sở chỉ huy Sư đoàn Amêricơn của Mỹ ở Chu Lai, Tiểu đoàn 10 đặc công Sư đoàn 2 đánh chiếm quận lỵ Duy Xuyên.

Tại Hội An, phối hợp với đòn tiến công quân sự, chính trị, Đội Biệt động Hội An tiến đánh một số nơi, trừng trị nhiều tên ác ôn. Lực lượng biệt động là anh em làm thợ mộc ở trại mộc Ông Một hóa trang thành "cảnh sát dã chiến" đuổi bắn lính địch, tiêu diệt nhiều tên ác ôn.

Ở Quảng Ngãi, Trung đoàn đặc công 401 phối hợp với các đại đội 506A, 506B, 21 đánh chiếm Sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn 2 quân đội Sài Gòn, Ngã năm, Đài Phát thanh, Tỉnh đoàn bảo an, một phần Đặc khu, phá nhà lao, giải thoát cho hơn 1.000 cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đang bị giam giữ.

Tại Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), trước Tết Mậu Thân diễn ra trận đánh vào kho của cơ sở nội tuyến Nguyễn Luyện. Kho Mai Hắc Đế chứa phương tiện chiến tranh, là "dạ dày thép" của đối phương ở Tây Nguyên, được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Nguyễn Luyện hoạt động trong hàng ngũ địch, lấy thuốc nổ trong kho (đặt tại mỗi hầm 8 - 10kg C4 gắn kíp hẹn giờ), sau đó nhanh chóng rút ra an toàn trước sự canh gác nghiêm ngặt của lính địch. Đúng 5 giờ 20 phút ngày 19-1, tiếng nổ lớn làm rung chuyển thị xã Buôn Ma Thuột, khói lửa trùm kín bầu trời phía tây thị xã, 3 ngày sau, cháy nổ mới tạm lắng; 3 đại đội lính bảo vệ và quản lý kho bị loại khỏi vòng chiến đấu, 12/16 khu kho với khoảng 4.200 tấn vũ khí trang bị bị phá hủy; nhiều phương tiện, trang bị khác của các đơn vị địch đóng quân lân cận cũng bị phá hủy.

Ở Tây Nguyên, 00 giờ 45 phút ngày 30-1, phối hợp với cuộc tiến công của bộ binh và pháo binh, Đại đội đặc công 310 đánh chiếm một phần khu thiết giáp ở trung tâm thị xã Buôn Ma Thuột. Ở thị xã Pleiku, Tiểu đoàn đặc công 408 và đặc công tỉnh Gia Lai đánh vào sân bay Aria, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ngụy, khu biệt động quân, tiểu khu, phá hủy 45 máy bay, 70 xe quân sự, phá nổ nhiều kho tàng, diệt gần 500 địch. Trước giờ nổ súng, cơ sở trong nội thị Kon Tum bí mật đưa một xe vũ khí giấu dưới những lớp lá chuối vào trong thị xã. Chiều 30 Tết, một bộ phận đặc công cải trang thành người đi sắm tết, vào chờ sẵn ở một số quán trong khu vực chợ. Đúng giờ nổ súng, Tiểu đoàn đặc công 406 nhanh chóng đánh chiếm tiểu khu, Tòa hành chính, Ty cảnh sát, phá sập cầu Đắk bla.

Ngay trong đêm đầu tiên, các đơn vị đặc công đã đánh chiếm được hầu hết các mục tiêu và bám trụ, sẵn sàng đánh địch phản kích đúng như mệnh lệnh. Đòn tiến công bất ngờ và đồng loạt của ta đã làm cho Mỹ và quân đội Sài Gòn hoang mang, sửng sốt. Các chiến sĩ đặc công đã giữ vững vị trí chiến đấu, kiên quyết đánh trả địch. Đến cuối ngày mồng 6 Tết Âm lịch, tiếng súng chiến đấu của các chiến sĩ đặc công vẫn còn vang trong các thị xã Buôn Ma Thuột, Quy Nhơn, Nha Trang... Tuân thủ triệt để những nguyên tắc chỉ đạo của cách đánh đặc công: chuẩn bị chu đáo, lấy ít đánh nhiều, mưu trí sáng tạo, bí mật bất ngờ, luồn sâu đánh hiểm, lực lượng đặc công Quân khu đã đánh vào 10 thành phố, thị xã và gần 20 quận lỵ, chi khu, thị trấn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 trên chiến trường Khu 5 đã gây cho địch một đòn choáng váng. Ngay từ đầu, các lực lượng pháo, cối và bộ đội đặc công đã đánh mạnh làm tê liệt hầu hết các sân bay, các trận địa pháo, căn cứ hậu cần của Mỹ - quân đội Sài Gòn, phá hủy nặng binh khí kỹ thuật và phương tiện chiến tranh của chúng, "ta đã tiêu diệt trên 30.000 quân địch, phá hủy hơn 600 máy bay, hàng trăm đại bác và xe cơ giới, làm nổ tung 49 kho đạn, cắt đứt và làm tê liệt hầu hết các đường giao thông chiến lược. Ta đã phát triển được thế tiến công chiến lược áp đảo kẻ thù trên toàn Khu, làm sụp đổ phần lớn bộ máy kìm kẹp của địch ở nông thôn, đưa chiến tranh vào tận dinh lũy cuối cùng của địch".

Tuy nhiên, do không thống nhất được ngày "N", các chiến trường nổ súng chênh lệch nhau. Khánh Hòa là điểm khởi đầu cho "Tết Mậu Thân" trên toàn chiến trường miền Nam, nhưng Quảng Nam và Quảng Ngãi lại nổ súng sau một ngày. Với lực lượng đông, trang bị vũ khí nhiều, Mỹ và quân đội Sài Gòn dần dần giành lại thế chủ động và tổ chức phản kích. Tính bí mật, bất ngờ của cách đánh đặc công, biệt động không được bảo đảm ở một số nơi. Các trận đánh trở nên ác liệt, nhiều tình huống phát sinh ngoài dự kiến, nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh, một số tổ chức biệt động bị đánh phá, nhiều đồng chí bị giam giữ.

 Từ tháng 3-1968, địch phản kích quyết liệt trên khắp chiến trường thành thị Quân khu 5. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân khu chủ trương dùng một bộ phận nhỏ đặc công, pháo cối tiếp tục đánh địch ở thành thị, còn đại bộ phận lui về nông thôn đồng bằng diệt địch và giữ vững thế trận. Chủ trương kịp thời này của Quân khu 5 được Bộ Chính trị biểu dương.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 với tính táo bạo, bất ngờ về thời gian, mục tiêu và quy mô, đã làm cho địch không phán đoán nổi. Toàn bộ hậu phương an toàn của địch bị tiến công đồng loạt. Ta đã đánh vào "huyết mạch", vào "tim óc" và "yết hầu" của chúng. Nước Mỹ bàng hoàng, sửng sốt, nội bộ chính quyền Mỹ càng thêm mâu thuẫn sâu sắc. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn buộc phải tuyên bố đồng ý đàm phán với Chính phủ ta, đánh dấu sự khởi đầu cho quá trình đi xuống về chiến lược của Mỹ. Chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 là một mắt xích cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam. Cùng với quân dân cả nước, Quân khu 5, trong đó có lực lượng đặc công, biệt động đã góp phần "đánh cho Mỹ cút", mở ra thời cơ "đánh cho ngụy nhào", giành lại độc lập, thống nhất đất nước.





---------------------------------------------------------------
1. Bộ Tư lệnh Quân khu chia chiến trường thành 4 hướng tiến công và nổi dậy như sau:
1. Quảng Đà - Quảng Nam (gồm Bắc Quảng Ngãi): Đây là hướng quan trọng nhất. Quân khu xác định tỉnh Quảng Đà là chiến trường chính và thành phố Đà Nẵng là trọng điểm; 2. Bình Định (gồm An Khê (Gia Lai)); 3. Phú Yên - Khánh Hòa; 4. Tây Nguyên.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:59:09 am
BIỆT ĐỘNG SÀI GÒN - TƯỢNG ĐÀI BẤT TỬ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, PGS.TS. HỒ SƠN ĐÀI
Nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7


Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ 1954-1975 là đại bản doanh của quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam và Đông Dương, là "thủ đô", trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của chế độ Sài Gòn; nơi đứng chân các đơn vị quân đội cơ động chiến lược, cảnh sát tình báo mật vụ các loại và hệ thống kho tàng dự trữ vật chất kỹ thuật nuôi sống guồng máy chiến tranh xâm lược. Sài Gòn - Gia Định là nơi phát ra và chỉ đạo điều hành các chủ trương chiến lược, các kế hoạch, biện pháp và thủ đoạn chiến thuật với chế độ bảo vệ đặc biệt chặt chẽ. Tiến hành đấu tranh vũ trang ở Sài Gòn - Gia Định, vì thế, không thể sử dụng một lực lượng vũ trang thông thường như ở các chiến trường khác, mà đòi hỏi một lực lượng được tổ chức đặc biệt tinh gọn, có chất lượng chiến đấu cao, có nghệ thuật chỉ huy và thực hành tác chiến tài trí, dũng cảm, có hệ thống tổ chức ém giấu lực lượng và cung cấp hậu cần kỹ thuật công phu. Đó là lực lượng Biệt động Sài Gòn!

Trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Biệt động đã chiến đấu tại các mục tiêu được bảo vệ nghiêm ngặt nhất giữa trung tâm thành phố Sài Gòn. Trong điều kiện tương quan lực lượng không cân sức, họ đã chiến đấu như những người anh hùng, và cuối cùng, phần lớn trong số họ hoặc bị địch bắt hoặc anh dũng hy sinh. Cuộc chiến đấu của Biệt động Sài Gòn đã đi vào lịch sử như một huyền thoại, một tượng đài bất tử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968.

1. Vài nét về Biệt động Sài Gòn những năm trước Mậu Thân 1968

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, cùng với các địa phương phía nam vĩ tuyến 17, lực lượng vũ trang cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn tập kết ra miền Bắc. Một số cán bộ, chiến sĩ Công tác Thành, Tự vệ Thành, Công an xung phong Thành được phân công ở lại chuyển sang mặt trận đấu tranh chính trị; một thời gian sau, một số bị bắt, tù đày, bị hy sinh, số còn lại chuyển vùng ẩn giấu tung tích hoặc ra bưng biền lập căn cứ gây dựng lại các nhóm vũ trang. Từ năm 1961, Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định và các đơn vị vũ trang cách mạng được tái lập trên cơ sở tiếp nhận số cán bộ tập kết trở về cùng số cán bộ ở lại và lực lượng mới ra đời trước và trong phong trào Đồng khởi. Trong nội đô Sài Gòn, các ngành, các cánh công tác phong trào chính trị (Thanh niên, Học sinh, Hoa vận, Phụ vận, Binh vận, Tuyên huấn...) tổ chức các tổ, liên tổ tự vệ mật, đồng thời rút một số thanh niên ra căn cứ bàn đạp huấn luyện thành chiến đấu viên, cán bộ quân sự nội thành.

Đến cuối năm 1963, lực lượng vũ trang thuộc Quân khu Sài Gòn - Gia Định hình thành. Ở ngoại thành, có tiểu đoàn tập trung và lực lượng binh chủng của Quân khu, các đại đội địa phương huyện, du kích tập trung xã, liên xã, du kích và tự vệ mật ấp, liên ấp. Trong nội thành có tự vệ mật, nội tuyến binh vận, du kích chiến đấu, trinh sát chiến đấu, công tác vũ trang, cán bộ quân sự phụ trách của từng địa phương, ban ngành, lực lượng. Bên cạnh đó, còn có các tổ, đội biệt động cánh, ngành, quận và các đơn vị biệt động của Quân khu. Như thế, biệt động Sài Gòn không phải là toàn bộ lực lượng vũ trang nội thành mà chỉ là một bộ phận lực lượng cơ động đặc biệt của một số ngành, cánh và của Quân khu Sài Gòn - Gia Định hoạt động trong thành phố. Lần lượt 6 đội biệt động Thành (159, 65, 66, 67, 68, 69) ra đời, tổ chức thành 2 lực lượng: lực lượng trực tiếp chiến đấu; lực lượng làm công tác bảo đảm.

Cuối năm 1964, sau hàng loạt thắng lợi chính trị, quân sự của lực lượng kháng chiến trên các chiến trường, sự khủng hoảng triền miên của chế độ Sài Gòn (khởi từ biến cố Diệm bị đảo chính và sát hại tháng 11-1963), Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền đã vạch định một kế hoạch chuẩn bị đón thời cơ thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa, mang mật danh X. Thực hiện kế hoạch X, Quân khu Sài Gòn - Gia Định thành lập Đoàn biệt động F100 1. Đây là đơn vị biệt động tập trung cơ động của Quân khu Sài Gòn - Gia Định, gồm 14 đội: 9 đội biệt động nội đô mang số hiệu từ 3 đến 11 (mỗi đội từ 15 đến 20 cán bộ, chiến sĩ); 3 đội đặc công - biệt động ven đô (hoạt động ở các khu vực Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè); 2 đội công tác bảo đảm chuyên trách xây dựng cơ sở, làm hầm bí mật để trú ém người và cất giấu vũ khí, tổ chức đường dây liên lạc và vận chuyển vũ khí từ chiến khu vào nội thành mang phiên hiệu A20 và A30 2. Cùng với lực lượng biệt động của Quân khu, lực lượng biệt động các cánh, ngành cũng được củng cố, như Đội 65 Bình Tân, Đội 66 Dĩ An, Đội 67 Gò Môn, Đội 68 Thủ Đức, Đội 69 Nhà Bè - Quận 4 và biệt động của Hoa vận, Thành Đoàn,...

Năm 1967, thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam về tổng công kích - tổng khởi nghĩa, Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Quân khu 7 được giải thể và tổ chức lại thành 6 phân khu, mang phiên hiệu từ 1 đến 6, trong đó 6 là phân khu nội đô Sài Gòn 3 . Bộ Chỉ huy Phân khu 6 4 giải thể Đoàn F100 biệt động, thành lập các đội biệt động độc lập đảm nhiệm nhiệm vụ tiến công từng mục tiêu trong thành phố. Ngoài lực lượng bảo đảm, hơn 100 chiến đấu viên của F100 được tổ chức thành chín đội mang số hiệu từ 1 đến 9 biên chế trong ba cụm: Cụm 128 (các đội 1, 2, 8 ); Cụm 345 (các đội 3, 4, 5); Cụm 679 (các đội 6, 7, 9); và 1 đội độc lập phiên hiệu 90C.

Như vậy, Biệt động Sài Gòn bao gồm các đơn vị vũ trang đặc biệt do Quân khu hoặc của các địa phương, tổ chức ban ngành kháng chiến ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thành lập, làm nhiệm vụ tiến công các mục tiêu quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị này sống hợp pháp trong thành phố, được biên chế, huấn luyện và trang bị vũ khí đặc biệt tinh nhuệ, chặt chẽ và hết sức bí mật. Đến trước cuộc tổng tiến công năm 1968, họ là các cụm biệt động của Phân khu nội đô, các đội biệt động cánh và ban ngành của Sài Gòn - Gia Định vừa được tổ chức lại. Hầu hết đều đã trải qua chiến đấu trong các trận tiến công nổi tiếng tại Sài Gòn và vùng ven vào những năm 1963-1967 5.





----------------------------------------------------------------
1. Ban chỉ huy Đoàn biệt động F100 gồm: Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) - Chỉ huy trưởng, Nguyễn Nhinh (Bảy Dũng) - Chính trị viên, Nguyễn Hát (Năm Hát) và Võ Tâm Thành (Sáu Thành) - Chỉ huy phó, Trần Minh Sơn (Bảy Sơn) - Tham mưu trưởng.

2. A20 làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào nội thành, tổ chức đường dây giao liên ra vào thành phố, do Đỗ Tấn Phong (Ba Phong) và Dương Long Sang (Hai Sang) chỉ huy. A30 làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, hầm bí mật chứa vũ khí và ém quân, do Ngô Thành Vân (Ba Đen) và Lê Viết Đỉnh chỉ huy.

3. Phân khu 1 (hướng tây bắc) gồm các huyện: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp (Gia Định), Bến Cát, Dầu Tiếng (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh). Phân khu 2 (hướng tây nam) gồm Bình Tân, bắc Bình Chánh, các quận 3, 5, 6 và các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ (Long An). Phân khu 3 (hướng nam) gồm các quận 2, 4, 7, 8, Nhà Bè, nam Bình Chánh và các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc (Long An). Phân khu 4 (hướng đông bắc) gồm Thủ Đức, Long Thành, Nhơn Trạch (Biên Hòa), Thạnh Mỹ Tây (Gia Định). Phân khu 5 (hướng bắc) gồm Phú Nhuận, Bình Hòa (Gia Định); Tân Uyên, Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An (Bình Dương). Phân khu 6 (khu vực nội thành Sài Gòn), cơ cấu gồm lực lượng vũ trang nội thành, bao gồm cả lực lượng biệt động và các cơ sở Đảng ở các lõm chính trị nội đô.

4. Bộ Chỉ huy Phân khu 6 gồm: Trần Hải Phụng - Chỉ huy trưởng, Võ Văn Thạnh - Chính trị viên, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) - Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng đặc trách lực lượng biệt động Thành.

5. Một số trận tiêu biểu: kho xăng sân bay Tân Sơn Nhất (1-1963), cư xá sĩ quan Mỹ đường Cao Thắng (2-1963), rạp chiếu bóng Kinh Đô dành riêng cho cố vấn Mỹ ở đường Lê Văn Duyệt (7-1963, 2-1964), tàu Card trọng tải 16.500 tấn tại cảng Sài Gòn (5-1964), cầu Công Lý nơi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara đi qua (5-1964), khách sạn Caravell đường Catinat (8-1964), kho xăng Nhà Bè (10-1964, 3-1965), câu lạc bộ hàng không Tân Sơn Nhất (11-1964), khách sạn Brink dành riêng cho sĩ quan Mỹ (12-1964), trụ sở phái đoàn MACV (1-1965), Tòa Đại sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi (3-1965), phòng tiếp tân dành riêng cho Bộ Chỉ huy Mỹ ở sân bay Tân Sơn Nhất (5-1965), Tổng nha công an cảnh sát Sài Gòn (8-1965), khách sạn Metropol dành cho sĩ quan Mỹ (12-1965), căn cứ khu vực hậu cần sư đoàn 25 Mỹ ở ngã tư Bảy Hiền (12-1965), Sở chỉ huy hành quân Bộ Tổng Tham mưu (2-1966), khách sạn Victoria sáu tầng, nhà ở của trên 200 sĩ quan và nhân viên sĩ quan kỹ thuật hàng không Mỹ (4-1966), khu để máy bay tại sân bay Tân Sơn Nhất (4-1966), đồn cảnh sát Phú Lâm (5-1966), tàu 12.000 tấn hậu cần Mỹ tại sông Lòng Tàu (7-1966), lễ đài diễu binh ngày quốc khánh chế độ Sài Gòn sau nhà thờ Đức Bà (7-1966)...



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 09:07:35 am
2. Cuộc chiến đấu không cân sức tại nội đô Sài Gòn

Tháng 10-1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức hội nghị hạ quyết tâm động viên mọi lực lượng với nỗ lực cao nhất, thực hiện bằng được hai nhiệm vụ:

1- Đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn;

2- Phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành chính quyền, làm chủ các quận và đưa lực lượng quần chúng có tổ chức vào làm chủ các mục tiêu mà biệt động đã chiếm lĩnh; phối hợp với lực lượng chủ lực của Phân khu và Miền từ ngoài vào, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ tại địa bàn Sài Gòn - Gia Định.

Do đã được chuẩn bị từ trước (theo kế hoạch X), công tác chuẩn bị tiến công diễn ra thuận lợi, nhanh chóng. Trong kế hoạch tổ chức các phân khu, lực lượng vũ trang trên từng địa bàn (kể cả các tiểu đoàn mũi nhọn và biệt động trực thuộc) của Quân khu Sài Gòn - Gia Định được tách ra để ghép vào địa bàn các tỉnh xung quanh thành phố, trong đội hình các phân khu 1, 2, 3, 4, 5 trên năm hướng tiến vào thành phố Sài Gòn. Du kích tập trung ở các xã được tổ chức thành từng đội; riêng ở Gò Môn, Tân Bình, Nhà Bè, Thủ Đức có 26 đội. Về chuẩn bị địa bàn, các địa phương đã xây dựng hoàn chỉnh các lõm căn cứ ở vùng ven và cơ sở ở nội thành làm nơi ém quân, cất giấu vũ khí và xuất phát triển khai chiến đấu. Tính đến thời điểm cuối năm 1967, đã xây dựng được 19 cơ sở chính trị ở gần các mục tiêu trọng yếu với 325 gia đình cơ sở, tạo được 400 điểm ém quân ở các lõm chính trị cầu Bông, khu Bàn Cờ, xóm Chùa Tân Định... Vũ khí, phương tiện cơ động đã tập kết đầy đủ. Đến trước giao thừa Xuân Mậu Thân, về cơ bản, công tác chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy của Sài Gòn - Gia Định đã hoàn tất.

Lực lượng Biệt động Thành (trực thuộc Bộ Chỉ huy quân sự Phân khu 6 1) tổ chức thành 2 khối: khối các đội trong nội đô và khối bố trí các cánh. Theo phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa, Biệt động Thành được giao đánh chiếm Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh Sài Gòn, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Biệt khu thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, khám Chí Hòa, Bộ Tư lệnh hải quân; đồng thời phối hợp với Phân khu 1 đánh chiếm Bộ Tư lệnh thiết giáp, Bộ Tư lệnh pháo binh, sân bay Tân Sơn Nhất; phối hợp với Phân khu 2 và Phân khu 3 đánh chiếm khu xăng dầu Nhà Bè; phối hợp với Phân khu 4 đánh chiếm cầu Sài Gòn và Tân Cảng. Riêng mục tiêu Sứ quán Mỹ, trong quá trình xây dựng kế hoạch, dự kiến không tiến công vì lý do chính trị, đến cận Tết mới giao cho Biệt động Thành đánh chiếm.
Đêm mùng 1 rạng mùng 2 Tết Mậu Thân, các đơn vị Biệt động rời khỏi vị trí ém quân trong nội đô, di chuyển. Các chỉ huy đội lần lượt đến Sở chỉ huy Biệt động đặt tại quán phở Bình (7 Yên Đổ) nghe lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lời chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhận giờ G nổ súng. Và cuộc tập kích vào các mục tiêu được phân công được khởi đầu đồng loạt vào 2 giờ sáng mùng 2 Tết sau 8 quả đạn cối 82 mm nã vào sân bay Tân Sơn Nhất.

Tại mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Cụm biệt động 679 (27 chiến đấu viên, do Đỗ Tấn Phong chỉ huy) chia thành 2 mũi tiến công vào cổng số 1. Do quân địch quá đông, dựa vào công sự kiên cố để bắn trả, cả hai mũi không vào được bên trong căn cứ, đành phải trụ lại dọc bờ rào và các ngôi nhà kế cận tiếp tục chiến đấu. Bị địch chia cắt đội hình và phản kích quyết liệt, một bộ phận buộc phải rời khỏi trận địa, một số khác trụ lại chiến đấu đến viên đạn cuối cùng mới sa vào tay địch lúc 9 giờ ngày mùng 3 Tết. Kết quả, địch chết và bị thương gần 100 tên, 2 xe bọc thép và 1 đại liên bị phá hủy. Cụm biệt động 679 giữ được trận địa gần 2 ngày đêm, hy sinh 10, bị bắt 4, mất tích 3 cán bộ, chiến sĩ.

Ở mục tiêu Đài Phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động 4 (có 11 chiến đấu viên, do Đội trưởng Năm Lộc chỉ huy) chia thành 2 mũi; mũi thứ nhất dùng thủ pháo phá cửa sắt tiến vào cổng chính (số 3 Phan Đình Phùng) chiếm khu vực phát sóng và một số vị trí; mũi thứ hai kiềm chế cho bộ phận xung kích bị địch chặn đánh không vào được bên trong. Địch huy động quân bao vây, dùng máy bay thả pháo sáng và xe thiết giáp tiến công. Cuộc chiến đấu không cân sức kéo dài đến 6 giờ sáng, khi các chiến sĩ bắn hết đạn, dùng khối thuốc nổ 20kg phá hủy đài và anh dũng hy sinh. Kết quả, địch chết và bị thương 38 tên, 1 xe bọc thép và 1 xe GMC bị phá hủy. Đội biệt động 4 đánh chiếm và giữ được mục tiêu trong 4 giờ 31 phút, hy sinh 10 cán bộ, chiến sĩ.

Đối với mục tiêu Dinh Độc Lập, Đội biệt động 5 (có 15 chiến đấu viên, do Trương Hoàng Thanh chỉ huy), sau khi không đánh sập được cổng để phát triển vào bên trong, buộc phải triển khai đội hình chiến đấu trên đường Nguyễn Du (Đội biệt động 5 vốn là đơn vị tập kích Tòa Đại sứ Mỹ, khách sạn Caravell, cư xá Brink, Metropol, Tổng nha Cảnh sát... nay chiến đấu như bộ binh trên đường phố nên rất bất lợi). Đội đã bắn cháy nhiều xe chở lính Mỹ và lính quân đội Sài Gòn, sau đó rút vào cố thủ và tiếp tục chiến đấu trong tòa nhà 56 Thủ Khoa Huân, rồi tòa nhà 108 Gia Long cho đến khi bị bắt vào lúc 3 giờ sáng ngày 1-2. Kết quả, địch chết và bị thương gần 100 tên (có một số lính Mỹ), 3 xe jeep bị phá hủy. Đội biệt động 5 hy sinh 8, bị bắt 7 cán bộ, chiến sĩ.

Tại mục tiêu Bộ Tư lệnh hải quân, Đội biệt động 3 (có 16 chiến đấu viên do Nguyễn Văn Lém tức Bảy Lớp chỉ huy) tổ chức thành 2 mũi, đánh sập lô cốt đầu cầu, vượt qua cổng chính phát triển vào bên trong, phá sập nhà canh phòng của đại đội công vụ hải quân. Quân địch trong căn cứ, cả từ tàu đậu dưới sông bắn trả quyết liệt và tổ chức bao vây. Các chiến sĩ biệt động chiến đấu cực kỳ dũng cảm, đến 6 giờ sáng thì toàn đội hy sinh gần hết, chỉ có 2 chiến sĩ vượt sông Sài Gòn thoát về căn cứ Thủ Đức. Kết quả, địch chết 12 tên (có 2 quân cảnh Mỹ), 1 lô cốt và 1 dãy nhà bị phá hủy. Đội biệt động 3 hy sinh 14 cán bộ, chiến sĩ 2.

Đánh mục tiêu Đại sứ quán Mỹ là Đội biệt động 11 (có 17 chiến đấu viên, do Ngô Thành Vân tức Ba Đen chỉ huy) chia làm 4 tổ, tiến công cổng chính trên đường Thống Nhất và dùng bộc phá đánh thủng một mảng tường trên đường Mạc Đĩnh Chi để đột nhập vào bên trong. Các chiến sĩ nhanh chóng tiêu diệt lực lượng chống đối, đánh chiếm tầng trệt, lầu 1, rồi lầu 2 tòa nhà. Ngoài lực lượng quân cảnh chống trả tại chỗ, Mỹ điều thêm một đơn vị thuộc Sư đoàn dù đổ xuống sân thượng tòa nhà, dùng hỏa lực và vũ khí hóa học đánh xuống. Đến 9 giờ sáng, quân địch tràn ngập Đại sứ quán Mỹ. Toàn đội biệt động chỉ còn một mình Chỉ huy trưởng Ba Đen bị thương và bị bắt. Đội 11 là đơn vị được giao nhiệm vụ sau cùng, tổ chức huấn luyện chỉ trong mấy ngày, đêm 30-1-1968 mới được biết kế hoạch tiến công, nhưng đã chiến đấu cực kỳ anh dũng. Kết quả, địch chết 27 tên, bị thương 124 tên. Đội biệt động 11 chiếm giữ sứ quán Mỹ được 7 giờ, bị bắt 1 và hy sinh 16 cán bộ, chiến sĩ.

Trên cơ sở nhận định: đòn quân sự của ta chưa đủ liều lượng để tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy, tháng 3-1968, Trung ương Cục miền Nam chủ trương tiếp tục Tổng tiến công và nổi dậy nhằm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giải phóng và làm chủ toàn bộ nông thôn đồng bằng và miền núi. Theo đó, lực lượng biệt động được giao nhiệm vụ cùng với các đơn vị chủ lực, tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng tại chỗ trên năm hướng tiếp tục đánh vào nội thành, phát động quần chúng nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng xung quanh thành phố.

Thực hiện nhiệm vụ nêu trên, lực lượng biệt động được củng cố lại. Số cán bộ, chiến sĩ còn lại từ các đội thuộc ba cụm 128, 345, 679 trước đây dồn lại thành một cụm. Bộ Chỉ huy Phân khu 6 huy động thêm lực lượng của các địa phương Đức Hòa, Tân Mỹ thành lập một tiểu đoàn do Võ Tâm Thành chỉ huy. Bên cạnh đó, còn có các đơn vị biệt động và vũ trang tuyên truyền của Thành đoàn, Ban Hoa vận, Ban Công vận, Ban Phụ vận (Tiểu đoàn Lê Thị Riêng) hoặc chưa chiến đấu trong đợt 1 hoặc vừa được củng cố xây dựng.

Trong điều kiện lực lượng vừa bị tổn thất lớn, yếu tố bí mật không còn, quân địch đã tăng cường các đơn vị chiến đấu phòng thủ xung quanh Sài Gòn theo chiến thuật "bê tông" lên tới 60 tiểu đoàn với 200.000 quân không kể hàng ngàn xe tăng, xe bọc thép và các trận địa pháo, sân bay dã chiến, Biệt động Sài Gòn đã bước vào đợt 2 của cuộc tiến công Mậu Thân với quyết tâm rất cao. Đợt 2 của cuộc tổng tiến công từ đêm 4 rạng ngày 5-5-1968. Theo kế hoạch, trong đêm 4 rạng 5-5, các đơn vị trên các hướng đã dũng mãnh thọc sâu vào thành phố tiến công các mục tiêu quy định.

Có sự phối hợp tác chiến ngay từ đầu của pháo binh và bộ binh Miền, của các tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng tại chỗ, lực lượng biệt động triển khai hoạt động tác chiến tại các vị trí được phân công. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt tại Phú Lâm, Trường đua Phú Thọ, đường Hậu Giang, Chợ Bình Tây, sân vận động Cộng Hòa, ngã tư Bảy Hiền (hướng tây, tây nam); Lò Heo, Chánh Hưng, nam cầu Chữ Y, Nhị Thiên Đường, Tân Thuận, đường Âu Dương Lân, Phạm Thế Hiển, khu vực Tây Quy (hướng nam); Xóm Mới, Cây Gõ, An Nhơn, Gò Vấp (hướng bắc và đông bắc); cầu Rạch Chiếc, cầu Bình Triệu, cầu Bình Lợi, ngã ba Hàng Xanh, cầu Phan Thanh Giản, cầu Thị Nghè, đường Tự Đức (hướng đông); các bót cảnh sát, toà hành chính quận, khu vực Phú Lâm, Minh Phụng, Chợ Lớn (trong nội đô).

Các chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn Lê Thị Riêng tập kết ở khu vực chợ Cầu Muối, cầu Ông Lãnh, đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà thờ Nguyễn Cư Trinh, đường Phạm Ngũ Lão, Bùi Viện, hẻm 83 Đề Thám, hẻm 4 Trần Hưng Đạo, cư xá Kiến Thiết chiếm lĩnh các khu vực, bắt gom nhiều cảnh sát và nhân viên chính quyền Sài Gòn, dùng loa phóng thanh vận động nhân dân làm công sự chiến đấu, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch cho đến khi hết đạn, bị thương và bị bắt vào 11 giờ ngày hôm sau.

Lực lượng vũ trang tuyên truyền và biệt động cánh Hoa vận đánh chiếm tòa Hành chánh Quận 5, cắm cờ Mặt trận Giải phóng và tổ chức đánh địch tới giải tỏa, đến 15 giờ mới rút khỏi mục tiêu sau khi dùng thuốc nổ đánh sập một phần tòa nhà. Những ngày sau đó, tiếp tục tiến công một số vị trí của địch như Ty cảnh sát, Ty thuế vụ quận 5, bót Bà Hòa..., cùng nhân dân nổi dậy làm chủ khu vực Lò Gạch, Lò Gốm, Lò Siêu khóm 1 phường Trang Tử, khóm 6 phường Phú Lâm, diệt một số tên phản động, ác ôn.

Tính chung cả hai đợt trên toàn mặt trận Sài Gòn - Gia Định, lực lượng biệt động đã góp phần loại khỏi vòng chiến đấu 47.000 tên (có một phần lớn quân đội Sài Gòn rã ngũ, đào ngũ); tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 21 tiểu đoàn, 97 đại đội quân Mỹ, quân đội Sàì Gòn và quân đồng minh; bắn rơi và phá hủy, hỏng 500 máy bay các loại, 1.480 xe quân sự (có 630 xe tăng và thiết giáp); thiêu hủy 45 kho bom đạn, xăng dầu, đánh chìm và bị thương 14 tàu chiến và tàu vận tải; đánh sập 19 cầu cống; tiêu diệt, bức hàng, bức rút 150 đồn bót.

Đợt 2 cuộc tiến công Mậu Thân kết thúc ngày 18-6-1968, cũng cơ bản kết thúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định. Và Biệt động Sài Gòn bước vào giai đoạn mới: giai đoạn củng cố, phát triển lên quy mô lớn để tham gia trận đánh cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam.

3. Một tượng đài của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Ra đời từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Biệt động Sài Gòn xây dựng và phát triển hoàn thiện về mặt tổ chức, thành một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ đứng chân và hoạt động ngay tại thủ đô của chế độ Sài Gòn. Dựa vào sự hậu thuẫn tuyệt đối của đồng bào đô thị, với phương châm lợi dụng sơ hở của địch, lấy ít đánh nhiều, tập kích nhanh rút gọn, với lối đánh độc đáo biến hóa, bí mật bất ngờ, luồn sâu đánh hiểm, với hành động mưu trí quả cảm, xuất quỷ nhập thần, lực lượng biệt động đã chiến đấu có hiệu quả ngay giữa trung tâm đầu não sài Gòn, trở thành nỗi kinh hoàng của Mỹ và quân đội Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh. Hoạt động của họ đã góp phần tiêu diệt một bộ phận sinh lực cao cấp của địch, phá hoại nhiều cơ sở vật chất, phương tiện chiến tranh của chúng; phá vỡ âm mưu, hạ uy thế và gây hoang mang cho quân địch ngay ở cơ quan chóp bu; kích thích tinh thần của quần chúng, hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị ở nội đô và tạo điều kiện cho quần chúng ven đô bung ra đấu tranh với địch; phối hợp nhịp nhàng với các chiến trường trên toàn miền Nam.

Vào thời điểm trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, lực lượng địch ở miền Nam có gần 50 vạn quân Mỹ, hơn 70 vạn quân đội Sài Gòn và hàng vạn quân đội các nước đồng minh của Mỹ, chúng ưu tiên bố trí lực lượng bảo vệ Sài Gòn ở tất cả các tầng trong và ngoài với 4 sư đoàn Mỹ, 4 sư đoàn quân đội Sài Gòn, 8 tiểu đoàn dù và thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn an ninh thủ đô, 20 vạn biệt động quân, bảo an, dân vệ, cảnh sát dã chiến, hàng ngàn khóa sinh quân sự, hàng ngàn thanh niên chiến đấu và nhiều đơn vị cơ giới, binh chủng, quân chủng. Ở vòng ngoài, có các lữ đoàn 1 và 2 thuộc Sư đoàn bộ binh 25 Mỹ (tại căn cứ Đồng Dù), Sư đoàn bộ binh 25 quân đội Sài Gòn và nhiều tiểu đoàn biệt động quân, đại đội bảo an ở phía tây bắc; Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ (tại căn cứ Lai Khê), Trung đoàn thiết giáp 11 Mỹ, Sư đoàn bộ binh 5 quân đội Sài Gòn, hàng chục tiểu đoàn biệt động quân, đại đội bảo an, lực lượng dân vệ ở phía bắc; Các đơn vị đánh thuê Nam Triều Tiên, Úc, quân dù Mỹ, Sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn ở phía đông và đông bắc; Các đơn vị thuộc lực lượng tổng trù bị bao gồm hải quân, dù, thủy quân lục chiến và 1 lữ đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh số 9 Mỹ ở phía nam. Ở vòng trong, ngoài lực lượng bảo vệ trị an lãnh thổ của Biệt khu Thủ đô và cảnh sát dã chiến, địch có 2 tiểu đoàn Mỹ, 1 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhất, các đơn vị quân đội Sài Gòn ở các trại Đống Đa, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Tô Hiến Thành, lực lượng bảo vệ căn cứ, hậu cứ các bộ tư lệnh binh chủng ở Gò Vấp, chưa kể hệ thống tình báo quân đội, cảnh sát ngầm, mật vụ, chỉ điểm... Địch từng tự hào "Sài Gòn được bảo vệ đến từng mắt lưới của một chiếc vó cất cá".

Kịch bản cuộc Tổng tiến công được xác định: Lực lượng biệt động bất ngờ áp sát, tiến công đánh chiếm các mục tiêu được phân công như đã nêu ở trên. Liền đó, lực lượng của Thành đoàn, các ban, ngành, giới đến tiếp ứng tại các mục tiêu đánh chiếm (Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tư lệnh hải quân mỗi nơi có 200 người, Bộ Tổng Tham mưu có 5.000 người, Tổng nha Cảnh sát có 1.000 người, khám Chí Hòa có 1.000 người...). Đồng thời, các tiểu đoàn mũi nhọn thọc sâu vào thành phố chiếm giữ các mục tiêu vừa được biệt động đánh chiếm và lực lượng thanh niên, sinh viên bao vây áp chế. Cùng lúc, các đơn vị bộ đội chủ lực Miền tiến công các căn cứ và tiêu diệt địch ở vòng ngoài, sẵn sàng làm nhiệm vụ thọc sâu; quần chúng nhân dân nổi dậy bức rút đồn bót, giành chính quyền, thành lập ban tự quản cách mạng. Nhưng thực tế diễn biến của cuộc tổng tiến công trong đợt 1 đã không diễn ra theo kịch bản định sẵn. Biệt động chỉ tiến công được 5 mục tiêu theo kế hoạch (các mục tiêu khác vì nhiều lý do, đơn vị tiến công không tiến sát vị trí đúng thời gian) 3 . Trong 5 mục tiêu ấy, các đơn vị biệt động đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: đột nhập, đánh chiếm vị trí được phân công. Tuy nhiên, các tiểu đoàn mũi nhọn, lực lượng quần chúng đã không đến hỗ trợ tiến công và làm chủ mục tiêu như kế hoạch hiệp đồng. Hầu hết trong số họ đã anh dũng ngã xuống hoặc bị địch bắt trong cuộc chiến đấu đơn độc và không ngang sức giữa thành phố Sài Gòn.

Lịch sử Biệt động Sài Gòn gắn liền với những chiến công mà ý nghĩa của nó vượt qua kết quả những trận đánh thông thường, hướng tới tầm chiến dịch, chiến lược và hơn thế. Trong cuốn sách "Tết", nhà báo Mỹ Don Oberdoifer, người được trực tiếp chứng kiến những ngày giao tranh khốc liệt của Biệt động Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân 1968 viết: Tầm quan trọng đầy đủ về cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đang nằm ngoài tầm nhận thức của những người Mỹ; và dù đối với ai, cách suy nghĩ thế nào, cuộc Tổng tiến công này vẫn là một sự kiện có tính chất bước ngoặt, một trong những bước ngoặt lớn của thời đại chúng ta. Do đặc điểm hoạt động đơn tuyến ở địa bàn sào huyệt của kẻ thù, không ít chiến sĩ biệt động ngày nào chưa được minh định công trạng và tưởng thưởng xứng đáng. Dù vậy, những chiến công của họ đã âm thầm lát một viên gạch nhỏ đẫm mồ hôi và máu trên chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc, và lịch sử nhân loại có thêm một cụm danh từ trong bộ Từ điển bách khoa quân sự: Biệt động Sài Gòn!





------------------------------------------------------------------
1. Ngoài ra, Bộ Chỉ huy quân sự Phân khu 6 còn quản lý, chỉ huy lực lượng tự vệ của các ngành, đoàn thể của Sài Gòn - Gia Định như Thành đoàn, Hoa vận, Binh vận, Công vận, Phụ vận, Tuyên huấn....

2. Trong đó có Đội trưởng Bảy Lớp bị chuẩn tướng giám đốc cảnh sát quốc gia Nguyễn Ngọc Loan dùng súng ngắn bắn vào thái dương trên đường phố. Sau này có ý kiến cho rằng, người bị Loan bắn là Bảy Nè - cán bộ Ban Cán sự Đảng Quận 5.

3. Cụm biệt động 128 trang bị 30 khẩu súng có nhiệm vụ tiến công Biệt khu thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, xuất phát từ chiều 30-1 tại An Tịnh - Trảng Bàng, nhưng do hiệp đồng không chặt với đơn vị của Phân khu 2 và Phân khu 3, khi toàn thành phố nổ súng, còn ở ấp 2 Tân Nhựt - Bình Chánh, cách Sài Gòn 15 kilômét nên không kịp áp sát mục tiêu tiến công. Đội biệt động 90C có nhiệm vụ tiến công Khám Chí Hòa, đêm 30-1 xuất phát từ ấp Sa Nhỏ - Củ Chi, trên đường hành quân gặp địch, buộc phải nổ súng và rút lui.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 09:18:07 am
QUÂN VÀ DÂN TÂY NGUYÊN
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, ThS. ĐỖ NHUẬN
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Sau thất bại của hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, cùng với những hạn chế bộc lộ rõ trong kế hoạch "tìm diệt và bình định" trên chiến trường miền Nam, quân viễn chinh Mỹ và đồng minh buộc phải lui về phòng ngự chiến lược. Trong bối cảnh đó, nhằm giáng đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" và đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tháng 12-1967, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định bằng "phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa". Về phương châm chiến lược, Bộ Chính trị xác định: cần phải "sử dụng tốt nhất lực lượng vũ trang của ta, căng địch ra khắp chiến trường, phải biết điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng và sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch; đồng thời biết kịp thời phản công tiêu diệt địch, bẻ gãy các cuộc phản kích của chúng...".

Tại Tây Nguyên, sau thất bại ở Đắk Tô (11-1967), quân Mỹ phải thực hiện chiến lược "quét và giữ". Để giữ được Tây Nguyên, "một địa bàn chiến lược quan trọng có tác dụng làm bình phong ngăn chặn phát triển tấn công của Quân giải phóng về đồng bằng Khu 5 và uy hiếp ở hướng Nam Bộ", địch đã tổ chức xây dựng các tuyến ngăn chặn tiến công kết hợp với phản kích nhằm chốt giữ các vị trí quan trọng và những vùng xung yếu. Quân đội Sài Gòn được điều động ra tuyến trước thay thế quân Mỹ và đồng minh.

Về phía ta, thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, ngày 28-12-1967, Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho chiến trường Tây Nguyên, nhấn mạnh: "Thu hút kiềm chế địch, phối hợp với chiến trường toàn miền Nam; tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ, quân đội Sài Gòn; đánh vào thị xã, diệt ngụy quyền, đẩy phong trào quần chúng vùng lên".

Cụ thể hóa nhiệm vụ của Bộ Tổng Tư lệnh, Khu ủy và Đảng ủy Quân khu 5 xác định Tây Nguyên là "hướng rất quan trọng, chiến trường tiêu diệt lớn sinh lực địch; cắt phá giao thông, bao vây cô lập các căn cứ địch ở Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy tại chỗ; thu hút kiềm chế và đánh tiêu diệt lớn quân Mỹ trên chiến trường rừng núi, tạo thuận lợi cho chiến trường đồng bằng". Theo kế hoạch của Khu ủy và Đảng ủy Quân khu, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở các thành phố trên địa bàn Quân khu tùy thuộc vào điều kiện và khả năng từng nơi mà áp dụng phương thức cho phù hợp. Đối với các thị xã Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột ở Tây Nguyên chủ yếu dùng đòn tiến công quân sự để giải phóng.

Thực hiện quyết sách chiến lược của Khu ủy và Đảng ủy Quân khu 5, quân và dân Tây Nguyên khẩn trương làm công tác chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy. Chỉ trong một thời gian ngắn, 27.800 bộ đội chủ lực, hơn 6.000 bộ đội địa phương và gần 16.000 du kích được triển khai trên các hướng. Trong đó, Sư đoàn bộ binh 1 và các đơn vị binh chủng tập trung trên hướng Đường 18 - Plei Kần (nơi dự kiến quân Mỹ sẽ phản kích khi ta tiến công thị xã Kon Tum và thực hiện đòn tiến công tiêu diệt lớn). Các trung đoàn 24, 95, 33 được Bộ Tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên tăng cường cho mặt trận các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk. Ngoài ra, lực lượng tham gia tiến công vào thị xã được bổ sung thêm 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội hỏa tiễn hỗn hợp (ĐKB, ĐKZ, 12,7mm). Cùng với công tác chuẩn bị lực lượng, công tác vận động quần chúng, tổ chức lực lượng đấu tranh chính trị và nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền được các tỉnh, huyện chú trọng. Hàng chục nghìn quần chúng sẵn sàng bước vào cuộc đấu tranh và phục vụ chiến đấu.

Về công tác bảo đảm, cùng với nguồn chi viện của Đoàn 559, Đoàn 17, Đoàn 86 và của ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, toàn chiến trường đã chuẩn bị được 9.721 tấn gạo, 519 tấn muối, 1.251 tấn thực phẩm, 49 tấn hàng quân y, 56 tấn xăng dầu, 1.182,724 tấn đạn, 41.062 tấn vũ khí và 4,1 tấn quân cụ.

Đến đầu năm 1968, lực lượng quân Mỹ ở Đắk Lắk có khoảng 450 cố vấn và nhân viên kỹ thuật, quân đội Sài Gòn có Trung đoàn 45 bộ binh, Trung đoàn 8 thiết giáp và một số tiểu đoàn bảo an. Tại Gia Lai, quân Mỹ có Sư đoàn 1 không vận đóng ở An Khê, Sư đoàn 4 bộ binh và Lữ đoàn 173 dù đóng ở Pleiku; quân đội Sài Gòn có Tiểu đoàn 11 và 22 biệt động quân, 1 trung đoàn thiết giáp và 1 tiểu đoàn bảo an dân phòng. Ở Kon Tum, quân Mỹ có 1 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 4 bộ binh đóng trên khu vực Đường 18; quân đội Sài Gòn có Trung đoàn 42, một tiểu đoàn biệt động quân và các tiểu đoàn bảo an trong thị xã.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, từ ngày 15 đến ngày 25-1-1968, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên mở đợt tiến công cao điểm trên toàn chiến trường, nhằm: "Tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giam chân thu hút lực lượng Mỹ lên hướng Plei Kần, kéo chủ lực địch ra ngoài thị xã tạo điều kiện cho các lực lượng của ta áp sát mục tiêu, chuẩn bị bàn đạp, tập dượt và rèn luyện bộ đội, đồng thời bảo đảm yếu tố bí mật cho Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968".

Kết thúc đợt tiến công cao điểm trước Tết Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đánh 36 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 2.366 tên (trong đó có 1.608 tên Mỹ), bắt 88 tên, phá hủy 361 xe quân sự các loại, 17 khẩu pháo lớn, trên 3.000 tấn bom, đạn, xăng dầu; bắn rơi và phá hỏng 198 máy bay, thu 205 khẩu súng các loại và 9 máy vô tuyến điện. Đợt tiến công của quân và dân Tây Nguyên là đòn kết hợp chặt chẽ giữa tiến công địch rộng khắp với đòn đánh thọc sâu vào các mục tiêu nằm trong hậu cứ của địch mà trước đó ta chưa có điều kiện thực hiện, buộc địch phải căng kéo lực lượng đối phó trên các hướng.

Sau đợt hoạt động cao điểm, theo kế hoạch tác chiến, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ các tỉnh, chiều ngày 29-1-1968, hàng trăm cán bộ, đảng viên ở ba tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk) bí mật tổ chức quần chúng sẵn sàng nổi dậy phối hợp với đòn tiến công trên các hướng. Tiểu thương ở chợ Kon Tum cung cấp hàng trăm bộ quần áo cho bộ đội cải trang để mang vũ khí vào nội thị an toàn; hàng nghìn quần chúng tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk dưới hình thức đi sắm hàng Tết di chuyển vào thị xã sẵn sàng chờ lệnh hành động.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên, 0 giờ 30 phút ngày 30-1-1968 1, Sư đoàn bộ binh 1 sử dụng Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 174) phối hợp cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương nổ súng tiến công thị trấn Tân Cảnh (Kon Tum) - mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường Tây Nguyên. Tiếp đó, các hướng đồng loạt nổ súng như thị xã Buôn Ma Thuột là 0 giờ 45 phút; Pleiku là 0 giờ 55 phút, Kon Tum là 1 giờ 15 phút.

Trên hướng tiến công chủ yếu vào thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), với sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân, các đơn vị chủ lực của ta nhanh chóng triển khai lực lượng đánh chiếm Đài Phát thanh, Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 bộ binh, Tòa án binh, Ty Cảnh sát, bắn phá Sở chỉ huy Trung đoàn 45 và sân bay Buôn Ma Thuột, khu cư xá Mỹ, Bănggalô, khu cơ giới và khu pháo binh. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, hàng vạn đồng bào Đắk Lắk xuống đường đấu tranh. Học sinh Trường Kỹ thuật Đắk Lắk treo cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, dẫn đường cho bộ đội; hơn 18.000 đồng bào người Kinh, Thượng ở các huyện 6, 8 và Buôn Hồ chia thành nhiều đoàn tiến vào thị xã đấu tranh...

Sau hơn một tuần chiến đấu, quân và dân Đắk Lắk đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 sinh lực địch (diệt 1 đại đội Mỹ, 3 đại đội bảo an, 1 đại đội biệt kích, tiêu hao nặng nề Tiểu đoàn 31 FULRO, tiểu đoàn 2 và 3 Trung đoàn 45, Tiểu đoàn 23 biệt động, Sư đoàn bộ 23, đại đội thám báo...); bắt 90 tên, thu 140 súng các loại, 9 máy vô tuyến điện; đốt cháy 12 kho xăng dầu; phá hủy 5 khẩu pháo 105mm, 180 xe quân sự các loại và trên 5.000 quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền làm chủ.

Tại tỉnh Gia Lai, theo kế hoạch tác chiến, các đơn vị vũ trang chia thành nhiều hướng nhanh chóng tiến công các mục tiêu chủ yếu của địch tại trung tâm thị xã Pleiku như: khu biệt động quân, khu hành chính, khu cảnh sát Vùng 2, Tỉnh đoàn bảo an. Đáng chú ý là trận đánh của Tiểu đoàn 408 đặc công đã phá hỏng 45 máy bay lên thẳng của địch ở các sân bay Cù Hanh, Aréa; Trung đoàn bộ binh 95 tiêu diệt 1 đoàn xe địch với 26 chiếc trên Đường 19; bắn phá Sở chỉ huy Quân đoàn 2 và khu rađa. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, hơn 11.000 quần chúng các huyện trong tỉnh xuống đường đấu tranh chính trị; hơn 14.000 nhân dân nổi dậy phá trại tập trung về làng cũ và 11 làng ven thị xã được giải phóng. Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Gia Lai đã loại khỏi vòng chiến đấu 3.500 tên (trong đó có 1.300 quân Mỹ), phá hủy 580 xe quân sự, 35 khẩu pháo và đốt cháy hàng triệu lít xăng dầu. Lực lượng của ta còn phá nhà lao giải thoát gần 2.000 người yêu nước bị địch giam giữ.

Ở Kon Tum, ngay trong đợt nổ súng đầu tiên, ta làm chủ hoàn toàn thị trấn Tân Cảnh và hai phần ba thị xã Kon Tum, trong đó có các khu vực quan trọng như: Tòa hành chính, Ty Cảnh sát, tiểu khu Kon Tum và sân bay Kon Tum. Cùng với đó, quần chúng nhiều vùng nông thôn, ven thị cũng vùng lên khởi nghĩa phá ấp, phá đồn, giành quyền làm chủ. Quân và dân mặt trận Kon Tum đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.500 tên (có 650 tên Mỹ), phá hủy 253 xe quân sự, bắn rơi và phá hủy 37 máy bay, đốt cháy 5 kho xăng, phá hủy 3 kho đạn.

 Đến ngày 9-2-1968, bằng các hoạt động phối hợp trong Tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân Tây Nguyên ngay từ phút đầu đã "thực hiện được đồng loạt việc tiến công đánh trúng vào tất cả những mục tiêu chủ yếu, khiến quân địch bất ngờ, không kịp trở tay, đối phó yếu ớt". Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 5.630 tên địch (có 1.600 quân Mỹ); bắt sống 90 tên; bắn rơi 171 máy bay; phá hủy 520 xe quân sự, 27 khẩu pháo lớn; thu 180 súng các loại và 12 vô tuyến điện; giải phóng 39 ấp, làng với khoảng 25.000 dân. Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên tiếp tục chỉ đạo quân và dân mở bốn đợt tiến công cao điểm từ ngày 17-2 đến ngày 25-5-1968 trên toàn chiến trường.

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Tây Nguyên đã góp phần giáng cho Mỹ một đòn trí mạng, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược, phá vỡ kế hoạch tác chiến của Mỹ; "làm rung chuyển nước Mỹ, đưa cuộc chiến tranh vào trong lòng nước Mỹ, tạo nên làn sóng phản đối chiến tranh, chống can thiệp Mỹ rộng khắp trên thế giới". Thắng lợi này cũng góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ; đồng thời mở ra khả năng cho ta thực hiện chiến lược "đánh cho Mỹ cút" để tiến tới "đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975.





---------------------------------------------------------------
1. Trước Tết, miền Bắc công bố lịch mới, theo đó, ngày mùng 1 Tết Nguyên đán năm Mậu Thân 1968 sớm hơn một ngày so với lịch cũ. Do đó, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cuộc tổng tiến công lùi lại một ngày đúng với giao thừa ở miền Nam để thống nhất hành động theo "giờ G" trên toàn chiến trường. Đêm ngày 29-1-1968, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên nhận được chỉ thị của Bộ, nhưng lực lượng vũ trang và quần chúng đã ém sẵn vào các mục tiêu không thể rút ra hoặc giấu quân tại chỗ an toàn được, nên đã đề nghị trên cho nổ súng vào đêm 30-1-1968 (tức đêm 29 tháng Chạp năm Đinh Mùi 1967), trước đêm giao thừa một ngày.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 09:22:44 am
"LỘ VÒNG CUNG" - NÉT RIÊNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 Ở CẦN THƠ



Đại tá TRẦN HÒA HIỆP
Phó Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Cần Thơ


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra trên khắp chiến trường miền Nam; trong đó, Cần Thơ nói chung và Lộ Vòng Cung nói riêng là một trong những trọng điểm của chiến trường Tây Nam Bộ, đã góp phần tạo ra bước ngoặt chiến lược, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Cần Thơ luôn là địa bàn chiến lược chi phối mọi hoạt động của miền Tây Nam Bộ. Để vơ vét nhân lực, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ - chính quyền Sài Gòn quyết tâm giữ vững địa bàn có ý nghĩa trọng yếu này. Các cơ quan đầu não của chúng gồm: Bộ Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật và Quân đoàn 4; Bộ Tư lệnh cảnh sát miền Tây; Sở An ninh quân đội; Tòa lãnh sự Mỹ được tập trung tại Cần Thơ cùng hệ thống căn cứ quân sự, sân bay, quân cảng, kho tàng, hậu cần, kỹ thuật.

Lộ Vòng Cung là vành đai án ngữ bảo vệ nội ô thành phố Cần Thơ, bắt đầu từ chợ Cái Răng đến lộ Ba Se, ôm gọn các xã: An Bình, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Giai Xuân, hai ấp của Nhơn Ái và thị trấn Phong Điền (Châu Thành A), Tân Thới, Thới An Đông và một phần của Phước Thới (Ô Môn). Từ Cái Răng nhìn vào bên phải là lộ, bên trái là sông Cái Răng, Cần Thơ, Phong Điền. Nơi đây, quân Mỹ - quân đội Sài Gòn đã tập trung triển khai xây dựng tuyến phòng thủ với những đơn vị chủ lực được trang bị hiện đại, hệ thống đồn bốt và bộ máy kìm kẹp của chúng. Riêng ở Lộ Vòng Cung, thành phố Cần Thơ, địch đã đóng trên 100 đồn bốt và sử dụng không quân, pháo binh ngày đêm đánh phá ác liệt. Địch còn rải chất độc hóa học làm trụi lá cây, để tạo ra những "vành đai trắng". Đây cũng chính là vành đai phòng thủ mà quân Mỹ - quân đội Sài Gòn quyết tâm giữ cho bằng được để bảo vệ thành phố Cần Thơ, cơ quan đầu não Vùng 4 chiến thuật của chúng.

Về phía ta, Khu ủy Khu 9 và tỉnh Cần Thơ cũng chọn Lộ Vòng Cung làm nơi tập kết lực lượng, làm bàn đạp tấn công vào thành phố Cần Thơ và các khu vực quân sự của quân Mỹ - quân đội Sài Gòn.

Do vậy, Lộ Vòng Cung là con đường tranh chấp ác liệt nhất giữa ta và địch, không những của tỉnh Cần Thơ mà của cả Khu Tây Nam Bộ. Đặc biệt, trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang Cần Thơ cùng với bộ đội chủ lực của Quân khu đã anh dũng chiến đấu, kiên cường bám trụ, mở rộng cửa ngõ Lộ Vòng Cung, tấn công vào thành phố Cần Thơ; lực lượng biệt động luôn nắm chắc tình hình địch, kịp thời dẫn đường và phối hợp với chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch.

Đầu năm 1967, trên chiến trường Cần Thơ, địch tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định có trọng điểm, nhất là bình định 7 xã, trong đó có khu vực Lộ Vòng Cung, tuyến Xà No, một số địa bàn chung quanh thị xã Cần Thơ.

Địch ra sức phòng thủ và mở rộng thị xã, thị trấn, khu quân sự Bà Đồ, sân bay Bình Thủy; đưa Trung đoàn 33, Sư đoàn 21 bố trí xung quanh thị xã Cần Thơ, Lộ Vòng Cung và đưa một chi đội xe M113 bố trí ở lộ Ô Môn, bố trí hỏa lực hướng vào các khu lao động và ở những nơi mà chúng cho là ta có thể đột nhập vào nội ô. Chúng chiếm nhà, cướp đất để lập căn cứ quân sự khu vực từ Cái Răng ra Cần Thơ; đồng thời củng cố mở rộng một số thị trấn ở Phụng Hiệp, Ô Môn và có ý đồ dời chi khu Phong Điền ra Vàm Xáng, dời chi khu Một Ngàn về Rạch Gòi, chi khu Cái Răng về Cái Tắc, tạo thành thế chia cắt một số xã của Châu Thành A để giữ tuyến giao thông thủy bộ (lộ 4, lộ 40 và kênh xáng Xà No).

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Trung ương Cục hạ quyết tâm động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn chiến trường B2 đúng với thời gian quy định. Thực hiện chủ trương của trên, Khu ủy Khu Tây Nam Bộ chọn thành phố Cần Thơ (tỉnh Cần Thơ) 1 làm trọng điểm 1.

Cuối năm 1967, các tiểu đoàn Tây Đô 1 và 2, lực lượng biệt động của thành phố được bổ sung cán bộ, trang bị mới, tổ chức huấn luyện, nắm địa hình, địa vật, tình hình địch trong nội ô thành phố Cần Thơ. Cuối năm 1967, Trung ương Cục đã triển khai công tác chuẩn bị đến các quân khu, các tỉnh và các chiến trường trọng điểm trên toàn Miền. Nhận được chỉ thị, Khu ủy Khu Tây Nam Bộ và Quân khu 9 tích cực làm công tác chuẩn bị, nhất là công tác bảo đảm hậu cần. Nhằm tạo yếu tố bất ngờ, công việc chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu dài ngày, quy mô được tổ chức hết sức bí mật. Trung ương Cục chỉ biết giờ nổ súng trước 10 ngày, Khu ủy biết trước 5 ngày, tỉnh biết trước 3 ngày và các đơn vị chiến đấu biết trước từ 1 đến 2 ngày.

Quán triệt nhiệm vụ, kế hoạch được giao, các lực lượng vũ trang của tỉnh, thành phố đã áp sát vành đai thành phố Cần Thơ. Chiều ngày 29-1-1968, các cánh quân triển khai vượt Lộ Vòng Cung trên nhiều hướng: Rạch Sung, Xà No và Trường Tiền, tiến vào chiếm lĩnh các vị trí xuất phát xung phong. Trên sông Cần Thơ, xuồng ghe qua lại được huy động để đưa đón Quân giải phóng từ bên kia sông Cần Thơ qua Lộ Vòng Cung.

Theo kế hoạch, Đội biệt động thành phố Cần Thơ kết hợp với Đại đội 20 của Tiểu đoàn Tây Đô có nhiệm vụ đánh thọc sâu vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trần Văn Nhứt, Đại đội trưởng và đồng chí Lê Hoàng Sương, Chính trị viên Đại đội phối hợp cùng lực lượng Biệt động Thành xuất phát tiến công. Ba giờ sáng ngày 31-1-1968, các lực lượng đã tập kết trên quốc lộ 4, từ ngã ba Đầu Sấu đến ngã ba đường Tự Đức (nay là đường Lý Tự Trọng), triển khai làm hai mũi:

Mũi thứ nhất tiến vào Rạch Ngỗng (nay là chợ An Nghiệp) qua chợ Mít Nài lên bến xe mới, đánh vào các mục tiêu: Tòa lãnh sự Mỹ, cơ quan tình báo Mỹ, tiểu khu Phong Dinh... Sau đòn tiến công bất ngờ của ta, một bộ phận địch thoát chết tìm đường tháo chạy vào thành phố, dựa vào hệ thống công sự và tập trung vũ khí, trang bị, số còn lại phản kích quyết liệt. Ta với địch giành nhau từng tấc đất, từng căn nhà, góc phố. Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tại mũi tấn công này, các chiến sĩ Tiểu đoàn Tây Đô từng bước làm chủ trận địa.

Sáng ngày 1-2-1968 (mùng 2 Tết), mũi thứ hai mở hướng tiến chiếm khu Văn hóa (khu III Đại học Cần Thơ, đường Tự Đức - nay là đường Lý Tự Trọng), sau đó phát triển lực lượng đánh chiếm khu chợ Cả Đài, Hồ Xáng Thổi, trại Phan Bội Châu - hậu cứ của Liên đoàn 67 truyền tin Vùng 4 chiến thuật. Trên tuyến này ta chiến đấu giằng co ác liệt với địch. Một bộ phận tiến chiếm khu vực cầu Rạch Bần, đường Tạ Thu Thâu (nay là đường Mậu Thân). Trên từng căn phố, các ngõ hẻm, ta với địch giành nhau quyết liệt. Đối phó với hành động phản kích của địch, tiểu đoàn tách thành các bộ phận nhỏ phối hợp với Đội biệt động thành phố Cần Thơ, mở hướng tiến công ra Đại lộ Hòa Bình đánh thẳng vào Bộ Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật. Tiểu đoàn Tây Đô đặt Chỉ huy sở ở Trường Trung học Phan Thanh Giản (nay là Trường Phổ thông trung học Châu Văn Liêm).

Ở thành phố Cần Thơ, dưới sự phối hợp của chủ lực, địa phương quân và biệt động nội thành, ta chia thành nhiều mũi thọc sâu vào các cứ điểm yết hầu của địch ở Vùng 4 chiến thuật. Từ Lộ Vòng Cung, biệt động nội thành đánh thẳng vào các căn cứ của Mỹ (Nhà nghỉ Nam Phương, Dinh Tỉnh trưởng và Khám lớn). Tuy chưa chiếm được Đài Phát thanh để kêu gọi địch ở 11 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long buông súng đầu hàng, nhưng các lực lượng ta đã dũng cảm bám trụ dài ngày trong thành phố.

Các chiến sĩ Tây Đô băng qua lửa đạn, vượt từng dãy phố tiếp cận mục tiêu. Địch điều xe thiết giáp M113 đến ngăn chặn. Các chiến sĩ của ta vẫn không chùn bước, quyết tiến công địch, bắn cháy 2 xe thiết giáp M113 và diệt nhiều sinh lực địch.

Trên các hướng thứ hai, ba, tư, lực lượng vũ trang của khu, của tỉnh, thành phố Cần Thơ và đội tuyên truyền vũ trang liên tục tiến công vào các mục tiêu. Nhưng vì lực lượng ít, vũ khí trang bị hao hụt nên chỉ tiêu hao một bộ phận sinh lực địch. Ở hướng Phi trường 31 (còn gọi là sân bay Lộ Tẻ), Tiểu đoàn 303 (Khu 9) cũng liên tục triển khai tiến công uy hiếp địch.

Máy bay, xe tăng, pháo bắn phá bừa bãi, chà đi xát lại các khu dân cư ở các xã trong Lộ Vòng Cung và các vùng phụ cận như: Trường Long, Thạnh Xuân, Nhơn Nghĩa, Nhơn Ái (Châu Thành), Trường Thành, Định Môn, Trường Lạc, Trường Xuân (Ô Môn). Chúng sử dụng xe tăng, trực thăng bắn phá các khu phố trong nội ô thành phố Cần Thơ.

Sau bốn ngày chiến đấu ác liệt (từ ngày 31-1 đến ngày 3-2-1968), ta tạm thời rút lui và trụ lại ở vùng ven Lộ Vòng Cung để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo; đồng thời tiếp tục pháo kích vào các cụm cứ điểm của địch. Trong những ngày chiến đấu ở nội ô thành phố, ta diệt 51 tên địch, làm bị thương 225 tên, bắt sống 8 tên, bắn cháy 1 kho quân cụ ở sân bay Lộ Tẻ, phá 5 máy bay, bắn cháy 2 xe M113. Tiểu đoàn Tây Đô cùng với lực lượng vũ trang Quân khu, thành phố, du kích địa phương vẫn trụ bám địa bàn, chặn đánh địch càn quét ở Rạch Bà Giám, cua Mười Ngàn, Vàm Cái Sơn (xã An Bình), loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Riêng Tiểu đoàn Tây Đô đánh chìm 7 tàu Mỹ, diệt 260 tên địch ở Vàm Rạch Kè.

Trong thời gian này, ta cũng bao vây bức hàng, bức rút hầu hết các đồn bốt trên tuyến Lộ Vòng Cung và Lộ Sóng Lươn tới đồn Rạch Cam, giải phóng một số xã, ấp trong và ngoài Lộ Vòng Cung. Trong Lộ Vòng Cung chỉ còn chi khu Phong Điền. Ngày 17-2, hưởng ứng đợt phối hợp và hỗ trợ cho Mặt trận Huế, Tiểu đoàn Tây Đô được tăng cường đã đánh thiệt hại nặng chi khu Phong Điền.

Để giành lại những địa bàn bị chiếm, ngày 8-2-1968 (tức mùng 10 Tết), Lữ đoàn 2 của Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ đến điều động tăng viện. Như vậy, lúc này ở Cần Thơ có một số bộ binh Mỹ, Sư đoàn 21 quân đội Sài Gòn cùng các tiểu đoàn biệt động quân số 42, 43, 44 tập trung phản kích, trong đó Lộ Vòng Cung - cửa ngõ vào thành phố Cần Thơ thực sự là chiến trường trọng điểm. Đây là lần đầu tiên Mỹ dùng máy bay B52 ném bom rải thảm trong và ngoài Lộ Vòng Cung làm cây cối bị đốn trụi, nhân dân phải sơ tán để tránh bom đạn; do vậy, Lộ Vòng Cung trở thành vùng trắng, rất ít dân còn ở lại.

Đêm 26 rạng ngày 27-2-1968, một bộ phận của Sư đoàn 9 Mỹ từ Đồng Tâm (Mỹ Tho) đến tiếp viện ở Lộ Vòng Cung. Kiên quyết đánh địch trước khi chúng gây tội ác, cán bộ, chiến sĩ của phân đội thông tin trinh sát thuộc Tiểu đoàn Tây Đô đã chủ động tấn công vào đoàn tàu chở quân Mỹ khi chúng đến đoạn Rau Răm - Trường Tiền, sông Cần Thơ. Suốt một đêm chiến đấu mưu trí, linh hoạt, dũng cảm, các chiến sĩ trinh sát đã bắn cháy 4 tàu chở đầy lính Mỹ và bắn bị thương 3 chiếc khác.

Trong quá trình Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, lực lượng vũ trang Cần Thơ phối hợp cùng với nhân dân, du kích, lực lượng vũ trang Quân khu loại khỏi vòng chiến đấu 25.000 tên địch, trong đó có hàng trăm tên Mỹ, thu 600 súng các loại; diệt và bức rút 56 đồn bốt, phá hủy 288 máy bay, đánh chìm hàng chục tàu chiến, giải phóng 4 xã với 10.000 dân. Dù ở sát sân bay Trà Nóc nhưng không lực Mỹ vẫn bị vô hiệu hóa trước mặt trận Vòng Cung, chúng phải dùng phương pháp thả dù cổ điển để tiếp tế cho quân đóng giữa địa bàn.

Với sự đùm bọc của nhân dân, lực lượng vũ trang được củng cố và mở thêm nhiều đợt tấn công vào thành phố Cần Thơ. Ở phía sau, các đội dân quân lập làng chiến đấu, ngăn địch phản kích. Nhiều liếp vườn trở thành khu tử địa. Giữ một bờ mương, một con rạch là cả ý chí tiến công, bám đất, là biểu thị lòng thủy chung với cách mạng của nhân dân Lộ Vòng Cung ở những tọa độ chưa đầy một phút bay của trực thăng Mỹ. Bằng sự quyết tâm và lòng quả cảm, quân và dân Cần Thơ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đồng loạt nổ súng tấn công vào các mục tiêu. Lộ Vòng Cung được giữ vững trong nhiều tháng, tạo điều kiện làm công tác chuẩn bị cho các đợt tấn công tiếp theo.
 



---------------------------------------------------------------
1. Tháng 10-1967, Khu Tây Nam Bộ quyết định nâng thị xã Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh, điều động cán bộ các nơi bổ sung cho thành phố Cần Thơ. Đồng chí Trần Việt Châu, Khu ủy viên đảm nhiệm Bí thư Thành ủy. Hai huyện Châu Thành A, Châu Thành B ghép lại thành huyện Châu Thành, sau tổng tấn công chia lại thành hai huyện là huyện Châu Thành A và Châu Thành B như trước. Tháng 10-1968, thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 09:35:07 am
QUÂN VÀ DÂN QUÂN KHU 4
VỚI CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng NGUYỄN ĐỨC HÓA
Phó Chính ủy Quân khu 4


Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân khu 4 có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, là tuyến đầu của hậu phương miền Bắc, hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam và Lào, nơi chịu sự đánh phá dai dẳng, ác liệt nhất trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Vượt qua bao hy sinh, gian khổ, quân và dân Quân khu 4 luôn cùng lúc hoàn thành tốt "4 nhiệm vụ, trên 3 chiến trường"1, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của dân tộc, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968:

Một là, cùng cả nước động viên cao nhất sức người, sức của cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam

Từ năm 1967, thực hiện chủ trương của Trung ương, quân và dân Quân khu 4 vừa ra sức củng cố tác chiến phòng thủ Quân khu, sẵn sàng đánh địch liều lĩnh tiến công ra miền Bắc, vừa tích cực cung cấp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, góp phần tạo thế và lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.

Từ tháng 9 đến tháng 12-1967, Quân khu hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến phòng thủ trong tình huống dự kiến địch tiến công ra Nam Quân khu. Lực lượng tại chỗ được lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Các địa phương từ sông Gianh trở vào củng cố dân quân tự vệ. 397 xã trọng điểm trên tổng số 844 xã trên địa bàn Quân khu được xây dựng thành làng xã chiến đấu. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích, tự vệ tổ chức diễn tập phòng thủ tình huống địch tập kích bằng đường bộ, đường biển, đường không vào Nam Quân khu. Các địa phương Vĩnh Linh, Quảng Bình sơ tán hơn 10.000 dân, chủ yếu là người già yếu, phụ nữ có con nhỏ dưới 5 tuổi và trẻ em ra các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa.

Ngày 22-12-1967, Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5) được tách khỏi Quân khu 4 về trực thuộc Bộ 2. Quân khu có nhiệm vụ tác chiến ở Nam Quân khu và Trung - Hạ Lào. Khi có chiến sự thì do B5 chỉ huy tác chiến ở phía nam Quân khu từ Long Đại trở vào. Tuy nhiên, do địa bàn Quân khu có quan hệ mật thiết, trực tiếp với Bắc Quảng Trị (B5), nên Quân khu được Bộ giao nhiệm vụ tiếp nhận và điều trị cho thương, bệnh binh loại vừa và nặng của B5, chiến trường miền Nam, Đoàn 559 và các đơn vị của Bộ hoạt động trên địa bàn Quân khu. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, Quân khu chấn chỉnh lại hệ thống quân y viện trên ba tỉnh (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình), và 9 đội điều trị, các đội cứu thương, đội phẫu thuật lưu động. Các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân được chấn chỉnh về tổ chức, biên chế, bổ sung vũ khí, trang bị, đẩy mạnh việc huấn luyện, học tập kỹ, chiến thuật, chính trị, sẵn sàng cơ động vượt sông Bến Hải tham gia đánh địch trên chiến trường Trị - Thiên. Đồng thời, Quân khu nhanh chóng tiếp nhận 18.882 khẩu súng các loại do Bộ bổ sung, kịp thời trang bị đủ cho các đơn vị, các lực lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến phòng thủ Quân khu, tác chiến phòng không và chi viện cho chiến trường Trị - Thiên.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền Nam, Bắc, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, năm 1967, Quân khu hoàn thành tốt 4 đợt tuyển quân với số lượng 11.130 người, vượt chỉ tiêu được giao (chỉ tiêu được giao là 10.939 người); chấn chỉnh lực lượng bàn giao cho B dài (chiến trường Nam Bộ) gồm 9 đơn vị với tổng quân số 8.358 đồng chí; điều động 7.232 quân của các đơn vị trong Quân khu bổ sung cho B5; đồng thời tăng cường cho B5 các đơn vị chuyên môn kỹ thuật, lực lượng bảo đảm gồm: Tiểu đoàn công binh 28, 1 trung đội hữu tuyến điện, 1 trung đội trinh sát, 1 đội điều trị (51 người), 1 trung đội chỉ huy pháo mặt đất và 2 tiểu đoàn dân công (1.000 người). Đầu năm 1968, Quân khu nhanh chóng thực hiện tuyển quân đợt 1 với tổng số 5.335 người, xây dựng thành 9 tiểu đoàn tăng cường, sẵn sàng bổ sung cho B vào tháng 3 và tháng 5 -1968. Năm 1968, đáp ứng yêu cầu lực lượng chi viện cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy, toàn Quân khu có hơn 60.000 thanh niên nhập ngũ, bổ sung cho tiền tuyến, đạt mức cao nhất trong những năm chiến tranh. Lực lượng vũ trang Quân khu bổ sung cho các chiến trường gồm 1 sư đoàn, 5 trung đoàn, 21 tiểu đoàn, 30 đại đội.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, khối lượng bảo đảm vật chất hậu cần, kỹ thuật từ Bắc vào Nam rất lớn, hầu hết đều được vận chuyển qua địa bàn Quân khu. Vì vậy, suốt những năm chiến tranh chống Mỹ nói chung, những năm chiến tranh phá hoại nói riêng, Quân khu 4 trở thành nơi bị đánh phá tàn bạo nhất của không quân, hải quân Mỹ. Mật độ đánh phá ngày càng lớn, chỉ riêng trong tháng 9-1967, không quân Mỹ đã sử dụng 266 lần chiếc B52 ném một khối lượng bom gấp 13 lần cả năm 1966 xuống các tuyến đường giao thông, bến vượt, chân hàng, kho tàng, bến bãi trên địa bàn Quân khu. Quân và dân trên địa bàn vừa chiến đấu, vừa huy động cao nhất các lực lượng, phương tiện hiện có, hoàn thành các tuyến đường, bảo đảm thông xe liên tục trong mọi tình huống. Đến cuối năm 1967, toàn Quân khu đã vận chuyển cho chiến trường miền Nam số lượng hàng hóa đạt 117% kế hoạch năm, riêng cho chiến trường Trị - Thiên là 28.592 tấn.

Việc cung cấp cao nhất lực lượng, cơ sở vật chất cho các chiến trường và bảo đảm mạch máu giao thông vận tải của quân và dân Quân khu 4 trong năm 1967 đã góp phần cùng cả nước tạo thế, tạo lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 giành thắng lợi.

Hai là, cùng các đơn vị của Mặt trận B5 trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, nhất là Trị - Thiên - Huế

Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, các đơn vị của Quân khu (Trung đoàn 270, 84, 164, 204, 218, 282), cùng hàng nghìn dân quân, du kích Quảng Bình, Vĩnh Linh "ăn cơm bờ Bắc, đánh giặc bờ Nam", vừa trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên chiến trường Đường 9, hướng phối hợp nghi binh chiến lược, nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ, thu hút và kìm chân địch, hỗ trợ cho hướng tiến công chủ yếu 3.

Trung đoàn 270 Vĩnh Linh được giao nhiệm vụ cắt đứt tuyến tiếp tế đường sông từ Cửa Việt lên Đông Hà - Tà Cơn của Mỹ - quân đội Sài Gòn; tiêu diệt tàu địch trên sông Cửa Việt, diệt địch ra ngoài giải tỏa, giữ vững trận địa Bắc Cửa Việt; cùng các đơn vị của Mặt trận B5 kéo địch về phía đơn vị mình càng nhiều càng tốt, tạo điều kiện cho quân dân Trị - Thiên đánh vào các đầu não của địch. Đêm 19-1, Tiểu đoàn 47 (Tiểu đoàn Lê Hồng Phong) của Trung đoàn vượt sông Bến Hải vào tiến công địch, ngăn chặn địch hoạt động trên sông Thạch Hãn 4. Sau gần 4 tháng liên tục chiến đấu (từ 19-1 đến 6-5-1968), mặc dù gặp nhiều thương vong, tổn thất, Trung đoàn vẫn hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ vững khu vực Xuân Lâm, Bạch Cầu, Hoàng Hà; tiến công tiêu diệt địch ở Gio Hà, Gio Mai (làng Mai Xá Thị), căn cứ Bạch Cầu, Nhĩ Trung (Gio Thành), hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đêm 21-1, pháo binh Quân khu từ bờ Bắc sông Bến Hải dội bão lửa vào căn cứ Ái Tử và xóm Búng, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, phá hỏng 1 đài rađa, 1 xe M113, 1 kho đạn. Trong đợt 1 của chiến dịch (từ ngày 30-1 đến ngày 28-3), các đơn vị chủ lực của Quân khu tham gia chiến đấu trong đội hình B5 (cánh quân hướng đông), cùng bộ đội địa phương Gio Linh phối hợp với các hướng, đã liên tục tiến công tiêu diệt Ty Cảnh sát, Dinh Tỉnh trưởng Quảng Trị, Tiểu đoàn dù quân đội Sài Gòn ở Hành Hoa, Tiểu đoàn 8 dù quân đội Sài Gòn ở Tri Biểu và các căn cứ địch ở Lâm Xuân, Hoàng Hà, Phúc Sa, Cầu Nhùng, Sa Nghi, Bến Đa, Ngô Xá.

Sáu đại đội dân quân các xã Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh Thành, Vĩnh Long, Vĩnh Thái, Vĩnh Lâm (Vĩnh Linh) vượt sông Bến Hải vào cảng Cửa Việt cùng bộ đội phục kích, săn tàu, bắn chìm 12 xuồng, bắn cháy 4 tàu vận tải, 2 xe tăng. Các tổ dân quân bắn tỉa Vĩnh Nam, Vĩnh Tú, Vĩnh Trung loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch. Nữ du kích Trần Thị Bưởi (Vĩnh Tú), trong 3 ngày phục kích chỉ với 26 viên đạn, diệt 19 tên địch. Tại chốt Phò Cam (Gio Mỹ), ngày 25-3, 14 dân quân Vĩnh Trung cùng một tổ bộ đội chủ lực bẻ gãy 9 đợt tiến công của 4 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn, diệt 150 tên, giữ vững trận địa.

Ba đại đội súng cối 82, 4 đại đội bộ binh của các tiểu đoàn 45, 46, 49 và Đại đội trinh sát đặc công tỉnh Quảng Bình cùng Đại đội cối 82 Hà Tĩnh được tăng cường cho Quảng Trị từ cuối năm 1967, phối hợp cùng các lực lượng chủ lực của B5, địa phương Quảng Trị anh dũng chiến đấu liên tục trên Mặt trận Đường 9, tiêu diệt 5.000 tên địch, phá hủy 47 xe cơ giới, trong đó có 41 xe tăng, bắn rơi 3 máy bay.

Những đòn tiến công liên tục cả trước và trong Mậu Thân 1968 của lực lượng vũ trang Quân khu, cùng với B5 và quân dân Trị - Thiên trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã hoàn thành nhiệm vụ thu hút, giam giữ một lực lượng lớn quân Mỹ - quân đội Sài Gòn, tạo thuận lợi cho các hướng thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy, nhất là ở Trị - Thiên - Huế.

Ba là, đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của địch, giữ vững mạch máu giao thông vận tải, bảo đảm sự chi viện liên tục của miền Bắc cho miền Nam trong suốt cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968

 Ngay từ đầu năm 1968, lực lượng phòng không ba thứ quân trên toàn địa bàn Quân khu được tăng cường. Ngày 28-1-1968, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Sư đoàn phòng không 375 ở Nam sông Gianh thuộc Quân khu 4 (gồm các trung đoàn pháo cao xạ 214, 218, 282, Trung đoàn tên lửa 283 và Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ Nguyễn Viết Xuân), bố trí đánh địch, bảo vệ các mục tiêu phà Xuân Sơn, Long Đại và bảo vệ pháo binh mặt đất triển khai ở Vĩnh Linh để đánh địch ở bờ Nam sông Bến Hải, bảo vệ các khu tập kết của bộ binh. Thế trận chiến tranh nhân dân đánh trả không quân và hải quân Mỹ được củng cố vừa bảo đảm rộng khắp, vừa có trọng tâm, trọng điểm. Tất cả các mục tiêu quan trọng trong tuyến giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu được triển khai lực lượng phòng không, lực lượng ứng cứu giao thông.

 Lực lượng phòng không các tỉnh, huyện và những đơn vị còn lại của Quân khu được sắp xếp theo yêu cầu nhiệm vụ mới, vừa bảo đảm tác chiến bảo vệ địa bàn, vừa làm nòng cốt thành lập thêm 6 trung đoàn, 11 tiểu đoàn, 9 đại đội phòng không. Những đơn vị mới thành lập là lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ đánh địch trên các tuyến giao thông phía bắc Quân khu, trọng điểm là Nam Đàn, Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc. Các tỉnh xây dựng 528 đội trực chiến của dân quân, trong đó có 245 đội thoát ly sản xuất, trang bị súng 12 ly 7, 14 ly 5 và pháo cao xạ 37 ly, cơ động phục kích đánh địch dọc các trục giao thông chính, hạn chế máy bay địch săn tìm phương tiện vận tải của ta và bảo vệ các mục tiêu ở địa phương.

Các địa phương tuyến trước (Vĩnh Linh) vững vàng chiến đấu với B52 và pháo địch từ bờ Nam sông Bến Hải bắn sang, bám trụ sản xuất, anh dũng, mưu trí chèo thuyền đưa bộ đội, hàng hóa, vũ khí trang bị vào Đường 9; đưa thương, bệnh binh từ mặt trận về tuyến sau. Xã Vĩnh Thủy tổ chức cho 40 đoàn viên thanh niên cõng đạn sang bờ Nam trong chiến dịch đánh địch giải tỏa căn cứ Khe Sanh. Dân quân xã Vịnh Mốc, Vĩnh Kim tổ chức các đội tình nguyện giỏi bơi lặn làm nhiệm vụ chi viện cho đảo Cồn Cỏ, giữ trọn lời thề: "Vĩnh Linh còn, Cồn Cỏ còn".

Sau bất ngờ với đòn tiến công ban đầu của ta, những ngày sau, địch phản kích quyết liệt. Trên miền Bắc, không quân, hải quân Mỹ tăng cường đánh phá các tuyến giao thông thuộc địa bàn Quân khu 4, trọng điểm là các khu vực: Cầu Cấm, Phương Tích, Rú Nguộc, Truông Bồn, Bến phà Nam Đàn, Bến Thủy (Nghệ An); Bến Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc, Thượng Gia, Hạ Vàng, Khe Út, Bến Ràng, Còi Sâu (Hà Tĩnh); phà sông Gianh, Bến Ròn, Xuân Sơn, Long Đại, Quán Hàu, Phong Nha (Quảng Bình), với cường độ ác liệt chưa từng có, nhằm cắt đứt hoàn toàn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm cho ta không đủ sức thực hiện kế hoạch tổng tiến công tiếp theo. Trung bình mỗi ngày địch xuất kích 300 lần chiếc máy bay, đánh phá 24/24 giờ các đầu mối giao thông. Từ tháng 1 đến tháng 7-1968, mật độ bom đạn địch dội xuống địa bàn Quân khu 4 tăng 20 lần, số trận máy bay Mỹ ném bom tăng 2,6 lần so với năm 1967. Riêng ngã ba Đồng Lộc và Thượng Gia (Hà Tĩnh), không quân địch tập kích 5.300 lần chiếc máy bay, ném 37.500 quả bom phá, thả 5.000 quả bom từ trường. Với tinh thần "tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho Tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi", quân và dân Quân khu 4 kiên cường đánh trả không quân, hải quân Mỹ, bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam, nhất là chiến trường Trị - Thiên - Huế.

Tháng 5-1968, Trung đoàn tên lửa 283 bắn rơi 7 chiếc máy bay. Ngày 31-5, tại Cồn Cỏ, ta bắn rơi 4 chiếc máy bay, được Bác Hồ gửi thư khen: "Cồn Cỏ nở đầy hoa thắng trận/ Đánh cho tan xác giặc Hoa Kỳ" . Ngày 25-6, Đại đội 367 bộ đội địa phương tỉnh và dân quân Minh Hóa - Quảng Bình, phối hợp với Trung đoàn 280 bắn rơi tại chỗ một chiếc F4H (chiếc thứ 3.000 trên miền Bắc). Trong tháng 8, khi quân dân Trị - Thiên - Huế bước vào đợt 3 tổng tiến công, các đơn vị phòng không Quân khu cùng quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh, Hà Tĩnh thi đua đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Các đơn vị phòng không chủ lực bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay thứ 500 trên vùng trời của tỉnh. Ngày 5-8, quân dân Vĩnh Linh bắn rơi cả tốp 2 chiếc máy bay F4H, chiếc thứ 200 ở địa phương, được Bác Hồ gửi thư khen: "Đánh cho giặc Mỹ tan tành/ Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng". Ngày 28-8, tự vệ lâm trường huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) bắn rơi chiếc máy bay F111A của Mỹ đầu tiên trên miền Bắc. Tiểu đội nữ dân quân Kỳ Phương, Kỳ Anh trong hai ngày cuối tháng 8 bắn rơi 3 máy bay.

Giai đoạn cuối của Tổng tiến công, yêu cầu chi viện cho chiến trường càng cao, địch đánh phá giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu càng ác liệt. Để tập trung sự chỉ đạo thống nhất các lực lượng vận tải có mặt trên địa bàn Quân khu, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4. Đồng chí Phan Trọng Tuệ, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng được cử làm Tư lệnh. Đồng chí Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Chính ủy Quân khu 4 làm Chính ủy. Một số cán bộ các ngành của Trung ương (giao thông vận tải, y tế, bưu điện, thương nghiệp, Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam) và Tổng cục Hậu cần được huy động vào Quân khu để trực tiếp tham gia chỉ đạo công tác bảo đảm giao thông vận tải. Các tỉnh có bộ chỉ huy giao thông vận tải tỉnh, do chủ tịch tỉnh làm chỉ huy trưởng. Mỗi tỉnh tổ chức thêm 1 đại đội công binh. Các huyện, xã có 500 đội công binh - dân quân thoát ly sản xuất. Các lực lượng được tổ chức thành hai bộ phận: Một bộ phận chuyên rà phá bom, mìn, san lấp hố bom, giải phóng đường, mở đường vòng tránh; một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ vận tải. Thành lập các ban công an giao thông từ tỉnh đến xã, phường để phối hợp điều phối phương tiện vận tải, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn hàng hóa ở các bến vượt.

Với quyết tâm bảo đảm mạch máu giao thông vận tải, bảo đảm kịp thời đầy đủ cho chiến trường miền Nam, chiến trường Trị - Thiên - Huế Tổng tiến công và nổi dậy, các địa phương Quân khu vận dụng nhiều hình thức vừa đánh địch, vừa khắc phục bom đạn, bảo đảm thông đường trong thời gian ngắn nhất. Những trọng điểm Nam Đàn, Bến Thủy, Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc, trên Đường 15 vượt sông Lam, sông La; Long Đại, Xuân Sơn, Gianh, Quán Hàu trở thành nơi thử thách ý chí kiên cường, tinh thần dũng cảm hy sinh và trí tuệ của các đơn vị phòng không, đơn vị vận tải, công binh và hàng chục vạn dân quân tự vệ, thanh niên xung phong, dân công của các địa phương. Nhân dân Hà Tĩnh, Quảng Bình với quyết tâm "thông xe trong mọi tình huống" đã dời nhà làm đường vòng tránh, dỡ nhà lấy vật liệu chống lầy cho xe.

Trong 100 ngày đêm chốt ở Bến phà Long Đại, Tiểu đoàn 1 (e249) luôn bảo đảm kỹ thuật vận hành phà an toàn. Có ngày Đội tự vệ phà Quán Hàu dùng khung dây rà quét phá nổ 122 quả bom từ trường; Đội phá bom dân quân xã Đức Ninh dùng bộc phá, phá 250 quả bom nổ chậm dọc sông Nhật Lệ. Tại chốt ngã ba Đồng Lộc, 5 đại đội thanh niên xung phong, 3 đại đội công binh giao thông, Đại đội công binh phá bom thuộc Tiểu đoàn 30, suốt 200 ngày đêm đọ sức với địch, đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, không sợ hy sinh 5. Lực lượng vũ trang Nghệ An sử dụng máy phóng từ kết hợp với những dụng cụ thô sơ như viên nam châm, lưỡi cày, lưỡi cuốc, vỏ phuy xăng đã phá hàng nghìn bom từ trường. 10 cô gái Đô Lương phá gần 2.000 quả bom từ trường ở Truông Bồn. Chiến sĩ dân quân Nguyễn Trọng Dược (Hưng Vĩnh, Hưng Nguyên) trong 7 tháng phá 33 bom nổ chậm, 400 bom từ trường. Chiếc ca nô bất khuất của Tiểu đoàn 27 do Nguyễn Xuân Toán điều khiển gây nổ hàng trăm bom từ trường dọc sông Lam.

Trên hướng biển, tháng 3-1968, đoàn vận tải biển xã Cảnh Dương, được ngụy trang bằng thuyền đánh cá, dũng cảm kiên cường vượt lưới lửa địch, chuyển vũ khí đạn vào Hải Lăng, Triệu Phong cho Mặt trận B5. Những chuyến hàng thắm máu đỏ của quân dân Quân khu 4 như tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968.

Lực lượng pháo binh ba thứ quân kết hợp với bộ đội đặc công, hải quân, liên tiếp đánh bại các đợt xâm nhập của hải quân Mỹ, ngụy, bảo vệ vững chắc vùng biển và hỗ trợ cho các đơn vị bám trụ vững chắc trên các đảo. Nhân dân tích cực xây dựng trận địa pháo và phục vụ chiến đấu. Các đội thuyền đánh cá, thuyền vận tải được trang bị vũ khí sẵn sàng đánh đuổi tàu biệt kích, tàu chiến địch, bảo vệ ngư dân sản xuất. Đêm 14-5, công an vũ trang đồn Cửa Tùng phối hợp với dân quân xã Vĩnh Quang, nổ súng bắn chìm 1 tàu biệt kích địch khi chúng tập kích thuyền đánh cá của ngư dân. Ngày 7-8, dân quân Quỳnh Lưu bắn chìm 2 tàu biệt kích địch. Ngày 26-7, Đại đội 13 pháo binh Vĩnh Linh đánh bại cuộc tiến công của 17 tàu chiến địch, bắn cháy 2 chiếc. Từ ngày 7-2 đến ngày 16-5, Đại đội nữ pháo binh dân quân Ngư Thủy - Lệ Thủy - Quảng Bình, do Đại đội trưởng Ngô Thị The chỉ huy, ba lần nổ súng, ba lần bắn cháy tàu chiến Mỹ - quân đội Sài Gòn.

Suốt 8 tháng (từ ngày 31-1 đến ngày 30-9), qua ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, khi trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta dũng cảm đánh vào sào huyệt địch, cũng là từng ấy thời gian, quân và dân Quân khu 4 gồng mình trong bom đạn, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị; vừa đánh địch, mở đường, thông xe, đưa hàng ra tiền tuyến, vận chuyển thương, bệnh binh nặng của các đơn vị về tuyến sau.

Mặc dù hầu hết nhân lực trẻ được huy động ra tiền tuyến, lại bị không quân, hải quân Mỹ - ngụy đánh phá ác liệt, song không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, mà trên mặt trận sản xuất, các địa phương vẫn "vững tay cày, chắc tay súng". Vụ Xuân - Hè năm 1968, nhiều hợp tác xã đạt năng suất cao. Ở Vĩnh Linh, nơi tuyến đầu hậu phương Quân khu và cả miền Bắc, diện tích gieo trồng đạt 101% kế hoạch. Hợp tác xã Vĩnh Kim, Nam Hồ đạt năng suất cao. Vĩnh Chấp, Vĩnh Thủy vẫn duy trì được đàn lợn tập thể. Cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất được vận hành thường xuyên, bảo đảm "thóc không thiếu một cân" chi viện cho chiến trường.

Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, các hoạt động ở địa phương Quân khu 4 vẫn được duy trì. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá được sơ tán đến những nơi an toàn, đảm bảo thu dung, cấp cứu cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Quân khu và thương, bệnh binh các đơn vị của Bộ, của Quân khu Trị - Thiên từ bờ Nam chuyển ra. Trẻ em vẫn đội mũ rơm đến trường. Các nhà máy, công trường thi đua vừa đánh giặc, vừa sản xuất, tất cả cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi.

Những đóng góp kịp thời của quân và dân Quân khu 4 trong huy động lực lượng, cơ sở vật chất cung cấp cho chiến trường miền Nam; trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu tạo thế, thu hút, giam chân địch trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị; bảo đảm mạch máu giao thông vận tải thông suốt, đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.





----------------------------------------------------------------
1. Bốn nhiệm vụ: Cùng cả nước chi viện cho chiến trường miền Nam; sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Quân khu; chiến đấu trên chiến trường Trị - Thiên; làm nhiệm vụ quốc tế với bạn Lào. Ba chiến trường: Chiến trường Quân khu; chiến trường Trị - Thiên; chiến trường Lào.

2. B5 tức là Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, được thành lập tháng 4-1966, công tác tổ chức và lực lượng do Quân khu 4 đảm bảo. Lực lượng ban đầu gồm Sư đoàn 324 và Trung đoàn 31, Sư đoàn 341B. Nhiệm vụ tác chiến, thu hút một bộ phận lực lượng Mỹ - quân đội Sài Gòn ra chiến trường Đường 9, tạo thuận lợi cho các chiến trường khác.

3. Hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng.

4. Kết quả trong đêm 19, ngày 20-1, Trung đoàn diệt 4 tàu địch trên sông, 10 xe bọc thép, 2 máy bay AD6 và 7 máy bay trực thăng, phá hủy 5 kho chứa đầy hàng, 30 xe quân sự, tiêu diệt hơn 200 lính Mỹ, Sài Gòn.

5. Tiêu biểu là: Dũng sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ, bằng dụng cụ thô sơ đã phá 189 quả bom các loại. Uông Xuân Lý với chiếc máy húc C100 đã san gạt hàng nghìn m3 đất đá, trong đó chứa lẫn bom mìn. La Thị Tám, Đại đội 2 giao thông, cùng tổ đánh dấu chính xác 703 quả bom, 23 lần bị bom vùi khi làm nhiệm vụ quan sát cắm tiêu đánh dấu bom rơi. 10 cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ san lấp hố bom, đã anh dũng hy sinh ngày 24-7-1968 ở tuổi 20, tuổi đẹp nhất đời người.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 09:45:30 am
VAI TRÒ CỦA DU KÍCH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 Ở VĨNH LONG



Thượng tá, ThS. NGUYỄN VĂN ĐIỀN
Phó Phòng Quản lý khoa học,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường miền Tây Nam Bộ nói chung, tại tỉnh Vĩnh Long nói riêng đã góp phần tạo ra bước ngoặt chiến lược, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong thắng lợi chung đó, lực lượng du kích Vĩnh Long có vai trò to lớn, góp phần làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, tạo đà cho việc tiến lên đánh bại các chiến lược chiến tranh tiếp theo của địch, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Là chiến trường trọng điểm của đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long là một trong số 22 trọng điểm bình định, vùng "ưu tiên quốc gia", nơi vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đây cũng là nơi địch thí điểm các thủ đoạn chiến thuật và các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh. Khắc phục mọi khó khăn, đặc biệt là sự chia cắt của địch, quân và dân Vĩnh Long luôn chủ động phát huy tinh thần cách mạng, tự lực, tự cường, kiên cường, bền bỉ đấu tranh. Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, lực lượng du kích đã phát huy vai trò của mình trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

1. Chuẩn bị mọi mặt, củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Chủ trương của Khu ủy Tây Nam Bộ trong mùa khô 1967-1968 là tập trung sức đẩy mạnh tiến công, tiêu hao sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; phá bình định, giải phóng nông thôn, giành thắng lợi quyết định, tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp kháng chiến. Thực hiện chủ trương đó, tháng 11-1967, tại xã An Khánh (huyện Châu Thành B), Tỉnh ủy Vĩnh Long đã quán triệt chỉ thị của Khu ủy, đồng thời rà soát lại tình hình để vận dụng chủ trương của Khu ủy vào điều kiện thực tế. Quần chúng nhân dân ở các vùng yếu, vùng bị kìm kẹp, thị xã, thị trấn được tuyên truyền sâu rộng, vùng lên đấu tranh. Tiềm lực của toàn dân cũng được động viên cho kháng chiến, lực lượng vũ trang ba thứ quân được củng cố, bổ sung, kiện toàn.

Thực hiện chỉ thị của Khu ủy, cán bộ, đảng viên nghiêm chỉnh chấp hành và luôn sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì. Bộ đội địa phương đăng ký quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, sẵn sàng chuyển lên bộ đội chủ lực. Du kích đẩy mạnh hoạt động bao vây, tiêu diệt đồn, bốt địch, sẵn sàng gia nhập bộ đội tập trung. Nhiều gia đình đăng ký hiến tặng 1/3 đến 1/2 số lúa cho cách mạng. Bông tai, vòng vàng, trang sức cũng được các bà, các má và chị em hiến tặng để mua sắm vũ khí chiến đấu. Đồng bào vùng kìm kẹp cũng gửi tiền, hiện vật, thuốc men ủng hộ bộ đội và du kích mua súng đánh giặc... Nhiều bà mẹ động viên người con trai cuối cùng của mình vào lực lượng vũ trang.

Để bảo đảm vật chất, đặc biệt là đạn và thuốc nổ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, bên cạnh việc sản xuất, cải tiến, tỉnh chủ trương tổ chức lực lượng vận chuyển từ miền Tây và biên giới Campuchia về phục vụ các đơn vị đứng chân trên địa bàn. Bằng nhiều giải pháp mưu trí, sáng tạo, đến ngày 29-1-1968, các lực lượng đã đưa 2 tấn súng, đạn và chất nổ vào ém sẵn tại các vị trí trong nội đô, sẵn sàng thực hiện tổng tiến công và nổi dậy.

Về xây dựng lực lượng, tính đến năm 1967, ở Vĩnh Long có 2.875 du kích với 1.310 khẩu súng (trong đó có 754 du kích xã, 1.978 du kích ấp, 43 du kích mật). Về tổ chức, ở mỗi xã có từ 1 đến 2 tổ du kích được trang bị súng và một vài tổ được trang bị vũ khí thô sơ; ngoài ra, mỗi xã có từ 5 đến 7 du kích hoạt động bí mật. Để giải quyết vấn đề về lực lượng, tỉnh đã quyết định rút hết lực lượng bộ đội địa phương lên tăng cường, phối thuộc cho hai tiểu đoàn của tỉnh (Tiểu đoàn 857 và Tiểu đoàn 2) và hai tiểu đoàn chủ lực của Khu (Tiểu đoàn 306 và 308); đôn hết lực lượng du kích của xã lên thành các đại đội địa phương cấp huyện, đôn du kích thôn, ấp lên thành các đội du kích xã... "Đôn quân" bao gồm cả cán bộ, chiến sĩ và vũ khí đảm bảo tổ chức và chiến đấu được ngay (nếu thiếu cán bộ thì điều cán bộ huyện đội, xã đội và cán bộ các phòng, ban của Tỉnh đội ra chiến đấu) . Bên cạnh củng cố lực lượng, việc huấn luyện chiến thuật, đặc biệt là kỹ thuật công binh và bắn máy bay cho du kích cũng được chú trọng từ ấp, xã, thị trấn, thị xã. Cùng với đó, phong trào binh vận cũng được triển khai tích cực nhằm vận động, giác ngộ nhiều gia đình binh sĩ, nhiều cơ sở mật trong hàng ngũ địch, tích cực kêu gọi binh lính địch đầu hàng, rã ngũ.

Như vậy, trước khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang của Vĩnh Long đã được xây dựng, củng cố tương đối hoàn chỉnh. Với ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng chiến đấu lập công, lực lượng du kích đã trở thành lực lượng dự bị hùng hậu cho bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực, phối hợp với các lực lượng làm nhiệm vụ trên các hướng mũi tiến công, các mục tiêu chủ yếu, quan trọng.

 2. Phát huy vai trò của du kích trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Ngày 27-1-1968, lệnh tổng tiến công và nổi dậy được truyền đạt xuống phân ban Khu ủy Mặt trận Cửu Long cùng hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.

Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tại trọng điểm Vĩnh Long, quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân đồng minh có 17.732 tên (trong đó có 1.200 quân Mỹ gồm chuyên viên kỹ thuật, phi công, cố vấn); với số lượng 4.769 quân chủ lực, gồm các tiểu đoàn bộ binh của hai trung đoàn 15 và 16, Sư đoàn bộ Sư đoàn 9, một số đơn vị binh chủng, số còn lại là lực lượng địa phương quân. Toàn bộ lực lượng trên được bố trí như sau: Tại sân bay Vĩnh Long có 2 đại đội trực thăng 157, 144 với 66 trực thăng vũ trang vận tải và trinh sát (có lúc lên đến 80 chiếc); hải quân có 2 giang đoàn 23 và 517 với khoảng 40 tàu xuồng, thường xuyên co cụm tại sông Cổ Chiên; 1 đại đội công binh Mỹ đang làm đường tại cầu Công Xi Heo và bến phà Cổ Chiên; Trung đoàn 16 thuộc Sư đoàn 9 đóng ở Long Hồ; hai tiểu đoàn của Trung đoàn 15 đóng ở Sa Đéc...

 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân tại Vĩnh Long diễn ra vào lúc 2 giờ 30 phút sáng 30-1-1968 (tức ngày mồng 1 Tết Mậu Thân). Mở đầu là đợt tập kích hỏa lực vào sân bay Vĩnh Long. Trong những ngày đầu tiến công, tại thị xã, ta đã giành được một số thắng lợi. Tuy nhiên, trước sự phản kích quyết liệt của địch, cuộc Tổng tiến công có dấu hiệu chững lại. Trước tình hình đó, để bảo đảm quân số chiến đấu, nhiều đảng viên, đoàn viên, đặc biệt là du kích kịp thời được bổ sung, tăng cường cho các đơn vị bộ đội tập trung. Do được huấn luyện chu đáo nên phần lớn lực lượng vừa được tăng cường đều có thể chiến đấu được ngay và duy trì tốt hoạt động tác chiến.

Phối hợp nhịp nhàng với tiến công và nổi dậy ở thị xã, quân và dân vùng ven ba xã Đồng Phú, An Bình, Bình Hòa nổi dậy kết hợp ba mũi giáp công, tiêu diệt và bức hàng, bức rút các đồn bốt của địch, giải phóng vùng ven. Trước sức mạnh của Quân giải phóng, 76 lính bảo an ra hàng, giao nộp toàn bộ vũ khí. Số vũ khí này được trang bị cho du kích, góp phần tăng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang tại chỗ trong hoạt động truy kích, tiêu diệt địch. Đến tối 3-2-1968 (mồng 5 Tết), toàn bộ binh lính địch ở các đồn, bốt co cụm về Đồng Phú cũng ra hàng và giao nộp vũ khí. Xã Đồng Phú được giải phóng hoàn toàn, các xã An Bình và Bình Hòa Phước cơ bản được giải phóng.

Sáng 1-2-1968, 1 tiểu đội du kích xã bí mật tiếp cận bốt Cái Mít, tiêu diệt bốt trưởng và tổ chức bao vây bức hàng bốt, thu 14 súng (1 súng trung liên). Sau 3 ngày bị bao vây, lực lượng địch đồn trú trong bốt Vĩnh Bình cũng tìm đường tháo chạy. Số còn lại kéo ra hàng, ta thu 24 súng, giải phóng hoàn toàn xã.

 Dọc quốc lộ 4, đầu tháng 2-1968, được nhân dân các xã Phong Phú A, Phong Phú B, Phú Quới giúp đỡ, du kích kết hợp với lực lượng công binh của tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Văn Sa (Tư Sa), Tỉnh ủy viên đã cắt đứt quốc lộ 4, bức hàng, bức rút 8 đồn bốt, thu gần 100 súng các loại, làm chủ hoàn toàn đoạn Ba Càng - Phú Quới suốt 22 ngày đêm liên tục.

 Hòa chung khí thế tiến công của toàn tỉnh, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Cái Nhum, du kích huyện, xã, ấp phối hợp với các lực lượng chớp thời cơ đẩy mạnh phong trào quần chúng nổi dậy, kết hợp ba mũi giáp công phá và bức hàng nhiều đồn bốt địch, giải phóng nông thôn, bao vây kìm chặt chi khu Minh Đức, làm chủ tỉnh lộ 32, giải phóng cơ bản 5 xã: Nhơn Phú, Hòa Thịnh, Mỹ An, Bình Phước, Chánh Hội. Ngoài ra, huyện còn phối thuộc, bảo đảm hậu cần cho Tiểu đoàn 308 tiến công vào thị xã.

 Tại huyện Vũng Liêm, du kích phối hợp với 2 đại đội địa phương và các đơn vị binh chủng chia thành nhiều mũi tiến công các chi khu trên địa bàn, diệt 18 đồn (điển hình là các đồn Sân Banh, ngã ba An Nhơn, Giồng Ké), bức rút 10 đồn khác, đốt cháy kho xăng, đánh chiếm khu nhà thương, khu truyền tin..., phá hủy 12 xe quân sự, bắn rơi 1 trực thăng, giải phóng hoàn toàn hai xã Trung Hiệp, Hiếu Thành; giải tỏa tuyến sông Măng Thít (từ Tân An Luông tới Quới An), giải phóng cơ bản 7 xã còn lại (Tân An Luông, Quới An, Trung Ngãi, Trung Thành, Hiếu Phụng, Quới Hiệp, Trung Hiếu).

 Ở huyện Lấp Vò, sáng mồng 1 Tết, du kích cùng nhân dân kéo lên lộ 80 đắp chướng ngại vật, chiếm lĩnh lộ và vây ép chi khu, bao vây, bức hàng, bức rút hàng chục đồn bốt địch. Cùng ngày, tại huyện Bình Minh, du kích và nhân dân tạo chướng ngại vật làm chủ lộ 4, tiếp đó bao vây bức hàng một số đồn bốt trong vùng sâu...

 Tại huyện Châu Thành A, là huyện vùng ven bao bọc thị xã, kết hợp với tiến công và nổi dậy, ta đã diệt và bức hàng được các đồn Đìa Chuối, Bún Đình, Miễu Trắng, Kỳ Hà, Long Hiệp, giải phóng hoàn toàn xã Phước Hậu, nối liền hành lang từ thị xã đến vùng căn cứ; giải phóng cơ bản các xã Long Hồng, Long Đức, An Đức, Lộc Hòa.

 Tại huyện Châu Thành B, ta đánh chiếm, làm chủ bến phà Mỹ Thuận, thực hiện ba mũi giáp công, diệt đồn bốt, giải phóng hoàn toàn xã Hòa Tân, An Khánh, Tân Hòa, làm chủ hoàn toàn vùng chữ V, giải phóng cơ bản 3 xã An Phú Thuận, Phú Hựu, Tân Hợi Đông, bao vây và phá rã hoàn toàn chi khu Đức Tôn.

 Tại huyện Tam Bình, ta đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, kết hợp chặt chẽ với mặt trận giao thông lộ 4, bao vây bức hàng và tiêu diệt đồn bốt, giải phóng nông thôn, "lột bọc"1 yếu khu Ba Càng và khu trù mật Cái Sơn, cắt đứt lộ 16, cô lập Tam Bình cả đường thủy và đường bộ, giải phóng cơ bản 6 xã: Mỹ Lộc, Hậu Lộc, Hòa Hiệp, Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ.

 Như vậy, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 (từ tháng 2 đến tháng 4), quân và dân Vĩnh Long đã cơ bản đạt được mục đích đặt ra: đánh 395 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, thu 440 súng các loại, bắn rơi 25 máy bay, phá hủy tại sân bay 82 chiếc, phá hủy 63 xe quân sự (trong đó có 32 xe M113), bắn cháy 9 tàu; tấn công tiêu diệt, bức rút, bức hàng 80 đồn (trong đó, diệt 6 đồn, bức hàng 10 đồn, bức rút 60 đồn), phá giao thông trên các lộ, quốc lộ 4 các liên tỉnh lộ 7, 8, 23, 32, 37, Hàng Me, Ba Kè với 220 lần phá, phá hỏng 8.571 mét lộ, đánh sập 11 cầu sắt...

Trong chiến công chung đó, du kích tỉnh Vĩnh Long đã phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ, làm chỗ dựa cho quần chúng nhân dân nổi dậy phá kìm, diệt đồn bốt; phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tiến công trên các hướng, mũi chủ yếu. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long mãi là niềm tự hào của lực lượng du kích nói riêng, của quân, dân toàn tỉnh nói chung. Việc tổng kết vai trò, kinh nghiệm của lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là lực lượng du kích là cần thiết để tiếp tục vận dụng vào xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.




----------------------------------------------------------------
1. Lột bọc: Dùng để chỉ các đồn bốt chung quanh bị bức diệt chỉ còn chi khu đơn độc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 09:51:44 am
CHÍNH TRƯỜNG MỸ SAU SỰ KIỆN XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. LÊ ĐỨC HẠNH
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử quân sự thế giới,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam không chỉ là cuộc chiến dài ngày nhất, tốn kém nhất, mà còn là cuộc chiến để lại nhiều bất đồng, mâu thuẫn nhất trong chính trường nước Mỹ. Ngay từ khi cuộc chiến bắt đầu, giữa Bộ Quốc phòng với Bộ Ngoại giao; giữa Đảng Dân chủ với Đảng Cộng hòa; giữa phái "Diều hâu" với phái "Bồ câu"; giữa người dân với chính quyền, thậm chí giữa các cơ quan chiến lược quân sự Mỹ, v.v. đã tồn tại hàng loạt bất đồng, kể cả việc tìm tiếng nói chung về mục đích của cuộc chiến tranh hoặc bằng cách nào để giành thắng lợi trong cuộc chiến, v.v.. Mặc dù tồn tại vô số bất đồng, nhưng ba đời tổng thống Mỹ là Aixenhao (Dwight David Eisenhower) (1953-1961), Kennơđi (John Fitzgerald Kennedy) (1961-1963), Giônxơn (Lyndon Baines Johnson) (1963-1969) đã tìm mọi cách vượt qua để rồi thực hiện "trót lọt" ba chiến lược chiến tranh, đưa hàng triệu lượt binh lính cùng hàng vạn tấn vũ khí, khí tài hiện đại sang Việt Nam, biến Việt Nam thành chiến trường nóng bỏng, khốc liệt nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khiến hàng triệu dân thường vô tội Việt Nam trở thành nạn nhân chiến tranh.

Đến năm 1968, mọi sự thật về cuộc chiến tranh đã bị phơi bày qua sự kiện Mậu Thân 1968. Sau sự kiện đó, nước Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị - xã hội sâu sắc; chính trường Mỹ bị cuốn vào vòng xoáy phân hóa chính trị khó có thể dung hòa.

Quả vậy, trước sự kiện Mậu Thân 1968, mặc dù không ít người dân và chính giới Mỹ đã phần nào đoán định được tương lai của cuộc chiến; hiểu rõ những tổn thất mà nước Mỹ đang phải gánh chịu, thậm chí cả những lời tán dương theo chủ nghĩa chiến thắng (Triumphalism) mà các đời tổng thống thường lấy đó để bưng bít sự thật nhằm tranh thủ lòng dân. Nhưng sau sự kiện Mậu Thân 1968, khi được chứng kiến cảnh "Việt cộng" đồng loạt tiến công vào hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam; cảnh binh lính Mỹ và quân đội Sài Gòn náo loạn để giải cứu cho tòa Đại sứ Mỹ, cố đô Huế và nhiều trung tâm điều hành chiến tranh khác thì nhận thức của họ trở nên rõ ràng hơn. Họ không tin vào tương lai chiến thắng; họ khẳng định những lời tuyên bố trước đây của các đời tổng thống là lừa dối. Hàng triệu gia đình người Mỹ còn đặt câu hỏi: việc chồng, cha, con của họ đã hy sinh và tàn phế tại Việt Nam có phải vì lợi ích chính đáng của nước Mỹ?; Phải chăng mọi nỗ lực của Mỹ trong thời gian qua đã trở nên vô ích?. Hậu quả của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ làm suy sụp lòng tin của người dân Mỹ về cuộc chiến, mà còn làm suy giảm uy tín của Tổng thống Giônxơn. Số liệu các cuộc điều tra tại Mỹ vào cuối tháng 2-1968 cho thấy, uy tín của Tổng thống Giônxơn về điều hành chiến tranh giảm từ 51% vào tháng 11-1967 xuống còn 26%; về điều hành đất nước nói chung cũng giảm từ 48% xuống còn 36%. Số liệu điều tra của Viện Gallup còn chỉ ra rằng, sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, có thêm hơn 30% người Mỹ trước đây không phản chiến nay chuyển sang phản chiến; số chính khách từ phái "Diều hâu" chuyển sang phái "Bồ câu" cũng không nhỏ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ tác động và làm thay đổi căn bản nhận thức của nhân dân Mỹ, mà đó còn là cú sốc đối với chính trường Mỹ. Chỉ ít ngày sau khi đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy kết thúc, cựu Tổng thống Mỹ Aixenhao đã phải thừa nhận: "Chưa bao giờ nước Mỹ gặp phải tình trạng đáng buồn và bị chia rẽ sâu sắc về cuộc chiến tranh như hiện nay". Tại Quốc hội, nhiều thượng nghị sĩ, trong đó có Rôbớt Kennơđi (Robert Kennedy) thì quả quyết: "Tết đã lột bỏ mặt nạ của một ảo tưởng chính trị mà chúng ta che giấu hàng chục năm qua". Thượng nghị sĩ Mác Cathi (Eugene McCarthy) (bang Minnesota) thì cho rằng: "Cuộc tổng tiến công đã chứng minh các báo cáo trước đây của chính quyền là sản phẩm của sự tự lừa dối". Không chỉ dừng lại ở những lời cáo buộc đơn lẻ, sau đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Thượng nghị sĩ Phunbrai (J. William Fulbright) thuộc Đảng Dân chủ (bang Arkansas) còn tổ chức phiên điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ. Tại cuộc điều trần này, 113 thượng nghị sĩ đã ký vào bản kiến nghị yêu cầu Tổng thống cung cấp đầy đủ các thông tin về quá trình điều hành chiến tranh. Mặc dù không mang lại kết quả như mong muốn, nhưng cuộc điều trần cùng sự phản ứng của các thượng nghị sĩ Mỹ một lần nữa cho thấy, bất đồng giữa Tổng thống với nhiều chính khách; giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ đã đến lúc khó có thể dung hòa. Để tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng chính trị sau sự kiện Mậu Thân, cuối tháng 3-1968, Tổng thống Giônxơn đã phải triệu tập gấp cuộc họp cố vấn cấp cao không chính thức mà ông gọi là các nhà thông thái (Wise Men). Trong cuộc họp này, ngoại trừ một số người vắng mặt, Tổng thống đã tham vấn tới 10/14 thành viên, trong đó có cả Din Achixơn (Dean Acheson) - nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Henri Cabốt Lốt (Henry Cabot Lodge) - nguyên Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, Mác Giócgiơ Bănđi (McGeorge Bundy) - nguyên Cố vấn an ninh quốc gia, và các vị tướng về hưu như Ôma Brétli (Omar Bradley), Mátthiu Rítoây (Matthew Ridgway) và M. Taylo (Maxwell Taylor), v.v.. Tuy nhiên, khác với những gì Tổng thống mong đợi, nếu như trong cuộc họp hồi tháng 11-1967, phần lớn các thành viên đều ủng hộ chính sách leo thang của Tổng thống, thì trong cuộc họp lần này, đa số họ đều khẳng định: đã đến lúc nước Mỹ nên chấm dứt leo thang chiến tranh và rút quân về nước; và rằng, nếu tiếp tục tăng quân tới Việt Nam thì nước Mỹ cũng phải mất 10 hay 15 năm nữa mới đánh bại được cộng sản. Kết thúc cuộc họp, mặc dù Tổng thống Giônxơn bị sốc bởi ý kiến đảo ngược của các nhà thông thái, nhưng ông cũng nhận ra rằng, phản ứng của họ là khách quan, là xu hướng không thể đảo ngược của cuộc chiến; và rằng, lời khuyên của họ đã nói lên tất cả những gì người dân muốn nói.

Mâu thuẫn trong chính trường Mỹ sau sự kiện Mậu Thân 1968 không chỉ dừng lại ở những "lời qua tiếng lại" hoặc sự bất tín của người dân Mỹ, mà còn ở các quyết sách liên quan đến cuộc chiến sau đó. Ngay sau khi Mậu Thân nổ ra, tướng Uylơ (Wheeler) - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, tướng Oétmolen (Westmoreland) - Tư lệnh Bộ Chỉ huy Cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV) và Đô đốc Sáp (Sharp) - Tư lệnh Bộ Tư lệnh quân Mỹ trên chiến trường Thái Bình Dương đã tìm cách thuyết phục Tổng thống mở rộng Chiến dịch Sấm Rền đánh phá miền Bắc, tăng thêm 206.000 quân tới miền Nam Việt Nam nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường, củng cố tinh thần binh lính và làm chỗ dựa cho chính quyền và quân đội Sài Gòn. Mặc dù chịu sức ép từ giới quân sự, nhưng do lo ngại sự phản đối của Quốc hội và nhân dân Mỹ cũng như ảnh hưởng đến kết quả bầu cử Tổng thống sắp tới nên Tổng thống Giônxơn phản ứng một cách hết sức dè dặt. Ngày 9-2-1968, sau khi nhận được đề nghị tăng quân từ Oétmolen, Tổng thống triệu tập gấp cuộc họp với sự tham gia của Uylơ, Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara, Cờlác Cờlípphớt và một số quan chức cao cấp khác. Ngay khi bước vào cuộc họp, Tổng thống đã đưa ra câu hỏi: Vì sao Oétmolen yêu cầu tăng quân?. Các đại biểu đã đưa ra nhiều lập luận khác nhau nhưng hầu hết các lập luận đó chưa thuyết phục được Tổng thống. Trong bối cảnh đó, ngày 28-2, Tổng thống tiếp tục chỉ định Nhóm đặc biệt do Cờlác Cờlípphớt - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong tương lai đứng đầu thành lập Ủy ban xem xét đề nghị tăng quân của MACV. Thực hiện chỉ đạo của Tổng thống, ngày 4-3, Ủy ban trình Tổng thống bản báo cáo, trong đó khẳng định: dù Mỹ có tăng thêm quân thì Bắc Việt Nam cũng dễ dàng vô hiệu hóa. Không những vậy, nếu Mỹ tiếp tục tăng quân vào Việt Nam thì tổn thất và cái giá phải trả cho chiến tranh càng lớn. Việc tăng quân cũng sẽ khiến chia rẽ chính trị trong nước càng thêm sâu sắc.

Ngay sau khi nhận được báo cáo, bản thân Tổng thống cũng cảm thấy bất ngờ vì trước đó Cờlác Cờlípphớt đã có lần tuyên bố: nếu thay Mắc Namara làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, ông sẽ ủng hộ cho việc mở rộng chiến tranh cả ở miền Bắc lẫn miền Nam Việt Nam, đặc biệt là vấn đề tăng quân. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi nhậm chức, ông đã có quan điểm trái ngược và nghiêng về xu hướng xuống thang chiến tranh. Nhiều nhà bình luận quân sự lúc đó cho rằng, sở dĩ Cờlípphớt thay đổi quan điểm là vì ông đã bị ảnh hưởng bởi các quan chức dân sự trong Bộ Quốc phòng, trong đó có cựu Bộ trưởng Mắc Namara; Thứ trưởng Pôn Nít (Paul Nitze) và trợ lý Bộ trưởng phụ trách vấn đề quốc tế Pôn Uânki (Paul Warnke)...

Mâu thuẫn trong chính trường Mỹ sau sự kiện Mậu Thân 1968 được bộc lộ rõ nét nhất trong các kỳ họp Quốc hội Mỹ. Sau sự kiện đó, Đảng Cộng hòa liên tiếp lên tiếng buộc tội Tổng thống Giônxơn và các đảng viên Đảng Dân chủ "non tay với cộng sản", thực hiện chính sách "nửa vời" và không theo đuổi đến cùng các mục tiêu quân sự đã đề ra khiến Nam Việt Nam rơi vào tình trạng như hiện nay. Nhiều nghị sĩ Cộng hòa trong cả hai viện của Quốc hội còn lớn tiếng yêu cầu Tổng thống phải lập tức gỡ bỏ tất cả hạn chế của Chiến dịch Sấm Rền, mở rộng leo thang đánh phá miền Bắc bằng tất cả các phương tiện có thể nhằm làm suy sụp ý chí của Hà Nội, đồng thời tăng quân vào miền Nam để chặn đứng thế "thượng phong" của cộng sản. Trái ngược với Đảng Cộng hòa, Đảng Dân chủ coi sự kiện Mậu Thân là hệ quả tất yếu của những suy tính chiến lược vô căn cứ. Theo họ, trong suốt hơn một thập kỷ qua, do thái độ "diều hâu" của Đảng Cộng hòa cùng với sự nhu nhược của các đời tổng thống nên nước Mỹ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội dàn xếp cuộc chiến tranh tại Việt Nam bằng giải pháp hòa bình. Trong các phiên họp thường kỳ và bất thường của Quốc hội, nhiều đảng viên Đảng Dân chủ vẫn công khai tuyên bố chống chiến tranh; thúc giục Tổng thống Giônxơn chấm dứt ném bom miền Bắc và tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Nhiều thượng nghị sĩ còn buộc tội cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã làm đảo lộn toàn bộ thành quả mà nước Mỹ đã đạt được từ hàng trăm năm trước đó, thậm chí còn đi ngược với lợi ích và đạo lý nước Mỹ. Một số thống đốc bang thuộc Đảng Dân chủ còn yêu cầu Tổng thống phải sớm xin lỗi nhân dân Việt Nam... Trước những phản ứng trái chiều của hai đảng trong Quốc hội sau sự kiện Mậu Thân 1968, Tổng thống Giônxơn đã gán cho họ cái tên "những người theo chủ nghĩa bè phái"; hoặc hành động của họ là sự phản bội; là ý đồ làm cho chiếc ghế Tổng thống của ông bị lung lay, v.v..

Bất đồng trong chính trường Mỹ sau sự kiện Mậu Thân 1968 được phản ánh rõ nét nhất trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1968. Trong cuộc bầu cử này, do hậu quả của cuộc chiến tranh cùng sự phản đối của công chúng và nhiều chính khách Mỹ, Tổng thống Giônxơn đã buộc phải tuyên bố không tái tranh cử nhiệm kỳ hai. Sau khi Tổng thống Giônxơn tuyên bố ý định từ chức, Phó Tổng thống Hămphri (Humphrey) trở thành ứng cử viên số một của nước Mỹ. Mặc dù trong thâm tâm ông vẫn muốn theo đuổi chính sách của Tổng thống Kennơđi, nhưng ông cũng không muốn làm rạn nứt mối quan hệ với Tổng thống Giônxơn. Vì vậy, sự lựa chọn giữa theo đuổi và phản đối chiến tranh luôn là vấn đề khiến Hămphờrây gặp rất nhiều khó khăn trên con đường tranh cử. Tại đại hội Đảng Dân chủ diễn ra tại Chicago vào tháng 8-1968, sự rạn nứt trong nội bộ đảng về vấn đề chiến tranh Việt Nam cũng diễn ra hết sức gay gắt. Trong khi Hămphờrây đề nghị ngừng ném bom và chấm dứt việc tăng quân tới Việt Nam thì nhiều thành viên khác, trong đó có cả Tổng thống Giônxơn lại phản đối quyết liệt đề nghị đó. Một tuần trước khi diễn ra bầu cử, Hămphờrây chính thức kêu gọi chấm dứt ném bom và dần rút quân Mỹ khỏi Việt Nam, đồng thời tiến hành đàm phán với Bắc Việt Nam. Sự phản ứng quyết liệt của Hămphờrây đã khiến ông thất bại trong cuộc bầu cử với số phiếu chỉ kém Risác Milơhaus Níchxơn (Richard Milhous Nixon) chưa đầy 1%. Nhiều nhà sử học sau đó cho rằng, vì Hămphờrây quyết tâm vứt bỏ ám ảnh của sự kiện Mậu Thân và vượt ra khỏi vòng cương tỏa của Giônxơn về cuộc chiến tranh Việt Nam nên ông đã hoàn toàn thất bại trong cuộc bầu cử Tổng thống.

Đánh giá về sự kiện Mậu Thân nói chung, tác động của nó tới chính trường Mỹ nói riêng, nhiều nhà quan sát, kể cả giới nghiên cứu và các nhà sử học cho rằng, "Tết" là một thất bại trong chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Cho đến thời điểm trước khi xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nước Mỹ đã đổ không ít tiền của và sinh mạng vào cuộc chiến. Tính đến giữa năm 1967, bình quân hằng năm Mỹ đã chi phí cho cuộc chiến tại Việt Nam hơn 20 tỉ USD. Đến giữa năm 1968, số binh lính Mỹ có mặt tại Việt Nam đã lên tới 540.000 quân. Chi phí và tổn thất của quân đội Mỹ đã tác động lớn đến mọi mặt đời sống xã hội của Mỹ. Và cho đến khi sự kiện Tết Mậu Thân kết thúc, nhân dân Mỹ mới thực sự thấy rằng, mọi chi phí cho chiến tranh đã trở nên vô nghĩa, nó không thể đảm bảo cho một chiến thắng tại Việt Nam. Và cũng chính điều đó đã khiến không ít người Mỹ cả trong và ngoài Chính phủ đều đặt câu hỏi: nên chăng nước Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược đã đề ra tại Việt Nam.

Lý giải cho những thất bại của Mỹ trong sự kiện Mậu Thân năm 1968, nhiều chiến lược gia quân sự Mỹ còn chỉ ra rằng, trong suốt thời gian trước năm 1968, phần lớn các báo cáo của Chính phủ và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đều khẳng định, cuộc chiến tại Việt Nam đã đi đúng hướng và đang gần tới đích. Vì các báo cáo đó mà các đời tổng thống đã không tiếc tiền của để đổ vào cuộc chiến Việt Nam. Đến cuối năm 1967, tướng Oétmolen đã có trong tay gần 485.000 quân, và ông từng tuyên bố, cuộc chiến tại Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Lực lượng cộng sản về cơ bản đã bị đánh bại, mọi chi viện của Bắc Việt Nam cho Nam Việt Nam chỉ như muối đổ biển. Và khi Tết Mậu Thân nổ ra, với ưu thế về lực lượng và hỏa lực, lẽ ra đây chính là cơ hội để Oétmolen đưa cuộc chiến tranh đi đến đích. Thế nhưng, mọi việc đã diễn ra theo chiều hướng ngược lại. "Mậu Thân" đã không trở thành hy vọng, trái lại nó đã trở thành cú sốc làm cho lòng tin của nhân dân Mỹ đối với cuộc chiến giảm sút đến mức thấp nhất. Trong cuốn Quân đội và Việt Nam, tác giả Anđriu F Crepinevích (Andrew F. Krepinevich) viết: thất bại của quân Mỹ trong Tết Mậu Thân cùng với những đề nghị tăng quân tới Việt Nam của Oétmolen là bằng chứng về sự thất bại về chiến lược của Mỹ tại Việt Nam . Đồng điệu với quan điểm của Anđơriu F Cờrepinevích, nhà sử học Hơbớt Y. Skenlơ (Herbert Y. Schandler) cho rằng: Tết Mậu Thân là bước ngoặt buộc Tổng thống Giônxơn phải nhìn lại chiến lược của mình. Thất bại trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân buộc Tổng thống phải khước từ tranh cử, từ bỏ quan điểm "diều hâu" để rồi quay lại với chiến lược "chống nổi dậy" thay vì theo đuổi chiến lược chiến tranh leo thang. Mặc dù Tết Mậu Thân không làm thay đổi bản chất chiến tranh, nhưng nó đã buộc các nhà hoạch định chiến lược cả ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc phải đánh giá lại chính sách, chấp nhận rút quân khỏi Việt Nam, ngồi vào bàn đàm phán để tìm giải pháp hòa bình cho cuộc chiến tại Việt Nam.

Như vậy, có thể khẳng định, Tết Mậu Thân 1968 đã tác động toàn diện đến chính trường nước Mỹ. Sau sự kiện đó, Nội các Nhà Trắng thì lúng túng về chiến lược tiến hành chiến tranh; phong trào phản chiến lan rộng trong cả nước; chính giới Mỹ bị phân hóa, chia rẽ sâu sắc. Phái chủ hòa trong Quốc hội và chính quyền mạnh lên; phái chủ chiến dần yếu thế. Đó là thất bại, là bước ngoặt trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Đó cũng là điều kiện để quân và dân ta tiến lên thực hiện trọn vẹn ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 10:01:52 am
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
ẢNH HƯỞNG QUỐC TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO



TS. LÊ ĐỨC HOÀNG
Ban Tuyên giáo Trung ương


Trong chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thách thức lớn nhất, ác liệt nhất nhưng cũng là điểm nhấn bước ngoặt đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của cách mạng miền Nam, làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ảnh hưởng sâu rộng, "gây chấn động dữ dội dư luận không chỉ ở nước Mỹ mà trên toàn thế giới". Đặc biệt, nó tác động trực tiếp đến suy nghĩ và hành động của giới quan chức, quân sự Mỹ, đưa nước Mỹ vào tình trạng "khủng hoảng niềm tin" sau Tết Mậu Thân 1968, buộc đế quốc Mỹ phải điều chỉnh một số chính sách trong quan hệ quốc tế.

Nhà bình luận Mỹ B. Ríchuây ví cuộc tấn công Tết Mậu Thân với trận Oatéclô năm 1815; có người lại so sánh với sự bất ngờ của trận Trân Châu Cảng năm 1941. Nhà báo Mỹ D. Obơđophơ (người chứng kiến những ngày Tết Mậu Thân) viết trong tác phẩm Tết: "Tầm quan trọng đầy đủ về Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 đang nằm ngoài tầm nhận thức của chúng ta" và "đây là một sự kiện có tính chất bước ngoặt lớn của thời đại chúng ta". Nhà sử học Mỹ G. Côncô nêu trong tác phẩm Giải phẫu một cuộc chiến tranh (xuất bản năm 1985): "Với Mậu Thân 1968, Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh ngoài nước đầu tiên của Mỹ kể từ năm 1882, gây ra cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một cuộc phân hóa về chính trị". Còn cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là M. Taylo thì cho biết: sự kiện ngày 31-1-1968 và những trận tiến công của Quân giải phóng Việt Nam được báo chí Mỹ tường thuật dưới dạng những hàng tít lớn chiếu trên màn ảnh vô tuyến truyền hình làm cho phần lớn dân chúng Mỹ và một số quan chức Mỹ kinh hoàng, phải rất lâu họ mới "hoàn hồn" và trong một số trường hợp, sự "hoàn hồn" đó không bao giờ được khôi phục trở lại. Nhưng bất ngờ thực sự của cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968 không phải là việc đối phương mở cuộc tiến công lớn mà là mở một lúc nhiều trận tiến công mãnh liệt. Ngay cả những người từng ủng hộ chính sách chiến tranh của Tổng thống B. Giônxơn cũng thừa nhận: "Cuộc tiến công Tết 1968 cho thấy số 50 vạn quân Mỹ là vô cùng thiếu, không thể nào đánh đuổi và khuất phục nổi Việt cộng". Ngày 26-3-1968, nhóm cố vấn cấp cao của Tổng thống Mỹ đưa ra lời cảnh báo: "Mỹ buộc phải bắt đầu có biện pháp rút lui". Sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara từ chức ngày 29-2-1968, người thay thế là Clípphớt cũng cho rằng, cuộc chiến ở Việt Nam "như một cái thùng không đáy" và "dù Mỹ có gửi bao nhiêu quân sang thì đối phương vẫn có thể đáp trả".

Báo chí, truyền thông ở Mỹ, kể cả giới quân sự, chính trị và một số học giả Mỹ mất nhiều công sức để lý giải về ảnh hưởng, sự bí mật, bất ngờ của sự kiện Tết Mậu Thân. Báo chí tô đậm sự kiện này và sự phản ứng không đúng lúc của giới quân sự Mỹ cùng phong trào phản đối chiến tranh bùng lên dữ dội trong lòng nước Mỹ. Bởi vậy, từ năm 1968, "Tết" là một phong tục cổ truyền ở Việt Nam (và một số nước châu Á) đã trở thành danh từ riêng mang những ý nghĩa khác nhau trong ký ức người Mỹ, nhất là đối với những người trực tiếp tham chiến. Tại thời điểm bị tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân 1968 và sau đó, "Tết" trở thành nỗi bàng hoàng đối với nhiều lãnh đạo cấp cao của Mỹ. Sự kiện Tết Mậu Thân đã cho Mỹ một cú "choáng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến; đưa cảnh tượng chiến tranh vào mỗi gia đình Mỹ, vào Quốc hội Mỹ; làm cho người dân nhận thức được câu chuyện "chiến thắng" ở Việt Nam mà Lầu Năm Góc tung tin đều là giả dối.
 
Trong "cơn ác mộng" sau Mậu Thân, tình hình nước Mỹ trở nên hỗn loạn chưa từng có trong lịch sử. Nhân dân Mỹ ở khắp nơi dấy lên phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, biểu tình đòi chính quyền Mỹ rút quân đội về nước. Ngọn lửa phản chiến bùng lên dữ dội hơn bao giờ hết, trở thành một cuộc đối đầu giữa chính quyền và nhân dân Mỹ ở ngay trong lòng nước Mỹ. Những cuộc biểu tình của người dân Mỹ tại Xan Phranxixcô bang Caliphoócnia, của sinh viên Trường Đại học Kent State tại bang Ôhaiô cho thấy sự căng thẳng tột độ. Lực lượng vệ binh quốc gia xả súng vào sinh viên trong khuôn viên trường đại học khiến bốn sinh viên thiệt mạng và chín người khác bị thương. Một cựu phóng viên tờ Tin tức Washington kể rằng: Cuộc tấn công Mậu Thân cho người dân Mỹ thấy một sự thật là cuộc chiến này không có chiều hướng dịu đi, người ta bắt đầu chú ý nhiều đến nó. Những người Mỹ tình nguyện đi lính bắt đầu phản đối chiến tranh, kể cả với người đang ở Việt Nam. Họ viết thư về nhà, công khai phản đối chiến tranh. Vậy là sự dịch chuyển, thay đổi thái độ sang phản đối chiến tranh cứ lớn dần, lớn dần lên. Sau Tết Mậu Thân 1968, Đích Huchơx (Dick Hughes), diễn viên Mỹ, là một trong số 16 triệu thanh niên Mỹ đã đốt thẻ và chống lệnh quân dịch (phải đối mặt với án tù 5 năm) kể về ám ảnh của Mậu Thân 1968: Cuộc chiến tranh này luôn ám ảnh trong tâm trí tôi. Trên tivi, chúng tôi luôn nhìn thấy những trận đánh, những xác người chết và những gì đang diễn ra thật khủng khiếp tại Việt Nam. Tôi quyết định mình phải làm một điều gì đó cho Việt Nam. Và tôi đã đến Việt Nam làm công tác xã hội. Trong bối cảnh đó, Hạ viện Mỹ ra quyết định đòi rút hết quân đội Mỹ về nước trong thời gian sớm nhất, còn Tổng thống R. Níchxơn phải đưa ra lời hứa sẽ chấm dứt chiến tranh trong vòng 6 tháng và sẽ có những thay đổi trong chính sách đối nội, đội ngoại.

Trên phạm vi toàn cầu, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã tác động, làm phá sản chiến lược quân sự "phản ứng linh hoạt" của Mỹ, làm cho những người cầm quyền, kể cả giới quân sự Mỹ phải thừa nhận Mỹ có thể bị thua trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Năm 1969, R. Níchxơn lên làm Tổng thống trong hoàn cảnh khó khăn, đen tối chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Sự thất bại nặng nề liên tiếp ở Việt Nam và nhiều nơi khác làm cho lực lượng và địa vị của Mỹ bị suy giảm nghiêm trọng. Trước tình thế đó, R. Níchxơn phải đưa ra học thuyết mới nhằm điều chỉnh lại "chiến lược" để tiếp tục mưu đồ bá chủ thế giới, giữ vững vị trí, quyền lợi của mình. Trong đó, chủ trương "sẵn sàng thương lượng" nếu thấy có lợi cho Mỹ và nhằm chia rẽ, khiêu khích các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng thế giới. Có thể nói, "học thuyết Níchxơn" ra đời là một bước lùi và biểu hiện của thế bị động so với "chủ nghĩa Truman" và "chiến lược Kennơđi". R. Níchxơn đề ra chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", muốn thương lượng với Việt Nam nhưng trên thế mạnh và với điều kiện có lợi cho Mỹ . "Học thuyết Níchxơn" đưa ra sau Tết Mậu Thân không còn trong thế "trả đũa ồ ạt" như hơn 10 năm về trước mà thiên về "thuyết phục", "thương lượng hòa bình", "chia sẻ trách nhiệm cho đồng minh" trong các vấn đề quốc tế. Hệ thống báo chí nhiều nước vào cuộc sôi động khiến những thông tin về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 lan tỏa nhanh chóng khắp thế giới. Nhân loại tiến bộ càng chăm chú theo dõi diễn biến cuộc chiến, bày tỏ khâm phục ý chí giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Phong trào ủng hộ nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mỹ phát triển mạnh mẽ.

Tờ Tin tức Washington, ngày 31-1-1968, viết: Các cuộc tiến công ồ ạt, táo bạo của cộng sản ngày 31-1 vào Sài Gòn, 8 tỉnh lỵ và 30 thị trấn nhỏ là một điều đáng kinh ngạc. Cảnh sát quân sự Mỹ đã phải đáp máy bay lên thẳng xuống nóc Tòa Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong khói đạn để giành lại tòa nhà được coi là "chống du kích" nhưng lại bị cộng sản chiếm trong 6 giờ liền. Chỉ riêng cảnh tượng đó cũng đủ để buộc chính quyền Giônxơn phải dẹp bỏ những nhận định lạc quan được coi là không có giá trị của mình". Thời báo New York, số ra ngày 1-2-1968, bình luận: Cuộc tiến công của đối phương vào cả Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cho thấy thêm những bằng chứng đau xót về sức mạnh có hạn của Mỹ ở châu Á. Đây rõ ràng không phải là hành động của một đối thủ đang yếu dần như các nhà quân sự Mỹ đã khẳng định hồi tháng 11-1967. Hãng thông tấn Reuters của Anh, ngày 3-2-1968, khẳng định: Quy mô và tính chất ác liệt của các trận tấn công phối hợp ở Sài Gòn và ở các trung tâm chủ chốt khác tại miền Nam Việt Nam làm cho Mỹ và các nước đồng minh hết sức bất ngờ. Ngày 5-2-1968, Hãng này đưa ra thống kê: Mỹ có đến nửa triệu quân ở Nam Việt Nam, mất 13 năm và tiêu mỗi ngày 60 triệu đôla mà vẫn không bảo vệ được một tấc đất vuông nào ở miền Nam Việt Nam. Tờ Le Monde (Thế giới) của Pháp, ngày 1-2-1968, mỉa mai: Người Mỹ từng khẳng định dân chúng miền Nam Việt Nam phải chịu đựng hơn là ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, giờ đây liệu họ còn có thể nêu lên những lý lẽ như thế nữa không sau khi xảy ra cuộc biểu dương đáng khâm phục về sức mạnh và lòng dũng cảm của Việt cộng như vậy. Còn tờ Le Figaro của Pháp, ngày 2-2-1968, đã ca ngợi: Cuộc tiến công lừng danh của Việt cộng cho ta thấy sự tài tình của những người chỉ huy trong điều hành cuộc chiến tranh vừa mang tính quân sự vừa mang tính chính trị này. Về mặt đối nội, họ đã có một chiến thắng lớn; họ chứng tỏ cho nhân dân Việt Nam thấy rằng họ có thể đánh bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào.

Nhiều báo của các đảng cộng sản và công nhân ở các nước tư bản đều bày tỏ thái độ khâm phục đối với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta qua sự kiện Tết. Báo Nhân đạo (cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp), ngày 1-2-1968, ca ngợi: Đây là cuộc tiến công lớn nhất của các lực lượng vũ trang giải phóng. Những người yêu nước miền Nam Việt Nam đã chứng tỏ rằng ở khắp nơi, quyền chủ động đang thuộc về họ, họ có thể quyết định địa điểm, thời gian của các cuộc tiến công làm cho Bộ Chỉ huy Mỹ luôn luôn mệt mỏi. Các nước trong khối xã hội chủ nghĩa khi đó đã bày tỏ niềm hân hoan trước chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Hầu hết báo chí các nước xã hội chủ nghĩa trong hai ngày 31-1-1968 và ngày 1-2-1968 đều có bài ca ngợi thắng lợi của Việt Nam. Trong đó, tờ Diễn đàn nhân dân Ba Lan có đoạn viết: "Các trận đánh táo bạo được chuẩn bị tốt của những người yêu nước miền Nam Việt Nam là sự phát triển của các cuộc tiến công trên quy mô rộng lớn mà Quân giải phóng đã mở đầu trong tháng 1 năm nay vào những lúc, ở những nơi và với hình thức mà họ lựa chọn. Quân giải phóng trên thực tế đã trói chân, khóa tay tất cả các lực lượng chiến đấu của quân thù trong khắp các tỉnh".

Rõ ràng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ tác động đến chính sách của Mỹ mà còn ảnh hưởng lớn đến dư luận quốc tế, đến tình cảm của những người ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Khi nhận định về tác động của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, nếu không có Mậu Thân 1968 thì sẽ không có đàm phán Pari, dẫn đến ký kết hiệp định đình chiến vào năm 1973 và đi đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào Xuân 1975. Thực ra, từ rất sớm, chúng ta đã xác định vị trí, vai trò của mặt trận ngoại giao và nhấn mạnh cần phải có phương pháp, hình thức đấu tranh thích hợp, "phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta", "làm cho nó tan rã thực sự, buộc nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta", mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm", phù hợp với truyền thống quân sự Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Đảng, chúng ta tích cực, chủ động đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh ngoại giao song song với đấu tranh quân sự và chính trị. Chúng ta xác định rõ: Nếu chính quyền Mỹ chịu sức ép ngày càng tăng ở trong nước và trên thế giới, đã nhiều lần toan mở đường đi vào thương lượng thì Việt Nam cũng đang trong hoàn cảnh phức tạp, phải tính toán sao cho vừa giữ được độc lập, chủ quyền, vừa tranh thủ được tối đa sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Trong khi đó, do đánh giá cao sức mạnh của Mỹ, Liên Xô đã tìm cách hướng Việt Nam đi vào thương lượng với Mỹ khi điều kiện chưa chín muồi. Tính từ năm 1965-1968, Liên Xô đã 24 lần truyền đạt ý kiến của Mỹ cho phía Việt Nam về đàm phán. Trong khi Trung Quốc lại muốn thuyết phục Việt Nam kiên trì đường lối trường kỳ đánh Mỹ.

Vì thế, một mặt, chúng ta vẫn ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc; mặt khác, vẫn kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ. Từ cuối năm 1966 đầu 1967, Ðảng ta đã chủ trương tạo điều kiện mở ra cục diện "vừa đánh vừa đàm", nghĩa là không ngả theo gợi ý cụ thể của Liên Xô cũng như Trung Quốc. Đường lối của Đảng chỉ rõ: "Ðể đánh bại kẻ thù hết sức ngoan cố và xảo quyệt là đế quốc Mỹ xâm lược, ta phải giữ vững quyết tâm cao độ, nắm vững phương châm chiến lược, đồng thời phải biết cách đánh thắng địch, vận dụng sách lược khôn khéo, giành thắng lợi từng bước". Ðiều đó giải thích vì sao nếu như từ năm 1966 trở về trước, lập trường của phía Việt Nam là yêu cầu Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt mọi hành động chống phá miền Bắc trước khi có bất cứ cuộc nói chuyện nào giữa hai bên, thì từ Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Ðảng ta mềm dẻo hơn trong sách lược, bắt đầu chủ trương hé mở khả năng phía Việt Nam sẽ đi vào đàm phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, chứ chưa bao gồm điều kiện Mỹ phải rút hết quân ra khỏi miền Nam như trước đây yêu cầu.

Thế nhưng, phía Mỹ vẫn kiên quyết đòi "có đi có lại", đưa ra điều kiện buộc ta phải công khai cam kết không lợi dụng việc Mỹ ngừng ném bom để chi viện cho miền Nam. Trong thư của Tổng thống Mỹ Giônxơn gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1967 đã thể hiện rõ sự ngoan cố của Mỹ. Nội dung thư đại ý là người Mỹ nhiều lần chuyển đến Chính phủ Hồ Chí Minh mong muốn hòa bình bằng những kênh khác nhau nhưng không đạt kết quả nào và đề nghị chấm dứt cuộc xung đột tại Việt Nam để không tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Mỹ. Tổng thống Mỹ cam kết sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và ngừng tăng thêm quân tại miền Nam Việt Nam ngay khi miền Bắc chấm dứt đưa quân vào miền Nam. Hai bên cùng kiềm chế leo thang chiến tranh để đối thoại song phương một cách nghiêm túc hướng đến hòa bình. Việc tiếp xúc có thể diễn ra ở Mátxcơva, Miến Điện hay bất cứ nơi nào mà Bắc Việt Nam muốn.

Chúng ta muốn hòa bình, muốn đàm phán nhưng chỉ có thể đàm phán ở thế mạnh, áp đảo về quân sự mới có thể giành được những mục tiêu chiến lược. Vì vậy, sự kiện Mậu Thân 1968 được xem là đòn chiến lược, tạo sức ép lớn đối với Mỹ trên mặt trận ngoại giao. Sự kiện này đã phơi bày toàn bộ quá trình thất bại của Mỹ trên chiến trường cả về quân sự và chính trị; làm lộ rõ những sai lầm về chiến lược cũng như cách thức điều hành chiến tranh của giới lãnh đạo, tướng lĩnh Mỹ trên chiến trường; ảnh hưởng nghiêm trọng tới chiến lược toàn cầu mà Mỹ theo đuổi từ lâu. Hơn thế nữa, cho dù Mỹ là một nước lớn, chưa từng bại trận trong lịch sử của mình, nhưng sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đã gây nên chấn động dữ dội giữa lòng nước Mỹ, khiến đông đảo các tầng lớp xã hội Mỹ, kể cả quan chức cấp cao, các nghị sĩ, nhiều tập đoàn tài phiệt đầy thế lực phải thay đổi quan điểm, không còn hậu thuẫn cho chính sách chiến tranh của chính quyền Giônxơn nữa. Tất cả điều đó buộc Tổng thống Giônxơn phải công khai tuyên bố đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; quyết định rút dần quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Thất bại liên tiếp về quân sự cộng thêm ảnh hưởng của dư luận quốc tế sau sự kiện Xuân Mậu Thân 1968, cũng như sức ép của phong trào đấu tranh đòi hòa bình, phản đối chiến tranh cùng với các yếu tố khác đã tác động lớn đến thái độ của Mỹ và diễn biến hoạt động ngoại giao của các bên. Một mặt, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, mặt khác, phải chấp nhận đàm phán với ta. Bởi lẽ, đấu tranh ngoại giao là một trong ba mặt trận đấu tranh của ta nhưng Đảng ta xác định "chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường" , "đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa", "đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao".

Ngày 13-5-1968, cuộc thương lượng chính thức hai bên - đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kỳ, họp phiên đầu tiên tại Thủ đô Pari của nước Pháp.

Trong gần 5 năm (từ ngày 13-5-1968 đến ngày 27-1-1973), với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, cuộc đàm phán Pari đã mở ra cục diện "vừa đánh vừa đàm", phản ánh một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gay go, quyết liệt giữa Việt Nam và Mỹ. Đây cũng là đỉnh cao của sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao; giữa cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế.

Ngày 8-6-1969, Tổng thống R. Níchxơn tuyên bố rút quân đợt đầu tiên gồm 25 nghìn quân ra khỏi miền Nam Việt Nam thì ngày 10-6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pari trở thành đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, do bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao làm Trưởng đoàn. Ngày 4-8-1969, tiến sĩ Kítxinhgiơ, cố vấn An ninh Quốc gia, đã bí mật gặp Bộ trưởng Xuân Thủy lần đầu ở Pari. Ngày 25-8-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời thư của Tổng thống Mỹ Níchxơn, trong đó nêu rõ: "Ngài bày tỏ lòng mong muốn hành động cho một nền hòa bình công bằng. Muốn vậy, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và của dân tộc Việt Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài. Đó là cách đúng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam phù hợp với quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam, với lợi ích của nước Mỹ và nguyện vọng hòa bình của nhân dân thế giới. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự" . Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức ký kết.

Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ảnh hưởng to lớn đến quốc tế và hoạt động ngoại giao, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pari, chấm dứt ném bom không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hóa" chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 25 Tháng Bảy, 2020, 10:12:04 am
NHỮNG TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH NĂM 1967 -
BƯỚC TẠO ĐÀ QUAN TRỌNG CHO MẬU THÂN 1968



Thượng tá, ThS. PHÙNG THỊ HOAN
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


1. Vào thời điểm cuối năm 1966, sau những thất bại liên tiếp từ mùa khô 1965-1966 đến mùa mưa năm 1966 trên chiến trường miền Nam và trong cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc, giới cầm quyền Mỹ ngày càng tỏ ra lúng túng. Tình hình miền Nam lúc đó, như Mắc Namara - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - đánh giá, là "một bức tranh ảm đạm, đau đớn đến tột cùng". CIA cho rằng, đánh giá của Mắc Namara là sâu sắc và giống với đánh giá của họ, nhưng Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân thì "phản ứng mạnh mẽ". Tổng thống Mỹ L.B Giôn xơn đã nghiêng về quan điểm của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và quyết định tiếp tục tăng quân, cố giành thắng lợi có tính chất quyết định trong năm 1967, đồng thời tăng cường các hoạt động ngoại giao để đánh lạc hướng dư luận thế giới.

Ý đồ của Mỹ trong năm 1967 là mở các trận đánh lớn để giành thắng lợi về quân sự trên chiến trường, tạo ra bước ngoặt cho cuộc chiến, tiến tới giành những thắng lợi quyết định, nhanh chóng kết thúc "vấn đề chiến tranh Việt Nam". Về chiến lược, địch không phân tán lực lượng đánh trên nhiều hướng mà tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, đồng thời chú trọng đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế ta ở hướng Tây Nguyên, Trị - Thiên. Cụ thể là, ưu tiên tập trung lực lượng tiến công vào hệ thống căn cứ của ta ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy; trọng điểm là chiến khu Dương Minh Châu, tiêu diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực của ta kết hợp với việc mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn.

Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên, những tháng cuối năm 1966 và đầu năm 1967, Mỹ đưa thêm vào chiến trường miền Nam hai sư đoàn bộ binh (số 4 và số 9), nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên 389.000 người vào cuối tháng12-1966.

Bước vào mùa khô năm 1966-1967, cùng với 54.000 quân đội các nước đồng minh Mỹ và hơn nửa triệu quân đội Sài Gòn, Mỹ đã có trong tay 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn, trung đoàn bộ binh và binh chủng. Ngoài ra, Mỹ còn huy động thêm lực lượng yểm trợ tác chiến gồm hai tập đoàn không quân và lực lượng hải quân của nước Mỹ. Đi đôi với tăng quân, ngân sách quân sự của Mỹ năm tài khóa 1966-1967 cũng tăng lên ở mức cao nhất từ trước cho tới lúc này, trong đó cho chiến tranh Việt Nam khoảng 38 tỉ USD. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung gấp 1,5 lần so với mùa khô 1965-1966, đến tháng 5-1967 là 4.300 máy bay; 2.500 chiếc xe tăng, thiết giáp, 2.540 khẩu pháo...

Về tổ chức và bố trí lực lượng, các đơn vị quân Mỹ được tổ chức thành lực lượng cơ động chiến lược binh chủng hợp thành mạnh, tập trung hoạt động tiến công tìm diệt chủ lực ta. Quân chủ lực Sài Gòn cùng với một bộ phận quân Mỹ và quân đồng minh Mỹ càn quét vòng trong phối hợp với các "đội bình định" dồn dân, lập ấp chiến lược.

Để hỗ trợ cho các hoạt động quân sự lớn trong năm 1967, đế quốc Mỹ tăng cường đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc, tập trung đánh phá hệ thống kho nhiên liệu, cầu cống, căn cứ quân sự, hòng làm kiệt quệ tiềm lực kháng chiến của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam và làm lung lay ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của Đảng và nhân dân ta; qua đó cứu vãn những thất bại về quân sự từ khi quân Mỹ và quân đồng minh đổ bộ vào chiến trường miền Nam Việt Nam, giải quyết nhanh chóng "vấn đề chiến tranh Việt Nam" đang bắt đầu gây nhức nhối trong lòng nước Mỹ.

Từ cuối năm 1966, Mỹ đã mở các cuộc hành quân lớn như cuộc hành quân Attleboro trên địa bàn Tây Ninh (Đông Nam Bộ) 1 và cuộc hành quân Pon Rivers ở khu vực Sa Thầy (Tây Nguyên) 2, nhưng cả hai cuộc hành quân đều thất bại, không đạt mục tiêu đề ra.

Nhằm cứu vãn thất bại, bước sang năm 1967, quân Mỹ, quân đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn liên tiếp mở hàng loạt các cuộc hành quân "tìm diệt" các căn cứ kháng chiến và chủ lực ta. Tại khu vực Tây Nguyên, địch mở cuộc hành quân Sam Houston và Francis Marion (tháng 1 đến 4-1967), cuộc hành quân Mc Acthur (11-1967); cuộc hành quân Liên kết 81 (từ 17-2 đến 23-3-1967) ở Khu 5; cuộc hành quân Phi Long, cuộc càn Sóng Thần 5 (1-1967) ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Riêng khu vực Đông Nam Bộ là nơi quân đội Mỹ, quân đội Sài Gòn tập trung lực lượng lớn nhất để tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và các đơn vị chủ lực ta, mở hai cuộc hành quân lớn là Xiđaphôn và Gianxơnxiti vào đầu năm 1967 đánh vào căn cứ chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Chiến khu Dương Minh Châu của Trung ương Cục.

2. Về phía ta, trước những động thái của địch, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1967) đã phân tích, đánh giá tình hình, dự báo khả năng địch sẽ đánh lớn trong năm 1967. Hội nghị xác định năm 1967 là năm hết sức quan trọng đối với ta; phải tập trung mọi nỗ lực đánh bại các hoạt động quân sự của địch, giữ vững thế chủ động tiến công, tạo điều kiện quan trọng tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa và tiến công địch về ngoại giao. Đồng thời chỉ rõ: "đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao...".

Thực hiện chủ trương của Đảng, từ những ngày đầu tiên của năm 1967, quân và dân trên toàn miền Nam đã hừng hực khí thế chủ động tiến công, quyết tâm làm thất bại mọi âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ. Tại miền Đông Nam Bộ, trong tháng 1-1967, quân và dân Bến Súc, Củ Chi, Bến Cát đã chặn đánh, đẩy lùi cuộc hành quân Xiđaphôn. Với chiến thắng oanh liệt này, ta không những đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực của quân Mỹ mà còn làm thất bại ý đồ của địch dùng quân đông và vũ khí hiện đại để tìm diệt chủ lực ta, triệt phá vùng căn cứ cách mạng, đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Việc đánh bại cuộc hành quân Xiđaphôn một lần nữa khẳng định khả năng to lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống chiến tranh hiện đại của đế quốc Mỹ.

Mặc dù bị thất bại liên tiếp trong các cuộc hành quân tìm diệt lớn trên chiến trường miền Đông Nam Bộ và các nơi khác, nhưng đế quốc Mỹ vẫn không chịu từ bỏ ý đồ đã xác định. Vì vậy, từ ngày 22-2 đến 15-4-1967, địch mở cuộc hành quân quy mô lớn mang tên Gianxơnxiti, tập trung lực lượng lên tới 45.000 quân và trên 1.000 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm khẩu pháo các loại cùng nhiều máy bay, đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Mục tiêu của cuộc hành quân là phá hủy căn cứ; tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến; tìm diệt một bộ phận chủ lực ta; tạo lá chắn yểm trợ cho quân đội Sài Gòn tiến hành bình định; giành một thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định, tạo ra bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chung có lợi cho chúng.

Trong khi đó, lực lượng ta ở đây chỉ có Sư đoàn 9, được tăng cường Trung đoàn 16 với các lực lượng khác, tổng số chưa đến 10.000 người. Đây quả là một thử thách lớn đối với quân và dân Tây Ninh cũng như cả miền Đông Nam Bộ. Trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu của ta, địch, đặc biệt từ kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Attơnborơ, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền đã quyết định mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơnxiti; buộc Mỹ ngày 15-4-1967 phải tuyên bố chấm dứt cuộc hành quân này. Đây là thất bại lớn nhất của quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam tính đến thời điểm đó. Thất bại của quân Mỹ trong cuộc hành quân Gianxơnxiti không chỉ ở chỗ chúng không thực hiện được các mục tiêu đã đề ra và sự thiệt hại lớn về lực lượng quân Mỹ, về binh khí, kỹ thuật, phương tiện chiến tranh hiện đại bị phá hủy, mà điều quan trọng hơn, đó là sự bế tắc về chiến thuật, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam. Với thất bại này, về cơ bản, "gọng kìm tìm diệt" của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy.

Cùng với thắng lợi của quân dân ta ở Tây Ninh, trong sáu tháng đầu năm 1967, trên khắp các chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang ta tiến công địch liên tục và đều khắp, đặc biệt ở các khu vực địa bàn chiến lược, các căn cứ quân Mỹ. Ở miền Đông Nam Bộ, lực lượng vũ trang Quân khu Sài Gòn - Gia Định mở cuộc tiến công sân bay Tân Sơn Nhất, cụm quân dã chiến Mỹ ở Củ Chi, căn cứ hậu cần quân Mỹ ở Long Bình (Đồng Nai), sân bay Phú Lợi (Thủ Dầu Một)... Trên khắp chiến trường từ Quảng Trị - Thừa Thiên đến Khu 5 - Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta liên tục tiến công và nổi dậy, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Các cuộc tiến công địch với quy mô vừa và nhỏ trên khắp ba vùng chiến lược đã dồn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn vào thế bị động lúng túng hơn.

Nhằm chống lại âm mưu mới của địch tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương chớp lấy thời cơ Mỹ đang lúng túng, mở đợt hoạt động quân sự Thu - Đông 1967, đánh bồi vào quân Mỹ, quân đồng minh của Mỹ, phá sự chuẩn bị cho mùa khô của địch, đẩy chúng bị động hơn nữa, tạo thế, tạo lực và tạo thời cơ để tiến lên mở cuộc tiến công và nổi dậy quy mô lớn, nhằm giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, từ ngày 27-10 đến ngày 5-12-1967, Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch tiến công địch ở địa bàn hai tỉnh Bình Long và Phước Long nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, thu hút giam chân Sư đoàn 1 Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng ta triển khai áp sát phía Tây Bắc Sài Gòn, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh giành quyền làm chủ, mở rộng vùng căn cứ của ta. Thắng lợi trong chiến dịch Bình Long - Phước Long chứng tỏ ta có khả năng mở chiến dịch dài ngày, thu hút giam chân một bộ phận lớn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho các hướng chiến lược khác.

Trong khi Chiến dịch Bình Long - Phước Long đang diễn ra thì lực lượng vũ trang Tây Nguyên mở Chiến dịch Đắk Tô 1 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ, bức địch phải điều lực lượng cơ động lên Tây Nguyên để sơ hở các chiến trường khác; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng Quân đoàn 2 quân đội Sài Gòn; đẩy mạnh chiến tranh du kích...

Chiến thắng Đắk Tô mùa khô 1967 cùng với chiến thắng Bình Long - Phước Long và các chiến trường khác, đã buộc quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn phải co dần vào thế phòng ngự chiến lược, giữ các thành phố, căn cứ lớn quan trọng.

3. Với những hoạt động quân sự như trên cho thấy, năm 1967 được cả Mỹ và ta chọn là năm thực hiện các nỗ lực quân sự cao nhất nhằm đánh bại đối phương. Tuy nhiên, mục tiêu chiến lược của hai bên là khác nhau. Về phía Mỹ, mục tiêu khi vạch kế hoạch "Kỷ nguyên các trận đánh lớn năm 1967" là nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, chủ lực Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Với lực lượng quân đông (lên tới 480.000 quân Mỹ vào tháng 12-1967), phương tiện, vũ khí hiện đại, chính quyền Giônxơn hy vọng sẽ nhanh chóng giành thắng lợi, "chấm dứt chiến tranh Việt Nam" trong năm 1967.

Về phía ta, việc mở các trận đánh lớn vừa với sức ta năm 1967 là nhằm đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch, giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng, tạo điều kiện và thời cơ cho các đợt hoạt động lớn, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Đồng thời, qua đó kiểm nghiệm khả năng của bộ đội chủ lực đánh lớn, đánh dài ngày và đánh vào sào huyệt kẻ địch.
 
Sau các cuộc đọ sức quyết liệt giữa các lực lượng cách mạng miền Nam với quân viễn chinh Mỹ trong năm 1967, địch đã "thất bại một bước cơ bản" trong chiến lược "chiến tranh cục bộ", kế hoạch "Kỷ nguyên các trận đánh lớn năm 1967" đã bị phá sản hoàn toàn. 50 năm sau, các học giả Mỹ đã phải thừa nhận: "dù được thực hiện trên quy mô và cường độ lớn, kế hoạch "kỷ nguyên các trận đánh lớn" đã không thể thay đổi được cục diện của cuộc chiến. Nhờ tuân thủ nguyên tắc không bao giờ để cho các đơn vị lớn giao tranh với các đơn vị lớn của Mỹ, Việt cộng và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bảo toàn được các đơn vị của mình về mặt tổ chức để chuẩn bị cho các trận chiến tiếp theo. "Kỷ nguyên các trận đánh lớn" đã từng được kỳ vọng là sẽ giúp Mỹ giành được thế tấn công, nhưng 70% các cuộc giao tranh lại do phía Việt cộng và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở đầu. Những người cộng sản đã chiến đấu theo cách riêng của mình, lựa chọn đánh khi nào, ở đâu, trong bao lâu, nhờ đó mà giành được chiến thắng cuối cùng".

Rõ ràng là, những thất bại về quân sự trên chiến trường miền Nam trong năm 1967 đã đẩy tất cả lực lượng Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn từ chuẩn bị phản công để giành quyền chủ động chiến trường, phải quay về phòng ngự bị động chống đỡ trên cả hai hướng chính: xung quanh Sài Gòn - Gia Định và Trị - Thiên. Đế quốc Mỹ lại bị động về chiến lược và chiến dịch, phải đảo lộn kế hoạch quân sự và thế bố trí lực lượng trên toàn chiến trường. Điều này càng tạo ra những sơ hở trong thế phòng ngự bị động và làm cho mâu thuẫn giữa phân tán với tập trung trong chiến lược phòng giữ và tiến công của địch phát triển. Quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đã bộc lộ thế suy yếu của mình. Thất bại của quân Mỹ và thắng lợi của ta trong năm 1967 chính là bước tạo đà quan trọng để quân và dân ta tiến lên Tổng tiến công và nổi dậy thắng lợi trong Xuân Mậu Thân 1968.




---------------------------------------------------------------
1. Đây là cuộc hành binh mở đầu cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh Chiến khu Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm triệt phá căn cứ, tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và một bộ phận chủ lực Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

2. Cuộc hành binh phản kích của Sư đoàn bộ binh 4 Mỹ nhằm ngăn chặn hoạt động tiến công của lực lượng chủ lực ta ở khu vực Sa Thầy (Kon Tum).

3. Thất bại thảm hại trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, địch dự định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba từ tháng 12-1967 đến tháng 4-1968, tiếp tục tiến công vào Chiến khu C, D. Địch gọi đó là "cuộc tiến công ngăn ngừa ở tỉnh Phước Long".


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 26 Tháng Bảy, 2020, 10:49:10 am
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG PHÚ YÊN



Đại tá PHAN ANH KHOA
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Yên


Là một tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 5 và Tây Nguyên do Trung ương trực tiếp chỉ đạo, Phú Yên cùng với Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum đã tích cực chuẩn bị tham gia Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở tất các thành phố, thị xã, tỉnh lỵ, quận lỵ, thị trấn, các cơ quan đầu não, các trung tâm kinh tế, chính trị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

 Theo kế hoạch tổng công kích của Quân khu: "Ở Phú Yên, Trung đoàn 10 đánh cắt Đường số 1 ở khu vực đèo Cù Mông tạo thế chia cắt giữa Bình Định và Phú Yên, ngăn không cho quân địch từ Phú Yên theo Đường số 1 ra phản kích vào lực lượng khởi nghĩa tại Quy Nhơn. Nhiệm vụ giải phóng thị xã Tuy Hòa do lực lượng địa phương và nhân dân kết hợp công kích và khởi nghĩa để giải quyết". Quân khu xác định nhiệm vụ của chiến trường Phú Yên là: làm tan rã quân đội Sài Gòn tại chỗ, diệt một bộ phận quân Nam Triều Tiên, thu hút và kiềm chế một phần quân Mỹ, đánh phá, cắt giao thông Bắc Nam và lên Tây Nguyên, không cho địch tiếp ứng ra Quy Nhơn. Tại trọng điểm thị xã Tuy Hòa, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng tại chỗ và từ nông thôn vào để tiêu diệt địch, giành chính quyền về tay nhân dân.

Trên chiến trường Phú Yên, tính đến tháng 1-1968, binh lực của Mỹ và quân đội Sài Gòn có Lữ đoàn dù 173 gồm 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh. Căn cứ Lữ đoàn dù Mỹ ở Hòa Hiệp, Tuy Hòa 1. Ngày 18-1-1968, Lữ đoàn dù chấm dứt càn ở Sơn Hòa rút xuống chốt dọc khu vực Gò Sân, Giếng Ga, Gò Choẹ, Bằng Gia Lạnh. Lính Nam Triều Tiên có Trung đoàn 28 thuộc Sư đoàn "Bạch Mã", hậu cứ ở Tân Hải, đóng quân từ Núi Hùng vào Tuy Hòa 1. Trung đoàn 26 thuộc Sư đoàn "Mãnh Hổ", hậu cứ ở Đồng Đò, đóng quân từ Hòa Đa, Đồng Xuân, Sông Cầu. Có 1 tiểu đoàn pháo binh của Mỹ, 2 tiểu đoàn pháo binh của Nam Triều Tiên. Quân đội Sài Gòn có Trung đoàn 47 (gồm 4 tiểu đoàn), 25 đại đội bảo an, 8 đại đội biệt kích, 24 trung đội biệt kích, 54 tổng đoàn dân vệ; ngoài ra còn có 2 đại đội cảnh sát, 2 đại đội cảnh sát dã chiến, 10 khẩu pháo 105 ly của các quận và 4 khẩu pháo 175 ly đặt ở Xuân Phước - Đồng Xuân và Củng Sơn - Sơn Hòa.

Lực lượng vũ trang ta ở chiến trường Phú Yên đến tháng 1-1968 có Trung đoàn 10 (Ngô Quyền), Tiểu đoàn 14 đặc công, hai đơn vị này thuộc Phân khu Nam. Lực lượng vũ trang tỉnh có Tiểu đoàn bộ binh 85; 2 đại đội đặc công (201 và 202), Đại đội trợ chiến 167, Đại đội Công binh 50, 1 đại đội trinh sát, Đại đội Thông tin 18, Đại đội Vận tải 23. Các huyện Tuy Hòa 1, Tuy Hòa 2, Tuy An, Sông Cầu, mỗi huyện có 1 đại đội bộ binh, 1 trung đội đặc công, 1 tiểu đội thông tin, 1 tiểu đội công binh, 1 tiểu đội cối 60 ly. Riêng các huyện Sơn Hòa, Đồng Xuân có trung đội bộ binh và các tiểu đội chuyên môn.

Như vậy, về bộ binh, địch đông hơn ta gấp nhiều lần. Chúng còn có ưu thế tuyệt đối về phi pháo và xe tăng, thiết giáp, lại phòng thủ trong các công sự kiên cố ở các đô thị và căn cứ ở đồng bằng ven biển. Đó là những khó khăn lớn cho ta trong tổng tiến công và nổi dậy.

Ngày 20-1-1968, Đảng ủy A9 1 và Tỉnh ủy Phú Yên họp kiểm tra công tác chuẩn bị và bàn kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, vạch ra phương hướng: Tập trung lực lượng vào hướng trọng điểm thị xã Tuy Hòa, tiêu diệt bằng được một số mục tiêu quan trọng, kết hợp nổi dậy của quần chúng trong và ngoài thị xã, thực hiện công kích, khởi nghĩa giải phóng thị xã. Sau khi có chủ trương của Tỉnh ủy, các đơn vị, địa phương tích cực chuẩn bị bổ sung quân số, đạn dược, lương thực, thực phẩm. Các cơ sở ven thị xã và trong nội thị được củng cố và phát triển, may cờ Tổ quốc, cờ Giải phóng chờ ngày "cách mạng" về phát cho quần chúng treo, mang theo xuống đường biểu dương lực lượng. Những ngày giáp Tết Mậu Thân, các đơn vị tổ chức cho bộ đội ăn Tết trước. Sáng ngày 28-1, các đơn vị làm công tác tổ chức và hành quân tiếp cận thị xã. Đêm ngày 29-1, các đơn vị, cơ quan chỉ huy phía trước bí mật hành quân đến vị trí tập kết cuối cùng ở sườn núi phía tây xã Hòa Quang, sẵn sàng đợi lệnh xuất quân. Cán bộ Dân, Chính, Đảng nắm các lực lượng quần chúng ở vùng ven sẵn sàng tiến vào thị xã.

1. Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1 (tháng 1, 2-1968)

Tiến công và nổi dậy lần 1 (30-1-1968)

Vào lúc 0 giờ ngày 30-1-1968, quân địch ở thị xã Tuy Hòa, các căn cứ vùng ven và các huyện bắn súng và đốt pháo đón giao thừa. Lợi dụng pháo sáng địch, quân ta nhanh chóng áp sát mục tiêu. Đúng 0 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, lực lượng vũ trang của ta nổ súng tiến công vào nhiều vị trí, cơ quan đầu não của địch trong thị xã Tuy Hòa và hàng chục chi khu, đồn, bốt của địch trên tất cả các huyện lỵ trong tỉnh. Đại đội Đặc công 202 dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Lê Trung Kiên tập kích Trung đoàn 47 quân đội Sài Gòn và khu cố vấn Mỹ, tiêu diệt 78 tên, làm chủ trận địa. Trung đội Quyết Thắng của thị xã Tuy Hòa tập kích Ty Cảnh sát Sài Gòn, diệt gần hết bọn địch, số ít địch sống sót bỏ chạy tán loạn, ta làm chủ trận địa.

3 giờ 30 phút ngày 30-1, Tiểu đoàn 12 dùng súng cối bắn dồn dập vào sân bay Khu Chiến, phá hủy một số máy bay và các phương tiện chiến tranh khác. Sau khi bị đánh phủ đầu, địch điều động một số xe M113 dồn về góc đông sân bay tổ chức phản kích. Lúc này trời đã sáng, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn quyết định đưa đơn vị về đứng chân ở xóm Đạo, Khu nhà 18 gian, trụ lại đánh địch ban ngày. Cùng lúc, Tiểu đoàn nhận được thông báo của Mặt trận A9 cho biết: Tiểu đoàn 85 bị quân Mỹ chặn, không tiến công được vào thị xã theo phương án hợp đồng. Tiểu đoàn 14 sau khi tập kích Phú Lâm cũng đã lui quân. Ban Chỉ huy và cán bộ Tiểu đoàn 12 nhận định tình hình sẽ rất khó khăn do các đơn vị bạn không phối hợp tác chiến được, nên địch sẽ tập trung lực lượng để phản kích vào khu vực chiếm lĩnh của tiểu đoàn.

Trưa ngày 30-1, Mỹ dùng máy bay trực thăng đưa 1 tiểu đoàn của Lữ đoàn 173 Mỹ về tăng cường cho quân ngụy tiến công vào xóm Đạo. Các đợt tiến công này của địch đều bị Tiểu đoàn 12 bẻ gãy, tiêu diệt nhiều tên địch. Đến 13 giờ 30 phút ngày 30-1, địch lại dùng máy bay thả bom napan trúng Sở chỉ huy, đồng chí Hùng - Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Bán - Chính trị viên Tiểu đoàn - đều hy sinh; đồng chí Xuy - Phó Chính ủy Trung đoàn 10 - đi chỉ huy trực tiếp bị thương nặng. Với quyết tâm cao và lòng căm thù giặc sâu sắc, thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn 12 kiên quyết đánh địch, giữ vững trận địa. Đến 15 giờ ngày 30-1, địch dùng bom, pháo hủy diệt trận địa ta. Do địa hình khu vực trận địa chủ yếu là cát nên rất khó đào công sự, trong khi mật độ bom pháo của địch quá dày nên ta bị thương vong nặng. Chỉ huy Tiểu đoàn 12 động viên cán bộ, chiến sĩ quyết tâm giữ vững trận địa, chiến đấu tới người cuối cùng. 18 giờ cùng ngày, Tiểu đoàn tổ chức rút lui.

Qua một ngày chiến đấu, Tiểu đoàn 12 đã lập chiến công xuất sắc, tiêu diệt 290 tên địch, thu 4 trung liên, phá hủy 4 pháo 105 ly, 4 xe M113, 3 máy bay trinh sát L19, 3 lô cốt và 1 kho đạn.

 Cùng ngày, đồng loạt tất cả các quận lỵ tỉnh Phú Yên, quân địch đã bị các lực lượng vũ trang của ta tiến công tiêu diệt. Tại huyện Tuy An: Trung đội vũ trang huyện, du kích và đội công tác phối hợp đánh tan 1 trung đội bình định nông thôn ở sân xe quận Phú Tân; bao vây, bắn tỉa vào quận lỵ và đột nhập đánh địch ở các ấp Định Trung, Phong Hậu, Ngân Sơn, loại khỏi vòng chiến đấu 98 tên địch, phá hủy 3 xe quân sự. Lực lượng vũ trang và du kích huyện Sơn Hòa tiến công địch ở lô cốt sân bay, lô cốt Cây Đa, đánh địch ở ấp Bắc và xóm mới, diệt 30 tên địch. Trung đội vũ trang và du kích huyện Đồng Xuân đánh địch trong ấp Long Thăng, ấp Phước Lộc, khu dồn nam La Hai, phá 1 xe M113 trên đèo Đá Ong, loại khỏi vòng chiến đấu 116 tên địch. Lực lượng vũ trang huyện Sông Cầu tập kích tiêu diệt gọn 1 trung đội dân vệ ở Xuân Cảnh, giết và bắt 25 tên, thu 23 súng các loại. Huyện Tuy Hòa 1, từ đêm 30 rạng sáng ngày 31-1, Đội 7 Tiểu đoàn 430 cùng Đại đội đặc công 201, Đại đội 377 của huyện đội tập kích sân bay Đông Tác, sân bay trực thăng Thọ Lâm, Trung đoàn 28 "Bạch Mã" Nam Triều Tiên, quận lỵ Phú Lâm, trận địa pháo Nam Triều Tiên ở Hảo Sơn. Đội công binh liên tục chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch trên đường bắc Đèo Cả. Các lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa 1 đã loại khỏi vòng chiến đấu 481 tên địch, phá hủy 18 xe GMC, 8 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 30 máy bay các loại, đánh sập hàng chục lô cốt, phá hủy nhiều phương tiện thông tin của địch.

Tiến công và nổi dậy lần 2 (5-2-1968)

Chiều 31-1, tại Sở chỉ huy tiền phương (gộp Mòng Mòng, xã Hòa Quang), Thường vụ Phân khu ủy và Đảng ủy A9 họp đánh giá tình hình và quyết định tập trung lực lượng tiến công địch trong thị xã Tuy Hòa lần thứ hai theo lệnh động viên của Bộ Tư lệnh Quân khu. Thường vụ Tỉnh ủy phân công đồng chí Lương Công Huề - Bí thư Đảng ủy A9, cùng đồng chí Cao Long, Phó Tư lệnh Phân khu Nam trực tiếp chỉ đạo thực hiện phương án tác chiến.

Đại đội 202 đặc công và Trung đội Quyết Thắng thị xã Tuy Hòa tiến công Ty Cảnh sát lần thứ hai. Tiểu đoàn bộ binh 85 được tăng cường 1 trung đội của Tiểu đoàn 12 làm dự bị đột phá phía bắc xóm Chùa, sau đó phát triển đánh chiếm thị xã. Đêm mồng 4 rạng ngày 5-2, cuộc tiến công vào thị xã Tuy Hòa lần thứ hai bắt đầu. Đại đội 3 Tiểu đoàn 85 tiến vào đến Khu Hỏa xa thì gặp địch. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt, kéo dài gần 1 giờ đồng hồ, đại đội bảo an của địch bị đánh thiệt hại nặng nề, buộc phải rút lui. Đại đội 3 làm chủ khu vực nhà ga và tiến vào thị xã theo trục đường Nguyễn Huệ. Đại đội 2 trên đường phát triển vào thị xã diệt 1 trung đội địch, bảo vệ nhà máy điện và 1 tiểu đội bảo vệ trụ sở Đô Thành.

Trước lúc trời sáng, Tiểu đoàn 85 phát triển làm chủ khu phố Trần Hưng Đạo. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn quyết định tổ chức phòng ngự ở đây, được nhân dân che chắn, bao bọc giúp đỡ, cho ăn uống và cung cấp thông tin về địch để đơn vị tiếp tục chiến đấu. 7 giờ sáng ngày 5-2, địch dùng máy bay bắn rốc két vào đội hình phòng ngự của ta, tối 5-2, Tiểu đoàn rút khỏi thị xã. Kết quả, Tiểu đoàn 85 đã loại khỏi vòng chiến đấu 164 tên địch, tiêu diệt 3 lô cốt di động. Đây là lần đầu tiên, lực lượng vũ trang Phú Yên tiến công vào thị xã với quy mô tiểu đoàn; làm chủ một khu phố cả ngày, đánh bại các đợt phản kích của địch ngay tại sào huyệt của chúng.

2. Tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 (26-3-1968)

Theo Chỉ thị của Khu ủy, ngày 12-2-1968, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức hội nghị tại thôn Phong Cao (Sơn Hoà), nhằm sơ bộ đánh giá rút kinh nghiệm hai đợt tiến công đồng thời bàn chủ trương mở đợt tiến công thứ ba.

 Thường vụ Tỉnh ủy và đại diện Phân khu Nam đã đánh giá sâu sắc, phân tích cụ thể thế địch, thế ta và thắng lợi to lớn trên chiến trường. Tính chung trong đợt tổng tiến công và nổi dậy đầu tiên (từ 30-1 đến 5-2), các lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.114 quân địch, phá hủy 47 máy bay các loại, 26 xe quân sự, 5 xe M113 và M118, 10 khẩu pháo từ 105mm đến 155mm, thu gần 50 máy thông tin các loại.  

Thực hiện quyết tâm và phương án của Thường vụ Tỉnh ủy và Đảng ủy A9, đêm mồng 3 rạng ngày 4-3-1968, quân, dân toàn tỉnh tổ chức tiến công đợt 2 (T26) đánh vào thị xã Tuy Hòa và các quận lỵ, chi khu. Mục tiêu tiến công và nổi dậy là tập trung lực lượng, phương tiện với nỗ lực cao nhất để đánh chiếm thị xã Tuy Hòa, các quận lỵ, chi khu, diệt sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, làm cho địch đã hoang mang, dao động lại càng hoang mang dao động hơn; hỗ trợ quần chúng đứng lên phá ấp, trở về làng cũ.

Cũng vào thời điểm này, Tiểu đoàn 85 cùng Đại đội đặc công 202 trên đường tiến hành tiếp cận Trung đoàn 47 và Khu cố vấn Mỹ thì bị địch phát hiện nổ súng trước. Mặc dù trận chiến đấu gặp khó khăn từ phút đầu nhưng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 85 và Đại đội 202 vẫn kiên quyết tiến công.

Tiểu đoàn 12, Trung đoàn 10 phối hợp với Đại đội Quyết Thắng đánh vào Ty Cảnh sát, nhưng đến xóm Chùa (Ninh Tịnh) gặp địch, phải dừng lại triển khai đánh địch nên không vào được Ty Cảnh sát. Trận đánh tại xóm Chùa diễn ra rất ác liệt và kéo dài từ giữa đêm đến gần sáng. Trước tình hình Tiểu đoàn 85 và Tiểu đoàn 12 không tiêu diệt được các mục tiêu được giao và trận đánh đã kéo dài đến gần sáng, đồng chí Nguyễn Tất Liêu - Tỉnh đội trưởng, và đồng chí Đỗ Khánh Đáp - Chính trị viên phó Tỉnh đội, trực tiếp chỉ huy cánh quân quyết định: Trụ lại xóm Chùa (Ninh Tịnh) đánh địch phản kích ban ngày.

Từ 5 giờ sáng, bộ binh địch bắt đầu mở nhiều đợt tiến công vào xóm Chùa. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 85 và Tiểu đoàn 12 chiến đấu vô cùng dũng cảm. Có trung đội bị bom địch, thương vong chỉ còn một người vẫn tiếp tục chiến đấu, kiên quyết giữ vững trận địa.

Qua một ngày trụ đánh địch vô cùng ác liệt tại Ninh Tịnh, lực lượng ta bị tổn thất lớn. Các đồng chí chỉ huy Tỉnh đội (Tỉnh đội trưởng và Chính trị viên phó Tỉnh đội), chỉ huy An ninh tỉnh (Phó ban An ninh tỉnh và Trưởng ban Điệp báo và An ninh đô thị) đều hy sinh; lực lượng vệ binh, trinh sát và Đại đội bộ binh của Tiểu đoàn 12 bảo vệ Sở chỉ huy cũng bị thiệt hại nặng.  

Ngày 5-3, Tiểu đoàn 13, Trung đoàn 10 phục kích ở xóm Lẫm, xóm Bầu, xóm Ao, Long Tường, Phụng Tường (xã Hòa Trị) diệt gần 1 đại đội quân đội Sài Gòn, giết 50 tên, thu hàng chục súng các loại. Đêm 5-3, Tiểu đoàn 11 Trung đoàn 10 tập kích tiêu diệt Đại đội 3, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 47 quân đội Sài Gòn tại Phước Bình, giết 40 tên, bắt sống 1 tên địch, thu hàng chục súng, có 1 súng M79.

Phối hợp với hướng trọng điểm, từ đêm 3-3, Tiểu đoàn 14 cùng các lực lượng vũ trang Tuy Hòa 1 đồng loạt tiến công địch ở Phú Lâm, Phú Lương, Phú Hiệp; pháo kích vào sân bay Thọ Lâm, trận địa pháo cầu Cháy, trận địa pháo Trung đoàn 28 (Sư đoàn "Bạch Mã" Nam Triều Tiên).

Trong đêm mồng 4 sáng 5-3, các huyện Tuy Hòa 1, Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân, Sơn Hòa cũng đồng loạt nổ súng tiến công đánh vào các quận lỵ, chi khu, diệt nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, đưa dân trở về làng cũ. Nhiều nơi, chính quyền Sài Gòn cấp xã bỏ trốn, nhiều trung đội dân vệ tan rã.

Ở Tuy Hòa 2, du kích và đội công tác đột nhập đánh địch ở Hòa Kiến, Hòa Thắng. Du kích mật dùng lựu đạn, mìn hẹn giờ diệt 8 tên lính Nam Triều Tiên, 10 tên lính Sài Gòn, 4 tên ác ôn, thu 1 súng M79.

Phối hợp với phong trào đấu tranh vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị, binh địch vận cũng được đẩy mạnh. Trong đợt tiến công vào thị xã lần thứ ba (4-3-1968), phụ nữ các thôn dọc hành lang tiến quân ở các ấp Thanh, Minh Đức, Ngọc Phong, Phước Hậu, Liên Trì, Ninh Tịnh đã bảo đảm hàng ngàn vắt cơm, lương khô, nước uống tiếp tế cho bộ đội ta. Quần chúng nhân dân các thôn Liên Trì, Ninh Tịnh, Long Thủy, Xuân Dục tìm mọi cách che giấu, bảo vệ, nuôi dưỡng hàng trăm cán bộ, chiến sĩ bị thương, bị lạc đường, chăm sóc chu đáo, lần lượt dẫn đường đưa anh em về căn cứ an toàn.

Kiểm điểm chiến dịch T25, Hội nghị Đảng ủy A9 và Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên (16-3-1968) đã nghiêm túc rút ra những ưu, khuyết điểm trong chỉ đạo, chỉ huy, nêu lên những nguyên nhân đưa đến những khuyết điểm: "Về tổ chức thực hiện, chỉ đạo, chỉ huy còn phạm nhiều khuyết nhược điểm. Nhận thức về tổng công kích, tổng khởi nghĩa còn lệch lạc, chỉ dốc sức đánh vài ba ngày là xong, thiếu chuẩn bị mọi mặt và kiểm tra chu đáo, nắm và vận dụng các mối quan hệ chưa tốt, công tác chuẩn bị không bảo đảm để thực hiện quyết tâm...".

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, từ ngày 30-1 đến ngày 4-3-1968, quân và dân Phú Yên đánh 119 trận vào thị xã và hầu hết thị trấn, quận lỵ, chi khu, vào các tuyến phòng thủ, sân bay, kho tàng của Mỹ và quân đội Sài Gòn, tiêu diệt 1.952 tên địch, phá hủy và phá hỏng 11 khẩu pháo từ 105 - 155 ly, phá hủy 29 xe quân sự, 30 máy bay các loại, 4 kho nhiên liệu, 2 lần đánh hỏng đường ống dẫn dầu Vũng Rô - Đông Tác, làm cháy 5 triệu lít xăng, phá sập 29 lô cốt, tháp canh và nhiều đoạn đường giao thông quan trọng. Ta đã giác ngộ trên 500 thanh niên đưa ra vùng giải phóng tham gia lực lượng vũ trang. Bộ máy chính quyền Sài Gòn tan rã từng bộ phận. Thắng lợi Tết Mậu Thân trên chiến trường Phú Yên góp phần cùng toàn Miền tạo nên thế chiến lược mới; làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ.

Dù chưa đạt được tất cả những mục tiêu chiến lược đã đề ra, nhưng thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 là rất to lớn; Phú Yên đã phát huy được sức mạnh tổng hợp to lớn của quân và dân trong tỉnh, đã góp phần cùng quân và dân cả nước đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pari.
 




---------------------------------------------------------------
1. Do Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Phân khu Nam thành lập tháng 9-1967 để chỉ đạo chung lực lượng vũ trang Phú Yên cùng 2 tiểu đoàn 12, 13 của Trung đoàn 10.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 26 Tháng Bảy, 2020, 10:58:21 am
PHẦN THỨ BA
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ HIỆN THỰC



XÂY DỰNG Ý CHÍ QUYẾT CHIẾN, QUYẾT THẮNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ QUÂN ĐỘI
THEO TINH THẦN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng HỒ BÁ VINH
Phụ trách Cục trưởng Cục Tuyên huấn,
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện lớn, có ý nghĩa chiến lược, giáng đòn quyết định làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đi tới thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh, trí tuệ, khí phách của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; là nghệ thuật tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng "lấy nhỏ đánh lớn", "lấy ít địch nhiều". Đó là biểu tượng sáng ngời về tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng và về ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam.

Lịch sử chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đã cho thấy, chúng ta thường có hạn chế trong tương quan so sánh lực lượng, nhất là vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, nhưng nhờ ý chí quyết chiến, quyết thắng mà chúng ta giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược. Ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta được thể hiện ở tinh thần không sợ, không chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược; quyết đánh, biết đánh, biết thắng và quyết thắng kẻ thù; quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc.

Ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 bắt nguồn từ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; từ khát vọng độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc của toàn dân tộc; được hun đúc trong mấy chục năm dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng; ở việc quán triệt sâu sắc chủ trương tổng công kích và tổng khởi nghĩa mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14, khóa III (1-1968) đã đề ra: "Tập trung lực lượng quân sự và lực lượng chính trị đến mức cao nhất, một cách hợp lý nhất, tiến công mãnh liệt vào những hướng chiến lược chính; kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định; giành cho kỳ được thắng lợi ở những nơi quyết định, phải tuyệt đối giữ cho được nhân tố bất ngờ; phải biết giành thắng lợi từng giờ từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả và bẻ gãy các cuộc phản kích của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất".

Đối với lực lượng vũ trang nhân dân, ý chí quyết chiến, quyết thắng là kết quả của cả một quá trình liên tục tiến hành công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Nó được thể hiện ở trong những đoàn quân trùng trùng điệp điệp lên đường ra trận, đều mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc, với tinh thần "đạp lên đầu thù" mà xốc tới, khó khăn mấy cũng vượt qua, địch ngoan cố mấy cũng tiêu diệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ để đất nước hoàn toàn giải phóng, giang sơn gấm vóc thu về một mối, đồng bào Nam - Bắc sum họp một nhà. Luôn luôn sớm nhận thức và dự kiến đúng tình hình, nắm vững ý đồ chiến lược, quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương châm, phương thức, tư tưởng chỉ đạo tác chiến và cách đánh; chủ động, phát huy dân chủ quân sự và đi sâu giải quyết những nảy sinh, vướng mắc cụ thể để xây dựng lòng tin chiến thắng. Biết tận dụng thế chiến lược, nắm chắc thời cơ và có phương pháp tiến hành công tác tư tưởng sinh động, đúng lúc, kịp thời, ngắn gọn, hiệu quả. Kết hợp chặt chẽ giữa động viên và hướng dẫn hành động cụ thể, giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, nắm đúng và tập trung chủ yếu vào cấp ủy, cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì. Coi trọng giáo dục phát huy truyền thống, đẩy mạnh hoạt động thi đua, tập trung giải quyết thắng lợi trận then chốt, tạo đà cho sự phát triển tư tưởng tích cực tiến công, phát huy tác dụng của các lực lượng tiên tiến... Nhờ vậy, chúng ta đã xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có ý chí, quyết tâm chiến đấu cao, sự chỉ huy linh hoạt sáng tạo, có năng lực hành động giỏi, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, có cách đánh đột kích mạnh, tiến công nhanh, giành thế áp đảo, tạo nên một sức mạnh phi thường nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của địch, lập nên chiến công kỳ diệu, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, đáp ứng yêu cầu chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục: "... tinh thần phấn đấu cách mạng phi thường ngoài sức ước lượng của con người bình thường"  và tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng "Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước" . Nhờ đó, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã tổng tiến công vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự của địch, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân địch, trong đó có 4 vạn quân Mỹ, 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1,4 triệu dân.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa bên cạnh những thuận lợi, còn không ít những khó khăn, phức tạp. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường... vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức mới. Trong nước, các thế lực thù địch tập trung chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội ta bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và "phi chính trị hóa" quân đội. Sự chống phá đó diễn ra trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh,... hòng làm suy yếu và tiến tới lật đổ chế độ ta. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là việc làm cần thiết, là trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ quân đội, đặc biệt là của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ trì; đòi hỏi tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", chú trọng xây dựng tiềm lực kinh tế - quốc phòng vững mạnh.

Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn ngay từ khi Đảng ra đời. Sự lựa chọn đó đã hội tụ đầy đủ các nhân tố khách quan, chủ quan, hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và thời đại. Xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu đó luôn được Đảng ta kiên định, thống nhất không chỉ trong nội dung của cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng để bảo đảm định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" mà cả trong thực tiễn cách mạng.

Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập thực sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch và gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính nhờ sự kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng đã lãnh đạo dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên ý chí quyết chiến, quyết thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trở thành động lực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, hơn bao giờ hết, chúng ta phải nắm chắc quy luật và truyền thống "dựng nước đi đôi với giữ nước" của dân tộc, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, hết sức sáng tạo trong chỉ đạo thực tiễn cách mạng, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn" . Từ đó, cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng và niềm tin, sức mạnh của nhân dân vào chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố, tăng cường, sẽ tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để hơn trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta luôn xác định, xây dựng tiềm lực kinh tế, quốc phòng đất nước vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, là tiền đề vững chắc cho sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: "Kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất" ; "Xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng; xây dựng phải gắn với bảo vệ, bảo vệ phải nhằm mục đích xây dựng và phát triển tốt hơn; bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng, làm cho mình mạnh lên" . Vị thế và uy tín của dân tộc Việt Nam đã được tạo dựng bằng ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách kiên cường, bất khuất và bản lĩnh văn hóa của dân tộc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và bằng chính những thành tựu to lớn của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch trong chiến tranh cũng như trong hòa bình, xây dựng, phát triển đất nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã khẳng định sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc, của nhân dân ở các địa phương: nhân dân đã che chở cho hàng chục sư đoàn từ rừng sâu xuống đồng bằng, vào thành phố; tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô, cất giấu và cứu thương, tải thương khi chiến sự xảy ra, xây dựng phong trào "hũ gạo nuôi quân"; các huyện đều lập thành đội cung cấp để huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ cuộc kháng chiến. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương; các gia đình đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí... Xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của nhân dân chính là yếu tố phát huy cao độ ý chí quyết chiến, quyết thắng, tạo nên thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, làm cho kẻ thù kinh hoàng, khiếp sợ.

Để phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, phải chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, ý thức tự lực, tự cường; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, phong cách; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng cường mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc.

Cùng với đó, cần tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Xây dựng, củng cố đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động làm ly tán lòng dân, phá hoại thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc.

Tiếp tục chăm lo hơn nữa việc xây dựng sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nâng cao nhận thức trong Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân đối với quốc phòng, phát triển chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc lên tầm cao mới cả về quy mô, tính chất. Các cấp, các ngành phải nhạy bén, sáng tạo, thường xuyên nắm chắc tình hình, xử lý tốt những tình huống phức tạp xảy ra, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tạo môi trường hòa bình, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ ba, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng toàn diện và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là cơ sở quan trọng để phát huy nhân tố chính trị, tinh thần, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong điều kiện mới. Đây là vấn đề được đặt lên hàng đầu, bảo đảm cho quân đội trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc. Muốn vậy, phải làm cho sức mạnh chính trị, tinh thần của quân đội trở thành sức mạnh chủ yếu, trực tiếp; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó Hải quân, Phòng không - Không quân, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện tử, Trinh sát kỹ thuật và Cảnh sát biển tiến thẳng lên hiện đại" .

Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo các nội dung, biểu hiện của ý chí quyết chiến, quyết thắng là luôn tăng cường và phát triển hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân đội; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân với tinh thần dám đánh và biết đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội trên cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng trung thành, bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân.

Đặc biệt, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội và các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nhằm đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án "Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong tình hình mới", gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, và thực hiện tốt phong trào Thi đua Quyết thắng cùng các cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ". Thông qua các hoạt động thực tiễn để củng cố, rèn luyện ý chí quyết chiến, quyết thắng. Đó là kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với rèn luyện kỷ luật, xây dựng nếp sống chính quy; làm tốt công tác vận động quần chúng, chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; tích cực tham gia lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống khu dân cư trên địa bàn đóng quân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Thứ tư, tích cực nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng vững mạnh.

Một trong những thành tố để tạo nên ý chí quyết chiến, quyết thắng là xây dựng, huấn luyện và chuẩn bị kỹ cho con người về kỹ thuật, chiến thuật, trang bị vật chất để bảo đảm cho thắng lợi.

Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ, có ảnh hưởng trực tiếp đến quốc phòng, an ninh cả về vũ khí trang bị kỹ thuật; phương thức chỉ huy, điều hành tác chiến và tác chiến trực tiếp trên chiến trường; công tác huấn luyện, đào tạo cho đến việc thay đổi tổ chức, biên chế của quân đội cho phù hợp với hệ thống vũ khí khí tài và nghệ thuật tác chiến. Quán triệt quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng và bám sát những phát triển mới trong lĩnh vực khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự trên thế giới để giải quyết đúng đắn, sáng tạo các vấn đề khoa học nghệ thuật quân sự, kỹ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân là đòi hỏi và cũng là công việc mà quân đội ta đã, đang và sẽ tiếp tục giải quyết. Trong tình hình hiện nay, cần nghiên cứu và hiểu rõ đặc điểm của chiến tranh vũ khí công nghệ cao, nhất là phải nghiên cứu kỹ về phương thức, thủ đoạn tác chiến, vũ khí trang bị mà đối tượng tác chiến sẽ sử dụng trong chiến tranh xâm lược. Tích cực đổi mới công tác nghiên cứu khoa học quân sự, công nghệ quân sự theo hướng thiết thực, phục vụ trực tiếp cho công tác chỉ đạo, tổ chức, xây dựng, huấn luyện, nền nếp chính quy. Xây dựng nền quốc phòng từng bước phù hợp với nền công nghiệp của đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để giải quyết một phần nhu cầu về quốc phòng và kinh tế thời bình, sẵn sàng chuyển sang thời chiến...

Kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống, nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và hiện thực của sự kiện lớn này trong bối cảnh mới của cách mạng. Trên cơ sở đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tiếp tục phát huy tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng cùng những bài học kinh nghiệm từ chiến thắng lịch sử đó, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
 


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 26 Tháng Bảy, 2020, 11:15:34 am
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 - TỪ CÁCH NHÌN ĐA CHIỀU



Thiếu tướng, PGS.TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Nghiên cứu các công trình, bài viết, bài nói của các bậc tiền bối lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có thể thấy một mẫu số chung là, tất cả đều khẳng định đây là "thắng lợi rất to lớn", đã tạo nên "bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ"; mặt khác cũng thể hiện sự trăn trở với nhiều câu hỏi chưa có lời giải hoặc chưa được giải trình một cách thấu đáo.

Đọc mảng sách nước ngoài, cũng thấy rõ nhiều vấn đề còn nhận thức khác nhau giữa các tác giả; trong đó, bên cạnh những cách nhìn khách quan về cuộc chiến ở Việt Nam vẫn còn có những quan điểm khác biệt lớn. Với nguồn thông tin, tư liệu khác nhau, phương pháp tiếp cận, thậm chí động cơ nghiên cứu khác nhau, thì kết quả nghiên cứu khác nhau là điều bình thường. Chúng tôi xin góp bàn thêm đôi chỗ về những dị biệt trên.

Về bối cảnh trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (1946), thông qua việc giới thiệu binh thư cổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền thụ tri thức và kinh nghiệm quân sự cho quân và dân ta. Người viết, muốn thắng đối phương, "... phải biết mình, biết người".

Vậy, trước và trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tình hình được đánh giá như thế nào?

Năm 1965, khi quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam, Quân giải phóng đã chủ động đánh một số trận thăm dò khả năng thực tế của quân Mỹ nhằm tìm ra cách đánh phù hợp. Những trận Núi Thành (5-1965), Vạn Tường (8-1965), Pleime (11-1965) đã bước đầu ló dạng cách đánh hiệu quả của ta. Từ thực tiễn kháng chiến ở hai miền Nam - Bắc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12, khóa III (12-1965), trên cơ sở quán triệt phương châm đánh lâu dài và căn cứ tình hình cụ thể, đã định hướng "phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam", trên cơ sở đó, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Mùa khô 1965-1966, đối phương mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, nhằm "tìm diệt" chủ lực Quân giải phóng, giành lại quyền chủ động chiến trường. Tuy nhiên, cả gọng kìm "tìm diệt" và gọng kìm "bình định" những vùng nông thôn trọng điểm đều thất bại, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải kết thúc sớm cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất.

Mùa khô 1966-1967, Mỹ huy động lực lượng vượt trội hơn nhiều so với hai năm trước, mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Cùng với mục tiêu "tìm diệt", chương trình bình định được Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đặt kỳ vọng hơn so với đợt trước. Giới cầm quyền Mỹ hy vọng, nỗ lực quân sự lớn, kết hợp với các thủ đoạn chính trị, ngoại giao, họ sẽ giành thắng lợi, làm chuyển biến cục diện chiến trường vào nửa cuối năm 1967, giành lợi thế trong năm bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Trước tình hình trên, Bộ Chỉ huy Miền đã tổ chức lực lượng cán bộ, nhân viên cơ quan dân, chính, đảng nắm chắc địa hình, bố trí ở những yếu địa bám đánh địch tại chỗ; quân chủ lực tập trung đánh những trận tiêu diệt quân Mỹ. Cùng lúc, tại các địa bàn chiến lược khác như đồng bằng sông Cửu Long, Khu 5, Tây Nguyên và Trị - Thiên, các cố gắng trong cuộc phản công của quân Mỹ đều thất bại, tướng Oétmolen buộc phải tuyên bố chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mùa khô 1966-1967, mục tiêu đề ra không đạt được.

Tuy nhiên, tài liệu của Mỹ viết: "Cuối năm 1967, quân đội Mỹ đã cảm thấy chiến thắng trong tầm tay, các báo cáo gửi về Washington mô tả chi tiết những thất bại hằng ngày của cộng sản... các chiến dịch tìm và diệt cho mùa khô đã đẩy lùi các chiến binh vào sâu trong rừng và kẹt ở đó". Ở góc độ khác, cuộc phản công mùa khô lần thứ hai thất bại, Mc Naughton, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, trong Bị vong lục gửi Mắc Namara, viết: xuất hiện "tình trạng phân cực ngày một tăng đang xảy ra trên nước Mỹ với những mầm mống của sự chia rẽ tệ hại nhất trong nhân dân Mỹ kể từ hơn một thế kỷ nay" . Nghiêm trọng hơn, sự phân hóa diễn ra ngay trong giới chóp bu điều hành chiến tranh xâm lược. Ngày 19-5-1967, trong Bị vong lục gửi Tổng thống Mỹ Giônxơn, Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara trình bày lập luận chống chiến lược mở rộng chiến tranh, cho rằng nước Mỹ đã đi vào con đường bế tắc. Bởi, dù mở rộng chiến tranh hay theo một chính sách ôn hòa hiện thời cũng không thay đổi được tinh thần quyết chiến đấu của Hà Nội đến thắng lợi; nếu tăng quân và tăng cường đánh phá miền Bắc, sẽ mở ra khả năng Mỹ dấn sâu vào và sa lầy hơn ở Đông Nam Á, thậm chí lao vào một cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Liên Xô.

Xác định cách đánh chiến lược mới, "sáng kiến lịch sử" .

Phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến ở cả hai miền Nam - Bắc, từ cuối năm 1966, đầu năm 1967, "từ tình thế mới có lợi cho ta, bất lợi cho địch", Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chủ trương tìm một cách đánh chiến lược mới, tiến tới xác lập cục diện "vừa đánh vừa đàm", "vừa đàm vừa đánh". Vận dụng sách lược mềm dẻo, thông qua tuyên bố của Bộ Ngoại giao, khả năng phía Việt Nam sẽ thực hiện đàm phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc, chứ không gắn với việc đòi Mỹ rút khỏi miền Nam, một chủ trương mới được hé mở. Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 được tổ chức nghiên cứu, khởi thảo. Đây là cả quá trình bàn bạc, thảo luận, cân nhắc... giữa Tổng hành dinh với lãnh đạo, chỉ huy chiến trường, với các ngành, các cấp hữu quan. Bộ thống soái tối cao nhận thấy, nếu cứ tiếp tục mở các hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến chiến lược trên chiến trường, chiến tranh sẽ vẫn diễn ra trong thế nhùng nhằng, giằng co. Trong khi Tổ kế hoạch Cục Tác chiến còn đang trong quá trình tìm tòi cách đánh nhưng vẫn chưa nghĩ ra, thì "chính số đồng chí lãnh đạo chủ chốt Bộ Chính trị (đồng chí Lê Duẩn...) và Quân ủy Trung ương đã trao đổi, đề xuất giải pháp mới. Hai tư duy chỉ đạo vừa sáng tạo, vừa táo bạo đã kết thành ý định quyết tâm chiến lược là đột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ trung tâm... Đánh vào đó, ta sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, giành thắng lợi lớn". Tác giả Lê Minh cho biết, trong một lần đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ chiến trường miền Nam ra Hà Nội họp Bộ Chính trị, chuyện trò với chúng tôi tại nhà riêng, về cách đánh, anh nói đại ý "đánh vào đầu não, tim, dạ dày của nó thì chân tay nó rã rời... chặt vào chân nó thì thấy chảy máu me nhưng không can chi cả... Nhưng chỉ dùng một cái kim châm một cái vô tim thì nó chết. Tức là phải đánh vào chỗ hiểm, chỗ hiểm của địch là ở đâu? Là thành phố, thị trấn, căn cứ đầu não, kho tàng, sào huyệt của chúng".

Truyền thông nước ngoài và một số nhân vật trong cuộc có nhiều nhận xét xác đáng. Daniel Ellsberg viết: "Quy mô và sự phối hợp của cuộc Tổng tiến công vào dịp Tết gần như là tổng hợp các cuộc tiến công xảy ra đồng thời tại hầu hết các tỉnh ở miền Nam Việt Nam... sẽ mãi mãi khiến người ta phải kinh ngạc" . Oétmolen thừa nhận, "có 36 thành phố, thị xã của 44 tỉnh lỵ; 5 trong 6 thành phố tự trị; 64/242 quận lỵ và 50 ấp bị tiến công trong dịp Tết Mậu Thân 1968".

Bất ngờ vì đối phương chọn chiến trường hoàn toàn khác trước, mà còn vào thời điểm không ngờ nhất, nguyên Tùy viên kinh tế Đại sứ quán Mỹ kể lại: "... Ở Sài Gòn cuộc sống vẫn êm ả, người ta không có gì để phải lo lắng vì cộng sản chưa bao giờ dám tấn công vào một thành phố thủ đô và vừa tuyên bố 48 giờ ngừng bắn. 1/3 quân Việt Nam Cộng hòa đang nghỉ phép, Chính phủ cũng đang nghỉ. Trong không khí chào mừng năm mới, các quán bar phục vụ lính Mỹ hết công suất... Chính quyền Sài Gòn tổ chức một buổi tiệc tại nhà khách, đích thân Thủ tướng Nam Việt khai mạc" . Chính việc đưa chiến tranh vào thành thị của ta đã làm thế chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, làm rung chuyển nước Mỹ, dân chúng Mỹ phải sửng sốt, bàng hoàng.

Nghi binh chiến lược.

Bộ Tổng Tư lệnh còn chỉ đạo việc nghi binh nhằm đánh lạc hướng Bộ Chỉ huy đối phương. Tháng 9-1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho đăng báo bài "Thắng lợi lớn, nhiệm vụ lớn", tiếp tục khẳng định phương châm đánh lâu dài, bảo tồn lực lượng. Lập tức Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA cho dịch và phân phát tới các chi nhánh truyền thông công khai ở nước ngoài. Tháng 11-1967, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường miền Nam kế hoạch nghi binh chiến lược, một bản kế hoạch tác chiến giả... Các thông tin giả kể trên càng củng cố nhận định của Oétmolen rằng Việt Nam thất bại lớn, mà trận Đắk Tô là bước mở đầu, còn Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn nhận định, năm 1968 trọng tâm kế hoạch của Việt cộng là chống phá bình định .

Nhằm dụ đối phương lún sâu thêm vào những phán đoán sai lầm, tháng 1-1968, quân ta phối hợp với nước bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc; nhiều đơn vị chủ lực Quân giải phóng rời căn cứ hướng về các đô thị, trong đó có Sài Gòn - Gia Định; một số sư đoàn chủ lực miền Bắc tập kết quanh vùng rừng núi Khe Sanh. Trước động thái đó, Oétmolen hủy bỏ dự án mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, đưa quân về giữ Sài Gòn; dừng các cuộc hành quân ở phía Bắc, tăng lực lượng cho hướng Trị - Thiên. Vậy là, từ thế chủ động "phản công", "tìm diệt", lực lượng quân sự Mỹ buộc phải chuyển sang phòng ngự bị động mà hai hướng chính là quanh Sài Gòn và Trị - Thiên. Trong khi đối phương còn đang lúng túng tìm cách đối phó, thì đêm 20-1-1968, quân ta bất ngờ nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Đạn pháo của quân ta dội xuống Khe Sanh đã xua tan đám mây mù mà chính quyền Mỹ cố tạo ra lừa mị công chúng Hoa Kỳ rằng họ đang thắng và đã thấy "ánh sáng cuối đường hầm" (!). Quá sốc, giới chức Hoa Kỳ cũng tính toán như ở Điện Biên Phủ 14 năm trước, rằng có nên dùng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Khe Sanh? . Nhiều tác giả Việt Nam và Mỹ nhận định rằng, cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Sài Gòn đều nghĩ đến khả năng Việt cộng tập trung lực lượng để tiến hành một trận "Điện Biên Phủ" ở Khe Sanh. Bằng cách đánh vây lấn với những trận địa chiến hào của ta, họ cho rằng ta sẽ dứt điểm Khe Sanh như Điện Biên Phủ . Tác giả Michael Maclear bình luận: "Các trận đánh trong Tết Mậu Thân làm cho người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc bao vây để đấy. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh" .

Về phương thức và phương pháp tiến công.

Làm cho đối phương sai lầm trong phán đoán về hướng - địa bàn tiến công, Bộ Tổng Tư lệnh của ta còn khiến quân địch hoàn toàn bất ngờ về phương thức, phương pháp tiến công. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1-1968, chỉ rõ "dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" ... Nghị quyết cũng xác định những phương châm và nguyên tắc cho quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Ví như "kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngụy vận, địch vận... Kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự, tiến công chính trị trong nước với tiến công ngoại giao" .

Ngày 2-8-1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp nhận định kết quả Tết Mậu Thân, nêu rõ: đợt Tết là bước ngoặt lớn... Ta đã rất táo bạo, đã dám làm "sáng kiến lịch sử"... về hình thức Mỹ đã phải xuống thang (thực chất là điều chỉnh kế hoạch ném bom). Dẫn tới hình thái "vừa đánh vừa đàm" buộc địch phải ngồi vào bàn hội nghị .

Về khuyết, nhược điểm, Hội nghị đánh giá: "công kích về quân sự chưa đủ làm đòn bẩy để thúc đẩy phong trào chính trị, chính trị chưa lên cao để hỗ trợ cho quân sự cùng giành thắng lợi... Ở nông thôn chưa làm được đồng khởi... Binh vận quá yếu... làm vào thời gian Tết là rất đúng, song cũng chính vì thế mà việc chuẩn bị cập rập vội vàng"...

Trên cơ sở nhận định của Bộ Chính trị, một số công trình tổng kết chiến tranh và nghiên cứu của các vị lãnh đạo, tướng lĩnh đã cụ thể hóa và làm sâu sắc thêm đánh giá của Bộ Chính trị.

Đồng chí Lê Đức Thọ, trong một lần giải đáp một số vấn đề đặt ra trong tổng kết chiến tranh và nghiên cứu lịch sử quân sự, đã nói: "Phải chăng chúng ta đã rập khuôn một cách máy móc theo như những kinh nghiệm cũ về khởi nghĩa ở đô thị trong Cách mạng Tháng Tám và Cách mạng Tháng Mười mà không hiểu được rằng điều kiện và hoàn cảnh khởi nghĩa của hai cuộc cách mạng ấy là khác hẳn với thực tế của chúng ta lúc bấy giờ ở chiến trường miền Nam... Trong Mậu Thân, tương quan lực lượng như lúc đó mà ta toàn làm một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành chính quyền ở đô thị - nhất là Sài Gòn - thì làm làm sao được" .

Cách phân tích của Thượng tướng Trần Văn Trà như một cách bổ sung cho đánh giá nói trên. Thượng tướng viết: "Chủ trương và cố thực hiện của ta là tổng công kích - tổng khởi nghĩa, khi nổ ra thì tổng công kích thực hiện được nhưng chưa đủ liều lượng để phát động tổng khởi nghĩa - đây là điều kiện thiết yếu trong hoàn cảnh có chiến tranh ác liệt - nên không xảy ra tổng khởi nghĩa. Không xảy ra tổng khởi nghĩa không có nghĩa là không có nổi dậy từng nơi từng lúc... Cách đánh của Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị" .

Cách luận giải trên, theo chúng tôi, đã làm sáng tỏ thêm vấn đề đặt ra. Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) diễn ra trong tình thế quân đội Nga hoàng đã thất bại ngoài mặt trận, chính phủ tư sản không điều khiển được quân đội nữa. Một bộ phận quan trọng binh sĩ ngả theo cách mạng, cùng với công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ở Việt Nam, hàng triệu người dân Việt Nam yêu nước, công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản... được tổ chức chặt chẽ trong Mặt trận Việt Minh - tổ chức tiêu biểu cho sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, chớp đúng thời cơ phát xít Nhật đầu hàng, quân Đồng minh chưa kịp vào giải giáp, công cụ bạo lực của thế lực thống trị cũ rệu rã,... đã làm cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi giành chính quyền về tay nhân dân. Trong khi đó, mặc dù quân và dân ta vừa giành thắng lợi qua hai mùa khô, thế kháng chiến trên cả hai miền đang phát triển vững chắc, nhưng đối sánh nhiều mặt, ta còn nhiều nhược điểm, hạn chế. Theo số liệu công bố của chính đối phương và nhiều tác giả, học giả sử dụng, thì "Bộ Chỉ huy cộng sản" đã đưa vào cuộc chiến khoảng 67.000 quân trong tổng số 240.000 quân ở miền Nam Việt Nam... Dàn ra để chống lại họ là 1.100.000 tay súng, gồm 492.000 quân chiến đấu Mỹ, 61.000 quân đồng minh Mỹ; 342.000 quân thường trực của Việt Nam Cộng hòa và 284.000 quân địa phương và lực lượng phòng vệ dân sự. Mỹ còn huy động nhiều nghìn máy bay, nhiều nghìn tăng thiết giáp các loại1. Mỹ còn sẵn sàng huy động được người và vũ khí từ các chiến hạm và căn cứ quân sự từ các quốc gia đồng minh Mỹ quanh Việt Nam. Như thế, điều khác biệt về thế và lực nói chung, về so sánh lực lượng nói riêng trong sự kiện Tết Mậu Thân với các cuộc cách mạng đã nêu trên là rất rõ ràng. Và thắng lợi của quân và dân ta phản ánh khá đúng thế và lực của ta, mà lịch sử không thể dùng chữ "nếu". Có thể vì vậy, trong bài giải đáp một số vấn đề lịch sử được đề cập ở trên, đồng chí Lê Đức Thọ nói: "Sau Tết Mậu Thân, tôi thấy các anh không dùng cụm từ "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" trong tài liệu và báo chí nữa mà chỉ nói là Tổng tiến công và nổi dậy. Như vậy là đúng".

*
*        *

Lần giở từng trang viết của các bậc tiền bối về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tất cả đều đánh giá cao thắng lợi Mậu Thân, như đánh giá tổng quan và xác đáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (6-1973), và như ý kiến của nhiều vị lãnh đạo, chỉ huy cấp cao trong Xuân Mậu Thân 1968. Đây là "bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ", hoặc "là cái chìa khóa của toàn thắng trong chiến tranh".

Cùng với đó, từ Nghị quyết 21 đến nhiều công trình nghiên cứu đều nêu lên những khuyết điểm, thiếu sót của ta. Ví như, "chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó...". Về hạn chế của ta, tác giả Trần Bạch Đằng viết: "Sứ mệnh của Mậu Thân căn bản hoàn thành với đợt 1. Ở đây, bệnh cay cú dẫn chúng ta đi xa".

Qua các dẫn dụ trên, chúng tôi muốn nêu kiến nghị (về phương pháp nghiên cứu) rằng, khi đánh giá về thắng lợi, cần có cái nhìn tổng quan, toàn diện và cần căn cứ vào thực tiễn cũng như hiệu quả của cuộc chiến, như ý kiến của Thượng tướng Trần Văn Trà là "phải căn cứ đúng vào hiệu quả cụ thể" của nó, hoặc ý kiến của học giả Trần Bạch Đằng, cần đặt cuộc chiến trong cái nhìn tổng quan, trong diễn trình của toàn bộ cuộc kháng chiến cứu nước. Tác giả viết: "Không có đồng khởi 1960 sẽ không có Mậu Thân 1968 và không có nó thì không thể có Đại thắng mùa Xuân 1975".

Nhiều đánh giá của tác giả nước ngoài thể hiện sự thống nhất về cơ bản với đánh giá của các tác giả Việt Nam. Chúng tôi kiến nghị cần mở rộng và đi sâu hơn trong sưu tầm và nghiên cứu mảng tài liệu này. J.R.Arnold cho rằng: "Cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã không đánh bại được quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường nhưng đã đánh bại chiến lược tổng thể của Mỹ, đánh bại giới chính trị Mỹ và làm đảo ngược sự ủng hộ của những người trở về từ chiến trường". Nhà báo Don Oberdofer viết: "Đây là một sự kiện có tính chất bước ngoặt, một trong những bước ngoặt lớn trong thời đại của chúng ta".

Điểm lại khối tài liệu về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của các nhà lãnh đạo, các vị tướng lĩnh hoặc nhà khoa học, dẫu còn nhiều khía cạnh khác nhau, vẫn có thể khẳng định cuộc chiến Mậu Thân đã hoàn thành đúng mục tiêu cho cuộc tiến công được đặt ra từ các hội nghị của Đảng từ cuối năm 1967 và đầu năm 1968. Đó là "tạo một chuyển biến lớn", "chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới"5.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 03:41:27 pm
CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG
CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ MỚI



Thượng tướng NGUYỄN VĂN ĐƯỢC
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một trong những sự kiện lịch sử có tầm vóc lớn lao, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Nhớ lại, cách đây 45 năm (1972-2017), nếu như Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" là chiến thắng góp phần buộc đế quốc Mỹ đặt bút ký Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam thì tinh thần chiến thắng của Chiến dịch Mậu Thân 1968 đã buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn chấp nhận thương lượng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), buộc họ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán Hội nghị Pari ngày 13-5-1968. Ý nghĩa còn vang mãi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 còn thể hiện ở tầm vóc to lớn về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật của quân và dân ta, tài tiên đoán, dự báo về chiến lược của Bộ Chính trị, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở ra cho chúng ta những trận đánh vang dội sau đó, phá vỡ nhiều chiến lược quân sự của kẻ thù xâm lược, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.

Đồng hành cùng dân tộc trên con đường trường chinh đấu tranh cách mạng giành giữ nền độc lập và bảo vệ Tổ quốc; trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, các thế hệ cựu chiến binh Việt Nam nối tiếp nhau "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", đã có những năm tháng lẫy lừng, ngang dọc trên các chiến trường, mưu trí, dũng cảm, táo bạo, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cùng với quân và dân cả nước lập nên những chiến công oanh liệt, chiến thắng vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàng triệu cán bộ, chiến sĩ đã ra quân, trở về với quê hương và gia đình hoặc chuyển ngành sang công tác ở các cơ quan, các lĩnh vực khác của xã hội. Trong số họ, nhiều người mang trong mình thương tích của chiến tranh và không ít người đã để lại một phần thân thể nơi chiến trường, trở thành những thương binh, bệnh binh... Song, với bản lĩnh, khí phách của "Bộ đội Cụ Hồ", là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước và nhân dân; có kinh nghiệm trong đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước, phần lớn còn sức lao động, khi trở về cuộc sống đời thường, trên trận tuyến mới, Cựu chiến binh Việt Nam mong muốn tiếp tục được cống hiến sức lực, trí tuệ của mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thể theo nguyện vọng tha thiết, chính đáng của đông đảo những người lính đã xả thân chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, ngày 6-12-1989, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho ý chí và quyền lợi của cựu chiến binh, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Đảng lãnh đạo, nhằm phát huy bản chất truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" trong điều kiện mới.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, trực tiếp là Ban Bí thư và các cấp ủy đảng; sự quản lý, phối hợp, giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, các ban, bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương; sự chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Hội và các cấp Hội, cùng với sự nỗ lực, chủ động, sáng tạo, đoàn kết, trách nhiệm của toàn thể cán bộ, hội viên cả nước, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã có bước phát triển vững chắc; tổ chức hội được củng cố, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, Hội Cựu chiến binh Việt Nam có gần 3 triệu hội viên, sinh hoạt trong hơn 161 vạn tổ chức cơ sở hội, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả, tuyệt đại cựu chiến binh giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ"; tiếp tục khẳng định là một tổ chức chính trị - xã hội uy tín, là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.

Những năm gần đây, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) "Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới", Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới"... các cấp Hội đã thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, hội viên kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, vào những thời điểm có tính chất bước ngoặt, hoặc trước những biến động và khủng hoảng về chính trị ở một số nước Bắc Phi - Trung Đông, tình hình phức tạp ở Đông Bắc Á, tình hình Biển Đông và sự chuyển hướng chiến lược của một số nước lớn sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương... cựu chiến binh Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", tích cực đấu tranh chống chiến lược "Diễn biến hòa bình" và các âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch cùng các quan điểm sai trái, phản động; tham gia có hiệu quả vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền, mặt trận và đoàn thể, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tích cực tham gia giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các tệ nạn xã hội, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, đã có hàng nghìn ý kiến tâm huyết đóng góp tham gia vào dự thảo các văn kiện của đại hội Đảng các cấp, qua các kỳ đại hội và dự thảo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Tích cực tham gia giám sát, phản biện xã hội và phổ biến, giáo dục pháp luật... Có những đóng góp tích cực vào việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương nắm bắt và đề xuất các biện pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... Đồng thời, cử cán bộ, hội viên tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc, phức tạp nảy sinh từ cơ sở; tuyên truyền vận động nhân dân vạch trần âm mưu, thủ đoạn của những kẻ cầm đầu, xúi giục, kích động, lôi kéo người dân lợi dụng "sự cố môi trường biển", lợi dụng tình hình Biển Đông và các vấn đề dân tộc, tôn giáo để tạo "điểm nóng" về an ninh chính trị, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Ý thức rõ việc tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị ở cơ sở là khâu quan trọng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã ký kết liên tịch với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an nhằm phối hợp hoạt động, tăng cường giáo dục quốc phòng trong nhân dân, tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên; vận động nhân dân tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc... Hàng chục vạn hội viên Hội Cựu chiến binh đã được Đảng và nhân dân tín nhiệm bầu vào cấp ủy, hội đồng nhân dân các cấp, công tác trong hệ thống chính trị và đã phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Trên mặt trận kinh tế, xóa đói giảm nghèo, Hội đã tổ chức, vận động cựu chiến binh phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, huy động mọi nguồn lực và sự giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương; tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với cựu chiến binh để đẩy mạnh việc giúp nhau làm kinh tế, nâng cao đời sống, giảm nghèo nhanh và bền vững, vươn lên làm giàu hợp pháp. Phong trào "cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi" phát triển cả về số lượng, quy mô và hiệu quả. Đến nay, cựu chiến binh đã có: 7.268 doanh nghiệp, 1.507 hợp tác xã, 2.218 tổ hợp tác và 79.881 trang trại, gia trại; thu hút được 510.142 lao động; nhiều tỉnh đã thành lập Hội hoặc Câu lạc bộ Doanh nhân cựu chiến binh. Hiện nay, cựu chiến binh Việt Nam cơ bản không còn hộ đói, số hộ nghèo toàn Hội giảm nhanh; hàng triệu gia đình hội viên có mức sống khá, trong 5 năm (2012-2017) toàn Hội đã giảm được 18.100 hộ nghèo, tỷ lệ hộ cựu chiến binh nghèo giảm từ 6,06% xuống còn 4,21% (theo tiêu chí nghèo đa cấp), góp phần tích cực vào thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội và công tác xóa đói, giảm nghèo trong cả nước. Nhiều cựu chiến binh Việt Nam đã trở thành những nhà quản lý kinh tế giỏi và những doanh nhân thành đạt.

Hoạt động tình nghĩa trong các cấp Hội được đẩy mạnh bằng các hình thức, như: "Kho thóc cựu chiến binh", "Trái dừa đồng đội", "Quỹ 27-7", "Quỹ tấm lòng vàng", "Quỹ chất độc da cam - điôxin" "Quỹ khuyến học, khuyến tài", "Quỹ giảm nghèo", "Quỹ thiên tai bão lụt"... thu hút đông đảo cựu chiến binh và các cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang ủng hộ, tham gia. Chỉ tính trong 5 năm (2012-2017), các cấp Hội và cựu chiến binh trên toàn quốc đã vận động, quyên góp, ủng hộ 462,57 đồng cho các loại quỹ; phối hợp với Hiệp hội Doanh nhân cựu chiến binh Việt Nam tuyên truyền, vận động, sử dụng các quỹ từ thiện xã hội có hiệu quả.

Thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam với Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan Trung ương và địa phương, những năm qua, Hội đã hướng dẫn, vận động hội viên, tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào của Trung ương và địa phương phát động, gắn với phong trào "cựu chiến binh gương mẫu". Tham gia các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh như: "Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh"; "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; các phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc"; "Cựu chiến binh Việt Nam tham gia giữ gìn trật tự, an toàn giao thông"; "phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng chống ma túy, mãi dâm"; "chương trình xóa đói, giảm nghèo, xóa nhà tạm, nhà dột nát" với phương châm "cựu chiến binh nêu gương sáng, hiến kế, hiến công vì quê hương đất nước". Nhiều cựu chiến binh hiến đất làm đường, trường học, nhà văn hóa; nhiều công trình mang tên cựu chiến binh. Từ năm 2012-2017, cựu chiến binh cả nước đã hiến 13,6 triệu m2 đất, đóng góp 912 tỷ đồng và hơn 4,6 triệu ngày công tham gia làm mới, tu sửa, nâng cấp được hàng nghìn kilômét đường giao thông nông thôn và hàng nghìn kilômét kênh mương nội đồng, cầu bê tông, cầu gỗ các loại, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn mới.

Với trách nhiệm và tình cảm của thế hệ đi trước, Hội đã tích cực, chủ động cùng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm tốt việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, xây dựng lý tưởng, hoài bão và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, đồng thời luôn thể hiện vai trò gương mẫu của cựu chiến binh đối với tuổi trẻ. Hoạt động đối ngoại nhân dân của Hội được tăng cường, quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa cựu chiến binh Việt Nam với cựu chiến binh các nước ngày càng được mở rộng.

Công tác xây dựng Hội đạt kết quả tốt. Tổ chức hội ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, tổ chức cơ sở hội và hội viên tăng nhanh. Nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội có nhiều đổi mới, ngày càng hiệu quả và thiết thực hơn. Công tác vận động, tập hợp cựu quân nhân cũng có nhiều tiến bộ.

Phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam và thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trong một chặng đường gần 30 năm xây dựng và phát triển, "Cựu chiến binh Việt Nam mỗi người một hoàn cảnh, một lối sống, một phong cách khác nhau... song tất cả đã tạo nên một diện mạo, một vẻ đẹp chung của "Bộ đội Cụ Hồ" khi trở về với đời thường". Các hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam - những người đã chiến đấu quên mình để góp phần làm nên những chiến công oanh liệt Tết Mậu Thân 1968, cuộc Tiến công chiến lược 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975... trong thời kỳ mới, trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để phát huy bản chất truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ"; "trung thành - đoàn kết - gương mẫu - đổi mới" xây dựng tổ chức hội trong sạch, vững mạnh; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Hội Cựu chiến binh Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác chính trị tư tưởng, tuyên truyền truyền thống cách mạng; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; tích cực tham gia giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Duy trì và tăng cường mở rộng hoạt động đối ngoại; xây dựng Hội phát triển trưởng thành lên một bước; đổi mới, nâng cao hơn nữa nội dung, phương thức và hiệu quả hoạt động, lấy chất lượng, hiệu quả làm mục tiêu; chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cựu chiến binh, góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 03:47:17 pm
TỪ BÀI HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - TINH THẦN TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968,
SUY NGHĨ VỀ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG HIỆN NAY



Thiếu tướng, PGS.TS. VŨ QUANG ĐẠO
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đổ quân chiến đấu Mỹ và đồng minh vào miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc hòng cắt đứt sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Với lực lượng quân sự hùng hậu, Mỹ muốn nhanh chóng đánh bại chủ lực cách mạng, giành lại thế chủ động trên chiến trường, bình định toàn miền Nam, kết thúc chiến tranh Việt Nam trên thế kẻ chiến thắng. Nhưng "chiến tranh cục bộ" cũng sa lầy, và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của quân và dân ta như một dấu chấm hết cho ý đồ đó của Mỹ. Dù cho sau này Mỹ tiếp tục đưa ra những thủ đoạn và hành động chiến tranh mới, nhưng đó chỉ là tìm kiếm danh dự cho nước Mỹ khi buộc phải rút khỏi cuộc chiến ở Việt Nam. Sự kiện Mậu Thân 1968 đã được nghiên cứu, phân tích dưới nhiều góc độ và vẫn đang tiếp tục thu hút sự quan tâm bởi ý nghĩa lịch sử và những bài học rút ra từ đó. Nếu xét dưới góc độ chính trị - tinh thần, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một thắng lợi to lớn của chúng ta và là thất bại cay đắng, không thể gượng nổi của thế lực hiếu chiến Mỹ.

Ngay từ khi Mỹ đổ quân vào miền Nam và đánh phá miền Bắc, Đảng ta đã nhận định: Mỹ đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam thể hiện sự mâu thuẫn gay gắt trong ý đồ chiến lược chính trị là thay chủ nghĩa thực dân cũ đã lỗi thời, đã bị Việt Nam đánh bại sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, bằng chủ nghĩa thực dân mới - xâm lược và cai trị thuộc địa thông qua chính quyền và quân đội tay sai. Mỹ đưa quân vào Việt Nam, khi mà "chiến tranh đặc biệt" dựa chủ yếu vào quân đội Sài Gòn, có sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, với vũ khí, trang bị của Mỹ đã thất bại, dẫn đến nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn. Mặc dù Mỹ đã cố gắng duy trì chế độ tay sai của mình bằng việc không những "bật đèn xanh" mà còn trực tiếp chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính, mở đầu là lật đổ và giết chết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu (2-11-1963) và gần chục cuộc đảo chính tiếp theo trong năm 1964, nhằm "thay ngựa giữa dòng", nhưng những cuộc đảo chính ấy chỉ có thể thay thế chính quyền tay sai này bằng chính quyền tay sai khác, chứ không thể thay đổi được bản chất chế độ tay sai đó, càng không thể thực hiện được ảo tưởng của Mỹ là tạo nên một chính phủ "được lòng dân ở miền Nam!". Người Mỹ thừa hiểu rằng, chính quyền và quân đội Sài Gòn là do họ dựng lên và chỉ có thể tồn tại được với sự hậu thuẫn toàn diện của Mỹ. Nhưng chính sự kỳ vọng ấy, càng làm cho Mỹ sa lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Khi chế độ đó đứng bên bờ vực của sự phá sản, để cứu nguy cho nó - mà thực chất là cứu nguy cho chủ nghĩa thực dân mới, Mỹ buộc phải đổ quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến. Hành động đó vừa mâu thuẫn giữa ý đồ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới với hành động quân sự, vừa làm bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Nó còn làm bộc lộ bản chất của một cuộc chiến tranh phi nghĩa, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ nhận rõ hơn dã tâm xâm lược của những kẻ hiếu chiến Mỹ. Đó là sự khởi đầu cho thất bại về chính trị không thể cứu vãn nổi của Mỹ.

Mặc dù vậy, đế quốc Mỹ vẫn ảo tưởng về sức mạnh của mình 1. Họ cho rằng với những hậu quả tàn khốc của bom đạn Mỹ, với những hành động tàn sát dã man mà lính Mỹ và tay sai đã gây ra, nhân dân Việt Nam phải khuất phục. Nhưng Mỹ đã lầm. Họ đã lừa dối nhân dân Mỹ và thế giới về một cuộc chiến mà ở đó "không sản sinh cho nước Mỹ bất cứ một anh hùng nào", mà chỉ vung phí tiền thuế của người dân Mỹ, vung phí xương máu của con em họ một cách vô nghĩa và đem về sự chống đối của loài người tiến bộ và chính những người Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam. Họ càng chưa hiểu hết về dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam, một dân tộc với những con người nhân hậu, cần cù, giản dị nhưng cũng thấm đẫm tinh thần kiên trung bất khuất, đức hy sinh, sẵn sàng chiến đấu đến cùng với tinh thần "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi".

Mỹ đưa quân vào Việt Nam trong thế thua, thế bị động về chiến lược. Ở miền Nam, quân và dân ta đã làm chủ những địa bàn trọng yếu, lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Hậu phương miền Bắc đã giành được những thắng lợi to lớn sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội với thành tựu "Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới"2, không những đủ sức đương đầu và chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mà còn đủ sức làm tròn trọng trách là hậu phương lớn cho cách mạng cả nước. Quân và dân ta ở miền Nam đã hiên ngang trên tuyến đầu chống Mỹ, cứu nước, chủ động về chiến lược, trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ, làm nên những chiến thắng vang dội như Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme... và nhất là đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966), (1966-1967) của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Những chiến công đó đã làm cho quân Mỹ và tay sai thiệt hại rất lớn, buộc phải lùi vào thế phòng ngự, nhưng chúng vẫn chủ quan, ngạo mạn, và cho rằng, người Mỹ chưa dùng hết sức, hết khả năng. Cả bộ máy chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam cùng bộ máy tuyên truyền của Mỹ vẫn tiếp tục lừa bịp nhân dân thế giới và chính người dân Mỹ rằng "đã thấy ánh sáng cuối đường hầm", Mỹ đang giành thắng lợi và sẽ sớm kết thúc chiến tranh với "danh dự" của nước Mỹ! Họ còn chuẩn bị cho một cuộc phản công lần thứ ba nhằm tạo nên chiến thắng quân sự buộc Việt Nam phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán theo ý đồ của Mỹ, tạo lợi thế cho cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sắp diễn ra vào cuối 1968.

Trên cơ sở phân tích thế và lực của ta ở cả hai miền Nam - Bắc, nhằm đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, chủ động chuẩn bị cho mặt trận ngoại giao, Trung ương Đảng đã quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là Sài Gòn và Huế, Đà Nẵng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một bất ngờ lớn đối với đế quốc Mỹ cả về thời gian, quy mô, phương thức và mức độ quyết liệt. Cùng với hoạt động quân sự quy mô lớn ở các địa bàn chiến lược, nhất là Mặt trận Khe Sanh - Đường 9, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã đồng loạt tiến công địch, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, các căn cứ quân sự trọng yếu của địch trên toàn miền.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 và nhất là đòn đánh hiểm vào Sài Gòn và Huế, Đà Nẵng... đã giáng một đòn quyết định làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, những kẻ cầm đầu hiếu chiến Mỹ. Sau thất bại Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán, để rồi 4 năm sau đó phải ký kết Hiệp định Pari (27-1-1973) rút quân Mỹ về nước.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã giành được "những thắng lợi to lớn", có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, quân sự và ngoại giao. Đó là thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới; là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, của ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và quyết tâm chống Mỹ, cứu nước với tinh thần dũng cảm vô song của đồng bào và chiến sĩ cả nước.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là sự hội tụ của nhiều nhân tố, nó cũng đã chứng minh được sức mạnh của yếu tố chính trị - tinh thần. Mậu Thân 1968 cho thấy, để động viên được tinh thần chiến đấu của người lính trên chiến trường không thể không giải quyết đúng đắn yếu tố chính trị của cuộc chiến tranh; nội dung và phương thức giáo dục cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; sự thống nhất cao độ giữa tinh thần chiến đấu của lực lượng vũ trang với sự đồng lòng, ủng hộ, đóng góp sức người, sức của, sẵn sàng hy sinh của nhân dân cả nước; mối quan hệ giữa nghệ thuật quân sự, sức mạnh tác chiến và tinh thần người lính; tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường cả nước gắn bó và kết hợp chặt chẽ với xu hướng hòa bình, sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.

Cũng vì thế, bài học lớn nhất của Mậu Thân 1968 là bài học về yếu tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh. Nếu Mậu Thân là thất bại thảm hại của Mỹ về chính trị, cả ở trong nước và quốc tế, thì đối với Việt Nam, đó là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định về chính trị, quân sự và dẫn đến những thắng lợi về ngoại giao. Thắng lợi Mậu Thân 1968 chẳng những cổ vũ tinh thần chiến đấu của người Việt Nam trên chiến trường mà còn là yếu tố tạo nên vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngay trên bàn đàm phán ở Pari.

Sau thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta đã vượt qua những hy sinh, tổn thất to lớn, xây dựng và phát triển lực lượng, tạo thế mới và lực mới trên chiến trường miền Nam, đánh thắng nỗ lực cuối cùng của Mỹ trên bầu trời Hà Nội, làm nên một "Điện Biên Phủ trên không", buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, rút quân Mỹ về nước, giành thắng lợi quyết định, tiến lên giành toàn thắng Mùa Xuân 1975.

Bài học về chính trị - tinh thần của trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Suy ngẫm và vận dụng bài học lịch sử từ Mậu Thân 1968, dưới góc độ chính trị - tinh thần, thiết nghĩ còn rất nhiều việc cần làm:

Trước hết, khi nhận thức rõ cơ hội và thuận lợi, cần thẳng thắn chỉ ra thách thức và nhất là những mặt còn yếu kém của chúng ta. Một đảng cách mạng là một đảng không che giấu khuyết điểm, yếu kém. Ngay trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù khẳng định thắng lợi to lớn của Mậu Thân 1968, nhưng Trung ương Đảng vẫn thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, hạn chế của ta, đó là đề ra mục tiêu vượt quá khả năng thực tế; không kịp thời đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng sau đợt 1; chưa kịp thời lui về củng cố, mở rộng lực lượng ở các địa bàn trọng yếu, nhất là vùng nông thôn... Ngày nay, Đảng ta đã chỉ rõ những nguy cơ tiềm ẩn, khó lường và cả những khó khăn hiện hữu. Vấn đề là cần tiếp tục nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn, cụ thể hơn để chủ động giải quyết, khắc phục khó khăn. Trong các nguy cơ ấy, cần đặc biệt lưu ý những nguy cơ nội sinh từ trong Đảng, trong bộ máy chính quyền các cấp. Chúng ta nói sức mạnh của Đảng, của Nhà nước, của quân đội là ở nơi dân. Nhân dân tin vào Đảng, Nhà nước, tin vào lực lượng vũ trang của mình không chỉ bằng chủ trương, chính sách mà còn bằng chính hành động gương mẫu, thật sự vì dân với tinh thần "dĩ công vi thượng" của cán bộ, đảng viên, của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Cũng vì vậy mà cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" mà Đảng ta đang kiên quyết tiến hành được sự quan tâm, ủng hộ và kỳ vọng của nhân dân. Kết quả của cuộc đấu tranh ấy đã và đang phát huy vai trò to lớn trong giáo dục, động viên chính trị - tinh thần của nhân dân hiện nay.

Chính trị của Đảng ta thể hiện trong đường lối, chủ trương, chính sách, nó còn luôn được thể hiện trong hoạt động thực tiễn lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước. Vì vậy, khi đã xác định mục tiêu chính trị đúng đắn, đương nhiên phải có chủ trương, chính sách, kế hoạch và biện pháp cụ thể để thực hiện phù hợp với thực tế, biến mục tiêu đó thành hiện thực. Trong Mậu Thân 1968, Đảng ta đã xác định đúng ý đồ chiến lược, từ đó đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức tiến hành chiến tranh nhằm tạo ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực tiễn Mậu Thân 1968 chứng minh, về cơ bản, chúng ta đã đạt được mục tiêu bằng hoạt động quân sự, chính trị trên toàn miền Nam. Những thành công và cả chưa thành công của chúng ta sau Mậu Thân 1968 khẳng định, phải luôn bám sát và đánh giá đúng tình hình thực tiễn, kịp thời điều chỉnh nội dung và phương thức hoạt động thì mục tiêu chính trị sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.

Trong chiến tranh giải phóng, chính trị thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực quân sự, mỗi thắng lợi về quân sự đều có vai trò to lớn của nhân tố chính trị, tinh thần của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong điều kiện hòa bình và xây dựng đất nước, chính trị thể hiện trước hết trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, bộ máy và con người - đặc biệt là yếu tố con người luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhân dân ta hiện nay. Giành được những thành tựu kinh tế - xã hội, sử dụng đúng đắn và hiệu quả sức lao động và sản phẩm làm ra sẽ trực tiếp tác động tới nhiệt tình và trách nhiệm chính trị của mỗi người dân. Bằng hoạt động kinh tế - xã hội, với những thành tựu đã đạt được, với những điều kiện của trong nước và quốc tế hiện nay, chúng ta đứng trước thời cơ lịch sử để thực hiện kỳ vọng của Bác Hồ:

"Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!"
.

Nói đến công tác chính trị, tư tưởng trước hết là nói đến nội dung chính trị, nhưng không thể không nói đến phương thức tiến hành công tác đó. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong Mậu Thân 1968 nói riêng, tất cả các cơ quan tuyên huấn, cơ quan chính trị các cấp của Đảng và quân đội đã hoạt động rất hiệu quả. Đường lối, quan điểm của Đảng, quyết tâm của Trung ương, của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã đến từng người dân, từng người chiến sĩ, trở thành ý chí, quyết tâm chiến đấu của nhân dân và lực lượng vũ trang. Công tác chính trị đã góp phần quan trọng tạo nên khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo nên ưu thế tuyệt đối về chính trị - tinh thần của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lược. Công tác chính trị, tư tưởng còn được tất cả các ngành thông tin truyền thông, văn hóa, văn nghệ, báo chí... chuyển tải bằng những phương thức, phương tiện hết sức hiệu quả. Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn cảm nhận rõ hơi thở hào hùng của dân tộc một thời đánh Mỹ qua những tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, những vần thơ, những giai điệu đi cùng năm tháng, còn mãi với thời gian.





---------------------------------------------------------------
1. Mỹ đã huy động vào chiến trường Việt Nam tới 9 sư đoàn và 5 lữ đoàn, cùng nhiều vũ khí trang bị tối tân nhất. Nếu tính cả 20 vạn quân Mỹ đóng tại Thái Lan, Philíppin, Nhật Bản và ở Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6 thì Mỹ đã huy động tới 80 vạn quân vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Bên cạnh quân Mỹ, còn có 68.800 quân Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Thái Lan, Philíppin, Niu Dilân. Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, t.V, tr.345.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 03:51:35 pm
Ý NGHĨA CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
ĐỐI VỚI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY



Trung tướng NGUYỄN SONG PHI
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam


Sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra cách đây 50 năm (1968-2018). Một chiến công mang tầm chiến lược đã khắc ghi sâu đậm đi vào tâm khảm của mỗi người lính từng trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường ở thời điểm lịch sử quyết định đó nói riêng, với toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung, đồng thời thức tỉnh lương tri nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", lớp lớp thanh niên yêu nước với khí thế "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" đã tự nguyện nối tiếp nhau gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam, chiến đấu lập nên những chiến công hiển hách, "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", mà trong đó cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã ghi một dấu ấn sâu đậm. Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Mậu Thân 1968, cũng là dịp để những cán bộ, chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ôn lại những kỷ niệm về những ngày hào hùng đó. Năm mươi năm về trước, họ cũng là những người đã từng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và góp phần làm nên sự kiện trọng đại đó. Sau khi kết thúc chiến tranh, một số cán bộ, chiến sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong quân ngũ lần lượt xuất ngũ, phục viên chuyển ngành, nghỉ hưu về với quê hương và gia đình. Song, với bản lĩnh và khí phách của "Bộ đội Cụ Hồ", họ đã đem hết tâm sức và nhiệt huyết của mình để góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thể theo nguyện vọng tha thiết, chính đáng của đông đảo những người lính đã xả thân chiến đấu vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, ngày 6-12-1989, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Từ đó, Hội Cựu chiến binh Việt Nam trở thành một tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cựu chiến binh cả nước, là cơ sở chính trị của Đảng và chính quyền, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội luôn luôn vận động cựu chiến binh phát huy bản chất truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc. Tham gia thực hiện tốt các chế độ chính sách, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên cựu chiến binh. Hội còn động viên cựu chiến binh nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống. Phấn đấu giảm nghèo, làm giàu hợp pháp, tham gia tích cực và có hiệu quả các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Vì vậy, từ khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm phối hợp giúp đỡ của các cơ quan bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương, Hội Cựu chiến binh Việt Nam tiếp tục khẳng định được vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình, bằng nhiều hoạt động tích cực, thiết thực và hiệu quả được Đảng, Nhà nước đánh giá cao. Vì vậy, sau khi rời quân ngũ về với quê hương, gia đình các thế hệ cựu chiến binh Việt Nam luôn luôn giữ gìn phát huy phẩm chất cao quý "Bộ đội Cụ Hồ", tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Luôn có lập trường quan điểm vững vàng, có lý tưởng chiến đấu cao đẹp, có tinh thần quyết chiến, quyết thắng, có tình đồng chí, đồng đội, gắn bó keo sơn, có tinh thần quốc tế cao cả, tình đoàn kết quân dân, có kỷ cương, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh.

Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, trong suốt 28 năm qua, Hội Cựu chiến binh Việt Nam luôn không ngừng phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt, có nhiều đóng góp to lớn cho đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước; xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của cấp ủy đảng, chính quyền, là lực lượng tham gia bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hội Cựu chiến binh luôn luôn lấy nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là vận động hội viên giữ vững bản lĩnh chính trị; phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" để thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, phải làm cho cựu chiến binh cả nước luôn quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII và Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cán bộ, hội viên cựu chiến binh tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt, trong dịp Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, các cấp Hội đã thể hiện trách nhiệm chính trị cao, đóng góp hàng vạn ý kiến tâm huyết để xây dựng văn kiện, nghị quyết, góp phần vào thành công của đại hội Đảng các cấp. "Toàn Hội có 153.891 đảng viên được bầu vào cấp ủy các cấp (trong đó có 83.061 đồng chí được bầu làm bí thư, phó bí thư chi bộ; 11.119 đồng chí được bầu làm bí thư, phó bí thư đảng bộ cơ sở) và gần 10 vạn hội viên được bầu tham gia công tác chính quyền. Nhiều đồng chí trúng cử là đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ (2016-2021), trong đó có 34 đồng chí lãnh đạo cấp Hội được bầu vào hội đồng nhân dân cấp tỉnh (thành phố), gần 10 nghìn cựu chiến binh giữ chức trưởng (phó) cơ quan quân sự xã, phường; gần 20 vạn cựu chiến binh là tổ trưởng dân phòng, tổ an ninh nhân dân".

Luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống... Tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Vì vậy, Hội đã khuyến khích hội viên xây dựng các trang trại, thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác; thành lập các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đa ngành nghề. Đến năm 2016, đã có 7.720 doanh nghiệp vừa và nhỏ, 1.392 hợp tác xã, 2.653 tổ hợp tác, 74.795 trang trại, gia trại do cựu chiến binh làm chủ. Nhiều doanh nghiệp có mức doanh thu hằng năm từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng; có doanh nghiệp đạt hàng nghìn tỷ đồng/năm. Nhiều sản phẩm của các doanh nghiệp cựu chiến binh có chất lượng cao, được người tiêu dùng tin tưởng; một số sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, xây dựng được thương hiệu ở trong nước và thị trường quốc tế. Thông qua đó, tạo việc làm cho 5.254.540 lao động là cựu chiến binh, cựu quân nhân, gia đình chính sách và con em họ; giúp gia đình hội viên tăng thu nhập, nâng cao đời sống. Sau nhiều năm phấn đấu, đến năm 2016, về cơ bản hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam không còn hộ đói, hộ nghèo giảm còn 3,98%.

Đồng thời, các cấp Hội và hội viên cựu chiến binh Việt Nam còn tích cực tham gia vào các cuộc vận động, chương trình mục tiêu quốc gia, các phong trào như: phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào vì an ninh Tổ quốc; phòng, chống tội phạm, ma túy, mại dâm; phong trào cựu chiến binh tham gia giữ gìn trật tự, an toàn giao thông... Đặc biệt, thực hiện cuộc vận động "cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" với nhiều hội viên cựu chiến binh tự nguyện hiến hàng ngàn m2 đất làm các công trình dân sinh, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn...

Hội Cựu chiến binh Việt Nam còn tham gia vào các hoạt động ủng hộ "Quỹ vì người nghèo", "Quỹ xóa nhà dột nát", "Quỹ Khuyến học khuyến tài", "Quỹ nghĩa tình đồng đội"; làm nhà tình nghĩa, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam/dioxin, giúp nhân dân và cựu chiến binh bị bão lũ, thiên tai, v.v.. Trong dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thương binh - liệt sĩ (27-7-1947 – 27-7-2017), với truyền thống, đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, nhằm tri ân sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ, thương bệnh binh đối với Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh trong cả nước phối hợp cùng các đoàn thể tổ chức thăm, tặng quà những gia đình có công với cách mạng. Đồng thời, Hội Cựu chiến binh còn huy động mọi nguồn lực trong xã hội tham gia tôn tạo, nâng cấp nhiều nghĩa trang liệt sĩ trên cả nước. Việc làm đầy ý nghĩa và nhân văn đó được đông đảo các tầng lớp nhân dân trong cả nước hưởng ứng và tham gia tích cực. Đây là việc làm thiết thực, góp phần vào sự thành công của Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thương binh - liệt sĩ.

 Thấm nhuần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết", những người thanh niên ưu tú của thời chống Mỹ nói chung, trong những ngày tháng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng đã luôn phối hợp chặt chẽ với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tích cực tham gia vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ, nhiều hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam là những nhân chứng lịch sử đã tham gia viết nhiều sách, báo, tài liệu, phim ảnh... về những chiến công hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhiều hội viên còn là những tuyên truyền viên xuất sắc, tổ chức nói chuyện chuyên đề, nói chuyện lịch sử chiến tranh... trong đó có sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 cho nhiều cơ quan đơn vị nhân ngày kỷ niệm chiến thắng hằng năm. Với những hoạt động này, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc giáo dục ý chí, bản lĩnh cho thế hệ trẻ hôm nay. Từ đây, nhiều hoạt động có ý nghĩa và hiệu quả được tổ chức, Trung ương Hội Cựu chiến binh và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã ký kết và tổ chức thực hiện những chương trình phối hợp như: "Tăng cường bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" giai đoạn (2012 - 2017).

Cùng với đó, công tác bồi dưỡng, giáo dục thanh niên ngày càng được đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp, vừa phù hợp với tâm lý, sở thích của thế hệ trẻ, vừa gắn với các phong trào, chương trình của Đoàn, như "Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ Tổ quốc", "Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp", "Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam"... các cấp Hội trực tiếp tham mưu cho cấp ủy trong việc phối hợp xây dựng tổ chức đoàn cơ sở theo phương châm "Ở đâu có tổ chức Hội Cựu chiến binh vững mạnh, ở đó có tổ chức đoàn, phong trào thanh, thiếu nhi tốt". Thông qua hoạt động thực tiễn hàng vạn đoàn viên ưu tú đã được bồi dưỡng và giới thiệu kết nạp Đảng; cán bộ Hội tích cực động viên thanh niên lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự; tham gia quản lý, giáo dục thanh - thiếu niên hư tại địa phương... góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Hội đối với đoàn viên thanh niên.

Phát huy tinh thần và truyền thống của những người lính năm xưa đã tham gia chiến đấu trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng, trong chặng đường 28 năm qua (1989-2017), hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam mỗi người một hoàn cảnh, một lối sống, một phong cách nhưng tất cả tạo nên một diện mạo chung, một vẻ đẹp chung của "Bộ đội Cụ Hồ" khi trở về với đời thường. Các hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam - những người đã chiến đấu quên mình để làm nên những chiến công oanh liệt Xuân Mậu Thân 1968, tiến công chiến lược 1972 và Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975... vẫn phát huy bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của người lính năm xưa, nỗ lực phấn đấu, đẩy mạnh phong trào thi đua "Cựu chiến binh gương mẫu", phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" "Trung thành - Đoàn kết - Gương mẫu - Đổi mới" cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VI của Hội Cựu chiến binh Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 04:02:19 pm
MỐI QUAN HỆ GIỮA MỤC TIÊU - QUYẾT TÂM - THỰC LỰC
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



Trung tướng, PGS.TS. TRẦN VIỆT KHOA
Giám đốc Học viện Quốc phòng


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta phải đương đầu với một đối thủ có tiềm lực kinh tế, quân sự và khoa học kỹ thuật mạnh hơn. Để đánh thắng một kẻ thù như vậy, Đảng ta nhận thấy rằng ta không chỉ thắng địch bằng ý chí và tinh thần yêu nước, mà còn phải thắng chúng bằng trí thông minh, sáng tạo, bằng sức mạnh tổng hợp của cả nước kết hợp với sức mạnh của thời đại, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của ta (khi đó được đề ra là cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa) được diễn ra trong bối cảnh Mỹ đã "leo" đến những "nấc thang cao nhất" trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trên 50 vạn quân Mỹ và quân chư hầu đã được huy động đến chiến trường miền Nam, cỗ máy chiến tranh của nước Mỹ đã được huy động đến mức tối đa. Trước đó, trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, Mỹ đã tiến hành hai cuộc phản công chiến lược nhưng kết quả thu được lại rất tồi tệ, quân viễn chinh Mỹ ngày càng bị sa lầy và chịu nhiều tổn thất cả về sinh lực và các phương tiện chiến tranh. Thông tin về cuộc chiến ở Việt Nam đã trở thành những tin nóng hổi và nhạy cảm trên các phương tiện truyền thông của nước Mỹ và các nước khác trên thế giới. Nền kinh tế Mỹ bước vào suy thoái, nước Mỹ bị chia rẽ nghiêm trọng. Nội bộ trong giới cầm quyền Mỹ trở nên lục đục, uy tín của nước Mỹ trên thế giới bị giảm sút nghiêm trọng. Đó là tình hình của phía Mỹ trước khi ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968.

Về phía ta, từ khi trực tiếp đương đầu với quân đội viễn chinh Mỹ, nhất là những cuộc đọ sức trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 đã khẳng định: chúng ta hoàn toàn có thể đánh thắng quân đội viễn chinh Mỹ và quân đội đồng minh. Thực tiễn chiến trường cho thấy, quân và dân ta càng đánh càng mạnh, càng thắng và nắm quyền chủ động, đẩy địch lún sâu vào thế bị động phòng ngự trên khắp các chiến trường. Cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta được các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc cùng nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ. Tuy vậy, ta cũng nhận thấy rằng với cách đánh tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch ở quy mô nhỏ, cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc sẽ phải diễn ra lâu dài và gian khổ. Mỹ lại đang có nguy cơ bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh cục bộ", đang bị động, lúng túng về chiến lược, chiến thuật. Một thất bại về quân sự đối với Mỹ lúc này sẽ có tác động mạnh đến tình hình chính trị của nước Mỹ vì đây là năm bầu cử tổng thống Mỹ (11-1968). Trong chương trình tranh cử, các ứng cử viên tổng thống của nước Mỹ đều lấy việc "chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam" làm một trong những chủ đề chính để vận động tranh cử. Vì vậy, thực tiễn đặt ra đối với Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta là phải tìm ra cách đánh khác sáng tạo, táo bạo hơn nữa nhằm tạo ra cú sốc lớn đối với Mỹ, thông qua đó đập tan ý chí xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ. Ý đồ chiến lược đó dần được hình thành và trở thành quyết sách của Đảng ta. Bộ Chính trị đã họp (tháng 10 và 12-1967) và sau đó Ban Chấp trung ương Đảng (khóa III) đã họp Hội nghị lần thứ 14 (1-1968), ra nghị quyết lịch sử, quyết định: thực hiện cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa để chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân miền Nam bất ngờ, đồng loạt tiến công kết hợp với nổi dậy ở 4 thành phố (trọng tâm là Sài Gòn - Gia Định và Huế), 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn, trong đó các cơ quan đầu não (Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn), các mục tiêu quan trọng như: căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng, nhiều Sở chỉ huy cấp quân khu, quân đoàn, sư đoàn đều bị ta tiến công. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy kéo dài tới tận cuối tháng 9-1968 mới kết thúc. Ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm chủ nhiều nơi với thời gian dài ngắn khác nhau. Quân và dân ta "đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp, 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu, 700 kho đạn, diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu" . Giờ đây, sau 50 năm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, chúng ta có thể thấy rõ hơn nhiều vấn đề:

Một là, cần khẳng định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là vô cùng to lớn, đạt được mục tiêu đã đề ra.

Để khẳng định điều này, chúng ta cần phân tích sự tác động của sự kiện năm 1968 trên chiến trường miền Nam đến các phía: phía ta, phía kẻ thù.

Về phía ta, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ta đã cơ bản đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của kẻ thù (trước đó ta đã đánh bại chiến lược "chiến tranh một phía" và chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ); đã mở ra khả năng "đánh cho Mỹ cút" để tiến tới "đánh cho ngụy nhào"; Mỹ chấp nhận ngồi vào cùng ta đàm phán cũng có nghĩa là cuộc kháng chiến của dân tộc ta được chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn "đánh và đàm"; Việt Nam trở thành niềm tin của các dân tộc bị áp bức và trở thành lương tri của thời đại bởi đã dám đánh và đang thắng một kẻ thù mạnh nhất phe đế quốc - một tên "bạo chúa" của thời đại. Về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Bộ Chính trị đã kết luận: "Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà nhất là đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh".

Về phía kẻ thù, ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ đã bị lay chuyển mạnh mẽ, nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc. Các đảng phái và nhân dân tiến bộ Mỹ ngày càng nhận rõ thực chất cuộc chiến tranh ở Việt Nam, họ cảm thấy bị chính quyền Giônxơn lừa dối, phong trào phản đối chiến tranh tại Mỹ lan rộng. Tin tức về cuộc chiến ở Việt Nam trở thành những thông tin nóng hổi và cực kỳ nhạy cảm đối với dư luận Mỹ. Vì vậy, có thể nói, cuộc chiến tranh giữa Mỹ và ta đã được chuyển thành cuộc "chiến tranh trong nội bộ nước Mỹ", đặc biệt là ngay những kẻ hiếu chiến nhất trong giới cầm quyền Mỹ cũng đã phải thừa nhận là khó có thể giành thắng lợi bằng quân sự ở miền Nam Việt Nam, trong khi đó, về cơ bản là Mỹ đã tiến hành tới những nỗ lực lớn nhất về mặt quân sự. Tổng thống Giônxơn cùng ê kíp lãnh đạo của nước Mỹ bị một cú sốc buộc phải xuống thang, chấp nhận đàm phán với ta. Nếu như trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, việc đàm phán với ta bị những kẻ cầm đầu bộ máy chiến tranh của nước Mỹ ngạo mạn cho rằng "là điều sỉ nhục đối với Mỹ", thì nay chúng đã phải chịu chấp nhận điều đó. Bộ máy chiến tranh của nước Mỹ bị rơi vào khủng hoảng (Giônxơn phải thay thế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng MắcNamara bằng một nhân vật mới là Clípphớt và cách chức Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam là Oétmolen, đưa Abram lên thay); Giônxơn tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Chiến lược "chiến tranh cục bộ" đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn; sức mạnh và uy tín của Mỹ trước thế giới bị thử thách nghiêm trọng... Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã đặt Tổng thống Giônxơn trước triển vọng nếu muốn tiếp tục chiến tranh phải tiến hành động viên quân ở quy mô lớn và đặt nước Mỹ về mặt kinh tế vào tình thế nửa chiến tranh, điều mà trong những năm gần đó (trước sự kiện 1968) Giônxơn hết sức tránh. Nhà sử học Mỹ Gabrien Côncô đã viết: "Tết trở thành điểm ngoặt trong tính toán của chính quyền Mỹ... Tết cho thấy rằng đã đến lúc phải tập trung vào những hạn chế của chế độ. Nếu theo đuổi một quy mô leo thang với mức cao hơn nữa thì sẽ gây thiệt hại không kể xiết cho vị trí kinh tế của Mỹ ở trong nước cũng như ở nước ngoài, cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở những nơi khác và cho cả đời sống chính trị của Mỹ nữa. Đó là một cái giá mà ít ai nghiêm chỉnh muốn trả".

Hai là, cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa đạt được mục tiêu đã đề ra bằng quyết tâm cao và sự nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Để kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi cuối cùng, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định: ngoài việc liên tục tiến công đẩy đối phương vào thế thua, thế bị động, trong điều hành và chỉ đạo chiến tranh, Bộ Chỉ huy tối cao cần phải có quyết tâm cao, động viên nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện những "đòn đánh đủ lực" nhằm tạo ra sự thay đổi lớn trong so sánh cục diện của chiến trường hoặc của cả cuộc chiến tranh, để cách mạng tiếp tục tiến lên hoặc kết thúc chiến tranh giành thắng lợi hoàn toàn.

Những đòn đánh có thể là những cuộc tập kích chiến lược, hay những cuộc tiến công (phản công) chiến lược. Những đòn đánh được tiến hành gối đầu hoặc đồng thời trên một hoặc một số hướng hoặc trên tất cả các hướng chiến lược. Đánh vào mục tiêu càng hiểm và có kết quả, càng tạo nên bất ngờ và tác động càng lớn. Các đòn đánh quân sự cần được phối hợp nhịp nhàng với các đòn đánh trên các lĩnh vực khác, nhất là tổ chức quần chúng nổi dậy và trên lĩnh vực đấu tranh ngoại giao.

Quyết tâm cao thể hiện ở chỗ, trong điều kiện cụ thể của tình hình thế giới, khu vực và đặc biệt là so sánh lực lượng giữa hai bên tham chiến trên chiến trường lúc bấy giờ, tuy thực lực của ta còn có hạn (chưa vượt trội so với kẻ thù), nhưng với quyết tâm cao - ý chí sắt đá, với chiến lược tiến công và sự thông minh, sáng tạo, Đảng ta đã động viên được sự nỗ lực cao của cả nước, chuẩn bị kỹ lưỡng, bí mật, tạo và nắm thời cơ... giành lấy thắng lợi quan trọng tạo ra bước ngoặt để chuyển giai đoạn của cuộc chiến. Đó là bản lĩnh, lòng dũng cảm, sự nhạy bén, trách nhiệm chính trị cao, thể hiện rất rõ ý chí cách mạng tiến công của Đảng ta. Đảng ta đã không "tự giới hạn tư duy" của mình trong "khuôn khổ" của những cuộc chiến tranh truyền thống, mà đã có tư duy một cách táo bạo, trên cơ sở có sự tính toán khách quan, tỉnh táo và khoa học.

Quyết tâm cao đặc biệt được thể hiện ở việc ta lựa chọn hướng, mục tiêu chủ yếu và xác định cách đánh của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Hướng chủ yếu được ta lựa chọn là các đô thị, mà Sài Gòn - Gia Định, Huế và Đà Nẵng là ba trọng điểm. Đây là nơi địch tuy còn mạnh, nhưng lại có nhiều sơ hở, cũng là nơi đặc biệt nhạy cảm. Đánh vào đây mà có kết quả sẽ tạo ra sự tác động lớn cục diện chiến trường. Nếu như trước đây ta thường chọn rừng núi làm hướng chủ yếu cho các hoạt động quân sự có quy mô lớn vì điều đó vừa phù hợp với khả năng, cách đánh và vũ khí, trang bị của ta, vừa hạn chế những mặt mạnh cơ bản của địch là khả năng cơ động, vũ khí, trang bị hiện đại hơn và khả năng bảo đảm tốt của chúng thì có thể nói việc chọn hướng chủ yếu là các đô thị lớn là sự lựa chọn đúng đắn và táo bạo, đánh vào nơi hiểm và sơ hở, nhạy cảm cao của đối phương. Mục tiêu chủ yếu không phải là các tập đoàn quân chủ lực của địch, mà là các cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ, ngụy, vừa diệt sinh lực vừa phá hủy phương tiện chiến tranh. Đây là chỗ hiểm yếu nhất, dễ chấn động nhất. Đó là sự lựa chọn hết sức sáng tạo có một không hai trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta và ở trên thế giới.

Có một số ý kiến cho rằng: khi đó, ta chọn hướng và mục tiêu chủ yếu như vậy là có sự phiêu lưu. Đây chỉ là ý kiến số ít và chúng ta cũng cần học cách tôn trọng để rồi xem xét các ý kiến có tính phản biện đó. Nhưng, kết quả và ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã khẳng định đó là quyết định sáng suốt, táo bạo, sáng tạo, nhưng có cơ sở vững chắc của Đảng ta. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và các cơ quan chiến lược có liên quan đã đánh giá đúng tình hình và tìm ra cách đánh mới. Qua nhiều hội nghị với một thời gian khá dài (hàng năm trời) để hình thành ý tưởng, sau đó được thống nhất và biến thành chủ trương (Nghị quyết lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III), Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương còn tranh thủ ý kiến của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, cán bộ chủ trì các chiến trường và mặt trận khác trên toàn miền Nam. Như vậy, đó là một chủ trương thống nhất được bàn bạc, trao đổi cặn kẽ, tỉ mỉ, có tính toán, cân nhắc, nên không thể nói đó là sự phiêu lưu được. Trong cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học đã đề cập: "Ta (chỉ Bộ Chính trị) cũng dự kiến ba khả năng: 1) Ta thắng lớn, buộc Mỹ phải chịu thua và nhận thương lượng với ta để kết thúc chiến tranh; 2) Ta giành được thắng lợi ở nhiều nơi nhưng địch vẫn giữ được nhiều vị trí quan trọng để tiếp tục chiến tranh; 3) Mỹ tăng thêm quân và dùng lục quân đánh ra miền Bắc... mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương". Như vậy, ta đã lường trước tình hình có thể diễn ra ở nhiều khả năng.

Về cách đánh, dựa trên phương châm tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng, nhưng ta chủ trương tiến hành trên một diện rộng ở cả ba vùng chiến lược, trên toàn chiến trường miền Nam, đó cũng là điểm khác so với các hoạt động quân sự trước đó. Lực lượng sử dụng đánh vào các mục tiêu chủ yếu trong nội đô cũng có sự khác biệt, là các đơn vị biệt động, đặc công và các tiểu đoàn mũi nhọn. Trước đó ta thống nhất với nước bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc trên đất Lào và chủ động mở chiến dịch tiến công quy mô lớn ở mặt trận Đường 9 - Khe Sanh cùng với các hoạt động quân sự khác, rộng khắp, nhằm thu hút, giam chân quân cơ động Mỹ, ngụy ở vòng ngoài, tạo điều kiện cho hướng chủ yếu giành thắng lợi. Đây là cách đánh, quy mô lực lượng được sử dụng và cách tổ chức lực lượng chưa có tiền lệ trong các cuộc chiến tranh của dân tộc ta.

Ba là, đánh giá đúng tình hình luôn là một trong những vấn đề rất khó, nhưng cực kỳ quan trọng để chỉ đạo, điều hành chiến tranh, về cơ bản ta đã có sự đánh giá đúng.

Đánh giá đúng tình hình (trong đó có đánh giá về kẻ thù) luôn là vấn đề cực kỳ quan trọng và cực khó. Cực kỳ quan trọng bởi đó là cơ sở để đưa ra các chủ trương, đường lối, quyết sách, hạ quyết tâm và tiến hành các biện pháp chiến lược trong quá trình điều hành, chỉ đạo chiến tranh. Đánh giá đúng tình hình còn là cơ sở để xây dựng ý chí quyết đánh, quyết thắng, lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc, tinh thần vượt mọi khó khăn, gian khổ cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, cũng như làm công tác chuẩn bị về mọi mặt cho các hoạt động chiến tranh. Cực khó bởi kẻ thù luôn tìm cách che giấu ý đồ, tiến hành các hoạt động một cách bí mật, đồng thời lại tiến hành nhiều hoạt động nghi binh đánh lừa ta.

Về nội dung, Đảng ta đã đánh giá toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực và khía cạnh (quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ; thực tế trên chiến trường, gắn với tình hình của nước Mỹ khi đó và đặt trong tình hình, xu hướng vận động, phát triển ở khu vực và trên thế giới), trong đó lấy so sánh thế và lực giữa ta và địch trên chiến trường làm nội dung chính để làm căn cứ.

Về phương pháp, ta đã thực hiện một cách khách quan, toàn diện, khoa học, cách mạng, tỉ mỉ và biện chứng. Đánh giá về đối phương trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, về cơ bản ta đã đánh giá đúng. Nhờ vậy mà ta đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Tuy nhiên, ở một số thời điểm cụ thể ta còn có sai sót về vấn đề này, nhất là sau đợt 1 (tiến công trong dịp Tết Mậu Thân). Trong cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học có ghi: "Ta cũng mắc một số khuyết điểm lớn trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay để chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta..." . Trong cuốn sách Tổng kết tác chiến chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), khi đề cập đến vấn đề này cũng ghi: "Nhưng sau đó địch chuyển sang thực hiện biện pháp "quét và giữ". Ta đánh giá chưa đúng âm mưu và tính chất thâm độc của địch, chuyển hướng chiến lược chậm nên bị tổn thất lớn, thế trận chiến lược bị thụt lùi một cách rất nghiêm trọng. Đây chính là thời kỳ khó khăn, ác liệt và tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam".

Tuy nhiên, ở góc độ nghiên cứu, tổng kết nghệ thuật quân sự, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề sau về những hạn chế của ta.

Thứ nhất, bàn về mối quan hệ giữa thực lực và yêu cầu đặt ra. Thực lực của cách mạng Việt Nam khi đó còn có hạn, nhưng Đảng ta đã động viên được nỗ lực rất cao của cả nước để hy vọng giành được thắng lợi quyết định, song thực tế chưa đạt được như mong muốn. Điều đó cũng có nghĩa là ta đặt ra yêu cầu cao hơn thực lực của ta. Thực lực của ta chưa cho phép giành thắng lợi quyết định mà còn cần phải trải qua những nỗ lực tiếp theo và có thời gian để tiếp tục chuyển hóa thế trận cũng như lực lượng, tạo thời cơ mới có lợi hơn... Điều này được thực tiễn của cách mạng nước ta chứng minh (ta còn cần tới thời gian là 7 năm nữa, với những nỗ lực cũng rất cao, đặc biệt còn phải tiến hành tới hai "keo" là hai cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và 1975, ta mới "đánh cho Mỹ cút" và "đánh cho ngụy nhào"). Việc chưa nên đặt vấn đề giành thắng lợi hoàn toàn có một số lý do sau:

Một là, lực lượng quân sự của Mỹ, chư hầu và ngụy quân trên chiến trường miền Nam còn trên 1 triệu tên với đầy đủ vũ khí, trang bị hiện đại, được tổ chức chặt chẽ, tuy chúng có bị động về chiến lược và tinh thần có hoang mang, xuống thấp, nhưng chưa phải đã bị tê liệt. Chúng vẫn chiếm giữ nhiều địa bàn quan trọng. Trong lịch sử chiến tranh trên thế giới, từ xưa đến nay, cũng chưa có tiền lệ nào xảy ra khi lực lượng quân sự trên chiến trường chưa bị đánh bại mà đối phương có thể giành được thắng lợi tương tự như điều kiện thực tiễn trên chiến trường miền Nam của ta trong năm 1968.

Hai là, bộ máy kìm kẹp của chúng (ngụy quyền) là cả một hệ thống được thiết lập từ trung ương đến cơ sở chưa thể sụp đổ ngay, bởi chúng còn được sự hỗ trợ trực tiếp từ lực lượng quân sự của Mỹ, quân chư hầu và ngụy quân. Bộ máy này cũng có kinh nghiệm trong đối phó với các hoạt động của ta và cơ bản vẫn giữ được hiệu lực trong quản lý các vùng chúng chiếm giữ. Trong bộ máy đó, có quá nhiều những tên tay sai cực kỳ phản động, có nhiều nợ máu đối với cách mạng, vì vậy chúng sẽ điên cuồng chống phá cho đến cùng. Về vấn đề này, sau khi tổng kết ta đã nhận định: "Ta mong muốn cùng một quá trình, bằng nhiều đợt tiến công và nổi dậy liên tục, giành toàn thắng, đánh bại cùng một lúc cả hai đối tượng (Mỹ và ngụy) là không thể làm được".

Thứ hai, bàn về sự cần thiết chuyển hướng khi thời cơ thuận lợi đã qua. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 được diễn ra qua 3 đợt: đợt 1 từ 30-1 đến 25-2; đợt 2 từ 5-5 đến 25-6 và đợt 3 từ 17-8 đến 30-9-1968". Có thể nói, hết đợt 1, thời cơ để ta đánh vào các đô thị đã trôi qua, tính bất ngờ không còn nữa. Địch tiến hành nhiều biện pháp và thủ đoạn mới, củng cố và tổ chức lại lực lượng, thực hành phản công ta ở cả thành thị và nông thôn; lực lượng ta có tổn thất, sự bổ sung là không đáng kể, nhiều cơ sở của ta đã bị lộ, một số cán bộ bị địch bắt, không chịu được những đòn tra tấn dã man của kẻ thù đã khai báo những thông tin họ nắm được... Nhưng, ta đánh giá tình hình chưa đầy đủ, chưa khách quan và có sự nóng vội muốn giành thắng lợi lớn (quyết định), nên vẫn đưa ra chủ trương trong đợt 2 tiếp tục đánh vào các đô thị là không hợp lý. Lúc này, ta cần phải chuyển hướng, giữ vững các vùng nông thôn. Trong cuốn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập V có ghi: "sau đợt 1, thời cơ đã mất, ta vẫn chủ trương tiếp tục tổng tiến công vào thành phố, thị xã, để hở mặt trận nông thôn. Đáng lẽ sau đợt Tết Mậu Thân, ta kịp thời chuyển hướng về mặt trận nông thôn... thì thắng lợi của ta sẽ lớn hơn và hạn chế được tổn thất" . Trong sách Đại cương Lịch sử Việt Nam cũng đưa ra nhận định: không điều chỉnh kế hoạch rút khỏi thành phố sau đợt 1 về giữ vùng nông thôn của ta để bảo toàn và củng cố lực lượng ta.

Thứ ba, bàn về phương thức tiến hành. Ta đề ra là tổng công kích và tổng khởi nghĩa, nhưng kết quả thực tiễn trên chiến trường đòi hỏi ta phải xem xét lại phương thức đề ra như vậy có phù hợp không? Thực tế chỉ mới có vế thứ nhất (các đòn đánh quân sự - tổng công kích) đã diễn ra. Còn các hoạt động nổi dậy (tổng khởi nghĩa) có diễn ra, nhưng đạt đến quy mô và ý nghĩa của tổng khởi nghĩa là chưa, nhất là ở các thành phố lớn. Có một quy luật mang tính phổ biến là: khi chiến tranh đi đến giai đoạn cuối, thì các đòn đánh quân sự sẽ thường mang ý nghĩa quyết định. Với chúng ta, các hoạt động nổi dậy của quần chúng, chúng ta không bao giờ coi thường, nhưng nổi dậy của quần chúng phải có những điều kiện khách quan, chủ quan. Các đòn đánh quân sự cần đi trước một bước để tạo điều kiện, thời cơ trực tiếp cho sự nổi dậy (tổng khởi nghĩa) của quần chúng. Nhưng khi đó ở miền Nam, lực lượng quân sự và hệ thống chính quyền Sài Gòn (đã được trình bày ở trên) còn khá mạnh. Các điều kiện về thời cơ cho tổng khởi nghĩa chưa được hội tụ (chuẩn bị) đầy đủ, do đó việc đề ra tổng khởi nghĩa là chưa phù hợp. Về điều này, trong cuốn sách Tổng kết tác chiến chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975) đã chỉ rõ: "Mục tiêu khởi nghĩa ở địa phương không đạt. Trên thực tế không có khởi nghĩa".

Tuy vậy, với quyết tâm cao, nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã đạt mục tiêu đề ra, tạo bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 04:55:04 pm
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG "THẾ TRẬN LÒNG DÂN" TRONG KHU VỰC PHÒNG THỦ
TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU 7



Trung tướng, ThS. PHẠM VĂN DỸ
Chính ủy Quân khu 7


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm chấn động Lầu Năm Góc, rung chuyển cả nước Mỹ, khởi đầu một quá trình đi xuống về chiến lược trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy này, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh bại về cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã cho thấy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sức mạnh của toàn dân đánh giặc, là sức mạnh chính trị - tinh thần góp phần cùng sức mạnh quân sự; là sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân trên nền tảng sức mạnh của "thế trận lòng dân".

Ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là sau phong trào Đồng khởi năm 1960, vai trò của lực lượng nổi dậy được Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền rất chú trọng. Tháng 10-1967, Trung ương Cục ra Nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn chiến trường B2. Tháng 1-1968, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng xác định: "Cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang trên các chiến trường chính và sự nổi dậy của nhân dân ở các thành thị lớn là hai mũi tiến công chính kết hợp chặt chẽ với nhau, trợ lực lẫn nhau và thúc đẩy toàn bộ cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa khắp cả ba vùng thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi. Đặc biệt, cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các thành thị lớn là mũi nhọn thọc vào yết hầu của địch, có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ chiến trường và toàn cuộc chiến tranh". Tại khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, ta đã chỉ đạo xây dựng được nhiều lõm căn cứ ở vùng ven và trong nội đô Sài Gòn. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn, để xây dựng lực lượng chính trị tại chỗ đủ khả năng nổi dậy kết hợp với lực lượng vũ trang tiến công địch giành chính quyền là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nhằm khắc phục khó khăn này, Trung ương Cục, Quân ủy Miền đã thành lập chỉ huy lực lượng nổi dậy bên cạnh chỉ huy tiến công quân sự. Về phương thức xây dựng lực lượng chính trị, cơ sở cách mạng trong vùng địch kiểm soát, Quân ủy Miền chỉ đạo: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động xây dựng các cơ sở cách mạng, hình thành bàn đạp trong thành phố, ở những nơi hiểm yếu, đô thị, tiếp giáp các mục tiêu chiến lược của địch, làm nơi trinh sát nắm địch, nơi cất giấu vũ khí trang bị, điểm trú ém quân, điểm xuất phát của các đơn vị vũ trang tiến công địch; phát triển lực lượng trong các tổ chức quần chúng cách mạng, tuyên truyền giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, động viên tinh thần sẵn sàng "xuống đường" nổi dậy kết hợp với lực lượng vũ trang tiến công địch giành chính quyền về tay nhân dân; chuẩn bị lực lượng, vật chất sẵn sàng phục vụ chiến đấu và tham gia chiến đấu khi có yêu cầu.

Do có sự chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất, kế thừa những thành công của "vành đai diệt Mỹ" và kinh nghiệm trong phong trào Đồng khởi 1960, chỉ sau một thời gian ngắn, trên toàn chiến trường Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, một đội quân chính trị hùng hậu đã sẵn sàng tham gia cuộc nổi dậy giành chính quyền ở khắp các vùng từ nông thôn đến thành thị. Khí thế nổi dậy ở chiến trường trọng điểm Đông Nam Bộ, đặc biệt là tại Sài Gòn - Gia Định, công tác xây dựng lực lượng chính trị, tuyên truyền vận động quần chúng ủng hộ cách mạng, tham gia nổi dậy phá ách kìm kẹp được các cấp ủy đảng, chỉ huy các phân khu quan tâm ngang với công tác chuẩn bị lực lượng quân sự. Đến trước khi phát lệnh tổng tiến công và nổi dậy, tại chiến trường Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, ta đã xây dựng được nhiều lõm căn cứ vùng ven. Điển hình là: Hưng Long (Cần Giuộc), Long Cang, Long Định (Cần Đước), Vườn Thơm - Bà Vụ, Vĩnh Lộc, Tân Nhựt (Bình Chánh), Thạnh Lộc, An Phú Đông (Hóc Môn), vùng Bưng 6 xã (Thủ Đức), Phú Xuân (Nhà Bè), Hóc Bà Thức (Biên Hòa), Lê Hồng Phong (Bình Thuận)... Các lõm này vừa là địa điểm tập kết lực lượng, vũ khí, lương thực, vật chất phục vụ cho các trận đánh; đồng thời cũng là địa điểm tập trung các tổ chức quần chúng cách mạng ở vùng ven, sẵn sàng phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công vào nội đô. Bằng nhiều ngả đường, với nhiều cách ngụy trang độc đáo, bằng đủ các loại phương tiện và hình thức vận chuyển, quần chúng cách mạng của các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa, Kiến Tường, Biên Hòa tổ chức đưa hàng trăm tấn vũ khí, lương thực, vật chất đến các lõm căn cứ chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định.

Cùng thời điểm cuối năm 1967, trong nội đô Sài Gòn, các đơn vị bảo đảm đã xây dựng được 19 lõm chính trị bao gồm 325 gia đình, có 11 cơ sở ém vũ khí và phương tiện di chuyển, 13 cơ sở khác có hầm chứa vũ khí. Tiêu biểu là các lõm ở các ấp Bác Ái, cầu Bông (Gia Định), khu lao động Bàn Cờ (Quận 3), khu Xóm Chùa, Tân Định (Quận 1)... Một số cơ sở có hầm chứa vũ khí phục vụ các trận đánh quan trọng như: hầm 287/70 Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) do Trần Văn Lai (Mai Hồng Quế) xây dựng; hầm 438/58 đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng Tháng Tám) do vợ chồng Lê Tấn Quốc (Bảy rau muống) xây dựng; hầm 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quận 1) cách Đài Phát thanh Sài Gòn không đầy 100 mét, do Trần Phú Cương (Năm Mộc) xây dựng... Ngoài ra, còn có rất nhiều cơ sở cách mạng sau khi được tuyên truyền vận động đã tình nguyện đào hầm bí mật cất giấu vũ khí, làm nơi trú ém quân ngay trong gia đình mình, trước sự lục soát, giám sát, kìm kẹp rất gắt gao của kẻ thù. Nhờ sự đùm bọc, cưu mang của các cơ sở trong nội đô, 11 đội biệt động thành và 50 đội biệt động cấp quận vừa thành lập có những địa điểm trú ém quân, cất giấu vũ khí an toàn ngay sát căn cứ địch.

Cùng với nhiệm vụ xây dựng lõm căn cứ, tạo bàn đạp tiến công, công tác xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng phối hợp cùng lực lượng vũ trang phá ách kìm kẹp, giành chính quyền tại miền Đông Nam Bộ đã được Trung ương Cục, Quân ủy Miền rất quan tâm. Để chỉ đạo kịp thời việc phát triển lực lượng và tổ chức hoạt động của lực lượng quần chúng cách mạng, Quân ủy Miền đã phân công cán bộ phụ trách khối khởi nghĩa và nổi dậy từ cấp Miền xuống đến cấp tỉnh. Lực lượng nổi dậy hướng Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt phụ trách chung. Trách nhiệm chỉ đạo các khối thuộc về các quận ủy, huyện ủy, Ban Công vận. Thành Đoàn có nhiệm vụ tập hợp thanh niên nội đô, gồm 3 bộ phận: lực lượng vũ trang Thành Đoàn (đội biệt động) đánh các mục tiêu quan trọng; lực lượng chính trị vũ trang có nhiệm vụ tuyên truyền vũ trang phát động quần chúng nổi dậy; lực lượng chính trị công khai giương cao ngọn cờ hòa bình, trung lập để tập hợp tầng lớp trí thức, nhân sĩ, chức sắc tôn giáo. Ban Phụ vận Thành ủy đã bố trí những cán bộ có kinh nghiệm gây dựng cơ sở nòng cốt, chuẩn bị địa điểm trú ém quân tại chỗ và bảo đảm hành lang cho các đơn vị bộ đội tiến vào nội đô; chuẩn bị cờ, khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn cho cuộc nổi dậy. Những lõm chính trị phát triển nhanh trong nhiều khu lao động: Chợ Thiếc, Bàn Cờ, Vườn Chuối, Hòa Hưng, Vườn Lài, Ngã Bảy...

Tại Sài Gòn, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Phụ vận, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng, những đội quân tóc dài từ làng xóm ven đô đã kéo vào thành phố, thị xã, quận lỵ. Sáng 29 Tết âm lịch, nhiều nữ chiến sĩ trong lực lượng đấu tranh chính trị đóng giả là người đi chợ Tết để vào nội thành rồi ở lại. Lực lượng quần chúng ở các vùng nông thôn đã sẵn sàng. Cùng với phong trào phụ nữ, phong trào của trí thức, học sinh, sinh viên diễn ra rầm rộ. Ngày 22-1-1968, tại Trường tiểu học Hùng Vương, Liên hiệp giáo chức và phụ huynh học sinh Sài Gòn tổ chức buổi lễ "Cây mùa Xuân Mậu Thân", tập hợp hơn 7.000 người tham gia. Tại buổi lễ, học sinh treo bản đồ nước Việt Nam thống nhất, bất chấp quy định của chính quyền Sài Gòn. Ngày 26-1, tại Trường Quốc gia hành chính, Hội đồng đại diện sinh viên phối hợp với Tổng hội sinh viên tổ chức đêm văn nghệ "Mừng Tết Quang Trung", thu hút 12.000 sinh viên tham gia. Hàng vạn người vượt qua sự phong tỏa của cảnh sát, chính quyền, kéo về biểu dương lực lượng trong đêm hội. Xung quanh một sân khấu lớn với ý tưởng thiết kế cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung, sinh viên hát vang các bài hát truyền thống cách mạng như "Lên đàng", "Thăng Long hành khúc", "Hội nghị Diên Hồng", "Hát cho dân tôi nghe"... Trong buổi lễ, sinh viên biểu thị tinh thần yêu nước và khí thế sôi sục trước ngày tổng tiến công, tạo động lực cho cuộc xuống đường của mọi tầng lớp quần chúng nhân dân toàn thành phố.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra đồng loạt ở Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, nhưng quyết liệt nhất là ở Sài Gòn - Gia Định và Biên Hòa. Tại Sài Gòn - Gia Định, rạng sáng ngày 31-1 các mục tiêu chiến lược đầu não của địch gồm sân bay Tân Sơn Nhất, Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh Sài Gòn, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn... bị các đội biệt động và các đơn vị mũi nhọn của ta tiến công, đánh chiếm. Tại Biên Hòa, lực lượng Sư đoàn 5 và các đơn vị vũ trang tỉnh Biên Hòa đã tiến công vào sân bay Biên Hòa và nhiều mục tiêu quan trọng trong thành phố.

Cuộc tiến công bất ngờ, đồng loạt, dồn dập của ta trên 5 hướng vào Sài Gòn đã làm cho địch bị choáng váng. Tuy nhiên, do lực lượng quá chênh lệch và bị địch phản kích quyết liệt, nên chỉ sau vài giờ làm chủ, lực lượng biệt động của ta không còn giữ được mục tiêu. Các đơn vị tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa và các mục tiêu trong Sài Gòn đều phải trụ lại đánh địch phản kích. Sau thắng lợi ban đầu, các mũi tiến công quân sự bị tổn thất lớn. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho mũi tiến công chính trị (lực lượng nổi dậy) không bùng nổ. Tuy không có những cuộc nổi dậy xuống đường rầm rộ, nhưng trên tất cả các địa điểm xảy ra chiến sự, Quân giải phóng đều nhận được sự giúp đỡ của nhân dân. Ngay từ sáng 31-1-1968, mặc dù địch phản kích dữ dội nhưng hàng trăm đồng bào trong nội đô Sài Gòn vẫn tìm mọi cách tiếp tế, cứu chữa thương binh và chỉ đường cho các đơn vị thọc sâu của ta tiến công. Vùng ven đô, du kích Củ Chi, Hóc Môn đã tổ chức vũ trang tuyên truyền phá hàng loạt đồn bốt của địch dọc theo các tỉnh lộ 15, 8. Tại Biên Hòa, lực lượng tự vệ vũ trang phối hợp với đặc công của Sư đoàn 5 đánh vào Ty Cảnh sát và một số đồn bốt gây cho địch nhiều thiệt hại. Tại Phan Thiết, Đội biệt động 480 của thị xã tiến công vào khu Camp Esepic, Ty Cảnh sát; các tổ tuyên truyền phát loa kêu gọi nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ địa bàn.

Sau một ngày tiến công kết hợp trụ bám các mục tiêu đánh địch phản kích, đến chiều ngày 31-1-1968, hầu hết các đơn vị mũi nhọn của ta ở Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phải rút ra khỏi các thành phố, thị xã. Trong thời điểm vô cùng gay go, ác liệt này, chính nhờ có sự giúp đỡ, cưu mang hết sức, hết lòng của quần chúng nhân dân, nên phần nào làm giảm đi những hy sinh, tổn thất cho các đơn vị. Mặc dù trong quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu và tuyên truyền vận động cách mạng, nhiều gia đình cơ sở và quần chúng cách mạng đã chịu nhiều tổn thất (nhất là trong đợt 2, đợt 3), nhưng đóng góp của quần chúng nhân dân là rất to lớn, gây tiếng vang về chính trị ở trong nước và quốc tế. Chính hãng tin Pháp AFP, ngày 3-2-1968 đã phải thú nhận: "Sai lầm nghiêm trọng nhất của Cục Tình báo Mỹ chắc chắn ở chỗ không tin rằng Việt cộng có thể động viên nhiều người như thế và mở ra những cuộc tiến công phối hợp mạnh mẽ đến mức đó. Từ hai năm nay ở Mỹ người ta luôn khẳng định tinh thần Việt cộng đã lung lay lắm rồi!".

Trong cuộc Tổng tiến tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, "thế trận lòng dân" đã được tổ chức rộng khắp, có hiệu quả. Mặc dù thời điểm đó ở Sài Gòn, do nhiều nguyên nhân mà "chúng ta sử dụng chủ lực chỉ có một phần, còn phần lớn là đặc công và biệt động, không có nổi dậy khởi nghĩa của quần chúng". Nhưng sự tham gia giúp đỡ đông đảo, hăng hái của nhân dân đối với lực lượng biệt động, bộ đội trước, trong và sau chiến đấu... tự nó đã phản ánh sâu sắc sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến và khát vọng về độc lập, tự do, thống nhất đất nước của quần chúng nhân dân. Ở đây, "thế trận lòng dân" không chỉ là chỗ dựa cho các đơn vị vũ trang của ta tiến công địch, mà còn trực tiếp gây cho đối phương những khó khăn to lớn ngay tại trung tâm đầu não của chúng, làm cho địch hoang mang, dao động, lúng túng...

Hiện tại và tương lai, để đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm lược kiểu mới (nếu xảy ra), giải pháp cơ bản của chúng ta vẫn là "Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc" . Trong đó, việc chăm lo, củng cố "thế trận lòng dân" làm nền tảng để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc là yêu cầu cấp thiết và là nội dung cốt lõi.

Quá trình hội nhập đang mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng những thách thức khó lường. Tất cả đang đặt ra những yêu cầu mới, cả về nhận thức và hành động, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Địa bàn Quân khu 7, trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những mục tiêu trọng điểm của âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, nơi đang tiềm ẩn không ít những nhân tố mất ổn định cả bên trong và bên ngoài. Đây là địa bàn đặc biệt nhạy cảm về chính trị. Mọi diễn biến xảy ra dù lớn hay nhỏ đều có tác động nhanh chóng ra phạm vi cả nước và trên thế giới.

Nhận thức rất rõ vấn đề đó, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu phối hợp với cấp ủy, chính quyền các cấp tăng cường xây dựng "thế trận lòng dân" - một trong những nhân tố quan trọng của thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất, củng cố và giữ vững niềm tin, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. "Thế trận lòng dân" là sự phản ánh kết quả xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của cả hệ thống chính trị trong việc chăm lo công tác quốc phòng - quân sự địa phương, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh trên địa bàn, gắn xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Trên cơ sở đó, thực hiện tốt công tác chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội và công tác dân vận trong lực lượng vũ trang các cấp.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ "dân vận khéo thì việc gì cũng thành công", các đơn vị trong Quân khu đã đẩy mạnh phong trào thi đua giúp dân; hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ về các xã vùng sâu, vùng xa, các xã còn gặp nhiều khó khăn để giúp địa phương xây dựng các công trình giao thông nông thôn, sửa chữa trường học, bệnh xá, nạo vét kênh mương, giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn; đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, vì người nghèo, quyên góp ủng hộ đồng bào vùng bị thiên tai, lũ lụt, xây nhà tình thương đã phát triển sâu rộng.

Trong khó khăn, phức tạp, lực lượng vũ trang Quân khu luôn là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của cấp ủy, chính quyền và nhân dân trên địa bàn; mỗi việc làm của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu trong công tác vận động quần chúng không chỉ thể hiện những giá trị cao đẹp về tinh thần tương thân, tương ái mà còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc, xây dựng tình quân dân "cá nước", làm sáng thêm hình ảnh "Bộ đội cụ Hồ" trong lòng nhân dân.

Từ thực tiễn hoạt động của lực lượng vũ trang Quân khu, để xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề trọng yếu sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí, vai trò của "thế trận lòng dân"; đồng thời, có các chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.

Trong 30 năm kháng chiến (1945-1975), kế thừa và phát triển tinh hoa truyền thống dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc, làm nên thắng lợi vĩ đại, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Lúc đó, từ Trung ương đến cơ sở, từ lãnh tụ đến nhân dân, từ cán bộ, đảng viên đến quần chúng, từ quân đến dân... hầu như không ai gợn chút quyền lợi riêng tư; mỗi lời nói, mỗi hành động của các thành viên trong hệ thống chính trị, trong Đảng, của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang là lời hiệu triệu, là niềm tin tuyệt đối đối với nhân dân. Một sức mạnh to lớn được hình thành, người dân sẵn sàng hy sinh tài sản, quyền lợi, người thân và kể cả quyền thiêng liêng nhất của con người là sự sống... để cùng nhau đạt được mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong hòa bình, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Việc chuyển từ chiến tranh sang hòa bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh và đặt ra các yêu cầu mới về quản lý kinh tế - xã hội. Do vậy, việc huy động sức dân trong giai đoạn hiện nay phải bằng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, mà chủ trương, chính sách, đường lối đó phải tác động có lợi, phải "hợp lòng dân". Chính việc đem lại những quyền lợi, "hợp lòng dân" sẽ là cơ sở cho niềm tin vào Đảng. Muốn làm được điều đó phải bắt đầu xây dựng cơ sở ngay trong thời bình, bằng chính hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội của công cuộc đổi mới. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân. Hay nói cách khác, niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng, chính quyền hiện nay chính là kết quả - hiệu quả của công cuộc đổi mới. Kết quả - hiệu quả của các chủ trương kinh tế - xã hội ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương sẽ tác động đến tất cả các tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp.

Trong quá trình đổi mới, tất yếu xuất hiện "sự ngổn ngang, phức tạp", đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt, thấu đáo của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng "Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân" được Đảng, Nhà nước đang quyết tâm thực hiện nhằm tập trung vào việc tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đó. Phải xác lập các cơ chế cho từng lĩnh vực, từng ngành, từng khu vực kinh tế... và làm sao cho mỗi bước tiến về kinh tế là mỗi bước phát triển về xã hội. Phải kiến tạo nền kinh tế nhân văn, mà ở đó không người dân nào bị bỏ lại phía sau. Đây là quá trình cọ xát rất lớn giữa các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước nói chung, với các thành phần kinh tế, các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau nói riêng, thậm chí trong đó có cả những nhóm lợi ích tiêu cực. Sự cọ xát đó sẽ tạo ra sự phản ứng lại của nhân dân, mà sự phản ứng lại đó là tín hiệu, là yêu cầu để Nhà nước, để hệ thống chính trị của mình phải liên tục đổi mới, cải cách cho phù hợp với lòng dân, phù hợp với nhu cầu của nhân dân. Đảng, chính quyền phải tiếp thu ý kiến của nhân dân, dân nói đúng phải nghe, chỗ nào chưa phù hợp phải chỉ cho dân thấy, có như vậy mới tạo được sự đồng thuận trong nhân dân... Hiện nay, chúng ta đang thực hiện tương đối hiệu quả vấn đề này, hệ thống chính trị tiếp dân, Quốc hội lắng nghe nhân dân, quân đội làm tốt công tác dân vận.

Để thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương phải có chủ trương và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức, đoàn thể trong sạch vững mạnh; nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tệ quan liêu, nhũng nhiễu nhân dân. Muốn vậy, phải phát huy tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính, công khai, minh bạch các quy hoạch, các định mức giá, các thủ tục, thời hạn giải quyết, thi hành các quyết định quy hoạch đô thị, khu - cụm công nghiệp, giải tỏa - đền bù đất đai, các dự án phát triển nông thôn...; bởi đây đang là những vấn đề "nóng" gây bức xúc trong các tầng lớp nhân dân.

Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng - an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân.

Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải tiến hành tốt công tác giáo dục quốc phòng cho nhân dân. Giáo dục quốc phòng không chỉ là nâng cao ý thức quốc phòng, kiến thức quân sự đơn thuần mà còn là giáo dục để nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, kiên trì mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Làm tốt công tác giáo dục quốc phòng không những bảo đảm chất lượng nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh mà còn tác động tích cực đến nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn phát triển mạnh mẽ và bền vững; khơi dậy trong mỗi người dân Việt Nam lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, làm cho nhân dân sẵn sàng đóng góp công sức, nhân lực, vật lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo quyền làm chủ của nhân dân, tạo mọi điều kiện để "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

 Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải thường xuyên duy trì thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một cách toàn diện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh...; công khai các hoạt động của cơ quan, tổ chức, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương, để dân được bàn bạc, phản biện, giám sát, kiểm tra, tạo ra bầu không khí thực sự dân chủ, phấn khởi, tích cực của quần chúng nhân dân, tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân đối với các chủ trương của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương.

Quân khu 7 là một trong những địa bàn trọng điểm - nơi mà các thế lực thù địch tập trung, thực hiện ráo riết và tinh vi những thủ đoạn "đánh vào lòng người", nhằm hủy hoại cơ sở chính trị - xã hội, gây mất ổn định, làm cho dân "xa" Đảng. Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng khu vực phòng thủ, bằng những hoạt động thiết thực, lực lượng vũ trang Quân khu luôn tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường thế trận lòng dân; chủ động giúp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh cũng chính là yếu tố quan trọng để lực lượng vũ trang làm tốt công tác dân vận, tạo dựng lòng tin và sự yêu mến của nhân dân; thực hiện quân với dân một ý chí. Xây dựng hạt nhân trong "thế trận lòng dân", mỗi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên trong lực lượng vũ trang Quân khu phải được giáo dục tốt, rèn luyện tốt, phải là một chiến sĩ dân vận, kể cả khi tại ngũ và khi trở về hòa nhập với các tầng lớp nhân dân địa phương, hòa nhập vào guồng máy lao động, hòa nhập vào hệ thống chính trị. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, người lính miền Đông Nam Bộ cũng luôn sẵn sàng hy sinh xương máu của mình vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 04:59:46 pm
BÀI HỌC VỀ CÔNG TÁC BẢO ĐẢM KỸ THUẬT
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Trung tướng LÊ QUÝ ĐẠM
Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Để có thắng lợi đó, ngành kỹ thuật quân sự tổ chức bảo đảm kịp thời, hiệu quả vũ khí và trang bị quân sự cho các lực lượng tác chiến trong nội thành, các đơn vị chủ lực gồm nhiều binh chủng nổ súng đúng thời gian quy định, liên tục tiến công địch. Thành công trong bảo đảm kỹ thuật cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã để lại những kinh nghiệm quý giá trực tiếp chuẩn bị cho những năm tiếp sau của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Một là, chuẩn bị đầy đủ các chủng loại vũ khí, trang bị kỹ thuật bảo đảm cho bộ đội tác chiến, nhất là các đơn vị chủ lực, đặc công biệt động đánh thọc sâu ở ven đô và nội đô.

Trong kế hoạch tác chiến chiến lược Đông - Xuân 1968, cùng với việc chỉ đạo nâng cao khả năng tác chiến tiêu diệt lớn quân địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đặc biệt nhấn mạnh công tác chuẩn bị kỹ thuật cho cuộc quyết chiến chiến lược này. Tháng 10-1967, các chuyên ngành kỹ thuật (thuộc Tổng cục Hậu cần) xác định nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là phải bảo đảm đầy đủ vũ khí, trang bị cho bộ đội, đặc biệt là bảo đảm cho các đơn vị đánh thọc sâu ở ven đô và nội đô. Công tác bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật chi viện với mức cao nhất cho chiến trường miền Nam được ngành kỹ thuật Tổng cục Hậu cần cùng lực lượng kỹ thuật các quân khu, binh chủng, quân chủng trên miền Bắc đồng loạt tiến hành. Các kho kỹ thuật, các ga tàu, bến cảng, binh trạm, các điểm tập kết vũ khí... đều tổ chức những dây chuyền bao gói vũ khí, trang bị và bàn giao cho lực lượng vận tải. Quân khu 4, quân khu Hữu Ngạn và Tả Ngạn; Quân chủng Hải quân; các binh chủng Đặc công, Pháo binh, Công binh; các nhà máy được Cục Quân khí hướng dẫn kỹ thuật, bảo đảm vật tư, kinh phí, tiến hành vận chuyển vũ khí, đạn dược chi viện chiến trường.

Khối lượng vũ khí, trang bị bảo đảm cho Tổng tiến công được tổ chức vận tải vào chiến trường tăng từ 2 đến 2,5 lần. Do lượng hàng đưa vào tiền tuyến quá lớn, trong hoàn cảnh địch tăng cường đánh phá ác liệt, ngăn chặn trên toàn tuyến, cộng với thời tiết mưa lụt bất thường (do Mỹ gây mưa nhân tạo và thả chất phụ gia làm đường trơn lầy kéo dài) nên hàng chậm luân chuyển trên tuyến, bị tồn đọng ở các kho, binh trạm, dẫn đến lượng hàng bị thất lạc, tổn thất. Tuy nhiên, do cố gắng của tuyến vận tải từ hậu phương miền Bắc vào các hướng chiến trường nên khối lượng vũ khí, trang bị phục vụ cho Tổng tiến công đã được ngành Kỹ thuật hậu phương chuẩn bị chu đáo, chuyển tới chiến trường kịp thời, theo đúng kế hoạch trang bị của Bộ. Bằng phương tiện chủ yếu là cơ giới, Đoàn 559 đã tổ chức vận chuyển thẳng tới chiến trường Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ đạt 80% kế hoạch.

Tại miền Nam, phục vụ cho Tổng tiến công, Trung ương Cục đề ra yêu cầu cấp bách trong ba tháng phải tổ chức và sắp xếp lại lực lượng bảo đảm kỹ thuật chiến trường. Ngành Kỹ thuật thực hiện các giải pháp bảo đảm đầy đủ vũ khí, trang bị cho các lực lượng vũ trang, đặc biệt là bảo đảm cho các đơn vị thọc sâu, tác chiến ở ven đô và nội đô, thành phố, thị xã; tổ chức tiếp nhận, dự trữ ở hệ thống kho các cấp, các vùng; củng cố và phát triển hệ thống kho ở tuyến trước, ở trên các tuyến vận tải, ở tuyến hậu phương; phát triển mạng lưới kho cất giữ trong nhân dân vùng ven, nội đô, các phân khu hậu cần; đồng thời chỉ đạo ngành kỹ thuật các cấp tuyên truyền, vận động việc bảo quản, giữ gìn và sử dụng tiết kiệm, hợp lý vũ khí, trang bị trong chiến đấu.

Để làm tốt công tác chuẩn bị vũ khí, trang bị cho cuộc Tổng tiến công, lực lượng kỹ thuật toàn chiến trường được tăng cường kết hợp với lực lượng tại chỗ bảo đảm cho cả tuyến trước và tuyến sau. Khu vực trọng điểm Sài Gòn - Gia Định bố trí 6 đoàn hậu cần - kỹ thuật khu vực, phân khu. Các phân khu có nhiệm vụ tiếp nhận, cất giữ vũ khí cho các đơn vị chiến đấu trên địa bàn. Các quận, huyện trong mỗi phân khu có nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí, trang bị của phân khu và của huyện mình, chủ yếu là phân tán gửi trong nhà dân. Tại Phân khu 6 đã xây dựng được nhiều hầm bí mật chứa vũ khí, đạn dược. Ở khu vực nội đô Sài Gòn bố trí 15 điểm cất trữ ("lót ổ"), trong đó có 13 hầm chứa vũ khí. Những cơ sở "lót ổ" này chủ yếu phục vụ tác chiến nội đô, được xây dựng đơn tuyến, nhiều tuyến nhưng độc lập với nhau. Hệ thống vũ khí "lót ổ" đã thực sự tạo thế bất ngờ cho địch, tạo thuận lợi cho các lực lượng biệt động tiến công vào các mục tiêu đầu não của địch ở nội đô.

Trước ngày nổ súng Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các đơn vị đã được tăng cường trang bị các loại vũ khí mới, hiện đại như súng chống tăng B40 và B41, cối 120mm, hỏa tiễn ĐKB và H12... Các sư đoàn được tăng cường một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm, các trung đoàn trang bị 18 khẩu B41, các đại đội được trang bị 9 khẩu B40 (gấp ba lần trước đây); các đơn vị tham gia Tổng tiến công đều được trang bị súng cối 82mm và súng 12,7mm của Liên Xô; mỗi tỉnh đội được trang bị 70 khẩu B40, cấp tiểu đoàn thuộc tỉnh đội được trang bị súng AK. Tính chung cả chiến trường miền Nam trong năm 1967 ta bảo đảm được 127.130 khẩu súng các loại , trong đó hầu hết là súng mới. Đây là cố gắng lớn của ngành Kỹ thuật từ hậu phương tới chiến trường góp phần làm nên thắng lợi cho Tổng tiến công.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng trong quá trình chuẩn bị chiến đấu, công tác bảo đảm kỹ thuật vẫn còn một số hạn chế như cán bộ quân khí thiếu kiểm tra, không quản lý chắc chắn tình hình số lượng, chất lượng, đồng bộ vũ khí đạn; đôi khi chưa quan tâm đến tình hình chất lượng, đồng bộ nên đã ảnh hưởng đến thời cơ và sức chiến đấu của bộ đội.

Hai là, dựa vào nhân dân xây dựng hệ thống kho, hầm bí mật cất chứa vũ khí, trang bị kỹ thuật trong nội thành bảo đảm cho các lực lượng tham gia chiến đấu.

Trước khi ta tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trên chiến trường miền Nam, nhân dân ở các căn cứ, vùng giải phóng, ở vùng giáp ranh, tranh chấp hay ở sâu trong vùng địch kiểm soát, dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương, mọi tầng lớp nhân dân đều nhiệt tình tham gia công tác kỹ thuật quân sự phục vụ chiến đấu. Đây thực sự là một nguồn sức mạnh lớn của lực lượng vũ trang nhân dân và của công tác bảo đảm kỹ thuật. Do vậy, để tổ chức được những trận đánh vang dội, đánh trúng vào cơ quan đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, ta phải dựa vào nhân dân xây dựng được các kho, hầm bí mật cất chứa vũ khí để bảo đảm cho những trận đánh trong nội đô.

Dựa vào công nhân và nhân dân lao động, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định khẩn trương xây dựng lực lượng, tạo chỗ đứng chân, tạo nguồn cung cấp phục vụ tác chiến. Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (1954) một số cán bộ có kinh nghiệm hoạt động hợp pháp được phân công ở lại làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở. Các cơ sở đều có hoạt động hợp pháp, được phân chia theo yêu cầu trước mắt hoặc lâu dài. Có cơ sở vừa là nơi cất giấu vũ khí, vừa là nơi bảo đảm trang bị kỹ thuật (đồng hồ, xe đạp, xe gắn máy, ô tô...) phục vụ trực tiếp cho chiến đấu. Đặc biệt, hầu hết các sở cao su ven Sài Gòn từ chủ sở, lái xe, thợ cạo mủ, thợ cán mủ,... đều là cơ sở cách mạng trung kiên. Cho đến trước ngày diễn ra cuộc Tổng tiến công, riêng Ban bảo đảm thuộc Biệt động Thành đã trực tiếp xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình cơ sở an toàn. Đó là chưa kể đến hàng ngàn cơ sở mà các đội biệt động cấp thành, cấp quận và của các đoàn thể trực tiếp xây dựng nên.

Ngay từ những năm 1964-1965, trên cơ sở dự kiến phương án đón thời cơ chiến lược, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định thành lập Ban bảo đảm gồm hai đội A20 và A30 chuyên làm nhiệm vụ xây hầm và tổ chức vận chuyển cất giấu vũ khí. Đến cuối năm 1965, dựa vào nhân dân cả hai đội A20 và A30 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xây dựng được một hệ thống kho hầm bí mật chứa vũ khí sát các vị trí chiến lược của địch. Mỗi mục tiêu đều được chuẩn bị từ 1 đến 3 căn hầm vũ khí. Khối lượng vũ khí mỗi hầm xấp xỉ 1 tấn. Việc xây dựng các kho (hầm) cùng với quá trình tiếp nhận, cất giấu, bảo vệ và bảo quản khối lượng vũ khí đó ngay trước mắt địch là một chuỗi công việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm. Đồng chí Đỗ Văn Căn đã phải cùng vợ bán nhà ở Tân Định đến mua căn nhà ngay sát Biệt khu Thủ đô quân đội Sài Gòn, trước cửa cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ và đồng minh (ICCS) để vận chuyển hơn 1 tấn vũ khí về cất giữ ở căn hầm xây dựng ngay cửa ra vào của gia đình mình; chị Nguyễn Thị Cúc - vợ của đồng chí Đỗ Văn Căn - cũng xây một căn hầm chứa vũ khí dưới đáy của bể cá cảnh ở căn nhà thứ hai; vợ chồng anh Trần Phú Cương (Năm Mộc) xây dựng hầm vũ khí trong nhà dùng để đánh Đài Phát thanh... Sau khi hoàn thành việc ngụy trang, nghi trang, đội A20 tổ chức vận chuyển vũ khí vào thành phố theo lộ trình: từ căn cứ giải phóng đến căn cứ bàn đạp (vùng giáp ranh) lên trục lộ giao thông (do địch kiểm soát), rồi di chuyển trên đường giao thông vào nội thành. Để bảo đảm vận chuyển đến đích và an toàn đòi hỏi phải có sự hiệp đồng chặt chẽ, chính xác hoàn toàn giữa các tuyến, giữa người vận chuyển và người nhận cùng việc bảo vệ, giữ bí mật của nhân dân trên các tuyến vận chuyển.

Dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, với cách tổ chức trên, hàng trăm tấn vũ khí trong đó có cả súng và đạn ĐKZ, cối, B40, B41... được bí mật vận chuyển an toàn vào các kho vũ khí trong thành phố, ém sẵn cạnh các mục tiêu quan trọng. Với phương thức "lót ổ", ta đã bảo đảm cho lực lượng biệt động và các đơn vị chiến đấu trong nội đô không thiếu đạn, tạo thế bất ngờ khi tiến công vào các vị trí đầu não của địch.

Ba là, bảo đảm kịp thời vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các đơn vị trong quá trình thực hành tác chiến.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân ta nổ ra mạnh mẽ ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam. Lực lượng kỹ thuật đã kịp thời bảo đảm kịp thời vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các lực lượng tham gia tác chiến.

Tại mặt trận Huế, khó khăn nhất là trong công tác bảo đảm vũ khí. Ta không tổ chức được hệ thống cơ sở kỹ thuật "lót ổ", ém sẵn vũ khí nên tất cả đều phải gùi thồ qua nhiều cung, trạm, từ hậu phương tuyến sau tới. Mặt khác, cuộc chiến đấu trong kinh thành Huế diễn ra dài ngày nên vũ khí đạn tiêu thụ lớn, mỗi khẩu súng trường chỉ còn 12 đến 15 viên, súng máy còn trên 100 viên. Bộ Tổng Tham mưu đã khẩn trương lệnh cho Đoàn 559 tiếp tế các loại đạn dược, khí tài cho mặt trận Huế; đồng thời điều Tiểu đoàn máy bay IL14 thuộc Trung đoàn Không quân vận tải 919 thực hiện các chuyến bay chi viện vũ khí cho chiến đấu.

Lực lượng kỹ thuật mặt trận Tây Nguyên dựa vào các binh trạm đã triển khai trên các hướng, tổ chức bảo đảm vũ khí, đạn dược cho các đơn vị đặc công cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào ba thị xã lớn: Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột; đồng thời bảo đảm cho lực lượng cơ động của Sư đoàn 1 tác chiến trên hướng Đường số 18, Plei Kần, đánh quân Mỹ ra chi viện. Mặt trận hiệp đồng với các tỉnh và trung đoàn khu vực huy động được số dân công và sử dụng lực lượng bộ đội vận chuyển vũ khí từ kho Mặt trận đưa vào bố trí gần khu vực chiến đấu để bảo đảm trong suốt quá trình tác chiến.

Tại Sài Gòn - Gia Định, các lực lượng đồng loạt tiến công Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân, Đài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Dựa theo tổ chức bảo đảm chỉ huy trên các hướng tiến công vào thành phố, lực lượng kỹ thuật Phân khu 6 kết hợp giữa các cơ sở, lực lượng bảo đảm của đoàn hậu cần khu vực, phân khu và các đơn vị để hình thành hệ thống bảo đảm vũ khí, trang bị liên hoàn từ phía sau đến từng khu vực tác chiến. Để lực lượng biệt động của Đoàn F.100 (được chia thành các đội) và biệt động các hướng thực hiện các trận đánh vào mục tiêu chủ yếu của địch, lực lượng bảo đảm kỹ thuật đã cung cấp hàng chục tấn thuốc nổ, súng đạn từ khắp các kho của 13 cơ sở trong nội thành cho các trận đánh vào các mục tiêu đầu não của địch.

Ở đồng bằng Nam Bộ, tại thành phố Cần Thơ và một số thị xã khác, trong quá trình tiến công vào các đô thị, các địa phương huy động lực lượng lớn dân công, phương tiện phục vụ vận chuyển vũ khí. Đoàn 86 tổ chức vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí, khí tài cho các đơn vị. Tiểu đoàn ô tô H1 hoạt động liên tục. Do bị phi pháo địch bắn phá ác liệt nên số xe hỏng nhiều, các trạm sửa chữa làm việc suốt ngày đêm, kịp thời sửa chữa giải phóng xe nhanh cho các đơn vị tham gia chiến đấu. Xưởng sửa chữa Z58 tổ chức lực lượng sửa chữa cơ động gồm 11 người chốt ở ngầm Đạt Uýt để sửa chữa nhanh xe cho các đơn vị. Bộ phận ở phía sau của Xưởng Z58 được tăng cường thêm 60 thợ sửa chữa các loại làm nhiệm vụ sửa chữa xe hỏng của Đoàn 86 phục vụ Tổng tiến công.

Hậu cần - kỹ thuật Miền đã tập trung mọi khả năng bảo đảm cho các đơn vị thực hành tác chiến trong Tổng tiến công được 5.893 tấn vũ khí đạn; riêng trong đợt 1 tiến công vào mục tiêu Sài Gòn đã cấp phát bảo đảm cho tác chiến là 132 tấn đạn . Ngành Kỹ thuật các cấp thể hiện được khả năng bảo đảm trong thực hành tác chiến, vừa có lượng dự trữ cần thiết, vừa tổ chức tạo nguồn, bảo đảm kỹ thuật đồng bộ, chỉ huy hợp đồng chặt chẽ, xử lý tình huống linh hoạt, khẩn trương, góp phần vào thắng lợi to lớn trong Tổng tiến công.

Bốn là, tích cực nghiên cứu chế tạo, cải tiến các loại vũ khí, trang bị đặc chủng có sức công phá cao, phù hợp với cách đánh của các lực lượng vũ trang.

Nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự có vị trí đặc biệt đối với vũ khí đặc chủng. Ngành kỹ thuật đã tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, cải tiến, khai thác sử dụng để phát huy hết tính năng kỹ chiến thuật của vũ khí đặc chủng hiện có trên các chiến trường phục vụ yêu cầu chiến đấu của các lực lượng trong Tổng tiến công.

Để tăng cường vũ khí, trang bị, đặc biệt là hỏa lực đánh tàu trên sông, biển, ngay từ giữa năm 1966, được sự giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu kỹ thuật Bộ Quốc phòng, bộ phận kỹ thuật Quân chủng Hải quân và Đoàn 126 tiến hành cải tiến mìn âm thanh từ tính ĐMC1, ĐMC2 thành thủy lôi HATl, HAT2. Do trọng lượng của ĐMC1 nặng tới 1.200kg, của ĐMC2 tới 2.400kg, để trang bị cho đặc công nước sử dụng đánh tàu địch trên sông biển, cán bộ nghiên cứu đã cải tiến còn khối lượng 700 kg và 800kg, tháo rời từng bộ phận đầu và thuốc nổ . Vì thế rất thuận lợi cho bộ đội mang vác, vận chuyển hành quân vào vùng địch và trong mỗi trận chiến đấu. Mìn M2C1 là loại mìn rùa nặng 6,8kg gồm nhiều thỏi nam châm hút bám sắt. Thuốc nổ trong mìn là 3,8kg, gắn ngòi nổ chậm bằng chốt chì. Loại này gọn, nhẹ, nhưng sức công phá hạn chế. Năm 1966, trong một số trận đánh ta đưa mìn áp vào mạn tàu, mìn nổ nhưng tàu không chìm. Mìn vành khăn có trọng lượng lớn hơn mìn rùa, thuốc nổ cũng nhiều hơn khoảng 4kg. Cả hai loại mìn rùa và vành khăn, đặc công nước sử dụng đánh tàu có thuận lợi, nhưng uy lực không đủ sức đánh chìm tàu. Theo yêu cầu chiến trường, bộ phận kỹ thuật nghiên cứu cải tiến mìn rùa, mìn vành khăn phù hợp, thuận tiện cho bộ đội mang vác, bơi lội, vận chuyển trong chiến đấu. Các loại thủy lôi HAT1, HAT2, mìn rùa, mìn vành khăn được cải tiến thành công, thử nghiệm đánh tàu địch ở Cửa Việt, Đông Hà từ cuối năm 1966 và đến cuối năm 1967 được đưa hàng loạt vào miền Nam phục vụ Tổng tiến công.

Để tăng thêm sức công phá cho pháo hỏa tiễn ĐKB cho Tổng tiến công, nhóm kỹ sư quân giới Miền đã nghiên cứu tăng thêm lượng thuốc nổ C4 vào đầu đạn. Đoàn pháo binh Rừng Sác dùng hai quả đạn cải tiến loại chứa 60kg hợp chất C4 lắp ngòi đạn cối 82mm và đạn chống tăng B40 bắn chìm tàu 1.000 tấn và dùng đạn cải tiến loại nhồi 74kg thuốc TNT bắn cháy một tàu chở dầu trên sông Lòng Tàu. Từ sự kiện trên, Bộ Chỉ huy Miền chỉ thị cho Phòng Quân giới nghiên cứu cải tiến đạn ĐKB, H12 mang đầu đạn lớn. Thực hiện chỉ thị, lần thiết kế đầu tiên, đạn H12 cải tiến có cỡ đạn 206mm, nặng 38kg, được đặt tên là ĐB12; đạn ĐKB cải tiến có cỡ đạn 312mm, nặng 133kg đặt tên là ĐB2. Sau đó, đạn ĐB12, ĐB2 được thiết kế lại có khối lượng nhỏ hơn, trọng lượng toàn bộ đạn ĐB2 còn 100kg, đặt tên là ĐB1 và tiếp tục được nghiên cứu giảm tiếp còn nặng 50kg, lấy tên là ĐB1A; cải tiến đến khi đạn ĐB12 còn 30kg, lấy tên là ĐB12A. Khi ta quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Đợt 3, trong trận đánh Thiện Ngôn, đạn ĐB12A cải tiến đã phá đổ tường thành cao 1,5m, mặt trên 2m, chân thành 5m, tạo cửa mở cho xung kích tiêu diệt cứ điểm.

Việc nghiên cứu cải tiến thành công một số loại vũ khí đặc chủng là những đóng góp tích cực về trí tuệ, sức lực, xương máu của các kỹ sư, cán bộ, chiến sĩ làm công tác nghiên cứu bảo đảm kỹ thuật. Kết quả đó đã tạo nên hiệu quả chiến đấu cao góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật tác chiến trong Tổng tiến công.

Năm là, ưu tiên bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho tác chiến hiệp đồng binh chủng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và nhất là chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh là các hoạt động tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn sử dụng nhiều binh khí kỹ thuật, thời gian chiến dịch dài nên lượng tiêu hao, tổn thất vũ khí đạn lớn. Vì vậy, cơ quan kỹ thuật chiến dịch đã huy động lực lượng của toàn ngành, được sự giúp đỡ chi viện của các ngành từ Trung ương tới địa phương nên đã hoàn thành được nhiệm vụ bảo đảm đạn cho chiến dịch. Kết quả, hậu cần - kỹ thuật chiến dịch đã cung cấp cho bộ đội 3.360 tấn đạn dược. Chỉ tính riêng đạn đã bảo đảm cho hướng tây trong chiến dịch là 1.271 tấn. Sau khi chiến dịch kết thúc, lượng đạn còn lại là 2.429 tấn (riêng hướng tây là 483 tấn).

Trong quá trình chiến dịch, tuy khối lượng bảo đảm kỹ thuật rất lớn, cán bộ nhân viên chuyên môn có hạn (chỉ có hai trạm sửa chữa với trên 70 người). Vì vậy, ngành kỹ thuật chiến dịch thường xuyên phái các tổ, đội sửa chữa xe, pháo đến giải quyết tại chỗ nên hệ số kỹ thuật bảo đảm bình quân tương đối cao. Ở mặt trận hướng đông, pháo mặt đất đạt 87%, pháo phòng không đạt 90%, xe - máy các loại đạt 90-92%; ở mặt trận hướng tây, pháo mặt đất đạt 91,6%, pháo phòng không đạt 77,8%, xe xích đạt 92%; xe ô tô tác chiến 85%, xe ô tô vận tải 68%.

Lực lượng kỹ thuật còn tích cực tổ chức việc cấp cứu xe, pháo hỏng ra khỏi nơi địch đánh phá đưa về sau sửa chữa. Trung đoàn 675 có ba xe xích bị đổ và hỏng ở trận địa, nơi bị địch đánh phá liên tục trong 6 ngày đêm nhưng lái xe và thợ đã tích cực bám xe, ngụy trang, kích kéo, qua 8 đêm đưa được cả ba xe về phía sau sửa chữa, hoặc tháo gỡ những bộ phận còn tốt. Đồng thời tổ chức việc tìm kiếm xe, pháo hỏng đưa về phía sau sửa chữa khôi phục lại. Mặt trận hướng đông thu thập được 19 tấn phụ tùng, mặt trận hướng tây cũng thu được 15 tấn tháo từ những xe hỏng để lâu ở chiến trường.

Tuy nhiên trong chiến dịch, mặc dù ngành kỹ thuật cũng đã triển khai một số biện pháp về quản lý cấp phát, về tổ chức thu hồi... nhưng tình trạng quản lý lỏng lẻo, sử dụng lãng phí để hư hỏng mất mát vẫn nghiêm trọng. Tính bình quân trong 6 tháng tiến hành chiến dịch, số vũ khí mất mát, thất lạc và bị địch đánh hỏng chiếm tỷ lệ 29% so với toàn bộ trang bị. Số đạn dược bị tổn thất, mất mát của các đơn vị ở hướng đông bình quân bằng 30% số tiêu thụ (có loại bị tổn thất, mất mát nhiều như các loại đạn K56, K53, ĐKZ82, 12,7mm, 14,5mm, 57mm và mìn). Nhiều cán bộ, chiến sĩ nhận thức về công tác quản lý vật chất trang bị còn giản đơn, không thấy hết khó khăn gây thêm căng thẳng cho khâu cung cấp, phần nào ảnh hưởng đến quyết tâm chiến đấu . Đây cũng là một kinh nghiệm cần lưu ý trong công tác quản lý vũ khí trang bị ở chiến dịch.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng, về phương thức bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngành kỹ thuật từ hậu phương tới chiến trường đã huy động một lực lượng đông đảo nhất cán bộ, nhân viên cùng một hệ thống cơ sở kỹ thuật rộng lớn, hoàn chỉnh; một khối lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật lớn chưa từng có phục vụ Tổng tiến công trên toàn chiến trường. Toàn ngành kỹ thuật đã tạo được thế trận bảo đảm bí mật, bất ngờ, phù hợp với phương châm tác chiến; đã sáng tạo ra phương thức bảo đảm mới, tạo thuận lợi cho các đơn vị, nhất là lực lượng đặc công biệt động tác chiến nội đô. Những bài học kinh nghiệm quý báu về công tác bảo đảm kỹ thuật trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã kịp thời phục vụ cho những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 05:05:28 pm
PHÁT HUY BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TRONG XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ HIỆN NAY



Thiếu tướng NGÔ TUẤN NGHĨA
Chính ủy Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh


Lịch sử đã chứng minh, thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ; làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", khiến Mỹ phải ngồi vào đàm phán với ta tại Pari, đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, tiến tới chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Thắng lợi đó trực tiếp thúc đẩy công cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc sang giai đoạn mới - giai đoạn giành thắng lợi quyết định. Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 góp phần phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam.

Kỷ niệm 50 năm sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân 1968, thêm một lần nữa, mọi người Việt Nam hôm nay nghiêng mình tưởng nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ; của đồng bào, chiến sĩ cả nước đã làm nên chiến công lịch sử trọng đại này. Nhớ về Mậu Thân 1968, chúng ta suy nghĩ sâu sắc về những nhân tố làm nên chiến thắng. Đó là khát vọng cháy bỏng của người dân yêu nước Việt Nam vì một nền độc lập, tự do; vì một nền thái bình muôn thuở cho đất nước hôm nay và mai sau. Đó còn là niềm tin vững chắc của quân và dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối và chỉ đạo chiến lược; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm tạo nên sức mạnh to lớn. Những nhân tố đó đã và đang tiếp tục phát huy tác dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đã trở thành một tượng đài bất tử khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam và để lại nhiều bài học quý giá, làm cơ sở để chúng ta nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đó là bài học về xây dựng niềm tin vững chắc vào nhân dân, dựa vào nhân dân, biết khơi dậy, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết, khả năng sáng tạo của nhân dân, phát huy truyền thống tự lực, tự cường của dân tộc, phát động cao trào cách mạng trong toàn dân, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân trong hoạt động quân sự với sức mạnh của lực lượng quần chúng trong đấu tranh chính trị.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được tiến hành trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen, còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn biến phức tạp. Đối với nước ta, sau hơn 30 năm đổi mới, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực của đất nước ngày càng được tăng cường, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" thúc đẩy "tự diễn biến" "tự chuyển hóa" gây mất ổn định chính trị nhằm làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Quân đội và nhân dân ta nói chung, lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có sự phát triển mới, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, mà cốt lõi là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị để phát triển toàn diện đất nước, là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách được giao, lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh phải nỗ lực hơn nữa, trước hết phải tiếp tục quán triệt, nắm vững mục tiêu, quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các nghị quyết của Đảng ủy Quân khu, Thành ủy về xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; đồng thời, phải tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng, an ninh khu vực phòng thủ là nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên nền tảng phát huy bài học lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trước hết tập trung các nội dung sau:

Một là, xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần vững mạnh, trước hết cần tập trung xây dựng và phát huy tinh thần yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Để xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần ngày càng vững chắc, phải thường xuyên quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc đường lối, quan điểm, tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 28/NQ-TW, ngày 22-9-2008, của Bộ Chính trị Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới, Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ Về khu vực phòng thủ, tạo sự chuyển biến quan trọng về nhận thức và hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ trên địa bàn.

Hai là, thường xuyên quan tâm chăm lo, xây dựng tiềm lực kinh tế - văn hóa - xã hội. Quán triệt quan điểm của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương đều gắn với bố trí thế trận quốc phòng, an ninh, theo tư tưởng chỉ đạo "mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh". Trên cơ sở kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, tập trung phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để phát triển kinh tế một cách toàn diện và bền vững.

Tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về kinh tế của đất nước có thể huy động để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng hoặc tiến hành chiến tranh. Tiềm lực đó được biểu hiện ở nhân lực, vật lực, tài lực của quốc gia có thể huy động cho quốc phòng, an ninh và tính cơ động của nền kinh tế đất nước trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Do vậy, muốn có tiềm lực quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mạnh trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội và công an. Kết hợp xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng quốc phòng; không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho các lực lượng vũ trang. Có kế hoạch chuyển sản xuất từ thời bình sang thời chiến và duy trì sự phát triển của nền kinh tế.

Ba là, tăng cường xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh khu vực phòng thủ để có đủ khả năng về vật chất và tinh thần có thể đáp ứng cho nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Điều đó được biểu hiện trước hết ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển năng lực chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang (cả về nhân lực, vũ khí trang bị, cơ sở vật chất bảo đảm, khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự...); nguồn dự trữ sức người, sức của phục vụ nhiệm vụ quân sự và tiến hành chiến tranh. Tiềm lực quân sự, an ninh là nhân tố cơ bản, giữ vai trò nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quá trình tăng cường vũ khí trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân có năng lực, trình độ chính trị, quân sự toàn diện; có năng lực tư duy nhanh nhạy, được rèn luyện qua hoạt động thực tiễn... đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; thường xuyên xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, nhằm tạo cơ sở vật chất trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội, công an.

Tăng cường xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; quan tâm bố trí cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế, kỹ thuật theo hướng "đan xen lợi ích" trên các địa bàn. Đặc biệt là kết hợp quy hoạch và bố trí các vùng dân cư, làm cơ sở để xây dựng căn cứ hậu phương chiến lược, căn cứ hậu cần - kỹ thuật trên địa bàn thành phố, gắn với việc đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ quốc gia, phòng thủ dân sự. Bổ sung điều chỉnh thế bố trí các lực lượng tác chiến theo hướng kết hợp giữa bộ đội chủ lực với địa phương.

Trước sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, sự kết hợp giữa quốc phòng và an ninh là sự gắn kết giữa hai lĩnh vực cơ bản trong thực hiện cùng một mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do vậy, khi xây dựng thế trận phải bảo đảm sự thống nhất và kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa thế trận quốc phòng toàn dân, với thế trận an ninh nhân dân. Sự kết hợp đó phải bảo đảm sử dụng có hiệu quả mọi lực lượng vật chất và tinh thần, cả con người và trang bị, phù hợp tính chất đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động; phải phát huy tốt vai trò nòng cốt của quân sự và công an trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, tăng cường xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố vững chắc - nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Khu vực phòng thủ Thành phố là một tổ chức quốc phòng, an ninh ở địa phương; là một bộ phận hợp thành nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của phía Nam và cả nước, phải được xây dựng vững mạnh về mọi mặt theo kế hoạch chung, thống nhất, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ, độc lập, tự lực tự chủ ngăn chặn và đối phó hiệu quả mọi tình huống. Xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh; bảo đảm yêu cầu bảo vệ và tác chiến trong thế trận liên hoàn phòng thủ quốc gia, góp phần củng cố thế trận quốc phòng toàn dân của đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Hiện nay, cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị là nội dung cốt lõi của việc xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố. Sự vững chắc của khu vực phòng thủ được quyết định bởi sự vững mạnh của hệ thống chính trị, đặc biệt đối với các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương. Do đó, trong xây dựng hệ thống chính trị, cần đặc biệt chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng hệ thống chính quyền các cấp vững mạnh toàn diện. Đây là nội dung cơ bản bảo đảm hệ thống chính trị đủ sức thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, tổ chức xây dựng Thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.

Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh của khu vực phòng thủ, là quá trình đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng; trong phát triển kinh tế phải tính đến nhu cầu quốc phòng, an ninh và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; việc bố trí, quy hoạch phát triển kinh tế phải trên cơ sở xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh vững chắc trên địa bàn.

Năm là, chủ động xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc là nền tảng cốt lõi của nền quốc phòng toàn dân trên từng địa bàn, khu vực, tỉnh thành.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rằng sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch.

Dân tộc ta có truyền thống "cử quốc nghênh địch", chủ động, tự giác đánh giặc bằng các lực lượng, đánh ở mọi nơi, đánh bằng mọi thứ vũ khí và bằng mọi cách đánh khác nhau. Đây chính là lòng yêu nước, yêu độc lập tự do, không chịu khuất phục, không chịu làm nô lệ trước sức mạnh của kẻ thù. Tinh thần chủ động tích cực này đã phản ánh "thế trận lòng dân" thường trực trong tư duy của mỗi người Việt Nam. "Thế trận lòng dân" trong tổng thể nền quốc phòng toàn dân càng phải được các cấp bộ đảng, chính quyền quan tâm xây dựng toàn diện hơn, có chiều sâu hơn.

Xây dựng "thế trận lòng dân" thực chất là khơi dậy, quy tụ và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ trong thế trận quốc phòng, an ninh chung. Đây là nét đặc sắc trong nghệ thuật giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc, phản ánh sâu sắc bản chất và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân nước ta trong thời kỳ mới. Xây dựng "thế trận lòng dân" cần tập trung vào các nội dung: tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ là một yêu cầu, biện pháp quan trọng của chiến lược xây dựng quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... đang tác động sâu sắc đến "thế trận lòng dân". Do đó, vấn đề chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên cần được xem xét như là một yêu cầu, giải pháp đặc biệt quan trọng của việc xây dựng "thế trận lòng dân". Theo đó, trong những năm tới, cần "Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng". Đó là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Trong tình hình hiện nay, các yếu tố hợp tác, đấu tranh luôn đan xen; nhân tố gây mất ổn định chưa bị loại bỏ hoàn toàn..., đòi hỏi "tính linh hoạt" của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân phải rất cao mới kịp thời xử trí các tình huống cả trong thời bình và thời chiến. Do vậy, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc phải đạt yêu cầu: thời bình thúc đẩy kinh tế phát triển tạo tiềm lực mọi mặt ngày càng vững mạnh; nâng cao trách nhiệm của mọi công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi chiến tranh xảy ra nhanh chóng chuyển hóa thành thế trận "toàn dân đánh giặc", bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 05:31:41 pm
BÀI HỌC VỀ CÔNG TÁC BẢO ĐẢM HẬU CẦN
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng LÊ HỒNG DŨNG
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần


Đến giữa năm 1967, sau những thất bại nặng nề, Mỹ rơi vào thế lúng túng, bị động cả về chiến lược và chiến dịch; chiến lược "chiến tranh cục bộ" đứng trước nguy cơ bị phá sản. Nhằm cứu vãn tình thế, chính quyền Mỹ tăng cường lực lượng, đưa tổng số quân Mỹ ở chiến trường miền Nam lên khoảng 535.000 người, ráo riết chuẩn bị đợt phản công thứ ba vào mùa khô 1967-1968. Trước tình hình đó, tháng 10-1967, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã họp đánh giá tình hình sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô (1966-1967), xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968. Hội nghị dự kiến có thể giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn, chuyển hướng tiến công chiến lược từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ trung tâm; quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên chiến trường miền Nam vào Đông - Xuân 1967-1968, trọng điểm là Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn, nhằm thúc đẩy và chớp lấy thời cơ chiến lược giành thắng lợi có tính quyết định.

Thực hiện chủ trương trên, cùng với giữ bí mật nghiêm ngặt ý đồ chiến lược, kế hoạch tác chiến, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tập trung chỉ đạo nâng cao khả năng tác chiến của bộ đội, chuẩn bị hậu cần ở các cấp và các chiến trường.

Nhằm chuẩn bị cho chiến trường miền Nam tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, nhất là đúng dịp Tết Xuân Mậu Thân, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo tập trung nguồn lực tạo chân hàng cho Đoàn 559 ở Nam Khu 4, đến tháng 10-1967, lượng vật chất dự trữ ở các kho phía tây Đường 12 lên tới 10.000 tấn và Đường 20 khoảng 4.000 tấn. Từ đó Đoàn 559 chuyển vào các chiến trường. Đầu tháng 1-1968, Đảng ủy Tổng cục Hậu cần quyết định tập trung mọi lực lượng, mọi khả năng bảo đảm đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu cho Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam.

Với hậu cần Miền, "Các đoàn hậu cần Miền được bố trí thành hai tuyến: Tuyến trước trực tiếp bảo đảm chiến đấu gồm 5 đoàn hậu cần, bố trí xung quanh Sài Gòn là các đoàn 81, 82, 83, 84 đứng chân trên các hướng tây bắc, bắc, đông bắc và tây nam; Đoàn hậu cần 100 (thành lập tháng 3-1968) triển khai ở phía tây Sài Gòn. Tuyến sau gồm 4 đoàn: Đoàn 17 khai thác ở Campuchia, Đoàn 86 nối với Tuyến 559 ở Sê rê pốc và 2 đoàn 50, 70 triển khai ở phía tây và phía đông Đường 13 để tiếp nhận hàng của Đoàn 17 và Đoàn 86 chuyển về giao cho các đoàn đứng chân ở phía trước.

Đến trước ngày nổ súng tiến công đồng loạt vào các đô thị, hậu cần Miền và các đoàn hậu cần đã tổ chức các phân đội hậu cần cơ động bảo đảm cho tác chiến, như các đội điều trị, các đội phẫu thuật, các tiểu đoàn và đại đội vận tải sẵn sàng cơ động theo đội hình chiến đấu của các đơn vị. Về vật chất, hậu cần Miền đã chuẩn bị được 5.554 tấn lương thực, thực phẩm, 5.079 tấn vũ khí đạn. Hậu cần các phân khu, các khu, tỉnh đều lập kế hoạch, sẵn sàng huy động nhanh chóng lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ phục vụ bộ đội trong tác chiến. Ở Quân khu 9, hậu cần cần mở thêm các khu vực hậu cần ở Nước Trong, Ba Hồ, Châu Thành, Trà Ôn tạo thành thế liên hoàn với các khu căn cứ đã có từ trước là U Minh, Năm Căn và vây quanh thành phố Cần Thơ. Hậu cần Quân khu 8 củng cố thêm căn cứ ở vùng Chợ Gạo áp sát tỉnh Mỹ Tho".

Như vậy, hậu cần chiến lược đã kết hợp với hậu cần Miền và các quân khu, phân khu tạo thành thế trận hậu cần tại chỗ gắn liền với các địa bàn tác chiến, áp sát các mục tiêu, sẵn sàng bảo đảm cho chiến đấu trên nhiều hướng, nhiều mũi tiến công... Tính chung trong ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, hậu cần Miền đã chuẩn bị 46.282 tấn hàng (có 10.872 tấn vũ khí đạn), cung cấp cho các đơn vị 35.648 tấn (có 5.983 tấn vũ khí đạn). Các cơ sở quân dân y đã thu dung điều trị 94.636 lượt thương binh, bệnh binh (trong đó có 22.535 thương binh điều trị khỏi trả về đơn vị đạt tỷ lệ 72%). Riêng trong Tổng tiến công đợt 1 vào mục tiêu trọng yếu Sài Gòn (Xuân Mậu Thân), đã cấp phát cho các đơn vị 132 tấn đạn, thu dung và chuyển về tuyến sau điều trị 3.698 thương binh, điều trị khỏi, ra viện 944 người (đạt tỷ lệ 25,5%).

Cùng với đó, Hội đồng cung cấp các địa phương "đã huy động 600.000 dân công, thanh niên xung phong, trong đó nhân dân Long An đóng góp nhiều nhất. Hậu cần địa phương tỉnh, hậu cần nhân dân đã đóng góp to lớn cùng hậu cần quân đội, bảo đảm cho hướng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định và trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong năm 1968".

Thành công của công tác hậu cần trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc.

Thứ nhất, quán triệt đường lối, quan điểm, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, xác định rõ nhiệm vụ và chủ động chuẩn bị hậu cần sớm, chu đáo trên cơ sở kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, hậu cần tại chỗ, trong đó hậu cần Miền là nòng cốt.

Đây là nguyên nhân hàng đầu của mọi thành công về công tác hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng. Do quán triệt sâu sắc đường lối, nhiệm vụ cách mạng và các quan điểm của Đảng, lấy đó làm cơ sở chủ yếu nhất để xác định nhiệm vụ, yêu cầu bảo đảm cho các lực lượng đồng loạt nổi dậy tổng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, công tác hậu cần chủ động chuẩn bị sớm, chu đáo trên cơ sở kết hợp chặt chẽ các lực lượng hậu cần.

Thực hiện hậu cần đi trước, "... ngay từ năm 1965, hậu cần đã chuẩn bị các cơ sở hậu cần trong nội đô theo Kế hoạch X (địa bàn Sài Gòn - Gia Định), sẵn sàng tiến công 25 mục tiêu trong nội đô Sài Gòn. Đây là cơ sở chuẩn bị rất sớm cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968".

Đầu năm 1968, Cục Hậu cần Miền đã chuyển tuyến vận tải 50 thành Đoàn hậu cần khu vực 50. Hậu cần địa phương tỉnh và hậu cần nhân dân các cấp được củng cố phát triển rộng khắp kết hợp với hậu cần chủ lực đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn về hậu cần của lực lượng vũ trang trong xây dựng, tác chiến. Nhờ có sự "Kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân trên địa bàn, ta có điều kiện đẩy mạnh xây dựng và thực hiện hậu cần tại chỗ phù hợp với tình hình kinh tế mỗi địa phương; với yêu cầu nhiệm vụ quân sự, cách đánh của các thứ quân và quyết tâm tác chiến trên từng hướng chiến trường. Đồng thời, việc thực hiện kết hợp hậu cần tại chỗ của từng địa phương, chiến trường với hậu cần Trung ương đã tạo ra khả năng bảo đảm tại chỗ ngày càng cao, bảo đảm cho bộ đội đứng chân, xây dựng, đánh địch trên mọi địa bàn, giành thắng lợi ngày càng lớn".

Hậu cần nhân dân có chức năng rất quan trọng và thường xuyên là tổ chức bảo đảm cho lực lượng vũ trang quần chúng xây dựng, đánh địch ở cơ sở; trực tiếp bảo đảm cho tác chiến rộng khắp ở địa phương. Hậu cần nhân dân tích cực tham gia bảo đảm cho mọi hình thức đấu tranh của nhân dân các địa phương, cho thực hiện phương châm hai chân, ba mũi, cho đấu tranh chính trị, binh vận... Đồng thời, còn bổ sung, phối hợp, chi viện tích cực cho hậu cần quân đội hoạt động trên địa bàn. "Trên nhiều địa phương ở miền Nam, đã sớm hình thành các tổ chức hậu cần nhân dân cơ sở do quần chúng trung kiên tham gia hoạt động, được cấp ủy Đảng địa phương lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Từ tháng 3-1965, sau chiến dịch Bình Giã, chủ trương xây dựng hội đồng cung cấp các cấp được thực hiện, đã thống nhất chỉ đạo hoạt động của hậu cần nhân dân từ Miền đến cơ sở xã, ấp".

Quán triệt tư tưởng hậu cần chủ động đi trước trong chuẩn bị cho thời cơ lớn trên cơ sở định hướng của Trung ương, Ngành Hậu cần đã từng bước tạo lập được thế trận và tiềm lực vững chắc trên các chiến trường, nhất là chiến trường Nam Bộ-nơi xa hậu phương nhất; kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần chiến lược với hậu cần Miền, hậu cần các phân khu, quân khu thuộc Miền, hậu cần các tỉnh và hậu cần nhân dân rộng khắp... với hậu cần Miền là nòng cốt; chuẩn bị chu đáo mọi mặt và đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu về hậu cần, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt là ở Sài Gòn - Gia Định, nơi có cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Khả năng bảo đảm liên tục, bền bỉ cho nhiều hướng mũi tiến công, trên nhiều tỉnh thành phố Nam Bộ, duy trì sức chiến đấu mạnh mẽ đã làm kẻ thù bàng hoàng, sửng sốt và choáng váng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, đặc biệt là Xuân Mậu Thân tạo bước ngoặt của chiến tranh cách mạng miền Nam.

Thứ hai, tổ chức bố trí hậu cần phù hợp với loại hình tác chiến và cách đánh của từng lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho tác chiến thắng lợi trong mọi tình huống.

Quá trình tác chiến sử dụng nhiều lực lượng với quy mô khác nhau, cách đánh cũng rất phong phú, linh hoạt... Vì vậy, tổ chức và bảo đảm hậu cần cũng rất linh hoạt, phù hợp với thực tiễn tác chiến của từng lực lượng, trên từng hướng, khu vực. Nhận thức rõ điều đó, Hậu cần Miền đã sớm chuẩn bị lực lượng, tạo thế bố trí hợp lý, kết hợp chặt chẽ các đoàn hậu cần của Miền với hậu cần 6 phân khu, hậu cần các quân khu và tỉnh đội, hậu cần nhân dân, hình thành thế trận hậu cần tại chỗ liên hoàn cơ động, vững chắc... có tiềm lực mạnh.

Đến đầu năm 1968, quân số hậu cần Miền phát triển lên tới 21.000 người, xây dựng được 24 bệnh viện, 20 đội điều trị cơ động trực tiếp phục vụ chiến đấu; 8 đại đội vận tải cơ giới với 139 xe ô tô, 10 tiểu đoàn và 10 đại đội thồ tải với 4.412 xe đạp, 8 đại đội công binh làm đường. Trên chiến trường miền Đông đã có 500 km đường vận tải cơ giới và trên 280 km đường thồ xe đạp, 350 km luồng lạch vận tải đường sông... Các đoàn hậu cần Miền được bố trí thành 2 tuyến, tuyến trước và tuyến sau hỗ trợ nhau trong bảo đảm. Hậu cần các quân khu thuộc Miền "cũng chuyển hướng tổ chức bố trí, đưa lực lượng ra phía trước, bao quanh áp sát Sài Gòn. Hậu cần Quân khu 9 xây dựng căn cứ tiền phương ở các khu vực Nước Trong, Ba Hồ, Châu Thành (Cần Thơ), Trà Ôn... tạo thành thế liên hoàn với các vùng căn cứ cơ bản ở U Minh, Năm Căn và vây quanh thành phố Cần Thơ. Hậu cần Quân khu 8 phát triển thêm căn cứ hợp nhất với Sài Gòn - Gia Định và hậu cần các tỉnh Bà Rịa, Long An xây dựng thành 6 phân khu hậu cần, bảo đảm cho tác chiến ở vùng ven và nội đô Sài Gòn".

Riêng việc bảo đảm cho lực lượng biệt động tác chiến ở nội đô Sài Gòn là bảo đảm đặc biệt, có các cơ sở ở nội đô bố trí gần mục tiêu chiến đấu, có hầm bí mật kiên cố chứa vũ khí, có phương tiện cơ động phù hợp (ô tô, xe máy). Hậu cần các phân khu là tuyến sau trực tiếp chi viện bảo đảm.

Với thế trận và tiềm lực được chuẩn bị trước chu đáo, lấy bảo đảm tại chỗ theo khu vực, hướng tiến công là chính nên đã đáp ứng được cách đánh, quy mô sử dụng lực lượng phong phú đa dạng, tính cơ động của từng đơn vị.

Thứ ba, xây dựng và phát huy vai trò quan trọng của hậu cần quân sự địa phương, kết hợp với hậu cần nhân dân trong tạo nguồn bảo đảm.

Kế thừa truyền thống hậu cần địa phương và hậu cần nhân dân trong kháng chiến chống Pháp, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã có bước chuẩn bị và phát triển mới, mang lại hiệu quả thiết thực. Hậu cần các tỉnh có bước phát triển vững chắc, vừa tạo nguồn bảo đảm cho lực lượng vũ trang địa phương, vừa tạo nguồn bảo đảm cho bộ đội chủ lực Miền tham gia chiến đấu.

Để tạo nguồn vật chất hậu cần, kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động của lực lượng vũ trang, các đoàn hậu cần khu vực cũng như các quân khu, tỉnh, một mặt dựa vào nhân dân địa phương, mặt khác rất chú trọng hoạt động thu mua, tiếp nhận từ trong các đô thị, các vùng địch tạm chiếm bằng nhiều biện pháp rất linh hoạt, táo bạo, đưa ra các khu vực để dự trữ sẵn tại chỗ, giảm bớt được công sức vận chuyển từ xa tới. Từ thực tế bảo đảm hậu cần ở chiến trường, Ngành Hậu cần đã kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm đề ra phương châm trong chỉ đạo việc thu mua "3 có": có dân, có đất đứng chân, có vật chất; "4 được": mua được, vận chuyển được, bảo quản, bảo vệ được và sử dụng được.

Hoạt động thu mua của các đơn vị hậu cần khu vực, của các quân khu, tỉnh và của hậu cần nhân dân các địa phương đã biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta. Không những khai thác ở miền Nam mà các đoàn hậu cần, các quân khu, tỉnh lân cận còn đẩy mạnh khai thác, thu mua ở Campuchia, coi đây như hậu phương chiến lược kế cận, có vị trí rất quan trọng đối với miền Đông Nam Bộ.

Trong 2 năm 1967-1968, hậu cần Tây Ninh thu mua được 460 tấn lương thực (trong đó mua cho hậu cần Miền 200 tấn), 106 tấn thực phẩm, 100 tấn muối, 15.000 mét nilon, 26.000 mét vải (may 2.000 bộ quân phục, 2.000 chiếc tăng); 1,6 triệu viên thuốc các loại, 700.000 lọ kháng sinh, 1,92 triệu ống thuốc, 100.000 cuộn băng cá nhân và 1 bộ trung phẫu cứu chữa thương binh.

Từ năm 1965-1968, hậu cần Bình Dương thu mua bảo đảm cho các đơn vị tác chiến thọc sâu, lực lượng bám trụ chiến đấu vùng tranh chấp và phía sau được 3.729 tấn vật chất hậu cần kỹ thuật. Các huyện tổ chức thu mua, dự trữ vật chất hậu cần tại chỗ trong dân thông qua các đoàn thể quần chúng ở địa phương và các gia đình có cảm tình với cách mạng.

Tại nội đô Sài Gòn, nhân dân hết lòng ủng hộ cách mạng. Tiêu biểu là nhà tư sản dân tộc Bùi Duy Cận, quê ở huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Năm 1952, ông vào Sài Gòn xây dựng nên Hãng sơn Bạch Tuyết (trong phim "Biệt động Sài Gòn" gọi là hãng Sơn Đông Á). Từ năm 1962 đến năm 1972, Biệt động Thành gặp khó khăn đến vận động ông góp phần nuôi quân đánh Mỹ, hàng tháng ông tự nguyện đóng góp 150.000 đồng (tương đương 40 lượng vàng).

Nhờ vậy, năm 1968 hậu cần chiến trường đã thu mua được khối lượng lớn vật chất (45.514 tấn, trong đó có 44.893 tấn lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng; 1.621 tấn xăng dầu và 192 xe ô tô, 215 ca nô, 3.275 xe đạp thồ ... Hậu cần địa phương và hậu cần nhân dân đã kết hợp cùng hậu cần Miền chuẩn bị chu đáo trên các hướng, khu vực tác chiến, bảo đảm kịp thời cho các lực lượng tiến công, nhất là trong đợt 1 Xuân Mậu Thân.

Thứ tư, coi trọng công tác vận tải và bảo đảm hậu cần trong suốt quá trình chuẩn bị, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Công tác vận tải quân sự là công tác trung tâm, cơ bản, thường xuyên, xuyên suốt của công tác hậu cần quân đội trong chiến tranh, đã trở thành công tác quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ngay từ đầu cuộc chiến tranh. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (số 134/NQTW, ngày 27-12-1965) đã chỉ rõ: "Để tăng cường chi viện miền Nam, vấn đề mấu chốt là phải bảo đảm thông suốt giao thông, vận tải trên những đường chiến lược quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân ta phải khắc phục mọi khó khăn để giữ vững con đường chi viện cho miền Nam".

Từ năm 1965, Bộ Chính trị, Quân Ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã sớm chủ trương đẩy mạnh xây dựng Tuyến 559 phát triển lên vận tải cơ giới, chi viện ngày càng lớn cho các chiến trường với tư tưởng "Mở đường mà tiến, đánh địch mà đi". Vì vậy, cuối năm 1967, Tuyến 559 đã vươn tới Nam Lào nối thông với Tuyến C4 ở Đông Bắc Campuchia và chi viện cho Nam Bộ. Chuẩn bị cho mùa vận chuyển 1967-1968, Quân ủy Trung ương quyết định "đẩy mạnh hơn nữa vận tải cơ giới trên tuyến chi viện chiến lược, kéo dài thêm cung vận tải ô tô vào đến Chà Vằn để chuyển hàng cho Khu 5; tăng cường lực lượng cao xạ, công binh, thông tin; bổ sung thêm xe vận tải cho Đoàn 559 để vận chuyển với quy mô lớn hơn. Khối lượng vận chuyển mùa khô 1967-1968 giao cho Đoàn 559 là 60.650 tấn (trong đó giao cho chiến trường miền Nam 20.700 tấn, chiến trường Lào 6.300 tấn, bảo đảm cho bộ đội hành quân 5.650 tấn, cho nội bộ đoàn 28.000 tấn)".

Giữ vững mạch máu giao thông, chi viện toàn diện, liên tục, mạnh mẽ cho các chiến trường là quyết tâm to lớn của hậu phương miền Bắc. Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông, vận tải Khu 4, cử đồng chí Phan Trọng Tuệ - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải làm Tư lệnh và Thiếu tướng Lê Quang Hòa - Chính ủy Quân khu 4 làm Chính ủy; có nhiệm vụ "chỉ đạo và tổ chức hiệp đồng các lực lượng giao thông, vận tải có mặt trên địa bàn Khu 4, cùng tiền phương Tổng cục Hậu cần, tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh động viên sức người, sức của cho chống chiến tranh phá hoại, bảo đảm giao thông, vận tải thông suốt. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần được cử làm cố vấn...".

Mặt khác, Trung ương cũng chỉ đạo mở tuyến đường biển chi viện cho miền Nam. Riêng với Đông Nam Bộ, ta mở bến Lộc An, Rừng Sác đón tàu biển chở vũ khí từ miền Bắc chuyển vào và hàng từ Bến Tre chuyển lên.

Sau khi tuyến đường biển bị lộ (2-1965), Quân ủy Trung ương chỉ đạo Ngành Hậu cần phải chủ động tạo nguồn hàng và tìm thêm những hướng vận chuyển mới, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Với sự giúp đỡ của Campuchia, ta đã tổ chức thu mua tại chỗ và chuyển hàng quân sự quá cảnh qua cảng Sihanúcvin, chuyển về biên giới, giao cho các đoàn hậu cần Miền chuyển về các chiến trường. Từ năm 1966-1969, ta đã "thực hiện được 10 chuyến tàu biển với 90.870 tấn hàng quân sự các loại qua cảng, chuyển về chiến trường ở Nam Bộ 60.380 tấn...".

 Nắm chắc, chỉ huy, điều hành chặt chẽ công tác vận tải, mặc dù phải triển khai lực lượng lớn trong làm đường, vận chuyển vật chất trên quy mô lớn, phạm vi rộng mà vẫn giữ được bí mật ý đồ tác chiến là yếu tố quan trọng để hậu cần Miền hoàn thành tốt nhiệm vụ chuẩn bị và bảo đảm cho tác chiến.

Năm mươi năm đã trôi qua, những bài học kinh nghiệm đó vẫn còn nguyên giá trị, cần nghiên cứu, kế thừa, phát triển trong điều kiện mới, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 05:38:02 pm
CÔNG TÁC HẬU CẦN TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 Ở MẶT TRẬN HUẾ



Đại tá, PGS.TS. DƯƠNG HỒNG ANH
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Tháng 10-1967, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam. Thực hiện quyết định trên, đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công kết hợp với nổi dậy ở 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn, tập trung đánh vào nội thành và các cơ quan đầu não, các căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng lớn, nhiều Sở chỉ huy cấp quân khu, quân đoàn, sư đoàn của địch. Ở nhiều vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, đập tan bộ máy chính quyền của địch. Cuộc tiến công và nổi dậy làm chủ thành phố Huế và cuộc tiến công vào nội đô Sài Gòn là những hoạt động quy mô rất lớn, được coi như những chiến dịch tiến công có tính chất chiến lược. Bài viết tập trung vào công tác hậu cần ở Mặt trận Huế - trọng điểm thứ hai của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Kế hoạch tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 xác định mặt trận Huế chia làm 2 cánh:

Cánh Bắc: gồm khu tả ngạn và huyện Hương Trà. Đây là hướng chính tiến công và nổi dậy. Lực lượng tham gia có eBB6 (+1d/eBB9), 1dĐC, 3 đại đội hỏa lực (cối 82, ĐKZ75 và súng máy phòng không (SMPK) 12,7 ly), 2 đội biệt động thành, các lực lượng bảo đảm và lực lượng vũ trang huyện Hương Trà. Nhiệm vụ của các lực lượng ở Cánh Bắc là cùng nhân dân tiến công và nổi dậy đánh chiếm các mục tiêu tiến tới chiếm toàn bộ khu Tả Ngạn, thiết lập chính quyền cách mạng, kiềm chế căn cứ Mỹ ở Đông Lâm (ngoại ô), đánh bại phản kích của địch.

Cánh Nam: gồm khu Hữu Ngạn và 2 huyện Hương Thủy, Phú Vang. Lực lượng tham gia gồm eBB9 (-1d), 2dBB độc lập/thành Huế, 2dĐC, 3 đại đội hỏa lực (cối 82, ĐKZ75, SMPK12,7 ly), lực lượng bảo đảm và lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy, Phú Vang có nhiệm vụ cùng nhân dân tiến công và nổi dậy chiếm lĩnh khu Hữu Ngạn làm tê liệt căn cứ Phú Bài, thiết lập chính quyền và đánh địch phản kích vào thành phố.

Ở hướng phối hợp Nam Quảng Trị, lực lượng ta có 4dBB, 1dĐC, 1cCo82 và ĐKB; ở Phú Lộc có 1dBB, 1cĐC, 1cCB (đánh giao thông), 1cCo82 và ĐKB.

Thực hiện kế hoạch đã định, từ ngày 7-1 đến ngày 27-1-1968, trên hướng phối hợp, các lực lượng tiến công địch tạo thế đạt kết quả tốt. Địch bị hút ra hai đầu Quảng Trị và Phú Lộc tạo điều kiện để các lực lượng áp sát Huế. Chiều 30-1, các lực lượng ở Cánh Bắc đã triển khai áp sát mục tiêu. Ở Cánh Nam, một số đơn vị bị địch ngăn chặn nên vào triển khai chậm.

Đúng 2 giờ 33 phút ngày 30-1, pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch, mở đầu cho tổng tiến công vào nội đô Huế. Ngay sau đó, ta đồng loạt đánh vào các mục tiêu trong thành phố. Tới sáng 1-2, phần lớn thành phố nằm trong tay Quân giải phóng (trừ khu Mang Cá và sân bay Tây Lộc...). Sáng 3-2, quần chúng nổi dậy mạnh mẽ truy diệt ác ôn, thiết lập chính quyền cách mạng. Tại các vùng ven, lực lượng vũ trang và quần chúng đánh chiếm các mục tiêu, bức rút đồn bốt, gọi hàng... mở rộng vùng giải phóng. Sau đó, địch phản kích quyết liệt, đánh bật ta ở một số điểm thuộc Cánh Bắc; ở Cánh Nam, lực lượng ta phải bật ra bám trụ ở tuyến ngoại thành. Lúc này, eBB8 được Bộ tăng cường gấp cho mặt trận Huế vào chiếm lĩnh khu vực Bắc và Tây Bắc Huế.

Từ ngày 7-2, địch huy động lực lượng lớn (cao điểm ngày 18-2, địch huy động tới 23 tiểu đoàn) có pháo binh, không quân, xe tăng chi viện ồ ạt phản kích. Ngày 8-2, Khu ủy họp xác định quyết tâm giữ vững khu vực đã chiếm được trong thành phố, ngăn chặn và đánh địch phản kích, phát động quần chúng nổi dậy mạnh hơn nữa. Từ 9-2, nhiều trận đánh quyết liệt diễn ra nhất là ở Cánh Bắc. Ta thương vong nhiều, đạn rất thiếu. Từ ngày 20 đến ngày 22-2, ta chỉ đủ sức kiềm chế địch từng bước. Ngày 22-2, Khu ủy và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng tác chiến ra ngoài thành phố.

Đêm 23-2, eBB6, dBB819/e9 rút ra Kim Long, Xuân Hoà; eBB8 rút ra An Ninh Thượng, dBB815/e9 trả về Cánh Nam. Ngày 24-2, eBB6, eBB8 tiếp tục rút về vị trí quy định. Ở Cánh Nam, từ ngày 25-2, các đơn vị lần lượt rút ra ngoài. Đến ngày 29-2, các lực lượng rút hết khỏi thành phố. Sau khi rút khỏi thành phố, ta không thực hiện được ý định chiếm giữ vùng giáp ranh vì địch huy động lực lượng lớn, đánh phá ác liệt, chiến trường chưa được tổ chức chu đáo, lương thực cạn. Địch nhanh chóng chiếm lại vùng đồng bằng, truy kích ta lên vùng giáp ranh, rừng núi gây thương vong nhiều cho các đơn vị.

Kết quả, sau hơn 25 ngày đêm chiến đấu, chiếm giữ thành phố, mặt trận Huế cùng các lực lượng phối hợp loại khỏi vòng chiến đấu 25.700 tên địch, phá hủy, phá hỏng nhiều máy bay, xe tăng, tàu chiến và xe quân sự; thiết lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi. Ngày 5-5-1968 thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân khu Trị - Thiên mở đợt tiến công lần thứ hai vào Huế nhưng do tình hình và tương quan lực lượng đã thay đổi nên cuộc tiến công không thực hiện được như ý định. Nhiều đơn vị bị tổn thất, các cơ sở quần chúng ở nông thôn bị đánh phá, đường chi viện từ miền Bắc vào bị địch ngăn chặn nên lương thực, đạn dược cạn dần. Đến cuối tháng 5, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và cả du kích phải rút lên vùng núi để củng cố.

Về công tác hậu cần, từ tháng 10-1967, thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, chiến trường Trị - Thiên - Huế bắt tay vào chuẩn bị mọi mặt cho Tổng tiến công và nổi dậy tại mặt trận Huế. Đầu tháng 12-1967, Ban chỉ huy và lãnh đạo hậu phương trực thuộc Khu ủy được thành lập do đồng chí Phó Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu làm Trưởng ban và 3 đồng chí khu ủy viên khác làm ủy viên, chịu trách nhiệm huy động, tiếp nhận, vận chuyển cung cấp vật chất, điều trị thương binh và nhân dân bị thương, tổ chức dân công phục vụ Tổng tiến công và nổi dậy. Hậu cần Quân khu chỉ đạo hậu cần các đơn vị phối hợp với các địa phương xây dựng kế hoạch huy động nhân, vật lực trên các địa bàn sẵn sàng phục vụ tác chiến.

Để bảo đảm cho tác chiến, hậu cần quân khu triển khai bộ phận tiền phương, tổ chức 2 cụm kho phía trước: Hướng bắc ở Núi Gió (phía tây Huế), phía Nam ở sông Hai Nhánh (tây nam Huế). Đội điều trị 84 (do Tổng cục Hậu cần tăng cường) triển khai ở Núi Gió trực tiếp bảo đảm cho hướng chủ yếu. Ngoài ra, còn có mạng lưới quân dân y bố trí sẵn ở chiến trường (gồm 8 đội phẫu thuật tại các huyện đồng bằng, 7 đội phẫu thuật và 13 bệnh xá lớn nhỏ) triển khai tại vùng giáp ranh và vùng núi, có khả năng thu dung khoảng 3.200 thương binh. Trong đó, ở bắc Huế có 900 giường trên núi và 400 giường ở đồng bằng, nam Huế có 400 giường trên núi và 200 giường ở đồng bằng.

Khi nhận chỉ thị của Quân ủy Trung ương, chiến trường đã đề nghị Bộ tăng cường lực lượng, vũ khí, trang bị, trước mắt tăng cường thêm 2eBB, 1.000 tấn đạn và 500 tấn gạo; Bộ chuẩn y cấp cho chiến trường Trị - Thiên - Huế 350 tấn gạo, 400 tấn vũ khí đạn. Tuy nhiên, tháng 11-1967 do mưa nhiều, mực nước sông Sáp thường xuyên lên 2-3m xe ô tô không vượt được, đường sá hư hỏng, lầy lội nên đến cuối tháng 12-1967, hậu cần quân khu mới tiếp nhận được chuyến hàng đầu tiên của mùa vận chuyển 1967-1968. Hậu cần quân khu gấp rút tổ chức gùi trong 40 ngày, kết quả chuyển được 300 tấn đạn tới kho phía trước kịp thời cung cấp cho đơn vị. Về lương thực, thực phẩm và thuốc men chuẩn bị lượng dự trữ chủ yếu từ thu mua, khai thác từ đồng bằng chuyển lên hậu cứ và tạo lượng dự trữ ở các đơn vị. Từ năm 1967, quân khu tổ chức tuyến hành lang Hải Phong (Hải Lăng - Phong Điền) do Phó Chủ nhiệm hậu cần quân khu phụ trách. Kết quả, đến ngày Tổng tiến công và nổi dậy, toàn chiến trường thu mua và huy động trong nhân dân được 2.000 tấn gạo (1.000 tấn đã vận chuyển lên căn cứ). Riêng Mặt trận Huế mới dự trữ được 130 tấn. Trung đoàn 6 dự trữ được gạo 1 tháng, thuốc men bảo đảm cho 800 thương binh, đạn xấp xỉ 2 cơ số, đủ bảo đảm cho trung đoàn đánh từ 1-2 trận.

Cuối năm 1967, Quân khu thành lập 3 đại đội vận tải ở đồng bằng; tổng số lực lượng vận tải quân khu có 1.800 người rải ra trên các tuyến. Quân khu không có lực lượng vận tải cơ giới, vận chuyển chủ yếu là gùi bộ. Để bảo đảm cho mặt trận Huế, ngành hậu cần sử dụng các tuyến vận tải bộ từ hậu cần quân khu tới cụm kho phía Bắc dài 7-8 cung, đến cụm kho phía nam 10-12 cung, hướng đi Phú Lộc tới 20 cung. Khi chuẩn bị trực tiếp cho đánh Huế, hậu cần phát triển thêm tuyến B trên Đường 12 để tiếp nhận hàng từ Đoàn 559 ở khu vực Làng Ngòi, từ đó tiếp chuyển sức người về phía nam đến Khe Đại, về phía bắc đến Khe Trái cho các đơn vị. Để bảo đảm cho Cánh Bắc, ngoài lực lượng vận tải của các đơn vị, quân khu còn sử dụng đại đội vận tải của quân khu ở đồng bằng và lực lượng vận tải đi theo bộ phận tiền phương tham gia vận chuyển trên tuyến của eBB6. Ở Cánh Nam, quân khu không chi viện như Cánh Bắc, mà cử đồng chí chủ nhiệm hậu cần quân khu xuống trực tiếp nắm 1 tuyến vận tải để chỉ huy đôn đốc thực hiện kế hoạch vận chuyển và quan hệ trực tiếp với Binh trạm 42/Đoàn 559 để giải quyết khó khăn; 1 đồng chí tham mưu phó quân khu trực tiếp nắm một tuyến khác; đồng chí Trưởng ban vận tải và một số cán bộ vận tải của quân khu xuống các tuyến vận tải chính để hướng dẫn, đôn đốc.

Từ ngày 30-1 đến 6-2, ta tiến công thuận lợi, sau 2 đến 3 ngày địch tổ chức phản kích nhưng lực lượng còn ít. Công tác bảo đảm hậu cần trong giai đoạn này cơ bản đáp ứng được yêu cầu của các đơn vị.

Để cứu chữa vận chuyển thương binh, lực lượng vận tải trung đoàn xuống tận đại đội, thậm chí tổ chiến đấu chuyển thương binh về đội phẫu thuật trung đoàn; huy động dân công nhân dân, học sinh, sinh viên và các phương tiện tham gia vận chuyển thương binh về và vận chuyển đạn lên. Một bộ phận vận tải của quân khu và lực lượng vận tải trung đoàn chuyển thương binh về bệnh xá hoặc đội điều trị. Từ ngày 3-2, khi eBB8 vào chiến đấu và chiến sự ác liệt hơn, hậu cần đã tổ chức trạm chuyển tiếp ở An Ninh Thượng (ở tây bắc Huế) để thu dung phân loại thương binh và tiếp chuyển đạn. Đồng thời, quân khu cũng chỉ thị cho đội phẫu thuật của eBB6 đảm nhiệm tất cả thương binh nặng ở tây và tây bắc nội thành Huế như một cơ sở của quân khu. Quân khu bố trí 1 đội phẫu thuật ở đông bắc huyện Quảng Điền để nhận thương binh cho dBB8/e8 làm nhiệm vụ đánh chặn địch tiếp viện từ phía tây bắc xuống Huế.

Trong giai đoạn này, các đơn vị tổ chức ăn uống theo tổ hoặc theo tiểu đội. Nhìn chung, các đơn vị bảo đảm ăn uống khá tốt do được cung cấp nguồn thực phẩm tươi chuẩn bị ăn Tết của nhân dân. Khi quân khu có chỉ thị các đơn vị trong thành dự trữ cho chiến đấu dài ngày (gạo 3 tháng) các đơn vị đã tổ chức lực lượng, phương tiện lấy gạo của địch và thực phẩm về dự trữ ở đơn vị mình. Tiểu đoàn 1/eBB6 lấy được 1.800 bao gạo, dBB2/eBB6 lấy được 19 tấn.

Từ ngày 7-2 đến 22-2, địch phản kích ác liệt, ta thương vong nhiều, bị bật dần ra khỏi thành phố. Giai đoạn này bảo đảm hậu cần gặp khó khăn nhiều mặt, đặc biệt ở Cánh Bắc. Các trạm phẫu thuật ở trong thành, ở vùng giáp ranh và An Ninh Thượng thương binh tăng gấp hai, ba lần. Trạm chuyển tiếp An Ninh Thượng được tăng cường thành trạm quân y, từ ngày 7-2 tổ chức 1 bàn mổ từ đội phẫu thuật của eBB8 và từ ngày 22-2 cả đội phẫu thuật của eBB6 trong thành cũng rút về đây. Từ ngày 20-2 đến 23-2, đội phẫu thuật của eBB6 và eBB8 thu hẹp phạm vi cứu chữa để giải phóng nhanh thương binh. Thời gian này, ta tiếp tục kết hợp lực lượng vận tải, dân công và huy động thêm học sinh, sinh viên, nhân dân tham gia chuyển thương, tải đạn. Những tình huống khó khăn cấp thiết thì sử dụng cả bộ đội chiến đấu chuyển thương cho kịp thời; sử dụng nhiều phương tiện như ô tô, thuyền để vận chuyển. Trong cả 2 giai đoạn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, ta đã sử dụng 4 - 5 thuyền của nhân dân để vận chuyển đạn trên một đoạn sông Bồ vùng cửa rừng Hương Trà và 3 thuyền khác chở thương binh từ Huế về An Ninh Thượng trong 20 đêm, mỗi đêm chuyển được từ 70 đến 160 thương binh; sử dụng nhân dân tình nguyện chuyển thương binh lên vùng giáp ranh, mỗi ngày khoảng 50 thương binh. Do từ An Ninh Thượng lên vùng giáp ranh dài nên quân khu bố trí thêm 1 trạm chuyển tiếp cách vùng giáp ranh khoảng 3 giờ đi bộ.

Trong lúc đang tấn công địch ở Huế, hậu phương chuyển được 52 tấn gạo vào bổ sung cho quân khu. Từ ngày 7-2, những đơn vị trong nội thành phát hiện nhiều kho gạo của địch, các đơn vị chủ động lấy dự trữ tại chỗ. Đến ngày 16-2 quân khu có chủ trương lấy gạo ở trong thành ra, nhưng lúc đó cầu đã bị địch đánh hỏng, các tuyến đường bị địch đánh phá, phong tỏa ác liệt. Vì vậy, số lượng chuyển ra được ít: Cánh Bắc được 20 tấn, Cánh Nam được 100 tấn. Quân khu thành lập Ban Cung cấp tiền phương để thu mua, thu chiến lợi phẩm bảo đảm cho Cánh Bắc nhưng địch lại đánh phá ác liệt, nhân dân sơ tán nên kết quả rất hạn chế.

Từ ngày 23-2 đến 29-2, ta tổ chức rút ra khỏi Huế để bảo toàn lực lượng. Lúc này, các đường vận chuyển từ đồng bằng lên vùng giáp ranh bị địch phong tỏa gay gắt, thương binh ở các đơn vị và các đội phẫu thuật còn nhiều. Các đơn vị chủ yếu tập trung vào chiến đấu ngăn chặn địch và vận chuyển thương binh. Công tác vận tải thực hiện vận chuyển 2 chiều, nhưng chủ yếu là vận chuyển thương binh ở đồng bằng lên, đạn chuyển về rất ít. Giai đoạn này, lực lượng chuyển thương chủ yếu là vận tải bộ và bộ đội. Đêm 24-2, toàn eBB8 tập trung chuyển 150 thương binh về gửi đội phẫu thuật quân ở Quảng Điền. Quá trình rút quân, trung đoàn tiếp tục bị địch truy kích nên việc giải quyết thương binh rất khó khăn do không có đội phẫu thuật đi cùng. Trung đoàn 6, đêm 26-2 tập trung chuyển thương binh về vùng giáp ranh có 336 thương binh trong đó 252 người phải cáng. Do đường bị phong tỏa, thương binh một số đơn vị bị kẹt lại trong thành phố và một số huyện đồng bằng phải gửi lại nhân dân nuôi dưỡng chữa trị.

Sau đợt 1 Tổng tiến công và nổi dậy ở Huế, lượng vật chất dự trữ còn rất ít. Khi rút khỏi Huế, ta vẫn có chủ trương mang gạo ra, nhưng vì phải vận chuyển thương binh nên ít đơn vị mang được gạo, đơn vị mang được thì số lượng cũng không nhiều. Từ tháng 5-1968, hầu hết mọi nhu cầu vật chất phải tiếp nhận từ miền Bắc chuyển vào. Tháng 4-1968, địch đánh chiếm lên vùng giáp ranh, hầu hết các tuyến vận tải bị địch khống chế. Vì vậy, đợt 2 tiến công và nổi dậy, hậu cần không đủ sức bảo đảm. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến không thực hiện được đợt 2 theo kế hoạch.

Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng hậu cần quân khu và các đơn vị đã có nhiều cố gắng trong chuẩn bị và bảo đảm vật chất trong quá trình tiến công và nổi dậy. Kết quả là trước nổ súng, hậu cần quân khu đã tiếp nhận, vận chuyển 300 tấn đạn tới các kho phía trước và bổ sung cho các đơn vị bước vào chiến đấu, thu mua, khai thác, huy động được 2.000 tấn gạo, trong đó 1.000 tấn đã vận chuyển lên căn cứ, 1.000 tấn gửi lại các cơ sở dưới đồng bằng. Các đơn vị cũng đã chủ động tiếp nhận, khai thác thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược đủ bảo đảm cho đơn vị bước vào chiến đấu. Trong quá trình tác chiến, hậu cần quân khu đã tích cực tiếp nhận, vận chuyển bổ sung cho các đơn vị, cùng với việc các đơn vị chủ động sử dụng nguồn tại chỗ nên đã bảo đảm tương đối đầy đủ và kịp thời vật chất cho chiến đấu.

Về cứu chữa, điều trị thương, bệnh binh, hậu cần quân khu và các đơn vị đã cố gắng vận chuyển cứu chữa, điều trị một số lượng lớn thương binh và giải quyết tử sĩ. Số thương binh của eBB6 chiếm tới 29,13% quân số chiến đấu, số tử sĩ là 11,8%. Trung đoàn 8 từ ngày 4-2 đến 23-2 đã có 687 thương binh, tổng số toàn đợt trung đoàn có 743 thương binh, chiếm 45,1% quân số chiến đấu. Thương binh được cấp cứu và chuyển về đội phẫu thuật trung đoàn kịp thời nên việc cứu chữa khá thuận lợi.

Cuộc tiến công và nổi dậy ở Huế là một trọng điểm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong cuộc tiến công và nổi dậy này, ta đã phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, lực lượng vũ trang địa phương cùng với bộ đội chủ lực chiến đấu và bảo đảm cho chiến đấu. Công tác hậu cần trong cuộc tiến công càng về sau càng gặp nhiều khó khăn. Địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt; từ vùng giáp ranh về Huế địa hình trống trải, phải qua vùng đồng bằng nơi ta và địch xen kẽ; bố trí hậu cần khó tiếp cận các đơn vị; chiến trường chưa được chuẩn bị kỹ để bảo đảm cho bộ đội chủ lực đánh lớn; việc chi viện của hậu cần chiến lược chưa kịp thời...

Từ thực tiễn bảo đảm hậu cần ở mặt trận Huế cho thấy:

Về chuẩn bị hậu cần, khu ủy, quân khu đã sớm chủ động chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy với việc thành lập Ban bảo đảm hậu phương, chỉ đạo các địa phương kết hợp với đơn vị chủ lực lập kế hoạch huy động nhân, vật lực; hậu cần quân khu tổ chức hành lang thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang... Bản thân các đơn vị (các trung đoàn) cũng rất tích cực, chủ động thu mua khai thác vật chất tạo lượng dự trữ. Nhờ vậy, ta đã dự trữ được một lượng vật chất đáng kể cho các lực lượng bước vào chiến đấu. Hệ thống quân, dân y trên địa bàn cũng được triển khai tốt góp phần quan trọng trong việc cứu chữa điều trị thương binh sau này.
Hạn chế lớn nhất trong công tác hậu cần là chuẩn bị còn thiếu chu đáo, toàn diện. Về phía hậu cần chiến lược bổ sung vật chất, nhất là vũ khí đạn cho quân khu còn chậm và không đủ. Về phía quân khu, trong chuẩn bị chưa dự tính được các tình huống tác chiến và nhu cầu bảo đảm hậu cần nên chuẩn bị chưa sát đúng (thương binh trong đợt đầu Tổng tiến công và nổi dậy gấp 2 lần dự kiến của quân y, gấp 4 lần dự kiến của tham mưu quân khu).

Về tổ chức, bố trí hậu cần, nhìn chung việc triển khai hậu cần tiền phương trên cả 2 cánh và tập trung cho Cánh Bắc là phù hợp. Kết hợp và phát huy được vai trò của hệ thống dân y (ở các vùng giải phóng) trong cứu chữa thương bệnh binh. Quá trình tiến công và nổi dậy kịp thời điều chỉnh tổ chức, bố trí nên hạn chế bớt khó khăn trong bảo đảm hậu cần. Bên cạnh những kết quả trên, tổ chức, bố trí hậu cần vẫn còn bộc lộ một số điểm chưa phù hợp là: mạng lưới đường vận tải chưa vững chắc, lực lượng còn mỏng, khu vực triển khai hậu cần tiền phương còn xa tuyến chiến đấu và xa hậu cứ. Kết quả bảo đảm của hậu cần quân khu cho đơn vị chiến đấu còn chưa đáp ứng đủ yêu cầu.

Trong bảo đảm vật chất, đã khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tại chỗ bằng thu mua, huy động trong nhân dân, thu hồi chiến lợi phẩm... đáp ứng kịp thời cho chiến đấu. Song, khó khăn lớn nhất vẫn là thiếu đạn, đặc biệt đạn hỏa lực do dự trữ trước khi bước vào chiến đấu còn mỏng, bổ sung không kịp thời, đạn chiến lợi phẩm không có nhiều. Bộ Tổng Tham mưu cho sử dụng máy bay IL-14 vận tải chi viện cho mặt trận Huế, nhưng không đạt được mục tiêu đề ra.

Trong cứu chữa vận chuyển thương binh, đã huy động được nhiều lực lượng tham gia, cả quân y và dân y, cả lực lượng chuyên trách và tự cứu chữa. Ở eBB8 bộ đội tự băng và đồng đội băng bó ở hỏa tuyến chiếm 78,4%. Khi rút khỏi Huế sử dụng bộ đội chuyển thương là chủ yếu. Đã kịp thời, linh hoạt vận dụng các biện pháp trong cứu chữa, vận chuyển thương binh như thu hẹp phạm vi cứu chữa, tổ chức chuyển tiếp, gửi phân tán trong nhân dân, nhờ nhân dân nuôi dưỡng, điều trị. Lúc khó khăn phát huy được khả năng của các cơ sở dân y tại chỗ... Điểm yếu nhất trong cứu chữa, vận chuyển thương binh là chuyển từ đội phẫu thuật về các đội điều trị chậm, nhất là ở Cánh Bắc thương binh bị dồn lại nhiều gây khó khăn cho rút quân.

Trong công tác vận tải, ưu điểm lớn nhất là đã huy động được nhiều lực lượng, phương tiện tham gia vận chuyển; đã linh hoạt thực hiện kết hợp trên dưới cùng chuyển không cứng nhắc theo phân cấp; đã kết hợp cả vận chuyển bộ và cơ giới, đường bộ và đường thủy ở những nơi, những thời điểm cho phép. Vì vậy đã giải quyết được nhiều khó khăn, nhất là vận chuyển ở hỏa tuyến. Tuy vậy, do tổ chức tuyến vận tải quá dài, sử dụng lực lượng vận tải và dân công chưa hiệu quả nên dù đã rất cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển bảo đảm cho chiến đấu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại mặt trận Huế đã để lại những bài học kinh nghiệm quý về nghệ thuật quân sự nói chung và công tác hậu cần nói riêng. Những bài học về công tác hậu cần trước hết là sự quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nắm chắc nhiệm vụ, quyết tâm tác chiến và sự vận dụng sáng tạo truyền thống và kinh nghiệm công tác hậu cần trong điều kiện cụ thể của từng địa bàn. Trên cơ sở đó để thường xuyên xây dựng lực lượng hậu cần đủ mạnh, chủ động xây dựng tạo lập thế trận liên hoàn, vững chắc để đáp ứng mọi nhu cầu bảo đảm hậu cần cho tác chiến thắng lợi. Mặt khác đã quán triệt sâu sắc quan điểm hậu cần nhân dân, quan điểm tự lực tự cường để kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, phát huy sức mạnh của lực lượng hậu cần các cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho chiến dịch.

Ngày nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chiến tranh xâm lược (nếu xảy ra) sẽ là chiến tranh mà phía đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu. Vì vậy, đòi hỏi ngành hậu cần quân đội phải nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận bảo đảm hậu cần để huấn luyện xây dựng ngành hậu cần vững mạnh toàn diện và góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tuy vậy, những bài học kinh nghiệm về hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, bảo đảm hậu cần trong Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 tại mặt trận Huế nói riêng luôn là những kinh nghiệm quý báu để nghiên cứu kế thừa và vận dụng phát triển trong điều kiện mới.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Tám, 2020, 06:02:38 pm
CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
MẬU THÂN 1968 TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU 7



Thiếu tướng NGUYỄN MINH HOÀNG
Phó Chính ủy Quân khu 7


Đêm giao thừa và đêm mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 và 31-1-1968) quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam; đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/44 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bao gồm cả 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ, 30 sân bay và nhiều tổng kho lớn. Trong đó, địa bàn Quân khu 7 - Trung tâm đầu não chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn - trọng điểm lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, diễn ra rất nhiều trận đánh lớn. Tiêu biểu là các trận đánh vào sân bay Biên Hòa, sân bay Tân Sơn Nhất, Toà Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài Phát thanh Sài Gòn, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát; các Sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Mỹ số 1, 9, 25, 101. Sau gần hai tháng tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã tiêu diệt và làm tan rã khoảng 15 vạn tên địch (có hàng nghìn lính Mỹ) phá hủy 1/3 vật tư chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, phá 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã mới với hơn một triệu dân...

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", góp phần chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc lập lại hòa bình tại Việt Nam. Đây là một thắng lợi to lớn cả về chính trị, quân sự, ngoại giao; đã trở thành một sự kiện lịch sử trọng đại, giữ vai trò to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam như một chiến công bất hủ.

Để có được thắng lợi này, biết bao cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh và nhiều người trong số đó đã mãi mãi nằm lại trong lòng đất mẹ yêu thương. Theo số liệu thống kê, tổn thất của ta năm 1968 là rất lớn. Toàn miền Nam: hy sinh 44.824 người, bị thương 61.267 người, mất tích 4.511 người. Trong đó, chỉ tính riêng các tỉnh miền Đông Nam Bộ thuộc địa bàn Quân khu 7: hy sinh 14.121 người, bị thương 17.752 người, mất tích 1.907 người.

Đến nay, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trôi qua gần 50 năm và nước Việt Nam chúng ta đã độc lập, thống nhất được hơn 40 năm. Mặc dù Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta đã và đang có rất nhiều nỗ lực trong công tác tìm kiếm, quy tập, nhưng nhiều đồng chí, đồng bào ta hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn chưa tìm được hài cốt. Chính vì vậy, làm thế nào để sớm đưa các chú, các cô, các anh, các chị trở về với quê hương, về bên gia đình, người thân luôn là trăn trở của Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh, và của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 7.

Quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ và thấm nhuần truyền thống, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, những năm qua, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ hy sinh trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; trong đó có việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Ban Chỉ đạo 1237 các cấp được bổ sung kiện toàn, vận hành đúng quy chế, kế hoạch. Lực lượng làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập được thành lập, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong tổ chức thực hiện; phương tiện, cơ sở vật chất, trang bị, chế độ, chính sách được bảo đảm; công tác kiểm tra, quản lý tình hình, xử lý các vướng mắc phát sinh được tiến hành thường xuyên, kịp thời. Cùng với đó, ngành Chính sách Quân khu đã chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng, nhất là ngành lao động - thương binh và xã hội, Hội Cựu chiến binh, bộ chỉ huy quân sự các tỉnh tham mưu cho tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các địa phương có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thống nhất, chặt chẽ và toàn diện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã lãnh đạo, chỉ đạo Ban Chỉ đạo 1237 và các cơ quan chức năng của Quân khu hướng dẫn các đơn vị, địa phương cung cấp thông tin, vận động, tuyên truyền các tầng lớp nhân dân tham gia Chương trình "Đi tìm đồng đội"; truy cập thường xuyên "Cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội" và đưa tin tuyên truyền về kết quả thực hiện nhiệm vụ, các gương "người tốt, việc tốt" trong thực hiện tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Các cơ quan, đơn vị và địa phương đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, làm cho lực lượng vũ trang và nhân dân trên địa bàn nhận thức sâu sắc công lao to lớn của các thế hệ đi trước, các anh hùng liệt sĩ, thương binh đã cống hiến xương máu, hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Từ đó, mỗi người tự đề cao trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Để việc rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách mộ liệt sĩ và xây dựng cơ sở dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ được chính xác, Quân khu đã tổ chức tập huấn về công tác rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ; đồng thời, chỉ đạo Báo, Truyền hình Quân khu 7 lập chuyên mục Thông tin liệt sĩ và mộ liệt sĩ bằng phần mềm tiện ích dễ truy cập trong quá trình tìm kiếm (từ ngày 13-3-2017, Báo Quân khu 7 điện tử ra mắt chuyên trang Thông tin liệt sĩ và Mộ liệt sĩ). Các đơn vị trong Quân khu đã tổ chức các nhóm đi khảo sát, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu lưu trữ liên quan đến nơi mai táng các liệt sĩ; tiến hành phân tích, kết luận những thông tin chưa khớp nối, chồng chéo để hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ. Đến nay, nhiều đơn vị, địa phương cơ bản hoàn thành việc rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ, đáp ứng một phần công việc tìm kiếm thông tin liệt sĩ cho thân nhân và những người làm công tác chính sách trên cả nước. Trên cơ sở các thông tin do nhân dân địa phương và các cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh tại Việt Nam cung cấp, các đơn vị được giao nhiệm vụ đã phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trên địa bàn tiến hành tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin và triển khai tìm kiếm, quy tập.

Với phương châm "Còn thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, còn tổ chức tìm kiếm, quy tập", Quân khu đã chỉ đạo quyết liệt công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; trong đó, trọng tâm là các địa bàn diễn ra các trận đánh ác liệt trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Thực hiện chủ trương đó, các đơn vị, địa phương trong Quân khu đã chủ động khắc phục mọi khó khăn, tìm ra nhiều cách làm sáng tạo trong khai thác, xử lý thông tin và tìm được nhiều mộ tập thể, với nhiều hài cốt liệt sĩ.

Nhờ thực hiện đồng bộ các biện pháp trên nên việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn của Quân khu 7 đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Tính đến nay, Quân khu đã tìm kiếm, quy tập được 1.253 hài cốt liệt sĩ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (đây là số liệt sĩ do Quân khu 7 trực tiếp quy tập, chưa tính số liệt sĩ đã rõ danh tính do các ban, ngành, đoàn thể địa phương quy tập). Điển hình là việc tìm kiếm được 182 liệt sĩ tại khu vực hố chôn tập thể ở sân bay Tân Sơn Nhất vào năm 1995 và 150 liệt sĩ ở sân bay Biên Hòa trong năm 2017. Hiện nay, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đang tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức năng của Quân khu và Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan mở đợt tìm kiếm có quy mô lớn phía tây sân bay Tân Sơn Nhất để tìm kiếm khoảng 600 liệt sĩ trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Trong những năm tới, việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7 sẽ ngày càng khó khăn hơn; một phần do các nhân chứng ngày càng ít đi, số còn lại do tuổi tác nên trí nhớ giảm sút, một phần là sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội trên địa bàn làm cho những "vật chuẩn" để nhận biết nơi các liệt sĩ nằm lại bị mất dấu tích. Chính vì vậy, bằng trách nhiệm và tình cảm của mình, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xác định cần phải đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ nói chung, tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7 nói riêng, để sớm đưa các cô, các chú, các anh, các chị về với quê hương, về bên gia đình, người thân.

Để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ trên, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu xác định cần tập trung thực hiện tốt những nội dung, biện pháp chủ yếu sau đây:

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, địa phương phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Ban Chỉ đạo 1237 các tỉnh, thành phố tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương khẩn trương hoàn thành rà soát, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ danh sách liệt sĩ của các đơn vị, địa phương; làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, thực hiện đúng quy trình nắm và xử lý thông tin về hồ sơ liệt sĩ; đẩy mạnh công tác thu thập, kết nối và xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ ở tất cả các cấp (mở hội nghị lấy ý kiến, thu thập thông tin liệt sĩ, mộ liệt sĩ ở cả cấp Quân khu, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã).

Hai là, đánh giá, phân tích cụ thể tình hình thực tế của từng địa bàn. Trên cơ sở kinh nghiệm đã có, đánh giá đúng thuận lợi, khó khăn; đặt ra kế hoạch tìm kiếm từng đợt, từng giai đoạn một cách sát thực; chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tranh thủ thời gian, đẩy nhanh tiến độ, từng bước kết luận địa bàn. Đồng thời, bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp và có chính sách sử dụng hợp lý; thường xuyên bảo đảm nhu cầu cần thiết, tạo điều kiện tốt nhất cho các đơn vị trực tiếp thực hiện công tác tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ. Phấn đấu tìm kiếm, cất bốc, toàn bộ số liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7, đưa về an táng tại các nghĩa trang liệt sĩ.

Ba là, các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục kiện toàn các lực lượng chuyên trách, lâm thời làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở các địa phương thuộc địa bàn trọng điểm; ưu tiên bố trí lực lượng, phương tiện, khẩn trương hoàn thành việc rà soát, lập hồ sơ, danh sách liệt sĩ; xây dựng cơ sở dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm về công tác rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7.

Bốn là, đề xuất với Ban Chỉ đạo Quốc gia 1237 liên hệ với các nước có tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây, đồng thời, thông qua kênh ngoại giao nhân dân để cựu chiến binh đã trực tiếp tham chiến tại Việt Nam cung cấp thông tin chính xác vị trí chôn cất liệt sĩ. Bên cạnh đó, kiến nghị với Ủy ban chuyên trách Chính phủ thường xuyên theo dõi tình hình, kịp thời chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu. Đề nghị Bộ Quốc phòng chỉ đạo các đơn vị chủ lực hoàn thiện danh sách liệt sĩ, bàn giao cho các tỉnh, thành phố. Cơ quan chức năng hướng dẫn việc xác định lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ba cấp để các địa phương tác nghiệp trong quá trình thực hiện, sớm đưa những người con đã hy sinh vì Tổ quốc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu 7 trở về với gia đình, người thân.

Thực hiện trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước, nhân dân và với lòng biết ơn sâu sắc các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, bằng những kinh nghiệm thực tiễn tích lũy được trong những năm qua, Quân khu 7 quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên địa bàn Quân khu trong thời gian sớm nhất.
 


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 09:38:39 am
SỰ KIỆN TẾT MẬU THÂN 1968 - NHÌN NHẬN TỪ ĐỐI PHƯƠNG



Đại tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam (1954-1975), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bước ngoặt lịch sử; là bước phát triển tất yếu trong chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam. Chỉ trong thời gian ngắn, ta đã làm thay đổi căn bản thế trận chiến lược, đưa chiến tranh vào tận sào huyệt cuối cùng của địch; làm chuyển biến căn bản tương quan lực lượng, chuyển chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Trong cuộc tổng tiến công ấy, "ta tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch..., ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay, địch phải xuống thang, ngồi lại đàm phán với ta ở Pari".

Năm mươi năm đã trôi qua kể từ sau sự kiện Mậu Thân 1968, nhưng khoảng thời đó không hề làm cho sự kiện lịch sử này bị phai nhạt, trái lại, nó vẫn luôn lôi cuốn giới chính trị, quân sự, sử học, báo chí... tìm hiểu, nghiên cứu, nhằm làm rõ hơn nhiều vấn đề xung quanh sự kiện quan trọng này. Theo thống kê của Bộ Quốc phòng Mỹ, kể từ tháng 1-1968 đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, chỉ riêng tại Mỹ đã có hàng nghìn ấn bản phẩm cùng hàng trăm phim phóng sự tài liệu đề cập đến sự kiện Mậu Thân 1968. Nội dung các ấn bản phẩm, phim tài liệu phần lớn tập trung vào lý giải những vấn đề như: tác động của Tết Mậu Thân 1968 đối với xã hội và các chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam; nước Mỹ có bị bất ngờ, ai chịu trách nhiệm trước sự kiện Mậu Thân 1968?... Nhiều ấn bản phẩm, phim tài liệu còn đề cập một cách chi tiết đến những vấn đề chuyên biệt như: vai trò của báo chí, truyền thông; trách nhiệm của cộng đồng tình báo Mỹ; phản ứng của chính quyền Oasinhtơn và Sài Gòn trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của đối phương...

Liên quan đến câu hỏi: Nước Mỹ có bị bất ngờ trước sự kiện Mậu Thân 1968 hay không? trong cuốn The Tet offensive - A concise history (tạm dịch là Lược sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968), tác giả Giêm Uynbanh (James H. Willbanks) đã đưa ra không ít nhận định của nhiều tướng lĩnh, sĩ quan và các quan chức cấp cao Chính phủ Mỹ, kể cả Tổng thống Giônxơn về vấn đề này. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng: Trước khi cuộc tổng tiến công nổ ra, CIA đã thu thập được không ít thông tin chứng tỏ đối phương đang chuẩn bị cho một cuộc tiến công quy mô lớn. Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) lại không tin vào vào điều đó và cho rằng, cộng sản chưa thể tiến hành một cuộc tiến công quy mô lớn vào dịp Tết. Bản thân tướng Oétmolen còn khẳng định, nếu tiến công, cộng sản sẽ không dám tiến công vào thành phố. Vì vậy, Oétmolen vẫn tập trung phần lớn binh lực cho các khu vực dọc biên giới giữa Việt Nam với Lào và Campuchia, nơi mà ông cho là mối đe dọa chính của quân Mỹ đang tập trung ở đó. Chỉ vài ngày trước khi cuộc tiến công nổ ra, tướng E. Uylơ (Earle Wheeler), Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân cũng đã nhận được không ít thông tin về "khả năng cộng sản có thể mở một cuộc tiến công giống như cuộc tiến công của quân Đức tại Ácđen trong Thế chiến thứ hai". Tổng thống Giônxơn còn cho biết, ông cảm nhận thấy Cộng sản đang chuẩn bị một việc gì đó tương tự như vụ máy bay Thần phong Nhật tiến công Trân Châu Cảng. Mặc dù nhận được không ít thông tin về cuộc tiến công quy mô lớn của đối phương, nhưng chính quyền Giônxơn vẫn quyết định không sử dụng thêm bất kì một giải pháp nào để chuẩn bị tinh thần cho binh sĩ, thậm chí còn đưa ra những tuyên bố và báo cáo đầy thuyết phục để trấn an dư luận trong nước.

 Về phía chính quyền Sài Gòn, ngày 8-1-1968, tướng Cao Văn Viên nhận được thông tin mật báo về việc Việt cộng đang có nhiều "động thái lạ" tại nhiều thành phố, thị xã. Nhưng trong buổi làm việc với tướng Oétmolen để bàn về lệnh ngừng bắn trong dịp Tết Nguyên đán, tướng Viên vẫn đề nghị chỉ nên giảm thời gian ngừng bắn xuống còn 24 giờ chứ không nên hủy bỏ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì cho rằng, việc hủy bỏ lệnh ngừng bắn trong dịp Tết sẽ tác động lớn đối với tinh thần của binh sĩ và người dân Nam Việt Nam. Vì vậy, ông đề nghị không nên hủy bỏ mà chỉ nên giảm thời gian ngừng bắn xuống còn 36 giờ. Thời gian ngừng bắn sẽ bắt đầu từ tối 29-1-1968.

Vào đêm trước của cuộc Tổng tiến công, Thiếu tướng P. Đavitxơn (Philip Davidson), Trưởng phòng tình báo MACV, đã đưa ra lời cảnh báo: "cuộc tấn công sắp xảy ra trên khắp đất nước vào tối nay hoặc sáng ngày mai". Nhận được các thông tin đó và cùng với những dấu hiệu hoạt động của cộng sản, Oétmolen đã ngay lập tức đặt quân đội Mỹ trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, nhưng ông lại không thực hiện bất kỳ một cuộc điều binh nào. Binh lính thì quá chủ quan vì trước đó họ đã được báo động nhiều lần. Trước đêm giao thừa, tướng Oétmolen vẫn đinh ninh đòn tiến công chủ yếu của đối phương sẽ vẫn tập trung tại Khe Sanh, nhưng mọi nhận định của ông được chứng minh là hoàn toàn sai lầm.

Về tác động của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đối với xã hội cũng như các chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam, phần lớn các chính khách, học giả, tướng lĩnh và sĩ quan Mỹ đều cho rằng, dù lập luận theo cách nào thì Mậu Thân cũng là bước thụt lùi đối với chính quyền của Tổng thống Giônxơn cũng như với các chiến lược quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Sau sự kiện đó, chính giới Mỹ bị cuốn vào vòng xoáy phân hóa. Đúng như cựu Tổng thống Mỹ Aixenhao đã thừa nhận: "Chưa bao giờ nước Mỹ gặp phải tình trạng đáng buồn và bị chia rẽ sâu sắc về cuộc chiến tranh như hiện nay". Tại Quốc hội, nhiều thượng nghị sĩ thì quả quyết: "Tết đã lột bỏ mặt nạ của một ảo tưởng chính trị mà chúng ta che giấu hàng chục năm qua". Thượng nghị sĩ Mác Catthy (Eugene McCarthy) (bang Minnesota) thì cho rằng: "Cuộc tổng tiến công đã chứng minh các báo cáo trước đây của chính quyền là sản phẩm của sự tự lừa dối". Trong cuộc họp cuối tháng 3 - 1968 của nhà thông thái (Wise Men) - những người chỉ vài tháng trước đây được Tổng thống rất tin tưởng thì nay quay sang phản đối chiến tranh và khẳng định rằng: đã đến lúc nước Mỹ nên chấm dứt leo thang chiến tranh và rút quân về nước; và rằng, nếu tiếp tục tăng quân tới Việt Nam thì nước Mỹ cũng phải mất 10 hay 15 năm nữa mới đánh bại được cộng sản.

Cùng với sự phân hóa chính trị, nội tình nước Mỹ cũng trở nên phức tạp hơn do phong trào phản chiến phát triển rộng khắp trên toàn quốc. Theo thống kê, sau sự kiện Mậu Thân 1968, các cuộc biểu tình, đình công, bãi công diễn ra triền miên với sự tham gia của hàng triệu công dân Mỹ thuộc mọi tầng lớp. Điển hình là cuộc biểu tình của hàng vạn công nhân, học sinh, sinh viên và hàng nghìn lính Mỹ trở về từ cuộc chiến Việt Nam diễn ra vào ngày 15-10-1968. Kể từ đó, ngày 15 hằng tháng được gọi là ngày đình chiến. Đây là dấu mốc khắc ghi sự phát triển cả về quy mô lẫn hình thức của phong trào phản chiến. Trong các năm 1968 và 1969, trên toàn nước Mỹ đã diễn ra tới 1.785 cuộc biểu tình của sinh viên. Ngoài ra, còn có hàng nghìn cuộc biểu tình chống chiến tranh của các đơn vị quân đội, cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Mặc dù phong trào phản chiến không làm thay đổi được bản chất cuộc chiến mà chính quyền Níchxơn tiếp tục thực hiện tại Việt Nam những năm sau đó, nhưng nó đã phần nào giúp nhân dân tiến bộ Mỹ và thế giới thấy được bản chất thật của chủ nghĩa chiến thắng vốn đã ngự trị và là niềm tự hào của nhiều chính khách "diều hâu" Mỹ về cuộc chiến tại Việt Nam nói chung, trong các vấn đề quốc tế nói riêng.

 Đánh giá về hậu quả của sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đối với cả hai phía, giới nghiên cứu, các nhà sử học và các chiến lược gia quân sự Mỹ đều cho rằng, nếu xét theo phương thức "đếm xác" truyền thống mà Mỹ thường lấy đó để làm căn cứ đánh giá "thắng - thua" trong cuộc chiến, thì Mậu Thân là một thắng lợi của phía Mỹ, nhưng nếu xét trên tổng thể các phương diện thì đó lại là thắng lợi của đối phương. Bởi vậy, muốn đánh giá đúng sự kiện này cần phải đặt nó trong mối quan hệ tổng thể và cần phải có cách nhìn ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau. Đúng như sử gia Đuicơ (William J. Duiker) nhận xét: "Muốn đánh giá đúng sự kiện Mậu Thân cần phải quy nạp quanh nó tất cả các yếu tố ở mọi tầng nấc và cấp độ khác nhau chứ không chỉ đơn giản là suy xét ai thiệt hại nhiều hơn trong trận chiến".

Nếu đánh giá sự kiện Mậu Thân theo quan điểm của Đuicơ thì Tổng tiến công và nổi dậy là một thắng lợi của Hà Nội bởi sau sự kiện đó, Mỹ đã buộc phải xuống thang chiến tranh, từng bước rút quân về nước và giao gánh nặng chiến tranh lên vai quân đội Sài Gòn. Đối với Tổng thống Giônxơn đã phải chấp nhận chiến lược "phi Mỹ hóa" chiến tranh, khước từ đề nghị tăng quân của tướng Oétmolen và tuyên bố không tái tranh cử tổng thống nhiệm kỳ hai. Việc Tổng thống Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ Vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pari cũng là một thất bại mà chính Tổng thống Giônxơn cũng như nhiều tổng thống tiền nhiệm không hề mong muốn. Tại chiến trường Nam Việt Nam, sau sự kiện Mậu Thân 1968, chương trình bình định bị ảnh hưởng trầm trọng: chính quyền Sài Gòn tại nhiều địa phương bị rệu rã; gần 500 đồn bốt của lực lượng dân phòng và lực lượng địa phương quân bị tiến công và triệt hạ. Ngoài ra, Chính quyền Sài Gòn còn phải huy động hàng nghìn binh sĩ từ khu vực nông thôn lên thành thị để đối phó với các cuộc tiến công, bao vây của đối phương và điều đó đã làm cho tình hình an ninh ở nhiều làng mạc miền Nam Việt Nam bị đe dọa, bị đối phương giành lại quyền kiểm soát...

Điều quan trọng hơn là sau sự kiện Tết Mậu Thân, một bộ phận lớn dân chúng ở các khu vực đô thị trước đây còn tin theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thì nay bắt đầu xuất hiện tư tưởng bán tín bán nghi về chế độ. Theo một nghiên cứu được tiến hành tại Sài Gòn vào cuối năm 1968, có không ít thị dân quay sang muốn hợp tác với Việt cộng. Mặc dù các cuộc tiến công của đối phương đã bị đẩy lui, nhưng người dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp quan chức vẫn tỏ ra lo lắng về khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hòa, không ít người trong số họ còn đưa ra nhận xét: quân đội Sài Gòn sẽ không đứng vững trước các cuộc tiến công giống như các cuộc tiến công mà cộng sản đã tiến hành trong dịp Tết nếu người Mỹ rút khỏi Việt Nam. Sự hoài nghi đó đã tác động mạnh mẽ đến chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" mà Tổng thống Níchxơn tiến hành sau này. Theo một nghiên cứu độc lập khác: "Tết Mậu Thân đã làm bộc lộ những điểm yếu chí mạng của Chính phủ Nam Việt Nam vốn lâu nay vẫn được giấu kín dưới vỏ bọc của những thắng lợi quân sự".

Đánh giá về sự kiện Tết Mậu Thân không nên chỉ dừng lại ở yếu tố quân sự, mà phải xem xét đến cả các mục tiêu chính trị. Đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mặc dù quân Mỹ và đồng minh đã gây không ít tổn thất cho đối phương, nhưng theo nhận định và cách nói của nhiều người thì Mậu Thân là "tiếng sét làm cả thế giới giật mình; cuộc Tổng tiến công đã mang lại thắng lợi chiến lược hết sức ấn tượng cho cộng sản". Nhận định về khía cạnh này, nhiều chiến lược gia quân sự và chính trị Mỹ còn cho rằng: cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã làm đảo lộn toàn bộ chính sách của Mỹ và tạo cho Hà Nội một luồng sinh khí mới đúng vào thời điểm mà họ đang gặp khó khăn ở miền Nam. Vì vậy, xét trên bình diện chính trị, chiến lược và cả tâm lý thì cộng sản đã giành thắng lợi quan trọng và cực kỳ to lớn. Khẳng định này còn có thể tìm thấy trong nhiều cuộc tranh luận xung quanh sự kiện đối phương tiến công tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Nhà sử học Ácnôn (James R. Arnolt) viết: "có một nghịch lý là một cuộc tiến công nhỏ vào mục tiêu lớn đã trở thành hành động quyết định cho cuộc chiến tranh chỉ vì nó đã tác động mạnh vào công chúng Mỹ". Một số chiến lược gia quân sự Mỹ còn cho rằng: "Trong sự kiện Tết Mậu Thân 1968, ngoài thắng lợi về mặt chính trị và tâm lý, đối phương còn giành được thắng lợi ở chính Oasinhtơn chứ không phải ở Việt Nam. Sở dĩ đối phương có được thắng lợi đó là do báo chí Mỹ đã chớp thời cơ đưa những thông tin trung thực nhất về những gì đang diễn ra tại Việt Nam. Các thông tin mà họ đưa ra đã làm đảo lộn tất cả, kể cả lòng tin của dân chúng Mỹ và nhân dân tiến bộ thế giới đối với chính quyền Giônxơn". Trên thực tế, Tết Mậu Thân đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược, kết thúc giấc mơ giành thắng lợi bằng việc leo thang chiến tranh của Mỹ. Tết Mậu Thân cũng đã làm cho nước Mỹ thức tỉnh và nhận thấy rằng, dù họ có lắm của nhiều tiền thì cũng không buộc một quốc gia dù nhỏ yếu phải quỳ gối đầu hàng, nếu như quốc gia đó có khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng.

Đánh giá về thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 đã chứng minh tính đúng đắn về chiến lược chiến tranh vì "trước Tết người Mỹ nghĩ họ có thể giành chiến thắng, nhưng sau Tết họ nghĩ điều đó là không thể". Khẳng định của tướng Giáp là hoàn toàn có cơ sở bởi ngay sau sự kiện Tết Mậu Thân, tình hình chính trị tại nước Mỹ đã có những thay đổi quan trọng, biểu hiện rõ nhất là trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968, hay như cách nói của Đ. Obơđôphơ (Don Oberdorfer): "Tết Mậu Thân đã làm cho hệ thống chính trị của nước Mỹ rơi vào tình trạng do dự và lúng túng". Khẳng định của tướng Giáp hay nhận định của Đ.Obơđôphơ cũng là nhận định và đánh giá chung của không ít người, trong đó có cả các quan chức cấp cao của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc. Hốpxơ (Townsent Hoopes) - một trong những cố vấn thân cận của Tổng thống - khi nhận định về tác động của Tết Mậu Thân đối với nước Mỹ đã viết: "Các cuộc tiến công dịp Tết đã làm cho Nhà Trắng bối rối, thậm chí mất phương hướng, chính sự kiện đó đã dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền Giônxơn và tạo nên bước ngoặt trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam", còn B.Brôđi (Bernard Brodie) - một nhà khoa học chính trị thì cho rằng: "Tết Mậu Thân không chỉ đơn giản là dấu mốc mà còn là nguyên nhân dẫn đến Mỹ phải chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam". D. Smitdơ (David F. Schmitz) thì cho rằng: "Tết Mậu Thân đã tác động mạnh đến các quan chức cấp cao của chính quyền Giônxơn và chính tác động đó đã buộc Giônxơn phải thay đổi chính sách về cuộc chiến tại Việt Nam, phải tuyên bố ngừng ném bom Bắc Việt Nam, tạo điều kiện cho việc nối lại các cuộc đàm phán hòa bình tại Pari và cuối cùng là buộc tổng thống phải rời Nhà Trắng".

Nói tóm lại, Tết Mậu Thân đóng vai trò quan trọng trong các quyết định của chính quyền Giônxơn và cả chính quyền Níchxơn sau này. Đó là sự kiện dẫn tới việc Mỹ phải từng bước rút quân khỏi Việt Nam và chấm dứt việc can thiệp quân sự tại khu vực Đông Nam Á. Theo cách nói của Đ.Smidơ: trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, cộng sản tuy có tổn thất trên chiến trường, nhưng Chính phủ Mỹ còn mất một cái lớn hơn, quan trọng hơn đó là lòng tin của nhân dân Mỹ. Tết Mậu Thân 1968 còn là bằng chứng chứng minh cho nước Mỹ thấy rằng: giành thắng lợi trong cuộc chiến tại Việt Nam là điều không thể. Tác động của nó cũng đã buộc Tổng thống Giônxơn phải ra đi, mở đầu cho "phi Mỹ hóa" rồi đến chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Níchxơn; tuy nhiên mọi nỗ lực của Mỹ thời kỳ sau Mậu Thân cũng chỉ là "sự kéo dài cơn hấp hối". Đối phương đã giành thắng lợi cuối cùng vào Xuân 1975.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 10:27:02 am
VỀ SỰ ĐÁNH GIÁ CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CUỘC
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



PGS.TS. NGUYỄN MẠNH HÀ         
Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta năm 1968 là một sự kiện lịch sử trọng đại trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân trên toàn miền Nam đã bí mật, bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy ở hầu hết các thành phố, thị xã, căn cứ, sân bay, kho tàng, bến cảng của Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn trên phạm vi toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra ba đợt trong năm 1968, đã làm thay đổi bộ mặt và chiều hướng của cuộc chiến tranh. Cho đến nay, nửa thế kỷ đã trôi qua, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn còn có ý kiến khác nhau trong đánh giá về những thành công cũng như khuyết điểm, tổn thất. Bài viết này nêu lên mấy suy nghĩ về sự đánh giá của Đảng đối với sự kiện lịch sử trên.

Để có cơ sở đánh giá, trước tiên cần nắm được những chủ trương và mục tiêu mà Đảng đề ra cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1968).

Về chủ trương, dùng lực lượng quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng đánh một đòn chiến lược táo bạo, bất ngờ vào đầu Xuân 1968 bằng hình thức tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm kết thúc chiến tranh.

Về mục tiêu, Nghị quyết nêu lên ba mục tiêu chủ yếu: Một là, tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền các cấp của địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; hai là, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị, quân sự của chúng ở Việt Nam; ba là, trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, hòa bình, dân chủ, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.

Qua diễn biến của ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy (tháng 1, tháng 5 và tháng 8-1968), có thể thấy, so với mục tiêu đề ra, quân và dân miền Nam đã đạt được một số kết quả chủ yếu sau:

- Đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, tạo ra một sự thay đổi đột biến trong cục diện chiến tranh; so sánh lực lượng chuyển biến theo hướng có lợi cho ta; làm đảo lộn thế bố trí chiến lược, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của địch, tiếp tục đẩy chúng lún sâu vào thế phòng ngự bị động, tiếp tục khẳng định và duy trì quyền chủ động chiến trường của quân và dân ta.

- Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã thực hiện một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào tất cả các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự, sân bay, quân cảng, kho tàng... của kẻ thù, tạo nên nhân tố mới, thế trận mới. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tính đến thời điểm đó, chưa có cuộc tấn công nào đồng loạt và quy mô, gây cho địch hoàn toàn bất ngờ về chiến lược. Cuộc Tổng tiến công báo hiệu một thời kỳ mới, thời kỳ không còn nơi nào ở miền Nam là an toàn đối với địch.

- Đã làm lay chuyển tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải nhận ra một sự thực là không thể thắng Việt Nam về quân sự cho dù đã đưa nửa triệu quân đến miền Nam và đã mất gần ba năm để xoay chuyển tình hình. Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, phải tính đến giải pháp đàm phán một cách thực sự để giải quyết chiến tranh. Thất vọng và mệt mỏi về kết quả điều hành chiến tranh của mình, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phải lên đài truyền hình tuyên bố hạn chế ném bom miền Bắc, không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai, không gửi thêm quân chiến đấu Mỹ đến miền Nam, không mở tiếp cuộc phản công chiến lược lần thứ ba và cách chức Tổng Chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam của Oétmolen. Đây là sự thể hiện rõ ràng việc Mỹ đã thua về chiến lược.

- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy về cơ bản đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới, mở ra khả năng hiện thực để "đánh cho Mỹ cút", tiến tới "đánh cho ngụy nhào", giành lại độc lập, thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc.

Như vậy, kết quả của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã minh chứng nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh kịp thời, kiên quyết và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, so với chủ trương, mục tiêu đề ra, có những nội dung không đạt được, thậm chí còn bị tổn thất nghiêm trọng về lực lượng và thế trận đối với cách mạng miền Nam. Điều này thể hiện rõ như sau:
Trên thực tế, cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa đã không diễn ra hoàn toàn như dự kiến. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thì hoạt động nổi dậy của quần chúng nhân dân để phối hợp với tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng chưa thể hiện rõ và không mang tính phổ biến, chưa hỗ trợ hiệu quả cho tiến công. Lực lượng vũ trang bị tổn thất rất lớn.

Quân và dân ta đã không tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, không đánh đổ được chính quyền các cấp của địch, chưa giành được toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Trái lại, cơ sở cách mạng và địa bàn ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở khu vực nông thôn đồng bằng bị thu hẹp nghiêm trọng, khiến lực lượng vũ trang sau khi rút từ thành thị ra không còn đất đứng chân.

Tuy ta đã làm lung lay tận gốc nhưng chưa phải là đã đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và chưa đạt được mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước.

Không đạt được mục tiêu là giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn và không thực hiện được chủ trương: công - nông - binh liên hiệp... do ta đặt ra mục tiêu cao so với khả năng hiện thực và so với thực tiễn tình hình xã hội miền Nam lúc đó, nhất là ở trong vùng do quân Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn kiểm soát.

Đánh giá và lý giải về những mục tiêu không đạt được cũng như hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 6-1970 đã phân tích rất rõ rằng: lúc này những khó khăn và tổn thất của ta, thế và lực cách mạng yếu đi chủ yếu không phải do quân địch mạnh mà do sai lầm và sơ hở của ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 10-1973, đánh giá: "Cuộc tổng tiến công chiến lược ấy đã giành được những thắng lợi rất to lớn buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự... Tuy nhiên, chúng ta cũng đã mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó (ý muốn nói đặt ra khả năng cao nhất cho đợt 1 - T.G); nhất là sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Níchxơn, cho nên ta gặp khó khăn trong một thời gian...".

Từ đánh giá trên đây, có thể minh chứng cụ thể hơn những "sai lầm lớn về chỉ đạo chiến lược" của Đảng ở các nội dung:

Thứ nhất, chủ quan trong đánh giá tình hình.

Thực tiễn đã chứng minh, sự chủ quan trong việc đánh giá tình hình của Đảng ta thường bộc lộ ở một số thời điểm có sự chuyển biến quan trọng của cách mạng, sau khi giành được thắng lợi, cuộc kháng chiến có sự phát triển tích cực, xuất hiện thời cơ mới... Ở những thời điểm này, ta thường có xu hướng đánh giá cao khả năng, lực lượng của mình, đánh giá thấp âm mưu và khả năng của đối phương. Ví dụ như trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do nhận thấy rằng Giải phóng quân Trung Quốc đang tiến công ào ạt quân Trung Hoa Quốc dân Đảng xuống miền Nam và có khả năng truy kích xuống cả miền Bắc Việt Nam, Đảng ta cho rằng đây là cơ hội để chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn tổng phản công, nên đã tổ chức huy động tối đa nhân tài vật lực để thực hiện sớm cuộc tổng phản công trong khi cuộc kháng chiến còn gặp nhiều khó khăn, thế và lực chưa đủ và thực tế là Giải phóng quân Trung Quốc chỉ dừng lại ở bên kia biên giới. Hoặc là việc đánh giá tình hình, thế và lực của ta sau thắng lợi to lớn của chiến dịch tiến công Biên giới Thu - Đông 1950 cũng không chính xác dẫn đến mở liên tiếp ba chiến dịch tiến công xuống trung du và đồng bằng không đạt yêu cầu đề ra.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta cũng bộc lộ sự chủ quan trong đánh giá tình hình, tin tưởng vào thắng lợi nếu đối phương nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Vì thế, Đảng đã chủ trương sử dụng biện pháp đấu tranh chính trị, đấu tranh hòa bình đòi đối phương thi hành Hiệp định để đối chọi lại với các hành động khủng bố tàn bạo những cán bộ, người dân yêu nước ở miền Nam của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Kết quả là phong trào cách mạng miền Nam bị tổn thất hết sức nặng nề trong những năm từ 1955 đến 1958.

Đến Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt là sau kết quả của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, khi mà những khuyết điểm, sai lầm của đợt này còn chưa được khắc phục, Đảng vẫn chủ quan cho rằng "ta đang ở thế thắng, thế mạnh và có đủ lực lượng để thực hiện quyết tâm đánh thắng Mỹ trong bất kỳ tình huống chiến tranh nào". Và cũng vì lạc quan, thiếu cơ sở thực tiễn trong đánh giá tình hình sau đợt 1, nên ta quyết định mở thêm hai đợt tiến công quy mô lớn vào đô thị vào tháng 5 và tháng 8 nhưng không thành công, khiến cho thế và lực của cách mạng bị tổn thất nghiêm trọng, vùng nông thôn đồng bằng bị mất đất, mất dân, phải mất tới ba năm mới từng bước khôi phục được phong trào.

Thứ hai, không đánh giá hết âm mưu của địch.

Sau đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cho đến cuối năm 1970, việc không đánh giá hết âm mưu nham hiểm, thâm độc của kẻ thù đã làm cho cách mạng gặp những khó khăn, tổn thất không nhỏ. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, trong cuốn Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học đã chỉ ra: "Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ta còn tiếp tục mở thêm hai đợt tiến công nhằm vào các mục tiêu thành thị vào tháng 5 và tháng 8-1968... Ở đây cần chỉ rõ giới hạn sai lầm chính của ta là ở chủ trương tiếp tục lao vào tiến công trên hướng các thành thị trong lúc các yếu tố bất ngờ không còn nữa, sức ta đã đuối, trong khi đó địch đã thay đổi biện pháp chiến lược, từ "tìm diệt và bình định" sang "quét và giữ". Ngoài hành động điều quân Mỹ từ vòng ngoài cùng quân ngụy phía trong tập trung phòng giữ dày đặc và phản kích điên cuồng để chiếm lại và bảo vệ các thành thị, địch còn đẩy mạnh các chương trình bình định nông thôn để giành dân và phá căn cứ đứng chân của ta ở các vùng nông thôn lúc này đang bị ta bỏ lỏng. Các cơ sở chính trị của ta hầu hết đã bộc lộ trong cuộc tiến công và nổi dậy Tết, nên bị địch đàn áp, khủng bố. Lực lượng cách mạng vì thế mà bị thiệt hại lớn. Sau đợt Tết, sức ta đã xuống, chưa kịp thời xốc lại lực lượng và củng cố bổ sung, ta lại ráng sức mở các đợt tiến công tiếp theo vào những mục tiêu quân địch đã có đề phòng chặt chẽ nên hiệu quả tiến công thấp, mức độ tổn thất của quần chúng và lực lượng vũ trang càng thêm nặng. Thế và lực tiến công của ta càng sút giảm, cách mạng mất đất, mất dân trước những cuộc phản kích điên cuồng của địch nhất là bằng các chương trình bình định kế tiếp nhau của chúng. Chỗ đứng chân của chủ lực ta bị thu hẹp và đẩy lùi ở nhiều vùng rộng lớn. Tình hình khó khăn này kéo dài mãi cho đến đầu năm 1970 mới từng bước được phục hồi và ổn định".

Thứ ba, do chủ quan trong đánh giá tình hình, do không thấy hết khả năng và sức mạnh của kẻ thù, khả năng và hạn chế của ta, nên đã đề ra yêu cầu không sát và vượt quá khả năng thực tế.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Đảng đã đề ra một số yêu cầu phải đạt được vượt quá khả năng thực tế khi đó. Điều này thể hiện rõ vào thời điểm cuối năm 1967, đầu năm 1968, trong khi các lực lượng vũ trang cách mạng (gồm cả bộ đội từ miền Bắc đưa vào) chỉ có hơn 27 vạn người, thì tổng số quân địch lên tới 1,1 triệu (quân Mỹ: khoảng 500.000, quân đồng minh của Mỹ: 50.000, quân đội Sài Gòn: 550.000), tức là lực lượng của ta chỉ bằng ¼ lực lượng địch, chưa kể địch có vũ khí, hỏa lực, phương tiện chiến tranh và khả năng cơ động vượt trội. Vậy mà ta lại đặt ra khả năng cao nhất cho đợt 1 là giành thắng lợi dứt điểm trong thời gian tương đối ngắn.

Thêm nữa, cả ba đợt, quân ta đều tiến công vào đô thị, vào nơi mạnh nhất của địch, trong khi tính bất ngờ không còn. Rõ ràng là "ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời". Vũ khí, trang thiết bị, đạn dược do phải chuyển vào trong điều kiện giữ bí mật nên số lượng không nhiều so với quy mô cuộc tiến công trong các đô thị lớn đủ cho thấy sự bất cập trong đảm bảo hậu cần, kỹ thuật, cứu chữa thương bệnh binh; trong khi đó, ta lại không chú ý đúng mức để điều chỉnh hoạt động ở khu vực nông thôn đồng bằng. Vì thế, đây là một sai lầm trong chỉ đạo. Đảng đề ra chủ trương và mục tiêu thực hiện lớn nhưng sự chỉ đạo chuẩn bị để đáp ứng đủ và hiệu quả cho yêu cầu trên lại chưa tập trung, chưa tương xứng; có nội dung đề ra theo ý chí chủ quan, chưa tính đủ các điều kiện đảm bảo thắng lợi. Việc chỉ đạo phối hợp giữa tiến công quân sự với chuẩn bị để nhân dân nổi dậy không đầy đủ nên hiệu quả không rõ rệt.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá. Bên cạnh những thành công, kết quả to lớn đạt được, thì những hạn chế, khuyết điểm trong việc đề ra chủ trương và chỉ đạo thực hiện của Đảng cũng cho thấy, sau mỗi lần giành được thắng lợi, cần phải tỉnh táo, sáng suốt đánh giá, nhận định tình hình phát triển mới, so sánh lực lượng địch - ta trên chiến trường và xu thế cuộc chiến tranh để đề ra chủ trương phù hợp và kế hoạch sát đúng với thực tế tình hình, tránh chủ quan, duy ý chí, gây khó khăn, tổn thất cho cách mạng.

Thành công và thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chính là cơ sở quan trọng đảm bảo cho Đảng ta rút được các kinh nghiệm hữu ích để tiếp tục đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp, từ đó tạo ra những bước ngoặt, đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ta có những lúc mắc sai lầm khuyết điểm, đây là điều hết sức bình thường. Chính vì thế, việc chỉ ra, phân tích những thắng lợi, hạn chế để từ đó rút ra kinh nghiệm, vận dụng vào thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là điều rất cần thiết.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 10:30:22 am
KÝ ỨC NHỮNG THÁNG NGÀY CHUẨN BỊ TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
TẾT MẬU THÂN 1968 TRÊN "ĐẤT THÉP" VEN ĐÔ



LÊ QUANG THÀNH
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,
nguyên Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam,
nguyên Bí thư Đặc Khu ủy Vũng Tàu - Côn Đảo


Cuối tháng 3-1965, Đoàn Thanh niên nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ nhất, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa I, tôi được bầu làm Bí thư Trung ương Đoàn.

Sau Đại hội, tôi được tập thể phân công về triển khai Nghị quyết Đại hội và chỉ đạo công tác tại T4 tức Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định. Lúc bấy giờ, Khu đoàn gồm nhiều bộ phận, chia nhau đóng ở vùng "Đất thép" ven đô, chủ yếu ở các huyện Củ Chi (Gia Định), Bến Cát (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh). Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, chuyển sang thành "chiến tranh cục bộ". Trên địa bàn ven đô, tuy chiến tranh đã diễn ra cực kỳ ác liệt nhưng quân và dân ta, Mặt trận Dân tộc Giải phóng còn giữ được nhiều cụm rừng khá rậm rạp, còn những xóm làng, vườn cây, nhà cửa sầm uất để bám trụ và làm căn cứ đánh địch. Khu đoàn xây dựng được nhiều căn cứ khá an toàn ở các xã An Thành, Thanh Tuyền (Bến Cát), An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức (Củ Chi). Trong các căn cứ đó, cuộc sống và hoạt động cách mạng vẫn tấp nập, sôi nổi, hào hùng, việc ra vào nội thành vẫn thuận lợi với những đường dây giao liên chặt chẽ, chu đáo... Công tác tại đây gần hai năm, đến cuối năm 1966 tôi trở về cơ quan Trung ương Đoàn.

Tháng 11-1967, được Ban Thường vụ Trung ương Cục và Ủy ban Trung ương Mặt trận phân công, tôi trở lại vùng "Đất thép" ("Tam giác sắt" - Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát) để chuẩn bị cho một hoạt động mới, một chiến dịch lớn lúc bấy giờ chưa được công bố tên. Xa nơi đây mới gần một năm, mà khi trở lại tôi chứng kiến những đổi thay của cảnh vật đến ngỡ ngàng. Trước mắt, quanh tôi là cả một vùng bình địa, không còn những cụm rừng, những vườn cây rậm rạp. Hầu hết nhà của dân, do bị đạn pháo địch bắn hư, đánh sập, phải thu gom gọn lại thành những chòi, trại nép mình dưới vài tán cây lưa thưa. Nhiều nhà dân phải âm xuống đất, tức đào hầm rộng, lát gỗ và phủ đất bên trên, cả gia đình ở dưới hầm để tránh bom pháo do địch bắn bất ngờ, không theo quy luật nào. Đi ra đồng, ra vườn, mọi người phải ngụy trang, và chỉ đi làm từ xế chiều lúc địch không còn càn quét, máy bay, trực thăng không còn quần đảo trên đầu. Đã từ lâu, đây là vùng tự do oanh kích của địch. Hễ phát hiện một dấu hiệu tình nghi hoạt động của Việt cộng ở đâu thì địch dùng pháo bầy bắn cấp tập, hoặc cho máy bay dội bom, bắn phá tan nát tới nơi đó. Mỗi tấc "Đất thép", một mảnh đạn bom. Ý đồ của địch là chà đi xát lại, đánh ráo riết vùng vành đai thép, biến thành vùng trắng để Việt cộng không còn chỗ dựa bám tấn công chúng, bảo đảm đầu não của chúng được an toàn. Nhưng chúng đã lầm to.

Quân và dân, trong đó có đoàn viên và thanh niên vùng "Đất thép", mới gần một năm rưỡi đụng đầu với quân xâm lược Mỹ đã nắm được quy luật hoạt động của chúng, đã sớm thích nghi với hoàn cảnh mới của "chiến tranh cục bộ", quyết tâm bám đất giữ làng, kiên quyết bám trụ trên "Đất thép" để đánh và tiêu diệt địch. Ngày tôi trở lại vùng "Đất thép", cũng là lúc nhiều đoàn cán bộ quân - dân - chính cấp trên về đây, để chuẩn bị cho chiến dịch. Tôi trực tiếp liên hệ làm việc với Phân khu đoàn (Phân khu 1) và các Huyện đoàn Củ Chi, Trảng Bàng. Nhiệm vụ của Đoàn là rà soát lại, củng cố tổ chức các Xã đoàn, nắm chắc lực lượng thanh niên có chân trong các đội du kích, số còn lại Đoàn tập hợp thành các đội dân quân - lúc bấy giờ hằng ngày được phân công canh gác, hằng đêm làm dân công khiêng tải vũ khí đạn dược hoặc thu dọn chiến trường khi có các trận đánh nhau giữa ta và địch. Những cán bộ Đoàn mà tôi thường xuyên đi lại giao tiếp để làm việc là các đồng chí Chín Bình - Bí thư, Tư Tươi - Thường trực Phân khu đoàn 1, Hai Bắc - Bí thư Huyện đoàn Củ Chi, Năm Cương - Bí thư, Tư Tròn (nữ) - Thường trực Huyện đoàn Trảng Bàng; tôi còn thường xuyên liên hệ với Ban Thường vụ Phân khu ủy 1 để kịp thời nắm những thông tin, chủ trương chỉ đạo của Đảng. Gần một tháng chuẩn bị, chúng tôi đi lại, làm việc trong một tình hình cực kỳ căng thẳng, chỉ gặp nhau hội họp, làm việc vào buổi chiều và ban đêm vì ban ngày phải đối phó với những cuộc càn quét thường xuyên của địch.

Căng thẳng nhất là những ngày đầu khi tôi trở lại vùng "Đất thép" Củ Chi. Kịch tính nhất là những cuộc xuống hầm bị động, suýt chết, đã để lại những kỷ niệm nhớ đời.

Từ sáng sớm tôi và đồng chí Chín Bình, Bí thư Phân khu đoàn, mỗi người đều có một cận vệ, sang ấp Đồng Lớn (xã Trung Lập Thượng) để làm việc với đồng chí Hai Bắc, Bí thư Huyện đoàn Củ Chi. Làm việc được khoảng hai tiếng trong tình hình yên ả, đến khoảng 9 giờ trực thăng ào ào kéo đến, đổ quân chụp xuống ngay giữa hai ấp Đồng Lớn và ấp Ráng xã Trung Lập Thượng. Quá bất ngờ, tôi nhớ lại là khi mới đến quên hỏi vấn đề hầm bí mật phòng khi bị địch càn. Lúc bấy giờ đồng chí Hai Bắc trấn tĩnh chúng tôi: "Các anh theo chúng tôi, có hầm đủ sức chứa các anh". Giao tất cả tài liệu cho đồng chí Hai Bắc cất giấu, chúng tôi theo anh ra hầm. Cả sáu người (ba chúng tôi và ba cận vệ) ra đến hầm, cũng là lúc địch đã đổ xong quân xuống cánh đồng giữa hai ấp. Đáng lý nếu còn kịp thì đồng chí Hai Bắc phải chạy về một hầm riêng cách xa đó để chúng tôi được rộng rãi ở hầm này. Nhưng không kịp, nên đồng chí Hai Bắc phải ở lại cùng với chúng tôi. Sáu người xuống một hầm chỉ đủ chứa bốn, năm người thì quá chật, nhưng trong hoàn cảnh bức bách đành phải chịu. Đồng chí Chín Bình lại xin được "ưu tiên" xuống sau cùng, trấn miệng hầm để được hít thở thoải mái vì đêm qua đồng chí thức gần như suốt đêm đi công tác cùng với anh em thanh niên dân quân xã Phước Hiệp, đang rất mỏi mệt.

Sau khi mọi người đã xuống hầm, đồng chí Chín Bình đóng sập nắp hầm. Mọi người dặn dò, động viên nhau phải ráng chịu đựng, và phải rất trầm tĩnh vì kinh nghiệm nếu trong tình cảnh như vậy mà hoảng sợ thì càng gây oi bức, ngột ngạt trong hầm. Thỉnh thoảng, đồng chí Chín Bình hé nắp hầm để nghe ngóng tình hình địch và tranh thủ thở. Đồng chí báo cho biết là chưa nghe tiếng địch đi về phía Đồng Lớn. Mọi người thở phào. Nhưng độ một tiếng sau, đồng chí Chín Bình kêu mệt, đuối sức. Đồng chí đề nghị cho mở nắp hầm, nếu không thì đồng chí bị ngộp. Vả lại, đồng chí Chín Bình nói, địch chắc là đi càn về ấp Ràng, không đi về hướng chúng ta. Đồng chí Chín Bình được hé mở nắp hầm, đôi lúc thò đầu lên để thở, nhưng mọi người dưới hầm cứ phải ngồi yên vì từ xa còn nghe tiếng súng, tiếng trái nổ, tiếng trực thăng quần đảo. Tình trạng như thế kéo dài suốt buổi sáng đến khoảng ba giờ chiều thì địch rút về hết, mọi người mới lên khỏi hầm. May quá hôm ấy địch chỉ càn ở ấp Ráng. Thật là hú vía cho chúng tôi.

Chiều hôm đó tôi trở về cơ quan Phân khu Đoàn ở ấp Sa Nhỏ, chúng tôi trao đổi rút kinh nghiệm và tôi đã cẩn thận đi kiểm tra căn hầm mà các đồng chí Phân khu đoàn đã dành cho chúng tôi. Những ngày sau đó, địch chỉ đổ quân càn ở các xã xung quanh.

Xã Trung Lập Thượng được yên ít hôm, thì bỗng một hôm, khoảng 5 giờ sáng, mọi người vừa thức dậy, tư thế sẵn sàng như thường lệ, thì đã nghe tiếng trực thăng bầy sầm sập bay về ấp Sa Nhỏ. Chúng bay sát ngọn cây, qua ngay trên đầu chúng tôi. Trong chớp nhoáng, chúng đã đổ quân trên cánh đồng đầu ấp. Hầm dành cho chúng tôi cũng ở phía đầu ấp, nếu chạy lên hầm thì sẽ đụng địch. Làm sao? Nguy quá! Bị động bất ngờ rồi! Đồng chí Tươi trấn tĩnh nói: "Không sao, chúng tôi còn có hầm dự phòng cho anh". Cất giấu tài liệu xong, tôi và đồng chí Công, cận vệ, theo chân đồng chí Tư Tươi chạy nhanh ra hầm dự phòng.

Đến miệng hầm, vừa giở nắp thì... Trời ơi! Dưới hầm đã có một cậu thanh niên. Chết rồi, sao vậy, Tư Tươi? Tôi kêu trời. Đồng chí Tư Tươi la khe khẽ - Cậu ở đâu mà biết và chiếm hầm của tụi tui? Lên mau! Cậu thanh niên hoảng quá leo lên. Tư Tươi cho biết, cậu này là thanh niên trốn lính, chiếm nhầm hầm của cơ quan. Tình huống thật là gay go, nhưng tôi và đồng chí Công cận vệ phải nhanh chóng xuống hầm vì nếu chần chờ, địch đến thì nguy, hoặc có ai đi qua đây nữa thì miệng hầm bị lộ, không còn an toàn. Cậu thanh niên năn nỉ: "Hầm còn rộng lắm các anh cho tôi xuống cùng, nếu chạy đụng địch thì chết mất". Tôi nghĩ ngay, nếu để cậu ta chạy bị địch bắt, cậu ta lại dẫn địch chỉ hầm thì càng nguy to. Tôi đề nghị Tư Tươi cho cậu thanh niên ở lại với chúng tôi. Tư Tươi đồng ý và đậy nắp hầm, nghi trang giúp chúng tôi. Chúng tôi xếp chỗ cho cậu thanh niên và tôi khẽ dặn dò cậu ta: "Ở đây phải tuyệt đối theo lệnh của tôi. Phải thật bình tĩnh. Có tình huống gì thì để chúng tôi đối phó". Mấy ngày qua, tôi đã quán triệt với đồng chí Công, cận vệ: "Khi ở dưới hầm, nếu lỡ bị địch phát hiện thì phải tỉnh táo kiên quyết chống lại. Phải sẵn sàng các quả lựu đạn để tung lên - khi địch phát hiện, súng AK phải lên đạn sẵn, lên khỏi miệng hầm phải nhắm đúng phía địch mà ria... một mất một còn, thoát chạy hoặc hy sinh, không để địch bắt sống...". Cậu thanh niên im lặng, chúng tôi nghe ngóng tình hình, căng thẳng từng giây, từng phút. Khoảng chưa đầy 15 phút, bỗng lại nghe tiếng động nhẹ mỗi lúc một gần, và... tiếng động vỗ nhẹ trên nắp hầm kèm tiếng gọi khe khẽ: "Mày ở dưới đó phải không?" - Chết thật! Như vậy là thế nào? Tôi hỏi cậu thanh niên dưới hầm. - "Nó cùng tôi thường xuống hầm này, nên hôm nay nó cũng đến như mọi lần". Nguy hiểm quá! Nhưng biết làm sao! Nếu lên tiếng không cho nó xuống, nó lại chạy lung tung, bị địch bắt thì càng tai hại, thôi thì cứ cho nó xuống.

Cậu thanh niên thứ hai mới xuống hầm đã tỏ ra ngạc nhiên sao trong hầm có đến ba người. Tôi khẽ hỏi: "Có ngụy trang lại kỹ nắp hầm chưa?" và ra lệnh như đối với cậu thanh niên trước. Thế là hầm dành cho hai người bất đắc dĩ chứa bốn người. Cậu thanh niên mới xuống hầm cho biết là địch rất đông, còn càn quét lùng sục dữ dội trong ấp, nhưng không đi về phía chúng ta. Từ dưới hầm, chúng tôi nghe văng vẳng tiếng trực thăng đang bay lượn hỗ trợ cuộc càn của bộ binh, thỉnh thoảng lại nghe tiếng nổ lớn, có thể là chúng đánh trái.

Đã 12 giờ trưa mà tiếng động của cuộc càn vẫn chưa dứt. Nhớ lại sáng sớm, chưa kịp ăn uống gì đã chạy càn, bây giờ mới thấm đói. Hai cậu thanh niên ngồi im, tựa vào nhau, cảm giác bây giờ cái hầm không còn chật hẹp như lúc mới xuống. Sợ các cậu ngủ, tôi khẽ dặn dò "không được ngủ, phải để cho tinh thần thật tỉnh táo, nếu có tình huống xảy ra thì đối phó kịp thời". 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ, rồi 4 giờ... mà địch vẫn chưa rút. Mãi gần 5 giờ mới nghe im tiếng súng, tiếng nổ, tiếng trực thăng.

Đồng chí Công - cận vệ, hé nấp hầm nghe ngóng, xác định địch đã rút hẳn. Chúng tôi thở phào, thoáng mát biết bao khi thoát khỏi hầm lên hưởng không khí trong lành trên mặt đất, sau ngót 12 tiếng đồng hồ ngột ngạt dưới hầm. Đồng chí Tư Tươi đón tôi, trên đường về cơ quan đã nói lời xin lỗi và tự phê bình: "Chúng tôi có lỗi và thiếu sót quá, xin anh Tư bỏ qua cho" và đồng chí giải thích: "Hầm là của cơ quan đào, nhưng một số thanh niên phát hiện thấy gần đây mình không dùng, họ tưởng mình bỏ, họ chiếm". Chiều và tối hôm đó, sau khi chia nhau đi thăm hỏi và giúp đỡ đồng bào trong ấp nơi địch đã càn qua, chúng tôi họp kiểm điểm rút kinh nghiệm về việc bảo đảm an toàn cho các hầm trú ẩn.

Những ngày sau đó, cho đến cuối tháng 11 tôi được đưa về ấp Đồng Lớn ở tại nhà ông Chín Quỳnh, hội viên Nông hội. Gần nhà ông Chín, Phân khu đoàn có đào một hầm bí mật dành cho chúng tôi. Ở đây tôi chỉ đi làm việc, hội họp từ 3 - 4 giờ chiều đến đêm, vì ban ngày không thể đi lại an toàn, luôn phải nơm nớp đối phó với những cuộc đổ quân càn quét bất ngờ của địch với những trận pháo bầy, với những đợt oanh kích của máy bay. Có đêm tôi phải đi làm việc xa tận các xã ven đường số 1, gần các đồn bốt; có lần về sát Đồng Dù xã Phước Vĩnh An. Họp hành thông thường phải ở dưới hầm với nhiều ngóc ngách địa đạo phòng khi bị địch úp chụp bất ngờ thì còn có đường bí mật rút đi, không trồi lên mặt đất. Đêm nào cũng tận 12 giờ, 1 giờ mới về đến nhà, 4 giờ sáng đã phải thức dậy. Thế mà có hôm, sáng sớm chúng tôi chưa kịp ăn sáng địch đã đổ quân xuống càn, chúng tôi phải nhịn đói ngồi hầm gần suốt cả ngày. Lúc đầu chúng tôi cảm thấy rất căng thẳng, nhưng rồi cũng sớm thích nghi với nhịp độ của cuộc chiến tranh, với cuộc sống hằng ngày của quân và dân địa phương. Mặc cho địch tập trung đánh phá cực kỳ ác liệt vùng "Đất thép" bằng mọi phương tiện chiến tranh, bằng mọi thủ đoạn tinh vi thâm độc, quân và dân, trong đó có đoàn viên và thanh niên vùng này vẫn "một tấc không đi, một ly không rời", vững vàng bám đất, đánh địch giữ làng.

Trong hoàn cảnh chung đó, đoàn viên và thanh niên luôn tỏ ra xứng đáng là tuổi trẻ của "Đất thép" anh hùng, có nhiều sáng kiến, rất thông minh, dũng cảm đánh và diệt địch, lập công, đi đầu trong phong trào thi đua diệt Mỹ. Địch càng đưa nhiều quân Mỹ đến chiến trường này thì phong trào thi đua diệt Mỹ càng nở rộ, càng xuất hiện nhiều dũng sĩ diệt Mỹ trên "Đất thép", đa số là đoàn viên và thanh niên.

Đúng vào đêm giao thừa và đêm mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 và 31-1-1968) cùng với quân và dân toàn miền Nam, quân và dân, đoàn viên và thanh niên "Đất thép" đã đồng loạt tổng tiến công bằng cả ba mũi chính trị, binh vận, vũ trang, đánh vào các đồn bốt, căn cứ, huyện lỵ của địch ở Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng. Địch bị bất ngờ, co cụm để tìm cách đối phó. Chúng hết sức hoang mang dao động, vì với lực lượng rất mạnh, với nhiều vũ khí rất hiện đại mà lại bị ta đánh bất ngờ ngay những nơi là sào huyệt hết sức kiên cố của chúng, ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị suy sụp nghiêm trọng. Trái lại, qua cuộc tổng tiến công, quân và dân ta càng vững tin ở khả năng sức lực của bản thân, ở chiến thắng trong tương lai.

Đoàn viên và thanh niên vùng "Đất thép" rất tự hào được trực tiếp làm lực lượng xung kích trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, một cuộc Tổng tiến công lịch sử gây tiếng vang cả thế giới, giành thắng lợi vẻ vang, tạo thêm thế và lực để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 10:38:18 am
TRUYỀN THỐNG ĐỒNG LÒNG, CHUNG SỨC, QUẬT KHỞI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM -
SỰ KẾ THỪA VÀ BỒI TỤ TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tá, ThS. CÔNG PHƯƠNG KHƯƠNG
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử quân sự Cổ - Trung - Cận đại,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi này không chỉ tạo ra một cú sốc lớn làm chấn động nước Mỹ mà còn buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận đàm phán về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định trên nhiều khía cạnh, góc độ trong đó có sự kế thừa và bồi tụ truyền thống đồng lòng, chung sức, quật khởi của dân tộc Việt Nam.

Nằm ở vị trí địa - chiến lược quan trọng của khu vực Đông Nam Á, trải dài bên bờ Thái Bình Dương, nối liền với lục địa châu Á, là điểm nút trên con đường giao lưu văn hóa Đông - Tây, Nam - Bắc, tiếp liền Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, cư dân người Việt Nam trên dải đất hình chữ S đã sớm xây dựng được một nền văn hóa bản địa đặc sắc và hình thành quốc gia dân tộc. Địa lợi mang lại cho dân tộc Việt Nam tiềm năng và cơ hội phát triển, nhưng cũng đặt ra bao thử thách, nguy cơ. Để giành và giữ nền độc lập dân tộc, các thế hệ người Việt Nam đã liên tục tiến hành nhiều cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống quân xâm lược. Đó là lúc ý chí độc lập, tự chủ, thống nhất đất nước, truyền thống đồng lòng, chung sức, quật khởi của dân tộc được hun đúc và phát huy cao độ, tập trung tất cả nỗ lực giành lấy thắng lợi có ý nghĩa quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của các thế lực ngoại xâm.

Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước kiên cường của dân tộc Việt Nam, cuộc đấu tranh chống chính quyền Đông Hán đô hộ do Hai Bà Trưng lãnh đạo diễn ra trên đất Việt gần 2.000 năm trước "là một hiện tượng hết sức độc đáo trong lịch sử dân tộc và hiếm có trong lịch sử thế giới cổ đại". Đây là cuộc kháng chiến đầu tiên được tổ chức bởi một chính quyền độc lập, tự chủ và là sự mở đầu cho một hành trình đấu tranh liên tục, bền bỉ, ngoan cường giành độc lập, tự chủ của cộng đồng cư dân Việt.

Trong gần một thế kỷ tiếp nối, các thế hệ người Việt luôn kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, khẳng định vị thế, bản lĩnh của một dân tộc trước âm mưu và dã tâm thôn tính, đồng hóa của các thế lực ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, sức mạnh của cả nước được huy động và phát huy trong một trận thủy chiến, chặn đứng và đánh tan đạo quân xâm lược Nam Hán ngay tại vùng địa đầu Tổ quốc; nhanh chóng đập tan những nỗ lực để thiết lập lại ách đô hộ, "chấm dứt vĩnh viễn nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta". Lần đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, thế "thiên hiểm" của vùng cửa biển Bạch Đằng được Ngô Quyền khai thác tài tình để giành chiến thắng, để lại "tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ". Cũng tại vùng cửa biển hiểm yếu này, truyền thống thạo thủy chiến thêm một lần được vận dụng và thể hiện sức mạnh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (980-981). Với sự phối hợp, dốc sức của các tầng lớp nhân dân, thuyền chiến của Lê Hoàn đã bịt chặt sông Bạch Đằng, khiến tướng nhà Tống là Lưu Trừng lo sợ, phát bệnh mà chết.

Sức mạnh vật chất và tinh thần, đặc biệt là tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và tinh thần quật khởi của một dân tộc đang ở khí thế vươn lên đã được phát huy cao độ vào cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược (1075-1077). Dưới sự chỉ huy của danh tướng Lý Thường Kiệt, mùa Xuân năm 1077, quân dân Đại Việt chủ động xuất binh "ban đêm sang sông đánh úp, đại phá được. Quân Tống 10 phần chết đến 5, 6". Sự đồng lòng, chung sức và quật khởi của quân dân Đại Việt đã làm nên chiến thắng Như Nguyệt, giáng một đòn quyết định làm phá sản hoàn toàn kế hoạch xâm lược nước ta của nhà Tống.

Vào thế kỷ XIII, vó ngựa Mông Cổ đã tung hoành khắp châu Á, châu Âu, dựng lên một đế chế rộng lớn chưa từng có trong lịch sử, nhưng đã phải dừng bước trong cả ba lần tiến vào Đại Việt. Chỉ trong một ngày (29-1-1258), quân thủy Đại Việt đã đánh bại đạo quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy. Cũng chỉ trong một tuần đầu mùa Hè (1285), với quân thủy làm nòng cốt, những trận thắng lớn liên tiếp trên bến Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết... còn vang vọng trong những vần thơ hào sảng của Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải: "Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù"... Vua tôi nhà Trần đã đồng lòng, chung sức thực hiện đòn chí mạng vào tham vọng của quân xâm lược, buộc quân Nguyên phải rút lui và tiếp tục bị đánh thiệt hại nặng trên đường rút chạy. Khói lửa của cuộc kháng chiến chống Nguyên (1285) còn chưa kịp lắng xuống, quân dân nhà Trần lại phải bước vào một cuộc chiến tranh gay go, ác liệt hơn. Vết thương chiến tranh chưa kịp hàn gắn, tiềm lực quốc gia tích lũy chưa được bao nhiêu, thời gian chuẩn bị cũng không nhiều... đã đặt ra những thử thách, nguy cơ trước sự tồn vong của quốc gia - dân tộc. Song cũng chính trong thời điểm ngặt nghèo, truyền thống đồng lòng, chung sức, quật khởi của dân tộc Việt Nam lại được phát huy cao độ. Trên khắp thôn cùng xóm vắng, hào khí chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử vẫn nức lòng người. Quân dân Đại Việt được trui rèn qua khói lửa chiến tranh, kinh nghiệm và tinh thần chiến đấu còn nóng hổi, khí thế và niềm tin chiến thắng còn dạt dào, tạo nên sức mạnh quan trọng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bằng những chính sách hợp lý, nhà Trần đã động viên, huy động "cả nước nhà góp sức", đoàn kết toàn dân "tạo thành một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân là lính, cả nước đánh giặc". Kế thừa kinh nghiệm của Ngô Quyền (năm 938), Lê Hoàn (năm 981), bằng việc lợi dụng thế "thiên hiểm" của vùng cửa biển Đông Bắc, Quốc công Tiết chế, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chủ động mở trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng. Kinh nghiệm của những người dân đã "quen việc chiến trận" kết hợp với chiến lược quân sự đúng đắn của Bộ Chỉ huy kháng chiến, sức mạnh toàn dân tộc được tập trung và phát huy đến cao độ, làm nên những chiến công vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia, mở ra hơn một thế kỷ hòa bình tiếp theo trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

 Thế kỷ XV ghi đậm dấu ấn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống ách đô hộ của nhà Minh (được ví như lần Bắc thuộc thứ hai trong lịch sử Việt Nam). Phát triển từ một cuộc khởi nghĩa dân tộc thành chiến tranh giải phóng quy mô lớn, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ thống soái thuộc quyền tài ba thao lược diễn ra bền bỉ, liên tục suốt 10 năm. Ý chí, nghị lực và khát vọng giành độc lập tự chủ của một dân tộc phải chịu ách đô hộ bạo tàn của nhà Minh trong suốt 20 năm đã hun đúc và kết tinh trong những trận quyết chiến chiến lược. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động (cuối năm 1426) đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh, đẩy quân Minh lún sâu vào thế phòng ngự bị động. Tiếp đó, chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang (1427) đã hoàn thành trọn vẹn khát vọng về một nền hòa bình, độc lập, tự chủ, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử Việt Nam.

Hai cuộc kháng chiến chống Xiêm (Thái Lan) và chống Thanh (Trung Quốc) liên tiếp trong thập kỷ 80 của thế kỷ XVIII do người anh hùng "áo vải" Nguyễn Huệ lãnh đạo mang một sắc thái mới. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân chống phong kiến phát triển thành phong trào dân tộc, những nghĩa sĩ Tây Sơn vươn mình đảm trách nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm. Chỉ trong vòng một ngày (19-1-1785), với chưa đầy 30.000 quân, bằng trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã "quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ nước ta, thu hồi toàn bộ những vùng đất đã bị chiếm đóng và làm tiêu tan tham vọng của quân Xiêm đối với vùng lãnh thổ phía nam Đại Việt".

Bốn năm sau, trận quyết chiến chiến lược Xuân Kỷ Dậu (1789) tiếp tục ghi thêm một mốc son chói lọi trong lịch sử quân sự Việt Nam. Là trận quyết chiến trên hướng chủ yếu tiến công chính diện vào các mục tiêu then chốt trong hệ thống phòng thủ phía nam Thăng Long của quân Thanh, trận Ngọc Hồi đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ nhất của địch. Phát huy thắng lợi, chỉ trong một thời gian ngắn, trên hướng thứ yếu, quân Tây Sơn đã tập trung nỗ lực thực hành vu hồi, thọc sâu bất ngờ, đánh thẳng vào cửa ngõ Kinh thành Thăng Long, trực tiếp uy hiếp bộ chỉ huy đầu não của đối phương. Với quyết tâm và ý chí "đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ" (đánh cho sử sách biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ), chiến thắng Đống Đa vào rạng sáng ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu (1789) đã giáng đòn quyết định, nhanh chóng đập tan cuộc tiến công chiến lược của quân Thanh, đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù. Các trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa thực sự là một trong những "vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta", biểu hiện tập trung của ý chí quyết chiến, quyết thắng và bản lĩnh chiến đấu của quân đội Tây Sơn với sự tham gia ủng hộ mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân.

Nhìn lại mấy nghìn năm kiên cường chống ngoại xâm phương Bắc, phương Nam, những trận quyết chiến chiến lược chính là sự bồi đắp, kết tinh và trỗi dậy của cả một dân tộc, cũng là sức mạnh của tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm, khát vọng độc lập, tự chủ và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo và tổ chức của những người Việt Nam ưu tú, sức mạnh kỳ diệu đó được huy động và nhân lên gấp bội, để lần lượt đánh bại mọi thế lực ngoại bang xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, bờ cõi quốc gia, mở ra những kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.

Thế kỷ XIX và thế kỷ XX đánh dấu một trang mới trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, anh dũng của quân và dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Đó là "thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới". Với quyết tâm "đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng" , Việt Nam đã huy động 86.800 người (gồm 53.800 quân và 33.000 dân công, thanh niên xung phong phục vụ hỏa tuyến) và 20.125 tấn vật chất các loại bảo đảm cho chiến dịch. Bất chấp hàng trăm tấn bom rải xuống các trục lộ giao thông, con đường tiếp vận cho các lực lượng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ chưa bao giờ ngưng trệ. Chính H. Nava - Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã phải thốt lên: "sức mạnh to lớn của Việt Minh nằm trong sức mạnh huyền thoại của dòng giống người Việt, lòng yêu nước và nhất là ý thức xã hội mà họ đã xây dựng được. (...) Chính phủ Việt Minh đưa cuộc chiến vào tất cả các lĩnh vực - chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội và quân sự - tạo ra một động lực hết sức mạnh mẽ". Và một lần nữa, các nhà quân sự Pháp được đào tạo bài bản cũng buộc phải thừa nhận "kỹ thuật lại bị thua bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin". Lịch sử một lần nữa minh chứng không phải các phương tiện kỹ thuật hiện đại mà chính là "sự thông minh và ý chí của đối phương"  đã bịt kín lối thoát trong danh dự của giới hiếu chiến Pháp trên chiến trường Đông Dương.

Song hòa bình vẫn chưa thật sự trọn vẹn, non sông chưa thu về một mối, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục sự nghiệp trường chinh chống Mỹ, cứu nước. Để giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, giáng một đòn quyết liệt vào dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ, trong vòng nhiều năm các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã nỗ lực, kiên trì xây dựng thế trận, tạo thế và lực sẵn sàng chớp thời cơ. Thực hiện mục tiêu và khát vọng lớn lao, từ đầu năm 1967, cán bộ, đảng viên liên tục được bí mật tăng cường vào các thành phố, thị xã nhằm điều nghiên mục tiêu, gây dựng cơ sở, tạo chỗ đứng chân, bảo đảm vật chất cho các hoạt động chiến đấu, xây dựng hệ thống hầm chứa vũ khí và vận chuyển vũ khí từ căn cứ vào ém sẵn trong nội thành, phục vụ yêu cầu tác chiến. Các cơ sở cách mạng bí mật được hình thành, chỉ tính riêng Sài Gòn - Chợ Lớn, Ban Bảo đảm thuộc biệt động thành đã xây dựng được 19 "lõm" chính trị, "lõm" căn cứ gồm 325 gia đình công nhân và lao động trung kiên. Điển hình như nhà số 15 Nguyễn Bình Khiêm (Quận 1), nhà 436/58 Lê Văn Duyệt (Quận 3), căn nhà 183/4 đường Trần Quốc Toản (Quận 4) hay các cơ sở cách mạng ở Nhi Tỳ Quảng Đông, đường Trần Quốc Thảo (Quận 3), Cao Đạt (Quận 5), Minh Phụng, Cây Gõ (Quận 6), Trường đua Phú Thọ (Quận 11)... Bên cạnh đó lực lượng quần chúng yêu nước, nhất là các nhân sĩ, trí thức được các tổ chức như trí vận, Hoa vận, công vận, phụ vận... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai trở thành đội quân chính trị hùng hậu sẵn sàng tham gia tổng tiến công...

Sau một quá trình tích cực chuẩn bị, đêm ngày 29 rạng sáng ngày 30-1-1968, quân và dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung và Tây Nguyên đồng loạt nổ súng mở màn cuộc tổng tiến công. Hai mươi bốn giờ sau, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra ở khắp các tỉnh và thành phố lớn miền Nam. Toàn bộ hậu phương an toàn của địch đều bị tiến công và trở thành tiền tuyến nóng bỏng. Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam như các đợt sóng đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Tại nhiều đô thị, lực lượng vũ trang ta, được sự đùm bọc chở che, giúp đỡ tích cực của nhân dân đã tiến công và chiếm giữ nhiều mục tiêu quan trọng trong nhiều ngày, nhiều giờ. Quân giải phóng đã đánh mạnh, đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong số 11 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh quân khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, tuyến giao thông huyết mạch. Ta đã chiếm giữ và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm, vây hãm địch nhiều ngày ở Khe Sanh, tiến công và nổi dậy ở nhiều vùng nông thôn tạm bị chiếm, tiêu diệt nhiều sinh lực cao cấp và phương tiện chiến tranh, dự trữ hậu cần hiện đại nhất của địch, giải phóng hàng triệu đồng bào, đưa chiến tranh vào sâu trong hậu phương của địch.

Mặc dù thời gian chuẩn bị trực tiếp cho nhiệm vụ chiến lược không nhiều, trong khi có quá nhiều khó khăn về quân số, vũ khí trang bị, lương thực và chia cắt về chiến trường... nhưng tất cả đều nổ súng đúng mục tiêu và thời gian quy ước "với một sự hợp đồng về chiến lược tuyệt diệu". Đó chính là kết quả của trí thông minh, lòng quả cảm, với khát vọng cháy bỏng về một nền hòa bình, thống nhất, từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng đến những địa phương, đơn vị vũ trang, những tổ đội biệt động, những chiến sĩ mới nhập ngũ trong đêm giao thừa, những người dân một lòng trung trinh với cách mạng... đã biến những điều không thể trở thành hiện thực. Miền Bắc dồn sức chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn nhanh chóng mở rộng, tăng sức vận chuyển. Miền Nam khẩn trương chuẩn bị thế trận và lực lượng, hình thành các phương án công kích về quân sự và nổi dậy của quần chúng. Nhân dân trinh sát, nắm tình hình, dẫn đường, che giấu cán bộ và tích cực tham gia chiến đấu, tiếp tế cơm nước cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh. Nhiều gia đình bị bắt, khủng bố, tù đày... vẫn một lòng hướng về cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Đó là sự đồng thuận, giúp đỡ, ủng hộ, đùm bọc, chở che, là tấm lòng trung kiên với cách mạng của người dân đô thị, vùng ven, vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp dành cho những người lính Quân giải phóng; là sự tham gia tích cực bằng nhiều hình thức như tải đạn, tiếp lương, dẫn đường, che giấu bộ đội, cứu chữa thương binh, truy tìm ác ôn, tề điệp của những người dân sống trong vùng Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Nhờ đó nhiều sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn bí mật rời căn cứ, qua bao xóm làng, đồng ruộng, sông, suối để ém sát các vùng ven đô, các mục tiêu trong vùng nội đô an toàn. Điều đó đã khiến giới lãnh đạo Oasinhtơn kinh hoàng và nhận thức được ngay rằng: Cuộc tấn công Tết Mậu Thân, chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát được gì đất nước này. Tết chứng tỏ nhân dân Nam Việt Nam ủng hộ kẻ thù của Mỹ.

Truyền thống đồng lòng, chung sức và quật khởi được kế thừa và phát huy trong cuộc tiến công vào hệ thống dinh lũy sào huyệt của địch. Dựa vào sự đùm bọc, đồng thuận, giúp đỡ, chở che, tham gia tích cực của nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã triển khai thành công lối đánh dũng mãnh, táo bạo, bất ngờ, đồng loạt, nhằm trúng các mục tiêu yết hầu "huyết mạch", "tim óc" của địch gồm các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các Sở chỉ huy, các bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, sân bay, bến cảng, kho tàng, đầu mối giao thông... Đó là những mục tiêu tập trung sinh lực của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, cuộc tiến công vào Tòa Đại sứ Mỹ của các chiến sĩ biệt động Quân giải phóng vượt xa ý nghĩa của một trận đánh thông thường, gây tiếng vang lớn trên khắp thế giới và ở nước Mỹ.

Các trận tiến công chiến lược trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một trong những nét đặc sắc nhất, đánh dấu những bước trưởng thành vượt bậc, minh chứng cho sự kế thừa, phát triển tư duy và truyền thống quân sự của dân tộc, là những "thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn nhất của dân tộc ta". Thắng lợi của những trận tiến công chiến lược phản ánh thắng lợi chung của các cuộc chiến tranh và chính là cơ sở có ý nghĩa quyết định để kết thúc chiến tranh bằng những biện pháp chính trị, ngoại giao khéo léo, mềm dẻo, bảo đảm giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Nhìn một cách tổng thể, các trận tiến công chiến lược chính là cuộc chiến đấu một mất một còn trên chiến trường, là sự thử thách lớn lao nhất về mọi mặt - cả về quyết tâm lẫn tài thao lược, cả về vật chất lẫn tinh thần giữa hai bên đối chiến. Cũng với ý nghĩa đó, có thể xem trận tiến công chiến lược là điểm hội tụ tập trung mọi tinh lực chủ yếu cũng như các tình huống chủ yếu của chiến tranh, tạo thành ảnh hưởng cô đọng nhất, tác động mạnh mẽ nhất đối với toàn cuộc. Các chiến công chói ngời Bạch Đằng (938, 981, 1288), Như Nguyệt (1077), Đông Bộ Đầu (1285), Tốt Động - Chúc Động (1426), Chi Lăng - Xương Giang (1427), Rạch Gầm - Xoài Mút (1785), Ngọc Hồi - Đống Đa (1789), Điện Biên Phủ (1954) và Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trở thành những cột mốc trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc và mãi mãi được khắc ghi vào lịch sử Việt Nam như "những chiến công hiển hách, tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí quật cường vì độc lập, tự do và trí tuệ tài ba đánh giặc, cứu nước".

Mùa xuân năm 40, dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, nhân dân Âu Lạc đã đồng loạt tiến công vào 65 huyện, thành trong cả nước. Truyền thống và nghệ thuật quân sự đó được kế thừa và phát huy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Lần đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vượt qua những tính toán đơn thuần của các nhà quân sự, với một lực lượng còn rất chênh lệch, quân và dân Việt Nam đã thực hành một cuộc tiến công lớn, đánh một đòn bất ngờ và mạnh mẽ vào dã tâm của các thế lực ngoại xâm. Đó là lối đánh chưa từng diễn ra trong kháng chiến và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng.

Bằng quyết tâm và thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dân tộc Việt Nam một lần nữa khẳng định sức sống mãnh liệt, ý chí độc lập, thống nhất và khát vọng hòa bình đã đưa nhân dân ta vượt lên hết thảy, để gìn giữ, đắp bồi và khẳng định bản lĩnh cùng cá tính dân tộc. Đó là tinh thần yêu nước, ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình tha thiết của các thế hệ người Việt từ buổi đầu dựng nước chưa bao giờ ngưng nghỉ, không ngừng lắng bồi, kết tinh để rồi bùng phát trong những thời điểm ngặt nghèo của dân tộc. Lấy cả nước làm chiến trường, chọn khối đoàn kết toàn dân tộc làm thành lũy, coi sự đồng tâm nhất trí và tinh thần quật khởi của nhân dân là vũ khí mạnh nhất, cả dân tộc Việt Nam đã cùng nhau cất lên bản hùng ca trong mùa Xuân Mậu Thân 1968 để thêm một lần khẳng định sự kế thừa và bồi tụ, tỏa sáng; minh chứng cho ý chí, phẩm chất, sức sống kỳ diệu, truyền thống đồng lòng, chung sức và quật khởi cũng như khát vọng về một nền hòa bình trong cuộc chiến đấu bảo tồn dân tộc, bảo vệ quyền độc lập, tự chủ của các thế hệ người Việt Nam.
   


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 02:01:56 pm
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một kỳ tích của quân và dân ta ở miền Nam, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã huy động các lực lượng và sử dụng các phương thức đấu tranh của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam chống xâm lược. Cùng với tiến công về quân sự, đấu tranh chính trị đã tạo nên diện mạo một trong những cuộc động binh quy mô và có tác động rất lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.

1. Quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng và của Trung ương Cục miền Nam về đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968

Từ kinh nghiệm thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, của 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược về kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã hình thành đường lối, phương châm chiến lược "hai chân, ba mũi", trong đó, "chân" lực lượng chính trị, "mũi" tấn công chính trị luôn giữ vai trò quan trọng. Đặc biệt, trong điều kiện Mỹ đổ quân trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, Đảng chủ trương chỉ đạo quân và dân trên khắp các chiến trường đẩy mạnh tiến công địch về quân sự, chính trị, binh vận; ra sức tăng cường lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược...

Đến tháng 12-1967, trên cơ sở đánh giá tình hình chiến trường, tương quan lực lượng giữa ta và địch, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về "Tình hình miền Nam", quyết định: chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, "thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Nghị quyết nêu rõ: "đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) xác định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Nghị quyết nêu rõ: Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa sắp đến sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất ác liệt và phức tạp bằng cả tiến công quân sự, tiến công chính trị với ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược... Nguyên tắc cơ bản là tập trung lực lượng quân sự và lực lượng chính trị đến mức cao nhất, một cách hợp lý nhất, tiến công mãnh liệt vào những hướng chiến lược chính.

Tại miền Nam, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ năm (5-1967) bàn và đề ra các công tác lớn trong thời gian trước mắt về quân sự, về chính trị, về công tác ở đô thị, trong đó quán triệt tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10-1966, xác định: lấy đô thị và vùng yếu nông thôn làm trọng điểm; nhiệm vụ cụ thể là chuẩn bị lực lượng "tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa", do vậy phải có một phong trào quần chúng nổi dậy tại chỗ tức là phải xây dựng thực lực chính trị và vũ trang ở đô thị, phát động quần chúng nổi dậy khi thời cơ đến. Cuối tháng 5-1967, Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về đẩy mạnh hoạt động toàn diện mùa mưa năm 1967, trong đó, tiếp tục nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo triển khai thế chủ động và thế tấn công với quy mô chiến lược và chiến dịch trên những hướng chiến trường chủ yếu 1 bằng cả tiến công quân sự và chính trị. Về đấu tranh chính trị và phong trào đô thị, chủ trương đẩy mạnh phong trào đô thị, trong đó: "vấn đề xây dựng và phát triển thực lực chính trị có tác dụng quyết định của mọi phong trào".

Tiếp đó, trên cơ sở lĩnh hội những quan điểm chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về xây dựng kế hoạch tác chiến, mở các đợt hoạt động Thu - Đông 1967, ngày 2-10-1967, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị "Đẩy mạnh đợt Đông - Xuân 1967-1968", yêu cầu quân và dân miền Nam đẩy mạnh hoạt động trên các mặt: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, binh vận, trong đó, đấu tranh chính trị tiến hành ở cả vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp; vùng giải phóng, các thành phố, thị xã. Ngày 12-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra chỉ thị gửi các quân khu, hướng dẫn việc chuẩn bị tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở các thành phố, thị xã. Phương châm chỉ đạo được xác định: Tấn công toàn diện cả quân sự, chính trị, binh vận; bố trí một cách linh hoạt lực lượng, hoặc lấy lực lượng chính trị, binh vận làm chính, hoặc lấy lực lượng vũ trang làm chính.
 
Trước giờ hành động, ngày 24-1-1968, để thống nhất cao độ về nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, Trung ương Cục ra chỉ thị chỉ rõ nhiệm vụ của đấu tranh chính trị là: "Phát động toàn dân nổi dậy bằng hình thức bạo lực, cùng với đấu tranh vũ trang hình thành thế tổng hợp tấn công đánh bại quân thù, giành chính quyền về tay nhân dân, đập tan mọi cuộc phản kích của địch, bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được".

Có thể thấy, trong quá trình chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam đều nhất quán coi trọng và nhấn mạnh vai trò của lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị, là mũi tấn công song song, đồng thời và phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với tấn công quân sự; tích cực chuẩn bị để phát huy tối đa sức mạnh của đấu tranh chính trị trong cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa được coi là mang tính quyết định của cuộc chiến tranh.

2. Đấu tranh chính trị - vừa là mũi giáp công vừa là trợ lực trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968

 Thực hiện chủ trương và quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục, của Quân ủy Miền, của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, quân và dân miền Nam đã gấp rút chuẩn bị cho trận đánh "quyết định". Lực lượng chính trị, các cơ sở kháng chiến trong nội thị, nội thành đã xây dựng các kế hoạch đấu tranh, nổi dậy giành chính quyền; tham gia bí mật vận chuyển, cất giấu một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược tại các vùng giáp ranh và ngay trong các thành phố, thị xã, giúp lực lượng vũ trang thâm nhập các thành phố trước ngày nổ súng...

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (đợt 1) bắt đầu. Thực hiện mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy của Trung ương Đảng, của Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, hòa cùng tiếng súng tấn công quân sự, quần chúng miền Nam đã nổi dậy phối hợp cùng lực lượng vũ trang đấu tranh tấn công địch.

Tại Sài Gòn, trong khi Quân giải phóng và lực lượng vũ trang tiến công và áp chế tất cả các cơ quan đầu não, các vị trí quan trọng của địch, các tổ chức như Thành đoàn, Ban Công vận, Ban Phụ vận, lực lượng Tuyên huấn đã kịp thời hành động, phát động quần chúng nổi dậy, diệt ác trừ gian. Các cán bộ cốt cán của Thành đoàn phát động quần chúng một số cơ sở, đường phố nổi dậy. Lực lượng chính trị của Ban Phụ vận vừa kêu gọi quần chúng nổi dậy, vừa làm nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, tiếp tế lương thực, cứu chữa thương binh, tổ chức che giấu cho các chiến sĩ bị lạc rồi tìm cách đưa ra ngoài. Lực lượng Tuyên huấn tiến hành rải truyền đơn, dán áp phích, vận động cơ sở quần chúng giúp đỡ bộ đội từ ngoài vào...

Tại thành phố Huế, vào 2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, tiếng súng tiến công bắt đầu vang lên khắp thành phố. Sau 4 ngày tiến công liên tục, Quân giải phóng và lực lượng vũ trang cách mạng đã chiếm được hầu hết các mục tiêu và làm chủ thành phố Huế. Được các đòn tiến công quân sự hỗ trợ, quần chúng trong thành phố đã nổi dậy đào hầm, xây chiến lũy, dẫn đường cho bộ đội, tiếp tế vũ khí, cứu chữa thương binh. Nhiều tổ chức quần chúng như Mặt trận Thanh niên Huế, Hội Binh sĩ yêu nước ly khai ra đời, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều khu vực trong thành phố, hàng nghìn thanh niên đã tình nguyện tham gia các đội du kích tự vệ, các đội công tác. Cùng với lực lượng vũ trang và tiến công quân sự, lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị đã góp phần làm chủ thành phố từ ngày 31-1 đến ngày 24-2-1968, đưa Huế trở thành một trong hai thành phố lớn ở miền Nam (cùng với Sài Gòn) lập được chiến công oanh liệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đà Nẵng được chọn làm trọng điểm của Đặc khu Quảng Đà. Sau khi Quân giải phóng pháo kích sân bay Nước Mặn, mở màn cuộc tổng tiến công, lực lượng chính trị trong nội đô Đà Nẵng đã xuống đường tiến hành cuộc biểu tình, phát loa kêu gọi quần chúng nổi dậy tham gia làm chủ thành phố.

Trên địa bàn Tây Nam Bộ, đêm 30 rạng sáng 31-1, kết hợp với lực lượng vũ trang, quần chúng nhân dân nhiều nơi nổi dậy uy hiếp các đồn bốt, trụ sở tề, diệt ác phá kìm, làm chủ ấp, xã.

Trên địa bàn Tây Nguyên, phối hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng trong nội đô thị xã Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk), thị xã Pleiku (tỉnh Gia Lai), thị xã Kon Tum (tỉnh Kon Tum), Đà Lạt, thị trấn Di Linh, thị xã Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng)... đã phối hợp với lực lượng quần chúng vùng ven đô và đồng bào đến từ các vùng nông thôn tiến hành đấu tranh chính trị với nhiều nội dung và hình thức rất phong phú. Quần chúng đã tổ chức biểu dương lực lượng để hỗ trợ cho tấn công vũ trang, tổ chức tuần hành, kêu gọi binh lính Việt Nam Cộng hòa bỏ vũ khí trở về với cách mạng, cung cấp, tiếp tế lương thực, thực phẩm, tải thương, chăm sóc thương binh, hỗ trợ bộ đội truy kích kẻ thù, khống chế tề điệp, nổi dậy phá kìm kẹp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số xã, ấp vùng ven...

Ở nhiều thành phố, thị xã khác như Quảng Trị, Biên Hòa, Bến Tre, Mỹ Tho... và các vùng nông thôn, quân và dân ta đã tiến công mãnh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

Trong đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, hàng triệu phụ nữ ở khắp các địa phương trên toàn miền Nam đã nổi dậy, tiến công địch bằng chính trị, binh vận, bao vây bức rút, bức hàng, giải tán tề xã, đánh đuổi lực lượng bình định. Trong phong trào đấu tranh chính trị, nhiều trí thức đã hoạt động trong các đội võ trang tuyên truyền, diệt ác, phá kìm trong các vùng chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát...

Trong đợt 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, phong trào đấu tranh chính trị ở Nam Bộ tiếp tục được phát động với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động đấu tranh khác nhau. Tại "trọng điểm" Sài Gòn, đúng giờ quy định, các lực lượng tại chỗ đã nổ súng và phát động quần chúng nổi dậy đồng loạt, không chờ lực lượng bên ngoài vào. Dưới sự tổ chức, vận động của các lực lượng Thành đoàn, Hoa vận, Phụ vận, An ninh vũ trang, Tuyên huấn, quần chúng các giới, nhất là công nhân, lao động, học sinh, sinh viên, phụ nữ... đã tích cực tham gia tiếp tế, tải thương, dẫn đường cho các lực lượng vũ trang truy tìm, trừng trị bọn ác ôn... Ở các vùng ven, có trên 8.000 quần chúng tham gia bao vây đồn bốt; gần 12.000 lượt người đấu tranh chính trị và trên 4.000 gia đình bỏ "ấp chiến lược" trở về ruộng vườn cũ làm ăn...

Phối hợp với Sài Gòn, lực lượng quần chúng tại các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ đã hỗ trợ lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công địch tại các tuyến phòng thủ xung quanh Sài Gòn và nhiều thị xã thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre, Châu Đốc...; chặn đánh các cuộc hành quân của địch vào Long An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Đà Lạt, Phan Rang,...

Tại Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc dọc các tuyến giao thông đã đào hào, chặt cây, đắp ụ, dựng chiến lũy ngăn chặn xe giặc..., hỗ trợ lực lượng vũ trang đánh cắt giao thông trên các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk.

Nhìn chung, phong trào đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã được phát động, diễn ra trên phạm vi toàn miền Nam, động viên được quần chúng tham gia, nội dung, hình thức đấu tranh rất quyết liệt. Đấu tranh chính trị vừa là một mũi giáp công, vừa đóng vai trò hỗ trợ tấn công quân sự, thể hiện sinh động đường lối đấu tranh "chính trị kết hợp vũ trang" và phương châm "ba mũi giáp công" ngay trong lòng địch, góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.
 
 3. Hạn chế và khuyết điểm

Bên cạnh những thành công và ưu điểm rõ rệt, đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 cũng bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Khuyết điểm rõ nhất trong tư tưởng chỉ đạo là đánh giá tình hình không thật sát, xác định phương thức hoạt động và mục tiêu quá cao đối với đấu tranh chính trị. Việc đề ra phương thức "tổng khởi nghĩa", xác định mục tiêu "đánh sập" chính quyền địch, "giành chính quyền về tay nhân dân", thậm chí "giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân" là dựa trên tư duy chủ quan, đánh giá không sát thực lực, dự kiến không sát về trình độ chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của quần chúng nhân dân, nhất là tại các đô thị 2. Do đó, mặc dù tại một số nơi, quần chúng tiến hành tấn công chính quyền cơ sở của địch, song, đã không có "tổng khởi nghĩa" như chủ trương đã đề ra.

Tiến hành tổng công kích và tổng khởi nghĩa trong điều kiện địch có hơn một triệu quân và tiềm lực chiến tranh của chúng còn lớn, Bộ Chính trị dự kiến tình hình có thể diễn ra theo một trong ba khả năng: 1- Ta thắng lớn, buộc Mỹ phải chịu thua và nhận thương lượng với ta để kết thúc chiến tranh. 2- Ta giành được thắng lợi lớn nhiều nơi nhưng địch vẫn giữ được nhiều vị trí quan trọng để tiếp tục chiến tranh. 3- Mỹ tăng quân và dùng lục quân đánh ra miền Bắc, mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương. Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương xác định: "quyết chiến đấu giành cho kỳ được thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất". Hội nghị lần thứ sáu Trung ương Cục (mở rộng) tháng 3-1968, ra Nghị quyết động viên quân dân miền Nam "liên tục tấn công và liên tục nổi dậy", tiến lên "giành thắng lợi hoàn toàn", "đánh đổ hoàn toàn ngụy quyền tay sai, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân".

Do tư tưởng chỉ đạo nặng về "khả năng thứ nhất", nặng về mục tiêu "giành thắng lợi hoàn toàn", chưa tiên lượng hết những khó khăn, thách thức, do đó dẫn đến việc bộc lộ hầu hết lực lượng, nhất là trong các đô thị. Bên cạnh đó, việc chủ trương tiếp tục tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa các đợt 2, 3, khi yếu tố bất ngờ không còn, địch phản kích mạnh, đã làm tổn thất lực lượng chính trị. Sau hai đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục miền Nam đã nhận thấy những hạn chế không dễ khắc phục, như: "khởi nghĩa của quần chúng còn ì ạch; binh địch vận quá yếu; phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, củng cố hậu phương còn kém" 3. Tuy nhiên, nguyên nhân lại được nhìn nhận do khâu tổ chức thực hiện, do vấn đề điều hành. Đặc biệt, trong đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy 4, mặc dù chủ trương của Đảng là "ra sức tăng cường lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang", "đẩy mạnh thế tiến công toàn diện bằng quân sự và chính trị" để giành thắng lợi quyết định, song, do các mũi tấn công quân sự của ta không đạt mục tiêu, các đợt tấn công quân sự của ta yếu và rời rạc, chủ yếu ở khu vực rừng núi, vùng giáp ranh biên giới Campuchia, địch phản kích, đẩy chủ lực ra xa các đô thị và trung tâm dân cư, nên phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng không diễn ra như mong đợi, phong trào quần chúng nổi dậy ngày càng suy yếu. Chính vì những khuyết điểm trên đây, nên sau Mậu Thân, cơ sở chính trị ở các đô thị hầu như không còn.

Một khuyết điểm nữa trong đấu tranh chính trị, trong xây dựng lực lượng chính trị là do dồn sức tấn công đô thị, tập trung vào phong trào đô thị mà trong một thời gian dài, ta "bỏ hở" vùng nông thôn đồng bằng và vùng rừng núi. Trước khi diễn ra tổng tấn công và nổi dậy, trong thư gửi cho Trung ương Cục và Quân ủy Miền, ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn nhắc nhở: "Hướng công kích và khởi nghĩa nhằm vào thành thị, nhưng phải nhớ rằng kết quả lớn nhất, quan trọng nhất phải đạt được là ở việc giành và giữ nông thôn". Tám tháng sau ngày tổng tiến công và nổi dậy khởi phát, trong Chỉ thị để bổ sung một số điểm cho Nghị quyết tháng 8-1968 về "Đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định", ngày 9-11-1968, Bộ Chính trị đã chỉ ra hạn chế: "chưa đánh giá hết âm mưu thâm độc và hành động phản kích điên cuồng của địch vào vùng nông thôn từ sau cuộc Tổng tiến công đồng loạt đầu Xuân Mậu Thân, vì vậy, ta đã không kịp thời khắc phục được những khó khăn và chuyển hướng chiến lược khi tình hình đã thay đổi". Tuy nhiên, tư tưởng chỉ đạo vẫn tập trung vào đô thị. Địch lợi dụng tình hình tiến hành "bình định cấp tốc" càn quét các vùng nông thôn vừa mất, nhất là ven Sài Gòn.

Ngoài những khuyết điểm trên phương diện chỉ đạo, trong thực hành tổng tiến công và nổi dậy cũng có những hạn chế trong thống nhất thời gian khởi sự giữa các địa phương, các lực lượng; hạn chế trong phối hợp giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hạn chế trong phối hợp giữa lực lượng chính trị từ bên ngoài vào và lực lượng chính trị nổi dậy trong nội đô, giữa chỉ huy ở trên và chấp hành bên dưới...

Những khuyết điểm, hạn chế trên trong lãnh đạo, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân nói chung và trong đấu tranh chính trị nói riêng chậm được tổng kết trong và ngay khi hoạt động này diễn ra có những ảnh hưởng đến chỉ đạo phong trào cách mạng sau Mậu Thân 1968. Đến giữa năm 1969, ta mới chuyển trọng tâm về nông thôn, đã chậm nên gặp rất nhiều khó khăn. Phải đến Hội nghị lần thứ 10 (tháng 11-1970), Trung ương Cục miền Nam mới dành nhiều thời gian để kiểm điểm một cách nghiêm túc, toàn diện công tác chỉ đạo trong và sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968; chỉ ra khuyết điểm chính về chỉ đạo là chưa đánh giá thật đầy đủ âm mưu, hành động cụ thể của địch, nhất là âm mưu "bình định" trong "Việt Nam hóa chiến tranh", do đó, sự chuyển hướng tiến công về nông thôn chậm trễ. Trung ương Cục cho rằng: lẽ ra sau đợt 2 phải xem xét tình hình địch - ta, xác định ta ở khả năng nào, xác định rõ sự chuyển hướng của địch, để chuyển trọng tâm về chỉ đạo nông thôn và không đề ra các đợt tiến công tiếp với yêu cầu quá cao, làm cho các cấp dưới không kịp bổ sung lực lượng và không nắm vững hướng chủ yếu để tập trung chỉ đạo. Chậm trễ này đã hạn chế thắng lợi của ta; ảnh hưởng tới sự chỉ đạo phương châm, phương thức cụ thể, ảnh hưởng tới xây dựng lực lượng chính trị, quân sự của ta ở các địa bàn trọng điểm. Trung ương Cục cũng nhận thấy khuyết điểm là có phần trông chờ, ỷ lại "không quán triệt đầy đủ việc xây dựng chỉ đạo ba vùng chiến lược. Nhiều nơi để lộ lực lượng, hao tổn, ảnh hưởng đến thế và lực".

Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (10-1973) cũng nhìn nhận: "chúng ta cũng đã mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời: ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Níchxơn; cho nên ta đã gặp khó khăn trong một thời gian".

Mặc dù có những khuyết điểm, hạn chế cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hành, đấu tranh chính trị vừa là một mũi giáp công, vừa đóng vai trò hỗ trợ tấn công quân sự, thể hiện sinh động đường lối đấu tranh "chính trị kết hợp vũ trang" và phương châm "ba mũi giáp công" ngay trong lòng địch, góp phần to lớn trong thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.




--------------------------------------------------------------
1. Gồm Sài Gòn - Chợ Lớn và miền Đông Nam Bộ; từ Đường 9 qua Quảng Trị đến Quảng Đà, Quảng Nam; đồng bằng và giáp ranh Khu 5, Tây Nguyên.

2. Ngày 12-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền ra Chỉ thị "Hướng dẫn về việc chuẩn bị và tiến hành công kích và khởi nghĩa ở các thành phố, thị xã", nhận định: "... các thành phố, thị xã ở miền Nam hiện nay là nơi hiểm yếu nhất, đồng thời có nhiều sơ hở, là nơi mà quần chúng tỏ ra có nhiều khả năng cách mạng rất to lớn, lực lượng cách mạng mỗi ngày một mạnh mẽ và vững chắc, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng ngày càng trưởng thành. Nó có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện bước đột biến theo phương hướng chiến lược của Đảng". Tài liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, hồ sơ P42 (65a-63).

Gần 10 ngày sau cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa nổ ra, ngày 7-2-1968, trong điện gửi Trung ương Cục, Khu ủy Khu 5, Khu ủy Trị Thiên và B3 về "Phương hướng khắc phục hậu quả đánh phá của địch và tích cực chuyển hướng phong trào", Bộ Chính trị dự kiến: "Sau những đợt chiến đấu lớn, nhất định phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị sẽ phát triển mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa". Tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng, hồ sơ P11-ĐVBQ 1314.

3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Trung ương Cục miền Nam về nhận định tình hình đợt 2 và chủ trương, nhiệm vụ sắp tới, ngày 10-6-1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, ký hiệu: TWC 848.

4. Đợt 1 bắt đầu từ đêm 30 rạng ngày 31-1, kết thúc ngày 25-2-1968; đợt 2 bắt đầu từ ngày 5-5-1968, rộ lên một thời gian ngắn rồi kết thúc; đợt 3 diễn ra từ ngày 17-8-1968 đến ngày 30-9-1968.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 02:13:38 pm
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968
TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI



PGS.TS. ĐINH QUANG HẢI
Viện trưởng Viện Sử học,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam


Cách đây vừa tròn nửa thế kỷ, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hưởng ứng lời hiệu triệu của Bộ Thống soái tối cao, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, toàn quân và toàn dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (lúc đó gọi là Tổng công kích - tổng khởi nghĩa) đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố, đặc biệt là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các thị xã, thị trấn, các chi khu, quận lỵ, các sân bay và căn cứ hậu cần của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trên toàn chiến trường miền Nam Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã gây ra cho đế quốc Mỹ một đòn "choáng váng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của chúng; làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ. Với ý nghĩa to lớn đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử quan trọng và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2-9-1945) cho đến trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với tinh thần anh dũng, kiên cường, lập nhiều chiến công xuất sắc, từng bước đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Đặc biệt, trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1964), bằng đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, nhân dân Việt Nam từng bước đẩy đế quốc Mỹ vào thế bị động, không còn giữ được ưu thế trên chiến trường miền Nam.

Đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân Mỹ vào tham chiến ở quy mô lớn ở miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Tham vọng của đế quốc Mỹ trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" là đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng từ 25 đến 30 tháng, với kế hoạch ba giai đoạn, hai cuộc phản công chiến lược, mà giai đoạn ba dự tính là hoàn thành việc tiêu diệt khối chủ lực của ta, tiếp tục bình định miền Nam, rút quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ về nước vào cuối năm 1967. Đứng trước tình thế đó, Đảng ta khẳng định: "Với việc thay đổi chiến lược chiến tranh như trên của đế quốc Mỹ, cách mạng và cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước một tình thế hiểm nghèo. Đảng ta, nhân dân ta sẽ đối phó với thách thức ấy như thế nào? Trên chiến trường, cách đánh với quân Mỹ sẽ ra sao? Có tiếp tục đấu tranh chính trị được nữa hay không? Vận mệnh của dân tộc, chiều hướng phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta và trên một mức độ nào đó của cả phong trào cách mạng thế giới, phụ thuộc vào câu trả lời về cách thức chúng ta xử trí tình huống chiến lược hệ trọng này".

Trước sự thay đổi nhanh chóng của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược, Đảng Lao động Việt Nam đã đánh giá tình hình chiến lược mới một cách bình tĩnh và sáng suốt, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, cả nước một lòng thực hiện Lời kêu gọi vang dậy núi sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Theo đó, với khí thế quyết chiến, quyết thắng, quân dân ta đã đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch ở miền Nam, đánh bại một bước chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, tạo đà cho cách mạng Việt Nam tiến lên.

Tháng 4-1967, đồng chí Nguyễn Chí Thanh ra miền Bắc báo cáo về tình hình miền Nam và đề xuất phải tổ chức những cuộc tiến công đánh thẳng vào hang ổ của địch trong các thành phố, thị xã để tạo chuyển biến lớn. Đồng chí Lê Duẩn tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Đây cũng là vấn đề mà đồng chí Lê Duẩn đang trăn trở, ý đồ chiến lược theo đó ngày càng sáng tỏ thêm.

Xuất phát từ những suy nghĩ trên, khi trao đổi với đồng chí Văn Tiến Dũng về kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Lê Duẩn nảy ra ý định phải có cách đánh mới, phải khởi nghĩa và tiến công địch ở đô thị, nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Tuy nhiên cách đánh mới như thế nào thì chưa hình dung được cụ thể. Song theo các đồng chí thì phải khởi nghĩa và đánh vào đầu não địch ở các trung tâm thành phố - nơi địch cho là an toàn và ổn định nhất. Có làm được như vậy mới đánh bại địch về chiến lược. Vì đánh được vào các thành phố, nhất là Sài Gòn, mới làm "thôi động" hậu phương địch, làm rung động nước Mỹ, tạo nên làn sóng đấu tranh chính trị của nhân dân các đô thị miền Nam, nhân dân Mỹ, đồng thời cũng để tỏ rõ thế và lực của ta mạnh chứ không tàn lụi như đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tuyên truyền.

Tháng 5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ kết thúc, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá tình hình, xem xét dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967 -1968. Tiếp đó, tháng 6-1967, Hội nghị Bộ Chính trị được triệu tập và bàn bạc rất kỹ dự thảo kế hoạch chiến lược này. Hội nghị nhận định, thắng lợi của quân và dân ta giành được trên cả hai miền Nam, Bắc là to lớn, toàn diện. Thắng lợi đó đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đẩy chúng vào thế lúng túng, bị động về chiến lược.

Hội nghị còn nhận định, về phía ta, cả thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta "trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn". Nhưng tương đối ngắn là bao lâu? Tuy bàn bạc rất tỉ mỉ về tương quan lực lượng lúc đó nhưng Hội nghị cũng chỉ có thể dự kiến sẽ giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn. Muốn vậy, nhiệm vụ quân sự của ta là phải tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Mỹ, làm mất khả năng tiến công của chúng, đồng thời phải tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không còn là lực lượng chiến lược trong tiến công và phòng ngự mà Mỹ dựa vào đó để tiến hành chiến tranh.

Từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968 - kế hoạch tiến công táo bạo "Tết Mậu Thân" lịch sử. Tại Hội nghị này, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc và thảo luận. Bên cạnh đó, Hội nghị còn dành thời gian nghe báo cáo về tình hình địch của Cục 2, về tình hình ta của Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu, về các kế hoạch tác chiến của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ. Trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ và thảo luận kỹ các báo cáo, đặc biệt là Kế hoạch Đông - Xuân - Hè 1967-1968 do Quân ủy Trung ương dự thảo, Bộ Chính trị chủ trương tạo một bất ngờ lớn về chiến lược đánh địch. Để tạo được bất ngờ về chiến lược, Bộ Chính trị quyết định thời gian bắt đầu mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân. Tiếp đó, tháng 11-1967, Bộ Chính trị họp tiếp để bàn cụ thể về Kế hoạch tổng khởi nghĩa ở các đô thị miền Nam.

Quán triệt chủ trương của Bộ Chính trị, các chiến trường, các địa phương nhanh chóng bắt tay chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, cụ thể: xây dựng và hoàn chỉnh phương án, kế hoạch công kích; khởi nghĩa; tổ chức, điều động, bố trí lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị; phân chia chiến trường; tổ chức hệ thống bảo đảm hậu cần; triển khai mạng lưới giao liên từ căn cứ xuống vùng ven, vào nội thành; chuẩn bị khu vực, địa điểm cất giấu lực lượng và địa bàn xuất phát tiến công; điều tra các mục tiêu và nắm tình hình cũng như quy luật hoạt động của địch ở nội đô. Đồng thời, huy động lực lượng bí mật bằng nhiều đường, nhiều loại phương tiện vận chuyển vũ khí vào nội thành cất giấu... Để khắc phục mọi khó khăn, các địa phương, các chiến trường đã phân cấp, phân hướng, trên dưới đồng thời chuẩn bị. Trong điều kiện thời gian gấp, chiến trường chia cắt, hơn một triệu quân Mỹ, quân đội Sài Gòn, quân một số nước đồng minh của đế quốc Mỹ với bộ máy kìm kẹp cùng mạng lưới tình báo, gián điệp, chỉ điểm giăng rộng và trà trộn khắp mọi nơi nhưng quá trình chuẩn bị của ta vẫn giữ bí mật tuyệt đối và cơ bản hoàn tất trước khi ngày giờ nổ súng bắt đầu.
 
Cùng với quá trình chuẩn bị, các chiến trường mở đợt hoạt động Thu - Đông 1967. Đợt hoạt động này nằm trong khuôn khổ giai đoạn 1 của kế hoạch tác chiến chiến lược. Mục đích của đợt hoạt động là trực tiếp tạo thế, tạo lực cho Tết Mậu Thân, buộc địch phải phân tán binh lực, nghi binh làm lạc hướng chú ý của chúng, tạo thêm điều kiện cho quá trình chuẩn bị của ta. Vì thế, ở vùng ven đô thị và vùng nông thôn đồng bằng, lực lượng vũ trang ta được lệnh duy trì các hoạt động. Trong khi đó, chủ lực Quân giải phóng liên tiếp mở các chiến dịch có quy mô tương đối lớn ở khu vực rừng núi nhằm đánh bồi vào quân Mỹ, phá kế hoạch chuẩn bị phản công lần thứ ba của chúng và lôi kéo, ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ tại vòng ngoài 1.

Cùng với hoạt động trên chiến trường miền Nam trong Thu - Đông 1967, cơ quan chỉ đạo chiến lược đã đề ra các biện pháp nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của bộ chỉ huy đối phương 2.

Toàn bộ những hoạt động trên đây của ta không lọt qua sự chú ý của giới lãnh đạo nước Mỹ và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn. Cuối năm 1967, chúng nhận định: Trong năm 1968, trọng tâm hoạt động của ta chỉ là chống phá bình định, mở một số trận đánh dọc miền biên giới, tiến công các mục tiêu ở hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên, tìm cách bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh như năm 1967.

Từ nhận định này, chúng chủ trương tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, mùa khô 1967-1978 mà hướng chủ yếu vẫn là miền Đông Nam Bộ và hướng quan trọng là Trị - Thiên nhằm duy trì thế giằng co, tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ, chờ cho kỳ bầu cử tổng thống mới ở Mỹ kết thúc sẽ tính toán bước đi tiếp theo.

Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và chủ trương: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Bộ Chính trị quyết định: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" 3.

Bộ Chính trị dự kiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có thể phát triển theo ba khả năng:

Một là, ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ý chí xâm lược của địch bị đè bẹp, địch phải chịu thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của ta.

Hai là, tuy ta giành thắng lợi quan trọng nhiều nơi nhưng địch vẫn còn lực lượng dựa vào những căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn - nhất là Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu với ta.

Ba là, Mỹ tăng cường nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh, gỡ thế đang thua của chúng. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: ta phải nỗ lực phi thường giành thắng lợi cao nhất theo khả năng một, nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng chủ động đối phó với khả năng hai, khả năng ba, tuy ít.

Tháng 1-1968, để giữ bí mật ý đồ chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương lên họp ở Kim Bôi, Hòa Bình để thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị Trung ương phân tích sâu sắc, toàn diện các vấn đề Bộ Chính trị nêu ra, tính kỹ các phương án, cuối cùng Trung ương nhất trí với Bộ Chính trị và lấy đó làm Nghị quyết Trung ương lần thứ 14. Phát biểu trong Hội nghị, đồng chí Trường Chinh cho đây là một sáng tạo lớn của Đảng.

Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh gấp rút hoàn chỉnh lần cuối phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa và xác định cụ thể: "Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Gia Định, Đà Nẵng, Huế; trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế - Đà Nẵng và các thành phố lớn".

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân dân miền Nam từ Trị - Thiên đến Khu 5 và Nam Bộ đã tiến công và nổi dậy đồng loạt hướng trọng điểm nhằm vào các thành phố, thị xã, nhất là các hang ổ của địch ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền, gây cho chúng tổn thất lớn và choáng váng nhiều ngày, đối phó bị động, lúng túng ở tất cả các vùng chiến lược, nhiều nơi ta đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày.

Ở Huế, quân và dân ta hoàn toàn làm chủ thành phố, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Ở Sài Gòn - Gia Định, sào huyệt đầu não của địch, quân và dân ta tập kích nhiều mục tiêu quan trọng như Tòa Đại sứ Mỹ, dinh "Gia Long", Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn... là những nơi đề xướng và điều hành mọi tội ác chiến tranh chống nhân dân, chống cách mạng. Đánh phá làm tê liệt nhiều hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, làm ngưng trệ việc vận chuyển và thông tin liên lạc của địch trong nhiều ngày, nhiều giờ. Phối hợp chặt chẽ với tiến công, đội quân chính trị hùng hậu của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị nổi dậy mạnh mẽ, lật đổ bộ máy chính quyền cơ sở, phá ách kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, san bằng hàng loạt "ấp chiến lược", giành quyền làm chủ nhiều vùng rộng lớn, xây dựng và củng cố hậu phương trực tiếp, mở rộng địa bàn của ta.

Thắng lợi lớn nhất và quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ - một siêu cường quân sự, kinh tế, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi ở quy mô chiến dịch là rất quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương mới tạo được chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật thuộc về nghệ thuật chỉ đạo và điều hành chiến tranh, có tác động lớn đến tiến trình và kết cục cuộc chiến tranh. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là lần đầu tiên trong lịch sử Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, quân Mỹ bị đánh bại bởi một dân tộc nhỏ ở cách xa nước Mỹ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đồng thời đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị - tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy - một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ. Không còn sự lựa chọn nào khác, ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai.

"Kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chứng tỏ Đảng ta không máy móc, mà luôn luôn có những phát kiến chiến lược lớn, luôn luôn sáng tạo trong chủ trương cũng như trong chỉ đạo toàn dân, toàn quân hành động". Đánh giá về sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng sau ngày toàn thắng đã nêu rõ: "... Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari".

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã mang lại cho quân và dân ta một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất. Nếu so với kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta phải tập trung hầu như toàn bộ các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của quân đội vào một trận quyết chiến chiến lược ở một địa bàn xa trung tâm đất nước tại Điện Biên Phủ, thì trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ta đã có đủ lực lượng cùng lúc đánh đồng loạt vào gần 40 thành phố, thị xã toàn miền Nam, trong đó tập trung vào các sào huyệt quan trọng, hiểm yếu nhất của đế quốc Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa như Sài Gòn, Huế... Mặc dù còn có những khuyết điểm, hạn chế, song thắng lợi to lớn mà Tết Mậu Thân 1968 tạo ra là không thể phủ nhận được. Từ đó có thể khẳng định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử tiêu biểu trong tiến trình lịch sử Việt Nam hiện đại.

Thời gian không ngừng trôi, những trang vàng lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục trải dài, nhưng sự kiện Tết Mậu Thân 1968 vẫn mãi là dấu ấn không thể phai mờ. Kỷ niệm 50 năm sự kiện Tết Mậu Thân là dịp để chúng ta cùng nhìn lại sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân ta kháng chiến; thấy được sự anh dũng, quả cảm của các lực lượng tham gia sự kiện này; đồng thời, đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại những điểm còn tồn tại, từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định; đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời.




---------------------------------------------------------------
1. Chiến dịch Lộc Ninh - Đường 13 của chủ lực miền Nam (27-10 đến 10-12-1967) ở khu vực rừng núi miền Đông Nam Bộ; Chiến dịch Đắk Tô của lực lượng vũ trang Tây Nguyên (đầu tháng 11-1967).

2. Tung bản tác chiến giả vào chiến trường, phóng thích hai tù binh "giặc lái" Mỹ về đoàn tụ với gia đình nhân dịp Nôen năm 1967, nhắc lại tuyên bố ngày 28-1-1967 của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Chính phủ Hoa Kỳ sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện,...

3. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tháng 1-1968 thành Nghị quyết Trung ương 14.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 02:23:19 pm
BÀI HỌC VỀ NẮM BẮT, ĐÁNH GIÁ,LƯỜNG ĐỊNH TÌNH HÌNH KHẢ NĂNG
SÁT THỰC TẾ TỪ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
       


Đại tá, PGS.TS. TRẦN VĂN THÀNH
Phó Giám đốc Học viện Lục quân


Chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", góp phần buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta ở Hội nghị Pari về lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là sự tổng hòa của nhiều nhân tố, trong đó có nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý. Để làm rõ vấn đề này, bài viết đi sâu trình bày nội dung về "Nắm bắt, đánh giá, lường định tình hình khả năng sát thực tế" trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968. Đây là một trong những bài học có ý nghĩa rất to lớn, như trong bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tháng 1-1968: "Chúng ta nhận rằng: trong một cuộc chiến tranh cách mạng hay bất cứ một cuộc cách mạng nào, vấn đề quan trọng là đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, đề ra cho được nhiệm vụ, yêu cầu về chiến lược, sách lược cho đúng. Việc này phải làm đúng thì ta mới thắng được. Kỳ này ta muốn chuyển hướng một nhiệm vụ chiến lược mới, không có cách nào khác, chúng ta cũng phải nghiên cứu tương quan lực lượng để đề ra nhiệm vụ".

1. Đánh giá, lường định đúng ý định chiến lược, sức mạnh và khả năng của đế quốc Mỹ

Đến giữa năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ phá sản. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ buộc phải đưa quân vào miền Nam chiến đấu, tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ". Đây là hình thức chiến tranh cao nhất, tốn kém nhất trong hai loại hình chiến tranh thông thường thuộc chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ. Do đó, nó được chính quyền Mỹ nghiên cứu, chuẩn bị khá kỹ, kể cả việc thăm dò dư luận thế giới và khả năng phản ứng của các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay từ năm 1961, Phó Tổng thống Mỹ Giônxơn, sau khi đến Sài Gòn nắm tình hình, đã có tường trình, kiến nghị với Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ là "phải đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam để giải quyết nhanh khi chiến tranh cách mạng mới hình thành". Nhưng lúc đó chính phủ Mỹ chưa có sự chuẩn bị, chính quyền Ngô Đình Diệm không đồng tình. Đến năm 1965, tình hình chính trị nước Mỹ có thay đổi, Giônxơn được bầu làm Tổng thống; kinh tế, chính trị nước Mỹ ổn định; trên thế giới, một số nước đồng minh của Mỹ đồng tình, ủng hộ chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam; trong khi đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa có những nảy sinh bất đồng về quan điểm; trên chiến trường, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đang đứng trước nguy cơ bị đánh bại hoàn toàn. Đây vừa là điều kiện, vừa là tình hình cụ thể buộc đế quốc Mỹ phải tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", để cố giữ chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam. Biện pháp tiến hành chiến tranh mới của đế quốc Mỹ là đưa nhanh lực lượng, phương tiện chiến tranh của đế quốc Mỹ và các nước chư hầu vào miền Nam Việt Nam, tạo ra ưu thế lực lượng trên chiến trường. Để tạo thế mạnh cho các hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân; quy mô, cường độ chiến tranh ngày càng ác liệt. Đồng thời, đế quốc Mỹ cũng mở rộng "chiến tranh đặc biệt" đánh phá vùng giải phóng Lào nhằm làm phân tán, suy yếu lực lượng ta; đế quốc Mỹ còn dùng nhiều thủ đoạn ngoại giao để ngăn chặn khả năng can thiệp quân sự, hạn chế sự chi viện, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam.

Ngay từ khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân, mở rộng chiến tranh xâm lược, Đảng ta đã đánh giá đúng tương quan lực lượng so sánh giữa ta và địch, thấy rõ mạnh, yếu và khả năng chiến đấu của quân Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành nước có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong các nước tư bản chủ nghĩa, là nước đầu tiên có bom nguyên tử, tàu chiến chạy bằng năng lượng hạt nhân, tên lửa tầm xa, bộ binh được cơ giới hóa. Tất cả những yếu tố đó đã làm xuất hiện tâm lý sợ Mỹ. Khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, một nước nhỏ, trong khi nước Mỹ có diện tích gấp 60 lần, dân số gấp 10 lần, tổng sản phẩm kinh tế quốc dân gấp 325 lần, Mỹ tin là sức mạnh quân sự sẽ đè bẹp sự kháng cự của Việt Nam trong một thời gian ngắn, buộc Việt Nam phải khuất phục Mỹ. Với quan điểm xem xét chiến tranh một cách toàn diện, đánh giá tương quan lực lượng hai bên khách quan, biện chứng, Đảng ta đã rút ra kết luận: Nước Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất thế giới; chúng có quân đông, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, chiếm giữ nhiều địa bàn chiến lược quan trọng của ta ở miền Nam. Nhưng chỗ yếu cơ bản của Mỹ là chính trị; tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, không cho phép Mỹ sử dụng hết sức mạnh kinh tế, quân sự trong cuộc chiến tranh này, tinh thần chiến đấu của quân Mỹ sẽ thấp kém; Mỹ đưa quân vào chiến trường miền Nam Việt Nam trong thế bị động, trước sự thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt"; dù đông quân, nhưng Mỹ - ngụy phải bố trí lực lượng trong thế giằng co giữa phòng ngự giữ đất và cơ động tiến công, trong thế chiến tranh nhân dân rộng khắp của ta. Hậu phương của quân Mỹ ở xa; biên chế, trang bị, huấn luyện cách đánh của quân Mỹ có nhiều điểm chưa phù hợp với chiến trường Việt Nam.

Từ nắm bắt tình hình quân Mỹ và những đánh giá trên, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng (tháng 1-1968) đã khẳng định: Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam, cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng trong hai lần phản công chiến lược mùa khô 1965-1966; 1966-1967 và thất bại trong đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ác liệt ở miền Bắc, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã tới đỉnh cao... Do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và do những thắng lợi to lớn của ta đã giành được, nên trong Đông - Xuân này (1967-1968), địch khó có khả năng mở cuộc phản công lần thứ ba. Xu thế tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước.

2. Đánh giá, lường định đúng tình hình và khả năng của ta

Vào cuối giai đoạn chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ, trên cơ sở những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm mà quân và dân ta đã giành được, Quân ủy Trung ương ta chủ trương: Đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển khối chủ lực cơ động trên chiến trường, đánh tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực địch. Tranh thủ thời cơ, cố gắng đánh bại hoàn toàn quân ngụy trước khi quân Mỹ nhảy vào. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cùng nhiều cán bộ có kinh nghiệm xây dựng khối chủ lực, chỉ huy tác chiến tập trung và một số trung đoàn chủ lực đã vào chiến trường. Trên chiến trường, ta đã hình thành ba khối chủ lực cơ động ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Khu 5. Lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị phát triển nhanh chóng, thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố và phát triển rộng khắp cả ba vùng chiến lược. Trên đà thắng lợi, đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ, dựa trên thế chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân có bước phát triển mới về số lượng, tổ chức, trang bị và trình độ chiến đấu, quân và dân ta đã giành và giữ vững thế chủ động, tiếp tục tiến công địch khi quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của chúng ồ ạt vào chiến trường. Khi quân Mỹ mở các cuộc phản công chiến lược (mùa khô 1965-1966 và 1966-1967), thực hiện biện pháp chiến lược "tìm diệt", quân và dân ta trên các chiến trường tiếp tục giữ vững quyền chủ động, tích cực phản công và tiến công địch, làm thất bại các mục tiêu chiến lược của chúng; đồng thời ta chủ động mở mặt trận Trị - Thiên, kéo một bộ phận quân Mỹ ra, tạo thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp và phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường.

Từ những thắng lợi to lớn của ta trong đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và sự phát triển mạnh mẽ của quân và dân ta về lực lượng, biên chế, trang bị, nghệ thuật tác chiến, vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo trên chiến trường miền Nam; đồng thời trên chiến trường miền Bắc, quân và dân ta chủ động và nhanh chóng chuyển sang thời chiến, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa tăng cường chi viện cho tiền tuyến, đánh bại các mục tiêu trong cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa bằng không quân, hải quân. Điều đó đã chứng tỏ sự lớn mạnh và trưởng thành của quân và dân ta trên khắp các chiến trường. Đây là cơ sở để Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 1-1968) ban hành Nghị quyết "Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước". Đảng ta nhận định: "Chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn chiến thuật và thế lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử chiến tranh giải phóng của ta. Chúng ta đang nắm quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường, đã thực hiện được phương châm mở rộng quyền làm chủ trên từng vùng để tiêu diệt địch và tiêu diệt nhiều sinh lực địch để mở rộng hơn nữa quyền làm chủ trên những vùng nông thôn đồng bằng và rừng núi rộng lớn. Ở chung quanh các thành thị và ngay cả ở từng bộ phận của một số thành thị, ta cũng đang mở rộng quyền làm chủ với những mức độ khác nhau. Các lực lượng vũ trang của ta đã tiến bộ vượt bậc, đã vận dụng những phương thức tác chiến chiến lược một cách độc đáo và linh hoạt, đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, nhất là đã từng đánh một cách thắng lợi vào hàng loạt thành thị lớn nhỏ, hàng loạt căn cứ, sân bay, kho tàng và đường giao thông chiến lược của địch. Quần chúng nhân dân ở các thành thị và những vùng còn tạm bị địch chiếm ở miền Nam đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa với những hình thức khác nhau. Hàng triệu quần chúng đang sục sôi cách mạng và sẵn sàng vùng lên, sẵn sàng hy sinh tất cả để giành cho được độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất. Nhân dân lao động miền Nam, nhất là công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn đang vùng dậy mạnh mẽ, mở ra một khí thế mới đấu tranh quyết liệt chống Mỹ và tay sai trong các thành thị".

Tuy nhiên, Đảng ta cũng đánh giá khách quan "chúng ta còn có một số nhược điểm trong các vấn đề bổ sung tại chỗ lực lượng vũ trang, đánh tiêu diệt những đơn vị lớn của Mỹ, xây dựng thực lực chính trị và chỉ đạo phong trào ở thành thị. Chúng ta cũng còn có những khó khăn nhất định về hậu cần, về giao thông vận tải, về công tác ngụy vận, địch vận. Đó là những nhược điểm và khó khăn mà ta cần phải ra sức khắc phục trong quá trình tiến lên của cách mạng. Nhưng nhược điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định".

3. Chủ trương chiến lược và nhiệm vụ của ta

 Trên cơ sở đánh giá cụ thể tương quan lực lượng giữa ta và địch, tháng 5-1967, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra chủ trương chiến lược chuyển cuộc kháng chiến lên một bước mới; theo đó, "Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phát huy mạnh mẽ chiến thắng to lớn trong mùa khô vừa qua, ra sức đẩy mạnh những cố gắng của ta đến mức cao nhất nhằm giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn". Đến tháng 7-1967, phương án tác chiến chiến lược tiếp tục được bổ sung và đã hoàn thiện. Trong 5 ngày, từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị tiếp tục họp bàn cụ thể về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Đây là hội nghị quan trọng để vạch ra kế hoạch tấn công táo bạo "Tết Mậu Thân" lịch sử. Tại Hội nghị này, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng đã trình bày Dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968, làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc, thảo luận, đánh giá, lường định tình hình. Bộ Chính trị nhận định: "Mỹ đang thất bại lớn, và có tăng quân cũng không giải quyết được gì mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc". Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định thực hiện một phương thức tiến công, một cách đánh mới nhằm làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện; làm chuyển biến căn bản chiến lược trên chiến trường miền Nam cũng như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự và chỉ đạo Hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng "báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận". Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp tại Hà Nội đã thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện "Tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước". Thời gian bắt đầu vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968.

Để thực hiện Nghị quyết chiến lược đó, Đảng ta xác định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, đạt tới mục tiêu chiến lược mà Đảng ta đã đề ra là: tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam; trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà".

Bên cạnh việc xác định những chủ trương, nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta cũng đã dự đoán những khả năng phát triển của tình hình thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có thể diễn ra theo ba khả năng:

Khả năng thứ nhất, ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa của ta cuối cùng thành công ở các đô thị lớn và ta lần lượt đập tan được những cuộc phản kích của địch, làm cho địch thất bại đến mức không thể gượng lại được nữa, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, bắt chúng phải chịu thua, phải thương lượng, đi đến kết thúc chiến tranh theo những mục tiêu và yêu cầu của ta.

Khả năng thứ hai, tuy ta giành được những thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng địch cố gắng tập trung và tăng viện thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại và giữ vững được những vị trí quan trọng, ổn định được các thành thị lớn, nhất là ở "đô thành" và dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục chiến đấu với ta.

Khả năng thứ ba, Mỹ động viên và tăng viện thêm lực lượng, mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc Việt Nam, sang Campuchia và Lào, hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng.

Nhằm thực hiện thành công các khả năng nêu trên, Trung ương Đảng nhấn mạnh: chúng ta phải nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng, quyết chiến đấu giành cho kỳ được khả năng thứ nhất, vì hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước thời cơ thuận lợi để giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. Nếu tình hình diễn biến theo khả năng thứ hai, thì do những thắng lợi quan trọng đã giành được, lực lượng của ta không những không hề bị giảm sút, mà trái lại còn mạnh lên gấp bội về quân sự và chính trị, vùng giải phóng ở nông thôn đồng bằng và rừng núi sẽ được mở rộng và củng cố hơn. Trước mắt khả năng thứ ba ít có khả năng hơn, nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng để chủ động đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra.
 
4. Diễn biến chính và kết quả đạt được

Căn cứ Kế hoạch tác chiến chiến lược đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua, quân và dân ta trên cả hai miền đã gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 theo phương châm đánh lớn. Các lớp tập huấn, các cuộc vận động lớn được tổ chức, các lực lượng vũ trang nhân dân bắt tay vào chấn chỉnh tổ chức, tăng cường số lượng, hoàn thiện thế trận. Đầu năm 1967, trước yêu cầu của tình hình mới, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập binh chủng Đặc công. Sau khi được thành lập, binh chủng đã tổ chức huấn luyện được 3.835 chiến sĩ; các học viện, nhà trường và trung tâm đào tạo đã đào tạo và bổ túc gần 1.000 cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đoàn; trong năm 1967 tăng cường cho chiến trường miền Nam 25.635 cán bộ, chiến sĩ. Để bảo đảm lực lượng chiến đấu trên chiến trường miền Nam và ở hậu phương miền Bắc, công tác tuyển quân được xúc tiến mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng vạn nam nữ thanh niên có trình độ văn hóa, giác ngộ chính trị, có sức khỏe được động viên vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong. Trên tuyến đường vận tải Trường Sơn, Đoàn 559 nhanh chóng mở rộng mạng đường, tăng thêm lực lượng và phương tiện, cải tiến phương pháp, bảo vệ vận chuyển. Trong 6 tháng cuối năm 1967, tuyến vận tải chiến lược đã tiếp nhận một khối lượng vật chất lớn gấp 6 lần năm 1965 từ miền Bắc vào miền Nam; bảo đảm hành quân cho hàng chục vạn lượt cán bộ, chiến sĩ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 càng cho thấy sự đánh giá, lường định tình hình là rất sát thực tế của Đảng ta.

Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (Tết Mậu Thân 1968), quân và dân miền Nam đồng loạt nổi dậy tiến công vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, Bộ Tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ Tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của địch. Trong đó, có những trận gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ và có tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới như trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn; giải phóng và làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm. Ba đợt tấn công đã đánh một đòn nặng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho chúng những tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm thất bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải cử đại diện tới bàn đàm phán Pari trong tư thế yếu hơn trước. Về phía ta, do tiến công và nổi dậy liên tục kéo dài, trên quy mô rộng lớn, lực lượng vũ trang đã bị tổn thất nặng nề, mặt khác ta đã kéo dài cuộc Tổng tiến công vào các đô thị trong khi yếu tố bất ngờ không còn, địch đã củng cố, ta đã chậm chuyển hướng về nông thôn, nơi mà các cuộc nổi dậy của nhân dân ta đã giải phóng được nhiều vùng rộng lớn. Điều này đã gây cho cách mạng miền Nam những tổn thất và khó khăn về sau.

Diễn biến cuộc Tổng tiến công cho thấy: trong chiến tranh, thực tiễn tình hình địch - ta chuyển biến mau lẹ; biết địch, biết ta không những lúc đầu mà phải bám sát tình hình trong cả quá trình chuyển biến. Xuất phát từ thực tiễn luôn luôn vận động, với tinh thần tích cực, chủ động và cơ động, linh hoạt, tìm ra quy luật, kịp thời điều chỉnh chủ trương cho sát đúng, luôn hành động đúng quy luật thì nhất định tránh được khuyết điểm, giành được thắng lợi to lớn, trọn vẹn hơn. Đây là bài học về nhận thức và đánh giá sát đúng tình hình cho cách mạng miền Nam tiến tới Mùa Xuân toàn thắng năm 1975 và cho những bước đi, những quyết sách của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Với "Tết Mậu Thân năm 1968", mặc dù chưa đạt được khả năng thứ nhất (một trong ba khả năng mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 đã dự kiến) và dù phải hy sinh, tổn thất to lớn, nhưng ta đã xoay chuyển được cục diện tình hình mà trước đó chưa bao giờ tạo được. Cục diện đó cho phép quân và dân ta tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên thực hiện lời dạy của Bác "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 và những bài học về chỉ đạo chiến lược vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục nghiên cứu, kế thừa, phát triển cho phù hợp với điều kiện mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Những phân tích, lập luận về giá trị của việc nắm bắt, đánh giá, lường định tình hình sát thực tế nêu trên mới chỉ là những vấn đề cơ bản nhất, thể hiện nội dung cốt lõi nhất của nghệ thuật đánh giá tình hình trong tác chiến. Tuy còn nhiều nhìn nhận, tranh luận xoay quanh sự kiện "Tết Mậu Thân năm 1968" nhưng không vì thế mà làm giảm đi tầm giá trị đã đi vào lịch sử như một cột mốc lớn, ghi dấu bước ngoặt và những bài học lịch sử của sự kiện này.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 02:30:11 pm
HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM



Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN QUANG
Nguyên Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một quá trình nỗ lực cao độ, khắc phục nhiều khó khăn, gian khổ của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược, của các cấp lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường, của quân và dân hai miền Nam - Bắc. Trong đó, sự chi viện sức người, sức của của hậu phương miền Bắc cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam có vai trò quan trọng to lớn, quyết định quy mô và mức độ thắng lợi của cuộc Tổng tiến công.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 được Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu khởi thảo. Tiếp đó, căn cứ vào diễn biến mới của chiến trường miền Nam, hậu phương miền Bắc và tình hình thế giới, đầu tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Theo đó, quyết tâm: "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Bộ Chính trị chủ trương: "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định".

Quán triệt sâu sắc chủ trương của Bộ Chính trị, nhằm đảm bảo cho cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi to lớn nhất, cùng với công tác chuẩn bị kế hoạch và lực lượng ở chiến trường miền Nam, quân và dân ta cùng các bộ, ban, ngành, các cơ quan đoàn thể, các lực lượng ở miền Bắc... khẩn trương chuẩn bị kế hoạch, dồn mọi khả năng để chi viện sức người, sức của cho cuộc tổng công kích ở miền Nam.

Trên thực tế, công tác chuẩn bị chi viện nhân lực, vật lực của hậu phương miền Bắc cho cuộc tổng tiến công lớn ở miền Nam đã được chuẩn bị mọi mặt từ rất sớm và trở thành một chiến dịch trong những tháng cuối năm 1967, đầu năm 1968. Các hoạt động đó được tập trung vào các nội dung lớn sau:

Kiện toàn và tăng cường sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là công tác huấn luyện, tuyển quân, xây dựng các đơn vị dự bị cơ động chiến lược, đáp ứng yêu cầu bổ sung quân cho chiến trường miền Nam theo kế hoạch tác chiến.

Thực hiện nhiệm vụ này, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu đã có những chỉ đạo cụ thể và chặt chẽ nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến mới. Ngày 19-3-1967, Binh chủng Đặc công - một lực lượng tác chiến đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam - chính thức được thành lập. Ngay sau khi thành lập, Binh chủng Đặc công đã kịp thời huấn luyện được gần 4.000 chiến sĩ đặc công, đào tạo và bổ sung hơn 1.100 cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đoàn, tăng cường cho miền Nam 2.500 cán bộ, chiến sĩ.
Cùng với việc thành lập Binh chủng Đặc công, Bộ Tổng Tham mưu còn chỉ đạo Quân chủng Hải quân thành lập thêm một số đoàn tàu vận tải "Không số", huấn luyện và tăng cường thêm những cán bộ, chiến sĩ gan dạ, kiên trung sẵn sàng nhận mệnh lệnh chở vũ khí, đạn dược, thuốc men theo đường biển vào chi viện cho các mặt trận ở Khu 5, Khu 9, miền Đông Nam Bộ... Quân chủng Phòng không - Không quân thành lập Tiểu đoàn máy bay vận tải IL14 (thuộc Trung đoàn Không quân vận tải 919), tổ chức huấn luyện và sẵn sàng chi viện cho Mặt trận Trị - Thiên - Huế.

Song song với các hoạt động trên, cuối tháng 7-1967, tại miền Bắc, Quân ủy Trung ương mở các lớp tập huấn quân chính toàn quân nhằm quán triệt về tình hình và nhiệm vụ cho hàng nghìn lượt cán bộ trung, cao cấp trong cả nước. Tiếp đó, tháng 8-1967, lực lượng vũ trang nhân dân mở cuộc vận động "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Cuộc vận động này đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi trong các đơn vị, qua đó làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn về tình hình nhiệm vụ, thi đua lập công trong xây dựng, huấn luyện và sẵn sàng lên đường chi viện cho miền Nam khi có lệnh. Các sư đoàn dự bị chiến lược 308, 304, 320, 312... được gấp rút kiện toàn về tổ chức, lực lượng biên chế, trang bị vũ khí, khẩn trương tổ chức huấn luyện chiến đấu, diễn tập hiệp đồng chiến đấu quân, binh chủng theo nhiều phương án tác chiến mới. Các lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển, lực lượng giao thông vận tải, công binh, thông tin liên lạc... được chấn chỉnh về tổ chức, tăng cường về số lượng, biên chế, trang bị các phương tiện đảm bảo kỹ thuật mới, hoàn chỉnh thế trận nhằm bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho các chiến trường.

Các lực lượng phòng không nhân dân cũng được kiện toàn và tăng cường cả về quân số và trang bị. Đến cuối năm 1967, số trung đoàn, tiểu đoàn pháo cao xạ tăng từ 2,5 lần lên 4,7 lần; số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần, các đơn vị ra đa cảnh giới tăng 2 lần, máy bay chiến đấu (Mig 17, Mig 21) tăng 2,2 lần. Các đơn vị phòng không của dân quân, tự vệ phát triển cả về số lượng và chất lượng, được trang bị thêm nhiều súng trường, súng phòng không 12,7 ly, pháo cao xạ 37 ly,... đồng thời thường xuyên được huấn luyện tổ chức diễn tập chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tham gia ứng cứu bảo đảm giao thông vận tải trên các trọng điểm huyết mạch.

Để tăng cường lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận, hướng tiến công và các tuyến trọng điểm trên chiến trường miền Nam và cả hậu phương miền Bắc, công tác tuyển quân, huấn luyện tân binh, động viên thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia lực lượng vũ trang, đi thanh niên xung phong, dân quân hỏa tuyến... được tiến hành rầm rộ, trở thành một khí thế lớn trên toàn miền Bắc. Khắp các tỉnh, thành, các trường đại học, nhà máy xí nghiệp, công trường... đều dấy lên phong trào thi đua tình nguyện lên đường. Về công tác tuyển quân, huấn luyện tân binh, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 3 đến tháng 9-1967, các địa phương trên toàn miền Bắc đều hoàn thành vượt chỉ tiêu, giao cho các đơn vị quân đội hàng nghìn tân binh. Số tân binh này được gấp rút tổ chức huấn luyện, biên chế thành các đơn vị mới và lần lượt đưa vào các chiến trường. Chỉ tính riêng năm 1967, toàn miền Bắc đã động viên được gần 10 vạn cán bộ, chiến sĩ, biên chế thành nhiều trung đoàn, sư đoàn bộ binh, binh chủng kỹ thuật bổ sung cho chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Tiếp đó, trong quý 1 và quý 2 năm 1968, miền Bắc đưa thêm 5,5 vạn quân, bổ sung cho các đợt tiến công sau Tết Mậu Thân và củng cố lại vùng mới giải phóng. Được miền Bắc dồn sức chi viện, lực lượng cách mạng miền Nam có bước phát triển nhanh chóng. Đến cuối năm 1967, lực lượng Quân giải phóng lên tới 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương, chưa kể dân quân, du kích, tự vệ, an ninh. Cùng với việc động viên, bổ sung quân cho các chiến trường, trong năm 1967 và đầu năm 1968 miền Bắc còn động viên được hàng chục nghìn nam, nữ thanh niên nông thôn miền Bắc, học sinh, sinh viên các trường đại học, trung học, công nhân tại các công trường, nhà máy tham gia lực lượng thanh niên xung phong, đi dân công hỏa tuyến, được biên chế thành các đội thanh niên xung phong, đội quân y cứu thương cứu hỏa, đội vận tải... đưa vào phục vụ chiến trường. Đây là một lực lượng hùng hậu đã góp phần cùng bộ đội và nhân dân chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên toàn miền Nam.

Huy động cao độ đóng góp của hậu phương miền Bắc về lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men, hàng hóa quân sự, phương tiện - kỹ thuật chiến tranh, tổ chức vận chuyển bảo đảm kịp thời cho các hướng chiến trường trong cuộc Tổng tiến công.

Mặc dù chiến tranh phá hoại của Mỹ ngày càng ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc vẫn đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp, nhất là công nghiệp quốc phòng và các loại hình kinh tế khác. Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, miền Bắc đã huy động được một khối lượng lớn vật chất - kỹ thuật, kịp thời chi viện cho các chiến trường. Trong vụ Hè - Thu năm 1967, nhân dân các tỉnh miền Bắc đã chi viện cho các mặt trận tại chỗ và miền Nam hơn 25 vạn tấn lương thực và hoa màu các loại, hơn 2,5 vạn tấn thực phẩm (trâu, bò, lợn, gà, cá, tôm, nước mắm), 5.600 tấn muối cùng nhiều hàng hóa dân sinh khác. Tiếp đó, trong vụ Đông - Xuân 1968, các địa phương đã đóng góp cho chiến trường hơn 30 vạn tấn lương thực, 3,2 vạn tấn thực phẩm. Ngành công nghiệp quốc phòng, mặc dù trong suốt hai năm 1966-1967, các công binh xưởng, xí nghiệp, nhà máy đều bị địch tập trung đánh phá dữ dội, phải sơ tán và sản xuất trong điều kiện rất khó khăn nhưng hầu hết đều hoàn thành chỉ tiêu sản xuất, kịp thời chế tạo, sản xuất hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men cùng nhiều hàng hóa quân sự khác, đảm bảo cung cấp đầy đủ theo yêu cầu tác chiến ngày càng lớn. Cùng với việc tự sản xuất các loại vũ khí, đạn dược thông thường, trong hai năm 1967, 1968, miền Bắc còn tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, phương tiện kỹ thuật, hàng hóa quân sự đặc biệt do Liên Xô, Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa viện trợ. Nhờ đó, việc chi viện vũ khí - kỹ thuật cho chiến trường miền Nam và các chiến trường phối hợp trong năm 1967 và đầu năm 1968 tăng 8,4 lần so với năm 1965.

Vào thời gian này, do liên tiếp bị thua đau trên các chiến trường, đế quốc Mỹ đã tăng cường đánh phá các trọng điểm giao thông ở miền Bắc, nhất là các trọng điểm ở Khu 4 và trên suốt tuyến vận tải chiến lược đường Trường Sơn. Đế quốc Mỹ đã huy động hàng nghìn lượt máy bay hiện đại các loại, trong đó có cả máy bay ném bom chiến lược B.52 đánh phá suốt ngày đêm ở Nam Khu 4, đồng thời tăng cường đánh phá, kiểm soát gắt gao tuyến vận tải trên suốt vùng biển phía Nam.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Hội đồng Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, vận chuyển kịp thời một khối lượng lớn vật chất - kỹ thuật và binh lực cho các hướng tổng tiến công cho các bộ, ban, ngành Trung ương phối hợp với các lực lượng của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và Đoàn 559 là lực lượng nòng cốt. Ngày 26-8-1967, Liên bộ Quốc phòng - Giao thông vận tải họp với Bộ Tư lệnh Quân khu 4 quyết định mở các đợt vận tải lớn trong các tháng cuối năm 1967. Tiếp đó, ngày 31-8-1967, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị thay mặt Hội đồng Chính phủ giao nhiệm vụ và chỉ tiêu về bảo đảm giao thông vận tải cho chủ tịch ủy ban hành chính các tỉnh thuộc Quân khu 4 và coi đó là pháp lệnh thời chiến.

Triển khai Chỉ thị trên, Bộ Giao thông vận tải đã chuyển 12.600 công nhân của các công trường và đội công trình vào phối hợp với bộ đội công binh Quân khu 4 và các lực lượng thanh niên xung phong đóng trên địa bàn, tiến hành sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường 7, 12, 21, 48 và mở mới các tuyến đường vòng tránh. Tất cả các đội bảo đảm giao thông ở các tỉnh, huyện trên địa bàn Quân khu 4 đều được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện. Bộ đội địa phương các tỉnh được chuyển hẳn thành lực lượng giao thông - công binh, có các nhiệm vụ chính: bảo đảm đường, tổ chức đánh địch, tổ chức ứng cứu, rà phá bom mìn, bảo vệ chân hàng. Các tổng đội Thanh niên xung phong của Trung ương và các tỉnh vừa làm nhiệm vụ sửa đường, đánh dấu, rà phá bom từ trường nổ chậm, vừa tổ chức cảnh giới dẫn đường cho xe qua các trọng điểm, các tọa độ lửa. Trong các chiến dịch ra quân bảo đảm giao thông vận tải năm 1967-1968, nhân dân các tỉnh trên địa bàn đã đóng góp hàng triệu ngày công, chuyên chở hàng triệu tấn đất đá san lấp hố bom, sửa đường, tham gia vận chuyển hàng chục ngàn tấn hàng hóa vào tập kết ở chiến trường.

Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ làm nòng cốt bảo đảm giao thông vận tải phục vụ cuộc tổng tiến công, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường miền Nam, với nước bạn Lào và hậu phương miền Bắc. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Đoàn 559 đã chủ động, sáng tạo sử dụng mọi phương tiện, biện pháp đẩy mạnh vận chuyển vật chất - kỹ thuật, binh lực chi viện kịp thời, đầy đủ cho các chiến trường. Trước khi bước vào các chiến dịch vận chuyển của Bộ chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công, lực lượng Đoàn 559 đã mở mới và củng cố tuyến vận tải cơ giới gần 1.000 km đường trục chính, 445 km đường trục phụ, 822 km đường trục ngang tỏa ra các chiến trường, 560 km đường vòng tránh, đường dự bị, 450 km đường vào các kho hàng, hình thành thế trận giao thông liên hoàn, vững chắc .

Với quyết tâm cao độ của cán bộ, chiến sĩ trong mùa khô 1967-1968, Đoàn 559 đã hoàn thành đúng thời hạn và vượt khối lượng vận chuyển được giao (65.000 tấn/ 61.000 tấn). Trong đó, giao cho các Mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ 20.700 tấn, chiến trường Lào 6.500 tấn; bảo đảm cho bộ đội hành quân 5.800 tấn, cho nội bộ Đoàn là 29.000 tấn. Đến tháng 11-1967, tuyến hậu cần tiền phương phía Nam chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công đã có lượng hàng dự trữ ở các kho Đường 12 lên tới 10.500 tấn hàng hóa quân sự, 15.000 tấn vũ khí, đạn dược, phương tiện kỹ thuật, và Đường 20 là 4.000 tấn hàng hóa quân sự, 5.000 tấn vũ khí - kỹ thuật.

Như vậy, việc động viên sức mạnh của hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam đã góp phần quyết định cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân cả nước; đồng thời tạo ra thế và lực mới để quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 giành thắng lợi vang dội, đưa cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sang một bước ngoặt mới có lợi cho ta. Đã tròn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm về huy động sức người, sức của của hậu phương miền Bắc chi viện cho các chiến trường miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn nguyên giá trị. Qua thực tiễn hoạt động, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

Một là, nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của hậu phương chiến lược trong chiến tranh cách mạng, trên cơ sở đó đề ra được các chủ trương và giải pháp đúng đắn nhằm huy động cao nhất sức người, sức của chi viện cho chiến trường.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta đã sớm xác định kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta, của cách mạng cả nước là đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai, từ đó lường định con đường đấu tranh hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài, rất gian khổ và ác liệt. Trong cuộc đấu tranh đó, vai trò, vị trí của hậu phương miền Bắc được hoạch định rõ ngay từ đầu. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (khóa II) năm 1955 đã nhận định: Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố về mọi mặt. Tiếp đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta tiếp tục đề ra chủ trương phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, gắn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng cả nước; cách mạng miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Xác định như vậy, tức là Đảng khẳng định phải động viên sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hai miền Nam - Bắc; đồng thời nhấn mạnh vai trò chi viện sức người, sức của của hậu phương miền Bắc là vô cùng to lớn, có tính quyết định thành bại tại chiến trường.

Như vậy, ngay từ đầu vai trò, vị trí của hậu phương miền Bắc đã được Đảng xác định rất rõ. Để làm tròn vai trò đó, miền Bắc phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc phát triển vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, khoa học - kỹ thuật. Chỉ có như thế, miền Bắc mới trở thành hậu phương - căn cứ địa cách mạng vững chắc của cả nước; mới đảm đương được vai trò "nền gốc" cho lực lượng đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam.

Nhờ sớm xác định rõ vấn đề này, trong suốt 10 năm xây dựng hòa bình, cũng như trong suốt thời gian chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hậu phương miền Bắc luôn đứng vững và vươn lên chi viện mạnh mẽ, liên tục, ngày càng cao về sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, nhất là trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân 1968, cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 và trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Hai là, công tác chi viện, bảo đảm chuẩn bị mọi mặt về lực lượng, vật chất - kỹ thuật phải kịp thời, đầy đủ và đi trước một bước, bám sát yêu cầu tác chiến của chiến trường.

Song song với chuẩn bị kế hoạch tác chiến, công tác chi viện, bảo đảm chuẩn bị về binh lực, vật chất - kỹ thuật cho các chiến dịch, các cuộc tổng tiến công có vai trò rất to lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và mức độ thắng lợi. Vì vậy, để bảo đảm giành thắng lợi cao nhất, giòn giã nhất, đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra, công tác chi viện, chuẩn bị về binh lực, vật chất - kỹ thuật phải đi trước một bước, phải kịp thời, đầy đủ, liên tục và ngày càng cao, bám sát yêu cầu tác chiến của các chiến trường. Thực tế trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, công tác chi viện, huy động sức người, sức của được xúc tiến mạnh mẽ ngay từ đầu năm 1967 và liên tục trong suốt quá trình chuẩn bị kế hoạch cũng như thực hành tiến công. Sự chi viện đó không những rất to lớn, đầy đủ mà còn rất kịp thời, bám sát yêu cầu tác chiến cụ thể của từng hướng tiến công, từng đợt tác chiến, góp phần to lớn vào thắng lợi chung.

Ba là, trong công tác chi viện sức người, sức của của hậu phương chiến lược phải được chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức thực hiện kiên quyết, huy động được nhiều lực lượng và toàn dân tham gia, nhất là trong các giai đoạn phát triển cao điểm của chiến tranh.

Thực tế cho thấy, huy động sức người, sức của cho chiến trường là một nhiệm vụ to lớn, khó khăn và đầy cam go, thử thách. Bởi lẽ, kẻ thù luôn tìm mọi cách để phá hoại và ngăn chặn công cuộc chi viện của hậu phương chiến lược miền Bắc, chúng không từ bất cứ âm mưu, thủ đoạn và phương tiện ngăn chặn nào, với một mức độ và quy mô phá hoại rất thâm độc, ác liệt. Vì vậy, để công cuộc huy động sức người, sức của và chi viện thắng lợi, nhiệm vụ này phải được coi là mặt trận hàng đầu, được các cấp ủy và chính quyền chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức thực hiện kiên quyết, với nhiều biện pháp sáng tạo; đồng thời phải được nhiều lực lượng các bộ, ban, ngành đoàn thể tham gia, được toàn dân nhiệt tình đóng góp và ủng hộ.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, những bài học trên đây cần tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng đầy đủ, phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước và yêu cầu của chiến tranh hiện đại nếu xảy ra.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 02:39:53 pm
ĐÁNH BẠI Ý CHÍ XÂM LƯỢC CỦA ĐỐI PHƯƠNG - KẾ TỤC TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC,
TƯ TƯỞNG XUYÊN SUỐT 30 NĂM CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG



Đại tá, ThS. LÊ THANH BÀI
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Pháp,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Xuân Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện đòn tiến công chiến lược, đồng loạt đánh vào cơ quan chỉ huy, căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong các đô thị khắp miền Nam. Đòn tiến công táo bạo đã làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của Mỹ trên chiến trường miền Nam, đẩy chiến lược "chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đã thực thi từ giữa năm 1965 đi đến chỗ phá sản. Nhưng hơn hết, đã làm cho ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay. Đây chính là sự kế tục truyền thống đánh giặc giữ nước, thể hiện tư tưởng chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng.

Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Việt Nam phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Đó là những lần tổ tiên ta phải đối đầu với thế lực ngoại xâm cường bạo, hơn hẳn về tiềm lực kinh tế - quốc phòng, dân số và quân số, vượt trội về sức mạnh quân sự. Do vậy, chưa khi nào ông cha ta đặt vấn đề thắng áp đảo quân thù bằng sức mạnh quân sự thuần túy, mà theo phương châm "đánh đuổi kẻ thù", giữ độc lập, tự do. Để đạt được mục đích đó, các vương triều đã phát huy vai trò của chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh toàn dân với tư tưởng tiến công, liên tục tiến công, tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường tiến tới đánh bại ý chí xâm lược, buộc đối phương phải từ bỏ mưu đồ thôn tính nước ta.

 Cuối năm 1076, nhà Tống phát binh xâm lược Đại Việt. Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân dân ta đã lập phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu), chặn địch tiến quân vào Thăng Long. Bất lợi về tương quan lực lượng, Lý Thường Kiệt đã không chủ trương tiến công bao vây, tiêu diệt toàn bộ quân địch mà quyết định mở cuộc tập kích lớn vào đại bản doanh quân Tống "chỉ trong vòng một đêm, cả khu doanh trại tập trung đến ba, bốn vạn quân Tống... bị đánh tan,"; thắng lợi này đã đè bẹp ý chí xâm lược, buộc nhà Tống phải chấp nhận "giảng hòa" rút quân về nước.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288), trên cơ sở đánh giá đúng âm mưu và sức mạnh của địch cũng như tinh thần và khả năng chiến đấu của quân, dân Đại Việt, Trần Quốc Tuấn đã chọn Bạch Đằng để tiến hành trận quyết chiến chiến lược. Chiến thắng Bạch Đằng ngày 9-4-1288 đã tiêu diệt một lực lượng lớn thủy binh gồm 500 - 600 chiến thuyền; "đánh thắng hoàn toàn ý chí xâm lược của quân Nguyên - Mông". Từ sau thất bại này, cộng với những khó khăn trong nước, nhà Nguyên phải bỏ hẳn ý định thôn tính nước ta.

Trong cuộc kháng chiến lâu dài chống quân Minh, sau khi giành được thắng lợi quan trọng ở Nghệ An, Thanh Hóa, tạo thế vững chắc cho phát triển lực lượng, Lê Lợi đã lập thế trận, giành thắng lợi quan trọng ở Chúc Động - Tốt Động (11-1426), đánh bại cuộc phản công của gồm 10 vạn quân do Vương Thông chỉ huy, đánh sập ý đồ xoay chuyển cục diện, giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường của quân xâm lược. Tiếp theo chiến thắng Chúc Động - Tốt Động, thắng lợi Chi Lăng - Xương Giang cuối năm 1427 đã khiến cho ý chí xâm lược của nhà Minh bị lung lay, phải từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta.

Năm 1789, trên đường hành quân ra Bắc đánh đuổi quân Thanh xâm lược, vua Quang Trung kêu gọi quân sĩ "đánh một trận giành toàn thắng, làm cho bọn xâm lược từ nay về sau không còn nuôi ý chí điên cuồng muốn chiếm lấy đất nước ta". Thực hiện ý định, quân và dân ta đã làm nên thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa, quét sạch 29 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Mùa Thu 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam nhất tề đứng dậy, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng với bản chất thực dân cố hữu, được sự trợ giúp của các thế lực đế quốc, thực dân Pháp đã trở lại xâm chiếm Đông Dương. Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam đứng trước thử thách khắc nghiệt: hoặc đấu tranh giữ vững nền độc lập mới giành được, hoặc trở lại kiếp nô lệ. Trước tình hình đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân kháng chiến, với quyết tâm "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

Kế tục truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc, bước vào cuộc kháng Pháp xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Kháng chiến của ta là chiến tranh tự vệ của một dân tộc sống về nông nghiệp, chống bọn đế quốc xâm lược có kỹ nghệ hiện đại", "Lực lượng ta và địch so le nhiều". Do vậy, Đảng đặt mục tiêu: "đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, lấy lại toàn bộ đất nước" . Để hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến, Đảng đã phát huy vai trò chiến tranh nhân dân, "Huy động toàn dân nổi dậy đánh du kích khắp nơi, làm cho lực lượng địch bị phân tán, mệt mỏi, khiến cho quân chủ lực ta bất thần đánh tiêu diệt địch từng bộ phận", tiến tới tiến hành "trận cuối cùng" gây "khủng khiếp cho giặc" để đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp.

Quán triệt tinh thần đó, quân và dân Việt Nam "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", vừa đánh vừa bồi bổ thực lực, thế và lực kháng chiến ngày càng được củng cố, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển sâu rộng, tạo điều kiện căng kéo, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Đó cũng là quá trình phát huy tinh thần tích cực tiến công, từng bước tiến lên vận động chiến, giành thắng lợi trong từng chiến dịch, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của thực dân Pháp, tiến tới trận quyết chiến, chiến lược Điện Biên Phủ.

Việc Nava và Bộ Chỉ huy Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh, nhằm tiến hành trận quyết đấu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta đã lộ rõ ý đồ hòng kết thúc chiến tranh trong thế thắng. Mưu đồ của địch là thách thức lớn trên con đường đi đến thắng lợi của cuộc kháng chiến, buộc chúng ta phải "chiến đấu trên một địa hình thuận lợi cho sự phối hợp các loại vũ khí của đối phương", "hạn chế khả năng giành thắng lợi của bộ đội chủ lực", "và khai thác chỗ yếu của ta là không thể duy trì số đông bộ đội tại rừng núi dài ngày, vì thiếu lương thực và khả năng vận chuyển có hạn". Tuy vậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá so sánh lực lượng, khả năng tác chiến của bộ đội, thế và lực của kháng chiến, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, coi đây là trận quyết chiến chiến lược, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại hình thức phòng ngự cao nhất của chúng, đánh bại mưu đồ của Pháp được Mỹ tiếp sức. Vượt qua mọi khó khăn trở ngại, hạn chế về lực lượng, vũ khí trang bị, trình độ tác chiến đánh tập đoàn cứ điểm, về tiếp tế vận tải, hậu cần, về địa hình, thời tiết,... Sau 56 ngày đêm anh dũng chiến đấu, quân và dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược này. Tuy số quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu ở Điện Biên Phủ chưa bằng 4% tổng binh lực trên toàn Đông Dương ở thời điểm đó 1, nhưng thất bại lại là cú sốc lớn, gây choáng váng cho chính giới Pháp, làm sụp đổ ý định giành thắng lợi quyết định của giới quân sự thực dân, buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán kết thúc chiến tranh với tư thế của kẻ bại trận. Thắng lợi này là sự kế thừa và phát triển truyền thống "đánh bại ý chí xâm lược của đối phương", là sự hiện thực đường lối kháng chiến của Đảng và đã mở đường cho dân tộc ta bước vào giai đoạn cách mạng mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong tương quan lực lượng hết sức chênh lệch, nghiêng hẳn về phía đối phương; Đảng đã không đặt vấn đề thắng Mỹ trên thế áp đảo bằng sức mạnh quân sự thuần túy, mà chủ trương tiến hành kháng chiến lâu dài, từng bước đánh tiêu hao, tiêu diệt quân địch, làm cho thế và lực của kháng chiến của ta ngày càng mạnh, lực lượng địch ngày một suy yếu, cũng như xác định mở mặt trận ngoại giao, tiến hành thương lượng đàm phán khi giành được thắng lợi quân sự quyết định trên chiến trường. Bởi vậy, trong suốt quá trình kháng chiến, Đảng luôn chú trọng đẩy mạnh tiến công quân sự, tiến tới đập tan ý chí xâm lược của địch, "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Trong năm đầu tiên trực tiếp đối đầu với quân Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: "Nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh thì mới khoét sâu được nhược điểm về chính trị và quân sự của đế quốc Mỹ, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực của quân đội Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ và giành được thắng lợi cuối cùng". Thực hiện chủ trương của Đảng, sau hai năm chiến đấu với quân viễn chinh Mỹ và đồng minh, cùng lực lượng quân đội Sài Gòn ngày càng đông đảo, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn về mặt quân sự. Trên chiến trường miền Nam, ta đã đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967); đánh bại một bước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. "Quân, dân ta đã đánh thắng địch từng bước và nắm quyền chủ động chiến lược. So sánh lực lượng trên chiến trường, ta mạnh lên và tạo được thế mới, lực mới; địch đang suy yếu, từ chiến lược phản công và tiến công giữa năm 1965, buộc phải lùi dần vào phòng ngự chiến lược bị động cuối năm 1967 trên toàn chiến trường", mở ra thời cơ thuận lợi lớn cho cách mạng miền Nam. Tuy vậy, tương quan lực lượng trên chiến trường vẫn nghiêng lệch về phía địch, ở miền Nam vẫn còn hiện diện gần 1,2 triệu quân chủ lực Mỹ, quân đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn với trang bị rất hiện đại. Trong khi đó, quân số của ta chỉ có 27 vạn bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương Quân giải phóng 2. Phân tích tình hình, Bộ Chính trị nhận định "Mỹ còn rất ngoan cố... đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ tình hình không xấu đi". Tình thế đó đòi hỏi cách mạng miền Nam phải tận dụng thời cơ, giáng một đòn quân sự thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra một bước ngoặt căn bản để buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán. Trên cơ sở nắm chắc tình hình, so sánh tương quan lực lượng, tháng 10-1967, Bộ Chính trị đi đến quyết định: "Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam". Đây là bước hiện thực hóa dự báo về bước phát triển cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của Tổng Bí thư Trường Chinh: "Quân ta tập trung mau lẹ, tích cực xung phong, tiến công chớp nhoáng và có kế hoạch vào những thành phố và cứ điểm của địch, bao vây, tiêu diệt chúng. Tóm lại, ta tung toàn bộ lực lượng toàn quốc, toàn dân đè bẹp quân địch"; tạo nên cách đánh mới nhằm "Làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược".

Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III quyết định: "Tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định,.... đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, ... tiến tới thống nhất nước nhà".

Đúng đêm giao thừa và đêm mùng 1 Tết Mậu Thân 1968 (ngày 30 và ngày 31-1-1968), trên toàn chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã mở cuộc tiến công và nổi dậy, đánh vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bao gồm cả 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến, 30 sân bay, nhiều tổng kho lớn. Trong đó có những trận gây chấn động lớn như đánh Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quân và dân ta đã diệt và làm ta rã 15 vạn tên địch, có 4 vạn quân Mỹ, phá hủy khoảng 1/3 vật tư chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn, phá 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1 triệu dân. Thắng lợi oanh liệt của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" - chiến lược chiến tranh quan trọng nhất, được Mỹ công phu chuẩn bị; buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.

Từ chỗ mưu toan dùng sức mạnh quân sự để giải quyết chiến tranh, Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố: ngừng ném bom đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. "Rõ ràng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 của ta đã làm cho ý chí xâm lược của bọn cầm quyền Mỹ lung lay một bước nghiêm trọng"5. Thắng lợi đó là kết quả của chủ trương cực kỳ táo bạo và sáng suốt của Đảng, quyết tâm cao độ của quân và dân ta, tạo nên bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ba mươi năm tiến hành chiến tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng đã nêu cao tinh thần tiến công cách mạng, lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đó là quá trình vừa đánh vừa xây dựng thực lực, làm thay đổi tương quan lực lượng, từng bước đánh bại âm mưu, kế hoạch quân sự của quân xâm lược; giành thắng lợi từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ để thực hiện đòn đánh quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, tạo nên bước chuyển biến quan trọng để đi đến kết thúc kháng chiến thắng lợi. Đó là sự kế tục truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên đã được Đảng ta nâng tầm trong thời đại Hồ Chí Minh, được thể hiện rõ ở Chiến dịch Điện Biên Phủ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đây cũng chính là thành công quan trọng trong điều hành chiến tranh của Đảng.




---------------------------------------------------------------
1. 16.200 binh lính Pháp bị bắt và tiêu diệt ở Điện Biên Phủ so với 445.000 quân số của Pháp và ngụy trên toàn Đông Dương.

2. Vào thời điểm cuối năm 1967, Mỹ tập trung ở chiến trường Việt Nam (cả trên bộ và trên biển, 40% sư đoàn chiến đấu lục quân, 50% sư đoàn lính thủy đánh bộ, 50% số máy bay chiến đấu, 30% tàu chiến.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 02 Tháng Tám, 2020, 03:24:16 pm
THẮNG LỢI CHIẾN LƯỢC CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
MẠCH NGUỒN BỒI ĐẮP, GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC, TÌNH CẢM CÁCH MẠNG



THÂN THỊ THƯ
Ủy viên Ban Thường vụ,
Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh



Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như dòng chảy cuồn cuộn của bao lớp sóng; sóng sau xô sóng trước, tạo nên sức mạnh phi thường, xua tan mọi trở ngại. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo là vô cùng vĩ đại, bằng cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của đồng bào và chiến sĩ trên cả hai miền Nam - Bắc; là hiện thực sinh động của các cơn sóng cách mạng không bao giờ ngừng nghỉ cho khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã góp phần to lớn, tạo nên thắng lợi toàn diện, thể hiện tinh thần cách mạng tiến công của quân dân ta, đánh dấu bước ngoặt quan trọng có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh, nếu không có Mậu Thân 1968 - thì sẽ không có đàm phán đi đến ký Hiệp định Pari tháng 1-1973 và tiến tới Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục là mạch nguồn bồi đắp, giáo dục truyền thống yêu nước, tình cảm cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

1. Mạch nguồn đó là giá trị lịch sử, là kết tinh của truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh dựng nước và giữ nước; là khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và niềm tin son sắt vào thắng lợi cuối cùng.

Ở Việt Nam, điều đã trở thành bình thường nhưng là chân lý: khi có bất kỳ hành động xâm phạm đất nước, thì sẽ có phong trào cứu nước rộng khắp của mọi tầng lớp nhân dân, như lẽ tự nhiên "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!". Tiếp nối hành trình của dân tộc chiến đấu không mệt mỏi cho độc lập, tự do dưới ánh sáng thời đại của đường lối "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội", được mở ra từ mùa Xuân năm 1930, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, qua bước ngoặt lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" tháng 5-1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục trở thành một biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là hành động cách mạng thực tiễn đáp lại Lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh hun đúc và nâng cao thêm ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.

Ý chí, quyết tâm đó được Trung ương Đảng xác định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III: "Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước"; biến thành sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước, được tổ chức, tập hợp bằng phương pháp và động lực to lớn: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định".

Ý chí của Đảng, cũng là ý chí quyết tâm của toàn quân, toàn dân "giành thắng lợi quyết định" để không còn cảnh chia cắt hai miền Nam - Bắc, thống nhất nước nhà; để hiện thực hóa khát vọng hòa bình mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình. Nhưng phải có độc lập, tự do thì mới có hòa bình thật sự. Đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, phải rút hết quân đội của chúng về nước, để nhân dân ta tự quyết định vận mệnh của mình thì sẽ có hòa bình lập tức"; cũng là hiện thực hóa niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng và mong muốn như trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 8-5-1968: "Hai miền Nam - Bắc đoàn kết một lòng, thi đua giết giặc, cứu nước, thì nhất định giặc Mỹ sẽ hoàn toàn thất bại. Đồng bào miền Nam nhất định sẽ được giải phóng. Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ hoàn toàn độc lập, tự do, nhất định sẽ hòa bình thống nhất! Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!".

Và thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thực hiện được "bước phát triển" mang tầm chiến lược của cuộc kháng chiến. Trong một thời gian ngắn, chúng ta đã đưa cuộc chiến đấu quy mô lớn vào tận sào huyệt cuối cùng của địch, làm chuyển biến nhanh chóng và mạnh mẽ cục diện chiến tranh, nâng cao uy thế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, cuộc Tổng tiến công này đã giáng một đòn quyết định làm phá sản cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, buộc chúng phải "phi Mỹ hóa" chiến tranh, ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), chấp nhận đàm phán trực tiếp với ta tại Hội nghị Pari, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; từ đó, tiến tới ký kết Hiệp định Pari, tạo điều kiện hết sức thuận lợi để "đánh cho Mỹ cút", đưa cuộc kháng chiến chuyển sang mục tiêu "đánh cho ngụy nhào", giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân 1975 lịch sử.

Tại Sài Gòn - Gia Định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 càng tô thắm truyền thống của Đảng bộ và nhân dân thành phố trung kiên, bất khuất, đoàn kết, sáng tạo, bản lĩnh vững vàng trước đầu sóng ngọn gió trong suốt hành trình cách mạng của đất nước và dân tộc.

Sài Gòn - Gia Ðịnh là trọng điểm lớn nhất và ác liệt nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vì nơi đây là trung tâm đầu não chỉ huy toàn bộ bộ máy chiến tranh, có hệ thống phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp vững chắc, tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất của địch. Do đó, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Trung ương Cục đã thành lập Khu trọng điểm bao gồm Khu Sài Gòn - Gia Định và một phần các tỉnh tiếp giáp với Sài Gòn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khu trọng điểm, các lực lượng của Sài Gòn - Gia Định đã chấp hành và tổ chức triển khai các nhiệm vụ của Trung ương Cục giao cho với tinh thần quyết tâm cao nhất: đánh chiếm các mục tiêu đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch; phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành quyền làm chủ ở các quận, huyện; tranh thủ mọi khả năng cùng với lực lượng toàn Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn ở các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của quân Mỹ và chư hầu; buộc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam; thành lập Mặt trận thứ hai 1 và tổ chức chính quyền cách mạng các cấp trong thành phố và khu trọng điểm.

Ðêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ với đòn giáng phủ đầu của lực lượng Biệt động thành vào những mục tiêu hiểm yếu, đầu não của bộ máy chiến tranh như Dinh Ðộc Lập, Tòa Ðại sứ Mỹ, Ðài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân... đã làm rúng động nước Mỹ, khiến nhân dân Mỹ bàng hoàng, khiến khuynh hướng muốn chấm dứt chiến tranh trở thành áp đảo. Cùng với đó, lực lượng vũ trang của các đoàn thể, các cơ sở cách mạng ở thành phố đã phối hợp với bộ đội chủ lực, với biệt động Thành tấn công địch bằng nhiều hình thức linh hoạt, đã tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch.

"Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn - Thủ đô đầu não của chế độ ngụy quyền, đã tạo nên sự phân hóa chia rẽ cao độ trong hàng ngũ kẻ thù; thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước và tinh thần cách mạng trong lòng nhân dân đô thị; đồng thời cũng thúc đẩy cao hơn phong trào phản chiến của lính Mỹ, phong trào của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối chiến tranh xâm lược" , góp phần vào thắng lợi chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

2. Mạch nguồn đó là minh chứng của truyền thống đánh giặc bằng nghệ thuật, trí tuệ, mưu lược, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta.

Thắng lợi chiến lược của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn dân, đồng thời cũng minh chứng cho tài thao lược của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định và kiên định đường lối cách mạng và lãnh đạo kháng chiến; nhận ra thời điểm quan trọng của cuộc chiến tranh, thấy được thời cơ quý báu để có chủ trương chiến lược kịp thời; là nghệ thuật biết giành thắng lợi từng bước, quan trọng nhất là đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Và thực tế cho thấy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với khởi nghĩa vũ trang theo quy luật của tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, bằng lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, binh vận, lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng cách mạng diễn ra vô cùng ác liệt cả ở thành thị và nông thôn vùng ven, bằng những cuộc tiến công và phản kích liên tiếp, kéo dài. Nhân dân Sài Gòn và các đô thị miền Nam được tận mắt chứng kiến hình ảnh anh Giải phóng quân với vành mũ tai bèo, chứng kiến "Quân giải phóng" chính quy đánh địch trên từng góc phố, trong tư thế hiên ngang và kỷ luật nghiêm minh. Cùng với các cuộc tiến công đồng loạt của lực lượng vũ trang, nhân dân nhiều vùng nông thôn và thành thị nổi dậy diệt ác, trừ gian giải tán dân vệ, phá vỡ hàng loạt "ấp chiến lược" giành quyền làm chủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng", làm cho kẻ địch không thể phán đoán cách đánh cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Bất ngờ trong xác định chủ trương, chiến lược của Đảng đến tổ chức chỉ đạo, bố trí quy mô lực lượng, đến mục tiêu và thời điểm tiến công, để phát huy cao nhất một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nghệ thuật quân sự.

Có thể nói, tất cả những sáng tạo trong chiến lược, chiến dịch và chiến thuật tổ chức cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết tinh từ nghệ thuật đánh giặc của ông cha qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tô thắm truyền thống và bài học "dựa vào dân" của dân tộc ta.

3. Mạch nguồn đó là một trong những biểu tượng của truyền thống anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, hy sinh quên mình của quân, dân ta vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi nào, trong cuộc đấu tranh quyết liệt, tử sinh cũng phải trả giá bằng xương máu, bằng sự hy sinh. "Chiến thắng lớn từ hy sinh to lớn. Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường" 2. Thế hệ hôm nay mãi mãi biết ơn các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã chiến đấu, anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và trong toàn bộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ghi lòng tạc dạ công lao của những người con ưu tú đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc, tham gia viết nên thiên anh hùng ca Xuân Mậu Thân 1968 bất diệt, khắc họa nên "dáng đứng Việt Nam" bất tử.

Đó là tinh thần dũng cảm vô song, mưu lược tài ba của các lực lượng vũ trang, đã mở đầu xuất sắc cuộc tổng tiến công ở Sài Gòn - Gia Ðịnh cùng với các chiến trường đô thị khắp miền Nam, dù chiến trường trọng điểm hay những địa bàn "chia lửa". Đặc biệt, chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước chiến công oanh liệt và cả sự hy sinh, mất mát lớn lao của lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Ðịnh, với tinh thần quả cảm cao độ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hầu hết cán bộ, chiến sĩ lực lượng biệt động đã anh dũng hy sinh hoặc rơi vào tay địch. Nhưng ý chí và xương máu của lực lượng biệt động đã dựng lên những tượng đài bất tử của Xuân Mậu Thân 1968.

Đó là lớp lớp thanh niên, sinh viên, học sinh đứng lên sát cánh chiến đấu cùng các chiến sĩ Quân giải phóng. Thế hệ trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay mãi mãi tự hào về lực lượng Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định trong Mậu Thân 1968, tự hào về người Bí thư Thành đoàn Hồ Hảo Hớn quyết hy sinh để giữ bí mật về Nghị quyết Quang Trung - mật danh Nghị quyết của Trung ương Cục về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân khi đồng chí rơi vào tay giặc; tự hào về lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị Thành Đoàn trong Mậu Thân 1968, đã hoạt động mạnh mẽ ở khu xóm Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Thông, Lê Văn Duyệt, khu vực chùa Ấn Quang, Bảy Hiền... tham gia các mũi đột kích, diệt ác, rải truyền đơn, treo cờ Mặt trận. Nhiều chiến sĩ Thành đoàn đã anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân giữa đường phố Sài Gòn và được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân như Lê Văn Nghề, Nguyễn Sơn Hà (Bảy Thép)...

Đó là lực lượng phụ nữ tham gia vào các đội biệt động, các thứ quân địa phương, giao liên, dân công và cứu thương. Ðặc biệt như phụ nữ Sài Gòn - Gia Ðịnh đóng vai trò quan trọng trong xây dựng cơ sở chính trị trong lòng thành phố, xây dựng các "lõm chính trị", "lõm" căn cứ "nhân tâm" vững chắc trong các chợ, trong khu dân cư lao động.

Đó là đội ngũ giáo chức, văn nghệ sĩ và nông dân ở vùng ven đã tham gia tích cực, vừa hỗ trợ cho lực lượng vũ trang, lực lượng đấu tranh chính trị của công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh vừa tổ chức những hoạt động phù hợp, phát loa, treo cờ, rải truyền đơn, kêu gọi binh lính Sài Gòn bỏ súng về với gia đình.

Đó là các gia đình cơ sở cách mạng đã chấp nhận hy sinh, mất mát, bất chấp nguy hiểm, vận chuyển, cất giấu vũ khí hàng tháng trời trước đó, nuôi giấu cán bộ chiến sĩ, cung cấp cho lực lượng biệt động chiến đấu làm nên những trận đánh vang dội tại Sài Gòn.
Chúng ta mãi mãi không thể nào quên bước chân và chiến công của đồng bào, đồng chí in dấu trên đường phố, từng khu dân cư lao động, từng ngõ hẻm Sài Gòn và các đô thị miền Nam năm ấy; không thể nào quên những hình ảnh của những người lính Cụ Hồ đã kề vai sát cánh của mỗi góc phố, tòa nhà, hiên ngang nhả đạn vào quân thù để chia lửa, che chắn cho nhau; những người mẹ, người chị, em nhỏ dù biết rằng sẽ bị tù đày, tra tấn dã man, hy sinh cả xương máu... nhưng đã dũng cảm băng qua lửa đạn, dẫn đường, mang cơm tiếp tế, cứu thương cho bộ đội nơi trận tuyến trong tầm đạn thù vô cùng khốc liệt... Đúng là "lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất ...".

Chúng ta cũng không thể quên nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ sau Mậu Thân bị bắt vẫn trung kiên, chịu đựng tù đày tra tấn dã man, một lòng son sắt, sẵn sàng hy sinh để giữ gìn khí tiết của người cách mạng, của người cộng sản.

Hòa vào dòng thác cách mạng với khí thế hào hùng trong Xuân Mậu Thân 1968, cán bộ, chiến sĩ của ngành Tuyên huấn Trung ương Cục, Tuyên huấn Thành ủy, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định cũng đã "xông trận" bằng tinh thần và lực lượng cao nhất. Anh em cánh Tuyên huấn tỏa ra trên nhiều trọng điểm, áp sát địa bàn, đột nhập vào ấp chiến lược, thị trấn, thị tứ phổ biến thời cơ chiến lược, vận động nhân dân nổi dậy; rải truyền đơn, dán áp phích, vẽ bản đồ cung cấp cho bộ đội, thực hiện vũ trang tuyên truyền; tổ chức các đoàn văn công, đoàn văn nghệ sĩ Phật tử trong phái Ấn Quang, hội thảo "Văn nghệ sĩ trước hiện tình đất nước", ca ngợi cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc, có ảnh hưởng lớn trong nhân dân; in báo Cờ Giải phóng, đưa tin, hình ảnh chiến trường để cổ vũ, động viên đồng bào, chiến sĩ và tham gia chiến đấu ngay trong lòng đô thị Sài Gòn, tại vùng lõm Bảy Hiền, Gò Vấp, Hóc Môn... Nhiều chiến sĩ tuyên huấn Sài Gòn - Gia Định đã anh dũng ngã xuống trong khói lửa Mậu Thân 1968 ngay trên đường phố Sài Gòn như Nguyễn Kim Hon (Ba Thanh), Nguyễn Thị Thu, Lê Quang Bửu (Hai Thanh), Nguyễn Văn Đáng, Lê Văn Dựng, Phan Thế Trung...

Tất cả, một lần nữa tô thắm cho truyền thống anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, hy sinh quên mình của quân, dân ta trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước.

Năm mươi năm đã trôi qua, tiếp tục nhìn nhận một sự kiện lịch sử quan trọng bằng phương pháp khoa học, biện chứng để khẳng định giá trị, trân trọng quá khứ và chiêm nghiệm những bài học lịch sử từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời đấu tranh mạnh mẽ chống lại những quan điểm thiếu cơ sở khoa học nhằm làm giảm ý nghĩa to lớn của chiến thắng này là công việc hết sức cần thiết, có ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Để làm tốt nhiệm vụ chiến lược ấy, nhất thiết phải xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự từ trong thời bình, như di huấn của cha ông, kết hợp kiến quốc với phòng thủ đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, quốc phú binh cường. Kết hợp hài hòa xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự với xây dựng tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực chính trị - tinh thần, đặc biệt là thế trận lòng dân bằng sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của toàn dân.

Trong nhiệm vụ chung, ngành Tuyên giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy trách nhiệm của mình trong việc góp sức làm cho mạch nguồn lòng yêu nước, tình cảm cách mạng không ngừng tuôn chảy, ngày càng phong phú. Không bao giờ ngưng nghỉ nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống, đặc biệt cho thế hệ trẻ để lan tỏa, lan truyền, tiếp nối các giá trị tốt đẹp; bồi đắp để nâng cao hơn nữa giá trị lòng yêu nước, ý chí quyết tâm, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tự lực tự cường, vươn lên mạnh mẽ để thoát khỏi tình trạng có nguy cơ tụt hậu, xây dựng đất nước thật sự phồn vinh, bằng tinh thần, sức mạnh như chúng ta đã làm được trong cuộc đấu tranh giải phóng.



---------------------------------------------------------------
1. Mặt trận thứ hai có tên là Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên minh, có cờ, có tuyên ngôn riêng. Trong đợt Tết Mậu Thân, Mặt trận Liên minh mới có Ban Vận động chứ chưa có Ủy ban Trung ương chính thức. Mặt trận Liên minh có trách nhiệm kêu gọi nhân dân thành phố nổi dậy.

2. Viễn Phương, trích Văn bia tại Đền thờ Liệt sĩ Bến Dược, Củ Chi.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Tám, 2020, 03:59:42 pm
SỰ KIỆN XUÂN MẬU THÂN 1968 - SAI LẦM CHIẾN LƯỢC CỦA MỸ
TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM



Thượng tá, ThS. ĐỖ VĂN HINH
Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bước ngoặt lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cuộc tiến công bất ngờ ấy đã làm thay đổi căn bản thế trận chiến lược, đưa chiến tranh cách mạng ở miền Nam bước sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Đối với Mỹ, sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 là minh chứng thực tế của những sai lầm về chiến lược, xóa tan ảo tưởng chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam, "Tết bị coi là sai lầm đối với những người trước đây từng tuyên bố cuộc chiến tại Việt Nam đang đi đúng hướng và đạt được nhiều tiến triển. Tết cũng là bằng chứng rõ ràng cho thấy cuộc chiến ở Việt Nam không chỉ bế tắc mà còn có thể thất bại", cụ thể:

Thứ nhất, Mỹ sai lầm trong nhận định về quyết tâm chiến lược và khả năng tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Việt Nam.

Sau hai năm chiến đấu trực tiếp với quân viễn chinh Mỹ (1965 - 1967), quân và dân ta ở miền Nam vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ thế tiến công, làm phá sản một bước quan trọng chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giữ vững quyền chủ động chiến trường, mở rộng vùng giải phóng... Tình hình đó là cơ sở vững chắc để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thực hiện một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao nhằm làm thay đổi tình hình, chuyển biến chiến lược trên chiến trường miền Nam và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 quyết định thực hiện cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa với quyết tâm "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Hội nghị chỉ rõ: Mục tiêu chiến lược của tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm "tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam". Về phương pháp, kết hợp tổng công kích với phát động tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã quân địch, gây rối loạn và tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, biến hậu phương và dự trữ chiến lược của địch thành hậu phương và dự trữ chiến lược của ta, làm thay đổi lực lượng so sánh một cách mau chóng có lợi và giành thắng lợi quyết định về ta. Từ mục tiêu, phương pháp nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng đại và cấp bách lúc này là: "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất".

Hiện thực hóa chủ trương của Đảng, quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt về lực lượng, phương tiện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 1. Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị, chúng ta vẫn không tránh khỏi "tai, mắt" của các cơ quan tình báo Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Ngay từ cuối năm 1967, trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được, tình báo Mỹ 2 và chính quyền Sài Gòn bắt đầu nhận thấy "cộng sản" có những động thái thay đổi chiến lược - một cuộc tổng tiến công lớn có quy mô chưa từng thấy trên chiến trường miền Nam - thậm chí các giai đoạn cụ thể của cuộc tiến công cũng được tình báo Mỹ lường định phần nào. Tuy nhiên, tình hình chiến sự từ các chiến trường lại khá lạc quan khiến giới chức quân sự Mỹ đã bỏ qua những dữ liệu quan trọng mà cơ quan tình báo cung cấp, "các tài liệu thu giữ được chẳng qua là tài liệu tuyên truyền kích động dân chúng". Cho nên, thay vì tìm kiếm giải pháp đối phó, chính quyền Mỹ vẫn tập trung tô màu lên cuộc chiến tranh Việt Nam để vận động niềm tin và sự ủng hộ của giới chính trị cũng như nhân dân Mỹ.

Phải đến khi những dấu hiệu về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ngày càng rõ ràng và thuyết phục 3, Oétmolen và Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ mới chịu thừa nhận "điều bất thường đã xảy ra" và nguy cơ về "cuộc tấn công tổng lực" trên toàn miền Nam của Quân giải phóng đang đến gần. Giới quân sự Mỹ phỏng đoán cuộc tiến công theo ba giai đoạn: một là, quân Mỹ bị nhử ra khỏi các vùng đông dân để vào vùng núi và biên giới; tiếp theo là những cuộc tiến công trên khắp miền Nam nhằm giành lại các vùng đông dân do quân đội Sài Gòn đang chiếm giữ; và cuối cùng, cả hai giai đoạn đó sẽ được tiếp tục bằng một cuộc chiến đấu trên bộ lớn ở một tỉnh phía bắc vì ý đồ của những người cộng sản là muốn chiếm một hoặc hai tỉnh. Song, những dự đoán về cuộc tiến công của "cộng sản" nhanh chóng bị gạt bỏ bởi sự nhìn nhận chủ quan: "Cộng sản" chưa đủ sức mạnh quân sự để thực hiện cuộc tiến công quy mô lớn vào các đô thị, "bởi từ trước tới nay họ chủ yếu tiến hành các cuộc phá hoại ngầm hoặc kích động chính trị... Trong trường hợp nếu "cộng sản" mạo hiểm làm điều đó thì chắc chắn họ phải chịu thất bại". Cùng với quan điểm đó, giới chức Sài Gòn cho rằng: "Việt cộng" chỉ có khả năng mở những trận quy mô dựa vào những căn cứ xuất phát tại các vùng biên giới nhưng sẽ thất bại. Còn tại các vùng đồng bằng, địch chỉ có khả năng mở những cuộc tấn công ở cấp tiểu đoàn nhằm gây tiếng vang, chỉ có thể đánh trong một thời gian chớp nhoáng nếu không muốn bị tiêu diệt. Bởi vậy, chính quyền Sài Gòn cảm thấy "lạc quan đối với tình hình quân sự chung trên toàn quốc", cho phép 20% binh lính quân đội Sài Gòn thuộc Vùng 1 chiến thuật về nghỉ Tết và ở nhiều đơn vị khác thuộc các Vùng 1, 3, 4 tỷ lệ này lên tới 50%.

Như vậy, chính quyền Mỹ ở cả Sài Gòn lẫn Oasinhtơn đều có tư tưởng chủ quan, dựa vào sức mạnh quân sự khi nhận định, đánh giá về đối phương, đặc biệt là khả năng tổ chức và điều hành chiến tranh của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết tâm của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Người Mỹ "đã không hiểu chiến lược và khả năng của kẻ thù cũng như không hiểu cả chính mình". Đây là nguồn gốc sâu xa khiến Mỹ và chính quyền Sài Gòn không có ý thức chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công mà quy mô vượt sức tưởng tượng của họ, đồng thời khởi đầu cho những sai lầm tiếp theo về chiến lược của Mỹ trong Xuân Mậu Thân 1968.

Thứ hai, Mỹ sai lầm trong đánh giá hướng tiến công chiến lược của ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (1-1968) xác định tổng công kích, tổng khởi nghĩa là "một giai đoạn - một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp" mà muốn thắng lợi "ta phải đủ sức mạnh về quân sự và chính trị, phải biết chọn đúng những hướng tiến công và những biện pháp tiến công chiến lược", trong đó hướng tiến công có vai trò rất quan trọng. Từ đó, Bộ Chính trị quyết định: một mặt, "sử dụng tốt nhất lực lượng vũ trang của ta, căng địch ra khắp các chiến trường, phải biết điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng, sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch"; mặt khác, "đòn chính của ta phải nhằm vào các thành thị quan trọng,... đánh sụp các cơ quan đầu não của Mỹ và ngụy, đánh phá các hậu cứ, các cơ sở hậu cần... Đó là đòn ác liệt nhất đánh vào óc, tim, mạch máu của địch và cũng là cách tốt nhất để thực hiện ba mũi giáp công trong cả ba vùng chiến lược, để tiêu diệt địch đến mức cao nhất, làm sụp đổ chỗ dựa chính trị của địch và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng". Cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh hoàn chỉnh phương án tác chiến: kết hợp đòn tiến công của bộ đội chủ lực vào hệ thống phòng thủ của Mỹ ở Đường 9 - Khe Sanh để nghi binh, thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch với đòn tiến công chiến lược chủ yếu đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, phát động quần chúng ở nông thôn và đô thị nổi dậy.

Thực hiện kế hoạch trên, cuối năm 1967 - đầu năm 1968, các sư đoàn, các trung đoàn chủ lực Quân giải phóng đã tiến sát các trung tâm dân cư và các đô thị, kể cả Sài Gòn - Gia Định; đồng thời, ở Khe Sanh, một số sư đoàn chủ lực cũng tập kết xung quanh, hình thành thế bao vây, uy hiếp các căn cứ của địch.

Trước tình hình đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn buộc phải hủy bỏ mọi cuộc hành quân theo kế hoạch để dồn sức phòng ngự bị động với phán đoán Khe Sanh sẽ là hướng tiến công chính của "cộng sản". Đêm 20-1-1968, khi lực lượng vũ trang của ta tiến công Khe Sanh, giới chức quân sự Mỹ càng tin tưởng Khe Sanh chính là "Điện Biên Phủ" thứ hai ở Việt Nam. Điều đó khiến Tổng thống Giônxơn lo lắng tới mức "yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ cam kết bằng máu không để mất Khe Sanh".

Với niềm tin Khe Sanh là mục tiêu chính của "cộng sản", Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Vùng 1 chiến thuật và không ngừng bổ sung lực lượng, vũ khí, trang bị vào khu vực này, nhưng Mỹ "đã rơi vào một chiếc bẫy". Mũi nhọn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy không phải Khe Sanh mà là các đô thị, trung tâm chính trị, kinh tế, căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam.

Trong khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn tập trung tâm trí và sức lực ra hướng Đường 9 - Khe Sanh, thì đêm 29 rạng 30-1-1968, quân và dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy, sân bay, bến cảng... của địch, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên khắp chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, những cuộc tiến công ấy không làm giới quân sự Mỹ bận tâm, coi đó chỉ là trò nghi binh để phân tán họ ra khỏi chiến trường chính. Oétmolen vẫn khẳng định "nỗ lực chính của Bắc Việt Nam vẫn là nhằm vào Khe Sanh và vùng bắc Trung phần". "Cộng sản" không thể mạo hiểm thay đổi hướng tiến công, nhất là đủ sức đánh vào Sài Gòn - thủ phủ của chính quyền Sài Gòn.

Sau này, khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân nổ ra và kết thúc, Mỹ và chính quyền Sài Gòn mới chịu thừa nhận sai lầm. Trong một báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn ngày 5-3-1968 có viết: "khi có quyết định của Trung ương Cục cải tổ lãnh thổ xung quanh Sài Gòn dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ huy tiền phương R... thì lúc đó mới chắc chắn rằng Việt cộng sẽ đánh thẳng vào thủ đô Sài Gòn với một lực lượng to lớn ngoài ước đoán của ta". Như vậy, ngay cả khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân nổ ra, phía Mỹ vẫn hoàn toàn lạc hướng trong việc phán đoán ý đồ chiến lược thực sự của ta và họ đã phải trả giá cho sai lầm ấy.

Thứ ba, sai lầm của Mỹ trong bố trí, sử dụng lực lượng.

Ngay từ khi xác định Khe Sanh là hướng và mục tiêu tiến công chính trong ý đồ chiến lược của Bộ thống soái tối cao cách mạng Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhanh chóng tăng cường lực lượng và phương tiện chiến tranh để giữ vị trí trọng yếu này. Cuối năm 1967, 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ và một số đơn vị bộ binh, pháo binh Mỹ cùng 2 tiểu đoàn không vận quân đội Sài Gòn được bổ sung cho Khe Sanh và Vùng 1 chiến thuật. Đầu năm 1968, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ điều Sở chỉ huy và 2 lữ đoàn thuộc Sư đoàn dù kỵ binh 1 về chốt giữ ở Huế; Lữ đoàn dù 101 từ Vùng 2 chiến thuật về Vùng 1. Sau các lần tăng quân, lực lượng quân Mỹ và đồng minh tính riêng tại Khe Sanh lên đến 5.700 quân; đến cuối tháng 2, một nửa các tiểu đoàn cơ động của Mỹ bị điều chuyển về Vùng I chiến thuật. Việc tập trung 50% lực lượng ra Mặt trận phía Bắc khiến Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ đối mặt với tình trạng phân tán cũng như thiếu hụt quân số ở các vùng chiến thuật khác.

Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta nổ ra, buộc toàn bộ lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn phải tập trung lực lượng phòng ngự bị động trong các đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn, rừng núi, tạo cơ hội, khoảng trống cho quần chúng nhân dân các địa phương dưới sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy giành chính quyền. Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ yêu cầu quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân ra vùng ven đô và trở lại các vùng nông thôn để giải tỏa áp lực cho Sài Gòn và các đô thị. Song, chính quyền Sài Gòn tỏ ra bất lực bởi tình trạng thiếu hụt nhân lực, số binh lính còn lại thì bạc nhược, mất sức chiến đấu. Ở các đơn vị bộ binh cấp tiểu đoàn quân đội Sài Gòn trong hai tuần đầu của tháng 2 chỉ có một nửa số quân, các lực lượng đặc biệt còn thấp hơn, 4 trong 9 tiểu đoàn không vận không còn hiệu lực chiến đấu... Điều đó phản ánh sự yếu kém trong tổ chức sử dụng lực lượng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đồng thời gia tăng sức ép đối với lực lượng chiến đấu Mỹ.

Nhằm bổ sung những thiếu hụt về nhân lực, Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Sài Gòn khẩn thiết đề nghị Oasinhton triển khai thêm lực lượng vào Việt Nam với con số tăng lên không ngừng từ 10.300 (2-1968) lên 24.500 (3-1968), nâng tổng số quân Mỹ có mặt Việt Nam lên đến 549.000 quân. Việc huy động quân Mỹ vào miền Nam đã tác động nghiêm trọng đến tình hình chính trị, kinh tế, quân sự của nước Mỹ, Nhà Trắng phải đối mặt với tình trạng báo động về lực lượng dự bị chiến lược cũng như sự phản đối của dư luận.

Để ngăn chặn các cuộc tiến công của "Cộng sản" và khắc phục tạm thời về lực lượng, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã sử dụng không hạn chế hỏa lực, đánh phá ác liệt nhiều đô thị, khu vực đông dân cư. Tại Huế, hỏa lực Mỹ biến 80% thành phố thành gạch vụn. Thành phố Mỹ Tho và tỉnh lỵ Bến Tre bị bom đạn san bằng một nửa... Bằng cách ấy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tự tay phá hủy cơ sở hạ tầng của chương trình bình định, quan trọng hơn là "nhân tâm" của dân chúng miền Nam mà chúng mất công gây dựng trong nhiều năm qua, đồng thời, thêm một bằng chứng thể hiện sai lầm của Mỹ về chiến lược ứng phó trước Quân giải phóng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tóm lại, từ nhận thức không hoàn chỉnh của Mỹ về chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng như "không nắm được một cách cơ bản tính chất cuộc chiến tranh" cũng như chủ quan, phụ thuộc nặng nề vào sức mạnh vật chất, dẫn tới những sai lầm của Mỹ trong nhận định quyết tâm của quân và dân ta, về hướng tiến công cũng như bố trí, sử dụng lực lượng trong Xuân Mậu Thân 1968. Chính những sai lầm ấy kéo theo những hậu quả và hệ lụy nặng nề đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Quân đội Mỹ bị thiệt hại 1.100 quân cùng 2.300 binh lính Sài Gòn 4. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược, buộc Mỹ phải "xuống thang", thay đổi chiến lược, rút dần quân Mỹ về nước... Và cho đến tận bây giờ, sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 vẫn là nỗi ám ảnh - "hội chứng Việt Nam" trong lòng nước Mỹ.




----------------------------------------------------------------
1. Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho các chiến trường, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 277.000 quân, trong đó 220 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ); cùng 18.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... (Xem thêm Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập V - Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Sđd, tr.52).

2. Tháng 11-1967, mọi tin tức về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được Phân cục CIA tại Sài Gòn tập hợp trong một báo cáo mang tựa đề "The Big gameble" ("Một vụ cá cược lớn").

3. Nhiều tin tức tình báo của Mỹ thu được: trước Giáng sinh 1967, trên đường mòn Hồ Chí Minh, số xe vận tải của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng 200% so với trước; tháng 1-1968, tình báo Mỹ bắt được một vài kế hoạch tấn công vào Pleiku, Buôn Ma Thuột; các hoạt động quân sự của Quân giải phóng ngày càng gia tăng ở Khe Sanh và khu vực phía bắc khu phi quân sự... Xem thêm James H. Willbanks: The Tet offensive - A concise history (Cuộc tấn công Tết - Lược sử), Columbia University Press, New York, 2007, p.28.

4. Theo ghi chép của chính quyền Sài Gòn, con số này lớn hơn rất nhiều. Chỉ tính riêng trong tháng 2 và tháng 3-1968, quân Mỹ và quân đội đồng minh đã tổn thất 24.013 người, chết 4.124 người; quân đội Sài Gòn tổn thất 20.977 người, chết 4.909 người. (Xem Phạm Văn Sơn: Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968, Sđd, tr.35).


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 07 Tháng Tám, 2020, 04:47:34 pm
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA MẶT TRẬN LIÊN MINH VÀ CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI
CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM



ThS. NGUYỄN VÕ CƯỜNG
Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Mặt trận và công tác mặt trận luôn luôn là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20-12-1960 tại Chiến khu Bắc Tây Ninh có ý nghĩa vô cùng trọng đại, phát huy vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quá trình ra đời và hoạt động của Mặt trận đã để lại những kinh nghiệm quý báu cho việc thành lập các tổ chức, phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong tình hình mới.

1. Sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam

Giữa năm 1965, đế quốc Mỹ cho quân chiến đấu đổ bộ vào miền Nam trực tiếp xâm lược nước ta, chuyển chiến lược từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ". Khi đưa nửa triệu quân chiến đấu vào miền Nam, các tướng lĩnh sừng sỏ của Mỹ định giải quyết cuộc chiến tranh trong 18 tháng với quan điểm ngông cuồng "Cuộc khởi nghĩa nào cũng sẽ bị tiêu diệt". Chúng lập tức tung quân đánh phá ác liệt từ Trị - Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ với chiến lược "tìm diệt" thể hiện bằng các chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận", "phượng hoàng vồ mồi", "bủa lưới phóng lao" rất hiểm độc nhằm nhanh chóng tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng và các lực lượng cách mạng miền Nam.

Qua một năm rưỡi chiến đấu, quân và dân miền Nam đã đương đầu thắng lợi với chiến lược "tìm diệt" của địch, tổ chức phản công và tiến công quyết liệt quân thù, giành những thắng lợi bước đầu rất quan trọng. Cùng với tiến công quân sự, cách mạng miền Nam còn đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận và ngoại giao. Để triệt để cô lập đế quốc Mỹ và bè lũ Thiệu - Kỳ, phân hóa địch đến mức cao nhất, tập hợp thêm những lực lượng, những cá nhân có tinh thần chống Mỹ và Thiệu - Kỳ, tranh thủ các tầng lớp trung gian ở các thành thị, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi hơn nữa của cộng đồng quốc tế, Bộ Chính trị có ý định lập thêm ở miền Nam một mặt trận mới. Tháng 10 và tháng 11-1966, Bộ Chính trị họp liên tục bàn về cách mạng miền Nam, và ngày 27-1-1967 đã ban hành Nghị quyết số 154-NQ/TW "Về đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam". Trong Nghị quyết, lần đầu tiên Bộ Chính trị bàn tới việc thành lập mặt trận mới: "Trong khi đề cao vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cần xúc tiến việc thành lập một mặt trận liên hiệp hành động rộng rãi ở đô thị và những vùng nông thôn do địch kiểm soát, đấu tranh cho độc lập, hòa bình, dân chủ và trung lập. Mặt trận này được hình thành dần dần từ trong phong trào đấu tranh của quần chúng, cho nên nó có tính chất rất rộng rãi, nhưng vẫn phải dựa trên cơ sở liên minh công nông".

Một năm sau Nghị quyết này, tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa trên toàn chiến trường miền Nam. Trong cao trào cách mạng này, Trung ương quyết định: "cần thành lập một mặt trận thứ hai bên cạnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lấy một tên thích hợp với cương lĩnh rộng rãi hơn Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Mặt trận thứ hai này sẽ giữ thái độ độc lập đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nhưng tuyên bố thực hiện liên minh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng và tất cả những người muốn phấn đấu cho miền Nam Việt Nam có độc lập, chủ quyền, dân chủ, hòa bình và trung lập". Về thành phần của mặt trận thứ hai có điều chỉnh so với Nghị quyết Bộ Chính trị, không lấy liên minh công nông làm nòng cốt mà chỉ là "tập hợp thêm những lực lượng, những cá nhân có tinh thần chống Mỹ và Thiệu - Kỳ và tranh thủ các tầng lớp trung gian ở các thành thị, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi hơn ở nước ngoài"; Nghị quyết này cũng chưa xác định tên gọi của mặt trận thứ hai.

Cùng với việc ban hành Nghị quyết Trung ương 14, trong mật điện gửi cho anh Bảy Cường, anh Năm Công, anh Bảy Tiến (là các đồng chí Phạm Hùng, Võ Chí Công, Trần Văn Quang), Trung ương nêu rõ:

- Mặt trận thứ hai lấy tên là "Liên minh dân tộc dân chủ và hòa bình".
- Gợi ý tám khẩu hiệu của Liên minh.
- Xác định cờ của Mặt trận thứ hai hình chữ nhật, nằm ngay trên cùng là màu đỏ, giữa là màu xanh da trời, dưới là màu đỏ, ngay giữa có ngôi sao vàng.
- Địa bàn ra đời của Liên minh: thành lập chủ yếu ở các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn. Cơ quan trung ương sẽ ở Sài Gòn.
- Thời gian thành lập: trước hoặc sau Tết vài ngày. Khi ở Sài Gòn ra đời được thì các chi nhánh địa phương thành lập và hưởng ứng ngay.

Bộ Chính trị giao cho Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo Khu ủy Trị - Thiên và Khu ủy 5 phối hợp cùng Trung ương Cục thực hiện.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thường vụ Trung ương Cục giao cho Khu trọng điểm 1 tổ chức thành lập mặt trận thứ hai. Ngày 28-1-1968, trước khi diễn ra cuộc tổng công kích hai ngày, Thường vụ Trung ương Cục điện cho E12 (có thể là mật danh của Khu ủy trọng điểm) truyền đạt ý kiến góp ý của Bộ Chính trị và Thường vụ Trung ương Cục về nội dung Tuyên ngôn cứu nước và Đại cáo của Mặt trận Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình. Mật điện này cũng yêu cầu E12 báo cáo danh sách các thành viên trong Liên minh. Ngày 31-1-1968, Thường vụ Trung ương Cục lại tiếp tục điện cho E12 truyền đạt ý kiến của Bộ Chính trị và Thường vụ Năm Trường 2 về chủ trương, chính sách, tên một số cơ quan của mặt trận thứ hai, một số nhiệm vụ cần triển khai gấp để E12 chỉ đạo Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thực hiện.

Cùng với tiếng súng tổng tiến công và nổi dậy, ở Huế, Trung Trung Bộ và Sài Gòn đã thành lập Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình của địa phương. Bộ Chính trị đã trực tiếp hướng dẫn các địa phương trên phát tuyên ngôn của mình, chưa vội tuyên bố gia nhập vào Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Sài Gòn. Khi cần sẽ thống nhất cũng chưa muộn.

Ngày 3-2-1968, đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục điện báo cáo với Bộ Chính trị về việc thành lập mặt trận thứ hai ở Sài Gòn, ra Tuyên ngôn chính thức và quyết định của Trung ương Cục cho thành lập Mặt trận Liên minh ở Đà Lạt và Mỹ Tho.

Trong thời gian này, từ đầu tháng 2 đến đầu tháng 4-1968, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ Chính trị liên tục trao đổi mật điện về việc thành lập mặt trận thứ hai. Ngày 8-4-1968, trên cơ sở ý kiến của chiến trường, cân nhắc thận trọng nhiều mặt, Bộ Chính trị điện cho Trung ương Cục chỉ đạo: "Cần thành lập Mặt trận thứ hai (tức Ủy ban toàn miền Nam của Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình). Tuy công việc có phức tạp thêm, nhưng đây là một chủ trương sách lược rất lợi, cần thực hiện. Tuyên cáo của Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình trong dịp thành lập chuẩn bị xong thì đưa ra. Việc này hiện nay không cần gắn với thời gian Mặt trận Giải phóng đưa ra giải pháp chính trị. Sau này, tùy tình hình nếu cần ta còn có thể tính thêm tuyên bố mới nữa của Liên minh.

Tóm lại, cứ thành lập mặt trận thứ hai. Tuyên cáo của nó, chuẩn bị xong thì đưa ra, nhưng cần cho ngoài này biết trước để có kế hoạch giới thiệu, tuyên truyền trong nước và ngoài nước".

Sau khi nhận được những chỉ thị một cách có hệ thống và bàn bạc cụ thể của Bộ Chính trị, Trung ương Cục đã khẩn trương bắt tay vào chuẩn bị một cách rất tỉ mỉ, bài bản cho sự ra đời của mặt trận thứ hai, đặc biệt là vấn đề nhân sự, vì tất cả những vị nhân sĩ, trí thức, đại diện các tôn giáo, tầng lớp trên ta dự kiến mời tham gia vào Ủy ban Trung ương Liên minh đều ở đô thành Sài Gòn.

Trước đó, từ giữa tháng 2-1968, theo chỉ đạo của Khu ủy trọng điểm, các cơ sở mật, các đường dây giao liên đã bí mật lần lượt đón các vị Liên minh từ Sài Gòn ra vùng căn cứ. Phần đông các vị trong Liên minh rời Sài Gòn trong các ngày 15 đến 17-2-1968. Riêng Luật sư Trịnh Đình Thảo được tổ chức đưa ra căn cứ bằng con đường hợp pháp, còn chủ yếu các vị khác trong Liên minh theo đường giao liên từ nội thành bí mật đưa về căn cứ.

Như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, ở các thời điểm khác nhau, bằng các con đường khác nhau, một đội ngũ đông đảo đại diện giới nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc, chức sắc tôn giáo, công chức, sĩ quan ly khai, học sinh, sinh viên Sài Gòn đã tề tựu đông đủ về căn cứ Trung ương Cục. Qua hai tháng tìm hiểu, thảo luận về đường lối cứu nước dưới ngọn cờ của Đảng, vị trí của Liên minh trong hành trình cùng dân tộc, trong hai ngày 20 và 21-4-1968, tại Bắc Tây Ninh đã chính thức diễn ra Đại hội thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình miền Nam Việt Nam. Đại hội đã ra Tuyên ngôn cứu nướcCương lĩnh hành động của Liên minh. Sau nhiều lần hiệp thương, Đại hội đã chính thức bầu Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch; Phó Chủ tịch: Kỹ sư Lâm Văn Tết, Hòa thượng Thích Đôn Hậu; Tổng Thư ký: Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ; các Phó Tổng Thư ký: Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, nhà văn Thanh Nghị, sinh viên Lê Hiếu Đằng; các Ủy viên Thường trực: Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, chuyên viên cao cấp Huỳnh Văn Nghị, nhà báo Trần Triệu Luật.

Sự ra đời của Liên minh đã tạo nên "ngọn cờ hiệu triệu mới đối với các tầng lớp, giai cấp khác nhau ở miền Nam, nhất là giới trí thức. Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Mỹ ở miền Nam đã được mở rộng".

Khi biết tin Liên minh ra đời và công bố Tuyên ngôn cứu nước, chính quyền Sài Gòn vô cùng tức tối, chúng lập tức ra lệnh cho Tòa án quân sự Vùng 3 chiến thuật xử tử hình vắng mặt và tịch thu tài sản của cả 10 vị lãnh đạo Liên minh.
 
2. Sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Trong quá trình bàn và đi đến quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công chiến lược 1968, Bộ Chính trị trình Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 1-1968 thông qua Nghị quyết với tiêu đề Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong Nghị quyết, Trung ương xác định, cùng với tiến trình của cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở miền Nam, "phải nhanh chóng tổ chức chính quyền cách mạng của nhân dân... Ở bên trên, phải kịp thời thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc. Chính phủ Trung ương và chính quyền cách mạng ở các thành phố cần có tính chất liên hiệp rộng rãi, phù hợp với sách lược của mặt trận thứ hai, để có thể tập hợp được tất cả các lực lượng chống Mỹ và Thiệu - Kỳ, đồng thời phải có năng lực lãnh đạo cuộc kháng chiến, cứu nước và làm được nhiệm vụ quản lý hành chính". Đây là văn kiện đầu tiên Trung ương yêu cầu chiến trường chuẩn bị thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời. Đồng thời, Trung ương chủ trương: "Cần chuẩn bị những người tiêu biểu gồm nhiều thành phần để đưa vào chính quyền liên hiệp dân tộc".

Để cụ thể hóa vấn đề chính quyền cách mạng, ngày 21-1-1968, Bộ Chính trị điện cho anh Bảy Cường, anh Năm Công, anh Bảy Tiến, xác định: "Chánh quyền cách mạng sau này ở miền Nam sẽ lấy tên là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa".

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Trung ương, trong tiến trình lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, bên cạnh việc chỉ đạo đấu tranh quân sự, sau khi mặt trận thứ hai ra đời, ngày 4-8-1968, Trung ương Cục điện ra Hà Nội đề nghị Bộ Chính trị thảo luận việc lập Chính phủ liên hiệp. Ngày 8-5-1968, Bộ Chính trị điện cho đồng chí Phạm Hùng yêu cầu chiến trường cần tiếp tục đánh mạnh, làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho ta hơn nữa, theo dõi diễn biến của tình hình quân sự và cuộc đấu tranh ngoại giao sắp tới giữa ta và địch, rồi sẽ tính đến vấn đề lập Chính phủ liên hiệp. Cuối bức điện, Bộ Chính trị nêu rõ chủ trương: "Trong quá trình tiến công và nổi dậy, ta tiếp tục làm thay đổi lực lượng so sánh, đến lúc nào đó ta sẽ vận động lập một Chính phủ liên hiệp bao gồm thành phần thật rộng rãi: Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Liên minh, một số người thuộc phái thân Pháp và nếu cần cả một số người thuộc phái thân Mỹ nhưng chủ hòa nữa, thì công thức đó là thuận lợi nhất. Trong tình hình đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng tiếp tục giữ vị trí và vai trò của mình như hiện nay, buộc Mỹ phải thừa nhận cả Chính phủ liên hiệp, cả Mặt trận Giải phóng để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam".

Từ thời điểm này cho đến cuối năm 1968, Bộ Chính trị và Trung ương Cục không bàn thêm về việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời. Mãi tới tháng 12-1968, Bộ Chính trị mới xem xét tình hình từ khi Mỹ chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc, đánh giá khả năng giải quyết vấn đề miền Nam trong cuối nhiệm kỳ của Giônxơn và đầu nhiệm kỳ của Níchxơn. Bộ Chính trị nhận thấy một vấn đề rất quan trọng khi đó là lập ở Sài Gòn một chính phủ có mục đích thảo luận các vấn đề chính trị với Mặt trận, cùng Mặt trận đi đến thành lập một chính phủ cách mạng, đòi đế quốc Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, đem lại hòa bình thực sự và độc lập dân tộc cho Việt Nam. Vì vậy, ngày 12-12-1968, Bộ Chính trị điện cho đồng chí Phạm Hùng: "Để thúc đẩy đà tan rã của ngụy và tập hợp thêm lực lượng mới, Mặt trận và Liên minh cần tiến hành hiệp thương, đề ra cương lĩnh tối thiểu của Chính phủ liên hiệp lâm thời và tuyên bố sẵn sàng hiệp thương với những người có thiện chí với hòa bình, độc lập".

Nhìn lại một năm liên tiếp tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn cả về quân sự lẫn chính trị, nhưng cũng bị tổn thất nặng nề. Mặc dù không giành được thắng lợi quyết định như mong muốn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể khuất phục được dân tộc chúng ta trong cuộc chiến tranh này, buộc phải chuyển từ chiến lược "chiến tranh cục bộ" sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", rút dần quân chiến đấu Mỹ về nước, ngồi đàm phán với ta ở Pari nhằm kết thúc chiến tranh. Để phục vụ cho cuộc đấu tranh ngoại giao ở Pari và đấu tranh chính trị ở miền Nam, bước sang năm 1969 là thời điểm chín muồi để thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 11-2-1969, trong bức điện gửi cho Trung ương Cục để bàn bạc, thảo luận về vấn đề quan trọng này, Bộ Chính trị nêu ý kiến:

"- Trong quá trình hình thành mặt trận thứ ba, nên chăng tổ chức hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh để thảo luận về việc lập Chính phủ liên hiệp lâm thời và đề ra cương lĩnh hành động của Chính phủ đó.

Có thể làm hai mức: mức thấp là đề ra cương lĩnh của Chính phủ lâm thời và tiến hành vận động việc lập Chính phủ đó; mức cao là tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời, có cương lĩnh hành động và những người giữ các chức vụ trong Chính phủ đó...

- Nếu định làm mức cao, nghĩa là tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời thì còn phải có sự chuẩn bị tốt về nhân sự; còn phải thăm dò khả năng các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác công nhận Chính phủ đó như thế nào. Phải có kế hoạch vận động chu đáo, bảo đảm có một tác động quốc tế quan trọng khi Chính phủ lâm thời tuyên bố thành lập".

Xem kỹ bức điện này, ta thấy việc thành lập Chính phủ lâm thời, Bộ Chính trị chỉ gợi ý, còn về nhân sự, thời điểm thành lập, bộ máy Chính phủ do Trung ương Cục quyết định cụ thể. Theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thường vụ Trung ương Cục đã nhiều lần bàn bạc, thống nhất với các vị lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam để hai bên hiệp thương cử ra Chính phủ lâm thời.

Ngày 7-4-1969, đồng chí Bảy Linh điện báo cáo X2 xin ý kiến về việc thành lập Chính phủ ta ở miền Nam và thời gian đưa Chính phủ ra hoạt động chính thức. Sau đó, ngày 12-5-1969, Trung ương Cục báo cáo Bộ Chính trị lần cuối cùng trước khi thành lập Chính phủ lâm thời.

Trên chiến trường, tại căn cứ Trung ương Cục, đây là những ngày tháng rất khẩn trương, sôi động chuẩn bị cho Đại hội quốc dân miền Nam. Đồng chí Phạm Hùng và Nguyễn Văn Linh trực tiếp chuẩn bị nội dung, nhân sự và tổ chức; Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế hội trường Đại hội và khu lán trại cho các đại biểu khắp nơi về dự; các vị Thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng và lãnh đạo Liên minh hiệp thương chuẩn bị Đại hội. Ngày 6-6-1969, tại khu rừng Tà Nốt - Tà Đạt tại căn cứ Tân Biên - Bắc Tây Ninh đã chính thức diễn ra Đại hội quốc dân miền Nam Việt Nam để long trọng thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đại hội diễn ra trong ba ngày (từ 6 đến 8-6-1969), có 72 đại biểu khách mời và 82 đại biểu chính thức đại diện cho các chính đảng, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Đại hội chính thức thông qua Chương trình hành động của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hội đồng cố vấn của Chính phủ có 13 ủy viên, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch; Chính phủ có 25 thành viên do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát lãnh đạo. Ngay sau đó, Trung ương Cục đã ra thông tri gửi các cấp bộ đảng ở miền Nam về việc ra đời của Chính phủ và lãnh đạo công tác tư tưởng mừng Chính phủ cách mạng lâm thời vừa được thành lập.

Trên miền Bắc, ngày 10-6-1969, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã ra Thông tri số 235-TT/TW Về việc hưởng ứng và ủng hộ Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gửi đến tất cả các cấp bộ đảng trên toàn miền Bắc và các sứ quán ta ở nước ngoài. Thông tri nêu rõ: "Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng, một tổ chức chính quyền dân tộc, dân chủ và liên hiệp bao gồm các lực lượng yêu nước, có lực lượng cách mạng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng làm nòng cốt, là thành quả cách mạng của quân và dân miền Nam ta trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, đặc biệt là trong hơn một năm tổng tấn công và nổi dậy, là thắng lợi mới của chính sách đoàn kết dân tộc chống Mỹ, cứu nước của Mặt trận Dân tộc Giải phóng" . Về công tác đối ngoại, Ban Bí thư xác định: Cần ra sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa đối với Chính phủ cách mạng lâm thời...; đòi Mỹ phải nghiêm chỉnh nói chuyện với Chính phủ Cách mạng lâm thời, người đại diện chân chính, hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Mặc dù Chính phủ cách mạng lâm thời đã chính thức ra đời nhưng bộ máy còn chưa được hoàn chỉnh. Vì thế, ngày 5-10-1969, Thường vụ Trung ương Cục mới ra Nghị quyết hoàn chỉnh tổ chức, bộ máy của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, với Hội đồng cố vấn 13 thành viên và Chính phủ cách mạng lâm thời 25 thành viên. "Chính phủ Cách mạng lâm thời, chính quyền của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, là chính quyền của khối đoàn kết toàn dân, bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những nhân sĩ tán thành hòa bình, độc lập, dân chủ, lấy liên minh công nông làm cơ sở dưới sự lãnh đạo của Đảng, được lực lượng vũ trang nhân dân làm hậu thuẫn vững chắc, được các từng lớp nhân dân nhiệt liệt ủng hộ. Đó là thành quả của cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của nhân dân miền Nam chống lại chính sách cướp nước và bán nước của đế quốc Mỹ và tay sai, là hình ảnh của một nhà nước dân tộc dân chủ thật sự cho cả miền Nam trong tương lai. Nó đại biểu lợi ích tối cao của dân tộc, đại biểu nguyện vọng cơ bản và bức thiết của các từng lớp nhân dân ta ở miền Nam là hoàn thành đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xây dựng một miền Nam Việt Nam hòa bình thật sự, độc lập dân chủ thật sự, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, cải thiện đời sống nhân dân, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước".

Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời trong chiến tranh cách mạng đã đóng góp vô cùng to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 30-4-1975, bằng khát khao hòa bình, sức mạnh của dân tộc đã hội tụ về Sài Gòn - Gia Định, đánh đổ chế độ tay sai của tên sen đầm quốc tế, thu non sông về một mối. Về cơ bản, đến thời điểm này, vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Liên minh, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã hoàn thành và tự động giải thể, hòa chung vào hệ thống chính trị của nước Việt Nam thống nhất. Dù thời gian không dài, nhưng lịch sử của ba tổ chức là bộ phận hợp thành của lịch sử cách mạng miền Nam, của cách mạng Việt Nam trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng oanh liệt.




-----------------------------------------------------------------
1. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục giải thể Khu Sài Gòn - Gia Định lập ra Khu trọng điểm gồm 6 phân khu do đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục trực tiếp làm Bí thư. Các đồng chí Võ Văn Kiệt và Trần Văn Trà làm Phó Bí thư. Khu trọng điểm lập ra Bộ Chỉ huy Tiền phương Bắc và Bộ Chỉ huy Tiền phương Nam trực tiếp chỉ huy các cánh quân đánh vào Sài Gòn.

2. Năm Trường: Mật danh của Trung ương Cục.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 09:48:55 am
TỪ "KẾ HOẠCH X" ĐẾN CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



TS. NGUYỄN TRUNG NGHĨA
Phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng,
Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc, đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thể hiện một bước chuyển biến chiến lược của cách mạng miền Nam. Chủ trương của Trung ương Đảng về "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" xuất hiện vào giai đoạn cuối của "chiến tranh đặc biệt", được nung nấu trong suốt "chiến tranh cục bộ", từ đánh thăm dò, "cài thế" đến xây dựng thế và lực mới trên chiến trường miền Nam, là sự nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng của các cấp lãnh đạo để đề ra chủ trương, là sự phát triển của lực lượng chính trị và vũ trang, là sự chuẩn bị cả về con người, vật chất và tinh thần cho bước chuyển chiến lược. Có thể nói, giai đoạn từ khi "Kế hoạch X" được đề ra cho đến khi diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là quá trình dẫn đến sự thay đổi về chất của cách mạng miền Nam.

1. "Kế hoạch X" và sự xác định chủ trương chiến lược về cách mạng miền Nam

Trước cao trào đấu tranh chính trị của nhân dân ta và các chiến thắng của lực lượng vũ trang, từ giữa năm 1964, theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương và dựa trên tình hình thực tế của chiến trường miền Nam, Trung ương Cục đã vạch ra kế hoạch "tổng công kích - tổng khởi nghĩa" với mật danh "Kế hoạch X", nhằm đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch giành thắng lợi cuối cùng. Tháng 6-1964, các bộ phận xây dựng kế hoạch này đã được hình thành gồm các đồng chí trong Quân ủy Miền và Chỉ huy trưởng Khu Sài Gòn - Gia Định; đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Cùng lúc đó, Bộ Chính trị quyết định cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương và một số cán bộ cao cấp có kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy đánh lớn như Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Trần Độ, Đại tá Hoàng Cầm... vào miền Nam.

Tháng 1-1965, Hội nghị Trung ương Cục nhận định: "Chúng ta thấy hình thái đấu tranh giữa ta và địch năm 1964 ở miền Nam bắt đầu có những biến đổi lớn về các mặt chính trị, quân sự, ở đô thị cũng như nông thôn và rừng núi. Nhiều nhân tố mới, nhiều điều kiện mới đã xuất hiện một thời kỳ cách mạng mới rộng rãi hơn, sôi nổi hơn, quyết liệt hơn đã bắt đầu". Hội nghị cũng đã xác định nhiệm vụ trong năm 1965 là: "Lợi dụng thời cơ, tranh thủ thời gian trên cơ sở cách mạng lâu dài, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta hãy đoàn kết một lòng, tập trung lực lượng, kiên quyết đánh địch, nhanh chóng xây dựng lực lượng mình, tạo cho năm 1965 một bước ngoặt trong so sánh lực lượng có lợi cho ta làm cơ sở để xốc tới giành một bước thắng lợi quyết định". Tháng 4-1965, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Nguyễn Văn Linh chủ trì Hội nghị cán bộ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tại Suối Dây (Tây Ninh) nhận định tình hình và quyết định các phương án "Kế hoạch X". Để tăng cường công tác tổ chức, Trung ương Cục quyết định tăng số cấp ủy viên Khu Sài Gòn - Gia Định từ 13 lên 31 đồng chí.

Trong lúc "Kế hoạch X" đang được tiến hành thực hiện thì đến giữa năm 1965, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã quyết định chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ" đưa quân viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Trước tình hình mới, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nhận định: "Việc Mỹ ồ ạt đưa vào miền Nam gần 20 vạn quân viễn chinh trong năm 1965 có nghĩa là Mỹ phải thú nhận là 50 vạn quân ngụy không còn có thể đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta, như thế cũng có nghĩa là chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta đã thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ trong giai đoạn mà chúng lấy quân ngụy làm chỗ dựa chủ yếu". Phương án đánh thắng địch bằng "Kế hoạch X" trong "chiến tranh đặc biệt" đã không còn điều kiện thực hiện nữa. Song, các bước xây dựng lực lượng vẫn tiếp tục được tiến hành nhằm phục vụ yêu cầu mới của cách mạng, tạo những tiền đề vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo, mà trong đó quan trọng nhất là chuẩn bị cho bước chuyển chiến lược của cách mạng miền Nam khi thời cơ đến.

2. Xây dựng lực lượng, đánh thắng các cuộc phản công mùa khô của Mỹ, tạo thế và lực mới trên chiến trường miền Nam (1965 – 6-1967)

Giai đoạn này chỉ hơn hai năm, nhưng đây chính là một trong những giai đoạn ác liệt và là giai đoạn cách mạng miền Nam chuyển biến mạnh mẽ cả về quân sự và đấu tranh chính trị. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của đấu tranh chính trị tại cả nông thôn lẫn thành thị, trong đó trọng tâm là thành thị; là sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, sự vận dụng nhuần nhuyễn ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược.

Về quân sự, lực lượng vũ trang Miền đã có bước phát triển mạnh mẽ; đặc biệt là sự hình thành của các sư đoàn chủ lực; ngày 2-9-1965, tại Chiến khu D, Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lực đầu tiên của Miền được thành lập trên cơ sở 2 trung đoàn đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu là Q761 và Q762. Tiếp đó, ngày 23-11-1965, Sư đoàn 5 ra đời. Thế và lực của chúng ta trên chiến trường đã có sự thay đổi một cách căn bản, ta chuyển từ các trận đánh nhỏ cấp tiểu đoàn lên các trận đánh lớn cấp trung đoàn và cấp sư đoàn 1. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Đồng Xoài (1965), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nêu rõ: "Hai quả đấm của chúng ta ở hai vùng chiến lược chỉ trong vòng 9 tháng thôi, về số lượng hai quả đấm đó đã tăng gấp đôi. Như thế chúng ta đã mạnh hơn trước rất nhiều. Gấp đôi bây giờ lại có chất lượng khá, có kinh nghiệm".

Trong tổng công kích và tổng khởi nghĩa, nếu như sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang Miền nhằm đảm bảo mục tiêu tổng công kích thì công tác xây dựng lực lượng chính trị đô thị nhằm đảm bảo mục tiêu tổng khởi nghĩa được đặt ở vị trí hàng đầu trong chỉ đạo của Trung ương Đảng cũng như Trung ương Cục. Khu Sài Gòn - Gia Định tiếp tục thực hiện những bước phác thảo đã được chuẩn bị từ trước, tiếp tục bố trí lại lực lượng, xây dựng các lực lượng mũi nhọn, chuẩn bị các tiền đề để thực hiện tổng kích, tổng khởi nghĩa. Từ sau Hội nghị Suối Dây, thực hiện việc xây dựng lực lượng cách mạng theo sự chuyển hướng của Trung ương Cục, thực lực cách mạng của Đảng bộ Khu Sài Gòn - Gia Định được phát triển khá nhanh. Từ tháng 4-1965 đến tháng 4-1966, đảng viên, đoàn viên, hội viên tăng rất mạnh; quần chúng cảm tình tích cực cũng tăng lên nhiều. Lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển nhanh. Trong thư gửi cho Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tháng 1-1967, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra rằng: "Đối với cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ, thành thị là căn cứ, là hậu phương quan trọng. Hơn nữa, dù liều lĩnh và trắng trợn, đế quốc Mỹ cũng không thể không dựa vào ngụy quyền. Vì vậy, thành thị còn là hang ổ, là đầu não của ngụy quân, ngụy quyền. Đứng về quân sự mà xét, không đánh vào căn cứ, vào hậu phương, vào đầu não của địch thì không thể giành được thắng lợi cuối cùng". Trong giai đoạn này, nội dung, hình thức phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở nội thành phát triển ngày càng đa dạng và phong phú; phong trào học sinh, sinh viên ngày càng phát huy mạnh mẽ, phong phú, đa dạng hòa nhịp với cuộc đấu tranh không ngừng của các tầng lớp nhân dân; các phong trào đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm phụ nữ, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt Nam trước ảnh hưởng của văn hóa thực dân mới và lối sống sa đọa kiểu Mỹ đã thu hút hàng chục vạn quần chúng tham gia, với ý thức độc lập dân tộc và tự do dân chủ ngày càng cao.

Thắng lợi trong cuộc phản công mùa khô 1965-1966, đã tạo nhiều chuyển biến tích cực cho tình hình cách mạng miền Nam, quân và dân ta đã đánh và đã thắng Mỹ trên chiến trường, phong trào chính trị và quân sự phát triển mạnh mẽ tại các đô thị. Ngày 1-5-1966, Thường vụ Trung ương Cục đã ra chỉ thị về phong trào đấu tranh ở đô thị, trong đó Trung ương Cục dự đoán: "Tình hình rối loạn hiện nay của địch không phải là một hiện tượng khủng hoảng bình thường mà là một bước chuyển biến quan trọng mở ra cho thời kỳ địch khủng hoảng mới toàn diện, nghiêm trọng, kéo dài không thể khắc phục được". Tuy nhiên, Trung ương Cục cũng xác định: "Cần nhận rõ hiện nay chưa phải lúc quần chúng có thể khởi nghĩa giành chính quyền".

Đến lúc này, rõ ràng thế và lực trên chiến trường và tình hình đô thị không cho phép ta thực hiện phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa, song cách mạng miền Nam đã có một sự phát triển vượt bậc cả về lực lượng chính trị lẫn quân sự. Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) ra Nghị quyết nhấn mạnh: "Chủ trương của Đảng ta là trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phải động viên và tập trung lực lượng của cả nước, cố gắng cao độ, đập tan âm mưu của địch; giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước".

Tiếp sau đó, ta lại giành thắng lợi vang dội trong cuộc phản công mùa khô 1966-1967 của địch. Tháng 5-1967, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ năm ra Nghị quyết nêu rõ: "Về công tác đô thị: đây được xem là đặc biệt quan trọng trong thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương. Nhiệm vụ cụ thể là chuẩn bị lực lượng tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương: nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương vẫn trên cơ sở phát huy mạnh mẽ phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược, đồng thời với đẩy mạnh tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực, thực hiện đánh vừa và đánh lớn, tiêu diệt các đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược của quân Mỹ cũng như quân Sài Gòn, đánh thắng âm mưu "tìm diệt" của địch.

3. Tập trung toàn lực, chuẩn bị cho bước chuyển chiến lược trên chiến trường miền Nam (6-1967 − 1-1968)

Đến nửa sau năm 1967, dù đã nỗ lực thực hiện hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" trên quy mô lớn, quân đội Mỹ vẫn không thể thay đổi được cục diện của cuộc chiến tranh và ngày càng sa lầy vào cuộc chiến. Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã phát triển tới mức rất cao nhưng bị quân và dân ta đánh bại một bước rất quan trọng, chúng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường, tình hình đó đã cho quân và dân ta những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, mở rộng thế làm chủ trên những vùng rộng lớn ở nông thôn đồng bằng, rừng núi. Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Hội nghị nhận định: "Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược". Sau khi nghiên cứu những ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường nhất là Bộ Chỉ huy Miền, Khu 5 về khả năng đánh thành phố và khởi nghĩa, đồng thời phân tích âm mưu cơ bản của Mỹ và những thất bại của chúng về quân sự, chính trị. Bộ Chính trị quyết định: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và cấp bách, đòi hỏi quân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc nỗ lực vượt bậc với những cố gắng cao nhất. Sau khi thảo luận kỹ, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo đã được Quân ủy Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam mở các cuộc tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng cách mạng chống phá "bình định" của địch trên khắp ba vùng chiến lược... Chiến sự sôi động và quyết liệt nhất vào mùa đông 1967 là chiến dịch tiến công Bình Long - Phước Long từ ngày 27-10 đến ngày 5-12 và Chiến dịch Đắk Tô 1 ở Bắc Tây Nguyên từ ngày 3-11 đến ngày 22-11.

Cùng lúc đó, trên cả hai miền Nam - Bắc, công tác chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra rất khẩn trương. Được sự chi viện vật chất, tăng cường về lực lượng của hậu phương lớn miền Bắc, các đảng bộ và bộ chỉ huy các chiến trường miền Nam đã tích cực động viên lực lượng tại chỗ vào Quân giải phóng, gấp rút củng cố, huấn luyện, nâng cao chất lượng chiến đấu cho các đơn vị. Từ đồng bằng sông Cửu Long cho đến Khu 5 và Tây Nguyên, hàng loạt các đơn vị chiến đấu mới được thành lập. Bên cạnh việc củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị quần chúng, các cơ sở cách mạng, các tổ chức đoàn thể được chấn chỉnh chặt chẽ hơn. Ở đô thị, nhất là tại các điểm Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, đội ngũ cán bộ, đảng viên được tăng cường, nhiều tổ chức đảng cũng được củng cố. Công tác hậu cần, tiếp tế, ém quân, cất giấu vũ khí, tích trữ lương thực, thực phẩm, tải thương, cứu thương... cũng được chuẩn bị chu đáo. Đối với các mục tiêu then chốt nội đô, việc xác định bố trí, phân công mũi hướng tiến công đã được quán triệt đến từng đơn vị.

Nhìn chung, trên toàn chiến trường, cho đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, mọi công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy về cơ bản đã hoàn thành. Đón nhận và hiện thực hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14, khóa III (1-1968), quân và dân trên các chiến trường, các hướng trọng điểm sẵn sàng chờ "giờ G" giáng một đòn mạnh mẽ và bất ngờ xuống các trung tâm đầu não của địch ở các thành phố, thị xã, quyết giành thắng lợi cao nhất theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương.
Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra trên toàn miền Nam, giáng một đòn chí tử vào tham vọng xâm lược và ý đồ leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải từng bước rút quân về nước và ngồi vào bàn đàm phán với ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.



----------------------------------------------------------------
1. Trận Bàu Bàng ngày 12-11-1965 được xem là trận đánh cấp sư đoàn đầu tiên của Quân giải phóng miền Nam, Sư đoàn 9 chủ lực Miền tập kích Lữ đoàn 3 bộ binh, Sư đoàn 1 Mỹ.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 09:56:32 am
VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI



TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền - Ban Tuyên giáo Trung ương


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một đòn sấm sét đánh vào sào huyệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đánh dấu bước ngoặt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, buộc địch phải chấp nhận đàm phán với ta về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam. Làm nên thắng lợi to lớn, vẻ vang này có sức mạnh tổng hợp trên mọi mặt trận, mọi lĩnh vực: quân sự, chính trị, ngoại giao... trong đó có đóng góp quan trọng của công tác tư tưởng - bộ phận rất quan trọng không thể tách rời trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lĩnh vực công tác tư tưởng, đó là:

Một là, công tác tư tưởng đã tập trung xây dựng, giáo dục con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Chuyển sang "chiến tranh cục bộ", đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược hai gọng kìm "vừa tìm diệt, vừa bình định", dùng những thủ đoạn tác chiến mới như "hỏa lực mạnh, cơ động cao, bước nhảy sâu, quây vùng rộng", để "tìm diệt" chủ lực ta với tham vọng "bẻ gãy xương sống Việt cộng" và "chụp bắt" cơ quan đầu não kháng chiến của ta ở miền Nam. Ở miền Bắc, chúng dùng không quân, hải quân đánh phá với mưu đồ đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam. Chúng còn kết hợp hoạt động ngoại giao xảo quyệt, lừa bịp dư luận, hù dọa các nước hòng cô lập, đè bẹp ta. Thế nhưng, tất cả sức mạnh tổng hợp của đế quốc Mỹ đã không khuất phục được ý chí kiên cường và lòng quả cảm của con người Việt Nam. Trong Chỉ thị ngày 26-6-1966 của Thường vụ Trung ương Cục "Về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng" đã nhấn mạnh: "Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đặt thành công tác trọng tâm hàng đầu, nhằm xây dựng con người quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược để cứu nước, phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam". Và chính những con người ấy đã làm nên chiến thắng: "Quyết định thắng bại của chiến tranh do nhiều nhân tố, nhưng nhân tố cơ bản nhất là con người... Địch thua ta, chủ yếu vì nó không đối phó nổi với hàng triệu bộ óc không bao giờ ngừng tìm tòi, cách tốt nhất để đánh bại chúng trong mọi tình huống, đánh chúng bằng mọi phương tiện, theo muôn hình vạn trạng".

Chỉ đạo và thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ được coi là những người thông minh nhất, những nhà khoa học tài giỏi nhất, là tinh túy nhất của Hoa Kỳ, nhưng cuối cùng họ đã thua con người Việt Nam. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô L.Brêgiơnep đã viết: "Toàn thể những người tiến bộ trên quả đất kính trọng sâu sắc tinh thần anh dũng, ý chí kiên cường và sự hy sinh quên mình của những người con vinh quang của nhân dân Việt Nam ở miền Bắc và miền Nam". Chính người Mỹ cũng phải thừa nhận: "Lịch sử phải đánh giá họ (người Việt Nam - miền Nam cũng như miền Bắc) cao nhất về sức chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người". Trong khi đó, kết thúc cuộc chiến tranh, tướng Mỹ Taylo đã phải chua xót thừa nhận: "Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này".

Làm nên điều kỳ diệu ấy là do Đảng ta, ngay sau khi giành được độc lập, nhất là trong kháng chiến, đã quan tâm chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng, rèn luyện, đào tạo những con người Việt Nam phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân. Thấm nhuần mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc tổng tiến công, mỗi người dân đều tích cực tham gia bằng những nhiệm vụ và việc làm cụ thể, góp phần làm nên chiến thắng. Nhiều tấm gương anh dũng đã xuất hiện, tiêu biểu là 17 chiến sĩ Biệt động Sài Gòn trong trận đánh toà Đại sứ Mỹ, hơn 6 tiếng đồng hồ đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ, đã gây tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.

Hai là, xây dựng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trải qua thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam (1955-1958), Đảng ta đã tìm ra con đường cách mạng bạo lực, thực hiện bằng hai lực lượng cơ bản chính trị và vũ trang, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từng bước tiến lên, khơi dậy niềm tin cho đồng bào, chiến sĩ cả nước. Sau các chiến thắng liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch và đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ trên miền Bắc, niềm tin và khí thế đánh Mỹ ngày càng dâng cao. Lúc này, địch còn trên 1 triệu quân và một tiềm lực chiến tranh lớn, nhưng đội quân đó đã liên tiếp thất bại về chiến lược, chiến thuật, quân số tuy đông nhưng tinh thần bạc nhược và bắt đầu suy sụp. Mâu thuẫn nội bộ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng tăng, phải đương đầu với những khó khăn lớn về chính trị, quân sự và tài chính. Nhận định tình hình địch - ta, thuận lợi - khó khăn, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng (1-1968) phát động Tổng tiến công và nổi dậy với quyết tâm: "Kiên quyết tiến công, liên tục tiến công... kiên quyết chống trả và bẻ gãy các cuộc phản kích của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất". Theo chủ trương đó, đồng bào và chiến sĩ miền Nam cùng với sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đã đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy làm nên những chiến công vang dội, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến. Chính niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên sức mạnh tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Sống ngay trong lòng địch, bị địch khủng bố dã man, nhưng nhân dân miền Nam vẫn một lòng tin Đảng, đi theo Đảng là bởi Đảng ta đã đề ra đường lối cứu nước đúng đắn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đồng thời, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam. Đó cũng là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước, do đó cả nước đã chung sức, đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra trong mọi giai đoạn cách mạng.

Ba là, triển khai công tác tư tưởng một cách chủ động, linh hoạt, sáng tạo; phát huy sức mạnh của các binh chủng, các lực lượng tuyên truyền, cổ động tạo nên vũ khí tinh thần sắc bén trên mặt trận chống Mỹ, cứu nước.

Tạo nên vũ khí tinh thần là cả một quá trình bồi dưỡng, rèn luyện trong suốt chặng đường dài kháng chiến. Vũ khí ấy được hun đúc thông qua thực tiễn của cuộc chiến tranh, qua các lời hiệu triệu của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các phong trào thi đua yêu nước với mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tháng 7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi khẳng định "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" cổ vũ nhân dân cả nước nêu cao ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Cũng trong thời gian này, cả nước dấy lên các phong trào thi đua: "Phụ nữ ba đảm đang", "Thanh niên ba sẵn sàng", "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng", "Tiếng hát át tiếng bom", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến"... Tên của các phong trào thi đua đó cũng là những khẩu hiệu hành động trong suốt cuộc kháng chiến. Riêng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Trung ương Đảng, Trung ương Cục và các cấp ủy đảng đã đề ra những khẩu hiệu sát với thực tiễn của từng thời điểm, từng địa phương, đơn vị, có sức cổ vũ, thúc giục toàn dân tham gia kháng chiến, như: "Độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất, chấm dứt chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ cút về nước, chủ quyền thuộc về người Việt Nam"; "Đập tan ngụy quyền các cấp và các tổ chức chính trị phản động của địch, lập chính quyền cách mạng"; "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, giành chính quyền về tay nhân dân"; "Tất cả để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược"; "Đánh Mỹ, lật ngụy, giành chính quyền về tay nhân dân"; "Tranh thủ thời cơ, thừa thắng xông lên, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và bọn tay sai, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân"...

Trên lĩnh vực tuyên truyền văn hóa, văn nghệ, lực lượng văn nghệ sĩ luôn xác định: Tổ quốc, nhân dân và cách mạng là đối tượng phục vụ cao quý nhất; văn hóa và tư tưởng là chiến trường; tác phẩm văn học, nghệ thuật là vũ khí sắc bén trên mặt trận chống quân thù. Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, Ban Tuyên huấn Khu 5 cùng với cán bộ tuyên huấn được tăng cường từ miền Bắc, đã tổ chức lực lượng cán bộ, kỹ thuật viên, phóng viên, quay phim, họa sĩ, các đội tuyên truyền vũ trang đồng loạt tham gia cuộc tổng tiến công, vừa trực tiếp chiến đấu vừa ghi chép lại những tư liệu, hình ảnh sống động trên chiến trường, đưa tin chiến thắng tới nhân dân cả nước, kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, phản đối chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Các đội văn công tăng cường ra tuyến lửa phục vụ đồng bào và chiến sĩ ngay bên chiến hào còn khét mùi thuốc súng. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ trong dịp này như: Truyện Từ tuyến đầu Tổ quốc, Sống như anh; bài thơ Quê hương của Giang Nam; bài hát Giải phóng miền Nam của Huỳnh Minh Siêng; bài hát Chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên; bài hát Xuân chiến khu, Bài ca may áo...

Bốn là, thường xuyên nắm, phân tích và dự báo tình hình tư tưởng địch, ta; kịp thời định hướng dư luận xã hội trong nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta đã dự kiến sớm và đúng xu hướng phát triển của chiến tranh, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, xác định đúng hướng tiến công là thành thị, sáng tạo cách đánh mới bất ngờ giành thắng lợi oanh liệt, tạo được bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng mắc một số khuyết điểm lớn, đã được tổng kết đánh giá sau cuộc chiến tranh. Ở góc độ công tác tư tưởng, có thể nhận thấy một số khuyết điểm sau: còn chủ quan trong việc đánh giá tình hình tư tưởng địch, ta trong tương quan lực lượng, cho nên đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó. Việc nắm và phân tích diễn biến tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, các tầng lớp nhân dân trong tiến trình cuộc tổng tiến công chưa sâu sát, cho nên chưa kịp thời phát hiện những khó khăn của ta, lợi thế và những cố gắng mới của địch. Việc dự báo tình hình còn chậm cho nên chưa kịp thời tham mưu, đề xuất, tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, đánh giá lại tình hình để chuyển hướng kịp thời chiến lược. Sau tổng tiến công, ta đã gặp khó khăn trong một thời gian dài khoảng 2 năm, địch phản công quyết liệt, hủy diệt tàn khốc, gây cho ta những tổn thất nặng nề, mất dân, mất đất, thế và lực tiến công suy giảm. Những mất mát này vẫn còn là nỗi ám ảnh, suy tư bên lề chiến thắng.

Đây cũng là bài học sâu sắc cho các giai đoạn sau của cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thống nhất đất nước. Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu, rộng trong bối cảnh thế giới có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Công tác tư tưởng cần phát huy vai trò "đi trước", "mở đường", đổi mới nội dung, phương thức công tác, thường xuyên theo dõi nắm chắc, phân tích, dự báo tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tình hình "đối tượng", "đối tác" trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, kịp thời định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới, vấn đề bức xúc phát sinh. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận, nhất là trong lĩnh vực chiến tranh nhân dân, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phê phán nhận thức lệch lạc, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã lùi xa 50 năm, nhưng những thắng lợi và giá trị lịch sử của sự kiện đó vẫn luôn ngời sáng. Đây là dịp để tổ chức tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ về thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; khơi dậy truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 10:01:44 am
THÀNH ĐOÀN THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT QUANG TRUNG - NHÌN LẠI VÀ SUY NGHĨ



PHẠM CHÁNH TRỰC
Nguyên Phó Bí thư Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định thời kỳ Mậu Thân


Thất bại của hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 đã đẩy chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ vào tình thế bị động và thất bại trên cả ba vùng chiến lược.

Tháng 10-1967, Trung ương Đảng quyết định đưa cách mạng miền Nam chuyển sang thời kỳ mới: Đấu tranh giành thắng lợi quyết định. Khu ủy Sài Gòn - Gia Định mở hội nghị để bàn việc thi hành nghị quyết của Trung ương Cục và quyết định thành lập Khu trọng điểm do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Kiệt là Phó Bí thư, chuẩn bị cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Sau Hội nghị Khu ủy, Đoàn cán bộ Khu đoàn 1 được triệu tập về căn cứ của Trung ương Cục quán triệt Nghị quyết Quang Trung.

Tại thành phố, vào những tháng cuối năm 1967, cả Sài Gòn - Gia Định sôi sục trong không khí đấu tranh chống Mỹ - Thiệu. Tháng 9-1967, nhằm "tô son trát phấn" cho chế độ tay sai, ngụy quyền đã bày ra cuộc bầu cử tổng thống Sài Gòn. Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, sau thời gian đấu đá nhau, được chủ Mỹ dàn xếp, đã quay ra đàn áp tàn bạo các lực lượng tiến bộ, yêu nước và trắng trợn chà đạp các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Cuộc bầu cử đã diễn ra như trò hề độc diễn, phô bày trắng trợn tính chất phản động phát xít của chúng, càng làm bùng cháy ngọn lửa căm giận trong các tầng lớp đồng bào. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Sài Gòn - Gia Định, mà đội quân xung kích là lực lượng thanh niên, sinh viên, học sinh dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, nhân thời kỳ này đã đẩy mạnh hoạt động.

Sau ngày 3-9-1967, phong trào chống Thiệu - Kỳ đã lan rộng ra khắp thành phố với những cuộc đấu tranh khá quyết liệt, dưới nhiều hình thức phong phú, đặc biệt diễn ra sôi nổi trong các trường đại học. Từ ngày 9 đến ngày 21-9-1967, hàng ngàn sinh viên các trường Văn, Y, Dược, Khoa học, Sư phạm... đã xé bài thi, tổ chức hội thảo, mít tinh bãi khóa, bãi thi... phản đối bầu cử gian lận, tố cáo Thiệu - Kỳ độc tài phát xít và lên án sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam.

Trước phong trào đấu tranh sôi nổi trong các trường đại học, tháng 10-1967, Khu ủy chỉ thị Khu đoàn cần phải kìm chế phong trào quần chúng, không để lực lượng nội thành bung ra sớm quá. Đồng chí Hồ Hảo Hớn 2 được lệnh cùng các đồng chí Phan Văn Dinh (Chín Kế), Bí thư Đoàn ủy sinh viên và Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết), Phó Bí thư Đoàn ủy sinh viên trở vào nội thành trực tiếp chỉ đạo Đảng đoàn Tổng hội Sinh viên Sài Gòn.

Căn cứ chính của Thành đoàn chuyển về tỉnh Bến Tre, trở thành nơi tập trung các cánh Thành đoàn để rèn luyện chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Cán bộ, cơ sở bí mật của Thành đoàn từng đợt khẩn trương quán triệt Nghị quyết Quang Trung, bàn thảo kế hoạch hành động và huấn luyện cấp tốc sử dụng các loại vũ khí.

Tại đây, Thành đoàn đã bố trí lại toàn bộ nhân sự thành ba lực lượng phù hợp yêu cầu chỉ huy chiến dịch:

- Lực lượng chính trị công khai, bao gồm các tổ chức và cơ sở trong phong trào công khai như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, các đoàn văn nghệ, công tác xã hội, báo chí, các ủy ban tranh đấu...

- Lực lượng chính trị vũ trang, bao gồm cơ sở bí mật, các tổ chức bán công khai, và các tổ, đội vũ trang tuyên truyền.

- Lực lượng vũ trang biệt động, bao gồm lực lượng Biệt động Thành đoàn và các đội vũ trang của các đoàn ủy.

Rạng sáng ngày 31-1-1968 (tức mùng 2 Tết Mậu Thân), Ban Thường vụ Thành đoàn dưới sự chủ trì của đồng chí Phan Chánh Tâm quyết định huy động toàn bộ lực lượng cơ sở chính trị và vũ trang tuyên truyền tập hợp được vào khu vực Bàn Cờ, Vườn Chuối phát động quần chúng nổi dậy làm chủ. Cán bộ đoàn vào từng nhà dân, thông báo tin Quân giải phóng đã về thành phố, kêu gọi đồng bào ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Nhằm tập dượt lực lượng quần chúng chuẩn bị nổi dậy phối hợp với mũi tấn công vũ trang, Ban Thường vụ Thành đoàn chủ trương tổ chức các cuộc tập hợp quần chúng thanh niên với quy mô hàng vạn người. Đêm văn nghệ mừng Tết Quang Trung do Tổng hội Sinh viên và Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn phối hợp tổ chức vào ngày 26-1-1968 với sự tham gia của 21 phân khoa đại học, 53 trường trung học và các đoàn văn nghệ sinh viên, học sinh tại sân trường Quốc gia Hành chính Sài Gòn, đã quy tụ trên 10.000 thanh niên, sinh viên, học sinh và đồng bào. Mọi người đã hát vang những bài hát của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và các nhạc sĩ phong trào như "Lên đàng", "Tổ quốc ơi ta đã nghe", "Người đợi người", đặc biệt là ca nhạc kịch "Hội nghị Diên Hồng", biểu thị khí thế sôi sục cách mạng của tuổi trẻ Sài Gòn - Gia Định đi vào giai đoạn tổng tiến công của cách mạng miền Nam.

Đội vũ trang Nguyễn Văn Trỗi của Thành đoàn, thuộc cánh Thanh niên công nhân lao động, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Bình, bắt được liên lạc với Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Trung đoàn 2 tấn công trại cảnh sát dã chiến ngụy tại Trường đua Phú Thọ, Trung tâm Chiêu hồi khu vực Vườn Lài, chiếm lĩnh vùng Bình Thới, phát động quần chúng nổi dậy làm chủ trong cả một khu vực rộng lớn các khu xóm lao động từ Bình Thới, Phú Thọ, Trần Hoàng Quân (nay là Nguyễn Chí Thanh), Chí Hòa, Vườn Lài, Sư Vạn Hạnh, Ngã Bảy...

Tổ giao liên trinh sát Thành đoàn dẫn đường cho cánh quân của tiểu đoàn mũi nhọn Quân khu Sài Gòn - Gia Định gồm các đồng chí Nguyễn Thị Thu Vân (Bảy Thủy), Hai Thủy, Chín Phương và em Nguyễn Kiến Quốc (Bé Đào), đã cùng bộ đội bám trụ chống địch càn quét.

Ngày 5-5-1968, đợt 2 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, các lực lượng vũ trang biệt động, vũ trang tuyên truyền Thành đoàn tiếp tục ra quân. Hàng trăm vụ tuyên truyền xung phong, treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn cách mạng trong các khu lao động Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Thông, Trương Minh Giảng, Phú Nhuận, Cầu Tre... đã duy trì thế đứng chân của Quân giải phóng trong lòng thành phố, buộc địch phải ra tay đối phó.

Sau thời gian lúng túng ban đầu, địch xoay ra phản kích. Trước tình hình trên, tập thể Thường vụ Thành đoàn đã quyết định tổ chức công khai cứu trợ đồng bào lánh nạn chiến tranh, tiếp tục duy trì lực lượng đã tập hợp, khẩn trương nối liên lạc với chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Tiền phương.

Từ chủ trương của Đoàn, Tổng hội Sinh viên, Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn đã quyết định thành lập Ủy ban Thanh niên, Sinh viên, Học sinh cứu trợ đồng bào bị nạn với khẩu hiệu "tay nắm, tay che" do anh Nguyễn Thanh Công làm Chủ tịch, Ủy ban, hình thành Trung tâm cứu trợ đồng bào đầu tiên tại số 4 Duy Tân. Sau đó Ủy ban đã tiếp tục triển khai thêm các trung tâm cứu trợ khác tại trường Phan Đình Phùng, Viện Ung thư Gia Định, Trường trung học Lê Văn Duyệt, tổ chức phân phối gạo, thực phẩm, khám bệnh, phát thuốc giúp đỡ đồng bào. Các trường trung học đã thành lập Văn phòng liên lạc học sinh do đồng chí Hoàng Đôn Nhật làm Tổng Thư ký và lập Đoàn công tác lưu động đến tận các vùng xảy ra chiến sự, giúp đồng bào sửa chữa, dọn dẹp nhà cửa bị bom đạn Mỹ tàn phá. Cùng với sinh viên, học sinh, thanh niên, công nhân lao động thành phố cũng tích cực đến tham gia công tác tại các trung tâm cứu trợ. Qua đó, nhiều thanh niên đã được Đoàn giáo dục, giác ngộ cách mạng, trở thành cán bộ, đoàn viên, cơ sở đoàn.

Phong trào thanh niên cứu trợ đồng bào bị nạn đã được duy trì đến sau đợt 2 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, mở rộng thêm ở các điểm Pétrus Ký, Minh Phụng (Quận 11), Phạm Thế Hiển (Quận 8 )... tập hợp thường xuyên gồm 5.000 thanh niên, sinh viên, học sinh tổ chức các hoạt động phục vụ quần chúng, sinh hoạt báo chí, văn nghệ lành mạnh, tiến bộ. Đây còn là nơi liên lạc, ém quân, nơi chứa cán bộ ta đi lại hoạt động trong nội thành. Trung tâm cứu trợ tại đường Minh Phụng (Quận 11) là nơi tiếp tế, nuôi giấu một số anh em bộ đội bị thương, được sự che chở đùm bọc của đồng bào, sau đó, cơ sở ta đã liên lạc với bên ngoài đưa các đồng chí về đến đơn vị an toàn.

Thắng lợi của Đoàn và phong trào thanh niên thành phố trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là thắng lợi nhiều mặt: vừa chủ động góp phần tiến công quân thù, vừa phát triển được phong trào và tổ chức, lực lượng. Đồng thời, Thành đoàn đã tiếp tục duy trì thế trận tấn công địch khi Quân giải phóng đã rút đi, bằng cả vũ trang "nổ to, cháy lớn, tắc nghẽn, tối om" và đấu tranh chính trị ngay trong nội thành. Với những thành tích xuất sắc đó, Thành đoàn và phong trào thanh niên Sài Gòn - Gia Định đã vinh dự được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng thưởng Huân chương Thành đồng hạng Nhất; các lực lượng vũ trang Thành đoàn được Thành ủy trao tặng danh hiệu "Trung đoàn Thanh niên Cận vệ Sài Gòn - Gia Định".

Tuy nhiên, nhìn chung Thành đoàn chưa đưa được phong trào thanh niên lên cao trào để có thể lôi cuốn được các giới, các tầng lớp đồng bào thành phố tham gia làm chủ các khu xóm lao động theo kế hoạch đã được chuẩn bị, mà chỉ tập trung khu trọng điểm là Bàn Cờ - Vườn Chuối. Phong trào đấu tranh của lực lượng chính trị các cánh Liên quận, các đoàn thể và các ngành cũng tập trung chủ yếu ở cơ sở và còn phân tán, thiếu phối hợp thành phong trào quần chúng toàn thành phố tấn công trực diện chính quyền Trung ương Sài Gòn.

Riêng lực lượng vũ trang Biệt động Thành đoàn chưa hoàn thành nhiệm vụ làm thê đội 2 cho Biệt động Quân khu tại các mục tiêu đã được phân công, do không nhận được lệnh nổ súng ngày N giờ G theo kế hoạch. Nhưng những tổ, đội của lực lượng Biệt động Thành đoàn đã linh hoạt xuất kích ở nhiều nơi trong thành phố, như tham gia cùng địa phương diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ ở cơ sở, hoặc phối hợp cùng các tiểu đoàn mũi nhọn tiến quân từ vùng ven đô vào trung tâm thành phố, hoặc trực tiếp tấn công một số đơn vị quân đội địch.

Kỷ niệm 50 năm Mậu Thân 1968, sâu thẳm trong trái tim, trong tâm hồn mỗi chúng ta còn in đậm hình bóng đồng đội, đồng chí và đồng bào ngàn lần yêu quý và khâm phục.
 



---------------------------------------------------------------
1. Gồm Ban Chấp hành Khu đoàn, lãnh đạo các đoàn ủy Thanh niên công nhân lao động, học sinh, sinh viên, Ban Mặt trận - Trí thức trẻ, lãnh đạo Văn phòng, các ban tham mưu, nghiệp vụ, Ban Chỉ huy lực lượng vũ trang Biệt động và An ninh vũ trang Khu đoàn cùng các Phân khu đoàn Bình Tân (Bình Chánh - Tân Bình), Thủ Đức, Dĩ An, Nhà Bè (riêng Phân khu đoàn Củ Chi và Hóc Môn - Gò Vấp do Huyện ủy Củ Chi và Gò Môn chỉ đạo).

2. Nhưng khi vào đến thành phố thì đồng chí Hồ Hảo Hớn bị một tên chiêu hồi nhìn mặt và địch đã bắt đồng chí đem về bốt Bà Hòa (Quận 5) tra tấn dã man. Đồng chí Hồ Hảo Hớn đã dũng cảm chịu mọi cực hình tra tấn của địch, không hé răng khai báo một lời, kiên cường bảo vệ Nghị quyết Quang Trung và toàn bộ cơ sở nội thành và hy sinh anh dũng, nêu gương bảo vệ khí tiết của người cộng sản trung kiên, bất khuất.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 10:08:30 am
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



TS. NGUYỄN THỊ HOA XINH
Nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh,
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh


50 năm đã trôi qua, cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định, trở thành biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách kiên cường và sức mạnh sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam; đồng thời, có tầm vóc lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.

Những địa danh, địa điểm gắn với những sự kiện diễn ra trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều. Đó là nơi phát lệnh tiến công; nơi tập kết lực lượng, trạm liên lạc; nơi cất giấu vũ khí, lương thực, cứu chữa thương binh; nơi diễn ra các trận đánh anh dũng của quân và dân ta;... đã trở thành những di tích lịch sử - là những "địa chỉ đỏ" để thế hệ hôm nay "về nguồn", từ đó thêm hiểu, trân trọng truyền thống đấu tranh oai hùng của cha anh. Trong bài viết này, chúng tôi xin được đề cập đến một số địa danh, di tích tiêu biểu như:

* Tòa Đại sứ Mỹ (số 4 đường Lê Duẩn, phường Bến Nghé, quận 1)

Tòa Đại sứ Mỹ là cơ quan đầu não chỉ đạo trực tiếp toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam; nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam. Tòa Đại sứ Mỹ, một pháo đài kiên cố, niềm tự hào của quân đội Mỹ - nơi được coi là "bất khả xâm phạm", "an ninh nhất" và là biểu tượng của nước Mỹ ở Việt Nam. Tòa Đại sứ Mỹ cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Sài Gòn - Gia Định từ năm 1967 đến ngày 30-4-1975.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Tòa Đại sứ Mỹ là một trong những mục tiêu trọng điểm tấn công của ta. Mặc dù chuẩn bị gấp rút nhưng các chiến sĩ của Đội 11 Biệt động Thành Sài Gòn - Gia Định đã chiến đấu với tinh thần quyết tử, khiến kẻ thù phải hoảng sợ. Tuy chỉ chiếm giữ được Tòa Đại sứ trong hơn 6 giờ, nhưng trận đánh đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, tại Tòa Đại sứ Mỹ đã diễn ra một số sự kiện, đánh dấu thất bại thảm hại cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, đó là cuộc tháo chạy hỗn loạn xảy ra trong hai ngày 28 và 29-4-1975 của người Mỹ và tay sai; Đại sứ Graham Martin ôm lá cờ Mỹ, leo lên chiếc trực thăng Lady Ace 09 rời Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút ngày 30-4-1975...
Hiện nay, Tòa Đại sứ Mỹ đã bị phá bỏ, nhưng cạnh đó, một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi bản anh hùng ca của các chiến sĩ biệt động "vị quốc vong thân".

Tòa Đại sứ Mỹ được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 77A/VHQĐ, ngày 25-6-1976.

* Địa đạo Củ Chi (ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi)

Địa đạo Củ Chi ra đời khoảng năm 1947-1948 ở hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, địa đạo Củ Chi phát triển nhanh chóng, nếu tính từ năm 1961 đến năm 1968, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy, Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Huyện ủy Củ Chi, quân dân Củ Chi đã kiên trì đào địa đạo, tạo nên một kỳ tích "làng ngầm" có độ dài khoảng 200 km.

Từ năm 1960 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh (tháng 4-1975), Mỹ - ngụy đã thực hiện khoảng 5.000 cuộc hành quân càn quét vào vùng căn cứ cách mạng Củ Chi, trong đó có những cuộc càn nổi tiếng như cuộc hành quân mang tên Crimp (tháng 1-1966) và cuộc hành quân Xeđa Phon (tháng 1-1967). Mỹ - chính quyền Sài Gòn đã ném hàng ngàn tấn bom, đạn, chất độc hóa học, với mục tiêu "bới tung địa đạo Củ Chi". Nhưng dựa vào hệ thống đường hầm, công sự, chiến hào, quân và dân Củ Chi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, lập nên những chiến công thần kỳ... Địa đạo Củ Chi được đánh giá là một công trình đánh giặc độc đáo của quân và dân huyện "Củ Chi đất thép thành đồng".

Địa đạo Củ Chi được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 54/VHQĐ, ngày 29-4-1979 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2367/QĐ-TTg, ngày 23-12-2015.

* Sở chỉ huy tiền phương - Phân khu 6 trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (số 7 đường Lý Chính Thắng, phường 8, quận 3):

Nhà số 7 đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), quận 3 là tiệm phở Bình được chọn làm cơ sở bí mật của lực lượng bảo đảm chiến đấu Biệt động Thành từ năm 1967. Trong cuộc Tống tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nơi đây được chọn đặt Sở chỉ huy tiền phương của Phân khu 6 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định).

Cơ sở bí mật này của lực lượng Biệt động Thành là nơi phát lệnh tổng tiến công cho các đơn vị biệt động và lực lượng nổi dậy nội thành, ghi lại dấu mốc lịch sử quan trọng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 tại Sài Gòn. Di tích còn thể hiện tấm lòng yêu nước của nhân dân nội thành và tinh thần dũng cảm, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là của lực lượng Biệt động Thành trong xây dựng lực lượng và chiến đấu.

Nơi đây đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16 tháng 11-1988.

* Cơ sở Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ (số 51/10/14 đường Cao Thắng, phường 3, quận 3)

Sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 được ký kết, Xứ ủy Nam Bộ đã sử dụng căn nhà số 51/10/14 đường Cao Thắng để làm cơ sở của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ và một số đơn vị Khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang Ban Phụ vận đã sử dụng nơi đây để cất giấu vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch.

Ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ (30-4-1975), đoàn cán bộ tiếp quản thành phố của Thành ủy do đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) dẫn đầu xuất phát từ ngôi nhà này đi tiếp quản Bưu điện và Tòa Đô chính Sài Gòn.

Cơ sở Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16-11-1998.

* Cơ sở giấu vũ khí của Biệt động Thành đánh Dinh Độc Lập năm 1968 (số 287/70 đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 5, quận 3)

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định, các đơn vị bảo đảm chiến đấu của Biệt động Thành đã xây dựng nhiều cơ sở bí mật nhằm phục vụ chiến đấu lâu dài. Từ năm 1966, căn nhà số 287/70 đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) đã được chọn, mua làm nơi cất giấu hơn 2 tấn vũ khí.

Tại đây, lúc 1 giờ 30 phút ngày 31-1-1968 (tức mồng một rạng ngày mồng hai Tết Mậu Thân), Đội 5 Biệt động (thuộc cụm 345) gồm 15 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Trương Hoàng Thanh chỉ huy, đã nhận vũ khí và xuất phát, tấn công Dinh Độc Lập, đầu não của chính quyền tay sai.

Bốn ngày sau trận đánh, địch phát hiện cơ sở số 287/70 đường Phan Đình Phùng và bắt giữ cán bộ, chiến sĩ của ta, chúng tịch thu nhà, tài sản và chiếm giữ đến ngày 30-4-1975.

Hầm bí mật chứa vũ khí của lực lượng Biệt động Thành đánh Dinh Độc Lập năm 1968 tồn tại giữa trung tâm Sài Gòn, gây bất ngờ cho kẻ thù, thể hiện sự mưu trí, táo bạo trong công tác phục vụ chiến đấu của quân và dân Sài Gòn - Gia Định.

Di tích đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16-11-1988.

* Hầm bí mật chứa vũ khí trong thời kỳ chống Mỹ (1965-1975) (số 183/4 đường 3 tháng 2, phường 11, quận 10)

Hầm bí mật chứa vũ khí trong thời kỳ chống Mỹ (1965-1975) nằm trong căn nhà số 183/4 đường 3 tháng 2, Phường 11, Quận 10; có vị trí gần khu quân sự và cơ quan đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đây là một điểm hẹn để tiếp nhận vũ khí, đạn dược; nhưng trên đường đi, một số chiến sĩ trúng đạn bị thương và một số chiến sĩ khác hy sinh nên cánh quân không thể tiến đến điểm hẹn theo quy định. Sau chiến dịch, ngôi nhà này thường bị địch khám xét, nhưng chúng không phát hiện được căn hầm.

Căn hầm bí mật được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16-11-1988.

* Khu Di tích Dân công hỏa tuyến Mậu Thân 1968 (Ấp 4, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh)

Để phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta tại Sài Gòn vào dịp Xuân Mậu Thân 1968, hàng ngàn lượt dân công với đa số là thanh niên nam nữ xã Vĩnh Lộc và một số xã khác thuộc huyện Bình Chánh (Chợ Lớn), huyện Đức Hòa (Long An) đã đêm đêm không ngại gian khổ, hy sinh, vượt qua kênh rạch, đồng bưng trống trải, sình lầy và đồn bốt giặc để phục vụ chiến đấu, thực hiện các nhiệm vụ: nấu cơm, đào mô, vác đạn, tải thương binh,...

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15-6-1968 (ngày 20-5 Âm lịch), đoàn dân công đang trên đường làm nhiệm vụ đưa thương binh vượt bưng Láng Sấu xuống Đức Hòa - Long An và tải đạn về Sài Gòn, khi qua cánh đồng bưng ấp 4 thì bị máy bay địch rọi đèn pha phát hiện và bắn xối xả làm 35 người hy sinh (trong đó có 32 dân công), 25 người sống sót đều bị thương tích.

Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), đồng đội còn lại của những người hy sinh đã dựng lên ngôi miếu nhỏ giữa đồng bưng để hằng năm cùng nhau hương khói cho các liệt sĩ. Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc đã dựng thêm nhà bia nhỏ khắc tên 35 liệt sĩ hy sinh ngay nơi diễn ra sự kiện và hằng năm lấy ngày 20-5 Âm lịch làm ngày cúng giỗ cho anh chị em dân công hy sinh tại đây.

Địa điểm Dân công hỏa tuyến hy sinh năm Mậu Thân 1968 được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 119/2005/QĐ-UBND, ngày 12-7-2005.

* Căn cứ vùng Bưng Sáu Xã (phường Tăng Nhơn Phú B, phường Phú Hữu, quận 9 và khu Đồng Miếu, khu phố 3, phường An Phú, quận 2)

Căn cứ vùng Bưng Sáu Xã là địa bàn cơ động chiến lược quan trọng của các lực lượng vũ trang từ xã, huyện đến tỉnh, quân khu và miền để uy hiếp và đánh vào cơ quan trung tâm của quân xâm lược một cách bất ngờ, trong thời gian nhanh nhất, với khoảng cách ngắn nhất, đặc biệt là nơi xuất phát của lực lượng vũ trang tiến công vào thành phố Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Căn cứ vùng Bưng Sáu Xã được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng Di tích lịch sử cấp thành phố tại Quyết định số 4302/QĐ-UBND, ngày 10-10-2008.

* Cơ sở bí mật của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1968-1972 (số 91 đường Phạm Văn Chí, phường 1, quận 6)

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, căn nhà số 91 đường Phạm Văn Chí, phường 1, quận 6 là cơ sở bí mật của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1968-1972 và cơ sở bí mật của Ban Hoa vận Đặc khu Sài Gòn - Gia Định.

Căn nhà này được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 188/2005/QĐ-UBND, ngày 15-10-2008.

* Đình Cầu Sơn (số 218 đường Xôviết Nghệ Tĩnh, phường 26, quận Bình Thạnh)

Đình là địa điểm gắn với nhiều sự kiện lịch sử qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân thành phố.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, đình là địa điểm ém quân, tiếp tế lương thực, cứu chữa thương binh. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4-1975, Ban quý tế dùng vải đỏ của đình may cờ cho cơ sở cách mạng và quần chúng trong khu vực tham gia nổi dậy và đón quân chủ lực vào giải phóng Sài Gòn từ hướng đông.

Đình Cầu Sơn được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 117/QĐ-UBND, ngày 12-7-2005.

* Đình An Phú - cơ sở cách mạng (Ấp 3, phường An Phú, quận 2)

Đình An Phú, ngoài chức năng là nơi nhân dân làng An Phú thờ thần Thành Hoàng theo tín ngưỡng dân gian, đình còn được cán bộ cách mạng Sài Gòn - Gia Định chọn làm cơ sở trú ẩn, trạm giao liên,... suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Đình là nơi Đội Biệt động 66 Khu Sài Gòn - Gia Định đặt trạm liên lạc để đưa, đón cán bộ, cất giấu vũ khí, cứu chữa thương binh trong các trận đánh của Biệt động Thành và các đơn vị bộ đội, tiêu biểu như: trận tấn công cầu Tân Cảng (Mậu Thân 1968), đánh Tòa hành chính quận Thủ Đức (1969), đánh và giữ cầu Rạch Chiếc (1975),...

Đình An Phú được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 5515/QĐ-UBND, ngày 30-11-2006.

* Chùa Thiên Tôn (số 117/3/2 đường An Bình, phường 6, quận 5)

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chùa là nơi tập hợp quần chúng, vận động tài vật, thuốc men ủng hộ nuôi quân, đảm nhận công tác tiếp tế tài chính, nhu cầu vật chất cho cơ quan Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ đóng trong chiến khu Đồng Tháp Mười.

Chùa Thiên Tôn là cơ sở cách mạng nội thành quan trọng, có công nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; là nơi truyền đạt, triển khai các chủ trương chỉ đạo của Khu ủy, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định qua các giai đoạn lịch sử trong phong trào đấu tranh của tăng ni, phật tử chống các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, chống chế độ độc tài, tay sai, bán nước.

Năm 1968, chùa Thiên Tôn trở thành trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo. Nơi đây cũng đã tổ chức Đại hội thành lập Tổng đoàn Thanh niên Tăng ni. Tổng đoàn này trực thuộc Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, là lực lượng đấu tranh "chống Mỹ, cứu nước", trụ sở được đặt tại chùa đến năm 1975.

Chùa Thiên Tôn là nơi tuyên truyền, giáo dục về lịch sử, truyền thống đấu tranh cho giới tăng ni, phật tử hiện nay, thể hiện tốt tinh thần "Đạo pháp và dân tộc".

Chùa Thiên Tôn được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố tại Quyết định số 696/QĐ-UBND, ngày 17-2-2011.

* Đình Phú Thạnh (số 111 đường Trần Quang Cơ, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú)

Đình Phú Thạnh gắn với lịch sử làng Phú Thọ Hòa của Sài Gòn trước đây và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Đình không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa phi vật thể mà còn là một cơ sở cách mạng.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đình Phú Thạnh là cơ sở cách mạng nuôi giấu cán bộ, là nơi hội họp và chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng tại địa phương xã Phú Thọ Hòa.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đình Phú Thạnh tiếp tục là cơ sở cách mạng vững chắc của Chi bộ Phú Thọ Hòa, là điểm quyên góp tài chính cho vùng căn cứ, là nơi nuôi giấu và cứu chữa thương, bệnh binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đình cũng là nơi phổ biến chỉ thị tổng tiến công và nổi dậy cho cán bộ liên xã trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (4-1975).

Đình Phú Thạnh được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 3947/QĐ-UBND, ngày 18-8-2011.

* Đình Tân Hòa Tây (số 17/14 đường Lương Minh Nguyệt, phường Tân Thới Hòa, quận Tân Phú)

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đình Tân Hòa Tây là địa điểm, cơ sở cách mạng.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đình Tân Hòa Tây là cơ sở cách mạng có hầm bí mật dưới bàn thờ Chánh điện, đây là căn cứ hầm có ngách thông ra ngoài, dùng để nuôi giấu cán bộ cấp ủy xã Phú Thọ Hòa.

Thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, đình là địa điểm họp bí mật của Chi bộ đảng xã Phú Thọ Hòa, là nơi thu nhận đóng góp vật chất ủng hộ kháng chiến, là nơi nuôi giấu, cứu thương binh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy vào Sài Gòn Xuân Mậu Thân 1968.

Đình Tân Hòa Tây được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 2719/QĐ-UBND, ngày 28-5-2013.

Các di tích lịch sử về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Thành phố Hồ Chí Minh là những dấu ấn về tinh thần yêu nước, tinh thần kiên trung cách mạng của quân, dân Sài Gòn - Gia Định luôn sát cánh cùng quân, dân cả nước kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi gian nan, thử thách, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Những di tích lịch sử không chỉ là nơi ghi dấu những chiến công oanh liệt, tưởng nhớ sự hy sinh anh dũng của cha anh, mà những "địa chỉ đỏ" ấy còn là bài học lịch sử quý giá, thiết thực nhất, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 10:13:30 am
SỰ KIỆN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THÔNG TIN CHÍNH THỐNG



ThS. HOÀNG THANH HẢI
Ban Tuyên giáo Trung ương


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, có rất nhiều sự kiện, trận đánh, chiến dịch đã trở thành bản anh hùng ca của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một trong số bản anh hùng ca đó.

Giữa năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân Mỹ cùng quân các nước đồng minh ồ ạt vào chiến trường Việt Nam cùng một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh hiện đại. Tính đến đầu năm 1968, quân chiến đấu của Mỹ ở miền Nam đã vượt quá nửa triệu, chưa kể sự yểm trợ của trên 20 vạn quân Mỹ có mặt ở Thái Lan, Philíppin, Nhật Bản, Guam, Hạm đội 7 và gần 7 vạn quân các nước đồng minh của Mỹ. Cùng lực lượng hùng hậu của gần 60 vạn quân đội Sài Gòn, quân Mỹ liên tục tổ chức các cuộc hành quân "tìm diệt" trên khắp chiến trường miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, nhằm đè bẹp ý chí giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của quân và dân ta.

Tuy nhiên, sau hơn 2 năm, mọi toan tính của đế quốc Mỹ dần dần bị phá sản. Quân Mỹ từ thế phản công và tiến công giữa năm 1965, buộc phải lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược bị động vào cuối năm 1967. Đối với ta, tuy giành được nhiều thắng lợi trên chiến trường, thế và lực của cách mạng đã có bước phát triển mới, nhưng chưa tạo được chuyển biến cục diện chiến tranh.

Đứng trước tình hình trên, tháng 5 và tháng 6-1967, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm đánh giá tình hình mọi mặt và xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1967-1968, Hội nghị đưa ra chủ trương: Trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn.

Thực hiện chủ trương trên, tháng 1-1968, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta quyết định tổng công kích, tổng khởi nghĩa đồng loạt trên toàn miền Nam, nhằm giáng đòn bất ngờ vào ý chí xâm lược của Mỹ, bằng cách chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị; đánh thẳng vào sào huyệt địch trong tất cả các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng; đánh vào trung tâm đầu não chính quyền địch ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng... Từ đó tạo ra bước ngoặt lớn, làm thay đổi căn bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta, đưa chiến tranh cách mạng miền Nam chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược về chính trị và quân sự hết sức to lớn; là trang sử đấu tranh oanh liệt của Đảng ta, dân tộc và quân đội ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã gây ra cú "sốc" làm đảo lộn thế và lực, phá vỡ kế hoạch tác chiến, đẩy cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ lên một cao trào mới; buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đơn phương tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari tạo nên bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của cách mạng miền Nam.

Bên cạnh những thắng lợi quan trọng về quân sự, chính trị và ngoại giao, công tác chỉ đạo tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cũng đã mắc những khuyết điểm "chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; ... ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn..., cho nên ta đã gặp khó khăn trong một thời gian".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra 50 năm. Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kết thúc thắng lợi. Chiến tranh dần lùi xa, thành quả của hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước đang đem đến cuộc sống đổi mới, hạnh phúc và ấm no cho người dân từng ngày. Sự thật lịch sử và ý nghĩa to lớn của cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 đã quá rõ ràng, không thể phủ nhận, song các thế lực thù địch vẫn nuôi thù hận, thực hiện những hành động thâm độc, xảo trá, nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự hy sinh xương máu và những đóng góp vô cùng lớn lao của quân và dân ta, của bè bạn quốc tế - những người yêu chuộng công lý và hòa bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; thổi phồng những hạn chế trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hỗ trợ các phần tử chống đối và lực lượng tay sai, phản động chống phá đất nước.

Đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hiện nay các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng mạng xã hội, Internet và nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân, chúng sử dụng các chiêu trò như: tạo ra các website giả mạo, lập và sử dụng website, blog, mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến mà người đọc khó kiểm chứng hết để tạo dựng, phát tán các thông tin, hình ảnh giả tạo, sai lệch, thật giả lẫn lộn, để lôi kéo, hướng lái dư luận ngả theo quan điểm sai trái.

Chúng vu khống Quân giải phóng thảm sát dân thường và thành phần phục vụ cho chính quyền Sài Gòn ở Huế, gọi Xuân Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt. Nhiều thông tin còn bịa đặt rằng quyết định tổng tiến công là sai lầm, phía cộng sản Bắc Việt đã thua trên chiến trường nhưng lại may mắn đạt được kết quả chính trị và tâm lý ngoài dự kiến (?). Từ các thông tin đó, chúng quy chụp Đảng, Nhà nước đã sai lầm về đường lối, vu khống cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội; bôi nhọ lịch sử, ý nghĩa chiến thắng và sự hy sinh xương máu của đồng bào, chiến sĩ trong Tổng tiến công và nổi dậy, tạo ra sự dao động, hoang mang trong các tầng lớp nhân dân, làm lung lay lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; phá hoại cuộc sống, môi trường hòa bình, ổn định mà chúng ta phải đổ bao xương máu mới có được; nuôi dưỡng hận thù dân tộc, chế độ. Đây là thủ đoạn chiến tranh tâm lý vô cùng nguy hiểm của các thế lực thù địch 1.

Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng có điều kiện nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học hơn về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Vì vậy hơn lúc nào hết, cần phải tăng cường thông tin chính thống về sự kiện này tới đông đảo đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài được tường tận; đồng thời đấu tranh, phản bác hiệu quả với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

Để tăng cường các thông tin chính thống cần thực hiện những nội dung sau:

Thứ nhất, quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 với nội dung và bằng nhiều hình thức phù hợp.

Phát huy tối đa hình thức tuyên truyền miệng qua các buổi giao lưu văn hóa, văn nghệ, họp thôn, tổ; hội họp và hoạt động của các tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội, câu lạc bộ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp...

Kết hợp tuyên truyền bằng triển lãm và trưng bày tư liệu, tranh ảnh, hiện vật của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân tham quan tìm hiểu, học tập.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng tuyên truyền qua các kênh phát thanh, truyền hình trong nước và nước ngoài; tăng cường mở rộng các chuyên mục, các diễn đàn, các cuộc giao lưu, tọa đàm về gặp gỡ các nhân chứng lịch sử, sự kiện lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của nhân dân. Qua đó làm cho mọi người có được cách tiếp cận đúng, biết tiếp nhận thông tin và biết sàng lọc thông tin, phân biệt đúng, sai, nhất là trong điều kiện thông tin mở, thông tin trên mạng như hiện nay; không để cổ xúy và lan truyền những thông tin xấu độc.

Bên cạnh đó, cần tập trung tuyên truyền các nội dung như: đường lối, sách lược của Đảng khi ra quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; diễn biến sự kiện; những kết quả đã đạt được; ý nghĩa chiến lược và nguyên nhân thắng lợi; nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; những bài học lịch sử quý báu đã trở thành kinh nghiệm xương máu rút ra từ lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới; đấu tranh với những quan điểm sai trái, thiếu cơ sở khoa học làm giảm ý nghĩa của chiến thắng, đồng thời phản bác lại những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ lịch sử và các thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Từ đó tạo thành phong trào mang tính cộng đồng đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc và thông tin độc xấu, góp phần giữ vững thế trận lòng dân trước sự chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ hai, coi trọng giáo dục truyền thống của dân tộc, quân đội; giáo dục niềm tự hào về sự kiện Mậu Thân 1968 cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Để cho mọi người có cách nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc hơn về nguyên nhân thắng lợi, những nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù hung bạo; tầm vóc lớn lao và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; lòng trung thành vô hạn của các lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc và nhân dân, tinh thần sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước trong những thời điểm thử thách ác liệt nhất của lịch sử... Muốn vậy cần kết hợp đa dạng hóa các phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục, phổ biến, tuyên truyền phù hợp với từng loại đối tượng cụ thể; đưa nội dung tuyên truyền về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vào các hoạt động kỷ niệm; vào nội dung các cuộc hội thảo chuyên đề của sinh viên, cán bộ giảng dạy, giáo viên và vào các buổi sinh hoạt của các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp ở nhà trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề; hoặc chương trình hoạt động ngoại khóa cho học sinh trung học phổ thông. Tổ chức cho học sinh, sinh viên các hoạt động như tham quan các di tích lịch sử liên quan; dọn dẹp, vệ sinh và dâng hương viếng liệt sĩ...

Thứ ba, tăng cường các cuộc hội thảo và nghiên cứu khoa học chuyên sâu về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tổ chức họp báo, phỏng vấn tại các hội nghị, hội thảo, lấy ý kiến phản hồi, phản biện của các chuyên gia... Cơ quan tuyên giáo các cấp cần phối hợp với các địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học, các cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, quân đội trong việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tổng kết lịch sử, nhất là giai đoạn Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Thứ tư, tổ chức sáng tác văn học, nghệ thuật, thi tìm hiểu, viết báo... về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Thông qua các hoạt động này, chúng ta lựa chọn được những tác phẩm tốt, phù hợp để sử dụng cho hoạt động tuyên truyền. Phối hợp với các đoàn văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp, xây dựng chương trình biểu diễn theo chủ đề nội dung thích hợp, đáp ứng được mục tiêu công tác tuyên truyền.

Cùng với việc triển khai những nội dung trên, chúng ta cần quan tâm tổ chức biên soạn, phát hành các giáo trình lịch sử, các ấn phẩm chính thống... về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 phục vụ công tác tuyên truyền, học tập và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của độc giả. Đưa các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền đã được xuất bản (sách, đặc san, băng casset, đĩa hình, đĩa tiếng...) thành dữ liệu điện tử, các video clip và đăng tải dữ liệu đó trên Internet, mạng xã hội.

Nửa thế kỷ đã trôi qua, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 luôn để lại cho các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau niềm tự hào sâu sắc. Ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc Tổng tiến công vẫn còn nguyên giá trị và trường tồn cùng với lịch sử dân tộc Việt Nam. Tăng cường những thông tin chính thống về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ là việc làm thiết thực trong giai đoạn hiện nay, mà còn là sự tri ân sâu sắc đối với công lao đóng góp và sự hy sinh xương máu của các anh hùng, liệt sĩ và nhân dân ta đã chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
 



----------------------------------------------------------------
1. Từ ngày 1-11-2016 đến ngày 16-11-2017, trên Internet có tổng số 140 bài viết xuyên tạc lịch sử và sự kiện Mậu Thân. Trong đó: blog có 81 bài chiếm 57,9%, mạng xã hội có 33 bài chiếm 23,6%, báo điện tử không có bài tiêu cực, các loại hình khác trên Internet có 26 bài tiêu cực chiếm 18,5% (số liệu từ phần mềm giám sát thông tin trên Internet của Tập đoàn Viettel).


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 10:15:55 am
VIẾT TIẾP BẢN HÙNG CA MẬU THÂN



PHẠM PHƯƠNG THẢO
Nguyên Phó Bí thư Thành ủy,
nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh


Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đi vào lịch sử như một biểu tượng của khí phách Việt Nam, thắng lợi đỉnh cao của chiến tranh nhân dân. Đây được xem là cuộc tiến công táo bạo nhất, làm rung chuyển các đô thị toàn miền Nam, tạo nên bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Đã 50 năm trôi qua, cho dù trong nhận xét, đánh giá về sự kiện này vẫn còn có những điểm khác nhau nhất là trong giới học thuật, nhưng tầm vóc, ý nghĩa, bài học lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 thì vô cùng to lớn và sâu sắc. Không có Mậu Thân 1968, sẽ khó có thắng lợi trọn vẹn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Từ thực tế chiến trường, sau thắng lợi của ta đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966-1967, khả năng giành thắng lợi lớn hơn xuất hiện, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương quyết định chủ trương Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã nổ ra ngay trong đêm giao thừa. Chỉ trong 24 tiếng đồng hồ toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch đều bị tiến công, làm thế trận đôi bên đảo ngược. Ta đã tiến công bất ngờ và đồng loạt ở 4/6 thành phố lớn, 37/44 thị xã và hàng trăm thị trấn, 30 sân bay và hàng trăm cơ sở hậu cần với nhiều tổng kho lớn... Những trận đánh gây chấn động là đánh vào Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh Sài Gòn, Tòa Đại sứ Mỹ,... Đó là những cuộc tiến công mà ngay cả cơ quan tình báo của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ cũng bị bất ngờ và khó hiểu.

Bão táp Mậu Thân đã làm thiệt hại một bộ phận sinh lực, phá hủy một khối lượng quan trọng các phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần hiện đại nhất của địch, làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam mà cả ngay trong lòng nước Mỹ, như một cú sốc, làm thức tỉnh người Mỹ, thúc đẩy phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam ở Mỹ và trên thế giới. Sự kiện "Tết Mậu Thân" như một phép thử đánh bại ý chí xâm lược của địch và mở ra khả năng mới trên chiến trường.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Từ hội nghị hai bên đến hội nghị bốn bên, có sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, sự phản kích của địch như tập trung đánh phá, càn quét, bình định cấp tốc, triển khai kế hoạch Phượng Hoàng... gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất. Nhiều cơ sở nội thành bị lộ, nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt, bị tù đày. Ở nông thôn, đồn bốt địch đóng dày đặc hơn, cả ở vùng căn cứ U Minh... Nhưng số phận thực chất cuộc chiến đã được định đoạt. Lần đầu tiên, sau 200 năm, quân Mỹ đặt vào vị trí thua trận, bị chia rẽ sâu sắc. Lực lượng cách mạng tạm thời có khó khăn nhưng được khôi phục dần và ngày càng lớn mạnh. Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam được thành lập, cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động đối nội, đối ngoại nâng cao uy tín và ảnh hưởng của cách mạng miền Nam trên thế giới. Ở vùng giải phóng miền Nam, Ủy ban nhân dân cách mạng xã, huyện, tỉnh ra đời - thật sự là chính quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và Mỹ, hai bên đã huy động sức mạnh to lớn của mình, và bão táp Mậu Thân đã thể hiện sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam. Đó là sức mạnh của đường lối, chủ trương đúng đắn, táo bạo của Trung ương Đảng, của Bác Hồ, Trung ương Cục miền Nam. Đó là sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam - sức mạnh đấu tranh quân sự, chính trị ngoại giao, kết hợp "2 chân, 3 mũi, 3 vùng". Đó còn là sức mạnh của 3 nước Đông Dương liên minh chống Mỹ, của phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống Mỹ.

Các nhà quân sự cho rằng, sự kiện Mậu Thân thể hiện bước phát triển mới của học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đây là bước đi nhằm lật ngược thế cờ trong cuộc chiến đấu không chỉ căn cứ bằng đầu quân, đầu súng. Đây được xem là một cuộc tổng tiến công có tính điển hình trong chiến tranh giải phóng. Một cuộc tổng tiến công bằng cách đánh độc đáo từ trong ruột đánh ra kết hợp với đánh từ ngoài đánh vào đồng loạt khắp chiến trường, bằng nhiều kiểu đánh của từng người, từng đơn vị lớn nhỏ khác nhau, sự kết hợp của quần chúng cách mạng và lực lượng vũ trang, giữa tiến công và nổi dậy. Lực lượng biệt động đánh được vào những trọng điểm tiêu biểu là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Yếu tố bí mật, bất ngờ cả về mục tiêu, quy mô, lực lượng, thời điểm được tiếp nối đầy sáng tạo của truyền thống quân sự dân tộc Việt Nam.

Với nghệ thuật "vừa đánh vừa đàm", Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân là một quả đấm thép mở đầu cho quá trình đàm phán trên thế mạnh, buộc địch từng bước chấp nhận những điều khoản do chúng ta đưa ra, đặt bút ký vào Hiệp định Pari ngày 27-1-1973. Sự kiện Mậu Thân buộc hơn 500.000 quân Mỹ, 66.000 quân đồng minh phải rút khỏi Việt Nam. Kết quả chiến đấu ở chiến trường từ cột mốc Mậu Thân là nhân tố chủ yếu quyết định diễn biến chính trị và ngoại giao, tạo nên cục diện mới, thời cơ mới.

Bài học lớn của Mậu Thân là biết dựa vào dân, dựa vào tai mắt, sự gan dạ, sáng tạo của dân. Dựa vào căn cứ lòng dân, các lực lượng đã đột nhập, ém quân vào thành phố cùng với sự phối hợp của lực lượng tại chỗ, sẵn sàng cho giờ nổ súng. Ngay tại Sài Gòn, ta đã xây dựng được nhiều cơ sở bên trong, với 19 lõm chính trị, 12 kho vũ khí, 400 điểm ém quân. Khi nổ súng, các lực lượng tinh nhuệ xung trận tại các vị trí hiểm yếu - được cho là hậu phương an toàn nhất của địch. Lòng tin quyết thắng, sự dũng cảm hy sinh của chiến sĩ, đồng bào đã làm nên khí phách Mậu Thân. Có không ít những đơn vị mà các chiến sĩ đã ra đi không về nhưng những người bước tiếp vẫn không hề nao núng.

Chống lại một đạo quân thiện chiến, có sức mạnh quân sự khổng lồ, với phương tiện tối tân hiện đại, hùng mạnh vào bậc nhất thế giới, nhân dân ta phải trả giá không ít máu thương và tổn thất. Chúng ta chiến thắng không phải đối phương yếu kém mà chính là ta có sức mạnh của chính nghĩa, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, có sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Mậu Thân 1968 là biểu tượng anh hùng của nhân dân, của người chiến sĩ cách mạng. Xương máu của các anh hùng liệt sĩ, của nhân dân đã dựng nên một tượng đài bất tử - một dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ.

Mậu Thân 1968 là đỉnh cao thắng lợi của chiến tranh nhân dân, đã góp phần quyết định đánh đuổi được quân Mỹ, chuẩn bị tư tưởng, lực lượng, mở đường cho chiến thắng lịch sử 30-4-1975. Ở trận thắng cuối cùng này, tương quan lực lượng quân sự giữa ta và địch khác trước, ta đã huy động được sức mạnh nhân dân, giành chính quyền về tay nhân dân, một chiến thắng trọn vẹn, như một cuộc tiếp quản ít đổ máu xương.

Nửa thế kỷ đi qua, nhưng bản hùng ca Mậu Thân vẫn vang mãi giai điệu tự hào trong lòng các thế hệ người Việt Nam. Bản hùng ca ấy luôn thôi thúc chúng ta cùng góp sức đưa đất nước tiến lên mạnh giàu, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, con người Việt Nam trong thời đại mới. Xuất phát từ thực tiễn, biết dựa vào dân, vì lợi ích nhân dân để có quyết sách đúng hợp lòng dân, khơi dậy sức mạnh to lớn của dân, đó cũng chính là hệ quy chiếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, là những bài học không chỉ của Mậu Thân, của hôm qua, mà là mãi mãi về sau.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 08 Tháng Tám, 2020, 10:25:28 am
DẤU ẤN SÂU ĐẬM CỦA SỰ KIỆN
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TRONG THẾ HỆ TRẺ QUÂN ĐỘI HÔM NAY



Đại tá NGUYỄN VĂN LỊCH
Phó Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng


Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay sinh ra và lớn lên trong hòa bình, không phải tận mắt chứng kiến sự ác liệt của chiến tranh, nhưng qua sách, báo, hồi ức, nhật ký... của các thế hệ cha anh, đã phần nào hiểu được những năm tháng hào hùng và khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính vì vậy, sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - một sự kiện lớn, dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa chiến lược - trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để lại trong tâm khảm thế hệ trẻ Việt Nam những dấu ấn sâu đậm không thể phai mờ:

Thứ nhất, nhận thức đúng về tầm vóc, ý nghĩa của sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 trong lịch sử dân tộc.

Ngược dòng thời gian cách đây hơn 50 năm, lịch sử Việt Nam ghi nhận quá trình xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ đã lên đến đỉnh điểm với chiến lược "chiến tranh cục bộ" (1965-1968), Mỹ điên cuồng tiếp tục tăng quân, tăng chi phí quân sự và ném vào chiến trường miền Nam một khối lượng phương tiện chiến tranh khổng lồ và hiện đại nhất. Lúc này, quân chiến đấu của Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam đã lên tới 480.000 người và 68.800 quân từ các nước đồng minh của Mỹ.

Qua nghiên cứu thực tế chiến trường, những ý định chiến lược đã dần dần hoàn thiện và trở thành những quyết sách của Đảng. Mùa Xuân năm 1968, giữa lúc cuộc chiến tranh của Mỹ leo thang đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân, đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố và thị xã nhằm giáng một đòn quyết liệt vào mưu đồ và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ.

Thực hiện chủ trương, quyết tâm của Đảng và Bác Hồ, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, trên toàn miền Nam, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta diễn ra trên cả ba vùng chiến lược: nông thôn đồng bằng, đô thị và miền núi, ở 4/6 thành phố, 37/44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn trên toàn miền Nam Việt Nam. Ở thành phố, các địa điểm Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn và nhiều cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội Sài Gòn được xác định là trọng điểm tiến công trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một thắng lợi quyết định, làm đảo lộn thế bố trí và phá vỡ kế hoạch tác chiến của Mỹ. Nó làm rung chuyển không chỉ toàn bộ chiến trường miền Nam (từ rừng núi, nông thôn, đồng bằng đến đô thị) mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc và cả nước Mỹ; tác động mạnh vào nhân tâm nước Mỹ. Cả nước Mỹ như bừng tỉnh, phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ lan rộng và lên cao chưa từng có, tạo nên một cuộc chiến tranh khác nổ ra ngay trong lòng nước Mỹ. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã có bài diễn văn buộc phải chấp nhận đàm phán, hạn chế ném bom miền Bắc và bắt đầu rút quân viễn chinh Mỹ khỏi Việt Nam. Vị tổng thống đầy tham vọng của Hoa Kỳ cũng phải ngậm ngùi tuyên bố không ra ứng cử nhiệm kỳ thứ hai.

Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, đánh dấu sự phá sản của chiến lược "chiến tranh cục bộ", đánh bại ý đồ và cố gắng chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ. Đánh giá về sự kiện Xuân Mậu Thân 1968, Đảng ta khẳng định: "Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 thể hiện tầm cao trí tuệ và bản lĩnh trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phản ánh ý chí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta; là minh chứng hùng hồn cho trí tuệ, sức mạnh quật cường của con người và dân tộc Việt Nam. Tuy vậy, chính giới Mỹ và một số học giả quốc tế vẫn không chịu chấp nhận thực tế lịch sử đó. Họ cho rằng sau Tết Mậu Thân 1968, "chính quyền Sài Gòn mạnh lên và tạo điều kiện cho Hoa Kỳ đánh bại đối phương" và "hậu quả sau Tết là Sài Gòn chứ không phải Giải phóng mạnh lên. Sài Gòn chứ không phải Hà Nội đã kiểm soát được cuộc chiến". Một số báo chí Hoa Kỳ cũng chung quan điểm khi cho rằng: Nếu trước Tết, quân đội Sài Gòn chỉ thạo hai thứ là duyệt binh và đảo chính thì từ Tết 1968, họ bắt đầu quen với chiến trận!.

Nhìn lại thành quả của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế hệ trẻ ngày nay luôn tự hào với chiến thắng đó. Đó là chiến thắng được ghi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam như một mốc son chói lọi, một chiến thắng mang tính quyết định. Thắng lợi đó đã tạo ra một bước ngoặt mới - bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó cũng là tầm vóc và giá trị lịch sử lớn lao, sâu đậm nhất của sự kiện Xuân Mậu Thân 1968.

Thứ hai, nhận thức rõ thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sau hai năm thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, triển khai "kế hoạch hai gọng kìm: tìm diệt và bình định", đế quốc Mỹ không thực hiện được các mục tiêu đề ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ năm (5-1967) nhận định: Mỹ đang "vấp phải những thất bại khó khăn hết sức to lớn, chưa lúc nào Mỹ lại ở vào một tình trạng lúng túng khủng hoảng trầm trọng về chiến lược chiến thuật, cả quân sự lẫn chính trị như hiện nay khi ở miền Nam chúng có trong tay trên dưới 1 triệu quân Mỹ, ngụy và chư hầu" . Nghị quyết Trung ương Cục xác định nhiệm vụ: "Đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa ở các đô thị và vùng nông thôn địch kiểm soát, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ rộng rãi, mà nòng cốt là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Do đó mà đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đạt được những mục tiêu về độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới thống nhất nước nhà. Trước mắt, chúng ta ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nhằm giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn...".

Đầu tháng 12-1967, trên cơ sở báo cáo tình hình chiến sự của Trung ương Cục và về việc chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy ở Nam Bộ, sau nhiều tháng thảo luận, Bộ Chính trị họp nhận định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược". Do những thất bại có tính chất chiến lược trong năm 1967, Bộ Chính trị nhận định xu thế phát triển của cuộc chiến tranh trong cả nước năm 1968 là: "địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước".

Từ những nhận định trên, Bộ Chính trị chủ trương: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"; đồng thời quyết định phương hướng, nhiệm vụ trọng đại và cấp bách trong thời kỳ mới là "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, đạt tới mục tiêu chiến lược". Hướng tiến công chủ yếu là các thành phố, thị xã và trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân.

Thực tiễn đã chứng minh, đó là đòn đánh độc đáo, hiểm hóc, táo bạo và bất ngờ, tạo chuyển biến về chiến lược, cả quân sự và chính trị. Thắng lợi của sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 phản ánh tầm nhìn chiến lược, tư duy độc lập, tự chủ, nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành chiến tranh cách mạng rất sáng tạo và sắc sảo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện ý chí và tinh thần cách mạng tiến công anh dũng cũng như sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đúng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương về "Tình hình và nhiệm vụ mới" tháng 10-1968 cũng đánh giá: "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng".

Thứ ba, sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để lại cho lớp trẻ hôm nay nhiều bài học sâu sắc, đặc biệt là bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta tổ chức và phát động một cuộc tổng tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn gồm cả ba vùng chiến lược, nông thôn đồng bằng, đô thị và vùng núi, đánh vào các đô thị lớn, vào sào huyệt - cơ quan đầu não của địch mà vẫn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ đến giờ nổ súng. Bài học về sự sáng tạo trong lựa chọn thời điểm, thời cơ chiến lược bắt đầu tổng tiến công khi ta tiến hành vào lúc đế quốc Mỹ đã bước vào năm thứ ba của chiến lược "chiến tranh cục bộ" với sự huy động cao nhất sức mạnh quân sự cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà vẫn không thực hiện được ý đồ đặt ra; là năm nước Mỹ bước vào bầu cử Tổng thống Mỹ; vào thời điểm bất ngờ là vào đúng dịp Tết Mậu Thân 1968.

Tuy nhiên, bài học quan trọng nhất của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bài học phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong tổng tiến công và nổi dậy. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả tiền phương lớn miền Nam và hậu phương lớn miền Bắc đã huy động toàn bộ sức người, sức của để tăng cường thế và lực cho chiến trường miền Nam. Chỉ tính riêng về lực lượng, từ tháng 3-1967 đến tháng 3-1968, 155.000 cán bộ, chiến sĩ đã được đưa vào chiến trường miền Nam. Chỉ tính riêng năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc đã được biên chế thành các đơn vị, binh chủng kỹ thuật bổ sung vào chiến trường miền Nam, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên hơn 277.000 người, trong đó bộ đội chủ lực là 220.000 người, bộ đội địa phương (không kể dân quân, du kích và tự vệ) là 57.000 quân. Năm 1968, hơn 14 vạn cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc hành quân vào miền Nam nhanh chóng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Trên mặt trận vận tải, các chiến sĩ thanh niên xung phong, hải quân miền Bắc cũng đã vượt Trường Sơn và Biển Đông để chi viện cho chiến trường miền Nam 118.923 tấn vũ khí, lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh... để dồn sức phục vụ đắc lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, biểu hiện sinh động nhất là sức mạnh của khối đoàn kết quân - dân; sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân với trí tuệ sáng tạo của Bộ Thống soái tối cao. Thực tế, cuộc tổng tiến công nổ ra, cùng với quá trình tiến công của bộ đội chủ lực, lực lượng đặc công, biệt động ở các thành phố, thị xã là sự phối hợp, đùm bọc, che chở của quần chúng nhân dân, sự nổi dậy của quần chúng ở các vùng nông thôn trên khắp chiến trường miền Nam; sự tham gia tích cực của các cơ sở cách mạng của Đảng trong quần chúng, lực lượng dân quân du kích và phong trào học sinh, sinh viên ở các đô thị... Đó chính là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc huy động cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Thứ tư, biết trân trọng lịch sử, nhất là những đóng góp, hy sinh to lớn của các thế hệ cha anh, trong đó có thế hệ trẻ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước của một dân tộc nhỏ phải đương đầu với những thế lực xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự gấp ta nhiều lần; là lịch sử được viết lên bởi truyền thống yêu nước, khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm cao nhất của cả một dân tộc để giành lại quyền độc lập cho dân tộc và quyền sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 còn là sự ghi nhận những cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã không quản khó khăn, dốc tâm, dốc sức, hy sinh xương máu để tạo ra ưu thế vượt trội giành thắng lợi.

Để lập nên những chiến công thắng lợi, chúng ta phải chịu những "tổn thất nặng nề" , sự hy sinh anh dũng của lực lượng biệt động và đặc công; bộ đội chủ lực, địa phương và du kích; của các cơ sở cách mạng, của đồng bào yêu nước. Chính nhờ những hy sinh, mất mát to lớn đó mà tuổi trẻ hiện nay mới được lớn lên trong hòa bình, độc lập; được thừa hưởng những thành quả cách mạng của các thế hệ cha anh đã cống hiến, hy sinh mới giành được. Tuổi trẻ quân đội luôn tự hào về cha anh, trân trọng trước cống hiến, hy sinh của thế hệ đi trước, đồng thời, tiếp tục góp phần vào khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc bởi chính lòng yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam là truyền thống quý báu, là động lực tinh thần chủ yếu để dân tộc ta trong đó có tuổi trẻ Việt Nam chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược; đó cũng chính là động lực tinh thần, sức mạnh để tuổi trẻ hôm nay tiếp tục viết nên những trang sử mới của dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Thứ năm, hướng tới tương lai, thế hệ trẻ quyết tâm phấn đấu đưa dân tộc đến tiền đồ tươi sáng.

Từ Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đến nay, đất nước ta đã trải qua 50 mùa xuân lịch sử. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang vững bước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Nhìn nhận những thành quả cách mạng, chúng ta có quyền tin tưởng và tự hào vào thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay - những người dám nghĩ, dám làm, đã và đang quyết tâm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, sánh vai với các cường quốc năm châu" như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong đợi. Từ tinh thần cách mạng sôi nổi, âm hưởng hào hùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tuổi trẻ quân đội cần thực hiện một số nội dung sau:

Một là, phải luôn có thái độ và trách nhiệm đúng đắn với lịch sử dân tộc, trong đó có sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 để tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phê phán, bác bỏ những luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong điều kiện bùng nổ thông tin và hội nhập hiện nay, tuổi trẻ quân đội cần phải có khả năng nhận biết đúng, sai; nhận rõ âm mưu và thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch trong chiến lược "diễn biến hòa bình", không để xảy ra "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "phi chính trị hóa quân đội"; kiên quyết phê phán thái độ thờ ơ với tình hình chính trị và vận mệnh dân tộc, bôi nhọ, bóp méo lịch sử, hạ thấp chiến thắng, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.

Hai là, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, vừa tạo nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, sứ mệnh lịch sử đòi hỏi thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và tuổi trẻ quân đội nói riêng phải có niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng và kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để từ đó xung kích, sáng tạo trong sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, lao động sản xuất và công tác, tiếp bước cha anh làm rạng rỡ hơn "dáng đứng Việt Nam"; tiếp tục ra sức rèn đức, luyện tài góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân.

Ba là, thường xuyên bồi đắp lòng yêu nước, giáo dục truyền thống, lịch sử dân tộc cho thế hệ trẻ. Thực tế cho thấy, thế hệ trẻ hiện nay vẫn còn số ít người chưa thấy hết ý nghĩa, truyền thống hào hùng của dân tộc, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, những hy sinh của thế hệ cha ông để cho chúng ta có cuộc sống hòa bình, hạnh phúc hôm nay. Thậm chí có bộ phận còn mang tâm lý tự ti về sự nghèo nàn, lạc hậu của đất nước, bàng quan với lịch sử... Nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các tổ chức là luôn phải tăng cường giáo dục để cho tuyệt đại đa số đoàn viên, thanh niên nhận thức đúng, hành động đúng khát vọng tuổi trẻ "đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay" 1, tiếp bước truyền thống hào hùng của các thế hệ đi trước, tiếp tục học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Bác Hồ đã dạy: "Chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta".

Bốn là, tuổi trẻ quân đội đã, đang và sẽ tiếp tục xung kích đi đầu trong phong trào Tuổi trẻ giữ nước; gương mẫu thực hiện và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", thực hiện đúng chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất trong tình hình mới. Phát huy tinh thần của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế hệ trẻ quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ", các phong trào "Thanh niên quân đội vươn tới những đỉnh cao", "Thanh niên quân đội thi đua rèn đức luyện tài, xung kích, sáng tạo, xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ", "Thanh niên quân đội tiến quân vào khoa học và công nghệ"... biến cuộc vận động và những phong trào trên đây thành hành động cách mạng sôi nổi, thiết thực, cụ thể; thúc đẩy các tổ chức đoàn và tuổi trẻ toàn quân xung kích vươn lên chiếm lĩnh, xác lập những đỉnh cao mới trong học tập, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, rèn luyện kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, xả thân trong chống thiên tai thảm họa, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. Khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của các chiến sĩ cách mạng trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 năm xưa nay cần được củng cố, phát huy, trở thành lý tưởng, hoài bão và hành động cụ thể để "giữ vững độc lập dân tộc", "xung kích đi vào khoa học - công nghệ quân sự", "sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc"...

Xuân Mậu Thân 1968 ghi dấu chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước. Tuổi trẻ Việt Nam luôn trân trọng và tự hào về những chiến công đó.



----------------------------------------------------------------
1. Lời bài hát Khát vọng tuổi trẻ của nhạc sĩ Vũ Hoàng.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tám, 2020, 02:57:27 pm
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
QUA NHỮNG ĐĂNG TẢI TRÊN TẠP CHÍ LỊCH SỬ QUÂN SỰ



Thượng tá, ThS. ĐỖ MẠNH CƯỜNG
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Lịch sử quân sự


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã tạo ra một bước ngoặt lớn, có ý nghĩa chiến lược chuyển chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Thắng lợi đó góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đánh bại ý chí tiếp tục sử dụng sức mạnh quân sự của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán, mở ra cục diện "vừa đánh vừa đàm" để đi tới kết thúc chiến tranh. Năm mươi năm trôi qua, đã có nhiều công trình, bài viết xoay quanh chủ đề cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được công bố ở cả trong và ngoài nước. Là cơ quan ngôn luận của ngành Lịch sử quân sự và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, đồng thời là một diễn đàn khoa học, trong suốt 35 năm qua, Tạp chí Lịch sử quân sự đã thường xuyên quan tâm, đăng tải các bài viết về chủ đề này.

Các vấn đề về chủ đề Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được đề cập ở Tạp chí Lịch sử quân sự rất phong phú, đa dạng, của nhiều tác giả, thuộc nhiều thể loại, tập trung vào một số nội dung chính sau: Sự chủ động, táo bạo của Đảng khi chủ trương sử dụng đòn tiến công vào các đô thị trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968; bối cảnh, tương quan lực lượng giữa ta - địch và mục tiêu của cuộc Tổng tiến công; Tổng tiến công và nổi dậy là một đòn đánh bất ngờ đối với Mỹ và quân đội Sài Gòn; một số hạn chế trong thực hành Tổng tiến công và nổi dậy; ý nghĩa và những tác động của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Thứ nhất, sự chủ động, táo bạo của Đảng khi chủ trương sử dụng đòn tiến công vào các đô thị trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.

Thực hiện ý đồ biến miền Nam Việt Nam thành bàn đạp vững chắc để tiến công miền Bắc rồi từ đó lấy Việt Nam làm tiền đồn để ngăn chặn "làn sóng đỏ" - tức sự ảnh hưởng của phe xã hội chủ nghĩa, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã ra sức xây dựng các đô thị thành các căn cứ hậu phương. Chính vì thế, các thành phố, đô thị trở thành nơi tập trung các cơ quan đầu não, các trung tâm chính trị, kinh tế của địch với lực lượng mạnh, hiện đại. Việc Đảng ta lựa chọn các đô thị làm mục tiêu tiến công sẽ tạo tiếng vang lớn có tác động tới cục diện chiến tranh. Chủ trương đánh vào đô thị được bắt nguồn từ ý tưởng táo bạo của đồng chí Lê Duẩn "có đánh vào sào huyệt địch ở các đô thị mới tạo được chuyển biến lớn". Sau nhiều cuộc họp, bàn thảo điều chỉnh kế hoạch, ngày 19-1-1968, Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm tiến hành cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên chiến trường miền Nam trong năm 1968 với chủ trương: đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, mà hướng hiểm yếu, trọng điểm là Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng; mục tiêu tiến công là nhằm vào các cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các trung tâm chỉ huy, các hậu cứ, vừa tiêu diệt sinh lực, vừa phá hủy phương tiện chiến tranh của địch. Điểm đặc sắc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự của ta trong Tết Mậu Thân đó là "tìm ra và thực hiện thành công xuất sắc một cách đánh mới vượt ra ngoài dự lường và mọi sự tính toán trước đó của Nhà Trắng - Lầu Năm Góc và Bộ Tư lệnh MACV ở Sài Gòn".

Thứ hai, chủ trương tiến công vào đô thị của Trung ương Đảng dựa trên sự nghiên cứu kỹ lưỡng về bối cảnh, tương quan lực lượng giữa ta - địch và mục tiêu của cuộc Tổng tiến công.

Nội dung này được hầu hết các bài viết đề cập tới. Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra trong bối cảnh: Bạn bè quốc tế đã công nhận, đặt quan hệ ngoại giao, đồng thời tích cực giúp đỡ, ủng hộ vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ngày càng bị sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ buộc phải tiếp tục tăng quân, trang thiết bị hiện đại và chi phí quân sự. Đầu năm 1968, số quân Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam đã tăng lên 535.000 quân. Chi phí của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam những năm 1965-1966 là 4,7 tỷ đôla, đến năm 1967 đã tăng lên 30 tỷ, gấp 1,5 lần số tiền Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh Triều Tiên trong 3 năm. Được sự hậu thuẫn của Mỹ, quân đội Sài Gòn cũng ra sức tăng quân, bắt lính, nâng số quân từ 552.000 tên năm 1967 tăng lên 555.000 tên vào cuối năm 1968.

Về phía ta, với thắng lợi trong hai cuộc phản công mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, ta đã "khiến địch không đạt được cả hai mục tiêu là tìm diệt và bình định, không giành lại được thế chủ động trên chiến trường. Ta càng đánh càng mạnh, đẩy Mỹ ngày một lún sâu vào thế bị động, lúng túng, giới lãnh đạo Mỹ bị chia rẽ, bất đồng sâu sắc về chiến tranh Việt Nam". Trong hai năm 1967-1968, được sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ở miền Nam, không kể lực lượng dân quân, du kích, tự vệ, có 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương.

Tương quan lực lượng cho thấy, đến năm 1968, ta vẫn còn sự chênh lệch rất lớn so với quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Tuy nhiên, lực lượng cách mạng vượt trội hơn kẻ thù về ý chí, quyết tâm chiến đấu và thế trận chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở phân tích tình hình, Trung ương Đảng chỉ rõ cuộc kháng chiến "đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược", tình hình cho phép ta "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Để có được quyết định chớp thời cơ và đề ra chủ trương chính xác "là cả một quá trình phân tích, đánh giá tất cả các nhân tố địch, ta trên chiến trường, ở hậu phương cũng như trên thế giới liên quan tới cuộc chiến tranh; là quá trình bàn bạc, hoàn thiện dần từng bước chủ trương chiến lược giữa Bộ Tổng hành dinh với lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường, với các ngành, các cấp có liên quan". Sau khi xác định quyết tâm chớp thời cơ, Đảng ta đặt mục tiêu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968: "nhằm giáng cho địch một đòn thật mạnh, hiểm, bất ngờ và đồng loạt, làm lung lay, tiến tới đánh bại ý chí tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc Mỹ phải thừa nhận một sự thật là Mỹ không thể thắng được Việt Nam về quân sự, buộc chúng phải có những tính toán, tư duy về cách thức kết thúc chiến tranh theo hướng có lợi cho ta".

Thứ ba, một yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là do ta đã tạo được đòn đánh bất ngờ đối với Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Nhờ sự chỉ đạo chủ động, chuẩn bị mọi mặt nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm cho cả Mỹ, chính quyền Sài Gòn bất ngờ về mọi mặt. Trước khi mở cuộc tiến công, ta đã tạo cho Mỹ và quân đội Sài Gòn sự bất ngờ bởi cuộc nghi binh chiến lược tại Khe Sanh. Trong nội dung này, các bài viết cho thấy để hoàn thành quyết tâm của Đảng, "Bộ Tổng Tham mưu đã chủ động xây dựng một kế hoạch nghi binh chiến lược và phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường vào tháng 11-1967. Ngày 18-11-1967, Bộ Tổng Tham mưu gửi tiếp bản kế hoạch này cho Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam". Để củng cố thêm niềm tin cho đối phương vào "bản kế hoạch giả", ta tổ chức cho "các cơ quan thông tấn, báo chí và đài phát thanh tập trung đưa tin về các trận đánh ở những hướng ta chủ động nghi binh thu hút địch, hạn chế tuyên truyền những trận đánh của ta vào các đô thị ở miền Nam". Theo kế hoạch, đêm 20 rạng ngày 21-1-1968, ta nổ súng tiến công Khe Sanh, uy hiếp mạnh tuyến phòng thủ của địch trên Đường 9. Lập tức, quân Mỹ điều lực lượng lên hướng Đường 9 để đối phó. Tổng thống Giônxơn chỉ thị thành lập Sơ đồ chiến sự Khe Sanh ngay tại Nhà Trắng để theo dõi tình hình, yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải bảo vệ Khe Sanh bằng bất cứ giá nào. Kết quả, tới trước ngày cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra thì "Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và các tướng lĩnh Mỹ vẫn hoàn toàn lạc hướng trong việc phán đoán ý đồ chiến lược thực sự của ta". Chính vì vậy, thời điểm đúng đêm giao thừa, cuộc Tổng tiến công của Quân giải phóng vào tận sào huyệt đã khiến cho địch bất ngờ, choáng váng.

Một điều không thể chối cãi, đó là cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bị bất ngờ về thời điểm, quy mô và mục tiêu cuộc tiến công. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã tiến công và nổi dậy ở 4 thành phố lớn, trọng tâm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng và nhiều quận lỵ, thị trấn. Đặc biệt tập trung tiến công vào nội thành và các cơ quan đầu não như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn, các căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng, Sở chỉ huy. Mặc dù, phía Mỹ đã cố gắng biện bạch và cho rằng họ đã dự đoán và ứng phó có kết quả, "Nhưng khi xem xét một cuộc chiến tranh đã tiến hành với gần 50 vạn quân triển khai trên chiến trường, mà cả giới cầm quyền và quần chúng đông đảo ở hậu phương đã bị choáng váng vì đòn tiến công lớn của đối phương thì không thể chối cãi được rằng: đây là một bất ngờ lớn trong cuộc chiến".

Thứ tư, một vấn đề khá "nhạy cảm" được Tạp chí Lịch sử quân sự đăng tải là một số hạn chế trong thực hành Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân.

Sau Tết, quân địch đã chuyển sang thực hiện biện pháp "quét và giữ". Chúng tổ chức phòng thủ dày đặc tuyến thành thị, yếu tố bất ngờ không còn nữa. Sức của ta đã hao mòn và sút giảm nhiều, cơ sở chính trị bộc lộ và bị tan rã, căn cứ đứng chân của ta ở nhiều vùng nông thôn lại bị bỏ lỏng. Chính vì vậy, khi ta tiến hành hai đợt đánh vào thành thị tháng 5 và tháng 8-1968, tuy có giành được một số thắng lợi nhất định, song về phía ta cũng gặp "nhiều khó khăn, tổn thất". "Cuộc Tổng công kích và tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân là đỉnh cao của quá trình chống Mỹ - kể từ khi Mỹ đem quân vào miền Nam nước ta cho đến lúc phải ngồi vào bàn đàm phán. Tuy vậy, cuộc Tổng tiến công đã mắc sai lầm là: chủ quan, đánh giá không đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, đánh giá quá cao về phong trào quần chúng nổi dậy và khởi nghĩa ở đô thị. Vì thế, chúng ta đã đề ra chủ trương lấy tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành chính quyền toàn miền Nam... Đến cuối năm 1968, khi lực lượng ta đã tổn thất nhiều, yếu tố bất ngờ không còn nữa, thế mà ta vẫn còn chủ quan, sai lầm ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào đô thị như hồi Tết Mậu Thân. Vì thế địch đã tập trung lực lượng bình định ở nông thôn và đối phó với ta ở đô thị, gây cho ta khó khăn trong các năm 1969, 1970". Trong bài nói chuyện về tổng kết chiến tranh, biên soạn lịch sử, đồng chí Lê Đức Thọ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định lại rằng sử dụng cụm từ "tổng tiến công và nổi dậy" là xác đáng. Đồng chí cũng đưa ra những phân tích, luận giải và cho rằng, trong Tết Mậu Thân chúng ta đề ra khẩu hiệu "công - nông - binh liên hiệp" như khẩu hiệu chiến lược là không sát hợp, nhưng sau đó ta đã kịp thời rút kinh nghiệm. Một khuyết điểm nữa cũng được đồng chí đề cập là vấn đề muốn giành thắng lợi dứt điểm trong một thời gian tương đối ngắn - trong lúc so sánh, tương quan lực lượng quân sự và chính trị giữa ta và địch chưa cho phép, chưa thể giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn được.

Đề cập đến vấn đề tổng khởi nghĩa, Đại tướng Hoàng Văn Thái khẳng định: Đầu năm 1968, ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy bất ngờ, đồng loạt và giành thắng lợi rất to lớn, có tầm chiến lược... Nhưng ta vẫn không thực hiện được tổng khởi nghĩa, vì lúc này quân đội địch vẫn còn rất đông...

Thứ năm, mặc dù có những hạn chế nhất định, song không thể phủ nhận ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Trong quá trình 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là đỉnh cao thắng lợi quyết định đánh cho "Mỹ cút", khi mà Mỹ đã lên tới những nấc thang chiến tranh cuối cùng với mức cố gắng cao nhất. Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 "như một nguyên cớ trực tiếp phơi bày toàn bộ sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải đối mặt với một thực tế khắc nghiệt là: nếu Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi chiến tranh trên con đường cũ thì sẽ gây ra những hậu quả không thể kể xiết cho vị trí kinh tế của Mỹ trong nước cũng như ở ngoài nước, cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở những nơi khác và cho đời sống chính trị của Mỹ nữa" . Đây chính là bước tạo đà để chúng ta tiến hành trận quyết chiến chiến lược mùa Xuân 1975 đánh cho "ngụy nhào", kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, thu giang sơn về một mối. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã tạo nên bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, "Tầm cao thắng lợi chiến lược không chỉ ở chỗ tiêu hao, tiêu diệt một số lực lượng quân Mỹ, làm cho ngụy quân ngụy quyền suy yếu đến mức nhiều năm sau không phục hồi được mà còn ở chỗ đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ, loại bỏ được đối tượng tác chiến chủ yếu là quân viễn chinh Mỹ, đánh bại cuộc chiến tranh cục bộ, "đánh cho Mỹ cút", mở ra một thời kỳ mới, mở đầu bước tiến lên đánh thắng chiến lược chiến tranh cuối cùng của đế quốc Mỹ ở miền Nam "đánh cho ngụy nhào" để giành toàn thắng". Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một bước ngoặt lớn, đúng như Bộ Chính trị - Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đánh giá: "Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà lớn nhất là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh".

Cùng các nội dung chính đã trình bày với những nét chính ở trên, các bài viết trên Tạp chí Lịch sử quân sự còn đề cập tới khá nhiều vấn đề có liên quan tới sự kiện này: báo chí với sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân ("Sự kiện Tết Mậu Thân qua phản ánh của báo chí ở Sài Gòn năm 1968" của Hồ Sơn Diệp, số 6-2013); bảo đảm hậu cần cho Tổng tiến công ("Công tác bảo đảm hậu cần lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1965-1968" của Lê Chính, số 6-2015); diễn biến các đợt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ("Diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968" của Lê Xuân Thử, số 2-1988); Tổng tiến công và nổi dậy ở một số địa phương ("Đà Nẵng trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968" của Ngô Văn Minh, số 1-2006, "Huế mùa Xuân rực lửa" của Đặng Kinh, số 1-2008, "Nha Trang - Khánh Hòa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968" của Chu Đình Lộc, số 1-2013, "Đồng Tháp Mười, những ngày Mậu Thân lịch sử" của Trần Phấn Chấn, số 1-1993, "Quảng Ngãi - Mậu Thân 1968" của Võ Cao Lợi, số 1-2008...); hoạt động của các chiến trường phối hợp ("Chiến dịch tiến công Tây Ninh - Bình Long" của Võ Văn Xít, số 11-2008); lực lượng tham gia Tổng tiến công và nổi dậy ("Trí thức Nam Bộ với "sự kiện Tết"" của Hồ Sơn Diệp, số 1-2008, "Phụ nữ Huế và mùa Xuân Tổng tiến công" của Lê Cung, số 1-2008...); mặt trận ngoại giao với Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ("Tết Mậu Thân 1968 và mặt trận ngoại giao" của Nguyễn Khắc Huỳnh, số 2-2007); thời gian mở màn của cuộc tiến công ("Thử tìm "giờ G" của Tết Mậu Thân" của Lê Thành Lân, số 2-2008)... Cùng với các bài viết của các chuyên gia, nhà nghiên cứu trong nước, còn phải kể tới những bài viết của các tác giả là người nước ngoài ("Cuộc Tổng tiến công Tết" của Philip B. Đavítsơn, số 1-1993). Tạp chí Lịch sử quân sự cũng đăng tải nhiều bài viết giới thiệu về các nơi lưu trữ và nội dung của một số tư liệu cả trong nước và nước ngoài có liên quan tới chủ đề đang đề cập ("Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 qua tài liệu của Mỹ" của Nguyễn Đôn Tự, số 1-1998; "Tết Mậu Thân từ những nguồn tư liệu" của Chu Văn Tùng, số 2-1998; "Đối phó của chính quyền Mỹ với đòn tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 qua tài liệu lưu trữ của Nhà Trắng" của Lê Đỗ Huy, số 1-2012...). Những tư liệu, bài viết này góp phần cung cấp thêm những góc nhìn đa chiều, toàn diện hơn, tái hiện rõ nét hơn về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.



Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tám, 2020, 03:09:55 pm
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
QUA NGUỒN TƯ LIỆU LƯU TRỮ TẠI VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM



Thượng tá, ThS. VŨ THỊ KIM OANH
Phó Trưởng phòng Thông tin - Tư liệu, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự kiện lịch sử mang tầm vóc và ý nghĩa lớn; "đã mở ra một bước ngoặt chiến lược, đánh dấu thời kỳ Mỹ phải xuống thang chiến tranh".

Buộc Mỹ phải "xuống thang" chiến tranh vào lúc nỗ lực của Mỹ đang lên tới đỉnh cao là một thắng lợi to lớn của quân và dân ta; là thành công, đặc biệt là những sáng tạo chiến lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng. Sau "Tết Mậu Thân" đã có nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, bút chiến và nhiều công trình khoa học với những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về sự kiện lịch sử trọng đại này.

Trong những năm qua, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã sưu tầm, tập hợp và xử lý một khối lượng lớn tư liệu về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử quân sự, tổng kết chiến tranh. Nói chung, tư liệu về sự kiện Mậu Thân 1968 rất đa dạng, phong phú, phản ánh nhiều lĩnh vực liên quan (quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội...); cả trên chiến trường, trong nước và trên thế giới. Nguồn tư liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam gồm các khối: Tài liệu Trung ương; Tài liệu các đơn vị, địa phương; Tài liệu ngoại văn; Tài liệu khác liên quan. Cụ thể là:

1. Khối tài liệu Trung ương

Bao gồm các văn kiện Đảng, tài liệu Trung ương Cục miền Nam, các bài nói và viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội. Đây là các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo, nhận định, đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về quá trình hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh phương hướng chiến lược cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Khối tài liệu này gồm cả tài liệu được sao chép từ các tài liệu gốc ở Văn phòng Trung ương Đảng và sách của các nhà xuất bản. Có thể kể đến các tài liệu như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng tháng 1-1968 về thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (29 trang đánh máy); Nghị quyết số 188-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 10-5-1969 về tình hình và nhiệm vụ (24 trang đánh máy); Những văn kiện của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 đến năm 1969 (325 trang đánh máy); Tập trích các Nghị quyết, Chỉ thị, Báo cáo của Quân ủy Trung ương và các bài nói của các đồng chí lãnh đạo quân đội về chỉ đạo tác chiến ở miền Nam (125 trang đánh máy)...; Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 29; Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, tập 2, năm 2012 của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia...

Trong khối tài liệu này, phải kể tới mảng tài liệu Trung ương Cục miền Nam, gồm các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo, nhận định... của các cơ quan chỉ đạo, chỉ huy các chiến trường, các mặt trận, các địa phương miền Nam như: Trung ương Cục, Quân ủy Miền, Đảng ủy Hậu cần tiền phương... phản ánh khá đầy đủ các khía cạnh cụ thể của các chiến trường và toàn miền trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Các nghị quyết với những nhận định về tình hình, đề ra những chủ trương và yêu cầu cụ thể cho chiến dịch như: Nghị quyết về Quân sự của Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền đối với khu trọng điểm ngày 5-2-1968; Nghị quyết của Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền ngày 6-2-1968 về thừa thắng xông lên, liên tục tấn công địch, kiên quyết giành thắng lợi cuối cùng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục (mở rộng) lần thứ 6 (3-1968); Nghị quyết của Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền ngày 12-5-1968... Trong đó, một số nghị quyết Trung ương Cục và Quân ủy Miền được cụ thể hóa bằng các chỉ thị, điện, báo cáo... trong từng thời điểm, về các mặt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy như: Chỉ thị ngày 9-12-1967 của Thường vụ Trung ương Cục hướng dẫn về việc chuẩn bị và tiến hành công kích và khởi nghĩa ở các thành phố, thị xã; Thông báo của Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền về sơ bộ nhận định tình hình ngày 1-2-1968; Điện của Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền gửi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương về tình hình ta, địch ở trọng điểm sau 48 giờ từ khi nổ súng và hướng chỉ đạo tới...

Nội dung tổng quát của khối tài liệu này đã phản ánh chủ trương, đường lối chính trị, quân sự của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 nói riêng được phát triển, bổ sung từng bước trong quá trình chỉ đạo cách mạng và chiến tranh trên cơ sở thực tiễn. Các tài liệu này đã làm rõ nét đặc sắc của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tập trung nhất là việc nhận thức, phát hiện thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời, xác định hướng tiến công, mục tiêu tiến công chủ yếu một cách táo bạo, xác đáng và tìm ra phương thức tiến công mới; đồng thời, cho thấy sự đúng đắn, sáng suốt của Đảng trong nhận thức, đánh giá về âm mưu và hành động của kẻ thù, trên cơ sở đó hoạch định chủ trương, đường lối, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cuộc tiến công một cách phù hợp, hiệu quả - nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.

2. Khối tài liệu các đơn vị, địa phương

Gồm các tài liệu lịch sử các đơn vị, lực lượng trực tiếp tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy như lịch sử các sư đoàn, trung đoàn..., với các công trình: Lịch sử Đại đoàn Đồng Bằng - Sư đoàn 320: Biên niên sự kiện (1951-2005); Lịch sử Sư đoàn 308 - Quân Tiên phong (1949-2009); Lịch sử Trung đoàn 66; Lịch sử Tiểu đoàn bộ binh 48 anh hùng (1965-2005)... và lịch sử các địa phương thuộc địa bàn diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy như địa bàn các quân khu 5, 6, 7, 8, 9... với các công trình: Thừa Thiên - Huế kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); Lịch sử thành phố Đà Nẵng; Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh trong Xuân Hè 1968; Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Tây Nguyên 1954-1975; Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Tơ...

Khối tài liệu hết sức đa dạng này khẳng định rõ sức mạnh của quần chúng nhân dân. Một "thế trận lòng dân" được triển khai xây dựng vững chắc trên toàn miền Nam. Đó là tinh thần chủ động, tích cực, đánh giặc bằng các lực lượng, đánh ở mọi nơi, mọi lúc, đánh bằng mọi thứ vũ khí và bằng các cách đánh khác nhau, chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Các tác phẩm, công trình thuộc thể loại này còn cho thấy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại các địa phương đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước và ý chí tiến công tiêu diệt giặc của quân và dân ta; phát huy mạnh mẽ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vượt mọi khó khăn, gian khổ, chấp nhận tổn thất, hy sinh để chiến đấu và chiến thắng.

3. Khối tài liệu ngoại văn

Với số lượng trên 1.000 bản, gồm cả tài liệu nguyên bản và tài liệu đã dịch sang tiếng Việt, trong đó, tài liệu liên quan đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 chiếm số lượng không nhỏ. Đối tượng viết các công trình về Tết Mậu Thân 1968 rất đa dạng, đó là các nhà nghiên cứu lịch sử, các quan chức cao cấp (tổng thống Mỹ, tướng lĩnh, chính khách...), các cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam. Cùng với đó, các tổ chức như Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các tổ chức nghiên cứu lịch sử quân sự của Bộ Quốc phòng Mỹ và các nhà sử học nước ngoài... cũng công bố các công trình nghiên cứu về sự kiện Tết Mậu Thân.

Công trình của các chính khách, tướng lĩnh Hoa Kỳ thường viết về tình hình chiến sự. Các tổng thống Giônxơn (L. Johnson) và Níchxơn (R. Nixon) đều viết hồi ký có nội dung liên quan trực tiếp đến sự kiện Tết Mậu Thân 1968 (đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam). Ngoài ra, Giônxơn còn là tác giả của tác phẩm khá nổi tiếng The vantage point: Perspectives of the Presidency 1963-1969 (Ưu thế: Những triển vọng của chức tổng thống), xuất bản năm 1971. Công trình là sự nhìn nhận của Tổng thống Giônxơn về nhiệm kỳ tổng thống 1963-1969 của mình, với nhiều chi tiết phản ánh và lý giải những việc chính trị gia này đã làm trong những năm ở Nhà Trắng: từ việc quyết tâm "bảo vệ" Nam Việt Nam, đến việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam và gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ... Đặc biệt, sự kiện Mậu Thân 1968 đã buộc Tổng thống Giônxơn phải đưa ra quyết định ngừng ném bom miền Bắc, không chấp nhận yêu cầu tăng quân của Oetmolen (Westmoreland), không ra tái cử tổng thống nhiệm kỳ 2 và tìm kiếm một giải pháp đàm phán hòa bình cho cuộc chiến. Bên cạnh đó, còn có thể kể đến Oetmolen với A soldier report (Tường trình một quân nhân); Gran Sáp (U.S Grant Sharp) với Strategy for defeat: Vietnam in retrospect (Chiến lược của sự thất bại: Việt Nam - nhìn lại quá khứ); R. Mắc Namara với nhiều tác phẩm, trong đó có cuốn: In retrospect: The tragedy and lessons of Vietnam (Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học ở Việt Nam) và cuốn: Argument without end (Cuộc tranh cãi không dứt)...

Ngoài ra, những người lính (cựu chiến binh) viết về những điều tai nghe mắt thấy ở chiến trường như: Ph. Đao (Frederick Downs) với Aftermath: A soldier's return from Vietnam (Hậu quả: Một người lính trở về từ Việt Nam). Là người thuộc Đại đội Delta, Lữ đoàn 3 đóng tại Đức Phổ, Quảng Ngãi từ ngày 8-9-1967 đến ngày 11-1-1968, bị thương trong cuộc tiến công Tết 1968, Ph. Đao kể lại những điều mà một người lính bị thương phải chịu đựng trên quãng đường dài trở về và làm thế nào để đối mặt với cuộc sống sau khi trở về từ Việt Nam như: lấy lại chính mình, hòa nhập với bạn bè, công việc, tình yêu trong sự hỗn độn của cuộc sống. Có thể thấy, câu chuyện của tác giả miêu tả là một hệ lụy khác của cuộc chiến tranh mà chính những người lính của quân đội xâm lược phải gánh chịu: "Hội chứng Việt Nam". Đó là lý do nhiều người lính trở về từ Việt Nam bị sang chấn tâm lý, mất phương hướng, bế tắc. Một nhân chứng khác là Ôplingơ (Jon Oplinger) - một chỉ huy Trung đội súng trường thuộc Đại đội D, Tiểu đoàn 2, Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, từng tham chiến ở Việt Nam từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1968, tác giả cuốn hồi ký Quang Tri Cadence Memoir of a Rifle Platoon Leader in the Mountain of Vietnam (Phần kết Quảng Trị). Ôplingơ kể lại chi tiết nỗi sợ hãi, sự hoang mang thường trực của lính bộ binh Mỹ. Qua đó, tác giả cho rằng trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam không có người anh hùng nào mà chỉ có những người sống sót trở về. Nôlan (Keith William Nolan) viết Battle for Hue: Tet 1968 (Trận đánh vào Huế: Tết 1968), kể câu chuyện về nỗi sợ hãi, những người bạn bị bỏ mạng trên chiến trường, sự mệt mỏi chán nản, những khó khăn mà họ phải chịu đựng ở Huế trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968.

Đối với các học giả và sử gia Hoa Kỳ, viết về Mậu Thân 1968 phải kể đến các tác giả như: Hơring (George C. Herring) với America’s longest war: The United States and Vietnam 1950-1975 (Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của Mỹ: Mỹ và Việt Nam 1950-1975); LBJ and Vietnam: A different kind of war (Johnson và Việt Nam: Một kiểu khác của cuộc chiến tranh); Enxbéc (Daniel Ellsberg) với Secrets: A memoir of Vietnam and the Pentagon papers (Những bí mật: Hồi ức về Việt Nam và Tài liệu Lầu Năm Góc); Shihân (Neil Sheehan): The Pentagon papers: The secret History of the Vietnam war (Tài liệu Lầu Năm Góc: Bí mật lịch sử chiến tranh Việt Nam); A Bright Shining lie - John Paul Vann and America in Vietnam (Sự lừa dối hào nhoáng - John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam); Panmơ (Bruce Palmer): The 25 year war: American's Military role in Vietnam (Cuộc chiến tranh 25 năm: Vai trò quân sự của Mỹ ở Việt Nam); Bécmơn (Larry Berman): Lyndon Johnson's war (Cuộc chiến tranh của Lyndon Johnson); Côncô (Gabriel Kolko): Anatomy of a war: Vietnam, the United States, and the modern historical experience (Giải phẫu một cuộc chiến tranh: Việt Nam, Mỹ và những bài học kinh nghiệm của lịch sử hiện đại); Prađôx (John Prados): The hidden history of the Vietnam war (Lịch sử được che giấu về chiến tranh Việt Nam); S. Cácno (Stanley Karnow): Vietnam: A history (Việt Nam - Một thiên sử); P. Braexchắp (Peter Braestrup): Big Story: How the American Press and Television reported and interpreted the crisis of Tet 1968 in Vietnam and Washington (Câu chuyện lớn - Cách tường thuật và giải thích về cuộc khủng hoảng Tết 1968 ở Việt Nam và Washington của báo chí và truyền hình Mỹ); Schadlơ (H.Y. Schandler): Lyndon Johnson and Vietnam: the Unmaking of a President (Johnson và Việt Nam - Sự nghiệp của một Tổng thống bị đổ vỡ)... Nội dung các công trình này tập trung vào nhiều vấn đề: bối cảnh lịch sử chiến trường miền Nam trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết 1968; diễn biến, kết quả và tác động của cuộc Tổng tiến công cũng như thực trạng chiến trường miền Nam sau "sự kiện Tết" và những năm sau đó. Tuy còn có những quan điểm, nhận định thiếu khách quan, phiến diện, nhưng qua đó, giúp cho độc giả có cái nhìn đa chiều. Đây là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị.

4. Khối tài liệu khác liên quan

 Bao gồm các tài liệu tổng kết thuộc kho tài liệu mật của Thư viện, báo, tạp chí, luận văn, luận án, tài liệu phỏng vấn nhân chứng... Tài liệu tổng kết về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 thuộc dạng tài liệu mật, gồm các dự thảo, đề cương, báo cáo tổng kết của các chiến trường, các mặt trận, các địa phương, đơn vị..., đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của sự kiện, từ các vấn đề chung về chiến lược, chiến thuật; tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, xây dựng lực lượng vũ trang của các quân, binh chủng..., tới diễn biến chiến sự từng ngày, từng giờ cụ thể trên các chiến trường, tại các địa bàn chiến lược trong suốt quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Có thể điểm qua một số tài liệu sau: Đề cương báo cáo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân năm 1968; Một số ý kiến về kết quả thực hiện chủ trương Tổng công kích, tổng khởi nghĩa năm 1968 - Nguyên nhân và những kinh nghiệm chính về chỉ đạo chiến lược; Báo cáo tổng hợp đợt 1 (29-1 đến 16-2-1968) của Bộ Chỉ huy Miền; Đề cương báo cáo sơ kết đợt tấn công lần 2 (tháng 5-1968) của Bộ Chỉ huy Miền; Báo cáo một số điểm về công tác quân sự trong năm 1968 của Miền; Báo cáo năm 1968 và tình hình, nhiệm vụ năm 1969 của Miền: Dự thảo đề cương; Thống kê thương vong toàn Miền 2 đợt (từ 31-1 đến 20-2-1968 thời hạn cuối cùng); Tổng hợp 3 tháng quý I năm 1968 và 3 tháng đầu tổng công kích - tổng khởi nghĩa (tháng 2, 3, 4-1968) của Miền... Mảng tài liệu gốc cấp một này đã và đang được khai thác, sử dụng hiệu quả trong quá trình biên soạn các công trình tổng kết chiến tranh, lịch sử quân sự của các đơn vị, địa phương trong cả nước.

Trong kho lưu trữ của Thư viện, khối tài liệu được khai thác khá nhiều là mảng báo chí (có các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân) và các tạp chí (tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Quốc phòng toàn dân, tạp chí Lịch sử Đảng...); đặc biệt, tạp chí Lịch sử quân sự được lưu giữ từ những số ra đầu tiên. Nhiều bài đăng trên tạp chí tập trung bàn về những tác động của cuộc tổng tiến công Tết như: Bàn thêm về tác động Tết Mậu Thân; Mậu Thân 1968, lời mời "Yankee go home" ngoạn mục; Tác động của Mậu Thân 1968 đối với chiến lược của Mỹ về Việt Nam (1968-1969); "Mũi vu hồi" từ nước Mỹ trong đòn tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968; Mỹ thua về chiến lược chính là thua về quân sự nặng nề nhất... Qua những phân tích, bình luận, đánh giá, các tác giả đều cơ bản thống nhất đánh giá về những tác động của sự kiện Mậu Thân 1968 đối với chính giới Mỹ đó là: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy như "một đòn sét đánh" đối với đế quốc Mỹ xâm lược, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, quân đội Mỹ bị đánh bại trong một cuộc chiến tranh. Tướng Oétmolen, Tổng Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam, bị cách chức, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ chức. Tổng thống Mỹ Giônxơn phát biểu trên truyền hình ngày 31-3-1968, tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh; chấp nhận đàm phán không điều kiện với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Rõ ràng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đã đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ, giáng đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ và mở đầu quá trình xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta; mở đầu quá trình từng bước "bỏ rơi" chính quyền và quân đội Sài Gòn mà Mỹ đã dày công xây dựng và dung dưỡng.

Ngoài việc đề cập đến tác động của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết, các bài viết còn đề cập đến nhiều nội dung khác như: Sự kiện Tết Mậu Thân qua phản ánh của báo chí ở Sài Gòn năm 1968; Thực trạng cuộc chiến tranh cục bộ của Hoa Kỳ ở Việt Nam trước Mậu Thân 1968; Dư âm Tết Mậu Thân 1968 trong cựu chiến binh Mỹ; MACV tại "khúc ngoặt" sau Tết Mậu Thân; Mậu Thân, cuộc tổng diễn tập chiến lược; Cuộc tiến công Tết Mậu Thân và sự chuyển hướng chiến lược của Trung Hoa cuối thập niên 60 qua đánh giá của học giả Mỹ...

Trên đây là vài nét giới thiệu về nguồn tài liệu liên quan đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 hiện đang lưu trữ tại Thư viện - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Rất mong nhận được sự quan tâm nghiên cứu, khai thác cùng những gợi mở bổ sung thông tin của bạn đọc.


Tiêu đề: Re: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Bước ngoặt quyết địn
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tám, 2020, 03:15:04 pm
BÁO CÁO TỔNG THUẬT HỘI THẢO
"CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - 
BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ"



Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN
Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta diễn ra cách đây tròn 50 năm là một trong những sự kiện có tầm vóc lịch sử và thời đại, tạo bước ngoặt chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

50 năm đã trôi qua, với những nguồn tư liệu mới được công bố, với quan điểm khách quan, khoa học, gợi mở những vấn đề cần tìm hiểu, nghiên cứu về sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chúng ta có thêm những nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn về tầm vóc, ý nghĩa của thắng lợi lịch sử này; đồng thời, đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để vận dụng, phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử".

Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được hơn 100 bài tham luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương, các quân khu, quân đoàn, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, nhân chứng lịch sử, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội đã gửi bài tham gia.

Cuộc Hội thảo lần này đã kế thừa một phần quan trọng thành quả nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng; đặc biệt là những vấn đề đã được đề cập, gợi mở từ các cuộc hội thảo nhân dịp kỷ niệm 30 năm, 40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Mỗi tham luận thực sự là một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, phản ánh khá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tập trung làm nổi bật các vấn đề cơ bản sau:

Một là, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một phát kiến sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện tinh thần chủ động, quyết đoán trong chỉ đạo chiến tranh nhân dân.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra đồng loạt, tập trung vào các đô thị trên toàn miền Nam đúng dịp Tết Mậu Thân, khiến Mỹ và chính quyền Sài Gòn "bàng hoàng", "choáng váng", mất phương hướng trong một thời gian nhất định. Hiệu ứng đó đã được các tham luận tập trung làm rõ và khẳng định: Mỹ đã bị bất ngờ về thời điểm, quy mô, phương hướng và phương pháp tiến công của quân và dân ta. Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương: mở cuộc tiến công và nổi dậy bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa đúng vào đúng dịp Tết Mậu Thân 1968 - thời điểm địch ít đề phòng nhất - đã thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết đoán của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chỉ đạo, điều hành chiến tranh, chỉ đạo tác chiến chiến lược.

Đi sâu phân tích về quyết định lịch sử của Đảng, các tác giả làm nổi bật yếu tố thời cơ mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Thời cơ đó chính là kết quả của quá trình chuẩn bị về mặt đường lối, chủ trương, kết quả của quá trình nỗ lực, phấn đấu, hy sinh của quân và dân ta trong cuộc đụng đầu với Mỹ - một đối thủ có sức mạnh kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật vượt trội. Quân và dân ta đã đương đầu và đánh bại các mục tiêu của chiến lược "chiến tranh cục bộ" được Mỹ triển khai từ giữa năm 1965. Từ những đòn phủ đầu Núi Thành, Vạn Tường, Pleime năm 1965, quân và dân ta lần lượt đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967, bẻ gãy hai gọng kìm "tìm diệt và bình định", đẩy Mỹ vào tình thế bị sa lầy, cho dù tính đến thời điểm cuối năm 1967, chúng có trong tay gần 50 vạn quân, cùng hơn 60 vạn quân Sài Gòn và quân các nước đồng minh. Dù đã leo thang chiến tranh lên đến mức cao, nhưng kế hoạch, biện pháp quân sự và bình định của Mỹ và Sài Gòn đã không đạt được mục tiêu đặt ra, mà ngược lại rơi vào thế bế tắc về chiến lược, mâu thuẫn trong bố trí lực lượng và thế trận. Cùng với đó, cuộc chiến tranh Việt Nam bị sa lầy tác động lớn đến nội tình nước Mỹ. Phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ ngày một dâng cao, kế hoạch "xây dựng một xã hội vĩ đại" của chính quyền Mỹ bị ngưng trệ. Nội bộ chính quyền Tổng thống Linđơn B. Giônxơn bị chia rẽ. Nước Mỹ đang chuẩn bị cho năm bầu cử tổng thống nhiệm kỳ mới diễn ra trong năm 1968. Thực tế là, Mỹ đang lún sâu vào tình thế bị động, "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược.

Trong khi đó, cách mạng miền Nam vẫn giữ quyền chủ động chiến lược, vừa bảo đảm tiềm lực đánh lâu dài, đồng thời sẵn sàng cho khả năng chớp thời cơ giành thắng lợi quyết định. Nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở thế và lực của hai bên, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng miền Nam đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, còn Mỹ đang ở thế thua, thế bị động và gặp nhiều khó khăn. Đây là lúc thời cơ chiến lược xuất hiện. Nắm bắt thời cơ chiến lược, Đảng ta hạ quyết tâm: động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nỗ lực vượt bậc, khắc phục mọi khó khăn tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường, giành thắng lợi quyết định, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta phát triển sang giai đoạn mới. Đây là một phát kiến lịch sử của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình chỉ đạo chiến tranh cách mạng.

Hai là, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần hy sinh cao cả, khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Dưới ngọn cờ tất thắng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước với khí thế hào hùng nhất, đạp bằng mọi chông gai, thử thách, quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược. Đó là những khẳng định trong nhiều tham luận khi đi sâu phân tích về sức mạnh ý chí, quyết tâm cao độ của quân và dân ta được thể hiện trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Các tham luận đã tập trung phân tích, làm rõ quá trình chuẩn bị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy; sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam, sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Trong quá trình chuẩn bị, quân và dân ta đã vượt qua biết bao gian khó, hy sinh, qua mưa bom, bão đạn, qua sự kiểm soát gắt gao của kẻ thù để giữ bí mật về lực lượng, thế trận, về ý định, quy mô, mục tiêu của cuộc tiến công. Đây thực sự là một kỳ công của quân và dân ta, là thắng lợi bước đầu quan trọng trước khi mở màn cuộc tổng tiến công và nổi dậy.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mở màn và diễn biến trên khắp chiến trường miền Nam đã được các tác giả phản ánh qua nhiều tham luận, cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh về quá trình này, đặc biệt là cuộc chiến đấu tại các thành phố lớn, trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Những trận đánh quyết liệt, giằng co, một mất một còn của các lực lượng ta trong nội đô đã thể hiện tinh thần dũng cảm vô song, đức hy sinh cao cả của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, đồng chí vì thắng lợi của cuộc Tổng tiến công, nhưng hơn hết, vì mục tiêu độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình cho đất nước. Đồng thời, các tác giả cũng đã nêu bật nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy; trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường. Trong điều kiện khó khăn, ác liệt nhất, các lực lượng đã thực sự là những chiến sĩ "cảm tử để Tổ quốc quyết sinh".

Một số tham luận phản ánh các mặt, các hoạt động đấu tranh tạo sự cộng hưởng sức mạnh, đẩy Mỹ và Sài Gòn lún sâu hơn vào thất bại, khủng hoảng. Tại các địa bàn vùng ven, vùng nông thôn đồng bằng và vùng núi, quân và dân ta đẩy mạnh các hoạt động chống phá bình định, ngăn chặn hoạt động càn quét, đánh phá của địch. Ở đô thị, các tầng lớp nhân dân, thanh niên, học sinh, sinh viên, các ngành các giới đẩy mạnh hoạt động đấu tranh, đưa yêu sách, đòi vãn hồi hòa bình. Phát huy kết quả đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường, mặt trận đấu tranh ngoại giao của ta đã tạo những bước tiến mới, buộc Mỹ phải đi vào đàm phán tại Hội nghị tại Pari, góp phần quyết định vào bước ngoặt của cuộc chiến tranh.

Thực tế lịch sử cho thấy, quân và dân ta bằng trí thông minh, lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đã bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 với khí thế quật cường và dũng mãnh. Lòng yêu nước, chí căm thù quân xâm lược và khát vọng hòa bình cháy bỏng luôn thôi thúc, giục giã trong tim của mỗi người dân yêu nước, chuyển hóa thành hành động cách mạng kiên quyết, táo bạo, ngoan cường, tiến công vào đầu não, tim óc của kẻ thù, làm cho chúng bất ngờ, choáng váng, gây cho chúng những tổn thất, thiệt hại to lớn, đánh sập ý chí xâm lược của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc.

Trong nhiều tham luận, các tác giả đã mô tả, gợi lại khí thế ngút trời của những ngày Xuân Mậu Thân tổng tiến công và nổi dậy. Từ Đường 9 - Khe Sanh đến các đô thị, tiếng súng tiến công của quân và dân trên khắp chiến trường miền Nam khiến cho Mỹ - chính quyền Sài Gòn bàng hoàng, sửng sốt. Hình ảnh các chiến sĩ biệt động tiến công vào các mục tiêu trọng yếu ở nội đô Sài Gòn, Huế... xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, vô tuyến truyền hình đã tác động mạnh đến dư luận quốc tế và dư luận Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ có hiệu lực, hiệu quả ngay tại chiến trường mà còn gây chấn động dữ dội trong chính giới và nhân dân Mỹ. Rõ ràng, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Việt Nam đã bẻ gãy ý chí xâm lược của Mỹ. Chúng phải chấp nhận một thực tế, sức mạnh của chính nghĩa, của tinh thần dân tộc chân chính do Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy, tổ chức, lãnh đạo đủ sức giành thắng lợi trước sức mạnh của cường quyền, phi nghĩa, của dã tâm xâm lược thôn tính Việt Nam.

Ba là, thắng lợi có ý nghĩa quyết định, để lại những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, vận dụng, phát huy vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Đây là một chủ điểm quan trọng của cuộc Hội thảo. Các tham luận tập trung phân tích những tác động, ảnh hưởng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đến thế và lực của ta và Mỹ trên chiến trường. Thắng lợi của quân và dân ta trong Xuân Mậu Thân là rất lớn, mà lớn nhất là đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chính quyền Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Pari. Thực tế, Mỹ buộc phải thừa nhận chiến lược "chiến tranh cục bộ" đã bị phá sản. Đây chính là bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh.

Một số lớn tham luận tập trung luận giải những vấn đề căn cốt, đúc rút những bài học kinh nghiệm lịch sử từ cuộc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Dù đề cập tới những khía cạnh khác nhau, nhưng các tác giả đều thống nhất cho rằng: cuộc Tổng tiến công để lại những kinh nghiệm quý báu - một cuộc diễn tập quan trọng cho thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến, nhất là cho Đại thắng mùa Xuân 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là mốc son chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, là minh chứng hùng hồn, khẳng định ý chí và sức mạnh to lớn của quyết tâm "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào" giành độc lập, tự do thống nhất đất nước. Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng" giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Thành quả cách mạng của Đảng ta, tinh thần ý chí quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bài học vô giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Trên cơ sở nhìn nhận, đánh giá thành quả cũng như hạn chế, khuyết điểm trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các tham luận đã đưa ra những kinh nghiệm, những bài học về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng, về nghệ thuật tổ chức, khơi dậy và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, nghệ thuật chớp thời cơ và tận dụng thời cơ, về các phương thức tác chiến chiến lược, công tác bảo đảm, xây dựng tiềm lực, thế trận... Đó sẽ là cơ sở quan trọng để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận lòng dân trong điều kiện mới.

Hội thảo lần này là dịp để chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị trường tồn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; tiếp tục đúc rút những kinh nghiệm quý, những bài học hay, góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận nghệ thuật quân sự của Đảng, của lực lượng vũ trang nhân dân, vận dụng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Một lần nữa, thay mặt Ban Chỉ đạo và Đoàn Chủ tịch, trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan ban ngành Trung ương; Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phố; thủ trưởng Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu; các cơ quan đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng; các vị tướng lĩnh, các nhân chứng lịch sử, các nhà khoa học và toàn thể các đồng chí đã tới dự và đóng góp cho thành công của cuộc Hội thảo quốc gia này.

Kính chúc các đồng chí sức khỏe, có nhiều thành công mới trong công tác và cuộc sống.

Xin trân trọng cảm ơn!





Hết