Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 08:51:59 am



Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 08:51:59 am
Tên sách: Chiến khu Đồng Bò
Ban Chấp hành Đảng bộ Nha Trang
Năm xuất bản: 2000
Số hóa: macbupda

(https://i.imgur.com/52ZpG4o.jpg)

Chỉ đạo thực hiện
và chịu trách nhiệm xuất bản:


Ban Thường vụ Thành ủy

Biên soạn:
   NGUYỄN CÔNG BẰNG      Phần mở đầu

   NGUYỄN THẾ SANG      Chương I

   PHẠM TIẾN THỌ         Chương II

   NGUYỄN GIA NÙNG      Phần cuối

Biên tập:
   NGUYỄN QUỐC NINH
   NGUYỄN TẤN QUYẾT
   TRẦN XỦN
   PHẠM TIẾN THỌ


Sửa bản in:
   PHẠM TIẾN THỌ


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 08:53:29 am
LỜI GIỚI THIỆU

Đồng Bò là tên gọi một vùng rừng núi án ngữ phía Tây Nam thành phố Nha Trang. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Đồng Bò và vùng ngoại vi là chiến khu của thị xã Nha Trang và huyện Vĩnh Xương (nay là thành phố Nha Trang). Chiến khu Đồng Bò là nơi đứng chân chủ yếu của cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Nha Trang - Vĩnh Xương; có lúc của cả tỉnh Khánh Hòa. Đồng Bò còn là nơi xuất phát của những trận đánh thẳng vào sào huyệt, căn cứ quân sự và kho tàng của địch làm cho chúng nhiều phen khiếp sợ.

Vượt lên những khó khăn của một vùng đất nhỏ hẹp, bị quân thù vây tỏa ngặt nghèo, cán bộ chiến ở chiến khu Đồng Bò với sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương, với tinh thần “Không có gì quý. hơn độc lập, tự do”, đã chiến đấu cực kỳ dũng cảm, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc.

Thông qua việc giới thiệu chiến khu Đồng Bò trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cuốn sách này nhằm ca ngợi đức chịu đựng hy sinh, một lòng một dạ với cách mạng và những cống hiến vô bờ của nhân dân các xã, phường vùng ven chiến khu Đồng Bò nói riêng, nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương nói chung; ca ngợi phẩm chất cách mạng trong sáng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí sáng tạo, lập được nhiều thành tích sắc của cán bộ chiến sĩ chiến đấu ở Đồng Bò; ca ngợi mối tình gắn bó máu thịt giữa nhân dân và bộ đội, giữa tiền tuyến và hậu phương, những chiến sĩ từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây chiến đấu trong tình thương, che chở đùm bọc của nhân dân.

Mặc dù bản thảo đã được nhiều đồng chí là nhân chứng góp ý kiến sửa chữa nhiều nhưng việc sưu tầm, chỉnh lý tư liệu gặp nhiều khó khăn nên cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Dù sao “Chiến khu Đồng Bò” ra mắt bạn đọc là một đáp ứng cần thiết và kịp thời, phần nào thỏa mãn nhu cầu tình cảm của cán bộ chiến sĩ đã từng hoạt động ở đây, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống và giới thiệu tư liệu, những nét sử độc đáo riêng biệt của một chiến khu ngay sát nách cơ quan đầu não của địch ở Khánh Hòa.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và mong được góp ý kiến phê bình, xây dựng để lần xuất bản sau đầy đủ hơn.


Tháng 3/2000
                                                                                                                                 
BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY NHA TRANG


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 08:57:53 am
PHẦN MỞ ĐẦU

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI
CỦA CHIẾN KHU CÁCH MẠNG ĐỒNG BÒ

Đồng Bò là một vùng rừng núi, với hệ thống những dãy núi cao, hình vòng cung kéo dài theo hướng Tây - Đông ven đô Nha Trang tạo nên một bức trường thành kiên cố,vững chắc che chắn hướng Tây - Nam thành phố, cách thành phố Nha Trang khoảng 5 km theo đường chim bay.

Dãy Đồng Bò có nhiều đỉnh núi cao, rừng rậm, có nhiều vùng gộp đá tạo thành các hang, động, ngóc ngách, liên hoàn rất hiểm trở, bảo đảm bí mật cũng như rất thuận lợi cho việc trú quân, ẩn nấp, tránh bom đạn. Những đỉnh núi cao như Cù Hin (927 m), hòn Chu Hạ (595m)... rất thuận tiện cho việc quan sát. Các mỏm núi lô nhô cao, thấp phía Đông của Đồng Bò chạy xô ra biển, giống như một con rồng đang uốn khúc vươn dài. Nơi hàm rồng là dãy núi Chụt với khu biệt thự Nghinh Phong, Vọng Nguyệt của Bảo Đại - ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam được xây dựng và kiến trúc theo mô típ biệt thự nghỉ mát phương Tây. Sát với Viện Hải dương học là cảng Nha Trang, một cảng biển quan trọng đối với Nha Trang - Khánh Hòa, được bao bọc bởi hệ thống các đảo ven bờ như: Hòn Tre, Hòn Miễu, Hòn Tằm... hình thành hành lang chắn sóng gió, là nơi tránh bão lý tưởng cho tàu thuyền qua lại.

Ngược dòng lịch sử, Đồng Bò khi xưa có tên là Hoàng Ngưu. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Núi Hoàng Ngưu ở cách huyện 6 dặm về phía Đông Nam, thế núi cao chót vót, chu vi hơn trăm dặm, cây cối mọc um tùm, phía Bắc sát bãi biển, gần đấy có núi Điệp Sơn”(1). Theo dân gian, tên Đồng Bò xuất phát từ việc nhân dân trong vùng chăn thả rất nhiều trâu bò sau mùa cày cấy, vì ở đây có nhiều đồng cỏ xanh tốt thuận tiện cho việc chăn nuôi.

Đồng Bò có phạm vi phân bố rất rộng, diện tích toàn vùng khoảng 80 km2, được chia làm 3 khu vực chính:

• Đồng Bò Hạ: (từ Núi Đất xuống Vườn Dừa).

• Đồng Bò Trung: Từ Đồng Bò Hạ đi về hướng Tây Bắc. là Đồng Bò Trung. (Từ núi Đất chạy lên Gò Bông).

• Đồng Bò Thượng: Từ Gò Bông lên giáp chân núi Chín Khúc, núi Hòn Thị.

Thiên nhiên dày công xếp đặt cho khu vực núi Đồng Bò một địa hình khá hiểm trở.

Ở hướng Đông Nam Đồng Bò có Hòn Giồ, núi Cù Hin nhô ra sát biển liền với Bãi Dài giáp huyện Cam Ranh; ở phía Bắc Đồng Bò là khu rừng sát um tùm rậm rạp toàn cây chà là, cây đước lâu năm rễ bám chằng chịt, cành lớn cành nhỏ đan xen... thêm dòng sông Tắc từ phía Suối Dầu chảy qua cầu Dứa đổ xuống Trường Đông, ở hướng Tây Bắc là dãy núi Chín Khúc (tên chữ là Xuân Sơn Cửu Khúc). Phía Đông núi Chín Khúc giáp với các thôn Thái Thông, Thủy Tú và vùng Đồng Chay(2). Phía Tây dãy Chín Khúc giáp vùng Cây Cầy (Suối Hiệp) và Suối Dầu (Diên Khánh). Phía Nam giáp với con đường từ Đồng Bò Thượng đi Suối Dầu (Trảng É, suối Đá Nhảy, nằm ven con đường này). Phía Bắc dãy Chín Khúc giáp xã Vĩnh Trung, và xã Diên An (Diên Khánh).

Đồng Bò nằm cách thị xã Nha Trang một dải rừng sát ở hai bên bờ sông Tắc, có Hòn Rớ đứng phía trước như một gạch nối với các làng cá trù phú Trường Đông, Trường Tây và tạo thành một vị trí tiền tiêu quan trọng.

Trước chiến tranh, hệ động thực vật ở đây vô cùng phong phú đa dạng, hiện nay ở phần núi phía Tây (hướng Suối Lùng) vẫn còn có những cánh rừng nguyên sinh, là môi trường sinh sống thuận lợi của một quần thể động thực vật quý hiếm. Bởi vậy trong tương lai gần, Đồng Bò sẽ trở thành một trong những trung tâm du lịch văn hóa sinh thái ở Nha Trang - Khánh Hòa, góp phần đưa hoạt động ngành du lịch, thành một ngành kinh tế mũi nhọn ở địa phương - hơn thế nữa, những cánh rừng ở Đồng Bò giống như một lá phổi vĩ đại, góp phần điều tiết làm trong sạch cho môi trường khí hậu ở Nha Trang.

Từ những năm 70 cuối thế kỷ 19, khi quân xâm lược Pháp đánh chiếm Lục tỉnh Nam kỳ, dưới cờ nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân... nhân dân đồng lòng nổi lên chống quân cướp nước hết sức kiên cường nhưng không địch nổi đội quân xâm lược nhà nghề; nhiều sĩ phu và đồng bào yêu nước đã không chịu đội trời chung cùng quân cướp nước, rời bỏ quê hương kéo ra các tỉnh miền Trung... Núp dưới vỏ phong trào “Tị địa”, những người yêu nước lập nên các Xứ Đồng Châu, xây dựng Hội Nam Trung nghĩa sĩ vừa làm ăn sinh sống, tích lũy lương thảo vừa học văn, luyện võ, chờ thời cơ đánh đuổi quân Pháp giành lại độc lập tự do... Xứ Đồng Châu Khánh Hòa nằm ven chân núi Đồng Bò (địa danh Đồng Châu sau đổi thành Đồng Nhơn) và xưởng luyện gang đúc súng trên dãy Xuân Sơn Cửu Khúc, (còn địa danh Hòn Đạn và một số di vật được lưu giữ tại Bảo tàng Khánh Hòa)(3).

Tiếp nối truyền thống cha ông và với điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho công cuộc chiến đấu lâu dài nên Đồng Bò đã trở thành nơi đứng chân của cách mạng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.


(1) Quyển XI, trang 98, NXB Thuận Hóa - 1997
(2) Nay là khu dân cư mới Đất Lành thuộc xã Vĩnh Thái
(3) Xem Xứ Đồng Châu của Nguyễn Thế Sang - Tạp chí Nha Trang số 7 - 1991)


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 08:59:36 am
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp lộ rõ âm mưu chiếm nước ta một lần nữa. Chúng liên tiếp gây ra những vụ xung đột ở nhiều địa phương, xâm chiếm từng vùng, lấn tới từng phần, tiến tới thôn tính toàn bộ nước ta.

Sau khi đánh chiếm Nam Bộ, từ cuối tháng 12/1945 đến đầu tháng 2/1946 thực dân Pháp phát triển đánh chiếm một số nơi ở Nam Trung Bộ. Có quân tăng viện từ Pháp qua, địch tiếp tục hành quân lớn mở rộng chiếm đóng Đà Lạt, Bình Thuận, Ninh Thuận; Cam Ranh, Nha Trang - Khánh Hòa.. Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chủng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! chúng ta hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu nước…”
. Tiếp đó, ngày 22-12-1946 Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến, chỉ thị vạch rõ mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Khẩu hiệu được nêu lên “mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài”, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, nhiệm vụ chính trị hàng đầu của quân và dân Nam Trung Bộ nói chung và Nha Trang - Vĩnh Xương nói riêng là kiên quyết chặn đánh các cuộc tấn công của địch, giữ vững vùng tự do, đồng thời đẩy mạnh hoạt động ở vùng sau lưng địch, góp phần cùng cả nước đánh bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp. Từ cuối tháng 1/1946, đồng thời với việc giải vây thị xã Nha Trang, quân Pháp tổ chức các cuộc hành quân ào ạt bằng xe cơ giới, chiếm một số vị trí quan trọng trên các trục giao thông quanh thị xã Nha Trang như: Thành - Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Giã, Cam Ranh. Ngày 03-02-1946 hội nghị cán bộ gồm lãnh đạo tỉnh, huyện, thị, chỉ huy các đơn vị lực lượng vũ trang họp tại Đồng Trăn, quyết định tiếp tục phát triển lực lượng vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích, động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến và xây dựng căn cứ cách mạng. Xác định tính chất, địa bàn hoạt động của thị xã Nha Trang có quan hệ mật thiết với huyện Vĩnh Xương, năm 1950 Thị ủy Nha Trang đã chuyển cơ quan chỉ đạo từ Hòn Tre về Đồng Bò, nơi mà huyện Vĩnh Xương đã chọn làm chiến khu ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Và Đồng Bò chính là nơi đứng chân của các đơn vị bộ đội trong kháng chiến chống Pháp như: C252, D121, D5; và các cơ quan như: Huyện ủy Vĩnh Xương, Thị ủy Nha Trang, cơ quan tình báo Nha Trang, Trạm quân báo Liên khu V...

Hòa bình lập lại (1954) Mỹ nhảy vào xâm lược miền Nam, Đồng Bò lại tiếp tục trở thành chiến khu cách mạng. Xuất phát từ Đồng Bò, sự chỉ đạo của Đảng đã nhanh chóng và thường xuyên đến với nội thị, vùng ven, đồng thời là nơi xuất phát của các đơn vị vũ trang thọc sâu vào hậu cứ của địch ở Nha Trang - Vĩnh Xương.

Nhiều địa danh trên chiến khu Đồng Bò tới nay vẫn được nhắc đến với nhiều giai thoại hấp dẫn như: gộp Mậu Thân (còn gọi là gộp Ông Phật), gộp Dốc Gáo, gộp Đá Hang, gộp Thị ủy, gộp Leo Dây, Suối Lùng, Trảng É, Sông Lô... còn in đậm dấu ấn về một thời kháng chiến anh dũng của quân và dân Nha Trang - Vĩnh Xương.

Đồng Bò cùng với vùng núi Ba Cụm, Tô Hạp, Xóm Cỏ (Khánh Sơn); Hòn Dù (Khánh Vĩnh); Đá Bàn, Hòn Hèo (Ninh Hòa); Hòn Chuông, Hòn Dữ (Diên Khánh); Hóc Chim (Vạn Ninh)... tạo thành một thế liên hoàn chiến lược về căn cứ cách mạng trong tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Khánh Hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong suốt 30 năm tồn tại và phát triển, chiến khu Đồng Bò không những có nhiều khó khăn, gian khổ như những căn cứ khác trong tỉnh, mà do vị trí của nó rất gần với cơ quan đầu não của địch nên có những đặc điểm rất riêng và một số mặt nào đó tính chất gian khổ, ác liệt có phần gay gắt hơn so với nhiều căn cứ khác trong tỉnh. Cuộc sống ở chiến khu Đồng Bò vô cùng gian khổ, ngoài việc lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh thường xuyên thiếu thốn... cán bộ, chiến sĩ ở đây còn phải chịu đựng những trận càn quét của địch cùng với các loại bom pháo, các loại hoá chất với khối lượng rất lớn.

Kẻ thù luôn xác định được mối đe dọa trực tiếp của lực lượng cách mạng đóng ở Đồng Bò đối với các cơ quan đầu não, các căn cứ quân sự, hậu cần của chúng trong thành phố. Và sự tồn tại của một chiến khu cách mạng ngay sát thành phố Nha Trang luôn là những bất lợi về chính trị trong chính sách mỵ dân của chúng. Vì vậy, chiến khu Đồng Bò luôn là mục tiêu mà kẻ địch quyết tâm tiêu diệt bằng mọi phương tiện với những thủ đoạn tàn bạo nhất. Trong hai cuộc kháng chiến, nhất là thời kỳ chống Mỹ, ngoài việc tổ chức bao vây, cắt đường tiếp tế, tung biệt kích thám báo và do thám, kẻ địch còn tổ chức nhiều cuộc càn quét với qui mô lớn, có cả hải - lục - không quân hỗ trợ, với mục tiêu bằng mọi giá phải xoá bỏ “mật khu ĐÁ HANG”.

Thế nhưng chiến khu Đồng Bò vẫn tồn tại và đứng vững trong mọi hoàn cảnh, lực lượng cách mạng không những tồn tại mà ngày một lớn mạnh và trưởng thành hơn cho đến ngày toàn thắng.

Sự tồn tại vững chắc của chiến khu Đồng Bò ở Nha Trang trong suốt 30 năm kháng chiến trường kỳ của dân tộc là một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam ở Nha Trang - Vĩnh Xương. Cùng với những căn cứ khác trong tỉnh, Đồng Bò luôn là chỗ dựa vững chắc về tinh thần, là niềm tin mãnh liệt của cán bộ và nhân dân đang sống trong vùng tạm chiếm đối với thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo. Đây không những là điểm đáng tự hào trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân Nha Trang - Vĩnh Xương và còn là bài học quý giá từ thực tiễn và lý luận về xây dựng căn cứ cách mạng và hậu phương của chiến tranh cách mạng.

Đã 25 năm đất nước thanh bình, Đồng Bò luôn được thế hệ trẻ tổ chức các chuyến du khảo về nguồn để tận mắt nhìn thấy những di tích và được nghe lớp cha ông kể về những ngày chiến đấu giữ nước oai hùng, hiểu được vì sao chiến khu của ta cách địch chỉ khoảng 5 km mà vẫn tồn tại hiên ngang, anh dũng, sáng tạo, chiến thắng.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:11:42 am
Chương I
CHIẾN KHU ĐỒNG BÒ THỜI CHỐNG PHÁP

Ngay sau khi vừa giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chưa đầy hai tháng sau ngày độc lập, toàn thể quân và dân Nha Trang - Khánh Hòa phải bước vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Pháp. Với 101 ngày đêm bao vây quân Pháp trong thành phố (23/10/1945 - 31/01/1946), được sự quan tâm của Trung ương và Hồ Chủ tịch, sự chi viện của các đoàn quân Nam tiến từ nhiều địa phương trên cả nước về đây cùng tham gia chiến đấu, quân và dân Nha Trang - Khánh Hoà đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng: Giữ vững giao thông huyết mạch Bắc - Nam, chi viện cho Nam Bộ kháng chiến, góp phần chặn đứng âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của địch hòng mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn tỉnh và các tỉnh Nam Trung Bộ, tạo điều kiện cho các địa phương khác có thời gian củng cố, xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Ngày 22 tháng 12 năm 1945, ngày Quân đội Nhân dân Việt Nam tròn một tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen ngợi quân và dân Mặt trận Nha Trang: “Chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam rất khen ngợi các chiến sĩ ở Mặt trận Nha Trang và Trà Vinh đã làm gương anh dũng cho toàn quốc. Tổ quốc biết ơn các bạn. Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”(1).

Cuối tháng 01 năm 1946, Hồ Chủ tịch cử đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng vào kiểm tra tình hình và truyền đạt chỉ thị “Kháng chiến Kiến quốc” tại các tỉnh phía Nam. Sau khi thị sát tình hình các phòng tuyến, thăm hỏi một số đơn vị, tại cuộc gặp gỡ trao đổi với cán bộ lãnh đạo chỉ huy Mặt trận Nha Trang, đồng chí đã nêu ý kiến chỉ đạo: “điều chỉnh ngay sự bố trí và cách tác chiến”(2) và chủ trương “tháo” phòng tuyến “mở” mặt trận, phát động toàn dân thực hành chiến tranh du kích(3); đầu tháng 02 năm 1946, hầu hết lực lượng Dân - Chính - Đảng của Khánh Hòa đều rút vào vùng rừng núi để bảo tồn lực lượng, tiếp tục chỉ đạo phong trào kháng chiến.


(1) Điện gửi các chiến sĩ Mặt trận Nha Trang và Trà Vinh đăng trên báo “Vì nước” ngày 22 tháng 12 năm 1946.
(2) Võ Nguyên Giáp - Bác Hồ trong lòng dân Khánh Hòa - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - 1990 - trang 23.
(3) Khánh Hòa những ngày đầu kháng chiến - trg 80 - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa - 1995.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:14:05 am
TỪ RỪNG SÁT - ĐỒNG CHAY... ĐẾN VƯỜN XOÀI - SUỐI BÃI SẬY

Sau khi hầu hết cơ quan lãnh đạo Khánh Hòa dời khỏi thành Diên Khánh lùi về căn cứ phía Tây tiếp tục chỉ đạo kháng chiến, huyện Diên Khánh đã bố trí một bộ phận lực lượng kháng chiến về vùng núi Chín Khúc xây dựng chiến khu. Vị trí đứng chân ở khu vực Suối Đổ. Từ đó mật danh núi Thống Nhất (có người gọi chiến khu Thống Nhất, Khu Thống Nhất) được ra đời thay cho tên gọi núi Chín Khúc đã có từ nhiều năm trước đó.

Ngày 3/2/1946, hội nghị cán bộ lãnh đạo tinh, các huyện, thị và chỉ huy các đơn vị lực lượng vũ trang họp tại Đồng Trăn (Diên Khánh). Hội nghị đề ra chủ trương tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, tiến hành chiến tranh nhân dân, hoạt động du kích chiến, động viên tinh thần cán bộ chiến sĩ và nhân dân - kể cả đồng bào vùng mới bị địch tạm chiếm hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Hội nghị còn đánh giá tầm quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế của vùng Nha Trang - Vĩnh Xương và Diên Khánh, thấy cần thiết phải tổ chức lại công cuộc kháng chiến ở đây, nhằm tạo thành một khu vực liên hoàn giữa vùng địch tạm thời chiếm đóng và vùng do ta kiểm soát. Hội nghị thống nhất chia Nha Trang, Vĩnh Xương và Diên Khánh thành bốn khu kháng chiến; Thị xã Nha Trang thuộc Khu 2 bao gồm toàn bộ hữu ngạn sông Cái từ Thành xuống hết thị xã Nha Trang.

Để bảo đảm thuận tiện cho công tác chỉ đạo, cơ quan huyện Vĩnh Xương chọn khu vực các làng Bút Sơn, Đồng Nhơn, Thái Thông làm địa bàn đứng chân của cơ quan huyện(1). Nhà cửa của đồng bào ở đây gần núi nên khi có địch có thể rút vào núi dễ dàng. Từ Bút Sơn có đường mòn qua dốc Cây Cầy vào Đồng Chay, Rừng Sát, vào núi Chín Khúc và núi Đồng Bò.

Cơ quan đóng trong nhà anh Nguyễn Côn - Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời Bút Sơn do dân bầu từ sau ngày khởi nghĩa. Thời gian đầu, tại cơ quan có đồng chí Lê Cường cùng các đồng chí Nguyễn Biền, Huỳnh Thúc - thuộc đội diệt tề trừ gian. Tiếp đến, đồng chí Lê Minh Lượng - đội trưởng, đồng chí Nguyễn Hữu Nghĩa cùng một số anh em khác dưới làng về, đóng quân trong gia đình ông Thủ bổn Trình, ông Lê Lục... thuộc thôn Thái Thông.

Ngày 06 tháng 03 năm 1946, Chính phủ ta và Chính phủ Pháp ký hiệp định sơ bộ.

Nhằm làm cho toàn dân nhận thức đầy đủ tình hình và chủ trương của Trung ương Đảng về chỉ thị “hòa để tiến”, lãnh đạo Đảng và Việt Minh các cấp tranh thủ phổ biến rộng rãi đến toàn dân. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch cử đồng chí Hoàng Quốc Việt làm đặc phái viên vào các tỉnh phía Nam trực tiếp chỉ đạo việc thi hành Hiệp định.

Tại Khánh Hòa, sau khi đến Nha Trang, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã truyền đạt nội dung Hiệp định sơ bộ cho Tỉnh ủy và cán bộ lãnh đạo trong tỉnh, đồng thời phổ biến nội dung chỉ thị của Trung ương là: “tranh thủ thời cơ hòa hoãn để củng cố chính quyền, xây dựng củng cố và phát triển các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quân sự chuẩn bị kháng chiến lâu dài đồng thời phải hết sức cảnh giác đề phòng địch phản bội hiệp định”...

Đúng như nhận định của Trung ương, quân Pháp đã phản bội hiệp định sơ bộ 6/3. Tại Khánh Hòa đêm 30/4/1946 quân Pháp bí mật vượt sông Cái đánh vào hậu phương ta ở Đại Điền (Diên Khánh).

Tháng 4 năm 1946, tên chỉ điểm Thầy Cọp sục vào nhà ông Lê Lục bị các đồng chí trong đội trừ gian diệt tề trừng trị. Sau đó, tên Mai (thông ngôn cho Tây đồn Thủy Tú) dẫn lính vào lùng sục làng Bút Sơn, bắt dân về đồn tra hỏi hòng phát hiện cơ quan, cán bộ ta. Cùng thời gian này, trong khi đi công tác Xuân Lạc, Ngọc Hội, anh Lê Khắc Thăng bị địch bắt, bị tra khảo nhưng không hề khai báo nên chúng đem đồng chí ra Vườn Dương (Nha Trang) thủ tiêu.

Trước tình hình đó, tháng 5 năm 1946, cơ quan huyện Vĩnh Xương chỉ để lại Bút Sơn một số ít cán bộ giữ mối liên lạc với cán bộ các nơi về gặp lãnh đạo huyện, nhận tài liệu, truyền đơn... ban đêm thì rút vào ngủ trong các rẫy gần đó. Còn phần lớn cán bộ cơ quan di chuyển vào Đồng Chay và Rừng Sát xây dựng nơi đứng chân mới. Tại đây, đồng chí Lê Cường thường trực tại cơ quan nhiều hơn, các đồng chí Lê Thanh Liêm-Chủ nhiệm Việt Minh, Nguyễn Biền - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh huyện và hầu hết cán bộ lãnh đạo chính quyền cũng như các đoàn thể đều thường xuyên về hoạt động trực tiếp ở các xã hoặc móc nối cơ sở phát triển tổ chức.

Thời gian này, cơ quan của các xã đều bám tại địa phương hoặc đứng chân ven chân núi, nơi bìa rừng thuận tiện cho việc liên hệ với cơ sở, nắm vững tình hình, lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến. Cơ quan xã Vĩnh Phú ở Bằng Lỗ Tây, xã Phú Xuân đóng kề miệng suối Lớn. (Tại Khu A có hai con suối lớn ở núi Chín Khúc và nhiều suối nhỏ từ Xuân Sơn chảy xuống tới Bút Sơn). Cơ quan xã Thái Sơn lúc đầu đóng ở suối Lớn, sau chuyển ra đóng nơi bìa rừng. Cơ quan xã Xuân Hải đến năm 1947 di chuyển ra khu vực Vườn Dừa - Hòn Rớ thuộc Đồng Bò Hạ(2). Cơ quan xã gồm: UBKCHC, Mặt trận Việt Minh và xã đội cùng đơn vị du kích tập trung.


(1) Về sau, hai thôn Bút Sơn và Đồng Nhơn sáp nhập làm một và lấy tên Đồng Nhơn.
(2) Xã Xuân Hải gồm: Trường Đông, Bình Tân, Vĩnh Xuân, Phước Hải, tiếp giáp với khu vực Vườn Dừa (Sông Lô), Hòn Rớ
Xã Thái Sơn gồm: Thái Thông (có người gọi Thái An), Thủy Tú (Thủy Hương), Đồng Nhơn (Đồng Châu), Bút Sơn, Xuân Sơn (Xuân Bình)
Xã Vĩnh Phú gồm: Vĩnh Châu, Vĩnh Điềm và Phú Nông
Xã Phú Xuân gồm: Phú Vinh (có Phú Trung. Phủ Thạnh và Phú Bình), Xuân Lạc


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:15:05 am
Lực lượng vũ trang tập trung của huyện lúc này là đội trừ gian diệt tề.

Từ những chiến sĩ hoạt động gan góc trong nội thị những ngày đầu, khi về xây dựng lực lượng vũ trang Vĩnh Xương, các đồng chí Lê Minh Lượng, Bửu Đóa, Huỳnh Thúc... trở thành nòng cốt của đội trừ gian diệt tề. Các đồng chí đã chiến đấu mưu trí quả cảm, liên tiếp trừng trị những tên chỉ điểm Việt gian lợi hại làm tay sai cho giặc, thu nhiều vũ khí...

Lòng quả cảm không chỉ thể hiện trong chiến đấu mà trong nhiều tình huống khác nhau... Trong trận đánh ở Xuân Lạc, đồng chí Long bị thương gãy tay khi về tới đìa ông Tư Sung ở Rừng Sát, đồng chí Lê Minh Lượng đã lấy con dao làm cá của ông Tư Sung đem mài, trụng vào nước sôi để sát trùng rồi kê khúc tay gãy của đồng chí Long lên đoạn gỗ đước chặt bỏ đi cho khỏi vướng! Dao lụt phải chặt nhiều nhát mới đứt! Đồng chí Long cắn răng chịu đau, mồ hôi vã đầm đìa nhưng không hề hé răng kêu rên hay một tiếng xuýt xoa nào! Chặt xong, bôi “cồn lốt” rồi băng lại... Rất may là cuộc “đại phẫu thuật” ấy không bị nhiễm trùng. Những hoạt động tích cực của đội trừ gian diệt tề đã gây khó khăn lớn cho âm mưu lập chính quyền bù nhìn của Pháp ở Vĩnh Xương. Vừa hoạt động, vừa trưởng thành, dựa vào số thanh niên thoát ly lên chiến khu, gia nhập lực lượng vũ trang, đến tháng 8 năm 1946 đơn vị đã có một trung đội do đồng chí Lê Minh Lượng chỉ huy.

Tháng 10 năm 1946, lãnh đạo huyện Vĩnh Xương giao cho đồng chí Huỳnh Thúc xây dựng một trung đội du kích tập trung huyện. Địa điểm huấn luyện đóng quân của đội du kích tại Đồng Chay. Nhiệm vụ của đơn vị là đánh địch hỗ trợ cho phong trào quần chúng các xã Thái Sơn, Phú Xuân, Vĩnh Phú. Các đồng chí Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Hồ, Ngô Hoàng Nga, Lê Gia, Lê Bổn, Chín Rỗ... là chiến sĩ đầu tiên của trung đội. Vừa thành lập, đơn vị đã lập công đầu bằng một trận diệt địch độc đáo: diệt tên Mai-thông ngôn cho Tây ở đồn Thủy Tú - một tên tay sai đắc lực đã từng gây nhiều tội ác. Sau khi nắm chắc quy luật hoạt động của hắn, đơn vị bố trí đồng chí Nguyễn Hồ làm nhiệm vụ quan sát và ra ám hiệu trong một quán cắt tóc nằm trên đường từ Thủy Tú đến Thái Thông. Còn đồng chí Chín Rỗ đóng giả người đang làm ruộng ở ven đường. Chín Rỗ vốn là một người đánh xe bò (quê xóm Cầu Ké, thôn Vĩnh Điềm Thượng) có sức khỏe hơn người và hết sức gan dạ. Trong những trận diệt ác trước đây, Chín Rỗ thường đảm nhận nhiệm vụ dùng chày vồ phá tung cửa cho đồng đội xông vào, làm cho địch không kịp trở tay. Khi tên Mai xuất hiện, nhận được ám hiệu, Chín Rỗ từ ruộng lúa lên đường, đi ngược chiều với hắn. Vừa giáp mặt, Chín Rỗ bất ngờ lao vào chụp lấy tên Mai bóp cổ, chết ngay tại chỗ. Tên Việt gian bị diệt giữa thanh thiên bạch nhật, trên đường đông đúc người qua lại làm tiếng vang truyền lan rất nhanh... Trong đơn vị còn có rất nhiều chiến sĩ chiến đấu rất dũng cảm mưu trí như: đồng chí Bửu Đóa là người có nhiều công lớn trong việc về làng bám dân tổ chức trừ gian diệt tề(1).
 
Cơ quan huyện hồi này ít giấy tờ và nhân viên. Chỗ ở là một gian nhà nhỏ bằng cây rừng, một sạp chạy dài để nằm chung và ngồi viết trên một bàn dài cũng bằng cây rừng phía trước... Còn phần lớn cán bộ đều bám dân hoạt động; Riêng đơn vị du kích lập trung là con em từ địa phương vừa thoát ly hoặc đã từng hoạt động trong những ngày đầu cách mạng được dân tin yêu chở che nuôi dưỡng nên chủ yếu vẫn sống cùng với đồng bào Đồng Nhơn, Bút Sơn, Thái Thông, Thủy Tú... Trường Đông, Trường Tây để tuyên truyền vận động tổ chức nhân dân tham gia kháng chiến. Mỗi khi có động, được đồng bào báo tin mới rút vào bìa rừng Chín Khúc, suối Ông Bô... hoặc Vườn Dừa, Hòn Rớ, rừng sát - Vĩnh Xuân...

Lực lượng kháng chiến ngày càng trưởng thành, cán bộ các cơ quan Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh, Mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang huyện phát triển đông thêm, địa điểm đóng cơ quan gần làng Bút Sơn, Thái Thông không còn phù hợp. Lãnh đạo huyện quyết định di chuyển toàn bộ cơ quan vào khu vực Vườn Xoài thuộc Đồng Bò Trung xây dựng vị trí đứng chân vừng chắc để bảo đảm chỉ đạo kháng chiến lâu dài. Lán trại các cơ quan dựng rải rác dưới tán cây cao ven suối theo kiểu một mái xuôi về sau và một “mỏ quạ” phía trước, lợp lá dừa nước, lán nằm được làm bằng cây hóp có sẵn trong rừng. Lán của cơ quan lãnh đạo huyện đóng trên đầu suối, kế đó là lán của các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ; văn thư đánh máy, hậu cần, đội vận tải... Phía dưới là vị trí lán trại của đội du kích tập trung huyện.

Đội liên lạc cũng có lán trại riêng gần cơ quan. Nhiệm vụ của đội là chuyển công văn tài liệu, đưa đón cán bộ chiến sĩ. Lúc này cơ quan tỉnh còn đứng chân ở phía Tây Diên Khánh, một trạm giao liên được xây dựng tại khu Thống Nhất, liên lạc viên của Vĩnh Xương và tỉnh gặp nhau tại đây. Huyện còn có thuyền cất giấu tại khu vực Vườn Dừa để sử dụng khi cẩn đi giao liên bằng đường biển.

Từ chiến khu Đồng Bò đường lối chủ trương, nhiệm vụ công tác của cách mạng thông qua các đường dây liên lạc tỏa về cơ sở đến với đồng bào bằng nhiều hướng, nhiều tuyến khác nhau luôn thông suốt an toàn. Và ngược lại, từ những đường dây liên lạc này, nguồn nhân tài vật lực từ các đoàn thể Việt Minh các xã vùng ven, bên trong thị xã vẫn liên tục bổ sung dồi dào cho kháng chiến.


(1) Đồng chí Bửu Đóa được Đảng và Nhà tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:15:38 am
Về phía địch, sau khi tập trung lực lượng giải vây Nha Trang và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các vùng phụ cận, chúng tập trung vào việc củng cố các vị trí đóng quân và hàng ngày cho lực lượng nhỏ tuần tiễu, tiến hành nhiều đợt bố ráp, bắt bớ... nhằm uy hiếp tinh thần nhân dân và ngăn chặn lực lượng ta, bảo vệ vị trí đóng quân của chúng. Trong khi đó, đông đảo đồng bào vẫn hướng về cách mạng, ủng hộ Mặt trận Việt Minh, ngoại trừ một số Việt gian bán nước làm tay sai, chỉ điểm cho giặc. Vì vậy, quân giặc chưa lập được tề và chưa kiểm soát được tình hình vùng ven Nha Trang, Vĩnh Xương, kể cả những hoạt động trên vùng biển; do đó, việc liên lạc giữa các huyện với tỉnh bằng đường bộ, với khu vực Đường Đệ, Hòn Tre, Đồng Bò và cả với Cam Ranh thông qua đường biển còn nhiều thuận lợi.

Tháng 10 năm 1946, địch cho quân thọc vào Đồng Bò, chiếm các khu nhà của dân đang khai phá sản xuất (nhà mát ở Vườn Dừa - Đồng Bò Hạ, nhà ông Xông, ông Máy ở Đồng Bò Trung và nhà ông Chùm ở Đồng Bò Thượng) đóng ba chốt điểm, nhằm ngăn chặn và phát hiện lực lượng ta. Mỗi chốt điểm có quân số không quá hai mươi tên. Đường sá từ thị xã vào đây còn khó khăn, chúng phải dùng ngựa tiếp tế bánh mì, thịt hộp chở từ Bình Tân hoặc Thủy Tú vào. Lực lượng vũ trang Vĩnh Xương đã liên tiếp phục kích đánh nhiều trận tại khu vực Bến Đá và Suối Đá (còn gọi là Suối Đá Ve - Đồng Chay). Trong các trận đánh này, chúng phải vất lương thực, thực phẩm - cả lựu đạn tháo chạy. Bị cắt đứt tiếp tế, địch phải rút bỏ các điểm chốt. Trong khi rút, chúng đã buộc dân ở ba nơi này về làng.

Sau trận chống càn của địch vào Khu A tháng 3 năm 1947, trung đội du kích tập trung do đồng chí Huỳnh Thúc chỉ huy di chuyển vào suối Đá Nhẩy. Đến tháng 4 năm 1947, theo quyết định của lãnh đạo huyện, trung đội hành quân về khu vực Vườn Xoài cùng với trung đội vũ trang đã thành lập trước đây xây dựng thành đại đội du kích tập trung huyện. Đại đội gồm hai trung đội do đồng chí Lê Minh Lượng làm đại đội trưởng, đồng chí Bửu Đóa làm đại đội phó và đồng chí Nguyễn Hồng Sơn (còn có tên Năm) làm chính trị viên. Trung đội I do đồng chí Nguyễn Hữu Nghĩa làm trung đội trưởng, đồng chí Võ Hòa làm trung đội phó. Trung đội II do đồng chí Nguyễn Văn Tâm làm trung đội trưởng và đồng chí Châu làm trung đội phó (đồng chí Huỳnh Thúc được Huyện ủy điều đi nhận công tác khác).

Tháng 5 năm 1947, hơn một tiểu đoàn địch chia làm hai cánh càn vào Đồng Bò: một cánh dừng thuyền theo đường thủy từ Trường Đông lên đổ quân tại Bến Điệp; một cánh từ đồn Tú Thủy vào. Một đại đội đóng tại Bến Điệp và Hòn Rớ, số còn lại tập kết tại khu vực Vườn Xoài theo suối tiến vào khu vực đóng quân của đại đội du kích tập trung huyện. Dựa vào hầm hố bố phòng sẵn có trên sườn núi, đơn vị sẵn sàng chờ địch. Khoảng 10 giờ sáng, đợt tiến công đầu tiên của địch bị đơn vị đánh bật xuống suối. Chúng cho súng cối bắn vào liên miên và tiếp tục tràn lên... Cứ thế, cả bốn đợt tiến công của địch trong ngày đều bị đơn vị đánh lui. Địch gom số thương vong rút ra đồng ruộng ven chân Hòn Rớ và Bến Điệp trụ lại. Sáng hôm sau, địch cho máy bay lên ném bom vào vị trí đóng quân suốt gần tiếng đồng hồ, sau đó chúng cho một mũi tấn công chính diện và một mũi đánh vòng bên hông trái nhưng đều bị đơn vị đánh bật xuống. Chúng lại gọi máy bay dội bom từng chập cho tới chiều... Các đồng chí chỉ huy vừa kiểm tra các vị trí bố phòng vừa động viên đơn vị sẵn sàng đánh địch. Và cuộc tiến công chiều hôm sau của địch vẫn bị đánh lui... Tuy không tiêu diệt được nhiều địch nhưng là một thắng lợi có ý nghĩa.

Tin cuộc càn lớn của địch vào chiến khu Đồng Bò bị quân ta đánh bại làm nức lòng đồng bào trong huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang nhân dân càng thêm tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Nhiều thanh niên yêu nước bày tỏ nguyện vọng thoát ly gia nhập lực lượng vũ trang. Lãnh đạo huyện quyết định xây dựng thêm một trung đội du kích tập trung. Ban chỉ huy trung đoàn 80 cử đồng chí Hoàng Văn Xuân sang giúp Vĩnh Xương tổ chức huân luyện tân binh ở Bãi Trủ. Sau đợt huấn luyện, anh em được biên chế thành một trung đội. Và lãnh đạo huyện tuyên bố thành lập trung đội III du kích tập trung huyện Vĩnh Xương, do đồng chí Hoàng Văn Xuân làm trung đội trưởng.

Chiến khu Đồng Bò dần dần được củng cố xây dựng và phát triển về nhiều mặt. Các cơ quan đơn vị của huyện Vĩnh Xương tiếp tục triển khai xây dựng vị trí đứng chân trên cả khu vực Đồng Bò Trung và Đồng Bò Hạ: Cơ quan Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh huyện đóng tại suối Bãi Sậy. Cạnh đó là cơ quan Mặt trận Việt Minh đứng chân bên trong Đá Chẹt. Cán bộ các đoàn thể thường xuyên về xã hướng dẫn cơ sở hoạt động xây dựng phong trào. Cơ quan Huyện đội và đơn vị vũ trang huyện luân chuyển đóng quân trên các vùng suối Vườn Xoài, Dốc Gáo, suối Khu A, Đồng Chay...

Sau lần địch đánh đúng vào vị trí đóng quân, tuy ta không thiệt hại gì nhưng là một bài học về công tác phòng gian bảo mật. Từ đó các con đường vào cơ quan đến vị trí trú quân được ngụy trang kỹ lưỡng, mọi người đều có ý thức giữ gìn bảo mật trong sinh hoạt, công tác ở chiến khu.

Tháng 8 năm 1947, địch lại càn vào Đồng Bò. Lần này chúng huy động lực lượng, lùng sục cả khu vực Đồng Bò Trung và Đồng Bò Hạ suốt ba ngày liền nhưng chưa phát hiện được cơ quan. Theo chỉ thị của Huyện ủy, đại đội du kích tập trung bố trí một bộ phận bảo vệ cơ quan dân chính huyện đồng thời tung trinh sát bám địch nắm tình hình, tìm sơ hở của địch để đánh vào sau lưng.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:16:14 am
Cuộc càn đã qua ngày thứ tư, một trung đội du kích được lệnh phục kích đánh địch di chuyển trên sông. Anh em bí mật vượt Hòn Rớ vừa bố trí trận địa xong thì một chiếc thuyền nhỏ chở hơn mười tên địch từ Bến Điệp về hướng Trường Đông vừa tới. Đơn vị đồng loạt nổ súng làm bị thương một số tên, một tên hốt hoảng ngã nhào xuống sông. Địch bắn trả vu vơ và cố chèo... Gặp lúc thủy triều đang xuống mạnh, thuyền địch nhanh chóng thoát ra khỏi ổ phục kích. Anh em tranh thủ lặn mò vũ khí, đồng chí Quốc mò được một khẩu súng trường và hai quả lựu đạn. Thời gian này vũ khí còn rất thiếu thốn, mỗi trung đội chỉ có hai tiểu liên, hầu hết dùng súng trường và lựu đạn nên thêm được một khẩu súng ai nấy đều phấn khởi.

Đơn vị du kích tập trung Vĩnh Xương sinh hoạt và tập luyện có nề nếp, khắc phục khó khăn tự tạo vũ khí thô sơ đánh địch nhiều trận, hỗ trợ cho phong trào quần chúng địa phương. Đáng kể nhất là anh em đã tìm đạn pháo địch bắn không nổ đưa về cải tạo thành mìn phục kích đánh lật một toa tàu lửa tại Đồng Bé. Tháng 8 năm 1947 lại phục kích trên đoạn đường sắt tại cầu 15 (thôn Xuân Sơn), bom nổ nhưng không lật được tàu, chỉ bắn bị thương một số lính đi trên toa gần đầu máy.

Sau trận phục kích, địch cho lực lượng tuần tra đường sắt bảo vệ cho các đoàn tàu chuyên chở vũ khí quân dụng. Tháng 11 năm 1947, đại đội du kích tập trung huyện Vĩnh Xương phối hợp với đại đội 98 phục kích đánh một trung đội lính Âu-Phi đi tuần tra bảo vệ đường sắt. Trận địa bố trí cách vị trí trận đánh trước không xa, lại trên địa hình trống trải và địch lại đi hàng dọc nên không thực hiện bao vây được. Ta nổ súng làm bị thương một số... Địch tháo chạy... Ta rượt đuổi hàng cây số... Đại bác từ Nha Trang và súng cối từ Phú Vinh nã tới tấp chi viện cho bọn lính đang chạy thục mạng về đồn.

Trong khi đó, ở các xã, mỗi xã đội đều có đơn vị du kích tập trung thường xuyên luyện tập, tổ chức cảnh giới nơi miệng suối, ngoài bìa rừng hay giáp đồng ruộng thuận tiện liên lạc tiếp xúc với dân và với lực lượng tự vệ mật sống hợp pháp trong vùng địch kiểm soát. Đây chính là lực lượng “bám bót dẫn đường” hỗ trợ đắc lực cho cán bộ huyện từ chiến khu về địa phương hoạt động và phối hợp với lực lượng vũ trang tập trung của huyện chiến đấu có hiệu quả.

Cuối năm 1947, đại đội du kích tập trung huyện có nhiều thay đổi: đồng chí Nguyễn Hồng Sơn - chính trị viên đại đội được phân công về hoạt động nội thị, đồng chí Lê Minh Lượng hy sinh trong khi về Hòn Hèo dự hội nghị, đồng chí Bửu Đóa được điều động sang công tác an ninh... Một số cán bộ chiến sĩ trong đại đội được tăng cường về các xã và thị xã... Đây cũng là lúc chiến khu gặp nhiều khó khăn nên đơn vị chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan.

Tháng 5 năm 1948, lãnh đạo huyện quyết định củng cố lại lực lượng du kích tập trung. Trung đội đầu tiên do đồng chí Lê Tạo làm chính trị viên. Ban chỉ huy có đồng chí Trần Ánh Đăng (Tư Đăng) làm Huyện đội trưởng, đồng chí Trương Kim Chí - Huyện ủy viên làm chính trị viên.

Sau cuộc họp bàn về công tác quân sự địa phương do tỉnh tổ chức tại Hòn Lớn và lớp bồi dưỡng cán bộ chủ chốt do đồng chí Trương An - Bí thư Tỉnh ủy chủ trì mở tại suối Đá Nhảy; nhận thức về nhiệm vụ cách mạng, công tác xây dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể và lực lượng vũ trang của cán bộ được nâng cao. Từ đó đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức của cán bộ huyện. Hoạt động vũ trang của huyện đã chú trọng hơn công tác binh vận, xây dựng nội tuyến để đánh địch.
 
Tháng 10 năm 1948, đồng chí Nguyễn Phước Trung được điều về nhận nhiệm vụ trung đội trưởng du kích tập trung. Lúc này, quân số trung đội được bổ sung và hoạt động của đơn vị liên tiếp thu được thành tích: Phối hợp với du kích xã Vĩnh Phú, xây dựng nội ứng tiến công diệt bót Cẩu Dứa; Phối hợp với du kích xã Thái Sơn vận động tổ chức nhân dân tranh thủ gặt lúa ban đêm đưa vào núi giấu, sau đó chuyển vào các kho bí mật đặt rải rác quanh khu vực Đồng Chay; Cuối năm 1948, bắt liên lạc với anh Thành (nguyên là đội viên của đại đội du kích tập trung về làng bị địch bắt lính) làm nội ứng hạ đồn Võ Kiện - trận này đơn vị phối hợp với một đơn vị thuộc tiểu đoàn 121.

Sau đó, một đại đội địch hành quân lùng sục khu vực Suối Lùng, Trảng É, trung đội du kích tập trung Vĩnh Xương phối hợp với lực lượng công an xung phong và tiểu đoàn 121 bám đánh liên tiếp, truy đuổi địch suốt từ Trảng É đến Gò Bông, gây cho địch nhiều thương vong, thu nhiều vũ khí - trong đó có một trung liên. Tiếp đến, các trận tập kích đồn Bang tá Tuấn, diệt địch, thu vũ khí gây không khí phấn khởi tin tưởng trong nhân dân.

Đặc biệt là trận đơn vị phối hợp với bộ đội 98 tiêu diệt đồn quận Vĩnh Xương vào đêm ngày 1/8/1948. Trong trận này, nhờ tổ chức được cơ sơ nội tuyến trong đồn nên trận đánh diễn ra nhanh gọn, chỉ sau 20 phút chiến đấu các chiến sĩ ta tiêu diệt 27 tên, bắt sống 25 tên, làm chủ đồn, thu toàn bộ vũ khí đã trang bị cho một trung đội và gần 3000 mét vải.

Năm 1949, theo quy định thống nhất của Bộ Quốc phòng, trung đội du kích tập trung huyện Vĩnh Xương đổi tên thành Trung đội bộ đội địa phương huyện Vĩnh Xương, đồng chí Hứa Đại Chuân được điều về làm Huyện đội trưởng, đồng chí Võ Hòa về làm trung đội trưởng và đồng chí Nguyễn Sơn làm chính trị viên trung đội bộ đội địa phương huyện.

Cũng thời gian này, Mặt trận Việt Minh huyện được tăng cường, đồng chí Nguyễn Duy phụ trách thanh niên, đồng chí Phương (tức Bùi Thị Vân) phụ trách phụ nữ. Bảo vệ cơ quan huyện có một tiểu đội do đồng chí Lưu Minh Khuê phụ trách.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:19:10 am
*   *
*

Trong những năm đầu kháng chiến, một số cơ quan đơn vị của tỉnh và Liên khu 5 đã bố trí các trạm công tác tại Đồng Bò:

Tổ quân báo Liên khu 5 do đồng chí Thiên phụ trách, hoạt động liên tục suốt nhiều năm liền và được lãnh đạo huyện Vĩnh Xương hỗ trợ về sinh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho anh em hoàn thành công tác chuyên môn của mình.

Trạm Liên lạc đường thủy Liên khu 5 đứng chân tại khu vực Vườn Dừa. Nhiệm vụ của trạm là phối hợp chặt chẽ với các địa phương tổ chức việc bảo vệ, tiếp nhận cán bộ, vũ khí khí tài, lương thực... xuất phát từ Phú Yên vào Đầm Vân đến Sông Lô (Vườn Dừa) và từ đây tổ chức việc vận chuyển đi các ngả theo chỉ thị của Liên khu 5 - trong đó có Chiến khu 7 - Ninh Thuận và Nam Bộ - được bí mật an toàn trong thời gian dài(1).

Khi cơ quan tỉnh di chuyển về chiến khu Hòn Hèo, yêu cầu liên lạc đường thủy giữa huyện và tỉnh được tăng cường. Ngoài trạm liên lạc đường bộ, một Trạm giao liên của huyện Vĩnh Xương được thành lập do đồng chí Long phụ trách. Trạm đặt tại Vườn Dừa. Nhiệm vụ của trạm là vận chuyển bưu kiện, đưa đón cán bộ từ huyện về tỉnh và ngược lại, đồng thời hỗ trợ cho với Trạm Liên lạc đường thủy của Liên khu 5 bảo đảm liên lạc thông suốt từ Trung ương đến địa phương.

Khi Trạm đứng chân tại chiến khu Đồng Bò, có nhiều sự kiện liên quan đáng nhớ. Năm 1948, đơn vị C98 Vĩnh Xương được lệnh phối hợp với Trạm, tể chức bảo vệ “Phái đoàn Trung ương” trên đường vào Nam Bộ. Đoàn dùng thuyền xuất phát từ Sông Lô xuống Bãi Dài vào Cam Ranh để từ đó sẽ xuống thuyền theo đường biển vào Chiến khu 7 - Ninh Thuận.

Sáng hôm sau, trên đường hành quân về Cù Hin thì bất ngờ gặp địch đi càn. Một trận tao ngộ chiến quyết liệt nổ ra... Hỏa lực súng máy địch rất mạnh, đồng chí Nấu hy sinh...

Hơn tuần sau, địch lại tập trung quân từ Cửu Lợi qua Đá Chẹt tiến đánh nơi đơn vị trú quân. Tổ cảnh giới phát hiện địch sớm, C98 bố trí trận địa bí mật chặn đánh địch. Dù vũ khí thô sơ, chủ yếu là lựu đạn súng trường, nhưng địch bị đánh bất ngờ nên không kịp trở tay và bị thiệt hại nặng nề, bỏ xác tháo chạy... Mấy ngày sau chúng phải cho quân đem xăng lên đốt!


(1) Chiến khu 7 - viết tắt CK7, nhiều người quen dùng tiếng Pháp đọc thành “xê ca xết”


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:20:00 am
*
*   *

Một lò rèn thủ công được xây dựng (do ông Lê Trung Chánh phụ trách) từ những ngày đầu hình thành chiến khu Đồng Bò (còn địa danh suối Lò Rèn) chuyên rèn giáo mác, đao kiếm, sản xuất bàn chông sắt phục vụ cho các lực lượng vũ trang và công tác bố phòng. Lò rèn còn sản xuất dao rựa và những đồ dùng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt của các cơ quan đơn vị trên chiến khu.

Lực lượng vũ trang ngày càng phát triển, vũ khí thiếu thốn, trong khi các loại súng, đạn, lựu đạn... hư hỏng phải dồn chứa trong kho chờ tổ sửa chữa vũ khí lưu động của quân giới tỉnh về. Nhằm giảm bớt khó khăn, Tỉnh đội đã tăng cường cho Vĩnh Xương 5 công nhân quân giới do Tỉnh đội gửi đi đào tạo tại Xưởng Quân giới Liên khu 5 ồ An Lão thuộc vùng tự do Bình Định vào cuối năm 1947.

Tổ Quân giới chiến khu Đồng Bò chính thức hình thành vào tháng 10 năm 1948 do đồng chí Nguyễn Văn Mạnh làm tổ trưởng (có người gọi là Tổ quân giới Vĩnh Xương, đến đấu năm 1950 tổ quân giới trực thuộc Thị đội Nha Trang). Ngoài vốn liếng kiến thức nghề nghiệp, trang bị ban đầu của tổ hết sức gọn nhẹ, chỉ gồm những công cụ chuyên dùng như khuôn đúc đầu nổ mìn, khuôn đúc đầu lựu đạn, bộ chày-cối tóp vỏ đạn, rờ sạc (recharge) đạn DAM, khuôn dập hột nổ, dập đầu đạn... mà mỗi anh em đều cố gắng mang từ An Lão về.

Không kịp nghỉ ngơi, được Huyện đội giúp đỡ, Tổ triển khai ngay kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất. Phân công sưu tầm các vật liệu cần thiết. Những công cụ cầm tay cần thiết như ê-tô, ta rô, cưa sắt, kềm, búa, khoan tay, dũa, đục... nhờ cơ sở nội thị quyên góp mua sắm chuyển ra. Để bảo đảm an toàn, Tổ quân giới bố trí ba nhóm công tác cách xa nhau: Tại Đồng Bò Thượng, dưới các gộp đá làm nơi đặt kho cất giấu thuốc nổ, pha chế hóa chất, nhồi thuốc nổ vào lựu đạn, mìn... và là nơi thử các lô vũ khí mới sản xuất trước khi cấp phát cho các đơn vị. Tại gộp Cây Gáo (Đồng Bò Trung), phía trước cơ quan Huyện ủy, bố trí nhóm sửa chữa súng, cưa bom lép của địch lấy thuốc nổ. Tại gộp Đá Hang và khu vực Vườn Dừa bố trí nhóm nghiền tán thuốc, đúc đầu lựu đạn đập, đầu mìn và một số công việc thông thường khác.

Bộ đội, du kích đang thiếu vũ khí, tổ quân giới ít người, Huyện đội đã giao nhiệm vụ cho đơn vị bảo vệ chiến khu cắt cử người hỗ trợ thường xuyên cho tổ quân giới, đảm trách những công việc phổ thông. Từng nhóm trong tổ là nhanh chóng bắt tay vào việc sửa chữa súng, phục hồi lựu đạn, đạn DAM bị lép hoặc ẩm mốc.

Để tăng cường công tác bố phòng bảo vệ an toàn cho chiến khu, tổ quân giới nhận nhiệm vụ sản xuất hàng loạt các loại vũ khí thô sơ: các loại chông - nhất là chông có ngạnh bằng cây chà rang và bằng sắt, bàn chông sắt, mang cung, lựu đạn gài, mìn muỗi... Sau thời gian khẩn trương sản xuất tổ đã cung cấp cho tự vệ các cơ quan đơn vị một lượng đáng kể các loại vũ khí có chất lượng, công tác bố phòng được tăng cường đúng mức.

Tháng 3 năm 1949, trước yêu cầu ngày càng cao của công cuộc kháng chiến theo chỉ thị của Liên khu 5, cần tăng cường hoạt động quân sự để hỗ trợ cho phong trào quần chúng, Huyện ủy Vĩnh Xương - do đồng chí Lê Thanh Liêm làm bí thư, đồng chí Hồ Ngọc Nhường làm phó bí thư đã chỉ đạo thành lập đơn vị 252. Khi thành lập đơn vị mới có gồm hai trung đội, đồng chí Võ Hòa được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng và chính trị viên là đồng chí Nguyễn Sơn.

Chiến thắng đáng nhớ nhất của đơn vị 252 trong những ngày đầu thành lập là trận phục kích tiêu diệt bọn địch từ đồn Phú Vinh đi tuần tra bảo vệ cho đoàn xe lửa chở vũ khí quân dụng tiếp tế các nơi. Để bảo đảm chắc thắng, Ban chỉ huy Huyện đội (Hứa Đại Chuân và Trương Kim Chí) bàn bạc với Ban chỉ huy đại đội 252 và đồng chí Nguyễn Văn Mạnh, tổ trưởng quân giới sản xuất loại mìn có sức nổ mạnh để đánh địch. Nhận rõ tầm quan trọng của trận đánh, tổ quân giới đã tìm được 4 quả đạn cối 60 ly lép của địch chế tao thành “mìn điện” (dùng pin ghép lại). Hai đồng chí quân giới (Mạnh và Gia) xung phong trực tiếp đánh mìn. Nhờ nắm chắc quy luật hành quân của địch lại được chuẩn bị chu đáo, bộ đội địa phương Vĩnh Xương đã đánh thắng trận đầu tại thôn Đồng Châu, xã Phú Xuân, thu một trung liên Brem của địch. Sau đó, đơn vị liên tiếp đánh địch nhiều nơi, đáng kể là trận phục kích diệt 3 xe cơ giới địch từ Nha Trang đi Ninh Hòa tại Lương Sơn.

Nhằm hỗ trợ cho phong trào quần chúng, Huyện ủy quyết định phải nhổ cho được đồn Xuân Lạc. Đây là một cứ điểm địch vừa xây dựng, các lô cốt thấp được liên hệ với nhau bằng hệ thống giao thông hào dích dắc. Địch bắt dân chặt gốc tre già đem nộp làm hàng rào để phòng bị. Giữa những tường rào gốc tre đó, chúng còn đặt mìn và chướng ngại tại những nơi xung yếu.

Bằng cách nào và bằng loại vũ khí gì có thể phá được hàng rào gốc tre dày của địch và phá nhiều lớp thật nhanh? Diệt địch dưới giao thông rào và trong lô cốt đạt hiệu quả? Tổ quân giới cùng nhau bàn bạc tìm tòi... Tổ quyết định sản xuất một loại “mìn ống” và thủ pháo có sức nổ mạnh. Mìn ống phải có độ dài bằng hoặc dài hơn bề dày của lớp rào, như một thân tre đem vùi vào sát đất. Mìn nổ, dù gốc tre cứng, dẻo, gồm nhiều lớp dày và đan chéo nhau... vẫn bị xé toạc, san bằng.

Và kết quả đúng như tính toán, các lớp rào gốc tre kiên cố bị phá nhanh chóng, các lô cốt địch bị những thủ pháo của ta san bằng, nhiều tên địch bị diệt tức khắc, bọn sống sót chưa kịp hoàn hồn đã bị bắt sống. Quân ta làm chủ trận địa, thu toàn bộ chiến lợi phẩm, giải tù binh về hậu cứ... Khi về tới chân đèo Hốc Mít, cán bộ binh vận của ta đã nói rõ chính sách khoan hồng của Mặt trận Việt Minh với tù binh, căn dặn họ sớm từ bỏ con đường làm tay sai chết thay cho quân cướp nước, đem sức trai góp phần cùng bà con đấu tranh giành độc lập tự do và thả hết tù binh về quê quán làm ăn. Sau này, chính tù binh lại là những tuyên truyền viên đắc lực phát huy chiến quả. Tiếng vang của chiến thắng Xuân Lạc làm nức lòng đồng bào Nha Trang và loan ra toàn tỉnh. Tổ quân giới Đồng Bò rất phấn khởi tự hào về đóng góp xứng đáng vào chiến thắng Xuân Lạc(1).

Quân giới Đồng Bò đã cung cấp một khối lượng đáng kể các loại vũ khí có chất lượng cho công tác bố phòng và phục vụ chiến đấu ở chiến khu. Nhất là những năm từ 1950 về sau, việc tiếp tế bằng đường biển được tăng cường, Khu V đã đưa vào Đồng Bò rất nhiều vỏ lựu đạn và vỏ các loại mìn, anh em quân giới Đồng Bò tiếp tục tiến hành những khâu tiếp theo, không chỉ thỏa mãn nhu cầu của bộ đội, dân quân du kích mà còn có lượng dự trữ.


(1) Đại hội mừng công của tỉnh năm 1952 đồng chí Nguyễn Văn Mạnh được công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua tỉnh Khánh Hòa.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 09:20:33 am
*
*   *

Nhằm ghi nhận công lao và động viên nhân dân hết lòng tham gia kháng chiến, đầu năm 1949, huyện Vĩnh Xương mở Đại hội Nuôi quân ở Đồng Bò Thượng. Địa điểm tổ chức Đại hội đặt giữa rừng già phía trên suối Khô, gần suối Đá Nhảy. Gọi là suối Khô vì vào mùa mưa mới có nước; Hai con suối này chảy ra suối Giáng. Đây là vùng đất bằng phẳng và thoáng rộng, bên trên có tán cây lá dày che phủ nên rất kín đáo.

Đại hội nhằm biểu dương sự lớn mạnh của các lực lượng vũ trang và cổ vũ phong trào kháng chiến. Công việc chuẩn bị Đại hội được tiến hành khá chu đáo. Khu rừng già khép tán kín bưng được phát dọn hết những cây nhỏ ở tầng thấp thành “sân vận động”, dựng sân khấu, dựng lán trại, cổng chào, trụ cờ, san đường bộ đội diễu binh...

Đại hội tổ chức quy mô, có lễ đài trang hoàng cờ hoa, lễ chào cờ nghiêm trang, có đại đội 98, tiểu đoàn 5, tiểu đoàn 121 (C9 và C10) diễu binh, đêm có máy nổ phát điện thắp sáng phục vụ các buổi liên hoan văn nghệ đoàn kết quân dân, có tể chức “bán đấu giá” vật kỷ niệm kháng chiến - thực chất là hình thức kêu gọi lòng hảo tâm, tinh thần ủng hộ kháng chiến của mọi tầng lớp đồng bào các nơi về dự Đại hội.

Đồng bào các xã và nội thị quyên góp lương thực thực phẩm, nhu yếu phẩm gửi vào chiến khu làm quà cho Đại hội. Gần một ngàn đồng bào vùng ven, nội thị “về chiến khu” tham dự. Đại hội diễn ra trong ba ngày đêm liền, tạo không khí phấn khởi tự hào về sự lớn mạnh nhanh chóng của “vệ quốc đoàn”, nâng cao tinh thần đoàn kết quân dân và làm tăng thêm niềm tin vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tại Đại hội, đại biểu Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh, Việt Minh tỉnh đã nhiệt liệt biểu dương sự đóng góp to lớn của nhân dân, phụ nữ các xã Thái Sơn, Phú Xuân, Vĩnh Phú... đã duy trì thường xuyên “hũ gạo nuôi quân”, đều đặn tập trung gửi lên chiến khu. Nhiều bà con ở xã Thái Sơn đã từng giao luôn ruộng lúa chín của mình cho bộ đội thu hoạch mang về chiến khu, không mảy may tính toán. Đại hội khen thưởng nhiều đơn vị và phát động phong trào “Mẹ chiến sĩ”, thi đua thực hiện “hũ gạo nuôi quân”, “con gà kháng chiến”. Trong Đại hội này, Hội Phụ nữ xã Thái Sơn vinh dự được nhận lá cờ thưởng “Phụ nữ xuất sắc” của Liên khu 5 trao tặng. Đại hội cũng nhiệt liệt biểu dương ông Nguyễn Tồn ở Phú Vinh, một cố nông nhưng trồng rau bán được đồng nào đều bỏ vào “bùng binh” dành dụm gửi lên chiến khu. Nêu gương ông, bà con gọi ông bằng cái tên trìu mến: ông Bảy bùng binh.

Cuối năm 1949, Khu 5 chủ trương mở chiến dịch Đông - Xuân 1949-1950 (còn gọi là chiến dịch Trường Chinh) trên chiến trường Nam Khánh. Thị ủy Nha Trang và Huyện ủy Vĩnh Xương được giao nhiệm vụ huy động lực lượng phối hợp và phục vụ hậu cần chiến dịch - chủ yếu là lương thực, thực phẩm.

Chủ trương vân động toàn dân đóng góp nhân tài vật lực đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Mọi người, mọi nhà đều hăng hái bắt tay vào công việc. Mặc dù địch đã thi hành nhiều biện pháp kiểm soát lúa gạo hết sức gắt gao, kể cả thu gom khống chế nhưng đồng bào vẫn nhiệt tình đóng góp. Cán bộ vận động nhân dân bán và ủng hộ lúa. Lúa đã đưa về nhà và cả lúa còn đang ở trên đồng. Mỗi xã có một tiểu đội bộ đội về cùng nhân dân tranh thủ cắt lúa và chuyển vào rừng làm kho cất giấu. Kho lúa lúc đó đặt rải rác từ suối Khu A (Xuân Sơn) chạy dọc đến Đồng Chay vào Đồng Bò Thượng.

Hàng trăm dân công được huy động vào chiến khu cùng hàng trăm chiếc cối xay, cối giã, giần sàng... làm gạo phục vụ chiến dịch. Trong khi đó, cơ sở trong nội thị vận động nhân dân quyên góp tiền bạc, thuốc men, thực phẩm, nhu yếu phẩm... chuyến ra chiến khu góp phần vào thắng lợi của chiến dịch.

Chiến dịch Trường Chinh không thực hiện đầy đủ như yêu cầu đề ra nhưng riêng các lực lượng vũ trang Vĩnh Xương, Nha Trang đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phối hợp, tiến công các cứ điểm của địch ở Phú Vinh, Xuân Lạc, Cầu Dứa... Công nhân Nhà Đèn phá hỏng trạm phát điện, trạm biến thế làm mất điện trong thành phố, công nhân Hòa xa phá đầu máy xe lửa... tạo không khí phấn khởi tin tưởng trong nhân dân.

Qua bốn năm xây dựng, Đồng Bò đã trở thành chiến khu vững chắc của huyện Vĩnh Xương. Nơi xuất phát của những chủ trương công tác đến với dân, nơi tổ chức xây dựng phát triển các lực lượng vũ trang địa phương và các xã huyện Vĩnh Xương.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:40:23 pm
TỪ ĐƯỜNG ĐỆ - MŨI KÊ GÀ ĐẾN BÃI TRỦ - HÒN TRE:

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến đầu năm 1947, cơ quan lãnh đạo Nha Trang vẫn đứng chân vững chắc giữa lòng dân thị xã. Trụ sở đặt tại nhà ông Sáu Hèm ở Rộc Rau Muống.

Sau những trận tập kích của biệt động đội (do đồng chí Mão phụ trách) ở Trường Đông, Trường Tây, Phước Hải, diệt tiểu đội hương binh (partisan) phá sập bót Xóm Cồn, địch phản ứng mạnh... Một số cán bộ đảng viên bị lộ, bị địch bắt. Sau đó tỉnh tăng cường thêm cán bộ cho Nha Trang và bộ máy lãnh đạo được củng cố. Lúc này, Thị ủy gồm các đồng chí Lê Huy Phát, Đặng Văn Phu, Đặng Phò, Du, Quyền, Nguyền Duy Phiên... Đồng chí Mai Xuân Cống - Bí thư Thị ủy và là Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh; Ủy ban kháng chiến hành chánh thị xã do đồng chí Lê Huy Phát làm chủ tịch; Thị đội trưởng là đồng chí Đặng Văn Phu.

Nhằm bảo vệ lực lượng đẩy mạnh phong trào trong tình hình mới, Thị ủy Nha Trang chủ trương rứt một bộ phận lãnh đạo ra ngoài lập chiến khu kháng chiến, vừa xây dựng lực lượng ở Đồng Bò, vừa tranh thủ về nội thị công tác - gọi là Cơ quan A.

Lúc đầu, Cơ quan A bố trí tại khu rừng sát-Vĩnh Xuân nhưng khi tình hình bình yên vẫn đặt trụ sở làm việc tại nhà bà Hộ ở Phước Hải, khi có động mới rút vào rừng.

Về sau cơ quan chuyển vào Bàu Dừng - nơi con suối hai bờ có nhiều cây rừng trải rộng ra vài chục mét. Đồng chí Mạnh Hà, Đụt... và có thời gian đồng chí Mai Xuân Công làm việc tại đây.
 
Ngoài dãy núi Đồng Bò, thiên nhiên hào phóng còn ban cho Nha Trang - Vĩnh Xương nhiều cụm núi nhỏ: dãy Hòn Khô, Hòn Thơm, Hòn Sạn... bên tả ngạn sông Cái nối tiếp dãy đồi La San ăn thông với vùng đồi núi liên hoàn Đồng Đế, Đường Đệ giáp Lương Sơn... Phía biển Đông là một cụm đảo lô nhô rải rác ven bờ - trong đó, đảo Hòn Tre lớn nhất và có lịch sử lâu đời nhất. Trên vùng đảo có những làng cá trù phú...

Giữa năm 1948, các cơ quan thị xã xây dựng vị trí đứng chân tại núi Đường Đệ. Vùng núi Đường Đệ - Lương Sơn - Kê Gà tuy núi non không hiểm trở lắm nhưng cây rừng rậm rạp khá kín đáo, rất thuận tiện trong liên hệ tiếp xúc với nội thị và liên lạc với tỉnh cũng như các huyện bằng cả đường bộ và đường biển. Trên khu vực rừng núi liên hoàn này, tùy tình hình, cơ quan có thể di chuyển qua nhiều địa điểm...

Có lần, địch sục vào phục gần chỗ ở của Công đoàn thị xã, bắn chết đồng chí Cháu và Năm Râu lúc 4 giờ sáng khi các đồng chí đi công tác từ nội thị về. Cơ quan thị xã phải di chuyển qua phía gành đá trên mũi Bàng Thang. Đứng trên sườn núi có thể nhìn rộng suốt đầm Nha Phu, nhìn tận Hòn Hèo. Các khối đoàn thể đóng rải trên sườn đồi vùng Bãi Tiên. Vào mùa khô ở gành Bàng Thang không có nước, phải qua lấy ở mũi Kê Gà, vào mùa mưa - có nước, cơ quan dời lên vị trí cao hơn...

Có thời gian cơ quan thị xã đã vượt qua eo núi, ra khu vực Đồng Bé ngoài Lương Sơn, cất trại làm lán trên những đồi núi cuối làng, gần khu vực bà con trồng mía... Việc di chuyển, làm lán trại xây dựng cơ quan, sẵn sàng cơ động trở thành tác phong của cán bộ chiến khu.

Trên khu vực Đường Đệ - Lương Sơn - Kê Gà, có thời gian còn có các đơn vị lực lượng vũ trang Nha Trang, Vĩnh Xương và bộ đội chủ lực trú quân xuất phát hoạt động quanh vùng. Ngoài quan hệ công tác, mối giao lưu giữa các đơn vị với cơ quan thị xã rất mật thiết. (Lúc này đơn vị 252 do đồng chí Trần Bá Vượng, Nguyễn Sơn chỉ huy)

Cơ quan kinh tài của thị xã lúc đứng chân tại Bàng Thang, có lúc di chuyển sang Hang Luồng, phía Đầm Nha Phu cách Kê Gà hơn cây số... thuận tiện việc tổ chức thu mua vận chuyển lương thực, thực phẩm...


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:40:44 pm
Sau chiến dịch Đông - Xuân (49-50) ở Nam Khánh, các địa phương trong tỉnh gặp nhiều khó khăn. Tại Nha Trang địch tăng cường đánh phá cơ sở nhưng phong trào vẫn được giữ vững, sự lãnh đạo vẫn thông suốt. Tuy vậy, trong quá trình bố ráp lùng sục và đôi lần địch đã phát hiện vị trí cơ quan, nhận thấy khu vực Đường Đệ - Kê Gà không còn an toàn như trước, Thị ủy quyết định di chuyển cơ quan thị xã ra đảo Hòn Tre. Đảo không rộng nhưng địa hình hiểm trở, nhân dân trên đảo vẫn một lòng ủng hộ cách mạng.

Toàn bộ mạng lưới liên lạc tiếp tế lúc này đều bằng đường biển. “Đội thủy thủ” được hình thành từ năm 1947 gồm ghe chèo tay và một số ghe buồm do đồng chí Mai ở Bãi Trủ phụ trách (có các đồng chí Phạm Sửu, Tỏ, Diên, Rô, Mành, Chỉ, Bồi, Lụt, Xê, Sum...)

Trên đảo Hòn Tre, Thị ủy Nha Trang và các cơ quan thị xã bố trí trên khu vực Bãi Trủ. Các cơ quan Thị ủy, UBKCHC, các đoàn thể khối Mặt trận, bộ phận thông tin... vẫn thường xuyên liên lạc với nội thị thông qua ghe thuyền. Lực lượng công an tỉnh (đồng chí Phan Văn Nhượng, Kỉnh...) cũng đứng chân tại đây.

Nhân dân trên đảo hết lòng bảo vệ, chăm lo đời sống cho cán bộ, coi cán bộ như con em của mình, chia sớt cho anh em từng con cá nắm rau, thuốc thang khi ốm đau bệnh tật... Ngoài giờ làm việc, anh em thường tập trung sinh hoạt ca hát vui chơi (Nhiều người tới nay vẫn còn nhớ những bài hát được “trại” lời mới: Ta quyết đi câu - dù thằng Tây bắn phá... thể hiện tinh thần lạc quan kháng chiến một thời).

Một thời gian sau, giữa năm 1949, các cơ quan thị xã di chuyển sang Đầm Già. Lúc này, cơ quan đóng tại Hố Lốt - vùng đất kín đáo trên con suối có nhiều cây lốt rừng. Nhưng do sơ hở nên nơi này bị địch phát hiện và đánh úp, bắn chết hai chị cấp dưỡng, phóng hỏa đốt cháy toàn bộ lán trại cơ quan, cướp đi một máy chữ cùng dụng cụ của cơ quan thông tin và cả lương thực, thực phẩm. Cơ quan di chuyển về Đầm Báy, xây dựng lán trại trên thôn cũ Bãi Câu.

Quân Pháp chủ trương tập trung quân đánh phá vào các căn cứ của ta từ tỉnh đến huyện, thị. Sau khi huy động 4000 quân bao gồm thủy lục không quân mở “Chiến dịch Bão táp” (Opération Typhon) đánh vào chiến khu Hòn Hèo suốt 21 ngày đêm không đạt kết quả, chúng huy động 2.500 quân càn quét chiến khu Đồng Bò. Một lần nữa chúng bị quân dân Nha Trang, Vĩnh Xương kiên cường đánh trả, giữ vững chiến khu.

Ở đảo Hòn Tre địch dùng thủ đoạn thâm độc đánh phá cơ sở bằng cách bắt dân tập trung ngủ đồn. Chúng càn quét vào Bích Đầm, Bãi Trủ, Đầm Báy... bắt dân dồn về Cầu Đá - Chụt trong đất liền.

Trước tình hình đó, các cơ quan thị xã phải di chuyển đến Bãi Tre; được một thời gian cơ quan di chuyển về địa điểm mới, đứng chân tại Mũi Cỏ. Triền Mũi Cỏ đất đai khô cằn, rừng thưa thớt. Lán trại các cơ quan núp dưới những tán cây cối lúp xúp, buổi trưa trời nắng không khí rất oi nóng... trong khi ỡ đây không có nước. Buổi chiều, anh em thường ra bãi đá sát biển ngóng ghe lấy nước ở Bãi Trủ về. Nước chứa trong những thùng thiếc chuyển lên dành cho ăn uống sinh hoạt cả ngày. Tại đây, địch phát hiện phá một ghe liên lạc và bắt một cán bộ phụ nữ.

Khoảng đầu năm 1950, cơ quan di chuyển về lại Đầm Báy... Tại đây tháng 4/1950, Đại hội Đảng bộ thị xã Nha Trang lần thứ nhất được tổ chức. Đại hội đã bầu ra 6 ủy viên Ban Chấp hành; đồng chí Nguyễn Văn Minh được bầu làm Bí thư Thị ủy.

Đại hội đã nhận định tình hình thấy cần phải chuẩn bị chuyển cơ quan lãnh đạo về Đồng Bò, tránh thế bao vây của địch, đồng thời gần dân để chỉ đạo phong trào.

Tháng 7 năm 1950, địch lại tăng cường phong tỏa đường biển. Chúng thường xuyên dùng tàu chiến loại nhỏ (Védette) tuần tiễu xung quanh Hòn Tre, thỉnh thoảng neo đậu ngoài biển bắn phá hoặc dùng máy bay oanh kích vào địa điểm nghi ngờ có lực lượng ta. Nhiều khi chúng bất ngờ đổ quân lên bờ bắn phá chớp nhoáng rồi nhanh chóng xuống tàu tiếp tục quần đảo...

Mặt khác, quân Pháp tăng cường kiểm soát gắt gao trên biển, phong tỏa quanh các đảo, vùng núi... Vì vậy, đường liên lạc tiếp tế ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Tháng 8/1950, cơ quan của Thị ủy và các đơn vị của thị xã chuyển từ Hòn Tre về Đồng Bò.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:41:12 pm
ĐỒNG BÒ - CHIẾN KHU CỦA THỊ XÃ NHA TRANG

Chỗ đứng chân đầu tiên của các cơ quan thị xã ở suối Bãi Sậy. Lán trại các cơ quan dựng rải rác dưới tán cây kín đáo. Mái lán lợp lá dừa. Sạp trải bằng hóp khá phẳng phiu. Trước sạp là “bàn viết” cũng bằng hóp. Các cơ quan đông người thường dựng hai trại kế nhau.

Từ đây, cơ quan thị xã di chuyển xuống khu vực suối Xuân Hải - nơi cơ quan xã Xuân Hải đóng trước đây (có người gọi là suối ông Thầy). Cơ quan lãnh đạo bố trí dưới thấp, lán trại làm trước gộp. Khối Mặt trận đóng phía núi bên Sông Lô. Tuy ở suối nhưng cơ quan lấy nước sinh hoạt dưới gộp, bảo đảm bí mật, đến năm 1951, cơ quan di chuyển lên suối Dốc Gáo.
 
Hội nghị Thị ủy ngày 25 tháng 8 năm 1950 quyết định thành lập lại ban cán sự, lấy tên là “Ban Cán sự nội thị” gồm các đồng chí: Ban, Tùng, Tha, Tân. Mộng Dung... do đồng chí Huỳnh Tưởng phụ trách. Ban có nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước Thị ủy về các công tác nội thị. Trong những trường hợp cấp bách không thể chờ ý kiến của Thị ủy, có quyền thay mặt Thị ủy giải quyết.

Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng 9/1950 quyết định tăng cường cho Nha Trang một số cán bộ, trong đó có đồng chí Lưu Văn Trọng, Tỉnh ủy viên được chỉ định làm Bí thư Thị ủy; đồng thời để tạo thuận lợi cho công tác chỉ đạo quản lý, tỉnh cũng đã quyết định sáp nhập một số xã của huyện Vĩnh Xương vốn quan hệ gắn bó về kinh tế xã hội với thị xã Nha Trang vào địa giới thị xã, mở rộng bàn đạp quanh nội thị, các xã còn lại của huyện Vĩnh Xương sáp nhập vào huyện Diên Khánh thành huyện Vĩnh Khánh.

Sau khi nhận bàn giao các xã vùng ven thuộc Vĩnh Xương, thị xã Nha Trang được sắp xếp thành 7 khu: nội thị có 3 khu, các xã vùng ven thành 3 khu và khu 7 gồm vùng Chụt, Cầu Đá và các đảo .

Tuy có nhiều khó khăn nhưng công tác xây dựng Đảng của Thị ủy Nha Trang có nhiều tiến triển tích cực. Đến cuối năm 1950, tại chiến khu Đông Bò có 4 chi bộ Đảng gồm chi bộ cơ quan Thị ủy và chính quyền, Thị đội, đại đội 252, Mặt trận - Dân vận cùng với 7 chi bộ ở các khu với gần 400 đảng viên có mặt trên khắp địa bàn là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển mọi mặt của phong trào cách mạng kháng chiến địa phương. Chủ tịch UBKCHC là đồng chí Nguyễn Xuân Lâm.

Lúc này do nhiều cán bộ các địa phương hoạt động bị lộ thoát ly lên chiến khu, vì vậy bộ máy các cơ quan ở chiến khu được tăng cường. Do đó, vị trí đóng các cơ quan được phân bố rộng hơn: Thị ủy, Mặt trận Liên Việt và các đoàn thể bố trí trên cùng một dòng suối, UBKCHC đóng ở địa điểm cao hơn, bên một con suối khác. Thị đội đóng bên ngoài... Các cơ quan được bố trí liên hoàn nhưng cách xa nhau nhằm bảo đảm bí mật an toàn. Để bảo vệ cơ quan các đơn vị vũ trang thường án ngữ gần các trảng bằng, chân núi hoặc bìa rừng. (Có thời gian, lực lượng công an xung phong, cơ quan tình báo đóng ngoài rừng sát, khu vực Giếng Bà Hậu, ven bìa núi Khu A).

Một số khu vực đứng chân của các xã Vĩnh Xương cũ trở thành nơi đóng cơ quan các khu mới thành lập. Vào thời điểm này, bộ máy của các khu được xây dựng khá hoàn chỉnh, mỗi khu đều đã có chi bộ Đảng, Ủy ban kháng chiến hành chánh, Mặt trận Việt Minh; các khu Tây, khu Nam, khu Bắc, khu 3 có khu đội (gồm ban chỉ huy: khu đội trưởng, khu đội phó, chính trị viên) và lực lượng vũ trang có từ một đến hai tiểu đội du kích tập trung, các khu nội thị chỉ có đội vũ trang (lực lượng du kích mật). Thị ủy còn chỉ đạo ba khu Bắc, khu Tây và khu Nam xây dựng mỗi khu một đội vũ trang tuyên truyền, có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu và xây dựng cơ sở bàn đạp vào nội thị. Khu vực đứng chân của các khu thường bố trí gần bìa rừng, tiện cho cán bộ, chiến sĩ về làng bám dân hoạt động.

Tại chiến khu Đồng Bò, ngoài các cơ quan của thị xã Nha Trang còn có các cơ quan của xã Khánh Xương vẫn tiếp tục được duy trì và củng cố. Chiến khu Đồng Bò còn là nơi trú quân chuẩn bị xuất phát của các đơn vị chủ lực mỗi khi về hoạt động ở chiến trường Nam Khánh (tiểu đoàn 5, đơn vị 360, trung đoàn 80...). Thực tế này không chỉ phản ánh mối quan hệ máu thịt của các địa phương, đơn vị vũ trang trong công cuộc kháng chiến chống xâm lược mà còn nói lên vị trí quan trọng của một chiến khu ven biển nằm sát cạnh một căn cứ quân sự hỗn hợp của địch.

Mặt khác, tuy địch kiểm soát gắt gao hải đảo, nhưng căn cứ Hòn Tre vẫn được duy trì. Tại đây, Thị ủy đã phân công một đồng chí Thị ủy viên trụ lại nhằm tăng cường lãnh đạo trên cả địa bàn khu 7 gồm các đảo và khu vực Chụt, Cầu Đá (phường Vĩnh Nguyên ngày nay).

Thời gian đứng chân trên chiến khu Đồng Bò, tùy tình hình mà cơ quan thị xã di chuyển nhiều nơi. Sau thời gian ở Dốc Gáo, cơ quan dời lên gộp Khánh Xương, cũng gọi là suối Lò Rèn (là nơi cơ quan xã Khánh Xương, lò rèn quân giới đóng). Rừng ở đây cây to tán rộng, rất nhiều song, mây, dứa dại...

Cơ quan Thị ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh được bố trí trên sườn cao, đến lò rèn và cơ quan Công đoàn (Công Cơ Xí) đóng thấp hơn, gần với cơ quan các khu. Trong thời gian đứng chân ở đây, cơ quan tách một bộ phận ra làm “công tác xây dựng bàn đạp”.

Năm 1952, một sự kiện lớn diễn ra tại vùng gộp Khánh Xương là Hội nghị đại biểu toàn Đảng bộ. Các chi bộ các khu đều bầu đại biểu về tham dự. Tại Đại hội này đồng chí Lê Đoan, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy tăng cường cho Nha Trang được bầu làm Bí thư Thị ủy và có thêm một số Thị ủy viên mới.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:42:16 pm
*
*   *

Chiến khu Đồng Bò không có dân sinh sống, nguồn lương thực thực phẩm nuôi cán bộ chiến sĩ và phục vụ chiến đấu chủ yếu dựa vào sự cung cấp của nhân dân nội, ngoại thị và nguồn tiếp tế của tỉnh bằng đường thủy (từ Phú Yên vào).

Về phía địch, chiến khu Đồng Bò là một chiến lũy của ta làm cho địch rất cay cú, chúng điên cuồng đánh phá, bao vây, kiểm soát hết sức gắt gao.

Đến năm 1950, quân Pháp ở Đông Dương tiếp tục thực hiện âm mưu bình định vùng chúng đang tạm thời kiểm soát, ra sức củng cố các vị trí chiến lược, trong các đô thị, trên các trục giao thông, xây dựng những cứ điểm nhỏ thành một hệ thống cứ điểm ngoại vi... Mặt khác, chính sách bình định của địch còn được bổ sung bằng kế hoạch Rơ-ve (Revers).

Tại chiến trường Nha Trang, song song với việc tăng cường bộ máy hành chánh chúng đã cố sức dũi ra xây dựng một hệ thống đồn bót vành đai gồm hàng chục đồn, bót, tháp canh bao quanh thị xã, có một số đồn bót tháp canh án ngữ ven Đồng Bò như đèo Hốc Mít, bến đò Bình Tân chùa Ông Đề, Trường Đông... Bên cạnh hệ thống hành chánh quân sự do Pháp trực tiếp quản lý, chúng thu nạp tay sai xây dựng hệ thống hành chánh dân sự tới tận cơ sở với lý trưởng và ngũ hương nhằm nắm dân, kể cả biện pháp bắt dân vùng ven vào ngủ đồn nhưng vẫn không thực hiện được âm mưu bình định của chúng. Lòng dân vẫn hướng về kháng chiến, nguồn cung cấp cho chiến khu vẫn duy trì mạnh mẽ.

Cuối năm 1950, đại đội 252 tập kích đồn Cô Châu, diệt một tiểu đội Pháp và ngụy đóng ở đây. Thời gian sau đó, địch ra sức tăng cường đánh phá vùng tiếp giáp với chiến khu Đồng Bò, tung biệt kích, mật thám dò la mọi ngóc ngách, liên tục xua quân tuần tiễu lùng sục ban ngày, phục kích ban đêm. Chúng tăng cường việc cho máy bay trinh sát quần đảo, gọi máy bay dội bom, gọi pháo bắn những vị trí chúng nghi ngờ; đồng thời chúng dùng nhiều thủ đoạn kiếm soát gắt gao lúa gạo trong dân, khống chế sự liên hệ giữa chiến khu với vùng bàn đạp, gây rất nhiều khó khăn cho các hoạt động của các lực lượng ta.

Đầu năm 1951, địch phục kích phát hiện và bắn chìm hai ghe liên lạc của ta từ Đầm Vân vào Vườn Dừa, cán bộ đi trên ghe đều hy sinh và bị bắt. Rồi sau đó các đồng chí như: Lê Hồng Bảo - Thường vụ Thị ủy, Chính trị viên Thị Đội, Phạm Thị Bấc - Thị ủy viên trên đường về bám dân xây dựng cơ sở cũng bị địch phục kích, bắn hy sinh...

Những hy sinh mất mát liên tiếp không chỉ là tổn thất có ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào mà còn làm nảy sinh nhiều khó khăn khác. Trước hết là việc cung cấp lương thực, thực phẩm, vật dụng và nhu yếu phẩm cho chiến khu bị địch phong tỏa ngặt nghèo. Cán bộ chiến sĩ phải ăn dừa trừ bữa; nhưng Vườn Dừa không phải là vô tận nên vẫn phải sử dụng có chừng mực. Anh em còn vào rừng tìm trái gắm, môn ngứa, củ rừng, hái các loại rau... Số anh em thì đi quăng chài đánh lưới bắt cá, mò cua. Cơ quan gần rừng sát (các khu) thì đặt nò tôm, đăng đó... tìm thêm nguồn chất bổ.

Ăn dừa thay gạo với cá quá nhiều chất béo dễ bị tiêu chảy... Nhiều anh em phù nề, tay chân rũ riệt, tê bại... Đã đói nên tới bữa thì bụng dạ cồn cào như lên cơn nghiện, có người nằm sải chân tay cho qua cơn! Sức khỏe mọi người giảm sút nghiêm trọng! Nhiều anh em bải hoải tay chân, đi đứng không nổi... xuất hiện tư tưởng ngại khó ngại khổ, bi quan.... Trong khi đó, địch vẫn liên tục bao vây, tiến hành các cuộc lùng sục càn quét vào chiến khu, rải truyền đơn chiêu hồi, chiêu hàng... Có người thiếu kiên định, thiếu tinh thần chịu dựng gian khổ khó khăn đã chạy ra đầu thú địch một cách nhục nhã!. Có người không vượt qua sự dày vò của “cái đói” đã bỏ ngũ về nhà! Và câu “khi đi đầu người - khi về đầu thú” của nhân dân như một lời nhắc nhủ, răn đe, cảnh tỉnh...

Việc “lo ăn” cho chiến khu trở thành nhiệm vụ quan trọng. Một mặt, Thị ủy chủ trương tăng cường công tác tư tưởng, tiến hành sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong đảng, trong cơ quan đơn vị, ghi nhận biểu dương những tấm gương hy sinh anh dũng, những đảng viên cán bộ chiến sĩ đã chịu đựng gian khổ khó khăn, giữ vững tinh thần yêu nước, quyết tâm bám cơ sở vận động nhân dân cùng tham gia kháng chiến. Thị ủy cũng đã tự phê bình về khuyết điểm của mình trong công tác chỉ đạo đã chưa dự kiến hết mọi tình huống, không chú trọng công tác tăng gia sản xuất, chủ động dự trữ lương thực... nhất là không chỉ đạo kịp thời khi địch chuyển hướng đánh phá liên tục gắt gao vào cơ sở, cắt nguồn tiếp tế và đánh phá vào nội bộ ta.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:42:42 pm
Mặt khác, Thị ủy chỉ đạo các đội công tác ra sức xây dựng cơ sở, khôi phục phong trào, khơi nguồn tiếp tế...; Với lực lượng tại chiến khu, chỉ đạo các đơn vị tìm đất phát rẫy sản xuất hoa màu lương thực, chủ yếu là bắp và mì tại Đồng Bò và chiến khu Đá Đen ở Diên Khánh; Với nội thị, ra sức vận động nhân dân tận dụng mọi thời cơ tiến hành đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp, đòi những quyền lợi thiết thân về dân sinh dân chủ, qua đó sàng lọc phát triển lực lượng, xây dựng cơ sở bên trong. Sự lãnh đạo đúng đắn của Thị ủy tạo ra bước chuyển biến rõ rệt và từng bước thu được kết quả.

Với phong trào nội thị, tiêu biểu là cuộc đấu tranh chống lệnh cấm biển. Sau khi phục kích trên biển bắn chìm ghe thuyền liên lạc, một số cán bộ ta hy sinh và bị bắt, đến tháng 1 năm 1951, địch tiến hành phong tỏa mặt biển Nha Trang, chúng truy đuổi bắn phá ghe thuyền của ngư dân gây nhiều thiệt hại và trở ngại lớn việc làm ăn của bà con.

Đến tháng 2, nhằm vào đầu mùa cá rộ, chúng ra lệnh cấm toàn bộ tàu thuyền của ngư dân hoạt động trên biển. Đồng bào Trường Đông, Bình Tân, Chụt... và vùng Xương Huân, Cù Lao... hầu hết sống dựa vào biển, nghề biển bị cấm làm cuộc sống bà con vô cùng khốn đốn kéo theo nạn khan hiếm thực phẩm, làm giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của mọi tầng lớp nhân dân thị xã.

Thị ủy chủ trương tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh “chống cấm biển”. Bắt đầu từ Trường Đông - địa bàn có đội công tác mạnh, cơ sở vững và nhân dân vốn giàu truyền thống, gắn bó với kháng chiến... làm đầu tàu. Từ vài chục người đáu tranh ban đầu đã dần dần thu hút hàng trăm người cả khu vực Bình Tân, Chụt, Cầu Đá... ăn mặc rách rưới lũ lượt kéo vào nội thị, tụ tập trước các công sở của ngụy quyền “kêu đói”, “xin ăn” và yêu câu bỏ lệnh cấm biển... Lúc đầu, các chủ xe ngựa, xe ô tô còn lấy tiền, khi hiểu ra họ đã đồng tình ủng hộ, hễ gặp bà con đi đấu tranh, họ tự nguyện chở đi chở về, tạo thuận lợi cho bà con. Cuộc đấu tranh không chỉ thu hút đông đảo bà con ngư dân, người nghèo tham gia mà được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Binh lính trong các đồn bót, kể cả tên Hồ Lưu khét tiếng gian ác làm xếp bót Trường Đông cũng phải nhượng bộ làm ngơ.

Liên tục trong nhiều ngày, đoàn người “ăn xin” luôn đi khắp các đường phố, các chợ kêu than làm cho các tầng lớp nhân dân nội thị xúc động, đồng tình hưởng ứng. Đến cả người chủ thầu thuế chợ là một Ấn kiều cũng đồng tình, tự mình đến Tỉnh đường yêu cầu bỏ lệnh cấm biển vì một ngày chợ không có cá bán là một ngày thuế chợ bị thất thu.

Qua hai tháng bền bỉ đấu tranh, ngư dân Nha Trang được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân thị xã - kể cả những người đang trong hàng ngũ địch đã buộc ngụy quyền Khánh Hòa bãi bỏ lệnh cấm biển. Ngư dân được tự do ra khơi vào lộng làm nghề. Thắng lợi này là một minh chứng giúp cho nhân dân nhận rõ sức mạnh đoàn kết của mình thông qua sự lãnh đạo của Việt Minh củng cố niềm tin vào công cuộc kháng chiến.

Trong khi đó, tại chiến khu, từ các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang đến các khu đều bắt tay vào phát rẫy sản xuất. Từ suối Khô đến Trảng É có rẫy khu 1, rẫy khu 3... từ Đồng Bò Thượng qua Đồng Bò Trung đến Đồng Bò Hạ lần lượt xuất hiện những rẫy Lương Sơn, rẫy Thị, rẫy K5, rẫy K3, rẫy khu Tây, rẫy Thị đội, rẫy khu Nam... Đồng thời, cơ quan cũng cắt cử một bộ phận nhân viên đi Diên Khánh lập cơ sở sản xuất ở chiến khu D (Đá Đen - Diên Khánh). Chủ trương sản xuất lương thực tại chiến khu được thực hiện nghiêm túc, một số cán bộ chưa từng cầm rựa, cầm cuốc lao động nặng nhọc nên khá vất vả nhọc nhằn vẫn hết sức cố gắng.

Thời gian đầu, các đơn vị xoay xở giống má rất khó khăn, Thị ủy phải tổ chức thành các đoàn đi lấy hom mì tận khu Đá Đen - Diên Khánh. Đoàn đi có lực lượng của đơn vị 252 cảnh giới bảo vệ, nhưng chẳng may bị địch phục kích và bị tổn thất máu xương. UBKCHC tỉnh quyết định mỗi cán bộ chiến sĩ các nơi khi về Nha Trang công tác phải mang theo 10 hom sắn (mì) làm nghĩa vụ cho Nha Trang sản xuất.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:43:46 pm
Từ chuyển biến nhận thức tư tưởng của cán bộ chiến sĩ đến những khu rẫy bắp mì lên xanh là kết quả của bao mồ hôi công sức và cả máu xương. Và sau mấy tháng dày công chăm sóc, hầu hết các rẫy bắp, mì đều có thu hoạch. Yêu cầu của lãnh đạo là không ăn bắp tươi mà phơi khô, thu hoạch xong làm kho chứa bảo quản. Từ thiếu ăn đến có bắp hầm đủ no là một bước cải thiện tình hình đáng kể. Ngoài bắp, mì, lang... nhiều rẫy trồng các loại rau, cà, ớt, đu đủ... Nổi tiếng là rẫy đu đủ, cà và ớt xiêm của khu I nhiều đến nỗi không ăn hết... Tuy vậy, không phải rẫy của khu nào, cơ quan nào đất cũng tốt! khu I và khu Nam làm rẫy gần nhau nhưng:

Cũng thì rẫy bắp hai bên
Một rẫy có trái - rẫy thì quên trổ cờ…

và cũng không quên “chọc quê” nhau một chút cho vui:

Khu I ăn bắp bỏ cùi
Khu Nam thấy vậy mang gùi tới xin

Một số cán bộ khi về làng vào thị xã hoạt động đã mang vài trái bắp tươi vào biếu cơ sở nhằm gián tiếp “thưa với bà con rằng dù địch ra sức bao vây nhằm triệt phá chiến khu nhưng chúng con vẫn quyết tâm phá tan âm mưu thâm độc của chúng”. Nhiều bà má cầm trái bắp trên tay mà rưng rưng nước mắt...

Ban tiếp vận tỉnh đặt tại Phú Yên tiếp nhận chi viện của Liên khu và vận chuyển vào chiến trường bằng cả hai đường thủy, bộ. Trên tuyến vận chuyển đường thủy từ Phú Yên vào có nhiều Trạm: Hòn Gầm, Đầm Môn, Bãi Giếng, Ninh Tịnh, Ninh Yển, Đầm Vân, Hòn Tre, Đồng Bò, Cù Hin...

Trạm tiếp vận đường thủy Đồng Bò đặt ở khu vực Vườn Dừa (Sông Lô) có nhiệm vụ tiếp nhận hàng chi viện của nhân dân vùng tự do Liên khu 5 chuyển vào. Những chiếc ghe đầy hàng, mưu trí bịt mắt mạng lưới tuần tra của địch trên biển, đến đêm ghé vào vùng biển phía trước Cửa Bé. Khi bắt được tín hiệu an toàn (theo quy ước) của trạm, nhanh chóng cập bến. Bến không cố định để tránh địch phát hiện, khi vào Vườn Dừa, khi vào Cù Hin... tùy tình hình mà trạm hiệp đồng thực hiện. Ghe cập bến, lập tức hàng được bốc dỡ hết sức khẩn trương để giải phóng ghe và liền sau đó chuyển ngay vào kho cất giấu. Lực lượng bốc dỡ là bộ đội, cán bộ không kể nam nữ đã được chuẩn bị trước. Mọi người làm việc liên tục không tiếc sức, cốt giải phóng hàng trước khi trời sáng để thủy thủ và cán bộ trạm tìm chỗ giấu ghe và xóa dấu vết ngụy trang bến bãi trước khi trời sáng đề phòng địch phát hiện.

Hàng chi viện chủ yếu gồm gạo và vũ khí. Bộ phận kho của trạm do đồng chí Nguyễn Bá Mão phụ trách thường bố trí trên khu vực Bãi Cây Xanh. Kho tàng được bố trí kín đáo, không để máy bay trinh sát “đầm già” của địch phát hiện và chống mưa gió, thứ rừng - nhất là sóc và chuột phá hoại đồng thời có hệ thống bố phòng chống địch lùng sục càn quét(1).

Vũ khí do Quân giới Liên khu chi viện chủ yếu là vỏ lựu đạn, vỏ các loại mìn (mìn đĩa, mìn muỗi, mìn bí đao...) và những vật liệu mà Trạm quân giới Đồng Bò khổng đủ điều kiện sản xuất. Các loại vỏ mìn và những bộ phận vũ khí mà Liên klui 5 tiếp tế vào chiến khu Đồng Bò lên đến hàng tấn đã góp phần khá lớn về trang bị vũ khí cho du kích địa phương trong công tác chống càn cũng như các đội tự vệ mật đánh địch.

Tuy vậy, việc tiếp tế đường thủy không phải không gặp những sự cố ngoài dự kiến. Trước hết, có những chuyến đi do thời tiết không thuận hoặc do nghi ngờ có địch theo dõi phải tránh lánh nên cập bến muộn, hàng chưa kịp dỡ hết mà mặt trời đã sáng nên buộc lòng phải nhận chìm ghe để giữ an toàn bến bãi.

Bên cạnh nguồn tiếp tế của Liên khu, còn có nguồn tiếp tế của Cơ quan kinh tài thị xă. Anh em thu mua, tiếp nhận từ ngoài và vận chuyển bằng ghe vào.

Ai đã từng sinh hoạt tại chiến khu Đồng Bò và từng được nhận những hạt gạo đã biến thành màu xanh đen vì nước biển, dù cấp dưỡng đã ngâm xả nước ngọt nhiều lần nhưng miếng cơm vừa cho vào miệng đã mặn đắng, chắc không thể nào quên! Đã vậy trong tiêu chuẩn mỗi người chỉ một chén mà thôi ! Anh chị em thường gọi là “giảm tô”.


(1) Trong Trạm này có các đồng chí: Chỉ, Bồi, Đạt, Xu, Sum… Đồng chí Chỉ là Chiến sĩ thi đua vận tải.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:45:07 pm
Công tác giao thông liên lạc (giao liên) của chiến khu Đồng Bò được Huyện ủy Vĩnh Xương và Thị ủy Nha Trang tổ chức ngay từ những ngày đầu nhằm đảm bảo chuyển nhận mọi thư từ, công văn, tài liệu và cả nhiệm vụ đưa đón cán bộ thông suốt giữa Đồng Bò với các huyện bạn: Cam Ranh, Diên Khánh... giữa huyện-thị với các đơn vị có liên quan... đặc biệt với tỉnh. Những chiến sĩ giao liên trên biển cũng như trên đất liền thường hoạt động độc lập, xuyên rừng lội suối, chịu đựng gian khổ nắng mưa, muỗi mòng, thú dữ... và với tàu tuần tiễu của địch.

Người chiến sĩ giao liên còn là người cán bộ gây dựng cơ sở tin cậy để qua đó mà luồn lách giữa đồn bót địch, thường xuyên cảnh giác với chỉ điểm và lính địch phục kích, nhiều lúc nhiều nơi phải tổ chức những hộp thư mật thật khéo léo...

Đến năm 1950, Ban lạc của Thị ủy hình thành do một đồng chí Thị ủy viên phụ trách. Ban đầu là đồng chí Huỳnh Tưởng, đến gần cuối năm đồng chí Võ Thành Long - thường gọi là Long Cụt - đi học ở Liên khu 5 về thay (đ/c Huỳnh Tưởng nhận công tác khác). Nhiều chuyên đưa đón cán bộ, chiến sĩ giao liên đã hy sinh cả máu xương nhưng công tác giao liên luôn được duy trì cho đến ngày hòa bình lập lại.

Suốt chín năm chống Pháp xâm lược, đường giao liên như những mạch máu lưu thông trong cơ thể không ngưng nghỉ, là con đường của lòng dân yêu nước, của trí thông minh tinh thần quả cảm nên luôn thông suốt.

Cùng lúc với việc thực hiện chủ trương sản xuất, công tác bố phòng bảo vệ căn cứ và nhất là nhiệm vụ xây dựng cơ sở được cán bộ đảng viên các cơ quan, đơn vị, các khu, các đội công tác thực hiện với quyết tâm cao dần dần chuyển biến tình hình từ chiến khu đến phong trào tham gia kháng chiến.

Trước hết, mỗi cơ quan, đơn vị, kho tàng... dù bố trí trên núi cao, sâu trong lòng chiến khu, nơi rẫy bái... đều lập vành đai bố phòng bằng hệ thống bãi chông, bàn chông, hầm chông nhỏ lớn, lựu đạn gài, mìn muỗi... Điều quan trọng là mọi người trong chiến khu dù nam hay nữ, dù ở bất cứ cơ quan đơn vị nào cũng được học tập biết cách sử dụng vũ khí để thay nhau gài đặt trên hệ thống bố phòng. Mỗi cơ quan có sơ đồ cụ thể và chỉ phổ biến trong nội bộ. Tuy kỷ luật chặt chẽ và mọi người đều hết sức cẩn trọng nhưng vẫn có nhiều sơ hở đáng tiếc xảy ra (anh Lân khi đi gỡ mìn bị nổ, chị Thệ đang mang thai hái đu đủ bị sụp hầm chông...may là chỉ bị thương nhẹ !)

Nhằm bảo đảm an toàn cho chiến khu, các đơn vị vũ trang, các đội công tác của thị xã và các khu thường được bố trí thấp hơn ở vòng ngoài. Đây là những đơn vị thường xuyên về làng cùng cơ sở bám dân, bám địa bàn hoạt động nên ngoài việc tuyệt đối giữ gìn bí mật, còn phải xây dựng hệ thông hầm chông cạm bẫy, lựu đạn, mìn muỗi bảo vệ căn cứ trong hệ thống liên hoàn bố phòng ven chiến khu, tổ chức lực lượng phối hợp với bộ đội địa phương đặt tổ cảnh giới và tuần tra chặt chẽ.

Hàng ngày, việc kiểm tra hệ thống bố phòng không chỉ được quy định thành nề nếp thường xuyên mà xuất phát từ ý thức trách nhiệm tự thân của mỗi người.

Thời gian này, các mũi tuần tra được xây dựng quy củ: Một mũi đảm trách khu vực Vườn Dừa (Sông Lô), qua Bàu Sấu đến Đá Chẹt... Một mũi từ khu vực Gò Bông, giáp Bến Đá đến Bàu Hồng. Một mũi đảm trách khu vực Đồng Bò Thượng từ Đồng Trâm đên Bến Cầu giáp Gò Bông... Một mũi bảo đảm khu vực từ suối Đá Nhảy giáp qua khu vực Suối Dầu...

Tất cả trở thành một mạng lưới liên hoàn và cũng từ đó đã kịp thời bẻ gãy những toán biệt kích đi lùng sục, các cuộc càn quét của quân Pháp khi chúng vừa mon men đến ngoại vi chiến khu hoặc phục kích đón lõng trên đường rút quân. Nhiều lần chúng chưa phá được rẫy đã bị thương vong vì mìn muỗi, sụp hầm chông phải dìu nhau rút về... giữa lúc đang mệt mỏi thì bất ngờ bị quân ta phục kích đánh bồi... Đơn vị 252 nhiều lần đánh địch trên khu vực từ Trảng É lên Đồng Chay, đèo Hốc Mít diệt nhiều địch.

Quân địch rất sợ chông, nhất là đạp phải bàn chông! Một đứa đạp chông (không thể nào rút ra được vì chông có ngạnh), phải mất mấy đứa khỏe mạnh khiêng đi đường rừng là cực hình cho cả đứa bị chông và những đứa khiêng! Công tác bố phòng bảo vệ sản xuất, bảo vệ chiến khu và chiến đấu chống các cuộc càn thắng lợi không chỉ buộc địch phải co vòi không càn quét sâu vào chiến khu, mà còn gây tiếng vang trong nhân dân thị xã và vùng ven. Các đội công tác các khu từng bước khôi phục cơ sở.

Từ đó trở đi, vùng ven đã trở thành bàn đạp tin cây của các đội công tác, bộ đội trong các hoat động; trở thành tấm bản lề giữa chiến khu với nội thị. Nhiều khi, cán bộ, bộ đội về làng hoạt động cả ban ngày. Đường dây từ chiến khu Đồng Bò vào các cơ sở nội thị đã khai thông, thuận lợi cho công tác chỉ đạo của Thị ủy đồng thời đường tiếp tế từ cơ sở vào chiến khu được thông suốt.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:45:31 pm
Trên những con đường từ chiến khu (nơi cơ quan Vĩnh Xương đứng chân ở ngã ba Phước Thượng) về với dân, đường liên lạc xuyên qua rừng trãng, qua Eo Gió phải qua Cục Đá Rờ - vì bất cứ ai qua lại nơi đây cũng phải rờ, phải vịn... - tới Bằng Lỗ Tây... Đây là Ngã Tư gồm các ngả đường vào Khu A, tỏa về các xã vùng ven, về với cơ sở có những “trạm” dừng chân, cảnh giới, tiếp tế, nuôi giấu cán bộ; bộ đội khi công tác, khi địch truy lùng và cả khi bị thương... Từ Khu A qua Đồng Nhơn, Bút Sơn... có chùa An Dưỡng; ra phía Vĩnh Điềm Trung nơi gần đường xe lửa - tại Gò Găng có chùa Huê Quang; ra phía Đông Thái Thông... giữa đồng ruộng có xóm Chòi... và biết bao cơ sở khác nữa trên vùng ven quanh chiến khu Đồng Bò đã hết lòng vì kháng chiến.

Xóm Chòi là một xóm nhỏ lơ thơ bảy tám căn chòi nhỏ của một số bà con trong làng ra dựng tạm trên gò đất giữa đồng để sinh hoạt, nghỉ ngơi vào mùa làm ruộng. Ngoài những căn chòi cho gia đình còn có chuồng nhốt trâu bò, để cày bừa, nông cụ...

Cán bộ, bộ đội trên chiến khu hoạt động hướng này đều gần như thân thuộc với các gia đình xóm Chòi: nhà ông Xã Nhì, ông Lê Đựng, ông Phạm Liệt, ông Hồ Sổ, ông Hồ Nghệ, ông Nguyễn Lắm, ông Khắp và bà Phạm thị Dặm... Mọi người trong xóm từ già đến trẻ đều tham gia các đoàn thể Việt Minh và hăng hái đóng góp kháng chiến. Lợi thế của xóm Chòi là ở giữa đồng trống và bà con xóm Chòi làm việc giữa đồng lại sống hợp pháp trong vùng địch tạm thời kiểm soát nên nắm rõ hành tung của địch quanh vùng. Theo quy ưởc, đêm đêm bà con luôn có ám hiệu báo động - báo an bằng ánh sáng đèn, lửa bếp hoặc un muỗi trâu...bảo đảm cho anh em đi về an toàn. Cung cấp tình hình địch và hoạt động của bà con trong làng.

Một số gia đình trong xóm Chòi còn làm nhiệm vụ mua hàng hóa cho chiến khu. Cơ quan cần gì anh em nhờ bà con mua giúp để sẵn đến đêm về lấy. Ngoài lương thực, thực phẩm và các loại nhu yếu phẩm, đôi khi còn mua cả những loại văn phòng phẩm quý hiếm... Tích cực hăng hái nhất là vợ ông Khắp và bà Dặm.

Chùa An Dưỡng - ngôi chùa cổ xây dựng từ hơn 150 năm trước và tọa lạc trên vùng đất Đồng Châu căn cứ của Nam Trung nghĩa sĩ từng sản sinh ra “Tam Hùng Ngũ Bá” chống Pháp xâm lược từ ngày đầu chúng đem quân xâm lược nước ta những năm 1885 - cũng là một cơ sở vững chắc. Nhà sư Thích Trừng Minh trụ trì chùa An Dưỡng là một người yêu nước nhiệt thành. Sau ngày khởi nghĩa ông đã kêu gọi Phật tử “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, nước có độc lập thì nhà mới yên, Phật tử cũng là dân nước Việt nên phải ra sức gánh vác việc chung” nên hầu hết Phật tử đều tham gia đoàn thể Mặt trận. Nhà sư được nhân dân tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Mặt trận Việt Minh Thái Thông - và sau đó là xã Thái Sơn. Nhà chùa trở thành trạm liên lạc cho cán bộ đi về, hội họp triển khai công tác... Các đồng chí Nguyễn Nghiềm, Nguyễn Biền, Nguyễn Thị Đo, Phạm Trực (Đỏ), Nguyễn Láp (Dân)... cùng nhiều đảng viên, cán bộ trong xã đều được nhà chùa nuôi giấu bảo vệ. Bọn do thám biết rõ hoạt động của chùa thỉnh thoảng dẫn bọn lính ra lục soát. Nhờ nhắc nhở Phật tử canh gác nên kịp thời bố trí cho anh em tránh lánh. Đôi khi giặc đến bất ngờ, nhà sư vừa gõ mõ đọc kinh vừa đệm hai tiếng nói lái “Tô giây... Tô giây” báo động cho anh em lẩn tránh. Lần khác, khi anh em đang họp, mọi người chưa kịp sơ tán hết, nhà sư đã giấu đồng chí Nguyễn Nghiềm trên nóc khám thờ và thản nhiên ngồi gõ mõ tụng kinh niệm Phật... Và sau lần chúng bắt hụt đồng chí Nguyễn Nghiềm, và Nguyễn Nùng (chồng đồng chí Nguyễn Thị Đo) chúng túm râu nhà sư lôi về bót Cầu Quay khảo tra hết sức tàn ác! Đây là lần thứ hai nhà sư bị giặc giam cầm đánh đập... nhưng không khuất phục được ý chí của nhà tu hành yêu nước và e ngại phản ứng của đông đảo Phật tử, chúng phải thả ông về.

Nhà kho của chùa là trạm tập kết lương thực, thực phẩm tiếp tế cho chiến khu. Các hoạt động lớn như Đại hội Nuôi quân, chiến dịch Trường Chinh,... đều được nhà sư hô hào Phật tử và nhân dân trong xã đóng góp nhiệt tình; nhà sư còn dành phần lớn lượng thực của nhà chùa ủng hộ kháng chiến. Đoàn đại biểu xã Thái Sơn về chiến khu dự Đại hội Nuôi quân có đồng chí Nguyễn Thị Đo, bà Nguyễn Thị Hài và nhà sư Thích Trừng Minh làm trưởng đoàn. Mỗi lần các đơn vị C202, D101 về ém quân vùng Thái Thông hoạt động, ban chỉ huy thường đóng trong chùa An Dưỡng. Các đồng chí Võ Hòa, Nguyễn Trọng Xuyên... được nhà chùa và nhân dân Thái Thông coi như người người thân...

Sau trận phục kích diệt bọn Tây đen đồn Thủy Tú tại cầu Ông Bang và trận tiêu diệt toán lê dương ở bót Thái Thông, lính các bót vùng ven co vòi. Tết 1949-1950 quân dân cùng vui Tết chiến thắng tưng bừng, tới nay bà con vẫn còn nhắc đến Hồ Chí Long - một chiến sĩ người Đức, xạ thủ súng máy cùng vui Tết với đồng bào Thái Thông tại chùa...


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:46:51 pm
*
*   *

Bộ phận thông tin tuyên truyền thị xã Nha Trang được thành lập từ năm 1948 tại Hòn Tre (do đồng chí Toán phụ trách) đảm trách công tác thông tin tuyên truyền nhằm động viên chiến sĩ đồng bào đoàn kết một lòng tham gia kháng chiến giành độc lập, xuất bản tờ Thông tin Nha Trang, in li tô (lúc đầu đồng chí Lê Ban viết bản đá). Sau đó, tỉnh tăng cường đồng chí Nguyễn Quang, một cán bộ không chỉ bảo đảm biên tập tin tức bài vở nhanh chóng kịp thời mà còn có khả năng sáng tác thơ ca. Sau này, Bộ phận thông tin Nha Trang được nâng cấp thành Phân ty Thông tin Khánh Hòa tại Nha Trang, có phân ty trưởng và một phân ty phó điều hành, có bộ phận văn thư, ấn loát tiếp tục xuất bản và phát hành rộng rãi tờ Thông tin Nha Trang với nội dung phong phú, tin bài có chất lượng hơn. Từ chiến khu, tờ Thông tin được phân phối về các cơ quan, theo chân các chiến sĩ giao liên tỏa về các đơn vị và lưu hành rộng rãi trong nhân dân.

Để phù hợp với các tầng lớp nhân dân nội thị, cùng với tờ báo Thắng của tỉnh được xuất bản; tỉnh cho phát hành tờ Trait d’Union (Gạch nối), tin bài do một số cán bộ có đủ điều kiện viết bằng tiếng Pháp dành cho sĩ quan binh sĩ và các giới chức người Pháp và cho cả số trí thức người Việt đọc. Ngoài việc bí mật phát hành, đôi khi, các số báo được anh em ghi rõ địa chỉ gửi qua bưu điện đến tận tay từng đối tượng quan chức của địch.

Tuy số lượng phát hành không lớn nhưng các tờ báo do Bộ phận thông tin Nha Trang phát hành đã góp phần vào việc tuyên truyền chủ trương chính sách của chính phủ, Mặt trận Việt Minh, phổ biến tin tức, vạch trần tính chất phi nghĩa, tố cáo những hành động dã man tàn bạo trong cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, khẳng định tính chất chính nghĩa của công cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước chân chính của nhân dân ta. Ngoài ra, các tờ báo còn khẳng định sự có mặt của Việt Minh ngay trong lòng nhân dân thành phố đang cùng nhân dân cả nước góp phần đưa kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

Ngoài việc phát hành báo chí, bản tin để tuyên truyền, ở chiến khu Đồng Bò còn có các đợt tể chức học tập chính trị, giáo dục tư tưởng đạo đức cho cán bộ, đảng viên.

Đồng Bò và Hòn Tre thường là nơi Tỉnh ùy triệu tập các lớp học cho khu vực Nam Khánh. Đầu tiên là lớp học phương châm chiến lược “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” vạch rõ ba giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; lớp học có đông đủ cán bộ quân dàn chính các huyện Cam Ranh, Diên Khánh, Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang. Lớp đào tạo bổi dưỡng chi ủy viên, cán bộ xã trong thời gian 5 ngày tại suối Đá Nhảy, đồng chí An, Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp lên lớp. Lớp bồi dưỡng cán bộ xây dựng cơ sở tại Bãi Trủ 3 ngày. Lớp chỉnh huấn “Chuẩn bị chuyển mạnh sang Tổng phản công” do đồng chí Hồ Ngọc Nhường truyền đạt... Chính những lớp học này - tuy ngắn ngày - nhưng đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao trình độ cho cán bộ đảng viên.

Một cuộc chỉnh huấn lớn được tổ chức ở Suối Lùng vào tháng 6/1952; do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu - Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo. Cán bộ chiến sĩ đã nghiêm túc phê bình và tự phê bình, nhận rõ ưu khuyết điểm trong quá trình công tác và chiến đấu, nâng cao trách nhiệm và củng cố quan điểm lập trường, xác định quyết tâm trường kỳ kháng chiến. Kết quả chỉnh huấn thực sự đã tạo sự chuyển biến thúc đẩy phong trào.

Chiến khu Đồng Bò cũng như các căn cứ kháng chiến trong tỉnh không chỉ giữ vững mà ngày càng vững mạnh. Cán bộ từ chiến khu về các xã, vào nội thị gặp gỡ cơ sở hướng dẫn nội đung công tác, nhất là đối tượng thanh niên. Nhiều cán bộ suốt ngày ngồi xén pơluya chép tóm tắt tài liệu tuyên truyền; ghi chép tin tức chiến thắng ghi qua rađiô, nhắc nhở bà con không nghe theo địch chống lại kháng chiến. Truyền đơn được cuộn tròn nhỏ hơn điếu thuốc. Nhiều đêm lội đồng, bơi qua sông...nhưng những mảnh giấy mỏng manh không bao giờ ướt.

Hoạt động y tế của chiến khu Đồng Bò, những năm đầu kháng chiến vô cùng khó khăn. Các cơ quan, cả các đơn vị võ trang đều không có y tá, những anh chị em có chút ít trình độ tự tìm tòi học hỏi, chăm lo việc chữa trị các chứng bệnh thông thường cho đơn vị. Các loại thuốc tân dược hầu hết do cơ sở nội thị quyên góp mua sắm gửi ra. Cạnh đó là kho dược liệu từ rừng được khai thác chữa trị bằng những bài thuốc dân gian, chủ yếu chữa trị những bệnh thông thường.

Năm 1947, một đơn vị trong bộ đội Thuận Hóa Nam tiến về đứng chân trên núi Thống Nhất có mở một lớp cứu thương cấp tốc, do y tá Lê Đình Tuyền phụ trách. Hơn 50 người được các cơ quan thị xã Nha Trang và huyện Vĩnh Xương cử về học.

Cùng thời gian này, có 6 y tá làm việc tại Nhà thương Bà Sơ là cơ sở hoạt động bị lộ đã thoát ly lên chiến khu mang theo một số thuốc men y cụ và được bố trí đi các đơn vị, đó là các đồng chí: Nguyễn Thị Ty, Võ Thị Phong, Nguyễn Văn Hồng, Cao Minh Phi, Trần Bình Trọng, Vĩnh Thâu.

Về sau có thêm một số đồng chí là y tá về công tác ở chiến khu Đồng Bò như: Đặng Thị Bông, Bạch Liên, Nguyễn Huỳnh, Nguyễn Thị Chi Chỉ, Bích Hà và y tá Quýt.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:47:29 pm
Năm 1950, đồng chí Nguyễn Văn Cung, tốt nghiệp y tá do Phòng Quân y Liên khu 5 mở được bổ sung về Khánh Hòa. Tỉnh giao nhiệm vụ về xây dựng bệnh xá tại suối Đổ - núi Thống Nhất. Bệnh xá đã giải quyết nhiều trường hợp khó khăn trong điều kiện thiếu thốn y cụ thuốc men. Điển hình là ca mổ lấy 8 mảnh đạn pháo cho chị Bông (vợ đồng chí Hà Xuân Huy, ban kinh tài) không có thuốc tê...

Trạm Y tế chiến khu Đồng Bò được xây dựng từ năm 1950 do một y tá trưởng - đồng chí Trung - phụ trách. Một số đơn vị đã có biên chế y tá chuyên chăm lo sức khỏe cho anh em. Đây là bước tiến đáng kể không chỉ phản ánh sự trưởng thành của ngành y tế trong chiến khu mà còn phản ánh thắng lợi chung của công cuộc kháng chiến.

Trước đó, Trạm xá Nha Trang hình thành tại Bãi Rạng - Hòn Tre từ năm 1949. Đây là một cơ sở nghỉ ngơi dưỡng bệnh, có người chăm lo ăn uống, thuốc men giúp anh em đau yếu nghỉ ngơi bồi dưỡng chóng bình phục trở về đơn vị công tác, chiến đấu.

Hoạt động thể dục thể thao trên chiến khu được quan tâm ngay từ những ngày đầu. Các cơ quan đơn vị trên chiến khu Đồng Bò, trong các căn cứ dù đời sống vật chất, ăn ở hết sức khó khăn gian khổ giữa rừng già, trong khe suối đầy muỗi mòng...và luôn phải sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống sẵn sàng chiến đấu nhưng ai cũng coi việc tập luyện là nhu cầu thiết thân để giữ gìn sức khỏe nên ai ai cũng tự giác tham gia.

Ngay từ những ngày đầu, tại căn cứ Bãi Trủ - Hòn Tre, anh em đã tranh thủ bãi cát rộng làm sân bóng đá, thu hút đông đảo anh em vui chơi. Trên chiến khu Đồng Bò có sân bóng chuyền làm trên khoảng đất bằng gần nơi ở của đại đội 252. Chiều đến, anh em các cơ quan đóng gần nhau tập trung chơi bóng sôi nổi. Hoạt động náo nhiệt thoải mái của các cầu thủ trên “sân cỏ” và khán giả đầy nhiệt tình vô tư không chỉ có tác dụng tăng cường rèn luyện sức khỏe mà còn giúp cho cán bộ, nhân viên, chỉ huy, chiến sĩ... gần gũi hiểu biết nhau hơn. Thỉnh thoảng, còn có những cuộc thi đấu giữa các cơ quan đơn vị càng làm cho không khí chiến khu thêm vui tươi phấn chấn

Sinh hoạt văn nghệ của chiến khu từ Đường Đệ - Hòn Tre đến Đồng Bò luôn sôi nổi. Những thanh niên một thời hoạt động trong Liên đoàn Thanh niên Khánh Hòa trước ngày khởi nghĩa, khi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến vẫn không quên mang theo cây đàn măng-đô-lin, băng-jô, gui-ta hoặc bỏ túi cái kèn ác-mô-ni-ca quen thuộc... Không có trống, jaz... họ dùng muỗng canh, nắp cà mèn...thay cho bộ gõ vẫn tạo cho những đêm sinh hoạt thêm hấp dẫn. Họ trở thành những “chiến sĩ câu lạc hộ” đem lời ca tiếng hát làm tươi vui cuộc sống gian khổ nơi chiến khu.

Chiều xuống, trên trảng cỏ mịn ven bìa rừng nhìn về phố thị, làng mạc thân thương... và hàng đêm sau khi họp hành, anh em từng cơ quan quây quần cùng nhau hát những bài đồng ca, người có giọng hát hay được anh chị em yêu cầu đơn ca những bài “tủ” hoặc cùng nhau học thêm bài hát mới... Những ngày đầu lên chiến khu, anh em hát Lên đàng, Đàn chim Việt, Suối mơ... rồi Diệt phát xít, Nhớ chiến khu, Chiếc áo mùa đông, Ca ngợi Hồ Chủ tịch… Cuộc kháng chiến ngày càng thắng lợi, nhiều ca khúc mới từ Liên khu 5, từ Việt Bắc được số anh chị em đi dự hội nghị hay học tập ở tỉnh, khu về phổ biến: Công nhân Việt Nam, Bình Trị Thiên khói lửa, Chiến thắng Sông Lô... càng bổ sung nhiều thêm vốn liếng cho chiến sĩ văn nghệ, bộ đội, cơ quan đồng thời góp phần động viên cổ vũ tinh thần cơ quan đơn vị và đồng bào thêm hăng say kháng chiến.

Nhiều đêm trăng sáng, anh em đón cơ sở và thanh niên vào chiến khu cùng nhau sinh hoạt, thể hiện tấm lòng người dân với chiến khu, thắt chặt thêm tình đoàn kết toàn dân cùng đánh đuổi quân xâm lược

Trong các cuộc hội nghị, các kỳ đại hội Đảng bộ... mỗi cơ quan đơn vị vũ trang đều chuẩn bị chương trình văn nghệ để tham gia liên hoan. Đây là dịp để anh em bộc lộ năng khiếu sáng tác của mình và những vở kịch, bài hát, điệu múa, bài thơ... ra đời.

Nhiều bài hát do anh em truyền lại được cả đơn vị rồi cả chiến khu yêu thích ngót nửa thế kỷ qua vẫn còn nhiều người thuộc như bài “Đêm trong rừng”:

“Rừng muôn cây xanh cao cao.
Âm u muôn ngàn gió lá.
Khuất ánh trăng sao.
Ngồi xung quanh phiến đá.
Ta khơi lửa đào, bập bùng, bập bùng.
Trong đêm thâu, trong đêm thâu.
Ai ngồi dưới sương đêm.
Ta cùng nhau cất cao lời nguyền.
Thề đồng tâm ta quyết thờ sông núi
Đem tâm can xây đắp đời tươi mới.
Một lòng son, bền tâm chí.
Vì non nước có sá chi lao lung.
Anh em ơi !Dư âm trong rừng...”


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:48:24 pm
Nhiều điệu múa, vở kịch tự biên tự diễn mà vai nữ do nam đóng giả (vì đơn vị không có nữ) vẫn được mọi người hoan nghênh. Nhiều bài thơ, câu ca dao được anh em yêu thích đã chuyền tay nhau chép vào sổ tay và ngâm nga trong những buổi liên hoan, những đêm sinh hoạt.

Nhân các ngày lễ, ngày Tết, cơ quan Thị ủy còn ra bích báo, báo tay. Khổ báo những số đặc biệt như khổ tạp chí, nhiều trang do đồng chí Lê Đoan - Bí thư Thị ủy làm “chủ bút”. Bài vở của anh chị em trong cơ quan tự sáng tác. Có tờ báo Tết in thạch bản, trình bày rất đẹp.

Hoạt động văn nghệ trên chiến khu trong chín năm chống Pháp không chỉ đã thiết thực nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ chiến sĩ mà còn đóng góp phần nào vào việc động viên tinh thần kháng chiến trong nhân dân.

Công tác, sinh hoạt gắn bó bên nhau là nhịp cầu cho tình yêu giữa những người đồng chí nảy nở... Có những đôi tình cảm phát triển từ sự hòa hợp của hai tâm hồn... cũng có đôi chỉ quan hệ bình thường trên tình đồng chí nhưng anh em cơ quan “thấy xứng nên cáp đôi” riết... mà thành

Đám cưới trên chiến khu không nặng phần nghi lễ, chủ yếu là lãnh đạo cơ quan “tuyên bố” chính thức công nhận việc thành hôn và dặn dò hai người “vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Vật chất rất đơn sơ, thường chỉ có một nồi chè đỗ với đường đen (đường cát rất hiếm) và một vài gói bánh đậu xanh, kẹo cứng... với nước trà nhưng hết sức chân tình đầm ấm trong tình cảm mặn mà thắm thiết của cơ quan. Những lời chúc tụng, những câu thơ ứng tác, những bài hát... chúc mừng hạnh phúc lứa đôi trong đêm cưới theo họ đi suốt những năm tháng kháng chiến gian lao và là kỷ niệm quý giá của cả đời người, thành chuyện cồ tích thỉnh thoảng kể lại cho con cháu nghe!

Hoạt động Văn nghệ - Thể dục Thể thao là một mặt hoạt động không thể thiếu trong đời sống của cán bộ chiến sĩ và góp phần khắc họa thêm nét riêng về tinh thần lạc quan trong sáng của những người chiến sĩ sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Đến năm 1952, nhằm nắm sát tình hình kịp thời chỉ đạo, Liên khu 5 tăng cường cho tổ quân báo một vô tuyến điện. Tình hình được phản ánh kịp thời. Cũng từ đây, chiến khu được trang bị một rađiô / máy thu thanh giúp lãnh đạo và anh em có điều kiện nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, trực tiếp nghe những bài xã luận, tin tức khắp nơi. Không có điện, anh em phân công nhau ngồi đạp đinamô nạp điện vào ắc quy để nghe đài.

Đầu năm 1954, nhận rõ nguy cơ thất bại, Mỹ hà hơi tiếp sức cho thực dân xâm lược Pháp thực hiện “Kế hoạch Nava” - một kế hoạch quy mô với hy vọng xoay chuyển tình hình. Để phối hợp với chiến trường chính, tại Nam Trung Bộ quân Pháp âm mưu mở chiến dịch At-lăng nhằm đánh chiếm vùng tự do Nam-Ngãi-Bình-Phú.

Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 hạ quyết tâm đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 tiến lên tiêu diệt một phần lực lượng địch trên chiến trường Tây Nguyên, đánh bại chiến dịch Át-lăng của địch.

Hàng loạt đồn bót của giặc ở ngoại vi bị bóc, bộ máy ngụy quyền tan rã từng mảng, bè lũ tay sai ác ôn chui sâu vào thị xã tránh đòn trừng trị của nhân dân, phong trào quần chúng phát triển...Chiến khu Đồng Bò không chỉ đã đứng vững mà đã tạo được một bàn đạp rộng lớn áp sát quanh vùng nội thị tạo nhiều thuận lợi cho các hoạt động của cán bộ và các lực lượng vũ trang thị xã.

Nhằm gây cản trở cho địch về các phương tiện giao thông, bộ đội đặc công do đồng chí Ngô Tư phụ trách và đồng chí Nguyễn Văn Minh, Khu đội trưởng khu 3 được tự vệ mật Sở Hỏa sa dẫn đường luồn sâu tiến công đốt cháy kho xăng Phước Hải, thiêu hủy gần 4 triệu lít xăng dầu; dùng mìn phá tan một đầu máy xe lửa và làm hỏng nặng một chiếc khác... làm suy giảm phương tiện chiến tranh chuẩn bị cho chiến dịch Atlăng của địch và gây tiếng vang lớn, tạo dư luận và niềm tin trong nhân dân.

“Rừng “Bắc Khánh” mồ chôn xác giặc
Núi Đồng Bò bao xác thù phơi
Kho xăng lửa cháy rực trời
Thằng Tây khiếp vía, dân cười hả hê”
(1)

Đầu tháng 5 năm 1954, tin chiến thắng Điện Biên vang dội khắp nơi càng làm nức lòng quân và dân Nha Trang. Chiến khu Đồng Bò đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình, góp phần vào thắng lợi chung trong thời kỳ kháng chiến chống quân xâm lược Pháp.


(1) Trích thơ của đồng chí Trần Văn Huy


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Tư, 2020, 02:50:45 pm
*
*   *

Qua 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm lược, biết bao người con thân yêu của Tổ quốc hoạt động trên chiến khu Đồng Bò đã góp phần mồ hôi xương máu vào thắng lợi chung của dân tộc. Họ đã vĩnh viễn ra đi nhưng cuộc đời họ mãi gắn liền với những địa danh đã đi vào lịch sử và hình ảnh thân thương của họ vẫn sống mãi trong tình cảm bao người...

Em Chó - con trai ông Sáu Hèm vừa tròn 12 tuổi mà vóc dáng loắt choắt như đứa trẻ lên tám là một liên lạc viên của Việt Minh Nha Trang.

Hàng ngày, em mang một giỏ tài liệu to tướng trên chiếc xe đạp cà tàng đi phân phối tận các cơ sở... Chân ngắn, không ngồi được trên yên mà đứng trên bàn đạp thọc chân qua hai bên đòn giông... Em nhanh trí thông minh luồn lỏi qua các trạm soát, tránh né sự theo dõi của địch.

Một lần đang đi trên đường Phường Củi (Trần Quý Cáp ngày nay) thì bất thần một xe cảnh sát lao thẳng về phía em. Biết có chuyện chẳng lành, em dạt sang lề đường và nhanh tay cho lá thư vào miệng nhai ngấu nghiến và đuổi chụp mấy con bướm đang nhởn nhơ quanh bụi cây như không có gì xảy ra. Mấy tên mật thám nhảy ùa xuống chụp lấy em vừa tát vừa hỏi: - “Mày nuốt cái gì trong miệng” - “Dạ... Em ăn kẹo” - Em trả lời.

Chúng quẳng em lên xe đưa về cơ quan mật thám. Đánh đập rồi tra điện nhưng em chỉ một lời “bắt bướm, ăn kẹo”. Không khai thác được gì, chúng đưa em xuống nhà lao. Hai tháng sau em được tha...

Lên chiến khu, em bé nội thị Nha Trang thích nghi nhanh chóng với cuộc sống tập thể cơ quan thiếu thốn gian nan và tiếp tục làm tròn nhiệm vụ liên lạc của cơ quan Thị ủy từ Khu A về cơ sở nội thị...

Cuối năm 1950, em Chó hy sinh ở tuổi mười ba! Lễ truy điệu em tổ chức hết sức trang nghiêm và xúc động. Những dòng nước mắt lặng lẽ tiễn đưa một chiến sĩ nhỏ tuổi kiên cường đã hết lòng vì kháng chiến.

Khi em Chó đang công tác ở Cơ quan Việt Minh nơi Xóm Rộc, liên lạc viên của cơ quan A là em Thạnh - một em bé Nha Trang nước da trắng trẻo, mũi dọc dừa, có dáng vẻ thư sinh của gia đình viên chức

Em thoát ly lên chiến khu lúc tròn 13 tuổi, đảm nhiệm việc liên lạc giữa Khu A và cơ sở của Thị ủy tại nhà bà Hộ ở Phước Hải. Ngày nào cũng vậy, chiều đến, em nhận thư từ tài liệu một mình xuống núi, giao và nhận tài liệu, mang hàng tiếp tế của cơ sở nội thị gửi lên. Tuy cự ly chỉ trên dưới mười cây số nhưng phải băng rừng trèo núi, cây cối rậm rạp gai góc chằng chịt, cọp beo, rắn rết rình rập trong rừng...và mùa mưa phải vượt suối qua sông, chui lòn qua khu rừng sát, muỗi bu quanh người, đỉa bám đầy chân. Em đi thoăn thoắt, nhanh lắm... nhưng sức em có hạn nên thường về tới giữa rừng đã quá khuya, phải tìm chỗ nằm nghỉ sức, chờ trời tờ mờ sáng lại vùng dậy mò mẫm về cơ quan.

Sau đó, em Thạnh được điều động về tỉnh. Hơn một năm sau em hy sinh trên đường công tác!

Công tác ở cơ quan A sớm nhất là em Dưỡng. Tuy đã qua tuổi 17 nhưng vóc người nhỏ thó, thể chất ốm yếu. Sức yếu nhưng ăn gì em cũng nhường, làm gì em cũng xung phong, thấu ai làm chưa xong em lăn vào góp sức, ai ốm đau em lo chăm sóc. Lần anh Phu bị bệnh nằm li bì dưới cầu đường sắt Vĩnh Điềm, em ở lại đó ngày đêm lo chữa trị không hề sợ địch khủng bố.

Một lần đi mang hàng tiếp tế dưới làng, suốt ngày mang nặng trên đường nên về tới cơ quan thì trời chạng vạng tối. Gặp lúc cơ quan đang di chuyển sang vị trí khác, em phải vừa đi vừa chạy đuổi theo. Băng suối vượt đồi, người em đẫm mồ hôi mà miệng vẫn cười vui. Em kế chuyện đã gặp con cọp lớn chặn đường ngay đầu truông. Cứ mỗi lần em trờ tới là cọp giơ hai chân trước lên định chụp! Em lùi lại vài bước thì con cọp lại ngồi nhe răng. Nhớ những lần nghe các anh lớn ở cơ quan kể chuyện cọp, em không lùi xa hay bỏ chạy mà tạt sang bên lội bừa qua vũng nước, vượt qua cọp dữ xuống làng.

Có những cán bộ đến phút chết vẫn nghĩ đến diệt thù như anh Hồng Sơn, một Chính trị viên đại đội bộ đội địa phương Vĩnh Xương, anh được điều động về tăng cường cho Nha Trang. Với cương vị là Ủy viên Thường vụ Thị ủy hoạt động nội thị, anh luôn bám sát cơ sở, xây dựng cốt cán phát triển đoàn thể. Sau thời gian hoạt động, không may anh bị giặc bắt. Chúng tra tấn rất tàn ác hòng khai thác bí mật đánh phá cơ sở nhưng anh cắn răng chịu đựng, không nói một lời. Trước tinh thần gan góc của anh, chúng đưa anh đi thủ tiêu. Bị hành hạ nhiều ngày người đầy thương tích, sức khỏe tàn tạ, hai tay bị trói chặt nhưng trên đường đi anh đã vận dụng hết sức lực còn lại kéo tên cảnh sát cùng lao vào chiếc xe quân sự đang trờ tới. Tên cảnh sát ngã chúi theo anh nhưng thoát chết. Anh hy sinh dưới bánh xe giặc nhưng hành động của anh được bà con Nha Trang chứng kiến, truyền tụng và hết lòng khâm phục.

Không thể nào kể hết những gương hy sinh anh dũng, vượt khó khăn gian khổ của cán bộ chiến sĩ Vĩnh Xương, Nha Trang những người đã gắn bó với chiến khu Đồng Bò, góp phần xứng đáng vào trang sử của một vùng đất hiên ngang anh dũng.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:19:57 am
Chương II
CHIẾN KHU ĐỒNG BÒ THỜI CHỐNG MỸ

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm trong sự chiếm đóng của Pháp. Theo tinh thần Hiệp định, lực lượng vũ trang của ta tập kết ra Bắc chờ hai năm tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Nhưng với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và là pháo đài chống cộng, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm đã phản bội Hiệp định, phế truất Bảo Đại, gạt bỏ ảnh hưởng của Pháp giành độc quyền thống trị miền Nam. Từ đó, chúng tiến hành hàng loạt các biện pháp thâm độc đàn áp, bắt bớ, tù đày, thủ tiêu những người yêu nước, kháng chiến cũ, những người có cảm tình với cách mạng hoặc bị tình nghi. Chúng tiến hành “Tố Cộng”, “Diệt Cộng”, đàn áp phong trào cách mạng và đặc biệt ban hành Luật 10/59, lê máy chém đi khắp miền Nam tàn sát đẫm máu đồng bào ta.

Cuộc trả thù chính trị đẫm máu của địch tại Khánh Hòa, chỉ qua mấy năm đầu, hàng trăm người bị giết hại, hàng nghìn người bị giam cầm. Các nhà giam từ tỉnh đến huyện, xã mọc lên khá nhiều, chứa đầy những người bị bắt. Chỉ riêng trong đợt đưa tù chính trị bị bắt đày ra Côn Đảo ngày 30/4/1957 có hơn 300 người thì đã có 80 đồng chí cán bộ Khánh Hòa. Phong trào cách mạng tỉnh Khánh Hòa bị nhiều tổn thất, cuộc sống của nhân dân dưới chế độ tay sai bán nước thật đen tối.

MẬT KHU ĐÁ HANG

Cuộc họp mở rộng của Tỉnh ủy Khánh Hòa được tổ chức tại Suối Cau (Hòn Dữ) vào tháng 12/1954 có đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, phái viên của Khu ủy tham dự và do đồng chí Lê Thanh Liêm, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì. Hội nghị nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 9/1954) về tình hình, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Quán triệt tinh thần nghị quyết của Trung Ương, hội nghị đề ra một số biện pháp về củng cố tổ chức, tư tưởng nhằm đẩy mạnh đấu tranh trong toàn tỉnh đòi đối phương phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Hội nghị đã quyết định điều động, tăng cường cán bộ cho một số vùng quan trọng, nhất là Nha Trang, đồng chí Mai Xuân Cống, Phó bí thư Tỉnh ủy trực tiếp làm Bí thư Thị ủy Nha Trang. Sau cuộc họp, cơ quan Tỉnh ủy được chuyển từ Suối Cau về Đồng Bò để tiện chỉ đạo phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp ở Nha Trang và các huyện đồng bằng. Lúc đầu cơ quan Tỉnh ủy đóng ở Đồng Bò Thượng, sau chuyển về suối Đá Chẹt (Đồng Bò Hạ). Bộ phận điện đài cơ yếu đóng cách cơ quan Tỉnh ủy 3km và được bảo vệ rất cẩn mật. Mọi phương tiện sinh hoạt thiết yếu của cơ quan Tỉnh ủy được các cơ sở ở Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Vĩnh Thái, Vĩnh Trung lo tiếp tế khá chu đáo. Tỉnh ủy lúc này có 5 người, đồng chí Lê Thanh Liêm, Bí thư phụ trách chung và trực tiếp theo dõi chỉ đạo phong trào Nha Trang, Vĩnh Xương (sau khi đồng chí Lê Thanh Liêm đi hợp pháp tại Nam Bộ thì đồng chí Trần Nguyên Tích - Thường trực Tỉnh ủy phụ trách).

Từ Đồng Bò, Tỉnh ủy đã trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh chính trị trên toàn tỉnh mà trọng điểm là Nha Trang - Vĩnh Xương và Diên Khánh, tổ chức quần chúng chuyển hướng từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, đòi địch phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, chống địch khủng bố những người kháng chiến cũ. Mặt khác, chăm lo xây dựng cơ sở nội thị để bám dân lãnh đạo các cuộc đấu tranh. Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Thị ủy Nha Trang, Huyện ủy Vĩnh Xương hầu hết đều bám vào các cơ sở nội thị và vùng ven để hoạt động, trực tiếp chỉ đạo phong trào như: đồng chí Lê Thanh Liêm đã bám tại Trường Đồng, 5 đồng chí trong Thị ủy Nha Trang cũng hoạt động bên trong nội thị...

Trước phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi ở Nha Trang - Vĩnh Xương, Diên Khánh và toàn tỉnh Khánh Hòa, biết rõ Đồng Bò là nơi đứng chân của cơ quan chỉ đạo kháng chiến của Nha Trang - Vĩnh Xương và của toàn tỉnh, địch gọi là: “Mật khu Đá Hang” vả liệt kê là “Mật khu quan trọng số 1 của Việt Cộng ở Khánh Hòa”(1), chúng điên cuồng tìm mọi thủ đoạn để đánh phá.

Để ngăn chặn nguồn tiếp tế của nhân dân, địch phá hoại mùa màng, ngăn cấm đồng bào làm ăn, vào rừng chặt cây, lấy lá nón ở Đồng Bò và khu vực ngoại vi. Bọn Phòng 6 đi lùng sục ven rừng xem xét từng cây cỗ, từng bãi phân hòng phát hiện cán bộ ta. Bọn cảnh sát, mật thám giả đi câu, cải trang thành thợ săn, người đốn củi len lỏi ngày đêm trong rừng hoặc phục kích ở bìa rừng theo dõi, tìm dấu vết cán bộ ta.


(1) Tài liệu của địch lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hoà


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:22:43 am
Vượt lên tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, đồng bào cơ sở ở các xã thuộc huyện Vĩnh Xương(1) vẫn đùm bọc, chở che, nuôi giấu cán bộ nằm vùng và làm tốt nhiệm vụ tiếp tế cho các cơ quan đóng ở Đồng Bò. Các cuộc hội họp, học tập của Tỉnh ủy, Thị ủy, Huyện ủy vẫn được tiến hành có kết quả ở đây.

Đầu tháng 6/1955, Tỉnh ủy họp hội nghị mở rộng tại Đồng Bò, xác định chủ trương của Đảng lúc này là đấu tranh chính trị, phải lợi dụng mọi khả năng công khai hợp pháp, đẩy mạnh cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, chống địch khủng bố “Tố Cộng”, đồng thời chăm lo xây dựng căn cứ miền núi làm chỗ dựa cho phong trào cách mạng trong tỉnh.

Đầu năm 1956, đồng chí Trần Lê, Bí thư Liên tỉnh 3(2) cũng đã đến cơ quan của Tỉnh ủy đóng ở Đồng Bò. Đồng chí cho những ý kiến cần thiết tích cực phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh chông âm mưu “bầu quốc hội” riêng rẽ của Mỹ - Diệm vào tháng 3 năm 1956. Tiếp đó, hội nghị Tỉnh ủy mở rộng lại được triệu tập tại núi Cù Hin trong 3 ngày 25, 26 và 27 tháng 02 năm 1956. Đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ, Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy về dự hội nghị. Hội nghị đã đi sâu kiểm điểm tình hình các mặt, đề ra nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tập trung vạch mặt trò hề bầu cử quốc hội riêng rẽ của Mỹ - Diệm, đấu tranh đòi hiệp thương giữa 2 miền, tiến tới thực hiện tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, kết hợp đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống khủng bố trả thù những người kháng chiến cũ.

Địch ra sức khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân, cố phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ. Quần chúng có phần nao núng. Sự đi lại của cán bộ hợp pháp ngày càng bị hạn chế. Từ năm 1957 đến năm 1959, Mỹ - Diệm thực hiện “quốc sách Tố Cộng” với quy mô lớn và ác liệt hơn các năm trước. Mũi nhọn của giai đoạn này là chĩa vào toàn thể nhân dân yêu nước, đồng thời tiêu diệt các tổ chức của Đảng và cán bộ hoạt động bí mật.

Nói chung, tình hình trong những năm 1957 - 1959 là căng thẳng nhất và cũng là những năm ta tổn thất nhiều cán bộ nhất. Toàn tỉnh Khánh Hòa, sau chuyển quân tập kết, ta bố trí ở lại khoảng 500 cán bộ thoát ly, nhưng đến năm 1959 đã bị địch sát hại trên 350 người, trong đó 30 đồng chí cấp ủy viên huyện, tỉnh.

Ánh sáng Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bùng lên xua tan đêm tối. Cán bộ và nhân dân Khánh Hòa đã tiếp nhận được ánh sáng ấy, chuẩn bị đưa phong trào tiến lên theo hướng mới. Cơ quan Tỉnh ủy đã dời từ Đồng Bò về Xóm Cỏ (Khánh Sơn) từ đầu năm 1959, lúc này Đồng Bò là nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo Đảng thị xã Nha Trang và huyện Vĩnh Xương. Tổ chức Đảng của Nha Trang - Vĩnh Xương hoạt động chung từ năm 1956, đến 1961 được tách ra, Ban cán sự thị xã Nha Trang do đ/c Huỳnh Tưởng làm bí thư và Ban cán sự huyện Vĩnh Xương do đồng chí Nguyễn Nghiềm làm bí thư. Trước đó Nha Trang và Vĩnh Xương mỗi nơi có 5 cán bộ, sau một thời gian được bổ sung tăng lên mỗi đơn vị 30 đồng chí do tỉnh tăng cường và một số rút từ cơ sở lên.

Nghị quyết 15 được tổ chức học tập ở tỉnh Khánh Hòa tại Xóm Cỏ (Khánh Sơn) vào tháng 9/1959. Tiếp thu tinh thần cơ bản của hội nghị, các đồng chí trong cấp ủy Nha Trang, Vĩnh Xương đã đề ra những chủ trương mới phù hợp với tình hình địa phương, nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh. Tỉnh biệt phái chi viện về Nha Trang, Vĩnh Xương một số đồng chí nòng cốt thành lập tổ diệt ác, tiền thân của lực lượng vũ trang. Lúc đầu, chỉ trang bị gọn nhẹ để diệt ác và hoạt động hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng. Sang các năm tiếp theo mỗi nơi đều có lực lượng vũ trang địa phương và các đội công tác ra đời, bám trụ ở các xã ngoại vi: Vĩnh Trung, Vĩnh Thái, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Trường, Diên An, Diên Toàn. Đặc biệt là đội công tác Đông Nam thị xã Nha Trang đã xây dựng được cơ sở ở bến tàu Cầu Đá và về sau xây dựng được cơ sở nội tuyến ở sân bay. Đội thường xuyên bám các vùng hải đảo, nhất là Hòn Tre, nơi được gọi là căn cứ thứ hai của Nha Trang. Nhân dân ở Bãi Trủ (Hòn Tre) và ở Vĩnh Trường đã dùng ghe máy của mình để vận chuyển lương thực, nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu Đồng Bò. Ở các xã Vĩnh Trung, Vĩnh Thái, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Diên An, Diên Toàn... thì nuôi giấu, che chở, đùm bọc cán bộ, chiến sĩ các đội công tác, đồng thời cùng làm nhiệm vụ quyên góp và mua lương thực, thực phẩm... cho chiến khu.


(1) Gồm các thôn: Phú Vinh, Xuân Lạc, Phú Nông, Đồng Nhơn, Bút Sơn, Vĩnh Điềm, Thái Thông, Thủy Trường Đông, Trường Tây.
(2) Gồm 3 tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:23:12 am
Sự ra đời và đứng chân vững vàng của các đội công tác ở vùng ven Nha Trang đã tạo ra thế và lực mới của chiến khu Đồng Bò.

Dựa vào địa hình rừng núi có nhiều gộp đá tự nhiên, đó là những hang đá vừa sâu, vừa kéo dài, nhiều ngóc ngách khó tìm, mà miệng các gộp này thường được cây rừng phủ kín, Ban cán sự Nha Trang và Ban cán sự huyện Vĩnh Xương đều đóng tại khu vực gộp Leo Dây, phía trên cao lưng núi Hòn Trông, cách gộp Dốc Gáo (hiện nay nằm phía trên đập thủy điện xã Phước Đồng) về hướng Tây, hơi chếch về hướng Nam khoảng 800m đường chim bay. Khu vực này có hai lạch nước, một luồng chảy xuống suối Bộng Nhồng, một luồng chảy về hướng Tây ra Suối Cây Muồng (Đồng Bò Thượng), còn gọi là suối Ván. Trong kháng chiến chống Pháp vùng này là một trong những nơi đóng cơ quan của huyện Vĩnh Xương. Ngay từ những năm sau 1959, nơi này đã trở thành nơi đóng cơ quan của huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang, ở đây đá núi chất chồng, độ dốc lớn rất khó đi. Đầu mối ra vào cơ quan là gộp Leo Dây. Phía bên dưới là gộp Dưới, một cột mốc để đánh dấu khu vực ra vào cơ quan. Tiếp đó là gộp Ồ Ổ và gộp Cây Sộp. Qua khỏi gộp Leo Dây là đến gộp Liên Lạc, sau đó là các gộp Kinh Tài, Trạm Xá... Phía trên là các gộp Thị Đội, gộp Trung Sơn (còn gọi là gộp Mít Nài, hay K5)... Đi về phía Đông Nam từ gộp K5 phải qua gộp Gà Mổ khoảng 200m là gộp Liên Huyện Thị (còn gọi là gộp Mậu Thân).

Tùy theo địa hình và thế gộp, lực lượng vũ trang bao giờ cũng ở vị trí xung yếu, cơ quan Huyện, Thị thường ở giữa hoặc là dưới. Trong cơ quan Huyện, Thị thì bộ phận liên lạc có vũ khí và luôn ở vị trí bảo đảm tư thế sẵn sàng chiến đấu. Phía trên chỗ ở thì bố trí cắm chông và gài lựu đạn. Những lúc tình hình căng thẳng hoặc khi tập trung cán bộ chiến sĩ để sinh hoạt hội họp đều phải canh gác và tuần tra cẩn thận.

Ngoài khu vực gộp Leo Dây, phía núi Thong Nhất gồm có khu vực: Suối Khu A, suối Ông Quyết, suối Mạnh Hùng, suối Bà Hoàng cũng là nhưng nơi cơ quan Huyện ủy, Thị ủy; hay một bộ phận của Huyện ủy, Thị ủy đã về đóng ở đây. Nơi này còn là bàn đạp của các đội công tác của các xã vùng ven.

Để đánh phá chiến khu, địch không những dùng máy bay oanh kích, dùng pháo tầm xa bắn vào, mà còn tổ chức lùng sục bên trong và phục kích ở bìa rừng, trên các lối vào làng. Bằng cách này, tháng 6/1963, chúng đã bắn chết đồng chí Trường Xuân (tức Phan Văn Cát), đội trưởng đội công tác xây dựng phong trào thanh niên, học sinh; một cán bộ xông xáo, đầy triển vọng, thường được đồng đội gọi là “Paven của Nha Trang”.

Nhiều lần bọn gián điệp giả dạng người đi kiếm củi, bẫy chim... để dò xét nơi đóng quân của ta nhưng đứa thì bất lực, đứa thì bị phát hiện, bắt gọn. Đầu năm 1962, địch cử tên Nguyễn Văn Bé, một tên gián điệp sừng sỏ vào nắm tình hình.

Sau khi tốt nghiệp trường tình báo Cây Điệp vào loại ưu, Bé được đưa sang Mỹ học ngành tình báo 5 năm, trực tiếp do CIA huân luyện, ra trường với quân hàm thiếu tá. Về nước, hắn được giao nhiệm vụ nắm và cung cấp tình hình phong trào, lực lượng cách mạng ở các địa phương... Tại Nam Bộ hắn đã lập nhiều công lao, được quan thầy tặng thưởng và trọng dụng. Đến Nha Trang - Vĩnh Xương, Bé quyết tâm “vào hang bắt cọp”. Hắn mang theo một súng ngắn và một máy bộ đàm “Mideler”. Cùng đi còn có một tổ quân báo, trang bị gọn nhẹ, làm nhiệm vụ bảo vệ, giúp việc cho hắn và thường xuyên báo cáo cho cơ quan tình báo cấp trên.

Dựa vào thủ đoạn, phương pháp và kinh nghiệm của một tình báo chuyên nghiệp cao cấp, hắn hóa trang, giả dạng nhiều đối tượng để làm nhiệm vụ. Lần này hắn đóng vai một thầy tu khổ hạnh, mang theo 3 tượng Phật, 2 bộ áo cà sa, 1 tập kinh Phật, vở, bút và chai đựng nước uống cùng nhang đèn. Lần mò đến gộp Dưới, gần đầu mối ra vào cơ quan, hắn bị các đồng chí của ta phát hiện, bắt gọn. Và dù có giả câm, giả điếc cuối cùng hắn cũng phải thú nhận âm mưu, thủ đoạn và hành động tội lỗi của mình.

Thực tế rút ra từ việc phát hiện tên Bé là bài học kinh nghiệm về tinh thần cảnh giác trong việc ăn, ở, đi lại, sinh hoạt... của mỗi cán bộ chiến sĩ chiến khu.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:23:41 am
*
*   *

Từ giữa những năm 1965, quân Mỹ và chư hầu đổ bộ ào ạt vào Nha Trang, xây dựng nơi đây thành một căn cứ quân sự và hậu phương an toàn của chúng. Đến cuối năm 1965, lực lượng Mỹ và Nam Triều Tiên có 10.500 tên, tháng 9/1966 có 26.000 tên. Đây cũng là nơi tập trung các cơ quan đầu não quan trọng như: Tòa lãnh sự Mỹ, Bộ tư lệnh Việt - Mỹ - Hàn, Bộ tư lệnh dã chiến sư đoàn Bạch Mã... Về phía quân ngụy, chúng có Bộ tư lệnh quân đoàn II vùng II chiến thuật, Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt - biệt kích Mỹ, cùng các trường huấn luyện sĩ quan: không quân, hải quân, Trường hạ sĩ quan Đồng Đế và hàng loạt các cơ quan quân sự, cảnh sát, hậu cần phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ngụy. Bên cạnh đó, ngụy quyền đã bố trí một bộ máy kìm kẹp nhân dân khá chặt chẽ. Cứ 7 - 8 xã có 1 đại đội địa phương quân, mỗi xã có 1 trung đội nghĩa quân.

Nhìn tổng quát, việc bố trí lực lượng của Mỹ, chư hầu và quân ngụy ở Nha Trang - Vĩnh Xương như sau: Quân Mỹ đóng bên trong thị xã Nha Trang, quân Nam Triều Tiên đóng ở vòng ngoài, dọc theo đường Quốc lộ I và đường 21 từ đèo Cả đến Cam Ranh. Trung đoàn bộ trung đoàn 30 Nam Triều Tiên đóng ở Trảng Bằng với các đơn vị chuyên môn và tiểu đoàn tiếp vận 100 ở Đắc Lộc, có nhiệm vụ báo vệ ngoại vi Bắc Nha Trang và thường xuyên suc sạo ở Vĩnh Xương, đưa quân đóng chốt ở Hòn Thơm để ngăn chặn sự đi lại hoạt động của các đội công tác xã Vĩnh Ngọc, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Thạnh và bộ phận cán bộ nội thị Nha Trang. Phía Tây Nam Nha Trang - Vĩnh Xương thì giao cho lực lượng ngụy như bảo an chốt ở Thủy Tú, Núi Cấm (Thái Thông), Bình Tân... và lực lượng biệt kích đóng chốt ở cứ điểm Gò Bông. Ngoài lực lượng chốt giữ, bọn biệt kích, lực lượng đặc biệt luôn tổ chức lùng sục, đột xuất dùng trực thăng đổ quân lên đỉnh đồi, rồi càn xuống đánh phá cơ quan ta ở chiến khu. Bên trong, bọn cảnh sát, bình định nông thôn, thám báo, bảo an thường lùng sục, xâm hầm trong làng xóm để tìm cán bộ ta.

Đầu năm 1965, cảng cầu Đá được Mỹ mở rộng thêm cho các tàu quân sự Mỹ đổ quân và hàng chiến tranh. Sân bay Nha Trang được mở rộng và hiện đại hóa để các loại máy bay vận tải, quân sự cỡ lớn như C130 lên xuống. Các bãi đáp trực thăng và khu trục, cường kích A37... cũng được xây dựng. Trung tâm huấn luyện hải quân, Trường huấn luyện chiến thuật không quân được xây dựng ngay gần cảng và sân bay. Mức độ bố phòng vô cùng cẩn mật: Các đồn bót được dựng lên trong khu vực phòng thủ tiền đồn Cầu Đá, có hệ thống ra-đa, giàn đèn pha chiếu sáng, hệ thống bố phòng tên lửa tại Hòn Tre. Địch còn ra sức phối hợp các lực lượng tham gia tuần tiễu trên biển nhằm tiêu diệt đặc công nước, đội công tác Đông Nam ở Bãi Trủ và cắt đứt đường giao liên, tiếp tế trên biển, cô lập và tiêu diệt chiến khu Đồng Bò.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:25:13 am
*
*   *

Sau phong trào đồng khởi, Vĩnh Xương tuy chưa có xã giải phóng nhưng phong trào lên khá ở các xã Vĩnh Trường, Vĩnh Thái, Vĩnh Trung, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh. Các lực lượng cách mạng làm chủ ban đêm các thôn Phú Vinh, Xuân Lạc, Phú Nông, An Ninh, Võ Kiện... Ban đêm đội võ trang công tác hoạt động gây dựng cơ sở và tổ chức mít-tinh công khai. Địch không dám đến, cũng không dám bắn súng từ xa. Ta đã bắt trên 200 tên tề điệp đưa đi học tập cải tạo rồi thả về. Một trung đội nghĩa quân bị bộ đội huyện đánh tan tại Diên An. Ách kìm kẹp của địch bị phá vỡ một phần quan trọng. Để thuận lợi cho việc chỉ đạo phong trào, tháng 12/1964, sau khi giải phóng xã Diên Sơn, Diên Điền... Một bộ phận cơ quan của Thị ủy Nha Trang được chuyển về vùng Diên Điền (Diên Khánh). Sau hội nghị mở rộng vào tháng 10/1965 của Thị ủy; cơ quan Thị ủy, Thị đội Nha Trang từ vùng Đại Điền, lại chuyển về Đồng Bò, cùng với Vĩnh Xương lập lại thế đứng của chiến khu, gấp rút xây dựng bàn đạp và hình thành các đội công tác bám bàn đạp để xây dựng cơ sở bên trong, xây dựng các đường liên lạc thông suốt từ nội thị về chiến khu, nhanh chóng lo việc dự trữ lương thực cho cơ quan và lực lượng vũ trang. Sau một thời gian ngắn, thế đứng của các bàn đạp đã ổn định, chiến khu đã dự trữ được 10 tấn gạo và một số nhu yếu phẩm. Khí thế của Nha Trang - Vĩnh Xương đã vững vàng hơn để đương đầu với tình hình mới.

Tại bến cảng hải quân ở Chụt, các tàu Mỹ nối đuôi nhau bốc dỡ hàng, các kho bãi đầy ắp phương tiện chiến tranh. Đồng bào khu vực cảng hợp sức với lính ngụy bảo vệ cảng lấy cắp hàng Mỹ. Có người mua được cả thùng lựu đạn do lính ngụy lấy được để gửi cho ta. Lính ngụy lấy cắp hàng Mỹ đem giấu ở các hải đảo, nhưng không qua được con mắt của Đội công tác Đông Nam. Anh em lại có dịp “tịch thu” số hàng này làm quỹ. Trong khi ở Đồng Bò khó khăn về lương thực, thực phẩm thì ở đây: Hòn Tre hay Bãi Miêu, Hòn Tằm, Hòn Một, ta đều có điều kiện tích trữ lương thực. Cái khó là từ đây đi về chiến khu Đồng Bò rất nguy hiểm vì tàu của địch tuần tra vùng biển ngày đêm. Tuy vậy, các cơ sở nội thị vẫn xoi đường bảo đảm tiếp tế thường xuyên cho chiến khu. Nhân dân ở các xã vùng ven như: Phú Vinh, Xuân Lạc, Đồng Nhơn. Vĩnh Điềm, Thái Thông, Thủy Tú, Trường Tây... cũng ra sức đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực cho chiến khu.

Từ chiến khu Đồng Bò, lực lượng vũ trang của ta liên tiếp xuất phát tấn công địch. Ngoài việc lãnh đạo hoạt động vũ trang, Thị ủy Nha Trang và Huyện ủy Vĩnh Xương còn chú ý đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị.

Trước khí thế phong trào đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở Nha Trang, Vĩnh Xương lên cao, địch càng thêm quyết tâm tiêu diệt chiến khu Đồng Bò. Khi quân Mỹ vào, chúng dùng chiến thuật “trực thăng vận” để dò xét, tìm kiếm lực lượng ta. Bọn Nam Triều Tiên thì dùng chiến thuật “chốt điểm” trong cái thế vùng chiến khu nhỏ hẹp, sát biển là sự bất lợi lớn cho ta trong công tác xây dựng cơ sở, bám trụ ở vùng ven Nha Trang và gây nhiều khó khăn cho các đường giao liên, liên lạc tiếp tế của chiến khu.

Ở bên ngoài vùng Đồng Bò, địch ra sức càn quét, đánh phá. Mặt biển bị phong tỏa và địch tuần tiễu gắt gao. Hai thuyền liên lạc của ta ra Hòn Tre đã bị địch bắn chìm, hầu hết hy sinh hoặc bị bắt, chỉ có một đồng chí thoát được. Trước đó, có lần cán bộ từ chiến khu về hoạt động bị lộ, địch huy động trên 1 trung đội gồm cảnh sát và địa phương quân vây một nhà cơ sở, đồng chí Trần Công Năm nhờ mưu trí dũng cảm nên đã thoát được, còn đồng chí Trần Lê Quang kiên quyết chống cự đến viên đan cuối cùng hy sinh tại Xóm Gò (Phước Hải). Vùng Bãi Trủ địch càn quét, triệt hạ cả thôn, dời 12 gia đình cơ sở sinh sống ở đó qua Giếng Đá (Hòn Tre) hòng cắt đứt tuyến giao thông trên biển của chiến khu.

Đêm 24/4/1965, địch phục kích đánh đoàn cán bộ đi lấy gạo ở Phú Vinh về. Ngày 28/4/1965, địch dùng bộ binh có pháo binh yểm trợ đánh vào cơ quan Huyện ủy Vĩnh Xương. Đồng chí Cẩm (Quyết), Huyện ủy viên hy sinh. Bốn đại đội biệt kích ngày đêm lùng sục, đánh úp cơ quan, đội công tác và phục kích cán bộ. Một số đồng chí đã hy sinh và đồng chí Nguyễn Tăng Ái (Hồng Kỳ), Thị ủy viên, bị thương nặng.

Ngày 08/9/1966, chúng cho một tiểu đội thám báo vào lùng sục nhưng bị mìn của ta gài sẵn, chết một số tên.

Ngày 09/01/1967, địch đánh úp cơ quan Thị ủy ở gộp Dốc Gáo. Chúng dùng cả máy bay bắn phá, thả bom bi nhưng cuối cùng đã bị thất bại thảm hại, khiêng đi 14 xác chết, một số tên bị thương. Một lần khác, vào ngày 25/12/1967, địch phục kích ở ngã ba Trung Sơn, gặp đơn vị K90 và trung đội địa phương của Thị đội đi lấy gạo ở làng về, trận đánh đã diễn ra thật ác liệt. Sau khi bị diệt nhiều tên, địch đã phải rút lui. Sau đó lực lượng vũ trang của huyện Vĩnh Xương do đồng chí Châu, Huyện đội phó và đồng chí Huỳnh Nhân, trung đội trưởng chỉ huy đã tổ chức đánh địch tại gộp Cây Sộp, diệt một số tên địch.

Chiến khu Đồng Bò đã vững vàng vượt qua thử thách.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:27:01 am
Chuẩn bị bước vào chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cơ quan Huyện ủy Vĩnh Xương và Thị ủy Nha Trang vẫn đóng ở khu vực gộp Leo Dây (Đồng Bò). Thị ủy Nha Trang chủ trương tiêu diệt cứ điểm Gò Bông để mở hành lang từ chiến khu vào nội thị, chuẩn bị cho chiến dịch. Quyết tâm của Tỉnh ủy là đánh một số điểm then chốt lợi hại trong thị xã, tập trung vào các cơ quan đầu não Mỹ, ngụy và chư hầu. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang giao động, phát triển tiến công các cơ quan, đơn vị của địch còn lại, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Lúc này, lực lượng cán bộ chính trị và vũ trang tập trung về Đồng Bò khá đông như tiểu đoàn 7 thuộc trung đoàn 20. Ban chỉ huy tiền phương mang ký hiệu K5, lúc đầu đóng ở gộp Mít Nài (Trung Sơn) sau chuyển vể phía Đông núi Thống Nhất. Ban chỉ huy gồm các đồng chí: Nguyễn Ngọc Hoanh, Tỉnh đội trưởng làm chỉ huy trưởng; Nguyễn Văn Thuận, Trung đoàn trưởng trung đoàn 20 làm chỉ huy phó; Phạm Thành Huyên, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy làm chính ủy; Lê Tụng, Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thị ủy Nha Trang là phó chính ủy. Một không khí lạc quan tràn ngập, dù gian khổ, hy sinh, các đồng chí đều hăng hái đi ra phía trước. Trên mũ, áo cán bộ chiến sĩ đều có đính phù hiệu viết dòng chữ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trưa ngày 29 Tết, lễ xuất quân được tổ chức tại gộp cơ quan Huyện Thị ủy(1) (còn gọi là gộp Ông Phật). Các chiến sĩ cách mạng đã tuyên thệ với lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, rồi tiến thẳng vào thị xã Nha Trang đánh địch, lập được nhiều chiến công vẻ vang.

Trong trận chiến đấu quyết tử này, nhiều cán bộ, chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Nha Trang như: đại đội đặc công K90, phân đội đặc công K91 và đại đội 3 (tiểu đoàn 7, trung đoàn 20), hầu hết cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh và bị địch bắt.

Thất bại trong chiến dịch Tổng công kích Tết Mậu Thân khi hoàn hồn, địch cố tập trung sức lực lớn nhất nhằm tiêu diệt “Mật khu Đá Hang”. Sau Đại hội Đảng bộ Vĩnh Trang lần thứ II (05/8/1968) tại khu vực gộp Leo Dây(2), ngày 01/10/1968, tiểu đoàn biệt kích Trung Dũng tấn công vào trận địa C10 pháo binh ở đầu gộp Trung Sơn (trước là nơi ở của cơ quan Huyện ủy Vĩnh Xương từ 1963-1967, nay là chỗ đóng quân của C10). Dựa vào các gộp đá, toàn đại đội (C10) đã chiến đấu anh dũng, diệt 40 tên biệt kích, hạ 1 trực thăng, 2 tên Mỹ lái trực thăng bị cháy thui. Chúng phải rút lui, bỏ mặc những tên bị thương tại trận.

Sau những thất bại của tiểu đoàn biệt kích “Trung Dũng” trong cuộc hành quân đợt I, bọn địch mở cuộc càn đợt II quy mô lớn hơn do sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên đảm trách. Lực lượng tham gia gồm trung đoàn 29 (sư đoàn 9 Bạch Mã) và một tiểu đoàn bộ binh của lữ đoàn Mãnh Hổ. Ngoài lực lượng trên, còn có lực lượng ngụy quân, bảo an, biệt kích làm nhiệm vụ phối hợp vòng ngoài ở bìa rừng, ven làng, về hỏa lực, chúng sử dụng cụm pháo của sư đoàn Bạch Mã tại Trảng Bằng, cụm pháo của vùng 23 chiến thuật đặt ở sân bay Nha Trang (105 - 155 milimét) và cụm pháo của hạm tàu (175 - 203 milimét) đậu ngoài khơi biển Nha Trang, túc trực pháo kích suốt thời gian diễn ra cuộc càn. Về không quân, chúng huy động máy bay chiến đấu của sân bay Nha Trang và trực thăng của sư đoàn Bạch Mâ cùng tham chiến. Ngoài ra còn các lực lượng phối thuộc gồm ĐKZ và cối thuộc biên chế trung đoàn 29 Bạch Mã, một tiểu đoàn công binh.

Mở đầu cuộc càn, địch cho máy bay ném bom phạt, bom napan xuống các điểm cao. Tiếp đến trực thăng đổ công binh dọn bái đổ bộ và chiếm lĩnh canh giữ. Suốt đêm 12/10, hàng trăm xe quân sự chuyển quân từ căn cứ Hà Thanh (Ninh Hòa) vào tập kết ở Trảng Bằng và sân bay Nha Trang.

Sáng ngày 13/10, các đại đội lính Nam Triều Tiên được hàng đàn máy bay trực thăng đổ xuống núi Đồng Bò (đỉnh núi Cù Hin, cầu Độc Mộc). Từ đỉnh núi, chúng chia thành nhiều mũi càn xuống chân núi. Xuống chân núi, không gặp ta, trực thăng lại bốc quân lên đỉnh hình thành các mũi càn theo hướng khác. Cứ như thế “chải” cho sạch “Việt Cộng”. Ở hướng Đông và Đông Bắc vùng chiến khu, đường chải dày kiểu răng lược, ở đây, địch còn huy động máy bay, kết hợp với 3 trận cha pháo dội bom, nhả đạn suốt hơn 2 tiếng đồng hồ.


(1) Về sau được đổi tên là gộp Mậu Thân 68.
(2)[/sup Đại hội hợp nhất 2 Đảng bộ Nha Trang và Xương, hội đã bầu ra 15 cấp ủy viên, đ/c Lê Tụng làm bí đ/c Đặng Nhiên, đ/c Nguyễn Nghiềm làm phó bí thư


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:27:48 am
Cuộc chiến đấu đã diễn ra cực kỳ ác liệt. Ta từ trong các gộp đá bắn ra, còn địch thì dùng lựu đạn, rốc-két, mìn rót vào các hang động. Chúng còn sử dụng đến cả các loại hóa chất độc và bom cay, bom hơi ngạt. Ta diệt hàng chục tên địch, bắn rơi một máy bay trực thăng. Nhưng hỏa lực của địch mỗi lúc một thêm dày đặc. Tốp máy bay của trận bom trước quay đi thì tốp sau lao đến và cứ thế phóng rôc-két và dội bom. Khói lửa của trận bom chưa tan thì từng bầy, từng bầy đạn pháo các cỡ đổ ập xuống khu vực vừa bị oanh tạc suốt nhiều tiếng đồng hồ như vậy. Các chiến sĩ và cán bộ ta nép mình vào các gộp đá tránh bom đạn, nhắm bắn gục từng tên Nam Triều Tiên chui vào gộp, hàng chục tên chết tại chỗ.

Tuy vậy, tình hình trở nên hết sức khó khăn. Lực lượng ta bị địch bao vây và vòng vây đang siết chặt dần. Sau một tuần lễ, lương thực, đạn dược cạn dần. Ở dưới làng, địch lại hành quân, vây ráp, bắt bớ cơ sở, ngăn chặn nhân dân tiếp tế lương thực cho ta. Trước tình hình trên, ngày 21/10/1968, Ban chỉ huy chống càn do đồng chí Ông Văn Bưu, Tỉnh đội phó chỉ huy đã quyết định vừa chiến đấu, vừa rút khỏi vùng càn của địch. Lực lượng tiểu đoàn 7, đại đội 98, đại đội pháo, cơ quan chỉ huy tiền phương, Thị ủy, Thị đội, tiểu đội công binh và trung đội vũ trang Thị đội tổ chức hành quân vượt vòng vây. Toàn bộ lực lượng tiểu đoàn 7 đi theo hướng Tây - Tây Bắc. Hướng thứ 2 đi xuyên về hướng Bắc đến Trảng Bằng rẽ tay trái đi về hướng Tây - Tây Nam. Riêng bệnh xá tiền phương, vì điều kiện không thể di chuyển toàn bộ thương, bệnh binh ra khỏi vòng vây được, do đó phải ở lại. Nội trong đêm 21/10 phải tìm những hầm kín đáo dưới sâu để giấu tạm thương bệnh binh nặng, phân công người chăm sóc phục vụ chu đáo. Tất cả số phục vụ và thương binh nhẹ đều trang bị vũ khí để chiến đấu tự vệ.

Ngay trong đêm 21/10 phần lớn lực lượng của ta đã vượt qua khỏi vòng vây an toàn, chỉ còn một bộ phận thuộc hướng thứ 2 và bệnh xá tiền phương bị kẹt lại và chiến đấu anh dũng với địch trong gần 3 tuần lễ.

Ở hướng hành quân thứ 2 gồm đại đội 98 đi đầu đến cơ quan tiền phương, cơ quan Thị ủy, Thị đội, tiểu đội công binh và lực lượng Thị đội đi sau cùng.

Đúng 22 giờ toàn đội hình xuất phát. Đoàn người nối tiếp nhau vượt qua những dải gộp bị bom đạn cày xới, trơ trụi, nhiều khoảng rừng trống toang chi chít hố bom, lỗ pháo, cây cỏ cháy nham nhở.

Trời đã sáng rõ, đội hình phía trước vừa vượt qua khỏi gộp Leo Dây thì đụng một toán quân địch từ trên dốc đang đi xuống. Chúng xả súng bắn vào đội hình ta. Mấy loạt đạn đầu đã trúng ngay đồng chí Tùng - Chánh văn phòng Thị ủy và đồng chí Kiên cán bộ đội công tác hy sinh tại chỗ. Trong chốc lát, lính Nam Triều tiên dàn thành một hàng rào ken dày bổ vây hòng tiêu diệt lực lượng của ta. Thế là cơ quan Thị ủy và Thị đội và một số đồng chí thuộc tiểu đội công binh bị kẹt lại trong cái hàng rào thịt này. Gần 50 tay súng của ta nhanh chóng phân tán từng tổ nhỏ, nép kỹ trong vùng gộp Leo Dây. Địch tập trung lực lượng bao vây, khui lục khắp vùng. Chúng bắc cầu, làm thang hoặc dùng giây thừng leo từ chỗ này sang chỗ khác để sục sạo khắp nơi, suốt mấy tiếng đồng hồ chưa phát hiện được gì. Khoảng 13 giờ chúng phát hiện được mấy chiếc lá khô bị nát. Lộ rồi! 3 đồng chí công binh đang nấp tại một cái hang cụt đành phải sống chết với địch. Mấy tên hung tợn đi đầu bị ngã gục. Bọn đi sau dồn lại không dám xông vào. Ba mươi phút sau, chúng tập trung một số lớn lựu đạn ném vào hang. Các đồng chí Tốt, Tỏ, Da đã hy sinh.

Bóng đêm trùm xuống hẳn, các đồng chí của ta lên khỏi hang dùng ám hiệu tập hợp lại. Đồng chí Nghiềm và đồng chí Quân quyết định triển khai đội hình để chuyển về hướng gộp Thị Đội đến Vườn Dừa (Sông Lô). Đến gộp Cây Sộp thì địch phát hiện, đánh chặn, đồng chí Sung bị thương gãy chân, đồng chí Cổn, cán bộ quân báo Quân khu V hy sinh. Thế là suốt ngày 23/10 địch đổ xô sục tìm tất cả các dải gộp, chúng dùng cả lựu đạn cay ném vào tất cả các hang gộp. Hơi và khói cay xông luồn vào tận các ngóc ngách trong gộp. Gộp khô, không tìm ra các nguồn nước để tẩm khăn mặt tẩy độc. Các đồng chí của ta phải dùng nước tiểu. Lúc này nước tiểu cũng trở nên quý hiếm vì các đồng chí của ta nhiều người đã nhịn khát gần hai ngày nay.

Địch xông vào gộp, đồng chí Quân nổ súng, hai tên giãy đành đạch. Hàng chục quả lựu đạn của địch ném vào, những tiếng nổ ầm ầm, liên tục. Một lúc sau, mấy cái bóng nhảy xuống để lượm xác. Bọn này ranh ma, chúng đeo mặt nạ phòng hơi độc và dùng gậy đưa mũ sắt ra phía trước để tiến vào. Một loạt đạn toé lửa. Lập tức lựu đạn được quăng vào liên tiếp, khói cay lại luồn vào trong hang. Sau đợt dội lựu đạn xuống hang, bọn địch nghĩ rằng “Việt Cộng” không bị chết thì cũng bị ngắc ngoải vì sức ép của lựu đạn hay hơi độc rồi, chúng lại tiếp tục mò vào. Sau hai loạt đạn ngắn, hai tên địch bị tiêu diệt. Địch giở thủ đoạn mới: Chúng dùng lượng lớn chất nổ và nhiều loại chất độc hoá học có độc tính cao hòng huỷ diệt cả đoạn gộp. Bên cạnh đó, chúng lại tăng cường ra rả các ngón đòn tâm lý chiến rẻ tiền... Những tiếng nổ như sét đánh, cả dải gộp rung chuyển, nhiều chiến sĩ của ta bị choáng ngất đi. Khăn thấm nước tiểu đã ráo khô, một số anh em bị ngứa ngáy, nhức đầu, nôn mửa, có người lại buồn ngủ như say...


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:28:11 am
Đêm 23, 24 trôi qua, không có cách nào vượt ra được. Đành phải quyết tử với địch thôi! Chúng tung lựu đạn cay và chất độc hoá học xuống. Một quả lựu đạn cay lăn trúng hang chỗ nữ đồng chí Ninh đang nấp, chịu không nổi cô phải chui lên gộp để thở. Bọn địch xúm lại bắt và tra tấn hòng tìm hiểu địa hình trong dải gộp, vị trí ẩn nấp của lực lượng ta. Suốt mấy tiếng đồng hồ liền, mặc dù bị đánh đập vô cùng dã man, đồng chí Ninh vẫn không hé răng nửa lời. Bọn mặt người dạ thú đã dùng lưỡi lê sát hại rồi vùi xác đồng chí Ninh xuống bên rìa gộp.

Thế là trong hai ngày, ta bị hy sinh 2 đồng chí thân yêu! (Ngày 24/10, đồng chí Quyền, báo vụ viên đài vô tuyến lên gộp tìm rau ăn đỡ đói, bị địch phát hiện, truy theo và bị lựu đạn chết trong hang).

Trong những ngày 26, 27 và 28 tháng 10 suốt ba ngày liên tục, địch tập trung đánh vào bệnh xá tiền phương (đóng ở gần đó). Các thương binh, bác sĩ, y tá và tổ bảo vệ đã dựa vào đội hình hiểm trở nơi đây để chiến đấu rất anh dũng, song do quá chênh lệch về lực lượng, ở đây ta đã hy sinh gần hết. Sau khi diệt xong bệnh xá, chúng đổ hàng tấn chất độc hoá học xuống các hang hốc dưới gộp, gây nhiễm độc lâu dài cả vùng này.

Mấy ngày trôi qua, địch không tấn công khu vực gộp Cây Gộp, có lẽ chúng chờ ta chết đói, chết khát. May sao, vào ngày 28 đồng chí Hải cùng anh em trinh sát đi dò tìm nguồn nước, không những tìm được nước lại còn tìm được 2 thùng gạo cũ (gạo của bệnh xá Vĩnh Xương còn lại). Thế là cứ đến đêm, khi bọn địch nằm trên bìa gộp ngủ say, các đồng chí của ta lại mò lên gộp lấy củi đem xuống tận hang sâu để nấu cháo. Từ đó, mỗi ngày, mỗi người sống với một chén cháo. Riêng thương bệnh binh thì được gấp đôi tiêu chuẩn.

Ngày 29/10 địch lại tập trung lực lượng xông vào các hang. Thấy không có sự kháng cự nào, chúng lục soát kỹ, khi gặp hầm giấu thương binh, chúng bắt được đồng chí Sung rồi cột dây vào người, kéo thẳng lên mặt gộp. Thấy bốn năm tên địch đang dụm chùm dưới lòng hang gần chỗ vừa bắt đồng chí Sung, đồng chí Hải lăn đến một trái M 26, lựu đạn bùng nổ, 5 tên giãy đành đạch trên vũng máu. Bọn địch sục dưới gộp vội vàng nhảy tót lên trên. Lại hàng thùng lựu đạn lăn xuống. Hết đợt lựu đạn nổ, ba tên địch mò xuống lấy xác đồng bọn. Hai quả lựu đạn chày nổ tung, ba tên địch gục ngã. Địch không dám xuống đành giở trò thiêu hủy xác đồng bọn bằng cách bơm xăng xuống rồi đốt.

Suốt buổi chiều hôm đó, chúng lại dùng hàng thùng lựu đạn thả xuống. Sau cùng, chúng lăn những bao chất độc hoá học (có sẵn dây nổ và dây điểm lửa) xuống các hang. Thế là chất độc cứ âm ỉ tỏa ra, hết lớp này đến lớp khác. Khuya hôm đó, theo đề nghị đồng chí Bông - Trưởng ban kinh tài thị và đồng chí Ca - thủ quỹ, đồng chí Nghiềm và đồng chí Quân cho phân tán số tiền mặt ngân quỹ của Thị ủy cho mỗi người giữ một ít, đề phòng nếu trường hợp bị hy sinh thì ngân quỹ của Đảng không bị mất trắng.

Các ngày 30, 31 tháng 10, cứ từ 7 giờ đến 18 giờ, từng tốp địch liên tiếp thả lựu đạn xuống các hang gộp mà chúng nghi ngờ có ta.

Sang hai ngày (01 và 02/11/1968), tại dải gộp cơ quan Thị ủy đang trú, số lựu đạn tung xuống hang giảm bớt. Nhưng dải gộp nhỏ nằm giữa gộp Trung Sơn và gộp Nhà Cháy địch lại tăng cường đánh mạnh. Nơi đó có đồng chí Triệt cùng các đồng chí trong tổ cơ yếu nấp. Nhờ nhiều ngóc ngách nên ở đây không ai bị thương vong.

Sáng 3/11, địch đưa trực thăng đến để rút quân và cuộc càn đã chấm dứt.

Sau cuộc càn, các đồng chí công binh (một bộ phận đi theo đội công tác ra bìa rừng) trở lại tìm đồng đội. May mắn tìm đồng chí Ngân đang ở dưới một gộp sâu. Thật kỳ lạ, đồng chí bị thương rất nặng, vậy mà trong suốt hai tuần lễ không lương thực, thuốc men, chỉ có nước và lá cây nhưng đồng chí vẫn sống để về với đồng đội.

Cán bộ chiến sĩ của ta sau những ngày chiến đấu gian khổ, ai nấy đều xanh xao, hốc hác, người gầy rạc, nhiều anh em mắc bệnh tê phù, đôi chân sưng húp, đi đứng rất khó khăn. Nhưng toàn đội hình gấp rút đi chuyển về gộp Thị ủy để nghỉ đêm, sáng hôm sau hành quân lên gộp Xác Mấu để gặp cơ quan tiền phương đang ở đó.

Gần một tháng càn quét chiến khu Đồng Bò rồi rút quân, địch rùm beng “loan tin chiến thắng”, rằng đã “làm cỏ sạch Việt Cộng tại Mật khu Đồng Bò”. Còn các đơn vị của ta thì tập trung về Suối Lùng, tổ chức nghỉ ngơi chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:28:46 am
*
*   *

Tại Suối Lùng, ở đây núi khá cao, có hệ sinh thái rừng nguyên sinh phủ kín nhiều tầng, nhiều gộp đá tự nhiên khá rộng và sâu, nhiều gộp liên hoàn với nhau, thuận lợi cho việc bố phòng và làm việc giữa các cơ quan. Đi lên khu vực gộp Suối Lùng là con đường mòn độc đạo, một bên là núi, một bên là vực với dòng suối róc rách chảy quanh năm. Phía trên vùng gộp là trảng tranh Năm Nọc, đi về phía Cam Ranh. Khu vực gộp Suối Lùng không những rất hiểm trở mà tiện bề tiến thoái. Tại đây đơn vị K92 và tiểu đội công binh ở trên cùng, kề dưới là Thị đội và bộ phận điện đài, chếch xuống dưới về bên trái là trung đội địa phương của Huyện Thị đội (H2). Tiếp xuống là gộp Trạm Xá, ở giữa là gộp Huyện Thị ủy, Tuyên Huấn, Kinh Tài, dưới cùng là gộp C4 (đại đội pháo). Khi đột xuất, có thêm cán bộ về thì ở những gộp xung quanh khu vực. Cũng như khu vực gộp Leo Dây, gộp Cây Sộp... ở đây cán bộ chiến sĩ chặt cây rừng bện thành những cái sạp khá lớn gác từ bên này sang bên kia vách đá để làm chỗ ở sinh hoạt, nghỉ ngơi khá thuận lợi. Vùng Suối Lùng còn có gộp Tôm phía trảng tranh Năm Nọc là nơi cơ quan Huyện Thị đóng trong khoảng thời gian vài ba tháng.

Để triệt phá vùng này, địch dùng bom napan, chất độc hóa học rải xuống khu vực Đồng Bò, đồng thời dùng lực lượng tiểu đoàn “Trung Dũng” và một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên thuộc trung đoàn 30 sư đoàn Bạch Mã liên miên dùng trực thăng càn quét, lùng sục đánh phá nhiều đợt trong suốt các năm từ 1969 đến năm 1972.

Năm 1969, địch càn từ đỉnh 972 xổ xuống, bị vướng một quá đạn pháo 105 do ta gài, nổ chết một số tên, chúng phải khiêng xác đồng bọn, lách đi đường khác. Sau đó, tại vùng gộp 98, bọn biệt kích đi lùng sục cũng bị ta đánh trả, diệt một số tên.

Tại Suối Lùng đã diễn ra các kỳ Đại hội Đảng bộ Vĩnh Trang lần thứ III, IV và V.

Tháng 3/1970, Đại hội Đảng bộ Vĩnh Trang lần thứ III, đã bầu ra Ban chấp hành gồm 17 đ/c, đồng chí Đặng Nhiên được cử làm bí thư, đồng chí Trần Quốc Khánh làm phó bí thư.

Tháng 6/1972, Đại hội Đảng bộ lần thứ IV, đã bầu ra Ban chấp hành gồm 19 đ/c, các đồng chí: Đặng Nhiên, Trần Quốc Khánh tiếp tục được tái cử.

Tháng 12/1974, Đại hội Đảng bộ lần thứ V, đã bầu ra Ban chấp hành gồm 19 đ/c, đồng chí Trần Quốc Khánh được cử làm bí thư, đồng chí Trần Bá Ngọc được Tỉnh uỷ bổ sung làm phó bí thư.

Để chiến khu có thể đứng vững trong giai đoạn này, nhân dân ở các thôn Phú Ân Nam, Phú Vinh, Xuân Lạc, Đồng Nhơn, Vĩnh Điềm Thượng, Bút Sơn, Thái Thông đã ra sức đóng góp lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm tiếp tế cho cách mạng.

Thế đứng tại Suối Lùng đã vững vàng, liên tiếp trong các năm từ 1969 đến năm 1974, lực lượng vũ trang hoạt động mạnh, lập được nhiều thành tích. Phong trào quần chúng ở đô thị và vùng ven đi vào chiều sâu. Hầu hết cán bộ cốt cán đều ghì bám trong dân để trực tiếp lãnh đạo các hoạt động của các hội, đoàn thể yêu nước.

Việc bám trụ lâu dài của lực lượng cách mạng Vĩnh Trang tại Đồng Bò có một ý nghĩa quan trọng: đây chính là cơ quan lãnh đạo, là nơi trực tiếp chỉ đạo phong trào cũng như trực tiếp chiến đấu tiêu diệt quân xâm lược và bè lũ tay sai. Khi thời cơ đến, Đảng bộ Vĩnh Trang đã lãnh đạo nhân dân phối hợp với bộ đội chủ lực nổi dậy, giải phóng quê hương (02/4/1975).


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:29:17 am
*
*   *

Trong kháng chiến chống Mỹ, hàng trăm cán bộ chiến sĩ đã ngã xuống trên mảnh đất Nha Trang - Vĩnh Xương.

Chiến dịch Tổng công kích Tết Mậu Thân 68 gần 180 cán bộ chiến sĩ đã hy sinh và bị địch bắt.

Theo số liệu thông kê ban đầu, tính riêng cán bộ chiến sĩ của Huyện, Thị bị hy sinh đã tới con số gần 200. Trong đó có 1 đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy, 8 đồng chí Huyện Thị ủy viên, 1 đồng chí Huyện đội trưởng, 1 đồng chí Chính trị viên Huyện đội, 2 đồng chí Huyện đội phó, 1 đồng chí đại đội trưởng, 3 đồng chí trung đội trưởng, 1 đồng chí trung đội phó, 17 đồng chí đội trưởng đội công tác, 2 đồng chí trưởng ban an ninh Huyện - Thị, 5 đồng chí cán bộ an ninh, 5 đồng chí cán bộ binh vận, 4 đồng chí cán bộ tuyên huấn, 5 đồng chí tổ trưởng liên lạc, 1 đồng chí bác sĩ trưởng trạm xá, 2 đồng chí y sĩ... Toàn bộ 2 trung đội địa phương của Huyện, Thị là người địa phương thoát ly lên chiến khu sau đồng khởi cũng đã lần lượt hy sinh gần hết.

Nhưng chính trong những năm tháng gian khổ, đầy mất mát, hy sinh ấy lại là lúc nẩy nở chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là thời kỳ của chiến công nối tiếp chiến công. Và nếu như Oét-mô-len tự hào bao nhiêu về kỹ thuật tàn phá Mỹ: “cây cối, bụi rậm đều bị đốt cháy khiến cho Việt Cộng không còn nơi ẩn nấp” thì hắn càng cay cú đau đầu bấy nhiêu trước một thực tế “với rốc-két, súng cối và đặc công, họ có thể trói chặt ngày càng nhiều quân vào công tác phòng thủ” (“Tường trình một người lính” của Oét-mô-len). Đó cũng là một thực tế chung trên chiến trường miền Nam. Nhưng đối với chiến khu Đồng Bò nó lại càng đặc biệt, vì đây là cây đinh cắm vào đầu não của địch ở Khánh Hòa, là căn cứ cách mạng của một đô thị trong vùng chiếm đóng của địch.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:35:09 am
TỒN TẠI, CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG

Trước đồng khởi 1960, chiến khu Đồng Bò đã chuẩn bị tư thế để cùng cả nước đi vào trận đụng đầu lịch sử.

Từ nửa cuối năm 1958, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã đề ra chủ trương xây dựng thí điểm đội vũ trang diệt ác của tỉnh, chuẩn bị cho bước phát triển mới của phong trào. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Thị ủy Nha Trang, Huyện ủy Vĩnh Xương tăng cường xây dựng, phát triển cơ sở cốt cán, có kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang, thành lập các đội vũ trang công tác, chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc đấu tranh lâu dài.

Ngày 10/4/1958, lễ thành lập tổ diệt ác đồng bằng của tỉnh được tổ chức. Buổi lễ tiến hành bí mật, tuy đơn sơ nhưng trang trọng: Có cờ đỏ búa liềm, ảnh Bác Hồ... Quân số của tổ ban đầu dự kiến 4 đồng chí, với các bí danh: Nhân, Dân, Kiên, Quyết. Nhưng thực tế tổ chỉ có 3 đồng chí Huỳnh Chiêu (tức Nhân), Nguyễn Láp (tức Dân), Nguyễn Hạ (tức Kiên)(1), đồng chí Chiêu làm đội trưởng. Vũ khí của tổ gồm 2 khẩu súng ngắn Colt 12 ly, 1 tiểu liên My-xếp. Dưới cờ Đảng, toàn tổ tuyên thệ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, quyết tâm diệt ác ôn để bảo vệ cách mạng, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo.

Trận ra quân đầu tiên của tổ vào ngày 04/01/1959, đối tượng bị thi hành án là tên Bùi Nà, Phó quân bộ Phong trào cách mạng quốc gia quán Vĩnh Xương, kiêm xã trưởng xã Vĩnh Phương.

Cuối năm 1959, tổ diệt ác đồng bằng được bổ sung thêm một số đồng chí để thành lập đội vũ trang tuyên truyền do đồng chí Nguyễn Văn Dân làm đội trưởng, đồng chí Nguyễn Nghiệp làm chính trị viên.

Bảy giờ ba mươi phút một ngày tháng 4/1960, xuất phát từ Đồng Bò, đội đã đột nhập vào trụ sở ngụy quyền xã Vĩnh Thái nằm dọc theo đường ngã tư Thái Thông. Tại đây có 12 tên gồm xã trưởng, công an, dân vệ và một số nhân viên. Hôm ấy có cả 3 công an quận về làm việc. Mười ba đồng chí của đội cải trang làm người lấy củi, nhanh chóng bắt dân vệ đang gác, bao vây và nổ súng vào trụ sở, diệt 6 tên, trong đó có tên Ngại cảnh sát trưởng, tên Nha cảnh sát quận, thu 2 tiểu liên, 7 súng trường, 3 súng ngắn và một số tài liệu.

Ngày 14/10/1960, đội lại nhận nhiệm vụ đột kích xã Diên Phú (Diên Khánh). Rạng sáng ngày 14/10/1960, đội đột nhập trụ sở xã, diệt 3 tên dân vệ, thu toàn bộ vũ khí và tài liệu của ngụy quyền xã.

Hoạt động diệt ác trừ gian của đội tuyên truyền đồng bằng của tỉnh đã gây ảnh hưởng rất lớn trong nhân dân. Quần chúng phân khỏi, tin tưởng là cách mạng vẫn còn, cách mạng đang đứng dậy.

Nghị quyết lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (mở rộng) tháng 01/1959 như mặt trời chiếu rọi vào miếng đất đã chuẩn bị sẵn, nên cái mầm lực lượng vũ trang ở huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang nảy nở và phát triển.

Cuối năm 1959, Cấp ủy Nha Trang. Vĩnh Xương đề ra chủ trương về công tác tổ chức vũ trang. Tỉnh đã phái về địa phương một số đồng chí làm nòng cốt, lấy thêm một số thanh niên tại chỗ để lập đội vũ trang công tác. Đội vũ trang công tác huyện Vĩnh Xương được thành lập, sau đó tổ chức thêm một đội công tác hoạt động tại Diên An, Diên Toàn.

Ngay sau khi thành lập, lực lượng vũ trang Vĩnh Xương đã tiêu diệt tên Chừng, trung đội phó dân vệ, khét tiếng ác ôn ở Vĩnh Thái. Tiếp đó, đội đã tiến công trụ sở xã Vĩnh Thái, diệt luôn tên trung đội trưởng dân vệ và một số tên ác ôn khác trong ban tề xã. Ngày 05/4/1960, lực lượng vũ trang Vĩnh Xương phục kích trung đội dân vệ xã Vĩnh Hiệp, diệt 2 tên và thu một số vũ khí trang bị cho đội. Chiều ngày 5, rạng ngày 6/12/1961, tiểu đội vũ trang Vĩnh Xương bí mật tiến vào thôn Xuân Sơn (Vĩnh Trung), bắt xử tội tên Trương Đắng, Chủ tịch phong trào cách mạng quốc gia quận, tổ chức mít tinh, cảnh cáo tề điệp và phát huy thanh thế cách mạng. Hai ngày sau, đơn vị lại đột nhập thôn Thủy Tú (Vĩnh Thái) bắt cảnh cáo số tề điệp, tổ chức mít-tinh.

Cùng đợt hoạt động này, một đơn vị vũ trang tỉnh cùng đội công tác Nha Trang tập kích vào trụ sở hành chính xã Vĩnh Trường, diệt tên Trường đại diện hội đồng, bắt một số nhân viên và thu vũ khí.


(1) Trước đây các đồng chí Chiêu, Láp vốn là đặc công


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:42:55 am
Đầu năm 1962, với một trung đội, lực lượng vũ trang Vĩnh Xương liên tục thực hiện phương châm đánh nhỏ, đánh trúng vào các lực lượng kìm kẹp của địch, tạo điều kiện cho cán bộ về làng đào hầm bí mật. Điển hình là các trận: Phục kích trung đội nghĩa quân địch ở cầu Ké diệt 16 tên thu 2 súng, đốt trụ sở xã Vĩnh Thái, đột nhập ga Phú Vinh đốt cháy 2 bồn xăng. Tiếp đó tiến công trụ sở xã Vĩnh Thái, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Trung tấn công trung đội dân vệ và trung đội bảo an quận Vĩnh Xương.

Một buổi chiều tháng 8/1962, lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Xương tổ chức vũ trang tuyên truyền ở ấp chiến lược Võ Kiện (Diên An), bắn chết một số địch.

Năm 1963, địch tìm cách tiêu diệt các căn cứ kháng chiến của tỉnh ở miền Tây Khánh Hoà. Chiến dịch Thiềm Đầu Thủy là chiến dịch tấn công quân sự lớn nhất trong năm của địch để thực hiện âm mưu trên.

Hòa cùng tiếng súng chống càn, bảo vệ căn cứ kháng chiến, bảo vệ vùng giải phóng, bộ đội địa phương huyện Vĩnh Xương đánh đường xe lửa, cắt đứt giao thông. Trung tuần tháng 8/1963, đại đội đặc công của tỉnh ém quân tại Đồng Bò đã chia làm hai mũi đánh vào sân bay Nha Trang, phá hủy 2 máy bay C47, lực lượng ta rút lui an toàn. Cuối năm 1963, lực lượng vũ trang Vĩnh Xương đánh vào trụ sở xã Vĩnh Trung, bắt sống tên Trưng, xã trưởng; tên Tùng cảnh sát và giật mìn đánh sập trụ sở xã.

Tháng 02/1964, lực lượng vũ trang Vĩnh Xương đốt cháy trụ sở xã Vĩnh Thạnh. Cũng thời gian này, đội công tác vũ trang Nha Trang đã hỗ trợ nhân dân phá ấp chiến lược ở Bình Tân.

Tháng 6/1964, một số thanh niên, học sinh Nha Trang được đưa lên chiến khu học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Và trận tập kích trụ sở xã Vĩnh Trường tháng 7/1964 ta diệt được 2 tên ác ôn, đánh tan trung đội dân vệ và thu nhiều súng; nhờ chú trọng công tác tuyên truyền sau chiến thắng, nên đã có trên 30 thanh niên nam nữ của thôn Trường Đông (Vĩnh Trường) thoát ly lên Đồng Bò. Dựa vào lực lượng nòng cốt này, đơn vị bộ đội địa phương Nha Trang chính thức ra đời do đồng chí Huỳnh Khải Phương làm trung đội trưởng (sau là đồng chí Vũ Minh Hương), trung đội được phiên hiệu K72.

Ban chỉ huy quân sự Nha Trang được thành lập (gọi tắt là Thị đội) vào tháng 4/1964 gồm 3 đồng chí: Hoàng Hiệp (tức Nguyễn Thái Tôn) làm Thị đội trưởng (cuối năm 1964, được điều về làm Trưởng ban đặc công Tỉnh đội Khánh Hòa), đồng chí Tám Hà (tức Huỳnh Tưởng) làm Bí thư Thị ủy kiêm chính trị viên, đồng chí Võ Hồng Quân (tức Võ Phẩm) làm Thị đội phó. Thị ủy Nha Trang và Thị đội đóng chung thành một cơ quan tại Đồng Bò, trung đội vũ trang cũng đóng gần đó. Thời gian trước đó, Vĩnh Xương cũng thành lập Ban chỉ huy Huyện đội, đồng chí Bùi Hồng Thái, Bí thư Huyện ủy kiêm chính trị viên, đồng chí Nguyễn Ngang làm Huyện đội trưởng (sau là đồng chí Phùng Mai tức Đệ), đồng chí Bùi Châu (tức Châu Cá) làm Huyện đội phó, đồng chí Lê Văn Thỉnh làm trung đội trưởng trung đội vũ trang địa phương.

Tháng 9/1964, tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức một đợt tập huấn cho cán bộ chính trị, quân sự của tỉnh và các huyện về công tác đồng khởi giải phóng vùng nông thôn đồng bằng Khánh Hoà. Theo đó, Nha Trang và Vĩnh Xương hợp đồng chặt chẽ với vùng trọng điểm đồng khởi của tỉnh là vùng Ninh An, Ninh Thọ (Ninh Hòa) và các xã Diên Sơn, Diên Điền (Diên Khánh).

Đêm ngày 6 sáng ngày 7/11/1964 cuộc đồng khởi nổ ra. Sau ngày 8/11/1964 toàn bộ các xã Diên Sơn, Diên Điền được giải phóng.

Ngày 17/11/1964, một bộ phận lực lượng vũ trang của tỉnh do đồng chí Thành Công chỉ huy, phối hợp lực lượng vũ trang Vĩnh Xương nằm lót ban ngày trong nhà dân. Ba giờ chiều, ta bất thần xuất kích đánh vào trụ sở xã Diên An, diệt bọn tề xã và một số lính bảo an dân vệ, làm chủ đoạn đường Quốc lộ 1, tiếp tục vũ trang tuyên truyền phát huy thanh thế cách mạng.

Đêm 21/7/1965, được sự giúp đỡ của quần chúng, đơn vị pháo binh của phân khu Nam gồm các khẩu đội ĐKZ.75, ĐKZ.57, cối 120 ly và cối 82 ly từ Đồng Bò vận động xuống Phước Hải (gần đường Lê Hồng Phong ngày nay) bắn cấp tập vào sân bay Nha Trang, đốt cháy 20 máy bay, làm nổ tung 1 kho đạn, một số đoạn đường băng bị cày xới, nhiều lính Mỹ bị chết. Cùng đêm, đội đặc công của Khu do đồng chí Nam Sơn Hổ chỉ huy xuất phát từ Đồng Bò tập kích đánh sập một góc Trường sĩ quan hải quân ngụy tại Chụt (Vĩnh Nguyên), diệt và làm bị thương hàng chục học viên sĩ quan.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:44:38 am
Đêm 25/12/1965, đơn vị đặc công do đồng chí Hoàng Hiệp chỉ huy, được sự giúp đỡ của cơ sở ở Vĩnh Trường, đã tiêu diệt một trung đội Mỹ mới đổ bộ vào đóng quân dã chiến tại Bình Tân. Thắng lợi của trận đánh này có ý nghĩa đặc biệt với quân và dân Nha Trang - Vĩnh Xương vì đây là trận đầu ra quân diệt Mỹ.

Nhận rõ vị trí quan trọng của chiến trường Nha Trang đối với chiến trường chung của Khu V, tháng 6/1966, Khu tăng cường cho Thị đội Nha Trang đại đội đặc công phiên hiệu K90, quân số 36 đồng chí do đồng chí Lê Văn Hạnh làm đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Hữu Huỳnh làm chính trị viên, đồng chí Nguyễn Văn Chánh làm đại đội phó.

Tháng 3/1967, Tỉnh đội Khánh Hòa điều bổ sung cho Thị đội Nha Trang 1 đại đội đặc công nước phiên hiệu K92, quân số 42 đồng chí do đồng chí Lê Phúc Sô làm đại đội trưởng, đồng chí Cung làm chính trị viên, đồng chí Lê Cổn, đại đội phó.

Cùng thời gian này Thị đội Nha Trang thành lập thêm 1 đại đội bộ binh phiên hiệu K73 (C3) do đồng chí Phạm Hải làm đại đội trưởng (sau đó đồng chí Nguyễn Văn Thi làm đại đội trưởng).

Lúc này lực lượng của Thị đội Nha Trang có quân số gần 200 đồng chí bao gồm: 1 C đặc công bộ, 1 C đặc công nước, 1 C bộ binh và 1 B địa phương.

Trận mở đầu của đơn vị đặc công K90 là trận đánh sân bay Nha Trang (02/1967).

Mùa khô năm 1967, địch chủ trương mở chiến dịch càn quét lớn ở Phú Yên và Khánh Hòa. Địch huy động một lực lượng lớn gồm quân Mỹ, Nam Triều Tiên và quân ngụy để thực hiện chiến dịch. Mục tiêu lần này là mở đợt càn quét vào Hòn Dữ, ngay vào thời điểm ta đang có cuộc họp Tỉnh ủy Khánh Hòa tại đây. Để hỗ trợ cho chiến dịch, địch điều một phi đoàn máy bay trực thăng vũ trang gồm 21 chiếc thuộc đơn vị kỵ binh bay 101 của Mỹ từ Cam Ranh ra Nha Trang, khi bay về, số máy bay này đỗ thành ba hàng tại phía Tây Bắc sân bay.

Sau khi nhận nhiệm vụ trên giao, Ban chỉ huy Thị đội Nha Trang cùng đội đặc công K90 triển khai nhiệm vụ chiến đấu cho đơn vị, quyết tâm tiêu diệt cho được phi đoàn máy bay này, đập tan âm mưu chi viện cho các trận càn quét sắp tới của chúng. Bộ phận trực tiếp tiến công sân bay Nha Trang gồm 24 đồng chí, do đồng chí Lê Văn Hạnh, Đại đội trưởng đại đội đặc công K90 chỉ huy, lực lượng Thị đội sử dụng một trung đội bộ binh 18 đồng chí, được tổ chức thành các tổ bảo vệ đường rút từ bến vượt Bình Tân vào đến khu ruộng muối.

Đúng 1 giờ ngày 15/02/1967, theo lệnh hiệp đồng, các mũi đã nhanh chóng vận động đánh thẳng vào bãi đỗ của máy bay trực thăng. Bọn địch trong sân bay bị tiến công bất ngờ nên chúng không kịp phản ứng, số sống sót vội vã tháo chạy về khu để máy bay phản lực. Địch trong các lô cốt xung quanh khu vực do không nắm được tình hình nên đã nằm im, không dám nổ súng. Lúc 1h10’, ta tổ chức lui quân về vị trí tập kết. Địch tổ chức khoảng 1 đại đội biệt kích chặn đường rút của ta. Ta đã chủ động nổ súng tấn công, quá trình đánh địch, đơn vị K90 để lại một tổ để nghi binh, còn đại bộ phận vòng ra sông Bình Tân, men theo bờ ruộng vòng tránh quân địch. Khi đội hình đơn vị về đến bến vượt ở phía Đông ấp Kinh Trung, lúc này bọn hải thuyền tại Cửa Bé-Bình Tân đã dùng Bo-bo chạy dọc sông lên, gặp lực lượng bảo vệ bến vượt của Thị đội Nha Trang chặn đánh, diệt một số tên, số sống sót vội bỏ chạy về Cửa Bé. Đến 4h30’, toàn bộ đơn vị đã về đến vị trí tạm dừng tại Đông Nam Hòn Thị, sau đó tổ chức hành quân về Đồng Bò an toàn.

Kết quả trận đánh ta đã tiêu diệt gọn phi đoàn máy bay lên thẳng vũ trang 21 chiếc của địch, 3 máy bay vận tải Caribu, tiêu diệt hơn 20 tên giặc lái, 2 tiểu đội canh gác Mỹ, bắn sập 3 lô cốt, đánh sập 2 nhà bạt, 4 xe Jeep, phá hủy 2 khẩu đại liên M60. Bị tổn thất quá nặng, địch phải hủy bỏ cuộc càn vào Hòn Dữ. Đơn vị K90 được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng 3, một số đồng chí tiêu biểu được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng 2 và 3.

Tiếp sau trận đánh sân bay Nha Trang, đơn vị đặc công K90 lại được giao nhiệm vụ tập kích căn cứ của địch ở đảo Hòn Tre. Tham gia trận đánh này còn có một trung đội đặc công K91 do đ/c Nguyễn Thành Nho chỉ huy và đội công tác Đông Nam.

Đảo Hòn Tre có diện tích hơn 30 km2 nằm về phía Đông, cách Nha Trang khoảng 3km, là một cứ điểm quân sự quan trọng của Mỹ ngụy, không chỉ đối với Nha Trang mà đối với cả căn cứ quân sự tại Cam Ranh.

Đêm ngày 04/11/1967, toàn đội gói bộc phá, lựu đạn và tất cả hành trang vào túi nylon để làm phao bơi từ Vườn Dừa (Sông Lô) ra Hòn Tằm. ém quân đợi đêm sau lại tiếp tục bơi đến Hòn Tre. Đúng 23 giờ ngày 05/7/1967, những ánh chớp liên tiếp của bộc phá, tiếng nổ giòn của tiểu liên AK đồng loạt đổ ập vào quân Mỹ trên đỉnh Hòn Tre và dưới Bãi Suốt. Trận đánh bất thần, áp đảo làm cho địch không kịp trở tay. Những tiếng thét kinh hoàng, những thây Mỹ đổ sụp. Kết quả 2 giàn tên lửa Tô- ma-hốc, một giàn ra đa, một cụm vô tuyến viễn thông và 1 trận địa pháo 155 ly của địch bị phá hủy, hàng trăm tên Mỹ bị diệt và bị thương. Trận đánh diễn ra khá thuận lợi vì đã cắt đứt liên lạc của địch ngay từ đầu, toàn đơn vị đã tập kết về điểm hẹn. Tại đây 5 chiếc xuồng của cơ sở do anh Bùi Hồng Vinh phụ trách đội công tác Đông Nam đã chờ sẵn. Đoàn xuồng lướt nhanh về hướng Hòn Tằm trong màn đêm che phủ. Ánh đèn của những Bo-bo tuần tiễu của địch loang loáng, xa xa. Ngọn đèn pha sáng rực ở Cầu Đá quét những vệt dài trên sóng nước.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 10:50:55 am
Sau trận tập kích thắng lợi ở Hòn Tre, lúc 7 giờ ngày 10/11/1967(1), đặc công K92 Nha Trang lại đánh chìm một tàu địch trọng tải 12.000 tấn tại Cửa Bé. Tham gia trận đánh gồm 3 đồng chí: Dư, Nhượng và Tám, bà Nguyễn Thị Lẫm đã chạy mua 50 kg thuốc nổ tại Nha Trang bổ sung cho đủ khối lượng chất nổ đánh chìm tàu. Chị Nguyễn Thị Cúc (con bà Lẫm) cùng anh Ngô Văn Cúc đã gan dạ mưu trí dùng xuồng nhỏ chở tổ đặc công và khối thuốc nổ, vượt qua các hàng rào tuần tra của lính Mỹ đang bảo vệ bến cảng. Đến đúng nơi dự định, tổ đặc công đã nhẹ nhàng xuống nước, theo dòng chảy đưa khối mìn áp chặt thân tàu. Nguyễn Thị Cúc và Ngô Văn Cúc len lỏi giữa đoàn tàu thuyền trên cảng, thoát lên bờ. Tổ đặc công đã bơi xa nơi tàu địch đậu. Tiếng nổ long trời... Buồng máy tàu bị phá vỡ, tàu chìm nghỉm.

Cũng thời gian này, ta còn tổ chức đánh các đoàn tàu chở lính và các khí tài quân sự trên tuyến đường sắt Nha Trang - Bình Thuận. Điển hình là trận đánh đêm 04/12/1967, ta đặt chất nổ phá hủy toàn bộ đầu máy và 2 đoạn đường ray, làm thất bại kế hoạch chuyển quân của địch.

Ngày 25/12/1967, lực lượng vũ trang ta lại đánh vào sân bay Nha Trang, hỗ trợ phong trào đấu tranh khắp nơi trong tỉnh. Tài liệu địch thừa nhận “Hôm tối 25 tháng 12 vừa Việt Cộng đã pháo kích vào phi trường Nha Trang cùng tấn công Lực lượng đặc biệt Mỹ đóng cạnh phi trường dọc theo Tỉnh lộ 4. Phi trường Nha Trang 3 mặt là biển, một mặt là núi, mà giữa phi trường và núi cách nhau một khu ruộng mấy cây số, thế mà để cho Việt Cộng lấy súng về đặt pháo kích tấn công bằng các súng lớn nhỏ, đã thế rồi cũng không đối phó kịp để cho nó bắn mấy chục quả vào phi trường, lực lượng đặc biệt”(2).

Chuẩn bị cho chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Thị ủy Nha Trang chủ trương tiêu diệt chốt điểm Gò Bông, một cứ điểm có công sự tương đối vững chắc, lại được hỏa lực của cụm pháo 105 và 155mm chi viện từ sân bay Nha Trang khi nó bị tiến công. Nó cũng được chi viện bằng máy bay theo yêu cầu cần thiết khi chiến đấu.

Án ngữ phía Tây Nam thị xã, Gò Bông là một chốt điểm cùng với đồn Thủy Tú, đồn Bình Tân hình thành tuyến phòng thủ vòng ngoài từ xa nhằm ngăn chặn lực lượng ta từ Đồng Bò thâm nhập xuống Nha Trang.

Đơn vị được giao nhiệm vụ tiêu diệt chốt điểm là đội đặc công K90 thuộc Thị đội Nha Trang và một bộ phận của đội đặc công K91 (thuộc Huyện đội Cam Ranh), với quân số 32 đồng chí do đồng chí Hạnh, đại đội trưởng và đồng chí Nguyễn Hữu Huỳnh, chính trị viên phụ trách. Ngoài ra còn có lực lượng cảnh giới và phục vụ vận chuyển thương binh, tử sĩ do Thị đội đảm nhiệm.

Đúng 1 giờ ngày 31/12/1967, các mũi tiến công của ta đồng loạt nổ súng đánh địch. Đên 1h20’ ta tiêu diệt toàn bộ quân địch và tổ chức lui quân ra vị trí tạm dừng. Bị mất liên lạc ngay từ đầu, địch ở Nha Trang không kịp phản ứng, chỉ bắn đèn dù xung quanh cao điểm. Ta tổ chức đội hình hành quân vòng qua ấp Kinh Hạ về căn cứ an toàn.

Trận đánh đã giáng một đòn vào tinh thần của tiểu đoàn biệt kích “Trung Dũng” vốn khét tiếng ác ôn và hung hãn, địch ở đồn Thủy Tú, Bình Tân phải co lại không dám lùng sục càn quét như trước. Hành lang để ta đưa lực lượng vào triển khai và chuẩn bị các mặt cho chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại Nha Trang đã được mở. Ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch gồm 45 tên ngụy, 1 tên Mỹ và 1 tên bị thương nặng, phá hủy 2 đại liên M60, thu gần 40 súng các loại. Sau trận đánh, đơn vị K90 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhì.

Lực lượng vũ trang Vĩnh Xương đầu năm 1967 cũng hoạt động mạnh. Phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh và đội công tác Vĩnh Xương, ngày 02/02/1967, lực lượng vũ trang Vĩnh Xương tấn công địch ở Xuân Lạc. Sau thắng lợi của trận đánh, ta tổ chức mít-tinh để đồng bào chào mừng quân giải phóng. Mấy ngày sau, đại đội 3 (tiểu đoàn 7, trung đoàn Sao Thủy), và lực lượng vũ trang Vĩnh Xương bám trụ ở Diên An đánh bọn bảo an ngay giữa ban ngày. Địch từ Thành kéo ra phản kích, ta lợi dụng địa hình, địa vật đánh trả chúng quyết liệt, tiêu diệt trên 20 tên. Cuối cùng chúng phải rút lui.


(1) Có tài liệu ghi là 10/4/1967.
(2) Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:38:57 pm
Tháng 5/1967, đội vũ trang Vĩnh Xương đánh một trung đội bảo an đi lùng sục về tập trung tại trụ sở Vĩnh Ngọc. Ta bất ngờ xuất hiện ngay giữa ban ngày, bọn địch chạy tán loạn, không tên nào dám chống cự. Sau trận tập kích, lực lượng vũ trang treo cờ và gài lựu đạn. Khi đơn vị ta rút, địch đến gỡ cờ, lựu đạn nổ làm chết một số tên.

Tại Vĩnh Thạnh, ngày 16/5/1967, đội công tác Vĩnh Xương đánh bọn bình định nông thôn ngay lúc 3 giờ chiều, diệt tên đội trưởng cùng 5 tên khác.

Ngày 27/5/1967 một tổ công binh phối hợp với lực lượng vũ trang Vĩnh Xương dùng 50 kg bộc phá làm nổ tung đoàn tàu của địch từ Nha Trang vào Cam Ranh. Tháng 8/1967 lực lượng vũ trang Vĩnh Xương phục kích tại thôn Đồng Nhơn, tiêu diệt 1 tiểu đội biệt kích ở đồn Thủy Tú, thu được 12 súng tiểu liên và 1 máy truyền tin.

Điều đáng sợ đối với Mỹ - ngụy là tự vệ mật, một loại hình vũ trang hoạt động hợp pháp trong lòng địch, đã có những thành tích nổi bật từ treo cờ, rải truyền đơn vào cư xá, cứ điểm quân sự, trong thị xã, cho đến các hoạt động vũ trang táo bạo tiêu diệt địch. Trong những tháng cuối năm 1967, tự vệ mật Nha Trang đã đánh 18 trận, diệt hàng trăm tên địch, trong đó hàng chục sĩ quan Mỹ, 35 sĩ quan Nam Triều Tiên, 100 nhân viên ngụy quyền gồm: công an, cảnh sát, mật vụ, diệt gần hết 2 ban tề xã Nha Trang Đông và Vĩnh Thái. Tiêu biểu là trận đánh câu lạc bộ sĩ quan Mỹ (N.C.O) trên đường Duy Tân (đường Trần Phú) vào tối chủ nhật 03/9/1967.

Tết Mậu Thán 1968, cùng với cả nước, quân và dân Nha Trang - Vĩnh Xương phối hợp với lực lượng của trên đã tổ chức tiến công và nổi dậy đánh chiếm các vị trí then chốt của địch tại Nha Trang, giáng một đòn sấm sét vào chính sào huyệt được coi là an toàn nhất của chúng.

Lực lượng của ta gồm có tiểu đoàn 7 trung đoàn 20, 3 đại đội đặc công, 1 đại đội công binh, 2 trung đội địa phương và 1 trung đội pháo của Thị đội Vĩnh Trang, với tổng số chưa đến 450 tay súng, về hỏa lực có 4 cối 82, 2 ĐKZ 75, 1 đại liên và 5 cối 60 ly. Như vậy về tương quan lực lượng, địch hơn ta trên 20 lần. Ta đã đánh chiếm hoặc làm tê liệt hầu hết các vị trí quan trọng của địch: Tòa hành chính tỉnh, Tiểu khu, Sở tiếp vận 5... loại khỏi vòng chiến đấu trên 800 tên địch, trong đó có 1 cựu Tỉnh trưởng tỉnh Phú Yên, 1 thiếu tá trưởng khối chiến tranh chính trị, đánh sập cầu Ông Bộ, bắn cháy và phá hủy 3 trực thăng, 2 xe bọc thép, 1 kho đạn và nhiều vũ khí đạn dược của địch.

Sau cuộc tập kích chiến lược Xuân Mậu Thân 1968, địch bắt đầu phản kích quyết liệt. Người chiến sĩ Đồng Bò mặt đối mặt với quân thù ngay trong căn cứ hàng mấy tháng liền. Điển hình là trận càn lớn nhất từ tháng 9 đến đầu tháng 11/1968. Chiến khu Đồng Bò vẫn hiên ngang trước mưa bom bão đạn của quân thù. Từ “Mật khu Đá Hang”, các lực lượng chính trị, vũ trang của ta vẫn tiếp tục ngày đêm bung ra đánh địch trên khắp các địa bàn Nha Trang - Vĩnh Xương, nã đạn pháo và hỏa tiễn vào các cứ điểm và sân bay Nha Trang, các đội công tác, các đồng chí cán bộ hoạt động hợp pháp vẫn bám sát quần chúng.

Sau Mậu Thân, Tỉnh đội Khánh Hòa lại điều cho Thị đội Nha Trang 1 đại đội pháo, cối và 1 trung đội công binh. Đại đội pháo, cối gồm 40 đồng chí do đồng chí Tống Xuân Lai làm đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Quyền làm chính trị viên, phiên hiệu của đơn vị là K74 (C4). Trung đội công binh gồm 22 đồng chí do đồng chí Nguyễn Lới làm trung đội trưởng.

Lúc này, các đơn vị của tỉnh và Khu dần dần rút về hậu cứ, vì vậy ngoài các đội công tác vũ trang, lực lượng vũ trang ở Nha Trang - Vĩnh Xương chỉ có 1 trung đội bộ binh, 1 đại đội pháo binh (C4), 1 đại đội đặc công nước (C92) và 1 tổ công binh.

Trung đội bộ binh của Huyện Thị đội tuy trang bị và kỹ chiến thuật còn yếu nhưng cũng làm tốt nhiệm vụ bảo vệ chiến khu và chia từng phân đội nhỏ phối hợp du kích mật hoặc các đội công tác xuống cơ sở bám dân, bám làng, diệt ác phá kèm.

Đặc công nước C92 gồm 2 tiểu đội, khi đánh thường dùng tổ 3 người, hoạt động chủ yếu ở cảng Cầu Đá và dừng chân khi thì ở Suối Lùng, khi thì ở Bãi Trủ, Vũng Me (Hòn Tre).

Tại gộp C4 (Suối Lùng), đơn vị pháo binh có hỏa lực 1 cối 82 ly, 1 cối 60 ly, 1 ĐKZ 75 ly và 1 tổ tên lửa H12, ĐKB.

Pháo binh ở Đồng Bò thời kỳ đánh Mỹ bắt đầu từ những khẩu ĐKZ 57 và ĐKZ 75 ly năm 1965, hơn 9 năm trời sau đó, tầm cỡ súng không vượt quá những khẩu ĐKZ 75 ly, cối 82, cái hiện đại không có gì hơn những trái ĐKB, H12 trong điều kiện phải đắn đo từng viên một, từng mục tiêu một. Đồng chí Tống Xuân Lai, Đại đội trưởng C4, đã có sáng kiến đào đắp bệ phóng từ chiến khu để tấn công vào khu vực sân bay của địch. Những quả đạn của đơn vị từ núi Đồng Bò lao thẳng đến mục tiêu khá chính xác.

Liên tục trong 2 năm liền 1968 - 1969, địch tập trung đánh mạnh và bao vây Đồng Bò. Ta lo chống càn và củng cố lực lượng nên ít chủ động đánh địch. Đầu tháng 10, ở Phú Vinh, đội công tác tiêu diệt 3 tên ác ôn. ở Diên An, đội công tác tập kích địch ở Phú Ân, diệt 3 tên, làm bị thương 10 tên. Ở ga Phú Vinh, ta làm hư nặng 1 đầu máy và 3 toa xe lửa của địch. Đây là những hoạt động diệt ác phá kèm hỗ trợ cho chống càn ở chiến khu.

Trong chiến dịch HT1 do tỉnh phát động cuối năm 1969, đầu năm 1970, đơn vị đặc công K92 đã đánh hỏng nặng 1 tàu chở dầu của địch đang neo đậu tại cẳng Cầu Đá, dầu chảy loang cả một vùng biển (!)


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:39:48 pm
Chiến dịch HT2 từ ngày 01/4/1970 đến 28/6/1970 tại Vĩnh Trang, các lực lượng vũ trang của ta đã đánh 19 trận lớn nhỏ, trong đó có 6 trận pháo kích sân bay Nha Trang và quận lỵ Diên Khánh. Đặc biệt, lần đầu tiên đơn vị pháo binh C4 đã dùng tên lửa mặt đất H12 từ bệ phóng ở Đồng Bò tấn công địch tại Nha Trang giữa ban ngày. Đúng 15 giờ ngày 06/4/1970, 13 quả H12 từ chiến khu Đồng Bò tới tấp nã vào khu vực kho hậu cần của Liên đoàn 5 ở sân bay Nha Trang, thiêu hủy 2 bồn xăng chứa 8,4 triệu lít, gây nhiều đám cháy lớn trong sân bay, tiêu diệt và làm bị thương hàng chục tên Mỹ ngụy. Sau đợt pháo kích, địch dùng hai máy bay đánh trả nhưng các chiến sĩ của ta đã kịp thời chuyển trận địa an toàn. Sân bay Nha Trang phải ngừng hoạt động đến ngày hôm sau để giải quyết hậu quả.

Tháng 5/1970, được sự giúp đỡ của cơ sở Bãi Trủ là vợ chồng chị Nguyễn Thị Cúc, các chiến sĩ đặc công nước K92 đã lọt qua các hàng rào tuần tra của địch, bí mật áp sát và dùng thuốc nổ đánh trọng thương một tàu chở dầu của địch đang neo đậu ở phía ngoài cảng Cầu Đá. Địch phả cấp tốc kéo vào tận Sài Gòn để sửa chữa.

Tháng 6/1970, đặc công của ta đưa cối 82 ly vào ém trước ở công sự mật trong xã Diên Toàn, đêm đưa ra pháo kích, làm hư nặng các khu nhà làm việc của bọn ngụy quyền tại quận lỵ Diên Khánh.

Bước vào chiến dịch HT3 từ tháng 7/1970, lực lượng vũ trang Vĩnh Trang tổ chức đánh 17 trận, trong đó có 2 trận dùng H12 và ĐKZ, 2 trận dùng cối 82 ly, tập kích địch 1 trận, công binh đánh xe lửa 2 trận. Tiêu biểu lả trận đánh chiếc tàu chiến Mỹ đậu cách cảng Cầu Đá về phía Đông khoảng 500m do các anh: Trần Ngân, Dự, Nhượng đánh chìm vào đầu năm 1971.

Riêng chiến dịch HT2, và HT3, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 627 tên địch, thiêu hủy 8,4 triệu lít xăng, đánh trọng thương một tàu chở dầu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Lực lượng biệt động và du kích mật đánh được cả ban ngày lẫn ban đêm, đánh thẳng vào các bót cảnh sát, quân cảnh ác ôn... Bằng chiến thuật đánh “bồi” và đánh “nhồi”, các chiến sĩ đã diệt gọn cả trung đội, tiểu đội địch, đánh trúng bọn ác ôn, bọn Mỹ và Nam Triều Tiên... Riêng chiến dịch HT3 tháng 7/1970, đội biệt động, tự vệ mật đã đánh 11 trận tiêu diệt hơn 100 tên địch. Các đội viên không những đánh giặc giỏi mà còn làm tốt công tác vũ trang tuyên truyền. Phần lớn các đường phố Nha Trang lần lượt được anh em rải truyền đơn, dán khẩu hiệu và treo cờ Mặt trận giải phóng.

Xuân Hè năm 1972, các chiến sĩ Đồng Bò cùng với toàn tỉnh, toàn miền đi vào mùa tấn công chiến lược đưa đến Hiệp định Pari, lực lượng Thị đội Vĩnh Trang đánh mạnh vào một số trụ sở tề ngụy ở cấp xã hỗ trợ và thúc đẩy các mũi đấu tranh chính trị và binh vận. Riêng trận đánh vào thôn Võ Kiện, An Ninh tháng 12/1972 với 20 chiến sĩ của Huyện, Thị đội, ta diệt 17 tên địch và trụ lại làm chủ một ngày hôm sau.

Phân đội C4 đánh một trận bằng cách dùng H12 áp sát sân bay, nã tới tấp 10 quả đạn vào các mục tiêu mà cơ sở nội tuyến đã vẽ trên sơ đồ. Kết quả, 18 triệu lít xăng dầu bốc cháy cùng với 200 tấn bom đạn trong kho nổ tung dữ dội suốt đêm cho tới sáng hôm sau, làm hoạt động của sân bay Nha Trang bị tê liệt vài ngày.

Hiệp định Pari được ký kết nhưng địch đã vi phạm một cách trắng trợn trên nhiều lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế và bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, thâm độc. Thực hiện Nghị quyết 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết hội nghị Tỉnh ủy tháng 10/1973, lực lượng vũ trang của tỉnh chẳng những kiên quyết đánh trả các cuộc hành quân “bình định” lấn chiếm của địch, mà còn đánh địch ngay tại căn cứ xuất phát đi càn quét lấn chiếm của chúng. Tại Vĩnh Trang, trong năm 1973 - 1974, ta tiến hành đánh được 6 trận, trận đánh vang dội nhất ở thời kỳ này là trận đánh của đại đội 2, tiểu đoàn đặc công 407 do đồng chí Phạm Công Kháng chỉ huy đánh vào kho đạn trong sân bay. Suốt đêm 15/4/1974, số bom đạn địch mới chở đến đã nổ tung cho tới sáng hôm sau.

Tháng 4/1974, pháo binh của ta lại nã đạn vào khu kho nhiên liệu Bình Tân và sân bay Nha Trang, đốt cháy 200 ngàn lít xăng, phá hủy 2 kho đạn.

Đối với quân thù, trong đầu những năm bảy mươi, quá trình đánh pháo và đánh tàu đã gây một điệp khúc tử thần trên sân bay Nha Trang, cảng Cầu Đá và kho tàng... của chúng cùng các hoạt động vũ trang khác chính là những quả đấm thốn óc về sự bất lực của hệ thống tề điệp và phòng thủ hiện đại và sự mất mát lớn lao đối với tất cả các loại phương tiện chiến tranh. Máu xăng dầu của quân thù đã không ngừng bốc cháy. Các kho bom đạn - thứ vũ khí giết người kinh tởm của chúng không ngừng bị phá hủy...

Suốt mười sáu năm trời, tính từ ngày thành lập tổ diệt ác đồng bằng của tỉnh, đến thắng lợi Mùa Xuân 1975, chiến khu Đồng Bò luôn là nơi xuất phát của các đoàn quân thọc sâu vào hậu cứ của địch, nơi chỉ đạo cuộc chiến tranh xâm lược ở Nam Trung Bộ. Với một quá trình đặc công hóa toàn bộ các trận đánh, nhất là sau tháng 9/1964 thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy về công tác và trang bị cho các đội công tác tự vệ mật và du kích, giải quyết khâu “bám vào trong”(1), trong vòng vây chà xát ngặt nghèo của quân thù, chiến khu Đồng Bò đã khẳng định sức mạnh của một đối thủ - một cây đinh cắm vào cơ quan đầu não của địch ở Nam Trung Bộ. Bằng những trận đánh vào tận hang ổ, vào yết hầu và dạ dày chiến tranh của địch, các chiến sĩ đặc công, cũng như lực lượng vũ trang, bán vũ trang tác chiến bằng lối đánh đặc công và đánh du kích tại Nha Trang - Vĩnh Xương đã làm cho kẻ thù nhiều phen khiếp sợ.


(1) Có nghĩa là đi sâu bám chắc địa bàn trong lòng địch.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:40:54 pm
*
*   *

Người chiến sĩ cách mạng lúc đầu ra đi đầu đội trời, chân đạp đất, áo bà ba, quần xà lỏn, đi đâu nhờ dân ở đó... Vừa lo công tác đánh giặc; vừa lo ăn, lo mặc... Ăn, uống, mặc... là tất cả những vấn đề phải lo của người chiến sĩ bất kỳ ở đâu, nhưng ở một chiến khu ngay sát nách cơ quan đầu não của địch, nằm giữa vòng vây quân thù, nhất là trong kháng chiến chống Mỹ, chính là những thử thách gay gắt, sống còn. Nhiệm vụ quan trọng ấy phải được giải quyết tốt cùng với những nhiệm vụ khác để tồn tại, chiến đấu và chiến thắng.

Để đảm bảo sự tồn tại của chiến khu, yếu tố đầu tiên là phải tuyệt đối giữ bí mật, vì vậy mọi cán bộ chiến sĩ phải thực hiện phương châm “đi không dấu, nấu không khói, nói đủ nghe, che ánh sáng”.

Đầu mối ra vào nơi ở thường là những nơi có hòn đá to, khó leo để vào ra không để lại dấu vết. Do đó mới có cái tên gộp “Leo dây” vốn là đầu mối ra vào của cơ quan huyện Vĩnh Xương (lúc đầu gọi là Trung Sơn). Nơi đây có một tảng đá to cao, dựng đứng, có cây sộp mọc trên. Rễ sộp chằng chịt bám chặt vào tảng đá, khi vào phải nắm rễ sộp để leo lên, khi ra thì đu dây để xuống. Qua tảng đá này còn phải băng qua hai dãy gộp đá dài nữa mới vào đến nơi ở. Đi lại trong khu vực cơ quan và vùng ngoại vi, thường thì anh em phải theo các bờ đá, cao thấp khác nhau còn gọi là “nhảy gộp”. Mỗi khi đi ra ngoài đất thì không được mang giày, dép vì để lại dấu vết, khó ngụy trang. Mỗi khi đi vào bìa đất phải có một tổ đi sau cùng để ngụy trang cho hết dấu vết.

Nơi ở thường là chỗ có đá to, có hang động và cây cối che kín. Để có thể ở được phải chặt cây gác đà, bện sạp và dựng cọc trong gộp để cột võng. Cây phải chặt thấp xuống dưới mặt gộp và chỉ được chặt những cây trong phạm vi gộp gần nơi ở, không được chặt cây ngoài bìa đất. Cành lá phải thu dọn, nhét sâu xuống dưới gộp. Trong gộp những chỗ bị mưa dột thì dùng nylon để che. Ở gộp Mít Nài (gộp K5), cơ quan Huyện Thị có làm 2 cái trại nhỏ để ở. Còn gộp Suối Lùng thì có trại của tổ liên lạc.

Lấy nước để sinh hoạt cũng là việc khó khăn. Nước thường ở những tầng gộp phía dưới, khi lấy nước anh chị em dùng đèn pin và chui xuống, phải dùng ca múc nước đổ vào ruột xe, cột chặt hai đầu để vác lên. Nơi khó, một người không thể vác lên được, phải có một người đứng trên để kéo lên. Nam giới đi lấy nước còn đỡ vì chỉ mặc một cái quần xà lỏn, còn các đồng chí nữ mỗi lần đi lấy nước thì phải tắm giặt, thay quần áo, rất vất vả. Về sau học tập kinh nghiệm của đồng bào dân tộc anh em đã có sáng kiến: chặt lồ ô (nứa) về thông hết mắt bắt thành đường ống dẫn nước từ trên cao xuống cho chảy vào giỏ chứa nước. Để chứa nước, anh em chặt nứa đan thành giỏ lớn rồi lót kỹ bằng nylon. Ruột xe dùng lấy nước xong phải cuốn gọn và giao cho người được phân công bỏ vào bao đề sẵn sàng di chuyển khi có báo động. Tất cả xoong nồi sau bữa ăn cũng được làm như vậy. Người phụ trách cơ quan, đơn vị thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra. Khi có địch lùng sục, cơ quan phải di chuyển thì mọi dụng cụ nhà bếp đã sẵn sàng đi theo người được phân công đến chỗ ở mới. Việc di chuyển, nhảy gộp, mang vác dụng cụ nhà bếp thật hết sức vất vả. Mỗi khi bị mất bất cứ thứ gì, mua sắm lại không phải là dễ đàng. Cơ quan phải gửi cho đội công tác, đội công tác gửi cho cơ sở bí mật mua sắm để sẳn. Đến khi có chuyến đi về làng mới có dịp mang về. Mà mỗi lán về làng chủ yếu là để vận chuyển lương thực, thực phẩm để có cái ăn.

Nấu nướng sao cho địch không phát hiện được khói cũng là một việc rất công phu. Củi nấu dùng những cành khô ở trong gộp, đem về gác lên trên gián bếp để sấy cho thật khô. Chiều tối mới được đi kiếm củi, khi bẻ củi phải bẻ sao cho tiếng kêu thật nhỏ. Những lúc căng thẳng (có hiện tượng hoặc được tin địch đi lùng sục), trước khi đi lấy củi phải tổ chức đi trinh sát quanh vùng. Nhiệm vụ lấy củi là nhiệm vụ chung của tất cả mọi người.

Ở trong gộp đã vậy, khi cơ quan đóng ở bìa rừng hay các đồng chí ở đội công tác phải thường xuyên ở bìa rừng thì việc ăn ở, đi lại, nấu nướng lại càng khó hơn nhiều. Ho cũng không dám ho lớn, nói phải nói thật nhỏ, lâu ngày mỗi khi có dịp về hậu cứ (Khánh Sơn), lên đến Suối Cua, đồng chí nào cũng la hét thật to cho nó xả hơi.

Gia tài của người chiến sĩ Đồng Bò thật giản dị ngoài cái để đánh giặc ra, phần còn lại là tấm nylon, cái võng, dây dù, một chiếc dao găm, một bình toong, một chiếc khăn đùm cơm vắt hay bắp rang, gạo rang... Mỗi một món vật chiếm một chỗ đứng trong cuộc sống và chiến đấu, tất cả đều được nằm gọn trong chiếc bao mang của mỗi người. Những chiến sĩ thuộc các đơn vị được tăng cường về thì có ba lô, còn các đồng chí cán bộ chính trị, đội công tác thì dùng bao đựng bột mì. Bao đựng bột mì được nhuộm màu xám bằng ruột pin rồi cột dây để mang. Giây đeo thì dùng loại dây dù cứng của địch có bề rộng khoảng ba phân rồi cắt ra may với túi bột mì, vậy là có được cái ba lô. Tất cả chỉ có vậy, bao nhiêu đó không thừa, không thiếu... Nhưng đó không phải chỉ là phương tiện mà nó là hình ảnh của những vấn đề lớn hơn: tấm nylon đó là chiếc phao bơi của một chiến khu ven biển, gần sông; cái khăn khi thì đùm cơm vắt, lúc thì nắm bắp rang hay gạo rang, đó là khẩu phần ăn trên đường ra trận, cái mà nhân dân đã tần tảo, chắt chiu bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu. Hơn nữa, hành trang gọn nhẹ cũng giúp cho sự vận động linh hoạt của mỗi cán bộ chiến sĩ khi nhảy gộp đi công tác hay về làng, đảm bảo giữ bí mật. Ngoài ra người chiến sĩ Đồng Bò còn có tài sản chung là cái ruột xe. Ruột xe có thể dùng để lấy nước ở trong gộp, để mang gạo, mắm, cá, cất tài liệu; còn có thể sử dụng đựng phân và nước tiểu khi nằm hầm bí mật “bám dân, bám làng”.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:42:01 pm
Vốn là một căn cứ cách mạng nằm giữa Nha Trang, Diên Khánh và Cam Ranh, phía Đông giáp biển, lại có đường Quốc lộ 1 và đường sắt xuyên Việt bao quanh từ phía Bắc vòng lên phía Tây chạy về phía Nam, chiến khu Đồng Bò ở trong thế cô lập, bị địch bao vây nên việc liên lạc, tiếp tế lương thực, thực phẩm là yếu tố sống còn của chiến khu.

Lúc đầu mỗi tuần một chuyến, về sau mỗi tuần hai chuyến, liên lạc của cơ quan Huyện, Thị và liên lạc của tỉnh gặp nhau ở một địa điểm hẹn trước để chuyển giao thư từ, tài liệu và đưa đón cán bộ đi công tác. Mỗi chuyến liên lạc phải đi từ 2 đến 3 đồng chí. Những năm 1965 - 1967 liên lạc thường đi từ bìa rừng Võ Kiện - An Ninh hoặc từ Xuân Sơn - Đồng Nhơn băng qua làng, qua quốc lộ, lên gặp liên lạc của tỉnh ở vùng gộp Đại Điền Đông. Trên trục đường đi, được một số cơ sở giúp đỡ nắm tình hình. Những năm về sau thì đi về phía Cam Ranh, băng qua quốc lộ vùng thôn Phú Bình (xã Cam Tân) rồi sang chân núi phía bên kia (thường gọi là chân đồi Quan Sát). Đường giao liên này đi từ cơ quan lên bìa rừng Phú Bình thì đi trong rừng nên có thể đi ban ngày. Tới gần bìa rừng khoảng 3, 4 giờ chiều, chọn một điểm cao nào đó để quan sát đoạn đường sẽ đi qua. Đến tối sẩm mới xuống bìa rừng, băng qua đường quốc lộ... Sau khi gặp liên lạc của tỉnh chuyển giao thư từ, tài liệu xong thì quay trở lại bìa rừng bên này kiếm chỗ cột võng ngủ, sáng sớm mới đi về cơ quan.

Tháng 6/1962 đến tháng 5/1964 tỉnh đã cử một tổ cơ yếu điện đài về hoạt động tại Đồng Bò. Sau đó đến năm 1966, tỉnh chính thức tăng cường cho chiến khu Đồng Bò một tổ cơ công, cơ yếu và một đài vô tuyến điện 15w. Nhờ có điện đài việc liên lạc giữa Huyện - Thị với tỉnh và Khu được thường xuyên và chặt chẽ hơn.

Việc liên lạc giữa cơ quan Thị ủy, Huyện ủy, Thị đội, Huyện đội với cơ sở ở nội, ngoại thị được thông qua các đội công tác. Ngoài ra thường kết hợp các chuyến về làng để chuyển lương thực, thực phẩm lên chiến khu. Những năm từ 1969 về sau, địch tăng cường hơn nữa việc phục kích, gài mìn ở ngay các bìa rừng Võ Kiện, An Ninh, Võ Dõng, Đồng Nhơn, Bút Sơn... Việc ra vào làng rất khó khăn, rất ít khi vào làng mà không bị phục kích, bị đánh, bị mìn.

Từ đó, ta có sáng kiến tổ chức hộp thư liên lạc. Thư từ, mệnh lệnh, chỉ thị, báo cáo được viết rất ngắn gọn, gói lại thật chặt, thật nhỏ. Ban đêm liên lạc đem bỏ vào hộp thư. Hộp thư thường đặt ở các vị trí bất ngờ đối với địch. Ban ngày cơ sở cốt cán được giao nhiệm vụ giả đi làm đồng đến đó lấy tài liệu rồi chuyển cho đội công tác bên trong và gửi báo cáo của các đội công tác về chiến khu. Việc tổ chức các hộp thư liên lạc đã tránh cho ta nhiều tổn thất, nhất là từ năm 1970 về sau. Hộp thư tồn tại lâu và được sử dụng nhiều nhất là hộp thư của G5 ở thôn An Ninh.

Như vậy, thời chống Mỹ, chiến khu Đồng Bò sử dụng các hình thức liên lạc: liên lạc đường bộ qua đường dây bất hợp pháp, đường dây sử dụng hộp thư và liên lạc qua vô tuyến điện. Nhờ đó đường dây liên lạc thông suốt, sự chỉ đạo của Đảng kịp thời, phong trào cách mạng Nha Trang - Vĩnh Xương được liên tục và phát triển.

Lúc đầu tổ liên lạc của Huyện, Thị quá ít người nên lực lượng tham gia làm công tác liên lạc còn gồm cả các đồng chí làm nhiệm vụ cấp dưỡng, tuyên huấn, kinh tài... kể cả các đồng chí ở các đơn vị lực lượng vũ trang. Từ năm 1969 về sau, công tác liên lạc ngày được chuyên môn hóa hơn.

Đường dây liên lạc được thông suốt kể cả trong những lúc khó khăn nhất bởi vì nó được trả giá bằng máu của hàng chục cán bộ chiến sĩ. Tại trục liên lạc với tỉnh, các đồng chí: Hạ, Trí, Thành... là những tấm gương hy sinh vì sự nghiệp chung. Đi liên lạc với cơ sở lại càng gian nan, nguy hiểm hơn, hàng loạt chiến sĩ đã ngã xuống như các đồng chí: Nhị, Châu, Lục, Thanh, Hợi, Việt, Nguộc, Phùng, Được, Minh... Quê hương mãi mãi ghi công của các đồng chí!

Lương thực, thực phẩm là những vấn đề có mặt trong mọi nghị quyết hậu cần và phương án chiến đấu, công tác của chiến khu Đồng Bò.

Những năm 1960 đến 1965, trăng thượng tuần hàng tháng, thông qua các đường dây liên lạc, cán bộ chiến sĩ ở Đồng Bò tổ chức đi nhận tiếp tế của cơ sở nội ngoại thị chuyển lên. Đồng thời tổ chức đem các mặt hàng thiết yếu như: muối, vải, văn phòng phẩm... chuyển lên căn cứ của tỉnh và lấy bắp về ăn. Lúc tình hình bớt căng thẳng, những đêm trăng sáng cán bộ chiến sĩ ở chiến khu còn tổ chức mò tôm, cá để cải thiện - gọi là “đi nằm nước” hay đi đánh cá tại vùng biển Vườn Dừa (Sông Lô). Mới nghe qua thì thấy việc vận chuyển lương thực, thực phẩm cũng đơn giản, nhưng thực tế lại rất gian nan, vất vả và lắm hy sinh. Mỗi lần tổ chức đi về căn cứ của tỉnh, đến kho dự trữ lương thực Suối Dầu (Khánh Sơn) phải băng qua vùng địch kiểm soát, đoàn đi vận chuyển lại đông, rất dễ để lại dấu vết. Nhiều lúc bị địch phục kích, phải quay về hoặc bị hy sinh. Đồng chí Hạ là một trong những tấm gương hy sinh anh dũng, chặn đánh địch khi gặp phục kích, tạo điều kiện để đồng đội rút lui (1964). Nhiều lúc vào mùa mưa, bắp nhận về bị ướt, mốc... không dễ ăn. Lúc khó khăn, không vận chuyển lương thực kịp thời, ở Đồng Bò, cán bộ chiến sĩ bữa đói, bữa no.

Từ cuối 1965, phong trào mở ra, nhiều vùng địch rệu rã, lỏng kèm, trong phạm vi của tỉnh đã có nhiều vùng giải phóng, Nha Trang - Vĩnh Xương không phải thường xuyên làm nhiệm vụ mua nhu yếu phẩm như: muối, vải, thuốc tây, văn phòng phẩm... chuyển lên vùng căn cứ của tỉnh nữa. Giai đoạn này, nhân dân ở các thôn Thái Thông (Vĩnh Thái), Đồng Nhơn, Bút Sơn (Vĩnh Trung), Vĩnh Điềm Thượng (Vĩnh Hiệp), Phú Vinh (Vĩnh Thạnh), Xuân Lạc, Phú Nông (Vĩnh Ngọc), Phú Ân Nam, An Ninh, Võ Kiện (Diên An)... vẫn là những nơi đã cung cấp lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác cho chiến khu. Trong những năm từ 1965 đến giải phóng Nha Trang - Khánh Hòa (02/4/1975) có những chuyến về làng mang gạo đi một đoàn hàng trăm người. Chuyến đi ít nhất cũng hàng chục người.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:43:49 pm
Từ cuối năm 1968 về sau, bị địch đánh phá ác liệt, đội công tác Đông Nam bị hy sinh và bị bắt(1), cơ sở bị bể vỡ, đứt liên lạc trong một thời gian dài. Mãi đến đầu năm 1971, đồng chí Nguyễn Chánh, Trưởng ban cán sự nội thị liên hệ được với cơ sở cốt cán ở Bãi Trủ là gia đình chị Nguyễn Thị Cúc, Thị đội Vĩnh Trang cử tổ đặc công nước do anh Ngân chỉ huy bơi qua Bãi Trủ để liên lạc. Đội công tác Đông Nam được tổ chức lại. Các đồng chí: Phạm Sở, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Việt, Trần Thanh Châu... là những người đã vượt qua nhiều khó khăn, với ý chí và quyết tâm cao mới đứng chân lại được ở Hòn Rớ và tìm cách móc nối lại các cơ sở ở vùng này. Cũng từ đó, đồng chí Mười Đo mới thường xuyên đứng chân ở Vĩnh Trường để ra vào nội thị hoạt động. Từ đó phong trào ở đây được phục hồi nhanh chóng. Nhưng để đảm bảo cho bàn đạp chỉ đạo nội thị ở đây được tồn tại lâu dài nên nhiệm vụ tiếp tế lương thực, thực phẩm ở cánh này được đặt xuống hàng thứ yếu.

Để có lương thực, thực phẩm cung cấp cho cán bộ chiến sĩ ở chiến khu, các đội công tác ngoài việc xáy dựng cơ sở, tổ chức vũ trang tuyên truyền, diệt ác phá kèm, nắm tình hình địch, vận động tài chính, chuyển đổi đô la(2)... còn phải tổ chức cho cơ sở và quần chúng tốt mua lương thực, thực phẩm để có sẵn cho cán bộ, chiến sĩ ở chiến khu về lấy.

Mỗi lần vào làng lấy lương thực, thực phẩm phải tổ chức như một cuộc hành quân chiến đấu rất gian khổ, vậy mà vẫn phải hy sinh rất nhiều. Có trận hy sinh hàng chục đồng chí như trận suối Hang Cọp (bìa rừng Đồng Nhơn), trận Rộc Giông (Phú Vinh) năm 1967. Nhiều trận ở cánh đồng Võ Kiện, An Ninh, Võ Dõng, Gò Đu... những năm 1966, 1967 về sau. Nếu không tính đợt Tổng công kích Mậu Thân 1968 tại Nha Trang, số cán bộ chiến sĩ bị hy sinh trong khi đi lấy lương thực nhiều hơn trong các trận tổ chức chiến đấu. Mỗi hạt gạo, hạt bắp... đến thuốc men, quần áo... rõ ràng là thâm đẫm mồ hôi và máu của cán bộ, chiến sĩ và của đồng bào các gia đình cơ sở cách mạng ở Nha Trang - Vĩnh Xương. Bất chấp tù đày khảo tra, kể cả hy sinh đến tính mạng, đồng bào vẫn luôn một lòng hướng về cách mạng. Hơn thế nữa, nhiều thành viên gia đình cơ sở lại trở thành những chiến sĩ cách mạng. Và thật khó rạch ròi đâu là sự đóng góp, hy sinh của đồng bào cơ sở, đâu là sự hy sinh của cán bộ chiến sĩ.

Đồng Bò là chiến khu ở sát nách địch, không có dân và diện tích cũng hẹp nên trong kháng chiến chống Mỹ không thể tổ chức tăng gia sản xuất được. Năm 1969, thực hiện chủ trương phải sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm, Ban Thường vụ Liên huyện thị Vĩnh Trang đã chỉ đạo cho các cơ quan của Huyện Thị đưa một bộ phận lên làm rẫy tại Ba Cụm (Khánh sơn). Trại sản xuất có nhiệm vụ phải sản xuất đủ ăn và cung cấp một phần cho bộ phận phía trước. Lúc đầu trại sản xuất do đồng chí Lương Ca (Nguyễn Thiện) phụ trách. Trại đã sản xuất được một số bắp, lúa, mì... và chăn nuôi heo, gà để phục vụ cho cán bộ chiến sĩ mỗi khi về hậu cứ có cái để ăn và mang về. Đặc biệt là cung cấp thực phẩm cho cơ quan vào mỗi dịp lễ tết. Ngoài ra lại làm nhiệm vụ chăm sóc điều dưỡng một số thương bệnh binh, đồng thời là nơi mà các đồng chí nữ của chiến khu Đồng Bò lên ở trong thời kỳ thai sản.

Có được lương thực, thực phẩm và các đồ dùng sinh hoạt thiết yếu rồi, việc cất giấu, dự trữ, bảo quản cũng không dễ dàng. Bộ phận hậu cần của cơ quan ở chiến khu dùng tole làm thùng để chứa. Ngoài ra còn sử dụng cả ống pháo, thùng đại liên, Ống đèn của địch bỏ lại sau các cuộc càn để làm đồ chứa lương thực, thực phẩm như gạo, bắp, đường... Cất giấu trong gộp sâu thường ở những chỗ khô ráo, kín đáo, trở ngại khó đi để heo, gấu không ăn và khi địch đi càn quét, lùng sục không phát hiện được.

Sau Tết Mậu Thân, địch phản kích điên cuồng, tiến hành bình định cấp tốc hết đợt này đến đợt khác. Chúng thường xuyên lùng sục, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, gắt gao nên lúc này muối phải mua từng lon, gạo không có đủ, ta phải chuyển qua mua một phần lúa và phải mang lúa về trong gộp giã lấy gạo. Anh em có sáng kiến dùng vỏ quả bom vỡ hoặc cái mũ đầu bom Napal để làm cối giã. Cối giã làm bằng nửa quả bom vỡ rất tốt, giã được nhiều gạo và giã mãi không hư. Tìm được cái cối như vậy rất khó, ở chiến khu chỉ có anh em C4 (đại đội pháo) mới có cái cối giã như vậy, còn cơ quan Huyện Thị ủy và các đơn vị khác giã gạo bằng cái mũ đầu bom Napal. Loại này giã được ít gạo hơn nhưng rất sẵn vì địch thường xuyên dội loại bom này xuống chiến khu. Để cho nó đứng được mà giã gạo rất khó vì nó nhọn và ngắn, phải có người giữ hoặc đào lỗ chôn xuống mới giã được và giã một thời gian thì thủng phải tìm cái khác thay.

Ở chiến khu lúc nào cũng phải đảm bảo bí mật mà giã gạo thì tiếng chày giã kêu ình ịch nên thường giã gạo vào lúc mờ sáng hoặc 4, 5 giờ chiều. Trước khi giã gạo phải đi trinh sát vùng xung quanh. Giã gạo bằng cách này chỉ vừa tróc vỏ lúa, chứ không giã trắng được nên những năm từ 1969 về sau ở chiến khu cán bộ chiến sĩ toàn ăn gạo lức, rất khó nhai. Riêng anh em ở các đội công tác thì được ăn gạo mua trong làng.


(1) Năm 1969, đội công tác và một số thanh niên chống bắt lính là 17 người do đồng chí Phan Bền, đội trưởng chỉ huy, hầu hết hy sinh ở Hòn tre, một số bị địch bắt.
(2) Năm 1969-1970, Vĩnh Trang được tỉnh giao nhiệm vụ đổi đô la ra tiền ngụy cho tỉnh


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:44:28 pm
Trận càn của quân Nam Triều Tiên tháng 10/1968, chúng bỏ lại nhiều thùng đạn và thùng ống đựng nước... Anh em đã thu lượm về để chứa lương thực, thực phẩm và cất giấu tài liệu ở dưới gộp sâu, rất tốt. Cũng đợt càn này, địch đã cung cấp cho ta một số đồ hộp để cải thiện, về sau những lần càn khác chúng rút kinh nghiệm: Nếu đồ hộp còn thì chúng dùng lưỡi lê đâm lủng hoặc đem đốt hay đào lỗ chôn.

Về thực phẩm, những năm 1968 về trước chủ yếu là nước muối nấu sôi cho bột ngọt vào làm nước mắm chấm lá rừng như: lá gà mổ, lá sộp, lá da, lá quýt rô non, cỏ đá, rau rịa, lá gạc nai... Thỉnh thoảng mới có ít nước mắm, cá khô, cá mặn. Những năm sau này đồ hộp nhiều thì mua thịt hộp, cá hộp về bỏ thêm muối, bột ngọt và nước vào kho làm thức ăn.

Thời đánh Mỹ, lá gà mổ là món quà tặng đặc biệt của thiên nhiên đối với chiến khu. Trong chống Mỹ, lá rau gà mổ đã đi vào lịch sử Đồng Bò cũng như củ mài, củ chụp lá bép, rau tàu bay trong lịch sử chiến khu miền Đông Nam Bộ và Trường Sơn, Tây Nguyên. Đó là thứ dây leo của rừng, sau những trận mưa dầm chất độc, bom Napal cháy, nó lại leo lan tràn. Lá gà mổ hơi nhớt, ăn nhiều thì bị đi lỏng.

Các loại rau khác cũng có nhiều như lá da, lá cừa, lá sộp non... Sau này phát triển thêm rau rịa, củ dớn, rau san đá. Rau san đá là thứ cỏ mọc trên đá, cọng to, lá dài, có thứ màu tím, có thứ màu trắng. Rau này luộc chấm mắm ăn ngon nhưng nhai nó kêu rạo rạo như lính Tây đi giày đinh nên gọi là “rau san đá”. Củ dớn cũng là loại cây mọc nhiều và bám chặt trên đá, có lớp lông tơ màu nâu. Hái về gọt sạch, xắt ra xào, ăn xơ xơ, cứng cứng, được anh em gọi là su hào Đồng Bò. Rau rịa thì rất ngon, xào, nấu canh ăn vừa ngọt, vừa béo, dai dai, càng nhai thì càng béo.

Về mùa Xuân thì phổ biến là lá cừa, lá da, lá sộp. Lá sộp non, lá cừa non, lá da non ăn vừa chua chua chát chát. Lá da, lá cừa thì chát nhiều hơn chua nên không ngon bằng lá sộp. Lá sộp cũng như rau rịa được coi là rau cao cấp ở Đồng Bò. Lá sộp non với mắm nêm, kho nước thì ngon tuyệt! Sau này anh chị em còn hái, muối chua để ăn lâu dài.

Đến mùa xay, trái xay nấu chua ăn cũng rất ngon. Đọt cây thiên tuế non, cạo sạch lông, bẻ khúc, rửa sạch đem kho với dầu cũng là món ăn ngon ở chiến khu. Loại cây này mọc nhiều ở bìa rừng và vùng Trảng É.

Khi đi công tác gặp đọt thiên tuế non, rau rịa, lá sộp non thì anh em tranh thủ hái đem về. Mỗi khi mà có những thứ rau đó thì anh em cơ quan rất mừng vì có được bữa ăn cải thiện. Còn nhiều loại lá cây khác, hái nhấm thử thấy không đắng, ăn thử thấy không sao thì cũng trở thành rau ăn.

Sau năm 1968, địch thả bom và bắn phá nhiều, ở gộp Suối Lùng, cây gãy đổ nhiều, làm trống một khoảnh đất gần gộp cơ quan. Lúc đầu anh em tận dụng để trồng rau cải để ăn, về sau phải phá bỏ vì không đảm bảo bí mật. Anh em khắc phục khó khăn đem từng bao đất, lá mục trải trên những hòn đá trước mặt gộp, lấy cây chận không cho đất trôi đi rồi gieo cải, trồng ổ qua, ớt... lên đó, hàng ngày vác nước bằng ruột xe tưới. Vậy mà rau cũng tốt, cũng có ăn nhưng không nhiều lắm.

Các đội công tác ở bìa rừng thường xuyên ra vào làng nên thực phẩm phong phú hơn, trừ những lúc tình hình căng thẳng, bữa ăn còn có cá, có rau, tối thiểu cũng có được trái mít non nấu canh. Những đồng chí khi vào làng, xin được quả mít đem về được gọi đùa là “chiến sĩ lái núc”.

Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở chiến khu Đồng Bò gặp rất nhiều thiếu thốn, khó khăn. Những lúc địch càn quét, lùng sục căng thẳng thì gạo không có mà ăn, phải ăn lá gà mổ thay cơm. Thiếu thốn nhất là chất đạm, nhiều khi cả năm anh em không biết đến miếng thịt, miếng cá ra sao. Ở trong rừng thấy con rắn mối nào anh em cũng tìm cách chận bắt.

Ở Đồng Bò, thú rừng như: dộc, khỉ, chồn, cheo, lợn rừng, nai... có nhiều, nhưng vì đảm bảo bí mật nên không được săn bắn.

Tết năm 1966, cơ quan huyện Vĩnh Xương đóng ở bìa rừng Võ Kiện (suối Khô), để có cái Tết vui vẻ, lãnh đạo huyện cử một tổ vào trảng tranh Năm Nọc để săn bắn. Anh em đi cả tuần lễ nhưng khi về chỉ có một con chồn nhỏ. Thế là cái Tết này cả cơ quan và lực lượng vũ trang của huyện khoảng 60 đồng chí ăn Tết với một con chồn nhỏ và một con chó của đồng bào cho. Cơ quan thị xã Nha Trang đóng ở vùng suối Khu A cũng tổ chức săn bắn, may mắn hơn được một con nai.

Những năm 1970 về sau, địch bớt lùng sục trong núi hơn trước, mỗi lần ở chiến khu đón Tết, cơ quan thường cử một bộ phận mang muối, vải, bột ngọt... lên Ba Cụm đổi heo, làm thịt muối đem về ăn Tết. Vùng Ba Cụm - Tô Hạp (Khánh Sơn) có nhiều gà nhưng khó mang về vì sợ qua vùng địch, gà kêu dễ bị lộ.

Sau đợt cắm cờ phân vùng ranh giới giữa ta và địch năm 1973, toàn bộ lực lượng Huyện Thị tập trung về học tập, chỉnh huấn gần 10 ngày tại gộp Suối Lùng. Tổ săn bắn phục vụ cho hội nghị đã hạ được 6 con nai trong dịp này. Thịt nai ăn không hết được xẻ ra phơi khô để dùng dần và còn làm quà tặng cho cơ sở. Suốt mười mấy năm ròng, chưa bao giờ cán bộ chiến sĩ có được những bữa ăn ở chiến khu thịnh soạn như vậy. Từ đó về sau việc săn bắn và đánh bẫy để cải thiện ở chiến khu được làm thường xuyên hơn. Những bữa ăn của cán bộ chiến sĩ, lâu lâu lại có thịt nai, dộc, sơn dương...


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:45:36 pm
*
*   *

Món ăn tinh thần ở chiến khu Đồng Bò là rađiô. Mỗi cơ quan đơn vị thường có vài chiếc. Nhờ có rađiô mà anh chị em ở chiến khu theo dõi được tình hình thời sự trong nước và thế giới. Qua rađiô, cán bộ chiến sĩ ở chiến khu được tin Hồ Chủ tịch kính yêu qua đời. Tin Bác mất làm tất cả mọi người bùi ngùi xúc động. Lễ truy điệu được tổ chức ở chiến khu tuy đơn sơ nhưng không kém phần trang trọng, mọi cán bộ chiến sĩ đều rưng rưng nước mắt, quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng. Di chúc của Người được cán bộ chiến sĩ tổ chức học đi học lại cho đến khi thuộc lòng.

Còn báo chí, bản tin thì ít ỏi, anh chị em chuyền tay nhau để đọc. Vào những lúc rãnh rỗi, anh chị em còn tổ chức đánh cờ, chơi bài...

Tuy đời sống tinh thần của cán bộ chiến sĩ còn thiếu thốn, nghèo nàn, cuộc sống đầy khó khăn, gian khổ, phải chấp nhận mất mát, hy sinh nhưng ở chiến khu Đồng Bò vẫn tràn đầy không khí lạc quan. Vui nhất là lúc nhận được thư nhà hay khi nghe tin thắng giặc và vào những dịp cơ quan có tổ chức đám cưới, đám cưới giữa những người đồng chí tuy đơn sơ nhưng trang trọng và ấm tình đồng đội.

Thường kỳ hàng tháng, hàng quý các đơn vị tổ chức sinh hoạt, hội họp, học tập, phát động thi đua. Nội dung chủ yếu thường là kiểm điểm công tác của đơn vị và từng cá nhân. Sinh hoạt văn hóa văn nghệ thì gần như không có bởi lý do đảm bảo giữ bí mật, anh chị em có ca hát thì cũng chỉ dám hát nho nhỏ mà thôi.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:45:59 pm
*   *
*

Chiến khu Đồng Bò tuy có nhiều rừng cây rậm rạp, cán bộ chiến sĩ chủ yếu sống dưới các hang gộp nhưng là vùng gần biển nên khí hậu tốt, mát mẻ dễ chịu. Cán bộ chiến sĩ hoạt động ở đây thời chống Mỹ khó khăn, thiếu thôn nhiều bề nhưng nhờ được ăn gạo và không lạt muối, lại được nằm võng có bọc dù chống muỗi đốt nên cũng ít bị sốt rét và đau bệnh. Nếu bị thương thì điều kiện thuốc men cũng đỡ hơn một số vùng khác vì đã có đồng bào cơ sở lo. Hầu hết những ca bị thương không quá nặng đều được điều trị ở đây. Những ca bị thương nặng mới chuyển về hậu cứ của tỉnh để điều trị. Nhưng đường về hậu cứ xa,. đường rừng núi, dốc cao, phải băng qua Quốc lộ 1, qua làng rất dễ bị địch phục kích. Mỗi lần chuyển một ca thương binh nặng về tuyến trên là phải chuẩn bị chu đáo như cho một trận đánh.

Cuối tháng 12/1954 y tá trưởng Lê Quang Dũ đi theo cơ quan Tỉnh ủy về Đồng Bò kiêm nhiệm phục vụ chăm sóc sức khỏe cho các cơ quan đơn vị của Nha Trang và Vĩnh Xương.

Đầu năm 1959 cơ quan Tỉnh ủy chuyển lên căn cứ miền núi Khánh Sơn. Từ năm 1959 đến năm 1961 ở chiến khu Đồng Bò không có cán bộ y tế. Để giải quyết khó khăn đó, áp dụng kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp, mỗi cán bộ tự trang bị cho mình một túi thuốc cấp cứu gồm: Lọ dầu cù là, chai dầu song thập, thuốc viên kháng sinh, thuốc cảm, đau bụng, thuốc sốt rét, viên sinh tố, củ gừng, hạt nén, bông băng..., băng cá nhân, thuốc đỏ, thuốc tím. Chiến sĩ cán bộ đa số biết cắt lể, cạo gió, xoa bóp, tiêm thuốc... để tự cứu mình và đồng đội khi ốm đau hoặc bị thương, (từ năm 1965 trở đi, còn thêm thuốc Pénicylin tan chậm tiêm thẳng). Nhờ đó đã vượt qua bước khó khăn ban đầu.

Năm 1962 y sĩ Nguyễn Nam Tiến đi tập kết về công tác tại Đồng Bò. Sau đó thêm y tá Ngọc Anh và y tá Hà ở Bắc về. Như vậy ở Đồng Bò lúc này có 1 y sĩ, 2 y tá. Các đồng chí phân công nhau phục vụ chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho cán bộ chiến sĩ Huyện, Thị. Y tá đi theo phục vụ các đơn vị vũ trang, y sĩ phụ trách chung, phục vụ cho cơ quan Huyện, Thị.

Chiến khu Đồng Bò được thiên nhiên ưu đãi thuận lợi cho việc ẩn núp tránh bom đạn, có hang gộp rộng ở được vài ba chục người, có chỗ cất dấu thương binh lúc địch càn quét.

Cuối năm 1966 Ban Dân y bổ sung cho Nha Trang y tá Phù Bảy và y sĩ Đoàn Long Phẩm về huyện Vĩnh Xương. Các đồng chí cán bộ y tế ở Đồng Bò chẳng những điều trị thương bệnh binh mà còn thay nhau đi theo lực lượng vũ trang, đội công tác vào sâu trong lòng địch phục vụ chiến đấu, công tác và kết hợp thu mua mang cõng thuốc men, lương thực, thực phẩm từ trong lòng địch về chiến khu nuôi dưỡng thương bệnh binh. Đồng Bò rất thiếu rau tươi, vì vào làng ưu tiên cho thuốc men và lương thực nên không lấy được rau. Cán bộ y tế phải lặn lội leo trèo trên gộp đá, ngọn cây hái rau phục vụ thương binh.

Cuối năm 1967, được trên tăng cường một bác sĩ để xây dựng bệnh xá. Bệnh xá vào cuối năm 1967 có 1 bác sĩ và 2 y sĩ. Đó là bác sĩ Huỳnh Văn Phước, y sĩ Lê Thị Tâm (Minh Tâm), y tá Lê Kỳ Nam, về sau có thêm y tá Lê Thị Độ và Nguyễn Thị Yến. Chuẩn bị chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân 1968, tỉnh tăng cường thêm 1 bác sĩ, 3 y sĩ và một số cán bộ của Ban Dân y để cùng các bác sĩ quân y của trung đoàn Sao Thủy hình thành bệnh xá tiền phương của mặt trận Nha Trang.

Đoàn cán bộ y tế Ban Dân y tăng cường cho Nha Trang, Vĩnh Xương có: bác sĩ Huỳnh Tân Chức, y sĩ Trần Khánh Lân, y sĩ Võ Thị Mỹ Ngọc (Song Vũ), Lê Văn Sương (Túy), các y tá Lương Duy Trưng, Võ Thị Hà (Dậu), Trương Thị Thọ, Lê Văn Chiến và y tá Hẩm. Quân y trung đoàn 20 có bác sĩ Tuyến, Chí, y sĩ Sơn, Khương và Phương.

Bệnh xá tiền phương do bác sĩ Phước phụ trách từ gộp Mỹ Sơn (Đồng Bò Hạ, dưới Dốc Gáo) chuyển lên gộp Cột Cờ ở cuối Đồng Bò Trung gần Đồng Bò Thượng.

Đội mổ tiền phương II đứng chân tại suối Mạnh Hùng (núi Chín Khúc) cách đường sắt trên 100m thuộc xã Vĩnh Trung do bác sĩ Chức phụ trách.

Một bộ phận được phân công vào nội thị có y sĩ Trần Khánh Lân đi với Ban chỉ huy tiền phương; y tá Lê Thị Độ và Nguyễn Thị Yến, y sĩ Võ Thị Mỹ Ngọc (Song Vũ), Trương Thị Thọ vào nội thành trước làm công tác chính trị vận động quần chúng xuống đường.

Quân y trung đoàn 20 đóng cách chỉ huy sở trên 100m. Sau về phối hợp với bệnh xá tổ chức hoàn phẩu cho thương binh từ mặt trận chuyển về (các y tá Lê Thị Độ, Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Thị Minh Thư chuyển sang công tác chính trị vận động quần chúng do Thị ủy Nha Trang quản lý).

Sau chiến dịch Mậu Thân, Quân y trung đoàn 20 theo đơn vị làm nhiệm vụ nơi khác, tháng 9/1968 y sĩ Trần Khánh Lân về Ban Dân y, số còn lại tiếp tục phục vụ ở Đồng Bò. Ngày 13/10/1968 địch tập trung quân càn quét lớn Đồng Bò. Ngày 21/10/1968 bác sĩ Huỳnh Tấn Chức đưa đoàn thương binh nhẹ theo đoàn Thị đội do đồng chí Võ Hồng Quân - Thị đội trưởng cùng một số cán bộ y tế lách ra ngoài vòng càn của địch. Số thương binh nặng không đi được ở lại có các đồng chí: Trương Văn Thịnh, Tô, Nguyễn Lòng, Trần Lan, Oanh, Sum, Hay, Bảo, Khôi... ở lại phục vụ có bác sĩ Huỳnh Văn Phước, các y sĩ Võ Thị Mỹ Ngọc, Nguyễn Nam Tiến, Lê Thị Tâm, các y tá Trương Thị Thọ, Lương Duy Trưng, phục vụ có đồng chí Xễ... và tổ bảo vệ của trung đoàn Sao Thủy (trung đoàn 20). Ngày 31/10/1968 địch đánh vào bệnh xá, y tá Trương Thị Thọ và thương binh Tô và Khôi, Oanh, Sum bị bắt, y sĩ Nam Tiến và Lương Duy Trưng may mắn thoát được về hậu cứ, còn lại tất cả đều bị hy sinh (lúc này bệnh xá ở tại gộp Cột Cờ). Sau trận càn, bệnh xá bị xóa sổ, y cụ thuốc men mất hết, địch bao vây gắt gao nên việc điều trị nuôi dưỡng thương bệnh binh rất khó khăn. Trước khó khăn đó được Liên Huyện Thị ủy tập trung ưu tiên cho bệnh xá, từ đó khó khăn được tháo gỡ. Cơ sở nội thị gởi lên một bộ đồ mổ và thuốc men phục vụ cho thương binh. Tháng 4/1970 y sĩ Đoàn Long Phẩm cùng đơn vị chiến đấu vào làng bị thương gãy chân, phải chuyển về tuyến trên điều trị, y sĩ Huỳnh Thuần từ Diên Khánh được điều về Nha Trang. Sau đó y sĩ Lê Duy Sáu thay cho y sĩ Nguyễn Nam Tiến đi ra Bắc. Lúc này y tế tổ chức gọn nhẹ theo sát cơ quan đơn vị Vĩnh Trang di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác, tổ chức bệnh xá lưu động phục vụ công tác và chiến đấu. Các đồng chí cán bộ y tế đã vượt qua gian khổ, khắc phục khó khăn, cứu chữa được nhiều thương bệnh binh ở chiến khu Đồng Bò.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:47:03 pm
*   *
*

Trên một mảnh đất đầy thử thách gian lao đứng sát ngay trung tâm đầu não của kẻ thù ở tỉnh Khánh Hòa, lại gần như hoàn toàn cô lập trong vòng vây quân thù thời đánh Mỹ, vậy mà chiến khu Đồng Bò vẫn tồn tại và chiến thắng.

Quân thù muốn lột da Đồng Bò và các khu vực ngoại vi nhưng gốc rễ cách mạng đã ở trong lòng người thì chúng không thể càn quét, đào bới hay phá hủy được. Trên địa bàn Nha Trang - Vĩnh Xương vẫn tồn tại các đội công tác bám dân, bám làng ngay trong lòng địch. Hơn thế nữa, các đội du kích mật cùng đội vũ trang công tác đội nắp hầm bí mật hay từ những nơi bất ngờ nhất thường xuyên tấn công địch, diệt ác phá kềm, phối hợp với chiến công diệt địch của lực lượng vũ trang đứng chân ở chiến khu, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và binh vận. Có thể nói những cán bộ chiến sĩ các đội công tác là những người chiến đấu ở tuyến đầu của những tuyến đầu. Ở trận tuyến ấy, có biết bao những tấm gương hy sinh anh dũng như các đồng chí: Ngũ Hữu Tám, Phan Khá (Duy), Trần Thị Bẻo, Quyết, Trường Xuân, Phan Bền, Hải, Sơn, Nguyễn Xuân Bình... Máu của các đồng chí đã góp phần làm nên tượng đài lịch sử hùng vĩ của chiến khu Đồng Bò. Và còn có biết bao nhiêu tấm gương chiến đấu kiên cường quả cảm của các đồng chí khác như nữ đồng chí Nguyễn Thị Đo, một Thị ủy viên từng lăn lộn ở các đội công tác, người mà ai cũng từng biết ra tù vào khám như đi chợ. “Còn non còn nước còn trời, cô còn giám thị tui thời còn vô”. Đó là câu trả lời giám thị trại giam khi mụ chất vấn đồng chí Đo, tại sao ra tù mới hai năm đã bị bắt trở lại?

Ngũ Hữu Tám là con của bà Hai Lạch (tức Lê Thị Ngân) ở Phú Ân Nam (Diên An). Khu vườn rộng vài sào của bà Hai có những căn hầm bí mật nuôi giấu cán bộ du kích cả thời đánh Tây rồi đánh Mỹ. Bản thân ông bà Hai cũng là đội viên đội tự vệ hoạt động tại làng. Người dân sống ở Cây Dầu Đôi (Diên Khánh) giờ đây vẫn chưa quên những chiến công và sự hy sinh anh dũng của Ngũ Hữu Tám - người mà bọn địch mệnh danh là “con hổ dữ vùng Diên An” và chỉ trong hai năm (1967 - 1968) ông bà Hai đã chịu thêm hai cái tang của những đứa con thân yêu là Ngũ Hữu Bảy và Ngũ Thị Mười. Họ không chết nơi xa mà ngã xuống ngay trên đất làng, nơi họ đã sinh ra, lớn lên và đi theo cách mạng. Có những tháng ngày nỗi đau đớn làm cho bà Hai như phát điên lên được. Bà chửi tụi tề ngụy tàn bạo, dã man đã giết chết con bà... Rồi nén đau thương bà càng hăng hái tham gia công tác. Đêm đêm cán bộ chiến sĩ vẫn đi về bám trụ ngay trong nhà.

“Hiến dâng cho Đảng, cho nhân dân đến giọt máu cuối cùng”. Đối với chị Trần Thị Bẻo, đó không chỉ là một lời thề mà là sự chứng minh bằng chính cuộc sống của mình. Chị đã hy sinh vào một đêm đầu xuân 1969, ngay trên mảnh đất Xuân Lạc (Vĩnh Ngọc) quê nhà. Người nữ đội trưởng công tác ở tuổi bốn mươi ấy đã ngã xuống trong khi chiến đấu ghìm chân quân giặc để đồng đội rút lui. Bốn mươi tuổi đời, chị Bẻo đã có trên hai mươi năm công tác.

Làm sao có thể kể hết được những tấm gương chiến đấu anh dũng, ngoan cường của cán bộ chiến sĩ các đội công tác, nhưng có thể nói chiến khu Đồng Bò không thể tồn tại nếu khỏng có các đội công tác “bám dân, bám làng”. Gác đội công tác chính là cây cầu nối giữa chiến khu và nhân dân. Cán bộ chiến sĩ đội công tác phải làm giỏi ở cả ba mũi giáp công: Vũ trang, đấu tranh chính trị và binh vận, làm tốt công tác vận động nhân dân nuôi giấu cán bộ, nắm tình hình địch, đóng góp sức người, sức của cho cách mạng. Chính những việc làm đó đã bảo đảm cho sự tồn tại của chiến khu.

Và trận đánh láu dài, gian lao có quan hệ nhất đối với sự tồn tại của chiến khu Đồng Bò chính là việc chén cơm manh áo của chiến sĩ. Người ta hỏi, hàng trăm cán bộ chiến sĩ cùng với bao nhiêu cơ quan nằm trên một chiến khu đã tồn tại như thế nào trong suốt cả trận đụng đầu lịch sử vô cùng quyết liệt? Nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương đã một lòng hướng về cách mạng đã đùm bọc, che chở, nuôi dấu cán bộ chiến sĩ nằm vùng và tiếp tế cho chiến khu... vì Đồng Bò cũng là căn cứ giữa lòng dân.

Một câu chuyện nhỏ hồi năm Mậu Thân 1968 đả nói lên khá đậm tình cảm các gia đình cơ sở cách mạng ở Nha Trang, Vĩnh Xương. Số là, đồng chí Nguyễn Du, 18 tuổi, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thị đội, người tỉnh Thái Bình, một hôm về Phú Vinh lấy gạo bị địch đánh, lạc đơn vị, vì chưa quen địa hình nên lội qua sông Cái về hướng Hòn Thơm mà cứ tưởng là bơi qua sông Đồng Nhơn để về Đồng Bò. Khi lên Hòn Thơm, thấy toàn đá là đá, khác hẳn với những viền cỏ tranh của hòn Chín Khúc mới biết đã lạc hướng, quay trở lại, bơi qua sông vào làng thì trời đã gần sáng. Du chỉ biết có mỗi một nhà cơ sở mà đơn vị ghé lấy gạo lúc đầu hôm là nhà chú Ba Kéo, bèn tìm đến gõ cửa. May mà thím Ba nhớ chủ “nhỏ nhỏ nói tiếng Bắc” lúc đầu hôm hỏi thím xin riêng hai lon muối nên mới đưa vào nhà, cho ăn uống xong dẫn ra giấu trong đám mía. Suốt tháng ấy chú Ba giả đau bệnh không lột lá mía. Chú Hai Xe và các gia đình quanh xóm Miễu Cổ Chi thường đến “thăm người bệnh” đem theo đủ thứ bánh trái. Đó là cách bà con che mắt địch nuôi nấng anh bộ đội Cụ Hồ. Anh Du được nuôi nấng che chở, ngày càng mập trắng ra. Trong lúc đơn vị không biết đồng chí hy sinh hay bị bắt, theo dõi đài Nha Trang không thấy gì, nắm tin tức ở các nơi cũng không nghe ngóng gì, đơn vị tưởng đồng chí bị chết trôi ở sông. Gần hai tháng sau đồng chí Hồng Quân và Phan Thị Hạnh về Phú Vinh mới biết, rồi tổ chức đưa lên chiến khu. Sau đó nhà chú Ba Kéo xây hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ. Hầm bí mật trong vườn nhà chú đã từng nuôi giấu nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo Huyện, Thị ủy. Các đồng chí Trần Quốc Khánh, Nguyễn Văn Tự, Lương Duy Ánh, đều đã về ở nhà chú và được gia đình chăm sóc rất tận tình.

Năm 1968, chuẩn bị cho chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân, tham gia trong việc vận chuyển vũ khí, truyền đơn có bà Phan Thị Lào, ngụy trang dưới hình thức đi chợ, dưới những gánh rau của bà Lào là các loại vũ khí và truyền đơn, đưa vào nội thị trót lọt. Những gánh rau của bà đã góp phần vào những đòn sấm sét giáng vào kẻ thù ở Nha Trang. Sau Tết Mậu Thân, cả vợ chồng dâu con 5 người nhà bà đều bị địch nhốt vào nhà lao. Lúc đó, bà Lào có một người con đang ngồi tù Côn Đảo, còn những người con khác hầu hết đã đi thoát ly tham gia cách mạng. Chồng bà là ông Lê Tiết một địa chủ kháng chiến. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông vốn là phó tổng. Trong cuộc kháng chiến gia đình ông đã đóng góp lớn về người và của cho cách mạng. Gia đình ông bà Tiết ở Đồng Nhơn (Vĩnh Trung) đã từng nuôi dưỡng rất nhiều cán bộ, nhiều đồng chí là cán bộ lãnh đạo như: Lưu Văn Trọng, Nguyễn Nghiềm, Đặng Nhiên...


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:48:04 pm
Ở xóm Giếng Đá (Hòn Tre) tất cả có 12 hộ gia đình thì tất cả đều là cơ sở cách mạng. Các gia đình cơ sở ở đây gắn bó với đội công tác Đông Nam và các đơn vị đặc công. Ở đây, đồng bào giúp đỡ ghe thuyền, tiếp tế lương thực cho Đồng Bò, nuôi dưỡng cán bộ chiến sĩ bám trụ ở đảo... Trong xóm có gia đình bà Nguyễn Thị Lẫm, nhà bà lúc đầu là cơ sở cách mạng, về sau có 3 người cùng sinh hoạt trong một chi bộ đó là bà, chồng bà ông Nguyễn Đình Mai, con bà là chị Nguyễn Thị Cúc. Các chiến công đánh tàu địch ở cảng Cầu Đá, ở đảo Hòn Tre hầu hết đều có sự đóng góp không nhỏ của gia đình bà Lẫm.

Trên đây chỉ là một vài mẩu chuyện nhỏ về sự hy sinh, đóng góp cho cách mạng của nhân dân Nha Trang, Vĩnh Xương. Và người ta có thể hiểu vì sao trải qua những tháng năm ròng rã của cuộc kháng chiến chống Mỹ - ngụy, chiến khu Đồng Bò coi như đã hoàn toàn bị bao vây mà vẫn tồn tại và chiến thắng.

Suốt ba mươi năm trời, tính từ sau những ngày bao vây giam chân địch trong thị xã, cuộc chiến đấu thầm lặng, dai dẳng và hết sức gian lao của nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương và sự hy sinh to lớn của các chiến sĩ cách mạng tại Nha Trang - Vĩnh Xương đã giải thích cho sự tồn tại của một chiến khu giữa vòng vây quân thù.

Sống giữa lòng dân, chiến sĩ cách mạng ở Nha Trang - Vĩnh Xương, những người từ bốn phương của Tổ quốc quy tụ về đây, thường nhắc lên hai tiếng “Đồng Bò”. Đồng Bò đã trở thành quê hương của niềm thương nỗi nhớ của phần lớn những chiến sĩ ngày nào đã từng hoạt động cách mạng ở chiến trường Nha Trang - Vĩnh Xương. Đồng Bò còn là niềm tin tất thắng của nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương trong những thời kỳ đen tối nhất dưới kìm kẹp của địch.

Máu của chiến sĩ ta đổ xuống Đồng Bò và đổ xuống mảnh đất Nha Trang - Vĩnh Xương đã làm nên một tượng đài lịch sử hùng vĩ, một bản anh hùng ca của một vùng đất với vị trí và điều kiện thiên nhiên vô cùng độc đáo.

Trong lịch sử đấu tranh giữ nước và chống áp bức của dân tộc ta, vấn đề hậu phương và căn cứ địa luôn luôn chiếm vị trí hàng đầu và là một trong những vấn đề cơ bản quyết định sự thành bại, sống còn. Trong điều kiện dân tộc ta phải chiến đấu với kẻ thù hơn hẳn về tiềm lực kinh tế, quân sự thì điều kiện này càng có ý nghĩa đặc biệt. Nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng với căn cứ địa và hậu phương, coi đó là một quy luật, suốt quá trình lãnh đạo chiến tranh cách mạng, Đảng ta luôn đặt vấn đề căn cứ địa và hậu phương ở vị trí, tầm vóc đã nói. Trong tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “Nói đến đấu tranh vũ trang, đến xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng thì không thể không nói đến vấn đề căn cứ địa cách mạng, vấn đề hậu phương của chiến tranh cách mạng”. Đó là “Những vùng giải phóng xuất hiện trong vòng vây của địch, cách mạng dựa vào đó để tích lũy và phát triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo thành những trận địa vững chắc về chính trị, quân kinh tế, văn hóa, lấy đó làm nơi xuất phát để mở rộng dần ra, cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hoàn toàn đất nước. Căn cứ địa là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng; Trên ý nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh cách mạng”(1).

Với những tính chất trên, căn cứ cách mạng chính là nơi đứng chân của các bộ máy chỉ đạo, chỉ huy chiến tranh, là hậu cứ và là bàn đạp xuất phát của các lực lượng vũ trang và hoạt động vũ trang, là nơi tồn trữ và điều hành cung cấp hậu cần cho chiến tranh. Chiến khu Đồng Bò cũng không ngoài những quy luật về hậu phương, căn cứ đã nói, nó còn có đặc thù riêng gắn liền với hoàn cảnh địa lý, lịch sử, đặc điểm, tính chất chiến trường, gắn liền với vị trí, nhiệm vụ của các cơ quan lãnh đạo Đảng, cơ quan quân sự ở Nha Trang - Vĩnh Xương.

Từ việc xây dựng chiến khu Đồng Bò để chỉ đạo cuộc kháng chiến tại Nha Trang - Vĩnh Xương suốt 30 năm ròng, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về xây dựng căn cứ:

Một là: Việc chọn địa điểm đặt căn cứ phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Phải căn cứ vào đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

- Vị trí được chọn đặt căn cứ phải dễ dàng liên lạc đi toàn chiến trường, đảm bảo sự chỉ đạo, chỉ huy nhanh chóng, kịp thời.

- Các mặt vị trí, địa hình, dân cư của địa điểm được chọn phải có thế tiến lui đều thuận lợi.

- Phải bảo đảm được cung cập hậu cần thường xuyên, lâu dài.

Hai là: Công tác phòng thủ căn cứ phải tuân thủ các nguyên tắc:

- Phòng thủ từ xa.

- Trong nội bộ khu vực căn cứ, việc phòng thủ càng phải thường trực, chặt chẽ, từ việc bố trí các khu vực đóng quân, tổ chức lực lượng bảo vệ, xây dựng nơi ăn, ở... đến các quy định bảo mật.

- Phải nắm chắc địch, phán đoán trước được tình hình, đồng thời luôn luôn chuẩn bị trước các căn cứ dự phòng, khi cần có thể di chuyển đến ngay.

- Quán triệt tư tưởng tiến công trong công tác phòng thủ và chiến đấu bảo vệ căn cứ.

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau, vùng đất chiến khu Đồng Bò trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chắc chắn còn giữ một vai trò quan trọng. Đồng thời, những điều nhìn lại, tổng kết và tái hiện lịch sử quá trình xây dựng và phát triển, phát huy hiệu lực vùng căn cứ đó không chỉ có ý nghĩa lớn trong giáo dục truyền thống cho thế hệ hiện nay, mai sau mà còn đúc rút nhiều kinh nghiệm, tìm ra những vấn đề có ý nghĩa lý luận quân sự, từ đó góp phần đề ra chính sách xây dựng nền quốc phòng toàn dân.


(1) NXB Sự Thật. Hà Nội 1970. trang 89-90


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:49:24 pm
ĐỒNG BÒ NGÀY NAY

Mới đó mà đã vừa trọn một phần tư thế kỷ qua đi, kể từ những ngày lịch sử tháng tư năm 1975, khi những cán bộ, chiến sĩ cuối cùng rời chiến khu Đồng Bò, cùng với đoàn quân giải phóng tiến về giải phóng hoàn toàn Nha Trang, Khánh Hòa, góp vào chiến công chung của cả nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Lịch sử đã sang trang mới. Tiếp theo Cách mạng Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ kéo dài suốt 30 năm đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Giang sơn từ nay thu về một mối, đất nước sạch bóng quân thù, nước Việt Nam thống nhất bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Căn cứ cách mạng Đồng Bò”, “Chiến khu Đồng Bò”, hay “Mật khu Đá Hang” theo cách gọi của địch giờ đây đã thành một trong những khu di tích lịch sử và cách mạng đáng tự hào nhất của Nha Trang và tỉnh Khánh Hòa. Hiếm có một chiến khu cách mạng nào với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở tưởng như giữa chốn rừng sâu, núi thẳm nhưng lại nằm sát ngay một thành phố du lịch, chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 5 đến 6 kilômét đường chim bay. Và đến nay mặc dù bị nạn phá rừng nghiêm trọng, cảnh quan ngày xưa nay đã đổi thay rất nhiều nhưng phần nào vẫn còn giữ được những dấu tích chủ yếu của những ngày kháng chiến gian khổ, anh hùng.

Một hệ thống hang động liên hoàn hoặc biệt lập được tạo hóa sắp xếp như dành sẵn cho một tập đoàn cứ điểm kiên cố, có sức chứa hàng trăm, hàng ngàn người rất thuận lợi, độc đáo. Những lối mòn chênh vênh trên lưng núi, những cây gỗ lớn dùng làm cột chống hay bắc qua khe đá cho người vượt qua, có những chỗ mòn vẹt do dấu chân. Những sạp tre, gỗ đơn sơ làm giường nằm kín đáo trong những gộp đá sâu, rộng như một “hội trường”, có sức chứa hàng trăm người dự họp hay xem biểu diễn văn nghệ. Những phiến đá phẳng lì nguyên khối hay đơn lẻ có thể tận dụng làm bàn viết, bàn ăn, ghế ngồi nằm rải rác. Những “cối giã gạo” thiên nhiên, những đoạn lồ ô nối nhau dùng làm đường ống dẫn nước từ khe suối vào hang còn nằm rải rác đây đó. Những vệt khói đậm nhạt mà thời gian chưa thể xóa mờ trên vách đá ở gộp “nuôi quân” như còn tỏa mùi thơm và hơi ấm... Còn nữa, chắc chắn trong nhiều kẽ đá, khe sâu của những gộp đá lặng thầm của lòng núi kia vẫn còn bí mật cất giữ nhiều hiện vật vô giá khác của lịch sử: một cuốn sổ ghi chép, những trang nhật ký, một đoạn văn, bài thơ, những bức thư của người thân, một mảnh vải dù, một tấm khăn thêu dở, một kỷ vật của tình yêu và cuộc sống được gói kín nhiều lần trong những mảnh nylông, túi nhựa, lọ đựng thuốc... mà chủ nhân của nó đã đi xa chưa có dịp trở về tìm lại, hoặc đã vĩnh viễn nằm lại ở một mảnh đất xa xôi nào của Tổ quốc...

Qua nhiều lần khảo sát, thăm dò lại khu di tích, cán bộ, nhân viên của Bảo tàng Nha Trang trong những năm trước đây và Bảo tàng Khánh Hòa trong nhưng năm gần đây vẫn tiếp tục phát hiện, sưu tầm thêm được nhiều hiện vật quý, trong đó có cả cây súng, những viên đạn được cất giữ khá cẩn thận, chỉ cần bỏ đi lớp mỡ bảo quản, lau chùi vẫn còn có thể sử dụng tốt.

Những cuộc hành quân “tiếp bước cha anh”, “về nguồn” của những lớp tuổi trẻ hôm nay đến với chiến khu Đồng Bò, một “bảo tàng sống” còn nóng hổi nhiều dấu tích một thời gian khổ, hào hùng của cha anh đi trước luôn là những hoạt động bổ ích, mang lại những ấn tượng và bài học khó quên đối với họ.

Mấy năm gần đây, vào những ngày kỷ niệm lớn, không chỉ có thanh thiếu niên, thành phố còn tổ chức cho những đại biểu là cán bộ lão thành, từng sống và chiến đấu ở Đồng Bò về thăm lại vùng chiến khu năm xưa để cùng với lớp trẻ ôn lại, hiểu và yêu thêm từng gộp đá, bụi cây, khe suối nơi này để cùng nhau gìn giữ, bảo vệ và phát huy truyền thống anh hùng vào công cuộc đổi mới hôm nay.

Nếu những gì thuộc di tích lịch sử và cách mạng của chiến khu Đồng Bò năm xưa luôn được quan tâm gìn giữ, bảo tồn, hạn chế đến mức tối đa những tác động của khí hậu, thời gian và các tác động khác của con người có thể làm thay đổi, biến dạng hoặc mất đi, thì ở tầm rộng hơn của cả vùng đất thuộc khu Đồng Bò từ ngày giải phóng đến nay đã có nhiều thay đổi lớn lao. Ngay sau ngày giải phóng 1975, một khu kinh tế mới của thành phố Nha Trang đã được xây dựng ở đây. Những người dân thành phố trước đây sống lệ thuộc vào nền kinh tế chắp vá, què quặt của chủ nghĩa thực dân mới, chủ yếu phục vụ cho bộ máy chiến tranh, nay không có công ăn việc làm; Những người dân từ nhiều vùng đất khác di tản vào, nay không có điều kiện trở về quê cũ; Những người tình nguyện bỏ những nghề nghiệp bấp bênh từng làm trước đây, nay muốn có cuộc sống lao động sản xuất ổn định, cả những cán bộ chiến sĩ và nhân dân tự nguyện đến đây góp phần xây dựng xã hội trong thời kỳ mới... đã trở thành những cư dân đầu tiên của khu kinh tế mới. Qua những khó khăn, thử thách ban đầu, vượt lên những hạn chế mang tính lịch sử, những ấu trĩ, giản đơn, chủ quan duy ý chí cùng hàng loạt những tác động tiêu cực, những trở ngại, ràng buộc không đáng có, khu kinh tế mới Đồng Bò từng bước ổn định và phát triển, là một mô hình xây dựng khu kinh tế mới tại chỗ thành công ở thành phố Nha Trang.

Từ khu kinh tế mới này, tháng 6 năm 1978, Chính phủ đã có quyết định cho phép thành lập một đơn vị hành chính mới lấy tên là xã Phước Đồng.

Với diện tích tự nhiên trên 7.500 hécta, dân số hiện nay là 5.675 người, bao gồm 4 thôn, cơ cấu kinh tế của xã được xác định là: nông - lâm - ngư nghiệp và du lịch. Xã Phước Đồng tuy còn nhiều khó khăn nhưng đã có bước phát triển nhanh chóng. Được sự quan tâm của Thành phố, Phước Đồng đã có sự đầu tư toàn diện những cơ sở hạ tầng ban đầu như đường giao thông, trạm xá, trường học, công trình thủy lợi và thủy điện nhỏ. Thành ủy Nha Trang đã có Nghị quyết số 09/NQ-TƯ ngày 24/7/1985 thể hiện quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân Nha Trang trong việc xây dựng một xã Phước Đồng giàu đẹp, nếp sống văn minh, nhanh chóng tiến kịp các xã ngoại thành khác.

Năm 1997, cầu Bình Tân, một cây cầu mới bắc qua dòng sông Tắc, nối khu vực nội thành với vùng đất mới được khai phá để xây dựng làng cá Hòn Rớ và khu công nghiệp hải sản tương lai của thành phố. Đây thực sự là một tin vui lớn với nhân dân thành phố Nha Trang, đặc biệt là với người dân Phước Đồng. Làng cá Hòn Rớ với dự toán kinh phí xây dựng gần 40 tỷ đồng, diện tích quy hoạch khoảng 30 hécta nằm phía Đông xã Phước Đồng là một trong những mô hình mới về làng nghề thủy sản, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế miền biển trong thời kỳ cả nước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số dân ban đầu của làng cá chủ yếu từ những hộ ngư dân được giải tỏa từ những tụ điểm dân cư làm nghề cá đã quá đông đúc, chật chội, gây ô nhiễm môi trường và khó khăn cho đời sống ngư dân ở khu vực Xóm Cồn, nay được tạo điều kiện di dời về. Khu Hòn Rớ được xây dựng thành 2 cụm: một dành cho khu dân cư gồm những căn nhà ở của các hộ gia đình cùng các công trình phục vụ công cộng được xây dựng theo một quy hoạch hợp lý nhất; Cụm còn lại dành cho các công trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thủy sản. Bến đậu ở đây có khả năng chứa 1.200 tàu thuyền đánh cá, có thể tiếp nhận được tàu 150 tấn.

Dự án làng cá và khu công nghiệp hải sản tương lai của thành phố được triển khai xây dựng ở Hòn Rớ thật sự tạo cho Phước Đồng và cả vùng đất ven biển phía Nam thành phố một sức bật mới để có thể phát huy tiềm năng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, điều chỉnh, phân bổ lại địa bàn dân cư để đáp ứng yêu cầu mở rộng thành phố Nha Trang, phát triển mạnh mẽ hơn nữa hai ngành kinh tế quan trọng của thành phố là hải sản và du lịch theo mục tiêu chiến lược kinh tế của Nha Trang từ nay đến năm 2010.

Cùng với việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng để sớm hình thành làng cá và khu công nghiệp hải sản Hòn Rớ, tháng 8/1999 vừa qua, Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã chấp nhận cho lập dự án đầu tư xây dựng khu du lịch Sông Lô theo hướng phát triển chủ yếu loại hình du lịch sinh thái như tắm biển, leo núi, các khu vui chơi, giải trí, nhà hàng, khách sạn...

Trước đó, trong năm 1998, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra quyết định về việc khoanh vùng và bảo vệ một số khu vực tại khu di tích lịch sử - cách mạng Đồng Bò, đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh các thủ tục đề nghị Bộ Văn hóa thông tin công nhận việc xếp hạng chiến khu Đồng Bò là di tích cấp quốc gia.

Năm tháng sẽ qua đi, Nha Trang cùng cả tỉnh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ ngày càng thêm phát triển, đổi mới theo hướng “đàng hoàng hơn, to dẹp hơn”; Nhưng những gi là di tích lịch sử - cách mạng của chiến khu Đồng Bò mãi mãi là tài sản quý, được trân trọng, gìn giữ không chỉ cho hôm nay mà còn cho muôn đời con cháu mai sau. Bởi cùng một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ những hiện vật, dấu tích của cách mạng và kháng chiến được lưu giữ, còn có cả những giá trị phi vật thể lớn lao, những bài học cụ thể, sinh động về truyền thống anh hùng, sự thông minh sáng tạo cùng ý chí sắt đá bảo vệ tự do, độc lập cho quê hương, đất nước của lớp lớp cha anh nối tiếp nhau tạo nên với bao mồ hôi, xương máu.

Chiến khu Đồng Bò mãi mãi là một điểm sáng tự hào trong lịch sử và đời sống của người dân Nha Trang và tỉnh Khánh Hòa.

Không chỉ ở giá trị lịch sử, văn hóa, phát triển kinh tế trước mắt và lâu dài, chiến khu Đồng Bò vẫn có một vị trí và vai trò đặc biệt trong bảo đảm an ninh quốc phòng cho Nha Trang và cả tỉnh với những ưu thế riêng mà ít có nơi nào sánh được.


Tiêu đề: Chiến khu Đồng Bò
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2020, 07:56:23 pm
(https://i.imgur.com/B8mamrE.jpg)

(https://i.imgur.com/FSBYPEz.jpg)

Toàn cảnh vùng gộp Dốc Gáo

(https://i.imgur.com/JHPom7A.jpg)

Gộp Thị ủy ở vùng gộp Dốc Gáo

(https://i.imgur.com/5uEwDKc.jpg)

Gộp dưới - khu vực gộp Leo Dây

(https://i.imgur.com/n6E0yXu.jpg)

(https://i.imgur.com/YYUW6Ca.jpg)

Vùng gộp Mậu Thân (còn gọi là gộp Liên Huyện Thị)

(https://i.imgur.com/KakrclX.jpg)

Quả bom địch ở vùng gộp Suối Lùng

(https://i.imgur.com/aT6TfDv.jpg)

Sạp ở vùng gộp Suối Lùng

(https://i.imgur.com/Cxo480Z.jpg)

Trạm quan sát của cơ quan Liên Huyện Thị ủy ở vùng gộp Suối Lùng

(https://i.imgur.com/sCeUWSA.jpg)

Giã gạo ở chiến khu Đồng Bò

(https://i.imgur.com/4wNC3kN.jpg)

Về thăm lại chiến khu xưa