Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 06 Tháng Tư, 2020, 08:36:15 am



Tiêu đề: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Tư, 2020, 08:36:15 am
          
        - Tên sách : Ký ức trời đêm

        - Tác giả : Nguyễn Công Huy (tức thành viên phicôngtiêpkích)

        - Nhà xuất bản Hồng Đức

        - Số hóa : Giangtvx

        - Năm xuất bản : 2020

        - Các tác phẩm khác của Nguyễn Công Huy đã có trên diễn đàn:  

               + Tôi từng là phi công tiêm kích https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30100.0

               + Vũ Xuân Thiều - Phi công cảm tử https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30146.0

               + Thanh kiếm bầu trời https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30148.0

               + Chiến mã trên không https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30157.0

               + Người tìm chìa khóa vàng https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30164.0

               + Đi xa ngoảnh lại https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30171.0

               + 10/5/1972 Ngày dài không chiến https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30217.0

               + Bay vào vũ trụ https://www.quansuvn.net/index.php?topic=31379.0

               + Nghịch lý thế kỷ XX https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30163.60

        - Sách do Nguyễn Công Huy dịch đã có trên diễn đàn :

               + Tiêm kích sống bằng chiến trận https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30154.0

               + Những phi đội bay về phía tây https://www.quansuvn.net/index.php?topic=30162.0

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23172;image)
        


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Tư, 2020, 08:04:45 pm
        
         
Kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các phi công đã anh dũng hy sinh cho bầu trời đêm được yên bình.
       
LỜI ĐẦU SÁCH THAY CHO LỜI MỞ

        Trong biên chế của Không quân Nhân dân Việt Nam, lực lượng bay đêm, đánh đêm thuộc loại ít hơn cả. Các trận đánh về ban đêm cũng diễn ra không nhiều. Hoạt động của các phi công bay đêm lặng lẽ giống như những chiến sĩ đặc công trên trời đêm, nhưng với lực lượng mỏng như vậy, những trận đánh ít như vậy, chiến công của họ không hề nhỏ. Tính chung toàn lực lượng phi công tiêm kích bay đêm trên loại máy bay MiG-21 trong giai đoạn từ tháng 2 năm 1967 đến tháng 12 năm 1972 đã có 16 phi công bắn rơi máy bay Mỹ (gồm 12 chiếc F-4, 1 chiếc F-8, 4 chiếc F-105, 1 chiếc RB-66, 1 chiếc OV-10, 8 chiếc KNL, 2 chiếc B-52) và bắn bị thương 1 chiếc B-52.

        Đại đội 5 (sau này đổi phiên hiệu là Phi đội 5) bay đêm thuộc biên chế của Trung đoàn Không quân 921 là nòng cốt của lực lượng bay đêm, đánh đêm trong những tháng năm ấy.

        Tuy trên danh nghĩa bay đêm, đánh đêm nhưng các phi công thuộc “họ hàng nhà Vạc” này vẫn tham gia trực ban chiến đấu về ban ngày, vẫn lao vào những trận không chiến về ban ngày cùng các lực lượng bay ngày của các Đại đội bay khác trong Trung đoàn và cũng đã lập không ít chiến công.

        Trong điều kiện sân bay, đường băng bị Không quân Mỹ đánh phá liên tục, nhiều khi không còn hình dáng nữa cùng với những hố bom, hố đạn chi chít và bom nổ chậm vẫn còn nằm chờ ở khắp nơi, việc cất hạ cánh về ban ngày gặp khó khăn một thì vào ban đêm gặp khó khăn gấp mười. Các phi công của Đại đội 5 bay đêm đã vượt hết thảy những khó khăn, trở ngại ấy, xuất kích chiến đấu, trực tiếp đi bảo vệ giao thông vận tải trên tuyến Đường 559, trong đó chủ yếu tìm diệt máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ.

        Đại đội trưởng Đinh Tôn, Đại đội phó Hoàng Biểu cùng các phi công Phạm Văn Mạo, Trần Cung, Đặng Xây, Vũ Đình Rạng, Trần Thông Hào, Vũ Xuân Thiều, Nguyễn Ngọc Thiên... liên tục trực ban chiến đấu ở các sân bay cơ động, sân bay dã chiến để sẵn sàng làm nhiệm vụ.

        Đặc biệt trong năm 1972, nhất là trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, các phi công bay đêm đã xuất kích hàng chục lần đánh B-52, bảo vệ miền Bắc và Thủ đô Hà Nội trong điều kiện thời tiết cực kỳ xấu và mọi sân bay của ta đều bị bom đạn Mỹ đánh phá hỏng.Những chuyến bay trong những ngày đêm này đã trở thành những chuyến bay cảm tử. Các phi công bay đêm, đánh đêm đã thể hiện ý chí quyết thắng và lòng dũng cảm vô song cùng sự hy sinh quên mình vì chiến thắng chung.

        Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Đại đội 5 (Phi đội 5) và 7 phi công bay đêm của lực lượng bay đêm, đánh đêm trên loại máy bay MiG-21 là: Phạm Tuân, Đinh Tôn, Vũ Xuân Thiều, Hà Văn Chúc, Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Đăng Kính, Nguyễn Văn Minh.

        Đặc biệt, trong lực lượng bay đêm, đánh đêm, có Phạm Tuân là phi công vũ trụ đầu tiên của nước ta và của Châu Á, cũng là người được phong danh hiệu 3 lần Anh hùng.

        Nhiều phi công khác cũng đã được tặng thưởng Huân chương Quân công và Huân chương chiến công vì lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu.

        Đấy là những thành tích không hề nhỏ của Đại đội 5 đã đóng góp vào thắng lợi chung, vào những trang sử vẻ vang, hào hùng của Quân chủng Phòng không - Không quân và của Đất nước.

        Tuy vậy, việc hoạt động và chiến đấu của lực lượng bay đêm ít được nhắc đến.

        Có lẽ từ trước tới giờ, nhiều người vẫn chỉ quan tâm đến chuyện bắn rơi được nhiều hay ít máy bay để đánh giá thành tích, đánh giá kết quả của trận đánh mà quên mất rằng nhiệm vụ chính của trận đánh là gì và cũng chưa hiểu hết chức năng, nhiệm vụ của phi công tiêm kích.

        Phi công tiêm kích có thể thực hiện được nhiều nhiệm vụ như: đánh chặn, đánh các mục tiêu mặt đất, mặt nước, bay trinh sát... tùy theo yêu cầu từng giai đoạn, nhưng nhiệm vụ chính vẫn là tập trung vào việc tiêu diệt và phá tan đội hình các máy bay cường kích, máy bay ném bom, bẻ gãy các đợt đánh phá của Không quân địch, bảo vệ các mục tiêu dưới mặt đất.

        Nếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, vừa bảo vệ được mục tiêu được giao lại vừa bắn rơi máy bay địch thì chiến công ấy tăng gấp bội phần, nhưng nếu chỉ chú trọng vào việc bắn rơi máy bay địch mà để cho địch đánh phá tan tành mục tiêu mình phải bảo vệ thì việc bắn rơi máy bay ấy giá trị cũng không cao. Tuy không bắn hạ được máy bay địch, nhưng không để máy bay địch bén mảng đến được mục tiêu; không một quả bom, một viên đạn nào rơi xuống mục tiêu thì đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người phi công tiêm kích luôn sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ ấy.

        Để đưa được một máy bay chiến đấu lên trời làm nhiệm vụ phải có rất nhiều thành phần tham gia, nhất là khi đánh đêm, lực lượng này còn nhiều hơn, phức tạp hơn. Trong khuôn khổ cuốn sách này, tác giả không thể đề cập đến tất cả các thành phần ấy được. Chỉ xin thay mặt các phi công bay đêm, đánh đêm chân thành cám ơn tất cả các thành phần thuộc các ngành: Hậu Cần, Thông Tin, Tham Mưu, Huấn Luyện, Chính Trị, Kỹ Thuật, đặc biệt là ngành Kỹ Thuật bởi không có những bàn tay của các thợ máy, của các bộ môn như: cơ giới, đặc thiết, quân giới... thì các phi công không thế cất cánh được. Họ đã chăm sóc máy bay như người mẹ chăm sóc con mình, cũng lại như người bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhân của mình. Biết bao người đã thức trắng đêm, trắng ngày để sửa chữa máy bay, không để một hỏng hóc dù là nhỏ nhất khi lên trời. Trước khi xuất kích, chúng tôi luôn được họ là những người cuối cùng động viên, khích lệ để lao vào cuộc chiến sinh tử. Họ cũng là những người đầu tiên đón chào chúng tôi chiến thắng trở về và cũng là những người cảm nhận nỗi đau sâu sắc nhất khi chúng tôi và chiếc MiG thân yêu của họ không trở về. Giữa chúng tôi và lực lượng kỹ thuật đã có mối quan hệ thật đặc biệt thân thiết. Chúng tôi luôn ghi nhớ những chiến công thầm lặng mà vô giá của đội ngũ kỹ thuật máy bay.

        Tác giả xin chân thành cám ơn các thành phần trong kíp trực ở các sở chỉ huy: các chỉ huy qua các thời kỳ, các sĩ quan dẫn đường, tác chiến, quân báo, thông tin, khí tượng, tiêu đồ xa, tiêu đồ gần... đã giúp cho các phi công bay đêm hoàn thành nhiệm vụ, lập nên những chiến công vẻ vang.

        Tác giả rất trân quý những ý kiến, những nhận xét, đánh giá của các chỉ huy lãnh đạo: Trung tướng Chu Duy Kính, Trung tướng Trần Hanh, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và Đại tá Nguyễn Văn Chuyên, Đại tá Tạ Quốc Hưng, cùng Trung tá Dương Công Danh, Trung tá Lại Văn Hiện... đối với lực lượng bay đêm, đánh đêm.

        Tác giả cũng không thể không nhắc tới các anh: Nguyễn Văn Quang, Vũ Đình Rạng, Trần Văn Năm, Hoàng Biểu, Nguyễn Khánh Duy, Nguyễn Đức Chiến, Lưu Văn Hĩnh, Bùi Doãn Độ, Bùi Văn Cơ, Nguyễn Sỹ Hưng... và xin gửi tới các anh lời cám ơn vì đã cung cấp cho nhiều thông tin quý báu.

        Tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn tối các đồng đội, bạn hữu đã động viên tác giả trong quá trình biên soạn cuôn sách này.

        Tác giả cũng muốn qua cuốn sách này đề cập và giới thiệu cùng các bạn đọc để các bạn đọc hiểu thêm về lực lượng bay đêm, đánh đêm trên loại máy bay MiG-21.

        Trong quá trình biên soạn, có thể còn có những sai sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, phê bình để tác giả chỉnh sửa cho hoàn chỉnh.

        Trân trọng cám ơn!

Tác giả.        


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Tư, 2020, 01:21:24 pm
       
(https://scontent.fhph1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/92463592_628598387870045_1983829013017133056_n.jpg?_nc_cat=104&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=JK9cDbdnorQAX_HkEmC&_nc_ht=scontent.fhph1-1.fna&oh=36d74582e61221d052b4a2b9ad1831bc&oe=5EB3FDF4)

(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/92460704_628598381203379_7748997935521595392_n.jpg?_nc_cat=105&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=lFJezqT4S54AX_tZHxQ&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=718a105966c51329c9f6940e92e0ea4d&oe=5EB3159D)

CHUYỆN CŨ

        Có lẽ, phải lật ngược lại những trang sử về những thòi gian xa xưa một chút.

        Trong tất cả các biên niên sử của Không quân các nước trên thế giới, tôi thấy hầu như ít nhắc đến những trận không chiến về ban đêm. Chắc hẳn, vào những thời gian ấy, các loại máy bay tiêm kích chưa đủ tính năng đi đánh chặn về ban đêm nên ít có những trận chiến về đêm. Chỉ tới giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, sau khi loại máy bay Metxersmit-110 (Me-110) của Đức ra đời, có lắp đặt hệ thống ra-đa trên máy bay thì bấy giờ mới có những cuộc đánh chặn về ban đêm, nhưng thực ra số lượng cũng không nhiều.

        Với Không quân nhân dân Việt Nam, vào những năm 1963 - 1964, hoạt động khiêu khích, phá hoại của Mỹ - Ngụy trên miền Bắc Việt Nam chủ yếu là dùng máy bay trinh sát, thả biệt kích, rải truyền đơn, thả “hàng tâm lí”... Lực lượng vũ trang các địa phương, nòng cốt là bộ đội Phòng không đã một số lần bắn rơi máy bay, bắn chìm, bắn cháy tàu biệt kích địch.

        Sau một thời gian cùng cơ quan Tham mưu nghiên cứu quy luật hoạt động của máy bay biệt kích địch, đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng, nguyên Cục trưởng Cục Không quân đã đề xuất và được Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân chủng nhất trí chủ trương sử dụng Không quân đánh máy bay địch. Các kế hoạch tác chiến và phương pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ đã được xây dựng từng bước vững chắc.

        Vậy là, kể từ đây dần dà đã có những trận chiến đấu về ban đêm để mở ra một trang sử mới cho truyền thông của Không quân nhân dân Việt Nam.

        Nếu nói về đánh đêm, không chiến ban đêm thì không thể không nhắc đến trận đánh diễn ra vào đêm 15, rạng sáng ngày 16 tháng 2 năm 1964 của tổ bay với các phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước bay trên loại máy bay T-28 đã bắn rơi chiếc C-123K (chiếc máy bay vận tải loại nhỏ dùng để thả biệt kích).

        Chiếc máy bay khu trục T-28 mang tên “Du mục” do Mỹ chế tạo năm 1950. Khi trang bị cho lực lượng Không quân Hoàng gia Lào (vào năm 1961), nó đã được cải tiến, lắp thêm 2 khẩu trọng liên 12,7 li. Chiếc T-28 này do phi công Bun Khăm điều khiển đã bay sang phía Việt Nam đầu hàng, hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai vào trưa ngày 16 tháng 9 năm 1963.

        Quân chủng Không quân tiếp nhận chiếc máy bay này và giao cho lực lượng kỹ thuật của Quân chủng tìm hiểu tính năng và khôi phục nó để có thể sử dụng nó vào nhiệm vụ phục kích, chặn đánh các máy bay của chính quyền Việt Nam Cộng hòa thường thả biệt kích xuống khu vực rừng núi Tây Bắc của ta trong giai đoạn ấy.

        Phòng kỹ thuật máy bay đã cử một số thợ giỏi trực tiếp cùng cán bộ kỹ thuật của xưởng A-33 nghiên cứu, kiểm tra và tiến hành các công tác chuẩn bị cần thiết. Đồng chí Nguyễn Tuấn, thợ cơ giới trên không, có kinh nghiệm đã cùng tổ kỹ thuật động cơ, tháo toàn bộ động cơ máy bay, kiểm tra từng chiếc xi-lanh, vòng găng, nến điện, vòi phun xăng, máy nén, đo lại các tiêu chuẩn giãn cách... Đồng chí Nguyễn Bá Phúc, tổ trưởng đặc thiết cùng các thợ giỏi của tổ điện thay nhau trườn vào khoang máy bay đánh dấu và ghi vào trí nhớ từng cuốn dây điện, vẽ sơ đồ và kiểm tra mạng điện của máy bay...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Tư, 2020, 04:13:34 pm

        Sau những ngày lao động vất vả, chiếc máy bay T-28 này đã hoạt động bình thường.

        Hai phi công: Thượng úy Nguyễn Văn Ba và Trung úy Lê Tiến Phước đều là giáo viên bay trên loại máy bay Iak-18 của trường Hàng không, nhận nhiệm vụ nhanh chóng nắm vững kỹ thuật bay trên chiếc T-28 ấy.

        Công tác huấn luyện chuyển loại được tiến hành rất khẩn trương, với cường độ cao: từ học lí thuyết đến thực hành các bài bay cơ bản và ứng dụng chiến đấu ban ngày xong, lại chuyển sang bay đêm ngay.

        Giai đoạn đầu, hai anh được phi công Bun Khăm của Lào hướng dẫn.

        Sau một thời gian bay huấn luyện, khi đã nắm vững tính năng và điều khiển thành thạo chiếc T-28 thì phát sinh những khó khăn mới. Đó là một số linh kiện và lốp của chiếc T-28 này đã hết hạn sử dụng. May sao, bấy giờ lại có một chiếc T-28 của Không quân Vương quốc Thái Lan hạ cánh ở phía Tây Quảng Bình (không rõ lí do bỏ chạy sang Việt Nam hay bay hết dầu phải hạ cánh bắt buộc) rồi bỏ ở đó.

        Lực lượng kỹ thuật của Quân chủng đã vào Quảng Bình, tháo động cơ, tháo 2 cánh và chở chiếc T-28 ấy về sân bay Bạch Mai, lấy các linh kiện còn tốt để lắp cho chiếc T-28 của Không quân Hoàng gia Lào bấy giờ đã được đưa vào biên chế chiến đấu với số hiệu 963.

        Tháng 1 năm 1964, chiếc T-28 mang số hiệu 963 được trang bị 2 khẩu súng 12 li 7 với 200 viên đạn đã đưa vào trực ban chiến đấu.

        Lần xuất kích đầu tiên và những lần xuất kích sau đó, phi công ta có lần không phát hiện được mục tiêu, có lần phát hiện được nhưng lại không bám theo kịp, có lần tiếp cận tốt nhưng lại bắn không trúng...

        Vào giai đoạn này, Quân chủng chưa được trang bị loại ra-đa dẫn đường, chỉ có ra-đa cảnh giới nên việc dẫn dắt gặp nhiều khó khăn.

        Sau nhiều lần tổ chức rút kinh nghiệm giữa tổ bay cùng các thành phần chỉ huy, dẫn đường..., đã tìm ra được những vấn đề cần khắc phục trong khâu tổ chức dẫn dắt. Tất cả đã sẵn sàng cho những chuyên xuất kích tiếp theo.

        Đêm 15 tháng 2 năm 1964, vào lúc 23h30 phút, khi ra-đa vòng ngoài bắt được mục tiêu, sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho tổ bay vào cấp 1.

        1h07 phút sáng ngày 16 tháng 2 năm 1964, hai phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước trên chiếc máy bay T-28 số hiệu 963 nhận lệnh cất cánh.

        Đêm ấy là đêm trăng thượng tuần, mặt trăng trông mỏng như lá lúa, hắt ánh sáng mờ ảo lên muôn vật, nhưng thực tế, bầu trời vẫn còn tối lắm.

        Tổ bay nhận thông báo từ sở chỉ huy. Phi công Lê Tiến Phước ngồi buồng lái sau tập trung giữ tốt các số liệu dẫn bay. Phi công Nguyễn Văn Ba ngồi ở buồng lái trước tập trung quan sát.

        Khi đến cự li 500 mét, phi công Nguyễn Văn Ba phát hiện được hình dáng chiếc vận tải C-123K với 2 động cơ đang bay ở phía trước. Anh lập tức ấn nút lên đạn, xin vào công kích và nhanh chóng đưa chiếc T-28 vào vị trí công kích. Anh ấn cò liền hai loạt, hết 163 viên đạn, đến loạt thứ 3 thì súng bị tắc, nhưng hai anh kịp thấy chiêc C-123K đã phụt lửa, tròng trành, nghiêng về phía bên trái rồi rơi xuống rất nhanh ở khu vực gần biên giới Việt - Lào.

        Sở chỉ huy lệnh cho các anh quay về sân bay Gia Lâm hạ cánh.

        Sau này, một tên biệt kích bị ta bắt đã khai: toàn bộ phi hành đoàn trên máy bay C-123K của Không lực Việt Nam Cộng hòa và toán biệt kích đều tử nạn.

        Đây là chiến thắng đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam, đã mưu trí, sáng tạo, sử dụng máy bay T-28 của Mỹ tiêu diệt máy bay C-123K của Mỹ làm nhiệm vụ thả biệt kích vào ban đêm, mở đầu cho những chiến thắng liên tiếp về sau này.

        Gần 2 năm sau, đêm 3 tháng 2 năm 1966, phi công Lâm Văn Lích bay trên loại máy bay MiG-17 đã bắn rơi 2 chiếc AD-6 trong đêm ấy.

        MiG-17 là loại máy bay tiêm kích có tốc độ xấp xỉ âm thanh đầu tiên của Không quân Xô-viết, được sản xuất để thay thế cho loại MiG-15 và đưa vào sử dụng từ tháng 10 năm 1952 nhưng nó không kịp tham chiến trong cuộc chiến tranh Triều Tiên.

        MiG-17 có các phiên bản: MiG-17A, MiG-17F, MiG-17PR. Nó được trang bị 1 khẩu pháo 37 li và 2 khẩu 23 li.

        MiG-17PF là loại được lắp đặt ra-đa bắt mục tiêu trên không, nhằm phục vụ cho nhiệm vụ đánh đêm. Nó cũng được lắp đặt hệ thống tăng lực, vì vậy, lực đẩy của động cơ tăng lên đáng kể, có thể cơ động và tăng tốc tốt hơn trong không chiến.

        Phi công Lâm Văn Lích trực ban chiến đấu đêm mồng 3 tháng 2.

        Sau khi hệ thống ra-đa phát hiện được các máy bay AD-6 của Không quân Mỹ bay vào vùng trời Hòa Bình để đánh tuyến đường 15A, đoạn Suối Rút - Quan Hóa và đường 21A, đoạn Hòa Bình - Tân Lạc, sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho Lâm Văn Lích xuất kích chiến đấu.

        Chiếc MiG-17PF nhanh chóng lăn ra đường băng, bật tăng lực, xé gió lao vút vào khoảng không tĩnh mịch của một đêm mùa Đông.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Tư, 2020, 07:26:17 pm

        Phi công Lâm Văn Lích được dẫn ra phía Hòa Bình, lấy độ cao lên 3.000 mét, rồi lên tiếp đến 4.500 mét và vòng bám vào tốp máy bay Mỹ đang hoạt động ở khu vực Tân Lạc - Hòa Bình. Lúc này, ra-đa trên máy bay chưa được mở để tránh sự phát hiện của đối phương. Vì không nhìn thấy nhau, tại vùng tròi phía Tây Nam Tân Lạc, địch vòng đi vòng lại, thành thử máy bay ta rơi vào thế đối đầu. Tới khi chúng bay đến phía Tây Bắc Tân Lạc, lại tiếp tục vòng đi vòng lại lần nữa, vậy là máy bay ta đang từ thế ngang bằng xông ngay lên phía trước, sở chỉ huy quyết định cho Lâm Văn Lích vòng trái một vòng và đã lật ngược được tình thế, máy bay ta bám vào phía sau tốp thứ nhất. Khi bay ngang khu vực Mộc Châu, phi công Lâm Văn Lích bật ra-đa trên máy bay và phát hiện được ngay máy bay địch đang ở phía trước, cách 8 km. Anh bám sát đến cự li 800 mét, tăng tốc độ và dự định đến cự li 400 mét sẽ nổ súng.

        Bất ngờ, mục tiêu trên màn hình bỗng chao đảo và biến mất.

        Có thể, đây là chuyến đánh đêm đầu tiên nên kinh nghiệm điều khiển qua màn hình ra-đa chưa có. Cũng có thể vì 2 máy bay địch bay sát nhau nên tính năng của ra-đa trên máy bay không cho phép bắt chính xác từng chiếc được. Mà cũng có thể, đúng vào thời điểm ấy, phi công địch lại cơ động đột ngột theo hướng và độ cao, hoặc là do nhiễu của địch...

        Phi công Lâm Văn Lích quyết định chuyển sang quan sát bằng mắt thường. Khi mắt vừa rời khỏi màn hình ra-đa, hướng ra ngoài bầu tròi đêm thì anh thấy máy bay địch đen sì đang bay ngay sát phía trước, phía dưới cánh MiG-17 của anh một chút. Anh liền giảm tốc độ bay, cho máy bay mình lao xuống thấp, chiếm vị trí công kích. Một sự may mắn tình cờ đã xảy ra: đúng lúc ấy các máy bay địch lại bật đèn nhấp nháy liên lạc với nhau. Bấy giờ anh Lâm Văn Lích mới biết phía trước máy bay mình không phải chỉ có 1 chiếc mà là 2 chiếc máy bay địch. Anh bình tĩnh điều khiển máy bay của mình, lấy điểm ngắm vào giữa 2 đèn của cánh đuôi chiếc đang bay bên trái và xiết cò. Một luồng đạn dài lao thẳng vào máy bay đối phương. Liếc sang phía bên phải, anh thấy thằng bay bên phải đang tìm cách chạy trốn nhưng lại quên tắt đèn cánh. Anh áp theo, bám sát và nện tiếp một loạt đạn dài. Luồng đạn găm thẳng vào thằng địch. Nó hết đường trốn chạy.

        Anh được Sở chỉ huy dẫn về hạ cánh tại sân bay Đa Phúc.

        Đây là 2 chiếc AD-6 đầu tiên của Hải quân Mỹ bị MiG-17 bắn hạ trong trận không chiến ban đêm.

        Và đấy cũng chính là những cột mốc lịch sử liên quan đến hoạt động đêm của Không quân nhân dân Việt Nam.

        Khi đoàn bay MiG-21 khóa 3 của chúng tôi tốt nghiệp về nước vào cuối tháng 4 năm 1968 thì tình hình chiến sự đã có nhiều thay đổi.

        Năm ấy là năm sẽ diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống lần thứ 37 ở Mỹ.

        Ngay từ mồng Một Tết Nguyên Đán năm 1968 (năm Mậu Thân), Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã đồng loạt tấn công 7 thành phố lớn khắp miền Nam Việt Nam và cũng trong năm 1968, vào ngày 31 tháng 3, Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố tạm ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Sau đó, dưới sức ép của giới quân sự, quyết định này đã mở rộng thành từ vĩ tuyến 19 trở ra. Đến ngày 31 tháng 10 năm 1968 thì Johnson lại phải tuyên bố chấm dứt chiến dịch oanh kích đường không lớn nhất trong lịch sử cận đại, đó là chiến dịch “Sấm rền” (Rolling Thunder). Tổng chi phí cho chiến dịch là con số khổng lồ nhưng hiệu quả thì thấp chưa từng thấy.

        Bất chấp các đợt đánh phá hủy diệt, miền Bắc Việt Nam vẫn đứng vững và cách mạng miền Nam vẫn lớn mạnh, còn chính quyền Mỹ thì ngày càng sa lầy về chiến lược, không tìm ra lối thoát mà báo chí phương Tây ví một cách văn vẻ là “không thấy chút ánh sáng nào phía cuối đường hầm”.

        Mỹ đã buộc phải tiến hành một loạt các điều chỉnh về chiến thuật trong lúc thay đổi các nhân sự cấp cao trong bộ máy chiến tranh, sẵn sàng cho những bước leo thang mới.

        Dự đoán sẽ cần có lực lượng bay đêm cho giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, cấp trên đã chỉ thị sớm thành lập Đại đội bay đêm.

        Cuối tháng 6 năm 1968, Trung đoàn Không quân 921 đã có cuộc chấn chỉnh lại tổ chức. Lực lượng phi công được biên chế thành 3 Đại đội bay: 2 Đại đội bay ngày và 1 Đại đội bay đêm. Hai Đại đội bay ngày mang phiên hiệu Đại đội 1 và Đại đội 3. Đại đội bay đêm là Đại đội 5 (sau này mang phiên hiệu Phi đội 5).

        (Thực ra, lực lượng phi công MiG-21 đánh đêm của Trung đoàn Không quân 921 đã được tổ chức, huấn luyện và trực ban chiến đấu từ tháng 2 năm 1967. Khi đó mới chỉ có 1 Đội gồm 3 phi công là Hà Văn Chúc (Đội trưởng), Hoàng Biểu và Nguyễn Văn Thuận, sau đó thêm Trung đoàn phó Phạm Ngọc Lan tham gia bay đêm và trực tiếp chỉ đạo về hay đêm.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Tư, 2020, 08:10:22 pm
 
        Đến đầu năm 1968, do yêu cầu nhiệm vụ, Đội hay đêm đã chuyển sang đánh ngày).

        Đại đội 5 khi ấy có: Đại đội trưởng Đinh Tôn, Đại đội phó Nguyễn Đăng Kính, Chính trị viên Phan Minh Thành, Chính trị viên phó Nguyễn Văn Thành và 3 Trung đội bay với 14 phi công tiêm kích MiG-21.

        Các cán bộ Đại đội và Trung đội của Đại đội 5 vào thời điểm thành lập Đại đội đều đã lập được thành tích bắn rơi máy bay Mỹ. Đại đội trưởng Đinh Tôn bắn rơi 2 chiếc không người lái (sau này còn bắn rơi thêm 2 chiếc khác nữa: 1 chiếc F-4 và 1 chiếc OV-10), Đại đội phó Nguyễn Đăng Kính đã bắn rơi 4 máy bay Mỹ (2 chiếc F-105, 1 chiếc EB-66, 1 chiếc F-4) và sau này bắn thêm 2 chiếc (1 chiếc F-4 và 1 chiếc không người lái), Trung đội trưởng Hoàng Biểu đã bắn rơi 1 F4 của Mỹ (sau này bắn thêm 1 chiếc không người lái), Trung đội trưởng Nguyễn Văn Minh bắn rơi 2 chiếc F-4 (bằng rốc-ket trong cùng 1 trận) và sau này bắn thêm 1 chiếc F-4 nữa, Trung đội trưởng Nguyễn Văn Thuận đã bắn rơi 2 chiếc (1 chiếc F-105 và 1 chiếc không người lái).

        Biên chế của các Trung đội bay như sau:

        Trung đội 1: Trung đội trưởng Hoàng Biểu

        Các Trung đội viên:

        - Phạm Văn Mạo

        - Đặng Xây

        - Nguyễn Văn Quang

        Trung đội 2: Trung đội trưởng Nguyễn Văn Minh Các Trung đội viên:

        - Trần Cung

        - Vũ Đình Rạng

        - Trần Thông Hào

        - Nguyễn Hồng Mỹ

        Trung đội 3: Trung đội trưởng Nguyễn Văn Thuận Các Trung đội viên:

        - Vũ Xuân Thiều

        - Nguyễn Cát A

        - Nguyễn Công Huy

        - Trần Ngọc Nhuận

        Nhiệm vụ của Đại đội 5 là huấn luyện bay đêm để tham gia trực ban chiến đấu ban đêm, đánh đêm là chủ yếu, tuy nhiên, vẫn phải tham gia trực ban chiến đấu ban ngày cùng với các lực lượng của Đại đội 1 và Đại đội 3.

        Nếu nói về quy trình đào tạo phi công bay đêm thì tôi có thể nói vắn tắt thế này: khi các phi công bay ngày đã nắm vững được kỹ thuật bay, thành thạo hay với các bài hay trong điều kiện thời tiết giản đơn và thời tiết phức tạp ban ngày rồi, bây giờ mới chọn lựa những phi công hay giỏi để chuyển sang huấn luyện hay đêm. Nhưng quy trình ấy không phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Vậy là phải “đốt cháy giai đoạn” hàng cách đưa ngay một số phi công bay ngày chuyển luôn sang bay đêm cho dù so sánh với những “tiêu chuẩn hàn lâm” thì chưa đạt yêu cầu.

        Lợi dụng thời gian ném bom hạn chế của Không quân Mỹ, các ban bay đêm được tổ chức tích cực nhằm nhanh chóng nâng cao trình độ cho đội hình của Đại đội. Chỉ trong một thời gian ngắn, được sự dìu dắt và thừa hưởng kinh nghiệm của các phi công lớp đàn anh, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân từng phi công trẻ, toàn bộ phi công của Đại đội 5 đã được rèn luyện, nâng cao tay nghề, tràn đầy quyết tâm sẵn sàng lao vào cuộc chiến.

        Trong giai đoạn này, Liên-xô cũng viện trơ cho Không quân Việt Nam 36 chiếc máy bay MiG-21 PFM (F-94) nên khí thế càng hăng hái.

        Loại máy bay MiG-21 có 4 thế hệ cả thảy. Thế hệ thứ nhất là các máy bay loại MiG 21F Thế hệ thứ hai là các máy bay MiG-21PF (trong đó có PFS và PFM. Thế hệ thứ ba là các máy bay MiG- 21 MF/MT/SMT/ST. Thế hệ thứ tư là các máy bay MiG-21 Bis.

        Loại MiG-21 PFM được chính thức được trang bị cho Không quân Liên-xô từ năm 1964, có lắp ra- đa sục sạo mọi thời tiết, vũ khí: trang bị 2 quả tên lửa đầu tự dẫn nhiệt R-3S hoặc 2 quả tên lửa điều khiển bằng ra-đa RS-2US.

        Các máy bay MiG-21 PFM đầu tiên được chuyên chở qua cảng Hải Phòng vào cuối năm 1967 và từ giữa năm 1968, MiG-21 PFM (F-94) đã trở thành loại máy bay tiêm kích chủ lực của Không quân Việt Nam.

        Trong số các phi công trẻ của Đại đội 5, sau này đã có nhiều người lập được chiến công trong chiến đấu và đã có những người được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Sau lứa phi công bay đêm đầu tiên của Đại đội 5, lực lượng phi công bay đêm được bổ sung liên tục vào các năm tiếp theo gồm các anh: Vũ Như Ngữ (mà sau này chẳng hiểu vì lí do gì trong các hồ sơ lại ghi là Vũ Văn Ngữ), Phạm Tuân, Trần Văn Năm, Đặng Vân Đình, Nguyễn Ngọc Thiên, Nguyễn Khánh Duy, Nguyễn Đức Chiến, Bùi Doãn Độ, Lưu Văn Hinh, Trần Anh Mỹ... rồi tiếp nữa là Tăng Nguyên Ân, Đoàn Thanh Cần, Nguyễn Văn Dương, Nguyễn Huy Đãng, Nguyễn Văn Đậu, Đinh Trọng Kháng, Ngô Đăng Khoa, Đoàn Duy Lưu, Nguyễn Văn Mịch, Nguyễn Văn Miên, Nguyễn Hồng Nga, Nguyễn Văn Phú, Vương Hữu Quý, Tạ Văn Sửa, Bùi Văn Tập, Bùi Quốc Tế, Nguyễn Khắc Thanh, Cao Văn Tiến, Lại Quốc Việt...

        Tất cả đều chuẩn bị đương đầu với lực lượng Không quân Mỹ trong chiến dịch Linebacker-2 với 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” và sẵn sàng tiếp tục tham gia chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử sau này...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Tư, 2020, 08:05:45 am

VÀI NÉT SINH HOẠT THƯỜNG NGÀY Ở KHU E.

        Một thời gian khá dài, tất cả các Đại đội bay ngày, bay đêm, Đại đội thợ máy, các cơ quan Tham Mưu, Chính trị, Huấn luyện, Hậu cần..., Tiểu đoàn máy bay ném bom T-16 (bay trên loại máy bay ném bom Il-28 của Liên-xô) và “Khu giao tế" - khu ở cho các chuyên gia bay của Liên-xô đều “trú ngụ” ở khu E thuộc huyện Sóc Sơn.

        Khu E là cái tên được đặt theo thứ tự của các khu vực với những chức năng khác nhau, như: khu A, khu B, khu C..., nơi các đơn vị của Trung đoàn đóng quân.

        Khu E là một thung lũng. Bao quanh đằng sau các khu nhà ở của Trung đoàn là các dãy núi, dãy đồi thuộc chân núi Tam Đảo. Phía trước mặt là hồ Đồng Quang với đập nước Đồng Quang cung cấp nước cho các thôn xã của huyện Sóc Sơn như Đông Lai, Quảng Hội...

        Khu E đã để lại nhiều kỷ niệm, nhiều nỗi nhớ, thậm chí nhiều mối tình chẳng thể phai mờ trong đời bay. Hầu như ai cũng biết đến những câu như:

Khu E, khu Ẻ, khu È
Hồ chắn trước mặt, núi đè sau lưng...

        hay là:

Khu E, khu Ẻ, khu È
Ngày thì huấn luyện, tối nghe giảng bình...

        Mọi hoạt động từ sinh hoạt đơn vị, học chính trị, mít tinh, phát động thi đua... đến chuẩn bị mặt đất, chuẩn bị bay rồi phong trào thể thao, văn nghệ, tăng gia sản xuất, đến các mối tình ở “chiêu đãi sở”... đều diễn ra ở nơi đây. Rất nhiều “sự kiện” đã xảy ra tại vùng thung lũng này, đã được ghi nhận trong nhiều tài liệu, văn bản, nhưng đặc biệt được các nhà thơ “bất đắc dĩ” ghi trên báo tường hoặc truyền miệng thì như một sự hiển nhiên, lưu lại mãi tận sau này.

        Một điều cũng lạ là hầu như ở đơn vị nào cũng có những bài thơ, bài vè sáng tác rất kịp thời khi có những “sự kiện” đột biến. Ví như, hồi ấy, để bớt gánh nặng cho nhân viên tiếp phẩm ngày ngày phải còng lưng đạp xe đạp thồ thực phẩm về, đơn vị đã mua một con ngựa kéo xe và chàng tiếp phẩm nghiễm nhiên trở thành xà-ích. Nhưng rồi một hôm không thấy ngựa đâu, chắc là bị dắt trộm. Thế là đủ các danh tính, các chức vụ, từ Trưởng ban hành chính đến cán bộ Tham mưu và cán bộ Trung đoàn... đều vào trong thơ hết:

Ôi thôi! Tòng mất ngựa rồi!
Làm cho ông Tỉnh đứng ngồi không yên
Ông Chiêu thì cứ than phiền:
“Mấy trăm đồng bạc là tiền vứt đi!...”

        Kịp thời nhất có lẽ là sự kiện khi chàng lính tiêu đồ Nguyễn Huy Tâm đạp xe đạp về đơn vị vào lúc tối, loạng quạng thế nào tới khúc vòng lại không vòng mà cứ cắm cúi lao thẳng. Thế là làm cái “rầm” rơi thẳng xuống dưới lòng con suối cạn. Tính từ mặt đường đến lòng suối, độ cao tới hơn 2 mét chứ ít ỏi gì. May mà không chết vì được cấp cứu kịp thời, nhưng những hòn đá dưới suối đã “chơi” cho một loạt răng.

        Không chỉ lưu lại một phần “bộ nhá” dưới lòng suối mà Tâm còn lưu lại những vần thơ trong lòng anh em:

Ngày Xuân con Én đưa thoi
Tham mưu thông báo mọi người gần xa:
Đúng đêm mồng Tám tháng Ba
Con Chiêu hốt hoảng kêu la om sòm
Thằng Tâm máu chảy đỏ mồm
Hường ơi! Cấp cứu! Sống còn gang tay!
Mọi người chạy đến như bay
Thằng Đoan to họng, kêu ngay Hậu cần
Xe cứu thương đến trước sân
Ông Hưng liền quát: “Còn chần chừ chi?
Ra ngay bệnh xá tức thì!...”

        Nhưng không thể “ra ngay bệnh xá tức thì” được vì mọi người còn phải chuẩn bị quần áo, tư trang, đặc biệt là tìm bàn chải đánh răng, thuốc đánh răng... Tất cả phải đủ trang bị tối thiểu cho một người đi nằm viện. Nhưng bệnh nhân làm gì còn răng mà phải lụi cụi tìm bàn chải đánh răng với kem đánh răng?

        Bài thơ còn dài nhưng hai câu kết đã thành “điểm nhấn” cho cả bài:

Chuyện đâu có chuyện nực cười
Lại đem bàn chải cho người không răng!!!...

        Sau này, khi đã về hưu, duyên số thế nào mà tôi lại được cùng sinh hoạt ở tổ 13 của Trung đoàn Không quân 921 với chàng tiêu đồ năm xưa. Khi gặp nhau, tôi tảng lờ như không biết có nhân vật chính của bài thơ đang ngồi ở đó, cứ đứng lên hắng giọng, đọc thật to: “Ngày Xuân con Én đưa thoi. Tham mưu thông báo mọi người gần xa...”. Tức thì nhiều người cười ồ lên vì đều biết “cái sự tích” ấy. Anh Tâm cũng cười. Nụ cười thật hiền!

        Các phong trào hoạt động thể thao thời ấy rất sôi động. Những cuộc thi đấu giao hữu thường xuyên được tổ chức, như: bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ... giữa các đơn vị bay ngày với đơn vị bay đêm rồi với các đơn vị khác nữa cùng ở trong khu E. Những cuộc tập luyện thì diễn ra đều đặn hàng ngày và cũng “đụng độ” nhau hàng ngày, nhất là trên sân bóng rổ hoặc bóng đá.. Ví như, trên sân bóng rổ, trong lúc “hỗn chiến”, sau lần tranh cướp bóng thì phi công Lê Toàn Thắng bị một cánh tay kềnh càng của cầu thủ đội bạn táng vào phần hốc mắt. Máu tóe ra. Mồ hôi cũng chảy ròng ròng. Thắng lấy tay lau mặt và thế là cả khuôn mặt đỏ lòm trông gớm chết. Tuy bị rách một vết phía lông mày, không nguy hiểm gì nhưng sau đó cũng có bài đánh dấu “sự kiện” ấy:

Ngày Xuân quả thụi đưa thoi
Thằng Lê Toàn Thắng suýt lòi con ngươi
Mặt ròng ròng những máu tươi
Hẩm hiu thay phận con người đẹp trai...

        Còn một bài nữa mà nhiều người hay nhắc đến, đấy là bài thuật lại bức thư của một cô tên là Đến, nhưng bị gọi chệch ra là Hến (sau khi xem vở kịch “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”):

                                     Rừng núi âm u
                                     Thày bu kính mến
                                     Tên con là Hến
                                     Nay đã đi xa
                                     Viết thư về nhà
                                     Thăm bà, thăm bác
                                     Nếu ai có thác
                                     Đánh điện cho con
                                     Giờ còn rỗi son
                                     Tranh thủ về được
                                     Mua một ít thuốc
                                     Cho bá, cho dì
                                     Ai bị bom bi
                                     Thì đi mà mổ
                                     Tuy rằng có khổ
                                     Nhưng sống được người
                                     Nhà còn mắm rươi
                                     Cho con một lít
                                     Đừng cho quá ít
                                     Đơn vị đông người
                                     Chúng bạn chê cười
                                     Rằng nhà kẹt xỉn...


        Thư thì còn dài, tôi chỉ xin trích đoạn ra đây thôi. Và cũng còn nhiều, rất nhiều bài thơ, bài vè khác phản ánh đủ kiểu, đủ màu sắc của các thành phần trong Trung đoàn nữa. Lấy một ví dụ, một chiến sĩ nam của Ban Tham mưu quen vói một chiến sĩ nữ của Ban Hậu cần. Chiến sĩ nữ làm nhiệm vụ nuôi quân mà ta vẫn quen gọi với cái tên thân thuộc là “chị nuôi” ấy đang lúi cúi chia thức ăn cho buổi liên hoan thì chiến sĩ nam này đến thăm. Thấy các đĩa giò, đĩa chả được bày biện trên bàn thì chiến sĩ nam này liền lấy tay nhón một miếng cho vào mồm. Ai ngờ lại bị Tham mưu phó Trung đoàn trông thấy và cậu chàng bị mắng mấy câu. Những tưởng chuyện đến thế là xong, ai ngờ thoáng sau đã có bài vè kể lại cái sự việc đó:

Vấn đề là tại cái Liên
Nó thương thằng Cẩm cho nên thế này
Thằng Cẩm bốc chả bằng tay
Ông Dương bắt được, mắng ngay giữa nhà...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Tư, 2020, 10:49:50 am

        Đấy, cho dù là cuộc sống thời chiến nhưng vẫn có những nét thật trong sáng, vô tư và yêu đời làm sao. Mà cũng có khá nhiều mối tình nảy nở ở nơi đây và họ cũng đều nên vợ nên chồng, sống hạnh phúc cho tới bây giờ. Không hiểu có ai đã từng kể cho con, cho cháu nghe lại thiên tình sử của mình trong những tháng năm sống giữa Khu E, Khu Ẻ, Khu È... ấy không?

        Hồ Đồng Quang trước mặt khu E là hồ rất nhiều cá và nhiều chim về đó sinh sống, nhất là vào mùa Đông, các loài mòng két, le le, vịt trời... di cư đến. Nó làm cho cuộc sống ở khu E thêm phong phú. Vào mùa mưa, khi cá ngược nước là chúng tôi tổ chức đi úp cá, chém cá... Những tay thợ săn thì tìm mọi cách tiếp cận đàn vịt trời, le le... để nổ súng. Chẳng cứ chim mà các loài khác như cầy, cáo... cũng đều là mục tiêu của các tay thợ săn. Đã có những nhân vật được nêu tựa như là hai vế của đôi câu đối:

        Cư - cầy, cáo, cá
        Chí - chó, chuột, chim...


        Đấy là sở trường của hai tay thợ săn Cư và Chí mà.

        Hồ Đồng Quang không chỉ nhiều chim, cá... mà ven bò hồ và các đồi xung quanh hồ rất đa dạng về các hệ sinh thái động vật và thực vật. Cũng đã có lần, tôi và Ngô Văn Soạn (phi công người dân tộc Nùng) đi “thám hiểm”, lùng sục trên các đồi quanh hồ bị đám mèng kheo (nhặng xanh) bâu lấy, phải chạy thục mạng, vừa chạy vừa bẻ cành bạch đàn khua túi bụi...

        Vào mùa sim chín thì tha hồ thu hoạch sim nhưng chẳng ai nghĩ đến việc ngâm rượu sim như bây giờ, chỉ bứt ăn cho khoái mà thôi...

        Những con suối quanh khu E vào mùa mưa, nước đổ như thác, réo ầm ầm suốt ngày đêm. Đấy cũng là nơi tắm giặt, trải nghiệm của nhiều người, không chỉ cho chúng tôi mà cả những vị khách đến thăm...

        Rồi những đồi thông với những tiếng reo vi vu trong gió khiến ai đến nơi đây cũng thấy thú vị vì phong cảnh thật thơ mộng, hữu tình...

        Những năm sống ở khu E, phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh. Tất cả mọi người, mọi thành phần đều thi đua tăng gia. Các phi công mỗi người được khoán 100 kg rau xanh/năm. Vậy là tranh nhau đi tìm đất để cấy trồng, tranh nhau tìm phân bón... Mà phân bón thì làm gì có thời gian ủ cho đủ độ phân hủy. Hầu như là đều sử dụng tươi hết. Thế nên mới có chuyện khi thu hoạch rau muống, một ai đó còn kéo được cả mảnh giấy trong lá thư của ai đó. Chữ viết trong thư đã nhòe nhoẹt hết, nhưng dòng “Anh yêu ơi!” thì vẫn còn đọc rõ. Thật nghe cứ như tiếng kêu, tiếng than...

        Rồi chuyện thay nhau khoác vai bò, thay bò thay trâu đi kéo bừa là chuyện bình thường.

        Cuộc sống ở khu E thật sôi động. Tất cả các thành phần bay, kỹ thuật, tham mưu, huấn luyện, hậu cần... đều ở gần nhau nên việc qua lại thăm hỏi nhau là chuyện thường tình. Giữa các đơn vị đều có sự gắn kết, hòa đồng và thông hiểu nhau. Chúng tôi coi đấy là một đại gia đình nhưng sau này thì thật khó mà có được như vậy.

        Tới khi bom đạn ác liệt, chúng tôi sơ tán đi mọi ngả. Các Đại đội bay thì mỗi Đại đội ở một hầm thuộc khu Lạc Đức, Các Đại đội thợ máy cũng vào hầm ở khu vực Gò Trai. Các cơ quan Tham mưu, Huấn luyện, Hậu cần... cũng phân chia mỗi cơ quan mỗi nơi... Rồi khi phải cơ động chiến đấu ở các sân bay dã chiến, sân bay vòng ngoài... thì ngay thành phần bay gặp nhau cũng đã khó: người thì trực ở sân bay này, người trực sân bay kia... rải rác suốt từ Bắc vào đến khu Bốn hàng tháng trời, có khi hơn cũng chẳng thấy mặt nhau, nói chi đến các thành phần khác.

        Những thành phần đi cơ động chỉ mang theo những vật dụng cần thiết, những thứ còn lại giao hết cho những người có trách nhiệm ở nhà bảo quản. Mỗi phi công (hoặc 2 phi công) được một vỏ thùng đựng đầu tên lửa không đối không làm hòm chứa cất đồ đạc, để trong hầm, khi nào hết thời gian cơ động về lại giở đám đồ đạc ấy ra phơi cho đỡ ẩm mốc. Cuộc sống thời chiến nay đây mai đó không biết đâu mà lường, mà nói trước được.

        Khu E bỗng như thành kỷ niệm xa xôi.

        Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:

        “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
        Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn..."


        Xa Khu E mới thấy đủ những sự nhớ nhung day dứt. Từng ấy thời gian sống trong Khu E với đủ mọi kỷ niệm vui buồn đằm sâu trong ký ức. Chỉ cần nghe nhắc đến hai từ “Khu E” thôi là đã thấy trào dậy mọi nỗi niềm...

        Nhưng cuộc sống cứ trôi theo hướng của riêng nó, không cưỡng được.

        Khu E trở nên vắng lặng. Càng những lần thăm lại về sau này thì tôi càng thấy khu E không còn dáng dấp xưa nữa. Nhà cửa trước đây còn lại rất ít. Đất đai đã bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Việc xây dựng hầu như không theo quy hoạch tổng thể, không chuẩn mực. Âu cũng là quy luật của thời thế. Không thể níu giữ những gì đã qua nhưng lòng cứ bâng khuâng tựa như bị mất thứ gì đó rất quý giá mà không bao giờ lấy lại được... .

        Riêng khu đập Đồng Quang thì gần đây tôi thấy ngày càng có nhiều những cặp đôi đến đó để chụp ảnh cưới, cảnh những dãy núi, dãy đồi nghiêng mình soi bóng xuống mặt hồ cùng những hàng cây xanh tươi bao quanh làm cho khung cảnh trở nên thơ mộng, sơn thủy hữu tình tựa như bức tranh thủy mặc. Tất cả được ghi lại qua lăng kính của những nhiếp ảnh gia tài ba càng trở nên lãng mạn hơn bao giờ hết...

        Sơ bộ cuộc sống thường ngày ở Khu E xưa kia là vậy. Cuộc sống trước kia và bây giờ đổi thay thế nào, tâm tưởng của mọi người ra sao, chắc phải nhường cho các nhà xã hội học. Còn chuyện về những bài thơ bài vè, tôi biết có vài nhân vật đang sưu tầm để tổng hợp. Tôi mong muốn họ sẽ lục tìm được đầy đủ những gì đã có, và biết đâu, có thể đấy lại là đề tài cho luận án tiến sĩ cũng nên!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Tư, 2020, 02:01:02 pm
 
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BAY NGÀY VÀ ĐÊM

        Chỉ cần nghe nói đến ngày và đêm là đã thấy sự khác biệt 180 độ rồi. Một đằng là sáng, một bên là tối. Ngày thuộc dương. Đêm thuộc âm. Ngày mặt trời. Đêm mặt trăng. Luôn có sự đối lập nhau.

        Con người về ban ngày nhìn được mọi vật rõ ràng, còn ban đêm muốn rõ phải dùng đèn, mà đâu cũng đã nhìn thấu hết. Vào ban ngày, mọi hoạt động thấy dễ dàng còn về ban đêm thì không được như thế.

        Với hoạt động bay cũng vậy.

        Có lẽ, đối với các phi công bay đêm, có quá nhiều khó khăn mà phi công bay ngày không gặp phải. Trước hết là việc thay đổi giờ giấc, nền nếp sinh hoạt. Khi các phi công bay ngày xách mũ bay đi bay thì các phi công bay đêm phải ngủ để đêm đi bay. Lúc các phi công bay ngày trở về thì cũng là lúc các phi công bay đêm xách mũ bay ra sân bay để bay. Nói một cách ví von đấy là đàn Cò và đàn Vạc. Ngày như là Cò, đêm tựa như là Vạc. Nghĩa là, khi người ta ngủ thì mình phải thức và ngược lại. Nhưng vấn đề là không phải khi nào cũng đều đặn như thế vì phi công bay đêm cũng vẫn phải bay ngày và tham gia trực ban chiến đấu ban ngày, đánh ngày nên việc thức, ngủ cứ loạn xạ, không theo quy luật nhất định nào. Đồng hồ sinh học của phi công bay đêm hoạt động trong cảnh ngộ “không giống ai” như vậy thì quả là mệt mỏi, căng thẳng... làm sao mà thích nghi ngay được.

        Thứ đến, phải nói chuyện về mắt. Điều này đúng ra phải nhường lại cho bác sĩ nhãn khoa thì hay hơn, nhưng tôi cũng cứ mạnh dạn nói một cách nôm na: Võng mạc của mắt người có vô vàn tế bào nhạy sáng. Có 2 loại tế bào là tế bào hình que (gậy) và tế bào hình nón. Số lượng tế bào que trong mắt người là 120 triệu, tế bào nón là 7 triệu. Tế bào hình que phân biệt độ sáng tối, trong khi tế bào hình nón ghi nhận màu sắc.

        Những thụ thể hình que xử lí những yếu tố về sắc độ như các trạng thái khác nhau của màu xám. Chúng là các thụ thể hoạt động chính để tạo nên tầm nhìn ban đêm khi ánh sáng yếu. Ngược lại, các thụ thể hình nón hoạt động với ánh sáng ban ngày và cảm nhận màu.

        Có tài liệu đã chỉ ra rằng mắt người có độ phân giải cỡ một máy ảnh 576 megapixel.

        Thực sự phải cảm ơn tạo hóa đã ưu ái ban cho loài người một thị lực không đến nỗi tệ. Mặc dù có những giới hạn của nó, nhưng cứ thử nghĩ xem, bạn có thể phân biệt được 1 triệu màu sắc, nhận thức được cả 1 photon đơn lẻ, nhìn xa được đến tận Thiên hà lân cận, thấy được những ngôi sao cách chúng ta gần nhất là 28 nghìn tỉ cây số...

        Điều đó không tuyệt vời sao?

        Nhưng khôn nỗi, vào cái thời điểm nhập nhoạng tối, tranh sáng tranh tối ấy thì một số người lại bị “quáng gà”.

        Người bị “quáng gà” sinh hoạt bình thường vào ban ngày trong môi trường đủ ánh sáng, nhưng khi chiều xuống hay về đêm thiếu ánh sáng thì bấy giò mới trở nên chậm chạp, vụng về như người hậu đậu. Đó là bệnh thoái hóa sắc tố võng mạc.

        Phi công bay đêm sợ bị thế này lắm.

        Một điều nữa gây áp lực không nhỏ đối với tâm lí phi công bay đêm: đó là sự cô đơn. Phi công bay ngày thường bay với đội hình 2 chiếc, 4 chiếc hoặc hơn nên không cảm thấy sự trông vắng vì luôn có biên đội, có người bên cạnh. Cho dù có bay một mình đi chăng nữa thì cũng vẫn thấy được địa hình, địa vật xung quanh, thấy được trời mây... nên không cảm thấy đơn lẻ. Còn với phi công bay đêm, làm sao mà bay được đội hình như ban ngày, làm sao mà quan sát được những cảnh tượng như ban ngày. Tất cả đều phải dựa vào các tham số trên bảng đồng hồ trong buồng lái với ánh sáng đỏ hắt ra từ bảng đồng hồ và cứ lủi thủi trong trời đêm.

        Nếu bay ngày, các phi công có thể bay nhào lộn với đủ các động tác phức tạp hoặc động tác nhào lộn cao cấp ở độ cao trung bình hay độ cao thấp theo các mặt phẳng ngang, mặt phẳng nghiêng hay mặt phẳng thẳng đứng với quá tải lớn thì phi công bay đêm không thể làm được điều đó trong trời đêm.

        Phi công bay ngày có thể bay ở độ cao thấp hay cực thấp thì phi công bay đêm không được phép làm như vậy vì sự an toàn.

        Phi công bay ngày sau khi thoát li khỏi trận không chiến có thể nhào xuống bay thật thấp, tự mình tìm về sân bay bằng cách xác định theo các vật chuẩn của địa tiêu thì các phi công bay đêm lại không làm thế được vì không thể thấy rõ mặt đất.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Tư, 2020, 08:29:07 pm
       
        Với phi công bay đêm, bay theo đồng hồ là chính. Sự xuất hiện “cảm giác sai” với phi công bay đêm cũng nhiều hơn với phi công bay ngày. Mỗi người bị “cảm giác sai” theo mỗi kiểu. Người thì thấy mình bị ngồi lệch về một bên, càng sửa lại càng thấy lệch. Người thì thấy máy bay mình mang độ nghiêng (trái hoặc phải), càng muốn cải bằng máy bay thì càng mang độ nghiêng lớn hơn. Có người đang ở tư thế bình thường thì lại có cảm giác mình đang bay lộn ngược, hoặc khi đang bay trên biển thì lại cho rằng mặt biển chính là bầu trời v.v... Thậm chí, khi về hạ cánh, đang trên đà lao xuống sau vòng 4, có người thấy hàng đèn trên đường băng ngày càng lệch khỏi tim đường băng... Tất cả những trường hợp bị “cảm giác sai” đều dẫn đến nguy hiểm cho an toàn bay...

        Một điều đặc biệt là khi bị “cảm giác sai”, không một ai tin vào đồng hồ. Họ đều cho rằng đồng hồ bị hỏng nên các thông sô bị sai lệch, chỉ có họ là đúng. Chẳng ai nhận mình là đang ở trạng thái cảm giác sai cả. Nếu không được xử lí một cách tỉnh táo thì càng về sau sai lầm càng lớn hơn và rồi sẽ đến lúc không thể sửa chữa nổi nữa.

        Việc cất hạ cánh về ban đêm cũng khác hoàn toàn so với ban ngày. Các phi công bay ngày khi cho máy bay cất cánh, bằng mắt thường xác định được giới hạn của đường cất hạ cánh, xác định được đường chân trời, xác định được máy bay mình tách đất, bay lên với góc độ bao nhiêu. Khi về hạ cánh, thấy được đường lao xuống của máy bay mình cao hay thấp, thấy được điểm tiếp đất của máy bay mình xa hay gần... Bay đêm thì không thế, tức là phải xác định tất cả bằng các hệ thống đèn, như đèn dọc hai bên đường băng, đèn giới hạn đường băng, nhấc bánh mũi, tách đất lấy độ cao theo đồng hồ chân trời (AGĐ), theo đồng hồ góc tấn (UUA), đồng hồ lên xuống. Khi về hạ cánh cũng theo đèn để xác định giới hạn ngang, dọc của đường cất hạ cánh. Động tác hạ cánh về ban đêm: đường lao xuống phải cao hơn khi bay ngày để máy bay “rơi” vào luồng sáng của hệ thống đèn chiếu trợ giúp đặt ở đầu đường băng. Nếu đường xuống như bay ngày hoặc thấp hơn là bị “chui” vào luồng sáng, khi ấy mắt bị lóa, không xác định được thời điểm kéo bằng, tiếp đất thì rất nguy hiểm... Nếu trời có sương mù thì khi hạ cánh lại còn bị ảnh hưởng bởi quầng sáng của đèn pha hạ cánh. Môi trường bên ngoài trở nên khác thường dễ làm phân tán sự chú ý của phi công khi quan sát đồng hồ, gây khó khăn cho việc điều khiển máy bay, nhất là lúc “gần đất xa trời”. Rồi khi hạ cánh không có sự trợ giúp của đèn chiếu, phải hạ cánh bằng đèn pha trên máy bay thì còn khó khăn hơn gấp bội. Nếu như phải cất hạ cánh trong điều kiện đường băng ngắn hẹp nữa thì gian nan, hiểm nguy rình rập không biết đâu mà kể...

        Đấy là chỉ riêng việc cất hạ cánh, còn khi hay đêm với điều kiện khí tượng phức tạp thì quả là rắc rối vì khi ấy sẽ xuất hiện quầng sáng từ đèn hàng hành (ANO) tạo ra từng phần chiếu sáng do độ đặc không đều của mây và khi sử dụng tăng lực thì quầng sáng từ động cơ cũng làm ảnh hưởng rất lớn đến việc điều khiển máy bay. Những điều ấy rất dễ gây ra cảm giác sai trong khi bay.

        Để tổ chức được một ban bay ngày, phải có rất nhiều thành phần tham gia. Với ban bay đêm, ngoài các thành phần tổ chức như ban bay ngày phải có thêm thành phần đảm bảo ánh sáng trên dọc đường lăn, đường băng, sân đỗ. Phải có thêm 3 chiếc xe đèn chiếu đỗ ở bên trái đầu đường băng với những cự li khác nhau... Và nhất là, người chỉ huy bay, chỉ huy cất hạ cánh nhất thiết phải là phi công bay đêm.

        Việc đảm bảo hệ thống ánh sáng cho bay đêm trên sân bay trong thời bình thì nhẹ nhàng hơn thời chiến. Trong thời chiến, nhất là ở các sân bay dã chiến, sân bay cơ động... thì phải rải hệ thống đèn dọc đường băng, đường lăn bằng những xe đặc chủng (gọi là xe dạ hàng). Sau này, trong thời kỳ sân bay bị địch đánh phá ác liệt, nhiều khi không thể sử dụng xe dạ hàng được nên đã có sáng kiến chôn các đuôi bom dọc theo đường cất hạ cánh, đổ cát vào rồi đổ dầu, đốt lên thành những đuốc lửa. Các phi công bay đêm đã từng cất hạ cánh trong những tình huống như vậy. Không có đèn chiếu hỗ trợ cho việc xác định đường lao xuống và khu vực kéo bằng, tiếp đất máy bay, các phi công phải sử dụng đèn pha trên máy bay. Đấy cũng là mối khó khăn không nhỏ.

        Khi bay ngày, ngoài việc quan sát được địa tiêu, biết được vị trí tương ứng của mình so với căn cứ, còn có thể quan sát khắp bầu trời, phát hiện những đám mây giông để tránh. Theo quy định đảm bảo an toàn, nếu trên đường bay, khi phát hiện 2 đám mây giông ở cách xa nhau ít nhất 20 km trở lên thì mới được bay qua giữa 2 đám mây đó. Bằng không, phải bay tránh, nhưng trong chuyên bay ban đêm, việc xác định cự li ấy thực sự khó khăn.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Tư, 2020, 11:16:57 pm

        Đã có vài trường hợp khi bay ngày, khi đi chiến đấu về, có phi công không kịp tránh đám mây giông trước mặt vì cự li quá gần nên đành xông qua. Máy bay lập tức bị chao đảo, lắc giật bởi nhiễu động của những dòng không khí trong mây giông quá lớn, các bánh lái của máy bay hầu như không có tác dụng. Máy bay rơi rất nhanh, trong khoảng thời gian rất ngắn mà mất đến mấy ngàn mét độ cao. Khi may mắn thoát ra, tới lúc về hạ cánh xong mới thấy máy bay bị tróc sơn nham nhở, các đèn trên nách cánh vỡ hết. Thật kinh khủng!

        Ban ngày đã vậy, vào ban đêm thì cảnh tượng về đám mây giông còn ghê gớm hơn. Chỉ cần bay gần nó chừng bảy, tám cây số thôi là đã “cảm nhận” được hơi lạnh thấm vào tận trong máy bay và máy bay run rẩy với những độ rung lắc bất thường. Những tia chớp sáng lòa trời đêm, chạy nhằng nhịt và trong tai nghe lập tức thấy những tiếng “xẹt, xẹt” xoáy thẳng vào óc. Thật không thú vị gì khi một thân một mình giữa trời đêm trong hoàn cảnh như thế. Vậy mà các phi công bay đêm, đánh đêm vẫn phải đương đầu với những hiểm họa ấy.

        Rồi trong đêm tối mênh mông còn có thể xảy ra nhiều rủi ro khác nữa chứ. Ví như máy bay có trục trặc, hỏng hóc bất thường, lại gặp thời tiết xấu nữa thì xử lí sao đây. Một mình giữa bầu trời tối mù mịt, lọt thỏm giữa thinh không mới càng thấy cô đơn...

        Trung tá Dương Công Danh, người từng gắn bó với ngành Huấn luyện bay và đào tạo phi công ngay từ những ngày đầu, “sở hữu bộ nhớ” làm nhiều người phải nể phục. Anh nhớ hết các phi công, biết trình độ bay của từng phi công một, rồi biết ai đã bay bài nào gần đây nhất, ai đã có giãn cách, ai phải bay tiếp những bài nào theo giáo trình để đạt được trình độ A, B, c... Khi ngồi tâm sự với anh về chuyện bay đêm, anh nói:

        - Trước đây, các phi công MiG-17 của Trung đoàn Không quân 923 khi chọn sang bay đêm phải là các phi công giỏi, ví như anh Lích, anh Tịnh..., còn số phi công bay đêm trên MiG-21 khá đồng đều. Bay đêm có rất nhiều cái khó khăn. Giáo trình bay đêm khác giáo trình bay ngày, các bài bay và nội dung từng bài bay của đêm cũng khác của ngày. Bay đêm hầu như phải tập trung vào đồng hồ và ra-đa trên máy bay. Chiến đấu về ban đêm vất vả hơn. Chỉ sau này, trong chiến trận, khi xảy ra tình huống địch sử dụng đèn thì ta mới nhanh chóng thay đổi chiến thuật và cách đánh... Nói chung, bay đêm gian nan, vất vả hơn bay ngày nhiều lắm.

        Khó khăn, gian nan nhiều, nhưng lắm khi cũng bắt gặp được những cảnh tượng nên thơ mà bay ban ngày không thể nào thấy được và không hình dung ra được. Đấy là những chuyên bay cất cánh vào đúng lúc trăng lên, nhất là vào những đêm trăng tròn. Mặt trăng thật dịu dàng, trông hệt như một chiếc đĩa ngọc khổng lồ, nhè nhẹ tỏa sáng - một thứ ánh sáng thật mềm mại, dịu êm... chuyển động thướt tha. Trong đêm trăng, bầu trời như chiếc áo gấm khổng lồ được gắn ngàn vạn viên ngọc kim cương lấp lánh, nhấp nháy...

        Trăng lên, bạn bắt gặp những tầng mây nguyên thủy ngàn vạn năm vẫn còn ngơ ngẩn giữa không trung và vạt mây mỏng manh bay lơ lửng trong tầng không trông tựa như tấm khăn voan của ai đó đánh rơi giữa trời còn vương vấn mùi hương, chập chờn trong gió...

        Dưới mặt đất, ánh trăng loang đến đâu, vạn vật sáng bừng lên đến đó tựa như được dát bạc. Từng mảng sáng, tối với những gam màu tương phản tạo nên bức tranh huyền ảo, thần diệu...

        Trên mặt nước, ánh trăng như rắc bột kim loại quý lên đó làm cho mặt sông, mặt hồ, mặt biển... ngời rực lên, làm tăng thêm độ rộng, độ mông mênh mung lung... Các đợt sóng gợn lăn tăn như có ngàn vạn con rắn màu vàng, màu bạc đang đùa giỡn nhau trên mặt nước vậy...

        Những phút giây thơ mộng như thế thật hiếm hoi. Không chỉ các phi công bay ngày mà ngay cả các phi công bay đêm, có thể có người trong cả đời bay đêm của mình cũng không hề bắt gặp cảnh tượng ấy bao giờ vì không đúng thời điểm, hơn nữa có khi bị cuốn hút vào công việc nên không để ý đến.

        Với nhiệm vụ chiến đấu, tổ chức một trận đánh đêm công phu hơn một trận đánh ngày nhiều lắm.

        Việc dẫn dắt cho các phi công đánh đêm tham gia chiến đấu khác hẳn so với ban ngày. Nếu như  vào ban ngày, dẫn đường tại sở chỉ huy có thể dẫn máy hay ta ở độ cao thấp hơn hoặc cao hơn, bay đối đầu với máy bay địch hoặc bay cắt ngang tới 90 độ hay cắt với góc lớn cốt để giúp phi công phát hiện sớm, đánh giá tình hình và tìm cách chiếm vị công kích. Với những chuyến xuất kích ban đêm thì không thể làm thế được.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Tư, 2020, 07:28:55 pm

        Đại tá Tạ Quốc Hưng - một trong những sĩ quan dẫn đường kỳ cựu của Không quân cho biết:

        - Nếu nói về công tác đảm bảo dẫn đường chiến đấu thì ban ngày cũng giống như ban đêm thôi. Nhưng về ban đêm, ở giai đoạn vào tiếp địch thì hoàn toàn khác ở chỗ việc phát hiện và công kích mục tiêu, phi công hoàn toàn phải dựa vào ra-đa trên máy bay. Mà tính năng ra-đa trên máy bay MiG-21 lại rất hạn chế, cự li phát hiện xa nhất của nó chỉ được 20 km, cự li “bám sát” lớn nhất của nó cũng chỉ được 10 km. Theo lí thuyết thì như thế, còn trong thực tế, qua tổng kết các chuyên bay huấn luyện thì sô liệu này chỉ đạt được 2/3. Góc tầm và hướng quét của ra-đa trên máy bay MiG cũng hẹp. Trong khi đó, trên các máy bay của Mỹ đều được lắp đặt hệ thông cảnh báo MiG. Bình thường về ban đêm, các máy bay trong đội hình của chúng bật đèn, nhưng khi phát hiện tín hiệu có MiG hoặc thấy tín hiệu ra-đa của MiG là chúng lập tức tắt đèn và tìm biện pháp đối phó. Đấy là một khó khăn. Khó khăn nữa là khi đánh chặn ở độ cao, góc tấn của máy bay sẽ lớn, ra-đa cùng trục dọc của máy bay hướng lên trên, vì vậy, nếu bay cùng độ cao với mục tiêu thì chắc chắn sẽ không phát hiện được mục tiêu. Một điểm nữa là giới hạn sử dụng tốc độ bị hạn chế bởi chỉ được sử dụng chế độ tăng lực trong những thời điểm nhất định vì khi bật tăng lực, luồng lửa phía sau động cơ máy bay sẽ làm lộ vị trí máy bay ta, khác gì “lạy ông, tôi ở bụi này”... Nói chung, dẫn về ban đêm cũng giống như dẫn đánh chặn ỏ tầng bình lưu, phải rất bình tĩnh, chính xác. Tôi nói bình tĩnh ở đây là ngoài việc phải đánh giá được vị trí của ta, của địch, tính toán thật cẩn trọng để dẫn cho chính xác (mà không bình tĩnh thì không tính được) còn là ở chỗ, tuy phi công bay đêm là những người có bản lĩnh, giỏi về kỹ chiến thuật, có năng lực hoạt động độc lập..., nhưng trong đêm tối giữa khoảng không bao la, phải sống trong tâm trạng cô đơn là điều phải tính đến. Sợi dây liên lạc duy nhất của họ từ trên trời xuống mặt đất chỉ là người sĩ quan dẫn đường. Vì vậy, sĩ quan dẫn đường ngoài việc tinh thông nghiệp vụ còn phải nắm chắc tâm lí, tính cách, tình cảm và cả những yêu cầu của phi công bay đêm. Chỉ một câu thông báo về địch, về tình hình khí tượng... thôi cũng làm cho họ yên tâm hơn nhiều. Nhưng có lúc, những yêu cầu tối thiểu này cũng không thể thực hiện được vì phải đảm bảo bí mật thông tin cho trận đánh, nhất là khi hoạt động ở chiến trường khu Bốn. Khẩu lệnh của sĩ quan dẫn đường phải điềm đạm, dứt khoát, mạch lạc. Trên trời, chỉ cần nghe giọng nói giật cục, lắp bắp, lúng túng hay hốt hoảng là tâm lí của phi công sẽ khác hẳn. Tôi nói bình tĩnh là thế. Còn chính xác thì đương nhiên là phải tính từng giây một rồi. Phải làm sao ở giai đoạn tiếp địch, phi công ít phải sửa hướng và dẫn phi công vào từ phía sau, áp hàng tuyến, hình chiếu mục tiêu tốt nhất là 0/4... Hãn hữu, nếu đánh vào đêm có trăng thì dẫn đường phải dẫn sao cho phi công quan sát được mục tiêu ở phía mặt trăng và trên nền mây giông như trận của các anh Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước trong trận đêm 15 tháng 2 năm 1964 ấy. Nói chung, dẫn ban đêm cũng nhiều vấn đề... .

        Đúng như vậy. Việc phát hiện và công kích vào ban đêm, phi công không thể xác định bằng mắt như phi công bay ngày được mà phải dựa hoàn toàn vào ra-đa trên máy bay. Trong khi đó, màn hình ra-đa trên máy bay chỉ nhỏ bằng miệng chiếc bát ăn cơm thôi. Mục tiêu thì được hiển thị bằng các nét vạch nhỏ hiện trên một vạch ngang. Nếu mục tiêu ở cao hơn máy bay ta thì vạch ấy ở phía “trên” vạch ngang và ngược lại. Nếu độ cao của máy bay ta bay ngang bằng với độ cao của mục tiêu thì số vạch ở “trên” và ở “dưới” bằng nhau. Khi mục tiêu ở cự li xa thì hiện một vạch, gần hơn thì 2 vạch và gần nữa thì 3 vạch. Đấy là ở chế độ “sục sạo”. Khi chuyển sang chế độ “bám sát”, trên màn hình ra-đa xuất hiện “cánh chim”, vạch cự li và vùng cho phép phóng. Phụ thuộc theo độ cao bay và tốc độ bay, tốc độ tiêp cận với mục tiêu mà vùng cho phép phóng có thể rộng hoặc hẹp. Đấy là trong điều kiện không có nhiễu. Nếu địch gây các loại nhiễu thì từ chế độ “sục sạo” đến chế độ “bám sát” còn khó khăn gấp bội phần. Lúc ấy, màn hình ra-đa bị trắng một phần hoặc thậm chí toàn phần nên không thể phát hiện được mục tiêu.

        Việc thoát li khỏi trận chiến hầu như đều phải kéo cao, không như phi công bay ngày có thể lật úp máy bay, kéo xuống bay ở độ cao thật thấp rồi “mò” về sân bay...

        Sơ qua một chút như vậy cốt để bạn đọc hiểu rằng bay đêm không hề đơn giản tí nào và những phi công bay đêm phải chịu rất nhiều áp lực mà phi công bay ngày không mấy khi phải gánh chịu như họ.

        Cũng chính vì có những sự khác biệt và những yêu cầu kỹ thuật khắt khe nên đã có sự phân loại phi công qua cấp bậc: Cấp 1, Cấp 2, Cấp 3. Tôi cho rằng phải gọi là Hạng 1, Hạng 2, Hạng 3 (như Huân chương Hạng 1, Hạng 2, Hạng 3) thì mới chuẩn xác.

        Phi công cấp 1 là phi công bay được trong điều kiện 4 thời tiết: ngày giản đơn, ngày phức tạp, đêm giản đơn và đêm phức tạp.

        Phi công cấp 2 là phi công bay được trong điều kiện 3 thời tiết: ngày giản đơn, ngày phức tạp và đêm giản đơn.

        Phi công cấp 3 là phi công bay được trong điều kiện 2 thời tiết: ngày giản đơn và ngày phức tạp.

        Phi công không cấp là phi công chỉ bay trong điều kiện thời tiết giản đơn ban ngày.

        Cấp phi công được đánh dấu trên phù hiệu bay (số 1, 2 hay 3 được khắc trên tấm lá chắn màu xanh da trời ở giữa 2 cánh chim màu vàng). Với Phi công chưa có cấp thì không có đánh số.

        Không quân của một số nước còn có những thứ hạng khác và danh hiệu cao quý khác như: phi công Công Huân, phi công Thiện Xạ... Đấy là những phi công có nhiều giờ bay, làm chủ được những kỹ thuật bay rất điêu luyện và không hề để xảy ra mất an toàn hoặc uy hiếp an toàn trong suốt đời bay của mình. Họ luôn được các lớp phi công các thế hệ ngưỡng mộ và tôn sùng.

        Việc lên được một cấp, ví dụ lên được cấp 3 rồi từ cấp 3 lên cấp 2, rồi lên cấp 1 không phải bỗng dưng ngày một ngày hai mà có được. Nó là cả một quá trình phấn đấu, rèn luyện với đủ các bài bay, bài kiểm tra, sát hạch. Phải qua nhiều năm trời mới có được trình độ ấy, danh hiệu ấy.

        Đeo phù hiệu phi công với thứ hạng cao là sự thể hiện đẳng cấp trong nghề bay. Người đeo nó đều cảm thấy vinh hạnh xen lẫn chút niềm kiêu hãnh...

        Về sau này, các danh hiệu phi công cấp 1, 2, 3 hầu như không tuân theo các tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo như trước kia nữa mà được đánh giá theo những tiêu chí khác. Ví như, có những phi công chỉ bay trong điều kiện thời tiết giản đơn ban ngày thôi, nhưng vì giờ bay cao nên cũng được công nhận là phi công cấp 1...

        Chuyện này làm tôi cứ buồn buồn và chạnh lòng.

        Sự xuê xoa, cào bằng một cách dễ dãi ấy đã làm biến tướng những biểu tượng, làm giảm giá trị, chất lượng và phần nào xúc phạm đến các danh hiệu cùng niềm kiêu hãnh của những phi công tiêm kích.

        Không chỉ vậy mà phần nào nó còn ảnh hưởng đến cả công tác đảm bảo an toàn bay.

        Đấy không chỉ là nỗi niềm của riêng tôi.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tư, 2020, 04:10:51 am

THAM GIA NHỮNG TRẬN ĐÁNH NGÀY

        Mặc dù Đại đội 5 với nhiệm vụ bay đêm, trực đêm là chính nhưng vẫn phải tham gia trực ban chiến đấu ban ngày, đánh ngày cùng với các lực lượng của Đại đội 1 và Đại đội 3 trong Trung đoàn.

        Ngay sau khi thành lập Đại đội, các phi công bay đêm đã có những trận tham gia chiến đấu ban ngày và đã lập được chiến công.

        Trong giai đoạn xuống thang “ném bom hạn chế”, chỉ ném bom các mục tiêu dưới vĩ tuyên 20 thì hầu như toàn bộ lực lượng và bom đạn của Không quân, của Hải quân Mỹ đã “ưu tiên” cho vùng “cán xoong” Nam Khu 4 và Tuyến đường 559 nhằm ngăn chặn sự chi viện chiến lược của miền Bắc cho miền Nam.

        Khu vực rất nhỏ từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20 trở thành túi bom, phải gồng mình chịu đựng, chống chọi với sức mạnh hủy diệt của Không quân và Hải quân Mỹ.

        Trước tình hình ấy, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã chủ trương triển khai đồng loạt các biện pháp để hỗ trợ cho Khu 4.

        Các trận đánh trong giai đoạn này diễn ra không nhiều như năm 1967, nhưng tính chất rất ác liệt. Không quân Mỹ được sự chỉ huy và dẫn đường tốt hơn so với khi bay ra phía Bắc vĩ tuyến 20. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn có chỉ huy và dẫn đường đối kháng. Cũng trong giai đoạn này, bản lĩnh và năng lực của các thành phần chỉ huy được nâng cao, ý chí và trình độ kỹ thuật bay của các phi công được rèn luyện, thử thách ngày càng bền vững, nhất là với các phi công MiG-21 mới tốt nghiệp về nước.

        Sau khi phân tích các trận không chiến trên chiến trường khu Bốn cùng những đặc điểm do chiến trường xa căn cứ chính, sau những cuộc “Quân sự dân chủ” tìm cách đánh, sở chỉ huy Binh chủng Không quân và Trung đoàn Không quân 921 đã quyết định thử nghiệm đội hình MiG-21 bay theo biên đội 3 chiếc. Với đội hình này, phi công bay ở vị trí số 3 giống như “trung vệ thòng” trong đội hình bóng đá, tức là được hoạt động độc lập, có thể bay ở cự li xa hoặc gần, có thể bay thấp hơn hoặc cao hơn để tăng sức đột kích, cảnh giới, công kích và yểm trợ nhau lúc công kích và lúc thoát li.

        Ngày 1 tháng 8 năm 1972, biên đội 3 chiếc gồm: Nguyễn Đăng Kính số 1, Phạm Văn Mạo số 2 và Nguyễn Hồng Nhị số 3 xuất kích từ sân bay Thọ Xuân - Thanh Hóa lúc 12h37 phút, lấy hướng bay vào khu vực Đô Lương - Nghệ An với độ cao 4.000 mét.

        12h46 phút, Đài chỉ huy cho lệnh vòng trái để tiếp cận tốp mục tiêu đang bay ở phía Nam đường 7. Số 1 ra khẩu lệnh: “Bật tăng lực!” và vòng trái. Khi ấy số 3 báo cáo: “Bên trái phía sau 120 độ, cự li 14 km có 2 chiếc!”. Theo thông báo của số 3, số 1 phát hiện ngay biên đội địch ở độ cao 1.500 mét đang vòng về phía mình, liền hô: “Vứt thùng dầu phụ!” và tăng độ nghiêng bám theo biên đội địch. Đây là 2 chiếc F-8 khả năng làm nhiệm vụ trinh sát. Chúng tăng tốc độ, chuồn thẳng ra biển. Số 1 bị mất mục tiêu và lúc này, số 2 cũng báo cáo bị mất đội. Số 1 ra khẩu lệnh cho số 2 thoát li về hạ cánh ở sân bay Thọ Xuân.

        Trong lúc số 1 đang vòng thì nghe thấy tiếng của số 3: “Bên trái có 2 chiếc đang vòng phải đấy!”. Số 1 ép độ nghiêng và thấy 2 chiếc đang bay từ trái qua phải máy bay mình. Số 1 lật ép độ nghiêng vòng vào phía máy bay địch, nhưng ngay đó lại bị mất mục tiêu. Anh kéo lên cao để quan sát thì lại nghe thấy tiếng số 3: “Địch đang vòng dưới bụng anh!”. Số 1 lật ngửa máy bay mình kéo xuống nhưng 2 thằng F-8 đã tăng lực chạy tuốt ra biển.

        Lúc này, số 3 lại phát hiện được 1 tốp mục tiêu ở bên dưới, phía trước liền lao bám theo. Tốp F-8 tách đội, chiếc thì vòng trái, chiếc thì vòng phải. Nhận định tình hình trận chiến, số 3 ép độ nghiêng vòng xuống bám thằng đang vòng trái chạy ra biển. Thằng F-8 bất ngờ, không nghĩ rằng MiG lại dám xông ra phía biển nên đã bị số 3 đặt điểm ngắm và lập tức phóng 1 quả tên lửa. Quả tên lửa lao thẳng vào chiếc F-8. Sô 3 nhanh chóng thoát li vì kịp nhận thấy 1 thằng khác đang lao về phía mình ở cự li nó sắp bắn. Cũng ngay lúc ấy, hệ thông tăng lực trên máy bay anh bị hỏng, anh nhanh chóng cho máy bay mình lao vào đám mây ở độ cao 1.800 mét.

        Không còn hệ thống tăng lực, tốc độ máy bay bị giảm xuống chỉ còn 750 km/h. Đây là điều bất lợi khi phải đối đầu với bọn F-8, nhưng anh vẫn bình tĩnh quần nhau với chúng. Khi anh bám được vào phía sau 1 thằng F-8, ấn nút phóng tên lửa, nhưng quả tên lửa không ra, ngay lúc đó, anh phát hiện được 2 quả tên lửa đang lao đến phía mình, anh ép độ nghiêng, cơ động nhưng vì máy bay anh bay ở tốc độ nhỏ, không thể ép độ nghiêng lớn và dùng quá tải lớn được, 2 quả tên lửa nổ rất gần, máy bay của anh bị thương, độ cao giảm nhanh, tốc độ cũng mất nhanh, anh đành nhảy dù, rồi máy bay ở khu vực Thanh Chương - Nghệ An.

        Trong trận này, số 3 Nguyễn Hồng Nhị đã bắn hạ 1 chiếc F-8.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tư, 2020, 05:04:22 pm

        Tiếp đến ngày 17 tháng 8 năm 1968, biên đội Đinh Tôn, Nguyễn Văn Minh sau khi xuất kích lần thứ nhất vào buổi sáng không gặp địch thì vào buổi chiều, lúc 15h56 phút, các anh nhận lệnh xuất kích chiến đấu. Hai chiếc MiG-21 cất cánh từ sân bay Thọ Xuân bay về phía Nam Đàn, Thanh Chương sau đó được dẫn lên Quỳ Hợp. Lúc 16h08 phút, Đài chỉ huy cho biên đội vòng phải, lấy hướng 180 độ và thông báo: “Mục tiêu bên phải 100 độ, cự li 15 km, độ cao 4.000 mét!”.

        Biên đội MiG vứt thùng dầu phụ, bật tăng lực lấy độ cao lên 5.000 mét. Địch gây nhiễu đối không và biên đội MiG phải tìm mọi cách để khắc phục, nối liên lạc. Khi cơ động quan sát, số 2 Nguyễn Văn Minh phát hiện phía sau có 4 chiếc F-4. Biên đội liền phân tốp vòng ngược lại. Bọn F-4 thấy thế liền hoảng hốt bỏ chạy. 1 chiếc F-4 bám theo Nguyễn Văn Minh nhưng lại sợ chiếc MiG khác bám theo mình nên cải bằng, dúi cần lái giảm độ cao và cơ động zic-zăc. Nguyễn Văn Minh lợi dụng thời cơ đó, tăng tốc độ, giảm độ cao tiếp cận đưa thằng F-4 này vào vòng ngắm. Đến cự li phóng tên lửa, anh ấn nút phóng. Quả tên lửa lao thẳng vào chiếc F-4. Khi kéo máy bay thoát li, anh Nguyễn Văn Minh kịp thấy chiếc F-4 bôc cháy dữ dội.

        Khi về đến gần Đô Lương, Sở chỉ huy thông báo có địch đuổi theo, anh bật tăng lực, kéo lên độ cao 10.000 mét và về hạ cánh ở sân bay Thọ Xuân.

        Số 1 Đinh Tôn lúc ấy phát hiện được 3 chiếc tháo chạy về phía cửa Lò, anh tăng tốc độ đuổi theo, nhưng vì cự li quá xa nên anh quyết định quay lại, giảm độ cao và về hạ cánh ở sân bay Thọ Xuân.

        Trong trận này, số 2 Nguyễn Văn Minh đã bắn rơi 1 chiếc F-4.

        Ngày 19 tháng 9 năm 1968, hai phi công của Đại đội 5 là Đinh Tôn số 1 và Vũ Đình Rạng số 2 đã có trận không chiến tại khu tam giác Đô Lương- Tân Kỳ và Yên Thành - Nghệ An. Lúc 9h31 phút, biên đội nhận lệnh xuất kích chiến đấu, bay qua sân bay Anh Sơn thì bật tăng lực kéo lên độ cao 4.000 mét. Đến phía Tây Đô Lương, số 1 phát hiện mục tiêu cánh 12 km ở bên phải phía trước và ở thế đối đầu. Số 1 ra khẩu lệnh: “Vứt thùng dầu phụ!” sau đó lật máy bay, kéo xuống bám sau thằng bay số 4 của biên đội 4 chiếc F-8 nhưng rồi anh lại chuyển sang bám chiếc số 3 vì thấy nó bay ổn định hơn, dễ ngắm bắn hơn. Khi tiếp cận đến cự li thích hợp, các tham số cho việc phát hỏa đã ổn định, anh ấn nút phóng tên lửa, nhưng tên lửa không ra. Anh ấn lại lần nữa, tên lửa cũng vẫn không rời khỏi bệ phóng. Ngay lúc ấy anh thấy có 2 quả tên lửa từ phía trước lao đến, anh chưa kịp hô cơ động thì đã thấy chiếc máy bay số 2 của biên đội anh bị trúng tên lửa, bốc cháy. Số là, khi số 1 Đinh Tôn bổ nhào công kích chiếc F-8 bay ở vị trí số 3 thì số 2 Vũ Đình Rạng phát hiện được 2 chiếc F-8 khác ở phía bên trái 90 độ. Anh quyết định tách đội, lao xuống công kích. Lúc này, số 2 Vũ Đình Rạng vô tình bị kẹp giữa 2 chiếc F-8. Khi anh bám theo chiếc F-8 bay ở phía trước để chuẩn bị công kích thì thấy máy bay bị chấn động mạnh, lửa cháy ở phía đuôi máy bay. Anh biết máy bay mình đã bị trúng tên lửa địch nên kéo lên cao và nhảy dù.

        Trong thời gian ấy, chiếc F-8 phát hiện mình bị MiG bám nên cơ động rất gấp. Số 1 Đinh Tôn vẫn bám chặt và đến cự li phóng tên lửa, anh ấn nút phóng. Tên lửa lao vút ra khỏi bệ và anh Đinh Tôn cũng đã kịp thấy 2 thằng F-8 bám ngay phía sau mình. Anh làm động tác thắt vòng chiến đấu, lấy độ cao và nhanh chóng thoát li khỏi trận chiến.

        Trong trận này, phi công trẻ Vũ Đình Rạng lần đầu xuất kích đã đối đầu với lũ F-8, loại máy bay của Hải quân Mỹ có tính năng cơ động rất tốt và điều khiển nó là những phi công sừng sỏ. Anh đã bị bắn rơi.

        Vài ngày sau, biên đội của Nguyễn Đăng Kính và Nguyễn Cát A xuất kích từ sân bay Đa Phúc lên đánh chặn máy bay không người lái. Trong trận này, Đại đội phó Nguyễn Đăng Kính đã bắn rơi chiếc không người lái ấy trên bầu trời Thanh Hóa.

        Cũng trong tháng 9 này, sau một thời gian gấp rút bay huấn luyện, Đại đội 5 đã tổ chức trực ban chiến đấu ban đêm. Phiên trực ban chiến đấu ban đêm được tổ chức trực ở sân bay Đa Phúc và phi công trực ban chiến đấu ban đêm ở phiên trực này là anh Đặng Xây.

        Ngày 26 tháng 10 năm 1968, qua phân tích các tin tình báo, Bộ tư lệnh Không quân nhận định Không quân của Hải quân Mỹ sẽ tổ chức đánh sâu vào các trọng điểm giao thông trên địa bàn khu Bốn với các thủ đoạn chiến thuật mới nên đã quyết định sử dụng các biên đội nhỏ của MiG-17 và MiG-21 hiệp đồng với nhau bảo vệ các trọng điểm giao thông.

        Lúc 8h09 phút, cả hai biên đội MiG-17 và MiG-21 cùng vào cấp 1. Đến 8hl7 phút, biên đội 2 chiếc MiG-21 của Nguyễn Đăng Kính số 1 và Vũ Xuân Thiều số 2 nhận lệnh xuất kích chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tư, 2020, 07:48:38 am

        Sau khi cất cánh, biên đội bay dọc đường 15 ở độ cao thấp hơn 500 mét. Cách Tân Kỳ chừng 10 km, Sở chỉ huy cho biên đội vòng trái. Khi nhận được thông báo tốp mục tiêu bay đến Nghĩa Đàn - Nghệ An, số 1 Nguyễn Đăng Kính ra khẩu lệnh: “Bật tăng lực, lên độ cao 3.000!”.

        Hôm ấy, lượng mây Cu (loại mây đống) khoảng 6-7 phần (nếu chia bầu trời ra làm 10 phần thì loại mây này chiếm mất 6-7 phần). Đáy mây là 800 mét, còn đỉnh mây là 4.000 mét. Mấy phút sau, số 1 phát hiện được mục tiêu ở bên trái, phía trước, cả biên đội lao vào chiếm vị trí công kích. Khi bay vào mây, Vũ Xuân Thiều đã lạc mất đội. Sở chỉ huy dẫn cho Xuân Thiều thoát li về trước.

        Có vẻ như bọn F-4 bay phía trước chưa hề hay biết sự xuất hiện của MiG nhưng khi số 1 Nguyễn Đăng Kính lách sang trái để công kích thì 2 chiếc F-4 này tăng tốc, tháo chạy. Số 1 Nguyễn Đăng Kinh vẫn tiếp tục bám sau. Bọn F-4 sử dụng thủ đoạn phân tốp. Số 1 quyết định bám theo chiếc số 2 của bọn F-4, đến cự li phóng tên lửa, anh ấn nút phóng và kéo máy bay thoát li. Khi anh kéo máy bay sang phải, lập tức phát hiện được 1 chiếc khác. Anh tiếp cận và đến cự li phóng, anh ấn nút phóng tiếp quả tên lửa thứ hai rồi nhanh chóng thoát li về hướng Đô Lương sau đó giảm độ cao, về sân bay Thọ Xuân hạ cánh.

        Số 2 Vũ Xuân Thiều về Thọ Xuân hạ cánh và khi rút kinh nghiệm trận đánh, Thiều rất áy náy vì chuyện lạc mất đội vừa rồi. Thực ra, trong các trận không chiến, ít khi số 2 giữ được đội từ đầu đến cuối, nhất là với tình hình thời tiết nhiều mây như thế kia.

        Trong trận này, số 1 Nguyễn Đăng Kỉnh đã bắn rơi 1 chiếc F-4.

        Đây cũng là trận kết thúc chiến dịch đưa MiG vào khu Bốn (từ ngày 14 tháng 6 năm 1968). Không quân ta đã tổ chức 20 trận đánh. Tổng kết lại, ta bắn hạ 11 chiếc máy bay của Hải quân Mỹ, phía Không quân ta cũng bị rơi 7 chiếc, trong đó có 2 chiếc bị tên lửa Phòng không Talos từ tàu chiến bắn lên.

        Ngày 31 tháng 10 năm 1968, Tổng thống Mỹ L. Johnson đã bắt buộc phải tuyên bố kết thúc chiến dịch “Sấm Rền” (Rolling Thunder) - một trong những chiến dịch tồi tệ, kém hiệu quả nhất trong lịch sử Không quân Mỹ và phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán 4 bên tại Paris.

        Ngày 13 tháng 4 năm 1971, khi trạm ra-đa C-41 phát hiện được các tốp bay trên độ cao 3.500 mét và 7.500 mét. sở chỉ huy quyết định sẽ đánh tốp bay ở độ cao 3.500 mét và lệnh cho phi công Đinh Tôn cất cánh vào lúc 17h59 phút, bay ở độ cao thấp về hướng Anh Sơn, Hương Khê, Tân Ấp, đường 12, sau đó cho anh lấy độ cao lên 3.500 mét. Lúc này, mặt trời đã lặn sau dãy núi phía xa, trời có mù khô, tầm nhìn kém nên rất khó phát hiện mục tiêu. Sau khi được dẫn vòng về hướng 270 độ thì anh Đinh Tôn phát hiện được 2 chiếc máy bay trinh sát OV- 10 ở phía bên trái 30 độ, cự li 8 km và bay thấp hơn mình. Anh giảm độ cao, giảm tốc độ đồng thời bật ra-đa trên máy bay để quan sát, lúc sau thì bị mất mục tiêu.

        Anh Đinh Tôn quyết định quan sát bằng mắt, lập tức phát hiện ngay được chiếc OV-10. Sau khi giữ điểm ngắm ổn định, đến cự li phóng tên lửa, anh ấn nút phóng. Quả tên lửa phía bên trái rời bệ phóng, anh kéo máy bay vòng trái lấy độ cao để quan sát. Anh thấy quả tên lửa nổ ngay dưới bụng thằng OV-10. Để chắc ăn, anh quay lại ngắm bắn và ấn nút phóng tiếp quả thứ hai, nhưng quả tên lửa này không đi. Quan sát, anh thấy thằng OV-10 bay lảo đảo và mất dần độ cao.

        Khi trạm ra-đa phát hiện có tốp F-4 từ phía Tha Khẹt bay vào, sở chỉ huy lệnh cho anh thoát li. Anh bật tăng lực, nhanh chóng thoát ra khỏi vùng chiến và về hạ cánh ở sân bay Anh Sơn.

        Theo nguồn thông tin của địa phương báo cáo, Quân chủng Phòng không - Không quân đã xác định và công nhận phi công Đinh Tôn đã bắn rơi chiếc OV-10 trong trận này.

        Sơ bộ những trận chiến đấu về ban ngày mà các phi công của Đại đội 5 đã tham gia ngay sau thời gian thành lập là vậy. Càng về sau càng nhiều trận không chiến nữa, nhưng nhiệm vụ chính của Đại đội 5 vẫn là tham gia chiến đấu ban đêm với mục tiêu là săn lùng, tiêu diệt “pháo đài bay bất khả xâm phạm” B-52, bảo vệ tuyến đường chiến lược 559 cùng các mục tiêu quan trọng khác.

        Quân chủng đã tổ chức những đợt trực tiếp vào khu Bốn, trèo lên tận đỉnh đèo Mụ Giạ để nghiên cứu đội hình và quy luật hoạt động của B-52 nhằm tìm ra biện pháp đối phó và cách đánh sao cho hiệu quả.

        Trong những đợt đi ấy, thường được Tư lệnh phó Trần Mạnh dẫn đầu. Thành phần trong đoàn gồm các sĩ quan dẫn đường, quân báo, tác chiến, phi công. Các phi công của Đại đội 5 như: Đinh Tôn, Hoàng Biểu, Vũ Đình Rạng, Đặng Xây... cùng tham gia.

        Nhiệm vụ của những năm tới sẽ rất nặng nề, phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng hết mình của tất cả các thành phần. Tất cả cũng đã sẵn sàng cho cuộc chiến đấu ngày càng cam go nhưng sẽ đi đến thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Tư, 2020, 07:52:15 am

VỚI TUYẾN ĐƯỜNG VẬN TẢI CHIẾN LƯỢC 559

        Tôi không thể không nhắc đến tuyến đường vận tải chiến lược này bởi các phi công đánh đêm đã gắn bó với nó suốt thời gian dài, với nhiệm vụ mai phục, săn lùng B-52 ở chiến trường khu Bốn, góp phần đảm bảo cho giao thông trên tuyến đường được thông suốt.

        Phải đánh chặn! Phải bẻ gãy các đợt oanh kích! Phải xua bọn B-52, bọn C-130... trên tuyến đường này, không để bọn chúng đánh phá vào các chân hàng, các điểm tập kết quân, các địa điểm vượt sông, các căn cứ... của ta! Đấy là nhiệm vụ hàng đầu và thiết yếu của Không quân. Nói một cách chung là như vậy, còn cụ thể, thực ra đấy chính là nhiệm vụ của các phi công đánh đêm.

        Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân ấy không bao giờ thay đổi”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Bắc XHCN được xác định là hậu phương lớn và miền Nam là tiền tuyến lớn. Cần phải có một con đường để chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Và một con đường của ý chí quyết chiến quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách dân tộc anh hùng đã ra đời.

        Ngày 5 tháng 5 năm 1959, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm úy ban thông nhất Trung ương trực tiếp giao nhiệm vụ cho Thượng tá Võ Bẩm thành lập “Đoàn công tác quân sự đặc biệt”

        Lúc đầu, biên chế của Đoàn chỉ có Ban chỉ huy Đoàn Vận tải 301 và các bộ phận xây dựng kho, bao gói, sửa chữa vũ khí... tất cả gồm 500 người. Đồng chí Võ Bẩm là Đoàn trưởng kiêm Bí thư Ban cán sự.

        Đồng chí Võ Bẩm cho biết: “Ngày đoàn tôi chính thức nhận nhiệm vụ cũng là ngày sinh nhật lần thứ 69 của Bác Hồ. Với tất cả lòng kính yêu Bác và bằng sự nhạy cảm đặc biệt, chúng tôi thống nhất lấy ngày 19 tháng 5 năm 1959 là ngày truyền thống của đoàn và Đoàn công tác quân sự đặc biệt lấy tên là “Đoàn 559”.

        Và như một sự thống nhất biện chứng, con đường Trường Sơn được Đoàn 559 khai phá sau này cũng được các chiến sĩ cùng đồng bào cả nước gọi là “Đường Hồ Chí Minh”.

        Ngày 19 tháng 5 năm 1959, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã ký quyết định mở tuyến vận tải chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh. Đây chính là quyết tâm, ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta với khẩu hiệu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

        Con đường đã trở thành con đường huyền thoại, đã đi vào lịch sử, đã là biểu tượng của dân tộc anh hùng.

        Đây không chỉ là một tuyến chi viện chiến lược quy mô lớn, mà còn là một chiến trường thực sự, nơi đấu trí, đấu lực quyết liệt giữa một bên là toàn dân tộc Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu với một bên là đế quốc Mỹ giàu có, hùng mạnh với bộ máy chiến tranh khổng lồ, tối tân nhất thời đại lúc bấy giờ.

        Con đường chính thức được khởi công xây dựng vào tháng 6 năm 1959, điểm xuất phát từ Khe Hó (Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị).

        Đấy là một lạch nước sâu, nhỏ, ở dưới chân dãy núi Động Nóc, gần thượng nguồn Rào Thanh, phía Tây Nam Vĩnh Linh, cách nông trường Bãi Hà gần 1 km về phía Tây Nam, cách giới tuyến quân sự tạm thời không xa. Từ Khe Hó, tuyến đường được phát triển theo hướng Tây Nam, qua làng Mít, vượt đỉnh 1001, đình 1600, vượt sông Bến Hải, qua đỉnh 1701 (còn gọi là động Voi Mẹp - động Hàm Nghi). Từ đỉnh 1701, Đoàn chủ trương vạch một lối sang Chăng Hin, động Cà Lư, Cát Sứ, Rào Quán, vượt đường số 9 qua Đá Bàn, vào Tà Riệp, Pa Lin (Tây Nam Thừa Thiên)...

        Giữ vững nguyên tắc bí mật, tuyến giao liên ban đầu phải tránh xa các bản làng. Trong khi khảo sát mở đường, Đoàn không đi theo những lối mòn thuận lợi sẵn có, mà phải tìm lối đi mới ở bình độ cao hơn.

        Nguyên tắc cho mọi hành động lúc này là “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng...

        Từ đấy, tuyến đường liên tục được phát triển trong suốt cuộc kháng chiến. Đường Trường Sơn -  đường Hồ Chí Minh - mạng lưới giao thông chiến lược đã chạy qua 11 tỉnh của Việt Nam từ Nghệ An đến Bình Phước, 7 tỉnh của Nam Lào và 4 tỉnh Đông Bắc Căm-pu-chia với 5 trục dọc, 21 trục ngang, trong đó đường 20 Quyết Thắng là 1 trục ngang dài trên 120 km từ Đông Trường Sơn vượt biên giới Việt-Lào sang Tây Trường Sơn. Tổng chiều dài của tuyến đường Trường Sơn với đường vận tải bộ và hành quân cơ giói gần 17.000 km, qua các trọng điểm nổi tiếng như: cua chữ A, ngầm Tà Lê, đèo Phu-la-nhích, Lùm Bùm, Văng Mu, Tha Mé, Xiêng Phan...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Tư, 2020, 11:28:37 pm

        Đường giao liên bộ dài hơn 3.000 km, xuất phát từ Bãi Hà (Quảng Trị) đến Đông Nam Bộ, Đường gùi thồ chủ yếu dựa vào đường giao liên bộ, có cải tạo để phù hợp với phương tiện gùi thồ. Đường ống dẫn xăng dầu dài gần 1.400 km, được xây dựng vào năm 1968 từ Khe Hó đến Lộc Ninh, gồm 46 kho với sức chứa 17.050 tấn nhiên liệu, 113 trạm bơm đẩy và cấp phát. Đường thủy lợi dụng các đoạn sông Xê-băng-hiêng, Xê Công, Mê Công... để thả gạo, thả xăng theo dòng chảy hoặc vận chuyển hai chiều bằng ca-nô, thuyền gắn máy. Dọc tuyến đường còn có hệ thông bảo đảm kỹ thuật, hệ thống kho tàng, bệnh viện quân y, hệ thống thông tin liên lạc với gần 1.350 km đường thông tin tải ba, 14.000 km đường thông tin hữu tuyến dây bọc.

        Trong quá trình xây dựng đường Trường Sơn, Đoàn 559 đã đào đắp khoảng 21 triệu mét khối đất đá để làm đường, lấp hố bom... bằng cả sức người và phương tiện cơ giới, làm 13.418 km cầu, hơn 10.000 cống với 9.520 triệu ngày công. Trong 16 năm hoạt động liên tục (từ 1959 đến 1975), lực lượng vận tải toàn tuyến đã vận chuyển hơn 1 triệu tấn vũ khí và phương tiện vật chất, vận chuyển cơ động 10 lượt Sư đoàn, 3 Quân đoàn, hộ tống 90 đoàn binh khí kỹ thuật, bảo đảm hành quân cho hơn 2 triệu lượt người qua lại.

        Vậy là, từ những con đường mòn men theo dải Trường Sơn hùng vĩ, từ những đội quân “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, trong suốt 16 năm hoạt động đã khơi thông được huyết mạch nối liền hậu phương miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Đấy không chỉ là tuyến vận tải quân sự, tuyến hậu cần chiến lược mà còn là một chiến trường tổng hợp, một mặt trận chiến đấu quyết liệt giữa ta và địch.

        Một số học giả, ký giả phương Tây đã viết về Đường Trường Sơn - mặt trận Trường Sơn - chiến trường Trường Sơn - Đoàn vận tải quân sự 559 với những dòng như sau: “Đường mòn Hồ Chí Minh (tên người Mỹ và đồng minh gọi tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn) không chỉ là con đường tiếp tế. Nó còn là biểu tượng của cả cuộc chiến tranh Việt Nam. Nó là bàn tay bí mật chỉ đạo cuộc chiến tranh... Đây là người mẹ trong gia đình, giấu mặt đi để các con được tuyên dương... Không có nó, chiến tranh (mà Mỹ   tiến hành) đã có thể kết thúc... Con đường ấy có sức sống mãnh nó tượng trưng cho sức chiến đấu của cả dân tộc... Đó là con đường ra tiền tuyến, con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn”(Van Geirt, 1971). Còn Jacques c. Despuch thì viết vào năm 1973: “Thành tích của Hannibal (viên tướng vượt An-pơ sang Ý từ châu Phi) với những con voi vượt qua dãy Alpes, Bonaparte cho chuyển trọng pháo của mình qua đèo Saint Beruard đã bị vượt quá xa, lần này do cả một dân tộc tiến hành... Tất cả đều tham gia: xe hỏa, ô-tô vận tải, ca-nô, phà, tàu thủy, thuyền, bè mảng, xe cút-kít, xe đạp thồ tới 300 kg, và còn sử dụng đến lưng con người nữa, không kể nam hay nữ"

        Tuy nhiên, với tiềm lực kinh tế quân sự giàu mạnh, để chặn đứt dòng huyết mạch quan trọng này, giặc Mỹ đã huy động nhiều lực lượng, phương tiện chiến tranh hiện đại, sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc, thực hiện cuộc chiến tranh ngăn chặn tuyến đường vận chuyển chiến lược của ta. Chúng sử dụng Không quân, kể cả “pháo đài bay B-52” lùng sục, tìm đánh các căn cứ, kho tàng, bãi đậu xe, trạm kỹ thuật, sở chỉ huy các đơn vị của ta... Đêm đêm, chúng dùng máy bay AC-130 “túc trực” trên không từ đầu tuyến đến cuối tuyến, không một đoàn xe nào không bị chúng phát hiện và tấn công. Để dễ phát hiện mục tiêu, giặc Mỹ sử dụng cả bom phát quang, rải chất độc hóa học, hủy diệt các thảm cây xanh, sử dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử như “cây nhiệt đới”, “người gác đường cần mẫn”... và gây mưa nhân tạo để làm lầy lội đường xá.

        Đế quốc Mỹ đã biến tuyến đường Hồ Chí Minh - Trường Sơn thành chiến trường thử nghiệm hàng loạt các chủ trương chiến lược và thủ đoạn chiến thuật, đồng thời cũng là chiến trường thử nghiệm các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại. Với hơn 150.000 trận đánh phá bằng Không quân, trong đó sử dụng hàng vạn lần chiếc máy bay B-52, ném xuống tuyến đường hơn 4 triệu tấn bom đạn trong tổng số hơn 7 triệu tấn sử dụng trên toàn chiến trường Việt Nam, tiến hành trên 120 cuộc hành quân đánh phá, 1.235 vụ biệt kích...

        Những người chỉ huy tài ba, thao lược như các ông: Võ Bẩm, Đặng Tính, Phan Khắc Hy, Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ, Đồng Sỹ Nguyên... đã biến một con đường mòn thành cả một trận đồ bát quái xuyên rừng rậm, thành con đường huyền thoại.

        Trong chiến đấu bảo vệ giao thông, bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi 2.455 máy bay, diệt 1 Trung đoàn, 4 Tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 5 Trung đoàn bộ binh, diệt 16.900 tên, bắt 1.190 địch, thu và phá hủy hơn 100 xe quân sự.

        Để có được thành công đó và để giữ vững con đường huyết mạch ấy hoạt động liên tục trong từng ấy năm trời, hơn 2 vạn cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn anh dũng đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, 3 vạn người bị thương; 14.500 xe máy các loại, 400 khẩu pháo, 9 vạn tấn hàng bị phá hỏng và phá hủy.

        Phi công Hoàng Biểu với những lần xuất kích bay vào tuyến trong, từ trên trời nhìn xuống, có lúc thấy lửa rực cháy suốt một cung đường. Anh biết rằng, cả đoàn xe vận tải của mình đã bị địch bắn cháy rồi. Bọn B-52 và C-130 hoạt động rất ngang nhiên vì chúng biết chúng đang làm chủ bầu trời. Lực lượng Phòng không của ta chưa có nên chúng “tác oai tác quái” ghê gớm lắm.

        Chính vì vậy mà việc hoạt động của Không quân ta là rất cần thiết.

        Bằng bất kỳ giá nào, máy bay ta cũng phải xuất kích. Và, cứ mỗi lần xuất hiện máy bay MiG, bọn C-130 và B-52 lại chạy dạt ra xa, không dám hoạt động, quấy nhiễu có khi đến cả tuần lễ liền. Khi ấy, địch chỉ dám dùng pháo kích bắn phá các tuyến đường vận chuyển của ta mà thôi.

        Một ngày, vài ngày hay một tuần hoặc hơn..., khi không có bọn máy bay địch oanh kích, đánh phá thì sự hy sinh, mất mát của cán bộ, chiên sĩ Trường Sơn giảm đi đáng kể. Mọi sự hoạt động trên tuyến đường cũng thuận lợi hơn rất nhiều. Các phi công đánh đêm thấu hiểu điều đó hơn ai hết và cũng chỉ có họ trong suốt thời gian dài đã lặng lẽ thực thi nhiệm vụ nặng nề ấy bằng mọi giá.

        Quá khứ sẽ ngày một lùi xa, nhưng huyền thoại về con đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh vẫn mãi mãi ngời sáng trong những trang sử vàng oanh liệt. Đấy là một thiên anh hùng ca về sức sáng tạo, sự bền bỉ và ý chí quật cường của dân tộc ta.

        Nếu như Van Geist ví tuyến đường như là “người mẹ trong gia đình, giấu mặt đi để các con được tuyên dương”... thì các phi công đánh đêm cũng lặng lẽ ẩn danh, chấp nhận những chuyên bay cảm tử để tuyến đường được thông suốt, để trở thành huyền thoại; lặng lẽ đóng góp phần nhỏ bé của mình vào thắng lợi chung: giải phóng miền Nam, thống nhất Đất Nước...

        Tuyến đường vận tải chiến lược - đường 559 đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm khảm của các phi công bay đêm. Những bài hát “Đường Trường Sơn xe anh qua”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Sợi nhớ sợi thương”... cùng những bài thơ “Tiểu đội xe không kính”, “Gửi em cô thanh niên xung phong”... là những bài mà các phi công bay đêm rất yêu thích, đồng thời cũng là “bài tủ” của các phi công bay đêm trong những buổi liên hoan văn nghệ...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Tư, 2020, 12:00:05 pm

NHỮNG TRẬN ĐÁNH ĐÊM. KHỞI ĐẦU NHỮNG CHUYẾN BAY CẢM TỬ

        Có thể nói trận đánh của Đại đội trưởng Đinh Tôn là trận đánh mở màn cho hàng loạt trận đánh đêm về sau này tuy đấy chỉ là trận đánh vào lúc hoàng hôn, vào lúc thời gian chuyển giao giữa ngày và đêm. Nhưng chính cái thời điểm chuyển giao ấy là lúc khó khăn nhất trong việc phát hiện và công kích mục tiêu, bởi đấy chính là thời điểm nhiều người bị “quáng gà”.

        Gần đây, tôi có dịp ngồi tâm sự với Trung tá Lại Văn Hiện - một cựu sĩ quan Quân báo. Khi nhắc đến chuyện đánh B-52 thì anh nói:

        - Việc nghiên cứu đánh B-52 nói cho đúng ra là từ năm 1968. Khi ấy, ta đã tổ chức một đội đầu tiên (gọi là đợt 1) gồm các anh: Hoàng Luyến, Lưu Văn Hối, Nguyễn Duy Trinh... vào tận gần Lao Bảo và ở đó đến mấy tháng liền để nghiên cứu quy luật hoạt động của chúng. Vì thiếu hoàn toàn rau xanh trong các bữa ăn nên khi ra ngoài này, mặt anh nào anh nấy phù to như cái mâm, trông ghê lắm! Tiếp đó đến đợt 2 thì gồm có các anh: Trần Thuyết, Nguyễn Văn Khổng, Trần Kim Tuấn và tôi vào đèo Mụ Giạ tiếp tục nắm bắt quy luật cùng thời gian hoạt động và đội hình bay của B-52. Phải nắm được “thằng” nào bay vào trước, “thằng” nào bay vào sau, rồi B-52 bay vào lúc nào. Khi thoát li khỏi khu chiến, chúng bay kiểu gì... Hồi đó, phương tiện của ta còn ít lắm, hễ trạm ra-đa nào mở máy là lập tức bị nhiễu ngay. Tìm thời cơ quả là khó. Tôi nhớ, khi ra ngoài này, Trưởng ban Quân báo là Lê Kỳ Mỹ phân công ngay tôi đến gặp và báo cáo Tư lệnh Nguyễn Văn Tiên. Thực tình, tôi rất ngại, nhưng Trưởng ban giục: “Cậu cứ đi đi!”. Tôi đành đến gặp Tư lệnh. Sau khi nghe tôi báo cáo chuyến đi công tác xong, Tư lệnh hỏi: “Theo cậu, ta có thể đánh được B-52 không?”. Tôi mạnh dạn trả lời: “Báo cáo Tư lệnh! Thú thực, nếu cứ như tình trạng thế này thì ta không thể đánh được, vì sân bay ta ở cự li xa quá, nêu ta bay cao vào thì các trạm ra-đa của địch phát hiện ngay và chúng sẽ bắn ta bằng tên lửa Talos từ các Hạm tàu và điều các tiêm kích chiến đấu “quây” ta luôn. Nếu ta bay thấp thì không đủ dầu liệu cho chiến đấu...”.Tư lệnh hỏi tiếp: “Vậy theo cậu nên thế nào?”. Tôi trả lời: “Ta cần phải có sân bay dã chiến càng gần chiến trường càng tốt và mọi chuyện chuẩn bị phải rất bí mật. Phải mật phục để tạo yếu tô bí mật bất ngờ. Khi ấy chắc sẽ đánh chặn được B-52!”.

        - Hồi ấy, có cả các phi công cũng vào đèo Mụ Giạ để nghiên cứu quy luật hoạt động của B-52, đúng không anh? - tôi hỏi.

        - Có chứ! Mà nhiều đấy! Có các phi công bay ngày, bay đêm, cả phi công MiG-21 và phi công MiG-17... Nói chung là đủ các thành phần. Phải nói một điều, “thằng” B-52 được bảo vệ kỹ càng lắm. Nó là một trong những “con bài chiến lược” của Mỹ mà. Tôi rất thông cảm, chia sẻ với các phi công bay đêm vì bay đêm vất vả, khó nhọc hơn bay ngày nhiều lắm! Đánh trận có phải là trò chơi trên giấy đâu! Bắn được bất kỳ một chiếc nào về ban đêm đã là kỳ công lắm rồi chứ nói gì đến B-52.

        Vào thời gian đó, Trạm ra-đa C-47 nhiều lần mở máy trong mấy tháng liền nhưng vì bị nhiễu nặng, không thể phát hiện được B-52. Đã có người kết luận rằng không thể phát hiện và càng không thể đánh được B-52. Vậy thực chất, B-52 có phải là “pháo đài bay bất khả xâm phạm” hay không?

        Đầu năm 1971, Binh chủng Không quân đã tổ chức Sở chỉ huy tiền phương (B-8) vào Quảng Bình để nghiên cứu đánh B-52. Sở chỉ huy B-8 do hai đồng chí Phó tư lệnh Binh chủng là Trần Mạnh và Trần Hanh phụ trách.

        Sau 3 tháng liên tục mở ra-đa và rút kinh nghiệm với 3 Đại đội ra-đa, việc phát hiện B-52 trong nhiễu đã tương đối rõ và ổn định. Sân bay dã chiến Đồng Hới đến lúc này cũng đã sửa xong, sở chỉ huy B-8 đề nghị Quân chủng cho MiG-21 đánh B-52.

        Các chuyến bay làm nhiệm vụ ban đêm hầu như đều cất cánh từ sân bay Đa Phúc, nhưng khi phát hiện được MiG cất cánh thì lũ B-52 lập tức bay thoát khỏi khu chiến. Chính vì vậy mà các phi công của Đại đội 5 chưa có dịp tiếp cận.

        Bộ tư lệnh Không quân quyết định thay đổi phương án: sẽ cho MiG bí mật xuất kích từ các sân bay phía trong, càng gần tiền phương bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

        Để thực thi phương án này, phi công Đinh Tôn - Đại đội trưởng Đại đội 5 được chọn lựa vì anh là phi công giỏi, dày dạn kinh nghiệm, có thể cất hạ cánh trên các sân bay ngắn hẹp với địa hình phức tạp, trong mọi điều kiện thời tiết.

        Anh Đinh Tôn nhận lệnh bí mật cất cánh từ sân bay Đa Phúc, bay trên độ cao 100 mét để tránh ra-đa địch phát hiện, vào hạ cánh ở sân bay Anh Sơn.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Tư, 2020, 02:09:37 pm

        17h29 phút đêm 4 tháng 10 năm 1971, anh Đinh Tôn bí mật cất cánh từ sân bay Anh Sơn, bay ở độ cao cực thấp, vào hạ cánh ở sân bay Đồng Hới lúc 17h55 phút.

        Khu vực Đồng Hới mấy ngày trước trời mưa tầm tã, nền đất trên đường băng nhão nhoét gây nhiều khó khăn cho việc cất hạ cánh, thêm nữa địch lại oanh kích liên tục. Trước đó, khoảng 2-3 giờ chiều, một biên đội 4 chiếc F-4 bay dọc sân bay Đồng Hới, ném 8 quả bom xuống sân bay, 4 quả nổ ngay, còn 4 quả vẫn nằm chờ nổ.

        Khi Đại đội ra-đa 41 phát hiện được tốp B-52 bay vào cách biên giới chừng 200 km, có những dấu hiệu sẽ đánh đường 20 và đường 12. Lúc 19h, sở chỉ huy lệnh cho anh Đinh Tôn vào cấp 1, sẵn sàng mở máy cất cánh.

        19hl3 phút, anh Đinh Tôn nhận lệnh xuất kích.

        Mặc cho hiểm nguy rình rập bởi bom có thể phát nổ bất cứ lúc nào, anh Đinh Tôn vẫn cất cánh sau đó kéo lên độ cao 11.000 mét. Địch gây nhiễu rất mạnh, ra-đa không thể bắt được mục tiêu, sở chỉ huy tính toán theo kiểu dẫn “mò”, thông báo khu vực mục tiêu cho anh Đinh Tôn tìm kiếm mục tiêu bằng mắt kết hợp với ra-đa trên máy bay. ít phút sau, anh Đinh Tôn phát hiện được ánh đèn màu nhấp nháy đang bay đối đầu với máy bay mình ở độ cao 9.000 mét. Anh lập tức giảm độ cao, lao xuống. Khi anh vừa lượn xuống thì các máy bay kia tắt đèn nhấp nháy, anh bị mất mục tiêu. Đúng thời điểm đó, các máy bay F-4 bay hộ tống lao đến phía máy bay anh. Vì dầu liệu trên máy bay còn ít nên sở chỉ huy lệnh cho anh thoát li khỏi khu chiến, về sân bay Thọ Xuân - Thanh Hóa hạ cánh.

        Đây là lần đầu tiên MiG-21 tiếp cận được đội hình B-52 đang đi ném bom ở vùng Hạ Lào.

        Trong trận này, ta giữ được bí mật cao nhờ cất cánh ở sân bay dã chiến gần khu vực đánh phá. Anh Đinh Tôn đã “cưỡi” trên lưng B-52 và nhìn thấy chúng bằng mắt thường, nhưng chưa có điều kiện bám sát, chưa phóng tên lửa vì đối đầu. Dẫn đường ở Sở chỉ huy B-8 dẫn bám đuôi nhưng do độ sai lệch của ra-đa trong vệt nhiễu còn lớn nên thành đổi đầu khi địch vòng lại. Dầu sao, với sự xuất hiện và tiếp cận của MiG đối với B-52 đã làm cho chúng cảm nhận được mối đe dọa trực tiếp và rất lo lắng, tìm chiến thuật đối phó. Giả dụ như trong trận đó, anh Đinh Tôn có điều kiện tiếp cận được gần hơn và đội hình B-52 không tắt đèn hàng hành thì khả năng anh bắn hạ được B-52 là rất lớn.

        Đây là trận tập dượt rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho những trận đánh sau này. Nó cũng đã gieo được niềm tin vào khả năng dẫn dắt được MiG tiếp cận B-52 và sẽ bắn hạ được B-52.

        Suốt giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 11, sau lần xuất kích của anh Đinh Tôn, sân bay Đồng Hới đã bị lộ và liên tục bị đánh phá. cần phải lựa chọn sân bay có đủ các điều kiện bí mật cất giấu máy bay, bí mật cất cánh và cự li đến khu chiến không được quá xa. Đồng thời phải tổ chức việc chỉ huy bổ trợ, giúp cho máy bay ta có thể bay thấp vào khu chờ về ban đêm. Song song với đó là phải tuân thủ nghiêm ngặt chê độ giữ bí mật liên lạc.

        Sân bay Anh Sơn (với mật danh B-4) đã được chọn làm sân bay cơ động để đánh B-52.

        Từ trận gặp đội hình B-52 của anh Đinh Tôn, Sở chỉ huy tiền phương đã nhận định rằng: phía Không quân Mỹ chắc chắn đã biết kế hoạch tiếp cận B-52 của MiG-21 và chắc chắn sẽ tìm biện pháp đối phó, như tăng cường lực lượng tiêm kích bảo vệ, tăng cường sử dụng các loại nhiễu, tăng cường cảnh giới sự xuất hiện của MiG V. V.

        Về phía ta cũng tìm mọi cách để làm sao phải khử được nhiễu, kết hợp giữa các trạm ra-đa để xác định chính xác tọa độ của B-52, tìm mọi phương án tối ưu để tiếp cận và bắn rơi được B-52.

        Các phi công bay đêm khi xuất kích phải bay thật thấp, không liên lạc với sở chỉ huy suốt quãng đường dài chừng 120 km để giữ bí mật. Đây là thử thách rất lớn đối với đội ngũ phi công bay đêm. Chặng đường vào khu chiến phải bay lọt giữa hai dãy núi Đại Huệ và Trường Sơn với địa hình rừng núi phức tạp. Bay ngày với hành trình này đã khó khăn, căng thẳng rồi, huống hồ trong đêm tối, bay ở độ cao thấp, rất dễ mất an toàn, lại phải im lặng suốt chặng đường nữa thì đúng là đòn tâm lí quá lớn, đòi hỏi sự dũng cảm phi thường. Nhưng vì nhiệm vụ, các phi công bay đêm phải chấp nhận mạo hiểm.

        Để đảm bảo bí mật tuyệt đối cho trận đánh, toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc được thay bằng mật ngữ số. Đồng thời, để đánh lạc hướng, “đánh lừa” hệ thống chỉ huy của Không quân Mỹ, sở chỉ huy tiền phương (B8) sẽ sử dụng một chiếc MiG bay nghi binh, tạo cơ sở cho bọn Mỹ tin rằng cũng như mọi khi, Không quân Việt Nam chỉ xuất kích một lần hoạt động ở chiến trường khu Bốn mà thôi.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2020, 04:04:36 pm

        Công tác chuẩn bị được các cấp kiểm tra tỉ mỉ cho tới lúc hoàn tất. Quyết tâm đánh B-52 đã được duyệt. Theo kế hoạch, hai chiếc MiG-21 của Trung đoàn Không quân 921 sẽ được cơ động vào khu Bốn - một chiếc đến sân bay Vinh và một chiếc đến sân bay Anh Sơn.

        Ngày 19 tháng 11, máy bay An-2 đưa hai phi công Hoàng Biểu và Nguyễn Ngọc Thiên vào sân bay Vinh (mật danh B2) và Trần Cung cùng Vũ Đình Rạng vào sân bay Anh Sơn.

        Ngày 20 tháng 11, hai phi công là Đặng Ngọc Ngự và Lương Thế Phúc chuyển 2 chiếc MiG-21 vào hai sân bay Vinh và Anh Sơn.

        Từ đêm 4 tháng 10 năm 1971, sau chuyến bay của anh Đinh Tôn, đám B-52 chỉ dám hoạt động ở cự li xa, ngoài tầm với của MiG-21, nhưng chừng một tháng sau, khi thấy MiG không xuất kích, chúng lại bắt đầu hoạt động trở lại theo phương án cũ.

        Qua một thời gian nghiên cứu quy luật hoạt động của máy bay B-52 khi có MiG hoạt động ở khu vực chiến trường “cán xoong” khu Bốn, ta đã rút ra kết luận: Khi có MiG hoạt động, các tốp B-52 đều bay ra khỏi khu vực đường 559 vào phía Tây Quảng Bình - Quảng Trị, sau đó chừng 10 - 20 phút lại tiếp tục bay vào đánh phá đường giao thông của ta. Vì vậy, chủ trương của ta sẽ cho một chiếc cất cánh trước để bộc lộ lực lượng cho bọn B-52 quay ra, sau chừng 20 phút khi chúng quay vào thì kíp trực sau sẽ xuất kích và đấy mới là lực lượng đánh chính. Nhưng dù cất cánh trước hay sau, khi có điều kiện là phải chớp thời cơ, tấn công ngay.

        Đêm 20 tháng 11 năm 1971, sau khi nghiên cứu, đánh giá tình hình địch, các sở chỉ huy đều nhận định thống nhất một điều là rất nhiều khả năng B-52 sẽ hoạt động đánh vào các tuyến đường 12 và 20 trong đêm nay.

        Phi công Hoàng Biểu trực ban chiến đấu tại sân bay Vinh và phi công Vũ Đình Rạng trực ban chiến đấu trên sân bay Anh Sơn đều nhận lệnh sẵn sàng xuất kích đánh địch.

        Cho tới thời điểm này, rất nhiều chủng loại máy bay của Không quân, Hải quân Mỹ bị Không quân ta bắn rơi, nhưng chưa hề có chiếc “pháo đài bay” nào bị bắn hạ cả. Chính vì vậy, việc tiêu diệt B-52 không chỉ mang ý nghĩa rất lớn về chiến thuật và chiến dịch quân sự mà còn mang ý nghĩa quan trọng về chính trị đối với toàn cục trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

        Nhận định, phán đoán của chúng ta hoàn toàn chính xác. Vào lúc 19h30 phút, các trạm ra-đa phát hiện được B-52 hoạt động ở khu vực Savanakhet.

        Lúc 20h, Tư lệnh Quân chủng thông báo cho Sở chỉ huy tiền phương (B8) biết rằng: theo tin tình báo chiến lược: 20h45 phút, “pháo đài bay” sẽ hoạt động ở Bắc Sê-Pôn 60 km.

        Phó tư lệnh Trần Mạnh trực ở sở chỉ huy tiền phương lập tức cho chuyển cấp và lệnh cho 3 trạm ra- đa (C-41, C-37 và C-45) cùng mở máy theo dõi. Khi mở máy, Đại đội 41 (Đại đội dẫn chính) bị chập IKO nên vừa mở máy chiến đấu, vừa sửa chữa. Đến 20h25 phút, màn IKO điều chỉnh tốt. Tất cả đã sẵn sàng.

        Phi công Vũ Đình Rạng trực ban chiến đấu trên sân bay Anh Sơn.

        Sân bay Anh Sơn là sân bay ngắn hẹp, với cự li 1.800 mét chiều dài và 27 mét chiều rộng, có được trang bị đèn dạ hàng và đèn chiếu phục vụ cho bay đêm.

        Vào lúc 20h30 phút, phi công Vũ Đình Rạng nhận lệnh chuyển cấp 1 và xuất kích chiến đấu lúc 20h40 phút.

        Vũ Đình Rạng lặng lẽ bay đến khu vực Tân Ấp theo phương án đã chuẩn bị. Khi kíp dẫn đường ở sở chỉ huy tiền phương xác định được vị trí tương quan giữa MiG và B-52 và thấy rằng hoàn toàn đủ điều kiện để dẫn đánh bọn B-52 trước khi chúng bay đến đường 20 ném bom mục tiêu, bấy giờ mới nối liên lạc đôi không với phi công. Lúc ấy là 20h49 phút.

        Phi công Vũ Đình Rạng nhận lệnh vòng gấp bay về hướng 230 độ, tốc độ bay 900 km/h, lấy lên độ cao 3.000 mét. Sau 3 phút, anh được lệnh vứt thùng dầu phụ, tăng tốc độ lên 950 km/h, bay hướng 160 độ. Sau đó, Sở chỉ huy thông báo mục tiêu ở phía trước 60 km và lệnh cho Vũ Đình Rạng bật tăng lực kéo lên độ cao 10.000 mét. Lúc 20h55 phút, sở chỉ huy thông báo mục tiêu ở bên phải 30 độ, cự li 25 km sau đó cho Vũ Đình Rạng vòng trái, bay hướng 90 độ và khi đến cự li 15 km cách mục tiêu thì cho bật ra-đa trên máy bay.

        Sau khi bật ra-đa trên máy bay, Vũ Đình Rạng lập tức phát hiện được 3 mục tiêu bay theo đội hình bậc thang bên phải, ở cự li 11 km. Thời khắc khi Vũ Đình Rạng báo cáo phát hiện mục tiêu, cả sở chỉ huy hồi hộp chờ đợi nghe tin qua đối không việc công kích và báo chiến công của Vũ Đình Rạng. Tiếp cận đến cự li 8 km, Vũ Đình Rạng nhận được lệnh tăng tốc độ đến M=l,3 (hơn 1.400 km/h) và công kích chiếc thứ nhất. Từ Sở chỉ huy B-8, đồng chí Trần Hanh nhắc nhỏ:

        - Bình tĩnh công kích!

        - Nghe rõ! - Vũ Đình Rạng trả lời.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Tư, 2020, 05:32:11 am

        Vũ Đình Rạng ấn nút “bám sát”, đưa mục tiêu vào giữa tâm ngắm và đến cự li 2,5 km, anh ấn nút phóng quả tên lửa bên trái. Tên lửa rời khỏi bệ phóng, anh kéo máy bay sang bên phải thoát li với độ nghiêng lớn. Lúc này, anh lại phát hiện được 1 chiếc khác với ánh đèn đang nhấp nháy trên cánh. Kiểm tra trên ra-đa thấy báo cự li 3 km, anh quyết định tiếp tục công kích. Sau khi chỉnh hướng, anh ấn nút “bám sát” và thấy điểm ngắm đã ổn định, anh ấn nút phóng tiếp quả tên lửa thứ hai rồi kéo máy bay thoát li về phía bên phải.

        Sở chỉ huy tiền phương dẫn anh về cho hạ cánh ở sân bay Anh Sơn.

        Vũ Đình Rạng tiếp đất an toàn trên sân bay Anh Sơn lúc 21hl5 phút, dầu liệu còn 800 lít.

        Từ lúc nghe phi công Vũ Đình Rạng báo cáo phát hiện mục tiêu, tất cả mọi thành phần trong kíp trực ở Sở chỉ huy hôm đó đều trong tâm trạng căng thẳng chờ câu “Cháy rồi!” được phát ra. Nó cũng giống như khán giả trên sân vận động bóng đá nín thở theo dõi trận đấu khi đội nhà đứng sút phạt quả “pê-nan-ti” 11 mét chuẩn bị nhảy dựng hết lên, hét vang: “Vào!”. Nhưng, bóng lại không vào lưới!...

        Những nhà bình luận bóng đá thường nói: “Giữa anh hùng và kẻ tội đồ chỉ cách nhau gang tấc!”.

        Biết rằng “mọi sự so sánh đểu khập khiễng”, nhưng người đời vẫn cứ so sánh như thế!

        Trận đêm 20 tháng 11 là trận với cơ hội ngàn hăm có một. Mọi phương án chiến đấu đưa ra đều chính xác, toàn bộ công tác tổ chức chỉ huy từ việc đảm bảo bí mật bất ngờ, đến việc phát hiện mục tiêu, dẫn dắt... đều triển khai đồng bộ, tạo điều kiện giúp cho phi công có điều kiện thuận lợi nhất để công kích.

        Tuy chiếc B-52 này không rơi tại chỗ, nhưng nó đã bị thương, nó không thể về hạ cánh ở sân bay chính được mà phải lết về hạ ở Nakhon Phanom, Thái Lan. Sau này nghe đâu phải hủy bỏ vì không thể sửa chữa được. Đội hình 3 chiếc của nó hôm đó cũng buộc phải từ bỏ đợt tấn công các mục tiêu mặt đất.

        Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, “pháo đài bay bất khả xâm phạm” đã bị máy bay MiG-21 công kích, bị trúng tên lửa không đối không.

        Trận đánh này là bài học rất quý giá giúp cho các thành phần từ chỉ huy các cấp đến các sĩ quan Sở chỉ huy, các phi công... tìm ra được phương án tiếp cận và bắn rơi tại chỗ B-52 vể sau này.

        Khi tổ chức rút kinh nghiệm trận đánh tại sân bay Anh Sơn, Phó Tư lệnh Trần Mạnh đã kết luận:

        1. Trận đánh B-52 đêm 20-11-1971 là một trận đánh lí tưởng về mặt tổ chức chỉ huy và bảo đảm mặt đất đã được rút kinh nghiệm ở sở chỉ huy B-8.

        2. Ta đã tập trung nghiên cứu kỹ lưỡng và đã tạo được yếu tố bí mật bất ngờ cao làm cho địch không kịp đối phó trong vòng 30 phút xảy ra trận đánh.

        3. Ra-đa dẫn đường C-41 phát hiện mục tiêu ta và địch tốt, đảm bảo dẫn đường liên tục và chính xác.

        4. Thông tin liên lạc trên, dưới và các đài trạm thông suốt, giữ nghiêm mọi quy định, không lộ liễu.

        5. Bảo đảm hậu cần mặt đất của sân bay Anh Sơn tốt trên tất cả các khâu. Không có gì sai sót lớn. Đã tạo điều kiện cho trận đánh thành công.

        6. Người lái có nhiều cố gắng trong công tác chuẩn bị bay theo phương án. Giai đoạn đầu đã thực hiện đúng yêu cầu tự bay thấp một đoạn đường dài trên 120 km ban đêm tối trời, trên địa hình rừng núi phức tạp ở khu Bốn. Đường bay gần dãy núi Đại Huệ (Nghệ An) và dãy Trường Sơn (Hà Tĩnh). Nhờ chuẩn bị kỹ cho nên đã bay đúng đường bay và độ cao đã quy định trong phương án. Giai đoạn dẫn đường cho lên cao và tiếp địch đã chấp hành chính xác mọi khẩu lệnh chỉ huy từ sở chỉ huy mặt đất. Sử dụng ra-đa trên máy bay và phóng quả tên lửa thứ nhất điều kiện tốt.

        7. Kết luận: Quả tên lửa thứ nhất phóng trúng B-52.

        Quả thứ hai không trúng vì có gia trọng tương đối lớn.

        Mặc dù đã có kết luận về trận đánh như vây, nhưng sau đêm 20 tháng 11 năm 1971, cũng vì chưa đủ mọi nguồn thông tin cần thiết, một số người, trong đó có cả lãnh đạo, chỉ huy đã đặt câu hỏi lên đầu Vũ Đình Rạng. Chừng như họ nghi ngờ phi công Vũ Đình Rạng có tư tưởng dao động.

        Sự ngờ vực ấy đè nặng lên tâm lí Vũ Đình Rạng cho đến tận nhiều năm sau này.

        47 năm sau trận đánh đêm ấy, vào đầu tháng 10 năm 2018, nhờ tài năng tổ chức của các anh Nguyễn Đức Soát, Nguyễn Sỹ Hưng..., các cựu phi công Mỹ và cựu phi công Việt Nam - những đối thủ từng chạm trán nhau trên trời trước đây, nay lại có dịp gặp lại nhau trên mặt đất.

        Lần gặp này là lần gặp thứ 3 (lần đầu tiên vào năm 2016 tại Việt Nam, lần thứ hai vào năm 2017 tại Mỹ và lần thứ ba này tại Việt Nam).


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Tư, 2020, 07:30:34 am

        Trong lần gặp thứ ba này, số lượng và thành phần cựu phi công Mỹ nhiều hơn, đa dạng hơn, có đến 15 cựu phi công Mỹ và có thêm các thành phần lái F-104, F-105, đặc biệt, có cả cơ phó của chiếc B-52 bay trong đêm 20-11-1971.

        Những cuộc gặp này đúng là những cuộc gặp mang tính lịch sử. Từ xưa tới giờ, qua nhiều cuộc chiến tranh với nhiều trận không chiến diễn ra nhưng chưa bao giờ có được cuộc gặp gỡ giữa các địch thủ như thế này. Chắc chắn các cựu phi công trong thế chiến thứ hai giữa Đức và Liên-xô, Đức và các nước đồng minh, rồi trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến tranh ở Ap-ga-nix-tan... các đối thủ của nhau ở trên trời không hề gặp được nhau dưới mặt đất.

        Trong lần này, cơ phó của chiếc B-52 đêm 20- 11-1971 - Dave R.Volker đã có cơ hội tiếp xúc với Vũ Đình Rạng, người từng bắn mình trước đây. Sau đó, Dave Volker còn được chương trình truyền hình “Quốc hội Việt Nam” phỏng vấn. Dave R.Volker đã nói rằng: “Tôi thực sự ấn tượng bởi lòng dũng cảm và kỹ năng chiến đấu của phi công Việt Nam. Tuy không có được những trang bị tốt, nhưng phi công Việt Nam vẫn làm được những điều trước đây chưa ai làm được. Phi công Việt Nam thực hiện mệnh lệnh thật tuyệt vời...”.

        Trong cuộc gặp, Dave Volker sau khi trình bày lại phi vụ của mình trong đêm 20 tháng 11 xong, đã nói với phi công Vũ Đình Rạng: “Tôi cám ơn ông vì ông đã cho tôi có cơ hội gặp ông. Ông là người đầu tiên trên thế giới đã tấn công được “pháo đài bay” của chúng tôi. Rất thú vị khi tôi còn sống sót. Tôi và cả tổ bay của tôi nợ ông bằng chính mạng sống của mình! Một lần nữa xin được cám ơn ông!”...

        Tôi và chắc chắn nhiều người khác nữa phải suy nghĩ về câu nói ấy.

        Qua Dave R. Volker mới biết thêm được một điều là sau đêm 20-11-1971, một chỉ huy của Volker - Tướng 2 sao đã bị kỷ luật vì đã không tìm cách bảo vệ được B-52, đã để cho MiG tấn công.

        B-52 cũng đã phải lui về hoạt động ở phía Nam đường 9, mọi việc đánh phá phía Bắc đường 9 giao cho C-130 và F-4J đảm nhận một thời gian dài tới mấy tháng trời.

        Cũng từ đó, mỗi phi vụ của B-52 đều được bảo vệ cẩn trọng: tăng cường từ hệ thống nhiễu các loại dày đặc đến các loại máy bay tiêm kích yểm hộ.

        Khi chương trình truyền hình phỏng vấn Trung tướng, phi công Trần Hanh, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng về trận đánh đêm 20-11-1971 ấy, Trung tướng Trần Hanh đã nói: “Đây là lần đầu tiên MiG tiếp cận B-52 và khẳng định được rằng MiG-21 hoàn toàn có thể đánh được B-52. Qua trận này, tuy không bắn hạ B-52 tại chỗ nhưng đã rút ra được những kinh nghiệm dẫn dắt, tìm ra được cách đánh và chuẩn bị kỹ lưỡng cho chiến dịch 12 ngày đêm sau này".

        Còn Đại tá Nguyễn Văn Chuyên, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cựu dẫn đường của Không quân, người từng dẫn chính trong trận đêm 20-11-1971 phát biểu: “Trận đánh này có tác dụng rất lớn cho chiến dịch Quảng Trị, giúp cho việc vận chuyển vũ khí, khí tài, vận chuyển quân được thuận lợi, góp phần lớn vào chiến dịch. Các Đại đội ra-đa cũng đã rút ra được kinh nghiệm phát hiện B-52 trong mọi tình huống và với Không quân là bài học về phương pháp tiếp cận, sử dụng vũ khí. Phía Mỹ sau trận này cũng đã có nhận định sai lầm: chỉ chăm chú đối phó với Không quân mà xem nhẹ tên lửa Phòng không nên trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 đã bị tên lửa Phòng không bắn hạ nhiều.

        Có một điều, mọi thiệt hại với các loại máy bay khác thì phía Mỹ công bố ngay qua đài BBC, nhưng riêng trận đêm 20-11 này thì lại im lặng tuyệt đối. Các thủ trưởng của ta tùy thuộc vào từng cương vị được nghe đài BBC để lấy thêm thông tin so sánh cũng không biết được gì hơn. Chính vì vậy mà ta không biết được cụ thể kết quả trận đánh đêm hôm ấy. Cũng là sự thiệt thòi!...”.

        Trận đánh đêm 20-11-1971 chắc sẽ còn được phân tích nhiều hơn nữa, đánh giá nhiều hơn nữa. Riêng với phi công Vũ Đình Rạng, sau lần gặp gỡ các cựu phi công Việt - Mỹ vào đầu tháng 10 năm 2018 vừa rồi, anh đã phần nào giải tỏa được tâm lí nặng nề bấy lâu nay từng gánh chịu...

        Trở lại năm 1971.

        Trở lại đêm 20 tháng 11. Anh Hoàng Biểu trực ban chiến đấu tại sân bay Vinh đã nhận lệnh xuất kích lúc 20h55 phút, tức là sau anh Vũ Đình Rạng 15 phút. Khi anh Hoàng Biểu bay đến Tân Ấp thì sở chỉ huy tiền phương không giữ bí mật qua đối không theo như quy định nữa mà thông báo rõ cho anh biết là phi công Vũ Đình Rạng đã gặp và bắn B-52, đồng thời lệnh cho anh quay ra, lên độ cao về sân bay Đa Phúc hạ cánh.

        Trận đêm 20-11 là trận đánh cuối cùng về đêm, (đánh ngày thì trận không chiến ngày 26-12 là trận cuối cùng) kết thúc năm 1971, kết thúc giai đoạn ném bom hạn chế, chuẩn bị bước sang năm 1972, một năm với các chiến dịch đường không ác liệt nhất.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Tư, 2020, 11:28:12 am

        Tính đến thời điểm này, sau mấy năm thành lập, các phi công lớp đầu tiên của Đại đội 5 đã “ngót” dần: Trung đội trưởng Nguyễn Văn Thuận thôi bay, Trần Ngọc Nhuận thôi bay, Nguyễn Cát A thôi bay, Nguyễn Văn Quang thôi bay, Nguyễn Công Huy chuyển sang bay ngày, Nguyễn Hồng Mỹ chuyển sang bay ngày... Số phi công bay đêm còn lại chưa đến chục người.

        Cho dù liên tục các phi công bay ngày ở các Đại đội khác được chuyển sang huấn luyện đêm để tăng cường sức chiến đấu về ban đêm, nhưng thực ra vẫn không thể đủ cho yêu cầu nhiệm vụ.

        Phi công Nguyễn Khánh Duy thuộc lớp bay đêm thứ 3 của Đại đội 5 nhớ lại:

        - Chúng tôi vừa tốt nghiệp MiG-21 ở Liên-xô về được mấy ngày thì Mỹ tổ chức cuộc tập kích Sơn Tây giải cứu phi công, về phía ta, tuy tình hình thiếu phi công trầm trọng nhưng do khí tài thiếu thốn, chúng tôi phải vào bay từng người một. Lực lượng bay đêm lúc bấy giờ rất mỏng. Các phi công dày dạn kinh nghiệm như Đại đội trưởng Đinh Tôn, Đại đội phó Hoàng Biểu vừa phải làm nhiệm vụ chỉ huy đơn vị, chỉ huy bay, vừa phải làm nhiệm vụ của phi công chiến đấu đêm. Vì vậy, cuộc sống riêng tư ai cũng phải gác lại và chịu thiệt thòi, nhất là quan hệ bạn bè, yêu đương. Ngày ấy chúng tôi còn rất trẻ nên dễ vượt qua nhưng còn các anh lớp trước phải để lại những người vợ trẻ mới cưới hoặc sắp cưới, hoặc người yêu... thì đều khát khao cháy bỏng. Các anh chính trị viên có quy định bất thành văn là phi công cứ phải từ 28 tuổi trở lên mới được lấy vợ. Thủ trưởng của chúng tôi bấy giờ là anh Hoàng Biểu đã đến tuổi 28. Anh khi ấy đã mang hàm Đại úy. Với chúng tôi, đấy là quân hàm cao nên chúng tôi luôn thấy anh già lắm và thêm phần kính trọng. Sau thời gian chờ đợi rất dài, nay mới đến được bến bờ hạnh phúc. Chúng tôi bàn nhau gom các tiêu chuẩn nhu yếu phẩm có thể dùng được cho việc cưới hỏi để nhường anh, nhưng sang lắm thì cũng chỉ được ít kẹo Hải Châu và ít thuốc lá Tam Đảo hoặc Điện Biên bao bạc mà thôi. Mà cứ theo văn bản bất thành văn ấy thì ngay lứa chúng tôi cũng phải 5-6 năm nữa mới được lấy vợ. Liệu trong thời gian chiến tranh căng thẳng và xa nhau biền biệt, phi công nào có bạn gái rồi thì “người ấy” có chờ đợi được hay không. Bản thân tôi cũng rơi vào tình huống khó xử ấy nên đành phải chia tay với người bạn gái tuổi 22. Cũng may là văn bản bất thành văn kia cũng đến được tai bạn gái tôi nên được thông cảm phần nào. Cô bạn gái tôi xinh xắn, lại có công việc ổn định nên cũng đắt chồng. Tôi cũng thấy mừng cho cô. Ngày ấy chúng tôi trân quý tình yêu đôi lứa hơn bây giờ. Kỷ niệm duy nhất tôi lưu giữ, luôn mang theo cho đến hết cuộc chiến tranh là chiếc vỏ gối màu trắng thêu câu thơ bằng chỉ màu xanh: “Hai con chim con đậu con bay. Anh Duy của V... hăng say luyện rèn”. Cũng từ đó, ngoài các chị em nuôi quân ở đơn vị hàng ngày chăm lo cho chúng tôi, ít ai có được sự chăm lo của bạn gái. Chúng tôi hay xì xào, bí mật nói với nhau rằng tổ chức nuôi mình theo kiểu nuôi gà chọi, phải gác lại tất cả để luyện võ. Tôi “ở vậy” đến gần 10 năm sau mới lấy vợ tôi bây giờ. Sự thiệt thời này cũng là sự hy sinh cho một nghề cao quý, đó là: phi công tiêm kích chiến đấu.

        Thế rồi khí tài và xăng dầu cũng đã kịp về, đảm bảo cho hoạt động bay. Chúng tôi bay ngày với một số bài cơ bản rồi chuyển sang bay đêm ngay. Sau một thời gian ngắn, chúng tôi đã bay hết chương trình huấn luyện đêm. Kết thúc chuyến bay đánh chặn 1 chiếc ban đêm trong điều kiện thời tiết phức tạp là tôi được vào trực ban chiến đấu...

        Đúng! Sự chia tay luôn là đề tài lớn! Với đội ngũ phi công tiêm kích, chuyện của Nguyễn Khánh Duy không phải là trường hợp đơn nhất!...

        Càng gần những ngày cuối năm 1971, tuy cường độ các trận đánh của Không quân và Hải quân Mỹ ra miền Bắc có giảm nhưng mang nhiều dấu hiệu căng thẳng. Nó báo trước cho thấy rằng năm sau sẽ là năm rất ác liệt, nhất là khi trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Quân giải phóng tiếp tục triển khai các chiến dịch trên toàn mặt trận sau sự kiện “Mùa hè đỏ lửa” ở Quảng Trị.

        Năm 1972 là năm Nixon tái tranh cử. Với cuộc chiến tranh ở Việt Nam thì chuyển chiến lược từ can dự trực tiếp sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Hội nghị Paris không đạt được thỏa thuận. Cuộc gặp giữa Nixon với Tổng bí thư L. Brêgiơnep cũng thất bại. Mỹ đứng trước một loạt các diễn biến bất lợi. Vì vậy, Mỹ bắt buộc phải tính toán chuyện phong tỏa các cảng biển của miền Bắc Việt Nam bằng mìn, thủy lôi... và đánh chặn các tuyến đường giao thông huyết mạch nhằm cắt đứt các nguồn viện trợ từ các nước vào Việt Nam và từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam.

        Không quân Mỹ cũng được tăng cường cả về số lượng máy bay, trang bị vũ khí mới, được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn về chiến thuật và kỹ thuật không chiến cùng cách đánh phá.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Tư, 2020, 04:44:43 pm

        Phía Việt Nam cũng đã sẵn sàng và quyết tâm bằng mọi giá giành được thắng lợi trong những chiến dịch mang tính quyết định. Bộ Tổng tư lệnh tối cao đã yêu cầu các lực lượng, trong đó Quân chủng Phòng không - Không quân làm nòng cốt nghiên cứu các phương án đánh B-52.

        Thực chất, các phương án đánh B-52 đầu tiên đã được soạn thảo từ năm 1968 và đến giữa năm 1972 đã hình thành phương án kế hoạch đánh B-52 của Quân chủng Phòng không - Không quân rồi.

        Nhiệm vụ chiến lược của Không quân Việt Nam ở giai đoạn này là: “tập trung lực lượng bảo vệ Hà Nội, tiêu diệt nhiều máy bay địch, bắt giặc lái, nhất là B-52; bảo vệ mạch máu giao thông, chi viện chiến lược...”

        Đầu năm 1972, khi Trung đoàn Không quân tiêm kích 927 được thành lập, các phi công của Đại đội 5 là: Trần Cung, Vũ Xuân Thiều, Trần Thông Hào, Nguyễn Ngọc Thiên, Trần Anh Mỹ, Lưu Văn Hĩnh được điều động làm nòng cốt cho Trung đội bay đêm của Trung đoàn mới thành lập này.

        Vậy là, cho đến năm 1972, ta đã có 4 Trung đoàn Không quân tiêm kích (hai Trung đoàn sử dụng máy bay MiG-21, một Trung đoàn sử dụng máy bay MiG- 19 và một Trung đoàn sử dụng máy bay MiG-17).

        Các Trung đoàn Không quân tiêm kích trong đó có các phi công bay đêm, đánh đêm đã sẵn sàng quyết chiến trong một năm có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến tranh Việt Nam.

        Đỉnh điểm của nó sẽ là Chiến dịch 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, chiến dịch cuối cùng và quyết định thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của Không quân và Hải quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam.

        Tuy tình hình ngày càng căng thẳng nhưng lực lượng trực đêm cũng chỉ có 2 chiếc: 1 trực chính thức và 1 dự bị.

        Những trận đánh đêm đầu tiên trong năm 1972, như các đêm mồng 8, 17, 21 tháng 2, mặc dù các kíp trực ban dẫn đường đã nỗ lực tìm mọi cách dẫn MiG-21 vào tiếp cận khi địch luôn cơ động nhưng vì kinh nghiệm dẫn đánh đêm còn ít nên chưa tạo được điều kiện cho MiG lập chiến công.

        Đêm mồng 1 tháng 3 năm 1972, hai phi công Phạm Tuân và Đặng Vân Đình trực ban chiến đấu. Đây là đêm trực ban chiến đấu đầu tiên của Đặng Vân Đình, cả hai phi công cùng chuyển cấp 1 và Đặng Vân Đình xuất kích trước Phạm Tuân khoảng 3-4 phút. Lúc này, địch đang hoạt đông ở khu vực Mường Lát (phía Nam Mộc Châu) và Mường Xìa (phía Nam Mường Lát). Phi công Đặng Vân Đình được dẫn ra khu chiến để đánh chặn địch.

        Theo tài liệu tra cứu thì đêm ấy, chiếc F-4D được trang bị hệ thống tác chiến điện tử Tree Combat do Trung tá Joseph w. Kittinger và Trung úy nhất Leigh A. Hodgdon thuộc Phi đoàn 555, Không đoàn 432 TFW điều khiển đã sử dụng tên lửa điều khiển bắn 3 quả liên tục, hai quả trước không trúng, đến quả thứ ba thì trúng máy bay của Đặng Vân Đình.

        Sau này, khi Kittinger tiếp tục bay vào đánh phá các mục tiêu trên miền Bắc Việt Nam, đã bị phi công Ngô Văn Phú bắn rơi và Kittinger bị bắt. Đến thời điểm ấy, Kittinger đã tích lũy được hơn 7.000 giờ bay, còn Trung úy phi công Ngô Văn Phú mới có hơn 300 giờ bay.

        Phạm Tuân xuất kích chiến đấu sau Đặng Vân Đình 3-4 phút, nhưng lại ở kênh liên lạc khác nên không biết sự cố xảy ra với Đặng Vân Đình. Khi Tuân được lệnh chuyển kênh liên lạc sang kênh của Đình để gọi Đình thì không thấy trả lời. Phạm Tuân đã phán đoán: Đình có vấn đề.

        Khi biết Đình bị địch bắn, phải nhảy dù, Phạm Tuân trăn trở cả đêm không ngủ được và lẳng lặng ghi vào sổ nhật ký của mình:

        “Đêm đầu tháng, tao cùng mày kích
        Số chẳng may, mày bị địch bắn rơi
        Thương mày, thương quá đi thôi
        Hai mươi tư tuổi, cuộc đời đang xuân
        Mày ra đi giữa tuần trăng sáng
        Tao nhớ mày, thức trắng đêm thâu
        Nếu như nó bắn đối đầu ...
        Chúc mày ngon giấc rừng sâu Hòa Bình
        Thương mày, ơi Đặng Vân Đình !..."


        Tôi không biết Đặng Vân Đình có biết bài thơ này không, còn riêng tôi, tôi đã được đọc những dòng này rồi.

        Về chuyện nhảy dù thế nào, anh Đình sẽ kể sau.

        Vậy là, trận đêm 1 tháng 3 năm 1972, ta bị bắn rơi 1 máy bay. Phi công Đặng Vân Đình đã nhảy dù và được dân bản cứu, 3 ngày sau thì về đến đơn vị.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Tư, 2020, 04:35:53 pm

        Đêm 30 tháng 3 năm 1972, thời tiết tại sân bay Vinh rất xấu. Gió mùa về nên ở khu vực này luôn có mưa nhỏ, mây thấp và tầm nhìn rất kém. Phi công Hoàng Biểu trực ban chiến đấu trên sân bay Vinh. Vào thời gian ấy, trực ban chiến đấu là trực ngay dưới cánh máy bay. Khi chưa có lệnh báo động thì có thể nằm nghỉ trên chiếc cáng cứu thương đặt ở cạnh máy bay. Khoảng 2h sáng, sở chỉ huy tiền phương nhận lệnh trên, cho anh Hoàng Biểu chuyển cấp, cất cánh. Tư lệnh phó Trần Mạnh trực chỉ huy nói với sĩ quan dẫn đường Tạ Quốc Hưng:

        - Dẫn cho bay vào sâu nhất có thể và về hạ cánh với lượng dầu dự bị tối thiểu!

        Anh Tạ Quốc Hưng hiểu rằng, chuyên bay này không phải là chuyến bay “săn” B-52 như mọi khi, nó mang ý nghĩa gì rất đặc biệt, nhưng đặc biệt thế nào thì anh không dám hỏi.

        Anh Hoàng Biểu mở máy, cất cánh. Máy bay của anh đeo 2 thùng dầu phụ (mỗi thùng chứa 490 lít) trong khi đường cất hạ cánh thì ngắn, anh phải cố gắng điều khiển và liều nhấc máy bay cho tách đất ở tốc độ nhỏ. Máy bay rời đất một cách khó nhọc. Chưa đến độ cao thu càng, máy bay đã chui vào mây. Thông thường, theo phương án chiến đấu thì phải bay rất thấp và phải giữ bí mật liên lạc qua đối không, nhưng lần này, ngay sau khi cất cánh, sở chỉ huy đã ra khẩu lệnh qua đối không và cho lấy độ cao lên 8.000 mét.

        Trong Sở chỉ huy tiền phương, anh Tạ Quốc Hưng đánh dấu thời gian lên bản đồ: G + 6 phút là ngang Đồng Hối, G + 12 phút là đến Huế, G +... là đến Đà Nẵng với tâm trạng ngày càng lo lắng không biết thời điểm nào cấp trên sẽ cho lệnh anh Hoàng Biểu quay về và sẽ quay về như thế nào. Đúng thời gian ấy, phía Không quân Mỹ cũng đã biết Không quân Việt Nam sử dụng MiG khả năng đi tìm diệt C-130 dọc theo biên giới Việt-Lào nên đã cho 2 chiếc F-4D từ Thái Lan sang để đánh chặn MiG. Anh Tạ Quốc Hưng lập tức nhận được chỉ thị tập trung vào việc yêu cầu ra-đa dẫn đường theo dõi địch.

        Anh Hoàng Biểu cũng nhận được lệnh từ sở chỉ huy:

        - Bật tăng lực, lấy độ cao lên 14.000 mét, vòng 2 vòng ở độ cao này, sau đó xuống độ cao 6.000 mét vòng một vòng, xuống độ cao 2.000 mét vòng tiếp một vòng nữa rồi lấy độ cao bay ra!

        - Nghe rõ! - anh Hoàng Biểu trả lời và điều khiển máy bay bay theo đúng yêu cầu.

        Sau khi lấy đủ độ cao, anh Hoàng Biểu vòng 2 vòng rồi cho máy bay lao xuống đến độ cao 6.000 mét và 2.000 mét, vòng tiếp theo như mệnh lệnh đã giao, anh được dẫn về với những hướng bay rất zic- zăc. Anh biết mình đã bị tiêm kích địch đuổi theo và Sở chỉ huy đang dẫn anh tránh chúng.

        Thời kỳ đó, ta đã lắp đặt được một đài xa ở ngã ba Vọt. Anh Hoàng Biểu được dẫn về hạ cánh ở sân bay Vinh, nhưng càng gần sân bay, thời tiết càng xấu, thật khó hạ cánh trực tiếp, nhất là ở phía đầu Bắc sân bay lại có điểm cao 200 mét. Khi nhận được tin thời tiết tại sân bay Anh Sơn có khả năng tiếp thu hạ cánh được, sở chỉ huy dẫn anh Hoàng Biểu về Anh Sơn, nhưng ở đây, anh Hoàng Biểu lượn đi lượn lại đến 2 vòng mà vẫn không thấy sân bay. Anh Tạ Quốc Hưng thấy dầu liệu của anh Hoàng Biểu không còn nên đề nghị dẫn anh bay xuống phía đường 7 để nhảy dù.

        Anh Hoàng Biểu nhảy dù an toàn xuống khu vực thuộc huyện Yên Thành, còn máy bay rơi xuống bãi cát bên kia đường 1 thuộc địa phận huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

        Sau khi tiếp đất trên ruộng khoai, anh Hoàng Biểu lần tìm đến được sân của Hợp tác xã. Anh được đón tiếp và rồi được đưa về sở chỉ huy ở Đại Huệ. Ở đây, anh được Tư lệnh Lê Văn Tri và Chính ủy Hoàng Phương gặp gỡ, động viên. Chính ủy Hoàng Phương nói:

        - Đây là chuyên bay cảm tử mà cậu đã được giao và đã được thực hiện. Chúng tớ biết khi cậu cất cánh thời tiết rất xấu, khi trở về khó mà hạ cánh được, nhưng cậu nên hiểu rằng, sáng sớm hôm nay, ta đã mở màn chiến dịch Quảng Trị. Cậu đi để đe dọa các tốp B-52, không cho chúng bay vào khu vực Tây Quảng Trị đánh đội hình tập kết của bộ đội ta chuẩn bị mở chiến dịch. Cậu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hãy chuẩn bị tinh thần sẵn sàng nhận những nhiệm vụ mới nhé!

        Anh Hoàng Biểu hiểu rõ những nhiệm vụ ấy cùng với tầm quan trọng của nó hơn bất kỳ ai. Tiền tuyến đang rất cần sự chi viện của lực lượng Không quân ta. Chỉ cần có bóng dáng Không quân ta hoạt động là bọn B-52 và C-130 sẽ chạy dạt ra xa, không dám hoạt động, quấy nhiễu ở các cung đường đến cả tuần lễ hoặc hơn.

        Sau chuyến bay của anh Hoàng Biểu, Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng Trị đã gửi điện cám ơn với nội dung: nhờ sự có mặt kịp thời của bộ đội Không quân ta trong ngày mở chiến dịch mà Không quân địch trong vòng gần một tuần lễ không dám hoạt động. Điều này tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho chiến dịch.

        Như vậy đủ biết rằng, mỗi chuyến xuất kích về ban đêm có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chỉ cần một tuần vắng bóng bọn B-52 và C-130 đánh phá các địa điểm tập kết quân, các chân hàng... của ta thì cục diện trên nhiều hướng của mặt trận đã xoay chuyển theo tình thế có lợi cho ta rất nhiều. Nếu như Không quân ta lại bắn rơi được B-52 thì tiếng vang còn rất lớn và đấy chính là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Vì vậy, bất kể điều kiện khí tượng khó đến mấy chăng nữa, hoàn cảnh gian nan đến mấy chăng nữa, lực lượng Không quân cũng phải có mặt cùng với các lực lượng của các Quân Binh chủng khác kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ được giao.

        Các lần xuất kích của MiG-21 trong giai đoạn này đã khiến cho các hoạt động của B-52 bị gián đoạn, nhiều thời gian phải ngừng hoạt động, đóng góp phần đắc lực cho công tác bảo vệ lực lượng vận tải trên tuyến đường chiến lược Trường Sơn. Đồng thời, cũng chính trong chiến dịch này, các sĩ quan chỉ huy và phi công MiG đã tích lũy được kinh nghiệm, tìm ra phương án dẫn dắt trong điều kiện nhiễu mạnh, cách vượt qua hàng rào tiêm kích yểm trợ, tiếp cận tới B-52 cho các chiến dịch sau này.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Năm, 2020, 09:09:44 am

        Đêm 13 tháng 4 năm 1972, phi công Vũ Đình Rạng trực ban chiến đấu trên sân bay Đa Phúc. Đêm ấy là đêm mưa tầm tã, màn mây thấp xệ hẳn xuống tưởng chừng đứng ở nhà trực với tay lên là tóm được mây. Tầm nhìn rất kém.

        Khi mạng tình báo ra-đa phát hiện tốp B-52 đang bay từ Thái Lan qua Savanakhet (Lào) rồi qua Mộc Châu. Kíp trực chỉ huy Bộ tư lệnh nhận định đây là tốp B-52 bay vào đánh các mục tiêu quanh khu vực Hà Nội..., sở chỉ huy cho Vũ Đình Rạng chuyển cấp, cất cánh.

        Vũ Đình Rạng nhanh chóng mở máy, lăn ra đường băng xuất kích chiến đấu. Máy bay tách đất, chưa đến độ cao thu càng thì đã chui vào mây. Đây là lần thứ ba phi công Vũ Đình Rạng làm nhiệm vụ săn lùng B-52. sở chỉ huy dẫn nhưng không thể phát hiện được mục tiêu vì chúng gây nhiễu quá mạnh, quá dày đặc. Vũ Đình Rạng phải quay về hạ cánh.

        Lúc này trời vẫn mưa và tầm nhìn vẫn xấu như khi cất cánh. Vũ Đình Rạng được dẫn xuyên mây theo phương pháp hình hộp nhưng ba lần xuyên xuống vẫn không phát hiện được đường băng. Lần thứ tư, Vũ Đình Rạng liều cho máy bay lao xuống tới khi đồng hồ độ cao chỉ đến con số 0 mà vẫn không thấy gì, đành phải kéo máy bay lên.

        Đêm ấy, Trần Thông Hào trực ở Đài chỉ huy cất hạ cánh (Đài K-5) và Đại đội phó Nguyễn Đăng Kính chỉ huy trên Đài chỉ huy chỉ nghe thấy tiếng máy bay mà không nhìn thấy máy bay đâu vì thời tiết quá xấu.

        Dầu liệu máy bay gần cạn, sở chỉ huy cho Vũ Đình Rạng bay hướng 270 độ ra phía Sơn Tây và lên độ cao 3.000 mét để nhảy dù.

        Vũ Đình Rạng đành rời bỏ máy bay. Anh nhảy dù trong trời mưa, rơi xuống tiếp đất gần một bờ ruộng. Vì trời vẫn mưa, lại trong đêm tối và sức khỏe thấy đã có vấn đề, Vũ Đình Rạng quấn dù kín người nằm ngay bên bờ ruộng. Sáng sớm, có bà đi chợ phát hiện ra anh liền hô hoán lên. Cùng lúc, lực lượng dân quân du kích và tốp tìm kiếm của Quân chủng cũng vừa đến. Anh được đưa lên xe về bệnh viện Đan Phượng trong tình trạng gần như kiệt sức và đầu thì nhức như búa bổ...

        Những lần xuất kích chiến đấu trong tình hình thời tiết xấu như vậy, các phi công bay đêm đều xác định bằng mọi giá, tìm mọi cách đưa máy bay lên trời đi làm nhiệm vụ, khi quay về hạ cánh nếu không thể hạ được thì sẽ nhảy dù.

        Nhiệm vụ là trên hết! Không một ai đắn đo, suy tính riêng cho bản thân mình.

        Và không phải chỉ một lần xảy ra như với phi công Vũ Đình Rạng. Đã có những phi công khác cũng đã phải chấp nhận như thế.

        Suốt trong thời gian này, các phi công bay đêm của Đại đội 5 như: Đại đội trưởng Đinh Tôn, Đại đội phó Nguyễn Đăng Kính, Hoàng Biểu cùng các phi công Phạm Văn Mạo, Đặng Xây, Trần Cung, Vũ Đình Rạng, Trần Thông Hào, Vũ Xuân Thiều, sau này có thêm Phạm Tuân, Nguyễn Ngọc Thiên, Bùi Doãn Độ, Nguyễn Khánh Duy, Đặng Vân Đình, Nguyễn Đức Chiến, Lưu Văn Hĩnh... đã liên tục trực ban chiến đấu trên các sân bay dã chiến, sân bay cơ động với kích thước ngắn hẹp, trong tình trạng đường băng liên tục bị đánh phá không còn nguyên vẹn, hố bom chi chít, thậm chí như Đại đội trưởng Đinh Tôn đã có lần phải cất cánh khi trên đường băng vẫn còn bom nổ chậm...

        Kẻ địch có thể không tường tận được dung nhan, tưởng mạo của các anh, nhưng chắc chắn chúng dò được qua đối không giọng nói của các anh và đoán được các anh là những tay thợ săn chuyên nghiệp, chuyên lùng sục B-52. Chắc hẳn chúng rất gờm.

        Thòi ấy, trong Đại đội 5 đã có câu: Biểu “Xê- Pôn”, Tôn “Đường 9”. Có nghĩa là hai anh ấy đã mai phục và hoạt động ở những khu vực ấy quá nhiều, trở nên quen thuộc tựa như ta đi chợ ngày ngày vậy.

        Sau khi tiến hành chiến dịch Linebacker-1 từ ngày 10-5-1972, lực lượng Không quân và Hải quân Mỹ đã tiến hành triển khai ồ ạt các đợt tấn công vào các mục tiêu sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam, trong đó có cả các mục tiêu quanh khu vực các thành phố Hà Nội, Hải Phòng...

        Mục đích của chiến dịch là gây sức ép, buộc các nước Xã hội Chủ nghĩa không thể viện trợ cho Việt Nam, buộc miền Bắc Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán theo các điều kiện có lợi cho Mỹ. Nhưng đến hết tháng 10 năm 1972, các mục tiêu của chiến dịch này không đạt được.

        Ngày 22 tháng 10 năm 1972, Nixon phải tuyên bố chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trỏ ra.

        Cho dù tuyên bố như vậy, nhưng phía Mỹ vẫn có những toan tính chiến lược, nếu như miền Bắc Việt Nam không chịu khuất phục, không chịu chấp nhận những điều kiện mà Mỹ đưa ra (những điều kiện thật vô lí) thì Mỹ sẽ lại ném bom trở lại với quy mô lớn, trên diện rộng vào miền Bắc Việt Nam.

        Và, hủy diệt miền Bắc Việt Nam là mục tiêu cuối cùng trong chiến dịch Linebacker-2.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Năm, 2020, 02:28:28 pm

THAM GIA CHIẾN DỊCH 12 NGÀY ĐÊM “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”

        Tháng 4 năm 1972, quân và dân miền Nam Việt Nam đã mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy mà phía Mỹ gọi là “cuộc tiến công Lễ Phục sinh”. Nixon buộc phải Mỹ hóa trở lại cuộc chiến tranh, sử dụng Không quân và Hải quân đánh phá ác liệt hai miền Nam, Bắc Việt Nam, nhưng không xoay chuyển được tình thế.

        Ngày 20 tháng 10 năm 1972, chính quyền Nixon buộc phải chấp nhận “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và ngày 23 tháng 10 năm 1972 tạm ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Tuy nhiên, chính quyền Nixon dây dưa không chịu ký kết đúng ngày 31 tháng 10 năm 1972 như đã thỏa thuận trước đó mà một mặt, gấp rút viện trợ ồ ạt cho chính quyền Sài Gòn, mặt khác đánh phá ác liệt miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở vào bằng máy bay B-52 hòng ngăn chặn việc vận chuyển, tiếp tế từ miền Bắc cho miền Nam và phá hoại tiềm lực của miền Bắc, đồng thời gây sức ép cho buộc ta phải nhượng bộ.

        Trong các cuộc họp từ 20 tháng 11 đến 13 tháng 12 năm 1972 ở Paris, phía Mỹ đòi sửa nhiều điểm của dự thảo Hiệp định mà trước đó họ đã thỏa thuận. Hội nghị Paris bế tắc.

        Ngày 14 tháng 12 năm 1972, Nixon ra lệnh phong tỏa cảng Hải Phòng bằng thủy lôi, cho tiến hành trinh sát toàn miền Bắc và ném bom các mục tiêu Hà Nội, Hải Phòng.

        Ngày 15 tháng 12 năm 1972, lệnh báo động được truyền đến căn cứ Không quân Andersen ở Gu-am và căn cứ Không quân U-ta-pao ở Thái Lan. Các mục tiêu cho máy bay B-52 gồm: 34 khu liên hợp ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Kép, Bắc Giang và Lạng Giang...

        Ngày 17 tháng 12, máy bay Mỹ tiến hành thả thủy lôi ở biển Hải Phòng và bắn tên lửa vào thành phố.

        18 giờ ngày 18 tháng 12 năm 1972, Mỹ gửi công hàm, thực chất là một tối hậu thư đến Hà Nội đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải họp lại Hội nghị Paris theo các điều kiện ngang ngược của Mỹ.

        Chỉ hơn 1 tiếng đồng hồ sau, vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 19 tháng 12, đợt B-52 đầu tiên đã ném bom Hà Nội mở đầu cho cuộc tập kích đường không chiến lược trong chiến dịch Linebacker II.

        Trong khi đó, cũng từ rất sớm, phía Việt Nam đã biết rõ âm mưu, thủ đoạn và sự chuẩn bị của phía Mỹ cho chiến dịch lỏn nhất, tàn bạo nhất và có thể là cuối cùng của cuộc chiến tranh này rồi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tiên đoán: “Đế quốc Mỹ sẽ thua, nhưng chúng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội...”. Vì vậy, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng mà trực tiếp là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Tổng Tham mưu, Quân chủng Phòng không - Không quân đã tiến hành triển khai nhiều công tác chuẩn bị cho chiến dịch có ý nghĩa chiến lược và lịch sử này.

        Cuốn “Cẩm nang đỏ” là tập tài liệu đánh B-52 của bộ đội tên lửa được đúc kết từ thực tế qua các trận chiến đấu của các Trung đoàn tên lửa ở chiến trường miền Trung, Nam Lào và Bình Trị Thiên đã phát huy tác dụng, đóng góp phần to lớn cho các trận đánh sau này giành hiệu quả.

        Các sân bay dã chiến ở vòng ngoài cũng đã được xây dựng nhanh chóng như: Điền Trạch (Thọ Xuân), Thạch Quang (Thanh Hóa), Tân Trại (Vĩnh Phú), Chũ (Bắc Giang), Phú Thọ... và sửa lại sân bay Nà Sản (Sơn La).

        Những cuộc sơ tán đưa người già, trẻ em về các miền quê cũng được tiến hành.

        Các hầm hào, công sự được đào thêm, củng cố thêm cho vững chắc...

        Tất cả đều như những mũi tên nằm trên dây cung đã giương căng, sẵn sàng chờ thời khắc lao vút vào mục tiêu.

        Sau khi phương án tác chiến của Quân chủng Phòng không - Không quân “Đánh trả cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng” được phê duyệt. Ngày mồng 4 tháng 12 năm 1972, Bộ Tổng Tham mưu đã gửi bức Công điện số 420A cho Quân chủng Phòng không - Không quân với nội dung "... Nhiệm vụ trung tâm đột xuất của Quân chủng Phòng không - Không quân là tập trung mọi khả năng nhằm đối tượng chính là B-52 mà tiêu diệt.”

        Nhiệm vụ đã được triển khai nhanh chóng.

        Kế hoạch của Mỹ trong đêm đầu tiên của Chiến dịch Linebacker-II sẽ có 129 chiếc B-52 tham gia với đợt tấn công thứ nhất là 48 lần chiếc lúc chập tối, đợt thứ hai là 30 lần chiếc vào lúc nửa đêm và đợt thứ ba là 51 lần chiếc vào lúc 4 giờ sáng hôm sau. Đó là kế hoạch không cho người dân Hà Nội chợp mắt vào đêm 18 tháng 12.

        Đi đầu và bọc hậu B-52 là các máy bay tiêm kích bom mới F-111 của Không quân và máy bay A-6 của Hải quân. Hai loại máy bay này được trang bị các phương tiện tiến công đêm và mang nhiều bom.

        Kê hoạch Linebacker II yêu cầu thực hiện ném bom 3 đêm liền sau đó tạm nghỉ để đánh giá kết quả. Số máy bay tham gia đánh đêm đầu là 42 B-52D ở căn cứ Không quân U-ta-pao và 54 B-52G cùng 33 B-52D ở căn cứ Andersen. Tấn công làm 3 đợt và thời gian giữa các đợt là 4 đến 5 giờ.

        Trong tất cả các đợt tấn công phải gây nhiễu điện tử. Các máy bay tác chiến điện tử của Hải quân, Thủy quân lục chiến và Không quân luôn phải ở vị trí chiến đấu trong tất cả các cuộc tấn công để thực hiện nhiệm vụ phá rối điện tử.

        10 giờ 30 phút sáng ngày 17 tháng 12 năm 1972, sau khi nhận được lệnh chuyển trạng thái chiến đấu cao nhất, Quân chủng Phòng không- Không quân đã điện cho các đơn vị liên quan, chỉ rõ: “Tình hình rất khẩn trương, cần chuẩn bị cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu, thông tin lạc phải thông suốt, tổ chức kiểm tra tình trạng sẵn sàng và báo động cho tất cả các đơn vị cấp dưới”.

        Ngay từ sáng ngày 18 tháng 12, ngày được chọn là ngày bắt đầu chiến dịch lớn thứ ba và là cuối cùng của Không quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vào lúc 10hl5 phút, nhiều tốp máy bay trinh sát bay qua bầu trời Hà Nội và đến 10h46 phút là bay qua bầu trời Hải Phòng.

        12h trưa, 2 chiếc máy bay trinh sát vũ trang RF-4 lại bay ngang Hà Nội.

        Các đơn vị trong toàn Quân chủng Phòng không - Không quân đã được chuyển cấp sẵn sàng chiến đấu cao nhất.

        Vào lúc 16h, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nhận được tin tình báo: “Các phi đội B-52 gồm 32 chiếc đã cất cánh từ sân bay Andersen”.

        17h, Hà Nội ban bố lệnh báo động.

        6 máy bay MiG-21 trực tại 3 sân bay Hòa Lạc, Đa Phúc, Gia Lâm nhận lệnh vào cấp 1.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Năm, 2020, 11:08:59 am

        Tối ngày 18 tháng 12, đợt gió mùa Đông Bắc tràn về Hà Nội, gây mưa phùn, những màn mây xám xịt xệ thấp hẳn xuống trong cái rét tái tê.

        Vào lúc 19hl5 phút, lệnh báo động B-52 đánh miền Bắc được phát. Còi ủ báo động lắp trên nóc nhà hát lớn, tòa nhà ngân hàng, ga Hàng cỏ đã đồng loạt rú lên kèm theo đó là tiếng loa hướng dẫn người dân vào hầm trú ẩn.

        Trên các sân bay Hòa Lạc, Đa Phúc, Gia Lâm, các phi công bay đêm sẵn sàng chờ lệnh cất cánh chặn đánh B-52, bẻ gãy các đợt tấn công của chúng, bảo vệ những mục tiêu được giao.

        Trước khi các tốp B-52 từ Thái Lan và Guam bay tới đánh phá Hà Nội, các máy bay F-111 bay ở độ cao thấp vào ném bom sân bay Đa Phúc, Kép... đồng thời, các máy bay EB-66 và F-4 bay vào thả một “hành lang nhiễu” trên độ cao 11.000 mét quanh khu vực Hà Nội. Các máy bay F-105 làm nhiệm vụ chế áp các trận địa tên lửa và 24 chiếc F-4 làm nhiệm vụ tìm diệt MiG quần ngay trên đỉnh các sân bay.

        Đêm đầu tiên của chiến dịch Linebacker II, số lượng máy bay B-52 tham gia đánh phá là: 42 chiếc B-52D ở căn cứ Không quân U-ta-pao, 54 B-52G và 33 B-52D ở căn cứ Andersen, tổng cộng 129 chiếc sẽ đánh 3 đợt, thời gian giữa các đợt là 4 đên 5 giờ. Đợt thứ nhất bắt đầu lúc 19 giờ 45 phút, đợt thứ hai vào lúc giữa đêm và đợt thứ ba ngay trước rạng sáng.

        Vào thời gian này, biên chế của Trung đoàn Không quân 921 và 927 đã được trang bị cả hai loại máy bay MiG-21 là F-94 và F-96.

        Loại MiG-2lMF (F-96) là phiên bản tiếp theo của MiG-2lPFM (F-94) thuộc dòng tiêm kích đánh chặn.

        Máy bay MiG-2lF-96 đầu tiên xuất hiện vào năm 1970.

        MiG-21F-96 có 1 động cơ phản lực Tumansky R-13-300, có 4 bệ treo với các phương án mang vũ khí đa dạng hơn MiG-2lF-94. Nó có thể đeo 4 quả tên lửa không đối không, hoặc 4 thùng rốc-ket, hoặc 2 tên lửa và 3 thùng dầu phụ... Nó cũng được trang bị pháo 23 li với 200 viên đạn.

        Đặc biệt, ghế dù của phi công có thể phóng ở độ cao bằng 0 (nghĩa là có thể nhảy dù thoát hiểm ngay khi máy bay chạy đà cất cánh trên đường băng).

        Nó cũng được trang bị hệ thống điện tử phân biệt địch ta SRZO-2.

        Những chiếc MiG-21F96 đã được lắp ráp tại Việt Nam vào cuối năm 1971.

        Cũng vào thời gian này và suốt trong 12 ngày đêm, các phi công bay đêm với số lượng ít ỏi (nếu tính những phi công có đủ trình độ chiến đấu và thực sự tham gia chiến đấu cho đến tận sau này thì chưa đến chục người) nhưng nhiệm vụ lại rất nặng nề. Họ giống hệt như các phi công cảm tử của Đội bay cảm tử. Bằng bất kỳ giá nào cũng phải cất cánh, bằng bất kỳ giá nào cũng phải tiêu diệt được B-52, cản phá các đợt tấn công của chúng trong khi trình độ kỹ thuật bay của các phi công bay đêm bấy giờ chưa được cao. Trình độ tiêu chuẩn kỹ thuật chủ yếu hầu hết mới được phép hoạt động khi đáy mây thấp nhất là 300 mét, tầm nhìn thấp nhất là 3.000 mét, một số còn chỉ được phép hoạt động khi đáy mây 400 mét và tầm nhìn 4.000 mét trở lên (theo ngôn từ chuyên môn là 300/3000 hoặc 400/4000). Mặc dù vậy, không một ai để ý, quan tâm lớn đến chuyện ấy. Có nhiều chuyến xuất kích, khi cất cánh thời tiết đã xấu lắm rồi và biết rằng khi quay về sẽ không thể hạ cánh nổi, nhưng không một ai chùn bước trước khó khăn, hiểm nguy, vẫn đưa được máy bay lên trời, vẫn lao vào cuộc chiến...

        19h20 phút, phi công Trần Cung trực ban chiến đấu trên máy bay MiG-21 F-94 tại sân bay Hòa Lạc vào cấp 1 và xuất kích lúc 19h28 phút.

        Trước khi anh Trần Cung xuất kích, sân bay Hòa Lạc đã bị đánh phá dữ dội, Các tấm ghi lát trên đường cất hạ cánh bị bong tróc, dựng ngược lên, nhất là ở phía cuối đường cất hạ cánh. Anh Trần Cung kéo máy bay mình cho tách đất sớm với tốc độ nhỏ nhất có thể.

        Sau khi tách đất, anh Trần Cung được dẫn về hướng Hòa Bình - Suối Rút để chặn đánh tốp B-52 từ Nam Mộc Châu lên Vạn Yên. Tiếp cận mục tiêu đến cự li 15 km, khi bật ra-đa trên máy bay lên thì màn hình trắng xóa vì bị nhiễu nặng, không thể bắt được mục tiêu. Ngay lúc ấy, các máy bay F-4 quây lấy anh và bắn tên lửa. sở chỉ huy dẫn dắt anh tránh tên lửa và cho anh thoát li về sân bay Đa Phúc hạ cánh.

        Sân bay Đa Phúc trước đó đã bị bọn F-111 ném bom hai đợt, nhiều đoạn đường băng bị hư hỏng nặng. Đài chỉ huy cất hạ cánh ở sân bay (đài K-5) cũng bị đánh hỏng. Anh Trần Cung được lệnh bay về hạ cánh ở sân bay Kép, nhưng sân bay Kép và đài chỉ huy ở sân bay đã bị đánh hỏng, sở chỉ huy cho anh về sân bay Gia Lâm để hạ cánh, nhưng sân bay Gia Lâm cũng vừa bị địch đánh phá xong, hệ thống ánh sáng của đường băng bị hỏng, chưa khắc phục được. Một lần nữa anh lại được dẫn về hạ cánh ở sân Đa Phúc. Máy bay anh bay đến đâu là hỏa lực phòng không bắn theo đến đấy vì tất cả không nhận diện được máy bay ta. Đến sân bay Đa Phúc, chỉ đến khi anh Trần Cung lao xuống, bật đèn pha trên máy bay để hạ cánh thì bấy giờ hỏa lực phòng không mới thôi không bắn.

        Vào lúc 20h 16 phút, anh Trần Cung cố gắng tiếp đất ở phần gần cuối đường băng. Tiếp đất xong là thả dù giảm tốc và tắt máy ngay nhưng máy bay vẫn lao chồm qua một hố bom cỡ nhỏ rồi mới dừng lại trước miệng một hố bom cỡ lớn.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Năm, 2020, 11:36:16 am
     
        19h40 phút, Phạm Tuân trực ban chiến đấu trên sân bay Đa Phúc vào cấp 1 trên loại máy bay MiG-21 F-96 và nhận lệnh xuất kích lúc 19h47 phút. Khi mở máy, lăn ra chuẩn bị cất cánh, khói lửa của bom đạn địch vẫn còn nghi ngút, đạn cao xạ vẫn nổ chi chít quanh máy bay. Quá nửa đường băng đã bị phá hỏng, nhưng Phạm Tuân vẫn cố gắng cất cánh. Sau khi cất cánh, bay đến khu vực Sơn Tây, anh nhận được lệnh vứt thùng dầu phụ rồi lấy độ cao 4.000 mét và được dẫn đến khu vực Hòa Bình. Lúc này, anh phát hiện thấy những hàng đèn trên thân các máy bay B-52, anh bật tăng lực lấy độ cao lao về phía B-52, bật ra-đa trên máy bay mình. Lập tức, bọn B-52 tắt vụt đèn và bọn F-4 bay hộ tống xông vào máy bay anh, bắn tên lửa. Màn hình ra-đa bị nhiễu nặng, không thấy mục tiêu nữa. Bọn F-4 quây đến ngày càng đông. Sau khi làm các động tác tránh tên lửa, sở chỉ huy cho anh thoát li khỏi cuộc chiến và dẫn anh về sân bay Đa Phúc hạ cánh. Đài chỉ huy ở sân bay Đa Phúc đã bị đánh hỏng. Đúng thời điểm đó, một chiếc B-52 bị tên lửa Phòng không của ta bắn cháy, rơi ở Phủ Lỗ. Lợi dụng ánh sáng đó, cộng với đèn pha trên máy bay, Phạm Tuân lao xuống hạ cánh. Máy bay vừa tiếp đất đã rơi ngay vào hố bom rồi lại nhảy lên. Phạm Tuân tắt vội động cơ, thả dù giảm tốc, nhưng máy bay lại nảy lên, chạy bằng cánh bên phải rồi nghe cái “rầm”. Máy bay đã lao xuống hố bom, quay ngược lại 180 độ, nằm lật ngửa.

        Trước đó vài phút, khi anh Trần Cung nhảy ra được khỏi buồng lái thì thấy Phạm Tuân xuông hạ cánh, rồi thấy những vệt lửa sáng chạy dọc theo đường băng trước khi máy bay lao xuống hố bom. Thì ra, do lực va chạm mạnh nên những quả tên lửa đã “nhảy” ra khỏi giá treo, mài trên mặt đường bê tông tạo ra những vệt lửa như vậy.

        Khi Phạm Tuân đạp chân vào phần mảnh nắp buồng lái bị vỡ, tạo lỗ hổng to hơn để chui ra thì anh Trần Cung cũng vừa tới nơi.

        Hai anh dò dẫm trên đường băng và được đón về Sở chỉ huy rút kinh nghiệm.

        Vũ Đình Rạng trực ban chiến đấu trên sân bay Gia Lâm với máy bay MiG-21 F-96 nhận lệnh vào cấp 1 lúc 4h 25 phút sáng ngày 19-12 và xuất kích chiến đấu vào lúc 4h43 phút.

        Sau khi rời đất, anh được dẫn về phía Chương Mỹ, lấy độ cao lên 3.000 mét. 3 phút sau, sở chỉ huy lệnh cho anh vứt thùng dầu phụ, tăng lực kéo lên độ cao 7.000 mét, rồi 8.000 mét bay ra phía Tân Lạc. Lúc này, Sở chỉ huy thông báo mục tiêu cách 8 km. Đến cự li 5 km, Vũ Đình Rạng phát hiện thấy 4 đốm lửa phía trước, đoán là lửa từ động cơ của B-52, liền bật ra-đa trên máy bay. Ngay lập tức, không hề thấy các đốm lửa nữa và màn hình bị nhiễu nặng, không thấy được mục tiêu.

        Sở chỉ huy thông báo: chú ý cảnh giới phía bên phải. Lập tức, Vũ Đình Rạng phát hiện được 2 quả tên lửa vụt qua sát máy bay mình. Máy bay rung hất mạnh lên phía trên tạo quá tải âm, bụi trong buồng lái tung mù mịt. Vũ Đình Rạng kéo máy bay hạ thấp độ cao, cảm thấy khi vòng phải thì nhẹ mà vòng sang phía trái thì rất nặng. Phán đoán máy bay đã bị chấn thương rồi, nhưng anh vẫn theo lệnh của Sở chỉ huy lấy độ cao. sở chỉ huy thông báo mục tiêu phía trước. Vũ Đình Rạng phát hiện được chiếc F-4 bay ở phía bên phải máy bay mình chừng 30 độ đang tăng lực đi từ phía phải qua trái. Anh nhanh chóng vòng trái bám theo, tiếp cận và khi đến cự li 2.500 mét, với tốc độ 1.100 km/h, anh ấn nút phóng tên lửa không đối không rồi vòng phải thoát li. Bay đến ngang Suối Rút, anh thấy máy bay mình không ổn định nhưng vẫn còn điều khiển được, sở chỉ huy cho anh thoát li, xuyên mây từ phía Thái Nguyên về đầu Bắc sân bay Gia Lâm hạ cánh.

        Sân bay Gia Lâm bấy giờ đã bị địch đánh hỏng nặng, hệ thống đèn đêm của sân bay chưa khắc phục được, chỉ còn 1 chiếc đèn chiếu ở phía hồ Lâm Du.

        Khi xuyên xuống, máy bay vượt qua sân Gia Lâm nên lại phải vòng lại. Máy bay lúc này đã khó điều khiển hơn. Đường xuống bị cao, không thể hạ cánh được. Vũ Đình Rạng vòng tiếp vòng nữa, lợi dụng ánh sáng của mấy chiếc 11-18 và Mi-4 đang cháy vì trúng bom, anh lao xuống hạ cánh. Khi tiếp đất với tốc độ lớn, máy bay bị “nhảy cóc”. Đến lần tiếp đất thứ hai, anh liền tắt máy và thả dù giảm tốc đồng thời ấn cần lái về phía sát bảng đồng hồ, bóp phanh hết cỡ. Máy bay va vào chướng ngại vật, gãy càng trước, tiếp tục lao qua những hố bom nhỏ, những rãnh... và chỉ chịu dừng trước miệng hố bom lớn trên đường băng.

        Các đồng chí thợ máy khi kiểm tra máy bay phát hiện thấy bánh lái lên xuống phía bên trái bị cụt mất 1/3 và nhiều vết thủng do mảnh tên lửa của bọn F-4.

        Sau đợt đánh phá của F-111 và B-52 vào các sân bay, nhân dân các địa phương đã được huy động để cùng lực lượng bộ đội công binh nhanh chóng sửa chữa gấp, khôi phục đường cất hạ cánh, sẵn sàng cho máy bay MiG cất cánh.

        Với 2 sân bay Đa Phúc và Kép, đường băng bị hỏng quá nặng nên các phi công đã quyết định cất hạ cánh bằng đường lăn và đường kéo dắt máy bay từ hầm ra, mặc dù chiều rộng chỉ có 16 mét.

        Trong đêm 18 tháng 12 này, phi công Nguyễn Đức Chiến trực ban chiến đấu ở sân bay Kép, nhưng sân bay bị bọn F-111 và B-52 đánh hỏng nặng, không thể cất cánh được. Chiều ngày hôm sau -  ngày 19 tháng 12, Nguyễn Đức Chiến được máy bay trực thăng đưa lên sân bay Phú Thọ (sân bay cũ của Pháp xâu dựng) để trực. Sân bay Phú Thọ lúc này nền đất còn ẩm ướt, Nguyễn Đức Chiến đi trên mặt đường băng thấy giày mình bị lún nên lo lắng, tìm cách tính toán cho việc xuất kích thê nào để đảm bảo an toàn.

        Máy bay trực thăng Mi-6 cẩu chiếc MiG-21 đeo 2 quả tên lửa bổ trợ lên sân bay Phú Thọ, nhưng gặp sự cố’bị đứt giây cáp, máy bay hỏng.

        Nguyễn Đức Chiển đợi ở Phú Thọ đến trưa ngày 21 thì được đón vê sân bay Đa Phúc.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Năm, 2020, 06:52:23 am
   
        Đêm 20 tháng 12 năm 1972, B-52 lại bay 3 đợt, sử dụng đường bay tiếp cận hẹp từ Tây Bắc xuôi về Hà Nội .

        Vũ Xuân Thiều trực ban chiến đấu với loại máy bay MiG-21 F-94 vào cấp 1 lúc 19hl2 phút và xuất kích chiến đấu lúc 19h27 phút từ đường lăn sân bay Đa Phúc, được dẫn về phía Việt Trì - Phú Thọ.

        Vũ Đình Rạng trực trên máy bay MiG-21 F-96 vào cấp 1 sau Vũ Xuân Thiều 1 phút và cất cánh lúc 19h32 từ sân bay Gia Lâm, được dẫn về vùng Mộc Châu - Suối Rút.

        Cả hai phi công đều có nhiệm vụ đánh chặn tốp B-52 đang bay vào từ hướng Tây Bắc.

        Được Sở chỉ huy dẫn dắt tốt, cả hai phi công đều phát hiện được mục tiêu, nhưng khi chỉ còn cách tốp B-52 chừng 7 - 8km thì đều bị địch phát hiện. Tất cả đội hình B-52 tắt đèn hàng hành. Trên màn hình ra-đa các máy bay MiG đều bị nhiễu rất nặng, không sao phát hiện được mục tiêu, phải quay về.

        Vũ Xuân Thiều hạ cánh lúc 20h 08 phút và Vũ Đình Rạng hạ cánh lúc 20h 22 phút.

        Trong trận này, tuy cả hai phi công Thiều và Rạng chưa có điều kiện bám sát, phát hỏa nhưng đã làm cho đội hình B-52 và bọn tiêm kích hộ tống rối loạn, làm giảm lượng nhiễu thả ra, gây khó khăn cho kế hoạch ném bom của B-52 và cũng chính điều đó đã tạo điều kiện cho các trắc thủ tên lửa phân biệt được các loại dải nhiễu của đội hình có B-52 dễ dàng hơn, chính xác hơn.

        Đêm này kết thúc với cái giá Mỹ không chịu đựng nổi. Mỹ công nhận bị rơi 4 chiếc B-52G và 2 chiếc B-52D, còn chiếc B-52D thứ ba thì bị hư hỏng. Bộ tư lệnh Không quân chiến lược Mỹ (SAC) không thể tiếp tục làm nhiệm vụ nếu để mất mỗi đêm 6 máy bay B-52 hay thậm chí chỉ 3 chiếc thôi. Lực lượng ở Gu-am được nghỉ xả hơi trong một thời gian. Việc đánh giá lại tình hình được tiến hành. Đêm thứ 4, lực lượng này không được sử dụng để đánh miền Bắc Việt Nam. Thay vào đó, nó đưa 30 máy bay B-52 đến vùng trời miền Nam Việt Nam để huấn luyện các kíp bay mới. Nỗ lực ném bom đêm để đánh phá Hà Nội được giao cho 30 máy bay B-52D ở U-ta-pao thực hiện.

        Đêm 21 tháng 12, các cuộc đánh phá đều do B-52D từ căn cứ U-ta-pao thực hiện.

        Phi công Nguyễn Đức Chiến từ Phú Thọ về trực ban chiến đấu (thay cho Vũ Đình Rạng vì bị huyết áp cao) trên sân bay Đa Phúc với loại máy bay MiG- 21 F-96 đeo 2 quả tên lửa bổ trợ, nhận lệnh chuyển trạng thái chiến đấu vào cấp 1 lúc 02h45 phút.

        Loại tên lửa bổ trợ SPRĐ-99 mà ta vẫn gọi với mật danh là K-99 được treo lắp ở phần phía sau thân theo trục dọc của máy bay MiG-21. Miệng phun của nó được đặt ở vị trí có lợi nhất để lực đẩy của nó hướng vào trọng tâm của máy bay. Xung lượng tổng cộng của tên lửa bổ trợ cất cánh lớn hơn 22.000 KG/s. Sau khi bật tăng lực, máy bay bắt đầu chạy đà thì phi công ấn nút “Phóng tên lửa bổ trợ”. Ba vệt lửa kéo dài sau đuôi máy bay (ở chính giữa là của buồng tăng lực, hai bên là của hai quả tên lửa bổ trợ) tạo nên cảnh tượng cực kỳ hoành tráng trong trời đêm. Máy bay gần như được nhấc bổng khỏi đường băng vì lực đẩy của tăng lực kết hợp với lực đẩy của tên lửa bổ trợ lớn hơn trọng lượng của máy bay. Phi công không được phép cho máy bay tách đất quá sớm để đảm bảo an toàn. Sau khoảng thời gian từ 10 đến 17 giây (phụ thuộc vào tình hình thời tiết), tên lửa bổ trợ hết làm việc thì bấy giờ phi công ấn nút “Vứt tên lửa bổ trợ”, chỉ còn sử dụng chế độ tăng lực trên máy bay mà thôi.

        Loại tên lửa bổ trợ SPRĐ-99 này chỉ sử dụng được 1 lần. Để đảm bảo vứt vỏ tên lửa bổ trợ an toàn, trên vỏ nó có đặt những tấm lá đặc biệt.

        Trong giai đoạn cuối năm 1972, không chỉ các phi công bay đêm mà cả các phi công bay ngày cũng đều phải sử dụng loại tên lửa bổ trợ để cất cánh mới có thể đưa máy bay lên trời được vì tất cả mọi đường băng đều bị đánh hỏng nặng nề, đoạn đường dùng cho cất cánh còn rất ngắn.

        03h09 phút, Nguyễn Đức Chiến xuất kích, cất cánh trên đường băng đất. Máy bay vừa tách đất thì Nguyễn Đức Chiến bị bọn F-4 lao đến bắn. Nguyễn Đức Chiến vứt tên lửa bổ trợ và cơ động tránh tên lửa.

        Tới lúc anh vừa cải máy bay ra thì bất ngờ thấy chiếc F-4 to lù ngay bên cạnh, cánh của nó như đè lên cánh MiG của anh. Anh còn nhìn thấy rõ 2 thằng phi công trong buồng lái vì cự li rất gần và lúc ấy trời có ánh sáng trăng. Thằng F-4 xông vọt lên trước bởi tốc độ lớn. Nguyễn Đức Chiến bám theo chuẩn bị ngắm bắn thì thằng F-4 tắt tăng lực. Nguyễn Đức Chiến không nhìn thấy mục tiêu nữa nên không thực hiện được việc ngắm bắn.

        Sở chỉ huy dẫn anh bay xuyên qua khu vực Tam Đảo - Ba Vì để đánh chặn bọn B-52 bay từ phía Tây sang.

        Cũng giống như các chuyến xuất kích của Vũ Xuân Thiều và Vũ Đình Rạng trước đó, Nguyễn Đức Chiến không thể tiếp cận được B-52 nên sở chỉ huy dẫn anh quay về hạ cánh.

        Khi xuất kích, thời tiết đã rất xấu rồi. Khi về hạ cánh, nó còn tồi tệ hơn nữa. Xuyên đi xuyên lại không thấy được đường băng, dầu liệu lại sắp cạn nên Sở chỉ huy dẫn Nguyễn Đức Chiến vòng ra phía Hòa Bình để nhảy dù. Nguyễn Đức Chiến đành phải rời bỏ máy bay, nhảy dù và tiếp đất ở vùng Kỳ Sơn - Hòa Bình.

        Phi công Bùi Doãn Độ trực chiến với loại máy bay MiG-21 F-94 chuyển cấp sau Nguyễn Đức Chiến 13 phút, tức là vào lúc 02h58 và xuất kích chiến đấu lúc 03hl8 phút. Anh cũng được dẫn về phía Tây để đánh chặn bọn B-52. Khi lên đến độ cao 4.000 mét, Bùi Doãn Độ phát hiện được đèn của bọn B-52 bay đối đầu và ở trên độ cao 10.000 mét. Anh bật tăng lực vòng lại kéo máy bay lên lấy độ cao. Vẫn thấy đèn của bọn B-52 nhưng máy bay anh bị “treo” vì tốc độ còn quá nhỏ và chênh lệch độ cao lại khá lớn: anh thấp hơn lũ B-52 đến 2.000 mét.

        Đúng lúc ấy, bọn B-52 tắt đèn hàng hành. Bùi Doãn Độ không phát hiện bằng mắt thường được, liền bật ra-đa trên máy bay nhưng bị nhiễu rất nặng, không nhìn thấy gì và sở chỉ huy đã dẫn anh về hạ cánh lúc 04h02 phút.

        Thòi gian đó, ta áp dụng chiến thuật “đi thấp kéo cao” (một số tài liệu gọi là chiến thuật “thia lia đớp mồi”) để đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ, nhưng chiến thuật này khi áp dụng cho đánh ngày và nhất là ở chiến trường “cán xoong” khu Bốn thì có tác dụng, còn cho đánh đêm ở khu vực miền Bắc, nó đã bộc lộ những nhược điểm cần khắc phục. Đó là khi ta thấy được B-52 bằng mắt thường qua các dãy đèn hàng hành của chúng nhưng không đánh được bởi độ cao của ta và địch chênh nhau quá lớn, khi máy bay ta kéo lên thì tốc độ ngày càng giảm, máy bay bị “treo”. Vừa thấp lại tốc độ nhỏ như thê thì ta bị tụt hậu là đương nhiên. Phần nữa, trên các máy bay địch đã được lắp đặt hệ thống cảnh báo MiG và sử dụng các loại nhiễu dày đặc nên ta gặp khó khăn rất lớn trong quá trình dẫn dắt. Không chỉ một mình phi công Bùi Doãn Độ gặp phải tình trạng ấy mà một số phi công khác cũng gặp phải cảnh ngộ tương tự như vậy.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Năm, 2020, 06:44:12 am

        Đêm 23 tháng 12 năm 1972, 12 máy bay B-52D từ căn cứ Andersen phối hợp với 18 B-52D từ U-ta-pao vào đánh phá.

        Phi công Bùi Doãn Độ trực ban chiến đấu trên loại máy bay MiG-21 F-96 nhận lệnh chuyển cấp 1 lúc 04h38 phút và xuất kích vào lúc 04h44.

        Phi công Nguyễn Khánh Duy trực chiến trên loại máy bay MiG-21 F-96 vào cấp 1 lúc 05h06 phút, cất cánh lúc 05hll phút.

        Cả hai phi công đều được dẫn về phía Tuyên Quang để đánh chặn những tốp B-52 bay từ hướng Tây vào nhưng vì mật độ nhiễu quá dày đặc, không thể phát hiện được B-52 nên sở chỉ huy dẫn Bùi Doãn Độ về hạ cánh ở sân bay Đa Phúc lúc 05h06 phút và Nguyễn Khánh Duy về hạ cánh ở sân bay Kép lúc 06hl0 phút.

        Phi công Lưu Văn Hinh trực ban chiến đấu với loại máy bay MiG-21 F-94 ở sân bay Đa Phúc, nhận lênh vào cấp 1 lúc 18h51, xuất kích lúc 18h58 bằng tên lửa bổ trợ SPRĐ-99 trên đường lăn. Cũng giống như chuyến xuất kích của hai phi công Độ và Duy, Lưu Văn Hĩnh không tiếp cận được B-52 nên phải quay về hạ cánh lúc 19h42 phút. Vì tiếp đất ở quá xa đầu đường băng, máy bay va vào đống cát bảo hiểm nên 3 càng của máy bay gãy hết. Máy bay hỏng nhưng may mắn, phi công an toàn.

        Đến ngày 25 tháng 12, chiến dịch Linebacker II đã kéo dài 1 tuần. Do bị thiệt hại nặng và lấy cớ nghỉ lễ Nô-en, 24 giờ ngày 24 tháng 12, phía Mỹ tạm ngừng cuộc tập kích để củng cố lực lượng, ổn định tinh thần cho các phi công và chuẩn bị cho các cuộc oanh tạc mới.

        Tổng thống Nich-xơn hy vọng sẽ có một cử chỉ nào đó từ phía Hà Nội nhân dịp ngừng ném bom này, nhưng không có cử chỉ nào cả.

        Vào ngày 25 tháng 12, Bộ tư lệnh Quân chủng đã triệu tập Hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu trong đợt 1, thống nhất một số biện pháp chính để chuẩn bị chiến đấu đợt 2.

        Cho đến lúc này, một số phi công của ta đã sẵn sàng làm “quả tên lửa thứ ba” (sau khi đã bắn hết 2 quả tên lửa mà không diệt được mục tiêu thì lao máy bay vào B-52, coi máy bay của mình như một quả tên lửa). Quyết tâm chiến đấu sẵn sàng hy sinh thân mình để tiêu diệt địch là sự tiếp nối và phát triển tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của bộ đội ta những ngày đầu kháng chiến chông Pháp, nhưng lại không phù hợp với tư tưởng chỉ đạo và phương châm tác chiến “đánh chắc thắng, tiêu diệt địch, bảo vệ mục tiêu và bồi dưỡng lực lượng ta”.

        Bộ tư lệnh Binh chủng đã chỉ đạo cả cơ quan và các đơn vị thảo luận, phê phán những biểu hiện hữu khuynh tiêu cực, cho rằng MiG không thể tiếp cận và bắn rơi được B-52 của địch; đồng thời phê phán những biểu hiện nôn nóng có thể dẫn đến đánh ẩu.

        Nghiên cứu quy luật, thủ đoạn hoạt động của địch, các sỹ quan chỉ huy, dẫn đường và phi công đều nhận thấy vấn đề quan trọng hàng đầu đối với Không quân là phải giữ được bí mật, tạo yếu tố bất ngờ về địa điểm và thời cơ cất cánh.

        Do tất cả các sân bay ở miền Bắc đều đã bị địch phát hiện và đánh phá liên tục hai đến ba ngày liền hoặc cách một ngày đánh một ngày làm cho ta không đủ thời gian khôi phục, cần phải bí mật cơ động đến các sân bay ở vòng ngoài, phối hợp chặt chẽ giữa Sở chỉ huy trung tâm và sở chỉ huy vòng ngoài để dẫn dắt.

        Từng Sở chỉ huy phải tìm cách thu và phân tích nhanh cùng một lúc tất cả các tình báo của nhiều Đại đội ra-đa dẫn đường, mới tạo ra khả năng phán đoán đúng tốp B-52 để dẫn MiG-21 vào tiếp cận và kiểm soát được các tốp F-4 yểm hộ nguy hiểm để nhanh chóng dẫn ta vượt qua chúng, hoặc kịp thời thông báo cho phi công cơ động tránh bị địch công kích.

        Các sỹ quan dẫn đường phải tính toán nhanh, chính xác các số liệu dẫn vào tiếp cận để phi công sớm nhìn thấy đèn của B-52, phải liên tục thông báo cự li bám sát để phi công tiến hành xạ kích bằng máy ngắm quang học là chính. Các phương án đánh B-52 một lần nữa lại được đưa ra rà soát, hiệu chỉnh.

        Đêm 26 tháng 12 năm 1972, Không quân Mỹ thay đổi thủ đoạn đánh phá.

        Oa-sinh-tơn ra lệnh “nỗ lực tối đa” chống Hà Nội. chúng sử dụng 7 đợt đánh gồm 120 B-52. Thời điểm tấn công mục tiêu của 7 đợt là 22h 30 phút. Thời gian ném bom là 15 phút. Bốn đợt tiếp cận Hà Nội từ bốn hướng khác nhau cùng một lúc. Một đợt khác đánh ga Thái Nguyên. Hai đợt tiếp cận Hải Phòng từ các hướng khác nhau đánh vào ga xe lửa, khu biến thế điện. Chủ trương là oanh tạc đến mức bão hòa và làm rối loạn hệ thống phòng thủ. Máy bay yểm trợ lấy từ các đơn vị của Hải quân, Thủy quân lục chiến và Không quân, tổng cộng tất cả là 113 chiếc.

        Trong đêm này, máy bay B-52 Mỹ đã ném bom rải thảm xuống phố Khâm Thiên, một đường phố đông dân cư nhất của Hà Nội thời đó. Cả 17 khối phố bị tàn phá, trong đó có cả nhà trẻ, mẫu giáo, cửa hàng lương thực, đình chùa, rạp hát, các di tích lịch sử... Trong đợt rải thảm này, bom Mỹ đã làm chết 278 người, trong đó có 55 trẻ em.

        Nhưng cũng trong đêm 26 tháng 12, tên lửa và pháo cao xạ của Việt Nam đã bắn rơi 16 máy bay Mỹ, trong đó có 8 chiếc B-52 và 1 trực thăng HH-53, có 4 chiếc rơi tại chỗ, bắt làm tù binh nhiều phi công Mỹ...

        Trận đánh đêm 26 tháng 12 này rất ác liệt và có ý nghĩa then chốt, quyết định, đẩy nhanh đến thắng lợi hoàn toàn của chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Năm, 2020, 12:11:21 pm

        Đêm 27 tháng 12 năm 1972, Mỹ lại dùng lực lượng 60 chiếc B-52 đánh Hà Nội (một nửa từ Andersen, một nửa từ U-ta-pao) làm 6 đợt, mỗi đợt ném bom 10 phút. Thời gian bắt đầu oanh kích là 22h 59 phút.

        Sân bay Yên Bái đã bị máy bay F-111 đánh liên tục trong các ngày 22, 23, 24 và 26 tháng 12. Khu vực phía Nam, phía Đông và phía Bắc sân bay bị phá hủy nặng. Phán đoán địch sẽ chủ quan, cho rằng MiG không thể sử dụng sân bay này đế cất cánh, chiều 27 tháng 12, Bộ tư lệnh Binh chủng bí mật tổ chức cho phi công Phạm Tuân cơ động từ sân bay Đa Phúc lên sân bay Yên Bái.

        Cuối ngày 27 tháng 12, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân: "... Phải bảo vệ tên lửa, tạo điều kiện cho Không quân cất cánh từ sân bay vòng ngoài, chặn đánh B-52 ngoài hỏa lực tên lửa, tạo điều kiện đánh ở khu vực Tây Bắc, quyết tâm bắn rơi B-52..."

        Sau khi hạ cánh ở sân bay Yên Bái, Phạm Tuân lập tực vào trực ban chiến đấu. 22h 18 phút, Phạm Tuân nhận lệnh chuyển cấp 1 và lúc 22h 22 phút, anh cất cánh trên chiếc máy bay MiG-21 F-96 từ sân bay Yên Bái, xuyên lên trên mây. sở chỉ huy Binh chủng và sở chỉ huy Mộc Châu tập trung cao độ dẫn Phạm Tuân. Đầu tiên, sở chỉ huy Binh chủng dẫn dắt sau đó giao cho sở chỉ huy Mộc Châu.

        22h26 phút, Phạm Tuân nhận được lệnh vứt thùng dầu phụ, tăng tốc độ đến 950 km/h sau đó cho lấy độ cao 9.500 mét, liên tục cho chỉnh hướng. Khi tốp B052 bay ngang trên đài Mộc Châu, sở chỉ huy theo tính toán đã cho Phạm Tuân áp đường bay chính xác.

        Trong cuốn “Lịch sử ngành dẫn đường Không quân (1959 - 2004) NXB Quân đội nhân dân, 2007 đã ghi: “22giờ 29 phút 30 giây, phi công bảo cáo, thấy đèn của B-52, dẫn đường sở chỉ huy thông báo cự li 10 km và cho tăng tốc độ 1.200 km/h. 22 giờ 31 phút, dẫn đường Lương Văn Vóc thông báo đều đặn cự li 6,5, rồi 4 km và nhắc phi công chú ý phóng loạt 2 quả. Phi công Phạm Tuân giữ tốc độ 1.400 km/h, bám sát bằng mắt theo đèn của B-52 và dùng máy ngắm quang học. Khi cự còn khoảng 2.000 mét, phi công xin phép công tác, lúc đó là 22 giờ 32 phút. Với thành tích bắn rơi B-52, phi công Phạm Tuân đã lập chiến công lớn, đúng vào thời điểm rất quan trọng của mặt trận trên không. Ngay sau đó, sở chỉ huy Mộc Châu cho thoát hướng bay 360 độ, về Yên Bái và yêu cầu phi công lạc với sở chỉ huy Binh chủng.

        Phóng tên lửa xong, phi công lật máy bay và giảm nhanh độ cao xuống 2.000 mét. 22 giờ 35 phút, sau khi xác định được vị trí máy bay ta, sở chỉ huy Binh chủng cho hướng bay 310 độ, lên độ cao 4.000 mét và dẫn về Yên Bái. 22 giờ 39 chỉ huy Yên Bái tiếp nhận và dẫn phi công xuyên xuống dưới mây và vào hạ cánh an toàn lúc 22 giờ 46 phút. Tin vui lan nhanh trong toàn Quân chủng.”

        Ngay trong đêm 27 tháng 12, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, điện khen bộ đội Không quân đã lập công xuất sắc, bắn rơi máy bay chiến lược B-52 địch, Đại tướng thông báo, theo tin của trinh sát, sau khi một chiếc B-52 bị bắn rơi, đội hình địch tan vỡ, những chiếc còn lại quăng vội bom để trở về căn cứ.

        Vậy là Không quân ta đã thực hiện được sứ mệnh của mình: bắn rơi “pháo đài bay bất khả xâm phạm B-52”, đã “trả được món nợ” mà bấy lâu vẫn canh cánh bên lòng. Tất cả hân hoan trong niềm vui khôn tả.

        Trong lúc thoát li, Phạm Tuân phát hiện thấy vẫn còn nhiều máy bay B-52 nên báo cáo liên tục về Sở chỉ huy.

        Khi tôi có dịp ngồi nói chuyện với anh Nguyễn Khánh Duy về những ngày này, anh kể lại:

        - Đêm 27 tháng 12 năm 1972, tôi trực ban chiến đấu tại sân bay Kép (cách Hà Nội khoảng 90 km về hướng Đông Bắc). Khi hiệp đồng với kíp dẫn đường ở Sở chỉ huy, tôi mới được biết thêm tình hình là số lượng phi công trực đêm thiếu rất nhiều: đa phần đã xuống sức sau gần mười ngày đêm căng thẳng, một số bị ốm, một số nhảy dù trong chiến đấu... Số còn lại chỉ đủ trực mỗi đêm 2 phi công để đánh hai hướng Đông, Tây mà thôi. Hôm ấy, anh Phạm Tuân đã cơ động lên sân bay Yên Bái, sẵn sàng đánh các tốp B-52 bay vào từ hướng Tây, còn tôi có nhiệm vụ chặn đánh các tốp B-52 bay vào từ phía Đông. Sân bay Kép nằm ở vị trí gần biển hơn, ít núi cao nên bọn địch từ biển vào đánh phá sẽ dễ dàng hơn, chính xác hơn và việc dẫn dắt cũng thuận lợi hơn. Theo hiệp đồng, để đảm bảo yếu tố bí mật bất ngò, MiG của ta chỉ bay ở độ cao 4.000 mét trở xuống. Tôi nói:

        - ‘"Vậy thì dầu liệu sẽ tiêu hao rất nhanh!”.

        - “Đành vậy thôi! Đó là mệnh lệnh!” - đồng chí sĩ quan dẫn đường trả lòi ngắn gọn. Sở chỉ huy và phi công đều biết rằng việc giữ được yếu tố bí mật bất ngờ ở hướng Đông này là rất khó, hơn nữa, hướng này cũng là hướng thường xảy ra dẫn đường đối kháng giữa ta và địch nên phải tính toán thật cẩn thận. Vì địch đánh phá về ban đêm ngày càng ác liệt nên kíp trực đêm thường ăn chiều sớm hơn thường lệ. Theo quy luật hoạt động của địch: khoảng 19h30 là bọn “cánh cụp cánh xòe” F-111 chuyên đi đánh lẻ sẽ đánh đợt đầu tiên. Tôi ăn cơm chiều xong được một lúc thì nhận lệnh vào cấp 1. Máy bay trực của tôi đặt sẵn trong ụ ở phía Đông Nam sân bay Kép, hướng thẳng theo trục “đường ngang”. (“Đường ngang” là đoạn đường dùng để kéo dắt máy bay từ ngoài sân đỗ vào trong hầm cất giấu máy bay. Đoạn đường này đã được lắp đặt hệ thống đèn ở hai bên dùng cho việc cất cánh). Tôi vừa ngồi vào trong buồng lái, chưa kịp cài xong dây dù chằng vai thì nghe thấy tiếng “ục” rất to, rung chuyển cả khu vực máy bay của tôi. Tôi chưa bao giờ nghe tiếng nổ như vậy, “lục phủ ngũ tạng” trong cơ thể bỗng rung chuyển, lung lay khó chịu hệt như bị cho nước vào trong bụng rồi lắc mạnh vậy. Tiếp đó là tiếng kêu “xoảng” ngay phía trước máy bay. Đồng chí thợ máy hét to: “Dừng lại để kiểm tra! Có vật lạ rơi vào máy bay!”. Trong chốc lát, đồng chí đã tìm được một mảnh kim loại trông như cái lưỡi cày. Đồng chí tổ trưởng máy bay kiểm tra quanh máy bay một vòng và báo cáo máy bay an toàn, sẵn sàng cất cánh được. Thằng F-111 đã ném bom trúng quả đồi phía sau máy bay. Trực cấp 1 được một lúc, tôi nhận lệnh xuông cấp và về nghỉ trong hầm nổi ở cách đó không xa.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Năm, 2020, 06:17:51 am

        - Rồi sau đó thế nào? - tôi hỏi.

        - Gần 2 giờ sau thì vang lên tiếng kẻng báo động chiến đấu, - anh Khánh Duy kể tiếp - đồng chí trực ban tác chiến hét to: “Đồng chí Duy vào cấp 1!”. Mọi người cùng chạy về phía ụ để máy bay. Vì căng thẳng và khẩn trương nên tôi cảm thấy mãi lâu mới chạy được tới ụ. Ngồi vào buồng lái, báo cáo đã sẵn sàng thì tôi nhận được lệnh: “Ấp Bắc! Cờ Hồng!” (Mở máy! Cất cánh!). Tôi ấn nút “Mở máy”. Đồng chí tổ trưởng máy bay ngồi trên thang cạnh buồng lái hỗ trợ thêm cho tôi. Máy bay mở máy xong, tôi nhìn hệ thống đèn trên đường ngang để chuẩn bị cất cánh thì chỉ thấy có mỗi hàng đèn phía bên phải với ánh sáng khác thường và thưa thót. Đấy là ánh sáng của đèn bão. Mãi sau này tôi mới được thấy loại đèn bão do ta sản xuất ấy. Tôi cũng xin được 3 cái làm kỷ niệm. Tôi báo cáo tình hình thực tế thì nhận được khẩu lệnh lạnh như băng: “Một hàng đèn cũng cất cánh! Chú ý giữ hướng cho tốt!”. Hôm ấy trực chỉ huy cất hạ cánh ở ngoài sân bay là phi công Từ Đễ. Anh là phi công có kỹ thuật bay tốt và có kinh nghiệm bay đêm trên MiG-17, nhưng chưa kịp chuyển loại lên MiG-21. Trung đoàn anh đóng quân ở sân bay Kép và tôi hay cơ động lên đó trực chiến nên tôi và anh hiểu được nhau cả về sinh hoạt, học tập và trình độ bay. Tôi còn nhớ, vào đêm 18 tháng 12 năm 1972, khi tôi và anh đang ngồi nói chuyện thì thằng “cánh cụp cánh xòe” F-111 đến ném bom sân bay Kép nghe cái “ụp” rồi pháo bắn đỏ trời. Anh buột miệng nói một câu bằng tiếng Nga: “Chiến tranh bắt đầu rồi!”.

        - Thực tình mà nói, khi tôi nhận lệnh cất cánh chỉ có một hàng đèn bên phải, tôi thoáng có chút lo lắng. Tôi chưa được ai dạy cất cánh ban đêm chi có một hàng đèn mà lại ở bên phải bao giờ. Theo sách dạy, khi cất cánh là phải nhìn bên trái, thi thoảng liếc nhìn phía trước và cả khi hạ cánh cũng vậy. Bấy giờ, tôi trả lòi: “Nghe rõ!” rồi bật tăng lực toàn phần để cất cánh. Máy bay của tôi hôm ấy đeo khá nặng: 2 quả tên lửa không đối không, đạn pháo nạp đầy, thêm 2 thùng dầu phụ nữa nên lặc lè chạy hết “đường ngang” ra tận ngoài đất mới tách đất được. Sau này anh Từ Đễ nói là tưởng tôi va vào mương nước (hàng ngày vào mùa Hè nóng nực, chúng tôi hay ra đấy bơi). Tôi để nguyên tăng lực lấy độ cao lên 2.000 mét. Sau khi vứt 2 thùng dầu phụ, tôi nhận lệnh lên 11.000 mét rồi lại nhận lệnh từ từ giảm độ cao và thông báo mục tiêu bên phải 50 km, tiếp đến 30 km, 15 km, 10 km... Lúc này là lúc không phải giữ bí mật liên lạc đối không nữa, tôi báo cáo phát hiện 2 đôi tiêm kích địch thay nhau tăng lực vòng trái ngược hướng vòng của tôi. sở chỉ huy thông báo B-52 phía trước đồng thời lệnh tôi thoát li ngay vì tôi đã vào vùng hỏa lực của tên lửa Phòng không. Tôi kéo máy bay vọt lên cao, thoát li về sân bay Đa Phúc hạ cánh...

        Nói đến đấy, anh Khánh Duy ngừng lại với vẻ mặt đăm chiêu.

        Tôi biết, thời tiết hôm đó xấu kinh khủng. Khánh Duy đã cho máy bay lao xuống đến độ cao đồng hồ chỉ số 0 mà vẫn không thấy đường băng đâu. Khói bom dày đặc như mây mù làm tầm nhìn đã kém lại càng kém trong khi đường băng bị đánh nát gần hết, Nguyễn Khánh Duy được thông báo phải hạ cánh sao cho máy bay tiếp đất ở vị trí cách đầu đường băng khoảng 400 mét thì may ra mới đảm bảo an toàn vì có hố bom rất to ở giữa đường băng.

        Nguyễn Khánh Duy lao xuốhg hạ cánh với tốc độ lớn hơn bình thường, nên máy bay cứ muốn “bồng” lên, không chịu tiếp đất. Bằng sự nỗ lực hết mình, Nguyễn Khánh Duy cho máy bay tiếp đất cách đầu đường băng chừng 200 mét, sau đó tắt máy và “mắm môi mắm lợi” bóp phanh rồi thả dù giảm tốc. Máy bay từ từ dừng lại trước miệng hố bom khoảng 50 mét. Nguyễn Khánh Duy ra khỏi máy bay, được Trần Anh Mỹ cũng là phi công bay đêm cùng Đại đội đang trực ở Đài chỉ huy cất hạ cánh ngoài sân bay mượn được chiếc xe đạp tiếp phẩm 2 gióng khung nam đến đón Khánh Duy về nhà trực chiến để báo cáo tình hình về sở chỉ huy. Thấy hai phi công đèo nhau, mọi người cười mà nói rằng: “Phi công Mỹ được đi xe trâu, còn phi công Duy thì được Mỹ đón bằng xe đạp!”

        Nhắc đến đây, Nguyễn Khánh Duy nói tiếp:

        - Tôi không bao giờ quên được hình ảnh người anh nuôi trực ngoài sân bay hôm đó là anh Triển, người thấp nhỏ nhưng rất cởi mở, mang 1 con gà luộc còn nguyên con mời tôi ăn. Tôi lắc đầu, không muốn ăn. Tôi hỏi: “Mọi người đâu hêt rồi?”. Anh trả lời; “Được lệnh rút ban hết rồi! Các anh không chịu ăn thế này thì lấy sức đâu mà đánh giặc?”. Tôi ngậm ngùi, cảm động lắm. Rồi ô-tô ra đón tôi về hầm nghỉ ngơi...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Năm, 2020, 01:49:34 pm

        28 tháng 12 năm 1972, địch huy động lực lượng lớn máy bay chiến thuật đánh ngày trả đũa vào các sân bay: Đa Phúc, Kép, Yên Bái, Gia Lâm. Ban đêm sử dụng 60 chiếc B-52 (một nửa từ Ư-ta- pao, một nửa từ Andersen) đánh phá các mục tiêu: quanh Hà Nội, Xuân Mai, Văn Điển, ga xe lửa Lạng Giang và Hải Phòng. Thời điểm có mặt trên mục tiêu là 22 giờ 15 phút.

        Vũ Xuân Thiều cất cánh chuyển sân vào sân bay Cẩm Thủy (khi ấy mang mật danh XB-90) từ chiều ngày 23 tháng 12. Khoảng lh sáng ngày 24 tháng 12, một tốp 3 chiếc B-52 đã tiến hành ném bom rải thảm xuống sân bay, phá nát đường cất hạ cánh. Bộ đội công binh cùng nhân dân địa phương tổ chức sửa chữa gấp đến trưa ngày 28 thì sân bay được sửa xong. Cấp trên ra lệnh tổ chức trực ban chiến đấu ngay từ đêm 28. Địch hoàn toàn bất ngờ khi ta đưa MiG vào trực chiến trên sân bay này.

        Anh Hoàng Biểu khi đó đã là Đại đội trưởng Đại đội 5 trực tiếp chỉ huy cho Vũ Xuân Thiều hạ cánh và trong những ngày sửa đường băng, hai anh em đã ở cùng nhau trong chiếc lều bạt của Liên-xô, dựng tại vườn của nhà một đồng bào người dân tộc Mường.

        Những ngày ấy là những ngày hai anh em tâm sự với nhau đủ thứ chuyện: từ chuyện riêng tư đến chuyện chung, rồi chuyện chiến đấu. Anh Hoàng Biểu đã căn dặn Vũ Xuân Thiều:

        - Sân bay cẩm Thủy có địa hình rất phức tạp, lại ngắn hẹp, phía đầu cất hạ cánh là suối sâu. Cậu phải chú ý nghe khẩu lệnh của tớ. Khi tớ hô: “Cho máy bay tách đất!” là phải cố kéo máy bay lên, cho dù lúc đó tốc độ còn nhỏ, máy bay hơi tròng trành đấy, nhưng không sao đâu, tớ đã từng có nhiều chuyến phải như vậy rồi.

        21h28 phút, xuất hiện tốp B-52 thứ hai rồi thứ ba ở phía Đông Nam Pạc Xan 90 km. Phó tư lệnh Trần Mạnh trực tại sở chỉ huy tiền phương nhận định đây chính là các tốp B-52 vào đánh Hà Nội. Vũ Xuân Thiều trực ban chiến đấu trên chiếc máy bay MiG-21 F-94 nhận lệnh chuyển cấp 1 lúc 21h30 phút.

        Vào lúc 21h41 phút, Vũ Xuân Thiều nhận lệnh xuất kích. Sở chỉ huy Thọ Xuân dẫn Vũ Xuân Thiều vòng ra phía sau đội hình B-52.

        21h52 phút, Sở chỉ huy Thọ Xuân thông báo mục tiêu ở phía trước 50 độ, cự li 15 km, nhưng do nhiễu quá nặng, Vũ Xuân Thiều không phát hiện được mục tiêu. Lúc này, sĩ quan dẫn đường Trần Xuân Mão bằng kinh nghiệm của mình khi trực trên đài hiện sóng đã phát hiện chấm trắng đục giữa nền nhiễu, anh khẳng định đấy chính là B-52.

        Bọn B-52 đã thay đổi chiến thuật, chúng vòng ngược lên Sơn La rồi mới vòng xuống đánh Hà Nội. Sở chỉ huy lập tức cho Thiều vòng phải gấp, bay qua Sầm Nưa lên hướng Bắc, đuổi theo tốp B-52 đang bay về hướng Nà sản - Sơn La.

        Sau khi Vũ Xuân Thiều cất cánh, anh Hoàng Biểu từ Đài chỉ huy cất hạ cánh đã lên xe thông tin R-839 để nghe liên lạc đôi không. Anh kể lại:

        - Lần thứ nhất, khi dẫn Thiều tiếp cận mục tiêu với góc khoảng 10-20 độ, Thiều không phát hiện được. Sở chỉ huy cho Thiều dãn ra dẫn tiếp lần hai. Lần này góc dẫn tiếp cận khoảng 30 độ. Liên tục thông báo: “Mục tiêu cách 10 km, 8 km...” vẫn không thấy Thiều trả lời. Tới khi thông báo: “Mục tiêu cách 5 km!” thì tích tắc sau, Thiều nói: “Tôi thấy rồi!”. Lúc ấy là 21h58 phút và kể từ đó là sự im lặng hoàn toàn.

        Sở chỉ huy cũng mất liên lạc với Vũ Xuân Thiều.

        Với kinh nghiệm và linh cảm của người đã từng chỉ huy gần trăm trận đánh, Phó tư lệnh Trần Mạnh hiểu ngay điều gì đó có thể đã xảy ra. Ông chỉ thị cho ra-đa tăng cường sục sạo phát hiện máy bay ta và lệnh cho sĩ quan tác chiến báo cáo về sở chỉ huy Binh chủng.

        Tại Sở chỉ huy Binh chủng, Phó tư lệnh Trần Hanh chỉ thị cho các đơn vị mở ra-đa theo dõi, nhưng đều không thấy. Ông nhấc máy điện thoại trao đổi với ông Trần Mạnh rất lâu và thống nhất nhận định rằng: phi công Vũ Xuân Thiều đã bắn B-52 ở cự li rất gần, do tốc độ quá lớn không kịp thoát li, đã lao thẳng vào đội hình B-52 và anh dũng hy sinh.

        Trận chiến giữa trời đêm diễn ra quá nhanh. Vũ Xuân Thiều đã làm nên điều thật phi thường.

        Quân chủng tổ chức một đoàn cán bộ do phi công Phạm Ngọc Lan dẫn đầu lên Sơn La nắm tình hình. Sau khi đến tận hiện trường, mọi người đứng trên đỉnh đồi đã thấy phía bên kia đồi là xác chiếc B-52 với các mảnh vỡ cháy xém, phía bên này đồi là các mảnh máy bay MiG-21 trắng bạc. Phi công Phạm Ngọc Lan đã nhận xét: “Thiều đã “húc” vào B-52 với tinh thần cảm tử, quyết tiêu diệt bằng được B-52”.

        Có lẽ đấy cũng là điều trùng lặp khi người Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 927 của Thiều là Anh hùng Nguyễn Hồng Nhị đã nhớ lại: Vũ Xuân Thiều từng nói với anh: “Nếu em mà không bắn rơi B-52 là em sẽ “ta-ran” (đâm) đấy!”.

        Khi Vũ Xuân Thiều trực chiến ở sân bay Cẩm Thủy thì phi công Đinh Tôn trực ở sân bay Đa Phúc trên loại máy bay MiG-21 F-96. Anh Đinh Tôn vào cấp 1 sau Thiều 9 phút, tức là vào lúc 21h39 phút.

        21h48 phút, anh Đinh Tôn nhận lệnh xuất kích. Sau khi máy bay rời đất, anh được sở chỉ huy dẫn ra khu vực Hòa Bình - Suối Rút, rồi lên phía Bắc của Mộc Châu để đánh chặn tốp B-52 đang bay về hướng Phù Yên.

        22h04 phút, anh Đinh Tôn phát hiện được ánh đèn hàng hành của đội hình B-52, nhưng sau đó lại mất vì góc vào quá lớn. sở chỉ huy dẫn anh vòng phải để cắt vào phía sau mục tiêu, nhưng tốp B-52 đã phát hiện có MiG bám theo nên đã tắt hết đèn hàng hành và cơ động tránh MiG. Lúc này, lũ F-4 đi bảo vệ bắt đầu quây vào máy bay của anh Đinh Tôn.

        Thấy tiếp tục truy đuổi không có lợi và có thể rơi vào thế bất ổn, sở chỉ huy cho anh Đinh Tôn thoát li, giảm độ cao tại Việt Trì và xuyên xuống hạ cánh ở sân bay Đa Phúc. Khi xuống dưới mây, sân bay Đa Phúc không tiếp thu vì thấy phía Bắc Ninh vẫn còn địch. Dẫn đường lập tức dẫn anh vòng trái bay về phía Hiệp Hòa. Lúc 22 giờ 16 phút, anh Đinh Tôn còn cách Kép 13 km thì Đa Phúc nhận tiếp thu. Sở chỉ huy dẫn anh Đinh Tôn quay lại sân bay Đa Phúc và vào hạ cánh an toàn lúc 22 giờ 44 phút.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Năm, 2020, 11:39:34 am

        Đêm 29 tháng 12 năm 1972, đêm cuối cùng của chiến dịch. Mỹ vẫn sử dụng 60 chiếc B-52, mỗi căn cứ Không quân 30 chiếc cùng với 102 máy bay yểm trợ để tiếp tục đánh phá. Thời điểm đánh đầu tiên là 23giờ20 phút.

        Nguyễn Khánh Duy trực ban chiến đấu ở sân bay Đa Phúc trên loại máy bay MiG-21 F-96, được giao nhiệm vụ đánh ở hướng Tây (đánh bọn bay từ Thái Lan sang).

        Sau 2 đêm Không quân ta liên tục hạ gục B-52 từ hướng Tây, ta cần phải đề phòng địch thay đổi thủ đoạn. Đêm 28 tháng 12, anh Đinh Tôn đã bị bọn F-4 bao vây, nhưng anh đã thoát li được. Trong Hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu, anh Đinh Tôn đã phổ biến kinh nghiệm và yêu cầu các phi công phải phát hiện và xử lí kịp thời khi bị địch bám đuôi, căn cứ vào tín hiệu bảo vệ đuôi trên loại máy bay MiG- 21 F-96, đồng thời lưu ý một điểm là B-52 có xải cánh rất rộng, nếu ngắm bắn bằng mắt thường thì rất dễ bắn ở cự li xa.

        Cũng đến hơn nửa năm với những chuyến cơ động khắp đó đây, đêm nay Nguyễn Khánh Duy mới lại được trực trên “sân nhà”. Biết bao điều ập đến làm cho tâm trạng Duy xôn xang...

        Đêm nay, địch vào muộn hơn. Nguyễn Khánh Duy vào cấp 1 lúc 22h 58 phút và xuất kích lúc 23h 02 phút.

        Sau khi cất cánh, Nguyễn Khánh Duy được dẫn về hướng Yên Bái - Tuyên Quang rồi thẳng hướng Mộc Châu. Bay thẳng hướng Mộc Châu mấy phút sau thì Khánh Duy nhận lệnh vứt thùng dầu phụ. Trong thời gian này, hầu hết các máy bay trực chiến đều đeo 2 thùng dầu phụ để tăng thời gian hoạt động trên không. Đã có nhiều phi công đề nghị đeo 3 thùng dầu phụ nhưng chưa được chấp nhận.

        Bay lơ lửng trên độ cao 11.000 mét trong đêm tốì mịt mùng, Nguyễn Khánh Duy cảm thấy chưa đêm nào yên ắng như đêm nay, ngước lên trời và ngó xuống dưới mặt đất đều thấy tối mịt mờ.

        Do bị nhiễu quá mạnh, bắt mục tiêu rất khó, không thể tiếp cận được bọn B-52 ở phía ngoài hỏa lực tên lửa nên sở chỉ huy lệnh cho Nguyễn Khánh Duy vòng trái thoát li về hạ cánh ở sân bay Đa Phúc.

        Khi Khánh Duy xuyên mây xuống để hạ cánh, liếc nhìn sang bên trái, Duy thấy 1 quả tên lửa đen xì còn nguyên khối cả đầu, cả đuôi bay vượt trên lưng máy bay của Khánh Duy. Trước khi đi học bay, Duy đã là lính tên lửa nên anh bình tĩnh chiêm ngưỡng cái cảnh có một không hai ấy trong cuộc đời mình. Nguyễn Khánh Duy về hạ cánh trên sân bay Đa Phúc vào lúc 23h28 phút.

        Sau khi hạ cánh khoảng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Khánh Duy nhận lệnh lên máy bay trực thăng bay đến sân bay Hòa Lạc trực ban chiến đấu tiếp.

        Khánh Duy không ngờ được rằng sau đêm này là kết thúc cuộc chiến ác liệt nhất trong lịch sử trên bầu trời Hà Nội.

        Trên sân bay Kép, phi công Bùi Doãn Độ trực chiến với loại máy bay MiG-21 F-96, vào cấp 1 lúc 23h25 phút và xuất kích chiến đấu lúc 23h28 phút. Cũng giông như Nguyễn Khánh Duy trước đây, Bùi Doãn Độ cất cánh từ “đường ngang” của sân bay Kép và cũng khó nhọc lắm mới “lôi” được máy bay của mình tách đất. 23h35 phút, khi bay ngang Phú Lương, sở chỉ huy Thọ Xuân cho Bùi Doãn Độ bay lên phía Chợ Đồn và lấy độ cao lên 10.000 mét, sau đó lên 11.000 mét. Máy bay địch vào phía Nam của Yên Bái vòng phải quay ra.

        23h48 phút, Bùi Doãn Độ ở ngang Sơn Dương, Sở chỉ huy Thọ Xuân lệnh cho Độ vòng vào tiếp cận mục tiêu. Đúng lúc này, Bùi Doãn Độ phát hiện thấy ánh đèn xanh mờ bên phải máy bay mình chừng 25 độ. Anh báo cáo phát hiện mục tiêu và xin phép công kích. Sau khi tăng tốc độ bám theo mục tiêu, do tốc độ lớn nên anh bị văng ra phía ngoài nhưng vẫn thấy ánh lửa phụt ra từ buồng đốt của động cơ máy bay địch. Anh bám theo và khi điểm ngắm đã ổn định, anh phóng 2 quả tên lửa rồi thoát li về phía bên phải. Sở chỉ huy lệnh cho anh thoát li trái. Anh liền lật lại, lúc ấy còn kịp thấy chiếc F-4 nghiêng bổ xuống với góc 30 độ.

        Anh cải máy bay mình ra, kéo lên lấy độ cao và được dẫn về hạ cánh ở sân bay Đa Phúc lúc 23h58 phút.

        Đây là chiếc F-4 đầu tiên bị MiG-21 bắn hạ về ban đêm và cũng là chiếc máy bay cuối cùng bị bắn hạ bằng chính MiG-21 của Không quân nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Năm, 2020, 05:56:20 am

        Ngày 29 tháng 12 năm 1972 trở thành ngày không chiến cuối cùng của năm 1972, cũng là trận cuối cùng của MiG-21 trong chiến dịch Linebacker II và trong cả cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc Việt Nam.

        Ngày 30 tháng 12 năm 1972, chính quyền Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trỏ ra và đề nghị gặp lại đại diện Chính phủ ta tại Paris, bàn việc ký hiệp định chấm dứt chiến tranh. Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng kéo dài 12 ngày đêm bị thất bại hoàn toàn.

        Quân và dân ta, nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay chiến lược B-52, 5 máy bay F-111. Dư luận thế giới gọi mặt trận trên không 12 ngày đêm cuối năm 1972 là “Trận Điện Biên Phủ trên không”.

        Phía Mỹ đã công bố kết quả khi kết thúc chiến dịch Linebacker II là:

        - Máy bay B-52 thực hiện 729 lần chiếc bay.

        - Máy bay yểm trợ thực hiện hơn 1.000 lần chiếc bay.

        - B-52 ném hơn 49.000 quả bom (20.370 tấn bom).

        -Thiệt hại 15 máy bay B-52 và 11 máy bay chiến thuật.

        Tuy rằng con số thiệt hại của B-52 họ công nhận còn xa với thực tế nhưng "cái giá phải trả của cuộc chiến tranh đường không ở miền Bắc Việt Nam là cực kỳ cao về mặt tài chính lẫn về mặt chính trị. Việc ném bom còn giúp cho các nhà lãnh đạo cộng sản miền Bắc Việt Nam tổ chức đất nước sản xuất và sẵn sàng cho chiến tranh. Nhưng có lẽ hậu qua tai hại nhất của việc ném bom miền Bắc Việt Nam là nó làm lệch trọng tâm chú ý vấn đề Việt Nam - chiến trường miền Nam Việt Nam nơi mà cuộc chiến tranh đang ở thời điểm quyết định thắng bại.

        Chiến dịch ném bom Ních-Xơn không đem lại thắng lợi cuối cùng, không phản ánh được tầm quan trọng thật sự của Không lực, mà chỉ làm mất ảo tưởng của những người ủng hộ Không quân” (theo nhận xét của giáo sư Guenter LEWY nhận xét trong “America in Vietnam” (Mỹ ở Việt Nam) Oxford, Oxford University Press, 1978.)

        18 năm sau, Mỹ lại tiến hành một chiến dịch đường không lớn: chiến dịch “Bão táp sa mạc”. Máy bay B-52 lại được sử dụng với tổng số lần chiếc bay lớn gấp 2 lần Linebacker II, nhưng không một chiếc nào bị bắn rơi, tuy B-52 đã “cũ đi” 18 năm. Như vậy đủ biết giá trị chiến thắng trong mặt trận “Điện Biên Phủ trên không” vĩ đại đến nhường nào.

        Mặc dù ngày 30 tháng 12 năm 1972, Nixon đã tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, nhưng cho đến trước ngày 27 tháng 1 năm 1973, khi Hiệp định Paris chính thức được ký kêt, Mỹ vẫn tiếp tục tiến hành trinh sát và đánh phá các mục tiêu phía Nam vĩ tuyến 20. Trong thời gian này, Không quân Việt Nam vẫn phải tổ chức xuất kích chiến đấu cả ngày lẫn đêm.

        Đêm mồng 6 tháng 1 năm 1973, Nguyễn Khánh Duy trực ban chiến đấu ở sân bay Đa Phúc, trên loại máy bay MiG-2l F-94 vào cấp 1 lúc 01h54 phút và xuất kích chiến đấu lúc 02h00 phút, sở chỉ huy dẫn dắt nhưng không gặp địch nên Nguyễn Khánh Duy quay về sân bay Đa Phúc hạ cánh.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Năm, 2020, 05:09:44 pm

        Đêm mồng 6 rạng mồng 7 tháng 1 năm 1973, phi công Bùi Doãn Độ trực ban chiến đấu ở sân bay Miếu Môn với loại máy bay MiG-2l F-96 đã vào cấp 1 lúc 02h 23 phút và xuất kích chiến đấu lúc 02h 26 phút.

        Hệ thống điện của sân bay không ổn định, rất chập chờn. Bùi Doãn Độ cất cánh trong điều kiện ánh sáng kém và không ổn định như vậy nên suýt lệch sang bên trái đường băng.

        Sau khi cất cánh, Bùi Doãn Độ được sở chỉ huy dẫn ra khu vực Lang Chánh, lên độ cao 5.000 - 6.000 mét.

        Nhận thấy đèn báo có địch đối đầu, Bùi Doãn Độ giảm độ cao. Lúc này, sở chỉ huy cho vòng trái lấy hướng 190 độ và lên độ cao 10.000 mét.

        Bùi Doãn Độ bật tăng lực lấy độ cao. Khi đến 9.000 mét, linh tính báo có khả năng bị địch bắn, Bùi Doãn Độ vừa nghiêng máy bay thì nghe cái “rầm”. Máy bay đã bị trúng tên lửa của bọn F-4 đi đánh chặn MiG.

        Bùi Doãn Độ nhảy dù, rời máy bay ở độ cao 8.500 mét. Rơi đến độ cao 4.000 mét thì dù chính mở, nhưng anh vẫn trong mây. Khi rơi qua lớp mây mỏng, anh nhác thấy bên dưới mình là rừng núi chập chùng. Trong đêm tôi, dù của anh mắc vào cành cây gần vách đá. Anh nhún nhún nhưng không thấy chuyển động đành sửa lại tư thế ngồi cho ngay ngắn và đợi trời sáng sẽ tính tiếp.

        Sáng ra, anh bám theo dây dù của túi cấp cứu NAZ-7 rồi bám theo cây tụt xuống đất.

        Du kích đã đón anh về bản. Đêm hôm ấy, anh phải ngủ lại bản đợi dân bản làm bè mảng để sáng hôm sau xuôi về Quan Hóa. Ngày hôm sau, về đến Quan Hóa, lại phải ngủ lại, hôm sau mới về Thanh Hóa. Trên đường ra Hà Nội, xe bị hỏng, phải ngủ đêm ở giữa đường, tới ngày 11 tháng 1 mới về đến Sở chỉ huy ở chùa Trầm rút kinh nghiệm chiến đấu.

        Bùi Doãn Độ là phi công bắn hạ chiếc F-4 cuối cùng trong chiến dịch Linebacker II bằng MiG-21 và cũng là phi công cuối cùng nhảy dù trên MiG-21 trong cuộc chiến tranh đánh phá bằng Không quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam.

        Cuộc chiến tranh đánh phá bằng Không quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam đã kết thúc. Các phi công bay đêm, đánh đêm xuất kích chiến đấu không nhiều và bắn rơi máy bay địch không nhiều nếu so sánh với lực lượng bay ngày, đánh ngày. Nhưng những chiến công của họ thì không thể nói là nhỏ được.

        Trung tá Dương Công Danh, người từng gắn bó mật thiết với các phi công, nhất là các phi công bay đêm nói:

        - Số lượng máy bay địch bị ta bắn rơi trong những trận không chiến ban đêm ít hơn ban ngày nhiều, nhưng phải lấy hiệu quả từng trận để so sánh. Theo tôi, điều quan trọng nhất là lực lượng bay đêm đã gắn bó với tuyến đường 559. Ta đều vận chuyển về ban đêm mà. Điều này thì Tướng Đồng Sĩ Nguyên biết rõ hơn ai hết và đánh giá về lực lượng bay đêm của ta chuẩn xác hơn ai hết. Sau này, trong giai đoạn cuối năm 1972, các phi công bay đêm cũng đã từng hạ B-52 rồi F-4. Những chiến công ấy cũng lớn lắm chứ!

        Đại tá Tạ Quốc Hưng, một trong những sĩ quan dẫn đường kỳ cựu của Không quân chia sẻ:

        - Nếu chỉ nhìn vào số máy bay địch bị các phi công đánh đêm bắn hạ mà vội vã kết luận là hiệu quả chiến đấu... thấp thì với tư cách là dẫn đường, tôi xin khẳng định ngay kết luận đó hoàn toàn không chính xác. Bởi ý nghĩa và cả mục đích của những lần xuất kích ban đêm là cản phá, xua đuổi, uy hiếp Không quân địch để mở thông các cửa khẩu trên tuyến đường vận tải chiến lược 559 là vô cùng to lớn và có rất nhiều ý nghĩa, mặc dù số máy bay bị các phi công đánh đêm bắn hạ chỉ đếm trên đầu ngón tay...

        Gần đây, tôi có dịp ngồi tâm sự với Đại tá Nguyễn Văn Chuyên, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cũng là người dẫn đường kỳ cựu và từng dẫn nhiều trận đánh về ban đêm. Khi hỏi về những trận đánh đêm thì Đại tá Nguyễn Văn Chuyên nói:

        - Phải nói rằng, suốt 7 năm trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc Việt Nam, ta có xây dựng đội ngũ bay đêm, nhưng những trận đánh ngày đã cuốn hút hơn nên phần nào cũng sao nhãng trong việc chỉ đạo, chăm sóc cho lĩnh vực đánh đêm. Những phi công đánh đêm là những phi công có kỹ thuật giỏi, hoàn chỉnh nhất vì bay được 4 khí tượng, cũng giống như phi công Hải quân của Mỹ giỏi hơn phi công của Không quân Mỹ vậy. Anh Đinh Tôn là phi công giỏi nhất trong đội ngũ phi công Việt Nam, chưa ai hơn được anh ấy. Nói về thành tích của lực lượng phi công đánh đêm thì đầu tiên phải nói đến việc làm hạn chế hỏa lực của B-52 trên tuyến đường 559, rồi đến chiến dịch Quảng Trị và chiến dịch 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”... Các phi công đánh đêm như: Đinh Tôn, Hoàng Biểu, Vũ Đình Rạng, Đặng Xây... đã âm thầm, thường xuyên có mặt trong chiến trường khu Bốn làm nhiệm vụ. Đánh đêm là trận đánh đơn độc nhưng giá trị rất lớn, ví như trận đêm 20-11-1971, sau đêm ấy, bọn B-52 không dám ra hoạt động ở phía Bắc đường 9 đến 4 tháng liền, chỉ dám hoạt động ở phía Nam đường 9 thôi. Điều này là điều rất quan trọng cho chiến trường, cho chiến dịch Quảng Trị và cho cả chiến dịch 12 ngày đêm sau này. Còn việc tính đến công trạng thì tôi phải nói thế này: Nếu trong bóng đá, không có người thiết kế, đưa bóng cho người làm bàn thì liệu có đá tung lưới đối phương được không? Người thiết kế, kiến tạo, tạo cơ hội ấy quan trọng lắm. Trong chiến dịch 12 ngày đêm, Không quân cũng thiết kế cho tên lửa ghi bàn đấy chứ. Và ngay trong đêm 18 tháng 12, việc xuất kích của các phi công bay đêm giá trị kém gì việc bắn rơi B-52. Nếu chỉ đơn độc một mình tên lửa thì không thể làm nên lịch sử. Chốt lại, tôi chỉ muốn nói: Các phi công đánh đêm đã âm thầm cống hiến, tuy bắn rơi ít máy bay địch, nhưng sự đóng góp của họ rất to lớn, không nhỏ bé đâu!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Năm, 2020, 10:14:26 am

        Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên - nguyên Tư lệnh Mặt trận đường vận tải chiến lược 559 cho biết:

        - Ngay khi vào nhận nhiệm vụ Tư lệnh, thấy vận tải đơn chiếc rất khó khăn, mà lực lượng ngăn cản đánh phá chính và nguy hiểm nhất là Không quân địch. Tôi ra Hà Nội báo cáo Quân ủy và anh Văn xin chỉ thị tăng cường Phòng không: tên lửa, pháo, Không quân. Loại C-130 là nguy hiểm nhất, chỉ có pháo 57 là hiệu quả. Sau đó Bộ Quốc Phòng ra chỉ thị cho Phòng không - Không quân, Quân khu Bốn chi viện, đưa Phòng không và Không quân vào khu Bốn. Tôi có gặp riêng anh Đặng Tính và Lê Văn Tri để bàn và ngoài vũ khí tên lửa, pháo... đề nghị tăng cường cán bộ vào và đưa Không quân vào sâu khu Bốn. Sự chi viện của Phòng không - Không quân rất quan trọng. Trước đây, không có lực lượng này thì chỉ đi đơn xe. Sau khi có lực lượng Phòng không và hoạt động của Không quân, vận tải đã lên cỡ Đại đội và Tiểu đoàn (120 xe). Lưu lượng hàng hóa vận chuyển tăng rõ rệt. Anh em lái xe rất phấn khởi. Riêng tại đường 20, có một Trung đoàn Phòng không mạnh và nhiều hoạt động của Không quân. Đây là tuyến đường chính chạy từ đường 15 lên để vận tải hàng hóa. Khi có B-52 xuất hiện, bay trên độ cao 10.000 mét, pháo 57 không với tới, thì vai trò của Không quân rất lớn. Tuy Không quân bay số lượng không nhiều, không có mặt thường xuyên như pháo, nhưng tính cơ động, bất ngờ và có khả năng bay cao giúp uy hiếp B-52 ném bom đường 20, đường 9. Mỗi khi MiG xuất hiện, B-52 dạt ra là chúng tôi có thể chạy đội hình Đại đội, Tiểu đoàn. Nếu không có Phòng không và Không quân thì không thể vận tải lớn, phục vụ cho các chiến dịch lớn được. Nhiều lúc, do máy bay địch uy hiếp, vận tải mắc cứng, không đi được. Chính Phòng không - Không quân đã giúp giải quyết lớn khả năng vận chuyển để phục vụ đánh lớn cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh. Thông thường, các xe vận tải xuất phát lúc 5 giờ chiều, chạy đêm. Vào ban đêm, địch thường rải pháo sáng nên ta lợi dụng chạy. Khi có Không quân xuất hiện thì càng yên tâm.

        Trung tướng Chu Duy Kính - người từng nhiều năm giữ cương vị Chính ủy (từ Trung đoàn đến Quân chủng), từng gắn bó với các tầng lớp phi công ngay từ những ngày đầu đã nhận xét:

        - Nói đến bay đêm, đánh đêm là nói đến sự khó khăn, phức tạp rồi. Nếu như bay ngày, đánh ngày có thể phát huy được yếu tố con người như bay đội hình với các biên đội từ 2 chiếc trở lên để đánh vào đội hình lớn của địch thì bay đêm không làm thế được. Ban ngày có thể phát hiện, xác định cự li bằng mắt thường, công kích bằng mắt thường, công kích được nhiều lần, thoát li khỏi khu chiến theo những hướng thấy thuận lợi nhất... thì ban đêm không thể. Bay đêm phụ thuộc nhiều vào yếu tố kỹ thuật, vì vậy, những phi công bay đêm là những phi công giỏi. Ngay chuyện cất hạ cánh cũng thế. Cất hạ cánh vào ban đêm khó khăn hơn ban ngày nhiều chứ, khốn khổ hơn ban ngày nhiều chứ. Bọn Mỹ lựa chọn cách đánh phá ban đêm cốt loại trừ khả năng chiến đấu của MiG. Trước mỗi đợt đánh, chúng đều cho các máy bay F-111 hoặc A-6 đi đánh phá lại một lần nữa để phá nát đường băng của ta, để ta không thể tung máy bay lên trời được. Rồi chúng còn gây nhiễu đủ các loại với cường độ lớn để ra-đa của ta không phát hiện được đội hình của chúng... Vào ban ngày, có thể nhìn thấy hố bom trên đường băng, có thể biết đoạn đường cất cánh hạ cánh còn dài hay ngắn để định liệu, nhưng ban đêm thì đâu có thấy. Cất cánh ban đêm đã là rất nguy hiểm, nhưng hạ cánh về ban đêm trong những điều kiện ấy còn nguy hiểm gấp bội phần vì không có ánh sáng đảm bảo cho việc hạ cánh, lại còn không biết được đường băng còn dài hay ngắn, hố bom nằm ở đâu, bom nổ chậm nằm ở quãng nào... Gian nan, nguy hiểm lắm chứ! Những chuyến xuất kích về ban đêm đều là những chuyến bay cảm tử. Bọn Mỹ dùng chiến thuật đánh đêm cốt loại trừ mối nguy hiểm từ MiG nhưng chúng không thể ngờ được các phi công bay đêm của ta vẫn xuất kích. Ta đã tìm ra cách dẫn dắt, cách phát hiện mục tiêu để lao vào cuộc chiến đấu. Một cuộc chiến đấu thật oanh liệt!... Nói về đánh đêm, ta không nên lấy số máy bay địch bị bắn rơi để đánh giá kết quả mà phải đánh giá về hoàn cảnh, về ý chí con người, trí tuệ con người phát huy tính sáng tạo, trong cái mạnh của địch tìm ra được cái điểm yếu của nó để đánh nó, về mức độ bảo vệ mục tiêu, mức độ bẻ gãy các đợt tấn công của địch, về sự hy sinh của ta nhiều hay ít... Qua những tháng năm chiến tranh ấy, tôi thấy hết được tính ưu việt của phi công Việt Nam: đấy là ý chí, kiến thức, sáng tạo. Đấy là chất của con người Việt Nam: không hề trốn tránh khỏi nhiệm vụ, cho dù có bị bắn rơi, nhảy dù xong lại tiếp tục đi chiến đấu ngay. Tôi tự hào về phẩm chất của phi công!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Năm, 2020, 04:09:21 pm

        Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên - nguyên Tư lệnh Mặt trận đường vận tải chiến lược 559 cho biết:

        - Ngay khi vào nhận nhiệm vụ Tư lệnh, thấy vận tải đơn chiếc rất khó khăn, mà lực lượng ngăn cản đánh phá chính và nguy hiểm nhất là Không quân địch. Tôi ra Hà Nội báo cáo Quân ủy và anh Văn xin chỉ thị tăng cường Phòng không: tên lửa, pháo, Không quân. Loại C-130 là nguy hiểm nhất, chỉ có pháo 57 là hiệu quả. Sau đó Bộ Quốc Phòng ra chỉ thị cho Phòng không - Không quân, Quân khu Bốn chi viện, đưa Phòng không và Không quân vào khu Bốn. Tôi có gặp riêng anh Đặng Tính và Lê Văn Tri để bàn và ngoài vũ khí tên lửa, pháo... đề nghị tăng cường cán bộ vào và đưa Không quân vào sâu khu Bốn. Sự chi viện của Phòng không - Không quân rất quan trọng. Trước đây, không có lực lượng này thì chỉ đi đơn xe. Sau khi có lực lượng Phòng không và hoạt động của Không quân, vận tải đã lên cỡ Đại đội và Tiểu đoàn (120 xe). Lưu lượng hàng hóa vận chuyển tăng rõ rệt. Anh em lái xe rất phấn khởi. Riêng tại đường 20, có một Trung đoàn Phòng không mạnh và nhiều hoạt động của Không quân. Đây là tuyến đường chính chạy từ đường 15 lên để vận tải hàng hóa. Khi có B-52 xuất hiện, bay trên độ cao 10.000 mét, pháo 57 không với tới, thì vai trò của Không quân rất lớn. Tuy Không quân bay số lượng không nhiều, không có mặt thường xuyên như pháo, nhưng tính cơ động, bất ngờ và có khả năng bay cao giúp uy hiếp B-52 ném bom đường 20, đường 9. Mỗi khi MiG xuất hiện, B-52 dạt ra là chúng tôi có thể chạy đội hình Đại đội, Tiểu đoàn. Nếu không có Phòng không và Không quân thì không thể vận tải lớn, phục vụ cho các chiến dịch lớn được. Nhiều lúc, do máy bay địch uy hiếp, vận tải mắc cứng, không đi được. Chính Phòng không - Không quân đã giúp giải quyết lớn khả năng vận chuyển để phục vụ đánh lớn cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh. Thông thường, các xe vận tải xuất phát lúc 5 giờ chiều, chạy đêm. Vào ban đêm, địch thường rải pháo sáng nên ta lợi dụng chạy. Khi có Không quân xuất hiện thì càng yên tâm.

        Trung tướng Chu Duy Kính - người từng nhiều năm giữ cương vị Chính ủy (từ Trung đoàn đến Quân chủng), từng gắn bó với các tầng lớp phi công ngay từ những ngày đầu đã nhận xét:

        - Nói đến bay đêm, đánh đêm là nói đến sự khó khăn, phức tạp rồi. Nếu như bay ngày, đánh ngày có thể phát huy được yếu tố con người như bay đội hình với các biên đội từ 2 chiếc trở lên để đánh vào đội hình lớn của địch thì bay đêm không làm thế được. Ban ngày có thể phát hiện, xác định cự li bằng mắt thường, công kích bằng mắt thường, công kích được nhiều lần, thoát li khỏi khu chiến theo những hướng thấy thuận lợi nhất... thì ban đêm không thể. Bay đêm phụ thuộc nhiều vào yếu tố kỹ thuật, vì vậy, những phi công bay đêm là những phi công giỏi. Ngay chuyện cất hạ cánh cũng thế. Cất hạ cánh vào ban đêm khó khăn hơn ban ngày nhiều chứ, khốn khổ hơn ban ngày nhiều chứ. Bọn Mỹ lựa chọn cách đánh phá ban đêm cốt loại trừ khả năng chiến đấu của MiG. Trước mỗi đợt đánh, chúng đều cho các máy bay F-111 hoặc A-6 đi đánh phá lại một lần nữa để phá nát đường băng của ta, để ta không thể tung máy bay lên trời được. Rồi chúng còn gây nhiễu đủ các loại với cường độ lớn để ra-đa của ta không phát hiện được đội hình của chúng... Vào ban ngày, có thể nhìn thấy hố bom trên đường băng, có thể biết đoạn đường cất cánh hạ cánh còn dài hay ngắn để định liệu, nhưng ban đêm thì đâu có thấy. Cất cánh ban đêm đã là rất nguy hiểm, nhưng hạ cánh về ban đêm trong những điều kiện ấy còn nguy hiểm gấp bội phần vì không có ánh sáng đảm bảo cho việc hạ cánh, lại còn không biết được đường băng còn dài hay ngắn, hố bom nằm ở đâu, bom nổ chậm nằm ở quãng nào... Gian nan, nguy hiểm lắm chứ! Những chuyến xuất kích về ban đêm đều là những chuyến bay cảm tử. Bọn Mỹ dùng chiến thuật đánh đêm cốt loại trừ mối nguy hiểm từ MiG nhưng chúng không thể ngờ được các phi công bay đêm của ta vẫn xuất kích. Ta đã tìm ra cách dẫn dắt, cách phát hiện mục tiêu để lao vào cuộc chiến đấu. Một cuộc chiến đấu thật oanh liệt!... Nói về đánh đêm, ta không nên lấy số máy bay địch bị bắn rơi để đánh giá kết quả mà phải đánh giá về hoàn cảnh, về ý chí con người, trí tuệ con người phát huy tính sáng tạo, trong cái mạnh của địch tìm ra được cái điểm yếu của nó để đánh nó, về mức độ bảo vệ mục tiêu, mức độ bẻ gãy các đợt tấn công của địch, về sự hy sinh của ta nhiều hay ít... Qua những tháng năm chiến tranh ấy, tôi thấy hết được tính ưu việt của phi công Việt Nam: đấy là ý chí, kiến thức, sáng tạo. Đấy là chất của con người Việt Nam: không hề trốn tránh khỏi nhiệm vụ, cho dù có bị bắn rơi, nhảy dù xong lại tiếp tục đi chiến đấu ngay. Tôi tự hào về phẩm chất của phi công!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Năm, 2020, 05:51:56 am

        Trung tướng Trần Hanh, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, người từng có nhiều thời gian trực ở Sở chỉ huy tiền phương và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh về ban đêm đã đánh giá:

        - Hoạt động đêm có những đặc thù riêng khác hẳn những hoạt động về ban ngày. Tổ chức một trận đánh đêm rất công phu, tốn nhiều công sức và rất gian nan tính từ khâu nghiên cứu địch, lựa chọn phương án đánh đến cách đánh cụ thể rồi cách dẫn dắt và giao nhiệm vụ cho phi công. Các phi công đánh đêm là những phi công giỏi về kỹ thuật bay và có tinh thần gan dạ, quả cảm. Các phi công bay đêm phải bay một mình trong đêm tối, nhiều lúc phải giữ bí mật, không được phép liên lạc qua đối không, phải bay theo đường bay đã chọn, bay thấp trên địa hình rừng núi... Những điều đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ mắt an toàn, đầy bất trắc.

        Khi bay ngày, có thể thấy rõ được địa hình, có thể phát hiện được mục tiêu từ xa, đánh giá được các tình huống trong trận chiến và luôn có biên đội, có sự yểm trợ lẫn nhau giữa các số, nhưng bay đêm thì chỉ có một mình và thường xuyên phải dựa vào các chỉ số của đồng hồ trên máy bay cùng với các số liệu đã được tính toán, định liệu sẵn nên việc phát huy khả năng sáng tạo trong trận chiến phần nào bị hạn chế. Vì vậy, các Sở chỉ huy, các Trạm ra-đa dẫn đường... phải hỗ trợ cho các phi công bay đêm đến mức tối đa.

        Lực lượng phi công bay đêm mỏng hơn lực lượng phi công bay ngày nhiều. Dù vậy, các phi công bay đêm, đánh đêm đã hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ được giao. Ví như, các phi công bay đêm đã gắn bó với tuyến đường vận tải chiến lược 559 khi được giao nhiệm vụ cản phá, bẻ gãy các đợt oanh kích của Không quân Mỹ, săn lùng B-52... Tuy chưa bắn hạ được B-52, nhưng mỗi lần MiG xuất kích là bọn B-52, rồi C-130 phải dạt ra xa, không dám quấy phá trên tuyến đường 559 từ vài ngày tới cả tuần lễ. Trong thời gian ấy, mọi việc vận chuyển vũ khí, khí tài cho chiến trường miền Nam gặp rất nhiều thuận lợi. Những cán bộ, chiến sĩ của tuyến đường 559 hiểu rõ điều ấy hơn ai hết và họ đánh giá rất cao vai trò của Không quân ta, chính là lực lượng bay đêm của Đại đội 5.

        Rồi trong “Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, các phi công bay đêm đã dũng cảm, với tinh thần hy sinh quên mình, cho máy bay cất cánh từ những sân bay, đường lăn... gần như bị bom đạn Mỹ đánh hỏng hoàn toàn để đi tìm diệt B-52, bảo vệ Hà Nội và các thành phố khác. Mỗi chuyến bay trong thời gian ấy đều là những chuyến bay cảm tử. Cũng đã có những chuyến xuất kích chiến đấu trong tình trạng thời tiết cực kỳ xấu, tối khi về hạ cánh không thấy được đường băng, bay hết dầu phải nhảy dù. Đấy là những tấm gương tiêu biểu cho lòng những dũng cảm, ý chí kiên cường, sẵn sàng hy sinh quên mình để hoàn thành nhiệm vụ.

        Cũng trong chiến dịch này, các phi công bay đêm đã hạ gục uy danh của “Pháo đài bay bất khả xâm phạm B-52”. Cho tới nay, trên thế giới chưa một phi công nào làm được điều đó cả. Đấy là niềm tự hào của Không quân nhân dân Việt Nam nói chung và của các phi công bay đêm nói riêng.

        Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được Đảng và Nhà nước trao tặng cho Đại đội 5 bay đêm là phần thưởng cao quý mà các phi công bay đêm hoàn toàn xứng đáng được đón nhận.

        Vâng ! Đúng như lời nhận xét, chia sẻ của các cấp lãnh đạo, chỉ huy! Các phi công bay đêm của Đại đội 5 (sau này đổi phiên hiệu là Phi đội 5) bay đêm đã lặng lẽ vượt mọi khó khăn để hoàn thành mọi nhiệm vụ. Những nhiệm vụ ấy cũng “lặng không ồn ào, nhưng để hoàn thành được là cả một vấn đề. Đảng và Nhà nước đã đánh giá đúng mức những cống hiến của tập thể Đại đội 5, đã trao tặng phần thưởng xứng đáng cho tập thể và các cá nhân của Đại đội 5. Các phi công bay đêm hoàn toàn có quyền tự hào về điều đó!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Năm, 2020, 10:52:56 am
       
KỶ NIỆM VỂ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

        Anh Đinh Tôn là người tiếp xúc và gắn bó với đời bay rất sớm. Ngay từ cuối năm 1956, anh đã cùng các anh: Trần Minh Khuê, Hoàng Liên, Nguyễn Ngộ, Trịnh Hồng Thuận, Nguyễn Phong Tùng, Lê Công Uẩn được cử sang Tiệp Khắc học lái máy bay thể thao.

        Tháng 9 năm 1958, các anh tốt nghiệp về nước, biên chế về sân bay Cát Bi bay trên loại máy bay Aero-45.

        Sau đó, anh chuyển sang lái máy bay vận tải Li- 2, tham gia vận chuyển hàng hóa cho các chiến trường.

        Năm 1961, trong một chuyến bay nhiệm vụ gần biên giới, khi các máy bay C-47 của Mỹ bám theo khiêu khích, anh đã dũng cảm dùng máy bay Li-2 quay lại đối đầu, uy hiếp máy bay C-47, khiến máy bay Mỹ phải rẽ ngang, tháo chạy.

        Trận đối đầu này tuy chưa phải là trận không chiến theo đúng nghĩa, nhưng nó được coi như trận đối đầu trên không đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam.

        Tôi còn được biết, trong thời gian vận chuyển giúp các bạn Lào, anh Đinh Tôn mấy lần đã bị bọn RB-26 uy hiếp. Sau những lần ấy đã có những cuộc họp, Chính ủy Đỗ Long giao nhiệm vụ trực tiếp cho phép dùng súng máy để tự bảo vệ và xưỏng cơ khí đã làm giá súng đại liên trên máy bay.

        Tháng 7 năm 1962, chiếc Li-2 của anh Đinh Tôn bị máy bay RB-26 thuộc phải hữu Lào kèm. Anh cho mở cửa sổ bên phải, ép độ nghiêng sang phía máy bay địch chừng 20 đến 30 độ cốt để mở rộng góc bắn và cũng để loại trừ khả năng bắn vào đuôi ngang của máy bay mình.

        Cơ giới trên không Phan Thanh Liêm đã dùng súng RPK bắn đạn vạch đường vào thằng RB-26 khiến thằng này hốt hoảng chuồn thẳng.

        Đấy có lẽ là vụ nổ súng đầu tiên ở trên không, khởi đầu cho những trận không chiến về sau này.

        Bản tính của phi công tiêm kích chiến đấu cũng đã có sẵn trong anh Đinh Tôn ngay từ bấy giờ rồi.

        Năm 1965, anh là Đoàn trưởng đoàn bay của chúng tôi sang học bên Liên-xô. Ngay từ chuyên đầu tiên bay cảm giác trên loại máy bay phản lực sơ cấp L-29, thày giáo dạy bay đã để anh bay đơn rồi.

        Hàng tuần, anh đều tổ chức rút kinh nghiệm, giảng bình từng chuyến bay, giúp cho chúng tôi nắm vững kỹ thuật bay một cách nhanh chóng. Đoàn bay của chúng tôi đã tốt nghiệp với tỉ lệ khá cao, cho dù khóa bay ấy là khóa bay thử nghiệm không bay loại máy bay sơ cấp cánh quạt Iak-18 mà bay ngay trên loại phán lực L-29 và rồi từ loại L-29 chuyển thẳng lên bay MiG-21. Chúng tôi luôn tự hào nói theo kiểu của người Nga: “Mư Đinh Tôn nôp-sư!” (chúng tôi là người của Đinh Tôn!).

        Tuy vậy, với anh, tôi không dám tiếp cận, không dám gần gũi vì có cái gì đó cứ “ngài ngại” bởi tôi chỉ là học viên, là “lính mới tò te”, mà anh đã là sĩ quan, đã kinh qua trận mạc rồi, nên tôi chỉ dám “kính nhi viễn chi”mà thôi.

        Vốn xuất thân từ chiến sĩ trinh sát của Đại đội trinh sát thuộc Sư đoàn 308, trong mọi tình huống anh luôn bình tĩnh và phản ứng rất nhanh. Ngoài việc bay giỏi, ở các lĩnh vực khác trong thể thao như bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, chạy, nhảy... anh cũng đều giỏi.

        Những lần nhà trường tổ chức thi đấu với các đơn vị khác, thế nào anh cũng có tên trong danh sách đội tuyển của nhà trường.

        Một trong những thú vui của anh là săn bắn. Trong lĩnh vực này anh cũng là một tay súng cừ khôi, một nhà thiện xạ.

        Anh nấu nướng, chuẩn bị các món nhậu khá nhanh và ngon, về “khoản uống”, anh thuộc dạng uống rất “lì”. Tôi chưa thấy anh say bao giờ. về sau này, tôi đã có lần được “hầu rượu” anh và anh Trần Ngọc Bích (cựu phi công bay trực thăng). Hai anh uống với nhau vui lắm. Trong cuộc rượu, lúc hứng chí, anh Bích còn đọc thơ của anh:

                                        Phong lan, phong cấp, phong trần T
                                        Trong ba thứ ấy, anh cần phong chi?
                                        Phong lan chẳng để làm gì!
                                        Phong trần khổ lắm, vứt đi cho rồi!
                                        Chỉ còn phong cấp mà thôi!...


        Hai anh cười rất khoái trá. Tôi lại tiếp rượu. Hai anh lại “cạch”, lại “ực” vui vẻ, thư thái vô cùng.

        Anh là người có tính tình cởi mở, thẳng thắn, thân thiện, hào phóng... Tôi vừa quý, vừa nể, vừa phục anh. Anh để lại dấu ấn sâu đậm không chỉ với tôi mà với cả thày dạy bay, chuyên gia bay nữa.

        Không ai có thể quên được lần vào cuối buổi chiều ngày 11 tháng 9 năm 1972, khi anh cùng với chuyên gia Liên-xô Vaxili Môtlôp bay hồi phục trên chiếc UMiG-21 với bài bay ngay trên đỉnh sân bay Đa Phúc. Chiếc UMiG-21 này không mang tên lửa đã bất ngờ bị 2 chiếc F-4 của Thủy quân lục chiến Mỹ tấn công. Anh vừa cơ động tránh tên lửa, vừa tìm cách giành thế chủ động cho mình. Có lúc anh vòng bám được đằng sau máy bay địch như chuẩn bị phóng tên lửa làm cho bọn F-4 cũng lo ngại, cơ động gấp. Vì bay huấn luyện vào đúng giai đoạn sắp kết thúc bài bay nên dầu liệu không còn nhiều, hơn nữa lại phải bật tăng lực liên tục để cơ động nên chẳng mấy chốc máy bay của anh đã cạn dầu liệu. Anh quyết định phải rời bỏ máy bay.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Năm, 2020, 08:48:19 pm

        Anh chủ động nói với chuyên gia Vaxili Môtlôp: “Chuẩn bị tư thế để nhảy dù!”. Sau khi anh và chuyên gia Liên-xô nhảy dù ra khỏi máy bay, chiếc UMiG-21 trở thành chiếc máy bay không người lái. Bấy giờ bọn F-4 mới bắn hạ được nó.

        Sau khi tiếp đất an toàn và trở về doanh trại, chuyên gia Vaxili Môtlôp đã nói với anh như nói với người bạn, người thân trong gia đình: “Tao là người bay với rất nhiều phi công khác nhau, nhưng chỉ thấy mỗi mày là người có tư chất thật đặc biệt. Mày sinh ra là để bay!”

        Ông Vaxili Môtlôp nhận xét quá chính xác! Đúng! Anh là người sinh ra để bay thật! Tôi luôn ngưỡng mộ trước trình độ điêu luyện và tài năng bay của anh. Tôi thấy rằng, cho tới tận bây giờ, không ai có thể so sánh với anh được! Anh là Number One! là Số Một!...

        Trước khi thành lập Đại đội 5, tôi có bay số 2 cho anh ở sân bay cơ động Thọ Xuân - Thanh Hóa. Trong chuyến bay đầu làm số 2 cho anh, chắc anh muốn thử tôi. Anh xà xuống, bay rất thấp, vòng gắt về phía anh và sau đó về phía tôi cốt xem tôi xử trí ra sao, rồi rẹt trên đường băng với độ cao cực thấp, bật tăng lực, kéo lên. Tôi vẫn bám chặt anh như hình với bóng và về sau này, chính những động tác khi đi với anh làm cho tôi nảy ra cái “sáng kiến” bay báo cơm ở các sân bay và cũng chính vì cái động tác ấy mà thường xuyên mất danh hiệu “Đảng viên 4 tốt”.

        Kết thúc chuyến bay ngày hôm ấy, về hạ cánh xong, tôi chờ anh nhận xét, nhưng anh không nói gì. Trước lúc xuống bếp ăn cơm, anh gọi tôi vào nhà, lấy chai rượu, rót cho tôi một chén đầy và nói: “Làm li, mầy!”. Tôi chạm chén với anh, uống cạn, thầm nghĩ: “Vậy là anh đã chấp nhận tôi làm số 2 cho anh rồi!”.

        Tôi còn bay số 2 cho anh mấy chuyến nữa và chuyến nào xong cũng diễn ra cảnh tương tự như chuyến đầu. “Làm li, mầy!” là ghi nhận sự hài lòng đối với số 2 của anh.

        Cũng ở sân bay cơ động Thọ Xuân này đã xảy ra chuyện còn lưu lại mãi về sau này. Đó là, hàng tuần, vào buổi sáng thứ 2, chúng tôi tập trung để làm lễ chào cờ và nghe nhận xét tuần.

        Vào một lần, khi đội ngũ đã chỉnh tề thì anh Nguyễn Côn - cán bộ của Tiểu đoàn căn cứ Thọ Xuân tuyên bố:

        - Hôm nay chúng ta không phải hát quốc ca vì đã có quân nhạc!

        Tôi ngơ ngác quan sát. Không thấy dàn quân nhạc đâu, chỉ thấy có một anh ôm nhị và một anh cầm ghi-ta ngồi ở phía góc trên. Tới lúc có khẩu lệnh: “Nghiêm! Chào cờ chào!” thì tiếng nhị cất lên: “ò e ò e e...”, còn tiếng ghi-ta thì “phực, phực...” đệm theo. Mọi người chắc buồn cười lắm nhưng không một ai dám bật ra tiếng cười vì đang lúc chào cờ.

        Kết thúc buổi chào cò hôm ấy, anh Tôn gặp anh Côn làu bàu:

        - Thật làm ăn chẳng ra sao! Cứ như là trò hề! Mày đúng là thằng... Côn “lò”!

        - Có mày là Tôn... “lò” thì có! - anh Côn vặc lại.

        Hồi đó tôi còn trẻ, mới “tí tuổi”, thấy vậy thì vừa ngạc nhiên, vừa phải nhịn cười vì cái trò nói lái đốì đáp nhau, rồi nhìn hết ông anh nọ đến ông anh kia mà chẳng hiểu thế nào.

        Cái buổi chào cờ hôm ấy sau trở thành giai thoại, rồi mỗi người cứ thêm thắt chút ít “mắm muối” vào và ai cũng cho rằng mình là người được dự buổi hôm đó nên có lúc cũng bị lệch lạc nội dung...

        Khi tôi ở Trung đoàn đóng quân tại Yên Bái thì hay tin anh bệnh nặng, đang ở giai đoạn gay go. Nhân dịp về Sư đoàn họp, tôi ghé vào bệnh viện thăm anh. Bấy giờ anh nói đã khó khăn, chỉ còn gật hay lắc đầu thôi. Tôi đến, anh nhận ra tôi và rơm rớm nước mắt. Suýt thì tôi khóc òa trước mặt anh, may mà tôi ghìm được. Thương anh quá mà chẳng biết làm thế nào. Có phải là gánh thứ gì nặng mà san sẻ gánh bớt được cho anh đâu!

        Ít lâu sau thì anh “đi”. Tôi ở xa, chẳng về viếng anh được, chỉ luôn đau đáu một điều trong tâm khảm: anh là người tôi luôn gọi bằng ANH - từ ANH viết bằng chữ in hoa với tất cả lòng kính trọng và ngưỡng mộ!...

        Ở Đại đội 5, cả Chính trị viên và Chính trị viên phó đều tên là Thành, có điều, anh Phan Minh Thành có nước da “sậm” hơn anh Nguyễn Văn Thành nên để dễ phân biệt, chúng tôi gọi anh Phan Minh Thành là anh Thành “đen”, còn anh Nguyễn Văn Thành là anh Thành “trắng”.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Năm, 2020, 07:19:05 am

        Anh Phan Minh Thành, anh Thành “đen” ấy là người xởi lởi, luôn tìm cách tiếp cận bọn tôi, cùng chia sẻ mọi chuyện để giúp anh làm công tác tư tưởng tốt hơn.

        Tôi còn nhó lần anh về quê tôi thẩm tra lí lịch trước khi kết nạp Đảng cho tôi. Khi ở quê lên, anh gặp tôi:

        - Này, tớ vừa ở quê cậu hôm qua đấy. Đến đầu làng cậu thì tớ gặp một cô quần còn xắn cao quá đầu gối, vác gàu tát nước, chắc vừa đi tát nước hoặc đi cấy về. Tớ hỏi lối vào nhà cậu. Cô ta mặt đỏ bừng lên, chỉ đường xong là ù té chạy luôn. Tớ sinh nghi, khi đến nhà gặp bố mẹ cậu, tớ bèn hỏi đấy là ai thì mẹ cậu bảo đó là cô gái ở xóm trên mà bố mẹ cậu định “dấm” cho cậu đấy. Tớ thấy nó cũng khỏe mạnh, xinh xắn. Được đấy chứ! Còn cậu thấy thế nào?

        Tôi chẳng thấy thế nào cả vì tôi và cô bạn kia chỉ cùng sinh hoạt trong Đội thiếu niên hồi tôi còn ở nhà, sau đó là tôi nhập ngũ, đi biền biệt, có biết gì nữa đâu. Mà cũng đã có tình cảm gì với nhau đâu. Nhưng anh Thành “đen” thì ấn tượng về lần ấy lắm. Mãi sau này khi gặp tôi, anh vẫn hỏi:

        - Này, thê cái cô ở quê năm ấy bây giờ thế nào rồi?

        - Yên bề gia thất rồi, anh ạ!

        Thế là từ bấy, anh không hỏi thêm gì nữa.

        Rồi có một hôm, anh tìm đến tôi:

        - Hôm tớ về tranh thủ, tố thấy thằng con tớ không hiểu sao mà chân răng của nó xám xịt, lợi thì sưng đỏ, tớ ấn thấy mềm như mưng mủ, răng thì lung lay, lại chảy máu nữa và mùi thì hôi lắm!

        - Ôi, anh ơi! Đông y gọi đấy là cam răng, khéo bị “tẩu mã nha cam” rồi cũng nên!

        - “Tẩu mã nha cam” là cái trò gì?

        - Là khi hàm răng bị viêm nặng, tới lúc gọi là “tẩu mã” thì nguy cấp lắm rồi, nhanh như ngựa chạy ấy mà, chỉ vài ngày thôi là có thể thối nát, rụng răng, thậm chí xuyên thủng má lên mũi, rồi dẫn đến cái chết đấy! Không xem thường được đâu!

        - Chết cha! Thế bây giờ phải làm thế nào? Chữa chạy kiểu gì?

        - Tây y thì tôi không biết thế nào, nhưng với Đông y thì có mấy cách chữa, như bài dùng vỏ cây núc nác, bột chàm, phèn phi, rồi bài dùng cặn nước đái, bài dùng cóc vàng với phèn chua...

        - Thôi, thôi! Mày viết nhanh cho tao mấy bài ấy đi! - anh chuyển cách xưng hô với tôi như anh em trong gia đình.

        Tôi cặm cụi viết cho anh mấy bài thuốc ấy, dặn dò anh cách làm thật cẩn thận và giục anh xin nghỉ ngay mấy ngày để về. Anh gấp tờ giấp có ghi mấy bài thuốc, cho vào túi và hối hả đi ngay.

        Gần tuần sau, anh trở về đơn vị, từ xa đã thấy anh tươi cười, vẫy vẫy tôi lại:

        - Ổn rồi, mày ạ! Răng thằng bé đã chắc, đã hết mùi hôi thối, không chảy máu nữa. Yên tâm rồi! Mà mày học được ba cái thứ đó ở đâu ta?

        - Ở sách anh ạ!

        - Oi, cái thằng! - anh cười phấn khởi.

        Khi tôi chuyển hẳn sang bay ngày và đi cơ động liên tục thì ít gặp được anh. Càng về sau này càng ít gặp. Tới khi tôi đi học rồi về đóng quân ở Yên Bái thì không gặp được anh nữa.

        Mãi tận sau này, tôi nghe tin anh đã về ở gần sân bay Biên Hòa rồi lại nhận tin anh mất, tôi cứ bùi ngùi. Thê là anh đã vĩnh viễn “ra đi” - người Chính trị viên nhưng rất gần gũi, rất hòa đồng cùng đội ngũ phi công chúng tôi.

        Tôi vẫn nhớ khuôn mặt anh với nụ cười vui vẻ đầy phấn khích và câu: “Ôi! Cái thằng!”. Vậy mà đấy lại là câu cuối cùng trong đòi của anh đối với tôi.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Năm, 2020, 06:50:20 pm

        Sự mất mát đầu tiên của Đại đội 5 là anh Phạm Văn Mạo.

        Khi tôi còn bay đêm thì phòng anh ở gần phòng tôi. Anh hay gọi tôi bằng cái tên tục của tiếng Nga, sau đó toét miệng ra cười. Cái cười thật thà với hàm răng ám khói thuốc làm cho không một ai giận anh được. Khi có phong trào tăng gia trồng rau, anh thường “diện” chiếc “quần đùi bà bô”, cởi trần khoe những dẻ xương sườn, đội chiếc mũ nan rộng vành và pha trò bằng cách ôm chiếc xẻng giả làm chiếc ghi-ta, mồm thì uốn éo theo tiếng nhạc tự tạo...
Nhìn dáng anh giông như một thổ dân nơi miền hoang dã đang khật khưỡng thì không ai nhịn được cười.

        Anh thuộc tạng người gày, thường nặng chỉ 45- 46 cân thôi và xây dựng gia đình cũng lâu rồi mà chưa có được mụn con. Vào một tối nọ, anh gọi tôi sang phòng anh, nói là có “sự kiện”. Khi tôi sang phòng đã thấy mấy đĩa kẹo rồi ấm trà, cả thuốc lá bày sẵn trên bàn. Anh tươi cười, niềm nở mời khách vào. Hỏi lí do, anh chỉ cười trừ. Tôi đoán, chắc anh mới nhận được thư nhà và trong thư, chị báo cho anh là đã có “tin vui”, nhưng hóa ra lại không phải vậy. Ăn uống một lúc thì anh hắng giọng và thông báo:

        - Đời tớ chưa bao giờ vượt qua được con số 46 cân. Vậy mà hôm nay xuống quân y, bước lên cân thử và... lần đầu tiên trong đời tớ thấy chiếc kim chỉ đến con số suýt soát 48 ki-lô-gờ-ram! Vậy là khao thôi!

        Ôi, cái con số thật đơn giản mà làm cho anh sung sướng đến thế. Giả như, chị ở nhà báo tin chị đã “có bầu” thì anh còn sung sướng biết nhường nào và còn tổ chức thết đãi những gì.

        Anh là người rất thích xe máy, thường ao ước có một chiếc “bình bịch” để vi vu về quê Thái Bình. Không biết anh kiếm ở đâu được một chiếc biển xe đem về giắt đầu giường, cứ tối tối lại gọi tôi sang phòng anh, nghe anh giảng về quy trình nổ máy và sang số, chạy xe. Anh lấy chiếc biển xe ra, giắt vào sau lưng, ngồi lên ghê giả làm yên xe, tay làm động tác mở khóa điện, đạp khởi động, mồm kêu “rìn rin” như tiếng máy rồi vào số, tay tăng ga, đầu lắc lư với vẻ mặt vô cùng khoái trá. “Đi xe” một lúc, anh làm động tác tắt máy, lại lấy chiếc biển số sau lưng ra, giắt vào đầu giường, cười: “Thê là xong một chuyến!”.

        Nhìn anh, tôi thầm mong cho anh một ngày nào đó ước mơ của anh sẽ thành hiện thực, anh sẽ có một chiếc xe máy để anh bon bon trên những dặm đường về thăm quê Thái Bình, nôi những niềm vui...

        Rồi một thời gian sau, tôi chuyển sang Đại đội bay ngày, cơ động thường xuyên nên ít gặp anh. Lần tôi ở với anh cuối cùng là ở sân bay Thọ Xuân -  Thanh Hóa. Ngày mồng 3 tháng 3 năm 1972, chiếc máy bay Li-2 chở bộ phận tiền trạm cơ động vào phía trong thì anh Nguyễn Văn Thuận đang ốm. Anh được cử đi thay anh Thuận. Không ngờ đấy lại là chuyến bay định mệnh của anh cùng số anh em khác trong đoàn.

        Tôi đang trực chiến ngoài sân bay nên đi tiễn anh. Tới gần chiếc Li-2 thì anh cười cười, gọi tên tục của tôi bằng tiếng Nga và nói:

        - Thôi, đủ rồi, đồng chí ạ! về trực đi!

        Tôi bắt tay anh và các anh cùng chuyến đi. Ai biết được rằng đấy lại là cái bắt tay vĩnh biệt.

        Anh hy sinh khi con gái anh mới được mấy tháng tuổi. Anh cũng chưa có dịp về thăm nhà nên không biết mặt con. Sau này, khi phác thảo các gương mặt của Đoàn bay MiG-21 khóa 3, tôi đã “vẽ phác” về anh:

                                 Chàng họ Phạm đen, lại gày
                                 Thành người Thiên cổ một ngày Tháng Ba
                                 Thương Con không biết mặt Cha
                                 Khói nhang xứ Nghệ nhạt nhòa chân mây!...


        Cũng may mắn, anh đã để lại cho con gái anh thừa hưỏng tính nết chăm chỉ, nhân hậu, chất phác, vui vẻ, biết quan tâm đến mọi người. Gia đình riêng của cháu bây giờ làm ăn cũng khấm khá. Cháu hay gọi điện hỏi thăm chúng tôi. Vậy cũng đã là mừng lắm rồi!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Năm, 2020, 09:01:12 pm

        Sau 5 tháng kể từ ngày anh Phạm Văn Mạo “ra đi” thì Nguyễn Ngọc Thiên hy sinh vào đêm 10 tháng 8.

        Nguyễn Ngọc Thiên thoạt đầu bay trên loại máy bay Iak-18, rồi chuyển lên bay trên MiG-17. Đến năm bay MiG-21 thì chúng tôi cùng đoàn bay với nhau dưới sự chỉ huy của Đoàn trưởng Đinh Tôn. Anh vào bay đêm sau tôi một thời gian nhưng chúng tôi đã thân thiết nhau từ khi bay ngày, cùng nhóm chơi xà, tạ với nhau rồi. Anh là người tượng trưng của cơ bắp vì hoạt động thể thao nhiều, bụng “6 múi” đàng hoàng. Chúng tôi không gọi anh là “Sáu múi” mà lại gọi anh là “Sáu cơ”. Thực ra, cái tên húy ấy ít người biết được xuất sứ, nguồn gốc. Ngay như anh Nguyễn Văn Lý - người cùng Đại đội bay với anh Thiên, có lần thấy chúng tôi trêu đùa anh Thiên, khi anh Lý xuất hiện thì chúng tôi không nói nữa, chỉ cười. Thấy vậy, anh Lý bảo:

        - Tao biết thừa bọn mày nói về đứa nào rồi!

        - Thê anh đoán đang nói về ai?

        - Về thằng “Át nhép” chứ còn thằng nào!

        Tất cả chúng tôi cười phá lên. Thì ra, anh nghĩ “biệt danh” của Nguyễn Ngọc Thiên được đặt qua quân bài của tú-lơ-khơ. Cứ đà suy luận này thì có ngày trong số chúng tôi sẽ được anh đặt cho tên húy là “cửu vạn”, “chi chi”, “bát sách”... như trong cỗ bài tổ tôm cho mà xem!

        Tôi gắn bó nhất với Sáu Thiên là thời gian bay thử ở sân bay Tường Vân, khi ta gửi số máy bay MiG-21 ở Tường Vân theo kiểu như sơ tán sang đó. Đến thời hạn phải chuyển dần số máy bay ấy về nước để bổ sung cho biên chế chiến đấu của Trung đoàn, Quân chủng đã tổ chức một lớp học chuyên về bay thử do thày Ivanôp - chuyên gia bay của Liên- xô về lĩnh vực này và là thày bay lão luyện, từng bay số 3 trong biên đội 12 chiếc biểu diễn trong phim “Những đôi cánh Tháng Mười” dạy chúng tôi. Thày Ivanôp hướng dẫn, chỉ bảo chúng tôi trong vòng 1 tháng liền. Lớp học ấy chỉ có 5 phi công Việt Nam là các anh Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Đăng Kính, Nguyễn Tiến Sâm, Nguyễn Ngọc Thiên và tôi. Kết thúc khóa học, 5 anh em tôi được chiếc máy bay vận tải I1-14 chuyển sang sân bay Tường Vân làm nhiệm vụ bay thử số máy bay ta gửi sơ tán ở bên đó. Cứ bay xong một đợt thì ở nhà cử các phi công sang chuyển về nước. Đến đợt chuyển thứ 2, anh Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Tiến Sâm cùng tham gia chuyển máy bay về nước và thôi không sang nữa. Vậy là ở lại Tường Vân chỉ còn 3 anh em tôi. Sau khi chuyển hết số máy bay MiG-21 F-94 về nước, còn lại 3 chiếc MiG- 21 F-13 giao lại cho 3 anh em tôi tiếp tục bay thử và chuyển về sau cùng, thành một đợt riêng.

        Tôi phải bay thử chiếc MiG-21 F-13 không có lí lịch (lí lịch bị thất lạc, không tìm được nữa). Khi lăn ra đường băng, chuẩn bị cất cánh, bật tăng lực, chỉ nghe thấy tiếng “phù” mà không cảm thấy lực giật của tăng lực, nhưng vẫn phải cất cánh. Tôi cất cánh trong tâm trạng lo lắng. Anh Nguyễn Đăng Kính và Nguyễn Ngọc Thiên đứng dưới đất quan sát còn lo lắng hơn tôi. Bao giờ chẳng vậy, “người dưới gốc thường lo hơn người trèo trên ngọn” mà. Cũng chính Nguyễn Ngọc Thiên là người đã ngắt những bông hoa dại mọc ở ngoài sân bay, nhanh chóng kết thành một vòng hoa với ý định nếu tôi hoàn thành được chuyến bay, về hạ cánh an toàn thì đấy là vòng hoa chiến thắng, nhược bằng xảy ra chuyện gì xấu với tôi thì đấy sẽ là vòng hoa tang đặt trên mộ tôi.

        Tôi đã trở về hạ cánh an toàn và Sáu Thiên là người “xông” lên buồng lái đầu tiên, quàng vòng hoa ấy lên cổ tôi, hôn lên mặt tôi khi ấy còn ướt đẫm mồ hôi. Tôi đã kể chi tiết này trong cuốn tự truyện “Tôi từng là phi công tiêm kích” (NXB Văn học, 2008) rồi, nhưng cho dù đã kể, mỗi khi tôi nhớ về “Sáu cơ” thì trong tôi lại hiện lên rõ mồn một cảnh tượng ngày bay hôm đó, chuyến bay hôm đó.

        Nguyễn Ngọc Thiên hy sinh đêm 10 tháng 8 năm 1972 thì 2 ngày sau đó - ngày 12 tháng 8, tôi phải nhảy dù trong trận không chiến với lũ F-4, phải vào nằm viện điều trị mất tuần lễ.

        Những ngày nằm viện là những ngày tôi nhớ “Sáu cơ” nhiều nhất. Phải chăng nếu “Sáu cơ” nhảy dù được, có lẽ chúng tôi sẽ lại nằm điều trị cùng một nơi và biết đâu, khi tôi đến viện, “Sáu cơ” lại tết một vòng hoa dại quàng vào cổ tôi lần nữa...

        Nhưng điều ấy không bao giờ diễn ra nên mới buồn. Rất buồn!

        Nhiều năm sau này, có một lần khi tôi có việc vào trong miền Nam, tôi đã gặp cô cháu của Thiên là Nguyễn Ngọc Như Băng. Cháu đã đưa cho tôi và anh Hà Quang Hưng những quyển nhật ký của Nguyễn Ngọc Thiên mà cháu từng cất giữ. Tôi càng đọc những trang nhật ký ấy thì càng vỡ lẽ ra rằng: đằng sau cái dáng người gân guốc, cứng nhắc ấy là cả một tâm hồn đa cảm, nghĩa tình. Cũng là một sự lạ. Điều ấy càng làm cho tôi nhớ đến Sáu Thiên hơn. Nhớ đến khắc khoải.

        Rồi lại như tình cờ do số phận sắp đặt, khi cháu trai của Nguyễn Ngọc Thiên chuẩn bị lấy vợ. Bố cháu (là em trai của Thiên) mời anh Hà Quang Hưng, anh Nguyễn Văn Quang và tôi đi dự lễ ăn hỏi cho cháu ở địa phận của Hà Đông. Thế nào mà hôm ấy bên nhà gái lại có nhiều người biết đến vợ chồng chú em trai tôi và lại có một số cán bộ thuộc Tiểu đoàn tên lửa, cùng Quân chủng Phòng không -  Không quân với chúng tôi nữa. Vậy là chúng tôi quen nhau rất nhanh, chuyện trò rôm rả và buổi lễ ăn hỏi bỗng dưng không còn khung cảnh mang tính ngoại giao, khách khí nữa mà chuyển sang không khí tình cảm kiểu gia đình. Tất cả đều thông cảm cho nhau và mọi sự trao đổi, bàn bạc cho ngày hôn lễ được thông nhất một cách nhanh chóng.

        Tôi cứ nghĩ, có thể do bàn tay của “Sáu cơ” dàn xếp từ thế giới bên kia và buổi lễ hôm đó, anh cũng đi lại loanh quanh ở đâu đó, luôn tủm tỉm cười hài lòng...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Năm, 2020, 10:26:01 am

        Người thứ hai của lực lượng bay đêm hy sinh trong chiến đấu là Vũ Xuân Thiều.

        Vũ Xuân Thiều hy sinh vào đêm 28 tháng 12 năm 1972. Tôi rất hay mơ gặp Vũ Xuân Thiều, thấy anh vẫn y như hồi chúng tôi ở trong hầm của Đại đội 5, rồi thường ra ngồi trên mấy hòn đá trước hầm, ngắm cảnh hồ ở cạnh thôn Lạc Đức, Sóc Sơn. Cũng có khi lại thấy tôi với anh nằm trên chiếc xăm của lốp máy bay MiG-21, lênh đênh trên mặt hồ phía sau hầm cùng với anh Trần Thông Hào trong những đêm trăng suông. Ba anh em chụm đầu vào nhau, rì rầm trò chuyện rồi trêu chọc nhau.

        Có lần bỗng như tôi tỉnh ngộ ra điều gì đó và hỏi Vũ Xuân Thiều:

        - Này, mà ông chết rồi cơ mà?

        - Chết đếch gì! - Thiều cười, trả lời.

        Đến lúc ấy thì tôi tỉnh hẳn và thức một mạch cho đến sáng, cố lí giải về những điềm đến trong mơ. Khi tôi nói chuyện lại với một số người thì họ cho rằng đấy có khác gì như một ác mộng.

        Khoa học không biết cho tới giờ đã giải mã được những gì liên quan đến giấc mơ chưa, nhưng khi tôi có đọc một tài liệu nói về sự “bí ẩn của chiêm mộng”, trong đó có để cập đến loại “phù” để trừ ác mộng. Khi gặp ác mộng thì cầm “phù” mà chú rằng:

                      “Hách hách dương dương
                      Nhật xuất Đông phương
                      Đoạn tuyệt ác mộng
                      Tịch trừ bất tường
                      Cấp như luật lệnh!


        Và đọc liền 7 lần như vậy.

        Ngay người Nhật Bản cũng có cùng tín ngưỡng như thế, tức là khi gặp ác mộng thì phải đọc những câu “chú” như trên, rồi nhìn về phía Đông, hít hơi vào và thở hơi ra ở hướng Bắc. Làm như vậy 7 lần để “trừ họa”.

        Đúng, sai, thực, hư thế nào thì tôi chịu!...

        Những lần tôi gặp Vũ Xuân Thiều trong mơ, tôi không cho rằng đấy là ác mộng mà còn lấy làm thích thú vì được gặp lại một trong những người mà tôi từng quý mến...

        Đầu to, tóc cứng màu đồng hun, vai vuông, hông nhỏ, trầm tĩnh, dí dỏm, ý chí kiên định, sắt đá, mạnh mẽ và ẩn bên trong là một con người rất tình cảm. Cộng với lối chơi ghi-ta phập phừng kiểu chẳng giống ai... thì đấy là những nét phác thảo về Vũ Xuân Thiều.

        Thiều coi tôi như một người bạn, như một đứa em. Lá thư (gần như cuối cùng) Thiều viết cho tôi với lời nhận xét về cô “sơn nữ” (nay là vợ tôi) là những lời “thẩm định” cho mối tình của tôi. Những gì với Vũ Xuân Thiều, tôi đã viết trong cuốn “Vũ Xuân Thiều - phi công cảm tử” (NXB Lao động, 2012) rồi. Thiết nghĩ không nên lặp lại ở đây nữa.

        Có một điều tôi luôn áy náy cho tới tận bây giờ về lí do truy tặng danh hiệu Anh hùng cho Vũ Xuân Thiều. Chuyến bay cảm tử của anh cùng hành động anh hùng của anh quyết tiêu diệt bằng được B-52 đã được công nhận nhưng mãi cho tới hơn 20 năm sau, anh mới được truy tặng danh hiệu cao quý: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Chậm như vậy là sao nhỉ?

        Tôi áy náy cũng là áy náy thế thôi, bộc bạch thế thôi!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Năm, 2020, 02:13:51 pm

        Anh Nguyễn Văn Thuận cùng đoàn bay với bác tôi và chơi thân với bác tôi là Tạ Văn Thành. (Bác tôi đã hy sinh trong trận không chiến trên vùng trời Phổ Yên vào ngày 14 tháng 7 năm 1966. Trận ấy, bác tôi bay số 2 cho anh Hoàng Biểu. Bác tôi bị bọn F-4 bắn. Máy bay của bác tôi bị thương nặng. Bác phải nhảy dù rời máy bay nhưng vì nắp buồng lái bị biến dạng, không tách được ghế dù, tất cả cứ thế rơi xuống đất nên bác tôi không thoát được nạn). Khi tôi được biên chế về Đại đội bay đêm, anh Thuận đã từng lập được chiến công: bắn rơi 2 máy bay Mỹ (1 chiếc F-105, 1 chiếc không người lái) và là Trung đội trưởng Trung đội bay đêm của tôi.

        Vì được biết anh từ trước, tính tình anh lại xởi lởi, cởi mở nên tôi gần anh rất nhanh và coi anh như người anh của mình. Ngoài những lúc nghiêm túc trong công việc, khi rảnh rỗi, anh hay kể những chuyện vui và đôi khi anh cũng tếu táo, coi bọn tôi như bạn cùng trang lứa...

        Anh không chỉ làm cho chúng tôi cười tít mắt mà ngay hồi học bên Liên-xô, anh đã làm cho bao người Nga phải cười ngả cười nghiêng rồi. Ấy là khi anh lên sân khấu diễn những vở kịch câm “Cắt ruột thừa”, “Bắt nấu rượu lậu”... thì mọi khán giả đều cười khoái trá, cười hết cỡ mới thôi bởi anh diễn cái kiểu khóc trên sân khấu không hề giống ai: nước mắt không chảy xuôi mà chảy ngược, vọt hắn thành hai dòng lên tít trên cao...

        Anh kể:

        - Có gì đâu! Tớ cho nước vào 2 quả bóng cao su, đặt vào 2 bên nách, nối đường dây bằng ống nhựa mềm dọc theo cánh tay, khi làm động tác khóc, chỉ việc giơ tay lên che mặt đồng thời ép chặt nách vào, thế là nước phọt ngược lên thôi!

        - Anh sánh ngang với Niculin - nghệ sĩ hề Công Huân của Liên-xô rồi! - tôi trầm trồ.

        - Sánh ngang thì chẳng thể sánh ngang được, nhưng sau buổi biểu diễn ấy, nhiều người khoái tớ lắm, nhất là những cô gái Nga...

        - Thế thì anh sướng thật đấy!...

        Anh chơi vi-ô-lông khá hay và cũng đã từng đứng trên sân khấu bên Liên-xô biểu diễn. Lúc anh đứng chơi vi-ô-lông, anh có kiểu đứng không ai có thể bắt chước được. Cũng bởi anh có đôi chân cong cong không giống ai, lại tạo dáng kiểu nghệ sĩ nên khó mà học theo.

        Anh có ý định “đồng hóa nghiệp vụ” cho toàn Trung đội, tức là bắt tất cả các Trung đội viên của anh phải tiếp cận với cái món “nhị Tây” ấy.

        Tôi thì chân tay cứng quèo vì chơi xà, tạ... làm sao mà kéo “nhị Tây” được nên cứ gần đến giờ anh vác đàn ra định dạy là tôi tìm cách lỉnh ra bãi tập xà. Vũ Xuân Thiều thì ôm cây ghi-ta lên giây rồi gảy “phừng phực, phừng phực...”, còn Nguyễn Cát A thì chẳng nói chẳng rằng, hồn nhiên đưa “ngón tay thần” của mình lên... ngoáy mũi!...

        Anh Thuận lắc đầu, cám cảnh trước các Trung đội viên của mình, liền cất đàn vào một xó và than thở:

        - Đúng là các cậu đã chẳng hiểu biết tí gì về văn học nghệ thuật, mà lại chẳng muốn tiếp cận với nghệ thuật! Thật chán mớ đời!...

        Không thuyết phục được chúng tôi tiếp cận loại nhạc cụ mà anh yêu thích, anh bắt chúng tôi phải học hát bài mà anh nói là do anh sáng tác. Chúng tôi phải tuân theo. Lời bài hát cùng giai điệu của nó, tôi vẫn còn nhớ tới bây giò:

                                  “Đoàn ta bay hiên ngang trong ánh mây hồng
                                  Kìa nhà máy, ống khói cao vút xanh
                                  Ôi Tổ quốc thân yêu nâng cánh ta bay
                                  Canh giữ bầu trời là niềm hạnh phúc của ta
                                  Đảng đã cho ta đôi cánh tung trời
                                  Lướt gió rẽ mây, ta bay tìm diệt quân thù
                                  Tổ quốc mến yêu
                                  Xin hiến dâng Người cả trái tim ta!
                                  Xuất kích trận này, chiến thắng về


        Anh hay tâm sự với chúng tôi đủ mọi chuyện, kể cả chuyện riêng tư của vợ chồng anh, cả những chuyện anh trêu, lừa các anh Vũ Ngọc Đỉnh, Đặng Ngọc Ngự... ra làm sao và chính anh cũng bị các anh ấy trêu đùa lại như thế nào một cách rất hồn nhiên, thật thà. Những chuyện ấy vô tình chính là sự “trang bị” cho tôi chút kinh nghiệm vào những chuyện đùa nghịch sau này của tôi. Chuyện anh bắt tôi đi lấy muôi để sử dụng vào việc trị tật ngáy của anh Nguyễn Cát A thì tôi đã kể chi tiết trong cuốn “Vũ Xuân Thiều - phi công cảm tử” rồi, tôi không muốn nhắc lại ở đây nữa.

        Khi tôi rời khỏi đội ngũ bay đêm, chuyển sang bay ngày thì tôi xa anh. Rồi anh cũng chuyển công tác nên tôi không liên lạc được với anh nữa, chỉ thi thoảng hỏi thăm tin anh qua các anh khác mà thôi.

        Lâu lắm, phải đến mấy chục năm sau đó, tôi được gặp anh trong một đám cưới của một ai mà tôi không còn nhớ, sau đấy lại bặt tin anh. Khi anh mất, tôi cũng không biết, mãi sau tôi mới được tin. Vì anh ở trong miền Nam nên tôi không có điều kiện vào thắp nhang viếng anh, chỉ lưu giữ nỗi nhớ về anh ở trong lòng, không bộc bạch ra được. Nay nhờ những dòng này, tôi muốn gửi sự tri ân và như nén tâm nhang gửi đến viếng anh.

        Cầu mong anh thanh thản ở thế giới bên kia, tiếp tục chơi vi-ô-lông - loại nhạc cụ mà anh ưa thích. Hẹn anh kiếp sau, nếu còn có duyên với anh, tôi sẽ nhờ anh dạy cho cái món “nhị Tây” ấy và biết đâu, tôi sẽ thành tài!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Năm, 2020, 12:02:37 pm

        Cùng Trung đội bay đêm với tôi thì anh Nguyễn Cát A là người gây ấn tượng cho tôi ngay từ khi tôi và anh đi trực cao không. Không ai tìm thấy thùng bay của anh ở đâu cả, mà gần đến giờ xe chạy rồi nên mọi người cứ cuống lên, lục lọi loạn khắp nơi. Mãi sau đó khi tìm được thùng bay của anh thì mói vỡ lẽ ra một điều. Tức là, bộ phận giữ và bảo quản quần áo bay, mũ bay cao không hồi đó thấy có tên Cát A liền cho rằng có 2 phi công tên Cát, nên mối gọi một là Cát A và người kia sẽ là Cát B, vì thê mới viết chữ Cát rõ to, còn chữ A thì bé như số mũ của lũy thừa. Thế thì có mà trời tìm!...

        Kể từ ngày ấy, tôi hay trêu chọc anh, cho dù anh lớn hơn tôi đến 7 tuổi. Anh không giận tôi, có lẽ là không chấp với một thằng em nhãi ranh. Anh kể cho tôi nghe về cuộc đời anh vất vả, lận đận thế nào, rồi về nguyên cớ cái ngón tay anh bị dập mà tôi đã gọi đấy là “ngón tay thần”.

        Ở cùng phòng với anh thì anh “tra tấn” chúng tôi bằng cách ngáy của anh. Tôi cũng đã kể chi tiết về chuyện này trong cuốn “Vũ Xuân Thiều - phi công cảm tử rồi.

        Trình độ bay của anh thuộc loại bình thường. Các động tác điều khiển máy bay thường thô, giật cục. Ngại nhất là khi bay số 2 cho anh. Hình như anh chỉ chú trọng vào các động tác của cá nhân anh mà quên mất đằng sau mình còn có một người nữa thì phải. Anh không hề có động thái báo trước cho số 2, mà cứ làm ào ào. Nếu số 2 không tỉnh táo thì có khi không theo kịp hoặc va vào anh là thường. Kết thúc chuyến bay, khi hạ cánh xong, tôi gặp anh và hỏi thẳng:

        - Hình như có lúc anh không quan tâm đến tôi bay ở sau anh hay sao ấy?

        - Ừ, xin lỗi! Đúng là có lúc tớ chẳng biết là mình có số 2 thật!

        - Nói thực với anh chứ bay số 2 cho anh tôi mệt và căng thẳng tới muôn chết!

        - Thôi, tớ sẽ rút kinh nghiệm! - anh vừa đưa tay ngoáy mũi vừa cười.

        Mà anh cũng lại có tính hay quên. Một lần khi bay về, anh gặp tôi, nói là trong chuyến bay hành trình ngày hôm ấy, đến điểm vòng lấy hướng mới, lúc cải máy bay ra, thay vào động tác bấm đồng hồ ghi thời gian thì anh lại đem thả mảnh giảm tốc. Vậy là tốc độ máy bay cứ ngày càng chậm dần, anh cứ phải tăng vòng quay động cơ liên tục, dầu liệu tiêu hao quá nhanh, mãi sau anh mới phát hiện ra, chứ không thì gay go to.

        Ở trên không đã vậy, dưới mặt đất thì anh quên ghê lắm. Anh có thói quen là giắt bút máy ở túi áo ngực, nhưng rồi nhiều lần anh không giắt ở đấy mà lại gài vào túi sau của quần. Khi sờ lên túi áo ngực không thấy bút, anh nhìn ngay sang tôi, nghĩ rằng chỉ có tôi mới hay gây ra những trò nghịch oái oăm, giấu thứ nọ, giấu thứ kia của anh. Nhưng tôi đâu có giấu. Thấy bút ở túi phía sau quần anh, tôi cứ tủm tỉm cười. Anh càng tin tôi là thủ phạm rồi bực lên, quát tôi: “Có đưa giả tớ ngay không thì bảo?”. Tới nước này thì tôi phải nói: “Bố thử sờ tay vào túi quần đằng sau xem!”. Anh sờ thấy bút, rút ra và điềm nhiên hỏi tiếp: “Thế cậu giắt vào đấy lúc nào thế?”. Tôi không nhịn được cười nữa: “Con cắn rơm cắn cỏ, lạy bố ạ! Bố mà cứ nghi như thế thì chết con thôi!”. Anh lấy “ngón tay thần” ngoáy mũi và nhẩn nha: “Thì thôi, không thế nữa!”

        Sau khi anh thôi bay, anh nhận nhiệm vụ đi các sân bay cơ động giúp cho chỉ huy bay và các phi công trực chiến. Rồi nghỉ theo chế độ.

        Lần tôi và anh Nguyễn Văn Quang về thăm anh ở quê, vừa ngồi hàn huyên được vài ba câu thì bà chị dâu của anh về. Thấy chúng tôi, chị nói ngay:

        - May mà hai chú về hôm nay, chứ như mấy hôm trước thì chán lắm. Ai đời, đi sang làng bên chơi rồi về vào buổi tối, chú ấy bị xe máy đâm, kéo cho một đoạn. Người ta đưa chú ấy vào bệnh xá cấp cứu. Cũng may được điều trị kịp thời mới được thế này đấy, chứ không thì có mà thối lâu rồi!

        Anh vẫn theo thói quen, đưa “ngón tay thần” lên ngoáy ngoáy mũi và thủng thẳng:

        - Phi công thì còn lâu mới thối!

        Tôi cười phá lên, ngắm nhìn lại anh. Bao nhiêu năm qua rồi mà anh vẫn không hề thay đổi tí gì về tính cách, vẫn những hành động và cử chỉ quen thuộc như ngày nào, vẫn cách nói như ngày nào... Đúng là “non sông dễ đổi, bản tính khó dời” thật.

        Mọi người cũng cười. Không khí trở lại vui vẻ.

        Ngày anh ốm và nằm điều trị tại nhà người cháu trai của anh. Anh Nguyễn Văn Quang, Ngô Văn Phú và tôi cùng đến thăm anh. Anh cảm động lắm, không ngờ chúng tôi lại lần tìm được đến tận đây. Hàn huyên một hồi lâu, trước lúc ra về, tôi đề nghị cùng chụp chung một tấm ảnh với anh. Đấy là bức ảnh cuối cùng của 4 anh em chúng tôi.

        Sau khi tổ chức mừng thọ cho anh ở cái tuổi “cổ lai hy” một thời gian thì anh “lên đường”.

        Vậy là lại thêm một Trung đội viên của Trung đội bay đêm đầu tiên của tôi vắng mặt. Tôi cứ trầm tư nghĩ ngợi về số phận từng người để thử tìm lời giải thích nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có được.

        Khi viết đến những dòng này, bỗng tôi lại nhớ đến câu anh phản bác lại ý kiến của bà chị dâu: “Phi công thì còn lâu mới thối!”, nhưng giờ thì... vô phép, anh đã thối hẳn từ lâu rồi!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Năm, 2020, 09:10:09 pm
     
        Anh Nguyễn Văn Đậu thuộc thế hệ đàn em, bay sau tôi và chuyển sang bay đêm trong lứa từ 1973 - 1975. Tôi biết Nguyễn Văn Đậu từ khi anh ở Đa Phúc thuộc biên chế của Trung đoàn Không quân 921, còn tôi ở Yên Bái, nơi Trung đoàn Không quân 931 đóng quân. Vợ con anh khi ấy ở Yên Bình, Yên Bái. Mỗi lần tôi có dịp về Sư đoàn họp thì tôi lại trở thành người “quân bưu” chuyển thư từ, quà cáp cho cả hai phía. Gặp tôi, anh thường kể về chuyện gia đình, chuyện về lí do tại sao anh lại lấy vợ tận Yên Bái, trong khi mình quê ở Quảng Ninh...

        Nguyễn Văn Đậu là người hiền lành, chất phác, thật thà, xởi lởi. Lâu lâu có được ngày nghĩ, khi có dịp ra khu gia đình của Sư đoàn ở đồi Mồ Mả thì lại tìm đến nhà tôi, chơi với các cháu, tiện tay thì sơn hộ vợ tôi đôi thùng gánh nước hoặc quét lớp xi- măng vào phía trong chiếc thùng phuy đựng nước...

        Nguyễn Văn Đậu hy sinh vào đêm mồng 10 tháng 9 năm 1980, khi ấy tôi vẫn ở Yên Bái. Cô con gái của anh bấy giờ còn nhỏ, chưa đầy một tuổi. Con cũng không biết gì về cha, giống như con của anh Phạm Văn Mạo vậy.

        Sau này, Trời Đất sắp đặt thế nào, cô con gái của anh lại trở thành con dâu của tôi. Vậy là, số phận lại gắn kết tôi với anh theo một tư cách khác nữa.

        Tôi đến viếng mộ anh được mấy lần. Lần gần đây nhất, vào tháng 7 năm 2018, cả nhà tôi có dịp đi Quảng Ninh, tôi dẫn tất cả vào thắp nhang viếng anh.

        Nhìn mấy đứa cháu vừa bứt vừa nhặt những bông hoa đại trong nghĩa trang để xếp lên mộ anh, tôi không cầm nổi nước mắt.

        Tôi sợ mấy đứa cháu phát hiện ra ông khóc, bèn làm động tác ngửng mặt lên trời rồi lững thững bước dọc những hàng bia mộ, nhớ lại những kỷ niệm về anh.

        Trong khung cảnh tĩnh lặng của nghĩa trang, tôi chợt nghe vẳng tiếng động cơ của MiG-21, ngửng lên thấy một đốm sáng lóe phía chân trời. Chắc anh đang trở về. Anh đã hóa thành một ngôi sao lấp lánh, sáng huyền ảo, vĩnh cửu trong trời đêm...

        Cầu mong anh thanh thoát và phù hộ cho những đứa cháu của anh sẽ trở thành những người có ích cho xã hội sau này...

        Tính về các đời Trung đoàn trưởng của Trung đoàn Không quân 931 thì Tăng Nguyên Ân là Trung đoàn trưởng thứ tư, nhưng lúc anh chuyển sang bay đêm thì vào những năm 1973 - 1975, tức là sau tôi nhiều. Khi anh Tăng Nguyên Ân là Trung đoàn trưởng thì tôi đã là cán bộ Sư đoàn, thi thoảng có trở lại Yên Bái bay phê chuẩn cho các giáo viên bay của Trung đoàn anh. Cũng đã có lúc, anh có những biểu hiện “bất thường” đối với tôi nhưng tôi không đánh giá nặng nề vì dầu sao anh cũng là cấp dưới của tôi.

        Tới khi anh nghỉ hưu, anh lại chuyển sang làm hợp đồng với cơ quan tôi thì lại tiếp tục làm cấp dưới của tôi.

        Tăng Nguyên Ân là người chỉn chu với công việc được giao và cũng là người có cá tính. Nhà anh trước đây ở gần nhà tôi, sau đó anh chuyển đi nơi khác, nhưng sau khi nghỉ hẳn rồi thì chiều chiều tôi và anh vẫn gặp nhau ngoài sân bóng chuyền cuối sân bay Bạch Mai. Kể từ ngày tôi bị ngã, bị dập cơ Đen-ta của vai phải thì cánh tay phải của tôi trở nên rất yếu, không làm việc gì nặng được. Trước kia, trong sân bóng chuyền đánh 3 người, tôi hay giữ vị trí chủ công thì nay không thể đảm nhận được nữa. Tôi chuyển thành chuyền hai, anh Ân thì quét phía dưới và công phụ cho một anh khác công chính. Ba anh em già bọn tôi đánh nhiều trận ngang ngửa với cánh trẻ, bởi chúng tôi có nhiều kinh nghiệm hơn, dùng “mẹo” nhiều hơn. Khỏe dùng sức, yếu dùng mưu mà! Khi kết thúc trận bóng, ra ngồi nghỉ uống nước, chúng tôi lại hay trêu chọc nhau. Đội trẻ phải công nhận là “khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già”, “gừng càng già càng caý” thật!

        Bẵng đi một dạo, vào một ngày, tôi nhận được tin báo anh Tăng Nguyên Ân đã mất vì tai nạn giao thông. Thật đột ngột quá. Mới đấy còn gặp nhau ngoài sân bóng mà bây giờ lại không còn nữa sao? Tôi thông báo cho “Ban liên lạc tình nghĩa của Trung đoàn Không quân 931” biết và tổ chức đi viếng. Nhiều người hỏi đi hỏi lại tôi, nửa tin nửa ngờ, nhưng sự thực thì vẫn là sự thực. Đúng là anh đã mất vì tai nạn giao thông thật.

        Sự sống và cái chết diễn ra theo kiểu riêng của nó mà không ai lường trước được bao giờ. Đúng là “sinh có hạn, tử bất kỳ”. Người cần phải “đi” thì không “đi”, người cần phải ở lại thì không ở. Giải thích thế nào được ngoài từ “số phận”. Mà đúng vậy, mỗi người mỗi số mỗi phận thật. Số từ đầu đến chân cơ mà: đầu thì số mũ, chân thì số giày... Có điều, cứ sau mỗi năm, khi tổ chức gặp mặt lại thấy cứ thiếu dần, vắng dần thì ai mà chẳng thấy ngậm ngùi...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Năm, 2020, 04:28:04 pm

        Với anh Trần Cung thì tôi lại gắn bó theo kiểu khác. Gia đình tôi và gia đình anh cùng ở chung trong “Khu gia đình đồi mồ mả” của Sư đoàn Không quân 371 tại huyện Sóc Sơn kể từ ngày vợ chồng tôi còn son rỗi cho tới lúc hai đứa con của tôi ra đời. Chuyển địa điểm đến vài lần ở khu gia đình, nhưng hai gia đình vẫn luôn là hàng xóm của nhau, sát vách nhau. Khi hai đứa bé đến tuổi đi học, ngày ngày chúng lũn cũn ra tận Trường ở thôn Tiên Dược, huyện Sóc Sơn, hai gia đình vẫn ở cạnh nhau. Lũ trẻ nhà tôi ít tuổi hơn nên gọi các con của anh bằng anh, chị. Chúng chơi thân với nhau cùng đám trẻ con hàng xóm. Tất cả gắn bó như một cộng đồng. Tới khi chuyển về Hà Nội thì bấy giờ mới ở cách nhau nhưng cũng không xa là bao.

        Anh có biệt tài chơi đàn nhị. Giai đoạn ở trong khu E, hồi anh Trần Sang còn sống, anh thường đến chỗ anh Cung đề nghị anh kéo nhị đệm cho anh hát sẩm. Có lần hứng lên, anh Sang lấy chiếc nón mê đặt dưới chân rồi giả làm người khiếm thị ngồi hát và anh Cung kéo nhị đệm theo, còn tôi giả như người qua đường, dừng lại để nghe rồi vét túi “thưởng” ít tiền lẻ, đặt vào trong nón...

        Giọng của anh Sang khá chuẩn và anh thuộc khá nhiều bài sẩm. Tôi có cảm tưởng, anh như là hậu duệ của nghệ nhân Hà Thị Cầu vậy...

        Chuyện này diễn ra không thường xuyên nên ít người để ý đến.

        Sau khi anh Trần Cung chuyển nhà xuống phía cuối đường Lê Trọng Tấn, về đường Nguyễn Lân một thời gian, tôi đến thăm anh và nhân thể hỏi thêm anh một số vấn đề tôi đang quan tâm. Chào hỏi nhau xong, anh kéo tôi vào phòng khách:

        - Ngồi đi! Nào, ngồi xuống đây đi! Thôi! Không chè cháo gì nữa nhé! Làm tí rượu cho nhanh! Tớ biết cậu là thằng thích rượu mà!...

        -Vâng! Đúng như vậy! Pha trà làm gì, lích kích lắm! - tôi trả lời.

        - Trông cậu dáng vẫn khỏe đấy! Mặt lúc nào cũng đỏ như gà chọi, như mặt Quan Công ấy là khỏe lắm đấy!...

        - Chẳng còn đỏ được nữa đâu! Tái rồi anh ơi! Dặt dẹo lắm rồi, anh ạ! Còn anh thế nào?

        - Cậu cứ nói vậy! “Yếu trâu còn hơn khỏe bò!”. Tớ thì... chán lắm!

        Anh nói vậy và tôi không ngờ từ thời đó anh đã bị lắm thứ bệnh hành hạ để rồi mấy năm sau anh phải “ra đi”.

        Hôm ấy, sau mấy tuần rượu, anh đột ngột hỏi tôi:

        - Này, cậu có biết bài “Đơn xin sáp nhập Đền Hùng về Thủ đô Hà Nội” không?

        - Tôi không biết, anh ạ!

        - Cậu chỉ giả vờ! Cậu là cái thằng biết nhiều thứ lắm đấy!

        - Đâu có, anh! Anh nghĩ chưa chuẩn về tôi rồi!...

        Anh vừa lục đống giấy tờ của anh, vừa nói:

        - Nó ra đời sau cái “Hà Tây cửa ngõ chuyển sang... cửa nhà” ấy. Nếu cậu không biết thật thì tớ cho cậu đây. Mà này, tớ cho luôn cả mấy bài “Chuyện mày, chuyện tao”, “Vợ là gì”, “ước biến thành gà”... cho cậu đọc nhân thể. À, mà biết cậu còn quan tâm đến Đông Y, tớ tặng luôn cho cậu bài “Chống đột quỵ” đây nữa...

        - Cám ơn anh! Thế này là tôi khối tài liệu quý rồi!

        - Này, cậu có thuộc thì đọc lại bài “Tình cảnh đoàn ta” của cái “lão” Hà Quang Hưng cho tớ nghe lại với.

        Tôi đọc lại bài ấy và đến câu nói về anh thì tôi “chế’ luôn. Nguyên bản của nó là:

"... Toàn Thắng cắt pô-lip rồi
Trần Cung thêm chứng máu nhồi cơ tim...

        Thì tôi đọc:

"... Toàn Thắng cắt pô-lip rồi
Trần Cung thêm chứng máu nhồi cơ... chim...”

        Anh cười to và nói:

        - Tớ biết ngay là cậu sẽ xuyên tạc theo cái kiểu ấy mà!

        Hai anh em tôi cùng cười, lại cùng chạm chén với nhau rồi cùng nhắc đến từng nhân vật một trong bài “Tình cảnh đoàn ta”, cùng an ủi nhau...

        Số “tài liệu” anh cho tôi, có bản anh chép tay, có bản đánh máy, bản phô-tô... Tôi đưa vào tệp lưu giữ cùng với những bản của các anh khác, lâu lâu lại giở ra xem như một kỷ niệm.

        Không ngờ, một thời gian ngắn sau đó, mấy anh gọi tôi đến thăm anh ở bệnh viện 108. Tôi thấy anh “xuống mã” nhiều so với lần tôi gặp anh gần đây. Chuyện trò một lúc thì anh bật khóc. Tôi là người rất sợ nước mắt, nhất là nước mắt của đàn ông. Những giọt nước mắt của họ thường rất nặng, đặc quánh những nỗi niềm...

        Đấy là lần cuối cùng tôi gặp anh.

        Trước ngày cô con gái anh đi lấy chồng, tôi có đến nhà anh, ngồi tâm sự với chị nhà. Tôi có cảm giác như anh đang ngồi bên cạnh, tay lần giở tập giấy tờ, miệng tủm tỉm cười... Có lúc loáng trong ánh đèn, tôi như thấy chén nước trà của tôi đổi màu thành chén rượu... Hay là, anh biết tôi thích rượu, anh rót vào đấy cho tôi một chút chăng?

        Anh vẫn còn nhớ, còn quan tâm đến tôi thế thì còn gì bằng!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Năm, 2020, 07:26:13 am

        Tôi và anh Đặng Vân Đình hồi ở cùng đơn vị và kể cả sau này nữa, hay nói chuyện với nhau về đủ mọi loại đề tài. Anh nói, tên đệm của anh trước kia khác chứ không phải là Vân đâu. Tôi rất thích nghe anh kể chuyện và ngắm khuôn mặt anh biểu lộ tình cảm khi anh kể. Anh biết khá nhiều chuyện và cũng hay tìm tôi để giãi bày.

        Anh đã kể cho tôi nghe khá tỉ mỉ về chuyện anh phải nhảy dù đêm 1-3-1972. Chuyện anh nhảy dù thì tôi biết vì thời gian đó tôi đang trực ở sân bay Thọ Xuân - Thanh Hóa, được thông báo và sân bay có cử một tốp đi tìm cứu anh. Hồi ấy, ta áp dụng chiến thuật “nhử mồi”, tức là cho một chiếc lên độ cao, nghênh ngang đi theo hướng nào đó để ra-đa địch phát hiện được. Khi chúng cho tốp nào đó lên đánh chặn thì bấy giờ lực lượng ém quân của ta mới xuất kích, tiêu diệt tốp kia.

        Đêm 1-3, hai anh Phạm Tuân và Đặng Vân Đình trực ban chiến đấu. Nhiệm vụ của Đặng Vân Đình là “nhử mồi”, để Phạm Tuân đánh chặn. Trước đó, Tuân đã nói với Đình:

        - Ông có nhớ trước đây biên đội Đỉnh, Tuân (Vũ Ngọc Đỉnh và Phạm Đình Tuân) trực chiến thì Tuân rơi, bây giờ lại Đình, Tuân thì không biết thế nào. Tuân kia rơi rồi, chưa biết chừng lần này đến ông đấy!

        Nghe Tuân nói chơi chơi như vậy, Đặng Vân Đình chỉ cười. Không ngờ, hôm ấy Đình bị rơi thật.

        Đặng Vân Đình kể với tôi:

        - Hôm ấy tôi nhớ là hôm bên các bạn Lào có Đại hội. Khi ra tuyến trực, tôi mặc chiếc áo da của Nguyễn Khánh Duy. Tôi cất cánh xuất kích lúc 20h 47 phút, được dẫn vào khu vực Thanh Hóa trên độ cao 5-6 cây số, vòng ở đó chừng 10 phút, còn anh Tuân thì bay ở độ cao 1,5-2 cây số. Khi tôi nhận lệnh bay về đối đài được chừng 2 phút thì sở chỉ huy lại dẫn tôi quay lại. Trước đó tôi đã bị bọn tiêm kích Mỹ bắn đối đầu mấy lần rồi, nhưng không trúng. Khi tôi vòng máy bay, thấy mấy quả tên lửa bắn từ phía sau tôi nhưng đều vọt lên trước máy bay tôi. Tôi còn kịp thấy cả đèn trên máy bay chúng khi chúng thoát li cơ mà. Sở chỉ huy cho tôi vòng tiếp 2 vòng nữa. Đúng lúc cải máy bay ra bay bằng thì tôi nghe cái “rầm”. Ngay lập tức, người tôi bật lên sát nắp buồng lái. Tôi phải lấy hai tay ấn lên nắp buồng lái để đẩy người xuống ghế. Biết không thể điều khiển máy bay được nữa, tôi đành nhảy dù. Khi nhảy dù ra, tôi thấy có hai đám cháy. Đấy là chiếc MiG của tôi bị gãy làm đôi đấy. Dù rơi từ độ cao 6.000 mét xuống sao mà lâu. Ngồi dưới vòm dù trong trời đêm, tôi thấy thời gian như ngừng trôi, xung quanh vắng lặng, im ắng đến nghẹt thở. Mãi rồi dù cũng xuống, nhưng lại bị mắc kẹt trên cành ngang của một cây trong rừng. Tôi kéo túi NAZ-7 ra, thả xuống nhưng thấy nó không chạm đất, tức là tôi đang mắc ở độ cao phải lớn hơn 15 mét. Tôi quyết định bám theo dây của NAZ-7 để tụt xuống. Nhún nhún một lúc thì người rơi bịch một phát vào giữa các bụi chuổì. Tôi tháo dây của NAZ-7 ra, lấy những vật dụng cần thiết trong NAZ-7, chuẩn bị cho việc tìm đường thoát hiểm.

        (Tới đây tôi xin ngắt lời anh Đặng Vân Đình một chút để giải thích cho các bạn đọc biết về chiếc túi NAZ-7. Túi NAZ-7 được lắp đặt dưới ghế dù của phi công. Trong túi có những vật dụng cần thiết tối thiểu cho phi công có thể sống ít nhất là 7 ngày khi gặp bất trắc phải nhảy dù, ròi bỏ máy bay. Đó là lương khô, dụng cụ cấp cứu, thuốc men, bông băng..., rồi bộ dây câu với những con mồi tẩm hóa chất, cồn khô, diêm không tắt dù trời mưa to gió lớn, thuốc chống cá mập, chống muỗi vắt, pháo hiệu cấp cứu, sách dạy tìm những thứ ăn được ở trong rừng V. V..). Có lẽ riêng khoản lương khô luôn đảm bảo có thể tồn tại được trong 7 ngày nên được gọi là NAZ-7. Đoạn dây dù của túi NAZ-7 dài 15 mét, được buộc vào quai dù, có một thời gian nó được ngoắc vào móc khóa ở phần ống quần bay của phi công).

        - Tôi nhìn đồng hồ, bấy giờ mới hơn 9 giờ đêm -  anh Đình nói tiếp. Tôi lần tìm được con suối, nhưng suối đã cạn nước nên không có nước uống. Dưới ánh trăng mờ ảo, tôi đi theo lòng suối. Đi một lúc bắt đầu thấy có nước, càng ngày thì thấy nước càng nhiều, tôi leo lên bờ rồi gặp bụi luồng, liền tìm cách trèo lên, uốn vít các cây các cành buộc vào nhau, tạo chỗ nằm. Những con sóc ở đây nhiều lắm, tôi đành làm bạn với chúng trong đêm này vậy. Tôi chập chờn ngủ được một chút rồi giật mình nghe như có tiếng tàu hỏa. Nghe kỹ thì hóa ra không phải, đấy là những tiếng thú rừng đi ăn đêm. Tôi đành nằm im chờ sáng.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Năm, 2020, 07:11:07 am

        Sáng ra, tôi tụt trên cây xuống, cứ theo suối mà đi. Rồi tôi gặp được con đường mòn. Tôi mừng quá, bụng thầm reo lên: “Thế là sống rồi!”. Tới một nơi khá quang đãng, tôi thấy chiếc máy bay An-2 bay vòng vòng, chắc là đi tìm tôi. Tôi cỏi áo may-ô ra, vẫy vẫy và treo lên cành cây làm ám hiệu, nhưng những người trên máy bay An-2 không thấy. Tôi lấy lương khô trong NAZ-7 ra ăn rồi đi tiếp. Khoảng 11h trưa, sau khi tôi vượt được quả đồi chắn trước mặt thì thấy một cánh đồng và thấp thoáng bóng người đi lại. Tôi ẩn mình vào trong bụi cây xem xét xem sao đã vì nghi rằng tôi nhảy dù sang đất Lào. Thấy mọi thứ diễn ra bình thường, tôi quyết định đi tiếp. Đi chừng 1 tiếng đồng hồ nữa thì tôi thấy ngôi nhà có treo biển đề “Nhà trẻ”. Tôi nhìn vào nhà, thấy có những chiếc nôi nhưng không thấy có đứa trẻ nào cả. Khi ấy tôi gặp một người dân, tôi hỏi thăm đến nhà ông trưởng bản nhưng người đó lại không hề biết tiếng Kinh. Đề phòng bất trắc, tôi đội chiếc mũ bay thật cẩn thận, nhỡ đâu bị nện vào đầu. Ngay sau đó có mấy người khác đến và ra hiệu cho tôi đứng im tại chỗ và cử người chạy về bản báo tin. Tôi đặt vấn đề được đến ủy ban hoặc nhà ông trưởng bản thì họ đồng ý dẫn tôi về nhà ông trưởng bản. Họ đòi tháo giày của tôi và lấy súng của tôi, đồng thời cho các dân quân canh gác. Khi trưởng bản đến, ông nói với tôi: “Nhìn mày, tao biết là người Việt rồi! Mày đến được đây là sống rồi! Mày cần gì thì nói thật đi!”

        Tôi đề nghị đưa tôi đến ủy ban. Họ đồng ý. Họ đòi trói tôi, nhưng tôi dứt khoát không nghe. Tôi đi bộ với đôi chân đau mà không được mang giày nên cứ đi được một đoạn lại phải nghỉ. Mấy người bảo cho tôi lên võng để cáng, nhưng tôi không nghe. Chừng 5 giờ chiều thì đến được ủy ban xã. Một người trèo lên gác bếp lấy bao thuốc lá “Thủ đô” xuống, bóc ra mòi tôi, nhưng tôi đâu có biết hút thuốc nên lắc đầu từ chối. Rồi họ làm cơm. Tôi thấy họ giết 2 con gà to, thoáng cái đã nấu nướng xong. Khi vào bữa ăn, họ gắp 2 quả tim to cho vào bát của tôi. Tôi đã từng đọc câu truyện như truyền thuyết hay là sự tích gì đó nói về quả tim gà này rồi nhưng không còn nhớ cụ thể nữa nên không ăn... Không biết anh có biết cái chuyện ấy hay không?

        Khi ấy, cả bốn ông quanh tôi đều quỳ xuống, chắp tay và nói rằng: “Mày là dân tộc tao rồi! Mày thương đồng bào tao rồi!”.

        Rồi đơn vị tìm đến đón tôi. Tôi đi viện một thời gian, lại trở về Đại đội bay đêm tiếp tục bay. Cũng vì cái chuyện nhảy dù trong rừng của tôi mà sau này anh em trong Đại đội hay gọi trêu tôi là “thằng thổ phỉ” đấy!

        Một thời gian lâu, rất lâu sau đó, tôi nghe tin Đặng Vân Đình bị bạo bệnh - bị ung thư gan. Tôi khá ngạc nhiên bởi Đình là người rất cẩn trọng trong việc ăn uống, sao lại bị được. Một lần, tôi theo anh Trần Văn Năm và Nguyễn Khánh Duy đến thăm anh khi anh đang điều trị tại nhà. Tôi nói:

        - Kể ra nếu bị ung thư gan thì tôi bị mới đúng, vì ăn uông rất xô bồ, bạt mạng, chẳng kiêng khem gì. Còn ông, ăn uống rất chuẩn mực, chọn lọc đến nơi đến chốn, thế mà lại bị thì là sự lạ!

        - Cuộc sống nhiều điều lạ thật, anh ạ! - Đình trả lời.

        Anh vật lộn, chống chọi với căn bệnh quái ác ấy đến hơn chục năm rồi mới “ra đi”.

        Sau khi rời nhà tang lễ viếng anh, trên đường trở về, những câu chuyện liên quan đến anh cứ ám ảnh tôi suốt dọc đường. Tôi lẩm nhẩm mấy câu thơ để tiễn biệt anh và cũng như là tự tâm sự với chính mình:

Luân hồi đã trọn một vòng
Thế là vừa vặn cũng xong kiếp người
Anh về “chín suối “ ngậm cười
Tôi ở lại trả nợ đời dở dang
Thoát tục lụy mới thênh thang
Hẹn nay mai dưới “suối vàng” gặp nhau!...

        Vậy là lại thêm một người nữa vắng mặt trong đội ngũ của Đại đội 5 bay đêm. Lại thêm một chỗ khuyết trong số thứ tự khi điểm danh. Các anh - mỗi người “ra đi” theo mỗi kiểu, nhưng ai nấy đều gắn bó với sự nghiệp bay đêm theo cách của riêng mình, cũng giống như những vì sao gắn bó với bầu trời, cứ lặng lẽ sáng huyền ảo trong đêm dài bất tận...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Năm, 2020, 07:53:58 am
       
(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/99293299_660693164660567_6188797945094078464_n.jpg?_nc_cat=107&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=oW6NMPKtODwAX9lBWPQ&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=80aa09ebf25f0592fe51e207b07f26fa&oe=5EF347D4)
Các phỉ công bay đêm MiG-21 đầu tiên: Hà Văn Chúc, Hoàng Biếu, Nguyễn Văn Thuận và phi công chuyên gia Lỉên-xô năm 1967

(https://scontent.fhph1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/99011178_660693177993899_7674397665009860608_n.jpg?_nc_cat=102&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=xdGRIpgtTf4AX9OyJYs&_nc_ht=scontent.fhph1-1.fna&oh=b8ce2d02e324e2ab894921cafa2a5e0b&oe=5EF4D415)
Đại đội trưởng Đỉnh Tôn, Trung đội trưởng Nguyễn Vẫn Minh và phỉ công Đặng Xây bàn cách đánh ở chiến trường khu Bon năm 1968.

(https://scontent.fhph1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/100884254_660693171327233_8514866887312539648_n.jpg?_nc_cat=100&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=-n1GSVyJuzwAX_i-X5F&_nc_ht=scontent.fhph1-1.fna&oh=cda100f6cd9302504122aeff2a8410ee&oe=5EF55AB3)
Cản bộ, phỉ công Đại đội 5 bay đêm bàn cách đảnh B-52 năm 1972.

(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/101038948_660693207993896_2721485664670449664_n.jpg?_nc_cat=108&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=7bS83enuumIAX9iCVF-&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=6a710c275f346da212eb159b286210cc&oe=5EF48D07)
Phỉ công Vũ Đình Rạng gặp lại đối thủ - Volker, cơ phó B-52 sau 47 năm.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Năm, 2020, 05:56:06 am
(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/100703480_661303111266239_2246902279657488384_n.jpg?_nc_cat=100&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=yDpLmDMgQsQAX_7ppaq&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=990b9c3fe910b8c4f6c222dde4743b3e&oe=5EF6F873)
Ban liên lạc Đạỉ đội 5 gặp mặt kỷ niệm 30 năm chiến thẳng “Điện Biên Phủ trên không ” thảng 12-2002.

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/99339005_661303127932904_53439383256170496_n.jpg?_nc_cat=108&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=dd_mrflzDoAAX_Z1QWA&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=f368010ccaf2243aebac22be90b21269&oe=5EF60F0C)
Các cựu phi công bay đêm tại tượng đài Không quân.

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/101832679_661303121266238_1047688174425341952_n.jpg?_nc_cat=101&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=OT4anddBWNgAX9Pr71k&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=0160bfc7d08497f8966f60a657c56f9d&oe=5EF6E118)
Dàn đồng ca của các cựu phi công bay đêm và cản bộ, phỉ công của Trung đoàn Không quân 921.

(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/99120482_661303161266234_5949152526757527552_n.jpg?_nc_cat=111&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=T_V46Pigg-EAX_lbC0Q&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=c0cc7f4ba0ec40263a9681ba33db1abf&oe=5EF68BCA)
Gặp mặt ban liên lạc Đại đội 5 tại Bảo tàng Quân Chủng Phòng không - Không quân.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Năm, 2020, 09:16:59 am
       
(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/99098494_662009371195613_8208171016531214336_n.jpg?_nc_cat=111&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=aHEN4boomDgAX96khfd&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=fca7257abbad9b4c6e753b8fba74e2c9&oe=5EF600D1)
Các cựu phỉ công Đại đội 5 trong cuộc gặp mặt tại Sư đoàn KQ - 371.

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/99120488_662009374528946_3792897370128121856_n.jpg?_nc_cat=106&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=eF4DwSQ73boAX_nmYkv&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=c33ac4fdc2408d5e4696a6633b68108f&oe=5EF6979D)
Gặp mặt các cựu phi công Đại đội 5 và đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/100529424_662009361195614_1999798130920390656_n.jpg?_nc_cat=102&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=wGwN3DaIXBgAX__nH1O&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=601ac35f6ce4195e31740071400d2195&oe=5EF89A5E)
Đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang của Đại đội 5 tại Trung đoàn Không quân -921.

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/101657864_662009407862276_3743170440638496768_n.jpg?_nc_cat=101&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=CnvPwB-jwzQAX9QWdyS&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=10598fb25733fb047e26d1fd1bb8f13e&oe=5EF81096)
Trường tiểu học mang tên phỉ công liệt sĩ Vũ Xuân Thiều tại Sài Đồng, Long Biên.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Năm, 2020, 09:07:28 am
           
(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/101713847_662640411132509_8656065023795265536_n.jpg?_nc_cat=109&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=jKMKDLB2FpoAX_kUSlR&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=492c4816bceae745a464877d875fd09b&oe=5EF8B7DA)
Thăm cựu phỉ công bay đêm Nguyễn Cát A.

(https://scontent.fhph1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/83068348_662640417799175_4496066177423900672_n.jpg?_nc_cat=102&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=T_ofI_Gkq6oAX-PDEyC&_nc_ht=scontent.fhph1-1.fna&oh=a8aebd7221e743666d74cfc14c448f4f&oe=5EF94165)
Thăm gia đình liệt sĩ phi công Phạm văn Mạo.

(https://scontent.fhph1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/100712636_662640424465841_2527666155812814848_n.jpg?_nc_cat=110&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=-oI-RkOpiHMAX-z1Wuf&_nc_ht=scontent.fhph1-1.fna&oh=dd356c2fcca3b7155b1e36017da47ca0&oe=5EFA9952)
Viếng mộ liệt sĩ phỉ công bay đêm Nguyễn Ngọc Thiên.

(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/100763940_662640451132505_3453847450576486400_n.jpg?_nc_cat=106&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=Ukjv7tFSO_4AX_FLl2t&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=11871f7e53379b62a50a899e79184efa&oe=5EF83AF5)
Khánh thành tượng đài Vũ Xuân Thiều tại trường học mang tên anh.

(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/82288125_662640457799171_760581353128329216_n.jpg?_nc_cat=103&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=-l7O7fbnxqMAX9nrVsO&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=0b69dc77be53d2d204c4a9c430aed794&oe=5EF99499)
Cuộc gặp gỡ tình cờ tại nhà phỉ công Vũ Đình Rạng

(https://scontent.fhph1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/100393202_662640534465830_9106750326010019840_n.jpg?_nc_cat=107&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=sjJ2ttjp_dgAX-n6Cb0&_nc_ht=scontent.fhph1-2.fna&oh=ad0ebb15f1927d4e78d6edb0c18cfd0f&oe=5EF88507)
Gặp gỡ các cựu phi công bay đêm cuối năm 2018


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Sáu, 2020, 06:57:19 am

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG

        Nếu tình cờ ai đó bắt gặp các anh ngồi bên bàn cờ trong nhà Câu lạc bộ cựu chiến binh, hoặc ngoài quán trà đá, quán bia hơi, hay lững thững dạo trên đường... mà không được giới thiệu thì không ai biết rằng đấy lại là những phi công bay đêm, đánh đêm từng “vang bóng một thời”. Họ lặng lẽ sống hòa lẫn cùng muôn mặt của đời thường và như bà má của bạn tôi nói là: trở thành những “ông già dễ thương”. Không ai biết được đằng sau họ lại là những tháng năm khốc liệt cùng những sự kiện oai hùng và cả những cay đắng của đời quân ngũ. Đấy là những người Anh hùng và cả những người không được gắn Huân chương Anh hùng. Họ là những người yêu cuộc sống vô bờ, nhưng suốt những tháng năm chiến tranh, ngày ngày họ đều phải đối mặt với cái chết cận kề, quyết lập nên những chiến công cho ngày chiến thắng. Sau chiến tranh, khi về với đời thường, họ sống đúng với chính họ. Hàng năm, vào dịp cuối năm, lại có cuộc gặp mặt tất cả các thành viên của lực lượng bay đêm, đánh đêm ngày xưa. Khi bắt tay nhau, ai cũng tươi cười và hình như đều có chung câu nói: “Trông vẫn khỏe và chẳng già tí nào!”.

        Nếu gặp nhau thường xuyên thì đúng là ít thấy cái sự già của nhau thật, nhưng người ngoài cuộc hoặc lâu mới gặp, bấy giò mới thấy rõ cái sự “xập xệ” của từng con người, mới thốt lên: “Sao dạo này cậu già đi ghê thế? Mà lại gày nữa! ốm à?...”. Đại loại là như vậy.

        Cũng thành vấn đề gì lớn đâu. Quy luật của cuộc sống mà. “Trẻ lớn ra, già tọp lại” là chuyện thường.

        Số phi công bay đêm của hai Trung đoàn 921 và 927 không nhiều nên dễ “điểm danh” lắm: hiện ở quanh khu vực Hà Nội có khá đông như: Nguyễn Đăng Kính, Hoàng Biểu, Trần Thông Hào, Trần Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Quang, Phạm Tuân, Nguyễn Khánh Duy, Bùi Doãn Độ, Trần Văn Năm, Trần Anh Mỹ, Nguyễn Huy Đãng, Đinh Trọng Kháng, Đoàn Duy Lưu, Tạ Văn sửa, Bùi Văn Tập, Nguyễn Khắc Thanh, Cao Văn Tiến... rồi gia đình: các anh Trần Cung, Đặng Vân Đình, Vũ Xuân Thiều, Tăng Nguyên Ân... Nghĩa là rất dễ tìm đến thăm hỏi nhau. Xa xôi một chút thì Nguyễn Đức Chiến ở Hải Dương, Lưu Văn Hĩnh ở Hải Phòng, Nguyễn Văn Phú ở Phổ Yên, Bùi Quốc Tế ở Phú Thọ. Miền Trung thì có anh Đặng Xây ở Đà Nẵng. Trong miền Nam, tại thành phô Hồ Chí Minh thì có: các anh Vũ Như Ngữ, Lại Quốc Việt, Nguyễn Văn Dương...

        Điều quan trọng là tất cả bằng lòng với cuộc sống của mình và làm những công việc gì mà mình yêu thích.

        Ví như Trần Ngọc Nhuận, sau khi thôi bay, anh về học tiếp chương trình Đại học rồi một thời gian giữ chức Trưởng Vùng, quản lí hơn 3.000 công nhân Việt Nam xuất khẩu lao động làm việc tại Tập đoàn sản xuất ô tô ở U-li-a-nôp (Liên-xô), sau đó công tác ở Viện phát triển chiến lược, Bộ giao thông vận tải, gắn bó với tất cả các bản thiết kế, quy hoạch và xây dựng các công trình cảng sông, cảng biển... của Việt Nam.

        Về hưu, anh suốt ngày lụi cụi trên nóc nhà với thú vui trồng rau sạch trong các hộp xốp. Vợ anh thì đi kiếm đất và những nguồn phân bón hữu cơ đem về, ra “tín hiệu” để anh kéo ròng rọc lên chuẩn bị cho việc gieo trồng.

        Các loại rau và cây ở vườn của anh khá đa dạng.

        Những lần tôi đến thăm anh, anh đều dẫn tôi lên để khoe thành quả của mình. Anh còn gắn một chiếc khung xe đạp ở đó để rèn luyện thể lực nữa. Nhiều lần anh bảo tôi ngồi đạp thử, nhưng nhìn chiếc xe giống như bộ xương của chú bọ ngựa đang cố ưỡn ngực, giơ hai càng khẳng khoeo của mình ra thì tôi... lắc đầu.

        Anh còn dẫn tôi thăm “công binh xưởng” của anh. Đấy là một phòng nhỏ lủng củng những linh kiện bán dẫn, điện tử cùng que hàn, dao kéo, dây dợ các loại... Anh khoe anh từng có sáng kiến lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia” để tận dụng mọi đồ vật hỏng hóc, biến nó thành vật dụng có ích. Rồi lại chỉ cho tôi xem sáng chế thắp nhang không bỏng tay. Nghĩa là... cũng lần mần suốt ngày. Có điều, anh chẳng bao giờ sử dụng điện thoại di động mặc dù trong tay có đến sáu, bảy chiếc. Cũng là điều lạ.

        Lắm khi hứng lên, anh còn quay đĩa hát trên chiếc máy quay kim “Yunôst” với những bản nhạc Nga trữ tình và ôm cây đàn ghi ta gỗ phập phừng hát theo.

        Sau khi cho ra đòi một tập thơ và tập truyện thì không thấy anh viết thêm nữa. Chắc thời gian về sau này, anh dành hết cho việc chăm sóc rau và lụi cụi trong “công binh xưởng” của mình. Chuyển từ lao động trí óc sang lao động tay chân cũng là một cách chuyển đổi hay và thú vị.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Sáu, 2020, 07:08:43 am

        Khác với Trần Ngọc Nhuận, một phi công bay đêm họ Trần khác là Trần Văn Năm với “công binh xưởng” còn đồ sộ gấp bội lần của Trần Ngọc Nhuận, bởi anh Năm mê cơ khí nên nơi anh đủ loại đủ kích cỡ ra dáng: từ trục ô-tô đến các bánh răng, vòng bi, hộp số, máy khoan, máy cắt, máy mài, máy hàn sắt, hàn i-nôc, máy bơm, đe, búa, cờ-lê, tuôc-vít... cùng đủ loại dây dợ.

        Anh là người có “hoa tay dài đến nách”, không gì anh không làm được. Anh từng nói với tôi, anh có thể tự lắp được một chiếc ô-tô hoàn chỉnh và có thể sử dụng được. Thật cũng giống như ông Hai Lúa trong Nam sáng chế máy bay trực thăng hoặc như ông Hòa ở Thái Bình chế tạo tàu ngầm...

        Được cái, anh luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người khi họ nhờ cậy đến anh. Kể từ việc to như chữa ô-tô, đến các việc lặt vặt như: chữa tủ lạnh, ti-vi, lò vi sóng, bếp từ, máy bơm nước, ấm siêu tốc... anh đều ra tay sửa chữa hết. Những gì ngoài kiến thức anh được học, anh mày mò theo kiểu “chữa mẹo”. Vậy mà tất cả đều ổn mới lạ!

        Anh cũng có thú vui chơi chim cảnh và phong lan. Điểm này thì rất hợp với Phạm Tuân nên hai anh hay rủ nhau đi lắm. Thậm chí đã có những lần các anh tự lái xe ô-tô qua Lào sang Thái Lan cho thỏa chí giang hồ và sưu tầm các loại phong lan quý.

        Anh Phạm Tuân sức khỏe tới giờ vẫn vô địch. Tôi vẫn trầm trồ: “Không thể theo với người ngoài hành tinh được!”. Cho dù gần đây, anh phải thay khớp gối và khớp háng nhưng “sức bền vật liệu” của anh không có gì thay đổi. Anh đi nhiều và đi khỏe. Anh muốn trực tiếp đến tận những địa điểm mà xưa kia chỉ thấy được ở trên trời, trong những chuyến bay. Thú chơi chim cảnh, chơi phong lan và chơi diều sáo gắn bó với anh từ bé nay mới có điều kiện thực hiện hoàn hảo. Những ai muốn tìm hiểu, cứ đến anh, anh sẽ chia sẻ đến nơi đến chôn cho.

        Thú đi thăm quan, du lịch thì Nguyễn Đức Chiến cũng giống như Phạm Tuân bởi anh có điều kiện. Con cái đã trưởng thành, không vướng bận gì nữa nên anh du ngoạn khắp nơi. Anh từng nói với tôi là anh đi khắp thế giới này rồi, không nước nào là anh không đến cả. Nhưng, suy cho cùng, không đâu sướng bằng ở nước mình.

        Điều ấy thì tôi tin anh.

        Lần tôi đến thăm anh Đặng Xây khi anh đã chuyển ra nơi ở mới. Từ một cựu phi công bay đêm bây giờ quay ra tự chữa bệnh cho mình và giúp cho người khác bằng phương pháp “Nhân diện”. Anh hào hứng thuyết trình, hướng dẫn cho tôi những huyệt đạo cùng các công dụng của nó trong việc điều trị các loại bệnh. Rồi anh cho tôi một bản sao các huyệt và bản hướng dẫn sử dụng. Tôi thấy rất vui vì tôi cũng là người rất thích mày mò trong lĩnh vực này.

        Tạ Văn SửaBùi Doãn Độ sau khi về với đời thường thì tham gia những công việc của Tổ dân phố, trở thành những người “vác tù và hàng tổng” như người ta vẫn nói - tức là Tổ trưởng Tổ dân phố, Bí thư Chi bộ Tổ dân phố đến mấy nhiệm kỳ...

        Lưu Văn Hinh về Hải Phòng, tiếp tục giữ nghề truyền thông của gia đình, đấy là nghề làm hàng giả da như đóng các ghê đệm, ghê pho-tơi...

        Gọi gặp anh qua điện thoại, nghe giọng anh khỏe khoắn, vui vẻ là thấy mừng. Anh cứ hẹn tôi khi nào “xuông Phòng” (theo đúng ngôn từ xưa người ta vẫn quen nói xuống Hải Phòng là “xuống Phòng”. Vậy là ngắn gọn mà đủ hiểu) thì ghé qua nhà anh chơi. Tôi nhận lời. Thế nào rồi cũng có dịp tôi sẽ đến thăm anh.

        Cũng thật lạ. Mấy hạng mục: răng giả, chân tay giả, đồ giả da... thì giả đấy mà lại được công nhận là giả thật đấy. Còn khối khoản khác cứ nói thật mà lại bị nghi hoặc. Là thật, nhưng thật giả. Thế mới hay!...

        Anh Nguyễn Văn Quang, tôi vẫn gặp ngày ngày trong những cuộc đưa đón cháu tới trường. Chúng tôi vẫn đùa: “Tuổi về hưu ngày hai buổi đến trường...”. Mà đúng thê thật. Đứng đợi ngoài cổng trường hầu như toàn các ông, các bà về hưu thôi. Công việc đưa đón cháu bỗng trở thành công việc chính và trọng đại. Cứ đến giờ là gặp nhau, đều đặn như vắt chanh. Cũng là điều lạ.

        Anh lặng lẽ, lụi cụi làm được rất nhiều việc, như chủ biên cho các cuốn kỷ yếu: Nhớ ơn các liệt sĩ Không quân, Kỷ yếu các cựu phi công tiêm kích bay đêm MiG-21 những năm 1967 - 1975, Kỷ yếu phi công tiêm kích Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1964 - 1973), Trường Không quân Serov A.K. Krasnodar Một thời tuổi trẻ, Kỷ yếu cựu học viên Việt Nam..., đồng thời tích cực tham gia trong Ban tổ chức những sự kiện, tổ chức những cuộc thăm viếng...

        Anh vẫn luôn là người chỉn chu, rất trách nhiệm với công việc, nhiệt tình, cần mẫn, chu đáo. Có lẽ, cương vị Chánh văn phòng đã ngấm vào máu thịt anh. Anh nhớ được rất nhiều sự kiện, ngày tháng xảy ra và các nhân vật liên quan...

        Tôi rất quý anh và gọi anh là “USB với dung lượng lớn đáng nể phục”.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Sáu, 2020, 09:45:09 am
     
        Ở cái tuổi ngoài 70, bây giờ anh Vũ Đình Rạng mới đập nhà cũ đi để xây nhà mới. Mấy người trêu:

        - Sao không làm cách đây mấy chục năm đi, ở cho nó sướng, bây giờ mới dở dói ra cho khổ thân?”.

        - Mấy chục năm trước thì còn sợ “Kim lâu”, vì người xưa vẫn nói là: “Làm nhà, lấy vợ, tậu trâu. Phải tuổi Kim lâu cái râu chẳng còn !" Đến bây giờ, qua tuổi “cổ lai hy” rồi, làm nhà, lấy vợ, tậu trâu... thoải mái. Sao lại khổ là thế nào? - tôi nói chen vào khi anh Vũ Đình Rạng chưa kịp phản ứng.

        Tất cả đều cười. Anh Vũ Đình Rạng cũng cười vui vẻ.

        Anh Nguyễn Đăng Kính vẫn trầm lặng với cách kể chuyện rủ rỉ, tế nhị, hóm hỉnh như xưa. Anh là một trong những mẫu người sống bằng nội tâm, có tâm hồn nhạy cảm. Tạp chí “Văn nghệ Quân đội” tháng 12 năm 2012 đã từng đăng chùm thơ của các phi công tiêm kích, trong đó có bài của anh với tiêu đê “Nhắn nhủ”:

        
“Ta vẫn là ta nhé, các anh ơi
        Năm tháng qua đi, lên lão cả
        Những gì đời cho thì giữ
        Cái gì của gió, mặc nó trôi!..."

        Lời lẽ thật chân chất, mộc mạc, giản dị mà đầy tính triết lí! Và tính triết lí thực ra cũng xuất phát từ những sự mộc mạc, giản dị và chân thật như vậy!

        Ngày gặp gỡ các cựu học viên của Trường Không quân Krasnodar, tôi ngồi nói chuyện với anh Hoàng Biểu, lan man nhiều lĩnh vực, nhiều đề tài, từ chuyện học viên bay đến phi công chiến đấu, rồi quay lại chuyện đánh B-52. Tôi hỏi anh về việc sử dụng vũ khí thế nào, ra làm sao, “bắn 2 quả hay 1 quả tên lửa trong trận chiến” thì anh trả lời ngay:

        - Việc bắn 1 hay 2 quả và bắn thế nào đã từng được tranh luận, bàn bạc kỹ lưỡng lắm trong các cuộc “Quân sự dân chủ”. Cũng đã có ý kiến cho rằng bắn 2 quả cùng một lúc thì hiệu suất tiêu diệt không cao hơn một quả là bao nhiêu và khi đã bắn trượt rồi thì chẳng còn cơ hội nào mà làm lại nữa. Nếu chỉ bắn 1 quả thì cũng khó tiêu diệt vì nó là mục tiêu lớn. Sau này đã đi đến kết luận: phải bắn quả đầu tiên ở cự li nằm trong vùng phóng có hiệu quả cao nhất, sau đó bắn tiếp quả thứ 2 trong vùng phóng nguy hiểm, tức là lúc này đã ở cự li tối thiểu và phải nhanh chóng thoát li ngay với gia trọng lớn, đưa máy bay mình ra khỏi vùng nguy hiểm ấy.

        Tôi không được dự những cuộc “Quân sự dân chủ” của các anh vì đã chuyển sang bay ngày, nhưng sau thấy nói là cứ phải bắn đồng loạt (zan-pơ). Mà bắn đồng loạt thì quả bên trái vẫn ra trước rồi sau đó mối đến quả bên phải...

        Chiến tranh qua lâu rồi, nhưng những gì liên quan đến nó thì chừng như vẫn còn như mới nguyên...

        Anh Hoàng Biểu là người biết nhiều sự kiện, biết nhiều chuyện, có điều, ít khi anh nói ra. Anh sống ở Hà Nội nhưng hay về quê, nhất là những dịp lễ Tết, đặc biệt Tết Thanh Minh. Anh tâm sự:

        - Dưới xuôi và nhiều nơi gọi Tháng Ba là Tiết Thanh Minh nhưng quê mình gọi là Tết Thanh Minh. Tết ấy được tổ chức vào đúng ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, chỉ một ngày thôi. Nếu Tết Nguyên Đán và Rằm Tháng Bảy tổ chức một ngày rưỡi thì Tết Thanh Minh chỉ trong một ngày. Đấy là ngày Tết tâm linh. Ngày Tết Nguyên Đán vì lí do gì đó không về được thì có thể thông cảm, nhưng ngày Thanh Minh thì dứt khoát ở đâu cũng phải về để thắp hương cúng tổ tiên, ông bà tại mộ. Ngày ấy là ngày Tết linh thiêng...

        Tôi có tìm hiểu, có biết về ngày Tết Thanh Minh ở quê anh. Đấy là nét văn hóa đặc sắc của người Tày, người Nùng vùng Cao Bằng. Ngày ấy được gọi là Tết “So slam bươn slam” (tức 3-3 âm lịch) với đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. Nó trở thành ngày lễ quan trọng, thiêng liêng, đi sâu vào tiềm thức của mỗi người con dân tộc Tày, Nùng. Đẩy kin đừng thú, đẩy dú đừng lủm cong (được ăn đừng quên đũa, được ở đừng quên ơn). Phải biết rằng mình được như thế này là nhờ ai chứ. Phải nhớ đến công ơn của tổ tiên, ông bà và những người đã khuất chứ...

        Để chuẩn bị cho ngày này, trên mâm cúng thế nào cũng phải có “khẩu nua đăm đeng” (xôi nếp đỏ đen) tức là xôi ngũ sắc, tượng trưng cho Âm Dương, Ngũ Hành. Màu xôi đăm đeng được lấy từ các loại lá cây như lá cẩm, lá sau sau... giã ra, lọc lấy nước để ngâm gạo. Xôi có mùi thơm đặc trưng của thảo mộc không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Ngoài xôi đăm đeng còn có nhiều món khác nữa như gà luộc, măng kẹp thịt, đậu phụ nhồi thịt, cá rán...

        Mọi món đều được bày cúng tại mộ và mỗi mộ đều cắm một cây nêu với chùm hoa cắt bằng giấy để báo hiệu con cháu đã hoàn tất việc tảo mộ.

        Tất cả các con cháu đều về tề tựu đứng cúng trước các mộ.

        Ngoài việc tưởng nhớ đến những người đã khuất, đây còn là dịp để con cháu trong dòng họ đoàn tụ xum vầy, gắn kết tình cảm.

        Nét văn hóa đặc sắc ấy không phải dân tộc nào cũng có được và giữ gìn được một cách lâu bền.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Sáu, 2020, 06:41:55 am
   
        Tôi đã có dịp về Cao Bằng vào đúng ngày lễ hội Đại đoàn kết các dân tộc nên cũng đã hiểu được thêm nhiều điều.

        Vùng quê anh cũng là vùng quê có những làn điệu hát Then cùng với cây đàn Tính. Điệu hát Then là điệu hát thần tiên, vì Then theo tiếng Tày là Thiên - là Trời. Tôi được biết, lời Then có tới 35 chương đoạn khác nhau. Vừa hát Then vừa chơi đàn Tính, kết hợp sử dụng chùm nhạc xóc trong các nghi lễ cầu mưa, cầu lửa, giải hạn... Then vừa là một sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh vừa là một loại hình âm nhạc dân gian mà nội dung của nó phản ánh mọi khía cạnh của cuộc sống, từ niềm vui, nỗi buồn đến những ước vọng, hoài bão... hướng tới những điều tốt đẹp, bình an của cuộc sống và người ta dùng đàn Tính để thay lời muốn nói, để bày tỏ nỗi niềm...

        Cao Bằng quê anh là tỉnh có nghệ thuật hát Then phát triển mạnh nhất trong cả nước.

        Tôi còn được biết rằng: hồ sơ hát Then để trình UNESCO vinh danh loại hình hát Then là di sản văn hóa nhân loại đã hoàn tất, trình xét vào cuối năm 2018. Mong muốn loại hình nghệ thuật tổng hợp chứa nhiều thành tố ngữ văn, âm nhạc, mỹ thuật... và có giá trị về lịch sử, văn hóa, xã hội... này sớm được UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại.

        Trong bài “Tình cảnh đoàn ta” của anh Hà Quang Hưng viết về đoàn bay khóa Ba của chúng tôi thì anh Trần Thông Hào được nhắc đến đầu tiên:

        
“Một thời khuấy đảo trời mây
        Tới khi đổ bệnh, mới hay mình già
        Tình hình sức khỏe đoàn ta
        Dạo này cũng đã... sút sa phần nào
        Mổ thận thì Trần Thông Hào
        Cắt tiền liệt tuyến rơi vào Hải-My...”

        Những lần gặp anh, tôi vẫn theo thói quen như hồi còn ở hầm của Đại đội 5, giơ tay lên và hô:

        - Hai-lơ, Hào!

        - Hai-lơ, Huy! - anh cũng giơ tay cười đáp lại.

        Cái trò này chỉ có tôi, anh Trần Thông Hào và Vũ Xuân Thiều là hay “diễn” với nhau mà thôi.

        Gặp anh là tôi lại nhớ đến lần anh xuất kích “chỉ biết có đi, không về”. Lần ấy, anh xuất kích đúng vào thời điểm gió mùa Đông Bắc gây mưa dày hạt và tầm nhìn rất xấu. Nhận định địch đánh vào Hải Phòng, anh đang trực chiến ở đầu Đông sân bay Đa Phúc thì nhận được lệnh từ sở chỉ huy cho chuyển cấp, cất cánh. Trời nổi gió to, mưa nặng hạt và dày, tầm nhìn rất kém. Anh Trần Thông Hào sau khi mở máy, phải lăn về đầu Tây sân bay để cất cánh theo hướng Tây-Đông. Tất cả những người nhìn chuyến xuất kích của anh đều nghĩ rằng: “đi thì đi thôi mà chắc gì đã về!”. Sau khi dẫn vào khu chiến, không gặp địch, anh được dẫn về Đa Phúc hạ cánh, nhưng vì thời tiết rất xấu, không thể hạ cánh được, Sở chỉ huy cho anh về hạ cánh ở sân bay Kép. Tại khu vực sân bay Kép, lúc này trời đang mưa tầm tã. Sở chỉ huy dẫn anh xuyên mây từ phía Đông Bắc xuống. Ngang sân bay Kép, xuống đến độ cao 200 mét rồi mà vẫn chưa ra khỏi mây. Anh liều ấn máy bay thấp xuống chút nữa, thấy phía dưới bụng máy bay loáng thoáng mây nhưng ngay đấy lại là núi. May sao, nhác thấy ánh đèn sáng ở khu vực Bắc Giang và khu vực nhà máy phân đạm Hà Bắc, anh Trần Thông Hào liền cho máy bay vòng về đấy với ý định giả dụ như phải nhảy dù thì cũng ở khu vực đồng bằng rồi, sẽ yên tâm hơn. Nghĩ vậy nhưng anh không dám xuống thấp hơn nữa, sợ sẽ va quệt vào đâu đó. Anh vòng đến khu vực Bắc Giang thì phát hiện được hàng đèn ở sân bay Kép. Tinh thần phấn chấn hẳn lên, anh cho máy bay bay ở độ cao 150 mét, lấy hướng về sân bay. Đột nhiên, máy bay đâm sầm vào đám mưa. Mưa rất to, mặt kính của buồng lái nhòe nhoẹt, không thể nhìn thấy gì ở phía trước, nhưng không thể không hạ cánh. Anh điều khiển máy bay lao xuống theo cảm giác giữa hai hàng đèn. Đoán chừng đã đến độ cao kéo bằng, anh đưa máy bay ra bay bằng, vừa tạo tư thế tiếp đất thì nghe tiếng “kịch” - máy bay tiếp đất luôn. Anh thu hết cửa dầu, giảm tốc độ và thả dù giảm tốc. Mưa vẫn xối xả, mù mịt, không biết đường nào mà lăn vì không nhìn thấy gì xung quanh. Anh báo cáo và tắt động cơ, ngồi chờ xe ứng cấp ra kéo về.

        Sau chiến tranh, anh vào bay trong Trường Không quân Nha Trang. Tới tận cuối 1990 còn bay với các phi công ở sân bay Phù Cát rồi mới thôi bay vào năm 1993. Anh chuyển công tác về Trường Trung Cao Không Quân, sau đó đi học và làm việc tại Cục Khoa học Công nghệ Bộ Quốc Phòng, bảo vệ luận án Tiến sĩ năm 2001.

        Anh nghỉ hưu năm 2006.

        Lần gần đây đến thăm anh, anh kể về chuyện cắt mật của anh khi bị hòn sỏi to như quả trứng gà tre chèn ép mà tôi cũng thấy gờm. Anh vẫn nhẹ nhàng, tế nhị và hóm hỉnh như những ngày nào còn ở Đại đội bay đêm. Chúng tôi ngồi ôn lại những kỷ niệm xưa - những kỷ niệm không bao giờ cũ để như thấy được sống lại cả một thời...

        Tôi cũng hay đến chơi với Nguyễn Khánh Duy vì hay đưa cháu đi học qua nhà Khánh Duy nên tiện thể ghé qua. Khi thì đem cho Khánh Duy vài quả su su đã nứt nanh, đâm rễ để Khánh Duy trồng, khi đơn giản chỉ là đến thăm. Lần nào thì cũng phải “nhấp” vài chén rượu rồi mới dùng đến li cà-phê và hàn huyên mấy mươi phút mới rời được.

        Nguyễn Khánh Duy cũng là một trong số phi công bay đêm tham gia hết “Chiến dịch 12 ngày đêm”, xuất kích cũng nhiều, gặp không ít khó khăn khi cất hạ cánh, may không bị “sứt mẻ” gì, nhưng chưa có duyên tiếp cận được mục tiêu. Âu cũng là vận may của từng người.

        Khánh Duy có tâm hồn nhạy cảm, từng làm thơ và bài “Bạn tôi” cũng đã được in trong Tạp chí Văn nghệ Quân đội cuối năm 2012 cùng với các phi công tiêm kích khác:

                                   “Chiếc MiG năm xưa đã bày vào tủ kính
                                   Chiếc Bô-ing Mỹ để trên bàn
                                    “Đất nước hội nhập, không hòa tan
                                   Phát triển đi lên theo định hướng...”
                                   Thành quả ngày nay mọi người đều hưởng
                                   Nhuộm máu bạn tôi nhiều đứa không về
                                   Nằm rải rác ở các miền quê
                                   Viếng mộ bạn, đi mấy ngày không hết
                                   Những phi công hy sinh vì Tổ Quốc
                                   Đến hôm nay Mẹ vẫn nhớ vẫn buồn
                                   Đồng đội của con đến thăm nom
                                   Gặp được Mẹ, Mẹ nào cũng khóc!...”.


        Những câu thơ cứ bắt người đọc phải suy nghĩ...

        Với các phi công bay đêm khác, người thì thi thoảng vẫn gặp, người thì lâu lâu tôi mới gặp, người thì lâu lâu mới gọi điện thoại hỏi thăm nhau. Mỗi người mỗi vẻ, ai cũng có cách sống riêng giữa vòng xoáy tất bật của thời đương đại nhưng đều có nét chung của “cánh bay đêm” - của “họ hàng nhà Vạc” mà chỉ người trong cuộc mới hiểu!...


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Sáu, 2020, 05:54:50 am

LỜI CUỐI SÁCH THAY CHO LỜI KẾT

        So sánh với mọi lực lượng trong tất cả các Quân Binh chủng thì Không quân có nét đặc thù rất riêng. Đó là sự gắn kết giữa nhiều thành phần để cùng hoàn thành một nhiệm vụ. Tất cả đều đóng quân quanh khu vực sân bay, hiệp đồng chặt chẽ với nhau, không thể tách rời bộ phận nào ra được. Họ như những đám mây tích điện giúp cho các phi công làm nên tia chớp giữa trời. Một thành tích dù nhỏ cũng là thành tích chung của mọi thành phần, đúng như lòi Bác Hồ đã dạy: “...Đoàn kết hiệp đồng. Lập công tập thể”.

        Sân bay luôn là địa điểm cố định, cho dù là sân bay cơ động hay sân bay dã chiến. Tầm bán kính hoạt động của máy bay có thể đến hàng trăm cây số, nhưng đi đâu rồi cũng vẫn phải về hạ cánh. Sân bay tựa như ngôi nhà của các phi công, dù đi muôn nơi vẫn tìm về. Đấy là nơi an toàn nhất, là bến đỗ bình yên nhất giống như là gia đình của mình và các thành phần hoạt động ở đó là các thành viên trong gia đình mình.

        Các thê hệ phi công được đào tạo ở nhiều nơi khác nhau, nhưng khi về cùng Quân chủng thì đều như anh em trong một nhà. Sự hiểu biết, cảm thông, gắn bó nhiều khi còn hơn anh em ruột. Giữa bầu trời mênh mang chỉ có hai, ba người với nhiệm vụ không hề đơn giản, nếu không gắn bó với nhau, cùng chia lửa cho nhau, hy sinh vì nhau thì làm sao hoàn thành được nhiệm vụ. Niềm vinh quang, sự cay đắng, mọi thứ vui, buồn... họ đều chia sẻ cùng nhau, làm nên một thứ tình cảm thật khác biệt. Không ai hiểu phi công bằng phi công. Họ là những người sống với những nét hào hoa dưới mặt đất, với khí phách hào hùng trên trời, với hào khí của người chiến thắng và hào hiệp trong cuộc sống thường ngày.

        Và họ cũng là những người sống bình lặng giữa đời thường.

        Chiến tranh đã lùi xa nhiều năm. Đại đội 5 (sau này đổi phiên hiệu là Phi đội 5) tính ra cũng đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày thành lập. Trong khoảng thời gian ấy, biết bao sự kiện đã diễn ra trong bao bối cảnh nào yên ả, nào sôi động, nào bi hùng...

        Những phi công bay đêm, đánh đêm mới ngày nào tóc còn xanh thì giờ đã nhuốm đậm màu thời gian: người thì “muối” nhiều hơn “tiêu”, người thì “tiêu”, “muối” bằng nhau. Mọi khóe mắt đã đầy những vết chân chim, má cũng đã hằn sâu những nếp nhăn, da đã xuất hiện những vết nám, vết đồi mồi... Bóng dáng của sự trẻ trung đã đi vào dĩ vãng... Cả một thời trẻ trai họ đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ bầu trời, bảo vệ cho màu xanh không gian luôn yên ả, không bị vẩn đục bởi những luồng khói của đạn, bom... Nay tất cả đã trở về với đời thường, hàng năm, họ vẫn tổ chức gặp nhau vào dịp cuối năm - vào dịp của sự kiện “mười hai ngày đêm Điện Biên Phủ trên không”.

        Cuộc gặp gỡ của các phi công bay đêm không ồn ã như cuộc gặp của các phi công bay ngày. Có lẽ, “thói quen nghề nghiệp” đã khiến họ lặng lẽ hơn một chút, trầm tĩnh hơn một chút, nhẹ nhàng hơn một chút...

        Cũng đúng thôi. Chỉ một mình trên bầu trời đêm thì làm sao mà sôi động, mà náo nhiệt được! Đấy chính là nét chung của “họ nhà Vạc”!

        Mỗi năm gặp lại nhau lại thấy thiếu vắng một chút. Năm trước vắng anh Trần Cung, năm sau lại vắng anh Đặng Vân Đình... Con người ta không ai cưỡng lại được cái quy luật muôn đời: “Sinh, Lão, Bệnh, Tử” của tạo hóa.

        Số người còn lại, lại ngồi “điểm danh” và nhắc đến từng người với từng kỷ niệm vui, buồn của một thời đã qua.

        Một thời đã qua! Họ đã để lại đằng sau lưng mình cả thời trai trẻ, vắt kiệt sức trong những ngày đạn bom ác liệt, gồng mình lên vượt hết thảy những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ giữa ranh giới sự sống và cái chết mỏng manh như sợi tơ. Trong những ngày tháng ấy, không ai biết rồi mình sẽ thế nào. Vậy mà họ đã vượt qua được tất cả, trở thành người chiến thắng. Những gian nan, hiểm nguy trước đây họ gặp phải, bây giờ đem ra kể lại xem như chuyện đùa, cười vui cho khuây khỏa mà thôi.

        Gặp gỡ nhau, họ vẫn trêu chọc nhau, vẫn xưng hô “cậu tớ, ông tôi, mày tao...” hệt như những ngày xưa...

        Tôi cũng thường tâm sự với các đồng đội và bạn hữu:

        Nếu lưu lại được cho đời
        Một chút khóc, một chút cười... cũng hay
        Để khi “nhắm mắt, xuôi tay”
        Chẳng cần tiếc nuối những ngày đã qua!...

        Các phi công bay đêm không chỉ lưu lại một chút mà họ đã làm được rất nhiều, để lại được rất nhiều những gì cần lưu, cần để cho các phi công lớp đàn em và thế hệ sau này.

        Năm 2018 vừa rồi, nhà nước đã phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho anh Nguyễn Văn Minh. Vậy là đến nay, trong đội ngũ phi công bay đêm, đánh đêm đã có 7 Anh hùng. Còn những phi công bay đêm nữa hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu ấy, như các anh Hoàng Biểu, Vũ Đình Rạng... cho dù chưa được nhà nước phong tặng, chưa được đeo Huân chương Anh hùng, nhưng trong tâm khảm của chúng tôi, các anh đã là những người Anh hùng từ lâu rồi.


Tiêu đề: Re: Ký ức trời đêm
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Sáu, 2020, 07:52:56 am
   
        Tôi cứ lặng lẽ ngắm nhìn từng khuôn mặt và nghĩ suy về từng người. Ai nấy cũng đều có duyên với bầu trời, nhưng duyên phận, duyên nợ với bầu trời thì lại không giống nhau. Với người này thì có duyên nhưng lại không có phận, với người kia thì duyên nhiều nợ ít, với người nọ thì duyên ít nợ nhiều... Mỗi người mỗi vẻ, chẳng ai giống ai.

        Bầu trời thật gần đấy mà cũng thật xa đấy. Bầu trời rõ thấp đấy mà cũng rõ cao đấy. Bầu trời thật mung lung, huyền bí đấy mà cũng thật thân quen đấy. Bầu trời cho ta nhiều niềm vui đấy mà cũng bắt ta nhận lắm nỗi buồn đau đấy. Lướt lên bầu trời thật nhẹ nhàng đấy mà cũng thật nặng nề đấy...

        Bầu trời gắn bó thật mật thiết với cuộc sống của các phi công. Không có bầu trời thì làm sao có được danh hiệu phi công. Không trực tiếp vẫy vùng ở trên đó thì làm sao có được những cảm giác bay bổng, kỳ diệu khác thường...

        Với cao xanh kia, không biết những ai ngồi quanh đây liệu vẫn còn duyên còn phận, còn duyên còn nợ nữa?...

        Ai đó đang cất cao tiếng hát với ca khúc “Từ mặt đất thân yêu” của nhạc sĩ Tô Hải:

                            “Khi tôi đang bay trên mấy tầng trời cao xanh.
                            Mây trôi,mây trôi dưới cánh biển bồng bềnh.
                            Êm êm quen quen tiếng máy hay là tiếng hát
                            Của trái tim tôi hay là lời Tổ Quốc
                            Tiếng hát câu hò bao quen thuộc
                            Tiếng ru mẹ tôi ru thuở trước
                            Réo rắt bên tai tôi khúc hát xưa bên nôi
                            Bóng dáng quê hương tôi với màu xanh lúa mới
                            Đẹp như những con người đêm, ngày nâng cánh tôi bay
                            Trên quê hương đi diệt lũ giặc trời
                            Vì Tổ quốc thân yêu tôi bay cao bay xa
                            Như cây lúa trên cánh đồng nơi quê hương ta
                            Nhiều bông trĩu hạt do sức bao người
                            Mỗi chuyến tôi bay có bao tay đồng đội
                            Chờ mong từng phút giây tôi lập công
                            Về trong tình mến thương trên đường băng
                            Về trên mặt đất Việt Nam hùng nhân dân anh hùng
                            Với truyền thông vinh quang xưa
                            Có Đảng chắp cảnh ước mơ
                            Bác Hồ còn đó
                            Giục tôi bay thêm cao thêm xa
                            Giục tôi bay thêm cao thêm xa
                            Giục tôi bay cao bay


        Họ đấy!... Mặc cho bóng dáng của sự trẻ trung đã đi vào dĩ vãng. Ý chí, tinh thần, nghị lực của họ vẫn như xưa... Họ vẫn hồn nhiên... vẫn da diết nhớ bầu trời... Họ tựa như những bếp than chỉ phủ phớt nhẹ chút lớp tro phía bên ngoài, còn nguyên vẹn phía bên trong là cả lò nhiệt lượng khổng lồ và chắc chắn vẫn sẵn sàng cống hiến bản thân mình khi Đất nước, Quê hương cần đến.. Họ lại lắng nghe Tổ quốc gọi tên mình, sẽ lại giống như những cảnh trong bộ phim thời trước của Liên-xô: “Chỉ toàn những ông già bước vào trận chiến”... Tất cả đều vì sự yên bình cho bầu trời và sự yên lành cho mặt đất!

        Họ là vậy!...

        Thời gian bỗng như ngừng trôi.

        Những khuôn mặt rạng ngời, ửng hồng trong men say, tươi cười chúc nhau những điều tốt đẹp nhất...

        Tất cả cứ lung linh, lung linh như những vì sao trong dải Thiên Hà!...


        
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

        - Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam (1955 - 1977) - NXB Quân đội nhân dân, 1993.

        - Lịch sử ngành dẫn đường Không quân (1959 - 2004) - NXB Quân đội nhân dân, 2007.

        - Những trận không chiến trên bầu trời Việt Nam (1965 - 1975) nhìn từ hai phía - NXB Quân đội nhân dân, 2013.

        - Về cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ tháng 12-1972 “Linebacker 2” - Trung tâm thông tin KHQS-Cục KHQS-BTTM. Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân, 1992.

        - 60 năm Không quân nhân dân Việt Nam - NXB Quân đội nhân dân, 2015.

        - Lịch sử Sư đoàn Không quân 371 (1967 - 2017) - NXB Quân đội nhân dân, 2017.

        - Lịch sử Trung đoàn Không quân 921 (1964 - 2009) - NXB Quân đội nhân dân, 2009.

        - Lịch sử Trung đoàn Không quân tiêm kích 927 (1972 2012) - NXB Quân đội nhan dân, 2012.

        - Kỷ yếu các cựu phi công bay đêm MiG-21 những năm 1967 - 1975, Quân chủng Phòng không -  Không quân, 2012.

        - Kỷ yếu phi công tiêm kích Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1964-1973) - NXB Quân đội nhân dân, 2017.

        - Các đơn vị và cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thuộc Quân chủng Phòng không -  Không quân - NXB Quân đội nhân dân, 2002.

        - Hội thảo khoa học: Ý chí và trí tuệ Việt Nam với chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” (Tháng 12-1972 - 12-2017).

        - Các tư liệu qua Internet.


        
MỤC LỤC

        - Lời đầu sách thay cho lời mở
        - Chuyện cũ
        - Vài nét sinh hoạt thường ngày ở khu E
        - Sự khác biệt giữa bay ngày và đêm
        - Tham gia những trận đánh ngày
        - Với tuyến đường vận tải chiến lược 559
        - Những trận đánh đêm. Khởi đầu những chuyến bay cảm tử
        - Tham gia chiến dịch 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”
        - Kỷ niệm về những người đã khuất
        - Muôn mặt đời thường
        - Lời cuối sách thay cho lời kết
        - Tài liệu tham khảo và trích dẫn

HẾT