Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:04:56 am



Tiêu đề: Dưới làn nước biếc
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:04:56 am
Tên sách: Dưới làn nước biếc
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2016
Số hóa: macbupda

         * Ban biên soạn:
            NGUYỄN TẤN MINH (Chủ biên)
            NGUYỄN VĂN LỢI
            HỒ XUÂN HÒA
            PHẠM XUẤN SANH

         * Tổ chức bản thảo:
            Thiếu tá NGUYỄN SỸ LONG (Cơ quan đại diện
            Nxb Quân đội nhân dân tại Đà Nẵng
)

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23203;image)


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:06:21 am
LỜI HUẤN THỊ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI BỘ ĐỘI ĐẶC CÔNG

Các chiến sĩ đặc công được tin tưởng đặc biệt.

Có thể nói, do chiến tranh du kích phát triển cao, đặc biệt cao. Chiến thuật du kích lấy ít đánh nhiều và đi không tiếng về không tăm.

Bây giờ các chú cũng thế, cũng phải lấy ít đánh nhiều, nhưng mà to hơn nữa, cao hơn nữa, lấy ít đánh nhiều, lấy ít thắng nhiều.

Vì vậy, điều thứ nhất là chiến sĩ đặc công đã đi là đánh, đã đánh là tất thắng, như thế thì phải đặc biệt dũng cảm.

Cái gì cũng đặc biệt đối vối đặc công. Chữ đặc biệt quán xuyến tất cả, từ lúc tập luyện cho đến lúc đi đánh, cũng như lúc về.

Mưu trí phải đặc biệt linh hoạt.

Kỹ thuật phải đặc biệt huấn luyện thuần thục.

Lập trường chính trị phải đặc biệt vững chắc.

Ở đây Bác thấy một, loạt chữ đặc biệt, đặc biệt tất cả.

Kỷ luật phải đặc biệt nghiêm minh.

Quyết tâm thắng địch, quyết tâm tiêu diệt địch cũng phải đặc biệt cao.

Đối với Đảng, phải đặc biệt trung thành.

Đối với dân, phải đặc biệt thân ái.

Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt.

Đặc công có khi đi một mình, tức là tác chiến một mình; có khi hợp đồng với những binh chủng khác thì phải đặc biệt gắn bó.

Nội bộ phải đặc biệt đoàn kết.

Dân vận phải đặc biệt nhẫn nại, bỏi vì đây là nhân dân chiến tranh, phải nhờ dân bao che, đùm bọc, giúp đỡ thì mới thành công. Muốn như thế, dân vận phải khôn khéo và nhẫn nại.

Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục cho kỳ được.

Nói tóm lại là công việc, công tác của các đồng chí cũng đặc biệt khó, nhưng cũng đặc biệt vẻ vang!


(*) Trích Bài nói chuyện với đại biểu cán bộ, chiến sĩ Binh chủng Đặc công, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, tr.242.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:08:26 am
Lời đầu sách

Đặc công là một trong số những lực lượng vũ trang nhân dân có cách đánh dũng cảm, sáng tạo và anh hùng nhất: trong số các lực lượng vũ trang của Quân đội nhân dân Việt Nam; đặc công có chiến thuật chiến tranh du kích phát triển cao và đặc biệt cao, dùng ít đánh nhiều, dùng ít thắng lớn, nhờ vào sự đúc kết kinh nghiệm chiến tranh nhân dân của cha ông ta từ xưa đến nay.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng đường lối quân sư đúng đắn, tư tưởng chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam, nhất là trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, lực lượng và cách đánh đặc công không ngừng phát triển và đạt tới trình độ nghệ thuật cao. “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt” - đó là lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn bộ đội đặc công trong ngày Bác cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm và công bố thành lập Binh chủng Đặc công ngày 19 tháng 3 năm 1967.

Từ lời dạy đó, xuất hiện tại chiến trường Quảng Đà tuy muộn song lực lượng đặc công nước gồm: Đội 3, Đội 170 và Tiểu đoàn 471 bằng cách đánh độc đáo, sáng tạo, tài tình của mình, đã lập nên những chiến công vang dội, cùng với quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng xứng đáng vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tập sách nhỏ này được viết bởi những người trong cuộc - những người không quen với việc viết lách nhưng muốn ghi lại một cách chân thực những chiến công của lực lượng đặc công nước, sự hy sinh gian khổ của những người đồng chí từng cùng nhau vào sinh ra tử, mà đến nay thân xác họ vẫn chìm sâu trong lòng nước lạnh, trên khắp sông, lạch, biển cả của Quảng Nam và Đà Nẵng. Chúng tôi muốn thông qua tập sách để vinh danh, tưởng nhớ những đồng đội đã ngã xuống, muốn ghi sâu những tháng năm chiến đấu hào hùng, những chia ngọt sẻ bùi trên chiến trường máu lửa Quảng Đà của người dân dành cho, muốn giới thiệu một loại hình chiến tranh độc đáo của Quân đội nhân dân Việt Nam cho các bạn trẻ hiện nay. Qua tập sách, với mỗi chiến công được đổi bằng máu và nước mắt, người đọc sẽ thấy rằng: không có một hang ổ, một cứ điểm nào là nơi an toàn cho kẻ xâm lược, dẫu đó là núi cao, vực sâu, biển cả mênh mông...

Tập sách Dưới làn nước biếc mà bạn đọc đang có trên tay, là niềm tự hào của chúng tôi qua những chiến còng của lực lượng đặc công nói chung và đặc công nước nói riêng; là nỗi canh cánh bên lòng, một niềm tiếc thương vô hạn đối với bao nhiêu đồng đội đã anh đùng hy sinh vì Tổ quốc. Những chiến công rực rỡ và những hy sinh cao cả đó, đáng được chúng ta tôn vinh, ca ngợi. Nếu không làm được như vậy, thì dù biện minh cách nào cùng là vô tình, vô cảm, có lỗi với vong linh những người vì Tổ quốc quên thân, vì nhân dân kiên cường chiến đấu. Chính điều đó đã thôi thúc chúng tôi, tuy tuổi tác đã cao và không quen việc cầm bút nhưng cố gắng viết lại những trang hồi ký, ghi lại những sự việc, những trận chiến đấu ngoan cường đúng với sự thực diễn ra trên chiến trường mà Đặc công hài quân 126 đã lập nên. Tuy nhiên, tập sách chỉ là những nét chấm phá về Đặc công hải quân 126 trên Mặt trận 44 Quảng Đà, không thể nói hết những gì mà thực tế đã diễn ra trong cuộc chiến đấu một mất một còn đối với Mỹ, ngụy tại chiến trường quan trọng này.

Do tuổi cao sức yếu, trí nhớ có phần suy giảm, lại hành văn không được suôn sẻ, rất mong bạn đọc cảm thông vả góp nhiều ý kiến chân tình trên tinh thần xây dựng, để lần tái bản, tập sách được hoàn chỉnh hơn.

Đại tá NGUYỄN VĂN LỢI
(Nguyên Chính trị viên Tính đội Quảng Đà,
                                                                                                                
nguyên Chính trị viên phó Đội 3 Đặc công hải quân 126)


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:09:52 am
Đặc công và đặc công nước trên chiến trường Quảng Đà

1. Vài nét về địa hình

Quảng Đà là một tỉnh nằm trên dải đất miền Trung Trung Bộ thuộc tỉnh Quảng Nam trước đây. Đến đầu năm 1963, do yêu cầu chỉ đạo chiến tranh nên ta cắt đôi Quảng Nam thành 2 tỉnh Quảng Đà và Quảng Nam. Theo đó, địa giới Quảng Đà: phía bắc giáp Thừa Thiên, nam giáp Quảng Nam, tây giáp Lào, đông giáp biển Đông. Quảng Đà có 7 huyện, thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An, trong đó có 4 huyện đồng bằng là Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc và 3 huyện miền núi là Tây Giang, Đông Giang và Nam Giang, toàn tỉnh có 129 xã gồm 96 xã đồng bằng và 33 xã miền núi.

Về mặt tự nhiên, Quảng Đà có nhiều sông ngòi nhưng chủ yếu đổ ra 3 cửa chính đó là Thủy Tú, sông Hàn và Cửa Đại. Các sông ngòi ở đây đều bắt nguồn từ dải Trường Sơn nên sông thường rất ngắn và dốc, do đó lượng nước sông về mùa mưa rất lớn và thường gây ra cảnh lụt lội liên tục. Miền hạ lưu của các sông nhất là vùng giáp biển có nhiều chi lưu, sông lạch thông luồng với nhau tạo thành một mạng sông chằng chịt, gây cho ta nhiều khó khăn trở ngại trong việc đi lại và cơ động về một quân sự. Xét về phương thức tác chiến của lực lượng đặc công nước thì sông ngòi Quảng Đà rất thuân lợi cho việc lên phướng án đánh mật tập vào những cứ điểm của địch, nhất là những cứ điểm gần sông, sát biển tại Đà Nẵng và Hội An.

Tuy nhiên, địa thế hiểm trở, nhiều núi cao, vực sâu cho nên gây trở ngại không ít đến việc đi lại, vận chuyển của ta. Nhưng cũng dựa vào miền rừng núi này mà lực lượng Đặc công đã xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc, để tiến công tiêu diệt địch. Từ biên giới Việt - Lào qua dãy Trường Sơn, lập tức gặp ngay đồng bằng bằng phẳng, phì nhiêu thuộc lưu vực của các con sông trong tỉnh. Với chiều ngang chỗ rộng nhất chừng hơn 400 cây số, đồng bằng ở đây nằm tựa lưng vào dãy Trường Sơn, vì thế mà miền đồi đất trung du hầu như không có, chỉ tạo thành một vùng giáp ranh rất ngắn giữa đồng bằng và rừng núi nên rất thuận lợi cho ta trong việc hoạt động đặc công.

Ngoài ra, Quảng Đà có nhiều đường giao thông huyết mạch như: quốc lộ số 1A, đường xe lửa chạy dọc qua địa giới của tỉnh từ đèo Hải Vân qua Đà Nẵng vào Thăng Bình - Quảng Nam. Các trục đường ngang như đường 100, đường 104 nối liền các khu vực trong tỉnh; đường 14B nối Quảng Đà với Quảng Nam và chạy dọc miền biên giới vào các tỉnh miền Tây Nguyên. Sau khi quân đế quốc Mỹ vào Đà Nẵng, chúng đã mỏ thêm một số đường quân sự nối liền các huyện, các chi khu quận lỵ vối nhau như đường Non Nước đi Hội An, Hội An - Phước Trạch, Thanh Quýt - Bàu Sấu... và những con đường chạy từ đồng bằng lên vùng giáp ranh, vì thế mà địch rất thuận lợi, cơ động trong việc vận tải chuyên chở bằng xe cộ song cũng là “yếu điểm” cúa chúng, khi ta thực hiện chiến thuật đặc công, nhất là khi ta tấn công những cứ điểm của địch dọc theo các tuyến giao thông này.

Tóm lại, Quảng Đà là một địa bàn chiếm một vị trí chiến lược về quân sự. Dựa vào địa thế có lợi về một quân sự, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này đã ra sức mở mang sân bay, bến cảng, đường quân sự, xáy dựng hệ thống phòng thủ kiên cố biến nơi đây thành một căn cứ quân sự liên hợp lớn bậc nhất ở Đông Dương, là nơi tập trung các kho tàng tiềm lực chiến tranh; nơi xuất phát điểm cho các âm mưu bình định, càn quét cày ủi, đánh phá phong trào của địch; là bàn đạp để chúng khiêu khích đánh phá miền Bắc và các nước Lào, Campuchia... Chính vì lẽ đó, từ năm 1965, đế quốc Mỹ và bè lù tay sai đã tập trung ở đây với số lượng quân đông, khối lượng phương tiện chiến tranh lớn, ra sức đánh phá cày ủi xúc tát dồn dân dọc đường số 1, quanh các thị trấn, thị xã làm thành vành đai điện tử phòng thủ, từ chỗ dân cư đông đúc làng mạc trù phú, chúng đã tạo ra những vùng đất trắng, ruộng đồng phần lớn bị bỏ hoang, với mục tiêu chung hòng ngăn chặn ta tấn công từ xa để bảo vệ cho sào huyệt cuối cùng đó.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:10:23 am
2. Đặc công và đặc công nước Quảng Đà

Tại clịa hàn Quang Đà, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cách đánh đặc công đã xuất hiện nhiều nơi trong nhân dân, du kích và các đơn vị vũ trang của tỉnh. Đến năm 1954, dưới sự hướng dẫn và huấn luyện cúa các đồng chí cán bộ Đặc công Khu 5 và với trận thí điểm đầu tiên bí mật tập kích vào đồn Trường Giảng giành thắng lợi và sau đó là hàng loạt đồn bót của Pháp đã bị tiêu diệt thì cách đánh đặc công đã lan nhanh khắp trong tỉnh. Thực tế cho thấy: với lực lượng ít, vũ khí thô sơ nhưng biết vận dụng các yếu tố bí mật, bất ngờ thì ta vẫn tiêu diệt địch, dù chúng có đầy đủ vũ khí và phương tiện hiện đại hơn rất nhiều lần.

Từ năm 1961 đến năm 1965, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, với kế hoạch tát nước bắt cá, dồn dân lập ấp chiến lược, và triệt hạ cơ sở cách mạng của t.a. Yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn này là phải phát động toàn dân kiên quyết đánh bại âm mưu dồn dân lập ấp chiến lược của địch, tiến lên vũ trang khởi nghĩa, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của chúng.

Xuất phát từ yêu cầu đó, năm 1961, Ban cán sự Tỉnh đội quyết định thành lập C35 là một đội vũ trang tuyên truyền với nhiệm vụ cơ bản là một đội công tác, tuyên truyền phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, đồng thời còn có nhiệm vụ tích cực tiêu diệt nhiều sinh lực địch bằng nhiều hình thức; bí mật tập kích tiêu diệt các chốt điểm, diệt gọn từng trung đội địch, hỗ trợ đắc lực cho phong trào.

Lúc mới thành lập, Đội 35 chí có 15 đồng chí do đồng chí Kiều Sơn Long làm Đội trưởng và đồng chí Hiến làm Đội phó. Số cán bộ chủ yếu là cán bộ đặc công từ thời chống Pháp làm nòng cốt. Đội mới được thành lập nhưng được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ, bà con đã bí mật đưa con em của mình gia nhập đội. Đến tháng 5-1963 quân số của đội đã có 60 đồng chí. cũng trong tháng 5 năm 1963, do yêu cầu của tình hình nhiệm vụ chung nên Đội 35 đã đưa 25 đồng chí vào Quảng Nam xây dựng đội vũ trang mới, kết hợp với nhiệm vụ hoạt động liên tục, đơn vị đã tuyên truyền giáo dục, đưa một số thanh niên tình nguyện từ vùng địch lên bể sung. Tính đến cuối năm 1965, quân số của đội lên tới 70 đồng chí, do đồng chí Hồ Sĩ Tỵ làm đội trưởng và đồng chí Huy làm chính trị viên.

Từ những ngày mới thành lập, trừ một số đồng chí là cán bộ còn tất cả đều là những thanh niên giác ngộ cách mạng, tự nguyện xung phong gia nhập hộ đội; họ chỉ quen với tay bút, tay cày chưa biết khẩu súng là gì. Nhưng được sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng, được thường xuyên nuôi dưỡng ý chí căm thù giặc bằng những cuộc phát động kể tội ác của Mỹ - Diệm; học tập truyền thống chiến đấu dũng cám, ngoan cường của quân đội ta, nên tất cả các anh em trong đội đã nhận rõ được trách nhiệm mà dân tộc giao phó, vì thế nên đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, trong lúc cách mạng còn gặp nhiều khó khăn như thiếu gạo, thiếu muối... Đến năm 1965, thì rút Đội 35 về thành lập Tiểu đoàn đặc công 89 thuộc Thành đội Đà Nẵng. Đến năm 1967, tại Quảng Đà, lực lượng biệt động thành phố của quận, huyện, thị, đặc công nước và nhiều đơn vị đặc công khác được thành lập, phát triển đều trong ba thứ quân, ở vùng chiến lược.

Từ đó, với cách đánh đặc công tinh nhuệ, tập trung cao độ, tinh thần dũng cảm tuyệt vời, mưu trí, sáng tạo, linh hoạt, lực lượng đặc công Quảng Đà lập nên những chiến công hiển hách ngay trong sào huyệt cứa kẻ thù: Từ những chiến thắng ở sân bay Đà Nẵng, kho xăng Liên Chiểu, sân bay Nướe Mặn, tên lửa Hốc trên Phước Đường, sư bộ Sủng Mây đến các trận địa làm chủ quận ly Hòa Vang, thị trấn Cẩm Lệ, quận lỵ chi khu An Hòa. Đức Dục, ngã ba Hòa Mỹ, cảng Đà Nẵng... đã liên tục giáng cho quân thù những đòn sấm sét, làm cho Mỹ - ngụy bao phen khiếp vía kinh hồn.

Riêng về đặc công nước, thì sự ra đời của lực lượng này tại chiến trường Quảng Đà vào năm 1965 là một thời khắc quan trọng của lịch sử, là một nhu cầu quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại dây.

Năm 1965, Giôn-xơn đưa ra chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa hơn nửa triệu quân Mỹ và chư hầu vảo miền Nam mà điểm đặt chân đầu tiên của chúng là Đà Nẵng, dưới sự điều hành của tướng Oét-mô-len, hòng cứu vãn ngụy quyền Sài Gòn, chiếm miền Nam để thực hiện chính sách thực dân kiểu mới trong thời gian ngắn.

Sau khi đổ quân đến Đà Nẵng, Mỹ đã nâng tổng số quân tại đây lên gần 2 vạn tên. Trong đó có E1, E5 thủy quân lục chiến, sư bộ sư đoàn 1 đến lập căn cứ ở Sủng Mây, trung đoàn cơ giới đứng ở Dương Hồ. Các trận địa pháo hàng trăm khẩu đặt ở Thăng Bình, Hầm Xẻ, Cẩm Hà, sân bay Đà Nẵng, Nước Mặn được khẩn trương mở rộng thêm, hàng trăm máy bay phản lực, trực thăng được tàu há mồm chở đến lắp ráp đậu ở sân bay phản lực, xây dựng thiết bị kho xăng ở Liên Chiểu để dự trữ nhiên liệu, thiết lập căn cứ trung tâm thông tin khu ra-đa, khu tên lửa hốc không đối đất trên dãy núi Phước Tường, trận địa pháo Thanh Vinh, bãi xe cơ giới Cẩm Bình... Phía tây Đà Nẵng, chúng đã lập nhiều cứ điểm lớn như Phước Tường, Túy Loan, Thượng Đức, Gò Cà, Ái Nghĩa, Bồ Bồ, hướng nam đóng ở An Hòa, Đức Dục, Duy Xuyên đóng ở Nam Phước và chúng cố chiếm lại những chốt, điểm mà trước đây quân ngụy đóng giữ bị quân giải phóng tiêu diệt như Hòn Bằng, Núi Lở... Phía đông nam dọc theo bờ biển đóng ở Cồn Hữu, Cồn Khe, La Nghi, Non Nước và nhiều cứ điểm khác kéo dài tới Hội An. Để bảo vệ cho Đà Nẵng, quân Mỹ đã liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá vào phía nam Cẩm Lệ, vùng A, B, C Điện Bàn và phía tây Phước Tường. Quân Mỹ đã đóng giữ các chốt điểm quan trọng có tính chất chiến lược trên các trục đường giao thông, chiếm các điểm cao, lập căn cứ ở các quận lỵ, chi khu thành lập một tuyến phòng thủ cơ bản làm bàn đạp tấn công chiếm lại vùng giải phóng và đánh phá lên hậu cứ của ta.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:10:58 am
Đây là thời kỳ Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nước ta. Với uy lực mạnh, quân viễn chinh Mỹ và chư hầu tưởng có thể nuốt chửng được lực lượng cách mạng. Để thực hiện âm mưu đó, chúng đã dùng xe cày, mìn khô đánh phá nam bắc sông Cẩm Lệ, đông tây sông Yên lập thành vành đai trắng. Phía tây Đà Nẵng từ Liên Chiểu đến Thượng Đức chúng dùng phi pháo đánh phá bừa bãi vào thôn xóm, làng mạc, dùng trực thăng đổ bộ chụp quân, nhảy cóc, chặn đầu bao vây lực lượng ta, tiếp đến là hàng chục tiểu đoàn có xe tăng, xe bọc thép đi trước yểm trợ. Chúng càn đi quét lại vùng xung quanh Đà Nẵng, đi tới đâu chúng cũng đốt sạch phá sạch, bắn giết đồng bào ta tạo nên cảnh thương đau tang tóc. Chúng lấy Hòa Vang làm nơi luyện tập, hiệp đồng các loại binh chủng suốt ngày đêm. Một mặt chúng ra sức đánh phá càn quét vòng ngoài, mặt khác chúng tăng cường hệ thống phòng thủ bên trong. Địa hình xung quanh các cứ điểm sân bay, kho tàng đều cày ủi trắng và có bố trí phòng thủ, đối phó khi bị tấn công, như sân bay Đà Nẵng chúng thả từ 8-12 lớp rào bùng nhùng có đường tuần tiễu bằng xe bọc thép xung quanh rào, có hệ thống đèn pha cực mạnh khi cơ động dùng quét liên tục. Bên trong có hàng rào điện cứ 50 mét có một bóng đèn rất sáng, có một chi đoàn xe học thép thường xuyên thay nhau tuần tiễu và 45 chiếc trực thăng lúc nào cũng sẵn sàng cơ động đối phó. Hàng chục tiểu đoàn bộ binh hảo vệ, có cả chó béc-giê, canh gác nghiêm ngặt, bên trong máy bay đậu sát nhau đều có mang bom đạn sẵn sàng cơ động chiến đấu.

Kho xăng Liên Chiểu nằm ở sát núi gồm 9 bồn xăng có khối lượng khổng lồ, xung quanh các bồn xăng được bảo vệ một lớp vỏ cứng dày 1 mét vuông bằng xi măng cốt sắt, có một đại đội bảo vệ và canh gác xung quanh, vòng ngoài bố trí chướng ngại vật kiên cố. Các trận địa pháo, các cứ điểm của Mỹ đều có cấu trúc hệ thống phòng thủ tương tự nhau một mặt ở trên địa hình có lợi về mặt quân sự được lưới lửa hỏa lực dày đặc bảo vệ. Các tuyến đầu cầu là một tuyến lô cốt, ụ súng bằng bao cát chất nổi. Bên trong là lô cốt cố thủ, nhà ở cũng làm bằng bao cát lộ thiên trên mặt đất, tăng cường hệ thống đèn pha pháo súng. Khi bị ta đánh bất ngờ, địch nhanh chóng cơ động bằng lực lượng bộ binh xe tăng bít cửa mở. Khi phát hiện ta, địch dùng phi pháo tối đa từ các nơi, chặn đường lui quân, các lực lượng bên ngoài càng có căn cứ khác cơ động chặn đường khép chặt vòng vây.

Về quân ngụy, từ khi Mỹ đổ bộ vào, quân ngụy đã có thời gian củng cố lại. Nguyễn Văn Thiệu đã trực tiếp đến Đà Nẵng cùng Trung tướng Hoàng Xuân Lãm bàn thực hiện kế hoạch tăng quân bắt lính thành lập thêm các đơn vị mới như E51 chủ lực, tiểu đoàn 59 bảo an cùng 125 đại đội bảo an dân vệ khác, mở trung tâm huấn luyện quân chủ lực ở Hòa Cầm, trung tâm huân luyện quân địa phương ở Cẩm Hà, củng cố bọn ngụy quân ngụy quyền ở các huyện xã, phát triển hàng trăm dân vệ, thành lập thêm các đoàn bình định, ở nông thôn, bộ máy kìm kẹp được củng cố lại trong các vùng địch kiểm soát, phát triển mạng lưới tề điệp ác ôn. Tăng cường củng cố các chốt điểm cũ của Pháp để lại, đồng thời đóng thêm nhiều chốt điểm mới cỡ trung đội, đại đội trên các trục đường giao thông, bảo vệ các cầu, cống, cảng...

Trước tình hình quân Mỹ vào miền Nam, ngày 10 tháng 4 năm 1965, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa III, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là: “Dù Mỹ đưa thêm mấy chục vạn binh sĩ Mỹ và cố lôi kéo thêm quân đội các nước chư hầu vào cuộc chiến tranh tội ác này, thì quân và dân ta cũng quyết đánh thắng chúng!”. Tại chiến trường Quảng Đà, tháng 3 năm 1965, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Đà họp mở rộng, nhận định: “Việc Mỹ ào ạt đưa quân vào không ngoài dự kiến của Trung ương, do đó ta phải khẳng định quyết tâm: Chưa giải phóng miền Nam thì còn đánh, chiến tranh gì cũng đánh, đối tượng nào cũng đánh, đông bao nhiêu cũng đánh và lâu dài bao nhiêu cũng đánh... Chúng ta có nhiệm vụ đánh Mỹ trước tiên bằng hai chân ba mũi giáp công, để đóng góp kinh nghiệm cho toàn miền và góp phần đánh bại ý chi xâm lược của đế quốc Mỹ”(1); đồng thời phát động cao trào chống Mỹ trong cao tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Thời gian này, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho lực lượng đặc công noi chung là: cần phải phát triển rộng rãi ba thứ quân với hiệu suất chiến đấu cao. Bằng mọi giá phải phát huy cách đánh đặc biệt của đặc công, liên tục giáng cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai những đòn sấm sét.

Tháng 3 năm 1965, các đơn vị Tiểu đoàn 89 đặc công được thành lập với nhiệm vụ đánh thẳng vào căn cứ Đà Nẵng, tiêu diệt bọn sĩ quan chỉ huy cao cấp, nhân viên kỹ thuật, đánh vào các sân bay, kho tàng quân sự phá huy binh khí kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của địch. Tại cuộc họp đầu tiên của Ban cán sự thành Đà Nẵng, căn cứ vào nhiệm vụ và tình hình thực tế, đã đề ra nghị quyết: “Ra sức khắc phục khó khăn gian khổ, làm hết sức mình, khấn trương xây dựng lực lượng và chuẩn bị tốt cho chiến đấu, có bao nhiêu đánh bấy nhiêu, có gì đánh nấy, không chờ đợi, không đòi hỏi”. Từ chủ trương trên, lực lượng đặc công nhanh chóng tìm hiểu và xác định đối thủ của mình và đi đến kết luận: Mỹ - không phải là một kẻ thù bất khả chiến bại. Từ chỗ những nhận định đánh giá địch, ta một cách đúng đắn, đã gây được lòng tin tưởng vào khả năng chiến đấu của mình. Cái mạnh của địch là đông quân, vũ khí và phương tiện hiện đại, có tuyến phòng ngự bằng bộ binh, xe tăng dày đặc, cơ động nhanh, kết hợp với hệ thống kiểm soát, kìm kẹp nhân dân của ngụy quân, ngụy quyền rộng rãi. Hệ thống phòng ngự tại chỗ kiên cố, nhiều rào, mìn, hỏa lực mạnh, có chó béc-giê và quân lính canh gác cẩn mật nên chúng rất chủ quan, Mỹ và bè lũ tay sai mang bản chất của một tên xâm lược và lũ bán nước nên không được đồng bào nhân dân ta ủng hộ, do đó chúng dễ bị cô lập. Nắm được chỗ mạnh của địch, khoét sâu vào chỗ yếu của chúng để tìm ra những sơ hở mà đánh. Tuy nhiên, lực lượng đặc công khô, tiến công tiêu diệt các cứ điểm, kho tàng của Mỹ, ngụy thời gian này đã trở nên chuyên nghiệp, chính quy, chỉ riêng những mục tiêu quan trọng như: cầu, cống, cảng, tàu, thuyền của địch trên sông, biển... thì chưa có lực lượng chuyên trách.


(1) “Báo cáo tổng kết phong trào du kích chiến tranh tỉnh Quảng Đà (3-1965 - 10-1967)” Tài liệu mang ký hiệu I-III-30 lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đa Nẵng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:12:39 am
Về sự xuất hiện của lực lượng đặc công nước chính quy trên địa bàn Quảng Đà được đặt trong thời điểm lịch sử quan trọng đó, xuất phát từ yêu cầu của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức những đơn vị thích hợp trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam. Chấp hành chỉ thị của trên, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu từ chiến thuật đặc công sáng tạo ra “Đặc công nước” chuyên đánh địch trên sông biển triệt phá tàu thuyền chiến đấu, tàu vận tải quân sự, phá các kho tàng cầu cảng, đánh sập các cầu đường bộ, đường sắt cắt đứt chi viện của địch, đánh phá các công trình quân sự dọc duyên hải miền Nam. Đây là một sáng tạo nghệ thuật quân sự của quân đội ta trong chiến tranh vệ quốc. Căn cứ vào đặc điểm chiến trường, tính chất của đối phương, kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha, phát huy tinh thần kiên cường quả cảm của quân đội nhân dân, những chuyên viên quân sự thông minh nghiên cứu viết nên những giáo trình, giáo án huấn luyện chiến kỹ thuật độc đáo, xây dựng thành những đơn vị đặc biệt tinh nhuệ, mở ra một trang mới cho Hải quân nhân dân Việt Nam lập chiến công trên chiến trường đánh Mỹ.

Buổi đầu xây dựng Đoàn 126, những cán bộ, lãnh đạo chỉ huy phần lớn là những chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc, hàng chục năm trời xa cách quê hương ngày Bắc đêm Nam trong nỗi khắc khoải chờ mong ngày trở lại miền Nam, sát cánh cùng đồng chí, đồng bào diệt thù cứu nước. Hàng ngày tin tức từ miền Nam, Mỹ - ngụy tàn sát đồng bào và người thân yêu ruột thịt của mình, lòng anh em như lửa đốt. Được trở về miền Nam chiến đấu là nguyện vọng thiết tha của họ. Những chiến sĩ “đặc công nước” là những dũng sĩ diệt Mỹ từ miền Nam gửi ra, những trung sĩ, thượng sĩ của quần đội nhân dân đã được rèn luyện trên thao trường, có tri thức, có sức khoẻ, có tinh thần chiến đấu và ý chí căm thù Mỹ, ngụy rất cao. Họ sẵn sàng chấp nhận những thử thách ác liệt hiểm nguy, gác lại những mối tình đẹp đẽ, mái trường thân yêu và quê hương cắt rốn chôn nhau để lên đường chiến đấu với lòng thanh thản không gợi chút ưu tư! Họ là những Dã Tượng, Yết Kiêu thời đánh Mỹ của dân tộc ta.

Từ cơ sở đó, đến cuối năm 1966, lực lượng đặc công nước đã có mặt trên các chiến trường miền Nam, cụ thể như sau:

Đội 1 ở Quảng Trị (Cửa Việt).

Đội 2 ở Khánh Hoà (Cam Ranh).

Đội 3 ở Quảng Đà (Đà Nẵng), vào Nam ngày 27-10-1966. Sau 2 tháng 14 ngày đến A Vương, Quảng Nam được biên chế về Thành đội Đà Nẵng - thuộc Mặt trận 44 Quảng Đà.

Đội 4 ở Nam Bộ (Cảng Sài Gòn).

Đội 3 tại chiến trường Quảng Đà có các đồng chí sau:

- Võ Tân Mễ - Đại uý, Đội trưởng.

- Lương Xuân Lan - Đại uý, Chính trị viên.

- Nguyễn Văn Lợi - Trung uý, Chính trị viên phó.

- Nguyễn Sự - Trung uý, Đội phó.

- Nguyễn Bình - Trung uý, Cán bộ tham mưu.

- Phạm Xuân Sanh - Thiếu úy, Trợ lý tác chiến, quân lực.

Ngoài ra, còn có các đồng chí: Triệu Hải Long, Nguyễn Hữu Sơn (Chuẩn uý), là cán bộ quân khí, cùng một số đồng chí liên lạc, y tá...

Đội 3 sau đó được phân thành 3 phân đội như sau:

+ Phân đội 1: Huỳnh Thế - Trung úy Phân đội trưởng; Huỳnh Tửu - Trung uý.

+ Phân đội 2: Nguyễn Ngọc Râng - Trung uý, Phân đội trưởng; Nguyễn Tấn Minh - Trung uý, Chính trị viên.

+ Phân đội 3: Trịnh Kiều Miên - Trung uý, Phân đội trưởng; Lê Hồng Phong - Trung uý, Chính trị viên.

Quân số toàn Đội khoảng 50 đồng chí, có đến 80 phần trăm là đảng viên.

Đến tháng 1 năm 1967, Đội 3 được giao về cho Thành đội Đà Nẵng phụ trách. Từ đó, Đội được bổ sung về ba quận nội thành: quận Nhất, quận Nhì và quận Ba, mỗi quận khoảng 20 đồng chí.

Thời gian này, tại chiến trường Quảng Đà, giặc Mỹ và tay sai tiến hành các cuộc hành quân lớn, đánh phá rất quyết liệt. Để yểm trự đắc lực cho các cuộc hành quân, địch đã lập các căn cứ pháo binh sát vùng giải phóng của ta như: Hầm Xẻ, Thanh Vinh, An Hòa, Ái Nghĩa, Trung đoàn thiết giáp Cẩm Bình, khôi phục sửa chữa sân bay Đà Nẵng, tăng cường thêm máy bay trực thăng, nhiên liệu và phương tiện chiến tranh chuyển gấp vào cảng Đà Nẵng. Ngoài ra, chúng còn tăng cường thủ đoạn đối phó chống cách đánh của đặc công bàng cách đóng nhiều chốt điểm cỡ đại đội, tiêu đoàn, bố trí nhiều chướng ngại vật như rào, hầm chông, mìn, tăng cường đèn pha... Trên các trục đường hành lang đi lại của ta, địch dùng máy bay C130 thả đèn sáng liên tục, cho hàng tiểu đoàn ra ngăn chặn cả ngày đêm những nơi chúng nghi ngờ. Trong các sân bay, kho tàng, các cứ điểm lớn, đều có cấu trúc các hầm nổi cỡ lớn bằng bao cát xếp dày để bảo vệ máy bay, xe, pháo, binh khí kỹ thuật và phương tiện chiến tranh khác. Chúng còn dùng bộ binh và cơ giới bố trí bên ngoài sẵn sàng cơ động chống trả khi ta tấn công, lấy xe tăng làm công sự di động để bao vây uy hiếp ta. Còn các binh khí kỹ thuật quan trọng đều đặt ở giữa, cho nên muốn đánh được là phải qua tuyến phòng ngự dày đặc bên ngoài... Do đó, muôn đánh được địch, lực lượng đặc công khô hay đặc công nước đều phải suy nghĩ, nghiên cứu rất kỹ kẻ thù trước khi xuất kích, nhằm đảm bảo sự chắc thắng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:14:10 am
Tuy nhiên, “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, lực lượng đặc công khô và đặc công nước Quảng Đà đã mưu trí, dũng cảm, tổ chức những trận đánh bất ngờ vào các cơ quan đầu não của địch, lập nên hàng loạt chiến công lớn: Ngày 3 tháng 4 năm 1966, đặc công ta hí mật tập kích tiêu diệt 2 trận địa pháo La Bông và Thanh Vinh, phá hủy 15 khẩu pháo cỡ 105 và 155mm, diệt 234 tên Mỹ. Đến ngày 23 tháng 7 năm 1966, 25 đồng chí bí mật tấn công sân bay Nước Mặn lần thứ ba, phá hủy 70 chiếc máy bay, diệt 150 giặc lái và nhân viên kỹ thuật. Ngày 17 tháng 7 năm 1966, 45 đồng chí phá hủy hoàn toàn 110 xe quân sự trong đó có 80 xe bọc thép và xe tăng hạng nặng. Tiêu diệt gọn chỉ huy sở trung đoàn cơ giới, loại khỏi vòng chiến đấu 500 tên Mỹ, đốt cháy 4 triệu lít xăng và nhiều đạn dược ở tại Cẩm Bình... Mới vào đến chiến trường năm 1967, song đội đặc công nước, với 50 đồng chí, đã phối hợp cùng các đơn vị trong tỉnh, cắt đứt các trục đường giao thông trọng yếu, gây nhiều trở ngại cho địch trong việc chi viện tiếp tế bằng đường bộ. Đặc công nước đã đánh vào các kho dự trữ nhiên liệu của địch, phá huỷ và đánh chìm các tàu chở vũ khí vào đậu ở cảng Hội An. Đà Nẵng. Chỉ trong một năm, đơn vị đã đánh 12 trận, kết quả: đánh sập 8 cầu, có cầu đánh tới 2 lần, thiêu cháy 2 kho xăng, 6 triệu lít xăng, đánh chìm 2 tàu biển cỡ lớn chở đầy vũ khí, diệt 12 tên Mỹ, ngụy trong đó có 1 đại tá kỹ sư cầu đường. Với cách đánh xuất quỷ nhập thần, với tinh thần vô cùng dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, lực lượng đặc công đã tạo nên những chiến công vang dội, được nhân dân Đà Nẵng không ngớt lời ca ngợi, làm cho kẻ địch khiếp vía kinh hồn. Với những chiến thắng đó, quân dân ta đã cho Mỹ, ngụy thấy, trên mảnh đất miền Nam rực lửa căm hờn, không có nơi nào là an toàn cho chúng cả.

Bước sang năm 1967, Đội đặc công Quảng Đà đã nắm chắc địa bàn, thông qua những trận đánh, đội đã đạt được trình độ kỹ thuật đặc công nước điêu luyện, tinh thần toàn đội lên cao. về vị trí đóng quân (vùng hậu cứ), từ năm 1966 đến năm 1975, lực lượng đặc công nước Quảng Đà (Đội 170) đều đứng chân tại núi Hòn Tàu (huyện Quế Sơn). Để cơ động tác chiến, các phân đội của đội được phân bổ về vùng địch tạm chiếm như Điện Bàn, Hội An, K20 (Đà Nẵng), tây bắc Hòa Vang... Mỗi khi có kế hoạch tiến công một cứ điểm của địch, đội đều nhận được sự che chở, giúp đỡ hết lòng của bà con cơ sở địa phương, nhất là phối hợp rất chặt chẽ với lực lượng của huyện đội, thị đội, thành đội của những địa phương có mục tiêu cần phải đánh... Tuy nhiên, nhiệm vụ chủ yếu của đội đặc công nước tại Quảng Đà là: cắt đứt các cầu, cống chiến lược trên trục đường số 1 từ Huế vào Tam Kỳ không cho địch vận chuyển người, vũ khí, lương thực bằng đường bộ chi viện cho từng chiến dịch đánh phá của chúng, tạo điều kiện để bộ binh ta đánh địch phía trước. Đánh phá các cầu tàu ở bến cảng Hội An - Đà Nẵng, Sơn Trà, Liên Chiểu; đánh các chiến tàu quân sự đậu ở các quân cảng. Phá hủy các kho tàng đặt ở dọc theo các bến cảng, ven sông, bí mật, bất ngờ diệt sinh lực cao cấp địch ở sát các bến cảng, thị xã. Đến năm 1968, quân số toàn đội nước còn 45 đồng chí, năm 1969 còn 37 đồng chí, năm 1970 còn 12 đồng chí, đồng chí Sanh làm Đội trưởng, đồng chí Rơi làm Chính trị viên(1).

Thắng lợi của quân và dân ta trong 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1966 và 1967 đã làm cho đế quốc Mỹ và tay sai tại miền Nam thêm khốn đốn. Trước tình thế Mỹ - ngụy ngày càng lún sâu vào “cuộc chiến không có lối thoát”, Trung ương Đảng chủ trương chuyển cách mạng miền Nam sang một giai đoạn mới, giai đoạn tổng tiến công giành thắng lợi quyết định. Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị vạch rõ: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Thực hiện chỉ thị trên, Thường vụ Khu ủy Khu 5 quyết định chọn Đà Nẵng làm trọng điểm của cuộc tổng tiến công và nổi dậy này.

Tháng 11 năm 1967, Khu ủy Khu 5 quyết định hợp nhất Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà. Về quân sự, trước Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 cử đồng chí Nguyễn Chánh (Bình) - Phó Tư lệnh Quân khu 5, làm Tư lệnh Mặt trận 44. Quân khu đồng thời bổ sung cho Mặt trận 44 hai Trung đoàn pháo 575, 577 và Trung đoàn 31 bộ binh (thiếu 1 tiểu đoàn). Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá kết nghĩa đã đưa Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn (còn có phiên hiệu D91) vào trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Quảng Đà. Để phục vụ cho chiến dịch, lực lượng đặc công nước Quảng Đà cũng được cơ cấu lại như sau: Đội 2 đặc công bộ đội địa phương thị xã Hội An được thành lập, quân số lúc đầu 35 đồng chí, được biên chế thành 2 phân đội. Lực lượng biệt động, đặc công thành phố Đà Nẵng được thành lập như sau: Quận 2 thành lập phân đội 1 đặc công, Quận 3 thành lập các tổ biệt động, tự vệ. Đội đặc công 1, 2 cũng thành lập, Quận 1 thành lập đội biệt động Lê Độ, Ban chỉ huy khu phố Hải Châu, Thạc Gián, Ngũ Xã, Hòa Cường.

Theo kế hoạch, vào đêm 30 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968, ta sẽ đồng loạt nổ súng trên các chiến trường miền Nam, song do lịch của hai miền Nam - Bắc lệch nhau một ngày nên phải tạm hoãn. Tại Quảng Đà, dù đã nhận được lệnh hoãn song do giao thông liên lạc không đảm bảo, chiến trường bị chia cắt nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân ở Đà Nẵng vẫn nổ ra vào đêm 30 tháng 1 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 như kế hoạch.

Lúc 2 giờ 20 phút ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức đêm 30 Tết) ta pháo kích vào một loạt cứ điểm của Mỹ - ngụy tại Đà Nẵng như: Sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, trận địa pháo Thanh Vinh, tổng kho Bàu Mạc, kho xăng Liên Chiểu, đánh chặn Mỹ trên đèo Hải Vân, chiếm một trong ba cao điểm của Mỹ ở Phước Tường, đánh nát khu ra-đa, khu thông tin, làm tê liệt hệ thống thông tin liên lạc của Mỹ phía tây Đà Nẵng. Trong khi đó, ở cánh bắc Đà Nẵng, Phân đội 1 đặc công nước triển khai chuẩn bị mục tiêu đánh phối hợp góp phần vào thắng lợi chung của toàn mặt trận. Phân đội được phân công đánh tàu vận tải quân sự Mỹ neo đậu ở vùng vịnh Phú Lộc vào đúng giờ G của toàn mặt trận.


(1) Năm 1971, đội được bổ sung 9 đồng chí của Tiểu đoàn đặc công 471; Năm 1972, quân số không thay đổi. Năm 1973, được bổ sung thêm một đội đặc công nước rút từ Quảng Ngãi ra. Quân số 78 đồng chí, đồng chí Sanh vẫn làm Đội trưởng. Tháng 3-1974, tổng số là 66 đồng chí, có 29 đảng viên. 36 đoàn viên, 1 thanh niên là phục vụ.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:17:59 am
Chấp hành mệnh lệnh của trên, phân đội đặc công được chuyển quân từ Khe Răm (nam Hải Vân) xuống Phò Nam, Trường Định. Đội đã sử dụng “Khối nổ 60kg C4”. Đêm 30 tháng 1, Tổ chiến đấu tiếp cận bờ sông, xuôi dòng Cu Đê vượt qua gầm cầu Thủy Tú, ra đến bãi biển Nam Ô, rồi tiếp cận mục tiêu tại cảng Phú Lộc Đúng 21 giờ, đội vừa cài thuốc nổ xong cũng là lúc cả Đà Nẵng rộ lên tiếng súng mở màn cho chiến dịch. Khi anh em rời mục tiêu ít phút thì một ánh lửa bốc lớn từ chiếc tàu Lo-ry ngoài vịnh, tiếp theo là tiếng nổ, một cột nước bốc cao hàng chục mét rồi vỡ ra đổ xuống, chiếc tàu dần chìm xuống đáy biến sâu. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ba chiến sĩ đặc công nước về lại điểm hẹn Phú Lộc như đã định song do lạc đường và đụng độ với bọn địch đi càn, cả ba đã anh dũng hy sinh.

Bị một đòn choáng váng trong Tết Mậu Thân 1968, địch ra sức tập trung giải tỏa áp lực của ta đối với Đà Nẵng, Hội An và các quận lỵ chi khu, đề phòng ngăn chặn các cuộc tấn công tiếp theo của ta. Chúng tiến hành một số biện pháp phòng thủ, phòng ngự có chiều sâu đối với Đà Nẵng, lập vành đai (hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra) kết hợp càn quét đánh phá ròng rã, nhằm ngăn chặn hành lang bàn đạp, phá thế chuẩn bị tấn công của ta. Cuối tháng 6 năm 1968, địch đã làm xong hàng rào phòng thủ thứ nhất tại bắc sông Cẩm Lệ (từ Cẩm Hình qua Hòa Cường xuống giáp sông Hàn); đồng thời tiến hành lập vành đai thứ hai (nam sông Cẩm Lệ khoảng 8km) từ vùng cát Điện Bàn (sát biển) băng qua các xã Cẩm Hà, Điện Phương, Điện Trung, Điện Thắng và Điện Sơn ra Hòa Lương, Bình, Thượng và Hòa Quý, tây Trúc Bàu, tây đèo Ông Gấm, đến tây Quan Nam (Khu 1).

Tháng 5 năm 1968, Quảng Đà lại được tiếp nhận một tiểu đoàn đặc công cơ động là D91 mới từ ngoài Bắc vào bổ sung. Tiểu đoàn 91 được chọn lọc từ một trung đoàn bộ binh của tỉnh Thanh Hóa, với ý nghĩa thành lập đơn vị kết nghĩa Thanh Hóa - Quảng Nam. Đơn vị chính thức thành lập ngày 20 tháng 6 năm 1967 tại Hà Tây, thuộc Bộ Tư lệnh 305 đặc công, quân số 450 đồng chí, đồng chí Hoàng Văn Giáng - Tham mưu trướng Tỉnh đội phụ trách làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Quốc Đạt - Chủ nhiệm chính trị phụ trách Chính trị viên, được huấn luyện đặc công 6 tháng, ngày 21 tháng 1 năm 1968 lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 7 tháng 5 năm 1968 vào đến Quảng Đà. Tháng 11 năm 1968, tiểu đoàn này đổi tên thành Lam Sơn. Nhiệm vụ cơ bản của tiểu đoàn là cơ động trong tỉnh, hoạt động sâu ở các vùng ven, diệt chỉ huy sở của địch, phá hủy trận địa pháo, diệt gọn từng đơn vị địch, trừng trị bọn ác ôn, đánh vỡ các mâm tề hội đồng. Đến năm 1969, trên toàn chiến trường Quảng Đà, lực lượng đặc công có 5 tiểu đoàn, 1 đội đặc công nước, 2 đội đặc công huyện, thị, 3 đội đặc công độc lập trực thuộc của các trung đoàn hộ binh(1).

Thời gian này, lực lượng cơ động địch trên chiến trường Quảng Đà thường xuyên có từ 20 đến 23 tiểu đoàn. Đặc biệt, cuối năm 1968 đầu 1969 địch tập trung cao nhất đến 28 tiểu đoàn. Trong năm 1970, Mỹ - ngụy thực hiện cái gọi là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, âm mưu chi viện tối đa phương tiện chiến tranh cho quân ngụy, tăng cường quân ngụy, đưa bọn này thay dần quân Mỹ để quân Mỹ lần lượt rút về nước. Tại Quảng Đà, địch bố trí lực lượng hải quân rất hùng hậu: năm 1968, Mỹ có chỉ huy hải quân đứng tại An Hải (Đà Nẵng), và có một số tàu thủy đứng ngoài biển Đà Nẵng; ngụy quân có bộ chỉ huy Hải quân vùng 1 chiến thuật và tại Quảng Đà có 2 duyên đoàn số 13 và 14. Cuối năm 1970, tổng số cứ điểm của địch tại Quảng Đà gồm: 88 cứ điểm quân Mỹ, 153 cứ điểm ngụy, 35 cứ điểm quân Nam Triều Tiên, gồm 166 chốt điểm B, 86 điểm C, 38 cứ điểm D, 7 cụm cứ điểm E, 18 cơ quan đầu não, 13 kho tàng, 12 cụm điện đài ra-đa, 12 bến cảng, 3 sân bay. Nêu cao tinh thần chiến đấu, hy sinh, Đội 3 đặc công nước Quảng Đà đã lập nhiều chiến công như: đánh chìm nhiều tàu vận tải quân sự Mỹ, hải thuyền ngụy, đánh sập nhiều cầu quan trọng... Tuy nhiên, do Quảng Đà là một chiến trường ác liệt, lực lượng đặc công nước gặp nhiều tổn thất, hy sinh song lại không được bổ sung quân số nên đến cuối năm 1969, Đội 3 chỉ còn 53 đồng chí và được phân bổ về các đơn vị khác.

Đến năm 1970, lực lượng đặc công Quảng Đà đã phát triển tới 5 tiểu đoàn trong đó 3 tiểu đoàn đặc công cơ động, 2 tiểu đoàn đặc công hậu cứ, 1 đội đặc công nước độc lập, 2 đội đặc công thị đội, 3 đội đặc công độc lập trực thuộc các trung đoàn bộ binh.

Cũng thời gian này, thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Mặt trận 44 Quảng Đà tiến hành biên chế lại các đơn vị theo hướng tinh gọn, thành lập thêm các đội đặc công. Đội đặc công nước của Quảng Đà (tức Đội 3) được bổ sung thêm quân số và lấy phiên hiệu là Đội 170, trên cơ sở 50 đồng chí đặc công nước từ miền Bắc đưa vào. Ngoài ra, Đội còn chọn thêm 25 đồng chí đặc công đã “nước hóa” bổ sung vào đội. Quân số toàn Đội trên 70 đồng chí, chia làm 3 phân đội, Ban chỉ huy Đội 170 như sau: đồng chí Phạm Xuân Sanh (nguyên là cán bộ Đội 3 còn lại, làm Đội trưởng), đồng chí Đinh Văn Rơi (phụ trách đội Đặc công nước từ miền Bắc vào) làm Chính trị viên. Đội đã hoạt động tích cực cắt đứt giao thông trên quốc lộ 1, đánh sập nhiều cầu, các cầu này luôn bị đánh đi đánh lại nhiều lần và phối hợp chiến đấu với đặc công bộ, lập nhiều chiến công xuất sắc.


(1) Đến năm 1970, đặc công Quảng Đà có 3 tiểu đoàn, 1 đội đặc công nước, 3 đội đặc công huyện, thị, 2 đội đặc công trực thuộc Trung đoàn 38. Từ năm 1971 đến năm 1972, đặc công Quảng Đà có 3 tiểu đoàn độc lập, 1 đội đặc công nước, 5 đội của huyện, thị đội. Năm 1973, lực lượng đặc công có 2 tiểu đoàn tập trung của tỉnh, 6 đội của huyện, thị, 1 đội đặc công nước.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:20:46 am
Đầu năm 1971, do yêu cầu của chiến trường Quảng Đà, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 ra quyết định số 181 ngày 11 tháng 1 năm 1971 do Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu Chu Huy Mân (Hai Mạnh) ký, thành lập một tiểu đoàn đặc công nước. Ngày 25 tháng 2 năm 1971, tiểu đoàn đặc công nước mang phiên hiệu 471 được thành lập, tại thượng nguồn sông Tang thuộc xã Trà Vinh, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Ban chỉ huy tiểu đoàn ngày đầu thành lập gồm có 5 đồng chí gồm:

1. Đồng chí Hồ Xuân Hoà - Tiểu đoàn trưởng, ở chiến trường Cam Ranh - Khánh Hoà ra.

2. Đồng chí Nguyễn Văn Chu - Tiểu đoàn phó, ở mặt trận 4 về.

3. Đồng chí Đinh Xuân Trường - Tiểu đoàn phó ở miền Bắc bổ sung vào Tiểu đoàn 402.

4. Đồng chí Trần Châu Á - Chính trị viên Tiểu đoàn, ở Tiểu đoàn 402 về.

5. Đồng chí Nguyễn Đình Thứ - Chính trị viên phó Tiểu đoàn ở chiến trường Cam Ranh - Khánh Hoà ra.

Quân số tập trung đầu tiên để thành lập Tiểu đoàn có 67 đồng chí. Biên chế ban đầu gồm có: Tiểu đoàn bộ và 2 đội đặc công.

- Đội đặc công 1:

Ban chí huy đội: đồng chí Nguyền Hồng Quảng - Đội trưởng.

Đồng chí Đỗ Văn Thành - Chính trị viên.

Đội được biên chế 3 phân đội chiến đấu, mỗi phân đội có 10 đồng chí. Ngoài ra còn có quản lý, y tá, liên lạc, nuôi quân, quân số đội 1 ban đầu được biên chế là 37 đồng chí.

- Đội đặc công 2:

Ban chỉ huy: Đồng chí Lưu Văn Huệ - Đội trưởng. Đội chưa có chính trị viên và đội phó. Biên chế ban đầu có 1 phân đội chiến đấu 10 đồng chí (C bộ) có quản lý liên lạc, nuôi quân, quân số đội 2 ban đầu là 14 đồng chí.

- Tiểu đoàn bộ:

Biên chế 1 đài l5 oát và cơ yếu, quản lý, y sĩ, trinh sát, liên lạc nuôi quân, quân số tiểu đoàn bộ ban đầu là 26 đồng chí. Đảng bộ Tiểu đoàn có 3 chi bộ, Đảng uỷ tiểu đoàn do Quân khu uỷ chỉ định gồm: Đồng chí Trần Châu Á - Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyền Đình Thứ -Phó Bí thư Đáng uỷ, đồng chí Hồ Xuân Hoà - Đảng ủy viên, đồng chí Nguyễn Văn Chu - Đang ủy viên, đồng chí Đỗ Văn Thành - Đáng ủy viên. Chi bộ Đội 1 do đồng chí Đỗ Văn Thành làm Bí thư. Chi bộ Đội 2 do đồng chí Lưu Văn Huệ làm Bí thư. Chi bộ Tiểu đoàn bộ do đồng chí Nguvễn Đình Thứ làm Bí thư. Đến tháng 1 năm 1971, Tiểu đoàn 471 nhận bổ sung từ miền Bắc vào một đội đặc công nước gồm 52 đồng chí do đồng chí Phạm Văn Trinh làm đội trưởng. Tháng 2 năm 1972, Quân khu bổ sung một đội đặc công nước gồm 68 đồng chí, do đồng chí Đàm Văn Tôn làm Đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Phôi - Chính trị viên. Tháng 2 năm 1973 Quân khu bổ sung 1 đội đặc công khô, có huấn luyện nước của Bộ Tư lệnh Đặc công đưa vào.

Tiểu đoàn 471 là Tiểu đoàn Đặc công hậu cứ của Quân khu 5, có nhiệm vụ hoạt động tác chiến từ đèo Hài Vân - vịnh Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà, tác chiến tiêu diệt sinh lực cao cấp của địch, phá hủy các phương tiện chiến tranh, phá hủy các phương tiện giao thông vận tài khu cầu cảng trong vịnh Đà Nẵng, khu hải quân, các trạm ra-đa trên bán đảo Sơn Trà. Mục tiêu đầu tiên của Tiểu đoàn là tổ chức đánh các cầu giao thông trên trục đường 1 từ Hải Vân vào Đà Nẵng, chuẩn bị hành lang bàn đạp đánh sâu vào hậu cứ, phá huỷ các phương tiện giao thông trên vịnh Đà Nẵng và các mục tiêu trên bán đảo Sơn Trà, kết hợp vối quân và dân địa phương (cánh bắc Quảng Đà) chống đánh địch càn quét, bảo vệ hành lang, xây dựng cơ sở quần chúng và nhân rộng phong trào diệt kẹp, phá kìm, giành dân, xây dựng hậu cứ, nỗ lực sản xuất tự túc lương thực bảo đảm chiến đấu lâu dài.

Thời gian này, để đối phó với các phương thức tấn công của lực lượng đặc công của ta, tại mặt trận Quảng Đà, địch có nhiều thủ đoạn mới. Đối với các mục tiêu quan trọng, địch tổ chức phòng ngự vững chắc có chiều sâu, kết hợp hỏa lực với chướng ngại vật là mìn, hầm ngầm, đèn pha pháo sáng. Các mục tiêu dưới nước như cầu, cống, ngoài chướng ngại vật như trên bờ, chúng tăng cường rào chắn xung quanh từ trụ cầu, rào chắn ngang thượng, hạ nguồn, tuần tra ném lựa dạn xuống nước, dùng bo bo, hải thuyền tuần tra trên mặt sông, mặt biển, lúc cao điểm chúng thả phao ngồi gác từng trụ cầu, dùng máy bay trực thăng rọi đèn hai bên bò sông, mặt vịnh, ở vòng ngoài, chúng tung biệt kích thám báo luồn vào các khu hậu cứ của ta để phát hiện lực lượng, dùng trực thăng (tàu rọ) hoạt động theo các hành lang từ hậu cứ ra để đánh phá. Tại Đà Nẵng, các bến cảng, đề phòng đặc công ta tập kích, ban đêm chúng tổ chức phân tán đưa tàu, thuyên ra neo đậu tại giữa vịnh, đồng thời tổ chức lực lượng bo bo, hải thuyền liên tục tuần tra, dùng đèn pha cực mạnh quét vòng ngoài những tàu neo đậu; tổ chức lực lượng thám báo, biệt kích, dân vệ, bảo an hàng đêm phục kích các bến sông, các tuyến hành lang ta thường hoạt động. Có thể nói, các hoạt động bảo vệ mục tiêu từ vòng ngoài của địch, không chỉ gây nhiều khó khăn cho việc tiếp cận đánh phá mục tiêu của bộ đội ta, mà còn gây ra những khó khăn trong việc tập kết lực lượng và tổ chức sản xuất cho cả khu vực, nhất là đối với lực lượng đặc công nước.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:21:25 am
Tuy nhiên, bất chấp những thủ đoạn trên của Mỹ - ngụy, lực lượng đặc công Quảng Đà nói chung và đặc công nước nói riêng vẫn tổ chức những trận đánh quyết định, gây tiếng vang lớn trong khắp chiến trường, mở màn là trận đánh sập cầu Thủy Tú.

Cầu Thủy Tú nằm trong hệ thống phòng thủ chung của địch. Phía bắc gồm có cầu Tràng, kho xăng Liên Chiểu, phía nam là sân bay Xuân Thiều, khu hậu cần Bàu Mạc, nên khi các mục tiêu bị ta tấn công, địch chi viện bằng binh lực và hoả lực rất nhanh chóng. Ngoài ra còn có bọn dân vệ ở Nam Ô, Kim Liên vẫn thường xuyên tổ chức phục sẵn ở các ngả đường mà bộ đội ta xuống hoạt động. Trận ra quân đầu tiến của Đội 2 thuộc Tiểu đoàn 471 ngày 8 tháng 4 năm 1972, đã đánh sập cầu Thủy Tú cả cầu xi măng lẫn cầu sắt, cắt đứt giao thông đường sắt, đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế. Riêng cầu sắt sau hơn 1 tháng địch tập trung vừa sửa chữa xong cho đầu máy chạy thử buổi sáng, thì ngay tối hôm đó ta đánh sập tiếp, từ đó địch bỏ hẳn không sửa chữa đưa vào sử dụng nữa, mãi đến sau Hiệp định Pa-ri năm 1973 chúng mới sửa lại. Cùng thời gian đó, Đội 1 đã tổ chức lực lượng ra quân, đưa các tổ đánh thọc sâu sang ém ở bán đảo Sơn Trà. Trong một đêm đã đánh chim 3 tàu vận tải trên vịnh Đà Nẵng. Trong đó có 1 tàu chở dầu, khi bị đánh đã cháy như một biển lửa sáng rực cả vịnh Đà Nẵng. Bằng chiến thắng giòn giã và vang dội của trận đầu ra quân, Tiểu đoàn đà được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Xam khen thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, Đội 1 và Đội 2 được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Các chiến sĩ trực tiếp đánh mục tiêu đều được khen thưởng. Chiến công trận đầu ra quân thắng lợi, đã làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ toàn Tiểu đoàn, mọi người đều nô nức thi đua tham gia chiến đấu lập chiến công, khí thế của đơn vị lên rất cao, tạo ra một không khí mới: không khí thi đua đánh giặc lập công, làm tiền đề cho chuỗi chiến thắng tiếp theo của đơn vị.

Từ giữa năm 1972 đến năm 1973, để thực hiện âm mưu chiến lược quét và giữ, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai một mặt tiến hành càn quét bình định, đánh phá rất ác liệt trên chiến trường Quảng Đà. Mặt khác, chúng ra sức củng cố lại thế phòng ngự, tăng cường các thủ đoạn đối phó chống chiến thuật đặc công ở các cứ điểm, quận lỵ, chi khu, thị trấn, thị xã và nhất là đối với thành phố. Thực hiện chiến thuật phòng ngự có chiều sâu, 2 vành đai điện tử Mắc Na-ma-ra nam bắc sông Cẩm Lệ như một cái áo giáp khổng lồ che chở bảo vệ vệ cho căn cứ lên hợp Đà Nẵng. Địch cấu trúc vành đai tương đối kiên cố, hiện đại. Với chiều dài của 2 vành đai chừng hơn 10 ki-lô-mét, chiều rộng 100 mét, 2 mặt là rào đơn cao 3 mét, bên trong thả thép gai bùng nhùng dày đặc chồng lên rao 3 chồng, trong rào cứ 1 mét vuông có 4 quả mìn díp 4 góc, 1 quả mìn 3 cân chính giữa. Giữa vành đai có đường xe tăng tuần tiễu. Ngoài ra phía bắc vành đai có đường ô tô, dọc vành đai cứ 100 mét có 1 chốt tiểu đội đóng giữ có liên lạc bằng điện thoại đến chỉ huy trong đại đội. Vành đai bờ bắc sông Cẩm Lệ thời gian đầu chúng bắt dòng điện mạnh vào các dây điện trần ở trong rào. Để mở rộng sân bay Đà Nẵng ở vùng gần Cẩm Lệ, chúng đã đuổi dân đi nơi khác, phá dỡ hàng ngàn nóc nhà của đồng bào. Sân bay Đà Nẵng được tăng cường từ 25-30 rào. Hệ thống đèn pha, đèn điện dày đặc. Các khu nhà và xưởng dệt phía nam sân bay được rào thêm nhiều lớp và đưa lực lượng Mỹ đến đóng giữ. Trong sân bay, những máy bay không trực chiến đều được bảo vệ trong các hầm nổi bằng bao cát xếp dày. Các kho đạn ở đông nam núi Phước Tường đã khoan các địa đạo lớn để vào bên trong các cứ điểm và căn cứ ra-đa, trung tâm thông tin dãy tây bắc Phước Tường đều cày ủi trắng và chắn ta luy cao 2,5 mét đến 3 mét. Tăng cường bố trí nhiều chướng ngại vật như rào, mìn, có 2 tuyến đèn pha xung quanh, 1 tuyến đặt ngay tuyến công sự chiến đấu và lô cốt đầu cầu, 1 tuyến đặt ở trong lớp rào ngoài cùng. Bên trong tất cả lô cốt, công sự chiến đấu nhà ở đều bằng bao tời đôn đầy đất cát, đất xốp dày.

Năm 1973. Quảng Đà còn 1 tiểu đoàn đặc công cơ động thiếu, tổ chức biên chế thành đội xung lực, 1 hỏa lực. Ban chỉ huy tiểu đoàn và tiểu đoàn hộ đảm nhận nhiệm vụ cơ động trong toàn tỉnh, đánh những trận có tính chất then chốt mở màn cho các chiến dịch lớn, tiêu diệt các quận lỵ, chi khu, diệt gọn từng đại đội, đại đội tăng cường và tiểu đoàn địch trong công sự vững chắc.

Tiểu đoàn (thiếu) đặc công hậu cứ phải đảm nhiệm đánh sâu vào các căn cứ hậu cứ địch trong tỉnh, chuyên trách đánh sân bay kho tàng, trận địa pháo, diệt các chỉ huy sở đầu sỏ, diệt sinh lực cao cấp, phá hủy các phương tiện chiến tranh dự trữ của địch sâu trong hậu cứ.

Đội đặc công nước đảm nhận chuyên trách đánh cầu cống trên các trục đường giao thông trong, tỉnh, đánh các cầu tàu ở các quân cảng, đánh các tàu biển quân sự đậu ở hải cảng và từ dưới nước lên tập kích diệt sinh lực cao cấp của địch hoặc các kho tàng quân sự ở sát các mực nước.

Đội đặc công biệt động hoạt động ở các vùng ven và trong thành phố thị xã, tiêu diệt sinh lực cao cấp, các trận địa pháo, kho tàng quân sự, phá hủy phương tiện chiến tranh.

Ngoài ra, còn có 5 đội đặc công huyện, thị chuyên hoạt động trong khu vực của từng địa phương tổ chức tập kích diệt bọn kìm kẹp, các đoàn bình định, mâm tề, cơ quan hội đồng, những tên ác ôn ngoan cố và đồng thời diệt gọn từng trung đội, đại đội thiếu địch trong công sự vững chắc, phá banh các khu dồn đưa dân về làng cũ làm ăn.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:22:37 am
Thời gian này, vũ khí của đặc công nước càng có nhiều tiến bộ, dễ sử dụng, hiệu quả trận đánh cao hơn. Khi mới vào chiến trường Quảng Đà, để đánh một trụ cầu, nhất là trụ cầu thiết kế theo hình hạt xoài, phải cần một lượng thuốc nổ lớn, buộc phải sử dụng đến 3 chiến sĩ mới đưa đến mục tiêu, mất rất nhiều thời gian. Lại thêm, để cố định bằng dây khối thuốc nổ vào trụ cầu, thân tàu là một trở lực rất lớn. Thêm vào đó, các kíp nổ, nhất là kíp hẹn giờ bằng đồng hồ, nếu không cẩn thận, để nước lọt vào trong sẽ phát nổ ngay lập tức, làm ảnh hưởng đến kế hoạch trận đánh, về sau này, các loại kíp mìn cũ được thay bởi kíp điện, kíp hẹn giờ do Liên Xô sản xuất; thuốc nổ có sức công phá mạnh cũng được đưa từ miền Bắc vào nhiều hơn. Từ năm 1970 trở đi, Đội 170 không còn sử dụng loại thuốc nổ C4 hoặc TNT như trước nữa mà dùng mìn nam châm có sức công phá cực mạnh, dễ di chuyển trong nước và dễ áp vào các trụ tàu, vỏ tàu của địch hơn. Chính nhờ sự thông thuộc địa hình, sự tiến bộ về kỹ thuật nên càng về sau, Đội 170 có nhiều trận đánh mà xác suất thành công rất cao.

Nhiệm vụ của lực lượng đặc công lúc này là: từ bên ngoài đánh vào kết hợp bên trong đánh ra, đánh thẳng vào trung tâm thành phố và các phường giáp ngoại ô. Diệt các cơ quan chỉ huy quân sự, chính trị, đài phát thanh, các cơ quan cảnh sát ác ôn. Tiểu đoàn 89 liên tục tấn công vào quận lỵ, thị trấn, nam bắc sông Cẩm Lệ mở rộng đầu cầu. Tiểu đoàn 87 diệt các chỉ huy sở, phá hủy các khu kho, trận địa pháo, tên lửa từ Bàu Mạc đến đồn Nhất, Thủy Tú, tấn công chiếm giữ thị trấn Nam Ô đánh thủng tuyến phòng ngự cơ bản ở hướng bắc Đà Nẵng. Đặc công nược có nhiệm vụ phá hủy các cầu quan trọng dọc trên trục đường số 1 từ Hải Vân vào Quảng Nam như: cầu Thủy Tú, cầu Đỏ, cầu Cẩm Lệ, cầu Câu Lâu, cầu Vĩnh Điện, cần Bà Rén... Đánh hợp đồng trong chiến dịch phá hủy hàng loạt cầu cắt đứt giao thông bằng đường bộ. Đánh độc lập, đánh nhiều lẩn một cầu buộc địch phải lôi lực lượng về bảo vệ. Đánh những cầu tàu ở hải cảng Đà Nẵng, Hội An, đánh chìm các tàu biển cho hàng quân sự đậu ở hải cảng. Phối hợp cùng với bộ binh từ nước lên khô diệt một số sinh lực cao cấp ở nơi hẻo lánh sát biển hoặc sát sông lớn. Ngoài ra, các phân đội đặc công nước hướng nam Đà Nẵng, một bộ phận phối hợp với đội đặc công Hội An từ nước lên tấn công các cơ quan cảnh sát ác ôn ở sát mặt nước phối hợp cùng công binh đánh nhiều lần các cầu cống dọc đường 100 và 104 cắt không cho địch vận chuyên, chi viện bằng đường bộ. Đánh trong hiệp đồng chiến dịch hoặc độc lập để buộc địch phải cố giữ đường giao thông kéo lực lượng địch ra, giữ vững vùng giải phóng.

Nhiều chiến công của lực lượng đặc công Quảng Đà lại diễn ra trong thời gian này như: đánh chiếm xưởng dệt Vi-ma-tét-cô thị trấn Cẩm Lệ, khu vực Bình Thới bao vây quận lỵ Hòa Vang lần thứ hai, diệt 500 tên Mỹ - ngụy, bí mật tập kích Hầm Xẻ diệt gọn bãi xe Non Nước, 150 tên Mỹ, phá hủy 45 xe tăng và xe bọc thép, đánh thiệt hại nặng. Hoà nhịp cùng các chiến công trên, đặc công nước đã có những chiến công xuất sắc: đánh cắt đứt nhiều cầu nút giao thông cầu cống như cầu Đỏ, Thủy Tú. Đội 170 (đặc công nước) đánh 26 trận diệt 426 tên, diệt gọn câu lạc bộ Hội An, đồn hải thuyền Cửa Đại, đánh sập 17 cầu, 2 kho xăng, 6 triệu lít, bắn chìm bắn cháy 8 hải thuyền, 2 tàu biển chở vũ khí. Phân đội 2 (đặc công Hội An), đánh chìm 3 hải thuyền(1).

Ngay sau khi Hiệp định Pa-ri vừa ký kết, từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973, ở các huyện Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại Lộc địch sử dụng 2 tiểu đoàn chủ lực, từ 1-2 tiểu đoàn bảo an tại chỗ, từ 1 chi đội đến 1 chi đoàn thiết giáp... được pháo binh chi viện, phản kích giải tỏa các chốt của ta chiếm lĩnh trước giờ ngừng bắn ở dọc đường 14 (Gò Cà, Ái Nghĩa, Hà Nha), đường 100 (Vĩnh Điện, Trường Giảng) và đường mới (An Hòa, Kiểm Lâm). Sau khi giải tỏa chiếm lại được một số đoạn giao thông bàn đạp, địch tập trung lực lượng lấn chiếm vùng giải phóng tây Duy Xuyên; B Đại Lộc; A, B, C Điện Bàn, đang tiếp tục bình định các khu vực trên. Tại các thành phố, thị xã, địch tăng cường phòng thủ, kiểm soát chặt chẽ sự đi lại của nhân dân, phong toả các tuyên hành lang của ta từ căn cứ vào thành phố.

Để chống lại những trận tiến công của lực lượng đặc công, tại Đà Nẵng địch phát triển các chốt điểm và có nhiều biện pháp cụ thể, chặt chẽ để chống ta diệt chốt bằng chiến thuật đặc công. Các chốt điểm xung quanh đều cày ủi trắng, vì thế chúng rất dễ phát hiện ta tiếp cận mục tiêu từ xa. Hầu hết các chốt điểm đều được công binh đến xây dựng theo một ý đồ cơ bản thống nhất của chỉ huy các cấp; được các tên tướng tá của sư đoàn, quân đoàn, tiểu khu, quận lỵ đến trực tiếp đôn đốc và kiểm tra sửa đổi. Các cầu đường, cầu tàu và mạch máu giao thông chủ yếu bằng đường bộ của quân ngụy, sau khi Mỹ rút, địch tăng cường mọi thủ đoạn phòng giữ bằng cách: Rải nhiều lớp rào đơn ở phui cầu, xung quanh trụ cầu; căng rào trên mặt nước dưới mặt nước cách xa cầu hàng 100 - 200 mét, các cầu dọc trên các trục đường quan trọng thường có đại đội bảo an đến đóng chốt hai bên đầu cầu, thiết lập nhiều chốt trên dưới và giữa cầu. Bắt đường nối trên mặt nước để đi kiểm tra, tăng cường đèn pha, rọi đèn pin bắn súng vào các chùm bèo, bọt trôi qua cầu, ném lựu đạn thường xuyên. Tại các cảng Sơn Trà, Liên Chiểu, nhất là những bến tàu, cầu cảng địch đưa bo bo ra ngăn chặn bên ngoài, các giang thuyền ban đêm cơ động, phân tán thường xuyên, không để tại một mục tiêu cố định.


(1) Theo thống kê, từ năm 1967 đến năm 1973, Đội 170 (đặc công nước) đã đánh 63 trận, sập 50 lần cầu, phá hủy 2 kho xăng chứa 6 triệu lít. đánh chim 2 tàu biển cỡ lớn chở đầy vũ khí, 18 hải thuyền, tiêu diệt gọn 2 vị trí sinh lực (câu lạc bộ Hội An và đồn hải thuyền Cửa Đại) đánh thiệt hại nặng 1 đại đội công binh, loại khỏi vòng chiến đấu 703 tên Mỹ, ngụy trong đó có 2 sĩ quan (1 thiếu tá và 1 đại tá Mỹ), 2 đại úy, 14 trung úy, 8 thiếu úy ngụy. Đội nhiều lần được khen thưởng: về tập thể: 18 Huân chương Chiến công giải phóng (có 6 hạng Nhất, 6 hạng Nhì, 6 hạng Ba); về cá nhân có 44 Huân chương Chiến công giải phóng (12 hạng Nhì, 32 hạng Ba).


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:24:52 am
Mỹ - Thiệu ra sức phá bỏ Hiệp định Pa-ri. Đặc biệt, Nguyễn Văn Thiệu cho tay sai ra sức thực hiện cái gọi là “tràn ngập lãnh thổ”, đưa quân lấn chiếm vùng giải phóng, xóa thế da beo và “đẩy cộng sản lên biên giới”... Trước tình hình đó, tháng 7 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp hội nghị lần thứ 21 đề ra nghị quyết nêu rõ: “Con đường cơ bản của cách mạng miền Nam vẫn là bạo lực cách mạng, bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”(1). Quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, Khu ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đề ra kế hoạch chỉ đạo cho quân và dân toàn Khu: “Ra sức đánh bại lấn chiếm, bình định của địch, quyết tâm giành dân, giữ đất, mở rộng quyển làm chủ, phát triển lực lượng ta”. Tiếp đến Bộ Tư lệnh Quân khu phát động cuộc vận động: “Nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”.

Thực hiện chủ trương trên, lực lượng đặc công nói chung và đặc công nước của Quảng Đà nói riêng, liên tiếp tố chức nhiều trận đánh thọc sâu vào nội ô Đà Nẵng, làm cho địch vô cùng lúng túng. Tại Đà Nẵng, Tiểu đoàn đặc công 89 tấn công tiêu diệt các ban chỉ huy trận địa xe pháo, những nơi làm bàn đạp xuất phát tấn công của địch; tiêu diệt các cơ quan đầu não, các bãi xe kho tàng hướng tây bắc Đà Nẵng để phá vỡ kế hoạch bình định hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Lực lượng Đặc công nước (Đội 170) có nhiệm vụ đánh hiệp đồng trong chiến dịch phá sập các cầu quan trọng và liên tục phá sập các cầu trên các trục đường ngang trong tỉnh, cắt đứt giao thông tiếp tế bằng đường bộ, lôi kéo lực lượng địch về canh giữ. Có những bộ phận chuyên trách tiêu diệt các mục tiêu ở bến cảng, đầu tàu ở Đà Nẵng và Hội An...

Riêng Tiểu đoàn đặc công 471, từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 4 năm 1975, toàn đơn vị đã đánh 41 trận (có 29 trận đánh nước; 12 trận đánh trên khô). Tiêu diệt 800 tên địch (trong đó có một số cố vấn Mỹ), đa số là sĩ quan và nhân viên kỹ thuật, có một đại uý, hai tên trung úy ngụy chỉ huy bảo vệ cầu Thuỷ Tú và cầu Trắng. Đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (có 1 tàu dầu, 1 pháo hạm) trọng tải từ 8 đến 10 ngàn tấn; 1 bo bo. 1 cầu cảng Tiên Sa. Trong số tàu đánh chìm có chiếc tàu Trường Giang đang cập cảng Tiên Sa ta đánh luôn cả tàu và cầu cảng(2). Trong 80 các cầu do tiểu đoàn này tổ chức đánh phá gồm có: cầu Thuỷ Tú, cầu Trắng, cầu Đen (địa phận tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ): cầu Hói Mít, cầu Lăng Cô (địa phận tinh Thừa Thiên - Huế) trong đó cầu Thuỷ Tú bị đánh đi đánh lại 5 lần. Trên bán đảo Sơn Trà bộ đội ta đánh sập 2 khu ra-đa không quân và hai quân, đánh trạm viễn thông. Ngoài ra, đơn vị cùng với lực lượng pháo binh của quân khu, đã 3 lần dùng số lượng lớn DKP từ chân đèo Hải Vân (thôn Kim Liên) bắn qua bán đảo Sơn Trà và cảng Đà Nẵng, phá huỷ 2 khẩu 12,7 ly; 1 cối 60 ly; 90 đại liên; 2 xe bọc thép, 6 ô tô  chứa đầy đạn, 3 máy phát điện,  kho đạn, 17 nhà binh, 2 hầm ngầm, 7 lô cốt,  2 bót gác, 1 xe honda, 5 máy PRC 25, hơn 5 vạn tấn hàng. Thu 1 máy PRC 25, 3 khẩu M79, 7 khẩu AR15, 7 quả mìn mo, 42 khẩu MB7, 32 ba lô quân trang, 1 thanh kiếm chuôi mạ vàng của tên phó đô đốc hải quân ở cảng Đà Nẵng và một số quân trang, quân dụng khác.

Trong cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng, lực lượng đặc công nước Quảng Đà; Tiểu đoàn 471 và Đội 170 được phân công tỏa về các vị trí trọng yếu trong tỉnh, nhất là Hội An và Đà Nẵng để chiếm lĩnh và tiếp quản những vị trí quan trọng của địch; Đội 170, tiếp quản các vị trí chốt điểm ven sông, cảng Hội An và khu Đông - Hoà Vang, Quận 3 của Đà Nẵng; Tiểu đoàn 471 trực tiếp giải phóng cảng Tiên Sa, Đà Nẵng, tiếp quản, bảo vệ, làm nhiệm vụ quân quản khu vực hải quân từ cảng Tiên Sa đến cảng Đá, khu vực biệt kích, khu vực tiếp cận hậu cần chợ Mai. Sau đó bàn giao cho vùng 3 Hải quân và chính quyền quận 3 tiếp thu quản lý.

Tháng 4 năm 1975, chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh Quân khu và Tư lệnh chiến dịch, Tiểu đoàn 471 đã tổ chức một đội mạnh, làm nòng cốt cho Lữ đoàn Đặc công Hài quân 126 ra giải phỏng quần đảo Trường Sa, do đồng chí Bùi Quang Giang - chính trị viên Đội 3 chỉ huy. Đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cùng với cán bộ, chiến sĩ Đội 1, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Mai Năng giải phóng quần đảo Trường Sa. Trong đợt phối thuộc chiến đấu này, đơn vị có bị thương một đồng chí. Sau khi giải phóng các đảo, cán bộ, chiến sĩ còn tham gia chốt giữ đến tháng 6 năm 1975 mới bàn giao đảo và về lại Tiểu đoàn.

Sau ngày giải phóng Đà Nẵng, Tiểu đoàn 471 được Quân khu 5 lập thành đoàn đánh cá của Quân khu 5, đại bản doanh đóng tại đầu cầu Nguyễn Văn Trỗi hiện nay. Đội 170 được Tỉnh đội Quảng Nam - Đà Nẵng lập thành Đội tàu tuần tiễu bảo vệ Đà Nẵng. Đến cuối năm 1977, cả Tiểu đoàn 471 và Đội 170 đặc công nước Quảng Đà được giải thể, các cán bộ, chiến sĩ của hai đơn vị trên được phân về nhiều địa phương, đơn vị khác nhau.


(1) Dẫn theo “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước – Những sự kiện quân sự”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 70
(2) Chiếc tàu này sau ngày giải phóng Đà Nẵng, ta đã trục vớt về sửa chữa thành tàu viễn dương.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:26:33 am
Có thề nói, từ khi có mặt trên chiến trường Quảng Đà, lực lượng đặc công nước đã thực hiện nhiều trận đánh xuất quỷ nhập thần, lập nhiều chiến công hiển hách, góp phần không nhỏ cùng lực lượng vũ trang toàn tỉnh giáng cho Mỹ, ngụy những đòn chí tử. Chiến công của lực lượng đặc công nước trên mặt trận Quảng Đà là rất đáng tự hào, Đảng và Nhà nước đã tặng thường hàng trăm huân chương quân công, huân chương chiến công các hạng, hàng trăm chiến sĩ được tặng danh hiệu “Dũng sĩ đánh giao thông”, “Dũng sĩ xung kích”, “Dũng sĩ đánh cơ giới”, “Chiến sĩ thi đua”, tặng nhiều bằng giấy khen các cấp, có đồng chí được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang.

Kết thúc chiến tranh, nhiều cán bộ, chiến sĩ đặc công nước hải quân đã nằm sâu dưới lòng sông đáy biển nhiều người thi thể không còn, nhiều anh em bị thương tật, bị địch bắt tù đày và số người còn sống không ít người trong hoàn cảnh éo le, khó khăn trong các mặt đời thường.

Từ thực tế của cuộc chiến tranh, từ lối đánh đặc thù của lực lượng đặc công và đặc công nước trên chiến trường Quảng Đà, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Về chiến thuật: đặc công là chiến thuật du kích đã phát triển cao và đặc biệt cao, được đúc kết thành những kinh nghiệm thực tế quý báu. Đó là cách đánh đặc biệt của dân tộc Việt Nam, nó đòi hỏi người chiến sĩ phải có lòng yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc, có tinh thần dũng cảm, độc đáo, ngoan cường không sợ hy sinh gian khổ mới làm được. Chính tinh thần yêu nước và cách đánh giặc đặc thù trên nên lực lượng đặc công Quảng Đà nói chung và đặc công nước nói riêng đã nhanh chóng phát triển mạnh trong ba thứ quân, ba vùng chiến lược, từ thành phố đến vùng ven và vùng nông thôn rộng lớn; bí mật tập kích diệt gọn từng tốp địch, giết bọn ác ôn, diệt các ban chỉ huy địch là của du kích thôn, xã, phường phố.

Các đơn vị bộ đội đặc công từ mũi, đội đến tiểu đoàn ngay từ khi mới ra đời đã diệt gọn từng trung đội, đại đội địch ngay trong công sự vững chắc, càng về sau đã có thể diệt gọn từng quận lỵ, chi khu và tiểu đoàn địch với quy mô sử dụng lực lượng 1 đội hoặc cao nhất là 2 đội. Khả năng của bộ đội đặc công là cơ động chiến đấu trong điểu kiện chuẩn bị gấp, đánh gấp, diệt mục tiêu then chốt, mở màn hiệp đồng trong toàn chiến dịch có hiệu suất, có giá trị nhất định theo yêu cầu nhiệm vụ và chiến thuật đối với các binh chủng. Tất cả các loại đặc công đã tấn công đồng loạt các loại mục tiêu ở trong hậu cứ đến tuyến phòng ngự cơ bản và kìm kẹp từ nội thành đến các vùng chiến lược quan trọng khác của địch; đi từ đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, liên tục đánh lớn trong một thời gian nhất định, đã chọc thủng các tuyến phòng thủ cơ bản của địch.

Từ những thành công đó, chúng tôi có thể rút ra mấy bài học kinh nghiệm sau:

1. Đánh giá địch, ta đúng đắn là một nhân tố quyết định thắng lợi từng trận đánh, từng chiến dịch, từng giai đoạn trong quá trình chiến tranh.

Trong thực tế rút ra kinh nghiệm kịp thời, luôn sáng tạo linh hoạt nhưng không tách rời tư tưởng đường lối quân sự của Đảng, nguyên tắc và thủ đoạn chiến đấu của binh chủng. Triệt để giữ vững yếu tố bí mật bất ngờ, kiên quyết, dũng cảm, độc đáo, táo bạo đánh nhanh, diệt gọn. Duy trì có tập trung chỉ đạo, phát triển lực lượng trong ba thứ quân đều có chất lượng. Tập trung nghiên cứu kỹ từng trận đánh phù hợp với từng chiến dịch, có đơn vị chuyên trách sẽ tạo thành một quả đấm thép đối với địch ở ba vùng chiến lược.

2. Xây dựng lực lượng chuyên trách, tổ chuyên trách người chuyên trách, đơn vị chuyên trách (có hậu cứ cơ động). Lực lượng đặc công nước muốn hoạt động tốt hiệu qua cần phải có lực lượng chuyên trách, được đào tạo bài bản, có đủ các điều kiện cần thiết cho quá trình tập luyện. Thực tế cho thấy, tại chiến trường Quảng Đà, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, rất khó để đào tạo lực lượng đặc công nước. Vì vậy, hầu hết anh em đều được đào tạo cơ bản tại miền Bắc để đưa về hoạt động tại Quảng Đà, thì hiệu suất chiến đấu khá cao. Ngoài ra muốn thực hiện cách đánh đặc công nước, đòi hỏi phải tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các cơ quan tham mưu. các cấp ủy địa phương, có sự gắn chặt, đồng bộ; kiên trì xây dựng phát triển lực lượng, phát huy hết vai trò chức năng, quán triệt đẩy đủ phương hướng, phương châm đường lối quân sự của Đáng gắn liền với xây dựng lực lượng và nhiệm vụ của binh chủng sẽ đảm bảo sự thắng lợi không ngừng.

*
*   *

Qua 21 năm chống đế quốc Mỹ, lực lượng đặc công và đặc công nước Quảng Đà đã phát triển lớn mạnh và đóng góp một vai trò quan trọng cùng các lực lượng vũ trang trong tỉnh giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ không đến có, từ yếu đến mạnh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng đặc công nước Quảng Đà duy trì một cách đánh đặc biệt của binh chủng, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Cùng với các lực lượng đặc công khác, đặc công nước đã không ngừng giữ vững và phát huy thế chủ động, liên tục tấn công địch, giành nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa quan trọng, góp phần đánh bại các âm mưu chiến lược, chiến thuật của địch. Liên tục tấn công vào tận sào huyệt của kẻ thù, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, giam chân địch, giữ thế chiến trường; tạo ra những quả đấm thép trong ba thứ quân, ở ba vùng chiến lược, phá lỏng thế kìm kẹp hỗ trọ đắc lực cho phong trào quần chúng nổi dậy, giữ vững vùng bàn đạp, phối hợp chặt chẽ với chiến trường.

Để có được những thành tích đó, trước hết là sự quan tâm lãnh đạo của Đảng với một đường lối quân sự đúng đắn trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện chống bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai bán nước, là sự chỉ đạo trực tiếp chặt chẽ của Quân khu 5, Bộ Tư lệnh Mặt trận 44, của các cấp ủy đảng địa phương cộng với phong trào du kích chiến tranh sôi nổi và mạnh mẽ rộng khắp trong toàn tỉnh; là tấm lòng yêu nước, hết lòng với cách mạng, tình cảm quân dân cá nước, trong khát vọng đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân trong tỉnh dành cho lực lượng đặc công nói chung và đặc công nước nói riêng. Nhờ vậy, trong những tình thế cam go nhất, trong nhiều nhiệm vụ nặng nề được giao, lực lượng đặc công nước Quảng Đà đã vượt qua mọi khó khăn, để tiến công địch và ngày một trưởng thành nhanh chóng.

Những chiến công hào hùng của binh chủng đặc công nước mãi mãi là niềm tự hào trong tâm khảm của những người trong cuộc, những người vừa trực tiếp tham gia chiến đấu, vừa là chứng nhân lịch sử, những người con trên mọi miền đất nước, nhất là các tỉnh phía Bắc đã sống, chiến đấu, hy sinh ngay trên mảnh đất Quảng Đà, nhiều người trong số họ, sau chiến tranh đã chọn nơi đây là quê hương thứ hai của mình. Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam, Đà Nẵng hiện nay, mãi mãi ghi ơn những người con trung kiên đó, những chiến sĩ đặc công nước, những người góp phần làm sáng thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam, cùng với các lực lượng khác, họ đã tô thắm hơn nữa truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, trong 21 năm chống Mỹ, cứu nước hào hùng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:27:33 am
Ngày đầu thành lập Đoàn Đặc công Hải quân 126

Từ khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, nhất là khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào tháng 12 năm 1960, phong trào cách mạng miền Nam dâng lên mạnh mẽ, các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra nhiều nơi, mở đầu bằng cuộc đồng khởi ở Bến Tre. Cao trào đồng khởi như nước vỡ bờ, nhanh chóng lan ra khắp miền Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ cách mạng miền Nam chuyển từ thế gìn giữ lực lượng sang thế liên tục tiến công tiêu diệt địch, nhằm đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi.

Bị thất bại liên tiếp bởi phong trào đồng khởi ở nông thôn và phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của nhân dân ta tại các đô thị lớn ở miền Nam, ngụy quyền Sài Gòn ngày càng rơi vào tình thế khủng hoảng trầm trọng. Trước kế hoạch “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản thảm hại, đầu năm 1965, Giôn-xơn bước vào Nhà Trắng thay Ken-nơ-đi làm Tổng thống nước Mỹ đã đưa ra chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam, đưa Tướng Oét-mo-len; thay Ha Kin làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ gia tăng và mở rộng quy mô, cường độ chiến tranh hòng cứu vãn chế độ ngụy quyển Sài Gòn trong cơn hấp hối cố sức vực dậy cái thây ma chính trị làm chỗ dựa cho Mỹ thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, thôn tính miền Nam chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Với chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đế quốc Mỹ đã bắt đầu cho “một cuộc chiến tranh phi lý” và là “sai lầm khủng khiếp” của mình, đúng như lời cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ - Mắc Na-ma-ra thừa nhận sau này.

Trước tình hình quân Mỹ vào miền Nam, ngày 10 tháng 4 năm 1965, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá III, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Dù đế quốc Mỹ đưa thêm mấy chục vạn binh sĩ Mỹ và chư hầu vào cuộc chiến tranh tội ác này, thì quân và dân ta cũng quyết đánh thắng chúng!”. Thực hiện quyết tâm của Đảng và Bác Hồ, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Hải quân gấp rút nghiên cứu, tổ chức những đơn vị thích hợp, trực tiếp tham chiến tại miền Nam, đánh phá các cầu cảng, kho tàng quân sự, đánh chìm các tàu vận tải, khí tài và phương tiện chiến tranh của Mỹ, tiêu diệt các mục tiêu quân sự của Mỹ trên sông, biển miền Nam.

Trước đó, từ đầu năm 1964, Bộ Tư lệnh Hải quân đã thành lập Đoàn 8 có hơn 150 cán bộ và chiến sĩ, huấn luyện về chiến kỹ thuật đặc công nước. Đến tháng 12 năm 1964, Đoàn 8 vào miền Nam, phân bổ về các nơi: Khu 5, Nam Bộ; một bộ phận lớn tăng cường cho Tiểu đoàn đặc công 43 Rừng Sác. Có thêm lực lượng Tiểu đoàn 43 tổ chức thành Đoàn 10 Rừng Sác, đã vận dụng chiến thuật đặc công nước, lập nhiều chiến công xuất sác như đánh chìm tàu vận tải quân sự hàng vạn tấn, phá huỷ nhiều kho tàng của địch ở cảng Nhà Bè... Bước đầu thử nghiệm chiến thuật đánh “đặc công nước” trên chiến trường, đạt hiệu quả rất cao.

Ngày 13 tháng 4 năm 1966, Đoàn Đặc công Hải quân 126 được thành lập. Ban đầu có 40 cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 8 đã qua huấn luyện chiến - kỹ thuật đặc công nước, 74 cán bộ, chiến sĩ của đại đội đặc công đánh biển thuộc Cục nghiên cứu Bộ Tổng tham mưu chuyển về, hơn 700 cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị trong Quân chủng Hải quân. Quân số của Đoàn 126 được tập trung về Quảng Yên và các vùng phụ cận.

Từ chiếc nôi Quảng Yên với Lục Đầu giang và dòng sông Bạch Đằng - nơi ghi dấu những trận thủy chiến oai hùng của cha ông thuở trước, vẫn ngày đêm chảy êm đềm ra Lục Đầu giang, hòa vào biển cả bao la; giờ đây lớp con cháu làm thao trường tập luyện của đặc công hải quân để đánh quân xâm lược Mỹ.

Sau khi ổn định về biên chế, tổ chức và nơi ăn chốn ở, các đội bước vào huấn luyện. Từ những bài tập cơ bản về bơi, lặn từ thấp đến cao. Tập các kiểu bơi, phần nhiều tập kiểu bơi ếch, ban đầu bơi vài ba cây số, dần dần nâng cao bằng bơi qua lại Phà Rừng hàng chục vòng, tính ra hơn 10 cây số. Rồi tập bơi đường dài trên biển cả về đêm với cự ly trên 10 cây số đến mục tiêu giả định. Tập lặn tại chỗ, lặn đến mục tiêu, tập ngậm ống thở đi chìm dưới nước hàng giờ, bảo đảm đúng hướng, đúng vị trí đặt khí tài theo kế hoạch trận đánh, tập truyền tín hiệu trong tổ qua dây liên kết, tập nhận dạng các loại tàu, tập đo cự ly gián cách đến mục tiêu, tập thiết kế sử dụng các loại khối nổ, tập võ thuật đánh bắt tù binh Mỹ bằng các đòn cực hiểm, tập điều chỉnh khối nổ nổi chìm theo ý muốn và dìu khối nổ đưa đến mục tiêu, tập phá dỡ các vật cản, chướng ngại vật, rào thép gai dưới nước và học về quy luật thủy triều trên các cảng biển miền Nam...


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:29:53 am
Từ tập kỹ thuật đến học tập chiến thuật và tổng hợp về chiến kỹ thuật đánh các loại tàu, cầu cảng, kho tàng quân sự của Mỹ. Phần nhiều thời gian tập về ban đêm từ 19 giờ tối đến 3 hoặc 4 giờ sáng hôm sau; vừa tập nhuần nhuyễn về chiến kỹ thuật, vừa tập rèn luyện sức chịu đựng ngâm mình dưới nước tám, chín giờ liền để chống chọi với cái lạnh, không phải lạnh run người mà lạnh đến cứng cả người. Thỉnh thoảng uống vài ngụm nước mắm chống lạnh nhưng chẳng mấy ăn thua. Có lẽ đây là thử thách gay go của những người lính đặc công nước của buổi ban đầu ấy.

Trong chiến đấu, hy sinh là lẽ thường tình, trong học tập huấn luyện cũng có trường hợp hy sinh như: có lần Đội 3 huấn luyện ở Cát Hải, trong đêm tập luyện tổ chiến đấu hành tiến trên sông, gặp lúc thủy triều xuống mạnh, dòng sông chảy xiết đẩy cả tổ 3 người vào hàng lưới đáy chắn ngang sông, một đồng chí mắc vào lưới đáy đã phải hy sinh. Tiếc thương đồng đội, Đội tổ chức rút kinh nghiệm, xây dựng quyết tâm tập luyện tốt hơn.

Học quân sự, võ thuật xen kẽ với học tập chính trị, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ quán triệt sâu sắc nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Xây dựng lập trường tư tưởng và quyết tâm chiến đấu cao, vượt qua mọi gian khổ hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 7 năm 1965 là: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu, dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn!”. Gần cuối khóa, Đoàn 126 tiến hành huấn luyện hành quân dã ngoại đường dài, mang vác nặng, vượt qua các địa hình dốc, đèo, khe suối...

Mỗi người một ba lô xếp đầy gạch khoảng 30kg, lưng đeo súng ngắn, hoặc AK báng gấp, lựu đạn, dao găm, bi đông nước uống và quàng thêm ruột nghé gạo tiêu chuẩn ăn 1 tuần (khoảng 8 - 9kg gạo). Cung đường hành quân 1 ngày từ 35 đến 40km. Cuối ngày hành quân đến trạm nghỉ là triển khai mắc võng, che tăng và đào công sự đề phòng địch tập kết. Mỗi đợt tập hành quân dã ngoại là đúng 1 tuần. Qua mấy đợt huấn luyện như thế, ai nấy đều phờ phạc cả người, đôi chân tê dại, đôi vai tím bầm sưng tấy và dần dần chai cứng lại.

Tập luyện ở hậu phương đã khó nhọc như thế song khi vào thực tế “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, phải trèo đèo lội suối, đi bộ, mang vác nặng trên vai và phải đi trong mưa bom bão đạn ác liệt gian khổ khôn lường, hơn 3 tháng mới vào đến chiến trường Khu 5 và hơn 6 tháng mới vào đến chiến trường Nam Bộ thì cái gian khổ, khó khăn buổi ban đầu ấy nào có thấm gì. Vì vậy, đi đôi với rèn luyện chân đồng vai sắt, phải rèn luyện cái đầu rắn như thép đã tôi. Chẳng thế mà cán bộ chính trị lên lớp nói rõ là: “Đi vào chiến trường miền Nam đánh Mỹ không phải đi bằng chân mà phải đi bằng đầu!”. Không cường điệu chút nào, sự thật đúng là như thế!

Thực hiện Lời kêu gọi của Bác Hồ tại Hội nghị Chính trị đặc biệt ngày 27 tháng 3 năm 1964 là: “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt!”. Đoàn 126 mở các đợt thi đua tích cực, khẩn trương huấn luyện đạt chất lượng cao trong thời gian 6 tháng. Cán bộ, chiến sĩ qua huấn luyện đã trở thành những con cá kình thông minh, dũng cảm, đủ sức đánh thắng giặc Mỹ trên chiến trường sông biển miền Nam. Kết thúc khoá huấn luyện, ổn định sắp xếp biên chế tổ chức lần cuối cùng trước lúc lên đường ra trận.

Đoàn tổ chức thành 4 đội: 1, 2, 3, 4. Cụ thể như sau:

Đội 1 vào chiến trường Quảng Trị.

Đội 2 vào Cam Ranh - Quy Nhơn.

Đội 3 vào Mặt trận 44 Quảng Đà.

Đội 4 vào Nam Bộ.

Các đội 2, 3, 4 mang phiên hiệu: 754, 755, 756.

Đội 3 vào chiến trường Quảng Đà (Mặt trận 44) gồm 55 cán bộ, chiến sĩ. Ban chỉ huy Đội 3 gồm có:

Lương Xuân Lan - Đại úy - Chính trị viên.

Nguyễn Văn Lợi - Trung úy - Chính trị viên phó.

Võ Tấn Mễ - Đại úy - Đội trưởng.

Nguyễn Sự - Trung úy - Đội phó.

Nguyễn Bình - Trung úy - Cán bộ tham mưu.

Ngoài ra còn có các trợ lý tác chiến, quân lực, quân khí, thông tin liên lạc, y tế, hậu cần.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:30:09 am
Đội 3 tổ chức thành 3 phân đội: mỗi phân đội 1 chi bộ.

Phân đội 1:

Huỳnh Tửu - Trung úy - Chính trị viên.

Huỳnh Thế - Trung úy - Phân đội trưởng.

Phân đội 2:

Nguyễn Tấn Minh - Trung úy - Chính trị viên.

Nguyễn Ngọc Râng - Trung úy - Phân đội trưởng.

Phân đội 3:

Lê Hồng Phong - Trung úy - Chính trị viên.

Trịnh Kiều Miên - Trung úy - Phân đội trưởng.

Ngày lên đường của mỗi đội khác nhau, nhưng không khí rộn ràng, tất bật của toàn Đoàn trong công tác chuẩn bị hành trang cho cán bộ, chiến sĩ theo đúng thời gian quy định, nặng nhất là mặt hậu cần. Đội 3 được nghỉ hai ngày để chuẩn bị hành trang. Mỗi người được cấp một chiếc xe đạp “Vĩnh Cửu” sản xuất tại Trung Quốc, 2 bộ quân phục kaki Tô Châu, 1 mũ tai bèo, 1 đôi giày vải cao cổ, 1 đôi dép cao su đúc, 1 bi đông đựng nước, 1 võng dù, 1 tấm bạt che mưa, 2 bộ quần áo lót, khăn mặt, túi cơm và 1 ba lô “con cóc”. Vũ khí trang bị: Cán bộ Đội đến tổ trưởng trang bị súng ngắn, chiến sĩ trang bị AK báng gấp. Mỗi người được trang bị lựu đạn, dao găm và phải đèo thêm 10kg thuốc nổ C4. Mỗi tổ được cấp 1 con dao đi rừng, mỗi phân đội 1 bộ xoong nồi nấu cơm và một số đồ dùng nhà bếp. Ngoài những trang bị đeo trên người, còn mọi thứ sắp xếp vào ba lô “con cóc” buộc gọn vào baga đèo hàng của xe đạp.

Ngày 27 tháng 10 năm 1966, Đội 3 làm lễ xuất quân tại thôn Tiền An, Quảng Yên. Toàn Đội như bừng lên một khí thế sôi nổi, vui vẻ lạ thường. Tuy nhiên, trong tiềm thức một số anh em như có điều gì suy tư sâu lắng. Cũng dễ hiểu thôi, vì ngày mai lên đường xa miền Bắc thân yêu, giã từ những người ruột thịt mà không hẹn ngày về song để đảm bảo bí mật, không ai được phép gặp gia đình trước giờ lên đường ra trận; điều đó đáng được cảm thông! Buổi liên hoan cuốn hút mọi người trong cái sôi động, trong cái âm vang hào hùng của những bài đồng ca, những khúc quân hành mạnh mẽ như đánh tan đi những nỗi niềm không ăn nhập với không khí rộn ràng sôi nổi của toàn Đội trong buổi lễ xuất quân đặc biệt này. Bài hát “Hành quân xa” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, lúc bình thường hát lên chỉ cảm nhận được cái giai điệu mạnh mẽ của nhịp quân hành, nhưng lúc này, khi được hát lên, nó có ý nghĩa như một lời thề: “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi!...”; lại thêm bài “Đoàn giải phóng quân” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu như giục giã mọi người: “Ra đi, ra đi, bảo toàn sông núi, ra đi, ra đi, thà chết chớ lui...”. Cũng bài ca ấy, lớp cha anh thuở trước ra đi từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 từng làm nên những chiến công chấn động địa cầu, giờ đây đối vối chúng tôi, nó thiêng liêng và ý nghĩa biết chừng nào.

Buổi lễ xuất quân long trọng, có các đồng chí Tư lệnh Nguyễn Bá Phát và Chính ủy Hoàng Trà về dự. Chính ủy có lời động viên, huấn thị đơn vị hãy làm tròn nhiệm vụ của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh giao cho. Đến lượt Tư lệnh dặn dò, nhắn nhủ: “Đội 3 vào Mặt trận 44 Quảng Đà, nơi ấy chính là quê hương tôi đang bị Mỹ - ngụy bạo tàn dìm trong máu lửa! Thực lòng, tôi muốn trở về chiến đấu góp phần giải phóng quê hương nhưng vì nhiệm vụ của Đảng phân công nên chưa thể đi cùng! Các đồng chí yên tâm, phấn khởi lên đường, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sẽ theo dõi từng bước đi và chờ đợi những chiến công của các đồng chí làm vẻ vang cho quân chủng chúng ta!”. Đồng chí Nguyễn Bá Phát đứng lặng hồi lâu, đưa mắt nhìn bao quát như để ghi lại những khuôn mật thân thương của cán bộ chiến sĩ Đội 3 mà đồng chí biết chắc rằng, ngày gặp lại hẳn còn xa lắm và chẳng biết ai mất ai còn, khi chiến tranh kết thúc. Có lẽ vì xúc động nên đôi mắt sáng quắc của Tư lệnh bỗng thoáng chốc u buồn và long lanh ướt.

Đội 3 tạm biệt Tiền An, vào một buổi chiều cuối thu đầy lưu luyến như thế!


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:31:24 am
Lên đường chiến đấu

Đoàn quân xe đạp lên đường! Không ai tổ chức cho nhân dân Tiền An đưa tiễn. Nhưng vì tình cảm yêu thương, bà con tự động rủ nhau đón đợi hai bên đường để chào chúc anh em ra đi được “đá mềm chân cứng”, lập nhiều chiến công đánh Mỹ!

Đơn vị hành quân, đêm đi ngày nghỉ. Từ Quảng Yên vào đến Ninh Bình phần nhiều đi theo đường lớn. Cả nước sẵn sàng đánh Mỹ, con đường về đêm nhộn nhịp hẳn lên với những dòng người, xe xuôi ngược. Nhiều đơn vị bộ binh hành quân dài dằng dặc, cùng một hướng vào Nam, đúng như Tố Hữu thể hiện trong thơ: “Quân đi điệp điệp trùng trùng - Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan!” - Chỉ có khác là thời đại đánh Mỹ không còn mũ nan, chỉ có mũ cối hoặc mũ tai bèo sáng trên đầu như một mảng trời xanh! Nhìn thấy lính đặc công nước hành quân vào Nam, anh em bộ binh tỏ vẻ ngạc nhiên: “Đơn vị gì mà hành quân oách thế! Đi toàn bằng xe đạp và trang bị toàn là súng ngắn! Chắc là đơn vị đặc biệt đây!”. Họ vui vẻ nhường đường cho đoàn quân xe đạp tiến lên phía trước.

Từ Thanh Hoá vào Quảng Bình, đơn vị hành quân theo đường quân sự, dọn theo chân núi Trường Sơn. Có đoạn là đường quân sự mở gấp tránh các đoạn đường cũ đã bị địch đánh phá, anh chị em thanh niên xung phong đang phá bom, san lấp. Đi đêm, theo kinh nghiệm dân gian là: “Trời mưa tránh trắng, trời nắng tránh đen” song đi trên đường rừng mới mở, nham nhở, gồ ghề và bóng cây loang loáng nên dẫu căng mắt mà nhìn, cũng không tránh khỏi vấp ngã, người và xe đổ kềnh liên tục. Nhiều đoạn khó đi phải dong xe dắt bộ. Có đoạn đường mở sâu vào rừng, về đêm tối như hũ nút, anh em có sáng kiến là buộc khăn trắng vào cổ làm tín hiệu và cắm những miếng gỗ mục có ánh sáng lân tinh vào sau xe đạp, để người đi sau bám theo ánh sáng yếu ớt của người đi trước mà đi, giữ vững đội hình không bị gián đoạn.

Giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đến cuối năm 1966, đã có biết bao xóm làng, cơ quan, xí nghiệp, trường học, đường sá, cầu cống... bị phá hoại, nặng nhất trong thời kỳ này là từ Thanh Hoá trở vào. Đơn vị đã hành quân qua miền Tây các tỉnh: Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình, chứng kiến cảnh tàn phá do giặc Mỹ gây nên, ai nấy không nén nổi căm thù, quyết bắt chúng phải đền tội ác. Lũ phản lực Mỹ ngày đêm rình rập phía biển Đông và liều lĩnh đột nhập vào đất liền, ném bom bắn phá. Những loạt bom nổ “ục ục”, “uỳnh uỳnh” lúc xa, lúc gần cùng với tiếng gầm rú của phản lực, như xé nát bầu trời đen đặc khói bom.

Đơn vị hành quân đến trạm cuối cùng của Quảng Bình thì có lệnh dừng lại, chờ chuyển hướng hành quân, vì tuyến đường đi qua làng Hoa, địch đang đánh phá ác liệt suốt ngày đêm, có nơi chúng đổ quân nống lên chốt chặn, phát hiện quân ta rồi gọi máy bay đến ném bom đánh phá. Những ngày chờ đợi, anh em đem xe đạp nhập vào kho, sắp xếp mọi hành trang, ngoài những thứ trang bị đeo trên người, số mang theo xếp gọn vào ba lô con cóc. Khi hành quân có xe đạp thồ, ai cũng muốn mang theo nhiều thứ, bây giờ phải thu gọn lại cho vừa với sức chịu đựng của đôi vai và sức bền của đôi chân trèo đèo vượt dốc, buộc phải bỏ bớt đi nhiều thứ, mặc dù rất tiếc!

Chờ đợi gần một tuần mới có lệnh tiếp tục hành quân. Cuộc thử thách “chân đồng, vai sắt, mắt ngựa và bụng thần tiên” thực sự bắt đầu. Ngày đầu tiên anh em “cõng cóc” lên rừng vào lúc 2 giờ sáng. Đường đi ban đầu tương đối bằng phẳng, qua các đồi núi thấp, ít cây to, toàn là những đồi tranh, lau lách, sim, mua và các loại cây dại ken dày. Trời sáng tỏ, đơn vị đã đi vào đến khu rừng rậm, cây to tỏa đầy bóng mát. Sau những phút nghỉ giải lao, đơn vị tiếp tục hành trình và phần nhiều là ngược dốc. Mấy ngày tiếp theo, không có một cung đường nào bằng phẳng, vẫn là dốc đèo đủ loại: dốc ngắn, dốc dài, dốc ngoằn ngoèo, dốc theo tà dương thẳng. Mới những ngày đầu thử thách, ai nấy mệt mỏi, rã ròi; chân leo lên dốc mà ba lô thì kéo xuống thít chặt vào vai đau nhói. Có anh vai sưng lên, bầm tím, cũng cố cắn răng mà bước để theo kịp anh em.

Lên dốc đã khó, xuống dốc cũng không hề dễ! Nói là đi xuống dốc nhưng thực tế là tụt xuống, bò xuống; gặp chỗ trơn hoặc hòn đá gập ghềnh là ngã lăn nhiều vòng theo dốc. Ai đã đi qua dốc năm thang thì khó mà quên được. Vách núi đá dựng đứng, anh em công binh phải làm năm cái thang, mỗi cái dài 8m nối nhau lên đến đỉnh. Bộ đội qua đây phải leo một đoạn dốc đến chân thang, rồi lần lượt, từng người một leo thang. Trán người sau chạm gót chân người leo trước. Trên lưng mỗi người đeo ba lô và trang bị nặng nên từng nấc thang luôn cảm thấy mất thăng bằng. Thỉnh thoảng nhìn xuống vực sâu là như thấy có một luồng giá lạnh chạy dọc theo xương sống! Leo lên hết năm thang, đi một đoạn dốc nữa là đến vạt rừng bằng phẳng, anh em phân tán ra nghỉ xả hơi. Đứng trên đỉnh núi cao, nhìn bao quát xung quanh, chỉ thấy một biển mây trắng xóa, trùng trùng lớp lớp, chang còn thấy núi rừng đâu nữa.

Kể từ ngày xuất phát hành quân đến nay đã gần tròn một tháng, đơn vị mới đặt chân lên mái Tây Trường Sơn, dọc biên giới Việt - Lào. Trời cứ âm u, lúc nắng lúc mưa, có lúc ầm ào một cơn mưa lớn; bộ đội quàng kín vải bạt trên người hối hả hành quân trong gió mưa, đường trơn và ướt lạnh. Có đoạn đường phải vượt qua hàng cây số, cây rừng ngả đổ ngổn ngang, những hố bom còn khét mùi thuốc nổ của B-52 vừa mới rải thảm đêm qua.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:32:03 am
Đơn vị hành quân liên tục trong thời tiết mưa nắng thất thường, ăn uống thiếu thốn kham khổ, sức khoẻ tụt dần, nhiều anh em bắt đầu sốt rét. Tuy vậy, về mặt tinh thần không hề giảm sút mà họ động viên nhau: “Khắc phục gian khổ khó khăn, nhanh chóng vào chiến trường đánh Mỹ, nếu chậm chân chẳng khác gì trâu chậm uống nước đục!”. Việc thay đổi tiêu chuẩn ăn uống, từ tiêu chuẩn xã hội chủ nghĩa sang tiêu chuẩn quân giải phóng, mỗi ngày từ 5 đến 6 lạng gạo và một ít ruốc khô. Tuỳ theo tình hình cung cấp của hậu cần mặt trận, làm cho cái đói khó chịu hằng ngày. Cái đói không cồn cào vật vã như nhịn đói suông mà lúc nào cũng có cảm giác đói triền miên dai dẳng! Mỗi lần hành quân cuối ngày đến trạm nghỉ, là một số anh em tranh thủ tìm thêm rau rừng, môn thục, cải tàu bay... để cải thiện thêm. Có lần mấy anh em luồn rừng vào đến cái buôn của người dân tộc bị địch ném bom đánh phá, dân làng bỏ đi nơi khác, có lẽ đã lâu nên buôn làng cũ đã hóa thành rừng; nhiều dây bầu, bí bò lan, dây khoai lẫn trong lau lách, ai cùng mừng sẽ hái được nhiều rau. Nhưng khi vạch cây lá đi vào, chợt phát hiện vô số bom bi lốm đốm vàng như quả dứa, nằm rải rác khắp nơi. Anh em dừng lại bàn với nhau: “Thôi, không đùa với tử thần, thà hy sinh trên chiến trường diệt Mỹ chứ không vì mấy ngọn rau mà mất mạng!”.

Tết Nguyên đán Đinh Mùi đã đến! Qua đài, anh em biết trên miền Bắc, Mỹ không ngừng ném bom đánh phá, nhân dân ta vẫn “tay cày tay súng”, “tay búa tay súng” chiến đấu với kẻ thù! Song Đảng và Nhà nước gắng lo cái tết cho dân, nên gia đình nào cũng được ăn tết cổ truyền vui vẻ. Đối với đơn vị, đây là cái tết đầu tiên xa gia đình, xa miền Bắc, trong lòng mọi người gợi lên những bâng khuâng gợi nhớ da diết làm sao! Ban chỉ huy Đội đang nghĩ cách làm sao cho anh em có được cái tết vui vẻ giữa Trường Sơn. Các phân đội hiến kế: “Mỗi cung đường từ trạm này đến trạm kế tiếp, thường cả Đội hành quân từ sáng khoảng 3 giờ chiều là đến trạm mới. Các phân đội quyết tâm làm cuộc hành quân hai trạm một ngày. Sáng đi khoảng 3 giờ và đến 7 - 8 giờ tối sẽ vượt qua hai trạm. Tiêu chuẩn dôi ra 1 ngày dành cho “ăn tết”.

Không có cách nào hay hơn. Ban chỉ huy Đội chấp nhận phương án ấy với điều kiện, các phân đội về họp chi bộ triển khai quán triệt và lãnh đạo thực hiện. Toàn Đội đã quyết tâm, song cái gì cũng có cái giá của nó. Ngày hành quân vượt trạm, đơn vị tranh thủ đi sớm khoảng 3 giờ sáng cho đến 20 giờ tối mới tới trạm, đã có hàng chục anh em trong số bị sốt rét kiệt sức không đi nổi, anh em khỏe phải gánh hộ ba lô và dìu số anh em ấy, cố đến trạm kế tiếp. Ngày 30 Tết đã đến, Trạm không cấp tiêu chuẩn gì thêm và theo lệnh của trên: “Bộ đội vẫn tiếp tục hành quân, không được dừng lại các trạm!”. Ban chỉ huy Đội quyết định cho đơn vị hành quân qua trạm, tìm nơi gần buôn làng đồng bào dân tộc dừng lại ăn tết. Đội cho anh em tập trung số muối mang theo và một số đồ dùng: gương, lược, vòng bạc đeo tay... đã chuẩn bị trước, mang vào buôn đổi được một con lợn khoảng 30kg. Một số anh em mổ lợn, số đầu bếp chế biến các món ăn, tiêu chuẩn gạo nấu gấp đôi ngày thường. Bữa tiệc ngày tết giữa rừng khá thịnh soạn, chỉ thiếu rượu và bánh chưng. Sau lời chúc tết và động viên của chính trị viên, anh em thưởng thức cái tết trên đường ra trận thật vui vẻ. Và, giữa thời khắc giao thừa thiêng liêng trên đỉnh Trường Sơn hùng vĩ, mỗi người thêm một tuổi đời trẻ trung và một tuổi quân anh dũng.

Thế là cái Tết đã qua, đơn vị tiếp tục hành quân trong sương mù u ám, quần áo luôn luôn ẩm ướt hôi sì; đêm nằm trên võng, rét co rúm cả người. Toàn thân ê ẩm. Nhưng .mờ sáng hôm sau phải vùng dậy tiếp tục một ngày hành quân mới. Vẫn là đường dốc, dốc cao, cao mãi, leo dốc chồn chân mỏi gối mệt nhọc nặng nề, và xuống dốc, xuống mãi, đầu gối như long ra run lên bần bật. Có những đoạn đường băng qua trọng điểm đánh phá của địch, lại phải dốc sức chạy nhanh vượt qua nguy hiểm. Vượt Trường Sơn không thể quên loài hút máu! Sên vắt đâu mà nhiều thế! Có đoạn đường bộ đội đi qua, sên vắt từ dưới lá mục ngóc đầu lên nhung nhúc. Môi ngày hành quân, anh nào cũng bị hàng chục con vắt bám vào người hút máu no tròn như những quả sim chín mọng.

Mới hơn hai tháng mà trông người nào cũng hốc hác, sút cân trông thấy. Anh em trong binh trạm cho biết: “Đơn vị đang hành quân trên đỉnh cao xuống Quảng Đà - Quảng Nam - Quảng Ngãi!”. Đứng trên đỉnh cao nguyên nhìn về phía đông, núi non trập trùng và thấp dần trải ra dưới ánh nắng vàng quang quẻ! Từng tốp phản lực quần lượn loang loáng dưới tầm mắt của anh em - những loạt tiếng bom nổ ùng ục và đùn lên những đụn khói trùm một mảng rừng xanh, lúc ở nơi này, lúc ở nơi khác; có lẽ bọn Mỹ nghi ngờ nơi đó là bộ đội hành quân hoặc kho tàng Việt cộng nên đánh phá suốt ngày không ngớt.

Những ngày hành quân “đông tiến”, xuống dốc nhiều hơn lên dốc, bầu trời trong sáng hơn, ít mưa nhiều nắng. Mỗi buổi sáng hành quân, mặt trời đã hiện lên trước mặt. Nắng sớm mai dìu dịu, từ 9 giờ trở đi nắng bắt đầu gay gắt; anh nào cũng toát mồ hôi nhễ nhại, đầm đìa; một bi đông nước mang theo không đủ bù cho lượng nước thoát ra; ai nấy đều khát, khát khô cả cổ họng. Đơn vị càng đi về hướng đông, càng chứng kiến nhiều cánh rừng hoang tàn đổ nát với những hố bom đào xối đất đá tung lên và cây cối đứt cành trốc gốc la liệt, ngổn ngang. Có lúc hành quân vượt qua nơi địch vừa ném bom bắn phá, mùi thuốc bom khét lẹt dưới cái nắng nung cay nồng khó thở. Đường đi lắm dốc, người đi cũng thỏ dốc đến hụt cả hơi.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:32:34 am
Hành quân ròng rã hai tháng mười bốn ngay, đơn vì đã dặt chân đến thượng nguồn sông A Vương, miền Tây tỉnh Quảng Nam, xứ sở của đồng bào dân tộc Cơ Tu. Ở đây có trạm giải phóng, nơi đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào và đưa người từ Quảng Nam - Đà Nẵng ra Bắc. Nói là trạm, nhưng chỉ là mấy ngôi nhà lá lụp xụp. Người trạm trưởng đã đứng tuổi, nói giọng Quảng Nam, một số giao liên đa phần là những chàng lính trẻ người miền Bắc và ba bốn cô gái xứ Quảng làm nhiệm vụ hậu cần phục vụ cho khách đến trạm. Đơn vị được trạm trưởng truyền đạt: “Trạm nhận lệnh là đơn vị các đồng chí vào đến trạm sẽ dừng lại chờ cán bộ Mặt trận 44 lên đón! Trạm không có lán trại cho đơn vị nghỉ nên các đồng chí cho anh em triển khai dọc theo con suối ở gần đấy mà nghỉ. Nhớ cho anh em đào hầm trú ẩn cá nhân, đề phòng thiệt hại vì B-52 rải thảm”.

Đơn vị triển khai nơi nghỉ ngơi xong, một số anh em tranh thủ đi hái rau rừng, một số khác vào các buôn làng của đồng bào dân tộc vừa để tìm hiểu, vừa có ý xem đổi chác được gì để cải thiện cái ăn. Anh em vào một buôn có hơn ba chục nóc nhà, giữa buôn có một nhà rông. Dưới sàn nhà rông là một kho chứa thóc. Đi quanh một vòng, anh em không gặp đàn ông và người thanh niên nào cả, chỉ gặp mấy bà già và một lũ trẻ con nheo nhóc. Mấy bà đang đập nhuyễn những củ sắn luộc cho trẻ con ăn. Anh em ngạc nhiên hỏi: “Trong buôn có kho thóc đầy, sao không giã gạo nấu cơm cho lũ trẻ?”. Một bà già trả lời bằng tiếng Kinh lơ lớ: “Thóc của cách mạng đấy, chỉ để cho bộ đội giải phóng ăn có sức mà đánh Mỹ thôi! Dân làng này phải ăn khoai sắn đi làm rẫy cách mạng, đi gùi súng đạn cho bộ đội đánh Mỹ. Hết giặc Mỹ dân làng mới no ấm được!”. Câu trả lời mới triết lý làm sao, đồng bào dân tộc hạn chế về dân trí nhưng tinh thần cách mạng rất cao, anh em được một bài học thực tế về lòng dân với cách mạng!

Đơn vị nghỉ lại hôm trước thì hôm sau đã thân quen với trạm. Mấy anh lớn tuổi đồng hương Quảng Nam, khêu gợi với trạm trưởng có cách gì giúp đơn vị đỡ bớt đói không? Trạm trưởng vui vẻ và thông cảm, đồng ý cho đơn vi mấy gùi săn cũ. Các phân đội cử ngươi theo nhân viên trạm ra rẫy lấy sắn. Rầy sắn bạt ngàn do anh em ở trạm và đồng bào dân tộc làm giúp cho cách mạng. Sắn đủ già, lá rụng hết, chỉ còn những thân cây xen lẫn với chồi cây xanh tốt. Nhân viên trạm luôn nhắc nhở: “Nhổ lên cây nào phải trồng xuống cây ấy để người sau có cái mà ăn!”. Anh em hồ hởi, người nhổ sắn, người chặt hom trồng lại. Mỗi phân đội thu nhặt được hai gùi sắn củ mang về. Cả Đội bận rộn vì sắn. Chẳng mấy chốc những sản phẩm từ sắn bày ra la liệt: sắn luộc, sắn nướng, sắn giã nhuyễn gói bánh, cái để ăn, cái để mang theo. Ai nấy bụng đã căng đầy, dạ dày thỏa mãn không còn quấy nữa.

Đêm xuống, mọi người lên võng và yên trí được một đêm ngủ say sưa. Và cái say đã đến, không phải ngủ say mà là say sắn! Lúc đầu vài ba anh kêu đau đầu, chóng mặt rồi nôn thốc tháo ra. Tưởng như nôn cả mật xanh mật vàng, mồm cứ há hốc ra, nhỏ dãi. Lại mấy anh nữa tiếp theo, cho đến nửa đêm thì toàn Đội đều say sắn, làm khổ cho y tá và nhân viên phục vụ chạy chữa thâu đêm. Cũng may là những ngày chờ đợi vẫn chưa thấy người lên đón, đơn vị có thêm thời gian nghỉ ngơi lại sức.

Mấy hôm sau, cán bộ của Mặt trận 44 lên đón, đơn vị hành quân sớm vượt chặng đường dài đến tối mịt mới về đến khu vực đóng quân ở núi Quế Sơn, khu hậu cứ của Mặt trận 44 Quảng Đà. Lệnh của mặt trận cho đơn vị: “Triển khai ngay việc đào hầm trú ẩn kiên cố, tránh tổn thất vì B-52 ném bom, lán trại sẽ làm sau!”. Chấp hành mệnh lệnh, đơn vị dốc sức đào khoét vào vách núi làm hầm, mỗi phân đội một căn hầm kiên cố. Đào xong hầm mới làm lán trại. Thật may mắn làm sao, hầm hào lán trại vừa làm xong thì hứng trọn một đêm 3 đợt B-52 ném bom rải thảm. Mỗi đợt chúng ném năm, sáu chục quả bom trúng ngay vào khu vực đơn vị đóng quân. Bom nổ ù cả tai, ngồi trong hầm mà sức ép dội vào tức ran cả ngực. Nhờ có hầm kiên cố nên không ai thương vong, chỉ có cả khu rừng cây đại ngàn bị mảnh bom chém đứt cả, thân cành gãy đổ ngổn ngang, lán lại tanh bành. Đơn vị phải mất nhiều công sức sửa chữa hầm hố, mở lối đi lại, dựng lán trại mới, khẩn trương ổn định nơi hậu cứ để triển khai nhiệm vụ chiến đấu đang chờ đơn vị xuất trận lập công.

Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Mặt trận 44: “Cho đơn vị hạ sơn đúng 19 giờ có mặt tại địa điểm thôn 5, xã Lộc Sơn (một xã của huyện Đại Lộc, vùng giáp ranh do ta kiểm soát) dự bữa liên hoan do mặt trận tổ chức để gặp mặt và trao nhiệm vụ chiến đấu. Sau đó, đơn vị hành quân xuống xã Đại Phong nhận gạo gùi về hậu cứ!”. Vùng B Đại Lộc không có đồn bốt địch, nên đây là vùng địch tự do bắn phá. Ban ngày máy bay “bà già” L-19 thay nhau quần lượn phát hiện mục tiêu, thấy chỗ nào khả nghi là gọi cả bầy phản lực đến ném bom. Về đêm, các trận địa pháo bắn cầm canh theo tọa độ ô vuông. Trên trời máy bay “thả bom trộm” cứ ì ì như xay lúa suốt đêm và bất thần cắt một loạt vài ba chục quả xuống bất cứ nơi nào! Đơn vị được phổ biến tình hình nên hành quân trên địa điểm là khẩn trương tìm hầm hố đề phòng phi pháo.

Khoảng 19 giờ, pháo địch bắt đầu bắn phá. Lúc đầu nghe như loạt pháo nổ xa xa nhưng sau đó nghe tiếng đê-pa từ các trận địa pháo Ái Nghĩa - Núi Lở - Kiểm Lâm - An Hoà cấp tập bắn vào địa điểm mà đơn vị vừa mới đến nơi. Tiếng rít của đạn pháo các hướng xé gió lao đến mục tiêu, những chớp lửa sáng cả một vùng, những tiếng nổ chát chúa hàng loạt kéo dài, tiếng mảnh đạn phá chém vào cây cối ràn rạt, rào rào... hợp thành một thứ âm thanh ghê rợn! Tinh thần cảnh giác không thừa, nhờ cảnh giác nên đơn vị ít tổn thất, chỉ có chính trị viên đội bị thương nhẹ ở tay và nặng nhất là chiến sĩ Toán bị đứt mất một chân, chưa biết mặt mũi tên Mỹ ra sao đã phải quay ra miền Bắc.

Từ đây, Đội 3 bước vào những năm tháng bám dân, bám đất và luồn sâu đánh hiểm, lập nhiều chiến công xuất sắc trên chiến trường ác liệt Quảng Đà.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:33:35 am
Quảng Đà - nơi chiến trường trọng điểm

Quảng Đà - một chiến trường trọng điểm, một vị trí chiến lược then chốt của Mỹ, ngụy, nơi những tên lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên đặt chân đến xâm lược nước ta, để thực hiện cái gọi là “chiến tranh cục bộ”, nơi mà từng giờ, từng phút cái chết đến với con người chỉ trong gang tấc. Nơi ấy, chính là vùng tác chiến mà Đội 3 chúng tôi được phân công.

Đội 3 vào Mặt trận 44 Quảng Đà ở thời điểm quân Mỹ, ngụy đang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn. Tướng Oét-mo-len đề ra kế hoạch chiến lược với ba nội dung: “Tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt quân Việt Cộng”. Đưa quân Mỹ và chư hầu trực tiếp tham chiến trên chiến trường, hy vọng với sức mạnh khổng lồ và với tiềm lực vũ khí được trang bị hiện đại nhất thế giới, đế quốc Mỹ hy vọng sẽ giành thắng lợi lổn, đánh bại cách mạng miền Nam trong thời gian ngắn. Thành phố Đà Nẵng nói riêng và Quảng Đà nói chung có vị trí địa lý rất quan trọng, tại đây, Mỹ và chư hầu tập trung với số đông, chúng xây dựng Đà Nẵng thành khu căn cứ liên hợp hải - lục - không quân khổng lồ, chỉ đứng sau Sài Gòn.

Mở màn cho chiến lược “chiến tranh cục bộ”, lúc 9 giờ ngày 8 tháng 2 năm 1965, dưới sự chỉ huy của đô đốc Sáp, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn 3 thuộc lữ đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đã đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng. Chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 của lữ đoàn trên được máy bay chở từ căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những tên lính thuỷ đánh bộ đầu tiên của quân đội Mỹ đặt chân xuống Đà Nẵng.

Ngày 8 tháng 2 năm 1965, Mỹ đưa tiểu đoàn tên lửa Hốc triển khai trận địa trên núi Phước Tường, tiến hành thiết lập trận địa phòng không ở Nam Hải Vân và trên đỉnh Sơn Trà. Đến cuối năm 1965, hai sư đoàn 1 và 3 lính thủy đánh bộ Mỹ và nhiều đơn vị hải - lục - không quân Mỹ cùng phương tiện chiến tranh dồn dập triển khai xây dựng căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng. Các khu hậu cần, kỹ thuật được xây dựng nhanh chóng. Các cơ quan đầu não của địch đều tập trung ở thành phố Đà Nẵng như: Bộ tư lệnh quân đoàn 1 kiêm vùng I chiến thuật; Bộ chỉ huy đặc khu Đà Nẵng; Sở chỉ huy sư đoàn 1 và sư đoàn 3 thuỷ quân lục chiến Mỹ; Bộ tư lệnh Đệ tam hải - lục - không quân Mỹ và các cơ quan đầu não ngụy quyền Nam phần Trung Bộ. Các sân bay: Đà Nẵng, Nước Mặn, Xuân Thiều được mở rộng và nâng cấp. Xây dựng và mở rộng thêm các cảng: Tiên Sa, Nại Hiên, Liên Chiểu. Triển khai các trận địa pháo hạng nặng tại: La Bông, Dương Mẹo, Thanh Vinh, Hoà Cầm, Non Nước... Lập các trạm rađa đối không, đối hải, trung tâm chỉ huy dẫn đường cho máy bay, tàu chiến ra đánh phá miền Bắc. Xây dựng các kho hậu cần cho chiến dịch, chiến lược tại: An Đồn, Bàu Phước Lý, Bãi 600, kho xăng Liên Chiểu, kho xăng Nại Hiên, xây dựng các trụ sở của các đảng phái phản động tình báo CIA, an ninh quân đội của ngụy quân, ngụy quyền trung ương đứng tại Dà Nẵng. Chúng xây dựng hàng trăm căn cứ, chốt điểm hình thành các tuyến phòng ngự mạnh như chiếc áo giáp sắt che chắn, bảo vệ Đà Nẵng. Ngoài ra, còn có hệ thống chi khu, quận lỵ: Hiếu Đức, Vĩnh Điện, Nam Phước, Hội An, Núi Lỡ, Nông Sơn, Đức Dục, An Hoà, Thượng Đức, Ái Nghĩa... do quân ngụy triển khai bố phòng, án ngữ vòng ngoài Đà Nẵng.

Mỹ thiết lập hệ thống đèn chiếu sáng bằng cách chọn các đỉnh cao núi Phước Tường, Hải Vân, Sơn Trà, Non Nước... lắp đèn cao áp cực mạnh, quét sáng chung quanh với bán kính từ 3 - 5km để không chế sự di chuyển, cơ động của quân ta. Kết hợp với việc triển khai bố trí lực lượng, thiết bị chiến trường. Để bảo vệ có hiệu quả căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, thủ đoạn tiến công của Mỹ là: Kết hợp đổ bộ đường biển với đường không, vận dụng triệt để chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận”, “Căn cứ hỏa lực” để mở các cuộc tiến công càn quét “Tìm và diệt”, lấn chiếm vùng giải phóng, đẩy lực lượng vũ trang của ta ra xa, tạo điều kiện cho quân ngụy đánh phá “bình định” dồn dân, tạo thành một vành đai trắng dân, trắng đất. Bên cạnh những thay đổi trên đây, quân Mỹ còn có ưu thế về địa lý, địa hình, chiếm giữ các vị trí có giá trị cả về chiến thuật, chiến dịch và chiến lược. Ưu thế về phương tiện chiến tranh: máy bay, tàu chiến, thiết giáp, xe tăng, pháo binh... nên giai đoạn đầu, quân Mỹ đã tỏ ra rất chủ quan và khinh địch.

Dựa vào thế lực của đế quốc Mỹ, bọn ngụy quân. ngụy quyền tăng cường xây dựng lực lượng, phát triển mạng lưới gián điệp, tình báo, an ninh, cảnh sát công vụ, lực lượng bình định và trang bị mạnh; tiến hành càn quét bình định với các chiến dịch “Bình định thí điểm”, “Bình định cấp tốc”, “Bình định nước rút”... Theo lời hô hào của Nguyễn Văn Thiệu: Phải nỗ lực toàn diện giành thắng lợi  các chiến dịch bình định. Sự tồn vong của chế độ Việt Nam cộng hoà tuỳ thuộc vào kết quả của bình định!”.

Về thực lực số đơn vị quân Mỹ - ngụy, chư hầu trong thời gian này tại Mặt trận 44 Quảng Đà có 30 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ, 2 tiểu đoàn và Bộ chỉ huy lữ đoàn Rồng Xanh Nam Triều Tiên 1 trung đoàn 51 ngụy, 1 liên đoàn địa phương quân có 7 tiểu đoàn, 18 tiểu đoàn cơ động, 1 liên đoàn biệt động quân, 1 thiết đoàn xe tăng thiết giáp, 5 đội cảnh sát 10 đại đội độc lập 17 trung đội nghĩa quân; 24.000 phòng vệ dân sự, nhiều đội thiên nga, phượng hoàng, các đội bình định của ngụy quyền... Ngoài ra còn một lực lượng lớn không quân, hải quân ở các sân bay Đà Nẵng, Nước Mặn, Xuân Thiều và các cảng quân sự Tiên Sa, Sơn Trà phối hợp tác chiến. Nếu chỉ tính đơn thuần về quân số, trong thời điểm này, ở Mặt trận 44 Quảng Đà thì địch gấp ta 5 lần. Ở trong thành phố Đà Nẵng thì địch gấp ta 20 lần. Đó là chưa kể bọn ngụy quyền các cấp.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:34:11 am
Từ thực tế trên, rõ ràng là khi quân Mỹ ồ ạt đổ vào Đà Nẵng, đã làm tăng cả về số quân và phương tiện chiến tranh, vũ khí kỹ thuật hiện đại tối tân, sức cơ động chiến đấu cao, thủ đoạn tác chiến trong tấn công và phòng ngự của chúng đều xảo quyệt và tàn bạo hơn, phản ánh đẩy đủ bản chất hiếu chiến, xâm lược của đế quốc Mỹ, đặt cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta trước tình thế đầy khó khăn thử thách, nhất là nhận thức tư tưởng trước đối tượng tác chiến mới. Tuy nhiên, dù Mỹ, ngụy tăng cường số lượng khá đông, trang bị tối đa nhưng không mạnh. Lính Mỹ tuy thiện chiến nhưng khi vào Việt Nam không quen thuộc địa hình, không thích hợp thuỷ thổ, ngại chiến đấu ban đêm, tác chiến dựa vào hoả lực, nếu thoát ly khỏi tầm chi viện của hoả lực thì dễ bị tiêu diệt. Hoả lực của Mỹ mạnh nhưng không phát huy hết tác dụng, khi phải tác chiến với một đối phương “không có ở đâu” và “ở đâu cũng có”.

Trước tình hình quân Mỹ vào miền Nam, Trung ương Đảng hạ quyết tâm: “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào”. Tại chiến trường Quảng Đà, đường lối chiến lược đó của Đảng được Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức vào tháng 3 năm 1965 nêu rõ: “Chúng ta có nhiệm vụ đánh Mỹ đầu tiên, đóng góp kinh nghiệm cho toàn miền Nam góp phần đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng miền Nam”. Huyện Hòa Vang được chọn làm nơi thử nghiệm cho các cách thức đánh Mỹ. Vì lẽ đó, Đà Nẵng trở thành mục tiêu tiến công tiêu diệt địch của quân và dân ta. Hơn nữa, cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, xâm phạm cả chủ quyền và nhân quyền của dân tộc Việt Nam, nhân dân tiến bộ của nước Mỹ và trên thế giới lên án, phản đối ngày càng quyết liệt cuộc chiến tranh tội ác này.

Về phía ta có nhiều khó khăn về sự chênh lệch lực lường, trang bị, hậu cần kỹ thuật và bước đầu chưa có kinh nghiệm đánh Mỹ, ngại chiến đấu với quân Mỹ chưa tin tưởng khả năng ta sẽ đánh thắng giặc Mỹ. Nhưng ta có nhiều thuận lợi cơ bản. Đó là:

Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.

Một thuận lợi cơ bản, có tính quyết định là: có sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng, trước diễn biến tình hình của cuộc chiến tranh, đã kịp thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ chiến lược cho quân dân cả nước để đánh thắng Mỹ. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Trung ương là: “Phải tiêu diệt một bộ phận lực lượng cơ động của địch, đánh phá các căn cứ bên trong, đánh mạnh vào các cơ sở hậu cần, kỹ thuật của Mỹ - ngụy, đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp, bằng nhiều phương thức hoạt động linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, có hiệu quả tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Phối hợp chặt chẽ phương châm 2 chân 3 mũi giáp công, trên 3 vùng chiến thuật”.

Trên chiến trường Quảng Đà, sau chiến dịch năm 1965, thế trận chiến tranh nhân dân của ta đang phát triển mạnh mẽ, đại bộ phận nông thôn, đồng bằng đã được giải phóng, hình thành thế trận bao vây thành phố, đô thị, đồn bốt địch.

Đại bộ phận cán bộ, bộ đội, du kích xác định quyết tâm chiến đấu cao, quyết đánh Mỹ đến cùng.

Trên cơ sở đó, Mặt trận 44 Quảng Đà chủ trương: Nhanh chóng củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang manh theo hướng “tinh gọn”, “tinh nhuệ”, “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tăng cường hoạt động, tác chiến bằng chiến kỹ thuật đặc công, biệt động, du kích theo phương châm: lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy thô sơ thắng tối tân hiện đại. Kiên trì trụ bám: “Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám địch” mà đánh, tìm Mỹ mà diệt, liên tục tiến công, giữ vững thế chủ động trên chiến trường, đẩy quân địch vào thế bị động đối phó. Kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với tiến công chính trị và binh địch vận, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng đấu tranh chống dồn dân, lập ấp chiến lược, làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “bình định”  của địch.

Vào đến chiến trường Quảng Đà, Đội 3 Đặc công hải quân có 55 đồng chí, do đặc điểm chiến trường phải phân tán triển khai bám lấy địa bàn Đà Nẵng. Đội được phân bố về các cánh như sau:

Phân đội 1: phụ trách cánh Bắc của Đà Nẵng.

Phân đội 2: phụ trách cánh Trung của Đà Nẵng.

Phân đội 3: phụ trách cánh Đông của Đà Nẵng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:34:36 am
Đội có nhiệm vụ đánh các tàu thuyền quân sự, kho tàng, bến cảng và nhiệm vụ cũng hết sức quan trọng là đánh sập các cầu cống, cắt đứt chi viện bằng đường bộ của địch trên chiến trường có nhiều con sông ngăn cách, nhất là phục vụ cho các chiến dịch của ta. Các phân đội nằm sâu trong vùng địch, phần lớn nhân dân bị chúng tập trung vào các khu dồn, anh em phải cùng sống với du kích địa phương, ngày lánh địch càn, đêm về hoạt động và chiến đấu, gian khổ khó khăn không sao kể xiết. Tỷ lệ thương vong tổn thất trong các trận chiến đấu không nhiều mà phần lớn do trụ bám trong vùng địch kiểm soát gắt gao, càn quét liên miên, chà đi xát lại và với nhiều thủ đoạn xảo quyệt của địch, nên không thể nào tránh khỏi những hy sinh, mất mát.

Trong điều kiện vô cùng khó khăn hiểm ác ấy, từ năm 1966 đến năm 1970, Đội 3 đã chiến đấu lập nhiều chiến công xuất sắc: Đánh chìm 3 tàu vận tải quân sự và tàu chiến Mỹ. Trong đó có tàu Lo-ry trên vạn tấn, chở hàng quân sự cập cảng Phú Lộc (Thanh Khê - Đà Nang) vào đêm Giao thừa Tết Mậu Thân, 1 tàu vận tải quân sự cỡ lớn neo đậu gần cảng Tiên Sa, 1 pháo hạm thuộc Hạm đội 7 của Mỹ vào buông neo gần hòn Sơn Trà nhỏ ngoài vịnh Đà Nẵng. Đánh tan tành 4 hải thuyền quân ngụy ở cửa Đại - Hội An, mỗi hải thuyền có 12 tên địch, 2 súng đại liên 50 và nhiều vũ khí cá nhân khác đều tan xác. Đánh sập hàng loạt cầu lớn nhỏ, kịp thời ngăn chặn sự chi viện giữa các căn cứ địch khi ta tiến công như các cầu: cầu Thủy Tú, cầu Đỏ, cầu Đen, cầu Trắng, cầu Phước Trạch, cầu Bà Rén, cầu Vĩnh Điện, cầu Ái Nghĩa, cầu Giao Thủy... có những cầu đánh đi đánh lại hai, ba lần. Tiêu diệt hàng trăm tên địch (là con số ước tính, thực tế còn nhiều hơn). Chỉ có cầu Trịnh Minh Thế bắc qua sông Hàn nối trung tâm thành phố Đà Nẵng với quận 3, nằm giữa lòng thành phố, Đội 3 đã tổ chức đánh hai lần đều không thành, do nhiều nguyên nhân, ta đã tổn thất hơn 10 đồng chí. Tuy nhiên trận đánh lần hai bị lộ, địch bao vây, 7 chiến sĩ đặc công nước và 2 du kích địa phương quyết chiến với kẻ thù diệt hơn 40 tên trước khi người cuối cùng ngã xuống nêu một tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trên đất xóm vạn “Cồn Bồi” giữa dòng sông Hàn đỏ loang máu giặc.

Đến năm 1970, các phân đội 1 và 2 hết quân, Phân đội 1 còn lại 5 cán bộ, chiến sĩ, chấp hành lệnh của Mặt trận, đội đánh kho xăng Liên Chiểu lần hai, không có thời gian chuẩn bị nên 4 cán bộ và chiến sĩ nữa hy sinh. Thế là Đội 3 không còn quân nữa, chỉ còn mấy cán bộ được cấp trên điều chuyển về đơn vị khác.

Thời gian này, Quảng Đà là chiến trường trọng điểm, mức độ ác liệt bội phần. Vùng nông thôn, đồng bằng địch đánh phá dã man, lấn chiếm chia cắt vùng giải phóng. Nhiều đơn vị bộ đội thiếu hụt quân số, trang bị vũ khí, lương thực thuốc men. Tình hình khó khăn nghiêm trọng. Sang năm 1970, sau những đợt chỉnh huấn, sinh hoạt chính trị, học tập thực hiện Di chúc của Bác Hồ, biến đau thương thành hành động cách mạng đã tạo nên tinh thần và khí thế mới. Quân và dân Quảng Đà ra sức khắc phục khó khăn, củng cố lực lượng tiếp tục tiến công trên toàn mặt trận làm cho kế hoạch “quét và giữ” và “bình định cấp tốc” của địch không thực hiện được theo ý đồ của chúng.

Trong tình hình Mặt trận 44 Quảng Đà tích cực xây dựng, củng cố lực lượng thì nhận được 60 cán bộ và chiến sĩ của Đoàn đặc công Hải quân 126 do đồng chí Đinh Văn Rơi đưa vào. Mặt trận 44 quyết định rút một số đặc công bộ bổ sung vào để làm nhiệm vụ điều tra trinh sát địa bàn, phục vụ...

Đinh Văn Rơi làm Chính trị viên. Đội tổ chức thành 3 phân đội. Do đặc điểm về địa hình, địa ]ý trên chiến trường nhiệm vụ của Đội là “Liên tục cắt đứt giao thông chi viện của địch”. Đội đã tổ chức đánh sập nhiều cầu lớn nhỏ, có cầu đánh đi đánh lại hai ba lần, một số nơi địch phải dùng phà chở xe tăng, thiết giáp qua sông trong các cuộc hành quân càn quét. Chiến công của Đội 170 được mặt trận đánh giá rất cao, góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn trên Mặt trận 44 Quảng Đà.

Năm 1971, Mặt trận 44 Quảng Đà lại nhận được hai đợt chi viện của Đoàn đặc công hải quân 126 trên một trăm cán bộ và chiến sĩ đưa vào. Theo lệnh của Quân khu 5, Mặt trận 44 quyết định thành lập tiểu đoàn đặc công trên cơ sở hơn một trăm cán bộ, chiến sĩ đặc công hải quân, rút thêm 1 đội đặc công bộ sáp nhập vào.

Tháng 4 năm 1971, Tiểu đoàn đặc công 471 được thành lập. Trước mắt Tiểu đoàn có 3 đội: 2 đội đặc công nước, 1 đội đặc công bộ. Ban chỉ huy Tiểu đoàn gồm có: Hồ Xuân Hoà - Tiểu đoàn trưởng (cán bộ của Đội 2 Đoàn 126 vào Cam Ranh còn lại), Trần Châu Á - Chính trị viên (điều từ Tiểu đoàn 402 về), Đinh Xuân Trường - Tiểu đoàn phó (từ miền Bắc bổ sung vào), Nguyễn Văn Chu - Tiểu đoàn phó (từ Mặt trận 44 điều xuống). Nguyễn Đình Thứ - Chính trị viên phó (cán bộ đặc công nước điều từ Cam Ranh vào). Tiểu đoàn đứng chân ở cánh Bắc Đà Nẵng, vừa xây dựng hậu cứ, vừa tổ chức đón nhận anh em Đặc công hải quân 126 bổ sung vào, vừa triển khai  tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực, vừa chuẩn bị chiến trường, khẩn trương chiến đấu lập công, xây dựng truyền thống ban đầu của Tiểu đoàn Đặc công nước trên Mặt trận 44.

Kể từ khi có mặt tại chiến trường Quảng Đà năm 1966 cho đến ngày ta tiến công giải phóng Đà Nẵng ngày 29 tháng 3 năm 1975, Đội 3, Đội đặc công nước 170 và Tiểu đoàn đặc công 471 đã liên tiếp tiến công địch, lập nên nhiều chiến công vang dội, làm cho Mỹ - ngụy phải kinh hồn bạt vía.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:35:52 am
Đánh sập cầu Thủy Tú

Một buổi chiều ở hậu cứ, đồng chí Hồ Nghinh - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đà kiêm Chính ủy Mặt trận 44 đến làm việc với Ban chỉ huy Đội 3 Đặc công nước. Qua những lời thăm hỏi sức khỏe anh em, đồng chí trực tiếp giao nhiệm vụ Đội 3 phải đảm nhận trách nhiệm đánh sập cầu Thủy Tú. Sau khi phân tích tình hình, tầm quan trọng và ý nghĩa của trận đánh, đồng chí nhấn mạnh:

- Đánh sập cầu Thuỷ Tú, cắt đứt giao thông chi viện của địch trên hai chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng và Trị Thiên là hết sức quan trọng, tôi biết các đồng chí từ miền Bắc mới vào, mọi việc đều bỡ ngỡ, chưa quen thuộc chiến trường, nhiều khó khăn trước mắt. Nhưng vì yêu cầu bức thiết của chiến trường, các đồng chí hãy động viên toàn Đội, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Có gì trở ngại, các đồng chí báo cáo trực tiếp với Ban chi huy Thành đội Đà Nẵng để có sự giúp đỡ!

Ban chỉ huy Đội nhận nhiệm vụ và hứa quyết tâm chiến đấu thắng lợi! Đội giao nhiệm vụ đánh cầu Thuỷ Tú cho Phân đội 1, do đồng chí Huỳnh Tửu làm Chin trị viên, đồng chí Huỳnh Thế làm Phân đội trưởng. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, phân đội triển khai họp chi bộ, họp phân đội xác định quyết tâm, quán triệt yêu cầu nhiệm vụ và khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh. Đồng chí Nguyễn Sự - Đội phó, đồng chí Sơn - phụ trách khí tài cùng 1 đồng chí giao liên lập tức lên đường ra cánh Bắc, hợp đồng chiến đấu với Khu đội 1 - Hoà Vang.

Ngày hôm sau, giao liên của Thành đội đến đưa phân đội hành quân từ vùng núi Quế Sơn ra cánh Bắc Hoà Vang. Cán bộ, chiến sĩ của phân đội gùi nặng trĩu vai, băng ngàn lội suối, vượt qua những con đường rừng mới mở rất khó đi, lần tránh các bãi B-52 đánh phá, cây cối đổ ngổn ngang theo vệt dài hàng cây số, qua nhiều chiếc cầu độc mộc bắc qua suối sâu hiểm trở, qua các buôn làng của đồng bào thiểu số bị giặc ném bom tan hoang, chỉ còn sót lại những cột nhà cháy đen trơ trọi. Qua hai ngày hành quân vất vả, song trong lòng mỗi người vẫn canh cánh nỗi lo cho trận đánh ngày mai. Trận đầu của phân đội trên chiến trường đánh Mỹ.

Phân độị ra đến khu Tà Lang, Dàn Bí (nay thuộc Hòa Bắc, huyện Hòa Vang) thì được giao liên Khu đội 1 - Hòa Vang đưa tiếp về phía nam dãy núi Bạch Mã, nơi bố trí cho phân đội trú quân.

Đứng trên núi cao nhìn xuống Đà Nẵng, khu hậu cần của Mỹ chiếm hết vòng cung từ Xuân Thiều đến Bàu Mạc, mái tôn trắng xóa phản chiếu ánh mặt trời đến nhức mắt. Ngoài vịnh Đà Nẵng, tàu bè đi lại như những chấm đen di động trên nền xanh nước biển; ô tô các loại ngược xuôi như mắc cửi trên quốc lộ. Cầu Thủy Tú song song với cầu đường sắt, bắc qua sông Cu Đê như dải lụa mềm uốn lượn từ thượng nguồn trải dài ra cửa biển Nam Ô.

Phân đội triển khai trinh sát nắm tình hình. Một mặt thu thập tin tức về tình hình cấu trúc, bố phòng và quy luật hoạt động của địch ở cầu Thuỷ Tú. Mặt khác phân đội cử 3 đồng chí đi trinh sát thực tế từ xa đến gần từ ngoài vào trong mục tiêu, “mắt thấy tay sờ” cẩn thận. Nắm chắc luồng lạch trên sông, quy luật thuỷ triều, xác định đường vào và đường rút khỏi mục tiêu sau khi điểm hoả. Theo dõi việc tuần tra canh gác, bố phòng trên cầu và dưới nước.

Qua 4 đêm liền, tổ trinh sát bí mật đến cồn Dâu, cách cầu gần 300m quan sát tình hình. Hai ngày tiếp theo, tổ trinh sát vùi mình trong cát, nằm lại quan sát mục tiêu ban ngày. Sau đó, liên tiếp, phân đội mật tập vào mục tiêu, cắt dây thép gai, mở lối để đi đánh, đưa khối nổ vào trụ cầu! Hoàn thành công tác, anh em trinh sát đi đến kết luận: cầu Thuỷ Tú dài 300m, cấu tạo xi măng cốt thép, là trụ cầu bê tông đúc đặc hình hạt xoài (một kết cấu trụ cầu rất khó đánh của đặc công nước). Cách mỗi trụ cầu 5m là lớp rào dây thép gai bao bọc. Mỗi trụ cầu có 2 bóng đèn công suất lớn chiếu sáng. Hệ thống điện trên mặt cầu do máy phát điện riêng cung cấp. Đầu cầu bờ Nam có lô cốt boong ke hai tầng. Tầng trên từ mặt đường trở lên, có lỗ châu mai đặt súng đại liên bắn quét mặt cầu. Tầng dưới từ mặt đường xuống mặt sông, có lỗ châu mai đặt đại liên bắn quét ngang mặt nước, đầu cầu bò Bắc lô cốt chất bằng bao cát và đặt đại liên. Khi có động, đại liên hai bên đầu cầu bắn chéo cánh sẻ trên mặt cầu và cả dưới mặt sông. Cầu do một đại đội lính ngụy canh giữ; về đêm, địch thay nhau tuần tra qua lại trên cầu, thỉnh thoảng bắn và ném lựu đạn xuống gần các trụ cầu để phòng người nhái của ta.

Công tác trinh sát tiến hành thuận lợi tạo niềm tin cho đơn vị chắc thắng trận này! Phân đội khẩn trương chuẩn bị khối nổ bằng 100kg TNT, thiết kế thành một khối vuông, tổ khí tài xử lý kỹ thuật nổi chìm theo sự điều khiển, bảo đảm yêu cầu chiến thuật. Để chắc chắn, anh em sử dụng 3 loại kíp nổ (có cả kíp nổ tức thì). Cần nói thêm là, khi đánh khối nổ, sử dụng kíp nổ hẹn giờ. Nhưng trường hợp bị bại lộ, khi tổ chiến đấu đã vào mục tiêu dưới nước thì chắc chắn không tránh khỏi hy sinh. Vì thế, sử dụng kíp nổ tức thì cho khối nổ ngay, dù cả tổ hy sinh vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Điều ấy thì ai cũng rõ, nhưng không một ai e ngại, biểu thị chủ nghĩa anh hùng cách mạng được từng cán bộ, chiến sĩ phát huy. Mọi công tác chuẩn bị xong, phân đội họp phát huy dân chủ quân sự để anh em bổ sung phương án chiến đấu: 100% cán bộ, chiến sĩ đăng ký xung phong đi chiến đấu trận đầu. Ai nấy phấn khởi, hăng hái làm tốt công tác chuẩn bị. Ở hậu cứ, Ban chỉ huy đội cử đồng chí Nguyễn Văn Lợi - Chính trị viên phó của đội ra gặp phân đội, truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu và tham gia ý kiến để phân đội tham khảo bổ sung phương án chiến đấu của mình. Trong quá trình chuẩn bị, Khu đội 1 - Hòa Vang giúp đỡ nhiệt tình bằng cách cử giao liên, trinh sát giúp phân đội trong việc đưa đường, cảnh giới và tham gia trinh sát nắm tình hình địch, bố trí cơ sở ở Nam Ô đón anh em sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Mười, 2019, 09:36:41 am
Ngày 2 tháng 4 năm 1967, trận chiến đấu bắt đầu. Trưa ngày 2 tháng 4, bộ phận bám địch báo về: “Khu vực tập kết của phân đội không có biệt kích Mỹ đổ quân!”. Phân đội ra lệnh: “Tất cả lên đường!”. Anh em hành quân từ chân dãy núi Bạch Mã xuống khu vực chân núi Hòn Vàng mất 3 giờ, phải vượt qua những nơi máy bay thả bom tọa độ của Mỹ vừa mới ném xuống đêm qua; vượt qua những bãi cỏ tranh lỗ chỗ hố đại bác xới đào; vượt qua những nơi bọn biệt kích Mỹ vừa mới đi qua còn vương lại cái mùi khét đặc trưng của lính Mỹ.

Màn đêm buông xuống, trên bầu trời máy bay phản lực Mỹ vẫn gầm rú như xé cả không gian, máy bay đi thả bom trộm về đêm. Tiếng ầm ì như xay lúa, pháo địch từ các trận địa bắn vào các vùng ranh núi vùng này không ngớt, ở những loại đạn pháo bầy rít qua đầu anh em, nổ chát chúa ở phía bìa rừng, pháo sáng chốc chốc vút lên bầu trời phát ra một thứ ánh sáng vàng vọt trên các vị trí đóng quân của địch, cầu Thuỷ Tú đèn điện sáng choang! Đúng 20 giờ, chỉ huy phân đội hạ lệnh chiến đấu. Đồng chí Nguyễn Sự là Đội phó của đội nhưng xung phong làm tổ trưởng tổ chiến đấu đêm nay, cùng hai tổ viên ra trước hàng quân nhận lệnh và hứa “Quyết thắng!” trận này. Không khí trước giờ xung trận, tình cảm cách mạng thật thiêng liêng. Họ ôm choàng ba đồng chí của tổ chiến đấu, mình trần chân đất như để tiếp thêm sinh lực của phân đội và gửi gắm niềm tin thắng lợi trở về. Tổ chiến đấu vẫy tay chào tạm biệt, dìu khối nổ ra giữa dòng sông, khuất dần trong màn đêm lạnh. Hai tổ viên đi trước, tổ trưởng dìu khối nổ đi sau, cự ly cách nhau bằng những sợi dây liên kết. Họ bơi nhẹ nhàng, không để gợn sóng nước mặn phát ra ánh sáng lân tinh, mắt luôn nhìn về phía trước quan sát địch tình. Đến Cồn Dâu, tổ rẽ theo rạch nước bờ Nam. Qua khỏi Cồn Dâu cách cầu 200m, anh em bơi chậm lại, tập trung tinh lực quan sát, phán đoán chọn thời cơ thích hợp để tiềm nhập mục tiêu. Tổ chọn một ngọn đèn sáng nhất trên cầu làm đích, để khi đi chìm dưới nước, ánh sáng đèn chiếu thẳng hướng, không làm sai lệch mục tiêu.

Lúc này, trên quốc lộ, đoàn xe kéo pháo nối đuôi nhau lần lượt qua cầu; bánh xích sắt xe kéo pháo nghiến xuống mặt cầu phát ra âm thanh rầm rầm rờn rợn hoà trong tiếng nổ động cơ vang động. Toán địch tuần tra đang cụm lại với nhau, tựa vào lan can theo dõi đoàn xe di chuyển, dưới sông anh em chớp thời cơ, mật tập mục tiêu, bình tĩnh, nhẹ nhàng mở lót rào dây thép gai đã cắt sẵn, đưa khối nổ vào cố định ở trụ cầu. Tổ trưởng ra hiệu cho 2 tổ viên rút ra trước, còn mình điểm hoả xong sẽ rút ra sau. Kíp nổ hẹn giờ vối thời gian là 30 phút. Hai tổ viên xuôi dòng về phía cửa sông, gặp bộ phận đón, chờ sẵn trên bờ.

Đã gần 30 phút chưa thấy đồng chí Sự về. Bỗng một ánh chớp sáng lòa kèm theo là tiếng nổ không to nhưng rung chuyển mạnh, làm cho các nhà ở cách xa cầu hai ba trăm mét cửa kính vỡ tung. Trụ cầu bị đánh đổ gãy, kéo theo 2 vai cầu gục đổ xuống sông thành hình chữ V, một đầu cắm xuống đáy sông, một đầu chổng ngược lên trời. Quân địch giữ cầu kinh hoàng, cuống cuồng, nhốn nháo, la hét om sòm. Các loại xe cộ ùn tắc lại hai bên đầu cầu, pha đèn loạn xạ, bấm còi inh ỏi tìm cách tháo lui! Còi bao động rú lên từng hồi dài như tiếng kêu cấp cứu. Pháo sáng từ các vị trí của Mỹ gần đó thi nhau bắn lên trời có lẽ chúng sợ bóng đêm sẽ đem cái chết bất ngờ đến với chúng bất cứ lúc nào.

Rạng sáng hôm sau, xe công binh có tên trung tá chỉ huy Liên đoàn 10 công binh ngụy đến kiểm tra. Hắn đứng ngắm nghía hồi lâu rồi dò dẫm leo lên váng cầu đổ để nghiên cứu, có lẽ bị sốc vì kinh sợ nên trượt chân lộn cổ xuống sông chết chìm theo số phận chiếc cầu. Chúng thuê ngư dân Nam Ô lặn tìm cả một buổi, mới vớt được xác tên trung tá công binh trôi dạt ra ngoài khu vực cửa sông và vớt xác cả tiểu đội tuần tra trên mặt cầu lúc 2 vai cầu đổ sập xuống sông.

Trận ra quân đầu tiên của lực lượng đặc công nước đã hoàn toàn thắng lợi, chỉ có đồng chí Nguyễn Sự không về, đó là một tổn thất lốn, đầu tiên của Đội 3. Sau trận đánh, đơn vị nghiên cứu, tìm ra nguyên nhân cái chết của đồng chí Sự là; có thể do không lường hết được uy lực khối nổ 100kg, phần lớn là C4 có sức công phá rất mạnh, lại nổ dưới nước uy lực sẽ tăng lên gấp bội, áp suất cực mạnh dẫn truyền trong nước trong khi đồng chí Sự chưa thoát ra khỏi khu vực an toàn, nên đã hy sinh trong dòng sông Thuỷ Tú, khả năng thi thể không còn nguyên vẹn! Trận đánh này của lực lượng đặc công nước đã được Bộ Tư lệnh Mặt trận 44 và Quân khu 5 biểu dương, khen ngợi là “trận đánh xuất sắc, mở đầu của Đội đặc công nước trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng”.

Cầu Thuỷ Tú bị đánh sập, việc chi viện trên hai chiến trường Đà Nẵng - Huế của địch hết sức khó khăn, chúng tập trung công binh sửa chữa. Phát huy chiến quả, phân đội lại cử 1 tổ cơ động, khẩn trương từ nam Hải Vân ra đánh sập cầu Lăng Cô, gây cho địch nhiều thiệt hại trong việc cơ động vận chuyển lực lượng và phương tiện từ Đà Nẵng chi viện cho chiến trường Trị Thiên - Huế, đặc biệt là Đường 9 - Khe Sanh (Quảng Trị) đang bị quân ta đánh mạnh.

Đài và báo của Sài Gòn và phương Tây đưa tin về trận đánh cầu Thuỷ Tú, chúng phê phán quân lực Việt Nam cộng hoà và cả lực lượng quân sự Hoa Kỳ, và kết luận: “Việt Cộng đã đánh gãy xương sống miền Trung!”.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 08:57:53 am
Đánh sập cầu Đỏ - sự phối hợp tuyệt vời của lực lượng đặc công

Cuối năm 1966, tình hình chiến sự trên mặt trận Quảng Đà diễn ra quyết liệt. Bị thua đau chiến dịch mùa khô thứ nhất, Mỹ - ngụy tung lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ hai.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương: “Chủ động tiến công, đồng thời tích cực phản công tiêu diệt địch”; vận dụng sáng tạo chiến lược tiến công, chiến thuật tác chiến, sử dụng nhiều cách đánh có hiệu quả cao, nhất là đánh đặc công, thọc sâu vào sào huyệt địch, phối hợp đặc công với các đơn vị khác, đánh mạnh vùng ven đô, cả bên trong thành phố, tiêu diệt những cứ điểm quan trọng, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch, nhằm hỗ trợ mạnh mẽ cho phong trào đô thị.

Chiến dịch hè thu 1967 chưa kết thúc, đồng chí Trần Thận - Tiểu đoàn đặc công 489, sau khi đánh tiêu diệt trận địa tên lửa Hốc (HAWK) trên cao điểm 327 Phước Tường, đã trực tiếp chỉ huy Đại đội 3, tiến công tiêu diệt chốt điểm của Mỹ ở phía bắc cầu Đỏ do một đại đội Mỹ chốt giữ. Để phát huy chiến quả trận này, chỉ huy trưởng mặt trận chỉ thị cho Đội đặc công nước đánh sập cầu Đỏ, cắt đứt nút giao thông quan trọng vào thành phố Đà Nẵng ở phía nam.

Dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Trần Thận, Đại đội trưởng Hân và Chính trị viên Cường tổ chức cho Đại đội triển khai nhiệm vụ. Từ vùng B Đại Lộc, Đại đội hành quân qua Phú Thuận, sang sông Thu Bồn tại bến đò Giảng Hoà, qua Mỹ Lược, xuống Gò Nổi về nơi tập kết ở xã Điện Tiến. Từ đây, đội đưa một bộ phận trinh sát ra Hoà Thọ, tiến hành trinh sát thực địa chiến trường.

Cũng thời gian đó, Phân đội đặc công nước thuộc Đội 3, do đồng chí Trịnh Kiều Miên làm Phân đội trưởng, Lê Hồng Phong - Chính trị viên, từ nơi trú quân ở vùng 3 xã Xuyên Thái, vượt quốc lộ 1A, lên xã Xuyên Thọ, rồi vượt sông qua Gò Nổi, đến xã Điện Hồng rồi về xã Hoà Châu ém quân. Từ đây, Phân đội tổ chức trinh sát mục tiêu cầu Đỏ.

Thời gian này, vùng ven Đà Nẵng, ngày đêm địch đánh phá liên miên, anh em hành quân trong ánh sáng mờ của sao trời và trăng khuyết, nhiều đoàn cán bộ, bộ đội, du kích vào ra nhộn nhịp cho thấy không khí của chiến dịch bao trùm, ai nấy cũng đều nô nức lập công.

Bí thư, Chủ tịch và Xã đội trưởng xã Hòa Châu vui mừng đón tiếp phân đội, bố trí lực lượng du kích phối hợp bám địch đưa đường, sắp xếp hầm bí mật để phân đội lánh càn và thực hiện các nhiệm vụ phân đội phản công. Nơi phân đội trú quân, nhìn dọc theo đường sắt 2km đường chim bay là cầu Đỏ. Phía bắc cầu là chốt điểm của quân Mỹ gồm nhiều lô cốt, nhà tôn, nhà bạt nối nhau, vượt lên cao là cột cờ phơ phất lá cờ sọc đỏ trên nền trắng với 48 ngôi sao tượng trưng của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Đầu cầu phía nam có lô cốt, boong kc và dãy nhà tôn của đại đội lính ngụy đóng giữ. Trên nóc lô cốt, có lá cờ vàng 3 sọc đỏ.

Cầu Đỏ là chiếc cầu lớn trên quốc lộ 1A, nơi cửa ngõ ở phía nam Đà Nẵng nên ngày đêm xe cộ lưu thông qua lại không ngừng, phần lớn là xe quân sự: xe chuyển quân, xe tăng, thiết giáp, xe kéo pháo, xe vận chuyển vũ khí đạn dược, xe phục vụ hậu cần và nhiều xe dân sự. Đánh sập cầu Đỏ sẽ giáng một đòn chí mạng cho Mỹ - ngụy trong việc cơ động phục vụ khí cụ chiến tranh cho các chiến trường.

Phân đội trưởng Trịnh Kiều Miên đi gặp Tiểu đoàn trưởng Trần Thận để bàn phương án hợp đồng chiến đấu trở về, liền tổ chức 1 tổ chiến đấu trực tiếp đi trinh sát thực tế mục tiêu cầu Đỏ. Một bộ phận chuẩn bị khí tài phục vụ trận đánh.

Đêm 27 tháng 8 năm 1967, tổ du kích Hoà Châu đưa tổ đặc công nước tiếp cận bờ sông, cách cầu Đỏ hơn lkm về phía thượng lưu. Khi tổ đặc công xuống sông tiến hành trinh sát thì tổ du kích vượt quốc lộ 1A xuống xã Hoà Xuân, để đợi đón anh em sau khi trinh sát rút về. Sau đêm trinh sát, ta nắm khá đầy đủ kết cấu cầu Đỏ, sự bố trí lực lượng của địch, cầu Đỏ dài hơn 300m, dưới sông có 8 trụ cầu xi măng cốt thép đúc hình lục lăng, xung quanh các trụ cầu đều có lớp rào dây thép gai bao bọc. Hệ thống đèn bảo vệ trên cầu rất sáng. Có lẽ rút kinh nghiệm từ trận đánh sập cầu Thuỷ Tú của ta, tại mỗi trụ cầu Đỏ, địch đều có 2 bóng đèn công suất cao, chụp bóng đèn tập trung ánh sáng vào chân trụ cầu. Về đêm, lính ngụy thay phiên tuần tra qua lại trên cầu, mỗi phiên là một tiểu đội. Trên mặt cầu, ngay trên đầu trụ cầu chúng đặt các hòm lựu đạn, khi đi tuần, tiện tay nhặt một quả ném xuống chân trụ cầu, có lẽ là theo ngẫu hứng chứ không theo quy luật nào. Anh em còn phát hiện ra một điều lý thú là: lưu lượng xe cộ vào ra rất nhiều, cả xe quân sự lẫn dân sự. Từ khoảng 18 giờ cho đến 22 giờ hằng ngày, mật độ xe cộ rất đông, bọn địch tập trung kiểm soát xe dân sự, sơ suất trong việc tuần tra kiểm soát dưới cầu. Sau khi điều nghiên tình hình, anh em không ai dám chủ quan nhưng đều tin tưởng sẽ thắng trận này.

Bộ phận khí tài đã làm xong khối nổ 100kg loại TNT với kỹ thuật hoàn hảo. Trong trận đánh này, Đội đặc công nước rất cảm động trước sự nuôi nấng, che chở của bà con cơ sở và du kích xã Hoà Châu. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc nhưng người dân trụ bám hết lòng với cách mạng, bộ đội tin tưởng ở dân, du kích hết lòng thương yêu và hợp đồng chặt chẽ với bộ đội, sẵn sàng chia lửa cho nhau khi vào trận. Chính điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội chiến đấu lập công. Tình cảm tự nhiên như sợi dây nối kết quân dân một ý chí diệt thù cứu nước, động viên nhau bước vào chiến dịch với một niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi đến gần.

Theo hợp đồng giữa hai đơn vị, trận đánh sẽ diễn ra đêm 28 tháng 8 năm 1967, giờ G sẽ là 0 giờ (theo giờ quy định toàn mặt trận). Lúc 21 giờ, tổ du kích đưa Phân đội đặc công nước về vị trí xuất phát ở bờ sông cách cầu Đỏ 2km về phía thượng lưu. Tố khí tài đưa khối nổ xuống sông và điều chỉnh kỹ thuật. Tổ chiến đấu tranh thủ khỏi động thư giãn gân cốt trước khi xuống nước. Đúng 22 giờ, Phân đội trưởng hạ mệnh lệnh, tổ chiến đấu vẫy tay chào tạm biệt anh em, dìu khối nổ ra sông hoà mình vào dòng nước đã toả hết cái nắng ấm ban ngày, đang chuyển sang cái lạnh lẽo về đêm.

Đường tiếp cận mục tiêu không xa, tổ chiến đấu thận trọng từng động tác kỹ thuật, từ cái quạt tay trong nước nhẹ nhàng, không để nước mặn phát sáng lân tinh, mục tiêu trước mắt mỗi lúc một gần thêm...

Đúng 0 giờ, tiếng nổ của bộc phá, thủ pháo xen lẫn tiếng AK chát chúa và tiếng B40, B41 điểm từng phát ùng oàng, chốt điểm Mỹ đầu cầu phía bắc bốc cháy, khói lửa ngút trời hoà với tiếng nổ ở đầu cầu phía nam của bộ đội địa phương và du kích đánh vào đại đội địch giữ cầu. Dưới sông, Tổ đặc công nước cũng đã đặt xong khối nổ vào mục tiêu rồi điểm hoả và rút lui an toàn về phía Hoà Xuân.

Trận chiến đấu hai bên đầu cầu vẫn còn diễn ra, thì bất thình lình, từ dưới mặt sông, một ánh chớp loé lên kèm theo một tiếng nổ kinh hồn, làm rung chuyển cà mặt đất. Cả 3 vai cầu của cầu Đỏ đổ sập xuống sông.

Trận tiến công đánh chiếm cầu Đỏ là một sự phối hợp tuyệt đẹp giữa đặc công khô và đặc công nước. Kết quả trận đánh, ta tiêu diệt 115 tên Mỹ - ngụy, đánh sập bốn lô cốt, bốn dãy nhà ở của binh lính Mỹ, thu nhiều vũ khí và đánh sập cầu Đỏ, cắt đứt giao thông vào thành phố Đà Nẵng. Lúc đó, mặc dù quân Mỹ đóng tại các căn cứ gần cầu Đỏ rất đông song chúng cũng không làm gì được, không dám chi viện, chỉ hào phóng bắn lên trời vô số đèn sáng, làm sáng cả góc trời phía nam Đà Nẵng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 08:59:07 am
Đánh chìm 4 hải thuyền ở Cửa Đại-Hội An

Đầu tháng 4 năm 1967, trong lúc Phân đội 1 (thuộc Đội 3 đặc công nước) nhận lệnh ra cánh bắc Hoà Vang đánh cầu Thuỷ Tú thì Phân đội 2 được phân công đánh cầu Giao Thuỷ, cắt giao thông quân sự của địch giữa Ái Nghĩa - Giao Thuỷ thuộc huyện Đại Lộc và An Hoà thuộc huyện Duy Xuyên.

Cầu Giao Thuỷ bắc qua sông Thu Bồn, do công bính Mỹ thiết kế và xây dựng, phục vụ quân sự, không phải là cầu vĩnh cửu nên vật liệu xây dựng cầu là sắt và gỗ. Sau khi đánh sập cầu Giao Thuỷ, Phân đội 2 rút về hậu cứ, rút kinh nghiệm trận đánh mở đầu và chuẩn bị tinh thần cho trận đánh lớn hơn, nằm sâu trong vùng địch kiểm soát. Trong khi chờ lệnh mới, Đội bố trí cho phân đội ôn luyện chiến - kỹ thuật. Chỉ huy phân đội do đồng chí Nguyễn Tấn Minh - Chính trị viên và Nguyễn Ngọc Râng - Phân đội trưởng đưa phân đội đến khúc sông Khe Hoa - Đầu Gò, thuộc thượng nguồn sông Vu Gia để làm thao trường luyện tập. Dòng sông sâu lặng lẽ chảy, giữa hai bên là núi cao, rừng rậm thưa vắng bóng người. Họa hoằn lắm mới gặp năm ba lán trại nép mình kín đáo dưới những vòm cây của những gia đình đi lánh giặc, tao dựng cuộc sống nơi có những dải đất hẹp ven sông, có thể trồng màu, cấy lúa. Phân đội triến khai động viên nhau tập luyện về đêm, ban ngày nghỉ ngơi và cũng là thời gian anh em chia nhau đi bắt cá, hái rau để cải thiện bữa ăn chưa đảm bảo yêu cầu tối thiểu. Càng về khuya, nước sông càng lạnh. Một phần rèn luyện chiến kỹ thuật nhưng chủ yếu là tập chịu đựng ngâm mình dưới nước từ năm, sáu rồi đến bảy tiếng đồng hồ trở lên nhằm đảm bảo yêu cầu chiến đấu.

Tập luyện gần 10 ngày, lại có lệnh gọi phân đội về nhận nhiệm vụ. Về đến hậu cứ, Ban chỉ huy Đội 3 gọi và Phân đội trưởng lên giao nhiệm vụ: “Các đồng chí về triển khai cho Phân đội chuẩn bị khí tài, vật chất cần thiết để đi Hội An đánh hải thuyền địch ở Cửa Đại”. Nhận lệnh về, lãnh đạo chỉ huy phân đội tổ chức họp chi bộ, rồi họp phân đội để quán triệt nhiệm vụ và xây dựng quyết tâm chiến đấu. Mấy chiến sĩ đang bị sốt rét hành hạ vẫn kiên quyết xin đi cùng phân đội chiến đấu trận này.

Sáng ngày 16 tháng 9 năm 1967, giao liên của Thành đội Hội An đến đưa phân đội về địa phương. Cậu giao liên còn rất trẻ nhưng khá nhanh nhẹn, hoạt bát và lễ phép. Cậu xin phép nói những điều cần thiết trong cuộc hành quân:

- Sáng nay ta xuống núi qua Lộc Sơn, Lộc Thành rồi đi thẳng về Phú Thuận. Đoạn đường này nằm trên vùng B Đại Lộc, vùng kiểm soát của ta. Nhưng Mỹ đổ quân chiếm đỉnh núi Chóp Nón (thuộc huyện Duy Xuyên) quan sát hoạt động của ta và thường xuyên có “tàu già” L-19 bay lượn trên cao, nhằm phát hiện bộ đội ta hành quân di chuyển. Vì vậy, các chú nhỏ ngụy trang cẩn thận và đội hình đi thưa, đề phòng bọn Mỹ phát hiện gọi pháo bắn cấp tập vào đội hình sẽ gây ra tổn thất. Qua chợ Phú Thuận, ta xuống gần Giáng Hòa dừng lại ăn uống nghỉ ngơi, chờ chập choạng tối thì tranh thủ qua đò sang bên kia Mỹ Lược. Bến đò Giáng Hoà rất nguy hiểm. Cứ đến 19 giờ cho đến sáng, pháo địch thường bắn đến đây. Lại thêm, thường xuất hiện bất thần tốp trực thăng chiến đấu, một chiếc pha đèn soi mói khắp nơi, thấy gì khả nghi là 2 chiếc trực thăng cá lẹp sẽ lao xuống bắn rốc két và xả đại liên vào nơi chúng phát hiện mục tiêu. Nhiều đơn vị qua đây bị tổn thất vì phi pháo đó. Sang sông qua Mỹ Lược vòng qua “Nổng Bà Tình”, xuống Xuyên Phú, Xuyên Tân qua Điện Hồng. Trên quãng đường này, các chú đi nhẹ nhàng im lặng đề phòng địch thả máy cảm ứng thu tiếng động báo về các trận địa pháo, lập tức pháo chụp, pháo bầy pháo kích vào đội hình sẽ gây tổn thất khó lường. Qua đến Điện Hồng vào khoảng tám chín giờ, ta dừng lại nghỉ ngơi, đến chiều sẽ có giao liên Hội An đón các chú về Thị đội!

Thời gian này, Gò Nổi còn một số dân “trụ bám” khá đông. Phân đội phân tán ra từng tổ ăn trưa, nghỉ ngơi và có dịp trò chuyện với dân vui vẻ. Hơn 2 giờ chiều, cậu giao liên Thành đội Hội An bàn giao đoàn khách cho cô giao liên Thị đội. Giọng cô giao liên nhỏ nhẹ, xưng em với tất cả mọi người. Cô có thân hình mảnh dẻ, khuôn mặt trẻ, trắng xinh, mặc bà ba đen, thắt lưng cài lựu đạn Mỹ M26, vai khoác khẩu các-bin, đầu đội mũ tai bèo. Cô nói:

- Các anh chuẩn bị, đúng 3 giờ chiều ta xuất phát! Từ đây đi xuống Điện Quang, Điện Phong, sang Xuyên Châu là trời vừa tối, vượt qua quốc lộ một quãng giữa Nam Phước - Bà Rén, xuống Xuyên Phước, qua sông về Xuyên Nghĩa khoảng 2, 3 giờ sáng. Từ đây, sang Cẩm Thanh phải qua sông rất rộng hàng ki-lô-mét, bọn hải thuyền thường hay phục kích rất nguy hiểm! Bộ đội, cán bộ về vùng sâu, giao liên là chỉ huy tối cao, dù là cán bộ cấp cỡ nào cùng phải chấp hành nghiêm ngặt kỷ luật đi đường của giao liên phổ biến, bởi giao liên mới thuộc hết đường ngang ngõ tắt, nắm vững địch tình. Nếu sơ suất lạc đội hình, lơ ngơ trong đêm, đi vào khu du kích gài mìn hoặc gặp địch sẽ trả giá bằng xương máu!


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:00:03 am
Đến Xuyên Nghĩa gần khu chợ Nồi Rang. Nơi đây trước kia dân cư đông đúc buôn bán trên bến dưới thuyền tấp nập nhưng Mỹ, ngụy bình định xúc dân đi hết, đốt phá cày ủi san bằng, nay chỉ còn là bãi cát hoang vu, không một tiếng gà, tiếng chó. Nhìn quanh chỉ thấy những khối đen mờ im lìm vắng lặng, chỉ còn sót lại mấy cái hầm, dân quân du kích sửa lại làm trạm giao liên. Cô giao liên căn dặn: “Các anh nghỉ ngơi chờ em đi dò, quãng nửa giờ sau em quay lại đưa các anh sang sông!”. Lát sau, cô giao liên quay lại với một người đàn ông và giới thiệu: “Đây là chú chèo đò, chú sẽ phổ biến đôi điều cần thiết với các anh!”, ông lái đò vào để ngay: “Đoạn sông này rất rộng, cách duyên đoàn hải thuyền của ngụy không xa, chúng hay dùng thủ đoạn cho hai chiếc hải thuyền pha đèn sáng rực chạy ngược dòng sông khá xa, khi quay lại chúng cho một chiếc tắt máy, tắt đèn phục kích giữa sông. Thuyền của ta không biết cứ chèo sang, nghe có động thúng pha đèn lên phát hiện được là tập trung 2 khẩu đại liên hắn xối xả. Đã có nhiều cán bộ, bộ đội, du kích của ta đã hy sinh. Qua nắm tình hình, tôi biết hôm nay không có hải thuyền phục kích nhưng vẫn cứ phải đề phòng, anh em xuống thuyền ngồi yên lặng, nếu ra giữa sông, có gì bất trắc, anh em bình tĩnh nằm hết xuống thuyền để mình tôi xử trí. Nếu thấy quá nguy hiểm tôi sẽ hô rời thuyền, anh em lần lượt rời thuyền bơi về phía Cẩm Thanh, sê có anh em ta tìm đón về Thị đội!”.

Con thuyền chở phân đội nhẹ nhàng lướt đi, mấy anh em cầm mấy cây ngắn, phụ chèo với người lái thuyền. Thuyền đi nhanh qua dòng sông vắng, chỉ nghe rõ tiếng đều đều của những mái chèo khua nước. Pháo sáng từ cảng duyên đoàn hải thuyền thỉnh thoảng vút lên lơ lửng trên không, nhuộm mặt sông một màu vàng lấp lánh. Phân đội về đến Cẩm Thanh, nơi Thị đội Hội An đóng quân thì đã hơn 3 giờ sáng.

Khoảng 10 giờ hôm sau, đồng chí Ngô Hiên - Bí thư Thị uỷ Hội An, đồng chí Hiền (tên thật Lê Tấn Viễn, một trong 7 dũng sĩ Điện Ngọc) - Thị đội trưởng, đồng chí Bừa - Đội trưởng đội, công tác đơn vị. Đồng chí Bí thư Thị uỷ thăm hỏi anh em, tâm tình và giao nhiệm vụ. Đồng chí nói: “Tình hình Hội An có nhiều thuận lợi song khó khăn thì vô kể, vì đây là địa bàn có nhiều sông nước chia cắt và địch đánh phá rất ác liệt, nhiều khi cả Thị uỷ, Thị đội dạt sang vùng cát Duy Xuyên. Đặc biệt có duyên đoàn hải thuyền số 13 của ngụy tác oai tác quái, chúng bắn giết nhiều cán bộ, bộ đội ta qua lại sông, bắn giết cả ngư dân làm ăn ngoài Cửa Đại và Cù Lao Chàm. Thị uỷ đã đề nghị Mặt trận 44 giúp đỡ. Nay các đồng chí đã về, chúng tôi vui mừng và tin tưởng các đồng chí sẽ trừng trị bọn này đích đáng!”. Đồng chí Hiền - Thị đội trưởng tiếp lời: “Các đồng chí về đây chia sẻ nỗi khổ với chúng tôi, ăn cơm nấu bằng nước mặn, nước uống là dè sẻn nước dừa. Nhưng đến nay tìm được trái dừa không dễ, chỉ còn những cây dừa sát ngoài bờ sông cách địch bằng chiều ngang con sông hẹp, trèo lên mà hái, địch phát, hiện được thì không khác gì trái dừa rụng xuống! Ở đây không có hầm bí mật vì toàn cát và nước, khi có địch càn, tôi sẽ cho người đưa đi lánh càn ngoải tung dừa nước. Địch kéo sang đây càn quét, lần nào cũng bị ta đánh mìn chết hàng trung đội, vội vàng khiêng nhau chạy, bố bảo chúng cũng không dám lội ra cái nơi nguy hiểm ấy! Song phải đề phòng phi pháo địch!”. Anh vừa nói vừa lần tay vào xà cột, lấy ra tấm bản đồ trải ra giữa chiếu, ngón tay trỏ khoanh tròn khu cảng hải thuyền và trình bày sôi nổi:

- Vị trí của chúng ở đây. Trên bờ có duyên đoàn bộ, trạm sửa chữa tàu thuyền, trạm phát điện, khu ở Cửa Đại có 1 đại đội bảo vệ cầu cảng và các vọng gác chuồng cu. Lực lượng chủ yếu dưới nước là 12 chiếc hải thuyền, mỗi chiếc biên chế 12 tên, vũ khí trên mỗi hải thuyền trang bị 2 khẩu đại liên, nhiều M79 và AR15. Ban ngày chúng hoạt động ven biển. Ban đêm thường có 6 chiếc tuần tiễu trên sông, lùng sục bắn phá gây tội ác, ngăn chặn bộ đội ta sang sông hoạt động. Còn 6 chiếc chia thành 2 cụm nghỉ ngơi trước cảng duyên đoàn. Đây là mục tiêu mà các đồng chí điều tra diệt gọn. Để bảo vệ cho duyên đoàn, chúng tổ chức hàng trăm tàu thuyền đánh cá của dân thành “Công đoàn đánh cá”, quân sự hóa tổ chức này bằng cách: Hằng ngày đến 18 giờ là tất cả tàu thuyền đánh cá đều phải về đông đủ, neo đậu thành các hàng ngang ở phía thượng lưu, làm lá chắn bao đảm an toàn cho chúng. Phía bên bờ sông Duy Nghĩa, đối diện cảng duyên đoàn là vùng kiểm soát của  ta, nên về đêm chúng dùng cối 81 và ĐK7 bắn dọc bờ sông, đề phòng quân ta tấn công từ phía ấy. Các đồng chí cần lực lượng hồ trợ và những gì khác, cứ để đạt, tôi sẵn sàng đáp ứng trong phạm vi có thể!”.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:01:01 am
Họp bàn xong, phân đội khẩn trương bắt tay vào nhiệm vụ. Nhờ thị đội cho trinh sát nắm chắc tình hình địch trên bò và liên hệ với xã đội Duy Nghĩa tổ chức bộ phận đón anh em. Sau khi đánh rút về, phân đội tổ chức hai tổ trinh sát, cũng là hai tổ chiến đấu đánh hai cụm hải thuyền của địch. Một tổ do đồng chí Sơn làm Tổ trưởng, một tổ do đồng chí Huỳnh Tào làm Tổ trưởng. Qua 6 ngày đêm điều tra trinh sát, thận trọng tỉ mỉ trên một khu vực khá phức tạp, của hàng trăm tàu thuyền công đoàn đánh cá. Vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn, lạnh lẽo, công tác trinh sát được hoàn tất, đảm bảo đến 50% thắng lợi. Phân đội thiết kế 2 khối nổ, mỗi khối dùng 25kg thuốc nổ C4, đủ sức đánh tan một cụm hải thuyền 3 chiếc cấu tạo bằng vỏ gỗ. Nhưng với sự nhiệt tình giúp phân đội, cùng với lòng căm hận lũ hải thuyền, thị đội đã hỗ trợ thêm thuốc nổ, thiết kế cho mỗi khối là 30kg C4.

Trận đánh ấn định vào đêm 2 tháng 10 năm 1967, một đêm tối trời, rất thích hợp với chiến thuật đặc công. Tuy nhiên, một sự thay đổi bất ngở xảy ra. Trưa ngày 2 tháng 10, duyên đoàn hải thuyền Chu Lai kéo ra 6 chiếc buông neo ngoài Cửa Đại. Thị đội điện cho phân đội: “Các đồng chí theo dõi sát diễn biến của địch để quyết định cho trận đánh này!”. Đến 16 giờ, đoàn hải thuyền kéo nhau ra biển về hướng Cù Lao Chàm. Lúc 18 giờ, 4 chiếc hải thuyền về cảng neo đậu thành 2 cụm, mỗi cụm 2 chiếc chứ không phải mỗi cụm 3 chiếc nữa.

Phân đội khẩn trương họp, chủ yếu lấy ý tập thể là nên đánh đôm nay hay đừng lại. Anh em tham gia ý kiên sôi nổi: “Ta đã trinh sát kỹ, khí tài chuẩn bị tốt, tinh thần anh em đang háo hức lập công. Nếu ta đánh đêm nay chỉ tiêu diệt 4 chiếc không được 6 chiếc như mong muốn, nhưng ai biết được diễn biến của tình hình, không nên bỏ lỡ thời cơ!”. Chỉ huy phân đội hội ý: “Nếu đánh, giờ xuất trận có muộn hơn, song thời gian cho trận đánh có thừa, cần tôn trọng nguyện vọng tha thiết của anh em!”. Chỉ huy phân đội ra lệnh: “Tất cả anh em theo sự phân công khẩn trương triển khai về vị trí tập kết!”.

Vị trí tập kết là điểm đầu của con lạch từ sông lớn vào vùng 3 Cẩm Thanh. Hai tổ chiến đấu lần lượt đưa khối nổ ra giữa dòng sông rồi xuôi theo dòng nước chảy. Từ trong bờ nước còn hơi ấm, khi ra dòng sâu, nước lạnh thấu xương, làm cho tâm trạng anh em bần thần trong giây lát. Cảm giác ấy nhanh chóng qua đi, tâm trí mọi người đang tập trung cao độ vào kỹ thuật hành tiến, len lỏi, bí mật vượt qua khu vực tàu thuyền đánh cá neo đậu san sát trên mặt sông. Động tác cá nhân hoàn hảo vượt qua được cửa ải khó khăn, hướng về mục tiêu thẳng tiến. Hai tổ chiến đấu đã tiếp cận mục tiêu. Hai mục tiêu cách nhau gần 100m. Tổ đánh cụm 1 gần hơn, tốc độ đi chậm, tổ 2 đánh cụm số 2 xa hơn nên tốc độ hành tiến nhanh hơn, để khi vào mục tiêu thời gian chênh lệch không nhiều. Từng tổ dùng kỹ thuật đi chìm vào mục tiêu, đưa khối nổ vào điểm giữa của hai thân tàu, quàng dây cố định khối nổ một đầu dây vào dây neo, một đầu quàng vào chân vịt. Bọn địch trên tàu chụm đầu vào nhậu nhẹt và sát phạt nhau trong canh bạc đỏ đen, có biết đâu số phận của chúng đã được định đoạt chưa đến một tiếng đồng hồ.

Bấm kíp nổ hẹn giờ “30 phút”, hai tổ rút xuôi theo dòng nước chéo về bên bờ sông Xuyên Nghĩa, rồi lên bãi cát nằm nghỉ ngơi trong sự hồi hộp đợi chờ. Bỗng phía mục tiêu, một ánh chớp loé lên, tiếng nổ âm vang làm cho nước sông bốc lên cao, mặt sông dậy sóng đuổi nhau xô dạt vào bò. Mảnh vỡ của hai thuyền tung lên cao rồi rơi xuống sông ào ào kéo dài liên tiếp. Khoảng hai, ba phút sau, tiếng nổ thứ hai kế tiếp, sóng nước lại trào lên, tiếng ào ào của mảnh tàu võ tung lên rồi rơi xuống nước, lẫn với tiếng kêu la của hàng trăm tàu thuyền đánh cá và tiếng còi báo động rú vang... làm thành một thứ âm thanh xô bồ, hỗn độn vang cả một góc trời đêm của phố Hội. Pháo sáng liên tiếp bắn lên trời, có lẽ để nhìn rõ hơn cảnh tượng 48 tên lính và sĩ quan hải thuyền cùng 8 khẩu đại liên và nhiều súng cá nhân đã gây tội ác bị tan xác, bởi sự trừng trị của giải phóng quân!

Sáng hôm sau, địch không cho tàu thuyền đánh cá ra khơi, lùa hết ngư dân trên tàu lên bờ, tập trung ở bãi đất trông ở đầu gành để tra xét. Tên chỉ huy duyên đoàn lăm lăm súng ngắn trong tay hăm dọa: “Đêm qua không thể có tên Việt cộng nào lọt vào đây đánh phá, chúng toàn ở trên rừng làm gì biết tìm lặn mà đánh, chỉ có người trong công đoàn này “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” phản bội mà thôi! Rồi đây tau sẽ tróc cổ tên nào phản bội ra trừng trị. Còn bây giờ, tất cả xuống sông lặn tìm xác các binh sĩ cộng hoà tử nạn. Ai chống lệnh lập tức bắn bỏ!”. Hàng trăm người ào xuống sông ngụp lặn dưới sự kiểm soát của đại đội lính bảo vệ lăm lăm tay súng đứng trên bờ kiểm soát.

Tin đánh tiêu diệt 4 hải thuyền của ngụy ở Cửa Đại làm cho nhân dân Hội An hết sức vui mừng. Tin lan nhanh ra khắp Quảng Đà, làm cho quân và dân Quảng Đà tin tưởng: “Dù địch ở đâu, trên bờ, dưới biển đều bị Giải phóng quân ta tiêu diệt”.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, phân đội về đến hậu cứ, Tư lệnh Mặt trận 44 cho gọi cả phân đội lên gặp mặt. Đồng chí khen: “Các đồng chí đánh khá lắm, Bộ Tư lệnh sẽ xét khen thưởng xứng đáng. Song các đồng chí như những tiền đạo, tiền vệ có kỹ thuật khá, chưa nói lên được điều gì, chỉ khi vào trận đấu tất cả tiền đạo, hậu vệ và thủ thành phối hợp nhuần nhuyễn vối nhau làm cho đối phương thất bại thảm hại bằng những bàn thua không gỡ. Đó mới là điều quan trọng!”. Anh em nhận thức sâu lời ví von đầy ý nghĩa của Tư lệnh trưởng. Sau đó, phân đội được chiêu đãi một bữa liên hoan vui vẻ.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:06:36 am
Hòa nhịp cùng Tết Mậu Thân 1968

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 có mật danh là T25, thời điểm nổ súng được ấn định vào đêm Giao thừa, tức đêm 30 tháng 1 năm 1968 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968. Nhưng do lịch hai miền không thống nhất, nên trưa ngày 29 tháng 1, Quảng Đà nhận lệnh khẩn: “Hoãn T25 vào đêm 30 tháng 1 chuyển sang đêm 31 tháng 1, toàn miền Nam tổng tiến công và nổi dậy cùng một giờ Giao thừa Tết Mậu Thân”. Tuy nhiên, do Quảng Đà đã triển khai tất cả, lệnh hoãn quá gấp, chiến trường chia cắt nên không thực hiện được. Vì vậy, Quảng Đà vẫn diễn ra Tổng tiến công và nổi dậy đêm 30 tháng 1 năm 1968 như mệnh lệnh ban đầu.

Trong chiến dịch chuẩn bị cho Tết Mậu Thân, niềm lạc quan phấn khởi bao trùm lên tất cả quân - dân - chính - đảng của Quảng Đà. Có người quá lạc quan, đã hô hào: “Phá trại, vất ba lô, từ giã núi cao tiến về thành phố!”, ở cánh Bắc Đà Nẵng, Phân đội 1 đặc công nước (thuộc Đội 3) vui mừng phấn khởi, triển khai chuẩn bị mục tiêu đánh phối hợp góp phần vào thắng lợi chung của toàn mặt trận. Giữa lúc đó, phân đội nhận được lệnh khẩn: “Thời gian quá gấp, phân đội khẩn trương chuẩn bị khí tài tổ chức đánh ngay tàu vận tải quân sự Mỹ neo đậu ở vùng vịnh Phú Lộc, đúng giờ G. của toàn mặt trận. Đánh xong, rút vào bờ biển Phú Lộc sẽ có người đến đón!”.

Chấp hành mệnh lệnh của trên, phân đội chuyển quân từ khe Răm (Nam Hải Vân) xuống Phò Nam, Trường Định, liên hệ với xã đội, bố trí anh em du kích giúp phân đội triển khai chuẩn bị. Phân đội phân công mấy đồng chí chuẩn bị khí tài, thiết kế khối nổ. Chưa biết mục tiêu to lớn cỡ nào, nhưng loại tàu vận tải một vạn tấn thì phải cần đến 50kg thuốc nổ C4 trở lên là đạt hiệu quả cao. Để chắc chắn, phân đội quyết định: “Khối nổ 60kg C4”. Tổ chức tổ chiến đấu do chính Phân đội trưởng Huỳnh Thế làm Tổ trưởng.

Đêm 30 tháng 1, tổ chiến đấu tiếp cận bờ sông, xuôi dòng Cu Đê, vượt qua gầm cầu Thủy Tú, ra cửa sông đến bãi biển Nam Ô vào khoảng 21 giờ 30 phút, cả tổ bò lên mép bờ cát nằm quan sát, phát hiện nhiều mục tiêu trên biển và đúng như điện của mặt trận, khu vịnh Phú Lộc có nhiều tàu vận tải quân sự neo đậu gần bờ, chiếc gần nhất cũng đến 2km. Anh em nhận định: nếu đánh mục tiêu tàu này thì cầm chắc thắng trong tay, nhưng đánh xong chỉ còn đủ thời gian rút vào bò biển Phú Lộc. Điện của mặt trận nói rõ: “Đánh xong rút vào bờ biển Phú Lộc sẽ có người đến đón!”. Anh em phân vân tự hỏi: “Bô phận nào đến đón anh em? Điều gì sẽ xảy ra, khi đánh xong rút vào bờ biển Phú Lộc mà không có ai đến đón, anh em sẽ bơ vơ lạ lẫm trong hang ổ kẻ thù biết xoay xở ra sao?”. Tuy vậy, “Quân lệnh như sơn”, phân đội triệt để chấp hành, động viên nhau: “Trước mắt chúng ta là kẻ thù, tập trung tinh thần và nghị lực, triệt để chấp hành mệnh lệnh cấp trên, tiêu diệt mục tiêu, hoàn thành nhiệm vụ, dù hy sinh tính mệnh cũng quyết không lùi bước!”.

Đêm 30 Tết như có một cái gì thiêng liêng, xao động lòng người. Bất giác Huỳnh Thế nhớ đến hai câu thơ Tố Hữu: “Đêm nay pháo nổ giao thừa / Mà người chiến sĩ không nhà còn đi”. Rồi liên hệ đến nhiệm vụ của tổ chiến đấu, anh nhẩm tiếp hai câu: “Sá gi gian khó hiểm nguy / Bắt Mỹ đền tội đúng khi giao thừa!”.

Trước mắt anh em, vịnh Đà Nẵng mênh mông, vẫn ầm ào cuộn sóng vào bờ cát. Đèn điện trên các con tàu neo đậu tỏa từng đám sáng lung linh, chen lẫn những đám sáng di động của tàu bè vào vịnh. Tổ chiến đấu tiếp tục lên đường, kéo khối nổ, lợi dụng nước cạn đi dọc vẹn bờ đến vùng vịnh Phú Lộc hướng về mục tiêu. Nhìn vào bờ, khu hậu cần Mỹ ở Bàu Mạc, Xuân Thiếu đèn bảo vệ dày đặc, sáng choang, trông rõ nét những tốp lính đi tuần ngoài bãi cát, ven các kho chứa hàng quân sự.

Đêm vùng vịnh Phú Lộc, từ trong bờ ra đến mục tiêu chỉ 2km, nhưng anh em phải bơi cắt một đường chéo đến 3km đè ngang dòng nước từ ngoài biển xô vào mới tiếp cận được mục tiêu. Ai nấy đều cố hết sức bình sinh, trong lòng biển lạnh mà tưởng như mồ hôi toát ra hoà vào trong nước. Gần đến mục tiêu, anh em dùng kỹ thuật “đi chìm” bí mật vào đến mục tiêu an toàn. Vài ba tên thủy thủ trên tàu đi lại trên boong quan sát chung quanh, có lẽ chẳng nhìn trời nước mênh mông thả tâm hồn về nơi xa xôi nào đó! Con tàu sừng sững, sáng trưng trong ánh sáng của vô số bóng đèn lớn nhỏ. Tàu chứa hàng nên thước đo mớn nước thân tàu ở mức tải trọng cao. Không có khối nổ nam châm nên anh em áp khối nổ vào thân tàu. Tổ trưởng giữ khối nổ, một tổ viên kéo đầu dây buộc chặt vào dây xích thả neo ở đầu mũi tàu, một tổ viên kéo một đầu dây kia quàng vào chân vịt ở đuôi tàu. Sau đó, tổ trưởng điểm hoả rồi cả tổ rút nhanh, hơn hai mươi phút đã vào đến bờ biển Phú Lộc. Đồng hồ đã chỉ đúng 24 giờ.

Vừa lúc ấy, trong thành phố, tiếng súng quân ta tiến công, nổi dậy nổ ran, người ta nghe rõ tiếng tiểu liên, trung liên xen với tiếng nổ của lựu đạn, thủ pháo lúc thưa lúc nhặt. Hướng nam thành phố, nhiều đám cháy ngọn lửa bốc cao, khói đen cuộn lên mù mịt.

Bất thình lình, một ánh lửa loé lên từ mục tiêu ngoài vịnh Phú Lộc, tiếp theo là tiếng nổ lớn, dựng lên một cột nước cao hàng chục mét rồi vỡ ra đổ xuống đúng nơi chiếc tàu đang chìm dần xuống đáy biển sâu. Niềm hân hoan, phấn khởi của anh em không kể xiết, bởi trận đánh tàu vận tải hàng vạn tấn của Mỹ đầu tiên, phối hợp tuyệt vời với chiến dịch Tống tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của Đội 3 đặc công nước đã thành công trọn vẹn. Sau đó, từ niêm vui như ngất ngây, anh em dần chuyển sang lo lắng, bởi nguy hiểm đang dần hiện ra trước mắt.

Đến 3 giờ sáng, tiếng súng đã im, rồi tiếng gầm rú của xe tăng, xe bọc thép, máy bay cùng với hàng tràng đại liên M50, đại liên 60 xen lẫn tiếng súng AR15, cối cá nhân M79 nổ vang khắp nơi. Từng tốp trực thăng chiến đấu lượn quần vùng ngoại vi thành phố, chúng pha đèn, bắn rốc-két xuống nhiều nơi. Tiếng kêu la hò hét ở đâu đó đang rộn lên trong các khu dân cư vọng tới. Trời sắp sáng, tại điểm hẹn Phú Lộc, không có người nào đến đón, tình thế trở nên vô cùng nguy hiểm. Tổ chiến đấu liền đi tìm nơi ẩn nấp, trong một chiếc ghe hỏng của ngư dân úp bỏ từ lâu, cỏ dại và dây muống biển bò lan che lấp. Ai nấy cũng trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và quyết tử, khi địch lùng sục đến đây.

Cả ngày 31 tháng 1, Mỹ - ngụy vây ráp đánh phá khắp nơi tại Đà Nẵng. Bọn cảnh sát biệt động quân, dân vệ áo đen... kéo nhau đi lùng sục bắt bớ, tra tấn, bắn giết dã man trên các phố phường, làng xóm! Nhân dân Đà Nẵng đón tết trong máu lửa hận thù! Một ngày căng thẳng sắp qua, hoàng hôn xuống, một đêm nữa bắt đầu. Anh em bàn nhau tự mình tìm phương thoát hiểm. Biết rằng giữa hang ổ kẻ thù, Mỹ - ngụy dày đặc, anh em lại không nắm vững địch tình, đường đi lối lại, chỉ nhằm hướng mà đi là vô cùng nguy hiểm! Tuy nhiên, nếu vẫn nấn ná tại đây, trước sau gì địch cũng lùng sục đến. Trước thực tế đó, tổ quyết định lần dò đến khu vực[ ngã ba Huế, rồi từ đây tìm cách vượt ra vùng ven đô về vùng tranh chấp để gặp du kích, bộ đội của ta. Không có thời gian bàn bạc nữa, đã quyết là làm ngay. Anh em lần dò trong đêm tối, băng qua những cồn cát, những bãi đầy cỏ dại, qua những vuông ruộng bỏ hoang, lội qua những khe nước, đến khu đất trồng hoa màu của dân rồi vào khu dân cư nghèo nhà cửa lụp xụp ở ngoài rìa thành phố. Qua được khu vực này là đến phố xá, nhà xây mái tôn chen lẫn nhà cao tầng liền nhau, dọc theo đường lớn, hiện rõ dưới ánh sáng từ đèn điện mắc trên những cột điện cao tỏa xuống. Anh em lợi dụng bóng tối, vượt qua đường, sang dãy phố bên kia, rồi đi dọc theo các xóm nhà có vườn cây, bờ tre rậm rạp chạy dài theo trục đường sắt Bắc - Nam. Khi họ vượt qua đường, bọn lính địa phương quân đi tuần phát hiện được liền hô hào bọn dân vệ áo đen đuổi bắt. Trong tình thế hiểm nghèo đó, 3 chiến sĩ đặc công nước của Phân đội 1 thuộc Đội 3 đặc công nước Quảng Đà đã chiến đấu một cách anh dũng đến hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau, thi thể của anh em mới được bà con địa phương đưa về chôn cất.

Sự hy sinh của những chiến sĩ đặc công nước trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhất là chiến công đánh chìm tàu quân sự Lo-ry của quân xâm lược Mỹ đã thắp sáng thêm truyền thống của Binh chủng Đặc công nước Quảng Đà anh hùng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:09:18 am
Quyết chiến trên sông Hàn

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 do Đà Nẵng là căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất miền Trung nên sau khi hoàn hồn, địch phản kích điên cuồng, chuyển chiến lược “Tìm và diệt” không còn hiệu quả sang chiến lược “Quét và giữ” nhằm tiêu diệt quân chủ lực ta, đẩy lực lượng đối phương ra xa, củng cố vững chắc vành đai phòng thủ chung quanh Đà Nẵng.

Về phía ta, tuy giành được một số thắng lợi lớn nhưng vẫn chưa đạt được yêu cầu đề ra và hao tốn khá nhiều về lực lượng. Theo chỉ thị của Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Mặt trận 44, các đơn vị, địa phương nhanh chóng củng cố sắp xếp lực lượng theo hướng tinh gọn, bổ sung vũ khí, trang bị sẵn sàng chuẩn bị cho chiến dịch tiếp theo.

Ngày 5 tháng 5 năm 1968, chiến dịch Hè mở màn (mật danh Xl), tiếng súng nổ tiến công tiêu diệt các căn cứ, chi khu quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng của địch nhằm tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh địch, làm suy sụp tinh thần của Mỹ, ngụy tại Quảng Đà. Liên tiếp bị thất bại, địch huy động hết ưu thế về phương tiện và vũ khí để đánh phá, bình định kiểm soát, san bằng cày ủi, lập hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra từ bắc Hoà Vang qua Điện Bàn đến thị xã Hội An. Tuy nhiên những hoạt động của địch mang tính phỏng thủ chứ không giành được thế chủ động chiến trường, gây cho ta thêm nhiều khó khăn mới.

Phát huy chiến quả chiến dịch Hè 1968, Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Mặt trận 44 quyết định mở tiếp chiến dịch Thu 1968 (mật danh X2). Trong chiến dịch này, các đơn vị bộ binh, đặc công kết hợp lực lượng vũ trang địa phương đánh mạnh đều khắp trên vành đai Đà Nẵng, một số đơn vị đặc công gọn nhẹ đột nhập vào nội thành, phối hợp với tự vệ, biệt động đánh vào các mục tiêu quan trọng của Mỹ, ngụy.

Phân đội đặc công nước do đồng chí Nguyễn Tấn Minh làm Chính trị viên, đồng chí Nguyễn Ngọc Râng - Phân đội trưởng đang trú quân ở khu vực Điện Nam (vùng cát Điện Bàn) nhận được lệnh: “Phân đội đặc công nước có nhiệm vụ đánh sập cầu Trịnh Minh Thế trên sông Hàn!”. Phân đội khẩn trương tổ chức quán triệt thực hiện mệnh lệnh được giao và tổ chức phân công chiến đấu. Nói là cầu Trịnh Minh Thế nhưng thực sự có hai cầu: một cầu do Pháp làm từ trước và một cầu song song với cầu cũ cách nhau khoảng 100m (tức cầu Nguyễn Văn Trỗi và cầu Trần Thị Lý hiện nay), do Mỹ xây dựng để đáp ứng yêu cầu lưu lượng của xe quân sự qua lại thường xuyên với mật độ cao.

Để đánh sập hai cầu cùng một lúc, phân đội bố trí thành 2 tổ, mỗi tổ 3 chiến sĩ, chuẩn bị mỗi tổ 1 khối nổ 60kg C4. Tổ 1 do đồng chí Huỳnh Tào làm tổ trưởng. Tổ 2 do đồng chí Nguyễn Sơn làm tổ trưởng. Đồng chí Nguyễn Ngọc Râng - Phân đội trưởng trực tiếp chỉ huy cùng đồng chí Nguyễn Tấn Minh - Chính trị viên và 2 đồng chí là cơ sở và du kích mật của quận 3 ra xóm vạn Cồn Bồi bố trí nơi tập kết chuẩn bị chiến đấu cho phân đội. Xóm vạn cồn Bồi là một cồn cát giữa sông Hàn cách cầu Trịnh Minh Thế gần 2km về phía thượng lưu. Gọi là xóm vì trên cồn cát có chừng 30 nhà chòi của các gia đình ngư dân địch tập trung ở đây để dễ bề kiểm soát, cứ chiều tối, các thuyền đánh cá về neo đậu. Ta đã xây dựng xóm vạn Cồn Bồi thành cơ sở nổi của hệ thống cơ sở sông Đà trong thời gian này.

Khi phân đội vào vị trí tập kết xóm vạn thì bộ phận đồng chí Minh bám địch, soi đường xuống phía hạ lưu (khu vực An Đồn) bố trí nơi đón anh em sau khi đánh rút về và đưa đến vị trí trú quân được cơ sở bố trí hầm bí mật trú ẩn. Phân đội khẩn trương triển khai nhiệm vụ, vượt qua bao nhiêu khó khăn nguy hiểm trong vùng địch bố phòng kiểm soát gắt gao. Thực hiện kế hoạch không gặp sự cố gì, kể cả lần trinh sát cuối cùng vào mục tiêu đêm 16 tháng 8 năm 1968. Anh em ai nấy thở phào nhẹ nhõm, lòng tràn đầy phấn khởi, tin tưởng vào chiến thắng ngay trong đêm 17 tháng 8 năm 1968, mở màn chiến dịch X2 Thu 1968.

Đến 15 giờ ngày 17 tháng 8, bỗng nhiên vang động tiếng động cơ của hàng chục chiếc ca nô chở đầy lính ngụy từ phía hạ lưu rẽ sóng tiến về xóm vạn Cồn Bồi. Biết tình thế nguy hiểm xảy ra, Phân đội trưởng Nguyễn Ngọc Râng ra lệnh: “Chúng ta đã bị lộ, hai tổ bố trí ở hai hướng, quyết chiến đấu đến cùng không được phép hoang mang dao động!”. Anh em tản ra hai hướng. Bọn địch kéo đên, gọi loa oang oang: “Hỡi các chiến binh đặc công Việt Cộng! Các anh bị quân lực Việt Nam cộng hoà bao vây, muốn sống hãy ra đầu hàng. Thời gian cho các anh suy nghĩ là 5 phút. Nếu chống trả sẽ bị tiêu diệt hết!”. Địch gọi loa giục dân dồn về cuối xóm. Các bà, các chị và trẻ em hốt hoảng gọi nhau í ới. Không khí căng thẳng nặng nề! Các chiến sĩ ta không cảm thấy lo sợ mà thấy trong lòng căm hận kẻ thù và bọn tay sai chỉ điểm. Chỉ tiếc là vũ khí trang bị cho 7 chiến sĩ đặc công nước chỉ có 1 súng ngắn, 2 AK báng gấp, 6 băng đạn, 14 lựu đạn và dao găm. Còn quân địch là 1 đại đội hàng trăm quân, với nhiều vũ khí hiện đại.

Tương quan lực lượng quá chênh lệch. Nhưng ta có một thứ vũ khí mà kẻ thù không có được đó là: tinh thần quyết chiến, dũng cảm ngoan cường. Bọn địch lùa dân lên ca nô và bắt đầu nổ súng, đổ quân lên xóm vạn Cồn Bồi. Chúng hùng hổ dàn hàng ngang phát huy hỏa lực, tưởng dễ dàng tiêu diệt quân ta. Lập tức, tiếng súng AK, lựu đạn của anh em ném về phía chúng nổ vang. Ngay đợt đầu hàng chục tên bỏ mạng. Bọn địch hò hét xông lên! Súng nổ vang trời, mịt mù khói lửa. Anh em ta sử dụng hết lựu đạn thì dùng dao găm đánh giáp lá cà, tiêu diệt nhiều tên địch. Sau 20 phút, chiến trường im tiếng súng, chỉ còn lại cảnh tan hoang của các nhà chòi cháy trời và quân địch hò nhau kéo xác “chiến hữu” tử vong xuống các ca nô. Bên ta, tất cả 7 chiến sĩ đặc công nước đã anh dũng hy sinh sau khi tiêu diệt gần 40 tên địch.

Ở nơi đón dưới hạ lưu, bộ phận của đồng chí Nguyễn Tấn Minh chờ mãi đến gần 3 giờ sáng mới biết tin dữ: “Trận đánh không thành!”. Ai nấy bàng hoàng đau xót và dự định đêm 18 tháng 8 năm 1968, sẽ rời căn cứ lõm ở quận 3, tìm đường trở về hậu cứ. Nhưng sáng sớm ngày 18 tháng 8 năm 1968, Mỹ, ngụy đổ quân càn quét, lục soát khu vực Đa Mặn - bắc Mỹ An và một số vùng lân cận. Quân địch đã khui được một sô hầm bí mật, bứn chết một số cán bộ ta, trong đó có đồng chí Nguyên Hữu Nỳ (Năm Thông) - Bí thư Quận ủy quận 3, đang đứng chân ở căn cứ lõm chỉ đạo phong trào. Địch càn quét dài ngày, rải quân bịt chặt các nẻo đường ra vào thành phố. Ban đêm, chúng phục kích khắp nơi, các đường dây giao liên tạm thời hạn chế hoạt động ở cánh đông Đà Nẵng. Cơ sở căn cứ nổi sông Đà bố trí cho đồng chí Minh theo thuyền đánh cá ra biển, rồi vòng về vùng 5 xã Hòa Hải an toàn.

Sau trận đánh này, địch không cho ngư dân sông ở xóm vạn Cồn Bồi nữa. Vậy là, cái xóm cồn cát đơn độc giữa sông Hàn ấy, trải qua năm tháng Cồn Bồi bị xóa lở ngày càng thu nhỏ lại, nhưng đó là nơi ghi dấu sự chiến đấu kiên cường, hy sinh anh dũng của 7 chiến sĩ đặc công nước của Đội 3.

Là những người trong cuộc, may mắn còn cho đến ngày nay, mỗi khi đi qua cầu nhìn xuống dòng sông lững lờ nước chảy, lòng chúng tôi như se thắt lại, mắt rưng rưng, tai như nghe thấy trong tiếng gió reo có tiếng thầm thì của 7 đồng chí mình, những người đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:11:55 am
Trận đánh kho xăng Liên Chiểu

Kho xăng Liên Chiểu, nằm ở phía nam chân đèo Hải Vân, từ làng Kim Liên đi lên khoảng chừng lkm, được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Khi quân Mỹ vào Đà Nẵng, chúng nâng cấp thành kho xăng lớn nhất miền Trung nhằm phục vụ nhiên liệu cho các phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy tại Vùng 1 chiến thuật cũng như cả trung nguyên trung phần.

Vừa đặt chân đến Đà Nẵng, Mỹ cho san gạt đồi núi, lắp đặt các bồn xăng trên mặt bằng hai cấp. Cấp trên cao và rộng, có bình độ 20m so với mặt biển. Cấp dưới thấp giáp biển, có bình độ lõm so với mặt biển. Cấp trên có 5 bồn xăng, kho chứa vật tư, khu văn phòng, nhà ở của đại đội lính bảo vệ, bãi xe. Cấp dưới thấp có 4 bồn xăng, một số nhà nhỏ lắp đặt máy móc và chứa các vật dụng chuyên ngành. Chung quanh bốn mặt kho có tường xây cao 3m và một hệ thống lô cốt liên hoàn. Ngoài tường xây là sáu, bảy lớp rào dây thép gai các kiểu, giữa các lớp rào là các bãi mìn dày đặc. Hệ thống đèn cao áp sáng choang cả khu kho. Bốn góc là lô cốt cao, bố trí đèn pha cực mạnh, thỉnh thoảng pha quét diện rộng và xa vào ban đêm để kiểm tra, nhất là những đêm trời mưa gió. Đại đội lính bảo vệ, ngoài việc canh gác ở lô cốt, còn thay nhau đi tuần tra, chủ yếu là quãng đường đèo chạy qua kho xăng Liên Chiểu.

Địch bố phòng cẩn mật nhưng vẫn bị một đơn vị của Tiều đoản đặc công 89 đánh tiêu huỷ cả 9 bồn xăng trên 20 triệu lít, diệt hàng trăm tên địch, phá huỷ nhiều xe cộ máy móc trang bị trong kho vào đêm mồng 5 tháng 8 năm 1965. Bị đánh đau, địch cho tăng cường 1 đại đội lính chuyên đi tuần tra vòng ngoài, phát quang ba mặt khu kho, chống đặc công từ trên núi đột kích vào kho. Do địch ra sức canh phòng và địa hình trông trải, hiểm trở nên kho xăng Liên Chiểu được một thời gian yên ổn.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của ta vào Tết Mậu Thân - 1968, Mỹ, ngụy tăng cường đánh phá ác liệt, nhiều trận càn quét quy mô sư đoàn với thời gian hàng tháng tại vùng núi tây bắc Hoà Vang, nhất là Khu I - Hoà Vang. Hằng ngày, chúng dùng 31 lượt B-52 đánh bom rải thảm khu vực Gò Nổi nhằm đánh bật chỉ huy sở tiền phương của Mặt trận 44, các cơ quan của tỉnh, huyện và các đơn vị bộ đội đứng chân. Chúng cày ủi san bằng, xúc tát hết dân từ chân đèo Hải Vân qua các huyện Hoà Vang, Điện Bàn xuống tới Hội An thành một vành đai trắng nhằm bảo vệ cho Đà Nẵng.

Sau Tết Mậu Thân, ta tiếp tục thực hiện chiến dịch XI và X2, làm cho địch bị thiệt hại nặng nhất là chiến dịch mùa Thu 1968. Ngày 22 tháng 2 năm 1969, tiếng súng của chiến dịch tiến công Xuân Kỷ Dậu đã nổ trên chiến trường Quảng Đà. Phân đội đặc công nước (thuộc Đội 3) ở cánh Bắc của Đà Nẵng, tuy quân số chỉ còn một nửa nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu, lập công trong chiến dịch này. Hằng ngày nhìn kho xăng Liên Chiểu như cái gai trước mắt, anh em nảy ra ý nghĩ: “Địch ra sức canh phòng, đặc công bộ không đột kích được ở ba mặt trên bờ thì đặc công nước đột kích từ dưới biển lên, nhất định chúng sẽ bị bất ngờ!”. Từ suy nghĩ ấy, Chính trị viên Huỳnh Tửu đưa mục tiêu kho xăng vào kế hoạch chiến đấu của phân đội!

Tuy nhiên “lực bất tòng tâm”, sau những tháng năm chiến đấu, lực lượng đặc công nước Đội 3 hao mòn lại không được bổ sung. Phân đội trưởng Huỳnh Thế đã hy sinh trong trận đánh tàu Lo-ry Tết Mậu Thân, số anh em còn lại tinh thần chiến đấu vẫn vững vàng nhưng sức khỏe giảm sút vì gian khổ thiếu thốn, có người sốt rét rụng hết tóc trên đầu. Tiểu đoàn đặc công 89, khi đánh kho xăng trước đây đã sử dụng 1 đại đội, ngoài ra còn lực lượng địa phương hỗ trợ. Còn phân đội đặc công nước còn lại vỏn vẹn 6 người, đánh đấm ra sao, một bài toán khó mà Huỳnh Tửu chưa tìm ra đáp số.

Hàng ngày anh em trong phân đội vẫn kháo nhau: “Mèo bé thì bắt chuột con, là mèo đói thì không ngán xơi chuột bự!”. Câu nói có vẻ như đùa song làm cho Huỳnh Tửu quan tâm trao đổi bàn bạc phân tích kỹ và cuối cùng quyết định: “Sử dụng một tổ 4 người, đột nhập từ biển lên, đánh 4 bồn xăng ở tầng thấp, đánh xong lại rút theo đường biển trở về. Kho xăng Liên Chiểu chưa bị đánh lần nào theo kiểu này, đây là yếu tố bất ngờ với địch!”. Đề ra mục tiêu chiến đấu như vậy là phù hợp với thực tế của phân đội, tạo điều kiện cho phân đội lập công góp phần vào chiến dịch tiến công Xuân Kỷ Dậu của Mặt trận 44 Quảng Đà.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:13:00 am
Phân đội liên hệ hiệp đồng chiến đấu với Khu đội 1 - Hoà Vang, móc nối với các cơ sở ở Nam Ô để chuẩn bị chỗ ăn ở, bố trí du kích mật phối hợp giúp đỡ phân đội trong suốt quá trình chuẩn bị, trinh sát, chiến đấu và đón anh em sau chiến đấu trở về. Cơ sở ở Nam Ô khá vững vàng, chuẩn bị chu đáo theo yêu cầu trong thời gian ngắn.

Từ hậu cứ, Huỳnh Tửu đưa cả 5 chiến sĩ xuống Nam Ô tổ chức 1 tổ chiến đấu 4 người tiến hành điều tra trinh sát mục tiêu. Tổ du kích bám địch, dẫn đường đưa tổ trinh sát ra chỗ doi cát nhô ra biển phía nam cửa sông Thuỷ Tú. Gió từ ngoài biển thổi vào, đẩy những con sóng nhỏ nối nhau dào lên bãi cát và làm se lạnh những thân hình trần trụi của các chiến sĩ đặc công. Anh em khởi động làm ấm người trước khi xuống nước. Khoảng 20 giờ, tổ trinh sát vượt quãng đường tính theo đường chim bay chừng 2km, tiếp cận kho xăng từ phía biển. Nhìn lên kho xăng ở trên cao, phía mặt biển vẫn có tường xây che chắn. Phía ngoài tường là ta-luy thoai thoải với bốn năm lớp rào dây thép gai bảo vệ. Vách ta-luy có chỗ xói lở thành khe, cỏ mọc bò lan xen lẫn cây dại, lưa thưa không thành cụm. Anh em quan sát phán đoán nhưng chưa thấy lối nào thuận lợi để mở đường đột nhập vào kho. Vào thực tế mới thấy từ phía biển đột kích vào kho xăng không dễ chút nào. Tổ trinh sát kiên trì di chuyển lần dò đường tiềm nhập. Huỳnh Tửu phát hiện thấy miệng cống và phán đoán có thể là cống thoát nước từ trên kho đổ xuống. Miệng cống khá to, Huỳnh Tửu cùng một tổ viên thử chui vào dò xét, nhích dần từng đoạn theo lòng cống tối om. Họ động viên nhau cố gắng nhích lên đến khi nào không tiến lên được mới thôi, mặc dù ai nấy cảm thây gò bó ngột ngạt. Khoảng gần một giờ, trước mắt anh em là ánh sáng lờ mờ rồi sáng tỏ. Một tấm sắt thưa chắn trên miệng cống. Huỳnh Tửu lấy hết sức đẩy bung tấm chắn, nhô đầu ra khỏi cống, các bồn xăng trắng toát sừng sững hiện ra trước mắt. Hai người mừng rỡ chui ra khỏi cống, nằm gọn dưới lòng con mương dẫn nước ra miệng cống, quan sát nắm tình hình.

Ở tầng thấp, khu kho có 4 bồn xăng, mấy gian nhà nhỏ che các thiết bị máy móc, nhiều ống dẫn xăng dầu ngang dọc, một vọng gác ngay chỗ cổng sắt đường xuống cầu tàu, có lính canh gác. Trước giờ đổi gác, có 3 tên lính đi rảo quanh các bồn xăng, rồi mới ra vọng gác thay ca. Hai anh em nắm tình hình khá chi tiết, kết quả ngoài dự kiến. Hai người rút ra khỏi cống, Huỳnh Tửu bố trí cho 2 chiến sĩ còn lại tiếp tục chui vào ống cống lên quan sát mục tiêu để nắm rõ đường tiến, lui và củng cố niềm tin thắng lợi.

Rời mục tiêu, trở lại Nam Ô, Huỳnh Tửu vẽ lại sơ đồ, bàn phương án chiến đấu: Chính trị viên Huỳnh Tửu trực tiếp làm tổ trưởng tổ chiến đấu 4 người. Mỗi người có nhiệm vụ đánh 1 bồn xăng theo sự phân công. Dùng 4 khối nổ mỗi khối 3kg C4, dùng kíp nổ hẹn giờ 30 phút. Tất cả mọi việc đều phải chuẩn bị tỉ mỉ, cẩn thận và khẩn trương. Mỗi người xác định nhiệm vụ, viết quyết tâm thư gửi cấp trên trước khi vào trận đánh.

Lúc 19 giờ ngày 28 tháng 2 năm 1969, những con cá kình từ cửa sông Thuỷ Tú vượt biển hướng về mục tiêu kho xăng Liên Chiểu. Sóng biển từng đợt xô nhau lao xao dào dạt như ve vuốt vỗ về những chiến sĩ dặc công nước dũng cảm, ngoan cường trước trận đánh đêm nay.

Đến 21 giờ, cả tổ tiếp cận vào bờ, bí mật, thận trọng từng động tác, lần lượt tiềm nhập mục tiêu theo đường cống. Lên khỏi cống, tổ triển khai nầm dọc theo con mương xây xi măng ở sát chân tường chờ lệnh. Tổ trưởng quan sát theo dõi chọn thời cơ, khi mấy tên lính gác đi tuần rồi ra vọng gác thay ca cho mấy tên ca trước. Tổ trưởng ra lệnh, từng tổ viên lợi dụng bóng tối của các tử giác, nhanh chóng đưa khối nổ vào chân bồn xăng của mình được phân công. Anh em đồng loạt điểm hỏa rồi rút lui. Cả tổ rút ra khỏi cống chưa đầy 30 phút, ai nấy hồi hộp chờ đợi.

Bỗng từ kho xăng, tiếng nổ tiếp nhau vang rền, lửa cháy ào ào bốc lên trùm kín một vùng, các bồn xăng ụ ra, chảy tràn đến đâu lửa bùng lên đên đó, sáng cả vùng trời Liên Chiểu. Còi báo động rú lên inh ỏi, quân địch chạy nháo nhào. Chúng tập trung hết xe chữa cháy, dùng vòi rồng phun nước và phun các chất chữa cháy làm thành bức tường ngăn không cho ngọn lửa cháy làn lên 5 bồn xăng ở bậc trên cao.

Trận đánh thắng lợi với hiệu quả cao, thiêu hủy gần 10 triệu lít xăng của kho Liên Chiểu. Ngọn lửa sáng rực một vùng rừng núi Hải Vân sáng thêm niềm tin tưởng, thương yêu của quân và dân Quảng Đà dành cho lực lượng đặc công nước, binh chủng được sản sinh ra từ Đoàn 126 hải quân.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:19:44 am
Diệt pháo hạm thuộc hạm đội 7 của Mỹ

Từ năm 1966 trở đi, trên chiến trường Quảng Nam - Đà Năng, ngoài các trận địa pháo trên đất liền bắn phá còn phải hứng chịu các loại pháo lớn, không phải pháo cỡ 105 ly, 155 ly hay vua chiến trường 175 ly mà các cỗ pháo to hơn trên 200 ly từ pháo hạm bắn vào. Từ năm 1967 - 1968, nhất là khi Mỹ, ngụy thua đau trong chiến dịch mùa khô thứ hai thì pháo hạm tăng cường yểm trợ cho quân Mỹ, ngụy mở các trận càn quét quy mô với cường độ rất cao.

Trước mỗi trận địch càn, các trận địa pháo trên đất liền cùng với pháo trên các pháo hạm, tập trung bắn phá hàng giờ liền, dọn bãi cho bộ binh triển khai càn quét. Những trận càn quét dài ngày, từ sáng đến chiều quân bộ lùng sục đốt phá, tối đến co cụm lại một nơi, để cho phi pháo hoạt động. Máy bay “thả bom trộm”, pháo các cỡ cầm canh theo toạ độ ô vuông. Đủ các cỡ pháo to nhỏ khác nhau, đủ các kiểu đạn pháo: loại đạn pháo nổ tư trên không chụp xuống, loại đạn nổ phá cả một vùng khá rộng, có loại đạn xuyên vào mục tiêu hoặc xuyên đất rồi mới nổ. Mức độ đánh phá của địch có thể khái quát là “bom chồng lên bom, đạn cày lên đạn”, đến nỗi nhiều vùng quê trở thành bình địa, không còn một dấu vết nào để khẳng định trước kia nơi đây nhà cửa dân cư đông đúc, làng quê đẹp đẽ thanh bình.

Tổn thất của ta vì pháo địch rất nhiều. Vì vậy các trận địa pháo của địch như: Cẩm Hà, Lai Nghi, Cồn Khe, Hoà Cầm, Thanh Vinh, Vĩnh Điện... bị quân ta đánh phá làm cho địch tổn thất nặng nề. Riêng pháo hạm thì chưa có cách nào trừng trị được. Anh em đặc công nước luôn để tâm theo dõi nghiên cứu. Có lần, ta bó trí trinh sát theo thuyền đánh cá của ngư dân Duy Hải, Bình Dương ra Cù Lao Chàm điều tra nghiên cứu. Được biết loại pháo hạm này là của hạm đội 7 Mỹ, chuyên làm nhiệm vụ cơ động dọc theo bờ biển, đánh phá các mục tiêu trên bộ của ta và yểm trợ cho các cuộc hành quân của Mỹ. Đánh phá xong lại rút ra khơi về hạm đội. Vì thế, kế hoạch đánh tiêu diệt pháo hạm địch của đặc công nước không thực hiện được.

Cả chiến dịch mùa Thu Kỷ Dậu - 1969, phân đội đặc công nước chưa lập được chiến công lớn. Mãi đến tháng 10 năm 1969, tình huống ngoài dự kiến xuất hiện, anh em đặc công nước phát hiện tàu chiến cỡ lớn của địch vào neo đậu đơn độc ngoài cửa Vịnh Đà Nẵng, phía trong hòn Sơn Trà nhỏ, cách bờ chân núi chừng 300m chiếu thẳng hàng với phao số 0 ở cửa vịnh. Dùng ống nhòm quan sát thấy trên boong tàu rất nhiều ụ pháo, anh em xác định đây “đích thị là hung thần pháo hạm”. Những câu hỏi đặt ra: “Tại sao nó lại vào neo đậu ở đây mà không thấy hiện tượng tiếp nhiên liệu?”. Chỉ thấy khoảng 16 giờ, có mấy ca nô chở bọn lính trên tàu vào cảng hải quân ngụy, đến bảy tám giờ sáng hôm sau lại chở ra tàu. Anh em phán đoán chắc pháo hạm này có trục trặc gì đây cần phải sửa chữa. Thời cơ tốt cho ta tiêu diệt chúng! Nhưng anh em đánh kho xăng Liên Chiểu chưa lâu, sức khỏe chưa bình phục. Trong 7 anh em còn lại, từ ngày Phân đội trưởng Huỳnh Thế hy sinh, Chính trị viên Huỳnh Tửu chỉ huy chung, còn 6 anh em thì 3 chiến sĩ sốt rét liên miên, vả lại, không có chỉ thị nào của Mặt trận 44 lệnh cho anh em phải đánh. Anh em hoàn toàn có thể bỏ qua trận đánh này. Huỳnh Tửu suy nghĩ bản khoăn, có lúc dằn vặt không yên với câu tự hỏi: “Loại pháo hạm này đã gây bao nhiêu tai họa, chết chóc đau thương cho đồng bào, đồng chí và người thân yêu ruột thịt của ta, chưa có cách nào diệt nó, nay nó dẫn xác vào đây chẳng lẽ để nó thoát tội!”. Anh bàn với mấy đảng viên còn lại và hạ quyết tâm: “Khắc phục khó khăn, quyết tâm chiến đấu!”. Thiếu thuốc nổ nhờ đội công binh Hải Vân hỗ trợ, thiếu người phục vụ, nhờ Khu đội I - Hoà Vang phân công cho vài ba giao liên, trinh sát. Thành lập 1 tổ chiến đấu 3 người, do đích thân Huỳnh Tửu làm tổ trưởng chỉ huy chiến đấu. Tất cả mọi người khẩn trương vào cuộc. Chuẩn bị lắp ghép khối nổ bằng 60kg C4, do 4 khối nhỏ, mỗi khối 15kg, tiện vận chuyển đến vị trí xuất phát mới ghép lại thành khối to 60kg C4, đủ sức đánh chiếc pháo hạm này.

Chạy đua với thời gian, từng người, từng việc được phân công nhanh chóng hoàn thành. Lúc 14 giờ chiều ngày 30 tháng 10, từ hậu cứ nam Hải Vân, những ngọn gió nồm từ biển thổi vào lay động cây rừng dào dạt như làm mát cả tâm hồn của những người ra trận. Họ không đi theo lối đường mòn nào mà cắt rừng đi về hướng tiếp cận đường đèo Hải Vân, chờ sẩm tối vượt qua “tử lộ” vì địch đặt vọng gác dày đặc trên đường, có quàn đi tuần tiễu và quân mai phục ở những nơi hiểm yếu.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2019, 09:20:42 am
Thời gian từng giây phút trôi qua, những phút giây chờ đợi vượt đường nặng nề, căng thẳng. Bỗng từ phía xa, những ánh đèn pha ô tô loá sáng mỗi lúc một gần, rồi đoàn xe chừng chục chiếc vượt qua, Huỳnh Tửu ra lệnh cho anh em “vọt tiến” qua đường, đi về vị trí tập kết phía bắc thôn Hoà Vân bây giờ, chừng non cây số. Đã hơn 20 giờ, thời gian gấp gáp, mấy trinh sát phân công cảnh giới xung quanh, tổ phục vụ lắp ghép khối nổ, tổ chiến đấu vừa tranh thủ khởi động thân thể vừa ước lượng con đường hành tiến tiếp cận mục tiêu. Đường hành tiến dọc theo chân núi, theo hướng tây nam - đông bắc dài hơn 5km. Tổ chiến đấu đi cách chân núi chừng 50m đề phòng địch phục kích dọc theo chân núi, đồng thời tránh những con sóng vỗ vào bờ gành đá dội ra.

Lúc 21 giờ ngày 30 tháng 10, tổ chiến đấu xuất phát, tâm trí mọi người hướng về phía trước, vật lộn với sóng nước biển khơi, rút ngắn dần khoảng cách dẫn đến mục tiêu. Thông thường, vượt một, hai cây số đầu tiên, ai nấy đều mệt mỏi rã rời. Nhưng cố gắng bơi vượt qua cái ngưỡng ấy rồi, như có một sự hồi sức nào đó mà chặng đường bơi tiếp cảm thấy đỡ mệt nhọc hơn. Đội hình của tổ đi cách chân núi chừng 50m nhưng phần nhiều là khoảng nước sâu, phải bơi cật lực. Quãng đường hành tiến tiếp cận mục tiêu hơn 5km nhưng chỉ gặp một vài bãi cạn, anh em tranh thủ dừng lại nghỉ ngơi giây lát. Mục tiêu pháo hạm neo đậu cách xa bờ khoảng 300m. Tổ chiến đấu tiếp cận gần mục tiêu chừng 100m là vận dụng kỹ thuật bơi lặn hết sức nhẹ nhàng bí mật tiếp cận mục tiêu. Ngước nhìn lên boong tàu thấy rất nhiều ụ pháo các cỡ. Trên nóc đài chỉ huy, ra-đa vẫn vận hành quay đều các hướng. Thỉnh thoảng vai ha tên thủy thủ đi lại trên boong dưới ánh sáng điện trên tàu chiếu sáng cả một vùng biển rộng, nhuộm ánh vàng những con sóng xô nhau hết đợt này, tiếp theo đợt khác. Tổ chiến đấu bình tĩnh cố định khối nổ vào thân tàu. Huỳnh Tửu kiểm tra lần cuối, bấm kíp nổ hẹn giờ 30 phút và lệnh cho tổ bí mật rút lui vào giờ chót kết thúc 1 ngày, cùng là lúc bắt đầu triều cường theo quy luật bán nhật triều của ngày kế tiếp. Tổ chiến đấu đã rời xa mục tiêu hướng vào bờ nơi xuất phát hơn 2km và thời gian cũng gần 30 phút.

Anh em chuyển động bơi ngửa, vừa bơi vừa hướng về phía mục tiêu chờ đợi. Giây phút quân thù đền tội ác đã đến. Khối nổ ở mục tiêu phát nổ, chiến hạm Mỹ chìm trong quầng lửa rực trời và cột khói dựng lên như chiếc nấm không lồ. Sóng biển dậy lên xô nhau ào ào trên mặt vịnh. Các loại tàu, thuyền nhốn nháo kéo neo chạy tản về các hướng. Pháo súng từ các căn cứ địch trên các điểm cao: Múm Chiêng, Đồn Nhất, Bãi Chuối bắn tối tấp lên trời. Nhiều tốp trực thăng vũ trang xuất hiện. Từng tốp 3 chiếc, chiếc đi giữa soi đèn, 2 chiếc đi kèm nã rốc két tới tấp xuống mặt biển, bìa rừng nơi nào chúng thấy khả nghi. Các tốp trực thăng lồng lộn ra sát mặt biển, sát những ngọn cây trên triền núi, tiếng động cơ trực thăng gầm vang, tiếng nổ rốc két liên tục hoà cùng với tiếng còi thất thanh của các loại tàu chạy loạn, náo động không gian vùng vịnh.

Tình thế hiểm nghèo, Huỳnh Tửu tháo dây liên kết, truyền đạt cho các tổ viên tản ra xa nhau, tự do hành động đối phó với kẻ thù và rút về khu xuất phát. Trực thăng lượn vòng rà soát, có lúc đèn pha chiếu thẳng vào người, anh em phải nhanh chóng lặn sâu dưới nước để tránh thương vong. Căn cứ sân bay trực thăng Nước Mặn ở gần nên chúng thay nhau tốp này về, tốp sau thay thế soi tìm bắn phá thâu đêm.

Anh em phải dùng hết sức bình sinh đối phó với kẻ thù, trong muôn vàn nguy hiểm, có thể hy sinh giữa sông nước trùng khơi. Nhờ con nước triều cường giúp sức, Huỳnh Tửu và hai chiến sĩ đã vào đến bờ, nhanh chóng lặn sâu vào rừng lúc gần 3 giờ sáng, tìm chỗ nghỉ ngơi lấy sức trước khi vượt đường đèo về hậu cứ. Hai chiến sĩ được phân công đón tổ chiến đấu rút về đã quan sát, bám theo Huỳnh Tửu. Tổ chiến đấu được anh em phục vụ xoa dầu nóng khắp người, mặc quần áo ấm, nhưng ai nấy vẫn cảm thấy rất lạnh, cái lạnh mệt nhọc, rờn rợn của sốt rét cùng với cái lạnh của một đêm ngâm mình trong nước nên người nào cũng còn run lẩy bẩy. Đã gần 4 giờ, Huỳnh Tửu đứng lên lệnh cho anh em khẩn trương hành quân, vượt qua đường đèo thoát vòng nguy hiểm trước khi trời sáng. Đến chiều anh em trở về hậu cứ an toàn.

Trận đánh diệt pháo hạm Mỹ của phân đội đặc công nước do Huỳnh Tửu chỉ huy có thể xếp vào một trong những chiến công xuất sắc nhất “diệt tàu chiến Mỹ” tại chiến trường Quảng Đà. Nhưng là phân đội nhỏ, chiến đấu độc lập trong vùng địch trong thời điểm chiến trường hết sức ác liệt khó khăn, sau trận đánh này không lâu, số anh em ít ỏi còn lại của phân đội được lệnh của Mặt trận 44 đánh tiếp kho xăng Liên Chiểu. Trận đánh không thành, Huỳnh Tửu và tổ chiến đấu hy sinh, chỉ có một đồng chí bị ốm không tham gia trận đánh, là người cuối cùng của phân đội còn lại, tự đi liên hệ về chiến đấu trong “Đội công binh Hải Vân” cho đến ngày giản phóng miền Nam.

Vì những lẽ đó, trận đánh pháo hạm nói trên, không có người báo công đầy đủ và Mặt trận 44 không theo dõi sát sao để biểu dương khen thưởng kịp thời. Dù sao, chiến công oanh liệt của đặc công nước diệt pháo hạm Mỹ trên vịnh Đà Nẵng, vẫn còn ghi nhớ mãi trong lòng nhân dân Đà Nẵng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:08:01 am
Chiến công đầu của Đội 170

Theo chỉ thị của Mặt trận 44 Quảng Đà, đội đặc công nước được thành lập đầu tháng 1 năm 1970, lấy niên hiệu là Đội 170 trên cơ sở đội đặc công nước 55 đồng chí do đồng chí Đinh Văn Rơi từ miền Bắc đưa vào, lấy thêm 25 đồng chí của đội đặc công quận 3, Đà Nẵng còn lại, sáp nhập thành Đội 170. Đồng chí Phạm Xuân Sanh làm Đội trưởng, Đinh Văn Rơi - Chính trị viên. Đội biên chế thành 3 phân đội và bộ phận trinh sát, liên lạc hậu cần... Đơn vị không có hậu cứ nhất định mà cơ động trên địa bàn rộng lớn của Quảng Đà, lúc ở Xuyên Trà, Xuyên Tranh, lúc về gò nổi Điện Bàn, lúc xuống vùng đông Duy Xuyên, lúc về vùng cát và Khu III - Hoà Vang như: Hoà Long, Hoà Lân, Hoà Hải, Hoà Phụng. Ở thời điểm này, địch đánh phá, bình định ác liệt, xúc tát dân đi hết, vườn hoang, ruộng hoá xơ xác tiêu điều. Mỗi xã chỉ còn lại 1 tiểu đội du kích, xã nào nhiều cũng không hơn một trung đội, bám lấy địa phương phối hợp với bộ đội để chiến đấu với kẻ thù.

Trong hoàn cảnh ấy, Đội 170 vẫn tổ chức cho đơn vị luyện tập, bởi tính chất đặc công nước nếu không tiếp xúc với môi trường nước một thời gian lâu thì chẳng khác gì chiến sĩ thường khác. Đội chọn khúc sông Thu Bồn từ Xuyên Thanh đến cầu Kỳ Lam, dài khoảng 6km làm thao trường tập luyện trong đêm. Mỹ - ngụy càn quét thường xuyên chà đi xát lại hết vùng này đến vùng khác dọc hai bên bờ sông. Đêm đến chúng co cụm lại, để sáng hôm sau càn quét tiếp. Chúng không ngờ được rằng, đêm đêm dưới dòng sông, lực lượng đặc công nước vẫn luyện rèn chiến kỹ thuật và sức bền chịu đựng ngâm mình trong nước sáu bảy giờ liền, để đảm bảo tiêu diệt mực tiêu dưới nước của Mỹ, ngụy, dù ở trong sông hay ngoài biển.

Vào hạ tuần tháng 2 năm 1970, đội nhận nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Mặt trận 44: “Đội 170 có nhiệm vụ cắt đứt các cầu Câu Lâu, Bà Rén, Vĩnh Điện trên quốc lộ 1A, ngăn chặn địch chi viện ứng cứu cho nhau khi ta đánh vào quận lỵ Duy Xuyên, Điện Bàn và thị xã Hội An!”. Nhận lệnh chiến đấu, tại nơi trú quân ở Xuyên Trà, đội triển khai họp chi bộ, họp toàn đội quán triệt nhiệm vụ và xác định quyết tâm chiến đấu. Ban chỉ huy đội rất tin tưởng khả năng và tinh thần chiến đấu của đội song vẫn lo số anh em cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc mới vào, còn lạ lẫm với chiến trường, dễ xảy ra những điều sơ suất. Đồng chí chính trị viên động viên và giáo dục tư tưởng cho anh em khắc phục, phân công cho Phân đội 1 đánh cầu Câu Lâu, Phân đội 2 đánh cầu Bà Rén, Phân đội 3 biệt phái cho Huyện đội Điện Bàn tổ chức đánh cầu Vĩnh Điện. Đồng chí Sanh - Đội trưởng đi dự họp bàn kế hoạch hợp đồng chiến đấu với Huyện đội Duy Xuyên và Điện Bàn.

Ban chỉ huy Đội bàn phương án chiến đấu; phân công đồng chí Sanh - Đội trưởng trực tiếp chỉ huy Phân đội 1, đánh cầu Câu Lâu. Tổ chiến đấu giao cho đồng chí Nguyễn Văn Tập làm tổ trưởng, Đoàn Kim Sơn làm tổ phó và 1 chiến sĩ tổ viên. Đồng chí Rơi - Chính trị viên trực tiếp chỉ huy Phân đội 2, đánh cầu Bà Rén. Tổ chiến đấu giao cho đồng chí Nguyễn Quốc Toàn làm tổ trưởng, Nguyễn Vân Giao làm tổ phó và 1 chiến sĩ tổ viên. Phân công cho bộ phận trinh sát và chuẩn bị khí tài đi Xuyên Thọ, liên hệ với xã đội, bố trí nơi tập kết đơn vị và triển khai trinh sát nắm tình hình địch, chọn địa điểm xuất phát chiến đấu và nơi đón tổ chiến đấu sau khi đánh rút về, cho cả hai mục tiêu Câu Lâu, Bà Rén. Bộ phận khí tài thiết kế 2 khối nổ, mỗi khối 100kg TNT. Không có khối nổ nam châm và thuốc nổ dẻo C4 phải sử dụng thuốc nổ TNT khối lượng lớn hơn, nên phải chú ý khâu cân bằng độ nổi chìm trong nước, theo yêu cầu chiến đấu, đảm bảo bí mật, an toàn!

Sáng ngày 28 tháng 3, Ban chỉ huy và 2 phân đội về đông đủ ở nơi tập kết Xuyên Thọ. Hai tổ chiến đấu triển khai đi trinh sát thực địa   ở 2 mục tiêu được phân công; bộ phận trinh sát trên bộ của đơn vị và 2 tổ du kích phối hợp hỗ trợ cũng đã được triển khai. Thời gian này, sự ác liệt trên đất Quảng Đà không hề suy giảm. Ban ngày, địch dùng tàu rà L-19 quần lượn soi mói khắp nơi phát hiện nơi nào khả nghi là gọi phản lực nhào tới cắt bom, đủ các loại bom đào, bom phá, bom napan, khói lửa ngút trời. Chúng thực hiện chiến thuật “trực thăng vận”, hàng đàn trực thăng chở quân nối nhau bay lượn và bất thần đổ xuống nơi nào chúng nghi có bộ đội du kích của ta ẩn trú. Các loại trực thăng nhỏ như “tàu gáo”, “tàu rọ”, “cá lẹp” có thể bay cao, sà xuống thấp hoặc treo lơ lửng trên trời để quan sát, bắn rốc két, đại liên hay ném lựu đạn... dọc đường, bến sông hoặc nơi nghi ngờ có ta ẩn nấp. Đêm về, tiếng pháo nổ liên tục khắp nơi, máy bay thả bom tọa độ ầm ì trên bầu trời rồi bất thần trút hàng hai, ba chục quả bom xuống một nơi nào đó!...

Hai phân đội đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, qua trinh sát thực tế, anh em nắm được: ở hai cầu, mỗi cầu có một đại đội ngụy quân canh giữ. Biện pháp canh giữ cầu không có gì khác hơn là thay phiên tuần tra trên mặt cầu, thỉnh thoảng ném 1 quả lựu đạn vào chân trụ cầu hoặc xả một loạt đạn để đề phòng, cầu Câu Lâu dài khoảng 400m, có độ sâu dễ tiếp cận mục tiêu. Cầu Bà Rén dài hơn độ 300m, giữa sông có bãi bồi nước cạn, phải chọn lạch nước sâu để tiềm nhập. Trụ cầu nào cũng có lớp rào dây thép gai bao bọc. Khi trinh sát vào mục tiêu (trục cầu định đánh) anh em đã cắt sẵn mở lối để đưa khối nổ áp vào khi ta đánh. Hệ thống đèn bảo vệ trên cầu khá sáng.

Theo phương án hiệp đồng chiến dịch , giờ G sẽ là 0 giờ 10 phút sáng ngày 1 tháng 4. Theo quy định của chỉ huy đội, giờ xuất phát của 2 tổ chiến đấu đúng 20 giờ, nếu không có gì đột biến, từng tổ chiến đấu đưa khối nổ vào cách mục tiêu chừng 150m, anh em sử dụng kỹ thuật khá tốt, không nôn nóng, vội vàng sẽ bị lộ, chẳng những tổn thất hy sinh mà còn ảnh hưởng bất lợi cho chiến dịch Đông Xuân trên Mặt trận Quảng Đà.

Đến giờ G, tiếng súng rộ lên từ Ngũ Giáp, Vĩnh Điện, Nam Phước, Hội An, bộ đội ta đồng loạt tiến công, pháo sáng từ các căn cứ, chốt điểm của Mỹ, ngụy thi nhau vụt lên từng đợt kéo dài, liên tục, lúc sáng lúc tối chập chờn.

Lúc 1 giờ kém 10, cầu Câu Lâu bị ta đánh đổ sập 3 vai cầu xuống sông. Hơn 1 giờ, cầu Bà Rén cũng chịu chung số phận, 2 nhịp cầu đứt khúc.

Niềm vui chiến thắng ngập tràn, cả đội phấn khởi, hân hoan, một chiến thắng hòa nhịp cùng cả chiến trường, gây được tiếng vang lớn trong quần chúng nhân dân khắp Quảng Đà.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:09:09 am
Đánh sập cầu Vĩnh Điện

Cầu Vĩnh Điện nằm trên trục quốc lộ 1A, ở cửa ngõ phía bắc vào thị trấn Vĩnh Điện, trung tâm hành chính của huyện Điện Bàn. Ngoài đại đội lính ngụy giữ cầu, tại đây còn có hệ thống đồn bốt liên hoàn và khu ấp tân sinh, nhiều đơn vị địa phương quân canh phòng cẩn mật. Về phía thượng nguồn chừng 500m - khu vực tháp Bằng An dọc theo tỉnh lộ 609 còn có các đơn vị lính thuỷ đánh bộ Mỹ đóng giữ. Ở địa thế hiểm yếu đó, nên cầu Vĩnh Điện rất khó đánh đối với lực lượng đặc công nước của ta. Còn nhớ, trong đợt 1 chiến dịch Hè năm 1970, đội đặc công nước biệt phái Phân đội 3 về Huyện đội Điện Bàn để phối hợp đánh cầu Vĩnh Điện, nhưng chưa đánh được.

Đầu tháng 5 năm 1970, đợt 2 của chiến dịch Hè 1970, ta tiếp tục đánh bồi vào các quận lỵ, thị trấn, thị xã của địch khắp chiến trường Quảng Đà. Bộ chỉ huy Mặt trận lệnh cho Đội 170 phải: “Phối hợp với Huyện đội Điện Bàn đánh sập bằng được cầu Vĩnh Điện!”. Mặc dù đơn vị mới vừa đánh xong 2 cầu Câu Lâu, Bà Rén, song, chấp hành mệnh lệnh cấp trên, đội bắt tay vào chuẩn bị cho trận đánh. Xác định đây là mục tiêu khó đánh nên Đội trưởng Phạm Xuân Sanh trực tiếp chỉ huy và tổ chức chiến đấu trận này.

Đồng chí Phạm Xuân Sanh nguyên là cán hộ của Đội 3 đặc công nước vào chiến trường Quảng Dà năm 1966, một trong số đồng chí hiếm hoi của Đội 3 còn lại nên khá dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Anh bàn với cấp uỷ và chỉ huy Đội chọn 1 tổ chiến đấu có bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn kỹ thuật tốt, có sức khỏe bảo đảm, có quyết tâm cao. Cuối cùng, đội nhất trí giao cho: Nguyễn Văn Tuỳ làm tổ trưởng, Giang Hồng Mão làm tổ phó, 2 chiến sĩ làm tổ viên (1 tổ viên dự bị). Tổ chiến đấu có nhiệm vụ tổ chức trinh sát mục tiêu, nắm chắc tình hình địch, để đảm bảo cho trận đánh thắng lợi. Đội còn phân công cho một số đồng chí phối hợp với du kích, trinh sát trên bộ và các bộ phận phục vụ, chuẩn bị khí tài... với tinh thần khẩn trương tích cực.

Đội trưởng Sanh vốn tính tình cởi mở nhưng sau khi nhận nhiệm vụ đánh mục tiêu hóc búa này, nỗi lo lắng hiện rõ trên nét mặt anh, có lúc đăm chiêu nghiêm nghị. Anh phác họa trong đầu một kế hoạch và trình tự thực hiện từng bước thật chắc chắn: giao cho chính trị viên ở nhà lo công việc chính trị tư tưởng và công tác chuẩn bị, còn anh cùng một chiến sĩ trinh sát đi Điện Phong gặp cán bộ Huyện đội Điện Bàn để bàn cụ thể kế hoạch hợp đồng tác chiến. Để hoàn thành nhiệm vụ quân sự trên địa bàn huyện, đồng chí Huyện đội trưởng Điện Bàn sẵn sàng tạo điều kiện cho đội. Đồng chí nói: “Chúng tôi sẽ phân công cho Xã đội Điện An cử một tiểu đội du kích phối hợp chiến đấu, đặt dưới sự phân công của đội; cử 1 tổ trinh sát giỏi thông thạo địa hình, nhanh nhẹn, dũng cảm, giúp đội nắm tình hình địch, báo cáo với Huyện uy móc nối một số cơ sở và du kích mật trong ấp tân sinh, giao nhiệm vụ cụ thể trong trận đánh này!”.

Phạm Xuân Sanh rất mừng với những thuận lợi ban đầu ấy. Mấy ngày sau, nhân dân đã cung cấp cho đội nhiều thông tin giá trị và đã triển khai làm công tác binh vận, theo sát tình hình hoạt động của địch, cả việc chuẩn bị một số hầm bí mật ngay trong ấp tân sinh để bộ đội trú ẩn khi cần. Anh rất tin ở dân, bị địch dồn ép vào ấp tân sinh nhưng phần lớn họ hướng về cách mạng. Qua một số tin của dân cung cấp thì được biết: Nhìn bề ngoài quân Mỹ, ngụy đông đúc, đóng rải khắp nơi, đi đâu cũng đụng đầu nhưng thực chất chúng rất sợ Việt cộng và đa số chán nản lao vào cờ bạc rượu chè, “thanh lâu”, “tửu quán”, sẵn sàng nhảy quán bar, một số giải sầu với cần sa, ma tuý! Trên con đường độc đạo với lưu lượng xe cộ vào Nam ra Bắc, nội tỉnh, ngoại tỉnh đều phải qua đây. Lợi dụng việc kiểm soát Việt cộng để hạch sách, nhũng nhiễu, ức hiếp hành khách kiếm tiền đút túi; việc canh giữ cầu có nhiều sơ hở, nhất là từ đầu hôm đến khoảng gần nửa đêm tình trạng trên càng nhốn nháo!

Đêm mùng 1 tháng 5, tối trời nhưng thị trấn Vĩnh Điện và các vị trí địch đóng quân vẫn sáng rõ dưới ánh sáng điện đèn. Từ vị trí trú quân tại Điện An, tổ trinh sát theo chân giao liên và đu kích địa phương băng qua cánh đồng đầy cỏ dại, sình lầy, gai góc, các bờ ruộng mấp mô... tiến đến gần tỉnh lộ, chờ bắt tín hiệu phía bên kia đường là ấp tân sinh để qua đường. Chừng 20 phút sau, bắt được tín hiệu “một đường”. Anh em lần lượt “vọt tiến” qua đường, có cơ sở của ta trong ấp cùng du kích mật đưa anh em vượt qua ấp một cách bí mật an toàn, tiếp cận bờ sông Vĩnh Điện, cách cầu gần 2km về phía thượng lưu. Tổ trinh sát nhanh chóng hạ thủy, anh em du kích quay lại chờ đón anh em trinh sát trở vé phía hạ lưu cầu Vĩnh Điện.

Dòng sông trôi nhẹ, tổ trinh sát lúc nổi, lúc chìm trong dòng nước êm xuôi, dùng kỹ thuật mật tập vào trụ cầu giữa sông, nhẹ nhàng khẩn trương dùng kìm chuyên dụng cắt lưới thép gai bao chung quanh trụ cầu, mở lối vào sát trụ để điều tra, nghiên cứu. Một vài tốp lính ngụy tuần tra trong cái ồn ã của xe cộ qua lại trên cầu, nên chúng không phát hiện được điều gì dưới nước. Mọi việc đã xong, tổ trinh sát rút xuôi về phía hạ lưu một cách bí mật, an toàn, công việc coi như đã hoàn thành một nửa.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:09:30 am
Tổng hợp kết quả trinh sát, Đội trưởng Phạm Xuân Sanh lập phương án chiến đấu, quyết định đánh cầu Vĩnh Điện với khối nổ 100kg gồm TNT và C4 hỗn hợp. Cái khó nhất của việc lắp ghép khối nổ là: 100kg thuốc nổ làm thành 4 khối để dễ dàng vận chuyển, nhưng khi xuất phát chiến đấu thì ghép 4 khối nhỏ thành một khối lớn, làm sao phải đảm bảo kỹ thuật tốt, không để xảy ra tình huống trục trặc khó xử lý cho tổ chiến đấu là một yêu cầu không đơn giản, song với quyết tâm cao, anh em đã làm được.

Theo hợp đồng chiến đấu với Huyện đội Điện Bàn thì lúc 0 giờ 5 phút, ngày 4 tháng 5 năm 1970, các đơn vị bộ đội địa phương Điện Bàn và một số đơn vị phối hợp sẽ đồng loạt nổ súng đánh vào quận lỵ, các cơ quan hội đổng tề ngụy, các đơn vị bình định và một số đồn bốt của bọn bảo an trong thị trấn. Đặc công nước sẽ đánh sập cầu Vĩnh Điện, không cho cơ giới chuyển quân ứng cứu vào Vĩnh Điện.

Đêm 4 tháng 5 năm 1970, Đội trưởng Phạm Xuân Sanh đưa phân đội lên đường vào trận. Anh em động viên nhau: “Biến quyết tâm thành hành động mưu trí, dũng cảm, chiến đấu giành thắng lợi vẻ vang trong trận đánh này”. Tổ trinh sát của Huyện đội dẫn đường, tổ chiến đấu và các bộ phận khí tài, phục vụ tiếp theo, tiểu đội du kích do đồng chí Xã đội trưởng Điện An đi yểm trợ.

Đoàn quân đi trong đêm mờ ảo qua những làng xóm chỉ còn dấu vết các bờ tre cháy đen, những khu vườn hoang vắng, qua cánh đồng đầy cỏ dại, lỗ chỗ các hố do đại bác hằng đêm đào xới, những vệt dài của bánh xích xe tăng, xe bọc thép qua các trận càn chà đi xát lại. Tổ trinh sát đi đầu, bắt tín hiệu dừng chặng vượt tỉnh lộ, du kích mật trong ấp tân sinh đóng vai “phòng vệ dân sự” của địch xuất hiện, đưa bộ đội qua ấp, tiếp cận bờ sông, địa điểm “xuất phát tiến công”. Theo sự phân công, các bộ phận triển khai nhiệm vụ, phục vụ cho tổ chiến đấu một cách nhanh chóng. Tổ chiến đấu đã ở tư thế sẵn sàng.

Đúng 22 giờ 30 phút, Đội trưởng Phạm Xuân Sanh ra lệnh xuất phát! Tổ trưởng Nguyễn Văn Tuỳ, Tổ phó Giang Hồng Mão và 1 tổ viên dìu khối nổ ra sông, anh em trên bờ vẫy tay đưa tiễn, tổ chiến đấu xa dần, xa dần rồi lẫn trong dòng nước xanh, họ thả người trôi theo dòng nước từ hướng tây xuôi hướng đông. Hai bên bờ sông, phía nam là thị trấn, phía bắc là đồn bốt và điểm trú quân dã chiến của Mỹ, ngụy giăng giăng. Mới đầu hôm, mọi thứ âm thanh ồn ào hỗn độn của người và xe cộ xen với những loạt súng nổ xa xa, tiếng đại bác từ các trận địa pháo thi nhau nã đạn vào các vùng “tự do bắn phá” ùng oàng liên tiếp từ xa vọng về... Tất cả đểu không chi phối tâm trí của anh em đang tập trung vào những động tác kỹ thuật, giữ bí mật tuyệt đối trên đường tiềm nhập mục tiêu.

Đoạn sông phía thượng lưu và hạ lưu cầu Vĩnh Điện không rộng nhưng nước sâu, lưu tốc dòng chảy trên mức trung bình, đã tạo thuận lợi cho kỹ thuật đi chìm, nhờ sức đẩy của nước đưa anh em vào mục tiêu nhanh chóng. Theo sự phân công, từng tổ viên thao tác cố định khối nổ vào trụ cầu rồi lần lượt rút ra, tổ trưởng điểm hỏa kíp hẹn giờ 30 phút, rút ra sau cùng, xuôi về phía hạ lưu khoảng l,5km, có đồng chí trinh sát của đội và du kích địa phương chờ đón.

Tiếng súng tấn công của bộ đội và du kích địa phương nổ ran trong thị trấn. Pháo sáng từ các đồn bốt, cứ điểm của địch dồn dập bắn lên trời bung ra những đám sáng màu huyết dụ, nhoáng nhoàng trên bầu trời Vĩnh Điện.

Tổ chiến đấu đã lên bờ, cùng bộ phận đón hướng về phía cầu Vĩnh Điện đợi chờ! Đúng 1 giờ kém 5 phút, khối nổ ở cầu Vĩnh Điện phát hỏa bằng ánh chớp sáng lóe lên, tiếp theo là tiếng nổ âm vang rung chuyển cả một vùng thị trấn. Trụ cầu đổ nghiêng, thân cầu vặn vò đổ chênh vênh, có thể đổ sập xuống dòng sông bất cứ lúc nào! Đầu cầu phía bắc xe cộ các loại ùn tắc lại. Du kích xã Điện An và Điện Phước phục sẵn, 2 tiểu đội đồng loạt nổ súng vào đoàn xe quân sự, một số tên chết, một số tên hoảng sợ bỏ xe chạy ngược theo đường số 1 để tháo thân.

Trận chiến đấu nhiều khó khăn nhưng với quyết tâm chiến đấu cao, đội làm nên thắng lợi và trở về trọn vẹn, là niềm phấn khởi hân hoan của toàn đơn vị.

Cùng với trận đánh cầu Vĩnh Điện, Chính trị viên Đinh Văn Rơi đưa 1 phân đội về Hội An, phối hợp Thị đội đánh cầu Phước Trạch, cầu Phước Trạch ngắn và ở vị trí dễ đánh nên qua 1 đêm trinh sát, phân đội đã nắm chắc tình hình. Khi đến giờ bộ đội của Thị đội Hội An nổ súng đánh vào thị xã thì phân đội đặc công nước cũng đánh sập ngay cầu Phước Trạch, góp thêm một chiến công nữa cho đội.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:10:20 am
Phối hợp Tiểu đoàn 91 đánh sập cầu Đỏ, cầu Cẩm Lệ

Thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, trên chiến trường Quảng Đà, Mỹ - ngụy tập trung mọi lực lượng, phương tiện chiến tranh mở liên tiếp các chiến dịch càn quét, bình định khắp các địa bàn vùng ven, vùng giải phóng, nông thôn. Thủ đoạn đánh phá ngày càng ác liệt, thâm độc: Kết hợp càn quét với cày ủi nhà cửa, mồ mả, cây cối tạo thành một vùng “trắng dân”,”trắng đất”, cài cắm nhiều chốt điểm, tổ chức nhiều toán biệt kích Mỹ tăng cường lùng sục, tập kích, gài mìn, phong tỏa các hành lang, các trục đường ra vào Đà Nẵng. Chúng tăng cường công sự phòng ngự ở các chốt điểm, bố trí nhiều trận địa hỏa lực, xây dựng nhiều hàng rào dây thép gai, bãi mìn, đèn chiếu... gây cho ta một số khó khăn tổn thất.

Tuy nhiên, trên toàn chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang ta đẩy mạnh tiến công chiến lược giành thắng lợi lớn trên chiến trường tạo thế “thượng phong” trên bàn Hội nghị đàm phán bốn bên tại Pa-ri.

Chủ trương của Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 lúc này là: Đẩy mạnh 3 cao trào cách mạng:

- Ha sức thi đua tiêu diệt và làm tan rã phần lón quân ngụy.

- Tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ.

- Đẩy mạnh phong trào cách mạng trong đô thị.

Thực hiện chủ trương đó, Mặt trận Quảng Đà liên tiếp mở nhiều chiến dịch lớn nhỏ. Tháng 5 năm 1971, Huyện đội Hoà Vang, Tiểu đoàn đặc công 91 và nhiều đơn vị phối hợp đánh mạnh vào các mục tiêu quân địch ở địa bàn khu trung Hoà Vang, khu vực xung yếu trên vành đai bảo vệ Đà Nẵng.

Lúc này, Đội đặc công nước 170 có nhiệm vụ phối hợp đánh cầu Đỏ và cầu Cẩm Lệ. cầu Đỏ nằm trên quốc lộ 1A ở ngay cửa ngõ phía nam vào thành phố, dài 300m, đã bị ta đánh sập hồi tháng 8 năm 1967, chúng sửa chữa gia cố vững chắc và tăng cường bố phòng, bảo vệ nghiêm ngặt hơn. Theo điều tra nắm được, tên đại đội trưởng đại đội giữ cầu này nguyên là đại úy chỉ huy đại đội bảo vệ cầu Thủy Tú. Ta đánh sập cầu Thủy Tú, hắn bị kỷ luật giáng xuống trung uý, đưa ra tuyến lửa Trị Thiên. Nhờ có thế lực, hắn mới được điều về làm đại đội trưởng giữ cầu Đỏ. Hắn sợ phải bị kỷ luật lần nữa, nên ra sức đề phòng, cho rào dây thép gai vây quanh các trục cầu chắc chắn, chăng một hàng rào bằng lưới thép gai chắn ngang sông cách cầu 100m về phía thượng lưu gọi là “phòng thủ từ xa”, chăng mắc hệ thống đèn bảo vệ dày đặc trên cầu và đèn bảo vệ các trụ cầu. Bố trí đèn sát lan can chiếu xuống, ngay đầu mỗi trụ cầu có 1 thùng gỗ chứa lựu đạn, mỗi lượt phiên tuần tiễu đi qua là ném lựu đạn xuống chân trụ cầu đề phòng “Việt cộng” đánh cầu! Hắn xử phạt rất nặng binh sĩ dưới quyền về tội không tuân lệnh thượng cấp! Với những việc làm nghiêm ngặt, hắn tin sẽ giữ được cầu an toàn tuyệt đối, lo gì “bông mai” lại không nở vàng trên ve áo hắn!

Cầu Cẩm Lệ ở phía hạ lưu cầu Đỏ khoảng 3km, nối con đường nhánh từ Khuê Trung qua cầu Cẩm Lệ chạy thẳng đến Miếu Bông giáp quốc lộ 1A, xe cộ lưu thông không nhiều; chủ yếu là xe quân sự của địch, xe tiếp tế hậu cần... Cầu Cẩm Lệ nằm sâu trong vành đai bảo vệ vòng trong, liên hoàn với các đồn bốt, chốt điểm của lực lượng bảo an, địa phương quân chốt giữ và tuần tra cả ngày đêm. Lực lượng bảo vệ cầu chỉ có 1 trung đội, được tăng cường lực lượng khi có hoạt động mạnh của ta ở khu vực này.

Sau khi nhận nhiệm vụ về, ban chỉ huy đội họp bàn kế hoạch triển khai nhiệm vụ: việc đầu tiên là quán triệt tư tưởng và quyết tâm cho đảng viên trong chi bộ và cán bộ, chiến sĩ trong toàn đội, sau đó là phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận, từng người. Sắp xếp tổ chức lực lượng chiến đấu gồm có: Phân đội 1: Đánh cầu Đỏ, do Đội trưởng Phạm Xuân Sanh trực tiếp chỉ huy. Tổ chiến đấu do Nguyễn Văn Tập làm tổ trưởng, Nguyễn Quốc Toán làm tổ phó và 1 tổ viên. Phân đội 2: Đánh cầu Cẩm Lệ do Đinh Văn Rơi - Chính trị viên trực tiếp chỉ huy. Tổ chiến đấu do Nguyễn Văn Tuỳ làm tổ trưởng, Giang Hồng Mão làm tổ phó và 1 tổ viên. Những cán bộ, chiến sĩ được bố trí chiến đấu trận này đều dày dạn và có kinh nghiệm trong các trận đánh các cầu Câu Lâu, Bà Rén, Vĩnh Điện vừa qua. Chuẩn bị 80kg thuốc nổ C4 hoặc 100kg TNT đánh cầu Đỏ, 60kg thuốc nổ C4 hoặc 80kg TNT đánh cầu Cẩm Lệ, bộ phận chuẩn bị khí tài liên hệ với quân giới mặt trận lo đủ cơ số thuốc nổ nói trên. Mỗi phân đội phân công 5 chiến sĩ làm nhiệm vụ phối hợp với du kích địa phương, trinh sát nắm tình hình địch trên bờ, bố trí từ khu vực tập kích vị trí xuất phát chiến đấu và vị trí đón tổ chiến đấu rút về, số còn lại đảm nhiệm một số công việc do đội phân công.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:10:44 am
Theo hợp đồng chiến đấu, chiều ngày 3 tháng 5 năm 1971, đơn vị trú quân ở Điện Hồng, có 2 giao liên của Khu đội II - Hoà Vang đến đón đơn vị về nơi tập kết ở Hoà Châu. Đơn vị hành quân trên vành đai bảo vệ Đà Nẵng của Mỹ, ngụy chẳng khác nào đi vào một vùng đầy cạm bẫy của tử thần. Khu vực vành đai là vùng “tự do bắn phá” nên cả đêm về là đủ loại pháo bầy, pháo chụp từ các trận địa bắn lúc thưa thớt, lúc dập dồn suốt đêm không ngớt. Chúng thường hay phục kích dọc quốc lộ 1A, dọc theo đường sắt và những nơi chúng nghi ngờ là đường di chuyển của cán bộ, bộ đội ta ra vào hoạt động. Một thủ đoạn tinh vi là: chúng bí mật cài đặt máy cảm ứng âm thanh lẫn vào trong cây cỏ, cán bộ, bộ đội ta đi qua phát ra tiếng động, máy cảm ứng truyền về nơi nhận tín hiệu của địch và lập tức pháo bầy của chúng nã tới tấp vào đội hình di chuyển của ta. Đơn vị lặng lẽ, thận trọng hành quân qua những cánh đồng hoang, qua hói, qua khe và luôn đề phòng pháo địch bắn tới, lúc gần lúc xa nhì nhằng chớp lửa và tiếng nổ đùng đoàng các hướng trên đường đơn vị hành quân.

Khoảng 24 giờ, đơn vị về đến xã Hoà Tiến. Từ đây, đơn vị chia làm hai ngả: Phân đội đánh cầu Đỏ về xã Hoà Châu, phân đội đánh cầu Cẩm Lệ, hành quân tiếp, vượt qua quốc lộ 1A về xã Hoà Xuân. Đến đâu, anh em cũng được các địa phương bố trí nơi ở, bố trí hầm bí mật, phân công cho các đội viên du kích đưa anh em lánh càn, khi địch lùng sục vào lồng, ổn định chỗ ở, từng phân đội triển khai trinh sát mục tiêu và chuẩn bị khí tài, làm những việc cần thiết phục vụ cho trận đánh. Đêm ngày 4 tháng 5, tổ trinh sát cầu Cẩm Lệ tiếp cận mục tiêu thuận lợi và an toàn, anh em nhanh chóng nắm chặt các yêu cầu cần thiết bằng thực tế mắt thấy, tay sờ.

Riêng mục tiêu cầu Đỏ, địch canh phòng rất cẩn mật. Anh em thử thả vài nhánh bèo trôi xuống cầu đểu bị chúng phát hiện. Anh em liền ngụy trang khéo léo, tiếp cận đến hàng rào thép gai chắn ngang sông, cách cầu 100m, nằm lại quan sát ban đêm và cả ngày hôm sau để nắm chắc quy luật canh phòng và xác định mục tiêu chọn đường tiềm nhập. Thời gian gấp gáp, tổ trinh sát chưa tận mắt thấy tay sờ mục tiêu định đánh, Đội trưởng Phạm Xuân Sanh không khỏi bồn chồn lo lắng. Anh cho họp toàn phân đội, dân chủ hiến kế để tìm ra kế hoạch tối ưu nhất! Anh em bàn bạc sôi nổi vì ai nấy đều náo nức lập công! Đến lượt tổ chiến đấu. Tổ trưởng Nguyễn Văn Tập đứng lên trình bày phương án của mình:

- Thưa các đồng chí! Ta chưa vào được mục tiêu, nhưng qua điểu tra trinh sát kỹ, nắm được tình hình khá chắc nên tin rằng sẽ diệt được mục tiêu với kế hoạch như sau: Cách giờ G 1 tiếng, tổ chiến đấu đưa khối nổ sang rồi dừng lại chờ đến giờ G, khi tiếng súng tiến công ở hai bên đầu cầu rộ lên, nhất định quân địch sẽ chui hết vào lô cốt lo đối phó trên bờ. Tổ chiến đấu lập tức chớp thời cơ, dùng kỹ thuật vượt nhanh tiếp cận mục tiêu, cắt rào kẽm gai đưa khối nổ vào, chỉ cần buộc dây vào cọc rào, dòng nước chảy sẽ ép khối nổ sát vào trụ cầu, điểm hỏa xong rồi rút lui, thời gian trong vòng 20 phút!

Cả phân đội vỗ tay tán thưởng! Ngừng một lát. Nguyễn Văn Tập tiếp lời:

- Đã là chiến sĩ đặc công nước, ai cũng hiểu được tình huống vào mục tiêu mà bị lộ, chỉ có cách duy nhất là sử dụng kíp nổ tức thời để hoàn thành nhiệm vụ, dù toàn tổ sẽ phải hy sinh. Nếu trong trận đánh này tình huống đó xảy ra, chúng tôi - toàn tổ chiến đấu, xin hứa sẽ hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và đơn vị giao cho!

Đội trưởng Sanh thấy lòng mình se lại, vội quay mặt đi giấu nỗi cảm xúc chợt đến bất ngờ sau lời phát biểu thể hiện sự “quên mình” của chiến sĩ mình. Bởi hơn ai hết, anh hiểu rõ những khó khăn trong những hoàn cảnh đặc biệt đó của đặc công nước.

Theo hợp đồng với các đơn vị, giờ G nổ súng tiến công lúc 24 giờ kém 10 phút ngày 6 tháng 5. Hai phân đội đánh 2 mục tiêu cầu Đỏ và cầu Cẩm Lệ phải vào vị trí xuất phát tiến công lúc 22 giờ. Đội trưởng Sanh không lo gì cho phân đội đánh cầu Cẩm Lệ vì ở đó có Chính trị viên Đinh Văn Rơi chỉ huy và tổ chiến đấu đã có nhiều kinh nghiệm, chỉ lo cho phân đội đánh cầu Đỏ, song niềm tin vào tinh thần chiến đấu dũng cảm, gan dạ và mưu trí của anh em làm cho nỗi lo trong anh mỗi lúc một vơi dần.

Đúng 23 giờ, tổ chiến đấu mục tiêu cầu Đỏ xuất phát và thực hiện theo kế hoạch đã bàn. Lúc 24 giờ kém 10 phút ngày 6 tháng 5, tiếng súng tiến công của quân ta nổ giòn giã ở hai bên cầu Đỏ, khu chốt điểm của Mỹ ở đầu cầu phía bắc, lô cốt và chốt điểm đầu cầu phía nam cúa ngụy chìm trong khói lửa mịt mùng. Dưới sông, tổ chiến đấu chớp thời cơ, dùng kỹ thuật vượt nhanh tiếp cận mục tiêu, nhanh chóng cắt rào đưa khối nổ áp sát trụ cầu, điểm hỏa và rút xuôi về phía hạ lưu. Trận chiến đấu còn tiếp diễn với tiếng súng AK chát chói, tiếng pháo và B40, B41 ùng oàng, quân địch chưa có phản ứng gì rõ rệt, chỉ có pháo sáng từ các đồn bốt địch xa xa thi nhau bắn lên trời nổ lụp bụp, bung ra những đám sáng đỏ lừ, lững lờ, ma quái!

Đúng 24 giờ 30 phút, sau một tiếng nổ lớn, cầu Cẩm Lệ bị đánh sập.

Tiếp đó, lúc 24 giờ 40 phút, tiếng nổ ở cầu Đỏ rền vang, hai vai cầu đổ ào xuống sông, sóng dậy rào ập vào bờ thật mạnh.

Thắng lợi tuyệt vời, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 91 - Nguyễn Xuân Ngọc và Đội trưởng Đội 170 - Phạm Xuân Sanh gặp nhau, tay bắt mặt mừng trong niềm phấn khởi hân hoan về một trận chiến đấu hợp đồng tuyệt đẹp.

Tuy nhiên, sau trận chiến đấu là thu quân, chờ hết ngày 7 tháng 5, tổ chiến đấu của Tập vẫn chưa thấy về đơn vị. Trinh sát của Tiểu đoàn 91 và của Đội 170 chia nhau đi tìm. Thế mới biết, trong chiến đấu chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Số là, khi hợp đồng với Xã đội Hoà Xuân đón tổ chiến đấu rút về nhưng địa điểm không cụ thể rõ ràng, nên du kích Hoà Xuân đón một nơi, tổ chiến đấu rút về nới khác. Anh em lên bờ chờ mãi chẳng thấy người nào đến đón. Trời sắp sáng, ở trong vùng địch kiểm soát, sự nguy hiểm khó lường. Ba anh em men theo bờ ruộng ra giữa cánh đồng, chọn một đám ruộng lúa tốt ẩn mình. Trời dần sáng rõ, anh em đã chịu đựng qua một đêm lạnh lẻo, bây giờ nắng lên mỗi lúc càng gay gắt, nung nóng các thân hình trần trụi và cảm thấy như da thịt nứt ra bỏng rát. Họ kiên trì, nằm co ro bất động và xác định nếu kẻ địch lùng sục đến đây sẽ chiến đấu đến cùng mặc dù mỗi người chỉ có 1 chiếc dao găm và 1 quả lựu đạn phòng thân; chờ đến tổì sẽ tìm đường về đơn vị. Khoảng 10 giờ sáng, không nghe thấy bọn địch lùng sục trong làng, mà thấy từ xa hai người dân vác cuốc và quang gánh ra đồng. Họ đi mỗi lúc một gần và dừng lại trên bò ruộng cao nhìn xuống. Có lẽ họ đã phát hiện ra chỗ các anh nằm ẩn náu nên vừa đi vừa nói to: “Bà con đang chờ ở phía xóm Nam!”. Sợ anh em không nghe thấy họ nhắc đến mấy lần rồi đi về chỗ máng tát nước đặt một gói gì ở đó rồi đi thẳng về phía xóm Nam. Nhận được tín hiệu, anh em lần lượt đên mở gói ra thấy quần áo và một nắm xôi to, họ chia nhau ăn vội rồi mặc quần áo đi về xóm Nam có anh em du kích đang chờ. Họ ôm nhau mừng rõ với lần thoát hiểm của tổ đặc công gan dạ sau trận chiến thắng trở về.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:11:53 am
Một lần vượt biển lập những chiến công

Tiểu đoàn đặc công nước 471 theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu trên Mặt trận Quảng Đà, đứng chân trên một địa bàn hết sức khó khăn ác liệt, vừa xây dựng đơn vị, vừa lo tự túc một phần lương thực, vừa chuẩn bị chiến trường chiến đấu lập công... biết bao nỗi vất vả gian nan của cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn. Tiêu chuẩn lương thực hậu cần mặt trận cấp cho mỗi người một ngày hơn 1 lon sữa bò gạo, phải độn khoai sắn của đơn vị tự trồng và cải thiện thêm bằng rau rừng, cải tàu bay, môn thục! Tiểu đoàn đã từng bước khắc phục khó khăn để vượt qua, tích cực chuẩn bị chiến trường, chiến đấu lập công, khẳng định được mình là đơn vị đặc công tinh nhuệ.

Đứng ở chân dãy Bạch Mã nam Hải Vân, quan sát sự hoạt động nhộn nhịp của tàu bè trên vịnh Đà Nẵng và nhiều mục tiêu của địch trên bán đảo Sơn Trà, Ban chỉ huy Tiểu đoàn nhận định: “Phải tìm cách vượt biển, đưa bộ đội ém quân trên bán đảo Sơn Trà, tổ chức đánh bất ngờ các mục tiêu tàu vận tải quân sự Mỹ, các mục tiêu trên đỉnh Sơn Trà, mở ra một hướng chiến đấu ở ngay nơi mà Mỹ, ngụy cho là: “bất khả xâm phạm”, nhất định sẽ lập được nhiều chiến công lớn!”.

Tuy nhiên, từ dự kiến đi đến thực tế có một khoảng cách khá xa, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Từ nam Hải Vân muôn sang bán đảo Sơn Trà phải vượt biển, chỗ gần nhất cũng hơn 10km trong điều kiện thuỷ triều ở vịnh Đà Nẵng theo chế độ bán nhật triều, từ đầu hôm đến nửa đêm là triều cường, từ nửa đêm về sáng là nước xuống, tạo thành dòng chảy đẩy vào rồi rút ra, muốn bơi qua phải đè ngang dòng nước theo hình dích dắc chữ W, do đó quãng đường không phải là 10km mà từ 15km hoặc hơn. Đó là chưa kể tác động của gió. Liệu cá chép có vượt được “vũ môn” để hoá thành rồng? Ban chỉ huy Tiểu đoàn 471 giao cho Đội 1, do đồng chí Nguyễn Hồng Quảng - Đội trưởng và Đỗ Văn Thành - Chính trị viên nghiên cứu thực hiện. Đội 1 chuyên trách đánh tàu và các mục tiêu trên biển, hầu hết cán bộ, chiến sĩ đểu có trình độ bơi lặn giỏi. Tuy nhiên, vào chiến trường gian khổ, sức khoẻ có giảm đi nhiều, khó mà bảo đảm cho chuyến vượt biển khó khăn này!

Đội trưởng Nguyễn Hồng Quảng đã ngoài tuổi ba mươi, cái tuổi đã chín chắn trong suy nghĩ, dạn dày từng trải trong chiến đấu vẫn thấy lo lắng cho nhiệm vụ được giao. Anh bàn trong chỉ huy Đội, chọn 1 phân đội hầu hết là đảng viện và một số là đoàn viên ưu tú, có sức khoẻ tốt, có trình độ chuyên môn giỏi để làm nhiệm vụ “đột phá”. Số anh em đau ốm, sức khoẻ kém được bố trí làm những công việc thích hợp. Đội chọn một khúc sông, thượng nguồn sông Thuỷ Tú làm thao trường tập luyện chiến kỹ thuật chủ yếu là bơi dai sức và ngâm mình trong nước đạt đến sáu bảy giờ liền, nâng cao sức bền chịu đựng trong môi trường lạnh lẽo! Anh em tập luyện hai tuần lễ, yêu cầu nhiệm vụ khẩn trương không thể kéo dài hơn nữa. Đội trở về vị trí trú quân, xin lệnh Tiểu đoàn triển khai thử nghiệm “đạp bằng sóng dữ đại đương” sang bán đảo Sơn Trà!

Đồng chí Đàm Văn Tôn nguyên là Đội trưởng Đội đặc công nước 68, từ miền Bắc vào, được Quân khu 5 bổ sung cho tiểu đoàn vào tháng 2 năm 1972, được giao nhiệm vụ mở đường. Anh đưa phân đội lần thứ nhất vượt một phần ba quãng đường rồi quay lại. Lần thứ hai, vượt nửa chặng đường rồi quay về họp rút kinh nghiệm và xác định quyết tâm. Anh em tin tưởng khả năng vượt biển thành công sau hai lần đi thử nghiệm. Đội trưởng Nguyễn Hồng Quảng thường ngày vốn điềm tĩnh và có phần hơi nghiêm nghị, nhưng qua hai lần thử nghiệm với ý chí quyết tâm của anh em, làm vơi đi trong anh bao nỗi lo âu. Anh phấn chấn hẳn lên, vui vẻ cởi mở, đôn đốc người này, nhắc nhỏ người kia làm tốt công tác chuẩn bị, đảm bảo cho lần vượt biển thành công.

Phân đội xuất quân trong một đêm trời tối, vần vũ mây đen, mưa rơi lắc rắc, gió táp những hạt mưa vào mặt vừa rát vừa lạnh rợn người. Đoàn người lặng lẽ hành quân, bám sát đường đèo, dừng lại chò tổ trinh sát nắm tình hình. Mới 5 giờ chiều mà rừng núi Hải Vân phủ một màn tối sẫm, các loại xe lưu thông trên đường đèo bật đèn pha sáng rực. Bọn địch tuần tra có lẽ đang tránh mưa gió nên vắng bóng trên đường. Tổ trinh sát tranh thủ tình hình sơ khoáng, đưa anh em nhanh chóng vượt qua, về vị trí xuất phát phía bắc kho xăng Liên Chiểu. Theo lệnh chỉ huy, anh em trút bỏ quần áo. mặc độc chiếc quần sịp, đầu đội chiếc mũ bơi may bằng vải dù hoa mỏng, tiến hành khởi động. Bộ phận phục vụ đóng gói khoảng 40kg bọc ni lông kín nước, làm thành một chiếc phao vượt biển. Đội trưởng luôn động viên anh em khởi động tích cực vào cho nóng người, các cơ bắp giãn ra để khi xuống nước đỡ bị chuột rút. Chuột rút chân tay có thể còn bình tĩnh xử lý dễ dàng, chứ chuột rút cơ bụng là hết sức nguy hiểm. Khởi động xong, mỗi người cô uống kha khá nước mắm để dự trữ calo! Anh quay sang nhắc nhở bộ phận phục vụ, phải hết sức cẩn thận, chú ý kín nước vì mỗi chiếc phao gắn liền với sinh mệnh của đồng đội, đồng chí mình vượt biển đêm nay!


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:14:15 am
Đúng 8 giờ 30 phút, một đêm tháng 9 năm 1972, Đàm Văn Tôn đưa phân đội trườn mình ra biển mênh mông. Trời vẫn lắc rắc mưa rơi, mặt biển phản chiếu vô số ngọn đèn trên những con tàu lung linh run rẩy. Phía xa trước mặt, bán đảo Sơn Trà chỉ là một màu đen sẫm không nét không hình. Sóng bạc đầu lao xao táp vào mặt mọi người, không cẩn thận hớp phải được, chẳng bao lâu bụng sẽ no nước biển. Anh em xuất phát đầu hôm gặp nước triều cường, dòng chảy từ ngoài khơi đẩy vào nên phải vất vả đè ngang dòng chảy để bơi theo đúng hướng Tây Nam. Mặt biển mênh mông, độ sâu thăm thẳm, con người hết sức nhỏ nhoi, có thể bị nhấn chìm trong lòng đại dương bất cứ lúc nào! Đem sức người vật lộn với sóng gió biển khơi, nhiều lúc mệt mỏi rã rời như sắp đứt hơi, không thể cố lên được nữa, nhưng từ trong trái tim của người chiến sĩ như vọng ra lời nhắn nhủ: “Trung với Đảng, hiếu với dân là thể hiện bằng hành động trong những giờ phút cam go, nguy hiểm!”. Sức mạnh tinh thần làm vơi đi cái mệt mỏi rã rời, kiên trì vượt lên phía trước!

Kinh nghiệm bơi đường dài cho thấy, vài ba cây số đầu tiên là vô cùng mệt mỏi, nhưng qua cái ngưỡng đó rồi như có sự hồi sức, sự mệt mỏi giảm đi, có thể đủ sức vượt quãng đường dài. Gần 5 tiếng đồng hồ vẫy vùng giữa biển mênh mông, bán đảo Sơn Trà xa xa mờ ảo; những con tàu vào ra vịnh gần phao số 0 kéo những hồi còi dài lảnh lói trong đêm; từng tổ động viên nhau bằng tín hiệu của sợi dây liên kết. Mọi người đem hết sức bình sinh chiến đấu với biển cả thiên nhiên, sự sống và cái chết tuỳ thuộc vào trí lực của mỗi người; chính trong giờ phút này lòng quyết tâm và sức mạnh bản năng bật dậy làm cho tay quẫy, chân đạp trong nước dẻo hơn, mạnh hơn, quãng đường ngắn lại dần; vòm trắng trên đỉnh Sơn Trà mỗi lúc to lên, hiện rõ dưới quầng sáng điện đèn.

Niềm vui phấn khởi lại tiếp thêm sức lực để anh em vượt nốt quãng đường cuối cùng tới đích trên bờ biển phía bắc bán đảo Sơn Trà, nằm khoảng giữa cảng Tiên Sa và đài ra-đa đối hải. Ba tổ tới đích đầy đủ, lần lượt lên bờ. Phân đội trưởng nhìn đồng hồ đã là 4 giờ 50 phút. Thế là phân đội đã vượt biển hơn 12 cây số với thời gian gần chín tiếng đồng hồ. Việc mở đường coi như đã thắng lợi! Nỗi mừng khôn xiết làm tiêu tan cái lạnh lẽo, vất vả nhọc nhàn, ai nấy cảm thấy như mình vụt lớn lên trong cuộc chiến đấu một mất một còn này.

Anh em nhanh chóng thay quần áo, sắp xếp mọi thứ vào gùi, đi tìm nơi trú ẩn tạm thời, nghỉ ngơi cho lại sức. Sáng hôm sau, họ chia nhau tìm nơi ém quân lâu dài phía đông bắc bán đảo Sơn Trà, trên đỉnh là đài ra-đa, đài không lưu của Mỹ - ngụy, bên dưới là triển dốc đứng, tạo thành một thung lũng nhỏ, cây cối um tùm rậm rạp, có những khe nước nhỏ từ các hốc đá chảy ra và quan trọng hơn là đứng ở vị trí này, bí mật đặt đài quan sát có thể nhìn toàn cảnh vịnh Đà Nẵng cập nhật được tình hình hoạt động của tàu quân sự, tàu vận tải vào ra neo đậu, từ đó dễ dàng chọn được mục tiêu thuận lợi, mở ra khả năng tác chiến mới cho Tiểu đoàn 471 nhiều cơ hội lập công. Có thể xem cái ngày đơn vị vượt biển, thọc sâu bán đảo Sơn Trà là một chiến công, là thời khắc lịch sử của Tiểu đoàn 471 đặc công nước trên Mặt trận Quảng Đà.

Phân đội tiến hành tổ chức công tác điểu nghiên, trinh sát mục tiêu trên bán đảo và tàu bè dưới vịnh. Qua tổng hợp điều tra trinh sát, phân đội quyết định đánh tiêu diệt đài ra-đa đối hải của Mỹ. Đài ra-đa đối hải thuộc loại tối tân, được Mỹ xây dựng trên đỉnh núi cao nhô ra biển phía đông bắc bán đảo Sơn Trà. Tầm quét của ra-đa xa hàng trăm hải lý, kiểm soát một vùng rộng lớn biển Đông sang tận đảo Hải Nam, Trung Quốc. Chúng san bằng đỉnh núi thành một bãi rộng hơn 1.500m2, đổ xi măng làm nền chắc chắn. Chính giữa là tháp ra-đa cao 30m. Dưới chân đài là khu nhà lắp đặt máy móc có chiều dài 35m, rộng lõm. Chung quanh có 5 lớp rào kẽm gai bao bọc. Thường xuyên có 5 sĩ quan Mỹ thường trực tác nghiệp ra-đa. Dưới thấp hơn về phía đông cách đài ra-đa 50m, là khu nhà ở của trung đội lính bảo vệ. Về phía tây bắc cách đài ra-đa 100m, là trạm phát điện và kho nhiên liệu chứa khoảng 100 phuy xăng dầu phục vụ cho trạm phát điện suốt cả ngày đêm.

Phân đội quyết định đánh mục tiêu này vì mấy lý do: Một là, trận đánh bất ngờ vào một mục tiêu mà bất cứ tên chỉ huy nào có đầu óc “Tào Tháo đa nghi” cũng không ngờ Việt cộng có thể đánh vào đây được. Trận đánh thắng lợi sẽ khích lệ tinh thần chiến đấu của toàn đơn vị; củng cố niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của cách mạng, làm cho kẻ địch hoang mang khiếp sợ, báo chí Sài Gòn và đài báo phương Tây đưa tin bình luận, nhân dân Mỹ sẽ lên án mạnh mẽ giới cầm quyền thực hiện cuộc chiến tranh phi nghĩa, tốn của hao người tại Việt Nam. Hai là, đảm bảo an toàn cho tàu không số của ta vận chuyển vũ khí chi viện chiến trường miền Nam theo hành lang “đường Hồ Chí Minh trên biển”, tránh khỏi sự phát hiện của ra-đa Mỹ. Ba là, vị trí đài ra-đa sát biển, ta làm tốt công tác nghi binh, địch sẽ nhận định ta dùng xuồng máy đổ quân lên đánh rồi rút về đường biển, khả năng nghi ngờ quân ém sẵn trên bán đảo ít hơn. Toàn phân đội thông nhất ý chí và tiến hành triển khai bằng hành động một cách khẩn trương.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:15:01 am
Phân đội tổ chức thành 3 mũi (mỗi mũi 1 tổ 3 người). Mũi 1 chủ công có phân đội trưởng làm mũi trưởng đánh trạm phát điện và khí nhiên liệu. Phân đội trưởng làm mũi 3 đánh trạm phát điện và khí nhiên liệu. Vũ khí sử dụng: Dùng quả bộc phá 20kg thuốc nổ C4 đánh tan tháp ra-đa và máy móc. Dùng thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên đánh vào khu nhà lính. Dùng bộc phá 2kg và thủ pháo đánh vào trạm phát điện. Ba tổ tiến hành trinh sát thực tế mắt thấy tay sờ, nắm chắc tình hình và mục tiêu được phân công, nghiên cứu kỹ đường tiến, đường lui của từng mũi. Đêm trinh sát thực tế không có gì trở ngại, nhìn đôi mắt người nào cũng thấy chấp chới biếu hiện nỗi vui mừng sau đêm trinh sát. Mọi người lo chuẩn bị cho trận chiến đấu đã được phân công.

Chiều 15 tháng 9, trên bán đảo Sơn Trà mưa to gió mạnh ào ào lay động cây rừng ngả nghiêng gãy đổ. Mới 17 giờ mà trời đất tối sẫm, mịt mùng trong nưa gió. Đúng 19 giờ, đội ra lệnh các tổ xuất phát tiếp cận hàng rào các mục tiêu đã được phân công. Các mục tiêu im lìm không thấy bóng dáng một. tên địch nào qua lại. Trời vẫn mưa to với từng cơn gió giật, những ngọn đèn bào vệ trên cao chao đảo hắt ra những vùng tối sáng loang loáng nhạt nhòa trong màn mưa mờ đục. Các mũi đã cắt rào vào hẳn bên trong sẵn sàng chờ lệnh. Riêng mũi 1 phải vượt, qua 5 lớp rào kiên cố nên thời gian có chậm hơn, nhưng vẫn đảm bảo dặt khối nổ vào chân tháp ra-đa trước giờ nổ súng.

Đúng 21 giờ 30 phút, khối bộc phá chân tháp ra-đa nổ vang trời, tiếng rền như sấm rung chuyển núi rừng làm hiệu lệnh chung. Các mũi đồng loạt tiến công, tiếng bộc phá ùng oàng liên tiếp, tiếng tiểu liên chát chói từng tràng, đài ra-đa gãy gục, khu máy móc tanh bành. Khu nhà ở của trung đội bảo vệ, bọn địch không kịp trở tay và chìm trong lửa đạn; kho nhiên liệu và trạm phát điện bốc cháy, ngọn lửa dâng cao như ngọn đuốc khổng lồ trên đỉnh núi cao sáng cả biển trời vùng vịnh. Trận đánh diễn ra chừng mười lăm phút, ta san bằng, diệt gọn toàn bộ đài ra-đa của Mỹ trên bán đảo Sơn Trà, ghi một chiến công rực rỡ của Đội 1 thuộc Tiểu đoàn 471, góp phần thắng lợi trong chiến dịch mùa Thu năm 1971 của Mặt trận Quảng Đà.

Vế phía ta, mũi đánh vào trạm phát điện và kho nhiên liệu, lửa bốc cháy nhanh, chiến sì Tùng chạy ra bị lửa táp vào lưng cháy bỏng. Anh em khẩn trương cõng Tùng rút về vị trí an toàn.

Sáng sớm hôm sau, mấy tàu chở quân ngụy đổ bộ theo bờ biển, ngang khu ra-đa bị ta đánh, rải về phía nam bán đảo, lùng sục vào rừng. Trên trời, mấy chiếc trực thăng quần đảo rà sát ngọn cây, khắp vùng núi phía nam, nơi không có vị trí đóng quân của chúng. Hơn nửa ngày lủng sục không phát hiện được gì, có thể chúng chỉ phát hiện được dấu vết nghi binh của ta, nơi tạo một hiện trường giả, như chỗ xuồng máy đổ quân lên đánh và rút ra theo đường biển. Đến 15 giờ, chúng rút hết quân, chứng tỏ quân địch không thể hình dung nổi những chiến sĩ đặc công nước gan dạ ém quân sát nách chúng, để rồi bất ngờ giáng cho chúng những đòn sấm sét.

Sau trận đánh ba ngày, phân đội họp phân công thành hai bộ phận: bộ phận do phân đội trưởng tổ chức đưa anh em vượt biển trở về nam Hải Vân để báo cáo tình hình với đội và tiểu đoàn, nhận chỉ thị mới, nhận vũ khí, lương thực thuốc men nhất là thuốc chữa bỏng cho Tùng, chậm nhất là 10 ngày sau sẽ quay trở lại. Bộ phận thứ hai, do đồng chí Huân phụ trách cùng 5 anh em khác ở lại, có nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng thương binh Tùng và tiếp tục theo dõi điều tra các mục tiêu trên bán đảo.

Bộ phận vượt biển về đơn vị an toàn, năm anh em ở lại thu xếp dồn về một cái hang sâu kín đáo để giữ bí mật và tiện chăm sóc vết thương cho Tùng; vết thương không sâu lắm nhưng diện tích bỏng trên lưng khá rộng, bắt đầu rỉ một thứ nước vàng hôi hám làm cho Tùng đau đớn. Anh em ai nấy đều mủi lòng trước nỗi đau của đồng đội nhưng trong hoàn cảnh ém quân, giữa hang ổ kẻ thù, không cho phép nấu nướng tự do; khẩu phần ăn mỗi người một bữa là một gói cơm sấy khô bằng điện do Cục Quân nhu sản xuất từ miền Bắc gửi vào; gói cơm đổ nước vào sẽ nở ra vừa lưng một bát. Nước uống là nước suối cho vào bi dông, bỏ vào 1 viên thuốc nhỏ sát trùng. Anh em kham khổ đã đành, tội nhất là không có gì bổi dưỡng cho thương binh! Không có thuốc chữa bỏng, vết thương trên lưng Tùng đau đớn nhưng không dám kêu ca rên rỉ, sợ anh em lo lắng cho mình ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung! Một tập thể nhỏ trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm khó khăn, tình đồng đội yêu thương gắn bó nhưng còn một thứ tình cảm thiêng liêng sâu sắc đó là tình cảm cách mạng, tình yêu Tổ quốc đang bị kẻ thù giày xéo, ai nấy đều canh cánh trong lòng nỗi lo về nhiệm vụ chiến đấu của Đảng và nhân dân giao phó. Anh em vẫn phân công nhau hằng ngày quan sát theo dõi tình hình địch, nhất là tàu vận tải quân sự Mỹ vào ra neo đậu trong vịnh và quy luật hoạt động của chúng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 06:15:33 am
Ngày 24 tháng 10, anh em phát hiện có một tàu vận tải quân sự Mỹ cỡ lớn, chở đầy hàng, đang neo đậu chờ dỡ hàng, cách cảng Tiên Sa về phía bắc chừng hơn lkm. Anh em bàn nhau: “Không bỏ lỡ thời cơ, bỏ mất một mục tiêu dễ đánh!”. Để tập trung cho trận đánh, phân đội cử hẳn 1 người chăm sóc thương binh, còn 3 anh em: Huân, Bình trắng và Bình đen, khẩn trương trinh sát mục tiêu và đường tiến, lui trước và sau trận đánh. Điều thuận lợi là không phải chuẩn bị khí tài, quả mìn nam châm loại 10kg chuyên để đánh tàu đơn vị chưa sử dụng. Tố chiến đấu suốt ngày đêm lặn lội, mỗi người mang theo mấy thỏi lương khô nhâm nhi lấy sức, chẳng thể nào có được một bữa ăn với thời gian thoải mái. Trước khi vào trận đánh, anh em động viên Tùng: “Đồng đội đi chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, Tùng cũng phải chiến đấu với vết thương đau đớn của mình, trận chiến dấu nào cũng gay go quyết liệt, Tùng cố gắng lên để anh em yên lòng làm nhiệm vụ!”. Tùng cố gượng cười mà như mếu, mong anh em chiến đấu thắng lợi trở về!

Lúc 18 giờ 30 phút ngày 26 tháng 10, tổ chiến đấu 2 người xuất quân, vai đeo mìn và các khí tài cần thiết, băng rừng đi về hướng tay bắc, vượt qua quãng giữa đài ra-đa, đài không lưu trên đỉnh và cảng Tiên Sa, bám địch từng chặng, hai người tiến theo kiểu “sâu đo” tiến sát con đường rải nhựa dẫn vào khu cảng. Chờ cho xe tuần đường đi qua, hai người chớp thời cơ vượt sang đường, lợi dụng địa hình đi về nơi xuất phát, chỗ bờ biển cách cổng cảng Tiên Sa chừng hơn lkm, đối diện cửa biển sông Hàn.

Lúc 21 giờ 30 phút, sau khi khởi động ấm người, họ nối với nhau bằng sợi dây liên kết, kéo quả mìn cùng nhau trườn ra biển. Dòng chảy sông Hàn đổ ra biển tạo nên một lực đẩy nhẹ, giúp anh em đỡ tiêu hao sức lực.

Hơn 2 tiếng đồng hồ, họ đã vượt quãng đường gần 3km, tiếp cận mục tiêu. Con tàu neo đậu sừng sững như con quái vật khổng lồ. Vô số ngọn đèn trên tàu sáng rực, soi rõ bóng dáng mấy tên thuỷ thủ đi lại tới lui từ dầu đến cuối boong tàu. Hai người áp sát mục tiêu, thận trọng dìm sâu quả mìn cách mặt nước hơn lm, đặt quá mìn hút chặt vào thân tàu, phía bên trong là khoang máy, rút chốt an toàn, điểm hoả kíp nổ hẹn giờ 30 phút, rồi nhẹ nhàng rời khỏi mục tiêu, tiến về hướng tây bắc - đông nam với quãng đường chừng 2 cây số gần nơi ém quân, có đồng chí đợi đón anh em.

Tổ chiến đấu chưa kịp lên bờ, ánh chớp ở mục tiêu đã loé lên, tiếng nổ âm vang, sóng biển đuổi nhau ào ào trên vịnh. Con tàu bốc cháy, ngọn khói đen cuộn lỏn rồi tỏa ra như một chiếc nấm độc khổng lổ. Đài chỉ huy của con tàu thấp dần, thấp dần rồi biến mất trong nước biển mênh mông. Tổ chiến đấu vẫn còn lênh đênh trên hiển nhưng nỗi vui mừng khôn tả, muốn hét to lên cho dậy đất dậy trời: “Đáng đời quân xâm lược Mỹ!'”. Hai ngươi lên bờ, 3 người gặp nhau, ôm chặt lấy nhau nhảy cẫng lên cho người nóng ấm, cho thỏa nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng những người làm nên chiến thắng kỳ diệu, vết thương của Tùng, anh em tiếp tục dùng nước biển nấu sôi, để nguội rửa vết thương, trong khi đó, toán được cử vào đất liền báo cáo chiến công và tình hình thì được chỉ huy tiểu đoàn cấp tốc ra lệnh cho bộ phận quân y tổ chức hướng dẫn ngay cho anh em cách điều trị vết thương, đồng thời chuẩn bị các loại thuốc kháng sinh, sinh tố, tổ chức một tổ vượt biển đưa thuốc ra đảo điều trị thương binh Tùng. Nhờ vậy, đồng chí Tùng sau đó đã lành bệnh và trở về đất liền cùng đồng đội.

Thành tích đưa bộ đội vượt biển, ém quân trên bán đảo Sơn Trà, tiêu diệt đài ra-đa đối hải, đánh chìm tàu vận tải quân sự gần cảng Tiên Sa là một chiến công lớn, được Quân khu 5 và Mặt trận 44 đánh giá như sau: “Tiểu đoàn 471 đặc công nước, đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, gan dạ, táo bạo, mưu trí, đũng cảm, linh hoạt trong mọi hoàn cảnh và điều kiện khó khăn, tranh thủ mọi thời cơ tiêu diệt địch lập nên nhửng chiến công ngời sáng, góp phần thắng lợi vẻ vang của quân và dân Đà Nẵng, của Mặt trận 44 và Quân khu 5 trung dũng, kiên cường!”.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:18:36 am
Đánh chìm 3 tàu vận tải quân sự Mỹ tại vịnh Đà Nẵng

Tiểu đoàn 471 mới thành lập, trước mắt rất nhiều khó khăn nhưng nhiệm vụ hết sức nặng nề. Ban chỉ huy Tiểu đoàn phân công nhau đi sát các đội, kiểm tra đôn đốc, động viên, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của anh em, phân công nhiệm vụ cho từng đội chuẩn bị chiến trường phối hợp chiến đấu nhịp nhàng với Mặt trận 44 trong cuộc tiến công chiến lược của miền Nam Xuân 1972.

Đội 1 nhận nhiệm vụ nắm chắc tình hình biến động của tàu vận tải quân sự Mỹ và các mục tiêu trên vịnh Đà Nẵng, tổ chức đánh ngay khi có thời cơ, không phải chờ lệnh Quân khu 5 vì mục tiêu di động, chậm trễ sẽ mất cơ hội lập công.

Đội trưởng đội này là đồng chí Nguyễn Hồng Quảng và Chính trị viên Đỗ Văn Thành tổ chức cuộc họp toàn đội, phát động thi đua và liên hoan đón số đồng chí đặc công nước từ miền Bắc vào được Quân khu bổ sung về đơn vị. Sau lễ phát động thi đua, anh em liên hoan bằng bữa ăn tươi. Chẳng có cao lương mĩ vị gì, cố găng bám hậu cần Tiểu đoàn mới xoay xở được cho mỗi người một gói mỳ Ông Phật và một lon cá hộp (lon cá nhỏ hơn lon bia ta uống bây giờ). Anh nuôi tập trung hết lại nấu một nồi nước lèo cá hộp, chần mỳ Ông Phật qua nước sôi mềm ra như bún. Chỉ độc một món “mỳ cá hộp” mà anh em thưởng thức ngon lành. Sau bữa ăn, mỗi người được một điếu thuốc lá “Thủ đô” quà quý từ miền Bắc gửi vào. Qua làn khói thuốc lá, anh em chuyện trò cười nói râm ran vui vẻ. Nhưng cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, khi Chính trị viên Đỗ Văn Thành nói lời cuối cùng của cuộc thi với toàn đơn vị: “Hôm nay, chúng ta gặp nhau vui vẻ để rồi ngày mai bước vào nhiệm vụ hết sức nặng nề. Các phân đội ra sức thi đua, đoàn kết hiệp đồng lập công xuất sắc. Tổ quốc đang kêu gọi chúng ta. Quê hương đang trông đợi, đồng bào Đà Nẵng mong chờ chúng ta lập nhiều chiến công xuất sắc. Từ giờ phút này, chúng ta bắt tay nhau thi đua giết giặc lập công trong chiến dịch tiến công chiến lược Xuân Hè năm 1972”.

Các phân đội trở về vị trí trú quân, từ cán bộ, chiến sĩ đều lo lắng nhiệm vụ sắp đến, làm thế nào để biến quyết tâm thành hành động thực tế giành thắng lợi vẻ vang ngay trên mảnh đất Quảng Nam, Đà Nẵng trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ.

Đội cử bộ phận trinh sát gồm những chiến sĩ quen thuộc địa hình, dùng cảm mưu trí, thông minh nhanh nhẹn, ngày đêm bám sát cập nhật tình hình hoạt động của các loại tàu quân sự trên vịnh Đà Nẵng. Đứng ở tầm xa quan sát không thể nắm chắc tình hình, phải tiếp cận gần khu vực tàu vận tải quân sự của địch thường ra vào neo đậu. Anh em chọn những nơi địch không ngờ đến; đặt đài quan sát trên cồn cát sát biển, địa hình trống trải, vùi mình trong cát, lấy cỏ dại và dây muống biển phủ lên mình ngụy trang kín đáo. Hằng ngày, vài ba lượt lính tuần tiễu địch qua đây vẫn không ngờ dưới cồn cát dây muống biển bò lan kia, lại có Việt cộng đang ém mình trong đó. Có lúc họ ẩn mình trong các đống phế liệu từ các kho hàng quân sự, địch đem đổ ra ngoài bài biển. Tinh thần luôn căng thẳng, trời nắng rát da, trời mưa lạnh lẽo, gian khổ hiểm nguy nhưng người lính đặc công vẫn gan góc chịu đựng.

Đầu năm 1972, thời điểm đỉnh cao của “Việt Nam hoá chiến tranh”, nhu cầu tiếp tế vũ khí và phương tiện chiến tranh trên các chiến trường rất lớn, đế quốc Mỹ phải tăng tàu, tăng chuyến, vận chuyển hàng quân sự vào ra trên vịnh Đà Nẵng liên tục. Chiều ngày 6 tháng 4 năm 1972, tổ trinh sát phát hiện có một tàu lớn chở dầu từ phao số không tiến vào neo đậu trên vịnh, có lẽ chờ bơm dầu vào kho Liên Chiểu. Tiếp đến, tôi ngày 6 tháng 4, lại có 2 tàu vận tải cỡ lớn nặng nề, theo sau tàu hoa tiêu dắt vào neo đậu về phía bắc cảng Tiên Sa. Tổ trinh sát tức tốc báo về đơn vị. Ban chỉ huy Tiểu đoàn điện hỏi quân báo mặt trận, xác minh đúng có các tàu vào neo đậu trên vịnh Đà Nẵng như tin trinh sát báo về. Tiểu đoàn lệnh cho Đội 1 khẩn trương tổ chức đánh ngay, không để mất thời cơ diệt địch!

Ngay đêm 6 tháng 4, Ban chỉ huy đội họp phân công: Đội trưởng cùng tổ trinh sát ra thực địa khảo sát, đặt vị trí tập kết xuất phát chiến đấu, vị trí đón anh em về, đo đạc cự ly từ điểm xuất phát đến mục tiêu, nắm chắc tình hình địch trên bờ, dưới biển... Chính trị viên lo công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức, sắp xếp 3 tổ chiến đấu đảm bảo chất lượng và trình độ chuyên môn kỹ thuật, phân công các bộ phận chuẩn bị khí tài, phục vụ chiến đấu.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:18:59 am
Suốt cả ngày 7 tháng 1, đội trưởng và tổ trinh sát lặn lội len lỏi trong vùng địch, nắm chắc tình hình, mãi đến 23 giờ đêm mới trở về đơn vị. Nhiệm vụ hết sức khẩn trương, tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy át đi cái đói khát, vất. vả nhọc nhằn. Ban chỉ huy chụm đầu với nhau bên ngọn đèn dầu, trao đổi bàn bạc làm phương án chiến đấu cho kịp sáng ra thông qua Ban chỉ huy tiểu đoàn và toàn đơn vị.

Mới sớm tinh sương, rừng núi Hải Vân còn phủ những đám mây trắng là sát ngọn cây, đường rừng còn sẩm mờ trông chưa rõ lối, nhưng tất cả vì trận đánh quan trọng này, nên moi người đều có mặt. Đội trưởng Quảng trải tấm bản đồ trên nền đất, tay cầm que chỉ dẫn, miệng thuyết, trình phương án một cách rõ ràng, khúc chiết. Anh nói:

- Ta đã nắm chắc 3 mục tiêu, 1 tàu vận tải chở dầu trên vạn tấn đang neo đậu ở tọa độ X, chờ bơm nhiên liệu vào kho. Hai tàu vận tải quân sự cỡ lớn đang neo đậu ở tọa độ Y, chờ bốc hàng vào kho Bàu Mạc. Việc bố phòng của địch trên tàu không có gì đặc biệt, vẫn luân phiên canh gác và đi lại trên boong quan sát dưới nước quanh tàu. Lực lượng tuần tiễu trên vịnh, do tàu tuần tiễu ở cảng quân sự ngụy đảm nhiệm, hằng đêm đôi ba lượt chạy vòng quanh kiểm soát tình hình trên vịnh. Để đối phó, ta thực hiện kỹ thuật thật tốt, bảo đảm bí mật tiếp cận mục tiêu. Trên đường hành tiến, quan sát địch từ xa, phán đoán hướng đi của tàu tuần tiễu để né tránh. Tôi tin rằng chiến sĩ ta có đủ trình độ và bản lĩnh trong việc này. Về phía đơn vị, ta sẽ tổ chức 3 tổ chiến đấu đánh 3 mục tiêu. Thành phần trong tổ có đảng viên xuất sắc và đoàn viên ưu tú, có chiến sĩ cũ đã kinh qua chiến đấu, có chiến sĩ mới trình độ và sức khỏe tốt, có thể đảm bảo ra quân là chiến thắng. Về sử dụng vũ khí, ta có thuận lợi, anh em từ miền Bắc mới vào mang theo một số mìn rùa nam châm, chuyên để đánh tàu. Loại mìn nam châm này khoảng 10kg, có sức nổ cực mạnh, cấu tạo theo nguyên lý mìn clây-mo, khi nổ áp lực dồn về một phía, phá thủng thân tàu, một lỗ hổng rộng đến năm, sáu mét vuông. Nếu bị đánh, tàu trên dưới 1 vạn tấn chở đầy hàng sẽ nhanh chóng đắm chìm xuống đáy biển sâu. Nếu dìm sâu quả mìn áp vào đáy tàu thì hiệu quả cao hơn!

Cấp ủy và ban chỉ huy đội bàn bạc, cân nhắc rồi phân công: Tổ 1 đánh mục tiêu tàu dầu, tổ 2 và 3 đánh 2 tàu vận tải quân sự theo chỉ lệnh trước khi vào trận. Đội trưởng nhấn mạnh những điều cần thiết, các tổ phải hết sức lưu tâm:

- Mìn clây-mo tuy nhẹ nhưng phải có phao kéo theo, tuyệt đối không được mang trực tiếp trên người. Kinh nghiệm ở chiến trường Cam Ranh, 1 chiến sĩ đánh tàu cậy mình bơi giỏi, sức khỏe tốt, đeo mìn trên người, đến khi bị chuột rút đuối sức không gỡ mìn ra kịp, quả mìn kéo người chiến sĩ chìm nghỉm dưới biển sâu, gây ra tổn thất rất đáng tiếc và không đáng có. Ngoài ra, mìn nam châm có sức hút rất lớn, để cách thân tàu 2m sức hút đã phát huy. Do đó, khi chuẩn bị áp mìn vào thân tàu, phải hết sức cẩn thận, hạn chế sức hút, nhẹ nhàng áp vào mục tiêu. Nếu để sức hút tự do đập vào sẽ gây ra tiếng động mạnh, kẻ địch có thể phát hiện được, rất nguy hiểm. Các bộ phận được phân công phục vụ hậu cần, trinh sát, dẫn đường đưa đón anh em... tất cả dồn hết tâm sức đảm bảo cho trận đánh thắng lợi. về thời gian thì đã tính toán cụ thể, ở cả 3 mục tiêu đi và về khoảng hơn 10 cây số, thời gian là chín tiếng rưỡi đồng hồ. Ta xuất phát từ lúc 19 giờ đêm thì 4 giờ sáng hôm sau sẽ về đến vị trí đón, chậm nhất là 4 giờ 30 phút, còn đủ thời gian về vị trí an toàn trước khi trời sáng!

Anh em chú ý lắng nghe như thu nhận hết những lời truyền đạt của chỉ huy. Tiểu đoàn trưởng Hồ Xuân Hoà và Chính trị viên Trần Châu Á góp thêm ý kiến bổ sung: “Trận chiến đấu này rất quan trọng, Đảng uỷ và Ban chỉ huy Tiểu đoàn tin tưởng các đảng viên, các đoàn viên, các cán bộ, chiến sĩ sẽ chiến đấu anh dũng, lập công xuất sắc!”. Các đồng chí còn dặn thêm: “Anh em phải hết sức bình tĩnh, xử lý mọi tình huống xảy ra mà tất cả anh em ta ngồi đây chưa ai lường trước được, cố gắng hỗ trợ, xử lý cho nhau khi trong tổ có người bị chuột rút hoặc xảy ra sự cố bất ngờ. Phải hết sức cảnh giác để né tránh tàu tuần tiễu của địch. Khi vào gần mục tiêu phải chọn một điểm chuẩn, có thể là ngọn đèn sáng nhất, để khi đi chìm nhằm nước thẳng hướng điểm chuẩn mà đi không sai lệch mục tiêu. Cuối cùng mong tất cả anh em: Dẫu mọi việc ta đã làm hết sức chu đáo, cho phép ta nắm chắc thắng lợi đến chín phần mười cũng không được chủ quan với một phần còn lại, một khinh suất nhỏ có thể dẫn đến hậu quả tai hại rất to, không hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó!”.

Đã là đầu tháng 4 dương lịch, nhưng những đợt gió mùa đông bắc cuối cùng tràn về làm ảnh hưởng đến các tỉnh miền Trung. Khu vực Hải Vân và vịnh Đà Nẵng trời luôn sâm sẫm, lúc tạnh lúc mưa và se sắt lạnh. Từ hậu cứ, đơn vị xuất quân lúc 16 giờ ngày 8 tháng 4 năm 1972.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:19:36 am
Tổ trinh sát bám đường, đưa đoàn quân băng rừng vượt suối áp sát đường đèo Hải Vân, chờ chập choạng tối, vượt qua đường về nơi tập kết đã hơn 18 giờ. Thời gian không đợi, mọi người đều hết sức khẩn trương. Ba tổ chiến đấu theo lệnh chỉ huy thực hiện “thoát y” tiến hành khởi động, từ những động tác nhẹ đến nặng dần, vận động toàn thân cho giãn gân cốt và các cơ bắp mềm đi, xua tan cái lạnh trước khi hoà mình trong nước.

Đúng 19 giờ, 3 tổ cùng lúc vượt qua con sóng dềnh vào bờ cát, từng tổ nối với nhau bằng sợi dây liên kết, kéo khối mìn trườn nhanh ra biển, hướng về mục tiêu đã được phân công. Chẳng bao lâu, hình bóng các anh chỉ còn là những chấm đen nhấp nhô di động rồi mất hẳn trên mặt biển phản chiếu ánh sáng vàng lấp loáng.

Khi còn ở trên bờ, nhìn mặt biển bát ngát mênh mông, lòng đại dương sâu thẳm, nghe gió rút từng hồi và mọi thứ âm thanh ầm ào ồn ã, mọi ý nghĩ tự nó tiêu tan bởi sự sống và cái chết giờ đây tuỳ thuộc vào lòng kiên nhẫn, bền bỉ, quả cảm, kiên cường với nghị lực lớn lao, phát huy hết tài năng và sức lực để vượt lên. Chính trong giờ phút sự sống và cái chết gần nhau, tâm tưởng của anh Bộ đội Cụ Hồ dậy lên tình cảm lớn lao đối vối quê hương đất nước, thôi thúc tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã là bản năng được bật dậy với hành động quyết liệt hơn, ý nghĩa sâu sắc và táo bạo hơn, trở thành động lực làm nên những chuyện phi thường.

Gió mùa mang cái lạnh cắt thịt cắt da, nước biển càng về đêm càng lạnh rét, các tổ chiến đấu vẫn kiên trì vật lộn với bóng nước, vận động hết sức lực để thu ngắn dần quãng đường dẫn đến mục tiêu, ai nấy cảm thấy mồ hôi toát ra như vắt sức con người hoà trong nước biển.

Mục tiêu phía trước rõ dần, rõ dần từng chi tiết. Những con tàu sừng sững hiện ra. Những tên thuỷ thủ đi lại trên boong trông nhỏ nhoi so với cơn tàu lớn. Gió biển lồng lộng nhưng những lá cờ Mỹ trên đỉnh cột cao ướt đẫm sương đêm vẫn rủ xuống như một lá cờ tang.

Các tổ đã dùng kỹ thuật đi chìm tiếp cận mục tiêu, tuy có nhanh chậm chênh lệch thời gian vì quãng đường đến từng mục tiêu dài ngắn khác nhau, song vẫn nằm trong khoảng từ 23 giờ 30 phút đến 24 giờ là hoàn tất công việc áp khối nổ vào các mục tiêu. Các tổ điểm hỏa (thống nhất dùng kíp nổ hẹn giờ “1 tiếng”) rồi rút theo hướng chếch về đông bắc, tiến vào bãi cát phía bắc cửa sông Thủy Tú. Anh em đã rút ra xa mục tiêu 2km vẫn chưa thấy điều gì xuất hiện, thỉnh thoảng quay nhìn về phía mục tiêu mong ngóng...

Bỗng từ phía ấy, ánh chớp loé lên, tiếng nổ tiếp theo làm cho quầng lửa bung ra, trong khoảnh khắc ngọn lửa cuồn cuộn dâng cao rồi lan ra cháy cả một vùng biển rộng. Tàu thuyền xung quanh sợ vạ lây, hốt hoảng rú còi inh ỏi và nhốn nháo nhô neo chạy tránh. Hai mục tiêu tàu vận tải quân sự Mỹ cũng kéo còi, nổ máy, nặng nề xoay chuyển hướng ra khỏi tránh nạn, nhưng số phận của chúng đã bị định đoạt: chưa kịp xoay đầu thì hai tiếng nổ tiếp theo, làm cho hai tàu vận tải khựng lại rồi từ từ chìm xuống biển sâu trong lòng vịnh...

Gần 4 giờ sáng, các tổ lần lượt về đến vị trí đón. Dẫu còn trong vùng nguy hiểm, địch vây bủa chung quanh, nhưng họ ôm nhau nhảy cẫng lên trong niềm vui lớn. Ai nấy cảm thấy nỗi gian khổ, vất vả, lạnh lẽo và đầy hiểm nguy qua những đêm ngày lặn lội tưởng như sức người cạn kiệt, giờ đây đã được đền bù, lòng mỗi người tươi vui phơi phới.

Tổ trinh sát bám địch, quay về giục: “Các đồng chí khẩn trương tranh thủ thời gian chưa sáng, ta vượt qua đường đèo, để sáng ra cắt đường rừng về hậu cứ!”. Lúc đó, trên vịnh Đà Nẵng, hàng đàn trực thăng pha đèn quần lượn, soi mói khắp nơi để truy lùng quân giải phóng hay để thu nhận những giây phút cuối cùng, một cảnh tượng kinh hoàng mà đồng bọn chúng phải trả giá trong cuộc chiến tranh phi nghĩa này.

Đánh chìm 3 tàu vận tải lớn của Mỹ trong một đêm là một chiến công tuyệt đẹp, làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 471, làm dấy lên một khí thế hào hùng, sôi nổi và náo nức lập công trong toàn đơn vị. Quân khu 5 và Mặt trận 44 Quảng Đà đánh giá cao trận chiến đấu lập công xuất sắc này, một trong các trận đánh được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, cùng với nhiêu Huân chương Chiến công các hạng. Trận đánh chìm 3 tàu vận tải quân sự tại vịnh Đà Nẵng càng khẳng định thêm một thực tế: “Cho dù quân Mỹ ở đâu, dù trên trời hay dưới biển, cũng đều bị quân giải phóng giáng cho những đòn sấm sét, chí tử!”.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:20:31 am
Một đêm đánh sập đôi cầu Thủy Tú - Nam Ô

Hồ Xuân Hòa quê ở Bình Định, là bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc. Năm 1966, anh về Binh chủng Đặc công nước, rồi vào chiến trường Khánh Hoà - Cam Ranh chiến đấu trên mảnh đất đầy gian lao mà anh dũng này. Đầu năm 1971, anh được điều về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 471, đặc công nước của Quân khu 5, chiến đấu trên Mặt trận 44 Quảng Đà, đứng chân ở cánh bắc Đà Nẵng, căn cứ quân sự liên hợp khổng lồ của Mỹ - ngụy.

Năm 1970 - 1971, tình hình trên chiến trường Quảng Đà vô cùng ác liệt. Địch thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, sử dụng triệt để hỏa lực, phương tiện chiến tranh, đẩy mạnh càn quét, bình định hết sức tàn bạo.

Để làm thất bại âm mưu của địch, năm 1970, ta mỏ nhiều chiến dịch “tìm Mỹ mà đánh, gặp ngụy là diệt” làm cho Mỹ - ngụy tổn thất nặng nề. Sang năm 1971, ta mở chiến dịch Xuân Hè, tiếp đến là chiến dịch mùa Thu 1971, trong điều kiện khó khăn và ác liệt hơn trước sự phản kháng điên cuồng của địch.

Là người chỉ huy tiểu đoàn, Hồ Xuân Hoà nghiên cứu nắm tình hình địch, tổ chức cho bộ đội triển khai chuẩn bị chiến trường, chiến đấu lập công. Anh giao nhiệm vụ cho Đội 1 nghiên cứu chuẩn bị đánh các mục tiêu tàu vận tải quân sự trên vịnh Đà Nẵng và các mục tiêu trên bán đảo Sơn Trà. Giao nhiệm vụ cho Đội 2 (quân số mới có 1 phân đội) nghiên cứu đánh các cầu đường sắt, đường bộ cắt đứt giao thông của địch trên quốc lộ lA, từ đèo Hải Vân vào Quảng Nam.

Tình hình chiến trường hết sức sôi động. Mỹ, ngụy dùng cả hai phương tiện đường bộ, đường sắt để cơ động binh lực trên vùng 1 chiến thuật, vận chuyển vũ khí, đạn dược, thuốc men, nhu yếu phẩm cung ứng cho chiến trường Quảng Đà – Huế - Trị Thiên - Quảng Trị. Vì vậy, cầu Thuỷ Tú trên quốc lộ 1A và cầu đường sắt Nam Ô, trở thành “quyết chiến điểm” quan trọng.

Ban chỉ huy tiểu đoàn giao cho Đội 2 tổ chức đánh sập 2 cầu này do đồng chí Lưu Văn Huệ - Đội trưởng và đồng chí Bằng - Chính trị viên chỉ huy. Cầu Thuỷ Tú (tên gọi chung của 2 cầu đường sắt và đường bộ) đều có độ dài 320m, cách nhau 20m, bắc qua sông Nam Ô, xã Hoà Hiệp, huyện Hoà Vang, nằm trên quốc lộ 1A. Cầu Thủy Tú bị Đội 3 đặc công nước đánh đi đánh lại nhiều lần nên chúng rút kinh nghiệm bô phòng cẩn mật hơn. Chúng dùng lưới thép B40 và dây thép gai rào chăng chịt quanh các trụ cầu, mắc đèn điện thả lửng xuống chiếu rọi từng trụ cầu. Bố trí cặp đèn pha cực mạnh, liên tục chiêu qua qụét lại sáng choang, cùng với những đôi mắt cú vọ của đại đội bảo an ngày đêm túc trực canh phòng, nên không có vật gì khả nghi mà chúng không phát hiện được.

Cách hai cầu về phía thượng lưu chừng 50m chúng đóng cọc sắt, giăng dây kẽm gai bùng nhùng làm thành rào chắn trên sông, phòng thủ từ xa ngăn chặn bước tiến của quân giải phóng. Nhưng chúng vẫn chưa đủ sức tin, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ Việt cộng đánh sập cầu, vì vậy bọn lính đi tuần thường ném lựu đạn vào chân trụ cầu và bắn xôi xả vào những vật khả nghi. Qua một thời gian, cầu chưa bị đánh, tên đại úy bảo an tin rằng sự bố phòng vững chắc nên tuyên bố: “Việt cộng không tài nào đánh cầu Thuỷ Tú được!”. Thực ra, lời rêu rao của hắn là để củng cố tinh thần binh lính và huênh hoang với dân chúng; cũng cho thấy hệ thống phòng thủ nghiêm ngặt, vững chắc cầu Thuỷ Tú một phần do tài chỉ huy của hắn. Tuy nhiên, hắn không ngờ được, cách phòng thủ như trên, với nhiều thủ đoạn mới hơn, xảo quyệt hơn cũng không thể ngăn cản sức tấn công của các chiến sĩ đặc công nước; hắn làm sao hiểu nổi sức mạnh tiềm tàng trong đáy lòng của những chiến sĩ đặc công đặc biệt tinh nhuệ - sức mạnh của lòng yêu nước, yêu độc lập, tự do của người dân Quảng Đà. Tinh thần đó cũng thấm sâu vào lòng những người dân, tuy sống trong vùng địch kiểm soát nhưng luôn hướng về cách mạng. Ho đã che chở, cưu mang cho Tiểu đoàn đặc công nước 471, suốt những tháng năm dài trú quân luyện tập dưới chân đèo Hai Vân, cách cầu Thuỷ Tú chừng 4km, tính theo đường chim bay mà địch không hề hay biết.

Từ tháng 11 năm 1971, Đội 2 đã cử 2 tổ gồm 6 người, bám sát theo dõi mục tiêu, lặn vào tận chân cầu, nhìn tận mắt, sờ tận tay, vẽ bản đồ từng chi tiết, báo cáo với Ban chỉ huy Tiểu đoàn, rồi lập sa bàn lên phương án chiến đấu, cho bộ đội luyện tập thuần thục theo phương án. Khi “bản án tử hình” của 2 chiếc cầu như đã nằm trong tay đơn vị 471, đơn vị báo cáo về Bộ Tư lệnh Quân khu 5 xin đánh, nhưng Quân khu chưa đồng ý, phải chờ!


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:20:53 am
Mãi đến chiến dịch Xuân 1972, chiến dịch “cuốn chiếu” của ta mở ra, trên địa bàn vùng 1 chiến thuật của địch, ta đánh mạnh chiếm thành Quảng Trị, giải phóng Đông Hà, tỉnh đường Quảng Trị thất thủ... địch phải kéo nhau vượt đèo Hải Vân vào đóng lưu vong ở vùng Bàu Mạc của xã Hoà Khánh. Để triệt đường tiếp tế vũ khí đạn dược từ Đà Nẵng ra, chặn quân địch rút chạy từ Trị Thiên vào Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 điện xuống: “Cho đánh cầu Thuỷ Tú - Nam Ô!”. Nhận được điện giữa những ngày chiến thắng giòn giã của chiến dịch , lòng tất cả cán bộ, chiến sĩ của đơn vị dậy lên sự mừng vui náo nức. Niềm vui đã đáp lại sự khổ công luyện tập và sự chờ đợi bấy lâu.

Bấm đốt ngón tay, thời gian lùi lại từ tháng 11 năm 1971 đên khi có lệnh đánh cầu tháng 4 năm 1972, là tròn 6 tháng. Trong thời gian đó đơn vị vẫn ngày đêm theo dõi bám sát mục tiêu, vẫn không thấy có gì mới trong cách bố phòng của địch, chỉ có khác là mực nước sông thấp xuống về mùa hè, nên có cồn cát trắng nhô lén khỏi mặt nước, làm thành vật cản khi chiến sỉ tạ bơi lặn đánh cầu. Thời tiết lúc tổ chức tác chiến, tuy đã sang tháng 4, nhưng trên sông nước còn khá lạnh do nước nguồn từ các sông Nam, sông Bắc chay về, vì vậy đã làm ảnh hưởng đến sức chiu đựng của tổ tác chiến ở dưới nước. Trở ngại đó dối với chiến sĩ đặc công nước dày dạn kinh nghiệm thì không phải lớn. Nhưng để nắm chắc phần thắng, anh em đã tiến hành nắm lại quy luật nước thuỷ triều, khi nước lên là tổ chức tiếp cận mục tiêu để đánh theo sa bàn cũ, nhưng thay đổi về động tác bơi lặn sao cho phù hợp với mực nước của dòng sông.

Hướng trinh sát ban đầu được xác định là phía bờ bắc cầu. Quá trình trinh sát nắm địa hình, luồng lạch, thuỷ triều, cách bô phòng, quy luật hoạt động canh gác của địch diễn ra khá thuận lợi. Giai đoạn trinh sát tiếp cận vào cầu gặp rất nhiều khó khăn. Một lần, bộ phận trinh sát tiếp cận vào đến Hòn Vàng cách cầu 500m, thì gặp địch phục, trong thế bị động, ta bị địch bắn bị thương 4 đồng chí, nhưng vẫn tổ chức rút lui thoát được sự truy quét của địch. Và như vậy, địch đã phát hiện hướng hoạt động của ta. Lần thứ hai, tổ trinh sát tiếp cận đến gần cầu thì bị vấp mìn, ta hy sinh một đồng chí, trong hoàn cảnh ấy, anh em không thể lấy được thi hài đồng đội.

Trước tình hình trên, đơn vị phải chuyển hướng trinh sát vào hướng bờ Nam, đặt ra kế hoạch bám địch và trinh sát từng đêm một, qua 19 đêm liền trinh sát và theo dõi mọi hoạt động của địch. Đêm thứ 20, tổ trinh sát vào được trụ cầu và rút ra an toàn, đạt được ý định đề ra. Hoàn thành nhiệm vụ trinh sát vô cùng cam go và chịu cả những tổn thất, cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị phấn khởi, giải quyết một phần tư tưởng cho bộ đội.

Nhiệm vụ của đặc công nước là đánh cầu, đánh tàu, vì vậy công tác lắp ráp và chuẩn bị khối thuốc nổ là yếu tố quyết định sự thắng bại của cả trận đánh. Đặc biệt trong khối nổ sự quyết định quan trọng nhất là ngòi nổ, nếu ngòi nổ chuẩn bị không tốt, khối nổ ngâm lâu dưới nước dễ bị ướt làm cho ngòi nổ mất tác dụng trận đánh sẽ thất bại, gây ra tốn kém bao nhiêu sức lực, xương máu của người chiến sĩ. Ngòi nổ sử dụng đánh mục tiêu dưới nước, tốt nhất là ngòi nổ hẹn giờ bằng chốt chì. Loại ngòi nổ này thao tác khá dễ, khi tiếp cận mục tiêu buộc khối xong, chỉ cần rút chốt an toàn là xong, tổ tác chiến mang chốt nổ về coi như đã hoàn thành 90 phần trăm nhiệm vụ. Nhưng nhược điểm của chốt chì là thời gian hẹn giờ dài, thời gian nổ nhanh hoặc chậm, có sự tác động nhất định do nhiệt độ nóng lạnh khác nhau gây ra, vì vậy để đảm bảo thời gian nổ chính xác theo ý muốn, đơn vị đã nghiên cứu cải tiến thêm chốt chì. Đó là tuỳ theo thời gian cần hẹn giờ, điều chỉnh bớt bề dày của chốt (bằng cách cắt bớt) theo ý muốn, việc cải tiến này hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật của đơn vị phải thử đi thử lại nhiều lần mới có kết quả tương đối chính xác, bảo đảm thời gian nổ trong vòng từ 20 - 30 phút sau khi rút chốt an toàn, tức là đủ thời gian an toàn cho tổ tác chiến rút khỏi mục tiêu, sở dĩ phải nghiên cứu chọn khoảng thời gian đó, bỏi nếu để thời gian dài, người nhái của địch sẽ phát hiện tháo mặt khối nổ, thì không những không hoàn thành nhiệm vụ, mà nguy hại hơn là địch sẽ phát hiện ra loại vũ khí của ta để tìm cách đối phó, sẽ gây ra biết bao nhiêu khó khăn và cả sự hy sinh xương máu của bộ đội. Còn nếu để thời gian quá ngắn, thì không đủ thời gian cho bộ đội lui quân... Sự cải tiến ngòi nổ này đã được các đơn vị dặc công nước khác trong chiến trường học tâp vận dụng trong chiến đấu.

Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng mọi yêu cầu của trận đánh, Đội tổ chức 2 tổ chiến đấu như sau:

Đánh cầu xe lửa có 4 đồng chí: chính là Long và Bắc, dự bị là Màu và Liên.

Đánh cầu Thủy Tú có 4 đồng chí: chính lả Thuần và Xuân, dự bị là Biền và Lợi.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:21:10 am
Tối 25 tháng 4 năm 1972, đơn vị làm lễ xuất quân ở vùng hậu cứ dưới chân phía nam đèo Hải Vân, đoàn chiến sĩ lặng lẽ bước đi trong đêm mờ cuối tháng, gùi cõng trên vai, mang theo 180kg thuốc nổ và các thứ cần thiết. Đến vị trí xuất phát chiến đấu cách cầu 500m, hai tổ chiến đấu. Tổ đánh cầu sắt khối nổ 80kg C4, tổ đánh cầu Thuỷ Tú khối nổ 100kg C4. Đêm 25 tháng 4 năm 1972, tất cả các hoạt động từ chuẩn bị khối thuốc nổ, đến tiếp cận đều được thực hiện đúng phương án đã đề ra. Nhưng khi tổ tác chiến trên đường vận động tiến công, kéo khối vào phía bờ nam thì bị mắc cạn. Vừa rét, vừa mệt, thời gian còn lại không cho phép tiếp tục vào mục tiêu, tình hình địch chưa có dấu hiệu bị lộ, nên chỉ huy quyết định lùi trận đánh vào đêm sau. Hai khối đã lắp ghép được đưa về vị trí bí mật cất giấu ở mép sông, ngụy trang chu đáo, tháo kíp nổ mang về. Các bộ phận hoả lực đúng giờ quy định, thực hiện theo phương án tất cả rút lui về vị trí xuất phát ban đầu an toàn. Chỉ huy trận đánh bố trí bộ phận trinh sát ở lại theo dõi địch, bộ phận tác chiến tổ chức rút kinh nghiệm ngay. Mọi hoạt động của ta trong đêm cũng như ngày hôm sau, địch vẫn không phát hiện ra. Chỉ huy quyết định chỉ dùng lực lượng các tổ đánh chính dưới nước bí mật tiếp cận mục tiêu, chuyển đường kéo khối ra luồng giữa sông để không bị mắc cạn, không sử đụng các tổ hoả lực, sử dụng lực lượng tham gia ít hơn, thời gian xuất phát sớm hơn (vì không phải thao tác lắp ghép khối) khả năng giữ bí mật được nhiều hơn.

Đêm 27 tháng 4, anh em tiếp tục nhiệm vụ, trên đường hành tiến quan sát kỹ, tránh bãi cạn giữa sông, thận trọng bảo đảm bí mật vượt qua đoạn sông khó đi vi nước cạn, tiếp cận vào hai mục tiêu một cách hoàn hảo. Anh em bình tĩnh cố định khối nổ, điểm hỏa kíp hẹn giờ, rồi lặng lẽ “đi chìm” ra khỏi mục tiêu, xuôi theo dòng sông ra vịnh Đà Nang đi về phía đông bắc Nam Ô. Trên đường rút lui ra vịnh Đà Nẵng, các tổ gặp một số xà lan nên anh em phải bí mật vòng tránh, mất nhiều thời gian, rút quân được khoảng nửa đường thì có mấy loạt đại liên bắn theo mặt sông theo hướng tổ tác chiến rút lui, đồng chí Xuân thấy dây liên lạc đội hình rất căng, khi quay lại thấy đồng chí Thuần đang chìm xuống nước, đồng chí kéo đồng chí Thuần theo được một đoạn, nhưng vì không còn sức đành phải rút chốt, đồng chí Thuần hy sinh chưa rõ nguyên nhân, không rõ là do kiệt sức hay do trúng phải đạn địch bắn. Tổ đồng chí Long và đồng chí Bắc an toàn, về vị trí đón rước anh em chuẩn bị sẵn vượt qua đường 1 về vị trí xuất phát.

Đúng 2 giờ 45 phút, một tiếng nổ lớn xảy ra. Tiếp đó, lúc 2 giờ 55 phút, khối nổ thứ hai phát nổ. Cầu sắt lật nhào hai nhịp xuống sông, cầu xi măng sập trụ số 3. Tên lính gác trên cầu bị hất tung xuống nước. Sau trận này, tên đại uý chỉ huy bị giáng xuống trung úy và bị điều ra giữ cầu Trắng. Sau này đơn vị tổ chức đánh cầu Trắng tên này bị tiêu diệt luôn.

Trong trận đánh này, Tiểu đoàn 471 được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba. Đội 2 đánh cầu được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Đội 1 đánh tàu được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba. Cá nhân các đồng chí đánh cầu, có 2 đồng chí tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, 4 đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba và 7 đồng chí tham gia phục vụ đánh cầu được tặng bằng khen.

Cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị phấn khởi, khí thế thi đua sôi nổi. Nhưng sau trận đánh, do nếm đòn thất bại kẻ địch cũng ra sức đối phó với ta quyết liệt hơn, chúng tăng cường mọi biện pháp phòng thủ các mục tiêu hết sức kiên cố. Vì vậy, trong các trận chiến đấu sau đó, đơn vị phải hết sức táo bạo, sáng tạo trong cách đánh. Riêng cầu Thuỷ Tú sau này ta đánh tiếp 3 lần nữa, cầu Trắng đánh 2 lần, cầu Đen, cầu Hói Mít, cầu Lăng Cô, mỗi cầu đánh một lần. Đơn vị đã vận dụng được sơ hở của địch để đánh cầu như đánh xuôi nước, đánh ngược nước, đánh vào đêm trăng sáng (cầu Trắng ta đánh đúng vào đêm rằm âm lịch, nên địch rất chủ quan). Khi địch phòng thủ chặt, khả năng bí mật, bất ngờ không còn, ta dùng cách đánh diệt hai đầu cầu rồi phá mục tiêu như cầu Thuỷ Tú ta đánh lần thứ tư hoặc bám sát mục tiêu cầu sắt ta đánh lần 1 địch sửa chữa gần một tháng mới xong, chúng vừa cho đẩu xe máy lửa chạy thử qua cầu buổi chiều thì tối hôm đó ta đánh luôn, nên địch phải bỏ hẳn ý định khôi phục, phải sau Hiệp định Pa-ri chúng mới sửa chữa lại.

Chiến công xuất sắc của Tiểu đoàn đặc công nước 471 đánh sập đôi cầu trong đêm 27 tháng 4 năm 1972, đã thể hiện hùng hồn tinh thần yêu nước, trí thông minh sáng tạo cùng với tinh thần dũng cảm và kỹ thuật tuyệt vời về cách đánh phá giao thông, cầu tàu của địch, xứng đáng với danh hiệu binh chủng đặc biệt tinh nhuệ “đã đi là đến”, “đã đánh là thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:21:49 am
Đánh cầu Giao Thủy giữa ban ngày

Cầu Giao Thuỷ bắc qua sông Thu Bồn, gần nơi sông Vu Gia tiếp giáp sông Thu Bồn, cầu đi qua làng Giao Thủy thuộc xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc nên mới có tên là cầu Giao Thuỷ.

Từ thời Ngô Đình Diệm, để phục vụ cho mưu đồ “diệt Cộng”, Diệm cho mở các đường giao thông ngang dọc đề cơ động đưa lính bao vây càn quét, đánh phá phong trào cách mạng tại Duy Xuyên và Đại Lộc. Trên địa bàn huyện Đại Lộc, chúng cho làm con đường nối từ tỉnh lộ 14B từ thị trấn Ái Nghĩa ra Quảng Huế dài 2km. Tại điểm giáp sông Thu Bồn, địch làm cầu phao nổi sang tỉnh lộ 104 chạy từ thị trấn Nam Phước lên miền tây Duy Xuyên. Từ năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, triển khai 2 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Quảng Đà, chúng xây dựng căn cứ quân sự lớn ở An Hoà (tây Duy Xuyên), bỏ cầu phao nói trên và làm cầu sắt dã chiến.

Công binh Mỹ thiết kế và làm cầu Giao Thuỷ bằng trụ gỗ có đường kính 0,4 đến 0,5m, dài hơn 10m, được ngâm tẩm dầu chống ngấm nước để đóng xuống đáy sông. Loại gỗ này, Mỹ đưa từ Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a sang. Chúng đóng nhiều cây gỗ xuống lòng sông, liên kết lại thành trụ cầu hình thuẫn, đỡ các vai cầu sắt làm sẵn, được trực thăng “cần cẩu bay” câu đến đặt lên. Cầu dã chiến nhưng đủ tải trọng cho các loại xe học thép M113, M41. xe kéo pháo, xe chuyển quân qua lại

Do vị trí cầu ở nơi xung yếu, tiếp giáp với vùng B Đại Lộc, vùng giải phóng của ta nôn chúng canh phòng rất cẩn mật. Tuy vậy, Đội 3 đặc công nước (sau này là Đội 170) vào chiến trường, Phân đội 2 do đồng chí Nguyễn Tấn Minh làm chính trị viên, Nguyễn Ngọc Râng làm phân đội trưởng tổ chức đánh sập cầu này. Địch sửa chữa, ta đánh sập lần thứ hai. Địch lại sửa, ta lại đánh sập lần thứ ba làm hư hỏng nặng. Mỹ phải bỏ hẳn cầu này làm cầu sắt mới cách phía trên cầu cũ chừng 100m.

Trên chiến trường Quảng Đà lúc này đang là chiến dịch Xuân Hè 1972, quân ta tiến công các căn cứ, chốt điểm của địch, đánh mạnh vào các cơ quan ngụy quyền, các tổ chức bình định... Trên hầu hết các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hoà Vang, cả trong nội thành Đà Nẵng thu nhiều thắng lợi. Hoà chung với khí thế đó, trong tháng 5 năm 1972, Đội 170 đã đánh sập hai cầu là: Phân đội do đồng chí Rơi chỉ huy đánh sập cầu Thanh Quýt trên quốc lộ 1A, 1 phân đội do đồng chí Sanh chỉ huy đanh sập cầu Giao Thuỷ vào cùng một đêm 13 tháng 5 năm 1972.

Cầu Giao Thuỷ bị đánh sập, chiếc cầu nối liền hai vùng chiến thuật Tây của Duy Xuyên và Tây của Đại Lộc rất quan trọng nên chúng điều đến một tiểu đoàn công binh ngụy, dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ khấn trương sửa chữa lại cầu, hình thành một công trường làm cầu, ngổn ngang các loại vật tư, xe tải, xe cẩu, xe chuyên dụng của công trình... Tiếng động cơ các loại xe, các loại máy nổ, tiếng va chạm của sắt thép inh tai, nhiều tia lửa hàn lóe chớp liên hồi nhức mắt. Lính tráng đi lại xen lẫn với những nhóm lính công binh đang làm việc trôn mặt cầu và ở cả hai bên đầu cầu rất nhộn nhịp.

Đội trưởng Phạm Xuân Sanh nghĩ ra một kế hoạch táo bạo: “Cần phải đánh bồi một trận bất ngờ giữa lúc địch đang sửa chữa cầu!”. Anh cho họp phân đội, nói rõ ý định và động viên anh em suy nghĩ hiến kế. Nhiều ý kiến phát biểu. Có ý kiến cho rằng đánh giữa ban trưa khi bọn địch chui vào lều bạt nghỉ trưa, ăn uống, không chú ý đề phòng. Có ý kiến nên đánh vào lúc vừa chập choạng tối. Ý kiến nào cũng có lý lẽ phân tích thuận lợi và khó khăn. Nhưng cuối cùng, phương án của đội trưởng đưa ra, cả phân đội đều tán thành và cho là tối ưu nhất là: Tranh thủ thời cơ lúc thời gian kết thúc một đêm, mà bọn địch canh gác tuần tra bảo vệ cầu và chuẩn bị bắt đầu một ngày triển khai công tác làm cầu của bọn lính công binh. Thời cơ này có thể xuất hiện trên dưới 1 tiếng đồng hồ từ hơn 5 giờ đến 7 giờ sáng. Tổ chiến đấu có thể xuất phát từ 5 giờ sáng, tiếp cận mục tiêu, đặt khối nổ, điểm hoả rồi rút khỏi mục tiêu khoảng 6 giờ sáng trời còn chưa sáng tỏ. Đặt kíp hẹn giờ “2 tiếng”. Như vậy khối nổ sẽ phát hỏa lúc 8 giờ hơn hoặc kém, đúng giữa lúc địch đang tập trung làm việc. Phân đội tán đồng và trở thành nghị quyết thực hiện của phân đội. Ai nấy đều tin tưởng phương án “táo bạo và bất ngờ” này, sẽ là yếu tố làm nên chiến thắng.

Đội trưởng Sanh họp toàn phân đội, phân công nhiệm vụ. Để cho gọn nhẹ, cơ động tốt, tổ chiến đấu chí cần 2 người. Nhưng, cả phân đội đưa tay xin được đi chiến đấu. Đội trưởng hoan nghênh tinh thần tự nguyện của mọi người nhưng trận này chi cần 2 đồng chí, ai chưa được đi lần này thì sẵn sàng nhận nhiệm vụ những trận tiếp theo. Trận này 2 đồng chí Hồ Phi Thiện và Giang Hồng Mão trực tiếp đi chiến đấu. Số còn lại làm tốt nhiệm vụ được phân công. Tổ khí tài thiết kế khối nổ 40kg C4, kẹp thêm một quả mìn rùa (nam châm), đặt phía nam châm bên ngoài đề áp vào chân trụ cầu bằng sát. Khi tổ chiến đấu vào mục tiêu, nhấn chìm khối nổ xuống sâu dưới nước khoảng 1m, đề phòng địch phát hiện vớt lên. Khoảng cách từ điểm xuất phát đến cầu khoảng l,5km, lưu tốc nước xuôi ở mức trung bình, thời gian tiếp cận mục tiêu khoảng hơn nửa tiếng. Đội trưởng lệnh cho tổ chiến đấu xuất phát từ lúc 5 giờ kém 10 phút.

Thực ra Mão rất tự tin vì mục tiêu không có vật cản rào thép gai, chỉ cần đảm bảo kỹ thuật hành tiến bí mật tiếp cận mục tiêu, đảm bảo thời gian là chắc thắng. Lúc 5 giờ 45 phút, tổ chiến đấu đã vào mục tiêu nhận chìm khối nổ áp vào trụ cầu, điểm hỏa rồi rút khỏi mục tiêu lúc 6 giờ kém 5 phút, khi trời còn chưa sáng tỏ.

Rút khỏi mục tiêu về phía hạ lưu khoảng 1km. anh em lên bờ chờ đợi. Đằng dông, mặt trời ló rạng rồi hiện lên như một chiếc đĩa đỏ lừ, báo hiệu một ngày hè gay gắt.

Đến 7 giờ 15 phút ngày 19 tháng 5 năm 1972, tiếng nổ âm vang làm trụ cầu gãy đổ, văng cả 2 nhịp cầu cùng 32 tên lính công binh và một số máy móc xuống sông giữa buổi sáng mùa hè. Lại một chiến công, một trận đánh táo bạo, sáng tạo và mưu trí dũng cảm của các chiến sĩ đặc công nước thuộc Đội 170!


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:22:14 am
Tham gia giải phóng Trường Sa

Chiến dịch Trị Thiên - Huế và chiến dịch Đà Nẵng mở màn, Tiểu đoàn 471 đặc công nước có nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phô như cầu cống, kho tàng, bến cảng... không cho địch đánh phá trước khi rút chạy.

Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng được giải phóng, kết thúc chiến dịch Trị Thiên - Huế và chiến dịch Đà Nẵng một cách vẻ vang. Phát huy chiến quả, với khẩu hiệu: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” quân ta tiến công như vũ bão về phía nam, giải phóng Bình Định (1-4-1975), giải phóng Khánh Hoà (3-4-1975), Tuyên Đức (4-4-1975), và giải phóng Bình Thuận, Ninh Thuận (19-4-1975), phá vỡ tuyến phòng thủ Phan Rang, mở toang cánh cửa phía bắc Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của quân ngụy. Trong hoàn cảnh đó, Bộ Tư lệnh Hải quân cũng tổ chức tiến công giải phóng Quần đào Trường Sa, do Đoàn 126 đặc công nước tố chức chiến đấu dưới sự chỉ huy của đồng chí Mai Năng, có sự phối hợp của một số đơn vị.

Tiểu đoàn 471 đang trong không khí phấn khởi, tưng bừng của quân và dân Quảng Đà, đang cùng với các đơn vị “quân quản” tiếp thu quản lý các kho tàng, cơ sở của địch trong thành phố, thì được lệnh tố chức một đội mạnh phối hợp đi giải phóng Trường Sa.

Tiểu đoàn khẩn trương tổ chức đội quân gồm những cán bộ chiến sĩ có sức khoẻ, có trình độ chiến kỹ thuật tốt đã kinh qua luyện rèn trong chiến đấu, giao cho đồng chí Bùi Quang Giang chỉ huy đội. Đội được trang bị vũ khí khí tài đầy đủ, được quán triệt, nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang trong công cuộc  giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đội hình đi  giải phóng Quần đảo Trường Sa do Đội 1 Đoàn 126 và Đội của Tiểu đoàn 471 đặc công nước làm nòng cốt. Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 bộ binh phối thuộc chiến đấu.

Ngày 11 tháng 4 năm 1975, anh em bước vào trận chiến đấu mới, ở một chiến trường đặc biệt giữa đại dương mênh mông, cách Cam Ranh 248 hải lý. Xuất phát từ Đà Nẵng thì quãng đường xa hơn gấp rưỡi, ai nấy cảm thấy băn khoăn lo lắng. Nhưng rồi khi tiếng máy của các con tàu 673, 674, 675 và các tàu đổ bộ khác nổ vang, kéo còi xuất hải thì những ý nghĩ băn khoăn của mọi người càng tan biến di, trước mắt họ bây giờ là biển cả, là nhiệm vụ trọng đại đầy khó khăn, thử thách.

Đi giải phóng Quần đảo Trường Sa, phát huy yếu tố bí mật bất ngờ, luồn sâu đánh hiểm, theo chiến thuật đặc công. Mà đã đánh đặc công là phải tai nghe, mắt thấy, tay sờ thực tế mới bảo đảm chắc thắng. Ở trong tình thế này, từ cán bộ đến chiến sĩ chưa ai biết trên đảo có bao nhiêu quân địch, chúng bố trí phòng thủ ra sao, những khó khăn trở ngại gì khi tiến công lên đảo? Nhưng trong khí thế hào hùng của quân và dân ta là thần tốc, táo bạo, bất ngờ đã tiến công quân thù như “trúc chẻ tro bay”, giành thắng lợi liên tiếp thì anh em cũng quyết tâm phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ngoan cường dũng cảm, tự chủ, tự tin ở mình, ở cán bộ chỉ huy nhất định đã đi là đến, đã đánh là thắng lợi.

Những con tàu rẽ sóng, bềnh bồng trên mặt biển khơi với sóng gió cấp 4, cấp 5, mở hết tốc lực chạy suốt ngày đêm, ai nấy có cảm giác nôn nao chóng mặt vì say sóng. Luồng nước từ trước mũi những con tàu dậy lên trắng xóa, chảy xiết về phía sau, nhập vào những con sóng xô đuổi nhau như tự trong nó mang một tâm hồn rạo rực với tâm hồn những cán bộ, chiến sĩ đi giải phóng Trường Sa của Tổ quốc hôm nay.

Trưa ngày 13 tháng 4, đài quan trắc báo tin: “Đã phát hiện những chấm đen lờ mờ nổi lên trên đường viền của trời trong và biển thẫm mênh mông!”. Mọi người phấn khởi reo lên: “Đã đến Trường Sa, Trường Sa đang đợi chờ chúng ta giải phóng!”. Lệnh từ Ban chỉ huy truyền đến các tàu: “Tất cả mọi người chuẩn bị ở tư thế sẵn sàng chiến đấu!”.

Mờ sáng ngày 14 tháng 4, bộ đội ta bí mật đổ bộ lên đảo, tiếp cận vào vị trí đóng quân của địch. Trời vừa sáng tỏ, tiếng súng tiến công từ bôn mặt nổ vang, quân địch trong các dãy nhà tôn chạy nháo nhào, chúng không hiểu việc gì đã xảy ra, bị động hoàn toàn! Sau gần 20 phút chiến đấu, quân địch một số bị tiêu diệt, số còn lại đầu hàng. Quân ta kéo cờ “Quyết chiến quyết thắng” lên đỉnh cột cao. Trận chiến đấu đầu tiên, đảo Song Tử Tây được giải phóng. Bộ đội ta thu dọn chiến trường, bố trí người giữ đảo và đại bộ phận xuống tàu tiếp tục cuộc chiến đấu giải phóng các đao: Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn...

Ngày 29 tháng 4 năm 1975, quân ta tiến công đánh chiếm đảo Trường Sa Lớn. Thế là từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 4 ta đã giải phóng hoàn toàn Quần đảo Trường Sa.

Đội đặc công nước của Tiểu đoàn 471 tham gia chiến đấu giải phóng Trường Sa đến đầu tháng 6 năm 1975 anh em mới trở về đơn vị, trong niềm vui phấn khởi dã góp phần xứng đáng vào chiến công giành lấy chủ quyền các đảo thân yêu của Tổ quốc.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất nước nhà, Tiểu đoàn 471 sáp nhập với Đoàn 35, thành lập Đoàn 475 của Quân khu 5, có nhiệm vụ tuần tra bảo vệ lãnh hải, đồng thời làm nhiệm vụ kinh tế đánh bắt hải sản trên vùng biển của ta, nay đã sạch bóng quân thù.


Tiêu đề: Dưới làn nước biếc (Ký)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Mười, 2019, 07:23:50 am
PHỤ LỤC
BẢNG VÀNG THÀNH TÍCH CỦA TIỂU ĐOÀN 471

Tiểu đoàn 471 Đặc công nước có mặt tại chiến trường Quảng Đà từ tháng 2 năm 1971 đến tháng 4 năm 1975, đã chiến đấu lập được thành tích như sau:

- Đã đánh 51 trận (có 39 trận đánh dưới nước, 12 trận đánh trên bộ, không kể các trận đánh phối hợp diệt ác phá kìm, chống càn quét bảo vệ hành lang).

- Tiêu diệt 800 tên Mỹ - ngụy (phần lớn là sĩ quan và nhân viên kỹ thuật).

- Đánh chìm 11 tàu vận tải quân sự từ 8 nghìn đến 1 vạn tấn (trong đó có 1 tàu chở dầu).

- Đánh sập nhiều cầu: cầu Thủy Tú, cầu Đen, cầu Đỏ, cầu Trắng, cầu Hói Mít, cầu Lăng Cô (có cầu đánh đi đánh lại đến ba bốn lần).

- Đánh diệt 2 khu ra-đa của không quân và hải quân, 1 trạm viễn thông của địch trên báo đảo Sơn Trà.

- Tổ chức 1 đội cùng với Đoàn 126 chiến đấu giải phóng Quần đảo Trường Sa và thu, phá hủy nhiều phương tiện và kho tàng vật tư, quân trang quân dụng.

Tiểu đoàn được tặng thưởng:

- 2 Huân chương Quân công hạng Ba.

- 5 Huân chương Chiến công hạng Nhất.

- 7 Huân chương Chiến công hạng Nhì, 1 cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Ban đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng.

- 1 cờ “Anh dũng diệt Mỹ” của ủy ban Cách mạng lâm thời miền Trung tặng.

- 20 bằng khen, 30 giấy khen cho các phân đội.

Cá nhân được tặng thưởng:

- 12 Huân chương Chiến công hạng Nhì.

- 44 Huân chương Chiến công hạng Ba.

- 99 bằng khen, 250 giấy khen.

- 1 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (đồng chí Đặng Tiến Lợi được tuyên dương ngày 22 tháng 12 năm 1973).

- 28 Dũng sĩ đánh giao thông.

- 28 Dũng sĩ xung kích.

- 5 Dũng sĩ đánh cơ giới.

- 18 Chiến sĩ thi đua.

Thành tích của Đội 170 Đặc công nước, Mặt trận 44 Quảng Đà từ năm 1967 đến năm 1975:

- Đã đánh 84 trận dưới nước và kho xăng, hai trộn tiêu diệt trên 800 tên địch có 42 tên Mỹ, có 1 đại tá, 1 thiếu tá Mỹ.

- Đánh chìm 5 tàu quân sự có, 1 pháo hạm Mỹ thuộc hạm đội 7, 1 tàu dầu, 3 tàu vận tải quân sự.

- Đánh chìm 18 hải thuyền của quân ngụy Sài Gòn.

Đánh sập 72 lượt cầu và một số trận đánh tàu, hải thuyền của địch trong đó:

1. Các cầu trên quốc lộ 1A: cầu Thủy Tú hai lần, cầu Lăng Cô 1 lần, cầu Bà Rén 2 lần, cầu Câu Lâu 3 lần, cầu Đỏ 3 lần, cầu Quá Giang 1 lần. Ngoài ra còn có một số cầu cống nhỏ khác trên quốc lộ 1A cũng bị đánh sập nhiều lần.

2. Các cầu trên tỉnh lộ chiến lược: cầu Giao Thủy 5 lần, có 1 trận đánh vào ban ngày, diệt một trung đội lính công binh ngụy 42 tên. Cầu Điện Vịnh 2 lần, cầu Ái Nghĩa thị trấn Đại Lộc 2 lần, cầu phao Quảng Huế 2 lần, cầu Chín Cửu 1 lần, cầu Ngũ Giáp 1 lần, cầu Cẩm Lý 2 lần, cầu Đen 1 lần, cầu Chìm 1 lần, cầu Phước Trạch 2 lần... Ngoài ra còn một số trận đánh tàu hải thuyền ngụy trên cảng cửa Đại Hội An, trên vùng vịnh Xuân Thiều, Đà Nẵng...

* Được tặng thưởng các huân chương, huy chương và dũng sĩ các loại:

- Huân chương Quân công hạng Ba trận đánh pháo hạm của Mỹ tại vịnh Đà Nẵng.

- Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất: 6 chiếc.

- Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì: 5 chiếc.

- Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba: 40 chiếc.

*Tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng cho cá nhân: 62 chiếc.

* Chiến sĩ Thi đua cấp quân khu, toàn quân: 2 đồng chí.

1. Phạm Xuân Sanh: Đội trưởng.

2. Giang Hồng Mão: Phân đội phó.