Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:02:05 am



Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:02:05 am
Tên sách: Ký ức Tây Nguyên
Tác giả: Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2002
Số hóa: macbupda

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23184;image)

LỜI GIỚI THIỆU

Cuốn KÝ ỨC TÂY NGUYÊN của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp - nguyên Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, Chính ủy Quân đoàn 3 là cuốn sách phản ánh khá đầy đủ, khách quan những sự kiện chính diễn ra từ khi Mặt trận Tây Nguyên được thành lập đến mùa Xuân năm 1975 đại thắng, một cuốn sách khắc họa rõ nét tập thể cán bộ, chiến sĩ và người dân Tây Nguyên thông qua những hành động anh hùng và những phẩm chất tốt đẹp của họ, được thể hiện trong cuộc chiến tranh kiên trì, có nhiều sáng tạo.

Đọc
KÝ ỨC TÂY NGUYÊN, những ai đã từng sống, chiến đấu ở chiến trường gian khổ này và cả những ai chưa từng đến Tây Nguyên đều có thể hình dung được những năm tháng cực kỳ gian nan nhưng rất hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Tây Nguyên; rất cụ thể nhưng đạt được ý lớn đánh bại tư tưởng sợ Mỹ, cũng như thắng lợi dễ dàng, đồng thời làm nổi bật quan điểm quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu làm nên lịch sử. Tuy hoàn cảnh mới đã khác, nhưng những bài học về ý chí, nghị lực cách mạng, dũng khí tiến công, cả những kinh nghiệm về công tác tổ chức, công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác xây dựng con người mà tác giả thể hiện vẫn nguyên giá trị.

Tôi chúc mừng tác giả và hoan nghênh Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Tây Nguyên và 25 năm ngày thành lập Quân đoàn 3 anh hùng.


Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 1999
                                                                                                                                               
Đại tướng CHU HUY MÂN


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:04:01 am
TỪ MỘT CUỘC HỘI THẢO

Kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Tây Nguyên, có nhà báo đặt cho tôi câu hỏi: “Nói về những gì xảy ra ở Tây Nguyên mùa Xuân năm 1975 có lẽ trước hết phải nói đến trận Buôn Ma Thuột?”. Tôi trả lời: “Trước hết phải nói tới những gì đã xảy ra trên cao nguyên này từ nhiều năm trước. Phải nói tới cái nhìn đúng đắn, xa rộng của Đảng ta khi đánh giá địa bàn chiến lược Tây Nguyên và đã âm thầm xây dựng cơ sở cách mạng cũng như xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên từ những ngày còn mỏng manh nhất, gian khổ nhất đến khi hình thành một lực lượng đủ mạnh để có thể giải quyết những vấn đề chiến thuật và chiến dịch ở Tây Nguyên; trên cơ sở đó tạo ra thế chiến lược cho Tây Nguyên để rồi từ Tây Nguyên chúng ta bắt đầu cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975”.

Chiến thắng Buôn Ma Thuột mãi mãi là một dấu son trên trang sử vẻ vang của quân đội ta nhưng nó không phải là trước hết mà là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài của quân và dân Tây Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là kết quả của 30 năm chiến đấu gian khổ của quân và dân Tây Nguyên, đặc biệt trong 15 năm kể từ năm 1960, khi tiểu đoàn chủ lực đầu tiên từ miền Bắc trở về cùng đồng bào xây dựng căn cứ mở đường giao liên.

Có thể nói trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tây Nguyên là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và địch. Bởi Mỹ đánh giá địa bàn Tây Nguyên rất quan trọng, chúng cho rằng: muốn chiến thắng ở miền Nam Việt Nam thì phải kiểm soát được vùng cao nguyên trung phần Đông Dương. Vì thế chúng đã biến Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược lớn và đặt sở chỉ huy quân khu II và quân đoàn II của quân ngụy tại Plây Cu. Riêng Mỹ đã bố trí ở địa bàn này 2 sư đoàn (sư đoàn kỵ binh không vận 1 ở An Khê, sư đoàn bộ binh 4 ở Hòn Rồng thuộc tỉnh Gia Lai). Dọc đường 14 từ phía bắc tới phía nam cũng như dọc đường 19 đường 21 từ phía đông sang phía tây Tây Nguyên là một hệ thống cứ điểm dày đặc, trong đó có những căn cứ lớn cấp quân đoàn, sư đoàn; cũng phải kể đến nhiều cứ điểm ở dọc biên giới Việt Nam — Lào, Việt Nam — Cam-pu-chia do các tiểu đoàn biệt kích chiếm giữ. Hệ thống phòng ngự trên đường 14 khá vững chắc, là tuyến phòng ngự cơ bản, là nòng cốt cho toàn bộ hệ thống phòng thủ trên Tây Nguyên của địch. Ngoài ra ở Tây Nguyên địch còn có các căn cứ không quân khá mạnh với nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp và hàng chục đơn vị biệt, động quân tạo thành lực lượng tác chiến binh chủng hợp thành rất mạnh.

Thế nhưng sau nhiều năm chiến đấu, quân và dân ta đã đánh cho quân địch ở Tây Nguyên nhiều đòn đau và đã từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng và thế trận trên chiến trường, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, liên hoàn hoàn chỉnh tạo thế ngày càng có lợi cho ta. Đến năm 1974, mặc dù địch ở Tây Nguyên còn quân số khá lớn, trang bị vũ khí có được tăng cường hơn, nhưng tinh thần binh lính địch đã suy sụp rất rõ rệt, do quân Mỹ đã phải rút ra khỏi miền Nam theo Hiệp định Pa-ri làm cho quân ngụy mất chỗ dựa. Chúng phải co về phòng thủ các thị xã, quận lỵ ven các trục đường giao thông chiến lược. Trong tình thế mới, ta hoàn toàn có thể thực hiện quyết tâm “đánh cho ngụy nhào”. Bộ Chính trị đã chọn Tây Nguyên là hướng chủ yếu mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược và quân dân Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó.
 
Chiến công của các đơn vị quân đội làm nên chiến thắng lịch sử này đã và sẽ còn được nói tới. Nhưng chúng ta không thể không nhắc tới sự đóng góp trên nhiều mặt của lớp lớp cán bộ chiến sĩ gồm hàng chục vạn người, trong đó gần ba vạn liệt sĩ, trong hàng chục năm ròng với biết bao gian khổ, hy sinh. Chúng ta càng không thể không nhắc tới công lao của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Nếu chúng ta đều biết tới hình ảnh từng đoàn dân công gồm cả người già, phụ nữ và trẻ em của các buôn làng Tây Nguyên đã đi gùi gạo, gùi đạn tiếp tế cho bộ đội; nếu chúng ta biết tới những đồng chí cán bộ của Đảng đã từng cà răng căng tai, sống hàng vài chục năm với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên để bám dân, bám đất xây dựng địa bàn, xây dựng chỗ cho chúng ta đứng chân mà đánh giặc; nếu chúng ta biết rằng trước, khi chúng ta có xe pháo mở những trận đánh lớn như vậy đã có hàng ngàn đồng chí đi trước mở đường chiến lược vận chuyển Bắc - Nam, mở địa bàn, giành đi giật lại với địch từng tấc đất trong điều kiện đói cơm rách áo, thiếu thuốc men, thiếu vũ khí kéo dài hàng chục năm ròng... để hôm nay chúng ta có quân hùng tướng mạnh mà đánh giặc với thế mạnh như chẻ tre...; nếu chúng ta biết một cách đầy đủ tất cả những gì đã diễn ra trước khi có trận Buôn Ma Thuột, có mùa Xuân cao nguyên năm 1975, thì chúng ta càng thấy tự hào hơn về Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta.

Từ khá lâu, tôi đã có ý định ghi chép lại một điều gi đó về những năm tháng đã qua trong thời chống Mỹ, về cuộc đời mình và đồng đội. Một sự kiện thôi thúc tôi viết kỷ niệm về Tây Nguyên là hạ tuần tháng 6 năm 1997 tôi được mời tham dự hội thảo “Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Mỹ - Những cơ hội bị bỏ lỡ”. Đây là cuộc hội thảo giữa các nhà cựu ngoại giao, các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam với các nhà học giả Mỹ do ông Mac Na-ma-ra, cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ dẫn đầu nhằm tìm ra những nguyên nhân chủ chốt đã gây ra cuộc chiến tranh, tìm hiểu xem liệu có những cơ hội nào đã bị bỏ lỡ để có thể sớm chấm dứt cuộc chiến tranh đó hay không và rút ra những bài học để thế hệ mai sau có thể tránh những thảm kịch trong tương lai. Trong cuộc hội thảo này hai bên đã trình bày nhận thức quan điểm của mình và tranh luận sòng phẳng. Trong nhiều vấn đề được đặt ra, thì vấn đề sự kiện ngày 6 tháng 2 năm 1965 ở Plây Cu (ta tấn công sân bay Hô-lô-uây) cũng gây nhiều tranh cãi. Sang ngày thứ hai của cuộc hội thảo, tôi đang chăm chú theo dõi cuộc tranh luận về các cơ hội bị bỏ lỡ do đó mà xảy ra chiến tranh (theo quan điểm của phía Mỹ) thì Chi-stơ Cu-pơ hỏi tôi:

- Thưa tướng Hiệp, ngài suy nghĩ gì về cuộc tấn công vào quân Mỹ ở Plây Cu đầu năm 1965 ?

Tôi có suy nghĩ gì về trận đánh này ư ? Rất bình thường thưa các ông - Tôi thầm nghĩ. Nếu đặt trận đánh đó trong tổng thể các trận đánh trên chiến trường miền Nam, nó chỉ là một trận rất nhỏ, có tiếng vang rất nhỏ trong cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam chông chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Vậy mà trận đánh đó, hơn một lần tôi đã được nghe các chiến lược gia Mỹ thổi phồng thật to tát, cố dựng nên cái cớ (mà sự chuẩn bị của họ cho cuộc “chiến tranh cục bộ” chống chiến tranh nhân dân Việt Nam đã chín muồi, cứu chế độ tay sai bán nước hại dân sắp sụp đổ) để họ buộc phải đưa quân viễn chinh vào miền Nam, “bỏ lỡ một cơ hội” lẽ ra không nên có ! Thật phi lý, nhưng thiết nghĩ đây cũng là dịp bóc trần tâm địa ngụy biện của những kẻ cố ý dựng nên sự kiện này, tôi nói:

- Lúc đó tôi ở Quân khu 5, cách thị xã Plây Cu không xa, nên tôi biết diễn biến và kết quả của trận đánh này. Nếu tôi không nhầm (theo tuyên bố của các nhà chính khách Mỹ) chúng tôi đã loại khỏi vòng chiến đấu 108 người Mỹ (8 chết, 100 bị thương), phá hủy 20 máy bay. Kết quả của trận đánh trại lính Mỹ ở Plây Cu nhỏ và bình thường thậm chí còn kém nhiều trận đánh khác ở chiến trường miền Nam lúc đó. Ấy vậy mà, phía Mỹ đã dựng nên “một cái cớ tày trời” biện hộ cho việc ném bom bắn phá miền Bắc, đưa quân viễn chinh xâm lược miền Nam. Vì vậy, đêm ngày 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 1965, quân giải phóng miền Nam tiến công trại lính Mỹ Hô-lô-uây ở Plây Cu, thì cũng trong ngày đó, tổng thống Mỹ đã ra lệnh cho quân đội tiến hành chiến dịch “Flamingdart” bắt đầu ném bom miền Bắc. Sáng ngày 11 tháng 2, để đáp lại cuộc tiến công của lực lượng vũ trang giải phóng Khu 5 vào trại lính Mỹ ở Quy Nhơn, Mỹ liền mở chiến dịch “Flamingdart II” ném bom vào hàng chục mục tiêu trọng yếu ở các tỉnh Khu 4 cũ. Sau đó, ngày 13 tháng 2 tổng thống Mỹ Giôn-xơn bắt đầu quyết định chiến dịch ném bom rộng khắp miền Bắc. Hành động leo thang này đã phơi bày rõ bản chất của kẻ xâm lược muốn Hà Nội phải khuất phục Mỹ và thôn tính lâu dài miền Nam Việt Nam. Đó là toàn bộ nội dung như tôi đã hiểu về các sự kiện ngày 7 tháng 2 năm 1965.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:04:31 am
Chi-tsơ Cu-pơ lại hỏi:

- Theo chủ quan của ông, Hà Nội nghĩ gì về cuộc tấn công đó ?

Tôi nghiêm giọng:

- Tôi hoàn toàn không hiểu được điều là tại sao sự kiện này lại bị thổi phồng lên ngay đêm trước khi Mỹ ném bom miền Bắc ? Tại sao chính phủ Mỹ lại quan tâm và dễ bị kích động bởi cuộc tiến công này trong khi nó không hơn, không kém, chỉ là một hoạt động chiến trường bình thường. Kết luận lô-gíc của tôi về cái gọi là “sự kiện tiến công trại lính Mỹ làm tổn hại an ninh nước Mỹ” chỉ là một cái cớ, một lý do ngẫu nhiên để Giôn-xơn quyết định bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc, điều mà ông ta có thể lúc đó đang muốn làm.

Tại sao tôi nói như vậy ? Bởi vì trước cuộc tiến công Plây Cu này có nhiều dấu hiệu cho thấy quân lực Việt Nam cộng hòa (quân ngụy) ở trong tình trạng không còn hy vọng. Họ mất hết khả năng chống lại lực lượng giải phóng một cách có hiệu quả. Nếu điều đó xảy ra ở cao nguyên, miền Trung thì có nghĩa là miền Nam Việt Nam bị cắt làm đôi. Không có khả năng ngăn ngừa điều đang diễn ra đó nên Mỹ đã lấy việc leo thang ném bom ra miền Bắc làm niềm hy vọng. Nếu như các ngài không đồng ý với nhận định này thì tôi muốn một người nào đó của phía Mỹ giải thích cho tôi rằng tại sao các sự kiện trong ngày 7 tháng 2 năm 1965 lại đáng chú ý đối với chính phủ Mỹ đến như vậy ?

Chi-tsơ Cu-pơ đáp:

- Tôi đã nghe ngài nói, thưa tướng Hiệp. Tôi thấy chúng ta đã trở lại với cuộc thảo luận về những cơ hội chấm dứt chiến tranh bị bỏ lỡ. Ngài nói rằng chỉ huy chiến trường địa phương ở gần Plây Cu đã ra lệnh tiến công nhưng tôi muốn nói với ngài rằng nếu trong thực tế, Bộ chỉ huy chiến trường địa phương ở gần Plây Cu đã không ra lệnh mở cuộc tiến công đó thì điều có thể làm là Mác Bun-đy và những người còn lại của nhóm chúng tôi phải quay trở về Oa-sinh-tơn với một lời khuyến nghị hoàn toàn khác mà chúng tôi đã cung cấp cho ông ta dựa trên cơ sở của cuộc tấn công ở Plây Cu là một cuộc khiêu khích có chủ tâm chống lại Mỹ trong khi Bun-đy đang ở trong đất nước này. Và ngài đã đúng, dựa trên cơ sở những gì đã xảy ra ở Plây Cu, cuộc ném bom đã được phát động. Nhưng nếu ngài biết được những gì đã xảy ra ở Oa-sinh-tơn (điều này tôi nhận thấy ngài không biết) - ngài sẽ nhận ra rằng trong chính phủ của chúng tôi có một nhóm đáng kể không thuộc loại “diều hâu” như mọi người thường nói. Những người này không sốt sắng lao vào cuộc chiến tranh không hạn chế ở Đông Nam Á. Và tôi có thể chỉ ra cho ngài rằng các ngài đã không giúp đỡ gì cho nhóm này cả...

Tôi trả lời:

- Như các ông đã biết, trong cuốn hồi ký “Tường trình của một quân nhân” của mình, tướng Oét-mo-len đã nói tới kế hoạch OPLAN37 được chuẩn bị từ mùa xuân năm 1964. ông ta nói thêm: “Những người của chúng tôi ở Sài Gòn thấy ít có khả năng là Tổng thống sẽ thực hiện nó trước cuộc bầu cử tháng 11. Quả vậy, chúng tôi thấy rõ ràng là một kế hoạch sau bầu cử. Vì vậy, có nhiều lý do để tin tưởng rằng cuộc tiến công ở Plây Cu chỉ là một lời bào chữa chứ không phải là nguyên nhân chính hoặc là “cái cò súng” cho việc mở rộng chiến tranh của Mỹ ra miền Bắc”. Chiến dịch “Flamingdart” được thực hiện ngay trong ngày hôm sau (7-2-1965) và sau đó các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đổ vào Việt Nam. Điều đó phải được hoạch định trước hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Tiện đây tôi cũng dẫn chứng một vài trận đánh để thấy sự nghịch lý (ít nhất là nghịch lý về tính lô-gíc trong hội thảo này) rằng tại sao ngày 11 tháng 8 năm 1964, bộ đội đặc công quân giải phóng tiến công câu lạc bộ sĩ quan Mỹ ở Tân Sơn Nhất; sau đó ngày 25 tháng 10 năm 1964 lại tiếp tục tiến công khách sạn Brink ở Sài Gòn, giết và làm bị thương nhiều lính Mỹ, mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc vẫn chưa phản ứng “trừng trị Bắc Việt”. Tôi nghĩ rằng, những cuộc tiến công này đáng chú ý hơn nhiều so với cuộc tiến công ở Plây Cu, nhưng xem ra lúc đó chưa phải là thời điểm thích hợp vì sắp đến ngày bầu cử tổng thông Mỹ.

- Thưa tướng Hiệp, tôi xin lỗi đã cắt ngang câu nói của ngài - Gioóc Hơ-ring nói - Nếu có thể, tôi xin hỏi câu hỏi tiếp theo có liên quan đến Plây Cu. Rằng cuộc tiến công Plây Cu được ai hoạch định ? Có mối nhận biết nào về việc Bun-đy đang ở Sài Gòn hoặc sẽ ở Sài Gòn không ? Đã có lời khiển trách hoặc bất kỳ lời phê bình nào vì đã mở cuộc tiến công này hay không ?

- Tôi xin khẳng định lại rằng, cuộc tiến công thực tế là do Bộ chỉ huy các lực lượng ở Plây Cu tự quyết định. Các tướng lĩnh chỉ huy quân lực Việt Nam cộng hòa đã tổ chức lực lượng của họ để chống lại chúng tôi. Nhưng họ đã không ngăn cản được 30 chiến sĩ đặc công quân giải phóng tiến công trại lính Mỹ đã được canh phòng cẩn mật. Còn việc ngài Bun-đy lúc đó đang ở Sài Gòn và Aléc-xây Cơ-xư-ghin (Liên Xô) mới sang thăm Hà Nội thì chỉ đến bây giờ khi đọc hồi ký của ông Mác Na-ma-ra và ông Oét-mo-len tôi mới biết được điều đó. Việc các ngài cho rằng chúng tôi tiến công Plây Cu là vì sự có mặt của hai nhân vật này trên đất nước Việt Nam là không đúng. Những người hoạch định cuộc tiến công của chúng tôi đã không có một ý niệm gì về sự có mặt của hai người ấy trên đất nước chúng tôi. Đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chúng tôi - những cán bộ, chiến sĩ ở chiến trường chỉ có tìm cách tiến công địch. Đó là tư tưởng chủ động tiến công địch giành quyền làm chủ về mình, nên nó không hề có một sự hạn chế nào. Trong cuộc tiến công trại lính Mỹ ở Plây Cu, chúng tôi không những không bị phê bình mà còn được cấp trên khen thưởng.

- Khi chuẩn bị tiến công, các ngài có phân biệt mục tiêu mà các ngài gọi là “ngụy” và các mục tiêu gọi là “lính viễn chinh Mỹ” ?

- Không ! Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, chúng tôi nhận thức rằng quân ngụy và binh sĩ Mỹ đều là kẻ thù. Tư tưởng “tìm Mỹ mà diệt, tỉm ngụy mà đánh” không có gì khác nhau, cũng không có gì phân biệt. Đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chức năng của chúng tôi - những người lính ở chiến trường là tiêu diệt quân thù.

Sau đó một số thành viên hội thảo Mỹ có đưa ra những dẫn chứng về sự “cùng leo thang” của cả Mỹ và Bắc Việt Nam trong những năm 1965 -1968, nhằm xóa nhòa ranh giới giữa quyền tự vệ chính đáng của dân tộc ta và cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược mà đế quốc Mỹ tiến hành.

Chính từ trong cuộc hội thảo này, những gì mà các học giả Mỹ và các đồng chí ta đưa ra thảo luận về chiến trường Tây Nguyên, đã gợi lại cho tôi những kỷ niệm kỳ diệu trong cuộc đời binh nghiệp của mình. Đó là những ký ức nồng đậm nhất, sâu lắng nhất trong mười năm “nếm mật, nằm gai” cùng quân và dân Tây Nguyên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập nên những chiến công lẫy lừng. Trong cuốn sách nhỏ này, tôi không thể nói đầy đủ tất cả những gì đã diễn ra trong suốt mười năm kể từ khi khối chủ lực Tây Nguyên chúng tôi sống và chiến đấu ở đây. Tôi chỉ ghi lại một số những sự kiện và những con người mà hình ảnh và chiến công của họ đã, đang và sẽ theo tôi suốt cuộc đời.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:05:51 am
I

THỜI KHẮC LỊCH SỬ

Trước khi nói về trận thắng oanh liệt của quân và dân Tây Nguyên tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn tinh nhuệ bậc nhất của Mỹ ở thung lũng Ia Đrăng trong chiến dịch Plây Me mùa khô năm 1965, tôi muốn nói vắn tắt bối cảnh của giai đoạn lịch sử này.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam bị phá sản. Nhà Trắng cho rằng thất bại trong “chiến tranh đặc biệt” ở Việt Nam mới chỉ là thất bai của ngụy quyền Sài Gòn, chứ chưa phải là thất bại của nước Mỹ và quân đội Mỹ. Vì vậy, ỷ vào tiềm lực quân sự và kinh tế to lớn lại có tham vọng ngông cuồng làm bá chủ thế giới, cuối cùng Giôn-xơn chọn phướng sách tăng quân và mở rộng chiến tranh. Ngày 28 tháng 7 năm 1965, tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã tuyên bố trong cuộc họp báo ở Nhà Trắng như sau: Hôm nay tôi đã ra lệnh đưa sang Việt Nam sư đoàn không vận và một số lực lượng khác nữa đề nâng hầu như ngay tức khắc số quân chiến đấu của chúng ta từ 75.000 lên 125.000. Sau đây khi cần thêm lực, lượng bổ sung thì lực lượng này sẽ được đưa sang theo yêu cầu.

Cuộc “chiến tranh cục bộ” bắt đầu từ đó.

Oét-mo-len vạch kế hoạch chiến lược cho cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ gồm ba giai đoạn với thời gian từ 2 năm đến 2 năm rưỡi. Giai đoạn 1 (cuối năm 1965) chặn chiều hướng thua, ghìm không cho cộng sản hoạt động, để bảo đảm triển khai lực lượng và bảo đảm an toàn cho các khu vực trong phạm vi có thể. Giai đoạn 2 (6 tháng đầu năm 1966) mở cuộc tiến công lớn để giành quyền chủ động phá chiến tranh du kích và lực lượng chính quy đối phương. Giai đoạn 3 (trong 1 năm đến 1 năm rưỡi đến giữa hoặc cuối năm 1967). Nếu đối phương kiên quyết chống lại thì sau giai đoạn 2 cần có thời gian từ 1 năm đến 1 năm rưỡi để đánh lớn nhằm tiêu diệt các lực lượng và khu căn cứ lớn của đối phương. Việc rút quân Mỹ và quân đồng minh sẽ bắt đầu vào giai đoạn 3 khi mà chính phủ Việt Nam cộng hòa có khả năng thành lập và duy trì trật tự trong nước và bảo vệ được biên giới.

Nhà Trắng tin tưởng bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam kết hợp với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc chúng sẽ khuất phục được nhân dân ta. Ý định của Đảng ta là kiềm chế và thắng Mỹ trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” để hạn chế tổn thất của nhân dân. Nhưng phái hiếu chiến ở Lầu Năm Góc và Nhà Trắng không dừng lại ở đó. Tướng Uy-lơ, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ cho rằng chỉ cần một sư đoàn Mỹ vào đứng ở nam vĩ tuyến 17 là họ có thể chặn đứng cuộc tiến công của ta và chỉ cần hai sư đoàn lính Mỹ thì họ có thể xoay chuyển ngọn triều quân sự (!). Ngược.với những tính toán chủ quan của Mỹ, trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công đẩy địch vào một tình thế hết sức bất lợi. Trong năm 1964 toàn miền Nam có trên 28 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị và nổi dậy. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta phát triển mạnh; Hầu hết các xã đều có từ một tiểu đội đến trung đội du kích. Bộ đội địa phương toàn Miền có tới 42 tiểu đoàn tập trung của tỉnh và ở mỗi huyện cũng có từ một trung đội đến một đại đội. Nhiều nơi còn thành lập các đơn vị đặc công... Thế trận chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị ngày càng vững mạnh. Quân Mỹ, quân chư hầu cùng quân ngụy chẳng những “không đánh gãy được xương sống Việt cộng” mà còn bị quân và dân ta giáng những đòn phủ đầu choáng váng ở nhiều nơi. Trong năm 1964, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 119.000 tên địch. Tiêu biểu là trận Bình Giã diệt 2.031 tên (có 46 Mỹ), bắt sống 300 tên, bắn rơi 37 máy bay, phá hủy 27 xe bọc thép M113. Đó là trận thắng oanh liệt nhất của quân và dân miền Nam tính vào thời điểm đó.

Tôi muốn dành ít trang để nói về chiến trường Tây Nguyên trong thời khắc lịch sử này. Tây Nguyên, một vùng đất ở phía Tây Trung Bộ, với những cao nguyên rộng lớn và những cánh rừng nguyên sinh đại ngàn chiếm một phần ba diện tích rừng cả nước, lại ở độ cao có thể ví như mái nhà của Nam Đông Dương. Chiến trường này, trong kháng chiến chống Mỹ gồm ba tỉnh : Kon Tum, Gia Lai và Đắc Lắc với diện tích 36.000 km2, dân số khoảng 1 triệu người. Tây Nguyên có những điểm mạnh rất cơ bản, đó là tinh thần cách mạng của nhân dân và địa thế hiểm trở. Nói cách khác đó là con người và địa thế. Từ các hướng muốn đến Tây Nguyên đều phải vượt qua các dãy núi cao, những đường đèo quanh co, khúc khuỷu. Từ lâu thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đánh giá rất đúng vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Chúng cho rằng, ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương. Vì vậy, Tây Nguyên trở thành mục tiêu chiến lược và chiến trường rất quan trọng trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Chín năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm chống Mỹ, cứu nước, có nhiều khu vực chưa bao giờ quân thù dám đặt chân đến như Ngọc Linh, vùng đầu nguồn sông Ba và đầu nguồn sông Sê-rê-pốc, v.v...


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:06:28 am
Trong những năm đánh Mỹ, chiến trường Tây Nguyên hình thành ba khu vực. Khu vực cánh Bắc (tỉnh Kon Tum), có nhiều núi cao rừng rậm, có ngọn núi cao tới 2.598 mét (Ngọc Linh), 2.259 mét (Ngọc-ni-ay), v.v... Các dãy núi này thấp dần về phía Nam và tạo thành vùng cao nguyên quanh thị xã Kon Tum và Plây Cu. Rừng Kon Tum gần liền với rừng Hạ Lào và rừng Tây Quảng Nam trùng điệp tạo thành một địa bàn quân sự rất sâu hiểm và kín đáo. Trong những năm Mỹ - Diệm thực hiện chính sách “Tố cộng, diệt cộng”, dựa vào thế hiểm ấy ta đã nhen nhóm lực lượng cách mạng để từ đó trở thành phong trào lan ra xung quanh và tiến xuống đồng bằng. Kon Tum còn là đầu mối, nơi đón nhận nhân lực, vật lực từ hậu phương miền Bắc chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Trong kháng chiến chống Pháp cũng như trong chống Mỹ, Kon Tum là khu vực được giải phóng đầu tiên. Phần lớn những cuộc nổi dậy và những trận tiến công đều dấy lên từ đây. Cánh Bắc là vùng căn cứ đồng thời là chiến trường rất hệ trọng của Tây Nguyên. Nhận biết được điều đó, quân địch đã chiếm giữ và xây dựng vùng Bắc Kon Tum trở thành một khu vực phòng thủ khá kiên cố. Trung tâm phòng ngự này là Đắc Tô - Tân Cảnh, ở đây địch thường xuyên bố trí lực lượng cỡ sư đoàn chủ lực. Đường 18 từ Tân Cảnh đi Plây Cần sang A-tô-pơ (Lào) được chúng xây dựng thành tuyến phòng ngự cơ bản nhằm ngăn chặn và chia cắt chiến trường Tây Nguyên với hậu phương miền Bắc. Đoạn đường 14 từ Tân Cảnh đi Đắc Pét chúng cũng xây dựng thành tuyến ngăn chặn giữa Tây Nguyên với đồng bằng Khu 5. Trong những năm chiến tranh chông Mỹ, ở cánh Bắc Tây Nguyên luôn dịễn ra tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.

Khu vực cánh Trung (tỉnh Gia Lai) địa hình ít mấp mô, có nhiều đất bằng và khá kín đáo. Cánh Trung nối liền với vùng Đông Bắc Cam-pu-chia như một dải địa hình không phân cách, tạo nên những khu vực địa hình có dung lượng lởn, tập kết được nhiều binh đoàn, binh chủng hợp thành. So với cánh Bắc, việc mở các đường quân sự, bố trí kho tàng ở đây thuận lợi hơn. Cánh Trung có con sông Pô Cô về mùa mưa nước chảy xiết rất trở ngại cho việc cơ động bộ đội. Plây Cu, tỉnh lỵ của Gia Lai có nhiều sân bay và căn cứ quân sự lớn của Mỹ như sân bay Cù Hanh (Hô-Ịô-uây), An Khê... Đường 19 từ Quy Nhơn đi Plây Cu kéo dài qua Đức Cơ đến tận Stung-treng (Cam-pu-chia) là đường chiến lược trọng yếu. Đó là con đường sống còn của địch trên chiến trường Tây Nguyên. Nhiều nhà chiến lược quân sự cho rằng ai kiểm soát đường 19 sẽ kiểm soát cao nguyên trung phần và ai kiểm soát cao nguyên, người đó sẽ kiểm soát Nam Việt Nam. Năm 1961, tướng Tay-lo đã mưu đồ lập một hành lang chiến lược cắt ngang bán đảo Đông Dương từ Trung Trung Bộ đến Thái Lan và đặt đường 19 trong khu vực hành lang này. Trong hồi ký của mình, Giôn-xơn đã có lúc hốt hoảng cho rằng: Đã cổ bằng chứng chắc chắn là các nhà chiến lược ở Hà Nội hy vọng cắt đôi Nam Việt Nam dọc một tuyến từ Plây Cu ở cao nguyên trung phần theo hướng đông cho tới bờ biển. Vì lẽ đó, các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã sử dụng những lực lượng quan trọng chiếm giữ đường 19. Ngoài ý đồ trên địch còn ý định cắt chiến trường Tây Nguyên ra làm đôi và ngăn cách Tây Nguyên với chiến trường Nam Bộ.

Khu vực cánh Nám (tỉnh Đắc Lắc) là một vùng cao nguyên đất bằng. So với cánh Bắc và cánh Trung rừng ở đây thưa hơn, rất tiện cho việc cơ động các binh khi kỹ thuật. Cánh Nam cũng là nơi có dung lượng tập kết bộ đội rất lớn. Trở ngại lớn nhất ở đây là con sông Sê-rê-pốc (những con sông ở cánh Nam đều chảy về hướng tây), về mùa nước hung dữ, rất khó khăn cho việc đi lại. Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ của Đắc Lắc, nằm trên đường 14 cách thị xã Plây Cu 190 km, là thủ phủ chính trị của địch ở Tây Nguyên. Tuy nó rất quan trọng, nhưng do công tác bảo đảm hậu cần gặp nhiều khó khăn nên các hoạt động quân sự lớn của ta ở đây có hạn chế. Vì lẽ đó nên địch ở cánh Nam có phần sơ hở hơn so với cánh Bắc và cánh Trung.

Nhân dân Tây Nguyên có tinh thần yêu nước nồng nàn, có truyền thống cách mạng kiên cường, Mặc dù quân thù ra sức dụ dỗ mua chuộc và khủng bố dã man, nhưng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn gắn bó sắt son với cách mạng, một lòng một dạ theo Đảng, theo Bác Hồ. Trong những năm đen tối nhất của cách mạng miền Nam, với chính sách “tố cộng, diệt cộng”. Mỹ - Diệm tạm thành công ở nhiều nơi nhưng lại bị thất bại ở Tây Nguyên. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1960 một số nơi bị thoái trào nhưng ở Tây Nguyên phong trào vẫn giữ được và ngày càng phát triển. Khi quân địch dồn dân lập “khu trù mật”, “khu dinh điền”, “ấp chiến lược” một bộ phận nhân dân đã chạy vào rừng sâu, sống bất hợp pháp, không chịu vào vùng địch. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Kon Tum chỉ có hai vùng: vùng bất hợp pháp (căn cứ) và vùng địch, không có vùng hợp pháp. Còn ở Gia Lai hình thành ba vùng: vùng căn cứ, vùng hợp pháp và vùng địch. Vùng hợp pháp trở thành khu trung gian móc nối liên lạc giữa ba vùng. Ở Đắc Lắc tình hình cũng gần giống như Gia Lai. Vùng bất hợp pháp dần dần được xây dựng thành những căn cứ du kích và sau này đã được nối liền nhau trở thành khu căn cứ địa cách mạng; nhân dân trong vùng bất hợp pháp chịu đựng gian khổ, đói cơm, nhạt muối, thiếu thốn trăm đường nhưng họ rất kiên trung theo cách mạng. Chính họ là chỗ dựa vững chắc và cơ bản nhất tạo địa bàn cho các lực lượng chủ lực của ta từ miền Bắc vào đứng chân và tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân trên chiến trường Tây Nguyên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:07:08 am
Ngược lại lịch sử đấu tranh của Tây Nguyên, ta không thể quên được người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Dấu voi xưa còn in lại trên trảng cỏ An Khê, nơi dựng nghĩa của nhà Tây Sơn. Người dân Tây Nguyên tự hào đã góp con em của mình tham gia vào đội tượng binh của Nguyễn Huệ. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ nhất, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã anh dũng cùng cả nước chống giặc. Người dân Tây Nguyên tự hào đã cùng đồng bào các tỉnh miền xuôi hưởng ứng các phong trào Văn Thân, Cần Vương chống xâm lược. Ngày 6 tháng 1 năm 1885, công sứ Quy Nhơn Na-ven cùng đoàn tùy tùng ngược đường 19 lên Plây Cu nhằm khuất phục người dân ở đây, nhưng bị đồng bào phục kích ở làng Plây Tio, giết một tên làm bị thương chín tên lính Pháp, buộc chúng phải bỏ cuộc.

Sang đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn diễn ra liên tục sôi nổi, tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu vô cùng can trường ròng rã suốt 20 năm trời do Ama -Trang Lơn người dân tộc Mơ Nông lãnh đạo (1914-1934) đã lập căn cứ ở đại bộ phận vùng rừng núi Nam Tây Nguyên. Địch ra sức đàn áp nhưng vẫn không dập tắt được tinh thần yêu nước của nhân dân các dân tộc trên cao nguyên rừng xanh đất đỏ này.

Từ khỉ Đảng ra đời, thông qua nhiều chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là những đảng viên cộng sản trong các nhà tù đế quốc ở Kon Tum, Buôn Ma Thuột, cơ sở cách mạng ở đây được nhen nhóm và phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng dần dần được mở rộng đánh dấu bước ngoặc về chất trong phong trào yêu nước của đồng bào Tây Nguyên. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng giữ trọn khí tiết đến hơi thở cuối cùng, tiêu biểu là Anh hùng Vừu người dân tộc Ba Na. Đặc biệt là Anh hùng Núp và đội du kích Xi Tơ của ông đã thành biểu tượng của cả Tây Nguyên bất khuất. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây Cu ngày 19 tháng 8 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu liên lạc, hai là vì kẻ thù xúi giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là một của chúng ta... Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta(1). Từ đó những hiểu biết và niềm tin về Đảng tập trung vào Bầc Hồ kính yêu. Những tiếng “muối Bác Hồ”, “chữ Bác Hồ”, “bộ đội Bác Hồ”... đã trở nên gắn bó, sâu nặng biết bao trong lòng người Tây Nguyên.

Nhân dân Tây Nguyên chẳng những cầm vũ khí phối hợp với bộ đội đánh giặc giữ làng, mà còn tích cực sản xuất lương thực, nuôi cán bộ, bộ đội, đi dân công cáng thương, gùi đạn, đào hầm đắp ụ, cung cấp tình hình địch và dẫn đường cho bộ đội. Ba tiếng “làm cách mạng” thiêng liêng và quen thuộc đã trở thành nguyện vọng, niềm tự hào và là nghĩa vụ chung, của mọi người dân, không phân biệt gái trai, lớn nhỏ. Dù đói cơm nhạt muối, gian khổ ác liệt đến đâu, đồng bào vẫn một lòng trung thành với cách mạng, luôn lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.

Nhân dân các dân tộc Tây Nguyên những người con của đại gia đình các dân tộc Việt Nam có một niềm tự hào rất chính đáng với truyền thống đấu tranh của mình, với nền văn hóa cổ truyền lấp lánh như một viên ngọc trong nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Tây Nguyên còn là một miền đất huyền thoại với những ông vua Lửa, vua Nước (Pơ tan Pui, Pơ tan Ia) với những chàng dũng sĩ Đam San, Xinh Nhã... mạnh khỏe, tài ba và quả cảm cùng những âm thanh bất tận của cồng chiêng, của tiếng đàn T’rưng trầm hùng, của điệu kể khan đầy trữ tình, và những điệu múa rông chiêng, Kà Tu sôi nổi, rộn ràng. Có thể nói kiên cường, bất khuất trước quần thù, thủy chung son sắt với cách mạng, tin yêu Đảng, tôn kính Bác Hồ, sẵn sàng hy sinh tất cả để giành độc lập, tự do đã trở thành phẩm chất tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã đánh giá rất cao vị trí chiến lược của chiến trường Tây Nguyên: “Nhiệm vụ phất triển vào Tây Nguyên phải coi là quan trọng bậc nhất, nhiệm vụ củng cố vùng tự do phải coi là nhiệm vụ quan trọng thứ hai”. Tháng 10 năm 1960, trong bài giải thích về Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Tây Nguyên rộng lởn, địa thế tốt, phong trào quần chúng tốt... Tây Nguyên có khoảng 1 triệu dân, ta phải làm thế nào có thể 1/10 dân số kiên quyết cầm vũ khí đánh địch. Đặc biệt phải hết sức chú ỷ tăng cường về quân sự... Ớ đây mạnh thì ta mạnh toàn diện cả miền Nam. Nơi không có người thì đưa người đến, thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 15. Không có người trồng người, có đất có ăn”.


(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 217


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:08:37 am
Năm 1961, Trung ương Đảng ta chỉ thị “Căn cứ lâu dài và cho toàn miền Nam là khu vực rừng núi Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ”. Tháng 1 năm 1962, Đảng ủy Quân khu 5 ra nghị quyết nhấn mạnh “Tây Nguyên chẳng những chiếm vị trí trung tâm cơ động trên chiến trường liên khu và cả ở miền Nam Việt Nam, mà còn là trung tâm cơ động trên chiến trường Nam Đông Dương”.

Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam sang đến đầu năm 1964 đã đứng trước thời cơ chiến lược mới - chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đang bị thất bại nặng nề và đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Lực lượng cách mạng miền Nam đã phát triển không ngừng và có khả năng giáng đòn quyết định làm thất bại âm mưu chiến tranh của địch. Quy luật đấu tranh vũ trang của chiến tranh giải phóng là từ chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Trên cơ sở chiến tranh du kích đã được mở rộng từng bước phải phát triển chiến tranh chính quy để giữ vững thế tiến công, tiêu diệt lực lượng lớn của địch giải phóng đất đai. Trong thời kỳ đầu của chiến tranh giải phóng, do tương quan lực lượng so sánh giữa ta và địch, chúng tạm thời có những mặt mạnh hơn ta, vì vậy ta thường chọn rừng núi làm chiến trường để tiến hành chiến tranh chính quy, tác chiến của bộ đội chủ lực. Theo phương châm đó, ngày 1 tháng 5 năm 1964, Bộ Chính trị quyết định thành lập Mặt trận Tây Nguyên, lấy phiên hiệu là chiến trường B3. Mặt trận Tây Nguyên được hình thành lúc đầu như là phân khu miền Tây của Quân khu 5 do anh Hà Vi Tùng và anh Dương Liên phụ trách, về sau anh Nguyễn Chánh làm tư lệnh, anh Đoàn Khuê làm chính ủy.

Như trên đã nói, Tây Nguyên là một bộ phận đất đai thuộc Liên khu 5. Nhiệm vụ của chiến trường Tây Nguyên gắn bó chặt chẽ với chiến trường Khu 5. Nhưng do vị trí của nó, về mặt chiến lược quân sự, Tây Nguyên còn có những quan hệ với các chiến trường Đông Nam Bộ, Trị Thiên và hai chiến trường nước bạn Lào và Cam-pu-chia. Do vậy, ngoài nhiệm vụ đối với chiến trường Quân khu 5, Tây Nguyên còn có những nhiệm vụ riêng do Bộ trực tiếp giao cho. Chỉ thị của Quân ủy Trung ương ngày 27 tháng 4 năm 1965 xác định nhiệm vụ của Tây Nguyên như sau: Trong phạm vỉ chiến tranh đặc biệt, Tây Nguyên là chiến trường chính để tiêu diệt sinh lực địch; phối hợp với Pa-thét Lào giữ vững và mở rộng khu giải phóng Hạ Lào tạo thành một căn cứ tương đối lớn ở Trung Đông Dương. Tuy vậy, trong từng thời kỳ phát triển khác nhau của chiến tranh, nhiệm vụ của chiến trường có lúc đã có sự bổ sung hoặc thay đổi nhất định, nhưng nhiệm vụ chung có thể nói vắn tắt: Một là, xây dựng chiến trường đánh tiêu diệt lớn, có đội quân chủ lực mạnh làm nòng cốt thúc đẩy ba thứ quân cùng phát triển, tiêu diệt, tiêu hao nhiều và rộng rãi sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Thu hút, giam chân lực lượng chủ lực cơ động Mỹ - ngụy, tạo điều kiện cho đồng bằng và đô thị nổi dậy. Phối hợp chặt chẽ với Trị Thiên, Đông Nam Bộ và các chiến trường khác tiến công địch trong những thời điểm chiến lược. Hai là, xây dựng hậu phương trực tiếp của cách mạng miền Nam và Đông Dương, xây dựng và bảo vệ hành lang chiến lược nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, phá thế chia cắt của địch, tiến lên chia cắt địch. Ba là, xây dựng và phát triển chiến trường thành hướng chiến lược của Bộ trong giai đoạn giành thắng lợi quyết định của chiến tranh. Có thể nói đây là nhiệm vụ xuyên suốt của Mặt trận Tây Nguyên trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Nhân đây tôi nói thêm, mối quan hệ giữa Mặt trận Tây Nguyên đối với Bộ và Khu 5. về chính trị thì song trùng lãnh đạo, Mặt trận vừa chịu sự lãnh đạo của Khu ủy Khu 5, vừa chịu sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, về quân sự và hậu cần thì do Bộ trực tiếp chỉ huy và tổ chức bảo đảm. Quân khu tham gia góp ý kiến chỉ đạo. Đối với các tỉnh ủy ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên đã đoàn kết chặt chẽ chủ động hiệp đồng vì thắng lợi chung, vì sự nghiệp cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Mối tình đoàn kết giữa các tỉnh ủy với Đảng ủy B3 chúng tôi là tình cảm cách mạng chân thực, trong sáng và hiếm có. Đối với các tỉnh đội, có lúc thì Quân khu giao cho Mặt trận trực tiếp chỉ huy, có lúc thì do Quân khu chỉ huy, Mặt trận chỉ có hiệp đồng chiến đấu. Mặc dù về tổ chức có chỗ chưa hợp lý nhưng mối quan hệ giữa Mặt trận với ba tĩnh đội luôn luôn gắn bó chặt chẽ, luôn luôn tạo điều kiện giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ.

Lực lượng vũ trang của Mặt trận Tây Nguyên hình thành và phát triển từ hai nguồn. Lực lượng vũ trang địa phương hình thành từ cao trào đồng khởi, về sau ngày được bổ sung và xây dựng phát triển dần lên. Lúc đầu các đảng bộ địa phương cử các đảng viên ưu tú và chọn số thanh niên hăng hái đưa vào tổ chức các đội tự vệ và du kích. Đầu năm 1960, Bộ phái một số cần bộ từ ngoài Bắc vào để tăng cường thêm dần, về sau các lực lượng trên phát triển thành bộ đội địa phương tỉnh và huyện. Bộ đội chủ lực của Mặt trận đều do Bộ tổ chức từ hậu phương miền Bắc đưa vào. Tuy không phải là lực lượng được xây dựng tại chỗ, nhưng bộ đội chủ lực ta đã phát huy bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Được dân tin yêu và đùm bọc, bộ đội chủ lực Tây Nguyên thực sự là con em của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, đói no, ngọt bùi cùng chia sẻ với nhân dân.

Công tác tổ chức và bảo đảm hậu cần cho chiến trường một phần do trên chi viện, một phần dựa vào sự đóng góp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Đồng thời bộ đội ta đã ra sức tăng gia sản xuất và lấy của địch để đánh địch. Phát huy tiềm năng tại chỗ, kết hợp với sự chi viện của trên, đó là phương châm giải quyết công tác bảo đảm vật chất cho chiến đấu của chiến trường Tây Nguyên.

Vào thời gian này, lực lượng chủ lực của Tây Nguyên có tiểu đoàn 2001, tiểu đoàn đặc công 407 và tiểu đoàn súng máy 303 của Quân khu 5 vừa bổ sung. Cuối năm 1964, Tây Nguyên được Bộ tăng thêm trung đoàn 320, trung đoàn đầu tiên đủ quân được chọn lọc từ 3 sư đoàn 308, 304, 350 được trang bị vũ khí bộ binh của Liên Xô. Tiếp đó là trung đoàn 101 (Sư đoàn 325) và tiểu đoàn 545 (Quân khu Tây Bắc). Đồng thời để đáp ứng nhiệm vụ tác chiến, Mặt trận thành lập Viện quân y(1) và mở cửa khẩu Tân Lập để thu mua lương thực, thực phẩm tăng nguồn dự trữ cho chiến đấu.


(1) Tiểu đoàn pháo binh 200 thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1960 ở Mậu Long (Nghệ An) gồm 148 cán bộ, chiến sĩ (phần lớn là các chiến sĩ miền Nam và Tây Nguyên tập kết ra Bắc năm 1954, trong đó có 4 chiến sĩ gái người Ê Đê là: Y Nay, Y Hông, Y Ngoan, Y Na), được lựa chọn từ 2 tiểu đoàn pháo của các sư đoàn 305 và 324 do anh Trần Trọng Sơn làm tiểu đoàn trưởng và anh Hồ Thắc làm chính trị viên. Trang bị của tiểu đoàn gồm 2 khẩu sơn pháo 75 ly (208 quả đạn), cối 81 ly và cối 60 ly, một ít tiểu liên cải tiến. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của ta từ miền Bắc vào, đến chiến trường giũa tháng 1 năm 1961.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:11:53 am
Giữa năm 1965, tăng cường lãnh đạo, thống nhất chỉ huy và phát triển lực lượng ba thứ quân xây dựng căn cứ hậu phương trực tiếp của chiến trường là vân đề có ý nghĩa chiến lược chẳng những đối với Tây Nguyên mà còn cho cả Khu 5 và Nam Bộ. Do vậy, sau khi chiến dịch Ba Gia(1) kết thúc, Quân ủy Trung ương cử anh Chu Huy Mân lên Tây Nguyên làm tư lệnh kiêm chính ủy mặt trận. Cùng lên Tây Nguyên với anh Mân còn có anh Bùi Nam Hà, tham mưu phó quân khu và tôi (do còn phải giải quyết một số công việc nên tôi đi sau đoàn nửa tháng). Đầu tháng 9 tôi đến Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Mặt trận đóng ở một cánh rừng già thuộc khu vực Tà Xẻng gần ngã ba Đông Dương. Cũng vào thời gian này Bộ bổ sung cho Tây Nguyên trung đoàn 33, đến tháng 10 tăng thêm một số cán bộ của hai sư đoàn 325 và 304. Ý định của Bộ lúc đó là tập trung chủ lực mở chiến dịch tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân ngụy, giải phóng vùng Bắc Tây Nguyên (mục tiêu là tỉnh Kon Tum). Nhưng do tình hình địch thay đổi nên ta tạm hoãn lại kế hoạch này. Cũng vào thời gian này, nhằm mở rộng cơ sở hậu cần chiến dịch, hai tiểu đoàn vận tải của Đoàn 559 và đoàn cán bộ Tổng cục Hậu cần đến Tây Nguyên thành lập cửa khẩu VQ5 tiếp nhận nguồn hàng của Trung ương chi viện qua đường Cam-pu-chia và tổ chức mua thêm nguồn hàng tại chỗ cung cấp cho chiến trường. Để bảo đảm cơ sở vật chất cho nhu cầu tác chiến, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập Binh trạm Nam và bệnh viện 2 hình thành căn cứ hậu cần cánh Nam. Đồng thời tổ chức bộ phận ở phía nam sông Sê Sụ làm nhiệm vụ nhận hàng chuyển giao của Đoàn 559, chuẩn bị xây dựng căn cứ hậu cần cánh Bắc. Các đường hành lang C01, C02, C03, C07 thuộc Quân, khu 5 được chuyển giao cho hậu cần mặt trận quản lý.

Khi các đơn vị chủ lực đến các chiến trường, thì lực lượng tại chỗ đã chuẩn bị sẵn chỗ đứng chân và các bàn đạp tiến công khá tốt. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, bộ đội chiu lực đã có thể triển khai tiến công địch ngay. Chiến tranh chính quy xuất hiện đã làm biến đổi nhanh chóng cục diện chiến trường. Bước vào thời kỳ chiến tranh cục bộ lực lượng bộ đội chủ lực phát triển rất nhanh, từ một vài trung đoàn năm 1964 đã tăng lên tương đương một sư đoàn vào cuối năm 1965. Trong khi đó lực lượng vũ trang địa phương phát triển chậm hơn. Tình hình này phát sinh một mâu thuẫn mới là chiến tranh du kích không theo kịp và không hỗ trợ đắc lực cho chiến tranh chính quy. Trước tình hình đó, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã có một quyết định rất sáng tạo là tổ chức các đơn vị chủ lực tại chỗ. Bộ đội chủ lực tại chỗ của ta là những trung đoàn bộ binh, những tiểu đoàn mũi nhọn, những đơn vị pháo, đặc công, công binh... Nhiệm vụ của bộ đội chủ lực tại chỗ là cắm chân vững chắc trên địa bàn từng tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh tiêu diệt địch, kìm chân địch tại chỗ, phá bình định, xây dựng cơ sở chính trị địa phương sẵn sàng phối hợp với chủ lực cơ động trong những chiến dịch tiến công. Phương thức tác chiến của bộ đội chủ lực tại chỗ là kết hợp tiêu diệt địch với giành dân, kết hợp đánh vừa, đánh nhỏ với đánh lớn. Đồng thời phải ra sức tăng gia sản xuất và dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân địa phương để giải quyết vấn đề lương thực tại chỗ. Có thể nói bộ đội chủ lực tại chỗ là cầu nối giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.

Sau chiến dịch tiến công mùa Hè năm 1965 của ta kết thúc bằng trận công kiên, tiêu diệt căn cứ Đắc Xút (Kon Tum) và việc đánh bại cuộc hành quân của địch nhằm giải tỏa Đức Cơ (Gia Lai), trong đó có trận phục kích trên đoạn Lệ Thanh - Phước Thiện gây cho địch tổn thất nặng nề, quân địch ở Tây Nguyên từ thế chiếm đóng “tuyến kết hợp diện” phải thu hẹp lại và bắt đầu thay đổi cơ cấu tổ chức nhằm củng cố và tăng cường sức chiến đấu cho lực lượng chủ lực. Chúng thực hiện ý đồ co cụm lớn bảo vệ những nơi xung yếu như quận lỵ, thị trấn, thị xã, đường giao thông chiến lược, ngăn chặn ta tiến công. Tiểu khu Kon Tum tách khỏi vùng chiến thuật 2. Cuối mùa hè năm 1965, địch lập biệt khu 24. Chúng tổ chức thêm cho mỗi trung đoàn bộ binh tiểu đoàn chiến đấu thứ tư và tăng cường trung đoàn 42 quân ngụy cho biệt khu 24. Cùng thời gian này, địch bố trí tổ chức vùng chiến thuật, thành lập quân khu 2 và quân đoàn 2 ngụy đặt sở chỉ huy tiền phương tại Plây Cu.

Đầu tháng 9 năm 1965, Oét-mo-len, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam quyết định đưa sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ do Trung tướng Ha-ri-kin-na chỉ huy lên Tây Nguyên đứng chân ở quận lỵ An Khê, một vị trí then chốt trên đường 19, án ngữ cửa ngõ Tây Nguyên. Căn cứ sư đoàn kỵ binh không vận đóng trên hai khu vực: Trung tâm căn cứ nằm ở phía tây sông Ba gồm có cơ quan chỉ huy, điện đài, trạm quân y, tổng kho hậu cần... Sân bay Tân Tạo nằm sát chân núi Hòn Công. Khu phía đông sông Ba có sân bay Cây Me (sân bay cũ của Pháp), Mỹ cải tạo thành nơi đậu các loại máy bay vận tải. Nối liền hai khu là chiếc cầu sắt bắc qua sông Ba. Xung quanh căn cứ là hàng rào dây kẽm gai, với bãi mìn dày đặc, có đường cho xe tuần tiễu. Bên ngoài căn cứ là hệ thống đồn bốt và ấp chiến lược tạo thành vành đai bảo vệ. Chiếm giữ An Khê chúng có thể khống chế vùng đồng bằng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc Tây Nguyên, đồng thời uy hiếp trực tiếp đường hành lang chiến lược Bắc - Nam.

Theo tin chúng tôi nắm được về sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ (ta quen gọi là sư đoàn kỵ binh bay) lúc đó như sau(2): về quân số: 15.984 người, vũ khí trang bị 450 máy bay hầu hết là trực thăng, trong đó có 39 trực thăng vũ trang (mỗi chiếc trang bị 48 đạn rốc-két 70 ly); 54 pháo 105 ly; khoảng 1.600 xe (trong đó có 20 xe vận tải bọc thép); hơn 2.000 máy VTĐ các loại, trong đó có loại hiện đại nhất của Mỹ lúc bấy giờ là máy 2w PRC25. Biên chế 8 tiểu đoàn chiến đấu gồm 3 tiểu đoàn dù và 5 tiểu đoàn bộ binh, mỗi tiểu đoàn có 830 người. Bán kính hoạt động tối đa của sư đoàn kỵ binh là 300km, trung bình từ 100 đến 200km. Nếu lập căn cứ độc lập thì bán kính hoạt động của lữ đoàn có thể từ 50 đến 100km. Chỗ mạnh của sư đoàn này là nhiều phương tiện hiện đại có khả năng trinh sát phát hiện đối phương (tiểu đoàn trinh sát gồm 3 đại đội trinh sát đường không và 1 đại đội trinh sát mặt đất, trang bị 92 trực thăng, trong đó có 36 chiếc trực thăng trinh sát). Chúng có khả năng tập trung lực lượng thực hành tập kích bất ngờ, nhanh chóng bằng hỏa lực gây tổn thất nếu ta không đề phòng. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 còn có thể tác chiến ở nhiều khu vực hoặc nhiều hướng cùng một lúc. Song chúng cũng bộc lộ những mặt yếu rất khó khắc phục đó là bị lệ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu, thời tiết. Khả năng cơ động và tác chiến ban đêm yếu. So với các sư đoàn chiến đấu khác của Mỹ thì khả năng cơ động trên bộ và hỏa lực pháo binh chi viện yếu hơn. Sức đột kích của tiểu đoàn và lữ đoàn trong chiến đấu tấn công cũng như khả năng tác chiến liên tục thời gian dài và phòng ngự cố định ở mọi khu vực đều yếu, nhất là khi hoạt động trực thăng bị hạn chế hoặc bị ta tấn công trực tiếp vào hậu cứ thì nhược điểm này càng bộc lộ rõ. Bị lệ thuộc vào căn cứ sân bay. Nhu cầu tiếp tế hậu cần, nhiên liệu cho trực thăng hoạt động rất lớn (một ngày toàn sư đoàn hoạt động, tiêu thụ hết 440 tấn dầu). Việc bảo dưỡng máy bay càng đặt ra nhiều vấn đề buộc chúng phải giải quyết, v.v...

Về thủ đoạn tác chiến, chúng sử dụng chủ yếu từng lữ đoàn tác chiến độc lập, đổ từng đại đội theo kiểu “cóc nhảy” xuống các vị trí, sau đó hợp lại thành cụm quân để “vồ chụp”, “cất vó”, “tìm diệt” đối phương. Chúng rất coi trọng việc sử dụng ưu thế về hỏa lực không quân, máy bay lên thẳng mang rốc-két thay cho pháo binh mặt đất để thực hành đánh nhanh, giải quyết nhanh, rút nhanh khỏi khu chiến. Cách đánh này là rất mới mẻ đối với bộ đội ta.


(1) Ba Gia là một thị trấn nhỏ thuộc huyện Sơn Tịnh trên đường số 5, cách thị xã Quảng Ngãi trên 10 km, nằm trong thung lũng sông Trà Khúc. Tháng 7 năm 1965, Quân khu 5 mở chiến dịch Ba Gia do anh Chu Huy Mân, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 trực tiếp làm tư lệnh chiến dịch. Với cách đánh “vây điểm, diệt viện", tuy quy mô nhỏ nhưng đạt kết quả lớn, trung đoàn 1 chủ lực quân khu đã tiêu diệt 1 chiến đoàn quân chủ lực ngụy, diệt và làm bị thương 915 tên (có 6 tên Mỹ), bắt sống 270 tên, thu 307 súng các loại, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 2 pháo 105 ly, 14 xe quân sự các loại.
(2) Những thông tin chúng tôi nắm được có thể khác so với thực tế lúc đó và những tư liệu báo chí công bố sau này.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:15:01 am
II

DÁM ĐÁNH VÀ QUYẾT THẮNG

Sau khi đoàn cán bộ Quân khu 5 lên Tây Nguyên, trong Bộ tư lệnh Mặt trận có sự phân công mới. Anh Chu Huy Mân làm chính ủy kiêm tư lệnh. Anh Huỳnh Đắc Hương làm phó chính ủy; anh Nguyễn Hữu An, anh Nguyễn Chánh làm phó.tư lệnh; anh Bùi Nam Hà làm tham mưu trưởng và tôi làm chủ nhiệm chính trị mặt trận.

Vào thời điểm này, sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ cũng đã hoàn thành việc đưa quân lên chiếm đóng An Khê, chúng bắt đầu mở cuộc hành quân tìm diệt ở Bồng Sơn (Bình Định). Trước tình hình trên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho chiến trường tranh thủ thời cơ đánh đau quân ngụy, làm suy yếu chỗ dựa về bình định không để quân Mỹ rảnh tay tìm diệt; đồng thời khẩn trương chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng quân Mỹ ngay từ trận đầu, nỗ lực cao nhất đánh bại kế hoạch chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh” tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Thực hiện chủ trương chiến lược của trên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở chiến dịch mùa khô năm 1965 nhằm tiêu diệt một bộ phận quân ngụy và tạo thời cơ buộc Mỹ phải tham chiến để tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, củng cố và mở rộng vùng mới giải phóng, xây dựng căn cứ địa vững chắc, rèn luyện bộ đội và cơ quan chỉ đạo chiến dịch, nâng cao trình độ tác chiến, đồng thời qua tác chiến tìm hiểu thêm quân Mỹ; phối hợp với các chiến trường Khu 5 và Nam Bộ căng địch ra mà đánh buộc chúng phải phân tán đối phó. Vấn đề đặt ra với mặt trận là chọn hướng mở chiến dịch nên ở cánh Bắc hay cánh Nam Tây Nguyên. Cánh Bắc chủ yếu là tỉnh Kon Tum có rừng rậm, núi cao hiểm trở, với ta thuận lợi cho việc giấu quân, lập kho tàng, hạn chế đến mức thấp nhất hiệu lực của máy bay và pháo binh địch, ở địa hình này hoạt động tác chiến cỡ vài trung đoàn đều khó phát huy sức mạnh, đặc biệt tính cơ động của tăng - thiết giáp khó khăn. Còn phía cánh Nam Tây Nguyên thời tiết từ tháng 10 trở đi bước vào mùa khô, địa hình rừng bằng, đồi núi thấp, xen kẽ nương rẫy, ven đường lớn có nhiều cây gai xấu hổ, nhiều nơi là những thung lũng bằng, trảng trống và rừng cây khoọc, cây này về mùa khô rụng trụi lá, về cơ bản sông suối không ảnh hưởng đến cơ động. Địa hình thời tiết thời gian này cho phép ta tập trung binh lực tương đối lớn cơ động được rộng rãi nhưng đồng thời với địch chúng cũng phát huy được uy lực không quân trong tác chiến, nhất là việc vận dụng chiến thuật “trực thăng vận” chúng có thể cơ động nhanh đổ bộ được nhiều nơi. Với đặc điểm địa hình và thời tiết như vậy, thì vấn đề tổ chức đối không rộng rãi không những làm giảm bớt uy lực không quân địch mà còn là thời cơ bộ đội ta bắn rơi máy bay Mỹ, nhất là trực thăng. Mặt khác nếu ta tổ chức rộng rãi mạng đường quân sự làm gấp không những bảo đảm được sự cơ động nhanh bí mật mà còn tạo điều kiện cho ta tiếp cận phản kích địch trên nhiều hướng. Từ những phân tích trên, Đảng ủy nhất trí chọn hướng cánh Trung Tây Nguyên mở chiến dịch mùa khô năm 1965.

Tôi còn nhớ cuộc họp Đảng ủy Mặt trận mở rộng do anh Chu Huy Mân chủ trì nghiên cứu quán triệt nhiệm vụ và xây dựng kế hoạch chiến dịch. Sau khi phân tích trên bình diện toàn chiến trường, anh Chu Huy Mân nói:

- Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã thất bại, ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn tuy chưa tan rã về tổ chức, nhưng đã suy yếu toàn diện, về phía ta, lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và cách mạng miền Nam đang ở thế tiến công. Như vậy, về chiến lược, Mỹ nhảy vào miền Nam nước ta trong thế hoàn toàn bị động.

Do vị trí chiến lược đặc biệt của Tây Nguyên nên Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn đã tung đơn vị sừng sỏ bậc nhất của chúng lên chiếm đóng tại đây, với tham vọng tiêu diệt chủ lực của ta trong một thời gian ngắn, vực quân ngụy dậy và từ đó chiếm đóng lâu dài Tây Nguyên. Mặc dù chúng ta đã tập trung nghiên cứu nhưng cũng chỉ hiểu Mỹ trên lĩnh vực tư tưởng, tâm lý và chiến thuật “nhảy cóc”, còn cách đánh với sư đoàn kỵ binh không vận số 1 ở chiến trường rừng núi ra sao thì chưa có tiền đề. So sánh lực lượng ta ít hơn địch cả về quân số và trang bị vũ khí. Quân Mỹ có nhiều xe tăng, thiết giáp, máy bay, pháo binh còn chúng ta không có. Khi sư đoàn kỵ binh không vận số 1 bước vào tham chiến thì cường độ ác liệt do pháo binh và hỏa lực từ máy bay sẽ gia tăng gấp bội. Do vậy để bảo đảm chắc thắng, Đảng ủy cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu, đặc biệt coi trọng việc xây dựng quyết tâm đánh Mỹ cho bộ đội.

Dừng hồi lâu, đồng chí Bí thư Đảng ủy chậm rãi nói tiếp:

- Thưa các đồng chí! Chiến dịch tới Quân ủy Trung ương đặt niềm tin rất lớn vào quân và dân Tây Nguyên, ta thắng Mỹ trận này sẽ có ý nghĩa lắm, không những về quân sự mà cả về chính trị, tâm lý sẽ tạo ra thế mới, lực mới đối với lực lượng vũ trang Tây Nguyên nói riêng và toàn miền Nam nói chung. Chính vì lẽ đó chúng ta phải làm cho cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch có ý chí quyết tâm, trước hết phải dám đánh Mỹ và quyết tâm đánh thắng, vừa đánh vừa tìm hiểu địch nhất định chúng ta sẽ tìm ra cách đánh thắng chúng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:15:43 am
Từ sau hội nghị Đảng ủy, cả mặt trận sôi động khí thế đánh Mỹ. Từ các trung đoàn chủ lực, các đơn vị binh chủng, kỹ thuật đến các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đều tiến hành đại hội Đảng. Các đơn vị trong toàn mặt trận mở đợt sinh hoạt chính trị tập trung quán triệt nhiệm vụ chiến dịch. Đây là đợt sinh hoạt chính trị lớn đầu tiên được tổ chức trên phạm vi toàn mặt trận. Điều tôi nhớ nhất là trong đợt sinh hoạt này từ người binh nhì đến vị tư lệnh đều có tiếng nói chung là quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ ngay từ trận đầu.

Tối ngày 27 tháng 9, anh Chu Huy Mân gọi tôi đến nơi ở, cũng là nơi làm việc của anh. Đó là căn nhà nhỏ do anh em công binh làm ở lưng chừng một ngọn núi cao. Mái nhà lợp bằng lá trung quân (mùn cun), một loại lá rất khó cháy, được gập lại rồi gài thành từng tấm rất công phu, vừa bền, vừa đẹp. Quanh nhà được che bằng những tấm phên nứa đan lóng đôi rất cẩn thận. Khi tôi đến anh đang chăm chú bên tấm bản đồ trải rộng trên chiếc bàn làm bằng những nan tre được vót nhẵn bóng rồi dùng sợi mây ghép lại.

Vừa thấy tôi, anh Chu Huy Mân nói ngay:

- Mấy hôm nay, Đảng ủy đã bàn nhiều về nhiệm vụ chiến dịch tới. Với lực lượng của ta hiện có, lại tác chiến với một đối tượng sừng sỏ bậc nhất của quân đội Mỹ, yêu cầu nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao cho rất cao, theo anh vấn đề quan trọng bậc nhất để giành thắng lợi ở chiến dịch này là gì?

Suy nghĩ một lát, tôi nói:

- Thưa anh, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc mình luôn phải đương đầu với những kẻ thù hung bạo và lớn mạnh hơn mình nhiều lần. Tuy vậy, dân tộc ta chưa bao giờ chịu khuất phục trước một kẻ thù nào, kể cả chúng là một quốc gia mạnh nhất thời đó, một khi ta khơi dậy được lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc và chí căm thù giặc cho quân và dân cả nước.

- Nhưng đây là đối tượng tác chiến mới, có nhiều máy bay, đại bác, xe tăng - Anh Chu Huy Mân cắt ngang lời tôi như một gợi ý.

Tôi nói tiếp:

- Đối tượng tác chiến của quân và dân Tây Nguyên là sư đoàn kỵ binh không vận số 1. Cái mạnh của nó ai cũng biết, đó là sức cơ động và hỏa lực phi pháo. Nhưng thưa anh, nó cũng có cái hạn chế nhất định ở ngay trong cái mạnh đó. Do được trang bị mạnh nên quân Mỹ thường ỷ vào hỏa lực, một khi ta hạn chế hoặc vô hiệu hóa chỗ dựa đó thì tinh thần và ý chí của chúng chắc chắn sẽ bị suy giảm. Với ta ưu thế đồng thời cũng là sức mạnh ở chính trị tinh thần và sở trường đánh vận động trên địa hình rừng núi bằng vũ khí mang vác. Nếu ta phát huy được ưu thê này thì nhất định ta sẽ đánh thắng chúng.

- Đúng! Đúng vấn đề là ở chỗ đó - Anh Chu Huy Mân vừa nói vừa gật đầu xác nhận.

Tôi mở cuốn sổ tay công tác, nói tiếp:

- Hiện nay cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn 33, trung đoàn 320 và cả trung đoàn 66 đang trên đường hành quân vào chiến trường. Theo chúng tôi nắm được, các trung đoàn này quân số trên dưới 2.600 người (tôi lấy tròn số), đảng viên 420 người, đoàn viên 1.720 người. Cán bộ trung đội đã qua chiến đấu 32%; cán bộ đại đội đã qua chiến đấu 80%; còn cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn 100% đã qua chiến đấu. Điều quan trọng nhất là sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc, theo yêu cầu mới, những người vào quân đội phải có những tiêu chuẩn nhất định về chính trị, tư tưởng, có sức khỏe, có văn hóa và tự nguyện. Thời gian huấn luyện cơ bản của những chiến sĩ này dài hơn. Nội dung huấn luyện bao gồm cả kỹ thuật, chiến thuật đều đạt trình độ thuần thục các yếu lĩnh động tác cơ bản, sử dụng thành thạo các loại, vũ khí trang bị, đặc biệt là khả năng bắn súng bộ binh đạt tỷ lệ khá, giỏi rất cao.

Việc rèn luyện thể lực để nâng cao sức chịu đựng bền bỉ, dẻo đai được tiến hành thường xuyên thông qua các cuộc hành quân xa, mang vác nặng, ăn ở dã ngoại dài ngày trong điều kiện rừng núi khí hậu khắc nghiệt trước khi vào chiến trường.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được coi trọng, nhất là giáo dục về lòng yêu nước, chí căm thù giặc Mỹ, và truyền thống chống giặc giữ nước của cha ông ta từ đời này qua đời khác; với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Qua năm tháng huấn luyện, rèn luyện và học tập họ đã trở thành những chiến sĩ quân đội cách mạng thực thụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhận thức sâu sắc vai trò trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mình với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Do vậy, khi được lệnh lên đường họ đều tình nguyện ra đi không đắn đo suy tính, không nề hà hy sinh gian khổ. Những người chiến sĩ như vậy, thưa anh tôi tin họ sẽ không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:16:52 am
Anh Chu Huy Mân chú ý lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu như tỏ ý đồng tình những điều tôi nói. Khi tôi vừa ngừng, anh trầm ngâm nói:

- Ưu thế chính trị, tinh thần như anh vừa nói đã sẵn có trong mỗi cán bộ, chiến sĩ ta. vấn đề còn lại là làm thế nào để phát huy cho được ưu thế ấy. Chính vì lẽ đó tôi mời anh đến chúng ta cùng bàn.

Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, anh Chu Huy Mân lại hỏi tôi:

- Anh Hiệp này, anh còn nhớ trận Vinh Huy gần thị xã Tam Kỳ đầu năm 1965 vừa qua không?

Tôi trả lời:

 - Tôi có nhớ.

Anh Mân nói:

- Trong trận ấy có một tiểu đội trưởng của trung đoàn 1 của quân khu, khi truy kích địch có một khẩu lệnh rất hay: “Nắm thắt lưng địch mà đánh”.

Anh nói tiếp:

- Khi nghe được sự việc trên, tôi điện báo cáo với anh Nguyễn Chí Thanh, nghe xong anh Thanh reo lên: Hay quá anh Mân ơi! Đây không còn là của một trung đoàn, một quân khu, nó đã là của toàn miền, toàn quân rồi...

Tôi được biết sau đó, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã chỉ thị các chiến trường toàn miền lấy câu “Bám thắt lưng địch mà đánh” làm phương châm khi giao chiến với quân Mỹ.

Tối hôm đó anh Chu Huy Mân làm việc với tôi đến gần 1 giờ sáng. Anh đã gợi ý cho cơ quan chính trị mặt trận chúng tôi nhiều vấn đề: xây dựng quyết tâm cho bộ đội, vai trò tiền phong của cán bộ đảng viên trong chiến đấu; phải xây dựng lòng tin vào quần chúng, phải thực hành quân sự dân chủ để phát huy tính sáng tạo của tập thể, v.v...

Những ngày sau đó, Bộ tư lệnh Mặt trận dành nhiều thời gian bàn tính xây dựng kế hoạch chiến dịch, nhiều lần phải thức thâu đêm để giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ chiến dịch đặt ra. Trong đó mọi người thống nhất khá cao về kế hoạch tác chiến chiến dịch do anh Bùi Nam Hà trình bày với những nội dung chủ yếu, đó là: Thực hành “vây điểm diệt viện”, lấy đánh địch ngoài công sự là chủ yếu, sử dụng bộ đội địa phương và dân quân du kích hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum đánh phá căn cứ hậu phương và hệ thống cầu đường của địch. Khi thảo luận chọn điểm vây, mọi người thống nhất về nguyên tắc: điểm vây là nơi có tác dụng buộc địch phải viện, không viện không được, viện chậm cũng không được, đồng thời điểm vây phải thuận lợi cho ta tổ chức trận địa đánh viện đường bộ và đánh quân đổ bộ đường không. Từ những vấn dề trên cơ quan tham mưu mặt trận nêu ba vị trí để chọn điểm vây, đó là Tân Lạc, Đức Cơ và Plây Me. Cả ba vị trí này đều quan trọng đối với địch, do đó nếu vị trí nào bị đánh thì sớm hay muộn địch cũng phải ứng cứu, giải vây. Song Tân Lạc nằm gần hậu cứ địch, địa hình trống trải, ta khó triển khai lực lượng lớn. Vì vậy, đánh vị trí này không lợi. Đức Cơ nằm gần biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, có đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam đi gần, nếu đánh ở đây trong thời gian này sẽ ảnh hưởng lớn cho việc bảo vệ hậu phương tại chỗ của ta. Còn Plây Me là tiền đồn ở hướng tây nam Plây Cu dựa trên cơ sở đồn của Pháp cũ, được cải tiến lại, quân số lúc cao nhất lên tới 500 tên là lực lượng đặc biệt do Mỹ chỉ huy và đa số là người Thượng. Do vậy, nếu Plây Me bị mất thì các căn cứ địch nằm trong dãy phòng ngự phía tây, tây nam Plây Cu bị uy hiếp, vùng đất ấy sẽ bị cắt rời và trở thành bàn đạp tiến công của quân ta. Như vậy, về cơ bản mọi người thống nhất cách đánh chiến dịch là “vây điểm, diệt viện”, đánh ngụy trước, diệt Mỹ sau, kéo quân Mỹ ra xa căn cứ lấn sâu vào rừng núi hiểm trở để diệt chúng. Vấn đề đặt ra là lực lượng của ta có hạn (chưa thành sư đoàn), với lực lượng đó trong quá trình vây điểm đánh ngụy phải đạt hiệu suất chiến đấu cao (diệt chiến đoàn ngụy), ta thương vong ít để còn lực lượng đánh Mỹ.

Vấn đề thứ hai được mọi người quan tâm là thời gian từ khi quân ngụy bị diệt thì bao lâu quân Mỹ nhảy ra ứng cứu. Lực lượng của ta đánh ngụy có đủ thời gian quay về nơi dự kiến đón đánh quân Mỹ không? Và cuối cùng là cách đánh và chỉ tiêu tiêu diệt quân Mỹ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:18:25 am
Hai vấn đề trên khi thảo luận mọi người cũng dễ thống nhất. Riêng vấn đề thứ ba, có nhiều ý kiến khác nhau về chỉ tiêu diệt địch. Có người nói rằng, trước đây trong cuộc “kháng Mỹ viện Triều”, quân chí nguyện Trung Quốc đã tổng kết chưa có trận nào tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn quân Mỹ. Có người lại cho rằng trận Núi Thành ta chỉ có 1 tiểu đoàn thiếu mà diệt gọn cả đại đội Mỹ thì sao? Nhưng đó chỉ là trận đánh theo hình thức đặc công. Xem ra cuộc tranh luận cũng khó đi vào hồi kết, anh Chu Huy Mân đứng dậy, theo thói quen anh vừa giơ ngón tay trỏ vừa nói:

- Thôi xếp lại tranh luận, chỉ tiêu trong chiến dịch này diệt chiến đoàn quân ngụy và diệt gọn 2 đại đội Mỹ. Chỉ tiêu đặt ra là vậy nhưng các đồng chí cần suy nghĩ việc xây dựng quyết tâm đánh Mỹ cho bộ đội. Việc quán triệt nhiệm vụ chiến dịch phải được tiến hành khẩn trương cụ thể đến từng chi bộ, từng cán bộ chiến sĩ. Đồng thời các đồng chí suy nghĩ kỹ về bố trí thế trận đánh Mỹ, đặc biệt là việc đối phó với chiến thuật “nhảy cóc” của địch.

Một vấn đề quan trọng khác anh Chu Huy Mân lưu ý cơ quan tham mưu mặt trận trong chỉ đạo là phải làm cho bộ đội có ý thức xây dựng công sự chắc chắn; giấu quân kín đáo; xuất kích nhanh; khi xung phong giữ vững đội hình, tiếp cận đánh gần thọc sâu, kết hợp đánh bộ binh, đánh cơ giới và bắn máy bay địch. Đồng thời anh nhắc cơ quan chính trị của tôi cử người theo đường giao liên quay ra đón gặp trung đoàn 66 để phổ biến quán triệt nhiệm vụ chiến dịch cho trung đoàn này. Đặc biệt lưu ý xây dựng quyết tâm đánh gần, dùng lưỡi lê, dao găm, báng súng diệt địch...

Đầu tháng 10 năm 1965, Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên nhận được điện thông qua quyết tâm và kế hoạch chiến dịch Plây Me của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Đảng ủy mặt trận họp nghiên cứu những ý kiến của trên chỉ đạo bổ sung kế hoạch chiến dịch. Cuộc họp vừa kết thúc, anh Chu Huy Mân dẫn một đoàn cán bộ đi quan sát địa hình chiến trường tại khu vực đồn Plây Me và thế bố phòng của địch để quyết định phương thức tiến hành vây điểm. Đồng thời anh cũng thị sát khu vực dự kiến đánh viện binh địch giải tỏa Plây Me khi bị ta vây ép.

Sau khi đoàn anh Chu Huy Mân đi trinh sát chiến trường về, Bộ tư lệnh Mặt trận đã quyết định bổ sung phương án tác chiến chiến dịch. Với lực lượng hiện có phải giải quyết được hai vấn đề cơ bản nhất là đánh thiệt hại nặng lực lượng cơ động quân ngụy làm suy yếu chỗ dựa bình định của địch, đồng thời khẩn trương chuẩn bị đánh phủ đầu quân Mỹ, góp phần đánh bại kế hoạch chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh” tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. về sử dụng lực lượng: dùng trung đoàn 33 tiêu diệt căn cứ Chư Ho và thực hành vây ép đồn Plây Me. Dùng trung đoàn 320 bố trí sẵn ven đường 21 - con đường bộ duy nhất nối Plây Cu với Plây Me. Trung đoàn này phải xây dựng trận địa phục kích trên đường dài 3km, đoạn đường 21 chạy trên các điểm cao 600, 607, Pơ Lu, đồi Độc Lập. Để phối hợp với hai trung đoàn chủ lực trên hướng chủ yếu của chiến dịch, tiểu đoàn pháo binh 200, tiểu đoàn đặc công 952 và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Gia Lai tổ chức đánh địch vào những mục tiêu và thời điểm cần thiết để phân tán lực lượng của địch. Một vấn đề mất nhiều công sức đối với Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tây Nguyên là xác định khu quyết chiến và thời cơ diễn ra trận then chốt tiêu diệt quân Mỹ. Suy đi tính lại Bộ tư lệnh quyết định bổ sung phương án chọn thung lũng Ia Đrăng dưới chân núi Chư Pông là nơi diễn ra trận quyết chiến với quân Mỹ. Chư Pông là một dãy núi độc lập, nhìn xa nó giống như hình con voi phục, ngọn cao nhất 732 mét nổi lên giữa một vùng rừng bằng mênh mông bát ngát, cách đồn Plây Me khoảng 25km về phía tây sát biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Rừng ở đây có nhiều loại cây, cây le mọc phổ biến ở ven các sông, suối; cây khoọc mọc nhan nhản chủ yếu ở vùng rừng bằng có xen lẫn các cây châm vối, châm trâu(1). Xen giữa các cánh rừng có những trảng trống. Đặc biệt vùng rừng bằng này có đường hành lang chiến lược Bắc — Nam của ta chạy qua đi xuống miền Đông Nam Bộ. Bên kia sông Ia Đrăng có một binh trạm là cơ sở hậu phương trực tiếp của chiến dịch. Ở đây ta sẽ bố trí trung đoàn 66, lực lượng chủ yếu tiêu diệt quân Mỹ. Cần nói thêm là trung đoàn 66 khi hành quân vào tham chiến quân số mỗi đại đội có từ 120 đến 125 người. Vũ khí trang bị khá tốt, hỏa lực chủ yếu là pháo mang vác. cối 82 ly bàn đế tròn, ĐKZ 75 ly, súng phòng không 12,7 ly và súng chống tăng B40 với đủ cơ số đạn. Đặc biệt, tinh thần và ý chí chiến đấu của anh em cán bộ chiến sĩ rất cao, tất cả đều sẵn sàng lao vào cuộc chiến với quân Mỹ.

Ở trên tôi đã nói về vị trí địa lý, về truyền thống đấu tranh của quân và dân Tây Nguyên. Thật khiếm khuyết nếu tôi không nói kỹ hơn vai trò quan trọng trực tiếp của quân và dân Gia Lai trong trận chiến lịch sử ở thung lũng Ia Đrăng giữa bộ đội chủ lực Tây Nguyên với lính sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ.


(1) Loại châm vốí có quả nhỏ bằng ngón tay út, châm trâu cỏ quả to bằng ngón tay cái. Cả hai loại quả này đểu ăn được, có vị chua, chát.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:19:07 am
Đến Hè - Thu năm 1965, tỉnh Gia Lai đã thành lập tiểu đoàn tập trung gồm những cán bộ, chiến sĩ đã kinh qua chiến đấu. Các huyện, thị xã đều thành lập đại đội tập trung, quân số mỗi đại đội từ 60 đến 70 người. Thị đội Plây Cu còn thành lập đại đội đặc công, trang bị vũ khí tương đối đầy đủ. Hầu hết các xã có trung đội du kích tập trung, chiến đấu và công tác tốt. Các buôn làng cũng có từ 1 đến 2 tiểu đội dân quân, trang bị vũ khí khá tốt do thu được của địch trong chiến đấu.

Đặc biệt ở huyện 5 (Chư Pông ngày nay), nơi xảy ra chiến dịch Plây Me, vùng tây từ tỉnh lộ 21 Phú Mỹ - Plây Mi lên sát biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, đã xây dựng thành vùng căn cứ có các xã mạnh như xã Ia Puch, Ia Pnom, Ia Mor, Ia Phin, Ia Lâm, nhân dân sống, đấu tranh bất hợp pháp với địch. Vùng đông của huyện có 30 làng sống, đấu tranh bất hợp pháp với địch, còn lại là vùng giải phóng, có nơi hoạt động mạnh như xã Ia Lốp.

Khi Mỹ nhảy lên Tây Nguyên, quân và dân Gia Lai cũng chưa hình dung được cụ thể cách chiến đấu giáp mặt với quân chiến đấu Mỹ như thế nào. Quần chúng nhân dân đã nhiều lần đối mặt với quân ngụy trong những cuộc đấu tranh chính trị, nhưng lo lắng liệu có đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ được không? Trong lúc mọi người đang băn khoăn thì cụ Dự người dân tộc Ba Na ở làng Su Briêng, thuộc xã Bắc (nay là xã Kon Pla huyện Kbang) đã dùng ná có tẩm thuốc độc bắn chết một tên biệt kích Mỹ khi nó mò vào rẫy sắn của cụ. Tin đó làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Gia Lai phấn khởi, tự tin.

Tỉnh ủy Gia Lai đã có chủ trương phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ động chuẩn bị mọi mặt để tham gia thực hiện các bước của chiến dịch theo khả năng của mình. Tỉnh có kế hoạch chu đáo cho các huyện, nhất là huyện 5 nơi chiến dịch sắp diễn ra. Thường vụ tỉnh ủy phân công đồng chí Lê Tam làm bí thư huyện ủy, đồng chí Lư làm phó bí thư huyện ủy trực tiếp chỉ đạo tham gia thực hành chiến dịch phối hợp với bộ đội chủ lực. Đồng thời, Tỉnh ủy Gia Lai chỉ đạo cho các huyện 4 (Chư Pa), H9 (Plây Cu), các huyện 3 và 6 (Mang Yang) cùng các huyện khác trong tỉnh sẵn sàng có kế hoạch phối hợp cụ thể, chặt chẽ.

Tỉnh Gia Lai thành lập cơ quan chi viện tiền phương phục vụ chiến dịch, tổ chức nhiều đoàn cán bộ xuống các xã vận động nhân dân đi dân công, huy động lương thực, thực phẩm chi viện cho bộ đội chiến đấu. Đến tháng 9 năm 1965, nhân dân trong tỉnh đã động viên được 1.200 tấn lương thực. Vào lúc cao điểm cần sức người tỉnh đã huy động 2.500 thanh niên các dân tộc phục vụ hỏa tuyến. Đó là chưa tính đến hàng vạn công của hội phụ nữ giải phóng huyện do chị Hbình làm hội trưởng cùng các chị Kpả Hba, chị Siu Hi, chị Rah Lan, chị Thanh... đã vận động chị em giã gạo thâu đêm để nuôi quân giải phóng. Tôi được anh em kể lại, trong những ngày này không riêng gì chị em giã gạo, còn có cả các cụ ông người dân tộc các làng cũng tham gia giã gạo, việc làm mà bao đời nay người đàn ông dân tộc không bao giờ làm. Ngoài ra các chị còn vận động nhân dân ủng hộ 15 con trâu, 120 con heo, hàng ngàn con gà cùng bầu bí, chuối cho bộ đội. Nhiều cụ già ở làng Sinh, làng Mùi, làng Nú, làng Boa gói cơm nếp, gùi chuối, mía, gà đi gần chục cây số đến thăm động viên bộ đội các trung đoàn 33 và 320.

Tại huyện 5, thường vụ huyện ủy họp tại làng Briêng xã Ia Bong triển khai nhiệm vụ. Để giữ bí mật huyện ủy chỉ phổ biến cho các xã chuẩn bị lực lượng du kích sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực, từ khâu chuẩn bị chiến trường, trinh sát địa hình, đến huy động vật chất đều thống nhất là “để đón đoàn”. Ban chỉ huy huyện đội do đồng chí Y Gừ (Nghị) phụ trách đã cụ thể hơn kế hoạch tác chiến cho các đơn vị vũ trang trong huyện bám các khu vực trọng điểm sát đường 19 tây và đường 14. Lực lượng dân quân các xã trong huyện được chia làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất, gồm những người mạnh khỏe, thông thạo địa hình làm nhiệm vụ dẫn đường, trinh sát địch, vận chuyển gạo, đạn. Nhóm thứ hai, đảm nhận việc sơ tán dân an toàn. Nhóm thứ ba làm nhiệm vụ tiếp tế cơm nước, khiêng cáng thương binh, giải quyết chiến trường. Để bảo đảm an toàn cho nhân dân, huyện đã chỉ đạo các làng trọng điểm mỗi gia đình đào từ 1 đến 2 hầm trú ẩn, tránh bom, pháo. Dọc những con đường vào bản, đường liên xã cứ vài chục mét nhân dân lại đào một hầm trú ẩn.

Trước khi bước vào chiến dịch, từ tỉnh đến các buôn làng, nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương đã tổ chức quán triệt nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ. Về công tác tổ chức Tỉnh ủy Gia Lai có kế hoạch cụ thể cho các huyện, nhất là huyện 5 (Chư Pông), nơi chiến dịch sắp xảy ra.

Như trên đã nói, chiến dịch Plây Me diễn ra trên địa bàn huyện 5 trong tứ giác Plây Me - Bầu Cạn - Đức Cơ - Plây Thê, không gian rộng khoảng 1.200km2. Vì vậy, tỉnh chỉ đạo cho các huyện: huyện 4 (Chư Pa), H 9 (Plây Cu), các huyện 3 và 6 (Mang Yang) cùng các huyện trong tỉnh sẵn sàng có kế hoạch phối hợp cụ thể, chặt chẽ. Tỉnh chuyển tiểu đoàn bộ binh H15 của tỉnh về đứng tại đông đường 14 hoạt động từ khu vực Mỹ Thạch đến tây sông Ayun để phối hợp trong quá trình chiến dịch. Cả tỉnh Gia Lai bừng bừng khí thế sẵn sàng cùng bộ đội B3 đánh thắng quân Mỹ xâm lược.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:20:15 am
Như vậy, trước khi bước vào chiến dịch ta đã nắm quyền chủ động trên một thế trận được bày sẵn và có sự chuẩn bị khá tốt về nhiều mặt.

Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên cử anh Nguyễn Chánh, anh Huỳnh Đắc Hương, anh Bùi Nam Hà và một số cán bộ của ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần lập sở chỉ huy tiền phương mặt trận chỉ huy vây ép đồn Plây Me và đánh viện binh địch trên đường 21.

Nhiệm vụ cụ thể của trung đoàn 33 là dùng một đại đội bộ binh tăng cường và một số hỏa lực trong biên chế (cối 82 ly và ĐKZ 75 ly) thực hành bao vây Plây Me lấy hướng tây nam làm chủ yếu, đông nam và đông bắc làm thứ yếu.

Ngay trong đêm nổ súng bao vây Plây Me, trung đoàn 33 phải nhanh chóng diệt gọn cứ điểm ngoại vi Chư Ho. Yêu cầu đặt ra đối với các đơn vị này là phải tuyệt đối giữ bí mật, giành thế chủ động bất ngờ ngây trong đêm đầu.

4 giờ sáng ngày 19 tháng 10, trung đoàn 33 được lệnh xuất kích. Từ vị trí tập kích ở buôn Quynh Kơ La cách Plây Me 15km, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 33 theo đường công binh chuẩn bị sẵn đã bí mật hành quân về hướng Plây Me. 17 giờ cùng ngày đội hình trung đoàn cách đồn l,5km được lệnh tạm dừng triển khai đội hình chiến đấu.

Ở Tây Nguyên vào mùa khô ngày như dài thêm, 5 giờ chiều mặt trời vẫn còn khá cao. Tranh thủ trời còn sáng, cán bộ trung đoàn dẫn cán bộ tiểu đoàn, đại đội quan sát lần cuối địa hình để kịp thời bổ sung và điều chỉnh kế hoạch chiến đấu.

Theo kế hoạch hiệp đồng, đúng 19 giờ 30 phút tiểu đoàn pháo binh 200 pháo kích vào căn cứ Đức Cơ, một đại đội của tiểu đoàn 952 nổ súng đánh Tân Lạc. Địch tưởng ta tấn công vào Đức Cơ, Tân Lạc vội huy động máy bay lên thả pháo sáng, bắn phá xung quanh hai căn cứ này.

Đúng 22 giờ 55 phút cùng ngày, các chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 3 trung đoàn 33 được tăng cường 2 súng máy, 2 cối 82 ly nổ súng tấn công Chư Ho. Vừa dứt tiếng nổ của cối và bộc phá phá hàng rào, lập tức bộ binh xung phong; Vì một lý do nào đó hàng rào không đứt mà chỉ bùng lên rồi lại dẹp xuống làm cho bộ đội không vượt qua được. Trước tình hình đó đại đội trưởng Long và một số chiến sĩ bộc phá liền lấy bộc phá ống không nổ đặt lên dây thép gai, dùng tay và chân đè xuống cho bộ đội xung phong. Đồng chí Thương, tiểu đội trưởng mũi nhọn dẫn đầu tiểu đội nhanh chóng thọc sâu vào sở chỉ huy địch. Thương cho một tổ bịt ngay con đường mòn từ Chư Ho về Plây Me, địch dùng đại liên bắn xối xả vào đội hình quân ta, Thương cùng một chiến sĩ lập tức dùng B40 tiêu diệt. Đúng 23 giờ đại đội 3 làm chủ hoàn toàn Chư Ho.

Cũng vào thời gian này chỉ huy trung đoàn 33 ra lệnh dùng cối và ĐKZ bắn phá Plây Me. Đạn pháo của ta đã phá sập một số công sự, nhiều nhà lính bốc cháy. Lợi dụng pháo bắn, các chiến sĩ đại đội 3 xông lên mở hai lớp rào ở hướng tây nam và hướng đông bắc, tiến hành bao vây Plây Me. Dưới ánh sáng của đèn dù và lửa cháy, bộ đội đào công sự bắn rồi phát triển thành hào giao thông. Ngay trong đêm các đại đội trực thuộc và cơ quan trung đoàn vác gỗ, nứa từ phía sau đưa lên cho bộ đội làm hầm.

Sau một đêm và một ngày chiến đấu ta đánh thắng cứ điểm Chư Ho, bộ đội còn sung sức, khí thế đang lên, sẵn sàng chờ đánh viện binh địch. Trước sức ép của ta, địch dùng không quân và pháo binh ném bom, bắn phá dữ dội xung quanh Plây Me hòng đẩy quân ta ra khỏi khu chiến. Vượt qua ác liệt anh em đại đội 1 tiểu đoàn 1 mưu trí linh hoạt kết hợp tốt giữa bao vây bằng xung lực với hỏa lực, dùng nhiều hình thức khống chế tốt ngay từ đầu lối ra vào đồn, sân bay lên thẳng, đường ra suối lấy nước, khu điện đài... khống chế đường không, đêm tập kích, ngày bắn tỉa, v.v...

Tuy vậy, trước sự đánh phá ác liệt của phi pháo địch gây thương vong cho anh em ta, một số cán bộ đảng viên dao động đã cho bộ đội lùi trận địa, dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy chạy. Do rút lui không có tổ chức nên có đơn vị chính trị viên bị lạc ba ngày sau mới về.

Tôi còn nhớ chính trị viên phó đại đội 1 nắm được bốn chiến sĩ khi về đến sở chỉ huy trung đoàn giơ hai tay nói: “Trận địa đã biến thành sa mạc rồi!”.

Anh ta nào có biết, trong khi đó cán bộ, chiến sĩ tiểu đội 9 trung đội 3 thuộc đại đội 1 vẫn kiên cường dựa chắc vào công sự hàm ếch trong những bụi cây mắc cỡ kín đáo chịu đói, chịu khát. Anh em phải dùng nước tiểu của nhau uống lấy sức chờ địch đến gần 20, 25 mét mới nổ súng diệt hàng chục tên. Tôi được anh em kể lại rằng xạ thủ trung liên tên là Chân, nhà ở phố Huế - Hà Nội, nhập ngũ tháng 2 năm 1963, bị thương vào đầu máu ra nhiều, trong người có băng mà không dám băng vì băng trắng sợ lộ (sau này ta cải tiến nhuộm băng màu cỏ úa trang bị cho anh em đi chiến đấu), nên cậu ta lấy đất đắp vào vết thương để cầm máu tiếp tục chiến đấu.

Đến 19 giờ ngày 22 tháng 10 lực lượng của ta tại đây gồm 7 người, vũ khí có 1 đại liên, 1 ĐKZ 75 ly, còn lại là AK và lựu đạn, do đồng chí Biên trung đội phó chỉ huy. Biên động viên anh em củng cố công sự, tiếp tục chiến đấu giữ vững trận địa.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2019, 10:22:09 am
Ngay trong đêm ngày 22 tháng 10, chỉ huy trung đoàn 33 chỉ thị cho tiểu đoàn 1 tăng cường lực lượng cho bộ phận vây ép và quyết định tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng” cho tiểu đội 9 đại đội 1. Tiểu đoàn 1 đã chọn 9 cán bộ, chiến sĩ trung kiên có thể lực tốt trong tiểu đoàn do đồng chí Sự, đại đội phó đại đội 1 chỉ huy tiến vào trận địa. Nhưng do địa hình bị biến dạng bởi bom pháo địch nên bộ phận này dò tìm đến 4 giờ sáng ngày 23 vẫn không thấy tiểu đội 9. Trước tình hình đó, đại đội phó Sự quyết định cho anh em lui ra khu trung tuyến bố trí, đồng thời cử hai đồng chí tên là Nanh và Ngôn đem theo cơm và nước uống tiếp tục tìm kiếm anh em, đến rạng sáng thì gặp. Nanh và Ngôn vừa bỏ cơm và nước uống xuống, người ăn được vài miếng cơm, người đang uống nước chưa kịp ăn thì địch ập đến. Cuộc chiến đấu ác liệt kéo dài 20 phút, địch chết và bị thương gần 30 tên, chúng buộc phải lui quân.

Suốt trong những ngày 20, 21 và 22 tháng 10, địch dùng không quân, pháo bính đánh phá dữ dội xung quanh Plây Me. Bọn chỉ huy Mỹ - ngụy huy động tới trên 600 lần chiếc máy bay đủ loại của không quân và hải quân Mỹ và không quân ngụy Sài Gòn đến ném bom phá, bom bi, bom na-pan trùm lên trận địa vây ép của ta. Bọn địch trong đồn liên tiếp dùng từng trung đội, đại đội tiến ra phản kích hòng chiếm lại trận địa bao vây của trung đoàn 33. Tuy đường dây điện thoại từ trận địa vây ép về trung đoàn bị bom pháo cắt đứt nhưng cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 1, đặc biệt là tiểu đội 9 vẫn bình tĩnh chủ động đánh lui các đợt phản kích của địch, diệt hàng chục tên. Anh em ta tích cực bắn tỉa và mở thêm các lớp hàng rào dây thép gai, khống chế sân bay lên thẳng, bắn rơi nhiều máy bay buộc chúng phải bay cao để tiếp tế lương thực, đạn dược. Dù thả cao nên đã bay ra ngoài một số. Anh em trung đoàn 33 thu được hai dù thuốc quân y có đầy đủ dụng cụ phẫu thuật. Những hoạt động trên của trung đoàn 33 đã dồn quân địch trong đồn lâm vào tình trạng quẫn bách, hoang mang cực độ.

7 giờ sáng ngày 23 tháng 10 biệt khu 24 ra lệnh cho chiến đoàn 3 thiết giáp cùng hai tiểu đoàn biệt động quân số 21, 22 và tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 dưới sự chỉ huy của tên trung tá chiến đoàn trưởng chiến đoàn 3 Trần Trọng Luật ứng cứu. 16 giờ cùng ngày toàn bộ lực lượng trên được triển khai tại Phú Mỹ. Cùng thời gian này địch cho 12 máy bay trực thăng quần đảo trên không dọc đường 21, đoạn Phú Mỹ - Plây Me. Như vậy, địch đã thất bại trong âm mưu dùng không quân để giải tỏa Plây Me buộc chúng phải dùng viện binh.

Từ 6 giờ sáng ngay 15 tháng 10 trung đoàn 320 hành quân chiếm lĩnh trận địa theo hai trục đường đã được chuẩn bị sẵn. Tiểu đoàn 4, cơ quan trung đoàn bộ và các đại đội trực thuộc theo trục thứ nhất. Tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 6 hành quân theo trục thứ hai. Tới vị trí trú quân chờ địch các đơn vị đào công sự ngụy trang, cán bộ các cấp tranh thủ thời gian bổ sung thêm công tác tổ chức chiến đấu ngay tại thực địa, chuẩn bị đường vận động xuất kích và giao nhiệm vụ cụ thể đến các tiểu đội, trung đội.

Trong khi trú quân chờ địch, bộ đội ta được nhân dân các làng xung quanh tự động mang bí, rau ra ủng hộ. Đã có đôi ba trường hợp bộ đội và đồng bào vô tình gặp nhau, nhưng do cơ sở địa phương tuyên truyền giải thích cho nhân dân tốt nên ta vẫn giữ được bí mật.

Đến 16 giờ 30 phút ngày 23 tháng 10, sau những trận bom, pháo dọn đường, lực lượng giải vây địch hùng hổ tiến quân đã lọt vào trận địa phục kích của trung đoàn 320. Đại đội 1 tiểu đoàn 5 làm nhiệm vụ chặn đầu, nổ súng. Toàn bộ chiến đoàn cơ giới địch ùn lại trút đạn vào đại đội 1. Các tiểu đoàn 5, tiểu đoàn 6 ở điểm quyết chiến đã bắn mãnh liệt vào giữa đội hình địch, chia cắt chúng làm nhiều mảng. Nguyễn Vàn Hàm bình tĩnh bắn trúng 5 xe M113, Nguyễn Văn Lãng chiến sĩ B40 bắn 3 quả đạn diệt 3 xe tăng. Lương Văn Bạt bắn 2 quả đạn diệt xe M48. Tiểu đoàn 4 do tiểu đoàn trưởng Luyện Bá Di và chính trị viên Vũ Năm chỉ huy làm nhiệm vụ khóa đuôi. Trung đội trưởng đại đội 2 Đinh Xuân La đã chỉ huy tiểu đội trưởng Phạm Văn Hưng dùng B40 bắn cháy 2 xe tăng.

Ngay từ những phút đầu tiên trung đoàn 320 đã loại khỏi vòng chiến đấu một nửa số xe tăng, xe bọc thép của địch. Sau những phút bị giáng đòn bất ngờ, choáng váng đội hình địch rối loạn, chúng cố gắng điều chỉnh từ hành tiến chiến đấu sang tổ chức các mũi phản kích mạnh, đột phá mở vòng vây và co cụm bảo đảm khoảng cách để cho pháo binh và không quân yểm trợ. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch kéo dài 10 tiếng đồng hồ (từ 16 giờ 30 phút ngày 23 đến 2 giờ sáng ngày 24 tháng 10). Trung đoàn 320 hoàn toàn làm chủ trận địa. Xác xe giặc cháy thành bãi trên điểm cao 601. Ta tiêu diệt chiến đoàn 3 thiết giáp và 1 tiểu đoàn, 1 đại đội bộ binh địch, phá hủy, phá hỏng 89 xe quân sự, bắn rơi nhiều máy bay.

Riêng các phân đội vây ép của trung đoàn 33 vẫn giữ vững trận địa để dụ địch ra viện.

Ngày 24 tháng 10, Mỹ cho 2 tiểu đoàn kỵ binh bay lên Plây Cu và thúc quân ngụy tiếp tục phản kích giải vây cho Plây Me.

10 giờ ngày 26 tháng 10, dưới sự yểm trợ của không quân, pháo binh Mỹ tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 quân ngụy được cơ giới yểm hộ đến giải tỏa cho Plây Me. Địch dùng hỏa lực của cơ giới và bom các loại giội vào trận địa ta, anh em giữ bí mật chờ địch đến gần mới nổ súng buộc địch phải lùi lại. Đến 11 giờ địch dùng 16 xe M113 dẫn dắt bộ binh tiếp tục tiến công. Tại đây 11 chiến sĩ do trung đội trưởng Đậu Văn Phơn chỉ huy đã chặn đánh quyết liệt 1 tiểu đoàn địch có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ ngay sát hàng rào đồn Plây Me. Xe tăng và bộ binh địch tổ chức 5 đợt tiến công. Một số chiến sĩ bị thương và hy sinh. Tay súng của ta giảm xuống, mỗi người còn lại đã dùng hai, ba loại súng đánh địch. Cứ mỗi đợt xung phong của địch bị đánh lui, anh em lại thu nhặt vũ khí của đồng đội hy sinh, bị thương dồn lại, chuẩn bị cho đợt chiến đấu tiếp.

Đậu Văn Phơn động viên anh em tích cực đào công sự và ngụy trang kín đáo, sử dụng tiết kiệm đạn, kiên quyết giữ vững trận địa. Anh bình tĩnh chỉ huy hỏa lực nhằm những đám quân địch đông nhất nã đạn. Phơn bị thương lần thứ hai vào vai, anh nghiến răng chịu đau, tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu cho đến sẩm tối diệt hơn 40 tên ngụy, 3 cố vấn Mỹ, bắn cháy 2 xe tăng, 3 xe bọc thép M113. Về phía ta, lúc này đạn sắp hết, trải qua một ngày chiến đấu ác liệt ai cũng mệt lả vì đói và khát. Năm anh em còn lại động viên nhau khiêng cáng thương binh, tử sĩ và vác hết súng đạn rời khỏi trận địa ngay trong đêm.

Đến đây, xét thấy đã đủ gây cho địch phản ứng dây chuyền, ngày 26 tháng 10, ta quyết định “mở vây” căn cứ Plây Me, chuyển toàn bộ hai trung đoàn 33 và 320 về bố trí ở Quynh Kla, Ba Bỉ, đông nam sông Ia Đrăng, Plây Bon Ga là nơi tiện cơ động trên hai hướng Plây Me và Tân Lạc để sẵn sàng đánh quân Mỹ đổ bộ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 09:56:47 am
*
*   *

Ngày 26 tháng 10, Oét-mo-len, Tư lệnh lực lượng quân Mỹ ở miền Nam bay lên sở chỉ huy tiền phương lữ đoàn 1 sư đoàn kỵ binh không vận số 1 ở Plây Đề Mốt xem xét tình hình. Tại đây, ông ta đã quyết định đình chỉ cuộc càn quét của lữ đoàn 3 quân Mỹ ở Bồng Sơn (Bình Định) để tập trung lực lượng của sư đoàn này lên Tây Nguyên. Tiếp đó, chúng đưa một trung đoàn Nam Hàn, hai chiến đoàn quân dù ngụy, hai trung đoàn vận tải trực thăng Mỹ lên Plây Cu tham chiến. Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn ý định mở cuộc hành quân đánh sâu vào hậu phương ta, gỡ thế thất bại cho quân ngụy.

Những ngày cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1965, chiến trường Plây Me trở nên hết sức sôi động khẩn trương, không gian chiến dịch được mở rộng tới 1.200km2.

Sau khi kết thúc giai đoạn một, hoạt động cơ bản của ta là di chuyển quân bố trí theo kế hoạch mới. Trong khi đó địch sử dụng lữ đoàn 1 sư đoàn kỵ binh không vận số 1 tăng cường đổ bộ và tập kích nhiều nơi trên trục đường hành quân của trung đoàn 33 làm cho việc chỉ huy của trung đoàn này bị gián đoạn. Tình hình trên dẫn đến một thực tế là địch đang từ thế bị động chuyển sang thế chủ động về chiến thuật trong thế bị động về chiến dịch.

Trong cuốn sổ công tác của tôi lúc đó ghi lại như sau:

- Ngày 28 tháng 10, địch dùng 14 trực thăng đổ quân Mỹ xuống Quynh Xôm và đổ gần 1 đại đội xuống điểm cao 475 (lực lượng này 2 ngày sau tự rút).

- Ngày 29 tháng 10, địch đổ 14 lượt chiếc trực thăng quân Mỹ xuống làng Mùi, lực lượng này tập kích hụt tổ trinh sát đi lẻ của ta. Chúng bắt một người dân rồi rút.

- 8 giờ sáng ngày 1 tháng 11, một đại đội Mỹ tập kích vào trạm phẫu của trung đoàn 33 ở Quynh Kla, lực lượng của ta ở đây chỉ có y bác sĩ, hộ lý, nhân viên hậu cần (coi kho) và một tiểu đội bảo vệ. Anh em đã chiến đấu dũng cảm, vừa đánh địch vừa di chuyển thương binh nặng. Hầu hết anh em thương binh nhẹ đều tham gia chiến đấu. Có đồng chí thương binh dùng lựu đạn đánh trả địch. Khi trong tay chỉ còn trái lựu đạn cuối cùng đồng chí dụ Mỹ đến gần mới cho nổ và anh dũng hy sinh, 2 tên địch bị diệt (chưa rõ tên đồng chí thương binh này). 10 giờ, một đại đội của tiểu đoàn 2, trung đoàn 33 (20 tay súng) đến giải vây đánh bật chúng ra khỏi khu vực trạm phẫu diệt hàng chục tên Mỹ. Sau đó, địch tăng cường quân chiếm lại. Do lực lượng đông lại được phi pháo chi viện nên chúng đã gây cho ta tổn thất. Một số thương binh bị giết, một số chiến sĩ bị địch bắt.

- Ngày 3 tháng 11, đại đội 6 tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 trên đường hành quân vào hướng Ba Bỉ đã chạm một đại đội Mỹ (chúng đổ bộ xuống trước đó). Anh em nổ súng và xung phong, nhưng địch tình không nắm chắc, hiệp đồng không chặt, nên chỉ có một trung đội đột nhập được vào trận địa địch, diệt hơn chục tên Mỹ, phá hủy 2 trực thăng đang đậu ở đó. 5 giờ sáng ngày hôm sau (4-11) địch rút chạy, bỏ lại 40 viên đạn rốc-két.

- Ngày 4 tháng 11, một đại đội Mỹ đổ xuống Plây Me, tập kích vào vị trí trú quân của tiểu đoàn 2 trung đoàn 33. Bộ phận đi lấy gạo của trung đoàn trên đường về, gặp Mỹ, anh em đặt ngay ba lô xuống, tháo súng khỏi vai, tổ chức tiến công. Tiểu đoàn 3 đóng quân gần đó nghe súng nổ liền chủ động xách súng đến chi viện. Nhưng vì lực lượng ít, quân địch chủ động triển khai đội hình trước, hai bên hình thành thế hàng ngang đánh nhau có tính chất trận địa. Tiểu đoàn 3 không bắt liên lạc được với trung đoàn nên đã cho bộ đội lui quân. Do hình thành thế trận hàng ngang ta và địch thành tuyến rõ ràng nên địch tập trung phi pháo ngăn chặn sát thương và đẩy lùi được ta. Trong trận này tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 33 diệt khoảng một trung đội Mỹ.

- Ngày 6 tháng 11, một đại đội Mỹ đổ bộ xuống đông nam Ia Mơ, sau đó chúng tập kích vào tiểu đoàn 2 trung đoàn 33. Tuy bị đánh bất ngờ nhưng cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 2 đã bình tĩnh phản kích đánh lại địch, diệt và làm bị thương hơn một chục tên, buộc chúng phải rút khỏi khu vực suối Ia Mơ.

Điều dễ nhận thấy, trong suốt quá. trình đổ bộ trực thăng theo kiểu “cóc nhảy” của sư đoàn kỵ binh không vận số 1 như nói ở trên, chúng sử dụng máy bay phản lực, trực thăng vũ trang với mật độ rất cao, hoạt động suốt ngày đêm khống chế khu vực đổ quân. Thủ đoạn chủ yếu của địch là tập kích vào trục đường vận động, các đoàn vận tải của ta, bắt cóc các phân đội đi lẻ, trạm quân y, phát hiện vị trí trứ quân của ta để dùng máy bay oanh tạc.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:01:39 am
Hành động của Mỹ và những trận đánh của bộ đội ta vừa qua cho thấy những dự kiến về địch và quyết tâm chiến dịch của ta là chính xác.

Ngày 8 tháng 11 năm 1965, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên họp mở rộng dưới sự chủ trì của anh Chu Huy Mân. Hội nghị đánh giá kết quả giai đoạn một của chiến dịch, thống nhất cho rằng: Nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho đợt một là làm thất bại ý định giải tỏa nhanh bằng không quân buộc địch phải điều quân ngụy viện binh đường bộ để ta tiêu diệt, đã hoàn thành.

Quân ngụy bị đánh đau, quân Mỹ phải nhảy vào cứu nguy. Như vậy, ta đã thu hút được lực lượng tổng dự bị quân ngụy và quân Mỹ ở chiến trường khác về hướng Plây Me. Đảng ủy đánh giá cao tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu của các đơn vị và cơ quan. Đặc biệt các phân đội nhỏ thực hành bao vây Plây Me đã hoàn thành một cách xuất sắc bao vây chặt, đánh sứt, đánh mẻ, đánh tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, cắt nguồn nước, đánh chiếm và khống chế Chư Ho, khống chế và cắt đứt sự hoạt động của sân bay dã chiến địch đẩy địch ở Plây Me lâm vào tình trạng cùng quẫn. Mặc dù công tác bảo đảm hậu cần cho bộ phận vây ép còn nhiều thiếu sót nhất là đối với các phân đội ở tiền tiêu còn để anh em thiếu cơm, thiếu nước; mặt khác lượng dự trữ gạo, muối, đạn dược của ta gặp rất nhiều khó khăn, nhưng tinh thần phục vụ của cán bộ cơ quan hậu cần mặt trận và nhân dân địa phương có nhiều cố gắng, không quản ngày đêm, bất chấp bom đạn ác liệt của quân thù đưa từng gùi gạo, cân muối ra phía trước, khiêng cáng anh em thương binh về phía sau cứu chữa. Các đơn vị làm công tác bảo đảm thông tin, công binh, trinh sát cho các đơn vị chiến đấu Mỹ đã không quản vất vả khó khăn, cán bộ tiểu đoàn, đại đội trực tiếp mang vác, rải dây điện thoại làm liên lạc viên trong những trường hợp khó khăn nguy hiểm. Nhân viên vô tuyến điện và cơ yếu có đồng chí làm việc 28 giờ liền không nghỉ. Trong điều kiện vô cùng ác liệt và gian khổ, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị ở phía trước đã chấp hành tốt chính sách thương binh tử sĩ, tích cực thu hồi vũ khí và chiến lợi phẩm.

Một lần nữa Đảng ủy khẳng định cách đánh chiến dịch “vây điểm, diệt viện” trong hoàn cảnh cụ thể của Plây Me là đúng. Với cách đánh này ta đã tiết kiệm được binh lực. Chỉ cần dùng một lực lượng nhỏ bao vây vẫn dụ được viện binh địch theo ý muôn, vẫn giữ được binh lực cơ động mạnh bảo đảm thế tiến công liên tục dài ngày trong điều kiện lực lượng của ta chỉ có hai trung đoàn và tránh được sự tiêu hao lớn bằng công kiên ngay từ đầu chiến dịch. Cần nói thêm rằng, nếu ta công kiên diệt được Plây Me địch chưa viện ngay thì ta vẫn phải tổ chức lực lượng chiếm giữ. Như vậy, địch có thể dùng phi pháo gây cho ta tổn thất lớn. Hơn thế nữa, trong điều kiện lúc đó ta lấy việc tiêu diệt sinh lực địch làm chính, chưa đặt vấn đề giải phóng đất đai khu vực Plây Me.

Khi bàn về âm mưu và thủ đoạn sắp tới của địch, chúng ta căn cứ vào lực lượng của chúng trên chiến trường Tây Nguyên lúc đó gồm có sư đoàn kỵ binh không vận số 1, một trung đoàn quân Nam Triều Tiên, một trung đoàn trực thăng vận tải, hai tiểu đoàn pháo binh quân Mỹ. Ngoài ra chúng thường xuyên có hai trung đoàn không quân của Mỹ và ngụy sẵn sàng cất cánh chi viện khi chúng mở những cuộc tiến công. Theo tin ta nắm được, Mỹ còn có ý định sử dụng cả máy bay chiến lược B52 ở chiến trường này. Do phát hiện được lực lượng, kho tàng, trạm phẫu của ta nên địch sẽ mở cuộc tiến công lớn vào hậu phương ta hòng vớt vát một thắng lợi về quân sự lấy lại tinh thần cho quân ngụy sau thất bại nặng nề ở Plây Me - đường 21.

Do vậy ta phải sẵn sàng đối phó với thủ đoạn phản kích và phản đột kích quyết lịệt của địch.

Về phía ta, tính đến thời điểm này bộ đội chủ lực Tây Nguyên ngoài các trung, đoàn 33 và 320 ta đã có thêm trung đoàn bộ binh 66, một đơn vị có truyền thống chiến đấu vẻ vang của quân đội ta.

Từ tình hình trên Đảng ủy cũng xác định mục đích đợt chiến đấu tới như sau: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, diệt gọn hai tiểu đoàn quân ngụy hoặc diệt từ 4 đến 5 đại đội Mỹ, bắn rơi 20 đến 25 máy bay, phá hủy từ 40 đến 50 xe cơ giới các loại, đánh bại một bước chiến thuật “trực thăng vận” và “nhảy cóc” của Mỹ. Thu hút một bộ phận lực lượng quân Mỹ và lực lượng tổng dự bị quân ngụy về hướng Tây Nguyên nhằm căng địch ra mà đánh, tạo điều kiện cho sự phát triển thuận lợi của các chiến trường, đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của địch.

Về tư tưởng chỉ đạo, Đảng ủy xác định quyết tâm diệt cả đơn vị nhỏ, đơn vị vừa và đơn vị lớn quân Mỹ; tiêu diệt bọn đổ bộ xuống trước, tiêu diệt tiếp bọn xuồng lấy xác, lấy thương binh và tăng viện, đánh cả bọn địch ở phía trước, chính diện đội hình ta, đánh cả bọn địch nhảy vào sau lưng ta, đánh cả vào căn cứ pháo binh và căn cứ hành quân của chúng; tích cực bắn máy bay địch, đặc biệt là trực thăng để tiêu hao phương tiện cơ động chủ yếu của sư đoàn không vận. Chúng hành quân bộ cũng đánh, chúng đổ bộ trực thăng cũng đánh, có Mỹ và ngụy cùng tham chiến, thì nhằm vào Mỹ đánh trước; dùng lối đánh phục kích và tập kích đánh quân đổ bộ trực thăng, đánh quân nhảy cóc là chủ yếu. Ngoài ra cần phải tổ chức các phân đội pháo độc lập và các đội đặc công đột nhập vào hậu phương địch pháo kích, tập kích sân bay để sát thương phi công và phá hủy máy bay dã ngoại.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:02:44 am
Đảng ủy lưu ý cơ quan tham mưu mặt trận bố trí lực lượng phải có chiều sâu theo hình bậc thang... mật độ trú quân không quá dày để tránh phi pháo, song phải bảo đảm đội hình chiến đấu trong thế hiệp đồng chặt chẽ, có chỗ dựa vào nhau vững chắc, dễ cơ động có thể đánh địch trong trường hợp chúng đổ bộ trực tiếp vào khu vực trú quân. Với khả năng cơ động nhanh, tập kích nhanh và rút nhanh của sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ, nên đội hình của các trung đoàn và Mặt trận đều nằm trong phạm vi bị địch uy hiếp và có thể bị chúng tập kích bất ngờ. Do vậy, việc bảo đảm hậu cần phải nằm ngay trong đội hình của các trung đoàn và tiểu đoàn, thực hiện kho di động tức là tất cả trên vai người chiến sĩ vận tải và người lính chiến đấu. Phải quy định lượng tiêu thụ đạn cho từng loại súng trong từng trận đánh, đồng thời tích cực lấy vũ khí của địch để đánh địch.

Một vấn dề được Đảng ủy hết sức coi trọng, đó là việc quán triệt cho bộ đội khi giao chiến với sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ phải đánh mạnh vào chỗ dựa hỏa lực phi pháo của chúng nhất là hỏa lực từ trên máy bay trực thăng vũ trang. Trong điều kiện súng phòng không của ta chỉ có súng 12,7 ly với số lượng không nhiều, do vậy, phải phát huy toàn bộ các loại súng bộ binh bắn máy bay địch; tổ chức nhiều tổ bắn máy bay bằng súng trường, súng tiểu liên khắp mọi nơi trong cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích...

Hội nghị Đảng ủy kết thúc trong không khí đoàn kết thống nhất cao. Quan sát mọi người tôi thấy ai cũng náo nức, lạc quan, dù biết rằng cuộc chiến đấu tới sẽ vô cùng ác liệt. Tất cả chúng tôi đều vui vẻ sẵn sàng chấp nhận cho dù có phải hy sinh đến tính mạng của mình để giành thắng lợi.

Thời gian này, tình hình lương thực hết sức khó khăn. Một mặt do nguồn cung cấp khan hiếm, một mặt lực lượng vận tải không đáp ứng nhu cầu (chủ yếu gùi bộ, xe đạp thồ thời gian này chưa phát triển), mặt khác một số kho dự trữ chiến dịch bị địch đánh phá. Nếu mỗi ngày bảo đảm cho một người sáu lạng gạo thì toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch hiện có phải cần hàng chục tấn gạo. Nay lại tăng thêm trung đoàn 66 càng làm cho tình hình lương thực đã khó khăn càng khó khăn gay gắt hơn. Nguy cơ bộ đội thiếu đói là điều không tránh khỏi nếu không có sự chi viện của trên và nhân dân các tỉnh bạn. Trước tình hình đó, mặc dù trận đánh Mỹ sắp xảy ra, anh Chu Huy Mân vẫn phải đi Đắc Lắc - một tỉnh đông dân, giàu có nhất Tây Nguyên lại ở gần mặt trận yêu cầu tỉnh này vận động nhân dân đóng góp và vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch. Trước khi đi Đắc Lắc, anh Chu Huy Mân cho gọi tôi và anh Nguyễn Hữu An giao nhiệm vụ lập sở chỉ huy tiền phương mặt trận để chỉ huy các trung đoàn 33, 66 vào 320 tổ chức đón đánh quân Mỹ. Với giọng trầm ấm vừa như tâm sự vừa như chỉ thị, anh nói:

- Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 là đơn vị mạnh nhất của lục quân Mỹ. Nếu ta đánh thắng nó trong trận này không những chỉ là vấn đề tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch mà nó còn có ý nghĩa to lớn trên nhiều mặt. Điều quan trọng nhất là cổ vũ sĩ khí và lòng tin đánh thắng Mỹ của quân và dân Tây Nguyên nói riêng, quân và dân cả nước nói chung. Và như vậy, hàng loạt vấn đề về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, kỹ thuật cũng sẽ được giải quyết và kết luận cơ bản ở trận này. Những trận chiến đấu vừa qua với quân Mỹ chỉ là lẻ tẻ có tính chất thăm dò. Cuộc chiến đấu tới sẽ diễn ra hết sức ác liệt, đó là cuộc đụng đầu giữa lực lượng lớn quân chính quy của ta với đội quân viễn chinh nhà nghề của Mỹ.

Ngừng giây lát anh Chu Huy Mân nói tiếp:

- Tôi vừa nhận được chỉ thị của Quân ủy Trung ương giao cho các lực lượng vũ trang Tây Nguyên chúng ta phải tạo mọi cơ hội tiêu diệt bằng được một hoặc hai tiểu đoàn Mỹ trong chiến dịch này. Như vậy, nhiệm vụ tiêu diệt gọn đơn vị cỡ tiểu đoàn quân Mỹ là nhiệm vụ lịch sử mà Đảng ta, quân đội ta, nhân dân ta giao cho quân và dân Tây Nguyên. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, các anh phải bắt tay vào việc triển khai ngay nghị quyết Đảng ủy Mặt trận, làm cho cán bộ, chiến sĩ tham gia trận chiến đấu tới thấy rõ tính quyết liệt của nhiệm vụ lịch sử này, để họ nâng cao tinh thần cách mạng, dũng cảm ngoan cường tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt. Phải kiên quyết chống chó được tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, biểu hiện chủ yếu là ngại ác liệt, khó khăn, sợ hy sinh, chần chừ thoái thác nhiệm vụ. Đặc biệt tác phong chỉ huy và lãnh đạo của cán bộ, nhất là cán bộ chính trị phải sâu sát bộ đội, làm chỗ dựa tinh thần cho bộ đội trong những tình huống ác liệt khó khăn.

Anh Chu Huy Mân phân tích mọi lẽ về nhiệm vụ rồi hỏi:

- Các anh đồng ý với tôi chứ ? Có cần đề nghị gì không?


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:03:21 am
Thấy chúng tôi không có ý kiến, anh gật gật nói:

- Trận đánh tới sẽ khó khăn đấy, ác liệt đấy, nhưng tôi tin các anh sẽ làm được.

Nhìn vào đôi mắt sâu, rất sáng của anh, tôi cảm nhận được cái chất hăng say, sôi nổi hòa với phong cách điềm tĩnh, và giọng nói xứ Nghệ truyền cảm khơi dậy cho người nghe quyết tâm hành động.

Khi chia tay, anh nắm chặt tay tôi, đôi mắt anh như ngưng đọng lại xa xăm và sâu thẳm, anh dằn từng tiếng:

- Máu xương và sinh mạng của chiến sĩ là vô giá, nhưng khi cần thiết vẫn phải hy sinh để giành thắng lợi. Trong trận này dù phải một đổi một cũng kiên quyết đánh thắng. Phải diệt gọn tiểu đoàn quân Mỹ, anh hiểu ý tôi chứ ?

Ngừng một lát, nhìn thẳng vào mắt tôi, anh Chu Huy Mân nói:

- Tôi nhắc lại, một đổi một chỉ được phép trong trận này thôi đấy, anh Hiệp nhé !

Tôi trả lời:

- Thưa anh, tôi hiểu, chúng tôi xin hứa sẽ thực hiện tốt nhất nhiệm vụ anh giao.

Sau khi kết thúc hội nghị Đảng ủy Mặt trận, cán bộ chủ trì các trung đoàn ra về lo phổ biến quán triệt nghị quyết và triển khai kế hoạch. Sở chỉ huy tiền phương chúng tôi cũng gấp rút chuẩn bị lên đường đi Chư Pông thì tình hình địch có thay đổi.

Ngày 10 tháng 11, lữ đoàn 3 kỵ binh không vận số 1 trở lại tập kết ở Bầu Cạn. Ngày 11, một bộ phận của lữ đoàn này “nhảy cóc” xuống Plây Ngo cách Plây Me 10km về phía tây. Chúng tôi lệnh cho tiểu đoàn đặc công 952 tổ chức tập kết đánh phủ đầu sở chỉ huy hành quân của lữ đoàn 3 kỵ binh Mỹ ở Bầu Cạn. Ngay trong đêm, các chiến sĩ tiểu đoàn 952 và bộ phận trinh sát mặt trận bí mật tiếp cận và bất ngờ nổ súng tiến công sở chỉ huy hành quân lữ dù 3 và sân bay lên thẳng của địch ở Bầu Cạn, diệt hàng chục tên phá hủy, phá hỏng một số máy bay trực thăng. Cùng đêm, bộ đội ở tỉnh Gia Lai tập kích căn cứ Mỹ ở An Khê gây cho địch nhiều thiệt hại.

Cuộc chạy đua quyết liệt giữa ta và địch diễn ra từng ngày từng giờ. Phải làm sao đưa bộ đội vào nhanh chiếm lấy địa bàn có lợi, hình thành thế trận đón đánh quân Mỹ. Trung đoàn 66 mới vào chiến trường, cán bộ chủ trì trung đoàn, tiểu đoàn, các đại đội trưởng hỏa lực và phục vụ được lệnh vượt lên trước chuẩn bị chiến trường. Bộ đội được lệnh bỏ lại tất cả những thứ không cần thiết cho chiến đấu, khẩn trương hành quân. Sau hơn hai tháng hành quân gian nan vất vả, vượt Trường Sơn sức khỏe cán bộ chiến sĩ giảm sút, địa hình mới lạ, tình hình địch, đối tượng và cách đánh chưa rõ, mặt khác gạo, muối, đạn dược chưa được bổ sung (nếu đi lấy gạo phải mất hai ngày cả đi và về). Tuy vậy, khi được lệnh, bộ đội trung đoàn 66 đã nhanh chóng vào vị trí tập kết. Sở chỉ huy trung đoàn đứng chân ở bắc làng Tung một, tiểu đoàn 7 ở bắc làng Tung hai (dãy núi Chư Pông), tiểu đoàn 9 đứng chân ở đông bắc Chư Pông, tiểu đoàn 8 đứng chân ở khu vực Ba Bỉ.

Trung đoàn 33 cũng được điều chỉnh lại như sau: Sở chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3 và đại đội 1 (tiểu đoàn 1) đứng chân ở khu vực gần làng Bờ Riêng. Tiểu đoàn 1 (thiếu) đứng chân khu vực suối Cạn gần Ba Bỉ. Địa hình từ Ba Bỉ đi Chư Pông chủ yếu là rừng bằng kín đáo rất thuận lợi cho việc triển khai lực lượng bộ binh lớn. ở đây có hai con đường, con đường thứ nhất từ Ba Bỉ đi làng Tung, con đường thứ hai từ Ba Bỉ đi làng Sinh. Hai con đường này gặp nhau cách chân núi Chư Pông 2km về hướng đông bắc.

Mờ sáng 14 tháng 11, chỉ huy trung đoàn dẫn các tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 cùng một số đại đội trưởng các đơn vị hỏa lực thuộc trung đoàn đi chuẩn bị phương án đánh địch tại bờ sông Ia Đrăng. Cùng thời gian này, bộ đội tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 triển khai đào công sự theo phương án đánh địch tại chỗ.

8 giờ sáng ngày 14 tháng 11, đài quan sát tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 báo cáo: chín chiếc máy bay phản lực và 12 chiếc trực thăng vũ trang, hơn một chục khẩu pháo các loại từ Bầu Cạn đang bắn phá dữ dội vào khu vực đóng quân của tiểu đoàn 9 và làng Ia Giao, làng Tung. Đến 9 giờ, ba mươi chiếc trực thăng từ Plây Cu theo đường 21 bay vòng qua khu vực trung đoàn bộ trung đoàn 66 và tiểu đoàn 7 rồi lao về hướng tiểu đoàn 9. Dưới sự yểm trợ của máy bay phản lực F5 ném bom phá và bom bi, máy bay trực thăng phóng rốc-két bắn đạn 20 ly, tính đến 10 giờ đã có ba đợt với 90 lần chiếc máy bay trực thăng chở quân Mỹ đổ bộ xuống trảng trống khu vực làng Mùi cách tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 9 một ki-lô-mét (sau này ta biết đây là lực lượng thuộc tiểu đoàn 1, lữ đoàn 3 kỵ binh). Cùng lúc địch đổ xuống Quynh Kla và đông nam Ia Đrăng 12 khẩu pháo 105 ly và 2 đại đội bộ binh để chi viện cho tiểu đoàn 1 Mỹ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:05:11 am
Sau khi các trận địa pháo được thiết lập, tiểu đoàn 1 Mỹ từ làng Mùi bắt đầu tiến quân đánh chiếm sườn đông bắc dãy núi Chư Pông. Được sự yểm hộ mạnh mẽ của máy bay và pháo binh dọn đường, quân Mỹ hùng hổ dàn hàng ngang tiến lên. Tôi được anh em tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 kể lại rằng: một cánh quân Mỹ xộc vào đúng tổ cảnh giới của tiểu đoàn bộ, chiến sĩ vận tải Đinh Quốc Sủng(1) quê ở Ngô Thường, Tiên Nội, Duy Tiên, Nam Hà chỉ huy anh em bình tĩnh đợi chúng đến gần mới nổ súng. Ngay loạt đạn đầu 7 tên Mỹ đã ngã gục trước mũi súng của chiến sĩ ta. Bị đánh bất ngờ quân Mỹ chùn lại dùng phi pháo bắn phá rồi tiếp tục xông lên. Nhưng vì lực lượng của địch quá đông, Đinh Quốc Sủng cho anh em lui về báo cáo tiểu đoàn, còn một mình anh tiếp tục chiến đấu và đã anh dũng hy sinh. Đây là chiến sĩ đầu tiên của trung đoàn 66 ngã xuống trong trận chiến đấu với lính sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ. Khi được tin quân Mỹ tập kích vào đơn vị trong lúc chỉ huy đang đi làm công tác chuẩn bị chiến trường, trợ lý chính trị tiểu đoàn Vũ Thanh Xuân, quê Minh Thắng, Quỳnh Hoa Quỳnh Côi, Thái Bình liền đứng ra tổ chức cho anh em trinh sát, thông tin, nuôi quân, y tá, văn thư, vận tải chiếm lĩnh công sự chiến đấu. Anh em ta dựa vào công sự ngoan cường đánh lui nhiều đợt tiến công của địch. Trong trận đánh này trợ lý quân nhu tiểu đoàn Vũ Quốc Sự, quê Hương Phú, Yên Phú, Yên Mô, Ninh Bình; binh nhất Lê Văn Đính, quê Sơn Lâm, Giao Sơn, Giao Thủy, Nam Hà; chiến sĩ trẻ Trịnh Minh Thái (18 tuổi), quê Đục Khê, Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây là những tay súng giỏi, cứ mỗi lần nổ súng là hạ gục một tên Mỹ. Thấy địch đánh vào tiểu đoàn bộ, đại đội 9 tổ chức một trung đội do trung đội trưởng Phạm Quang Nghĩa, quê Quang Nạp, Thụy Trinh, Thụy Anh, Thái Bình chỉ huy đánh vào sườn trái quân địch. Bị ta đánh bất ngờ quân địch rối loạn đội hình lúng túng đối phó. Cũng trong lúc đó, đại đội 11 xuất kích đánh vào sườn phải và phía sau đội hình quân địch. Đại đội phó Bùi Hồng Cầu, quê Thành Liêm, Thành Tiến, Thạch Thành, Thanh Hóa dẫn đầu đại đội xông thẳng vào quân địch đánh giáp lá cà với lính Mỹ, diệt chúng bằng lựu đạn, lưỡi lê và báng súng làm cho quân Mỹ vô cùng khiếp sợ. Máy bay Mỹ không phân biệt được đâu là quân của chúng nên đã dội bừa cả bom na-pan lên đầu lính Mỹ.

Đến 11 giờ, Nguyễn Văn Định, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 từ bờ sông Ia Đrăng chạy về ra lệnh cho đại đội hỏa lực 12 cho một khẩu cối 82 ly xuất kích, Tiểu đoàn trưởng Định trực tiếp chỉ huy khẩu cối 82 ly bắn chính xác vào đội hình quân Mỹ rồi ra lệnh xung phong. Quân địch hốt hoảng tháo chạy rồi co cụm chống lại ta.

Nghe tiếng súng các loại cả của ta và địch nổ liên hồi không dứt, anh Phạm Công Cửu, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7 phán đoán tiểu đoàn 9 đang chiến đấu với quân Mỹ. Anh liền cho gọi đồng chí Lê Văn Tam (Tam vênh)(2), đại đội trưởng đại đội 2, đồng chí Lê Triệu, đại đội trưởng đại đội 1 (đại đội 3 đang đi lấy gạo) cùng trinh sát tiểu đoàn đi về hướng tiểu đoàn 9 nắm tình hình. Đồng thời Cửu chỉ chị cho cán bộ đại đội còn lại cho bộ đội chuẩn bị xuất kích.

Anh Phạm Công Cửu kể lại: Dọc đường về hướng tiểu đoàn 9 anh gặp một số thương binh từ trận địa đang đi về trạm phẫu trung đoàn, trong số đó có chính trị viên phó tiểu đoàn 9 tên là Tuy bị thương vào đầu và tay, máu còn rỉ ướt đẫm băng. Đồng chí Tuy nói:

- Lính Mỹ rất đông, lúc đầu chúng hung hăng, nhưng cán bộ chiến sĩ ta chiến đấu rất dũng cảm, xông vào đánh giáp lá cà với quân Mỹ khiến chúng khiếp sợ. Lính Mỹ chỉ dựa vào hỏa lực phi pháo, lúc ta đánh gần, nhất là khi chúng nhìn thấy anh em ta giương lê lao vào thì nhiều tên khiếp đảm, chạy thục mạng, chúng quay súng lại đằng sau vừa chạy vừa bắn lên trời.

Phạm Công Cửu:

- Anh có biết lực lượng của chúng khoảng bao nhiêu không?

- Ít nhất là 2 đại đội - Tuy trả lời.

- Lực lượng của tiểu đoàn 9 hiện nay ra sao?

- Tuy có bị thương vong một số, nhưng tinh thần và quyết tâm của anh em rất cao, nhiều đồng chí bị thương nhẹ vẫn không chịu rời trận địa.

Phạm Công Cửu yêu cầu đồng chí Tuy cử một đồng chí bị thương nhẹ dẫn anh đến tiểu đoàn 9 để hiệp đồng chiến đấu. Đồng chí Rỡ, đại đội phó đại đội 9 bị thương ở tay, băng đeo trước ngực xung phong dẫn đường.


(1) Tôi có thói quen khi nghe các đơn vị báo cáo những gương chiến đấu dũng cảm hay những trường hợp anh em ta chết do nước cuốn, sốt rét ác tính, rắn độc cắn, tôi đều hỏi rõ tên người, tuổi, quê quán và ghi vào sổ công tác của minh.
(2) Trong chống Pháp đồng chí Lê Văn Tam bị thương ở cổ, lúc nào đầu cũng vênh vênh, nên anh em thường gọi là Tam vênh.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:06:58 am
Pháo binh địch vẫn bắn từng đợt không ngớt, trực thăng lên xuống liên tục, chúng vừa đổ thêm quân vừa chuyển những tên bị thương và cả xác những tên Mỹ xấu số. Tại sở chỉ huy trung đoàn 66, khi thấy hướng tiểu đoàn 9 nổ súng liên hồi, các phương tiện thông tin liên lạc với tiểu đoàn này đều mất, anh Lã Ngọc Châu(1) cùng một số cán bộ, trinh sát, truyền đạt trực ở sở chỉ huy trung đoàn đi ngay xuống tiểu đoàn 9.

Anh Lã Ngọc Châu kể lại: “Trên đường xuống tiểu đoàn 9, tôi gặp hơn hai chục anh em thương binh, người băng kín đầu, người băng ngực, băng cánh tay, có người chống gậy đi khập khiễng nhưng họ đều đem theo vũ khí của mình. Có người còn mang thêm cả những khẩu súng AR15 và M79 thu được của Mỹ. Khi được hỏi về tình hình địch anh em sôi nổi: “Lính Mỹ rất đông, có cả da đen và da trắng. Lúc đầu chúng rất hung hăng dàn hàng ngang tiến lên. Nhưng khi bị ta nổ súng đánh trả, rồi anh em ta giương lê lao vào chúng vô cùng hoảng sợ, dẫm đạp lên nhau mà chạy”. Có anh em lại nói: “Lính Mỹ lười đào công sự, khi chạm súng với ta nhiều tên cúi mặt bắn lên trời”. Số đông anh em cho rằng: “Lính Mỹ chẳng có gì đáng sợ, nó to cồng kềnh xuyên rừng khó hơn ta, bắn nó dễ trúng, nó xoay xỏa chậm hơn anh em mình nên chúng rất sợ ta đánh gần”. Khi được hỏi về hỏa lực phi pháo của Mỹ nhiều người tỏ ra rất ngại. Một số anh em kêu lên: “Sao tụi Mỹ nhiều bom lắm pháo thế!”. Tuy vậy nhiều anh em lạc quan nói: “nếu cấp trên kiềm được phi pháo của chúng, một mình em chấp ba thằng Mỹ”...

Được tiếp xúc với những con người vừa giáp mặt với lính Mỹ mà họ tỏ ra không hề sợ chúng, hơn thế nữa họ còn có vẻ xem thường quân Mỹ; chính những người chiến sĩ bình thường ấy đã phần nào củng cố niềm tin và quyết tâm đối với chính ủy trung đoàn Lã Ngọc Châu.

Sau khi biết sơ bộ tình hình, anh Lã Ngọc Châu nói:

- Tôi là chính ủy trung đoàn của các đồng chí đây. Thay mặt chỉ huy trung đoàn tôi khen ngợi tinh thần chiến đấu của các đồng chí. Quân Mỹ đang hoang mang dao động mạnh, chúng ta phải đánh cho chúng những đòn thật đau hơn nữa, diệt gọn nhiều đại đội, tiểu đoàn quân Mỹ để chúng biết thế nào là khí phách của người Việt Nam thế nào là khí phách của một quân đội cách mạng, một quân đội của Bác Hồ, các đồng chí có đồng ý không?

Tất cả đều đồng thanh: Đúng ạ! Đúng ạ!

Dừng hồi lâu anh Lã Ngọc Châu nói tiếp:

- Tôi yêu cầu thế.này: đồng chí nào bị thương nặng không thể chiến đấu được thì đi tiếp ra trạm phẫu trung đoàn. Đồng chí nào bị thương nhẹ còn sức chiến đấu dẫn chúng tôi vào nơi quân địch co cụm để chúng ta tổ chức tập kích quân địch ngay trong đêm nay, quyết không cho chúng một phút nghỉ ngơi, hồi sức.

Anh Châu vừa dứt lời gần hai chục cánh tay giơ lên xin được quay lại chiến đấu. Nhưng anh Lã Ngọc Châu “chọn” mười sáu anh em còn sức khỏe tốt, hăng hái nhanh nhẹn, tháo vát làm nhiệm vụ dẫn đường bám địch để anh điều động lực lượng tiểu đoàn 7 vào diệt chúng.

Càng gần khu vực chiến sự pháo địch càng bắn dữ dội. Trên trời trực thăng vũ trang không ngớt quần đảo những vòng lượn rộng và xa hơn. Tuy trời chưa tối nhưng máy bay C130 cũng đã thay nhau thả pháo sáng, bắn đạn 20 ly.

Chập tối ngày 14 tháng 11, ở sở chỉ huy tiền phương chúng tôi đã liên lạc được với anh Lã Ngọc Châu đang có mặt tại tiểu đoàn 7 (lúc này bộ phận anh Phạm Công Cửu cũng vừa từ tiểu đoàn 9 trở về). Chúng tôi chỉ thị cho anh Châu tổ chức tiểu đoàn này tập kích quân Mỹ ngay trong đêm.

Anh Lã Ngọc Châu thống nhất với ý định của chúng tôi và ngay lập tức anh cho triệu tập các đồng chí đảng ủy viên tiểu đoàn 7. Anh nói: “Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, con át chủ bài của quân đội Mỹ đã bước vào cuộc chiến đấu với ta. Ngay lần đầu ra quân chúng đã bị tiểu đoàn 9 giáng cho những đòn choáng váng. Anh em tiểu đoàn 9 đánh rất giỏi, diệt gọn một đại đội, đánh thiệt hại một đại đội khác. Lực lượng còn lại của quân Mỹ đang hoang mang cực độ. Đây là thời cơ tốt để tiểu đoàn 7 góp phần diệt gọn tiểu đoàn Mỹ này. Do vậy các đồng chí phải cho bộ đội xuất kích ngay. Cán bộ tiểu đoàn phân công nhau xuống từng đại đội, phổ biến quán triệt nhiệm vụ, động viên bộ đội thi đua giết giặc lập công”.


(1) Anh Lã Ngọc Châu, sinh năm 1926, quê Khánh Cư, Yên Khánh, Ninh Bình. Sau Cách mạng Tháng Tám anh vào bộ đội. Năm 1946 được cử làm chính trị viên trung đội. Tháng 3 năm 1954 làm chính trị viên tiểu đoàn 2 trung đoàn 9 sư đoàn 304. Tháng 12 năm 1959 anh được bổ nhiệm làm chủ nhiệm chính trị trung đoàn. Tháng 6 năm 1965 anh được điểu về làm chính ủy trung đoàn 66. Anh là một cán bộ dày dạn kinh nghiệm chiến đẩu, tác phong sâu sát, cụ thể, có tinh thần và ý chí chiến đấu cao, luôn có mặt ở những nơi khó khăn gian khổ, được anh em trong trung đoàn kính trọng và quý mến. Nhiều câu nói của anh cho đến bây giờ cán bộ chiến sĩ trung đoàn 66 còn truyền lại nhau như một kinh nghiệm trong xây dựng đơn vị. Vi như:
      Trên quyết tâm
      Dưới sáng tạo;
      Trên lập lờ
      Dưới làm loạn, v.v…


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:09:09 am
Vì không còn thời gian để bàn phương án đánh địch, anh Phạm Công Cửu chấp hành ngay mệnh lệnh của chính ủy Lã Ngọc Châu, phát lệnh cho các đại đội xuất kích. Anh yêu cầu bộ đội bỏ lại quân tư trang, động viên anh em đem theo càng nhiều đạn càng tốt. Phạm Công Cửu đặc biệt lưu ý các đơn vị học tập tinh thần chiến đấu của tiểu đoàn 9, sẵn sàng dùng dao găm, lưỡi lê diệt địch.

Lệnh chiến đấu vừa phát ra, các đơn vị bắt tay ngay vào làm công tác chuẩn bị. Ai cũng hăng hái, không những anh em khỏe mà các đồng chí ốm khi nghe tin được đi đánh Mỹ đều như khỏe ra. Tuy trong mỗi người có chút hồi hộp lo lắng, nhưng anh em rất tin tưởng và mong muốn lập công.

Sau 30 phút làm công tác chuẩn bị, đại đội 2 (chủ công), đại đội 1 và 2 khẩu cối 81 ly của đại đội 4 bắt đầu xuất phát (lúc này đại đội 3 đi lấy gạo vẫn chưa về). Trên đường hành quân cán bộ tiểu đoàn phố biến nhiệm vụ cho cán bộ đại đội, cán bộ đại đội phổ biến nhiệm vụ cho cán bộ trung đội, cán bộ trung đội phổ biến đến từng chiến sĩ.

Tiểu đoàn 7 hành quân dưới tán lá rừng trong đêm, đường tối đen, người đi sau chỉ chậm chân dăm mét là có thể đi lạc. Anh em có sáng kiến lấy những mảnh gỗ mục có chất lân tinh gài lên ba lô của nhau tạo thành vật chuẩn để tránh bị lạc.

Theo kế hoạch, 2 giờ sáng ngày 15 tháng 11 tiểu đoàn 7 nể súng. Nhưng do hành quân trong rừng rậm trời tối, mặc dù rất cố gắng nhưng anh em cũng không thể đi nhanh hơn. Khi đến khu vực trống trải, có đèn dù và pháo sáng của địch tạo thuận lợi hơn cho việc quan sát, nhưng phi pháo của địch hoạt động mạnh. Sau mỗi trận địch đánh phá địa hình lại thay đổi. Chiến sĩ dẫn đường rất khó nhận ra. Bộ đội lại phải vượt qua bãi bom, pháo nên đội hình lúc hàng dọc, khi chuyển hàng ngang, nhưng mọi người vẫn nhằm thẳng khu trung tâm phi pháo của địch mà tiến (địch thường bắn xung quanh khu vực đóng quân của chúng). Mãi đến 5 giờ sáng ngày 15 tháng 11, tiểu đoàn 7 mới tiếp cận được quân Mỹ.

Đại đội 2 tổ chức trung đội 2 do trung đội trưởng thiếu úy Nguyễn Văn Khương(1) quê Nhạc Lộc, Trưng Trắc, Văn Lâm, Hưng Yên và trung đội phó chuẩn úy Nguyễn Văn Nhượng quê Uy Sơn, Liên Sơn, Gia Viễn, Ninh Bình chỉ huy thành mũi đột kích mạnh gồm 13 súng tiểu liên AK, 6 súng trung liên RPĐ, 3 súng thượng liên, 3 súng B40 có nhiệm vụ thọc thẳng vào trung tâm cụm quân địch diệt chỉ huy và điện đài. Đại đội trưởng Lê Văn Tam trực tiếp nắm 2 khẩu cối 82 ly, bắn ứng dụng chế áp ngắn, đạn cối của ta rơi trúng giữa đội hình quân Mỹ. Súng cối vừa ngừng, Lê Văn Tam ra lệnh cho bộ đội xung phong. Các mũi lao lên thọc sâu hình thành thế vừa bao vây vừa chia cắt quân địch ra từng mảnh để diệt. Tiểu đội trưởng tiểu đội 6 trung đội 2 (mũi đột kích mạnh) Vũ Hải Triều(2) quê Thanh Hạ, Ninh Hòa, Gia Khánh, Ninh Bình dẫn đầu tiểu đội xông thẳng vào sồ chỉ huy đánh trúng trung tâm thông tin của địch.

Bị mất phương tiện thông tin nên liên lạc giữa mặt đất và trên không của quân Mỹ bị cắt đứt. Phi pháo địch không thể nào yểm trợ cho bộ binh của chúng. Đây là thời cơ thuận lợi để cán bộ chiến sĩ ta phát huy sở trường đánh gần. Anh em ta lao thẳng vào quân Mỹ đánh chúng bằng lựu đạn và AK. Nhiều đồng chí dùng lưỡi lê, dao găm diệt địch. Đại đội trưởng đại đội 2 Lê Văn Tam(3), tiểu đội phó Hà Huy Trọng quê Minh Thành, Minh Nghĩa, Nông Cống, Thanh Hóa; Phạm Văn Tiết quê Yên Thái, Hoàng Giang, Nông Cống, Thanh Hóa; Cao Thái Thưởng quê Lạng Sơn, Cẩm Quý, Cẩm Thủy, Thanh Hóa; Trần Minh Duyên quê Như Sơn, Xuân Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình; Đỗ Văn Vinh quê số nhà 31, Cao Thắng, thị xã Thanh Hóa là những chiến sĩ diệt từ 5 đến 7 tên Mỹ đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Riêng đồng chí Lê Văn Tam dùng lê diệt 7 tên Mỹ. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 45 phút, tiểu đoàn 7 diệt gọn một đại đội Mỹ. Bọn địch còn lại hốt hoảng phải chạy vòng quanh trong bãi cỏ le(4) rậm rạp dưới chân núi Chư Pông. Quân Mỹ bắt đầu oanh tạc vào trận địa. Chỉ huy trung đoàn 66 cho bộ đội lui quân để củng cố chuẩn bị cho trận chiến đấụ tới. Trên đường lui quân là cuộc chiến đấu quyết liệt với máy bay Mỹ. Chiến sĩ ta trên vai mang vác thương binh, tử sĩ, chiến lợi phẩm nhưng vẫn phải đánh trả quyết liệt với máy bay địch. Nguyễn Hữu Tài, trung đội 1 đại đội 1 tiểu đoàn 7 ba lần lấy thân mình làm giá súng để đồng đội bắn rơi một máy bay AD6 của địch. Trong trận này tiểu đoàn 7 còn bắn rơi 4 máy bay trực thăng Mỹ.


(1), (2) Trong trận này trung đội 2 diệt 1 sở chỉ huy, 3 khẩu cối 60 ly, 2 đại liên và 54 tên Mỹ, bắn rơi 2 máy bay trực thăng. Riêng các đồng chí Nguyễn Văn Khương, chỉ huy trung đội 2, Vũ Hải Triều chỉ huy tiểu đội 6 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bản thân diệt hơn chục tên Mỹ, được tặng thưởng huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và Dũng sĩ diệt Mỹ cấp II.
(3) Đồng chí Lê Văn Tam được tặng huân chương Chiến công hạng nhì và danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp III.
(4) Lính Mỹ gọi loại cỏ này là cỏ voi.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:11:39 am
Trước sự tiến công mạnh mẽ của quân ta, quân Mỹ vô cùng hoảng loạn, tháo chạy. Dưới ánh sáng của đèn dù và pháo sáng, các chiến sĩ tiểu đoàn 7 xắn cao tay áo, lăm lăm súng tiểu liên AK tiếp tục tìm đánh quân Mỹ. Khẩu hiệu “Gặp Mỹ là đánh, tìm Mỹ mà diệt” chính thức ra đời trong đêm săn Mỹ trên cao nguyên đất đỏ này.

Để cứu tiểu đoàn 1 Mỹ khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ra lệnh cho không quân ném bom bắn phá bừa bãi dọc hai bờ sông Ia Đrăng. Ngoài việc huy động 120 lần máy bay chiến đấu tham chiến, chúng còn cho pháo binh từ Bầu Cạn, Quynh Kla và hai trận địa pháo dã chiến ở đông nam Ia Đrăng bắn tới 4.000 quả đạn các loại. Với lượng bom pháo như vậy xem ra chưa đủ trấn an binh lính của chúng, ngay trong đêm ngày 15 rạng sáng ngày 16 tháng 11, những người chỉ huy quân đội Mỹ đã huy động hơn 100 lần chiếc máy bay chiến lược B52 từ đảo Gu-am đến ném bom rải thảm xuống thung lũng Ia Đrăng hòng cứu nguy cho binh lính của họ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ đã phải dùng máy bay chiến lược yểm hộ chiến thuật cho bộ binh của chúng. Thung lũng Ia Đrăng ngày đêm rung chuyển trong tiếng nổ của bom B52 và pháo bầy Mỹ. Cây cối đổ gãy ngổn ngang, bốc cháy ngùn ngụt lan rộng khắp thung lũng.

Cuộc chiến đấu ác liệt của tiểu đoàn 7 với quân Mỹ kéo dài đến gần trưa ngày 16 tháng 11. Kết quả quân ta diệt 250 tên Mỹ, gồm một đại đội và một bộ phận tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 Mỹ.

Trưa ngày 16 tháng 11, sợ ta tập kích tiếp vào đêm ấy, mặt khác cũng có thể do thiếu phương tiện trực thăng vận tải nên bộ phận còn lại của tiểu đoàn 1, sở chỉ huy hành quân của tiểu đoàn 2 và lữ dù 3 Mỹ vội vã rút lui bằng đường bộ về phía trận địa pháo ở đông nam Ia Đrăng, bỏ lại cả xác chết lẫn thương binh của chúng (sau đó Mỹ dùng máy bay ném bom phá và bom na-pan vào khu chiến để xóa dấu vết thất bại). Lực lượng của địch còn khoảng 400 tên, tinh thần rất hoảng loạn, đội hình lê thê hàng cây số.

Về phía ta, tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 sau nhiều đợt tiến công liên tiếp quân số một phần bị thương vong, một phần do mãi truy kích địch trền địa hình bằng phẳng nhưng cỏ cây rậm rạp nên bộ đội bị lạc một số, đạn dược thiếu, chỉ huy trung đoàn 66 quyết định không cho tiểu đoàn 7 tập kích vào đêm ngày 16 tháng 11 nữa và giao cho tiểu đoàn này làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường, đưa hết thương binh tử sĩ và chiến lợi phẩm ra ngoài. Tiểu đoàn 9 cũng trong tình trạng tương tự, ngoài số anh em bị tổn thất trong những trận đánh với quân Mỹ, lực lượng còn lại mỗi đại đội lạc một hướng cần có thời gian thu quân.

Trước tình hình trên, sở chỉ huy tiền phương chúng tôi chỉ thị cho chỉ huy trung đoàn 66 điều gấp tiểu đoàn 8 còn đang sung sức từ hướng Ba Bỉ hành quân về Ia Đrăng tập trung tiêu diệt gọn lực lượng còn lại của tiểu đoàn 1 Mỹ.

Ngay chiều ngày 16, anh Lã Ngọc Châu giao cho chiến sĩ truyền đạt trung đoàn Nguyễn Đức Tăng mang mệnh lệnh viết tay của anh chuyển đến tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8.

Nội dung mệnh lệnh như sau:

Gửi đồng chí Lê Xuân Phôi(1)

Hai ngày qua tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 7 đã chiến đấu rất giỏi diệt gọn 2 đại đội, đánh thiệt hại 2 đại đội tinh nhuệ nhất của quăn Mỹ. Hiện nay quân Mỹ đang hoang mang dao động mạnh. Đồng chí cho tiểu đoàn hành quân gấp về trung đoàn. Trong quá trình hành quân tiểu đoàn phải sẵn sàng đánh địch, vì các đồng chí rất có thể gặp Mỹ.


Ký tên
                                                                                                                                                                                                     
Lã Ngọc Châu

Cần nói thêm, tiểu đoàn 8 hành quân kịp thời về Ia Đrăng có công lớn của chiến sĩ truyền đạt Nguyễn Đức Tăng. Anh sinh năm 1941, quê thôn Hai, Quảng Na, Hoành Bồ, Quảng Ninh - một vùng quê có truyền thống cách mạng. Tăng là một chiến sĩ dũng cảm, tháo vát, có trí nhớ tốt, sử dụng địa bàn giỏi. Mặc dù trên mình bị 7 vết thương nhưng Nguyễn Đức Tăng vẫn gắng hết sức lực còn lại của mình chuyển mệnh lệnh cho tiểu đoàn 8. Khi Lê Xuân Phôi nhận được mảnh giấy viết tay của chính ủy trung đoàn từ trong túi áo đẫm máu của Tăng thì cũng là lúc anh trút hơi thở cuối cùng...


(1) Đại úy Lê Xuân Phôi. Quê Ninh Mỹ, Gia Khánh, Ninh Binh được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 30 tháng 8 năm 1995


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:15:57 am
Lê Xuân Phôi ý thức được thời cơ diệt gọn tiểu đoàn Mỹ đã đến. Anh hội ý ban chỉ huy tiểu đoàn và phổ biến sơ bộ phương án tác chiến như sau: Sử dụng đại đội 7, được tăng cường 1 đại liên đi đầu đội hình tiểu đoàn. Đại đội này tổ chức một phân đội đi trước đội hình 500 mét theo hướng giữa sông Ia Đrăng và đường mòn Ba Bỉ đi làng Sinh. Khi tới ngã ba làng Tung và làng Sinh thì theo đường về làng Sinh gặp con suối thứ nhất, men theo bờ suối về hướng đông nam tìm địch mà đánh. Hành động của đại đội 7 chiến đấu bên cánh phải của tiểu đoàn. Đại đội 6 hành quân theo đường của đại đội 7 cách khoảng 1 km. Khi đến ngã ba làng Sinh và làng Tung thì chiếu thẳng theo góc phương vị đi về hướng tây nam tìm Mỹ mà đánh. Hành động của đại đội 6 là chiến đấu trên hướng chủ yếu của tiểu đoàn. Đại đội 5 đi sau tiểu đoàn bộ và theo đường đi của đại đội 6. Khi tác chiến làm thê đội 2 của tiểu đoàn. Đại đội 8 (trừ 1 đại liên) khi có lệnh dùng hỏa lực cối 82 ly (3 khẩu) chi viện trực tiếp cho đại đội 6. Đại đội cao xạ 12,7 ly đi sau đội hình làm nhiệm vụ bắn máy bay yểm hộ cho tiểu đoàn. Theo phương án đã định, cả tiểu đoàn bắt đầu hành quân ngay trong đêm ngày 16 tháng 11.

Khoảng 4 giờ 30 phút ngày 17 tháng 11, đại đội 7 đã tới ngã ba làng Tung và làng Sinh. Đại đội 6 do tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi trực tiếp chỉ huy cũng có mặt ở một con suối cạn (nơi trú quân của đại đội 1 tiểu đoàn 1 trung đoàn 33). Cán bộ đại đội 1 báo cáo với Lê Xuân Phôi bên trái phía trước có khoảng 2 trung đội Mỹ đang đi về phía ta. Phôi lệnh cho đại đội 6(1)chuẩn bị chiến đấu và cho liên lạc chạy lên báo cho đại đội 7 sẵn sàng phối hợp đánh địch.

Lê Xuân Phôi chỉ thị cho đại đội 6  hình thành hai thê đội. Thê đội 1 gồm trung đội 2 do thiếu úy Phạm Minh Tâm quê Thành Mỹ, Ninh Mỹ, Gia Khánh, Ninh Bình chỉ huy và trung đội 3 do thiếu úy Trần Hữu Trung quê Chí Chủ, Thanh Ba, Phú Thọ chỉ huy. Trung đội 1 do thượng sĩ Vũ Văn Dường, quê Ninh Quý, Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình chỉ huy làm nhiệm vụ thê đội 2. Chỉ huy tiểu đoàn 8 chỉ thị cho đại đội hỏa lực chuẩn bị phần tử súng cối sẵn sàng chi viện cho đại đội 6.

Trên trời từng đàn máy bay đủ loại của Mỹ quần lượn và bắn phá không ngớt. Mặt đất chuyển rung trong tiếng bom gầm đạn réo của quân thù. Anh em tiểu đoàn 8 nhìn rõ từng đụn khói màu đen, màu nâu bốc cao vượt lên những cánh rừng khoọc, rừng le.

Khoảng 12 giờ trinh sát chạy về báo cáo với chỉ huy tiểu đoàn, có một đại đội Mỹ đang tiến về hướng đại đội 6. Anh em vừa nói dứt lời, đột nhiên quân Mỹ bắn loạn xạ nhưng cách tổ tiền tiêu của đại đội 6 hơn 200 mét. Biết quân địch bắn vu vơ để tự trấn an, chỉ huy tiểu đoàn động viên bộ đội chờ chúng đến gần mới nổ súng. Quân Mỹ bắn như đổ đạn vẫn không thấy động tĩnh gì, chúng tiếp tục thận trọng tiến lên. Anh em ta theo dõi từng bước của chúng, chờ đến khi phần đông đội hình địch lọt vào trong tầm đạn AK và lựu đạn, chỉ huy tiểu đoàn mới ra lệnh cho súng cối 82 ly bắn cấp tập vào đội hình địch. Cùng lúc chiến sĩ thượng liên Lê Khắc Nga, trung đội 2 nã những loạt đạn chính xác bắn gục hai mươi tên Mỹ, đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú đầu tiên của chiến trường. Trung đội 3 đại đội 6 cũng đồng loạt nổ súng chính xác vào đội hình quân Mỹ. Bị đòn bất ngờ, quân Mỹ vô cùng hoảng loạn. Anh em ta xông lên dùng AK và lưỡi lê diệt địch. Trận đánh kéo dài chưa đầy mười phút, đại đội 6 đã diệt gọn khoảng hai trung đội Mỹ đi đầu. Sau khi làm chủ trận địa, anh em đại đội 6 đã cứu được hai chiến sĩ của đại đội 1 tiểu đoàn 1 trung đoàn 33(2).

Phát hiện lực lượng lớn quân ta, địch cho pháo binh và máy bay chần nát những cánh rừng già nguyên sinh, ở khu vực này bầu trời như biến mất, thay vào đó chỉ toàn khói bụi và tàn tro bay quay cuồng. Không khí ngột ngạt, khét lẹt vì bom na-pan và cây rừng cháy. Quân Mỹ lại tập trung lực lượng lớn tiến lên hòng mở đường máu thoát khỏi khu chiến. Đại đội 6 lúc này tập trung thành một lực lượng. Đại đội 7 khi nghe súng nổ đã vòng vào sườn phía sau quân địch nổ súng. Bị đánh phía trước, đến giờ lại thấy lực lượng mổi quân ta đánh vào sườn phía sau, quân địch vô cùng lúng túng.

Anh em tiểu đoàn 8 kể lại rằng: Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi di chuyển thoăn thoắt, anh luôn tìm cho mình những gò mối cao để vừa quan sát địch vừa chỉ huy bộ đội chiến đấu.


(1) Đại đội 6 tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 trong trận này diệt 170 tên Mỹ, đạt danh hiệu Đơn vị anh dũng diệt Mỹ đầu tiên ở.chiến trường. Trong đại đội 6 có trung đội 2 (diệt 42 tên), trung đội 3 (diệt 36 tên), đại đội bộ đại đội 6 (diệt 32 tên) cũng được tặng danh hiệu Đơn vị anh dũng diệt Mỹ.
(2) Hồi 8 giờ sáng ngày 17 tháng 11, trên đường tháo chạy quân Mỹ sục vào một tổ săn máy bay của tiểu đoàn 1 trung đoàn 33, chúng bắt được hai chiến sĩ của ta, trói mang theo. Sau khi được giải thoát, hai đồng chí này tham gia chiến đấu cùng tiểu đoàn 8.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:17:09 am
Giọng Phôi vang to, rành rọt:

- AK bắn từng phát một. Trung liên, đại liên điểm xạ ngắn.

Phôi trực tiếp nắm cối 82 ly, chỉ thị từng mục tiêu cho anh em nhả đạn chính xác vào đội hình quân địch.

Quân Mỹ bị ta giáng trả quyết liệt phải bật trở lại. Hơn chục tên nhảy xuống một hố bom cạnh con suối cạn ngoan cố chống cự. Trung đội trưởng trung đội 2 đại đội 6 Phạm Minh Tâm quê Thành Mỹ, Ninh Mỹ, Gia Khánh, Ninh Bình, liền lệnh cho cối 60 ly bắn.

Lê Xuân Phôi chạy lên nhắc:

- Đồng chí Tâm, không cần dùng cối, cho anh em sử dụng lựu đạn tiêu diệt địch.

Tâm giao nhiệm vụ tiêu diệt quân Mỹ cho tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Giao, quê Trung Thành, Xuân Hòa, Thọ Xuân, Thanh Hóa và Nguyễn Văn Khuyến, quê Hữu Văn, Thống Nhất, Chương Mỹ, Hà Tây. Cả hai còn rất trẻ, tuổi đời chưa quá đôi mươi. Sau 4 tiếng nổ liên tiếp đanh gọn, hơn chục tên lính kỵ binh không một tên sống sót.

Bị tổn thất nặng nề, quân Mỹ điên cuồng cho máy bay và pháo binh đánh phá dọn đường, rồi xua quân liều mạng xông lên. Chiến sĩ ta bình tĩnh nhằm từng chiếc mũ sắt nhấp nhô trên những ngọn cỏ le mà bắn.

Khi nghe tiếng súng của tiểu đoàn 8, đồng chí Bùi Thế Luận(1) tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 trung đoàn 33, chỉ huy đại đội 1 hỉnh thành một mùi phối hợp với tiểu đoàn 8 chiến đấu.

Lúc này quân địch bị bao vây bốn phía. Như con thú cùng đường chúng điên cuồng chống trả. Trận đánh càng về chiều diễn ra càng quyết liệt. Nhiều đồng chí anh dũng hy sinh, không ít người bi thương vẫn bám trận địa. Dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1, chiến sĩ ta xông thẳng vào đánh giáp lá cà với quân Mỹ. Cường độ cuộc chiến ngày càng tăng gấp bội.

Anh em tiểu đoàn 8 kể lại, một quả đạn pháo của địch nổ gần, cả tiểu đoàn trưởng Phôi và trung đội trưởng Tâm đều dính mảnh đạn. Không để ý đến vết thương ở bả vai mình đang chảy máu, Lê Xuân Phôi chạy đến, dùng cánh tay còn lại đỡ Tâm dậy, hỏi gấp:

- Tâm, cậu thấy trong người thế nào?

Phạm Minh Tâm ngước nhìn Lê Xuân Phôi - người chỉ huy anh tin cậy và yêu mến, người đồng hương cùng xã Ninh Mỹ, huyện Gia Khánh mà Tâm coi như anh ruột của mình. Tâm nói qua hơi thở:

- Em bị thương nặng, chắc không thể sống nổi!

Mắt Phôi đỏ hoe. Anh xốc Tâm dậy xem lại vết thương. Một mảnh đạn xuyên qua ngực, máu ra nhiều. Thấy vậy, một số anh em chạy lại cùng tiểu đoàn trưởng chăm sóc vết thương cho Tâm. Lê Xuân Phôi lệnh cho số anh em này tản ra đề phòng địch bắn pháo gáy thương vong, rồi anh cúi xuống động viên Tâm:

- Cậu không sao đâu! Tôi cho anh em đưa về phía sau, đi điều trị ít ngày là cậu khỏi ngay thôi mà!

Tâm gắng gượng nói giọng thều thào, ngắt quãng:

- Anh Phôi ơi! Không cần đưa em đi đâu cả. Em biết, em không qua được. Em nhờ anh, mai ngày thắng lợi về quê anh nói với vợ em... cô ấy... tên là Nhung, Nguyễn... Thị... Nhung, người thôn Thành... Mỹ...

Tâm nói được có vậy rồi anh trút hơi thở cuối cùng. Tiếng súng quân Mỹ lại nổ dồn. Nét mặt tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi se lại, anh vuốt mắt cho Tâm rồi nói vài chiến sĩ đưa thi hài anh đặt dưới lòng con suối cạn và đắp chiếc võng lên. Phôi động viên anh em xông lên diệt Mỹ để trả thù cho các đồng đội đã hy sinh.


(1) Đồng chí Bùi Thế Luận được truy tặng huân chương Chiến công hạng nhì.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:18:33 am
Trên bầu trời Ia Đrăng máy bay trực thăng, máy bay phản lực địch đan kín, chúng thi nhau bắn đạn 20 ly, phóng rốc-két, ném bom phá, bom bi. Bộ đội ta áp sát đội hình quân địch, thực hiện đánh gần với quân Mỹ. Một quả đạn pháo nổ gần, anh em thấy tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi khuỵu xuống, vạt áo của anh bị xé toạc mảng lớn, máu từ trong bụng chảy đầm đìa, một đoạn ruột lòi ra. Phôi lấy tấm vải dù ngụy trang khó khăn lắm mới nhét được đoạn ruột vào thành bụng buộc lại, rồi cố gượng dậy. Nhưng vừa lảo đảo được vài bước thì anh lại quỵ xuống...

Lòng căm thù giặc Mỹ và nỗi tiếc thương vô hạn người chỉ huy quả cảm thông minh như tiếp thêm sức mạnh cho anh em tiểu đoàn 8 xông lên diệt quân Mỹ. Chiến sĩ ta hình thành từng tổ, từng mũi bám sát, yểm hộ cho nhau lao vào đánh giáp lá cà quyết liệt với quân Mỹ. Chiến sĩ Cao Đình Thơ bằng một đường lê chính xác và quả cảm, đâm chết một tên Mỹ, cứu được đồng đội đang ôm vật với lính Mỹ. Chính trị viên phó đại đội 6 Đinh Văn Đế(1) quê Trà Bồng, Quảng Ngãi ba lần bị thương vẫn dồn hết sức lực còn lại đuổi địch bắn chết 5 tên Mỹ. Khi hết đạn anh dùng dao găm đâm chết 3 tên Mỹ khác. Trung úy Vũ Đình Dự, chính trị viên đại đội 8 quê Tiên Ninh, Tiên Lãng, Kiến An; trung úy Đoàn Ngọc Đảnh, đại độì trưởng đại đội 7 quê Đa Xã, Vĩnh Bình, Chợ Lách, Bến Tre, thiếu úy Nguyễn Xuân Ngạnh; trung đội trường đại đội 7 quê An Lão, Xuân Lôi, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc; thiếu úy Vũ Đức Thắng trung đội trường đại đội 8, quê Quỳnh Phú, Khánh Thành, Yên Khánh, Ninh Bình; chiến sĩ trể Lê Văn Quỳnh (18 tuổi), quê Hòa Xá, Ứng Hòa, Hà Tây... người diệt ít nhất 5 tên, có người diệt đến hai chục tên Mỹ, đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú.

Cuộc chiến đấu giữa tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 và tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 với lính sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ kéo dài đến 20 giờ ngày 17 tháng 11 năm 1965 thì kết thúc. Khoảng 400 tên của tiểu đoàn 1 trung đoàn 7 và một đại đội hành quân của tiểu đoàn 2 trung đoàn 45 lữ đoàn 3 chỉ còn vài chục tên sống sót chạy về căn cứ. Cuộc chiến đấu diễn ra trong tình thế quân địch liều chết chạy tháo thân và quân ta kiên quyết chặn lại, do đó tính chất rất quyết liệt. Cuộc chiến đấu giáp lá cà, cán bộ chiến sĩ phân đội này lạc sang phân đội kia nhưng đều chủ động hợp đồng tự nguyện chịu sự chỉ huy chung để diệt địch.

Chúng tôi đi kiểm tra trận địa sau khi ta làm chủ chiến trường, địa hình hàng chục ki-lô-mét vuông bị đảo lộn, cây gãy, đổ ngổn ngang, không còn đường còn lối. Địch chết thành đống; có chỗ năm, ba tên; xen lẫn vào đó là xác chiến sĩ ta. Nhiều đồng chí nằm đè lên xác lính Mỹ, lưỡi lê còn cắm vào ngực tên địch. Có đồng chí hy sinh tay vẫn nắm chặt quả lựu đạn bên sườn. Có tổ ba ba hy sinh mà phía trước và phía sau các anh có hàng chục xác Mỹ. Có đồng chí hy sinh trên vai còn vác thi thể đồng đội...

Nhìn vào trạng thái địch ta như trên không những thấy rõ được tính chất quyết liệt một cách cụ thể, đồng thời thấy được sự hy sinh dũng cảm tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ ta. về mặt chiến thuật càng thấy rõ nét hoạt động của tổ ba ba, thậm chí của bộ phận một, hai đồng chí có rất nhiều tác dụng trong việc nhập sâu vào đội hình tung thâm của địch. Hầu hết anh em ta hy sinh trong phạm vi một ki-lô-mét vuông nhưng tư thế đều hướng vào giữa hình thành các mũi bao vây kín rất rõ. Ngay trong chỉ huy sở của địch, cạnh đài 15w, cạnh một lô cốt nắp sắt cũng có thi hài của anh em ta.

Giá trị trận đánh của tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 1 ngày 17 tháng 11 không những chỉ là trận kết thúc của một cuộc chiến đấu về mặt hiến thuật mà về mặt chiến dịch nó là một trận then chốt quyết đinh sự thất bại của lữ đoàn 3 quân Mỹ trong chiến dịch Plây Me. Tuy rằng đến ngày 19 tháng 11 những tên lính Mỹ cuối cùng mới rút chạy khỏi thung lũng Ia Đrăng và chiến dịch còn tiếp diễn đến ngày 26 tháng 11, với sự tham chiến của quân ngụy, nhưng trận đánh ngày 17 tháng 11 là cái mốc đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong ý đồ chiến dịch của những người chỉ huy quân đội Mỹ, lần đầu chúng thực hiện ở chiến trường Tây Nguyên.


(1) Đinh Văn Đế được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhì, sau trận này được điều về làm bảo vệ cho anh Chu Huy Mân.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:19:32 am
*
*   *

Ngày 27 tháng 11 năm 1965, tôi về trung đoàn 66 dự hội nghị tổng kết chiến dịch của trung đoàn, cũng là dịp trực tiếp nghe và trao đổi với cán bộ chỉ huy các cấp của đơn vị. Cán bộ trung đoàn tham dự hội nghị có anh Lã Ngọc Châu, chính ủy - bí thư đảng ủy trung đoàn; anh Lê Tiến Hòa, quyền trung đoàn trưởng; anh Nguyễn Văn Lanh, phó chính ủy trung đoàn; anh Phạm Công Cửu, trung đoàn phó; anh Nguyễn Bá Hùng, chủ nhiệm chính trị trung đoàn; anh Vũ Bào, tham mưu trưởng trung đoàn và một số cán bộ tiểu đoàn, cán bộ cơ quan, cán bộ đại đội trợ chiến.

Sau khi nêu mục đích, yêu cầu và những nội dung chủ yếu của hội nghị, khi trình bày về ưu điểm, thay mặt đảng ủy và chỉ huy trung đoàn anh Lã Ngọc Châu nói:

- Thắng lợi lớn nhất và trước hết của trung đoàn là đã động viên toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên trong trung đoàn có ý chí quyết tâm cao, vượt mọi gian khổ, khó khăn, hành quân mang vác nặng liên tục dài ngày (2 tháng 16 ngày) đưa gọn cả trung đoàn đến đích an toàn, với quân số bước vào chiến đấu từ 2.689 cán bộ, chiến sĩ, có 428 đảng viên và 1.721 đoàn viên.

Trong nhiệm vụ thực hành chiến đấu từ ngày 14 đến ngày 7 tháng 11, anh Lã Ngọc Châu khẳng định:

- Tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn có thể nói là dũng cảm phi thường. Mọí người chấp hành mệnh lệnh trong chiến đấu nghiêm, cả trung đoàn thống nhất về tư tưởng đánh gần với quân Mỹ.

Nếu như trận phản kích của tiểu đoàn 9 ngày 14 tháng 11 buộc quân Mỹ từ thế chủ động tiến công sang thế bị động phòng ngự chiến thuật thì hành động tích cực tập kích vào 5 giờ sáng ngày 15 tháng 11 và 3 giờ sáng ngày 16 tháng 11 của tiểu đoàn 7 đã cho chúng ta kết luận dứt khoát thế bị động hoàn toàn về chiến thuật buộc quân Mỹ phải rút lui có tính chất tháo chạy.

Hành động của tiểu đoàn 8 là rất đáng khen. Khi nhận được lệnh chiến đấu chỉ huy tiểu đoàn đã nghiêm túc cho bộ đội chuẩn bị ngắn rồi xuất kích ngay. Cả tiểu đoàn nắm chắc phương châm “bám thắt lưng địch mà đánh”, động viên bộ đội vượt qua bom đạn ác liệt chia thành nhiều mũi cắt vụn, cắt đứt quân Mỹ từng mảng, đáng giáp lá cà diệt hết cụm quân này đến cụm quân khác tiến lên làm chủ chiến trường.

Để làm rõ hơn những vấn đề trên, anh Phạm Công Cửu nói như giải thích:

- Như các anh đều biết, khi chúng ta đi kiểm tra chiến trường, một hiện tượng ai cũng dễ nhận ra là hầu hết lính Mỹ chết do bị bắn vào đầu và sau lưng. Chứng tỏ chúng bị chiến sĩ ta truy đuổi bắn lúc tháo chạy. Một số không ít lính Mỹ chết vì lưỡi lê và dao găm của chiến sĩ ta. Trong khi đó bộ đội ta đã phát huy tốt từng tổ, từng nhóm trong chiến đấu. Họ luôn chủ động tìm Mỹ để diệt Mỹ là đánh và lấy tiếng súng làm hiệu lệnh hiệp đồng. Đây là nét đặc sắc của cán bộ, chiến sĩ ta.

Anh Lã Ngọc Châu nói tiếp:

- Tinh thần dám đánh và quyết thắng Mỹ của bộ đội còn được thể hiện ở chỗ đánh xong trận thứ nhất mặc dù có thương vong, nhưng được lệnh đánh tiếp anh em vẫn hăng hái, không chỉ các đồng chí khỏe; mà cả anh ốm yếu cũng xin được đi chiến đấu. Hành động bám sát của đại đội 9 tiểu đoàn 9 đêm 14 tháng 11 của trung đội 1 đại đội 1 tiểu đoàn 7 ngày 15 tháng 11 có tác dụng nhất định về một chiến thuật tạo nên thế liên tục tiến công của ta; đồng thời cũng tạo điều kiện cho ta tổ chức từng đợt tấn công dồn dập liên tục buộc địch luôn luôn căng thẳng đi đến không tránh khỏi đòn tiêu diệt.

Hành động dũng cảm xử trí linh hoạt để vượt qua tuyến phi pháo dày đặc của quân Mỹ đêm ngày 15 rạng ngày 16 tháng 11 của cán bộ chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 7 có ý nghĩa rất lớn đến trận thắng quân Mỹ sáng ngày 16. Ở đây có vai trò của cán bộ tiểu đoàn và đại đội. Như vậy là trong lúc đạn bom ác liệt nhất, nếu cán bộ biết tổ chức vẫn có thể đưa đơn vị vượt qua khu vực nguy hiểm. Một khi ưu thế tinh thần của ta được phát huy cao độ thì ta sẽ hạn chế được binh khí kỹ thuật của quân Mỹ, đánh ngay vào điểm yếu cơ bản của chúng là ỷ vào hỏa lực phi pháo và sợ đánh giáp lá cà với ta.

Từ đó cho ta một kinh nghiệm, vì một lý do nào đó ta không thực hiện được việc khống chế máy bay và pháo binh địch thì nhiệm vụ của người chỉ huy phân đội đột kích vẫn phải tự tạo điều kiện khắc phục như đại đội 3, tiểu đoàn 7 để hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu của phân đội mình.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:21:01 am
Những, trận đánh Mỹ vừa qua cho thấy muốn hạn chế sự chi viện từ trên không cho bộ binh Mỹ ở mặt đất thì thời cơ đánh chúng tốt nhất là vào lúc chập tối và rạng sáng. Mặt khác, đánh quân Mỹ khi chúng mới đổ xuống, sự chuẩn bị của ta không cần dài, kế hoạch tác chiến không cần đầy đủ và tỉ mỉ như đánh công kiên. Việc tìm hiểu địch, xác định kế hoạch và một số mặt chuẩn bị khác có thể tiến hành trong quá trình hành quân tiếp cận địch. Trong những trường hợp này nếu ta kéo dài thời gian chuẩn bị thi sẽ mất cơ hội diệt chúng. Những vấn đề tôi nêu trên có thể rút một kết luận rất cơ bản là bộ binh Mỹ yếu chứ không mạnh như người ta tưởng và như tuyên truyền của báo chí và các hàng thông tấn phương Tày. Tôi được nghe anh em một số đơn vị nói về bộ binh Mỹ như thế này:

Lính Mỳ nhát như cáy.

Lính Mỹ ngốc nghếch không biết lợi dụng địa hình.

Lính Mỹ to dễ bắn trúng.

Lính Mỹ lười đào công sự nên chúng dễ bị sát thương.

Nói về sử dụng hỏa lực, anh Lê Tiến Hòa cho rằng:

- Qua các trận đánh của tiểu đoàn 9, tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 cho thấy nếu ta sử dụng cối 82 ly bắn dồn dập chính xác trong một thời gian ngắn, địch không có công sự thì chắc chắn tỷ lệ thương vong của chúng là rất lớn. Những đòn hỏa lực như vậy tuy tiêu thụ lượng đạn không nhiều nhưng cũng đủ gây cho địch hoang mang và rối loạn đội hình. Khi súng cối ngừng bắn, bộ binh phải xung phong ngay, thọc sâu vào đội hình quân địch càng nhanh thì hiệu quả diệt địch càng cao. Đây là bài học quý cho chúng ta trong những trận đánh quân Mỹ tiếp theo.

Anh Lê Tiến Hòa dẫn chứng và phân tích kỹ hơn:

- Cuộc đối mặt với lính kỵ binh không vận số 1 Mỹ vừa qua còn cho chúng ta thấy hỏa lực trên máy bay trực thăng, nhất là trực thăng vũ trang của chúng khá mạnh. Tuy vậy, trong những trận đánh ấy bộ đội ta đã thể hiện ý chí kiên cường, không sợ máy Mỹ, đánh trả chúng mọi lúc mọi nơi, bắn cả máy bay phản lực máy bay trực thăng. Trận đánh ngày 15 tháng 11, tiểu đoàn 7 hành quân qua trảng trống, bị máy bay địch phát hiện oanh tạc. Thấy đồng đội loay hoay mãi không có nơi nào làm giá cho khẩu thượng liên, chiến sĩ nuôi quân đại đội 1 Bùi Văn Tài liền xung phong lao vào làm giá súng(1). Nòng súng nóng bỏng, vỏ đạn văng ra làm cháy sém quần áo, nhưng đồng chí vẫn nghiến răng ghì chặt chân súng để đồng đội bắn rơi một máy bay AD6 của Mỹ.

Trong ba ngày từ 14 đến 17 tháng 11, trung đoàn đã bắn rơi và phá hủy 34 máy bay các loại gồm phản lực, F105, F101, AD6, L19, OV10, nhưng phần lớn là trực thăng. Trong điều kiện súng phòng không của ta lớn nhất là 12,7 ly với số lượng không nhiều mà ta bắn rơi được một số lượng lớn máy bay trực thăng Mỹ, một phần do tinh thần tích cực săn bắn máy bay Mỹ của bộ đội, mặt khác, mật độ chúng bay dày từng tốp 3 đến 5 chiếc, có lúc hàng đàn từ 20 đến 25 chiếc ở độ cao từ 100 mét đến 600 mét, đôi lúc chúng sà sát ngọn cây. Như vậy rất thuận lợi cho ta dùng súng bộ binh để diệt chúng.

Thấy anh em nói nhiều về thành tích và kinh nghiệm xem ra như thế cũng là đủ, tôi đề nghị mọi người nói kỹ hơn về khuyết điểm, thiếu sót và những vấn đề cần phải khắc phục ngay. Anh Lã Ngọc Châu đứng lên trầm giọng:

- Tinh thần quả cảm, khí phách anh hùng của cán bộ và chiến sĩ trung đoàn trong những trận đánh quân Mỹ vừa qua sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử truyền thống chiến đấu của trung đoàn ta nói riêng và quân đội ta nói chung. Anh em cán bộ chiến sĩ ta không tiếc tuổi xuân và xương máu của mình, tất cả để đánh thắng quân Mỹ, hạ uy thế của chúng trên mảnh đất Tây Nguyên này. Nhưng chúng ta trong thực hiện chính sách thương binh tử sĩ ngoài trận địa chưa tốt, mặc dù trung đoàn đã tổ chức lực lượng vận tải ra tận trận địa chuyển thương binh tử sĩ và tổ chức các trạm phẫu từ tiểu đoàn đến trung đoàn. Chúng ta không phủ nhận một thực tế là máy bay và pháo binh địch bắn phá có tính chất hủy diệt trận địa. Nhưng cán bộ chỉ huy các bộ phận này quyết tâm không cao, không sâu sát tổ chức chỉ huy bộ đội. Do vậy, nhiều bộ phận khi thấy phi pháo đã tìm hầm trú ẩn không ra đến trận địa. Cho đến lúc này chúng ta vẫn chưa giải quyết hết tử sĩ, một số đơn vị chưa thu hết anh em bị thương và bị lạc. Như vậy, chúng ta có tội với anh em. Tôi đề nghị sau cuộc họp này trung đoàn phải đứng ra tổ chức ngay lực lượng có cán bộ phụ trách để đi tìm kiếm thật kỹ trận địa đưa hết anh em tử sĩ về an táng ở nơi quy định. Phải thực hiện quyết tám chưa tìm hết anh em chưa được lui quân.

Khuyết điểm thứ hai trong công tác chỉ huy, từ trung đoàn đến tiểu đoàn trong những trận đánh vừa qua thiếu tập trung, còn phân tán. Song nhờ tinh thần chủ động và ý chí chiến đấu cao của từng người, từng tổ và ý thức hiệp đồng chiến đấu của bộ đội đã tạo nên sự cố kết, tạo nên sức mạnh chiến thắng quân Mỹ. về lãnh đạo chỉ huy trung đoàn, chúng ta phải rút kinh nghiệm ngay không để xảy ra những trường hợp tương tự trong những trận chiến đấu tới.


(1) Khẩu súng thượng liên trên, anh em đại đội 1 gọi đó là “khẩu thượng liên thần” bởi lẽ nó bắn rất chính xác, nó đã theo Tài tham gia nhiều trận chiến đấu sau này diệt hàng chục tên Mỹ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2019, 10:21:45 am
Khuyết điểm thứ ba, công tác giáo dục và tổ chức cho bộ đội ý thức thu hồi chiến lợi phẩm, nhất là vũ khí trang bị chưa đầy đủ. Chưa tận dụng lấy vũ khí địch để diệt địch, còn nặng về lấy thức ăn. Có đồng chí đang đánh nhau vẫn ngồi ăn. Lại có anh em diệt địch xong, lấy thuốc lá vừa hút vừa xông lên đánh tiếp.

Khuyết điểm thứ tư, công tác củng cố bộ đội sau từng trận đánh rất chậm. Chưa chú trọng làm công tác tư tưởng cũng như công tác cổ vũ chiến trường. Nhiều gương chiến đấu tốt không được nêu gương học tập như trường hợp đồng chí Trần Văn Đắc đại đội 6 tiểu đoàn 8 bị thương do bom na-pan và bị địch bắt. Anh nghĩ cách làm cho địch không đưa đi được, lợi dụng sơ hở rút lựu đạn diệt hai Mỹ, phá hủy chiếc trực thăng rồi lẩn vào rừng, ba ngày sau anh em mới tìm thấy. Lê Khắc Nga, Lê Văn Điều diệt 22 tên Mỹ nêu kỷ lục Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú đầu tiên của chiến trường cũng chưa được kịp thời nêu gương để cán bộ chiến sĩ trong trung đoàn học tập.

Hội nghị dành nhiều thời gian thảo luận việc xây dựng đơn vị cả về tư tưởng và tổ chức. Mọi người đều thống nhất cho rằng trong những trận chiến đấu vừa qua, bằng nhiều việc làm sinh động cụ thể, thiết thực của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trước và trong chiến đấu đã thực sự góp phần quyết định xây dựng quyết tâm đánh Mỹ cho bộ đội. Chúng ta đã làm khá tốt công tác lãnh đạo xây dựng tinh thần dám đánh và quyết thắng quân Mỹ; đồng thời xây dựng tinh thần đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, cũng như vấn đề đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực cả trong nhận thức tư tưởng và hành động. Từ những kinh nghiệm bước đầu trong chiến đấu, hội nghị cho rằng nhiệm vụ trước mắt hiện nay của trung đoàn cần tập trung làm cho bộ đội nhận rõ ý nghĩa thắng lợi của ta, giải quyết cho được những vướng mắc trong tâm tư cán bộ chiến sĩ. Một số anh em cho rằng ta thắng rất lớn, chiến trường ngổn ngang xác Mỹ nhưng cũng không ít anh em mình nằm lại ở dó. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề tư tưởng và nhận thức cho anh em không thể nôn nóng áp đặt. Phải làm thận trọng từng bước, làm bước nào chắc bước đó, trước hết phải làm tốt trong cán bộ, đảng viên, từ đó làm nòng cốt xây dựng đơn vị.

Về phần mình, thay mặt Bộ tư lệnh tiền phương Mặt trận tôi nói:

- Các đồng chí đã tự kiểm điểm rút kinh nghiệm khá sâu sắc, vấn đề còn lại là việc triển khai tổ chức thực hiện. Trước khi các đồng chí ra về tôi nói thêm một số vấn đề:

Thứ nhất, chiến thắng Plây Me - Ia Đrăng là trận phủ đầu quân Mỹ ở Tây Nguyên. Lần đầu tiên trên chiến trường ta tiêu diệt một chiến đoàn quân ngụy và một tiểu đoàn quân Mỹ. Thắng lợi tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ là cái mốc lịch sử của quân và dân Tày Nguyên. Trong những trận chiến đấu với quân Mỹ ta chỉ có vũ khí bộ binh, quân Mỹ có pháo binh, có máy bay trực thăng, phản lực và cả máy bay chiến lược B52. Nêu chiến tranh là sự đối chọi giữ con người và con người thì trong trận Ia Đrăng sự đối chọi đó đâ diỗn ra trực diện giữa chiến sĩ ta với lính Mỹ. Khí phách anh hùng của chiến sĩ ta hoàn toàn áp đào tinh thần quân Mỹ. Chiến thắng Ia Đrăng đã làm cho ta lớn lên về tầm nhìn và sự suy nghĩ. Trước chiến dịch có những băn khoăn: Quân Mỹ vào ta có đánh được không ? Quân Mỹ vào ta tiến công hay phòng ngự ? Nhưng Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận hạ quyết tâm: “Trước hết phải dám đánh Mỹ, cứ đánh khắc tìm ra cách đánh”. Như vậy, theo tôi bài học lớn nhất của trận Ia Đrăng là bài học dám đánh và quyết thắng Mỹ. Các đồng chí cần giáo dục tinh thần này đôi với từng cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn.

Vấn đề thứ hai, chúng ta đang bước vào một thời kỳ chiến đấu rất quyết liệt, đòi hỏi từng cán bộ, chiến sĩ mài sắc cảnh giác giữ vững quyết tâm, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hăng hái chủ động, anh dũng diệt địch, không ngại lâu dài và gian khổ, không ngại ác liệt, không sợ hy sinh và chỉ qua cuộc chiến đấu quyết liệt đó chúng ta mới giành được thắng lợi và chắc chắn giành được thắng lợi to lớn hơn. Trong tình hình hiện nay, chúng ta phải làm cho bộ đội nắm vững phương châm đánh lâu dài, đồng thời tích cực tạo và tranh thủ thời cơ đánh thắng địch trong thời gian tương đối ngắn. Trước mắt, các đồng chí cần nắm vững hai nhiệm vụ chù yếu mà Quân ủy Trung ương giao cho quân và dân Tây Nguyên là: Tiêu diệt quân địch cả Mỹ và ngụy làm chủ đại bộ phận rừng nui Tây Nguyên. Trên cơ sở đó mà duy trì thế liên tục tiến công. Hai nhiệm vụ trên thực hiện tốt hay không phụ thuộc vào công tác tư tưởng và công tác tổ chức của chúng ta. Sau chiến đấu sức lực suy giảm, quân số thương vong của các đơn vị khá cao sẽ ảnh hưởng lớn đến tư tưởng bộ đội. Mặt khác công tác bảo đảm hậu cần của chung ta đang gập khó khăn, bộ đội có thể thiếu đói, bệnh tật bắt đầu phát triển, nhất là bệnh sốt rét. Như vậy công tác đảng, công chính trị càng khó khăn phức tạp hơn, đòi hỏi trong lãnh đạo phải có quyết tâm, có kế hoạch cụ thể chúng ta mới có thể hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó...

*
*   *

Trên đường trở về Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, tôi suy nghĩ và tự rút ra cho mình một điều: Tất cả mọi chiến thắng ở chiến trường, mọi kỳ tích anh hùng trước hết và trực tiếp đều do những người chiến sĩ binh nhất, binh nhì, những người cán bộ phân đội làm nên dưới sự lãnh đạo vững mạnh của các tổ chức đảng mà nổi bật là vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Những con người được sự giáo dục và huấn luyện chu đáo đã phát huy ý chí quyết thắng sáng tạo làm sống lại hình ảnh bất diệt của dũng sĩ đâm lê Hoàng Văn Nô và người anh hùng lấy thân mình làm giá súng Bế Văn Đàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây. Đối với những người lính Mỹ được ném vào cuộc chiến ở thung lũng Ia Đrăng may mắn thoát chết, họ chắc không thể nào quên trận đánh đẫm máu ấy với những đường lê sáng quắc của người chiến sĩ Tây Nguyên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:12:11 pm
III

CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG TẠO THẾ CHIẾN TRƯỜNG

Sau chiến thắng Plây Me - Ia Đrăng, một phần do tính chất ác liệt của cuộc chiến, thương vong của quân ta cao(1), một phần do sau một thời gian hành quân liên tục dài ngày đến chiến trường bước vào chiến đấu ngay nên bộ đội xuống sức rất nhanh. Thêm vào đó ăn uống kham khổ, thuốc men thiêu thôn, bộ đội bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng, bệnh tật phát triển, nhất là bệnh tê phù và sốt rét ác tính. Quân số chiến đấu các đơn vị chỉ còn một nửa. Có trung đoàn số anh em sốt rét, tê phù lên đến 400 người. Cá biệt có đại đội 115 người chỉ còn 33 người tương đối khỏe. Bệnh xá các trung đoàn tỷ lệ thương binh: 4, bệnh binh: 1. Kẻ địch lợi dụng tình hình trên ngày đêm cho máy bay L19, OV10 thả truyền đơn trắng rừng và dùng loa công suất lớn ra rả kêu gọi chiến sĩ ta “chiêu hồi” với những luận điệu thâm độc vừa dụ dỗ vừa hăm dọa như: “Hỡi các bạn cán binh Bắc Việt, các bạn có thể sinh ra ở Bắc để chết ở Nam không ? Các bạn hãy mau mau trở về với chánh nghĩa quốc gia, các bạn sẽ được đối xử tử tế”. Đêm đêm chúng sử dụng cả tiếng trẻ con khóc, tiếng chó sủa, lợn kêu để gợi nhớ quê hương gia đình hòng lung lạc tinh thần bộ đội ta.

Những vấn đề trên đã tác động không nhỏ đến tư tưởng bộ đội. Ở các đơn vị bao trùm không khí trầm trầm, có nơi nặng nề. Mọi người tỏ ra mệt mỏi, ngán ngẩm. Khi ăn cơm thấy đồng đội vợi hẳn, nhiều anh em khóc. Một số đơn vị có đến hai phần ba số quân suốt ngày nằm võng, bàn tán đủ chuyện tiêu cực. Có người mặt mũi bẩn thỉu, ở gần suối cũng không chịu rửa. Có những lá thư gửi về gia đình khẳng định rằng trước sau gì rồi mình cũng thương vong, không vì đạn thẳng thì cũng vì pháo và bom địch, không vì đói thì cũng vì sốt rét ác tính. Nhiều nơi xuất hiện những câu ca tiêu cực bi hài như:

      Tây Nguyên đi dễ khó về
      Thiếu gạo, thiếu muối tái tê lòng người


hay:

      Tây Nguyên thiếu muối, thiếu rau
      Ốm đau thiếu thuốc thương nhau làm gì!


Chua chát hơn, bi quan hơn có người cho mình như con cua nằm trong cái coóng sớm muộn gì rồi cũng chết:

      Con cua nằm trong cái coóng
      Chẳng biết lúc nào cái chày nó giã lên mai,...

Tôi còn được nghe kể lại những hiện tượng sống gấp. Anh em nói với nhau: “Có mà không ăn là có tội với dạ dày”, nên cơm tiêu chuẩn hai ngày họ ăn một bữa. Rồi khi thấy máy bay quần lượn nảy ra trò: “máy bay bay một vòng đổ một thìa đường vào miệng, máy bay bay hai vòng đổ hai thìa đường vào miệng, máy bay bay ba vòng đổ ào vào miệng”, v.v... Trong khi đó một số cán bộ có hành động quân phiệt gây nên trạng thái tâm lý căng thẳng giữa cán bộ và chiến sĩ làm không khí đoàn kết thương yêu, sống chết cùng nhau bị giảm sút. Chiến sĩ không thiết tha gắn bó với đơn vị, không nghe lời cán bộ. Chỉ huy quát mắng chiến sĩ càng không nghe, đưa chiến sĩ đến chỗ bị động. Do đấu tranh kém, ý thức tự tôn, tự trọng kém dẫn đến một số làm ngơ và đồng tình trước những vi phạm phẩm chất, khí tiết: ăn cắp của nhau, lấy chuối, bắt gà của dân, đi lại, bắn súng bừa bãi. Lối sống thực dụng bè tha phóng uế bừa bãi nơi trú quân phát triển.

Diễn biến tâm lý của chiến sĩ xoay quanh:

Ba lo: Lo bom giặc, lo đạn giặc, lo ốm bệnh.

Hai ngán: Ngán chiến trường Tây Nguyên, ngán lâu dài.

Một bực: Bực cán bộ ăn ở bạc bẽo, quân phiệt.

Nghiêm trọng hơn, trong cán bộ và chiến sĩ xuất hiện tư tưởng ngại hy sinh gian khổ, thực chất là dao động, giảm sút ý chí chiến đấu.


(1) Từ 19 tháng 10 đến 26 tháng 11 năm 1965, trung đoàn 320 hy sinh 166, bị thương 197; trung đoàn 33 hy sinh 170, bị thương 232, trung đoàn 66 hy sinh 208. bị thương 146.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:12:39 pm
Tôi còn nhớ ngày 7 tháng 12 năm 1965, cơ quan chính trị mặt trận tổ chức gặp mặt một số dũng sĩ diệt Mỹ của trung đoàn 66 trong trận Ia Đrăng, đó là: Tô Văn Đan, chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 7; Hứa Văn Kính, chiến sĩ tiểu đội 6 trung đội 2 đại đội 2 tiểu đoàn 7; Lê Khắc Nga, tiểu đội trưởng đại đội 6 tiểu đoàn 8; Phạm Văn Phán, đại đội 7 tiểu đoàn 8, v.v... Khi anh em này đến cơ quan chính trị mặt trận trời đã về chiều. Chúng tôi cho anh em nghỉ ngơi, tắm giặt, sáng hôm sau làm việc. Chiều hôm đó anh Chu Huy Mân và tôi mời cơm số anh em này. Bữa cơm khá thịnh soạn, có thịt gà và cơm gạo nương (đồng bào vừa tặng). Tôi quan sát anh em ăn ngon lành, mọi người cười nói vui vẻ...

Sáng hôm sau, đồng chí trợ lý thi đua chạy đến vừa thở vừa báo cáo với tôi là có một “dũng sĩ” đã đào ngũ.

Tôi hỏi lại:

- Tên cậu ta là gì ?

Đồng chí trợ lý thi đua:

- Báo cáo thủ trưởng, đồng chí ấy tên là N.T.C., người đã diệt 12 tên Mỹ bằng lưỡi lê và súng AK trong trận ngày 14 tháng 11.

- Đồng chí có biết cậu ta đi vào quãng thời gian nào không - Tôi hỏi.

- Báo cáo thủ trưởng, chắc là vào khoảng từ 10 giờ 30 phút đêm trở đi. Vì lúc 10 giờ tôi còn đi một lượt xem anh em ngủ nghỉ ra sao, vẫn thấy đủ cả, mọi người đang nói cười khúc khích. Thế mà sáng ra anh em gọi nhau dậy, tăng võng của C vẫn còn nguyên, tưởng cậu ta đi vệ sinh, nhưng khi kiểm tra ba lô, súng đạn không thấy, anh em đều cho rằng cậu ấy đã “nghi binh” họ để đào ngũ rồi...

Ngay sau đó tôi báo cáo anh Chu Huy Mân về trường hợp của C. Nghe xong anh nói:

- Cậu ta còn trẻ, nông nổi, tâm lý chưa ổn định. Chắc cậu ta hồi tưởng cảnh ác liệt nên hoang mang. Anh cho một cán bộ và một vệ binh theo đường giao liên ra Bắc tìm bằng được cậu ta về. Chắc cậu ấy chưa đi xa đâu. Nhớ dặn anh em tuyệt dối không được mắng mỏ dọa nạt, phải ân cần động viên cậu ấy...

Ít ngày sau anh em đã gặp C bên bờ nam sông Bạc và đã động viên cậu ấy trở lại đơn vị. Trước tình hình trên, Đảng ủy Mặt trận chủ trương tiến hành củng cố bộ đội toàn diện. Trước hết tập trung củng cố ý chí chiến đấu, phẩm chất khí tiết, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ đến cùng.

Thực hiện chủ trương trên, từ ngày 25 tháng 12 năm 1965 đến ngày 5 tháng 1 năm 1966, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức lớp chỉnh huấn chính trị đầu tiên cho 166 cán bộ trung cao cấp trong toàn mặt trận, trong đó có 13 cán bộ trung đoàn, 29 cán bộ tiểu đoàn, 124 cán bộ thuộc các cơ quan trung đoàn và mặt trận.

Nội dung của đợt chỉnh huấn chính trị lần này chúng tôi tập trung quán triệt tình hình cách mạng miền Nam nói chung và tình hình chiến trường Tây Nguyên nói riêng với chủ đề: Nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, nỗ lực hoàn thành quyết tâm chiến lược của Đảng. Nội dung thứ hai, học tập truyền thống và bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Qua đó mỗi người tự liên hệ kiểm điểm Trong quá trình học tập cán bộ còn được nghe bài viết của đồng chí Trường Sơn (bút danh của đại tướng Nguyễn Chí Thanh) nghe bác sĩ phòng dịch nói về cách phòng và chống bệnh sốt rét cuối cùng là bồi dưỡng để tổ chức học tập cho cán bộ sơ cấp và chiến sĩ ở đơn vị cơ sở.

Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận xác định mục tiêu của đợt sinh hoạt chính trị này như sau: Một là, xây dựng ý chí chiến đấu và phẩm chất khí tiết cách mạng trong sáng, chống tư tưởng sợ hy sinh ác liệt, ngại chiến tranh lâu dài, gian khổ. Hai là, xây dựng tính tổ chức, kỷ luật cao trong chấp hành mệnh lệnh chiến đấu và chấp hành chính sách thương binh tử sĩ, tôn trọng tài sản của nhân dân, chống tự do vô kỷ luật. Ba là, xây dựng quan điểm cần, kiệm, tự lực cánh sinh và quan điểm quần chúng, chống tham ô, lãng phí, tác phong quan liêu, gia trưởng, qua loa, tắc trách, ảnh hưởng xấu đến nhiệm vụ, đến quan hệ cán binh, quan hệ quân dân. Bốn là, xây dựng tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa, lạc quan vui tươi lành mạnh trước mọi khó khăn gian khổ, chống tư tưởng bi quan, sinh hoạt lỏng lẻo, sống gấp, thói quân phiệt bạc bẽo với chiến sĩ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:13:04 pm
Chúng tôi chủ trương phát động tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ nói hết tâm tư vướng mắc của mình, qua đó trao đổi cùng nhau giải quyết. Đối với cán bộ trung cao cấp phải đề cao tự phê bình và phê bình, mỗi người phải làm bản kiểm điểm nêu rõ ưu điểm và những quan điểm nhận thức sai, những hành động trái với truyền thống và bản chất cách mạng của quân đội ta. Đối với chiến sĩ, cán bọ không phê bình mà phát động tự phê bình là chính, kết hợp phê bình lẫn nhau và cùng nhau đưa ra phương hướng phấn đấu rèn luyện, đặc biệt chú trọng nêu gương chiến đấu dũng cảm, vượt qua khó khăn trong xây dựng và huấn luyện. Sau đó phát động căm thù giặc Mỹ xâm lược đã gây tội ác dối với nhân dân hai miền Nam -Bắc, đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và đối với cán bộ chiến sĩ ta.

Đây là đợt học tập tập trung lớn đầu tiên đối với cán bộ trung cao cấp toàn mặt trận. Một cuộc sinh hoạt chính trị nghiêm túc và sâu sắc, một cuộc đấu tranh không khoan nhượng trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, giữa một bên là tư tưởng cách mạng tiến công, quyết tâm đánh Mỹ đến cùng với một bên là tư tưởng ngại gian khổ hy sinh, dao động giảm sút ý chí chiến đấu. Những cuộc trao đổi, thảo luận, cả những cuộc tranh luận gay gắt trong cán bộ lãnh đạo chỉ huy các đơn vị để phân biệt đúng sai đã có tác dụng thiết thực, làm chuyển biến nhận thức theo chiều hướng tích cực; từ đó dần dần thống nhất được nhận thức về mối quan hệ giữa đánh lâu dài và tranh thủ thời cơ, thống nhất được nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch (chủ yếu là Mỹ) là nhiệm vụ trung tâm thường xuyên của lực lượng vũ trang trên chiến trường. Càng về cuối đợt học tập, tinh thần phấn khởi, lạc quan càng được nâng lên.

Hôm kết thúc lớp học, thay mặt cơ quan chính trị mặt trận tôi phổ biến một số nộí dung chủ yếu về công tác đảng, công tác chính trị trong thời gian trước mắt. Tôi nói:

- Vấn đề thứ nhất, về công tác đảng: Yêu cầu đặt ra đối với các đảng bộ và chi bộ là phải thực hiện nghiêm túc đã họp thì bàn kỹ, nói hết khó khăn vướng mắc, bàn cho hết lý lẽ, bàn rồi nghị quyết cho thiết thực rõ ràng, cụ thể và khi đã có nghị quyết phải làm đến nơi đến chốn. Không được bàn ra, thụt lùi, không cho phép ai được phủ định nghị quyết. Các đảng bộ và chi bộ cần tổ chức tốt cho cán bộ chủ trì và cấp ủy tự phê bình một cách nghiêm khắc trước tổ chức đảng của mình. Cán bộ trung đoàn tự phê bình trước cán bộ tiểu đoàn, cán bộ tiểu đoàn tự phê bình trước cán bộ đại đội. Cán bộ đại đội tự phê bình trước chiến sĩ.

Vấn đề thứ hai, về công tác cán bộ: Yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ đáp ứng cả về số lượng và chất lượng, cả cán bộ của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và cán bộ người dân tộc. Nhưng tình hình thực tế lúc này chưa đáp ứng yêu cầu đó. Cán bộ trung đội, đại đội tuổi đời từ 35 đến 40 chiếm 52% cán bộ tiểu đoàn tuổi đời từ 38 - 40 chiếm 58% cán bộ người dân tộc ít người mới chiếm 3%. Trước hạn chế đó, Đảng ủy Mặt trận chù trương: Tích cực đào tạo bồi dưỡng và mạnh dạn cất nhắc xây dựng một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, mạnh mẽ về chất lượng, dồi dào về thể lực, đủ sức đáp ứng yêu cầu xây dựng và tác chiến quy mô ngày càng lớn trước mắt và lâu dài, đồng thời chuẩn bị cán bộ bổ sung cho trên khi cần thiết. Các đơn vị cần tích cực khai thác nguồn cán bộ bổ sung từ dưới lên, mạnh dạn đưa cán bộ trẻ có triển vọng lên cương vị lãnh đạo chỉ huy, đồng thời chú trọng sử dụng cán bộ lâu năm có kinh nghiệm, có thành tích tạo điều kiện cho các đồng chí đó cống hiến nhiều nhất, tốt nhất cho quân đội, cho cách mạng. Các đơn vị phải lấy việc tự lực giải quyết cán bộ tại đơn vị mình là chính, không chờ đợi ỷ lại bổ sung của trên, phải tận dụng hết khả năng cán bộ sẵn có.

Các cấp ủy đảng phải nắm vững đường lối giai cấp trong công tác cán bộ, vận dụng đúng tiêu chuẩn đức tài trong khi bổ nhiệm, đề bạt và đào tạo. Hết sức coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, trước nhất là ý chí chiến đấu, quan điểm lập trường và tình cảm cách mạng, đồng thời coi trọng bồi dưỡng năng lực toàn diện. Phương châm bồi dưỡng lấy học tập tại chức là chủ yếu, học ở trường là quan trọng. Phải lấy việc rèn luyện qua thực tế chiến đấu, công tác, lấy việc rút kinh nghiệm kịp thời làm biện pháp chính. Kết hợp với việc tập huấn, chỉnh huấn, bồi dưỡng ngắn hạn, lấy các sinh hoạt đảng, sinh hoạt đoàn, qua tự phê bình và phê bình mà rèn luyện cán bộ. Sắp tới Mặt trận sẽ tổ chức trường quân chính, các đơn vị chọn và cử số dũng sĩ diệt Mỹ và những anh em chiến sĩ, cán bộ tiểu đội chiến đấu tốt về trường đào tạo cán bộ trung đội, đại đội.

Vấn đề thứ ba, về xây dựng đơn vị: Muốn tăng cường công tác xây dựng đơn vị cơ sở (tôi muốn nói đơn vi cơ sở là đại đội) điều quan trọng đầu tiên là phải xem xét đánh giá thật đúng đắn tình hình mọi mặt ở đại đội. Vậy đánh giá như thế nào cho đúng? Trước hết lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải có phương pháp xem xét đúng, nắm chắc các quan điểm quần chúng, quan điểm phát triển, phải có tác phong sâu sát, nhưng như thế chưa đủ mà còn phải biết hướng cách xem xét vào hoạt động thực tiễn ở đại đội, nhất là chiến đấu ác liệt để kiểm tra xem xét đại đội ấy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:13:23 pm
Nhiệm vụ chủ yếu của đại đội là chiến đấu, tất thảy mọi công tác đại đội làm trong xây dựng đều nhằm chiến đấu thắng lợi. Chỉ có trải qua chiến đấu mới có cơ sở chắc chắn để đánh giá đúng đắn chất lượng một đại đội.

Tình hình đơn vị hiện nay, như các đồng chí đã tự kiểm điểm, lỗi không phải ở chiến sĩ, mà chủ yếu do trách nhiệm chính trị của cán bộ các cấp buông lơi vai trò lãnh đạo chỉ huy của mình. Trong khó khăn thiếu thốn không gương mẫu, thiếu sự đồng cam cộng khổ và tình thương yêu chiến sĩ dẫn đến uy tín bị giảm. Nếu cán bộ các cấp chúng ta khắc phục những khuyết điểm trên, thành thực tự phê bình trước cấp dưới và chiến sĩ, chúng ta nhất định sẽ lấy lại sự tin yêu của cấp dưới và chiến sĩ.

Trước mắt, đề nghị các đồng chí sau hội nghị này về bắt tay ngay vào tổ chức sinh hoạt chính trị ở đơn vị mình, thực hiện phương châm học đến đâu chuyển biến ngay đến đó. Phát động phong trào nuôi quân phòng bệnh, giáo dục cán bộ, chiến sĩ tinh thần yêu thương, đùm bọc chăm sóc nhau, xây dựng lán trại, công trình vệ sinh làm cho đơn vị thực sự trở thành gia đình lớn. Mỗi trung đoàn nên tập trung làm thí điểm một đại đội điển hình về mọi mặt, sau đó tổ chức các đơn vị bạn tham quan học tập, từ đó mà nhân lên thành nhiều đại đội mạnh. Theo chúng tôi, các trung đoàn và các tiểu đoàn trực thuộc cần xây dựng cho mình một căn cứ hậu phương ổn định, thiết lập kho tàng, bệnh xá, khu tăng gia sản  xuất và cơ sở an dưỡng cho cán bộ. Đây chính là hậu phương trực tiếp của các đơn vị. Chúng tôi đề nghị cơ quan tham mưu mặt trận cần khoanh khu vực xây dựng hậu cứ cho các đơn vị...

Có một chi tiết tôi không thể nào quên, đó là vào lúc kết thúc chỉnh huấn chính trị, anh Chu Huy Mân, tay cầm một tập giấy khá dày giơ lên, rồi nói:

- Đây là những bản kiểm điểm của các đồng chí, tôi đọc và thấy các đồng chí đã tự phê bình một cách nghiêm khắc trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng và mỗi người đều có phương hướng phấn đấu cụ thể, thiết thực nên không cần phải giữ lại nó nữa. Tôi tuyên bố đốt tất cả những bản kiểm điểm này.

Nói rồi anh tự tay châm lửa đốt. Đợi cho tờ giấy cuối cùng cháy thành tro, anh Chu Huy Mân mời chính ủy ba trung đoàn 66, 33 320 lên rồi trao cho mỗi đồng chí một sợi dây thừng để trói tù binh Mỹ, trong tiếng vỗ tay vang dậy cả một cánh rừng.

Với tất cả sự thanh thản đó, toàn mặt trận bước vào trận chiến đấu mới.

Ngay sau khi kết thúc đợt chỉnh huấn chính trị ở Bộ tư lệnh Mặt trận, lãnh đạo chỉ huy các đơn vị ra về bắt tay ngay vào củng cố xây dựng đơn vị. Cơ quan chính trị mặt trận chúng tôi cử nhiều cán bộ đi cùng để giúp các đơn vị tiến hành cuộc chỉnh huấn chính trị ở đơn vị cơ sở. Với nhuệ khí mới và quyết tâm mới, các đơn vị tổ chức chặt chẽ, kết hợp học đến đâu chuyển biến ngay đến đó. Cán bộ từng cấp thực hành tự phê bình trước cấp dưới và chiến sĩ một cách chân thành, thẳng thắn. Mặt khác, hầu hết cán bộ từ trung đội đến trung đoàn theo cương vị chức trách của mình đã tự đấu tranh để vượt lên chính mình giữ vững phẩm chất khí tiết, đói no thiếu thốn cùng nhau chia sẻ. Tính đến cuối tháng 1 năm 1966, 100% các đơn vị trong toàn mặt trận có lán trại, sàn nằm và chỗ ở phong quang. Chúng tôi đến đơn vị nào cũng thấy khẩu hiệu hành động như: “Sạch doanh trại, gọn chỗ nằm, quang chỗ ở”.

Tuy tiêu chuẩn ăn của bộ đội không tăng nhưng các đơn vị bảo đảm ăn đều, sạch và nóng. Các đơn vị ở phía sau tổ chức bộ đội tập thể dục tạo không khí vui vẻ, phấn khởi cho bộ đội. Phong trào vệ sinh phòng bệnh, trật tự nội vụ gọn gàng trở thành tự giác của mỗi người. Cán bộ đã làm gương tốt cho chiến sĩ noi theo, dần dần đưa bộ đội trở lại tham gia học tập chính trị, huấn luyện quân sự và sẵn sàng chiến đấu tốt hơn. Các đơn vị đều tổ chức cho bộ đội làm hầm trú ẩn, hầm cho vũ khí trang bị và công sự chiến đấu tại chỗ. Đơn vị nào cũng lập đài quan sát phát hiện địch từ xa và có bộ phận canh gác, cảnh giới. Những đơn vị làm nhiệm vụ trực chiến súng đạn luôn bên người và được lau chùi sạch sẽ, gọn gàng, khi có lệnh là đi được ngay.

Sau đợt chỉnh huấn chính trị, sâu rộng trong toàn mặt trận, tình hình chung ở các đơn vị đã có sự chuyển biến cơ bản trên các mặt, nhất là về chính trị, tư tưởng. Tuyệt đại bộ phận cán bộ và chiến sĩ nhận rõ nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam là để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:13:56 pm
*
*   *

Đi đôi với công tác chính trị tư tưởng, một vấn đề rất quan trọng được đặt ra ở thời điểm này là phải khẩn trương nâng cao chất lượng và sức chiến đấu cho bộ đội theo kịp sự phát triển của chiến tranh, không ngừng bổ sung những điểm mới vào nội dung chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu cho bô đội.

Các đơn vị chủ lực của ta được huấn luyện và xây dựng từ ngoài Bắc đưa vào chiến trường. Do vậy, đại bộ phận cán bộ cơ sở được huấn luyện qua các trường nên trình độ kỹ thuật chiến thuật cơ bản tốt. Trước khi vào chiến trường các đơn vị đều được huấn luyện bổ sung các chiến thuật phục kích, công kiên, tập kích theo những kinh nghiệm tác chiến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong “chiến tranh đặc biệt” đối tượng tác chiến là quân ngụy, những kinh nghiệm và những chiến thuật trên đã phát huy tác dụng tốt. Ví như trận công kiên đồn Đắc Xút của trung đoàn 101 trận đánh phục kích trên đường 21 của trung đoàn 320 đều đạt hiệu suất cao.

Nhưng bước vào đánh Mỹ, đối tượng tác chiến thay đổi, hỏa lực phi pháo của địch mạnh hơn nhiều, sự cơ động bằng trực thăng của quân Mỹ xuất hiện đã làm thay đổi cơ bản về thủ đoạn chiến thuật cũng như thủ đoạn chiến dịch. Trận Plây Me ta đánh thắng Mỹ chủ yếu là ta thắng về tinh thần dám đánh và quyết thắng nhưng về cách đánh Mỹ, về chiến thuật và chiến dịch ta còn rất nhiều bỡ ngỡ.

Để nâng cao hiệu suất tiêu diệt địch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh đã đặt vấn đề phải huấn luyện cho cán bộ cả về nghệ thuật chiến dịch lẫn chiến thuật.

Về nghệ thuật chiến dịch, Bộ tư lệnh Mặt trận cho rằng trong thời kỳ quân Mỹ mới lên Tây Nguyên tiến hành phản công chiến lược, chúng lấy “tìm diệt” làm mục đích chính. Khi hành quân, ỷ vào quân đông, hỏa lực mạnh, nên quân Mỹ dùng hành động phản kích làm thủ đoạn cơ bản về chiến dịch.

Để đánh bại địch về chiến dịch, Bộ tư lệnh Mặt trận xác định hình thức nghệ thuật của ta là nghệ thuật chiến dịch vận động tấn công với tư tưởng đánh tiêu diệt, theo hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn. cần nói thêm là tư tưởng này được quán triệt suốt trong quá trình xây dựng và chiến đấu của khối chu lực Tây Nguyên.

Đầu năm 1966, Bộ tư lệnh Mặt trận mở lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch tiến công cho cán bộ trung đoàn và sư đoàn nhằm làm cho cán bộ chỉ huy biết tổ chức thế trận có chiều sâu (thế trận hình bậc thang, để chống chiến thuật “nhảy cóc” của Mỹ) dùng mưu kế lừa địch, đánh trận then chốt quyết định để kết thúc chiến dịch.

Về chiến thuật, thực tiễn chiến đấu với quân Mỹ cho thấy trong hành quân chúng thường xuất hiện hai phương pháp: hành quân bộ và đổ bộ bằng trực thăng.

Đặc điểm hành quân bộ của quân Mỹ ở Tây Nguyên khác với quân đội Pháp. Quân Mỹ ít đi theo trục đường mà thường cắt rừng theo góc phương vị để đến nơi đã định. Khi đổ bộ bằng máy bay trực thăng, lúc đầu chúng lợi dụng những bãi trống, nhưng bị quân ta phục kích đánh, nên sau đó quân Mỹ dùng bom phát quang dọn bãi rồi đổ quân. Đội hình hành quân hoặc trú quân của Mỷ phổ biến là từng đại đội. Mỗi đại đội là một mũi hành quân đồng thời cũng là một điểm đóng quân.

Từ thủ đoạn chiến thuật của quân Mỹ như vậy, muốn diệt chúng ta phải nghiên cứu và phát triển hình thức chiến thuật cho phù hợp với đối tượng mới. Tôi còn nhớ ngày ấy Tư lệnh và cơ quan tham mưu mặt trận đã dành nhiều đêm soạn thảo tài liệu huấn luyện cán bộ chiến sĩ tập trung vào mấy chiến thuật: chiến thuật vận động tiến công, chiến thuật chốt kết hợp vận động nhằm tiêu diệt quân địch đang hành quân; chiến thuật tập kích nhằm tiêu diệt quân địch trú quân hoặc co cụm; chiến thuật đánh quân đổ bộ đường không nhằm tiêu diệt quân địch đổ bộ trực thăng. Cơ quan chính trị chúng tôi cũng khẩn trương chuẩn bị tài liệu công tác đảng, công tác chính trị trong huấn luyện bộ đội.

Như trên đã nói, chỗ mạnh về quân số và vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự của quân Mỹ đã làm tăng thêm tính chất ác liệt trong chiến đấu, ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý bộ đội, ảnh hưởng đến tổ chức và phương pháp tác chiến chiến dịch lẫn chiến thuật của ta. Từ thực tế đó đặt ra cho công tác đảng, công tác chính trị trong huấn luyện chiến đấu những câu hỏi đại thể: Làm thế nào để phát huy cao độ yếu tố chính trị tinh thần của ta, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng quân Mỹ. Địch nham hiểm xảo quyệt, lại có nhiều phương tiện trinh sát, truyền tin kỹ thuật hiện đại nên ta phải làm thế nào giữ được bí mật bất ngờ chống phá có hiệu quả mọi thù đoạn chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý tác động, xâm nhập vào bộ đội ta. Quân Mỹ có hỏa lực phi pháo mạnh (kế cà máy bay chiến lược B52), ta phải làm thế nào để han chế tác dụng đánh phá của địch, giảm thấp thương vong của ta ? Đánh lớn, đánh liên tục dài ngày khó tránh khỏi thương vong nên việc chấn chỉnh củng cố tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng đòi hỏi phải giải quyết thường xuyên, kịp thời, vì vậy phải làm thế nào để đáp ứng yêu cầu đó, v.v...

Những vấn đề trên đã được phát động để mọi cán bộ chiến sĩ tìm lời giải đáp ngay trong quá trình huấn luyện; đặc biệt xây dựng phẩm chất chính trị, tinh thần cho bộ đội là công việc thường xuyên, hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức Đảng, của công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị. Nhờ làm tốt công tác này ta đã góp phần tạo nên bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong cuộc chiến đấu Xuân Hè 1966.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:14:41 pm
*
*   *

Từ sau Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta tháng 5 năm 1965, tình hình miền Nam biến chuyển rất nhanh. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ sụp đổ, nhưng Nhà Trắng và Lầu Năm Góc vẫn ngoan cố ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam nước ta. Tính đến tháng 12 năm 1965, lực lượng quân Mỹ và chư hầu ở miền Nam đã lên tới 20 vạn tên, chưa kể 7 vạn lính hải quân và không quân Mỹ trên các căn cứ của Mỹ ở Gu-am, Phi-líp-pin, Thái Lan và hạm đội 7 cũng trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Lực lượng quân Mỹ đưa vào miền Nam chiếm tới một phân năm bộ binh, một phần ba số máy bay chiến đấu và một phân tư số hàng không mẫu hạm của Mỹ. Ban Chấp hành Trung ương xác định dù Mỹ có đưa quân vào miền Nam bao nhiêu đi nữa thì vẫn là chiến tranh xâm lược kiểu mới. Do đó ngụy quân, ngụy quyền vẫn có vai trò quan trọng. Như vậy, đối tượng tác chiến của quân và dân ta ở miền Nam là cả Mỹ và ngụy. Tôi còn nhớ đồng chí Lê Duẩn nói: Mỹ có thể lúc nào đó chịu rút quân, nhưng ngụy vẫn tồn tại, không có ngụy thì Mỹ không thể vào được miền Nam ta, nhưng không có Mỹ thì quân ngụy sẽ tan rã nhanh.

Mỹ vào đông tuy có làm thay đổi về tương quan lực lượng, nhưng vẫn có lợi cho ta. Mặc dù quân Mỹ có 46 tiểu đoàn, quân ngụy có 150 tiểu đoàn, trong khi đó quân Mỹ phải đóng 96 cứ điểm, quân ngụy phải phân tán hơn 3.000 đồn bốt và căn cứ. Do vậy dù tăng đến 20 vạn nhưng quân Mỹ vẫn không có lực lượng cơ động. Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 dự định là lực lượng cơ động, trên thực tế sư đoàn này cũng chỉ sử dụng được một lữ đoàn. Một vấn đề rất quan trọng là chủ trương chiến lược cũng như chủ trương tác chiến của những người trong cơ quan lãnh đạo nước Mỹ bộc lộ nhiều điểm vừa mâu thuẫn vừa không nhất quán, ví như đánh lâu dài hay đánh nhanh thắng nhanh, phân tán hay tập trung, cơ động hay chiếm đất, v.v... Mặt khác về vũ khí trang bị của quân Mỹ cũng chưa thích hợp. Vũ khí sản xuất để sử dụng ở chiến trường châu Âu nay phải tung ra dùng ở vùng nhiệt đới châu Á nên tác dụng hạn chế mà tổn phí lớn. Điều đó chứng tỏ Mỹ chưa có sự chuẩn bị đầy đủ cho chiến trường này. Vì vậy, họ đã phải cử sang Việt Nam mấy trăm nhà khoa học để nghiên cứu từ vải mặc, màu sắc đến việc bảo quản vũ khí, lương thực, thuốc chữa bệnh sốt rét, thuốc chống côn trùng và rắn độc ở miền nhiệt đới. Một vấn đề nan giải khác là việc tiếp tế cho quân chiến đấu Mỹ. Cứ một lính Mỹ một ngày cần 29 kg và lính ngụy cần 7 kg từ lương thực thuốc men, nước uống đến vũ khí đạn dược... Trong khi đó chúng gặp không ít khó khăn về phương tiện, bến bãi, kho tàng, lực lượng bốc xếp và lực lượng bảo vệ từ cảng về các vị trí đóng quân. Như vậy, khả năng tăng quân chiến đấu của Mỹ và chư hầu không phải là vô giới hạn, bởi nếu tăng 40 vạn quân thì chúng phải giải quyết khâu vận chuyển với khối lượng khổng lồ.

Trước tình hình trên, ngày 27 tháng 12 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 12 định ra nhiệm vụ: Động viên lực lượng của cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Và xác định: Nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của cả nhân dân ta từ Nam chí Bắc. vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta lúc đó là phải tập trung lực lượng của cả nước kiên quyết đánh địch và thắng địch trên chiến trường chính miền Nam. Ta chủ trương kiên trì phương châm ra sức hạn chế cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó là thắng địch một cách có lợi nhất cho cách mạng nước ta và cách mạng thế giới; tiếp tục phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính.trị, thực hiện ba mũi giáp công, trong đó đòn quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng, nhưng đấu tranh quân sự chỉ thu được kết quả lớn nhất nếu nó được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Ta cố gắng cao độ để tranh thủ thời cơ tăng cường lực lượng về mọi mặt, chủ động liên tiếp tiến công địch, tiêu diệt tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, do đó mà đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Mặt khác chúng ta vẫn phải ra sức chuẩn bị để thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài và mở rộng ra cả nước. Chúng ta cũng cần hết sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và viện trợ quốc tế, một nhân tố góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân ta, do đó cần đẩy mạnh đấu tranh chính trị ngoại giao.

Tôi còn nhớ Nghị quyết lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương đã ra lời kêu gọi: Chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà, một cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cống hiến vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do đó trong giai đoạn lịch sử quang vinh này của Tổ quốc, chúng ta phải có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào.

Đáp lời kêu gọi của Đảng, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc bừng bừng khí thế thi đua quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Trên chiến trường Tây Nguyên, Đảng ủy Mặt trận kịp thời đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên là kiên định lập trường, vượt qua khó khăn, vượt qua ác liệt đánh thật nhanh, mạnh, liên tục, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ và quân chủ lực ngụy, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng diệt kím, phá ấp, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh đấu tranh chính trị, củng cố căn cứ địa hậu phương trực tiếp của chiến trường. Trên cơ sở sự chi viện của hậu phương lớn, nhiệm vụ đó đặt ra cho đảng bộ và lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên phải nỗ lực vượt bậc chạy đua với thời gian về mọi mặt để kịp thời đáp ứng yêu cầu tác chiến ngày càng lớn của chiến trường và phương hướng chiến lược của Bộ.

Tháng 12 năm 1965, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập Sư đoàn bộ binh 1 gồm các trung đoàn 33, 66, 320 là những trung đoàn đã cùng chiến đấu trong chiến dịch Plây Me - Ia Đrăng do anh Nguyễn Hữu An làm sư đoàn trưởng, anh Hoàng Thế Thiện làm chính ủy. Lực lượng pháo binh của Tây Nguyên cũng có sự phát triển mới. Ngoài lực lượng pháo cối, pháo phòng không hiện có, Bộ đã bổ sung cho Tây Nguyên tiểu đoàn cối 120 ly, tiểu đoàn 30 súng máy phòng không 12,7 ly.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:15:30 pm
Như trên tôi đã đề cập, tác chiến của các binh đoàn chủ lực có phát triển mạnh mẽ và vững chắc là phải dựa vào sự phát triển của chiến tranh du kích. Ngược lại chiến tranh phát triển đến mức đó nào đó mà không có tác chiến của các binh đoàn chủ lực hỗ trợ thí cùng khó phát triển. Đây là mối quan hệ hữu cơ giữa hai lực lượng để tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân hùng mạnh vững chắc. Để vận dụng được quy luật đẩy mạnh chiến tranh du kích phát triển cùng với chiến tranh chính quy phù hợp đặc điểm chiến trường Tây Nguyên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận xác định phải xây dựng hai khối chủ lực: khối chủ lực cơ động và khối chủ lực tại chỗ Hai khối chủ lực này sẽ cùng với lực lượng vũ trang địa phương tiến hành và đẩy mạnh chiến tranh nhân dân.

Thời gian này, lực lượng địa phương ba tỉnh đã phát triển khá mạnh. Ở Kon Tum có 1 tiểu đoàn và 6 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công, 1 đại đội pháo cối. Ở Gia Lai có 1 tiểu đoàn, 2 đại đội và 11 trung đội bộ binh, 1 đại đội đặc công, 1 đại đội pháo cối. ở Đắc Lắc có 1 tiểu đoàn và 4 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công, 1 đại đội pháo cối. Lực lượng này đã hình thành khá cân đối giữa bộ binh với đặc công và pháo binh, giữa tỉnh và huyện, về lực lượng du kích, Tỉnh ủy Gia Lai có nghị quyết: Đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu trong việc xây dựng lực lượng vũ trang. Hai phần ba số đảng viên và 100% số đoàn viên phải vào du kích. Do vậy toàn tỉnh Gia Lai có 8.541 du kích, trong đó có 887 nữ, tỷ lệ 6,9% số dân vùng giải phóng. Đảng viên chiếm 7,2%. Có huyện như huyện 5 (Chư Pông) đạt 16% số dân tham gia du kích, về trang bị trung bình 9 du kích có 1 súng, số còn lại trang bị vũ khí thô sơ.

Ở Kon Tum, tỉnh cũng đặt vấn đề xây dựng du kích phải đạt 3 tính chất: quần chúng, giai cấp và quân sự. Tổng số du kích toàn tỉnh là 4.736 người, chiếm 14% dân số vùng giải phóng. Du kích nữ chiếm 25%. Cứ 12 du kích có 1 đảng viên, 3 du kích trang bị 1 súng.

Ở Đắc Lắc, tổng số du kích là 2.740 người, đạt tỷ lệ 9% dân số vùng giải phóng. Du kích nữ chiếm 30%.

Như vậy, lực lượng dân quân du kích xã, thôn lên tới 16 nghìn người, số đông đã qua chiến đấu. Những vành đai diệt Mỹ bắt đầu hình thành quanh các căn cứ địch.

Cũng vào cuối năm 1965, Tây Nguyên thành lập binh trạm Nam và binh trạm Bắc, xây dựng căn cứ hậu cần khu vực. Lực lượng công binh, vận tải và các đơn vị làm nhiệm vụ ở tuyến sau được huy động, gấp rút mở thêm đường ô tô 128 từ Tà Xẻng vào nam đường 19 và các đường hành lang chạy xuống phía đông. Đường hành lang C01 đi xuống căn cứ Khu 5. Đường hành lang C09 từ miền tây Gia Lai tiếp tế cho lực lượng hoạt động ở phía đông bắc Plây Cu. Đường hành lang C06, C010 chuyển hàng chi viện cho căn cứ kháng chiến tỉnh Bình Định, Phú Yên. Với sự hình thành căn cứ hậu cần khu vực cánh Nam, cánh Trung, cánh Bắc và hệ thống đường hành lang Bắc - Nam, Đông - Tây, các xã huyện vùng giải phóng ba tỉnh Tây Nguyên được nối liền thành căn cứ hậu phương tại chỗ, bảo đảm chỗ đứng chân xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân.

Đầu năm 1966, xưởng quân giới Tây Nguyên ra đời. Từ một xưởng sửa chữa lúc đầu trang bị còn thô sơ, được miền Bắc chi viện thiết bị, các chiến sĩ quân giới đã xây dựng thành xưởng sản xuất quân giới mang mật danh X53.

Thời gian này, tổ chức quân y Tây Nguyên được bổ sung củng cố hoàn chỉnh từ cơ quan chỉ đạo đến các hệ thống điều trị, vệ sinh phòng dịch, sản xuất thuốc chữa bệnh, huấn luyện cán bộ chuyên môn. Hệ thông điều trị hình thành từng khu vực, phía trước có quân y các đơn vị, các đội phẫu thuật cơ động và trạm xá, phía sau có các bệnh viện. Viện 1 ở cánh Bắc, Viện 2 ở cánh Nam. Ngày 22 tháng 3 năm 1966, tôi làm việc với anh Vũ Văn Cẩn, Cục trưởng Cục quân y vừa từ miền Bắc vào, được anh cẩn thông báo: Tổng cục Hậu cần, Cục Quân y đã cử một khung bệnh viện gồm các bác sĩ được lựa chọn từ hai viện tuyến cuối của quân đội do anh Võ Văn Vinh(1), Cục phó Cục Quân y trực tiếp làm viện trưởng, anh Khuất Duy Kính làm chính ủy, anh Lê Cao Đài, Viện phó phụ trách ngoại, anh Trần Nam Hưng làm viện phó phụ trách nội, anh Lê Công làm viện phó phụ trách hậu cần.

Viện 211 có 1 đội ngũ cán bộ được lựa chọn trong các chuyên viên của hai bệnh viện 108 và 103 (211 là số cộng của 108 và 103).

Khu ngoại có các anh Đinh Văn Lạc, phó chủ nhiệm khoa phẫu thuật thần kinh Viện quân y 108, anh Lê Sỹ Liêm, chủ nhiệm khoa phẫu thuật bụng Viện quân y 103, anh Trương Công Cán, phó chủ nhiệm khoa chấn thương chỉnh hình Viện quân y 108.

Khoa nội có các anh Nguyễn Văn Âu, chủ nhiệm khoa truyền nhiễm Viện quân y 108, anh Đỗ Xuân Cương chủ nhiệm khoa nội tiêu hóa Viện quân y 103, anh Vũ Bích, khoa nội thần kinh Viện quân y 103, anh Nguyễn Đăng Giá, nội tim mạch Viện quân y 108 và anh Nguyễn Cảnh cần khoa da liễu Viện quân y 108.

Chuyên khoa có anh Đào Gia Thìn khoa tai mũi họng Viện quân y 108, anh Trần Quang Minh chuyên khoa mắt, anh Nguyễn Trung Lương, phẫu thuật hàm mặt.

Các khoa cận lâm sàng có các anh Phạm Phú Thọ, gây mê hồi sức Viện quân y 108, anh Lê Đức Tu, sinh hóa Đại học Quân y, anh Nguyễn Quang Huy, vi sinh, anh Hà Nhưỡng, giải phẫu bệnh lý Viện quân y 108.

Đa số bác sĩ chủ nhiệm khoa Viện 211 thuộc lớp sinh viên y khoa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám được đào tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là những cán bộ chuyên khoa có kinh nghiệm của các bệnh viện lớn của quân đội ta. Điều đó nói lên sự quan tâm đặc biệt của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đối với cán bộ, chiến sĩ trên một địa bàn chiến lược quan trọng của Tổ quốc. Như vậy, Tây Nguyên có một bệnh viện với đầy đủ các khoa như Viện 108, với đội ngũ cán bộ có trình độ cao vừa có khả năng cứu chữa thương binh vừa làm nhiệm vụ huấn luyện đào tạo quân y sĩ và bổ túc bác sĩ đáp ứng yêu cầu tác chiến ngày càng lớn của chiến trường.


(1) Anh Võ Văn Vinh thuộc lớp bác sĩ cuối cùng trước Cách mạng Tháng Tám của Trường đại học Y khoa Hà Nội. Anh là một sinh viên giỏi nội trú các bệnh viện và là bác sĩ nội khoa có uy tín trong quân đội. Anh đã bốn lần vượt Trường sơn ra Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1945, ngày đầu Nam tiến anh vào Khu 5 công tác. Năm 1951, anh ra Việt Bắc dự hội nghị rồi lại trở vào Khu 5. Năm 1954 anh tập kết ra Bắc. ở tuổi gần 50, đầu đã điểm bạc, anh lại khoác ba lô vào Tây Nguyên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:16:44 pm
*
*   *

Cuối năm 1965, trên chiến trường miền Nam địch đã tăng số quân lên tới 72 vạn tên (có 18 vạn lính Mỹ, 2 vạn lính chư hầu) với trên 2.000 máy bay (có 600 máy bay chiến đấu). Với quân số và phương tiện chiến tranh trên những người chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn bắt đầu thực hành cái gọi là “cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất”, nhưng Mỹ đã thất bại liên tiếp trên các chiến trường. Để lý giải những thất bại ở Plây Me, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Bầu Bàng những người chỉ huy quân đội Mỹ cho rằng họ thua vì mới chân ướt chân ráo đến Việt Nam, chưa kịp làm quen với địa hình, khí hậu. Hơn nữa đó cũng chỉ là thua từng trận, từng sắc thái lính, Bộ chỉ huy Mỹ chưa ra tay, v.v... Do vậy, với cuộc phản công chiến lược này chúng đã sử dụng 78% các lực lượng cơ động Mỹ và chư hầu, một nửa lực lượng cơ động chiến lược của quân Sài Gòn để tiến hành 450 cuộc hành quân lớn nhỏ nhằm vào Củ Chi, đông bắc Sài Gòn, nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định, nam Phú Yên (chúng còn gọi là chiến dịch “Năm mũi tên”); với tham vọng là giành lại quyền chủ động, bẻ gãy xương sống Việt cộng, tức là tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, mở rộng vùng kiểm soát hỗ trợ việc bình định, chặn đứng cuộc khủng hoảng tan rã của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Nhưng quân và dân ta kiên cường chống trả bằng nhiều phương thức tác chiến khác nhau. Chúng ta đã liên tiếp tiến công địch, trong đó có hai trận thắng lớn ở Củ Chi, trận thứ nhất từ ngày 9 đến ngày 19 tháng 1 và trận thứ hai từ ngày 23 tháng 1 đến ngày 5 tháng 2 nãm 1966. Trong hai trận này ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 lính Mỹ, bắn rơi và phá hủy gần 100 máy bay. Trận ở Phú Yên từ ngày 19 tháng 1 đến ngày 10 tháng 2 năm 1966, và trận chống càn ở Bình Định từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 7 tháng 3 năm 1966 ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn lính Mỹ và chư hầu, bắn rơi hàng trăm máy bay. Trận tập kích Nhà Đỏ - Bông Trang (Thủ Dầu Một) ngày 24 tháng 2 năm 1966 chỉ trong mấy giờ chiến đấu ta diệt gọn 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn xe bọc thép quân Mỹ.

Phối hợp với đòn quân sự, phong trào đấu tranh chính trị ở thành phố phát triển. Thời gian này ở Huế và Đà Nẵng, sinh viên học sinh và công nhân đã nổi dậy đình công, bãi khóa, bãi thị... chiếm đài phát thanh, đốt phòng thông tin Mỹ, phá nhà lãnh sự Mỹ, đòi “ly khai” với chính quyền Sài Gòn làm cho cả Mỹ, lẫn ngụy ở đây hoang mang bối rối.

Tôi còn nhớ đồng chí Nguyễn Chí Thanh nói về ý nghĩa chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất như sau: “Chúng ta đã giành thắng lợi cả về chính trị và quân sự, và chủ yếu đó là thắng lợi quân sự. Ý nghĩa rất quan trọng của thắng lợi mùa khô này là, một lần nữa nó chứng minh rằng: đường lối chính trị của ta đã thắng và sẽ toàn thắng đường lối chính trị xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ, đường lối quân sự, chiến lược, chiến thuật của chúng ta đã thắng và sẽ toàn thắng chiến lược, chiến thuật chiến tranh cục bộ của Mỹ. Chiến tranh nhân dân của ta với nhiều tính ưu việt của nó đã tỏ ra là vô địch”.

Tháng 2 năm 1966, Quân ủy Trung ương họp bàn cụ thể về tổ chức thực hiện các mặt công tác quân sự. Về đối tượng tác chiến, Quân ủy cho rằng phải chú trọng cả quân Mỹ, quân chư hầu và quân ngụy, về phương thức tiến hành chiến tranh, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích khắp nơi tiêu hao, tiêu diệt địch đồng thời đẩy mạnh tác chiến tập trung, tiêu diệt từng bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu ở chiến trường rừng núi, trọng điểm là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Quân ủy quyết định tổ chức chiến dịch lớn trên những hướng quan trọng làm chủ và mở rộng các địa bàn chiến lược, phát triển đánh vào hậu phương địch, đánh giao thông, đánh vào các cơ quan đầu não đi đôi với đẩy mạnh đấu tranh chính trị trong các đô thị, tranh thủ nhân dân buộc địch phải lo việc phòng ngự.

Quân ủy thảo luận kỹ các mặt xây dựng và tăng cường lực lượng ở cả hai miền, chú trọng cả ba thứ quân, khắc phục xu hướng coi nhẹ dân quân du kích ở một số địa phương, cần phát triển đặc công và các đội chuyên trách đánh giao thông, xây dựng từng bước và có trọng điểm hệ thống giao thông vận tải và kho tàng chiến lược. Các mặt công tác chính trị, công tác xây dựng Đảng phải được đẩy mạnh cho phù hợp với yêu cầu chiến đấu mới.

Thực hiện chủ trương quân sự của Quân ủy Trung ương, đầu năm 1966, Bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trung đoàn 24 do anh Phùng Bá Thường(1) làm trung đoàn trưởng. Các anh Nguyễn Mạnh Thạch, chính ủy, Nguyễn Xuân Mô, tham mưu trưởng, Võ Tấn Nam, chủ nhiệm chính trị. Trung đoàn 24 tới chiến trường với quân số 2.634 người, có 473 đảng viên (trong đó có 25 đồng chí được kết nạp trên đường hành quân), 1.473 đoàn viên. Chất lượng chính trị tốt, 25 trên 26 chi bộ có cấp ủy (riêng đại đội quân y chưa có), 56 trên 57 trung đội có tổ đảng (trung đội 3, đại đội 2, tiểu đoàn 4 chưa có tổ đảng). Theo báo cáo của chỉ huy trung đoàn 24, khả năng thực tế hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và công tác của trung đoàn tốt.


(1) Anh Phùng Bá Thường, quê ở xã Nghi Thu, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở lên cán bộ trung đoàn. Anh có cái uy của người cầm quân, có tính quyết đoán dám làm, dám chịu, được anh em tin nhiệm về mọi mặt. Anh gắn bó với Tây Nguyên liên tục cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:17:21 pm
Đầu tháng 4 năm 1966, Bộ tăng thêm cho Tây Nguyên sư đoàn 325B (đến Tây Nguyôn mang phiên hiệu Nông trường 10 (NT10) do anh Vương Tuấn Kiệt sư đoàn trưởng, anh Trần Văn Trân làm sư đoàn phó, anh Quốc Tuấn làm chính ủy, anh Trần Xuân Lư làm phó chính ủy, anh Thái Cán làm tham mưu trưởng, anh Thái Bá Nhiệm làm chủ nhiệm chính trị. Sư đoàn 325B đến chiến trường với quân số 8.059 người của 2 trung đoàn là 95 và 101B. Trung đoàn 95 do anh Lê Khắc cần, trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Hữu Hưu, chính ủy, các anh Trần Ngọc Anh, trung đoàn phó, tham mưu trưởng, Võ Duy, phó chính ủy, anh Phan Duy Nguyên, chủ nhiệm chính trị. Trung đoàn 101B do anh Ma Văn Minh, trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Thế Hân, chính ủy, các anh Hà Phúc Hảo, trung đoàn phó, Nguyễn Hồng Hải, tham mưu trưởng, Vũ Đình Trụ, phó chính ủy, Đàm Hữu Vấn, chủ nhiệm chính trị.

Theo báo cáo của anh Thái Bá Nhiệm, quyết tâm của sư đoàn trước khi vào chiến trường khá tốt. Lúc đầu mỗi đại đội có dăm ba người tư tưởng còn có vấn đề, nhưng trong hành quân có chuyển biến tích cực. Nhiều đồng chí đang ốm vẫn cố gắng theo đơn vị hoặc anh em khiêng cáng nhau đi trong đội hình.

Như vậy, đến giữa năm 1966, khối chủ lực Tây Nguyên đã tương đương hai sư đoàn. Với lực lượng bộ đội chủ lực ngày một lớn như vậy, vấn đề xây dựng hậu phương trực tiếp của chiến trường đặt ra những đòi hỏi bức xúc.

Ngày 3 tháng 3 năm 1966, anh Chu Huy Mân và tôi cùng một số cán bộ Mặt trận Tây Nguyên đã họp với lãnh đạo tỉnh Kon Tum do anh Nguyễn Văn Tiềm (Bùi Anh), bí thư tỉnh ủy, anh Lê Băng, phó bí thư tỉnh ủy, anh Nguyễn Tập, phó bí thư tỉnh ủy kiêm chính trị viên tinh đội, anh Nguyễn Trọng Đàm, tỉnh đội trưởng cùng một tổ cán bộ ban ngành khác của tỉnh.

Đây là cuộc họp đầu tiên giữa lãnh đạo Mặt trận với lãnh đạo tỉnh Kon Tum để bàn nhiều vấn đề liên quan đến nhiệm vụ tác chiến và công tác xây dựng hậu phương chiến lược tại chỗ của chiến trường theo tinh thần Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương. Về tình hình địch, anh Nguyễn Văn Tiềm cho biết: “Ở Tân Cảnh có 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 42 sư đoàn 22 ngụy. Ngày 15 tháng 2 năm 1966 Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tăng thêm 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn không vận số 1 Mỹ lên Tân Cảnh. Có 2 đại đội lính mũ nồi xanh Mỹ, 1 đại đội chiếm đóng căn cứ Mãng Đen, 1 đại đội chiếm đóng căn cứ Măng Bút, nhằm khống chế ta ở vùng Bắc Tây Nguyên. Lực lượng bảo an có 1 tiểu đoàn và 6 đại đội độc lập đóng ở Kông Trang Ho, Kon Rẫy, Kroong và cầu Kon Tum. Ở Đắc Pét có 1 tiểu đoàn biệt kích ngụy và 50 cố vấn Mỹ đóng trong căn cứ. Ngoài ra còn khoảng 700 dân vệ nằm trong các buôn ấp xung quanh quận lỵ Đắc Pét.

Khác với khi còn thực hiên chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, giờ đây quân Mỹ và quân chư hầu phối hợp với quân ngụy khá chặt chẽ để cắm đồn, chốt giữ mở nhiều cuộc hành quân càn quét “tìm và diệt”. Có cuộc càn chúng huy động tới 12 tiểu đoàn (có một lữ đoàn Mỹ) tham chiến, vừa hành quân càn quét, đánh phá vừa gom xúc dân vào các “ấp tân sinh”, “khu tập trung”, “ấp chiến lược”. Chúng huy động lực lượng lớn gồm cả bộ binh, pháo binh, không quân, có thám báo, biệt kích dẫn đường, chỉ điểm đánh theo lối “cuốn chiếu”, “úp nơm” để triệt phá vùng giải phóng, vùng căn cứ cách mạng của ta. Đồng thời chúng dùng máy bay bắn phá ngày đêm, liên tục rải chất độc hóa học phát quang diệt môi sinh, phá hoại hoa mầu nương rẫy khiến nhiều làng trong căn cứ kháng chiến bị hủy diệt, gây cho ta khó khăn tổn thất.

Cùng với hành động quân sự kể trên địch còn đẩy mạnh việc củng cố chính quyền tay sai tề ngụy ở các ấp. Mặt khác chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý chiêu hồi, chiêu hàng, lũng đoạn tư tưởng cán bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân gây rối nội bộ ta”.

Anh Nguyễn Tập cho biết thêm: “Gần đây lực lượng Phun-rô đang trỗi dậy hoạt động khá tích cực, chúng có cờ và truyền đơn, địa bàn chủ yếu quanh thị xã Kon Tum. Từ đầu năm 1966 chúng mở rộng địa bàn ra khu vực Đắc Tô, Kon Hơ Giao. Âm mưu của chúng là chia rẽ người Kinh và người Thượng, Mỹ đang lợi dụng bọn này để chống phá ta. Chúng cho người chui vào cơ sở của ta để tuyên truyền lôi kéo. Ở huyện 67 đã có 9 thanh niên và du kích chạy theo chúng”.

Từ tình hình trên, Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên và lãnh đạo tỉnh Kon Tum thống nhất cho rằng, trước mắt tình hình địch ở Kon Tum là khá phức tạp. Mỹ - ngụy đang tranh thủ Phun-rô và các đảng phái phản động như đảng Cần lao nhân vị, đảng Đại Việt và Quốc dân đảng để chống phá ta. Do vậy, quân và dân Tây Nguyên nói chung, quân và dân tỉnh Kon Tum nói riêng phải đề cao cảnh giác, kiên quyết làm thất bại âm mưu của chúng

Về tình hình ta, anh Nguyễn Văn Tiềm cho biết:

- Tính đến đầu năm 1966, cả tỉnh Kon Tum có 120 nghìn dân gồm 14 dân tộc, trong đó có gần 40 nghìn dân người Kinh, sống chủ yếu ở thị xã và một số thị trấn, quận lỵ. Số dân vùng giải phóng là hơn 40 ngàn người, sống chủ yếu trong vùng núi sâu và căn cứ của ta. Số dân sống trong vùng địch tạm thời kiểm soát là 70 nghìn và 10 nghìn dân sống ở vùng tranh chấp.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:17:47 pm
Tình hình vùng giải phóng và căn cứ của ta cơ sở chính trị tốt, nơi nào cũng có tổ chức của Đảng, đời sống nhân dân khó hơn trước, nhưng tinh thần đóng góp của nhân dân các dân tộc rất cao. Kon Tum là tỉnh nghèo, mặc dù còn thiếu đói nhưng nhân dân vẫn dành gạo cho cách mạng. Năm 1965, toàn tỉnh đóng góp được 230 tấn lương thực, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1964.

Các huyện trong tỉnh đều có bệnh xá, với đội ngũ y sĩ, y tá có khả năng giải quyết những trường hợp nhân dân và du kích bị thương hay bệnh tật. Bệnh viện tỉnh có khoa nội và khoa ngoại, một lúc có thể tiếp nhận vài chục thương bệnh binh. Phong trào của tỉnh phát triển khá toàn diện, lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đã mở được nhiều địa bàn sát các vùng xung yếu. Nhân dân ở vùng giải phóng và căn cứ luôn sẵn sàng phục vụ bộ đội. Huyện 40 (Đắc Lây), có thể huy động 1.000 dân công phục vụ chiến đấu, huyện 67 huy động từ 1.300 đến 1.500 dân công khi cần thiết. Huyện 80 (Đắc Tô), thường xuyên có 3 trung đội du kích hoạt động quanh huyện và trục đường 14 Đắc Tô đi Đắc Sút. Những trung đội du kích này có khả năng chiến đấu độc lập, đánh ấp, chống càn.

Trao đổi với lãnh đạo tỉnh Kon Tum, anh Chu Huy Mân đề nghị tỉnh cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu vừa cấp bách, vừa mang tính chất cơ bản lâu dài đối với tỉnh Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên nói chung, anh nói:

- Kon Tum là trung tâm căn cứ không những của Tây Nguyên mà còn của cả Khu 5, là đầu mối của tuyến đường chiến lược nối liền hậu phương lớn miền Bắc với Tây Nguyên và từ đây đi vào Nam Bộ. Do vậy, nhiệm vụ trên giao cho Kon Tum và Tây Nguyên là chiến trường có điều kiện tiêu diệt lớn quân địch, không phải một năm mà nhiều năm. Để làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang trên, trước hết trong trường hợp nào tỉnh cũng phải giữ được dân, vận động nhân dân bám địa phương không bỏ chạy đi nơi khác và thực hiện việc “cấy dân” ở những địa bàn trọng điểm. Có dân ta mới xây dựng được căn cứ, xây dựng được hậu phương. Muốn giữ được dân, tỉnh cần tập trung giải quyết vấn đề đời sống cho nhân dân trên cơ sở động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất lương thực toàn diện, nhưng lấy cây mì (sắn) là chủ yếu.

Một vấn đề hết sức quan trọng là chăm lo xây dựng cơ sở chính trị ở mọi nơi, thực hiện tốt chính sách của Đảng, đặc biệt là hai chính sách lớn: chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo. Chúng ta phải tìm mọi cách thâm nhập chính sách của Đảng vào quần chúng nhân dân. Bởi vì chính sách là thể hiện tính ưu việt của cách mạng, làm đúng, làm tốt quần chúng mới tin và noi theo.

Dừng một lát, anh Chu Huy Mân nói tiếp:

- Tôi muốn nói với các đồng chí về công tác địch vận. Đây cũng là một chủ trương lớn của Đảng, các cấp các ngành cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải tham gia tuyên truyền vận động gia đình và sĩ quan binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy quyền quay về với cách mạng. Tôi được biết, hiện nay tỉnh có hai trại giam với gần 500 tù binh. Tỉnh cần có kế hoạch giáo dục tuyên truyền giải thích cho số tù binh này rồi thả ra đề họ tuyên truyền cho ta. Có thể một nửa hay hai phần ba số này lại theo địch thì ta vẫn còn một phần ba, có khi một nửa, như vậy vẫn có ích.

Từ sau cuộc họp giữa lãnh đạo Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên với các đồng chí lãnh đạo tỉnh Kon Tum, tình hình chung có sự chuyển biến tích cực. Bộ đội bước vào chuẩn bị cho đợt chiến đấu Xuân Hè 1966. Lãnh đạo tỉnh Kon Tum kịp thời đề ra một kế hoạch toàn diện lâu dài trên nhiều lĩnh vực. Có nhiều việc kết quả vượt xa so với dự kiến ban đầu.

Tôi đã có dịp đến những buôn làng căn cứ Tây Nguyên trong đó có tỉnh Kon Tum, tiếp xúc với người dân, với cán bộ cơ sở, tôi hiểu từ trong tiềm thức của đồng bào Tây Nguyên nói chung và nhân dân các dân tộc Kon Tum nói riêng thì cán bộ, Đảng, cách mạng là một. Họ yêu cán bộ tức yêu quý Đảng. Họ làm theo lời cán bộ tức là làm theo mệnh lệnh của cách mạng, của Đảng. Gian khổ, đói nghèo không làm cho người dân Kon Tum sờn lòng, nhụt chí. Trái lại, càng làm cho họ gắn bó với Đảng cao hơn. Nhân dân Tây Nguyên yêu cái rừng cái núi bao nhiêu thì họ cũng yêu cách mạng bấy nhiêu. Vì thế họ sẵn sàng chịu đựng tất thảy những mất mát hy sinh để cho cách mạng thắng lợi.

Tôi còn nhớ trong cuộc họp của dân bản Đắc Son gần ngã ba biên giới Đông Dương bàn việc đóng góp thóc lúa cho cách mạng và dân công phục vụ bộ đội chiến đấu; khi đồng chí bí thư chi bộ đặt vấn đề: “Chúng ta đi theo Đảng, theo cách mạng, nay Đảng cần gạo cho bộ đội ăn no đánh thắng giặc Mỹ, cần dân công phục vụ tiền tuyến, bà con nghĩ sao ?”. Tất cả đều trả lời không một chút do dự: “Đảng cần cái gì, đồng bào đóng góp hết”. Thế là ngày hôm sâu đồng bào vùi thóc, gùi gạo, ùn ùn nộp vào kho cách mạng. Cán bộ hỏi: “Có bao nhiêu gạo đồng bào đóng góp cho cách mạng cả, còn mình sống bằng gì ? Đồng bào trả lời: “Mình quen chịu khổ rồi, mình ăn cái rau, củ mì được, chứ để bộ đội đói thì lấy sức đâu đánh giặc”. Câu nói giản dị ấy chứa đựng một tình cảm sâu nặng, gắn bó của người dân Kon Tum với cách mạng. Đảng cần, cách mạng cần là nhân dân các dân tộc sẵn sàng làm ngay, họ không đòi hỏi bất cứ một điều kiện nào.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:18:08 pm
Khi viết đên đây tôi chợt nhớ câu thơ của Nguyễn Duy Nhiệm, nguyên đội trưởng đội văn nghệ xung kích Mặt trận Tây Nguyên:

      Gạo giã xong - đầy gùi - phần cách mạng

Một lần khác chúng tôi được anh cán bộ kinh tế huyện 67 dẫn đến chỗ đồng bào đang nộp thóc. Bà con vây quanh, họ nói nhiều, tiếc rằng ngôn ngữ khác nhau nên chẳng hiểu được là bao. Anh cán bộ nói lại cho tôi nghe đại ý: Bộ đội, đồng bào cùng đánh Mỹ, ngụy. Đồng bào có ăn, bộ đội không lo đói. Hết gạo ta có mì (sắn), hết mì ta có rừng. Rừng là gạo, là mì, là tất cả đó thôi. Bao đời nay ông cha ta sống với rừng. Rừng vẫn là của ta. Cái bụng ưng nhau rồi không lo gì hết.

Anh chỉ cho tôi số bà con đứng ở bên cạnh:

- Bà con mới ở “ấp chiến lược” được cơ sở dẫn mang gạo ra đấy. Đi cả ngày đường mới tới đây. Ai cũng bảo: làm cách mạng bằng nhau. Mình còn tạm thời ở trong ấp nhưng mình đã là người của cách mạng mình phải đóng góp bằng nhau với bà con vùng giải phóng chớ!

Chúng tôi và anh cán bộ kinh tế huyện đã từng đi qua những “rẫy cách mạng”, với bạt ngàn đu đủ, chuối. Anh nói với tôi:

- Bà con làm cho cách mạng cả đây. Bộ đội, cán bộ dân sự đi công tác qua cứ lấy mà ăn. Không phải hỏi ai cả. Nhưng ăn đến đâu, lấy đến đó đừng lãng phí là được rồi.

Một lẫn khác nữa, chúng tôi đến một làng, từ xa đã nghe tiếng chày giã gạo thình thịch đều đều tạo thành một âm điệu nhịp nhàng.

Ở đây chúng tôi gặp anh em mình đang lấy gạo. Một cảnh tượng thật khó quên dối với tôi: cả làng giã gạo. Từ em bé đến cụ già đều giã gạo. Bộ đội cũng đang giã tay đôi với bà con. Mọi người vừa làm vừa hát. Nghe thì hay nhưng tôi chẳng hiểu gì. Tôi hỏi anh cán bộ kinh tế huyện:

- Bài hát ấy là thế nào?

Anh đọc lại cho tôi nghe, lời bài hát như sau:

      Trăng lên rồi
      Đêm càng đẹp.
      Lũ làng mừng giã gạo nuôi quân
      Ơi anh giải phóng, cái chân không mỏi
      Lũ làng đây cái tay cũng không mỏi.
      Anh diệt nhiều thù, cối gạo càng trắng thơm
      Đẹp lòng quân dân
      Nghĩa tình cá nước.


Tôi cũng đã từng gặp những đoàn dân công đủ các lứa tuổi của các dân tộc ở tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc đi gùi gạo, gùi đạn phục vụ tiền tuyến trong những ngày mưa lạnh. Có một bà mẹ ở làng Đắc Xây lưng gùi 4 quả đạn cối 82 ly, tay dắt theo một đứa nhỏ, tay kia bế đứa con địu trước ngực cũng luồn rừng, lội suối theo dân làng ra trận. Không có áo mưa họ phải dùng lá chuối rừng che hàng cách mạng, còn mình thì chịu ướt, chịu rét. Đêm mưa tầm tã, bà con lại lấy lá chuối rừng che thân rồi từng tốp ba người, năm người ngồi dựa vào nhau đợi giờ quân ta nổ súng, hễ có thương binh là họ khiêng cáng về trạm phẫu ngay không kể lúc nào.

Hàng cách mạng gùi đến nơi đến chốn, không hao hụt một lạng, một hạt. Đồng bào nói với nhau: “Lấy của cách mạng là không tốt, là có tội”. Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ đồng bào Tây Nguyên nói chung, đồng bào Kon Tum nói riêng, vẫn liên tục phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Điều này đã trở thành nếp sống đạo đức tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, nó chất chứa một niềm tin trọn vẹn vào Đảng, vào cách mạng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:18:38 pm
*
*   *

Cuối năm 1966, cơ quan chính trị chúng tôi đề xuất với Bộ tư lệnh Mặt trận tổ chức đại hội mừng công lần thứ nhất của lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên với mục đích là tổng kết kinh nghiệm và biểu dương phong trào thi đua giết giặc lập công của các lực lượng vũ trang. Đại hội mở ra sau cuộc sinh hoạt chính trị và cuộc vận động xây dựng Đảng trên toàn mặt trận là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu cho cán bộ và chiến sĩ chuẩn bị bước vào cuộc đọ sức với quân Mỹ trong mùa khô lần thứ hai.

Ý nghĩa của đại hội là thế, nên chúng tôi muôn tạo ra không khí thật sôi nổi, vui tươi. Thời gian này miền Bắc có phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”, còn ở Tây Nguyên không những bom đạn Mỹ ngày đêm trút xuống mà bộ đội nằm la liệt vì sốt rét. Như vậy càng cần đến tiếng đàn, tiếng hát. Tiếng hát ở đây không chỉ “át tiếng bom” mà tiếng hát còn “át cả khó khăn, gian khổ”. Để có một đội văn nghệ xung kích thì phải có hạt nhân văn nghệ. Bàn đi bàn lại chúng tôi quyết định tổ chức Hội diễn văn nghệ quần chúng, qua đó mà chọn “nhân tài”. Sư đoàn 1, cơ quan hậu cần mặt trận, Viện 211 là những đơn vị chủ lực có nhiều tiết mục tự biên tự diễn khá, nhiều người hát hay múa giỏi. Và chúng tôi đã lựa chọn được một danh sách khá dài. Người đầu tiên là Vũ Sắc, chính trị viên đại đội 18 trung đoàn 88, người đã từng đoạt huy chương vàng tại Hội diễn nghệ thuật quần chúng toàn quân năm 1966. Anh em kế lại: với những cái bát xếp cạnh nhau và lượng nước vơi đầy khác nhau, Vũ Sắc đã tạo thành cây đàn bát kỳ diệu. Anh biết sử dụng thành thạo nhiều loại đàn từ măng-đô-lin đến ác-coóc... Vũ Sắc còn có khả năng sáng tác ca khúc. Thật là tuyệt vời khi chúng tôi có được một người như anh. Tiếp đến là Nguyễn Duy Nhiệm có giọng nam cao, cũng đã từng giành huy chương vàng tại Hội diễn nghệ thuật quần chúng toàn quân năm 1964. Duy Nhiệm hát tốt và có khả năng sáng tác tốt. Ngoài Vũ sắc và Duy Nhiệm ra còn lại đều là chiến sĩ, y tá, hộ lý. Nam diễn viên có Trần Khuê, Ngô Luân (trung đoàn 66), Minh Thắng, Mạnh Dần, Đức Hộ, Văn Tam, Văn Hạnh (trung đoàn 88). Nữ diễn viên có Thanh Lịch, Kim Liên, Thanh Níu (quê Quảng Bình), Minh Tỵ (quê Bắc Giang) Tuyết Minh (quê Sơn Tây), Minh Thư (quê Hà Tĩnh), v.v... Số nữ trên đều thuộc quân số của cơ quan hậu cần mặt trận và Viện 211. Chúng tôi cử Vũ Sắc làm đội trưởng. Ít ngày sau anh chị em đã lao vào làm công tác chuẩn bị nhạc cụ và xây dựng chương trình. Lúc này cả đội chỉ có hai chiếc đàn măng-đô-lin và một chiếc đàn ác-coóc. Số nhạc cụ còn lại do anh em tự tạo cả.

Viết đến đây tôi nhớ đến bài thơ “Chiều liên hoan” của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh khi anh đi qua Tây Nguyên viết tặng đội văn nghệ xung kích của chúng tôi:

      Chặt bương làm ống
      Gọt gỗ làm đàn
      Đục lon làm nhị
      Mở chiếu liên hoan

      Ôi đội văn nghệ
      Giữa đất Tây Nguyên
      Không son, không phấn
      Mà đẹp mà duyên

      Bệnh viện gửi về
      Dăm cô hộ lý
      Đơn vị đưa lên
      Mấy anh chiến sĩ

      Lấy chuyện đời mình
      Phổ trong khúc nhạc
      Đem cả nhiệt tình
      Gửi vào tiếng hát

      Ta lên dây đàn
      Ta so tiếng trúc
      Cho đêm liên hoan
      Niềm vui rạo rực

      Dẫu cho giọng hát
      Lạc nhịp sai cung
      Sá gì việc ấy
      Vui này vui chung

      Khúc nhạc lòng ta
      Ta yêu ta mến
      Cô hộ lý ơi
      Can chi mà thẹn

      Hãy vững lòng tin
      Bước lên sân khấu
      Hát bằng trái tim
      Cuộc đời chiến đấu...


Bài thơ này phần nào nói lên hoàn cảnh khi mới ra đời của đội văn nghệ xung kích Mặt trận Tây Nguyên hồi ấy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:20:12 pm
Tiếp sau đội văn nghệ xung kích, các đội chiếu bóng cũng lần lượt được thành lập. Anh em bắt đầu gùi máy, cõng phim xuống đơn vị phục vụ bộ đội. Lần đầu trong rừng sâu gian khổ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên trong vùng giải phóng được nghe tiếng máy nổ và thấy điện sáng, được xem những bộ phim thời sự, tài liệu, phim truyện ca ngợi cuộc sống chiến đấu, lao động của nhân dân ta và bạn bè thế giới. Cũng từ đây phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển rộng rãi trên toàn mặt trận. Bộ đội đua nhau viết bích báo, sáng tác ca khúc, viết kịch, làm thơ. Thiếu giấy anh em viết trên vỏ bao thuốc lá, nhãn đồ hộp thu được của địch, có khi viết vào mảnh nứa, vỏ cây. Trung đoàn pháo binh 40 có đại đội làm báo tường bằng các mảnh mo nang ghép lại. Sau mỗi chiến dịch, những ngày lễ lớn, trung đoàn nào cũng ra được tập san thơ ca, bản tin người tốt việc tốt. Bộ mặt chiến trường thay đổi cơ bản, toàn diện. Trên đường ra trận, bên cạnh khẩu súng của người chiến sĩ bộ binh, pháo binh còn có cây đàn, cây sáo trúc của người chiến sĩ văn nghệ xung kích, chiếc máy chiếu phim của người chiến sĩ điện ảnh. Từ đây, trong gian khổ ác liệt có tiếng nói lạc quan tin tưởng của “binh chủng công tác chính trị” làm tươi trẻ thêm, phong phú thêm cuộc sống chiến trường.

Đội văn nghệ xung kích của Mặt trận vừa biểu diễn vừa thâm nhập sáng tác, dàn dựng tiết mục. Các đơn vị thương yêu, gắn bó và giúp đỡ mọi mặt, tạo điều kiện cho đội văn nghệ hoạt động. Có trung đoàn sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, nhận nuôi đội văn nghệ xung kích giữa những ngày rất khó khăn về lương thực. Bộ đội Tây Nguyên thà đói cơm nhạt muối chứ không thể thiếu lời ca tiếng hát lạc quan giữa chiến trường gian khổ.

Tôi được đội trưởng đội văn nghệ xung kích mặt trận kể lại: Bộ đội rất thích nghe ca sĩ Thanh Lịch hát bài “Đường cày đảm đang” và bài “Xuân chiến khu”. Có lần đội văn nghệ phục vụ một đơn vị ở phía trước, trên trời máy bay phản lực Mỹ lồng lộn đánh phá một khu vực gần đó. Nhưng Thanh Lịch vẫn bình tĩnh hát vang bài “Xuân chiến khu”. Sau buổi biểu diễn, một anh lính hóm hỉnh, thông minh ứng khẩu tặng Thanh Lịch một câu:

Trên trời phản lực ầm ầm
Dưới đất Thanh Lịch vẫn gầm chiến khu
(Xuân chiến khu)


Thế mới biết chiến sĩ ta đánh giặc giỏi và chọn từ cho thơ ca cũng rất hóm. Mới nghe câu ca kia tưởng như bị ép vần “ầm” với vần “gầm”. Nhưng không, tiếng hát lúc ấy mà không “gầm” lên thì sao át được tiếng gầm rít của “thần sấm”, “con ma” Mỹ.

Đầu năm 1967, Báo Tây Nguyên được thành lập do đại úy Nguyễn Kim Thanh, chính trị viên tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 phụ trách cùng chín phóng viên, đều là những giáo viên dạy văn, sử. Trước khi vào chiến trường các anh được đào tạo nghiệp vụ báo chí một thời gian ngắn ở Trường Tuyên giáo Trung ương, đó là: Đinh Ngãi, quê Thọ Ngọc, Triệu Sơn, Thanh Hóa; Nguyễn Đình Thảo, quê ở Tân Dân, Tĩnh Gia, Thanh Hóa; Lê Sĩ Hành, quê ở Thọ Lộc, Thọ Xuân, Thanh Hóa; Nguyễn Văn Minh, quê Đức Phong, Đức Phổ, Quảng Ngãi; Nguyễn Bá Đàn, quê Nghi Lộc, Nghệ An; Hoàng Khắc Nhu, quê Đức Thọ, Hà Tình; Đặng Chức, quê Thành Thiệu, Xuân Trường, Nam Định; Nguyễn Phú Tuấn, số nhà 53 Hàng Lược, Hà Nội và Nguyễn Khắc Quán. Sau đó được bổ sung ba họa sĩ: Mai Văn Kế và Lê Đức Tuấn từ miền Bắc vào, Ngô Bình Thiểm từ trung đoàn 40 lên. Các đồng chí đều là những họa sĩ có tài, sau này nhiều bức tranh được giải thưởng cao trong các kỳ thi do Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức. Tôi còn nhớ anh Nguyễn Hồng Tịnh, ở số nhà 28 Lý Thái Tổ, Hà Nội, một thợ khắc gỗ rất giỏi. Các anh trong Bộ tư lệnh Mặt trận giao cho tôi là người chịu trách nhiệm đọc duyệt cuối cùng trước khi đưa in, từ lúc báo còn in rô-nê-ô đến lúc báo in nhiều màu. Có thể nói, tờ báo của quân giải phóng Tây Nguyên chúng tôi được ra đời và phát huy sức mạnh là nhờ sự quan tâm của Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Tổng cục Chính trị đã bổ sung một đội ngũ phóng viên chiến trường đều là những người có năng lực, dũng cảm, yêu nghề. Anh em lăn lộn cùng bộ đội phục kích chờ địch, tập kích đánh đồn, chia sẻ gian khổ, ác liệt và cùng chia vui mỗi khi chiến thắng. Mỗi bài phóng sự, một tấm ảnh tư liệu, một tin về những trận đánh hay, những người đánh giỏi đều mang hơi thở cuộc sống thực của người lính ở mặt trận.

Do máy in từ miền Bắc chưa chuyển vào kịp nên thời gian đầu anh em phải in bằng máy quay rô-nê-ô. Tít bài và công việc trình bày đều do đồng chí Hường đánh máy của cơ quan chính trị mặt trận đảm nhiệm. Nhưng vì Hường chưa có kinh nghiệm đánh máy vào giấy nến, đánh nhẹ in không lên, đánh mạnh giầy thủng to mực chảy ra lem luốc, người đọc vừa đọc vừa đoán. Có khi đoán mãi mới ra một chữ. Vậy mà cán bộ, chiến sĩ ta vẫn chuyền nhau đọc một cách hứng thú. Tòa soạn ngày càng nhận được nhiều thư động viên và cả tin bài của cộng tác viên từ những đơn vị chiến đấu phía trước chuyển đến. Điều đó là nguồn cổ vũ khích lệ anh em làm báo rất nhiều. Thì ra, trong điều kiện và hoàn cảnh khó khăn người đọc sẵn sàng lượng thứ, bỏ qua lỗi và hình thức trình bày cũng như kỹ thuật in ấn. Cái chính là tờ báo đã đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin cho cán bộ, chiến sĩ ta.

Thời gian đầu mỗi tháng báo ra hai số, về sau mỗi tuần một số. Cuối năm 1967, máy in, chữ chì, thợ sắp chữ từ miền Bắc mới chuyển vào Tây Nguyên và nhà máy in được thành lập do đồng chí Nguyễn Địch Long(1) phụ trách. Từ đây trở đi tờ báo Tây Nguyên — tiếng nói của các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên có bước phát triển mới cả về nội dung và hình thức. Nó đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với cán bộ và chiến sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng Tây Nguyên.

Cũng vào thời gian này, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định thành lập Hội đồng khoa học Y học quân sự Tây Nguyên. Thời gian đầu hội đồng do anh Võ Văn Vinh, sau đó là anh Nguyễn Tụ làm chủ tịch. Hoạt động của hội đồng này rất tích cực và hiệu quả, tổ chức được nhiều hội nghị khoa học, nhiều lớp tập huấn xử trí vết thương chiến tranh, phòng và chữa bệnh sốt rét ác tính. Ngày 22 tháng 10 năm 1967, Hội đồng khoa học Y học quân sự Tây Nguyên cho xuất bản cuốn Nội san Quân y Tây Nguyên số đầu tiên, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học và là nơi trao đổi thông tin, kinh nghiệm về y học ở chiến trường. Nội san Quân y Tây Nguyên ra đều đặn 3 tháng một số, đến cuối năm 1974 đã xuất bản được 21 số. Ban biên tập chủ yếu là các chủ nhiệm khoa Viện Quân y 211 (đều là cán bộ giảng dạy và quen với công tác nghiên cứu) do anh Lê Cao Đài, viện trưởng làm trưởng ban.

Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Tây Nguyên, ngành quân y đã góp phần rất quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe bộ đội, cứu chữa được nhiều vết thương hiểm nghèo và bệnh sốt rét ác tính làm yên lòng cán bộ chiến sĩ ta. Ngoài ra, quân y Tây Nguyên còn đóng góp vào nền y học quân sự Việt Nam nhiều công trình khoa học có giá trị, đặc biệt là xử trí vết thương sọ não và chữa trị bệnh sốt rét ác tính.


(1) Năm 1968, sau một chuyến ra Bắc nhận vật tư in trên đường vào Nguyễn Địch Long gặp máy bay Mỹ đánh phá, anh đã anh dũng hy sinh.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:20:54 pm
*
*   *

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, do phải chiến đấu liên tục nhiều tháng bộ đội chưa được nghỉ ngơi củng cố nên một số cán bộ, chiến sĩ tỏ ra thiếu vững vàng, kiên định sa sút ý chí chiến đấu. Cá biệt có người như tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 trung đoàn 66, bác sĩ đội phẫu thuật tiền phương bạc nhược bị chiêu hồi. Hai tên phản bội này đã bày cho kẻ thù những thủ đoạn đánh phá vô cùng nham hiểm và thâm độc. Trước đây những tọa độ máy bay oanh tạc thường là pháo binh địch không tham gia. Nhưng nay, cứ sau mỗi đợt máy bay phản lực, B52, B57 dội bom là chúng cho pháo binh bắn cấp tập trùm lên nơi máy bay vừa bắn phá. Với thủ đoạn này địch đã gây không ít khó khăn cho anh em ta cứu nhau khi có người bị thương hay sập hầm. Tình hình đó ít nhiều tác động đến tinh thần, tâm lý bộ đội. Phát hiện tình hình trên, một lần nữa, từ sau chiến dịch Plây Me, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị tập trung sâu rộng trong các đơn vị trên toàn mặt trận.

Trong đợt học tập này, cơ quan chính trị mặt trận chúng tôi chủ trương làm cho các đơn vị từ cơ sở đến cơ quan bộ tư lệnh có nhận thức sâu sắc về thắng lợi to lớn và toàn diện của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân, khẳng định quyết tâm của Đảng ta là tích cực, từ đó phát huy thắng lợi đã giành được, động viên toàn quân, toàn dân liên tục tấn công, liên tục nổi dậy thực hiện kỳ được mục tiêu đề ra; đồng thời làm cho cán bộ chiến sĩ thấu triệt nhiệm vụ quân sự trước mắt của lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền giải phóng phần lớn vùng nông thôn, đánh phá nặng nề cơ sở vật chất kho tàng hậu cứ địch, chặt đứt giao thông tiếp tế của chúng. Xây dựng đơn vị càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi to hơn, góp phần xứng đáng vào việc thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng. Chúng tôi chỉ đạo các đơn vị lấy bảy điều Bác Hồ dạy trong bức điện của Người gửi đồng bào và chiến sĩ miền Nam tháng 3 năm 1968 và lời kêu gọi ngày 20 tháng 7 năm 1969 của Bác làm nội dung liên hệ kiểm điểm. Bảy điều Bác Hồ dạy là: “Ý chí phải thật kiên quyết; Kế hoạch phải thật tỉ mỉ; Kiểm tra phải thật kỹ càng; Phối hợp phải thật ăn khớp; Chấp hành phải thật chu đáo; Cán bộ phải thật gương mẫu; Bí mật phải giữ triệt để”. Trong lời kêu gọi của Bác có đoạn: “Quân và dân cả nước ta, triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hy sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy quân và ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nàm, bảo vệ miền Bắc tiến tới hòa binh thống nhất nước nhà”.

Cán bộ, chiến sĩ toàn mặt trận đã nghiêm khắc kiểm điểm, vạch ra những thiếu sót của mình, phê phán, cùng nhau bàn biện pháp khắc phục tư tưởng mệt mỏi bi quan, ngại lâu dài, trông chờ thắng lợi, chỉ chú trọng chiến đấu trước mắt mà buông lỏng xây dựng lâu dài. Tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với lịch sử, đối với nhân dân Tây Nguyên của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên.

Qua học tập, tư tưởng tình cảm được phát động mọi người càng thấm thìa sâu sắc với nỗi khổ cực của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên khi buôn làng chưa sạch bóng quân thù, càng gắn bó với chiến trường gian khổ, với nhiệm vụ giải phóng Tây Nguyên. Tình đồng đội, nghĩa đồng bào càng thêm sâu đậm trong lòng người chiến sĩ. Những chao đảo, phân vân hôm nào đã được khắc phục.

Cán bộ và chiến sĩ đều xác định trách nhiệm và tình cảm của mình đối với nhiệm vụ, đối với chiến trường, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách lớn nhất, kiên quyết đứng vững trên địa bàn chiến lược cùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và quân dân cả nước kề vai sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.

Hôm kết thúc Hội nghị chỉnh huấn cán bộ trung cao cấp toàn mặt trận, thay mặt hội nghị tôi đọc bản quyết tâm thư của các lực lương vũ trang nhân dân giải phóng Tay Nguyên gửi lên Bác Hồ. Toàn văn bản Quyết tâm thư đó như sau:

“Chúng cháu gồm toàn thề cán bộ trung cao cấp của các lực lượng vă trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên, bao gồm các đơn vị chủ lực và địa phương đang học tập tình hình nhiệm vụ cách mạng, xây dựng quyết tâm cho nhiệm vụ mới, rất xúc động và vô cùng phấn khởi được nghe lời kêu gọi của Bác nhân ngày 20 tháng 7 năm nay.

Đón lời kêu gọi của Bác với tất cả tình cảm sâu sắc nhất và lòng tôn kính nhất của chúng cháu đối với Đảng, với Bác, mỗi người chúng cháu đều suy nghĩ phải làm gì để đền đáp lại công ơn và tình cảm của Đảng và Bác đối với đồng bào miền Nam và đối với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên cũng như đối với mỗi người chúng cháu.

Chúng cháu tự xác định cho mình một quyết tâm nỗ lực cao nhất để nghiêm chỉnh thực hiện lời kêu gọi của Đảng, của Bác trước giờ phút quang vinh vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc.

Qua học tập, chúng cháu đã thấy rõ thắng lợi, thấy rõ ưu, khuyết điểm của mình trong thời gian vừa qua và thấy rõ thời cơ cách mạng vô cùng thuận lợi hiện nay và yêu cầu của nhiệm vụ tới.

Thay mặt toàn thề cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên, chúng cháu xin hứa với Bác sẽ đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên, chiến đấu giỏi, sản xuất tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng, Bác đã giao cho. Trong quá trình chiến đấu và xây dựng dù có gian khổ, ác hệt đến đâu, khó khăn đến mức độ nào chúng cháu cũng kiên quyết vượt qua, lập nhiều chiến công xuất sắc nhất để kỷ niệm ngày lễ lón trong năm 1970 và mừng thọ Bác 80 tuổi. Chủng cháu kiên quyết ghì chặt tay súng thừa thắng xông lèn liên tục tiến công và nổi dậy đánh bại mọi âm mưu đen tối của bọn xâm lược Mỹ và quân chư hầu của Mỹ và bè lũ tay sai buộc quân Mỹ và quân chư hầu của Mỹ phải rút hết sạch, ngụy quân, ngụy quyền phải sụp đổ tan tành, cho miền Nam mau được giải phóng, Tổ quốc mau được thống nhất, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên sớm được đón Bác vào thăm.

Kinh chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu muôn tuổi.

Thay mặt các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên.

Toàn thể cán bộ dự lớp học tập tình hình nhiệm vụ mới”.


Sau đợt học tập chính trị tập trung sâu rộng đó, chưa bao giờ tôi thấy ý chí tiến công vào khó khăn, gian khổ; truyền thống quyết thắng, sáng tạo, cần kiệm, tự lực và tình đồng đội, tình quân dân lại được phát huy mạnh mẽ và thể hiện một cách phong phú trong cuộc sống của bộ đội Tây Nguyên như thời kỳ này. Các đơn vị đều có quyết tâm vươn lên lập công, xứng đáng với lời dạy của Bác. Bộ tư lệnh Mặt trận phát động một phong trào thi đua lập công sôi nổi, đều khắp ở các đơn vị chiến đấu, đơn vị phục vụ và cơ quan; cổ vũ phong trào xây dựng các đại đội, tiểu đoàn giỏi, trong sạch vững mạnh. Và tôi nghiệm ra một điều răng, mỗi lần Bác kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là một lần cách mạng có bước phát triển nhảy vọt, quân và dân ta lại giành được những thắng lợi to lớn hơn.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2019, 02:21:51 pm
*
*   *

Có một điều mà chúng tôi không thể ngờ rằng chỉ hơn một tháng sau khi chúng tôi gửi bản Quyết tâm thư lên Bác thì sáng ngày 3 tháng 9 năm 1969, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi bản tin thông báo đặc biệt về tình hình sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi đều hồi hộp lo âu, cán bộ, chiến sĩ từ các đơn vị đến cơ quan xôn xao bàn tán, theo dõi hỏi han nhau về tình hình sức khỏe của Người.

Sáng ngày 4 tháng 9, khi cái tin đau đớn nhất đến với mọi người - Bác Hồ đã từ trần hồi 9 giờ 47 phút ngày 3 tháng 9(1), thì cán bộ, chiến sĩ không cầm được nước mắt. Được sống và chiến đấu trên mảnh đất mà “hạt muối và cái chữ Bác Hồ” đã đi vào con tim, khối óc của mỗi người dân, đi vào lịch sử, nơi có những người già giữ ảnh Bác Hồ từ nãm 1946 đến lúc bấy giờ, nơi mà người dân đã nhiều lần đốt buôn làng, chịu đói cơm, nhạt muối, thề quyết một lòng theo Bác, theo Đảng làm cách mạng, nơi đã nhiều lần được Bác gửi thư riêng dạy bảo, khen ngợi và động viên, toàn thể cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên vô cùng xúc động khi được tin Bác từ trần. Ngay sau đó cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ tư lệnh đã tập trung nghe đọc bản thông cáo đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chuẩn bị tổ chức lễ tang Bác. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến đấu nhưng với lòng kính yêu vô hạn đối với Bác, trong buổi lễ truy điệu Người các đơn vị vẫn có bàn thờ treo ảnh Bác lồng trong khung đen, cờ đính dải băng đen, khẩu hiệu và vòng hoa rừng viếng Bác. Các đơn vị và cơ quan phía sau, nhiều đơn vi phía trước đã tổ chức lễ đài với nghi thức trang nghiêm để mỗi buổi sáng tập trung tưởng nhớ Bác.

7 giờ sáng ngày 6 tháng 9 năm 1969, lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử hành trọng thể tại Hội trường Ba Đình. Ngay chiều ngày 6 tháng 9, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức trọng thể lễ truy điệu Bác. Các đại biểu của cơ quan và đơn vị trực thuộc, các cán bộ trung cấp, cao cấp đại diện các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích về đông đủ dự lễ truy điệu Người.

Anh Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh và anh Trần Thế Môn — Chính ủy Mặt trận kính cẩn đặt vòng hoa (với đủ loại hoa của rừng núi Tây Nguyên được anh em tiểu đoàn vệ binh làm rất công phu) trước chân dung Bác. Trong giọng nghẹn ngào, nhiều lúc phải ngừng lại vì quá xúc động, anh Thảo đọc tiểu sử của Người và điếu văn viếng Bác. Đồng chí Tư lệnh ôn lại công ơn trời biển và sự quan tâm săn sóc của Bác đã dành cho đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên qua mỗi chặng đường cách mạng; đồng thời nhắc nhở toàn thể cán bộ, chiến sĩ hãy biến đau thương thành hành động cách mạng, nâng cao quyết tâm chiến đấu, không ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên chiến trường, xứng đáng với sự quan tâm dạy dỗ của Bác.

Thay mặt toàn thể đảng viên, đoàn viên, cán bộ và chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên, tôi đọc bức điện của Đảng ủy Mặt trận gửi lên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, toàn văn như sau:

“Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên trong các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên vô cùng xúc động và đau đớn khi được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại vô cùng kính yểu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta từ trần.

Cùng với quân dân toàn miền, chúng tôi ân hận vì chưa hoàn thành thắng lợi triệt để sự nghiệp giải phóng miền Nam để đón Bác vào thăm miền Nam, thăm Tây Nguyên thỏa ỉòng mong ước của đồng bào và chiến sĩ. Quân và dân các dân tộc Tây Nguyên rất vinh dự và vô cùng thấm thía biết ơn Bác vì được Người luôn luôn chăm sóc ân cần, nhiều lần viết thư riêng khen ngợi, dặn dò, giáo dục. Trong những ngày chiến đấu quyết liệt với quản thù, trước những khó khăn, gian khổ, thiểu thốn, hình ảnh và tiếng nói của Bác Hồ luôn luôn là niềm động viên cổ vũ quân dân Tây Nguyên vượt qua mọi trở lực giành từ tháng lợi này đến thắng lợi khác hoàn thành nhiệm vụ Đảng và Bác giao phó.

Trong giờ phút đau thương này, để tỏ lòng thương nhớ Bác kính yêu, chúng tôi xin hứa với Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quăn ủy Trung ương:

1. Suốt đời trung thành với Đảng, tuyệt đối tin tưởng và đoàn kết chặt chẽ chung quanh Trung ương Đảng, nghiêm chỉnh chấp hành mọi đường lối chính sách của Đảng, mọi chi thị mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, quyết tâm chiến đấu góp phần xứng đáng nhất thực hiện bằng được nguyện vọng cao cả của Bác Hồ là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Trước mắt khắc phục mọi khó khăn, đạp bằng mọi trở ngại, vượt qua mọi gian khổ ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời gian tới.

2. Ra sức học tập tư tưởng, đạo đức và tác phong của Bác, kiên quyết thực hiện tốt lời dạy của Người đối với quân, dân Tây Nguyên: “Đoàn kết, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”.


Đó cũng là lời thề thiêng liêng của tất cả cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong giờ phút vĩnh biệt Người.

*
*   *

Qua thực tiễn ở chiến trường những năm ấy, tôi nhận ra rằng bản lĩnh chiến đấu của bộ đội là sự hợp thành giữa ý chí và trí tuệ, kiến thức, năng lực hành động và kinh nghiệm cả về quân sự, về chính trị. Vấn đề đó phải thể hiện cụ thể ở từng người chiến sĩ, từng phân đội trên chiến trường. Từ chiến dịch Đắc Tô trở về sau, chúng tôi đặt vấn đê này đúng mức hơn, xen giữa các đợt chiến đấu, song song với những cuộc chỉnh huấn chính trị, chúng tôi đã chú trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm chiến đấu, tập huấn cán bộ và huấn luyện bộ đội. Nhờ vậy, năm 1969, năm đỉnh cao của gian nan và thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên càng đoàn kết thương yêu đồng bào, đồng chí, càng gắn bó với chiến trường trong tư thế đĩnh đạc, chủ động, sẵn sàng đón nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho.


(1) Ngày 19 tháng 8 năm 1989, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông báo ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời lúc 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc khánh của nước ta. Để ngày Bác mất không trùng với ngày vui lớn của cả dân tộc, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết định công bỏ ngày mất của Bác vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 3 tháng 9 năm 1969. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) cho rằng nay cần công bố lại đúng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời”.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:52:39 am
IV

VƯỢT QUA THỬ THÁCH TRỤ BÁM CHIẾN TRƯỜNG

Tôi vẫn thường trở lại Tây Nguyên. Một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng (3-1975), dường như năm nào tôi cũng về thăm lại miền đất thương nhớ và vơi đầy kỷ niệm này. Nói là về thăm thì không hẳn đúng lắm. Tôi trở lại Tây Nguyên để làm nhiệm vụ trên cương vị công tác của mình, gặp lại đồng đội, bạn bè chiến đấu năm xưa, thăm lại những nơi mà mình đã sống và chiến đấu. Mỗi cuộc gặp, mỗi lần thăm (đặc biệt với đồng bào ở các khu căn cứ cũ) không chỉ gợi lại niềm vui chiến thắng mà nhiều hơn là kỷ niệm những ngày gian khổ thiếu thốn, tình đồng chí, đồng đội, đồng bào đoàn kết gắn bó, chia sẻ ngọt bùi.

*
*   *

Với mỗi người chiến sĩ Tây Nguyên năm xưa, mỗi lần nhớ về Tây Nguyên, nhớ lại những năm tháng khó khăn chưa xa ấy, có lẽ câu chuyện ám ảnh nhất, ấn tượng nhất, khó quên nhất là câu chuyện về cái đói, sự chiến thắng cái đói, rồi sau đó mới là chuyện đánh giặc.

Tôi còn nhớ cuối năm 1965, đầu năm 1966, đến ngày 29 tháng chạp, ở cơ quan chính trị mặt trận chỉ còn vài chục lon gạo và sắn, thực phẩm không có gì. Anh em bàn nhau và quyết nghị: ngày 30 Tết một mình chủ nhiệm trực ở nhà giải quyết công việc, còn hơn hai chục cán bộ phân công nhau đi “kiếm ăn”, đào củ rừng, hái rau, săn bắn. Và kết quả cũng khá: đủ cho ba ngày Tết.

Hai năm 1966, 1967 cán bộ, chiến sĩ toàn chiến trường một mặt rút kinh nghiệm trong những trận đầu đánh Mỹ, huấn luyện nâng cao trình độ, tác chiến lập được nhiều chiến công khá lớn. Chiến dịch Sa Thầy, diệt 1 tiểu đoàn Mỹ và đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn khác; chiến dịch Đắc Tô I, đánh thiệt hại nặng lữ dù 173 Mỹ và lữ 1 sư đoàn 4 Mỹ, góp phần cùng quân dân toàn miền đánh bại chiến lược “tìm diệt” của đế quốc Mỹ; mặt khác tích cực tăng gia sản xuất, đẩy mạnh hoạt động mua hàng ở Cam-pu-chia và đường chiến lược 559 đã vào đến binh trạm 37 nên tiếp tế, hậu cần khá hơn, đời sống tương đối dễ chịu. Sang năm 1968, nhiệm vụ tác chiến liên tục vừa duy trì đòn tiến công đô thị, vừa đánh phá âm mưu và thủ đoạn “bình định” của địch, giữ vững nồng thôn và phá ấp mở vùng, giải phóng nhân dân (năm 1968 đã phá được 130 ấp chiến lược, giải phóng 60.000 dân) nên không còn thời gian sản xuất.

Do đó bước sang năm 1969, chiến trường Tây Nguyên gặp khó khăn lớn vì đạn dược, thuốc men, quân trang và nhất là lương thực. Nguồn dự trữ rất mỏng, lại phân tán nhiều nơi.

Theo số liệu ghi trong sổ tay của tôi thì vào đầu mùa hè năm 1969 tổng lương thực dự trữ của cả chiến trường B3 chỉ đủ để nuôi bộ đội một tuần, gạo năm 1968 chuyển qua năm 1969 chưa bằng một phần ba tồn kho năm 1967 chuyển qua năm 1968 ! Thực phẩm còn bị cạn kiệt hơn. Dường như tất cả hệ thống kho tàng đều trống rỗng. Cũng xin được nói thêm rằng, nguồn lương thực thực phẩm nuôi sống bộ đội Tây Nguyên dựa vào bốn nguồn:

1. Trên cấp, tức là từ A, từ miền Bắc vào.

2. Tự mua.

3. Địa phương cho.

4. Tự túc bằng tăng gia sản xuất.

Thì cả bốn nguồn trên đều bị "tắc”. Số lương thực thực phẩm từ A không vào được hoặc vào rất nhỏ giọt do địch đánh phá, năm 1969 chỉ nhận được khoảng 30%. Trong khi đó cửa khẩu miền Tây (nguồn tự mua) bị đóng do những biến động ở Cam-pu-chia. Đồng bào thì còn đói hơn bộ đội lấy gì mà cho. Còn về việc tăng gia sản xuất cũng không phải không gặp khó khăn bởi địch đang ráo riết giành dân song song với giành đất. Chúng còn coi mục tiêu triệt phá nguồn cung cấp của ta là một trong những mục tiêu “chiến lược” quan trọng của chúng. Địch không chỉ dùng bom pháo, chất độc phá hoại nương rẫy mà chúng còn chủ trương “giành rẫy”, “giành ruộng” của ta nữa. Vả lại việc tăng gia sản xuất đâu chỉ ngày một ngày hai là có ăn ngay. Từ cái hom sắn đặt xuống đất phải mất nhiều thời gian và công lênh mới có được củ sắn.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:53:10 am
Trong tình hình các nguồn tiếp tế bị nghẽn, kho tàng cạn kiệt như vậy, Tây Nguyên vẫn vừa phải lo tự nuôi mình vừa phải lo toan việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho các đơn vị khách đi qua (gồm cán bộ đi công tác, thương bệnh binh, từ A vào B2 Nam Bộ, hoặc ngược lại từ B2 ra hậu phương lớn miền Bắc), gọi là khách hành lang (năm 1969 Tây Nguyên đã cung cấp 494 tấn lương thực, thực phẩm cho hơn 61.500 người qua lại trên hành lang).

Do vậy mà từ tiêu chuẩn 2 lon gạo (tương đương 5 lạng) một ngày cho mỗi người nay rút xuống còn 2,5 lạng/người/ngày, rồi rút tiếp xuống 1,2 lạng. Nhiều tuần lễ cả cơ quan phải ăn sắn, rau trừ bữa!

Cái đói của Tây Nguyên những năm ấy, sau này đã được đưa vào thơ văn. Cái ống coóng của bộ đội - một cái ống bơ để đun nấu, cải thiện mà dường như người lính Tây Nguyên nào cũng biết. Lính ta đi đâu cũng mang nó theo để gặp bất cứ thứ gì ăn được là cho vào đó, đun lên thành thức ăn. Đó là một thứ nồi thắng cố, canh hổ lốn của lính gồm đủ loại: cua, cá, rau, củ, chuột, chim, khoai... tất tật. Cái ống coóng đã đi vào một bài thơ của nhà thơ Thanh Thảo gọi là Bài ca ống coóng. Nhiều chiến sĩ Tây Nguyên nay vẫn nhớ bài thơ như sau:

      Bài ca của chúng tôi
      Là lời ca ống coóng
      Hành trang quân giải phóng
      Đơn giản nhất trên đời
      Tháng năm sẽ dần phai
      Bao bài ca duyên dáng
      Nhưng tôi biết giờ đây
      Như khắc vào đá tảng
      Như vạch vào thân cây
      Bài ca của hôm nay
      Thô sơ và rực sáng


Nhà thơ thì viết về cái đói như vậy còn người thầy thuốc viết về cái đói đáng sợ hơn nhiều. Bác sĩ Lê Cao Đài - nguyên Viện trưởng Viện quân y 211 thuộc chiến trường B3 trong một quyển hồi ký viết, đói là nguyên nhân căn bản của bệnh thiếu vi-ta-min B1 cộng với lao động nặng nhọc dẫn đến phù tim. Người mắc bệnh tương tự như kẻ ốm giả vờ. Đang họp lăn ra chết, có người đang ăn tự nhiên tay thõng xuống và liệt luôn! Mổ tử thi những người này thấy tim to như quả bưởi, thành tim mỏng như tờ giấy bìa, nhợt nhạt, nhẽo mềm. Ở Tây Nguyên hồi ấy có cả trăm đồng chí chết vì thiếu vi-ta-min B1. Bác sĩ Võ Văn Vinh, nguyên chủ nhiệm quân y B3 nhận xét: bệnh ấy chỉ thấy trong các nạn đói.

Nói về các đói ở Tây Nguyên, không thể không nói cái thiếu. Cuốn sổ taỳ của tôi ở chiến trường năm 1969 ghi: Chiến sĩ B3 được phát trong năm:

- 01 bàn chải đánh răng.

- 250 gam xà phòng (kế hoạch 1 kg).

- 700 gam thuốc lá (50 gam/tháng).

Bước sang năm 1970, tiêu chuẩn cũng vậy. Mỗi tháng chiến sĩ được hưởng: 2 lạng mỡ, 2 lạng mắm kem, 1 kg muối, 12 kg gạo (đi trận thêm 5 lạng đường, 1 hộp sữa, nửa cân đậu xanh, 5 lạng gạo hấp/ngày).

Về mặc, mỗi người một bộ dài, một bộ lót (lành). Những người đi chiến đấu bổ sung thêm 4 người 1 bộ, trực thuộc cơ quan 8 người 1 bộ. Toàn mặt trận có tới 1/3 lính bận đồ rách vá, một nửa số quân không có võng, tăng, ni-lông...

Vì thiếu đói nên bệnh sốt rét phát triển mạnh, có tháng sốt cả ngàn người và dường như ai cũng qua cái sốt. Người sốt rét gặp tình trạng thiếu ăn, lao động nặng nhọc thì lại chịu ảnh hưởng của chất độc hóa học Mỹ... càng mắc thêm các chứng bệnh khác như tiêu chảy, phù thũng, suy tim... Có thời kỳ ở các bệnh xá, bệnh viện thương binh thì ít, bệnh binh thì nằm la liệt kể đến cả ngàn người. Nhiều bệnh nhân tiêu chảy, suy kiệt sức lực không nhổm người lên được. Nước phân chảy qua lỗ hậu môn rộng hoác, không thuốc nào cầm được, cứ thế suy kiệt cho đến chết. Có những đồng chí bị phù thũng toàn thân, đặc biệt là hai bàn chân. Ấn ngón tay đến đâu lõm đến đó như ấn vào miếng đất sét dẻo. Hồng cầu giảm dưới 2 triệu... Theo thống kê của quân y mặt trận thì số bệnh binh nằm ở quân y thường đông gấp 10 lần số thương binh!


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:53:54 am
Cũng do đói thiếu mà sinh ra bệnh tật, cũng do đói thiếu mà người lính Tây Nguyên còn phải chịu bao nhiêu tai họa khác. Họ chết, họ mang bệnh tật nhiều khi không phải do bom đạn mà do bị “suối cuốn, núi xô, cây đổ, hổ vồ”, hoặc bị nhiễm độc vì rau, củ, quả rừng... trên đường đi lấy gạo, đi công tác, đi sản xuất. Ai đó đã viết những câu thơ rất đúng về những sự hy sinh này:

      Những chiếc võng mục giữa rừng nguyên thủy
      Còn ôm bạn ta cơn sốt rét cuối cùng
      Những lán hầm nứa đêm mưa xối xả
      Giấc ngủ vùi bên nhau khô ướt mấy mươi lần


Tình hình Tây Nguyên đang đứng trước một thử thách nghiệt ngã và có thể nói năm 1969 là năm đỉnh cao của gian nan.

Trước tình hình hết sức khó khăn đó, Đảng ủy Mặt trận ra nghị quyết củng cố xây dựng lực lượng theo hướng “tinh, gọn, nhẹ, ở cơ quan giảm phục vụ, tăng chiến đấu, phát triển lực lượng tinh nhuệ”. Tư tưởng “có đất, có ăn”, lấy sản xuất là một mũi tiến công đã được quán triệt sâu sắc đến từng chiến sĩ Tây Nguyên.

Dường như suốt những năm 1968 đến 1972, ở tất cả các cuộc giao ban tuần, giao ban tháng, hội ý... của mọi cấp từ phân đội đến Bộ tư lệnh vấn đề chống đói, vấn đề tăng gia sản xuất đều được đưa vào chương trình nghị sự. Tăng gia sản xuất nhiều lúc được đặt ngang, thậm chí đặt trên công tác tác chiến bởi như các cụ ta thường nói “thực túc binh cường” - có lương thực đủ mới có thể xây dựng được những đơn vị mạnh.

Để cụ thể hóa công tác tham gia sản xuất chống đói, trước hết, cũng như đánh giặc phải bố trí, sắp xếp lại lực lượng trên toàn chiến trường theo hướng tinh gọn, dành ưu tiên cho lực lượng làm kinh tế, trực tiếp sản xuất.

Năm 1968, ở Tây Nguyên có Sư đoàn 1 (nông trường 1) và một số đơn vị độc lập. Trước tình hình gay gắt về lương thực, thực phẩm, trang bị, tinh gọn, chủ lực Tây Nguyên còn bốn trung đoàn (95, 66, 24A, 28) và một số đơn vị binh chúng kỹ thuật. Đồng thời với việc rút lại các đơn vị chủ lực, ta buộc phải tiến hành đưa một lực lượng không nhỏ ra hậu phương lớn. Tháng 5 năm 1969 rút toàn bộ trường quân chính, trường quân y ra Bắc. Rồi rà soát lại toàn bộ lực lượng như văn công, thương bệnh binh, người mất sức, phụ nữ, trẻ em... và tất cả những lực lượng phục vụ khác. Ai là người “không cần lắm” cho chiến đấu, sản xuất đều xếp vào diện cho ra A. Lực lượng này không nhỏ, cuộc chuyển quân này không đơn giản... Sau này có người ví cuộc “chuyển quân” này như là một cuộc “tập kết lần thứ hai” (trước đó, năm 1954 sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cuộc tập kết ra Bắc của các lực lượng kháng chiến là cuộc tập kết thứ nhất).

Cho đến hôm nay, dường như chưa có tài liệu sách vở nào viết một cách thật đầỷ đủ về những cuộc chuyển quân này, nhưng chỉ đọc một số bài báo, một số đoạn hồi ký của các nhà văn có dịp qua chiến trường Tây Nguyên những năm sáu chín, bảy mươi chúng ta cũng có thể hình dung được về cuộc “tập kết lần thứ hai” ấy. Anh Bảo Định Giang - một cán bộ cao cấp của Ban Tuyên huấn Trung ương, từ Nam Bộ ra Bắc, qua Tây Nguyên ghi trong nhật ký: “ở trạm 73 anh em săn được nai. Tám giờ rưỡi tối đem về. Mười giờ trạm luộc cho một đĩa. Hơn hai tháng rưỡi nay mới được ăn thịt. Chỉ ăn thịt luộc chấm muối thôi, không có rau. Sau năm giờ đi đường bằng, không trèo dốc như các trạm trước đã tới trạm 71... Trên đường đi gặp toàn thương binh hỏng chân không đi được. Anh em nằm trên cáng chuyển hết trạm này đến trạm khác đến miền Bắc mới thôi. Mỗi lần cáng một thương binh mất bốn giao liên. Dốc núi nhiều chặng rất cao, làm người cáng rất mệt sức. Đó là chưa kể, những trường hợp ốm đau bất thường của cán bộ quân đội qua đường bị sốt nặng cũng phải cáng. Mỗi trạm có từ 18 đến 20 đồng chí kể cả ban phụ trách, phải thường xuyên làm các nhiệm vụ sau đây: đưa rước cán bộ ra, nấu ăn tiếp tế, sản xuất một năm 3 tháng tự túc, chữa bệnh thông thường cho những người đau ốm nhẹ. Năm nay lại phải chuyển mấy nghìn thương binh từ Tây Nguyên, Nam Bộ ra Bắc, phải lo nhà cửa cho anh em đến ở, tổ chức ăn uống, cáng những đồng chí đau ốm nặng và cụt chân. Nói chung anh em rất có kỷ luật tôn trọng tổ chức. Chỉ có quân đội mới tổ chức được tốt như thế” (Bảo Định Giang trong cuốn Về Nam, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 131, 132).

Cuộc giản chính, giảm quân năm 1969 ở Tây Nguyên là một “giải pháp tình thế”, chúng ta buộc phải làm như vậy vì lý do cốt yếu là vấn đề lương thực.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:54:23 am
Song song với việc chuyển bớt lực lượng ra Bắc, Bộ tư lệnh Tây Nguyên quyết định đưa 10% quân số còn lại chuyển qua sản xuất lương thực “chuyên nghiệp”. Thế là những “người nông dân mặc áo lính” lại trở về với công việc nhà nông quen thuộc của mình, chỉ khác một chút là họ không cày sâu cuốc bẫm trên đồng đất quê hương mình mà làm nương, phát rẫy, trỉa lúa, trồng ngô ngay trên mành đất của chiến trường Tây Nguyên.

Việc sản xuất, nói thì đơn giản nhưng vấn đề sản xuất ở chiến trường Tây Nguyên thật không đơn giản chút nào. Muốn sản xuất, trước hết phải có đất để mà sản xuất, vì vậy phương châm của cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên lúc ấy là lấn đất, ép địch, giành dân tạo thể chiến trường. Công cuộc giành dân, ép địch lấy đất sản xuất thật vô cùng gian nan, đôi khi để có được đất đai canh tác, bộ đội ta phải đánh đổi bằng cả máu của mình.

Có đất là có ăn — bộ đội Tây Nguyên vẫn thường nhắc nhau nhự vậy. Và khi đã có đất, những chỉ tiêu, những kế hoạch được đặt ra thật rõ ràng. Kế hoạch, chỉ tiêu sản xuất của Mặt trận Tây Nguyên lúc bấy giờ được xem như “quân lệnh”, đơn vị nào, cán bộ chiến sĩ nào cũng phải bắt buộc thực hiện. Cụ thể:

Kế hoạch sản xuất vụ mùa 1969-1970:

- Loại 1 (bao gồm cán bộ chiến sĩ trong các đơn vị chiến đấu) phải trực tiếp lao động từ 20-23 ngày công trong năm, quân bình 5,2 người làm 1 héc-ta.

- Loại 2, 3, 4 (bao gồm cán bộ chiến sĩ cơ quan, cán bộ chiến sĩ hậu cần, phục vụ, cán bộ chiến sĩ làm chuyên môn nghiệp vụ...) phải trực tiếp tham gia sản xuất mỗi năm 40-60 ngày công, quân bình từ 2,1 đến 3,4 người làm 1 héc-ta.

- Loại 5 (bao gồm 10-15% quân số trực tiếp sản xuất) phải làm 100 - 200 ngày công một năm, trung bình 1 người làm 1 héc-ta.

Cách canh tác lúa ở miền cao nguyên rất khác với đồng bằng, với những chiến sĩ quê ở đồng bằng Bắc Bộ thì cái khác ở đây ở mức “một trời, một vực”. Ở ngoài Bắc người nông dân làm lúa nước theo chu trình cày, bừa, cấy, gặt, còn ở Tây Nguyên, từ bao đời nay dân làm rẫy, canh tác theo chu trình phát, cốt, đốt, trỉa và tuốt.

Phát là phát rẫy, phát hoang. Người làm rẫy dùng dao quắm phạt những cây nhỏ, rồi đốt. Cốt là chặt những cây lớn, những thân gỗ chưa cháy hết trong lúc đốt rồi gom lại tạo ra một mặt bằng. Sau đó là trỉa. Trỉa tức là lấy gậy nhọn chọc lỗ bỏ hạt... Công đoạn sau cùng là tuốt lúa, thu hoạch. Người Thượng tuốt lúa bằng tay, bộ đội ta cũng vậy. Sau này chỉ có một số ít đơn vị sản xuất có tính chuyên nghiệp dùng liềm, hái, còn đại bộ phận vẫn tuốt lúa bằng tay.

Việc canh tác lúa ở Tây Nguyên phụ thuộc ít nhiều vào các yếu tố đất đai, thời vụ, thời tiết và sự phá hoại của chim rừng, thú rừng. Thông thường từ tháng ba, tháng tư khi mùa mưa bắt đầu là mùa làm rẫy. Bộ đội Tây Nguyên ai cũng thuộc câu hát: “Tháng ba mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông lấy nước, mùa em đi phát rẫy làm nương...”. Qua tháng 5, tháng 6, 7, 8 đến tháng 9,10 mới là mùa thu hoạch. Như vậy là ở Tây Nguyên không phải là “ba tháng trông cây” mà phải chín tháng trông cây mới có “ngày hái quả”. Có được hạt gạo ở đất này thật vô cùng khó khăn, gian khổ. Để có bát cơm, cán bộ chiến sĩ và đồng bào Tây Nguyên càng thấm thìa câu ca cũ: “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Để có hạt cơm người chiến sĩ không những phải đổ mồ hôi mà như trên đã nói còn phải đổ máu nữa. Máu đổ do bom đạn địch, máu còn đổ vì “rắn cắn, nước trôi, cây đổ, hổ vồ”... Không ở đâu, cái chết lại rình rập con người thường xuyên như ở Tây Nguyên. Có những cái chết đến thật bất ngờ. Bom B52 rải thảm, pháo bầy, đạn biệt kích thám báo, dĩ nhiên rồi, nhưng còn có những cái chết tức tưởi vì hổ xé, voi giày, vì cả những con vật bé tí như con mò, con ve.

Con ve màu nâu, nhỏ chỉ bằng hạt tấm. Khi đốt vòi nó cắm sâu vào da thịt con người, đít chổng lên như con muỗi lúc hút máu. Người khi bị ve đốt chỉ nhoi nhói đau, nhưng sau đó chỗ bị đốt mẩn ngứa, gãi mấy cũng không hết, rồi cương cứng lên, rồi lở loét, nhiễm trùng. Cũng bé như con ve, con mò thường sống trong các bụi cây. Bị mò đốt, người tự dưng sốt cao, nổi hạch, đau cơ, lở loét và chết..

Nhưng nguy hiểm nhất vẫn là muỗi. Muỗi gây bệnh sốt rét cho bất kỳ ai. Nói đến sốt rét rừng Tây Nguyên không ai tránh khỏi rùng mình. Chính bệnh sốt rét đã cướp đi sinh mạng của hàng ngàn con người, hàng trăm cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên trong những năm chưa xa đó.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:54:57 am
Một nắng hai sương mới có được hạt lúa, hạt gạo vì thế, với Tây Nguyên những năm sáu chín bảy mươi gạo được coi như một thứ vàng. Gạo, gạo, ở đâu cũng thấy vang lên những tiếng đó. Là thế cho nên bộ đội Tây Nguyên suy tôn gạo là vị tư lệnh cao nhất của chiến trường, tư lệnh gạo có quyền tối thượng, có sức mạnh lớn nhất ở đây. Mọi chủ trương, mọi kế hoạch, mọi hoạt động nhất nhất đều do “tư lệnh gạo” quyết định.

Để có gạo, bộ đội cùng đồng bào Tây Nguyên đã tìm mọi chỗ, mọi nơi để trồng trỉa lúa. Ăn sắn, ăn rau cũng làm nương, bụng đói mèm vẫn đi phát rẫy. Chưa hết, còn đánh địch, đuổi thú dữ để giành lấy đất làm nương...

Năm tháng đã đi qua, nhưng với nhân dân. hai bên bờ sông Sa Thày, Pô Cô, vùng ba biên giới Pa Kha, Tà xẻng, Đắc Son... những cái tên “bộ đội nông trường 1” , “nương nông trường 1”... đã thành những cái tên thân yêu, mãi mãi chẳng phai mờ.

Rẫy “nông trường 1” (Sư đoàn 1) nằm sát ngay tuyến phòng thủ cơ bản của địch, rẫy tiểu đoàn 6 độc lập cách sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy chưa đầy 10 km. Nương rẫy của bộ đội cũng “lấn đất, ép địch, giành dân, tạo thế chiến trường”.

Song song với việc tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật phổ biến kinh nghiệm trồng trỉa lúa, làm nương, làm rẫy thường xuyên trên báo Quân giải phóng Tây Nguyên, Mặt trận còn cử những đoàn cán bộ kỹ thuật tới tận các đơn vị, các làng bản hẻo lánh để trực tiếp hưởng dẫn bộ đội và nhân dân tăng gia sản xuất. Qua vụ mùa 1969-1970, về cơ bản, bộ đội Tây Nguyên đã có gạo. Theo số liệu thống kê lúc ấy thì trong năm 1970 toàn chiến trường đã thu hoạch được 535 tấn thóc, một số đơn vị như các trung đoàn 66, 95, 28, 40 đã có gạo dự trữ phục vụ chiến đấu. Tuy nhiên, gạo vẫn là câu chuyện thời sự, vẫn là vấn đề sống còn của chiến trường này, vì thế chủ trương đẩy mạnh sản xuất hơn nữa, tiết kiệm hơn nữa vẫn được thường xuyên quán triệt. Dành gạo cho chiến đấu vẫn là khẩu hiệu hàng ngày của mỗi cán bộ chiến sĩ.

Có những đơn vị, mỗi chiến sĩ chỉ ăn nửa lạng gạo mỗi ngày. Anh em đề nghị đồng chí chỉ huy và đồng chí chính ủy ăn thêm để lấy sức chỉ huy đơn vị. Các đồng chí ấy đã không nhận sự ưu tiên ấy và đề nghị chuyển qua cho anh em thương binh mới từ mặt trận trở về. Cần kiệm, chắt chiu là một trong những đức tính vô cùng quý báu của người lính Tây Nguyên. Chiến sĩ Nguyễn Văn Mai, trong trận đánh địch ở đèo Măng Giang ngày 17 tháng 8 năm 1969 bị thương, biết mình không sống nỗi đã nhường nắm cơm duy nhất của mình cho đồng đội và dặn lại: “Tôi không sống được nữa, ăn vào cũng chẳng ích gì, đồng chí cầm lấy mà ăn để có sức tiếp tục đánh giặc”. Nắm cơm sâu nặng nghĩa tình đồng đội ấy mãi mãi ghi sâu trong ký ức của những người lính Tây Nguyên trong những năm tháng thử thách ghê gớm.

Trong nhiều tháng liền và kể cả những ngày lúa chín đầy nương, gạo còn trong kho, chiến sĩ các đơn vị phía sau vẫn chỉ dám ăn ngày từ 1 đến 2 lạng gạo, có lúc ăn toàn sắn. Rau và sắn là những thứ dùng thường ngày của bộ đội ta. Từ các cán bộ chỉ huy, các bác sĩ ngày đêm bên bàn mổ, những chiến sĩ “ngụ binh ư nông” sáng sáng chiều chiều “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, những chiến sĩ vận tải gùi hàng leo dốc... cho đến những chàng vệ binh đẵn gỗ đào hầm, canh gác đều cũng chỉ ăn những khẩu phần như vậy.

Các chiến sĩ vận tải có thói quen, hễ đeo gùi lên vai là trong túi không quên kim chỉ để khâu bao gạo mỗi khi bị rách. Mọi người đều nhận thức rằng hạt gạo vào được chiến trường đã thấm bao mồ hôi, xương máu của đồng chí đồng bào. Các chiến sĩ giữ kho đã tìm cách chăng vải nhựa dưới sàn để thu gom gạo rơi vãi.

Tại các bến tiếp nhận hàng, chiến sĩ ta dường như phải chiến đấu với bom đạn địch để giành từng bao gạo. Tiểu đoàn 2 binh trạm Bắc đã quét, nhặt đãi toàn bộ số gạo vương vãi sau trận chiến đấu đem về ăn thay tiêu chuẩn được cấp, dành gạo tốt trong kho cho các đơn vị chiến đấu.

Về phía đồng bào, tuy còn vô cùng đói rét nhưng vẫn bảo vệ nương rẫy của bộ đội một cách rất trách nhiệm. Chẳng những thế bà con còn chắt chiu từng lon gạo, gùi sắn khô để thành lập các “khu cách mạng” chuẩn bị cho bộ đội ăn khi về đánh giặc.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:55:28 am
*
*   *

Trong số các cây lương thực quen thuộc với cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên bên cạnh cây lúa thì cây sắn có vai trò hết sức quan trọng. Sắn mọc trên nương, trên rẫy, sắn men tới chiến hào, sắn theo người chiến sĩ hành quân ra mặt trận, sắn đi vào chương trình nghị sự của các cuộc giao ban, sắn được ghi trong sổ tay tư lệnh. Sắn vào thơ văn, sắn thành bài hát, thành kỷ niệm một thời chinh chiến của người lính Tây Nguyên.

Sắn là thứ cây lương thực được đưa lên Tây Nguyên giữa thế kỷ XX, trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Địa phương gọi là củ mì. Cây sắn là cây lương thực, cây thực phẩm, là loại cây dễ trồng, dễ chế biến, vì thế rất dễ gần với bộ đội ta trong những ngày gian nan, đói kém. sắn cho củ. Củ sắn có thể luộc, hấp, đồ xôi, nướng ăn ngay, cũng có thể thái phơi khô, giã nhỏ thành bột làm bánh, để tích trữ rất tiện lợi. Ngoài củ, sắn còn cho lá. Lá sắn nấu canh, làm nộm, làm dưa...

Thấy rõ sự “ưu việt” của cây sắn như vậy, nên trong các kê hoạch sản xuất của mặt trận, các đơn vị, các địa phương đều có chỉ tiêu trồng sắn. Chỉ tiêu cho đơn vị, chỉ tiêu với tất cả mọi người. Những năm thiếu đói ở Tây Nguyên, mặt trận quy định mỗi người lính phải trồng 500 gốc sắn. Đó là chỉ tiêu bắt buộc. Theo chỉ tiêu đó, sắn dường như được độn thổ, đồng loạt nảy mẩm, xòe tán khắp Tây Nguyên, ở đâu, chỗ nào cũng thấy hình ảnh cây sắn và những mẩu chuyện về sắn. Theo thống kê của các đơn vị lúc bấy giờ thì toàn Tây Nguyên có chừng trên 20 triệu gốc sắn. Cũng như lúa, ở đây có “nương lúa nông trường 1” thì cũng có “nương sắn nông trường 1”, “kho sắn nông trường 1”... Đoàn Plây Me là đơn vị có phong trào trổng sắn phát triển nhất ở Tây Nguyên; ở đó bình quân năm 1969 là 1.000 gốc, qua năm 1970 lên bình quân 1.200, riêng diện tích sắn trồng tập trung ước tới 1.500 héc-ta.

Những câu chuyện về sắn trong bộ đội Tây Nguyên lúc ấy thật nhiều. Nay hơn 20 năm đã trôi qua, những người lính già Tây Nguyên năm nào vẫn còn nhớ nhiều chuyện.

Chuyện kể rằng: Có lần một đơn vị bộ đội chủ lực ta cơ động về phía nam chiến đấu trong những ngày thiếu gạo. Đến khu vực Cầu Lẩy toàn đội hình đã phải dừng lại để lấy sắn ăn thay cơm. Mỗi chiến sĩ được phát tiêu chuẩn 10 - 20 chiếc bánh sắn gói bằng lá dong, lá chuối rừng. Chưa hết, mỗi người còn chất đầy nóc ba lô những bó lá sắn non làm thức ăn dọc đường. Đơn vị đã hành quân bộ ròng rã một tháng trời vất vả như vậy, nhưng không ai tụt lại phía sau, tất cả đều đến đích tập kết. Và khi đến đích, chiến sĩ ta đã ví cây sắn có sức mạnh còn hơn cả một vườn mơ mà Tào Tháo đã bịa ra để động viên binh sĩ trong sách Tam quốc diễn nghĩa.

Chuyện kể rằng: Có một đơn vị sau này hành quân qua Tây Nguyên, thấy có nương sắn già, gốc thân như cây cổ thụ mà chẳng có ai thu hoạch. Hỏi, dân địa phương trả lời đó là nương sắn bộ đội trồng hồi bảy mươi. Lại hỏi sao không nhổ, không thu hoạch đi. Trả lời, đợi bộ đội về mãi chả thấy. Thì ra, theo chủ trương của mạt trận lúc ấy thì bộ đội đến đâu phải trồng sắn đến đó; ngày mai hành quân di chuyển đơn vị, hôm nay cũng phải trồng sắn để người sau, đơn vị sau đên có cái ăn. Nương sắn này đã bị quên lãng vì địa bàn ấy không có đơn vị nào qua, hóa thành “vườn sắn cổ thụ”. Có một bài thơ, hình như là của Cảnh Trà nói về nương sắn kiểu này ở Tây Nguyên cho đến nay vẫn còn có người thuộc lòng. Bài thơ như sau:

      Bọn tôi tới những nơi tưởng không có hơi người
      Thì nương sắn lại hiện ra xòe lá vẫy
      Sắn rồi sắn, cứ biếc lên như vậy
      Khắp một vùng lũng hẹp, dốc cao

      Như là sắn của trời cho, muốn dỡ, có sao đâu,
      Dỡ để luộc, dỡ để gùi, được tất
      Một trung đoàn ư? Một sư đoàn ư? Thả sức!
      Đây nồi - sắn - Thạch Sanh mà, không thể hết, đừng lo!
      Vào đây lần đầu xin bạn nhớ cho
      Có thói quen của người đi trước ta để lại
      Dỡ một gốc hãy trồng thêm mấy gốc
      Gặp bom phạt cây nào, nhặt cành gãy, trồng thay
      Bọn tôi đi vào những rừng sắn ở đây
      Cây mới nhú mầm, cây đã tầm tay với
      Đội ngũ sắn cũng có nhiều lứa tuổi
      Cũng như là trong đội ngũ chúng ta

      Nhớ các chị, các anh tới phát rẫy năm nào
      Dưới mỗi gốc giọt mồ hôi thấm đọng
      Tình đồng chí ngấm bùi hương vị sắn
      Đường đi, lá biếc xôn xao…


Cũng phải kể thêm rằng không những chỉ trồng sán mà bộ đội ta còn trồng cả dừa, cả lê-ki-ma để tỏ rõ ý chí bám trụ đến cùng của người lính Tây Nguyên.

Lại có chuyện về bài ca cây sắn. Nói đến bài “Cây sắn tấn công” không một người lính Tây Nguyên nào thời chống Mỹ lại không biết tới. Trước cao trào trồng sắn ở mặt trận, có người lính đã cảm xúc và làm thành bài hát. Lời của bài hát như sau:

      Một cây sắn ta trồng là một tên Mỹ gục
      Ngàn cây sắn ta vun là ngàn tên giặc tan thây
      Khoải không? Khoái không?
      Ta yêu cây sắn dễ trồng xanh tươi với núi sông.
      Nơi nơi cây sắn khắp vùng.
      Bao la sắn điệp trùng
      Ngàn ngàn kho sắn đầy.
      Giặc nào dám đến đây, sắn này vung lên ngay, đánh cho giặc tan thây.
      Khoái không? Khoái không?


Bài hát “Cây sắn tấn công” đã được đội văn nghệ xung kích của mặt trận dàn dựng và là tiết mục độc đáo của bộ đội Tây Nguyên tham dự hội diễn văn nghệ toàn chiến trường miền Nam tổ chức vào cuối năm 1969.

Ngoài cây lúa, cây sắn, bộ đội Tây Nguyên còn trồng ngô, trồng đỗ, trồng lạc, trồng khoai, trồng dong giềng, gieo kê, gieo vừng, gieo đỗ... Có thể nói chưa thấy ở nơi đâu trên thế giới này, từ trong lịch sử các cuộc chiến tranh lại có một đội quân vừa chiến đấu vừa sản xuất “thuần thục” như quân đội ta nói chung và bộ đội Tây Nguyên nói riêng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:55:53 am
*
*   *

Một điều như đã thành quy luật là khi người ta có thể ăn no thì tiếp đó sẽ nghĩ ngay đến chuyện phải tiến tới ăn ngon. Cái gọi là “ăn ngon” của bộ đội Tây Nguyên thật giản dị, đó chỉ là thức ăn mà thôi. Cao siêu thì thịt cá, bình thường thì chỉ là rau đậu, mắm muối.

Tây Nguyên những năm chống Mỹ, muối vẫn còn thiếu, nhưng không đến nỗi phải ăn trò tranh thay muối, chưa phải đến mức “giữ muối như giữ từng hạt máu” như những năm kháng chiến chống Pháp. Người lính Tây Nguyên luôn luôn tự nhủ mình rằng muốn làm việc gì cũng cần có sự chủ động, đánh địch cũng vậy, sản xuất cũng vậy, và ngay cả chuyện ăn uống cũng vậy. Là thế nên ngay từ khi mới gặp khó khăn trong việc tiếp tế từ hậu phương lớn, từ các cửa khẩu miền Tây vào họ đã nghĩ ngay đến việc phải tự túc thực phẩm song song với việc tự túc một phần về lương thực. Không thể để bộ đội đói cơm đã là một lẽ, cũng không được để bộ đội lạt muối. Với hai lạng mỡ, hai lạng mắm kem cho bộ đội dùng trong một tháng thì khó có được sức để sống để chiến đấu. Vì vậy vấn đề cải thiện đời sống được đưa vào chương trình nghị sự.

Cải thiện đời sống trước hết là cải thiện bữa ăn hàng ngày của bộ đội. Bữa ăn của người lính Tây Nguyên những năm 1968 — 1970 rất đạm bạc, sáng bánh sắn, trưa cơm độn sắn, canh sắn, tối cũng bánh sắn, dưa sắn.

Để có thực phẩm, các đơn vị đã tổ chức sưu tầm hơn 100 loại rau rừng ăn được. Ngoài việc hướng dẫn bộ đội cách trồng rau, các kỹ sư và công nhân trong xưởng chế biến của Mặt trận còn nghiên cứu chế biến thành công một số mặt hàng như: tương sắn, mắm kem chế từ lá sắn và xương động vật, thịt khô đóng gói, bánh kẹo làm bằng sắn, ngô, kê.

Nhiều đơn vị đã thành lập các tổ nông cụ, đồ dùng săn bắn, đánh cá, xay giã, chế biến thực phẩm, tiêu biểu nhất là các loại “máy” thái sắn, nồi hông, lò sấy măng...

Lao động cần cù không chỉ làm ra của cải vật chất mà trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ người chiến sĩ Tây Nguyên còn ngày càng trở nên tháo vát, thông minh, biết lo xa và giàu tinh thần tự lực trong cuộc sống.

Rất nhiều chiến sĩ sau những năm làm bạn với nương rẫy, núi rừng đã thuộc lòng từng loại lá, quả chua, phân biệt chính xác các loại nấm. Nhìn vào rừng cây đã có thể xác định được ở đó có loại thú nào, ăn đêm, ăn ngày, đi lẻ hay đi đàn. Nhìn xuống dòng suối, vùng nước có thể đoán được số lượng cá có thể đánh bắt. Săn bắn, bẫy thú, câu cá, bắt ong, đào măng, hái nấm, nhặt rau, đào củ... đã trở thành thói quen, niềm vui trong sinh hoạt hàng ngày của họ.

Trong hai năm 1969-1970 Cục Hậu cần Tây Nguyên đã xuất bản mấy tập “Sổ tay rau rừng”. Riêng tập I đã giới thiệu được 61 loại rau rừng ăn được, trong đó có hơn 50 loại có hình vẽ để bộ đội nhận dạng. Ngoài hình vẽ, các tác giả còn mô tả tỉ mỉ bằng lời về hình dạng, mùa vụ có thể hái lượm, địa điểm thường thấy, công dụng cũng như cách thức chế biến từng loại rau.

Xuất bản những cuốn “Sổ tay rau rừng” ở mặt trận là một sáng tạo rất quan trọng của ngành hậu cần Tây Nguyên. Việc làm này không chỉ nhằm tăng nguồn lương thực thực phẩm cho bộ đội mà còn có ý nghĩa rất lớn khác. Với “Sổ tay rau rừng”, bộ đội Tây Nguyên đã chứng tỏ tinh thần tự lực tự cường cao, ý chí bám trụ mãnh liệt. Và trên một phương diện nào đó, “sổ tay” này đã chứng tỏ tiềm năng và tri thức của những người lính bấy giờ là rất dồi dào.

Cũng từ trong cuộc sống lao động sản xuất, bộ đội ta, khi còn ở quê có thể còn là những “thư sinh mặt trắng” nay đã biết đan mũ, đan rổ rá, giần sàng, biết nấu ăn, hàn xoong, hàn nồi, làm giò măng, bánh sắn... Nhiều người trong số đó còn biết vá may, sàng sảy, cắt may quần áo... .

Chỉ cần một cây AK, một đôi dép lốp, một tấm vải nhựa, một con dao găm và chiếc bật lửa cùng một chút gạo mang theo, người lính Tây Nguyên đã có thể lên đường đi công tác. Hết gạo họ chặt chuối rừng, đào củ, hái rau rừng, bắt cá ăn. Không có nước chặt giang, hạ chuối lấy nước, không có xoong nồi thì lấy ống tre nướng cơm lam. Ở phía trước, bộ đội vẫn có thể giã bột làm bún, làm bánh. Cối xay, cối giã là những thân cây cưa ngang, bọc vải nhựa nẹp lại. Lúc ở gần địch cũng có thể giã bột bằng cách đưa mũ sắt xuống hầm... Tất cả mọi thứ từ cái mũ, cái mắc võng, giá ba lô, ngọn đèn, lọ dầu chống vắt... người lính đều có thể tự làm được. Dọc đường hành quân, dọc đường công tác, chỉ với con dao nhỏ, thậm chí một mảnh cật nứa bộ đội ta cũng có thể làm thịt một con nai, con dộc, con cheo, đôi khi là cả một con lợn rừng nặng cả tạ. Thịt thú rừng những khi ăn không hết thì làm giàn sấy khô tại chỗ, đem theo ăn dần...

Cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên, từ cuộc sống lao động chiến đấu đã nhận thức rõ sản xuất không chỉ đơn thuần là chống đói và cải thiện đời sống trước mắt mà còn là nhiệm vụ có tầm chiến lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế gắn liền với việc xây dựng địa bàn chiến lược lâu dài ở Tây Nguyên. Hơn hai mươi năm đã qua đi nhưng không khí và dư âm những ngày hội ra quân làm nương, phát rẫy năm nào vẫn còn trong ký ức của mỗi một người lính B3. Đồng loạt, khí thế và vui như những ngày hội xuống đồng, ngày lễ hạ điền ở các vùng quê.

Bằng bàn tay lao động cần cù và sáng tạo, bộ đội B3 đã biến cả một vùng rừng núi, bom đạn và hẻo lánh thành nương rẫy. Một vùng nương rẫy rộng lớn, mênh mông mà bom đạn địch, mà thú rừng không có cách nào phá hoại, tìm đến được.

Qua thực tiễn chỉ đạo sản xuất, Tây Nguyên đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu về sự kết hợp giữa các nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất, giữa tác chiến trước mắt và xây dựng căn cứ lâu dài, giữa giành và giữ đất giữ dân, đúng như đánh giá của Hội nghị sản xuất toàn mặt trận ngày 27 tháng 10 năm 1970: Thắng lợi của công tác tăng gia sản xuất không chỉ là thắng lợi về kinh tế mà còn là thắng lợi về chính trị, tư tưởng, về xây dựng con người, xây dựng phẩm chất người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cách đây mấy năm, tức là sau hơn một phần tư thế kỷ sau trận thất bại nặng nề ở thung lũng Ia Đrăng (17-1-1965), viên trung tá Harol Mo chỉ huy tiểu đoàn 1 (kỵ binh bay Mỹ) - nay là trung tướng, đã trở lại Việt Nam và xin được gặp những người chỉ huy trận đánh này của ta. Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Nguyễn Hữu An đã có cuộc đối thoại rất thú vị với viên tướng Mỹ thua trận năm nào. Hơn hai mươi năm đã trôi qua mà viên tướng nọ vẫn còn chưa trả lời được câu hỏi vì sao họ lại thua đau trong trận Ia Đrăng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:56:53 am
*
*   *

Vấn đề sức khỏe của bộ đội luôn luôn được đặt thành một công tác trọng yếu ở tất cả các cấp, các đơn vị, địa phương toàn Tây Nguyên.

Sức khỏe của bộ đội được đảm bảo ngoài việc ăn, mặc, ở, đi lại còn phải được chăm sóc cả về mặt tinh thần lẫn chữa chạy thuốc men, trong đó chăm sóc chạy chữa, thuốc men là vô cùng quan trọng.

Việc chăm sóc chạy chữa thuốc men cho bộ đội những năm chiến tranh chỏ yếu là do ngành quân y đảm nhiệm. Mạng lưới quân y của Mặt trận Tây Nguyên nằm khắp nơi, từ đại đội đến mặt trận. Cống hiến của quân y Tây Nguyên những năm chống Mỹ cứu nước thật vô cùng to lớn. Cũng như nhiều thanh niên, trí thức khác lúc bấy giờ, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, nhiều lứa sinh viên y khoa, sinh viên Trường đại học Quân y cùng nhiều giáo sư bác sĩ giỏi, giáo sư bác sĩ đầu ngành đã đến với B3, cùng chia lửa, chia gian khó với cán bộ và chiến sĩ.

Đến với Tây Nguyên, các chiến sĩ áo trắng không những phải cùng với bộ đội trèo đèo, lội suối, đi dưới khói lửa của bom đạn, trong đó có bom B52 rải thảm mà họ còn phải mang ngoài quân tư trang nào thuốc men, dụng cụ y tế, máy móc. Bác sĩ Lê Cao Đài, nguyên Viện trưởng Viện quân y 211 Tây Nguyên kể: Có cô nhân viên ở cửa hàng dược phẩm Hàng Bài (Hà Nội) rất ngạc nhiên không hiểu vì sao bộ đội mua quá nhiều bao cao su primeros cỡ to nhất. Chị không biết rằng bao cao su đó bộ đội ta dùng để nhồi thuốc, ruốc, đường... vừa nhẹ vừa tránh được ẩm ướt. Có anh nhồi vào cái túi đó đến cả 1 kg ruốc. Ít lâu sau ruốc đắng không ăn được vì có hóa chất diệt tinh trùng ở trong.

Câu chuyện thật lạ, tưởng như bịa mà có thật. Lại có chuyện khác. Khi các chuyên gia y tế nước bạn hỏi về “quy mô” của Viện quân y 211 Tây Nguyên, bác sĩ Lê Cao Đài đã trả lời, bệnh viện của chúng tôi lớn nhất thế giới, vì phải đi một tuần lễ mới hết các khoa trong viện.

Các chiến sĩ quân y ở đây ngoài công việc chuyên môn còn phải đào hầm, đôi khi trực tiếp chiến đấu và còn phải đảm nhiệm mỗi người trồng 500 gốc sắn. Toàn ngành quân y đã làm 140 héc-ta nương, trung bình mỗi người đảm nhận nửa héc-ta.

Công tác chăm sóc, cứu chữa thương binh, bệnh binh của các chiến sĩ áo trắng thật vô cùng vất vả gian khổ. Như ở trên đã nói, ngoài thương binh thì bệnh binh ở chiến trường này rất nhiều, có khi số bệnh binh gấp nhiều lần số thương binh. Ở chiến trường đặc biệt này, có hàng trăm thứ bệnh. Bệnh nguy hiểm nhất là sốt rét, đường ruột và thiếu B1... Có lúc ở bệnh viện, bệnh xá, trạm quân y, bệnh binh nằm la liệt, nhất là vào các tháng giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa. Lúc bây giờ, những năm 1969 - 1970 tình hình sức khỏe của bộ đội ta thật đáng lo ngại.

Quán triệt tinh thần “cứu người như cứu hỏa”, phát huy truyền thống “thầy thuốc như mẹ hiền”, với tinh thần thương yêu đồng chí, đồng đội, các bác sĩ, y tá, hộ lý ở các trạm quân y đã làm việc quên mình với tinh thần “tất cả vì người chiến sĩ, vì đồng chí, đồng đội”.

Có nhiều chuyện về họ thật cảm động. Đó là những chuyện về một vụ tranh nhau tấm kính ô tô vỡ để dùng làm dụng cụ lăn thuốc, cắt viên. Chuyện tìm kiếm hai chiến sĩ ở đơn vị nọ vốn là những người thợ thổi thủy tinh giỏi để điều về làm nhiệm vụ nấu thủy tinh, bởi “một ống tiêm nhỏ ở mặt trận cũng quý, dùng xong phải thu hồi để nấu lại”. Rồi chuyện hành trình của mấy chục viên gạch chịu lửa từ Hà Nội vào, chuyện mẻ thủy tinh đầu tiên được nấu thành công trên mảnh đất Tây Nguyên. Và cả chuyện có người đạp xe (đèn đi-na-mô) để lấy ánh sáng phục vụ một ca mổ. Đạp từ 3 đến 5 giờ một ca. Xong ca mổ có khi người đạp xe cũng ngất luôn. Ai đó đã nêu ra một bài toán rằng, nếu cộng số giờ đạp xe phục vụ các ca mổ lại thì có thể bằng đoạn đường từ Tây Nguyên ra Hà Nội...


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:57:23 am
Tôi còn giữ được tờ Tây Nguyên (tờ tin của các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Tây Nguyên) số 57 ra ngày 1 tháng 1 năm 1969 có bài viết của Bá Đàn về tinh thần tự lực của người lính cao nguyên. Bài viết có nhan đề Mẻ thủy tinh của tinh thần tự lực. Bài báo viết: “... Nằm trên chiếc giường con, Trần Bá Song cố vắt óc tìm kiếm mà vẫn thấy khó. Nguyên liệu cần nhiều, chiến trường lấy đâu ra được. Bao nhiêu dự tính đưa ra rồi lại xóa di. Thần kinh anh căng lên như những sợi dây đàn. Anh vừa thiếp đi thì những ống thủy tinh trong suốt và cuộc đời hơn 9 năm làm thuê cho thằng chủ Hiến ở xưởng thủy tinh H.P lại trở về chập chờn trong giấc mơ. Anh choàng dậy khi thấy thằng chủ đạp vào mình ngã giúi vào lò chỉ vì anh cho than hơi chậm.

Anh đốt đèn lên rồi đập khẽ Đàm và Sơn cùng dậy. Anh thản nhiên kể lại cuộc đời cay cực của mình cho các đồng chí cùng nghe. Rồi anh nhắc đi nhắc lại lời các thủ trưởng dặn lúc chiều. Cuối cùng anh nói như để cùng với Đàm và Sơn, những đồng chí mà anh vẫn coi như em út của mình:

- Ta phải làm bằng được, dù với một giá nào. Phía trước các đồng chí của ta không tiếc gì xương máu, ở đây ta cũng tiếc gì sức lực và mồ hôi.

Rồi ba anh em bắt tay vào công việc trong một buổi sáng đẹp trời như chính lòng họ đang đẹp những niềm tin và hy vọng của sự thành công. Làm nhà xong đến đắp lò, ống khói và nồi đất mới khó. Đi khắp suối đào vẫn không có đất mịn. Tìm đâu ra gạch chịu lửa để đảm bảo sức nóng trên 2.000 độ, ống khói dựng thế nào đây, v.v...

Họ lại cùng nhau bàn tính, được cấp ủy và thủ trưởng động viên, săn sóc, được anh em khoa dược và các khoa sẵn sàng chi viện, giúp đỡ, bước đầu họ đã thắng lợi. Lò nung dựng theo kiểu bếp Hoàng Cầm, một kiểu do lòng nghị lực và quyết tâm xông thẳng vào khó khăn thiếu thốn mà họ đã sáng tạo ra. Còn ống khói thì đi nhặt sắt, chặt đai thùng mà gò, mà hàn lại, lò thì đào sâu xuống lòng suối lấy đất đưa về rây bột, rồi cũng do những bàn tay từng trải, đầy nghị lực của họ đắp ra.

Mọi việc tạm ổn, thủ trưởng đến hỏi Song: “Bao giờ chúng ta có thể cho ra lò mẻ thủy tinh đầu tiên?”.

Song bình tĩnh đưa tay về phía ống khói của lò có đắp nổi con số 25, anh báo cáo với thủ trưởng và mọi người xung quanh:

- Đó, chúng tôi bắt đầu vào đúng cái ngày đã ghi trên ống khói và ngày hôm sau xin mời thủ trưởng và các đồng chí đến đón nhận mẻ thủy tinh đầu.

Đêm 25 tháng 11 năm 1968 - một đêm lịch sử trong đời bộ đội của Song. Anh lại bắt tay vào cồng việc quen thuộc của 20 năm trước đây anh đã nguyện từ giã nó, anh cho than vào lò...

Thuốc phải có ống, có chai, có lọ mới bảo quản được, mới đưa đến tận tay anh em đồng đội đang đêm ngày chiến đấu gian khổ ở phía trước... Suy nghĩ đó đã giúp đôi tay Sơn, Đàm nhanh hơn, trí não sáng ra và đôi mắt không còn muốn ngủ nữa.

Suốt đêm Song hồi hộp, than càng đỏ, sức nóng càng cao, nhưng anh vẫn không một phút dám rời lò. Anh theo dõi từng biến chuyển của lò dốt như theo dõi nhịp đập của chính con tim mình, từng bước đi chập chững của đứa con đầu lòng. Thắng lợi đã đến, thủy tinh bắt đầu chảy trong nồi. Nhìn nồi thủy tinh đỏ rực như một bông hoa, lòng các anh rạo rực hẳn lên. Thành quả của những ngày những đêm vắt óc tìm kiếm đang mang đến cho các anh niềm vui đó.

Đúng 9 giờ sáng ngày 26 tháng 11, khi thủ trưởng và mọi người tới, cùng là lúc Song và Đàm bắt đầu lấy chiếc ống nhỏ cho vào nồi, tách thủy tinh ra và bắt đầu thổi. Nhìn những ống thủy tinh dài ra theo tay kéo của Đàm mọi người như muốn reo lên. Rồi đây những chiếc ống, chiếc lọ đựng đầy thuốc sẽ theo những chiến sĩ quân y đi ra phía trước phục vụ bộ đội, góp phần vào thắng lợi cuối cùng”.

Ý chí tự lực tự cường của quân và dân Tây Nguyên còn được thể hiện trong tinh thần dám nghĩ dám làm, khắc phục khó khăn, sáng tạo, sửa chữa, sản xuất ra các loại vũ khí và phương tiện chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Quãng mùa thu năm 1969 - năm Tây Nguyên gặp rất nhiều khó khăn, ngành hậu cần tổ chức một cuộc triển lãm khá quy mô, trong đó có gian trưng bày của quân giới. Ở đây, người xem được tận mắt thấy rất nhiều loại vũ khí tự tạo của bộ đội, du kích Tây Nguyên. Người ta còn được nghe giới thiệu về một đồng chí xã đội trưởng ờ khu 4 (Gia Lai) lấy bom bi của địch làm thành mìn đánh xe tăng, diệt bộ binh địch; chuyện bộ đội huyện 80 (Kon Tum) ăn rau rừng cả tuần, lăn lộn khắp các hẻm núi, lạch sông khênh về hàng chục tấm sắt, tôn, thuốc nổ... do địch bỏ lại để rèn gò ra xẻng, cuốc, rìu, rựa để sản xuất và vũ khí đánh địch. Dường như với bộ đội và du kích Tây Nguyên bất cứ thứ gì, từ chiếc xe, từ khẩu pháo của địch bị bắn cháy, bị phá hỏng dọc đường đến quả bom câm nằm bên bờ suối, thậm chí cả một tảng đá, một ngọn tre, một cuộn dây thép gai đều có thể tạo thành vũ khí giết giặc. Tôi được nghe một địa phương báo cáo rằng để có nguyên liệu làm vũ khí, anh em ta đã nghi binh lừa địch, làm những trận địa giả thu hút bom đạn địch. Từ đó mà có sắt thép, thuốc nổ lấy từ những quả đạn không nổ để chế tạo ra vũ khí. Tinh thần sáng tạo của các chiến sĩ quân giới còn được thể hiện qua hàng ngàn sáng kiến như sáng kiến đắp lò nung để tăng nhiệt độ nóng chảy, sáng kiến của xưởng X53 dùng đĩa xe đạp cũ làm tấm đè cắt vỏ mìn, dùng vỏ lựu đạn làm chày giã thuốc, làm máy cắt bi, dập khuôn mìn, rồi bàn nhồi thuốc, máy nén tạo ra đầu đạn cối...

Cho đến hôm nay, có những câu chuyện về “đạn” thời ấy nhớ lại vẫn còn thấy buồn cười. Đạn với bộ đội ở chiến trường là thứ sống còn. Có những năm đạn thật khan hiếm vì “nguồn” từ miền Bắc không vào được, thành thử đơn vị nào cũng có quỹ đạn, đôi khi là quỹ riêng - một thứ “quỹ đen” đạn chiến lợi phẩm (chủ yếu là đạn pháo, cối). Là thế nên mới có chuyện vay đạn, “vay một trả hai” thực sự... Có một lần, đơn vị nọ vì muốn có nhiều đạn pháo hơn để đánh điểm nên đã cử cán bộ lên cấp trên ráng sức nài nỉ “ưu tiên giải quyết” cho vay. Nài nỉ mãi khiến cấp trên bực lên và nói:

- Đã bảo là không còn nữa. Tôi không phải là giám đốc nhà máy sản xuất đạn!

Quát cấp dưới xong, đêm về nghĩ lại người cán bộ thấy ân hận vô cùng, thương cấp dưới vô cùng, ông nghĩ, bộ đội mình tốt quá, ăn đói mặc rét không kêu ca phàn nàn, xin xỏ mà chỉ suy nghĩ tạo điều kiện để giết được nhiều quân giặc.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:57:46 am
*
*   *

Trong những năm tháng chiến đấu ác liệt ở Tây Nguyên, giao thông vận tải luôn luôn được xem là một trong những khâu then chốt đầu tiên. Chúng ta đã nghe những chiến dịch mở rừng, vượt sông, vượt suối; chúng ta đã nghe nói tới những chiến công mở đường đầy tinh thần sáng tạo và quả cảm của bộ đội công binh trước một chiến dịch, trước một trận đánh. Nhưng chúng ta còn ít được nghe những chuyện về vận tải thô sơ, vận tải và giao thông bộ của chiến sĩ và đồng bào ở chiến trường ác liệt này. Đây mới thật sự là những công việc vĩ đại, đây mới thực sự là một biểu hiện của tinh thần và ý chí quyết thắng và chính đây cũng là một biểu hiện sức mạnh của chiến tranh nhân dân, của đường lối toàn dân đánh giặc.

Một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ mùa xuân toàn thắng năm 1975 trên đất Tây Nguyên nhưng trong tôi hình ảnh các con đường thồ từ tây sang đông, dọc cánh Nam, cánh Bắc Tây Nguyên với những đoàn dân công, bộ đội nườm nượp, náo nức như ngày hội vẫn còn hiện lên thật mới mẻ, sống động.

Bên cạnh các đơn vị vận tải của bộ đội là các đơn vị đi làm công tác vận chuyển đột xuất của cán bộ, chiến sĩ ba cơ quan thuộc Bộ tư lệnh, của các viện quân y, đội điều trị, các xưởng quân giới, các binh trạm. Dọc các con đường tải lương, thồ đạn ra phía trước nổi bật lên các khẩu hiệu: “Mặt đường là trận địa, xe thồ là vũ khí, năng suất là chiến công” và “Nhanh như chong chóng, phóng như vệ tinh, tăng chuyến, tăng cân, đưa hàng ra phía trước”...

Các tiểu đoàn vận tải của mặt trận luôn luôn đạt năng suất gùi cõng từ 50 đến 60 kg mỗi chuyến một người, ở đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 2 - đơn vị được coi là “con voi đầu đàn” của ngành vận tải Tây Nguyên đã xuất hiện hàng chục “kiện tướng”: gùi được từ 70 đến 90 kg một chuyến. Nhiều người trong số này gùi được cả trăm ki-lô-gam, nặng gấp hai lần trọng lượng cơ thể! Đặc biệt có trường hợp như Bùi Xuân Chế đạt tới kỷ lục chưa từng có, gùi trọn 118 kg gồm năm đầu đạn ĐKB, một khẩu AK, quần áo và gạo sẵn sàng chiến đấu. Từ tấm gương này, phong trào gùi 5 đầu đạn ĐKB đã dấy lên sôi nổi ở khắp các đơn vị vận tải trên toàn mặt trận.

Với chiếc xe đạp thồ, các chiến sĩ quân y thuộc đơn vị 211 đã liên tục bám đường, vững tay lái bất kỳ trong hoàn cảnh nào, dù bom đạn, mưa nắng, biệt kích, thám báo vẫn đưa được hàng ra phía trước. Là bác sĩ, y tá, hộ lý “chân yếu tay mềm” mà dẻo dai đến kỳ lạ. Có chị thồ đến 140 kg hàng mà vẫn vượt được dốc cao, lội qua suối sâu.

Chuyện kể về bộ đội vận tải Tây Nguyên, nhiều chuyện đời sau nghe lại tưởng như huyền thoại. Ví như chuyện gùi xăng bằng ống bương, bằng can, bằng túi ni lông... Có chiến sĩ gùi cả một bao gạo nặng trăm cân vượt dốc, leo đèo. Lại có chiến sĩ dùng xe đạp thồ cả hai phuy xăng loại 200 lít... Đúng là “vai ngàn cân, chân ngàn dặm”!

Không chịu bó tay trong khi chiến trường còn đang thiếu phương tiện vận chuyển, các chiến sĩ xăng dầu, quân giới và vận tải thuộc binh trạm cánh Bắc đã mạnh dạn tháo ô tô ra từng bộ phận nhỏ để dễ khênh, dễ cõng qua núi qua đèo, đến nơi tập kết lắp ráp lại. Một sáng kiến thật thông minh và táo bạo. Sẽ không dám làm thế nếu không có tinh thần dám nghĩ dám làm và có niềm tin.

Ở trung đoàn pháo binh 40 lại có chuyện kỳ lạ khác. Để đưa pháo 105 và 85 nòng dài ra sát phía trước nhằm kiềm chế pháo binh địch một cách nhanh chóng, an toàn, chiến sĩ ta đã có sáng kiến cải tiến mang vác là tháo rời các bộ phận ra. Nhờ vậy mà từ chỗ phải dùng 24 người đi lại rất vướng víu và chậm (mỗi ngày 1 km) đã rút xuống chỉ cần 15 người có thể chuyển một cỗ pháo 105 đi được 3-4 km một ngày! Thật xứng đáng với truyền thống Điện Biên năm xưa, truyền thống của “lòng quyết tâm còn cao hơn núi”!

Với các chiến sĩ công binh Tây Nguyên thì mở đường và vận tải luôn luôn đi song song với nhau. Công binh, vận tải, pháo binh và bộ binh luôn luôn là những người bạn đường. Thành tích mở đường của các chiến sĩ công binh Tây Nguyên nói chung và của tiểu đoàn 31 nói riêng trong những năm gian khổ, ác liệt 1967-1971 có thể xem như là những kỳ tích. Đường Tây Nguyên vào nam ra bắc, sang tây, tới đông chằng chịt, cheo leo. Đường Tây Nguyên còn có những cung đoạn thật độc đáo. Ấy là những đoạn ken dày tre gỗ dài hàng chục ki-lô-mét, rợp bóng ngụy trang, là những cáy cáu mây vắt vẻo nối hai sườn núi, vượt qua một thung sáu hoặc một con suối rộng trông xa như một công trinh du lịch hấp dẫn...

Có công binh mới có những con đường đưa đạn, gạo, hàng hóa ra phía trước. Và có các chiến sĩ công binh xe tăng ta mới có thể vượt được ngầm Pô Cô, xông thẳng vào Tân Cảnh vượt Xê-rê-pốc vào Buôn Ma Thuột khiến cho địch hết sức ngỡ ngàng, lo sợ! Ngày nay, chiến tranh đã đi qua nhiều năm, những con đường mới đã mở ra thênh thang và đẹp đẽ nhưng đây đó, trong buôn gần, bản xa, giữa lưng chừng núi cao, cạnh một con suối vắng vẫn còn rất nhiều dấu tích. Nhiều đoạn đường thời ấy, nhiều cây cầu được bộ đội công binh bắc trong chiến tranh nay đã trở thành đường dân dụng. Đồng bào Tây Nguyên gọi đó bằng những cái tên thật trìu mến: đường bộ đội, đường Sư 10, cầu bộ đội, cầu quân y...


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 08:59:30 am
*
*   *

Trong chiến tranh chúng tôi phải luôn luôn tìm cách giải quyết hai vấn đề “đất đứng chân” và “tiềm lực” để chiến đấu, chiến đấu không chỉ ngày một ngày hai mà là lâu dài, “năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa”. Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc thấu triệt đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, ngoài việc có một “hậu phương vững chắc” là miền Bắc xã hội chù nghĩa luôn luôn đáp ứng những nhu cầu về sức người, sức của, ở chiến trường Tây Nguyên chúng tôi thấy vấn đề triệt để dựa vào dân, phát huy sức mạnh nhân dân là một vấn đề cốt tử, nó góp một phần như là quyết định đến thành bại của cuộc chiến đấu.

Nhớ lại những năm tháng khó khăn nhất trên chiến trường Tây Nguyên, những năm tháng chống Mỹ, cứu nước chúng tôi mới thấu hiểu câu ca dao “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” mà Bác Hồ có lần đã nói với cán bộ ta. Làm nên hình ảnh cao đẹp “anh bộ đội Cụ Hồ”, quân đội ta, kể từ khi ra đời đã xây đắp nên những truyền thống tốt đẹp, trong đó có truyền thống “hiếu với dân”. Đó là tình quân dân như cá với nước, là sự gắn bó chan hòa máu thịt giữa quân đội với nhân dân. Quân dựa vào dân và dân cũng dựa vào quân trong mối quan hệ quân với dân một ý chí. Làm theo lời Bác dạy: “Tất cả quân nhân phải làm sao cho dân tin, dân phục, dân yêu”, “khi mình chưa đến thì dân mong, khi mình đến thì dân giúp đỡ, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc”, suốt những năm chiến đấu ở Tây Nguyên cán bộ, chiến sĩ ta đã thực hiện lời thề đó, coi giữ, vun đắp tình quân dân cá nước như lời thề tự trái tim mình. Có lẽ nhiều đồng chí còn nhớ lời khen nôm na, dân dã, thân yêu của đồng bào: “bộ đội ta đẹp như con chó con, đánh giặc dữ như con hổ”, và cũng không thể quên lời trách “giận thì giận mà thương vẫn thương” của các bá, các mí: “phá... con khỉ”. Thực tế những năm chiến đấu trên chiến trường đói khổ và ác liệt này, bộ đội ta đã được sống trong sự che chở, đùm bọc rất to lớn của đồng bào các dân tộc sống trên cao nguyên đất đỏ này. Không có các bá, các mí, không có các anh các chị và các em, không có buôn làng chắc rằng bộ đội Tây Nguyên sẽ không trưởng thành, lớn lên và giành chiến thắng cuối cùng được. Cũng khó có thể quên câu chuyện về lòng yêu nước, khoan dung của đồng bào với bộ đội. Có chiến sĩ vi phạm, bẻ ngô ở nương rẫy của đồng bào, cán bộ dắt đến xin lỗi thì bà mế già nói: “Ta mới có lỗi, con em đồng bào miền Bắc vào đây, ta không cho ăn được no”.

Dân Tây Nguyên là dân bản địa, có mặt lâu đời trên quê hương này. Họ gồm nhiều dân tộc, đông hơn cả là các dân tộc Ba Na, Xê Đăng, Gia Rai, Ê Đê... cư trú rải rác dọc các sông suối, thung lũng. Do điều kiện địa lý và thiên nhiên khắc nghiệt cũng như trình độ sản xuất còn thấp nên đời sống của họ gặp rất nhiều khó khăn. Tất cả đều trông chờ vào hạt lúa, củ sắn trên nương ngoài rẫy, con thú, cuộng rau trên rừng, con cá, con cua dưới suối nhưng lòng yêu nước, yêu quê hương, thiết tha với cách mạng, với Đảng và Bác Hồ thì thật vô cùng sâu sắc và rộng lớn.

Đế quốc Mỹ và bè lù tay sai của chúng trong nhiều năm đã thực hiện nhiều chính sách thâm độc và tàn bạo ở Tây Nguyên hòng mua chuộc, dụ dỗ đồng bào, chia rẽ sự đoàn kết giữa người Kinh - người Thượng... Chúng đặt ra nhiều quỷ kế nhăm “thu phục các tù trưởng”, kích động lòng tị hiềm giữa các dân tộc, bày trò lập “khu tự trị”, lập các tổ chức “sắc tộc”, “dân vệ”, “bảo an”, các “đơn vị đặc biệt”, nuôi dưỡng Phun-rô, gom dân lập các khu “dinh điền”, “khu trù mật”, “trại tị nạn”... hòng ngăn chặn sự giao lưu giữa miền xuôi, miền ngược, “tách cá ra khỏi nước”, tách đồng bào Tây Nguyên ra khỏi đại gia đình dân tộc Việt Nam, ra khỏi cách mạng để dễ bề đàn áp, xâm lược. Nhưng mọi âm mưu thủ đoạn của chúng đã liên tiếp bị thất bại. Đồng bào, ngay từ thời cách mạng mới thành công đã một lòng một dạ đi theo “con đường của Bok Hồ”(1) - “con đường đầy ánh sáng của giàng”(2). Họ nói “giặc Mỹ còn ác hơn cả thú rừng, chúng đi đến đâu là nát rừng nát rẫy đến đó” và “rừng Tây Nguyên có nhiều thú dữ nhưng không có con thú nào ác bằng thằng Mỹ đâu”. Thật vậy, trong những năm giặc đến Tây Nguyên, cả một vùng cao nguyên rộng lớn trở nên xơ xác vì bom đạn, vì chất độc hóa học. Làng buôn cháy, nhà rông(3) đổ, tượng mồ bị trúng đạn pháo, nương rẫy hoang hóa, lũ làng phiêu bạt nay đây mai đó góc rừng xó núi chạy giặc, tránh bom.

Trong những năm tháng ác liệt đó, đồng bào vẫn một lòng một dạ hướng về cách mạng, hướng về. miền Bắc, về Bác Hồ với niềm tin son sắt như cây kơ-nia hướng về phía mặt trời, rễ cắm sâu vào lòng đất mẹ, họ hát:

      Người Ê Đê chưa một lần gặp mặt Bác Hồ
      Mà trong bụng còn thương hơn cha mẹ
      Người Gia Rai chưa được ra miền Bắc
      Mà trong bụng thương Bác Hồ hơn mẹ cha(1).



(1) Bok Hồ: Bác Hồ.
(2) Giàng: trời.
(3) Nhà rông: nhà công cộng của buôn làng, dùng làm nới tiếp khách và hội họp, vui chơi chung.
(4) Một bài dân ca quen thuộc thời chín năm chống Pháp.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 09:00:38 am
Các lực lượng vũ trang Tây Nguyên ngay từ khi mới ra đời đã được sống trong niềm yêu thương và tin tưởng đó. Với đồng bào, thì bộ đội, thì quân giải phóng chính là cách mạng, là con cháu của Bác Hồ. Nhớ lại những năm đầu đứng trên đất cao nguyên, khi lực lượng còn ít ỏi, bộ đội phải cùng ăn, cùng ở, cùng phát rẫy làm nương với đồng bào, những người lính Tây Nguyên chúng tôi không thể nào quên được hình ảnh những người mẹ, người chị hiền từ, lầm lụi suốt ngày trên rẫy, ngoài rừng dưới suối lo cho chúng tôi từng củ sắn, bắp ngô, ngọn rau, con cá, đêm về cũng lại cặm cụi vá áo cho từng chiến sĩ. Chúng tôi cũng không thể nào quên được những ngày khắp buôn cao làng thấp đồng bào bừng bừng trong khí thế nổi dậy diệt ác, phá kềm. Đuốc sáng rực trời, tay mang nỏ, giáo mác cung tên trong tiếng chiêng tiếng mõ vang dậy núi rừng, đồng bào đã đứng lên đồng khởi cướp chính quyền, thành lập các đội du kích, các đơn vị bộ đội địa phương.

Các đơn vị bộ đội chủ lực Tây Nguyên tồn tại, trưởng thành nhanh chóng và chiến thắng được kẻ địch chính là vì được đồng bào yêu thương, tin tưởng, che chở, Cưu mang.

Chúng tôi đã dựa vào đồng bào mà sống, mà xây dựng, mà huấn luyện trong những năm dài gian khổ, thiếu thốn, khó khăn. Nhớ lại những năm 1968-1969, khi mà tổng lương thực dự trữ cho cả chiến trường gần như đã cạn kiệt, địch lại “phản kích”, “tìm diệt”, “xúc tát gom dân”, rải bom B52, rắc chất độc hóa học, tung biệt kích thám báo... rất ráo riết, khi mà Lầu Năm Góc tuyên bố: “Việt cộng đã hết hơi” mà đồng bào các dân tộc ở khắp các buôn làng đã chung tay cưu mang che chở cho chúng tôi một cách vô tư và đầy cảm kích. Theo số liệu thông kê lúc bấy giờ thì nhiều địa phương thuộc Kon Tum, Gia Lai đã đóng góp tới 80% thu hoạch của cá đình cho bộ đội. Rất nhiều chuyện cảm động về tình quân dân ta bấy giờ đến nay chúng tôi vẫn không sao quên được.

Giữa mùa thu hoạch lúa mà nhiều gia đình vẫn tự nguyện ăn sắn, ăn bắp hoặc củ nâu rừng thay cơm để dành gạo cho bộ đội đánh giặc. Hỏi vì sao thì đồng bào trả lời một cách thật tự nhiên:

- Bộ dội ở phía trước dang khó khăn, mình ở nhà kiếm cái ra cái củ ăn cũng sống.

Hoặc:

- Đuổi được thằng giặc Mỹ thì có phải ăn cái rau rừng cái củ nâu cái bụng nó cũng ưng.

Ngoài việc đóng góp hàng năm cho cách mạng, mỗi lần có bộ đội về hoạt động ở địa phương hoặc sau mỗi trận đánh đồng bào lại đem trâu bò, đem heo gà, gạo nếp đến cho bộ đội. Có những bà mẹ có những em bé đi xa cả một ngày đường đến gặp bộ đội chỉ cốt dưa được năm ba lon gạo, lon ngô, thậm chí chỉ một gùi củ sắn!

Tôi nhớ có lần, hình như sau chiến thắng Plây Me thì phải. Để mừng chiến thắng, nhiều làng buôn đã đi suốt lúa về giã gạo, thổi cơm, mổ heo “đãi” cả một đơn vị lớn, đông đến cả trăm người.

Lại một chuyện nữa. Một lần các đồng chí lãnh đạo Kon Tum đến thăm Bộ tư lệnh. Đang thời kỳ thiếu đói, từ cán bộ đến chiến sĩ đều phải lên rừng, xuống suối kiếm cái ăn. Khách đến, thật khó nghĩ. Dường như rất hiểu sự khó khăn của bộ đội, các đồng chí lãnh đạo địa phương đã đem tặng lãnh đạo Bộ tư lệnh một con heo nặng chừng... chục kg, “để các đồng chí bồi dưỡng”! Thật là “Người giàu trong bếp giàu ra, Ta nghèo đến khách thăm ta cũng nghèo”. Tối hôm dó chúng tôi quyết định mổ heo nấu cháo để toàn thể cán bộ, chiến sĩ đều được hưởng một bữa ăn tươi. Sau bữa liên hoan chao heo vui vẻ đó, càng nghĩ tôi càng thấy thấm thìa câu thơ cùa cụ Nguyễn Trãi thuở nào: Tướng sĩ một lòng phụ tử, Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Tình thương yêu của nhân dân Tây Nguyên với bộ đội chẳng những chỉ là chuyện “nhường cơm, sẻ áo” mà còn là sự “chung sức, chung lòng”. Khi bộ đội chúng tôi đến đâu, cho dù là đèo cao, rừng rậm, cho dù là gần ngay sào huyệt của kẻ thù chúng tôi vẫn thật yên lòng vì lúc nào cũng nghĩ có nhân dân ở bên.

Dường như trận đánh nào, chiến dịch nào chúng tôi mở, đồng bào cũng góp công, góp sức. Làm đường, bắc cầu, đào hầm hào, tiếp lương, tải đạn, chuyển thương... Tất cả, tất cả đều có sự đóng góp lớn lao của bà con các dân tộc. Có chiến dịch, đồng bào tham gia đến cả mấy ngàn ngày công, đóng góp hàng ngàn tấn tre gỗ. Thật cảm động khi được thấy những bà mẹ, ông bố, đôi khi là cả những em bé đi bên bộ đội trong những cuộc hành quân. Áo các mẹ, các chị, các em đẫm mồ hôi vì đường xa, vì trên vai gùi nặng những đạn, những gạo. Được hỏi, đại loại: “Mẹ già rồi, việc đánh giặc đã có chúng con” thì các mẹ trả lời:

- Cách mạng bằng nhau cả mà!

Ý các mẹ muốn nói rằng công việc đánh giặc không phải của riêng ai, ai cũng phải làm, ai cũng có phần, cũng phải, cũng được góp công góp sức. Là vậy nên mới có chuyện dân công Tây Nguyên đi chiến dịch mang theo cả cối để giã sắn, giã ngô; mang theo cả cuốc cả dao để đào măng, nhặt rau, nhặt quả tự túc. Đồng bào thường nói: “Đi với bộ đội phải tự kiếm cho no cái bụng thôi. Gạo để dành cho bộ đội đánh giặc chứ”.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 09:00:59 am
Tình thương yêu của đồng bào đặc biệt dành cho các đồng chí thương binh. Tôi nghe chuyện có một cô gái Ba Na tự làm bị thương mình để vào đồn địch xin thuốc về cứu chữa cho một chiến sĩ ta bị thương. Tôi lại được nghe báo cáo có gia đình ven đường 14 nuôi dưỡng thương binh ta cả tháng trong nhà ngay sát gần căn cứ địch. Lại nghe ở buôn nọ có cả mấy thớt voi chở thương binh đi bệnh viện hoặc trả về đơn vị... Và còn nghe, trong mùa xuân Tổng tiến công năm 1968, có nhiều đồng chí vì là lần đầu tiên đánh vào thành phố, đánh xong không biết đường rút ra đã bị kẹt lại. Đồng bào đã hoặc là dẫn đường đưa về tận hậu cứ, hoặc là che chở, nuôi dưỡng nhiều ngày.

Cái quý nhất đối với đồng bào Tây Nguyên là con cái. Ở vùng đất này, do đời sống khó khăn nạn hữu sinh vô dưỡng thường xảy ra. Vì thế đẻ được một đứa con nuôi lớn, đồng bào thường không muốn cho đi xa nhà. Nhưng khi cách mạng cần, đồng bào sẵn sàng. Tiễn những đứa con yêu vào bộ đội, một bà mẹ ở huyện 6 Kon Tum nói:

- Còn thằng Mỹ, phải đánh. Con đi đánh Mỹ là con thương mẹ. Mẹ cho con đi đánh Mỹ là mẹ thương nước, thương buôn làng.

Những bà mẹ Tây Nguyên có hai, ba con nhập ngũ rất nhiều. Mẹ Cáp ở buôn Huê Trang có hai con lớn đi giải phóng, thằng con út mới cao bằng khẩu súng trường mẹ cũng động viên đi luôn, ở nhà mẹ tham gia du kích, có lần dùng dao quắm bắt sống thám báo, có lần xung phong giữ làng cả tháng để du kích đi đánh giặc... Những tấm gương như vậy trên đất Tây Nguyên không phải là hãn hữu.

Trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, Tây Nguyên đã có 19 người con ưu tú được Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có nhiều người có ảnh hưởng rộng rãi, cả nước biết như Đinh Núp, Kơpa Klơng, A Sâu và Puih San tức A Sanh (trong bài hát Người lái đò trên sông Pô Cô của nhạc sĩ Cầm Phong), v.v...

Nhưng còn nhiều hơn cả là những người anh hùng vô danh mà dường như ở huyện nào, tỉnh nào, dân tộc nào cũng có. Ấy là những du kích, những chiến sĩ đột ấp xuất sắc ở huyện 5 Kon Tum, là một ông già du kích mắt lòa đã đi vào ca dao, thơ ca:

Già Siu Se chân chậm mắt lòa
Đánh giặc giỏi như chim pơ xe đánh ó,


là “ông già rau muống” bí mật làm liên lạc cho bộ đội, giữa bốn bề đồn bốt vẫn giữ được tấm ảnh Bác Hồ thuở chín năm, là cả những em bé dẫn đường cho bộ đội. Khi dẫn đường em luôn luôn đi trước, hỏi thì trả lời rất giản dị: “Mình khổng đi bằng bộ đội được, phải đi hơn vì nếu gặp địch, nó bắn mình chết không sao. Còn bộ đội chết không có ai chỉ ra cái đường cho người Xê Đăng, người Ba Na đuổi thằng Mỹ, giải phóng buôn làng”.

Thật không có câu nói nào giản dị hơn, nhưng cũng không có câu nói nào chứa đựng tình cảm nặng sâu hơn thế!

Được nhân dân các dân tộc Tây Nguyên tin tưởng, cưu mang, che chở và chung sức đánh giặc, cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên càng gắn bó với nhân dân. Với truyền thống “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ”, các đơn vị bộ đội chủ lực luôn luôn thực hiện được khẩu hiệu “đi dân nhớ, ở dân thương”.

Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên từng có nhiều nghị quyết về xây dựng căn cứ địa vùng giải phóng, từng có nhiều chủ trương, biện pháp về xây dựng hậu phương quân đội; đặc biệt là xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất nhằm tăng nhanh tiềm lực kinh tế quân sự tại chỗ để đánh thắng địch trong bất kỳ tình huống nào. Nhiều hội nghị liên tịch giữa đại biểu các lực lượng vũ trang với đại biểu của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương ba tỉnh Tây Nguyên về xây dựng căn cứ địa, xây dựng và giữ vững vùng giải phóng đã được tiến hành. Nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ địa phương được tổ chức. Rất nhiều lượt cán bộ quân đội đã được tung về các địa phương để xây dựng cơ sở.

Trong điều kiện vừa tác chiến, vừa củng cố, vừa huấn luyện rất khó khăn, bận rộn... các đơn vị vẫn thường xuyên tổ chức những cuộc nói chuyện, tuyên truyền về chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng, về tình hình thời sự trong nước và thế giới, về chiến thắng của quân và dân ta cũng như vạch trần những âm mưu và hành động thâm độc của kẻ thù, rồi tổ chức các cuộc liên hoan văn nghệ, chiếu phim phục vụ nhân dân. Nhờ thế mà trong khó khăn, gian khổ, bom đạn, quần chúng vẫn tin tưởng, lạc quan.

Để xây dựng căn cứ địa một cách toàn diện, bên cạnh việc chăm lo đời sống cho dân, Bộ tư lệnh Mặt trận còn tổ chức huấn luyện, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ quân sự địa phương, dân quân du kích; củng cố kiện toàn các tổ chức quần chúng khác như thanh niên, phụ nữ, thiếu niên nhi đồng ở các xã, các buôn làng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 09:02:05 am
*
*    *

Để bám trụ chiến trường, để xây dựng căn cứ và phát triển lực lượng của mình, trong những năm tháng khó khăn nhất, bộ đội B3 ngoài việc tăng gia sản xuất, cứu đói, ngoài tinh thần vượt mọi khó khăn, cần cù sáng tạo, đoàn kết thương yêu nhau, ngoài việc làm tốt công tác dân vận... còn tỏ rõ một niềm lạc quan, tin tưởng rất sâu sắc, niềm tin ấy được biểu lộ qua tinh thần chiến đấu kiên cường, tinh thần vượt khó khăn, ý thức bám dân bám đất, tình đồng đội, đồng chí... Niềm tin ấy còn được thể hiện qua cuộc sống hàng ngày, qua những đêm liên hoan văn nghệ, qua những bài thơ, câu hát cùng những câu nói “cửa miệng” của cán bộ, chiến sĩ ta.

Tôi nghĩ Tây Nguyên là một trong những chiến trường khó khăn ác liệt vào bậc nhất trong những năm chiến tranh, nhưng cũng nghĩ, hiếm có ở nơi nào “tiếng hát át tiếng bom” lại đúng như ở đây. Những đêm liên hoan văn nghệ mừng chiến thắng, những cuộc giao lưu nhằm thắt chặt mối quan hệ quân dân và những lễ hội ở vùng giải phóng, vang lên tiếng hát bộ đội ta. Tiếng hát của người chiến sĩ còn được cất lên giữa hai chặng của một cuộc hành quân chiến đấu, trên nương rẫy, ngoài sông vắng, trong viện quân y và cả bên bếp lửa nhà sàn. Bộ đội Tây Nguyên hát không hay lắm nhưng hay hát. Vui: hát; buồn: hát; nhớ nhà: hát; sau cơn đau: hát; gặp nhau chia tay nhau: hát và hát cả khi tình yêu trắc trở. Có phải chăng vì thế mà bộ đội Tây Nguyên mới có những chương trình độc đáo tham gia các hội diễn toàn miền, mới có những tiết mục tự biên tự diễn xuất sắc như bài hát Cây sắn tấn công? Có phải chăng vì thế mà đoàn văn công quân giải phóng Tây Nguyên sau những lần “ba chìm bảy nổi” do hoàn cảnh chiến trường khó khăn vẫn hiện diện như một đoàn văn nghệ xung kích được không những quân và dân Tây Nguyên yêu mến mà còn được nhiều nơi biết tới? Và có phải chăng vì thế mà chiến trường Tây Nguyên trở thành cái nôi ra đời của nhiều bài hát được nhiều người ưa thích và có sức sống lâu bền như Ca ngợi anh hùng Núp, Tháng ba Tây Nguyên, Em là hoa pơ-lang, Đưa anh đi hái măng rừng, Cô gái vót chông, Bóng cây Kơ-nia, Người lái đò trên sông Pô Cô...

Tình yêu văn nghệ của bộ đội B3 còn được thể hiện qua những vần thơ. Thơ in trên báo Tây Nguyên, thơ gửi ra báo Quân đội nhân dân, tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ; thơ viết trên báo tường, dán trên báo liếp các đơn vị; thơ đọc trong các buổi sinh hoạt; thơ chuyền tay, truyền miệng. Trong số những người làm thơ đó sau này theo tôi biết rất ít người trở thành nhà thơ, nhưng thơ của bộ đội còn trong kỷ niệm - trong trí nhớ và trong sổ tay của bộ đội B3 hiện còn rất nhiều.

Tôi còn nhớ bài thơ có tên là Xe đi của một chiến sĩ viết hồi 1968.

   Xe băng qua núi qua đèo
   Xe đi trên gió, xe trèo trên mây
   Có đoàn dũng sĩ hôm, nay
   Lái xe vun vút như bay lưng trời
   Đường ra tiền tuyến xa xôi
   Vì yêu nên... vạn núi đồi cũng qua
   Thồ hàng ra chiến hào xa
   Tăng cường thêm sức quân ta diệt thù
   Hỡi anh hỡi chị xe thồ
   Tiền phương từng phút từng giờ mong ta


Tôi còn giữ trong tay, còn chép trong sổ rất nhiều bài thơ khác của cán bộ, chiến sĩ ta. Nhưng tôi thích nhất là lời bài hát “Đêm khiêng pháo” của trung đoàn pháo binh 40, lời bài hát như sau:

“Đêm nay chúng con khiêng pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Đường đi chiến dịch vui sao. Nghe lời Bác căn dặn ngày nào: càng gần thắng lợi càng nhiều gian lao.

Đường lên Chư-mo-ray gặp mây bay. Con nhớ tóc Bác; đường cắt rừng khuya nhiều sao con thấy mắt Bác cười. Bác Hồ ơi!

Con biết Bác thương nhiều đoàn con pháo thủ, dãi nắng dầm mưa, đường chiến dịch còn xa.

Pháo nặng trĩu trên vai, pháo nặng trĩu trên vai sao nặng bằng gánh giang sơn trên vai Bác.

Con đường chúng con đi, cho dù có gian nguy sao bằng đường xa Bác đã đi.
 
Chúng con cùng pháo đêm nay trút lửa xuống đầu thù. Chiến công này xin dâng Bác, Bác hẳn cùng vui”.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2019, 09:03:26 am
Và mỗi ai ở Tây Nguyên cho đến bây giờ cũng không thể quên mấy câu thơ vui:

      Tà tà chân bước vào nương
      Tay ôm quả bí lòng thương đồng bào
      Về nhà lòng dạ nao nao
      Bát canh bốc khói lẽ nào chẳng ăn


Nhiều cán bộ ở cơ quan Bộ tư lệnh cũng làm thơ. Tôi không rành về thơ lắm, nhưng cũng có lần đã viết những cảm xúc suy nghĩ của mình bằng một bài thơ độc vận. Ấy là vào dịp xuân 1969 - một mùa xuân đầy thử thách khó khăn trên chiến trường Tây Nguyên. Bài thơ có tiêu đề Một lòng theo Đảng(1). Tôi còn nhớ có đoạn như sau:

      Vâng lời Đảng, Bác, ta lên đường
      Kiên trì đánh Mỹ mặc phong sương
      Dù cho gian khổ và ác liệt
      Chí khí luôn luôn vẫn kiên cường
      Tình ta gắn bó với chiến trường
      Dãy Trường Sơn đó - ấy quê hương
      Diệt địch mở vùng sao cho tốt
      Để hoa chiến thắng ngát mùi hương
      Cho đàn em nhỏ được đến trường
      Cho bá, cho mí hết đau thương
      Chấm dứt đói cơm và lạt muối
      Cho đàn trâu sắt chạy trên nương...


Tinh thần lạc quan của bộ đội B3 còn được thể hiện trong rất nhiều câu chuyện tiếu lâm, trong lời ăn tiếng nói của lính. Đi đến buôn làng nào, đơn vị nào tôi cũng được nghe những câu chuyện vừa hài hước, hóm hỉnh vừa thông minh. Có những chuyện nghe xong cười đến vỡ bụng, cười đến chảy nước mắt. Rất tiếc là hồi đó, không ai kịp nghĩ đến ghi chép lại.

Đó là chuyện cười, chuyện tiếu lâm của lính. Loại hình này đã phong phú rồi, cách nói của lính Tây Nguyên còn phong phú và độc đáo hơn. Tếu, vui, sáng tạo và thông minh vô cùng. Ví dụ: Ăn thì ăn cơm cục; uống thì uống nước đục. Không đi thì thủ trưởng giục. Đi thì địch phục, nhưng không còn phải ăn cơm cục. Rồi những chuyện về mũ cối, dép râu, về con tôm và con tép, về châu chấu và cào cào..., tất cả, tất cả dưới cách nhìn của lính ta đều thành ngạn ngữ, tục ngữ, thành ngữ, ca đao.

Khi viết lại những dòng hồi tưởng này, trong tôi cứ lao xao, quanh quất đan cài lẫn lộn những tiếng hát, những giọng nói, những câu cửa miệng vừa tếu táo vừa hóm hỉnh của những người lính trẻ năm nào. Tôi nghĩ đó là cách anh em thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin và sức mạnh của bộ đội ta trong những năm tháng khắc nghiệt và khó khăn.

Chính qua khó khăn gian khổ, qua lao động sản xuất anh em ta càng thêm gắn bó với chiến trường, với nhân dân Tây Nguyên. Những đức tính tốt đẹp: cần cù, tiết kiệm, chịu thương chịu khó, lạc quan, giản dị, quý trọng thành quả lao động càng nảy sinh phát triển, lòng tin vào khả năng lao động sáng tạo của mình và bình tĩnh vững vàng trước mọi khả năng thử thách càng được nâng cao.

Sau một năm phấn đấu đầy hy sinh gian khổ, lao động sản xuất đã đem lại cho chiến trường những thu hoạch có ý nghĩa: 535 tấn thóc, 136 tấn ngô hạt, 11 tấn đậu lạc vừng, 937 tấn rau xanh, 18 tấn thịt, để lại cho năm sau 13 triệu rưỡi gốc sắn và đàn lợn 2.400 con. Không chỉ như vậy, năm 1969 còn là năm đạt kỷ lục cao nhất về tốc độ mở các chiến dịch và đợt hoạt động cũng như về số lượng và chất lượng diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Đi đôi với thắng lợi trên mặt trận quân sự trong năm 1969, hơn 20.000 đồng bào các dân tộc đã giành được quyền làm chủ, vùng giải phóng ở Tây Nguyên được mở rộng và không ngừng củng cố.

Khó khăn gian khổ và những thử thách mới còn đang đặt ra trên bước đường đi tới. Song với niềm tin, ý chí và nghị lực được tôi luyện qua thực tiễn chiến trường, đặc biệt trong năm 1969, đồng bào và các lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên bước vào năm 1970 trong tư thế đĩnh đạc và chủ động sẵn sàng đón nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.


(1) Bài thơ sau này các đồng chí trong ban biên tập báo Tây Nguyên in trong số ra ngày 3 tháng 2 năm 1969 với bút danh Ngọc Linh.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:42:05 pm
V

CHIẾN TRƯỜNG SÁNG TẠO VÀ NHỮNG THÀNH TÍCH CHIẾN ĐẤU MỚI

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ở chiến trường Tây Nguyên rất quyết liệt, liên tục và toàn diện. Trên địa bàn chiến lược hệ trọng này, Mỹ - ngụy đã tập trung mọi cố gắng quyết giành ưu thế. Chúng đã sử dụng nhiều loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại với khối lượng tập trung lớn, từ máy bay chiến lược B52 được sử dụng sớm từ chiến dịch Plây Me (1965), bom 7 tấn, bom điều khiển bằng tia la-de đến các loại pháo và xe tăng hạng nặng. Chúng cũng điều lên Tây Nguyên nhiều đơn vị sừng sỏ bậc nhất của quân đội Mỹ cùng nhiều đơn vị thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược của quân ngụy. Tây Nguyên cũng là chiến trường được những người chỉ huy quân đội Mỹ chọn làm nơi thí điểm nhiều âm mưu chiến lược và thủ đoạn chiến thuật mới. Việc đánh bại quân địch ở Tây Nguyên là một sứ mệnh lịch sử đặt ra cho các lực lượng vũ trang và nhân dân Tây Nguyên. Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị to lớn đó đòi hỏi bộ đội ta không những có quyết tâm cao, tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường mà còn phải có trình độ tác chiến và nghệ thuật đánh địch giỏi.

Trong cuộc chiến đấu giáp mặt với quân thù trên chiến trường, hơn ai hết, các chiến sĩ là người đầu tiên đón nhận và có phản ứng nhạy cảm trước mọi thủ đoạn mới của địch. Trong những trận đánh đó đã xuất hiện mầm mống đầu tiên để sau này được đúc kết và bổ sung qua thực tiễn trở thành các chiến thuật hoàn chỉnh. Vượt khó nên khôn, qua thực tiễn chiến đấu mà trưởng thành, bộ đội ta đã vận dụng linh hoạt tìm ra cách đánh phong phú, sáng tạo, bẻ gãy các thủ đoạn của địch dể giành thắng lợi.

Ấn tượng sâu sắc đối với tôi là trận đánh của tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 Sư đoàn 1 vào ngày 3 tháng 7 năm 1966 tại khu “Rừng im lặng” . Trưa hôm đó, tổ trinh sát tiểu đoàn trên đường đi bám địch, phát hiện một đại đội Mỹ đang dừng ăn trưa. Anh em để lại hai người tiếp tục bám, còn một người chạy về báo cho chỉ huy tiểu đoàn. Ban chỉ huy tiểu đoàn 7 lúc đó gồm có các anh Lê Văn Tam, tiểu đoàn trưởng; anh Võ Hùng Cường, chính trị viên; anh Võ Quang Tịnh, tiểu đoàn phó; anh Tạ Ngọc Sinh, chính trị viên phó.

Ban chỉ huy tiểu đoàn hội ý gấp và quyết định sử dụng đại đội 2 (đơn vị chủ công) được tăng cường 1 khẩu cối 82 ly với 30 quả đạn, do anh Võ Quang Tịnh trực tiếp chỉ huy. Nhận được lệnh, đại đội trưởng Hứa Văn Kính và chính trị viên Hoàng Thanh Bình cho bộ đội làm công tác chuẩn bị ngắn. Được trinh sát dẫn đường, cán bộ, chiến sĩ đại đội 2 nhanh chóng tiếp cận quân Mỹ. Khi quan sát, thấy toàn bộ đội hình quân Mỹ nằm trong tầm bắn có hiệu quả, Võ Quang Tịnh chỉ thị cho đại đội 2 nổ súng. Ngay từ những loạt đạn đầu của cối 82 ly, cối 60 ly, chỉ huy và toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc của địch đã bị tiêu diệt. Quân Mỹ như rắn mất đầu lại không được hỏa lực phi pháo chi viện, chúng chống cự lúng túng trước lối đánh gần, áp sát của chiến sĩ ta. Khẩu cối 82 ly do trung đội trưởng Trương Quang Tú, quê An Thạch, Phổ An, Đức Phổ, Quảng Ngãi đánh rất giỏi chi viện đắc lực cho bộ binh. Đại đội trưởng Hứa Văn Kính xông xáo chỉ thị mục tiêu cho chiến sĩ B40 Phạm Đình Tá, quê Vĩnh Trù, An Nông, Triệu Sơn, Thanh Hóa diệt hết mục tiêu này đến mục tiêu khác. Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Sình, quê xóm 2, Hà Ninh, Hà Trung, Thanh Hóa; Nguyền Văn Thỏa, chiến sĩ, quê Trại Xá, Văn Côn, Hoài Đức, Hà Tây Hoàng Minh Khôi, quê xóm 6, Quang Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình dùng lựu đạn và súng AK diệt 8 tên Mỹ. Trung đội trưởng Phạm Công Vụ, quê Quỳnh Thượng, Thượng Văn, Nông Cống, Thanh Hóa dùng súng AK diệt 3 tên, dùng lưỡi lê đâm chết 2 tên Mỹ khác. Đại đội 2 ở thế áp đảo, chưa đầy 20 phút đã diệt hoàn toàn 1 đại đội Mỹ, nêu kỷ lục lần dầu tiên 1 đại đội ta diệt 1 đại đội Mỹ trên chiến trường.

Cán bộ, chiến sĩ đại đội 2 kiểm tra trận địa đếm được hơn 100 xác lính Mỹ. Tiểu đoàn phó Võ Quang Tịnh trao đổi với đại đội trưởng Hứa Văn Kính: Nhất định quân Mỹ phải dùng lực lượng hành quân giải tỏa để lấy xác đồng bọn. Nói rồi anh cho đại đội 2 tổ chức trận địa phục kích và điện xin tiểu đoàn tăng cường lực lượng sẵn sàng chặn đánh quân Mỹ. Đúng như dự đoán, ngay chiều hôm đó quân Mỹ từ đồn Đức Vinh có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ mở cuộc phản kích vào trận địa đại đội 2. Các chiến sĩ ta đã biến trận địa phục kích thành trận địa chốt thu hút, giam chân quân địch. Chỉ huy tiểu đoàn 7 ra lệnh cho đại đội 1 và đại đội 3 xuất kích. Đại đội 1 do đại đội trưởng Trần Đình Bốn, đại đội 3 do đại đội trưởng Bùi Trung Du chỉ huy nhanh chóng cho bộ đội vận động tới bao vây đánh vào hai bên sườn quân địch. Do kết hợp chặt chẽ giữa chốt giữ trận địa của đại đội 2 và tiến công vào sườn, phía sau quân địch của đại đội 1 và đại đội 3, tiểu đoàn 7 đã diệt thêm 1 đại đội Mỹ, bắn cháy 3 xe bọc thép M113, buộc quân địch phải tháo chạy và dùng máy bay oanh tạc vào trận địa hủy xác đồng bọn, xóa dấu vết thất bại.

Như vậy, trận đánh của tiểu đoàn 7 đã bước đầu hình thành chiến thuật “chốt kết hợp vận động”.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:44:19 pm
Thực tiễn một số trận chiến đấu 6 tháng đầu năm 1966 đã giúp cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đánh giá chính xác hơn so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, đồng thời phát hiện quy luật hoạt động của quân Mỹ. Tuy bị thất bại liên tiếp và nặng nề, nhưng thủ đoạn tác chiến của quân Mỹ vẫn chưa thay đổi. Ỷ vào sức cơ dộng nhanh, hỏa lực mạnh của không quân và pháo binh nên lính Mỹ rất chủ quan và dễ bị mắc lừa. Khi phát hiện được lực lượng của ta, quân Mỹ thường “nhảy cóc” sâu vào phía sau lưng, thực hiện bao vây, chia cắt chặn đường tiếp tế, hòng đánh bật ta ra khỏi khu chiến, về phía ta, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương qua chiến đấu, có sức cơ động tương đối tốt và vận dụng cách đánh thông minh, sáng tạo, bảo đảm giành thắng lợi. Cuối tháng 8 năm 1966 Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định mở chiến dịch Sa Thầy.

Sông Sa Thầy chảy từ bắc Kon Tum gặp sông Pô Cô ở nam tỉnh Gia Lai. Cả hai con sông này đều bờ cao, vách đứng, lòng sâu, nhiều thác ghềnh. Khu vực này còn có nhiều suối, khe chằng chịt tạo nên những chướng ngại thiên nhiên rất hiểm trở. Đây là khu vực rừng già, rừng non, nương rẫy xen kẽ kín đáo, có những bãi cỏ tranh bằng phẳng và những ngọn núi nhô lên như những chiếc bát úp. Trên bờ đông sông Pô Cô địch xây dựng đồn biên phòng Plây Gi-răng cách biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia khoảng 20 km. Chọn khu vực này mở chiến dịch ta có ý định: tiêu diệt, tiêu hao một số bộ phận sinh lực quân Mỹ, thu hút lực lượng Mỹ lên Tây Nguyên, kìm và giữ chúng ở vùng rừng núi, tạo điều kiện cho chiến trường đồng bằng Khu 5 tiến công, góp phần cùng toàn miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của địch. Mặt khác, chọn nơi đây mở chiến dịch trong mùa khô thứ hai, ta sẽ hạn chế được sức cơ động bằng cơ giới và tác dụng binh khí kỹ thuật của quân Mỹ. Với địa hình xa lạ, lại bị rừng núi và sông suối bao bọc, quân Mỹ dễ rơi vào thế bị chia cắt, cô lập, đội hình chiến dịch của chúng sẽ không giữ được bài bản như lúc ra quân. Đối với ta, đây là vùng căn cứ, bộ đội quen thuộc địa hình, thuận lợi cho tiếp tế, vận chuyển, cơ động và tập kết giấu quân, triển khai tác chiến. Ta có điều kiện nhử địch vào khu quyết chiến đã chọn sẵn, buộc quân Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta trên địa hình do ta lựa chọn.

Trên hướng chủ yếu, Bộ tư lệnh Mặt trận sử dụng Sư 1 (gồm các trung đoàn 66, 88, 320) và tăng cường trung đoàn 95 (thiếu), 1 tiểu đoàn súng cối 120 ly và tiểu đoàn súng máy 12,7 ly. Phương thức tiến hành chiến dịch là “vây điểm diệt viện”. Dùng một lực lượng bao vây uy hiếp đồn Plây Gi-răng, buộc địch phản kích, ta sẽ tổ chức liên tiếp tiến công tạo nên phản ứng dây chuyền, điều khiển địch từng bước kéo chúng sa vào khu vực quyết chiến, đánh trận then chốt tiêu diệt địch.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 18 tháng 10 trung đoan 5-5 thực hành bao vây đồn biên phòng Plây Gi-răng. Cùng lúc đó các chiến sĩ thông tin, công binh mặt trận phối hợp với trung đoản 95 bắc cầu treo nghi binh qua sông Pô Cô và mắc đường dây diện thoại giả chạy dọc phía tây sông Pô Cô. Bị mác lừa, địch dùng máy bay B52 ném bom rải thảm khu vực cầu treo (bom rơi xuống lòng sông, cá chết nhiều vô kể) và cho biệt kích sục sạo phát hiện lực lượng ta. Sư đoàn bộ binh 4 vừa từ Mỹ sang Việt Nam tháng 3 năm 1966 để tham gia cuộc phản công chiến lược lần thứ hai liền vội vã mở cuộc hành quân mang tên “Pôn Ri-vơ 4” đánh vào khu vực sông Sa Thầy. Khác với sư đoàn kỵ binh không vận số 1, thủ đoạn chiến thuật của sư đoàn 4 chủ yếu là hành quân xuyên rừng kết hợp với đổ bộ trực thăng ở những nơi cần thiết (chủ yếu là đổ trận địa pháo và cơ quan chỉ huy). Sau khi triển khai bàn đạp pháo kích và các trận địa pháo ở khu vực Sùng Thiện, Sùng Lễ, ngày 23 tháng 10 sư đoàn 4 Mỹ bắt đầu hành quân. Ngày 26 tháng 10 các mũi của sư đoàn này tiến đến đông sông Sa Thầy. Trung đoàn 320 đã triển khai sẵn ở đây, đón đánh chúng quyết liệt, tiêu diệt một số đại đội Mỹ. Tuy vậy, theo quy luật phản kích, địch vẫn đổ quân sang tây sông Sa Thầy. Những người chỉ huy quán đội Mỹ biết chắc hậu phương chiến dịch của ta là ở gần biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia nên họ rắp tâm đánh phá hòng tiêu diệt cơ quan đầu não chỉ huy chiến dịch của ta. Ngày 11 tháng 11, tiểu đoàn 2 lữ đoàn 2 sư đoàn 4 được tàng cường 1 đại đội pháo 105 ly, 1 đại đội côi 106,7 ly, dùng 125 lần chiếc trực thăng đổ bộ xuống bãi C1(1).

Trung đoàn 88 được tăng cường tiểu đoàn 7 trung đoàn 66, được tiểu đoàn 32 cối 120 ly và tiểu đoàn súng phòng không 12,7 ly chi viện đã bố trí sẵn ở bãi C1. Sáng ngày 12 tháng 11, ta tiến công vào bãi C1. Do được chuẩn bị khá kỹ từ trước, nên khi được lệnh tiểu đoàn cối 120 ly bắn khá chính xác. Hơn 100 quả đạn rơi trúng sở chỉ huy tiểu đoàn 2, trận địa pháo 105 ly, trận địa cối 106,7 ly và các mục tiêu khác trên đỉnh Cl gây cho địch thương vong nặng nề. Đây là lần đầu tiên ta sử dụng cối 120 ly ở Tây Nguyên nên địch từ bất ngờ đến kinh hoàng. Song rất tiếc là pháo binh của ta đánh tốt bao nhiêu thì bộ binh lại lúng túng bấy nhiêu. Tuy đã được chuẩn bị sẵn và được hỏa lực chi viện rất hiệu quả nhưng các mũi bộ binh của trung đoàn 88 và tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 đã không nhanh chóng vượt qua được cánh rừng do máy bay B52 rải thảm cây cối gãy đổ ngổn ngang mà lại bị máy bay địch ném bom, bắn phá ngăn chặn nên phát triển chậm, bỏ lỡ thời cơ diệt gọn tiểu đoàn 2 Mỹ.


(1) Bãi C1 là một cái rẫy bò hoang có diện tích khoảng 24 héc-ta, ở phía tây sông Sa Thầy nằm trên trục đường giao liên Bắc - Nam, nay thuộc xã Mô Rây, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum - nơi ta chọn làm khu quyết chiến chiến dịch.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:44:55 pm
Ngày 13 tháng 11, dưới sự chi viện của không quân, 1 đại đội Mỹ nhảy xuống nhặt xác đồng bọn rồi vội vàng rút chạy khỏi bãi C1. Cùng ngày, ở phía nam bãi C1, tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 tiến công, diệt gọn một đại đội Mỹ. Ngày 19 tháng 11 tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 đánh thiệt hại nặng 2 đại đội của tiểu đoàn 1 lữ đoàn 3 sư đoàn 25 Mỹ ở nam bãi Cl. Ngày 20 tháng 11, tiểu đoàn 5 trung đoàn 320 diệt một đại đội Mỹ ở đông sông Sa Thầy.

Ngày 16 tháng 11, địch điều lữ đoàn 2 sư đoàn kỵ binh không vận số 1 từ Bình Định, Phú Yên lên Tây Nguyên đỡ đòn cho sư đoàn 4 Mỹ. Ngày 6 tháng 12, địch dùng 111 lần chiếc trực thăng đổ tiểu đoàn 1 thuộc lừ đoàn kỵ binh không vận 2 Mỹ xuống bài Cà Đin, với ý định chặn đường hành lang của ta. Tiểu đoàn pháo binh 200 phục sẵn ở đây, khi địch vừa đổ quân xuống đã kịp thời nã đạn chính xác vào các cụm quân Mỹ gây tổn thất lớn cho chúng. Đây cũng là trận đánh cuối cùng của chiến dịch Sa Thầy. Tính từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 16 tháng 12 năm 1966, trên hướng chính của chiến dịch ta đánh 34 trận lớn nhỏ loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên Mỹ. Tỷ lệ thương vong giữa ta và địch trong chiến dịch này là 1 trên 4.

Tôi cho rằng, thành công lớn nhất, nét độc đáo nổi bật nhất của chiến dịch Sa Thầy, đó là nghệ thuật mưu kế lừa địch, điều khiển địch, buộc địch phải hành động theo ý mình. Những trận đánh có hiệu quả cao của ta trong chiến dịch này là đánh vận động tiến công của các đại đội và tiểu đoàn. Song, chưa có trận tập kích nào giành được thắng lợi theo ý muốn, vấn đề cần rút kinh nghiệm là chưa tổ chức được những trận đánh tập trung cỡ trung đoàn, vì vậy chưa tạo nên đòn tiêu diệt gọn cỡ tiểu đoàn địch.

Thắng lợi của chiến dịch Sa Thầy còn là thắng lợi của việc tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trước, trong và sau chiến dịch; trong đó đã làm tốt công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, xây dựng quyết tâm chiến đấu cho từng người, từng tổ, từng đơn vị trên cơ sở phát huy chính trị dân chủ. Qua sinh hoạt chính trị dân chủ anh em đã kiên quyết đấu tranh phê phán các hiện tượng bi quan dao động, giảm sút ý chí, những hiện tượng quan liêu, quân phiệt, hống hách, coi thường quần chúng... Nhờ thực hiện tốt chính trị dân chủ mà mối quan hệ cán bộ và chiến sĩ phát triển ngày càng tốt đẹp, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân được tăng cường, tư tưởng và hành động được thống nhất; đồng thời nhờ quân sự dân chủ mà phát huy được trí tuệ của tập thể, động viên được mọi tài năng của quần chúng, mọi người đều được tham gia giải quyết các tình huống dự kiến có thể xảy ra, tìm ra được nhiều cách đánh tốt nhất, hiệu quả nhất và đã rút được những kinh nghiệm thiết thực bồi dưỡng và nâng cao được trình độ tổ chức chỉ huy, chiến thuật, kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ.

Thực tiễn chiến trường đã chứng minh rằng: bộ đội ta từ bỡ ngỡ lần đầu khi đánh Mỹ ở Ia Đrăng đến bây giờ 1 đại đội ta đã tiêu diệt gọn 1 đại đội Mỹ, 1 tiểu đoàn ta trong vài ngày có thể tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng nhiều tiểu đoàn ngụy với nhiều hình thức chiến thuật.

Những kết quả và thành công này đã giúp cho chúng tôi có kinh nghiệm trong việc chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị những chiến dịch sau đó tốt hơn.

Đầu năm 1967, Bộ tăng cường cho Mặt trận Tây Nguyên tiểu đoàn 33 hỏa tiễn ĐKZB và trung đoàn 174. Tiểu đoàn 33 do anh Hoàng Liên làm tiểu đoàn trưởng; Nguyễn Anh Cường, chính trị viên; Nguyễn Viết Long, tiểu đoàn phó và Vũ Trọng Lượng, chính trị viên phó. Đây là đơn vị hỏa lực mạnh đầu tiên của chiến trường Tây Nguyên. Trung đoàn 174 do anh Đàm Văn Ngụy người dân tộc Tày, quê ở xã Minh Khai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng chỉ huy. Anh là một cán bộ chiến đấu rất dũng cảm, được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Pháp. Ban chỉ huy trung đoàn còn có các anh Hoàng Thanh Trà, chính ủy; anh Lý Long Quân, trung đoàn phó; anh Hoàng Minh Khai, phó chính ủy; anh Mai Sơn, chủ nhiệm chính trị; anh Hoàng Cao Hỷ, tham mưu trưởng và anh Phạm Ngọc Tùy, chủ nhiệm hậu cần. Trung đoàn 174 vào đến chiến trường với quân số rất cao, 2.883 người, đảng viên 778, đoàn viên 1.852 và 253 thanh niên. 72 trên 72 trung đội có tổ đảng, 180 trên 197 tiểu đội có đảng viên. Cán bộ, chiến sĩ đoàn kết, hăng hái, phấn khởi. Trên đường hành quân nhiều anh em đau ốm cũng cố gắng đi theo đơn vị. Tinh thần, ý chí chiến đấu tốt, tuy mấy lần bị máy bay Mỹ oanh tạc nhưng anh em vẫn không nao núng. Cán bộ gương mẫu mang vác đỡ chiến sĩ. Suốt chặng đường hành quân chỉ có hai cán bộ trung đội tỏ ra “có vấn đề”.

Đầu tháng 2 năm 1967, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập trung đoàn pháo binh 40. Sở dĩ trung đoàn này mang phiên hiệu 40 - tên của huyện 40 tỉnh Kon Tum (nay là huyện Đắc Glei) là để luôn nhớ tới nơi đứng chân của tiểu đoàn pháo binh 200 - đơn vị pháo binh đầu tiên vào chiến trường Tây Nguyên. Biên chế của trung đoàn 40 gồm có các tiểu đoàn 30, 31(1), 32 và 34, cùng ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và 2 đại đội (trinh sát, thông tin). Trang bị gồm các loại cối 120 ly, 82 ly, ĐKZ75 ly, súng 12,7 ly. Chỉ huy trung đoàn gồm có anh Nguyễn Đức Giá, trung đoàn trưởng, anh Sơn Hùng, chính ủy; anh Nguyễn Xô và anh Nguyễn Thành Lai, trung đoàn phó.


(1) Tiểu đoàn 200 khi về đứng trong đội hình trung đoàn 40 mang phiên hiệu mới: tiểu đoàn 31.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:46:55 pm
Thời gian này, sư đoàn 4 Mỹ bị ta liên tục tiến công gây nhiều tổn thất, buộc những người chỉ huy quân đội Mỹ phải tung lữ đoàn 2 sư đoàn kỵ binh không vận số 1, nhiều đại đội biệt kích, pháo binh vào khu chiến từ Sùng Lễ, Sùng Thiện đến Đức Cơ, Lệ Thanh. Khu vực này nằm sâu trong hậu cứ của địch nên lữ đoàn dù số 2 và các lực lượng khác ở đây rất chủ quan. Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ trương sử dụng trung đoàn 40 dùng hỏa lực đánh vào căn cứ hành quân của địch ở Sùng Thiện. Trung đoàn 40 chỉ đạo cho tiểu đoàn 31 bí mật soi đường đưa cối 82 ly và ĐKZ 75 ly vào nơi bắn hiệu quả nhất. Đúng 22 giờ ngày 3 tháng 3 năm 1967, Mặt trận ra lệnh nổ súng. Tiểu đoàn 31 dùng cối 82 ly và ĐKZ 75 ly bắn chính xác vào sở chỉ huy lữ đoàn dù số 2, khu sân bay trực thăng dã chiến, trận địa pháo gây cho địch tổn thất lớn; phá hủy 8 khẩu pháo 105 ly, 7 máy bay lên thẳng, 30 xe quân sự các loại, loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên Mỹ - ngụy.

Trận pháo kích căn cứ Sùng Thiện là trận đánh đạt hiệu suất cao đầu tiên của trung đoàn 40 sau ngày thành lập. Bài học của chiến thắng này là công tác giáo dục xây dựng quyết tâm chiến đấu cho bộ đội, là việc phát huy trí tuệ tập thể thông qua dân chủ về quân sự, tự do thảo luận, hiến kế khắc phục khó khăn để đưa pháo luồn sâu sát căn cứ địch mà vẫn giữ được yếu tố bí mật bất ngờ đến khi nổ súng. Ở đây còn có vai trò của cán bộ lãnh đạo chỉ huy từ trung đoàn đến tiểu đoàn, đại đội sâu sát giúp đỡ cấp dưới, trực tiếp có mặt ở những nơi khó khăn, phức tạp nhất để kịp thời cùng cấp dưới và chiến sĩ giải quyết khắc phục.

Nói về chiến trường Tây Nguyên, nơi sáng tạo nhiều cách đánh vớí những thành tích chiến đấu mới không thể không nói đến trận đánh của tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 ngày 12 tháng 7 năm 1967 ở nam bản Đức Vinh cũ (nay thuộc xã Ia Pnon, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai).

Ngày 12 tháng 7, hai đại đội thuộc lữ đoàn 2 sư đoàn 4 Mỹ bí mật hành quân từ điểm cao 300 về hướng bản Đức Vinh qua điểm cao 267, đến Đồi Bằng vượt qua suối Ia Pnon rồi dừng lại ở điểm cao 190.

Lúc 4 giờ 30 phút ngày 12 tháng 7, tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 do anh Võ Quang Tịnh, tiểu đoàn trưởng và anh Võ Hùng Cường, chính trị viên chỉ huy được lệnh xuất phát. Anh Võ Quang Tịnh dẫn tiểu đội trinh sát của tiểu đoàn vượt lên trước nắm địch, anh Võ Hùng Cường chỉ huy tiểu đoàn hành quân.

Đến 9 giờ 30 phút trung đội 1 đại đội 3 tiểu đoàn 7 gặp địch ở sườn đông điểm cao 190 đã kịp thời nổ súng diệt một số, buộc chúng phải lùi lại. Nhưng ngay sau đó 2 đại đội Mỹ hùng hổ xông lên đánh vào trận địa đại đội 3. Khi đại đội 1 cách địch 100 mét thì bị chúng dùng đại liên bắn xối xả vào đội hình. Đại đội phó Trương Văn Hóa trực tiếp nắm khẩu cối 60 ly bắn cấp tập vào đội hình quân địch để yểm trợ bộ binh tiếp cận. Bị đánh bất ngờ, những tên chỉ huy và tên mang điện đài bị tiêu diệt. Quân Mỹ hoàn toàn mất liên lạc với chỉ huy ở căn cứ nên chúng không thể dùng pháo binh và không quân chi viện cho lính lữ đoàn 2 sư đoàn 4 Mỹ. Các chiến sĩ đại đội 1 và sau đó là đại đội 3 xông lên chia cắt địch ra từng mảng để diệt. Cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 7 kéo dài 11 giờ 30 phút thì ta làm chủ trận địa.

Tôi được Nguyễn Khắc Viện, đại đội trưởng đại đội 1 kể lại: Sau khi làm chủ trận đánh, bộ đội tảo trừ trận địa, thu vũ khí, bản đổ, địa bàn và tài liệu địch. Đại đội phó Trương Vãn Hóa thấy một tên Mỹ nằm nghiêng, áo quần bê bết máu, nhưng chiếc lá khoọc che mặt nó động đậy. Hóa tiến lại lật tên Mỹ, bất ngờ bị nó giằng được khẩu AK rồi chĩa về phía anh, bóp cò. Nhưng khẩu súng đã khóa chốt an toàn nên Hóa vô sự. Bằng một động tác rất nhanh và mạnh, Trương Văn Hóa dùng đòn hiểm đánh mạnh vào hạ bộ và quật ngã tên Mỹ. Lúc này Hóa mới gọi to: “Anh Viện ơi! Đến bắt tù binh”. Viện và một số chiến sĩ nữa chạy lại hỗ trợ Hóa bắt tên Mỹ. Từ kinh nghiệm của Hóa các chiến sĩ đại đội 1 và cả tiểu đoàn 7 lần lượt kiểm tra toàn bộ xác lính Mỹ trên trận địa, bắt thêm 5 tên Mỹ “giả vờ” chết làm tù binh(1).

Đây là lần đầu tiên 1 tiểu đoàn ta diệt gọn 2 đại đội Mỹ, bắt nhiều tù binh Mỹ trong một trận ở chiến trường. Để đánh một trận đạt hiệu suất cao, trước khi bước vào trận đánh tiểu đoàn 7 đã tập trung giải quyết vấn đề xây dựng quyết tâm chiến đấu, làm cho mọi người tin tưởng vào cách đánh. Đảng ủy và chỉ huy tiểu đoàn tiến hành xây dựng quyết tâm chiến đấu tới từng tổ đảng, từng chiến sĩ. Cán bộ tự phê bình trước chiến sĩ, làm cho cán bộ, chiến sĩ hiểu nhau và tin yêu nhau hơn. Các chi bộ đã quán triệt nhiệm vụ lãnh đạo phân đội và tập trung bàn bạc xung quanh “ba quyết đánh” (đánh thọc sâu liên tục; đánh lớn và đánh thắng trận đầu; đánh diệt gọn và bắt tù binh). Mỗi đảng viên đều đăng ký “sáu dẫn đầu” (dẫn đầu giữ gìn bí mật; dẫn đầu đánh thọc sâu, đánh gần, đánh giáp lá cà; dẫn đầu đánh xe cơ giới, bắn máy bay Mỹ; dẫn đầu bắt tù binh; dẫn đầu thu nhiều vũ khí; dẫn đầu lấy hết thương binh tử sĩ). Các chiến sĩ hầu hết đều đăng ký nhận giữ hỏa lực, đăng ký diệt Mỹ và bắt tù binh Mỹ.

Kinh nghiệm rút ra từ trận đánh này khẳng định thêm việc xây dựng quyết tâm và lòng tin cho bộ đội không chỉ làm trong một lúc mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục và kiên trì với nhiều hình thức phong phú gắn liền với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi đơn vị.

Sau trận này, quân Mỹ buộc phải rút bỏ vùng tây Sa Thầy, Sùng Thiện và Sùng Lễ. Thực chất chúng đã thất bại nặng nề buộc phải rút chạy chiến dịch.


(1) Số tù binh Mỹ trên, nhiều tên bị thương, anh em tiểu đoàn 7 phải thay nhau khiêng cáng họ về hậu cứ. Nhưng trên đường bị phi pháo địch oanh tạc, số tù binh Mỹ trên đã bị tử vong bởi chính bom đạn Mỹ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:48:27 pm
Phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương các tỉnh Tây Nguyên cũng tích cực hoạt động, ở Gia Lai đêm ngày 30 tháng 5, tiểu đoàn 15 bộ đội tỉnh tập kích đồn Mo. Ở phía đông du kích các xã A3 huyện 7 (nay là xã Chơ-kơ-rei, huyện Kon Chro), xã Bắc, huyện 2 (nay thuộc huyện Kbang) bắc Hà Lòng, Kon Dơng (huyện 3) liên tục đánh xe, phá ống dẫn dầu trên đường 19; đại đội công binh 17 của tỉnh và đại đội công binh 18 của Quân khu 5 tăng cường tập kích quân địch chốt bảo vệ cầu Ayum diệt hàng chục tên. ở phía tây bộ đội địa phương huyện 4 (nay là Ia Sao), huyện 5 (nay là Chư Pông) diệt gọn 1 đại đội Mỹ khi chúng nống ra càn quét ở Đức Vinh. Tiêu biểu là Kpa Klơng(1), quê ở xã la pa, huyện 5, tỉnh Gia Lai, chiến sĩ trinh sát bộ đội địa phương huyện 5 chiến đấu dũng cảm, bắn súng rất giỏi, nhiều lần bắn “xuyên táo” quân địch. Có lần chỉ với 2 viên đạn anh diệt được 4 tên, lần khác 3 viên đạn diệt được 5 tên địch làm cho Mỹ - ngụy ở vùng này vô cùng khiếp sợ. Tỉnh Gia Lai còn có phong trào dân quân đánh xe cơ giới phát triển rộng khắp, ở huyện 4 có 9 xã trên 16 xã trong huyện đã diệt 23 xe M113. Nữ du kích Rmah Sao và Ralan Mek người dân tộc Gia Rai xã B9 diệt 3 xe M113, cùng một lúc hai chị đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” và “Dũng sĩ diệt xe cơ giới”.

Thất bại nặng nề trong mùa khô 1965-1966 và liên tiếp bị thua đau ở cả hai miền nước ta trong mùa mưa năm 1966, những người chỉ huy quân đội Mỹ ngoan cố và chủ quan muốn dùng sức mạnh quân sự để giải quyết chiến trường. Vì vậy bước vào mùa khô 1966-1967, sau khi tăng thêm quân, đẩy mạnh đánh phá miền Bấc, chúng tiếp tục mở cuộc phản công chiến lược mới lớn hơn. Mục tiêu chiến lược của cuộc phản công này về cơ bản vẫn giống như những mục tiêu của cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, nhưng phương thức, thủ đoạn tiến hành và quy mô sử dụng lực lượng có những điểm mới. Lần này, Mỹ tham vọng sẽ giành thắng lợi quan trọng “tìm diệt” và “bình định” trong một thời gian ngắn.

Trong cuộc phản công lần thứ hai này, địch đã mở 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, tập trung có trọng điểm trên một hướng là miền Đông Nam Bộ với ba trận then chốt.

Cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ đánh vào khu Dương Minh Châu từ đầu tháng 11 năm 1966 đến ngày 24 tháng 11 năm 1966 với quy mô 3 lữ đoàn.

Cuộc hành quân Xê-đa Phôn đánh vào khu tam giác sắt Trảng Bàng - Bến Súc - Củ Chi từ ngày 8 tháng 1 đến ngày 26 tháng 1 năm 1967 với lực lượng 3 lữ đoàn Mỹ, 3 chiến đoàn ngụy.

Cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty, cuộc hành quân lớn nhất trên một hướng trong toàn cuộc chiến tranh đánh vào chiến khu Dương Minh Châu từ ngày 22 tháng 2 đến 15 tháng 4 năm 1967, với lực lượng 7 lữ đoàn Mỹ và 2 chiến đoàn ngụy nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của ta, diệt chủ lực, phá kho tàng dự trữ, lấn chiếm chia cắt và triệt phá căn cứ, phong tỏa biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Đây là lần dốc  sức lớn nhất của quân đội Mỹ và cũng là thất bại nặng nề nhất của quân đội Mỹ trong cuộc phản công chiến lược này.

Thất bại của đế quốc Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai là thất bại toàn diện cả về quân sự và chính trị. Sự thất bại không chỉ biểu hiện trong những thất bại to lớn của những người chỉ huy quân đội Mỹ trên chiến trường mà điều quan trọng là ảnh hưởng của nó đến vấn đề chính trị và quân sự trong nước Mỹ, là sự phá sản hoàn toàn của các mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” mà họ đề ra cho cuộc phản công chiến lược lớn nhất này..

Về phía ta, đây là thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thể hiện ưu thế chính trị và tinh thần của ta vững vàng hơn, quyền chủ động và thế tiến công ấy đã đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của trên một triệu quân Mỹ - ngụy. Nó biểu hiện quyết tâm cách mạng sắt đá và khả năng to lớn của quân và dân hai miền Nam - Bắc quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, là kết quả của đường lối chính trị quân sự đúng đắn, khoa học của Đảng ta. Nó đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của quân và dân ta, mở ra khả năng mới hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây, trong đó chứa đựng những nhân tố mới, khả năng mới, tiền đề mới để giành thắng lợi to lớn gấp đôi.

Ngày 25 tháng 7 năm 1967, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên họp dưới sự chủ trì của anh Chu Huy Mân. Hội nghị đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao cho chiến trường từ sau chiến dịch Sa Thầy và đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong Đông Xuân 1967-1968. Đảng ủy Mặt trận quyết định mở chiến dịch Đắc Tô nhằm: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ, bức địch phải điều lực lượng cơ động lên Tây Nguyên càng nhiều càng tốt; tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân ngụy, phối hợp chặt chẽ với chiến trường toàn Miền; nhanh chóng huấn luyện và rèn luyện trong tác chiến để nâng cao trình độ đánh tập trung của bộ đội chủ lực, tiêu diệt gọn đơn vị tương đối lớn và lớn của địch. Rèn luyện và gấp rút nâng cao trình độ tác chiến cho bộ đội địa phương. Đẩy mạnh chiến tranh du kích phát triển.


(1) Kpa Klơng được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 17 tháng 9 năm 1967


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:49:37 pm
Kết luận hội nghị, anh Chu Huy Mân cho rằng nếu thực hiện tốt mục đích trên ta sẽ làm cho quân Mỹ mất dần sức tấn công phải chuyển vào thế phòng ngự trên chiến trường Tây Nguyên, làm cho quân ngụy không còn sức phòng ngự ở một số thị trấn và trên các trục đường giao thông, không tiến hành được việc bình định, gom dân; sẽ tạo ra khả năng chuyển biến quan trọng về cục diện mới, về địa bàn mới ở Tây Nguyên, góp phần tích cực tạo ra một số chuyển biến lớn trong cục diện chính trị và quân sự của toàn Miền.

Xin được nói thêm vì sao Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chọn Đắc Tô để mở chiến dịch mùa Đông năm 1967. Đắc Tô là một thung lũng như một lòng chảo án ngữ ngã ba đường 14 và đường 18, cách thị xã Kon Tum 40km về phía tây bắc. Địch xây dựng ở đây hai sân bay, nhiều kho tàng và căn cứ quân sự tương đối lớn. Căn cứ 42 ở Tân Cảnh và căn cứ Đắc Tô là trung tâm của tuyến phòng ngự cơ bản của địch ở bắc Tây Nguyên; đồng thời là căn cứ xuất phát hành quân của quân Mỹ - ngụy ra vùng ba biên giới Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia. Ở phía tây nam Đắc Tô là vùng núi rừng trùng điệp kín đáo có độ cao trung bình 800m và càng vào sâu phía biên giới địa hình càng cao dần. Những dãy núi Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Tang, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua nằm ở bờ tây sông Pô Cô cao trên 1.000m, tạo thành lá chắn thiên nhiên che chở cho Đắc Tô - Tân Cảnh. Nếu ta chiếm được các điểm cao này thì toàn bộ thung lũng Đắc Tô sẽ nằm trong tầm bắn của pháo binh và khống chế của ta. Với địa hình như vậy rất thuận lợi cho ta tổ chức các chiến dịch tiến công vận động. Nhiều năm trước đây, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên rất muốn mở chiến dịch trên địa bàn này nhưng chưa có lương thực. Vì vậy, để có thể mở được chiến dịch Đắc Tô lần này ta phải chuẩn bị cơ sở vật chất hàng năm trời.

Sau cuộc họp Đảng ủy Mặt trận thông qua chủ trương tác chiến mùa Động và kế hoạch cơ bản của chiến dịch Đắc Tô, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cử anh Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh, anh Trần Thế Môn làm chính ủy Mặt trận Tây Nguyên thay cho anh Chu Huy Mân trở lại Khu 5.

Để lãnh đạo chỉ huy một chiến dịch quy mô lớn đầu tiên ở chiến trường Tây Nguyên, Bộ tư lệnh Mặt trận đồng thời là Bộ tư lệnh chiến dịch Đắc Tô gồm có: anh Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh; anh Trần Thế Môn, Chính ủy; anh Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh; anh Bùi Nam Hà, Tham mưu trưởng và tôi, Chủ nhiệm chính trị.

Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch tập trung theo dõi những diễn biến trên chiến trường, tính toán phương án tác chiến, kế hoạch bảo đảm hậu cần và xác định quyết tâm chiến dịch lần cuối cùng. Thời gian chuẩn bị rất ngắn so với khối lượng công việc đồ sộ phải làm, phải suy nghĩ. Sau nhiều lần cân nhắc, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định chọn khu vực điểm cao 875 làm điểm quyết chiến của chiến dịch - nơi có dải địa hình và các điểm cao nằm ở trung tâm không gian chiến dịch, là một trong những điểm cao tương đối đột xuất khống chế các vùng xung quanh. Khu vực này lại xa các trận địa pháo cố định của địch ở Đắc Mót, Plây Cần, buộc chúng phải cơ động pháo ra ngoải thiết lập các trận địa pháo lâm thời, như vậy sẽ tạo điều kiện cho ta diệt lực lượng pháo binh địch và hạn chế được thương vong cho ta.

Sau hơn hai năm quần nhau với quân Mỹ, chúng tôi ngày càng hiểu rõ họ hơn và họ cũng phần nào hiểu chúng tôi. Điều đó đặt ra cho chúng tôi không được phép dừng lại ở kinh nghiệm cũ, mà phải có những suy nghĩ mới. Trước nhất là nghệ thuật chiến dịch. Phải lập mưu kéo được quân Mỹ đến nơi ta chọn sẵn để tiêu diệt. Muốn làm được việc này vấn đề đánh khêu ngòi trong chiến dịch phải mang tính kiên quyết hơn, đánh chúng đau hơn. Việc tổ chức thế trận chiến dịch phải nhằm tới mục đích tiêu diệt lớn quân địch. Lần này ta đánh địch sát tuyến phòng thủ cơ bản của chúng, dựa vào căn cứ có sẵn, địch có thể sẽ tổ chức phản kích nhanh hơn, mật độ hỏa lực sẽ cao hơn. Vì vậy, thế trận chiến dịch phải tạo ra đòn đánh vào phía sau lưng buộc quân địch phải phân tán đối phó. về thời gian chiến dịch, rút kinh nghiệm các lần trước do ta kéo dài, bộ đội thường đuối sức. Ở chiến dịch này chúng tôi dự kiến giới hạn trong thời gian khoảng 30 ngày.

Vấn đề lớn thứ hai đặt ra cho Bộ tư lệnh chiến dịch cần giải quyết là chiến thuật. Đặc điểm địa hình ở đây là đồi núi, có nhiều điểm cao khống chế. Trong quá trình chiến dịch sẽ diễn ra sự tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Ta phải giành lấy điểm cao, dồn địch xuống thấp để tiêu diệt. Ta đã nghiên cứu áp dụng chiến thuật chốt kết hợp vận động tiến công là chiến thuật phù hợp với địa hình ở đây; đồng thời có khả năng tiêu diệt từng tiểu đoàn địch trong vận động. Cuối cùng là vấn đề nghi binh chiến dịch. Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực tại chỗ ở tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai đánh trước nhằm thu hút địch về các hướng đó, tạo thuận lợi cho hướng chủ yếu triển khai đội hình chiến dịch.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:50:17 pm
Về sử dụng lực lượng, Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng tiểu đoàn 6 (Tây Ninh) độc lập, được tăng cường 2 khẩu sơn pháo 75 ly, 2 khẩu ĐKZ 75 ly, 6 khẩu cối 82 ly của trung đoàn pháo binh 40, tổ chức trận địa chốt trên điểm cao Ngọc Bờ Biêng và Ngọc Tang. Đây là trận địa chốt hiểm yếu của chiến dịch, có nhiệm vụ khống chế căn cứ Đắc Tô 2 và sân bay Phượng Hoàng, thu hút kìm chân tiêu hao quân địch, nhử chúng vào sâu tạo điều kiện cho Sư đoàn 1 đánh trận then chốt. Đây chính là lực lượng đánh khêu ngòi.

Lực lượng đánh địch ở khu quyết chiến chiến dịch do Sư đoàn 1 đảm nhiệm gồm các trung đoàn 66, 174, 320 dưới sự chỉ huy của anh Nguyễn Hữu An, sư đoàn trưởng và anh Hoàng Thế Thiện, chính ủy. Sư đoàn này được tăng cường 6 khẩu cối 120 ly, 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 ly. Sở chỉ huy sư đoàn đặt tại dãy Ngọc Lang Grang. Sư đoàn 1 bố trí như sau: trung đoàn 66, đứng chân ở dãy Ngọc Kom Liệt, Ngọc Krinh; trung đoàn 320, đứng chân ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Rinh Rua; trung đoàn 174, đứng chân ở điểm cao 882 và điểm cao 875... Điểm cao 875 có địa hình khá đặc biệt, là cửa ngõ và là nấc thang đầu tiên bước lên dãy Ngọc Tô Ba - một trong những khu căn cứ của ta. Từ vùng căn cứ ngã ba biên giới Đông Dương muốn vào khu vực tác chiến chiến dịch phải đi qua khu vực 875. Địa hình ở dây phần lớn là rừng già, cây to, cao, cành lá ken dày kín đáo, phía dưới là cây nhỏ có thể quan sát từ 100 đến 200m. Đất ở đây thuộc loại đất đỏ ba-dan tiện cho việc đào hầm hào và công sự chiến đấu. Tại điểm cao 875, tiểu đoàn 2 trung đoàn 174 tổ chức hai lực lượng chốt và cơ động. Lực lượng chốt do đại đội 7 đảm nhiệm được tăng cường đại đội công binh xây dựng trận địa chốt nhiều tầng chắc chắn. Lực lượng cơ động do 2 đại đội của tiểu đoàn 2 và 1 đại đội trợ chiến được tăng cường đứng chân ở đồi Không Tên (tây điểm cao 875) làm nhiệm vụ vận động tiến công. Tiểu đoàn pháo hỏa tiễn ĐKB của Mặt trận do Bộ tư lệnh chiến dịch nắm để chi viện chung.

Trên hướng phối hợp, trung đoàn 24 và tiểu đoàn 304 bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum bố trí ở phía đông bắc Đắc Tô - Tân Cảnh, có nhiệm vụ dùng lối đánh nhỏ, pháo kích, tiêu hao, tiêu diệt rộng rãi quân địch, uy hiếp Tân Cảnh, khống chế sân bay Phượng Hoàng (Đắc Tô) và đường 14 (đoạn nam Tân Cảnh).

Ở Gia Lai, trung đoàn 95 được tăng cường 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo hỗn hợp 18 khẩu (6 ĐKZ 75 ly, 4 cối 82 ly, 4 cối 120 ly, 4 ĐKB), có nhiệm vụ đánh tiêu diệt từng đại đội địch, tích cực nghi binh lừa địch, kiềm chế giam chân buộc địch phân tán đối phó. Tiểu đoàn đặc công tỉnh Gia Lai tập kích căn cứ chỉ huy sân bay, cơ sở hậu cần của địch. Dùng ĐKZ pháo kích vào thị xã Plây Cu, phối hợp với 2 đại đội công binh của tỉnh Gia Lai tổ chức đánh giao thông trên đường 19 làm gián đoạn vận chuyển của địch.

Trên hướng Đắc Lắc, trung đoàn 33 tích cực đánh địch ở bắc Buôn Ma Thuột, uy hiếp khu vực Quảng Nhiêu kéo trung đoàn 45 ngụy ra ngoài căn cứ để tiêu diệt.

Một vấn đề quan trọng được Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch quan tâm, đó là việc nâng cao chất lượng bộ đội trên cơ sở tiến hành chuẩn bị tích cực và toàn diện cả về chính trị và quân sự. Về chính trị, Đảng ủy chủ trương: Triển khai sâu rộng công tác đàng, công tác chính trị chiến dịch trong giai đoạn chuẩn bị cùng như trong quá trình phát triển chiến dịch, làm cho cán hộ, chiến sĩ thấu suốt ý nghĩa mục đích của chiến dịch, phát, huy truyền thống và bản chất của quân đội ta để vượt qua mọi khó khản trở ngại giữ vững niềm tin tất thắng. Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Mặt trận, các buổi sinh hoạt đảng và đoàn được các cấp ủy đảng chỉ đạo chặt chẽ với nhiều nội dung thiết thực như đề cao kỷ luật chiến trường, đề cao tinh thần trách nhiệm và tính tiền phong gương mẫu của cán bộ đảng viên gắn với việc phát huy dân chủ quân sự, thực hiện tự do tư tưởng trong đơn vị, phát hiện và kịp thời giải quyết những vướng mắc về tư tưởng, những biểu hiện ngại khó ngại khổ, sợ ác liệt hy sinh, sợ chiến đấu lâu dài. Lần đầu tiên những từ “đánh to”, “thắng lớn”, “diệt lữ đoàn” được mọi người nhắc đến với niềm tin vững chắc. Toàn mặt trận dấy lên phong trào thi đua tự nguyện đăng ký chỉ tiêu diệt Mỹ. Để đạt được chỉ tiêu đã giao ước, ngoài giờ học tập chính thức, từng tổ ba người, từng tiểu đội tự động ra thao trường ôn luyện chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt và kỹ thuật bắn các loại súng. Các anh trong Bộ tư lệnh Mặt trận và cán bộ ba cơ quan chia nhau xuống từng đơn vị giúp đỡ công việc chuẩn bị, giải quyết khó khăn mà đơn vị và chiến sĩ chưa giải quyết được. Nhiều đồng chí trong Bộ tư lệnh và cơ quan không chỉ xuống đến sư đoàn, trung đoàn mà còn đến tận các đại đội. Tác phong sâu sát đó đã xây dựng được sự gắn bó mật thiết giữa cấp trên với cấp dưới; đơn vị với cơ quan; cán bộ với chiến sĩ trong những năm gian khổ ở chiến trường và trở thành truyền thống đoàn kết thống nhất đẹp đẽ của lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:51:33 pm
Việc chuẩn bị đường trên các hướng chiến dịch mang ý nghĩa rất quan trọng. Hệ thống đường xe thồ từ cửa khẩu VQ5 trên đất Cam-pu-chia đến vùng ba biên giới dài gần 200km, qua nhiều đèo cao, suối sâu. Bộ tư lệnh chiến dịch đã sử dụng công binh mặt trận và các đơn vị vận tải gấp rút mở đường mới và sửa chữa những đoạn đường thồ hỏng, lầy lội. Bộ đội phải đi xa chặt nứa, lồ ô đan phên lót đường thồ dài hàng trăm ki-lô-mét. Để bảo đảm bí mật, chật nứa và lồ ô phải rút hết ngọn xuống đất không để lá khô thành vệt, máy bay trinh sát của địch dễ phát hiện. Những đoạn đường trống phải làm giàn ngụy trang. Cán bộ chiến sĩ công binh, vận tải phải chặt hàng vạn cây trong những khu rừng đầy muỗi, vắt. Mỗi lần rút được ngọn cây lồ ô xuống đất là một lần người chiến sĩ phải dồn sức co kéo thật vất vả. Không có ý thức và tinh thần giữ bí mật cao cho chiến dịch không thể làm được những việc ấy.

Khó khăn nhất của chiến dịch Đắc Tô là công tác bảo đảm vật chất. Hầu hết nguồn vật chất của mặt trận đã bố trí ở cánh Trung, nay mở chiến dịch ở cánh Bắc thì công tác vận chuyển là vô cùng khó khăn. Bộ Tham mưu và Cục Hậu cần vắt óc tính toán, lập kế hoạch; đồng thời phát huy sức mạnh của cán bộ, chiến sĩ toàn mặt trận. Bộ tư lệnh chiến dịch phải huy động lực lượng vận tải và các binh trạm hành lang, trường quân chính, trường quân y, bệnh viện, đội điều trị, xưởng dược, xưởng quân giới và cơ quan bộ tư lệnh ra mặt đường làm công tác vận chuyển. Các chiến sĩ gái hộ lý, y tá, dược tá của Viện quân y 211, xưởng dược 38 cũng được tổ chức thành một đội xe đạp thồ đi vận chuyển suốt mùa chiến dịch. Phong trào thi đua “Vượt cân tăng chuyến” diễn ra sôi nổi. Trong các đơn vị năng suất gùi thồ vì vậy mà không ngừng tăng lên. Những kỷ lục mới luôn luôn bị phá vỡ. Các bác sĩ, quân y sĩ, hộ lý Viện quân y 211 không quen gùi thồ cũng nỗ lực đưa năng suất thồ 80kg, gùi 45kg mỗi chuyến một người lúc đầu, sau lên 120kg và 65kg, thật là một kỳ tích. Đội vận tải nữ Cục Hậu cần Mặt trận đạt năng suất bình quân 50kg một người. Vận chuyển cùng bộ đội còn có hàng ngàn người dân các dân tộc ở vùng căn cứ. Các cung đường ra phía trước trở nên sống động lạ thường, cả ngày lẫn đêm rầm rập bước chân người, xen lẫn tiếng kẽo kẹt của hàng trăm chiếc xe đạp thồ tạo nên không khí náo nhiệt như ngày hội. Cán bộ, chiến sĩ vận tải gái, trai, cả những chị em phụ nữ người dân tộc đua nhau vượt qua những đoạn đường lầy lội, giúp đỡ nhau trèo lên “Dốc trăm bậc”, “Dốc Hồ Minh Nhật”, đỉnh đèo “Cây đa gió lộng” cao gần nghìn mét. Đến trước ngày nổ súng trên hướng chính, công tác hậu cần chiến dịch đã bảo đảm được 400 tấn gạo, 200 tấn vũ khí, 10 nghìn bánh lương khô do quân nhu mặt trận tự chế. Trên các hướng khác cũng bảo đảm được 300 tấn vũ khí và lương thực, thuốc men.

Tôi còn nhớ trước ngày bộ đội hành quân chiếm lĩnh trận địa, Đoàn văn công Tổng cục Chính trị và đội văn nghệ xung kích mặt trận đã chia nhau từng tổ đến tận đơn vị trung đội, đại đội phục vụ, động viên cán bộ chiến sĩ trước khi lên đường ra trận.

Ngày 15 tháng 10 năm 1967, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực tại chỗ phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương, dân quân du kích hai tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc nổ súng đánh địch. Đêm ngày 20 tháng 10, tiểu đoàn 33 ĐKZB bắn vào sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy, sân bay Cù Hanh, sở chỉ huy sư đoàn 4 Mỹ ở La Sơn gây cho chúng thương vong lớn. Trên các đường 14, 19, 21 và khu vực tây Plây Cu, bắc Buôn Ma Thuột diễn ra nhiều trận đánh cả quân Mỹ lẫn quân ngụy của các đơn vị tại chỗ, đã thu hút hai phần ba lực lượng sư đoàn 4 Mỹ mở cuộc hành quân “Mác Ác-tơ” vào vùng tây tỉnh Gia Lai và bắc tĩnh Đắc Lắc, nhưng quân Mỹ đi đến đâu cũng không sao tìm thấy chủ lực của ta.

Ngày 28 tháng 10, trung đoàn 33 chặn đánh quyết liệt tiểu đoàn 1 lữ đoàn 2 sư đoàn 4 Mỹ ở buôn Mê Van. Trung đoàn thiết giáp ngụy đi ứng cứu cho quân Mỹ, bị bộ đội ta chặn đánh diệt một số xe... Trong khi đó, các đơn vị chủ lực của ta bí mật hành quân chiếm lĩnh trận địa theo phương án đã định.

Do đặc điểm địa hình vùng rừng núi bắc Tây Nguyên đồi cao dốc đứng nên ở chiến dịch Đắc Tô bộ đội ta sáng tạo một kiểu hầm trú ẩn mới. Lợi dụng sườn đồi dốc và những bụi lồ ô, bụi le chiến sĩ ta thường đào một hố hình chữ nhật sâu rồi khoét vào theo hình tròn tùy theo địa hình mà phát triển ngách. Nhiều đơn vị anh em lấy lá búng báng đan lại rồi găm vào thành, dùng lồ ô làm sạp ngủ và sinh hoạt. Loại hầm này vừa chắc, vừa tiện, lại giữ được bí mật vì không phải chặt gỗ như làm hầm kèo (chữ A).

Ấn tượng khó quên đối với tôi trong chiến dịch Đắc Tô mùa đông năm 1967 là sự nỗ lực phi thường của cán bộ, chiến sĩ ta. Chiến sĩ bộ binh mang vác nặng leo núi đã khó, chiến sĩ pháo binh khiêng vác cồng kềnh càng khó hơn. Đại đội 1 pháo binh phải tháo rời 2 khẩu sơn pháo 75 ly, nhiều bộ phận phải từ 4 đến 6 người mới khiêng nổi. Lúc trèo đèo, khi xuống dốc dưới trời mưa trơn, nhiều chiến sĩ ngã lăn xuống vực, áo quần rách bươm, gai cào, vắt cắn rớm máu. Thử thách và gian nan tưởng chừng sức con người khó có thể vượt qua để đưa hai khối thép lên đỉnh Ngọc Bờ Biêng cao 1.338m. Nhờ sự nỗ lực phi thường đó các chiến sĩ đại đội 1 đã làm cho quân địch bất ngờ đến kinh hoàng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:52:42 pm
Sư đoàn 4 Mỹ sau khi mở cuộc hành quân ra vùng Chư Pa, Đức Cơ (tỉnh Gia Lai) và Mê Van (Đắc Lắc) không đạt được mục đích, họ liền chuyển cuộc hành quân “Mác Ác-tơ” ra vùng tây bắc tỉnh Kon Tum.

Ngày 2 tháng 11, sở chỉ huy lữ đoàn 1 Mỹ lên Đắc Tô và thiết lập 2 trận địa khác ở Plây cần và Đắc Mót. Một tiểu đoàn Mỹ được đổ xuống chiếm điểm cao Ngọc Rinh Rua. Cùng lúc tướng Oét-mo-len ra lệnh đình chỉ cuộc hành quân của lữ đoàn dù 173 Mỹ ở Phú Yên, ném chúng lên Đắc Tô. Hai tiểu đoàn Mỹ thuộc sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và lữ đoàn dù ngụy cũng được điều lên Tây Nguyên làm lực lượng dự bị.

Địch ra quân sớm hơn dự kiến của ta, với ý đồ thực hành ngăn chặn chiến dịch. Tình hình đó thúc đẩy đội hình chiến dịch của ta phải nhanh chóng vào chiếm lĩnh và khẩn trương hoàn tất mọi công việc chuẩn bị.

Ngày 3 tháng 11, hai khẩu sơn pháo 75 ly được lệnh nổ súng vào căn cứ Đắc Tô. Bị đòn bất ngờ nên địch bị thiệt hại rất nặng. 15 giờ 30 phút cùng ngày, lữ đoàn 1 sư đoàn 4 dùng máy bay lên thẳng đổ một tiểu đoàn xuống khu Đồi Tranh phía đông dãy Ngọc Bờ Riêng khoảng 500m và tiến lên trận địa chốt của đại đội 11 tiểu đoàn 6 (Tây Ninh). Các chiến sĩ tiểu đoàn 6 và các chiến sĩ pháo binh tiểu đoàn 31 trung đoàn 40 đã thể hiện tinh thần chiến đấu quả cảm và sức chịu đựng kiên cường. Trong sổ công tác của tôi còn ghi:

- Ngày 4 tháng 11 các chiến sĩ trên chốt Ngọc Bờ Biêng đã anh dũng đánh lui 8 đợt tiến công của 2 đại đội Mỹ.

- Ngày 5 tháng 11, một đại đội Mỹ bất ngờ ập lên trận địa chốt thứ hai của đại đội 11 ở Ngọc Tang. Bộ đội ta dùng lưỡi lê, báng súng, lựu đạn đánh giáp lá cà với quân Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên.

- Ngày 6 tháng 11, lữ đoàn 1 sư đoàn 4 Mỹ đổ tiếp xuống Ngọc Dơ Lang và điểm cao 882. Trung đoàn 320 chặn đánh quyết liệt làm cho lữ đoàn này thiệt hại nặng.

Bị đòn đau, những người chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn vội vã điều gấp lữ đoàn dù 173 từ Phú Yên lên Đắc Tô tăng sức chiến đấu cho sư đoàn 4 Mỹ; đồng thời họ sử dụng máy bay chiến lược B52 đánh phá ác liệt suốt ngày đêm vào khu vực tây nam Đắc Tô.

Lữ đoàn dù 173, do chuẩn tướng Li-bi-e Uây-tơ làm tư lệnh được máy bay lên thẳng đổ xuống Plây cần. 13 giờ ngày 6 tháng 11, hai đại đội của tiểu đoàn 1 được trực thăng đổ xuống các điểm cao 823, 845, 882 trên dãy Ngọc Kom Liệt hình thành hai mũi đánh vào sườn sư đoàn 1 của ta. Các chốt chiến thuật của tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 kịp thời nổ súng đánh thiệt hại nặng một đại đội, bắn rơi hai máy bay lên thẳng. Cay cú trước thất bại bất ngờ, chỉ huy lữ đoàn 173 đổ tiếp 2 đại đội của tiểu đoàn 4 xuống chân điểm cao 823. Hai đại đội này lọt đúng vào trận địa chốt, đồng thời là đài quan sát của đại đội trinh sát trung đoàn 66. Các chiến sĩ trinh sát dựa vào công sự và chiến hào đã được chuẩn bị sẵn chặn đánh loại khỏi vòng chiến đấu hơn 60 lính Mỹ.

Như vậy trong ngày 6, cả hai cánh quân của địch đều bị trung đoàn 320 và trung đoàn 66 chặn đánh. Bộ tư lệnh chiến dịch cho rằng mặc dù bị đánh song quân địch vẫn có thể còn tiến sâu hơn, nên lệnh cho trung đoàn 174 hành quân gấp ra tây nam Lăng Lô Kram chuẩn bị chặn đánh quân địch.

Tối ngày 8 tháng 11, Sư đoàn 1 dùng tiểu đoàn 4, đại đội 10 (tiểu đoàn 6 trung đoàn 320) tập kích quân địch ở điểm cao 724. Đang trên đường tiếp cận, bộ đội ta phát hiện quân Mỹ ở điểm cao 724 cũng hành quân thay đổi nơi trú quân đề phòng ta tập kích. Tiểu đoàn 4 và đại đội 10 nhanh chóng chuyển sang đánh vận động, diệt gần 100 tên, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội của tiểu đoàn 3 trung đoàn 8 lữ đoàn 1 sư đoàn 4. Cũng vào thời gian trên tại Ngọc Kom Liệt, do bị ta tiến công dồn dập, nên tiểu đoàn 4 lữ đoàn 173 từ điểm cao 823 mở cuộc hành quân giải tỏa về phía tây. Tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 được điểm chốt đại đội trinh sát yểm hộ kịp thời vận động tiến công mũi quân này của địch. Trận đánh diễn ra quyết liệt từ 6 giờ sáng đến 4 giờ chiều, tiểu đoàn 7 đã tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 4 Mỹ, một số tên sống sót cụm lại, bị tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 tiêu diệt. Trận tiêu diệt tiểu đoàn 4 lữ đoàn dù 173 là đòn nặng làm cho địch choáng váng.

Trong lúc chiến sự diễn ra quyết liệt ở Ngọc Kom Liệt, tại Ngọc Dơ Lang, vào lúc 14 giờ ngày 11 tháng 11 tiểu đoàn 3 lữ đoàn dù 173 cho 2 đại đội đánh ra phía tây. Để giữ vững quyền chủ động tiến công, tiểu đoàn 5 trung đoàn 320 đã vận động tiến công diệt gọn 1 đại đội, tiêu hao nặng 1 đại đội của tiểu đoàn 3, loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên. Như vậy, việc ta sử dụng trung đoàn 66 và trung đoàn 320 chặn đánh địch ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt kéo hút lữ đoàn dù 173 và sư đoàn 4 Mỹ vào bẫy “Đắc Tô” là chính xác. Trong hai ngày 17 và 18 tháng 11, đại đội 1 tiểu đoàn 31 trung đoàn 40 tiếp tục bắn phá mãnh liệt vào căn cứ Đắc Tô và sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 4. Kho đạn 1.100 tấn của địch trúng đạn nổ dữ dội, làm cho các kho dự trữ hậu cần của cuộc hành quân bị thiệt hại nặng nề. Ba chiếc máy bay C130 chở quân vừa hạ xuống đường băng cũng bị trúng đạn bốc cháy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Chín, 2019, 02:53:39 pm
Trên hướng đường 18 và đông bắc Đắc Tô, trung đoàn 24 chủ lực tại chỗ cùng với lực lượng công binh và bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum tiến công vào quận lỵ Đắc Tô, thị trấn Tân Cảnh, chặn đánh các đoàn xe vận tải chở quân ứng cứu của địch buộc chúng phải phân tán đối phó.

Sau những cố gắng tiến công chia cắt đội hình chiến dịch của ta ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt không thành công, bộ chỉ huy quân đội Mỹ cho rằng nếu không chiếm được điểm cao 875 làm bàn đạp khống chế ta, thực hiện đòn đánh vu hồi vào lưng đội hình chiến dịch của ta thì không thực hiện được chia cắt chiến dịch, không thay đổi được thế trận. Vì vậy mặc dù xa các căn cứ pháo binh cố định yểm trợ, quân Mỹ vẫn tập trung lực lượng đánh lên điểm cao 875.

Ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn 1 và 2 thuộc lữ đoàn dù 173 bắt đầu tiến công chiếm điểm cao 875. Cánh quân của tiểu đoàn 1 lữ đoàn dù 173 chưa đến điểm cao 875 đã bị các chiến sĩ trung đoàn 66 chặn đánh, kìm chúng tại chỗ, diệt từng bộ phận. Tiểu đoàn 2 lữ đoàn dù 173 tiếp tục tiến lên điểm cao 875. Thế là chúng đã bị quân ta nhử sâu vào cái bẫy đã giăng sẵn tại điểm cao 875. Khi tiểu đoàn 2 lữ đoàn dù 173 tiến lên, đại đội 7 trung đoàn 174 nổ súng chặn đứng đội hình của chúng trước chiến hào và tổ chức một bộ phận xuất kích đánh tạt sườn, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ. Không chiếm được điểm cao 875, ngày 18 tháng 11 địch cho từng tốp máy bay B52 liên tiếp dội bom gần như san phẳng ngọn đồi rồi thúc nhau xông lên. Nhưng từ trong mảnh đất bị bom đạn Mỹ cày xới, các chiến sĩ đại đội 7 bật dậy nã đạn chính xác vào quân địch. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Xảo đứng trên chiến hào dùng AK diệt từng tốp lính Mỹ và chỉ huy anh em chiến đấu. Chiến sĩ Bùi Đình Ước lần đầu ra trận chiến đấu kiên cường, dùng AK, lựu đạn diệt 22 lính Mỹ, đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” cấp ưu tú. Cuộc chiến đấu giành giật quyết liệt của tổ ba người Phùng Quang Chí, Bùi Xuân Lộc, Đỗ Văn Chuyên đánh lui nhiều đợt tiến công của quân Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 102 tên Mỹ, nêu kỷ lục xuất sắc về thành tích diệt địch của một tổ ba người trong một đợt chiến đấu.

Ngày 19 tháng 11, trong lúc địch đang bị kìm chặt ở khu vực 875, từ các hướng trung đoàn 174 vận động tới liên tiếp tấn công vào các cụm quân Mỹ tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn 2 lữ đoàn dù 173 của Mỹ. Đây là trận quân Mỹ phải bỏ xác lại trận địa nhiều nhất. Ngay buổi sáng ngày 20 tháng 11, những người chỉ huy quân đội Mỹ đã ra lệnh cho không quân dùng bom phá, bom na-pan hủy xác binh lính của họ. Thế mà trong hồi ký của mình, ông Giôn-xơn có đoạn viết: “Đưa ra chiến trận những tinh hoa của tuổi thanh niên nước ta, những chàng thanh niên ưu tú nhất của chúng ta, đối với tôi không phải là một việc dễ dàng... Tôi cho rằng tôi cũng biết cả những người mẹ của họ sẽ khóc lóc như thế nào, những gia đình họ sẽ đau buồn như thế nào. Đây là nhiệm vụ day dứt nhất và đau đớn nhất của vị tổng thống của các bạn”.

Thử hỏi rằng, ông Giôn-xơn có dám nói thật cho gia đình những người lính Mỹ xấu số kia biết rằng buổi sáng ngày 20 tháng 11 năm 1967, ông ta đã ra lệnh hủy xác con em họ dưới chân ngọn đồi 875 ở một nơi xa xăm đối với nước Mỹ chăng?

*
*   *

Chiến dịch Đắc Tô I là chiến dịch đánh quăn Mỹ có hiệu suất cao nhất từ trước đến thời điểm đó. Trong chiến dịch này bộ đội Tây Nguyên đã có những nét phát triển mới về nghệ thuật chiến dịch: lần đầu tiên ta đánh sát tuyến phòng thủ cơ bản của địch, ở đó địch đã sẵn có các căn cứ hỏa lực và những bàn đạp phản kích. Địch đã ra quân trước và thực hành ngăn chặn chiến dịch trên một số địa đoạn, lực lượng dự bị chiến dịch của địch đã sẵn sàng. Thê đội 1 chiến dịch của ta và của địch cùng triển khai và tranh chấp tuyến 1. Tình huống chiến dịch diễn ra rất phức tạp và khẩn trương. Nét nổi bật của ta trong chiến dịch này là đã biết phát huy sức mạnh tổng hợp toàn chiến trường để tiến công địch. Trên hướng chủ yếu của chiến dịch ta đã tạo được thế tiến công cả trước mặt lẫn sau lưng địch. Ta đã xác định khu quyết chiến chiến dịch đúng và đã biết tập trung lực lượng đánh trận then chốt và đạt hiệu suất cao, tiêu diệt gọn 2 tiểu đoàn Mỹ. Đánh giá đúng tính hung hăng “tìm diệt” của quân Mỹ, ta đã tổ chức thế trận chiến dịch có chiều sâu, đặt bẫy khu chiến đã chuẩn bị nên tất cả các đơn vị địch lần này đều bị đánh thiệt hại nặng nề, ngay cả lữ đoàn kỵ binh không vận đến “chữa cháy” cũng bị đánh đau. Về chiến thuật: Sự phát triển mới về chiến thuật trong chiến dịch là đã hoàn thiện và khẳng định chiến thuật “chốt kết hợp vận động”. Chiến thuật này phù hợp với điều kiện địa hình rừng núi. Nó đã mở ra phương hướng tiêu diệt từng tiểu đoàn quân địch trong tác chiến vận động, hạn chế những yếu tố ngẫu nhiên trong vận động tiến công bằng tính chủ định cao. Với điểm chốt tổ chức có kế hoạch ta có thể thu hút quân địch, kéo chúng vào trận địa đã chuẩn bị sẵn để rồi vận động tiến công tiêu diệt chúng ở địa hình và thời điểm có lợi nhất. Với chiến thuật này tiểu đoàn 6 (Tây Ninh) đã đánh đi đánh lại loại khỏi vòng chiến đấu 600 lính Mỹ trên sườn ngọn núi Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Yang trong hơn 20 ngày. Và cũng với chiến thuật này tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 174 trong một trận đã diệt gọn 1 tiểu đoàn Mỹ ở khu vực điểm cao 875.

Tôi còn nhớ sau chiến dịch Đắc Tô, cơ quan tham mưu Mặt trận Tây Nguyên đã tổng kết rút kinh nghiệm gửi lên Bộ với tên là chiến thuật “chốt kết hợp vận động”. Bộ đánh giá cao hình thức chiến thuật này đồng thời bổ sung và đặt lại là “chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt”.

Chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt mầm mống đầu tiên là trận đánh ở “Rừng im lặng” đến chiến dịch Đắc Tô được phát triển có kế hoạch có sự chuẩn bị sẵn ở những địa hình có lợi cho ta.

Trong chiến thuật này không chỉ có yếu tố bí mật bất ngờ; đánh nhanh giải quyết nhanh mà còn thể hiện tính kiên quyết và tư tưởng đánh tiêu diệt triệt để quân địch. Ngoài những yêu cầu như các chiến thuật khác, chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt còn đòi hỏi tinh thần chiến đấu kiên cường và khả năng trụ bám vững chắc trận địa của người chiến sĩ. Chiến thuật là lĩnh vực mang tính chất quần chúng rộng rãi nhất. Bởi vì, các chiến thuật của quân đội ta thường bắt nguồn từ hành động chiến đấu của người chiến sĩ trên chiến trường. Quá trình hình thành một chiến thuật bao giờ cũng đi từ đơn giản đến hoàn chỉnh, và buổi ban đầu nó thường xuất hiện như một hiện tượng ngẫu nhiên, một mầm mống và sau đó mới trở thành một hình thái có ý thức, có tổ chức và có nguyên tắc. Sự nhạy bén của người chỉ huy là phải nhanh chóng phát hiện những mầm mống ấy và có ý thức phát triển lên một trình độ cao hơn thì mới biến thành một chiến thuật có giá trị.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:08:02 am
*
*   *

Sau hai mùa khô đọ sức với quân viễn chinh Mỹ, lực lượng cách mạng của ta ở miền Nam ngày càng phát triển, kinh nghiệm chiến đấu được tích lũy phong phú, trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực được nâng cao, thế trận đã tỏa rộng và giăng kín khắp nơi, uy hiếp địch từ mọi phía.

Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết lịch sử: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định”, Bộ Chính trị nhận định: “Do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và do những thắng lợi to lớn của ta trong năm 1967; địch khó có khả năng mở cuộc phản công lần thứ ba. Xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là chúng sẽ càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn”, về phía ta, Bộ Chính trị cho rằng “chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược, chiến thuật; lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào, ta đang nắm quyền chủ động trên khắp chiến trường...” và kết luận: “Diễn biến cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 tháng 1 năm 1968 thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12 năm 1967 và hạ quyết tâm: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Trung ương Đảng khẳng định: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”. Dự kiến của Bộ Chính trị về cuộc Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa có thể phát triển theo ba khả năng:

Khả năng thứ nhất là ta thắng lớn, địch phải chịu thua và kết thúc chiến tranh.

Khả năng thứ hai là ta thắng ở nhiều nơi, nhưng địch củng cố được lực lượng và chiến đấu với ta.

Khả năng thứ ba là Mỹ sẽ tăng thêm nhiều lực lượng mở rộng chiến tranh ra cả miền Bắc, sang Lào, Cam-pu-chia.

Nhưng dù tình hình thế nào, ta cũng kiên quyết liên tiếp tấn công địch cho đến khi chúng bị thất bại.

Cuối tháng 11 năm 1967, ngay sau khi được phổ biến sơ bộ chủ trương của cấp trên, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở hội nghị liên tịch với các đồng chí bí thư tỉnh ủy Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc cùng bàn bạc để thống nhất kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn bộ khu vực Tây Nguyên. Cục diện và hình thái giữa ta và địch ở Tây Nguyên cuối năm 1967 đã diễn ra đúng như nhận định trên của Bộ Chính trị. Sau thất bại ở Đắc Tô, quân Mỹ buộc phải lui về tuyến phòng ngự cũ. Chúng phải hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc hành quân “tìm diệt” mà lo đối phó với ta trong trạng thái phòng ngự bị động. Quân Mỹ thành lập các tuyến ngăn chặn tiến công kết hợp với phản kích gần. Chúng bắt đầu co về giữ các thị xã, quận lỵ, trục đường giao thông quan trọng và xung yếu, đẩy dần quân ngụy ra tuyến trước. Đầu năm 1968 lực lượng và hình thái bố trí của địch ở Tây Nguyên như sau: ở Đắc Lắc quân Mỹ có khoảng 450 cố vấn và nhân viên kỹ thuật; quân ngụy có trung đoàn 45, trung đoàn 8 thiết giáp và một số tiểu đoàn bảo an. Ở Gia Lai, sư đoàn kỵ binh không vận số 1, ở An Khê, sư đoàn 4 và lữ dù 173 ở Plây Cu; quân ngụy có hai tiểu đoàn biệt động quân số 11 và 22, một trung đoàn thiết giáp và các tiểu đoàn bảo an và biên phòng. Ở Kon Tum, trên đường 18 có 1 lữ thuộc sư đoàn 4 Mỹ, trong thị xã có trung đoàn 42, một tiểu đoàn biệt động quân và một tiểu đoàn bảo an.

Hơn hai năm giáp mặt với quân Mỹ, cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên chúng tôi đã hiểu rõ, hiểu đúng đối phương của mình. Chúng tôi chẳng những không gờm sợ Mỹ mà còn ham đánh Mỹ và biết cách đánh thắng chúng. Phong trào thi đua giết giặc lập công, phấn đấu trở thành “Đơn vị anh dũng diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt Mỹ” dấy lên sôi nổi khắp nơi. Niềm tin yêu và sự động viên khích lệ mạnh mẽ của đồng bào cả nước dành cho Tây Nguyên sau chiến thắng Đắc Tô I càng làm cho cán bộ, chiến sĩ thêm phấn khởi tự hào và quyết tâm đánh thắng Mỹ. Đợt tổng kết chiến dịch Đắc Tô I và sinh hoạt chính trị cuối năm 1967 đã nâng cao thêm khí thế và niềm tin, chuẩn bị cho bộ đội bước vào nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:08:31 am
Chấp hành chủ trương của trên về thực hiện đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1968, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên chúng tôi hạ quyết tâm động viên toàn bộ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên nỗ lực vượt bậc, tiến công liên tục, toàn diện và triệt để vào quân địch thực hiện bằng được quyết tâm chiến lược của Đảng; đồng thời phối hợp chặt chẽ với các chiến trường và sẵn sàng ứng phó một cách chủ động, mạnh mẽ nếu chiến tranh kéo dài.

Để thực hiện quyết tâm trên, Bộ tư lệnh Mặt trận đã tăng cường cho tỉnh đội Kon Tum 1 đại đội ĐKB, 1 đại đội công binh và 331 tân binh, nâng tổng số quân của tỉnh lên 1.753 người; tăng cường cho tỉnh đội Gia Lai 1 tiểu đoàn ĐKB và 195 tân binh Quân khu 5 bổ sung, đưa tổng số quân của tỉnh Gia Lai lên 2.606 người, du kích là 7.689 người; ở Đắc Lắc quân số là 1.777 người; du kích là 2.425 người.

Từ ngày 15 đến ngày 27 tháng 1 năm 1968 các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 mở một đợt hoạt động để thu hút quân Mỹ lên đường 18 Plây Cần bắc Kon Tum, giam chân chúng ở đó. Các nơi khác cố gắng kéo chủ lực địch ra ngoài thị xã tạo điều kiện thuận lợi cho ngày N; đồng thời thu hút địch lên Tây Nguyên, phối hợp với chiến trường đồng bằng. Mặt khác, ta đưa lực lượng tiến sát vào các thị xã và vùng phụ cận, uy hiếp đường giao thông, đánh hỏng bộ máy kìm kẹp của địch ở vùng ven, chuẩn bị bàn đạp cho cuộc Tổng tiến công.

Kết quả đợt hoạt động này ta đã đánh 36 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên địch (có 1.600 tên Mỹ), diệt gọn 7 đại đội, bắt sống 88 tên ngụy, phá hủy 361 xe quân sự, 17 khẩu pháo các loại, bắn rơi hàng chục máy bay. Đòn tiến công dồn dập trước cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) đã khẳng định chủ trương trên là đúng đắn và chính xác. Bộ đội nhanh chóng làm quen với chiến trường mới. Quân địch thêm căng thẳng, bối rối. Đó là sự chuẩn bị cần thiết cho một trận tập kích chiến lược sắp sửa diễn ra.

Lệnh Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt phát ra rất nhanh và hoàn toàn giữ được bí mật. Cả miền Nam, cả núi rừng Tây Nguyên đứng dậy không phân biệt già, trẻ, gái, trai, Kinh, Thượng... tất cả đều anh dũng xốc tới trong lời thơ hào hùng và xúc động của Bác Hồ:

      Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
      Thẳng trận tin vui khắp nước nhà
      Nam, Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
      Tiến lên!
      Toàn thắng ắt về ta.


Chưa có lần ra quân nào giục giã lòng người ra trận như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm ấy. Không một ai phân vân do dự trước sự hy sinh có thể xảy ra đối với bản thân mình trong cuộc chiến lịch sử này. Tôi còn nhớ, anh em thương binh, bệnh binh đang điều trị cũng nằng nặc xin được về đơn vị đi chiến đấu. Các chiến sĩ làm nhiệm vụ sản xuất, trông coi hậu cứ cũng náo nức xin ra trận. Đơn vị nào cũng xuất kích với số quân cao nhất.

0 giờ 30 phút đêm 30 rạng mùng một Tết Nguyên đán năm 1968, tiểu đoàn 2 trung đoàn 174 phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương nổ tiếng súng đầu tiên đánh chiếm và làm chủ hoàn toàn thị trấn Tân Cảnh mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân trên chiến trường toàn miền Nam.

Trên hướng Đắc Lắc, ta tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột chiếm đài phát thanh, nhà lao, sư đoàn bộ sư đoàn 23 ngụy, khu pháo binh, khu thiết giáp, sân bay thị xã, tòa hành chính, ty cảnh sát, khu cố vấn Mỹ...

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, Tỉnh ủy Đắc Lắc huy động 9.000 quần chúng tiến vào thị xã đấu tranh với địch. Đây cũng là lần đầu tiên ở Tây Nguyên ta đã huy động được một lực lượng quần chúng đông đảo đấu tranh trực diện với quân thù. Bà con cô bác vây chặt căn cứ trung đoàn 45 ngụy, kêu gọi binh lính địch quay súng trở về với nhân dân.

Trước làn sóng tiến công vũ bão của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắc Lắc, chỉ huy quân đội Mỹ đã huy động máy bay, xe tăng giội bom, bắn rốc-két và súng trọng liên vào đoàn biểu tình, ở cánh đông, nhân dân huyện 9 (căn cứ kháng chiến) đang hùng dũng tiến vào thì má Hai(1), người cầm cờ trúng đạn ngã xuống. Chị Mười nhận lá cờ từ tay má Hai trao cho vượt lên dẫn đầu chỉ huy đoàn người thì lại bị trúng đạn hy sinh. Má Hai tuy bị thương nhiều chỗ đã yếu nhưng vẫn vượt lên giương cao lá cờ cùng bà con tiếp tục tiến. Ở cánh nam thị xã có má Thanh, mặc dầu bị quân Mỹ bắn chết con vẫn tiếp tục dẫn đầu đoàn biểu tình, dùng loa kêu gọi binh lính địch. Cháu bé Hờ Tam cầm cờ đi đầu, bị địch bắn trọng thương đã trao cờ đỏ sao vàng cho chị ruột của mình là Hờ Lan và kêu gọi “các anh chị hãy giữ lấy cờ”.


(1) Má Hai tên thật là Huỳnh Thị Hoàn, quê Thừa Thiên - Huế. Năm 1995 má được Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Bà mẹ Việt Nam anh hùng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:12:54 am
Ở Gia Lai, 0 giờ 55 phút ngày 31 tháng 1, tiểu đoàn H15 đánh vào khu vực chợ Thuần Phong, Trà Bá 2 tiến về căn cứ trung đoàn thiết giáp ngụy; các đại đội 60, 70, 80 tiểu đoàn 408 đánh vào sân bay A-rê-a, sân bay Cù Hanh, cơ quan quân đoàn 2 ngụy, khu biệt động quân ở Biển Hồ phá hủy 45 máy bay và 35 xe các loại, phá hủy khu ra-đa. Đại đội đặc công 21 của Mặt trận đánh vào tiểu khu Plây Cu, khu cảnh sát vùng 2, tòa hành chính. Sau khi đánh chiếm các mục tiêu chính, quân ta nhanh chóng triển khai lực lượng tiêu diệt các ổ đề kháng của địch ở ngã ba Diệp Kính.

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, Tỉnh ủy Gia Lai huy động hơn 10 nghìn quần chúng xuống đường đấu tranh chính trị. Chính quyền một số ấp, xã ở các huyện 4, 5, 6 được thành lập. Hơn 14 nghìn đồng bào đã trở về làng cũ làm ăn, 11 làng xung quanh thị xã Plây Cu được giải phóng.

Trên hướng Kon Tum, từ cuối năm 1967 Thường vụ Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên đã thống nhất với Tỉnh ủy Kon Tum cử một bộ chỉ huy chung do anh Vương Tuấn Kiệt (Phú), tham mưu phó mặt trận làm tư lệnh; anh Phùng Bá Thường, trung đoàn trường trung đoàn 24 làm phó tư lệnh; anh Nguyễn Vãn Tiềm, bí thư tỉnh ủy làm chính ủy; anh Nguyễn Phùng, phó bí thư tỉnh ủy làm phó chính ủy; anh Lê Tân Thuận, chính trị viên tỉnh đội Kon Tum làm phó tư lệnh cánh quân phía đông.

Đúng 1 giờ 15, tiểu đoàn đặc công 406 của tỉnh đánh chiếm tòa hành chính, ty cảnh sát và tiểu khu Kon Tum. Tiểu đoàn bộ binh 304 của tỉnh đánh chiếm khu vực sân bay Kon Tum. Lực lượng vũ trang thị xã đánh chiếm cư xá sĩ quan địch. Sau 30 phút chiến đấu, các lực lượng trên đã đánh chiếm hai phần ba thị xã, trong đó có những khu vực quan trọng là tòa hành chính ngụy quyền, ty cảnh sát ngụy, tiểu khu Kon Tum và sân bay Kon Tum.

Trong khi đó trung đoàn 24 triển khai đội hình chậm, khi nổ súng bị lộ, chỉ một bộ phận nhỏ lực lượng vào đánh chiếm được một góc biệt khu 24. Ngay trong đêm những người chỉ huy quân đội Mỹ đã cho máy bay ném bom bừa bãi xuống thị xã Kon Tum. Các chiến sĩ tiểu đoàn 304, 406 và trung đoàn 24 dựa vào từng càn nhà góc phố anh dũng đánh trả quyết liệt. A Xâu, chiến sĩ tiểu đoàn đặc công 406, một mình trụ bám tại khu chợ thị xã chiến đấu oanh liệt hai ngày ba đêm liền, bị thương nhiều lần, anh tự băng bó, sử dụng nhiều loại súng đánh lui 16 đợt phản kích của địch. A Thang mới 16 tuổi, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, diệt được nhiều tên địch và mở được vòng vây trở về với đồng đội. Trần Văn Hai, chiến sĩ liên lạc hoạt động trong cơ sở nội thị, khi đưa đón quân ta vào vị trí tập kích, không may bị địch bắt, chúng tra tấn dã man, em vẫn kiên trung không khai báo một lời. Lợi dụng lúc địch sơ hở, em cướp lựu đạn diệt địch ngay tại phòng thẩm vấn của chúng và anh dũng hy sinh.

Bị ta tiến công bất ngờ và dữ dội, quân Mỹ ở Kon Tum vô cùng hoang mang, lúng túng. Chúng hành động dè dặt, không dám tung lực lượng lớn ra phản kích trên hướng đường 18 như ta dự kiến. Trong lúc đó, các hoạt động của sư đoàn 1 trên hướng này lại chưa đủ mạnh để có thể kéo địch ra tiêu diệt. Vì vậy Sư đoàn 1 không có thời cơ tiêu diệt lớn quân Mỹ. Khi được lệnh chuyển sang đánh vào Đắc Tô, do chuẩn bị chưa đầy đủ nên sư đoàn chuyển không kịp. Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, khối chủ lực cơ động Mặt trận Tây Nguyên chưa phát huy được quả đấm mạnh trên chiến trường, kết quả tác chiến chưa tương xứng với lực lượng.

Thắng lợi mùa Xuân năm 1968 trên chiến trường Tây Nguyên đã góp phần vào thắng lợi chung của cả nước, tạo ra bước ngoặt mới của cuộc chiến tranh giải phóng, đẩy địch lui vào thế phòng ngự chiến lược. Tuy trên chiến trường chưa có một sư đoàn nào của quân Mỹ bị tiêu diệt gọn, nhưng không một đơn vị nào là không bị đánh thiệt hại nặng nề, không một căn cứ đóng quân nào của quân Mỹ không bị tiến công. Những thực tế đắng cay trên chiến trường đã làm cho nước Mỹ chán nản, chia rẽ sâu sắc nghiêm trọng. Cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Việt Nam thực sự là một cuộc chiến tranh của nước Mỹ, 6 triệu lượt thanh niên Mỹ đã bị bắt sang chiến đấu ở Việt Nam; hàng vạn thanh niên Mỹ bị chết; hàng trăm lính Mỹ bị bắt làm tù binh. Nước Mỹ đã phải chi mấy trăm tỷ đô-la cho cuộc chiến tranh. Tổng thống Giôn-xơn đã phải chua chát thừa nhận trong hồi ký của ông ta: “Đây là một cuộc chiến tranh không có trận tuyến cố định... Đó là một cuộc chiến tranh chính trị, một cuộc chiến tranh kinh tế và một cuộc chiến tranh bằng súng đạn”. Tất cả diễn ra cùng một lúc, Giôn-xơn đã xóa bỏ chương trình vĩ đại của nước Mỹ để lao theo chi phí tốn kém cho cuộc chiến tranh. Nạn lạm phát tăng lên, hậu phương nước Mỹ không ổn định. Quân Mỹ tuy còn đông, nhưng ý chí xâm lược của nó đã bị lung lay. Vì vậy Giôn-xơn không còn con đường nào khác, ngày 31 tháng 3 năm 1968, ông ta đã phải tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nước Mỹ nhiệm kỳ tới, ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và chịu ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pa-ri.

Khi đưa quân viễn chinh vào miền Nam nước ta những nhà chiến lược quân sự Mỹ cho rằng quân đội của họ vào trực tiếp chiến đấu sẽ đảo ngược được tình thế. Họ dự tính muộn nhất là trong vài ba năm sẽ giải quyết xong cuộc chiến tranh và kéo quân về nước trong khúc ca khải hoàn. Thế nhưng, giấc mơ chưa đạt được, những người đứng đầu Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã phải chịu xuống thang chiến tranh ở Việt Nam, đúng trong thời điểm số quân của họ trên chiến trường đạt đến mức cao nhất. Họ cho rằng dù có đổ thêm quân và vũ khí vào chiến trường Việt Nam đến mức nào đi nữa cũng không thể cứu vãn được sự thất bại hoàn toàn. Do vậy những nhà chiến lược quân sự Mỹ đã phải tính đến việc rút dần sự dính líu trực tiếp khỏi cuộc chiến tranh này(1). Tổng thống Mỹ Ních-Xơn bước vào Nhà Trắng đã chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm “học thuyết” mang tên ông ta và đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thực chất chiến lược này vẫn là kéo dài và mở rộng chiến tranh với chủ trương “thay đổi màu da xác chết. Dùng người Việt đánh người Việt bằng bom đạn và đô-la Mỹ”. Mục tiêu của Việt Nam hóa chiến tranh là phản công vào nông thôn, phản công vào hậu phương trực tiếp của chiến tranh nhân dân ta tại chiến trường; đồng thời ra sức ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn vào chiến trường.


(1) Hiện nay ở Mỹ có người còn chưa hiểu rõ vấn đề này. Trong cuộc gặp ngày 8 tháng 10 năm 1999 ông C. G. Appy, một nhà sử học Mỹ còn đặt cho tôi câu hỏi: “Một vài người Mỹ tin chắc là Mỹ có thể chiến thắng, nếu như Mỹ tăng thêm quân, hoặc xâm lược miền Bắc Việt Nam hay thậm chí tiếp tục ném bom. Xin tướng quân cho ý kiến về quan điểm này”. Bằng số liệu tôi đã chứng minh sự cố gắng cao của Mỹ, đặc biệt nhắc ông ta nhớ hai vấn đề:
- Phong trào chống chiến tranh rộng lớn ở Mỹ: biểu tinh tuần hành phản đối, hàng vạn thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch; đáng chú ý nhất là trên toàn thế giới có 8 vụ tự thiêu phản đối chiến tranh, thì ở Mỹ có 6 vụ.
- Những bài học mà ông Mác Na-ma-ra đã rút ra trong cuốn “Nhìn lại quá khứ” (nhất là các bài học số 3, số 4, số 5 và số 8).


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:14:23 am
Đứng trước thủ đoạn tàn bạo trên, quân và dân Tây Nguyên bước vào năm 1969 gặp muôn vàn khó khăn, có lúc tưởng chừng không thể khắc phục được, nhất là lương thực. Trong quyển sổ công tác số 16 của tôi còn ghi lại, toàn chiến trường vào thời điểm tháng 2 năm 1969 số gạo dự trữ chỉ còn khoảng 40 tấn. Nguy cơ thiếu đói là không thể tránh khỏi đối với cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên.

Cuối năm 1968, Bộ Tổng tư lệnh điều của Tây Nguyên vào Nam Bộ: Bộ tư lệnh và cơ quan Sư đoàn 1, trung đoàn 320, trung đoàn 33 và trung đoàn 174. Như vậy đến gần một nửa lực lượng của Tây Nguyên rời khỏi địa bàn. Việc điều động đó là xuất phát từ yêu cầu chung của toàn cuộc, nhưng nó đã làm xáo trộn lớn về tổ chức lực lượng và bố trí thế trận, giảm đáng kể sức chiến đấu, gây trở ngại lớn đến việc xây dựng cơ bản của chiến trường Tây Nguyên.

Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở Tây Nguyên được Mỹ bắt đầu tiến hành đầu năm 1969, họ chọn vùng rừng núi Chư Pa làm nơi thí điểm. Ngày 10 tháng 1 năm 1969, liên đoàn 2 biệt động quân và trung đoàn 42 ngụy được sự chi viện tối đa của máy bay và pháo binh Mỹ mở cuộc hành quân mang tên “Bình tây 48” nhằm bí mật thọc vào hậu phương của ta, nới rộng phòng tuyến phía tây thị xã Plây Cu đang bị ta uy hiếp tiến công.

Ngay từ khi mới đặt chân xuống vùng núi Chư Pa, các tiểu đoàn đầu tiên của liên đoàn 2 biệt động quân và trung đoàn 42 quân ngụy đã bị các chiến sĩ giao liên, vận tải giữ kho, lực lượng sản xuất chặn đánh liên tục làm rối loạn đội hình. Trung đoàn 24 và tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 kịp thời vận động tới, mở hàng loạt trận tập kích vào sở chỉ huy dã chiến trung đoàn 42 và các sở chỉ huy tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động quân. Bị đánh tơi tả, những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy buộc phải hủy bỏ cuộc hành quân “Bình tây 48”, rồi lại mở tiếp cuộc hành quân “Bình tây 49”, rồi “Bình tây 50”, nhưng vẫn không tránh khỏi thất bại.

Sau hàng loạt trận thí điểm chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở vùng núi Chư Pa thất bại, quân Mỹ không thể giữ mãi thái độ “trùm chăn” để mặc cho quân ngụy bị tiêu diệt, họ buộc phải tung lực lượng vào cuộc chiến đỡ đòn cho quân ngụy. Những người chỉ huy quân đội Mỹ đã sử dụng 5 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 4 Mỹ. Vòng ngoài gồm 3 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 1 đóng ở ba khu vực. Khu vực thứ nhất: Ngọc Tô Ba, điểm cao 467, Plây Gia Siêng; khu vực thứ hai: Chư Dơ Bang, Chư Mơ Nú, Chư Mo Rinh; khu vực thứ ba: Chư Kê Pắc (Cây đa gió lộng), Chư Kô Pắc. Vòng trong gồm hai tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2, cùng với các đơn vị pháo binh yểm trợ chiếm giữ Kleng, Chư Tăng Kra, Chư Tăng An, Chư Đô. Quân Mỹ rải ra từng đại đội, trung đội xen kẽ nhau đóng chốt trên các điểm cao. Đây là cuộc ra quân lớn cuối cùng của quân Mỹ ở Tây Nguyên. Trung đoàn 28, trung đoàn 66 của ta ra quân lần này giữa vô vàn khó khăn vẫn ung dung tự tin với khẩu hiệu: “Đánh cho sư 4 đảo điên, đánh cho quân ngụy ở Tây Nguyên tơi bời”.

Ngày 2 tháng 3 năm 1969, tiểu đoàn 3 lữ đoàn 1 sư đoàn 4 bộ binh Mỹ đổ xuống nam ngọn núi Chư Dơ Bang, ngay sát sở chỉ huy tiền phương Mặt trận Tây Nguyên. Đại đội 6 tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 phối hợp cùng chiến sĩ vệ binh, công binh mặt trận chiến đấu rất dũng cảm đánh bật nhiều đợt tiến công của quân Mỹ, gây cho chúng thương vong nặng nề. Bộ chỉ huy quân sự Mỹ phải cho máy bay B52 ném bom dữ dội để chi viện chiến thuật cho bộ binh Mỹ. Cán bộ, chiến sĩ đại đội 6 vẫn bám sát không rời, lần lượt tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng từng đại đội của tiểu đoàn 3 Mỹ. Anh em ta chiến đấu rất mưu trí linh hoạt, sáng tạo nhiều cách đánh, khi tập kích, lúc phục kích, bắn tỉa. Trong đó có trận chỉ bằng hai quả mìn định hướng ĐH10, tổ phục kích ba người do tiểu đội trưởng Thìn chỉ huy đã diệt gần hết một trung đội Mỹ. Cả đợt hoạt động xuân năm 1969 đại đội 6 đã nêu kỷ lục xuất sắc về hiệu suất chiến đấu: tỷ lệ thương vong ta 1, Mỹ 32.

Ngày 12 tháng 3 đại đội 9 tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 trên đường hành quân gặp Mỹ, anh em nhanh chóng hạ ba lô triển khai đội hình chiến đấu, diệt gọn 1 đại đội.

Bị giáng những đòn mạnh mẽ liên tiếp, ngày 18 tháng 3, những người chỉ huy quân đội Mỹ đã ra lệnh cho sư đoàn 4 Mỹ tung nốt tiểu đoàn 1 lữ đoàn 1 xuống khu vực Chư Đô, Đồi Tranh, Ngọc Tô Ba, Chư Hinh, Đắc Rơ Koy để tiếp cứu. Nhưng chúng đã bị các chiến sĩ trung đoàn 28 chặn đánh quyết liệt.

Nhiều trận đánh giáp lá cà của chiến sĩ ta với quân Mỹ diễn ra quyết liệt. Trước dũng khí áp đảo của chiến sĩ trung đoàn 28, trung đoàn 66, lính Mỹ phải vứt súng, quẳng ba lô, bỏ xác đồng bọn chạy tháo thân.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:15:53 am
Cùng thời gian này, một bộ phận của trung đoàn 40 tiến hành bao vây trại lực lượng đặc biệt Plây Cần. Pháo 85 ly nòng dài của ta lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường, ngay từ những quả đạn đầu đã phát huy uy lực làm cho địch vô cùng hoảng sợ.

Gần bốn năm trước đây, khi mới đặt chân xuống vùng núi Chư Pông, lính sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ bị các chiến sĩ trung đoàn 66 đánh tơi tả, khiếp đảm. Đến xuân Kỷ Dậu 1969, trong trận ra quân cuối cùng sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ lại bị các chiến sĩ trung đoàn 66, trung đoàn 28 giáng đòn chí tử, nhớ đời. Từ sau xuân 1969, đối tượng tác chiến của bộ đội Tây Nguyên đã có sự thay đổi. Quân Mỹ lui về giữ các thị xã, các trục đường giao thông chiến lược 14 và 19, chỉ để lại một lực lượng nhỏ ở tây Kleng. Quân ngụy được điều ra phía trước đối phó với chủ lực ta, bắt dầu đảm nhiệm gánh nặng chiến tranh thay dần quân Mỹ.

Trước tình hình trên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mật trận chủ trương mở chiến dịch Đắc Tô II nhằm giáng đòn phủ đầu vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, phá kế hoạch “bình định” của địch trên chiến trường Tây Nguyên; đồng thời phối hợp chặt chẽ với chiến trường Khu 5 và chiến trường toàn Miền. Không gian chiến dịch gần trùng hợp với chiến dịch Đắc Tô I năm 1967 nhưng đối tượng tác chiến lần này là bộ binh ngụy có sự chi viện tối đa của hỏa lực Mỹ(1). Bộ chỉ huy liên quân Mỹ - ngụy đã ném vào chiến dịch này tới 12 tiểu đoàn, gồm 4 tiểu đoàn của trung đoàn 42, một tiểu đoàn của trung đoàn 47 từ đồng bằng Trung Bộ lên. Ba tiểu đoàn lính biệt động, 4 tiểu đoàn biệt kích ứng chiến thuộc lực lượng vùng 2 chiến thuật và trung đoàn thiết giáp số 3 ngụy đóng rải rác trên trục đường số 18 và đoạn đường 14 từ Tân Cảnh đi Kon Tum. Về lực lượng của ta trên hướng chính gồm trung đoàn 66, trung đoàn bộ binh 28, trung đoàn pháo binh 40, tiểu đoàn 5 trung đoàn 24, tiểu đoàn đặc công 20. Trên hướng phối hợp, trụng đoàn 95 đánh giao thông trên quốc lộ 19, các tiểu đoàn 631, tiểu đoàn đặc công 37 hoạt động ở Plây Cu.

Phát hiện lực lượng lớn quân ta ở hướng chính, ngày 3 tháng 5 bộ chỉ huy liên quân Mỹ - ngụy ra lệnh đổ tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 4 thuộc trung đoàn 42 xuống Ngọc Pha Ria (tây bắc Tân Cảnh 23 km) và khu vực Ngọc Bờ Biêng (tây nam Tân Cảnh 10 km). Ngay khi tiểu đoàn 1 vừa đặt chân xuống Ngọc Pha Ria phối hợp với lính biệt kích ở Plây Cần nống ra xung quanh lùng sục, chúng đã liên tiếp bị bộ đội ta chặn đánh. Đại đội pháo 105 ly của tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 40 liên tiếp bắn vào các cụm quân địch, khống chế đường không, pháo kích Ngọc Hồi, Plây Cần, điểm cao 824. Trước tình thế bị đánh cả trước mặt lẫn sau lưng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 ngụy không thực hiện được ý đồ ngăn chăn, chúng hốt hoảng lui quân cụm lại phía nam Ngọc Pha Ria 3 km lại bị pháo binh ta đánh trúng đội hình buộc bọn còn lại phải tháo chạy về Kon Tum. Trong lúc đó tại khu vực Ngọc Bờ Biêng, tiểu đoàn 4 ngụy vừa được máy bay lên thẳng đổ xuống chưa kịp củng cố công sự thì mờ sáng ngày 8 tháng 5 tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 đã tập kích vào cụm quân địch tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 2 đại đội, trong đó có 1 cố vấn Mỹ, 1 tên đại đội trưởng ngụy bị diệt ngay tại trận. Tên tiểu đoàn phó ngụy bị thương nặng. Tiểu đoàn này đã phải chen nhau lên máy bay về Kon Tum củng cố.

Trong lúc địch còn đang bàng hoàng lo đối phó trước những đòn phủ đầu của quân ta ở vòng ngoài thì đêm ngày 10 rạng ngày 11 tháng 5, trung đoàn 24 và đại đội pháo binh hỗn hợp của trung đoàn 40 tăng cường thọc sâu đánh phá căn cứ hành quân liên hợp Mỹ - ngụy trong khu vực sân bay Đắc Tô, sân bay Kon Tum, trung đoàn bộ binh 42, khu tập trung quân ở Diên Bình, thị trấn Tân Cảnh. Pháo 105 ly, 85 ly của trung đoàn 40 bắn phá vây hãm căn cứ Plây Cần. Trung đoàn 28 chặn đánh quyết liệt những đoàn xe trên đường 18 và trên đoạn từ Kon Tum đi Tân Cảnh. Trước tình thế bị uy hiếp mạnh cả ở trong sào huyệt và vòng ngoài, bộ chỉ huy liên quân Mỹ - ngụy vội vã mở cuộc phản kích “dân quyền”, tung 8 tiểu đoàn bộ binh và 3 chi đoàn thiết giáp ra hướng tây bắc Kon Tum để đối phó với chủ lực ta.

Quân ngụy Sài Gòn tuy thua kém quân Mỹ về hỏa lực, song về các thủ đoạn chiến đấu bộ binh thì trái lại có mặt chúng còn tỏ ra tinh ranh hơn. Quân ngụy Sài Gòn, đặc biệt là lực lượng biệt động quân, biệt kích ứng chiến khá quen thuộc địa hình rừng núi, luồn lách nhanh, thường tìm cách tránh né quân ta để tránh bị tiêu diệt. Thủ đoạn của chúng khi hành quân thường cho bộ phận trinh sát thám báo đi đầu thăm dò, hễ phát hiện thấy quân ta là tất cả dừng lại chạy tản mát vào rừng, rồi tìm điểm cao co cụm lại. Chúng lợi dụng rừng le, rừng nứa, cây gai dày đặc để đào công sự chống đỡ. Phương sách dể bảo toàn lực lượng của quân ngụy Sài Gòn giai đoạn này là “tự do di tản”.


(1) Theo tin chúng tôi nắm được trong chiến dịch Đắc Tô hè 1969, những người chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn đã chi viện cho quân ngụy 631 lần chiếc máy bay chiến lược B52, 1.935 lần chiếc máy bay chiến thuật, hơn 20 ngàn tấn bom, 16 ngàn quả đạn pháo lớn.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:16:29 am
Những ngày đầu chiến dịch, bộ đội ta lùng bám địch rất vất vả, cứ nổ súng là chúng bỏ chạy nên vẫn chưa diệt gọn được tiểu đoàn nào. Anh em ta cho rằng đánh ngụy còn khó hơn cả đánh Mỹ, không tin là ta có thể diệt gọn đơn vị địch. Trước tình hình trên các đơn vị đã tiến hành dân chủ quân sự tìm ra cách đánh thích hợp để đánh bại thủ đoạn mới của quân ngụy Sài Gòn. Anh em các đơn vị đều cho rằng đánh quân ngụy lúc này là không thể tổ chức trinh sát nắm địch rồi vạch phương án tác chiến, sau đó đưa bộ đội triển khai đội hình chiến đấu như trước. Nếu làm từng bước như vậy địch sẽ “di tản” mất. Cuối cùng cán bộ chiến sĩ trung đoàn 66 thống nhất phương án là trinh sát đi đầu, bộ phận chỉ huy các cấp từ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn đi ngang trong đội hình đơn vị, hễ phát hiện được địch là tổ chức vây lại không cho chúng kịp “di tản”. Với hình thức này, ngày 21 tháng 5 năm 1969, tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 do anh Đinh Xuân La tiểu đoàn trưởng chỉ huy khi đến khu vực Đắc Ra-đê-hay thì phát hiện được một tiểu đoàn biệt kích ngụy. Anh cho bộ đội nhanh chóng áp sát bao vây chặt không cho địch rút chạy rồi liên tục tổ chức những đợt công kích mãnh liệt vào các cụm quân lính biệt kích ngụy. Tiểu đoàn 9 liên tục quần nhau với lính biệt kích ngụy từ trưa ngày 21 đến quá trưa ngày 22 tháng 5 năm 1969, đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn biệt kích ứng chiến số 2 có cố vấn Mỹ chỉ huy, loại khỏi vòng chiến đấu 327 tên. Trận đánh của tiểu đoàn 9 đã nêu kỷ lục lần dầu tiên một tiểu đoàn ta diệt gọn một tiểu đoàn ngụy trên chiến trường. Trong cuốn “Cẩm nang chiến thuật hành quân liên binh” của quân lực Việt Nam cộng hòa (quân ngụy Sài Gòn) xuất bản tháng 2 năm 1971, ở trang 7 họ thú nhận như sau: “Chiến thuật bám sát bao vây được cộng sản Bắc Việt triển khai và áp dụng lần đầu tiên vào năm 1969 khi chúng đương đầu với các cuộc hành quân của ta (quân ngụy) tại chiến trường Cao nguyên trung phần”.

Ngay hôm sau (23 tháng 5), tại điểm cao 668, tiểu đoàn 9 lại đánh một trận xuất sắc tiêu diệt gọn hai đại đội, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động ứng chiến số 1, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên.

Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, sáng ngày 31 tháng 5, hai tiểu đoàn số 11 và số 23 lính biệt động ngụy tháo chạy về điểm cao 875. Trung đoàn 66 được tăng cường tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 nhanh chóng vận dộng tới bao vây chặt, liên tiếp mở các đợt công kích rồi chia thành nhiều mũi thọc sâu, chia cắt đánh chiếm sở chỉ huy, tiến lên xóa sổ hoàn toàn hai tiểu đoàn ngụy này, bắt tù binh, thu vũ khí, loại khỏi vòng chiến đấu 729 tên. Đây là trận đánh có tốc độ tiêu diệt nhanh và đạt hiệu suất chiến đấu cao của chiến dịch. Từ những trận đánh của trung đoàn 66 và trung đoàn 28 trong chiến dịch Đắc Tô II hè 1969 đã hình thành chiến thuật lúc đầu anh em ta gọi là “bao vây công kích”. Có người còn gọi nôm na chiến thuật này là “vo tròn bóp bẹp”. Như vậy, một lần nữa mầm mống chiến thuật mới ở đây thực sự là của những người chỉ huy phân đội, những người chiến sĩ trực tiếp chiến đấu với địch giữ vai trò quyết định. Ở họ tinh thần liên tục, bền bỉ, lòng quả cảm, đức hy sinh, tính sáng tạo trong chiến đấu đã góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch.

Cuộc chiến đấu ở vùng rừng núi Đắc Tô vừa kết thúc, khối chủ lực cơ động của Tây Nguyên được lệnh lật cánh về phía nam Tây Nguyên. Một trong những nguyên nhân mở chiến dịch ở Bu Prăng - Đức Lập mùa đông năm 1969 là vì ở cánh Bắc lúc này các kho gạo dự trữ đã hết. Bộ đội Tây Nguyên phải dựa vào hậu cần Miền cung cấp gạo ăn để đánh giặc. Các đơn vị chỉ kịp xốc lại đội hình, nhận thêm trang bị rồi gấp rút hành quân. Tôi còn nhớ cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 66 trên đường về cánh nam, khi hành quân qua hậu cứ Cầu Lầy bộ đội phải lấy sắn ăn thay cơm. Anh em còn làm bánh sắn để đem theo ăn đường. Trên ba lô mỗi người còn chất đầy những bó lá sắn phơi khô làm thức ăn dự trữ. Vậy mà, ngoài trang bị ra, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn này còn động viên nhau khiêng hàng tấn dây thép gai thu được của địch ở Ngọc Tô Ba về tận tỉnh Phước Long làm thao trường tập đánh địch trong công sự vững chắc. Để chuẩn bị cho chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập, bộ đội Tây Nguyên phải mở gần 200 km đường để vận chuyển gạo. Những người chỉ huy quân đội Mỹ hình như đã nắm được sự có mặt của khối chủ lực Tây Nguyên ở vùng rừng núi tỉnh Phước Long. Họ đã sử dụng máy bay chiến lược B52 mở chiến dịch ném bom rải thảm trên suốt cung đường vận chuyển của bộ đội ta. Trong quyển sổ công tác số 19 của tôi ghi: từ ngày 18 tháng 9 đến 14 tháng 10 năm 1969, số tử vong của bộ đội ta đã lên tới 71 cán bộ và chiến sĩ (có hai cán bộ tiểu đoàn, 8 cán bộ đại đội, 15 cán bộ trung đội, 46 cán bộ tiểu đội và chiến sĩ); 84 cán bộ chiến sĩ bị thương. Như vậy hạt gạo ở đây đã thấm cả máu của cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên. Tuy gian khổ và ác liệt như vậy, cán bộ và chiến sĩ ta vẫn không nao núng. Bộ đội vừa vận chuyển gạo vừa tập luyện đánh địch trong công sự vững chắc. Chính nhờ sự vất vả gian truân này nên trong chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập, chỉ sau ba ngày vây hãm, đến sáng ngày 2 tháng 11, các chiến sĩ tiểu đoàn 8 và đại đội 1 (tiểu đoàn 7) trung đoàn 66 từ chiến hào vây lấn đã đồng loạt xung phong đánh chiếm và làm chủ căn cứ Ka Te do một tiểu đoàn bộ pháo hỗn hợp chiếm giữ, diệt gần 200 tên (có 70 Mỹ), bắt 8 tù binh, bắn rơi 14 máy bay, thu nguyên vẹn 2 khẩu pháo 155 ly, 6 khẩu pháo 105 ly và hàng nghìn quả đạn pháo cùng toàn bộ kho tàng.

Đây là lần đầu tiên bộ đội Tây Nguyên tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn hỗn hợp trong công sự vững chắc trong diều kiện ta chưa có các loại pháo cơ giới và xe tăng để hoàn toàn áp đảo quân địch. Bộ đội ta đã nêu cao tinh thần triệt để tiến công địch, đánh đêm không xong, trụ lại tiếp tục đánh ngày, đánh một ngày chưa xong thì đánh tiếp trong nhiều ngày, cho tới khi dứt điểm. Bộ binh đã phát triển chiến hào lấn sâu vào hàng rào vây chặt địch lại không cho chúng tháo chạy; đồng thời hạn chế được thương vong do phi pháo địch gây ra.

Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập vừa kết thúc, khối chủ lực Tây Nguyên lại vội vã hành quân ra cánh Bắc. Tạm biệt cánh Nam nhưng hình ảnh anh bộ đội “B3” đánh giặc giỏi, gùi gạo khỏe, giản dị, thương dân đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng đồng bào và các đơn vị bạn cùng hoạt động trên mặt trận cánh Nam trong mùa đông năm 1969.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:17:33 am
*
*   *

Đêm ngày 18 tháng 3 năm 1970, chúng tôi được tin Mỹ đã tổ chức đảo chính ông hoàng Xi-ha-núc, đưa Lon-non, Xi-rích Ma-tắc lên cầm quyền. Đúng 1 tháng sau, ngày 18 tháng 4, những người chỉ huy quân đội Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn ồ ạt đưa 65 nghìn quân, gồm 75 tiểu đoàn bộ binh (có 12 tiểu đoàn Mỹ), 22 tiểu đoàn pháo binh, 17 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp tràn qua biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia tiến sâu vào đánh phá vùng đường số 2, số 4, vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu và tỉnh Môn-đun-ki-ri.

Đầu năm 1970, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ trương mở chiến dịch Đắc Xiêng nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cơ động của địch, bao vây tiến lên dứt điểm giải phóng khu vực. Qua tác chiến nâng cao trình độ bộ đội chủ lực của ta, đánh bại chiến thuật của địch, thu hút, giam chân quân địch tạo điều kiện cho việc phá ấp, giành dân và phối hợp với chiến trường toàn Miền đánh bại thêm một bước âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” tạo điều kiện cho chiến dịch sau giành thắng lợi to lớn hơn. Thực hiện chủ trương trên, ngày 7 tháng 2 năm 1970, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận thành lập Bộ tư lệnh tiền phương Mặt trận để trực tiếp chỉ huy tác chiến trên hướng chủ yếu - Mặt trận Đắc Xiêng gồm: anh Vương Tuấn Kiệt - Tư lệnh; tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Chính ủy, Bí thư Đảng ủy chiến dịch; anh Phan Hoan - Phó tư lệnh; anh Lã Ngọc Châu - Phó chính ủy; anh Nguyễn Đức Giá -Tham mưu trưởng; anh Lưu Quý Ngữ - Chủ nhiệm chính trị và anh Đặng Văn Khoát - Chủ nhiệm hậu cần.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có: trung đoàn 66 do anh Hổ Đệ - trung đoàn trưởng; anh Lê Ngọc Tuệ - chính ủy; trung đoàn 28 do anh Hoàng Nhiên - trung đoàn trưởng; anh Nguyễn Xuân Hệ - chính ủy; trung đoàn 40 do anh Nguyễn Hữu Quỳnh -trung đoàn trưởng; anh Lê Đình Nguyên - chính ủy và 2 tiểu đoàn đặc công số 20 và 37.

Bộ tư lệnh tiền phương Mặt trận sử dụng trung đoàn 28 làm nhiệm vụ vây ép trại biệt kích Đắc Xiêng, nhử địch ra để trung đoàn 66 đánh quân ứng cứu, giải tỏa.

5 giờ 30 phút ngày 1 tháng 4, Tư lệnh mặt trận ra lệnh nổ súng. Hỏa lực đủ loại nhiều tầng của ta từ bốn hướng (tiểu đoàn 1, đại đội đặc công 21, đại đội 22 ĐKZ, đại đội 14 súng máy cao xạ 12, 7 ly, đại đội 13 cối 82 ly) đua nhau trút đạn xuống căn cứ Đắc Xiêng.

Ngay từ phút đầu, đạn cối 120 ly của ta bắn trúng khu trung tâm căn cứ. Tiếp những ngày sau, trung đoàn 28 dùng ĐKZ, cối 82 ly liên tiếp bắn phá các mục tiêu trong đồn, diệt nhiều lô cốt, mục tiêu khu vực đầu cầu và sân bay. Cùng lúc bộ binh nhanh chóng áp sát hàng rào, các chiến sĩ B40, B41, đại liên, 12,7 ly diệt các mục tiêu hỏa điểm gần hàng rào và bắn quét vào bộ binh địch, không cho chúng ngóc đầu dậy, tạo thời cơ cho các chiến sĩ vây lấn phát triển chiến hào siết chặt vòng vây quanh đồn. Sân bay Đắc Xiêng bị khống chế hoàn toàn. Trên các hướng vây lấn ở phía đông và tây, tiểu đoàn 1 trung đoàn 28 đào chiến hào vào sát hàng rào siết chặt vòng vây. Quân địch trong đồn lâm vào tình trạng nguy khốn, bằng máy bộ đàm chúng kêu cứu đến lạc giọng xin cấp trên ứng cứu, giải tỏa. Nhưng mãi đến bốn ngày sau, địch mới hình thành thế trận phản kích. Những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Tây Nguyên đã huy động một nửa lực lượng dự trữ cơ động quân ngụy ở Tây Nguyên gồm 7 tiểu đoàn bộ binh, 4 chi đoàn thiết giáp và một lực lượng đáng kể pháo binh, máy bay mở cuộc phản kích giải tỏa Đắc Xiêng. Họ phải sử dụng tới hai phần ba lực lượng này hình thành một vành đai xung quanh các căn cứ phía sau và chỉ dành một phần ba lực lượng trực tiếp tung vào khu chiến.

Ngày 3 tháng 4, địch thiết lập một trận địa pháo 6 khẩu ở khu vực cầu Pô Cô Hạ. Cùng ngày, địch dùng máy bay lên thẳng đổ liên tiếp 2 tiểu đoàn số 22 và 23 thuộc liên đoàn biệt động quân số 2 xuống Đắc Còn và tây cầu Pô Cô Hạ cách Đắc Xiêng 7km về phía đông nam. Những người chỉ huy vùng 2 chiến thuật quân ngụy Sài Gòn có ý định thiết lập ở đây một trận địa xuất phát cơ bản, kết hợp với tiểu đoàn 1 biệt kích vừa đổ xuống cách Đắc Xiêng 3km về phía nam để yểm trợ cho nhau đánh thẳng vào trận địa vây lấn của ta, giải tỏa cho Đắc Xiêng.

Bộ tư lệnh tiền phương chúng tôi quyết định dùng trung đoàn 66 tiêu diệt tiểu đoàn biệt động quân 23. Tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 vất vả lắm mới xác định được vị trí 3 cụm đóng quân của tiểu đoàn biệt động 23.

15 giờ ngày 5 tháng 4, các chiến sĩ tiểu đoàn 9 dùng mìn định hướng phát quang những bụi cỏ le rậm rạp để bắn B40, B41. Cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 9 kéo dài 2 tiếng đồng hồ, bộ đội ta đánh thiệt hại nặng 2 đại đội của tiểu đoàn biệt động 23. Địch cho tiểu đoàn 22 từ Đắc Còn ra ứng cứu, nhưng tiểu đoàn này vừa đi được chưa đầy 1 cây số đã bị tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 chặn đánh, buộc chúng phải quay trở lại. Cả ngày 6 tháng 4 tiểu đoàn 9 vẫn bao vây bám sát tiểu đoàn 23.

Sáng ngày 7 tháng 4, địch bắn pháo, ném bom dữ dội ở hướng tây bắc điểm cao 763, tiểu đoàn biệt động 23 cũng cho nhiều toán đánh ra hướng này. Quan sát những diễn biến ở phía địch, trung đoàn trưởng Hồ Đệ và chính ủy Lê Ngọc Tuệ điện báo cáo về Bộ tư lệnh tiền phương đều cho rằng địch sắp sửa rút chạy, đồng thời các anh lệnh cho tiểu đoàn 9 điều chỉnh đội hình. Đến 11 giờ 30 phút, địch bắt đầu hành động đúng như dự kiến của ta. Tổ hỏa lực phục kích ở “bãi đáp” bất ngờ đánh cả bộ binh và máy bay lên thẳng đang hạ thấp độ cao. Ba chiếc rơi tại chỗ, những chiếc trực thăng còn lại hốt hoảng bay vọt lên cao chuồn mất. Đại đội 11 đánh tràn qua tuyến công sự thứ nhất, rồi vượt qua tuyến công sự thứ hai tiếp tục truy kích quân địch. Đại đội 9 và đại đội 10 chạy vòng lên chặn đầu. Tiểu đoàn biệt động 23 bị anh em tiểu đoàn 9 xé ra từng mảng nhỏ để tiêu diệt. Tên tiểu đoàn trưởng và 3 tên cố vấn Mỹ bị bắn chết tại trận. Chỉ sau 30 phút chiến đấu tiểu đoàn 23 biệt động đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

Cùng thời gian này, tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 mở đợt tiến công vào tiểu đoàn 1 biệt kích, gây cho chúng tổn thất lớn. Trong 2 đêm 5 và 6 tháng 4, đại đội đặc công 60 trung đoàn 66 tập kích sở chỉ huy liên đoàn biệt động quân 2 đóng ở cầu Pô Cô Hạ, loại khỏi vòng chiến đấu 164 tên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:17:53 am
Tiểu đoàn biệt động 23 bị diệt, tiểu đoàn biệt kích 1 bị đánh thiệt hại nặng, sở chỉ huy liên đoàn biệt kích 2 cũng bị tổn thất nặng nề. Địch đã đoán biết khu quyết chiến của ta ở nam Đắc Xiêng, do đó khả năng địch tiếp tục giải tỏa ở hướng này không còn nhiều, và chúng có ý định giải tỏa gần, hướng giải tỏa tới sẽ là phía tây và bắc Đắc Xiêng. Do vậy Bộ tư lệnh tiền phương quyết định chuyển khu quyết chiến lên phía bắc Đắc Xiêng. Khu vực này ta có nhiều thuận lợi, trung đoàn 28 đã chuẩn bị kỹ, lại gần nơi tiếp tế thuận lợi cho ý định bảo đảm hậu cần. Ngày 13 tháng 4 tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 phát hiện tiểu đoàn 1 (trung đoàn 42 ngụy) đang luồn rừng lên hướng núi Éc, các chiến sĩ ta lập tức chặn đánh giam chân chúng ở điểm cao 629. Tiểu đoàn biệt kích số 4 định cùng tiểu đoàn 1 (trung đoàn 42) lập bàn đạp mới tiến lên núi Éc kết hợp với mũi đổ quân của tiểu đoàn 3 (trung đoàn 42) đang được thực hiện ở trên núi Éc. Chúng muốn chiếm lấy điểm cao lợi hại này, có tác dụng khống chế cả một vùng rộng lớn ở phía bắc Đắc Xiêng.

Như vậy, ở khu vực bắc Đắc Xiêng, đã có 2 tiểu đoàn của trung đoàn 42 ngụy - lực lượng chủ yếu của cuộc hành quân giải tỏa mới. Song cả 2 tiểu đoàn này đều bị đánh phủ đầu. Trước tình huống đó Bộ tư lệnh Mặt trận Đắc Xiêng chỉ thị cho trung đoàn 66 chỉ để lại một bộ phận nhỏ sẵn sàng chặn đánh quân địch tiến theo trục đường 14 từ phía nam lên, còn toàn bộ lực lượng hành quân lên hướng bắc cùng trung đoàn 28 và tiểu đoàn 5 (trung đoàn 24) chuẩn bị đánh ở khu quyết chiến mới. Ta chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt tiểu đoàn 1, ngăn chặn tiểu đoàn 3 sau đó sẽ tập trung tiêu diệt nốt.

Tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) bám chặt tiểu đoàn 3 (trung đoàn 42 ngụy) liên tiếp đánh những trận tiêu diệt nhỏ. Bọn địch bị dồn ép, lúng túng không sao thoát ra được, cuối cùng chúng phải co cụm lại dể cứu lấy mình.

Tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 cùng tiểu đoàn 8 của trung đoàn 66 mở nhiều đợt tiến công vào quân địch. Đến 15 giờ ngày 22 tháng 4, tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 8 đã làm chủ trận địa, tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn 1, diệt 344 tên, bắt 44 tù binh. Tiểu đoàn 1 (trung đoàn 42 ngụy) bị diệt, thế trận của ta càng thêm vững chắc. Ở sườn phía đông nam núi Éc, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 42 ngụy) bị cô lập hoàn toàn.

Chiều ngày 22 tháng 4, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) được bổ sung 100 chiến sĩ mới quê Phú Thọ đã nhanh chóng chấn chỉnh biên chế, nhận thêm trang bị và bước vào chiến đấu. Tiểu đoàn 8, sau khi cùng đơn vị bạn diệt gọn tiểu đoàn 1 ngụy đã nhanh chóng hành quân đêm về đội hình trung đoàn tiếp tục cuộc chiến đấu mới.

Đêm ngày 22 tháng 4, tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 bí mật khép kín vòng vây. Từng phút, từng phút quân ta siết lại dần. Tiểu đoàn 3 ngụy càng khốn quẫn. Đạn dược của chúng đã gần cạn. Ở nhiều hướng súng đại liên địch phải bắn phát một cầm chừng. Nhiều tên bị thương không mang đi được, khát nước kêu gào trong các ngách hào. Những xác chết nằm phơi dưới nắng ngay trên các bờ công sự bắt đầu trương phình, bốc mùi hôi thối. Trong khi đó đài quan sát pháo binh hiệu chỉnh cho những quả đạn cối 82, 120 ly bắn từng quà đạn chính xác vào các cụm quân địch.

Các trận địa pháo ĐKB của trung đoàn 40 liên tiếp nã đạn vào các trận địa pháo của địch ở Plây cần, Pô Cô Hạ hạn chế tối đa sự chi viện của pháo binh địch cho đồng bọn ở Đắc Xiêng.

Trèn đỉnh núi Éc, trung đoàn 28 kiên cường chiến đấu vừa đánh bộ binh địch, vừa tích cực dùng súng 12,7 ly và súng tiểu liên AK bắn máy bay địch, có ngày bắn rơi 7 chiếc trực thăng.

Đèm ngày 25 tháng 4, trung đoàn 66 chỉ thị cho súng ĐKZ và súng 12,7 ly đưa lên đội hình bộ binh để chi viện xung phong. Tuyến công sự thứ nhất của địch đã nằm trong tằm hỏa lực của ta.

5 giờ sáng ngày 26 tháng 4, đúng lúc quân địch nhớn nhác rời công sự rút chạy bộ đội ta liền nổ súng. ĐKZ 75, đạn 12,7 ly bắn thẳng chính xác vào các cụm quân địch làm cho chúng vô cùng kinh hoàng. Đạn cối 120 ly, 82 ly rót từng quả chính xác vào đội hình rút chạv của đám quân ngụy. Các chiến sĩ bộ binh vừa nổ súng tiến công vừa hình thành thế vây quân địch. Tiểu đoàn 3 ngụy bị “vo tròn" lại, đến 7 giờ 30 phút thì bị các chiến sĩ tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 "bóp bẹp” hoàn toàn. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 42 ngụy bị xóa sổ, hơn 200 tên bị chết tại trận, 126 tên bị bắt làm tù binh. Ta thu 122 súng các loại, bắn rơi 16 máv bay (2 phản lực, 1 AD6, 13 trực thăng).

Trận tiêu diệt tiểu đoàn 3 trung đoàn 42 ngụy là một trận đánh có hiệu suất chiến đấu cao. Bộ đội ta đã hoàn thiện hình thức chiến thuật mới: bao vây chặt quân địch, sau đó liên tục công kích cho đến khi dứt điểm làm chủ trận địa. Một lần nữa chiến thuật vận động bao vây tiến công liên tục được vận dụng đạt hiệu quả tốt.

Ngay sau chiến dịch Đắc Xiêng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Trung ương gửi điện khen cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên. Bức điện có đoạn: “Đợt hoạt động vừa qua, các đồng chí đã nêu cao quyết tâm khắc phục khó khăn, chiến đấu liên tục lập nhiều chiến công. Đặc biệt mặt trận Đắc Xiêng đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, bắt tù binh, thu vũ khí, hạ nhiều máy bay, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, đã vây ép giam chân địch thu hút và kéo địch ra để tiêu diệt, hoạt động quân sự đã phối hợp và hỗ trợ tốt cho phong trào quần chúng nổi dậy phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ nhiều nơi, góp phần phá âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” và chiến lược phòng ngự của địch.

Với tinh thần dũng cảm chiến đấu, đoàn kết hợp đồng chặt chẽ, các đồng chí đã vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo nâng cao hiệu quả chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ”.

Với chiến thắng Đắc Xiêng, một lần nữa từ sau chiến dịch Plây Me quân và dân Tây Nguyên lại được vinh dự đón nhận huân chương Quân công hạng nhất.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:18:58 am
*
*   *

Đầu tháng 2 năm 1971, những người chỉ huy quân đội Mỹ -ngụy ở Sài Gòn đã lao vào một cuộc phiêu lưu mới, hy vọng nhờ đó thoát ra khỏi tình trạng bế tắc. Họ mở cuộc hành quân chiến lược lớn mang tên “Lam Sơn 719” đánh lên khu vực biên giới Đường 9 -Nam Lào nhằm mục đích: Đánh phá hành lang chiến lược của ta, “bóp nghẹt từ cuống họng” đường chi viện vào Nam, chặn đứng một cách cơ bản luồng tiếp tế sau khi đã cắt được con đường vận chuyền qua cảng Kom-pông-xom; thử thách quân ngụy Sài Gòn trong việc thực hiện công thức "bộ binh ngụy cộng với hỏa lực Mỹ” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bằng cách đưa quân ngụy trực tiếp đương đầu với quân chủ lực miền Bắc nước ta, trên cơ sở đó hoàn thành kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” vào năm 1972; lập một tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương, tạo cho chúng một thế mạnh ở miền Nam nước ta, uy hiếp miền Bắc, hỗ trợ cho chiến tranh đặc biệt ở Lào và cuộc chiến tranh xâm lược của chúng ở Cam-pu-chia.

Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Tây Nguyên phổi phối hợp với chiến trường toàn Miền. Nhiệm vụ đó đặt ra cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên một số vấn đề cần phải giải quyết: Lực lượng ít, vật chất có hạn, quyết tâm mở chiến dịch của khối chủ lực cơ động ở hướng cũ hay phải chuyển sang hướng mới ? Làm thế nào để phối hợp chiến trường đạt được yêu cầu “đúng lúc, kịp thời và dai sức” ? Làm thế nào để diệt được nhiều sinh lực địch, kìm chân nhiều đơn vị địch, bảo vệ được kho tàng, hậu cứ và đoạn đường hành lang chiến lược đi qua Tây Nguyên.

Sau khi cân nhắc kỹ giữa kế hoạch hoạt động cũ và nhiệm vụ mới vừa được giao, trên cơ sở lực lượng hiện có, Thường vụ Đảng ủy cho rằng: Tình hình thay đổi, nhiệm vụ cũng đã thay đổi nên phải thay đổi quyết tâm cho phù hợp. Do vậy hướng mở chiến dịch tới là phía nam đường 18. Mở chiến dịch ở khu vực này ta có mấy điều lợi: địa hình bộ đội quen thuộc; gần hậu cứ; ở đây còn đủ đạn, gạo nên việc tiếp tế sẽ thuận lợi hơn.

Ngày 14 tháng 2, Bộ tư lệnh tiền phương chúng tôi chỉ thị cho các trung đoàn 66 và 28 lật cánh từ phía bắc đường 18 xuống nam đường 18. Cũng vào thời gian này trung đoàn 42 và liên đoàn biệt dộng quân 2 do sư đoàn 22 ngụy trực tiếp chỉ huy mở cuộc hành quân ra vùng Ngọc Tô Ba, Chư Hinh... Cùng lúc chúng đổ một trận địa pháo 4 khẩu 105 ly, 2 đại đội biệt động biên phòng và 1 đại đội thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 42 xuống Ngọc Tô Ba. Sau khi thiết lập được chân pháo, địch bắt đầu mở 2 mũi tiến về hậu cứ của ta. Mũi thứ nhất do tiểu đoàn biệt động quân 22 tiến về Điểm Năm vùng ba biên giới; mũi thứ hai do tiểu đoàn 1 (trung đoàn 42) tiến về khu vực điểm cao 935.

Trung đoàn 66 được lệnh bao vây tiêu diệt tiểu đoàn 1 (là tiểu đoàn mạnh của địch lại đi đầu). Ngày 27 tháng 2 bộ phận đi trước của tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 chạm địch ở điểm cao 842. Ta nổ súng diệt một số, địch lợi dụng đêm tối di chuyển nơi khác. Mờ sáng hôm sau, ở phía bắc điểm cao 935, một phân đội hỗn hợp của ta gồm đại đội 5 (tiểu đoàn 8) và đại đội 49 súng máy 12,7 ly của trung đoàn 40 phát hiện tiểu đoàn 1 (trung đoàn 42 ngụy) tiến lên vị trí chốt của mình. Các chiến sĩ ta nổ súng và xuất kích ngắn diệt một số. Cánh quân địch quằn lại rồi lui về co cụm trên điểm cao 935. Trung đoàn 66 ra lệnh cho tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 kịp thời vận động đến bao vây.

Anh em trung đoàn 66 kể lại rằng: 7 giờ sáng ngày 1 tháng 3, tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 nổ súng tiến công tiểu đoàn 1 ngụy. Lợi dụng rừng le, lau lách rậm rạp, những ổ hỏa lực địch bắn mạnh vào đội hình quân ta. Chiến sĩ đại đội súng phun lửa Nguyễn Văn Sơn lần đầu xuất trận ở Tây Nguyên đã bình tĩnh tiếp cận gần rồi bất ngờ phụt những luồng lửa trùm lên quân địch. Gần một chục tên bị thiêu cháy. Những tên còn lại khiếp sợ vứt súng chạy thục mạng. Điểm cao 935 đầy lau lách khô hanh gặp lửa bốc cháy dữ dội. Chiến sĩ đại đội 2 với tác phong nổ súng là xung phong áp đảo quân địch, anh dũng băng qua lửa đạn lao thẳng vào diệt chỉ huy. Lợi dụng một gốc cây to đổ, một tốp địch cố thủ dùng lựu đạn ném về phía quân ta. Tiểu đội trưởng Trương Công Được nhanh trí chộp những quả lựu đạn đang xịt khói ném trả tiêu diệt những tên lính ngụy ngoan cố. Trên các hướng quân ta khép dần vòng vây, đến 13 giờ cùng ngày bằng chiến thuật “bao vây công kích” tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 mở đợt tiến công cuối cùng, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 bị xóa sổ, 239 tên bỏ xác tại trận địa, 72 tên bị bắt làm tù binh. Ta thu hơn 100 súng các loại, 21 máy PRC25, bắn rơi 5 máy bay, phóng thích 39 lính ngụy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:20:08 am
Một sự kiện cần phải nói thêm, đó là cùng ngày đại đội 13 cối 82 ly của trung đoàn 66 pháo kích quân địch trên điểm cao Ngọc Tô Ba làm nổ tung kho đạn dã chiến phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly, diệt và làm bị thương nhiều tên địch. Sau khi tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 ngụy bị diệt, tiểu đoàn bộ pháo hỗn hợp trên điểm cao Ngọc Tô Ba bị đạn pháo của ta gây tổn thất nặng nề, chúng vô cùng hoang mang, muốn tháo chạy. Biết được ý đồ của chúng, chỉ huy trung đoàn 66 ra lệnh cho tiểu đoàn 8 và đại đội 2 tiểu đoàn 7 bí mật xây dựng trận địa phục kích ở phía bắc Ngọc Tô Ba. 15 giờ ngày 4 tháng 3, toàn bộ quân địch lọt vào trận địa phục kích của ta. Tiểu đoàn 8 và đại đội 2 (tiểu đoàn 7) đánh giỏi diệt 220 tên; bắt 75 tên, thu 125 súng. Tiểu đoàn 2 trung đoàn 42 coi như bị xóa sổ.

Trên hướng Điểm Năm, từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 3 tháng 3 năm 1971, tiểu đoàn 9 liên tục bao vây công kích tiểu đoàn biệt động 22, diệt hơn 100 tên, buộc những người chỉ huy quân đội Mỹ-ngụy phải ra lệnh cho lực lượng còn lại rút chạy khỏi vùng núi Ngọc Tô Ba.

Cuộc hành quân ra vùng ba biên giới phối hợp với cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của địch ở Đường 9 - Nam Lào bị bộ đội Tây Nguyên đập tan ngay từ giai đoạn mới triển khai.

Bộ tư lệnh tiền phương cho rằng quân địch đang hoang mang đã phải lui về tuyến phòng ngự cơ bản. Vì vậy không thể bỏ lỡ thời cơ, từ phản công chúng tôi quyết định chuyển sang tiến công để phát huy quyền chủ động trên chiến trường, đẩy địch vào thế bị động và buộc chúng phải bỏ hẳn ý đồ đánh ra vùng ba biên giới. Hướng tiến công lần này chúng tôi chọn là Ngọc Rinh Rua (cao 1.001 m), một điểm cao có vị trí chiến thuật quan trọng trong tuyến phòng ngự của địch. Ngọc Rinh Rua bị mất thì tuyến phòng ngự Plây cần, Đắc Mót, Đắc Tô sẽ bị uy hiếp, buộc địch phải ra giải tỏa, ta có điều kiện tiêu diệt địch xung quanh Ngọc Rinh Rua. Bộ tư lệnh tiền phương chúng tôi sử dụng trung đoàn 66 tiêu diệt căn cứ Ngọc Rinh Rua.

Đêm ngày 30 tháng 3, tiểu đoàn 7, đại đội đặc công 19 và đại đội ĐKZ của trung đoàn 66 bí mật gỡ mìn, cắt rào kẽm gai và ém quân quanh căn cứ Ngọc Rinh Rua.

Trung đoàn 28 và trung đoàn 31(1) cùng lực lượng còn lại của trung đoàn 66 đã chiếm lĩnh xong các vị trí sẵn sàng chặn đánh địch từ Đắc Tô lên, Đắc Mót vào.

5 giờ ngày 31 thống 3, tiểu đoàn 7 được lệnh dùng mìn định hướng và bộc phá mở cửa. Từ các hướng chiến sĩ ta bật dậy lao qua cửa mờ còn mịt mù khói bụi xông lên.

Mũi hướng đông và hướng bắc gặp khó khăn, bộ đội bị hỏa lực địch ngăn chặn. Trên hướng chính đông bắc còn vướng một hàng rào. Từ trong lô cốt, đại liên địch bắn như đổ đạn ra cửa mở, một số chiến sĩ ta thương vong. Đại đội trưởng đại đội 2 Nguyễn Văn Doãn nhanh trí dùng khẩu B40 của đồng chí vừa bị thương lựa thế bắn liền 2 quả, dập tắt 2 hỏa điểm lợi hại, yểm hộ cho Vương Văn Chài ôm bộc phá tiến lên phá tung lớp hàng rào cuối cùng. Doãn và Chài dẫn đầu đội hình xung kích lao qua màn khói thọc nhanh vào chiếm lô cốt đầu cầu rồi phát triển sang phía phải diệt thêm lô cốt thứ hai và thứ ba, bắt tên tù binh đầu tiên của trận đánh. Lợi dụng địa bàn do tổ xung kích Vương Văn Chài vừa tạo được, các tổ xung kích khác nhanh chóng lao vào mở rộng phạm vi tiến công. Tám lô cốt và một số công sự đã bị quân ta đánh chiếm, khu cố vấn bị diệt.

Các mũi của đại đội 1 và đại đội 3 vẫn chưa vào được, địch tập trung đối phó với đại đội 2. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Doãn bị thương nặng. Chính trị viên Lê Văn Bẩy và chính trị viên phó Nguyễn Văn Quyết cùng 8 chiến sĩ kiên cường trụ bám, đẩy địch ra khỏi từng căn hầm, từng công sự và tiếp tục phát triển sâu vào bên trong. Chỉ huy tiểu đoàn 7 ra lệnh đưa 2 khẩu ĐKZ82 vào bên trong chi viện trực tiếp cho bộ binh. Đến 10 giờ đại đội 2 chiếm được một phần ba cứ điểm, đại đội 3 được lệnh bỏ hướng đông theo cửa mở đại đội 2 vào chiến đấu. Địch bị đánh hất xuống khu tây nam điểm cao.

Địch cho máy bay AD6, A37 từng tốp thay nhau giội bom xuống quanh hàng rào; lửa na-pan cháy rừng rực trên các khu cửa mở. Hơn chục chiếc trực thăng bay tới, chia thành nhiều tốp, nhiều tầng phóng rốc-két, bắn đạn 20 ly chia cắt quân ta. Hai chiếc sà xuống địch bốc bọn chỉ huy, Vương Văn Chài giương súng bắn một loạn đạn ngắn, chiếc trực thăng đâm sầm xuống hàng rào căn cứ bốc cháy. Chiếc thứ hai vừa chạm đất bị đạn súng cối của ta bắn trúng cháy bùng lên.


(1) Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 2 (Quân khu 5) tăng cường cho Tây Nguyên từ cuối tháng 3, đến tháng 6 trở về Quân khu 5.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2019, 10:20:32 am
Trên hướng bắc, đại đội 1 sau khi tiêu diệt được quân địch ngăn chặn đã xông vào bên trong cùng đại đội 2 và đại đội 3 hình thành 4 mũi đánh chiếm sở chỉ huy, khu thông tin và trận địa pháo, chỉ sau ít phút chiến đấu anh em ta hoàn toàn làm chủ trận địa.

Trận tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn bộ, pháo hỗn hợp trên điểm cao giữa ban ngày và ngay trong tầm phi pháo ác liệt của tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) là trận đánh xuất sắc, mở ra một bước phát triển mới cho lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên có thể đánh thẳng vào khu vực phòng ngự cơ bản của địch.

Trong trận Ngọc Rinh Rua đã xuất hiện một gương chiến đấu mới, đó là Vương Văn Chài - chiến sĩ xung kích số một của đại đội 2 - người đã phá tung cửa mở trước nhất, đánh chiếm lô cốt đầu cầu trước nhất, bắt tù binh trước nhất, bắn rơi máy bay trước nhất, đánh chiếm sở chỉ huy địch trước nhất rất xứng đáng với danh hiệu “Dũng sĩ 5 nhất” mà cả trung đoàn 66 tin yêu trao tặng.

Ngay sau khi nhận được tin ta làm chủ căn cứ Ngọc Rinh Rua, thu 4 khẩu pháo 105 ly với hàng nghìn quả đạn, Bộ tư lệnh tiền phương chúng tôi trao đổi: đây là dịp tốt hiếm có ta dùng pháo địch đánh địch và lệnh cho trung đoàn 40 cử đại đội 8 ngay trong đêm cấp tốc lên Ngọc Rinh Rua lấy pháo địch bắn vào căn cứ địch ở Đắc Tô, đường 18.

Đại đội trưởng đại đội 8 Phạm Ngọc Minh kể lại: Khi anh và các pháo thủ lên kiểm tra trận địa, 4 khẩu pháo 105 ly đang quay nòng về phía hậu cứ của ta, bên cạnh là những đống đạn chất cao. Một khẩu bị xẹp lốp, một khẩu bị vỡ kính ngắm và trong buồng đạn của mỗi khẩu anh em ta còn lôi ra được một khối bộc phá lớn địch chưa kịp giật nụ xòe. Anh em ta nói với nhau: Chính những khẩu pháo này đã gây biết bao tội ác với đồng đội, bắn phá buôn làng, giết hại đồng bào ta, phải quay ngược lại giáng vào đầu chúng.

Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1971, khi căn cứ địch ở Đắc Tô và dọc đường 18 hiện rõ trong kính ngắm, những khẩu pháo bắt đầu nhả đạn. Khẩu đội trưởng Đỗ Đức Toàn, pháo thủ số 1 Hà Tiến Chiến cùng đồng đội xả những quả đạn chính xác vào mục tiêu. Một kho hàng trong căn cứ Đắc Tô 2 bốc cháy, một khu nhà lính đổ sập, 2 khẩu địch bị phá hỏng. Cả khu vực Đắc Tô, đường 18 rung chuyển trong tiếng nổ của đạn pháo. Đại đội pháo binh 8 (trung đoàn 40) đã mở đầu phong trào thi đua “đoạt pháo địch diệt địch”.

Mất Ngọc Rinh Rua, địch để mất một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng ngự tây nam Tân Cảnh, uy hiếp trực tiếp trung tâm của tập đoàn cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh. Trước nguy cơ đó, những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở vùng 2 chiến thuật đã tập trung 20 tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 22, 23 và liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn dù 2 lên khu vực Ngọc Rinh Rua để mở những đợt phản kích, giải tỏa.

Khu quyết chiến lần này nằm kề ngay tuyến phòng ngự cơ bản của địch, đồng thời cũng là tuyến xuất phát phản kích nên địch dễ chạy. Nắm được đặc điểm đó, các trung đoàn cơ động của ta đã kết hợp thế trận bố trí sẵn với cơ động cao, giữ bí mật bất ngờ lừa địch từng bước, bằng cách nhường cho chúng vài vị trí có lợi để kéo đánh vào sâu, sau đó dùng lực lượng bố trí sẵn chặn lại tiến công. Bằng cách đánh này, ta đã làm cho lực lượng của quân đoàn 2 ngụy không chịu nổi, bị tiêu hao, tiêu diệt và cuối cùng chúng phải tranh cướp, bắn giết nhau bám càng máy bay trực thăng Mỹ rút chạy.

Trận tiến công tiêu diệt căn cứ Ngọc Rinh Rua là bước phát triển mới trong đánh công sự vững chắc của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 66. Chỉ huy trung đoàn tổ chức bộ đội hành quân chiếm lĩnh ban đêm, đào công sự chữ A sát hàng rào địch, tiến hành mở cửa bằng phương pháp bí mật, liên kết mìn định hướng và bộc phá, thực hành đột phá và đánh chiếm trận địa địch bằng các mũi đột phá. Mũi đột phá trong trận này gồm xung kích kết hợp với hỏa lực bắn thẳng ĐKZ và súng 12,7 ly. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến lần này cũng khác với chiến thuật bao vây đánh lấn trong chiến dịch Bu Prăng và cũng không giống cách đánh bí mật “nở hoa trong lòng địch” trước đó.

Điều quan trọng là qua trận thắng Ngọc Rinh Rua ta đã mở ra triển vọng tiêu diệt những căn cứ công sự vững chắc trên tuyến phòng ngự cơ bản của địch bằng bộ đội hiệp đồng binh chủng.

Như vậy, do luôn hun đúc trong mình ý chí quyết thắng kẻ thù, cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên trong thực hiện nhiệm vụ trên giao đã không ngừng sáng tạo cách đánh mới để chiến thắng Mỹ - ngụy. Quyết thắng, sáng tạo đã trở thành hai nội dung quan trọng trong truyền thống của các lực lượng vũ trang Tây Nguyên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:33:46 am
VI

BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH

Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược Xuân Hè năm 1971 của quân và dân ba nước Đông Dương làm cho cục diện chiến tranh đã thay đổi quan trọng. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại nặng nề. Mỹ - ngụy buộc phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự chiến lược. Quân ngụy Sài Gòn tuy còn trên một triệu quân, được Mỹ trang bị thêm nhiều súng đạn và phương tiện kỹ thuật chiến tranh, nhưng sức chiến đấu đã bị sa sút nặng. Việc bổ sung quân gặp nhiều khó khăn. Sau đợt rút quân tháng 3 năm 1972, quân viễn chinh Mỹ còn khoảng 9,5 vạn tên, nhưng trên thực tế đã chấm dứt hoạt động chiến đấu bằng bộ binh trên chiến trường. Nếu so sánh cục diện chiến tranh, rõ ràng: Ta đang ở thế thắng, thế đi lên! Mỹ - ngụy đang ở thế thua, thế đi xuống! Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, với tiềm lực chiến tranh lớn họ vẫn tiếp tục thực hiện những âm mưu và hoạt động chiến tranh phiêu lưu nhằm chống lại nhân dân ba nước Đông Dương, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần số quân Mỹ còn lại, tạo điều kiện để mặc cả với ta trên thế mạnh ở Hội nghị Pa-ri, đồng thời xoa dịu phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam của nhân dân Mỹ, mở đường cho Ních-Xơn tái cử tổng thống trong cuộc bâu cử vào cuối năm 1972.

Tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã họp, ra nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng chiến lược Đông Nam Bộ, Trị Thiên và Tây Nguyên nhằm đẩy mạnh đánh phá “bình định” của địch ở nông thôn, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị, phát huy thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam tạo ra một bước chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi cục diện chiến tranh. Chiến trường miền Đông Nam Bộ được chọn là hướng tiến công chủ yếu vì đánh vào đây sẽ có tác động lung lay mạnh đến Sài Gòn. Nhưng thông qua diễn biến trên chiến trường, nhất là việc chuẩn bị vật chất cho miền Đông Nam Bộ tuy có nỗ lực lớn song vẫn chưa bảo đảm được yêu cầu, vì vậy đến đầu tháng 1 năm 1972 Quân ủy Trung ương quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chính là Trị Thiên. Hai chiến trường miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chuyển thành hướng tiến công chiến lược phối hợp quan trọng. Theo tôi, việc thay đổi hướng tiến công chiến lược như vậy là một quyết định đúng đắn, sáng tạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; bởi vì chiến trường Trị Thiên tiếp giáp với miền Bắc - hậu phương chiến lược của cả nước, chẳng những có điều kiện tập trung lực lượng, bảo đảm vật chất cho một chiến dịch quy mô dài ngày, mà còn có thể phát huy cao độ những yếu tố thuận lợi giành thắng lợi lớn hơn, hoặc khi tình huống khó khăn có thể xử lý kịp thời.

Từ xác định nhiệm vụ chiến lược trên toàn Miền, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho chiến trường Tây Nguyên: Với lực lượng bản thân, cùng lực lượng và binh khí kỹ thuật tăng cường, tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực quân đoàn 2 và tổng dự bị ngụy, giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, sau đó giải phóng thị xã Kon Tum, có điều kiện thì phát triển xuống Plây Cu, mở rộng vùng căn cứ tây Gia Lai và Đắc Lắc để hình thành một vùng căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ miền Đông Nam Bộ.

Căn cứ nhiệm vụ trên giao cuối tháng 10 năm 1971, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên chúng tôi họp bàn triển khai thực hiện. Với nhiệm vụ quân sự to lớn có ý nghĩa chiến lược chưa từng có trên chiến trường Tây Nguyên, các anh đảng ủy viên mặt trận đều phấn khởi, tự hào về sự trưởng thành lớn mạnh của lực lượng vù trang toàn Miền nói chung và chiến trường Tây Nguyên nói riêng. Mở đầu cuộc họp anh Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh một trận trình bày tình hình địch, ta trước khi bước vào chiến dịch Xuân Hè năm 1972, anh nói:

- Xuất phát từ ý đồ chiến lược Tây Nguyên là khu vực quan trọng trong hệ thông phòng ngự chiến lược cua đích, nên mặc dù trong năm 1971 nhiều vị trí phòng ngự trên cao nguyên của vùng 2 chiến thuật bị ta đánh đi đánh lại nhiều lần, nhưng chúng vẫn ngoan cố phản kích chiếm lại, không chịu bỏ mất một mắt xích nào; bước vào năm 1972, Mỹ - Thiệu phán đoán rằng ta sẽ mở chiến dịch lớn ở Tây Nguyên nên ra sức đề phòng. Chúng dùng B52 đánh phá tập trung vào các tuyến đường vận chuyển, các khu vực kho tàng của ta. Chúng tập trung lực lượng vùng 2 chiến thuật gồm sư đoàn 22, sư đoàn 23, hai liên đoàn biệt động quân số 2 và số 6, sư đoàn dù (thiếu) - lực lượng tổng dự bị chiến lược, tất cả gồm 44 tiểu đoàn bộ binh, về binh chủng, có 10 chi đoàn thiết giáp của 4 quân đoàn (3, 8,14,19), 7 tiểu đoàn pháo binh khoảng 160 khẩu từ 105 đến 175 ly. Khi tác chiến chúng được sư đoàn không quân 6 và các đơn vị không quân khác với khoảng 214 máy bay các loại chi viện. Ngoài ra địch còn có 14 tiểu đoàn và 14 liên đội bảo an. Tổng số quân địch tập trung ở khu vực chủ yếu của chiến dịch là 27 nghìn quân chủ lực và hàng chục nghìn quân địa phương.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:36:01 am
Để ngăn chặn chiến dịch tiến công của ta, những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Sài Gòn và vùng 2 chiến thuật đã thực hiện biện pháp: Tăng cường các tuyến phòng ngự cơ bản ở khu vực bắc Kon Tum, trên đường 14 và đường 18. Đặc biệt ở Đắc Tô - Tân Cảnh địch hình thành một cụm phòng ngự dày đặc gồm có sư đoàn 22 (thiếu), trung đoàn thiết giáp 14, hai tiểu đoàn biệt động biên phòng. Đồng thời địch hình thành tuyến ngăn chặn ở tây sông Pô Cô từ Ngọc Bờ Biêng đến Chư Gô Tông do lữ đoàn dù 2 đảm nhiệm để án ngữ, bảo vệ đường 14 và thị xã Kon Tum. Dùng sư đoàn 23 và 2 liên đoàn biệt động quân làm lực lượng dự bị bố trí ở Plây Cu và Buôn Ma Thuột. Những người chỉ huy quân đội Mỹ là những người biết nghiên cứu và rút kinh nghiệm nhanh. Họ rất chú trọng nghiên cứu từng đơn vị, từng trận đánh và thậm chí từng người chỉ huy của ta. Do vậy, mưu kế lừa địch phải coi là một nghệ thuật, nói đúng hơn đó là sự nhận thức quy luật chiến dịch và sáng tạo vào những điều kiện cụ thể và tình huống cụ thể.

Về lực lượng ta, sau khi Bộ điều trung đoàn 24A vào miền Đông Nam Bộ, ở Tây Nguyên chỉ còn lại các trung đoàn 28, 66, 95 và trung đoàn 40 cùng một số đơn vị binh chủng kỹ thuật. Bộ Tổng tư lệnh bổ sung cho Tây Nguyên sư đoàn 320A(1), trung đoàn 24B, trung đoàn công binh 7, trung đoàn pháo binh 675, 3 tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly, tiểu đoàn xe tăng T54, 1 đại đội tên lửa chiến thuật B72, 1 đại đội pháo cao xạ tự hành 57 ly, 1 tiểu đoàn ô tô vận tải, 1 tiểu đoàn thông tin. Như vậy, bước vào chiến dịch Xuân Hè năm 1972 khối chủ lực Tây Nguyên đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất lượng và số lượng.

Sau khi trình bày nhiệm vụ trên giao cho Mặt trận Tây Nguyên là phải tiêu diệt từ 10 đến 15 tiểu đoàn bộ binh địch, trong đó có từ 2 đến 3 chiến đoàn, trung đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 1 sư đoàn của quân đoàn 2 và một số lữ đoàn thuộc lực lượng dự bị, giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum, bao vây thị xã Plây Cu và Buôn Ma Thuột, giải phóng phần lớn nông thôn Tây Nguyên, thu hút và kiềm chế, giam chân một lực lượng quân chủ lực ngụy, phối hợp chặt chẽ với Khu 5 và toàn Miền, anh Hoàng Minh Thảo nói tiếp:

- Căn cứ so sánh tương quan lực lượng giữa địch và ta, căn cứ vào nhiệm vụ trên giao, hướng chủ yếu của chiến dịch là Đắc Tô - Cảnh, các hướng phối hợp là Gia Lai và Đắc Lắc. Dự kiến tiến trình chiến dịch gồm 3 bước:

Bước một: Tập trung lực lượng bao vây và tiến công tiêu diệt toàn bộ tập đoàn phòng ngự của sư đoàn 22 và các lực lượng tăng cường ở Đắc Tô - Tân Cảnh, đồng thời tiêu diệt quân dù trên dải ngăn chặn ở tây sông Pô Cô.

Bước hai: Đánh chiếm thị xã Kon Tum.

Bước ba: Bao vây Plây Cu và Buôn Ma Thuột, giải phóng nông thôn, khi có điều kiện thì tiến lên giải phóng hai thị xã trên.

Kết luận hội nghị, anh Trần Thế Môn, Chính ủy, Bí thư Đảng ùy Mặt trận Tây Nguyên nhấn mạnh: Động viên toàn đảng bộ toàn thể lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên cùng nhân dân và cấp ủy địa phương nắm vững thời cơ mới, phát huy thế thắng, thế mạnh, thế chủ động tiến công trên cơ sở kiên trì đánh lâu dài mà nỗ lực vượt bậc, đẩy mạnh tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, kiên quyết đánh bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, giải phóng toàn bộ nông thôn và 1 đến 2 thị xã, tiến lên giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam, làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ phải chịu thua và chấm dứt chiến tranh, chấp nhận một giải pháp chính trị theo điều kiện của ta.

Nhằm thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến dịch và để tiện việc chỉ huy, tháng 2 năm 1972 Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên thành lập Sở chỉ huy tiền phương của Mặt trận đứng chân ở phía đông Đắc Tô - Tân Cảnh, gọi tắt là Mặt trận Cánh Đông, mang mật danh Thăng Long. Mặt trận Cánh Đông, do anh Nguyễn Mạnh Quân - Phó tư lệnh Mặt trận - Tư lệnh; tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Phó chính ủy Mặt trận - Chính ủy; anh Hồ Đệ - Phó tư lệnh; anh Lã Ngọc Châu - Phó chính ủy. Một bộ phận các ngành của cơ quan mặt trận được tổ chức thành các phòng tham mưu, chính trị, hậu cần do anh Trần Quốc Biên - Tham mưu trưởng; anh Nguyễn Hữu Hưu - Chủ nhiệm chính trị; anh Đặng Văn Khoát - Chủ nhiệm hậu cần.

Lực lượng trên Mặt trận Cánh Đông gồm các trung đoàn cũ của Tây Nguyên: trung đoàn 28 do anh Nguyễn Quốc Thước - trung đoàn trường, anh Nguyên Bàng - chính ủy; trung đoàn 66 do anh Phùng Bá Thưởng - trung đoàn trưởng, anh Lưu Quý Ngũ - chính ủy; trung đoàn 95 do anh Huỳnh Nghĩ : trung đoàn trưởng, anh Lê Quang Mỹ - chính ủy; trung đoàn 24 do anh Hoàng Minh - trung đoàn trường, anh Nguyễn Quang Thoan - chính ủy. Bước vào chiến dịch, Bộ tăng cường thêm Sư đoàn 2 (thiếu) do anh Nguyễn Chơn làm sư đoàn trưởng, anh Lê Đình Yên làm chính ủy.


(1) Sư đoàn 320A đến Tây Nguyên ngày 28 tháng 1 năm 1972, do anh Nguyễn Kim Tuấn, sư đoàn trưởng, anh Phí Triệu Hàm. chính ủy sư đoàn.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:38:20 am
Cuộc tiến công quy mô lớn có ý nghĩa lược đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên đặt ra cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận nhiều vấn đề phải giải quyết. Nhiệm vụ chiến dịch là tiến công vào tuyến phòng ngự của địch, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng quân sự của chúng, giải phóng đất đai, giải phóng nhân dân. Muốn giải phóng được đất đai, vấn đề quan trọng là phải tiêu diệt được sinh lực địch. Trong nhiều năm qua bộ đội Tây Nguyên rất có kinh nghiệm lừa nhử địch ra ngoài công sự để tiêu diệt. Tình hình thực tế ở chiến trường trong năm qua cho thấy địch không còn khả năng chống chọi với ta ở bên ngoài, nhưng chúng cũng chưa chịu để mất một điểm nào trong tuyến phòng ngự. Chúng còn dựa được vào quân đông, hỏa lực nhiều, phương tiện cơ động nhanh nên chưa phải đã hoàn toàn cố thủ. Do vậy Bộ tư lệnh Mặt trận đề ra cách đánh chiến dịch là “vây hãm diệt sinh lực kết hợp với đột phá”. Trước tiên ta tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng của địch ở vòng ngoài, vây hãm những khu trung tâm phòng ngự làm cho lực lượng chiến dịch của địch suy yếu, sứt mẻ. Tiếp đó ta siết chặt, vây hãm làm cho địch trong công sự hoang mang, lúc đó mới tiến hành đột phá. Làm như vậy sẽ tạo được thời cơ, tạo được điều kiện để đột phá nhanh chóng và chắc thắng.

Từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 2 năm 1972, Đảng ủy Mặt trận Cánh Đông tiến hành hội nghị quán triệt nhiệm vụ và thông qua kế hoạch tác chiến. Hội nghị tập trung thảo luận tình hình nhiệm vụ mới của Tây Nguyên, đặc biệt là nhiệm vụ của Mặt trận Cánh Sông. Đảng ủy phân tích sâu sắc những vấn đề về phương án tác  chiến, nhất là công tác bảo đảm hậu cân. Do tinh hình gạo, đạn gặp khó khăn có ý kiến cho ràng “chỉ đánh quận lỵ Đắc Tô, khi có điều kiện mới đánh Tân Cảnh". Đảng ủy đã kiên quyết bác bỏ ý kiến này và hạ quyết tâm khắc phục mọi khó khăn tiêu diệt cho được căn cứ Tân Cảnh.

Quyết tâm là vậy, ngày nổ súng đã tới gần nhưng đường sá mở chưa xong, địch đánh phá ngày càng ác liệt, sức vận chuyên bị hạn chế rất nhiều. Theo số liệu còn lưu lại trong cuốn sổ công tác số 26 của tôi, tính đến ngày 7 tháng 4 năm 1972, Bộ mới giao cho Tây Nguyên 25% kế hoạch, trong đó gạo dự trữ cho chiến dịch chỉ được 35%. Mặt hàng lại không đáp ứng yêu cầu, không đồng bộ, một số còn để cách đến 100km (binh trạm 37). Để giải quyết tình trạng trên, một mặt chúng tôi huy động bộ đội tự vận chuyển lương thực, đạn dược, mặt khác yêu cầu tỉnh Kon Tum giúp đỡ.

Ngày 3 tháng 3 năm 1972, tôi và anh Đặng Văn Khoát (chủ nhiệm hậu cần) cùng một số cán bộ cơ quan về làm việc với lãnh đạo tỉnh Kon Tum ở xã Ngọc Lây, huyện 80 (Đắc Tô). Như đón biết được tình hình khó khăn của chúng tôi, anh Phan Phụ (tức Quyết) thông báo luôn: Ngay từ đầu năm 1972, tỉnh ủy Kon Tum đã chủ động động viên nỗ lực cao nhất của quân và dân trong tỉnh. Các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, du kích, đội vũ trang công tác đều được tăng cường bổ sung quân số. Các lực lượng quân, dân, chính, đảng đều được chỉnh huấn, học tập quán triệt tình hình nhiệm vụ mới. Tại vùng căn cứ đảng bộ lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, tích cực trông thêm các loại hoa màu phu, nhất là sắn. Khắp các buôn làng đâu đâu cũng vang lên tiếng chày giã gạo thâu đêm, chuẩn bị lương thực cho bộ đội đánh giặc. Theo kế hoạch trong đợt nàv tỉnh Kon Tum ủng hộ bộ đội B3: 300 tấn gạo. Riêng huyện 80 ủng hộ 180 tấn, huyện 16 ủng hộ 95 tấn(1).

Ngoài ra tính còn huy động hàng nghìn dân công tham gia gùi đạn, tải thương, vận chuyển hàng hóa, mở đường quân sự. Để giải quyết khó khăn trước mắt, đồng bào các dân tộc tộc huyện 80 còn ủng hộ bộ đội Mặt trận Cánh Đông 56 tấn sắn tươi. Khó có thể tường tượng nổi, bộ đội trung đoàn 66 đã vào vị trí tập kết vẫn phải cử người đeo gùi trở lại phía sau để lấy sắn về cho đơn vị.

Tỉnh ủy Kon Tum còn chỉ thị cho bệnh xá tỉnh đội đóng trên ngọn Ngọc Ny Ay mở rộng, sẵn sàng đón thương binh Một trận Cánh Đông.

Những tình cảm sâu nặng, những đóng góp lớn lao của người dân Kon Tum trong chiến dịch Xuân Hè năm 1972 cho đến bây giờ vẫn vẹn nguyên tươi rói trong tôi.


(1) Anh Đặng Văn Khoát báo cáo, tính đến ngày 30 tháng 3 huyện 80 đã ủng hộ 152/180 tấn, huyện 16 ủng hộ 80/95 tấn gạo.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:39:07 am
Ngày 27 tháng 3 năm 1972, tôi về dự hội nghị đáng ủy trung đoàn 66 quán triệt nhiệm vụ chiến dịch. Chưa bao giờ tôi thây trên gương mặt của các anh Lưu Quý Ngữ, Phùng Bá Thường, Trịnh Hữu Tân, Võ Quang Tịnh, Nguyễn Đình Kiệp, Phạm Văn Vượng... lại rạng rỡ tự tin đến thế, tuy vào thời điểm này các anh vẫn phải ăn bo bo và sắn luộc bởi lẽ gạo chuyển ra chưa kịp. Họ tự tin có lý, bởi những con người này đều dạn dày trận mạc. Chính các anh đã làm nên chiến thắng la Đrăng, Sa Thầy, Đức Vinh, Đắc Tô, Ngọc Rinh Rua và hôm nay trong thế trận chung lại được chuẩn bị kỹ càng, bàng nghìn con người của trung đoàn đều náo nức xung trận. Phát biểu với hội nghị, tôi nói:

- Đảng ủy trung đoàn đã quán triệt nhiệm vụ, thấy rõ vinh dự, xác định trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Là một trung đoàn có kinh nghiệm chiến đấu, có thể chỗ này chỗ khác còn phải bổ sung, nhưng những vấn đề cơ bản đã được các đồng chí xác định đúng đắn.

Thực hiện nhiệm vu trong chiến dịch này các đồng chí cần làm tốt một số vấn đề:

Về tư tưởng, phải làm cho cán bộ, chiến sĩ, đảng viên đoàn viên trung đoàn nhất trí cao với hình thức tác chiến đánh công sự vững chắc. Vì chỉ khi nào tiêu diệt quân địch trong công sự vững chắc thì mới đánh vỡ tuyến phòng thủ cơ bản của địch, mới tiêu diệt quân địch tại trận địa của chúng và cuối cùng mới đánh bại hoàn toàn chúng. Những vấn đề này đã trở thành niềm thôi thúc cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên trong nhiều năm. Những cuộc tập huấn ở mặt trận đã tập trung nghiên cứu chiên thuật đánh công sự vững chắc. Khắp các đơn vị trên toàn mặt trận đều tham gia đánh công sự vững chắc. Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định xây dựng trung đoàn 66 là đơn vị nghiên cứu chiến thuật này. Vừa qua trong đại hội đảng trung đoàn các đồng chí đã thảo luận sôi nổi và ra nghị quyết xây dựng chiến thuật đánh công sự vững chắc cho đơn vị. Các đồng chí đã tập trung xây dựng đại đội 6 tiểu đoàn 8, đại đội 3 tiểu đoàn 7, đại đội 11 tiểu đoàn 9 là những đại đội mở cửa. Trong các đại đội này các đồng chí tập trung xây dựng trung đội mở cửa như thế là rất tốt. Mong rằng các đồng chí tiếp tục giáo dục để cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn thông suốt cách đánh, quán triệt tư tưởng chiến thuật mới, từ đó làm cơ sở giải quyết vấn đề khác. Phải xây dựng trung đoàn có tinh thần tự cường, không ỷ vào hỏa lực, không ỷ lại đơn vị bạn. Đảng ủy cần tập trung xây dựng tinh thần tiến công liên tục, tiến công triệt để. Các đồng chí phải khắc phục tình trạng “đầu gối huân chương, mình đắp cờ danh dự nằm ngủ”, kiên quyết chông tư tưởng thỏa mãn, nửa chừng dừng lại. Trong chiến dịch này, sau khi đánh xong C1 (căn cứ Tân Cảnh) các đồng chí phải nhanh chóng xốc lại đội hình làm dự bị cho Sư đoàn 2 đánh vào quận lỵ Đắc Tô. Đảng ủy cần làm tốt đoàn kết hiệp đồng, học tập đơn vị bạn, không được huênh hoang.

Trung đoàn 66 cần nhận rõ vinh dự của mình là đơn vị luôn luôn đi đầu giải quyết các nhiệm vụ về chiến thuật đặt ra trong các thời kỳ của cuộc chiến trên chiến trường. Mong rằng các đồng chí hãy phát huy truyền thống đó để làm tốt nhiệm vụ trong chiến dịch lịch sử này, trước hết là nhiệm vụ C1.

Để vây hãm chặt quân địch ở Đắc Tô - Tân Cảnh và Kon Tum chúng tôi thực hành hai tầng chia cắt chiến dịch. Tầng thứ nhất cắt đường 14 đoạn Kon Kô - Võ Định do trung đoàn 28 đảm nhiệm; tầng thứ hai, cắt đường 14 đoạn từ cầu la Tô Ve đến chân núi Chư Thoi do trung đoàn 95, tiểu đoàn 6 (trung đoàn 24), tiểu đoàn 631 và hai đại đội 31, 32 của huyện 4 Gia Lai đảm nhiệm. Lực lượng vây hãm căn cứ Đắc Tô 2, sân bay Phượng Hoàng do trung đoàn 1 Sư đoàn 2, tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 và tiểu đoàn bộ binh 304 của tỉnh Kon Tum đảm nhiệm. Toàn bộ lực lượng trên đã triển khai và bước vào hoạt động đúng kế hoạch.

Ngày 30 tháng 3 năm 1972, để phối hợp với chiến trường toàn Miền, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên lệnh cho Sư đoàn 320 dùng trung đoàn 52 vây ép tiểu đoàn 2 lữ dù 2 ở điểm cao 1049 (địch gọi là căn cứ Đen-ta). Bị vây ép mạnh, địch co dồn lại, ta ngày càng siết chặt. Đến 3 giờ ngày 3 tháng 4, trung đoàn 52 được lệnh tiến công. Sau 3 tiếng đồng hồ chiến đấu tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 6 đã chiếm được sở chỉ huy tiểu đoàn 2 của địch. Nhưng do tổ chức lùng sục tảo trừ chưa tốt, bộ đội mất cảnh giác nên bị tàn binh địch cụm lại gọi pháo binh và máy bay đánh trùm lên trận địa rồi phản kích chiếm lại. Bộ đội bi thương vong, trung đoàn 52 phải lui quân về tuyến xuất phát.

Ngày 7 tháng 4 Bộ tư lệnh Mặt trận chỉ thị cho Sư đoàn 320 dùng trung đoàn 64 bao vây tiêu diệt tiểu đoàn 11 lữ dù 3 mới đổ xuống chiếm giữ điểm cao 1015 (địch gọi là căn cứ Sác-ly); đồng thời lệnh cho trung, đoàn 52 dùng tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn đặc cỏng 19 tiếp tục vây ép giữ chân địch ở điểm cao 1049, khi có thời cơ công dứt điểm căn cứ này.

5 giờ 50 phút ngày 12 tháng 4 năm 1972, hai trận địa pháo 122 và Đ74 cùng cối 120 ly nã những quả đạn chính xác xuống điểm cao 1015. Khi pháo chiến dịch chuyển làn kiềm chế pháo binh địch, trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến ra lệnh cho tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 xung phong.

Tôi được anh em trung đoàn 64 kể lại: ở hướng chủ yếu do tiểu đoàn 9 đảm nhiệm, cuộc chiến đấu ở đây diễn ra quyết liệt. Địch tập trung tất cả các loại hỏa lực vào hai cửa mở của đại đội 10. Bộ đội ta không tiến lên được. Đại đội trưởng Đặng Văn Lưu bất chấp nguy hiểm vượt lên chỉ huy trung đội 3 mở cửa. Tổ mở cửa của trung đội 3 chi còn 3 người. Chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Điện ôm bộc phá lao lên phá tung hàng rào cuối cùng. Các chiến sĩ trung đội 3 xông lên đánh chiếm lô cốt đầu cầu.

Mũi đột phá thứ hai của đại đội 10 do đại đội phó Nguyên Văn Hòa chỉ huy phát triển thuận lợi hơn. Khi pháo ta vừa chuyển làn tổ mở cửa xông lên mở hết hàng rào rồi ào ạt đánh vào chi viện cho trung đội 3. Đến 13 giờ tiểu đoàn 9 đã hoàn toàn làm chủ mục tiêu được phán công.

Trên hướng tiểu đoàn 8, cuộc chiến đấu diễn ra cũng hết sức quyết liệt. Dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Đàm Vũ Hiệp và chính trị viên Nguyễn Văn The, các tổ hỏa lực của ta bắn rất chính xác vào các mục tiêu, chi viện đắc lực cho tổ bộc phá mở cửa của đại đội 7. Cửa mở thông, cả đơn vị tràn lên đánh chiếm các mục tiêu trong căn cứ. Nhưng khi áp sát sở chỉ huy tiểu đoàn 11 thì đại đội 7 bị chặn lại. Từ trên cao địch có thể quan sát và khống chế mọi hành động của bộ đội ta. Chúng gọi máy bay đến ném bom bắn phá vào trận địa của tiểu đoàn 8. Một quả bom rơi trúng hầm chỉ huy tiểu đoàn 8. Tiểu đoàn trưởng Hiệp và chính trị viên The hy sinh. Chỉ huy trung đoàn đã giao cho đồng chí Thoan, tham mưu phó trung đoàn trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn 8, xốc lại đội hình, giữ vững thế trận.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:40:44 am
Những ngày tiếp theo cuộc chiến đấu của trung đoàn 64 diễn ra quyết liệt hơn. Lợi dụng độ dốc và trống trải địch có thể quan sát chống trả lại ta. Các trận địa pháo từ Ngoe Bờ Biêng, điểm cao 966 Diên Binh, Đắc Vát cũng thay nhau bắn như đổ đạn vào các tuyến vây ép của trung đoàn 64. Tuy vậy các chiến sĩ trung đoàn 64 bất chấp ác liệt, hy sinh gan góc bám giữ trận địa có thời cơ là tiến công tiêu diệt địch.

19 giờ 30 phút ngày 14 tháng 4, Sư đoàn 320 tung tiểu đoàn 3 tiếp sức cho tiểu đoàn 9 đồng thời ra lệnh cho hai đơn vị này tiến công địch ngay trong đêm; đồng thời điều thêm tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 vào khu vực Ngọc Đi Ốc đón lõng quân địch ở điểm cao 1015 chạy về.

1 giờ sáng ngày 1 tháng 4 năm 1972, tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 9 bắt đầu tiến công địch. Chỉ sau 15 phút quân ta đã làm chủ trận địa. Quân địch còn lại tháo chạy về hướng đông, lọt vào trận địa của đại đội 5 và đại đội 6 liền bị hai đơn vị này đánh chặn, diệt 80 tên. Số còn lại xô đạp lên nhau chạy về phía Ngọc Đi ốc, lại sa vào trận địa giăng sẵn của tiểu đoàn 2, toàn bộ quân địch bị diệt và bị bắt làm tù binh.

Sau 3 ngày chiến đấu, trung đoàn 64 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 11 lữ dù 3, diệt 260 tên, bắt sống 166 tên (có 1 trung tá, 1 thiếu tá, 2 đại úy, 5 trung úy), bắn rơi 20 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí quân trang, quân dụng. Tiểu đoàn 11 cũng là tiểu đoàn đầu tiên bị diệt gọn ở Tây Nguyên.

Đây là lần thứ hai trung đoàn 64 đọ sức với lữ dù 3. Lần trước, trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, trung đoàn đã diệt 2 tiểu đoàn của lữ đoàn này, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ - lữ đoàn trưởng. Và lần này, trên chiến trường Tây Nguyên, trung đoàn 64 trong trận then chốt thứ nhất tuy kéo dài nhưng thu được thắng lợi lớn buộc quân dù phải rút bỏ các vị trí còn lại lui về cùng quân đoàn 2 ngụy củng cố tuyến phòng ngự từ Võ Định đên thị xã Kon Tum.

Phối hợp với Sư đoàn 320 ở hướng tây, trên Mặt trận Cánh Đông, chúng tôi ra lệnh cho các đơn vị đẩy mạnh cường độ hoạt động.

Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2), tiểu đoàn 4 (trung đoàn 24) cùng bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum tiến hành vây hãm căn cứ Đắc Tô 2 và sân bay Phượng Hoàng. Bằng nhiều hình thức tác chiến phong phú, sáng tạo, phục kích, tập kích, bắn tỉa, chiến sĩ ta đã loại khỏi vòng chiên đấu hàng trăm tên địch, bắn rơi và phả hủy 36 máy bay, hàng chục xe quân sự, gần 40 khẩu pháo và súng cối. Tiêu biểu nhất là trận đánh của đại đội 1 tiểu đoàn 4 trung đoàn 24. ngày 17 tháng 4 năm 1972, đại đội 1 chặt nứa ghép lại thành bè vượt sông Pô Cô bí mật tập kích tiêu diệt hoàn toàn trận địa pháo Đắc Rao Peng, loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội địch, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly.

Trên đường 14, khu vực Võ Định, trung đoàn 28 tích cực hoạt động chặn đánh giao thông địch, diệt gọn 2 chi đội xe bọc thép thuộc trung đoàn thiết giáp 14, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động quân 23. Đại đội cối 82 ly của trung đoàn liên tiếp bắn phá sở chỉ huy của lữ đoàn dù sô 2 và số 3 gây cho địch tổn thất lớn. Đêm 6 tháng 4, đại đội đặc công 19 của trung đoàn 28 tập kích diệt gọn trận địa pháo của lữ đoàn dù số 2 ở Kông Trang Lăng Loi phá hủy 4 pháo 155 ly, 6 pháo 105 ly và 20 xe quân sự.

Tại Chư Thoi, trung đoàn 95, tiểu đoàn 6 (trung đoàn 24), tiểu đoàn 631 cùng du kích các xã Bl, B2 và B3 (huyện 4) bám sát bộ đội chủ lực đắp ụ, chôn mìn, xây dựng những trận địa chốt ngay mép đường ở khu vực cầu Ia-tô-ve. Bộ đội và lực lượng địa phương kiên cường trụ bám, chịu đựng hàng trăm tấn bom rải thảm của máy bay B52, hàng chục quả bom 7 tấn của Mỹ, hàng vạn quả đạn pháo các loại, liên tiếp giáng cho địch những đòn nặng nề. Nhiều đoàn xe tiếp tế của địch bị diệt, có đoàn tới 40 chiếc và 120 chiếc. Địch phải dùng 2 trung đoàn 45 và 53 (sư đoàn 23 ngụy) có xe tăng và máy bay yểm trợ thay nhau phản kích hòng đẩy chiến sĩ ta ra khỏi Chư Thoi. Dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Huỳnh Nghĩ và chính ủy Lê Quang Mỹ(1), cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 95 đã gan góc trụ vững, biến khu vực Chư Thoi thành cánh cửa thép chặn đứng mọi cuộc phản kích của địch. Đường 14 bị cắt đứt hẳn ở cả hai phía bắc và nam thị xã Kon Tum. Trung đoàn 95 và trung đoàn 28 đã góp phần tạo thế vây hãm chiến dịch đôi với cụm phòng ngự ở Kon Tum và Đắc Tô - Tân Cảnh.

Qua bước một chiến dịch, tình hình phát triển thuận lợi cho ta tuyến ngăn chặn vòng ngoài của địch ở phía tây sông Pô Cô đã bị sư đoàn 320 đột thủng, cánh cửa chiến dịch ở phía tây đã được mở. Quân dù phải rút đi quá nửa để ứng cứu cho Bình Long, lực lượng nòng cốt chiến dịch bị ta đánh thiệt hại nặng mất sức phản kích. Thời cơ chiến dịch đã xuất hiện, điều kiện đột phá Tân Cảnh đã chín muồi. Anh Hoàng Minh Thảo điện cho tôi và anh Nguyễn Mạnh Quân tổ chức đột phá đánh chiếm căn cứ Tân Cảnh, giải phóng thị trấn Tân Cảnh và toàn bộ khu vực đảm nhiệm từ Võ Định - Trí Đạo đến Diên Bình - Đắc Tô - Đắc Mót.


(1) Anh Lê Quang Mỹ, ở số nhà 235 đường Cách mạng Tháng Tám, Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Binh Dương là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Anh có thói quen ăn cơm bằng đĩa và thìa. Nghe kể trước khi tập kết, mẹ anh tặng hai vật này để mỗi khi ăn anh nhớ tới mẹ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:42:42 am
Trong cụm phòng ngự ở Đắc Tô - Tân Cảnh, căn cứ Tân Cảnh (còn gọi là căn cứ 42) là trung tâm chỉ huy tập đoàn phòng ngự phía bắc tình Kon Tum, căn cứ hậu cần, nơi xuất phát hành quân của địch ra vùng ba biên giới. Lực lượng trong căn cứ gồm có: sở chỉ huy sư đoàn 22, khu cố vấn Mỹ, sở chỉ huy trung đoàn 42, sở chỉ huy trung đoàn thiết giáp 14, một tiểu đoàn xe tăng M41, một tiểu đoàn pháo binh với quân số khoảng 1.500 tên.

Ở phía đông căn cứ khoảng 1km, thị trấn Tân Cảnh nằm giữa ngã ba đường 14 và 18 với 5 nghìn dân. Trong thị trấn có 1 đại đội cảnh sát, 1 đại đội bảo an, thị trấn này là hậu phương trực tiếp của căn cứ Tân Cảnh. Do vậy, trong cách bố trí phòng ngự, địch tập trung mạnh về hướng tây và hướng bắc. Sở chỉ huy sư đoàn 22 và khu cố vấn Mỹ cũng đặt lùi sâu về hướng đông.

Khi phân tích tình hình cụ thể, chúng tôi thống nhất những hoạt động ở hướng tây và hướng bắc trong nhiều năm qua đã thu hút hết sự chú ý của địch. Lợi dụng điểm yếu cơ bản của địch để đánh địch và quyết định tập trung lực lương chủ yếu từ hướng đông vào căn cứ Tân Cảnh.

Trung đoàn 66 được tăng cường tiểu đoàn đặc công 37, một đại đội xe tăng T54, một đại đội B72, ngoài ra còn được pháo binh chiến dịch chi viện, có nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Tân Cảnh và giải phóng thị trấn Tân Cảnh. Trước khi bước vào nhiệm vụ chủ yếu cán bộ chiến sĩ trung đoàn 66 và các lực lượng tham gia tiến công căn cứ Tân Cảnh đã phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp. Những khu vực ta dự kiến đặt pháo bắn thẳng địch đã nống ra chốt giữ. Gạo ăn đã cạn, nếu trận đánh kéo dài có nguy cơ bộ đội phải nhịn đói đánh giặc.

Trước tình hình đó, tôi và anh Đặng Văn Khoát đến trung đoàn bàn cách khắc phục. Nhìn anh em lính trẻ, sức lực là thế suốt ngày cưa gỗ, đào hầm, đánh địch mà mỗi người một ngày chỉ vẻn vẹn 3 lạng hạt bo bo với rau rừng tự kiếm. Tôi nghe anh Lưu Quý Ngữ, chính ủy trung đoàn 66 kể lại: Vì đói quá, nhiều chi bộ (cả đơn vị và cơ quan) đã họp ra nghị quyết sử dụng một phần gạo rang (lương thực dành cho lúc chiến đấu) để anh em có sức. Tôi và anh Khoát không cầm được lòng. Ngay tối hôm đó, chúng tôi hội ý Thường vụ và Bộ tư lệnh quyết định: cơ quan Bộ tư lệnh bớt nửa khẩu phần ăn để chi viện cho anh em phía trước. Ngày hôm sau, anh Đặng Văn Khoát trực tiếp chỉ huy đơn vị vận tải chuyển gấp gạo xuống cho trung đoàn 66, nhưng cũng chẳng được là bao vì kho Mặt trận Cánh Đông cũng cạn. Gạo trên chuyển đến nhỏ giọt vì đường vận chuyển quá xa, lại phải qua nhiều ngọn núi cao hơn nghìn mét hiểm trở. Tôi trực tiếp đặt vấn đề với lãnh đạo tỉnh Kon Tum giúp đỡ. Anh Phan Phụ đã động viên cơ quan tỉnh, huyện đóng góp 50 tấn lương thực trong phần tự túc của mình gồm cả gạo, ngô, sắn và huy động nhân dân chuyển ra phía trước. Theo anh Khoát báo cáo, trong đợt này tỉnh Kon Tum đã cung cấp cho Mặt trận Cánh Đông hơn 36 tấn gạo, 42 tấn sắn tươi (số gạo và sắn trên chủ yếu ở huyện 16 và huyện 80).

Chúng tôi huy động cán bộ ba cơ quan tiền phương mặt trận, đội điều trị cùng hàng trăm dân công của tỉnh Kon Tum tham vận chuyển.

Khấu hiệu “Tất cả cho phía trước, tất cổ để giải phóng Tân Cảnh” đã thực sự trở thành ý chí và tình cảm quân và dân trên Một trận Cánh Đông, Cho đến hôm nay nghĩ lại, những ngáy tháng ấy sao mà đẹp mà hào hùng đến thế! Minh đang đói vàng mắt vẫn vui vẻ nhường đồng độí bát cơm, củ sắn; sẵn sàng nhận thay đồng đội vào những nơi nguy hiểm, dẫu biết có thể hy sinh, Cán chiến sĩ có cơm ăn cơm, không có cơm cùng ăn Hấn, hết sắn “nghiến” bo bo mà vẫn cười vang, tự tin ở ngày chiến thắng, với khí thế:

         Trường Sơn chuyển minh,
         Pô Cô dậy sóng!
         Quét sạch quản thù,
         Giải phóng Tây Nguyên!


Được sự chi viện của đồng bào, đồng chí, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 66 hạ quyết tâm: Quyết đánh thắng nhanh căn cứ Tân Cảnh, giải phóng địa bàn để thông đường hành lang vận chuyển bằng xe cơ giới!

Tiểu đoàn 9 (trung đoàn 66) đẩy mạnh hoạt động đánh dồn ép quân địch giành lấy địa bàn, Ngày 21 tháng 4 toàn bộ quân địch đá bị các chiến sĩ trung đoàn 66 quét sạch khỏi các điểm cao 1023, 1034, đồi Tròn... Các đơn vị pháo binh bắn thẳng của ta đã vào chiếm lĩnh trận địa đúng vị trí an toàn, sẵn sàng chờ lệnh nổ súng.

15 giờ ngày 21 tháng 4 năm 1972 và liên tiếp trong các ngày 22 và 23 tháng 4, các cụm pháo binh chiến dịch của trung đoàn 40 và trung đoàn 675 tập trung bắn phá căn cứ Tân Cảnh. Đại đội 29 Œ72) lần đầu xuất trận đánh giỏi, bắn trúng tiêu diệt hầu hết xe tăng địch ra phản kích, bắn lộn nhào cả 2 khẩu ĐKZ của địch đặt trên tháp nước trong căn cứ. Toàn bộ lô cốt, boong-ke vòng ngoài trên hướng cửa mở đã bị đạn B72 và đạn ĐKZ bắn thẳng phá hủy. Căn cứ địch mịt mù khói đạn và xăng dầu bốc cháy. Trung tâm thông tin bị phá hủy, chỉ huy sư đoàn 22 phải nhờ mạng chỉ huy của cố vấn Mỹ điều khiển quân lính.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:46:12 am
Đêm ngày 23 tháng 4, từ ngầm Pô Cô Hạ, chín chiếc xe tăng T54 của đại đội 7 xuất kích. Theo đường 50K công binh mới mở(1), xe tăng ta lướt qua quận lỵ Đắc Tô rồi lao thẳng về căn cứ Tân Cảnh. Hơn 30 cán bộ chiến sĩ trung đoàn 66 do tham mưu phó Hoàng Anh Tài chỉ huy đã làm thành những lộ tiêu sống hướng dẫn cho xe tăng ta. Tôi được anh em lái xe tăng kể lại: Khi thấy xe tăng ta xuất hiện, từng dàn máy bay đủ loại từ đâu lao tới ném bom bắn phá. Ngồi trong xe nhìn qua lớp kính dày chiến sĩ lái thấy vỏ thép của những chiếc xe tăng đi trước chốc chốc lại lóe lên sáng chói vì mảnh của những quả bom nổ gần đập vào. Nhưng họ vẫn thấy thấp thoáng trong khói bom những chiến sĩ bộ binh Trần Minh Dần, Phan Bá Nhân, Mai Xuân Hóa... bình thản đi trước mũi xe dẫn đường. Tôi được biết, nhiều anh em đã hy sinh anh dũng, nhiều đồng chí bị thương không đi được nữa vẫn cố leo lên ngồi trên thành xe để tiếp tục chỉ đường.

1 giờ sáng ngày 24 tháng 4, xe tăng ta theo đường 14 thọc qua thị trấn Tân Cảnh tiến về cửa mở hướng đông. Toàn bộ lực lượng địch trong thị trấn sửng sốt, bàng hoàng không kịp đối phó. Chớp thời cơ địch đang hoang mang, tiểu đoàn 9 được đội công tác vũ trang tỉnh Kon Tum do Hồ Thị Lục, quê Quế Long, Quế Sơn, Quảng Nam chỉ huy dẫn đường lập tức tiến công giải phóng thị trấn Tân Cảnh. Các chiên sĩ tiểu đoàn 9 cùng đội công tác vũ trang tỉnh Kon Tum phối hợp chặt chẽ vừa đánh địch vừa kêu gọi nhân dân nổi dậy.

4 giờ 55 phút ngày 24 tháng 4 năm 1972, thị trấn Tân Cảnh hoàn toàn giải phóng, mở ra một địa bàn quan trọng có lợi cho ta đưa lực lượng vào hướng chính (phía đông căn cứ Tân Cảnh).

5 giờ, pháo binh chiến dịch của ta giáng đòn sấm sét cuối cùng xuống căn cứ Tân Cảnh. Được sự chi viện đắc lực của pháo binh, các chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 7 đã phá xong lớp rào cuối cùng ở hướng chính phía đông.

Trên hướng bắc, địch chống trả quyết liệt, một số chiến sĩ bộc phá hy sinh. Đại đội trưởng đại đội 6 Nguyễn Phước Hậu và trung đội trưởng Trần Bá Vinh ôm quả ĐH30(2) lao lên dưới sự chi viện của xe tăng ta. Địch cho bộ binh và xe tăng ra bịt cửa mở, chiến sĩ B40 Bùi Viết Nhần không chần chừ đứng thẳng người lên trước làn đạn kẻ thù bình tĩnh giương súng ngắm và bóp cò. Chiếc xe tăng phản kích bùng cháy, cửa mở được giữ vững.

5 giờ 10 phút, sau ba phát pháo hiệu các chiến sĩ trung đoàn 66 phối hợp cùng xe tăng ào ạt tràn qua cửa mở lần lượt đánh chiếm các mục tiêu bên trong.

Cuộc chiến đấu trong căn cứ Tân Cảnh diễn ra vô cùng ác liệt. Địch cho máy bay oanh tạc dữ dội xuống cửa mở và các khu vực ta vừa chiếm được. Trong bước đường cùng, quân địch trong căn cứ dùng dàn phóng chất độc hóa học bắn hơi ngạt, hơi cay hòng chặn bước tiến quân ta. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7, đảng ủy viên đảng ủy trung đoàn Phan Văn Vượng bị thương nhưng vẫn xông xáo dẫn đầu đội hình tiểu đoàn thọc sâu vào sở chỉ huy địch.

Giữa lúc tình huống diễn biến phức tạp, khẩn trương trung đoàn trưởng Phùng Bá Thường đã có mặt trong căn cứ, trực tiếp chỉ huy bộ đội.

9 giờ 30 phút, từng tốp tù binh vài chục, rồi hàng trăm tên lũ lượt theo cửa mở hướng đông đi ra dưới sự hướng dẫn của bộ đội ta.

Đúng 11 giờ trưa ngày 24 tháng 4 năm 1972, trung đoàn 66 làm chủ hoàn toàn căn cứ Tân Cảnh. Lá cờ giải phóng nửa đỏ nửa xanh giữa có ngôi sao vàng năm cánh do anh Phan Phụ - Bí thư tỉnh ủy Kon Tum trao cho trung đoàn 66 trước lúc xuất quân được Nguyễn Xuân Hòa, tiểu đội trưởng tiểu đội 4 đại đội 2 tiểu đoàn 7 kéo lên phấp phới tung bay giữa trung tâm chỉ huy căn cứ Tân Cảnh.

Toàn bộ quân địch trong căn cứ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Đại tá Lê Đức Đạt, sư đoàn trưởng sư đoàn 22 và viên đại tá cố vấn Mỹ bị bắn chết. Đại tá Vi Văn Bình, sư đoàn phó và một sĩ quan khác chạy trốn cũng bị lính ta bắt làm tù binh. Riêng trung đoàn 66 bắt 429 tù binh có đủ mặt các sắc lính trong căn cứ, bắn rơi 8 máy bay, thu 9 xe tăng, 20 khẩu pháo từ 105 đến 155 ly, gần 100 xe quân sự, hàng vạn quả đạn pháo và toàn bộ kho tàng phương tiện chiến tranh trong căn cứ.

Ngay từ khi thấy khả năng căn cứ Tân Cảnh bị tiêu diệt, Bộ tư lệnh Cánh Đông ra lệnh cho pháo binh chuyển làn bắn phá căn cứ Đắc Tô 2. Tám giờ sáng cùng ngày, trung đoàn 1 (Sư đoàn 2) được lệnh đánh thẳng vào sở chỉ huy trung đoàn 47 ở căn cứ Đắc Tô 2. Theo kế hoạch, 4 xe tăng T54 và 1 pháo cao xạ 57 ly được lệnh rời căn cứ Tân Cảnh theo đường 18 tiến về Đắc Tô 2 phối hợp chiến đấu. Xe tăng 377 gồm có trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển, quê Việt Hùng, Quế Võ, Hà Bắc; Cao Trần Vịnh, lái xe, quê Cao Xá, Phong Châu, Phú Thọ; Vũ Đức Lương, pháo thủ số 1, quê Khải Xuân, Thanh Ba, Phú Thọ; Nguyễn Đức Toàn, pháo thủ số 2, quê Phú Ninh, Phù Ninh, Phú Thọ dẫn đầu vượt nhanh lên trước lao vào giữa đội hình xe tăng địch. Tổ chiến đấu của Nguyễn Nhân Triển tả xung hữu đột diệt hết chiếc này đến chiếc khác, nêu kỷ lục diệt liền một lúc 7 xe tăng M41 của địch ra phản kích. Nhưng vì lực lượng địch quá đông nên xe tăng 377 của ta đã bị đạn chống tăng của địch bắn cháy. Sau này chiến sĩ ta đưa thi hài của bốn anh em trong chiếc xe tăng 377 ra còn phát hiện có cả nắm cơm đã cháy thành thàn mà anh em ta chưa kịp ăn.


(1) Bộ đội công binh đã bí mật cưa trước ba phẩn tư đường kính những cây trên dọc đường rối ngụy trang lại.
(2) Mìn đinh hướng với khối thuốc nổ 30kg dùng để phá rào.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2019, 06:48:49 am
Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2) nhanh chóng đè bẹp sức chống cự cua trung đoàn 47 ngụy, làm chủ căn cứ Đắc Tô 2.

Toàn bộ quân địch ở Tân Cảnh - Đắc Tô đã bị tiêu diệt gồm có: sơ chi huy sư đoàn 22, trung đoàn 42, trung đoàn 47, trung đoàn thiết giáp 14, tiểu đoàn dù 9, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 41), 1 tiểu đoàn pháo binh địch và toàn bộ cơ quan hành chính quận lỵ Đắc Tô và quận lỵ Đắc Sút lưu vong.

Căn cứ Tân Cảnh - Đắc Tô bị tiêu diệt, cụm phòng ngự phía bắc tỉnh Kon Tum sụp để nhanh chóng. Quân ngụy ở các căn cứ trên dải phòng ngự phía tây sông Pô Cô, trên các trục đường 14, 18 từ Diên Bình, Công Hơ Rinh, đến quận lỵ Đắc Tô và Đắc Mót rút chạy tán loạn. Nhiều sĩ quan ngụy trút bỏ áo lính, mặc áo thường dân trà trộn vào dân chạy trốn.

Ở Tân Cảnh - Đắc Tô, lần đầu tiên, bộ đội Tây Nguyên mở chiến dịch tiến công vào tuyến phòng thủ cơ bản mạnh nhất của địch ở bắc Tây Nguyên. Lần đầu tiên bộ đội Tây Nguyên tiêu diệt 1 sư đoàn địch, nhiều trung đoàn, thiết đoàn trong một cụm phòng ngự kiên cố và dày đặc. Lần đầu tiên ta đã giải phóng một khu vực rộng lớn, gần hết một tỉnh và đã đánh bại liên tiếp các đợt phản kích bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. Trong chiến dịch này, nghệ thuật chiến dịch tiến công trận địa với quy mô hiệp đồng binh chủng lớn là bước phát triển có tính chất nhảy vọt, thành phần đánh công sự vững chắc đã trở thành một trong hai thành phần tác chiến cơ bản của phương thức tác chiến chiến dịch. Thắng lợi này mở ra tiền đề cho việc tiến lên công kích và tiêu diệt quân địch phòng thủ thành phố và thị xã ở Tây Nguyên, mở ra khả năng rất hiện thực tiến lên giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.

Cùng thời gian này, trên chiến trường toàn Miền chiến sự diễn ra sôi động, ở Trị - Thiên, quân và dân ta đã đập tan tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch ở đây, đánh chiếm và làm chủ các căn cứ Ái Tử, La Vang, Đông Hà, thành Quảng Trị, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị và khu vực Động Tranh, trực tiếp uy hiếp Thừa Thiên – Huế. Ở miền Đông Nam Bộ, quân và dân ta phá vỡ tuyến phòng ngự biên giới của địch, tiêu diệt 3 chiến đoàn bộ binh (thiếu) và 2 tiểu đoàn thiết giáp (thiếu), giải phóng 3 huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Thiện Ngôn và thị xã An Lộc, mở ra một khu vực rộng lớn và hoàn chỉnh ở miền Đông Nam Bộ thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long. Khối chú lực của ta đã phá vỡ được các khu vực phòng ngự mạnh nhất của địch, đã chiếm và đứng vững trên các địa bàn cơ động vùng rừng núi, giáp ranh va một số vùng quan trọng ở đồng bằng. Ta đã tạo ra dượt một cục diện mới trên chiến trường miền Nam làm thay đổi một phần quan trọng so sánh lực lượng có lợi cho ta mở ra một tình thế cách mạng rất thuận lợi.

Trong cuộc đọ sức lần này, quân ngụy được Mỹ xây dựng theo công thức của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã bị suy yếu sau những cuộc phiêu lưu ở Cam-pu-chia và Đường 9 - Nam Lào, đến đây đang đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Trước tình trạng nguy khốn của quân ngụy Sài Gòn, chính quyền Ních-xơn đã phải tiến hành một chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tức là “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân để chi viện cho quân ngụy phản kích và cho hệ thống cố vấn Mỹ trở lại hoạt động đến cấp trung đoàn, nắm quyền chỉ huy để trực tiếp điều khiển cuộc chiến tranh.

Đối với miền Bắc Việt Nam, ngày 6 tháng 4, tổng thống Ních-xơn quyết định huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân cao nhất từ trước đến lúc bấy giờ(1) đánh phá trở lại miền Bắc, nói là đe trả đũa lại các cuộc tiến công của ta ở miền Nam. Ngày 9 tháng 5, Ních-xơn lại ra lệnh phong tỏa các cảng và vùng biển miền Bắc, tăng cường ném bom hệ thông giao thông trên bộ và đánh phá tất cả các cơ sờ kinh tế và quốc phòng của ta. Ông ta trắng trợn tuyên bố: Thà thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống còn hơn thua trong cuộc chiến tranh này. Âm mưu của họ là bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ ngoài vào nước ta và từ miền Bắc vào miền Nam. Với thủ đoạn thâm độc này Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tính toán rằng chậm nhất trong vòng 3 tháng ta sẽ kiệt quệ và buộc phải thương lượng với họ trên thế yếu.

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ ác liệt hơn, quy mô lớn hơn lần trước đã diễn ra.


(1) Máy bay chiến thuật lúc cao nhất 1.400 chiếc, chiếm tới 40% lực lượng không quân chiến thuật Mỹ. Máy bay chiến lược B52 lúc cao nhất 193 chiếc, chiếm 45% số B52 của cả nước Mỹ. Về tàu chiến, 14 chiếc chiếm 3/4 số tàu chiến của hạm đội 7, trong đó có 5 đến 6 tàu sân bay, chiếm 50% tổng số tàu sân bay của Mỹ. Chỉ tính riêng lực lượng không quản đánh Việt Nam đã bằng lực lượng không quân ba nước manh nhất Tây Âu lúc đó cộng lại là: Anh 600 chiếc, Pháp 475 chiếc, Tây Đức 500 chiếc (số lượng năm 1972).


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:05:27 am
*
*   *

Trở lại tình hình chiến trường Tây Nguyên. Sau khi Đắc Tô - Tân Cảnh bị tiêu diệt, lực lượng địch ở thị xã Kon Tum rất mỏng yếu, số cố vấn Mỹ đã “di tản” về Plây Cu, trong thị xã chỉ có hai tiểu đoàn chủ lực và một số đơn vị bảo an. Đại bộ phận sư đoàn 23 và liên đoàn biệt động quân 6 (mới ở Nam Bộ ra thay cho lữ dù 2) vẫn phải rải quân ra đối phó trên đường 14 đoạn Lam Sơn - Trí Đạo.

Về phía ta, đường 50K chưa nối thông được với đường 14 ở phía bắc, đường 70B cũng chưa vượt qua điểm cao phía tây sông Pô Cô. Việc vận chuyển đạn, gạo và cơ động binh khí kỹ thuật gặp nhiều khó khăn. Ngày 25 tháng 4, Thường vụ Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên họp nhận định: ở Kon Tum địch sơ hở, nhưng ta chưa đủ điều kiện để đánh ngay. Ta cần phải nhanh chóng chuẩn bị vật chất, đường sá và cơ động lưc lương. Dư kiến ngày 10 tháng 5 sẽ tiến công vào thị xã. Đến ngày nổ súng công tác chuẩn bị không kíp nên lại phải kéo thêm thời gian.

Ngày 11 tháng 5, Ngô Du - tư lệnh quân đoàn 2 ngụy bị cách chức, thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn lên thay, việc đầu tiên của viên tư lệnh mới này là điều chỉnh lại lực lượng và đội hình phòng ngự. Toàn cho rút bỏ Krông, bỏ luôn cả quận lỵ Kon Tum (cũ), rút toàn bộ lực lượng sư đoàn 23 về để dựng thành một tuyến phòng ngự mới khá chặt chẽ. Chúng bố trí nhiều cứ điểm nhỏ có công sự vững chắc liên kết chặt chẽ với nhau. Khi pháo ta hắn mạnh, chúng nhanh chóng sơ tán đội hình, sau đó tìm cách dồn đội hình lại để phản kích.

Tình huống diễn ra phức tạp đối với việc tiến công vào thị xã. Thời cơ tiến công không còn thuận lợi nữa. Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Măt trận quyết định phải đánh địch bằng hai bước: tiêu diệt bộ phận một bộ phận quan trọng sinh lực sư đoàn 23 ở vùng ven, sau đó mới tiến công vào nội thị.

Ngày 14 tháng 5, trung đoàn 64 và trung đoàn 28 bắt đầu tiến công vào vành ngoài của trung đoàn 44 và trung đoàn 45. Qua 12 ngày đêm chiến đấu liên tục trung đoàn 64 và trung đoàn 28 đã phá vỡ một khu vực phòng ngự của địch ở tây bắc thị xã Kon Tum, đẩy chúng co về phía đông suối Đắc Lây.

Sáng ngày 25 tháng 5, tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 6 (sư đoàn 2) cùng đại đội 209 của thị đội Kon Tum tiến vào thị xã từ hướng đông nam. Trung đoàn 1 (sư đoàn 2), đại đội 3, tiểu đoàn đặc công 10 cùng xe tăng đột phá từ hướng đông bắc đánh vào thị xã. Các mũi tiến công của Sư đoàn 2 và lực lượng vũ trang tỉnh Kon Tum đã đánh chiếm được khu hành chính tỉnh, sở chỉ huy trung đoàn 44, kho 40, 41, bệnh viện dã chiến và hai phần ba biệt khu 24. Một bộ phận của trung đoàn 28 cũng đánh vào thị xã nhưng không phát triển được. Quân địch điên cuồng chống cự, chúng tập trung pháo binh và máy bay đánh phá ác liệt vào các khu vực có quân ta. Địch sử dụng cả bom phá, bom bi, bom na-pan, hóa chất độc và tung xe tăng, bộ binh phản kích giành giật với ta từng căn nhà góc phố. Bộ tư lệnh mặt trận phải điều chỉnh lại đội hình chiến đấu và cho thêm trung đoàn 66 vào bên trong thị xã để tiếp tục tiến công nối liền các khu đã chiếm thành một khu vực lớn hơn.

Ngày 30 tháng 5 năm 1972, đích thân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng viên tư lệnh quân đoàn 2 Nguyễn Văn Toàn đáp máy bay đến Kon Tum động viên binh lính của họ “tử thủ” thị xã này

Về phía ta, bộ đội vẫn kiên cường bám trụ quyết giữ vững vị trí đã chiếm được, nhưng sức chiến đấu giảm dần do thương vong nhiều, gạo, đạn thiếu. Thêm vào đó mùa mưa đã ập đến, việc tiếp tế qua sông Pô Cô bị cản trở.

Đêm ngày 5 tháng 6 năm 1972, xét thấy những điều kiện để tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong thị xã Kon Tum không còn nữa, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định cho các đơn vị lui quân(1).

Có một sự kiện cần nói thêm, sau khi lực lượng ta rút, ngày 9 tháng 6 năm 1972, Giôn Pôn-van - trưởng cố vấn Mỹ ở quân đoàn 2 ngụy lên thị sát thị xã Kon Tum bằng máy bay lên thẳng, khi quay về máy bay của ông ta bị bộ đội phòng không trung đoàn 40 bắn rơi trên đường 14. Giôn Pôn-van là nhân vật quan trọng thứ ba của Mỹ ở Việt Nam sau đại sứ Bân-cơ và tướng Oét-mo-len.


(1) Những khuyết điểm trong trận đánh không thành công này (chuẩn bị không chu đáo trong đó nổi lên là công tác thiết bị chiến trường và công tác đảm bảo vật chất, khi đánh vào thị xã việc chỉ huy không sát dưới, thiếu chặt chẽ…) là bài học võ lòng trong tiến công vào thị xã được chúng tôi ghi nhớ sâu sắc và đã làm tốt trong cuộc tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột sau này.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:06:28 am
*
*   *

Tháng 6 năm 1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và nhận định: Đế quốc Mỹ đã trắng trợn gây trở lại chiến tranh phá hoại trên miền Bắc nước ta, đánh phá bằng không quân và hải quân trên quy mô lớn. Chúng âm mưu ngăn chặn cuộc tiến công và nổi dậy nhằm hạn chế thắng lợi của quân và dân ta, cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, cố giữ cho cục diện chiến trường miền Nam không xấu hơn đối với chúng... Mặt khác cũng do tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp mới. Nhân dân phải luôn luôn vững vàng nâng cao cảnh giác, tích cực đề phòng, tiếp tục chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận chúng tôi chủ trương tập trung củng cố bộ đội, bố trí lại thế trận chiến dịch cho phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu tiêu diệt địch, giành dân, bảo vệ vùng giải phóng với khả năng và cơ sở vật chất hiện có.

Tháng 6 năm 1972, Bộ điều Sư đoàn 2, trung đoàn 52 (Sư đoàn 320) và trung đoàn công binh 83 về Quân khu 5.

Đầu tháng 7 năm 1972, Sư đoàn 320 (thiếu) hành quân vào tây nam thị xã Plây Cu, đứng chân trên địa bàn huyện 4 và huyện 5 tỉnh Gia Lai, chủ yếu trên trục đường 14 đoạn từ Hòn Rồng đi bắc Phú Nhơn và trên đường 19 từ ngả ba Hòn Rồng đoạn nối đường 14 qua Thanh An lên Đức Cơ, mở mặt trận mới ở đây.

Trung đoàn 24 được điều vào khu vực Cheo Reo, Phú Thiện. Cũng vào thời điểm này Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết địch thành lập trung đoàn 25, đứng chân ở bắc Buôn Ma Thuột.

Trên Mặt trận Cánh Đông chỉ còn lại ba trung đoàn 28, 66, 95, một số tiểu đoàn pháo binh và binh chủng kỹ thuật. Trung đoàn 66 và trung đoàn 28 cùng lực lượng pháo binh thay phiên nhau vừa củng cố huấn luyện, vừa tiếp tục bao vây thị xã Kon Tum, tiêu diệt địch nống ra bảo vệ vùng giải phóng. Trung đoàn 95 cùng lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Gia Lai tiếp tục đánh giao thông, từng thời gian làm chủ đường 14, cô lập thị xã Kon Tum, uy hiếp thị xã Plây Cu.

Sau đòn tiến công Xuân Hè của ta, quân ngụy ở Tây Nguyên đã lún sâu vào thế bị động lúng túng. Chúng không còn khả năng mở những cuộc hành quân lớn và buộc phải lui về cố thủ thị xã và những căn cứ quân sự hiểm yếu ở vùng ven.

Lực lượng cách mạng ở Tây Nguyên đã có bước trưởng thành vượt bậc, vùng giải phóng rộng lớn nối liền ba tỉnh Kon Tum Gia Lai, Đắc Lắc nay được mở rộng và củng cố vững chắc. Cơ sở chính trị vùng giải phóng và trong vùng địch tạm thời kiểm soát không ngừng phát triển vững mạnh. Lực lượng vũ trang địa phương đã trưởng thành, có khả năng độc lập tác chiến, tiêu diệt gọn từng đại đội địch trong và ngoài công sự. Nhiều đội công tác vũ trang, biệt động đã được thành lập và bước vào hoạt động mạnh trong các thị xã, thị trấn là mối lo sợ thường xuyên đối với kẻ thù.

Thời gian này, đường hành lang chiến lược từ miền Bắc vào Tây Nguyên đang bị máy bay Mỹ đánh phá ngăn chặn ác liệt nhưng chúng cũng không thể ngăn nổi sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Cuối tháng 8 năm 1972, chính cơ quan tình báo Mỹ đã báo cáo với tổng thống Ních-xơn rằng: Mặc dù ném bom rất ác liệt, vẫn không giảm được một cách có ý nghĩa việc đưa người và trang bị vào miền Nam Việt Nam. Mạng đường chiến dịch của ta đã bảo đảm cho xe cơ giới đưa binh khí kỹ thuật đến sát vùng ven thị xã. Lượng dự trữ hậu cần đã đáp ứng cho đánh tập trung hiệp đồng binh chủng. Tình hình đó đặt ra cho lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên phải có nhiều hơn nữa các đơn vị tập trung đủ sức đánh thẳng vào các cụm cứ điểm lớn, các thị xã, thành phố nhằm tiêu diệt lớn quân địch, giải phóng đất đai, giải phóng nhân dân, tạo nên bước phát triển mới trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh giải phóng.

Được sự chuẩn y của Quân uy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, ngày 20 tháng 9 năm 1972, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập Sư đoàn 10. Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Cánh Đông được chuyển thành Bộ tư lệnh và cơ quan sư đoàn. Anh Nguyễn Mạnh Quân giữ chức sư đoàn trưởng, tôi (Đặng Vù Hiệp) giữ chức chính ủy, anh Hồ Đệ, giữ chức sư đoàn phó, anh Ngọc Châu giữ chức phó chính ủy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:06:54 am
Cơ quan tham mưu: anh Trần Quốc Biên - tham mưu trưởng, anh Phùng Bá Thường - tham mưu phó; tác chiến, anh Đặng Dự Nhượng; trinh sát, anh Nguyên Thiềng; thông tin, anh Lê Đức Đệ; quân lực, anh Phan Viết Phùng; đặc công, anh Văn Đình Dụ; công binh, anh Lê Hữu Công; pháo binh, anh Võ Khắc Phụng và anh Hoàng Tong.

Cơ quan chính trị: anh Nguyễn Đằng, chủ nhiệm; anh Bùi Tố Tọa, phó chủ nhiệm; tuyên huấn, anh Nguyễn Chính Yên; tổ chức anh Lê Văn Thọ; cán bộ, anh Lê Sỹ Nam; bảo vệ, anh Nguyễn Hường; chính sách, anh Phan Bá Hoành; dân vận, anh Phạm Tiến Thạnh; địch vận, anh Trần Tế Thế.

Cơ quan hậu cần anh Đặng Văn Khoát, chủ nhiệm; anh Nguyễn Văn Dần và anh Nguyễn Duy Tiến, phó chủ nhiệm; kế hoạch, anh Nguyễn Tiến Cảnh; quân nhu, anh Nguyễn Đình Bí; quân giới, anh Phạm Văn Tiễn; quân y, anh Nguyễn Duy Tỷ; trợ lý tài vụ, anh Mai Văn Kim; trưởng ban sản xuất, anh Đặng Phái.

Đảng ủy sư đoàn có 9 người: Tôi (bí thư), anh Quân (phó bí thư); anh Châu, anh Đệ, anh Biên, anh Thường, anh Đằng, anh Tọa và anh Tiến, đảng ủy viên.

Như vậy, Bộ tư lệnh và cán bộ cơ quan sư đoàn hầu hết là cán bộ chủ chốt các ngành của cơ quan Mặt trận Tây Nguyên - những cán bộ có nhiều kinh nghiệm, am hiểu đơn vị và quen thuộc chiến trường.

Hôm họp mặt công bố quyết định thành lập anh Hồ Đệ ngẫu hứng đọc bài thơ:

      Trông ra người cũ việc xưa
      Lâu ngày xa vợ bây giờ hóa sư
      Luận bàn tính chuyện binh thư
      Trả váy cho sãi để sư mặc quần


Chúng tôi vỗ tay tán thưởng. Suy ra đúng thật, vẫn những con người ấy (Mặt trận Cánh Đông), có khác chăng đó là “trả váy cho sãi để sư mặc quần”.

Các trung đoàn trong sư đoàn đều là những đơn vị có truyền thống chiến đấu tốt, nhiều năm gắn bó với chiến trường.

Trung đoàn 66 do anh Võ Quang Tịnh - trung đoàn trưởng; anh Bùi Sĩ Dũng - chính ủy; anh Phạm Văn Vượng và anh Nguyễn Đình Kiệp - trung đoàn phó; anh Trịnh Hữu Tân - phó chính ủy. Cơ quan tham mưu, anh Bùi Thanh Hiêm - tham mưu trưởng. Cơ quan chính trị, anh Nguyễn Trung Nhung - chủ nhiệm; cơ quan hậu cần, anh Đỗ Văn Kế. Trung đoàn 66 có 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn 7, anh Long Hứa Ho - tiểu đoàn trưởng, anh Lê Văn Bẩy - chính trị viên; tiểu đoàn 8, anh Nguyễn Văn Xuyên - tiểu đoàn trưởng, anh Dương Đình Sơn - chính trị viên; tiểu đoàn 9, anh Nguyễn Văn Điểm - tiểu đoàn trưởng, anh Đào Huy Chư - chính trị viên.

Trung đoàn 95 do anh Huỳnh Nghĩ - trung đoàn trưởng; anh Lê Quang Mỹ - chính ủy; anh Phùng Văn Bẩy - trung đoàn phó; anh Trần Thể - phó chính ủy. Cơ quan tham mưu, anh Nguyễn Hữu Tình - tham mưu trưởng; anh Trương Văn Việt - tham mưu phó. Cơ quan chính trị, anh Nguyễn Hữu Vân - chủ nhiệm; anh Đinh Nguyên - phó chủ nhiệm. Cơ quan hậu cần, anh Trịnh Nhất - chủ nhiệm; anh Nguyễn Khắc Phu - phó chủ nhiệm. Tiểu đoàn 4, anh Ma Thanh Toàn - tiểu đoàn trưởng; anh Đặng Quốc Sở - chính trị viên. Tiểu đoàn 394, anh Chu Minh Thực - tiểu đoàn trưởng; anh Phan Phức - chính tri viên. Tiểu đoàn 61, anh Phương Đức Trường- tiểu đoàn trưởng; anh Đào Văn Nam - chính trị viên.

Trung đoàn 28, anh Nghiêm Xuân Núi - trung đoàn trưởng; anh Nguyễn Hữu Hưu - chính ủy; anh Vũ Đình Thước, anh Vũ Khắc Đua - trung đoàn phó. Tiểu đoàn 1, anh Nguyễn Mạnh Lập - tiểu đoàn trưởng; anh Trần Văn Ngữ - chính trị viên. Tiểu đoàn 2, anh Nguyễn Văn Lục - tiểu đoàn trưởng; anh Lê Xuân Thanh – chính trị viên. Tiểu đoàn 3, anh Lê Ngọc Tùng - tiểu đoàn trưởng; anh Nguyễn Tiến Tứ - chính trị viên.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:07:14 am
Các đơn vị trực thuộc: tiểu đoàn 30, anh Hoàng Sĩ Miêu – tiểu đoàn trưởng, anh Trần Văn Toàn - chính trị viên; tiểu đoàn 32 anh Nguyễn Bá Ngôn - tiểu đoàn trưởng, anh Phạm Hồng Đức - chính trị viên; tiểu đoàn 31 (công binh), anh Nguyễn Văn Du - tiểu đoàn trưởng, anh Bùi Quang Kỳ - chính trị viên; tiểu đoàn 37 (đặc công), anh Đỗ Công Mùi - tiểu đoàn trưởng, anh Nguyên Thành Lộc - chính trị viên; tiểu đoàn 26 (thông tin), anh Vũ Quốc Hội - tiểu đoàn trưởng, anh Trần Thanh Mạch - chính trị viên; tiểu đoàn 25 (vận tải), anh Nguyễn Xuân Quý - tiểu đoàn trưởng, anh Vũ Thanh Sơn - chính trị viên: tiểu đoàn 29 (quân y), anh Phạm Hanh - tiểu đoàn trưởng, anh Nguyễn Khoáng - chính trị viên; tiểu đoàn 21 (thu dung), anh Nguyễn Văn Hòa - tiểu đoàn trưởng, anh Nguyễn Ngọc Hiến - chính trị viên.

Tôi chủ ý ghi lại tất cả tên những cán bộ Sư đoàn 10 chủ trì từ tiểu đoàn đến sư đoàn có mặt ngay từ buổi đầu thành lập, bởi vì trong số những người này có anh đã nằm lại ở Tây Nguyên, tên còn khắc trong nhà bia tưởng niệm. Có anh đã ngã xuống trên đường truy kích địch trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975. Có anh hy sinh ngay từ ngày đầu cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam.

Có người trở thành anh hùng, tướng lĩnh và không ít người đã trở về với cuộc sống đời thường. Nhưng đối với tôi, những gương mặt ấy mãi mãi không thể phai mờ trong ký ức.

Nhiệm vụ của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên giao cho Sư đoàn 10 là: Xây dựng sư đoàn tinh nhuệ theo phương hướng chính quy, hiện đại, một mặt phụ trách địa bàn, đồng sàng cơ động tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Đánh giỏi các hình thức chiến thuật, tiêu diệt chiến đoàn, trung đoàn địch là phổ biến, góp phần tích cực tiêu diệt sư đoàn địch. Đã sử dụng vào đâu là giải quyết được nhiệm vụ chiến dịch ở đó. Đã đánh chỗ nào là phải thắng và tiêu diệt triệt để nhanh gọn nhất với bất kỳ đối tượng nào. Phải làm tốt cả nhiệm vụ quân sự và nhiệm vụ chính trị ở trong nước cũng như khi làm nhiệm vụ quốc tế.

Sư đoàn thành lập giữa lúc các đơn vị đang làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng trên một vòng cung hơn một trăm ki-lô-mét từ thị xã Kon Tum chạy dài đến phía tây thị xã Plây Cu. Trung đoàn 28 và đại bộ phận các đơn vị binh chủng kỹ thuật đứng chân ở Trí Đạo - Võ Định, đánh địch lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng ở khu vực này. Trung đoàn 95 tiếp tục đánh cắt giao thông trên đường 14 đoạn Chư Pao - Chư Thoi; đồng thời bảo vệ vùng giải phóng huyện 3 và huyện 4 tỉnh Gia Lai. Riêng trung đoàn 66 được rút về củng cố, chuẩn bị cho nhiệm vụ mới.

Để sư đoàn có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn chúng tôi chủ trương trước hết tập trung xây dựng và củng cố vững chắc hệ thống tổ chức Đảng, đặc biệt là các chi bộ ở đại đội trên cơ sở đẩy mạnh cuộc vận động “nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh”; đồng thời giải quyết đúng đắn vấn đề sắp xếp cán bộ, mạnh dạn đề bạt và bổ nhiệm cán bộ trẻ đã được thử thách trong chiến đấu. Điều chỉnh một số cán bộ giữa các trung đoàn và giữa đơn vị với cơ quan làm giảm bớt sự chênh lệch giữa các trung đoàn bộ binh. Kiên quyết rút cán bộ các cấp thay nhau tập huấn quân sự. Đưa công tác huấn luyện vào nền nếp, xây dựng chế độ chính quy, kết hợp giữa huân luyện với rèn luyện kỹ thuật và tác phong chiến đấu cho bộ đội.

Phương châm của chúng tôi là tác chiến đi đôi với xây dựng xây dựng theo yêu cầu của tác chiến. Vì vậy, trong khi lấy nhiệm vụ trước mắt làm yêu cầu trực tiếp để xây dựng thì đồng thời chúng tôi quan tâm đến nhiệm vụ cơ bản của chiến trường. Chúng tôi ý thức rằng con đường phát triển tất yếu của bộ đội chủ lực là tác chiên hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Chúng tôi nắm vững phương hướng đó và đã kiên trì xây dựng bộ đội theo phương hướng đó.

Thời gian này, nhiều cán hộ chiến sĩ ưu tú được đứng trong độí ngũ của Đảng. Một trăm phần trăm đại đội có chi bộ, hầu hết các trung đội có tổ đảng. Nhiều lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho đảng viên và cấp ủy được mở, có lớp tổ chức ngay trận địa chốt.

Mặc dù trong điều kiện chiến đấu khẩn trương vả còn nhiều khó khăn về các mặt, Đảng Bộ tư lệnh sư đoàn vẫn kiên quyết thành lập tiểu đoàn huấn luyện làm nhiệm vụ tập huấn thương xuyên cho cán bộ các cấp trong sư đoàn. Một trăm phần trăm số cán bộ từ đại đội đến trung đoàn, cán bộ chủ chốt của cơ quan trung đoàn, sư đoàn đã qua các lớp tập huấn này.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:07:41 am
Đi đôi với công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn còn quan tâm giải quyết công tác hậu cẩn, kỹ thuật một cách kiên quyết và toàn diện. Các đơn vị chuyên môn kỹ thuật được điều chỉnh, cải tiến và được bồi dưỡng, huấn luyện bổ sung. Công tác nuôi quân, phòng bệnh, chế độ cấp phát, điều trị nuôi dưỡng thương bệnh binh được quan tâm và kiểm tra chu đáo. Phong trào tăng gia sản xuất, chăn nuôi gia súc, gia cầm đã đi vào chiều sâu và có bước phát triển tạo nên khả năng và sức mạnh chiến đấu mới của sư đoàn.

Ngày 28 tháng 9 năm 1972, tôi được trên thông báo: Để thúc đẩy cuộc đàm phán hòa bình về Việt Nam đã sau 4 năm không tiến triển được, sắp tới ta sẽ đưa ra bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Chúng tôi hội ý Thường vụ và thống nhất: Qua nhiều năm ở chiến trường, tình hình chính trị, tư tưởng của bộ đội diễn biến qua các thời kỳ thường theo một quy luật là trước mỗi bước ngoặt lớn của cách mạng, của chiến trường thì nhận thức tư tưởng thường không theo kịp, dẫn đến sự thiếu kiên định vững vàng về đường lối và ý chí lại xuất hiện. Sự chao đảo đó diễn ra dài hay ngắn, đơn giản hay phức tạp là tùy thuộc vào sự lãnh đạo chủ quan của mỗi cấp, mỗi đơn vị. Nếu lãnh đạo đơn vị nào kiên định, nhạy bén thì sẽ nhanh chóng đưa cán bộ chiến sĩ trở về vị trí của mình, tình hình lại phát triển đi lên. Sự kiên định vững vàng và tiến bộ đi lên của lần sau thường cao hơn và vững chắc hơn lần trước. Mỗi đỉnh cao của thắng lợi trên mặt trận tư tưởng thường là nguyên nhân và gắn liền với những đỉnh cao về thắng lợi quân sự trên chiến trường. Do vậy, trước bước ngoặt mới chúng tôi chủ trương tiếp tục giáo dục quán triệt đường lối nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm chiến đấu, đảm bảo cho bộ đội trên chiến trường tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn luôn đáp ứng và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị của chiến trường. Trước mắt, tranh thủ thời cơ địch dao động mà tiến công mạnh tiêu diệt nhiều sinh lực và giải phóng nhiều đất đai. Đi đôi với tấn công địch phải có kế hoạch giữ vững vùng giải phóng. Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực không thể hạn chế phong trào của quần chúng nhân dân mà tiếp tục phát triển rộng khắp. Cán bộ chiến sĩ sư đoàn phải tích cực tham gia phát động quần chúng phá vỡ tề ngụy, nổi dậy đấu tranh hợp pháp.

Cần giáo dục tinh thần cảnh giác sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động quân sự của địch; làm cho bộ đội nắm vững cả hai khả năng: tiếp tục chiến tranh và chiến tranh chấm dứt, không để bất ngờ về tư tưởng, gây ra ảo tưởng hòa bình.

Dù chiến tranh phát triển theo khả năng nào, trong tháng 10 và tháng 11 chúng tôi cũng quyết nỗ lực cải biến cục diện theo phương hướng vùng liên hoàn, bố trí lực lượng theo thế tấn công địch, giữ vững và mở rộng hành lang tiếp tế.

Nhằm hoàn chỉnh vùng giải phóng phía bắc tỉnh Kon Tum đồng thời mở thông đường hành lang vận chuyển xuống hướng đông, đầu tháng 10 năm 1972 Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên giao cho Sư đoàn 10 tiêu diệt căn cứ Plây Cần. Plây Cần còn gọi là Bến Hét nằm án ngữ trên đường 18 Tân Cảnh đi A-tô-pơ (nước Lào) gần vùng ba biên giới. Căn cứ này do Mỹ xây dựng từ năm 1967. Lợi dụng những điểm cao đột xuất, được suối và đầm lầy bao quanh ba mặt với chiều dài 4 km và rộng 3 km, địch xây dựng năm cứ điểm có công sự hầm ngầm vững chắc và vật cản dày đặc. Mỗi điểm mang tính chất độc lập phòng ngự; đồng thời có khoảng cách nhất định chi viện cho nhau nằm trong kế hoạch phòng thủ hoàn chỉnh, Trong căn cứ có tiểu đoàn biệt động biên phòng số 95, 1 chi đội xo tăng 3 chiếc, 1 trận địa pháo cối hỗn hợp (6 khẩu 105 ly, 2 khẩu 155 ly, 2 khẩu cối 106,7 ly), có sân bay dùng cho máy bay C130 lên xuống được. Ngoài ra trong căn cứ còn có hệ thống kho tàng đủ nuôi sống quân địch ở đây trong vòng 6 tháng.

Tháng 4 năm 1972, khi cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh bị ta tiêu diệt, toàn bộ quân địch chiếm giữ trên dãy điểm cao phía tây sông Pô Cò đều bỏ chạy. Riêng căn cứ Plây Cần quân địch vẫn ngoan cố chiếm giữ. Chúng hy vọng với địa hình có lợi lại được tổ chức phòng ngự chặt, công sự vững chắc và hỏa lực mạnh chúng có thể giữ được Plây Cần làm bàn đạp để tái chiếm Đắc Tô - Tân Cảnh.

Bộ tư lệnh sư đoàn sử dụng trung đoàn 66, được tăng cường tiểu đoàn đặc công 37 với sự chi viện của pháo binh có nhiệm vụ tiêu diệt cụm cứ điểm Plây Cần.

Rút kinh nghiệm trận đánh ngày 9 tháng 5 năm 1972 của trung đoàn 66 vào cứ điểm này không thành, lần này Bộ tư lệnh sư đoàn đã phân tích kỹ và cho rằng trong đánh công sự vững chắc phải đặc biệt nghiên cứu vấn đề đột phá. Muốn đột phá thành công phải triệt hỏa lực, đặc biệt là hỏa lực bắn thẳng và phải phá được hệ thống chướng ngại vật dây thép gai và mìn của địch. Để triệt hỏa lực bắn thẳng thì vấn đề tổ chức hỏa lực ngắm bắn trực tiếp đánh sập hệ thống công sự tiền duyên của địch là cơ bản nhất. Lần này chúng tôi chỉ đạo cho các tiểu đoàn pháo binh đưa pháo vào gần đồn địch ngắm bắn trực tiếp chi viện cho bộ binh mở cửa.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:08:07 am
Việc đưa pháo cơ giới vào gần bắn thẳng chi viện cho bộ binh mở cửa đã làm bùng nổ nhiều cuộc tranh luận trong các đơn vị pháo 105 ly và pháo 85 ly nòng dài. Thời gian gấp, trận địa đặt trên đồi cao, đường không có làm thế nào đưa những khẩu pháo nặng hàng tấn lên được. Sau những cuộc trao đổi, hiến kế các chiến sĩ pháo binh đã tìm ra cách giải quyết: tháo rời các bộ phận pháo để khiêng vác đưa lên trận địa. Được sự nhất trí của Tư lệnh sư đoàn, các đồng chí pháo thủ, quân giới bắt tay ngay vào công việc tháo pháo. Các đơn vị công binh tranh thủ ngày đêm chặt cây, đánh bậc mở đường. Trung đoàn 66 cử 60 cán bộ chiến si khỏe khiêng vác pháo vào trận địa.

10 giờ sáng ngày 12 tháng 10 năm 1972, anh Nguyễn Mạnh Quân - Tư lệnh sư đoàn ra lệnh nổ súng. Hai trận địa pháo Đ74 và trận địa pháo 155 ly (pháo thu được ở Tân Cảnh) đột ở Đắc Mót bắt đầu bắn phá các mục tiêu bên trong căn cứ.

Phối hợp với pháo tầm xa, 2 khẩu pháo 105 ly đặt trên điểm cao 755 và 976 ở phía nam căn cứ được lệnh bắn. Đạn 105 ly bắn thảng lần lượt phá nát những công sự, lô cốt ở tuyến ngoài. Tiếng nổ và sức công phá của đạn pháo bắn thẳng làm cho quân địch ở sườn phía nam không chịu nối, hốt hoảng chạy dạt sang sườn phía bắc. Vừa lúc đó 2 khẩu pháo 85 ly nòng dài đặt trên ngọn Ngọc Pếch bắt đầu nã đạn vào từng lô cốt địch.

Chớp thời cơ quản địch đang hoang mang rối loạn, từ các hướng trung đoàn 66 và tiểu đoàn 37 ôm mìn và bộc phá xông lên mở cửa, đánh chiếm căn cứ địch. Sau 3 giờ chiến đấu tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn dặc công 37 đánh chiếm và làm chủ khu A, khu B, khu C. Đại đội đặc công 60 (trung đoàn 66) làm chủ khu E. Trên hướng tiểu đoàn 9, bộ đội dùng phương tiện phá rào FR mở cửa, đánh chiếm đồi Củ Lạc (khu D), vị trí cuối cùng của cụm cứ điểm Plây Cần. Sau 15 phút bộ đội ta làm chủ hoàn toàn trận địa.

Một bộ phận quân địch tháo chạy được ra ngoài, gọi máy bay lên thẳng tới cứu. Ba chiếc HU1A từ Kon Tum bay lên. Hai chiếc hạ cánh bốc đồng bọn, vừa lúc tiểu đoàn 37 truy kích đến kịp thời nổ súng. Một chiếc bốc vội vài tên, chiếc còn lại nằm chết gí tại chỗ, bị chiến sĩ ta tiêu diệt và bắt gọn.

Trọn một ngày chiến đấu, trung đoàn 66 và tiểu đoàn 37 được sự chi viện của pháo binh sư đoàn đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Plây Cần, diệt 404 tên, bắt 40 tên, bắn rơi và phá hủy 6 máy bay, thu 6 pháo 105 ly, 2 pháo 155 ly và 2 súng cối 106,7 ly, 3 xe tăng và toàn bộ kho tàng trong căn cứ.

Sau khi diệt xong căn cứ Plây Cần, chúng tôi dự kiến có thể sẽ phải giải quyết tiếp căn cứ Đắc Xiêng đang bị cô lập nên một mặt chỉ thị cho trung đoàn 66 hành quân về phía nam cùng trung đoàn 95 mở mặt trận mới, mặt khác chủ động tổ chức một bộ phận cán bộ, trinh sát do anh Trần Quốc Biên chỉ huy đi Đắc Xiêng nghiên cứu xây dựng phương án tác chiến.

Thời gian này tại Hội nghị Pa-ri, phía ta đã đưa ra “Bản dự thảo về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” nhằm đưa cuộc đàm phán kéo dài đi đến kết quả. Chính tổng thống Mỹ Ních-xơn cũng phải xác nhận trong thông điệp của ông ta gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng rằng: Văn bản hiệp định có thể xem là đã hoàn thành và phía Mỹ thỏa mãn về những giải thích của Chính phủ Việt Nam. Nhưng do bản chất ngoan cố và hiếu chiến họ luôn tìm cách giành thắng lợi trên thế mạnh quân sự và dù thua Oa-sinh-tơn vẫn nuôi ý đồ khẳng định vai trò lãnh đạo “thế giới tự do” và răn đe các nước khác. Do vậy, mặc dù đã thỏa thuận về bản dự thảo hiệp định nhưng tổng thống Ních-Xơn tìm cách trì hoãn ký vào cuối tháng 10 chờ kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11 năm 1972 với lý do Nguyễn Văn Thiệu phản đối hiệp định. Tiếp đó, ngày 23 tháng 10, phía Mỹ lật lọng đòi thay đổi nhiều vấn đề mà các bên tham gia hội nghị đã thỏa thuận. Trong khi đó, ở miền Nam, Mỹ ồ ạt đưa vũ khí và phương tiện chiến tranh cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và thúc ép quân ngụy phản kích chiếm lại một số vị trí quan trọng về quân sự để mặc cả với ta ở Hội nghị Pa-ri.

Trước hành động ngoan cố của Mỹ, ngày 23 tháng 10 năm 1972 Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Mặt trận Tây Nguyên phải đánh Đắc Xiêng ngay, phối hợp với chiến trường toàn Miền tiêu diệt địch, đẩy chúng lún sâu hơn nữa vào thế thua, thế bị động, góp phần đập tan mưu đồ đàm phán trên thế mạnh của địch.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:08:32 am
Bộ tư lệnh sư đoàn chúng tỏi quyết định sử dụng trung đoàn 66 vào trận đánh tiêu diệt căn cứ Đắc Xiêng. Trên đường hành quân về phía nam, trung đoàn 66 nhận được lệnh quay trở lại. Cán bộ chiến sĩ trung đoàn quyết định đi cả ngày lẫn đêm rút ngắn thời gian từ 7 ngày xuống 5 ngày, tới vị trí là triển khai chiến đấu ngay.

Ngày 29 tháng 10 năm 1972, được pháo binh bắn thẳng chi viện, các chiến sĩ trung đoàn 66 dùng mìn định hướng phá rào, mở cửa rồi đồng loạt xung phong. Trận đánh diễn ra trong 30 phút, trung đoàn hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt 220 tên, bắt 45 tên, thu 4 pháo 105 ly, 1 súng cối 106,7 ly và toàn bộ vũ khí kho tàng trong căn cứ.

Trước đó, ngày 26 tháng 10, trung đoàn 28 được tăng cường 2 khẩu pháo 105 ly, 1 khẩu cối 120 ly, 2 khẩu cao xạ 14,5 ly, 2 khẩu súng máy 12,7 ly có nhiệm vụ tiêu diệt tiểu đoàn 3 trung đoàn 53 ở tây nam Ngọc Quăn và Kon Trang Kla. Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 10 năm 1972, bằng hình thức chiến thuật “vận động bao vây tiến công liên tục” có sự hiệp đồng binh chủng bộ - pháo, trung đoàn 28 đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 3 (trung đoàn 53 ngụy), giải phóng một vùng đất rộng ở tây bắc thị xã Kon Tum.

Trên mặt trận đường 19, Sư đoàn 320 đã chọn khu vực Đức Cơ làm nơi quyết chiến; bởi vì quân địch muốn tiến công ra vùng giải phóng chúng phải khai thông con đường 19 nối liền tuyến Thanh An - đồn Tầm - Chư Bồ - Đức Cơ, trong đó Đức Cơ được coi là lá chắn phía tây bắc Plây Cu. Căn cứ Đức Cơ được Mỹ xây dựng từ năm 1965, là trung tâm huấn luyện biệt kích, do tiểu đoàn biệt động biên phòng 81 chiếm giữ. Trong căn cứ có lô cốt bê tông vững chắc, hầm ngầm kiên cố, có sân bay dã chiến khá tốt, máy bay C130 có thể lên xuống được.

Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 chọn phương án vừa vây ép Đức Cơ vừa kéo địch ra mà đánh buộc địch phải rơi vào tình thế liên tục đối phó, khi thời cơ xuất hiện thì tiến công dứt điểm căn cứ Đức Cơ.

Sau 47 ngày đêm liên tục chiến đấu, đến ngày 2 tháng 11 năm 1972, tiểu đoàn 631 và tiểu đoàn 3 (trung đoàn đặc công 400) được pháo binh chi viện đã dùng mìn định hướng ĐH35 và bộc phá mỏ cửa, tiến công làm chủ căn cứ Đức Cơ. Phát huy thắng lợi, ngày 3 tháng 11, Sư đoàn 320 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiếp tục đánh địch giải phóng toàn bộ khu vực lòng chảo Đức Cơ, Chư Bồ.

Ở khu vực tam giác Phú Nhơn - Phú Mỹ - Mỹ Thạnh, Sư đoàn 320 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt căn cứ 43, diệt 2 ban chỉ huy hành quân Phú Nhơn và tiểu khu Plây Cu giải phóng được 9 làng trên trục đường 14 từ Phú Mỹ đến bắc Phú Nhơn với hơn 1.000 dân.

Tôi còn nhớ, trước hành động dây dưa, lật lọng của phía Mỹ ở Hộị nghị Pa-ri, ngày 27 tháng 11 năm 1972, Bộ Tổng tư lệnh đã nhận định: Có nhiều khả năng Mỹ sẽ đánh phá trở lại miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả việc dùng B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội-Hải Phòng, do đó nhiệm vụ của Quân chủng Phòng không - Không quân là tập trung mọi khả năng nhằm đúng đối tượng B52 mà tiêu diệt.

Đúng như dự đoán, sau khi tái cử tổng thống nước Mỹ (ngày 8 tháng 11 năm 1972), Ních-xơn đã ngang ngược trở giọng đe dọa, phá ngang, làm cho cuộc đàm phán bị bỏ dở và đến ngày 18 tháng 12 ông ta đã trắng trợn ra lệnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn vào miền Bắc nước ta, lấy tên là “Chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ II”.

Hành động leo thang đánh phá tàn bạo của Mỹ đã bị quân và dân ta ở miền Bắc, nhất là quân và dân Hà Nội trừng trị đích dáng.

Phối hợp với quân dân Thủ dô Hà Nội và miền Bắc thân yêu, quân và dân miền Nam dồn dập mở nhiều cuộc tiến công vào hàng loạt căn cứ địch.

Thời gian này, tại Kon Tum, Bộ tư lệnh Sư đoàn 10 chúng tôi chọn căn cứ Non Nước án ngữ trên đường 14, cách thị xã Kon Tum 6 km về phía bắc làm mục tiêu tiến công chủ yếu. Nếu ta tiêu diệt được căn cứ này và phá vỡ được trận tuyến phòng ngự của địch từ điểm cao 552 qua Bãi Ủi và từ Kon Trang Kla đến căn cứ Lam Sơn thì thị xã Kon Tum sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:09:02 am
Bộ tư lệnh sư đoàn sử dụng trung đoàn 66 và trung đoàn 28 cùng toàn bộ lực lượng pháo binh, binh chủng kỹ thuật của sư đoàn vào đợt chiến đấu này. Trung đoàn 95 tiếp tục cắt đường 14 phía nam thị xã Kon Tum và bảo vệ vùng giải phóng huyện 3 Gia Lai.

Đêm ngày 22 tháng 12 năm 1972, các đơn vị trong sư đoàn bắt đầu tiến đánh căn cứ Non Nước, điểm cao 552, xây dựng công sự, trận địa.

16 giờ 30 ngày 23 tháng 12, được pháo binh và hỏa tiễn B72 chi viện, các chiến sĩ tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 (trung đoàn 66) đã dùng mìn bộc phá mở cửa. Sau 30 phút chiến đấu, trung đoàn 66 hoàn toàn làm chủ trận địa.

Cùng lúc đại đội đặc công 19 (trung đoàn 66) với lối đánh sở trường (luồn sâu, lót sẵn), sau 15 phút diệt gọn 1 trung đội quân ngụy chốt giữ điểm cao 552.

Trên hướng Gia Lai, Sư đoàn 320 kết hợp với bộ đội địa phương mở loạt trận đánh quân địch trên đường giao thông, tập kích hỏa lực vào các vị trí địch trên đường 14. Nổi bật là trận chiến đấu của trung đoàn 48 tiêu diệt gọn tiểu đoàn biệt động quân 22 khi chúng lấn chiếm khu vực Đức Cơ. Đến ngày 18 tháng 1 năm 1973, trung đoàn 64 lại diệt gọn tiểu đoàn 81 ở Chư Bồ (đây là lần thứ hai tiểu đoàn này bị diệt). Thừa thắng, ngày 26 rạng ngày 27 tháng 1 trung đoàn 64 bao vây Đức Cơ, tiêu diệt gọn tiểu đoàn 23, cùng lúc Sư đoàn 320 lệnh cho trung đoàn 48 bao vây tiêu diệt đồn 30 trước giờ ngừng bắn. Suốt đêm ngày 26 rạng ngày 27 tháng 1, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 48) được sự chi viện của pháo binh đã làm chủ đồn 30. Thừa thắng, tiểu đoàn 1 truy kích quân địch đến tận làng Yít. Chiều ngày 27 tháng 1, Sư đoàn 320 đã hoàn toàn làm chủ một vùng rộng lớn dài 30 km từ Đức Cơ tới làng Yít.

Những thắng lợi liên tiếp của Sư đoàn 10 (mặt trận bắc Kon Tum), Sư đoàn 320 (mặt trận tây nam Plây Cu) làm cho những người cầm đầu quân đoàn 2 ngụy choáng váng và binh lính của họ hoang mang.

Từ cuối tháng 11 năm 1972, quân đoàn 2 ngụy đã điều từ đồng bằng Khu 5 lên Tây Nguyên 3 tiểu đoàn bộ binh, 3 chi đoàn xe thiết giáp và thành lập thêm một số đơn vị pháo binh có cả pháo 175 ly. Âm mưu của chúng là cố gắng giành lấy các địa bàn quan trọng đã mất, đẩy ta ra khỏi các khu vực thường xuyên uy hiếp dối với các thị xã Kon Tum và Plây Cu.

Tại tỉnh Kon Tum lực lượng của địch gồm có 3 trung đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 23, 1 lữ đoàn dù và 1 trung đoàn thiết giáp, 15 trận địa pháo (cả cố định và cơ động trên đường 14). Với lực lượng trên, dựa vào căn cứ Lam Sơn, địch hy vọng sẽ lấy lại được khu vực Võ Định - Trí Đạo, Hà Mòn - Đắc Vát trước khi có giải pháp chính trị.

Bộ tư lệnh Mặt trận giao cho Sư đoàn 10 phải giải quyết xong căn cứ Lam Sơn (điểm cao 601) trước ngày 20 tháng 1 năm 1973. Bộ tư lệnh sư đoàn chúng tôi giao cho trung đoàn 66 tiến công tiêu diệt căn cứ Lam Sơn.

Để chắc ăn, chúng tôi sử dụng 2 khẩu pháo 105 ly của tiểu đoàn 11 bắn thẳng. Các chiến sĩ pháo binh tiểu đoàn 11 lại tháo rời pháo 105 ly, bí mật đưa pháo sát căn cứ địch chi viện cho bộ binh mở cửa.

8 giờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1973, được pháo binh bắn thẳng chí viện, trong vòng 30 phút tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 9 trung đoàn 66 đã xóa sổ 1 tiểu đoàn ngụy, làm chủ căn cứ Lam Sơn.

Đúng như dự đoán của chúng tôi, Lam Sơn mất chắc chắn địch sẽ phản kích chiếm lại, bởi vì căn cứ này án ngữ trên đường 14 không chế trên một đoạn đường dài 4 đến 5 km, uy hiếp trực tiếp thị xã Kon Tum. Ngay sáng hôm sau (ngày 21 tháng 1) quân đoàn 2 ngụy dùng tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 (trung đoàn 52), có máy bay và pháo binh yểm trợ mở cuộc hành quân tái chiếm Lam Sơn. Phối hợp với cánh quân đánh vào Lam Sơn, địch còn dùng máy bay lên thăng đổ tiểu đoàn 2 và 1 đại đội trinh sát thuộc trung đoàn 44 ngụy ném sâu vào phía tây bất ngờ đánh chiếm Võ Định, Trí Đạo.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:10:01 am
Tại căn cứ Lam Sơn, các chiến sĩ của tiểu đoàn 8 đã biến công sự vững chắc của địch thành trận địa phòng ngự kiên cố của mình, chiến đấu dũng cảm và linh hoạt tổ chức nhiều mũi xuất kích ngắn đánh vào sườn địch, bẻ gãy các đợt tiến công của chúng.

Ngày 23 tháng 1, chúng tôi quyết định cho tiểu đoàn 8, được pháo binh chi viện bắt đầu phản kích. Pháo binh ta bắn chính xác vào đội hình địch gây cho chúng thương vong lớn buộc phải tháo chạy. Chớp thời cơ, tiểu đoàn 8 chỉ để lại một lực lượng nhỏ giữ trận địa chốt, còn đại bộ phận rời công sự truy kích địch. Tiểu đoàn 9 do chính trị viên Đào Huy Chư và tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Khem chỉ huy kịp thời xuất kích chặn không cho chúng chạy về thị xã Kon Tum. Các chiến sĩ tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 9 từ ba hướng đánh dồn quân địch về phía sông Pô Cô. Địch điên cuồng chống trả nhưng trước sức mạnh áp đảo của chiến sĩ ta nhiều tên lính ngụy vứt súng giơ tay xin hàng. Một số liều mạng lao xuống sông Pô Cô định tháo thân, bị súng cối và lựu đạn đánh chặn, nhiều tên cuống cuồng bơi trở lại run rẩy xin hàng. Các chiến sĩ trung đoàn 66 loại khỏi vòng chiến đấu 2 tiểu đoàn địch, bắt sống 90 tên Âm mưu tái chiếm căn cứ Lam Sơn của địch bị cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 10 đập tan.

Trên hướng tây, tiểu đoàn 2 trung đoàn 44 ngụy vừa đặt chân xuống Kông Trang Lăng Loi bị các chiến sĩ đại đội đặc công 19 trung đoàn 66 đánh tới tấp, phải co cụm chống đỡ, lại bị pháo binh sư đoàn bắn trúng đội hình nhiều tên chết, số còn lại chạy tan tác. Đại đội trinh sát của trung đoàn 53 ngụy vừa mò đến phía nam Trí Đạo cũng bị tiều đoàn 406 tỉnh đội Kon Tum chốt giữ ở đây chận đánh phải tháo chạy tán loạn.

Sau khi tung lực lượng ra phía tây bị ta đánh tơi tả, Nguyễn Văn Toàn - tư lệnh quân đoàn 2 ngụy cho rằng nếu tiếp tục tung lực lượng vào đây chỉ làm mồi cho đối phương. Toàn phán đoán lực lượng lớn quân ta ở phía tây, có thể ở phía đông Trí Đạo bỏ ngỏ, đo đó hắn ta quyết định đưa cánh quân thứ hai vào vùng này, bất ngờ đánh vào sau lưng quân ta, buộc ta phải phân tán đối phó, tạo điều kiện cho tiểu đoàn 2 trung đoàn 44 ngụy đang ở hướng tây tiếp tục thực hiện ý đồ đánh chiếm Võ Định, Trí Đạo.

13 giờ ngày 22 tháng 1 năm 1973, địch dùng 45 lần chiếc máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 1 trung đoàn 45 ngụy từ Plây Cu lên đổ xuống bản Đắc Tin phía đông Võ Định 4 km.

Bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 28 cơ động về hướng đông chặn đánh quân địch. Ngay trong đêm, chỉ huy trung đoàn tổ chức cán bộ cấp trưởng tiểu đoàn, đại đội cùng trinh sát di trước nắm địch, cán bộ cấp phó cho bộ đội chuẩn bị gấp rồi hành quân sau.

Sau mấy ngày vất vả, đến chiều ngày 25 tháng 1 năm 1973, trung đoàn 28 mới xác định được các cụm đóng quân của địch. Trung đoàn cho bộ đội bí mật bao vây quân địch ngay trong đêm. Mờ sáng ngày 26 trung đoàn nổ súng tiến công và suốt một ngày vừa đánh vừa dồn quân địch, đến chiều ngày 26 toàn bộ tiểu đoàn 1 quân ngụy nằm gọn trong vòng vây của ta.

5 giờ sáng ngày 27 tháng 1 năm 1973, trung đoàn 28 tiến công vào tiểu đoàn 1 địch. Sau hơn 1 giờ chiến đấu, trung đoàn 28 làm chủ trận địa diệt 142 tên, bắt 42 tên, thu hơn 100 khẩu súng các loại, 15 máy thông tin PRC25.

Một đại đội địch chạy ra đường 14, định tháo chạy về Kon Tum, khi đến căn cứ Lam Sơn gặp tổ chốt của đại đội 6 tiểu đoàn 8 trung đoàn 66 do chính trị viên phó Bùi Viết Nhần chỉ huy. Sau này Bùi Viết Nhần kể lại: Biết quân địch đang hoang mang dao động mạnh, được sự yểm hộ của đồng đội, Nhần bình tĩnh ra giữa mặt đường 14 chặn cả đại đội địch lại, dõng dạc nói:

- Hiệp định Pa-ri đã được ký kết, hòa bình đã lập lại, hiện nay các anh đang trong vòng vây của quân giải phóng, các anh chống lại lúc này chỉ là hành động tự sát. Tốt hơn hết các anh hãy bỏ vũ khí đầu hàng quân giải phóng, sẽ được đối xử tử tế, được trở về với gia đình vợ con.

Hành động quả cảm, tự tin của Bùi Viết Nhần (người chiến sĩ B40 đã từng đứng thẳng người trước làn đạn địch bắn cháy chiếc xe tăng M41 trong trận Tân Cảnh) thể hiện khí phách của người chiến sĩ quân đội cách mạng, làm cho cả một đại đội địch với đầy đủ vũ khí phương tiện thông tin đã ngoan ngoãn nộp súng và chịu sự chỉ dẫn của chiến sĩ ta về trại giam của Sư đoàn 10.

Lúc ấy là 11 giờ trưa ngày 27 tháng 1 năm 1973, chính là ngày Mỹ phải chịu ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược, tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:11:44 am
*
*   *

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược với quy mô rộng lớn trên chiến trường miền Nam trong năm 1972 và chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta đánh thắng cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã khác trên miền Bắc buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Với Hiệp định Pa-ri, quân và dân ta đã thực hiện được mục tiêu chiến lược quan trọng nhất là “đánh cho Mỹ cút”. Đây là kết quả của 18 năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo cua Đang. Thắng lợi to lớn này mở ra một bước ngoặt quyết định đưa cách mạng miền Nam nước ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, kết thúc thắng lợi hoàn toàn, triệt để cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, phía Mỹ vẫn không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta, họ trắng trợn chà đạp lên các điều khoản của Hiệp định Pa-ri. Tiếp tục thực hiện “Học thuyết Ních-xơn”, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngay từ khi hiệp định sắp được ký kết, chính quyền Ních-xơn vừa ký kết hiệp định vừa giúp ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục chiến tranh. Họ chuyển giao hầu hết vũ khí trang bị của Mỹ cho quân đội ngụy. Mỹ cũng đã cấp tốc chuyển cho chính quyền Thiệu thêm 1 tỷ đô-la vũ khí và trang bị để hiện đại hóa quân đội ngụy Sài Gòn, trong đó có 500 khẩu pháo (có 24 khẩu pháo phòng không 40 ly), 625 máy bay các loại, 400 xe tăng bọc thép và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Quân ngụy Sài Gòn đã bắt thêm 22 vạn lính mới, thu nhặt 12 vạn tàn binh và lính đào ngũ.

Hiệp định Pa-ri có hiệu lực từ 0 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973, nhưng chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn tiếp tục sử dụng một lực lượng lớn quân đội lấn chiếm Cửa Việt (Quảng Trị), đánh chiếm một số vùng giải phóng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Khu 5), đường số 4, Chương Thiện, Núi Dài, Tri Tôn (đồng bằng sông Cửu Long). Chiến sự vẫn chưa chấm dứt, có nơi, có lúc ác liệt hơn trước.

Ở Tây Nguyên, kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của Nguyễn Văn Thiệu - tổng thống ngụy quyền Sài Gòn được quân đoàn 2 ngụy thực hiện ngay trước giờ ngừng băn có hiệu lực. Mục tiêu tiến công chính là vùng giải phóng Lam Sơn - Trí Đạo - Võ Định - Hà Mòn - Đắc Vát (Kon Tum), Đức Cơ, Thanh An, đường 19 tây (Gia Lai).

Trên hướng Sư đoàn 10, ngay từ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, quân ngụy Sài Gòn liên tiếp mở những cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cỡ trung đoàn đến sư đoàn thiếu. Được pháo binh và không quân chi viện, chúng tập trung giải tỏa trục đường giao thông số 14 và chiếm một số vị trí có giá trị về quân sự để giành lại thế trận có lợi cho chúng và giảm sức ép của ta đối với thị xã Kon Tum.

Để đập tan âm mưu lấn chiếm của địch, củng cố và giữ vững vùng giải phóng của ta, Bộ tư lệnh sư đoàn chúng tôi chủ trương phải nhanh chóng triển khai lực lượng hình thành thế trận phòng ngự vững chắc ở phía bắc thị xã Kon Tum, trên một vòng cung dài gần 30 km từ điểm cao 751 (Ngọc Quăn) qua căn cứ Lam Sơn đến Kon Trang Kla xuống Ngọc Bay và tới điểm cao 674. Chúng tôi sử dụng các trung đoàn bộ binh 28 và 66 cùng hầu hết lực lượng pháo binh của sư đoàn tham gia phòng ngự. Hướng tây đường 14 - hướng phòng ngự chủ yếu do trung đoàn 28 đảm nhiệm; hướng đông đường 14 - hướng phòng ngự quan trọng do trung đoàn 66 phụ trách, chúng tôi sử dụng tiểu đoàn công binh 31 tăng cường cho 2 trung đoàn này để xây dựng công sự, trận địa. Bộ đội ta đã xây dựng nên một hệ thống công trình kiên cố, có thế trận liên hoàn vững chắc. Pháo 85 ly, pháo 105 ly và cả xe tăng đều có hầm che chắn vững chắc. Toàn bộ hoạt động của ta được chuyển xuống lòng đất.

Hiệp định Pa-ri đã có hiệu lực, nhưng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 10 vẫn chưa được hưởng một ngày hòa bình trọn vẹn, đã cùng các đơn vị bạn bước vào cuộc chiến đấu chống địch lấn chiếm, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng mà quân và dân ta đã phải đổ biết bao xương máu mới giành được. Trong cuộc chiến đấu này, chiến sĩ ta không những phải chịu đựng sự tàn phá khốc liệt của bom đạn quân thù mà còn phải chịu đựng cả cái khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu cao nguyên, nhất là trong những tháng cao điểm của mùa mưa. Những trận mưa tầm tã kéo dài gây sụt lở và ngập úng nhiều hầm hào của chiến sĩ ta ở Đắc Rơ Cót, Ngô Trang, bản Con Cơ...

Chiều ngày 2 tháng 5 năm 1973, tôi về trung đoàn 28 kiểm tra tình hình bộ đội chốt giữ bảo vệ vùng giải phóng. Anh Vũ Đình Thước - trung đoàn trưởng trung đoàn 28 và anh Lê Ngọc Tùng - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 dẫn tôi xuống trận địa chốt của đại đội 10 tiểu đoàn 3 ở Đắc Rơ Cót, nơi đã nảy sinh những câu ca dao bất hủ của chiến sĩ ta: “Cây quanh mình trụi lả, Đất đã hóa thành vôi” và: “Ngày nắng như đổ lửa, Đêm mưa hầm đầy nước”. Tôi vô cùng xúc động khi nhìn thấy trên một dải đất từ Võ Định, hai bên đường 14 đến Krong, Trung Nghĩa (sát nách thị xã Kon Tum) cờ giải phóng cắm lên những vị trí cao nhất phấp phới tung bay được bộ đội ngày đêm canh giữ bảo vệ. Khi tôi đến điểm chốt của đại đội 10 tiểu đoàn 3, thấy anh em áo quần bê bết bùn đất, tóc trùm tai, sống trong cảnh “cơm nắm ngày hai bữa, hớp nước cũng chia dôi” vậy mà nét mặt ai cũng rất tươi.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:13:03 am
Đêm hôm ấy, tôi và anh Vũ Đình Thước nghỉ lại trận địa đại đội 10. Tôi đã đến từng căn hầm thăm hởi động viên bộ đội và cùng anh em suy nghĩ, trao đổi cách giải quyết những vấn đề bức xúc về tình trạng hầm hào sụt lở. Qua tiếp xúc với những người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với kẻ thù và đối mặt với cả thời tiết, khí hậu, hoàn cảnh chiến đấu ở đây tôi càng thấy tiềm năng trí tuệ của quần chúng thật tuyệt vời. Tôi không thể nào quên cái đêm hôm đó được tiếp xúc với những chàng trai - sinh viên - chiến sĩ Trường đại học Mỏ địa chất bổ sung về Sư đoàn 10 đầu năm 1972. Chính các chàng trai sinh viên này đã đề xuất làm hầm chữ A và hào nổi để chống ngập nước và sụt lở. Chính họ nêu ý kiến gợi ý cho chúng tôi đưa súng phòng không vào trong đội hình phòng ngự bắn máy bay địch. Chính các chàng trai ấy đã đề nghị tổ chức những khẩu đội cối 82 ly luồn sâu diệt pháo địch như trước đó chúng tôi thường làm. Và cũng chính những con người đáng yêu ấy đã mạnh dạn nêu ý kiến không thể để cho địch ngang nhiên phá hoại hiệp định, ngang nhiên lấn chiếm vùng giải phóng. Phải kiên quyết trừng trị những hành động ngoan cố của địch, phải đánh thẳng vào nơi xuất phát hành quân của chúng... Đó là những ý kiến hoàn toàn chính xác, thể hiện rất rõ tư tưởng tiến công của Đảng ta được thấm nhuần trong mỗi con người chiến sĩ của sư đoàn.

Qua nghiên cứu tình hình thực tế, Bộ tư lệnh sư đoàn và chỉ huy các trung đoàn lập kế hoạch tác chiến mới: Tăng cường lực lượng cho phía trước, củng cố xây dựng công sự trận địa ở những nơi ngập úng. Tích cực bắn máy bay, kiềm chế pháo binh địch, không cho chúng tự do bắn pháo bừa bãi vào vùng do ta kiểm soát. Các trung đoàn 28, 66 sử dụng lực lượng thích hợp đưa vào hoạt động ở phía sau địch, tổ chức từng khẩu đội cối 82 ly, có trinh sát dẫn đường và có bộ binh bảo vệ luồn sâu cơ động tập kích diệt pháo địch.

Thực hiện chủ trương trên, mọi hoạt động của các đơn vị trong sư đoàn sôi nổi hẳn lên. Những trận địa pháo của địch ở Non Nước, ngã ba Trung Tín thường xuyên ăn đòn của các phân đội cối cơ động của các trung đoàn 28, 66. Trên đường 14, từng đoàn xe địch liên tiếp bị các chiến sĩ trung đoàn 95 chặn đánh tiêu diệt. Tính đến cuối năm 1973, cả Tây Nguyên vẫn giữ được vùng giải phóng đã mở ra trong năm 1972.

Tình hình sau 3 tháng ký hiệp định ở Tây Nguyên cho thấy: địch thường tập trung lực lượng lấn chiếm có trọng điểm trên từng hướng. Chúng dùng thủ đoạn “lấn cài xen kẽ, dũi dầm dài ngày” hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi các khu vực chốt. Nơi nào bị đánh đau, chúng co lại và tạm thời hòa hoãn tiếp xúc với ta. Ở những nơi lực lượng ta mỏng chúng tập trung quân đánh phá liên tục cố sức lấn chiếm các khu vực do ta kiểm soát.

Cuộc chiến đấu trong hoàn cảnh mới đặt ra cho người lính Sư đoàn 10 chúng tôi phải đánh thắng địch cả về quân sự và chính trị. Một mặt kiên quyết trừng trị những nơi chúng lấn chiếm, mặt khác chúng tôi phối hợp cùng các tỉnh đội Kon Tum, Gia Lai mở những điểm tiếp xúc giữa ta và địch (lúc đó ta gọi là “nhà hòa hợp”). “Nhà hòa hợp“ được trang hoàng đẹp, dán tranh ảnh, văn bản Hiệp định Pa-ri, chính sách 10 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng... Binh lính địch thường ra xem, có điều kiện để bộ đội ta tuyên truyền chù trương chính sách của một trận, kêu gọi họ không đi lấn chiếm, quay về với gia đình... đồng thời vạch trần những luân điệu vu khống xuyên tạc của những sĩ quan tâm lý chiến địch làm cho binh lính địch hiểu rõ về cách mạng.

Tại “nhà hòa hợp” ở Chư Dệt, Kon Trang Kla, Ngô Trang... trung đoàn 66 và trung đoàn 28 đã tiến hành hàng trăm cuộc gặp gỡ, giải thích cho hàng ngàn lượt binh lính địch nghe về các điều khoản của Hiệp định Pa-ri, về thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống ngoại bang; đồng thời vạch mặt và tố cáo các hành động ngoan cố của Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Anh em ta còn nói rõ chính sách 10 điểm của cách mạng đối với binh sĩ, gia đình binh sĩ và nhân viên ngụy quyền, hướng dẫn cho binh sĩ địch đấu tranh với chỉ huy ác ôn ngoan cố, bỏ ngũ về nhà làm ăn, không đi lấn chiếm, chết vô ích. Còn đối với những tên chỉ huy ngoan cố và sĩ quan tâm lý chiến, cán bộ, chiến sĩ ta rất cứng rắn và kiên quyết dùng lý lẽ sắc bén của mình để đập lại những luận điệu xảo trá và những yêu cầu ngang ngược của chúng.

Tại “nhà hòa hợp” ở Kon Trang Kla, trung đoàn 66 tổ chức trao trả cho phía bên kia 32 lính đi lấn chiếm bị thương. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, viên tiểu đoàn trưởng phải ký vào biên bản nhận tội vi phạm hiệp định.

Ở khu vực Chư Thoi, địch cho quân lấn chiếm điểm cao 800, tiểu đoàn 394 trung đoàn 95 đã chặn đánh diệt gần hết 2 đại đội của liên đoàn biệt động quân số 21. Anh em kể lại: Qua máy bộ đàm, chỉ huy trưởng liên đoàn biệt động nhận tội vi phạm hiệp định và xin ta cho chúng đến lấy xác đồng bọn. Ta đã nhận lời đề nghị của họ. Các chiến sĩ tiểu đoàn 394 giám sát việc làm của chúng, thấy địch chỉ lấy xác sĩ quan, bỏ lại xác lính, anh em ta lập tức vạch trần thái độ coi rẻ sinh mạng binh lính của những người chỉ huy và buộc họ phải đưa toàn bộ xác những người lính xấu số kia về căn cứ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:13:43 am
Tuy bị thất bại liên tiếp về quân sự, chính trị nhưng ngụy quyền Sài Gòn được chủ Mỹ hà hơi tiếp sức vẫn ngoan cố đeo đuổi âm mưu dùng sức mạnh quân sự để lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1973, chính quyền Thiệu mở chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” và kế hoạch “bình định đặc biệt” nhằm ba mục tiêu: nhanh chóng lấn chiếm thu hẹp vùng giải phỏng của ta; lấn lại các khu giải phóng lớn ở đồng bằng; đẩy mạnh giành và kìm kẹp nhân dân. Để thực hiện ý đồ trên, địch đã sử dụng 60% số quân chủ lực và toàn bộ lực lượng bảo an dân vệ mở hàng vạn cuộc hành quân lấn chiếm, giải tỏa vùng giải phóng của ta, 40% số chủ lực còn lại càn quét các vùng lõm và hỗ trợ bình định.

Ở Tây Nguyên, quân đoàn 2 ngụy tập trung lực lượng trên hai hướng. Tại khu vực Đức Cơ (Gia Lai) địch sử dụng tới 11 tiểu đoàn, 3 chi đội thiết giáp và 2 tiểu đoàn pháo binh liên tiếp mở những cuộc hành quân lấn chiếm vào khu vực Đức Cơ - đường 19 tây. Trên hướng Kon Tum, địch tập trung sư đoàn 23 tăng cường, 9 tiểu đoàn biệt động, 2 trung đoàn thiết giáp, 15 trận địa pháo, ngoài ra, hàng ngày quân ngụy còn sử dụng hàng trăm lần chiếc máy bay ném bom A37, chia thành từng tốp từ 9 đến 12 chiếc, bay cao, cắt bom bừa bãi xuống vùng giải phóng của ta. Với thủ đoạn này, họ cho rằng hiệu quả “không thua kém gì B52”.

Trước tình hình trên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ trương: Không thể ngồi nhìn Mỹ - ngụy ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pa-ri. Phải kiên quyết tiêu diệt quân địch lấn chiếm bằng cả phản công và tiến công phối hợp trên nhiều hướng cả phía trước lẫn phía sau, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, đẩy chúng vào thế bị động.

Đầu tháng 6 năm 1973, thực hiện kế hoạch tác chiến chung, Sư đoàn 10 sử dụng tiểu đoàn đặc công 37 bất ngờ đánh chiếm Trung Nghĩa - một vị trí quan trọng nằm trên trục đường 511 cách thị xã Kon Tum 10 km về phía tây. Tiếp đó sứ đoàn 10 tổ chức chốt giữ Trung Nghĩa đánh lui hàng trăm đợt tiến công của 2 trung đoàn địch, giữ vững Trung Nghĩa trong suốt mùa mưa năm 1973.

Trên mặt trận đường 19 kéo dài, Bộ tư lệnh Mạt trận Tây Nguyên sử dụng Sư đoàn 320 đánh chiếm căn cứ Chư Nghé (Lệ Minh) ở phía tây thị xã Plây Cu nhầm phân tán lực lượng địch, tạo điểu kiện thuận lợi cho Sư đoàn 10 đánh địch lấn chiếm ở bắc thị xã Kon Tum.

Được pháo Đ74 ngắm bắn trực tiếp chi viện, trung đoàn 48 sau 3 giờ chiến đấu đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn biệt động quân 10 tại nơi xuất phát hành quân lấn chiếm của địch.

Đối với ta, việc nhổ căn cứ Chư Nghé có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Con đường ống dẫn dầu vào Đông Nam Bộ được mở gấp qua vùng này đã hoàn toàn giữ được bí mật, nó góp phần vào chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975.

Ngày 20 tháng 11 năm 1973, tôi được trên điều về Mặt trận giữ chức chính ủy thay anh Trần Thế Môn đi nhận nhiệm vụ mới. Cùng thời gian này Bộ cử anh Vũ Lăng vào Tây Nguyên giữ chức Tư lệnh mặt trận thay anh Hoàng Minh Thảo. Đầu tháng 12 năm 1973, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chúng tôi chủ trương tách trung đoàn 95 ra khỏi đội hình. Sư đoàn 10 cơ động về hướng đông làm nhiệm vụ chủ lực tại chỗ, mở mặt trận mới, thường xuyên đánh giao thông địch ở đoạn đường 19 chạy qua đèo An Khê -Mang Yang.

Để bảo đảm vật chất và binh khí kỹ thuật cho lực lượng luồn sâu ở phía đông, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định mở con đường 220 từ Võ Định qua Kon Rẫy vòng về phía đông. Lần đầu tiên ta dùng cơ giới thi công con đường ngay sát thị xã Kon Tum, làm cho quân địch vô cùng hoang mang. Chúng liên tiếp cho lực lượng ra ngăn chặn phá hoại. Nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công, ta sử dụng trung đoàn 28 tăng cường tiểu đoàn 6 trung đoàn 24(1), đã đánh một trận xuất sắc, diệt gọn tiểu đoàn 3 trung đoàn 40 ngụy ở khu vực Kon Rẫy.

Đầu tháng 3 năm 1974, địch đưa tiếp tiểu đoàn 95 và 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 62 ngụy ra khu vực Kon Rẫy ngăn ta mở đường 220. Có điều ra quân lần náy tiểu đoàn 95 ngụy đã áp dụng chiến thuật “mạng nhện, co giãn”, đóng quân phân tán hàng chục điểm và thường xuyên di chuyển để tránh bị tiêu diệt.

Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 28 vừa tể chức đột phá dưới sự chi viện của pháo binh bắn thẳng vừa tổ chức lực lượng hình thành thế vây nhiều tầng trước khi đột phá. Với cách đánh này, trung đoàn 28 và tiểu đoàn 6 (trung đoàn 24) đã loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn 95 và 2 đại đội của tiểu đoàn 62 diệt 421 tên, bắt 250 tên.

Từ sau trận này, quân địch không dám mò ra vùng Kon Rẫy nữa. Đường 220 tiếp tục vươn dài xuống phía bắc đèo Mang Yang, An Khê. Đây là con đường vu hồi hết sức quan trọng về chiến lược đối với chiến trường. Đường 220 còn là nguồn cung cấp và quyết định đến sức chiến đấu của trung đoàn 95 và các đơn vị binh chủng kỹ thuật ở hướng này.

Ngày 6 tháng 1 năm 1974, anh Văn Tiến Dũng - ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng điện cho chúng tôi, bức điện có đoạn: “Chúng tôi rất hoan nghênh những cố gắng của các anh đưa trung đoàn 95 sang phía đông, đánh phá thường xuyên trên đường 19, nó là thế trận rất hiểm và lâu dài”.


(1) Sau khí trung đoàn 95 tách khỏi đội hình sư đoàn 10, Bộ tư lệnh Mặt trận bổ sung trung đoàn 24B về đứng trong đội hình sư đoàn nảy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Chín, 2019, 10:15:55 am
Đường 220 chỉ cách thị xã Kon Tum 20 km nên địch quyết tâm đánh phá. Cả vùng đông bắc thị xã Kon Tum chỉ còn trơ trọi một cứ điểm duy nhất là Kon Rốc trên điểm cao 1227 - nơi đồn trú của quân thám báo, biệt động thường xuyên cản phá ta làm con đường này.

Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định phải nhổ nốt căn cứ Kon Rốc. Ngày 3 tháng 4 năm 1974, trung đoàn 24 được pháo binh bắn thẳng chi viện sau 2 giờ chiến đấu đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn bảo an 280. Nếu như trước đây, Sư đoàn 10 chỉ có một trung đoàn 66 đánh tốt công sự vững chắc thì nay các trung đoàn 28, 24 đều có thể đánh và đánh tốt hình thức chiến thuật này.

Cho đến thời điểm tháng 1 năm 1974, toàn tỉnh Kon Tum chỉ còn lạì 3 căn cứ địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta là Đắc Pét án ngữ trên đường 14, sát biên giới Việt - Lào; chi khu quận lỵ Măng Đen và quận lỵ Măng Buk. Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ trương giao cho Sư đoàn 10 một mặt giữ vững trận địa phòng ngự bắc thì xã Kon Tum (trung đoàn 24 đàm nhiệm), mặt khác dùng 2 trung đoàn 66 và 28 tiêu diệt căn cứ Đắc Pét và căn cứ Măng Đen, sử dụng bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum bao vây bức rút quận lỵ Măng Buk.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 15 tháng 5 năm 1974, trung đoàn 66 được pháo binh và xe tăng chi viện chỉ trong 4 giờ đồng hồ đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn biệt động quân 88 trong căn cứ Đắc Pét. Trong số 403 sĩ quan binh lính địch bị bắt làm tù bỉnh có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn biệt động quân 88 Vũ Ngọc Di. Phối hợp với trung đoàn 66, trung đoàn 3 (Quân khu 5) tiến công giải phóng quận lỵ Đắc Pét. Toàn bộ khu vực Đắc Pét được giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta mở thông đường vận tải chiến lược theo đường 14 (Đông Trường Sơn).

Cùng thời gian này, trên hướng Đắc Lắc, trung đoàn 25 tiến công tiêu diệt căn cứ Ia Súp, giải phóng toàn bộ nhân dân trong khu vực.

Trên hướng bắc Kon Tum, trung đoàn 28 sau gần một ngày chiến đấu đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Măng Đen, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ ban chỉ huy tiểu khu Chương Nghĩa và ban chỉ huy tiểu đoàn bảo an 254 ngụy, diệt 226 tên, bắt 168 tên, trong đó có tên trung tá chỉ huy trưởng và 25 sĩ quan khác, thu toàn bộ vũ khí và quân trang, quân dụng trong căn cứ (có 2 pháo 105 ly).

Phối hợp với trung đoàn 28, bộ đội địa phương tinh Kon Tum bao vây bức rút quận lỵ Măng Buk, giải phóng toàn bộ nhân dân trong vùng.

Đến tháng 10 năm 1974, trên chiến trường Tây Nguyên địch bị dồn gọn lại trong các thị xã và một số vị trí quan trọng trên trục đường giao thông huyết mạch 14, 19, 21. Vùng giải phóng Tây Nguyên được mở rộng và nối liền thành một vùng căn cứ tương đối hoàn chỉnh từ bắc Kon Tum đến nam Đắc Lắc, nối liền đường hành lang chiến lược từ miền Bắc vào tới chiến trường Nam Bộ.

Như vậy, sau gần hai năm chiến đấu đánh địch lấn chiếm và xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện theo phương thức tác chiến tập trung hiệp đồng quân binh chủng quy mô vừa và lớn (cả về chính trị, tư tưởng, trình độ chiến, kỹ thuật, tổ chức biên chế(1)), ra sức thiết bị chiến trường, xây dựng hậu phương trực tiếp rộng bao la có dung lượng rất lớn, kết hợp với sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc, chiến trường Tây Nguyên đã có bước biến đổi căn bản. Tương quan lực lượng về quân sự, chính trị ta đã hơn hẳn địch. Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên đã lập được thế trận tiến công vững chắc, hình thành thế trận bao vây các cơ quan đầu não của địch ở cả ba tỉnh. Quân đoàn 2 ngụy ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động, tinh thần và khả năng chiến đấu của chúng sa sút nghiêm trọng, không còn đủ sức làm nòng cốt cho kế hoạch “bình định”, lấn chiếm ở Tây Nguyên.

Thực tiễn đó mở ra cho Tây Nguyên những thuận lợi cơ bản để tạo điều kiện và thời cơ mới thực hiện tốt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đẳng và Quân ủy Trung ương trong năm 1975.

Bài học mà Đảng ủy chúng tôi rút ra trong thời kỳ này tại cuộc họp tháng 1 năm 1974 là phải nắm vững tư tưởng cách mạng bạo lực và tư tưởng chiến lược tiến công, tìm hiểu và đánh giá đúng đắn bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ địch thì mới quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ và khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới thì sự lãnh đạo về mặt chính trị tư tưởng phải được coi trọng đúng với vai trò quyết định của nó. Nói một cách khác: Khi cách mạng chuyển giai đoạn, tình hình diễn biến phức tạp thì trong khi thực hiện nhiệm vụ, phải nắm vững những vấn đề nguyên tắc “bất biến”, kiên định mục tiêu lý tưởng; phải bình tĩnh sáng suốt xem xét động thái về phía đối phương, phân tích những thủ đoạn mới trên cơ sở hiểu biết về bản chất và âm mưu cơ bản của họ để có đối sách hợp lý đấu tranh giành thắng lợi. Để làm được việc đó phải tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, củng cố lập trường quan điểm giai cấp; đồng thời kiên quyết đấu tranh khắc phục những hiện tượng tiêu cực ngại khó khăn gian khổ và mơ hồ ảo tưởng về kẻ thù.


(1) Nhờ cách biên chế tổ chức mới, giảm thành phần phục vụ nên năm 1974 so với năm 1973 quân số bổ sung không tăng bao nhiêu nhưng lực lượng chiến đấu tăng 5,48%, riêng bộ binh và đặc công tăng 6,08%.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:31:27 am
VII

THỰC HIỆN LỜI THỀ SẮT SON
GIẢI PHÓNG TÂY NGUYÊN

Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong năm 1974, nhưng lực lượng địch trên toàn miền Nam vẫn còn rất đáng kể: hơn một triệu ba trăm ngàn quân, trong đó có 495 ngàn quân chủ lực, 475 ngàn cảnh sát, mật vụ, quân địa phương, 381 ngàn quân phòng vệ dân sự, gồm 13 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn biệt động với hơn 2.000 xe tăng, xe bọc thép, 1.500 khẩu pháo lớn, 6 sư đoàn không quân. Chúng bố trí lực lượng như sau:

Quân khu 1, có 5 sư đoàn chủ lực, 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn pháo binh (418 khẩu), 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, xe bọc thép (419 xe), 1 sư đoàn không quân (96 máy bay).

Quân khu 2 (gồm cả Tây Nguyên), có 2 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn pháo binh (362 khẩu), 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, xe bọc thép (477 xe), 2 sư đoàn không quân (250 máy bay).

Quân khu 3, có 3 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội pháo (376 khẩu), 7 thiết đoàn và 14 chi đội xe tăng, xe bọc thép (655 xe), 2 sư đoàn không quân (250 máy bay).

Quân khu 4, có 3 sư đoàn chủ lực, 12 liên đội bảo an, 15 tiểu đoàn pháo binh (380 khẩu), 5 thiết đoàn và 17 chi đội xe tăng, xe bọc thép (493 xe), 1 sư đoàn không quân (72 máy bay), 580 tàu xuồng các loại.

Trên chiến trường Tây Nguyên, đầu năm 1975 địch có: quân đoàn bộ quân đoàn 2, sư đoàn 23 gồm 3 trung đoàn (44, 45, 53), 7 liên đoàn biệt động quân (21, 22, 23, 24, 25, 4, 6), 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép (380 xe), 8 tiểu đoàn, 7 đại đội, 25 trung đội pháo binh (250 khẩu), 1 sư đoàn không quân (không đoàn 702), 150 máy bay (24 máy bay chiến đấu).

Những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Sài Gòn cho rằng đầu năm 1975 ta sẽ mở chiến dịch ở bắc Tây Nguyên, đánh vào thị xã Kon Tum. Vì vậy, địch lấy Kon Tum - Plây Cu làm khu vực phòng ngự chủ yếu. Chúng đã bố trí ở khu này gần như toàn bộ lực lượng chủ lực ở Tây Nguyên, trừ trung đoàn 53 giữ thị xã Buôn Ma Thuột.

Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta (tháng 10 năm 1973) khẳng định: Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Tháng 10 năm 1974 Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền trong thời gian 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Và nhất trí thông qua phương án chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công có ý nghĩa chiến lược trong năm 1975. Kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm là sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng, giành thắng lợi ngày càng lớn, tạo điều kiện để giành thắng lợi hoàn toàn. Kế hoạch gồm hai bước. Bước một, năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp trên toàn miền Nam tạo điều kiện thuận lợi để thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong năm 1976. Bước hai, năm 1976 là năm tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Bên cạnh chiến lược cơ bản hai năm, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn dự kiến “Kế hoạch thời cơ”. Tinh thần cơ bản của kế hoạch này là khi thời cơ chiến lược đến sớm thì có thể giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Trước khi vào chiến trường anh Vũ Lăng được lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu gợi ý sơ bộ về nhiệm vụ tác chiến năm 1975. Ý đồ chiến lược của trên và nhiệm vụ của khối chủ lực Tây Nguyên được sáng tỏ dần. Tháng 9 năm 1974, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chính thức giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên ở chiến dịch Nam Tây Nguyên. Khu vực tác chiến chủ yếu là Đức Lập. Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận chúng tôi đã nghiên cứu quán triệt phổ biến cho các ngành liên quan chuẩn bị.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:32:01 am
Cuối tháng 10 năm 1974, anh Nguyễn Quốc Thước, phụ trách Tham mưu trưởng được Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên cử ra Hà Nội báo cáo tình hình và nhận chỉ thị của Bộ. Ngày 6 tháng 11, anh Văn Tiến Dũng, ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng giao nhiệm vụ cho Mặt trận Tây Nguyên. Anh Dũng nói:

- Nhiệm vụ lần này của Tây Nguyên được mở rộng phạm vi, quy mô và mục tiêu cụ thể của cuộc tiến công. Đó là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng quân địch, diệt, làm bị thương từ 4 đến 5 vạn tên, trong đó diệt từ 3 đến 4 trung đoàn, liên đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực ngụy, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của chúng. Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối liền với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu 5 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa). Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất bằng nam Plây Cu, Cheo Reo và xung quanh Buôn Ma Thuột, đánh bại kế hoạch nống lấn giải tỏa của địch, giữ vững, phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược. Tích cực phối hợp với mặt trận đánh phá “bình định” ở đồng bằng. Cụ thể diệt từ 3 đến 4 tiểu khu, chi khu, từ 1 đến 2 tỉnh lỵ (Gia Nghĩa, Cheo Reo, Gia Nghĩa là chù yếu). Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế địch giảm sút trầm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 19. Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã. Ra sức xây dựng cơ sở tự vệ một, các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ cơ sở. Xây dựng ba thứ quần, xây dựng vùng giải phóng, đường chiến dịch, đường chiến lược, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Anh Văn Tiến Dũng nhấn mạnh: Những nhiệm vụ trôn đều có liên quan mật thiết với nhau, nhiệm vụ này làm tiền đề, điều kiện cho nhiệm vụ kia phát triển và ngược lại. Nhưng nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, giải phóng địa bàn là nhiệm vụ quan trọng số một có tính chất quyết định.

Ngày 12 tháng 11, anh Nguyễn Quốc Thước đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh. Đại tướng nói yới anh Quốc Thước:

- Anh Dũng đã dặn rồi, tôi nói thêm, chiến dịch này rất kiên quyết, trường hợp nào cũng phải làm cho được.

Ở Tây Nguyên địa hình tốt, địch phân tán, diệt địch trong công sự vững chắc cũng được, nhưng tốt nhất là diệt viện. Hai giai đoạn của chiến dịch có thể dài nhưng cũng có thể gần nhau. Trên những hướng phối hợp thường có thể thắng lớn. Khi địch điêu lực lượng chi viện hoặc nó rung chuyển thì thời cơ thắng lớn. Các đồng chí cần nắm vững 16 chữ của phương châm: Bất ngờ, kiên quyết, lợi dụng thời cơ phát triển nhanh, phối hợp mạnh, nhịp nhàng.

Tóm lại các đồng chí cần xây dựng kế hoạch cơ bản và kế hoạch phát triển trong thời cơ tốt. Trường hợp này phải vận động nhanh không phải tuần tự. Bố trí lực lượng phải cơ động. Nếu chiến dịch thắng lợi thì ở Tây Nguyên lực lượng địch có thể thay đổi. Nếu địch rút sở chỉ huy thì phải tổ chức đánh cắt giao thông và phá sân bay. Vì vậy, về chiến dịch và chiến thuật cần có kế hoạch tác chiến đánh địch trong công sự và đánh quân viện, đồng thời có kế hoạch phát triển nhanh (nên tổ chức 1 trung đoàn bộ binh cùng pháo binh và xe cơ giới), táo bạo truy kích vì địch lúc rút chạy rất sơ hở, đánh dễ vỡ.

Giữa lúc Tây Nguyên đang khẩn trương chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu ở hướng Gia Nghĩa thì ngày 6 tháng 1 năm 1975, quân và dân Đông Nam Bộ đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Quân chủ lực ngụy ồ ạt phản công hòng “tái chiếm Phước Long”, nhưng tất cả mọi cố gắng của chúng đều bị quân ta đánh bại. Cuối cùng cả Mỹ lẫn ngụy đành nuốt hận chịu mất Phước Long.

Qua sự kiện Phước Long càng khẳng định nhận định của Bộ Chính trị là chính xác: “Quân ngụy đã suy yếu nghiêm trọng không đủ sức phản kích chiếm lại những vùng đã mất và Mỹ đã rút quân ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng đưa quân nhảy vào lại miền Nam, và dù chúng can thiệp đến thế nào đi nữa thì cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn”. Trên cơ sở các nhận định trên, Trung ương đã hạ quyết tâm chiến lược lịch sử: Mở cuộc Tổng tiến công chiến lược trên quy mô toàn miền Nam nhằm tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, đập tan toàn bộ ngụy quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:33:03 am
Về kế hoạch chiến lược, Bộ Chính trị; Quân ủy Trung ương đã chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu và kết luận dứt khoát: Lấy Buôn Ma Thuột làm trận then chốt quyết định của chiến dịch Tây Nguyên.

Chiều ngày 21 tháng 1 năm 1975, anh Lê Ngọc Hiền - Tổng tham mưu phó phổ biến chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tham dự hôm đó có anh Vũ Lăng, tôi (Đặng Vũ Hiệp), anh Nguyễn Năng, và các anh phụ trách Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, các phòng tác chiến, trinh sát, v.v... Sau khi phân tích tình hình địch, tình hình ta trên toàn chiến trường miền Nam, những thắng lợi cuối năm 1974, đầu năm 1975 cũng như mục đích chiến dịch Tây Nguyên, anh Lê Ngọc Hiền nói:

- Thường vụ Quân ủy Trung ương giao cho Mặt trận Tây Nguyên trong chiến dịch này phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, từ 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, nhiều liên đoàn, tiểu đoàn bảo an, nhiều đại đội dân vệ, bắt nhiều tù binh. Phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều binh khí kỹ thuật để đánh địch và dự trữ cho ta. Cố gắng đánh quỵ hoặc diệt sư đoàn địch, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy. Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức mở hành lang chiến lược nối Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, Tây Nguyên với các tỉnh nam Khu 5 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), tạo thế mới trên chiến trường Tây Nguyên, chia cắt chiến lược địch, phá bình định của địch ở vùng đất bằng Tây Nguyên, hết sức coi trọng công tác phát động quần chúng, chấp hành tốt các chính sách. Rèn luyện nâng cao trình độ bộ đội chủ lực, thực hiện càng đánh càng mạnh, cơ động bộ đội nhanh chóng.

Phạm vi chiến dịch như trên đã nói, gồm 3 tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Trọng điểm là Đắc Lắc, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Hướng phát triển chủ yếu là Phú Yên (theo đường số 7), hướng phối hợp Ịà đường 19 và đường 21. Hướng kiềm chế, nghi binh là Plây Cu và Kon Tum.

Về sử dụng lực lượng, Bộ cho các anh sử dụng hết binh khí kỹ thuật, không hạn chế. Phương châm tư tưởng chỉ đạo là: mạnh bạo, chắc thắng, cơ động linh hoạt, bí mật bất ngờ.

Chú ý hết sức chủ động tạo bất ngờ trong suốt quá trình chiến dịch. Nắm vững tiêu diệt sinh lực địch, bắt tù binh thu vũ khí, càng đánh càng mạnh.

Như vậy do tình hình phát triển rất mau lẹ nên trong vòng 5 tháng Bộ đã 3 lần thay đổi nhiệm vụ đối với Tây Nguyên. Điều đó làm cho chúng tôi gặp không ít khó khăn. Trước đó, chúng tôi đã tổ chức làm nhiều việc như: xây dựng kế hoạch tác chiến, thiết bị chiến trường, thông qua quyết tâm chiến đấu của các đơn vị. Đến nay, chuyển mục tiêu chủ yếu từ Gia Nghĩa về Buôn Ma Thuột có nghĩa là chúng tôi phải lật cánh, gần như làm lại từ đầu; từ xây dựng phương án, kế hoạch chiến đấu đến thiết bị chiến trường, tổ chức mạng lưới bảo đảm hậu cần, với khối lượng công việc rất lớn, mà thời gian còn lại không nhiều. Nhưng khó khăn lớn nhất đối với chúng tôi là tổ chức đột phá vào thị xã Buôn Ma Thuột như thế nào ? Vì đây là trận mở đầu và cũng là trận then chốt quyết định của chiến dịch. Nhưng nhận thức rõ tình hình nhiệm vụ, quyết tâm chiến lược của Đảng, chúng tôi xác định phải khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên giao. Sau nhiều lần đi trinh sát thực địa và nghiên cứu hình thái bố trí của địch ở Tây Nguyên và khả năng chúng sử dụng lực lượng cơ động từ nơi khác đến trước, trong hoặc sau khi ta đánh Buôn Ma Thuột, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định cách đánh chiến dịch như sau: Nhử địch về Kon Tum, Plây Cu rồi hãm chúng lại đó, tạo sơ hở ở Buôn Ma Thuột để ta tiêu diệt và làm chủ. Tiếp đó sẽ phát triển đánh chiếm Gia Nghĩa, Phú Bổn để mở rộng khu vực, làm bàn đạp phát triển tiến công các hướng khác.

Để thực hiện ý định trên vấn đề có tính chất quyết định là lập thế trận chiến dịch. Thế trận đó phải thể hiện: chia cắt, vây hãm, vừa hãm vừa tiến công đột phá, vừa bí mật vừa nghi binh.

Về phương án đánh thị xã Buôn Ma Thuột, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chúng tôi xác định hai phương án. Phương án một: đánh địch chưa có phòng ngự dự phòng; phương án hai: đánh địch có phòng ngự dự phòng.

Chúng tôi tranh thủ tạo điều kiện để đánh địch theo phương án một; đồng thời sẵn sàng đánh địch ở phương án hai, có nghĩa là sư đoàn 23 ngụy đã về Buôn Ma Thuột phòng ngự dự phòng cuộc tiến công của ta vào thị xã. Sư đoàn này về Buôn Ma Thuột, tức là nó đã về căn cứ, nơi chúng tổ chức phòng ngự vững chắc, kiên cố. Dù tình huống nào cùng phải kiên quyết giành thắng lợi giòn giã trận Buôn Ma Thuột. Chúng tôi xác định mục tiêu chủ yếu trong thị xã là sở chỉ huy sư đoàn 23 và tiểu khu Đắc Lắc, khu liên hợp pháo binh - thiết giáp là mục tiêu quan trọng. Đảng ủy xác định đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột trên ba hướng: hướng bắc là chủ yếu; hướng tây nam và hướng nam là quan trọng. Đội hỉnh tiến công có năm mũi trong đó có một mũi thọc sâu. về thủ đoạn chiến đấu trong phương án một: kết hợp luồn sâu ém sẵn của bộ đội đặc công và bộ binh với đột kích của lực lượng binh chủng hợp thành cơ động từ xa bỏ qua các mục tiêu bên ngoài, áp nhanh vào thị xã, bất ngờ tiến công và đột phá trận địa địch dưới sự chi viện của pháo binh. Nếu xảy ra phương án hai ta sẽ thực hiện: “đánh chắc tiến chắc và đột phá liên tục”. Cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên chúng tôi đã từng đánh thí xã Kon Tum nhưng chưa làm chủ hoàn toàn. Sau khi ta giải phóng Phước Long, Bộ tư lệnh Miền đã cử một đoàn cán bộ đến Tây Nguyên phổ biến kinh nghiệm đánh thị xã, nhưng Phước Long chỉ là một thị xã nhỏ và không phức tạp như thị xã Buôn Ma Thuột. Do vậy, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên giao cho cơ quan tham mưu mặt trận phải nghiên cứu phương án đột phá tiến công thị xã Buôn Ma Thuột một cách kỹ lưỡng chu đáo, thực hiện được yêu cầu đánh chiếm nhanh nhưng ít gây thiệt hại cho thị xã.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:34:26 am
Tôi nói thêm một vài nét về thị xã Buôn Ma Thuột. Thị xã này rộng ngót 25 km2 (không tính các căn cứ quân sự ở ngoại vi), là thủ phủ của Tây Nguyên, nơi đặt căn cứ của sư đoàn 23 ngụy. Từ trung tâm thị xã kéo về phía nam, khu vực sở chỉ huy sư đoàn 23 và các đơn vị trực thuộc chiếm diện tích hơn 1 km2, được cấu trúc thành từng khu vực khá kiên cố và phức tạp. Phía đông đường 14 là tiểu khu bảo an, tòa hành chính và các trụ sở của cơ quan ngụy quyền tỉnh Đắc Lắc. Án ngữ phía tây bắc thị xã là khu căn cứ của trung đoàn 8 thiết giáp và tiểu đoàn pháo binh 39. Phía tây nam là khu kho quân sự Mai Hắc Đế, Phía đông và đông nam thị xã là căn cứ các trung đoàn 45 và 53. Xen kẽ giữa các khu quân sự là các khu vực dân cư đông đúc, đặc biệt là khu chợ thị xã (Buôn Ma Thuột lúc đó có 160.000 dân).

Địa hình xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột tương đối bằng phẳng, khá thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng binh chủng, ở quanh thị xã là rừng cà phê, dây là điều kiện rất thuận lợi để bộ đội ta có thể áp sát mục tiêu mà vẫn giữ được bí mật.

Thời gian này Bộ tư lệnh, cơ quan tham mưu mặt trận làm việc không kể ngày đêm. Anh Vũ Lăng, anh Nguyễn Năng, tôi và anh Nguyễn Quốc Thước - phụ trách Tham mưu trưởng mặt trận cùng các đồng chí cán bộ tác chiến, chủ nhiệm các binh chủng trinh sát, pháo binh, công binh, xe tăng, thông tin, cao xạ thức thâu đêm để bàn đi tính lại xây dựng phương án tiến công Buôn Ma Thuột. Cuối cùng Đảng ủy Mặt trận hạ quyết tâm:

Tập trung lực lượng đánh ngã nhanh ba mục tiêu chính là: sở chỉ huy sư đoàn 23, tiểu khu bảo an - tòa tỉnh trưởng và khu liên hợp pháo binh - thiết giáp; chủ yếu là sở chỉ huy sư đoàn 23. Ba mục tiêu trên là mục tiêu quan trọng lại cách biệt với khu dân cư, ta tập trung đánh vào đó sẽ đỡ thiệt hại cho nhân dân.

Phương án tác chiến được vạch ra là: Sử dụng bộ đội đặc công đánh chiếm trước kho Mai Hắc Đế, sân bay thị xã và sân bay Hòa Bình để cắt đứt đường không của địch. Lợi dụng tiếng súng, tiếng bộc phá của đặc công, đưa 12 trung đoàn bộ binh, xe tăng, pháo binh, cao xạ và công binh ở cách thị xã từ 10 đến 25 km vượt qua sông Sê-rê-pốc và các hướng khác nhanh chóng lướt qua các mục tiêu vòng ngoài, dùng sức mạnh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh và xe tăng đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu trong thị xã.

Chúng tôi bàn nhiều đến việc nghi binh thu hút và giam chân cho được 8 trung đoàn chủ lực quân ngụy ở lại bắc Tây Nguyên, không cho chúng về Buôn Ma Thuật trước khi ta nổ súng đánh vào thị xã này; đồng thời tổ chức lực lượng chặt đứt ba con đường chiến lược số 14, 19 và 21 để chia cắt đồng hằng với Tây Nguyên, chia cắt bắc Tây Nguyên với nam Tây Nguyên.

Chúng tôi cho rằng thời cơ để thực hiện phương án này lả khi ta cắt đứt được đường số 19 và đường số 14, giam giữ phần lớn chủ lực địch ở lại bắc Tây Nguyên và bí quyết để thực hiện phương án này là tiến hành biện pháp nghi binh khôn khéo.

Lợi dụng sai lầm của địch, ta đã tiến hành một kế hoạch nghi binh rất công phu, thu hút sự đối phó của địch về bắc Tây Nguyên. Tuy nhiên, chúng tôi không đánh giá thấp bộ máy tinh báo đồ sộ của Mỹ - ngụy nên đã tính đến những bất ngờ có thể xảy ra.

Nhằm bảo đảm cho bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ của chiến dịch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mật trận Táy Nguyên một mặt tích cực xây dựng phương án tác chiến, mặt khác tập trung giải quyết nhiều vấn đề về tổ chức biên chế, công tác hậu cần, kỹ thuật vả tiến hành công tác đảng, công tác chính trị một cách tích cực cả phía trước và phía sau, cơ quan và đơn vị, nhằm tạo nên chuyển biến căn bản toàn diện, có khí thế và hành động cách mạng sôi nổi, tự giác, bảo đảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Về tổ chức biên chế, ngay từ tháng 4 năm 1974, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mật trận Tây Nguyên chứng tôi đã quyết định xây dựng các lực lượng vũ trang Tây Nguyên theo phương hướng binh đoàn cơ động tác chiến quy mô lớn. Theo hướng đó, về tổ chức có những thay đổi. Mỗi sư đoàn bộ binh có 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh; mỗi tiểu đoàn có 400 người. Lực lượng pháo binh chiến dịch của Mặt trận tổ chức thành 2 trung đoàn pháo mặt đất và 2 trung đoàn pháo phòng không. Thành lập thêm trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273 và trung đoàn thông tin 29.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:37:46 am
Công tác xây dựng hậu phương và công tác hậu cần được khẩn trương tiến hành. Bước vào chiến dịch năm 1975, Mặt trận Tây Nguyên đã xây dựng được 3 cơ sở tiếp nhận chi viện ở cánh Bắc, cánh Trung và cánh Nam, có hệ thống kho tàng, bến bãi, đường sá cho xe vận tải(1). Tuyến đường ống dẫn dầu, tuyến đường dây trần và các khu vực dự trữ vật chất chiến lược đã tạo điều kiện cho việc tăng cường sức mạnh chiến đấu của ta. Các khu vực kho đã triển khai hợp lý, bảo đảm có thể tiếp nhận mỗi đêm từ 300 đến 400 xe và từ 1.500 đến 2.000 tấn hàng. Nhờ vậy đã bảo đảm 75% nhu cầu vật chất cho gần một chục vạn quân trước ngày chiến dịch mở (14.000 tấn).

Do bản chất ngoan cố của đế quốc Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nên cuộc chiến đấu sẽ quyết liệt, phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ rất cao mang tính chất kiên quyết, khẩn trương, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên chủ trương quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ mục tiêu, nhiệm vụ và quan điểm cơ bản của cách mạng miền Nam, bản chất âm mưu và khả năng của địch, nhiệm vụ chiến trường có quyết tâm vượt mọi khó khăn, chiến đấu liên tục, không ngại hy sinh gian khổ, quyết thi đua giành thắng lợi lớn nhất, chông mọi biểu hiện chủ quan, thỏa mãn, dừng lại; nắm vững tư tưởng đánh tiêu diệt, đánh nhanh, diệt gọn, đồng thời coi trọng công tác binh vận, làm tan rã hàng ngũ địch; đề cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng giữa các đơn vị, các binh chủng, các hướng, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, tạo thuận lợi cho bạn để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ; chấp hành nghiêm kỷ luật chiến trường, tự giác nghiêm minh, thực hiện tốt chính sách vùng mới giải phóng, chính sách tù hàng binh, chính sách chiến lợi phẩm.

Để thực hiện những nội dung trên, chúng tôi tập trung chỉ đạo công tác xây dựng đảng một cách toàn diện. Đại hội đảng bộ các cấp xác định nhiệm vụ chính trị của đơn vị: Sư đoàn ta diệt 2-3 trung đoàn địch, trung đoàn ta diệt chiến đoàn địch trong một thời gian nhất định. Nghị quyết đại hội được tổ chức học tập sâu rộng đến chiến sĩ để tạo nên sự nhất trí cao. Nhưng vấn đề mấu chốt là phát huy sức mạnh của các cấp ủy đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Xây dựng các chi bộ đại đội chiến đấu thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn diện. Công tác phát triển đảng được tiến hành tích cực, đi vào nền nếp thường xuyên. Nhờ vậy nên mặc dù qua chiến đấu thương vong lớn, đảng viên cử đi học nhiều nhưng vẫn bảo đảm tỷ lệ lãnh đạo trên 40%. Đầu năm 1975, chi bộ có chi ủy chiếm 86,60%, trung đội có tổ đảng chiếm 94,3%, tiểu đội có đảng viên chiếm 85,3%.

Trong công tác cán bộ, trước yêu cầu đánh hiệp đồng binh chủng lớn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đủ, đồng bộ, hợp lý, có trình độ năng lực đáp ứng(2).

Bước vào chiến dịch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận phát động cao trào thi đua với khẩu hiệu hành động: “Mừng Đảng, mừng Xuân ra quân đại thắng quét sạch quân thù giải phóng nhân dân”.

Thời gian này Thường vụ tỉnh ủy Đắc Lắc đã tiến hành nhiều cuộc họp để bàn việc phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của bộ đội chủ lực. Trước hết là quán triệt cho các cấp ủy đảng nắm chắc thời cơ lịch sử, nhiệm vụ của tỉnh Đắc Lắc trước yêu cầu mới, xác định quyết tâm, kế hoạch tiến công và nổi dậy trong toàn tỉnh, đặc biệt là trên địa bàn trọng điểm thị xã Buôn Ma Thuột; đồng thời có kế hoạch cụ thể đối với các hướng phát triển theo dự kiến của trên trục đường 14, 21, Cheo Reo, đường số 7... Chỉ trong một thời gian ngắn toàn tỉnh đã khôi phục được số cơ sở bị đứt liên lạc và phát triển cơ sở mới ở 23 buôn, gồm 6.500 dân, xây dựng 87 cơ sở cốt cán các loại, lập thêm 10 ban cán sự quần chúng và ban vận động khởi nghĩa xã, buôn.

Tháng 2 năm 1975, Thường vụ tỉnh ủy Đắc Lắc quyết định tuyển chọn những cán bộ, chiến sĩ trong các ngành ở tỉnh và thị xã để thành lập một đội vận động chính trị gồm 81 đồng chí, có ban chỉ huy chung do anh Ama H’oanh - ủy viên thường vụ tỉnh ủy, Bí thư thị ủy Buôn Ma Thuột trực tiếp lãnh đạo. Nhiệm vụ chính của đội này là lãnh đạo nổi dậy giành chính quyền, làm chủ tiếp sau đòn tiến còng quân sự, theo bốn yêu cầu: ổn định tư tưởng quần chúng, động viên quyết tâm giải phóng trọn vẹn thị xã; giáo dục quần chúng không chạy theo địch mà phải bám lại nhà; tham gia tổ chức cách mạng; xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, huy động một bộ phận thanh niên tham gia chiến đấu, v.v...


(1) Từ tháng 1 năm 1973 đến tháng 4 năm 1974 Tây Nguyên đã mở 394 km đường chiến dịch.
(2) Từ năm 1973 đến tháng 6 năm 1975, Mặt trận Tây Nguyên đã đưa vào đội ngũ cán bộ 1.081 đổng chí, đề bạt các cấp cho 4.490 đồng chí và bổ nhiệm 3.349 đổng chí. Trong năm 1974 nhiều lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch, về chiến thuật vận động tiến công, đánh công sự vững chắc, đánh thành phố, thị xã được mở cho các đối tượng khác nhau từ trung đội đến sư đoàn.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:39:06 am
Đối với lực lượng vũ trang địa phương, Thường vụ tỉnh ủy Đắc Lắc quyết định sử dụng tiểu đoàn bộ binh 301 (thiếu); tiểu đoàn đặc công 401 và các đơn vị trực thuộc do anh Đỗ Minh Cảnh, tỉnh đội trường và anh M’lô Nguynh - chính trị viên phó tỉnh đội chỉ huy đánh chiếm quận lỵ Đức Xuyên, Lạc Thiện và phát triển theo đường 21B về hướng Phước An. Dùng đại đội 1, tiểu đoàn 301 vào thị xã Buôn Ma Thuột tảo trừ bọn địch sống sót chống lại, tạo thế thuận lợi cho hoạt động của đội vận động chính trị. Sử dụng đại đội bộ binh cùng bộ đội huyện và đội công tác đánh địch, mở dân, giải phóng vùng đông Cheo Reo. Thường vụ tỉnh ủy đã bàn bạc cụ thể các mặt về công tác tiếp quản thị xã Buôn Ma Thuột, quyết định thành lập ủy ban quân quản do anh Y Blốc Êban, phó bí thư tỉnh ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh làm chủ tịch và anh Lê Chí Quyết, phó bí thư tỉnh ủy làm bí thư đảng ủy quân quản, phó chủ tịch ủy ban và một số ủy viên chỉ đạo các huyện tổ chức các ủy ban quân quản huyện. Anh Huỳnh Văn Cần, bí thư tỉnh ủy Đắc Lắc cho tôi biết đến trước chiến dịch, trong vùng địch kiểm soát ở tỉnh Đắc Lắc đã có 624 cơ sở cốt cán, gồm 160 cơ sở chính trị, binh vận, 144 du kích mật và 228 cơ sở khác. Trong thị xã có 120 gia đình cơ sở cũ, đó là chỗ dựa cho đội chính trị tiến vào thị xã. Chính những cơ sở này đã cung cấp thường xuyên những tin tức mới nhất của địch trong thị xã cho ta. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và ban quân sự thị xă đã chuẩn bị xong kế hoạch và lực lượng của địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực.

Những ngày cuối tháng 1 năm 1975, Bộ tư lệnh Mặt trận làm việc suốt ngày đêm để giao nhiệm vụ cho các đơn vị.

Tối ngày 24 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho trung đoàn 95A.

Ngày 25 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 320, Sư đoàn 316.

Ngày 26 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án một đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột.

Sáng ngày 27 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 10.

Chiều ngày 27 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án hai đánh thị xã Buôn Ma Thuột.

Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án đánh quân giải tỏa khi địch có phòng ngự dự phòng.

Sáng ngày 29 tháng 1 năm 1975, anh Nguyễn Kim Tuấn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 báo cáo quyết tâm bổ sung.

Ngày 30 tháng 1 năm 1975, Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho các đơn vị: trung đoàn pháo binh 40, trung đoàn pháo binh 675, trung đoàn phòng không 234, trung đoàn phòng không 593, trung đoàn xe tăng 273, trung đoàn đặc công 198.

Ngày 31 tháng 1 năm 1975, anh Vũ Lăng chỉ thị cho anh Nguyễn Quốc Thước viết lại kế hoạch chiến dịch và quy định thời gian trong 5 ngày phải xong. Anh Vũ Lăng lưu ý anh Nguyễn Quốc Thước một số vấn đề: Ở phần mục đích, phương châm tác chiến cần viết cho chặt chẽ hơn. Phần cách đánh và tổ chức, công tác bảo đảm đường sá cơ động cho pháo binh, xe tăng; công tác bảo đảm kỹ thuật, xăng dầu, đạn dược, ăn uống, v.v... cần phân rõ từng cấp chịu trách nhiệm; công tác bảo đảm cho các mũi, các hướng, hiệp đồng thời gian, đặc biệt đối với đơn vị thọc sâu phải viết ngắn gọn nhưng rõ, để khi thực hiện thuận lợi.

Ngày 1 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho trung đoàn 271.

Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy chiến địch, ngày 7 tháng 2 năm 1975, anh Hoàng Minh Thảo đến Tây Nguyên theo quyết định của trên.

Do ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch mở đầu của cuộc tổng tiến công chiến lược nên Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã cử anh Văn Tiến Dũng - ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trường làm đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh vào Tây Nguyên tổ chức sở chỉ huy tiền phương của Bộ trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trung tuần tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên hình thành trên cơ sở lấy Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tày Nguyên làm nòng cốt. Anh Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến dịch; tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Chính ủy; các anh Vũ Lăng, Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang - Phó tư lệnh; anh Phí Triệu Hàm - Phó chính ủy. Bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch còn có anh Bùi San, đại diện Thường vụ Khu ủy Khu 5 cùng một bộ phận cơ quan giúp việc. Đi sát với các hướng chiến dịch có các đại diện của tỉnh ủy Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:40:40 am
Chiều ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch báo cáo quyết tâm và kế hoạch tác chiến chiến dịch với anh Văn Tiến Dũng, đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Theo sự thống nhất trong Bộ tư lệnh, anh Vũ Lăng, tôi và anh Nguyễn Quốc Thước báo cáo (anh Hoàng Minh Thảo mới đến Tây Nguyên đang ở giai đoạn nắm tình hình). Đúng giờ làm việc, anh Vũ Lăng lên cơn sốt rét, không thể có mặt. Sau khi nghe anh Nguyễn Quốc Thước trình bày phương án kế hoạch tác chiến chiến dịch, anh Văn Tiến Dũng đặt vấn đề: Vì sao Sư đoàn 10, một đơn vị có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc lại sử dụng để đánh Đức Lập mà không đưa vào tiến công thị xã Buôn Ma Thuột ngay từ đầu. Tôi và anh Nguyễn Quốc Thước đã trình bày lý do, nhưng xem ra ý kiến chưa đủ sức thuyết phục đối với anh Văn Tiến Dũng. Tranh thủ giờ nghi, tôi đến gặp anh Vũ Lăng. Nhìn anh mặt tái ngắt, môi tím bầm, người run lẩy bẩy và đang sốt ruột chờ tin chúng tôi làm việc với anh Dũng, tôi ái ngại và thương anh quá. Kể lại cho anh nghe tình hình và nóỉ vui: “Có chết thì ngày mai hẵng chết. Còn bây giờ ông phải đến mà “cãi” về chuyện sử dụng Sư đoàn 10 đánh Đức Lập”,

Trước đề nghị của tôi, mặc dù cơn sốt chưa qua, nhưng anh Vũ Lăng đã cố gắng đến họp và báo cáo chi tiết việc sử dụng Sư đoàn 10. Anh Vũ Lăng nói rành rọt ý định của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên trong việc sử dụng sư đoàn này. Chính vì Sư đoàn 10 có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc nên phải sử dụng Sư đoàn 10 (thiếu trung đoàn 24) vào trận Đức Lập. Bởi vì Bộ tư lệnh chiến dịch xác định việc đánh căn cứ Đức Lập phải bảo đảm chắc thắng và chỉ được phép đánh thắng trong thời gian từ một đến hai ngày. Sau đó phải nhanh chóng cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn 316 sẵn sàng tham gia trận then chốt, dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố chống cự khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng đánh địch phản kích. Hơn nữa để thực hiện nhiệm vụ được giao hồi tháng 10 năm 1974 Sư đoàn 10 đã được bố trí tập kết ở hướng Đức Lập. Điều động quân trở lại vừa mất thời gian, vừa gây thêm nhiều khó khăn, nhất là về giữ bí mật.

Sau khi anh Vũ Lăng trình bày, anh Văn Tiến Dũng đã cân nhắc và cuối cùng nhất trí phê chuẩn kế hoạch đó. Anh nhắc nhở chúng tôi thời gian gấp, nhiệm vụ nặng cần tổ chức bảo đảm chu đáo để đưa nhanh Sư đoàn 10 về hướng Buôn Ma Thuột sau khi đã giải phóng xong Đức Lập.

Vì chưa hiểu hết bối cảnh lịch sử, nên hiện nay có người cho rằng lúc đó không cần đánh Đức Lập mà chỉ dùng một lực lượng nhỏ bao vây thì địch cũng sẽ bỏ chạy.

Thời gian chuẩn bị còn lại rất gấp nên mọi công tác phải tiến hành hết sức khẩn trương. Hầu như đêm nào cơ quan chỉ huy chiến dịch cũng phải làm vỉệc đến 2, 3 giờ sáng. Các anh Nguyễn Quốc Thước, Khuất Duy Tiến, Trần Minh Hảo có đêm tranh thủ ngủ ngồi một lát rồi lại thức dậy làm việc. Tuy vất vả, mệt nhọc là thế nhưng nghĩ đến ngày Buôn Ma Thuột được giải phỏng, cả Tây Nguyên không còn bóng quân thù thì ai cũng thấy trong lòng phấn khởi, tăng thêm nghị lực làm việc.

Theo phương án đã được đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lộnh thông qua, các đơn vị tham gia chiến dịch Táy Nguyên được giao nhiệm vụ chính thức như sau:

- Sư đoàn 968 (thiếu) có nhiệm vụ hoạt động nghi binh tích cực giam chân khối chủ lực của quân khu 2 ngụy ở lại Kon Tum, Plây Cu.

- Sư đoàn 320 có nhiệm vụ cắt đường 14 đoạn Cẩm Ga (Thuần Mẫn), sẵn sàng tiêu diệt địch từ Plây Cu đi giải tỏa Buôn Ma Thuột, hoặc địch từ Buôn Ma Thuột đánh lên. Sau khi dứt điểm Cẩm Ga, sư đoàn này phát triển bao vây và tiêu diệt địch, giải phóng thị xã Cheo Reo.

- Trung đoàn 25 cắt đường 21 và chặn đánh địch ở đoạn tây Khánh Dương, tiêu diệt địch ở Buôn Ma Thuột rút chạy, hoặc địch từ đồng bằng Khu 5 lên theo trục đường 21.

- Trung đoàn 95A đánh cắt giao thông và tiêu diệt địch trên đường 19 đoạn tây An Khê phối hợp với Sư đoàn 3 Quân khu 5 đánh trên đoạn đông An Khê.

- Sư đoàn 316, trung đoàn 95B, trung đoàn 24 (Sư đoàn 10), trung đoàn đặc công 198, 2 trung đoàn pháo binh 40 và 675, 3 trung đoàn pháo cao xạ 234 (thiếu), 593 và 232, trung đoàn xe tăng 273, 2 trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn thông tin 29 có nhiệm vụ tiêu diệt địch giải phóng Buôn Ma Thuột.

- Sư đoàn 10 cùng một lúc phải thực hiện 2 nhiệm vụ:

1. Sử dụng sư đoàn thiếu được tăng cường 1 tiểu đoàn cao xạ thuộc trung đoàn 234, 1 cụm pháo binh 122 ly và 155 ly có nhiệm vụ nhanh chóng đánh dứt điểm quận lỵ Đức Lập và quét địch từ Đức Lập đến ngã ba Đắc Song trong thời gian từ 1 đến 2 ngày. Đánh xong Đức Lập, sư đoàn nhanh chóng cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột sẵn sàng tham gia trận then chốt đánh dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố co cụm chống cự, khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng đánh địch phản kích. Nếu Sư đoàn 320 gặp khó khăn thì tăng cường lực lượng để giải quyết Cheo Reo.

2. Tổ chức một sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn chỉ huy trung đoàn 24 và trung đoàn 95B tác chiến trên hướng đông bắc và hướng tây Buôn Ma Thuột. Mục tiêu trung đoàn 95B đánh chiếm sân bay thị xã, ngã sáu, tiểu khu Đắc Lắc. Trung đoàn 24 sử dụng 1 tiểu đoàn được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe thiết giáp, 1 đại đội cao xạ hình thành lực lượng thọc sâu của chiến dịch, đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23, dùng 1 tiểu đoàn bao vây Chư Nga, 1 tiểu đoàn làm lực lượng dự bị.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:41:25 am
Thực hiện kế hoạch tác chiến trên, Sư đoàn 968 (do anh Thanh Sơn - Tư lệnh, anh Trần Trác - Chính ủy) từ Hạ Lào hành quân bộ vượt qua vùng rừng núi hiểm trở biên giới Việt - Lào. Ngày 15 tháng 1 năm 1975 đến vị trí tập kết T73 với quân số 5.429 người, gồm 2 trung đoàn (trung đoàn 19: 1.890 người, trung đoàn 29: 1.890 người), mỗi tiểu đoàn quân số lên tới 480 người, bộ đội khỏe mạnh, xe pháo an toàn.

Từ Nghệ An, Sư đoàn 316 (do anh Đàm Văn Ngụy - Sư đoàn trưởng, anh Hà Quốc Toản - Chính ủy) hành quân bằng ô tô vào đến Tây Nguyên ngày 7 tháng 2 năm 1975 với quân số khá cao 8.820 người, có 2.137 đảng viên, trong đó có 73 trên 85 chi bộ đại đội có chi ủy.

Từ đầu tháng 1 năm 1975, Bộ tăng cường liên tiếp cho Tây Nguyên trung đoàn 95B (Sư đoàn 325), tiểu đoàn đặc công 1 của Bộ, trung đoàn cao xạ 232, trung đoàn công binh 575 thuộc Đoàn 559 và 1 tiểu đoán cầu phà, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội khí tượng, 3 trạm sửa chữa xe, pháo, đội đíều trị 48 và 8,000 quân bổ sung lần lượt đến Đắc Lắc. Ngoài ra còn có các đơn vị phối hợp và phối thuộc ở các hướng. Sư đoàn 3 (Quân khu 5) từ bắc Bình Định hành quân đến đông An Khê (Gia Lai), trung đoàn bộ binh 271, tiểu đoàn đặc công 14 của Miền đến Gia Nghĩa, tiểu đoàn 21 Sư đoàn 470 (Đoàn 559) đến Bản Đôn.

Đầu tháng 2 năm 1975, Sư đoàn 320 (do anh Kim Tuấn - Sư đoàn trưởng, anh Bùi Huy Bổng - Chính ủy) và các trung đoàn binh chủng kỹ thuật bí mật rời khỏi khu vực đường 19, Đức Cơ, qua 5 ngày hành quân bộ, dưới cái nắng gay gắt của rừng khoọc Gia Lai đã đến vị trí tập kết phía tây Thuần Mẫn an toàn.

Ngày 6 tháng 2 năm 1975, trung đoàn 66, khối hành quân đầu tiên của Sư đoàn 10 (do anh Hồ Đệ - Sư đoàn trưởng, anh Lã Ngọc Châu - Chính ủy) bí mật rời hậu cứ Kleng về tập kết ở phía bắc dãy núi Chư Mon Ray rồi được xe ô tô chở về nam Tây Nguyên, Những ngày tiếp theo các đơn vị còn lại của Sư đoàn 10 cũng bí mật bàn giao tuyến phòng thủ Võ Định cho Sư đoàn 968 rồi bí mật theo đường 1B bằng xe cơ giới hướng về phía nam.

Ba cơ quan của Mặt trận Tây Nguyên cũng được lệnh di chuyển vào khu vực Đắc Đam (Đắc Lắc) phục vụ cho Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị.

Tôi nói thêm, mỗi khi mùa khô đến, những người chí huy quân đội Mỹ - ngụy ở Tây Nguyên thường theo dõi sự di chuyển của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Họ cho rằng hai sư đoàn này có mặt ở đâu, ở đó sẽ đánh lớn. Tương kế tựu kế, ta đã bí mật thế chỗ của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 bằng Sư đoàn 968. Khi hai sư đoàn này chuyển quân đã được lệnh để lại toàn bộ mạng thông tin vô tuyến (kể cả nhân viên báo vụ). Các đài vô tuyến của hai sư đoàn này vẫn duy trì phát sóng đúng giờ tung các báo cáo giả lên làn sóng điện để đánh lửa sự theo dõi của địch. Tỉnh báo địch khí theo dõi các tín hiện phát ra, biết rõ cố tật của báo vụ viên từng đơn vị nên họ yên tâm là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vẫn ở vị trí cũ.

Sau này viên tướng Mỹ Sác-lơ Ti-mét - cố vấn của Nguyễn Vân Thiệu đã phải thốt lên: “Bằng biện pháp nghi binh qua làn sóng điện, Việt Cộng đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân lực Việt Nam cộng hòa thuộc quân khu 2 ở Plây Cu và Kon Tum”.

Bị các hoạt động nghi binh chiến dịch của ta làm cho lạc hướng, ngày 18 tháng 2 trong cuộc họp với các tướng lĩnh để kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch phòng thủ quốc gia “Lý Thường Kiệt 1975” và các biện pháp của hội đồng an ninh quốc gia đã quyết định trước đây, tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn cho rằng: “Quân khu 2 sẽ là chiến trường trọng điểm, quân khu 1 và quân khu 3 là chiến trường phối hợp. Cần đề phòng cộng sản có thể đánh vào một số thị xã nhỏ, nhất là các thị xã hẻo lánh ở Tây Nguyên như Quảng Đức, Kon Tum”. Sau cuộc họp ở phủ tổng thống về, tướng Phạm Văn Phú - tư lệnh quân khu 2 kiêm tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đã triệu tập chỉ huy trưởng đơn vị, tiểu khu trưởng trong quân khu để nhận định tình hình, bàn kế hoạch đối phó. Họ cho rằng hình thức bố trí lực lượng của ta “nhẹ đuôi nặng đầu” (ý nói cảc sư đoàn chủ lực của ta đều tập trung ở hai tỉnh Kon Tum và Plây Cu) nếu đánh lớn ta sẽ lấy Kon Tum, Plây Cu làm “điểm”, chiến sự sẽ diễn ra ác liệt. Nơi diễn ra sôi động thứ hai có thể là Quảng Đức vì hiện ta đã chiếm được Phước Long nên cần đánh Quảng Đức để mở thông đường hành lang vào Nam Bộ, do đó Quảng Đức có thể nổi lên trong tình hình hiện nay. Từ nhận định trên, tướng Phú ra lệnh cho các đơn vị phòng giữ Kon Tum, Plây Cu cần củng cố hệ thống bố phòng, tăng cường sục sạo ra xa để sớm phát hiện ý đồ của ta và tổ chức tiến công từ tuyến ngoài, tiêu hao, làm giảm sức tiến công của ta khi đánh sâu vào khu vực thị xã; tăng cường cho Quảng Đức 1 trung đoàn để tăng thêm khả năng phòng thủ. Và tướng Phú vẫn chủ quan cho rằng Buôn Ma Thuột có thể bị đánh nhưng quy mô không lớn vì chỉ là “diện” nên chưa cần tăng lực lượng. Ngoài ra viên tướng này còn chỉ thị cho các đơn vị dưới quyền chú trọng điều tra sự di chuyển của 2 sư đoàn 10 và 320. Như trên đã nói, 2 sư đoàn chuyển về hướng nào thì nơi đó sẽ nổ ra đánh lớn. Tuy vậy, vẫn tỏ ra âu lo, nên sau cuộc họp Phú đã trao đổi riêng với chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - phụ tá hành quân và Lê Khắc Lý - tham mưu trưởng quân đoàn 2 là ông ta rất sợ tình hình có nhiều đột biến ngoài dự tính, trong khi lực lượng quân khu ít và đã phải dàn mỏng, gắn chặt vào từng nơi. Tướng Phú than phiền rằng hôm gặp tổng thống Thiệu xin tăng thêm quân dù là lực lượng đã quen chiến trường để làm quân ứng cứu tại chỗ nhưng không được Thiệu chấp nhận. Cuối cùng tướng Phú chỉ được tăng thêm 2 liên đoàn biệt động...


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:42:42 am
Đêm 18 tháng 2, đại tá Trịnh Tiêu - trưởng phòng tình báo quân khu 2 ngụy nhận được nguồn tin: “Sư đoàn 10 đã hành quân vào phía nam chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 sang tây Ea H’leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn. Một lực lượng khác đang chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột”.

Nhận được tin trên, Trịnh Tiêu đã báo cáo Phạm Văn Phú như sau: “Những hoạt động ở Kon Tum và Plây Cu chỉ là hoạt động nghi binh của Việt cộng. Ý định thực sự của họ là sẽ đánh vào Buôn Ma Thuột”. Phát hiện của cơ quan tình báo đã làm cho Phú rất lo lắng, nên đã nghĩ đến việc “có lẽ phải đưa sư đoàn 23 về lại Buôn Ma Thuột”.

Nhưng mặt khác, Phạm Văn Phú lại nhận được thông báo của tình báo Mỹ khẳng định rằng tình hình chưa có gì thay đổi, các đơn vị Việt cộng vẫn ở chỗ cũ... Những tin tức trái ngược nhau làm đau đầu tướng Phú. Tuy vậy, ngày 19 tháng 2 năm 1975, Phú vẫn quyết địch rút bớt trung đoàn 45 từ Plây Cu đưa về tây đường 40 ở khu vực tây Ea H’leo để sục sạo tìm Sư đoàn 320. Nhưng trước đó, Bộ tư lệnh chiến dịch đã lệnh cho sư đoàn này lui quân về phía tây, chỉ để lại những tổ trinh sát bám địch, tuyệt đối tránh đụng độ với chúng.

Trước tình hình diễn biến phức tạp đó, Bộ tư lệnh chiến dịch 45 nhận định: “Địch có nghi ta chuẩn bị đánh Đức Lập, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột, cắt đường 14 ở Thuần Mẫn, với một số bằng chứng riêng lẻ. Nhưng địch vẫn chưa phát hiện ý định và lực lượng chiến dịch của ta. Những hoạt động trên mang tính chất rời rạc cục bộ. Tuy nhiên, cũng vẫn phải chủ động đề phòng”. Và Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định “kiên trì, khôn khéo giữ bí mật ý định và lực lượng ta ở hướng tác chiến chủ yếu (Buôn Ma Thuột). Tích cực hoạt động nghi binh trốn hướng Kon Tum và Plây Cu đế thu hút trung đoàn 45 về Plây Cu”.

Thực hiện ý định trên, cơ quan tham mưu chiến dịch đã cho phát đi một bức điện giả để đánh lừa địch, nội dung như sau: “Địch đã bị lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã đưa trung đoàn 45 xuống phía nam”. Bộ tư lệnh quân khu 2 ngụy đã nhận được bức điện trên, cùng lúc với các chỉ huy quân sự các tỉnh ở Tây Nguyên. Sau khi nhận được bức điện của ta đánh đi, Phạm Văn Phú càng hoài nghi về nguồn tin đã nhận được và dứt khoát từ bỏ ý định đưa sư đoàn 23 trở lại Buôn Ma Thuột.

Sau khi các đơn vị bộ binh và binh chủng triển khai ở hướng chính an toàn, ngày 1 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 968 (mang tên Sư đoàn 320) đánh nghi binh tiến công một loạt các vị trí ở ngoại vi thị xã Plây Cu như đồn Tầm, chốt Mỹ và một loạt các cứ điểm trên dãy Chư Kra, Chư Gôi, điểm cao 605, uy hiếp quận lỵ Thanh An và Thanh Bình. Tiếng súng nổ xen lẫn tiếng gầm rú của xe tăng như báo hiệu một cuộc tiến công lớn vào thị xã Plây Cu đã bắt đầu.

Trong khi trung đoàn 45 ngụy đã qua 10 ngày lùng sục ở khu vực Ea H’leo vẫn không phát hiện ra Sư đoàn 320, thì được tin sư đoàn này xuất hiện đang tiến công vào hướng tây Plây Cu. Không giấu nổi bực tức, Phạm Văn Phú ra lệnh đưa ngay trung đoàn 45 về tăng cường sức chống đỡ ở hướng tây Plây Cu. Sáng ngày 3 tháng 3 năm 1975, trung đoàn 45 ngụy từ Ea H’leo vội vã hành quân về lại tây thị xã Plây Cu.

Đôm ngày 3 rạng sáng ngày 4 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cắt đứt đường 19. Từ sáng đến trưa ngày 4 tháng 3, trung đoàn 95A (anh Lê An - trung đoàn trưởng, anh Trần Kiểu - chính ủy) đã tiến ra đường 19 tiêu diệt một loạt các vị trí địch trong đó có căn cứ pháo binh Ia Dun do một tiểu đoàn bảo an đóng giữ. Đến chiều hôm ấy trung đoàn 95A đã làm chủ đoạn. đường dài 20 km từ ngã ba Plây Bôn đến ấp Phú Yên.

Cùng ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tuy vừa hành quân từ bắc Bình Định vào, gặp rất nhiều khó khăn về quân số và hậu cần cũng đã tích cực phối hợp đánh cắt đường 19 - đoạn từ đèo Thượng An đến cầu số 13 diệt 2 đại đội và tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 47 ngụy diệt 316 tên, bắt sống 52 tên thu 200 súng và 2 khẩu pháo 105 ly, làm chủ hoàn toàn đoạn đường trên.

Tin đường số 19 bị cắt đứt đã nhanh chóng truyền về Oa-sinh-tơn, đêm 4 tháng 3 hãng thông tấn AP đã loan tin: “Đường số 19, con đường tiếp tế chủ yếu của cao nguyên đã bị cắt đứt. Các trận đánh đã tập trung ở Lệ Trung - đông Plây Cu 16 km và ở Bình Khê - tây Quy Nhơn 40 km. Nhiều vị trí từ Lệ Trung đến Bình Khê bị tiến công và mất liên lạc điện đài. Một căn cứ pháo binh 105 ly ở tây bắc Bình Khê đã bị cộng sản đánh chiếm”.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:43:16 am
Trước tình thế con đường huyết mạch nối từ cảng Quy Nhơn lên sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Plây Cu bị cắt đứt, Phạm Văn Phú đã tung liên đoàn biệt động quân số 4 và tiểu đoàn 3 ra đông Plây Cu để phản kích trung đoàn 95A, đồng thời ông ta ra lệnh cho sư đoàn 22 ngụy từ bắc Bình Định vào đường số 19 để phản kích lại Sư đoàn 3 của ta.

Trên hướng đường số 21, ngày 5 tháng 3 năm 1975, trung đoàn 25 do anh Lộ Khắc Tâm - trung đoàn trưởng, Nguyễn Ngãi - chính ủy chỉ huy tiến công một đoàn xe địch, làm chủ đoạn đường phía đông Chư Xuê - con đường chiến lược quan trọng thứ hai nối từ Nha Trang đi Buôn Ma Thuột đã bị cắt đứt. Địch phải điều chi đoàn 2 thiết giáp thuộc trung đoàn 19 từ Bình Thuận ra Khánh Hòa cùng với lực lượng học viên trường biệt động quân ở Dục Mỹ và hai tiểu đoàn bảo an đối phó với trung đoàn 25 của ta ở Chư Xuê. Việc trung đoàn 25 cắt đứt đường 21 đã làm cho Phạm Văn Phú một lần nữa phải suy nghĩ về Buôn Ma Thuột. Ồng ta cho rằng: Tại sao Việt cộng đánh Plây Cu, Kon Tum lại có lực lượng vào Buôn Ma Thuột và cắt đứt đường 21, hay là đối phương lại nghi binh ? Đề phòng tinh huống xấu, tướng Phú đã cử đại tá Vũ Thế Quang - phó tư lệnh sư đoàn 23 ngụy về Buôn Ma Thuột với nhiệm vụ mới: tư lệnh chiến trường nam Tây Nguyên, chỉ huy toàn bộ lực lượng quân ngụy từ Đắc Lắc đến Gia Nghĩa.

Khoảng 17 giờ ngày 5 tháng 3, đoàn xe 15 chiếc của Vũ Thế Quang và tùy tùng trên đường vào Buôn Ma Thuột đã rơi vào ổ phục kích của trung đoàn 64 Sư đoàn 320 (anh Phạm Quang Bào - trung đoàn trưởng, anh Đinh Thế Mỹ - chính ủy) ở đoạn nam Ea H’leo. 8 chiếc đi đầu bị bắn cháy, 7 chiếc còn lại chạy thoát được về Plây Cu, trong đó có xe của Vũ Thế Quang.

Một vấn đề trở ngại cho ta khi triển khai lực lượng ở phía bắc Buôn Ma Thuột là trung đoàn 53 ngụy đang lùng sục ở khu vực này. Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 đánh Chư Xuê (nam Thuần Mẫn) để kéo trung đoàn 53 ra đối phó, tạo điều kiện cho lực lượng ta ở bắc, tây bắc Buôn Ma Thuột tiếp tục chuẩn bị.

6 giờ ngày 7 tháng 3, tiểu đoàn 3 trung đoàn 48 Sư đoàn 320 nổ súng. Sau 40 phút chiến đấu, tiểu đoàn 3 diệt gọn Chư Xê.

Ngày 8 tháng 3, trung đoàn 48 do anh Lê Quang Bình - trung đoàn trưởng, anh Đinh Hữu Tấn - chính ủy chỉ huy được tăng cường 2 pháo 105 ly, 3 pháo 85 ly bắn thẳng tiến công chi khu quân sự Cẩm Ga và quận lỵ Thuần Mẫn. Sau 1 giờ 20 phút, trung đoàn 48 làm chủ Cầm Ga và Thuần Mẫn, diệt 1 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội cảnh sát và cơ quan chi khu, bắt 121 tên, thu 200 súng (có 2 khẩu pháo 105 ly), 18 xe quân sự. Tiếp đó, ngày 9 tháng 3 trung đoàn 64, Sư đoàn 320 đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ Buôn Hồ.

Trận Cẩm Ga, Chư Xê và Buôn Hồ đã làm cho đường 14 - con đường nối liền giữa nam và bắc Tây Nguyên bị cắt đứt.

Tại Buôn Ma Thuột, Vũ Thế Quang đã ra lệnh báo động, rút trung đoàn 53 về phòng thủ thị xã và đưa 1 tiểu đoàn của trung đoàn này lên tăng cường cho Đức Lập.

Sáng ngày 9 tháng 3, Phạm Văn Phú từ Plây Cu bay vào Buôn Ma Thuột gặp Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật, đại tá tỉnh trưởng Đắc Lắc. Sau khi xem xét toàn bộ tình hình, tướng Phú động viên Vũ Thế Quang: “Hãy sử dụng lực lượng hiện có để cố giữ Buôn Ma Thuột”. Đại tá Vũ Thế Quang hỏi lại tướng Phú: “Nếu tiến công vào Buôn Ma Thuột thì bao giờ Việt cộng sẽ bắt đầu ?”. Tướng Phú trả lời: “Có sớm cũng phải giữa tháng 4. Nhưng họ không thể đánh lớn. Tổng thống Thiệu đã dặn tôi: Nơi nào bị đánh thì cố giữ, Hội nghị Pa-ri sẽ họp lại, ta giữ được nhiều đất thì có giá để mặc cả với đối phương. Vì vậy, không thể rút thêm lực lượng ở Plây Cu để tăng cho Buôn Ma Thuột. Đến bây giờ bộ tổng tham mưu (ngụy) vẫn khẳng định là hướng tiến công chính của Việt cộng ở Tây Nguyên vẫn là Kon Tum và Plây Cu”(!).

Nói xong Phú vội vã lên máy bay trở về Plây Cu.

Địch đang hoang mang thì sáng ngày 9 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Sư đoàn 10, được tăng cường trung đoàn 40 tiến công chi khu quân sự và quận lỵ Đức Lập. Đây là tuyến phòng thủ vững chắc của địch bao gồm 5 cứ điểm liên hoàn nằm trên đường 14 ở phía tây nam Buôn Ma Thuột. Được sự chi viện của 15 khẩu pháo lớn của trung đoàn 4 và trung đoàn 40 (pháo chiến dịch), chỉ sau hơn 3 giờ chiến đấu, trung đoàn 66 do anh Nguyễn Đình Kiệp - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Chí Nguyện - chính ủy trung đoàn chỉ huy đã làm chủ hoàn toàn căn cứ chỉ huy hành quân của sư đoàn 23, một vị trí quan trọng bậc nhất của địch ở Đức Lập,


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:43:47 am
Cùng lúc đó, tiểu đoàn 1 vã tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 do anh Nguyễn Đức Cẩm - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Ngọc Xuân - chính ủy chỉ huy tiến công căn cứ Núi Lửa. Chỉ sau 45 phút chiến đấu, trung đoàn 28 đã làm chủ căn cứ Núi Lửa, toàn hộ quân ngụy trong căn cứ bị tiêu diệt và bắt làm tù binh.

Khí đánh vào quận lỵ Đức Lập, do nắm địch không chắc và tố chức đột phá không tốt nên đánh đợt một không thành công, chỉ huy Sư đoàn 10 ngay trong đêm tổ chức nắm địch lại, mở hướng tiến công mới. Đến sáng ngày 10 tháng 3 Sư đoàn 10 mở đợt tiến công thứ hai mới giải quyết xong. Thừa thắng, các chiến sĩ trung đoàn 66 phát triển đánh chiếm Đắc Sắc và Đức Minh, 2 đại đội bảo an đóng ở đây nhanh chóng bị tiêu diệt và tan rã. Trong khi các đơn vị tiến công quân địch ở Đức Lập thì tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 được lệnh phát triển phối hợp vớí tiểu đoàn 2 trung đoàn đặc công 198 đánh chiếm căn cứ Đắc Song do tiểu đoàn 1 trung đoàn 53 chiếm giữ. Như vậy, sau 2 ngày chiến đấu, Sư đoàn 10 (thiếu) đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Đức Lập và Đắc Song, bắt hơn 100 tên, thu 14 khẩu pháo 105 ly, 20 xe tăng, thiết giáp và hàng nghìn quả đạn pháo. Theo kế hoạch, sau khi giải phóng Đức Lập, Sư đoàn 10 đã nhanh chóng cơ động về phía đông thị xã Buôn Ma Thuột làm lực lượng dự bị chiến dịch.

Mờ sáng ngày 9 tháng 3 năm 1975, tại thị xã Buôn Ma Thuột, Vũ Thế Quang - chỉ huy trưởng chiến trường phía nam còn đang ở nhà riêng thì nhận được điện báo: Đức Lập đang bị pháo kích mạnh. Quang vội vã đến trung tâm hành quân cùng Nguyễn Trọng Luật - đại tá tỉnh trưởng Đắc Lắc theo dõi tình hình.

11 giờ trưa, Phạm Văn Phú bay tới Buôn Ma Thuột tổ chức cuộc họp khẩn cấp ngay tại trung tâm hành quân sư đoàn 23. Ngoài tướng Phú còn có Lê Trung Tường - chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn 23, Phạm Văn Nghìn - đại tá tỉnh trưởng Quảng Đức cùng Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật. Cuộc họp vừa bắt đầu thì tướng Phú nhận được tin “Căn cứ 23 và Núi Lửa thất thủ”. Tướng Phú đưa ra một số quyết định: “Tình hình Đức Lập đã quá xấu, không còn khả năng cứu vãn, nên không tăng quân cứu viện”. Ông ta hứa: Sẽ tăng cho Buôn Ma Thuột 1 chi đội xe tăng để tăng thêm sức phòng thủ và cho Vũ Thế Quang rút 2 tiểu đoàn ở Bản Đôn về bảo vệ ngoại vi thị xã. Cho đến lúc này Phạm Văn Phú vẫn chủ quan cho rằng ta đánh Đức Lập, uy hiếp Buôn Ma Thuột là để nghi binh, có thể vài ngày nữa ta sẽ tập trung tiến công Kon Tum và Plây Cu.

Nhưng điều bất ngờ lớn nhất đối với những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Sài Gòn và ở Tây Nguyên đã tới.

16 giờ ngày 9 tháng 3, từ những vị trí tập kết cách thị xã từ 15 đến 30km, 12 trung đoàn bộ binh và binh chủng đã hình thành 5 mũi tiến công cùng tiến về hướng Buôn Ma Thuột. Ở hướng tây, dẫn đầu đoàn xe cơ giới là các đơn vị xe tăng tiến theo dấu lộ tiêu do công binh cắm sẵn xuyên qua các khu rừng để tiến ra bờ sông Sê-rê-pốc. Cây trên đường vẫn đứng nguyên, nhưng gốc cây đã được các chiến sĩ công binh cưa trước ba phần tư và ngụy trang kín đáo, nên xe tăng chỉ cần húc nhẹ là cây đổ và con đường mới hình thành cho xe qua. Công binh Sư đoàn 316 đã chuẩn bị đủ các loại phương tiện: thuyền độc mộc, thuyền cao su, bè nứa, móc ròng rọc vào dây cáp căng giữa hai bờ để đưa từng tiểu đoàn vượt sang bờ phía đông.

Ở phía bắc, trung đoàn 53 ngụy còn chiếm giữ khu vực Quảng Nhiêu, Mê Van nên đến ngày 8 tháng 3 mạng đường ở hướng này vẫn còn từ 10 đến 12km chưa làm xong. Sau khi trung đoàn 53 rút đi trung đoàn công binh 575 phải làm suốt đêm ngày và đến 23 giờ ngày 9 tháng 3 đã hoàn thành xong 3 tuyến đường phía bắc vào Buôn Ma Thuột. Theo số liệu tôi còn lưu lại, tổng số chiều dài các con đường mới làm để vào Buôn Ma Thuột là 336km, 3 bến phà, 2 ngầm và nhiều bến vượt cho bộ bỉnh.

Đúng 2 giờ 3 phút sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho trung đoàn đặc công 198 (do anh Trần Kình - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Tích - chính ủy) tiến công thị xã Buôn Ma Thuột. Sau 2 giờ chiến đấu, bộ đội đặc công đã chiếm hai phần ba sân bay thị xã, làm chủ đường Phan Chu Trinh. Một mũi khác đã vượt đường 14 đánh chiếm khu cảnh sát. 2 giờ 16 phút, trung đoàn 198 đánh chiếm và làm chủ sân bay Hòa Bình, một mũi khác đánh vào căn cứ trung đoàn 53. Đại đội đặc công 2 được một đồng chí trong đội công tác tỉnh Đắc Lắc dẫn đường đánh chiếm làm chủ khu kho Mai Hắc Đế và con đường 429 mở hành lang cho mũi thọc sâu tiến vào thị xã.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:44:10 am
Vào thời gian này, các trận địa pháo chiến dịch 105,122,130 ly và các loại hỏa tiễn H12, ĐKB bắt đầu bắn phá dữ dội vào sở chỉ huy sư đoàn 23 và kéo dài từng đợt đến 6 giờ 30 phút.

Dựa vào địa bàn do đặc công mới mở, tiểu đoàn 5 trung đoàn 95B cùng xe tăng, xe thiết giáp từ hướng đông bắc theo đường Phan Chu Trinh tiến vào đánh chiếm Ngã Sáu và tiểu khu Đắc Lắc.

Trên hướng tây bắc, trung đoàn 148 Sư đoàn 316 (anh Đỗ Thanh Trì - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Khai Mẫn - chính ủy) dùng 1 tiểu đoàn đánh chiếm điểm cao Chư Ebua. Lực lượng chủ yếu được tăng cường 1 đại đội xe tăng tiến vào khu thiết giáp và khu pháo binh.

Trên hướng tây nam, trung đoàn 174 Sư đoàn 316 được tăng cường 1 đại đội xe tăng do anh Đào Trọng Lịch - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Xướng - chính ủy chỉ huy dùng tiểu đoàn 2 đánh chiếm điểm cao Chư Duê. Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 đánh vào kho xăng sư đoàn 23 và các đơn vị trực thuộc của sư đoàn này ở phía nam đường 429.

Trên hướng tây, tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 Sư đoàn 10 do anh Trương Quang Oánh - tiểu đoàn trưởng chỉ huy được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội thiết giáp (gồm 16 xe tăng T54 và xe K63) của trung đoàn 273 hình thành mũi thọc sâu binh chủng hợp thành dưới sự chỉ huy của anh Trương Văn Việt - trung đoàn phó trung đoàn 24 theo đường 429 tiến vào sở chỉ huy sư đoàn 23.

Trên hướng nam, khi trung đoàn 198 nổ súng thì trung đoàn 149 Sư đoàn 316 (anh Nguyễn Văn Đạo - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Hoạt - chính ủy) còn cách mục tiêu khá xa, bộ đội vừa đi vừa chạy để kịp thời gian hiệp đồng. Trung đoàn này phải vượt qua con suối lớn, nước sầu nên mất khá nhiều thời gian. Địa hình hướng nam toàn nương rẫy trống trải, địch phát hiện cho máy bay oanh tạc trúng đội hình. Riêng tiểu đoàn 9 của trung đoàn 149 được đội công tác dẫn đường, đến 11 giờ 30 phút tiểu đoàn này đã chiếm được quận lỵ Hòa Binh. Quá trình phát triển chiến đấu, các trung đoàn cao xạ 232 và 234 theo sát đội hình tiến công của bộ binh và xe tăng, bắn rơi 6 máy bay A37, buộc máy bay địch phải nâng độ cao.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, đại đội 1 tiểu đoàn 301 và các đội xung kích của thị xã Buôn Ma Thuột đã phát triển vào các khu phố tảo trừ truy quét tề điệp, bọn địch lẩn trốn trong dân, bảo vệ trật tự trị an trong thị xã.

Cùng tiến với cánh quân hướng tây bắc là đoàn cán bộ vận động chính trị gồm 83 người do anh Ama H’oanh lãnh đạo đã vượt qua khu liên hợp pháo binh thiết giáp vào chùa Khải Đoan. Anh Ama H’oanh kể lại: Khi các cơ sở cũ trong thị xã gặp lại những người cán bộ năm xưa họ hết sức vui mừng bởi vì suốt 7 năm qua lòng dân thị xã Buôn Ma Thuột vẫn son sắt với cách mạng, với Đảng. Và không ít người, có lúc nào đó chao chạnh, giảm bớt lòng tin thì lúc đó họ đã hăng hái như những ngày Tết Mậu Thân năm nào dẫn đường cho cán bộ và bộ đội, phát hiện những tên ác ôn có nhiều nợ máu ẩn nấp, kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền đầu hàng, nộp vũ khí.

Qua một ngày chiến đấu trên cả bốn hướng bộ đội ta chiến đấu rất ngoan cường táo bạo, dũng cảm mãnh liệt thọc sâu, hiệp đồng gắn bó giữa bộ binh và pháo binh, bộ binh và xe tăng, giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đã làm chủ phần lớn các mục tiêu quan trọng trong thi xã Buôn Ma Thuột và các cứ điểm án ngữ vòng ngoài.

Tiêu biểu trong ngày đầu là gương chiến đấu của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 Sư đoàn 10. Khi chiếc xe tăng đi đầu sụp lầy, đội hình bị ùn lại, máy bay địch oanh tạc vào đội hình, Trương Quang Oánh bình tĩnh, dũng cảm vượt lên chỉ huy bộ đội và anh đã anh dũng hy sinh. Khi xe tăng ta tiến vào cửa mờ, lúc này khói bụi mịt mù chiến sĩ lái không nhìn rõ đường, bất chấp hiểm nguy, đại đội trưởng Lê Xuân Chuyển chỉ huy trung đội trường Nguyễn Đức Lập và tiểu đội trưởng Kiều Hải Âu quê An Tường, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc cầm cờ đứng hai bên cửa mở làm lộ tiêu cho xe tăng mũi thọc sâu binh chủng hợp thành tiến vào. Bùi Đức Chín và 9 chiến sĩ của tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 Sư đoàn 10 đã anh dũng hy sinh ở khu vực cột cờ khu truyền tin. Trung đội trưởng Nguyễn Quang Trung (trung đoàn 148) trước tình huống cửa mở hẹp, xe tăng và bộ binh bị ùn lại, không thể để đồng đội bị thương vong, anh đả ôm bộc phá xông lên dưới làn đạn bắn thẳng của địch mờ rộng cửa mở cho xe tăng ta tiến công và dẫn đầu trung đội đánh vào bên trong...


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:45:16 am
Đêm ngày 10 tháng 3, sau khi nghe cơ quan tham mưu báo cáo tình hình, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: “Trong ngày đầu tiến công vào thị xã, ta đã thu được thắng lợi lớn, đã chiếm được hai mục tiêu quan trọng là sân bay thị xã và tòa tình trưởng, khống chế được sân bay Hòã Bình. Các mũi đều đánh tốt, riêng mũi phía nam có khó khăn, thắng lợi thu được chưa tương xứng với tổn thất của bộ đội. Hệ thống chỉ huy phòng ngự của địch bị rối loạn. Mặc dù lực lượng tại chỗ kết hợp với không quân phản kích ác liệt, nhưng không đẩy lùi được lực lượng ta ra khỏi thị xã nên binh lính, sĩ quan ngụy hoang mang cực độ. Tuy vậy, bọn đầu sỏ, ác ôn vẫn cố chống lại. Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương: Tập trung lực lượng mạnh nhanh chóng tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn 23 và các mục tiêu còn lại trong thị xã. Triển khai lực lượng sẵn sàng đánh phản kích, đồng thời khẩn trương tiêu diệt các căn cứ bàn đạp Bản Đôn, Chư Nga, Buôn Hồ, trói chặt địch ở Buôn Ma Thuột, không cho lực lượng cơ động bên ngoài ứng cứu. Đưa lực lượng cao xạ áp sát thị xã, bảo vệ đội hình tiến công của ta và bảo vệ nhân dân, điều một bộ phận lực lượng sang phía đông bắc sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không.

Từ 6 giờ đến 8 giờ sáng ngày 11 tháng 3, pháo binh chiến dịch bắn cấp tập liên tục suốt 2 tiếng đồng hồ. Khi pháo binh vừa ngừng các mũi binh chủng hợp thành của ta xung phong đánh chiếm sào huyệt cuối cùng của quân ngụy ở Buôn Ma Thuột. Địch cho máy bay ném bom ngay trên đường phố. Xe tăng M48, đại liên, súng cối, tiểu liên AR15 từ trong lỗ châu mai lô cốt cố thủ bắn như trút đạn trước cổng sư đoàn bộ sư đoàn 23. Các chiến sĩ bộ binh bám sát, yểm hộ cho xe tăng diệt các ổ đề kháng của địch; các chiến sĩ xe tăng luôn luôn tiến trước, mở những mũi đột kích mạnh tiêu diệt xe tăng và hỏa điểm địch. Trụng đoàn 95B vậ đại đội xe tăng 4 từ tiểu khu Đắc Lắc tiến công sang hậu cứ sư đoàn 23 hợp điểm với mũi tiến công phía tây.

Xe tăng 980 do đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy dẫn đầu mũi tiến công phía tây đánh tràn vào cổng chính. Sau khi bắn sập một góc cổng chính, xe tăng 980 xô đổ cổng sắt rồi cùng với xe của Bùi Mạnh Hùng, Phạm Hồng Vách dẫn dắt bộ đội đột phá vào trung tâm chỉ huy sư đoàn 23.

Đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, mũi thọc sâu binh chủng hợp thành của Sư đoàn 10 và các mũi tiến công của trung đoàn 95B, trung đoàn 174 Sư đoàn 316 đã hợp điểm tại sư đoàn bộ sư đoàn 23 ngụy. Tổ cắm cờ của đại đội 1 tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 Sư đoàn 10 do tiểu đội trưởng Phạm Văn Vy, quê Yên Nội, Thanh Ba, Phú Thọ cùng hai chiến sĩ là Đàm Duy Tộ, Nguyễn Văn Thắng đã cắm lá cờ Quyết thắng của Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên lên trung tâm chỉ huy sư đoàn 23. Dưới sự chỉ huy của chính trị viên đại đội 3 tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 Ngô Huy Chuyên, quê Lê Lợi, Kiến Xương, Thái Bình anh em đại đội 3 đã tiến vào phòng làm việc của Vũ Thế Quang thu toàn bộ cờ hiệu, con dấu, bản đồ... còn nguyên trên bàn làm việc. Đại tá tỉnh trưởng Đắc Lắc Nguyễn Trọng Luật cùng một tốp sĩ quan chạy qua khu “quân cụ biệt lập” định trốn vào rừng cà phê thì bị bộ phận thọc sâu tiểu đoàn 4 (Sư đoàn 10) do Bùi Văn Độ cùng tiểu đội bắt làm tù binh cùng 12 sĩ quan khác. Đại tá Vũ Thế Quang - tư lệnh phó sư đoàn 23 thì chạy một mình, vứt bỏ cả giày, cả mũ, trên người chỉ mang một cái túi con. Đến tối ngày 11, viên đại tá, tư lệnh phó sư đoàn 23 ngụy - một người trai ở phố Sinh Từ, Hà Nội lầm đường theo giặc đã bị các chiến sĩ trung đoàn 174 bắt khi vượt qua buôn A Lê 2 đi Phước An. Quang được ta đưa xe chở về trại giam. Khi qua phà sông Sê-rê-pốc, anh ta hết nhìn trời nhìn mây lại nhìn chiếc phà chở tới 3, 4 chiếc xe ô tô cùng một chuyến, thốt lên: “Chúng tôi thua là phải”.

Nắm thời cơ bộ đội tiến công, 315 tù chính trị ở nhà tù Buôn Ma Thuột đã nổi dậy phá cửa nhà tù chạy thoát ra ngoài.

Đêm ngày 11 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Địch mất thị xã nhưng các căn cứ bàn đạp vẫn còn. Chúng có thể dùng lực lượng tăng viện đổ quân xuống các căn cứ bàn đạp phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột. Hướng phản kích chủ yếu sẽ là hướng đông bắc. Đồng thời lệnh cho trung đoàn đặc công 198 và trung đoàn 148 (Sư đoàn 316) tảo trừ, giữ địa bàn, củng cố thắng lợi. Trung đoàn 24 (thiếu) phối hợp với tiểu đoàn 6 trung đoàn 95B diệt căn cứ 45. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 24 diệt cứ điểm Chư Nga. Tiểu đoàn 21 Đoàn 559 đánh địch, giải phóng Bản Đôn. Trung đoàn 149 Sư đoàn 316 và một bộ phận trung đoàn đặc công 198 diệt căn cứ Hòa Bình.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:45:53 am
Thực hiện kế hoạch tác chiến trên, ngày 12 tháng 3 trung đoàn 24 và tiểu đoàn 6 trung đoàn 95B cùng xe tăng tiến công căn cứ 45, diệt và bắt 350 tên địch, thu và phá hủy 245 xe quân sự, thu hơn 400 súng các loại. Chiều ngày 12 tháng 3 trung đoàn 174 đánh chiếm cầu Thọ Thành (Sê-rê-pốc) diệt và bắt 300 tên địch, thu hàng trăm xe.

Ở hướng bắc, ngày 12 tháng 3, trung đoàn 9 Sư đoàn 320 đánh chiếm quận lỵ Buôn Hồ, phát triển về hướng thị xã Buôn Ma Thuột diệt căn cứ Chư Pao thu 4 pháo 105 ly, giải phóng ấp Đạt Lý, thu trên 500 súng các loại, làm chủ đường số 14. Cùng với tiến công quân sự, các đội công tác và cơ sở tại chỗ phát động quần chúng nổi dậy giải tán bộ máy kìm kẹp của địch, thu hàng trăm súng các loại, phá banh các khu đồn Klê B, Buôn Hồ (cũ), Buôn Klát, các ấp Chí An, Thiện An, Đạt Hiếu, An Lạc, Tưng Mai, Buôn Đê, Buôn Vít... giải phóng toàn bộ hơn 60 buôn ấp và dinh điền với trên 12 nghìn dân Kinh - Thượng tại chỗ và bị địch dồn về đây...

Đêm ngày 12 tháng 3 năm 1975, anh Văn Tiến Dũng, đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chuyển điện của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, bức điện có. đoạn: “Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhiệt liệt khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, anh chị em công nhân viên đã nêu cao tinh thần quyết thắng, anh dũng mưu trí và sáng tạo, táo bạo và khẩn trương, giành nhiều thắng lợi to lớn. ngay trong những ngày đầu chiến dịch, cần kịp thời nắm thời cơ thuận lợi giành thắng lợi to lớn hơn nữa”.   

Trong điện, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn chỉ thị: “Ở Tây Nguyên cần hết sức chú trọng công tác tiếp quản, chú trọng chính sách dân tộc, nhằm tăng cường đoàn kết các dân tộc và thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc... Nếu có ngoại kiều ở Buôn Ma Thuột cần đối đãi tử tế và có thể thả họ sớm”. Cũng trong bức điện này Thường vụ Quân ủy Trung ương đã quyết định phong quân hàm cấp đại tá cho anh Blốc - phó bí thư tỉnh ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Đắc Lắc.

Có nhiều cuốn sách viết về trận Buôn Ma Thuột đã lấy 11 giờ ngày 11 tháng 3 năm 1975 - giờ ta cắm lá cờ lên sở chỉ huy sư đoàn 23 xác định là giờ giải phóng hoàn toàn thị xã này. Nhưng ai đã từng tham gia trận đánh vào Buôn Ma Thuột chắc không thể quên, đến trưa ngày 11 và những ngày tiếp sau đó cuộc chiến đấu vẫn diễn ra quyết liệt, hơn 8.000 tên địch mới bị tiêu diệt một số còn đại bộ phận vẫn ẩn nấp trong thị xã. Trung đoàn 53 là đơn vị bảo vệ chủ yếu ở thị xã vẫn còn trong căn cứ của nó. Sư đoàn 23, ngay chiều ngày 12 tháng 3 đã bắt đầu đổ quân xuống phía đông thị xã. Tất cả tình hình đó cho thấy ta mới giành thắng lợi quan trọng, nhưng chưa phải là thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy, trên đài phát thanh lúc bấy giờ ta vẫn chưa công bố là đã giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột.

Tôi muốn nói kỹ về trận đánh căn cứ trung đoàn 53 ngụy. Gọi là căn cứ trung đoàn 53 nhưng trong đó gồm doanh trại của 2 trung đoàn 44 và 53, nằm về phía đông nam sân bay Hòa Bình, cách trung tâm thị xã 10 km, được tổ chức phòng ngự rất vững chắc, quanh căn cứ có đến 7 hàng rào kẽm gai xen kẽ giữa các lớp rào là bãi mìn. Lớp tường đất đắp quanh căn cứ cao và dày, các lô cốt và ụ súng bố trí ngay trong tường đất. Hầm chỉ huy của trung đoàn bằng bê tông xây chìm dưới lòng đất. Khi vạch kế hoạch tác chiến, Bộ tư lệnh chiến dịch rất quan tâm đến sân bay Hòa Bình và căn cứ trung đoàn 53. Điều quan tâm này bắt nguồn từ bài học lịch sử hè năm 1972, khi ta bao vây thị xã Kon Tum, quân địch chỉ còn một con đường duy nhất là sân bay Kon Tum. Từ sân bay này quân ngụy đã đủ điều kiện đưa sư đoàn 23 đến để giành giật lại được thị xã Kon Tum. Do vậy, việc đánh, chiếm sân bay Hòa Bình và căn cứ trung đoàn 53 là mục tiêu quan trọng phải đánh ngay từ đầu. Vì nhiều lý do công tác bảo đảm ta không thể đưa bộ binh và xe tăng vào để đánh ngay mà chỉ sử dụng trung đoàn đặc công 198 thực hiện nhiệm vụ này. Khi được lệnh nổ súng, lúc 2 giờ 10 phút ngày 10 tháng 3 trung đoàn 198 nhanh chóng chiếm được sân bay Hòa Bình. Nhưng khi đánh vào căn cứ 53, trung đoàn 198 gặp nhiều khó khăn, tuy có đánh chiếm được một số mục tiêu nhưng sau đó địch đã phản kích đánh bật ta ra, và cho xe tăng ra bịt cửa mở. Một số anh em bị thương không ra được đã bị địch bắt, tra tấn hết sức dã man. Có anh em đã bị chúng thiêu sống hết sức man rợ.

Căn cứ 53 còn thì sân bay Hòa Bình có nguy cơ địch chiếm lại và sẽ là bàn đạp để địch đưa quân tái chiếm Buôn Ma Thuột. Do vậy Bộ tư lệnh sử dụng trung đoàn 149 Sư đoàn 316 diệt căn cứ 53.

Ngày 14 tháng 3 trung đoàn 149 đánh nhầm vào khu điều vận sân bay, đến khi tiến sang căn cứ 53 đã bị địch chặn lại. Ngày 15 tháng 3, trung đoàn 149 tiến công lần thứ hai, nhưng trung đoàn bị máy bay địch đánh trúng đội hình, bộ đội bị thương vong, cuộc tiến công vào căn cứ 53 vẫn không thành. Địch càng ngoan cố, chiếm giữ chờ quân tiếp viện. Lúc này, 1 đại đội thám kích sư đoàn 23 đổ bộ bằng máy bay lên thẳng đang tìm đường vào căn cứ, trung đoàn 45 ngụy cũng đã đổ xuống cách đó không xa. Lê Trung Tường - sư đoàn trưởng sư đoàn 23 đã về Phước An. Rõ ràng địch đang nỗ lực dùng đòn phản đột kích chiến dịch bằng đổ bộ đường không để giành lại Buôn Ma Thuột.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:46:25 am
Chiều ngày 16 tháng 3 Bộ tư lệnh Sư đoàn 10 quyết định dùng trung đoàn 66 được tăng cường 1 đại đội xe tăng T54 tiêu diệt căn cứ 53. Sau khi nhận lệnh trung đoàn trưởng Nguyễn Đình Kiệp dẫn cán bộ đi trước trinh sát, đồng thời lệnh cho bộ đội hành quân bám theo. Sau 3 giờ chiến đấu quyết liệt, tiểu đoàn 7 dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Hoàng Ngọc Toái và chính trị viên Phạm Quang Vinh, tiểu đoàn 9 do Bạch Công Nghĩa - tiểu đoàn trưởng và Phạm Chào (phái viên của ban chính trị trung đoàn 66 được cử làm chính trị viên) phối hợp với một bộ phận của trung đoàn 149 từ hướng tây nam đánh vào. Trung đoàn 66 và một bộ phận của trung đoàn 149 đã làm chủ căn cứ 53. Toàn bộ quân địch trong căn cứ bị tiêu diệt và bắt làm tù binh. Đến đây, thị xã Buôn Ma Thuột mới thực sự hoàn toàn được giải phóng.

Bộ tư lệnh chiến dịch dự kiến trước âm mưu, khả năng phản kích của địch nên trận Đức Lập vừa kết thúc Sư đoàn 10 đã được lệnh hành quân gấp về phía đông Buôn Ma Thuột để tiêu diệt sư đoàn 23 ngụy phản kích. Trên chiến trường Kon Tum, sư đoàn 23 thường đụng trận với Sư đoàn 10 của ta, nên cả hai sư đoàn của ta và địch đã hiểu biết khá rõ về nhau. Sư đoàn 23 biết khá nhiều về Sư đoàn 10, từ người chỉ huy đến hướng hoạt động của các trung đoàn. Ngược lại, Sư đoàn 10 cũng biết kỹ về sư đoàn 23, biết rõ từng sở trường, sở đoản của các trung đoàn. Trung đoàn 45 thường hoạt động bí mật, hay đánh bất ngờ. Trung đoàn 53 đã ra quân thì pháo bắn dồn dập, có khi chỉ cần nghe tiếng pháo bắn cũng đủ biết trung đoàn 53 sắp ra quân. Còn trung đoàn 44 thường làm lực lượng dự bị, thay thế các trung đoàn kia khi mất sức. Trong sư đoàn 23, trung đoàn 45 là trung đoàn con cưng số một, chính Vũ Thế Quang đã từng làm trung đoàn trưởng trung đoàn này trước khi được cất nhắc lên làm sư đoàn phó sư đoàn 23.

Ngày 12 tháng 3, được không quân yểm trợ trung đoàn 45 nhảy xuống vùng điểm cao 581 phía đông bắc căn cứ 53 Hòa Bình, liên kết với tàn quân của liên đoàn biệt động 21. Ngày 15 và ngày 16, chúng ném nốt trung đoàn 44 và sư đoàn bộ 23 xuống Phước An. Ngày 14 tháng 3, trung đoàn 24 Sư đoàn 10 và đại đội thiết giáp 5 được sự chi viện của pháo chiến dịch đã đánh tan tiểu đoàn 2 địch ở khu điểm cao 581. Thừa thắng bộ đội ta tiến công vào cụm quân của tiểu đoàn 1 trung đoàn 45. Một số sống sót chạy về cụm ở đồn điền cà phê ngã ba Nông Trại cùng với liên đoàn 21 biệt động quân bảo vệ phía tây nam quận lỵ Phước An. Ý đồ phản kích của địch bị đập tan, quân địch quay sang co cụm chống đỡ bị động những cuộc tiến công của Sư đoàn 10.

Sáng ngày 16, bộ binh và xe tăng Sư đoàn 10 tiến công vào ngã ba Nông Trại. Trung đoàn 45 ngụy và liên đoàn 21 biệt động quân bị diệt và tan rã. Một số tàn quân chạy về Phước An.

Tại Phước An, tàn quân từ các nơi kéo về hình thành một cụm quân lớn gồm phần lớn trung đoàn 44, trung đoàn 45, liên đoàn 21 cùng sư đoàn bộ sư đoàn 23, do Lê Trung Tường cầm đầu. Ngày 17 tháng 3 Sư đoàn 10 sử dụng các trung đoàn 24, 28 được pháo binh chiến dịch chi viện cùng xe tăng trung đoàn 273 mở đợt tiến công quyết định vào Phước An. Trước sức tiến công của quân ta, Lê Trung Tường vội leo lên chiếc trực thăng UH1 định chạy trốn, nhưng máy bay chở viên tướng này đã bị đạn phòng không của quân ta bắn rơi. Tường bị thương, được một tốp lính lôi ra khỏi máy bay và cõng chạy trốn.

Trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 ở khu vực Phước An, Sư đoàn 10 đã diệt gần 500 tên, bắt sống 1.600 tên, thu 1.800 súng các loại. Toàn bộ lực lượng ở Phước An hoang mang cực độ, nhiều tên cởi bỏ quần áo lính, mặc quần áo thường dân chạy trốn về Chư Cúc. Ngày 18 tháng 3, trung đoàn 25 đón đầu đánh quân địch rút chạy. Trung đoàn 28 truy kích đánh trận cuối cùng tiêu diệt về cơ bản sư đoàn 23 ngụy, giải phóng vùng đông bắc tỉnh Đắc Lắc.

Như vậy, chỉ trong vòng 5 ngày từ 14 đến 18 tháng 3 bằng 4 trận đánh trên chặng đường dài ngót 50 km, Sư đoàn 10 đã xóa sổ vĩnh viễn sư đoàn 23, chấm dứt sự tồn tại của “những thiên thần lịch sử” (danh hiệu của quân ngụy tặng cho sư đoàn 23 năm 1973).

Sau khi Sư đoàn 10 tiêu diệt sư đoàn 23, tình hình nổi dậy của nhân dân Phước An cáng sôi động, bọn phòng vệ dân sự ra hàng, nộp vũ khí. Nhân dân nổi dậy phá tan 13 khu dồn, 35 ấp chiến lược; 70 buôn, 11 dinh điền được hoàn toàn giải phóng, giải tán ngụy quyền, thành lập chính quyền cách mạng.

Cùng ngày 18 tháng 3, ủy ban quân quản tỉnh Đắc Lắc được thành lập. Anh Y Blốc làm chủ tịch, anh Lê Chí Quyết làm bí thư đảng ủy. Ủy ban quân quản ra mắt nhân dân tại khu chùa xã Lạc Giao đường Trần Hưng Đạo, việc làm đầu tiên cua ủy ban quân quản là thiết lập chính quyền cơ sở. Nhưng việc này khá phức tạp, nhiều nơi phải làm đi làm lại hai ba lần mới tạm ổn. Tiếp đó là việc ổn định đời sống nhân dân, trước hết là khôi phục lại hệ thống điện và nước. Hàng nghìn thanh niên các trường Nguyễn Du, Nguyên Công Trứ tham gia công việc cứu thương, thu vũ khí, canh gác công sở, giữ gìn trật tự... Không ít người xin gia nhập lực lượng vũ trang. Phong trào phụ nữ phát triển khá mạnh, chị em tự nguyện đi gọi chồng con và người thân theo địch trở về với cách mạng, nộp vũ khí, tài liệu. Chị em còn tích cực giúp đỡ cơm nước cho bộ đội.

Bên cạnh ủy ban quân quản, các đoàn cán bộ tiếp quản của tất cả các ngành hành chính, an ninh, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật cùng đoàn cán bộ của Khu 5 tăng cường đã triển khai toàn diện các mặt công tác, nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân trong thị xã.

Một thị xã đông dân vừa mới giải phóng với bao công việc bộn bề, nhưng Tỉnh ủy đã nắm chắc nhiệm vụ phát triển của chiến dịch đã huy động hàng trăm lái xe và 250 xe tải, xe ca sẩn sàng phục vụ bộ đội chủ lực tiến công về Duyên Hải và vào Nam Bộ.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:49:08 am
*
*   *

Nói đến chiến dịch Tây Nguyên, phải nói tới trận then chốt mở đầu - Buôn Ma Thuột. Nhưng sẽ là thiếu sót nếu không như nói rõ trận then chốt thứ hai diễn ra nhanh và rất gọn tiêu diệt hoàn toàn sư đoàn 23 và liên đoàn biệt động quân số 21 làm cho địch hoang mang, rối loạn, không những ở cấp sư đoàn, quân đoàn mà còn tác động đến cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn. Từ sai lầm về chiến thuật, chiến dịch dẫn đến sai lầm về chiến lược. Một khi đã sai lầm về chiến lược thì thất bại trong chiến tranh là điều không tránh khỏi.

Ngày 14 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu bay ra Cam Ranh để nghe Phạm Văn Phú tường trình về quân sự. Cùng đi với Thiệu còn có đại tướng Trần Thiện Khiêm và đại tướng Cao Văn Viên - tổng tham mưu trưởng quân ngụy và trung tướng Đặng Văn Quang.

Theo tin sau này chúng tôi mới nắm được(1), cuộc họp có một số diễn biến chủ yếu như sau:

Phạm Văn Phú - tư lệnh quân đoàn 2, tư lệnh quân khu 2 báo cáo với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu:

- Trình tổng thống, tôi đã cho các trung đoàn 44, 45 giải tỏa Buôn Ma Thuột, nhưng lực lượng cộng sản quá mạnh đã đẩy lùi được lực lượng tăng viện của chúng ta (ngụy) về phía đông quốc lộ 21. Ở Kon Tum và Plây Cu quân cộng sản đánh mạnh vào liên đoàn biệt động quân 23, hoạt động ở phía đông và phía tây, phi trường Cù Hanh bị pháo kích liên tục. Ớ phía đông quốc lộ 19 trung đoàn 95 cộng sản đánh mạnh vào liên đoàn biệt động quân 4 và thiết đoàn kỵ binh 3, đã có 12 thiết giáp bị cháy. Ở Bình Định các trung đoàn 12 và trung đoàn 2 của cộng sản nỗ lực từ phía đông để chiếm phi trường Phù Cát...

Nghe xong, Nguyễn Văn Thiệu hỏi Phạm Văn Phú:

- Trước sự kiện đó anh nghĩ sao?

Phú trả lời:

- Tôi hy vọng có thể cứu vãn được quân khu 2 với điều kiện tổng thống cho quân tăng viện.

Sau khi nghe Phạm Văn Phú báo cáo tình hình, Nguyễn Văn Thiệu quay sang hỏi tướng Cao Văn Viên:

- Còn lực lượng dự bị chi viện cho quân khu 2 không?

- Thưa tổng thống, không còn.

Nguyễn Văn Thiệu quay sang hỏi Phạm Văn Phú:

- Nếu không có quân tăng viện, anh có khả năng giữ được bao lâu?

- Nếu được tổng thống và tướng Viên yểm trợ không quân tối đa, tiếp tế bằng không quân đầy đủ về vũ khí, đạn dược tôi sẽ giữ được 1 tháng. Quân khu 2 thôi không xin tăng viện mà chỉ xin quân số bổ sung để bù tổn thất nặng nề sau trận Buôn Ma Thuột. Với trách nhiệm là tư lệnh, tôi sẽ ở lại Plây Cu và sẽ chết ở đó (!).

Nghe xong lời thề thốt của Phú, tổng thống Thiệu ngán ngẩm lắc đầu:

- Không! Không thể có quân tăng viện, không có quân bổ sung, quân viện bị cúp, đạn và tiền đều thiếu. Chúng ta đang bị tấn công mạnh ở khắp mọi nơi chứ không riêng ở quân khu 2. Địch đánh mạnh hơn năm 1968, hơn cả năm 1972. Kon Tum, Plây Cu người ít, kinh tế không có, để bảo toàn lực lượng, lấy quân về giữ đồng bằng ven biển, ở đấy điều kiện tiếp tế thuận lợi hơn.

Dừng hồi lâu, Nguyễn Văn Thiệu lại hỏi Cao Văn Viên:

- Rút theo đường 19 có được không?

- Thưa tổng thống, trong lịch sử chiến tranh ở Đông Dương, chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị tiêu diệt...


(1) “55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ”, ALOEN DOWSON


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:50:23 am
Kế hoạch rút lui được Thiệu, Viên, Phú bàn tính rất kỹ. Thời điểm này, mọi con đường từ Tây Nguyên về đồng bằng đều bị cắt đứt, chỉ còn đường số 7 - con đường còn lại duy nhất để về đồng bằng. Đường số 7 bị hư hỏng nặng vì đã bỏ từ lâu, nhất là đoạn phía đông thi xã Cheo Reo 10km trở về Phú Yên đường rất xấu, cây cối um tùm, cầu sụp nhiều nhưng sửa chữa lại có thể sử dụng được. Thiệu, Viên, Phú thống nhất rút lui theo tỉnh lộ 7 là một việc làm rất mạo hiểm nhưng họ hy vọng sẽ tạo được bất ngờ cho việc rút quân.

Ngay tối ngày 14 tháng 3, Phạm Văn Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại bộ tư lệnh quân đoàn 2. Vào cuộc họp, Phú nói:

- Cuộc họp bàn về vận mệnh quốc gia ở Cam Ranh hoàn toàn bí mật, chỉ có 5 người tham dự: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đại tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Đặng Văn Quang và tôi (Phú) đã bàn việc rút khỏi cao nguyên...

Phạm Văn Phú vừa nói xong, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - người chịu trách nhiệm lập kế hoạch rút lui hỏi Phú:

- Ta có thông báo cho các tỉnh trưởng và cơ quan hành chính cấp tỉnh cùng lực lượng bảo an dân vệ và dân chúng biết không?

Phú nói:

- Theo lệnh của tổng thống, không được thông báo cho các tỉnh trưởng. Ai biết thì rút, không biết thì ở lại Tây Nguyên. Dùng lực lượng địa phương ở lại chống đỡ để bảo vệ cho chủ lực rút an toàn, mặt khác đó cũng là cách đánh lạc hướng sự chú ý của đối phương, giữ bí mật cho cuộc rút lui.

Thực hiện kế hoạch rút lui, Phạm Văn Phú điều các liên đoàn biệt động quân số 6 và 23 tăng cường cho lữ đoàn kỵ binh 2 bảo vệ đoạn đường từ ngã ba Mỹ Trạch đến quận Sơn Hòa, yểm trợ cho công binh sửa đường, bắc cầu, đoạn đường còn lại giao cho quân địa phương Phú Bổn và Phú Yên bảo vệ. Tuy vậy, Phú vẫn cảm thấy chưa ổn nên đã điều thêm liên đoàn biệt động quân số 7 từ Kon Tum “ưu tiên” cho rút trước để về án ngữ đoạn đường từ phía đông Cheo Reo đến đèo Tu Na. Đêm ngày 14 rạng ngày 15 tháng 3, sư đoàn 6 không quân ngụy đã chuyển cơ quan quân đoàn 2, lãnh sự quán Mỹ ở Plây Cu về Nha Trang. Tuy địch cố giữ bí mật và tiến hành nghi binh, nói là đưa quân về tái chiếm Buôn Ma Thuột nhưng hành động rút chạy vội vã của địch không thể che được mắt dân chúng và binh lính của họ. Đột nhiên thị xã Plây Cu trở nên hỗn loạn, giá vé máy bay Plây Cu đi Sài Gòn tăng vọt. Dân chúng đã biết cuộc rút chạy của quân đoàn 2, nên cũng vội vã hò nhau chạy theo.

Về phía ta, tối ngày 15 tháng 3, anh Văn Tiến Dũng gọi điện thông báo Bộ tư lệnh chiến dịch biết có hiện tượng địch rút bỏ Kon Tum, Plây Cu. Tiếp đến từ Hà Nội, Bộ Tổng tư lệnh cũng điện cho Bộ tư lệnh chiến dịch: Sở chỉ huy tiền phương của quân đoàn 2 và lãnh sự quán Mỹ đã chuyển về Nha Trang. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cũng đã gợi ý cho Bộ tư lệnh chiến dịch nên nghĩ đến khả năng địch buộc phải rút bỏ Tây Nguyên.

Sáng ngày 16 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch vừa triển khai kế hoạch đánh sư đoàn 23 trên đường 21 vừa làm kế hoạch đánh địch rút chạy trên đường số 7. Cùng ngày đài quan sát của ta phát hiện và báo về sở chỉ huy chiến dịch từng đoàn xe địch đủ loại hàng trăm chiếc nối nhau từ ngã ba Mỹ Trạch chạy về Phú Bổn. Được tin trên, Bộ tư lệnh chiến dịch điện ngay cho anh Kim Tuấn - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 xác minh hiện tượng trên.

Lúc này, trung đoàn 48 ở Thuần Mẫn, trung đoàn 9 ở Phú Nhơn; trung đoàn 64 (thiếu tiểu đoàn 9) đang truy kích địch ở Chư Pao, Đạt Lý; trung đoàn 95B đang làm dự bị cho Sư đoàn 10 ở đường 21. Như vậy, cả Sư đoàn 320 chỉ có tiểu đoàn 9 trung đoàn 64 là bố trí ở tây Cheo Reo 7km theo đường bản đồ.

Đêm ngày 16 tháng 3, tiểu đoàn 9 trung đoàn 64 được lệnh cơ động ngay trong đêm, ngày 17 phải có mặt ở phía nam Cheo Reo nổ súng chặn địch. Nhận được lệnh, tham mưu trưởng sư đoàn Ngô Huy Phát (lúc này đang chỉ huy tiểu đoàn 9 và một bộ phận của trung đoàn 48 làm công tác chuẩn bị phương án tiến công thị xã Cheo Reo), không còn thời gian để tính toán anh chỉ thị cho chỉ huy tiểu đoàn 9 cho bộ đội hành quân. Thời gian gấp rút, đường xa, đèo dốc khó đi, trời lại tối nhưng các chiến sĩ tiểu đoàn 9. Sư đoàn Đồng Bằng hiểu rõ giá trị của thời cơ, anh em đã tìm nứa khô đốt đuốc, soi đường vượt qua rừng khoọc, tắt qua dãy núi đá tai mèo để đến nhanh đường 7. Cuộc chạy đua với địch của chiến sĩ tiểu đoàn 9 diễn ra khẩn trương, quyết liệt. Đến 16 giờ ngày 17 tháng 3, đại đội 11 tiểu đoàn 9 đã đến đường số 7 ở phía đông nam Cheo Reo 4km.

Trong đêm ngày 16, anh Đặng Văn Khoát - phó chủ nhiệm hậu cần chiến dịch trực tiếp điều động 110 xe ô tô chở Sư đoàn 320 đang làm nhiệm vụ hướng Buôn Ma Thuột về Thuần Mẫn. Thiếu ô tô, bộ đội tổ chức chạy bộ, ô tô quay lại đón bộ đội dọc đường.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:51:30 am
Tiếp theo tiểu đoàn 9 là toàn bộ trung đoàn 64, sau trung đoàn 64 là trung đoàn 48 và các đơn vị còn lại của Sư đoàn 320.

Sáng ngày 17 tháng 3, một số xe địch chạy lọt về Củng Sơn nhưng đại bộ phận tập đoàn rút chạy của quận đoàn 2 ngụy vận chưa chạy thoát. Trên đường 7 hàng nghìn xe đủ loại nôi đuôi nhau ùn ùn đổ về thị xã Cheo Reo. Chúng chạy hùng tư, hàng năm lấn ra cả hai bên đường. Đoàn xe địch qua khỏi Cheo Reo khoảng 4km gặp trận địa phục kích đầu tiên của tiểu đoàn 9. Bộ đội chưa kịp đào công sự, lợi dụng gốc cây ụ mối nổ súng. Đang cơn hoảng loạn, nghe tiếng súng của ta, cả đoàn xe địch nhào ra hai bên đường chạy vào rừng. Một số tên lái nhẩy ra khỏi xe chạy bộ về Cheo Reo.

Tại thị xã Cheo Reo, lúc này quân khu 2 đã biến thành tuyến trung chuyển để đặt sở chỉ huy hành quân và điều hành việc rút chạy. Do đường chưa sửa xong, lại bị quân ta chặn đánh, thị xã Cheo Reo người chật ních và ước chừng khoảng 2.000 xe cặc loại đậu kín mặt đường và có khoảng hơn một vạn tên địch, dựng lều bạt nằm ngổn ngang tràn ra cả sân bóng.

Mờ sáng ngày 18 tháng 3, địch củng cố lại đội hình dùng 2 thiết đoàn xe tăng mở đường chạy về Củng Sơn. Tiểu đoàn 9 ngoan cường nổ súng dữ dội vào đoàn xe địch. Tiểu đội trưởng Nguyễn Vi Hợi thuộc đại đội 9 tiểu đoàn 9 bắn 2 quả B40 diệt 2 xe bọc thép địch. Bọn địch ùn lại, hoảng sợ chạy tán loạn. Hợi chỉ huy tiểu đội vừa chiến đấu vừa kêu gọi địch đầu hàng. Trong hai ngày 18 và 19 tháng 3, chỉ tính riêng tiểu đội Nguyễn Vi Hợi đã diệt 40 tên bắt 46 tù binh, bắn cháy 9 xe tăng, xe bọc thép. Riêng Hợi diệt 21 tên địch, bắn cháy 6 xe bọc thép, bắt sống 6 xe bọc thép khác(1).

11 giờ ngày 18 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng đánh chiếm thị xã Cheo Reo. Được pháo binh chi viện, trung đoàn 48 mở đợt tiến công vào sân bay, tòa hành chính, khu cố vấn Mỹ, tiểu khu Phú Bổn, trại lính “Ngô Quyền”, ty cảnh sát, ty chiêu hồi, đài phát thanh. Cầu Ea Nu bắc qua sông Ba bị xe tăng địch tranh nhau vượt qua. Cầu sập, địch cho xe chạy bừa, bãi sông biến thành bãi xác xe. 13 giờ ngày 18, Phạm Văn Phú điện cho Phạm Duy Tất: “Mở đường máu mà thoát thân, xe không đi được thì phá xe, bỏ qua mọi tình huống mà chạy, lấy Củng Sơn làm tụ điểm”. Tất bất lực trước sự tổn thất quá nặng nề, gần như tan rã, thất thểu leo lên máy bay chuồn về Nha Trang bỏ lại quân lính.

18 giờ ngày 18 tháng 3, Sư đoàn 320 hoàn toàn làm chủ thị xã Cheo Reo.

Ngày 21 tháng 3, các chiến sĩ trung đoàn 64 đuổi kịp lực lượng rút chạy trước của địch và vây diệt chúng ở Phú Túc. Ngày 22 tháng 3, trung đoàn 64 diệt địch ở Ga Pui. Ngày 23 tháng 3, trung đoàn 64 tiến sát Củng Sơn.

Tại Củng Sơn, địch ùn lại khoảng 6.000 tên, đủ các sắc lính, cùng 40 xe tăng, thiết giáp.

Bộ tư lệnh Quân khu 5 ra lệnh cho tiểu đoàn 96 và tiểu đoàn 13 tỉnh Phú Yên chặn đường rút chạy của địch ở phía đông Củng Sơn.

12 giờ ngày 24 tháng 3, trung đoàn 64 và bộ đội tỉnh Phú Yên từ ba hướng tiến vào Củng Sơn. Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân ta, đội quân ô hợp rối loạn, chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng bị tiêu diệt tan rã. 18 giờ ngày 24 tháng 3, Củng Sơn được hoàn toàn giải phóng.

Sau khi Cheo Reo giải phóng, ngày 20 tháng 3 năm 1975, Ủy ban quân quản thị xã Cheo Reo ra mắt nhân dân (gần 2.000 đồng bào tham dự). Anh Siu Pui - phó bí thư tỉnh ủy làm chủ tịch, anh Hoàng Lâm (tức Võ Tịch) làm phó chủ tịch và một số ủy viên. Anh A Ma Quang - khu ủy viên được Thường vụ Khu ủy Khu 5 phái vào tăng cường chỉ đạo địa phương ở hướng Cheo Reo, đường số 7.

Ủy ban quân quản và các lực lượng tiếp quản đã tổ chức tốt công tác thu dọn chiến trường, giải quyết các hậu quả do địch để lại, giữ gìn trị an... bước đầu ổn định ăn ở cho dân. Hơn 2 vạn nhân dân Kon Tum, Plây Cu chạy theo địch dồn tại đây được bộ đội và nhân dân địa phương nhường cơm, sẻ áo. Có những gia đình ly tán, chạy lạc vào rừng, anh em cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 320 đã tận tình giúp đỡ. Riêng tiểu đội Nguyễn Vi Hợi đã tìm được hơn 200 người dân lạc trong rừng. Anh em giúp đỡ người già, trẻ em từ nước uống, viên thuốc chữa bệnh, chia sẻ nắm cơm, gói gạo sấy... rồi giải thích cho họ trở về quê cũ. Ủy ban quân quản đảm bảo về lương thực, thực phẩm và bố trí phương tiện chuyên chở hơn hai vạn người dân Kon Tum, Plây Cu trở về quê hương. Cùng thời gian, Sư đoàn 320 đánh địch trên đường số 7, Sư đoàn 10 diệt địch ở Phước An. Ngày 17 tháng 3, trung đoàn 29 Sư đoàn 968 cùng lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Kon Tum tiến vào giải phóng thị xã Kon Tum. Trung đoàn 95A ngược đường 19 cùng lực lượng vũ trang tỉnh Gia Lai tiến vào giải phóng thị xã Plây Cu.


(1) Nguyễn Vi Hợi quê ở Phủ Khê, Sông Thao, Phú Thọ, được tuyên đương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15 tháng 1 năm 1976. Hiện công tác tại Quân khu 2, quân hàm thượng tá.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:53:13 am
Trên đường 21, ngày 23 tháng 3, Sư đoàn 10 và trung đoàn 25 đánh chiếm Khánh Dương, diệt và làm tan rã trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 ngụy và 4 tiểu đoàn bảo an. Ở Quảng Đức, ngày 24 tháng 3, trung đoàn 271 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công giải phóng thị xã Gia Nghĩa.

Cả vùng Tây Nguỵên bao la được giải phóng.

Tương quan lực lượng trên chiến trường về mặt chiến lược lúc này nghiêng hẳn về phía cách mạng: Lực lượng chiến lược ngụy suy yếu nghiêm trọng, đột biến và đang tan rã lớn. Toàn miền Nam địch có 4 quân khu thì quân khu 2 và quân đoàn 2 bị đánh thiệt hại nặng nhất buộc phải rút khỏi địa bàn chiến lược Tây Nguyên, khả năng trước mắt của địch không đủ sức phản kích chiếm lại Tây Nguyên, mà chủ yếu co cụm lập phòng tuyến ngăn chặn ta, trọng điểm là Nha Trang, Cam Ranh để giữ an toàn vùng Sài Gòn - Gia Định và đồng bằng sông Cửa Long. Địch vội vã rút lực lượng dự bị chiến lược khỏi Trị - Thiên, đưa lữ đoàn dù số 3 lập lá chắn ngăn chặn ta ở đèo Ma Đrắc hiểm trở.

Trước sức tiến công của Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang địa phương Trị - Thiên địch buộc phải rút khỏi Quảng Trị và bắt đầu “di tản” Huế. Thừa thắng, Quân đoàn 2 và bộ đội địa phương Quân khu Trị - Thiên đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài đánh chiếm cửa Thuận An, Tư Hiền và từ ba mặt tiến vào giải phóng thành phố Huế. Ở Quân khu 5, Sư đoàn 2 tiến công tiêu diệt địch cùng lực lượng địa phương giải phóng Tuần Dưỡng, Tam Kỳ. Quân và dân Quảng Ngãi tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Ngãi. Đà Nẵng đang bi bao vây bốn mặt, cô lập và rối loạn, ở Nam Bộ, Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 đánh chiêm Định Quán, Hoài Đức, Giá Rai và đang tiến về Lâm Đồng. Lực lượng vũ trang Quân khu 7 tiêu diệt chi khu Dầu Tiếng và các vị trí địch ở Bến Củi, cầu Khởi, suối Ông Hùng, ngã ba Đất Sét. Ở Tây Nguyên, mặc dù cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt liên tục, song các đơn vị vẫn còn sung sức, bám sát địch. Cán bộ, chiến sĩ phấn chấn, tin tưởng, khí thế thi đua lập công tốt. Qua chiến đấu các trung đoàn chủ lực của ta có thêm kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng binh chủng đánh thành phố. Hậu cần dồi dào, đủ sức bảo đảm cho bộ đội ta phát triển. Thời tiết đang là mùa khô rất thuận lợi cho việc cơ động bộ đội và công tác vận chuyển.

Ngày 21 tháng 3, tại sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tư lệnh, anh Văn Tiến Dũng truyền đạt lệnh giao nhiệm vụ bổ sung của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cho Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên như sau: “Tiếp tục phát triển chiến đấu trên 3 trục đường 19, 7, 21, giải phóng Phú Yên, Khánh Hòa, phối hợp với Sư đoàn 3 Quân khu 5 giải phóng Bình Định. Mục tiêu chủ yếu là diệt lữ đoàn 3 ở đèo Phượng Hoàng - Ma Đrắc và tiến xuống giải phóng Nha Trang, Cam Ranh”.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên nhanh chóng tổ chức lực lượng phát triển tiến công trên 3 hướng xuống các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ.

Ngày 29 tháng 3, trung đoàn 19 Sư đoàn 968 và trung đoàn 95A tiến xuống Bình Định hợp điểm với Sư đoàn 3 Quân khu 5. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh Quân khu 5, sau 3 ngày chiến đấu, Sư đoàn 3, Sư đoàn 968 và trung đoàn 95A đã tiêu diệt sư đoàn 22 (thiếu). Đây là sư đoàn chủ lực cuối cùng của quân đoàn 2 ngụy bị xóa sổ. Thừa thắng, 13 giờ ngày 31 tháng 3 quân và dân Bình Định tiến công thị xã Quy Nhơn. Đến 16 giờ ngày 1 tháng 4 năm 1975, thị xã Quy Nhơn được giải phóng.

Cùng lúc, tiểu đoàn 2 trung đoàn 95A vượt biển đánh chiếm và giải phóng các đảo Hòn Tre, Cù Lao Thu.

Cánh quân thứ hai, ngày 28 tháng 3 Sư đoàn 320 đã có mặt ở vị trí tạm dừng miền tây tỉnh Phú Yên. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã hết lòng giúp đỡ bộ đội Sư đoàn đồng bằng vác đạn, tải thương, dẫn đường.

Ngày 31 tháng 3, được du kích đưa đường, phối hợp chiến đấu, tiểu đoàn 9 trung đoàn 64 tiến công Hòn Một. Tiểu đoàn 8 đánh chiếm đoạn đường số 1 từ Phú Khê đến cầu ván Hòa Xuân.

5 giờ sáng ngày 1 tháng 4, các mũi tiến quân của Sư đoàn 320 bắt đầu đánh chiếm Tuy Hòa. Sau 45 phút chiến đấu, ta chiếm được ngã năm, khống chế đường Trần Hưng Đạo trung tâm thị xã. Ở phía bắc, trung đoàn 48 đánh chiếm căn cứ Chóp Chài, phát triển thành 2 mũi dọc đường số 1 và ven biển, tiến công sân bay Đông Tác.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:54:16 am
6 giờ 48 phút, trung đoàn 48 vượt sông Đà Rằng đánh chiếm ty cảnh sát, tiểu khu Phú Yên, một mũi đánh vào sân bay. Từ hướng nam trung đoàn 64 và tiểu đoàn 13 bộ đội địa phương diệt địch ở Hòa Hiệp.

9 giờ ngày 1 tháng 4, quân ta hoàn toàn làm chủ các mục tiêu trong thị xã Tuy Hòa.

Trên biển, địch cướp thuyền đánh cá của dân chạy ra khơi lên tàu tẩu thoát. Được bà con ngư dân giúp đỡ Sư đoàn 320 dùng thuyền đuổi theo truy kích địch.

Ở khu vực sân bay, hàng trăm tên địch chui rúc trong hầm ngầm đụn cát lần lượt ra hàng. Trung đội trưởng Đàm Việt Hùng đại đội 9 tiểu đoàn 9 trung đoàn 64 dẫn đầu mũi truy kích địch ra tận bãi biển Đông Tác. Tại đây trung đội của anh đã bắt sống chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - phó tư lệnh quân đoàn 2, tư lệnh chiến trường Phú Yên. Ở một địa điểm khác, chiến sĩ ta bắt được viên đại tá Vi Văn Bình trong khi đang cải dạng chạy trốn. Đây là lần thứ hai sau ba năm (lần thứ nhất ở Đắc Tô - Tân Cảnh), viên đại tá này bị bộ đội Tây Nguyên bắt làm tù binh.

Cánh quân thứ ba gồm Sư đoàn 10, trung đoàn bộ binh 25, trung đoàn pháo binh 40, xe tăng trung đoàn 273 sau khi giải phóng Khánh Dương được lệnh tiến đánh lữ dù 3 ở đèo Ma Đrắc - Phượng Hoàng mở đường xuống giải phóng Ninh Hòa, Nha Trang, Cam Ranh.

Sau khi chiếm đèo Phượng Hoàng - Ma Đrắc đại tá Văn Bá Ninh - lữ đoàn trưởng lữ dù 3 đã cho bắt tay ngay vào củng cố các chốt bảo an có sẵn và đào thêm công sự. Chúng bố trí trận địa pháo ở các eo núi để ta khó phát hiện. Xe tăng, xe thiết giáp được chúng ngụy trang phục sẵn ven đường. Quân dù thực hiện chiến thuật “phòng ngự di tản”, lấy đại đội làm đơn vị đóng chốt. Khi phát hiện được lực lượng ta, chúng dùng pháo binh và không quân sát thương. Với thủ đoạn này quân dù hy vọng sẽ tiêu hao và ngăn chặn được ta mà chúng không bị tiêu diệt.

Để tiêu diệt lữ đoàn dù, đập tan lá chắn phía tây Ninh Hòa, Bộ tư lệnh chiến dịch phân công tôi và anh Vũ Lăng trực tiếp đốc chiến Sư đoàn 10. Ngày 25 tháng 3, chúng tôi đã có mặt tại sở chỉ huy Sư đoàn 10. Chúng tôi thống nhất phương án tiêu diệt lữ đoàn dù 3 như sau: Tiêu diệt gọn lữ đoàn dù 3 bằng nhiều trận, tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn địch, thực hiện cài thế bằng lực lượng vây ở phía đông đèo Phượng Hoàng, kết hợp chặt chẽ đột phá chính diện với bao vây chia cắt đánh hai bên sườn, chủ động khắc phục khó khăn phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, giành cho được thế chủ động bất ngờ. Quyết tâm của chúng tôi là cố gắng đánh nhanh diệt gọn lữ đoàn 3, nhưng ta ít thương vong để có lực lượng phát triển ngay xuống đồng bằng. Thế mạnh của lữ đoàn dù số 3 trong phòng ngự chính là chúng chiếm được địa hình đường đèo hiểm hóc, lại được 24 khẩu pháo chi viện.

Sáng ngày 29 tháng 3, mở đầu cuộc tiến công tiêu diệt lữ đoàn 3 là trận đấu pháo ác liệt giữa pháo binh ta và pháo binh địch làm rung chuyển cả vùng đường đèo dài hơn 10 km. Những khẩu pháo ta vừa thu được ở Buôn Ma Thuột và những xe đạn pháo từ kho Mai Hắc Đế được chuyển đến đã giáng xuống các trận địa pháo của lữ dù 3 những đòn sấm sét. 12 khẩu pháo của địch đã bị phá hủy, phá hỏng. Sức chi viện hỏa lực của địch bị giảm đi một nửa, bộ binh địch bắt đầu co cụm. Nắm thời cơ lúc địch đang điều chỉnh đội hình, Bộ tư lệnh Sư đoàn 10 ra lệnh cho các trung đoàn bộ binh và xe tăng của ta đột phá vào đội hình phòng ngự của địch. Quân dù không được hỏa lực pháo binh chi viện, lại bị quân ta tiến công diệt từng đơn vị; chúng tìm cách co cụm lại chống đỡ nhưng lúc này các trung đoàn của ta đã cắt quân địch ra từng mảng. Tinh thần sĩ quan, binh lính dù bắt đầu dao động, hoảng loạn.

Ngày 1 tháng 4, giữa lúc Sư đoàn 320 giải phóng thị xã Tuy Hòa, thì tại khu vực đèo Phượng Hoàng các chiến sĩ Sư đoàn 10, trung đoàn 25 và xe tăng ta mỡ đợt tiến công vào toàn bộ các cụm quân của lữ dù 3. Sau 2 giờ chiến đấu lữ dù 3 hoàn toàn bị tiêu diệt. Cánh cửa “thép” Phượng Hoàng - Ma Đrắc - phòng tuyến phía tây Ninh Hòa bị đập tan. Bộ đội ta tràn xuống giải phóng thị trấn Ninh Hòa. Cả Sư đoàn 10 bừng bừng khí thế tiến về đồng bằng. Đơn vị nào có xe thì hành quân xe, không có xe thì hành quân bộ. Khó có thể nói hết niềm vui sướng của cán bộ chiến sĩ Tây Nguyên khi hành quân đến đỉnh đèo Phượng Hoàng. Phía trước đã nhìn thấy biển Đông, để lại phía sau là cả một vùng cao nguyên bao la vừa được giải phóng... Trên vai nặng trĩu trang bị, chân rộp phồng sau nhiều ngày hành quân đuổi địch nhưng ai nấy đều hăng hái, đi nhanh như chạy.

Sáng ngày 2 tháng 4, trung đoàn 24 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 cùng xe tăng, pháo binh tiến vào quận lỵ Ninh Hòa. Lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân Ninh Hòa được bộ đội hỗ trợ đã nổi đậy giành quyền làm chủ. Cả thị trấn Ninh Hòa đỏ rợp cờ sao. Nhân dân đã ra đứng chật hai bên đường vẫy cờ hoa, reo mừng đón bộ đội cách mạng.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Mười, 2019, 09:54:49 am
13 giờ ngày 2 tháng 4, lực lượng đột kích binh chủng hợp thành của Sư đoàn 10 do anh Vũ Đình Thước - Tham mưu phó sư đoàn chỉ huy theo đường số 1 tiến về thành phố Nha Trang.

Tại Nha Trang, sáng ngày 1 tháng 4, được tin lữ dù 3 thua trận, tuyến phòng thủ đèo Phượng Hoàng - Ma Đrắc bị phá vỡ, Phạm Văn Phú vội vã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp, tìm cách “tử thủ” Nha Trang. Ngoài Phú còn có chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang - tư lệnh sư đoàn không quân 6 và viên sĩ quan chỉ huy trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Một số sĩ quan có mặt lúc đó, sau bị ta bắt khai rằng: Gọi là họp nhưng thực chất chỉ nghe tướng Phú phán lệnh thiết quân luật 24 trên 24 giờ trong ngày, gấp rút củng cố lại các trận địa phòng thủ, thu gom tàn quân thành lập các đơn vị mới, bổ sung súng đạn cho các đơn vị bảo an, dân vệ. Đồng thời ông ta quyết định thành lập mặt trận Nha Trang và cử Phạm Quốc Thuần làm tư lệnh. Họp xong, Phạm Văn Phú cùng một số sĩ quan tùy tùng dùng máy bay lên thẳng thị sát chiến trường. Ông ta dùng máy bộ đàm mà vẫn không liên lạc được với một đơn vị đồn trú nào. Phú bay thẳng về Phan Rang, không xuống Nha Trang như dự định.

Bất chấp lệnh giới nghiêm của Phú, nhân viên hành chính ngụy quyền bỏ nhiệm sở, quân lính ngụy bỏ đội ngũ về nhà lo di tản vợ con gia đình. Lính dù, lính biệt động thua trận ùn ùn đổ về Nha Trang cùng hơn một ngàn tên quân phạm vừa phá ngục ra, chúng tranh giành xe cộ, cướp giật của dân làm cho thành phố trở nên hỗn loạn.

17 giờ ngày 2 tháng 4, sau khi đánh tan các chốt của địch ở đèo Ro Tượng, đèo Rù Rì, lực lượng binh chủng hợp thành của Sư đoàn 10 bắt đầu vượt cầu Xóm Bóng tiến vào thành phố. Các ổ đề kháng cuối của quân đoàn 2 ngụy đã bị tiêu diệt. Đoàn xe chở bộ đội tiến đến đâu trật tự ở đó được thiết lập. Nhân dân thành phố biển Nha Trang vây quanh những xe chở bộ đội tặng chiến sĩ ta trái cây, nước ngọt...

Thừa thắng, sáng ngày 3 tháng 4, lực lượng đột kích của Sư đoàn 10 theo đường số 1 tiến về phía nam. Địch cho máy bay ném bom, bắn phá ác liệt chặn đường. Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Mịch, đại đội 72 trung đoàn 234 quê Hoàng Thanh, Hiệp Hòa, Hà Bắc, bằng một quả đạn A72 đã bắn rơi tại chỗ 1 máy bay A37, bắt sống giặc lái. Cùng thời gian trên, tiểu đội phó Đỗ Văn Lỳ đại đội 72 trung đoàn 234 quê Khu 1, Việt Trì, Phú Thọ sử dụng 1 quả đạn bắn rơi tại chỗ 1 máy bay A37. Những ổ đề kháng ở hai bên đường liên tiếp đánh vào đội hình quân ta. Vượt qua ác liệt hy sinh, lực lượng đột kích của ta vẫn nhằm hướng quân cảng Cam Ranh xốc tới.

14 giờ ngày 13 tháng 4 năm 1975, Cam Ranh - quân cảng lớn, có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất của Tể quốc ta đã hoàn toàn được giải phóng, kết thúc chiến dịch Tây Nguyên mùa Xuân năm 1975. 16 giờ chiều hôm đó, tôi, anh Hồ Đệ - Sư đoàn trưởng và anh Lã Ngọc Châu - Chính ủy Sư đoàn 10 đã có mặt tại quân cảng Cam Ranh vừa chia vui với bộ đội vừa hướng dẫn anh em phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương giữ gìn an ninh chính trị, bảo vệ những thiết bị, kho tàng trong căn cứ và nhanh chóng củng cố lực lượng để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ mới.

Chúng tôi đã thực hiện được lời thề sắt son: Giải phóng nhân dân các dân tộc Tây Nguyên khỏi ách nô lệ, thực hiện “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” ở Tây Nguyên như lời Bác Hồ đã dạy. Trong suốt chặng đường có biết bao kỷ niệm trong cuộc đời. Đôi với mùa Xuân năm 1975, giây phút xúc động nhất đối với tôi là giây phút chúng tôi cùng đơn vị từ Tây Nguyên tiến về đồng bằng, tới được bờ biển miền Trung dạt dào nắng gió. Không mấy ai trong số hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đã nhiều năm chiến đấu ở núi rừng Tây Nguyên khi tới được bờ biển lại không trào nước mắt. Tôi nhớ ngày đó ở Binh đoàn Tây Nguyên có lưu truyền một bài thơ của một chiến sĩ trong binh đoàn, trong đó có những câu thế này:

         Ôi, cái đêm ta về với đồng bằng!
         Lồng ngực căng tràn hương lúa
         Trăng hiểu lòng ta nên trăng rất tỏ
         Gió hiểu lòng ta từng ngọn gió bồi hồi
         Lau khô dần những giọt mồ hôi
         Nhưng nước mắt ta đã chảy dài trên má...


Nhà thơ chiến sĩ ấy đã nói hộ chúng tôi nỗi niềm của những người chiến sĩ Tây Nguyên khi hoàn thành tâm nguyện của mình từ Tây Nguyên tiến về giải phóng đồng bằng, từ rừng tới biển, từ chiến khu gian lao vất vả về giải phóng các thành phố huy hoàng tráng lệ của đất nước ta. Một đời trận mạc, có được những ngày tháng đó thật là hạnh phúc. Và chính những giây phút ấy, khi ở cuối chặng đường đuổi giặc chúng tôi đã nhớ tới bao đồng đội của mình đã hy sinh dọc đường đi tới chiến thắng:

         Niềm vui đại dương
         Nỗi nhở của đại dương
         Bạn bè nhắc tên bao người vắng mặt
         Đôi dép bạn tôi mang suốt chặng đường đuổi giặc
         In những dấu hằn, rát bỏng
         Vào niềm vui dài rộng - đại dương ơi!


Nhà thơ chiến sĩ của chúng tôi đã viết như vậy.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:01:24 am
VIII

TRẬN QUYẾT CHIẾN CUỐI CÙNG

Giữa lúc khối chủ lực Tây Nguyên đang tiến về cùng với quân và dân địa phương giải phóng các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ, thì ngày 27 tháng 3 năm 1975, anh Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu phó điện thông báo quyết địch của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thành lập Quân đoàn 3. Tổ chức Quân đoàn gồm: Bộ tư lệnh do anh Vũ Lăng - Tư lệnh, tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Chính ủy, các anh Nguyễn Năng, Nguyễn Kim Tuấn - Phó tư lệnh, anh Phí Triệu Hàm - Phó chính ủy. Ba cơ quan Mặt trận Tây Nguyên chuyển thành Bộ Tham mưu do anh Hồ Đệ - Tham mưu trưởng, các anh Nguyễn Quốc Thước, Lê Minh - Tham mưu phó. Cục Chính trị do anh Thái Bá Nhiệm - Chủ nhiệm, anh Nguyễn Đằng - Phó chủ nhiệm. Cục hậu cần do anh cấn Văn Tại - Chủ nhiệm, các anh Đặng Văn Khoát, Đỗ Thuyên, Lưu Sĩ Hiệp - Phó chủ nhiệm; đồng thời Thường vụ Quân ủy Trung ương cũng chỉ định Đảng ủy Quân đoàn gồm: Tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Bí thư, anh Vũ Lăng - Phó bí thư, các đảng ủy viên chính thức gồm có các anh: Phí Triệu Hàm, Nguyễn Kim Tuấn, Nguyễn Năng, Nguyễn Quốc Thước, Lã Ngọc Châu, Bùi Huy Bổng, Hà Quốc Toản, Đoàn Hồng Sơn, Nguyễn Hải Bằng, Nguyễn Hữu Hưu, Nguyễn Minh Khang; ủy viên dự khuyết: Bùi Đình Hòe và Bùi Tố Tọa.

Quân đoàn 3 gồm 3 sư đoàn:

Sư đoàn 10 do anh Đoàn Hồng Sơn - Sư đoàn trưởng; anh Lã Ngọc Châu - Chính ủy; anh Võ Khắc Phụng- Sư đoàn phó; anh Lưu Quý Ngữ - Phó chính ủy.

Sư đoàn 320 do anh Bùi Đình Hòe - Sư đoàn trưởng; anh Bùi Huy Bổng - Chính ủy; anh Ngô Huy Phát - Sư đoàn phó; anh Đặng Văn Trượng - Phó chính ủy.

Sư đoàn 316 do anh Nguyễn Hải Bằng - Sư đoàn trưởng; anh Hà Quốc Toản - Chính ủy; anh Nguyễn Hữu Thơi - Sư đoàn phó; anh Đoàn Văn Độ - Phó chính ủy.

Các đơn vị binh chủng gồm có: Trung đoàn đặc công 198 do anh Trần Kình - trung đoàn trưởng, Lê Văn Tích - chính ủy; 2 đơn vị pháo mặt đất gồm: trung đoàn 40 chuyển thành lữ đoàn pháo binh do anh Nguyễn Hữu Vinh - lữ đoàn trưởng, Mai Sinh Giá - chính ủy (lữ đoàn 40 được biên chế 4 tiểu đoàn pháo nòng dài) và trung đoàn 675 do anh Trần Đình Sai - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Xuân Dục - chính ủy; 3 trung đoàn cao xạ: trung đoàn 593 do anh Nguyễn Duy Sơn - trung đoàn trưởng, Phạm Minh Mẫn - chính ủy; trung đoàn 234 do anh Vũ Văn Lương - trung đoàn trưởng, Vũ Xuân Sắc - chính ủy; trung đoàn 232 do anh Nguyễn Văn Hách - trung đoàn trưởng, anh Trần Đình Khánh - chính ủy (Bộ sẽ đưa vào 1 đại đội tên lửa phòng không chiến thuật A72); lữ đoàn xe tăng 273 do anh Lê Mai Ngọ - lữ đoàn trưởng, Vũ Đình Tư - chính ủy; chuyển trung đoàn công binh 7 thành lữ đoàn do anh Lê Hữu Công - lữ đoàn trưởng, Đoàn Văn Khoát - chính ủy; trung đoàn thông tin 29 do anh Lê Đức Đệ - trung đoàn trưởng, Đỗ Giả - chính ủy. Quân số quân đoàn khoảng từ 45 đến 47 ngàn người.

Sau chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã giáng tiếp cho quân ngụy Sài Gòn đòn chiến lược thứ hai, đẩy chúng lâm vào tình thế cực kỳ bi đát (2 trong số 4 quân khu của địch đã bị xóa sổ, với 35% sinh lực, 40% cơ sở vật chất; 12 tỉnh với 8 triệu dân được giải phóng), về phía cách mạng khí thế giải phóng miền Nam của quân và dân ta dâng lên mạnh mẽ. Lực lượng quân sự, chính trị của ta dồi dào và sung sức tạo ra được một thời cơ chiến lược mới rất thuận lợi để giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng miền Nam.

Ngày 31 tháng 3, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp đánh giá tình hình đã kết luận: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc.

Cách mạng nước ta đang phát triển sôi nổi nhất với nhịp độ một ngày bằng 20 năm. Vì vậy, Bộ Chính trị quyết định: “Nắm vững hơn nữa thời cơ chiến lược với tư tưởng thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất trong tháng 4, không thể để chậm”.

Cả nước tập trung sức người, sức của cho trận đánh cuối cùng kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Ở miền Bắc, thanh niên nam nữ trong các cơ quan nhà máy, hợp tác xã, công trường, trường học... hăng hái xung phong lên đường nhập ngũ. Mọi phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường biển, đường không đều được huy động tối đa chi viện cho mặt trận. Trên quốc lộ số 1 và các trục đường chiến lược từng đoàn xe chở bộ đội, xe chở hàng hóa, xe kéo pháo kín lá ngụy trang nối nhau ngày đêm chạy về chiến trường trọng điểm. Các quân đoàn, binh đoàn chủ lực của ta từ khắp các mặt trận cũng được lệnh hội quân về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:02:19 am
Quân đoàn 4 sau khi giải phóng Lâm Đồng, Di Linh đã chuyển lực lượng về phía đông, tiến công vào sư đoàn 18 ngụy ở Xuân Lộc.

Quân đoàn 2 và Sư đoàn 3 Quân khu 5 sau khi đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang đang tiến về Long Thành, Bà Rịa, Nước Trong, Vũng Tàu.

Ở phía tây nam, Quân khu 8 và Quân khu 9 áp sát lực lượng ra ven đường số 4, chuẩn bị cắt đứt con đường quan trọng bậc nhất nối Sài Gòn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đoàn 232 đang tiến vào tuyến phòng thủ sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa.

Ở phía bắc, Quân đoàn 1 theo quốc lộ 1 đang tiến vào khu vực tập kết ở phía nam tỉnh Sông Bé.

Quân đoàn 3, ngay sau khi giải phóng Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh đã được lệnh tiến về Sài Gòn.

Tin vui được tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định truyền nhanh tới cán bộ, chiến sĩ các đơn vị. Cả quân đoàn náo nức chuẩn bị hành quân. Những công việc chuẩn bị phức tạp trước đây phải giải quyết hàng tuần, hàng tháng thì nay chỉ được phép hoàn thành trong ngày, trong buổi.

Lường trước khó khăn trong cuộc chiến đấu tới, Bộ tư lệnh Quân đoàn chỉ thị cho các cơ quan và đơn vị tranh thủ mọi điều kiện, chuẩn bị tốt mọi mặt nhất là đạn pháo và phương tiện vận chuyển. Theo đề nghị của Sư đoàn 10, sau khi trao đổi trong Bộ tư lệnh, chúng tôi nhất trí cho sư đoàn để lại toàn bộ pháo 122 ly, thay bằng pháo 105 ly thu được của địch vừa đỡ công vận chuyển bổ sung đạn pháo 122 vừa có thể tận dụng được đạn pháo 105 của địch hiện đang dồi dào và còn có nguồn bổ sung trong quá trình chiến đấu.

Mặc dù Đoàn 559 và hậu cần quân đoàn đã huy động gần 3.000 chuyên xe chở bộ đội và binh khí kỹ thuật vào Đông Nam Bộ nhưng vẫn còn cần đến hàng trăm xe mới đáp ứng nhu cầu công tác vận chuyển. Để giải quyết khó khăn này các sư đoàn đã chủ động liên hệ với ủy ban quân quản địa phương nhờ giúp đỡ. Sư đoàn 10 đã chủ động cử anh Lê Quang Mỹ - chủ nhiệm chính trị trực tiếp làm việc với ủy ban quân quản thành phố Nha Trang và thị xã Cam Ranh, đồng thời tận dụng số xe thu được của địch (cả lái xe là lính ngụy ta bắt làm tù binh) tham gia vận chuyển. Riêng sư đoàn 10 cũng huy động được hơn 60 chiếc xe ca và xe tải lớn. Tại thị xã Buôn Ma Thuột, anh Y Blốc - chủ tịch ủy ban quân quản tỉnh Đắc Lắc đã huy động hàng trăm lái xe và 250 xe các loại phục vụ quân đoàn cơ động.

Cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Tây Nguyên mãi mãi ghi nhớ sự giúp đỡ quý báu của chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên và các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định đối với binh đoàn lúc khó khăn để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch lịch sử mang tên Bác.

Có hai sự việc tôi nhớ mãi. Thứ nhất, đó là việc phân công người ở lại trông coi hậu cứ phía sau. Việc tưởng đơn giản nhưng lại thành chuyện, chẳng ai chịu ở lại nên nhiều đơn vị phải ra lệnh, phải họp chi bộ, đảng ủy ra nghị quyết lãnh đạo cử cán bộ phụ trách phía sau mới ổn.

Thứ hai, Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn chúng tôi chủ trương đưa tất cả số anh em cán bộ bị kỷ luật “treo giò”, được tham gia trận đánh cuối cùng. Ai hoàn thành nhiệm vụ sẽ được xóa hết lỗi lầm trước đó. Sau này chiêm nghiệm lại chúng tôi cho rằng đây là một chủ trương đúng. Do vậy khi chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc, Quân đoàn 3 không có cán bộ nào còn mắc án kỷ luật. Ngày 4 tháng 4, Sư đoàn 316 và bộ phận cán bộ quân đoàn đi chuẩn bị chiến trường bắt đầu hành quân vào Đồng Xoài. Sư đoàn 320 đang củng cố thắng lợi ở Tuy Hòa được lệnh quay trở lại đường số 7, rồi theo đường số 14 hành quân qua Đức Lập, Bu Prăng, Bình Long vào miền Đông Nam Bộ. Sư đoàn 10 hành quân trên hai hướng. Bộ phận đã tới Đơn Dương (Lâm Đồng) tiếp tục đi theo quốc lộ 20 đến Duy Linh rẽ sang Gia Nghĩa về Kiến Đức. Bộ phận đang còn ở Nha Trang, Cam Ranh và các đơn vị đang đi trên đường 450 sẽ quay lại đường 21 về Buôn Ma Thuột rồi theo đường 14 về phía nam. Cả hai hướng sẽ hội quân ở Kiến Đức.

Đường vào Nam Bộ còn xa, thời gian chiến dịch mở đến gần, trên tất cả tuyến đường của các đơn vị trong quân đoàn xe chạy không kể ngày đêm, bộ đội chỉ được dừng lại một thời gian ngắn để thổi cơm, nấu nước bổ sung, rồi lại tiếp tục lên đường. Ngồi trên xe không mui, nắng, bụi làm mặt mọi người đen xạm, nhưng ai nấy rất vui. Xe tới Lộc Ninh rồi qua An Lộc và đến Chơn Thành. Xe chạy giữa các lô cao su thẳng tắp bạt ngàn, ở khu vực này đường mới mở cắt ngang đường cũ, có chỗ đến 5, 7 đường ô tô. ở những ngã ba, ngã tư có hàng chục tấm biển chỉ đường với nhiều ký hiệu khác nhau: A100, A300, T500... Từng đơn vị nhận ra đường của mình qua các ký hiệu riêng ấy. ở các trạm Ba-ri-e, sĩ quan tham mưu cùng với các chiến sĩ công binh, thông tin truyền đạt thức thâu đêm để hướng dẫn cho các đoàn quân và các đoàn xe vào đúng tuyến của mình...


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:02:56 am
Ngày 12 tháng 4 năm 1975, tôi và anh Vũ Lăng có mặt tại Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh ở phía tây thị trấn Lộc Ninh (căn cứ cơ quan Bộ chỉ huy Miền) để nhận nhiệm vụ của Bộ chỉ huy chiến dịch.

Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ tư lệnh chiến dịch đã phân tích tình hình, thời cơ chiến lược, quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương sử dụng lực lượng tập trung ưu thế đánh thẳng vào Sài Gòn bằng lực lượng đột kích mạnh tiến công liên tục đến toàn thắng, về nhiệm vụ của quân đoàn, Đại tướng nói: Quân đoàn 3 với lực lượng trong biên chế tập trung lực lượng từ hướng tây bắc và đông bắc đánh vào Sài Gòn. Đây là hướng chủ yếu, quân đoàn cần tập trung lực lượng, chuẩn bị chu đáo nhanh chóng tiêu diệt sư đoàn 25 không cho sư đoàn này co cụm về Sài Gòn. Đồng thời tổ chức lực lượng binh chủng hợp thành (cấp sư đoàn) đột kích từ hướng tây bắc đánh chiếm Hóc Môn, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tư lệnh thiết giáp, bộ tư lệnh pháo binh (ở Gò Vấp), nhanh chóng đánh mục tiêu chủ yếu là Bộ tổng tham mưu ngụy; tiêu diệt các ổ đề kháng trong phạm vi quân đoàn phụ trách, bảo vệ các mục tiêu, kho tàng, cơ sở công cộng.

Trong quá trinh chuẩn bị phải bám sát địch, sẵn sàng tiêu diệt các trận địa pháo, nêu địch có hành động co cụm, phải nhanh chóng tổ chức tiêu diệt (sư đoàn 25 là trọng yếu nhất). Tất cả mọi công tác chuẩn bị quân đoàn phải hoàn thành xong trước ngày 20 tháng 4.

Sau khi nhận nhiệm vụ, Bộ tư lệnh Quân đoàn gấp rút xây dựng kế hoạch tác chiến theo nhiệm vụ trên.

Ngày 14 và ngày 15 tháng 4 năm 1975, Bộ tư lệnh Quân đoàn giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 316, Sư đoàn 320 và các đơn vị binh chủng kỹ thuật. Các anh Bùi Đình Hòe, Bùi Huy Bổng (Sư đoàn 320), Hải Bằng, Hà Quốc Toản (Sư đoàn 316) và các cán bộ đơn vị binh chủng kỹ thuật nhận nhiệm vụ xong đều rất phấn khởi tin tưởng và hạ quyết tâm chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh hiệp đồng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Ngày 16 tháng 4, Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn họp quyết định thăng quân hàm cấp tá cho cán bộ trung đoàn và chủ trì cơ quan sư đoàn trở lên. Cấp thiếu tá cho các trung đoàn trưởng: Đỗ Văn Tri, Trương Văn Việt, Long Hứa Ho, Trần Kình, Nguyễn Đình Chi, Trần Văn Thân. Chính ủy trung đoàn: Lưu Quang Đình, Đinh Hữu Tấn, Trần Văn Bàn, Nguyễn Văn Đác, Nguyễn Ngọc Xuân, Lê Xuân Thanh, Nguyễn Trọng Vinh. Trung đoàn phó: Đỗ Công Mùi, Hoàng Tong, Tô Quốc Trịnh, Lê Đình Hược, Ma Thanh Toàn, Lê Đình Kế, Nguyễn Văn Tạo, Khổng Trọng Tư, Lưu Đình Sân, Tô Ninh, Lê Văn Đảnh. Phó chính ủy trung đoàn: Nguyễn Tiến Tứ, Nguyễn Quang Lâm, Trần Danh Đẩu, Trần Văn Chí, Trần Ngọc Nhu, Vũ Văn Trại. Cơ quan sư đoàn: Phạm Văn Cơ, Hoàng Thanh Quế, Nguyễn Đình Học, Lê Minh Lợi, Trần Thế Dương, Phạm Văn Khảm, Lê Đắc Hào. Bộ tham mưu Hoàn Ngọc Nhằn, Nguyễn Minh Lộc, Nguyễn Ngôn, Tống Văn Ao, Lê Toàn, Nguyễn Hữu Tình, Nông Quang Lộc. Cục Chính trị: Tạ Đức Hiền, Nguyễn Hường, Dương Văn Bảo, Trần Hồng Châu, Nguyễn Đức Phố, Đặng Công Ninh, Vũ Duy Tằng, Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Tấn Thành. Cục hậu cần: Đoàn Văn Ngơi, Phan Đình Xuyên, Trịnh Thế Thư, Nguyễn Ngọc Trân, Phạm Hanh (bác sĩ), Trần Kim Uyên (bác sĩ), Ngô Xuân Thiêm (bác sĩ), Nguyễn Ngọc Tuyên (bác sĩ), Lê Viết Nho (bác sĩ).

Cấp trung tá cho các trung đoàn trưởng: Lê Quang Bình, Nguyễn Đức Cẩm, Vũ Văn Tài, Lê An, Lê Ngọ, Trần Đình Sai, Trương Đăng Thái, Vũ Văn Lương, Lê Hữu Công.. Chính ủy trung đoàn: Bùi Văn Hòe, Vũ Đình Tư, Nguyễn Xuân Dục, Mai Sinh Giá, Vũ Xuân Sắc, Trần Văn Đỉnh. Cán bộ cấp phòng: Vũ Đình Thước, Nguyễn Đình Kiệp, Phạm Quang Bào, Nguyễn Văn Ngọc, Trần Thể, Nguyễn Chí Nguyện, Đoàn Đình Vinh, Đinh Thế Mỹ, Nguyễn Xuân Khoát. Bộ tham mưu: Huỳnh Nghĩ, Trần Doãn Kỷ, Nguyễn Đình Thức, Nguyễn Văn Tức, Trần Minh Hảo, Đinh Xuân La. Cục Chính trị: Nguyễn Chính Yên, Lê Văn Thọ, Nguyễn Nghịch, Phạm Xuân Hạ. Cục Hậu cần: Nguyễn Tụ (bác sĩ), Nguyễn Xuân Huy.

Đề nghị trên thăng quân hàm cấp thượng tá: Nguyễn Đằng, Bùi Tố Tọa, Khuất Duy Tiến, Thông Sơn, Võ Khắc Phụng, Ngô Huy Phát, Đặng Văn Khoát và cấp đại tá: Nguyễn Đức Giá, Đoàn Hồng Sơn, Đàm Văn Ngụy, Hà Quốc Toản.

Hầu hết số cán bộ Quân đoàn 3 được đề bạt trong đợt tháng 4 năm 1975 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Hồ Chí Minh, nhiều đồng chí được tặng thưởng huân chương và sau này không ít người trở thành tướng lĩnh.

Sáng ngày 23 tháng 4, tôi và anh Vũ Lăng có mặt lần thứ hai tại Bộ chỉ huy chiến dịch báo cáo quyết tâm và nhận nhiệm vụ chính thức. Nhiệm vụ lần này có thay đổi so với lần thứ nhất. Cụ thể như sau: Với lực lượng trong biên chế, có pháo binh và cao xạ chiến dịch chi viện, quân đoàn đảm nhiệm một hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch từ tây bắc vào Sài Gòn. Dùng lực lượng cỡ sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường tiến công tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, thực hiện chia cắt tuyến phòng thủ Đồng Dù, Tân Quy, Củ Chi, Trảng Bàng, bao vây tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy không cho co cụm về Sài Gòn. Tổ chức lực lượng đột kích mạnh binh chủng hợp thành thọc thẳng vào Sài Gòn, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, hiệp đồng với đơn vị bạn đánh chiếm Bộ tổng tham mưu, dinh Độc Lập; đồng thời có nhiệm vụ giữ vững mục tiêu phụ trách, bảo vệ kho tàng và ổn định trật tự, an ninh thành phố.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:03:25 am
Trên hướng tiến công của quân đoàn, lực lượng địch khá mạnh. Vòng ngoài gồm sư đoàn 25, các liên đoàn biệt động quân số 9 và 32, liên đoàn 6 công binh, khoảng 2 vạn tên của trung tâm huấn luyện Quang Trung, trung đoàn thiết giáp số 10, lữ đoàn nhảy dù số 4, 20 tiểu đoàn bảo an ở Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Gia Định và lực lượng pháo binh có tới 86 khẩu từ 105 đến 175 ly. Ở sân bay Tân Sơn Nhất có sư đoàn 5 không quân, bộ tư lệnh dù, bộ tư lệnh không quân, bộ tư lệnh thiết giáp ngụy. Chiều sâu phòng ngự của địch trên hướng tiến công của quân đoàn khoảng 100km.

Sau khi nghe anh Vũ Lăng báo cáo quyết tâm chiến đấu của quân đoàn, các đồng chí trong Bộ. tư lệnh chiến dịch cho rằng quyết tâm của quân đoàn đã thể hiện tốt nhiệm vụ được giao. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, quân đội dành nhiều thời gian phân tích những vấn đề quân đoàn cần quan tâm giải quyết, để thực hiện nhiệm vụ một cánh quân trên một hướng chính của chiến dịch:

Đồng chí Lê Đức Thọ nói:

- Ngày 22 tháng 4, Bộ Chính trị họp nhận định thời cơ đã chín muồi, ta phải tranh thủ từng giờ để mở cuộc tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch. Để lâu không những tình hình chính trị, ngoại giao càng thêm phức tạp mà các trận mưa đầu mùa đã đến. Quân đoàn 3 ngoài nhiệm vụ chính của mình còn phải hiểu những vấn đề chung của chiến dịch lịch sử này. Thắng lợi của quân và dân Tây Nguyên là một bước ngoặt chiến lược mở đột phá khẩu cho toàn miền Nam, buộc địch đi vào co cụm chiến lược. Nhiệm vụ của quân đoàn là đột phá vào hướng chính, hướng mà có lực lượng địch đông hơn các hướng khác. Đánh vào Sài Gòn - thành phố lớn, trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế là đánh vào dinh lũy cuối cùng của địch. Chúng có phần cố thủ để giữ nhưng cũng có phần cố thủ để rút. Ưu thế của ta hiện nay hơn địch nhiều (địch có nhiều nhất là 5 sư đoàn), thời cơ thuận lợi, tương quan lực lượng cũng rất thuận lợi cho ta. Các sư đoàn của ta sung sức, có kinh nghiệm, trang bị mạnh hơn trước. Vì vậy, không cho phép không thắng. Trung ương đã dồn toàn bộ lực lượng vào thực hiện quyết tâm đó. Phải tranh thủ thời cơ mau hơn nữa, phải tranh thủ từng ngày, phải chuẩn bị cơ sở tốt để đánh thắng. Ta không cầu toàn, nhưng không thể quá vội vã. Vội vã mà vấp thì càng khó khăn cả về chính trị và ngoại giao.

Ngừng một lát đồng chí Lê Đức Thọ nói tiếp:

- Các đồng chí bàn gì thì bàn, cuối cùng phải là tổ chức thực hiện. Phải nói rõ cho quần chúng nhiệm vụ, phân tích tương quan lực lượng làm cho mọi người tin tưởng, phải bàn kỹ về tổ chức cho thật cụ thể. Tổ chức quyết định thắng lợi. Quân đội vào thành phải giữ tư cách đạo đức của quân đội cách mạng. Các đồng chí phải giáo dục bộ đội tinh thần cảnh giác, không để địch dùng tiền, dùng gái lôi kéo mua chuộc. Bộ đội phải có kỹ luật, giữ gìn tài sản quốc gia, chống tự kiêu, tự đại, công thần. Sự nghiệp nào cũng là sự nghiệp chung, phải hết sức khiêm tốn.

Đại tướng Văn Tiến Dũng đứng dậy chậm rãi nói:

- Anh Sáu Thọ đã có ý kiến quyết tâm cao giành thắng lợi càng sớm càng tốt, nhưng đánh phải có tổ chức bảo đảm chắc thắng. Trong ba nhiệm vụ của quân đoàn đã nêu thì nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn 3 là tổ chức lực lượng mạnh đột kích liên tục, đánh ngã địch, chiếm các mục tiêu trong thành phố. Đánh sư đoàn 25 ở ngoài chỉ là điều kiện, không thể đánh sư đoàn này mà dùng nhiều lực lượng, hoặc giằng co mất nhiều thời gian. Đánh ngoài và đột vào trong là đồng thời, không chia thành bước. Nhiệm vụ chính là bên trong. Các đồng chí tìm cách để khỏi tốn thời gian, tốn binh lực. Mục tiêu chính của Quân đoàn 3 là sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu. Còn phủ tổng thống là sau khi cơ bản làm xong hai mục tiêu trên. Vì phủ tổng thống là nhiệm vụ chủ yếu của một đơn vị khác. Nếu họ giải quyết xong rồi thì Quân đoàn 3 không phải vào.

Vởi giọng Nam Bộ trầm ấm, truyền cảm, đồng chí Phạm Hùng - ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy chiến dịch Hồ Chí Minh căn dặn:

- Quân đoàn 3 phải tổ chức công tác chính trị thật tốt cho tới từng chiến sĩ, thời gian rất khẩn trương, trước mặt là yêu cầu nhiệm vụ, sau lưng là thời tiết, các đồng chí phải ra sức khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.

Trung ương Cục, Quân ủy Miền mong Quân đoàn 3 vào đủ để cùng hoàn thành nhiệm vụ Bộ Chính trị giao. Ta kết thúc sự nghiệp dân tộc dân chủ trong cả nước, hoàn thành thống nhất nước nhà, nghĩ đến đó mừng lắm. Chúng ta phải mang lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Bác Hồ cắm lên thành phố vinh quang mang tên Người, lấy thành tích chào mừng kỷ niệm lần thứ 85 ngày sinh của Bác.

Từ ngày thành lập Đảng đến nay đây là giờ phút vinh quang nhất của dân tộc, quân đội ta như Quang Trung vào Thăng Long, vừa đuổi quân xâm lược vừa thống nhất đất nước. Quân đội phải giữ nghiêm kỷ luật dân vận, bám lấy nhân dân thì khó khăn gì cũng giải quyết được.

Trung ương Cục và Quân ủy Miền hoan nghênh thắng lợi to lớn của Tây Nguyên, hoan nghênh sự có mặt của Quân đoàn 3 tham gia làm nhiệm vụ trên hướng chủ yếu.

Chúc trước chúng ta toàn thắng!


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:06:21 am
Trước đó, ngày 21 tháng 4 năm 1975, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân với hơn 30 tàu chiến, bốn tàu sân bay và hàng trăm máy bay các loại lập cầu hàng không di tản người Mỹ và người nước ngoài rời khỏi Sài Gòn. Cùng ngày tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngày 24 tháng 4, tổng thống Pho tuyên bố tại trường đại học Niu-óc-li-ân rằng: “Chiến tranh đã kết thúc với người Mỹ, không thể giúp đỡ người Việt Nam được nữa, họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang chờ họ”. Như vậy thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi.

Trước khi tôi và anh Vũ Lăng đi nhận nhiệm vụ ở Bộ chỉ huy chiến dịch thì Sư đoàn 10 vẫn đang hành quân dọc đường, chúng tôi rất lo lắng và dõi theo từng bước đi của sư đoàn này. Bộ tư lệnh Quân đoàn lệnh cho hậu cần tập trung thêm xe, và đề nghị với Bộ chỉ huy chiến dịch chi viện thêm phương tiện để đưa Sư đoàn 10 đến vị trí đúng quy định.

Thời gian còn lại cho công tác chuẩn bị rất ngắn. Chiến dịch đang thúc giục khẩn trương. Công binh lữ đoàn 7 và trung đoàn 575 sau khi bảo đảm đường cơ động cho Sư đoàn 320, Sư đoàn 10 và các đơn vị binh chủng kỹ thuật cũng có mặt đầy đủ ở Minh Thạnh, Dầu Tiếng.

Trong lúc các sư đoàn họp hội nghị quân chính quán triệt nhiệm vụ thống nhất phương án tác chiến thì các lực lượng trinh sát, công binh của các đơn vị cũng bắt đầu lên đường bám địch, mở đường. Nếu ở Tây Nguyên, công binh phải san hàng nghìn mét khối đất đá trên những đoạn đường đèo, làm hàng chục bến vượt, ngầm trong rừng sâu hiểm trở, thì ở đây địa hình trống trải, khó giấu quân và giữ bí mật, nhiều nơi chưa xác định được tuyến, khổng có bản đồ để đối chiếu với thực địa. Các chiến sĩ công binh, trinh sát đóng giả dân, vượt qua đồn bốt địch, dựa vào trục đường cũ xác định hướng, bí mật phân chia từng đoạn, đánh dấu tuyến rồi mới nối lại thành trục đường.

20 giờ ngày 20 tháng 4, Chủ nhiệm công binh Quân đoàn Trần Huy Ngọ báo cáo: Bộ đội công binh ghép xong chiếc phà 50 tấn qua Bên Củi. 2 giờ sau một chiếc phà thứ hai cũng hoàn thành qua Bến Tranh.

19 giờ 30 phút ngày 25 tháng 4, Chủ nhiệm quân y Quân đoàn Nguyễn Tụ báo cáo: Bệnh viện dã chiến và các đội phẫu thuật trên các hướng đã triển khai xong, sẵn sàng tiếp nhận thương binh.

20 giờ ngày 25 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn lệnh cho các sư đoàn và các đơn vị xe tăng, pháo binh, cao xạ vượt sang phía tây sông Sài Gòn, bí mật tiến vào vị trí tập kết.

Sư đoàn 10 sau những ngày hành quân vất vả, đêm ngày 25 tháng 4 đã đến vị trí tạm dừng ở Dầu Tiếng an toàn.

Ngày 26 tháng 4, Chủ nhiệm thông tin Quân đoàn Hồ Trọng Tuyến báo cáo: Trung đoàn thông tin 29 cũng hoàn thành hệ thống đường dây liên lạc từ Quân đoàn đến các đơn vị và đường dây vu hồi.

Cùng ngày, anh Thái Bá Nhịệm - Cục trưởng Cục Chính trị Quân đoàn báo cáo nhà in đã hoàn thành nhiệm vụ in xong khẩu hiệu cổ động và sơ đồ thành phố Sài Gòn thu nhỏ, bắt đầu phát cho các đơn vị; đồng thời cơ quan chính trị quân đoàn phổ biến xuống từng đơn vị bản Chỉ thị công tác chính trị chiến dịch. Cán bộ chính trị các đơn vị phổ biến cho anh em ý nghĩa chiến dịch - trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, những nhân tố thắng lợi của chiến dịch mang tên Bác nhằm động viên trách nhiệm và lòng tin tưởng, xây dựng quyết tâm thi đua giành thắng lợi lớn nhất, nhanh nhất, giáo dục tinh thần đoàn kết hiệp đồng giữa các đơn vị, các quân binh chủng, giữa chủ lực và địa phương. Đặc biệt chống tư tưởng do dự, ỷ lại hỏa lực, ỷ vào các đơn vị bạn cũng như biểu hiện chủ quan đơn giản dẫn đến tổn thất đáng tiếc và chống mọi biểu hiện cục bộ địa phương, tranh công đổ lỗi... Từng đơn vị đã cho bộ đội quán triệt bảy điều dạy của Bác Hồ trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 và lời dạy của Người ngày 5 tháng 9 năm 1954 khi bộ đội và cán bộ vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Qua học tập quán triệt những tài liệu trên, toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên trong quân đoàn đã thể hiện quyết tâm mang lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Bác cắm lên thành phố mang tên Người.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:07:45 am
Đêm 28 tháng 4, tức là ngày 17 tháng 3 (âm lịch), trăng sáng thuận lợi cho Sở chỉ huy Quân đoàn rời từ Dầu Tiếng về Củ Chi. Các đơn vị bộ binh cao xạ, xe tăng cũng lần lượt vào chiếm lĩnh trận địa. Thành ủy và thành đội Sài Gòn - Gia Định cử những đoàn cán bộ, những tổ biệt động ra tận nơi tập kết của quân đoàn dẫn đường các đon vị tiến công vào các mục tiêu đã được phân công. Nhiều thanh niên nam, nữ và các mẹ, các chị ở Củ Chi, Trảng Bàng bất chấp phi pháo của địch cùng chia sẻ ác liệt, động viên bộ đội, thay nhau thức cùng cán bộ chiến sĩ sửa lại công sự sụt lở, bổ sung thêm lá ngụy trang và nấu nước tiếp tế cho bộ đội. Đó là nguồn cổ vũ lớn lao góp phần tạo nên sức mạnh cho Quân đoàn 3 hoàn thành nhiệm vụ.

Trước đó, ngày 20 tháng 4, trung đoàn 174 được sự giúp đỡ của bộ đội địa phương và du kích Tây Ninh dẫn đường bất ngờ đánh chiếm và làm chủ đoạn đường dài 7km từ cầu Cẩm An đến Bến Mương. Trung đoàn 232 kéo pháo theo sát bộ binh, bảo vệ tốt đội hình vây cắt địch của trung đoàn 174.

Từ ngày 25 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn ra lệnh cho các trận địa pháo của quân đoàn và các sư đoàn 316, 320 gồm 27 khẩu pháo 85, 105, 122, 130, 155 ly, 12 khẩu cối 120 và 82 ly bắn phá căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ. Cuộc đấu pháo giữa ta và địch kéo dài liên tục suốt 4 ngày liền. 11 trong số 18 trận địa pháo của địch đã bị đánh tê liệt. Quân ta phá hủy 22 pháo 105 ly, 12 khẩu pháo 155 ly, bắn cháy 12 kho đạn và xăng dầu của địch.

Lực lượng pháo binh bị đánh tê liệt làm cho thế phòng ngự của sư đoàn 25 ngụy ở hướng tây bắc Sài Gòn giảm hẳn. Trước tình hình dó, địch âm mưu co sư đoàn 25 về Đồng Dù lập lá chắn ngăn chặn ta tiến công. Bộ tư lệnh Quân đoàn lệnh cho Sư đoàn 316 cắt đường khóa chặt quân địch ở Phước Mỹ.

Cùng thời gian này ở hướng đông, Quân đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi khu quân sự Long Thành, Phước Tường tiến về thị xã Bà Rịa.

Quân đoàn 4, sau khi giải phóng Xuân Lộc, phát triển tiến công đánh chiếm Trảng Bom. Đặc công diệt địch và chiếm cầu Rạch Chiếc, Rạch Cát, cầu Ghềnh, mở đường cho bộ đội chủ lực tiến vào. Pháo binh ta đánh phá sân bay Biên Hòa, địch phải di chuyển máy bay về Tân Sơn Nhất. Quân khu 8 cắt đứt đường số 4 đoạn Bến Lức đi ngã ba Trung Lương. Đoàn 232 đánh chiếm cầu An Ninh, Lộc Giang trên sông Vàm Cỏ Đông. Trung đoàn 24A và trung đoàn 88 đang tiến về phía nam quận 8 Sài Gòn. Quân đoàn 1 vượt đường 16 tiến đến bắc Lái Thiêu 7km.

Sau khi sở chỉ huy quân đoàn về Củ Chi, ngay trong đêm ngày 28 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn đã xem xét tình hình phát triển tiến công trên các hướng chiến dịch và cuộc tiến công của Sư đoàn 316, quyết định cho Sư đoàn 320, Sư đoàn 10 hành quân chiêm lĩnh trận địa. Đồng thời lệnh cho Sư đoàn 10 phải nắm chắc trung đoàn đặc công 198 và trung đoàn 64 phối thuộc xử trí kịp thời kế hoạch đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng và bàn đạp Hóc Môn. Sư đoàn 320 phải giữ vững quyết tâm tập trung lực lượng đánh chiếm căn cứ Đồng Dù nhanh gọn. Sư đoàn 316 đưa lực lượng áp sát vây chặt chi khu Trảng Bàng, nắm vững thời cơ địch rối loạn, chuyển sang tiến công tiêu diệt chi khu quân sự Trảng Bàng. Các trận địa pháo chuẩn bị sẵn phần tử bắn vào Đồng Dù và sẵn sàng cơ động pháo, đài quan sát vào Hóc Môn chi viện cho Sư đoàn 10 đánh chiếm Tân Sơn Nhất. Công binh phải sẵn sàng các đội cầu, thuyền để trong trường hợp địch phá sập cầu thì nhanh chóng vào bắc lại cầu Bông, cầu Sáng. Bộ tư lệnh Quân đoàn nhắc các đơn vị phải quán triệt đầy đủ tư tưởng chỉ đạo của Bộ tư lệnh chiến dịch, vượt qua mọi ác liệt, khó khăn thực hiện tốt phương châm và tư tưởng chỉ đạo tác chiến “mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, đánh liên tục, nắm chắc thời cơ, thọc sâu, phát triển nhanh” không được do dự dừng lại.

Bộ tư lệnh Quân đoàn cho rằng thời gian nổ súng tiến công căn cứ Đồng Dù của Sư đoàn 320 và đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng của trung đoàn đặc công 198 có quan hệ mật thiết đến mũi thọc sâu của Sư đoàn 10. Chỉ cần nổ súng không đúng thời cơ là địch có thể gây khó khăn cho ta.

Cầu Bông nằm trên đường số 1, cầu Sáng nằm trên đường số 15, là hai con đường độc đạo chạy giữa cánh đồng lúa Hậu Nghĩa, Củ Chi vào Sài Gòn. Xung quanh là đầm lầy, không có đường nào khác cho xe tăng và bộ binh cơ động vào nội thành. So với các mục tiêu khác thì lực lượng địch ở đây không đáng kể, chỉ có tiểu đoàn biệt động dù 81. Điều đáng nói là bọn này rất xảo quyệt, các trụ cầu chúng đều đặt một lượng thuốc nổ khá lớn, sẵn sàng phá sập cầu nếu bị ta tiến công. Nếu đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng trước khi tiến công Đồng Dù địch có thể dùng lực lượng phản kích giải tỏa, ngược lại đánh Đồng Dù sớm và khi Đồng Dù có nguy cơ bị diệt, địch sẽ cho nổ bộc phá hoặc dùng không quân đánh sập cầu, chặn đường tiến của ta. Bộ tư lệnh Quân đoàn đã bàn tính kỹ theo ba phương án: Sử dụng đặc công lót sẵn đánh chiếm và giữ cầu Bông, cầu Sáng, nếu đặc công gặp khó khăn thì tăng cường bộ binh đánh chiếm. Nếu địch phá cầu trước, ta dùng lực lượng cơ động vượt qua kênh Sáng đánh chiếm bàn đạp phía nam, đưa công binh và hai tiểu đoàn cao xạ vào bắc lại cầu, bảo vệ đường tiến công của quân đoàn. Sau khi thận trọng cân nhắc kỹ lưỡng Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định thời cơ đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng và bàn đạp Hóc Môn lúc Sư đoàn 320 siết chặt vòng vây căn cứ Đồng Dù, nhốt chặt sư đoàn 25 ngụy và bắt đầu tiến công. Đây là thời cơ chiến đấu chỉ diễn ra tính từng phút, do vậy yêu cầu các đơn vị vừa hiệp đồng chặt chẽ vừa hành động chính xác khẩn trương.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:08:51 am
Đồng Dù là căn cứ rộng khoảng 8km2 nằm trên đường Sài Gòn đi Tây Ninh, trước đây do sư đoàn 25 (tia chớp nhiệt đới Mỹ) xây dựng và đóng ở đó. Căn cứ này thực sự là cánh cửa sắt án ngữ phía tây bắc Sài Gòn, từ đây còn có trục đường giao thông nối với Bình Dương và Hậu Nghĩa. Do vị trí quan trọng của nó nên từ lâu Mỹ - ngụy đã ra công xây dựng Đồng Dù thành căn cứ xuất phát hành quân hỗn hợp quy mô lớn ra các vùng Củ Chi, Bầu Bàng, Bến Cát, Bến Súc, (Tây Ninh). Xung quanh căn cứ địch xây dựng hệ thống hàng rào và vật chướng ngại phòng thủ rất kiên cố và phức tạp với gần chục hàng rào dây kẽm gai và những bãi mìn chống tăng, chống bộ binh dày đặc. Tiếp đó là hai lớp tường đất kiên cố có các lô cốt, ụ súng và hào giao thông nối liền các phân khu. Trong căn cứ địch chia thành từng khu vực có đường cơ động cho xe tăng, xe bọc thép và có cả sân bay, máy bay vận tải C130 có thể lên xuống được. Hệ thống thông tin liên lạc của căn cứ Đồng Dù là một trong những trung tâm viễn thông lớn và hiện đại ở miền Nam lúc bấy giờ. Lực lượng trong căn cứ có sở chỉ huy sư đoàn 25 (một trong những sư đoàn chủ lực mạnh nhất quân ngụy Sài Gòn), trung đoàn bộ trung đoàn 50 và tiểu đoàn 2 của trung đoàn này; một trung tâm huấn luyện tân binh và hạ sĩ quan, các tiểu đoàn công binh, pháo binh, thiết giáp, thông tin, trinh sát, thám báo. Căn cứ pháo binh Đồng Dù có tới 18 khẩu pháo các loại, trong đó có 4 khẩu 175 ly “vua chiến trường”, lực lượng xe tăng, thiết giáp có 20 xe. Quân số trong căn cứ có khoảng 3.000 tên.

Các lực lượng còn lại của sư đoàn 25 đóng ở ngoại vi gồm có tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 ở Ấp Mới; tiểu đoàn 2 trung đoàn 46 ở Đồng Chùa, Suối Sâu; trung đoàn 49 ở Bến Kéo, Trà Võ (nam Tây Ninh); trung đoàn thiết giáp 10 có 1 chi đoàn ở Trảng Bàng, 1 chi đoàn ở Củ Chi. Ngoài ra lực lượng bảo vệ vòng ngoài căn cứ còn có tiểu đoàn 233 ở Phú Hòa Đông, tiểu đoàn 331 ở Ấp Chợ, tiểu đoàn 305 ở Đồng Chùa, Củ Chi; tiểu đoàn 320 ở Trung Hòa. Như vậy, hệ thống phòng thủ khu vực Củ Chi và căn cứ Đồng Dù là một hệ thống phòng thủ chặt chẽ có hỏa lực mạnh, lực lượng đông, có các căn cứ phụ cận sẵn sàng chi viện và có đường cơ động thuận lợi.

Sư đoàn 320 sử dụng lực lượng tiến công tiêu diệt căn cứ Đồng Dù như sau: Trung đoàn 48 do anh Lê Quang Bình - trung đoàn trưởng, Đinh Hữu Tấn - chính ủy chỉ huy, được tăng cường 1 đại đội xe tăng và được pháo binh sư đoàn và pháo binh chiến dịch chi viện đột phá trên hai hướng: Hướng chủ yếu đánh từ tây bắc; hướng thứ yếu đánh từ tây nam vào. Trung đoàn 9 và 1 đại đội xe tăng làm dự bị đánh phát triển và đánh quân địch vòng ngoài.

2 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, Sư đoàn 320 triển khai xong lực lượng tiên công Đồng Dù. Các cụm pháo binh của quân đoàn gồm trung đoàn 40 , 675 và cụm pháo binh Sư đoàn 320 bắt đầu bắn phá căn cứ Đồng Dù. Tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quang Vinh và chính trị viên Nguyễn Văn Thư chỉ huy. Vinh và Thư là hai cán bộ trẻ, trưởng thành trong chiến đấu, có nhiều thành tích và kinh nghiệm chỉ huy đột phá trong những trận đánh quan trọng của sư đoàn như trận Làng Siêu, Thuần Mẫn. Nhưng trước một căn cứ lớn, phòng thủ mạnh, yêu cầu chỉ được phép đánh thắng trong một thời gian ngắn, các anh không khỏi băn khoăn. Sau này Nguyễn Quang Vinh tâm sự:

- Trước khi bước vào trận đánh, cán bộ, chiến sĩ cả tiểu đoàn quyết tâm rất cao, mọi người đều sẵn sàng đón nhận hy sinh trước giờ thắng lợi. Nhưng là người chỉ huy tôi phải chịu trách nhiệm trước xương máu của họ. Do đó ban chỉ huy tiểu đoàn đã bàn đi bàn lại, phát huy dân chủ quân sự để anh em hiến kế đánh phải thắng, nhưng không phải thắng bằng mọi giá mà phải tính sao hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà tốn ít xương máu nhất.

Phương án lúc đầu, đơn vị sẽ dùng bộc phá đánh liên tục để phá rào. Đại đội 3, đơn vị đảm nhiệm mở cửa và đánh chiếm đầu cầu, được lệnh khẩn trương gói buộc bộc phá. Mặt khác, tiểu đoàn 1 đề nghị trên cho phép dùng mìn định hướng mở cửa. Đề nghị của tiểu đoàn 1 được Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 chấp nhận.

Bộ tư lệnh Quân đoàn phân công anh Nguyễn Kim Tuấn - Phó tư lệnh Quân đoàn trực tiếp chỉ huy trận đánh. 17 giờ ngày 28 tháng 4 năm 1975, anh đã có mặt tại sở chỉ huy Sư đoàn 320.

Theo hiệp đồng chung, Sư đoàn 320 chỉ được phép dứt điểm căn cứ Đồng Dù trong thời gian từ 5 giờ 30 phút đến 10 giờ 30 phút. Như vậy, chỉ trong vòng 5 tiếng đồng hồ sư đoàn phải làm chủ một căn cứ rộng lớn, địch phòng thủ kiên cố, đó là một nhiệm vụ hết sức nặng nề. Nhưng đó là thời điểm tốt nhất để Sư đoàn 10 vượt qua cửa mở này tiến vào nội đô


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:13:08 am
Đúng 5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 320 nổ súng tiến công căn cứ Đồng Dù.

Ở hướng chủ yếu, đại đội 3 tiểu đoàn 1 do đại đội trưởng Trần Nhật Tăng và chính trị viên Đào Xuân Sáng chỉ huy mở cửa. Đại đội 3 vừa mở được 2 lớp rào thì địch phát hiện hướng cửa mở, chúng bắn như đổ đạn vào đội hình quân ta. Bộ đội bị chặn lại không lên được. Đại đội trưởng Trần Nhật Tăng tập trung hỏa lực yểm hộ cho phân đội mở cửa.

Dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng mở cửa Nguyễn Hữu Dóng, chiến sĩ ta người trước ngã người sau xông lên phá hết lớp rào này đến lớp rào khác cho đến khi khai thông cửa mở.

Cửa mở thông, trung đội trưởng thọc sâu Vũ Văn Sơn dẫn đầu đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Anh em vừa tiến lên thì bị chiếc xe tăng M41 đặt ngầm trong tường đất dùng súng 12,8 ly bắn như vãi đạn, bộ binh ùn lại. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quang Vinh đã lên trực tiếp chỉ huy đột phá. Sau khi quan sát, tiểu đoàn trưởng Vinh nói với anh em: Ta ở dưới sườn dốc bắn lên, đường đạn cao vì vậy không diệt được chiếc xe tăng địch. Hiểu được ý tiểu đoàn trưởng, nhìn đồng đội thương vong, Sơn bặm môi suy nghĩ giây lát rồi anh bò lên nhặt một khẩu B40 của một xạ thủ vừa bị thương. Kiểm tra lại súng đạn, Vũ Văn Sơn bật dậy đứng thẳng người siết cò. Quả đạn B40 lao vút vào chiếc xe tăng địch. Một đụn khói đen bốc lên sau tiếng nổ dữ dội. Chớp thời cơ, chính trị viên Sáng ra lệnh cho đại đội 3 xung phong.

Trên hướng cửa mở thứ hai do đại đội 1 phụ trách tình hình cũng tương tự như hướng đại đội 3. Đại đội trưởng Nguyễn Công Bạ phát hiện chiếc xe tăng M41 nấp sau ụ đất lớn chĩa nòng pháo ra cửa mở trút đạn. Bạ dẫn Nguyễn Tiến Ngọ, chiến sĩ B41 lên cùng với anh. Đại đội trưởng Nguyễn Công Bạ nổ tiểu liên thu hút sự chú ý của địch lại phía mình, Ngọ tranh thủ thời cơ giương súng nhằm chiếc xe tăng, ấn cò. Chiếc xe tăng bị tiêu diệt. Tuy vậy, tuyến công sự vòng ngoài của địch vẫn bắn mạnh. Một số chiến sĩ trung đội mở cửa bị thương vong. Tình hình trở nên phức tạp. Nguyễn Công Bạ lấy khẩu B40 của một chiến sĩ bị thương rồi gọi bộc phá viên Lê Văn Sử cùng lên. Bạ dùng B40 diệt ụ đại liên địch chi viện cho Sử phá tung hàng rào cuối cùng, mở thông cửa mở. Đại đội 1 vượt qua cửa mở đánh chiến tuyến công sự thứ nhất lúc 7 giờ 30 phút.

8 giờ, xe tăng trên hướng chủ yếu được lệnh tham gia đột phá. Đại đội 3 lọt được một bộ phận vào bên trong bờ tường đất. Nhưng xe tăng và bộ phận phía sau vừa tiến vào cửa mở thì bị đạn chống tăng của địch từ trong căn cứ bắn ra làm 3 chiếc xe tăng của ta bốc cháy cản đường. Trước tình hình đó trung đoàn trưởng Lê Quang Bình lệnh cho tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Nguyễn Hữu Hạ cho bộ đội vượt qua cửa mở đánh vào bên trong. Tiểu đoàn trưởng Hạ dẫn đầu đơn vị vượt qua lửa đạn dày đặc của địch đánh vào căn cứ.

8 giờ 30 phút, tiểu đoàn 2 và đại đội 3 tiểu đoàn 1 phát triển đến khu vực bãi xe của tiểu đoàn công binh địch. Lúc này đại đội 3 tiểu đoàn 1 thương vong nhiều, sức chiến đấu giảm. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 cho đại đội 3 dừng lại củng cố vị trí đứng chân và tung nốt đại đội 2 vào cùng đại đội 1 phối hợp với tiểu đoàn 2 chiến đấu. Trận đánh diễn ra mỗi lúc một thêm quyết liệt, chính trị viên tiểu đoàn 2 hy sinh. Trên hướng tiểu đoàn 3 (hướng thứ yếu), bộ đội vẫn chưa vào được trong căn cứ. Chỉ huy trung đoàn 48 lệnh cho tiểu đoàn theo cửa mở tiểu đoàn 1 đánh vào.

Nguyễn Hữu Hạ nắm lại tình hình, rồi quyết định cho đại đội 6 còn sung sức tiếp tục phát triển, đồng thời tung đại đội 4, đại đội 5 củng cố những khu vực đại đội 3 và đại đội 2 tiểu đoàn 1 chiếm được để mở đường cho xe tăng lên tham gia đột kích. Hướng trung đoàn 9 do anh Nguyễn Văn Ấn - trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Đác - chính ủy vừa phải mở cửa đánh vào Đồng Dù vừa phải tổ chức đánh quân của sư đoàn 25 từ Tây Ninh kéo về.

Đứng trước một căn cứ rộng lớn, nhà san sát thật khó xác định đâu là sở chỉ huy địch. Nguyễn Hữu Hạ tìm một vị trí có lợi quan sát rồi chỉ thị cho đại đội trưởng đại đội 6 nhằm hướng có cột ăng-ten lớn cho bộ đội phát triển chiến đấu. Các chiến sĩ đại đội 1 tiểu đoàn 1 và đại đội 6 tiểu đoàn 2 hiệp đồng chặt chẽ phát triển tiến vào sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy.

Cũng vào thời điểm này, đội hình binh chủng hợp thành của Sư đoàn 10 theo đường số 1 tiến vào Sài Gòn. Nguyễn Hữu Hạ hô lớn: Sư đoàn 10 đã vượt qua rồi, anh em ta hãy xông lên! Bị đánh mạnh ngay trong căn cứ, nay lại thấy xuất hiện một lực lượng lớn xe tăng pháo binh, xe bọc thép chở quân tiến vào Sài Gòn, cả quan lẫn lính sư đoàn 25 ngụy vô cùng khiếp đảm. Tranh thủ thời cơ các chiến sĩ xe tăng theo sát bộ binh, dùng pháo và đại liên trên xe bắn áp đảo địch, chi viện cho bộ binh xung phong. Đúng 11 giờ, đại đội 1 tiểu đoàn 1 và đại đội 6 tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 làm chủ sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy. Khi thấy bộ binh và xe tăng ta xuất hiện, Lý Tòng Bá và một số sĩ quan tùy tùng trốn ra rừng cao su, bị nhân dân và du kích huyện Củ Chi bắt sống.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:14:11 am
Cùng thời gian Sư đoàn 320 đánh Đồng Dù, tại chi khu quân sự Trảng Bàng Sư đoàn 316 sau những ngày thực hành bao vây ngăn chặn đã chuyển sang tiến công. Trước sức tiến công của các chiến sĩ Sư đoàn 316, bộ đội địa phương và dân quân du kích Tây Ninh, toàn bộ hai trung đoàn 46 và 49 liên đoàn bảo an 251, một chiến đoàn thiết giáp địch nhanh chóng bị tiêu diệt, tan rã và bị bắt làm tù binh. Hệ thống phòng ngự của địch từ Đồng Dù đến Gò Dầu Hạ đã bị đập tan.

Sư đoàn 10, lực lượng thọc sâu chiến dịch được tăng cường trung đoàn đặc công 198, trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), 31 chiếc xe tăng, 19 thiết giáp, trung đoàn cao xạ 234 và 2 tiểu đoàn cao xạ (1 tiểu đoàn của trung đoàn 232 và 1 tiểu đoàn của trung đoàn 593), 5 khẩu pháo 155 ly, có nhiệm vụ đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy, quận 3 cùng đơn vị bạn sẵn sàng đánh chiếm dinh Độc Lập và biệt khu thủ đô được lệnh xuất kích.

Thực hiện nhiệm vụ trên, 3 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, tiểu đoàn 20 (trung đoàn 198) đánh chiếm cầu Bông. Địch cho lực lượng biệt kích dù phản kích hòng chiếm lại. Sư đoàn 10 lệnh cho trung đoàn 64 đưa đại đội 10, tiểu đoàn 9 vào tiếp sức cho tiểu đoàn đặc công 20. Sau 50 phút chiến đấu tiểu đoàn 20 và đại đội 10 đã tiêu diệt và đánh bại lực lượng phản kích của tiểu đoàn dù 81, làm chủ cầu Bông.

Trên hướng cầu Sáng, vì đường xa, lại phải vòng tránh địch nên tiểu đoàn 2 trung đoàn đặc công 198 vào tới vị trí triển khai thì trời đã sáng. Cuộc chiến đấu ở đây trở nên phức tạp hơn. Sư đoàn 10 phải sử dụng một lực lượng của tiểu đoàn 7 (trung đoàn 64) vào tham chiến. Sau 30 phút chiến đấu, đặc công và bộ binh ta làm chủ cầu Sáng. Cùng thời gian trên, Sư đoàn 10 lệnh cho lực lượng còn lại của trung đoàn 64 tiêu diệt và làm tan rã tiểu đoàn biệt động quân 99 ở ấp Phố Mới.

5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, trung đoàn 24 (anh Vũ Văn Tài - trung đoàn trưởng, anh Bùi Văn Hòe - chính ủy), được lệnh xuất kích. Trung đoàn này chia làm 4 khối. Khối thứ nhất gồm 106 cán bộ chiến sĩ thuộc đại đội 7 tiểu đoàn 5, 16 trinh sát, 13 xe tăng, xe bọc thép và 2 xe zin chở quân do tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 chỉ huy có nhiệm vụ đánh địch mở đường. Khối thứ hai gồm 525 cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 5 còn lại do tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Chuyển chỉ huy được tăng cường đại đội trinh sát, công binh, cao xạ, 8 xe tăng, xe thiết giáp, 3 khẩu pháo, xe kéo, 1 xe chở đạn và 26 xe chở quân do các anh Vũ Văn Tài, Bùi Văn Hòe chỉ huy. Khối này có nhiệm vụ đột kích chiếm ngã tư Bảy Hiền, cổng số 5 trại Phi Long, bắt liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở trại Đa-vít. Khối thứ ba với 536 cán bộ chiến sĩ gồm toàn bộ tiểu đoàn 4 do anh Nguyễn Văn Hinh, tiểu đoàn trưởng chỉ huy được tăng cường 8 xe tăng và xe bọc thép, 9 xe kéo pháo, 1 xe chở đạn. 20 xe tải và xe jeep có nhiệm vụ đánh chiếm ngã ba Bà Quẹo, trại lính Hoàng Hoa Thám và bộ tư lệnh dù, bắt liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở trại Đa-vít, chiếm trại Phi Long, bộ chỉ huy hành quân hỗn hợp, bộ tư lệnh không quân ngụy. Khối thứ tư có 549 cán bộ chiến sĩ thuộc tiểu đoàn 6, đại đội cao xạ, đại đội quân y, đại đội vận tải đi trên 28 xe vận tải làm nhiệm vụ dự bị của trung đoàn, sẵn sàng phát triển tiến công trên hướng tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 5.

6 giờ 30 phút cùng ngày, trung đoàn 28 (anh Nguyễn Đức Cẩm - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Ngọc Xuân - chính ủy), chia thành hai khối. Khối thứ nhất gồm tiểu đoàn 3, được tăng cường 14 xe tăng và K63,11 xe vận tải, 1 cối 82 ly, 1 ĐKZ 75 ly, 1 tiểu đội công binh và 1 tiểu đội trinh sát là lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu: Bộ tổng tham mưu ngụy. Khối thứ hai gồm tiểu đoàn 1, 13 xe vận tải, 1 ĐKZ 75 ly, 2 cối 82 ly là thê đội hai có nhiệm vụ đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn không quân 5 và Bộ tổng tham mưu ngụy. Tiểu đoàn 2 là lực lượng dự bị.

Theo lộ tiêu do công binh cắm sẵn trên hai trục đường 5 và 6, xe ủi đất đi trước húc tung các bờ ruộng, ụ đất mở đường cho xe tăng và xe chở quân đi theo. 347 xe các loại chở Sư đoàn 10 tươi lá ngụy trang, cắm cờ Tố quốc, cờ Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam theo đội hình hàng dọc nối nhau băng qua cánh đồng Củ Chi nhằm theo hướng Sài Gòn xốc tới.

Theo kế hoạch, trung đoàn 24 phải vòng tránh quận lỵ Củ Chi, song trên cơ sở nắm vững lực lượng địch tan vỡ nặng trên tuyến phòng thủ vòng ngoài, chỉ huy Sư đoàn 10 lệnh cho trung đoàn 24 tiến thẳng theo đường số 1, thọc qua quận lỵ Củ Chi.

10 giờ 50 phút, phân đội phái đi trước của trung đoàn 24 khi cách Củ Chi 4km gặp một lực lượng bộ binh và thiết giáp của địch ngăn chăn. Trung đoàn 24 lập thời tổ chức chiến đấu diệt 4 xe tăng, xe thiết giáp và 1 trung đội địch. 11 giờ đội hình trung đoàn 24 thọc qua Củ Chi tiến về cầu Bông.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:16:42 am
Cùng thời gian này, trên cánh đồng Tân Phú Trung một đoàn xe tăng, xe bọc thép và xe ô tô của địch từ Hậu Nghĩa trên đường rút về Sài Gòn cũng tiến thẳng vào cầu Bông. Các chiến sĩ trung đoàn 64 và trung đoàn đặc công 198 chốt giữ ở đây lúc đầu tưởng đó là lực lượng đột kích của Sư đoàn 10, nhưng nhìn kỹ trên xe không thấy có cờ và phát hiện lính ngụy đội mũ sắt, lập tức anh em nổ súng chặn đánh. Bị đánh bất ngờ đoàn xe địch ùn lại. Giữa lúc dó, lực lượng binh chủng hợp thành của trung đoàn 24 ập tới. Sau này những tên lái xe tăng ngụy bị bắt làm tù binh khai rằng: khi thấy xe tăng M41, M48 chúng tưởng là đồng bọn thua trận từ Tây Ninh chạy về. ít phút sau thấy xe có lá ngụy trang lại cắm cờ cách mạng, chúng ngơ ngác chưa biết xử lý thế nào thì bị các chiến sĩ đại đội xe tăng 9 do đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy xông tới nã đạn pháo, bắn súng 12,8 ly vào đoàn xe địch. Trong thế bị đánh cả phía trước lẫn phía sau, xe tăng, xe bọc thép địch hoảng loạn, chúng lao bừa xuống cánh đồng lúa phía nam cầu Bông. Từ trên đường số 1, đại đội xe tăng 9 và bộ binh trung đoàn 24 dùng hỏa lực nhằm từng chiếc xe địch nổ súng. Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Trung đoàn 24 tiếp tục phát triển khi đến thành Quan Năm thì bị quân địch ở đây ngăn chặn quyết liệt. Chỉ huy trung đoàn 24 lệnh cho đại đội 7 tiểu đoàn 5 (lực lượng đi đầu) xuống xe chia thành 2 mũi kết hợp với lực lượng xe tăng đột kích chính diện nhanh chóng làm chủ thành Quan Năm, toàn bộ quân địch ở đây bị tiêu diệt và tan rã.

14 giờ 40 phút ngày 29, trung đoàn 24 tiến đến trại huấn luyện Quang Trung. Tại đây, địch lợi dụng lô cốt, nhà tầng bố trí sẵn hỏa lực chặn đánh quân ta. Chỉ huy trung đoàn 24 ra lệnh cho tiểu đoàn 1 trung đoàn phòng không 234 sử dụng đại đội 1 và đại đội 2 bắn máy bay, đại đội 3 hạ nòng pháo bắn vào các hỏa điểm địch. Trên đoạn đường này địch dựng nhiều vật cản: những vỏ phuy chứa đầy cát, những ụ đất lớn, công binh trung đoàn phải dùng bộc phá giải quyết; có những ụ đất phải sử dụng tới 25kg thuốc nổ mới khai thông được. Đồng thời trung đoàn để lại 1 đại đội bộ binh và 3 xe tăng phối hợp với tiểu đoàn đặc công 115 đánh chiếm trại Quang Trung, còn đại quân tiếp tục phát triển. Địch cho pháo binh từ Tân Sơn Nhất bắn phá ác liệt chặn đường. Máy bay trực thăng vũ trang, máy bay phản lực F4 gầm rú phóng rốc-két, bắn đạn 20 ly. Các chiến sĩ trung đoàn 234 vừa hành tiến vừa đánh trả quyết liệt máy bay địch, bắn rơi 1 máy bay trực thăng vũ trang.

17 giờ, đội hình thọc sâu binh chủng hợp thành trung đoàn 24 vượt cầu Tham Lương. 18 giờ trung đoàn này tiến đên nhà máy dệt Vi-na-tếch-cô, giáp với đầu phía tây sân bay Tân Sơn Nhất.

Tại khu vực nhà máy Vi-na-tếch-cô, địch có 1 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn dù và 1 đại đội xe tăng. Chúng lợi dụng xưởng dệt, đồn bảo an và khu vực phía tây sân bay lập tuyến phòng ngự mới; đồng thời cho máy bay, pháo binh ném bom bắn phá dữ dội vào đội hình quân ta. Địch sử dụng cả đạn hóa học làm khối đi đầu của trung đoàn không tiến lên được. Chỉ huy trung đoàn 24 cho bộ đội dừng lại triển khai đội hình chiến đấu; đồng thời điều 2 khẩu pháo 85, 3 khẩu cối 82 ly và 3 xe tăng từ phía sau lên tập trung đột phá. Hai đại đội pháo phòng không của tiểu đoàn 1 trung đoàn 234 cũng triển khai trận địa đánh máy bay địch ngay trên đường phố. Đại đội 7 tiểu đoàn 5 trung đoàn 24 và xe tăng tiến công đồn bảo an, bắn cháy một kho đạn và chiếm giữ xưởng dệt Vi-na-tếch-cô. Trước sức tiến công của ta, quân địch tháo chạy về ngã ba Bà Quẹo. Tại ngã ba Bà Quẹo, địch tung lực lượng lính dù cùng xe tăng, thiết giáp ra ngăn chặn. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra ác liệt. Từ 18 giờ đến 19 giờ 30 phút địch ba lần dùng xe tăng, xe bọc thép, kết hợp với lính dù phản kích. Nhưng cả ba lần quân địch đều bị các chiến sĩ trung đoàn 24 và trung đoàn xe tăng 273 đánh bại. Trong cuộc chiến đấu ở đây, 21 cán bộ chiến sĩ trung đoàn 24 đã ngã xuống, 3 xe thiết giáp của lữ đoàn 273 bị cháy. Trước ý chí chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ ta quân địch đã buộc phải lùi về tuyến trong. Chỉ huy trung đoàn 24 kịp thời điều đại đội 7 tiểu đoàn 5 cùng 2 khẩu ĐKZ 75 ly áp sát ngã tư Bảy Hiền. Địch tiếp tục cho bộ binh và xe tăng ngăn chặn, lúc này lực lượng phía sau chưa lên hết nên Sư đoàn 10 lệnh cho trung đoàn 24 dừng lại để củng cố chuẩn bị sẽ tiến công vào lúc trăng lên.

Như vậy, đến 21 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, trung đoàn 24 là mũi thọc sâu vào Sài Gòn sớm nhất, vượt thời gian quy định.

Trên hướng đường 15, trung đoàn 28 được lệnh xuất kích lúc 6 giờ, đến 8 giờ 20 phút bộ phận đi đầu của trung đoàn cách tây nam Phú Hòa Đông 2km. Địch phát hiện lực lượng ta, chúng cho pháo từ Tân Quy bắn dồn dập vào đội hình trung đoàn. Quân địch trong đồn Phú Hòa Đông cũng dùng đại liên, súng cối bắn dữ dội vào khu vực trung đoàn 28. Tuy vậy, bộ binh và xe tăng vẫn bình tĩnh chủ động hiệp đồng tiến công đồn bảo an Phú Hòa Đông. Sau 30 phút tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 làm chủ khu vực này rồi cả trung đoàn tiến về Tân Quy. 11 giờ 50 phút, địch trong quận Phú Hòa, Tân Quy và sư đoàn 25 ngụy dùng bộ binh và xe tăng đánh vào đội hình trung đoàn. Chỉ huy trung đoàn 28 sử dụng đại đội 10 tiểu đoàn 3 cùng 4 xe tăng và 4 xe K63 đánh thẳng vào đội hình quân địch làm cho chúng hoảng loạn tháo chạy về Phú Xương. Bộ binh và xe tăng ta truy kích diệt 5 xe M113,15 xe GMC và một số địch, rồi theo đường 15 tiếp tục phát triển. Khi vượt qua cầu Sáng, các chiến sĩ lái xe tăng mãi chiến đấu, không chú ý đến sức tải của chiếc cầu sắt này đã cho xe chạy gần nhau với tốc độ cao tạo ra lực cộng hưởng lớn nên khi chiếc xe tăng thứ ba vượt được ba phần tư cầu thì cầu sập, chiếc xe tăng tụt xuống sông. Trung đoàn 28 phải quay trở lại Tân Quy theo tinh lộ 8 qua Đồng Dù tiến sang cầu Bông, phát triển chiếm khu tây nam trại Quang Trung. 18 giờ 30 phút, trung đoàn 28 tiến đến cầu Tham Lương ngã tư Quang Trung được lệnh dừng lại triển khai chiến đấu.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:17:37 am
Sau một ngày tiến công, Quân đoàn 3 đã đập tan tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch ở hướng tây bắc Sài Gòn với chiều dài 40km.

Đường vào Sài Gòn đã mở.

Cùng thời gian này, trên cả 5 hướng tiến công quân ta đều phát triển thuận lợi. Cánh quân phía bắc, Quân đoàn 1 đang tiến công căn cứ Phú Lợi, lực lượng đi đầu của quân đoàn đã đến bắc Lái Thiêu. Cánh quân hướng tây và tây nam, Đoàn 232 làm chủ thị xã Hậu Nghĩa, quận lỵ Đức Hòa, bức rút Đức Huệ, đánh chiếm ngã ba Vĩnh Lộc và Hưng Long. Cánh quân đông nam Quân đoàn 2 đánh chiếm và làm chủ Vũng Tàu, Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ và phát triển về Cát Lái, cầu xa lộ Đồng Nai, Thủ Đức. Thành ủy Sài Gòn đã đưa 1.700 cán bộ và các đội biệt động vào nội thành và các xã vùng ven hoạt động diệt bọn ác ôn đầu sỏ, đánh chiếm đồn bốt địch, mở bàn đạp tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực đánh vào thành phố; đồng thời chặn đánh tàn quân địch ở bên ngoài chạy về Sài Gòn và phát động quần chúng sẵn sàng nổi dậy giành quyền làm chủ.

Chiều ngày 29 tháng 4, toàn huyện Củ Chi được giải phóng. Cờ cách mạng xuất hiện ở Bình Hòa, Phú Nhuận, cư xá Lữ Gia, Tân Phú, Tân Lâm... Có đòn quân sự mạnh mẽ đi trước một bước, nhân dân nhiều nơi nổi dậy chiếm đồn bốt, công sở, công nhân viên chức được sự hướng dẫn của cán bộ cơ sở đã đứng dậy bảo vệ không cho địch và kẻ xấu phá hoại, lấy cắp tài sản, sẵn sàng phối hợp với các binh đoàn chủ lực đang tiến vào nội đô.

5 giờ 25 phút ngày 30 tháng 4, tôi và anh Vũ Lăng cùng một bộ phận cán bộ chủ chốt cơ quan quân đoàn (tất cả gồm hơn mười người) đã có mặt tại sở chỉ huy Sư đoàn 10 ở phía nam Hóc Môn để tiện theo dõi và chỉ đạo sư đoàn này đột kích.

7 giờ 15 phút, từ sở chỉ huy Sư đoàn 10, anh Vũ Lăng ra lệnh tiến công. Toàn bộ các trận địa pháo của Quân đoàn và Sư đoàn 10 đồng loạt nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy, làm một số máy bay, kho bom, đạn địch nổ tung, bốc cháy. Các mục tiêu: bộ tư lệnh dù, bộ tư lệnh không quân, bộ tư lệnh thiết giáp ngụy ở sân bay chìm trong khói lửa. Giữa lúc quân địch đang hoang mang dao động trước hỏa lực pháo binh ta, trung đoàn 24 và xe tăng đột phá đánh chiếm ngã tư Bảy Hiền. Tại đây ngay trong đêm 29 tháng 4 địch đã đưa tiểu đoàn dù 8 cùng lực lượng của biệt khu thủ đô và một chi đội xe tăng M41, M48 ra chốt chặn. Địch lợi dụng sân thượng, tháp nước, những ô cửa sổ nhà cao tầng bố trí hỏa lực dày đặc để ngăn chặn ta tiến công. Đại đội 7 tiểu đoàn 5 cùng 11 xe tăng, xe thiết giáp (tiểu đoàn 1 trung đoàn 273) dũng cảm đột phá mở đường. Đại đội trưởng đại đội 7 Trịnh Bá Tư cho trung đội 1 có chiến sĩ biệt động thành dẫn đường mở một mũi lên hướng bệnh viện “Vì dân” thọc vào sườn địch. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, cán bộ chiến sĩ ta giành giật với địch từng căn nhà ngõ phố. Trong một lần chỉ huy đột phá, Trịnh Bá Tư anh dũng hy sinh. Tấm gương chiến đấu hy sinh của đại đội trưởng Trịnh Bá Tư đã thôi thúc cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 5 vượt qua ác liệt để giành thắng lợi cuối cùng. Chiến sĩ B40 Vũ Văn Chung, quê Yên Chung, Văn Yên, Yên Bái vượt lên dùng B40 bắn cháy chiếc xe tăng M41 của địch. Nguyễn Xuân Trường đại đội trưởng đại đội 1 tiểu đoàn trung đoàn 273 chỉ huy đơn vị táo bạo mở mũi đột kích mạnh chi viện cho bộ binh đánh thẳng vào bọn địch phản kích. Xe tăng 985 vừa vượt lên thì bị xe tăng địch phục sẵn bắn hỏng pháo. Không chần chừ, trưởng xe Mai Trọng Hoạt ra lệnh tiếp tục tiến lên. Bằng một động tác thuần thục và quyết liệt, chiến sĩ lái xe trẻ Phùng Văn Tính (21 tuổi), quê Kim Long, Tam Dương, Vĩnh Phúc cho xe của mình lao thẳng vào xe tăng địch. Chiếc xe tăng M48 của địch hoảng sợ chồm lên vỉa hè, bọn địch trong xe khiếp sợ đầu hàng.

8 giờ 5 phút, 1 chiếc L19 vừa hạ độ cao để xuống sân bay Tân Sơn Nhất, các chiến sĩ đại đội 1 tiểu đoàn 1 trung đoàn 234 bắn chính xác, chiếc máy bay địch bùng cháy và lao xuống hè phố Lê Thánh Tông. Đây là chiếc máy bay cuối cùng của địch bị bắn rơi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

8 giờ 45 phút, trung đoàn 24 và xe tăng trung đoàn 273 làm chủ ngã tư Bảy Hiền. Thừa thắng, quân ta phát triển về cổng số 5 sân bay Tân Sơn Nhất.

Cũng vào thời điểm này, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 nhận được bức điện của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi tới mặt trận, bức điện có đoạn như sau: “Nhiệt liệt khen ngợi toàn thể các đơn vị đã lập được chiến công lớn trong những ngày qua, đập tan tập đoàn phòng ngự và các cứ điểm phòng ngự phía đông bắc và tây bắc, cắt đứt lộ 4, tiến công các sân bay lớn của địch, hoạt động tốt ở ven đô và nội đô. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kêu gọi toàn thể cán bộ chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên với quyết tâm lớn nhất hãy nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch với khí thế hùng mạnh nhất của đội quân trăm trận trăm thắng, đập tan mọi sự đề kháng của địch, kết hợp tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định. Phải giữ kỷ luật thật nghiêm, triệt để chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh, bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân, nêu cao truyền thống và bản chất cách mạng của quân đội ta, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại”.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:19:38 am
Tinh thần bức điện trên, cơ quan chính trị quân đoàn đã kịp thời phổ biến đến từng đơn vị, từng chiến sĩ.

9 giờ 5 phút, tiểu đoàn 5 trung đoàn 24 và tiểu đoàn 1 trung đoàn xe tăng 273 tiến đến cổng số 5 sân bay Tân Sơn Nhất. Tại đây, địch bố trí hỏa lực mạnh, có cả hỏa tiễn chống tăng X202 đặt trên xe di động và trên tháp nước. Đại đội 7, mũi đột phá đầu tiên của tiểu đoàn 5 bị chặn lại. Tiểu đoàn 5 nhiều lần đột phá nhưng vẫn không thành. Hai chiếc xe tăng T54 và 1 chiếc K63 của ta bị cháy nằm cản giữa đường. Trước tình hình đó, trung đoàn phó Tô Quốc Trịnh, tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Chuyển và tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng 1 Chu Khánh Tôn lên nắm lại tình hình và tổ chức đột phá tiếp. Chỉ huy trung đoàn điều thêm 4 xe tăng của đại đội 2 và 2 khẩu pháo 85 ly lên chi viện cho đại đội 5 tiểu đoàn 5 đột phá.

Khi xe kéo pháo 85 ly của ta vừa tiến vào vị trí triển khai thì bị địch bắn trúng làm cháy xe, đạn nổ, súng hỏng, pháo thủ thương vong. Lê Xuân Chuyển và Chu Khánh Tôn chỉ huy cụm hỏa lực ĐKZ, cối 82 ly, 12,7 ly và hỏa lực xe tăng chi viện có hiệu quả cho tiểu đoàn 5 đột phá đánh chiếm khu vực đầu cầu. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra hết sức quyết liệt, nhiều gương chiến đấu vô cùng quả cảm. Ba chiếc xe tăng của ta bị địch bắn hỏng, nhưng các chiến sĩ lái xe và pháo thủ vẫn bám xe, sử dụng súng 12,7 ly và đại liên trên xe đánh địch chi viện cho bộ binh. Pháo thủ trên xe tăng Nguyễn Trần Đoàn bị thương dập nát cánh tay vẫn không rời vị trí. Đoàn nhờ anh cắt cánh tay cho khỏi vướng để tiếp tục chiến đấu. Chính trị viên đại đội 5 tiểu đoàn 5 Đỗ Trọng Lợi, khi đại đội trưởng bị thương đã trực tiếp chỉ huy đơn vị đột phá đánh chiếm khu truyền tin, bộ tư lệnh sư đoàn 5 không quân, chia cắt địch ở sân bay Tân Sơn Nhất với Bộ tổng tham mưu ngụy. Đến 10 giờ 30 phút đại đội 5 bắt được 57 tù binh trong đó có 3 đại tá: Lê Hữu Tiền, chỉ huy trưởng khu truyền tin; Trần Quang Thái, sĩ quan tâm lý chiến và Nguyễn Duy Phụng, sư phó sư đoàn 5 không quân. Đại đội 6 lợi dụng kết quả của bạn đánh chiếm khu cố vấn, khu ra-đa và sư đoàn bộ sự đoàn 5 không quân.

Cùng lúc tiểu đoàn 5 đánh địch từ ngã tư Bảy Hiền vào cổng số 5 sân bay thì chỉ huy trung đoàn 24 cũng ra lệnh cho tiểu đoàn 4 theo cổng số 4 sân bay đánh vào. 9 giờ đại đội 2 tiểu đoàn 4 đột phá đánh chiếm Bộ tư lệnh dù; trung đoàn trưởng trung đoàn 24 có mặt kịp thời, thấy thời cơ thuận lợi đã ra lệnh cho tiểu đoàn 6 theo cửa mở tiểu đoàn 4 đánh chiếm Bộ tư lệnh không quân và bắt liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở trại Đa-vít.

Đại đội 9 chia làm 3 mũi phát triển tới trại Đa-vít, nơi đặt trụ sở phái đoàn quân sự của ta. Anh em kể lại: Cuộc gặp gỡ giữa các chiến sĩ đại đội 9 với các đồng chí trong phái đoàn quân sự diễn ra hết sức cảm động, anh Hoàng Anh Tuấn và các anh trong đoàn siết chặt tay và ôm hôn từng chiến sĩ đại đội 9 tiểu đoàn 6 trung đoàn 24. Những nụ cười và cả những giọt nước mắt vui mừng lăn nhanh trên má mọi người... Đại đội 9 được lệnh ở lại bảo vệ phái đoàn quân sự của ta. Các lực lượng còn lại tiếp tục phát triển đánh chiếm bộ tư lệnh không quân ngụy. 10 giờ 35 phút, đại đội 10 và đại đội 11 tiểu đoàn 6 tiến vào bộ tư lệnh không quân ngụy. Giữa sân, trước ngôi nhà chính, một con đại bàng đúc bằng đồng sải cánh dài 2 mét, biểu tượng sức mạnh “không lực Việt Nam cộng hòa” bị trúng đạn pháo của ta, đầu gãy gục, thảm hại.

11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại đội 11 tiểu đoàn 6 kéo lá cờ “Quyết thắng” truyền thống của quân đội ta lên đỉnh cột cờ bộ tư lệnh không quân ngụy.

Tuy vậy, cuộc chiến đấu ở trong sân bay Tân Sơn Nhất của trung đoàn 24 còn kéo dài đến 14 giờ mới hoàn toàn im tiếng súng.

Trên hướng trung đoàn 28, vào lúc 3 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, tiểu đoàn 1 trung đoàn 28 và 4 xe tăng T54 của tiểu đoàn 2 trung đoàn 273 đi vòng lên phía bắc trại Quang Trung nhưng đến đây gặp địch. Ta và địch chạm súng, địch sử dụng súng chống tăng B90 bắn cháy 2 chiếc T54 của ta. Do vậy, cánh quân này phải quay lại theo đường trung đoàn 24 đánh vào nội đô.

9 giờ 30 phút, trung đoàn 28 đến Lăng Cha Cả, dự kiến sẽ theo đường Võ Tánh đánh vào Bộ tổng tham mưu ngụy. Nhưng đường Võ Tánh xe ta bị cháy làm tắc nghẽn, Sư đoàn phó Võ Khắc Phụng và trung đoàn phó Đỗ Công Mùi cho đội hình vừa tiến vừa đánh địch theo đường Trương Minh Ký qua nhà thờ Tân Sa Châu rẽ sang đường Thoại Ngọc Hầu rồi sang đường Võ Tánh.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:21:03 am
10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4, tiểu đoàn 3 cùng lực lượng xe tăng của tiểu đoàn trung đoàn 273 và các đơn vị công binh, trinh sát, cao xạ do tham mưu phó trung đoàn Lê Ngọc Tùng chỉ huy đột phá vào cổng chính Bộ tổng tham mưu ngụy. Địch dùng xe tăng và bộ binh chặn giữ cổng chính đồng thời cho một mũi từ phía nam đánh lên. Một chiếc xe bọc thép M113 liều mạng xông ra đã bị xe tăng 815 do đại đội phó Đỗ Hồng Kỳ chỉ huy bắn cháy. Một chiếc GMC gắn đại liên 4 nòng đi sau chưa kịp nổ súng đã hốt hoảng quay đầu tháo chạy bị xe tăng 815 đuổi theo bắn 1 quả đạn pháo 100 ly làm cho nó bốc cháy. Một đại đội địch khiếp sợ hạ vũ khí đầu hàng. Thừa thắng, trung đoàn 28 chia làm 2 mũi. Mũi thứ nhất gồm 1 xe tăng, 1 xe K63 và 1 trung đội thuộc đại đội 10 tiểu đoàn 3 đánh vào phía đông nam Bộ tổng tham mưu. Mũi thứ hai lực lượng gồm có 3 xe tăng T54, 5 xe K63 và lực lượng của tiểu đoàn 3 còn lại từ cổng chính đánh thẳng vào trung tâm.

Vượt qua cổng chính, xe tăng 982 do chính trị viên Nguyễn Hữu Thìn chỉ huy và xe tăng 815 do đại đội phó Đỗ Hồng Kỳ chỉ huy dẫn đầu tiến thẳng đến thềm cao tòa nhà chính của tổng hành dinh quân ngụy. Lúc này các chiến sĩ trung đoàn 48 Sư đoàn 320B Quân đoàn 1 cũng đã áp sát tòa nhà này. Trung đội phó Trần Lựu dùng AK yểm hộ cho tiểu đội trưởng Nguyễn Duy Tân nhanh chóng chạy lên sân thượng tổng hành dinh giật lá cờ “ba que”, thay vào đó là lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh. Lá cờ của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tung bay nơi cao nhất chính giữa tòa nhà tổng hành dinh quân ngụy Sài Gòn. Cùng lúc, các chiến sĩ trung đoàn 48 cũng kéo một lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở phía bên trái lá cờ trung đoàn 28.

Lúc đó là 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Dưới sự chỉ huy của chính ủy trung đoàn Nguyễn Ngọc Xuân và chính trị viên tiểu đoàn 3 Nguyễn Văn Quý, chiến sĩ ta tiến vào kiểm soát các phòng làm việc của tòa nhà Bộ tổng tham mưu ngụy, thu toàn bộ con dấu, cờ hiệu và nhiều tài liệu quan trọng khác.

Cùng thời gian này, các chiến sĩ Sư đoàn 320B đánh chiếm trận địa pháo và sân bay lên thẳng của địch gần cổng số 2, chiếm khu thông tin, phòng nhất, phòng nhì, tổng cục tiếp vận và tiến vào trung tâm phối hợp với trung đoàn 28 chiếm lĩnh và bảo vệ tòa nhà chính Bộ tổng tham mưu quân ngụy. Trong lúc trung đoàn 28 đang đánh địch ở cổng chính Bộ tổng tham mưu quân ngụy thì Sư đoàn 10 lệnh cho trung đoàn 66 do anh Trương Văn Việt - trung đoàn trưởng, anh Lê Xuân Thanh(1) - chính ủy chỉ huy theo hướng phát triển của trung đoàn 28 tiến vào nội đô. Các chiến sĩ tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 đã có mặt kịp thời tại Bộ tổng tham mưu ngụy cùng đơn vị bạn tỏa ra chiếm lĩnh những nơi làm việc của bộ máy điều hành chiến tranh do Mỹ nặn ra. Trung đoàn 64 (anh Trần Văn Thân - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Đác - chính ủy) do anh Phí Triệu Hàm - phó chính ủy quân đoàn chỉ huy cơ động theo đường Lê Văn Duyệt tiến đến dinh Độc Lập. Nhưng trung đoàn đến nơi, đơn vị bạn đã chiếm xong dinh tổng thống ngụy quyền. Dương Văn Minh và nội các của ông ta đã tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Một sự trùng hợp thú vị là cùng một thời điểm (11 giờ 30 phút) cờ chiến thắng của bộ đội ta đã đồng thời được kéo lên ở ba mục tiêu then chốt trong thành phố Sài Gòn là dinh Độc lập, Bộ tổng tham mưu quân ngụy và sân bay Tân Sơn Nhất.

Ban chỉ huy trung đoàn 64 cho 1 đại đội đánh chiếm khu cư xá sĩ quan Mỹ. Quá trình phát triển chiến đấu ở đây có 4 chiến sĩ đã anh dũng ngã xuống, 12 chiến sĩ khác bị thương, Đó là những giọt máu cuối cùng của cán bộ chiến sĩ quân đoàn đổ xuống đường phố Sài Gòn góp phần cho chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến cuối cùng đại thắng Thành phố Sài Gòn - thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu hoàn toàn giải phóng.

Nhân dân Sài Gòn xuống đường hò reo đón chào bộ đội cách mạng. Cờ đỏ sao vàng, cờ Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam mọc rợp các đường phố. Bà con cô bác, nam nữ thanh niên, các cháu thiếu nhi vây quanh các anh bộ đội, vây quanh những chiếc xe tăng, những khẩu pháo, nét mặt ai nấy đều hân hoan rạng rỡ. Cả Sài Gòn, cả Việt Nam lúc ấy sống trong niềm vui vô tận. Đó là niềm vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam mong đợi suốt 21 năm, đúng hơn là 30 năm kể từ ngày Nam Bộ kháng chiến. Trong giờ phút hào hùng của lịch sử, mọi người chúng tôi đều xúc động nhớ tới Bác Hồ. Bác Hồ ơi! Tuân theo Di chúc của Người chúng con đã thực hiện trọn vẹn điều Bác hằng mong “Đánh cho Mỹ cút” và hôm nay ngụy đã nhào, non sông thu về một mối, Nam - Bắc sum họp một nhà.


(1) Lúc này anh Nguyễn Chí Nguyện, chính ủy trung đoàn 66 đã được bổ nhiệm làm phó chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 10 - được phân công đi cùng trung đoàn 66.


Tiêu đề: Ký ức Tây Nguyên - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười, 2019, 09:24:16 am
*
*   *

Trong suốt chặng đường chinh chiến hơn mười năm trên đất Tây Nguyên với tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày toàn thắng, nhớ làm sao hết, ghi làm sao đầy đủ được, nhưng chung tôi rất tự hào vì đã một thời được làm người chiến sĩ Tây Nguyên, được vinh dự là “bộ đội B3”!

Chiến tranh đã đi qua, đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất, nhân dân đã hoàn toàn được tự do. Cuộc sống trên các miền quê đang ngày càng trở nên tươi đẹp. Chẳng còn bao lâu nữa là bước sang thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới. Những năm tháng gian khổ, cơ hàn chỉ còn trong dĩ vãng. Rồi đây, những Plây Me, Sa Thầy, Măng Giang, An Khê, Đắc Tô - Tân Cảnh, Buôn Ma Thuột, Đường 7, Phượng Hoàng... sẽ đổi thay, những “Cổng trời”, “Bãi C1”, “Dốc trăm bậc”, “Cây đa gió lộng”, Cầu lầy và cả bài ca “Cây sắn tiến công” sẽ di vào sử sách. Song, với những người chiến sĩ Tây Nguyên năm xưa thì dù ở cương vị công tác nào và đang ở đâu những năm tháng ấy vẫn thật gần gũi biết bao:

         Tây Nguyên, ai một lần qua đó.
         Suốt cuộc đời nghĩ lại vẫn thương nhau.


Với tôi, sau chiến dịch mùa Xuân Năm 1975, khi hoàn thành tâm nguyện của mình, từ Tây Nguyên về giải phóng đồng bằng, từ núi rừng về thành phố - một đời trận mạc, có được những ngày tháng đó thật rất may mắn và hạnh phúc. Và chính trong những giây phút ấy, khi ở cuối chặng đường đuổi giặc, chúng tôi lại rưng rưng nhớ những đồng chí, đồng đội đã nằm lại trên khắp các cánh rừng, góc núi xa xôi, chưa kịp nhìn thấy biển. Để có được ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân và dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Biết bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống để chúng ta có được hôm nay, trong đó có nhiều người, rất nhiều người còn quá trẻ, không ít người hy sinh ngay “trước buổi bình minh”, trước giờ chiến thắng. Những chiến sĩ Tây Nguyên có may mắn được sống đến ngày hôm nay và tất cả những ai có dịp lên Tây Nguyên xin hãy dừng một phút và lặng im một phút trước “Nhà tưởng niệm” chín nghìn chín trăm liệt sĩ của Sư đoàn 10 ở thị xã Kon Tum, tiêu biểu cho hàng chục nghìn liệt sĩ của Mặt trận Tậy Nguyên - Quân đoàn 3 đã hy sinh trong cuộc chiến tranh giải phóng Tây Nguyên, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cuộc đời ngắn ngủi của hàng chục nghìn con người ấy dẫu chỉ là một mảnh nhỏ, một góc hẹp, một giọt nước mong manh, nhưng qua đó cũng có thể hiển hiện sâu thẳm cả cuộc chiến tranh anh hùng mà dân tộc đã phải cắn răng đi qua… đi qua, vượt qua để đến được hôm nay. Tôi xin trích lời tưởng niệm được khắc vào bia đá trước “Nhà tưởng niệm”:

Thể theo nguyện vọng của cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 10, thân nhăn liệt sĩ và nhân dân các dân tộc địa phương.

Nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ được xây dựng trên mảnh đất một thuở sục sôi lửa đạn chiến trường với những chiến công bất diệt. Nhà bia ghi danh hơn chín ngàn người con ưu tú của các miền quê trong cả nước lớp lớp nối nhau đến với Tây Nguyên, hội tụ trong đội ngũ sư đoàn đã kiên cường chiến đấu anh dũng hy sinh làm vẻ vang thêm truyền thống vùng đất anh hùng bất khuất bởi những chiến công - những huyền thoại mới về sức mạnh và nghị lực phi thường của con người. Song cũng tại vùng đất này hơn hai mươi năm sau chiến tranh với nhiều cố gắng đi tìm đồng đội, nhưng sự khắc nghiệt của chiến tranh và thời gian nên hiện vẫn còn những liệt sĩ chưa tìm thấy hài cốt.

Đến Tây Nguyên đi qua từng tấc đất thấm máu cha anh, dừng bước trước nơi đây trào dâng niềm tự hào lớn lao và nỗi nhớ khôn nguôi đối với những người con trung hiếu của dân tộc đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Các anh đã hóa thân vào độc lập, tự do thống nhất Tổ quốc, ấm áp cùng pho núi hòa quyện trong vòng xoang đêm hội làng xa.

Đời đời nhớ ơn các anh. Đất mẹ ngàn thu ru giấc các anh. Trời xanh hòa bình tỏa bóng mát che các anh. Người người được các anh tiếp bầu nhiệt huyết đang vững bước trên con đường các anh đã đi, làm tiếp công việc các anh để lại.

Xin thề trước vong linh các anh hùng liệt sĩ: Thế hệ hôm này và mai sau mãi mãi trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, vượt qua mọi gian nan thử thách xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa yêu quý của chúng ta.

Xin tạc vào bia đá, xỉn viết lên trời xanh, xin khắc cốt ghi tâm lời thề này và kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ.


Trên mảnh đất này, quá khứ hào hùng trong chiến tranh giải phóng dân tộc đang tiếp sức cho hiện tại xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy hoàn cảnh mới đã khác, nhưng trên con đường đổi mới xây dựng đất nước, bên cạnh thời cơ và thuận lợi mới, nhiều khó khăn, thử thách mới đang được đặt ra. Bài học về ý chi, nghị lực cách mạng, dũng khí tiến công và truyền thống Quyết thắng, Sáng tạo, Đoàn kết, Thống nhất, Nghiêm túc, Tự lực tôi nghĩ rằng nó vẫn giữ nguyên giá trị.

Xin được trích lời của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn trong buổi mít tinh tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 4 năm 1978 thay lời kết cuốn sách nhỏ của tôi:

“... Cả trăm nghìn người đã ngã xuống trên miền đất thân thương này của Tổ quốc, nếu không làm cho rừng núi Tây Nguyên trở nên tươi đẹp, giàu có, vững mạnh thì chúng ta có tội biết bao với các liệt sĩ, với những bà mẹ đã cống hiến những đứa con yêu quý của mình. Chúng ta tin chắc, ngày mai, hàng trăm nghìn thanh niên trai, gái sẽ nối gót lớp trẻ hôm nay đến đây tiếp tục sự nghiệp xây dựng Tây Nguyên, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự vững mạnh muôn đời của Tổ quốc Việt Nam”

Hà Nội
                                                                                                                                                           
Những ngày cuối năm 1999