Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 13 Tháng Bảy, 2019, 02:56:02 pm



Tiêu đề: F
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Bảy, 2019, 02:56:02 pm

        F-4 PHANTOM (A. F-4 Phantom - Con Ma), máy bay tiêm kích - bom phản lực vượt âm của hải quân Mĩ. Thân dài 19,2m, sải cánh ll,58m, cao 4,88m, kíp bay 2 người, được lắp hai động cơ phản lực, có khả năng hoạt động trong mọi thời tiết, có tầm bay xa. Có các mẫu (biến thể): F-4A, B, C, D, F, F, G, J, K, M, N. Mẫu đầu tiên là máy bay tiêm kích AH-1 (bay thử 18.10.1954). Ngày 26.5.1955 xuất hiện mẫu F-4H-1 (tức F-4A) tiêm kích tên lửa - bom, có tốc độ M 2,6, mang 4 tên lửa Xperâu hoặc 22 bom 500 bảng, được trang bị thiết bị dẫn đường, quan sát, truyền tin, tạo nhiễu,... sau đó phát triển các mẫu F-4B, F-4C.... F-4 được sử dụng phổ biến trong chiến tranh phá hoại Bắc VN. Phi vụ đầu tiên (5.8.1964) tiến công một căn cứ hải quân VN và chiếc F-4 bị bắn rơi đầu tiên (20.6.1965) là F-4C tại Sơn La. Theo tài liệu Mĩ, 511 chiếc F-4 đã bị diệt trong chiến tranh VN.

(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/66793515_450505799012639_190436418953150464_n.jpg?_nc_cat=110&_nc_oc=AQl6ZJZL4s3AoCae45gLdsQ22Be1NO__8FW2qJtXaunre4g4YHM_pn7slchulH9lDOo&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=663ad8c3642080d7c800f18252f15e60&oe=5DA36EC4)


        F-5 FRIDOM (A. F-5 Freedom - Tự Do), máy bay tiêm kích - bom chiến thuật do hãng Nothrop (Mĩ) thiết kế và chế tạo. Bay thử lần đầu 1959. Có thể hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Được cải tiến nhiều lần, các biến thể: F-5A, F-5B, F-5G, F-5E (bay thử lần đầu 1972, trang bị cho QĐ Mĩ từ 1973), F-5F... ngừng sản xuất (1987). Đã xuất xưởng 2.610 chiếc, trang bị cho QĐ Mĩ và 31 nước khác, trong đó có QĐ Sài Gòn. Ngoài ra, F-5 còn được sản xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan. Tính năng chiến - kĩ thuật chính của F-5E: dài 14,45m; cao 4,06m; sải cánh 8,13m; khối lượng rỗng 4.410kg; khối lượng cất cánh lớn nhất 11.210kg; kíp bay 1 người; lắp 2 động cơ phản lực; tốc độ bay lớn nhất 1.740km/h; trần bay 15.740m; bán kính hoạt động 1.060km; trang bị 2 pháo 20mm (500 viên đạn), 2 tên lửa có điều khiển Xaiuynđơ...; có thể mang 3.200kg bom.

(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/67110410_450505812345971_5559673046836445184_n.jpg?_nc_cat=102&_nc_oc=AQkpIG31Dr7XirmlnejxyM1-NvvxyEmy8YIX5QKUaiMooVjkZ9xeYwT8_7aDEyCqVoY&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=6996d232d0ee4f02600b0b7febceddde&oe=5DBFC49B)


        F-6F HENKET (A. Hellcat), máy bay tiêm kích của hải quân do hãng Grumman (Mĩ) thiết kế và chế tạo. Bay lần đầu 1942. Trong CTTG-II, Mĩ đã sản xuất 12.275 chiếc. Tính năng chiến - kĩ thuật: kíp bay 1 người, 1 động cơ cánh quạt; .dài 10,24m, cao 3,43m, sải cánh 13,03m; khối lượng rỗng 4.100kg; khối lượng cất cánh lớn nhất 6.000kg; tốc độ bay lớn nhất 605km/h; trần bay 11.430m; tầm bay xa nhất 1.746km. Vũ khí trang bị: 6 súng máy 12,7mm. Mĩ đã viện trợ F-6F cho Pháp sử dụng rộng rãi trên chiến trường Đông Dương. Nhiều F-6F đã bị lực lượng phòng không VN bắn rơi (riêng chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) đã bắn rơi 13 chiếc).


Tiêu đề: Re: F
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Bảy, 2019, 02:57:42 pm

        F-105 THĂNĐƠCHIP (A. Thunderchief - Thần Sấm), máy bay tiêm kích - bom phản lực vượt âm của không quân Mĩ. Sải cánh 10,65m, dài 19,58m, cao 5,99m. Khối lượng rỗng: 12.474kg, đầy tải: 23.834kg. Tầm hoạt động đến 3.846km. tốc độ M 2,25, trần bay 15.850m, mang 7.598kg vũ khí, đạn dược (bom, tên lửa, pháo 20mm 6 nòng, đạn pháo, có thể mang vũ khí hạt nhân chiến thuật). Mẫu đầu tiên YF-105A thiết kế 1954, bay lần đầu 22.10.1955. Các kiểu tiếp theo là F-105B, F-105D, F-105F, F-105G,... F-105 được cải tiến lần cuối có khả năng ném bom ban đêm, hoạt động trong mọi thời tiết, trinh sát và tác chiến trên không, phóng tên lửa không đối không, không đối đất... Kiểu F-105D (bay thứ lần đầu 9.6.1959), khối lượng đầy tải 23.832kg, tốc độ M 2,1 ở độ cao ll.000m, F-105F, F-105G được không quân Mĩ sử dụng phổ biến nhất trong chiến tranh phá hoại Bắc VN (từ 1965-73 đã xuất kích 137.391 lần chiếc). Chiếc F-105 bị bắn rơi đầu tiên 2.3.1965 tại Quảng Bình. Theo tài liệu Mĩ, 334 F-105 đã bị bắn rơi ở VN. Ngừng sản xuất từ 1965.

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/64678241_450505819012637_6981680686398701568_n.jpg?_nc_cat=105&_nc_oc=AQk4ejNbYNnI_FMLCUNk31IiqJ54q2j-WwoJYHXODWziZtdsomccZCaeh-J4sh4pvps&_nc_ht=scontent.fhan4-1.fna&oh=0f56da0f0751d83bc5ec0d1d120549fa&oe=5DA5FAAF)


        F-111, máy bay tiêm kích - bom, vượt âm, có hình dạng cánh thay đổi (cụp, xoè) đầu tiên trên thế giới do hãng Generơn Đainơmic (Mĩ) chế tạo. Mẫu đầu tiên bay thử 12.1964. Đưa vào trang bị cho không quân Mĩ 10.1967. Có các mẫu F-111A (B, C, D, E, F, G), EF-111A (tác chiến điện tử), FB-111A (ném bom chiến lược) và RF-111C (trinh sát chiến đấu). Dài 22,4m, cao 5,22m, sải cánh: 19,2-21,34m (khi xoè), 9,74- 10,34m (khi cụp), hai chỗ ngồi bố trí hàng ngang, hai động cơ phản lực, khối lượng rỗng 21,7t, khối lượng cất cánh bình thường 36,8t (tối đa 41,5t), tốc độ bay lớn nhất M 2,5 (ở độ cao nhỏ có M 1,2), trần bay thực tế 15.500m, bán kính hoạt động 2.100km. Có thể mang tối đa 8.250kg vũ khí (gồm tên lửa không đối đất, bom thường hoặc bom hạt nhân, bom có điều khiển, pháo M61...). Được trang bị phương tiện tác chiến điện tử, thiết bị dẫn đường, ném bom hiện đại, cho phép bay trong mọi thời tiết, ở độ cao thấp và rất thấp. F-111A được không quân Mĩ dùng lần đầu tiên trong chiến tranh phá hoại miền Bắc VN (1968), chiếc đầu tiên bị bắn rơi 28.3.1968 tại Hà Tĩnh. Từ 1968 đến 1973 Mĩ đã triển khai 58 F-111A với 3.055 phi vụ tiến công các mục tiêu của miền Bắc VN, 10 chiếc bị bắn rơi.

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/66460776_450505832345969_7220165076290895872_n.jpg?_nc_cat=100&_nc_oc=AQkSXaR2eblzpOdF6CjAXtXS1ifSUpJkena9mTlvy9Ec96p4_FyW9hMmiQHHCcn9oeI&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=f3c4b74f9b92f67162caf4db6e683721&oe=5DC559F1)


        F-117A, máy bay tiêm kích - bom tàng hình của không quân Mĩ do hãng Lôchit chế tạo. Mẫu đầu tiên bay thứ 12.1977. Trang bị cho không quân Mĩ 23.8.1982. Dài 20,08m, cao 3,78m, sải cánh 13,20m, khối lượng rỗng 13,608t, khối lượng cất cánh tối đa 23,814t, 2 động cơ, 1 người lái, tốc độ tối đa M 2 (trung bình M 0,8-1), có thể mang các loại vũ khí: bom điều khiển bằng lade BLU-109, GBU-10 hoặc GBU-27, tên lửa không đối đất AGM-65 Mayerich, tên lửa chống rađa AGM-88A (HARM), tên lửa không đối không Xaiuynđơ AIM-9 với khối lượng vũ khí tối đa 2.268kg. Trang bị điện tử: thiết bị quan sát hồng ngoại, chỉ mục tiêu bằng lade, rađa do cao, các máy tính (hàng không, kiểm tra bay, dẫn đường thiên văn, lái tự động cả ban đêm và ở độ cao thấp). F-117A được chế tạo theo kĩ thuật tàng hình bằng các biện pháp về hình dáng, kết cấu, vật liệu đặc biệt cho phép giảm phản xạ rađa và phát xạ hổng ngoại (diện tích phản xạ hiệu dụng phía trước là 0,01m2). F-117A tham chiến lần đầu 21.12.1989 ở Panama. Trong chiến tranh Vùng Vịnh (1991), 44 F-117A đã tham chiến trong 24 giờ đầu chiến dịch với 1.270 phi vụ, đánh phá 31% số mục tiêu của Irắc (trong đó có quả bom đầu tiên ném xuống Batda), đạt tính bất ngờ, tiến công chính xác, hiệu suất chiến đấu cao.

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/66649352_450505839012635_3344319805934010368_n.jpg?_nc_cat=101&_nc_oc=AQk4rwBo4Lg72NEzGq5-0pCESUA73kG6sxxZrsf-R9TBRALDGw93_TLKFtAZnuSbDZQ&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=0005387ac6c2b83cc6e3d58103cb67e1&oe=5DB7E36C)



Tiêu đề: Re: F
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Bảy, 2019, 02:58:44 pm

        FAX X. THÔNG TIN LIÊN LẠC TRUYỂN ẢNH

        FEFEO (vt từ p. Forces Expéditionnaires Franẹaise d’Extreme Orient- Lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông), LLVT do Đờ Gôn thành lập 1.2.1944, để chuẩn bị chi viện cho lực lượng kháng chiến chống Nhật của Pháp ở Đông Dương, giữ các khu cố thủ ở Lào và thượng du Bắc Kì (VN). FEFEO đặt dưới quyền BTL Đông Nam Á (SEAC) của Anh. Tướng Bledô, trưởng phái bộ QS Pháp tại Canđi (Xri Lanca) kiêm tư lệnh FEFEO (10.1944). Thành phần FEFEO dự kiến: lữ đoàn Mađagaxca, lữ đoàn Camơrun. đội ứng chiến nhẹ các sư đoàn thuộc địa Viễn Đông số 1 và 2 (DCEO). Do tình hình khẩn trương mà FEFEO chưa sẵn sàng, 16.8.1945 ủy ban quốc phòng Pháp quyết định sử dụng các đơn vị có sẵn của FEFEO lập thành Đạo quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (CEFEO) gửi sang Đông Dương.

        FIR X. VÙNG THÔNG BÁO BAY

        FSB  cơ quan an ninh Liên bang Nga. Thành lập theo sắc lệnh của tổng thống Enxin ngày 3.4.1995 trên cơ sở cải tổ và đổi tên cơ quan phản gián Liên bang Nga - FSK, tiền thân là Tổng cục phản gián của KGB. Có nhiệm vụ: phát hiện, cảnh báo và phản gián đối với tình báo và các lực lượng đối lập; thu thập và báo cáo kịp thời với tổng thống tin tình báo về
những nguy cơ đối với an ninh quốc gia; đấu tranh chống khùng bố, tội phạm có tổ chức, buôn bán ma túy, các tổ chức vũ trang bất hợp pháp và hoạt động lật đổ. Gồm các cục: phản gián; chống khủng bố; phân tích, dự báo và lập kế hoạch chiến lược; tổ chức và đào tạo cán bộ; bảo đảm; chuyên án và đấu tranh chống các tổ chức tội phạm; điều tra xét hỏi; tìm kiếm nghiệp vụ; kĩ thuật nghiệp vụ; an ninh nội bộ; hồ sơ; trại tạm giam; trung tâm nghiên cứu khoa học; pháp chế và hiệp định. Từ 11.1998 lập thêm; Tổng cục chống tội phạm kinh tế, Cục an ninh hiến pháp, Cục an ninh thông tin điện toán. Giám đốc đầu tiên: trung tướng Stêpasin (nguyên giám đốc FSK).

        FULRO (vt từ p. Front Unifié de Lutte des Races Opprimées - Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức), tổ chức chính trị - QS của các phần tử thân Pháp, Mĩ trong các dân tộc thiểu số miền Nam VN (chủ yếu ở Tây Nguyên) và Campuchia nhằm âm mưu chia để trị, kích động hận thù dân tộc chống lại CM VN. Có mầm mống từ 1948 khi Pháp lập xứ Tây Kì tự trị và 1958 tổ chức phong trào Badaraca chống Ngô Đình Diệm. 9.1964 để lôi kéo người Thượng, Mĩ lập “Mặt trận giải phóng cao nguyên” (P. Front Liberation des Hauts Plateaux, vt: FLHP). 1965 tại đại hội thành lập “Mặt trận thống nhất các dân tộc thiểu số ở Cam Pốt (Campuchia) và VN” họp ở Phnôm Perth (Campuchia) chính thức lấy tên gọi là FULRO với mục tiêu lập quốc gia Đêga ở cao nguyên nam Đông Dương... 2.1969 do mâu thuẫn nội bộ và sự dàn xếp của Mĩ nên một bộ phận quan trọng của FULRO (5.971 người, có 2.725 người thuộc LLVT) đã về quy thuận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, FULRO tuyên bố giải thể, sáp nhập vào QĐ Sài Gòn. 1972 để chuẩn bị cho kế hoạch hậu chiến tại VN, Mĩ thành lập “Mặt trận giải phóng cao nguyên người Thượng” (P. Front Liberation des Hauts Plateaux Montagnards, vt: FLFIPM) gồm những tàn quân của FULRO và 8.1974, dựng lên “Chính phủ cách mạng lãm thời cao nguyên nam Đông Dương”, tự coi FULRO là đại diện nhân dân miền núi nam Đông Dương và quan hệ với Mĩ để giải phóng Tày Nguyên. 20.9.1974 kêu gọi LHQ công nhận “Quốc gia miền núi nam Đông Dương”. Sau 30.4.1975 FULRO tiếp tục hoạt động phá hoại công cuộc xây dựng đất nước, gây nhiều tội ác với nhân dân Tây Nguyên. 5.1980 “Chính phủ cách mạng lâm thời cao nguyên nam Đông Dương” đổi tên thành “Chính phủ cách mạng lâm thời cao nguyên Đêga”. Bị chính quyền CM truy quét mạnh và nội bộ lại luôn giết hại lẫn nhau để tranh giành quyền lực nên FULRO bị suy yếu dần, đến 1987 không còn có hoạt động nào đáng kể. Những năm gần đây (cuối tk 20 đầu tk 21), được sự giúp đỡ của CNĐQ và các thế lực phản động quốc tế FULRO đang hoạt động trở lại ở Tây Nguyên.
       


Tiêu đề: Re: F
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Tám, 2019, 07:02:40 pm
     
HẾT F