Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:37:09 pm



Tiêu đề: Trang trại Hoa hồng
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:37:09 pm
TRANG TRẠI HOA HỒNG

TIỂU THUYẾT

Tác giả: ĐỖ KIM CUÔNG

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC - 2016
Khổ 13 x 20.5 cm. Số trang: 407

Nguồn: vanchuongphuongnam.vn
Bổ sung: hoi_ls




(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/56610442_2320580264893212_6235376165339529216_n.jpg?_nc_cat=111&_nc_oc=AQmsEhU4gPW0EVqEX_-RE-mHsTmMHQGrcFQ4Rq4pTkQMHry_RhIYEpg8zjUMfFrqtyQ&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=7c01618da34db2afe365e169f3bd64a5&oe=5D399820)


(https://scontent.fhan3-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/57119672_2320580244893214_5288498913530085376_n.jpg?_nc_cat=102&_nc_oc=AQnMELOMgrG59xHDVyCsR7blTpP5s2Dn1tpqZRbDYm6ywnb_mHH4k5THm1Q1PTDG-Y4&_nc_ht=scontent.fhan3-1.fna&oh=bc0adba6043223277835dad2d231ce5f&oe=5D3363BB)





(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/57098967_2320581644893074_6801464859385921536_n.jpg?_nc_cat=104&_nc_oc=AQmcIJYcewCf2kqJDEVKPcoH01BnpDjqZo4hRzRSrwUPoiNWTssG9VCRe4EVGzns5kM&_nc_ht=scontent.fhan4-1.fna&oh=bb129c26b9663c11370287f02b8884af&oe=5D3F750A)

Nhà văn Đỗ Kim Cuông

Quê quán: Thành phố Thái Bình

Hội Viên:
Hội Nhà văn Việt Nam
Hội Điện ảnh Việt Nam
Hội Nhà báo Việt Nam

GIẢI THƯỞNG
Giải thưởng Văn học Sông Mê Kông và nhiều Giải thưởng Văn học của các cơ quan Trung ương.



ĐÃ XUẤT BẢN
- Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết), 1986
- Một nửa đại đội (tiểu thuyết), 1987
- Hai người còn lại (tiểu thuyết), 1987
- Bác Huế (tiểu thuyết), 1988
- Người dị hình (tiểu thuyết), 1989
- Miền hoang dã (tiểu thuyết), 1989
- Thung lũng tử thần (tiểu thuyết), 1990
- Vùng trời mộng ảo (tiểu thuyết), 1991
- Khát vọng tình yêu (tiểu thuyết), 1991
- Giáp ranh (tiểu thuyết), 1995
- Phòng tuyến sông Bồ (tiểu thuyết), 2009
- Sau rừng là biển (tiểu thuyết), 2011
- Đá trắng (tập truyện ngắn), 2004
- Đêm ngâu (tập truyện ngắn), 2005
- Truyện tình ờ biển (tập truyện ngắn), 2006
- Một mảnh hồn quê (tập truyện ngắn), 2007
- Tự thú người gác rừng (tập truyện ngắn), 2008
- Người kéo vó bè (tập truyện ngắn), 2008
- Chớp biển (tập truyện ngắn), 2009
- Lỗi hẹn SêPôn (tiểu thuyết), 2013

SẮP XUẤT BẢN
- Tư lệnh mặt trận (tiểu thuyết)


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:40:48 pm
I
TRẠI ĐẦM VỊT



1

Chuyến hàng sang Singapore đã xuất xong từ ngày hôm qua. Tôi còn nấn ná chơi với Vân, nhỏ bạn cùng học từ thời đại học. Nó rủ rê: “Hai đứa mình về miền Tây chơi thăm vợ chồng Cư - Thơm. Nó cứ nhắc mi hoài”. Không một giây lưỡng lự, tôi ừ liền. Vân giao cửa hàng cho chồng, giao con cho chị giúp việc. Hai đứa leo lên chiếc xe Camry đời mới hướng ra đường cao tốc về miền Tây. Tôi không chút âu lo. Còn những hơn hai tháng nữa mới đến ngày đại giỗ của nhà tôi. Mọi việc chuẩn bị cho ngày trọng đại này tôi đã bàn bạc với chị Thoa cách nay cả tháng.

Con lộ mới mở về đến ngã ba Trung Lương, đường rộng, sáu làn xe hai chiều, đi thật mát ga. Xe mới. Cô bạn tôi lại là tay lái bạo, chỉ hơn một giờ cả người và xe đã chìm đắm trong cái màu xanh miên man của dừa, của những vườn cây trái bên bờ sông Tiền, sông Hậu.

Thơm thoáng nhìn thấy tôi và Vân đã kêu ré lên:

- Chu cha! Mắt tao có nhìn nhầm không đấy? Hai đứa bay sao lại xuất hiện ở xứ này? Đang định tính chuyện chi ở đây?

Tôi cười cười. Vân đáp tỉnh queo:

- Tụi tao nhớ mày xuống chơi. Mai về. Có xin nghỉ được lấy một ngày tiếp tụi tao không?

Thơm nói không đắn đo:

- Giám đốc là tao. Nhân viên văn phòng cũng là tao. Có lúc còn kiêm cả chân bảo vệ. Lo gì? Tiếp tụi bay còn khoái hơn là ngồi với mấy ổng trên thành phố xuống. Mấy cha chưa tan việc đã lo mời đi nhậu. Mệt thấy bà… Hai đứa chờ tao vài phút, tao dặn dò văn phòng. Ta đi uống cà phê. Để tao gọi chồng về, bắt cá đãi tụi bay trưa nay.

Mấy năm không gặp Thơm, tôi không còn nhận ra cô bạn nữ sinh ở chung phòng trong ký túc xá ngày nào. Không nhí nhảnh, vui tươi. Dáng người cũng không còn nhỏ nhắn. Ăn mặc xuềnh xoàng giản tiện giống như một công chức chỉnh chu ở tỉnh lẻ. Gương mặt không son phấn trang điểm, lộ rõ vẻ lo toan, tất bật. Tôi không tin rằng, chỉ vì lấy chồng, Thơm mới đổi thay nhanh chóng như vậy. Anh Ba Cư vợ mất, nuôi con một mình. Nhìn cảnh ấy, cô kỹ sư nông nghiệp miệt vườn thương. Ngày cưới Thơm, cả tôi và Vân không ai về Bến Tre ăn cưới được. Quà cưới gửi bạn bè. Có chồng, Thơm cũng khỏi phải bám cơ sở. Cô về Ủy ban Nhân dân Tỉnh, làm chuyên viên theo dõi mảng nông nghiệp. Thi thoảng, Thơm cắp cặp đi theo lãnh đạo tỉnh ra Trung ương họp, hoặc về cơ sở đi kiểm tra. Làm chuyên viên, rồi làm trưởng phòng được vài năm, Thơm chán cảnh ôm cặp đi theo sếp, làm bông hoa đẹp giữa bàn nhậu, rót rượu bia và nhận những lời tán dương, trêu ghẹo buông ra những câu đùa thô lỗ, tục tằn của mấy anh cán bộ hàng tỉnh sau vài chén rượu đã ngà say, thích dùng quyền uy để lòe thiên hạ. Khi cơ chế bao cấp bị phá bung, Thơm nghỉ một cục bỏ ra lập công ty riêng, thu mua hải sản xuất khẩu. Ba Cư - chồng Thơm, nghỉ hưu sớm. Anh chồng hơn vợ hai mươi nhăm tuổi. Vợ chồng Cư - Thơm lấy nhau được dăm năm, mới phát hiện ra Thơm không có khả năng sinh con. Cả hai không lấy vậy làm buồn. Rượu là bạn với họ hằng ngày. Như thể trời đất sinh ra họ để kết bạn với nhau và có chung một người tình là rượu. Họ chỉ uống rặt một loại rượu đế cất bằng gạo nếp thơm Bến Tre. Trên bàn nhậu sau những lời giao đãi, chồng một ly, vợ một ly. Có khách hoặc không có khách cũng vậy. Đôi bạn tình ngồi bên nhau cho đến phút chót. Uống không biết say. Vừa uống rượu, vừa nói chuyện khan, nhấm nháp đĩa mồi nhậu là vài dẻ cá khô nướng chấm muối ớt và ngắm trăng suông.

Vài năm trở lại đây, trong nhà đã có tiếng trẻ con. Chuyện kể rằng, anh con trai với chị vợ trước của Ba Cư chỉ thua Thơm dăm tuổi, được cha cho học nghề ở thành phố. Chẳng hiểu yêu đương ra sao, cô cậu ăn cơm trước kẻng. Khi có bầu đôi trẻ giấu biệt vợ chồng Cư - Thơm. Ngày cô gái ở cữ, anh con trai nhà Cư mới hốt hoảng báo tin cho cha và bà mẹ kế. Ba Cư và Thơm lên thành phố tìm gặp cho được con trai ở trong một dãy nhà trọ ngoài Thủ Đức. Đến bệnh viện, thì hỡi ôi! Cô gái sau lúc sinh nở lừa khi vắng người đã lẳng lặng bỏ anh người yêu và bỏ cả đứa con đỏ mới hơn một ngày tuổi đi biệt. Ba Cư nhìn con, nhìn cháu không hề lộ vẻ bực tức và cáu giận. Ngồi thừ ra một lát, Ba Cư ôm đứa trẻ trên tay, nhìn kỹ. Rồi cười lớn: “Đích thị cháu ta đây rồi. Mặt giống ông nội như tạc”.

Một tay Ba Cư và Thơm nuôi lớn đứa cháu nội từ ngày ấy. Tiếng nói đầu tiên của một đứa cháu đích tôn dòng họ Phạm ở miệt vườn Rồng Chôm, vốn nổi tiếng nghề võ là tiếng “bà” chứ không phải tiếng “mẹ”. Nó như đoạn dây nối dài cuộc sống của vợ chồng Cư Thơm rút ngắn những đêm dài, phập phềnh giống những bông bần, bông súng mùa nước nổi.

Lúc tụi tôi về đến nhà, Ba Cư đang mặc quần xà lỏn, cởi trần cầm nơm úp cá ở dưới lạch nước nhỏ trong vườn. Ba bốn con cá tra, cá chép, cá trắm nặng vài cân đang dãy đành đạch trên vạt cỏ, nát cả khóm khoai nước. Vườn rộng vài công đất, nằm ngay bên bờ sông Hậu, đất đỏ phù sa phủ rợp bóng dừa, bưởi da xanh, nhãn da vàng quả sai la đà đang chờ khách buôn đưa ghe vào tận vườn thu hái.
Chỉ chưa đầy một giờ, chúng tôi đã có một bàn nhậu. Cả Thơm, Vân và tôi mỗi người một chân một tay vào bếp làm cơm. Món chính là cá. Cá nướng, cá nấu canh chua ăn bún, cá hấp quấn bánh tráng dừa. Và rượu cả can. Thêm hai anh bạn ở hội văn nghệ vốn là đệ tử rượu của vợ chồng Cư Thơm được gọi tới tiếp rượu khách cho bàn tiệc đông vui. Những câu chuyện không đầu, không cuối. Rồi hồi ức, kỷ niệm của những ngày tháng sinh viên trong kí túc xá đại học. Ba bốn chị em rủ nhau bớt phần cơm, lấy gạo đem bán có chút tiền ăn quà sáng, sắm áo quần, mua son phấn. Điểm mặt qua vài gương mặt ông thầy, đám bạn bè cùng khóa tứ tán mỗi người một phương. Có người thành danh. Có đứa sạt nghiệp trên thị trường chứng khoán, nhà đất, buôn lậu hàng qua biên giới. Một vài cô bạn theo chồng sang Nga, Úc, Canada… lập nghiệp.

Xế trưa, tôi nhận được một cú điện thoại: “Mời cô về trại gấp. Có chủ hàng đến xin gặp cô để ký hợp đồng”. Tôi chỉ bảo Vân và Thơm: “Tao phải về. Nhà có chuyện. Còn hơn hai tháng nữa tới ngày giỗ ba mẹ tao. Tụi bay cố gắng sắp xếp công chuyện lên cao nguyên chơi”. Nói vậy thôi, chứ tôi thừa hiểu, Vân và Thơm cũng bận tối ngày với công việc và đám con cái quá nặng nề.

Hơn một giờ bay, tôi đã có mặt ở sân bay Liên Khương. Máy bay cất cánh cũng là lúc tôi vừa nghe nhạc và ngủ. Khi những làn gió lạnh phả ra từ dãy Lang Biang và những cánh rừng thông trong tiếng xe chạy êm ái, tôi mới thực sự hết buồn ngủ. Mệt mỏi cũng tan biến. Tôi bảo cậu lái taxi dừng xe giữa một khoảng rừng vắng. Tôi hít một hơi dài điếu thuốc Salem. Cảm giác sảng khoái tự do, thoải mái ngập tràn.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:42:52 pm
2

Trong gia đình tôi, một năm có hai ngày quan trọng. Ngày cúng tất niên và ngày đại giỗ. Nếp sống ấy có từ ngày cha tôi còn sống.
Cuối năm, từ hai mươi ba tháng Chạp, ngoài trại hoa có hàng chục người làm lo cắt hoa, đóng gói và chở đi cho các bạn hàng. Còn ở nhà chị Thoa gọi thợ lo quét dọn, trang trí lại nhà cửa. Ngày 28 tháng Chạp, nhà tôi cúng tất niên, mời các cụ tổ tiên, người quá cố về chung vui cùng gia đình, con cháu. Ngày cúng Tất niên, nhà tôi làm cỗ mặn, năm nào cũng phải mất trên dưới hai chục mâm. Ngoài người ăn cỗ trong gia đình, tôi còn mời những người làm công cho gia đình trong năm. Một số người làng Lôi theo lời khuyên của cha tôi từ những năm chín mươi vào xây dựng làng kinh tế mới ở một vùng đất tốt cách trại Đầm Vịt chừng bảy cây số. Mười mấy gia đình làng Lôi vào đây, họ cũng được chính quyền sở tại cho thành lập chi bộ đảng, xây dựng ấp kinh tế mới lấy tên đất quê lập tên làng. Gọi là làng Đồng Tiến trên đất Lâm Đồng. Người làng Lôi vốn chăm chỉ, cần cù chỉ vài năm khai hoang, mở đất, nhà nào cũng có một vài hecta đất trồng cà phê, chè, hồ tiêu, rau màu… Các rẻo đất ven suối Lau, suối Lươn bà con khai phá thành những ruộng lúa nước. Bà con Brâu ở bản ở gần đấy thấy bà con làng Lôi làm ruộng, làm rẫy giỏi, học cách làm theo.

Cha tôi còn truyền dậy cho bà con làng Đồng Tiến và người Brâu ở buôn Bo cách trồng hoa. Từ ngày mẹ và bà nội tôi còn sống mỗi mùa hoa đã vào làng, vào buôn mua hoa của họ gom lại bán buôn cho chủ hàng. Nhớ ơn cha mẹ tôi, năm nào người làng Lôi ở thôn Đồng Tiến cũng mang lễ đến thắp hương trên bàn thờ gia tiên.

Đại giỗ của gia đình tôi nhằm vào ngày Vu Lan. Giỗ ông, giỗ bà, giỗ cha, giỗ mẹ được làm trọn trong ba ngày. Có ngày giỗ chay, có ngày giỗ mặn. Khách đến ăn cỗ vẫn là người trong gia đình và bạn bè của cha tôi, của tôi. Ngày đại giỗ được chuẩn bị chu đáo trước cả tháng.

Trong ngày giỗ nhân dịp lễ Vu Lan, nhiều năm nay luôn có mặt những người bạn thân thiết của gia đình tôi là thầy Năm Bê. Thầy là bạn của cha tôi, là thầy dạy của tôi ở đại học. Người thứ hai là chị Thi.

Chị là người chị kết nghĩa của tôi. Những ngày mẹ con tôi sống ở Nha Trang, tôi là “cái đuôi” của chị, lúc mẹ tôi phải sống nhờ trong ngôi nhà của gia đình chị ở núi Đá Chẹt. Ngày giỗ cha mẹ tôi, bận mấy chị cũng thu xếp công việc để lên với tôi. Người thứ ba ít vắng mặt ngày đại giỗ là chú Hoài, một người cùng đơn vị với cha tôi ở chiến trường Trị Thiên. Chú Hoài nhiều lần tự nhận là “lính” đi bảo vệ “cho đại đội phó Đệ”.

Chuyện quản gia trong nhà, kể cả chuyện cúng giỗ, tôi giao cả cho Thoa. Nhiều năm nay, Thoa đã là một thành viên quan trọng trong gia đình tôi. Thoa ít hơn tôi ba tuổi, là đứa con ngoài giá thú của lão Ca với một người đàn bà chuyên đi cất vó tôm và đặt ống lươn ở làng Vàng. Trong những năm làm quản trang ở nghĩa địa làng Lôi, lão Ca quan hệ vụng trộm với người đàn bà này. Nghe người làng Lôi kháo nhau, chị ta ngớ ngẩn. Nói năng ngọng nghịu, ngoài ba mươi tuổi vẫn chẳng ai chịu lấy. Trong những đêm mưa gió, ở căn nhà nhỏ ngoài cánh đồng, lão Ca đã lừa được người đàn bà cô đơn. Ai ngờ chị đã sinh cho lão một đứa con gái. Lúc còn nhỏ, Thoa học cũng không được, thi mấy lần không qua khỏi cấp I, nhưng trời phú cho cô bé có bàn tay khéo léo, đan lát giỏi.

Sau ngày lão Ca và mẹ chết, Thoa phải đi làm thuê cho người làng. Một lần, tôi về vùng quê Đồng Tiến, nghiên cứu mặt hàng mây tre xuất khẩu, tôi đã phát hiện ra Thoa và đưa cô bé về trại Đầm Vịt để giúp việc cho gia đình.

Những ngày gia đình có việc cúng giỗ, có hai việc tự tay tôi làm là chăm sóc, thắp hương năm ngôi mộ ở một khoảng rừng phía sườn đồi và lau chùi bàn thờ Phật, bàn thờ gia tiên. Mỗi lần ra mộ thắp nhang, ngồi tha thẩn quanh những ngôi một xây bằng đá xanh tôi có cảm giác như thể bà nội tôi, cha tôi, mẹ tôi và ông bà ngoại đang lẩn khuất đâu đó sau những tán cây rừng. Tháng bảy, vùng Đầm Vịt hay có những trận mưa rào. Trên các triền đồi, khe suối dọc theo con đường đất đỏ, hoa dã quỳ nở vàng rực. Thung lũng mọc đầy cỏ lau, đang trổ bông như ngàn vạn ngọn cờ phấp phới theo gió. Những cánh rừng thông, những vườn cao su , hồ tiêu, cà phê, những đồi chè no nước, xanh ngằn ngặt. Không gian tĩnh lặng. Vẳng lên tiếng chim chích chòe, tiếng chim “bắt cô trói cột” đâu đó ở phía lèn đá, dưới bờ khe. Bãi Đầm Vịt mùa khô cạn nước, trông như cái ao nhỏ lọt thỏm giữa núi đồi cao nguyên điệp trùng. Đến mùa mưa, nước từ các khe suối chảy về, Đầm Vịt biến thành một hồ nước mênh mang.

Từ những ngày còn nhỏ, tôi đã được cha đưa đi theo xem ông đặt bẫy nhím, bẫy thỏ, đi đào dúi trong rừng, lội dọc theo các con đường mòn ven hồ rình bắn vịt trời, le le…Ông kể cho tôi nghe những chuyện ngày nhỏ ông đi theo mẹ mót khoai mùa nước, đi tát nước, nhổ mạ. Ngày cha tôi học cấp 2, cấp 3 ông cùng bạn bè đi trồng cây, ngày mùa thầy trò đi xếp ải. Mỗi tuần học trò phải có một buổi lao động tay chân. Khi máy bay Mỹ bỏ bom quê tôi, cha tôi đã từng phải đi đào hầm để tránh máy bay. Có lần, cha tôi quên đội mũ rơm đến trường, ông bị thầy giáo phạt. “Mũ rơm là chi cha?”. Tôi không hiểu hỏi lại ông. Cha tôi cười rồi trả lời: “Là cái mũ như con đội trên đầu bây giờ nhưng được tết bằng rơm lúa để che mảnh bom, mảnh đạn khi máy bay Mỹ ném bom! Ngày ấy khổ lắm con à. Cả nhà vừa đói, lại còn bị bom Mỹ đánh phá đêm ngày”. “Vậy sao cha vẫn được đi học?”. Tôi ngây ngô không hiểu. “Đói khổ, bom đạn vẫn phải học. Có học mới hết khổ…!”. Về sau tôi mới biết cha tôi đã từng tốt nghiệp hết cấp 3, rồi mới đi bộ đội. Tôi sinh ra ở Nha Trang, không biết mặt ông nội, ông bà ngoại. Chỉ nghe cha, mẹ tôi kể về họ. Dù đầu óc tôi cố mường tượng nhưng không bao giờ hình dung ra họ. Còn hình ảnh về bà nội, về mẹ, về cha luôn hiện về trong những giấc mơ và trong suy nghĩ của tôi. Trong ngôi nhà này mỗi khi chạm vào một đồ vật thân thuộc, hay đi trên những lối mòn trong vườn, ngoài ruộng trồng hoa… tôi đều nghĩ tới họ. Gương mặt bà nội tôi già nua, da nhăn nheo, đôi mắt hiền hậu. Gương mặt mẹ đẹp nhưng rắn rỏi, quyết liệt. Gương mặt cha với vết sẹo trên trán, đôi mắt buồn buồn, sâu lắng… Ba gương mặt ấy luôn hiện hình rõ nét mỗi khi tiềm thức trong tôi động vào quá khứ sâu thẳm. Tôi kinh hãi nhất mỗi khi bất chợt nghe một tiếng động lớn. Một tiếng sét chẳng hạn. Một tiếng mìn phá đá vang lên bất ngờ giữa lưng đèo. Thậm chí tiếng cánh cửa sổ bằng gỗ cô Thoa quên cài chặt bị gió giật giữa đêm khuya thanh vắng luôn khiến cho tôi bị bất ngờ, rơi vào trạng thái hoảng loạn. Tôi cứ tưởng đấy là tiếng trái lựu đạn phát nổ năm nào ở dưới chân bờ rào gần con mương nước. Trái lựu đạn US hẳn đã nằm từ lâu chìm sâu trong đất bị cỏ lấp đầy. Trái lựu đạn mỏ vịt US của Mỹ đã giết chết bà nội và mẹ tôi. Ai gài? Có thể họ là những người lính Mỹ, lính Ngụy, ngày xưa đóng quân ở vùng này đi càn rừng. Mà cũng có thể trái lựu đạn ấy là của cán bộ du kích làng Bo gài quanh hậu cứ. Ngày mới mua mảnh đất này, cha tôi đã thuê máy cày về cày ủi, đào xới tung cả một góc đồi. Chỉ gặp dây thép gai, miểng pháo, vỏ trái bom bi. Cha tôi đã cho thu gom lại để bán cho những người thu mua sắt vụn… Không ai nghĩ vạt cây rừng gần với ruộng trồng hoa sát nhà tôi mìn vẫn còn sót lại. Ngày xẩy ra tai họa, bà nội và mẹ tôi đang dọn đống cành cây, cỏ khô ngay sát chân hàng rào chờ đốt. Gặp lửa nóng, trái lựu đạn nổ tức thì đã mang bà nội và mẹ tôi ra đi. Ấy là năm tôi tròn 13 tuổi, đang theo học lớp năm trường của xã. Tan học về tôi còn đang mải ngắm mấy con cào cào ngô bà nội bắt được nhốt vào trong vỏ chai nhựa dành cho tôi chơi. Cha tôi từ sáng đã cùng với mấy người hàng xóm đi xe đò mua đọt mía về trồng, lúc ấy không có nhà. Tiếng lựu đạn nổ đanh váng óc. Tôi ngã xoài xuống sân, nhìn thấy một đám khói bụi bốc cao dưới chân hàng rào. Lúc những người đang làm cỏ ở rẫy kế bên nghe tiếng nổ chạy sang, bà nội tôi, mẹ tôi đã nằm im bất động. Máu thấm đỏ vạt áo ngực mẹ, mặt bà nội bị một mảnh lựu đạn găm vào bay một con mắt. Cả hai đã chết. Không một lời trăng trối. Cha tôi về đến nhà chết lặng nhìn xác mẹ và vợ đang đắp chiếu. Mắt mẹ tôi vẫn mở nhìn lên bầu trời xám xịt. Cha ôm tôi vào lòng. Tôi khóc nức nở.

Đã bao năm giấu sau tấm ảnh thờ của mẹ, tôi vẫn còn giữ cái khuy tròn của trái lựu đạn US - loại lựu đạn mỏ vịt của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:44:11 pm
3

Ngôi nhà xây nơi tôi đang ở rộng hơn hai trăm mét vuông, được xây cất từ ngày cha tôi còn sống. Sau mấy vụ trồng hoa trúng lớn, cha tôi dành tiền làm lại ngôi nhà mới. Ngôi nhà gỗ ba gian, nơi cất giữ nhiều kỷ niệm của cha mẹ tôi, của bà nội tôi và tôi ngày thơ trẻ ông không phá đi, biến thành ngôi nhà sau liền kề bên ngôi nhà mới. Sau này tôi cho sửa sang lại, thay những tấm gỗ đã bị mục nát, láng nền, mở thêm cửa sổ dùng làm phòng đọc sách, nghỉ ngơi. Ở ngôi nhà lớn, tôi cho xây thêm tầng 2, dành hẳn một phòng rộng sáu mươi mét vuông làm phòng thờ. Gian phòng ấy chỉ có tôi và cô Thoa có chìa khóa. Tôi là chân chạy, có công chuyện hay đi nay đây, mai đó, có khi vắng nhà cả tuần lễ. Gian phòng thờ hàng ngày Thoa lên lau chùi thắp nhang, trưng hoa trái. Cả không gian tầng hai được che phủ dưới tán cây vú sữa và dây leo. Đến mùa cây dây leo nở đầy những chùm hoa màu tím.

Trên ban thờ sau bức tượng Phật được chạm khắc tinh xảo bằng gỗ mít là bàn thờ bà nội, ông bà ngoại và cha mẹ tôi. Nhiều khi tôi tự hỏi, sao cha tôi lại chọn tấm ảnh thờ của mẹ từ thời bà còn trẻ. Có lần tôi đã hỏi, ông chỉ cười. “Cha thích tấm ảnh ấy, khi nào có thời gian cha sẽ kể cho con nghe chuyện của cha mẹ!”.

Thực tình giữa cha và mẹ, tôi yêu cha hơn. Không hẳn tôi được sống với cha tôi lâu hơn, những hai mươi tám năm. Cha tôi mất vào năm 2000. Tôi đã trưởng thành và khôn lớn. Còn một lý do, ngày bé và những ngày đi học tôi hay bị mẹ mắng. Thậm chí mẹ tôi còn quất roi vào đít mỗi khi cuốn vở tập của tôi hoen ố mực hay bị điểm kém. Vào những lúc ấy, tôi chạy đến với cha. Ông ôm tôi vào lòng, xoa lưng, dỗ tôi đừng khóc… Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh ngày tôi gặp lại cha tôi ở trại Ngân Điền. Tối ấy, đã khuya, cha tôi đi làm ở trại cải tạo mới về. Tôi nhìn thấy ông, trong bộ quần áo kẻ sọc, đẫm mồ hôi. Tôi nhào chạy tới phía ông, òa khóc. Cha bế bổng tôi lên, đi tới bên bà nội và mẹ tôi…

Chuyện mẹ tôi đánh đòn, ấy là trận đòn năm tôi học lớp 2. Mùa xuân thống nhất thứ sáu đã đi qua. Gia đình tôi đã về sống ở vùng Đầm Vịt. Với mấy chỉ vàng của mẹ tôi còn cất giữ lại được sau hơn hai năm phải vất vả nuôi con, chăm sóc bà nội, buôn bán, năm vài bận đi thăm nuôi chồng ở trại cải tạo Ngân Điền.

Ngày được trở về đoàn tụ với gia đình cũng là lúc cha tôi quyết định đưa cả gia đình đi kinh tế mới. Bà nội tôi sau những ngày tháng lang thang, theo như lời nội kể đã có lúc phải đi ăn xin, may nhờ được các chú bộ đội và những người dân tốt bụng dọc đường, bà đã tìm được vào đến Huế… Chuyến vô Nam của bà nội tôi là cả một câu chuyện dài đầy bí ẩn, đau thương.

Đất rừng Tây Nguyên hoang dã, người thưa vắng, bị cày nát bởi bom đạn nhưng lại hào phóng, đãi người. Không hiểu ai xui và mách bảo, cha tôi dắt díu vợ con về vùng Đầm Vịt. Những lúc cực nhọc, vất vả thiếu thốn, mẹ tôi có than phiền, trách móc cha đưa vợ con vào vùng rừng thiêng, nước độc. Cha cười động viên: “Này em, hơn nửa thế kỷ trước cụ Yessin đã từng đặt chân đến nơi này. Đất vàng đấy em ạ”. Mẹ tôi vặc lại: “Yessin là ai? Anh khùng à?”. Cha tôi bình thản trả lời: “Một ông bác sĩ người Tây dám bỏ cả phồn hoa đô hội của Paris, Thụy Sĩ chọn Việt Nam làm quê hương. Người Tây họ còn dũng cảm vậy, huống chi ta. Em coi thử ruộng rẫy nhà ta có rộng gấp mấy trăm lần căn phòng thuê ở Nha Trang không nào?” Mẹ tôi vẫn không tha: “Đúng là khùng”.

Như thể trời đất thương, chỉ vài ba vụ thu hoạch sắn mía, cha mẹ tôi đã có của ăn của để, dựng được căn nhà gỗ nhỏ. Mẹ tôi lại có nghề may, ngoài công việc trông nom vườn tược, bà may áo quần cho các cô chú cán bộ làm việc ở thị trấn, may áo quần cho mấy cô giáo. Tôi đi học mẹ mua vải mới may áo quần cho tôi đến trường. Ngay từ khi đi học tiểu học, tôi đã là một đứa trẻ nghịch ngợm, hay trêu chọc bạn bè, đám con trai nhiều khi còn bị tôi bắt nạt. Trận đòn của mẹ tôi là kết quả của một cuộc cãi lộn với mấy đứa con trai trong lớp. Tôi đã cầm cây bút bi đâm nát cuốn vở tập của thằng Bin. Giận quá tôi còn xông vào ôm nó vật lộn. Thầy giáo phạt tôi, đưa lên văn phòng. Ông cho người về tận nhà bắt mẹ tôi lên nhận con và viết bản kiểm điểm. Suốt chặng đường từ trường về nhà, bao nhiêu tội lỗi, những lời quở mắng mẹ trút lên đầu tôi. Cây roi tre mẹ tôi tuốt được ở dọc đường, quất cho tôi đỏ đít. Ban đầu tôi còn khóc mếu. Sau giận mẹ quá, tôi im lặng.

Buổi tối nhân lúc mẹ tôi đi họp tổ phụ nữ ở xóm Đầm Vịt, cha tôi mới ôm tôi vào lòng. Và hỏi: “Chiều nay có chuyện chi ở trường mà con để thầy phạt, mẹ đánh? Nói cho cha nghe coi!”. Bà nội thương cháu, nghe cha tôi hỏi, có ý giận con dâu, chửi: “Tiên nhân bố nó, chả hiểu chuyện gì, đánh con bé lằn lươn”. Như thể nỗi uất hận bị kìm nén trong lòng bây giờ mới trào ra, tôi mếu máo: “Thằng Bin chửi con là con lính ngụy…!”. Cha tôi nghe xong ắng lặng, rồi cười khùng khục, xoa đầu tôi. Ông lấy chiếc khăn lau mặt cho tôi rồi nói: “Thằng Bin nói vậy mặc nó con… Cha là ai, con vẫn là con ngoan của cha”.
 
Bà nội tôi ngồi giấu mình trong khoảng tối bên thềm hè bỏm bẻm nhai trầu. Đột nhiên, bà tôi lấy miếng trầu ra khỏi miệng, gầm lên như một con mèo già hung dữ: “Lần sau đứa nào nói vậy con tát vào mặt nó và bảo: Bố tao là bộ đội cụ Hồ, bố tao đi đánh Mỹ… nghe chưa cháu!”.

Tôi mở to đôi mắt thỏ non nhìn bà nội rồi nhìn sang cha tôi. Không hiểu… Không thể hiểu. Phải nhiều năm sau nữa khi tôi đã làm chủ một gia đình. Tôi sống đơn độc trong căn phòng ấm áp đầy đủ tiện nghi mới vỡ ra nhiều điều mà ngày còn nhỏ không biết, không hiểu.

Có những ngày tôi đi lang thang trong những cánh rừng đại ngàn của cao nguyên, miên man giữa những thảm hoa hồng, hoa ly, thược dược, cúc vàng, cúc tím…vào mùa thu hái. Những ngày tôi lần mò tìm đường về với làng Lôi, làng Vàng, Đông Xá, làng Mây… heo hút nằm lọt thỏm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú. Những chiều nắng ngả vàng trên các triền núi phía Tây kinh thành Huế, tôi đứng ngơ ngẩn bên bụi tre ngà ở làng Dương, nghe tiếng chuông nhà thờ ngân lên âm vang khắp mặt sông Bồ, rồi lần mò chui xuống căn hầm trú pháo của ông ngoại tôi được xây cất kín đáo dưới ban thờ, ẩn nấp “Việt cộng” mỗi khi về đánh đồn Từ Hạ. Suy ngẫm và tìm câu trả lời, tôi mới vỡ dần ra những bí ẩn về những người thân xung quanh tôi. Hệt như con lật đật của dân Nga. Cứ mở… cứ mở. Hết con này lại đến con khác xuất hiện. Đi tìm những lời giải về người thân, tôi đi hết chặng này sang chặng khác, gặp hết bất ngờ này sáng cảnh huống khác. Chỉ khác một điều, những hình hài những câu chuyện không giống nhau bao giờ. Công việc tôi làm hệt như một điều tra viên hình sự, mầy mò kết nối xâu chuỗi từng sự kiện để khám phá bức tranh gia đình vốn mờ mịt, đầy uẩn khúc.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:47:03 pm
4

Năm tôi 14 tuổi, tốt nghiệp phổ thông cơ sở đạt điểm ưu.

Cha tôi cùng với mấy người làm công cắt hoa hồng, đóng vô thùng, nhìn thấy tôi cầm tấm bằng không giấu được vẻ vui mừng.

Ông cười, khen: “Khá lắm! Hè năm nay cha sẽ thưởng”.

- Thưởng chi cha? - Tôi hỏi.

 - Bí mật! - Cha tôi cười.

Buổi tối cha tôi lặng lẽ lên phòng thờ, cầm theo tấm bằng tốt nghiệp của tôi, thắp hương khấn vái. Như thể ông báo cáo với mẹ tôi rằng: Tôi là một đứa con ngoan, trò giỏi, đã làm được điều hứa với mẹ tôi trước vong linh của người. Sau này tôi cũng nhiễm thói quen ấy của cha tôi. Trong cuộc sống có điều gì phiền muộn, công việc làm ăn không được như ý, thậm chí trong lòng không vui, tôi lại tới bàn thờ thắp nhang, lòng thấy thanh thản. Những lúc ấy tôi lại nhìn ảnh mẹ, ảnh cha, ảnh bà nội. Tôi ngồi trò chuyện tâm sự như thể cha mẹ tôi đang ngồi trước bàn trà nghe tôi kể lể.

Cha tôi quê xứ Bắc. Mẹ tôi ở Huế. Tôi sinh ra ở Nha Trang. Cho đến khi đã trở thành một thiếu nữ bước sang tuổi dậy thì, tôi vẫn chưa bước chân ra khỏi vùng Đầm Vịt. Nghe cha tôi hứa cho về thăm quê, tôi háo hức chờ đợi từng đêm.

Chuyến xe đò khởi hành từ Bảo Lộc lúc trời còn mờ tối. Quá trưa, cha con tôi đã có mặt ở Sài Gòn. Ý niệm về một thành phố lớn nhất phía Nam, đến bây giờ vẫn hằn sâu trong ký ức của tôi là những con đường người xe đi lại đông đúc chen lấn như một đàn kiến. Xe đạp, xe máy, xe ba gác, xe đò như một dòng thác người đổ về trung tâm thành phố… Ga Sài Gòn hôi hám và nhếch nhác. Cha dắt tôi vào một quán cà phê bên đường vừa đặt túi xách, ngồi chưa ấm chỗ đã có hai ba người tới gạ.
 
- Bác mua vé đi Đà Nẵng, Huế hay Hà Nội? - Cô phe vé gạ thêm: - Giường nằm, ghế ngồi, cháu có cả. Bác mà chờ mua vé nhà nước thì chẳng có đâu!

Cha tôi hỏi: - Vé đi Hà Nội mắc hơn bao nhiêu?

 - Dạ ba chục…

Cha tôi đồng ý mua vé ngoài để có thể lên tàu ngay chiều hôm đó. Hai mươi phút sau người đàn bà bán vé mang ra cho cha tôi một cặp vé giường nằm. Tàu Thống Nhất ba. Về đến Hà Nội đi trọn ba ngày ba đêm.

Chuyến tàu xuyên Việt của những năm “tám mươi” vật vã, nặng nề bởi hàng hóa gạo cơm. Miền Bắc thiếu gạo, thiếu thực phẩm và vật dụng thông thường. Trên các toa tàu, giấu kín dưới các băng ghế, trên khoang để hành lí chất đầy các bao gạo, bao xoài, dừa, cá khô, mắm ruốc… Những con tàu chạy ngược vào Nam ngồi lẫn với người là những bao bột mỳ, áo quần, chăn mền Con Công, vải hoa, đèn pin, bật lửa…của các bà đi buôn đánh hàng lậu từ biên giới Việt Trung, ngày ấy hai “nhà” vẫn còn đang đóng cửa. Nhờ mua được vé chợ đen, cha con tôi có được hai khoang giường nằm ở tầng hai và tầng ba. Tôi nằm ở khoang giữa, thỏa sức ngắm cảnh vật suốt dọc đường. Còn cha tôi hầu như ngủ. Ông nằm bẹp trên khoang thượng áp mái. Chỉ khi nào cần đi vệ sinh, hút thuốc, uống cà phê ông mới xuống. Lần đầu được đi tàu hỏa tôi háo hức. Những tên ga tàu tôi đã thuộc lòng trong cuốn lịch sổ tay như Sóng Thần, Mường Mán, Tháp Chàm, Nha Trang, Đại Lãnh…Những địa danh nghe vừa lạ vừa quen luôn gợi trong tôi những suy tưởng kỳ thú về một vùng đất mới. Bây giờ những vùng đất ấy đang lần lượt trôi qua trong mắt tôi. Con tàu trôi trong đêm. Ngọn đèn pha sáng quắc xé tan bóng tối như trôi về cõi vô định. Ga tàu nào cũng hao hao giống nhau. Người lên tàu, người xuống tàu ồn ã huyên náo. Khi tàu dừng, hàng trăm người bán hàng rong từ trong những vùng tối lao ra chìa trước mặt khách đồ ăn thức uống chào mời. Lâu lâu một tiếng la ré lên: “Kẻ cắp!”. “Tôi bị nó móc mất bóp rồi…”.

Tôi không bận tâm nhiều tới những chuyện vụn vặt mắt thấy tai nghe. Tâm trí tôi mải dõi theo những cảnh sắc, những khung trời mới cứ lần lượt mở ra theo từng cung đường. Con tàu qua Đèo Cả, Vũng Rô vào khuya. Trăng rằm vằng vặc soi rõ những ghềnh đá, sóng đánh tung bọt trắng xóa. Tàu qua Hải Vân, Lăng Cô giữa buổi bình minh. Mặt trời đỏ như một quả cầu lửa trồi lên ngoài biển. Tàu về tới ga Vinh. Cuộc mua bán giữa người trên tàu và người dưới sân ga hỗn loạn. Những bao gạo, khoai sắn, sọt xoài, cá khô như có cánh bay vọt qua cửa sổ. Chỉ một loáng, những món hàng hóa quý giá ấy đã biến mất vào trong các ngóc ngách nằm dọc theo con đường sắt dẫn vào ga. Ở khoang tầng 1 là nơi ở và chứa hàng hóa của vợ chồng anh chị nhà giáo, đâu như dạy ở Trường Cao đẳng sư phạm N. Tôi nghe rõ giọng cô giáo co kéo về giá cả với mấy người buôn ở ga Vinh. Chỉ đến khi con tàu hú còi rời ga tôi mới cảm thấy không khí đỡ ngột ngạt, xô bồ. Nằm ở tầng trên, tôi nghe rõ tiếng của cô giáo khoe với chồng: “Này ông, cả gạo, cả xoài với mấy buồng cau lãi hơn hai trăm. Thích không!”. Ông chồng, một thầy giáo dạy môn triết, chính trị gầm gừ trong cổ họng: “Buôn với chả bán… Hay hớm gì mà cô khoe cho cả làng nghe…”. Giọng chị vợ rin rít: “Á… à… Gần gấp đôi lương của ông đấy nhé…!”. Nghe người lớn cãi nhau, tôi muốn cười. Lại sợ. Đi đường, cha tôi đã dặn: “Thiên hạ nói chi, họ cãi vã, đánh chửi nhau, con mặc họ, nghe con. Mình là con nít, chả biết đâu chuyện người lớn”.

Vài lần, tôi xuống giường đi ra ngoài cửa sổ. Thấy tôi hơi gầy, xanh xao, cô giáo tỏ vẻ ái ngại và bắt chuyện. Tôi trả lời cầm chừng, chiếu lệ. Bữa ăn của thầy cô giáo chẳng khá hơn cha con tôi. Cơm nắm, muối vừng, thêm khoanh giò nạc.

Con tàu về càng gần đến đích, hàng hóa càng nhẹ bớt. Qua các ga Vinh, Thanh Hóa, Nam Định, người đi tàu cũng xuống vãn. Đến ga Quán Hành, cha tôi bảo: “Ngày trước, cha đi bộ đội, tàu vào đến đây rồi dừng. Cha và các chú bộ đội phải đi bộ từ đây để vô Nam”. Tôi nghe, biết vậy chứ không hỏi thêm. Nét mặt cha tôi ưu tư, nghĩ ngợi. Tàu về đến ga Hà Nội vào lúc ba giờ chiều. Cha tôi thuê phòng trọ có chỗ cho tôi nghỉ ngơi, tắm giặt sau mấy ngày đi đường vất vả, bẩn thỉu.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:50:36 pm
Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay, chỉ đến khi nghe tiếng mở khóa tôi mới chợt tỉnh. Cha tôi về, đi theo ông là một thanh niên còn trẻ. Trông qua cách ăn mặc tôi đoán anh ta là bộ đội. Chỉ nghe cha tôi nói với người thanh niên: “Cháu cầm tạm ít tiền đi mua xăng. Gần năm giờ cháu đến đây đón chúng tôi”.

Anh thanh niên cầm tiền đút vào túi áo, lén nhìn trộm tôi. Gương mặt anh chàng còn trẻ nhưng rắn rỏi, chín chắn. Da ngăm đen, đầu húi cua. Ánh mắt của anh ta liếc nhìn tôi như thể anh ta vẫn xem tôi là một đứa con nít.

Tôi hỏi cha: “Lát nữa đi đâu cha?”. Cha tôi thu dọn đồ đạc cho vào chiếc ba lô, bảo: “Về quê thăm mộ ông nội. Cha mua sẵn mấy ổ bánh mỳ lát nữa con mang theo để ăn dọc đường. Bây giờ cha đưa con đi ăn phở”.

Sau này, khi đã trưởng thành, tôi đi Nam về Bắc, sang cả Paris, Tokyo, Bắc Kinh, Thượng Hải, nhiều lần qua Thái Lan… Mỗi khi chán các bữa ăn Tây Tàu, thèm cơm Việt Nam, món đầu tiên tôi nghĩ đến là phở.

Đã hàng trăm nghìn lần ăn phở nhưng tôi luôn ám ảnh bởi ý nghĩ, bát phở cha tôi cho ăn vào cái buổi chiều đông lần đầu tiên ra Hà Nội có lẽ là tô phở ngon nhất, không đâu có cả. Có thể tôi cực đoan, cố chấp, bảo thủ nữa. Không sao! Tôi luôn tin vậy. Cha con tôi ngồi ăn phở ngay trên chiếc ghế băng sát vỉa hè, cạnh một con hẻm dài sâu hun hút. Cách chỗ tôi ngồi chưa đầy hai mét là đường cống thoát nước chảy ra từ những ngôi nhà chạy dọc theo dãy phố. Nước từ trong các nhà chảy ra đổ vào cống chính thành dòng nước đen đặc, lẫn với nước là các cọng rau muống, hạt cơm, hạt gạo, đầu mẩu xương. Thỉnh thoảng từ trong miệng lỗ đen ngòm, một chú chuột cống thò ra, cạp lấy mẩu xương thừa rồi lại chui tọt vào hang. Khách ngồi ăn phở quanh đấy hầu như không ai để ý đến những con chuột và người ngồi ăn cạnh mình là ai. Mọi con mắt đổ dồn vào nồi nước phở đang sôi sùng sục, phía dưới là một bếp than cháy đỏ rực, mùi phở tỏa thơm ngào ngạt. Mỗi bát phở chỉ có ít sợi bánh mềm và mỏng, dăm lát thịt bò, chút cọng hành, hạt tiêu sao mà thơm ngon đến vậy. Có thể là tôi đói. Và lần đầu tiên tôi được ăn phở Bắc, trời lại hơi heo heo rét… Cái ngon và hương vị đặc biệt của tô phở vỉa hè thấm vào tận da thịt và kí ức của tôi đến tận bây giờ.

Cùng ăn với cha con tôi còn có những bác xích lô, xe thồ, một vài anh công chức mặc áo bốn túi cắp cặp ngồi trên những chiếc ghế gỗ, ghế nhựa xì xụp ăn phở. Nhiều năm sau, có dịp ra Hà Nội lo công chuyện, rảnh rỗi tôi đi tha thẩn khắp các ngả đường, trở lại ga Hà Nội, sục sạo trong các con phố, tôi có ý tìm người đàn ông với gánh hàng phở ở vỉa hè năm nào nhưng không bao giờ gặp lại.
Đúng giờ hẹn, anh thanh niên lái xe đến nhà trọ bằng chiếc xe Commăngca cũ kĩ. Chúng tôi nhanh chóng lên đường. Cha tôi ngồi cạnh anh lái xe chỉ đường. Tôi ngồi ở băng ghế sau rộng rãi.

Cha tôi bảo: “Khi nào mệt con nằm xuống ghế mà ngủ”. Đường đi vừa xa lại xóc. Tôi ngủ sao nổi! Xe ra khỏi thành phố trời đã nhập nhoạng tối. Một vài hàng quán đã lên đèn. Con đường lộ xuôi về phía Nam hun hút gió, băng qua làng mạc, đồng ruộng. Những ngôi nhà ngói, nhà lá, nhà rạ nằm lẩn khuất giữa những bụi tre, cây rơm đang chìm dần trong ánh hoàng hôn cuối ngày.

Tôi mê đọc văn của Thạch Lam, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao từ nhỏ. Sau này đọc thêm truyện của các ông Nhật Tuấn, Duyên Anh, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyên Hồng để hiểu thêm về xứ Bắc, quê nội. Nhưng trong buổi chiều u ám, lạnh lẽo này, tôi càng thấm thía khi được tận mắt nhìn những làng quê, con người nơi cha tôi sinh ra. Một đoạn đường dài chiếc xe như trôi đi trong màn sương khói từ các thôn xóm bên đường loang ra phủ mờ cảnh vật, phảng phất mùi ngô, khoai nướng. Câu chuyện của cha tôi và người lái xe càng lúc càng rôm rả, khiến tôi càng chú ý, xua tôi ra khỏi cảm giác buồn tẻ, cô đơn. Những câu đối thoại của hai người lúc to lúc nhỏ.

- “Cậu đi lính được mấy năm rồi?”.

- “Dạ một năm ba tháng chú! Chú ở miền Nam sống ở tỉnh nào?”.

- “Lâm Đồng”.

- “Chú làm nghề gì?”.

- “Làm ruộng! Cậu là con thứ mấy trong nhà?”.

- “Dạ thứ hai. Thầy cháu hi sinh. Mẹ cháu đi lấy chồng, cháu còn có thêm hai người em nữa… Nghe nói trong Nam làm ăn dễ phải không chú?”.

- “Cũng tàm tạm… Ở đâu chăm chỉ làm ăn cũng sống được. Cậu học tới lớp mấy rồi? Sao lại đi bộ đội?”.

- “Dạ cháu học hết cấp ba. Gia đình cháu nghèo, cháu xin đi bộ đội. Từ ngày giải phóng đến nay chú về quê mấy lần rồi?”.

- “Đây là lần đầu…”.

Giọng cha tôi hơi nhỏ lại - “Lần này tôi đưa con gái về thăm quê nội!”. Anh lái xe nhìn tôi qua chiếc gương chiếu hậu. Tôi tránh ánh mắt của anh ta.

- “Chắc cô bé lần đầu về quê vui lắm”.

Anh lái xe cười. Tôi im lặng, cảm thấy tưng tức khi anh ta gọi tôi bằng “cô bé”. Làm như không để ý đến câu chuyện của họ, tôi ngó lơ ra ngoài con đường đang chìm vào bóng tối.

Tôi thức giấc lúc chiếc xe đã dừng lại. Ai đó đã đắp lên người tôi tấm áo bông dầy, phảng phất mùi xăng nhớt. Qua tấm kính xe tôi thấy cha tôi và người lái xe đang ngồi uống nước, hút thuốc ở một quán ven đường. Những chiếc xe tải, xe khách, xe con xếp hàng dài đang chờ xuống phà. Những người bán hàng rong bê những mẹt táo, ổi, củ ấu chào mời khách trong quầng sáng của những ngọn đèn điện đỏ quạch hắt ra từ các quán ven đường. Chiếc xe commăngca quân đội được ưu tiên. Khi đã yên vị trên phà tôi mới hỏi:

- “Đây là đâu hả cha?”.

- “Phà Tân Đệ con ạ. Sông Hồng đấy! Đi một lúc nữa là tới nhà ta”.

Suốt chặng đường về làng, cha tôi và người lái xe không nói chuyện nữa. Gương mặt cha tôi thỉnh thoảng lại hiện lên khi có một chiếc xe chạy ngược chiều hắt đèn pha vào mặt. Ông trầm tư nghĩ ngợi. Nhiều năm sau nghĩ về cha, nhớ lại chuyến thăm quê lần đầu, tôi vẫn không sao cắt nghĩa lí giải nổi tâm trạng của cha tôi đêm ấy. Ông đã nghĩ gì sau gần hai mươi năm xa quê! Không hẳn ông vui. Cũng không thấy ông biểu lộ tâm trạng háo hức hồi hộp của một đứa con biền biệt lâu ngày. Có lúc hình như cha tôi khóc. Không thành tiếng. Dòng nước mắt lăn dài trên gò má, gặp luồng sáng của đèn pha ô tô rọi chiếu ánh lên như một sợi bạc rồi vụt tắt. Trong lúc ấy, người lái xe chăm chú quan sát phía trước, tránh ổ gà và người đi bộ, đi xe đạp sát bên vệ đường. Họ cũng lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng di động. Chiếc xe con rầm rì lao đi trên con đường rải đá. Ánh đèn pha ô tô như bị nuốt gọn trong khoảng tối của hai hàng cây xà cừ cổ thụ.




Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:56:24 pm
Có lúc chiếc xe băng qua một ngôi làng nào đó. Đêm chưa khuya nhưng trong các ngôi nhà đều im ắng. Một vài nhà le lói ánh đèn dầu. Bầy chó nghe tiếng máy xe gầm gừ thi nhau sủa. Đi mãi nhưng cha tôi không chỉ cho người lái xe lối rẽ vào làng. Đến một cây đa cổ thụ có ngôi chùa nhỏ giữa cánh đồng ông mới bảo anh ta dừng lại.

- “Nếu cháu vội phải về Hà Nội thì đưa chúng tôi đến đây là được. Còn nếu không ráng chờ chúng tôi có chút việc, khoảng hơn một giờ đồng hồ rồi ta cùng về”. - Cha tôi bảo người lái xe như vậy.

Tôi vừa mệt lại vừa buồn ngủ. Niềm háo hức được về quê thăm nhà nội đã tan biến từ lúc nào. Đứng giữa đồng không mông quạnh, lạnh lẽo hoang vắng, nỗi ám ảnh sợ ma, sợ bị cướp giật lởn vởn trong đầu óc tôi.

Cha tôi như thể không nghĩ tới điều đó. Ông khoác ba lô và dắt tôi trong tay làm cho tôi cảm thấy yên tâm.

- “Cha con ta ra mộ thắp cho ông nội nén nhang”.

Ánh trăng hạ tuần bị che phủ bởi bầu trời đầy mây. Tôi nhận ra khu nghĩa địa rộng mênh mông nằm giữa cánh đồng. Ở phía xa, sau bụi tre có ngôi nhà nhỏ leo lét ánh đèn dầu. Sau này tôi mới biết đấy là ngôi nhà của người trông coi nghĩa trang. Cha đưa tôi đi trên con đường đất nhỏ luồn lách giữa các ngôi mộ đất. Thỉnh thoảng có một vài ngôi mộ xây gạch. Như thể đã biết rõ mộ ông nội nằm ở đâu, cha tôi nhắm thẳng tới một bụi cây đen ở giữa khu mộ. Đấy là một khóm dứa dại mọc trên một gò đất cao, cành lá rậm rạp, phiến lá có nhiều gai sắc nhọn. Cha tôi đặt chiếc ba lô xuống một vạt cỏ, ông chậm rãi mở ra lấy mấy phong bánh, nắm nhang, giấy vàng mã cùng với một cái đèn pin chỉ nhỏ bằng ngón tay. Một luồng ánh sáng to bằng đầu đũa phát ra từ cây đèn pin, ông lia nhanh qua một vài ngôi mộ nằm quanh bụi dứa dại. Ông bảo nhỏ tôi:

- “Con đọc trên bia đá có tấm nào ghi tên cụ Bùi Văn Đê là mộ ông nội nhà ta”.

Khi đọc tới ngôi mộ thứ tư tôi đã nhìn thấy tấm bia ghi tên ông nội. Tấm bia đá chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: ‘Cụ Bùi Văn Đê. Làng Lôi, thôn Đông Xá. Mất ngày tháng Bảy năm Nhâm Mão”. Cha tôi soi đèn pin đọc lại một lần nữa. Ông cẩn trọng đặt lên ngôi mộ mấy phong bánh và châm hương. Tôi quỳ xuống bên cạnh ông. Trong giây phút tĩnh lặng giữa đêm khuya tôi đã nghe cha tôi khấn ông nội:

- “Thầy ơi! Con là đứa con bất hiếu. Được thầy mẹ cho ăn học rồi ra trận đánh giặc. Ai ngờ cuộc đời con gặp bao gian truân, những tưởng chỉ một mình con gánh chịu nỗi oan khuất tủi cực nào ngờ con lại giáng họa cho thầy mẹ để thầy chết oan uổng như thế này… Con có chết cũng không rửa hết nỗi nhục của thầy… Thầy ơi!”.

Giọng cha tôi lạc đi. Nghe ông tạ tội với ông nội, tôi chỉ muốn khóc. Tôi mơ hồ hiểu rằng trong quan hệ gia đình nhà tôi, giữa cha tôi và ông nội có uẩn khúc gì đó… nhưng chưa bao giờ tôi thấy cha mẹ tôi kể cho tôi nghe…Cũng như lúc này, khi cha con tôi vượt qua quãng đường cả ngàn cây số, nằm tàu suốt mấy ngày trời, cha đưa tôi về quê chỉ làm mỗi một việc là đưa tôi ra thắp hương ở mộ ông nội giữa đêm đông lạnh giá.

Cũng đêm ấy, giữa bãi tha ma của làng Lôi, tôi đã gặp phải một phen kinh hãi. Nỗi sợ hãi ấy e sẽ đeo đẳng tôi đến suốt đời. Vào lúc cha tôi đốt tàn nắm giấy tiền, vàng mã, bất ngờ từ sau bụi duối già, một bóng người hiện ra. Tôi không rõ mặt hắn. Hắn chụp trên đầu chiếc mũ vải nhàu nát như của anh hàng phở, tấm áo dạ khoác ngoài màu xám, dài đến đầu gối. Cha tôi chưa nhìn thấy người lạ, ông vẫn còn đang châm lại mấy cây hương chưa cháy hết. Người đàn ông lạ mặt đã quỳ sụp xuống sau lưng cha tôi và lạy:

- “Thưa ông, ông có phải là anh Đệ không?”.

Cha tôi giật mình quay lại ngơ ngác nhìn người lạ. Người lạ mặt nói tiếp:

- “Em là thằng Ca ở trung đội 2, đại đội 3, lính KX đây”.

Cha tôi đứng lên. Tôi nắm chặt tay cha. Người đàn ông ngẩng mặt lên nhìn cha tôi rồi nói:

- “Chỉ vì lầm lỡ của em khiến gia đình cụ Đê tan cửa nát nhà… Giời có mắt ông ạ… Bao năm mới gặp lại ông ở làng này. Vong hồn cụ Đê có linh thiêng chứng giám cho tội lỗi của em… Ông giời đã quả báo…Con vợ em vì nghe lời em lên xã tố điêu mà rồi bị sét đánh chết ở ngoài Cống Vàng. Thằng con trai em đi theo mấy người lên rừng buôn gỗ về ngã nước rồi cũng chết…Còn lại thân em giời đất đày đọa để chịu kiếp nạn này”.

Kẻ lạ mặt nói một thôi một hồi kể lể câu chuyện bi thảm về gia đình hắn. Có lẽ cha tôi cũng chẳng hiểu sự thể câu chuyện ra sao. Lúc hắn ôm mặt khóc rưng rức, cha tôi chĩa cây đèn pin vào mặt hắn rồi hỏi:

- “Anh là ai? Tôi không biết! Chắc anh cũng chẳng biết tôi là ai, giữa đêm hôm khuya khoắt này ra đây kể chuyện vợ con anh!”.

Người lạ mặt quỳ sụp xuống dưới đất, tế sống cha tôi, nói như van lơn:

- “Em là thằng Ca ở xóm Chung, cùng làng với ông. Ông không nhận ra em thật sao? Em là lính cùng đơn vị với ông ở đại đội 3 đây… Em có tội… có tội. Ông cứ giết em đi”.

Gương mặt cha tôi đờ đẫn nhìn người đàn ông lạ mặt. Tôi lờ mờ đoán hiểu hình như cha tôi cũng đã biết hắn là ai. Ông không nói gì, bỏ mặc hắn nằm úp sấp trên mặt cỏ ướt đẫm sương. Đi vài bước, chợt cha tôi quay lại, hỏi:

- “Anh nói là lính trung đội 2, cùng đại đội với anh Đệ, nhưng ở chiến trường nào mới được chứ?”.

- “Dạ, chiến trường Trị Thiên Huế, thưa ông”. Hắn nói hổn hển.

- “Sao anh biết anh Đệ, người làng Lôi?”.

- “Dạ thưa, anh Đệ là đại đội phó của đại đội em, người đồng hương với em”.

Cha tôi lại hỏi:

- “Bây giờ anh làm gì ở đây?”.

Người đàn ông lạ mặt đã có vẻ tĩnh tâm, trả lời:

- “Vợ con em chết, cảnh nhà túng đói, các cụ trong làng cho em ra đây trông coi mồ mả!”.

Cha tôi lặng lẽ lấy thuốc hút và chìa ra trước mặt người đàn ông bao thuốc. Hắn giơ bàn tay ra nhón lấy một điếu nhưng không hút mà lại gài lên vành tai.

- “Tôi ở xa về nhân tiện ghé qua đây thăm mộ, thắp hương cho cụ thân sinh ra anh Đệ, người làng Lôi. Anh Đệ bộ đội cùng đơn vị với anh ngày trước, chết lâu rồi”. - Cha tôi bảo người đàn ông lạ mặt.

Dưới ánh trăng mờ ảo, tôi nhìn rõ cha tôi rút ra từ trong túi áo khoác chiếc ví, ông dúi vào tay kẻ lạ mặt một xấp tiền.

Tám năm sau, tôi đã là một kỹ sư ra trường về lại trại Đầm Vịt, mở công ty riêng. Nhiều lần tôi về lại làng Lôi để khảo sát mua hàng mây tre ở vùng này, xuất khẩu sang thị trường Đông Âu. Nhân lúc rảnh rỗi, tôi hỏi thăm người làng mới hay, người có tên là Ca, trông coi nghĩa địa của làng cũng đã chết. Phần việc trông coi mồ mả đã được giao cho một người khác. Gia đình nhà Ca chỉ còn sót lại một người con gái hơn tôi vài tuổi, “hơi dở người”, vẫn chưa có chồng, sống nghèo khó, chuyên đi cấy thuê, cuốc cỏ, đan lát thuê cho cả làng. Tôi đã tìm gặp người con riêng của lão Ca, chính là cô Thoa bây giờ. Ngày trở về Nam, tôi đã dắt theo Thoa. Mười mấy năm nay, cô Thoa đã trở thành một phần trong gia đình nhỏ bé của tôi, chăm lo việc cơm nước, cai quản việc nhà.

Những lúc rảnh rỗi, tôi hay tẩn mẩn giở từng cuốn sổ của cha tôi để lại. Tình cờ tôi được đọc những dòng này của ông ghi câu chuyện hai cha con ngày về làng Lôi.
 
“Gần hai mươi năm mới trở về quê. Dòng sông Hồng và bến phà T.Đ còn đó. Chỉ muốn khóc. Sợ cậu lái xe và con gái cười. Lòng đau quặn thắt. Cả đời, Hương Giang ao ước một lần về Hà Nội, về thăm quê vậy mà không được… Có người lính nào như ta, về lại cố hương trong cảnh trớ trêu này… Ca nào đây ta? Nhớ ra rồi. Thằng Ca làm lính giữ B40 của trung đội cậu Toan B2. Nó đã gặp ta ở Ninh Hòa vào cái ngày cuối tháng 3 năm 1975.Chỉ một câu nói của mi mà làm ông khổ… Khốn nạn thân thằng Ca sao bây giờ đổ đốn ra nông nỗi này!”.

Đoạn viết ấy, cha tôi ghi ở tập sách thứ năm theo cách đánh số thứ tự của ông. Kẻ mang tên là Ca ấy, tôi còn được đọc một vài lần nữa trong tập ghi chép của cha tôi. Thời điểm ấy, cha tôi bị đưa đi trại cải tạo ở Ngân Điền. Bà nội tôi ngày còn sống thi thoảng cũng một đôi lần kể chuyện làng quê với mẹ tôi có nhắc đến người tên là Ca. Đã bao năm, tôi vẫn không quên câu chửi của bà. “Tiên nhân bố nó! Đồ bất nhân bất nghĩa làm đời con trai bà khổ! Ông giời quả báo con ạ”.

Về lão Ca đã có lần tôi hỏi chú Hoài. Nhắc đến tên lão, chú Hoài có biết nhưng xem ra chú không ưa lão Ca. Tôi gặng hỏi, chú Hoài chỉ nói:

- “Chú ghét thằng cha ấy. Nó cùng nhập ngũ với chú, ở chung một tiểu đoàn huấn luyện vào Nam. Thằng Ca là lính giữ B40 của trung đội. Trong một lần nó cùng với anh trung đội phó đưa thương bệnh binh lên phẫu Nhô ở bờ Bắc sông Bồ. Chỉ vì vô trách nhiệm, sợ bị địch phục kích dọc đường, nó đã bỏ quên một người trong đơn vị, bị sốt rét, nằm lại dọc đường. Cho đến nay, cũng không rõ người lính ấy bị hổ vồ hay bị chết đâu đó trong rừng. Không ai biết. Người lính trẻ ấy là thằng bạn thân của chú, hai đứa cùng học một trường, cùng đi lính một ngày, vào Nam chiến đấu”.

Nghe chú Hoài nói vậy, tôi không dám hỏi thêm gì nữa về lão Ca.

Lúc cha con tôi trở lại, anh lính lái xe commăngca trẻ tuổi vẫn kiên nhẫn chờ ở dưới gốc cây đa già. Trời lạnh anh ta chui vào khu miếu nhỏ tránh rét. Trong lúc đứng dưới gốc đa, cha tôi đã huơ tay chỉ về phía làng, nói với tôi:

- “Con có nhìn thấy cái vạt nhà trăng trắng kia không? Đất nhà ta đấy, ông bà đã sinh ra cha ở đấy. Bây giờ hợp tác xã lấy làm trại chăn nuôi, làm sân phơi lúa”.

Tôi nghe và biết vậy. Không buồn cũng không vui. Chỉ thấy thương cha.

Gió bấc vẫn thổi ào ạt trên cánh đồng. Chúng tôi chui vào xe, lặng lẽ rời làng Lôi. Đã quá nửa đêm. Bầy chó ở trong làng nghe tiếng xe ô tô ngoài đường sủa vu vơ. Có con còn liều mạng đuổi theo xe ô tô một quãng rồi đứng sững lại giữa đường. Eo óc tiếng gà gáy… Một con trâu nhà ai sổng chuồng đứng tha thẩn gặm cỏ bên mương nước.

Tảng sáng, cha con tôi đã về tới Hà Nội. Người lái xe lặng lẽ chia tay cha tôi. Anh chàng xoa nhẹ lên đầu tôi. Chỉ nghe anh nói phải đi gấp vào một bệnh viện nào đó trong Hà Đông để đón thủ trưởng. Lúc chiếc xe mất hút trên đường đêm, tôi mới chợt nhận ra vẫn khoác trên mình chiếc áo bông của người lính. Chiếc áo dài tới gần đầu gối, hơi nặng nhưng ấm. Người lái xe tên Khang. “Chú Khang!”. Tôi nhớ vậy.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 03:58:57 pm
5

Trong cuộc sống, điều ân hận nhất của tôi với cha có lẽ là cho đến lúc ông mất, tôi vẫn chưa chịu nghe lời ông lấy chồng. Một đôi lần ông có khuyên bảo tôi về chuyện chồng con, nhưng tính tôi vốn ương bướng, trả lời cha:
 
- “Con chưa ưng ai! Cũng chẳng ai thích lấy con”.

Cha tôi nghe xong im lặng. Ông nhồi nửa điếu thuốc lá vào tẩu rồi hút, chẳng buồn tranh luận với tôi. Nói mãi, tôi không chịu nghe, hẳn ông chán. Chỉ nghĩ đến việc phải sống với một người đàn ông xa lạ, trong một ngôi nhà xa lạ, hàng ngày không được nhìn thấy cha tôi trong mỗi bữa ăn, không được nghe tiếng chân cha bước nhẹ trước cửa phòng mỗi sáng… Tôi phát hoảng. Tôi không lập dị. Cũng chẳng xa lạ với đàn ông. Có thể tôi là đứa ích kỉ. Từ trong tiềm thức sâu xa, tôi muốn được sống quãng đời tự do, chưa muốn lệ thuộc ai. Ngày nhỏ, tôi luôn có mẹ, có bà nội.

Hai người thân yêu mất đi, tôi dành trọn tình yêu cho cha tôi, cho đám bạn bè. Bạn tôi có đứa học với tôi từ thời phổ thông ở những ngôi nhà lợp tôn, tường xây gạch ở Đầm Vịt, cùng tôi vào rừng kiếm củi, kiếm quả rừng. Bốn năm học đại học, tôi có cả một đám bạn như Vân, Thơm, Hằng… Hầu như chúng nó đều đã yên bề chồng con, sự nghiệp. Còn tôi vẫn tự do như con chim sổ lồng. Những năm học đại học, tôi không phải là đứa học xoàng. Ngày tôi nhận tấm bằng tốt nghiệp, thầy Năm Bê khi ấy là hiệu phó của nhà trường khuyên:

- “Nếu em muốn ở lại trường làm trợ giảng, thầy sẽ xin với tổ chức”. Tôi cảm ơn thầy vì lòng tốt và thương học trò.

- “Em phải về nhà, làm việc với cha em” - Tôi thưa với thầy như vậy.

Trong bữa cơm chiều ở trại Đầm Vịt, tôi nhắc lại chuyện các thầy cô giáo muốn giữ tôi lại trường công tác với cha tôi. Ông nghe xong nói:

- “Cho đến giờ cha chỉ còn lại mỗi mình con. Về làm vườn với cha. Đừng vương màng chi nơi đô hội. Hoa thơm cũng có mà rắn độc cũng có”.
 
Tôi cũng nghĩ vậy, chỉ ân hận mẹ không còn nữa để có ngày nhìn thấy tấm bằng tốt nghiệp đại học của tôi. Cũng trong bữa cơm ấy, cha tôi uống rượu và cao hứng. Ông bảo:

- “Cả dòng họ nhà ta con là người học hành, đỗ đạt cao nhất” .

Tôi hỏi chen ngang:

- “Thứ nhì là ai cha?”.

Cha tôi cười:

- “Mẹ con mới qua Văn khoa năm thứ 2, vì yêu cha mà bỏ học. Cha cố lắm cùng chỉ hết tú tài, rồi đi lính. Nội ngoại con các cụ đều ít chữ cả”.

Hai năm đầu tiên học đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, thầy giáo chủ nhiệm bộ môn khoa trồng trọt của tôi là thầy giáo Hàn. Tôi biết thầy quan tâm với riêng tôi, không hẳn vì tôi xinh nhất trong số mười mấy đứa con gái trong khoa. Có thể còn lý do nữa, thầy hiểu hoàn cảnh gia đình tôi, cảnh gà trống nuôi con. Ngay những năm học đầu tiên, thấy tôi học giỏi, thầy giáo Hàn có ý giữ tôi ở lại Sài Gòn. Tôi là trò cưng của thầy. Học giỏi. Một cán bộ Đoàn gương mẫu, không gây mất đoàn kết. Những lần tiếp xúc với thầy, nhìn ánh mắt, cách thầy chăm sóc mỗi lần tôi đến nhà thầy để nghe thầy góp ý trao đổi công việc của lớp, hoặc tình cờ gặp thầy ở văn phòng khoa, tôi biết thầy có cảm tình với tôi. Và trong cái nhìn ấy còn chứa đựng sự tin yêu lớn lao hơn cả tình thầy trò. Tôi nhạy cảm dễ nhận ra điều đó. Nhưng tôi không thể yêu và lấy thầy. Từ trong sâu thẳm, thầy Hàn với tôi chỉ đơn thuần sự kính trọng của cô học trò nhỏ với người thầy có đức độ và trí tuệ hết lòng vì công việc.

Những năm sau giải phóng, đất nước gặp nhiều khó khăn, cuộc sống của các thầy cô giáo đều khổ. Con đường đi du học là cứu cánh cho nhiều thầy cô giáo. Họ sang Liên xô, Đông Âu khi phe xã hội chủ nghĩa còn chưa sụp đổ. Một số nước phương Tây cũng nhận du học sinh. Thầy Hàn là một trong số các thầy cô giáo đi du học ở Úc trở về với tấm bằng tiến sĩ loại ưu. Ngày thầy trở về, cô vợ xinh đẹp dạy tiếng Anh lại bỏ thầy mà đi. Cô giáo còn trẻ hơn thầy cả chục tuổi, con của một vị quan chức làm việc ở thành phố vốn từ lâu đã chê ông chồng nghèo, cù lần chỉ biết đâm đầu vào sách vở. Cô giáo lại thích giao du kết bạn với mấy cô con nhà giàu, ham đi nhẩy và uống rượu. Cuộc sống của cô không thể thích hợp với lối sống của một nhà khoa học, suốt ngày đi dạy rồi đi họp, còn chút thời gian nào lại chui đầu vào phòng thí nghiệm với đám chai lọ để truy tìm chất đioxin trong đất. Thầy không là nông dân nhưng lúa má đậu bắp, các loại hạt… thầy xếp lỉnh kỉnh trong nhà.

Mỗi lần đi công tác ở Nam bộ, Tây Nguyên, ra Hà Nội dự hội thảo, thầy Hàn tha về hàng chục túi lớn, túi nhỏ các loại giống. Cô giáo trẻ mắng chồng.

- “Đi cho lắm vào rồi lại tha rác về nhà”.

Có lần cô giáo mỉa mai:

- “Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba thế giới. Đất nước này còn thiếu gì những ông Lương Định Của mà anh lại lao vào cho nhọc xác”.

Đứa con gái của thầy Hàn năm nay đã gần 10 tuổi. Ngày mẹ nó bỏ đi theo anh chàng Việt kiều từ Mỹ về, con bé mới lên 5. Thầy Hàn kể, ngày nhỏ cứ mỗi lần con bé khóc, ban đêm trở giấc nhõng nhẽo y như rằng cô giáo Anh văn lại lôi ông bố chồng ra mà rỉa rói cho hả dạ. Cha thầy Hàn cũng là một sĩ quan của quân đội, có một thời đi bộ đội, Cô vợ của thầy có dịp là móc máy: “Làm ông tướng ông tá oai vệ đâu không biết tha về cái chất độc quái ác để làm khổ con cháu”.

Thầy Hàn đã cố chứng minh rằng: ngày thầy sinh ra trên cõi đời này, ông bố của thầy chưa đi vào Nam đánh Mỹ. Cô vợ cãi chầy: “Thì nó ngửi hơi ông nội nó. Tại ông nội nó bế ẵm cháu, hôn cháu. Anh dạy sinh hóa mà không biết à. Chất độc nó khuếch tán trong không khí, trong nước”.

Những cuộc cãi vã như vậy thầy Hàn luôn là người chịu thua cuộc. Âm thầm nhìn đứa con thương xót. Con bé Tuyền quả là còi cọc, hơi ngơ ngơ. Trí tuệ chậm phát triển hơn so với những đứa trẻ cùng trang lứa. Chậm nói, nhưng lại có đôi mắt đẹp, tinh anh. Cứ mỗi lần bắt gặp ánh mắt của con Tuyền nhìn, thầy Hàn như thấu hiểu con bé biết cả. Biết từ chuyện cha mẹ nó hay cãi cọ nhau. Biết bố hay ngồi hàng giờ bên tách cà phê, hút thuốc với một nỗi buồn thăm thẳm. Biết được cơn đau của ông nội vào những ngày cuối cùng khi căn bệnh ung thư mang ông đi. Lúc ông chết, một bàn tay ông vẫn nắm chặt lấy bàn tay con bé. Người nhà phải gỡ tay ông nội ra khỏi bàn tay nó. Như thể con bé biết cả chuyện mẹ nó mang những người đàn ông lạ về nhà. Tưởng con bé ngủ say, khóa trái cửa điên cuồng trong những cuộc làm tình. Lúc thị tiễn khách về mới nhận ra đứa con gái nhỏ đang ngồi ôm búp bê ở một góc nhà…

Nhưng tôi không thể yêu và lấy thầy Hàn. Tôi chưa có ý định lấy chồng. Tôi cần phải học, trước hết phải có được tấm bằng kĩ sư để thoả ước nguyện của cha tôi, của mẹ tôi. Trong suốt 4 năm học đại học, chưa bao giờ tôi nẩy sinh ý nghĩ học xong sẽ tìm đường ở lại trường dù đấy là thành phố Hồ Chí Minh hay ở trường đại học Thủy lợi 2 sau này. Ý tưởng ấy của tôi xa lạ với nhiều bạn gái, bạn trai khác trong lớp. Họ luôn tìm cách bám lấy Sài Gòn để hi vọng dễ tìm việc làm, có nhiều mối quan hệ, dễ kiếm chồng hoặc vợ. Hoặc xa hơn nữa là kiếm cơ hội học lên thạc sĩ, tiến sĩ.

“Sài Gòn là một tấm áo choàng lớn, đủ chỗ để che chở cho nhiều số phận nghèo khó cô đơn. Nơi ngập tràn ánh sáng và những niềm vui. Nơi ngự trị những kẻ giàu sang, nơi trú ngụ của những kẻ nghèo hèn. Nơi ẩn náu tuyệt vời cho những tội ác, nơi ươm trồng lòng nhân và gieo rắc những khổ đau”.

Đấy là lời nhận xét của cha tôi ghi trong một cuốn sổ nhỏ bìa màu hồng nhạt, cuốn sổ mang kí hiệu số 4 theo cách phân loại của tôi sau này về những trang viết của cha tôi để lại. Đây là một trong số bẩy cuốn sổ khá kì dị. Kì dị ở chỗ trong những cuốn số này in dấu bút của cả cha và mẹ tôi. Mỗi người viết một đoạn, một khúc. Nét chữ của cha tôi mực thước, nghiêm cẩn. Nét chữ của mẹ tôi tròn, mềm mại, đều tăm tắp. Những câu cha tôi nhận xét về Sài Gòn còn ghi rõ ngày tháng. Đó là ngày 27 tháng 1 năm 1973. Ngày hiệp định Pari được kí kết. Người Mỹ chính thức rút khỏi Việt Nam. Cũng là ngày tôi ra đời.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 04:02:40 pm
Nhưng cả cha tôi và thầy giáo Hàn không ai biết chuyện của tôi và Khang. Cũng có thể cha tôi biết lờ mờ về mối quan hệ này nhưng ông không tỏ rõ chính kiến. Ông muốn cuộc sống tình cảm của tôi phát triển tự nhiên chăng? Nếu không qua cha tôi, sao Khang có được địa chỉ của tôi ở Sài Gòn?

Khang - người lái chiếc xe commăngca những năm trước đã đưa cha con tôi về quê tìm mộ ông nội. Lúc ra đi Khang đã để quên chiếc áo bông bộ đội. Cha tôi giữ lại chiếc áo bông ấy đem về miền Nam, xem nó như một kỷ niệm khó quên. Vào đầu năm học đại học thứ hai, tình cờ Khang đến tìm tôi ở kí túc xá sinh viên. Thoạt đầu tôi không nhận ra anh. Chỉ hơi bất ngờ. Chiếc loa phóng thanh ở kí túc xá mấy lần kêu tên tôi ra ngoài phòng trực gặp người nhà. Tôi đang ở trong phòng tắm nữ, giặt giũ áo quần, một lúc sau mới ra được. Tôi cứ nghĩ cha tôi lên Sài Gòn lo công chuyện, ghé thăm tôi. Bước vào phòng khách, tôi ngớ người khi đứng trước mặt một người đàn ông xa lạ. Người ấy đã phá tan sự ngỡ ngàng của tôi.

- “Chị là Thủy Tiên phải không? Không nhận ra tôi sao? Tôi là Khang, lái xe đưa bác và chị về quê năm xưa đây”.

Tôi chữa thẹn:

- “Xin lỗi “chú”, lâu quá rồi… “chú”… à anh có khỏe không? Sao lại lạc vô chốn này”.

Tôi thực sự bối rối. Lúc kêu chú rồi lại gọi anh. Thực tình tôi không thể nào nhận ra được người lái xe năm trước gầy, đen đúa, gương mặt không hấp dẫn tôi. Bây giờ Khang đang ngồi trước mặt tôi trẻ trung, da dẻ trắng hồng, nói năng chững chạc. Anh ta đã không gọi tôi là “cô bé” mà kêu chị! Khang như thể nhận ra sự khó xử của tôi, anh nói luôn:

- “Tôi đang công tác ở một cơ quan hậu cần, biết Thủy Tiên đang học ở đây mạo muội ghé thăm…”.

Tôi đã bình tâm trở lại, vốn là một đứa nhanh nhạy trong ứng xử, giành lại thế chủ động:

- “Mấy năm anh Khang vẫn còn nhớ tới cha con tôi… thật quí”. - Tôi cười “Cha tôi vẫn ở trại Đầm Vịt. Nè, Thủy Tiên bây giờ đã là sinh viên năm thứ hai, không còn là con nít nữa đâu nghe”.

Khang và tôi đều cười. Bữa ấy vì không có thời gian rảnh, Khang và tôi chỉ đãi nhau ly cà phê vỉa hè rồi chia tay nhau.

Từ đó, cứ cách vài tuần, Khang lại ra thành phố và dành thời gian ghé thăm tôi. Mỗi lần trò chuyện với Khang, tôi hiểu anh hơn. Cha Khang - một người lính công binh, ở binh đoàn Trường Sơn năm 59. Mùa xuân năm 1968, ông hi sinh ở một cánh rừng nào đấy trên cung đường A So, A Lưới. Nghe Khang kể ông gặp lính Mỹ phục kích khi chúng càn ra ngoài đường tuyến, đánh vào binh trạm nơi cha Khang đang công tác. Mẹ Khang ôm con ra thành phố, nhờ người quen xin vào làm ở nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm. Vài năm sau nữa, mẹ Khang đi lấy chồng, một anh cán bộ miền Nam tập kết. Nối tiếp những đứa em cùng mẹ khác cha ra đời, cảnh nhà nheo nhóc, học hết cấp 3 Khang xin với cha mẹ đi bộ đội. Khang là con liệt sĩ được đơn vị tạo điều kiện cho đi học lái xe, rồi đi học sĩ quan hậu cần. Ngày Khang đưa cha con tôi về làng Lôi giữa đêm khuya, khi ấy anh đang lái xe cho một vị chỉ huy đơn vị. Một thời gian quen Khang, tôi có cảm tình với anh. Mỗi lần anh ra kí túc xá tìm tôi trò chuyện, thời gian tôi dành cho anh không nhiều. Chúng tôi thường hẹn nhau ở một quán cà phê nào đó. Tôi tặng anh một vài cuốn truyện mua ở cửa hàng sách tư nhân dọc theo con đường Nguyễn Thị Minh Khai… Rồi chia tay. Quan hệ giữa tôi và Khang bảo là yêu thì chưa phải… Đơn giản, tôi còn trẻ, chưa muốn sa vào chuyện yêu đương. Mối quan hệ quen biết giữa tôi và Khang, không một người bạn nào ở lớp tôi biết. Kể cả Vân và Thơm. Có lần, Vân hỏi tôi:

- “Mi đi gặp ai vậy?”.

- “Người nhà tao ở trại Đầm Vịt lên, đưa tiền”.

Tôi giấu kín Khang như giấu suy nghĩ của mình trước những điều chưa thật hài lòng, khi chưa có điều kiện bộc lộ. Giấu kín niềm vui nho nhỏ của mình mỗi khi về nhà được nằm dài trên thảm cỏ, dưới tán thông nghe cây lá trò chuyện. Lắng nghe dòng nước chảy trong khe đá rí rách như một khúc nhạc buồn suốt đêm ngày. Môi trường lính của anh, tôi xa lạ. Tôi càng ít tò mò để hỏi công việc hàng ngày của anh là gì. Tôi cũng không muốn kể cho anh chuyện học hành, thi cử, chuyện cây cối mùa màng mà ngành học bắt tôi phải nghiền ngẫm.

Một hôm, Khang đến tìm tôi và thông báo, khoảng 10 ngày nữa, anh và đơn vị phải đi.

- “Các anh đi đâu?”.

Khang nói không úp mở:

- “Sang Campuchia giúp bạn”.

- “Em tưởng bên ấy hòa bình rồi …? Chính quyền Pôn Pốt đã sụp đổ”.

- “Bọn anh sang giúp bạn rà phá bom mìn, thay quân…Tàn quân Pôn Pốt vẫn còn…”.
 
Nghe tới chuyện mìn, ngực tôi nhói đau. Nhưng tôi im lặng. Lúc chia tay Khang, tôi hỏi:

- “Anh sắp đi xa, chiều chủ nhật em muốn mời anh ăn cơm. Anh rảnh chứ?”.

Khang vui vẻ nhận lời.

Tôi chọn một quán ăn ở gần Đầm Sen. Cơm sinh viên đãi lính ra trận cũng đơn giản, cơm canh và một trã cá kho tộ. Ăn xong, chúng tôi đi uống cà phê rồi vào tản bộ trong vườn hoa. Sau trận mưa rào, những con đường nhỏ trong công viên bị tán cây che phủ, ẩm ướt. Râm ri tiếng ve. Thực tình tôi không biết nói chuyện gì với Khang. Tôi chẳng có tư cách gì để an ủi, động viên anh. Càng không thể buông ra những lời sáo rỗng sướt mướt chia tay một người lính lớn tuổi và từng trải như Khang trước giờ ra trận.

 Campuchia là đâu? Vui buồn ở xứ người, tôi đâu có biết. Thêm một lần Khang ra đi, một chuyến đi giống như lần anh chia tay cha con tôi.

- “Có lẽ ta chia tay”. - Khang bảo vậy - “Anh phải về đơn vị chuẩn bị vài thứ”.

- “Dạ, anh về đi!”.

Chợt Khang bảo tôi:

- “Anh muốn bắt tay em…!”.

Tôi chìa bàn tay ra. Bàn tay to ấm của anh ôm gọn bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của tôi. Chợt Khang bảo: - “Anh muốn hôn tạm biệt em… chỉ một lần”.

Chẳng hiểu sao, tôi lại gật đầu đồng ý. Tôi không còn nhận ra mình. Như mê mụ, như trôi nổi bồng bềnh trong một giấc mơ. Nhập nhòa dưới ánh điện mờ ảo, tôi vẫn nhận ra gương mặt anh. Khang hôn lên má tôi, lên mắt tôi. Tôi như một kẻ mơ ngủ đắm chìm trong một xúc cảm lạ lần đầu tiên có được của người trinh nữ. Đôi môi anh lướt nhẹ trên bờ môi tôi, như có một luồng điện giật nhẹ lan tỏa trên khắp cơ thể tôi.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 04:04:06 pm
Tôi không gặp lại Khang nữa. Bốn ngày sau anh lên đường sang Campuchia. Một tháng qua đi, rồi hai tháng. Sáu tháng. Tôi không nhận được một lá thư, một cuộc điện thoại nào của Khang. Anh biến mất tăm như như hòn sỏi nhỏ ném trên mặt hồ.

Bước sang năm học thứ ba, theo lời khuyên của cha và của thầy Năm Bê, tôi chuyển trường về học ở Phan Rang cho gần nhà. Và tôi cũng muốn xóa đi những ký ức buồn không mấy vui vẻ trong những tháng ngày sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vào năm học thứ 4, tôi và một nhóm bạn được phân công đi thực tập ở Tây Nguyên. Tôi không về Lâm Đồng, đi Đắk Lắk, Kon Tum mà chọn Pleicu, lấy cây cao su làm đề tài cho bài thực hành trong chuyến đi điền dã. Mấy tháng trời tôi và đám bạn cùng lớp lăn lộn với những người lính, những công nhân, nông dân ở nông trường 72, 74, 75 thuộc binh đoàn 15. Ngày rảnh rỗi chúng tôi vào các buôn của người Giarai, Bana, Êđê… thăm thú tìm hiểu cuộc sống của họ. Lội dọc ngang các cánh rừng bạt ngàn trồng cao su, cà phê, hồ tiêu, nghiên cứu đất đai cây trồng thu được nhiều kết quả. Các anh kĩ sư nông trường hướng dẫn chúng tôi thực tập thấy đám sinh viên đại học làm việc chăm chỉ, sử dụng thành thạo vi tính, nói thạo tiếng Anh có vẻ khoái, gạ.

- “Ra trường các em có muốn về nông trường công tác, các anh ở đây sẽ nhận”.

Một vài bạn trai trong lớp tôi, phần lớn quê miền Bắc, vui vẻ nhận lời. Tôi là trưởng nhóm thực tập đành nói nước đôi cho vừa lòng thầy.

- “Chúng em rất cảm ơn các bác các chú lãnh đạo nông trường, các thầy cô hướng dẫn. Chúng em xin ghi nhận để về báo cáo lại với tổ chức nhà trường”.

Vào những ngày cuối cùng của đợt thực tập, nông trường tổ chức cho nhóm sinh viên đi thăm quan công trường nhà máy thủy điện Ialy, lên Đức Cơ thăm vùng cửa khẩu biên giới. Buổi trưa, người dẫn đường đưa chúng tôi vào thắp nhang ở nghĩa trang liệt sĩ đã hi sinh ở chiến trường Campuchia. Giữa một khu nghĩa trang rộng mênh mông, hàng trăm, hàng ngàn ngôi mộ xếp ngay hàng thẳng lối, đều tăm tắp. Cánh sinh viên chia nhau đi cắm hương trên những ngôi mộ có tên tuổi liệt sĩ, nhiều ngôi mộ vô danh. Đến hàng mộ thứ 10, tôi sững người lại khi đọc hàng chữ trên một ngôi mộ: “Liệt sĩ Nguyễn Khang, trung úy, chính trị viên đại đội, sinh ngày 30/04/1965. Quê quán xã X, huyện Kim Động, Hải Hưng. Hy sinh ngày 25 tháng 6 năm 1989 tại Xiêm Riệp, Campuchia”.

Chuyên Khang hy sinh ở chiến trường Campuchia, tôi giấu kín. Song, tôi không dấu nổi con mắt của cha tôi. Một lần, tôi về trại Đầm Vịt thăm cha, tự nhiên ông hỏi:

- Lâu nay con có nhận được tin tức gì của cậu Khang?

 Tôi đành thú thật với cha:

- Anh Khang hy sinh rồi cha ơi! Con nhìn thấy mộ của anh ấy ở nghĩa trang Đức Cơ…

Tôi ứa nước mắt. Cha tôi hiểu tâm trạng của tôi. Ông chỉ nói:

- Thiệt tội nghiệp thằng Khang. Nó là một thanh niên tốt…

Một lần chú Hoài ở Sài Gòn lên thăm cha con tôi ở trại Đầm Vịt. Tôi thăm dò hỏi chú:

- Chú Hoài ơi! Cháu đọc sách, coi mạng nghe nói bộ đội ta chiến đấu ở chiến trường Campuchia gian khổ, hy sinh nhiều, có phải không chú?
 
Chú Hoài đang ngồi uống cà phê, nghe hỏi nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên:

- Cháu muốn biết chuyện gì ở cái xứ Chùa Tháp?

– Cháu muốn tìm hiểu vậy thôi. – Tôi đáp tránh chớ. – Nghe cha biểu chú đã có thời kỳ đi viết báo ở Campuchia.

Chú Hoài rỉ rả:

 – Bộ đội ta ở bên ấy cực lắm. Nắng mưa đã khổ. Khổ nhất vẫn là đụng đầu với lính Pôn Pốt. Chúng cũng là người như ta, học theo cách đánh của ta. Súng đạn do người Mỹ để lại, bây giờ lại có Trung Quốc tiếp tay vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men. Chúng len lỏi trong núi, trong rừng, đánh nhau theo lối du kích. Bộ đội ta hy sinh vì bom mìn, vì phục kích nhiều lắm cháu à… Có lần cả một đoàn xe của bộ đội đi cứu dân ở các vùng địch chiếm đóng, chúng đặt mìn chống tăng, phục kích bộ đội bằng B40, B41… Cả một đoàn xe chở quân mất quá nửa. Đêm tối, quân Pôn Pốt mật tập vào nơi bộ đội đóng quân đánh tập kích. Chú đây cũng bị chết hụt mấy lần. So với đánh Mỹ ngụy ngày trước, bộ đội ta đánh Pôn Pốt vất vả hơn nhiều.

Tôi nghe biết vậy, không hỏi thêm. Và nghĩ, Khang và đồng đội của anh hẳn cũng là nạn nhân của những trận phục kích bằng mìn của lính Pôn Pốt.

Xiêm Riệp, Biển Hồ ở đâu tôi không biết!

Có một mùa hè, tôi đã tìm về làng Hành Lạc, quê Khang. Người làng chỉ đường cho tôi đến nhà anh. Bà cô ruột của Khang thấy có khách lạ từ miền Nam ra thăm, đến nhà thắp nhang cho cháu, không khỏi xúc động. Nhiều ánh mắt tò mò như dò hỏi xem tôi là ai. Tôi im lặng, đặt hoa quả lên ban thờ và trả lời quấy quá: “Người cùng đơn vị với anh Khang, đi công tác Hải Hưng ghé thăm nhà thắp hương cho đồng đội”.

Trên ban thờ, tôi gặp lại ánh mắt Khang đang chăm chú nhìn tôi. Tấm ảnh của anh đã được tôi chụp kỷ niệm bằng chiếc máy Nikon, quà tặng của cha ngày tôi vào đại học.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 04:06:31 pm
6

Hình ảnh thành phố Nha Trang nhạt nhòa dần trong ký ức của tôi những năm thơ trẻ. Chỉ đến khi tôi vào đại học, về lại Phan Rang, vào những ngày nghỉ tôi mới theo bạn bè học chung một lớp về chơi Nha Trang.

Thành phố đã có nhiều đổi thay. Đường Duy Tân chạy dọc ven biển nay đổi tên thành đường Trần Phú. Đường Phước Hải dưới chân nhà thờ Đá thành đường Nguyễn Trãi. Đường Nguyễn Hoàng xưa nay mang tên đường Ngô Gia Tự. Đường Hoàng Tử Cảnh đổi tên thành đường Lý Tự Trọng. Chỉ có chợ Đầm, chợ Mới là vẫn vậy. Những sạp hàng vẫn ngổn ngang bày đủ món hàng quen thuộc ở một vùng ven biển sẵn tôm, cá… Tôi tìm về ngôi nhà cũ của bác Đạo ở chân núi Đá Chẹt, tìm lên Hương Sơn Tự… Gia đình bác Đạo cũng đã chuyển đi vùng kinh tế mới Cổ Chi. Chị Thi đã là cô hiệu phó của một trường phổ thông cơ sở ở Suối Dầu. Sư cô Oanh trụ trì chùa Hưng Nguyên cũng đã sang Tokyo lập chùa, tụng kinh niệm Phật.

Cái muôn thuở của Nha Trang tôi gặp lại ở đây là những gốc cây xà cừ cổ thụ có u, có khúc trên các con đường rợp bóng áo trắng học trò trước cửa trường Huyền Trân và trường Võ Tánh. Đó còn là những con sóng biển sớm chiều vỗ vào bờ cát. Đám trẻ nít và người dân Nha Trang vẫn giữ thói quen đổ ra biển vào mỗi buổi sáng.

Tôi đi vơ vẩn trong lòng thành phố như đang thức tỉnh hồi sinh. Chỉ có những cửa hàng bách hóa, cửa hàng ăn uống của nhà nước thì ở đâu cũng giống hệt nhau. Những dãy nhà với những gian bán hàng có ô cửa vuông, bên trong là các cô gái bán hàng trao cho khách từng tô phở, từng ly cà phê và dăm ba điếu thuốc lá lẻ… Trên các con đường, các quán xá vỉa hè những quán cà phê cóc, quán bán vé số kèm theo bán lẻ thuốc lá, bán xăng nhưng phải bán lén, bán chui sợ bị bắt…

Tôi còn tìm về xóm nhà lá, nơi mẹ tôi đã thuê ở trong những ngày cha tôi bị bắt đưa đi học tập, cải tạo ở trại Ngân Điền. Một vài người bạn đồng lứa với tôi nay đã là chủ gia đình. Họ có chồng có con buôn bán lẹt xẹt ngoài chợ xép gần nhà, chẳng nhận ra tôi. Xóm “nhà lá” trên đường Nguyễn Thiện Thuật, theo cách gọi của những người từng ngụ cư trong xóm cũng đã có nhiều đổi thay. Xưa kia đây vốn là bãi đất hoang, nơi chó ỉa, xả rác hàng ngày. Một số người nghèo không nhà cửa, một số thương phế binh từ các nơi tìm về kiếm kế sinh nhai. Mỗi gia đình chiếm một khoảnh dựng nhà, dựng chòi che mưa nắng. Ngày trước, chẳng chính quyền nào dám đụng vào đám thương phế binh… Lâu dần nên xóm, nên phố. Vài năm trở lại đây, thành phố quy hoạch lại, những ngôi nhà của dân đều phải di dời chuyển tới những chung cư mới xây, khu định cư mới… Xóm “nhà lá” được nhà nước phân lô, xây nhà cấp bốn, phân cho cán bộ, công chức. Con đường chạy ngang qua trước cửa nhà tôi ngày trước vốn nhỏ hẹp, lầy lội sau những cơn mưa nay đã được mở rộng, trải nhựa, lát vỉa hè. Một phần của xóm “lá nhà binh” nằm ở phía bên kia đường, nhiều gia đình cũng đã thay tên đổi chủ. Những chủ nhà mới là cán bộ, công chức ở tứ xứ về đây mua đất mua nhà, xây lên những ngôi nhà cao 3, 4 tầng. Có nhà đất rộng xây 7, 8 tầng cho thuê làm khách sạn, nhà nghỉ. Căn nhà xưa cũ của cha mẹ tôi nằm sát bên đường đã bị san phẳng, không để lại dấu tích. Bây giờ, chỗ ấy người ta trồng cây xanh, đặt ghế đá dành cho người đi bộ. Tôi như kẻ xa lạ ngơ ngác nhìn những người cán bộ, công nhân viên đi làm về phóng xe máy, đi xe đạp lướt qua với dáng vẻ vội vã, tất bật. Tôi ngồi ở chiếc ghế đá ngay trên nền nhà cũ. Ngôi nhà nơi tôi từng sống là một căn nhà gỗ, bề ngang hẹp, bề dài chạy thẳng ra hướng bãi rác, có nhiều phòng được ngăn cách bằng tấm gỗ ép. Mái nhà được lợp bằng tôn Mỹ, trần thấp. Mặt trước ngôi nhà sát với con đường xây gạch. Mặt sau của ngôi nhà tường vách được thưng bằng tôn, gỗ ván đứng vững trên những trụ bê tông.

Tiệm may đồ của mẹ nằm ở gian ngoài, có một bộ salon gỗ dành cho khách đến may quần áo. Cạnh đấy là chiếc máy may hiệu Sinco. Gian kế là phòng ngủ, phòng bếp rộng rãi vừa để nấu nướng vừa kê chiếc bàn ăn hình tròn, còn có chỗ phơi quần áo ngoài hiên.
Cha tôi ngày về Nha Trang đi làm công cho một tiệm quay roneo, đánh máy trên phố. Mẹ tôi, một thời gian sau không làm nghề may vá thuê nữa mà chuyển sang buôn bán dưa cà ở chợ Đầm.

Sau ngày cả gia đình ly tán vào 30 tháng Tư năm 1975, mẹ con tôi phải về sống nhờ ở nhà bác Đạo. Ngày bác Đạo bán nhà đi kinh tế mới, mẹ con tôi thêm một lần dời nhà. Sư cô Oanh đã cho ở nhờ trong gian nhà kho ở chùa Hưng Nguyên, gần chân núi Sạn.

Bao năm rồi tôi vẫn không quên ngày đầu tiên được gặp mặt bà nội. Bữa ấy, mẹ tôi đi bán hàng ngoài chợ. Tôi đang tha thẩn với con chó vàng của nhà chùa Sư cô Oanh dẫn theo một bà già lạ lẫm, đeo chiếc tay nải màu nâu. Sư cô đến gần bên tôi và bảo:

 – Bông này! Đây là bà nội con, từ ngoài Bắc vô tìm con đó.

Tôi mở to đôi mắt nhìn người đàn bà xa lạ nhưng không hề cảm thấy e sợ. Bà ôm tôi vào lòng và bảo:

– Cháu bà đây ư? Đúng là con thằng Đệ rồi…! Ôi, cháu tôi xinh quá.

Tôi ngoan ngoãn ngồi yên trong vòng tay của bà nội.

Bà nội mở chiếc tay nải lấy ra đưa cho tôi phong kẹo mè xửng và bảo:

– Quà ông ngoại ngoài Huế gửi cho con…

Tôi cầm phong kẹo mè xửng trong tay, không ăn. Bà nội lại lấy ra cho tôi tấm bánh đa vừng và tự tay bẻ ra cho tôi một miếng. Sư cô Oanh đã trở lên chùa. Tôi ăn hết nửa tấm bánh đa vừng và thiếp ngủ trong vòng tay bà tôi tự khi nào không biết.

Từ ngày có bà nội sống trong nhà, tôi có được chỗ dựa tinh thần, không còn lo sợ bị mẹ tôi la mắng. Mẹ tôi hàng ngày đi chợ cũng yên tâm không lo phải để tôi ở nhà một mình.

Suốt ngày tôi quanh quẩn bên bà. Tôi theo bà đi chợ xép gần nhà mua rau, thịt, cá, đậu; ngồi coi bà đong rượu cho khách…


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 04:09:37 pm
Bà nội tôi có nghề nấu rượu gạo. Từ ngày có bà, mẹ tôi không còn phải đi mua cất rượu gạo của mấy người nấu rượu lậu ở Ba Làng nữa. Gian nhà bếp phía sau trở thành nơi nấu rượu. Để tránh người ngoài nhòm ngó, bà tôi quây bếp ra một ô riêng, che kín bằng những tấm cót. Rượu chỉ nấu vào ban đêm, tảng sáng mẻ rượu nấu xong được đóng kín trong những can nhựa, giao cho mẹ tôi đem bán ngoài chợ Đầm. Bà tôi để lại một ít bán cất cho mấy tiệm bán lẻ, một vài can bà tôi giấu trong nhà bán cho khách quen. Tôi không biết bà tôi có thuật gì, dùng loại men đặc biệt nào… Chỉ biết rằng rượu của bà nấu nhiều người đến mua, có khi không có rượu để bán. Cùng với việc nấu rượu, bà tôi nhờ người mua về cặp heo con, giống của Mỹ. Gian bếp phía sau nhà được cơi nới mở rộng, thêm mấy tấm ghi sắt, tấm tôn, gia đình tôi có một chuồng heo. Lũ heo Mỹ được ăn no, lớn nhanh như thổi.

Trong một bữa cơm chiều, ngắm nghía cặp heo lớn phổng phao, bà tôi vui vẻ bảo.

- “Khi nào bán heo, có tiền. Cả nhà ta đi thăm cha con”.

Bà nội vào ở với gia đình tôi đã được hơn chín tháng. Mẹ tôi vẫn chưa xin được giấy phép để đưa bà đi thăm cha. Trong một lá thư gửi về, cha tôi cũng khuyên mẹ chưa nên để cho bà nội và tôi đi thăm cha. Nghe bảo chỗ ở của cha cũng chưa ổn định. Sức khỏe cha tôi vẫn ổn, ông được người ta sắp xếp cho công việc nhàn nhã. Trong một tấm ảnh đen trắng gửi về cho gia đình, tôi nhận ra cha tôi đứng cạnh một người đàn ông, tuổi đã cao. Hai người đang cầm cuốc trồng khoai lang hay cây sắn gì đó. Trong một tấm ảnh khác, cha tôi đang ngồi trên cỗ xe ngựa đi chợ, tôi còn đọc được cả một câu khẩu hiệu treo bên đường. “Toàn dân tích cực hăng hái tham gia phòng trào hợp tác hóa nông nghiệp”.

Tuổi thơ của tôi lặng lẽ trôi đi, sống những ngày vui vẻ bên cạnh bà nội và mẹ. Trên tấm phản gỗ rộng kê ở góc nhà cạnh cửa sổ ngó mặt ra khoảng vườn phía sau chùa. Vào những đêm hè oi bức, bà cầm cây quạt nan phe phẩy xua đi nóng bức và đàn muỗi đói vo ve từ ngoài vườn bay vào. Bà quạt cho tôi ngủ, miệng bỏm bẻm nhai trầu thuốc. Lâu lâu bà nhổ nước trầu vào chiếc ống nhổ bằng đồng để ở góc phản. Tôi lơ mơ trong giấc ngủ, ghé đầu lên đùi bà nội, cảm nhận rõ mùi cau trầu, mùi thuốc lào, mùi mồ hôi quyện vào quần áo của bà. Một tay bà xoa nhẹ lên lưng tôi, thỉnh thoảng thấy tôi quậy cựa, khó ngủ bà dỗ:

- “Cháu yêu, ngủ ngoan, mai sớm đi chợ bà mua quà cho nhé!”.

Món quà ở chợ của bà tôi cũng đơn giản. Khi thì vài củ khoai lang, bắp ngô luộc, có hôm bà mua bánh bèo, bánh hỏi, tảng bánh đúc to tướng về cả nhà ngồi chấm tương. Đi chợ, bà cầm theo cái rổ, không quên tấm vỉ cói to đúng bằng miệng rổ. Rau cỏ, thịt cá, quà bánh mua ở chợ bà cho hết vào rổ đậy kín bằng tấm vỉ cói. Hàng xóm chả ai biết được nhà tôi hôm ấy ăn gì.

Mỗi lần bà tôi đi chợ về, tôi lại hỏi gióng:

- “Bà ơi, chừng nào đi thăm cha… ?”

Bà nội vừa nhặt rau vừa ậm ừ trả lời:

- “Sắp đi rồi con… Con phải ngoan, học giỏi để báo công với bố mày!”.

- “Bữa nay con được điểm 10, bà ạ!”. Tôi khoe.

Tôi lại chạy ra hỏi mẹ:

- “Chừng nào đi hả mẹ?”.

Mẹ tôi chiều ấy có vẻ không vui, gầm gừ quát, tay bà vẫn không quên nhặt từng đồng tiền lẻ cũ nát đổ ra từ trong chiếc giỏ sau buổi đi chợ về.

- “Trẻ con biết gì mà hỏi. Đi ra ngoài chơi cho tôi nhờ!”.

Tôi giận mẹ, ứa nước mắt, chạy ra dưới gốc cây đại trước sân nhà, khóc. Tôi nghe được cả tiếng bà nội trách mẹ:

- “Nó là con nít, nhớ cha… Sao con trách con…!”.


Hai mươi nhăm năm sau, tôi mới được đọc những dòng cha tôi viết về cái buổi chiều cha tôi gặp lại bà tôi trong một tập vở ghi chép của ông. Những dòng ghi chép của cha tôi từ trang 68 đến trang 76, ở tập sách mang kí hiệu số 5.

Cha tôi viết:

“Vừa đúng 12 năm, y mới gặp mẹ. Chỉ muốn khóc và ôm lấy mẹ, nhưng y lại xấu hổ với vợ và con gái. Y xấu hổ cả với cô cán bộ quản giáo đang trực ở nhà khách đang để mắt dõi nhìn y và vợ con. Nước mắt vẫn chảy ra. Mẹ y già đi và tiều tụy, tóc bạc từng mảng. Đã có bao nhiều sợi bạc vì tội lỗi của y gây ra khiến bà phải lo lắng, vất vả. Mẹ y đấy, có thời từng là cán bộ phụ nữ thôn, đi từng nhà động viên bà con làng xóm có người thân đi bộ đội. Ngày y đi B, bà cùng với mấy người bạn lên tận đơn vị động viên, dặn mỗi một điều: “Khổ mấy cũng cố mà chịu con nhé. Đừng nghĩ dại mà đảo ngũ. Về làng nhục với bà con làng nước”. Tâm thức y chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện đảo ngũ. Thằng Thắng, thằng Nuôi, thằng Hiển, thằng Thành, thằng Nam, Tý Bẹp…đều nghĩ vậy. Chẳng thế mà cả bọn từng lấy máu để kí vào tờ đơn ngày nhập ngũ.

Y không thể hiểu nổi, sao mẹ lại có đủ sức lực để đi bộ cả ngàn cây số vào đây tìm y, chỉ vì một câu nói của thằng Ca? Mẹ bảo với y: “Mẹ không tin con chết. Con không thể là một đứa đảo ngũ, đầu hàng giặc… Mẹ nói với thằng Ca vậy, con ơi!”.

Y đắng họng. Mẹ thương y nhưng mẹ đâu có biết hết được bộ mặt thật của chiến tranh. Chiến tranh là bom đạn. Là chết chóc. Là những trận bom pháo dội trên đầu. Rừng cây núi đồi bị đảo lộn trơ cành bật gốc sau những trận B52, pháo bầy hủy diệt cứ điểm. Những căn cứ pháo ở Đồng Lâm, Từ Hạ, Am Cây Sen, Hòn Vượn, Chóp Nón, 367 mỗi khi nã vào chốt ở điểm cao 360, Động Tre, Khe Trái, Đức Mẹ… thì thật khủng khiếp. Một tiếng đề pa nổ đâu đó rất xa, chỉ vài giây sau tiếng đạn bay xé gió trút xuống đầu. Lửa chớp sáng lòa. Căn hầm chao nghiêng. Đổ sập. Khói bụi mù mịt. Mùi thuốc pháo tanh hăng phảng phất mùi tỏi lẫn với mùi của tử khí….Chẳng có trang sách nào mô tả cho y đầy đủ những chuyện thảm khốc đó. Những anh cán bộ đưa quân đi B cũng chỉ nói được cho đám lính trẻ nghe những điều người ta kể lại và động viên người lính vào trận bằng những câu khẩu hiệu quen thuộc. Khi vào đến đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh, vượt sông Bến Hải tới được Dốc Miếu, Cồn Tiên, Rừng Thông… Lần đầu tiên, những anh lính tân binh nhìn thấy những vệt khói trắng của B52 đi thả bom. Được tận mắt nhìn thấy hàng trăm trái bom từ máy bay B57 cày xới đỉnh đèo Dốc Mèo, A Vao, truyền đơn chiêu hồi máy bay địch thả trắng rừng, lính ta lấy làm giấy chùi đít. Bom đánh vào binh trạm giấu quân, lều trại, tăng võng bị bom hất tung, người hy sinh, kẻ bị thương giữa khói bụi.

Những người lính giải phóng hiểu được sự nghiệt ngã, khốc liệt của chiến tranh. Có nhiều chuyện chẳng giống chút nào như lời anh cán bộ đưa quân, hay anh cán bộ tuyên huấn trung đoàn xuống nói chuyện hôm nào.

Mẹ y sẽ không bao giờ hình dung ra được sẽ có một ngày, y chỉ mặc độc chiếc quần đùi, lết bò lên bãi Mỹ, vừa bám địch vừa lo kiếm từng bao gạo sấy, lon hộp của lính Mỹ vứt lại để đem về góp vào nồi cháo của tiểu đội, trung đội ăn cho khỏi đứt bữa. Đại đội bộ binh của y cả tháng trời bám quanh vùng giáp ranh để giữ đất, vừa kiếm môn thục, môn vót, măng rừng, bắt từng con ốc đá ăn qua ngày… Sống chết vì câu nói của anh chính trị viên tiểu đoàn Lê Văn Duy “Dù có thành vượn, thành duộc những người lính bộ binh KX cũng phải bám giáp ranh, trở về với dân”.

Nhưng mẹ ơi! Nỗi cực khổ của y nào có thấm gì với nỗi đau của mẹ? Y muốn hét lên như vậy… mà không được. Mẹ y sẽ không hiểu. Vợ y dù có yêu y cũng không hiểu. Còn con Thủy Tiên, đôi mắt nó ngây thơ, y càng không thể nào gieo rắc trong lòng nó nỗi buồn. Những khuyết tật của người lớn, những sai lầm của người lớn. Và cả chuyện vui buồn của y… Trẻ con vô can. Chúng không hiểu và chưa cần hiểu. Y bất ngờ khi mẹ nói:  ”Con à, gặp được con như thế này là mẹ mừng rồi. Mẹ có nhắm mắt xuôi tay cũng yên lòng. Biết con trai của mẹ là người tử tế. Cha con dẫu có chết cũng mát lòng. Giời Phật còn thương nhà ta”
.

Những ngày về làng Lôi, tôi quen được cụ Sự, một người có họ hàng xa với ông bà nội tôi. Chú Bảo, con trai cả của cụ Sự cùng tuổi với cha tôi. Theo thứ bậc họ hàng chú Bảo phải gọi cha tôi bằng anh. Chú có một cô con gái tên Hòa, làm việc ở văn phòng Ủy ban nhân dân huyện. Chị Hòa hơn tôi bốn tuổi. Gặp nhau vài lần tôi rất có cảm tình với Hòa. Mỗi khi về làng Lôi tôi về nhà chị Hòa nghỉ lại. Chị Hòa đã có chồng, sinh được hai cô con gái. Chồng chị lái xe tải Nam Bắc, bị tai nạn mất. Chỗ chị em gái với nhau, chúng tôi dễ hòa hợp. Lúc rảnh rỗi chị Hòa thường đưa tôi đi chơi mấy chợ vùng quê, vào làng nghề thủ công xem các mặt hàng mây, tre, dệt lụa, dệt chiếu. Vùng quê tôi có nhiều làng nổi tiếng với nghề chạm bạc, đan lát. Sau khi thăm dò thị trường, gửi mẫu mã, tôi thấy các mặt hàng thủ công ở đây có thể xuất khẩu được. Tôi gợi ý cho chị Hòa, dồn vốn để chị đứng ra làm đầu mối thu gom hàng thủ công xuất khẩu. Bây giờ, hàng mây tre ở làng Lôi, làng Vàng, làng Mây, An Xá, đồ mĩ nghệ đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của công ty Hoa Hồng, thu hút hàng ngàn nhân công lao động nhàn rỗi ở làng quê. Tôi còn mời thầy vào mở xưởng, dạy thợ cho chị em người làng Lôi theo cha tôi vào xây dựng khu kinh tế Đồng Tiến mới quanh vùng Đầm Vịt.

Tôi trở thành người thân của gia đình chị Hòa. Cụ Sự xem tôi như con cháu trong nhà. Cụ đã ngoài tuổi 80 nhưng vẫn còn khỏe mạnh, đi đứng nhanh nhẹn. Ngày còn trai trẻ cụ đi cắt tóc dạo quanh các làng trong vùng. Vài năm trở lại đây, cụ lấy ngay gốc cây si trước cổng nhà làm nơi cắt tóc. Cụ biết nhiều chuyện ở làng quê. Anh Bảo ví cụ như một pho sử sống của làng Lôi. Và cũng qua câu chuyện của cụ dần dà tôi hiểu được cuộc đời của ông bà nội tôi ngày trước, chuyện của cha tôi ngày bé sống ở làng.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 04:12:02 pm
II
BÀ MẸ LÀNG LÔI



1

Trong cuốn biên niên sử của huyện miền duyên hải, xã Đồng Tiến là một xã anh hùng. Danh hiệu anh hùng không chỉ vì có nhiều thành tích trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mà dòng máu nghĩa liệt ấy còn là mạch nguồn của cả ngàn năm trước. Các cuốn sách cổ như Đại Việt sử kí toàn thư, hay như cuốn Việt sử lược, cố giáo sư họ Trần khi nghiên cứu về dải đất này luôn xem đây là một vùng đất cổ. Cổ là phải vì vài trăm năm trước, trong kí ức của người già làng Lôi, làng Muộn, làng Kẹo đời này truyền qua đời khác vẫn còn kể về câu chuyện của những người ngư dân sống dọc theo các triền sông Hồng, sông Luộc, vùng đầm bãi ven biển hàng năm vẫn bắt được thuồng luồng, cá sấu, rồng đất, rồng vàng, rắn xanh, rắn trắng… Vào mùa mưa lũ, nước trên nguồn đổ về, cây rừng to như một tòa nhà bị đánh bật gốc, kết bè, kéo mảng mang theo cả những con cọp, báo còn sống trên rừng. Những ông vua, chúa của rừng xanh bị lũ cuốn, đứng chình ình trên phần thân cây cành nổi lập lờ mặt nước, giương đôi mắt sáng quắc nhìn đám người làng chạy lụt đổ cả lên bờ đê tránh nước. Thú dữ nhưng những vị thần rừng không làm hại ai cả, chỉ thương bị lũ cuốn về xuôi, trôi ra biển. Còn chuyện cá ông, cá kình, cá mập bị bão tố ngoài khơi theo sóng biển đánh dạt vào nằm trên bờ cát như những trái núi. Theo lệnh của quan nha, các làng tổ chức tang lễ cho “đức Ông”, nhiều nơi lập miếu thờ. Chuyện khinh động cả một vùng.

Còn trai đinh các làng quanh vùng từng theo Bố Cái Đại Vương, Triệu Quang Phục, Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ chống giặc ngoại xâm thì đã đi vào sử sách. Hơn 700 năm trước vùng đất này còn là quê hương của vua tôi nhà Trần, mấy lần giặc Nguyên Mông sang cướp nước ta, nhiều lần người trong hoàng tộc cùng với vua cha về Sơn Nam lánh giặc. Người viết những dòng này, cứ mỗi lần về quê, nếu có dịp lại tìm về làng Gạo, cố hình dung ra những bãi sình lầy ven bờ con sông Hóa, mường tượng ra con đường hành quân của đức thánh Trần khi người mang quân đi diệt Ô Mã Nhi. Và tự huyễn hoặc mình những bờ đất, bãi lầy nơi con voi trận của Ngài gửi lại dưới lòng sông. Nơi ấy bây giờ bát ngát một màu xanh của dâu, ngô trải dài tới tận chân đê.

Thời chống Pháp, cánh trai làng của vùng này nổi tiếng về nghệ thuật đánh du kích. Ban ngày khi không có giặc, họ là những anh dân quê, gái làng vác cày, vác cuốc, dắt trâu, gánh mạ ra đồng tát nước, làm cỏ. Nhưng mỗi khi nghe tin lính Pháp từ bốt Bo, bốt Cao, Đống Năm về càn, họ biến hình thoắt ẩn, thoắt hiện như ma, len lỏi giữa những rặng tre ngà dụ địch vào những hầm chông tre, vạt nhọn. Đòn xóc, mã tấu, kiếm, dao găm vung lên, đầu Tây lìa khỏi cổ. Thời chống Mỹ, trung đội dân quân gái của xã đã từng được đài báo loan tin hạ máy bay F4 của Mỹ bổ nhào vào ném bom thị xã. Không rõ thực hư những viên đạn K44, CKC, trung liên cánh dân quân đặt súng ở mả Bà Tạ bên sông có bắn trúng máy bay phản lực Mỹ thật hay không, nhưng cả xã cả huyện làm cỗ mừng công vì nhận được thư của cấp trên khen. Phần thưởng là một con lợn nặng ngót tạ của phòng thương nghiệp huyện bán theo giá phân phối đem về khao cán bộ, dân quân du kích. Nhưng điều này là có thật. Đồng Tiến là một trong những xã của tỉnh có nhiều con em tham gia đi bộ đội vào Nam. Thương binh liệt sĩ đông nhất. Hợp tác xã Đồng Tiến cũng có lúc được nhận cờ thi đua xuất sắc trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, giỏi về nuôi bèo hoa dâu, làm phân xanh, năng suất lúa năm nào cũng đạt trên 5 tấn. Đấy là vào những năm “70” lúc phong trào “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, giải phóng miền Nam”, “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” đang dâng cao. Rồi từ đó phong trào thi đua, khí thế ở Đồng Tiến tự nhiên sút giảm hẳn. Có năm chi bộ thôn Lôi bị kỷ luật cảnh cáo. Đảng ủy xã bị khiển trách. Lý do không hoàn thành nhiệm vụ, làm thất thoát tài sản hợp tác xã. Đảng viên đánh nhau vì chia công điểm thiếu công bằng. Tuyển quân không đạt chỉ tiêu. Chủ nhiệm hợp tác xã ngủ với kế toán trưởng bị nhân dân tóm được. Vân vân và vân vân. Trong các cuộc họp của huyện, cái tên Đồng Tiến ít được nhắc đến. Hoặc nếu có được nêu gương, toàn rơi vào mục khuyết điểm, yếu kém. Hai kỳ đại hội, cả xã không ai trúng vào huyện ủy. Thế thì tệ quá!

Trong một vài kỳ họp Đảng bộ xã, thảng hoặc có một vài ý kiến, chủ yếu của các cụ lão thành, cựu chiến binh nêu ra câu hỏi chất vấn bí thư Đảng bộ về sự sút kém trong các phong trào thi đua của xã. Song dường như những ý kiến ấy ít được trả lời một cách đầy đủ, thuyết phục và bị lọt thỏm trong những cánh tay giơ lên biểu quyết những chỉ tiêu, con số. Nào là diện tích sản xuất vụ Đông, sản lượng lúa mùa, chỉ tiêu tuyển quân, xây làng văn hóa, cải tạo kênh mương, đường sá… Chuyện ấy cấp bách hơn nhiều ở một xã, một huyện vào thời kỳ đất nước vừa đi qua những cơn binh lửa ở miền biên giới Tây Nam và cả vùng biên giới phía Bắc. Nghị quyết quan trọng với một cấp ủy Đảng lúc này là phải lo cái ăn, cái mặc, lo cho sự học hành, công ăn việc làm cho con cái. Những câu chuyện cũ của làng Lôi chỉ còn nằm lại trong kí ức của vài người quanh bàn trà, điếu thuốc. Hoặc ở một vài người già, buổi trưa trời nóng không ngủ được, các cụ ra ngồi quanh gốc si già cạnh quán cắt tóc của cụ Sự, nói chuyện vãn.

Và theo cái lý của cụ Sự, phong trào thi đua của Đồng Tiến thụt lùi còn liên quan tới vụ cháy làng Lôi năm 1975, khiến cho 16 ngôi nhà tranh phát hỏa.

Trận cháy làng Lôi đến nay nhiều người cũng đã quên. Quên vì làng quê nay đã đổi khác. Đố ai tìm ra được những ngôi nhà tranh vách đất thấp bé lụp xụp mọc như nấm trong làng ngày trước. Cả làng bây giờ bói không còn nhà nào có đống rơm, chuồng trồ (nhà xí) thối um. Ở làng Lôi không còn hình ảnh những đứa trẻ, người già mỗi khi đi đại tiện ngồi chênh vênh trên những đoạn tre bắc cầu, bất kể mưa nắng. Con đường làng ngày trước sau cơn mưa lầy lội, nhoe nhoét vết chân người, chân trâu, cứt chó. Bây giờ đường làng bê tông hóa, vào tận cửa. Nhà nghèo nhất cũng đã xây gạch, lợp ngói. Nhà có tiềm lực kinh tế khá hơn nay đã có nhà xây 2 tầng, 3 tầng. Gia đình thuộc diện chính sách, hộ nghèo đã có nhà tình nghĩa. Điện thắp sáng cả làng. Sáng cũng như đêm tiếng loa phóng thanh của xã, tiếng tivi chen lấn tiếng nhạc xập xình của vài quán karaoke, nghe đau cả đầu.

Về sự cố cháy làng Lôi, theo cụ Sự, làng ít nhất có ba vụ cháy lớn. Trận cháy thứ nhất xẩy ra vào những năm “50” khi giặc Pháp càn vào vùng tự do liên khu III. Để tiêu diệt cán bộ du kích, chúng đốt sạch các làng. Vụ cháy thứ thứ hai xảy ra vào năm 1967. Máy bay Mỹ vào ném bom Nam Định, Thái Bình, lúc bay ra biển qua làng Lôi chúng trút bom thừa, thiêu cháy quá nửa làng. Trận cháy thứ ba ở làng Lôi không do bom đạn địch nào gây ra cả. Nửa đêm, cả làng hoảng loạn vì cháy nhà. Một nhà cháy loang ra cả xóm, lan tới cả kho xăng của chính phủ. Kho xăng nổ to như bom, làm chết bốn người, trong đó có con trai của ông Bí thư huyện ủy đang ngồi đánh bài, uống bia mừng ngày giải phóng.

Cuốn sử biên niên của xã Đồng Tiến do mấy anh tuyên giáo của tỉnh về chấp bút, khi viết về làng Lôi không ai ghi lại chuyện ấy. Đám thanh niên trai tráng ở làng, mỗi khi nghe những người già ngồi nhắc chuyện cũ, có đứa tỏ ra khinh thị “Các cụ già sắp gần đất xa trời để làm nhi đồng ngoài nghĩa địa hay hoài vọng quá khứ”.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Tư, 2019, 04:13:54 pm
Đám cháy sau cùng của làng Lôi bắt đầu từ nhà ông Đệ. Đệ là gọi theo tên anh con trai đầu, tên thật của ông là Đê. Vợ là bà Mít. Đấy là kết luận của mấy anh công an huyện cùng với cán bộ xã sau khi điều tra hiện trường ghi trong tờ biên bản gửi lên cho cấp trên: “Lửa bén từ mái nhà tranh vách đất của ông bà Đệ, cháy lan sang đống rơm hợp tác xã, gặp gió, đống rơm bén lửa cháy sang đám cây ngô dựa quanh bờ rào, bén vào dây điện. Điện chập nổ, cháy sang nhà ông Kha, ông Hoạt, bà Bèo, nhà ông Dĩnh, ông Mẹo…rồi lan sang kho xăng. Trạm xăng nổ. Lửa bắn tung tóe, cháy thêm 9 ngôi nhà dân quanh xóm”. Đấy là những dòng được trích nguyên văn từ tờ giấy vở học trò được xé ra làm biên bản ghi lại vụ hỏa hoạn ở làng Lôi. Còn chuyện bốn người cán bộ “hi sinh” trong vụ hỏa hoạn, trong đó có anh con trai của đồng chí Bí thư huyện ủy chết oan được ghi vắn tắt: “Hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ”. Theo dân làng kể lại, người ghi biên bản không ghi chuyện họ sát phạt đỏ đen, đánh chén mà được thay bằng hình ảnh họ ngồi “trực cơ quan” và đang bàn luận tin tức thời sự miền Nam giải phóng. Thủ phạm gây ra vụ cháy nhà ở làng Lôi theo kết luận điều tra là do bà Mít “đánh đống dấm, lửa bén vào bức vách rồi bốc cháy”.

 Sau đêm cháy nhà, dân quân du kích, công an, cán bộ xã chia nhau đi truy tìm thủ phạm suốt mấy ngày trời. Dò hỏi tin tức khắp nơi. Họ như muốn đào tung cả đất làng Lôi để đưa bằng được bà Mít về tống giam, nhưng chẳng ai nhìn thấy bà già ở đâu. Giả thuyết cho rằng bà Mít, người gây ra vụ cháy đã chết cháy. Trong một báo cáo của xã gửi lên huyện cũng ghi rằng bà Mít, người gây ra vụ cháy đã chết cháy. Nhưng những người hay chuyện lại bàn, chết cháy thì còn xương cốt. Đám tro tàn của ngôi nhà tranh hai gian ba chái người ta chỉ đào bới được vài mảnh chum, mảnh bát vỡ vụn. Chiếc mâm đồng bị lửa uốn cong nằm lăn lóc giữa ba ông đồ rau bằng đất, lửa nung rắn như gạch. Vậy bà Mít đi đâu? Không rõ!

 Nửa tháng sau, một cô bé đi cắt cỏ dọc bờ sông Cọi tình cờ tìm được một chiếc quần nái đen, tấm áo cánh nâu đã cũ giấu trong lỗ chuột dưới gốc một bụi dứa dại. Cô bé tưởng vớ được của, giấu vội mớ quần áo vào trong gánh cỏ đem về khoe với mẹ. Bà mẹ trẻ đang là phó chủ nhiệm hợp tác xã nhận ra đấy là bộ quần áo của bà Mít. Tại cuộc họp của Đảng ủy xã, đồng chí công an xã kết luận: “Bà Mít sợ tội nhẩy xuống sông tự tử!”.

 Thêm một lí do thứ hai ông Sự cho rằng làng Lôi phong trào đi xuống còn có một nguyên nhân là anh con trai của cụ Đê, bà Mít chiêu hồi theo giặc. Vết nhơ này, khởi nguồn từ sau cái ngày thằng Ca, con ông Cà ở làng trở về thăm gia đình vào một ngày đầu tháng 10 năm 1975.

 Làng Lôi có 78 anh con trai nhập ngũ vào Nam đánh giặc. Ca là người thứ ba mới trở về quê sau ngày giải phóng, lại từ Sài Gòn ra. Đây thực sự là niềm vui, niềm tự hào của cả làng, cả xã. Ca béo tốt hồng hào, tươi tắn, trông có già đi so với ngày còn ở đội sản xuất. Nhưng thế mới ra anh bộ đội giải phóng vượt qua bao gian khổ, chết chóc hiểm nguy, có ngày trở lại quê hương. Ca không đeo sao, đeo lon nhưng cả xã biết anh ta đã là thượng sĩ, trung đội trưởng một đại đội của một sư đoàn đánh vào Sài Gòn. Như ngàn vạn những người lính được về phép thăm cha mẹ, làng xóm sau chiến tranh, Ca nhận được 45 đồng tiền cửa rừng, một ruột tượng gạo, gói mỳ chính, chút ruốc bông mặn chát… đủ để hắn có lương thực ăn đường, mua ít gói kẹo và một vài thứ quà về thăm quê. Theo lời khuyên của một vài anh có kinh nghiệm, Ca chọn mua cái khung xe đạp, một con búp bê nhựa, vài ba cái khăn voan về làm quà cho gia đình. Thế đã là oách. Con búp bê nhựa của Ca mua ở chợ Bến Thành to bằng đứa trẻ lên 2, mặc áo váy hồng, mở mắt, nhắm mắt được. Mấy trăm đứa trẻ con ở làng Lôi chưa đứa nào có được con búp bê to và đẹp như vậy. Con búp bê đặt ở giữa sân, trẻ con, người lớn quanh xóm đến xem con búp bê vòng trong vòng ngoài vì lạ. Nhân tiện họ hỏi chuyện thằng Ca về những người con, người em của họ cũng đi Nam xem còn sống hay chết. Một vài người có con em cùng nhập ngũ với Ca một ngày, biết tin người thân hi sinh thì buồn, nhìn Ca mà thương con nhớ cháu. Nhiều người đến nghe Ca kể chuyện ngày giải phóng Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn. Chuyện người Sài Gòn ăn ở ra sao, mặt thằng lính Ngụy ngang dọc thế nào. Những ngày tháng Năm năm 75, ở làng Lôi cũng vui như Tết. Tin giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, non sông liền một dải như ngọn gió lành xua đi những tháng năm mong ngóng chờ đợi. Hết rồi bom đạn chiến tranh, hết rồi giặc giã. Con em họ sau bao năm xa nhà nay đang trên đường trở về quê hương.

 Vào cái đêm thứ 4, khách đã vãn, ông Đê tìm đến nhà Ca. Bà Mít cẩn thận nhét vào tay chồng nải chuối để làm quà cho cháu. Chưa uống xong bát nước chè xanh, Ca nhìn ông Đệ đắn đo.

 - “Cháu báo để bác biết tin này nhé. Anh Đệ nhà bác chưa chết! Anh Đệ còn sống…Cháu nhìn thấy anh ấy còn sống”.

 Nghe Ca nói vậy, ông Đê bủn rủn cả chân tay, bát nước chè xanh đang cầm trên tay rơi xuống đất. Ông Đê nói như người mất hồn:

 - “Có thật không cháu? Có thật cháu bảo anh Đệ nhà bác còn sống? - Ông Đê lắp bắp hỏi lại.

 Cây gậy đuổi chó tựa ở mép bàn bị một bàn tay của ông gạt rơi xuống đất. Chỉ nói được đến đấy, ông Đê tự nhiên thấy hoa mắt, loáng choáng. Ngọn đèn điện treo lủng lẳng trên đầu quay cuồng, mắt nổ đom đóm. Ông ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự…


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:01:46 pm
2

Chuyện kể rằng:

Những người già cả ở làng Lôi vẫn còn nhớ mùa đông năm 1970, làng Lôi, làng Muộn, làng Kẹo, làng Tằm có một ngày buồn. Trời rét căm căm, theo lịch của đội sản xuất, hôm ấy cả làng phải ra đồng đổ ải. Đột nhiên buổi sáng ấy chiếc loa phóng thanh treo trên ngọn cây gạo đầu làng phát đi bản tin của xã yêu cầu một số gia đình xã viên không ra đồng, lên tập trung ở trụ sở xã… Giọng cô Na, một phát thanh viên của xã vừa chua, vừa nói ngọng, trang trọng mời bẩy gia đình ở làng Lôi, hai gia đình làng Muộn, năm gia đình bên làng Kẹo, mười một gia đình bên làng Tằm lên xã để nhận tin báo tử và làm lễ truy điệu cho con em liệt sĩ.

Hai mươi nhăm cái tang cho một xã vùng duyên hải. Hai mươi nhăm người con của quê hương đã bỏ mình vì nước trong chiến dịch Tổng tấn công Mùa xuân năm 1968, một số hi sinh năm 1969. Trong số ấy, có Đệ – anh con trai duy nhất của ông Đê. Nhưng còn một trăm bốn mươi mốt gia đình của xã Đồng Tiến lo lắng hơn. Những gia đình này đều có con vào Nam, phần đông con cái họ từ ngày đi B không có tin tức, thư từ gì gửi về cho gia đình. Miền Nam xa xôi cách trở. Nghe đài báo tin Mỹ ném bom khu IV, Vĩnh Linh, Quảng Bình, Thanh Hóa,… Cầu Hàm Rồng bị bom Mỹ ném đêm ngày. Đường Trường Sơn bị máy bay bắn phá. Nhưng khi hỏi Hàm Rồng ở đâu, Đồng Lộc ở chỗ nào chả mấy người dân làng Lôi biết chính xác. Ngoại trừ một vài người dân làng đi thoát ly làm công nhân, cán bộ, số đông thanh niên đi bộ đội, thanh niên xung phong còn người trong làng chả mấy ai đi xa khỏi lũy tre làng…

Lễ báo tử cho những người con của làng Lôi diễn ra trang trọng, gọn nhẹ thích hợp với thời chiến. Vả chăng, việc xã báo tử cho con em của người trong xã cũng đã quen rồi. Năm nào chả có những cuộc báo tử như vậy. Các gia đình, người thân có con em hi sinh được mời lên trụ sở của xã, hợp tác xã để nghe thông báo. Không kèn đám ma. Không cỗ bàn rình rang. Không dựng rạp. Không lợn kêu eng éc. Và thậm chí vắng cả tiếng khóc than, kêu gào của những người mẹ, người vợ, người chị. Người thân yêu chết thì cũng đã chết rồi. Chết ở phương trời nào, trong chiến trận hay chết vì sốt rét. Chết vì dính mìn, chết vì vào làng gặp đám bảo an, dân vệ phục kích khi đi lấy gạo. Chết vì đánh cá. Chết vì cây đổ trong giông bão, sập hầm vì pháo… Tất cả được gói gọn trong mấy chữ “hi sinh tại mặt trận phía Nam”. Đơn giản và dễ hiểu xiết bao. Những đứa con của làng Lôi hi sinh vì nghĩa lớn, vì đất nước và dân tộc. Giọng đọc của ông bí thư Đảng ủy xã thật thống thiết trước mặt các gia đình liệt sĩ và đại diện của các cơ quan quân dân chính đảng. Từng người, từng người một hết làng này sang làng khác. Tên những người liệt sĩ được nêu danh giống như những cuộc điểm danh một ngày không xa, anh cán bộ tuyển quân kêu từng người đi nhập ngũ. Từng gia đình cha mẹ con cháu dặn nhau, nhớ lấy cái ngày người thân hi sinh để mà làm giỗ. Có nhà có ảnh để thờ con. Nhiều nhà không có ảnh con để thờ. May mắn thay những tấm ảnh thờ liệt sĩ ở làng Lôi, anh nào cũng trẻ đẹp. Thanh niên trai tráng tuổi 18, đôi mươi. Những ngày luyện quân ở Hà Bắc, Yên Tử, ngày nghỉ, chủ nhật cố ra đến thị trấn huyện để ăn lấy một tô phở bò và chụp lấy một tấm ảnh làm kỉ niệm. Chao ôi! Những tấm ảnh thời chiến chỉ to bằng ba đầu ngón tay. Ảnh đen trắng. Anh nào cũng quân phục sáng láng. Các nghệ sĩ nhiếp ảnh của phố huyện lấy bút chì cu lơ tô xanh, tô hồng. Anh lính nào cũng vui và tự hào có được một tấm hình để gửi về cho cha mẹ, anh chị, người yêu.

Việc Ca được về làng thăm gia đình vào cuối năm 1973 là một sự kiện chấn động cả một vùng. Ngày ấy Đông Hà đã giải phóng và trở thành một địa điểm quan trọng của mặt trận giải phóng và chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là thời điểm sau hiệp định Pari đã được kí kết. Mặt trận Trị Thiên Huế, quân ta và quân Ngụy đang ở thế “hòa hợp”, cài răng lược, cắm cờ giữ chốt, giữ các vùng đất đã chiếm đóng được. Thị trấn Đông Hà được cánh lính giải phóng Trị Thiên gọi đùa là Thủ đô kháng chiến. Trong khi đó cách Đông Hà hơn chục cây số đã là sông Thạch Hãn, thành cổ Quảng Trị, các đơn vị quân giải phóng chủ lực và địa phương đang căng ra giữ chốt, phía đối diện là các sư đoàn chủ lực của Ngụy. Thị trấn Đông Hà tấp nập các sắc áo lính. Chợ Đông Hà lại tiếp tục mở cửa bán cả hàng của ta và đồ của Ngụy. Có lương khô, bột trứng, mì chính bán cả thùng. Ở một vài quán tạp hóa bán cả khăn voan, xà bông cục của Mỹ, bật lửa zippo…Lạ mắt nhất có lẽ là những cuốn album có hình các cô gái đẹp, ăn mặc hở hang. “Đúng là đồ văn hóa tư bản!”. “Tiên sư nó, thế này thì đánh đấm gì”. Một anh lính chửi tục nhưng mắt vẫn còn ngơ ngác vì có lẽ là lần đầu tiên trong đời anh được chiêm ngưỡng vật lạ của người phụ nữ.

 Khốn khổ cho thằng Ca, trong đáy ba lô bẩn thỉu hôi hám của nó ngoài mấy phong lương khô, lạng mì chính mang về cho mẹ, cu cậu có được một cuốn album nhấp nháy, mua với giá 12 đồng ở chợ Đông Hà. Cô em gái lục túi ba lô để giặt giũ quần áo cho anh, vô tình nhìn thấy cuốn album có hình cô gái khỏa thân, cô bé rú lên như cháy nhà. Cha Ca đang ngồi hút thuốc lào vặt ở ngoài hè, tưởng có chuyện gì chạy vào, nhìn thấy cuốn album, biết chắc đây là “sản phẩm của lũ đế quốc Việt gian bán nước”, đầu độc con trai ông, giận quá ông thuận tay xé cái roạt cuốn album ra làm đôi và vất tấm ảnh vào lửa. Thằng Ca đang ngủ chợt thức dậy, biết chuyện vừa ngượng vừa xấu hổ với cha và cô em gái. Nó đường đường là một anh cán bộ tiểu đội phó, đảng viên lại đi mua cái thứ sản phẩm độc hại của Mỹ - Ngụy tha về làng. Ca ngậm tăm, ngồi phì phèo điếu thuốc lá, mặt đuỗn ra như một đứa đi ăn cắp vặt bị bắt tận tay.

Nhưng vốn là một đứa tháo hoạt, những lúc bà con cô bác hàng xóm láng giềng sang thăm hỏi chuyện chiến trường, Ca trở thành một nhân vật quan trọng trong các câu chuyện kể về những anh lính giải phóng cùng đơn vị. Những câu chuyện bộ đội lần đầu tiên được nhìn thấy những tên lính Mỹ, nhẩy xuống từ những chiếc trực thăng chiếm cứ điểm, đến những chuyện lính Mỹ cởi truồng nhẩy múa trên đỉnh đồi để tắm tập thể. Nước như những cái vòi rồng phun ra từ những chiếc trực thăng H34 to như tòa nhà treo trên lưng trời. Đến chuyện thằng Ca bò vào chốt Mỹ để lượm hộp, cà phê thuốc lá và nhặt được cả những con đàn bà bằng cao su to như người thật lính Mỹ mang theo khi hành quân… (Không biết những chi tiết này thằng Ca kể cho thêm phần hấp dẫn hay hắn bịa bởi hắn chưa bao giờ làm lính trinh sát, đặc công!). Khổ nỗi người làng Lôi vốn thật thà tin người, nghe một người lính bằng xương bằng thịt từ chiến trường ra, từng là đồng đội với con cái họ, ai chả tin? Thầy mẹ Ca tự hào vì có một cậu con trai đã trưởng thành sau những năm được quân giải phóng đào luyện. Người nghe những câu chuyện của Ca cũng không ai biết thực đâu là Dốc Miếu, hay Dốc Mèo, A Vao, A Sầu, A Lưới. Nhưng nghe chuyện ta thắng Mỹ thua, quân Ngụy bị bắt hàng xâu hằng xốc, nghe chuyện bộ đội “cắm cờ, giành đất giành dân”, nghe chuyện bộ đội giải phóng cãi nhau tay đôi với tụi tâm lý chiến của sư đoàn thủy quân lục chiến, lính dù ở Phong Sơn, Hiền Sĩ về những điều khoản trong hiệp định Pari, tụi tâm lý chiến chịu thua đã là sướng lắm rồi. Những người nông dân ở làng Lôi chưa bao giờ được nghe những chuyện ấy, báo đài càng không thấy nói, hoặc có nói họ cũng chả được nghe… Câu chuyện của Ca kể về chiến trường một đồn mười, mười thành trăm, lên đến cả huyện ủy, huyện đội. Anh bí thư đoàn huyện, vốn là một thương binh ở khu IV, tìm về tận làng Lôi mời bằng được Ca về huyện nói chuyện cho thanh niên nghe một buổi cho đã thèm.

Thằng Ca có lúc cười thầm, tự thấy mình là một nhân vật quan trọng trong những ngày về phép. Hắn chỉ là một anh quản lí đại đội, về làng oai ra phết. Chuyện đánh đấm ở Quảng Trị, Thừa Thiên, ở khu V, Ca nghe kể từ miệng những người lính, thiếu gì? Ba tháng Ca nằm an dưỡng ở Mường Loòng, một tháng chữa vết thương ở viện 94 đủ cung cấp cho hắn cả một kho chuyện của chiến sĩ ta ở chiến trường. Những ngày bám giáp ranh ở Hương Trà, Phong Quảng, dù không phải đi bám địch, đi chốt gác hàng ngày như những anh lính bộ binh thứ thiệt nhưng Ca cũng thấm thía cuộc sống đích thực của một người lính bộ binh. Hắn cũng đã từng ăn cơm nắm, chấm muối đậu phộng. Từng đi gùi đạn gùi gạo, từ đường tuyến về kho của tiểu đoàn bên kia sông Bồ. Nhiều lần hắn về làng mua gạo thực phẩm cùng với cánh du kích địa phương… Những ngày chạy địch càn dưới chân đồi Chổi, đồi Chóp Nón, những đêm ngồi chịu trận nghe pháo Tứ Hạ, pháo Đồng Lâm bắn vào hậu cứ, đếm xác những đứa chết, đứa bị thương… Ca đều chứng kiến cả. Câu chuyện của Ca kể cho dân làng Lôi nghe tươi rói, không cần thêu dệt. Nhưng thằng Ca không biết điều này. Những người dân làng Lôi đến thăm hắn, nghe kể chuyện chiến trường, với họ chẳng quan trọng gì. Họ đến chủ yếu để được nhìn tận mắt một anh lính giải phóng đích thị là người làng Lôi còn sống trở về. Nhìn Ca để nhận lại hình hài con cháu họ, người còn, kẻ mất ở đâu đó chưa về.

Chỉ riêng việc thằng Ca trời xui đất khiến thế nào mà vào đến chiến trường Trị Thiên được phân công về cùng một đại đội với Đệ, con cụ Đê, đã là chuyện hi hữu. Ca đi bộ đội năm 1968. Còn anh Đệ nhập ngũ đi chiến trường từ những năm 1963. Khi Ca về đơn vị bộ binh, KX, công trường V, Đệ đã là đại đội phó đại đội 3. Thằng Ca nhờ có trình độ văn hóa hết lớp 9 nên được phân công làm công tác quản lý đại đội. Chuyện Đệ hi sinh ở một làng ven đô Huế nhiều người trong tiểu đoàn biết. Thậm chí đại đội 3 và tiểu đoàn bộ đã làm lễ truy điệu cho Đệ sau trận đánh về xóm mới Bầu Tháp, gần thôn Triệu Sơn, đại đội 3 tiêu diệt đại đội Hắc Báo của Ngụy về đóng dã ngoại ở làng. Ca nhớ thuộc lòng cái tên làng Triệu Sơn và ít nhất hắn cũng có đôi ba lần về Triệu Sơn mua gạo, đậu phộng. Cả vùng Hương Trà vào mùa dỡ đậu phộng (quê hắn gọi là củ lạc), nhà nào cũng có hàng vài chục bao đậu phộng để bán. Bán đậu phộng cho nhà buôn lãi một, bán cho “Việt Cộng” lãi gấp đôi, gấp ba. Bộ đội du kích về làng không gặp địch vào được dân đã là sự may mắn. Lại còn mua được gạo, đậu phộng, đường, kẹo nuga, mè xửng, mì chính, dầu đậu nành của Mỹ còn ao ước gì hơn. Trong kí ức của Ca vẫn còn nhớ tới hình ảnh cây bông đồng ở đầu làng xóm Mới, Bầu Tháp như là một điểm để bộ đội, du kích định hướng trong đêm tối. Thằng Ca nhớ thuộc lòng lời dặn của o Lành, một cán bộ xã thường đưa bộ đội về mua gạo trong dân:

“Em nhớ, ngọn đèn đỏ phía tê là Huế. Còn ngọn núi nhọn nhô lên như núm vú của chị em là đỉnh hòn Vượn. Một núm vú thấp hơn là hòn Chóp Nón. Dải đồi cao cao kia giống hình người đàn bà nằm là hòn Dài. Có đánh nhau, gặp phục kích chạy lạc đường, “đồng chí” cứ chạy vào giữa hai núm vú là gặp đường trục để về hậu cứ, nghe rõ chưa?”.

O Lành nhỏ người, đôi mắt lanh lợi, có nụ cười duyên, gương mặt hiền hậu, trông vậy nhưng o đã là bí thư xã. Lần đầu tiên thằng Ca về đồng bằng để mua lương thực, nghe chuyện hay gặp phục kích của đám lính bảo an, dân vệ, lại nghe những phương án tác chiến tưởng như sắp có đánh nhau đến nơi, hắn hơi hoảng. Hoảng cũng phải đi. Quân lệnh như sơn! Cả đại đội hắn phải đi. Lẽ nào hắn là người quản lí, giữ tiền để xuống đồng bằng mua thực phẩm lại không có mặt. Bắt đầu từ hậu cứ dốc Tranh, cánh quân đi đồng bằng cuốc bộ ròng rã ba tiếng mới tới cửa rừng. Lính trinh sát đi trước bám đường, bộ đội, du kích, cán bộ xã rồng rắn bám đuôi theo nhau. Trời sẩm tối, đoàn người phải đi thêm ba tiếng nữa mới tới được con đường sắt, nếu không có địch, vượt quốc lộ số 1 để vào làng.

Biết Ca là người cùng làng với anh Đệ, o Lành đã có lần nói với hắn:

- “Ấp tối qua mình vô mua gạo là ấp chiến lược Triệu Sơn. Ấp ấy năm trước anh Đệ, chỉ huy đại đội 3, người cùng làng với em về đánh tụi Hắc Báo bị hi sinh ở đó”.

Nghe o Lành nói, Ca khẽ thở dài.

- “Tội nghiệp anh Đệ, con cụ Đê. Có dịp nào về lại làng em sẽ kể lại cho gia đình nghe”.

Câu hứa vu vơ với o Lành năm nào, ai ngờ giờ đã thành sự thực. Đêm nay, thằng Ca đang ngồi giữa làng Lôi kể chuyện chiến trường cho cả làng nghe. Mãi tới khuya, khách vãn. Con chó mực sủa gầm gừ ngoài đầu cổng rồi lát sau thấy cụ Đê lọc cọc chống cây gậy vào nhà. Cụ đặt lên bàn chục trứng và hai nải chuối ngự. Cụ nói như phân bua với thầy mẹ Ca:

- “Bà lão nhà tôi nhất quyết bắt tôi sang biếu ông bà chục trứng để tẩm bổ cho cháu. Còn đây là bánh thuốc lào bác cho, mai mốt cháu mang vào làm quà cho anh em”.

Mẹ Ca nguây nguẩy:

- “Hai bác làm vậy là chúng tôi không vui đâu… Cháu ở xa về, bác sang thăm là quý rồi”.

Cụ Đê ngồi xuống chiếc ghế đẩu nhìn Ca:

- “Bác sang thăm cháu, thấy cháu khỏe là bác mừng. Nhân thể hỏi cho rõ ngọn ngành về anh Đệ nhà bác. Nghe nói cháu với anh Đệ cùng đơn vị”.

Thằng Ca nghe nhắc đến Đệ, thực sự xúc động. Hắn im lặng một lát rồi nói.

- “Anh Đệ nhà bác là cấp trên của cháu. Lúc cháu vào đơn vị, anh Đệ đã hi sinh rồi. Các anh chị cán bộ, du kích biệt động huyện kể chuyện cho cháu nghe về trường hợp anh Đệ hi sinh trong trận đánh với tụi lính “Hắc Báo” ở xóm Mới Bầu Tháp thôn Triệu Sơn. Anh Đệ bị trúng mìn của địch gài, đơn vị không tìm thấy xác”.

Nghe Ca kể cụ Đê chết lặng. Cha mẹ Ca cũng cúi đầu im lặng. Một lúc lâu sau cụ Đê nói:

- “Xã cũng đã báo tử anh Đệ nhà bác rồi. Cả làng đều biết. Bác sang đây chỉ để nghe chính cháu nói cho rõ ngọn ngành… Cũng là để cho bác và bác gái yên lòng. Từ ngày anh Đệ mất, đêm nào bà ấy cũng ngồi cầu kinh niệm Phật. Đi cúng hết chùa này sang chùa khác. Tội nghiệp bà ấy, chỉ vì thương con…”.

Cụ Đê đứng dậy chào cha mẹ Ca, cầm cây gậy xua chó, lững thững đi ra cổng. Đấy là vào một đêm đông giá rét. Chỉ vài ngày nữa là đêm giáng sinh. Cụ Đê nhẩm tính, vậy là Đệ, anh con trai duy nhất của cụ mất đã hơn ba năm… “Nó chết mất xác… Không biết hồn phách giờ nằm ở nơi đâu… !”. Nghĩ vậy mà cụ ứa nước mắt.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:03:35 pm
3

Nghe tin động trời, Đệ – anh con trai còn sống, ông Đê ngất xỉu. Tưởng ông chỉ bị trúng gió nhẹ mà hóa nặng. Ca và mấy thanh niên khiêng ông Đê về được tới nhà, người ông nóng hôi hổi như lên cơn sốt, chân tay co giật đùng đùng, sùi bọt mép. Bà Mít nghe chuyện Ca kể, biết con trai còn sống, nửa tin nửa ngờ. Bà càng hoảng loạn khi nhìn thấy ông chồng già bất tỉnh nhân sự. Bà cùng với cô cháu gái ở nhà kế bên ra vườn hái ngải cứu, rang cám nóng đánh gió cho chồng. Lúc ông Đê đã nằm yên, hơi thở khò khè, bà Mít mới tranh thủ ra bàn thờ thắp vội tuần nhang, len lén nhìn lên tấm ảnh con trai. Bà không quên khấn thầm trong bụng.

- “Con khấu đầu lạy tạ Đức Ngọc Hoàng thượng đế, cùng các vị thần hai bên tả hữu. Khấu lạy Đức Phật Tổ Như Lai, Đức Phật Bà Quan Âm Bồ Tát đại từ đại bi. Khấu lạy hương hồn liệt tổ liệt tông hai bên nội ngoại… cầu cho chồng con là Bùi Văn Đê tai qua nạn khỏi… cầu cho cái tin chú Ca về báo con trai con còn sống là sự thật. Thằng Đệ nhà con có là người, hay là ma cũng xin cho mẹ con còn có ngày gặp nhau. Đức trời Phật cao sâu xin soi thấu lòng con”.

Quá nửa đêm, ông Đê hơi tỉnh mở he hé mắt. Bàn tay ông khua nhẹ, ra ý đòi uống nước. Bà Mít nâng đầu chồng dậy ghé bát nước cháo vào miệng chồng. Hớp nước chưa nuốt trôi, ông Đê bỗng hộc lên một tiếng. Máu mũi, máu mồm ộc ra thấm đầy vạt áo. Bà Mít cuống cuồng không biết kêu ai. Cô cháu gái đã về bên nhà. Bà quơ vội lấy cây đèn chai chạy sang nhà hàng xóm tìm người cứu giúp.

Ba thanh niên trai làng và bà Mít đưa được ông Đê lên tới bệnh viện huyện đã hơn bốn giờ sáng. Một người cầm đuốc đi trước, tắt qua cánh đồng làng Vàng, dọc theo bờ con mương để ra thị trấn huyện. Những người thầy thuốc thật tốt bụng, thấy ca cấp cứu giữa đêm hôm khuya khoắt, gọi nhau trở dậy chung tay cứu chữa. Người đo mạch, người lo kim tiêm, ống thở ôxi…Ông Đê vẫn nằm yên bất động. Người ta biết ông vẫn còn sống qua mạch đập yếu ớt và miếng bông đặt trên mũi ông lay động nhẹ.

Bà Mít bán đi tạ thóc được hợp tác xã chia cho sau vụ gặt, chạy thuốc thang, cơm cháo cho ông Đê. Thuốc men, cơm cháo nuôi người ốm ở bệnh viện huyện, bệnh viện tỉnh cũng chỉ cầm cự được đúng hai mươi mốt ngày, họ trả ông Đê về. Ông chưa chết nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Lúc mê lúc tỉnh. Ông Đê không ngồi dậy được nữa. Uống chút nước cháo, nước gạo rang đều phải nằm, hoặc có người đỡ lưng mới tựa được vào chiếc thành giường nhưng cũng chỉ được chốc lát. Đôi mắt ông vẫn mở, nhìn cảnh vật lờ đờ, mờ ảo. Cũng chỉ tỉnh được một lúc rồi như thể ông trôi vào thế giới mộng mị hoang tưởng. Những lúc tỉnh ông Đê không nói được, muốn điều gì hay gọi người nhà chỉ thấy ngón tay khua nhẹ ra dấu. Rõ thật tội.

Tất cả mọi việc đồng áng, đi chăn con bò khoán của hợp tác xã lấy công, chợ búa cơm nước cho đến việc chăm sóc người ốm tất cả một tay trông vào bà Mít. Vài đứa cháu họ ở quanh trong làng rảnh rỗi lúc nào chạy sang đỡ đần người ốm. Việc nhà nông ai cũng bận cả. Nhà nào cũng còn có con cái, gia đình, sớm chiều ngong ngóng tiếng kẻng hợp tác xã để đi làm lấy công điểm. Đêm đêm bà Mít ngồi nhặt từng gốc tre già, cành củi khô vơ ngoài vườn sắc thuốc lá cho chồng. Ngồi trầm ngâm bên bếp lửa, chốc chốc bà lại nhìn ông nằm đắp chiếu ở một góc nhà coi thức hay ngủ, lòng thầm khấn nguyện trời Phật cho ông tai qua nạn khỏi. Những giọt nước mắt âm thầm chảy khi nghĩ tới chồng, nghĩ tới con. Nhiều lúc bà nhìn tấm ảnh Đệ trên bàn thờ, đầu óc nghĩ mông lung không biết Đệ còn sống thật hay đã chết. Điều thằng Ca nói về số phận của đứa con trai không biết thật hay giả? Bà cất nên lời ai oán.

- “Con ơi! Con sống khôn chết thiêng. Con sống thật hay chết giả mà chỉ một lời của thằng Ca để cha mẹ con chịu nỗi khổ này?”.

Lời cầu khấn và cả tiếng khóc của bà Mít chìm đi trong tiếng mưa rơi nặng hạt ở ngoài sân. Trời đêm, chớp sáng xanh lè. Một tiếng sét nổ đinh tai đâu như ngả miếu Cây Duối ngoài cánh đồng.

Bà Mít, ông Đê hẳn không biết điều này. Chuyện anh Đệ, “con ông Đê, bà Mít ở xóm Đình làng Lôi còn sống!” từ cửa miệng thằng Ca chỉ ít hôm đã loang ra cả vùng. Một vài gia đình ở các làng có con đi bộ đội vào Nam, người hi sinh, người chưa có tin tức nhiều năm nay kéo về làng Lôi để tìm gặp Ca dò hỏi tin tức về con cái họ. Ai cũng mong con cái họ có được sự may mắn như anh Đệ. Rằng còn sống, dù đui què mẻ sứt, bị thương tật nhưng miễn là còn sống để trở về gặp vợ con, cha mẹ thế là mừng. Có người ghé qua nhà bà Mít vừa để chia vui với bà, vừa chia buồn khi nhìn thấy ông Đê nằm bất động trên giường.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:08:23 pm
4

Nhiều năm sau, thằng Ca sẽ không bao giờ quên được sự kiện này. Một câu chuyện hi hữu mà chỉ một mình nó trong xã được biết. Ca đã giữ đúng lời hứa với “một anh cán bộ cấp trên”. Anh ta sau buổi làm việc với Ca đã dặn lại rằng: “Những gì cậu báo cáo với tôi và viết ra ở đây nhớ là “sống để bụng, chết mang theo”, rõ chưa? Cậu là trung sĩ, đảng viên hử? Tốt! Tôi là đại úy, cấp trên của cậu. Quân lệnh như sơn. Nhớ nghe đồng chí trung sĩ!”. Giọng anh cán bộ lơ lớ, người miền trong. Thằng Ca không biết tên anh đại úy, cũng chả rõ ở đơn vị nào nhưng biết chắc là người của quân đội. Có vậy mới đeo lon đại úy.

Một buổi tối, có hai người mặc đồ dân sự đi cùng ông Ảnh, bí thư kiêm chủ tịch xã tìm đến nhà thằng Ca. Làng Lôi đêm ấy mất điện. Gia đình Ca đang ngồi ở vạt sân trước cửa nhà chuẩn bị ăn cơm tối. Mùi rau rút nấu canh cua đồng bốc khói, tỏa thơm. Thằng Ca cởi trần, vần hòn đá nén dưa cà ở góc sân để lấy cà ăn canh cua. Cha Ca, ông phó Đợi mới đi bừa về, áo quần chưa kịp thay bùn đất còn dính cả lên tóc. Ông ngồi trên thềm hè bê chiếc điếu bát rít thuốc lào khoan khoái. Mẹ Ca và hai cô em gái mới đi cấy lúa ở đồng về, đang gột quần, rửa tay chân dưới cầu ao.

Thoạt nhìn thấy ông chủ tịch xã, phó Đợi tỏ ra luống cuống, ngại ngùng.

- “Chào bác Đợi!” – Ông chủ tịch xã chủ động lên tiếng – Gia đình ta đang chuẩn bị ăn cơm chiều?”.

- “Vâng, chào bác Hoạt… Chào hai ông! Có việc gì mà các bác ghé thăm lại không cho gia đình chúng tôi biết trước thế này?”.

Ông chủ tịch và hai người khách lạ chủ động ngồi xuống bậc hè.

- “Bác mới đi bừa về, chúng tôi ghé thăm, nhân tiện thăm cậu Ca luôn”. - Ông chủ tịch thân mật đỡ lấy cái điều bát từ tay ông Đợi, rồi nói - “Đây là hai đồng chí ở huyện đội…”.

- “Quý hóa quá… Các bác quan tâm đến cháu Ca”. Ông Đợi quay ra góc sân gọi với – “Ca ơi! Có mấy anh bên huyện đội vào chơi”.

Thằng Ca nghe có khách, đặt bát cà nén vào thành bể. Nó vội rửa tay. Nước cà muối mặn chua loét, ngấm vào tay ngưa ngứa.

Ca vừa ngó mặt ra chào khách, một trong hai người cán bộ huyện đội đã nói vui:

- “Chào anh bộ đội giải phóng anh hùng! Oanh liệt quá! Những con người đã làm nên trận chiến thắng 30 tháng 4 của làng ta đây rồi. Thật vinh dự cho Đồng Tiến, làng Lôi có một người con từ chiến trường trở về”.

Thằng Ca nghe một đoạn diễn văn rổn rảng của anh cán bộ huyện đội, váng cả mặt mũi. Cu cậu xấu hổ đỏ mặt nhưng ngấm ngầm chút tự hào của kẻ chiến thắng. Dù đơn vị của hắn có là thê đội 2, không phải nổ phát súng nào từ sau chiến dịch giải phóng Trị Thiên, Quảng Đà, vào Sài Gòn sau cả chục ngày thì hắn cũng là người có được vinh dự góp mặt trong lễ duyệt binh ngày 15 tháng 5 giữa Sài Gòn hoa lệ. Trong lúc khách chủ đang tíu tít nói năng, hút thuốc ở hiên nhà, mẹ Ca và hai cô con gái ngượng ngùng với khách lạ vì quần áo ăn mặc lôi thôi, ống cao, ống thấp, tanh mùi bùn ruộng, len lén luồn vào trong bếp, thập thò nhìn ra.

Ông chủ tịch xã nói với ông Đợi:

- “Chắc cậu Ca chưa kịp ăn cơm với ông bà! Thôi khỏi! Hôm nay có cấp trên về, xã mời cơm khách và mời luôn cậu Ca đi ăn tối với chúng tôi cho vui”.

Ông chủ tịch nói với vẻ quan trọng:

- “Sau bữa cơm, cấp trên muốn trao đổi với cậu Ca vài việc”.

Chiếc xe Commăngca đít vuông đậu sẵn ở trước cửa ủy ban xã, chở gọn ông chủ tịch xã, hai anh cán bộ và Ca đi một mạch về huyện. Cũng chẳng có bữa cơm khách nào của xã. Cả đám kéo nhau vào một quán thịt cầy bảy món. Gần một tiếng đánh chén no say, ông chủ tịch xã sau vài ly rượu mặt đỏ như gà chọi. Thằng Ca cũng cầm ly nâng lên đặt xuống cho phải phép, hắn không dám uống rượu trước mặt cấp trên mà biết chắc đấy là những người của quân đội. Hai anh cán bộ chỉ ăn, rượu uống cầm chừng. Có lúc một anh cán bộ mà sau này Ca biết mang quân hàm đại úy hỏi hắn:

- “Rượu uống được không đồng chí Ca?”.

- “Xoàng chú ạ!”. Ca bảo thẳng - “Nhà cháu nấu rượu. Hôm nào cháu xách lên cho chú vài lít rượu nếp cái hoa vàng làng Lôi, mẹ cháu nấu để chú ngâm thuốc”.

Đã hơn 7 giờ tối, chiếc xe commăngca chở mọi người vào một khu nhà có vọng gác bên ngoài. Căn phòng khách rộng nhưng chỉ có một bóng đèn tròn treo lơ lửng giữa nhà. Ca và ông chủ tịch xã ngồi ở một bên bàn, đối diện với hai người cán bộ quân đội. Anh đại úy bảo:

- “Giờ ta làm việc để hai đồng chí còn về”. Anh ta quay sang bảo người cán bộ đi theo “Hợp! Cậu lấy giấy bút ghi biên bản”.

Anh đại úy nói với ông chủ tịch xã và Ca.

- “Câu chuyện thế này bác Hoạt và đồng chí Ca ạ. Chúng tôi nghe tin từ làng báo lên, trong chuyến về phép thăm nhà vừa qua, đồng chí Ca cho biết: anh Đệ – con trai của ông Bùi Văn Đê và bà Lê Thị Mít ở làng Lôi còn sống. Hư thực thế nào, yêu cầu anh Ca cho chúng tôi biết cụ thể. Việc này hệ trọng vì nó liên quan tới gia đình chính sách của huyện ta. Anh Đệ đã được báo tử từ năm 1971, xã đã làm lể truy điệu, gia đình đã có bằng liệt sĩ, có phải không bác Ảnh nhỉ?”.

Ông chủ tịch xã đã ngà ngà say, ngúc ngắc cái đầu.

- “Đúng! Đúng, đồng chí đại úy ạ. Gia đình ông Đê, bà Mít là liệt sĩ”.

Hơn hai giờ đồng hồ, thằng Ca phải đánh vật với bốn trang giấy có dòng kẻ và những hàng chữ vừa thiếu nét vừa xấu như gà bới, kể lại sự việc hắn đã gặp Đệ ra sao. Hắn vốn chẳng giỏi giang về môn văn, học ngang tới lớp 7 rồi bỏ về nhà đi theo những người thợ mộc cưa xẻ, gặp dịp rồi đi bộ đội nên hắn phải đánh vật với từng con chữ. Chỉ có điều chuyện thằng Ca tình cờ gặp lại anh Đệ trong một ngày buổi sáng cuối tháng 3 năm 1975 thì hắn không quên. Cuối năm 1973, chả hiểu trời xui đất khiến thế nào, hắn bị thương nhẹ. Một mảnh cối cá nhân của tụi ngụy ở dãy đồi 165 trên tuyến chốt ở bờ Bắc sông Bồ đã đưa hắn đi viện. Tại quân y viện 68 Mường Loòng, thằng Ca gặp được một người làng, phó chính ủy của một trung đoàn thuộc sư 10. Ông phó chính ủy trung đoàn đã nhận thằng Ca về đơn vị. Thằng Ca đang là lính của trung đoàn 4, thuộc quân khu Trị Thiên nghiễm nhiên thành quân số của sư 10, chuyển vùng vào Tây Nguyên, tham gia vào cuộc Tổng tấn công Xuân 1975, giải phóng Buôn Mê Thuột.

Những ngày cuối tháng 3. Cả khu vực Tây Nguyên và dải đất Nam Trung Bộ cực kỳ hỗn loạn. Mặt trận Buôn Mê Thuột tan vỡ. Cả một tuyến phòng thủ của Vùng 2 chiến thuật, theo lệnh của tướng Nguyễn Văn Phú tháo chạy. Trên các trục đường 19, đường 21 và cả con đường tỉnh lộ từ Plei cu xuống Phú Yên, dọc theo bờ bắc sông Ba đều trở thành con đường máu rút chạy của tàn quân ngụy chạy về biển. Hàng ngàn xe tải, xe pháo, xe tăng thiết giáp M13 xô đạp cùng các đơn vị lính của sư 22, sư 23 và Bộ chỉ huy vùng 2 tháo chạy tìm đường về các cảng Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang… Ngã ba Ninh Hòa, tuyến đường lên Tây Nguyên, qua đèo Phượng Hoàng cũng rơi vào cảnh hỗn loạn.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:11:23 pm
Chính trong cái ngày hỗn loạn ấy, thằng Ca đã nhận ra Đệ mặc bộ quần áo dân sự, tay ôm theo chiếc máy chữ lẫn lộn với đám sĩ quan của sư 22, bị bộ đội ta bắt được và nhốt trong một căn phòng của khuôn viên trường trung học Trần Bình Trọng. Điều làm hắn ngạc nhiên, tự hỏi : “Sao anh Đệ gia đình đã nhận giấy báo tử, nay lại còn sống?” Thoạt nhìn thấy anh Đệ, thằng Ca không kìm giữ được bật kêu to:

- “Đệ! Anh Đệ ở làng Lôi phải không?”.

Người thanh niên nghe gọi giật mình, thoáng nhìn Ca. Đôi môi anh ta mấp máy rồi cúi nhanh xuống, vẻ bối rồi. Thằng Ca mạnh dạn bước tới, vỗ nhẹ vào vai người thanh niên.

- “Anh cho tôi hỏi, có phải anh tên là Đệ, con ông Đê, người làng Lôi?”.

Lần này, người thanh niên ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt Ca, nói giọng lai lái như những người Bắc di cư, quả quyết:

- “Chú nhầm tôi với ai chăng? Tôi tên là Mai Văn Hoàng…

Thằng Ca ngỡ ngàng, chữa thẹn:

- “Xin lỗi! Tôi trông anh giống một người ở đơn vị cũ của tôi quá… Anh ấy tên Đệ, cán bộ của đại đội tôi, hi sinh ở ngoại ô Huế cuối năm 1969”.

Người thanh niên cười khẩy.

- “Đời người thiếu gì kẻ giống nhau. Tôi là Hoàng, Mai Văn Hoàng…”.

Thằng Ca nghe nói vậy chưng hửng. Nhưng hắn đâu ngờ rằng, tiếng gọi và câu chuyện của nó không lọt qua ánh mắt của một sĩ quan quân giải phóng. Sau hắn mới biết tên người cán bộ ấy là Tháo, một sĩ quan chính trị của Trung đoàn, mới từ Bắc chuyển vào. Tháo, người thấp đậm, gương mặt vuông, sáng bóng, tóc húi cao, đeo quân hàm thiếu tá. Anh ta gọi Ca đến và đưa vào căn phòng có tấm biển hiệu đề: “Phòng hiệu trưởng!”. Anh thiếu tá sĩ quan rút ra bao thuốc lá Thăng Long, một loại thuốc chỉ dành cho cán bộ cao cấp thời bấy giờ, hào phóng rút ra một điếu cho Ca.

- “Cậu hút thuốc đi! Rồi tôi hỏi cậu vài câu”.

Thằng Ca vừa sợ, vừa ngại ngần nhưng nhanh tay cầm lấy điếu thuốc. Mấy năm ở chiến trường dù làm hậu cần hắn cũng chỉ được xài thuốc lá Tam Thanh, Tam Đảo, Trường Sơn… Ai cho hắn hút Thăng Long, Sông Hương bao bạc bao giờ?

- “Này, cậu vừa gọi tay lính Ngụy kia tên gì nhỉ? Tôi nghe không rõ!”. - Anh thiếu tá sĩ quan hỏi Ca.

- “Dạ thưa thủ trưởng! Tên Đệ… nhưng tôi sợ mình lầm”.

- “Anh Đệ là thế nào với cậu?”.

- “Dạ thưa, anh Đệ nghe nói là cán bộ cũ của đại đội tôi hồi còn ở Trị Thiên, anh ấy người cùng làng với tôi. Tôi nhìn thấy anh ta giống với anh Đệ quá, nên tôi gọi. Anh ta nói với tôi tên là Hoàng”.

Tất cả những câu trả lời của Ca đã được anh sĩ quan ghi không sót một chữ vào sổ tay. Rồi anh ta bảo Ca.

- “Không rõ hư thực ra sao nhưng cậu kí vô đây. Ghi rõ họ tên, chức vụ đơn vị”.

Thằng Ca không dám kể lại cho ai câu chuyện của nó với người sĩ quan về sự nhầm lẫn giữa một người đã quá cố với một anh lính Ngụy ở Sài Gòn. Trong thâm tâm, hắn đinh ninh một điều. “Biết đâu anh Đệ, con cụ Đê còn sống thật. Gương mặt của người lính Ngụy giống hệt anh Đệ, lúc anh Đệ về phép để đi B”.

Thằng Ca càng không ngờ rằng câu chuyện ở chiến trường làm quà cho ông Đê, bà Mít đêm nay đã bắt hắn phải ngồi viết bản tường trình dài dằng dặc. Vừa viết thằng Ca liên tục đốt thuốc lá. Ở một băng ghế dài kê sát với cửa sổ, ông chủ tịch xã sau bữa cơm rượu thịt chó, ngà ngà say, trong lúc ngồi chờ Ca làm việc, đã lăn ra ngủ. Bữa bún thịt chó cùng với nửa lít rượu gạo đã làm ông khoái khẩu, lâu lắm mới được một bữa no say như vậy. Ông chủ tịch xã ngủ ngáy như kéo gỗ. Ở một chiếc bàn khác, hai anh cán bộ cũng đã giở bàn cờ tướng ra gõ chan chát, giết thời gian trong lúc chờ đợi Ca viết bản tường trình.

Hơn 10 giờ đêm, chiếc xe commăngca mới chở Ca và ông chủ tịch xã về lại làng Lôi. Tiếng chó sủa râm ran. Làng xóm đã ngủ say sau một ngày dài rộn rã vất vả với chuyện đồng áng. Cha Ca vẫn còn ngồi hút thuốc lào chờ con. Bát canh cua đồng và phần cơm dành cho Ca được đậy bằng một cái sàng, nguội ngắt nguội ngơ. Cơm rượu vào, lại phải căng đầu óc ra để nghĩ và viết, thằng Ca khát nước. Chỉ một vài hơi, Ca húp sạch bát canh rau đay mồng tơi.

Thằng Ca sẽ không bao giờ được chứng kiến cái ngày tang thương của gia đình bà Mít. Bốn tháng sau, Ca trở về đơn vị và tham gia vào đội quân gỡ mìn, trồng cao su ở Tây Nguyên. Một đoàn cán bộ huyện xã tới nhà ông Đê, bà Mít. Ông Đê bán thân bất toại đã mấy tháng nằm thoi thóp trên giường. Buổi sáng ấy, bà Mít chặt được nải chuối ở góc vườn mang ra chợ Tổng bán, chỉ có cô cháu gái ở nhà trông nom người ốm. Không biết họ nói gì với cô cháu gái chỉ thấy cô lên gỡ tấm bằng “Tổ quốc ghi công” treo ở trên tường và trao lại cho họ. Lúc bà Mít về đến nhà, những người cán bộ đã đi. Cô cháu gái cũng bỏ đi đâu mất. Còn ông Đê nằm trên giường, bất động, nước mắt ứa ra trên gò má. Như thể, ông biết hết mọi chuyện xẩy ra trong nhà. Quá nửa đêm, bà Mít trở dậy cho chồng uống thuốc. Không thấy ông động cựa. Từ chỗ ông nằm, mùi phân bốc lên khắm lặm. Vẫn còn thấy ông thoi thóp thở. Bà lặng lẽ lau rửa cho ông, thay áo quần.

Bốn giờ sáng, ông Đê trút hơi thở cuối cùng.

Ở vào những năm “76” ấy, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp còn đang rầm rộ, miền Nam bắt đầu đi vào công cuộc cải tạo tư bản tư doanh. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đang là kiểu mẫu cho cả nước noi theo. Các hủ tục trong đám cưới, đám ma rườm rà theo lệ cũ bị phá bỏ. Đám ma của ông Đệ diễn ra lặng lẽ, gọn nhẹ, không kèn, không trống. Chiếc xe đòn của hợp tác xã được những người bà con làng Lôi đưa ông ra đồng. Mấy người thân thiết, ruột rà trong họ mạc đeo khăn tang. Không người chống gậy, bưng ảnh. Tháng chạp, ruộng làng Lôi đang vụ trồng màu lấp ló những luống cải vàng xen kẽ những mảnh ruộng trồng rau lang, ngô, đỗ… Từng đàn ruồi bay à à ra ngoài bãi tha ma, đánh hơi ngửi thấy mùi cơm rượu và cả hơi người chết. Mấy chục người đưa tang ông Đệ lặng lẽ đi trên con đường bờ mương còn ướt sương đêm. Cây cờ tang được một đứa cháu trong họ vác đi trước.

Bà Mít đầu trùm chiếc khăn trắng theo sau quan tài. Những tháng ngày bà cạn kiệt sức lực để chăm sóc chồng đau ốm, thêm sự căng thẳng và nỗi đau dồn nén đổ xuống đầu người đàn bà vừa bước sang tuổi 62, khiến bà Mít không còn sức để khóc chồng. Mấy bà chị họ, mấy đứa cháu cố gào lên lúc những người khiêng quan tài chuyển linh cữu ông Đê xuống hố đất sâu. Đôi mắt của bà Mít vẫn ráo hoảnh, chỉ hơi tối lại. Gương mặt bà hằn sâu những nếp nhăn… Không ai biết rằng từ lúc ông Đê nằm liệt giường, bà đã phải mang ra những đồng bạc cuối cùng để lo thuốc thang và tang ma cho chồng. Tính ra từ ngày Đệ đi B cho đến ngày anh báo tử, mỗi tháng ông bà nhận được 12 đồng. Tằn tiện lắm ông bà chỉ dám tiêu vào suất tiền của người con đi B mỗi tháng 5 đồng để mua gạo, mắm, đóng góp việc họ, việc làng. Bảy đồng còn lại bà tích cóp quyết giữ cho đứa con trai ngày về có chút tiền để cưới vợ. Một trận ốm thập tử nhất sinh của ông Đê và một đám tang. Vốn liếng dành dụm cho con trai bao năm hết cả.

Mọi người đã ra về theo xe tang, bà Mít còn ngồi lại bên mộ chồng một hồi lâu, đắp những vỡ cỏ lên ngôi mộ đất còn in dấu chân người. Ngọn gió tươi thổi phóng túng trên cánh đồng như mang đi hết những đau buồn, uất ức, nhớ thương trong lòng người đàn bà suốt những ngày tháng qua cắn răng phải chịu đựng. Giá như bà chết được theo chồng? Có lẽ bà sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều. Nhưng từ trong cõi thẳm sâu, bà Mít hiểu rằng bà không thể chết vào lúc này được. Bà chết ai sẽ là người đi giải nỗi oan khuất này. “Thằng Đệ là một đứa đảo ngũ, chiêu hồi?! Chao ôi là nhục!”. Bà còn mặt mũi nào mà nhìn bà con chòm xóm. Trong đám ma ông Đê chiều nay bà đã nghe loáng thoáng những điều ong tiếng ve của những kẻ thối mồm. Rằng “ông Đê ngã bệnh rồi chết bất đắc kỳ tử vì có đứa con phản quốc…”. “Nghe bảo ông lão chết hộc máu mồm, không nhắm mắt được”.

Bà Mít và mấy người chị em trong họ ngậm tăm. Không ai dám hé răng cãi lại một lời. Họ biết được tấm bằng liệt sĩ của Đệ đã bị thu hồi. Nhà có tang nhưng chẳng có một ai trong chính quyền, đoàn thể, hội cựu chiến binh đến viếng. Anh thôn trưởng có mặt cùng với anh đội trưởng đội sản xuất nhưng đều là người có họ xa với ông Đê. Họ đến cho phải phép…

Trời đã nhá nhem, không rõ mặt người. Bà Mít rời khỏi ngôi mộ chồng vác chiếc cuốc lầm lũi đi về làng.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:14:50 pm
5

Gió thổi mạnh. Ngọn lửa càng bốc dữ dội.

Lưỡi lửa đỏ tím hung dữ như một cái đầu rồng, lúc loang rộng, lúc vươn dài, khi gặp gió bốc lên cao vượt khỏi ngọn tre. Tiếng luồng, nứa nổ lốp bốp như tiếng pháo. Tàn than kéo theo hàng ngàn vạn bông hoa lửa tạo thành dòng khói đen cuồn cuộn bốc lên trời. Tiếng trống Ngũ Liên, tiếng kẻng hợp tác xã treo ở cửa đình, tiếng phèng la khua vang khắp làng trên xóm dưới hòa lẫn trong tiếng hò hét, quát tháo của người đi cứu hỏa. Trời về khuya không rõ mặt người. Chỉ thấy bóng người chạy qua chạy lại nhập nhòa trong ánh lửa lúc sáng lúc tối. Một chiếc xe công nông đèn pha bật sáng quắc chạy đi chạy lại trên con đường làng. Chiếc xe lúc ẩn lúc hiện sau những khóm tre, vườn chuối giữa chỗ nhà cháy và cái ao đình cách nhau hơn 300 mét để tiếp nước cho thanh niên dập lửa.

Ngồi nép sau một bụi dứa dại, bà Mít lặng lẽ nhìn về phía làng. Run rẩy và sợ hãi. Bà không lường hết những hậu quả gây ra. Cái lùm rơm và đống trấu chỉ một loáng đã thui rụi gian bếp và cái chuồng lợn kế bên. Lửa tạt hắt mạnh bén cháy vào ngôi nhà ba gian, hai chái lợp rạ của bà. Một cơn gió to cuốn phăng tấm líếp cửa ken bằng lá gồi bay sang nhà ông Quới. Nhà ông Quới bốc cháy. Lửa từ nhà Quới truyền sang nhà Toản, nhà Quát. Từ nhà Quát lửa bén cháy nhà lão Vinh mù rồi nhà Hộc… Ngồi chui lủi giữa những bụi dứa dại ngoài đám mồ mả giữa đồng, bà biết mình là người gây ra hỏa hoạn. Phen này chắc chết. Không chết cũng đi tù mọt gông… Bà càng kinh khiếp hơn nữa khi chạy được tới con đường đất bám dọc theo bờ mương nghe một tiếng nổ to như trái bom kèm theo một quầng lửa vọt lên giữa bầu trời tối đen. Ánh sáng chiếu rộng cả một vùng. Kho xăng bén lửa và phát nổ. Bà Mít ngồi thụp xuống rệ cỏ cất lên thành tiếng. “Lạy trời, lạy Phật… tội lỗi này do con gây ra… con là kẻ có tội! Có tội. Con xin lấy cái chết để tạ lỗi này…”.

Bà Mít vừa chạy gằn trên con đường tắt đồng đi ra chợ Tổng, vừa lắng tai nghe ngóng. Thỉnh thoảng bà lại ngoái nhìn về phía làng, nơi ấy lửa vẫn bốc cao. Bà càng hoảng sợ khi nghe tiếng còi xe cứu hỏa hú giật thột chạy về hướng kho xăng. Ngọn lửa bốc cao, khói đen cuồn cuộn sáng cả một vùng. “Phen này mình mắc tội to rồi… Họ bắt được chỉ có đi tù!”. Nhìn đám cháy ở làng Lôi và kho xăng, bà Mít thấy giống như một buổi chiều nào, bom Mỹ ném xuống làng Lai, làng Cựu mùa đông năm 66. Vùng quê của bà chẳng có nhà máy, chẳng có cầu cống, chẳng là nơi đóng quân ấy vậy mà cũng bị bom Mỹ đào xới. Về sau bà hiểu rằng làng Lôi nằm dọc theo sông Hồng, ra cửa bể không xa. Tàu bay Mỹ từ hạm đội ngoài biển bay vào, ở đấy có các ụ pháo cao xạ, tên lửa của bộ đội, các ụ súng của dân quân du kích nằm phục sẵn. Máy bay Mỹ đem bom ném vào Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định không hết về đến đây chúng mặc sức thả xuống các làng trước khi rút ra biển. Dân làng Lôi bị một phen chết oan. Một chùm bom sáu trái, thiêu rụi một phần ba làng. Ngày đó bà Mít là chi hội phó phụ nữ thôn. Nghe bom nổ, nhà cháy, bà không cảm thấy sợ hãi gọi thêm mấy người bạn mang câu liêm, thùng, chậu hò nhau đi dập lửa. Hơn hai chục người già, trẻ, lớn bé của làng Lai chết cùng một giờ, một ngày bởi bom Mỹ. Hơn nửa ngày trời, phải vất vả lắm dân quân du kích mới nhặt hết xác trong đám tro than cháy đen. Nhìn cảnh bom ném, nhà cháy, người chết, bà Mít lại nghĩ tới con. Không biết giờ này ở chiến trường thằng Đệ sống chết ra sao. Từ ngày con ra đi, về phép được dăm ngày trước khi đi B, gia đình chẳng nhận được lá thư nào. Bà chỉ ân hận một điều, thằng Đệ đang học dở lớp 10, chỉ còn nửa học kỳ nữa là thi tốt nghiệp đùng đùng viết đơn xin đi bộ đội. Ngày Đệ nhập ngũ, bà Mít không khóc lấy một tiếng. Chồng bà trầm tính càng ít nói hơn. Thương con trai đứt ruột nhưng từ trong sâu thẳm bà không dấu giếm niềm tự hào của một người mẹ thời chiến. Bà phải cứng rắn vừa để yên lòng con, vừa động viên đám thanh niên trai làng măng tơ nhập ngũ. Bây giờ nhìn đám cháy ở làng Lôi, bà Mít sợ hãi thực sự. Bà vừa trốn chạy, vừa nuốt nước mắt. Hơn một trăm ngày kể từ lúc chồng nằm sâu trong lòng đất, bà chờ đợi từng đêm, mong ngày ra đi. Bà không thể ở lại cái làng này, hàng ngày nhìn thấy mặt người quen trong nỗi tủi nhục. Không phải không có người đồng cảm chia sẻ những nỗi đau của bà. Cũng có không ít kẻ nhìn bà với con mắt soi mói, khinh thị. Để xẩy ra cơ sự cháy làng, bà Mít không ngờ hậu họa lớn đến vậy.

Bà Mít chạy dọc theo con đường xuyên đồng lúc chạy gằn, lúc đi chậm lại để lấy sức. Không dám dừng lấy một lúc. Khát quá, bà vục tay xuống con mương, uống tạm hớp nước lạnh tanh nồng mùi đất. Trời chưa sáng rõ, bà Mít đã đến được bến đò sang bên kia đã là đất Nam Định. Bà trùm kín trên đầu cái khăn, che bớt khuôn mặt và ngồi vào con đò ngang sang sông. Đò sớm chở người đi chợ, mấy cô gái ở làng Thuận mang rau sang bán cất cho các sạp buôn ở chợ Rồng. Bà Mít ngồi lẫn với đám rau dưa, tay ôm chặt chiếc túi vải nâu chỉ độc có hai bộ quần áo, chiếc áo bông và tấm ảnh thờ của con. Bà có một giấy chứng minh thư, định cầm theo nhưng lúc ở bên bờ sông Hồng chả hiểu nghĩ sao, bà vất xuống sông. Mấy đồng bạc mang theo phòng thân bà giấu kín trong cạp quần. Mấy nắm cơm vắt chặt từ chiều qua bà gói kĩ trong lá chuối hơ lửa cùng với chai muối vừng để ăn dần vài ba ngày. Trước khi rời căn nhà lần cuối, bà Mít đã đến bàn thờ thắp nhang cho chồng, cho con. Bà vái lạy tổ tiên và lặng lẽ gỡ tấm ảnh của Đệ mang theo. Ngôi nhà tranh vách đất đã gắn bó cuộc đời bà hơn bốn mươi năm năm. Bây giờ là lúc bà rời xa, xa mãi mãi. Bà không cảm thấy hối tiếc. Cũng không cảm thấy quyến luyến với người chồng gắn bó với bà đang nằm lại với đất này. Ông Đê vốn hiền lành nhưng cục tính. Có lần trong cơn giận dữ, đang ăn cơm ông quăng cả bát đĩa ra sân. Nhiều phen bà cũng khổ vì ông. Những ngày cuối cùng chăm sóc ông Đê, nhìn ông bà biết bệnh tật đổ ụp xuống đầu ông không phải không có nguyên nhân. Ông lão không phải là cán bộ, không phải đảng viên, chỉ là một anh dân cày ở làng. Nhưng ông ngấm ngầm tự hào vì có một anh con trai học giỏi nhất vùng. Đệ đã từng có tên trong đội thi học sinh giỏi toán của tỉnh, mỗi lần giật giải các thầy cô đều khen. Mỗi buổi trưa, buổi tối nhìn Đệ đi học về ngồi ăn bát cơm độn khoai với vài gắp rau muống luộc, đĩa tép kho lá chanh ông chồng cất được ở con mương ngoài đồng, bà Mít không dám nghĩ sao mình lại đẻ ra được một đứa con như thế. Vợ chồng bà hiếm muộn đường con cái. Bốn lần sinh nở chỉ đậu được hai. Người chị của Đệ cách cậu em 9 tuổi. Lúc Đệ nhập ngũ vào chiến trường đến năm thứ 2, chị Đệ chỉ sau một trận cảm hàn rồi mất. Năm sau đến lượt Đệ báo tử. Nỗi đau gậm nhấm hai vợ chồng già đến nỗi nghe tin con chết ông Đê ngã bệnh. Bà Mít gan góc hơn nhưng trái tim bà tan nát. Từ ngày thằng Ca trở về làng loan tin Đệ còn sống, chiêu hồi giặc. Và xã cho người xuống thu lại bằng Tổ quốc ghi công, bà Mít càng buồn tủi hơn. Thêm những lời soi móc của vài kẻ hay ngồi lê đôi mách rỉ tai nhau “thằng Đệ đảo ngũ, chiêu hồi…”, bà càng đau đớn hơn. Như thể có lưỡi dao sắc nhọn chọc đúng tim bà. Đã có lúc nghĩ quẩn, bà Mít muốn đi theo chồng. Có những buổi chiều đi làm về ngồi hàng giờ bên bờ sông Cọi, để gánh cỏ một bên, dắt con bò tha thẩn, bà Mít đã định nhẩy xuống sông. Ấy vậy mà bà không chết được. Như thể giời bắt bà phải sống, phải chịu đựng sự nguyền rủa của những kẻ độc mồm độc miệng. Sau ngày chồng chết bà Mít hiểu rằng không thể cam lòng sống nốt những ngày tàn, chờ chết ở cái làng này. “Đi! Phải đi!”. Ý nghĩ ấy lóe sáng trong đầu bà sau ngày bà làm mấy mâm cơm cúng ông Đê trăm ngày. Đêm ấy bát chân nhang bày trước linh vị chồng tự nhiên bốc cháy. Giữa ánh lửa chập chờn, đôi mắt của Đệ trên tấm ảnh lóe sáng như đồng lõa với ý nghĩ của mẹ. Biết đi đâu? Bà con họ hàng không có ai. Chẳng lẽ bà sang làng Võng ở nhờ nhà thông gia. Con gái của bà cũng đã mất. Anh con rể sau ngày vợ chết chưa tới 2 năm đã ngược rừng đi làm công nhân lâm nghiệp và lấy vợ mới ở Tuyên Quang… Ngày trước nghe thằng Ca kể, nó với anh Đệ ở cùng một đơn vị chiến đấu tại mặt trận Huế… Sao giờ về phép nó lại khoe gặp Đệ ở Ninh Hòa? Ninh Hòa, Nha Trang là đâu? Bà không biết. Con trai bà nghe nói chiến đấu ở Huế kia mà! Trong một lá thư của Đệ gửi về năm nảo năm nào lúc qua Hà Tĩnh kể rằng, mỗi ngày con bà phải đi bộ từ 25 đến 30 cây số, qua binh trạm này đến binh trạm khác, mang vác ba lô, súng đạn, gạo, muối mắm để có cái ăn dọc đường. Vậy bà cũng đi bộ. Đi tới đâu, hỏi đường tới đó. Ngày trước bom đạn, con bà còn đi được vô Nam. Bây giờ giặc giã đã tan, bà cũng sẽ đi bộ tìm đường vô Nam. Bà nghĩ đơn giản, giá có chết dập, chết dụi ở dọc đường cũng không ai biết bà là ai, quê quán không có. Nhưng thà vậy còn hơn là sống và chết những ngày tàn lụi ở làng Lôi trong nỗi tủi nhục.

Không ai biết bà Mít đã đi bộ được bao nhiêu ngày. Bà cứ bám dọc theo con đường quốc lộ số 1, hướng vào Nam. Suốt ngày xe tải, xe khách chạy ngược xuôi trên đường. Lần đầu tiên bà Mít được nhìn tận mắt những chiếc xe ca chở khách mang tên Phi Long, xe sơn xanh, sơn đỏ lòe loẹt. Ban đêm xe chạy đèn pha bật sáng quắc chiếu sáng con đường. Đi trong nhiều ngày nhưng không có một cái xe nào chịu cho một bà lão ăn mày không tiền, ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu xin đi nhờ xe.

Cho đến một buổi chiều bà Mít vào được đến đất Tĩnh Gia. Trong lúc dừng lại bên đường xin nước uống bà gặp được một đoàn xe bộ đội. Các chú bộ đội còn trẻ cả, nhìn thấy một bà lão nghèo khổ, lấm láp bụi đường chìa tay xin lương khô. Một anh lính đã vui vẻ hỏi.

- “Mẹ đi đâu thế này? Con cái mẹ ở đâu sao không chăm sóc lại để cho mẹ đi ăn xin?”.

Bà Mít nhìn anh lính khẽ lắc đầu:

- “Mẹ không đi ăn xin đâu chú! Mẹ đi tìm con”.

Anh bộ đội lại hỏi:

- “Con mẹ ở đâu mà phải đi tìm?”

- “Con mẹ cũng đi bộ đội như mấy chú. Nó đi từ năm 63 cơ. Người bảo nó chết, xã cũng đã báo tử cho mẹ. Người bảo nó còn sống! Nếu còn sống thì nó phải về với mẹ chứ, phải không chú? Hòa bình đã cả năm nay rồi mà chưa thấy con mẹ về”.

Anh bộ đội cầm tay bà Mít, giọng bùi ngùi.

- “Tội nghiệp mẹ, mẹ ơi!”.

Bà Mít nhìn anh bộ đội bằng ánh mắt quyết liệt.

- “Mẹ phải đi tìm con mẹ chú ạ!”.

Anh bộ đội mở chiếc túi vải của bà Mít, đỡ bức ảnh lồng trong khung kính có hình của Đệ. Chiếc khung kính đã vỡ một góc trong lúc bà chạy tháo thân thoát khỏi làng Lôi.

Lúc đoàn xe chở bộ đội lên đường, những người lính đã lặng lẽ giấu bà Mít trong một thùng xe phủ bạt. Bà Mít ngồi nhấm nháp miếng lương khô. Khi nào khát, bà đã có sẵn bi đông nước của người lính tốt bụng đưa cho bà lúc lên xe. Chỉ nghe họ nói. “Mẹ là mẹ của chúng con. Chúng con đi đánh giặc ở biên giới đây!”


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:21:15 pm
6

Những năm học đại học ở Huế, vào ngày nghỉ, Hoài thường theo xe đò về huyện Hương Trà chơi thăm lại đám bạn bè cũ. Mới chỉ một vài năm sau ngày giải phóng, cuộc sống thời chiến tưởng như đã lùi vào trong quá khứ… Những ngày hoà bình đầu tiên công việc bộn bề, cuốn hút mọi người. Trăm thứ việc cần giải quyết. Việc nào cũng mới mẻ, phức tạp trong đời sống dân sự hàng ngày. Ở đây, Hoài có nhiều bạn bè quen biết trong chiến tranh, sống chết với nhau một thuở, vậy mà anh đi tìm gặp lại những người quen cũ thật khó. Đến công sở, Hoài như kẻ đi lạc vào một phiên chợ quê, ngơ ngác giữa đám bàn ghế lổng chổng trong lều chợ.

Cả một đội quân cán bộ huyện xã ngày trước đông là vậy, cứ mỗi buổi chiều về làng đi mua gạo, đậu phộng, không gặp địch chốt ở cửa rừng là mọi người đã có thể gặp nhau trò chuyện ở một địa điểm gọi là Miếu Trâu, chờ đến đêm tối thì kéo nhau về làng. Bây giờ hoà bình rồi, không thể còn tụ tập đông vui như vậy nữa. Từ anh cán bộ huyện cho đến chị du kích đều có vai có vế trong bộ máy chính quyền cách mạng. Một số người đóng vai trò chủ chốt trong huyện uỷ, Ủy ban Nhân dân huyện, huyện đội. Một số về làm bí thư, chủ tịch các xã. Một số khác được cấp trên rút về công tác ở tỉnh, thành phố. Các lớp học bổ túc về chính trị, về chính sách của Nhà nước cách mạng được mở ra để bồi dưỡng cấp tốc cho cán bộ, đảng viên. Một số khác được cử đi học bổ túc văn hóa cho đủ trình độ phổ cập cấp 1, cấp 2, cấp 3. Một bộ phận cán bộ được trung ương điều động về thành phố đi cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh trong vùng Mỹ, ngụy kiểm soát trước đây. Một số khác đi tập huấn chuẩn bị cho việc xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn. Hầu hết những sĩ quan ngụy, cán bộ trong chính quyền cũ đã có lệnh đi học tập cải tạo. Không khí trong các làng xã oi bức, căng tức. Người dân lắng tai nghe ngóng những lệnh mới được ban ra từ chính quyền cách mạng. Ở những cơ quan chính quyền cách mạng, cán bộ họp tối ngày. Các bàn máy chữ khua vang để kịp cho ra đời những văn bản, chỉ thị mới.

Hoài rời quân ngũ về làm anh học trò đi học xem ra lạc lõng giữa đám bạn bè là cán bộ huyện, xã trước đây. Nhiều khi gặp được họ cũng khó. Anh vẫn còn nhớ cậu Kỳ, một thanh niên mới rút lên núi trong đợt bộ đội KX phối hợp với đội biệt động xã Hương Thạnh về đánh ấp La Chữ năm 73 rút lên núi. Sau khi được huấn luyện vài tháng, bây giờ về làng, Kỳ đã là anh xã đội trưởng. Anh Có, anh Đoàn, những cán bộ biệt động nổi tiếng của thành phố nay được điều về công tác tại thành phố. Ngọc Anh, một anh bạn từng chết hụt với Hoài ở dốc Đất Đỏ, sau bốn năm học trường An ninh nay đã là trưởng công an huyện. Vào những năm 1976, đất nước thống nhất, chủ trương của trên cho hai, ba tỉnh nhập một; vài ba huyện thành một huyện lớn hơn, dân số hàng chục vạn người. Cái ý chí sắt đá, quyết tâm xây dựng cả nước thành 500 pháo đài để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội đang dần trở thành hiện thực.

Thủ trưởng Bậu của Hoài vốn là tiểu đoàn trưởng KX ngày trước sau được điều động sang công tác tại Ban tham mưu Thành đội. Theo yêu cầu của cấp trên, ông được điều về giữ chức huyện đội trưởng. Ông Bậu bao năm xa KX nhưng vẫn không quên Hoài. Anh vốn là người lính trinh sát của tiểu đoàn thường đi bảo vệ ông mỗi lần vượt sông Bồ hoặc vượt đường 12 sang cơ quan tỉnh đội để họp. Nhiều lần, cánh lính trinh sát cùng ông Bậu bò vào bám các căn cứ Chóp Nón, đồi Chổi, Tứ Hạ…, đưa đường cho ông về làng La Chữ, Phú Ổ, Văn Xá đuổi đánh tụi dân vệ nghĩa quân. Mỗi lần về ấp Văn Xá Làng, nếu không gặp địch, thể nào ông cũng tạt qua làng Thanh Lương thăm mẹ già và bà con cô bác. Cũng bởi ông đi theo cách mạng từ những năm chống Pháp, gia đình là cơ sở cách mạng nên bà mẹ và bà con họ mạc luôn bị chính quyền ngụy gây phiền hà. Có lần, bà mẹ bị bắt đưa về quận tra khảo. Năm 1954, ông Bậu theo bộ đội tập kết ra Bắc. Năm 1962, ông được cấp trên bí mật đưa về Nam. Sau ngày giải phóng, gia đình ông mới được đoàn tụ. Mặc dù gia đình ông có nhà ở Huế, hàng ngày ông Bậu vẫn ở lại huyện, ăn ngủ tại cơ quan huyện đội. Một cậu công vụ lo cơm nước giặt giũ áo quần cho thủ trưởng. Chỉ khi nào có việc họp hành ở thành phố, ông Bậu mới về thăm vợ con.

Nhà khách của huyện đội thành nơi trú ẩn của Hoài để trốn những bữa cơm sinh viên trong cư xá Đội Cung. Về chơi với ông Bậu, anh được ông cho ăn cơm cùng mâm, ở cùng nhà. Lâu lâu ông lại sai Hoài phóng xe máy ra chợ An Hoà hoặc về Hiền Sĩ mua rượu, mực, thịt chó về nhậu. Bao năm ở rừng, ông Bậu vẫn không quên thói quen nằm võng. Chiếc võng may bằng vải simily pha ni lông hai lớp. Tối ngủ, trời lạnh ông trùm thêm tấm dù hoa, ghệ đầu lên mép võng nằm nghe đài Hà Nội và đài BBC. Nếu không, ông lại tấu lên bổn kịch cũ. Ấy là ông kể cho Hoài nghe chuyện những ngày ông ra miền Bắc tập kết, đi học trường quân chính. Chuyện ông đi hái sấu, hái trộm dưa của người dân ở ngoài bãi sông Hồng. Rồi chuyện ông đi tán các cô gái ở Hà Nội. Chuyện ông Bậu lấy vợ. Nhưng có lẽ say sưa nhất vẫn là chuyện những ngày ông làm đại đội trưởng rồi lên cán bộ tiểu đoàn của KX đưa bộ đội về đánh giải phóng Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc. Hai mươi sáu ngày đêm chốt giữ cố đô Huế, chặn đánh tàu địch trên sông Hương… Rồi ông kể cho Hoài nghe về làng Thanh Lương của ông với những kỉ niệm ấu thơ êm đềm, ngọt ngào của tuổi hoa niên. Đã có lần đại đội của Hoài đi theo ông về diệt đại đội bảo an ở Văn Xá Làng. Bữa ấy không có địch. Được thể, cả đại đội xộc thẳng về làng Thanh Lương đánh nghĩa quân diệt ác, trừ gian, rải truyền đơn của Mặt trận. Trung đội địch chốt ở chợ mới nghe thấy tiếng B40 nổ, biết có chủ lực quân giải phóng về làng chúng đã bỏ chạy. Bộ đội, du kích vào được dân mua gạo, mì chay, đường sữa, kẹo nuga, thuốc lá xả láng.

Trong vòng ba tiếng làm chủ làng Thanh Lương, Hoài đã có dịp quan sát toàn cảnh ngôi làng. Làng Thanh Lương nằm dọc bên sông Bồ, làng đẹp, rợp bóng tre xanh và dừa. Ở các Phe Nhất, Phe Nhì, Phe Ba được bao bọc bởi những vườn cây ăn trái men theo con đường làng ra ngoài cánh đồng. Thoang thoảng mùi hoa cau, hoa nhài toả ra từ những ngôi nhà vườn ngập tràn ánh trăng hạ tuần. Biết có bộ đội về làng nhưng địch vẫn không bắn pháo. Chỉ thỉnh thoảng, chúng bắn ít đạn cối lên chặn phía ngả rừng. Ở căn cứ Từ Hạ, lâu lâu, địch lại bắn lên trời những trái pháo sáng.

Thủ trưởng Bậu say sưa kể chuyện KX và chuyện làng Thanh Lương của ông. Lâu lâu ông lại dụ khị Hoài rằng:

- “Bữa mô về Huế, mi ghé nhà qua chơi. Mi ưng con gái qua ta gả cho một đứa!”.

Câu chuyện của ông Bậu chỉ kết thúc khi nào Hoài nghe thấy tiếng ông ngáy. Anh nhìn sang, thấy điếu thuốc Ruby ông vẫn cầm trên tay, tàn rơi trắng dưới đất.

Cũng trong một buổi tối như vậy, Hoài về thăm ông Bậu. Cơm chiều xong, ông kéo anh ra chiếc bàn đá đặt ngay dưới gốc cây phượng. Cậu cần vụ đã chuẩn bị sẵn cho thủ trưởng một ấm trà. Ông nghiện trà nhưng chỉ uống độc 2 thứ: trà Hồng Đào bao bạc dành cho cán bộ cao cấp hoặc trà B’Lao của Bảo Lộc. Sau một li trà đậm, ông Bậu rút bao Ruby và cho Hoài một điếu. Đang uống nước, hút thuốc, chợt ông Bậu hỏi Hoài:

- “Này, mi còn nhớ thằng Đệ, đại đội phó C3 không hỉ?”.

Hoài ngớ ra. - “Anh Đệ chết rồi, hi sinh ở Bầu Tháp, thủ trưởng không nhớ sao?”.

Ông Bậu nhìn Hoài.

- “Sao qua lại không nhớ thằng Đệ! Tao là người giới thiệu nó vô Đảng và đề nghị với trung đoàn đề bạt nó chớ ai”.

Hoài sợ ông Bậu quên, anh nhắc lại cho ông Bậu nhớ.

- “Sau trận ấy, đại đội 3 đã làm lễ truy điệu cho anh Đệ dưới chân dốc Đoác, có cả thủ trưởng và thủ trưởng Ngạn chính trị viên tiêu biểu dự. Hôm sau, tiểu đoàn bộ họp quân chính, bị tụi thám báo Mỹ phát hiện, gọi máy bay ném bom vào hậu cứ. Thằng Nam, lính công vụ cho thủ trưởng bị bom chết mất xác. Thủ trưởng có nhớ không?”.

Giọng ông Bầu trầm đục:

- “Sao qua lại không nhớ được! Nhưng là chuyện như ri mi ơi. Bữa hôm rầy, qua tình cờ gặp được một bà cụ từ ngoài Bắc vô. Bà cụ ăn mặc rách rưới lắm, lại đói nữa. Bà được mấy anh bộ đội cho đi nhờ xe, đến ngang huyện thì bà cụ xin xuống và hỏi đường về cơ quan huyện đội. Qua hỏi chuyện thì mới biết, bà cụ là mẹ đẻ của cậu Đệ, đại đội phó C3. Trong cái tay nải đựng quần áo của bà qua nhìn thấy cả tấm ảnh và giấy tờ báo tử của cậu Đệ”.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:23:23 pm
Ông Bậu ngừng kể nhìn Hoài. Ánh mắt ông vẫn ánh lên vẻ tinh anh của vị tiểu đoàn trưởng ngày nào mỗi khi nghe cánh trinh sát báo cáo tình hình địch. Nhìn ánh mắt ông, đố anh trinh sát nào nói dối được. Trước mặt ông Bậu, những anh trinh sát hèn nhát và lười biếng không thể có chuyện dối trá. Mỗi khi bò vào căn cứ địch, có mấy lớp hàng rào, hoả lực của địch nằm ở đâu, loại súng gì phải về báo cáo thật với ông Bậu. Nói dối sẽ bị ông trị thẳng cánh. Và cánh trinh sát hãy coi chừng. Chính những anh lính trinh sát sẽ phải cùng ông bò vào cứ điểm tối hôm ấy.

Nhả khói thuốc Ruby, ông Bậu bảo Hoài:

- “Hoá ra, đại đội 3 và tiểu đoàn ta có khuyết điểm thật cậu ạ. Khuyết điểm nặng. Trận đánh về xóm mới Bầu Tháp, cậu Đệ đâu có chết. Sau khi trái mìn clâymo của địch cài trên đường sắt nổ, ta tưởng cậu Hoàn, cậu Khoản và cậu Đệ hi sinh. Cánh trinh sát đã đi tìm lại nhưng không thấy xác Đệ, tưởng cậu ấy mất xác nhưng không phải”.

- “Sao thủ trưởng tin chắc anh Đệ vẫn còn sống?”

Hoài ú ớ hỏi và thấy có sự lắt léo trong câu chuyện cũ về người chỉ huy đại đội 3 đã hi sinh từ bẩy năm nay.

- “Vậy mới có chuyện …”. Và ông Bậu tặc lưỡi: - “Vậy mới là cuộc đời… chớ đâu có phải thẳng đuột như mỗi lần tôi lên giảng nghị quyết để các cậu ngồi nghe cho sướng lỗ tai rồi vỗ tay”.

Trong cái buổi chiều chạng vạng ấy, ông Bậu đã kể cho Hoài nghe chuyến hành hương hơn 600 cây số của bà Mít ở làng Lôi đánh đường vào Huế tìm con. Trong túi bà cụ không có một hào, chỉ một vài vắt cơm nắm, cục lương khô của những anh bộ đội và một vài người dân tốt bụng gặp được ở dọc đường. Bà mẹ làng Lôi đi tìm con trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng chỉ với một lí lẽ: coi thử anh con trai của bà đã chết thật hay sống giả? Lời cầu khấn trời Phật đêm đêm của bà Mít là: con trai bà dù có phải chịu cảnh đui què mẻ sứt, miễn sao vẫn còn sống để mẹ con còn có dịp gặp nhau. Con trai bà dù ở hoàn cảnh nào đi chăng nữa bà cũng sẵn sàng chịu đựng. Bà chết cũng an lòng.

Đấy là câu chuyện ông tiểu đoàn trưởng Bậu kể cho Hoài nghe vào một ngày thu năm 1976. Chính ông cũng không nghĩ rằng, có lúc, ông lại trở thành một anh lính trinh sát bất đắc dĩ, đơn độc một mình suốt mấy tháng trời đi quanh các xã Hương Thạnh, Hương Vân, Hương Thái, Hương Xuân, Hương Vinh, những dải làng ven sông Bồ để truy tìm cho ra tung tích của anh Đệ. Trong những chuyến đi ấy, ông Bậu lặng lẽ đi một mình, chẳng có anh trinh sát tiểu đoàn nào đi theo ông cả. Bữa ông đi xe Uoát của cơ quan huyện đội, có ngày ông cưỡi xe honda. Mỗi lần về huyện uỷ họp ông đều tìm gặp anh Có, anh Đoản, anh Diên, anh Sửu, Ngọc Anh, Lành… và có lần hỏi cả chú Sáu Thọ Hường – một thành uỷ viên lâu năm nằm chốt ở đất Hương Trà truy tìm cho ra tung tích Đệ. Chỉ đến khi ông Bậu tìm về quán Mụ Tr. – một cơ sở mật của đường dây thành uỷ – người trong gia đình mới cho hay một vài tin không chắc chắn. Đã nhiều lần, vào lúc rảnh rỗi, ông Bậu dừng lại ở bãi mồ mả có rặng thông phía sau làng xóm mới Bầu Tháp quan sát lại địa hình. Cái ấp Tân Sinh do chính quyền Ngụy lập ra nằm sát ven đường, đưa dân các thôn làng sát chân núi về ở, nay đã trở thành một xóm ấp đông vui. Dấu tích còn lại của một ấp chiến lược là dãy nhà lợp tôn Mỹ sáng loáng. Các lá cờ Ngụy vẽ trên tường ngày trước đã bị người dân xoá đi. Lớp rào kẽm gai bao quanh ấp cũng được gỡ, bán phế liệu. Chỉ còn lại cây bông đồng cao, toả bóng mát nơi đầu cổng ấp. Phấp phới trên ngọn cây có treo lá cờ giải phóng nửa xanh, nửa đỏ.

Ông Bậu đi lại hàng chục lần trên đoạn đường quốc lộ chạy song song phía trước mặt làng Bầu Tháp để giả định những ngả đường có thể sau lúc bị thương, Đệ trú ẩn. Ông săm soi từng bờ ruộng, từng bụi cây, cảnh vật thay đổi hẳn. Cây cỏ, bờ mương, những bãi mồ mả nằm lẩn khuất sau các bụi dứa dại như thể đánh đố ông.

Những ngày tháng ấy, bà Mít trở thành người phục vụ không chính thức của cơ quan quân sự huyện đội. Bà vốn là người đảm đang, hay lam hay làm, dẫu không ai phân công cắt việc nhưng hàng ngày bà tham gia vào tổ phục vụ nuôi quân. Bà nhặt rau, vo gạo, trông củi lửa cho chiếc bếp Hoàng Cầm. Mọi người ăn xong, bà lại rửa chén đĩa, xoong nồi cho bếp ăn huyện đội. Mấy cô bộ đội mới nhập ngũ sau ngày 30/4 suốt ngày kêu bà Mít bằng mẹ. Các cô gái còn trẻ đáng tuổi con cháu nhưng biết hoàn cảnh của bà đầy éo le, trắc trở, các cô ra chợ trời Tây Lộc mua vải về may áo quần cho mẹ Mít. Cứ quãng 4 giờ sáng, khi tiếng chuông nhà thờ ở làng Dương từ xa vọng tới, những anh bộ đội gác đêm đã thấy bà Mít trở dậy, nhóm lửa nấu cơm sáng cho cả đơn vị.

Câu chuyện về người con trai của bà Mít, một chỉ huy cũ của KX hi sinh trong trận đánh về Bầu Tháp, huyện nhiều người biết. Song việc anh Đệ còn sống, lại trở thành sỹ quan Ngụy ra trình diện ở Nha Trang, thằng Ca đưa chuyện về làng và gia đình bà Mít bị tước bằng liệt sỹ thì chỉ có mình ông Bậu hay. Ông vốn là người nhạy cảm chính trị, sống lâu năm trong vùng tranh chấp giữa ta và địch, ông luôn lấy chữ thận trọng đặt lên hàng đầu. Thực sự, hình ảnh của Đệ đã nhờ nhoạt trong tâm trí ông. Sau này sang công tác ở cánh nam qua nhiều đơn vị, ông không thể nhớ hết được những người cán bộ, chiến sỹ của KIV, KX ở công trường V đã cùng tham gia với ông đánh hàng trăm trận giải phóng vùng cát Phong Quảng, Phú Vang từ những năm 1963. Hai đợt ông chỉ huy KX về đánh trong chiến dịch Mậu Thân ở Huế, bộ đội hi sinh biết mấy. Về sau, anh Có, anh Đoàn , những cán bộ cũ của Hương Trà nhắc chuyện của Đệ ông mới nhớ đến anh đại đội phó đại đội 3 đã có lần dìu ông vượt phá Tam Giang, phá vây để lên rừng sau lần tổng công kích về Huế lần thứ 2 không thành. Và lần cuối cùng ông gặp Đệ là lúc tiểu đoàn sắp nhận lệnh giải thể để bổ sung cho huyện xã. Trận đại đội 3 đánh tụi bảo an ở Bầu Tháp. Trận ấy, Đệ đã không trở về.

Cho đến một ngày, có người mách ông Bậu tìm về làng Dương để gặp ông Sáu Đến. Ông Sáu Đến ngày trước cũng đã từng là ấp phó trong chính quyền Ngụy, nhưng ông lại là cơ sở mật của một đầu mối trong cơ quan thành uỷ cắm ở vùng sâu. Ông Sáu không phải là nhân vật chủ chốt và cũng không tham gia công tác cách mạng liên tục cho đến ngày giải phóng nên ít người nhớ. Làng Dương có nhà thờ. Cả làng theo đạo, một pháo đài bất khả xâm phạm của Việt Cộng từ thời Ngô Đình Diệm. Việc ông Sáu Đến là cơ sở ở vùng sâu lại nằm trong chính quyền của ngụy, địch không ngờ tới. Công việc của ông là lâu lâu về Huế, ghé một tiệm cà phê gặp người của ta cung cấp thông tin, tình hình hoạt động của các đơn vị địa phương quân đóng trong vùng và những âm mưu thủ đoạn của địch tại các xã đồng bằng. Sau ngày giải phóng, ông Sáu Đến cũng bị triệu tập đi học tập cải tạo vài ngày. Ông đã khai báo cụ thể, có người xác nhận, ông được cho về. Ông Sáu Đến tuổi đã cao, sức yếu, lại là người có đạo, sau cách mạng, ông cũng không tham gia vào chính quyền của ta. Chỉ có điều, chuyện tình của cô con gái với Đệ, ông dấu biệt. Có thể, ông Sáu Đến cũng không mấy hài lòng cho mối lương duyên bất cập ấy nhưng mọi sự đã rồi. Ông không thể thuyết phục được cô con gái. Vả chăng, Hương Giang đã trót có bầu với Đệ. Âu cũng là do Chúa sắp đặt. Ngẫm nghĩ cuộc đời ông, Sáu Đến cũng thông cảm cho đôi trẻ. Thân phận ông, một anh con trai có đạo, trót đem lòng yêu cô gái làng bên theo đạo Phật. Hương Giang, con gái ông, có tính cách quyết liệt hệt như ông ngày còn trẻ… Ông Sáu Đến cũng dấu luôn cả chuyện mua giấy tờ giả thay tên, cải họ cho Đệ để đôi vợ chồng trẻ, không cưới xin, bí mật đưa nhau vào Nam tránh tai mắt của tụi tề ngụy ở làng.

Ông Bậu tìm đến nhà ông Sáu Đến. Cũng phải mất một vài lần, ông Sáu mới có đủ độ tin cậy để bộc bạch tâm can. Vào những ngày đầu giải phóng, vui thì có vui, nhưng những người dân lành quen sống trong vùng “phía bên kia” có phần e sợ cộng sản. Bài học những năm “Mậu Thân” vẫn còn nhỡn tiền ra đó. Cười vui nổ như sấm rền. Cờ nửa xanh, nửa đỏ phấp phới trong đại nội, trên những đình làng vừa giải phóng. Dân các làng đổ xô ra đón bộ đội giải phóng về làng, vắt cơm, đùm gạo nuôi bộ đội. Ấy vậy mà mấy ngày sau súng lại nổ dữ dội. Các sư đoàn lính thiện chiến của quân đội Mỹ, ngụy Sài Gòn sau đòn đánh phủ đầu kịp bừng tỉnh, hồi sức chống trả quyết liệt. Bom dội vào thành nội, khu Mang Cá. Lính Mỹ của sư đoàn kị binh bay số 1 nổi tiếng kiêu hùng phối hợp cùng sư đoàn I tấn công vào tuyến phòng thủ của bộ đội giải phóng ở mặt trận Huế. Các ông lãnh đạo tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ và cả ông Bậu cay đắng nhìn hàng chục cơ sở mật cài cắm ở các nơi suốt mười mấy năm qua bị lộ. Người bị bắt, kẻ bật lên xanh. Đại đội 1, đại đội 2, đại đội 3, đại đội 4 của tiểu đoàn KX sau những ngày căng sức chống trả địch giữ từng căn nhà, góc phố, từng bờ tre, bãi mồ mả ở Huế, ở Phú Vang,… Khi không còn đủ sức nữa, đành vượt Phá Tam Giang trở lại với rừng.

Vào những năm “68, 69” ấy, các làng, xã ven đô Huế căng như một sợi dây đàn. Suốt ngày lính bảo an, dân vệ chà xát, dồn dân lập “ấp Tân sinh”. Đến đêm, “lính mũ nồi xanh” kết hợp với lính địa phương quân gài mìn, giăng bẫy đón lõng bộ đội, du kích về làng. Chúng thừa biết bộ đội, du kích đang bị đói. Lính Mỹ đang càn mạnh ở miền Tây ra cả đường tuyến, thọc cả vào các kho gạo, kho đạn đập phá. Tiểu đoàn 439 của công trường V, sau những ngày đánh chống càn, bộ đội bị thương, hi sinh, một số sốt rét, chết đói nằm trên võng dọc đường.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:24:56 pm
Cả tiểu đoàn X. chỉ có hơn 200 tay súng. Ban chỉ huy tiểu đoàn lo kiếm gạo nuôi quân không đủ ăn. Bộ đội chịu đói khát, tật bệnh. Điều cốt tử lúc ày là thực hiện cho được nhiệm vụ của quân khu, của tỉnh giao cho là giữ cho được lòng tin của người lính đứng trên vùng giáp ranh không ngã lòng buông xuôi. Đã có lúc, đại uý Lê Văn Duy, chính trị viên tiểu đoàn X đã phải khóc trước hàng quân mà nói rằng: “Dù còn một người thì chúng ta cũng phải giữ cho được giáp ranh. Còn đứng chân được ở đây là còn đường về với dân. Máu của mỗi đồng chí ta đổ ra trong cuộc chiến đấu này không hề uổng phí, tô thắm ngọn quân kì của Tổ quốc. Máu của ngày hôm nay, anh em ta đổ ra ở Thành Nội, ở Phú Vang, Phong Quảng, Hương Trà, Hương Thuỷ… làm nên chiến thắng ngày mai”.

Đã bao năm, trong mỗi chuyến đi về Thanh, Nghệ, Hoài luôn dò hỏi tìm tông tích ông Duy coi thử ông còn sống hay đã mất. Ông Bậu, dù nay đã là người thiên cổ, trong cái đêm ngồi kể chuyện cho Hoài nghe về bà mẹ làng Lôi đi tìm con, cũng không biết tin tức của ông Duy. Có người bảo ông Duy đã mất vì bị ung thư gan. Nhưng cái âm điệu giọng Thanh Hóa của ông Duy như vẫn văng vẳng bên tai Hoài.

Cuộc sống của người lính giải phóng còn như vậy, huống chi dân các xã vùng ven Huế, vùng Phong Quảng, Hương Trà. Có nhiều làng, dân không được ngủ lại đêm. Tối kéo nhau vào ấp chiến lược có lính canh chừng. Có người hôm qua còn bán gạo cho bộ đội, du kích, hôm nay thấy bộ đội về ấp thì sợ hãi, xua họ như xua tà. Có kẻ còn ngầm báo cho địch những ngả đường bộ đội, du kích hay đột kích vào làng để chúng đặt mìn phục kích. Những người dân trong vùng địch kiểm soát khiếp sợ tụi tề ngụy trong xã, trong quận biết họ liên quan tới cách mạng, trả thù. .Hèn gì ông Sáu Đến khi gặp một ông như thủ trưởng Bậu lại chả sợ. Khẩu K54 bao da bóng loáng luôn kè kè thắt lưng ông Bậu. Ông lại đeo chiếc xắc cốt đen bên vai; chân đi dép rọ Liên Xô, mũ cối Trung Quốc lấp lánh sao vàng, đi xe commăngca về làng.

Nhưng ông Bậu vốn là người chỉ huy làm dân vận giỏi. Và khi biết ông Bậu cũng là người Thanh Lương, ông Sáu Đến mới dám kể chuyện Đệ. Chính tại đây, ông Bậu mới được nghe câu chuyện của ông Sáu Đến kể về việc cứu chữa thuốc men cho Đệ. Ông càng ngỡ ngàng khi nhìn thấy tấm ảnh chụp Đệ và Hương Giang – con gái ông Sáu Đến, kỉ niệm ngày hai người mới cưới nhau. Vẫn theo lời ông Sáu Đến, ông đã bắt gặp Đệ nằm trong rãnh đất trồng mía lúc đi làm đồng. Nhìn Đệ, ông biết là bộ đội ta bị thương trong trận đánh về Bầu Tháp mấy đêm trước. Lúc ấy, Đệ đã yếu, nằm thoi thóp thở, người bị thương bê bết máu. Khi ghé chiếc bi đông nước cho Đệ uống, ông không tin anh bộ đội sẽ qua khỏi. Suốt mấy ngày trời, ông Sáu dấu anh bộ đội trong ruộng mía. Hàng ngày, ông lấy cớ ra đồng, dấu nước cháo, sữa hộp, nước uống, thuốc và kim tiêm trong những bao phân. Tự tay ông tiêm thuốc cho Đệ phòng chống sài uốn ván. Cho đến ngày thứ tư, sức khoẻ của Đệ mỗi ngày một khá hơn. Anh đã nhúc nhắc đi lại được. Ông Sáu Đến mới quyết định đưa Đệ về dấu trong vườn nhà.

Kể xong câu chuyện, ông Sáu Đến bảo với ông tiểu đoàn trưởng Bậu:

- “Chúa dạy: con người là vốn quý chú ạ”.

Một ngày, ông Bậu bí mật chở bà Mít về làng Dương gặp mặt ông “thông gia” Sáu Đến.

Câu đầu tiên, ông Bậu nghe được từ cửa miệng ông Sáu Đến là:

- “Thay mặt cho hai cháu, tôi xin bà nhận lấy ở tôi một lạy, tôi tạ tội thay cho hai cháu. Chúng nó làm việc liều, chẳng được ông bà ngoài nớ cho phép. Thời buổi chiến tranh, cách trở xa xôi… Xin ông bà chớ lấy làm phiền”.

Ông Sáu Đến hôm ấy mặc bộ quần áo nâu, ngoài mặc tấm áo dài đen mà mỗi khi trong họ đạo có việc, người ta mới thấy ông ăn mặc như thế.

Còn bà Mít, mẹ đẻ của Đệ, khi vào trong nhà, thoạt nhìn thấy tấm ảnh Đệ đứng cạnh một cô gái xa lạ, bà không cầm nổi nước mắt. Bà lắp bắp: “Con tôi… còn sống. Còn sống thật các ông ạ…”. Rồi bà ngất đi. Ông Bậu và ông Sáu Đến sợ quá, phải cậy miệng bà đổ chút nước gừng. Một lát sau, bà Mít mới tỉnh.

Ông Bậu kể xong cuộc tương ngộ của hai gia đình thông gia, kẻ Nam người Bắc cho Hoài nghe xong, có vẻ vui. Ông bảo:

- “Nói thiệt với em, qua chứng kiến bao cảnh vui buồn. Có lúc tiểu đoàn ta đánh nhau ở Dưỡng Mông A, “thằng” C1 của qua có trận hi sinh cả mớ. Qua không khóc. Vậy mà nhìn cảnh hai ông bà già tìm nhau nhận con, nhận cháu qua rơi nước mắt”.

Chợt ông Bậu vỗ đùi:

- “Này mi, lấy xe máy của qua phóng ra Tứ Hạ mua thịt chó về đây, ta nhậu. Tự nhiên, qua muốn uống rượu”.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:28:16 pm
III
NHỮNG ĐÊM TRẮNG



1

Cha tôi mất vì bệnh ung thư phổi.

Đang khoẻ mạnh bình thường, chỉ một cơn đau nhẹ rồi ông nằm hẳn. Dấu hiệu ban đầu là những cơn ho húng hắng về đêm. Tôi nghĩ đơn giản. Chỉ tại cha hút thuốc lá. Từ ngày mẹ tôi còn sống và cả tôi nữa đã nhiều lần khuyên nhủ ông bỏ thuốc, cha tôi không bỏ được. Về chuyện cha tôi nghiện thuốc lá, ông lý sự. Không uống rượu bia. Không chơi bời bồ bịch. Vợ mất rồi. Niềm ham mê lớn nhất được nhìn thấy tôi hằng ngày. Một đứa con gái xinh đẹp, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, có bằng cấp đại học. Ngoan ngoãn. Không uổng công nuôi dạy của cha mẹ. Niềm vui thứ hai ước vọng có được một cơ ngơi để sống sung túc, được tự mình làm những điều mình mong muốn. Hơn cả ước vọng, cha tôi đã gây dựng được cả một trang trại trồng hoa, trồng rừng… Gia đình có của ăn của để.

Mỗi sáng sau tuần nhang thơm thắp cho mẹ tôi trên bàn thờ, ông đi giữa những luống hoa hồng, hoa cúc, hoa ly, hoa lan còn ướt đẫm sương đêm phì phèo điếu thuốc lá trên tay. Tôi nhìn dáng vẻ thư thái trên gương mặt của ông nhưng ẩn sâu trong đáy mắt là nỗi buồn ưu tư của một người đàn ông đã trải qua nhiều nỗi khổ đau. Tôi vừa là đứa con cùng chia sẻ với ông bao chuyện vui buồn nhưng cũng là một chứng nhân cho chính ông trong nhiều chuyện. Vào những lúc ấy tôi không nỡ lòng nào lại cấm ông hút thuốc. Nhiều khi tôi cũng nói quá lời, phê bình ông hút thuốc. Tôi còn mang nhiều tấm gương ra để doạ cha tôi. Ông chỉ cười và bí quá liền đổ tội cho Mỹ, cho mấy cô du kích vùng ven đô Huế. Nghe lạ tôi hỏi.

 – Cha nghiện thuốc sao lại đổ tội cho Mỹ?

Cha tôi rỉ rả:

 – Ngày còn là lính trinh sát, cha thường phải bò vào bãi Mỹ, bãi Ngụy để bám địch. Không có địch thì lượm đồ ăn. Con biết không, mỗi lần máy bay trực thăng Mỹ đổ quân trên các cao điểm, đám lính tụi cha vừa lo lại vừa mừng. Lo vì biết rằng địch sẽ càn rừng, lại lùng sục, có khi đụng độ đánh nhau chí tử. Mừng vì nghĩ thế là lại có cái ăn rồi. Lính Mỹ giàu lắm. Mỗi lần máy bay trực thăng đổ xuống một điểm cao nào ngoài súng đạn, quân trang, còn cơ man nào là đồ hộp, thuốc lá, kẹo…Lính Ngụy nghèo hơn nhưng ít nhất cũng còn lượm được ít bao gạo sấy, đồ dùng như kem, bót…Có dạo ba tháng trời đại đội bộ binh của cha được cấp trên giao cho bám đất, bám dân giữ vùng giáp ranh. Đang là mùa mưa. Mưa trắng đất trắng rừng xứ Huế. Bộ đội không về dân mua gạo được. Đường lên miền Tây tắc. Mỹ đang càn ở sông Bồ. Quân Mỹ đóng dày đặc trên các cao điểm. Ở dưới vùng giáp ranh nơi tiếp giáp với đồng bằng có dân, lính ngụy của Sư đoàn 1 bộ binh đóng đầy trong các làng hoang, chốt chặn của rừng. Bộ đội đói. Cả đơn vị của cha phải bám vào căn cứ Bình Điền của Mỹ để lượm đồ hộp ăn trừ bữa…Lính Mỹ đi càn rừng, lúc đi ỉa còn nhai kẹo cao su. Quanh các bãi đóng quân, chỗ nào thấy đất mới đào moi lên là nhặt được đồ hộp. Bộ đội ở giữa rừng không có gạo nhưng toàn được ăn đồ hộp Mỹ, hút thuốc lá Pall mall, Salem…Buồn cười nhất là mỗi lần xem lính Mỹ tắm. Quân Mỹ đóng chốt trên các điểm cao, máy bay H34 chở nước từ Huế lên xả trên đỉnh đồi cho lính Mỹ tồng ngồng chạy ra tắm. Cha là lính trinh sát bộ binh chuyên đi bám các bãi Mỹ, bãi Ngụy thường lượm được đồ hộp Mỹ. Cũng bởi quen hút thuốc lá Mỹ, lâu ngày sinh nghiện.

Nghe câu chuyện dông dài của cha, tôi bị cuốn hút sinh tò mò.

 – Còn các cô du kích, cha yêu cô nào mà cô ta mua thuốc lá cho cha hút? Bây giờ chỉ còn có con, cha khai thật xem nào?

Cha tôi châm một điếu thuốc lá rít một hơi dài khoan khoái. Rồi bảo:

 – Chả có gì phải giấu con cả! Ngày cha vô Nam chưa tới 18 tuổi. Còn trẻ lại ngu ngơ nữa. Nhỏ hơn con bây giờ nhiều. Đơn vị cha đóng quân ở vùng giáp ranh sống cận kề với các đơn vị của huyện xã. Có nhiều du kích, cán bộ là phụ nữ lên rừng theo cách mạng. Các anh lính trẻ ngoài Bắc luôn nhìn các cô cán bộ, du kích, biệt động người địa phương như thần tượng.

 – Họ có đẹp không cha? – Tôi cắt ngang.

 – Có người đẹp, có người xấu, nhưng chỉ nghĩ họ là con gái, đàn bà dám bỏ cả thành phố, làng quê lên rừng theo cách mạng, chấp nhận cuộc sống cực khổ, hi sinh… cha đã phục lắm rồi. Huống hồ có chị, có cô còn là bí thư, chủ tịch xã. Có người là huyện uỷ viên, có người là trinh sát thành phố. Họ lọt về dân, vào thành phố xuất quỷ nhập thần. Có cô vào làng tham gia diệt ác trừ gian, giết bọn tề điệp như chém chuối. Anh lính giải phóng trẻ nào nhìn các cô chả hãi, chả phục. Nhưng các cô, các chị lại rất thương lính giải phóng, nhất là từ ngoài Bắc vào. Mỗi lần các chị, các o đi đồng bằng, vào được dân ngoài việc nắm tình hình địch, trao đổi công việc, lúc lên rừng, người nào người nấy thường mua gạo, muối, dầu Mỹ, có khi còn mua thêm kẹo Nu-ga, mè xửng, sữa, đường cho mấy anh lính trẻ.

 – Như cha chẳng hạn? – Tôi khiêu khích.

Cha tôi cũng không vừa.

 – Tất nhiên! – Như thể tôi đã chạm vào đáy sâu cõi lòng ông khơi gợi lại những kí ức xưa cũ đã bị chìm lấp trong lãng quên. Ông kể: – Ngày ấy cha là lính trinh sát nhỏ tuổi có một O gọi là O Tâm, thương cha như một đứa em. Cứ mỗi lần O Tâm về làng, không có địch, vào được quán O lại mua cho cha kẹo, thuốc lá Ruby. Hút riết thành quen…

 – O Tâm bây giờ ở đâu cha? – Tôi hỏi dồn.

Cha tôi thẫn thờ trong giây lát rồi nói nhỏ.

 – O Tâm chết rồi! – Đột nhiên ông gọi O bằng chị. – Chị ấy dũng cảm lắm… Có lần cha bị địch phục kích ở dốc Đu. Tụi Ngụy bắn chết người lính đi đầu, còn cha bị gẫy tay. Sau lúc súng nổ cha cùng với chú Xu, trinh sát chạy lạc đường, vào rừng. Chị Tâm nghe tin đơn vị trinh sát bị phục kích, đang đêm còn xách súng đi tìm. Chị Tâm chết trong một chuyến về đồng bằng nằm hầm bí mật trong dân, có điệp báo lính địch trên đồn về giật sập hầm…

Không bao giờ cha tôi nhắc lại O Tâm nào đó nữa trước mặt tôi. Chỉ sau này khi đọc lại những dòng ghi chép của cha tôi trong những cuốn vở, tôi gọi là “gia bảo” của nhà tôi, một đôi lần tôi gặp lại tên người đàn bà ấy với vẻ ngưỡng mộ, kính trọng. Tôi không nghĩ đấy là người yêu của cha tôi, bởi mỗi lần nhắc tới tên O Tâm, cha tôi luôn gọi bằng chị với sự kính trọng đặc biệt. Nhưng hẳn đấy phải là một người đàn bà quan trọng trong quãng đời trai trẻ của ông, những năm ở rừng. O Tâm là một biểu tượng cho lòng dũng cảm, gan dạ, nghĩa tình với đồng đội.

Ngày cha tôi ngã bệnh, tôi đã đoán định: Không còn nghi ngờ gì, thuốc lá là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh ung thư của cha tôi. Nằm viện đâu được mươi ngày, bệnh có phần thuyên giảm. Cha tôi xin với bác sĩ về nằm nghỉ ngơi ở nhà, xin toa thuốc mua về uống. Vậy mà chưa tới một tuần cha tôi đi. Đi mãi.

Trước ngày cha tôi mất, ông gọi tôi vào phòng lấy ra từ trong chiếc tủ thờ một bọc ni lông và giao cho tôi. Ông dặn.

 – Mọi việc trong nhà con biết hết cả rồi. Từ chuyện tiền bạc, tài sản, trang trại tất cả là của con. Cha giao cho con mấy cuốn sổ ghi chép linh tinh. Khi nào rảnh rỗi con đọc. Con sẽ hiểu hơn cha và mẹ. Trong cuộc sống có những điều người ta không thể kể ra được con à. Vả lại cha sợ…

 – Sợ gì cha?

 – Tuổi tác… bệnh tật có những điều khổ cực vất vả cha vượt qua được nhưng cho đến tuổi này cha mới hiểu điều đáng sợ nhất ở người già là sức khoẻ. Địa vị, tiền bạc, nhiều khi vô nghĩa trước cái chết.

Trong đống sách vở cũ ngoài những giấy tờ đất đai, nhà cửa, giấy mãn hạn tù ở trại cải tạo, giấy xác nhận cha tôi là bộ đội, giấy chứng thực của ông ngoại tôi ở làng Dương đã cất giấu nuôi nấng cha tôi suốt 4 tháng trời và cả một bản kê khai của ông ngoại tôi đã móc nối với những ai để làm giấy tờ giả cho cha mẹ tôi chuyển vô Nha Trang, Sài Gòn… còn đủ cả. Những cuốn sổ ghi chép của cha tôi để lại cả thảy có bảy cuốn. Chữ viết trên tập vở học trò của hãng Cogido 100 trang từ cuốn sổ thứ hai cho đến cuốn thứ tư trong mỗi tập như thế cha mẹ tôi viết đan xen nhau. Mỗi người viết một khúc.

Để tôn trọng người cha tôi luôn hằng yêu quý, có lúc tôi nghĩ: Giá tôi chết thay để cha tôi có thể sống lại được, tôi cũng dám. Nhưng sự sống và cái chết cho mỗi con người đâu có vậy được. Tôi sẽ chép lại những con chữ của ông, có những trang bị nhòe mực, tôi phải lần mò cả ngày trời mới luận ra được. Có những trang vở bị dính nước mất chữ. Có những trang bị vệt nâu xám phủ mờ tôi ngờ là máu. Tôi cũng không còn nhớ đã bao đêm ngồi đọc lại những dòng chữ của cha tôi, của mẹ tôi, nước mắt chảy giàn giụa. Tôi ngồi khóc ròng như một đứa con nít vì thương và đau đớn. Tôi tự trách mình những lúc cha mẹ tôi còn sống có những lần, tôi không phải với người.

Và tôi ngộ ra một điều. Cuộc sống không bao giờ giống như sách vở, những điều giáo huấn. Sự thật chỉ có một, nhưng trước con mắt suy xét của người đời với những tâm thế khác nhau lại được ẩn khuất, lấp liếm, biến thái muôn mặt…

Vậy đó.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:30:43 pm
2

Tập vở Cogido số 1.

Y nằm ở đây đã là ngày thứ mấy? Không biết!

Ai là người đã băng bó cho y? Không biết!

Chỉ thấy đầu, cánh tay y quấn đầy băng. Toàn thân bị nẹp chặt bằng một thanh tre… Mà sao y lại có thể chui được vào căn phòng này?

Hình như trời đổ mưa. Tiếng mưa rơi lốp đốp trên mái tôn, trên những tàu lá ngoài vườn. Luồng ánh sáng từ một cửa sổ qua khe hẹp chiếu vào, con mắt y quen dần với cảnh vật trong bóng tối. Từng lúc y định co chân theo thói quen nhưng cái chân nặng như chì bị kẹp cứng trong những thanh tre. À! Thì ra chân cũng bị thương. Chỉ có điều đầu óc y trống rỗng, nhẹ bẫng. Y biết mình bị thương nhưng không cảm thấy đau đớn. Thân xác y hệt như một thỏi chì, nặng trịch dán sát xuống tấm ván. Đầu óc tỉnh táo muốn chỉ huy tay chân nhúc nhắc cũng không được. May mắn sao trí não của y không hề lú lẫn. Vệt sáng bay trên đầu như chiếc máy chiếu phim quay chậm, đủ để y nhìn thấy những hạt bụi nhỏ li ti treo lơ lửng trên cao. Y nhớ tất cả, biết cả. Y còn nghe rõ tiếng con chuột kêu chin chít ở góc nhà sau bồ lúa cao cả thước. Nơi trú ẩn của y là một kho chứa thóc. Những bồ thóc kê cao cả thước xếp ở góc nhà cùng với quang thúng. Chỗ nằm của y giống như một cái ổ, lót rơm trải chiếu, phía dưới là tấm sạp gỗ được ngụy trang sau một tấm liếp nhỏ vắt áo quần. Ngay cạnh chỗ y nằm trên một băng ghế có để sẵn chai nước. Ở bên ngoài đâu đó vọng lên một tiếng gà gáy eo óc. Rõ đây là nhà dân! Sao y lại nằm trong nhà dân? Làng nào đây? Khi còn chỉ huy đơn vị, y từng nhiều lần đi cùng với cán bộ du kích các xã Hương Thạnh, Hương Thái, Hương Toàn, Hương Mai… Mỗi chuyến về làng đều có nhiệm vụ rõ ràng. Khi thì về đánh bọn bảo an, dân vệ. Nếu không gặp địch thì phát động quần chúng nhân dân, vào làng mua gạo cơm. Cả đại đội 3 của y nhiều lần được O Đắng, O Tâm, O Lành, O Cúc, chị Nguyệt, chị Chồn đưa về thôn Văn Xá, Liễu Thượng, Phú Ổ, La Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ… mua gạo, mua đậu phộng cứu đói. Lính C3 sống được qua những ngày đói là nhờ cơm gạo của người dân vùng giáp ranh. Trận đánh về Bầu Tháp vừa qua mục tiêu của đại đội cũng là vào làng mua gạo, nếu không gặp địch. Cả đại đội chỉ còn hơn bốn chục tay súng trụ bám giáp ranh đói queo, đói quắt cả tháng trời, đánh địch càn lên dốc Tranh, bám địch ở căn cứ Chóp Nón và Hòn Vượn. Đại đội 1 chủ công chốt ở Hương Mai cũng chỉ còn hơn 30 tay súng. Đại đội 4 đơn vị hoả lực được tăng cường thêm một trung đội bộ binh của C2 giữ vững địa đạo 310, bên sông Bồ. Bộ đội của đại đội 2 gùi gạo trên Hang Đá. Huế đang vào mùa mưa bão. Lũ sông Bồ, lũ ở Rào Trăng, Rào Lu đang lên to. Đường tắc, gạo ở đường tuyến không về được. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ đang càn mạnh ở Côcava, Động Chuối, Rào Trăng, Dốc Chè, điểm cao 360, Khe Trái ra tới tận đường 12. Một cậu lính trinh sát của thành phố bị địch phục kích bắt sống ở đường 12 khai ra hết hậu cứ của bộ đội, du kích. Các địa điểm đóng quân của bộ đội, của huyện của xã, địch đổ quân vào càn, đặt mìn giật sập hầm. Đêm đến trên các điểm cao Chóp Nón, Hòn Vượn nã pháo vào hậu cứ. Con đường từ Hương Trà sang Hương Thuỷ về với căn cứ của trung đoàn ở phía Nam sông Hai Nhánh bị lộ. Địch tung quân càn chặn hết các ngả đường về với dân qua ngả Dốc Đu và Dốc Cát.

Y và tiểu đội lính trinh sát đã phải mất một tuần mới xuyên thủng được con đường về đồng bằng qua ngả khe Đá Liếp. Gần cả tháng trời cán bộ huyện xã, các đội biệt động có sự tăng viện của bộ đội C3 đi theo con đường mới mở này về bám được vào dân. Chưa kịp mừng chỉ một, hai đêm đã có điệp báo. Ở xã Hương Thạnh thêm anh Thẻo, anh Châu cán bộ xã hi sinh khi lọt vào ấp chiến lược Xóm Mới. Trung đoàn bảo an số 52 của ngụy đóng quân dày đặc trong các làng Văn Xá Thượng, An Đôn, Liễu Nam, Phú Ổ… Đánh địch hay không đánh địch cũng giống như sự lựa chọn giữa chết hay sống. Đánh địch bám được vào dân, vào làng là mua được gạo cơm. Là sống! Còn hèn nhát không dám đánh địch, không bám được vào dân, cái đói treo trước mắt. Bài học sau tết Mậu Thân 1968 còn đó. Bộ đội tiểu đoàn 439 khi rút lên rừng bị đói, bộ đội nằm chết trên võng, giữa các vạt cây dọc đường giao liên trong lúc chạy càn, nhỡn tiền ra đấy. Dù đầu óc y có giàu trí tưởng tượng đến mấy, những ngày trên đất Bắc y sẽ không nghĩ có ngày phải ăn thứ rong chó mọc dưới khe đá. Nấu dọc khoai môn ngứa ăn thay cháo. Hôm nào vớ được môn thục, môn vót, đọt chuốt ăn thay cơm đã là may. Chả có thứ sách vở nào dạy y cả. Cũng không thấy mặt anh cán bộ đưa quân vào Nam nào có ở đây để động viên và làm công tác tư tưởng. Giao quân xong, những anh cán bộ đưa quân đã mau chóng ra đường tuyến về hậu phương cả rồi. Còn ở đây trong vùng rừng núi Bắc Huế từ anh chính trị viên tiểu đoàn, đại đội cũng đói và phải ăn cháo môn như lính. Những lon gạo cuối cùng trong đáy ba lô của thủ trưởng cũng đã phải dốc ra cho vào nồi cháo chung của đơn vị. Mỗi người một hai lưng chén cháo, rau môn là chính nhưng ít ra là còn có cái cầm hơi, qua cơn đói. Người lính ở giáp ranh lúc này đã xác định chỉ còn một là sống hai là chết với địch. Phải đột kích về làng. Được ăn cả, ngã về không.

Hai đêm liền bộ đội C3 và cán bộ du kích xã Hương Thái lọt về được Phú Ổ, La Chữ. Bộ đội đánh thẳng vào chợ, một trung đội nghĩa quân nghe động đã bỏ chạy. Đại thắng, bộ đội, du kích, cán bộ vào được dân, mua được gạo cơm, mắm muối, lại còn mua được ít đường sữa, thuốc lá. Gương mặt những người lính sau đêm đi đồng bằng có được chút chất tươi, ăn no, phởn phơ hẳn lên.

Chuyến về Bầu Tháp đêm tháng Tư trót lọt, êm ả. Bộ đội lại mua được gạo.

Chuyến đi Bầu Tháp tháng Năm đại đội 3 chạm trán với đại đội bảo an số 23 ngay trên đường quốc lộ. Phát hiện ra khẩu đại liên của tụi Ngụy bắn như xé vải ở một ngôi nhà đầu ấp. Y đã giật lấy khẩu B40 của cậu Hoà đang bị thương và nã thẳng vào tổ hoả lực của Ngụy. Tiếng đạn B40 nổ chưa dứt đã thấy một quầng lửa trùm phủ lên ngôi nhà tôn và một tiếng nổ dữ dội ngay bên cạnh. Y không còn biết gì nữa.

Và bây giờ, y nằm đây, bất động.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:33:13 pm
3

Lờ mờ một gương mặt không rõ đường nét. Chỉ thấy cái đầu với mái tóc có nhiều sợi bạc. Người ấy ghé xuống gần mặt y. Dòng nước mát thấm vào cổ họng tới đâu, y tỉnh ra tới đó. Giá như có cả nước của con sông Hồng, y cũng uống hết… Nước! Nước… Đôi môi y mấp máy. Phải một lúc lâu sau, y hỏi đứt quãng.

 – Ông là ai?

Người ấy hỏi lại y.

– Chú là bộ đội giải phóng phải không?

Có thể người ấy hỏi cho có chuyện, chứ nhìn cách ăn mặc của y là người ta thấy ngay y là người của phía bên kia.

Người đàn ông nói tiếp.

 – Chú bị thương chui vào ruộng mía nhà tôi. Chả biết chú là người tốt hay kẻ xấu nhưng thấy chú sắp chết, tôi thương. Vết thương của chú nặng hung. Không rõ có qua khỏi không?

 – Cảm ơn bác! Tôi là bộ đội giải phóng về đánh trận Bầu Tháp…

 – Tôi biết rồi! Chú đừng nói nhiều, mệt. Tôi dặn nghe, ráng nằm đây, có đau cũng đừng la hét. Người đi làm đồng quanh đây nghe động họ báo cho dân vệ ra bắt thì khổ. Họ mà bắt được chú, giải lên quận, chú chả sống nổi mô.

 – Dạ! Cảm ơn bác! – Y chỉ biết nói vậy và giương đôi mắt mệt mỏi nhìn người đàn ông xa lạ.

Người đàn ông nói thêm:

– Trời có đổ mưa thì lấy tấm ni-lon trùm lên cho đỡ lạnh. Chỗ này cao, nước không lên tới mô.

– Bác là ai?

 – Là người! – Một nụ cười không thành tiếng đọng lại trên gương mặt cháy nắng của người đàn ông cao tuổi. Tấm áo màu đen đã bã màu, chiếc khăn quấn quanh cổ. Ông đặt xuống cạnh y một chai nước và dặn. – Đây là chai nước cháo, đói thì nhấp cho mát dạ. Ngày mai trong làng ngó êm, tôi lại ra.

Đêm ấy trời không mưa. Gió Nam thổi lùa qua ruộng mía mọc cao lút đầu người. Đám lá mía sắc nhọn khua loạt xoạt. Một giàn sao giăng dày giữa khoảng trống của hai luống mía.

Y tỉnh. Tỉnh mới cảm thấy sự cô đơn, trống trải, xen chút hoảng loạn khi hiểu ra tình thế bất khả kháng của chính mình. Càng sợ hơn khi biết chắc y không còn súng. Cái xanh-tuya-rông luôn có hai băng đạn AK, gói bông băng và tấm áo ni lông cũng biến đâu mất. Nguy hiểm hơn y lọt thỏm giữa vòng vây của địch. Ngày thứ mấy y nằm kẹt ở ruộng mía này? Không biết.

Lâu lâu tụi nghĩa quân, bảo an đóng quân ở các làng lại bắn lên trời vài loạt đạn. Có những viên đạn lửa đỏ lừ bay vút qua khoảng sáng trên đầu. Còn cái người đàn ông quái dị này là ai mà lại dám bao bọc y, cho y uống nước, húp nước cháo? Những vòng băng trắng nẹp chân y và quấn quanh trên ngực nếu không phải ông ta làm thì còn ai vào đây? Ông ta hẳn phải là người tốt, có cảm tình với cách mạng mới dám cưu mang một Việt cộng đã chín phần chết chỉ còn một phần sống. Chỉ cần ông ta báo cho lính lập tức y sẽ bị tóm ngay. Chưa biết chừng còn được lĩnh thưởng.

Nhưng người đàn ông kỳ dị lần đầu tiên y gặp trên đời đã không làm vậy, đã không hành xử như những người dân bình thường sống trong vùng địch khi rơi vào cảnh huống tóm được một cộng quân. Giá sử chuyện ấy có xẩy ra y cũng không có quyền trách cứ họ. Và biết đâu trong đầu người dân bình thường ấy lại nghĩ rằng, họ đang dang tay làm phúc cứu người. Trong con mắt của người dân ấy, y chỉ là một tên tù binh đã mất sức chiến đấu, không thể kháng cự nổi lính của ông Thiệu. Họ đang mở lòng Bồ Tát để cứu độ kẻ bị thương sắp chết? Y sẽ ra sao nhỉ? Gặp những tên lính ngụy chưa biết chừng y sẽ lãnh trọn một viên AR15. May mắn hơn y sẽ được bắt làm tù binh và nếu còn sống sẽ bị đưa đi Phú Quốc…

Người đàn ông kỳ dị mà y chưa kịp nhớ mặt, biết tên đã không làm vậy. Để cho y được tự do và yên ổn giữa cánh đồng mía lạnh lẽo này.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:36:17 pm
4

“Tôi tên Đến, thứ sáu. Bà con trong ấp gọi tôi là Sáu Đến. Chú ở tạm ngoài này. Ở trong nhà không tiện, người ra vô dễ lộ. Hàng ngày tôi lo cơm cháo cho chú… Khi nào chú liền các vết thương tôi sẽ tìm cách móc nối đưa chú lên xanh. Nếu có đau ráng đừng kêu nghe chú”.

Nằm trên tấm đệm trải manh chiếu, y lặng lẽ quan sát người đàn ông mang tên Sáu Đến. Ánh nắng xuyên qua một lỗ thủng trên vách, đủ để y nhận biết ông Sáu không còn trẻ nữa. Y cũng không tiện hỏi bằng cách nào ông Sáu đưa được y từ ngoài cánh đồng mía vào nhà, qua mặt được dân làng và tụi tề ngụy trong ấp. Hẳn phải có người trợ giúp? Họ phải là người trời xuống giúp y thoát khỏi kiếp nạn này…

Ông Sáu Đến là người ít nói. Vào lúc đêm khuya, ông mới lẻn vào nơi trú ẩn của y mang cháo, mang cơm, sữa và một phích nước nóng. Bộ kim tiêm đã được ông Sáu khử trùng sẵn, tiêm cho y những mũi thuốc kháng sinh và thay băng cho y. Sự giao cảm của y với ông Sáu chỉ qua ánh mắt và những cái gật, cái lắc đầu. Bộ quần áo bộ đội giải phóng của y cũng đã được ông Sáu cởi ra và mặc cho y bộ bà ba đen, đã bạc màu. Bộ quần áo rộng thùng thình, hẳn là của ông Sáu.

Y đã có thể nhúc nhắc được tay chân. Nẹp đã được tháo ra. Khi cần tiểu tiện, đại tiện y đã có thể lết nhẹ vào góc nhà đã để sẵn ở đấy cái bô có nắp đậy. Y biết chắc điều này. Gia đình ông Sáu không hẳn chỉ có một mình ông. Thỉnh thoảng, y vẫn nghe tiếng ông Sáu gọi “Xíu ơi! Vô giúp ông…”, “Xíu, sang nhà chú Hai mượn cho ông cái cưa…”. Cái người tên Xíu ấy, hẳn là cháu ông. Nghe giọng nó đáp lại ông già, như giọng con nít.

Nơi y được ông Sáu giấu là căn nhà ọp ẹp, tựa như nhà kho, nhà chứa tro. Bên trong ngôi nhà chỗ để cuốc xẻng,chỗ ngăn ra chứa tro trấu ngổn ngang thúng mủng. Từ gian nhà lớn xuống đây còn phải qua một gian nhà ngang, dùng làm bếp. Nhà ông Sáu ở ngay gần giữa xóm, phía đầu cổng vào băng qua con đường kiệt xuyên dọc làng, phía bên kia đã là khuôn viên nhà thờ làng Dương. Quãng 4 giờ sáng, y đã thức giấc và dỏng tai chờ đợi tiếng chuông nhà thờ ngân vang. Lúc ấy cũng không còn nghe thấy tiếng súng của đám lính dân vệ nữa. Thức gác cả đêm, chúng đã mệt. Vả chăng, vào tầm ấy, bộ đội, du kích cũng chẳng còn ai ở lại làng. Đã thành quy luật. Bộ đội giải phóng về hỗ trợ cho du kích địa phương đánh địch. Các đội công tác đi diệt ác trừ gian. Cán bộ trên rừng về vận động quần chúng nhân dân thu mua gạo cơm thực phẩm, quãng nửa đêm “cha con” đã phải đạp đường lên xanh. Từ các làng ven đường quốc lộ, vùng ven đô Huế đi bộ có giỏi cũng phải mất ba tiếng mới lên tới vùng giáp ranh, đồi trọc. Ấy là đường thông không có địch phục kích. Từ dốc Ồ Ồ, Miếu Trâu, Khe Đất Đỏ “cha con” ngồi nghỉ ăn vắt cơm qua đêm đã nguội ngắt nguội ngơ, chờ trời sáng. Bốn giờ, sương chưa tan còn đọng từng giọt trên những lá cỏ tranh sắc nhọn. Con đường mòn vượt qua dốc Đu, hoặc dốc Cát chỗ cao chỗ thấp, lởm chởm đá, có lúc lọt giữa lòng khe. Chưa rõ mặt nhau, người nọ bám người kia, lưng đeo gùi, tay cầm súng đi vào rừng.

Bởi vậy, vào lúc 4 giờ sáng ở làng Dương, ngay sát nơi y trú ẩn, âm thanh vang vọng nhất là tiếng chuông nhà thờ. Chỉ ít phút sau, trên con đường kiệt qua làng y đã nghe tiếng dép loẹt quẹt của các bà, các cô ra nhà thờ nghe buổi kinh sáng. Những lúc ấy, nghe tiếng chuông nhà thờ, tiếng người lao xao ngoài đường, lòng y quặn thắt. Chỉ muốn khóc. Tưởng như tiếng chuông nhà thờ ở làng Vàng, cách làng Lôi của y chỉ một con ngòi và một rẻo ruộng nhỏ… Dân làng Lôi không theo công giáo. Người làng Lôi chỉ tin trời Phật và thành hoàng làng. Trong khi ở làng Vàng, dân theo đạo cả làng. Dân các làng thờ Chúa, thờ Phật khác nhau, nhưng không bao giờ có điều qua tiếng lại. Ngày chống Pháp, dân công giáo làng Vàng, dân làng Lôi còn ở chung một đội du kích của xã… Ở nhà y vào tầm ấy mẹ y dậy đã lâu. Bà vơ mấy cành rào tre, đến mùa gặt có khi dùng rơm rạ nấu ấm nước chè, luộc nồi khoai, trong lúc thầy y lọc sọc thử điếu. Y nằm co ro trên chiếc sập gỗ, đắp chiếu để ngửi cái mùi khói thuốc lào loang ra cả căn nhà đất.

Y không biết hút thuốc lào, thậm chí còn sợ cả mùi thuốc lào phả ra của thầy y trong căn nhà đất chật hẹp. Vậy mà giờ đây, giữa một nơi xa lạ và đầy chết chóc này, y nhớ quay quắt mùi thuốc lào và hình bóng của thầy y in trên bức tường đất ngồi thu lu hai chân trong chiếc ghế, nghiêng đầu cầm chiếc điếu cày.

*
*   *

Có một đêm y hỏi Sáu Đến:

– “Chú dấu tôi thế này không sợ mấy ổng trong xã, tụi dân vệ biết được sao?”.

 – “Sợ thì tôi đã không làm. Nhìn các chú bị thương, như con cháu trong nhà, tôi thương”. – Ông Sáu Đến nhìn y một hồi như thể thăm dò, lúc sau bảo – “Đồng bào không phải ai cũng là người của ông Thiệu”.

Lần khác, ông Sáu Đến lại bảo y:

 – “Chú có biết tôi đưa chú vô đây núp là răng không? Cả ấp tôi là người theo đạo công giáo. Chính quyền ít để ý. Tôi có thằng cháu gọi tôi bằng cậu làm việc ở Nha Trang. Họ cũng nể tui”.

 – “Vậy mà chú lại theo cách mạng…?”.

Y hỏi. Ông Sáu nhìn y, chỉ cười và không trả lời. Lúc sau ông bảo y:

 – “Vợ tôi mất sớm. Tôi chỉ có một đứa con gái. Nó đang học ở Huế. Nó sống vời bà dì ruột ở đấy, ít khi về đây. Trong nhà sống với tôi chỉ có một đứa cháu gọi tôi bằng ông. Cha mẹ nó chết cả, quê ở trên Bồn Trì… Tội nghiệp, tôi mang về nuôi”.

Y nghe chỉ biết vậy. Và hiểu rằng, đằng sau những câu chuyện lắt léo là cả một mớ bòng bong chỉ ông Sáu mới giải đáp nổi. Y chỉ mong sao cho vết thương mau lành và xin với ông Sáu Đến cho phép tìm đường lên xanh
.[/i]


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:50:43 pm
5

Có một lần y buột miệng hỏi ông Sáu Đến:

– “Chú Sáu này! Ở quốc lộ I, chú biết quán mụ Tr. không?”.

Ông Sáu Đến nhìn y, vẻ ngạc nhiên:

– “Sao chú biết quán mụ Tr. ?”.

 – “Ngày còn ở đơn vị, cháu một vài lần đi cùng đội biệt động về ấp Liễu Thượng, Phú Ổ, chị Tâm đưa cháu vô quán mua hàng…”.

 – “À, ra vậy!”. – Ông Sáu ngó lơ nhìn ra phía cửa không nói thêm gì nữa.

Lúc ông Sáu Đến rời khỏi chỗ y đang nằm, chỉ nói mỗi câu:

– “Để coi thử…”.

Khi nói với ông Sáu Đến địa chỉ quán mụ Tr. y đã đánh một ván cờ liều. Con đường lên núi tìm về đơn vị của y giờ chỉ còn trông cậy vào ông Sáu Đến mà y biết chắc ông là một cơ sở của cách mạng ở vùng ven sông Bồ. Từ ấp làng Dương tới đường lộ không xa, quãng bốn cây số nhưng phải vượt qua nhiều chốt chặn của địch ở Chi khu Hương Trà. Phải qua nhiều ấp. Chỗ nào cũng có các đơn vị nghĩa quân, dân vệ, bảo an chốt giữ. Nếu không móc nối được với lực lượng cách mạng ở trên núi, y có rời khỏi làng Dương cũng khó thoát.

Một vài lần y theo chị Tâm – một chỉ huy xuất sắc của đội trinh sát thành phố về bám dân. Chị Tâm đã đưa y và cánh trinh sát của tiểu đoàn cùng với ông Bậu, ông Duy vào địa chỉ này. Y không được trực tiếp gặp mụ Tr. Câu chuyện trao đổi giữa “bà mẹ V.C” nằm vùng này chủ yếu diễn ra giữa bà ta với chị Tâm, ông Bậu. Vào những lúc đó, y phải phân công mấy cậu trinh sát tiểu đoàn lo chốt gác trên con đường sắt và quan sát con đường quốc lộ I chạy băng qua trước cửa nhà. Chỉ đến khi xong việc, chị Tâm mới ra ngoài gọi bộ đội vào quán gùi gạo, thực phẩm. Quán mẹ Tr. là quán bán hàng tạp hóa. Quán ở gần căn cứ quân sự của địch. Ban ngày quán bán hàng cho lính và dân quanh vùng. Hàng hóa có đủ cả. Gạo, mì chay ông Phật, cá hộp, thịt hộp, đường sữa, thuốc lá Ruby, Bastos, Kem bót… thứ gì cũng có. Mỗi lần lọt được về quán, bộ đội, cán bộ huyện xã, du kích được bữa cải thiện sung sướng, thỏa thuê.

Một lần vào quán gùi gạo, y đã có dịp nhìn thấy mụ Tr. Đó là một người đàn bà đã ngoài sáu mươi tuổi, đẹp lão. Nghe chị Tâm bảo, mụ Tr. có con trai là sĩ quan Ngụy, làm to ở Sài Gòn. Nhờ cái thế ấy, nên mụ Tr. thỏa sức buôn bán với đám lính. Các thứ hàng nhu yếu phẩm cung cấp cho lính ngụy từ căn cứ tuồn ra bán rẻ cho mụ Tr. kiếm lời. Chỉ có điều ít ai ngờ, người đàn bà trông hiền lành phúc hậu như vậy lại là cơ sở mật của thành phố. Nhưng từ khi hiểu được những người như ông Sáu Đến, hết lòng cứu chữa y, y biết rằng phong trào cách mạng ở vùng sâu chưa “chết”, chưa bị phá nát hết cả sau những đợt quân ngụy cầy phá vùng đồng bằng sau Mậu Thân 1968. Đã có lúc y và nhiều người tưởng phong trào không vực dậy nổi.

Những ngày sau đợt hai tấn công về Huế của bộ đội quân giải phóng phối hợp với lực lượng chính trị của tỉnh, của huyện, không khí chiến trường thật ảm đạm. Các lực lượng quân Mỹ, quân Ngụy đã chủ động đối phó với cuộc tấn công này, đặc biệt là thành phố và vùng đồng bằng trọng điểm. Các sư đoàn chủ lực của Mỹ, Ngụy tăng cường càn quét vùng đồng bằng Phong Quảng, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Lộc, Phú Vang. Nhiều đơn vị thiện chiến của Mỹ như Sư đoàn kỵ binh bay số 1, Sư đoàn 1 bộ binh Ngụy có trực thăng, pháo binh Mỹ yểm trợ, đổ quân càn lên miền Tây, chiếm các điểm cao, thọc ra cả đường tuyến A So, A Lưới. Các đại đội thám báo lần mò tìm phá các kho lương, kho quân trang, quân dụng, vũ khí của bộ đội.

Cả một vùng giáp ranh ven Huế, dọc theo các triền sông Hương, sông Bồ, thượng nguồn Sông Hai Nhánh, Khe Trái, Khe Dứa đi đâu cũng gặp các bãi ngụy và dấu giầy răng chó của thám báo Mỹ, ngụy dẫm nát các con đường mòn giao liên, các bãi bến sông nơi bộ đội tập kết. Những trận phục kích, tao ngộ chiến xảy ra thường xuyên liên tục ở các trọng điểm Dốc Đu, Ngã ba Hương Trà, Khu nhà Chín hầm, Dốc Cát, Đất Đỏ, Một Mái, Dốc Đoác. Nhiều lần các toán biệt kích, thám báo đưa quân tập kích vào các căn cứ của huyện, xã và bộ đội KX đứng chân ở Đồi Tranh, Khe Đá Liếp và dưới chân Động Ngang. Địa đạo 310 nằm sát sông Bồ vốn là căn cứ tiền phương của Bộ chỉ huy chiến dịch khi tấn công về Huế được các đơn vị công binh của quân khu Trị – Thiên đào hàng tháng trời, chắc chắn và kiên cố. Địa đạo có ba cửa, hầm hào đào xuyên núi cả trăm thước. Những căn hầm chữ A, hầm chỉ huy, phòng họp… rộng, chìm sâu dưới lòng đất. Bom B52, B57 ném trơ trụi cây rừng trên các mỏm đồi, hầm hào vẫn trụ vững. Thám báo Mỹ đặt mìn cũng chỉ phá sập được vài đoạn hào.

Chính tại những căn cứ này, nhiều lần y và bộ đội của đại đội 3, đại đội 4, lính trinh sát của tiểu đoàn đã phải căng sức ra đánh địch. Vùng đất ven sông Bồ và giải giáp ranh Hương Trà, Phong Quảng là nơi trung đoàn, quân khu giao cho KX, KV1 phải giữ. Mất vùng đất hiểm địa này là “cha con” bật bãi lên miền Tây…

Thê thảm và khốc liệt nhất vẫn là vùng đất giải phóng và các các cơ sở cách mạng ở vùng sâu, vùng đồng bằng ven đô Huế. Niềm vui chiến thắng khi cắm được lá cờ nửa đỏ, nửa xanh trên đỉnh Ngọ Môn. Bộ đội, cán bộ, du kích địa phương của tỉnh, của huyện, xã tràn ngập thành phố và các làng quê sau những ngày Xuân chiến thắng. Tưởng giải phóng đến nơi. Thống nhất đến nơi! Phen này ắt đón Bác Hồ vào thăm miền Nam. Niềm vui chưa tan, quân Mỹ, quân Ngụy sau những bất ngờ ban đầu, tỉnh đòn phản kích. Các cơ sở mật xây dựng bao năm bị lộ bởi bọn tề điệp chỉ điểm. Chính quyền Thiệu giáng đòn thù vào các gia đình cách mạng. Lính quận, cảnh sát về ruồng bố, vây ráp suốt đêm ngày. Cơ sở cách mạng nhiều vùng mất trắng. Đồng bằng không thể đứng chân. Người thoát lên rừng, kẻ chạy vô Đà Nẵng, Sài Gòn lánh giặc. Một số người bị điệp báo. Địch bắt bớ tra khảo, đưa ra đảo tù đày.

Cả tiểu đoàn X. của y sau ngày rút lên rừng chỉ còn lại chưa tới 200 tay súng. Thêm một số sốt rét, bị thương không đủ sức chiến đấu phải đi viện. Những trận đói dài ngày và những trận phục kích lẻ trên đường mất thêm một số. Phải cơ cực lắm, dày công những người cán bộ, biệt động bám trụ của Tỉnh ủy, Thành ủy Huế, của huyện mới móc nối, gây dựng lại được những cơ sở mật như ở quán mụ Tr. và Sáu Đến. Y biết những cơ sở cách mạng kiên trinh ấy còn có cả ở các ấp như Xóm mới Văn Xá Trung, Văn Xá Làng, Phú Ổ, La Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ, Kim Long. Nhờ những cở sở cách mạng như thế này, suốt năm “69” bộ đội của ông Bậu, của huyện, xã mới đứng vững, giữ được vùng giáp ranh Bắc Huế…

Từ trong sâu thẳm, y luôn kính phục những người như ông Sáu Đến và mụ Tr. Y hiểu một điều rằng, dù cách mạng có lúc thoái trào, dù cuộc chiến đấu có lúc rơi vào bi kịch, thất thiệt nhưng lòng dân vẫn còn tin vào ngày chiến thắng. Không phải ai cũng khiếp sợ, chạy dài…

Vào những lúc đêm khuya thanh vắng, trốn trong góc nhà chật hẹp, hôi hám của ông Sáu Đến, y luôn cảm ơn số phận sao run rủi y lại được gặp ông. Chỉ có trời Phật phù hộ cho y, còn theo ông Sáu, chỉ có Chúa mới biết được điều hy hữu này. Y cũng không giải thích nổi, không nhớ nổi sau lúc bị trái mìn Claymo hất tung, bị thương, y lại có thể tự mình lết đi trên đồng rồi nằm lại nơi ruộng mía. Lại là ruộng mía, ruộng nưa của nhà Sáu Đến? Được ông Sáu cưu mang và cứu chữa vết thương.

Có một đêm, nghe động tĩnh xung quanh và thấy xóm làng yên lặng, y đã rời nơi ẩn nấp bò ra ngoài quan sát xung quanh. Căn nhà Sáu Đến nằm lọt thỏm giữa một vườn cây. Bao bọc quanh nhà là rặng tre gai ken dày. Từ cổng vào là hàng chè gai cắt tỉa gọn. Núp kín sau chân đống rơm, y quan sát ngôi nhà bốn gian, hai chái, cửa gỗ rộng rinh. Bậc thềm hè cao, khoảng sân rộng trước nhà láng xi măng… Tiện nhất là khoảng vườn phía sau, có nhiều vạt dứa dại sát với bờ tre gai… Một đầm nước rộng mênh mông, lau sậy mọc đầy ven đầm. Tiếp sau nữa là bãi mồ mả của làng Dương. Lợi dụng những vạt cây dứa dại, bờn bờn, y đã đi trinh sát địa hình, đồng thời tính toán những phương án khi có động rút ra ngoài… Khi kẹt y có thể thoát ra ngoài bờ đầm. Từ bãi mồ mả, y chỉ cần đi theo một con đường nhỏ, dài chưa tới trăm mét đã tới sông Bồ… Về đêm, mặt sông đen thẫm, phẳng lặng, im ắng như một dòng sông chết. Không thấy bóng dáng một con đò. Dọc theo bờ sông là dãy tre gai chạy dài, tối tăm. Phía bên kia sông đã là đất Phong Điền, Quảng Điền… Cũng lặng im. Chả rõ một căn cứ nào đó của địch bắn lên trời mấy quả pháo sáng. Chùm ánh sáng ma quái tung ra giữa bầu trời đêm chấp chới ẩn hiện sau bờ tre không đủ soi rõ cảnh vật xung quanh, chỉ một lát là tắt… Sông Bồ phía thượng nguồn hiểm trở và hung dữ bao nhiêu, lắm ghềnh nhiều thác. Về đến đây dòng sông rộng mở trở nên hiền hòa, cam chịu.

Có cảm giác rất rõ ông Sáu Đến hiểu tâm trạng buồn chán, u uẩn của y. Cả sự nóng ruột nữa. Một đêm quãng ba giờ sáng. Ông Sáu trở dậy lặng lẽ như một cái bóng đi vào nơi y ẩn nấp. Sợ y giật mình hoảng sợ, ông Sáu khẽ hắng giọng:

 – Sáu đây… Đừng sợ!

Y nào có ngủ. Nằm cả ngày lưng cẳng đau ê ẩm. Lúc nào mỏi quá, y mới ngồi dậy vươn vai. Mái nhà thấp, y đứng thẳng dậy, đầu sẽ chạm mái tranh và vào thúng mủng… Sợ động.

Ông Sáu Đến bò lom khom ngồi ghé vào mép nệm. Ông lấy tay che chiếc bật lửa Zipô, mồi vào điếu thuốc rê. Khói thuốc nghẹt thở nhưng xua đi cái không khí lạnh lẽo, trống vắng. Y cần hơi người, tiếng người để tự nhủ với mình rằng, y đang tồn tại.

– Tôi biết chú buồn, lo lắng. Ở đây được ít bữa, yên ắng như ri vậy là tốt hung rồi. Lạy Chúa lòng lành! Thương cho chúng con. Sợ nói với chú điều này e cũng bằng thừa… nhưng tôi phải nói.

 – Chú Sáu định nói chuyện chi? – Y ngập ngừng hỏi.

– Đã là một người lính, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải biết tự mình đứng dậy…

 – Cảm ơn chú Sáu! – Y đáp nhỏ, giọng lắp bắp và tự cảm thấy xấu hổ với chính mình, tưởng như cái ông già trông quê mùa, hiền lành đọc được cả ý nghĩ trong đầu y.

Đã thành lệ, cứ hơn bốn giờ sáng, ông Sáu Đến đã ăn mặc chỉnh tề đi ra nhà thờ… Có bận y còn nghe rõ giọng ông Sáu nói chuyện với ai đó cũng đi lễ sớm ở ngoài phía bờ rào gai…


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:55:29 pm
6

Y đã hú hồn khi nhìn thấy đưa bé gái đẩy nhẹ tấm liếp bước vào. Thoạt nhìn thấy y ngồi thu lu trong góc nhà tăm tối, con bé cũng sợ. Nó lóng ngóng để rơi cả cái nắp cà mèn xuống đất.

 – Chú… giải phóng! – Con bé lắp bắp nói.

– Cháu là ai?

 – Cháu tên Xí, cháu ông Sáu. Ông Sáu sáng nay vô Huế thăm cô Hai… Chiều ông cháu mới về. Cháu sợ chú đói nên mang cháo vô cho chú ăn…

 – Sao cháu biết chú trốn ở đây? – Y hỏi nhỏ – Còn ai biết nữa không?

 – Dạ không! Chỉ ông Sáu và cháu biết… Ông Sáu dặn cháu kín miệng. Mấy ổng ở ấp, ở quận biết được kêu lính tới vô bắt chú. Họ còn đốt nhà, đập cả hai ông cháu… Cháu không muốn chết, không muốn họ bắt đi ở tù.

 – Cảm ơn cháu… Cháu ngồi xuống đây, đừng sợ.

– Cháu gặp các chú rồi…! – Con Xíu nói giọng líu ríu. – Dạo Mậu Thân, các chú bộ đội về ở trong nhà cháu. Mạ cháu và ngoại còn nấu cơm cho các chú ăn…

Trời tối nhập nhoạng, ông Sáu Đến mới về đến nhà. Y nghe ông Sáu nói với con Xíu chuyện gì đó. Một người bà con trong họ đạo làng Dương còn sang bàn bạc với ông Sáu chuyện cầy bừa, cấy lúa…

Y nhẩm tính từ ngày rời làng Lôi vào chiến trường vừa tròn 6 năm. Có bao biến động trong cuộc đời y. Từ một thằng binh nhì, qua mấy mùa chiến dịch, y trở thành một anh C phó. Ngu ngơ lần đầu về đồng bằng Phong Quảng, Phú Vang nhìn những mái nhà lợp tôn Mỹ sáng loáng trong các ấp chiến lược, y không biết đấy là trại lính hay nhà dân. Bò vào sát vách nhà, nhìn những cô gái mặc bộ đồ hoa đi lại, y tự bật cười với chính mình. “Con gái trong này ăn mặc hay nhỉ”. Con gái quê y đâu có ăn mặc vậy. Quần đen, áo hoa xanh, áo màu cỏ úa để tránh cho lũ phi công Mỹ phát hiện ném bom xuống làng. Dạo ấy, lệnh trên bảo, bất kể cái gì là màu trắng phải tránh hết. Phi công Mỹ nhìn thấy tưởng là ám hiệu. Bom ném xuống chết cả làng. Y bò vào nhà dân, càng kinh ngạc hơn nhìn bầy heo “Yooc-sai” trắng nhởn đứng cả một hàng trong chuồng sục mồm vào cái máng ăn cháo sữa Mỹ. Có cậu lính nhìn bầy heo oàm oạp húp thức ăn, buột miệng chửi:

 – Tiên sư cái thằng Mỹ! Chúng nó giàu thật… Đến nuôi heo cũng bằng sữa.

Bữa vào Huế đánh giặc giữa những ngày xuân. Bị tấn công bất ngờ, giặc chạy tóe loe. Dân mừng thấy bộ đội về, e phen này giải phóng, thống nhất đến nơi. Các đồ bánh trái, gà heo dành cho ba ngày tết. dân mang ra khao bộ đội. Trung đội của y vào một nhà có vẻ là công chức thành phố. Ông chủ mới ngoài 40 tuổi, đi dạy học, tự khoe là “giáo sư đệ nhị cấp”, cô vợ bán hàng tạp hóa kiêm chủ lò mì ngay dưới chân cầu Tràng Tiền. Vợ chồng trẻ vậy mà có tới sáu đứa con. Chúng đứng sắp lớp, khoanh tay cúi đầu lễ phép chào: “Cháu chào chú giải phóng ạ…”. Y và mấy anh bộ đội ở trong nhà lấy làm mãn nguyện lắm. Gia chủ mời cả toán bộ đội 6 người một bữa cơm thịnh soạn vào chiều mồng ba tết. Những anh bộ đội từ ngoài miền Bắc vào lần đầu thỏa mắt xem chiếc tivi, vào trong nhà vệ sinh nhìn ngó cái lavabo một lúc mới hiểu cần đi tiểu vào đâu. Cái chậu bàn để rửa tay chứ không phải là cái chậu để rửa rau… Ở cái làng Lôi của y, người nông dân nghèo chưa một ai được nhìn thấy những thứ đồ vật sang trọng như vậy cả.

Muốn xem phim ư? Một vài tháng đội chiếu phim lưu động của tỉnh của huyện về chiếu cho dân trong xã một hai buổi. Những ngày có phìm về chiếu ở sân kho hợp tác xã hay bãi cỏ trước cửa đình, đấy là ngày hội của cả năm làng ven bờ sông Cọi. Từ lúc hai giờ chiều, chiếc xe commăngca quen thuộc của phòng văn hóa huyện đổ quân, đổ máy chiếu phim, phông bạt xuống bãi cỏ trước cửa đình. Cả làng đã nháo như có hội. Lợn hợp tác kêu eng éc. Ba bốn trai làng khỏe mạnh cởi trần xuống ao hợp tác xã hò hét nhau lùa cá. Người lớn đang làm các công việc đồng áng cũng mau mau chóng chóng cày bừa, cuốc cỏ, kéo những gàu nước cuối cùng vào ruộng còn kịp về cơm nước để tối đi xem phim.

Đám con nít như y là sướng nhất. Những ngày làng có phim, chả đứa nào chịu học hành gì cả. Thâm chí cả lũ rủ nhau trốn học từ lúc ba giờ chiều, kéo ra bãi cỏ chơi đùa, đá bóng, đuổi bắt, chơi khăng, đánh cù… Đám con gái phải bế em cũng rủ nhau ra bãi chiếu phim. Tay bế em, tay mải đi “ô ăn quan” nhưng mắt trẻ ngong ngóng dõi theo mấy anh trong đội chiếu phim làm việc. Chúng chỉ chờ hai cây sào dài dựng lên, tấm phông trắng căng ra, tiếng loa phóng thanh ọ ẹ dạo nhạc… là chúng quên hết. Quên cả cãi vã, đánh chửi nhau vì chuyên ăn thua trái bóng… Đây mới là niềm hành phúc thật sự mà mỗi đứa trẻ, trong đó có cả y, mong ngóng cả tháng trời. Tháng trước mới chiếu phim Chị Tư Hậu, tháng trước nữa là Con chim vành khuyên… Bữa nay nghe đâu bảo là chiếu phim Liên Xô, về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Ông Bộc cắt tóc thì cãi lấy cãi để với mấy ông còn đang ngả cày, ngả bừa xuống gốc cây đa đầu làng tranh thủ làm bát nước chè xanh, rít điếu thuốc lào, áo quần các ông thợ cày còn dính lem bùn đất.

 – Dứt khoát tối nay chiếu phim Nổi gió, có tay trung úy Phương đẹp trai… Tôi cược với các ông!

Mấy ông thợ cày và ông Bộc cãi nhau như mổ bò. Chỉ có con bò và con trâu vênh sừng mới được thả lỏng sau một ngày lội ruộng là bình thản cạp hàm vào lớp cỏ cụt ngủn bên mép con ngòi. Trên mình những con trâu, con bò cũng lấm lem bùn đất như chủ của nó. Ôi, hạnh phúc nào bằng tuổi thơ dù chỉ có củ khoai, củ sắn, hái trộm trái ổi xanh và những đêm chui rào vào xem phim ở sân đình…

Tới khuya, ông Sáu Đến vào chỗ y đang trốn. Kéo tấm liếp cửa, ông còn đứng lại một lát, nửa như nghe ngóng động tĩnh, nửa quan sát phía bên ngoài. Ông Sáu nói nhỏ với y.

 – Tôi tìm được người đưa chú đi rồi. Tối 23 ta đi nghe chú!

Y nghẹn lời:

– Thật cảm ơn chú Sáu!

 – Ơn huệ chi chú. Tôi cũng làm việc vì cách mạng mà. Chỉ có điều gặp ai chú cũng không được nói ra tên tôi… Chuyện này chỉ có mụ Tr. và chú Sáu Thọ H. biết. Huyện sẽ cho người về đón chú. Ráng giữ qua vài ngày nữa cho êm rồi đi. Tôi để lại cho chú vỉ thuốc bổ, ngày chú uống bốn viên… Còn đây là thuốc kháng sinh…

Ông Sáu lên nhà tắt đèn đi ngủ đã lâu. Y vẫn còn trằn trọc…

Một, hai, ba ngày… Ba ngày nữa, y sẽ trở lại rừng. Y sẽ lại được gặp mặt ông Bậu, ông Duy, ông Ngạn và những người đồng đội. Chả biết họ nghĩ gì khi y đột ngột trở về. Và cả chị Tâm nữa. Hẳn chị sẽ vui xiết bao khi thấy y còn sống trở về.

Y tin rằng, cả đại đội 3, cả tiểu đoàn đều nghĩ y đã chết!



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 03:57:47 pm
7

Tôi thực sự không hiểu chuyện gì đã xảy ra với cha tôi sau cái đêm 23 tháng Bảy năm 1970. Những dòng chữ của cha tôi dừng lại ở trang thứ 32 của cuốn vở Cogido – đánh dấu số 1.

Tôi đoán rằng những dòng này cha tôi ghi lại trong những ngày bị thương được ông ngoại tôi là Sáu Đến che dấu. Nét mực bút Bic bao năm vẫn đọc rõ. Chữ viết lệch hàng, xô đẩy. Có thể vì cha tôi viết trong bóng tối.

Ngày mẹ đưa tôi về chịu tang ông ngoại, hai mẹ con ở lại quê cũng chỉ được ít ngày. Mẹ tôi tính không hiền, ít nói. Có chuyện chi không hài lòng, bà hay nổi cáu. Sống với mẹ từ nhỏ nên tôi đã quen. Lớn lên, biết suy nghĩ tôi hiểu rằng cuộc đời mẹ tôi luôn phải chịu nhiều sức ép. Từ chuyện gia đình ly tán, chồng bị tù đầy, oan khuất đến chuyện sống giữa nơi đất khách quê người phải lo kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng… Bao nhiêu gánh nặng đổ lên đầu một người đàn bà phải thay cha tôi những lúc ông đi ở tù để lo toan việc nhà.

Sau ngày ngoại tôi mất, mẹ tôi chỉ ở lại làng Dương ít ngày để thu xếp việc nhà. Bà dọn dẹp nhà cửa và nhờ một cô cháu bên Văn Xá đến ở và trông coi nhà cửa, ruộng vườn. Tôi mới chỉ là con bé con theo mẹ về chịu tang ông ngoại. Chưa hiểu gì, chưa biết những uẩn khúc của người lớn. Mẹ làm việc còn tôi tha thẩn chơi với đàn mèo, vừa mẹ và con cả thấy là bốn con. Trong ký ức thơ trẻ của tôi chỉ nhớ vài hình ảnh nhạt nhòa về mẹ. Có lúc mẹ thắp nhang, đứng im lặng trước bàn thờ ông ngoại. Nhìn tấm ảnh chụp cha mẹ tôi to bằng cuốn sổ tay, lồng trong khung kính. Bà dắt tôi đi dạo quanh trong sân, trong vườn và dừng lại hồi lâu ở bụi tre gai rậm rạp phía cuối vườn… Nhiều năm sau, khi đọc lại những dòng chữ của cả cha và mẹ tôi để lại, tôi vỡ ra nhiều điều mà cả một thời gian dài tôi không hiểu, cũng có thể là do lơ đễnh không quan tâm tới chuyên người lớn. Đơn giản, tôi còn con nít nhỏ dại, mải yêu, mải vui với bạn bè.

Nhiều khi tôi tự trách mình. Và trách cả cha tôi nữa… Tại sao những ngày cha con tôi sống yên ấm, hạnh phúc đủ đầy ở trại Đầm Vịt, tôi không hỏi kỹ ông về chuyện giữa cha và mẹ tôi? Còn ông cũng chẳng chịu nói, chẳng chia sẻ với con gái. Cha yêu quý tôi đến vậy kia mà… Phải chăng, ông muốn dành cho tôi sự bất ngờ khi phải đọc những gì ông và mẹ tôi để lại, bắt tôi phải suy ngẫm và tự hiểu.
Tôi không có thói quen ghi nhật ký. Thậm chí, tôi còn cho rằng đây là một phương thức cổ điển, lỗi thời của lớp người xưa cũ. Tuổi trẻ thời “a còng” trao đổi, với nhau qua điện thoại, hộp thư điện tử. Chả đứa nào rỗi hơi ngồi ghi chép hàng ngày tâm tình, tự sự với người yêu và lan man chuyện vui buồn trong cuộc sống.

Tôi thật sự kinh ngạc khi nhìn thấy trong cuốn vở Cogido số 2, số 3, đan cài trong nhiều trang có cả hai nét chữ của cha tôi và mẹ tôi. Mỗi người ghi một đoạn khác nhau, ở những thời điểm khác nhau. Nhưng dường như qua những dòng chữ ấy, họ sẻ chia nhiều điều bí ẩn về nhau của hai kẻ đang yêu. Cha tôi viết thường là kể lể, tự sự như thể ông muốn cho mẹ tôi biết ông là ai, cuộc sống của ông như thế nào… Còn mẹ tôi, mơ mộng hơn và rõ là tâm tính của một cô gái Huế đang tuổi yêu, gặp được cha tôi như thể chạm vào lửa.

Bao giờ mở đầu cho một trang ghi chép, mẹ tôi đều viết “Dấu yêu ạ!”.

Mỗi lần chạm vào các tập vở Cogido của cha tôi, đọc kỹ từng trang, nhiều khi tôi rơi vào trạng thái hoảng loạn. Tim đập mạnh. Tôi nhìn quanh quất phòng đọc sách. Ảnh cha tôi, ảnh mẹ tôi, ảnh bà nội treo trên tường, nơi bàn thờ. Như thể họ đang ở đâu đó lặng lẽ dõi theo từng hành động nhỏ của tôi. Bao giờ cũng vậy, tự trấn an mình, tôi thắp nhang lên bàn thờ, van vái ông bà nội ngoại, van vái cha mẹ… Tâm hồn bình an, tôi mới dám trở lại với những hàng chữ trong tập vở cũ. Đọc một hồi, tôi ngỡ mình là một cô bé bị lạc vào giữa một khu rừng già, rậm rạp, gai góc… Tôi cố đi cho hết khoảng rừng vừa phập phồng lo sợ, vừa hoảng loạn tưởng bị lạc lối… Tôi đang bối rối tìm đường, bất ngờ mở ra trước mắt tôi một khoảng sáng, thoáng đãng. Ở đấy có dòng suối mát, có khóm hoa dại đẹp đến mê hồn ngay bên bờ suối…


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 11 Tháng Tư, 2019, 04:00:49 pm
8

Dấu yêu ạ!

Em nói điều này mong anh thứ lỗi.

Em thật sự bàng hoàng khi biết được chuyện cha em giấu anh trong căn hầm của nhà em. Càng hoảng sợ hơn khi biết anh là bộ đội giải phóng. Tụi bạn em ở trường hay gọi “người phía bên kia” tên là gì ha? Phải rồi. Các anh là V.C (Việt Cộng).

Anh là V.C. Ý nghĩ ấy làm em hơi sợ... V.C nằm ngay trong nhà mình! Người che giấu anh không phải là ai khác mà lại chính là cha, người em luôn tin tưởng và yêu quý. Chưa bao giờ trong đầu em có ý nghĩ - cha em lại là người “bao che” cho V.C. Chả lẽ, cha em cũng là V.C sao.

Em có hỏi ông:

- Sao cha dám giấu chú ấy trong vườn nhà ta? Cha không sợ mấy ông trên quận, trên xã phát hiện sao? Cha lại từng là ấp phó.

Anh có biết thái độ của cha ra sao không? Ông kéo em vô buồng và nói nhỏ:

- Cha thấy chú nớ bị thương nằm trong ruộng nhà ta... Bị thương nặng con ạ. Cha nghĩ chú ấy sắp chết... cha thương. Dù họ là ai cũng là người, con à...!

- Ngoài cha biết chuyện này, còn ai biết chuyện chú bộ đội... ?

- Cha, con Xíu... Và bây giờ là con. Thế thôi. Hở ra cho mấy ông biết là chết cả nhà.

- Con hiểu! - Em biểu vậy.

Trong lòng em có ý giận cha. Chuyện xảy ra từ tháng Năm... Hơn hai tháng trời, anh trốn trong nhà, ba em giấu nhẹm. Bây giờ thì em hiểu, một đôi lần ông vô Huế, đến nhà bác sĩ Tân, bắt em chở, đứng đợi cả giờ đồng hồ. Ông đã mua thuốc kháng sinh, thuốc bổ, bông băng... đem về lo cho anh. Nói thiệt với anh điều này nghe! Đến tận bây giờ em cũng không thật hiểu. Ba em là ai? Ông là người của phía bên nào? Chả lẽ cha em “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” như những gì mấy tay nhà báo ở Sài Gòn viết trên tờ Ngôn luận, Sóng thần...

Từ ngày mẹ mất, những ngày tết, những lúc về quê thăm cha đối với em thật buồn. Nỗi nhớ mẹ đã đành. Bây giờ em lại sống trong một tâm trạng phấp phỏng, sợ hãi. Bất kỳ người thân nào, trong họ tộc, người trong ấp ghé qua nhà, cả hai cha con em vừa lo tiếp khách, vừa dè chừng xem có gì sơ xuất khiến họ nghi ngờ có người thứ ba trong nhà. Con Xíu đã được cha em cho về bên quê. Trước khi đi cha đã dặn dò kỹ lưỡng con Xíu. Con nhỏ kín miệng. Em cho con Xíu năm ngàn đồng, biểu về mua áo quần mới. Hóa ra con nhỏ còn rành về anh hơn cả em.

Những ngày Tết ở làng, em không ra khỏi nhà. Lấy cớ mệt, em ngồi lì trong phòng và ghi lại những dòng này cho anh.


*
*    *

Từ ngày mẹ mất vì bệnh lao, em sống với dì Bảy ở thành phố. Dì thay mẹ nuôi em ăn học. Mẹ em là vợ thứ hai của cha em. Mẹ cả người cùng làng Dương. Nghe cha biểu, lúc mẹ cả sinh con lần đầu, nhiễm trùng, người con chết. Cuộc hôn nhân của cha và mẹ em không được người trong dòng họ tán đồng, vì mẹ em là người ngoại đạo. Mẹ cả không đồng ý. Cha em khi ấy đang là ấp phó. Ông mượn cớ đi làm việc, lâu lâu trốn lên Xuân Hòa, khi thì về Huế để gặp mẹ. Cho đến khi mẹ cả mất, cha em mới dám xin với ông bà ngoại cưới mẹ em. Một đám cưới không được tổ chức trong nhà thờ. Bà con trong họ phản đối cho đến ngày cưới mẹ em, hai người phải trốn lên thành phố thuê nhà ở một thời gian dài. Đến khi em lên ba tuổi, cha mới dám quay trở lại làng.

Em quý cha, nhưng lại sợ dù em biết rằng mọi việc ăn học của em đều do ông chu cấp. Dì Bảy là em mẹ, bị tật ở chân, không có chồng. Dì nuôi em bằng tình thương của người mẹ. Nhà dì cũng nghèo, sống nhờ vào tiệm bán đồ khô ở chợ Đông Ba. Vào những lúc rảnh rỗi, không bận việc học hoặc ngày nghỉ, em thường ra chợ ngồi bán hàng giúp dì.

Dẫu vậy, cha em và dì Bảy không để em thiếu thốn bất kỳ thứ gì của một đứa con gái suốt thời đi học phổ thông cho đến lúc em ghi danh vào Đại học Văn khoa. Em đang học năm thứ hai... Em ao ước ngày sau ra trường được làm cô giáo như mẹ em. Liệu điều ấy có quá xa vời không anh?

Anh hỏi em những ngày ở Huế sống thế nào ư?

Vào lúc rảnh rỗi, không có giờ lên lớp, không phải ra chợ phụ giúp cho dì, em và lũ nhỏ bạn hay rủ nhau đi chơi lăng, lên Thiên An... Anh có biết Thiên An không ha? Ở đấy có nhưng đồi thông đẹp mê hồn, có hồ nước ngọt. Gần kề bên hồ có một nhà nguyện nhỏ dành cho các nữ tu sĩ. Anh biết không, có lúc buồn chán, em đã nghĩ tới chuyện trở thành nữ tu sĩ. Em kính Chúa (vì cha em theo đạo), nhưng lòng em chưa đủ đức tin để đến với Người. Vả chăng từ nhỏ, em sống với mẹ, với bà ngoại, ở làng Xuân Hòa, tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã ăn sâu vào tâm trí em. Chưa bao giờ em dám hỏi cha vì sao dám lấy mẹ em, một kẻ ngoại đạo. Mẹ mất đã lâu, mãi tới năm 12 tuổi, em mới được về làng Dương đi chào họ hàng. Khi ấy, mẹ cả đã mất. Chỉ nghe dì em bảo, mẹ cả rất ác. Bà không có con nhưng không cho cha em lấy vợ lẽ. Cuộc tình vụng trộm giữa cha mẹ em, chỉ dì Bảy biết. Hai người quen biết nhau ở Huế...

Còn ngoại kể, năm em tròn một tuổi, mẹ cả biết được, thuê người lên Huế tìm và đánh mẹ một trận thừa sống thiếu chết. Cũng vì trận đòn ghen ấy, mấy năm sau mẹ em đổ bệnh mà chết.

Cô bạn em đang bấm còi inh ỏi ngoài ngõ. Đã đến giờ em phải đi về H. rồi... Em mong chóng tối thứ Bảy tới... Em về...



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 09:34:35 am
9

Tập vở Cogido số 3.

Tôi không rõ vì lý do gì, trong tập ghi chép này bị mất mười mấy trang. Thậm chí nhiều trang giấy mực bị nhòe, như thể bị mưa ướt khiến cho nhiều chỗ đọc không ra chữ.

Vẫn là nét chữ của cả cha và mẹ tôi đan cài nhau từng đoạn từng khúc.

Bắt đầu từ trang số 16, cha viết:

Thế là y hết đường lên xanh. Thêm một vết đạn vào xương bánh chè. Một mảnh găm vào ngực. Con mắt bên trái y nhìn không rõ nữa. Chỉ nghe ông Sáu nói chỏn lỏn:

- Chú không chết là may... Chúa còn thương tôi đưa chú về được đến đây.

Y đã không còn ở trong hốc chẹt của nhà kho nữa. Ông Sáu giấu y ngoài căn hầm tránh pháo của gia đình ở góc vườn phía sau nhà. Tre gai, bụi chuối, dứa dại phủ um tùm. Căn hầm đào sâu vào gốc tre, rộng chừng ba mét vuông, đà ngang đà dọc chắc chắn, lót mái bằng tấm ghi sắt của Mỹ. Đây là hầm trú pháo của gia đình ông Sáu đào từ Tết Mậu Thân, phòng khi pháo bắn vô làng. Nền hầm lót bằng sạp gỗ, có lỗ thông hơi nên thoáng mát nhưng kín đáo. Hầm ngay sát với đầm nước của làng. Đầm nước rộng hàng mẫu, quanh bờ đầm mọc đầy cỏ lác. Một phần đầm nước dân làng trồng sen. Một phía của đầm là bãi mồ mả. Y không tiện hỏi chú Sáu, vì sao đêm 23 tháng 7 đi không lọt. Y chỉ nhớ láng máng rằng, lúc hai chú cháu lần mò trong đêm tới sát đường quốc lộ. Y đã nhìn thấy lùm tre đen và mái nhà tôn của quán mụ Tr. phía xa thì giật mình nghe tiếng mìn nổ ngay phía hướng quán. Đạn bắn như vãi thóc trên đồng. Có địch phục kích. Chú Sáu kéo ngược y chạy trở lại đường cũ... Chỉ vài phút đã nghe tiếng cối 81 ở chi khu Hương Trà bắn ra. Rồi pháo Từ Hạ. Y không còn nhớ gì nữa.

Đến khi tỉnh lại, y thấy mình nằm ở đây, băng bó đầy mình.

Thêm một lần y đội ơn ông Sáu Đến cứu mạng.

Buổi tối, ông Sáu mang cháo, mang sữa cho y. Ông nói cụt ngủn.

- Tối hôm tôi đưa chú đi, ai ngờ gặp địch. Tụi bảo an phục quân ở đường rày (đường xe lửa). Sáng hôm sau, lính quận về bắt mụ Tr. đi rồi. Lúc tôi đưa chú trở lui, bị pháo bắn... Đưa chú về được đến đây, tôi nghĩ trận này e chú chết... Lạy Chúa! Mạng chú còn to lắm đó.

- Sao chú Sáu lại đưa tôi ra trú ở đây? Không sợ lộ sao... - Y hỏi nhỏ.

- Giấu chú chỗ ni mới bất ngờ. Ở đây khuất nẻo, bên ngoài là đầm lầy, sau nữa là bãi mồ mả sát sông Bồ, ít người dòm ngó. Chú cứ tạm ở yên đây, tôi lo thuốc thang cho chú... Cái chân chú hỏng thiệt rồi. May mà không nhiễm trùng...

Ông Sáu Đến nói với y rằng: Ngay buổi sáng 24, đài phát thanh Tự do Huế đưa tin, trong đêm Đại đội bảo an số 23 đã tiêu diệt được 9 cộng quân tại cây số 14 và ấp xóm Mới. Quân đội quốc gia thu hai súng phun lửa B40, 3 cây AK Trung Cộng và bắt sống được một tù binh bị thương nặng.

Ai là người lính giải phóng hay quân của huyện xã trong chuyến đi giải cứu cho y không may bị phục kích, lại còn bị bắt? Y đã rụng rời chân tay khi nghe tin mụ Tr. cũng bị lính quận về giải đi. Có lẽ hơn ai hết ngoài cấp chỉ huy chỉ có mụ Tr. và ông Sáu hiểu rõ nguyên nhân vụ nổ súng ở cây số 14. Hẳn nhiên, bộ đội, cán bộ huyện xã về đón y. Liệu mụ Tr. có khai ra y và ông Sáu Đến không?

Nghe y nói ra điều phấp phỏng lo sợ ấy, ông Sáu Đến nhìn y, rồi bảo:

- Chú đừng ngại! Mụ Tr. vào nhà giam ở quận như đi chợ. Bữa mô bộ đội về đánh ở vùng này, lính quận, mấy ông ở xã chả lôi mụ lên tra hỏi. Lính quận thừa biết mụ Tr. và dân trong các ấp Phú ổ, La Chữ, Văn Xá bán gạo, đồ hộp cho V.C nhưng ngó lơ, nếu không chúng bán hàng lậu cho ai. Vả lại, mụ Tr. có con làm to ở Sài Gòn, chỉ cần một cuộc gọi của con trai mụ ở Sài Gòn ra, đám lính quận phải thả ngay. Ai dám dây vào một mụ già đã gần đất xa trời lại có con là tay chân của ông Thiệu?

Con trai mụ Tr. là ai? Làm gì mà có quyền thế đến vậy. Ông Sáu không đả động đến. Ông Sáu còn kể lại rằng, mụ Tr. ngày bán Lare, thuốc lá, buôn gạo, đồ hộp của lính, đêm mụ bí mật bán hàng của nhà binh cho bộ đội, du kích. Lần nào địch tra hỏi mụ Tr. cũng chỉ một câu trả lời:

- Tui làm nghề buôn bán, phải kiếm lời. Có vậy mới đủ tiền nuôi thằng Năm Biên ăn học, giờ làm việc cho ông Thiệu.

Đến ngữ ấy, đám lính tra mụ đành chịu.

Dễ có đến hàng chục đêm y không dám chợp mắt. Lòng thấp thỏm lo sợ, phòng xa. Và day dứt với ý nghĩ, thêm một lần mắc nợ với đồng đội và người dân xứ này. Đã có lúc đầu y muốn nổ tung với ý nghĩ “thà y trúng đạn chết đi cho xong”. Chết... Y sẽ không còn vương vấn nợ đời. Không còn phải lo nghĩ, hối tiếc. Không còn phải đau đớn vì vết thương. Không còn những giây phút phấp phỏng lo sợ giữa đêm bò ra dỏng tai nghe ngóng động tĩnh. Hóa ra là tiếng con chồn, con cáo chạy loạt soạt ngoài bờ tre. Lũ chuột ở đây đã quen y đến mức không còn biết sợ người. Y cũng biến chúng thành bạn. Sau lúc ăn, bao giờ y cũng dành cho bầy chuột chút cơm nguội, mẩu bánh mì để đêm khuya mấy con chuột ra ăn, tha về tổ. Chúng kêu chi chít bên tai.

Y tự an ủi mình rằng, đây là vùng sâu, địa hình hiểm trở, chẳng có thằng nghĩa quân, dân vệ, lính bảo an nào lại nghĩ có V.C trốn ngay trong vườn nhà một ông “nguyên” là ấp phó. Bất ngờ là ở đấy. Dẫu vậy, sau ngày mụ Tr. bị bắt, y vẫn phấp phỏng lo sợ. Không ngủ được. Mãi đến gần sáng, mệt quá y thiếp đi. Chỉ đến khi nghe tiếng con chim ngũ sắc lảnh lót hót trong bụi tre, y mới bừng tỉnh...
Ngoài đầm nước, sương chưa tan. Vào mùa hạ, những cây sen mọc cao trên mặt nước, hoa sen thơm ngát. Hàng ngày, trong làng vẫn có người ra hái sen. Đâu đó, phía bên kia đầm có tiếng người khua cá, giăng lưới... Tiếng chuông nhà thờ lại đổ nhịp rung vang. Âm thanh trong trẻo, yên bình, tưởng như vùng đất quê này chưa hề có chiến sự...

Trong ngày, thời gian với y là vô tận. Cái hốc hầm trú ẩn dưới bụi tre gai và chiếc sạp gỗ là thế giới riêng dành cho y. Y xoay trở trong cái hốc chẹt chưa đầy hai mét vuông được phủ kín bằng những cành tre gai, những khóm dứa dại...

Ăn, nghỉ, uống thuốc, dưỡng thương. Ông Sáu Đến lệnh cho y như vậy. Mọi việc để tôi tính.Y có cảm giác mình hệt như một anh lính đã bị tước mất vũ khí. Bị loại ra khỏi vòng chiến. Chân cẳng như thế này, y có lên được căn cứ, đơn vị cũng đưa đi viện và cho ra Bắc sớm. Chỉ ý nghĩ được trở lại quê hương đã làm y sung sướng... Thậm chí, y còn tự huyễn hoặc mình cái giây phút trở lại với con đường làng Lôi thân thuộc. Như thể y còn ngửi thấy được cả mùi phân bò, phân trâu hăng nồng trên con đường đất lầy lội sau đêm mưa. Mùi khói tỏa ra từ mái rạ của căn bếp lụp xụp... Ai sẽ là người đầu tiên hiện ra trước mắt y...

Chỉ đến khi nghe tiếng cành rào tre loạt soạt ở bên ngoài, y mới bừng tỉnh, phá tan giấc mơ khi nhận ra bóng áo đen của ông Sáu lấp ló sau bụi chuối.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 09:36:23 am
10

Dấu yêu ạ!

Đọc những dòng anh viết, em muốn khóc.

Anh không được chết.

Anh càng không có quyền được chết.

Anh thật sự muốn chết vậy sao?

Anh không nghĩ rằng, nếu anh chết, rời xa thế giới này một cách vô ích, anh mang tội với cha em, với những người mà anh gọi là “đồng đội”. Và phụ lòng cả với em.

Cha em đã vì anh vượt qua bao hiểm nguy để cứu sống anh, chữa chạy thuốc men cho anh... Anh nỡ bỏ ông sao?

Em biết anh đang day dứt về chuyến lên rừng không thoát, lại còn bị thương. Đấy là sự không may, hên xui ở đời. Nào ai muốn... Nhưng máu đã đổ. Anh phải nghĩ, cả cha em và anh còn sống nguyên lành về được đến đây đã là may mắn lắm rồi. Còn với riêng em, từ trong sâu thẳm, em cảm ơn trời Phật, cảm ơn cha em đã run rủi cho em được gặp anh... Nghe chừng phi lý phải không? Một đứa con gái suốt bao năm trời chỉ biết làm nũng bà dì, dè chừng khép nép mỗi khi gặp cha đẻ, ăn và đi học, vui chơi cùng bạn bè và những tưởng cuộc đời này hoa hồng đang trải rộng để đón vào đời. Được cưng nựng, trìu mến. Và ao ước một ngày kia được trở thành một cô giáo có đám trò nhỏ vây quanh. Chuyện chiến tranh, đôi bên bắn giết nhau... Em có nghe nhưng ở đâu xa lắm. Những ngày Huế mưa dầm dề trắng trời, thối đất, em cùng lũ nhỏ bạn cúp cua ra ngồi trong quán cà phê, nghe Khánh Ly hát nhạc Trịnh. Lòng buồn da diết, bâng khuâng. Nghe tiếng pháo, tiếng bom nổ ùng oàng, xa vắng. Tụi bạn kháo nhau:

- Pháo ông Thiệu bắn đó.

Đứa khác cãi:

- Xì, cóc phải. Pháo “bên tê”.

Chỉ đến một ngày xuân “kinh hoàng” Mậu Thân, em mới thật hiêu thế nào là chết chóc, là chiến tranh. Từ chiều Ba mươi Tết, em và dì Bảy đã đóng cửa hàng ngoài chợ, thu dọn đồ về làng ăn tết với ông ngoại. Em đã phải sống một đêm giao thừa hãi hùng. Ông ngoại vừa thắp xong tuần nhang cúng gia tiên. Em theo dì Bảy tới bàn thờ cúng mẹ đã nghe thấy tiếng súng nổ râm ran ở phía bên kia sông, phía làng Nham Biều. Chỉ ít phút sau, một tiếng nổ lớn ở phía Kim Long. Ngoài con đường đá phía bên chùa Thiên Mụ, tiếng xe ôtô rú còi. Có một ai la to:

- V.C tấn công...

Dì Bảy hoảng hồn vội kéo tay em chui vào trong buồng. Ở đây, ông ngoại em không rõ từ bao giờ đã đào sẵn một căn hầm tránh pháo. Nắp hầm phía trên có bộ ngựa dày, hàng ngày ngoại hay nằm và khi nào có động, ngoại thường chui xuống căn hầm đào ngay trong nền nhà tránh đạn.

Làng Xuân Hòa, mé trên là làng An Ninh Thượng, V.C hay về, đụng độ với lính bảo an, dân vệ thường xuyên. Sợ tên bay đạn lạc nên ít khi ngoại cho phép dì Bảy và em ở lại làng ban đêm. Tết này, nghe bảo hai bên ngừng bắn để cho dẫn ăn Tết. V.C về làng... Vậy là đánh nhau to rồi.

Sáng mồng Một Tết, em vẫn nghe súng nổ râm ran trong Thành Nội, nghe có cả tiếng pháo bắn. Phía bên kia sông, làng Long Thọ có khói bốc cao. Phía ngoài con đường kiệt chạy qua trước cửa nhà, nghe rõ tiếng chân người chạy. Em sợ, vẫn nằm im trong hầm. Dì Bảy từ ngoài đi vào, ghé tai em nói nhỏ.

- Con ở nguyên trong nhà. Không ra ngoài. Giải phóng về đầy làng... E phen ni đánh nhau to hung!

Em bảo dì:

-Ta về nhà trên Huế đi dì. Ở đây con sợ lắm...

- Đi răng được. Bộ đội giải phóng về đầy ở Kim Long... Cầu Bạch Hổ, cầu Tràng Tiền, lính hai bên đang đánh nhau, về nhà răng được? Cứ ở yên đây. Khi mô êm thì dì cháu ta đi.

Lần đầu tiên em được nhìn thấy bộ đội giải phóng, anh à! Họ chẳng giống chút nào như những hình người trong tấm tranh vẽ dán ở phòng thông tin “bảy người đu một cọng đu đủ không gãy”. Toàn là điều nhảm nhí.

Bây giờ em được gặp anh, ngay trong nhà cha em. Được nhìn tận mắt, sờ tận tay... Hóa ra, V.C cũng là người bằng da, bằng thịt, hiền lành và... thật dễ thương. Em càng không thể nào tin những người lính như anh cũng thuộc thơ tình Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên... Nghe thầy giáo em bảo “ngoài nớ cấm thơ tình”. Các ông ấy bị chính quyền đưa đi lao động, cải huấn cả rồi... Điều ấy có thật không anh?

Em càng ngạc nhiên hơn khi cái lần anh đọc thầm cho em nghe từng đoạn dài bài giới thiệu “Một thời đại trong thi ca” của các ông Hoài Thanh - Hoài Chân. Em được đám nhỏ bạn gọi đùa là con mọt sách mà còn chả thuộc. Thật xấu hổ... Em hiểu ra một điều, “ngoài tê” họ cũng không cấm học sinh đọc thơ tình. Thầy giáo của em lại bảo “họ cấm tuốt”.  Nghe em hỏi vậy, sao anh lại cười... Em cứ nghĩ hoài câu nói của anh. Anh nói răng hè? “Cuộc chiến tranh làm phân ly đất nước ta, mới chỉ có hơn mười lăm năm đã làm cho người dân một nước thành người xa lạ... Đáng sợ thật! Chẳng lẽ những người lính giải phóng như các anh đây không biết yêu... Không được đọc thơ tình... V.C, bộ đội giải phóng hay ai nữa, cũng là con người, là dân một nước...”.

Nhưng đến khi anh nói câu này thì em không giữ được dòng nước mắt cố kìm nén, bật tuôn trào. “Em có biết điều mơ ước nhất của anh lúc này là gì không? Được một lần trở về úp mặt vào lòng mẹ để tạ lỗi với bà. Được ngồi cùng cha mẹ anh bên mâm cơm ăn bát canh cua đồng...”.

“Canh cua đồng là răng anh?”. Em muốn hỏi mà lại ngại, sợ anh chê con gái Huế không biết nấu ăn.

Từ ngày quen biết anh, em vỡ ra nhiều điều trước nay chưa từng biết.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 09:44:49 am
11

Về nghỉ hè, Hương Giang có một món quà đặc biệt dành cho y. Đó là chiếc đài radio, hiệu National 3 pin đại. Nàng còn đưa cho y cả chiếc tai nghe có sợi dây màu đen. Muốn nghe đài, nghe nhạc y chỉ việc cắm chiếc tai nghe vào chiếc đài, vậy là y nghe thoải mái, âm thanh không phát ra ngoài.

Nàng bảo y:

- Để anh nghe nhạc cho đỡ buồn!

Suốt ngày nằm trong nơi ẩn nấp phía sau vườn, đầu óc y luôn căng thẳng. Dỏng tai nghe ngóng từng động tĩnh phía trong nhà, ngoài con đường kiệt băng qua khu vườn nhà ông Sáu. Chỉ khi màn đêm buông xuống, làng xóm yên tĩnh, đầu óc y mới thảnh thơi, bớt căng thẳng.

Vết thương ở chân mỗi ngày một khá hơn nhờ những mũi thuốc kháng sinh và thuốc uống của cha con ông Sáu mua ở Huế mang về. Hàng đêm y chờ đợi tiếng chân của ông Sáu, của con Xíu bí mật mang cơm cháo ra tiếp tế. Vào mỗi buổi chiều thứ Bảy, y còn mong ngóng tiếng xe Honda của nàng từ Huế về thăm nhà.

Từ khi biết tin ông Sáu làm chuyện động trời, nàng hay về làng Dương thăm cha. Nàng lấy cớ ở Huế đắt đỏ, về làng chở gạo, rau cho dì Bảy. Có bữa nàng còn mua cả một xe balua chở đầy kiệu, rau, củ, quả để cho dì Bảy bán buôn ở chợ Đông Ba. Y biết rõ đây là cách ông Sáu và nàng muốn che mắt tụi tề điệp. Nhưng cũng vì nàng hay về nhà mấy người bạn học cũ của nàng trong ấp, trong xã ngày trước bỏ học ở nhà lấy chồng, giúp việc buôn bán cho gia đình hay ghé thăm chơi. Một số thanh niên dân vệ, lính tráng đóng quân ở chi khu cũng hay lảng vảng vô nhà lấy cớ ghé thăm ông Sáu, tán tỉnh nàng. Ông Sáu Đến biết đấy là một việc làm nguy hiểm nhưng không có cách gì ngăn cản được đám thanh niên cũng như lời khuyên ngăn con gái.

Hương Giang bảo cha:

- Ba đừng ngại, con có về thăm ba mấy ông không nghi... Còn chuyện mấy thằng lính tới nhà tán tỉnh ba cứ để con lo.
Có một buổi chiều, Hương Giang đi trên một chiếc xe Jeep về làng Dương. Lái xe là một viên trung úy Ngụy. Những người quen biết gia đình ông Sáu ở chợ Hương Cần, ở quận, ở làng Cổ Liễu, làng Dương nhìn thấy Hương Giang đi cặp kè với anh trung úy, ai cũng tin hai người cặp bồ. Họ kháo nhau Hương Giang dẫn người yêu về thăm ông Sáu Đến. Đám lính dân vệ, thanh niên trong làng nhìn thấy viên sĩ quan có phong độ oai vệ, lại có Hương Giang cặp kè bên, ai cũng ngại.

Ít ngày sau nàng mới cho y hay, viên sĩ quan Ngụy trẻ đẹp trai ấy là anh họ của nàng đang làm việc ở Vùng 2 chiến thuật có công chuyện mang máy móc thiết bị ra cho đơn vị đóng quân ở sân bay Phú Bài, nhân thể ghé thăm nhà. Hương Giang mượn người anh họ che chắn cho nàng. Thông tin ấy phá tan mối nghi ngờ ở ngay chính y khi cứ thắc mắc hoài về người sĩ quan Ngụy.

- Anh họ em tên Đào, ở Nha Trang - Hương Giang bảo y vậy - Anh ấy có vợ rồi. Hai vợ chồng có một cháu nhỏ ba tuổi. Anh biết không, em phải đưa anh Hai về làng để dọa đám lính và thanh niên trong làng không đeo em.

Y tin điều nàng nói là thật. Y còn linh cảm mơ hồ rằng từ lúc quen biết y, hiểu rõ hoàn cảnh của y, nàng có cảm tình với y, cùng với cha che giấu y trong nhà. Không còn nghi ngờ gì nữa, nàng trở thành một cái vỏ bọc quan trọng thứ hai cho y trong căn hầm trú ẩn này.

Chiếc radio đối với y trở thành báu vật. Chỉ cần cắm tai nghe, bật volume y đã dò ra sóng của đài Tiếng nói Việt Nam, đài Giải phóng. Rõ nhất là đài Phát thanh Tự do Huế, đài Sài Gòn. Y còn lần mò ra được cả sóng của đài RFI, BBC, đài VOA... Chiếc tai nghe nhỏ bằng đầu đũa trở thành sợi dây giao cảm giữa y với thế giới bên ngoài. Mỗi lần mở đài Hà Nội, y nín thở để nghe giọng cô phát thanh viên đưa những tin tức sốt dẻo về miền Bắc. Ngong ngóng đợi chờ coi thử có mẩu tin nào về vùng quê nơi có cái làng Lôi nhỏ bé của y. Vẫn là chuyện muôn thuở. Máy bay Mỹ vẫn tiếp tục ném bom miền Bắc mỗi ngày một thêm quyết liệt, dữ dội. Tin bộ đội, du kích, dân quân bắn rơi Thần sấm, Con ma. Hạm tàu Mỹ nã pháo vào Cồn Cỏ, Vĩnh Linh. Thanh niên xung phong mở đường cứu xe, cứu pháo... Trai gái các làng hăng hái tòng quân lên đường. Có nhiều tấm gương điển hình ở các làng, các xã. Thanh niên, học sinh lấy máu viết đơn tình nguyện đi bộ đội vào Nam chiến đấu. Khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy dệt Nam Định, Bến Thủy bị bom ném. Hợp tác xã nông nghiệp ở các địa phương nô nức học tập theo phong trào “Cờ Ba nhất, gió Đại phong”, các nơi noi gương nông dân Vũ Thắng làm bèo hoa dâu xây dựng cánh đồng năm tấn.

Làng Lôi của y cách không xa cái hợp tác xã Vũ Thắng tiên tiến ấy. Vào năm học cấp 3, nhà trường có tổ chức cho một số học sinh đi tham quan điển hình hợp tác xã Vũ Thắng. Y có dịp được lội xuống ruộng thả bèo hoa dâu, nghe chị đội phó đội sản xuất dạy cho cách nuôi bèo, bón phân cho lúa. Sướng nhất là đám học trò nghèo vốn luôn chịu đói được hợp tác xã đãi một bữa cơm trưa ăn no với cá diếc kho tương. Còn năm học lớp 4 nhờ chăm chỉ, y thi đỗ vào cấp 2. Để thưởng cho con, thầy y đã cho đi chơi lễ hội chùa Keo. Hội mở vào tháng Chín âm lịch hằng năm. Cả đêm trước, y chộn rộn náo nức không ngủ. Tới khuya, y len lén nhìn qua cánh màn nâu thấy mẹ vẫn ngồi nắm hai vắt cơm to như cái đấu đặt trên cái mâm gỗ đang tỏa hơi nghi ngút. Mùi vừng rang thơm phức. Mẹ y ngồi chờ cho vắt cơm nguội để gói vào tàu lá chuối đã hơ qua lửa.

Gà gáy canh năm, y đã vùng trở dậy. Thầy y đã gọn ghẽ trong bộ quần áo nâu, khoác bên ngoài một chiếc áo đại cán cũ. Vắt cơm nắm đã cho vào chiếc bị cói được cột chặt ở giàn xe phía trước. Y ngồi ở gacbaga phía sau. Hai cha con khấp khởi đi trẩy hội. Con đường từ làng Lôi đến chùa Keo phải qua Vũ Thắng, qua chợ Thông, chợ Bồng... Lần đầu tiên trong đời y cảm nhận được niềm vui của một đứa trẻ đi hội. Chiếc xe đạp của cha con y băng qua những làng mạc, những cánh đồng lúa đang kỳ trổ đòng. Làng quê yên lành sau những năm chiến tranh. Nơi nào cũng giăng đầy khẩu hiệu hô hào nông dân hăng hái thi đua sản xuất xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, ủng hộ đồng bào miền Nam đánh Mỹ - Diệm, đấu tranh thống nhất đất nước.

Những khẩu hiệu giăng đầy ở các con đường làng, được viết trên những tấm bảng thông tin xây bằng gạch, bằng gỗ nơi cửa đình, bờ tường hợp tác xã. Con đường đến gần chùa Keo người càng đông. Có một đoạn đi dọc theo bờ đê sông Hồng, thầy y phải xuống xe dắt bộ. Đường bờ đê nhớp nháp sau mưa, cỏ mọc xanh rì, trơn trượt nhưng không vì thế mà giảm đi không khí náo nhiệt của lễ hội. Lần đầu tiên y được nhìn thấy những chú rối bơi lội nhảy múa trên mặt ao. Người đứng xem đông đặc, vây kín vòng trong vòng ngoài. Ở một bãi cỏ trước cửa chùa, chiếc đu tre cất lên cao vút có đôi thanh niên nam nữ đang nhún nhẩy. Dải lụa đỏ trên đỉnh cột cờ phấp phới bay...

Dạo ấy chiến tranh phá hoại của Mỹ chưa lan ra miền Bắc. Hội hè còn được mở, chưa bị nghiêm cấm. Người trong vùng đổ ra đi hội Keo rất đông. Trên con đường gạch dẫn vào chùa, người chen chân nhau. Y vừa sợ, nhưng vừa cố sức leo cho lên được tháp chuông chùa Keo. Bậc cầu thang gỗ dựng ngược. Y nhỏ người, luồn lách mãi sau cũng leo lên được tầng thượng, vươn cổ ra ngoài nhìn đám rước Thánh đi vào chùa và đón ngọn gió mát từ ngoài sông Hồng thổi vào. Quá trưa, hai cha con trở ra đến chỗ gửi xe đạp, bùn đất dính lem áo quần. Hỡi ôi, chiếc bị cói có hai nắm cơm vắt giành cho bữa trưa đã không cánh mà bay.

Thầy y làu bàu chửi thằng ăn cắp. Y vừa mệt, vừa đói lại buồn ngủ. Chỉ đến khi hai cha con đèo nhau về tới chợ Cọi ăn được mấy miếng bánh đúc y mới tỉnh cả người.

Bây giờ chùa Keo có bị bom Mỹ ném không? Đã lâu rồi từ ngày Mỹ ném bom ra miền Bắc, chẳng còn ai nhắc tới hội hè nữa. Thanh niên trai tráng đến tuổi lo đi nhập ngũ. Ngày giao quân là ngày hội của các làng các xã. Chuyện bộ đội đi Nam, đã có nơi này, nơi kia báo tử. Đấy là chuyện nhỏ, là nỗi lo, là nỗi đau của một gia đình; của các bà mẹ có con đi B. Đến như ngay ở quê nhà bom ném xuống cầu Bo, ném vào nhà thờ, phá tan hoang thị xã. Bom ném Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... Người dân của làng quê y đã quen dần với những câu chuyện như thế. Họ quan tâm nhiều tới việc hôm nay bom ném vào các nhà máy, cầu cống ở đâu. Bộ đội bắn được mấy chiếc máy bay phản lực? Có bắt được phi công Mỹ hay không?.. Còn chuyện bom ném vào các trận địa tên lửa, các ụ pháo. Bom ném xuống cánh đằng làng trước khi máy bay phản lực Mỹ bay ra biển... Chỗ nào mà chả có người chết, nhà cháy?

Cùng đi một đợt nhập ngũ vào Nam với y có 17 đứa. Tất cả đều tốt nghiệp phổ thông cấp 3. Một đại đội tân binh 120 người lúc bàn giao cho Công trường V ở Rừng Thông chỉ còn được 80 tay súng. Một phần tư số tân binh đã không đến được chiến trường, họ rơi rớt dọc đường. Kẻ thì đào ngũ, người thì ốm đau nằm lại ở các bệnh xá dọc đường giao liên. Y biết những người ấy không đủ nghị lực và lòng dũng cảm để vượt qua sông Bến Hải, vượt qua dãy Trường Sơn... Đến cả đám bạn học với y vốn luôn bị mấy anh chính trị viên đại đội, cán bộ trung đội hay soi mói nhòm ngó tưởng trụ được cả, không có ai đào tẩu, thoái lui. Vậy mà chỉ sau vài năm về KX bám ở vùng giáp ranh Hương Trà, Phong Quảng cũng lần lượt rủ nhau ra đi.

Thắng - thằng bạn nối khố với y từ ngày còn mặc quần thủng đít đá bóng mất ở ngã ba Hương Trà trong một chuyến lạc rừng. Chiến Kỳ Bá mười ngày trước được nhận Huân chương Chiến công diệt bọn bảo an ở Phú Ổ... Chỉ ít ngày sau đã dính mìn Claymo của tụi lính Mỹ mũ nồi xanh phục kích ở An Đôn. Nghi “phở”, lính trinh sát của tiểu đoàn hi sinh khi về bám dân ở Lai Bằng. Nam “mực” liên lạc cho tiểu đoàn trưởng Bậu trúng bom ở Dốc Đoác. Thành, Tí “bẹp” bị bom trong chuyến đi gùi gạo ở hang đá. Nuôi “lò mổ” hi sinh khi bám địch ở dốc Đất Đỏ. Sơn “xạ thủ đại liên” bị thương khi giữ chốt ở Địa đạo 310 lúc lính Mỹ vào càn ở hậu cứ. Tùng “cháy”, Thịnh, Hiển, Cường, Kỳ... Những người lính trong đại đội tân binh luôn mơ ước một ngày được trở lại giảng đường trường đại học, kẻ sốt rét, người bị thương đã nằm lại dọc đường.

Y đã đi qua bao trận đánh lớn nhỏ. Bị thương vài lần nhưng không nguy hiểm, sốt rét đã thành mãn tính kinh niên. Sau những trận đánh, y trở thành kẻ lọc lõi trong chiến trận. Có nhiều kinh nghiệm khi bám địch. Xem qua con đường lính Ngụy, lính Mỹ đạp trong rừng, dấu lá nón còn tươi hay đã khô, biết rõ địch đi hướng nào, quân đông hay ít. Nhưng y không ngờ gặp nạn trên con đường sắt dẫn vào làng Bầu Tháp... May mắn là y không chết. Phúc lớn cho y gặp được cơ sở cách mạng cứu sống. Ác thay, thương tật đã loại y ra khỏi vòng chiến, nằm giữa vòng vây địch, không có đường lên xanh. Đồng đội đã không quên y. Đã có những người vì y mà chết, bị địch bắt, tra khảo, tù đầy.

Nếu không có cái neo bám cuối cùng là căn hầm trú ẩn này cùng với ông Sáu và nàng... Y sẽ ra sao đây?



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 09:49:16 am
12

Ông Sáu Đến báo cho y một tin không vui.

Sự cố ở quán mụ Tr. trong trận phục kích bộ đội, du kích về cây số 14 chỉ là bước khởi đầu cho một chiến dịch càn quét, thanh lọc có quy mô rộng lớn ở vùng ven đô Huế.

Suốt những tháng mùa khô, Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ đưa quân lên càn miền Tây. Những trận đánh lớn của Sư đoàn 324 phối hợp với bộ đội đặc công, pháo binh quân khu chặn đánh Mỹ ở Dốc Chè, Động Chuối, Bốt Đỏ, đường 12. Còn vùng hạ lưu sông Bồ, sồng Hương, vùng giáp ranh với đồng bằng, lính Ngụy thuộc Sư đoàn 1 bộ binh đổ quân cắm chốt ngăn chặn các đơn vị bộ đội địa phương về bám dân. Mục tiêu trọng điểm của địch là nhanh chóng xây dựng các cứ điểm ở Hòn Vượn, ở điểm cao 360, ở Chóp Nón, Động Dài. Căn cứ Bình Điền ở đường 12 được tăng cường phòng thủ. Suốt ngày vùng giáp ranh, hàng trăm đợt máy bay vận tải H34 chở quân, chở vật liệu xây dựng, lô cốt, dây kẽm gai gia cố các căn cứ. Máy bay trinh sát OV10 quần đảo suốt ngày trên bầu trời giáp ranh. Máy bay trực thăng vũ trang, cán gáo rà thấp trên các cánh rừng bắn rốc-két đạn 40 ly vào các điểm nghi ngờ có V.C đóng quân. Chỉ cần một quả pháo điểm khói bốc cao, lát sau các trận địa pháo ở đồng bằng đã bắn lên phá nát các cánh rừng.

Hòn Vượn, một điểm cao nằm ở phía tây bắc Huế chính thức trở thành một cứ điểm mạnh của địch. Có trận địa pháo, có xe tăng và lính bộ binh. Những năm trước đây đã có lần Đại đội 3 của y tăng cường cho Tiểu đoàn pháo K35 từng đưa pháo ĐKB lên đỉnh Hòn Vượn để bắn vào Mang Cá. Hòn Vượn như con mắt độc nhìn thẳng vào Huế khống chế một dải đồng bằng ven biển và chi viện cho vùng rừng núi thượng nguồn sông Bồ, sông Hương bằng hỏa lực pháo binh. Vì vậy, quân Ngụy có người Mỹ yểm trợ quyết biến Hòn Vượn thành một bức tường thép án ngữ ở phía tây. Một con đường chạy vòng quanh Hòn Vượn, được công binh Ngụy khai thông đủ cho xe kéo pháo, đưa xe tăng lên đỉnh. Xung quanh cứ điểm Hòn Vượn địch giăng hàng rào dây thép gai hàng chục lớp xen giữa là các bãi mìn. Đỉnh Hòn Vượn bị cạo trọc, đường hào, lô cốt vây quanh. Các khoảng rừng già dưới chân cứ điểm pháo cối nã xuống đêm ngày không theo một quy luật nào cả. Tướng Ngụy Ngô Quang Trưởng đã từng bay trực thăng lên đỉnh Hòn Vượn và tuyên bố trên Đài Tự do Huế. “Đặc công V.C có cho kẹo cũng không đủ sức đánh Hòn Vượn”. Quả thật, bộ đội trinh sát quân khu nhiều lần mật tập vào Hòn Vượn đều dính mìn.

Ba vị trí khác là đồi Am Cây Sen, Từ Hạ, Đồng Lâm trở thành ba trận địa pháo của quân Ngụy hỗ trợ cho miền tây bắc Huế. Ở làng Dương, ban ngày nằm trong hầm y cũng nghe rõ tiếng đềpa của các trận địa pháo mỗi khi bắn lên rừng.

Không biết vì vô tình hay cố ý, ông Sáu Đến còn cho y biết thêm: Chị Nguyệt, chị Chồn, O Cúc bị lật hầm. Địch bêu đầu chị Nguyệt ở chợ La Chữ để thị uy người dân trong vùng. Mụ Tr. từ bữa bị bắt đến nay chưa được thả về. Nghe bảo địch đưa vô nhà giam Đà Nẵng. Y không tiện hỏi ông Sáu Đến lấy nguồn tin ấy từ đâu ra. Vả chăng có hỏi chắc gì ông đã nói. Nhưng y biết trên xanh đang gặp khó. Vào những lúc trong làng yên tĩnh, không có địch, y đã mạo hiểm bò ra sát mép bờ tre quan sát. Trời xanh ngằn ngặt, bằng mắt thường y cũng có thể thấy được những rặng núi xa mờ in trên nền trời phía tây. Hướng ấy, ban ngày không lúc nào ngớt tiếng nổ của bom, của pháo. Tiếng máy bay trực thăng phành phạch. Tiếng máy bay trinh sát OV10 quần đảo trên bầu trời. Một vài tốp máy bay phản lực rít bay qua đầu... Trên cánh đồng làng Dương vẫn im ắng như tờ, thấp thoáng bóng những người dân đang cuốc cỏ lầm lũi.
Y còn chôn chân ở đây đến bao giờ? Ai sẽ là người về đây giải thoát cho y trở lại rừng?


*
*     *

Trời Huế đổ mưa.

Mưa rả rích suốt cả tuần liền. Những trận mưa ở Huế thật đáng sợ. Bầu trời như sụp xuống trong những cơn mưa sầm sập kéo dài không bao giờ dứt suốt cả ngày trời. Mưa đêm rồi lại mưa ngày. Tạnh được một lúc tưởng bớt nhưng chỉ một lát sau những cơn mưa lại kéo đến. Nước từ trên rừng ào ạt đổ về các sông suối vùng giáp ranh và đồng bằng như thác lũ. Những con suối biến thành những dòng sông. Nước mênh mang tràn bờ nhấn chìm những cánh đồng trồng lúa, trồng màu, xóa sạch những con đường liên thôn, liên xã. Tất cả biến thành một biển nước chỉ còn chồi lên những dải tre xanh bao quanh các làng trông như những hòn đảo chơ vơ, cô quạnh. Trời đã đổ mưa, lâu lâu sét đánh, chớp nhì nhằng ngoài cánh đồng.

Rất may căn hầm nơi y trú ẩn nằm trên gò đất cao.

Nước lụt vô đường làng, lấp sấp trong vườn nhưng không tới được chỗ sạp nằm. Chỉ có điều trời mưa khiến cho căn hầm trở nên tối tăm, ẩm mốc, hôi hám.

Suốt những ngày qua không thấy ông Sáu Đến xuất hiện đưa cơm cháo cho y. Sẩm tối, không rõ mặt người mới thấy con Xíu vạch bờ rào gai chui vào, quần áo ướt như chuột lột. Nó mặc chiếc quần ống xắn cao quá gối, khoác mành pông-xô của Mỹ ôm chặt chiếc cặp lồng và mấy hộp sữa Ông Thọ.

- Ông Sáu đâu? - Y hỏi con Xíu.

- Cháu không rành! Ông biểu đi Huế thăm cô Hai. Đi từ hôm tê kia.

Tới khuya con Xíu còn mang ra cho y một tấm mền. Nó nói nhỏ vào tai y:

- Bữa ni mấy ông lính về nằm đầy ở sân nhà thờ chú Hai à.

Trời mưa. Tụi lính dân vệ kéo nhau về sân nhà thờ đóng quân. Y dặn dò con Xíu cẩn thận. Ngay từ chiều, lúc trời còn sáng, con Xíu đã đóng chặt cửa ngõ. Nằm ở phía sau vườn y nghe rõ tiếng chặt tre, tiếng tụi lính dân vệ gọi nhau í ới. Chúng đang căng tăng đóng trại và nổi lửa nấu cơm. Chừng hơn 8 giờ tối, tự nhiên đám lính dân vệ có lệnh rút ra khỏi làng Dương. Hai chiếc xe GMC từ ngả Hương Cần bật đèn pha sáng quắc chở đám lính về chi khu.

Có địch ở gần y không dám chợp mắt. Dỏng tai nghe ngóng mọi động tĩnh. Biết đâu tụi lính rút đi nhưng vẫn gài người ở lại. Chờ cho tới lúc hai chiếc xe chở lính đi đã lâu, kiểm tra thật kỹ lưỡng, y mới rời khỏi căn hầm ẩm thấp. Trời không mưa nữa. Đám mây giăng cũng tan loãng để lộ ra trên bầu trời một vầng trăng nhợt nhạt, ẩm ướt.

Không gian yên ắng đến đáng ngờ. Quãng quá nửa đêm, y nghe thấy tiếng súng con, tiếng cối cá nhân nở rộ ở hướng đường quốc lộ. Không lẽ mưa lụt như thế này bộ đội, du kích cũng về làng? Có thể, y nghĩ vậy. Đã nhiều lần y đã từng cùng với cánh lính biệt động của đội anh Đoàn, anh Có, chị Tâm về làng bám dân giữa những ngày mưa lụt đó sao. Đi đồng bằng ngày mưa dễ tạo ra sự bất ngờ. Tụi lính địch chốt chặt trên các ngả đường thấy trời đổ mưa thường vào trú trong các lều bạt dễ bị cánh lính trinh sát phát hiện. Đi lại giữa đồng nước khó khăn nhưng một khi đã bám được vào dân thì ít bị địch phục kích. Hoặc nếu có địch đóng trong làng cũng dễ phát hiện ra nơi chúng đóng quân. Chỉ cần vào được dân là có gạo, thực phẩm.

Còn nhớ mùa lụt năm ngoái, đơn vị của y theo chị Tâm về La Chữ mua gạo. Cả đại đội đã chịu đói nhiều tháng trời. Vất vả mất năm ngày, y cùng với bốn người lính trinh sát và chị Tâm mới đạp được con đường từ chân Động Ngang ra ngoài giáp ranh qua ngả khe Đá Liếp. Trời mưa lụt đồng bằng trắng nước. Các đơn vị lính Ngụy rút cả về lưng đồi. Toán trinh sát lọt được về đồng bằng cứ nhắm theo hướng ngọn đèn đỏ nhấp nháy trên tháp truyền hình. Hướng ấy là Phu Văn Lâu. Là kinh thành Huế. Lội giữa cánh đồng nước mênh mông suốt ba tiếng đồng hồ, cả tốp trinh sát mới bám được vào làng La Chữ. Con hói rộng vài chục mét ngày thường bao quanh làng bị mưa lụt nhấn chìm trở thành một dòng sông rộng chảy xiết. Cách vào làng tốt nhất lúc này là liều mạng băng qua cây cầu xi măng. Ngày thường địch hay nằm phục kích ở đây. Y bò về phía chị Tâm nói nhỏ.

- Chị cho anh em yểm hộ, em bò qua cầu. Nếu có địch phục kích phía đầu cầu bên kia chúng sẽ bắn, ta phát hiện được.

Chị Tâm vít đầu y lại gần, nói nhỏ:

- Quan sát kỹ rồi hãy lên cầu nghe em.

Y ép khẩu AK báng gấp sát người bò về phía cầu, dỏng tai nghe ngóng. Phía bên kia làng im ắng. Trăng đã treo cao trên đỉnh đầu. Lâu lâu một tảng mây bay qua làm không gian tối lặng. Y ghé sát tai xuống đất. Không một tiếng động, cẩn thận, y cầm một hòn đất vung tay ném mạnh qua phía đầu cầu bên kia. Tiếng hòn đất rơi bộp. Không có phản ứng gì của địch. Đến lúc ấy y mới băng qua cầu.

Vào hỏi cơ sở, y mới biết đầu giờ chiều có một đại đội bảo an đóng quân ở La Chữ. Trời tối, mưa to, địch sợ lụt rút cả lên đường quốc lộ. Sáu người trinh sát cùng với chị Tâm lọt về ấp mua được gạo, mì chay ông Phật, trà thuốc.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 09:52:13 am
13

Dấu yêu ạ!

Huế mưa.

Những cơn mưa dầm dề không dứt.

Các con đường trong Đại Nội nước lên lút nửa bánh xe. Mấy đứa bạn em đi ghe máy từ Kim Long xuống biểu nước lên cao cả thước. Có nơi trong làng nước lụt ngang mái nhà. Chợ Đông Ba nước từ ngoài sông Hương tràn vào cũng dâng lên tới sạp. Từ mấy hôm trước thấy trời mưa, hai dì cháu đã thuê xe chở hàng về nhà.

Nước trói chân em trong nhà... Suốt từ sáng đến chiều em bị bao vây giữa những kiện hàng xếp đầy trên giường, trên sạp gỗ. Nấu cơm mấy dì cháu cũng phải kê cao để không bị dính nước.

Ngồi buồn em lại nghĩ tới anh. Cứ phấp phỏng lo sợ nước tràn vô nhà, nhấn chìm anh. Không biết con Xíu ở nhà có lo đủ cơm nước cho anh không? Thương cho cha em! Ông vô Đà Nẵng đến hôm nay đã sang ngày thứ tư vẫn chưa thấy về. Hôm trước gặp em ở nhà dì, ông chỉ nói được một vài câu:

- Ba có công chuyện phải vô Đà Nẵng gấp. Rảnh con thu xếp về qua nhà coi thủ con Xíu ra răng.

Em nhìn cha tỏ rõ vẻ ái ngại. Ông như hiểu được điều băn khoăn của em, lúc bước ra tới cửa ông nói nhỏ:

- Mọi việc ở nhà cha giao cho con Xíu. Nó còn nhỏ nhưng biết lo liệu mọi việc.

Dì Bảy không hiểu mối quan tâm của cha và em, có ý trách:

- Răng anh Sáu không cho con Xíu lên đây chơi với tui. Trời mưa lụt như ri.

Cha nói tránh chớ:

- Ở nhà còn heo gà ai trông. Mưa vài bữa là dứt chớ chi.

Dì Bẩy nhìn trời, chép miệng:

- Trời ni, e lụt. Anh Sáu mau đi rồi về.

Vậy mà trời lụt thiệt, anh à.

Buổi trưa nay trời dứt mưa. Em mặc áo mưa thả bộ ra bến xe Nguyễn Hoàng nghe ngóng. Bãi xe rộng, trời mưa lụt, các bác tài dồn về đây cả trăm xe. Các xe ôtô của hãng Phi Long, xe tải đậu kín trong bến. Những người khách quá giang đường dài bị mưa lụt níu chân đứng ngồi không yên trong các quán trọ. Họ uống cà phê, hút thuốc ngửa mặt nhìn trời. Nước sông Hương lên to. Lính công binh Ngụy đã tháo dỡ cây cầu phao Phú Xuân từ mấy ngày nay sợ bị lũ cuốn trôi. Xuân Mậu Thân (1968) V.C đánh sập một nhịp giữa cầu Tràng Tiền. Chính quyền đã thuê các kiến trúc sư người Pháp cho xây cây cầu mới. Nền cầu mới cao hơn cầu Tràng Tiền cả thước, gọi là cầu Phú Xuân, đến nay vẫn chưa xong. Xe nhà binh, xe tải chở nặng vẫn phải đi qua cây cầu phao để tiếp vận ra phía Bắc.

Đang đứng lơ ngơ trước cổng bến xe, chợt em nghe thấy có cậu lơ xe gọi to:

- Xe về Hương Cần đây! Có ai đi nữa không?

Mới nghe được vậy, em nhào vô chiếc xe đang nổ máy. Không kịp nói với dì Bảy một tiếng. Mặc kệ! Em liều. Em phải về với anh.
Chiếc xe băng qua cổng Thượng Tứ, con đường nhựa lênh láng nước. Ngó qua cửa xe, em nhìn sông Hương mà sợ. Nước lên mấp mé cầu Tràng Tiền, cầu Bạch Hổ. Nhìn dòng nước cuồn cuộn trên sông Hương, trông cây cầu đang xây dở thật đáng sợ, dòng nước lũ như muốn nhấn chìm. Nước lên to tràn hai bờ, mặt sông mênh mang. Ở phía bờ Nam, những hàng cây xà cừ, cây phi lao và cả khu trường đại học, những mái ngói của trường Quốc học, trường Đồng Khánh cũng nhập nhòa trong làn mưa dày đặc trắng mặt sông. Dòng sông chảy xiết cuốn theo từng mảng rác những cây cành từ rừng đổ về lừng lững trôi ra cửa biển Thuận An.

Chiếc xe khách chạy dầu diezen ra khỏi An Hòa đi trên đường quốc lộ số 1 về đến chi khu Hương Trà thì không đi được nữa. Con đường về Hương Cần bị cắt đứt. Em nhìn về hướng làng chỉ thấy một biển nước mênh mông. Các xóm ấp nổi lên như những gò bãi, chỉ thấy phơ phất những ngọn tre. Nóc nhà thờ làng Dương nhô cao, trông nhỏ nhoi đơn độc. Em chờ đến hai giờ đồng hồ cùng với mấy người đàn ông đi cùng chuyến xe về Hương Cần. Mọi người chèo kéo mãi một chủ đò, cuối cùng mới thuê được đò về làng Cổ Liễu... Giá thuê đò mắc cắt cổ. Không sao. Miễn là em về được với anh. Nhìn thấy anh ngồi co ro, trùm kín trong tấm pôngxô, núp dưới gốc tre, em thương hết nổi.

Và càng kinh ngạc hơn khi em hỏi:

- Anh ước muốn điều gì bây chừ?

Anh đã trả lời.

- Một nồi nước nóng để anh được tắm...

Đặt xoong nước lên bếp dầu, em đã khóc.

Và đêm nay, là đêm đẹp nhất của cuộc đời em. Vì anh, em đã không tiếc cuộc đời con gái. Đến với anh, em không ân hận chi hết. Định mệnh! Cứ cho là như vậy đã cột chặt đời em vào anh. Vào lúc này, em không hình dung cuộc sống rồi đây sẽ đẩy đưa em đi tới mô... Nhưng từ trong sâu thẳm, em thấy mãn nguyện. Em chấp nhận những gì xảy ra với chính mình. Chỉ biết rằng, em đã có được tình yêu của anh! Có những giây phút bên anh trọn vẹn.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 01:52:01 pm
14

Tiếng chuông nhà thờ ngân vang.

Y bừng tỉnh giấc. Theo một phản xạ bản năng, y vùng ngồi dậy.

Sao y lại nằm đây trong căn phòng có nệm ấm? Cánh màn trắng buông kín. Ngọn đèn dầu vặn nhỏ, ánh sáng phát ra từ góc nhà chỉ to bằng hạt đậu xanh. Mùi dầu thơm, mùi xà bông Mỹ tỏa ra dịu nhẹ. Tấm chăn mỏng che kín toàn thân gần như lõa thể của y.
Và bên cạnh, nàng cũng vậy, đang thiếp ngủ.

Một gương mặt trắng lòa xòa vài sợi tóc trên trán. Đây là lần đầu tiên y được nhìn nàng rõ và gần. Một gương mặt hiền thục nhưng vẫn ánh lên vẻ phong trần, âu lo. Phải mất một lúc y mới trấn tĩnh trở lại. Trí nhớ như một cuốn phim quay chậm để y hình dung những khoảnh khắc kỳ diệu vừa đi qua.

Xoong nước tắm thoảng thơm mùi lá xả tỏa ra trong căn phòng tắm kín đáo ấm cúng, dễ chịu. Y xấu hổ khi nhìn thấy chính bộ dạng của mình bị phơi trần trước con mắt của nàng. Y gầy gò và thật đáng thương! Nàng chỉ cười và nhẹ nhàng dội lên người y từng ca nước ấm. Mái tóc của y, bốn tháng nay không được cắt tỉa mọc dài che lấp cả tai. Râu ria lởm chởm bó lấy gương mặt gầy xanh. Nàng khoác lên trên người y một chiếc khăn tắm phảng phất mùi nước hoa. Cái mùi thơm ấy với y thật xa xỉ. Lúc nàng tỉa tóc và cạo sạch bộ râu của y, chìa ra một chiếc gương. Y không nghĩ cái gã đàn ông trong gương kia là mình.

Đã bao tháng, bao ngày, niềm ao ước duy nhất của y là được tắm... Mong muốn được tắm gội đi cả vào trong giấc mơ. Lúc tắm xong y đã buông ra một lời ngu xuẩn.

- Em cho anh trở lại hầm, kẻo...

Y kinh ngạc khi nàng nói:

- Không! Đêm nay anh ở lại đây. Ngoài trời đang mưa to. Nước dâng lên ngập hầm. Anh ở ngoài đấy, em không đành.

- Anh sợ... - Y lắp bắp.

- Anh sợ chi? Đêm tối như ri, địch mô dám vô nhà. Lúc em về làng, tụi dân vệ kéo lên chi khu cả rồi. Mưa lụt, nhà mô cũng lo chạy nước. Anh ở lại trong phòng em, mai tính sau. Vả lại có em ở nhà, chả ai dám vô đây.

Y chưa kịp mở miệng nàng đã khóa bằng một nụ hôn đến nghẹt thở... Lần đầu tiên, y biết thế nào là hơi ấm của một người con gái.
Tiếng chuông nhà thờ lại rung lên. Y còn đang lưỡng lự chưa biết tính sao, nàng đã tỉnh dậy và bảo:

- Anh cứ ở yên đây... Mọi việc em thu xếp.





15

Không biết Hương Giang đã nói với ông Sáu Đến những gì.

Buổi tối, ông Sáu mang ra cho y một đĩa xôi, nửa con gà và một phích nhỏ cà phê đã pha sẵn.

Ông Sáu Đến bảo y:

- Con ăn đi cho đỡ đói.

Ông Sáu Đến gọi y bằng từ con nghe vừa xa lạ, vừa trìu mến.

Y ngậm tăm không biết nói gì. Cũng chưa vội ăn ngay. Y định mở miệng xin lỗi ông Sáu và thú thật với ông mọi chuyện. Y chưa kịp ngắt lời, ông Sáu Đến vỗ vai y và bảo.

- Sự thể đã đến nước này... Các con không thể ở lại làng... Tự nhiên ông Sáu Đến làm dấu thánh.

- Cầu Chúa lòng lành thương các con!


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 01:56:37 pm
16

Từ tập vở Cogido thứ tư trở đi, tôi ít gặp những dòng ghi chép của mẹ tôi. Cha tôi viết cũng không thường xuyên nữa. Tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra giữa họ. Trong cuốn vở này cha tôi viết từng đoạn, từng khúc như thể ông ghi để khỏi quên các sự kiện. Nhiều đoạn ông viết tháu, câu chữ ngắn ngủn, tôi đọc không hiểu gì cả.

Theo ngày tháng ghi trong tập vở, tôi đoán, từ cuối tháng 10 năm 1971 cho đến tháng 3 năm 1973, cha mẹ tôi trốn chạy vào Nha Trang.

Tôi biết chắc điều này vì tờ khai sinh của tôi ghi rõ ngày sinh, nơi sinh. Tôi sinh vào mùa thu, 1972. Còn nơi sinh, đó là một nhà hộ sinh tư nhân ở dưới chân núi Sạn.

Vào năm 2000 tôi về Nha Trang tụ hội với đám bạn sinh viên đại học vài ngày. Tôi đi chơi với bạn bè. Nghe mấy cô tiếp viên du lịch giới thiệu ở gần Tháp Bà Pônaga có suối khoáng nước nóng, tôi giả đò đi tắm nước khoáng nhưng kỳ thực là tìm tới núi Sạn coi thử nơi mình sinh ra sao. Một ngọn núi như trăm nghìn ngọn núi đá của miền Trung trơ trọi. Các xóm nhà dân mọc quanh chân núi. Nhiều nhà cao tầng đã xây lên cùng với khu chung cư. Tôi dò hỏi mấy nhà dân ở gần đó tên nhà hộ sinh Phước Dân. Nhiều người không ai biết. Mãi sau có người chỉ đường cho tôi đến nhà ông Tám Huyệt, một người trông nom mồ mả ở dưới chân núi Sạn. Ông Tám Huyệt cho hay, người chủ nhà hộ sinh Phước Dân đã bỏ nghề từ lâu. Sau ngày giải phóng, nhà nước không cho mở nhà hộ sinh tư nhân nữa. Nền đất cũ của gia chủ đã sang nhượng cho chủ mới, họ xây nhà nghỉ, phòng trọ. Khu vườn rộng phía sau nay trồng dừa, trồng đào lộn hột nằm gần Bệnh viện Da liễu.

Người làm chứng trong tờ giấy khai sinh của tôi là anh họ mẹ tôi, bác Nguyễn Văn Đào. Bác Đào là con ông bà Đạo, một người có họ với bên ngoại tôi ở làng Dưỡng Mông. Bác Đào là người con thứ của ông bà Đạo. Bác Đào đi lính, sống ở Nha Trang. Trong những trang viết của mẹ tôi đã từng mô tả bác là người đẹp trai. Gia đình bác Đào là người cưu mang cha mẹ tôi những ngày trốn khỏi Huế vào Nha Trang sinh sống. Bác Đào, viên trung úy Ngụy đã có lần đưa mẹ tôi về làng. Sau ngày giải phóng, bác cũng phải đi học tập cải tạo ở trại A30 ngoài Tuy Phước một thời gian. Vào năm 1986, bác Đào và gia đình đã sang Mỹ định cư, theo diện HO. Sau ngày cha tôi mất mấy năm, một lần bác Đào về Việt Nam, có ghé Đà Lạt. Gặp được tôi bác Đào mừng lắm. Sức khỏe của bác không tốt sau một lần tai biến, bác không còn nhớ nhiều tới chuyện xưa cũ.

Trong tập vở có một trang cha tôi viết chỉ vài câu ngắn gọn.

Xa rời tổ chuột” (Tổ chuột là cái chi ha? À phải rồi, nơi cha tôi ẩn náu) - Ông Sáu Đ. nói với y ngắn gọn: “Ơn chúa lòng lành cho tụi bay thương nhau trong nghịch cảnh như ri. Từ giờ ai hỏi nhớ nói tên con là Mai Văn Hoàng, hạ sĩ, thương phế binh nghe! Lính của sư đoàn dù, đóng quân ngoài Quảng Trị. Dân Bắc di cư... có vợ người Huế”.

Ở một đoạn khác cha viết:

Nằm lọt thỏm trong chiếc xe balua của Năm Lực. Chật chội. Mùi lá nón phơi nắng hăng nồng. Mồ hôi ướt đầm đìa. Lính chặn xe ở Phú Bài. Biển! Bãi biển nào đầy? Cầu Hai, Lăng Cô... Xe dừng ở hầm đèo Hải Vân. Gió lùa qua khe hẹp, y thấy dễ thở. Mấy ổ mì làm cho y khát nước...

Một đoạn khác cha tôi viết:

Ô tô rồi chuyển sang tàu hỏa ở Đ.N.

Y đã có một chuyến vô Nam bằng tàu hỏa trong goong tàu hàng chở gỗ.

Y nằm trốn chui lủi giữa những cây gỗ còn dính bùn dất nhưng trong cái ô vuông chật hẹp được lèn chặt bởi những cây gỗ tròn, to bằng cả người ôm, như thể ai đó đã cố ý dành cho y. Lại cảm thấy thoải mái, an lành. Chỗ y trú ngụ còn rộng rãi và thoáng mát hơn nhiều chỗ ẩn nấp trong chiếc xe tải chở đầy lá nón của ông Năm Lực.

Con đường sắt xuyên Việt đã có từ đầu thế kỷ XX. Đây là lần đầu tiên y đặt chân lên tàu trong vai một vị khách bất đắc dĩ. Ngày đi B, đơn vị huấn luyện của y đóng quân ở Yên Tử. Lúc xuất quân, cả tiểu đoàn tân binh được đưa lên những chiếc xe tải phủ bạt bịt bùng. Những chuyến xe bí mật chở quân vô Nam ngày nghỉ, đêm đi. Cho đến lúc đơn vị vào tới làng Ho, miền tây QB. thì leo núi. Vùng quê của y không có một ngọn đồi nào cao quá năm mét. Một vài gò đống thấp ở ngoài cánh đồng. Đáng giá nhất là những triền đê chạy dọc sông Hồng, sông Thái Bình, Trà Lý. Bờ đê là đỉnh cao của làng, nơi cất giữ những ngôi chùa, những cây đa có cả ngàn năm tuổi. Nơi đây không có một mét đường sắt chạy qua. Trong ký ức của những đứa trẻ chưa đi ra khỏi lũy tre làng, tiếng còi xe ô tô là biểu trưng cho hiện đại. Thân quen nhất vẫn là tiếng trống hội làng, tiếng trống hộ đê vào mùa lụt bão, tiếng kẻng gọi xã viên ra đồng. Ám ảnh trong giấc ngủ con trẻ là tiếng chuông chùa, tiếng chuông nhà thờ, tiếng mõ lốc cốc tụng kinh của sư bà ngân vang, thanh thoát, quyến rũ trong đêm. Nhiều cụ già chưa từng biết mùi phở, huống chi vượt sông Hồng để được nhìn thấy con tàu hỏa có chiếc đầu máy chạy hơi nước phụt khói trắng trời, thở hổn hển mỗi khi vào ga hay leo dốc. Y là người may mắn hơn vạn đứa trẻ khác là đã có lần nhìn thấy tàu hỏa chạy ngang qua thành Nam. Dạo ấy, thầy y đi bốc thuốc cho mẹ ở một tiệm thuốc bắc gần chợ Rồng. Chả mấy khi cha con ra thành phố. Y được cha cho đi theo. Y được thấy con tàu và những thanh ray sắt... Một lần khác, y theo ông anh họ đi làm trong dịp hè ở tận Chũ trên Bắc Giang, ghé qua Hà Nội được nhìn thấy chiếc tàu điện leng keng bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Y chưa bao giờ được một lần ngồi lên con tàu khách sang trọng ấy.

Hóa ra ngồi tàu hỏa có cái thú. Tàu chạy không xóc nẩy đít như đi xe của ông Năm Lực lúc có ổ gà, ổ voi. Đoàn tàu chở đầy gỗ, sắt thép, phế liệu qua các ga, ít bị chú ý. Khi tàu chạy, y không còn phải nằm bẹp như một con gián núp vào chỗ kín, không dám ho he dộng cựa. Khoang tàu chở gỗ có những cây gỗ dài cả chục thước xếp chồng lên nhau chừa ra cho y một khoảng rỗng chừng 2 mét vuông. Bên trên phủ bạt kín mít. Khoảng không gian đủ rộng để y trải bạt nằm, khi mỏi có thể ngồi dậy, ăn uống, đi vệ sinh vào cái bô. Mỗi khi đoàn tàu dừng, có khi tàu dừng cả vài ngày vì đường tắc, lúc yên tĩnh y có thể ngồi ghi chép lại những dòng này mà không sợ ai nhòm ngó. Các nhân viên nhà ga hỏa xa, lính tráng chả mấy ai lai vãng tới các toa tàu đã phủ bạt kín mít.

Sau ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tuyến đường sắt xuyên Việt chạy từ Sài Gòn ra Huế không còn an toàn, thông suốt. Gần chục năm nay những con tàu chạy trên đường sắt trở thành mục tiêu của bộ đội, du kích tấn công... nhằm vào các chuyến tàu chở lính Ngụy, chở vũ khí, đạn dược. Những trận đánh tàu hỏa xảy ra ở đèo Hải Vân, ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, miền tây Phú Yên, Đèo Cả. Quân Ngụy biết V.C ít khi nhằm đánh vào các đoàn tàu chở dân, đám lính an ninh tiết lộ đã bày trò lắp xen kẽ những toa tàu chở khách móc thêm một số toa tàu chở hàng, chở các thiết bị quân sự. Để đề phòng bom mìn của V.C, ở phía trước đầu máy xe lửa chúng thường móc thêm một, hai toa tàu không. Giả sử tàu có bị dính bom mìn chỉ lật được những toa tàu không chở người và hàng. Sợ bị V.C tấn công trên các toa tàu, cánh công chức, thương nhân, sĩ quan Ngụy cao cấp, mỗi khi có công việc tới các tỉnh thường đi máy bay. Các đơn vị lính Ngụy chuyển quân dùng xe cơ giới. Đi qua đoạn đường giáp ranh với vùng giải phóng đều có xe tăng, xe bọc thép hộ tống. Thành thử con đường sắt trở nên vắng vẻ, cô quạnh. Tàu chạy từng chặng, chỉ dám đi ban ngày. Lâu lâu mới có một chuyến tàu hàng kéo theo một vài toa chở khách. Người đi tàu đa phần là dân nghèo, đi những đoạn đường ngắn phải vượt qua vùng đồi núi hiểm trở dễ xảy ra chiến sự, có V.C chặn đường.

Lúc chia tay ông Sáu Đến ở Huế, ông không cho y biết rõ lộ trình, phương tiện đi lại qua vùng có lực lượng quân đội Sài Gòn kiểm soát. Trong người y chỉ có một bọc áo quần dân sự, giấy thông hành và tấm căn cước đã thay tên đổi họ. Ông Sáu còn đưa cho y một xấp tiền Ngụy, trị giá mười ngàn đồng. Ông bảo để phòng thân. Chỉ tới lúc sắp khởi hành cùng với chiếc xe balua chở đầy lá nón, y mới được tiếp xúc với Năm Lực. Ông ta vừa là chủ xe vừa là tài xế đưa y đi khỏi làng Dương. Vào tới chợ Hàn, trời đã tối. Y được Năm Lực bàn giao cho một người có tên là Bi. Quãng nửa đêm, Bi dắt y lên tàu cùng với một bọc cơm nếp, can nước năm lít. Y không bao giờ hiểu được mối quan hệ bí mật giữa ông Sáu Đến với Năm Lực và Bi, nhân viên đi áp tải hàng trên con tàu đã nhận lời che giấu y. Chuyến tàu chở hàng lần này chủ yếu là gỗ, sắt, thép, phế liệu. Trời chưa tối, tàu đã phải dừng lại ở một ga nào đó. Sáng hôm sau yên lành, không bị tấn công, đường sắt an toàn, con tàu mới tiếp tục chuyển bánh.

Từ Huế ra Quảng Trị, con đường sắt vẫn còn đó nhưng tàu không chạy nữa. Mỗi lần băng qua quốc lộ 1 để về vùng sâu, y và những người lính giải phóng đều gặp lại những thanh ray quen thuộc. Hai bên đường có đường sắt chạy qua cỏ mọc dày. Thanh ray lạnh buốt sương đêm. Đã lâu rồi đoạn đường này chẳng có một đoàn tàu nào dám đi qua. Từ những năm 1964, 1965, 1966 bộ đội giải phóng thuộc Công trường IV trụ bám ở vùng Phú Lộc dưới chân đèo Hải Vân đã nổi tiếng với những trận đánh chặn tàu hỏa. Y vẫn còn nhớ trong những buổi học tập chính trị, nhiều lần Trịnh Tố Tâm được nhắc tên. Anh ta là một cán bộ trung đội được tặng huân chương chiến công nhờ những trận gài mìn, tiêu diệt địch, lật tàu ở đèo Hải Vân...


Nhân vật mà cha tôi viết trong tập vở của ông, sau này tôi đã cố lần tìm đọc trong một vài cuốn sử của quân đội từng viết về những trận chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên - Huế. Sau này tôi biết, Trịnh Tố Tâm từng được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 01:59:30 pm
Cha tôi là người thích đọc báo, thích xem tivi. Vào mỗi buổi sáng ở trại Đầm Vịt, ông tìm mua cho được tờ Thanh niên, tờ Tuổi trẻ, tờ Công an thành phố. Người bán báo ở một sạp bán báo trong thị trấn biết tính cha tôi đã sắp sẵn những tờ báo quen thuộc, khi thấy ông tới là đưa ngay để mang về nhà. Cha tôi vừa ngồi nhâm nhi ly cà phê vừa đọc báo. Đã có lần tôi thấy ông gạch bút bi đỏ dưới cái tên Trịnh Tố Tâm, hình như lúc ấy ông Tâm đang giữ một chức vụ gì đó quan trọng của chính quyền.

Tôi đang ngồi giải bài toán hình học ngay cạnh nơi cha tôi đang ngồi đọc báo, thấy lạ liền hỏi.

- Có chuyện chi vậy cha?

Cha tôi rít một hơi thuốc dài rồi nói:

- À, một người quen cũ của cha thời trai trẻ.

- Ông ta là chi với cha?

- Chả là gì! Bạn bè đi lính thời trước ấy mà!

Rồi cha tôi cười nói lảng sang chuyện khác.

Bây giờ thì cha tôi không thể bày cho tôi cách giải các bài toán, lý, hóa được nữa. Càng lên cao chương trình học càng khó. Nhưng từ năm tôi học lớp 1 cho đến lớp 7, lớp 8 tôi thường nhờ mẹ và cha tôi giải hộ cho những bài toán khó. Mẹ tôi mất, việc ăn việc học của tôi trông cả vào cha tôi. Ông chăm chút cho tôi nhiều hơn. Từ năm học lớp 9 chuẩn bị thi vào phổ thông trung học, ông đã thuê thầy dạy toán, lý, hóa phụ đạo thêm cho tôi tại nhà. Chỉ lạ một điều đã bao năm bỏ bút nghiên cha tôi vẫn nhớ vanh vách các công thức của môn hình, môn đại, môn vật lý.

Có lần tôi nịnh ông:

- Sao cha nhớ tài vậy? Cha bỏ học lâu rồi mà còn nhớ hơn cả tụi con.

Cha tôi đùa lại:

- Thưa chị cả, ngày trước tôi đã từng đi thi học sinh giỏi toán toàn miền Bắc.

- Sao cha không vô đại học?

- À, thời chiến chuyện binh đao cần hơn. Thanh niên phải ra trận trước khi nghĩ tới việc học hành, con gái yêu của cha ạ!
Suốt mấy chục năm sống ở miền Nam, cha tôi vẫn giữ nguyên giọng Bắc. Thỉnh thoảng ông mới pha tạp một vài từ khi giao tiếp với người địa phương.

Ở một đoạn khác trong tập vở Cogido, cha tôi viết:

Xưởng gỗ của nhà Hai Nhất rộng rinh rang nằm ngay giữa một vườn dừa. Chỉ riêng gian nhà xưởng đặt máy cưa cũng đã rộng hàng trăm mét vuông. Hai chiếc cưa Mỹ lớn xẻ gỗ như xẻ thịt. Những tấm gỗ đã xẻ sắp lớp xếp cao lên tận mái. Đây là vùng vạn chài cách Đèo Cả không xa. Đứng từ đầy nhìn về phía Bắc, y thấy dãy núi Thạch Bi Sơn lừng lững trong mây. Hôm đoàn tàu chạy từ ga Đông Tác vào tới Hảo Sơn để vượt Đèo Cả. Giữa trưa. Trời nắng chói chang. Đoàn tàu hàng kéo còi leo dốc rồi chui vào hầm tối om. Lúc tàu lao ra ngoài cửa hầm, biển ngay trước mặt. Gió lồng lộng thổi. Con tàu như một con rắn cụt đuôi kéo còi rầm rĩ, hổn hển leo dốc, uốn lượn men theo triền núi đá. Lần đầu tiên y được nhìn thấy biển gần đến vậy. Làng Lôi của y cách biển Đồng Châu, Diêm Điền có bao xa nhưng y chưa một lần ra biển. Còn ngay trên con tàu này qua khe hở hẹp, biển ùa vào trong mắt y. Như thể, y chỉ cần với tay ra là chạm vào những đợt sóng trắng đang đập liên hồi vào những tảng đá nhấp nhô, lởm chởm đua ra biển. Ngay trên đầu, những cây lang rừng, cây muống biên xanh rì đua ra từ các khe đá, giăng mắc trên những cành cày, nở đầy hoa trắng...

Đêm qua, anh Bi mang đồ ăn ra cho y và bảo.

- Hôm nay, tàu qua Vũng Rô. Chú núp cho kỹ nghe, kẻo V.C trên núi bắn bể sọ.

Bi đi rồi, y cười và nghĩ bụng. Giá như có một viên đạn nào của V.C vô tình bắn trúng, y cũng vui lòng và chấp nhận. Từ ngày rời làng Dương, y thấy thật chơi vơi, chạnh nghĩ mình giống một anh hề mang bộ mặt giả đi trên dây thép với cây sào dài cầm trên tay để giữ thăng bằng. Chỉ cần y trượt chân, mất bình tĩnh, hoảng loạn trong tích tắc là anh hề rơi xuống đất. Ngã là chết. Viên đạn lạc của đồng đội nếu vô tình có trúng y... Cũng vậy thôi. Thằng Đệ đã chết. Con đường trở về quê hương với y đã bị cắt đứt. Trong cái thân xác gầy gò, héo mòn giấu trong bộ quần áo dân sự cũ mèm là một thằng thương phế binh giả cầy mà ông Sáu Đến đã phải dùng tiền, vàng mua cho y trong lúc chạy trốn. Chạy đi đâu, về đâu trên con tàu cũng chênh vênh, chắp vá như chính cuộc đời y. Y muốn cười to khi nghĩ tới hoàn cảnh trớ trêu của mình.

Vậy y chết có sao đâu? Chỉ thương cho thầy mẹ y không biết chính xác ngày chết của y, chết ở đâu để thắp cho y một nén nhang... Việc ấy cũng chẳng quan trọng. Thực lòng nếu y phải chết thì chỉ thương số phận đã phụ công ông Sáu, và thương cho nàng. Nàng đã vì y, yêu y mà chịu bao nỗi đắng cay, gian truân, tủi hổ.

Rút cục, cả một đoạn đường đèo tàu chạy xuyên qua hầm, qua những khúc quanh hiểm trở không có một phát súng nào cả. Ở mỗi cửa hầm, y còn nhìn thấy thấp thoáng bóng áo của những người lính an ninh thiết lộ, những người công nhân hỏa xa cầm cờ, báo hiệu bình yên.

Hầm nối hầm. Tối rồi lại sáng. Gió thổi ào ạt ngả nghiêng cây rừng. Biển lại ùa vào mắt y.

Vũng Rô! Phải rồi đây là nơi chiến địa.

Vào những năm 1965, y đã từng nghe đài Sài Gòn hết lời ca ngợi chiến công của không lực, hải quân Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa tiêu diệt một con tàu của Bắc Việt chở vũ khí tiếp vận vào Nam. Y còn nhớ rõ giọng tay phát thanh viên của đài Sài Gòn giới thiệu người Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã cho trục vớt tàu của V.C bắt được ở Vũng Rô cùng với hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược của Nga Xô và Trung Cộng đem về Sài Gòn triển lãm giới thiệu với báo giới.

Cũng trong một buổi họp quân chính toàn trung đoàn, có một anh phái viên của quân khu xuống truyền đạt nghị quyết cho KX, khi phân tích tình hình thế ta và địch trong những ngày Xuân Ất Tỵ (1965) có nhắc tới trận đánh của bộ đội quân Giải Phóng phối hợp với bộ đội du kích địa phương Phú Yên đã anh dũng bẻ gãy cuộc càn quét lớn của quân Ngụy có cả tàu chiến, không quân, bộ binh vào căn cứ Vũng Rô. Bên “ta” đã tiêu diệt một đại đội biệt kích thuộc lữ đoàn dù, thu vũ khí, bắt tù binh!

Lúc ấy y không hình dung ra được Vũng Rô là ở đâu? Chỉ nghe tin quân ta thắng trận đã là vui...

Nào ai ngờ có một ngày y được tận mắt nhìn biển trời Vũng Rô. Ngơ ngác nhìn những trái núi muôn hình vạn trạng đứng chơi vơi trên biển. Nước biển Vũng Rô xanh thẳm. Nơi ấy đã có những người đồng đội của y ngã xuống trong trận huyết chiến, tử thủ.

Biển đâu chỉ có màu xanh!


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 02:06:37 pm
17

Năm 1994. Tôi tròn 22 tuổi. Sinh viên năm thứ năm của Trường Đại học Thủy lợi 2. Tôi có cả hai tháng trời đi thực tập và tham gia vào đoàn khảo sát các công trình thủy lợi ở vùng Nam Trung Bộ.

Trưởng đoàn khảo sát và hướng dẫn đám sinh viên chúng tôi đi thực tập là thầy Năm Bê. Ngày ấy thầy mới ngoài 50 tuổi nhưng trong ngành thuỷ lợi, thầy Năm Bê được nhiều người biết tiếng và mến mộ. Quê thầy ở vùng Diễn Châu - Nghệ An. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 3, thầy ra Hà Nội học đại học. Thầy Năm Bê học giỏi có tiếng từ thời sinh viên. Sau khi tốt nghiệp đại học, thầy được giữ lại làm cán bộ giảng dạy của nhà trường. Giải phóng miền Nam chưa lâu, thầy tình nguyện về công tác và giảng dạy ở miền Nam.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, đất nước thống nhất nhưng đây cũng là thời kỳ Tổ quốc đang đứng trước những thử thách lớn lao. Cả nước sống trong chế độ bao cấp. Đời sống nhân dân khó khăn.

Súng lại nổ ở biên giới Tây Nam và chỉ ít năm sau, cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc; ở Tây Nguyên, Phun-rô mọc lên như nấm độc sau mưa. Những phần tử phản động và cả những người còn mặc cảm với xã hội mới tung tin thất thiệt, gieo rắc hoang mang, bôi xấu chế độ. Một loạt chính sách của nhà nước được ban hành, lấy mô hình từ những năm sáu mươi ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn. Nông dân góp ruộng vào hợp tác xã. Trong các đô thị thành phố, các thành phần thương nhân, tiểu thương bước vào cuộc cách mạng cải tạo “tư bản, tư doanh”. Nhà nhà, người người giương cao ngọn cờ “làm chủ tập thể”. Người dân miền Nam trong các vùng đô thị quen dần với tem phiếu, đi xếp hàng mua gạo, thực phẩm từ ba giờ sáng... Một số phần tử bất mãn với chế độ, thấy cuộc sống ngày một khó khăn, họ không tuyên bố, không công khai, những gia đình ấy còn giấu được chút tiền bạc lặng lẽ rủ nhau vượt biên. Một số cán bộ, công an thoái hóa, biến chất phụ trách địa bàn ở các xã ven biển miền Trung bí mật “bán bãi” cho các chủ ghe, thuyền... Vào những đêm tối trời, ngày nào cũng có những con thuyền đánh cá của ngư dân các làng chài lặng lẽ ra khơi đưa người đi vượt biên tỵ nạn sang Hồng Công, Philippin, Thái Lan... và xa hơn là Hoa Kỳ, Anh quốc, phương Tây. Họ không cần biết sống ở đâu, hiểm nguy sóng gió ngoài khơi xa đang rình rập cướp đi sinh mạng, những kẻ thất vọng đến tột cùng liều mình ra khơi, bất kể sống, chết.

Sáng nào trong khuôn viên trường học của các phường trong thành phố Nha Trang, thị xã Tuy Hòa, Vạn Ninh, Sông Cầu, Tuy An... một vài con thuyền ra đi trong đêm không gặp may hoặc gặp gió bão bị kéo vào bờ. Những kẻ vượt biên không trót lọt phải quay trở về dưới sự giám sát của công an, dân phòng... Nhiều người đã chết vì gặp gió bão ngoài khơi. Người bị bắt. Tàu bị tịch thu. Kẻ đứng người ngồi lê la trên các sân trường học để khai báo cho nhà chức trách sở tại. Có người vượt biên ba, bốn lần bị chính quyền bắt. Bắt chán rồi lại thả. Một thời gian, họ lại góp vàng, mua thuyền tìm cách vượt biên.

Chuyện ra đi bất hợp pháp bằng đường biển của dân nơi này, nơi kia xảy ra như cơm bữa. Thời buổi gạo châu củi quế chả đủ cơm gạo để nuôi báo cô những kẻ “chán nước, bỏ đi”. Người dân quan tâm nhiều hơn tới chuyện lính của Pôn Pốt đang đốt phá làng mạc, chùa chiền, hãm hiếp dân lành, phá tan nhà cửa, cướp lúa gạo của dân ở An Giang, Châu Đốc, Xa Mát. Ở phía Bắc, lính Trung Quốc đang tràn ngập vùng biên ải.

Một số thanh niên bất kể tuổi mười tám, đôi mươi, là người dân quê ở Nam hay Bắc lại có lệnh nhập ngũ lên đường. Những người lính già mới về quê giải ngũ, phục viên một hai năm, giờ có lệnh gọi trở lại quân ngũ. Họ tần ngần ngắm con búp bê, cái khung xe đạp, chiếc radio, mảnh vải mới chỉ vài năm trước chọn mua ở chợ Bến Thành, Chợ Đầm, Chợ Cồn, chợ Đông Ba để đem về làm quà cho con, cho vợ. Không ai nghĩ đến một ngày họ khoác lại bộ quân phục chưa gột hết bụi đỏ Trường Sơn để ngược đường lên ải Bắc, vào biên giới Tây Nam. Và xa hơn là sang đất Chùa Tháp.

Còn cuộc sống của người nông dân ở các làng quê miền Nam sau chiến tranh cơ khổ trăm đường. Bao năm giặc dã, đồng ruộng bị bỏ hoang, các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp gần như không có. Dải đất từ Huế trở vào, mùa mưa, mưa thối đất, trắng trời; mùa khô luôn thiếu nước. Khô hạn nhất là vùng núi, vùng đồi trọc, vùng cát, nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống. Đứng trước khó khăn, để giải quyết nguồn nước cho miền Trung, một loạt công trình thủy lợi ra đời. Hồ Núi Một, hồ Cà Giây, hồ Song sắt, hồ Tuyền Lâm, hồ Long Sơn, hồ Quang Trung... Những công trình thủy lợi ấy đều gắn với tên tuổi, công sức của đội ngũ những người kỹ sư thủy lợi Việt Nam, trong đó có thầy Năm Bê. Nhiều người là bạn đồng niên, có người là học trò của thầy.

Thầy Năm Bê quen biết với cha tôi trong những ngày thầy lên khảo sát, thiết kế hồ Tuyền Lâm. Tôi không rõ thầy Năm Bê đã giúp và khuyên nhủ cha tôi những gì trong thời gian hai người kết bạn với nhau. Có hai việc tôi được tận mắt chứng kiến. Việc thứ nhất là, thầy Năm Bê đã giúp cha tôi đào kênh, bắc ống nước từ trong Núi Chúa về trại Đầm Vịt. Nguồn nước sạch đủ cung cấp cho hàng trăm hộ dân ba xã quanh vùng đầm. Việc thứ hai là, theo lời khuyên của thầy Năm Bê, tôi đang học ở Sài Gòn đã xin chuyển về Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu Đại học Thủy Lợi 2.

Thực ra việc tôi chuyển trường còn có lý do riêng. Những cuộc tình không thành thời sinh viên. Và sau chuyện buồn với Khang khi anh nhập ngũ, không liên lạc thư từ với tôi một thời gian dài. Tôi càng suy sụp hơn cho đến ngày tôi tìm thấy mộ anh tại một nghĩa trang ở Tây Nguyên. Tôi rơi vào khủng hoảng, bế tắc. Tôi muốn rời Sài Gòn để xóa đi những kỷ niệm buồn. Nghe cha tôi và thầy Năm Bê gợi ý về học tại trường của thầy, tôi đồng ý ngay.

Tôi tự biện hộ cho mình đã là đại học, học đâu chả được, chỉ cần trường có thầy giỏi, bản thân mình chăm chỉ không ham vui là có đủ kiến thức ra đời. Thầy Năm Bê cũng bảo tôi vậy. Còn một lí lẽ nữa thuyết phục tôi. Phan Rang - Đà Lạt chỉ cách trở con đèo Sông Pha. Hơn hai giờ xe hơi tôi đã có mặt ở nhà ăn cơm với cha, được ngủ thỏa sức trên cái giường quen thuộc của mình. Được thả bộ trong không gian rộng rãi thoáng mát của trại Đầm Vịt. Được theo cha tôi ra vườn hoa... Hoặc nữa, mang theo cây súng săn cùng ông vào rừng săn thú. Tôi ngó bộ vậy chứ còn là tay súng săn có hạng. Con gái mắt tinh đã đành. Sống với cha tôi nhiều năm nên tôi học được ở ông sự bình tĩnh, tỉnh táo. Có lần cha con tôi bắn được cả sáu, bảy con vẹt núi. Chúng thường về đậu cả đàn trên cành cây thông ăn hạt. Tôi tì súng vào một thân cây, tỉa từng con. Cha con tôi có một cây súng cạc-bin cũ mua lại của đồng bào lượm được ở trong rừng. Đồng bào vô rừng có khi còn lượm được súng AR15, phóng lựu. Đám Phun-rô quậy phá trong núi, nhà tôi ở ven rừng, có khẩu súng lợi hại lắm.

Bầy duộc (vượn) đi ăn trong rừng theo đàn, bao giờ cũng có một anh vượn đực canh chừng cho cả đàn... Duộc mẹ, duộc con bám theo sau, ngồi lắt lẻo trên cành cây cao nghe động tĩnh. Mùa bẻ bắp, không có người canh rẫy, gặp phải đàn duộc đói, mùa ấy coi như mất trắng. Bầy duộc đã bẻ trộm bắp ăn, chúng còn mang về hang giấu ăn dần. Ngày cha con tôi mới về Đầm Vịt, duộc rất nhiều. Muốn bắn duộc núp trên cây chỉ cần ngắm cho trúng, hạ một con rơi xuống. Bầy duộc nghe súng nổ, chạy ào ào trên cây. Khi ấy, bắn một phát chỉ thiên, đám duộc hoảng loạn tìm bụi cây cao lẩn trốn. Có con kéo lá che thân, che mặt, nhưng chúng chẳng thể nào giấu được cái đuôi dài ngoe nguẩy. Muốn hạ tiếp con thứ hai chỉ cần bắn cho trúng đích. Một con duộc nấu cháo cả chục người ăn không hết. Váng mỡ nổi vàng trên xoong cháo.

Nhưng một lần gặp chuyện này, tôi không bao giờ đi săn duộc nữa. Lần ấy, tôi hạ được một con duộc mẹ còn đang cho con bú. Duộc mẹ bị gãy chân, không chạy được, rơi xuống đất. Con duộc con nhỏ như một con mèo gầy cứ đeo lấy mẹ... Con duộc đực đứng ở một cây cao rít lên khèng khẹc. Hẳn nó sợ không dám xuống cứu bạn tình. Lúc tôi bước tới gốc cây nhìn con duộc mẹ ôm con, thấy một bên chân trúng đạn, máu chảy ròng ròng... Tôi và cha tôi đã bế hai mẹ con duộc về trại Đầm Vịt, bó thuốc lá bìm bịp, nấu cháo cho chúng ăn. Hơn mười ngày sau, vết thương ở bàn chân con duộc mẹ tạm lành. Chiều nào cũng thấy con duộc đực về trên cánh rừng bạch đàn, rừng thông phía sau nhà hú dài... Tôi đã thả hai mẹ con duộc vào rừng.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 12 Tháng Tư, 2019, 02:08:31 pm
Những năm tôi theo học đại học, thầy Năm Bê đã vẽ ra cho tôi nhiều khoảng trời đáng mơ ước. Sau khi tôi tốt nghiệp, thầy Năm Bê muốn giữ tôi ở lại trường học thêm bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Tương lai tôi sẽ là một cán bộ giảng dạy của trường. Còn tôi không nghĩ vậy. Tôi không muốn bó mình trong cơ quan nhà nước. Kể cả làm việc cho các công ty nước ngoài tôi cũng không muốn. Sớm hay muộn tôi sẽ về với cha tôi. Về với trại Đầm Vịt. Mẹ tôi đã mất, tôi càng ý thức rõ hơn mục tiêu ngấm ngầm của mình. Tôi đã nhìn thấy cuộc sống của một số công chức thời bao cấp và cả thời mở cửa. Tôi không muốn tự trói mình trong những ràng buộc quẩn quanh. Tôi khao khát được bay nhảy tự do. Được làm những việc mình thích, tiêu những đồng tiền do mình làm ra. Và trên hết, tôi được hít thở khí trời trong trẻo của đất rừng. Tôi yêu từng hẻm núi, con suối, triền đồi ở trại Đầm Vịt đã trở thành nỗi ám ảnh từ những năm thơ trẻ của tôi.

Dù sao đi nữa, trong con mắt tôi và đám sinh viên của trường đại học Thủy Lợi, chúng tôi luôn coi thầy Năm Bê là thần tượng. Thầy chẳng còn trẻ để lấy cái thước đo đẹp trai, hào hoa phong nhã, tài giỏi để so sánh. Thầy Năm Bê đúng nghĩa là một ông thầy. Tôi ít thấy có một người thầy nào thương yêu học trò đến vậy. Không chỉ chuyện chuyên môn. Thầy chỉ vẽ tận tình cho chúng tôi những điều trong sách vở, bài giảng và cả trong cuộc sống. Đến bữa cơm thầy xuống tận bếp tập thể coi ngó từng xuất ăn của sinh viên. Mười giờ đêm thầy còn đi với anh cán sự lớp kiểm tra đám sinh viên học hành. Trong mối quan hệ gia đình, thầy Năm Bê coi tôi như con cháu trong nhà.

Chính nhờ chuyến đi thực tập khảo sát miền Trung năm ấy tôi đã đến được Vũng Rô. Một vùng biển đẹp, nước sâu trong vắt ngay dưới chân đèo Cả. Dãy Thạch Bi Sơn hùng vĩ chạy từ Tây Nguyên về tới đây lao ra biển, ôm vòng hình cánh cung, tạo nên vụng nước rộng, sâu, có hàng trăm mỏm núi, ghềnh đá hiểm trở che chắn gió bão Thái Bình Dương. Ở đây có vọng Hải Đài, có ngọn đèn biển nằm trên một mỏm núi, điểm cực đông của Tổ quốc.

Người dẫn đường còn đưa thầy trò chúng tôi xuống thăm cảng cá Vũng Rô. Dấu tích cuộc tập kích của không quân, hải quân Mỹ - Ngụy vào năm 1965 ngày nay chỉ còn một phần vỏ sắt của con tàu “không số” được người địa phương giữ lại để làm bảo tàng ngoài trời giới thiệu với khách du lịch về chiến công của những anh bộ đội hải quân nhân dân Việt Nam, tiếp vận vũ khí vào chiến trường khu Nam Trung Bộ.

Trong các tư liệu tôi thu thập được có tư liệu về con tàu “không số” mang kí hiệu 143. Vào những ngày xuân năm Ất Tỵ, bị địch phát hiện, những người lính hải quân Việt Nam cùng với du kích xã Hòa Hiệp đã buộc phải phá hủy con tàu bằng 500 kg thuốc nổ. Tàu cập cảng trong đêm, bộ đội dân công đã không kịp chuyển hết một trăm tấn vũ khí vào rừng. Trời đã sáng, con tàu “không số” đành phải giấu mình trong vịnh Vũng Rô. Viên trung úy phi công Mỹ James S. Bowers lái chiếc máy bay trực thăng HU 1B trên đường từ Quy Nhơn về sân bay Nha Trang đã phát hiện ra con tàu lạ đã báo ngay cho thiếu tá hải quân Mỹ Harver P. Rodgers, cố vấn cao cấp của Bộ Tư lệnh Vùng 2 chiến thuật ở Nha Trang. Viên thiếu tá Hồ Văn Thoại, tư lệnh duyên hải Vùng 2 Nam Trung Bộ đã điều máy bay của không lực Việt Nam Cộng hoà ra thám sát Vũng Rô. Nhận ra tầu của V.C, chỉ vài chục phút sau, hàng chục máy bay trực thăng chiến đấu đã quần đảo các cánh rừng dưới chân Đèo Cả bắn rốc két, đạn 40 li, bom xăng... vào con tàu đang ẩn mình giữa những ghềnh đá... Đại đội thám báo đồn trú trên đỉnh đèo Cả chia thành nhiều mũi tấn công vào các gộp đá, nơi có hàng trăm dân công, du kích đang nghỉ qua đêm. Thêm hai cánh quân từ Hảo Sơn, từ sân bay Đông Tác chi viện chặn đường V.C rút về căn cứ...

Hơn 10 năm sau, tôi đã được đọc điều này trong các tập tư liệu của người Mỹ về trận Vũng Rô. Chú Hoài, một người bạn thân thiết của gia đình tôi, nay đã là một nhà văn, nhà báo khi xưa là lính cùng Đại đội 3 với cha tôi ở Huế. Lúc cha tôi còn sống, hai người đã nhiều lần gặp nhau ở Đà Lạt. Lần nào lên Tây Nguyên, ghé Lâm Đồng chú cũng về thăm trại Đầm Vịt ở lại với cha tôi có khi cả tuần. Cha tôi quý chú Hoài không chỉ là một người cùng quê, cùng đơn vị. Còn đối với tôi, chú Hoài là một người bạn lớn. Nghe tôi kể lại chuyến thăm Vũng Rô, nhìn thấy con tàu “Không số”, một lần lên chơi, chú Hoài đã đưa cho tôi đọc tập hồi ký của ông Trần Suyền, một Khu ủy viên Khu ủy Khu 5, nguyên Bí thư tỉnh ủy Phú Yên trong những năm chống Mỹ.

Hôm đưa cuốn sách cho tôi, chú bảo:

- Cháu đọc cuốn sách này có đoạn nói rõ về sự kiện Vũng Rô - Rồi chú hỏi tôi - Tại sao cháu lại quan tâm tới địa danh ấy?

Tôi thật thà đáp:

- Cháu đọc những trang ghi chép của cha cháu để lại, cháu biết đấy là nơi cha cháu đã đi qua.

Chú Hoài cười bảo tôi:

- Cháu hay thiệt! Cháu muốn hiểu về cha cháu, còn phải đọc nhiều... Đọc nhiều cuốn sách nữa mới đi hết dấu chân ông. Ông là một người lính kỳ dị nhất trong đời chú từng gặp và nể trọng.

Bất chợt chú Hoài hỏi tôi:

- Cháu có muốn nghe chuyện đơn vị chú làm lễ truy điệu cho đại đội phó Đệ không?

Tôi đáp ngờ nghệch:

- Đại đội phó Đệ là ai?

Chú Hoài phì cười:

- Là ba cháu đó! Ba cháu tên Đệ, Nguyễn Văn Đệ.

Bao năm nay, tôi chỉ quen gọi tiếng cha thân thuộc. Giá ai có hỏi, tôi cũng chỉ nhớ tên ổng là Hai Hoàng, Mai Văn Hoàng... Nhà tôi, ấp Đầm Vịt...

Chú Hoài lại đang mở ra trước mắt tôi một trang mới.

Chuyện chi đây?

Hôm ấy, chú Hoài kể cho tôi nghe sau trận đánh về ấp Xóm mới Bầu Tháp của đơn vị chú. Đại đội 3 hi sinh mất tám người, trong đó có cha tôi. Hôm đơn vị làm lễ truy điệu, theo xác nhận của những người tham gia trận đánh vào ấp, chỉ thu gom được năm xác tử sĩ. Ba người lính không tìm thấy xác. Cha tôi là một trong số đó. Ở một địa điểm tại căn cứ trong rừng Hương Trà, chính trị phó tiểu đoàn Hoàng Ngọc Ngạn vừa đọc tên từng liệt sĩ, vừa khóc. Những người như đại đội phó Đệ đã từng theo ông có mặt ở chiến trường Trị Thiên từ những năm 1963. Họ đi qua hàng trăm trận đánh lớn nhỏ... Căng sức phá vây ở làng Dưỡng Mông A, vượt Phá Tam Giang trong những ngày bị địch vây ép sau Mậu Thân 1968... Những người lính KX cứ rơi rụng dần theo từng trận đánh.

Rồi chú Hoài kể tiếp, ngày chú được kết nạp vào Đảng, cha tôi lúc ấy là chỉ huy đơn vị kiêm Bí thư Chi bộ. Ông là người đọc quyết định kết nạp Đảng cho bốn người trong Đại đội 3. Một buổi lễ kết nạp Đảng chỉ có mỗi lá cờ nửa đỏ, nửa xanh, không ảnh Bác Hồ, không hát quốc ca. Mười bốn gương mặt đảng viên trong chi bộ, già trẻ ngồi sát bên nhau trong căn nhà hầm nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất dưới chần đồi Chóp Nón giơ lên những cánh tay gày guộc, đen đúa sau những cơn sốt rét, thiếu ăn. Vừa làm lễ, mọi người dỏng tai nghe ngóng đề phòng pháo bắn. Cha tôi phát biểu nhỏ đủ để mọi người có mặt trong buổi lễ kết nạp nghe, sợ tụi địch trên đỉnh đồi Trôi phát hiện. Buổi tối hôm ấy Đại đội 3 đi về ấp Phú Ổ mua gạo... Chưa vào được làng, cả đại đội đã gặp tụi bảo an. Đơn vị nổ súng, hai trong số bốn đảng viên trẻ đã hi sinh. Họ chưa một lần được nhìn thấy tấm thẻ Đảng và cả lá cờ Đảng.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 10:42:29 am
18

Thời sinh viên tôi đã từng có một vài mối tình nhưng đều không thành. Khi nhận ra tình yêu đổ vỡ không thể tránh khỏi, bao giờ tôi cũng là người chủ động chìa ra cho đối phương con “phăng teo” giữa “ván bài lật ngửa”.

Duy nhất chỉ có tình yêu của tôi đối với Khang giữ được lâu hơn, nhưng cũng chỉ kéo dài được gần hai năm. Cho đến ngày anh không còn nữa, thời gian cũng dần giúp tôi nguôi quên. Từ ngày ấy tôi ngại tiếp xúc với những anh chàng quen biết nhưng sớm lộ rõ ý định tán tình tôi. Trong nhiều năm, tôi thường xuyên giữ mối quan hệ với ba người đàn ông.

Người thứ nhất là cha tôi. Dĩ nhiên rồi! Tôi với cha không chỉ là tình cha con, tình mẹ con, trong quan hệ với ông còn mang cả tình bầu bạn. Khi buồn chán, khi thất vọng, lúc hết tiền tiêu, khi cần một thời gian để giải tỏa sau những ngày học căng thẳng, tôi lập tức nhảy xe đò về trại Đầm Vịt. Chỉ cần nhìn thấy chóp mái nhà và ống khói tỏa ra mù mịt, tôi đã thấy ấm lòng. Tôi hệt như con chim về núi, trú ngụ trong vòng tay của ông là cảm thấy cuộc sống thật an toàn.

Người đàn ông thứ hai là thầy Năm Bê. Thầy dạy tôi học, còn là chỗ dựa tinh thần cho tôi trong cuộc sống. Tôi có thể hỏi thầy Năm Bê đủ chuyện, về Phan Rang, thầy hướng dẫn tôi theo ngành thủy nông. Suốt 3 năm học thầy Năm Bê luôn theo sát sự học hành của tôi.
Tôi vốn là một đứa sinh viên nhanh nhẹn, năng động. Chuyện học hành, công tác tôi không chịu kém cạnh ai. Những vấn đề trong học tập tôi không biết, chưa hiểu bài, tôi tìm thầy hỏi cho ra nhẽ. Trong sinh hoạt tập thể, tôi cũng là đứa năng nổ, xông xáo. Vào giữa năm học thứ 3, chức danh lớp phó học tập bị khuyết một chân, các bạn trong lớp thấy tôi học chăm chỉ, điểm thi các phân môn luôn đạt loại khá và giỏi, trong một cuộc họp lớp, các bạn nhất trí bầu tôi làm lớp phó, phụ trách học tập kiêm Bí thư Chi đoàn. Được một thời gian, tôi bày trò cho cả lớp làm tập san khoa học - xã hội. Một cuốn tập san tạp pí lù. Bài vở chủ yếu là các bài báo ngắn, gắn với chuyên môn ngành học. Tập san còn có nhiều chuyên mục như tiểu phẩm, thơ, tranh biếm họa, câu đố...

Tập san của khoa Thủy nông ra đến số thứ ba được mọi người chú ý. Bí thư đoàn trường và thầy trưởng phòng chính trị biểu dương. Thầy Năm Bê là một cộng tác viên hăng hái gửi bài cho tập san. Ngoài một số bài gắn với chuyên môn, thầy còn dịch tư liệu của nước ngoài để giới thiệu cho sinh viên. Mảng bài nữa mà thầy Năm Bê rất thích khi gửi cho chúng tôi là những bài thơ. Có lần thầy gửi cho tập san liền một lúc năm bài thơ. Ba bài thầy viết về Bác Hồ, một bài thầy viết về quê hương Xứ Nghệ, còn một bài thơ nữa có những từ anh, em... Tôi hiểu đây là một bài thơ về tình yêu nam nữ. Đám sinh viên đều đồn đoán hẳn người phụ nữ trong bài thơ thầy viết dành tặng cho cô Lan, vợ thầy. Đám sinh viên ngành Thủy nông hầu hết không rành về thơ phú. Đọc những bài thơ của thầy Năm Bê, tụi tôi dễ nhận ra những câu thơ chân thật, nhiệt thành.

Còn chuyện này nữa. Có một lần lớp trưởng lớp tôi vốn là bộ đội chuyển ngành đi học, là đảng viên. Anh lớp trưởng thấy tôi nhiệt tình, tích cực trong mọi công việc, muốn tạo điều kiện giúp đỡ tôi vào diện cảm tình Đảng... Khi nghe lớp trưởng trao đổi với tôi chuyện này, tôi thoáng giật mình, lưỡng lự.

Một tối thứ Bẩy tôi sang nhà thầy Năm Bê, mang theo tờ tập san số 4 của khoa mới ra lò. Dạo ấy trường tôi đã có máy vi tính, máy photo copy của Mỹ, của Nhật. Các loại máy này dạng second-hand, máy cũ người ta đã bỏ đi. Thủy thủ tàu viễn dương ở cảng Nha Trang sau mỗi chuyến đi biển thường mua về nhiều loại máy móc cũ, xe cũ dưới dạng hàng phế thải, bán cho người sử dụng. Gọi là máy cũ nhưng dùng còn tốt chán. Các thầy giáo ở trường tôi lấy tiền từ quỹ phúc lợi mua về cho sinh viên sử dụng.

Thầy Năm Bê cầm tờ Tập san Thủy nông được in trên tờ giấy khổ A4 có bìa vẽ minh họa được học trò in trang trọng bằng máy vi tính. Thầy vui lắm!

Thầy đọc sang sảng.

“Sau bao năm theo nghề dạy học/Chỉ ước mơ làm đẹp cho đời/Anh dạy nghề, dạy chữ, dạy người/Em bước vào lộ trình cuộc sống/Hành trang trong em là trí tuệ/Là ước mơ, hoài bão, niềm tin/Là tình yêu đất nước, mẹ hiền/Tổ quốc chắp cho em đôi cánh”.

Thầy Năm Bê hơi nhíu lông mày khi nhìn thấy từ “mẹ” trong bài thơ không được viết hoa. Thầy bảo tôi:

- Mẹ đây là Mẹ Tổ quốc, Mẹ Việt Nam... Tụi bay à.

Nhìn vẻ mặt tôi có vẻ e sợ, lo bị mắng, thầy Năm Bê an ủi:

- Thôi, cũng không sao! Các em in được như thế này là quý rồi.

Khi thầy Năm Bê đã dứt mạch say thơ, tôi mới nhỏ nhẹ hỏi thầy:

- Thầy ơi! Anh Quả lớp trưởng nhủ con phấn đấu làm “đối tượng”, thầy nghĩ sao? Con nên trả lời ảnh như thế nào?

Thầy Năm Bê nghe tôi nói, cất tiếng cười ha hả. Ấy là lúc thầy vui vẻ, sảng khoái. Thầy bảo tôi:

- Con à! Đối tượng, hay kể cả khi con phấn đấu trở thành đảng viên, được hay không, không quan trọng. Điều cốt yếu trong cuộc sống là làm người tốt. Đã là người tốt, ta là ai, ta làm gì... đều được mọi người yêu mến.

Đang lúc vui vẻ, thầy Năm Bê kể cho tôi nghe những câu chuyện bên lề. Những năm trước đây, khi nhà trường còn đang gặp khó khăn, biết thầy đã có nhiều công sức xây dựng nhà trường từ trong trứng nước, có người đã khuyên thầy xin với Bộ cho trở lại Hà Nội, về trường cũ làm hiệu phó, hiệu trưởng... Có người còn khuyên thầy nên gặp người này, vỗ vai người kia, những vị đang giữ quyền chức có người là học trò, có người là bạn của thầy để được cất nhắc lên làm cục phó, cục trưởng, thậm chí viện trưởng... Nghe những lời khuyên ấy, thầy Năm Bê chỉ cười và không nói gì. Thầy Năm Bê còn kể, đã nhiều lần thầy ngồi ăn cơm, nói chuyện với các vị thứ trưởng, bộ trưởng. Ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm Viện, thầy có vinh dự đưa ông đi thăm Thuận Hải. Thầy Năm Bê và những người cộng sự của thầy, là kỹ sư ngành thủy lợi đã gắn bó với nhiều vùng quê, thiết kế, thi công nhiều công trình đào kênh, khai mương, xây đập thủy lợi đưa nước ngọt về đồng ruộng.

Ở đời, bên cạnh người tốt, người tử tế, người chăm chỉ làm việc cũng có những kẻ xấu chơi, ghen ăn tức ở. Thầy kể, đã có những kẻ viết đơn thư nặc danh “tố” thầy: “Sao Năm Bê giàu thế?”, “Chỉ tham ô, tham nhũng, móc ngoặc với lãnh đạo mới giàu, lương giáo viên ba cọc ba đồng...”. Những đơn thư nặc danh ấy rồi cũng lên tới Bộ. Các đoàn thanh tra lần lượt về trường. Thư lên tới tận tay thủ trưởng của Bộ. Ông nghe nhắc đến tên Năm Bê, liền bảo với anh thư ký văn phòng:

- Kiện Năm Bê hả? Dẹp đi! Tôi đã đọc báo cáo thanh tra của Bộ Nội vụ, thanh tra Bộ trả lời Năm Bê không có tội tình gì cả! Công sức của Năm Bê và những kỹ sư ngành thủy lợi, người dân Kiên Giang, Đồng Tháp còn phải cảm ơn. “Chúng nó” là nhà chuyên môn, là người đi quy hoạch, làm đề án trình Chính phủ và Bộ để ngày nay chúng ta có kênh Tân Sinh Công, kênh Hồng Ngự! Mấy năm nay Đồng bằng sông Cửu Long thoát lũ một phần là nhờ những con kênh ấy.

Vị thủ trưởng nói thêm:

- Đây là một “cái đầu” đổi mới! Tôi thích “cái đầu” của cha này...

Trong trường đại học của tôi, mô hình nhất thể hóa giữa giáo dục, đào tạo với khoa học và sản xuất đã trở thành một quy trình nhất quán trong việc dạy và học. Thầy Năm Bê bảo, “Học phải đi đôi với hành. Sinh viên ra trường không biết vật nuôi, cây trồng, không rành về nước, thì vứt!”.

Thầy Năm Bê có giọng nói sang sảng, khi vui cười hết cỡ. Cái khu đất của nhà thầy ở xế trường xưa kia vốn là cồn cát. Chỉ ít năm thầy trồng cây, đưa nước về, cây cối đã mọc xanh. Thầy có tiền bán đất, bán nhà ngoài Hà Nội, tiền thanh toán sau mỗi công trình, thầy Năm Bê tích cóp xây nhà. Chỗ thì thầy xây nhà 3, 4 tầng, chỗ khác thầy xây nhà biệt thự. Nơi thầy đào ao, thả cá, trồng cây. Chỗ làm sân bóng. Mỗi công trình nhà ở đều do thầy Năm Bê tự thiết kế, tính toán gạch, xi măng, sắt thép rồi gọi thợ Đà Nẵng, Nghệ An vô làm. Gian phòng đọc sách của thầy có tới cả vài ngàn cuốn. Sinh viên nào cần đọc sách, cứ sang nhà thầy Năm Bê. Sách đọc ở đây không mất tiền, lại có khoảng không gian thoáng mát dưới rặng dừa, dưới các gốc cây xoài, xà cừ, vừa coi sách, vừa nghe bầy chim yến kêu chao chát trên bầu trời vùng duyên hải đầy nắng gió.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 10:48:46 am
Người đàn ông thứ ba tôi nhắc tới ở đây là chú Hoài. Gọi bằng chú vì chú Hoài hơn tôi tới 15 tuổi. Chú nhỏ hơn cha tôi 6 tuổi, ít hơn mẹ tôi 2 tuổi.

Theo như lời cha tôi, chú Hoài vào chiến trường Trị Thiên sau cha tôi vừa đúng 5 năm. Đơn vị tân binh của chú Hoài được bổ sung cho Công trường V vào những ngày sau Tết Mậu Thân 1968. Khi ấy cha tôi đã là một cán bộ đại đội. Chú Hoài mới 17 tuổi, nhỏ người, trắng trẻo, có dáng thư sinh, nhanh nhẹn nên được ban chỉ huy đại đội lựa chọn làm liên lạc viên. Sau gần 20 năm phiêu bạt suốt từ Nam chí Bắc, chú Hoài mới tìm gặp lại được cha tôi trên vùng đất cao nguyên trù phú.

Tôi có cảm giác rằng, mỗi lần chú Hoài gặp cha tôi ở trại Đầm Vịt, câu chuyện giữa hai người đàn ông tưởng như kéo dài không bao giờ dứt. Buổi sáng sớm tôi lên phòng, đã thấy hai người ngồi uống trà hoặc cà phê bên chiếc bàn đá đặt trong gian nhà bát giác phía ngoài vườn. Tiếng chim họa mi, tiếng chích chòe hót vang lừng trong buổi sáng đẹp trời. Tôi ý tứ đưa bình hoa hồng vào đặt trên bàn đá. Hai người nhìn tôi nhưng không để ý. Trong mắt họ, tôi chỉ là đứa con nít ham đọc sách, ham vui... Thậm chí họ quên rằng tôi đã tốt nghiệp đại học từ lâu. Cũng không cần nhớ tôi đã giúp cho cha tôi điều hành công việc của trang trại, giao dịch với bạn hàng nhiều năm nay. Ở ngôi nhà này, tôi là chỉ huy trưởng, lo chuyện cơm áo gạo tiền, điều hành những người làm công...

Thực lòng trong ý nghĩ của tôi, trước mặt chú Hoài, tôi chỉ muốn là đứa bé con, nhỏ dại. So với cuộc đời từng trải của chú và cha tôi, tôi chẳng thấm vào đâu. Tôi lớn lên được thừa hưởng mọi thứ. Dù tôi bây giờ có là đầu máy của đoàn tàu hỏa cũng chỉ là cái đầu máy đã đổ đủ đầy xăng nhớt, kéo một đoàn tàu đã lắp sẵn toa. Tôi chỉ việc mở máy, kéo còi và chạy.

Tôi kính trọng tình bạn giữa chú Hoài và cha tôi. Có lần chú Hoài lấy đâu được mấy bài thơ của một tác giả quê xứ Bắc mang vô trại Đầm Vịt đọc chơi. Cha tôi nhâm nhi tách cà phê, nghe chú Hoài cất cao giọng trầm ấm. Những câu thơ đại loại như: “Có đâu răng khểnh mà xinh thế/Lúm má đồng tiền xoáy nước reo/Hội hè gấm vóc bên là lụa/Chẳng chạnh diềm bâu túi áo nghèo”.

Tôi tò mò vểnh tai nghe, chẳng hiểu “diềm bâu” là cái chi? Mẹ tôi răng khểnh thì rõ rồi. Hàm răng của bà trắng đều, đẹp, có răng khểnh. Khi chú Hoài đọc đến câu thơ này, tôi thấy cha tôi thẫn thờ gương mặt.

“Cả đến bếp bây giờ cũng mấy khi có lửa/Lửa cơm điện này ta hua tay vào đâu/ Không có khói tìm đâu ra dáng mẹ/Chẳng lậm lụi gió bấc mưa phùn lại nhớ ông đầu rau/Ơ hay cái ông đầu rau sao chỉ thấy lưng còng/Đội mãi nồi niêu nhọ nhem chừng xém mặt/Cuối năm nào mẹ tôi cũng một lần nặn đất/ Cho ba ông về già tắm hụp ao chuôm”.

Nghe đến đây tôi không kìm được bật hỏi:

- Chú Hoài! “Đầu rau” là cái chi?

Chú Hoài gỡ cặp kính ra nhìn tôi cười. Còn cha tôi gục mặt xuống bàn khóc rưng rức.

Chú Hoài xóa tan niềm xúc động đang dâng trào trong ông, trả lời tôi:

- Bình tĩnh đi anh Đệ ơi! Con Bông đang nhìn anh cười kìa...! - Rồi chú Hoài bảo tôi - Ba ông đầu rau ở vùng nông thôn quê chú thay cho cái kiềng sắt ba chân dùng để kê xoong nồi mỗi khi đun bếp bằng rơm rạ cháu à.

Cha tôi đã dịu cơn xúc động, không nhìn tôi mà nhìn chú Hoài:

- Chú đọc thơ làm tôi nhớ thầy, nhớ mẹ tôi quá. Mẹ tôi may còn tìm được vào đến đây gặp tôi, sống được với tôi, với cháu Bông được ít năm... Còn thầy tôi, ông chết tôi không được nhìn thấy mặt.

Cha tôi và chú Hoài ngồi lặng một hồi lâu.

Tôi lặng lẽ rút lui để hai người ngồi với nhau.

Đứng từ căn phòng tầng hai nơi tôi ở, nhìn qua cánh cửa sổ khép hờ, tôi có thể lặng lẽ quan sát chú Hoài. Chuyện vợ chồng chú cũng là một bi kịch kéo dài nhiều năm. Tôi chưa từng gặp mặt cô Yến, vợ chú. Chỉ nghe cha tôi nói rằng cô Yến đẹp, đẹp lắm. Cô là gái Hà Nội, ăn nói nhẹ nhàng, con của một vị trung tá trước đây đã từng là phó chính ủy của Sư đoàn 324. Lúc chú Hoài còn là viên sĩ quan trong ban tham mưu của sư đoàn, có lần chú từ chiến trường ra, ông phó chính ủy nhờ mang thư và quà đến nhà cho gia đình. Cô nữ sinh Trường Trưng Vương nhìn thấy anh sĩ quan bộ đội giải phóng đeo súng ngắn, đi giầy đen, áo bốn túi là mê ngay. Hai người đưa nhau đi ăn kem Tràng Tiền, ăn phở Bát Đàn, ra Bờ Hồ chụp ảnh kỷ niệm. Họ trao đổi thư từ, hò hẹn.

Cô con gái ông phó chính ủy sư đoàn học xong lớp 10, thi đỗ điểm cao, lý lịch gia đình tốt, được chuyển thẳng đi học ở Liên Xô. Chú Hoài tưởng đã vỡ mộng lấy con quan. Vào năm 1981, cô Yến về nước, tình cờ gặp lại chú Hoài vẫn ở cùng đơn vị với cha, đang làm nhiệm vụ ở mặt trận biên giới phía Bắc. Lương duyên cũ nối lại và nhanh chóng dẫn đến đám cưới của chú Hoài với cô con gái của một vị tướng. (Ông trung tá nay đã được phong cấp hàm thiếu tướng). Lễ cưới được tổ chức ở Thủ đô. Hơn một năm sau, đứa con gái của họ ra đời trong sự mừng rỡ của ông bà ngoại.

Chú Hoài là một sĩ quan tác chiến nhưng có tài viết báo. Có lần chú đã tự thú với tôi, chỉ tại chú ở thành phố, mang vác kém, không hay làm việc nặng. Khẩu súng to nhất trong những năm ở chiến trường, chú Hoài được giao là khẩu AK báng gấp. Khẩu súng ấy chú giữ mãi cho đến lúc lên tới chức trung đội trưởng, rồi đại đội phó mới phải bàn giao cho người khác để đeo khẩu K54. Cũng theo chú Hoài, khẩu súng ngắn K54 ấy chưa hề bắn phát nào. Quân khí tiểu đoàn phát cho hai băng đạn, cho đến lúc trả súng vẫn còn nguyên.

Có lần tôi đã hỏi chú Hoài:

- Cháu hỏi câu ni, chú khai thật nhé. Khai đúng cháu thưởng?

- Thưởng chi? - Chú hỏi cũng đáo để.

- Bí mật! Chú phải nói trước, cháu coi chú có trung thực không đã. Suốt cả đời lính chú đã bắn chết người mô chưa?

Chú Hoài nhìn tôi một lát rồi mới nói.

- Đạn súng lớn, loại B40 chú đã bắn 4 quả. Trái thứ nhất, khi ấy chú còn làm liên lạc đại đội. Đơn vị của chú đánh vào khu trường học ở thôn Liễu Thượng. Ở đấy có một đại đội bảo an đang tập trung trong khu trường học. Đơn vị chú tiếp cận địch theo ba mũi, một mũi bất ngờ bị lộ. Địch bắn đạn ra như mưa ngoài cánh đồng, chúng bắn cả cối cá nhận, cối 61. Cậu giữ khẩu B40 trúng đạn. Chú đang bò cùng đại đội phó Đệ, cha cháu ấy. Ông Đệ quát: “Hoài, mi táng một quả B40 vào ổ súng máy cho tao”. Trái đạn B40 chớp mắt bay đi. Một quầng lửa trùm lên góc trường học. Khẩu đại liên tắt ngóm. Còn bắn AK thì nhiều lần. Chú đã từng đánh tao ngộ chiến với tụi Ngụy, tụi Mỹ ở ngã ba Hương Trà, trên dốc Đoác, Khe Trái... Chuyện thường ở đời lính ấy mà. Những ngày ở vùng giáp ranh, bộ đội các chú suốt ngày phải mặc quần đùi đi chốt gác, bám địch.

Tôi cười bảo chú Hoài:

- Chú chưa được thưởng đâu nghe!

- Sao vậy?

- Chú còn thiếu của cháu ba trái B40. Nó nằm ở mô, trên giấy à?

Chú Hoài cười.

- À, đấy là lần đại đội chú đánh ở Phú Lương B, ở Cao Ban, Sơn Tùng, Hiền Lương trong chiến dịch Xuân 1975. Bốn ngày trời đơn vị chú bị vây ráp ở các làng quanh bãi cát Triều Dương. Mấy tiểu đoàn thủy quân lục chiến, có cả xe tăng, máy bay trực thăng chiến đấu, quây càn. Cả tiểu đoàn chú căng ra đánh địch chống càn từ sáng đến tối. Đạn bắn đỏ nòng súng. Khi ấy, quân cũng như tướng hò nhau gắng giữ chốt, không cho địch phá vây vào làng. Các chú chỉ mong sao trời chóng tối, cha con lo chôn cất tử sĩ, cáng thương rồi tìm đường rút sang làng khác. Ngày mai đánh tiếp.

- Bộ đội chết nhiều không chú? - Tôi hỏi vẻ tò mò.

- Ta cũng chết mà địch cũng chết, Người mất, xe tăng cháy, nhà cửa của dân tan hoang... Rồi chú Hoài buồn bã bảo tôi - Từ ngày chiến tranh kết thúc, chú chưa có dịp nào trở lại Cao Ban, Hiền Lương. Mấy năm trước có lần về Huế họp, chú cùng với mấy anh bạn cũ ở thành đội Huế chỉ ghé được Hương Trà thắp hương cho những người quen biết đã mất.

Ôi, chú Hoài của tôi thật đáng thương!


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 10:49:54 am
Còn chuyện này cha tôi đã kể cho tôi nghe.

Trong tập vở Codido thứ 6, gạn đọc mãi tôi chỉ thấy cha tôi ghi có vài câu:

“Khốn khổ thân mày Hoài ơi!

Sao cuộc đời này lại còn có những loại đàn bà chó má thế. Chúng nó được ăn học, nhiều tiền lắm của, bắt chồng con phải hầu hạ. Đến lúc mi khốn khổ ở mặt trận thì nó bỏ đi theo trai... Kết cục đời mi cũng chẳng ra sao”
.

Ngày còn sống đã có lần cha tôi hé ra cuộc sống của gia đình chú Hoài cũng chẳng êm đẹp gì. Vào những năm 1985, 1986, Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa chưa sụp đổ. Cả nước rầm rộ tuyển người đưa ra nước ngoài lao động xuất khẩu. Người thì sang Nga, kẻ sang Tiệp, Ba Lan, Đông Đức. Ai được đi trong số ấy chả khác nào trúng số độc đắc... Đi ra nước ngoài dù là ở nước nào thời ấy là cả một niềm mơ ước, khát khao của tuổi trẻ. Bất kể họ là kỹ sư, bác sĩ, công nhân. Một số thầy giáo của tôi biết tiếng Pháp cũng còn hăng hái đi dạy ở Châu Phi xa xôi kia mà. Giữa lúc các nhà máy xí nghiệp quốc doanh đình đốn, thiếu việc làm, đi lao động ở nước ngoài như là một cứu cánh. Vợ chú Hoài vốn biết tiếng Nga, quen với nhiều người có quyền thế đã đăng ký sang Liên Xô, làm đội trưởng.

Cô Yến, vợ chú đi và không bao giờ về nữa.

Vào năm thứ sáu, cô Yến có về nước một lần. Cô mang được mấy thùng chứa đầy xích, líp, bi, tủ lạnh xaratốp, nồi cơm điện, xoong nhôm gửi về theo đường biển Hải Phòng. Hàng hóa bán được cả mớ tiền cho cánh buôn ở chợ Hôm. Cô Yến về nước bằng đường hàng không, bế theo một thằng con trai hai tuổi, mắt xanh, mũi lõ, tóc vàng, bập bẹ một vài câu tiếng Việt lơ lớ.

Những năm sau này mỗi lần gặp chú Hoài hoặc gọi điện thoại, tôi tuyệt đối không nhắc tới chuyện vợ con của chú. Tôi chỉ hỏi chú vài câu sức khỏe, công việc và có lời khuyên chú cố ăn uống, thuốc men giữ gìn. Về Sài Gòn hay bay ra Hà Nội lo công chuyện, tôi biết chắc chú Hoài đang lẩn khuất đâu đó giữa dòng người xô bồ, tất bật. Song thật tình tôi ngại gặp chú. Tôi có gọi điện thoại cho chú, vẫn những câu hỏi thăm thông thường. Bao giờ chú cũng hỏi tôi đang ở đâu, làm gì? Tôi bịa ra rằng tôi đang ở trại Đầm Vịt, cũng có lúc tôi nói ở Đà Lạt, đang ngồi bên bờ hồ Xuân Hương uống cà phê ở quán Nhớ.

Trả lời chú xong, tôi tắt ngay điện thoại. Tôi biết mình đang nói dối chú Hoài và nói dối lòng mình. Tim tôi nhói đau, ứa nước mắt. Tôi nép mình sau đám cây cảnh của một quán cà phê trên đường Lý Chính Thắng nhìn dòng người xe đang lao đi như mắc cửi giữa buổi chiều tà.

Tôi thật lòng thương chú Hoài. Một tình thương của một đứa con gái vừa mới mất cha với một người đàn ông cô đơn chia tay vợ. Chú Hoài cũng như thầy Năm Bê, tôi luôn xem như là những thân cây già để tôi tựa bóng. Tôi không dám thú nhận với chính tôi. Trái tim tôi xao động, run rẩy mỗi khi nghe tiếng nói của chú Hoài.

Nhiều khi trêu chú tôi lại đọc câu thơ của Huy Cận từ hồi nảo hồi nào đã nhét vào bộ nhớ của tôi. “Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu/Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người”.

Ở tít mù khơi xa, đâu đẩu đầu đâu trong không gian tôi nghe chú Hoài phì cười. Chỉ nghe giọng chú cười lòng tôi lắng lại. Tim không còn rộn lên nữa.

Thoa đang í éo gọi tôi xuống ăn cơm. Con mèo trắng mắt xanh mắt đỏ đã ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế chờ tôi. Con mèo Thái lông dài tôi nuôi đã được mười mấy năm, bắt chuột rất tài, không ăn cơm, không biết ăn vụng, có mèo lạ đến nhà rình bắt mấy con chim kiểng của tôi là nó đuổi cho chí chết. Từ nhỏ đến giờ nó chỉ quen ăn thức ăn khô tôi mua ở cửa hàng. Đã bốn lần sinh nở mà lần nào cũng phải có tôi ngồi cạnh ổ canh chừng, nó mới dám cho bầy con chào đời.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 10:59:47 am
19

Tập vở Cogido thứ sáu hơi đặc biệt hơn so với các tập khác.

Trong tập vở này, chỉ một mình cha tôi viết. Tôi không hiểu vì lý do gì, chẳng có một dòng nào của mẹ tôi. Cha tôi viết theo lối cầm chừng, ngắt đoạn, không viết liền mạch như những trang ở các tập trước.

Một điều lạ nữa là, ở đầu mỗi đoạn dài ngắn khác nhau bao giờ ông cũng viết câu “Khung trời hẹp”! Tôi chẳng hiểu ba từ ấy với cha tôi có ý nghĩa gì. Có thể những chữ ấy chỉ một địa điểm nơi cha tôi làm việc. Cũng có thể, ông muốn phản ánh cái tâm thế, tư tưởng và tình cảm của một người lính rơi vào hoàn cảnh bĩ cực như ông trong lúc này. Ông đang phải giấu mình bằng một thân phận khác, một kẻ đang trốn chạy, chịu nhiều hiểm nguy. Chỉ có điều này là tôi không bao giờ hiểu được. Rằng tại sao người như cha tôi, rơi vào hoàn cảnh ấy mà ông vẫn còn dành thời gian viết được. Tôi thật cảm động khi đọc thấy có nhiều dòng, nhiều trang cha đã dành cho tôi, như cách gọi “Con gái bé bỏng của cha”. Cụm từ ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần. Rơi vào thời điểm, lúc tôi mới ra đời cho đến khi tôi biết cất tiếng gọi “Cha ơi! Mẹ ơi”.

Khung trời hẹp -19 giờ

Chủ tiệm photo, đánh máy là Năm Nhựt. Ông đã sáu lăm tuổi, là người có nước da đẹp, nhưng xem lão vẫn còn hăng hái, khỏe mạnh, phong độ cường tráng. Lão có hẳn hai bà vợ. Một bà vợ già, một bà vợ trẻ. Bà vợ già được cha mẹ cưới cho từ ngày lão Năm Nhựt còn sống ở thị trấn Ninh Hòa. Bà con ở khóm Máy Nước gọi bà vợ cả của Năm Nhựt là bà Tư Béo, bán bún bò giò heo. Quán của bà Tư nổi tiếng khắp Nha Trang. Bà Tư đã có với lão Năm Nhựt sáu đứa con. Để trốn quân dịch, bà Tư đã tốn khối tiền cho nhà chức trách để mua giấy tờ miễn phải đi lính cho lão, nhưng vào mỗi đợt quân Ngụy dồn quân bắt lính lão vẫn phải trốn chạy cảnh sát ruồng bố vây ráp. Kết quả, sau những cuộc du ngoạn trốn lính, lão đã mang theo về một cô gái trẻ quê ở Chụt và một đứa con trai sáu tháng tuổi. Bà vợ già ở Ninh Hòa nghe tin chồng có vợ bé, tức điên. Nhưng bà ở xa Nha Trang ba chục cây số không phải lúc nào cũng có thể bỏ cửa bỏ nhà vào đánh ghen cho bõ tức. Đành chịu! Những câu nói móc máy, chì chiết và cả một trận đánh ghen xảy ra giữa bà vợ già người Ninh Hòa với cô gái trẻ ở Cầu Đá cũng chẳng đi tới đâu. Năm Nhựt tránh đòn bằng cách bỏ nhà đi uống rượu, đánh tenis, không về nhà. Và chẳng ngủ với bà nào. Dù các bà vợ có trăm mưu nghìn kế để khiêu khích, lão cũng bỏ mặc, cho nghỉ khỏe. Thêm một đòn lão giáng chí mạng cho bà vợ già là Năm Nhựt không mang tiền về nhà để chăm đàn con đang lớn phổng phao từng ngày. Tiền học, tiền ăn, tiền tiêu cho đám trẻ tốn kém như tằm ăn rỗi. Một quán bún bò giò heo của bà Tư ngồi ở đầu chợ không đủ nuôi sắp nhỏ. Thêm nữa, dù bà Tư có cấm thì lão Năm Nhựt vẫn cứ phải vô ra Nha Trang để làm việc. Thôi thì trời chẳng chịu đất, đất phải chịu trời. Hòa cả làng.

Tiệm Roneo đánh máy Năm Nhựt to nhất nhì thành phố kiêm cả dịch thuật các tài liệu ở ngay trung tâm thành phố. Làm không hết việc, lão phải thuê thêm mấy người thợ phụ giúp hàng ngày, trả lương tháng, còn mất thêm bữa cơm trưa. Vài ba ngày lão Năm Nhựt vẫn đi lại thậm thụt với cô vợ nhỏ mới ngoài ba mươi đang sung sức.

Bà Tư đã buộc “lão chồng hư đốn” phải bán đất, bán nhà ngoài Ninh Hòa dời vô Nha Trang sinh sống. Tiện cả trăm đường. Đám trẻ nhỏ bỗng dưng thành người thành phố. Đi học, đi làm đều tiện. Cô con gái xinh đẹp của lão xin được vào làm việc trong ngành giao thông, năm trước năm sau đã có chồng là một viên sĩ quan ở Trường Hạ sĩ quan Đồng Đê. Bà Tư mở một tiệm bán bún bò giò heo và nem Ninh Hòa gần nhà Bưu Điện. Mỗi bữa chồng về ăn cơm nhà bao giờ bà cũng để sẵn cho lão đĩa lòng lợn, tô xương heo hầm và hai chai bia. Nhìn lão ăn và vui vẻ với đám con, bà cười thầm cho rằng mình cao tay. Tất nhiên, cô vợ nhỏ quê ở Chụt phải tránh xa trung tâm chỉ huy của lão. Để đền bù cho thân phận đàn em, lão mua cho cô một căn nhà ở đường Nguyễn Hoàng và một sạp bán dưa cà mắm muối ở Chợ Đầm.

Kể từ ngày y về làm việc cho tiệm photo, đánh máy của Năm Nhựt, y được cả hai bà vợ của lão quý mến, nể trọng. Chuyện lớn nhỏ trong nhà hai bà đều kể hết cho y nghe để nhận lấy một lời khuyên, không làm mất lòng bà nào. Vợ y, Hương Giang là bạn thân của vợ bé lão Năm Nhựt. Ban đầu, y nghĩ một cách đơn giản, nhờ mối lương duyên bán dưa cà mắm muối mà Hương Giang quen biết cô vợ nhỏ của lão Năm Nhựt, nên y mới có được việc làm ở đây. Nhưng sau này, khi tiệm photo, đánh máy bị đóng cửa, tìm hiểu kỹ, việc y được đưa về làm việc ở tiệm Roneo có bàn tay sắp đặt của ông Sáu và anh Đào.

Khung trời hẹp - 21 giờ

Y đã làm cha, cái ý nghĩ ấy cứ quẩn quanh trong đầu suốt cả chục ngày sau. Lòng y lâng lâng như người say rượu. Làm việc không tập trung. Đánh máy có trang sai be bét. Con chữ cứ nhảy múa một lúc lại hiện ra gương mặt đứa con gái bé bỏng của y.

Hôm Hương Giang sinh con, chỉ có bác Đạo, chị Ly và bà vợ nhỏ của lão Năm Nhựt giúp nàng. Y lúng túng như gà mắc tóc, chẳng biết làm gì. Lâu lâu ghé mắt vào nhìn cái sinh linh bé bỏng và tự hỏi “Con ta đây ư!”. Rồi y nghĩ tới thầy mẹ giờ này ở nơi xa liệu có biết y đã có con? Ông Sáu Đến nhanh biết tin hơn. Nghe nói anh Đào đã điện ra ngoài Huế báo tin vui.

Chờ cho đến lúc khuya mọi người về hết, y mới lấy hoa quả đặt lên bàn thờ thắp nhang vái trời đất, tổ tiên.

Hương Giang hỏi y:

- Định đặt tên con chi đây?

- Tên Thủy Tiên được không? Nguyễn Phương Thủy Tiên...

Nàng bảo y:

- Còn ở nhà gọi là con Bông cho tiện.

Lão Năm Nhựt và bà Tư Béo nghe tin vợ y sinh liền sang thăm, mang cho cả chục hộp sữa Ông Thọ, năm chục trứng vịt và mười ngàn đồng. Lão còn bảo y, “cho cậu nghỉ ở nhà dăm ngày trông vợ”. Hôm sau, lão nói với bà vợ nhỏ tìm được một người giúp việc đỡ đần trông nom cho hai mẹ con. Vậy là ổn.

Mấy ngày sau, dì Bảy đi xe từ Huế vào thăm cháu. Dì ở chơi và giúp Hương Giang lúc sinh nở cả tháng trời. Bữa gặp y lần đầu, Hương Giang giới thiệu y với dì Bảy.

- Thưa dì, đây là chồng cháu.

Dì Bảy nheo mắt nhìn y rồi nói:

- Ừ! Coi được đó con...

Y bẽn lẽn cười, chả biết nói gì.

Bây giờ, mỗi buổi chiều lóc cóc đạp chiếc xe về nhà, y luôn có một niềm vui. Y chỉ muốn mau chóng tới nhà để nhìn mặt con Bông.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 11:10:23 am
20

Khung trời hẹp - 22 giờ

Ở trên cái tổ chim của nhà lão Năm Nhựt, y có một không gian thoáng đãng. Tự do nhất là vào những buổi tối nóng nực khi y phải ở lại trực. Cửa sắt ở tầng một đóng kín. Xuất cơm bình dân ở quán mụ Chẹo chỉ có vài trăm, thêm một cốc trà đá là y cảm thấy ấm bụng. Mỗi buổi tối biết chồng phải ngủ lại canh cửa hàng, bao giờ Hương Giang cũng chuẩn bị sẵn cho chồng khi thì ổ bánh mì hoặc vài mẩu khoai, sắn luộc để dành cho y ăn khuya. Nàng thừa biết chồng hay thức khuya đọc báo, nghe đài và hứng lên ghi chép.

Từ ngày vào Nha Trang, biết mình có bầu, Hương Giang hầu như không còn có thời gian ghi nhật ký nữa. Bây giờ y lại ở ngay cạnh nàng, ghi chép làm gì nữa cho rách việc. Có chuyện chi vợ chồng thỏa sức tâm sự hàng đêm. Không sợ ai nhòm ngó, cũng chẳng ai bắt bớ một kẻ thương phế binh mạt rệp, lại có họ hàng bà con là sĩ quan Ngụy. Bây giờ, y lại làm công cho chủ tiệm Năm Nhựt. Lão già không phải quan chức, không tham gia đảng “Cần lao”, cũng chẳng “Dân chủ”. Lão chỉ nhận mình là “tiểu thị dân”, nhưng xem ra mối quan hệ với các thành phần trong xã hội rất rộng. Các công sở nhà nước, trường học cho đến người “phó” thường dân ai cũng cần đến anh đánh máy, photocopy, dịch thuật, in sao nhân bản. Chỉ riêng việc in sao các “phao” thi cho đám học trò vượt qua đệ nhất, đệ nhị, và đám học trò lớn tuổi thi tú tài bán phần, toàn phần, tiệm photo Năm Nhựt đã làm không hết việc. Các công sở cũng hay mang những tài liệu không quan trọng tới thuê khoán cho lão. Tiệm photo, đánh máy của Năm Nhựt kiếm được khá tiền, lão dư sức nuôi vợ con và trả công cho đám thợ. Lão Năm Nhựt có một nguyên tắc: Chỉ nhận việc đến lúc mười sáu giờ, còn quá “4 giờ chiều” có vị khách nào đến tiệm trả giá photo, đánh máy lên gấp hai, gấp ba lão cũng đếch cần. Không ai nài ép được lão. Lão sai y đóng cửa hàng, treo tấm biển “Hết giờ làm việc” to tướng ngoài cửa. Lão nói oang oang với mọi người: “Các cô chú dọn dẹp nhà xưởng cho sạch nghe... Tôi đi làm vài séc tenis, rồi làm vài chầu bia đây!”.

Nói câu trước câu sau, người ta đã thấy lão quần soóc, áo phông, dáng rất thanh niên oai vệ ngồi trên chiếc Honda mới cứng phủ bạt trong góc nhà, vai khoác theo chiếc vợt bóng. Chỉ một loáng, Năm Nhựt đã lủi ra đường Độc Lập, lẩn trong dòng người xe. Có hôm vui lão còn bắn lại phía y một nụ cười tủm giấu sau bộ râu cắt tỉa kiểu “Hit-le” trông rất đểu. Y cười đáp lại, cũng không nói gì. Thừa biết, chiều nay lão Năm Nhựt chẳng bóng ban chi hết, lão chuồn về nhà vợ bé đánh chén bữa chiều. Lão Năm Nhựt ăn những bữa cơm chiều ở nhà bà vợ bé rất đều đặn. Tuần hai lần vào thứ ba và thứ sáu, còn lại các ngày lão dành cho bà Tư Béo. Những buổi chiều như vậy lão thường về nhà muộn. Mồ hôi ướt đầm đìa áo lót, mặt đỏ như gà chọi sau khi đã làm vài séc bóng ở sân Câu lạc bộ “sĩ quan” trên đường Duy Tân. Lão đặt xong chiếc xe Honda yên vị là ngã ngay xuống giường chẳng cần nhòm ngó tới vợ con, làm một giấc cho tới khuya, trở dậy tắm rửa rồi lại lăn ra ngủ. Lão bỏ ngoài tai những lời cự nự eo xèo của bà vợ già vẫn còn muốn tí tởn, cũng chẳng đụng đũa tới tô xương, gân bò hầm mà mụ để dành phần lão về ăn.

Riêng y luôn kính trọng lão Năm Nhựt. Bằng sự nhạy cảm của một người lính trinh sát, y biết con người lão cất giấu nhiều bí ẩn. Có lần vào một buổi sáng, lão mang lên giao cho y một sấp tài liệu có người nhờ thuê đánh máy. Y cầm tập tài liệu chuẩn bị làm việc, chợt nghe lão hỏi:

- Tối qua cậu ngủ ở đây có nghe chi không?

Y cảnh giác:

- Nghe chi chú Năm? Cháu mệt, nằm một lúc ngủ thiếp tới sáng. Mãi tối khi nghe chuông nhà thờ Đá đổ, cháu mới tỉnh.

Lão Năm Nhựt dùng lưỡi đẩy điếu thuốc Ruby sang bên mép phải, tay cầm ly cà phê đen:

- Tôi già không ngủ được. Nghe súng nổ râm ran ở ngả trong núi. Một lúc sau lại rộ lên ở hướng cây Dầu Đôi.

Y vẫn vờ vịt như không biết:

- Núi mô chú Năm?

- Thì Đằng Bò đó...! - Lão Năm Nhựt cao giọng đứng dậy, bước ra ngoài sân thượng chỉ lên hướng tây vào dãy núi xa xanh, ngay trước mặt - Các “ổng” ở cả trong đó. Đêm mô họ chả đưa người về làng rải truyền đơn, treo cờ.

Y giả đò như không nghe thấy, tay khua vang trên bàn máy chữ.

Từ khi đặt chân về Nha Trang, y đã tẩn mẩn nghiên cứu vùng đất này. Trong ý thức của quân Ngụy ở Sài Gòn, đặc biệt là các đơn vị bộ binh phải đóng chốt ở Tây Nguyên, nơi có Bộ chỉ huy Vùng 2 chiến thuật luôn xem Nha Trang là một hậu cứ an toàn hơn so với nhiều địa bàn khác ở Nam Việt Nam. Sĩ quan Mỹ, Đại Hàn, quân Ngụy coi Nha Trang là nơi nghỉ xả hơi sau những chiến dịch đụng đầu với V.C, quân giải phóng. Chỉ có điều ở đây khác với Huế. Những năm trước khi có Hiệp định Paris được ký kết, ngoài quân Mỹ đồn trú còn được tăng cường hai sư đoàn lính Đại Hàn, người dân quen gọi là Sư đoàn Mãnh Hổ và Bạch Mã. Các đơn vị lính Đại Hàn đóng xen kẽ với quân Ngụy trải dài từ Quảng Nam tới Khánh Hòa. Y chưa có dịp đối đầu với lính Đại Hàn, nhưng như lời lão Năm Nhựt kể thì họ “đều là dân Á Châu, đi đánh thuê cho Hoa Kỳ lấy tiền về nuôi vợ con. Chúng cũng khôn ngoan, láu lỉnh, sợ chết, nhưng khi lâm trận nhiều thằng lỳ đòn ra phết”. Rồi lão kết luận: “Thằng lính mô đi cầm súng vì tiền mà chẳng sợ chết hả cháu? Tiền không bao giờ tạo ra sự anh hùng, càng ít người dám mất mạng vì tiền”.

Nghe vậy, tự nhiên y bật hỏi lão:

- Chú nghĩ vậy thiệt hả?

Lần đầu tiên, lão Năm Nhựt miệng vẫn ngậm chặt điếu thuốc, nhìn thẳng vào mắt y. Lão hít một hơi dài điếu Ruby, phả khói thơm lừng, cầm điếu thuốc trên tay trả lời y từng tiếng:

- Chỉ có là lính của ông Trần Hưng Đạo, ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trãi, ông Quang Trung, lính của ông Hồ mới có được dũng khí, chết vì nghĩa lớn.

Nhiều đêm, nhất là vào những đêm có trăng, trên gác xép y không ngủ. Gắn chặt chiếc tai nghe, ôm chiếc đài National vào ngực, y ngồi thu lu ngoài sân thượng nhìn về phía dãy núi xa mờ. Dãy núi đá Đồng Bò như một con kỳ nhông khổng lồ đầu hướng ra Cửa Bé uống nước. Vào ban ngày trời nắng, nhìn Đồng Bò càng rõ. Lẩn giữa những vạt rừng xanh xen kẽ những gộp đá. Nghe nói vào dạo xuân 1968, vùng căn cứ địa này cũng bị Mỹ ném bom B57, bom hóa học để triệt hạ bộ đội và cán bộ huyện xã trụ bám ở đây. Vài năm nay, vào những ngày mưa lụt vẫn thấy cá chết trắng trên sông Đồng Nhơn. Người dân chẳng ai dám ăn, cũng chẳng dám bắt thứ cá nhiễm độc trong các hang, hốc núi Đồng Bò về cho heo ăn.

Vào đêm 27 tháng 1 năm 1973, y đã thức trắng để nghe đài Hà Nội đọc những điều khoản đã được bốn bên ký kết ở Paris. Y nước mắt đầm đìa khi nghe cô ca sĩ Vân Khánh hát bài “Đường chúng ta đi” phổ thơ của một nhà thơ y đã một lần gặp mặt. Tên ông là Xuân Sách. Ngày còn ở đơn vị tân binh, đã một lần ông Xuân Sách đến đơn vị của y cùng với đội văn nghệ sư đoàn biểu diễn, đọc thơ cho cánh lính trẻ nghe, động viên bộ đội trước lúc lên đường. Bầy giờ nghe bài hát phổ thơ của ông trong cái đêm lịch sử này, y đã bật khóc. Khóc một mình với bao niềm xúc động.

Cũng đêm 17 tháng 1 năm 1973, y đã nhiều phen giật mình tưởng bộ đội du kích tấn công vô thành phố. Sáng dậy, hỏi người trong xóm mới hay. Đám lính Mỹ, lính Đại Hàn nghe đài BBC, RF1 đưa tin Hiệp định Paris ký kết, chúng thi nhau xả từng loạt đạn lên trời, mừng vì không còn phải tham chiến.

Đứng từ trên gác cao của tiệm photo, y thấy rõ những viên đạn lửa đỏ rực như hòn than, vẽ hình vòng cung lên trời. Các đơn vị lính ngụy đồn trú ở ngoài Đồng Đế, đèo Rù Rì cũng đua nhau bắn những trái đạn pháo sáng thành từng chùm ba bốn trái một lần. Bầu trời hồng rực trong ánh hỏa châu.

Buổi sáng, nghe bản tin của đài địa phương y mới biết rõ, đêm qua V.C tấn công đồng loạt vào các ấp ở Diên Thọ, Diên Lâm, Diên Điền, Diên Phước. Ở Vĩnh Xương, V.C cũng đột nhập vào An Ninh, Võ Kiện. Các địa bàn Ninh Hòa, Cam Ranh đâu đâu cũng thấy V.C tấn công, làm chủ các xóm, ấp, treo cờ, giải truyền đơn tuyên truyền cho việc 4 bên ký Hiệp định Paris.

Buổi sáng lão Năm Nhựt tới cửa hàng sớm hơn thường lệ, nhìn thấy y phờ phạc, lão nói như chia sẻ:

- Đêm qua mất ngủ hả? V.C làm dữ quá... Thôi, hôm nay ít việc, tôi cho chú nghỉ.

Y đạp xe về đến nhà, Hương Giang vẫn chưa đi chợ. Nhìn thấy nét mặt y không bình thường, nàng tưởng y ốm, tỏ vẻ lo lắng. Y nhìn nàng rồi đáp cụt ngủn:

- Anh hơi mệt em à. Bữa nay nghỉ.

Nàng nhìn y tỏ vẻ ái ngại.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 11:12:21 am
21

Khung trời hẹp - 18 giờ

Trời đã chạng vạng tối. Những ngọn đèn trên đường Độc Lập đã bật sáng mới thấy lão Năm Nhựt đi xe máy về tiệm photo. Lão chở theo một vị khách lạ cũng trạc tuổi lão.

Lão bảo y:

- Đây là ông bạn nối khố của tui, tên là Bẩy Khai. Lâu lắm anh em tui mới gặp nhau, giờ ông đang kinh doanh gỗ trên Buôn Ma Thuật, mới về quê ăn cưới đứa cháu.

Lão Năm Nhựt miệng nói, tay súc ấm pha trà. Người khách ngồi xuống ghế, lật chiếc mũ phớt bỏ xuống bàn để lộ một vết sẹo dài trên thái dương. Y giữ ý, chỉ khẽ ngẩng lên chào người khách rồi lại chúi mũi vào chiếc máy chữ gõ lóc cóc.

Lão Năm Nhựt và người khách uống trà và rì rầm nói chuyện. Chỉ năm phút sau, vị khách cáo biệt lão Năm Nhựt ra về. Ông khách tiến lại bắt tay y.

- Anh Bẩy để tôi đưa đi cho bảo đảm. Dạo này xe pháo đám trẻ đi ẩu, nó đâm thì khổ - Lão bảo.

Hai ông già đi xuống cầu thang. Y để ý thấy vị khách để lại trên bàn một bọc giấy báo gói kỹ càng.

Tám giờ tối, lão Năm Nhựt mới về đến tiệm. Mọi ngày vào giờ này lão đã yên vị ở nhà với bà vợ cả hoặc nếu không cũng đi “đánh tennis” ở nhà bà vợ nhỏ. Y hỏi lão với vẻ ngạc nhiên:

- Chú không về nhà với thím?

- Không. Tối nay chú ở đây với cháu, hai chú cháu vừa làm việc vừa nói chuyện cho vui. Bữa ăn tối cho hai chú cháu đủ cả đây rồi.

Lúc ấy y mới để ý tới cái bọc túi nilon lão treo ở móc xe honda. Khi mở ra, y tròn mắt thấy có vài chai lade, nước ngọt. Bốn ổ bánh mì còn nóng và một gói lòng lợn, thịt quay và nửa con gà.

- Sao chú mua chi nhiều vậy? -Y tò mò.

- Để chú cháu ta liên hoan, sau lúc làm ca đêm.

Lão sai y xuống nhà khóa của sắt, cửa gỗ. Y lên đến nơi đã thấy lão Năm Nhựt giao cho y một xấp tài liệu và bảo:

- Cháu đánh đi! Đánh đừng sai nghe!

Y cầm xấp tài liệu, mở từng trang và bắt đầu gõ máy chữ. Đánh được vài dòng, y hiểu ra rằng đây là những tài liệu của “phía bên kia” mà người khách lạ đem tới, giao cho lão Năm Nhựt in sao gấp trong đêm. Y chỉ băn khoăn, nghĩ ngợi một điều. Hai lão già không rõ tung tích này liệu có biết thân phận thật của y? Họ tin gì ở một thằng thương phế binh “giả cầy” để giao cho việc động trời, in sao các tài liệu của V.C giữa một thành phố nhan nhản cảnh sát, mật vụ? Chỉ cần lộ ra một chút, thầy trò y sẽ đi tù mọt gông.

Y ngậm tăm không hỏi, không nói chuyện với lão Năm Nhựt. Vừa đánh máy y vừa phì phèo điếu thuốc Ruby cho bớt căng thẳng. Đọc và đánh máy đến đâu, y càng hiểu rõ không khí cách mạng ở vùng đất này.

Nha Trang, Khánh Hòa là vùng đất thánh của quân Ngụy. Tưởng hiền hòa, êm đềm mà không phải vậy. Giấu sau những dãy núi, những cánh rừng trùng điệp kia là căn cứ cách mạng. Các hoạt động đánh địch của bộ đội giải phóng, của chính quyền cách mạng vẫn âm thầm diễn ra. Các đơn vị bộ đội chủ lực cấp trung đoàn, tiểu đoàn ở đây đều có cả. Các huyện, xã có đội công tác, đội biệt động... Bộ đội đặc công ở đây tập trung vào quân cảng Cam Ranh, sân bay Nha Trang, về sống ở Nha Trang một thời gian, y đã có dịp tìm hiểu vùng đặc khu Cam Ranh, Đây là căn cứ hải quân, không quân quan trọng của Mỹ ở Nam Trung Bộ. Cái lưỡi cát có núi lao ra biển, phía ngoài có đảo Bình Ba chắn gió đã tạo nên một vụng biển sâu, kín gió thành một quân cảng có giá trị chiến lược canh giữ Biển Đông, khống chế toàn bộ khu vực Đông Nam Á trên biển. Ở đây, ngoài số lính bộ binh làm nhiệm vụ bảo vệ còn có các đơn vị lính hải quân, không quân. Có sân bay Cam Ranh đủ sức cho B52 lên xuống. Tàu ngầm của Mỹ ra vào cảng dễ dàng. Sân bay Nha Trang nhỏ hơn, lại ở ngay trong thành phố, nhưng đường băng đủ cho các loại máy bay A37, trực thăng đáp xuống lấy nhiên liệu hoặc mang bom, vũ khí đánh phá các vùng phụ cận... Cũng qua các tài liệu này, y biết thời gian qua, bộ đội và biệt động thành phố liên tiếp tổ chức những trận đánh vào kho xăng Cam Ranh, Bình Tân... Những ngày sau Hiệp định Paris được ký kết, để phòng thủ tuyến Nha Trang, Cam Ranh, Bộ chỉ huy quân Ngụy ở Sài Gòn đã tăng cường lực lượng ở Vùng 2 chiến thuật. Các căn cứ quân sự ở Dục Mỹ, quân trường Lam Sơn được xây dựng thành tuyến phòng thủ chốt chặn Tây Nguyên nếu bị quân giải phóng tấn công. Một số đơn vị thiện chiến được táng cường. Ở Nha Trang tập trung khá nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, các đơn vị biệt động quân vừa làm thê đội hai cho Tây Nguyên vừa bảo vệ cho thành phố này...

Trong đám tài liệu ông Bẩy giao cho lão Năm Nhựt, y chú ý thấy có cả tờ báo “Sao Việt”. Ở trong Nam, tất cả các tờ báo đều của tư nhân. Xem qua nội dung các trang báo, y đồ rằng, tờ “Sao Việt” phải là người có chủ trương thân V.C. Có những bài viết yêu cầu chính quyền Thiệu, Kỳ và tỉnh trưởng Khánh Hòa cho lập ủy ban thi hành Hiệp định Paris, một vài tin bài khác đòi chính phủ cải thiện chế độ lao tù, phụ nữ đòi quyền sống...

Công việc in sao các tài liệu của hai thầy trò y tới quá nửa đêm thì xong. Lão Năm Nhựt tay đóng gói các bản in vào thùng các tông, lẫn với các loại văn bản khác. Xong việc lão ngồi nhâm nhi chai lade và nhai xương gà rau ráu. Y chỉ nhấm nháp ổ bánh mì với thịt quay. Chân tay mệt rã rời.

Lúc y mở mắt ra, trời đã sáng bạch. Lão Năm Nhựt đã biến đi từ lúc nào cùng với thùng tài liệu. Y hỏi mấy đứa giúp việc ở tiệm, chúng bảo: “Ông chủ đã thuê xe lam chở hàng đi từ hồi sớm!”.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 11:14:42 am
22

Sông Dinh - Tháng 3 năm 1975

Vậy là y đã rời căn gác xép thần tiên được vừa tròn hai tháng. Lão Năm Nhựt giờ ở đâu cũng không rõ. Trước lúc tiệm photo, đánh máy đóng cửa, lão có gặp y nửa giờ đồng hồ. Lúc ấy, lão mới đi chơi thể thao về, vứt chiếc vợt tennis vào góc nhà, gọi y lên gác xép và bảo:

-Từ ngày mai cháu nghỉ việc nghe. Chú có việc gấp vô Sài Gòn. Tiệm phải đóng cửa vài ba tháng. Khi nào mở lại chú sẽ gọi đi làm.

Lão Năm Nhựt mở sổ, tính toán tiền công cho y trong những tháng còn thiếu. Cả thảy y nhận được từ lão bảy mươi lăm ngàn. Lão cho y thêm năm ngàn, đủ tám chục. Một món tiền kha khá, y đưa cả cho Hương Giang. Vài ngày sau, anh Đào tới chở y bằng chiếc xe Jeep nhà binh đưa y ra Ninh Hòa, giao cho thầy Viễn, hiệu trưởng trường Trung học đệ nhị cấp Trần Quý Cáp. Y sẽ làm cai trường ở đây, thay thế cho ông cai trường cũ phải về Quy Nhơn chăm sóc mẹ già.

Y lại có được một căn phòng nhỏ, nằm ở ngay sau dãy nhà kho của nhà trường sát phòng thí nghiệm.

Hương Giang phải xa chồng, nàng chẳng nói năng gì. Thời buổi loạn lạc, khó khăn, kiếm được việc làm thế là tốt rồi.

Y chấp nhận cuộc sống cơm niêu nước lọ. Chiều thứ bảy, thầy Viễn thuê một người trông coi trường, cho y về Nha Trang thăm vợ con. Chiều chủ nhật, y bới thêm chút thức ăn khô đủ cho cả tuần, được vợ chuẩn bị sẵn, trở lại ngôi trường bên bờ sông Dinh.

Ninh Hòa là một huyện của Khánh Hòa. Tên gọi trong sử sách xa xưa là phủ Bình Khang. Dải đất không xa biển nhưng nằm trên trục đường thiên lý Bắc Nam. Một ngả rẽ về hướng tây lên Buôn Ma Thuật, qua con đèo Phượng Hoàng hiểm trở.

Từ ngày vào Việt Nam, người Mỹ đã đổ tiền của khá nhiều để hiện đại hóa các con đường quốc lộ huyết mạch lên các vùng chiến thuật, phục vụ chiến tranh. Đường 21 nối từ Ninh Hòa đi Buôn Ma Thuật được rải nhựa. Xe tăng M113 chạy từng đoàn trên đường không có vệt sụt lún. Du kích, biệt động đã nhiều lần gài mìn chống tăng, nhưng mìn nổ, xe đứt xích, con đường chỉ khoét sâu như một ổ gà to bằng chiếc nón.

Những ngày làm cai trường, y buồn như trấu cắn. Vào những ngày đi học còn có đám trò chạy nhảy, hò hét. Các giáo sư đi lại, lên lớp... Họ hầu như không để ý tới một anh cai trường còn trẻ có họ hàng xa với thầy hiệu trưởng, nghiêm khắc và khó tính. Những đứa học trò nghịch ngợm, hay cúp cua cũng sợ y một phép. Cứ đến giờ vào lớp, y cầm cây dùi gõ thẳng cánh vào mặt trống căng. Tiếng trống âm vang trong khoảng sân trường phủ rợp bóng lá bàng, lá phượng vĩ lên xanh sau những trận mưa xuân. Quãng từ năm giờ chiều trở đi, học trò về nhà, khuôn viên trường chỉ còn lại y và vài chị lao công dọn nhà vệ sinh, quét rác...

Bẩy giờ tối, sân trường vắng bóng người. Y lủi thủi một mình với chiếc bếp dầu, nồi cơm và ngọn đèn điện đỏ quạch treo lơ lửng giữa trần nhà, uể oải nhai bát cơm với vài ba lát cá thu vợ rim khô mang theo từ nhà. Y bứt thêm vài cọng rau lang ở ngoài vườn nấu bát canh ăn cho đỡ xót ruột. Âm thanh duy nhất là tiếng radio của đài Sài Gòn. Y mở công khai cho có tiếng người và suy luận qua bản tin chiến sự để biết cả phía ta và phía quân Ngụy. Y trở thành nhà phân tích không công và tự thưởng cho những suy đoán của mình bằng một ấm trà Blao và điếu thuốc Ruby mua lẻ ở quán đầu phố.

Từ quãng 9 giờ tối trở đi. Ngoài con đường lộ đã vắng bóng người. Lâu lâu chỉ có tiếng xe quân cảnh rú còi đi tuần đêm. Y tắt đèn, nằm im trong bóng tối, cắm chiếc tai nghe nhỏ xíu vào hai tai và mở đại Hà Nội. Khi tiếng nhạc hiệu hùng tráng vang lên: “Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa”', y lại rơi vào trạng thái hồi hộp, nao nức rộn rằng. Chiếc tai nghe cũ, lem nhem dính dầu mỡ, Hương Giang đã mua một chiếc dây tai nghe mới. Nàng muốn thay cả chiếc National ba pin đại nặng nề. Y không chịu và bảo:

- Còn nghe tốt chán em à! Vả lại - Y nói vào tai nàng -Đó còn là vật kỷ niệm những ngày vợ chồng ta ở Huế.

Nàng im lặng, quay mặt về phía y nhẹ như một làn gió thơm hôn lên môi y. Ở phía giường bên, con Bông đang ngủ. Y và nàng ôm nhau, say trong niềm hạnh phúc. Nàng gạ y:

- Mấy chị ở chợ cứ khuyên em nên đẻ thêm thằng con trai. Anh tính sao?

Y phì cười:

- Biết trai hay gái! Con nào chả được. Đang lúc khó khăn như ri. Em chạy chợ hàng ngày, lo kiếm ăn, có thêm đứa nhỏ cực lắm em à... Để vài năm nữa rồi tính.

Hương Giang trả lời y bằng một nụ hôn dài. Mãi sau nàng bảo:

- Em cũng nghĩ vậy.

Bây giờ y nằm đầy trong căn phòng trống vắng, có chiếc đài và nghe những bản tin của đài Hà Nội càng thấy việc hai vợ chồng chậm có con là có lý.

Tháng Ba với y thật có ý nghĩa.

Đài Hà Nội đưa tin: Ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ đội quân giải phóng tấn công Buôn Ma Thuật.

Đêm 11 tháng 3 năm 1975, một lực lượng quân giải phóng phối hợp với bội đội địa phương Thừa Thiên đồng loạt tấn công vào các chi khu quân Ngụy ở Phong Quảng Điền, Hương Thủy, Phú Lộc. Bộ đội Trung đoàn 2, Binh đoàn Hương Giang phá vỡ phòng tuyến quân Ngụy ở bình độ 28, đánh chiếm cầu Dài... Bộ đội E8 Quảng Trị tấn công các đơn vị thuộc Lữ đoàn Thủy quân lục chiến ở phía Bắc... Chỉ nghe tới những địa danh vùng Bắc Huế, những tên ấp, tên xã nơi y đã từng in dấu chân, đổ máu... Trái tim y đã rạo rực, ứ nghẹn...
Mấy đêm liền, y không ngủ. Con đường lộ chạy lên ngả Dục Mỹ, đèo Phượng Hoàng, xe cơ giới chở quân, xe M113 chạy suốt đêm... Và cái tin mặt trận Buôn Ma Thuật vỡ, Sư đoàn 23 Ngụy được lệnh tháo chạy khỏi Tây Nguyên, chỉ một đêm đã loang ra trong binh lính và dân chúng vùng Ninh Hòa, Nha Trang. Người dân đi “chạy loạn” từ các nơi, đi trên các chuyến xe đò, xe nhà chở theo va li, hòm xiểng tấp nập đi qua thị trấn đổ về Nha Trang mỗi ngày một đông.

Ngày 14 tháng 3 năm 1975, đài Sài Gòn đưa tin, Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng Nam Việt Trần Thiện Khiêm, tướng Cao Văn Viên bay từ Sài Gòn ra Cam Ranh gặp tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Vùng 2 quyết định bỏ ngỏ Tây Nguyên, thu quân về giữ tuyến đồng bằng ven biển.

Vào những ngày cuối tháng Ba, trên các tuyến đường huyết mạch, đường quốc lộ 1, đường 21, đường 19 và cả con đường 7 lên Tây Nguyên đã bỏ quên từ lâu, náo loạn các chuyến xe quân sự đổ về hướng biển, đi qua thị trấn Ninh Hòa. Trong khuôn viên của trường Trần Quý Cáp, thầy trò ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra, giờ học bị cắt ngang giữa chừng bởi tiếng ồn của xe pháo, của những chiếc máy bay phản lực A37 rít trên đầu. Từng đoàn trực thăng đi tiếp vận, chở quân di tản...

Buổi chiều ngày 30 tháng 3, thầy Viễn, hiệu trưởng xuống phòng trực của y, mặt hốt hoảng.

- Loạn thật rồi, “thầy”... ạ. Dù có chuyện chi thì thầy cũng cố gắng bám trường nghe... Các thầy cô ở đây trông cả vào thầy. Mai mốt yên, còn có chỗ cho học trò về học lại.

Đấy cũng là lời nói cuối cùng của thầy giáo Viễn với y.

Từ ngày ấy, y không còn có dịp nào gặp lại thầy nữa.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 01:51:10 pm
23

Tập Cogido thứ bẩy của cha tôi gần như để giấy trắng tinh.

Tôi chỉ thấy cha tôi ở mỗi đoạn ngắn ghi vỏn vẹn có đúng mấy câu.

Trại N.Đ, Tuy Hòa, Phú Yên, 3. 75.

Sao lại có mặt thằng Ca ở đây? Hắn ở F324 sao bây giờ lại là lính F10, Tây Nguyên. Hắn đã nhận ra y. Và lập tức người ta đưa y vào phòng giam chung với mười mấy viên sĩ quan của Sư đoàn 23 Ngụy tháo chạy từ Buôn Mê Thuột về Nha Trang qua ngả đèo Phượng Hoàng thì bị bộ đội quân giải phóng bắt. Tất cả bị nhốt chung trong gian phòng của thầy hiệu trưởng Viễn.

Y vẫn còn nghe rõ giọng một người lính dặn lại người đến gác sau. “Coi chừng nghe! Trong đám này có một thằng mặc áo dân sự, tay ôm chiếc máy chữ. Nghe đồng chí Ca báo cáo nó là thằng chiêu hồi đó. Chưa biết chừng là mật vụ...”
.

Ở một đoạn khác cha tôi viết:

Trại N.Đ, Tuy Hòa, Phú Yên, 6.76.

Y đã khai cả chục lần, vẫn những lời khai ấy, rất trung thực. Những tờ khai của y đã đi đến đâu, không biết. Y sẽ không bao giờ được biết. Y luôn tự hỏi, liệu những cán bộ quản giáo của trại có tin lời y?

Cuộc sống mỗi ngày có vẻ như dễ thở hơn. Vẫn đói, thèm đủ thứ. Hàng ngày nhai cơm độn sắn khoai, có bữa ăn hạt bo bo với chút cá mắm. Rau của trại trồng được nên không thiếu. Lâu lâu, y và Hai Tập, bác Khánh được phân công vô rừng chặt củi, kiếm được con cua đá, con ốc mang về cải thiện.

Đã nhận được thư và tin tức của em và con.

Hàng đêm chỉ cầu trời khấn Phật một điều: Mong hai mẹ con khỏe mạnh.

Và mong một ngày về.


Trại N.Đ Tuy Hòa 8.76

Lạy trời, mẹ vẫn còn sống. Sao mẹ lại vào được tới Nha Trang để tìm con hả mẹ?

Cả đêm không ngủ. Vừa mừng, vừa lo cho mẹ, cho vợ con y. Nước mắt ứa ra.


Trại N.Đ, tháng 12

Lúc nào khó khăn, cuộc đời cùng cực, y lại nhớ lời ông Sáu.

“Dù cuộc sống có ra răng, nhưng là người lính không thể gục ngã. Hãy tin ở con người, cháu à!”.

Ngày ông mất, y không thể về để quỳ trước nấm mộ ông lạy tạ. Y chỉ muốn thưa với ông một điều rằng: Ông đã tái sinh ra con lần thứ hai. Nếu ông không nhặt được con ở trong ruộng mía, và ông không cho Hương Giang đến với con, thì cuộc đời con sẽ ra sao ?



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 01:53:24 pm
24

Tập vở Cogido thứ năm khá đặc biệt so với những tập khác. Hầu như những dòng chữ trong tập vở này chỉ độc có một nét chữ của mẹ tôi. Bà ghi từng mẩu, từng đoạn, có chỗ đề ngày tháng. Có chỗ chẳng có ngày tháng, dường như bà ghi để tâm tình với cha tôi, để nhớ lại những sự việc đã diễn ra sau ngày thành phố Nha Trang được giải phóng. Đấy là thời gian cha tôi cùng với nhiều người khác (từng một thời đi lính cho chế độ cũ) bị chính quyền cách mạng đưa đi học tập cải tạo. Lần theo lịch sử, năm tháng của đất nước, tôi hiểu vậy.

N.T...Tháng 9

Dấu yêu ạ!

Anh đã đi vừa tròn 4 tháng.

Mẹ con em không nhận được tin tức gì. Không một dòng thư từ. Không một lời nhắn gửi. Em không dám trách anh một lời. Trách chi được? Biết giờ này anh sống chết ra sao? Anh ở đâu em cũng không rõ. Ngày nào ở ngoài chợ, hay vào trong phố gặp người có chồng ra trình diện theo lệnh của ủy ban quân quản, có cùng cảnh ngộ như em, chuyện trò dò hỏi nhưng dường như họ đều không nhận được tin tức gì của người thân. Anh Đào con trai bác Đạo; anh Hiền, chồng Ly cũng đi tập trung học tập từ ngày rời nhà, cũng bặt vô âm tín. Bác Đạo ở nhà cũng lo bạc mặt, nhưng mải lo cơm áo cho đám con hàng ngày cũng chẳng biết kêu ai. Nhiều đêm đợi đám trẻ ngủ yên, bác Đạo gái, em, Ly ngồi trong gian nhà bếp nhìn nhau, chả biết nói chuyện gì nhưng trong thâm tâm mỗi người đều suy đoán về con, về chồng mình. Biết hỏi ai đây?

Anh còn không biết chuyện này trong những ngày Nha Trang hoảng loạn. Mọi người lo chiến sự nổ ra. Đám quân lính Cộng hòa bỏ đơn vị tháo chạy khỏi thành phố, có người cởi áo lính mặc đồ dân sự lẫn vào dòng người di tản. Ai cũng sợ bộ đội giải phóng tràn vào gây đổ máu như dạo Mậu Thân. Cả thành phố như một phiên chợ chiều, trời sắp nổi cơn giông. Người từ Tuy Hòa, Bình Định, có người từ ngoài Quảng Ngãi, Đà Nẵng, người ở các vùng quê Vạn Giã, Ninh Hòa, người trên Buôn Mê Thuột tràn xuống... Tất cả đều tay xách nách mang, va li, hòm xiểng, túi đựng vật dụng áo quần tìm đường tháo chạy. Em đưa con theo gia đình bác Đạo chạy vô được đến Cam Ranh lánh nạn. Cả gia đình chỉ kịp mang theo chút tiền bạc, áo quần và mấy thứ đồ khô để cho tụi con nít ăn dọc đường.

Nhà cửa khóa trái, không kịp gửi hàng xóm. Ai cũng sợ hãi, mạnh ai nấy đi. Đi đâu không cần biết, miễn là tránh được bom đạn. Nghe đài Sài Gòn đưa tin: Quân ông Thiệu quyết tử thủ ở Đà Nẵng. Rồi Đà Nẵng cũng vỡ. Tử thủ ở Buôn Mê Thuật. Buôn Mê Thuật cũng tan hoang. Rồi lại tử thủ ở Phan Rang, lấy Thành Sơn làm vành đai phòng thủ... Rút cục quân tướng, xe pháo cũng bỏ chạy tuốt luốt. Hôm vô Cam Ranh em chỉ kịp bế theo con Bông, ôm theo túi áo quần lao lên chiếc xe Jeep của một người bạn, nghe nói là bạn chồng Ly từ phi trường Nha Trang ra chở giúp gia đình bác Đạo. Xe nhỏ, người đông, 5, 6 đứa con nít ngồi chật cứng trong chiếc thùng xe ngột ngạt đầy mùi xăng. Tất cả mọi người đều cắn răng chịu đựng để đi cho hết quãng đường hơn 60 cây số nhưng đến Cam Ranh thì chiếc xe không chạy được nữa. Bị bể lốp trước. Tất cả mọi người đều phải xuống xe tạt vào một nhà dân ven đường xin nước uống. Đám trẻ con đi vệ sinh... Đến lúc mọi người quay trở lại chiếc xe Jeep, người lái xe là một viên hạ sĩ quan cũng đã biến mất. Anh ta hoảng loạn mà cũng có thể, trong lúc chạy “giặc” lo thân mình trước đã. Bác Đạo có chiếc tay nải bên trong giấu mấy lượng vàng, mấy chục ngàn đồng, ra tới xe, chiếc tay nải biến mất.

Ngày trở lại Nha Trang, nhìn căn nhà của bác Đạo, chúng em kinh hoàng không còn tin vào mắt mình. Ba bốn chiếc khoá US bị tháo bật tung. Cánh cổng sắt ở ngoài đường bị nậy long bản lề, đổ sập một bên. Trong vườn, cây cối bị chặt phá. Ngôi nhà lớn có mái bê tông, hai ba lớp cửa cũng bị mở tung. Kinh sợ hơn nữa, tất cả những đồ đạc gia dụng ở trong nhà có thể mang đi được như xoong, chảo, bát đĩa, áo quần... đều bị kẻ cắp lấy hết. Chiếc tủ thờ của hai bác đẹp là vậy, những chiếc lư đồng, bát nhang, đồ thờ cúng bằng đồng đều không cánh mà bay. Pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm, kẻ ác còn đang tâm bẻ gãy một bàn tay. Bác Đạo gái và em có dò hỏi mấy người hàng xóm ở kế bên, họ kể lại những câu chuyện hãi hùng về cảnh cướp phá không chỉ gia đình bác Đạo phải chịu. Nhiều gia đình khác trong lúc chạy di tản, không có người trông nhà cũng đều chung cảnh ngộ. Trong lúc bộ đội giải phóng chưa kịp vô thành phố, người tứ xứ đổ về Nha Trang, kẻ tìm tàu bè, người vô phi trường tìm phi cơ để thoát cho nhanh. Vào lúc hỗn loạn, một số thương phế binh Ngụy ở tá túc nhiều năm nay dưới chân Hòn Chồng, Núi Sạn, ngoài bãi biển... cùng với đám thanh niên du thủ du thực trong các xóm ấp thấy nhà vắng chủ, nhân cơ hội bẻ khóa vào cướp phá, hôi của. Chỉ đến khi bộ đội giải phóng vào tiếp quản thành phố, thành lập đội quân quản, các tổ tự vệ ở phường khóm được thành lập, tình hình an ninh trật tự mới tạm yên.

Anh có biết không? Trưởng khóm của ta bây giờ là anh Khật, cái anh Khật chân đi cà nhắc vẫn đạp xích lô chở khách ở dưới chân Tháp Bà, hoá ra là người của “mặt trận”. Còn ông trưởng phường bây giờ anh có biết là ai không? Thầy giáo Tư Liên đó. Thầy dạy toán cho em Thi, con gái bác Đạo. Ông thầy giáo Liên có bộ mặt hiền hiền, ngó bộ lù đù vậy mà là V.C nằm vùng.

Anh à, em nghĩ thế này có phải không? Chuyện của anh ấy mà. Giá như mấy ông có hỏi, anh cứ khai thật. Lúc anh ở thành phố đã có lần quay rô-nê-ô truyền đơn cho mặt trận giải phóng. Mấy anh ở trên núi nhờ... Biết đầu mấy ông thương tình cho về sớm.

À em kể chuyện ni anh nghe. Con Bông mấy hôm nay bị đau nằm ở nhà. Nó theo chị Thi ra ngoài xóm chơi đùa. Mấy đứa trẻ nhỏ trong xóm tức hai chị em chuyện chi đó đẩy cả con Thi, con Bông ngã vào hàng rào xương rồng nhà mụ Chà. Cả hai đứa đau khóc thét. Mông dính đầy gai xương rồng, chảy máu. Hai chị em chạy về mách người lớn. Nửa đêm con Bông thức giấc, lay em hỏi.

- Cha đâu hả mẹ?

Em ứ tim. Nước mắt trào ra. Không biết nói sao.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 01:57:05 pm
*
*        *

N.T tháng 10

Dấu yêu ạ!

Hôm nay bác Đạo cho cả nhà được ăn một bữa no thả phanh. Anh có biết ăn chi không? Em trổ tài nấu món bún bò giò heo Huế. Vất vả lắm mới mua được chiếc chân giò của một chị mang từ ngoài Ninh Hòa vào. Thịt không còn tươi. Nghe chị ta khoe, con heo năm chục ký giết từ trưa hôm qua. Gia đình giữ lại một phần thịt để làm Chạp. Heo phải giết chui, cả gia đình không dám ăn hết chỉ giữ lại một chân, bộ lòng, cái thủ để làm mấy mâm cơm mời bà con họ hàng. Phần thịt còn lại đem bán. Bán thịt heo cũng phải giấu, sợ mấy ông thuế vụ bắt. Ở thành phố bây giờ giá cả cái chi cũng mắc. Gạo thịt bán cho những người được làm việc cho nhà nước theo tem phiếu. Cá biển cũng bán theo tem phiếu... Còn những người “tự do” việc mua bán gạo, thực phẩm đều trông cả ngoài chợ. Nhiều mặt hàng khan hiếm phải bán chui. Có tiền chưa chắc đã mua được.

Bác Đạo mấy hôm nay buồn lắm. Em Ly viết đơn đi xin việc mấy nơi đều không ai nhận. Ly gọi em bằng cô nhưng nó chỉ thua em có vài tuổi. Hai cô cháu xem nhau như bạn bè. Ly giỏi tiếng Anh, ngày học ở trường nữ trung học Huyền Trân năm nào chả mang phần thưởng về khoe với cả nhà. Chuyện Ly không xin được việc, bác Đạo hỏi, nó nín thinh không trả lời. Chờ tới lúc chỉ còn hai cô cháu, em tỉ tê, Ly mới nói:

- Họ biểu cháu làm thông dịch viên cho người Mỹ. Đã làm việc cho Mỹ tức là xấu. Cháu có nói rằng ông người Mỹ ấy là bác sĩ chữa bệnh ở Nhà thương Chẩn y viện Hòn Chồng! Họ đâu có chịu... Họ nói lại với cháu nghe mà đau lòng. Ai biết ông bác sĩ ấy là bác sĩ thiệt hay là CIA. Còn chồng cháu, anh Hiền đi lính... Lại là lính tử thủ Đô thành. Ai dám nhận cháu làm việc trong cơ quan nhà nước.

Ly nhìn em, mặt buồn rười rượi.

Em chỉ khuyên nó một câu:

- Ly à! Mình là người có học, con nhà tử tế. Cả cô cháu mình đều còn trẻ. Việc của chồng cháu, chồng cháu chịu tội với cách mạng. Ta bị ảnh hưởng là tất nhiên. Cảnh cô cũng như cháu thôi. Nhưng cháu phải hiểu điều này, mẹ cháu, cô và các em cháu chúng nó còn nhỏ, chẳng có tội tình gì. Cả nhà ta trong lúc khó khăn này phải ôm lấy nhau mà sống... Chỉ riêng việc cháu kiên quyết không chịu nghe lời thằng Hiền, không nghe lời ông bác sĩ người Mỹ chạy vô Sài Gòn xuống tàu di tản. Cháu dám cãi lại họ, cô đã chịu cháu rồi.

Anh có biết Ly đã nói gì với ông bác sĩ người Mỹ hôm ông ta đến nhà khuyên nó đi di tản hay không? Con Ly đã nói như ri: “Mong ông thông cảm. Em là người làm công cho ông. Ông trả lương cho em. Điều ông khuyên nhủ em thiệt lòng biết ơn... Nhưng em là người Việt Nam. Chồng em đang sống chết ra sao chưa biết. Mẹ và các em em còn đang ở đây. Em không thể theo ông xuống tàu. Dù em có sống hay chết. Vui hay buồn. Sướng hay khổ. Em cũng đã từng nhìn thấy V.C... Em chấp nhận ở lại... Đây là quê hương em, ông à”.
Bây giờ nhìn Ly một nách nuôi đứa con nhỏ, mỗi bữa nấu cơm nó đổ thêm nhiều nước để lấy chút nước cơm hòa với sữa cho con ăn... em ứa nước mắt. May mà con nhỏ còn giữ được chút tiền nuôi con, bù đắp cho bác Đạo bữa ăn hàng ngày.

Quên, em chưa kể cho anh nghe chuyện này. Lý do có được bữa bún bò là bởi bác Đạo đã quyết bán đi bộ ngựa bằng gỗ lim. Hẳn anh còn nhớ bộ ngựa ấy. Thớt gỗ dày cả gang, sáu người khiêng còn vất vả. Người mua bộ ngựa là một chú cán bộ quê ở Diên Khánh tập kết trở về, nay làm việc ở Nha Trang. Chú cán bộ mua bộ ngựa chỉ có hơn hai chục đồng bạc. Bác Đạo trù tính món tiền ấy ăn xèn cũng được gần hai tháng, đủ mua gạo mắm qua ngày.

Em không dám khuyên bác Đạo điều gì. Em và con Bông từ ngày chạy loạn trở về cũng đang sống bám vào bác Đạo. Em vẫn ở trong gian nhà kho phía sau nhà bếp. Gian nhà chật chội nhưng hai mẹ con vẫn còn có chỗ chui ra chui vào tránh mưa nắng.

Tấm phản ở nhà bác Đạo anh có một kỷ niệm, nhớ không? Đêm đầu tiên em đón anh ở ngoài Giã trở về, bác Đạo đã cho anh ngủ trên tấm phản ấy... Em đang mang bầu con Bông. Đêm, em lên đắp tấm chăn mỏng cho anh, nhìn anh nằm co ro trên tấm phản. Vợ chồng lâu ngày không gặp muốn nằm bên nhau tâm sự, đành chịu.


*
*         *

N.T tháng 5

Dấu yêu ạ!

Có chị Ba Hiệp buôn cá ở chợ Mới đi ra ngoài Phú Yên về báo tin cho em hay. Bây giờ em biết được chính xác chồng mình vẫn an lành. Anh vẫn khỏe mạnh. Thế là tốt lắm rồi. Nói như cha em: ơn Chúa! Còn nói như mẹ em ngày bà còn sống: Lạy Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn đã phù hộ cho chồng con, cho cả gia đình con tai qua nạn khỏi trong cơn hoạn nạn này!

Bác Đạo cũng mừng biết tin anh Đào vẫn ổn. Anh chỉ là sĩ quan huấn luyện, những năm trong quân ngũ làm việc bàn giấy. Nhưng vì anh Đào là sỹ quan được đào tạo trong trường Thủ Đức, ăn lương cấp úy hẳn là quan trọng nên việc học tập sẽ kéo dài. Còn chồng Ly, phức tạp hơn. Nghe nói trong những ngày nó chạy vô Sài Gòn cùng với một tiểu đoàn lính từ Nha Trang được bổ sung cho đơn vị làm nhiệm vụ tử thủ Đô thành nên Hiền phải đưa đi xa. Đến nay chưa có tin tức gì. Ôi trời, quân lính ông Thiệu dù có ở quân đoàn nào, chủ lực hay địa phương quân, lính dù, thủy quân lục chiến, biệt động... tử thủ hay không tử thủ cũng đều thua trận. Và bây giờ anh nào cũng phải ra trình diện đầu thú, đi học tập, cải tạo... Chính sách của Mặt trận là như vậy... Anh à, em đã thấy có người được về, phần đông là lính địa phương, không có chức vụ gì, không gây tội ác... Nhiều người đồn đoán rằng các cấp chỉ huy, sĩ quan ăn lương sẽ phải đi học tập lâu hơn. Em nghe tin anh ở ngoài trại Ngân Điền, một vùng rừng nào đấy ở miền tây Phú Yên, cũng gần anh nhỉ. Từ đây ra Phú Yên chỉ cần vượt qua đèo Cả là tới. Có điều kiện và được chính quyền cho phép em sẽ ra thăm anh. Chị Hiệp cũng nói rằng chị ấy sớm ra được gặp chồng là nhờ có ông bác ruột là bộ đội ở trên núi xin cho. Chị Hiệp kể: Các anh sống ở trại cải tạo chẳng khác nào như bộ đội. Hằng ngày phải vào rừng cắt tranh, chặt gỗ làm nhà cửa để ở. Cũng chia ra thành từng đội. Đội đi cuốc đất, đội nấu ăn, đội đi trồng sắn, trồng bắp, trồng rau... Gạo có chính phủ cấp, nghe bảo mỗi người được 13 kí
. “Có thật không anh?”. Hằng ngày người sống trong trại có buổi phải học chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng, có buổi đi làm theo kẻng. Còn nghe chị Hiệp nói, buổi sáng cứ 5 giờ kẻng khua vang, mấy anh và mấy ông cán bộ quản giáo đều trở dậy hò nhau tập thể dục. Rồi ăn sáng, đi làm. Chỉ tội không có tiền. Mà có tiền muốn ăn uống gì ở trong rừng cách xa dân, muốn mua cũng không có.

Thôi, chỉ cần nghe tin anh còn sống và khỏe là em đã mừng rồi.

Chuyện ở nhà, không có gì thay đổi. Thu, em Ly nhờ học y tế cộng đồng, vẫn phục vụ cho nhà thương của Hội giáo Tin Lành ngoài Đồng Đế. Nó vẫn có việc làm, nhưng họ không trả lương. Làm việc thiện cho nhà thờ, các cha lấy tiền đâu trả lương, có cơm ăn hàng ngày đã là tốt rồi. Em Thảo, em Thi đều nghỉ học. Các trường học đã mở cửa trở lại nhưng bác Đạo không muốn cho lũ trẻ đi học ngay vì nhiều lý do. Cơm gạo còn không có đủ ăn, lấy tiền đâu cho các em ăn học. Con Bông nhà mình năm nay bước vào lớp 1. Ở nhà các chị đã dạy cho con biết đọc, biết viết nhưng em vẫn chưa cho con đến trường. Cứ để cho nó nghỉ ở nhà một năm rồi tính sau, đợi tin tức của anh rồi em mới quyết định. Bác Đạo nấu cơm cho mấy chị em ăn ở nhà. Em hằng ngày chạy chợ. Ly, em Thảo nghĩ ra chuyện ở nhà làm chuối nướng, bổ thơm, cóc giao cho em Thi đi bán ở cổng trường tiểu học cho đám con nít kiếm thêm chút tiền để giúp mẹ. Mỗi khi Thi đi bán hàng, con Bông bám theo chị. Hai chị em đứng trước cổng trường chờ đám học trò ra chơi để bán cóc, bán thơm. Ly đã nghĩ ra một nghề mới, nó dạy tiếng Anh cho mấy đứa nhỏ đang học đệ nhị, đệ nhất cấp. Những đứa trẻ này phần lớn là con nhà giàu buôn bán, họ không di tản, vẫn cứ bám lại ở Nha Trang, tiếp tục mở cửa hàng. Nghe nói chính phủ đang chuẩn bị cải tạo các thành phần tiểu thương buôn bán... Nhiều người sợ. Nhưng họ có vàng, tiền của từ trước giấu kỹ. Họ chẳng dính dáng gì tới ngụy quân, ngụy quyền nên vẫn tiếp tục buôn bán, đời sống ổn định. Có người trở nên giàu có nhờ bán hàng quý hiếm còn cất giấu được cho mấy chú cán bộ, bộ đội mang về quê, đem ra Bắc. Anh à, thời bây giờ các thầy giáo, cô giáo chả mấy ai còn gọi họ là giáo sư đâu nghe! Tiếng thầy cô nghe bình dân hơn, phải không? Còn cấp tiểu học gọi là cấp 1. Đệ nhị là cấp 2. Đệ nhất là cấp 3.

Em hằng ngày ra chợ Đầm, bán hàng dưa mắm. Cái nhà tròn ở giữa chợ Đầm nức tiếng Nha Trang, đám lính ngụy rút chạy phá tanh bành, đốt trụi. Chính quyền cách mạng đang cho tu sửa lại. Chợ lại nhóm họp đông dần. Hóa ra món dưa chua, món mắm nêm em bán chung với một chị bạn có nhiều ngày đắt hàng. Cái món ăn dân dã tầm thường, tưởng ít người sài nhưng mấy chú bộ đội, mấy bà mấy cô đi tập kết về lại thích ăn. Họ bảo ngoài tê dưa cũng có nhưng “mần chi có mắm nêm!”. Bao năm tôi xa quê ăn đủ vị rồi nhưng chỉ thèm món mắm nêm.

Thảo rủ em:

- Cô Hai à, cô kiếm khuôn đổ bánh xèo, bánh bèo giao cho em Thi, bán ở cổng trường, khối đứa ăn.

Con Bông nghe chị Tư nói vậy hét lên:

- Cho em đi bán với!

Thi nạt em:

- Mi con nít biết chi?

Con Bông đáp nhỏn nhẻm:

- Em bưng ghế cho chị. Đứa nào chọc chị em chạy về méc mẹ.

Bác Đạo, em, Ly ngồi nghe đám con nít cãi nhau nhịn cười mà lòng đau xé ruột.

Ly bảo đám trẻ:

- Tụi bay mà đi bán hàng. E ăn hết cả vốn lẫn lời lấy chi mà bán cho khách.

Thi nghe chị nói gạ ngay:

- Nè chị Hai, tụi em bán bánh bèo, bánh hỏi, chị rủ mấy đứa học trò của chị ra ăn. Em bán rẻ cho.

Ly dí ngón tay vào trán cô em gái.

- Mi keo thấy mồ! Bán hàng ham rẻ lấy chi lời mà lấy tiền đong gạo cho mẹ.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 01:59:57 pm
*
*       *

Đêm nay trăng sáng. Buồn. Em dắt con Bông và Thi ra biển chơi. Ở ngoài phía Hòn Rùa, vầng trăng đang chồi lên to như một cái mâm, ửng hồng rồi chuyển dần sang màu vàng chanh. Mặt biển đang sẫm tối từng lúc hừng sáng. Mỗi lúc vầng trăng lên cao tỏa ánh sáng vàng rượi như rót mật xuống Hòn Chồng. Ngoài xa kia, dãy Hòn Tre xanh đen như một cánh buồm lớn vươn ra giữa đại dương. Nhớ những ngày đầu về Nha Trang ở nhờ nhà bác Đạo, có một đêm em đưa anh ra biển. Vợ chồng mình len lỏi trên con đường mòn giữa những vườn dừa tối om. Lúc ra tới ngoài bờ cát, anh đã chạy nhào ra biển, ngã vật xuống khiến em hoảng hồn, sợ chết khiếp, tưởng có chuyện gì.

Lúc ngồi bên anh, em hỏi.

- Anh sao vậy? Có chuyện chi à?

Anh nhìn về phía Bắc xa xôi một lúc lâu sau nói nhỏ:

- Đã lâu rồi anh mới gặp biển. Được úp mặt vào cát. Và uống ngụm nước biển mặn chát. Em có biết không, quê anh cũng có biển... Anh nghĩ, trong giọt nước mặn mòi của biển Nha Trang có vị muối của quê anh... Anh nhớ cha, nhớ mẹ, em à!

Em khóc. Và hôn anh. Vạt áo anh sũng nước. Mái tóc anh ướt nước.

Anh còn chỉ tay lên trời. Trên nền trời đêm xanh thẳm có những tảng mây đang trườn qua, che khuất ánh trăng. Anh bảo:

- Anh tin những đám mây kia đã bay qua làng anh.

Làng Lôi quê anh xứ mô? Em không biết. Và chưa biết đến chừng nào mới đến được quê chồng. Em chỉ mong có lấy được một lần về quê anh, được nhìn thấy cha mẹ đã sinh ra anh. Em cúi đầu lạy cha ba lạy, lạy mẹ ba lạy. Mong cha mẹ tha tội cho chúng mình.
Đất nước thống nhất hòa bình rồi. Anh lại đi xa. Mong ước nhỏ nhoi ấy của em chừng mô mới có được?

Mỗi lần gặp một người Bắc đi chợ vào quán mua dưa mắm, họ thấy em vui vẻ hay bắt chuyện. Em thường dò hỏi họ quê mô. Người nói quê ở Hà Nội, người ở Hà Nam Ninh, Nghệ Tĩnh. Người bảo quê ở Hà Sơn Bình, Hoàng Liên Sơn, Hải Hưng. Có người nói quê ở gần làng Lôi, chùa Keo, em đã thót tim. Trong người em như có luồng điện giật nhẹ. Họ còn vui vẻ kể cho em, chùa Keo được cụ Nguyễn Minh Không dựng nên từ một bè gỗ trên rừng trôi về. Bè gỗ lim trôi từ mạn ngược đến bờ sông đầu làng, dạt vào. Điềm trời cho làng Bồng Tiên có chùa, có tượng Phật thiêng. Chùa làm bằng toàn gỗ lim. Cả trăm gian chỉ ghép mộng không có một cái đinh. Người khách lạ kể cho em nghe câu chuyện về chùa Keo, đến đấy bật khen. “Các cụ ta xưa giỏi thật! Mà này, sao chị quen biết người quê tôi? Chồng chị à?... Người ấy chỉ vào em rồi nói - À, tôi biết rồi, chị lấy chồng người Bắc di cư. Ở đây có cả một vùng toàn người dân Ba Làng di cư từ Thanh Hóa vào... Hèn gì!”.

Em cười thấy nóng ran cả mặt mũi. Em đáp trí trá cho qua chuyện:

- Ngày trước có một chú bộ đội giải phóng về đánh trận ở làng tôi. Gia đình tôi quen sơ sơ.

- Vậy chú giải phóng ấy bây giờ ở đâu hả chị? Vị khách vồn vã hỏi tiếp.

Em đau đớn mà bịa ra rằng:

- Chú bộ đội giải phóng ấy hi sinh rồi.

Lúc người khách rời khỏi sạp hàng, em phải giấu đi những giọt nước mắt.

Và em nhớ anh.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 02:03:00 pm
25

Dấu yêu ạ!

Bác Đạo đến chợ mặt buồn so. Đồi mắt thẫn thờ, không còn thần sắc. Nhìn bác, em phát hoảng.

- Có chuyện chi vậy bác? Bác ăn uống chi chưa?

Bác Đạo bỏ chiếc nón xuống một góc sạp, kéo ghế ngồi.

- Cháu cho bác ly nước. Đi từ sáng đến chừ, khát khô cả cổ. Đói quá, bác vừa làm tô bún cá của dì Bẩy ở dưới gốc cây me.

Em rót đưa cho bác Đạo một ly trà đá. Nhìn gương mặt bác thấy lo trong bụng.

- Có chuyện chi vậy bác, kể cho cháu nghe với. Nhìn mặt bác phờ phạc, mệt mỏi, coi chừng kẻo ốm.

Bác Đạo nhìn em, đặt ly trà đá xuống chiếc sạp. Bác thở hắt ra:

- Cháu ơi, bác bán căn nhà rồi! Được một cây hai.

- Ai mua? Sao bảo bác cố giữ căn nhà đợi anh Đào trở về...

Bác Đạo nhìn em lắc đầu:

- Người mua căn nhà là cái ông cán bộ ở trường Thủy sản, bữa rày cháu có gặp một lần đó. Vợ chồng ông ta ra vô mấy lần, cứ nì nèo mãi, bớt lên bớt xuống, rồi kể khổ than phiền với bác. Nào là hai vợ chồng với mấy đứa con từ ngoài Bắc về quê. Nghe bảo họ bán đi hai cái xe đạp Điamăng, một cái đài Sương Mao, một cái giường rẻ quạt, được chưa tới một cây vàng. Chị vợ, người Thái Nguyên theo chồng về quê, nghe nói làm việc ở Nhà máy Gang Thép bán đi hoa tai, vòng nhẫn, đồng hồ Pôn-rốt, thêm mấy sấp vải mua bằng tem phiếu cũng chỉ được chưa tới hai chỉ vàng. Nghe họ than vãn, bác thấy thật tội nghiệp, đành gật đầu. Thôi chuyện nhà cửa của thằng Đào để tính sau. Đây này, bác Đạo nói với em, bác cầm của họ năm chỉ đặt cọc. Còn bẩy chỉ đến ngày giao nhà họ sẽ trả đủ. Bác mang theo đây một chỉ tìm cháu để trả nợ cho mụ Tư Hường, tháng trước túng quá nhờ cháu cầm cố vay trả lãi cho bà ta.

Bác Đạo mở chiếc bao vải lận trong lưng quần, rút ra đưa cho tôi một chỉ vàng bọc trong một miếng ni lông.

- Vàng 98 đó cháu. Bác đã vào tiệm vàng nhờ họ thử rồi. Vàng thiệt đó. Con mẹ chủ tiệm vàng lấy của bác mấy đồng tiền công. Tức thật, tiền vàng là của mình, chỉ nhờ họ thử, trả công hẳn hoi mà cũng phải trốn chui, trốn lủi như người đi ăn cắp.

Em nghĩ tiếc cho căn nhà của bác Đạo ở khe Đá Chẹt. Ngôi nhà to đẹp nằm trong khuôn viên rộng cả ngàn thước vuông nhìn thẳng ra bãi biển Hòn Chồng. Ngôi nhà ấy vợ chồng bác mua từ ngày chuyển từ Huế về Nha Trang sinh sống. Những ngày đầu vợ chồng mình lưu lạc từ Huế vô đây, cũng trú ngụ trong ngôi nhà ấy một thời gian. Sau ngày chạy di tản trở về, gian nhà mình thuê trước đây, chủ cũ đuổi. Từ ngày anh đi, em và con Bông lại quay trở về gian nhà kho ở phía sau vườn. Bây giờ bác Đạo bán nhà, chưa biết mẹ con em tính sao. Nghĩ vậy mà em không dám nói với bác.

Em bảo bác Đạo:

- Bác bán căn nhà rồi bác và các em ở chỗ mô?

Bác Đạo nhìn em nói rin rít trong kẽ răng, cái chất giọng Quảng Bình của bác đanh lại:

- Bác lên rừng sống cháu à... Bác đã nạp đơn lên phường xin với mấy ông cho đi kinh tế mới. Các ông nhận đơn, còn biểu dương gia đình bác thức thời, dám rời bỏ thành phố, bỏ nghề buôn bán để đi lao động...

- Chuyện bán nhà bác đã hỏi ý kiến của Ly, của em Thu, em Thảo chưa?

- Chúng nó không đồng ý cũng phải theo bác. Chín mẹ con bà cháu ở đây lấy chi cho vô miệng. Đi kinh tế mới mỗi ngày một người còn được họ cấp cho 3 lạng gạo. Nhà nước nuôi cơm cho 6 tháng. Các ông ở phường còn động viên bác, có khi thời gian cấp gạo còn được dài hơn, chỉ đến khi nào đồng bào có lúa mới, trồng được khoai mì trên rẫy nhà nước mới thôi cấp gạo. Họ còn bảo mỗi gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới, chính quyền sẽ cấp đất, dựng nhà. Thời buổi này có được miếng ăn, có được mái nhà che nắng, che mưa, chả sướng hơn ngồi ôm căn nhà rỗng, không còn cái gì để bán đem đi mua gạo mắm cho lũ trẻ ăn hả cháu? Chuyện con Ly cháu biết rồi, làm hàng chục cái đơn đi mô cũng không xin được việc. Họ biểu chồng đi lính Ngụy, đang cải tạo, dù có là công chức cũ cũng tạm chờ. Chờ, chờ ư? Biết đến bao giờ hả cháu. Con Thu làm việc ở nhà thương, nghe bảo nhà thương của giáo hội cũng sắp đóng cửa... Còn lại đám trẻ chúng nó đang tuổi ăn, tuổi lớn, hằng ngày không có cái gì cho vô bụng, nhìn con đói, cháu đói, bác không đành lòng. Bác nói thiệt với cháu. Nhiều lúc bác muốn chết mà không chết được. Bác trai bỏ mẹ con bác đi sớm. Chừ bác đi theo ông, đàn con cháu để ai nuôi. Thằng Đào, thằng Hiền chồng con Ly đang đi học tập cải tạo ở xa. Nghe chính sách thì nói vậy, nhưng biết đến chừng mô chúng mới được cho về để gánh vác đỡ đần cho bác... Nhìn ngay gương cháu thì biết. Chồng cháu cũng phải đi xa. Thật là nan giải!

Em hỏi bác Đạo:

- Bác đi kinh tế mới, bác biết chi việc làm ruộng, làm rẫy mà dám liều? Rồi ở trên rừng, còn tật bệnh, sốt rét?

Anh có biết bác Đạo trả lời em ra sao không? Bác giơ tay ra trước mặt em, rồi nói:

- Này cháu, bác còn hai bàn tay, chân bác còn cứng. Lạy trời Phật đừng bắt bác ốm đau bệnh tật. Bác sẽ học cách cuốc đất, lật cỏ, cày ruộng để có được hạt gạo nuôi bọn trẻ. Con Ly cũng bảo bác vậy. Nó nói câu này cháu nghe để bụng. “Má ơi, ở lại đất này nhục lắm. Năm trước mình lên xe xuống ngựa, kẻ rước người đưa, ra xóm vào ngõ người chào hỏi săn đón. Bây giờ gặp họ ngó lơ. Có người nhìn ánh mắt họ, biết họ khinh rẻ, chửi thầm mình trong bụng: “Đồ quen ăn bơ sữa thừa của Mỹ Ngụy, cho tụi bay chết!”. Thực ra mình có tội tình gì hả má? Cha đi làm công. Mẹ hưởng lương tử tuất. Con đi phiên dịch tiếng Anh cho ông bác sĩ chữa bệnh cứu người trước của nhà Chúa. Công chức chi con Thu. Nó đi tiêm thuốc, chăm sóc người bệnh... Chả lẽ những việc ấy đều là xấu cả sao”. Bác chỉ nói với con Ly rằng. Thời cách mạng mọi việc thuốc thang, chữa bệnh, ăn mặc, học hành... đều có nhà nước lo. Người cách mạng làm việc cho chính phủ từ ngoài miền Bắc vô, từ trên núi về, họ thiếu gì người tài giỏi. Thôi con à, trong nhà này giờ chỉ còn có mẹ, có con, con Thu là người lớn trong nhà. Các em con còn nhỏ dại đang tuổi chơi, tuổi học. Mọi việc có mấy mẹ con bàn bạc. Mẹ chỉ sợ sự lười biếng, các con ngày trước quen ăn uống no đủ, giờ ngại khô. Chớ mấy mẹ con ta có lên rừng hay xuống biển cùng đồng lòng, đồng sức thương yêu đùm bọc lấy nhau, chắc sẽ qua khỏi đận khó này.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 02:08:41 pm
Lúc em lên dãy hàng thịt trả lại cho bà Tư Hường chỉ vàng, trở về, bác Đạo đã đi rồi. Con Lô chuyên xách nước thuê cho mấy bà hàng cá, buổi trưa trông hộ hàng nằm chúi đầu vào góc sạp ngủ vùi. Vắng chủ, mấy con chuột cống ra nhặt những hạt cơm, hạt bắp rơi vãi. Bầy chuột ở chợ dạn dĩ đến nỗi có con leo lên cả người con Lô để bò qua kiếm mồi. Lũ chuột nhìn thấy em đi tới không hề sợ hãi, có con còn vểnh râu nhìn rồi mới bỏ chạy xuống gầm sạp.

Em nghĩ mà thương cho bác Đạo gái. Bác là người vợ thứ, quê mãi Quảng Bình. Chẳng hiểu duyên số nào đã đưa bác gặp được người bác họ vốn đẹp trai, phong tình ở phía bên mẹ em. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, vùng quê em nhiều người tham gia Vệ quốc đoàn. Ngày kinh thành Huế bị quân Pháp tấn công, bộ đội Cụ Hồ đã từng đốt cháy khách sạn Moranh bằng rơm và ớt bột. Tổ chức nhiều trận đánh tàu địch trên sông Hương. Các đồn bốt của giặc Pháp ở Phú Vàng, Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Điền nhiều đồn bị đốt cháy. Nhưng ngày ấy quân Pháp quá mạnh, bộ đội ta người ít, vũ khí thiếu thốn. Đến lúc mặt trận Huế vỡ, bộ đội phải rút lên chiến khu Hòa Mỹ, rồi rút ra ngoài Quảng Bình. Bác Đạo, người anh họ xa của mẹ em, theo như lời dì Bảy kể cho em nghe những ngày ở Huế thì bác ấy đã có vợ, được ông nội là một thầy đồ Nho cưới cho ở làng từ lúc còn đang di học tú tài. Một đám cưới to ở vùng Dưỡng Mông, Phú Vang. Đám cưới bác Đạo có ăn hỏi, có hôn thú, có rước dâu. Hàng trăm mâm cỗ cưới đãi quan viên hai họ. Nhưng đằng sau đêm tân hôn, động phòng là một cuộc mặc cả giữa ông phú hộ ở ngoại vi thành Huế có cô con gái “chưa chồng mà chửa” với ông đồ già có cậu con trai học giỏi nhưng gia đình nghèo khó. Cậu con trai mới 17 tuổi, nhà độc đinh. Ông đồ già muốn có cháu để nối dõi tông đường và cột chân anh con trai tính hay bay nhảy ở nhà với mấy mẫu ruộng và cô vợ con nhà giàu. Đám cưới của chàng thư sinh xứ Huế chưa được bao lâu, Cách mạng tháng Tám nổ ra. Kinh thành Huế long trời nổ đất trong đêm người dân kéo vào Đại Nội đòi vua Bảo Đại thoái vị. Lá cờ đỏ sao vàng bay trên đỉnh Ngọ Môn.

Chàng trai Lê Văn Đạo phẫn uất vì phải lấy một cô vợ nhiều hơn mình gần chục tuổi, lại đã trót mang bầu với kẻ khác. Nhân lúc giặc Pháp gây hấn, anh đã trốn nhà đi kháng chiến. Những năm Lê Văn Đạo làm anh lính Vệ quốc đoàn, được cách mạng giác ngộ, học tập, đi đó đi đây khắp các xứ, anh mau chóng trưởng thành. Đạo vốn cao to, đẹp trai, nổi tiếng hát hay, đàn giỏi. Người ta vẫn kể rằng thời còn nhỏ đi học ở Huế, Lê Văn Đạo đã từng ngồi cùng bàn với Nguyễn Chánh Thi, một vị tướng tương lai trong chế độ của Ngô Đình Diệm và của chế độ Thiệu -Kỳ sau này. Còn những ngày tham gia kháng chiến ở mặt trận Bình Trị Thiên khói lửa, Đạo cũng đã từng quen biết, thần phục các ông Thân Trọng Một, Khánh “lửa”,... là bạn cùng tổ trong đội văn nghệ với Phùng Quán, một nhà văn tương lai. Anh bộ đội Đạo đi biểu diễn văn nghệ qua nhiều làng ở Lệ Thủy, Ba Đồn, Cảnh Dương... Sau một đêm biểu diễn văn nghệ, quân dân đoàn kết, anh cũng được các o, các chị vây quanh mời ăn cháo vịt, mời về nhà nghỉ chân... Lửa gần rơm... Một cô gái bên dòng sông Kiến Giang đã trở thành người vợ chính thức của Đạo là vậy. Đám cưới thời chiến của một anh bộ đội vệ quốc đoàn với một cô gái nghèo vùng kháng chiến, nhà chỉ có một mẹ già, cha mất sớm, giản dị mà vui. Những người lính cùng tiểu đội với Đạo đã mua được một con chó. Bà con làng xóm góp gạo, thêm dăm ba con gà, vịt làm đủ mấy mâm để đãi khách. Buổi tối, đám thanh niên mừng đám cưới còn mang kẹo đậu phộng và vài bao thuốc lá sợi quấn tay ra đãi khách.

Những ngày sống trên đất Quảng Bình, Lê Văn Đạo đã có một tình yêu. Vợ chồng anh được sống những ngày trọn vẹn nghĩa vợ chồng. Những cô con gái nối đuôi nhau ra đời trong vòng tay thương mến của cha và mẹ. Cụ đồ ở quê xa, trong vùng tề nghe tin con trai lấy vợ thứ, bỏ mặc chị vợ cả ở nhà, tức nhưng đành chịu. Đã mấy lần cụ đồ gửi tin ra nói rằng mẹ ốm, rồi cha ốm. Đạo cũng sốt ruột muốn xin với cấp trên nhưng không được về thăm nhà. Rồi đến ngày đình chiến cũng là lúc bà cụ đồ ở làng bạo bệnh chết. Đạo được cấp trên cho về chịu tang mẹ. Nhìn cảnh cha già, con mọn, lại toàn là một đàn con gái, hai lần lấy vợ Lê Văn Đạo chưa có nổi một anh con trai chống gậy. Anh quyết định không đi tập kết, ở lại vùng tề.

Vào những năm 1960, sau những đợt tố cộng đẫm máu, Ngô Đình Diệm cũng cố hệ thống chính quyền trong vùng chiếm đóng từ cấp trung ương xuống địa phương. Những người từng tham gia kháng chiến, quy hồi, chịu hối cải đều được chính quyền họ Ngô xem xét cất nhắc cho làm việc. Lê Văn Đạo lại một lần đăng lính, nhưng là lính “quốc gia” với một mong muốn để có tiền nuôi vợ con. Nhưng vốn Đạo từng dính dáng tới những người kháng chiến cũ, nên anh cũng chỉ được cất nhắc tới chức thượng sĩ. Suốt mấy chục năm làm lính quốc gia Đạo không phải ra trận, chuyên giữ kho quân lương, khí cụ ở một đơn vị hậu cần.

Cuộc đời binh nghiệp đã dịch chuyển vợ chồng bác Đạo từ Vùng 1 sang Vùng 2 chiến thuật. Huế gần chiến tuyến, gần sông Bến Hải, vùng đất dữ dội và khốc liệt, cũng gần với bà vợ cả nanh nọc và hay đánh ghen. Gia đình bác Đạo đã chọn Nha Trang làm nơi sinh sống và nuôi dưỡng đàn con thơ dại. Ngoài các chị em gái, trời thương đã cho bác Đạo những cậu con trai để nối nghiệp cha. Đào - viên sĩ quan trẻ tốt nghiệp Trường Sĩ quan Thủ Đức là niềm hãnh diện của bác lúc về già.

Năm hạn 49 tuổi, bác Đạo được những người bác sĩ chẩn đoán ung thư.

Quân lực ở quân Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế đã cho bác nghỉ hưu sớm về nhà dưỡng bệnh. Ba năm sau bác Đạo qua đời...


*
*       *

Anh à! Về chuyện bán căn nhà của bác Đạo dưới khu Đá Chẹt nhìn thẳng ra Hòn Chồng. Ngôi nhà ấy hẳn anh còn nhớ. Ngôi nhà đúc lợp tôn nằm giữa khu vườn rộng thênh thang. Đám các em Thi, Thảo, Thu... nghe tin mẹ bán nhà đứa nào cũng khóc. Một cây hai vàng vào lúc này cũng đã là to, đánh đổi lấy một căn nhà cả một đời bác Đạo chắt chiu dành dụm xây cất kiên cố, nghĩ cũng tiếc. Ly là đứa có chồng, biết suy nghĩ, từng trải tâm sự với em:

- Chị Hai à, cụi muốn thay đổi cuộc đời. Ở lại đây nhìn cảnh cũ người xưa, chịu không nổi. Chị coi thử, đêm nào cũng ngồi học tập chính sách của Mặt trận, nghe mấy chú bội đội giảng giải. Họ nói nghe còn được, còn lọt tai. Nhưng đến lúc nghe mấy thằng cha ngày trước bán xăng nhớt, sửa xe cho em ngoài đầu đường nay ngồi lên chiếc ghế chủ tọa, đọc từng câu, từng chữ chưa thông... Em chán thấy mồ.

Em biểu Ly:

- Đi lên rừng thì khổ cực em à.

Ly vốn đẹp gái, nhu mì là vậy. Ấy thế mà nghe em nói nó trợn mắt lên và biểu:

- Nè chị Hai, thà em úp mặt vào núi, uống nước suối, cuốc đất tay chân lấm lem, còn thấy sướng hơn ở lại trong ngôi nhà này.

Mấy ngày sau bác Đạo gái có hỏi em.

- Gia đình bác đi kinh tế mới, về vùng Cổ Chi, mẹ con cháu có đi với bác không?

Em đã thưa với bác.

- Cháu và con Bông biết ơn bác và các em đã cho mẹ con cháu tá túc trong những ngày ở đây. Bây giờ cháu đang bán dưa muối qua ngày kiếm sống. Cháu xin với bác và các em cho cháu ở lại Nha Trang đợi tin tức chồng cháu. Cháu biết anh có tội với cách mạng nhưng cháu cũng tin đến một ngày cách mạng và những người tốt minh oan cho chồng cháu. Anh từng là bộ đội giải phóng, bác Đạo à. Giờ cháu mới dám thưa thiệt với bác. Chồng cháu không có tội. Bây chừ cách mạng chưa biết, đến một lúc họ sẽ biết, cháu tin vậy bác à.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 03 Tháng Năm, 2019, 02:12:16 pm
26

Dấu yêu ạ!

Khi em viết cho anh những dòng này, chính em còn chưa tin đó là sự thật.

Em đang bán hàng ở chợ, có người bên xóm Bóng sang nhắn tin qua một chị bạn hàng. Họ biểu em về gấp chùa Hưng Sơn, “có chuyện!”. Chuyện chi em không biết. Em không gặp trực tiếp người đưa tin. Em lo lắm, nghĩ ngay tới con Bông, phải chăng nó gặp tai nạn. Từ ngày mẹ con thím Đạo rời Nha Trang đi vùng kinh tế mới Cổ Chi, hai mẹ con em về tá túc ở chùa Hưng Sơn. Ngôi chùa đó anh cũng biết. Chùa nằm dựa lưng vào núi, cách nhà bác Đạo một đoạn đường, đi sâu vào trong xóm. Ngày rằm, mồng một em hay lên đây thắp hương lễ Phật. Sư cô trụ trì chùa tên Oanh. Cô trạc tuổi em nhưng đã xuống tóc đi tu từ khi mới 8 tuổi. Hơn 20 năm ăn nhờ của Phật, cô Oanh ăn chay tụng kinh trong chùa Bà Đá dưới Chụt hàng chục năm trời. Nhờ đức độ và chịu học hành tu luyện, sư cô Oanh nay đã được sư bà giao cho trông coi chùa Hưng Sơn.

Đứng về mặt họ hàng hên ngoại xa, cô Oanh còn phải gọi em bằng chị. Sư cô Oanh rất yêu quý con Bông. Những ngày em chạy chợ, ở chùa em gửi con Bông nhờ cô Oanh trông giùm. Con Bông tha thẩn chơi quanh chùa, nhặt những bông hoa đại cho vào lá, chơi đồ hàng đem bán cho những ông ngựa đá, nghê đá và bầy kiến đang leo cây.

Có một buổi chiều em mới đi chợ về, đang nhặt những con cá liệt, định nấu nồi canh ngọt cho con ăn, sư cô Oanh dắt con Bông xuống nhà và biểu em.

- Nè chị Hai, con nhỏ đang bảo em cắt tóc cho nó đi tu.

Em tròn mắt ngạc nhiên.

- Chuyện chi lạ vậy con?

Con Bông nói ngay:

- Mẹ ơi, mẹ cho con cắt tóc theo dì Oanh đi tu.

Em nghe mà tá hỏa tam tinh, quát con bé:

- Con điên à... Người đi tu hành có số kiếp Phật định mới được. Con tưởng đi tu dễ sao?

Con Bông nghe em quát, khóc òa ôm lấy sư cô Oanh.

Sư cô ôm con Bông vào lòng một hồi lâu, vỗ về con bé mãi nó mới nín. Một lúc sau sư cô Oanh bảo con Bông:

- Bông à, đi tu cực lắm con. Con có chịu nổi không?

Con Bông nghe nói vậy, quên cả chuyện tu hành, nó hỏi ngay dì Oanh:

- Dì à! Đi tu con có được ăn cá, ăn mực kia không?

Con bé chỉ tay vào những con cá liệt và những con mực em đã làm sạch để trong rổ định xào cho nó ăn cơm chiều.

Nghe nói vậy cả em và sư cô Oanh phì cười. Đúng là chuyện con nít.

Em về đến chùa Hưng Sơn trên chiếc xe đạp thồ của chú Kiền. Mới bước qua khỏi bậc tam cấp leo lên chùa, thoạt nhìn ngay trên chiếc ghế đá dưới gốc cây phượng đang nở những chùm hoa đỏ rực, em thấy một bà già đang ngồi trên ghế đá. Bên cạnh bà là một chiếc bị cói, nón lá để cạnh. Bà cụ đang vỗ về con Bông nằm ngủ say trong chiếc võng bạt treo dưới gốc cây trước cửa chùa.

Bà cụ thoạt nhìn thấy em, vụt đứng dậy. Và hỏi:

- Vậy chị có phải là vợ của thằng Đệ nhà tôi?

- Dạ vâng! Em đáp và như có một luồng điện giật nhẹ khắp cơ thể, linh cảm điều hệ trọng sắp xảy ra - Là con đây, vậy...

Bà cụ nói ngay.

- Mẹ là mẹ của thằng Đệ đây...! Con ơi... Cháu ơi... Bà nội của cháu đây.

Anh có ngạc nhiên không, khi mẹ lặn lội từ làng Lôi vào Huế, tìm thấy cha em ở làng Dương. Cha em đã cho mẹ địa chỉ này để tìm về Nha Trang gặp con, gặp cháu.

Hai mẹ con, mẹ chồng và nàng dâu, bà nội và đứa cháu lằn đầu tiên được gặp mặt nhau trên đất Nha Trang. Trời Phật có mắt anh à.
Sau lúc bình tâm, mẹ chỉ hỏi em một câu.

- Vậy anh Đệ đi đâu để hai mẹ con chị phải ăn nhờ ở đậu trong chùa như thế này?

Em phải thưa thật với mẹ rằng, anh đang bị bắt đi cải tạo ngoài Phú Yên. Mẹ không hề hỏi em lý do vì sao chuyện anh bị bắt. Tự nhiên bà bật lên câu chửi.

- Cha tiên sư bố nó! Đồ ác nhân, ác báo. Chỉ vì lời khai của thằng Ca khốn nạn mà làm khổ con bà. Hỡi ông ơi là ông, ở dưới suối vàng, ông sống khôn chết thiêng chứng giám nỗi oan khuất này của thằng Đệ. Ông hãy về đây mà cứu giúp nó.

Mẹ đã quỳ ngay xuống nền sân chùa lổn nhổn đá sỏi vái Phật.

- Lạy Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát, người trên trời cao soi sáng cho lòng con. Phù hộ cho con trai con qua khỏi kiếp nạn này.

Mẹ lui cui giở ra từ trong chiếc bị cói, lần một hồi qua mấy lần túi áo mới lấy ra được lá thư của cha viết gửi cho em, kèm theo lá thư còn có một mẩu giấy chỉ dẫn đường vô Nha Trang... Mẹ lại mở chiếc bao vải dài quấn quanh bụng giấu kín trong cạp quần đen lấy ra năm chục đồng bạc, tiền Cụ Hồ mới đổi, rồi bảo:

- Ông ngoại gửi cho hai mẹ con tiền tiêu. Ông bán đi chiếc xe Honda, đâu được trăm đồng bạc, gửi cho con, cho cháu. Khổ thân ông cụ, lúc mẹ đi còn cố dúi vào tay mẹ hai chục đồng bảo rằng biếu cụ để lấy tiền đi đường. Suốt dọc đường từ ngoài Huế vào đây, mẹ tiêu xẻn, đi đến đâu mẹ xin ăn bộ đội đến đấy. Các chú bộ đội đều thương. Họ hỏi mẹ: “Mẹ già như ri còn đi mô vô Nam, con cháu đâu không có người đi theo”. Con có biết mẹ trả lời các chú bộ đội ra sao không? Mẹ chỉ nói. “Con mẹ đi Bê từ “63”. Thống nhất rồi đến nay chưa về. Người bảo nó chết. Kẻ nói nó đi chiêu hồi theo giặc. Mẹ nhất quyết phải đi tìm con, hỏi cho ra nhẽ.” Các chú bộ đội nghe mẹ nói vậy chả chú nào nỡ lấy tiền. Cho đi nhờ xe, các chú còn cho mẹ ăn cơm, ăn lương khô con à.

Đêm đó, em để mẹ và con Bông ngủ trên chiếc giường, hai bà cháu ôm nhau nằm nói chuyện một lúc rồi con bé lăn ra ngủ. Kỳ lạ thật, con Bông không hề xa lạ với bà. Nó gọi tiếng bà thật dễ thương. Suốt bữa cơm, con bé chất vào bát bà cả một khúc cá thu to tướng, bắt bà ăn.

Ôi cái dòng máu làng Lôi nhà anh, em và sư cô Oanh nhìn hai bà cháu mà không cầm được nước mắt.



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 10:41:22 am
27

Vừa đúng 35 năm sau, tôi đã có dịp trở lại làng Cổ Chi. Người dân ở đây, nhất là những đám trẻ mới lớn lên đã quên dần cái tên làng cũ mà họ thường gọi bằng tên mới - Diên Tân.

Diên Tân vừa đẹp vừa mang ý nghĩa cho một vùng căn cứ kháng chiến cũ của tỉnh Khánh Hòa nay đã lên xã, thêm nhiều xóm ấp mới trù phú. Ngày trước, vùng cổ Chi chỉ có một xóm nhỏ mười mấy gia đình đồng bào Raglai sinh sống. Thêm một số hộ nông dân nghèo vào đây phát rẫy, tỉa lúa trên các dẻo đất ven suối. Chỉ đến khi vùng kinh tế mới Cổ Chi được xây dựng, dân số Diên Tân mới bùng phát. Người mới đến, chủ yếu dân thị thành, các gia đình có dính dấp tới chính quyền chế độ cũ, một số gia đình nghèo ở thành phố. Lớp người đi khai hoang mang theo vào vùng rừng núi chút văn minh đô thị. Một vài quán tạp hóa mở ra bán dầu đèn, hạt muối, cá khô, rau quả củ mua của đồng bào hái trên rẫy. Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, văn phòng Đảng ủy, các tổ chức quần chúng ra đời. Nhà tranh vách đất của cơ quan công quyền những ngày đầu cũng giống của dân. Trường tiểu học cho sắp trẻ từ lớp một đến lớp năm cũng chỉ là một dãy nhà dài, lợp tranh, thưng vách. Các thầy cô giáo được tăng cường, cơm đùm gạo bới lên bám lớp, vào từng nhà vận động các gia đình cho con em đi học. Trạm xá cũng định hình, chỉ là một ngôi nhà có ba gian, vách lồ ô.

Thuở ban đầu của khu kinh tế mới, bà con lên khai hoang lập ấp, nhà nước cấp gạo, mỗi người được nhận ba lạng gạo ăn cho một ngày. Trẻ con cũng vậy. Chỉ khác, người lớn cứ 6 giờ 30 phút sáng nghe tiếng kẻng khua vang đã mang cuốc, xẻng, dao, quang gánh ra đồng. Đám con nít chưa đến tuổi đi học, ở nhà với cha già, mẹ yếu trông coi. Những đứa trẻ lớn hơn một chút có thể làm việc giúp cha mẹ như: cuốc cỏ quanh nhà trồng rau, ra ngoài khe đá mò tôm cá... Dạo ấy, xóm ấp chưa có điện, chỉ đèn dầu, nhưng cứ dăm bẩy tối lại họp. Họp để nghe thông báo của huyện, xã, ấp phổ biến chính sách của nhà nước. Có buổi còn được nghe đọc báo để bà con hiểu thêm về tình hình thời sự.

Họp nhiều cũng có cái thú. Một ngọn đèn măng-xông thắp sáng cả một vùng. Bà con trong đội sản xuất tất bật đi làm cả ngày, tối về góp mặt trên khoảng sàn rộng vừa uống nước lá sâm núi, hút thuốc rê, rào rào nói chuyện thời tiết nông vụ trước khi vào họp. Đám con nít có cớ quần tụ bầy trò chơi, chí chóe cãi nhau, chửi lộn... Chỉ đến khi mấy anh du kích quát, chúng mới chịu yên để người lớn họp bàn công chuyện.

Tôi ngồi cạnh chị Thi trên chiếc Lacetti của hãng Chevrolet bốn chỗ chỉ có hai người. Chị Thi chăm chú điều khiển chiếc xe qua những khúc cua ngoặt... Tôi thả đầu óc mình về một thời xưa cũ, từng theo mẹ lên đây chào từ biệt gia đình bác Đạo để lên cao nguyên. Bây giờ trở lại vùng đất cũ, đi trên những con đường, nhìn từng chòm làng, mái núi như cuốn phim quay nhanh, đánh thức ký ức xa mờ tưởng đã vùi lấp trong tôi.

Con đường đất đỏ từ ngã ba về đến làng kinh tế mới ngày trước lầy lội vào mùa mưa, nhoe nhoét vết chân người lẫn với phân trâu bò, cỏ dại mọc hai bên đường, nay đã được trải nhựa. Có đoạn đường vào gần đến trung tâm xã còn đổ bê tông.

Chiếc xe của chị Thi chở tôi bon bon trên con đường liên xã, thưa vắng những chiếc xe hơi. Lâu lâu trên đường chỉ có những chiếc xe Honda xuôi ngược hoặc những chiếc xe ôm chở người đi chợ. Chợ của xã ngày nay đặt trên một bãi đất rộng. Trụ sở ủy ban nhân dân xã nay cũng đã xây mới, lợp ngói khang trang. Những tên đất cũ như khe Đá Mài, đập Cây Sung, suối Ông Cọp, hẻm Khe Lau... đã trở thành quá vãng. Khe nước nóng Đảnh Thạnh, một vùng đất ma thiêng nước độc, nơi căn cứ hoạt động của cách mạng nay trở thành một nhà máy, sản xuất nước khoáng nổi tiếng.

Trong kí ức của một đứa trẻ bẩy tuổi là tôi ngày ấy, theo mẹ lên núi đi thăm bác Đạo và các chị, tôi vừa háo hức, vừa sờ sợ. Háo hức vì được gặp lại chị Thi, chị Ly, chị Thu... Được các chị mua kem cho ăn. Tôi đâu có nghĩ được rằng ở cái xứ rừng đồi hẻo lánh, mấy chị lấy đâu ra cà-rem cho tôi ăn. Trong bữa cơm trưa đạm bạc ở nhà bác Đạo, tôi chỉ được ăn sắn luộc chấm muối vừng. Nồi cơm độn khoai chan canh măng rừng. Buổi chiều, tôi được theo mẹ ra ruộng coi bác Đạo xới lúa và chứng kiến cảnh chị Thi hét toáng lên vì thấy mấy con đỉa bám chân. Chị Thi lao vọt lên từ ruộng lúa chạy tới phía mẹ tôi la lên. “Đỉa, đỉa! Chị Hai ơi! Cứu em với.” Tôi nhìn thấy những con đỉa đeo vào cổ chân chị Thi, còn chị mặt xanh mét sợ bỏ chạy lên bờ cao. Nhìn thấy chị Thi bỏ chạy, tôi cũng lao theo chị mà chẳng biết vì sao. Mẹ tôi cũng sợ nhưng bà còn bình tĩnh hơn chúng tôi, lượm lấy cây que gạt từng con đỉa đang bám vào chân chị Thi. Có con đỉa rơi xuống đất đã mọng lên vì hút được máu. Chỗ chân bị cắn của chị Thi máu tuôn không ngớt. Bác Đạo đã quen với loài đỉa hút máu, bình tĩnh bứt một cọng cỏ cho vào miệng nhai, xoa vào vết đỉa cắn. Bác tới bên gốc cây lượm lấy gói vôi tôi giấu ở đấy, quết vào miếng giẻ cầm máu ở chân chị Thi. Lúc ấy, tôi thấy chị thật dũng cảm. Chị sợ đỉa, bị đỉa cắn nhưng chị không khóc. Bác Đạo lâu ngày mới gặp được mẹ con tôi lên chơi vui mừng khôn xiết. Bác và chị Thi xin với ông đội trưởng ở mảnh ruộng gần đó nghỉ về nhà sớm nấu cơm đãi khách. Đất rừng rộng rãi. Gia đình nhà bác Đạo được chia cả ngàn thước vuông. Bác và các chị còn chật cây phát rẫy ở trên sườn đồi để trồng thêm khoai sắn. Trong mảnh vườn trước nhà bác, những cây bầu, bí, mướp đã leo lên giàn nở đầy hoa vàng. Bầy ong rừng, ong đất bay về à à hút nhị hoa. Ngay trước cửa nhà là một thùng phuy xăng chứa nước. Nước ở vùng này sẵn. Giếng chỉ cần đào chưa tới chục sải là đã gặp được mạch nước sạch.

Bác Đạo thông báo cho mẹ tôi nhiều tin vui. Chị Ly lên đây được dân trong ấp tín nhiệm bầu là thôn phó. Thôn trưởng là chú Quyết, vốn là một trung sĩ Ngụy chỉ phải đi học tập cải tạo hơn một tháng là được về. Cũng bởi chú Quyết có người anh ruột nhẩy núi từ những năm 1963. Chú Quyết ở nhà trông coi mẹ già rồi bị đôn vào đơn vị lính nghĩa quân đóng chốt ở trong xã, trong huyện. Suốt mấy năm cầm súng, nhiều phen bị V.C đuổi cho re kèn, chú chưa bị thương lần nào. Những năm làm lính nghĩa quân, chú chả có điều tiếng gì với bà con. Khi vui, chú Quyết hay kể vài lần đụng độ với V.C, nhưng nghe V.C nổ súng, đám lính đã vứt súng bỏ chạy. Thậm chí có người trong đơn vị nghĩa quân còn là tay trong của đội biệt động, cán bộ du kích xã nằm vùng. Sau giải phóng, người anh của chú Quyết trở về, nay công tác ở tỉnh, xin với trên miễn cho chú Quyết phải đi cải tạo. Chú Quyết là dân trong xã, được cử làm trưởng thôn. Chị Ly là dân kinh tế mới có chữ nghĩa, thạo việc công văn giấy tờ, tính tình nhanh nhẹn hoạt bát được cử làm thôn phó. Chỉ sau vài tháng làm việc, chị Ly rất được mấy anh, mấy chú lãnh đạo ở xã tín nhiệm. Hầu như buổi họp thôn, họp đội trong hợp tác xã, chú Quyết cũng nói qua loa, đùn đẩy chị Ly phát biểu, truyền đạt chỉ thị của cấp trên. Chị Ly có giọng nói hay, có sức thuyết phục bà con trong thôn, trong ấp rất giỏi. Có một lần phổ biển chính sách thuế nông nghiệp, vận động nông dân vào hợp tác hóa ở Diên Tân, có một anh cán bộ của Ty nông nghiệp tỉnh về huyện kiểm tra, ngồi dự. Suốt một buổi tối nghe chị Ly báo cáo kết quả phong trào vận động nông dân trong xã xây dựng các tổ đội sản xuất, thông báo việc cày bừa, xuống giống cho vụ Đông Xuân... Anh cán bộ thốt lên.

- Chà! “Đồng chí” nói hay quá. Sau đợt này tôi sẽ về báo cáo với tỉnh mời “đồng chí” đi làm báo cáo viên.

Chị Ly nghe anh cán bộ nói với mình bằng từ “đồng chí” tự nhiên đỏ bừng mặt. Năm ấy chị Ly mới 26 tuổi, nổi tiếng đẹp gái trong vùng. Những ngày sống ở thành phố, chị nói tiếng Anh người Mỹ còn phải khen. Anh cán bộ vốn từ ngoài Bắc chuyển về, đâu có biết chị Ly từng phiên dịch cho bác sĩ người Mỹ. Chồng chị đang đi học tập cải tạo ở xa. Nếu anh ta biết sự thật ấy, sẽ nghĩ gì nhỉ?

Chị Thu con bác Đạo đang thất nghiệp lên đây có chân trong trạm xá xã, làm nhiệm vụ tiêm, chăm sóc bệnh nhân lúc ốm đau. Ngoài xuất gạo ăn hàng tháng mười ba kilôgam chị còn có suất đường, muối, thịt theo chuẩn của xã, tiền lương do huyện cấp. Chị Thảo có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học. Chị Ly với cương vị là người lãnh đạo của thôn sắp xếp cho cô em vào chân bán hàng ở cửa hàng hợp tác xã mua bán. Vào những năm ấy các cô bán hàng ở hợp tác xã còn oách hơn cả kỹ sư, bác sĩ, thầy giáo... Hàng hóa của nhà nước từ cây kim, sợi chỉ, đến hạt gạo, cân phân, tất thảy đều phân phối qua hợp tác xã mua bán. Về thu nhập kinh tế trong gia đình, chị Thảo tôi là khá nhất. Chị lo việc ăn cho cả nhà. Thêm suất gạo của chị Thu, chị Ly, thêm khoai sắn, tạm ổn. Gia đình bác Đạo lên đây, hộ khẩu chín người tất cả đều ăn chung một mâm, ở chung một nhà. Đất rừng đãi người. Gỗ, tre lồ ô vào rừng chặt. Tranh ra khỏi cửa nhà đã có. Bác Đạo bỏ tiền ra thuê nhân công là đồng bào dân tộc, người trong vùng để cày ruộng, chặt cây, dựng nhà, đốt rẫy. Người nông dân ở đây vốn tốt bụng. Họ sẵn lòng giúp đỡ bà con thành phố lên khai hoang, xây dựng đời sống mới. Bác Đạo thú thật với mẹ tôi, cây hai vàng bán nhà thành phố lên sinh sống ở vùng kinh tế mới bà đã phải bán đi năm chỉ để thuê người khai phá được mấy sào ruộng lúa nước. Một phần tiền còn lại bà mua gỗ, cất nhà. Chị Ly con còn nhỏ ở chung nhà với mẹ. Chị Thi đã bỏ học một năm ở thành phố, lên khu kinh tế mới, năm sau đã vào học lớp cuối của cấp 2. Chị Thi vốn học giỏi lại siêng năng, mới 15 tuổi đã ra dáng một thiếu nữ xinh đẹp. Mấy anh cán bộ đoàn ở xã muốn giúp đỡ chị để ở lại xây dựng phong trào. Ngày có bằng tốt nghiệp cấp 2, chị Thi bỏ ngang thi vào ngành sư phạm.

Suốt dọc đường lên Cổ Chi, chị Thi vừa lái xe, vui chuyện kể lại cho tôi nghe hành trình 35 năm của cuộc đời chị gắn bó với nghề dạy học. Chị chuyển vùng, chuyển trường cả chục lần. Có biết bao chuyện vui buồn trong nghề dạy học và buộc sống riêng tư. Gặp tôi sau nhiều năm, như thể chị trút bớt được nỗi muộn phiền. Bây giờ chị Thị đã nghỉ dạy chuyển sang làm quản lý. Chị nhớ lại từ lúc chị phải đi bộ bẩy cây số tới trường, nhịn ăn vài bữa trong một tuần ở kí túc xá để dành tiền đủ mua một vé tàu hỏa, hoặc mua vé đi xe ôtô từ Tuy Hòa về Nha Trang thăm mẹ và chị. Chị nhớ lại chuyện dắt tôi theo đi bán bánh, đưa tiền cho bác Đạo để mua gạo nấu cơm... Bây giờ chị lái xe ôtô chở tôi đi trên những ngả đường Nha Trang, ngồi quán uống cà phê, nghe khúc nhạc trầm buồn gợi nhớ của Trịnh Công Sơn. Con người kể cũng lạ! Chừng ấy năm có biết bao nhiêu đổi thay.

Chợt chị Thi bảo tôi:

- Chỉ còn hai năm nữa chị về hưu rồi.

Nói câu ấy vẻ mặt chị có vẻ buồn buồn. Tôi chọc chị cho vui:

- Chị nghỉ hưu về làm thơ à?

Hai chị em nhìn nhau cười vang.

Biển Nha Trang vẫn cồn cào những con sóng vỗ về đêm. Trên con đường Trần Phú đã không còn một bóng xe.

Thinh không im lặng.

Chỉ nghe tiếng sóng cần mẫn hôn lên bờ cát.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 10:43:27 am
28

Ngày nay những người cán bộ, chiến sĩ từng công tác ở Trại T52. Ngân Điền, làm nhiệm vụ trông coi, giam giữ những sĩ quan, binh lính Ngụy đi học tập cải tạo vào những năm 1976 - 1980 đang nghỉ hưu ở Tuy Hòa, Nha Trang vẫn còn nhớ tới câu chuyện này.

Ấy là một buổi chiều cuối hạ, có hai mẹ con một người đàn bà từ Nha Trang tìm đường lên trại cải tạo Ngân Điền. Đi theo hai người lớn còn có một cô bé quãng 6, 7 tuổi. Thoạt nhìn qua cách ăn mặc, nghe giọng nói người ta dễ nhận ra bà cụ già đã ngoài 60, gầy gò nhưng bước đi còn cứng cỏi. Da mặt bà cụ sạm nắng. Nhìn cách ăn mặc của bà, áo nâu, quần đen, tóc vấn khăn trên đầu, tay cắp theo chiếc nón, giọng nói, người ta biết bà quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Còn cô con gái và đứa cháu nhỏ ăn mặc theo lối Nam. Người phụ nữ chưa tới 30 tuổi, tóc cắt ngắn ngang vai, chải chuốt gọn gàng. Chị ta mặc chiếc quần jean, ống loe rộng, áo pun, đi giày đế cao. Chiếc áo phông bó chặt lấy thân hình, để lộ ra bộ ngực căng tròn, chắc nẩy. Cô bé con mặc đồ bộ hoa, hẳn là con gái của người phụ nữ. Nhìn kỹ trên đôi má của người mẹ trẻ thấy chị còn thoa cả một chút phấn hồng. Ba người phụ nữ đứng giữa một vùng đồi núi thâm u, nhìn họ khác hẳn với những người dân quê trong vùng. Người phụ nữ trẻ còn xách theo một chiếc sắc du lịch bằng da, thêm một giỏ trái cây. Người ta đoán ngay đây là thân nhân đi thăm tù.

Trại Ngân Điền sau một thời gian xây dựng, nhà cửa dành cho những người đi cải tạo, học tập đã tạm ổn định. Trong một khuôn viên rộng hàng chục hécta đã hình thành khu nhà ở cho cán bộ quản giáo trông coi trại; khu nhà ở dành cho sĩ quan binh lính Ngụy đi học tập cải tạo rộng hơn. Có nhiều dãy nhà dài hàng vài chục mét, chia thành từng ô. Trong mỗi ô nhà có sạp giường bằng tre lồ ô, có giá để đồ đạc, áo quần. Hàng chục dãy nhà đứng lớp trước, lớp sau. Khu nhà ăn, nhà sinh hoạt, sân chơi cũng đã được xây dựng. Ở phía cổng đi vào, ban quản lý trại còn cho xây một dãy nhà khách dành cho gia đình người đi cải tạo đến thăm thân. Các công trình ở trại Ngân Điền đều do những người lính Ngụy đi học tập cải tạo làm ngày làm đêm để tránh gió bão và những cơn gió Tây quét qua vùng này vào mùa khô hanh. Hàng chục cái giếng khơi tự đào cho hàng trăm người ăn, đảm bảo vệ sinh. Còn nước sinh hoạt được những người trại viên dẫn theo một đường máng từ trên núi đổ về.

Ba người khách đến trại Ngân Điền chiều hôm ấy chính là bà cụ Mít - mẹ của Đệ, Hương Giang và con Bông. Nhận được tấm giấy của chính quyền sở tại cho đi thăm chồng, Hương Giang thu xếp mọi việc đưa mẹ chồng và con gái đi ngay ra Tuy Hòa. Đường tàu Thống Nhất đã thông suốt từ Bắc vào Nam đánh thức con đường sắt và những toa tàu đã bị ngủ quên suốt mấy chục năm bởi bom đạn, chiến tranh. Hương Giang có người quen ở ga, chị nhờ mua được hai vé đi chặng ngắn từ Nha Trang ra Tuy Hòa. Con Bông còn nhỏ chịu nửa vé. Suốt chặng đường hơn 120 cây số, hầu như bà nội ôm cháu trong lòng. Lúc tàu mới chuyển bánh rời ga Nha Trang, con bé cứ thò cổ nhìn qua ô cửa sổ có lưới sắt bảo vệ để nhìn người và cảnh vật hai bên đường. Lúc tàu ra tới ga Ninh Hòa, dường như con Bông bị say, nó gục đầu vào lòng bà nội thiếp ngủ.

Chặng đường từ ga Tuy Hòa lên Sơn Hòa, ba mẹ con bà cháu phải bắt xe đò. Chiếc xe khách chạy bằng than cà rịch cà tàng, mất gần ba giờ đồng hồ mới lết nổi quãng đường 60 cây số. Thêm một chặng đi xe ngựa, mọi người mới nhìn thấy cổng trại Ngân Điền.

Anh cán bộ làm nhiệm vụ tiếp dân vui vẻ vồn vã mời bà Mít, Hương Giang và cháu Bông vào phòng khách. Con Bông mệt sau một chặng đường dài, mới đặt lưng lên chiếc giường sạp làm bằng lồ ô liền lăn ra ngủ. Bà Mít và Hương Giang đều hồi hộp và thoáng chút lo sợ. Đang vào quãng hơn hai giờ chiều, những phạm nhân đi cải tạo học tập ở trại đang đi lao động. Một lúc sau, anh cán bộ quản giáo thông báo.

- Anh Đệ và một tổ đang theo xe của trại ra ngoài Diêu Trì bốc gạo và thực phẩm. Các anh có về tới trại cũng 6 giờ tối.

Bà Mít và Hương Giang đành phải ngồi chờ.

Dòng nước mát làm cho bà Mít tỉnh táo. Bà khỏe hẳn lại sau khi được anh bộ đội mời một ca nước vối. Hương Giang chưa quen uống nước vối nhưng vì khát và thấy mẹ chồng uống nên cô cũng uống theo. Bà Mít bảo Hương Giang:

- Ngày ở nhà, thằng Đệ thích uống lá vối. Mỗi sáng nó đi học, mẹ chỉ cho một củ khoai lang. Nó ăn vội vàng, tu cả bát ô tô nước lá vối nguội rồi chạy bộ tới trường đi học. Nào có gần đâu con, từ nhà ta đến trường phải mất hơn 3 cây số.

Nghe mẹ chồng khoe, Hương Giang chỉ cười, nụ cười rạng rỡ trên gương mặt người đàn bà mới một con. Gian truân, vất vả, ngày ngày phơi mặt ngoài chợ nhưng dường như ở cô vẫn không mất đi vẻ đẹp thuần phác, đôn hậu. Con Bông nằm quay mặt vào bức tường quét vôi trắng ngủ say.

3 giờ 30 phút!

Anh cán bộ phụ trách tiếp dân lại vào phòng khách mang theo một phích nước sôi, một bộ ấm chén pha trà bằng sứ Hải Dương. Anh ta thông báo:

- Thưa bà và chị Hai, lát nữa có thủ trưởng của trại đến thăm.

3 giờ 50 phút!

Ông Hai Tân - Phó ban quản lý trại Ngân Điền bước vào. Đi theo ông còn có 2, 3 người quần áo bộ đội chỉnh tề, có người chân đi giày vải, có người đi dép cao su. Một người trong số họ còn đeo khẩu AK. Tất cả những người lính đều kinh ngạc khi nhìn thấy trên nền đất ẩm giữa phòng khách, bà Mít quỳ phía trước, Hương Giang quỳ phía sau lưng mẹ. Hai tay bà Mít đội lá đơn lên đầu. Trên chiếc sạp con Bông vẫn ngủ say.

Hai Tân nhìn thấy cảnh tượng hai người đàn bà quỳ trước mặt. Nét mặt ông hoảng hốt. Ông bước nhanh lại phía cụ Mít.

- Kìa cụ, kìa chị, xin đừng làm vậy! Chúng tôi đây là bộ đội cách mạng. Có chuyện gì xin bà và chị cứ nói.

Hai Tân đỡ bà cụ Mít ngồi xuống ghế. Hương Giang thấy mẹ ngồi cũng ngồi theo.

Bà Mít đã bình tâm trở lại, nhìn Hai Tân và nói.

- Thưa chú bộ đội lãnh đạo. Tôi tên Mít, người làng Lôi... Tôi lặn lội cả ngàn cây số vào đây, mang theo lá đơn thỉnh cầu với các cấp lãnh đạo để nói rõ chuyện thằng Đệ, con tôi. Cháu nhập ngũ vào Nam từ tháng 6 năm 1963. Từ ngày cháu vào Nam, vợ chồng tôi ở quê không nhận được lá thư nào của cháu. Mỗi tháng chúng tôi được chính phủ cấp cho 12 đồng bạc, chú ạ. Ngần ấy năm tôi không dám tiêu lấy một hào. Cất đi dành giụm chờ tới ngày cháu Đệ trở về để cưới vợ cho cháu. Năm “68”, có người làng đi bộ đội về báo, cháu Đệ đánh nhau hi sinh ở Huế. Vợ chồng tôi nghe thì biết vậy. Tôi chả tin. Mãi đến cuối năm 1973 gia đình nhận được giấy báo tử. Trên huyện cho người mang về tấm bằng Tổ quốc ghi công. Nào ngờ “75” có anh người làng về báo với xã thằng Đệ nhà tôi không chết, đi hàng giặc. Tôi không tin con trai tôi đổ đốn đến vậy, chú à! Tôi đã lặn lội vào Huế, ơn trời tìm được người hỏi ra cho rõ sự tình. Con tôi không chết. Nó chỉ bị thương nặng. May nhờ trời Phật còn thương, cha cháu Giang đây... Bà Mít chỉ vào cô con gái, ông đã mở lòng cứu giúp. Ăn ở trong nhà hai cháu phải lòng nhau. Cha cháu thương, chúng nó nên vợ, nên chồng. Bây giờ cháu bị nhà nước bắt đi tù. Thôi thì trăm sự nhờ các ông cứu xét. Thằng Đệ nhà tôi có tội với cách mạng thật, tôi xin chết ngay tại đây...

Nói xong câu ấy bà Mít quỳ thụp xuống đất. Ba bốn người lính thấy vậy chạy lại đỡ lấy bà.

Hai Tân thực sự bối rối. Nét mặt ông lúc tái lúc đỏ bừng. Ông đã đi qua gần hết hai cuộc chiến tranh. Những năm chống Pháp ông mới chỉ là người lính trong Trung đoàn Trung Dũng, cùng bộ đội đánh giặc ở núi Hiểm. Chiến dịch lớn nhất mà Hai Tân được tham gia là đánh tan một tiểu đoàn quân Pháp ở Suối Cối trong chiến dịch Át Lăng chi viện cho bộ đội ta ngoài Điện Biên Phủ.

Hai Tân đã không đi tập kết. Ông tình nguyện cùng đồng chí, đồng bào giữ đất, cất súng, chờ ngày đồng khởi. Vào những năm đen tối nhất ở vùng đất Tuy Hòa, đã bao lần ông đi theo các ông Sáu Râu, Năm Công, Tư Minh, Chín Cao về với dân xây dựng cơ sở cách mạng ở La Hai, Sông cầu, Sơn Hoà, Sông Hinh... Hàng trăm các bà má, các chị, các cô giống như bà Mít đây đã nhường cho ông từng chén cơm, hạt muối. Địch sát hại cán bộ cách mạng, bộ đội du kích, chúng nhốt vào rọ heo thả trôi sông nhưng đồng bào vẫn một lòng một dạ tin vào cách mạng. Lần đầu tiên trong cuộc đời lính của ông, lại bắt gặp một bà mẹ kêu oan cho con... Ông biết nói với bà Mít sao đây?

Hai Tân rót nước mới bà Mít và Hương Giang. Nét mặt ông sạm lại. Bà Mít chỉ vào cô con dâu:

- Con tôi đây! Nó đang học hành tử tế. Cũng chỉ vì cha cháu, vì chồng cháu mà chịu cay đắng vất vả nuôi con. Chúng nó phải trốn chạy từ Huế vô Nha Trang lánh nạn. Ai ngờ đến ngày hòa bình thống nhất, vợ chồng con cái lại phải xa nhau.

Chờ cho bà Mít nguôi ngoai, xúc động. Hai Tân mới sẽ sàng:

- Thưa bà, từ ngày ra đây anh Đệ nhà ta vẫn khỏe. Học hành chăm chỉ, tích cực. Anh Đệ cũng đã khai báo trung thực. Chúng tôi biết và đã báo cáo trường hợp này lên cấp trên, cấp trên cũng đã hứa cử người ra Huế điều tra. Mong bà và cô thông cảm. Trong số cả vạn tù binh đi cải tạo, hẳn có nhiều trường hợp éo le, uẩn khúc. Tôi kể cho bà và cô nghe chuyện này. Tôi là người ở quê vùng này, mỗi khi có việc cúng kỵ ở làng, là con trai trưởng của dòng họ, tôi phải về thắp hương cho các cụ. Vậy mà mỗi khi rời khỏi con đò bước chân lên đất làng, đã có người đến níu áo tôi và hỏi:

- Này chú Hai... thằng Tư nhỏ nhà tôi ngày trước chú về làng dắt theo lên núi bây giờ nó ở đâu... Nó đâu sao chú không cho nó về đây thăm tôi?

Thằng Tư Nhỏ đi với tôi tham gia cách mạng từ năm 1965. Cậu ta vào bộ đội chủ lực đánh đồn Sơn Hòa rồi hi sinh. Cái người đàn bà hỏi tôi câu nói đó, chính là bà mẹ của Tư Nhỏ. Từ ngày nghe tin con chết, bà cụ phát điên phát khùng. Cứ mỗi lần thấy cán bộ về làng bà cụ lại ra hỏi. Tôi biết trả lời với các mẹ sao đây.

Con Bông đã tỉnh ngủ từ lúc nào. Nó ngồi dậy nghe người lớn nói chuyện. Mọi người đều giật mình khi nghe con bé hỏi:

- Mẹ ơi! Cha ở đâu... Mẹ xin với các chú cho con được gặp cha.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 10:52:31 am
29

Trong tập vở Cogido thứ bẩy cũng chỉ có vài trang toàn chữ viết của cha tôi. Ở đây, ông ghi lại hai sự kiện, theo ông đáng nhớ nhất: Ngày mẹ tôi và bà nội mất và ngày ông đưa tôi tới trường đại học.

Sự kiện thứ nhất.

Trại Đầm Vịt 18 tháng 7

Ngày lễ Vu Lan năm này cả nhà thật đầm ấm vui vẻ. Mới chỉ có mấy năm về ở trại Đầm Vịt, y có cảm giác như đổi đời. Tám chỉ vàng Hương Giang chắt chiu được từ sạp dưa cà mắm muối hóa ra lại là một món tiền lớn. Y mua được cả ba công đất, còn có cả một khoảng đồi tha hồ cho mẹ y, vợ con y trồng cây, trồng rau, trồng hoa... “Thời này ai người ta cần hoa hả con?”. Mẹ bảo vợ y như vậy. Nàng nhẹ nhàng thưa với bà. “Mẹ ơi, bây giờ người ta lo đói chưa cần hoa. Nhưng mẹ coi mấy bữa mà không tổ chức hội nghị. Dân nhà nào chả có cúng kỵ, đi chùa... Ta cứ dành ít đất trồng vài luống hoa cúc, hoa hồng, hoa thược dược... bán mẹ à. Kiếm quanh trong vườn đủ tiền mua gạo mắm.”
Mẹ y thấy cô con dâu nói phải, nghe theo.

Mùa hoa năm 1980 vườn nhà y trúng lớn. Hoa ra lứa nào, cánh dân buôn Đà Lạt, Sài Gòn lên mua hết, cắt từng bông, từng cành. Vườn nhà không đủ bán, mẹ và vợ y còn vào trong các nhà dân mua gom hoa về bán cất cho cho bạn hàng. Có tiền, y lại mua được chiếc xe Honda 67, tuy cũ nhưng máy móc còn tốt. Vào mỗi buổi chiều, y thành người lái xe ôm vào vườn, vào rẫy chở hoa về cho mẹ và vợ. Hương Giang cũng sắm được chiếc Honda. Con dâu chở mẹ đi chợ, đi gom hoa. Buổi sáng, hai vợ chồng thay nhau chở con Bông đến trường. Trường học cách nhà cả cây số. Có xe máy chở con đi học, vào lúc trời mưa gió thật tiện.

Y đã có được một chỗ ở, một căn nhà lợp tôn rộng rãi. Không còn những ngày phải lo mưa gió, đói ăn. Xóm ấp ở xa, dân cư thưa thớt, toàn là dân ngụ cư đi khai hoang. Ở trong rừng sâu có một buôn đồng bào người Brâu... Chính quyền có vận động, tuyên truyền nhưng cũng chưa thành lập được hợp tác xã. Vào mỗi buổi tối, trong ánh sáng của ngọn đèn măng xông, vợ chồng y cùng với hai bà cháu ngồi quây quần bên mâm cơm. Cuộc sống của y cảm thấy ấm áp, dễ chịu.

Vậy mà chỉ một tiếng nổ đanh gọn, chát chúa, hai con người thân yêu nhất của cuộc đời y dắt nhau ra đi.

Mẹ y nằm úp mặt xuống lớp đất mới lật lên. Còn Hương Giang máu loang trên ngực áo. Đôi mắt nàng vẫn mở to nhìn lên bầu trời phủ đầy máy xám xịt. Y không khóc được. Càng không tin mẹ y, vợ y đã chết. Chỉ đến khi bác Tài Khóa từ vạt rẫy bên cạnh hớt hải chạy sang lôi y ra khỏi xác Hương Giang, y mới tỉnh và hiểu ra mọi chuyện.

Đã nhiều lần y nâng niu từng trái lựu đạn US lượm được trên bãi Ngụy, bãi Mỹ. Cũng có khi y và những người lính sau một trận đánh lượm được những trái lựu đạn US còn xanh màu sơn từ những chiếc xanh tuyarong của đám lính chết trận. Bất kể anh lính bộ bính nào cũng mong có được trái lựu đạn US để phòng thân. Gặp địch bất thường chỉ cần rút chốt, mỏ vịt bung ra. Chỉ bốn giây sau, trái lựu đạn nổ. Thật an toàn và tiện lợi.

Giờ phút này, ngồi bên hai chiếc quan tài đã đóng kín, sao y lại căm thù những trái lựu đạn US đến vậy. Mẹ và vợ y chết bởi một trái lựu đạn US gài nổ tức thì. Có thể, trái lựu đạn ấy đã ngủ quên trong lòng đất quá lâu, nay phát nổ lúc mẹ y gom những cành cây đốt rẫy. Cả hai mẹ con không một ai kịp trăng trối lấy một lời.

Y ôm con Bông vào lòng trong tiếng gào khóc như điên dại của con bé: “Mẹ ơi! Bà ơi!”.

Sài Gòn, tháng 10 năm 1987.

Đưa con vô ký túc xá của nhà trường xong, y quay lại bến xe Miền Đông. Chẳng còn chiếc xe nào về Đà Lạt. Ngồi trong quán uống ly cà phê nhạt thếch. Y buồn ngơ ngác. Trống vắng.

Con à, vậy là cha đã thực hiện được lời hứa với mẹ con, với bà nội. Nhưng từ nay cha phải xa con. Dù cha biết rằng, nếu muốn, chỉ một ngày xe chạy hai cha con ta lại gặp nhau. Vậy mà cha vẫn cảm thấy hụt hẫng, trống chếnh khi bước vô ngôi nhà thiếu vắng bóng con.

Cha đã chờ đợi từ lâu rồi cái ngày con nhận được tờ giấy báo đỗ vào trường đại học

Cha đã thỏa nguyện ước. Nhưng trường đời mới là trường học lớn đang chờ con!



Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:07:21 pm
30

Mùa thu năm 2012, tôi có một chuyến hành hương về Huế.

Muốn có bạn đường, tôi rủ chị Thi đi cùng. Chị Thi bảo, chị cũng có có công chuyện ở đây. Chị muốn nhân chuyến đi này về lại làng Dương thắp hương bà nội.

Tôi nhắn tin cho chú Hoài rủ chú đi cho vui. Tôi muốn nhân dịp này được cùng chú trở lại thăm chiến trường xưa. Chỉ vài phút sau tin nhắn, chú Hoài đã trả lời tôi mấy dòng qua hộp thư điện tử:

“Chú rất muốn có được chuyến đi cùng cô bé Bông của chú về Huế. Rất tiếc, thời gian này chú được cơ quan cho đi thăm Ba Lan. Chú chưa biết Châu Âu. Vả lại nói thiệt với cháu, nghĩ về Huế chú có bao kỷ niệm vui buồn. Nhưng về lại vùng đất này nhiều khi thật ngại. Mỗi khi đi qua những xóm ấp đã hơn một lần chú và những người lính giải phóng đã nghỉ lại... chú luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ, mình chưa phải với người dân đã từng cưu mang cho mình từng bữa ăn, cháu à! Dù chiến tranh đã qua gần bốn chục năm rồi”.

Tôi hiểu và cảm thông với chú Hoài.

Từ Đà Lạt tôi về Nha Trang. Tôi và chị Thi quyết định nằm tàu Thống Nhất ra Huế.

Con đường từ thành phố về làng Dương không xa. Xe chạy chỉ chưa đến nửa giờ đã tới. Rời khỏi con đường lộ vài cây số, người lái taxi đã đưa hai chị em tôi tới ngã ba, nơi có cây cầu xi măng một ngả rẽ về Quảng Điền, một lối rẽ về làng Dương.

Từ xa tôi đã nhận ra ngôi nhà thờ quét vôi màu trắng. Trên cây thánh giá chúa Giêsu với gương mặt hiền từ sáng lên trong ánh mặt trời buổi sớm mai. Khuôn viên nhà thờ vắng bóng người, cỏ dại mọc trên lối đi.

Tôi có cảm giác như thể các con đường kiệt trong ấp đổ ra bờ sông Bồ vẫn giống hệt như cha tôi đã mô tả trong các tập vở của ông mấy mươi năm trước. Ngôi nhà của ông ngoại tôi trở nên thấp bé nhỏ nhoi, điêu tàn bên những ngôi nhà xây mới hai ba tầng, ốp đá, sơn quét lòe loẹt.

Hai mươi năm trước, mẹ tôi đã đưa bài vị ông bà ngoại về trại Đầm Vịt để thờ cúng cho tiện. Khu vườn rộng rãi có nhiều cây trái và ngôi nhà cũ cho vợ chồng cô cháu gái họ xa. Đã lâu, ngôi nhà không được chăm sóc, tu bổ trông càng hoang phế. Cái xưa cũ còn lại là vóc dáng của một ngôi nhà cổ. Cột kèo vách tường được làm bằng gỗ tốt, lâu ngày đen bóng. Cô cháu gái rỉ rả. Mấy lần cánh buôn nhà cổ ở Huế, Đà Nẵng và cả ngoài Hà Nội lên đây xem ngôi nhà, đánh tiếng mua. Họ trả cả tỷ đồng cho một ngôi nhà có gần hai trăm tuổi toàn bằng gỗ lim, táu. Cũng chỉ vì chuyện ngôi nhà, vợ chồng cô cháu gái cãi nhau. Anh chồng thì gạ bán lấy tiền xây nhà mới. Cô cháu gái và anh con trai không chịu, bảo rằng: Của cha ông để lại... cố giữ.

Tôi nghe chuyện cảm thấy buồn. Tôi rủ chị Thi đi ra khu vườn sau nhà, nơi có rặng tre gai và căn hầm tránh pháo ngày trước. Tôi vẫn còn nhớ căn hầm ấy được ngụy trang bằng những bụi dứa dại, bờn bờn. Một thời đây là nơi ông ngoại tôi giấu cha tôi trốn bọn tề điệp, dân vệ lùng sục. Khu đất vườn phía sau giờ cũng không còn nữa. Người chồng cô cháu gái có một thời làm kế toán hợp tác xã bị thâm thủng ngân quỹ, phải bán đất để trả nợ.

Cô cháu gái kể chuyện cho tôi và chị Thi nghe, tự nhiên bật khóc. Chị Thi mủi lòng rút tiền ra cho.

Cô cháu đưa hai chị em tôi ra bờ sông Bồ. Hai bên bờ sông vẫn rợp bóng tre. Nước xanh đen thẳm.

Dòng sông vẫn lặng lờ trôi.

Tôi cố hình dung ra đoạn sông một đêm nào cha tôi đã bò ra đây nhìn về phía núi.

Cô cháu gái vẫn say chuyện, dường như không hiểu lòng tôi. Cô ta chỉ vào dòng sông.

- Cô ôi! Sông chừ bẩn khiếp! Họ nuôi cá bè, nuôi ếch nhái đem bán xuất khẩu. Thức ăn đổ xuống sông tanh tưởi. Dân ở đây chẳng ai dám xuống tắm.

Chị Thi nhìn cô bé mỉm cười thông cảm. Còn tôi lặng im ngóng mặt về dãy núi xa xanh. Vệt núi kéo dài miên man, lô xô khấp khểnh chạy dọc theo hướng Bắc Nam. Trong những hẻm núi có những tảng mây trắng trườn qua.

Tôi tự hỏi: “Đâu là Hòn Vườn? Đâu là Đồi Tranh, Một Mái, Dốc Đu, Dốc Cát... Đâu là đỉnh Chóp Nón, Đồi Chổi...?”.

Núi không trả lời tôi.

Gió thổi dào dạt trên cánh đồng lúa xanh của làng Dương. Thảm lúa kéo dài tới sát chân tre làng Văn Xá, Thanh Lương. Đồng làng trống vắng không một bóng người.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:10:49 pm
IV
NGÀY VU LAN


1

Ngày lễ Vu Lan năm nay cũng là ngày giỗ của gia đình tôi.

Cha tôi mất vào cuối tháng Sáu âm lịch. Bà nội và mẹ tôi mất chung một ngày, Mười tám tháng Bảy, chỉ sau lễ Vu Lan đúng ba ngày.

Trước lúc cha tôi ra đi, ông gọi tôi vào dặn rằng:

- Mình là dân li tán con ạ. Vùng đất này không phải là quê cha đất tổ của nhà ta. Quê ngoại con ở Huế. Đất Đầm Vịt là nơi đãi người. Sau ngày cha mất, con chọn ngày Rằm tháng Bảy hằng năm làm chung một cái giỗ. Đây là lễ trọng tạ ơn tổ tiên, các bậc tiền nhân, nhân tiện con làm giỗ ông bà nội, ông bà ngoại, giỗ cha, giỗ mẹ... đỡ phải tốn kém, làm giỗ nhiều lần trong năm.

Tôi khóc và nhớ lời cha dặn.

Tôi ở trọn vẹn với cha tôi được 28 năm, mất vài năm tôi không được ở gần ông vì ông sống ở trại cải tạo. Tôi sống với mẹ được 13 năm, gắn bó với bà nội tròn 7 năm. Cuộc đời của cả 3 con người ấy, ôm trọn lấy tuổi thơ tôi cùng với những năm tôi ăn học, trưởng thành. Tôi cũng là chứng nhân cho quãng đời bể dâu của họ.

Hằng năm, ngày lễ Vu Lan, nhà nhà làm lễ vái tạ trời đất, tổ tiên. Ngày này, trong gia đình tôi bận bịu hơn. Nhà cửa sơn, quét thu dọn trước đó cả tháng. Cỗ bàn bày cúng, dọn ăn đãi khách làm trọn trong hai ngày. Ngày Mười bốn tháng Bảy, tôi lên chùa mời thầy về cúng nhà. Ngày Mười lăm, cả gia đình, bạn bè thân thuộc ăn chay. Ngày Mười sáu là tiệc mặn. Vài ngày trước đó, tôi đã kêu thợ tới dựng rạp, trang hoàng lộng lẫy trong ngôi nhà, lau bàn thờ Phật, bàn thờ gia tiên... Thuê sẵn chén đĩa, mâm bát đủ ăn cho hai ba chục mâm. Thực đơn cho ngày lễ Vu Lan, cúng tổ tiên đã lên sẵn từng món và giao cả cho Thoa, người quản gia giúp việc cho tôi trong nhà.

Thoa nay cũng đã lớn tuổi. Chị là đứa con ngoài hôn thú của lão Ca. Nhắc đến tên lão Ca, cha tôi chỉ gọi lão bằng “thằng”. Sau cái ngày cha con tôi gặp lão Ca ở bãi tha ma trong một đêm đông lạnh lẽo, lão van xin cha con tôi tha tội. Cha tôi cũng bỏ qua và không nhắc gì đến lão Ca nữa. Trách chi được những lỗi lầm, uẩn khúc của con người và những điều xảy ra trong thời chiến, dù chẳng ai mong muốn. Xét cho cùng, lão Ca cũng không phải người làm nên tội. Âu cũng là định mệnh của cha tôi.

Riêng tôi, vẫn nhớ đến lão Ca. Sau nhiều năm lão Ca chết. Tôi còn trở lại làng Lôi nhiều lần, đặt mua các mặt hàng thủ công ở vùng này như mây tre đan xuất khẩu sang các nước Nga, Đức, Tiệp... Tôi đã gặp Thoa, con riêng của lão Ca với một người đàn bà nông dân có chồng chết sớm. Ngay từ lúc còn nhỏ, Thoa đã có những dấu hiệu của một đứa trẻ không bình thường. Học dốt, tính tốt, hay giúp đỡ người khác. Chỉ tiếc trong suy nghĩ quá thật thà, nói đâu biết đó. Người làng gọi là Thoa “đơ”, Thoa “mát”. Những người già bảo “Tại thằng Ca đi bộ đội, nhiễm chất độc da cam, ảnh hưởng tới con cái!”.

Tôi đã đón Thoa về trại Đầm Vịt, chỉ vẽ cho mọi việc giúp tôi quán xuyến chuyện nhà. Bây giờ Thoa béo mập, trắng trẻo và kiên quyết chẳng chịu lấy ai, dù có vài người đàn ông mất vợ ngấp nghé. Thoa bảo thẳng tôi:

- Tôi ở với cô Bông. Cô Bông đi đâu, tôi theo đấy. Mai mốt tôi già yếu, cô cho tôi nằm xế chân đồi. Tôi theo hầu hạ ông bà...

Nghe Thoa nói, thật thương. Tôi lo cho Thoa đầy đủ mọi thứ của một người đàn bà chưa một lần biết mùi “chồng, con”, kể cả bảo hiểm y tế và một số vốn đủ để tiêu pha đến trọn đời, dù không có tôi đi chăng nữa.

Việc cúng tế ngày lễ Vu Lan, Thoa đã quen.

Trong ngày giỗ này, tôi còn định mời cả bác Khánh sống ở Tuy Hòa. Đến phút chót, bác báo không lên được vì có anh con trai mới ở Đức về, lại đang xây nhà. Còn bác Hai Tập, người đã truyền cho cha tôi nghề trồng hoa, mất cũng đã lâu.

Tôi vẫn còn nhớ ngày cha tôi rời khỏi trại giam của Tổng cục 5 ở Ngân Điền. Mẹ tôi nhận được tin cha tôi được ra trại đã thu xếp đưa tôi ra tận ngoài Phú Yên đón ông. Cha tôi đã làm một việc không bình thường, ông quyết định không trở lại Nha Trang dù chỉ một ngày. Cha tôi nói với mẹ, xin ở lại Tuy Hòa 10 ngày để mẹ tôi về Nha Trang thu xếp công việc. Trong cái buổi chiều ngày đầu tiên ra trại ấy, cùng về với cha tôi còn có ông Hai Tập. Ông là người bạn trong trại cải tạo học tập đã gắn bó với cha tôi. Gia đình ông ở làng hoa Ngọc Lãng, bên bờ con sông Ba xinh đẹp. Ông Hai Tập hơn cha tôi 8 tuổi, đeo lon thiếu úy. Như cha tôi kể lại, trong suốt mấy chục năm đi lính cho chế độ cũ, ông Hai Tập chỉ làm mỗi một công việc là phục vụ quan trên. Cái lon thiếu úy của ông cũng nhờ ân hưởng của cấp trên chứ chả phải tham gia đánh đấm gì. Công việc của ông Hai Tập trong những ngày đăng lính là đi bảo vệ, làm công vụ chịu sự sai bảo của cấp trên. Vào những năm “70”, khi cuộc chiến tranh sắp kết thúc, một thời gian dài ông Hai Tập sống ở tòa Tỉnh trưởng, ăn lương sĩ quan nhưng công việc chính hằng ngày của ông là chăm sóc bồn hoa, cây cảnh trong khuôn viên của tỉnh trưởng Lý Bá Phẩm, tỉnh Khánh Hòa. Còn chút thời gian rảnh rỗi ông dắt con chó becgiê dạo quanh cho nó đi tè.

Hơn hai năm trời ông Hai Tập phải đi học tập cải tạo ở trại Ngân Điền - Sơn Hoà cùng với cha tôi. Lúc vui ông Hai Tập thường kể với cha tôi rằng, suốt mấy chục năm đi lính, nhờ đồng lương ông mới đủ tiền nuôi một vợ và 8 đứa con. Ông cũng thú thật chưa một lần bắn một phát súng cạcbin hay AR15. Chính trong những ngày ở trại ông đã truyền dạy cho cha tôi ngón nghề trồng hoa của người làng Ngọc Lãng.

Làng Ngọc Lãng quê hương Hai Tập là một vùng làng nằm kẹp giữa những dải cát bồi của dòng sông Ba đổ ra cửa Đà Rằng. Đứng từ làng hoa, nhìn rõ cây cầu Đà Rằng đã có lúc được xem như cây cầu dài nhất ở phía Nam. Cây cầu được hoàn thành vào năm 1971, có 21 nhịp bắc song song với cầu đường sắt. Những người già cả ở Tuy Hòa đến nay vẫn còn nhớ, ngày khánh thành cây cầu Đà Rằng, Nguyễn Văn Thiệu khi ấy là tổng thống đã bay từ Sài Gòn ra sân bay Đông Tác để cắt băng khánh thành nổ pháo chào mừng. Giấy pháo trắng, đỏ, vàng nổ tung như hoa cải bay trắng quanh chân Tháp Nhạn, bay cả xuống mặt sông Ba.

Trong thời gian cha tôi nghỉ lại ở nhà ông Hai Tập, mẹ tôi về Nha Trang nhanh gọn giải quyết mọi việc. Từ việc bà sang nhượng lại sạp hàng dưa mắm ở chợ Đầm, đi thu nợ, trả nợ cho các chủ hàng. Mẹ tôi đưa tôi đến vài nhà quen cảm ơn. Bà tôi mua đồ cúng lên chùa Hưng Sơn cảm ơn sư cô Oanh đã cho mấy mẹ con bà cháu tá túc ở chùa...

Có người đã hỏi mẹ tôi:

- Vậy cô Hai đi đâu? Làm ăn ở đây buôn bán lèo tèo cũng đủ miếng ăn qua ngày. Người ta cải tạo cánh nhà giàu buôn to bán lớn mới sợ, chớ còn chị em tư thương chúng mình ngồi đầu đường cuối chợ ai bắt vô tập thể làm gì.

Mẹ tôi chỉ cười đáp:

- Cảm ơn bác... Em đi theo chồng.

Tôi không biết cha mẹ đã bàn bạc những gì trong cái đêm đầu tiên cha tôi được ra trại và ngủ lại ở nhà bác Hai Tập. Nhưng có một chi tiết này tôi vẫn còn nhớ. Vào buổi chiều sau khi rời khỏi trại Ngân Điền, xuống xe, cả nhà tôi đã cùng với bác Hai Tập chưa về nhà ở làng hoa Ngọc Lãng ngay. Cả nhà tôi và bác Hai Tập đến nhà một người quen để dự một tiệc vui. Gia đình người quen ấy là thầy giáo Khánh. Ấy là tôi nghe cha tôi và bác Hai Tập xưng hô như vậy với người khách lạ lúc họ mới gặp nhau. Bàn tiệc cũng đơn giản. Chỉ một con gà luộc, một nồi canh cá và vài dẻ mực khô các ông ngồi nhậu lai rai. Một cút rượu gạo để cho những người bạn từng đồng cam chịu khổ với nhau ở Ngân Điền nói chuyện, về sau tôi được biết, thầy giáo Khánh được rời trại sớm hơn cha tôi những sáu tháng. Cha tôi kể lại rằng, cuộc đời của bác Khánh cũng lắm gian truân. Vào những năm trai trẻ, bác Khánh đã có bằng tú tài 2. Là người hâm mộ đạo Phật, ham mê nghiên cứu triết học và lịch sử nhưng cuộc đời của bác Khánh đã không được như ý, trọn vẹn theo con đường học hành. Vào năm 1963, gia đình trị Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cánh tướng lĩnh quân sự lên nắm quyền. Chỉ khoảng một thời gian ngắn xảy ra mấy cuộc đảo chính. Lực lượng cách mạng bùng lên khắp nơi. Nhiều làng quê ở đồng bằng trở thành vùng giải phóng. Chính quyền Ngụy phải đôn quân bắt lính kể cả đám học sinh có bằng tú tài 2 và đang học đại học. Bác Khánh là một trong số những sinh viên xuất sắc được vào Trường Sĩ quan Đà Lạt. Sau một thời gian huấn luyện, bác được giữ ở lại trường giảng dạy huấn luyện lính mới không phải ra trận, bác cũng chỉ ở Đà Lạt mấy năm rồi xuất ngũ bởi một tai nạn giao thông, gẫy chân, bác Khánh không đủ sức phục vụ quân đội, được về quê. Bác là người có bằng cấp, có học thức, tâm huyết với những việc đã nhận làm. Bác Khánh cũng từng nổi tiếng trong giới sĩ quan Đà Lạt về tài viết báo... Bác được nhiều người kính nể khi nói chuyện trước đám đông. Một vài người bạn quen biết bác Khánh, sau này tôi có hân hạnh được gặp kể lại rằng, những buổi diễn giảng của bác thường thu hút rất đông trí thức, sinh viên. Bác nói với nhiều chủ đề khác nhau, khi thì về Phật giáo, lúc về triết học cổ đại từ Hypôcráp đến Hêghen và cả Mác - Ăngghen... Nhưng hay nhất vẫn là nghe “thầy” Khánh giảng về những bài học rút ra từ lịch sử qua các chiến tích nổi tiếng của cha ông từ thời Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn Huệ, Quang Trung. Bác mô tả những trận đánh nổi tiếng của Lý Thường Kiệt ở sông Như Nguyệt đập tan quân Tống, những trận đánh kinh hồn bạt vía của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, của quân dân nhà Trần chống Nguyên Mông... Trận Xoài Mút của Nguyễn Huệ đánh bại cả vạn quân Xiêm La... Giọng nói của bác da diết, hào hùng, người nghe ai cũng thích. Những buổi thuyết trình của bác Khánh không lọt qua nổi lỗ tai và con mắt của đám CIA, tâm lý chiến, phản gián Ngụy lẩn khuất ở khắp nơi. Chúng chẳng lạ gì tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, khơi gợi lòng yêu nước chống giặc ngoại xâm, gieo vào lòng binh lính sự chán ghét chiến tranh của bác.

Bác Khánh về quê nhận chân đi dạy học. Bác dạy môn sử ở trường Bồ Đề, một cơ sở học đường của Giáo hội Phật giáo Phú Yên. Vài năm sau, bác Khánh đã có chân trong ban quản trị của nhà trường. “Cái máu” thích tham gia hoạt động chính trị của thầy giáo Khánh vẫn không thuyên giảm. Thầy cùng với một nhóm trí thức hào hứng tham gia vào lực lượng hòa hợp, hòa giải dân tộc ở địa phương khi Hiệp định Paris được ký kết, rồi tham gia thành lập Hội Ái Hữu của các cựu học sinh trung học Phú Yên. Trong nhóm hoạt động của thầy, có người ứng cử vào hạ viện thuộc phe phái của tướng Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu cầm đầu trong kỳ tranh cử 1971, với biểu tượng in trên lá phiếu bầu là “Bông sen”. Họ hi vọng sẽ nhận được sự ủng hộ của giới Phật giáo có chân trong quốc hội của chính quyền Thiệu - Kỳ dễ bề hợp pháp đấu tranh với các thế lực không đi theo con đường dân tộc...

Trong một số tài liệu và trí nhớ của các chiến sĩ cách mạng hoạt động bí mật ở thị xã Tuy Hòa thời bấy giờ có những câu chuyện sinh động về việc tổ chức cách mạng truyền tải nhiều truyền đơn, tài liệu của Mặt trận Dân tộc giải phóng, của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cho nhân dân, trí thức, tiểu thương, học sinh trong thị xã tuyên truyền chủ trương của Mặt trận. Những thành viên trong Hội Phật giáo Phú Yên cũng đã từng nhận được những tài liệu này.

Nhưng cuộc đời của thầy giáo Khánh cũng gặp nhiều điều không may. Thầy bị gẫy chân tới hai lần. Lần đầu ở quân trường Đà Lạt. Lần thứ hai thầy đi vác gỗ trong trại Ngân Điền. Một cây gỗ nặng đã đè trúng chân thầy, vết thương cũ tái phát. Cũng nhờ vết thương ấy và những đóng góp của thầy hồi hoạt động đấu tranh ở nội đô trong giới Phật tử, thầy Khánh được trở về nhà sớm.

Ngày nhận được tin cha tôi và bác Hai Tập rời trại, thầy ra tận bến xe để đón. Trong bữa cơm chiều, họ ngồi nhâm nhi với nhau chén rượu cuốc lủi, nhắc lại những câu chuyện trong quãng thời gian sống chung ở Ngân Điền. Những buổi đi cắt tranh, vào rừng chặt lồ ô, gỗ dựng nhà. Dường như ba người đàn ông không hề đả động đến chuyện thời cuộc. Cha tôi không biết uống rượu. Thỉnh thoảng ông cầm ly trên tay nhấp môi. Mẹ con tôi là khách, cũng chỉ ăn uống chiếu lệ. Những đứa con của thầy Khánh thấy có khách tới nhà không đứa nào dám ngồi cùng mâm. Một vài đứa lui cui dưới bếp. Nghĩ cảnh nhà của thầy Khánh cũng thật đáng thương. Người vợ của thầy, một phụ nữ đẹp ở vùng núi Hào Sơn đã có bốn mặt con với thầy. Một chiếc xe ôtô nhà binh chạy từ Đông Tác lên Đèo Cả đã vô tình đâm chết hai mẹ con. Mấy năm nay thầy giáo Khánh vừa đi dạy học, vừa làm nhiều nghề để nuôi ba đứa con nhỏ dại.

Lúc cha mẹ tôi và bác Tập chia tay thầy Khánh, trời cũng sắp tối. Thầy Khánh kéo cha tôi ra phía sau nhà, tới bên gốc tre, dúi vào túi áo cha tôi ít tiền. Tôi chỉ nghe thầy nói.

- Cô chú đều nghèo khổ, con lại còn nhỏ dại. Tôi biết chú sắp đi xa, lên Tây Nguyên. Cực lắm đó nghe! Tôi ở vùng ấy 5 năm, dân cũng nghèo. Tôi đưa chú ít tiền tiêu sài, làm lộ phí đi đường.

Cha tôi ngại ngùng không nhận. Thầy Khánh cứ đút tiền vào túi áo của ông. Họ ôm nhau như những người thân.

Buổi tối nghỉ ở nhà bác Hai Tập, cha mẹ bắt tôi phải lên giường ngủ sớm. Hai người dưa nhau ra ngoài bãi cỏ ven sông. Tôi nghe họ nói với bác Hai Tập: “Trời nóng, tụi em ra sân ngồi cho thoáng!”. Tôi nằm trên bộ ngựa rộng rinh rang nhưng không ngủ được. Gió từ ngoài sông Ba thổi vào lồng lộng, mát rượi. Cha mẹ tôi mãi đến khuya mới trở lại nhà. Mẹ tôi chui vào giường nằm cạnh tôi, tóc bà ẩm hơi sương. Cha tôi nằm lắt lẻo trên chiếc võng bạt treo dưới gốc cây xoài ngoài sân. Lâu lâu lại thấy ông quẹt lửa hút thuốc. Ánh lửa nhoáng lên rồi vụt tắt. Chỉ còn lại chấm đỏ trên đầu điếu thuốc lá rê hiện lên trong bóng tối.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:12:11 pm
Những năm sau khi tôi đã trưởng thành, phải giao dịch buôn bán có công chuyện đi qua Phú Yên tôi đều dừng lại vào thăm bác Khánh. Cái thị xã nhỏ nhoi dưới chân Tháp Nhạn giờ đã lên thành phố. Hàng chục con đường ngang dọc to đẹp, trải nhựa san sát nhà cửa. Hai bên dường sáng trưng những ngọn đèn cao áp tỏa bóng xuống dòng sông Ba. Bờ sông đã được xây kè dài hàng cây số. Những khối phố mọc lên giữa những cồn cát hoang khi xưa. Đường mở tới đâu nhà dân vươn ra tới đó, có những ngôi nhà ba bốn tầng. Một vài đại gia, doanh nghiệp đổ tiền của xây những ngôi nhà cao hàng chục tầng cùng với các khách sạn, nhà hàng ở ven sông và ven biển. Những vị khách du lịch châu Âu, châu Á dập dìu đổ về biển Tuy Hòa.... Đông nhất vẫn là người Nga. Họ sang nghỉ dưỡng, một số đoàn khách là kỹ sư lọc hóa dầu, đi khảo sát, thiết kế xây dựng một tổ hợp hóa dầu ở vịnh Vũng Rô.

Chỉ có dòng sông Ba là vẫn vậy. Mùa khô nước trên nguồn cạn để lộ ra hai bên bờ những bãi cát rộng thả sức trâu bò ra ăn cỏ. Những mảnh ruộng ngô, đỗ mọc xanh. Mùa mưa, lũ nguồn đổ về nhấn chìm những gò bãi cát bồi. Dòng nước mênh mang, đục ngầu đổ ra biển. Làng hoa Ngọc Lãng nằm ở một gò đất cao hơn nhưng có năm nước lụt, lút tới lưng nhà. Chỉ vài năm gần đây nhờ có đập thủy điện sông Hình, lụt không về nữa.

Đàn chim én năm nào bay rợp trời, chẳng hiểu sao bây giờ dần vắng bóng.

Mỗi lần về Tuy Hòa, tôi thường ghé thăm bác Khánh, thắp hương cho hai người phụ nữ đã gắn bó với cuộc đời bác. Cả hai người vợ đều có vẻ đẹp riêng, hiền thục và phúc hậu. Cả hai người vợ đều bỏ bác Khánh mà đi sớm. Người vợ thứ hai của bác Khánh, một cô giáo dạy văn ở thị xã Tuy Hòa, quen biết bác từ những năm bác còn đang tại ngũ ở Trường Sĩ quan Đà Lạt. Lúc ấy bác Khánh đã có vợ, gia đình yên ấm. Người con gái ấy vẫn thầm yêu trộm nhớ chàng sĩ quan đồng hương, hay chuyện và tốt nết. Mãi đến khi người vợ cả mất, vài năm sau cô giáo mới nhận lời kết hôn cùng bác Khánh.

Những năm sau giải phóng, bác Khánh không còn đi dạy học mà chuyển sang làm kinh tế để nuôi gia đình. Từ một ông thầy giáo chỉ biết yêu các nhân vật lịch sử, bây giờ bác phải tập làm quen với cung cách làm ăn theo kiểu hợp tác xã thời bao cấp. ít năm sau, lại vật lộn với kinh tế thị trường muôn mặt. Đi đấu thầu xây dựng đường nông thôn, cung ứng đường điện cho các xã, các buôn vùng đồng bào dân tộc. Chán làm kinh tế, bác quay trở lại nghề giáo. Dù làm việc gì bác Khánh cũng cố đem sức lực, vốn tri thức của mình đưa vào cuộc sống, nhưng dường như không mấy thành công.

Bây giờ thì bác Khánh đã già thật rồi, sống vui cùng con cháu. Chiều đến bác cùng với mấy ông bạn già có tiền rủng rỉnh trong túi kéo nhau đi làm cuộc nhậu, nói chuyện xưa.

Đã nhiều lần dừng lại bên sông Đà Rằng, nhìn con tàu Thống Nhất chạy chầm chậm kéo còi rền rĩ qua sông, tôi tự hỏi: Chú Hoài của tôi đã nhảy từ trên tàu xuống đất ở khúc sông nào nhỉ?

Đã có lần chú kể với tôi, ngày Tuy Hòa chỉ mới là một ga xép, tàu Thống Nhất đi qua không dừng lại, một lần chú đi tìm mộ liệt sĩ, đến ngang chân cầu Đà Rằng, tàu chạy chậm, chú đã ôm cả chiếc ba lô nhảy tàu, ngã xuống mép sông.

*
*         *

Chiều ngày Mười bốn âm lịch, vợ chồng thầy Năm Bê từ Phan Rang ra. Tôi mừng hú khi nhìn thấy cô Lan. Cô sẽ thay tôi đón khách và tiếp khách. Bẩy giờ tối, chú Hoài mới đi taxi từ sân bay Liên Khương về tới trại Đầm Vịt. Cả nhà đang chuẩn bị ăn bữa cơm tối. Chú Hoài vất chiếc túi da, không khách khí ngồi vào mâm cơm ăn luôn. Trong bữa ăn tôi còn nhận hàng chục cú điện thoại của người thân báo tin, hẹn tôi sẽ có mặt ở trại Đầm Vịt trong chuyến bay sớm mai. Người ở Hà Nội vào, kẻ ở Sài Gòn ra. Người từ Phan Rang, Nha Trang lên. Hầu hết các vị khách đều là người thân của gia đình tôi, có người là bạn học với tôi trong những năm ở Sài Gòn và Phan Rang. Nhiều năm xa nhau nhưng chúng tôi vẫn giữ mối liên lạc và có dịp vẫn tìm đến nhau tụ hội. Ngày giỗ của cha tôi hàng năm nhiều người đều có mặt. Một vài người đến Đà Lạt vừa để thăm tôi, dự lễ Phật Đản nhân tiện du ngoạn Đà Lạt trong những ngày hè. Tôi mừng nhất là chị Thi cũng đã điện cho tôi. Chị hẹn sẽ có mặt ở trại Đầm Vịt vào chiều Mười lăm cùng với mấy người bạn. Các chị sẽ đi xe con theo con đường Nha Trang - Đà Lạt, qua vùng núi Giăng Ché, Giăng Bay qua xã Khánh Lê, sông Trò, sông Khế của huyện Khánh Vĩnh. Quãng đường đi xe hơi chưa đầy 130 kilômet. Đường mới mở, theo dấu chân của bác sĩ Yersin gần một trăm năm trước đã cùng với những người dân Raglai tìm đường lên dãy Lang Biang. Bây giờ, đường đã được khai thông phải đi qua nhiều đoạn đèo dốc ngoằn ngoèo, hiểm trở nhưng càng đi sâu vào núi, con đường càng thơ mộng. Hai bên đường là rừng tre trúc, lồ ô xen lẫn với cây xanh đại ngàn. Lên cao nữa là những cánh rừng thông của cao nguyên Lang Biang với những đỉnh nũi, thung lũng chìm trong sương...

Tôi chỉ ăn uống qua loa, chiếu lệ rồi nhờ cô Lan và thầy Năm Bê tiếp khách. Mấy vị khách chiều nay từ Phan Rang lên đều là bạn học của tôi, là trò của thầy Năm Bê. Các bạn tôi lại được gặp thầy cũ. Chuyện nổ như ngô rang. Lâu lâu nghe tiếng cười sảng khoái cùng đám khách trẻ làm ấm áp khu trại vốn tĩnh lặng, êm đềm.

Tôi vẫn chưa có một khoảng thời gian riêng nào dành cho chú Hoài. Chú biết tôi nhiều việc, cũng không bận tâm, ngồi rỉ rả chuyện trò cùng thầy Năm Bê.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:13:37 pm
2

Tôi có cả một buổi chiều dài để được ở bên chú Hoài.

Hôm mới đến trại Đầm Vịt, tôi thu xếp cho chú ngủ lại trong căn phòng của cha tôi. Căn phòng ấy là nơi tôn nghiêm đối với tôi trong ngôi nhà này. Cha mất rồi, hầu như chỉ một mình tôi ra vào. Chị giúp việc được tôi cho phép cứ hai ngày một lần mở khóa cửa phòng chính, mở toang cửa sổ để lau chùi sàn nhà, giường tủ, giá sách và đón gió từ thung lũng và ngoài hồ nước lùa vào. Ngôi nhà luôn sạch sẽ, thoáng mát.

Người duy nhất tôi cho ngủ trong căn phòng đặc biệt này chỉ có chú Hoài. Chú cũng giữ một thói quen cố hữu là không bao giờ ngủ trên chiếc giường của cha mẹ tôi đã từng nằm. Chú Hoài nằm nghỉ trên một cái giường nhỏ, đối diện với chiếc bàn nước, nơi chú và cha tôi ngồi mỗi lần ngủ dậy. Họ giống nhau như hệt. Cùng thức dậy sớm, vệ sinh cá nhân. Ấm nước điện sôi sùng sục. Một trong hai người kẻ tráng cốc, phin cà phê; kẻ pha trà, cho cà phê bột vào phin. Và khói thuốc lá tỏa ra từ ô cửa sổ, lan sang cả phòng tôi... Tôi đã quen với mùi thuốc lá của cha tôi từ nhỏ. Không còn thấy khó chịu khi khẽ chạm vào cái mùi thuốc lá vốn luôn dị ứng với các cô gái.

Chú Hoài sau mấy lần đi viện và mổ đã hút thuốc lá ít đi, chỉ hút thuốc nhẹ, thơm. Ngồi trước mặt khách, trong bàn tiệc, trong bữa ăn, chú không hút. Tôi chỉ bắt gặp chú hút thuốc mỗi khi ngồi một mình tĩnh lặng, xa cách mọi người. Như thể vào lúc ấy, hồn cốt chú ở một nơi nào đó xa vắng. Thuốc lá giải tỏa cho chú Hoài giảm bớt stress, đỡ ức chế. Chú bảo tôi vậy. Còn tôi cho rằng chú lấy cái lý sự cùn của mấy ông nhà báo không muốn từ bỏ thói quen ích kỷ của mình.

Vợ chồng thầy Năm Bê trong bữa cơm chiều qua cũng đã nói với tôi sáng nay hai vợ chồng thầy xuôi Phan Rang. Thầy Năm Bê phân bua với tôi lý do phải về để đón đoàn khách từ Sài Gòn ra nghỉ ở Phong Lan đông cả trăm người. Thầy phải về kiểm tra việc ăn ở, cơm nước cho khách và lo cho đàn chim yến đang mùa sinh nở.

Cô Lan, vợ thầy cười “móc chồng” chẳng kể gì sự có mặt của tôi và chú Hoài:

- Ông ấy lo về đi chợ thì có. Vắng ông ấy, chợ Phan Rang mất vui.

Thầy Năm Bê nghe vợ nói vậy cười vang. Cả tôi và chú Hoài cũng cười ngất.

Cô Lan xem chú Hoài như em, coi tôi như con. Chị chỉ vào mặt chú Hoài nói:

- Chú lo mà cười vợ đi, kẻo già rồi không có người hương khói.

Chú Hoài quay sang tôi:

- Tôi có chút vốn gửi sổ tiết kiệm, có chuyện chi nhờ cháu Bông...

Chú Hoài có tật xấu là không bao giờ kêu tôi bằng tên thật. Chú cứ mang cái tên cúng cơm ra để gọi tôi. Tôi nghe riết thành quen, lại thấy thích, gần gũi. Cha mẹ tôi cũng gọi tôi vậy.

Chú Hoài nhìn thấy thầy Năm Bê đang hí hoáy sửa lại mấy chậu hoa kiểng, nói:

- Anh Năm ơi! Ngồi uống chén nước đã. Làm chi vậy... Để đó, em còn ở chơi với Bông vài ngày, em làm thay anh.

- Lười và bút nghiên như chú cả ngày thì biết làm chi thứ này.

Nói vậy, nhưng thầy Năm Bê cũng dừng tay, ngồi uống cà phê với chúng tôi.

Thầy Năm Bê bây giờ là ông chủ khách sạn Phong Lan. Ông chủ khách sạn cứ 4 giờ sáng, sau tuần hương thắp trên bài vị Bác Hồ, thầy Năm Bê lại tất tưởi cưỡi trên chiếc xe honda dựng dưới gốc cây xoài, tới chợ. Các bà chủ sạp cá, sạp rau đã quen với dáng vẻ nhanh nhẹn, tất bật của thầy xếp rau, xếp thịt, cá... vào từng bao để sẵn. Lát nữa có xe đưa những món hàng thầy đặt mua về khách sạn chuẩn bị bữa ăn cho khách. Hàng thực phẩm chuẩn bị cho bữa ăn ngày nào ít, thầy Năm Bê cột lên phía sau xe honda, tự chở về nhà.

Đã có lần chú Hoài hỏi:

- Sao anh Năm khổ thế. Không thuê người quản lý thay anh đi mua hàng.

Thầy Năm Bê cười ha hả:

- Tính tôi nó quen rồi, chú à. Mình đi mua chọn món tươi ngon cho khách. Đi chợ với tôi cũng là lao động. Rảnh rỗi, tôi chơi với bầy chim yến... Nghe chúng hót mỗi sáng và khi chiều tà lúc về tổ.

Tôi nghe chuyện thơ của thầy nhiều rồi. Nhưng cả ngàn con chim yến từ biển bay về nhà thầy Năm Bê làm tổ thì là chuyện hy hữu.

Tôi và chú Hoài nâng ly trà đá, chia tay với thầy.

Thầy Năm Bê và cô Lan về rồi. Tôi buồn ngơ ngẩn.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:16:29 pm
*
*        *

Trời chiều. Nắng nhẹ. Gió se se lạnh.

Tôi đưa chú Hoài leo ngược lên phía sườn đồi phía sau nhà có rừng thông và bạch đàn.

Qua chỗ đặt mộ của bà nội, của cha mẹ tôi, chú Hoài và tôi dừng lại. Chú Hoài đã mang sẵn một nắm nhang. Thứ nhang thơm dịu chú mang từ Hà Nội vào để giỗ. Tôi ôm theo một bó hoa hồng, lưu ly, hoa cúc lặng lẽ cắm vào ba chiếc bình hoa đặt trên những ngôi mộ.
Nắm nhang cháy tỏa mùi hương thơm ngát.

Chú Hoài dừng lại trước mộ bà nội, mộ mẹ tôi. Chú đứng trước mộ ba tôi lâu hơn. Gương mặt chú trầm tư. Miệng lẩm nhẩm, chả hiểu chú khấn vái cha tôi điều gì. Nét mặt chú Hoài lúc ấy xúc động lắm. Hẳn chú lại hoài niệm về những chuyện xưa cũ.

Tôi không thích vậy. Nhưng tôi không dám động vào cõi thiêng của người đã chết và của cả người đang sống. Tôi biết một điều, những tuýp người như cha tôi, như chú Hoài hay sống với quá khứ, với kỷ niệm. Tôi trẻ, thực tế hơn, và ở một khía cạnh nào đó, thực dụng hơn. Không chỉ trong chuyện làm ăn trong đời sống, nó còn ẩn chứa cả trong tư tưởng và xúc cảm. Trong những hoàn cảnh nhất định, mỗi khi đứng trước những con người như chú Hoài, ngoài sự trân trọng, tôn kính, tôi không khỏi có chút mặc cảm, tự ti, thậm chí xấu hổ trước những suy nghĩ nhỏ mọn của chính mình.

- Đi đâu đây, cô bé? - Chú Hoài hỏi tôi lúc rời khỏi ngôi mộ.

Tôi đáp:

- Tới “chỗ cũ” chăng?

- Đồng ý.

Chú Hoài đáp cụt lủn. Và vượt lên phía trước.

Cái “chỗ cũ” ấy là một tảng đá nằm ở ven Đầm Vịt, phía sau tảng đá là một sườn núi, thuộc đất của trang trại, trồng rừng đã nhiều năm. Những cây thông, những cây bạch đàn đường kính tới 20 centimet. Gỗ đã có thể khai thác được. Nhưng tôi chả bán gỗ làm gì. Những thân cây ấy đã một thời in dấu tay cha con tôi. Nhiều chủ xưởng gỗ ở Đà Lạt, ở Đồng Nai đánh tiếng hỏi mua, tôi chối thẳng thừng.

Cây rừng ở đây là hình bóng của cha tôi. Xa hơn là mẹ tôi, là bà nội tôi.

Chú Hoài đã tới bên tảng đá, nhưng chú không ngồi lên bờ cao mà xoải chân, tụt giầy ngồi xuống vạt cỏ mịn màng, sát bên đầm.

Nắng từ phía tây đổ xuống mặt đầm một khoảng sáng. Sườn núi che khuất một phần hồ, nơi tôi và chú Hoài đang ngồi. Theo chú, tôi cũng tụt đôi dép và ngồi xuống bên.

Tôi hỏi chú Hoài, điều mà tôi biết chắc chú không muốn nghe:

- Lâu nay chú có tin tức gì của cô và em Hoa bên Nga không?

Chú Hoài nhìn tôi chưa trả lời mà lại rút ra từ trong chiếc túi mìn claymo cũ bao thuốc lá Salem và chậm rãi châm lửa rít từng hơi dài. Mùi thuốc Salem phảng phất hương liệu bạc hà, hăng hăng, dễ chịu.

Đã hơn 15 năm nay, người vợ của chú, một phụ nữ xinh đẹp đã bỏ rơi chú. Chị ta đã có đứa con thứ hai với anh sĩ quan người Nga làm việc ở một đơn vị phòng cháy, chữa cháy. Hơn chục năm rồi chú đã ký vào tờ đơn xin ly hôn của chị vợ cũ và làm thủ tục cho con gái theo mẹ sang Matxcơva đi học. Những năm ấy, chú Hoài đang là sĩ quan quân đội, theo các đơn vị chốt giữ đuổi đánh bọn Khmer Đỏ ở Xiêm Riệp, Biển Hồ. Tờ giấy ly hôn đó sau này chú Hoài phải nhờ một người bạn ở Nga mang về. Ngày con gái xa cha, chú không có mặt.

Chú Hoài đã từng thú nhận với tôi:

- Chú là một người cha không tốt cháu à... Chú không đủ tiền nuôi vợ con. Không có nhiều thời gian đưa vợ đi chơi, đi du lịch. Mỗi lần về phép, ở với vợ con mươi ngày, nửa tháng... rồi đi. Mà nhu cầu phụ nữ bây giờ cần nhiều thứ. Nhà cửa, xe pháo, áo quần... Một người lính như chú không biết kiếm tiền mang về cho vợ. Chú biết những gì vợ con mình cần, cả chú cũng cần nhưng chú không làm được chuyện đó...

Cha tôi ngày còn sống biết nỗi đau buồn của chú Hoài nên rất thương chú. Vợ bỏ đi, mỗi kỳ nghỉ phép hay khi đã về công tác tại một tờ báo ở thành phố, rảnh rỗi chú tìm về trại Đầm Vịt chơi với cha con tôi. Tôi thân với chú Hoài, những mối tình thời sinh viên tôi kể cho chú nghe hết. Kể cả chuyện của Khang; chuyện Khang đưa cha con tôi về lại làng Lôi thắp hương cho ông nội trong một đêm hãi hùng và chuyện tôi tìm ra ngôi mộ của anh...

Chú Hoài chăm chú lắng nghe, có lúc chú xúc động. Tôi hỏi:

- Nghe chuyện yêu đương của cháu, chú ghét không?

- Sao lại ghét, cô bé. Chú sẽ lưu giữ...

- Chú giữ làm chi?

- Để mai này chú đưa vào tiểu thuyết.

Tôi cười ré lên như một đứa thần kinh. Nhìn tôi cười, chú Hoài tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Cháu cười làm chú sợ...

- Sao lại sợ?

- Tưởng cháu bị tâm thần.

Tôi nhõng nhẽo đẩy chú ngã soài xuống chiếc ghế băng lúc chú đang ngồi gõ máy tính...

Bây giờ ngồi đây, trong không gian tĩnh lặng của buổi chiều tà bên Đầm Vịt, tôi lại hỏi chú Hoài điều ngớ ngẩn.

Chú Hoài rít một hơi thuốc dài rồi búng điếu thuốc vào vạt cỏ lau ven hồ:

- Con gái chú nay đã vô đại học. Còn cô ta sống hạnh phúc với người đàn ông Nga. Ngó bộ cũng giàu có... Mừng cho cô ấy. Con gái chú lâu lâu vẫn gọi điện thoại hỏi thăm bố. Nó quên nhiều từ tiếng Việt, nói chen tiếng Nga... Chú chả hiểu nó nói gì.

Tôi quay sang chú Hoài:

- Chú phải nói thiệt cho cháu điều này nghe! Sao cô chú bỏ nhau lâu rồi mà chú không lấy vợ?

Chú Hoài nhìn tôi:

- Lấy vợ nữa làm gì? Chú chưa đủ vui buồn ư?

- Chú thiệt kỳ cục. Tuổi chú chưa già... Sức khỏe chú chưa đến nỗi nào... Chú cần lấy vợ, phòng khi mai kia già còn có người chăm sóc.

Chú Hoài nhìn tôi rồi chỉ xuống khoảng đồi nơi có phần mộ cha tôi, bảo:

- Ngày sau, chú có chuyện gì thì nhờ cháu cho chú một vuông đất đồi cạnh chỗ cha cháu... Đêm đêm, chú và cha cháu ngồi trò chuyện, uống trà.

Tôi nói to:

- Chú đừng có gở miệng! Cháu ghét chú nói đến chuyện chết chóc. Chú không sợ hãi khi nghĩ tới cái chết ư? - Tôi véo tai chú Hoài: - Chú ơi là chú!... Cháu ghét chú!

Chú Hoài cũng đáo để:

- Chị còn ghét tôi hoài à!... Này, tôi hỏi chị, đời người ta ai tránh khỏi cái chết nào? Những người vĩ đại còn chết huống chi “thân cò, thân vạc” như tôi.

- Nhưng chú phải lấy vợ - Tôi gào lên, bất chấp chú có nghe hay không.

Chú Hoài không nhìn tôi, quay mặt ra phía đầm nước. Nắng đã tàn sau đỉnh núi, chỉ còn ráng đỏ hắt lên nền trời xanh đang tím dần lại... Không gian im ắng, thanh sạch. Gió lào xào len lách qua tán cây rừng...

Chú Hoài như thể không chỉ nói cho tôi nghe. Chú như đang trò chuyện thầm thì với ai trong khoảng không gian bao la của trời đất, cỏ cây:

- Đời chú đã đi qua bao cửa chết. Nhiều không đếm xuể. Năm 18 tuổi, trận sốt ác tính đầu tiên quật ngã chú ở chân dốc Chè, người Mỹ gọi là điểm cao 1078. Mỹ đang càn vùng tây bắc Huế. Bom ném ngả nghiêng các cánh rừng. Chú sốt cả đêm, tưởng chết. Mũi Nivaquyn của người y tá tiêm thẳng vào ven, nào ngờ chú tỉnh lại, lết được ra khỏi căn hầm kèo đã bị bom B57 ném sập một góc cửa hầm. Một lần khác ở giáp ranh Hương Trà, lính Ngụy phục kích chú với một người lính trinh sát của KX tên Xu. Chú Xu giờ vẫn còn sống ở Huế. Hai thằng chú chết hụt ở Dốc Đu, lạc rừng cả ngày trời. Năm “bẩy hai” bom B52 ném sập hàng chục căn hầm khi cả tiểu đoàn đang họp quân chính dưới chân đồi Đức Mẹ ở miền tây Phong Điền. Những anh lính trẻ cùng với chú vừa qua trận chiến ở Sêpôn, ở đường 12, được Quân khu cho ra Quảng Bình nhận tân binh, cấp trên ưu ái cho về quê một tháng. Anh nào cưới vợ, trận bom ném xuống sườn đồi dốc Đức Mẹ chiều ấy chết cả. Chú chui lên từ căn hầm sập, giữa những xác người, mặt bê bết máu. Chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Ngọc Ngạn thêm một lần nữa đọc điếu văn và kêu tên từng anh cán bộ trung đội, đại đội đã hy sinh... Chỉ tháng trước, những người cán bộ ấy khoe từng tấm ảnh về cô vợ mới cưới quê ở Thanh Hóa, Hải Hưng, Quảng Bình... Họ gửi lại quê vợ và cả những đứa con còn nằm trong bào thai, chưa biết mặt để lầm lũi đeo ba lô, vác súng leo ngược Trường Sơn vào trận chiến xuân 1972... Chưa kịp đánh địch, những người lính ấy đã ra đi.

Rồi cái đợt xuân “bẩy nhăm”, những trái đạn rốc két của chiếc A37 bắn tan nát đội hình của Đại đội 1, đại đội chủ công của chú ở Phú Lương B. Liên lạc, y tá và cả một khẩu đội cối đi theo chú nằm lại bên cửa Ngã Ba Sình... Trong cái thân xác gầy gò, ọp ẹp, thương tích của chú đầy rẫy vi trùng, đêm ngày quậy cựa...

Chú vẫn còn nhớ trong đêm đánh về chợ Sịa, đại đội của chú phải vượt qua một con hói rộng. Hai ngày trước, cả đại đội lo đánh chống càn. Bộ đội hành quân cả đêm thoát vòng vây, vừa mệt, đói và khát. Gặp được nước, giữa đêm tối trời, “cha con” vục mồm xuống uống, bất kể rong rêu, miễn sao cho đã cơn khát. Bánh lương khô Trung Quốc ăn vội đã hết veo. Đến sáng, chú bò ra bãi sông quan sát, nghe ngóng địch. Hỡi ôi, con đường bộ đội hành quân đêm qua đầm nước đầy vết chân trâu. Mới khua động một chút, bầy đỉa đói thi nhau lao ra, uốn lượn giữa dòng nước hôi tanh mùi bùn.

Vậy tật bệnh, chết là cái chắc...

Chú Hoài cười, gương mặt dãn ra, trông chú trẻ lại cả mươi tuổi. Như thể chú lấy cái chết để đùa giỡn, trêu chọc tôi. Nghe chuyện của chú, tôi vừa sợ vừa ghê nhưng vẫn thích nghe. Tiếc là những câu chuyện của chú chưa được ghi chép lại. Nếu những chuyện này được viết thành sách thì hàng ngày tôi và đám bạn bè, các ông quan chức, đám doanh nhân đi trên những chiếc xe sang trọng ra vào giữa các nhà hàng, hotel với những thực đơn đắt tiền chẳng phải sẽ có những giây phút áy náy lương tâm lắm sao.

Chú Hoài lại lặng im hút thuốc. Bất chợt chú bảo tôi:

- Nhiều đêm chú sống trong những cơn mơ. Mơ rừng núi đã đành. Mơ gặp những gương mặt người xưa cũ. Cha mẹ chú hiện về. Bà ngoại chú trong giấc mơ tay cầm gậy trúc. Bà mở chiếc thắt lưng rút ra hai đồng bạc còn thơm mùi cau trầu dúi vào tay chú, cho chú mang theo ngày chú đi nhập ngũ. Hình bóng cô bạn học mặc tấm áo xanh màu cỏ úa kiễng chân, vẫy tay. Mẹ chú cố dúi vào tay chú nắm cơm đã nguội ngắt...

Chú mơ thấy những thằng bạn học với chú một thời. Chúng cùng đi bộ đội với chú, nhưng chúng nó chết cả rồi. Họ nằm lại trên những miền rừng vùng A So, A Lưới, Rào Trăng, Rào Lu, Cocava, Dốc Chè, Khe Trái, địa đạo 310, Dốc Tranh, Đồi Trổi, Chóp Nón... Họ ngã xuống, người có bia, kẻ chẳng có bia... Những chàng trai luôn xanh tuổi 18 cùng với những cánh rừng, đồi núi mọc đầy lau, mua, cỏ dại... Những gương mặt ấy hiện lên như muốn hỏi chú rằng: Mi sống ra răng? Có còn nhớ đến chúng tao? Vậy thì cái chết với chú bây giờ có ý nghĩa gì...

- Thôi chú đừng nói nữa - Tự nhiên tôi hét to - Chú không được nghĩ tới cái chết. Chú không được chết...!

Tiếng tôi âm vang, vọng vào vách đá, dội xuống mặt nước hoang vắng, tan vào thinh không tĩnh lặng.

Chú Hoài nhìn tôi. Tôi nhìn chú. Cả hai giàn giụa nước mắt. Tôi không còn là chính tôi. Tôi ôm lấy chú và gục vào một bên vai, nức nở. Lúc tôi nhìn lên, gương mặt chú cũng đầy nước mắt.

Trái tim tôi nhói đau. Tôi ôm ghì lấy gương mặt ấy, hôn lên mắt, lên môi, lên trán, lên mái tóc khô xác thơm mùi nắng.

Tôi như kẻ điên dại và hét lên:

- Hoài ơi! Anh không được chết...

Lúc tôi ngồi dậy trên vạt cỏ, Hoài đã không còn ở đấy nữa. Chỉ có chiếc áo khoác ngoài của người tôi yêu còn nằm trên lớp cỏ mịn màng.

Tôi thẫn thờ nhìn ra mặt hồ đang gợn sóng.

Tít ngoài xa, Hoài đang sải tay bơi. Hoài quay lại nhìn tôi, giơ tay vẫy. Tôi đứng lên gò cao giơ mũ vẫy lại.

Tôi gọi to:

- Hoài ơi! Em yêu anh...!

Tiếng tôi vang vọng dội vào vách đá, rừng cây.

Trời chưa tối hẳn. Một làn sương mỏng giăng giăng. Vẳng lên tiếng chim “bắt cô trói cột” trong khoảng rừng già. Tiếng con bìm bịp kêu khan ở một đám lau ven đầm.


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:18:07 pm
CHƯƠNG KẾT

Gia đình tôi có chuyến hành hương về thăm quê đúng vào dịp Hà Nội kỷ niệm “1000 năm Thăng Long - Hà Nội”.

Tôi gọi gia đình vì bây giờ tách ngược đường ra Bắc, tôi không còn phải thân cô, thế cô đi một mình. Chồng tôi - không ai khác chính là Hoài. Thêm bé Ly Ly vừa bước sang tuổi thứ tư. Thoa là người quản gia của gia đình, vừa trông nom bé Ly Ly vừa muốn có một chuyến trở lại làng Lôi, nơi Thoa được sinh ra và bỏ đi đã mấy chục năm.

Hà Nội sau ngày đại lễ tưng bừng, cờ hoa rợp trời, người và cảnh vật đều mệt mỏi, tơi tả sau những trận mưa thu kéo dài, rả rích.

Con đường cao tốc đưa tôi về làng chỉ hơn một giờ đồng hồ đã qua Nam Định. Cậu lái xe chiều tôi, cho xe dừng lại giữa cây cầu Tân Đệ để ngắm dòng sông Hồng căng phồng, đỏ cuộn dòng nước hối hả, vươn ra cửa Ba Lạt. Hoài dắt bé Ly Ly đi dọc thành cầu, chỉ cho con xem những con thuyền đang căng buồm chở than, cát, sỏi xuôi theo dòng nước. Hai cha con tỏ ra rất vui. Tôi đứng sát thành cầu, mở Ipad ra chụp hình con sông đang hừng đỏ trong buổi sớm mai. Gọi là chụp hình cho có lệ, kỳ thực tâm trí tôi về lại khoảng không gian xa tít. Đấy là cái buổi chiều u ám, cha đã đưa tôi lần đầu về thăm quê cha đất tổ. Tôi như sờ thấy gương mặt non tơ của Khang trong bộ quần áo lính tuềnh toàng, dính lem dầu mỡ. Cả ánh mắt anh nhìn tôi, một đứa trẻ con mới 14 tuổi, vừa qua tuổi con nít, rất đỗi xa lạ với con người và cảnh vật xứ Bắc. Anh lấy con dao găm trong cốp xe, chặt đôi từng củ ấu có hai đầu gai sắc nhọn, tách nhân cho tôi ăn. Tôi chưa từng được ăn thứ quà lạ ấy bao giờ. Ngon và bùi, bở tơi như hạt mít trại Đầm Vịt.

Nay Khang đã là người thiên cổ. Một phần thân xác Khang vẫn còn nằm lại đâu đó trong những cánh rừng gần khu đền Ăng-co. Phần còn lại được đồng đội đưa về rừng Đức Cơ.

Khu vườn nhà của ông bà nội tôi rộng hơn hai sào, có bờ tre gai bao bọc. Sau ngày ông nội mất, bà nội tôi bỏ đi, lấy cớ nhà vắng chủ, chính quyền và hợp tác xã giữ làm trại chăn nuôi, làm kho. Tôi đã có đơn gửi các nơi. Uy tín của một chủ doanh nghiệp có nhiều gắn bó với quê hương, giấy của tỉnh, của huyện gửi về, khu đất của tổ tiên nay đã được hợp tác xã trao trả lại sau nhiều năm bị “mượn”. Vài năm trước, tôi đã thuê thợ dựng lại trên nền đất cũ ngôi nhà thờ nhỏ để thờ phụng tổ tiên. Ngày khánh thành ngôi nhà thờ ông bà nội, tôi đang ở cữ Ly Ly. Chỉ một mình Hoài về làm cỗ đãi cả họ. Câu chuyện về bà cụ Mít bỏ làng, đeo tang chồng đi ăn xin suốt hai tháng dọc đường để vào Huế, vào Nha Trang tìm con đã được người làng thêm thắt, thêu dệt như chuyện cổ tích thời hiện đại. Bé Ly lần đầu về quê, thoạt nhìn thấy ảnh thờ ông bà nội, cha mẹ tôi, con bé la to:

- Mẹ ơi! Đây cũng có ảnh ông bà cố, có cả ảnh ông ngoại, bà ngoại nè. Ảnh giống hệt như ở nhà ta...

Tôi cười bảo Ly Ly:

- Đúng rồi! Đây là nhà của ông bà cố. Ông ngoại con sinh ra ở đây.

Ly Ly có vẻ thích với không gian vườn rộng rãi. Nó ôm từng gốc cau đang mùa ra trái, bứt những bông hoa nhài cho vào rổ rồi bảo cô Thoa:

- Cô mang lên bàn thờ cúng ngoại!

Làng Lôi bây giờ không còn nhà nào lợp tranh, vách trát đất nữa. Cả làng cũng chả tìm đâu ra “đống rơm, đống rạ”. Nhà nhà lên tầng, mái ngói. Té ra, cái mặt hàng mây tre nứa lá, đan lát vốn là nghề phụ của vùng quê nghèo, tưởng đã chết từ lâu, do Công ty của tôi tìm được đầu ra cho xuất khẩu sang Tây Âu, Hoa Kỳ, Nga... từ những năm “chín mươi”, trở thành những vật phẩm có giá trị, lại là một phần nguồn sống của dân làng Lôi, làng Vàng, làng Mây suốt hàng chục năm nay. Nhiều gia đình trở nên giàu có, trở thành những chủ vựa đi gom hàng cả tỉnh, sang cả Nam Định, Hưng Yên lùng sục nguyên liệu; hoặc vừa tổ chức sản xuất vừa gom hàng.

Buổi chiều, sau bữa cơm cỗ, tiệc tùng, khách khứa họ mạc đã về cả. Hoài bảo với tôi, anh lên thành phố thăm thầy giáo cũ và bạn bè. Quãng ba giờ, tôi lững thững một mình ra thăm mộ ông nội. Ngôi mộ ông tôi đã được xây to, ốp đá đen ngay dưới gốc một cây đa ngoài cánh đồng. Con đường đất đã được dân làng Lôi đổ đá trải nhựa từ đầu làng ra tới nghĩa trang. Tôi cố tìm lại khóm dứa dại ngày trước, nhưng người ta đã chặt bỏ đi cả. Tôi vẫn chưa quên nỗi sợ hãi, run rẩy khi cha dắt tôi ra nghĩa địa giữa đêm khuya. Vừa lạnh, vừa sợ ma. Ánh lửa đốt vàng mã trong đêm nhập nhòa. Và tôi càng kinh hãi khi lão Ca bất ngờ hiện ra sau bụi dứa dại, quỳ xuống chân cha con tôi vái sống xin tha tội. Ngày ấy, tôi còn nhỏ, chẳng hiểu gì về mối quan hệ của họ. Nhiều năm sau, cha tôi mới kể chuyện, chính lão Ca, sau 1975 xuất ngũ mới phao tin cha tôi không hy sinh mà “chiêu hồi” theo Mỹ - Ngụy. Mà lão không biết rằng cha tôi đã từng là cơ sở in ấn cho Tỉnh ủy K. Cái “án oan” ấy đã làm cả gia đình tôi khốn đốn mất mấy năm. Nhưng giời có mắt. Những ngày tháng ở trại Ngân Điền, cha tôi đã gặp được những người tốt. Lao động dạy cho cha tôi biết nghề trồng hoa và hiểu thêm về cuộc sống và con người.

Tôi, Hoài và những người thân, bà con họ hàng ở trại Đầm Vịt luôn biết ơn cha mẹ tôi, vì họ đã mang đến cho nhiều gia đình một cuộc sống no đủ, giàu có trên vùng đất cao nguyên xa xôi.

Và bây giờ, tôi về đây, đứng trên mảnh đất làng vái tạ.

Làng chiều im ắng, thỉnh thoảng mới có tiếng xe máy, không còn nghe thấy một tiếng chó sủa râm ran như đêm nảo đêm nao cha con tôi về làng thắp hương cho ông. Cụ Lỗ Tấn đã từng hỏi: “Con người ta có linh hồn không?” Nhiều lần đứng trước bàn thờ cha mẹ và bà nội ở trại Đầm Vịt sau tuần nhang, tôi cũng từng tự hỏi: “Con người có linh hồn không ha?” Tôi cũng không dám hỏi Hoài, sợ anh cười.

Song câu hỏi ấy luôn ám ảnh trong tôi mỗi khi đứng trước những người đã khuất. Và nếu có thật, vũ trụ kỳ vĩ và huyền diệu biết bao. Cũng như chưa ai trả lời được trong bầu trời cao rộng, thiên la địa võng kia, có một tinh thể nào giống như trái đất không? Có cỏ cây, hoa lá, sông núi và những sinh linh bé nhỏ không? Tôi chỉ cầu mong sao nếu có, con người hãy đừng phải gánh chịu những khổ đau, tội ác, chết chóc mà cuộc sống của con người trần thế từng trải... Ý tưởng của tôi cũng thật viển vông, như bầu trời, như những vì sao. Bây giờ, chỉ có những ngọn gió tươi đang mơn man trên da mặt tôi mang theo hương lúa sớm là thật, trong sạch và thuần khiết.

Tôi sững người khi nghe tiếng chuông nhà thờ báo lễ buổi chiều. Và gần ngay đó là tiếng mõ tụng kinh của các nhà sư trong ngôi chùa làng. Lâu rồi tôi mới được nghe lại những âm thanh của làng quê, thật ấm áp, thánh thiện. Chả thế, mình đã có lần nói với tôi: Một thời trai trẻ, anh và đám bạn bè của mình đã dám sống và cả dám chết bởi những ký ức và nỗi ám ảnh thân thuộc đó của quê hương”.

Tôi tin điều Hoài nói là thật.


Hà Nội, 2015


Tiêu đề: Re: Trang trại Hoa hồng (tiểu thuyết - Đỗ Kim Cuông)
Gửi bởi: hoi_ls trong 22 Tháng Năm, 2019, 03:20:01 pm
LỜI CẢM TẠ

Để hoàn thành cuốn tiểu thuyết này, tôi xin tỏ lòng biết ơn:

Hương hồn các anh hùng - liệt sĩ của tiểu đoàn X. Công trường V - Quân khu Trị - Thiên - Huế

Cảm tạ, tri ân tới: Nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Tùng Điển, nhà báo Nguyễn Thế Khoa, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, PGS. Trần Thế Phiệt, ông Hoàng Ngọc Ngạn (KX), ông Đàm Khánh Hạ, ông Đoàn Ứng Viên, ông Đoàn Ngọc Châu, sư cô Oanh (Tokyo), ông Dương Văn Bướm, ông Nguyễn Mạnh Tung, bà Lê Thy Thy, Tôn nữ Liễu, Nguyễn Thu Hồng, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thu Hương, Thu Hồng (Phú Yên), o Lành, Ngọc Anh, Xu (Huế); cùng vợ và các con tôi là bà Trần Thị Thái Phan, Đỗ Nguyễn Anh Tuấn, Quỳnh Trâm... đã giúp đỡ, động viên, khích lệ trong quá trình hoàn thành tác phẩm này.






Trang trại Hoa Hồng đưa ta đến những không gian rộng lớn từ đồng bằng Bắc Bộ đến chiến trường Trị Thiên - Huế, từ Nha Trang tới cao nguyên với những người lính, người dân quê, những người ông, người bà, người mẹ, và con cháu của họ suốt mấy mươi năm bom đạn chiến tranh rồi hòa bình. Một gia đình với ba thế hệ phải chịu đựng biết bao đau buồn, tủi nhục và cả niềm hạnh phúc tuy ít ỏi, muộn màng nhưng phải trả bằng những giá đắt của cuộc sống. Mỗi trang của cuốn tiểu thuyết tha thiết tình người, tình đời và luôn cháy lên niêm tin vào sự tử tế, tốt đẹp của con người.

Nhà văn Đỗ Kim Cuông không phản ánh những chiến công, sự khốc liệt trong chiến trận. Anh đi vào những cảnh huống éo le, cảnh ngộ oái oăm, đi giữa lằn ranh của sự sống và cái chết, đế từ đó khám phá tâm hồn, cốt cách con người...


Nhà văn NGUYỄN THẾ QUANG






Hết