Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 04:42:37 pm



Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 04:42:37 pm
Tên sách: Trận mạc và giảng đường
Tác giả: Trung tướng Đào Văn Lợi
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2010
Số hóa: macbupda

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23174;image)

Lời thưa trước

Tôi nhập ngũ ngày 15-4-1965, đến 15-4-2010, vừa tròn 45 năm, trong đó có gần 43 năm liên tục phục vụ trong quân đội., 43 năm so với quá trình hình thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam thì chẳng đáng gì, chỉ như hạt cát giữa biển cả mênh mông.

Được Nhà nước, Quân đội cho nghỉ hưu đến nay đã được hơn hai năm. Thời gian nhàn rỗi hơn, lại được sự khuyến khích, động viên, giúp đỡ của đồng chí, đồng đội, những cán bộ làm công tác nghiên cứu lịch sử quân sự, tôi mạnh dạn ghi lại những dòng hồi ức về quãng đời chiến đấu, học tập và công tác, ngõ hầu lưu lại chút gì đó cho con, cháu sau này.

Tôi viết lại từ thuở nhỏ đến lúc bước vào quân ngũ, từ người chiến sĩ đến cán bộ cao cấp trong quân đội, từ khi ở đơn vị chiến đấu cũng như khi về cơ quan, tham mưu tác chiến, hay làm nhiệm vụ giáo dục ở nhà trường; từ lúc vượt đường Trường Sơn, tham gia chiến đấu chống Mỹ giải phóng dân tộc tới cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, rồi bước vào giai đoạn xây dựng quân đội trong thời kỳ đổi mới. Tôi nhớ và ghi lại những kỷ niệm vui buồn không bao giờ quên trong những ngày cùng chung sống, chiến đấu và công tác với đồng chí đồng đội; đặc biệt ghi lại những chiến công của các đơn vị mà tôi vinh dự được góp phần nhỏ bé của mình trong suốt 43 năm làm lính Cụ Hồ.

Thời gian đã lùi xa, trí nhớ có hạn, với nhiều sự kiện và nhân chứng đan xen, việc thể hiện khó tránh được những thiếu sót, khiếm khuyết… Rất mong nhận được sự thông cảm, độ lượng cùng những ý kiến đóng góp của bạn đọc.

Nhân cuốn sách được ra mắt bạn đọc, tôi xin chân thành cảm ơn các thủ trưởng cũ, các đồng chí, đồng đội đã động viên và đóng góp nhiều ý kiến quý báu. Cảm ơn Đại tá PGS-TS. Hồ Sơn Đài cùng các cộng sự đã góp nhiều công sức giúp tôi hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng bản thảo. Cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã tạo điều kiện để cuốn sách được ra mắt bạn đọc vào đúng dịp kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước, cũng là dịp kỷ niệm 45 năm ngày nhập ngũ của tôi.


                                                                                                                                                                           
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 4-2010
Trung tướng ĐÀO VĂN LỢI

Lời giới thiệu

Đào Văn Lợi nhập ngũ năm 1965, là một chiến sĩ xuất thân từ nông dân, trải qua chiến đấu, công tác, học tập mà trưởng thành, trở thành một vị tướng, một nhà giáo có nhiều đóng góp cho quân đội, cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

Tôi giới thiệu cuốn Trận mạc và giảng đường của Trung tướng PGS-TS. Đào Văn Lợi cùng bạn đọc.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 5-5-2010
Đại tướng LÊ ĐỨC ANH
                                                                                                                                                   
Nguyên Chủ tịch nước CNXHCN Việt Nam


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:13:28 pm
Chương một

TUỔI TRẺ VẢ TRƯỜNG SƠN

Những năm sáu mươi (thế kỷ XX), cũng như tất cả miền miền quê khác của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cuộc sống từng ngày thay da đổi thịt. Phong trào hợp tác xã phát triển rất nhanh và mạnh, ban đầu thí điểm ở một thôn rồi nhanh chóng lan rộng trong toàn xã. Quang cảnh làm ăn đi vào nền nếp. Mọi người đều phấn khởi. Cả xã là một công trường lớn. Buổi sáng sau một hối kẻng thì tất cả xă viên rời khỏi mái nhà của mình để ra cánh đồng làm việc, mỗi người một việc theo kế hoạch đã sắp xếp sẵn. Đến mùa thu hoạch, lúa gặt ngoài đồng về tập trung ở sân kho hợp tác xã. Mọi người cùng tập trung đập lúa, phơi khô. Người làm được nhiều công thì được nhiều lúa, người làm được ít công thì được ít lúa; điều đó thể hiện rất rõ mô hình chủ nghĩa xã hội “làm theo năng lực, hưởng theo thành quả lao động của mình”. Phong trào hợp tác xã đã thực sự tạo ra một không khí vui tươi phấn khởi trong quần chúng nhân dân. Đúng như Tố Hữu đã khái quát trong bài thơ “Ba mười năm đời ta có Đảng”:

“Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê
Chiêm mùa cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn”


Đến năm 1964-1965 tôi bước vào tuổi thanh niên. Tôi được các chú, các anh trong Bаn cán sự xã đội phân công làm thư ký, công việc chính là thống kê thanh niên đến tuổi đi nghĩa vụ quân sự, những người đã đi nghĩa vụ quân sự trở về. Việc làm này thường váo buổi tối. Ban ngày tôi làm các công việc của nhà nông: cày cấy, gặt hái, chăm bón mùa vụ... Ngoài việc đồng áng, trong gia đình, tôi còn thay mẹ khâu vá quần áo cho cả nhà vì mẹ tôi vốn mắt kém.

Tôi làm xã viên hợp tác xã, thư ký xã đội được hai năm. Đây cũng là thời gian tôi chịu sức ép của gia đình phải lấy vợ sớm vì tôi là con trai một. Mẹ tôi và ông bác họ đặc biệt sốt sắng trong việc này. Với lại tôi cũng đến tuổi đã bắt đẩu hẹn hò với cô gái trong làng. Người con gái tôi để ỷ là có Bùi Thị Chỉnh. Sau một thời gian tìm hiểu, gia dinh tỏi làm lễ dạm ngõ và tôi sẽ chờ cô khoảng 2 năm sau khi cả hai đủ 18, 20 tuổi thì cưới (sau dó tói đi B, cỏ ấy cũng tham gia thanh niên xung phong và lấy chồng người Thanh Hóa. họ sống hạnh phúc vói con cái ngoan ngoãn trưởng thành).

Đó cũng là những năm tháng mà cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược đang diễn ra ngày càng quyết liệt trên chiến trường miền Nam. Mỹ dựng ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 5-8-1964” tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Không quân Mỹ đánh phá một số thành phố. thị xã, thậm chí đánh vào thủ đô Hà Nội. Lúc này miền Bắc vừa làm nhiệm vụ lao động sản xuất với phong trào cánh đồng năm tấn để lấy thóc lúa cung cấp cho chiến trường, cho tiền tuyến đánh giặc. Nhiệm vụ thứ hai là phải đánh trả và giành thắng lợi trước cuộc chiến tranh phá hoại tấn công bằng không quân. pháo hạm của Mỹ. Như vậy từ năm 1965, chiến tranh đã lan ra cả miền Bắc.

Một lần vào khoảng đầu năm 1965, Mỹ cho máy hay ném hom cầu Lai Vu, cầu Phú Lương ở phía đông thành phố Hài Dương (hiện nay hai cầu này nằm trên con đường huyết mạch số 5 từ Hải Phòng đi Hà Nội). Tôi nghe rõ tiếng gầm rú xé trời của những chiếc máy bay F5, F4 cúa Mỹ. Chiến tranh mà Mỹ đã mở rộng đến quê hương tôi, sẽ không còn những ngày tháng thanh bình. không khí vui nhộn của trẻ thơ tới trường cũng như lao động trên cánh đồng hợp tác. Thay vào đó là toàn một màu xanh phòng không, quần áo không được dùng đồ trắng, mũ rơm thay mũ vải khi tới trường, công sự ẩn nấp, hố chiến đấu được đào đắp ở nơi công cộng để tránh bom Mỹ.

Chiến tranh đã về đến ngõ cửa từng gia đình. Cả nước cùng đánh Mỹ. Lúc này, phong trào thanh niên “ba sẵn sàng” xung phong cứu nước được phát động rất rầm rộ. Mở đầu là Thành đoàn thanh niên Hà Nội (Hà Nội phát động phong trào này từ năm 1963), tháng 3 năm 1964. Trung ương Đoàn mới phát động rộng ra cả miền Bắc. Chúng tôi là lớp thanh niên Vũ Quang (đồng chi Bí thư Bаn chấp hành Trung ương Đoàn). Ai ai cũng hớn hở lên đường ra chiến trường làm nhiệm vụ cứu nước. Tôi cũng trong tư thế sẵn sàng - lên đường nhập ngũ.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:16:57 pm
Vào một ngày tháng 2 năm 1965, xã đội trưởng Nguyễn Văn Chọn hỏi tôi:

- Tới đây có đợt nghĩa vụ quân sự, em có đi không?

- Đợt này anh cho em đi. Tôi trả lời dứt khoát

Sau đó tói làm đơn xin nhập ngũ. Hôm đi khám sức khỏe, mẹ nấu cho tôi một bữa cơm ăn thật no nhưng tôi vẫn chưa yên tâm về số cân của mình. Dọc đường di, tôi mua mấy củ khoai ăn thêm, sợ mình không đủ cân để đi nghĩa vụ. Nhưng cuối cùng thì tôi trúng tuyển. Cùng trúng tuyển với tôi đợt đó có anh Nguyễn Văn Úy thôn Đan Cầu, Bùi Văn Quy thôn Đông Tân, Hà Văn Tùng thôn La Khê...

Tói được đoàn cán hộ của Tiểu đoàn 3 (đơn vị nhận quân) trực tiếp gặp gỡ, tìm hiểu và được trò chuyện với anh Nguyễn Văn Nhung, cán bộ miền Nam tập kết, đeo quân hàm thiếu úy. Từ lúc đó, hình ảnh người sĩ quan của anh Nhung như một biểu tượng cao cả để tôi phấn đấu và vươn tới. Anh như người bạn, người thù trưởng đầu tiên của tôi. Và chúng tôi cứ giữ mãi mối quan hệ đó cho đến những ngày giải phóng miền Nam 1975, vào Phnôm Pênh năm 1979 cho tới lúc anh nghi hưu (anh mất năm 2001). Được đoàn cán bộ về tận địa phương tuyển chọn điều đó làm tôi phấn khởi và tự hào. Tôi chạy về nhà báo tin mừng cho bố mẹ và em gái. Cà nhà rất mừng, bố tôi hết lòng động viên tôi và nói “đi nghĩa vụ quân sự chì có ba năm thôi, con cố phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ rồi trở về quẻ hương, gia đình, làng xóm”. Những lời của bố đã thấm vào tâm trí tôi. Tôi cũng tin rằng mình sẽ chỉ đi ba năm, sau đó trở về làm một anh nông dân như bô mẹ tôi và bao người trong làng.

Tôi được gọi nhập ngũ vào ngày 15-4-1965. Hồi ấy, Nhà nước còn gọi cả những người tái ngũ từng là bộ đội đánh Pháp nhưng còn đủ sức khỏe để tiếp tục chiến đấu (Xã tôi có anh Long, anh Đờn, anh Mông) và những anh đã đi nghĩa vụ quân sự trong giai đoạn 1960-1963 trở lại quân ngủ (như anh Vũ Văn Súy ở Phú Mỹ).

Trước ngày tôi lên đường, bố mẹ có làm mâm cơm mời họ hàng thân thích và bà con lối xóm đến để chia tay. Tối đó ông bác ruột của mẹ là Hà Văn Ơn và cô bạn gái đã dạm hỏi cùng tới dự. Ở địa phương cũng tổ chức văn nghệ, liên hoan tặng quà để động viên thanh niên lên đường. Không khí đó tạo được rất nhiều niềm tin cho mỗi chúng tôi. Sau khi chia tay với chính quyền địa phương tôi trở về nhà khoảng 21 giờ. Bố mẹ tôi vẫn ngồi chờ tôi ở sân. Dường như chỉ còn có buổi tối hôm nay để gia đình tôi đoàn tụ nên bố tôi đã dặn dò tôi rất nhiều, còn mẹ chỉ ngồi lặng lẽ thỉnh thoảng nhắc câu con đi gắng hoàn thành nhiệm vụ rồi trở về với mẹ. Tôi nghĩ đó cũng là mong ước chung của tất cả những ông bố, bà mẹ tiễn con lên đường nhập ngũ. Một mong ước giản dị: con mình sẽ trở về như lúc ban đầu nó ra đi mà không mong ước con mình sẽ thành ông này bà kia. Lúc đó bố mẹ tôi cũng không biết được nhập ngũ tức là phải vào chiến trường đánh nhau như thời kỳ kháng chiến chống Pháp trước kia. Cô em gái của tôi lúc thì ôm chặt lấy anh, lúc chạy ra đứng khóc mà không dặn dò gì anh, có lẽ cô còn quá nhỏ chưa hiểu hết được vấn đề. Tôi hứa với bố mẹ và em gái 3 năm nữa sau khi hoàn thành nhiệm vụ sẽ trở về, lúc đó trong tôi cũng có niềm tin như vậy. Đêm hôm đó cả nhà tôi không ai ngủ được.

Sáng hôm sau, bố dậy thật sớm nấu cơm cho cả nhà, hai anh em tôi cũng dậy phụ bố. Tôi ăn xong đi ra bãi tập trung quân ở ngoài xã. Mẹ và em gái chỉ đưa tiễn đến bờ ao thì quay về. Có lẽ đây là lần đầu tiên họ phải đưa tiễn người thân của mình đi xa và lâu như thế. Lúc này nhà tôi chỉ có tôi và bố là không khóc. Tôi biết sau khi đưa tôi ra đến bờ ao mẹ và em gái đã khóc rất nhiều. Ngược lại bố tôi vẫn giữ vẻ rắn rỏi, hết sức động viên tôi. Hôm đó, tôi được mặc bộ quần áo đẹp nhất từ trước đến giờ, cái quần xanh công nhân và một chiếc áo sơ mi màu mỡ gà. Có lẽ bộ quần áo này là của để dành mà bố mẹ cho tôi khi lên đường. Trong những năm làm xã viên hợp tác xã nông nghiệp tôi chỉ được mặc quần áo theo dạng “diềm bâu” cắt theo kiểu nhà quê. Bây giờ khi được mặc bộ quần áo mới tươi tắn nên tình thương gia đình, thương mẹ, thương bố và thương em cứ dâng trong lòng… Thế nhưng niềm vui, niềm phấn khởi được đi làm nghĩa vụ, được gặp bạn bè, được gặp các anh, các chú đi trước đang chờ đón mình đã nhanh chóng xóa tan cái ủy mị của tình cảm gia đình, giúp tôi dứt khoát bước vào đội hình của đoàn quân phía trước.

Chín anh em trong xã chúng tôi tập trung ở sân kho thôn Đan Bối sau đó di chuyển xuống xã Hồng Dụ nơi tập trung của huyện Ninh Giang. Đi theo xuống huyện, ngoài thân nhân vợ con gia đình có có đại diện xã, các đoàn thể. Lúc này bố vẫn đi theo tôi, cho đến khi chúng tôi đến ban chỉ huy quân sự huyện, bố còn dúi vào tay tôi chiếc áo mưa và nói con ơi cầm lấy để đêm nay hành quân có mưa khoác cho đỡ lạnh, đỡ ướt. Tôi bùi ngùi cầm lấy áo mưa, bỏ sâu vào túi quần, rồi nói con cảm ơn bố.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:20:04 pm
Khi đơn vị tập hợp xong cũng là lúc phải nói lời chia tay với người thân. Tôi giơ tay vẫy chào bố vá mấy người ở xã đi cùng. Bố cũng giơ tay vẫy lại, nói câu gì đó tôi nghe không rõ. Đi cùng đội hình tôi cứ ngoái lại nhìn bố và vẫy tay cho tới lúc khuất dần vào sau lũy tre làng Hồng Dụ.

Toàn huyện của tôi đi đợt này có khoảng hơn 200 đồng chí được chia làm ba sắc lính: một phần là các chú tái ngũ từ cuộc kháng chiến chống Pháp; thứ hai là dạng đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trước năm 1964; phần nửa còn lại là thanh niên như trường hợp của tôi. Tại buổi tập trung, đồng chí Đào Đình Hoan, ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Trưởng ban Tuyên giáo (sau này làm bí thư Huyện ủy) đại diện cho lãnh đạo huyện Ninh Giang lên phát biển căn dặn. Đảng bộ và chính quyền Ninh Giang trao cho chúng tôi một lá cờ có thêu dòng chữ “Đại phú giang giữ truyền thống”.

Lá cờ này được chúng tôi mang trong suốt chặng đường hành quân, ở đơn vị mới và sau này được đưa vào chiến trường rồi không biết lá cờ thất lạc ở đâu. Trong một lần về thăm quê, tới Huyện ủy, Ủy ban nhân dân và Ban chỉ huy quân sự huyện, tôi nói:

- Các đồng chí nên thêu lại lá cờ đó lưu giữ vào nhà truyền thống của huyện để cho các thế hệ sau này thấy được đợt đó, năm đó đi như thế nào và có nhiều đồng chí không trở lại cũng như nhiều đồng chí đã trưởng thành từ đó.

Khi mọi thủ tục đã xong ở sân kho xã Hồng Dụ, tất cả anh em tái ngũ, nhập ngũ ngày hôm đó được biên chế chung vào đại đội 31, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 141 của Sư đoàn 312. Đại đội trưởng là Trung úy Nguyễn Quốc Huy, chính trị viên đại đội là Trung úy Hồ Huyền. Trung đội trưởng do các đồng chí sĩ quan mới ra trường cấp thiếu ủy đảm nhiệm (nhưng khi về đến đơn vị là do các chú tái ngũ đánh Pháp giữ chức vụ này).

Sau khi đơn vị được ổn định, trong đội hình đại đội 11, chúng tôi hành quân bộ trong thời tiết rất nóng bức (cuối mùa xuân sang đầu mùa hạ), đi trên đường liên xã tắt qua Cầu Ràm, qua Tứ Kỳ. Buổi tối khoảng 20-21 giờ, khi tới xã Ngọc Lạc huyện Tứ Kỳ, đơn vị được nghỉ giải lao gần hai tiếng đồng hồ để chờ Đại đội 12 của Tiểu đoàn 3 (hầu hết là anh em Tứ Kỳ tái ngũ và nhập ngũ). Hai đơn vị hội quân đủ tại đó để chuẩn bị hành quân lên ga Hải Dương. Có lẽ chưa có đợt đi bộ nào đi xa và mệt như vậy nên khi được nghỉ giải lao hầu hết anh em đều lăn ra ngủ. Tôi rất thấm mệt và đang ngủ ngon giấc nhưng khi nghe cán bộ báo dậy để hành quân thì tôi vội vàng vùng đi đi cùng với anh em. Và trong sự vội vàng đó, đã vô tình để quên mất cái áo mưa của bố đưa. Nhớ lại lời nói của bố “đưa cho con cái áo mưa này để con mang đi, có mưa gió thì con mặc, con khoác cho đỡ rét và đỡ ướt”, vậy mà tôi không giữ được. Càng nghĩ tôi càng ân hận, luyến tiếc và thầm thương bố đã hết lòng lo cho tôi. Cái tâm trạng buồn, day dứt ấy cứ luôn tái hiện trong đầu. Khi đơn vị lên đến ga Hải Dương rồi mà lúc nào tôi cũng nhớ đến cái áo mưa. Lên tới Hải Dương khoảng nửa đêm, có tàu hỏa đã chờ sẵn ở đó.

Chúng tôi được Ban chỉ huy đại đội đứa lên tàu, đúng một giờ sáng đoàn tàu xuất phát đưa chúng tôi về ga Trung Giã (từ Hải Dương lên Gia Lâm rồi quẹo ngả Đông Anh). Đến ga Trung Giã thì chúng tôi xuống tàu. Cán bộ cho xếp hàng tập hợp để đi bộ về nơi đóng quân. Chúng tôi lại phải ngược đường tàu đi bộ khoảng 2-3 cây số về hướng Núi Đôi, rồi rẽ vào làng Đan Tảo thuộc huyện Sóc Sơn. Lúc đi ngang qua Núi Đôi, có anh sĩ quan chỉ huy trung đội hỏi:

- Có đồng chí nào thuộc bài thơ Núi Đôi?

Có lẽ do quá mệt nỏi nên không có đồng chí nào lên tiếng cả. Tôi cũng vậy, mặc dù óc thuộc bài thơ này nhưng không nói ra… Tất cả đều in lặng hành quân mong sao nhanh chóng đến nơi để nghỉ ngơi.

Bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao là câu chuyện tình đầy súc động của đôi trai gái trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược:

Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
… Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa,
Em sống trung thành, chết thủy chung!


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:23:41 pm
Tại Đan Tảo, sau việc biên chế, tổ chức, nhận quân tư trang, chúng tôi chuẩn bị bước vào huấn luyện. Tiểu đoàn 3 vừa làm nhiệm vụ huấn luyện xong một khóa tân binh, nay tiếp nhận chúng tôi để tổ chức thành đơn vị chiến đấu. Đây là một trong ba tiểu đoàn hoàn chỉnh của Trung đoàn 141. Trung đoàn được thành lập ngày 11-12-1950. Trung đoàn có ba cơ quan, các đại đội trực thuộc và ba tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 11, Tiểu đoàn 428 và Tiểu đoàn 16), thường gọi là Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3. Trong trận chiến đấu ở Ba Vì (chiến dịch Hòa Bình năm 1951), Trung đoàn đã tiêu diệt gọn một tiểu đoàn quân Pháp trên đỉnh núi Ba Vì, được tặng danh hiệu “Trung đoàn Ba Vì anh dũng”. Năm 1954, Trung đoàn đã chiến đấu tiêu diệt được cứ điểm Him Lam và cùng Đại đoàn 312 góp phần tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Lúc này, Trung đoàn 141 gồm trung đoàn bộ, các đơn vị trực thuộc và các tiểu đoàn 1, 2 đóng trong doanh trại gần Trung Giã. Doanh trại này rất khang trao và đẹp đẽ, đến nay vẫn được tu sửa, bảo quản và sử dụng tốt.

Khi chúng tôi vào đơn vị, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 là Đại úy Đỗ Thôn, nguyên Trưởng an Quân lực Sư đoàn về. Đại úy Nguyễn Văn Phòng làm Chính trị viên Tiểu đoàn (hiện nay hai bác tuổi ngoài tám mươi, nhưng vẫn còn rất minh mẫn). Hầu hết cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đều là người Hải Dương. Đại đội 11 là của Ninh Giang; Đại đội 12 của Tứ Kỳ; Đại đội 13 là của Thanh Hà; Đại đội 15 hỏa lực và các phân đội trực thuộc tiểu đoàn: thông tin trinh sát… hầu hết là anh em Thanh Miện, Bình Giang, Cẩm Giàng, các huyện lân cận cùng đi đợt 15-4-1965.

Chúng tôi được thay quân trang, cấp quần áo để huấn luyện học tập. Ngày đầu được mặc quần áo quân phục, được mang những đôi giày vải mới cứng, tuy nóng bức nhưng lại thấy rất tự hào vì mình đã là người lính của Sư đoàn 312. Có một kỷ niệm chắc hẳn tôi sẽ không quên. Đó là trong một lần đi huấn luyện về gặp trời mưa, đôi giày bị ướt và tôi đem hơn trên bếp than để cho mau khô. Do đế giày làm bằng cao su, vải chưa không nhưng đế đã xì, phòng lên không đi được. Lúc đó tôi rất sợ và lo lắng những cuối cùng cũng được đơn vị đổi cho đôi giày khác.

Chiến sĩ bộ binh huấn luyện theo một chương trình giáo án thống nhất về kỹ thuật, chiến thuật, theo trình tự từ thấp đến cao, động tác từ cá nhân đến tiểu đội, trung đội… Trên thao trường huấn luyện cũng theo một lịch trình. Nhiều buổi tối, chúng tôi được học tập, hiểu biết thêm tình hình nhiệm vụ, tình hình chiến trường. Lúc ấy trong tôi đã xuất hiện suy nghĩ: mình về đây huấn luyện và công tác ở đơn vị này không phải là ba năm làm nghĩa vụ như bố đã dặn. Tình hình chiến sự, cuộc leo thang chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành đang chờ anh em nhập ngũ chúng tôi ra chiến trường chiến đấu giải phóng dân tộc. Nhận thức được tình hình, trên thao trường huấn luyện mọi người rất chăm chỉ. Nhờ sự chỉ bảo tận tình của các đồng chí sĩ quan mới ra trường, hoặc các anh tình nguyện tái ngũ, chúng tôi tiếp thu rất nhanh các nội dung huấn luyện. Tất cả các động tác từ nhỏ nhất như lăn lê, bò toài, cho đến các động tác đào công sự - của một người chiến sĩ bộ binh, chúng tôi làm rất thuần thục. Mọi lần kiểm tra sát hạch, tôi và cả tiểu đội đều hoàn thành được nhiệm vụ của cấp trên đề ra. Khi huấn luyện kỹ thuật bắn súng, động tác yếu lĩnh cơ bản từ lấy đường ngắm… đều được các đồng chí cán bộ hướng dẫn rất tỉ mỉ trong đợt bắn đạn thật, tôi chỉ đạt kết quả loại khá nhưng rất phấn khởi vì được bắn những viên đạn đầu tiên. Mặc dù phía trước chỉ là những tấm bia nhưng chúng tôi ai cũng hình dung đó là kẻ thù, là đối phương sẽ đối mặt trong tương lai và khi đó đồng chí nào cũng đều bắn trúng đích cả.

Trong một lần học tập đào công sự, tiểu đội trưởng quy định để súng mép trái theo hướng xuôi theo chiều gió. Tôi đề nghị để súng ngược chiều gió. Vừa đặt xong khẩu súng thì đồng chí Danh quê Nghệ An, Trung đội trưởng đến và nói:

- Tại sao lại có khẩu súng để ngược thế này? Của ai?

- Báo cáo trung đội trưởng của tôi ạ! Tôi trả lời.

- Tại sao đồng chí lại để súng sang bên này?

- Báo cáo, khi đào ta hất đất lên, nếu để súng xuôi chiều gió thì cát bụi, đất sẽ bay vào các bộ phận khóa nòng, nòng súng… Vì vậy tôi để súng ngược chiều gió thì súng đỡ bẩn và không bị kẹt nữa.

Sau khi nghe tôi trình bày, đồng chí đến xoa đầu, biểu dương tôi và nói: “Các đồng chí trong đơn vị nên phát huy tính sáng tạo trong học tập”. Đó là một kỷ niệm rất nhỏ nhưng trên chiến trường tôi luôn phải nhớ để thực hiện cho tốt.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:31:26 pm
Một lần làm nhiệm vụ trực chiến phòng không ở đường 5 (đoạn từ chợ Đường Cái tới chợ Bần Yên Nhân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), tôi được phân công giữ khẩu trung liên. Với tính hay tỉ mẩn, nghịch ngơm, tôi chợt có ý nghĩ tìm hiểu xem khẩu súng đó như thế nào. Không ngờ tôi làm cướp cò một loạt. Lúc đó khoảng 8-9 giờ sáng vào ngày giữa tháng 9-1965, cả phiên chợ Bần Yên Nhân dân tình nhốn nháo, lầm tưởng rằng máy bay Mỹ đến ném bom và bộ đội ta đã bắn súng báo động. Ngay lúc đó, Đại đội phó Trần Văn Linh đến tận ụ súng phê bình, nhắc nhở. Tôi cũng thấy việc của mình không tôn trọng ý thức kỷ luật của đơn vị và đã làm cho dân tình hoang mang.

Tháng 10-1965, đơn vị tôi được lệnh hành quân về đóng quân ở một vùng rừng miền Trung du (giáp ranh giữa Vĩnh Phúc và Thái Nguyên), đó là khu vực Đa Phúc và Phổ yên. Một số ở tạm trong nhà dân và vùng lân cận, còn đa số thì dựng lán trại ở tại mép rừng. Tại đây, Tiểu đoàn có thành lập một tiểu đội trinh sát. Làm trinh sát phải có một tiêu chuẩn gì đó, tôi cũng không biết. Anh Quỳnh – văn thư quân lực (là người Hà Nội, sau này anh đi B và hy sinh năm 1966) lựa một số chiến sĩ để thành lập tiểu đội này. Tôi là một trong những người có mặt ở tiểu đội cùng các đồng chí tái ngũ như anh Hối, anh Nha và một số anh nữa. Nhiệm vụ huấn luyện của người lính trinh sát khác hẳn với nhiệm vụ của các chiến sĩ bộ binh. Bởi phải chọn những khu vực nào có cây cao, điểm cao mới quan sát được mọi hành động của đối phương. Để huấn luyện thành một chiến sĩ trinh sát giỏi, ngoài việc biết leo trèo cây cao, các đồng chí cán bộ còn làm ra những hàng rào cũi lợn, mái nhà, bùng nhùng. Huấn luyện nội dung này chủ yếu diễn ra vào ban đêm. Trên thao trường, anh em bố trí có đèn pha tạo ánh lừa lập lòe tượng trưng như trong lô cốt của địch bắn ra. Chính nhờ sự chỉ bảo tận tinh cùng với những kinh nghiệm quý báu của các đồng chí trinh sát từ sư đoàn, trung đoàn trong việc hướng dẫn cách đột nhập trận địa, cách luồn, chui hàng rào vào trung tâm của địch để nắm địch. Đó là những yếu tốt rất cơ bản mà người chiến sĩ trinh sát bộ binh phải thực hiện được, làm sao nắm được tình hình bên trong của địch phục vụ giúp cho người chỉ huy có thể vào kiểm tra, đánh giá tình hình một cách chính xác. Từ đó tổ chức sử dụng lực lượng chiến đấu.

Môn học tiếp theo là cắt góc phương vị, sử dụng bản đồ địa bàn, xác định tọa độ điểm đứng chân, mục tiêu đến, xác định góc phương vị và hướng đi đến đúng mục tiêu. Có lúc tiểu đội chia thành hai, ba tốp, mỗi tốp một bản đồ, một địa bàn và khi đi thì xuất phát ở những vị trí khác nhau nhưng tập trung lại ở một điểm nào đó do cán bộ chủ trì đặt ra. Chúng tôi tập luyện cắt rừng cả ban đêm, ban ngày, có lần huấn luyện một đêm có khi đi hai đêm một ngày hoặc dài hơn nữa, anh em chúng tôi đều cố gắng phấn đấu thực hiện. Chính từ những nội dung huấn luyện rất cơ bản đó đã có ý nghĩa rất lớn khi tôi vào chiến trường rừng rậm bạt ngàn của miền Đông Nam Bộ.

Một yêu cầu nữa không thể thiếu của người lính trinh sát đó là có trí nhớ tốt. Khi đi đường nào, phòng tránh ra sao để khi quay trở lại chỉ dẫn người chỉ huy đi điều nghiên, nắm tình hình ở phía trước, trong đồn bốt, hoặc đưa đại quân vào chiếm lĩnh trận để chuẩn bị tiến công. Nếu như trí nhớ không tốt thì rất dễ bị lạc đường mà lạc đường thì hậu quả thật khó lường. Những điều học tập trong thời gian ở đèo Nhe đều được vận dụng hiệu quả vào tình hình cụ thể ở chiến trường. Điều đó rất có ích với tôi không chỉ khi là người chiến sĩ mà ngay cả khi tôi là một người chỉ huy.

Từ giữa năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” phá sản, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam, Đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Trước tình hình như vậy, Đảng ta đề ra nhiệm vụ chung cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là kiên quyết kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào. Với quyết tâm chiến lược như thế, từ cuối năm 1964, đầu năm 1965 đã có nhiều đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn, thậm chí đã có một số đơn vị tương đương trung đoàn hành quân vào chiến trường, không chỉ ở Quảng Trị, Thừa Thiên mà còn vào cả chiến trường B2 (miền Đông Nam Bộ).

Quý 4 năm 1965, Trung đoàn 141 tập trung làm nhiệm vụ huấn luyện theo yêu cầu phù hợp với việc hành quân mang vác nặng và chiến đấu ở chiến trường. Bộ Quốc Phòng lấy Trung đoàn 141 làm thí điểm là đơn vị hành quân thực binh đầu tiên, với đầy đủ vũ khí trang bị hành quân bộ dài ngày vào chiến trường B2 để nghiên cứu sức chịu đựng của bộ đội. Ở đèo Nhe, cứ sáng thì hành quân. Mỗi đồng chí lúc đầu đeo 20kg bằng gạch, đá (anh em tự cân cho nhau), thế rồi tăng lên 25kg, 30kg, 45kg. Lúc đầu còn hành quân ban ngày đi trên địa hình thuận lợi. Sau hành quân ban đêm, địa hình phức tạp có đồi, dốc, đá lởm chởm, gần với thực tế đường Trường Sơn. Mặc dù mang vác nặng nhưng anh em chiến sĩ chúng tôi rất hồ hởi tham gia tập luyện.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:34:30 pm
Đi đôi với việc rèn luyện là phải ăn để bồi bổ sức khỏe. Lúc này tiêu chuẩn ăn bồi dưỡng rất đầy đủ, ba bữa cơm, thịt, rau, cá có khi ăn không hết. Có một hôm ăn xong, anh em rửa bát, cái thau nước rửa váng mỡ trắng lên mặt thau. Đúng lúc ấy, đồng chí Chính ủy Nguyễn Đức Bao đi qua nói:

- Các đồng chí phải cố gắng ăn để có sức khỏe, nay mai chúng ta đi suốt chặng đường dài vượt Trường Sơn, khi đó không thể có được thực phẩm có mỡ như thế này mà ăn đâu các đồng chí ạ.

Câu nói đó cho chúng tôi hiểu ở phía trước là con đường rất gian khổ, khó khăn, không những chỉ là đường dài, là đèo cao dốc đứng mà còn cả vấn đề về thực phẩm đồ ăn thức uống.

Mỗi đồng chí được nhận một ba lô con cóc, ba hộp ruốc, ba bộ quần áo ka ki, một võng, một màn, một áo mưa (vừa làm tăng che khi căng võng che sương, lúc mưa gió vừa để gói đồ đạc khi vượt sông, suối). Được nhận súng, đạn (ba cơ số), lựu đạn, xẻng, cuốc… mới. Trong thời gian huấn luyện, chúng tôi được huấn luyện đào bếp Hoàng Cầm nấu dã ngoại. Bếp Hoàng Cầm là loại bếp nấu ban ngày không khói, ban đêm không thấy ánh lửa. Đây cũng là một môn học được huấn luyện rất kỹ.

Một lần chúng tôi đi lấy súng đạn về đến doanh trại cũng là lúc đoàn đại biểu Anh hùng lực lượng vũ trang miền Nam trong thời gian ra thăm miền Bắc tới thăm trung đoàn. Đoàn do chị Tạ Thị Kiều dẫn đầu cùng với các đồng chí Anh hùng ghé thăm, động viên chúng tôi trước khi đi vào chiến trường. Tôi chạy lên để được nhìn rõ các anh, các chị ở chiến trường miền Nam ra, thấy anh chị nào cũng rất khỏe mạnh, mặc quần áo rất đẹp với huân huy chương đeo đầy ngực, đầu đội mũ tai bèo y như quân trang tôi mới được phát để chuẩn bị mang vào chiến trường.Tôi nhớ mãi câu nói của chị Tạ Thị Kiều:

- Hôm nay đoàn anh đón đoàn em, mai mốt đoàn em sẽ đón đoàn anh.

Câu nói đó ngụ ý sau một thời gian nữa, đồng bào chiến sĩ Miền Nam sẽ đón những người con quê hương từ miền Bắc vào chiến trường để chung vai chiến đâu giải phóng dân tộc.

Trước khi lên đường đi B, thực hiện chính sách của trên, đơn vị cho anh em chúng tôi kể cả đơn vị và chiến sĩ, mỗi người được nghỉ phép về thăm gia đình 10 ngày. Do biết đơn vị sắp làm nhiệm vụ đi B nên nhà khách của Tiểu đoàn, Trung đoàn lúc này gia đình cán bộ lên thăm rất đông. Có người mang cả vợ, con lên thăm. Xúc động nhất là cảnh vợ chồng, cha con chia tay người thân trong nghẹn ngào nước mắt. Những người chưa có vợ con như tôi khi về địa phương với 10 ngày được thả sức đi chơi, thăm bố mẹ, họ hàng bà con, bạn bè thân thích để nói những lời chia tay, dặn dò trước khi đi chiến đấu. Tôi chỉ nói với bố mẹ:

- Nhiệm vụ của con không phải là đi nghĩa vụ ba năm như bố dặn mà con là một người thanh niên ba sẵn sàng, một chiến sĩ tình nguyện vào chiến trường chiến đấu, có lẽ thời gian sẽ kéo dài sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Với cuộc chiến đấu lâu dài như vậy, hy sinh mất mát sẽ không tránh khỏi. Vì vậy bố mẹ ở nhà giữ gìn sức khỏe, lo cho em gái học hành để khi đất nước hòa bình con còn sống, con về được gặp lại là điều con sung sướng nhất.

Mẹ tôi chỉ ngồi im. Em gái tôi thì nước mắt ngắn nước mắt dài. Bố tôi vẫn giữ vẻ bình thản, dặn dò:

- Tuổi thanh niên có giặc đến nhà, con phải đi cứu nước, nhiệm vụ con phải cố gắng hoàn thành, còn chiến tranh thì không biết thế nào nhưng bố tin rằng con sẽ làm được.

Lời nói cứng rắn của bố tôi như vậy, nhưng ngay sau đó bố tôi cũng quay đi giấu sự xúc động. Tôi biết bố rất thương tôi vì tôi là con trai độc nhất. Ngày lên đường đi chiến trường sắp đến, ngày về chưa biết đâu mà hẹn. Đó là điều trăn trở nhất, nỗi lòng canh cánh của người ở lại. Trong lúc về nghỉ phép, bố mẹ cũng đặt vấn đề xây dựng gia đinh với cô bạn gái đã dạm ngõ. Nhưng tôi xin không, quyết làm một thanh niên độc thân đi cho thanh thản, không bận bịu vợ con để yên tâm làm nhiệm vụ chiến đấu. Nếu chưa có vợ có con, trong chiến đấu chẳng may bị thương hoặc hy sinh thì không làm khổ thêm người khác. Hết 10 ngày phép tôi lên đường trở về đơn vị đúng theo thời gian quy định.

Về đến doanh trại, tôi thấy tất cả anh em cán bộ chiến sĩ đều trả phép đúng quy định. Gặp nhau ai cũng phấn khởi, kể cho nhau nghe chuyện của riêng mình. Có nhiều bạn bè, thanh niên cùng nhập ngũ với tôi, anh em đều đã xây dựng gia đình. Các bác, các anh có vợ con thì lo chuyện học hành và mua sắm. Trong các lán trại quy định đến 21 giờ đêm phải đi ngủ nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng bàn tán rì rầm về chuyện 10 ngày ở địa phương. Ai cũng muốn có một câu chuyện để góp vui cho tiểu đội trước lúc lên đường.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 05:35:41 pm
Sau khi tập trung đầy đủ, đơn vị tổ chức huấn luyện ít bữa, sau đó nhận mệnh lệnh lên đường vào chiên trường. Chúng tôi được phổ biến: đường hành quân đi tàu hỏa từ ga Phổ Yên của tỉnh Thái Nguyên qua Hà Nội vào ga Đò Lèn, Thanh Hóa. Chuẩn bị cho buổi lên đường, ngoài trang bị, quân tư trang, mỗi người được cấp thêm một bao gạo, ruốc mắm, mì chính. Mỗi một tiểu đội được trang bị một xoong, nồi nấu cơm đủ cho 10 người ăn. Trung đoàn tổ chức hành quân thành bốn đoàn (từ đây dùng phiên hiệu đi B là Đoàn 304). Đoàn đầu là Đoàn 304A đi ngày 6-1-1966. Đoàn thứ hai là đoàn của chúng tôi, Đoàn 304B đi ngày 8-1. Đoàn thứ ba đi ngày 10-1. Đoàn thứ tư đi ngày 12-1-1966.

Theo kế hoạch, ngày 8-1-1966, đơn vị chúng tôi hành quân vào Nam chiến đấu. Chính quyền, nhân dân, địa phương tổ chức đưa tiễn trang trọng. Cả dòng người cùng chúng tôi ra tận ga Phổ Yên. Khi đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh, không ngớt những tiếng reo hò, vẫy chào lưu luyến ở sân ga. Trên tàu có rất nhiều anh em trầm ngâm suy nghĩ. Sau khi trả phép trong mỗi chúng tôi đều biết cái ngày lên đường sắp đến, cho nên ai cũng viết những lá thư báo về cho gia đình biết tin ngày mình chính thức hành quân. Song ngặt một nỗi, đã lên tàu rồi thì không biết gửi bưu điện nào được. Chúng tôi bàn nhau gom những lá thư gói lại thành từng bó và khi tào vào tới đất Hà Nội, qua những ngã tư đường đi từ ga Long Biên đến ga Hàng Cỏ, chúng tôi thả những bó thư (có anh không kịp dán tem) xuống đường nhờ bà con gửi hộ về gia đình. Có anh em nghĩ rằng, những lá thư về tới gia đình chỉ là chút hy vọng mong manh. Song đại đa số chúng tôi luôn có niềm tin nhân dân Hà Nội rất thông cảm, rất thương, rất yêu, rất quý mến những người con của quê hương miền Bắc đang lên đường đi làm nhiệm vụ và trong đoàn quân ấy cũng co biết bao người con của Hà Nội cùng hành quân. Những lá thư này đều được nhân dân cầm đến bưu điện, mua tem dán vào, rồi gửi. Trong đó tôi cũng có hai lá thư, đến lúc tôi về nhà (năm 1975), bố và em gái tôi đưa cho tôi đọc lại.

Đoàn tàu cứ xình xịch chuyển bánh về phương Nam. Càng ngày bóng đêm càng bao phủ dần lên nóc tàu, những tiếng cười, những cái vẫy tay chào hỏi không còn giòn giã như ban đầu vì anh em đã mệt. Từ ga Nam Định trở vào thì trời tối hẳn. Khi qua ga Bỉm Sơn, trên tàu có một giọng nữ phát thanh viên thông báo:

- Đoàn tàu chở các đồng chí bộ đội sẽ tập kết ở ga Đò Lèn, đây là ga cuối cùng của các đồng chí. Các đồng chí chuẩn bị kiểm tra hành lý không để quên thứ gì trên tàu trước khi xuống.

Ga Đò Lèn thuộc huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Từ đây, chúng tôi hành quân bộ và chặng đường đi đầu tiên là qua huyện Hà Trung. Mỗi khi qua các làng, xóm, nhân dân vẫn còn thức, thanh niên đều dẫn đưa bộ đội vào nghỉ từng nhà một. Sự chuẩn bị, tiếp đón của nhân dân rất chu đáo. Cứ như thế, từ đêm ngày mồng 8-1-1966, chúng tôi hành quân suốt đêm, đêm nào cũng vượt khoảng từ 25 đến 30km và dừng nghỉ ở một địa điểm mới. Tết năm Bính Ngọ (1966), chúng tôi ăn tết Ở Nghệ An (ngày mùng 1 ăn tết ở Yên Thành, ngày mùng 2 ăn tết ở Đô Lương). Nói là ăn tết song tiểu chuẩn cả tiểu đội được một bao thuốc lá, một gói trà và một gói kẹo, thực phẩm thì không có gì ngoài tiêu chuẩn hàng ngày đã có. Nhân dân cũng rất nghèo, chẳng thịt cá, bánh chưng. Có qua đây mới thấy nhân dân bị chiến tranh phá hoại tàn phá cực khổ như thế nào.

Dọc đường hành quân, liên tục thấy pháo sáng, rồi tiếng máy bay đánh phá ban đêm của Mỹ, tiếng bom nổ rất gần và rất rõ. Ban ngày nghỉ trong nhà dân, máy bay Mỹ coi như làm chủ vùng trời, bay ra bay vào. Cầu Hàm Rồng, phà Bến Thủy, không ngày nào là không có tiếng bom. Sau gần một tháng, chúng tôi vượt đèo Ngang qua Quảng Bình. Hành quân mang vác nặng, tôi được tiểu đội phân công mang thêm chiếc nồi quân dụng nấu ăn cho 15 người và một cái cuốc chim. Vốn đã nặng nay lại thêm hai thứ đó nữa thì rất nặng, phải gần 35 kg. Đi bộ mấy ngày đầu phồng hết các ngón chân. Có một kinh nghiệm là cứ lấy kim, chỉ xâu vào để một khúc chỉ lại cho nước dẫn qua hai đầu chỉ thì không bị rộp. Anh nào không làm như thế mà bóc ra thì hôm sau không đi nổi.

Quá trình hành quân, không ít anh em tâm tư, có người quay lại đào ngũ. Trong anh em cùng làng xóm, cùng nhập ngũ, khi tạm dừng sau mỗi đêm hành quân thường tìm tới gặp nhau. Có lần một anh bạn rủ tôi hôm nay đi đến đoạn đường hầm xe lửa, qua đó ta quay về, chứ đi cực quá. Nưng tôi nói thẳng là lúc đi đã hứa với địa phương như vậy rồi, bây giờ quay về xấu hổ không mặt mũi nào nhìn mặt bố mẹ và dân làng. Thôi, bạn đừng có nghĩ như vậy nữa, hai anh em tôi động viên nhau rồi tiếp tục hành quân.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:31:12 pm
Vượt sông Bến Hải vào chiến trường

Sau hơn một tháng hành quân. Chiều ngày 30-1-1966, Tiểu đoàn chúng tôi đến tập kết ở xã Vĩnh Chất của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị để chuẩn bị vượt sông sang đất miền Nam. Sinh hoạt của nhân dân ở đây hầu hết là ở dưới hầm thùng, mỗi chiều rộng 3-4m, ở trên là một cái lán, mái che có lợp rạ hoặc ni lông, trên được ngụy trang cẩn thận. Trong hầm thùng có các ngách vào hầm chữ A để tránh bom, pháo. Nối các hầm là các giao thông hào để tiện việc đi lại, chiến đấu. Càng đi sâu vào vùng giới tuyến, càng thấy cuộc sống của nhân dân nhiều khó khăn ác liệt, nhưng cũng biểu lộ quyết tâm rất cao của toàn dân đánh giặc.

Đêm vượt sông Bến Hải, tôi và mọi người ai cũng có một suy nghĩ, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa mình sẽ đặt chân lên mảnh đất miền Nam. Cũng vẫn như bao buổi tối khác, tối hôm nay vẫn dàn đội hình, vẫn tập trung như vậy, rồi thứ tự các đoàn cứ lần lượt hành quân. Nhưng do thời tiết mùa khô, sông đoạn này nhỏ và cạn, nước sâu chỉ khoảng 70, 80 phân, có chỗ sâu nhất khoảng 1 mét, cho nên vượt sông bằng lội là chính. Trong lúc chờ vượt sông, chúng tôi ngồi dựa lưng vào ba lô, có anh tranh thủ đánh một giấc. Tôi nghĩ phía trước là chiến trường, nơi kẻ thù dùng mọi thủ đoạn: không quân, pháo kích, biệt kích đánh phá; cùng với hệ thống đồn bốt và các cuộc hành quân của Mỹ - ngụy, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc. Rừng thiêng, vách đá cheo leo, chông gai trải suốt dọc đường. Nơi chấp nhận sự hy sinh, đói khát, thiếu thốn và bệnh tật đang chờ đón. Đồng bào miền Nam đang mong mỏi đoàn quân từ hậu phương vào cùng kề vai sát cánh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vượt qua con sông kia, mình sắp trở thành anh Giải phóng quân và tạm xa hậu phương miền Bắc. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, mái tranh vách đất nghèo đói với cánh đồng chiêm trũng, con trâu đi trước cái cày đi sau, cảnh làm ăn lam lũ của bố mẹ cùng cô em gái đang học hành cứ hiện trong tâm trí tôi. Đoàn quân đi trong lặng lẽ. Khi qua đoạn nước chảy xiết, chúng tôi từng người nắm chặt tay nhau để vượt. Tới giữa dòng sông dù đang dắt tay nhau nhưng ai cũng ráng đưa tay vốc một ngụm nước đưa lên mặt. Ngụm nước của dòng sông Bến Hải nó mát lạnh khắp cơ thể. Trong màu vàng nhạt của ánh pháo sáng xa xa, tôi liên tưởng bên tay trái mình cách xa về hướng đông là chiếc cầu Hiền Lương mà hai đầu có hai lá cờ của hai chế độ khác nhau. Trong suy nghĩ và mơ ước, đến một ngày nào đó hai bên cầu chỉ còn một lá cờ đỏ sao vàng, mình được hiên ngang đi lại trên chiếc cầu một cách thanh thản, không phải như hôm nay đang bí mật, lặn lội ở đoạn thượng nguồn của con sông Bến Hải.

Qua sông Bến Hải, các chiến sĩ giao liên ở phía Nam đón về trạm đầu tiên. Đó là làng Ho, một địa điểm có lẽ nhiều đoàn đi qua đây đều được tập kết vào đó. Và từ làng Ho sẽ tỏa đi nhiều nhánh, nhiều con đường dọc theo dãy Trường Sơn xuyên sâu vào chiến trường Nam Bộ. Một hành trình vượt Trường Sơn có lẽ chỉ mới bắt đầu. Những ngày tháng 2 – tháng mùa khô của năm 1966, chúng tôi đi trong rừng có nơi là rừng xanh nhưng hầu hết là leo trên các vách núi. Tôi là lính bộ binh mang vác như thế đã rất khó khăn, thế nhưng trong Đoàn 304B còn có các đồng chí ở phân đội mang súng cối 82mm, súng 12,7mm, súng ĐKZ 75mm. Cứ hai đồng chí khênh một nòng pháo, hoặc một đồng chí vách một bàn đế cối nặng trên dưới 40 kg mà đi trong điều kiện đường chẳng ra đường, cây cối hai bên chẳng chịt. Những cây gậy làm nạng thay vai làm giá đỡ cho khẩu súng, nòng súng mỗi khi dừng lại hoặc gậy chống ba lô cho vai nghỉ ngơi một lát. Lúc này cây gậy quả là có nhiều tác dụng. Tôi thầm nghĩ đến thán phục nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác bài hát “Chiếc gậy Trường Sơn”. Có cái dốc rất cao, anh em từng người một dắt tay nhau lên sau đó phải ngồi nghỉ mới tiếp tục đi, đi hết đêm nhưng hành quân chỉ được trên dưới 10km. Càng vào sâu sức càng kiệt, chiến trường càng phức tạp, kẻ thù đang ráo riết đánh phá ngăn chặn.

Tháng 3 năm 1966, chúng tôi đến địa bàn nam Tây Nguyên. Tại đây, tôi gặp anh Bùi Văn Khánh, người cùng làng nhập ngũ đi B trước tôi nhưng trước khi đi B lại không được về phép. Hai anh em gặp nhau ở gần một cái nương sắn, kể hết chuyện gia đình, chuyện hậu phương ở nhà cho anh nghe và anh cũng kể lại hoạt động của địch ở chiến trường, cách đi lại ở khu vực Tây Nguyên, kinh nghiệm làm những cái bánh sắn bằng cách mài củ sắn ra thành bột, gói vào lá rồi hấp lên, cứ thế chín lên là ăn. Lúc chia tay, anh dúi cho tôi mấy cái, đúng là đang lúc đói mà được ăn như thế thì phải nói là quá ngon, nhớ mãi không bao giờ quên được. Tiếc rằng sau một thời gian, anh ấy hy sinh. Đi hành quân, thực phẩm thì chỉ có mắm ruốc, mang thế nào đi thì ăn thế đó, gạo mang tới 19 đến 20 ngày trên vai rất nặng (các trạm cung cấp của ta cách rất xa) nhưng mỗi ngày chỉ ăn có 6-7 lạng là tối đa. Thường được ăn một bữa cơm nóng, còn lại dùng cơm nắm, có hôm vượt trạm phải nắm cơm ăn hai, ba ngày liền. Có khi nấu nồi cơm xong mang ra, nắm chia cho mỗi anh em một nắm, nắm chia hết cơm rồi mà nồi vẫn còn nóng bốc hơi.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:32:44 pm
Trong quá trình hành quân, nhiều lần không quân, pháo binh của địch bắn vào đội hình, số thương vong ngày một nhiều. Biệt kích và lính Mỹ thường xuyên phục kích chặn các trục đường giao liên. Giữa tháng 3-1966, chúng tôi hành quân vào tới Đức Cơ (nay là Đắc Nông). Đây là địa bàn cuối Tây Nguyên, độ cao trên dưới 800 mét so với mặt nước biển. Rừng phần lớn là rừng khộp, lá khô đã rụng chỉ còn phần cây trơ trọi. Thời tiết ngày nắng nóng, tối se se lạnh như trời đông ngoài Bắc. Đoàn chúng tôi đang đi hành quân thì thấy giao liên nói có địch chặn phía trước và phải dừng lại. Sau ba ngày, rồi năm, bảy ngày trôi qua mà địch vẫn chưa rút. Trong bảy ngày đó, hậu cần của đường giao liên cũng không chuyển gạo lên được. Chúng tôi chỉ ăn 4 lạng, 3 lạng rồi 2 lạng gạo mỗi ngày. Cái đói đến mức mệt lả, chân tay run lẩy bẩy. xong vẫn phải đào công sự ẩn nấp và chiến đấu. Đến ngày thứ 8, anh em giao liên tìm đường mới và tiếp tục đưa đoàn đi. Vừa hành quân vừa cảnh giác sẵn sàng chiến đấu rất cao, đề phòng địch có thể tiếp tục phục kích. Trong đội hình hành quân của Tiểu đoàn, tiểu đội chúng tôi thường đi đầu.

Một hôm, đến một cánh rừng khộp, cách nơi trạm giao liên lúc xuất phát được 3 giờ thì nghe thấy tiếng nổ bình bình, cứ tưởng ca nô chạy trên sông chở hàng, nhưng không phải, đó là tiếng động cơ trực thăng của Mỹ đang hoạt động, đổ quân phục kích chặn đầu đường hành quân của đơn vị. Đội hình hành quân đến trưa thì nghỉ giải lao để ăn cơm. Tôi dừng lại chỗ các đồng chí trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn có cả đồng chí Đỗ Thôn, đồng chí Nguyễn Văn Phòng. Cùng đi với đoàn chúng tôi có đồng chí Thiếu tá Đặng Đình Cương – Phó Chính ủy Trung đoàn (đồng chí nguyên là Tùy viên quân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô). Đồng chí nói với Tiểu đoàn trưởng:

- Cho anh em nghỉ xong thì đi sau, tôi đi trước cùng đồng chí giao liên với mấy đồng chí bảo vệ xem tình hình thế nào.

Nói xong, đồng chí đi cách đội hình chúng tôi khoảng 15 phút thì thấy súng nổ, sau đó một đồng chí chạy về báo là bị địch phục kích. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng tổ chức một bộ phận trinh sát trong đó có tôi, một trung đội bộ binh do trợ lý tác chiến Nguyễn Văn Nhung chỉ huy lên chiến đấu và tìm kiếm đồng chí Phó Chính ủy. Sau gần một giờ, bộ phận trinh sát chúng tôi tới chỗ chiến đấu ngay tại bờ suối chỉ gặp một đồng chí hy sinh (liên lạc của đồng chí Cương). Chúng tôi ở lại tìm đồng chí Cương hết chiều ngày hôm đó và cả ngày hôm sau nữa cũng không thấy. Đến trưa ngày hôm sau, trên máy bay trực thăng của Mỹ có phát một tin: “Đã bắt được một Tùy viên quân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô, một thiếu tá Việt Cộng”. Đoàn phán đoán đồng chí Phó Chính ủy Đặng Đình Cương có thể bị địch bắt. Từ đó đến năm 1975 rồi sau này, vẫn không tìm được hồ sơ dấu vết của đồng chí Phó Chính ủy. Năm 1992, khi làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, tôi ra dự cuộc diễn tập của bộ ở Đa Phúc - Núi Đôi, có dịp quay lại làng Đan Tảo (nơi tôi nhập ngũ và đóng quân). Đó cũng là làng của Chính ủy Đặng Đình Cương. Gặp gia đình, tôi kể lại trong một buổi hành quân bị địch phục kích như vậy, còn về việc khẳng định bác ấy hy sinh hay như thế nào, tổ chức chưa kết luận. Đó là một điều rất trăn trở đối với người thân trong gia đình cũng như lãnh đạo chỉ huy đơn vị Trung đoàn 141.

Chuyện đói khát, bị bom đạn, bị địch phục kích trong quá trình hành quân thường diễn ra. Lại có những chuyển ất thương tâm. Có đồng chí mệt quá do đói, mang vác nặng dẫn tới kiệt sức, đang hành quân tự tách ra đi tạt vào trong rừng cách đường mòn 5 mét dựa vào ba lô ngồi nghỉ, súng để ở vai. Đơn vị đến nơi tập kết thấy thiếu, tổ chức quay lại tìm, có đồng chí đã lả đi, sắp chết nhưng vẫn còn cứu được, cũng có đồng chí bị thú rừng ăn thịt, chỉ còn ba lô, súng đạn, quần áo đầy máu, hoặc có anh em ngồi nghỉ rồi lịm đi luôn. Hy sinh dọc đường do nhiều nguyên nhân đã làm cho Trung đoàn, đặc biệt là Tiểu đoàn 3 tới nơi tập kết quân số chỉ còn trên 70%.

Sau hơn bốn tháng trời, đêm ngủ ngày di, hoặc là có lúc phải hành quân cả ngày lẫn đêm, vượt qua trên 2.0000 km, một ngày đầu tháng 5 năm 196, đơn vị chúng tôi đặt chân đến miền Đông Nam Bộ, một địa bàn “Ông Cụ” theo quy định mật danh trong giấy “thông hành” mà ngày đầu trước khi đi B đã nhận được. Nơi Trung đoàn tập kết là khu vực ở bắc sông Đa Quýt, gần sát biên giới Campuchia (nay là huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước). Đây là một địa bàn rừng rậm nguyên sơ, tuy cuối mùa khô, cây cối đã trút xuống mặt đất lớp lá dầy 15 – 20 phân, nhưng các tán lá trên cây không có một ánh nắng mặt trời xuyên xuống được. Trung đoàn dừng lại, tổ chức thu dung, đón cán bộ, chiến sĩ đang ốm yếu còn tụt lại phía sau, ổn định tổ chức biên chế và củng cố, xây dựng lực lượng, đặc biệt là chăm lo bồi dưỡng sức khỏe. Toàn đơn vị tập trung làm lán trại, củng cố nơi ăn ở chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:38:52 pm
Chương hai

CHIẾN TRƯỜNG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

Miền Đông Nam Bộ là địa bàn bao quanh Sài Gòn trên ba mặt đông, bắc, tây, trong đó có nhiều con đường chiến lược như quốc lộ 1, quốc lộ 13 kéo thẳng lên Bù Đốp qua Campuchia hoặc ra miền Trung. Ngoài ra, còn có đường liên tỉnh 14, 15, 16 và nhiều đường huyết mạch từ những căn cứ, hoặc các khu vực rừng rậm của miền Đông Nam Bộ có thể tiến về Sài Gòn.

Trung đoàn 141 hành quân đến vị trí quy định tối hôm trước thì nhận được tin địch tổ chức cuộc càn vào khu vực Bù Gia Mập. Lúc này ở miền Đông Nam Bộ, Quân giải phóng đã có Sư đoàn 9, Sư đoàn 5 (thành lập cuối năm 1965). Mỹ huy động lữ đoàn dù số 1 thuộc sư đoàn dù 101, chúng lấy tên là cuộc càn Austen nhằm tiêu diệt lực lượng, phá vỡ vùng hậu phương của một trung đoàn mới chân ướt chân ráo từ hậu phương miền Bắc vào đến nơi, tạo tính bất ngờ, bóp chết Trung đoàn ngay từ đầu.

Tiểu đoàn 3 ra gặp Ban cán sự Sư đoàn để nhận nhiệm vụ, lúc đó chưa thành lập Sư đoàn nhưng Ban cán sự đã có đầy đủ (tới ngày 13-6-1966 mới chính thức công bố thành lập Sư đoàn). Tôi được phân công đi cùng đồng chí Tiểu đoàn trưởng Đỗ Thôn đến Sở Chỉ huy nhận lệnh đưa Tiểu đoàn ra đánh càn ở Bù Gia Mập. Tới cổng Sở chỉ huy, qua vọng gác vệ binh thì mấy chiến sĩ đưa tôi vào dừng lại ở một đơn vị. Đó là Ban Quân lực, Trưởng ban là đồng chí Vũ Tập (bác hiện đang sinh sống ở Hà Nội, tuổi 80 nhưng vẫn khỏe mạnh). Tình cảm anh em, quê hương chuyện trò hỏi han thân mật. Tôi như gặp lại gia đình, cảm giác gần gũi, không thấy xa cách, không bẽn lẽn gì cả, các anh các chú hỏi thì trả lời. Bữa ăn trưa ở Ban Quân lực (có một cô tên Thắng phục vụ nấu ăn cho Ban), cơm rất nóng có cá lóc khô chiên, canh bí đỏ nấu cả vỏ. Lần đầu tiên ăn bí đỏ cả vỏ thấy nó rất bùi và ngon. Đây là bữa cơm đầu tiên ở chiến trường tôi được ăn ngon và khác lạ như vậy.

Nhận nhiệm vụ xong, Tiểu đoàn trưởng ra về, tổ chức đưa đoàn cán bộ gồm có các đại đội trưởng, các phân đội phục vụ của Tiểu đoàn ra điều nghiên từ sân bay Bù Gia Mập vào bờ sông Đa Quýt. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn là chặn đánh, làm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, không cho chúng đánh phá vùng hậu phương của ta, nơi mà Trung đoàn đang tập kết.

Đúng như dự kiến, sáng ngày 10-5-1966, Mỹ cho hỏa lực không quân, pháo binh dọn bãi ở sân bay Bù Gia Mập, sau đó đổ quân xuống. Tiểu đoàn mới vào chiến trường, kinh nghiệm chiến đấu chưa có, anh em còn đang yếu ốm, chủ yếu ra đó đào công sự quỳ, ngồi chiến đấu chặn trên những đường mòn từ sân bay đi vào. Đầu tiên là Đại đội 11 chặn trước, địch vào anh em nổ súng, đánh bằng súng AK, trung liên. Đạn B40 mang vác từ ngoài Bắc vào, mỗi thùng có 3 quả. Anh em triển khai ở giao thông hào, ngồi ở ụ súng chiến đấu, địch tới gần có đồng chí còn chưa mở thùng đạn. Từ Bù Gia Mập, chúng dùng hỏa lực của pháo binh chi viện, khi pháo binh dừng bắn hoặc chuyển làn qua vị trí khác là lúc bộ binh tiến lên. Đó là chiến thuật đánh rất bài bản, chính quy của quân đội Mỹ. Đại đội 11 nổ súng chiến đấu từng bước chặn địch rồi lui dần về phía sau. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Tiểu đoàn cử đồng chí Tý – Tiểu đoàn phó cùng với Đại đội 12 ra triển khai đội hình sau Đại đội 11, tức là lui lại trận địa phục kích vào phía trong để ngăn chặn địch. Ngày 12 và ngày 13, địch tiếp tục từ sân bay Bù Gia Mập theo đường mòn tiến vào dưới sự chi viện của hỏa lực pháo binh, không quân. Đến đêm ngày 13, Tiểu đoàn cử Đại đội 13 vòng ra ngoài đánh tập kích vào cụm địch nằm sát sân bay Bù Gia Mập, tiêu diệt được một số địch. Bị tổn thất do quân ta vòng ra phía sau đánh vào đội hình, tiểu đoàn 1 sư đoàn dù 101 phải rút quân chấm dứt cuộc càn quét.

Ngày đầu chiến đấu mọi cái đều bỡ ngỡ. Tiểu đội trinh sát của tôi có đồng chí bị địch bắt không giữ được khí tiết đã khai báo. Địch ghi âm đưa lên máy bay phát loa kêu gọi cán bộ chiến sĩ Trung đoàn ra đầu thú. Trận chiến đấu đầu tiên ở chiến trường, mưu trí còn ít, chưa có kinh nghiệm, nhưng chúng tôi cũng rút ra được một bài học: lính Mỹ chỉ dựa vào hỏa lực. Chỉ có hỏa lực chi viện đến đâu thì lính Mỹ mới dám đi đến đó. Nhưng khi đã tổn thất lực lượng, bị đánh từ phía sau thì cũng không còn khả năng chiến đấu và buộc phải tạm dừng cuộc hành quân. Trong khoảng thời gian chưa đến chục ngày, Tiểu đoàn 3 được trên nhận xét hoàn thành nhiệm vụ và cùng với lực lượng địa phương ở Bù Gia Mập bẻ gãy cuộc càn của Tiểu đoàn dù số 1, đảm bảo an toàn cho hậu phương của Sư đoàn và Trung đoàn.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:40:11 pm
Trong hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm chiến đấu Bù Gia Mập, đồng chí Trung tướng Trần Độ - Phó Chính ủy Miền tới dự và nói:

- Các đồng chí may lắm đấy. Ở trong này có đơn vị thành lập 4 năm rồi mà chỉ đánh ngụy. Các đồng chí mới vào tối hôm trước, còn ốm yếu, vũ khí chưa lau chùi, sáng hôm sau đã được đánh Mỹ mà lại thắng Mỹ. Đây là một thắng lợi rất lớn về chính trị…

Sau trận đánh, Tiểu đoàn 3 lại tiếp tục về khu vực bờ sông Đa Quýt để làm lán trại, xây dựng hầm hào phòng tránh bom pháo rồi huấn luyện, tổ chức lực lượng để làm nhiệm vụ tiếp theo. Ngày 13-6-1966, Sư đoàn 7 (mật danh Công trường 7) Quân giải phóng miền Nam được thành lập. Lúc này Trung đoàn 165 hành quân đi sau Trung đoàn 141 đã vào chiến trường, tập kết ở khu vực cách Trung đoàn 141 khoảng chục cây số. Sư đoàn 7 trước mắt có Trung đoàn 141 và Trung đoàn 165. Sư đoàn trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Hòa, Chính ủy là đồng chí Dương Cự Tẩm. Khi ở sông Đa Quýt, Sư đoàn được Đoàn hậu cần 86 Miền cung cấp gạo, mắm ruốc, cá khô và rau cải muối khô. Trong những ngày đầu tiên ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, Trung đoàn chịu đựng rất nhiều thử thách.

Thử thách đầu tiên là sức khỏe của bộ đội. Chúng tôi như đã nói từ đầu, có cả trung niên, thanh niên và thế hệ như chúng tôi, học sinh ra trường nhập ngũ. Sau bốn tháng trời hành quân bào mòn sức lực trên đường Trường Sơn, vào tới nơi phải đối mặt với bệnh tật. Đóng quân ở vùng bắc bờ sông Đa Quýt, nơi cách núi Bà Rá khoảng trên 10km. Bà Rá là ngọn núi cao nhất của tỉnh Bình Phước, thực dân Pháp đã chọn làm nơi giam cầm các tù chính trị của ta. Vùng núi Bà Rá bên sông Đa Quýt là nơi gây bệnh sốt rét rất cao. Lúc này thời tiết bắt đầu vào mùa mưa, mùa mưa ở Nam Bộ thường liên tục cả ngày và đêm. Ở nơi rừng sâu như thế có khi mắc võng nằm ngủ mưa tí tách suốt từ chập tối cho đến sáng và tới trưa không thấy bóng mặt trời.

Khó khăn thứ hai là thực phẩm, vật chất. Đoàn hậu càn 86 lúc này cũng bị đánh phá liên tục, các cơ sở hậu cần bị mất mát rất nhiều. Anh em hậu cần 86 mới khôi phục lại nên đảm bảo cho bộ đội đủ gạo ăn là tốt ròi, còn thực phẩm vẫn là cá khô, mắm ruốc. Vì thế, bộ đội bị bệnh tật rất nhiều như sốt rét, quáng gà, tê liệt. Bộ đội càng ít vận động, bệnh càng phát triển. Từ tháng 7 đến tháng 9, mới chỉ trong vòng 3 tháng đầu mùa mưa, Trung đoàn chủ yếu làm nhiệm vụ huấn luyện ổn định tổ chức mà quân số ốm đau đến bệnh xá điều trị và chết vì sốt rét đã lên trên 200 người. Đây là con số rất kinh khủng. Tư tưởng của chúng tôi rất hoang mang. Lính trẻ thể lực chịu đựng rất hạn chế, cho nên cái chết do sốt rét bệnh tật lúc đó đại bộ phận rơi vào lớp trẻ. Các anh tình nguyện tái ngũ do có rèn luyện chịu đựng nên ít bị sốt rét. Có sốt rét không ai nấu cơm cho mà ăn. Thế rồi khi có đồng chí ốm nặng phải cáng lên bệnh xá, đại đội phải gom góp cho đủ 6 đồng chí để cáng đi. Có trường hợp khi cáng đồng chí ốm quá nặng, anh em bảo nhau mang theo xẻng cuốc đi cùng, không may dọc đường có chết thì bó chăn võng chôn luôn. Lúc này, cuộc sống sinh hoạt không có nền nếp, vệ sinh phóng uế bừa bãi cho nên sức khỏe càng suy sụp. Tôi được Tiểu đoàn cử vào phân đội trinh sát nắm địch ở Bù Na (trên đường 14 cách Đồng Xoài 18km). Nhờ ở dinh điền Bù Na cũ dân đã bỏ hoang, có rất nhiều rau rừng như càng cua, tàu bay, lá bép, thậm chí có những quả đu đủ ở cây sau vườn của nhà dân còn sót lại. Có rau xanh ăn nên sức khỏe tạm ổn. Hàng tuần về báo cáo tình hình cho Tiểu đoàn, tổ chúng tôi mang một ít rau lang. Có lần Tiểu đoàn trưởng Đỗ Thôn còn dặn:

- Các cậu mang lá rau lang cũng được chứ không cần ngọn, về cho các thủ trưởng nấu canh.

Mỗi một lần về đơn vị, lại nghe tin anh Mông rồi anh Đờn, người cùng xã, đi cùng tôi đã chết do sốt rét. Ở chiến trường chưa đánh được trận nào ra hồn mà đã chết vì sốt rét vài anh rồi. Bây giờ nghĩ lại, tôi cũng không hiểu vì sao một viên thuốc sốt rét cũng không đủ cho chiến sĩ uống. Do không có thuốc, anh em thay nhau đi đẽo vỏ cây, không biết là cây gì nhưng cứ gọi là cây “bách bệnh”, đẽo vỏ của nó về hãm ra sắc, nấu lên mỗi người uống một bát vào buổi sáng, vị đắng vô cùng.

Một thời gian, cấp trên xuống kiểm tra và phát hiện, rồi Đảng ủy Trung đoàn kịp thời lãnh đạo uốn nắn. Tất cả phải chống gậy đi bộ. Không đi được cũng phải tập đi. Không ăn được cũng phải ăn. Phải biến rừng miền Đông thành nơi cung cấp thực phẩm cho đơn vị như: măng rừng, rau rừng, cá dưới suối, thú vật trong rừng.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:43:59 pm
Trong lúc Trung đoàn đang phát động tự chữa bệnh như vậy thì tôi bị sốt rét, phải từ Bù Na về căn cứ nằm điều trị. Cũng như bao anh em khác, thuốc sốt rét không có cho nên cũng chỉ uống cây “bách bệnh” để điều trị. Một đêm tôi đang sốt, có lẽ khoảng 39-0 độ, người run cầm cập trên võng thì đồng chí y tá Nguyễn Minh Thi, người huyện Thanh Miện, Hải Dương đến nói:

- Ta có nửa viên ký ninh để dành lâu rồi, mày uống luôn đi xem mai có đỡ không để đi ra Bù Na kiếm rau sống mà ăn cho nó có sức khỏe.

Tôi cầm nửa viên thuốc cho vào miệng nuốt ngay. Quả tình ngày hôm sau cắt sốt thật. Nghỉ hai ngày, tôi lại ra Bù Na để quán sát tình hình nắm địch cho Tiểu đoàn. Đó là nửa viên thuốc được thấm đẫm tình bạn, tình đồng chí, đồng hương mà mãi mãi tôi không bao giờ quên được. (Sau nay anh Thi là bác sĩ công tác tại bệnh viên Thanh Miện, Hải Dương. Bây giờ, anh đã nghỉ hưu, thỉnh thoảng anh em chúng tôi cũng gặp và ôn lại câu chuyện đầy tình nghĩa đó). Nhờ phong trào tự chữa bệnh, sức khỏe bộ đội dần hồi phục. Đơn vị từng bước xây dựng lán trại có quy củ, chung quanh được phát quang để hạn chế muỗi. Bộ đội tích cực làm bánh, làm bún, săn bắn thú rừng, làm lưới bắt cá. Sức khỏe ngày được nâng lên. Trung đoàn bắt đầu đưa các đơn vị vào nhiệm vụ huấn luyện quân sự, sẵn sàng chiến đấu.

Cuối mùa khô 1967, từ tháng 2 đến tháng 4, Mỹ huy động 45.000 quân mở cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu. Đây là cuộc hành binh lớn nhất của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trong cuộc phản công lần 2 trên địa bàn hai tỉnh Tây Ninh, Bình Phước. Toàn bộ Sư đoàn 7 được lệnh của Bộ Chỉ huy miền chuyển sang hoạt động trên hướng Tây Ninh, Bình Long sẵn sàng cùng với các đơn vị bạn tác chiến. Trung đoàn 141 được vào hoạt động ở khu vực Đồng Pan của tỉnh Tây Ninh (lúc đó gọi là huyện Tà Đạt). Đây là vùng rừng rậm đã bị Mỹ rải chất độc hóa học làm khô cây rụng lá, xen kẽ rừng là các trảng trống mà Đồng Pan là trảng rất lớn. Mỹ đã lập một căn cứ ở đây để làm địa bàn dùng hỏa lực pháo binh chi viện cho những cuộc hành quân lên hướng giáp biên giới Campuchia. Trung đoàn bước vào tác chiến chủ yếu là đánh nhỏ, lẻ, xây dựng ý thức chiến thuật cho từng phân đội cũng như cách bắn xe tăng của địch. Ban đầu từng tổ chiến đấu được biên chế súng B40, B41 ra sát sân bay Cà Tum để phục bắn xe tăng Mỹ. Tổ xe tăng ban đầu do Phạm Ngọc Nghinh, một trong những đồng chí rất dũng cảm chỉ huy. Đơn vị của chúng tôi pháo kích ở Đồng Pan, mang cả cối 82mm của Đại đội 15, cối 60mm của Đại đội 11, tập trung bắn vào sở chỉ huy địch, buộc chúng ngày hôm sau phải bung ra hành quân tạo điều kiện cho Tiểu đoàn đánh vận động phục kích. Một lần đi pháo kích như vậy, bị địch phản pháo vào đúng trận đại của ta. Tôi vừa kịp nằm xuống thì thấy tiếng nổ xé trời làm ù cả hai tai. Kiểm lại quân số, hy sinh một đồng chí, đó là anh Mười, người cùng bạn học, cùng quê, cùng đi bộ đội với nhau.

Hết tháng 4 năm 1967, trên lệnh chuyển hướng hoạt động về An Lộc (khu vực Bình Long hiện nay) tác chiến ở khu vực đông nam An Lộc khoảng độ 10km. Đối tượng tác chiến là sư đoàn 5 của ngụy và một phần lực lượng sư đoàn Anh cả đỏ của Mỹ. Trung đoàn 141 lúc này do đồng chí Lê Nam Phong làm Trung đoàn trưởng thay cho đồng chí Vũ Chát. Mục tiêu là tiến công đồn Tân Hưng do tiểu đoàn 2, chiến đoàn 9 của sư đoàn 5 ngụy đóng giữ. Mục đích tiêu diệt lực lượng tiểu đoàn 2, buộc Mỹ và các lực lượng của ngụy từ An Lộc hoặc từ Téc-Níc cơ động ra để Trung đoàn tiêu diệt bằng những trận vận động phục kích, cách gọi quen thuộc là đánh công sự vững chắc. Đây là trận đánh đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng, yêu cầu mở màn phải giành được thắng lợi để xây dựng khí thế cho Trung đoàn. Chúng tôi ai cũng xung phong được đi chiến đấu.

Trong trận này có hai điểm đáng nhớ. Một lần đi trinh sát trận địa cùng với Trung đoàn trưởng Lê Nam Phong. Khi bò vào đến hàng rào thứ ba thì đồng chí Trung đoàn trưởng nói với tôi ra báo cáo và xin ý kiến Sư đoàn trưởng. Tôi ra ngoài hàng rào và báo cáo với Sư đoàn trưởng Nguyễn Thế Bôn. Sư đoàn trưởng dặn tôi nói với đồn chí Nam Phong là “bò theo nghị quyết”. Nghị quyết của Đảng ủy Sư đoàn là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141 bò tới lô cốt đầu cầu. Và như thế chúng tôi lại tiếp tục đưa đồng chí Trung đoàn trưởng tới điểm cuối cùng. Khi quay ra trời cũng gần sáng. Anh em kịp xóa tất cả dấu vết và cũng rất may là trời đổ mưa nên ngày hôm sau kẻ địch không phát hiện được. Thứ hai, là công tác xây dựng quyết tâm chiến đấu. Đêm chiếm lĩnh trời mưa tầm tã, sức khỏe yếu, mang vác nặng nhưng ai nấy đều có một quyết tâm chiến đấu rất cao. Nhiều đồng chí quáng gà chưa khỏi nhưng dắt tay nhau để đi vào chiếm lĩnh trận địa. Khi trận đánh diễn ra, đồng chí này ngã xuống, đồng chí khác xung phong lên. Cùng chiến đấu với Trung đoàn, có một Đại đội Thanh niên xung phong Tây Đô do anh Tám Thành (sau này làm Bí thư Quận ủy quận 3 đã nghỉ hưu) làm đội trưởng.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:45:49 pm
Chị em phụ nữ Nam Bộ rất dũng cảm, xung phong đi qua các cửa mở vào lấy thương binh, tử sĩ của ta rất nhanh. Khẩn trương. Trong trận đánh này, về cơ bản, Trung đoàn giành được thắng lợi. Song do không dứt điểm triệt để (còn lại một lô cốt chống cự rất ác liệt và pháo binh, trực thăng chi viện bắn chặn ngay cửa mở) nên tổn thất lớn. Cán bộ tiểu đoàn hy sinh một đồng chí. Cán bộ đại đội, trung đội hy sinh hơn chục đồng chí. Trong số thương vong, anh em cùng nhập ngũ, cùng xã với tôi có anh Quyết quê xom Đông Bối, xã Tân Hương.

Ngày hôm sau, đúng như dự kiến, địch đưa lực lượng từ sân bay Téc Nic ra chi viện cho lực lượng còn lại ở đồn Tân Hưng và thu dọn chiến trường. Điều đáng tiếc là một số ít thương binh, tử sĩ của ta còn nằm lại trong trận địa. Có thể do thời gian chiến đấu gấp, trời sắp sáng không thực hiện kịp và triệt để được. Có đồng chí bị thương, bị địch bắt, khai thác xong bị đưa đi đày ở Côn Đảo, Phú Quốc. Đây là một trận chiến đấu tôi thấy rất tâm đắc. Tuy thắng lợi chưa trọn vẹn nhưng mở ra một kinh nghiệm đánh công sự vững chắc, tiền đề cho những hoạt động tiếp theo của Trung đoàn. Trận đánh được Bộ Chỉ huy Miền đánh giá Trung đoàn 141 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bản thân tôi cũng đã trưởng thành trong việc bám sát, theo dõi, luồn lách hàng rào để nắm địch, đưa cán bộ, đưa đơn vị vào tập kết theo đúng kế hoạch.

Tại cánh rừng biên giới vào cuối mùa mưa đầu mùa khô năm 1967, một sự kiện quan trọng đã đến với tôi. Đó là ngày 30 tháng 11 năm 1967, tôi được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản. Các đồng chí tổ Đảng trong chi bộ tổ chức lễ kết nạp ở ngay trong rừng. Không có cờ, ảnh Bác, khẩu hiệu trang hoàng lộng lẫy như bây giờ. Một buổi sinh hoạt chi bộ có đầy đủ nghi thức tuyên bố kết nạp công nhận tôi là đảng viên. Trong niềm xúc động, tôi chỉ biết hứa làm hết khả năng của mình, nguyên suốt đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì lợi ích chung của Đảng. Tôi nhớ mãi hai người giới thiệu tôi vào Đảng, người đầu tiên là anh Trần Văn Đảng phụ trách hậu cần của Tiểu đoàn quê ở xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang, Hải Dương; người thứ hai là anh Trương Minh Thế quê ở Long An làm y sĩ của Tiểu đoàn. (Hiện nay hai anh vẫn mạnh khỏe và tôi vẫn thường xuyên thăm hỏi các anh).

Vào cuối năm 1967 chuẩn bị đối phó mùa khô năm 1968, Mỹ mở cuộc càn “hòn đá màu vàng”. Sư đoàn bộ binh 25 tức là sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới” của Mỹ hành quân vào khu vực đông bắc Tây Ninh và đặc biệt là ở bắc của Bình Phước hòng đánh phá hành lang, vận chuyển lương thực của Quân giải phóng từ biên giới xuống giáp ranh cặp ven đô phía bắc Sài Gòn. Cuộc càn “hòn đá màu vàng” gây khó khăn cho ta trong việc vận chuyển vũ khí, lương thực của đường dây hậu cần Đoàn 70 từ biên giới Campuchia xuống khu vực bắc Bình Dương. Sư đoàn 7, trong đó chủ yếu là Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch ở lộ Đô Bổ Tức, Cà Tum, Cần Nê. Sư đoàn đã cùng với các lực lượng khác nhau của Miền chặn đánh bẻ gãy cuộc càn của địch. Cuối tháng 12, chúng buộc phải rút về căn cứ.

Trong những ngày cuối năm 1967, Quân giải phóng miền Nam đang ráo riết chuẩn bị cho đợt tổng công kích chiến lược vào các đô thị lớn. Nhiệm vụ của Trung đoàn 141 nói chung và của Tiểu đoàn 3 nói riêng là đánh nhỏ lẻ để bảo vệ Đoàn 70 và giữ khu vực hậu cứ vùng biên giới. Ngày 20-1-1968, cấp trên phổ biển cho ăn tết trước khi xuống đường. Toàn đơn vị chuẩn bị đón tết, có gạo, thịt, bánh kẹo và thuốc lá. Không khí hết sức rạo rực, phấn khởi.

Ngày 26-1-1968, Trung đoàn nhận lệnh rời khỏi khu vực giáp biên giới Việt Nam – Campuchia ở bắc Bình Phước đẻ xuống bắc Bình Dương. Sau bốn ngày hành quân, chúng tôi tới khu rừng cao su Phú Hưng, Bố Lá (gần cầu sông Bé hiện nay). Có một sự trùng hợp là hôm vừa đến nơi thì vào đêm 31 tháng 1 năm 1968 tức là đêm giao thừa đón Tết Mậu Thân. Cả thế giới bàng hoàng biết tin cuộc tổng tiến công chiến lược của Quân giải phóng miền Nam vào thành trì, sào huyệt của chính quyền tai sai ở Sài Gòn. Chúng tôi mở đài nghe tin chiến thắng rất náo nức.

Tuy nhiên, lúc này Trung đoàn 141 có nhiệm vụ đánh ngăn chặn, tiêu hao, giữ lực lượng sư đoàn Anh cả đỏ của Mỹ, sư đoàn 5 của ngụy ở lại chiến trường bắc Bình Dương, không cho chúng cơ động về Sài Gòn ứng cứu, đảm bảo cho Quân giải phóng chiến đấu ở trong nội đô. Đối tượng lúc này của Trung đoàn là lực lượng bộ binh cơ giới của Mỹ. Tiểu đoàn 3 đóng ở gần đồn Bố Lá, đêm nào cũng tổ chức lực lượng hỏa lực cối 82mm pháo kích vào khu vực căn cứ của địch, bộ binh thì tham gia chống càn ở khu vực lộ Đỏ rừng cao su Phú Hưng và chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chuyển cánh sang phía tây quốc lộ 13 làm nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Giêng, 2019, 06:47:45 pm
Từ sau ngày 10 tháng 2, toàn chiến trường bước vào đợt hai của tổng tiến công tết Mậu Thân. Trung đoàn 141 đảm nhận nhiệm vụ hoạt động ở khu vực đông và tây đường 13 đoạn Phú Hòa – Chánh Lưu tới bắc thị xã Thủ Dầu Một. Đối tượng vẫn là sư đoàn Anh cả đỏ của Mỹ và sư đoàn 5 ngụy. Đêm 14 tháng 2, các đơn vị trong Trung đoàn bước vào thực hiện nhiệm vụ. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 tập kích đồn Sở Gà ở bắc Thủ Dầu Một, cách thị xã Bình Dương khoảng 4 km. Tiểu đoàn 3 chúng tôi đánh phục kích giao thông trên đường 13.

Dọc con đường chạy từ Thủ Dầu Một lên Lộc Ninh, các thị trấn đều có căn cứ của Mỹ ngụy chiếm đóng. Do xe cơ động nhiều lần nên con đường bị bằm nát, xe chạy bụi mù mịt. Cứ khoảng 5-7 cây số, sư đoan Anh cả đỏ lại đóng một chốt với khoảng một địa đội. Ban đêm, cứ khoảng 10 phút lại có 3 xe tăng tuần tiễu đi từ chốt này sang chốt khác hoặc ngược lại. Vượt qua đường là một công việc rất khó khăn. Từ chiều, chúng tôi đã ra bám nắm địch ở cách đường khoảng 300m. Chúng tôi leo lên cây quan sát, theo dõi và chọn khu vực đưa bộ đội vượt đường, đồng thời phải nắm chắc quy luật hoạt động của lực lượng tuần tiễu để tổ chức vượt. Khi vượt, từng trung đội một lần lượt băng qua, khi đã vượt qua rồi thì đồng chí đi sau cùng phải cầm một cành lá kéo lê từ bên này sang bên kia đường xóa dấu vết. Cứ lần lượt như thế, Tiểu đoàn chia làm ba khu vực vượt. Trong một đêm toàn tiểu đoàn sang đúng nơi tập kết theo quy định, trước sự hoạt động rất ráo riết, ác liệt của sư đoàn Anh cả đỏ. Trong lúc ngồi giải lao, dưới ánh sáng lờ mờ của pháo sáng, tiếng pháo nổ vọng lúc xa lúc gần, đồng chí Lê Viết Tuy – Tiểu đoàn phó nói chuyện với chúng tôi, thông báo tin chiến thắng ở Sài Gòn. Nghe xong, ai cũng nghĩ rằng ngày giải phóng sắp tới. Lúc cao hứng, đồng chí Tiểu đoàn phó nói:

- Các cậu không phấn đấu thành sĩ quan, hòa bình xong về lại đi cày thì khổ lắm.

Nghe Tiểu đoàn phó nói, trong lòng tôi rộn lên niềm tin tưởng và háo hức phấn đấu để trở thành người sĩ quan như thủ trưởng.

Đối tượng trực tiếp của chúng tôi là sư đoàn Anh cả đỏ, một trong những sư đoàn nổi tiếng nhất của lục quân Mỹ. Sư đoàn thành lập tháng 5 năm 1917, là đơn vị đầu tiên của lực lượng viễn chinh Mỹ đổ bộ lên nước Pháp, tháng 6 năm 1917. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) sư đoàn này đã từng tham chiến trên nhiều chiến trường và được suy danh là sư đoàn Anh cả đỏ từ đó. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, sư đoàn tác chiến ở Bắc Phi, là một trong những sư đoàn tham gia đổ bộ lên vùng Omaha trong chiến dịch Noocmanđi năm 1944.

Sư đoàn Anh cả đỏ là một trong những sư đoàn bộ binh đầu tiên của Mỹ đến Việt Nam từ tháng 10 năm 1965. Triển khai ở vùng bắc Sài Gòn, sư đoàn này cố 7 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo 155mm và nhiều đơn vị chiến đấu khác. Cái khác của sư đoàn Anh Cả đỏ với sư đoàn 101, sư đoàn Tia chớp nhiệt đới, hay sư đoàn bộ binh 23 của Mỹ là sư đoàn này sử dụng riêng một loại dù pháo sáng, cứ mỗi một quả pháo sáng có ba múi dù thì một múi ở giữa là màu đỏ còn hai mũi ở hai bên là màu trắng. Do có đặc điểm riêng nên ta dễ nhận biết khi chúng đến hoạt động ở bất cứ vùng này. Thế nhưng sau khi đến vùng Sài Gòn tham gia tác chiến nhiều trận và ở các khu vực Bình Long, Phước Long, sư đoàn này đã bị Quân giải phóng đánh thiệt hại nặng. Thương vong trong chiến tranh ở Việt Nam lên tới 20.770 tên. Đến tháng 4 năm 1970, phải rút về nước.

Đêm 17 tháng 2, Trung đoàn đánh Sở Gà. Tiểu đoàn 3 chúng tôi phục kích ở khu vực Gò Mối. Đúng như dự kiến, trong đêm Tiểu đoàn chiếm lĩnh xong trận địa. Buổi sáng, Mỹ đưa lực lượng thiết giáp từ khu vực Bến Cát bung ra giải tỏa cho khu vực Sở Gà. 8 giờ 30, lực lượng thiết giáp đi đầu vào gần trận địa phục kích của Tiểu đoàn 3. Hỏa lực pháo binh địch từ Lai Khê, Phú Lợi, không quân từ sân bay Tân Sơn Nhất bắn chi viện rất mạnh. Tiểu đoàn trưởng Phan Văn Diệu lệnh cho các đại đội trưởng cho bộ đội vận động ra sát đường 13 rồi đồng loạt xung phong, dùng B40, B41, ĐKZ bắn vào xe tăng địch. Đồng chí Trần Văn Nhạn, Đại đội trưởng Đại đội 12 – đơn vị chủ lực của Tiểu đoàn dũng cảm xung phong cùng bộ đội chỉ huy từng phân đội chặn đánh đoàn xe của địch khi chúng vào trong vòng phục kích.

Tại vị trí chỉ huy Tiểu đoàn bộ, tôi và một số đồng chí phục vụ vào vị trí chiếm lĩnh may là tìm được một đoạn đường đi giống như giao thông hào. Chúng tôi đào công sự ẩn nấp ở đó. Buổi chiều lúc đi, được đồng chí Úy đưa cho cái cuốc Mỹ (cuốc Mỹ một đầu làm xẻng một đầu cuốc đất nên rất cơ động). Mặc dù đất cứng nhưng chúng tôi tích cực đào hầm kiểu hàm ếch, sau hàm ếch thì làm ngách vào nữa để tránh hỏa lực phi pháo của địch. Đúng như nhận định, khi đoàn xe tăng thiết giáp của Mỹ cơ động trên đường đoàn xe tăng thiết giáp của Mỹ cơ động trên đường 13, hỏa lực pháo binh của địch bắn cấp tập. Trong hầm hàm ếch, tôi, đồng chí Nguyễn Xuân Quấn cùng ngồi ở sát cửa hầm. Trong các loạt pháo bắn vào khu vực Tiểu đoàn bộ, loạt thứ hai có một quả nổ trên nóc hầm. Tất cả đất cát đổ sập xuống lấp vùi hết chúng tôi. Đồng chí ngồi ngoài hy sinh. Tôi và đồng chí Quấn bị sức ép của pháo, bới đất đứng dậy và dìu nhau sang khu vực có tổ quân y của Tiểu đoàn cấp cứu. Đến khoảng 12 giờ trưa, Tiểu đoàn đã chặn được lực lượng địch. Chúng không liên lạc được về thị xã Bình Dương và phải quay lại Bến Cát. Tiểu đoàn 3 hoàn thành được nhiệm vụ mà trung đoàn giao cho.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:13:58 am
*
*   *

Cuối tháng 2 năm 1968, trong nội đô Sài Gòn, chính quyền tay sai của Nguyễn Văn Thiệu cùng quân đội của Mỹ dần ổn đỉnh tình hình. Tính bất ngờ của cuộc tổng tiến công không còn nữa. Đại bộ phận lực lượng chủ lực Miền bị tổn thất. Nhiều cơ sở của ta bị đánh phá. Công tác đảm bảo lương thực và vũ khí gặp nhiều khó khăn. Hoạt động của ta chuyển ra vùng ven Sài Gòn. Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ hoạt động ở khu vực bắc Bình Dương. Tiểu đoàn 3 chúng tôi tham gia tác chiến ở khu vực rừng cao su Hòa Lợi, Chánh Lưu tới khu vực ngã tư Sở Sao, Bến Cát. Lúc này, quân Mỹ đã tổ chức các đợt phản kích đánh vào khu vực đóng quân của ta ở vùng kế cận Sài Gòn. Phú Hòa và Hòa Lợi là mục tiêu của chúng. Nơi đây bộ đội triển khai đánh địch, buổi tối vào trong dân để tiếp nhận lương thực, thực phẩm.

Hàng ngày, từ sáng sớm, sư đoàn Anh cả đỏ Mỹ đưa các đơn vị thiết giáp, nhất là thiết đoàn 11 cơ động lên bắc Bình Dương, đường tỉnh lộ 14, 16, cùng bộ binh tiến công những nơi nghi có căn cứ kho tàng của ta. Mục tiêu đầu tiên của Mỹ là phát quang rừng cao su hai bên đường. Chúng dùng sợi xích buộc vào đầu hai xe rồi cứ đi càn từng hàng cao su. Hai xe đi đến đâu sao su đổ rạp xuống mặt đất sau đó chúng dùng bom xăng, bom cháy để đốt cháy. Chỉ trong vòng một tuần, rừng cao su ở khu vực An Hòa, An Lợi đã trở thành cánh đồng trống trải với thân cây đen xì, trơ trọc.

Tiểu đoàn 3 nằm trong rừng cao su An Lợi. Sáng ngày 20-2-1968, chúng tôi được lệnh chuẩn bị chiến đấu với xe tăng thiết giáp của địch đang đi lên càn quét khu vực này. Cuộc chiến đấu diễn ra từ trưa đến chiều. Đại đội 11, Đại đội 12 kiên cường chặn đánh quân địch. Đạn hỏa lực B40, B42 ít nên anh em dùng thủ pháo, lựu đạn để đánh trả các tốp lính bộ binh cũng như xe tăng của chúng. Nổ súng chiến đấu được khoảng hơn hai giờ, xe tăng thiết giáp địch đã vào gần vị trí chỉ huy Tiểu đoàn của chúng tôi. Tất cả đều vào vị trí chiến đấu để bảo vệ Ban chỉ huy Tiểu đoàn. Tôi và anh em ở cơ quan Tiểu đoàn bộ dùng súng AK và thủ pháo, ngồi sẵn ở hố chiến đấu chờ chúng tới là tử thủ. Bất ngờ một mũi từ phía sau, gồm ba xe thiết giáp lao tới ngay cửa hâm của Tiểu đoàn trưởng Phan Văn Diệu. Trong hầm có đồng chí Kính, tiểu đội trưởng trinh sát. Khi đến cửa hầm, một tốp lính dừng lại ném một quả lựu đạn xuống hầm. Đồng chí Kính dũng cảm chộp lấy quả lựu đạn ném ngược lên và đồng chí vọt lên dùng sút AK bắn tiêu diệt tốp địch để đồng chí Tiểu đoàn trưởng vùng dậy, cơ động về vị trí chỉ huy dự bị của Tiểu đoàn. Đồng chí Phan Văn Diệu và nhiều đồng chí khác được an toàn nhưng đồng chí Kính đã anh dũng hy sinh. Lợi dụng tiếng súng, thủ pháo nổ, chúng tôi ở hầm bên cạnh di chuyển về vị trí quy định.

Sau trận chiến đấu ở An Lợi, Tiểu đoàn cơ động về Bình Cơ, Bình Mỹ, khu vực bắc Tân Uyên làm nhiệm vụ củng cố lực lượng, đồng thời bảo vệ một đội phẫu của Đoàn hậu cần Miền đặt tại khu vực suối Nga, nơi cứu chữa một phần các thương bệnh binh chiến đấu ở khu vực bắc Sài Gòn. Đơn vị chúng tôi xác định được bảo vệ các đồng chí thương bệnh binh là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Tuy xa thị xã, thành phố nhưng bọn địch thường xuyên tổ chức lực lượng bung ra đánh phá, có lần chúng càn vào gần nơi anh em điều trị. Tiểu đoàn vận dụng các hình thức chiến thuật như tập kích, pháo kích, rồi vận động phục kích để tiêu diệt địch, bảo vệ đội phẫu được an toàn từ cuối giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 của năm 1968.

Vào khoảng tháng 7 đầu mùa mưa, Tiểu đoàn chuyển nhiệm vụ khác. Sau này tôi biết, trong giai đoạn 3, cấp trên có ý định đưa Trung đoàn 141 cùng Trung đoàn 209 vượt sông Sài Gòn (đoạn Phú Cường đi Thị Tính) sang hoạt động ở Củ Chi. Song có lẽ do nhiều nguyên nhân nên ý định đó tạm dừng lại. Đó là một quyết định đúng vì thế và lực lúc đó chưa có lợi cho các đơn vị của ta mở đợt tấn công ở phía tây Sài Gòn.

Những lần qua lại bảo vệ đội phẫu, tôi quen chị Bí thư chi bộ tên là Trần Thị Ái Dân, người ở Bến Cát, Bình Dương. Chị từng chiến đấu bị thương mất một mắt, chồng là thương binh nuôi hai con nhỏ ở một đơn vị trên Miền. Chị hiền hậu và thương lính trẻ ở miền Bắc như chúng tôi. Chị kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện chiến đấu, sinh hoạt của người dân Nam Bộ, dành những món ăn Nam Bộ như bánh cuốn, có khi là những món rau rừng để chúng tôi lấy về nấu canh. Tôi quý mến như một người chị. Sau một thời gian, chúng tôi đã kết nghĩa chị em, ba chị em: chị, tôi và đồng chí Lộc ở ở Vĩnh Phú (sau này đồng chí đã chuyển đi không liên lạc lại được). Một buổi chiều tháng 7 năm 1968, khi Tiểu đoàn sắp cơ động đi nơi khác, tôi tặng chị một tấm hình mà lúc về phép trước khi đi B tôi chụp mang theo. Tôi ghi “Kỷ niệm chị Út – người em của quê hương miền Bắc”.

Cuối mùa mưa năm 1968, đội phẫu bị địch càn quét, đánh phá phải dời sang địa bàn khác. Cấp trên điều chị Út Dân về Bệnh viện K71 ở biên giới Campuchia. Năm 1970, Mỹ đánh sang Campuchia, hai chị em mất liên lạc nhau. Sau ngày hòa bình năm 1975, chị luôn tìm tin tức về tôi, hễ cứ gặp ai quê miền Bắc lại hỏi, nhưng không biết được. Cho đến một ngày tôi công tác ở Học viện Lục quân, Đài truyền hình Bình Dương làm chương trình về ông Mười Lời trồng hoa đào ở Đà Lạt. Trong phóng sự, tôi là khách hàng mua cây đào. Chương trình được Đài truyền hình Bình Dương phát vào dịp tết Đinh Hợp 2007. Chị biết tin tôi nhờ xem ti vi và một ngày đầu năm 2007, chị lên Đà Lạt. Chị em gặp lại nhau mừng không tả xiết. Chị đưa tấm hình và nói:

- Hình em tặng chị nay đã 39 năm rồi, chị vẫn giữ chờ ngày gặp lại. Điều mong muốn đó nay đã trở thành sự thật. So với ảnh em khác nhiều quá. Chị mừng em đã trưởng thành.

Chị kể, chồng chị là Đại tá Lưu Văn Trường mới mất, các cháu đã lớn và trưởng thành. Chị đã có cháu nội, cháu ngoại. Năm nay chị cũng đã gần 80 tuổi với một lần mổ do căn bệnh hiểm nghèo và thương tật đầy trên thân thể trong kháng chiến chống Mỹ. Tay cầm tấm hình của mình từ tay chị mà nước mắt tôi cứ chảy ra một cách tự nhiên. Đây là tấm hình không bao giờ tôi quên được, thể hiện tình cảm của người chị trên đất Nam Bộ luôn quý mến đứa em, người con quê miền Bắc làm nghĩa vụ giải phóng dân tộc. Tôi nói:

- Năm 1988, em làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, đóng ở căn cứ Phú Lợi, hai lần qua Tỉnh đội nhờ anh Năm Châu, Tỉnh đội trưởng tìm giùm, xong rồi công việc cứ cuốn hút theo nhiệm vụ. Gia đình em đã vào trong thành phố sinh sống. Từ nay, em dành nhiều thời gian tới thăm chị và mãi mãi em quý trọng chị như người chị ruột của em.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:14:36 am
Trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ ở khu vực bắc Tân Uyên ngày 12-5-1968, một tiểu đoàn lính Hoàng gia Úc đổ quân xuống khu vực nam Sở Hội, cách khu vực bắc Tân Uyên 6km. Trung đoàn 141 được lệnh tập kích tiểu đoàn địch ngay trong đêm. Tiểu đoàn 3 làm nhiệm vụ dự bị cho Trung đoàn. Trong lúc đang làm công tác chuẩn bị cho Tiểu đoàn bước vào chiến đấu thì buổi chiều, anh Nguyễn Văn Úy, người bạn cùng quê với tôi là tiểu đội trưởng hỏa lực của Đại đội 12 đi qua vị trí Tiểu đoàn bộ dừng lại tìm tôi. Hai anh em ngồi tâm sự. Chuyện về quê hương, gia đình lại trỗi dậy. Chúng tôi ngồi trên cửa hầm nói chuyện gần 2 tiếng đồng hồ rồi tôi tiễn anh về đội hình của Đại đội 12. Còn Tiểu đoàn bộ chúng tôi triển khai hành quân dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Xuyến. Đêm đó, anh Úy bị thương dập nát bàn tay trái. Buổi sáng tôi gặp lại, mới hôm qua còn lành lặn, nay đã nằm trên cáng tay băng trắng, người tái nhợt. Tôi nói:

- Anh mau về hậu phương điều trị rồi trở lại chiến đấu.

Do vết thương quá nặng và điều kiện cứu chữa lúc đó còn nhiều khó khăn nên bàn tay trái của anh Úy đã không giữ được. Đến năm 1972, anh được trở về quê hương đoàn tụ cùng gia đình. Bạn chiến đấu, anh em cùng xã cứ lần lượt người hy sinh, người bị thương, những người còn lại trên chiến trường ngày một ít.

Năm 2003, nhân chuyến đi công tác cùng Thượng tướng Phùng Quang Thanh (lúc đó là Tổng Tham mưu trưởng) sang Úc (Australia), làm việc với Bộ Quốc phòng của Úc. Ngài Bộ trưởng nói:

- Tôi là lính của Hoàng gia Úc và có tham gia tác chiến ở chiến trường miền Nam từ năm 1968.

- Ngài có hoạt động ở khu vực bắc Tân Uyên, Bình Dương, bắc Sài Gòn hay không? Tôi hỏi.

- Lúc đó tôi với cương vị là trung đội trưởng của một trung đội lính hoàng gia Úc thường hoạt động ở bắc Sài Gòn và vùng Bà Rịa.

Chúng tôi bắt tay nhau, cái bắt tay thể hiện sự khép lại quá khứ, hướng tới tương lai để hai quân đội cùng hợp tác trong việc chống khủng bố đảm bảo an ninh quốc gia và trao đổi hợp tác đào tạo giáo dục giữa quân đội hai nước.

Trong những tháng cuối mùa mưa năm 1968, tình hình hoạt động ở khu vực ven đô của Quân giải phóng gặp nhiều khó khăn. Trung đoàn 141 được lệnh từng bước lui về phía sau, địa bàn bắc tỉnh Bình Phước, Tây Ninh giáp vùng biên giới Việt Nam – Campuchia. Ngày 30 tháng 8 năm ấy, tại một cánh rừng ở bờ bắc Sông Bé, tôi được công nhận là đảng viên chính thức. Tháng 10 năm 1968, tôi được điều động lên làm Trợ lý quân lực của Trung đoàn 141. Tôi mang ba lô chào tạm biệt mọi người sau bốn năm chiến đấu công tác ở Tiểu đoàn 3.

Tiểu ban quân lực Trung đoàn có bảy người: Mai Đạt – Trưởng tiểu ban, Minh Đĩnh và Phạm Ngọc Hải phụ trách quân số, Đỗ Viết Noi phụ trách chính sách, Phạm Quang Nguyên và tôi mới lên phụ trách trang bị, còn Nguyễn Giang đảm nhiệm công tác thống kê. Bảy anh em chúng tôi sống rất chan hòa đoàn kết, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng tôi là theo dõi về tổ chức biên chế, trang bị bảo đảm cho Trung đoàn duy trì sức chiến đấu liên tục.

Việc tiếp nhận quân số từ phía Bắc đưa vào qua cơ quan cấp trên thì phải có sự nghiên cứu điểu chỉnh, bổ sung cho các đơn vị theo kiểu biên chế thời chiến lúc đó. Công tác trang bị phải đảm bảo cho người, chiến sĩ có đủ súng, đạn, xẻng cuốc, để sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Đồng thời phải ghi chép lưu trữ danh sách quân nhân từ lúc nhập ngũ vào đơn vị và trong quá trình chiến đấu ở chiến trường, sự tổn thất thương vong để sau này làm công tác chính sách. Tôi theo dõi thấy công tác lưu trữ, ghi chép hồ sơ quân nhân của Trung đoàn hành quân từ miền Bắc vào cho đến những nam tôi ở Tiểu ban quân lực được thực hiện khá đầy đủ và chi tiết. Điều đó tạo điều kiện rất tốt cho công tác chính sách sau này. Tiểu ban quân lực hoạt động trong cơ quan Ban Tham mưu của Trung đoàn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tham mưu trưởng.

Từ khi cơ động về vùng biên giới, Trung đoàn 141 tham gia tác chiến ở nam bắc lộ Đỏ, khu vực Bổ Túc, Cà Tum. Năm 1969, có ba lần Trung đoàn 141 đánh tập kích căn cứ Tà Tê, đối tượng là sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ. Cuối mùa xuân năm 1969, Trung đoàn ba lần tập kích Bến Tranh khu vực tây nam Dầu Tiếng sau đó lại rút về khu vực biên giới để củng cố xây dựng lực lượng.

Năm 1970, Mỹ giật giây Lon Non làm đảo chính lật đổ chính phủ Hoàng thân Norodom Xihanuc, mở rộng chiến tranh sang đất Campuchia, tìm diệt lực lượng Quân giải phóng đang đứng chân ở khu vực biên giới giữa hai nước và cơ quan đầu não. Trung ương Cục miền Nam. Trung đoàn 141 của chúng tôi tham gia giải phóng thị trấn Mi Mốt, Sa Nuôn rồi đánh thiết đoàn xe tăng 11 của Mỹ trên đường 13 từ Lộc Ninh sang hoặc từ Sa Nuôn rút về. Từ cuối năm 1970, Trung đoàn tác chiến ở khu vực Kôngpông Chàm, đường số 2 Đầm Be – Oát Thơ Mây, đường 22 từ Tây Ninh lên ngã ba Krết, Suông Chúp. Khu vực này cũng diễn ra nhiều trận đánh lớn của Sư đoàn 7 trong đó Trung đoàn 141 đều tham gia.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:15:48 am
*
*   *

Sau nhiều năm Mỹ chuyển chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” dùng hỏa lực Mỹ, xung lực ngụy đã bị thất bại ở nhiều chiến trường từ năm 1970-1971. Trên chiến trường B2 (miền Đông Nam Bộ), chủ trương của Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Nguyễn Huệ tiến công tiêu diệt đại bội phận lực lượng sư đoàn 5 ngụy ở khu vực bắc Bình Phước và giải phóng thị trấn Lộc Ninh – thị xã An Lộc (Bình Long), mở rộng vùng giải phóng, làm cơ sở cho chính phủ cách mạng lâm thời về đứng chân và lập căn cứ hậu phương tiếp nhận vật chất từ ngoài Bắc chuyển vào chuẩn bị cho các chiến dịch tiếp theo từ phía bắc Sài Gòn.

Thực hiện mục đích đó, Bộ Tư lệnh Miền đã dùng Sư đoàn bộ binh 5 cùng binh khí kỹ thuật mở màn chiến dịch tiến công giải phóng Lộc Ninh, sau đó, sử dụng Sư đoàn 9 tiến công thị xã An Lộc. Trung đoàn 209 Sư đoàn 7 tham gia tiến công giải phóng khu ngã ba Đồng Tâm. Sư đoàn 7 (thiếu) làm nhiệm vụ chốt chặn tiêu diệt địch trên đường 13 đoạn từ Chơn Thành lên Tân Khai.

Sau những trận đánh với quân ngụy Lon Non và quân ngụy Sài Gòn trên đất nước Chùa Tháp, đầu năm 1972, Sư đoàn 7 hành quân về nước tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ. Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ chốt chặn ở khu vực Tàu Ô – xóm Ruộng trên đường 13 nằm phía bắc thị trấn Chơn Thành trên 10 km.

Tháng 3 năm 1972, đồng chí Mai Đạt ra Hà Nội học, tôi được giao nhiệm vụ Trưởng tiểu ban quân lực của Trung đoàn 141. Tôi xác định trách nhiệm về công tác tổ chức lực lượng, đảm bảo trang bị cho chiến dịch dài ngày quan trọng này ở cương vị mới và tự nghĩ bản thân phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đáp lại sự kỳ vọng tin tưởng của cấp trên. Chiều ngày 1 tháng 4, toàn Trung đoàn nhận nhiệm vụ xuống đường với không khí phấn khởi được quay lại chiến trường quen thuộc. Sau bốn ngày hành quân, chiều 4 tháng 4, đơn vị có mặt tại khu vực quy định phía tây đường 13, cách khu vực Tàu Ô khoảng 5 – 10km.

Đêm 4 rạng 5 tháng 4, toàn đơn vị vào vị trí chiếm lĩnh. Xa nhất là Tiểu đoàn 2 sang bên khu vực đông đường 13 làm nhiệm vụ chốt chặn giữa cống Ông Tề với bắc Xóm Ruộng. Tiểu đoàn 1 làm nhiệm vụ ở trục đường 13 từ bắc Tàu Ô lên đến nam Tân Khai. Tôi được Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối giao nhiệm vụ tổ chức bộ phận của cơ quan tham mưu Trung đoàn vận chuyển vật liệu cung cấp cho các đơn vị xây dựng chốt chủ yếu ngay trên quốc lộ 13 và phân công anh em đào hố dặt mìn chống tăng trên mặt đường ở phía trước các chốt. Ngay tối hôm đó, tôi cùng anh em của cơ quan và vệ binh cùng đào hầm với bộ đội ở chốt Đại đội 1. Bản thân tôi cùng hai đồng chí nữa đào ba hố mìn chống trăng trên đường 13. Con đường này do Pháp làm từ đầu thế kỷ XX, vật liệu chủ yếu là đá, nhựa không đáng kể. Đường 13 lúc đó nhỏ chứ không to như bây giờ. Hai bên đường cách vào 150 mét đến 200 mét rừng cây vẫn còn rậm rạp. Đến khoảng 4 giờ sáng, công việc Trung đoàn trưởng giao đã hoàn thành. Trên đường trở về sở chỉ huy Trung đoàn, chúng tôi nghe tiếng súng ở khu vực Lộc Ninh đã nổ, mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, giải phóng huyện lỵ Lộc Ninh (huyện đầu tiên của chiến trường miền Đông Nam Bộ được giải phóng, trở thành căn cứ cho Trung ương Cục miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Miền đứng chân lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ đến ngày toàn thắng).

Địa hình Tàu Ô là một vị trí quân sự quan trọng. Phía trước là cống Ông Tề, có con suối chảy đông tây vắt ngang đường 13, nơi chọn làm tiền duyên phòng ngự rất hiệu quả. Chỉ có bộ binh mang vác bình thường mới có thể vượt qua con suối này được. Còn nếu sử dụng đến phương tiện binh khí kỹ thuật bằng cơ giới vào chiến đấu bắt buộc tất cả các phương tiện trên đều cơ động thành hàng dọc đi qua cống Ông Tề, qua Tàu Ô mới triển khai đội hình tiến công theo các hướng. Vị trí quan trọng này được cấp trên tin tưởng giao cho Trung đoàn 141 đảm nhiệm. Cuộc chiến đấu ở Tàu Ô diễn ra rất ác liệt và kéo dài từ cuối mùa khô đến hết mùa mưa năm 1972. Nhiều đơn vị phải thay đổi phiên hiệu hai, ba lần.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:23:00 am
Chiến dịch tiến công chiến lược năm 1972, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã có sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt. Các đơn vị giải phóng Lộc Ninh, tiến công Bình Long đều có xe tăng chi viện. Nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng hình thanh với sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương. Trình độ tổ chức chỉ huy ngày càng cao. Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ phòng ngự cũng được tăng cường hỏa lực pháo xe kéo (pháo lựu 122mm, pháo 85mm) để chi viện cho các trung đoàn thực hiện chiến đấu. có cả vũ khí lần đầu tiên xuất hiện ở chiến trường. Đó là A.72, còn có tên gọi là “tên lửa vác vai” do Liên Xô chi viện. Trung đoàn 141 được tăng cường ba cơ cấu phóng A.72. Buổi chiều, anh em tới Sở chỉ huy Trung đoàn nhận nhiệm vụ và ngay trong đêm đưa ra khu vực tây Tàu Ô. Sáng hôm sau, toàn mặt trận chờ máy bay Mỹ từ sân bay Tân Sơn Nhất hoặc sân bay Biên Hòa lên để xem kết quả chiến đấu của “tên lửa vác vai”.

Khoảng 9 giờ, xuất hiện 2 tốp máy bay A37 của ngụy lên đánh phá vào các chốt của ta trên đường 13. Ngay loạt đầu ở trận địa phòng không khu vực Tàu Ô chỉ với hai cơ cấu phòng không, ta đã bắn rơi 2 chiếc máy bay A37 của Mỹ. Nhìn thấy máy bay rơi tại chỗ, tinh thần chiến đấu của chiến sĩ bộ binh được kích thích cao độ. Nhưng đây là loại tên lửa nhiệt, bắn đuổi là chính và yếu tố bất ngờ cũng không được lâu. Chỉ 3-5 ngày sau, không quân ngụy Sài Gòn đã tìm cách khắc phục. Mỗi khi lên đánh bom vào trận địa ta, chúng thường dùng máy bay đến thả dù pháo sáng trước, sau đó các tốp đánh bom mới tới thả bom. Lúc này ta có phóng A.72 lên thì tia nhiệt hướng quả đạn vào các dù pháo sáng nhiều hơn là hướng vào đuôi máy bay phản lực. Cách thay đổi đó đã phần nào hạn chế được hiệu quả của loại vũ khí này.

Loại vũ khí mới nữa là tên lửa chống tăng B.72, dùng bắn xe tăng, xe thiết giáp. Đây là loại vũ khí gây bất ngờ cho địch. Khi xe tăng thiết giáp ngụy cùng bộ binh triển khai đội hình, vào đúng tầm bắn, anh em bấm nút bắn những quả tên lửa có dây điều khiển tới đúng mục tiêu làm cho xe thiết giáp của địch bốc cháy. Bộ đội trong trận địa đứng cả dậy tận mắt nhìn những chiếc xe địch bốc cháy bằng vũ khí mới của ta. Có những lúc vị trí trận địa quá thấp không thể đặt B.72 để bắn được, Sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy lệnh cho Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối:

- Anh phải đưa B.72 treo lên cây mà bắn.

Đây là mệnh lệnh táo bạo của người chỉ huy. Để bắn tên lửa có điều khiển này, người điều khiển phải quan sát được mục tiêu để đưa quả tên lửa tới. Cũng như tên lửa A.72 sau một thời gian, quân địch thiết kế một hàng rào lưới B.40 gắn ở phía trước và hai bên sườn của xe mỗi khi đưa xe lên chiến đấu. Đạn B.72 gặp lưới B.40 thì dừng lại không nổ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, ta chuyển không đánh chính diện mà bắn bên sườn và phía sau xe. Cách đánh này rất có kết quả.

Sau một thời gian sử dụng bộ binh và xe tăng thiết giáp tiến lên theo đường 13 không thành công, Bộ tổng tham mưu ngụy buộc phải điều sư đoàn dù từ Tây Nguyên về giải tỏa thị xã Bình Long. Trước tiên chúng dùng một tiểu đoàn đổ xuống khu vực cách đông đường 13. Sau khi hỏa lực dọn bãi, chúng đổ cách vị trí sở chỉ huy của Tiểu đoàn 2 chỗ đồng chí Tiểu đoàn trưởng Bế Ích Quân và đồng chí Chính trị viên Nguyễn Văn Đình khoảng 500 mét. Khi địch đổ quân vừa xong cũng là lúc Tiểu đoàn 2 tập trung lực lượng tập kích ngay và tiêu diệt được một bộ phận, bọn còn lại chạy dạt về hướng đông chờ chi viện.

Trong khi thị xã Bình Long có nguy cơ bị Quân giải phóng đánh chiếm, đường 13 lại bị chặn ở khu vực Tàu Ô cho nên quân ngụy đã điều một tiểu đoàn dù đổ bộ xuống khu vực Tân Khai kết hợp với lực lượng đã đổ ở Núi Gió để đánh vào nam và đông nam thị xã Bình Long. Trung đoàn 141 được lệnh cơ động lên cùng Sư đoàn 5 thực hành tiến công tiêu diệt lực lượng dù ở Núi Gió. Sau hai ngày đêm chiến đấu, phần lớn lực lượng dù bị tiêu diệt, số còn lại phải rời về phía sau để củng cố. Ý định chi viện giải tỏa cho Bình Long của địch bị phá sản.

Tại Sở chỉ huy của Trung đoàn 141 ở rừng cao su khu vực phía đông ấp Long Vinh – Đức Vinh – Tân Khai, một buổi chiều, anh em đại đội 16 cối 82mm báo cáo về có một lực lượng lính dù đang tới gần trận địa. Trung đoàn lệnh cho Đại đội 16 triển khai chặn đánh. Đơn vị triển khai trận địa vừa xong thì những tên đi đầu đã giơ tay hàng. Đây là trung đội dù đầu tiên ra hàng Quân giải phóng.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:23:46 am
Trong số những tên ra hàng có thiếu úy trung đội trưởng Nguyễn Phúc Hải. Sau khi thực hiện mọi chính sách đối với hàng binh, Trung đoàn bàn giao cho cấp trên đưa về phía sau để khai thác. Lính dù trong những năm đó là con cưng số một của quân lực Việt Nam cộng hòa nhưng khi vào chiến trường đường 13 Tàu Ô – Bình Long đã có biểu hiện đầu hàng tập thể chứng tỏ tinh thần chiến đấu của quân đội ngụy xuống cấp rất nhiều.

Sau khi tham gia đánh địch ở Núi Gió, Trung đoàn lại cơ động về khu vực trận địa phòng ngự phía bắc Tàu Ô, tiếp tục làm nhiệm vụ ngăn chặn địch ở đây. Càng ngày cuộc chiến đấu càng phức tạp. Địch điều Sư đoàn 9 bộ binh, sư đoàn 25 bộ binh, thiết đoàn 15 xe tăng thiết giáp từ đồng bằng sông Cửu Long cơ động lên để đột phá khu vực Tàu Ô. Nhưng với sự chiến đấu kiên cường của các Trung đoàn 141, 165, 209, chúng vẫn không thể vượt qua được. Trong những trận chiến đấu, giằng co với địch, có lúc chúng chiếm được một chốt, hai chốt của ta rồi anh em lại tổ chức đánh chiếm lại.

Với nhiệm vụ đảm bảo quân số duy trì sức chiến đấu cho các đơn vị được liên tục, Tiểu ban quân lực chúng tôi phải thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình, tổn thất về người và trang bị của từng đơn vị, củ động báo cáo,đề nghị bổ sung quân số, trang bị cho kịp thời. Những lần đó anh em tân binh quê ở miền Bắc vào chỉ nhận qua số sách rồi biên chế xuống từng đại đội. Có những đồng chí về đơn vị chưa biết mặt trung đội trưởng hoặc văn thư đại đội chưa kịp ghi tên trong sổ quân nhân ngày hôm sau đã hy sinh rồi. Tôi nhớ cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nga “Tên anh chưa có trong danh sách” đã viết rất hay về sự hy sinh của những người lính mới về đơn vị trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Cuộc chiến đấu ở Tàu Ô rất ác liệt và mức độ hy sinh tổn thất rất lớn. Buổi sáng, anh em ở chốt ra đo chiều sâu của những hố do pháo khoan mà ban đêm địch bắn vào trận địa, có hố sâu hơn 2 mét. Nhiều quả pháo bắn sập hầm ẩn nấp của bộ đội, bộ đội phải thường xuyên đào bới cứu chữa, đưa thương binh, tử sĩ về phía sau.

Mức độ ác liệt không chỉ diễn ra ở trên chốt mà khắp toàn bộ trận địa chiến đấu của Trung đoàn. Tiểu ban quân lực của tôi ở tại vị trí sở chỉ huy Trung đoàn cách Tàu Ô khoảng 5km. Tại đây, chúng tôi làm việc trong hầm tác chiến của Trung đoàn (hầm này dành cho cơ quan Ban tham mưu), nơi nhận các chỉ thị từ trên xuống, các báo cáo ở các đơn vị về để tổng hợp báo cáo cho Trung đoàn trưởng xử lý. Hàng ngày, chúng tôi theo dõi nắm tình hình tổn thất thương vong của từng đơn vị để đề nghị điều chỉnh bổ sung con người cũng như cơ sở vật chất súng đạn cho các phân đội trước khi trời sáng. Một buổi chiều, có đoàn hậu cần chở hàng từ biên giới Campuchia xuống. Tôi gặp anh Phạm Thái Mười – Trưởng tiểu ban tài chính, anh nói:

- Có mang xuống được mấy con gà.

Tôi bảo:

- Anh để lại cho chúng tôi một con để buổi tối nấu cháo.

Trong hầm tác chiến có anh Tư Tuân, trợ lý tác chiến rất vui vẻ, người liên tục có 22 giờ nồi cháo gà đã chín. Trước khi ăn tôi nỏi:

- Có thủ trưởng Nguyễn Hải Bằng, Sư đoàn phó đang xuống chỉ đạo Trung đoàn, để tôi sang mời thủ trưởng qua cùng ăn.

Lần thứ nhất mời thủ trưởng không sang, lần thứ hai tôi xuống tận hầm mời, dắt tay, thủ trưởng mới chịu sang. Khi chúng tôi vừa xuống hầm tác chiến cũng là lúc pháo binh địch ở Chơn Thành, Lai Khê bắn liên tục vào sở chỉ huy. Một quả pháo bắn trúng vào hầm của đồng chí Nguyễn Hải Bằng. Người còn lại ở hầm đó là chiến sĩ liên lạc tên Hưng bị thương ở bẹn (hiện nay đồng chí Hưng đã về công tác ở địa phương Nam Trực, Nam Định).

Cuộc chiến đấu chốt chặn ở Tàu Ô kéo dài liên tục trong 156 ngày đêm. Con đường 13 trở thành “con đường máu lửa”, con đường của những chiến công của Quân giải phóng. Kết quả hoạt động của Sư đoàn 7 nói chung, của Trung đoàn 141 nói riêng trong thời gian ấy đã góp phần không nhỏ vào việc giữ vững một vùng giải phóng rộng lớn ở bắc Bình Long, căn cứ của Trung ương Cục miền Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Miền. Chiến thắng đường 13 đã ngăn chặn không cho một tên địch, một xe tăng nào có thể vượt qua chốt Tàu Ô lên chi viện cho căn cứ Bình Long, nơi Sư đoàn 9 Quân giải phóng đang chiến đấu giải phóng thị xã Hớn Quản. Đúng như tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn đã thú nhận: “Trận đánh ở đường 13 chứng minh sự bất lực của quân đội Sài Gòn với hỏa lực của không quân Mỹ”.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:25:15 am
*
*   *

Tháng 9 năm 1972, Trung đoàn 141 được lệnh chuyển sang hoạt động ở khu vực bắc Thủ Dầu Một (Bình Dương). Trung đoàn tổ chức vượt đường 13 từ khu vực căn cứ Lông Mễn, lộ Cây Trường ở tây nam Chơn Thành sang phía đông đường. Sau khi trinh sát bám sát lộ, đội hình Trung đoàn bộ bắt đầu cơ động từ lúc 18 giờ. Đi vừa được 30 phút, cụm pháo của địch ở Bàu Bàng bắn phá liên tục vào khu vực Lông Mễn. Một quả pháo xẹt xẹt xé không khí rồi nổ ngay đội hình tôi đang đi. Anh Phạm Văn Trùy – Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn đi trước tôi, anh Nhĩ y sĩ và đồng chí Lương đi sau hy sinh, đồng chí Lê Hữu Thắng đi sát tôi bị thương vào mông. Tôi may mắn còn nguyên vẹn, kịp kéo anh Thắng xuống hầm chiến đấu băng bó. Trung đoàn tổ chức mai táng cho các đồng chí hy sinh, chuyển thương binh về phía sau rồi lại tiếp tục hành quân.

Chúng tôi về Bình Mỹ, Bình Cơ, Bố Lá thuộc huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương. Đây là địa bàn trung du giáp thành phố, các rừng non mới tái sinh lại sau những đợt dội bom B52 và rải chất độc hóa học trong những năm 1966, 1967, 1968. Mặt trận chống bình định, giành dân lúc này rất quan trọng. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối, Trung đoàn 141 chuyển sang thực hiện nhiệm vụ đánh phá các ấp chiến lược, làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh du kích ở địa phương. Chúng tôi xây dựng sở chỉ huy ở nhiều căn cứ, lúc thì ở Chánh Lưu, lúc thì ở cầu Thơ Út (gần khu trù mật Tân Phước Khánh), lúc lại về khu vực lộ Phú Hưng. Bọn lính ngụy kiểm soát ban ngày rất chặt chẽ, phát hiện nơi có Quân giải phóng, chúng đổ quân xuống những cánh đồng, những trảng trống để đối phó. Đồng chí Tý – Đại đội phó Đại đội trinh sát đã hy sinh trong trường hợp như vậy.

Một đêm ở sở chỉ huy Trung đoàn gần cầu Thơ Út, tôi bị đau bụng dữ dội. Đồng chí y sĩ của Trung đoàn bộ khám, cho uống thuốc giảm đau. Nhưng cuối cùng đau quá, đồng chí Tham mưu trưởng Trung đoàn Trần Xuân Ban cử bốn đồng chí (Lê Hữu Thắng trợ lý quân lực, Bùi Hữu Lũng nhân viên bảo mật và hai chiến sĩ vệ binh) càng tôi về bệnh xá của Trung đoàn cách sở chỉ khuy khoảng 10km. Về tới bệnh xã, các bác sĩ trực khám, kết luận tôi bị viêm ruột thừa và quyết định mổ ngay trong đêm. “Phòng mổ” của bệnh xá rất đơn giản, được bố trí trong hầm thùng không có nắp. Đồng chí Toàn y tá phụ trách dụng cụ mổ hôm đó đi hộ tống thương binh nên không có mặt. Lúc mổ chủ yếu gây tê tại chỗ, tôi vừa nằm chịu mồ vừa nói chuyện với các y bác sĩ. Khi mổ xong hết thuốc tê, mới cảm thấy đau đớn. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai vẫn cứ sốt liên miên, cơn sốt cao lên tới 40, 41 độ. Các bác sĩ chẩn đoán hay là còn gạc ở trong đó, sao lại nhiễm trùng cao như vậy? Nếu quên gạc chỉ còn cách mổ lại. Tôi nằm bên trong hầm nghe thấy vậy vô cùng lo lắng. Nhưng đồng chí Thu – Chủ nhiệm Quân y lúc đó chỉ đạo cứ điều trị kháng sinh liều cao khoảng hai, ba ngày nữa xem thế nào rồi tính sau. Quả là sau đó tình hình khá hơn, tôi giảm sốt và dần phục hồi sức khỏe.

Sau khi tôi mổ được ba ngày, người trực tiếp mổ cho tôi là bác sĩ Hưng quê Long An ra chiêu hồi ở khu trù mật Tân Phước Khánh. Ngày hôm sau từ khu trù mật Tân Phước Khánh, địch đưa một đại đội đi càn quét đánh vào khu bệnh xá của chúng tôi. Khi ra khỏi khu trù mật Tân Phước Khánh, đến cánh đồng thì chúng dừng lại dùng súng AR15 bắn chỉ thiên rất nhiều. Tốp đi đầu còn cách mép rừng của bệnh xá khoảng 500 mét thì dừng lại. Trong bệnh xá, lúc này cán bộ, chiến sĩ đến triển khai ra giao thông hào sát mép rừng để sẵn sàng chiến đấu, tất cả hết sức bí mật, không được nổ súng trước. Tôi cũng được trang bị một khẩu súng AK ra nằm sát giao thông hào mặc dù vết mổ còn rất đau và cơ thể đang sốt rất cao. Một tình huống xảy ra là bọn địch chỉ tiến vào cách chúng tôi chừng hơn 300 mét, rồi dừng lại bắn liên tục, nhiều loạt súng chỉ thiên, sau đó chúng không tiến thêm nữa mà quay về khu trù mật. Tôi nói với anh em:

- Có lẽ quân ngụy không muốn đánh nhau với Việt Cộng nữa rồi!

Sau đó một tuần, tôi được cắt chỉ và trở lại Trung đoàn. Buổi sáng về đến nơi thì buổi chiều (khoảng 15 giờ), đồng chí Nguyễn Tư Duy trinh sát kỹ thuật nhận được tin 23 giờ đêm nay địch sẽ dùng B52 dội bom xuống khu vực cầu Thơ Út. Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối nhất trí với đề xuất của Tham mưu trưởng Trần Xuân Ban để một tổ thông tin, một tổ trinh sát, tổ vệ binh ở lại cùng Tham mưu trưởng, còn tất cả khẩn trương, bí mật chuyển về vị trí sở chỉ huy dự bị ở tây bắc Chánh Lưu. Đây là một tình huống rất đặc biệt. Người thì cơ động để tránh B52, người thì ở lại giữ căn cứ sẵn sàng đội bom rải thảm. trong lúc chia tay đồng chí Tham mưu trưởng ở lại, ai cũng có tâm trạng, cái bắt tay như buổi chia ly không có ngày gặp lại. Với khuôn mặt cương nghị và vững vàng, đồng chí Tham mưu trưởng nói:

- Các đồng chí cứ về bên đó, căn cứ này chúng tôi sẽ giữ vững, sẵn sàng đón các đồng chí trở lại đây để tiếp tục chỉ huy chiến đấu.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:26:53 am
Đêm hôm đó, ba tốp B52 của Mỹ dội bom xuống đúng vị trí. Rạng sáng hôm sau, tôi cùng một số anh em được phái trở lại, nhìn lõm rừng chồi xa xác đất đá, cây cỏ bị cày xới lởm chởm tưởng chừng như không ai còn sốt sót. Đến nơi nhìn thấy Tham mưu trưởng. Chỉ mới sau một đêm, trông anh như già đi mấy tuổi. Anh bùi ngùi kể:

- Hầm mình trú bị sập một góc do trúng một quả bom ở đợt đầu, mình bị sức ép sơ thôi, sau đó mấy anh em nhảy xuống nép người vào góc bố bom khét lẹt chờ những loạt tiếp theo.

Anh chỉ cho chúng tôi bới hố bom bên cạnh để tìm lượm từng phần thi thể của ba đồng chí hy sinh và đưa một đồng chí bị thương về trạm phẫu Trung đoàn.

Trong lúc Trung đoàn 141 đang tập trung đánh địch ở khu vực đông bắc căn cứ Phú Lơi, từ căn cứ Lai Khê, sư đoàn bộ binh 5 ngụy cho chiến đoàn 8 (thiếu 1 tiểu đoàn) hành quân ra khu vưc Bến Tranh, Rạch Bắp, Bến Súc, Thanh An hướng tới làng 13 Dầu Tiếng để mở rộng địa bàn lấn chiếm khu vực tây đường 13. Sư đoàn trưởng Lê Nam Phong lệnh cho Trung đoàn 141, lực lượng chủ yếu của sư đoàn, cơ động sang cùng Trung đoàn 290 làm nhiệm vụ bao vây tiến công tiêu diệt chiến đoàn này. Lúc này, tôi đã tương đối khỏe nên được đi cùng sở chỉ huy Trung đoàn đến địa bàn chiến đấu mới.

Chiến đoàn 8 đi đến đâu được hỏa lực, pháo binh, không quân địch chi viện đến đó. Chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân mở rộng địa bàn lấn chiếm, nối liền Lai Khê với vùng cao su Dầu Tiếng. từ ngày 10 tháng 1 năm 1973, Trung đoàn 141 cùng các lực lượng của Sư đoàn thực hiện bao vây ngăn chặn, làm chậm khả năng cơ động của chiến đoàn 8. Địch đi đến đâu, các lực lượng của Sư đoàn 7 chặn đến đó, không cho địch phát triển được vào khu vực lộ 48 rừng cao su Dầu Tiếng. Sức cơ động của chúng đã bị sứt mẻ và suy yếu dần. Cuộc chặn đánh ngày 19 tháng 1 là trận đánh quyết định nhất của Trung đoàn 141 và Trung đoàn 209. Đêm 18-1-1973, theo lệnh của Sư đoàn trưởng Lê Nam Phong, dưới sự điều hành của Tham mưu trưởng Sư đoàn Đỗ Mạnh Thứ, hai trung đoàn trưởng (Nguyễn Văn Lối – Trung đoàn 141 và Vũ Việt Hồng – Trung đoàn 209) chỉ huy hai đơn vị phải có mặt ở lộ 6 Chéo (mép rừng cao su Dầu Tiếng, nơi đang có một đại đội của Sư đoàn làm nhiệm vụ chốt chặn) để hiệp đồng chiến đấu, với yêu cầu không cho một tên địch nào vượt qua được vào rừng cao su cũng như không cho chúng chạy về Lai Khê. Ngày 10-1-1973, cuộc tấn công tiêu diệt chiến đoàn 8 (thiếu) diễn ra theo đúng kế hoạch. Trận đánh kéo dài từ 8 giờ sáng đến 14 giờ chiều. Tin chiến thắng từ các đơn vị liên tục báo về sở chỉ huy Trung đoàn. Khoảng 1 giờ chiều, đồng chí Nguyễn Tư Duy phụ trách trinh sát kỹ thuật báo cáo với Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối:

- Tên chiến đoàn trưởng chiến đoàn 8 đi trên trực thăng báo cáo về sở chỉ huy sư đoàn 5 ngụy: Thế là hết tất cả rồi, hãy làm cơm để cúng cho chúng nó.

Các đơn vị của Sư đoàn 7 đã đánh một trận tiêu diệt gọn chiến đoàn 8 thiếu. Súng đạn chúng ta thu được rất nhiều. Xác lính ngụy thương vong nằm ngổn ngang trên các rừng chồi. Tù, hàng binh rồng rắn hành quân về nơi quy định. Đây là chiến công đầu tiên đánh cấp sư đoàn vận động tiến công kết hợp với chốt để tiêu diệt chiến đoàn 8 (thiếu) ở khu vực rừng cao su Dầu Tiếng, góp phần làm suy yếu một lực lượng quan trọng của sư đoàn 5 chủ lực ở phía bắc Sài Gòn của quân đội ngụy. Đây là trận đánh có hiệu suất cao nhất, thể hiện tính kiên quyết, sáng tạo của người chỉ huy trong việc chọn lựa địa hình, hiệp đồng tiến công tạo thế chia cắt giữa phía trước là chiến đoàn 8 với phía sau là hậu cứ sư đoàn 5 của địch ở Lai Khê. Tinh thần chiến đấu và ý thức chấp hành kỷ luật của các đơn vị rất cao.

Lúc này vết mổ của tôi chưa được lành hẳn. Không hiểu sao cắt chỉ rồi mà nước vàng vẫn còn rỉ ra mãi, mỗi lần tắm phải bịt lại để không cho nước thấm vào. Trong vòng một tháng, ngày nào các đồng chí y tá thay băng cũng phải rửa cho tôi. Có một hôm, đồng chí y tá Nguyễn Hải Đảo (sau này là bác sĩ, đã mất tháng 12-1998) nói:

- Anh cho em mổ rạch nó ra xem ở đó có cái gì mà lâu khỏi thế?

Tôi đồng ý. Đồng chí Đảo lấy lưỡi lam cho vào nước sôi sát trùng xong rạch ra. Tại lỗ rò, có thêm một sợi chỉ không tiêu nằm ở đó, rút ra, ngày hôm sau thì khỏi hẳn.

Sau chiến thắng tiêu diệt chiến đoàn 8 (thiếu), sư đoàn 5 ngụy ở khu vực đông Dầu Tiếng của Sư đoàn 7 khoảng hơn một tuần, tại Pari, ngày 27-1-1973, Hiệp định đình chiến, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Khi nghe thông báo kết quả của Hiệp định, chúng tôi rất phấn khởi và nghĩ rằng hòa bình sắp đến. Thế nhưng, Hiệp định ký chưa ráo mực, Nguyễn Văn Thiệu xua quân đi lấn chiếm. Những vụ tranh chấp, đụng độ, thường xuyên xảy ra ở các khu vực giữa đồn bốt của ngụy với nhân dân ở vùng giải phóng kế cận. Có nơi chúng tổ chức lực lượng cấp trung đoàn, sư đoàn hành quân ra chiếm đóng một vùng giải phóng rộng lớn của ta. Lúc đầu ta có bị động, sau đó, từng bước giành thế chủ động đấu tranh đánh trả buộc chúng phải thi hành các nội dung của Hiệp định đã được ký kết.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 08:28:07 am
*
*   *

Đầu tháng 4-1973, tôi được cấp trên điều động lên làm Trợ lý quân lực của Sư đoàn. Sau khi bàn giao mọi công việc của Trưởng tiểu ban quân lực Trung đoàn cho đồng chí Phạm Ngọc Hải, tôi lên Sở chỉ huy Sư đoàn lúc này ở khu vực hai bên bờ suối Thôn, giáp vùng Sông Bé ở hướng đông bắc của huyện Chơn Thành. Sở chỉ huy được xây dựng rất khang trang, nhà lá, đường đi lại dưới tán cây rất đẹp và mát mẻ. Khu vực này khá bí mật, mặc dù ở lâu nhưng không quân, thám báo biệt kích của địch cũng không phát hiện được. Ban quân lực Sư đoàn do đồng chí Nguyễn Đăng Khoa, quê Vĩnh Phúc làm Trưởng ban (anh Khoa nguyên là Trưởng tiểu ban quân lực của Trung đoàn 141 cùng đi B với chúng tôi vào chiến trường, đồng chí Phạm Thiện là phó ban, đồng chí Nguyễn Đình Bảng và đồng chí Nguyễn Văn Nam (quê Hải Dương) phụ trách quân số. Tôi được Ban phân công phụ trách về trang bị, đảm bảo súng đạn thường xuyên đủ và có dự trữ phục vụ cho tác chiến của Sư đoàn. Ở cùng với bộ phận tôi có anh Nguyễn Văn Chiến là trợ lý thống kê, anh Dương Bình trợ lý trang bị. Trong Ban có 15 đồng chí, tổ chức thành một chi bộ và một bếp ăn riêng. Lúc này, vùng giải phóng đã phát triển. Tuy ở trong rừng nhưng các bộ phận của cơ quan Sư đoàn bộ đều có chăn nuôi gà, heo. Sư đoàn phát động phong trào 4 tốt: “Đánh giặc tốt, huấn luyện và kỷ luật tốt, thể dục thể thao tốt, tăng gia sản xuất văn hóa văn nghệ tốt”. Sở chỉ huy có sân bóng chuyền và tôi cũng là một trong những thành phần trong đội bóng chuyền của Phòng Tham mưu Sư đoàn.

Buổi chiều một ngày đầu mùa mưa năm 1973, tại sở chỉ huy Sư đoàn, tôi nhận được thư của gia đình gửi vào theo đường giao liên. Mở thư xem, bố mẹ vẫn mạnh khỏe, cô em gái đã xây dựng gia đình. Cả buổi tối nằm mà không tài nào ngủ được, nước mắt cứ lưng tròng. Tuy rằng cô em đã xây dựng gia đình với người chồng ở ngay sát nhà tôi nhưng nghĩ cảnh bộ mẹ già, người nấu cơm, người dọn cơm, người rả bát thay nhau trong mỗi buổi sáng, trưa, chiều. Tôi vừa mừng cho em gái đã trưởng thành, vừa vô cùng thương bố, thương mẹ.

Do mỗi lần tôi được ngồi trực chiến ở hầm tác chiến của Trung đoàn, Sư đoàn, tôi luôn quan sát và học tập các đồng chí trợ lý tác chiến làm nhiệm vụ trực chiến sau đó dùng bút chì màu xanh, màu đỏ thể hiện những khu vực dự kiến địch đổ bộ rồi vẽ vòng vèo dự kiến đường cơ động của địch, vẽ những hướng, mũi quân ta tiến công theo ký hiệu quân sự quy định. Cứ vẽ miết như thế bằng hai bút chì mỡ trên giấy bóng kính thấy nó cũng gọn nét, sạch sẽ dễ coi và khẩu khí cũng có gì mang nét chỉ huy. Có lần trong một buổi giao ban của Bộ chỉ huy Sư đoàn, đồng chí Hùng – Trưởng ban tác chiến bảo:

- Lợi ơi mày chuyển nghề đi, bỏ nghề “phóng văn lình” qua nghề tác chiến chỉ huy (ý anh cho nhiệm vụ chuyên môn của tôi là nghề lính văn phòng).

Tin này đến tai Sư đoàn trưởng Lê Nam Phong. Sư trưởng theo dõi và giúp đỡ tôi từ đó. Tuy tôi làm trợ lý quân lực nhưng cuối năm 1973 khi chuẩn bị xuống hoạt động ở vùng bắc Bình Dương, Tân Uyên, núi Bà Cẩm, trong một lần đi trinh sát trận địa, đồng chí gọi tôi đi cùng với nhiệm vụ vừa làm trợ lý quân lực vừa làm việc như một trợ lý tác chiến. Khu vực Bình Cơ, Bình Mỹ là nơi mà những năm 1968-1969, Trung đoàn hoạt động ở đó nên tôi rất thuộc địa hình. Sau khi trinh sát về, Sư đoàn tổ chức cho Trung đoàn 165 xuống tác chiến ở khu vực núi Bà Cẩm. Một buổi chiều tháng 11 năm 1974, Sư đoàn trưởng gọi tôi lên và căn dặn:

- Lợi chuẩn bị ra Bắc đi học về làm chỉ huy và có điều kiện thăm gia đình, nhớ công tác và học tập cho tốt.

Lời căn dặn của thủ trưởng tôi còn nhớ mãi trong trí óc của mình. Tôi nghĩ đây là sự quan tâm của Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Sư đoàn, đó là phần thường cho quá trình phấn đấu công tác, chiến đấu ở cơ sở cũng như khi làm công tác chuyên môn ở cơ quan tham mưu Trung đoàn 141 và Phòng Tham mưu Sư đoàn 7.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:29:38 am
Chương ba

TRỞ LẠI HẬU PHƯƠNG

Trước những năm 1950, bố mẹ tôi sinh sống ở thôn Đông Hối, xã Tân Hương. Sau năm 1950, gia đình chuyển vào thôn Đan Bối, xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Nơi chôn rau cắt rốn và gắn bó với tôi suốt quãng đời thơ ấu là một vùng nông thôn nghèo khó và cũng chính từ vùng quê ấy tôi bước vào đời quân ngũ. Có thể tóm tắt qua mấy câu thơ như sau:

Năm 47 nước nhà nguy biến
Mẹ sinh con, Pháp tái chiếm lần hai
Gia tài nhẹ gánh trên vai bố
Mẹ bồng con vô tổng Ninh Thành
Điện Biên kết thúc chiến tranh
Pháp về nước Pháp, con được học hành như ai
Tuổi mười tám sức trai cường tráng
Đời nghiệp binh con theo Đảng từ đây


Hải Dương là một tỉnh đông dân, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, nơi có nhiều chiến công oanh liệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Xưa có Trần Hưng Đạo ba lần thắng quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng và trên dãy núi vòng cung Đông Triều kéo xuống huyện Kinh Môn. Tại núi An Phụ, có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu (thân phục của Trần Hưng Đạo) và tượng Trần Hưng Đạo. Mùa thu năm 2000, nhân một dịp về thăm quê, tôi được đồng chí Nguyễn Văn Chiền, ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương (nay là Chánh Văn phòng Chủ tịch nước) đưa đi viếng Đức Thánh Trần. Một vùng đồi trung du đẹp như tranh vẽ. Dãy núi vòng cung An Phụ được phủ xanh bằng rừng bạch đàn, chân núi là cánh đồng lúa đang thì con gái, trên đỉnh núi, phía trước đền thờ, giếng nước trong vắt quanh năm, tất cả tạo nên một không khí trang nghiêm và huyền bí lạ thường. Trên đường ra về, ngồi trên xe, tôi hỏi mượn anh Chiền cái bút để làm mấy câu thơ. Anh đưa bút cho tôi, miệng mỉm cười tưởng tôi nói chơi. Về đến nhà khách Tỉnh ủy, tôi đọc cho mọi người nghe mấy câu thơ vừa sáng tác:

Hải Dương đắc địa linh, nhân, kiệt
Tiết thu văn cảnh viếng hùng anh
Trái thơm lòng kính thắp hương Người
Thượng sơn An Phụ thờ Thánh Thượng
Ngang sơn tượng Thánh đứng giữa trời
Oai phong danh tiếng để lại đời
Nguyên Mông tan tác ba lần bại
Rạng rỡ sơn hà Đại Việt ta.


Sâu xuống xã Hưng Đạo – Chí Linh có đền Kiếp Bạc – thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo và cả gia quyến tại đây. Đi qua xã Cộng Hòa – Chí Linh có đền Côn Sơn thờ Nguyễn Trãi. Xa hơn nữa có đền thờ Khúc Thừa Dụ, ông vua đầu tiên của dân tộc ta. Đền được xây dựng tại làng Cúc Bồ, xã Hồng Phong, huyện Ninh Giang, rất hoành tráng, ghi công lao của ông trong thời kỳ đầu dựng nước, giữ nước, đánh đuổi ách đô hộ của phương Bắc, lập nên nhà nước độc lập tự chủ đầu tiên.

Trong những năm đánh Pháp, tiếng súng đường 5 như một phong trào “Đồng khởi” của nhân dân Hải Dương. Ngày 10-10-1954, Hải Dương được giải phóng, là ngày truyền thống hàng năm của tỉnh.

Bên cạnh truyền thống đấu tranh cách mạng, Hải Dương còn nổi tiếng là một tỉnh đồng bằng trù phú với nhiều thế mạnh, trong đó có vải thiều và bánh đậu xanh đã trở thành một thương hiệu:

Hè về vải trĩu tình thêm đậm
Quanh năm bánh đậu ngọt muôn quê


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:30:36 am
Huyện Ninh Giang quê tôi là vùng chiêm trũng, nông nghiệp thuần phác, có bánh gai nổi tiếng. Người dân Ninh Giang ở vùng đồng bằng chiêm trũng, hàng năm thường có bão lụt nên cuộc sống rất khó khăn. Tuy nhiên truyền thống cách mạng thì nhân dân Ninh Giang lúc nào cũng có. Nhiều xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong thời kỳ hòa bình xây dựng, mặc dù đã có đường lối đổi mới của Đảng nhưng các khu công nghiệp ở quê tôi chưa được phát triển. Mạng lưới đường sá giao thông còn yếu chưa thể phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống của nhân dân tuy có khá hơn trước nhưng so với các huyện khác trong tỉnh thì vẫn còn kém.

Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, cuộc sống chính vẫn dựa vào đồng ruộng. Thời gian rảnh rỗi người dân quê tôi thường buôn bán thêm. Tân Hưng và Ninh Thành cũng ra nơi sản sinh ra nhiều chiến sĩ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Khi vào thôn Đan Bối, xã Ninh Thành sinh sống, gia đình vẫn làm nghề nông là chủ yếu, nhưng trên mảnh đất mới, mẹ tôi có thể buôn bán thêm dễ dàng hơn. Bố tôi là một nông dân, sinh ra trong gia đình có bốn anh chị em. Vốn lao động nên bố khỏe mạnh. Bố tôi tham gia du kích trong kháng chiến chống Pháp được ba năm, còn lại chủ yếu ở nhà cùng mẹ tôi để buôn bán làm ăn và nuôi hai anh em tôi. Tôi là con trai cả trong nhà. Dưới tôi còn có cô em gái út tên là Đào Thị Gái, sinh năm 1955, kém tôi 8 tuổi. Bố tôi là người cương trực, tính tình nóng nảy thẳng thắn, văn hóa chỉ dừng lại ở việc biết đọc, biết viết. Mẹ tôi vốn mắt kém từ lúc còn bé cho nên các việc làm trong gia đình từ nặng đến nhẹ thường đo bố tôi đảm nhiệm, còn mẹ tôi đi lại làm ăn ngoài chợ là chủ yếu. Mẹ không biết một chữ nào, nhưng có trí nhớ rất tốt, tính nhẩm bằng miệng nhanh cho nên mẹ dạy chúng tôi phép toán cộng, trừ, nhân, chia từ rất sớm. Chúng tôi cũng nhanh chóng được học các phép tính đơn giản và thừa hưởng từ mẹ cách tư duy nhanh nhạy đó.

Tuy gia đình tôi rất nghèo, cuộc sống quanh năm chỉ lo sao có đủ cơm ăn ngày hai bữa, nhưng bố mẹ tôi luôn cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để anh em chúng tôi được học hành nên người. Những năm sau hòa bình lập lại ở miền Bắc, các trường học còn rất ít. Khó khăn như vậy nhưng bố mẹ tôi vẫn mời một thầy giáo về lại làng để dạy cho bốn em trong xóm, trong đó có tôi. Nhờ vậy, tôi được học hành rất cơ bản từ những nét chữ đầu tiên cho đến các phép tính toán phức tạp. Có thể so với chương trình trong sách giáo khoa thì không bằng nhưng tôi đã là may mắn lắm rồi. Tôi được học như vậy cho đến lớp hai. Nhờ sự chỉ bảo tận tình của thầy cùng với sự sáng dạ vốn có anh em chúng tôi đều viết chữ rất đẹp, ngay hàng thẳng lối. Sau đó, khoảng những năm 1958-1960, tôi được học tiếp ở một trường tư thục khu chợ Hôm, tại nhà bà Cai Vát xã Tân Hương. Mang tiếng là trường nhưng thực tế chỉ có khoảng 15 đến 17 học trò lớn bé. Các thầy giáo tôi còn nhớ có thầy Quỳnh người ở Hà Nôi, thầy Trình là người ở dưới khu Hiệp Lực, huyện Ninh Giang, Hải Dương. Các thầy dạy rất tận tâm và chúng tôi rất chịu khó cho nên kết quả học tập luôn được các thầy đánh giá tương đối tốt. Tôi học cho hết năm lớp bốn, cũng là lúc xã Tân Hưng xây xong trường cấp 1, cấp 2. Từ đó tôi còn trường theo học tiếp cho đến hết những năm cấp 2.

Tôi không thể tiếp tục theo học cấp ba vì hai lý do. Một là hoàn cảnh gia đình lúc này rất khó khăn, bố mẹ chỉ kiếm đủ cơm cho hai anh em tôi ăn; hai là trường cấp ba của huyện quá xa, ở thị trấn Ninh Giang cách nhà tôi bảy cây số đi bộ. Tôi nhớ có những ngày hai anh em ngồi nhà đun nước sôi chờ mẹ đi chợ mua gạo về bỏ vào nồi sao mà mẹ đi lâu về đến thế. Cứ đun cạn hết nồi nước sôi này đến nồi nước sôi khác mà vẫn không thấy bóng dáng mẹ đâu. Những kỷ niệm đó còn mãi mãi trong tâm trí của anh em tôi, nó sinh động và vẫn còn nguyên vẹn như mới vừa diễn ra hôm qua. Mỗi sáng đi học tôi đều được mẹ phần cho bát cơm nguội hoặc củ khoai, củ sắn luộc để lót dạ. Cứ như vậy những năm tháng cấp hai tôi đi bộ hàng ngày khoảng 4 – 5 cây số lượt đi lượt về từ Ninh Thành sang Tân Hương để đi học. Những ngày hè thì không sao, khổ nhất là những ngày đông ở miền Bắc, trời mưa dầm gió bấc rét như cắt da cắt thịt, ngồi trong nhà còn rét co ro huống hồ phải ra đường từ sáng sớm để tới trường còn chân đất và quần áo không đủ ấm. Tới trường anh nào anh nấy chân tay tím tái, hai hàm răng va vào nhau run cầm cập.

Học hết cấp hai, tôi ở nhà, trở thành xã viên hợp tác xã nông nghiệp, hàng ngày đi làm công tính điểm cho hợp tác xã. Điều đó cũng giúp ích được cho bố mẹ tôi, góp phần tạo điều kiện cho cô em gái được đi học (xã Ninh Thành đã có trường học và em gái tôi theo học tại đó).

Bố mẹ tôi tuy nghèo nhưng rất thương người và tôn trọng lẽ phải. Những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc, gia đình tôi luôn đóng góp rất đầy đủ theo quy định của hợp tác xã để chi viện cho chiến trường (lương thực, thực phẩm). Trường cấp 1, cấp 2 của xã bị bom Mỹ đánh phá, bố mẹ tôi đã cho xã mượn đất vườn của nhà để làm trường học, đồng thời nhận ba thầy giáo: thầy Thang, thầy Ngân, và gia đình thầy Lại ở thị trấn Ninh Giang về sơ tán ở cùng nhà. Trong thôn xóm gia đình nào gặp khó khăn, bố mẹ tôi đều giúp đỡ theo khả năng của mình. Có lẽ tính tình, phong cách của bố mẹ với hoàn cảnh trong gia đình góp phần quan trọng hình thành nên tính cách của tôi sau này.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:33:31 am
*
*   *

Cuối năm 1974, thế và lực của Quân giải phóng miền Nam ngày càng phát triển. Các binh chủng chiến đấu, xe tăng, cơ giới, pháo xe kéo, pháo phòng không được đưa vào chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đường ống dẫn dầu theo dọc trục đường 559 đã vào tới khu vực Lộc Ninh. Khi Quân đoàn 4 chuẩn bị đánh chi khu Đồng Xoài, một lần đi trinh sát, đồng chí Đỗ Mạnh Thứ - Tham mưu trưởng Sư đoàn gọi tôi đi cùng để chuẩn bị đưa đồng chí Hoàng Cầm – Tư lệnh Quân đoàn vào trinh sát. Tôi đến vị trí tập kết chuẩn bị làm nhiệm vụ thì nhận được lệnh của Sư đoàn gọi về để chuẩn bị ra miền Bắc học tập. trên đường từ Đồng Xoài trở về căn cứ của Sư đoàn ở suối Thôn, trong lòng tôi cứ lâng lâng một niềm vui khó tả. Khi về tới sở chỉ huy Sư đoàn, anh em Ban quân lực ai nấy đều bắt tay chúc mừng rồi dặn dò đủ thứ. Trưởng ban Lê Duy Toàn tổ chức bữa cơm liên hoan thân mật và nhắc tôi hoàn tất giấy tờ theo quy định. Cùng đi lớp này có rất nhiều anh em, cán bộ pháo binh, cán bộ chính trị, riêng của Sư đoàn gồm 12 đồng chí. Tôi được chỉ định làm đoàn trưởng trong tốp cán bộ của Sư đoàn 7. Trong buổi liên hoan chia tay, thay mặt cho anh em, tôi hứa với thủ trưởng Sư đoàn là cố gắng học tập, giữ gìn sức khỏe và chấp hành tốt mọi nhiệm vụ sau khi học xong.

Sau buổi liên hoan, Sư đoàn tổ chức đưa chúng tôi lên khu vực tập trung ở Lộc Ninh. Đến đây, có rất nhiều cán bộ ở các đơn vị khác về tập trung, khoảng gần 100 đồng chí, ai cũng tưởng đi luôn, nhưng vì lý do gì đó nên đoàn phải dừng lại đến hết tháng 2, đầu tháng 3 năm 1975 mới chính thức lên đường đi ra Bắc. Trong lúc tập trung chờ đợi ở Lộc Ninh tâm trạng tôi lúc nào cũng chỉ mong sớm được lên đường. Có bao đêm không ngủ được, cứ chợp mặt là hình ảnh quê hương, gia đình, bố mẹ già, em nhỏ lại tái hiện. Cứ nghĩ lúc được gặp mẹ mình phải ôm chầm lấy mẹ, cho mẹ thỏa sức khóc, bõ bao ngày thương nhớ. Thời gian phải chờ đợi lâu ở Lộc Ninh cũng đến tai Sư đoàn. Mặc dù rất bận rộn với chiến dịch đường 14 Phước Long (6-1-1975, giải phóng thị xã Phước Long), nhưng các thủ trưởng của Sư đoàn vẫn cho người tớm thăm động viên, tặng chúng tôi những món quà chiến lợi phẩm tại Phước Long để anh em sử dụng.

Chúng tôi được biên chế thành các bộ phận, mỗi bộ phận từ 15 đến 25 đồng chí để tiện đi trên một xe cơ động ra miền Bắc. Thực sự là ngược đường Trường Sơn rồi. Cảnh hành quân mang vác nặng, đi bộ suốt hơn bốn tháng trời nay đã thành ký ức. Dù chỉ được ngồi trên những chiếc xe tải cũ kỹ song chúng tôi đều rất sung sướng, cứ như sau này trong thập niên 80 được đi máy bay. Quân tư trang được cấp trên bổ sung đầy đủ nhưng khi nghỉ ở trạm giao liên, gặp mấy anh em ở quê hương hành quân vào, sau một hồi nói chuyện, tôi cho gần hết. Trong lòng chỉ muốn sao cho nhẹ nhàng và cơ động nhanh nhất để sớm về quê hương. Hành quân đi ra bằng ô tô cũng có cái rất vất vả. Có chặng đường có thể đi ban ngày nhưng cũng có những chặng phải đi ban đêm. Xe Giải phóng, xe Gát 69 chở vũ khí trang bị thực phẩm vào chiến trường và khi ra thì đưa anh em chúng tôi Xe cũ không kính chiếu hậu, thường có một đèn, thành xe đầy vết đạn và mảnh bom pháo. Đường Trường Sơn do công binh hoặc thanh niên xung phong mở nên rất gồ ghề, xe chạy từ 10 – 20km/h, chạy chậm cũng như khi chạy nhanh lúc nào cũng xóc cứ như đánh vật trên tùng xe. Có lúc xóc quá, anh em trên xe la hét, có người còn nặng lời với đồng chí lái xe. Mỗi chặng hành quân như vậy, đến nơi nghỉ người nào cũng mệt nhoài lăn ra ngủ để lấy sức đi tiếp. Hết chặng này qua chặng khác, càng ngày càng gần vĩ tuyến 17, càng làm anh em phấn chấn, hăng hái và quên hết mệt nhọc. Dọc đường Trường Sơn chúng tôi gặp từng đoàn hậu cần vận chuyển bằng cơ giới đưa lương thực, thực phẩm vào chiến trường, hoặc những đoàn tân binh đang hối hả hành quân bằng cơ giới tăng cường cho miền Nam. Khi đến trạm nghỉ dù rất mệt song ai cũng ra khu tập kết của tân binh để tìm người quen cùng quê đi vào.

Căn cứ hậu phương vững chắc của chiên trường đã được thể hiện đầy đủ ở hai bên đường mòn Hồ Chí Minh do Đoàn 559 bố trí dọc dãy Trường Sơn hùng vĩ. Cuối năm 1973, nhà thơ Tố Hữu đi thăm đường dây 559 vào chiến trường B2, đã viết bài thơ “Nước non ngàn dặm”. Tôi rất thích hai câu:

Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình


Đi trên con đường Trường Sơn, càng gân tới hướng hậu phương phía Bắc càng thấy sự chi viện lớn lao, với một quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Khi được thông báo gần đến và sắp vượt khu làng Ho rồi qua cầu Hiền Lương, ký ức tám năm về trước trong tôi hiện về, cái đêm 30-1-1966, chúng tôi âm thầm, bí mật lội suối vượt nguồn sông Bến Hải. Hôm nay chúng tôi trở lại một cách đường hoàng, ung dung đi bằng ô tô, mới thấy hết sự kiêu hãnh của một dân tộc không bị hủy diệt bởi chiến tranh, bom đạn. Một buổi chiều giữa tháng 3, đoàn ra tới đất Quảng Trị. Khi vượt cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải tôi dặn đồng chí lái xe “khi qua cầu xe chạy càng chậm càng tốt đồng chí nhé”. Đáp lại mong muốn của chúng tôi, đồng chí ấy cho xe đi trên cầu với tốc độ chậm nhất có thể. Tất cả anh em trên xe đều đứng dậy ngắm nhìn hai bên cầu, ngắm dòng sông nơi đã chia cắt đất nước, thành hai miền, trong hơn mấy chục năm qua và bây giờ đang được nối liền. Chúng tôi im lặng trong niềm xúc động dâng trào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của những ngày sắp tới, mảnh đất này sẽ hồi sinh và thịnh vượng cùng đất nước. Vượt qua Vĩnh Linh, chúng tôi vào trạm nghỉ giao liên ở khu vực Quảng Bình và cuối cùng nghỉ tại trạm Hưng Nguyên, thành phố Vinh. Tại đây chúng tôi được đi thăm thành phố quê Bác, đến tối thì lên tàu hỏa hành quân ra Bắc. Đêm cuối cùng đó có lẽ không ai ngủ được. Tàu chạy và mỗi khi đến ga, thì anh em lại xôn xao thông báo cho nhau biết. Ai nấy đều mang một tâm trạng sắp về gặp người thân, gia đình, làng xóm quê hương và con đường học hành sẽ mở ra phía trước.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:35:00 am
Gặp lại người thân

Theo kế hoạch cả đoàn về tập kết ở Đoàn 8761 tại khu vực Cầu Chui, Gia Lâm. Tại đây, chúng tôi được kiểm tra lại quân tư trang và cấp phát những trang bị mới phù hợp với quân đội nhân dân ở phía Bắc, sau đó hành quân về xã Đa Tốn huyện Gia Lâm nghỉ ngơi, bồi dưỡng, chuẩn bị tổ chức biên chế về các trường, các học viện theo từng chuyên ngành khác nhau. Khi ở Đoàn 781 cũng như khi về Đa Tốn, hầu hết anh em trong trung đội của tôi đều xin phép tranh thủ về gặp gia đình, riêng tôi do làm cán bộ cho nên cấp trên nhắc nhở là phải quản lý quân số, quản lý đơn vị để khi nào cho về phép thì mới được về. Trong lòng rất nôn nóng mong được về nhà từng giây, từng phút, nhưng vì trách nhiệm nên cứ nén lại. Tôi có thư về báo cho bố mẹ và em gái biết.

Vào một chiều cuối tháng 3, tôi đang làm việc ở sân kho, thì cô em từ đâu chạy tới gọi:

- Anh ơi!

Tôi chỉ biết chạy đến ôm chầm cô em gái, nhìn em sao lớn quá và nước mắt cứ tuôn trào. Em bảo có bố lên cùng, hiện bố đang nghỉ ở nhà anh đóng quân. Hai anh em dắt tay nhau về, nhìn thấy bố khỏe mạnh, nhanh nhẹn trong lòng tôi sung sướng lắm, nhưng do ở trọ trong gia đình người ta, chỉ biết đến ôm lấy bố và hỏi:

- Bố ơi, bố khỏe không? Mẹ ở nhà có khỏe không bố?

Bố ôm và xoa đầu tôi giống như khi tôi còn bé, bố nói:

- Thấy con khỏe mạnh, lành lặn như thế này là bố sung sướng lắm rồi.

Bố mang theo một con gà và cho tôi 3.000 đồng. Lúc đó 3.000 đồng là rất lớn, có thể mua được ba chiếc hon đa. Tôi nói bố cầm tiền về sau này con sẽ về tiêu sau, còn con gà thịt ăn ngay buổi chiều hôm đó. Đến tối, ba bố con ngồi nói chuyện. Anh em trong đơn vị trêu:

- Ông để cho anh Lợi làm rể ở đây đi!

Bố tôi nói:

- Con phải về quê xây dựng gia đình ở nhà, bố mẹ không thể một lúc tiếp hai người khách được.

Câu nói ngắn gọn, giản dị của bố, tôi hiểu thời gian qua bố mẹ đã sống những năm tháng không có con bên cạnh rất vất vả nên chỉ mong có người con giúp đỡ khi nắng khi mưa. Ba bố con không ngủ, cứ nói chuyện cho tới lúc trời sáng. Sáng ra, giữ thế nào bố tôi cũng không ở, nhất định đòi về quê. Tiễn bố, em gái và anh Úy (người cùng đi thăm tôi) ra thị trấn Trâu Quỳ trên đường số 5 để về nhà. Dọc đường đi, tôi hỏi:

- Sao bố vội về thế?

Bố chỉ nói với tôi:

- Lúc bố đi, mẹ con dặn ông lên nhìn xem con có khỏe mạnh, có lành lặn không hay là nó lại bị thương tích gì mà người ta cho về, ông phải về báo cho tôi ngay.

Có lẽ bố tôi cũng không xa mẹ tôi bao giờ cho nên xa một ngày một đêm là nhiều rồi, với lại bố cũng muốn về báo tin cho mẹ tôi mừng là tôi vẫn mạnh khỏe, lành lặn.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:36:09 am
Sau đó một tuần, cấp trên cho về phép đồng loạt và tôi cũng được về phép thăm gia đình, thời gian một tháng. Trên đường về, đi qua những thị trấn, thị xã, những làng mạc ở quê cứ ngày một tới gần. Mảnh đất Ninh Giang, cái nơi địa đầu của một vùng quê chiêm trũng đây rồi. Thôn Đan Bối hiện dần ra trước mắt vừa như thực, như ảo ảnh. Quê hương chưa thay đổi nhiều, vẫn quang cảnh từng gắn với tôi những kỷ niệm thời thơ ấu.

Việc tôi về được báo trước cho nên họ hàng bà con làng xóm hầu như đến chơi đông đủ. Từ đường bờ mương rẽ vào nhà, người đón tôi đầu tiên là mẹ tôi. Mẹ mắt kém, được các cháu dẫn ra. Khi gặp tôi, mẹ ôm chầm ghì chặt tôi vào lòng cứ như thể tôi còn bé bỏng, tay mẹ sờ hết từ chân đến vai, lên đầu, lên khắp người. Mẹ chỉ nói:

- Con ơi, mẹ nhớ lời con dặn, me mừng quá mẹ không khóc đâu!!

Tôi dìu mẹ về nhà. Bước vào cổng, tiếng chào, tiếng hỏi râm ran của hàng xóm. Ai nấy đều chạy ra để nhìn xin tôi về có khỏe mạnh không. Ai cũng xoa vai, xoa lưng, xoa tay. Tôi mời mọi người uống nước chè xanh, hút điêu thuốc lá mà bố tôi đã chuẩn bị sẵn.

Đó là một buổi trưa rất ấm áp tình người. Bà con lối xóm tới thăm rất đông. Có những người đang làm cỏ ở ruộng lúa khi thấy tôi về cứ để chân bùn như thế chạy lên hỏi “Có phải em là Lợi về đó không”, “Khỏe không?”, “Về được lâu không?”… Trong nhà lúc nào cũng nghe tiếng hỏi: “khỏe không? ở trong chiến trường có gặp ai không?”. Tôi cứ trả lời hết người này đến người khác không biết mệt là gì và chỉ thấy một niềm hạnh phúc vui dâng trào, niềm sung sướng khi được gặp lại người thân. Bố và mẹ liên tục nở nụ cười cám ơn bà con tới thăm hỏi. Cô em gái rót nước chào họ hàng, miệng cũng liến thoắng trả lời các câu hỏi của bà con hàng xóm. Cứ như thế cho đến tận buổi chiều bà con mới ra về.

Trong lúc đến thăm, nhiều người mừng cho gia đình tôi, nhưng cũng không không ít người đến thăm với một tâm tư khó tả, bỏi vì trong những người thân của họ ra đi có người mãi mãi không trở về. Trong làng tôi đã có rất nhiều anh em hy sinh có giấy báo tử về địa phương. Cũng rất nhiều gia đình đã lâu không có tin tức gì về con em họ. Đêm hôm đó, đêm đầu tiên sau chín năm được về sống trong cảnh gia đình, ông bác (bố anh Triệu) cũng sang chơi từ sáng và ngủ lại. một chiếc giường nhỏ nhưng bác tôi, bố tôi và tôi, ba người nằm chung. Cả đêm chỉ hỏi chuyện chiến trường, đi lại, ăn ở, chiến đấu và hành quân như thế nào, ra đây làm gì, rồi cuối cùng dẫn đến việc phải xây dựng gia đình. Tôi cũng rất đồng tình với cách đặt vấn đề của bác và của bố mẹ, còn lấy ai, thời điểm nào thì phải chờ có thời gian và tìm hiểu cho kỹ lưỡng.

Việc tôi lấy vợ diễn ra rất tình cờ. Nhà tôi là nông dân, xã viên hợp tác xã hông nghiệp. Nhà có bốn chị em, cô là người thứ ba và tôi được một ông anh sống tại làng đó giới thiệu để chúng tôi gặp nhau. Nó như một duyên số định mệnh. Ngay từ buổi đâu gặp nhau, chúng tôi đã đồng cảm. Cô ấy đồng ý và tôi cũng rất tán thành. Sau thời gian tìm hiểu khoảng một tháng, tôi báo cáo và được hai bên bố mẹ cho phép. Sau đó, tôi đặt vấn đề tổ chức đám cưới. Đám cưới đơn giản, không trang điểm, không áo dài, áo vét, không có xe cộ đưa rước, loa đài náo nhiệt. Được sự giúp đỡ của chính quyền, đoàn thể, chúng tôi tổ chức kết hôn theo đời sống mới. Buổi rước dâu, cả hai họ, bà con cô bác, bạn bè cùng đi bộ. Về tới nhà trai, chỉ có nước trà, thuốc lá, bánh kẹo mời hai họ, bà con, cô bác, uống nước, hút thuốc, nghe mấy bài hát của mấy bạn thanh niên, sau đó rồi đâu về đấy.

Với một tấm lòng thương yêu thực sự, chúng tôi sống hạnh phúc trong mấy chục năm qua, bây giờ đã trở thành ông nội, bà nội; ông ngoại, bà ngoại, các cháu cũng đã trưởng thành. Tôi xây dựng gia đình vào ngày 20-4-1975, lúc này chiến thắng ở chiến trường, dặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh đang giành thắng lợi lớn. Ngày 30-4-1975, chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước từ đây sẽ về một mối. Tiếc rằng tôi không có mặt cùng đơn vị tiến vào giải phóng Sài Gòn trong thời khắc lịch sử ấy, song bù lại tôi được hưởng niềm vui hạnh phúc với gia đình người thân trong ngày đại thắng của dân tộc. Đầu tháng 5 năm 1975, tôi trở về Đoàn 871 để nhận nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:37:19 am
Học tập chiến thuật, chiến dịch

Tại Đoàn 871, tôi được nhận quyết định về Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Lục quân) để học tập. Do quân số ở chiến trường ra rất ít cho nên lớp của chúng tôi chỉ có 22 đồng chí từ nhiều đơn vị ở các chiến trường khác nhau. Quân hàm cũng rất chênh lệch, có đồng chí thượng úy như tôi, có đồng chí đã là trung tá. Chúng tôi được biên chế học lớp bổ túc K22C với nhiệm vụ là bổ túc chiến thuật phân đội cấp trung, sư đoàn, thời gian một năm.

Sau một thời gian ổn định biên chế và làm quen với nhau, anh em bắt đầu bước vào nhiệm vụ học tập. Đây là lần đầu tiên tôi được bước chân vào nhà trường của quân đội để đào tạo sĩ quan chiến thuật, khác với những đồng chí khác đã được đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hoặc được đào tạo ở các trường do Bộ Tư lệnh từng chiến trường mở phục vụ kịp thời cho chiến đấu trước mắt. Còn tôi do trưởng thành từ cơ sở nên chưa có kinh nghiệm, ban đầu rất bỡ ngỡ. Tôi tập trung nghe giảng bài, nghe hướng dẫn của thầy giáo, nghe bạn bè các anh đi trước học tập nắm được nội dung, lý luận, nguyên tắc cơ bản từng hình thức chiến thuật để vận dụng vào tập bài. Trong thời gian học tập, tôi tâm đắc nhất là môn học bài tập chiến thuật đối kháng. Một bộ khung thực hành nhiệm vụ tấn công, còn một bộ khung làm nhiệm vụ phòng ngự cùng diễn ra ở trên một địa hình, cùng vận dụng nguyên tắc chiến thuật của ta trong một không gian chung dưới sự điều hành thống nhất của ban chỉ đạo. Anh em diễn tập được các thầy giáo đạo diễn nêu nhiều tình huống, tạo ra một không khí huấn luyện rất sôi nổi, rất năng động cho từng cường vị tập luyện. Tôi nghĩ tập như thế rất có hiệu quả cho người sĩ quan chỉ huy. Sau này, khi làm cán bộ chỉ huy huấn luyện ở nhà trường, tôi kiên quyết đưa nội dung này vào để dạy bảo anh em sĩ quan hiện tại. Tháng 3 năm 1976, Học viện di chuyển vào thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Lớp học của chúng tôi đi theo Học viện vào xây dựng học tập ở vị trí mới. Thời gian ở Đà Lạt chủ yếu là học tập lý luận trên giảng đường, việc đi thực hành huấn luyện, dã ngoại hầu như không có. Tới tháng 5 năm 1976 lớp bổ túc K22C của chúng tôi ra trường. 22 anh em được trả về 22 đơn vị khác nhau, làm nhiệm vụ công tác, huấn luyện và chiến đấu khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra.

Nhân kể chuyện đi học, tôi trình bày luôn ở đây việc đi học về chiến dịch chiến lược ở Học viện Quốc phòng. Đầu năm 1983 khi Binh đoàn Cửu Long hành quân về nước, tôi lúc này là Phó phòng Tác chiến Quân đoàn, được các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn cho đi học lớp bổ túc văn hóa để hoàn thành chương trình cấp 3 tại trường Quân sự của Quân đoàn. Tháng 3-1985, bộ ra quyết định triệu tập tội và đồng chí Nguyễn Văn Giáp – Phó phòng Quân huấn Quân đoàn về học lớp đào tạo cáo bộ chiến dịch, chiến lược ở Học viện Quốc phòng. Ngày lên đường ra Bắc học, trong bối cảnh đất nước đang cuối thời bao cấp gặp rất nhiều khó khăn. Tôi được anh em chuẩn bị rất chu đáo, mua giúp từ kem đánh răng, xà bông tới các đồ dùng sinh hoạt cá nhân mang để phục vụ học tập trong thời gian ở Học viện.

Tới Học viện, chúng tôi được biên chế vào lớp đào tạo 7. Hớp học có 47 học viên, ở khắp mọi miền đất nước, khắp mọi chiến trường về với nhiều thành phần khác nhau. Có đồng chí đã được học qua đào tạo hoặc học bổ túc ở một số học viện, có đồng chí được học, đào tạo ở các trường quân sự, học viện nước ngoài, nhiều binh chủng, quân chủng khác nhau. Tuổi tác, quân hàm, chức vụ của các thành viên trong lớp không chênh lệch lắm, có một đồng chí giữ cương vị cán bộ sư đoàn (Đồng chí Hùng – Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 Quân khu 5), còn lại hầu hết là cán bộ trung đoàn và trợ lý cơ quan, tham mưu chiến dịch. Tiểu đội tôi do đồng chí Nguyễn Văn Thông, người Nghệ An, làm tiểu đội trưởng. Sau một thời gian ổn định tổ chức, chúng tôi bước vào nghiên cứu học tập. Buổi học đầu tiên nghiên cứu về đối tượng tác chiến trước mắt để tổ chức những khu vực, những chiến dịch phòng thủ, phòng ngự, những trận đánh tiến công, phản công để khôi phục giữ gìn biên cương Tổ quốc. Sau đó nghiên cứu về đối tượng cơ bản, lâu dài để bảo vệ toàn cõi lãnh thổ của đất nước.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:39:49 am
Khi diễn tập sư đoàn hay khi diễn tập nghệ thuật chiến dịch cấp quân đoàn, quân khu, tôi thường được chủ nhiệm lớp và giảng viên hướng dẫn bố trí ở cương vị chỉ huy. Sau mỗi lần diễn tập, được các thầy giáo trong Học viện đạo diễn trực tiếp, chúng tôi trưởng thành rất nhiều. Có một lần diễn tập, tôi đảm nhiệm vai Tư lệnh Quân đoàn trong phần nghe đề đạt quyết tâm của các cơ quan (buổi tập có Giám đốc Học viện – Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo cùng ngồi dự). Sau khi nghe đồng chí Chủ nhiệm Pháo binh báo cáo xong, tôi nói đồng chí ngồi lại để cùng nghe đồng chí Chủ nhiệm Phòng không, chủ nhiệm Công binh báo cáo, các đồng chí đó có đề nghị, đề đạt gì với Tư lệnh hoặc có liên quan tới các binh chủng thì ba chủ nhiệm cùng với tư lệnh giải quyết ngay cho kịp thời. Đây là một phương pháp làm khác với đạo diễn của Học viện. Học viện đạo diễn cứ mỗi chủ nhiệm bao cáo xong lại về cho nên những đề đạt đó chỉ đến tai người tư lệnh và được truyền dạt giải quyết cho đến các chủ nhiệm có liên quan thường thông qua tham mưu trưởng rất mất thời gian có khi hiệu quả lại thấp. Khi từng chủ nhiệm pháo binh, phòng không, công binh đề đạt xong, các đồng chí đó tự nêu vấn đề rồi tự hiệp đồng giải quyết công việc trước sự chứng kiến, chuẩn y của Tư lệnh. Sau khi ba đồng chí chủ nhiệm ra về, đồng chí Hoàng Minh Thảo hỏi tôi:

- Tại sao đồng chí làm như thế? Tôi trả lời:

- Thưa Giám đốc, chúng tôi ở đon vị đã huấn luyện và tổ chức diễn tập như vậy. Giải quyết những vấn đề và đề xuất nhanh nhất là sự có mặt của các chủ nhiệm có liên quan trước sự chứng kiến của cấp trên. Như thế mới khẩn trương, chính xác và diễn ra kết quả tốt nhất.

Đồng chí Giám đốc khen việc diễn tập như thế là sáng tạo và nhắc các đồng chí đạo diễn có thể vận dụng phương pháp này để chỉ đạo các lớp sau.

Đến cuối năm thứ hai của chương trình đào tạo, Học viện tổ chức cho học viên ổn luyện làm luận văn tốt nghiệp. Một lần nữa, tôi lại được chọn làm học viên báo cáo điểm để rút kinh nghiệm cho toàn lớp học. Thế nhưng đến ngày chuẩn bị diễn tập thì bố tôi mắc bệnh nặng. Tôi và gia đình đưa bố ra bệnh viện ở Hà Nội thuốc men xong rồi về học, trưa lại ra lo cho bố tôi rồi về học buổi chiều, tối ra ngủ cùng bố. Do bệnh hiểm nghèo lại tuổi cao, bố tôi ra đi mãi mãi. Buổi bảo vệ hôm đó không tiến hành được, tôi phải báo cáo với Giám đốc xin lùi lại để lo việc riêng. Ban Giám đốc Học viện đồng ý. Khi lo việc cho bố xong, tôi trở lại Học viện tiếp tục bảo vệ thử theo kế hoạch. Thi tốt nghiệp quốc gia, môn công tác đảng, công tác chính trị được thi trước. Giám khảo bàn thi hôm đó có ba đồng chí, do đồng chí Bùi Công Ái – Tư lệnh Quân đoàn 2 làm Trưởng tiểu ban. Sau khi tôi bốc câu hỏi và trả lời xong các nội dung chính, đồng chí Trưởng tiểu ban nhận xét:

- Đồng chí trả lời như vậy rất tốt, riêng tôi có thể cho đồng chí 9 điểm. Song tôi hỏi thêm một câu hỏi phụ, đồng chí có thích làm cán bộ chính trị không?

Đây là một câu hỏi có lẽ rất khó. Sau giây lát đắn đo, tôi mạnh dạn trả lời:

- Thưa đồng chí, tôi không thích làm cán bộ chính trị, vi mấy lý do. Thứ nhất, từ khi nhập ngũ đến nay, tôi liên tục làn cán bộ quân sự. Thứ hai, tôi chưa được đào tạo một lớp nào về cán bộ chính trị nên chưa có chuyên môn làm cán bộ chính trị. Và lý do thứ ba là tôi thấy công tác chính trị có sự bận rộn mà bản thân chưa đáp ứng được. Đây là một khiếm khuyết của bản thân tôi. Còn nếu trên có yêu cầu chuyển tôi sang làm cán bộ chính trị thì tôi sẵn sàng nhận nhưng với điều kiện phải cho tôi đi đào tạo nghiệp vụ về công tác đảng, công tác chính trị, lúc đó mới hoàn thành nhiệm vụ được.

Tôi không biết Ban giám khảo nghĩ sao, nhưng trong lòng thấy thoải mái vì bản thân vốn trực tính nghĩ sao nói vậy. Tôi sẵn sàng đón nhận sự phán xét từ đồng chí Trưởng tiểu ban:

- Đồng chí trả lời như vậy là rất đúng, đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ trong việc kiểm tra hôm nay.

Tôi chào báo cáo và ra về, trong lòng vừa phấp phỏng lo lắng sợ tổ chức đánh giá mình, vừa thấy thoải mái vì mình đã nói được đúng suy nghĩ của mình. Các ngày tiếp theo lần lượt bảo vệ luận văn về ý định chiến dịch theo đầu bài đã được chuẩn bị từ trước và cuối cùng là trả lời những câu hỏi về lý luận nguyên tắc nghệ thuật quân sự trong các hình thức chiến dịch cấp quân đoàn và quân khu. Kết quả thi tốt nghiệp quốc gia, tôi đạt loại giỏi cả ba môn. Còn nhớ khi bảo vệ xong đề tài luận văn về chiến dịch tiến công cấp quân khu, đồng chí cố vấn Liên Xô đến bắt tay và chúc mừng tôi. Đồng chí quay sang nói với đồng chí Giám đốc Học viện Quốc phòng:

- Đây là một đồng chí có thể ở lại làm giảng viên huấn luyện tốt cho học viện.

Giám đốc Hoàng Minh Thảo hỏi tôi:

- Cố vấn phát hiện như thế, đồng chí nghĩ thế nào?

Tôi trả lời:

- Trước hết, xin cám ơn Giám đốc, cám ơn đồng chí cố vấn. Tôi được biết, sau khi hoàn thành nhiệm vụ học tập ở Học viện, tôi được Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 bố trí về chỉ huy một sư đoàn đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Kra Ché – Campuchia.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Giêng, 2019, 10:40:54 am
Trong phòng bố trí sẵn bản đồ Đông Dương, tôi chỉ khu vực Kra Ché trên bản đồ. Đồng chí chuyên gia sau khi nghe phiên dịch, đến ôm nhấc bổng tôi lên (ông cao khoảng 1,8m, nặng hơn 100kg, tôi có hơn 50kg nên nằm gọn trong vòng tay ông) và bắt tay chúc tôi hoàn thành nhiệm vụ ở cương vị mới.

Khi bảo vệ xong, về vị trí tôi được các thầy giáo tới chúc mừng, cũng có đồng chí khuyên tôi nên ở lại làm giảng viên của Học viện, vừa gần gia đình lại đỡ vất vả. Tôi thầm cám ơn những lời khuyên chân tình đó, song vẫn giữ một quyết tâm không thay đổi, đó là tiếp tục ra chiến trường. Trong buổi lễ tổng kết khóa học, phát bằng tốt nghiệp, đồng chí Đoàn Khuê – Tổng Tham mưu trưởng, Chủ tịch Hội đồng thi quốc gia đến dự trao bằng. Tôi rất hạnh phúc được đồng chí trao bằng, bắt tay chúc mừng. Nhận bằng xong, tôi nói với Giám đốc Hoàng Minh Thảo:

- Thưa Giám đốc, em còn thiếu một cái bằng nữa.

- Còn thiếu bằng gì? Giám đốc hỏi.

- Bằng bán đồ ở chợ Bưởi. Tôi trả lời.

Cả thủ trưởng Đoàn Khuê, thủ trưởng Hoàng Minh Thảo và những người cùng ngồi đấy đều cười. Phải nói những năm cuối thập niên 80, chế độ tem phiếu rất thịnh hành. Tất cả từ ly bia cho đến bánh xà bông, khăn mặt, cân đường, gạo, thịt, cá… đều qua tem phiếu. Đó là thời điểm cuối gia đoạn bao cấp, là lúc nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn. Có lần cháu Đào Đức Tiến, con trai út của tôi lên chơi, ở cùng phòng có đồng chí Ngô Chí Sâm người Yên Thành – Nghệ An. Mỗi bữa lấy hai suất cơm về cho ba người ăn, hai anh em tôi đều nhường cháu Tiến ăn trước, bây giờ cháu vẫn còn nhắc và nhớ ơn chú Sâm. Mỗi lần nhìn các thầy giáo cấp tướng, cấp đại tá xếp hàng mua bia, nhận bao gạo 20kg mà thấy nao lòng. Đồng chí Tư lệnh Quân đoàn Võ Văn Dần mỗi lần ra Hà Nội họp đều tới thăm hai anh em chúng tôi, kèm theo gói quà chè, thuốc. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn như vậy, số tem phiếu được cấp theo tiêu chuẩn, tôi giao cho anh Giáp mang ra chợ Bưởi bán để lấy tiền tiêu.

Tháng 7 năm 1987, tôi rời khỏi Học viện Quốc phòng về nhận công tác làm Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 7, rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9.Tháng 4 năm 1993, tôi được Đảng ủy Quân sự Trung ương cử đi học lớp bổ túc chính trị A tại Học viện Chính trị Quân sự, trong thời gian 5 tháng. Cùng ở địa bàn Quân khu 7 có các đồng chí Lê Thành Tâm, Phan Trung Kiên học khóa này. Trước khi đi học, tôi và anh Ba Kiên được các đồng chí Huyện ủy - Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi mời ăn cơm liên hoan. Đó là một kỷ niệm đẹp về tình cảm của Đảng bộ địa phương giành cho tôi sau hơn 4 năm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 ở căn cứ Đồng Dù – Củ Chi. Tôi nhớ trong một lần chỉ huy đơn vị làm nhiệm vụ hành quân dã ngoại, xây dựng địa bàn (làm công tác dân vận) ở khu vực địa đạo Củ Chi, gặp lại nhiều gia đình cách mạng, có má nói:

- Tao tưởng tụi bay sống ở thành phố quên dân địa đạo này rồi. Từ sau năm 1975, nay là đơn vị bộ đội đầu tiên ở cùng dân đấy.

Nghe má nói mà như muối xát ruột. Nghị quyết 8B của Đảng về công tác vận động quần chúng kịp ra đời đã khởi động phong trào nhà tình nghĩa… Tôi nói với anh Ba Kiên:

- Vừa qua, Sư đoàn đã làm được hai nhà tình nghĩa và góp trên 2.000 ngày công giúp nhân dân sản xuất, làm đường sá. Ra ngoài đó, em mang theo chiếc Honđa để có điều kiện anh em mình đi Hà Nội thăm thành phố và thăm bạn bè.

Anh Ba chỉ cười, tưởng tôi nói chơi, đâu ngờ đi máy bay ra được ba ngày thì honđa tôi gửi đường tàu hỏa cũng tới.

Lớp chúng tôi là khóa thứ 3 bổ túc chính trị A. Lớp có hơn 20 người, quá nửa là cán bộ quân sự, quân hàm từ trung tá đến thiếu tướng, chức vụ cũng rất đa dạng. Sau hai ngày ổn định, chúng tôi bắt tay vào học tập. Môn học đầu tiên là lý luận chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là môn học thường rất khó đối với cán bộ chỉ huy quân sự. Người chịu khó nhất trong học tập là anh Ba Kiên. Mỗi lần ôn kiểm tra, anh tự trả lời cầu hỏi vào máy ghi âm rồi mở nghe và sửa. Thấy anh học vất vả, thương quá, tôi nói:

- Anh phải thay đổi cách học đi, học thế này sao mà nhớ hết được và hết thời gian nghỉ ngơi, không may ốm thì khổ.

Sau đó anh đồng tình với phương pháp học mà tôi trao đổi. Sau 5 tháng, anh em chúng tôi cùng hoàn thành chương trình lớp bổ túc chính trị A. Trong lớp này, sau khi về đơn vị, hầu hết đều trưởng thành, đảm nhiệm nhiều cương vị ở các quân khu, quân đoàn, cơ quan bộ và học viện, nhà trường.

Sau khi học xong lớp bổ túc chính trị A tôi được cấp trên điều động về giữ chức Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân đoàn 4.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 02:38:51 pm
Chương bốn

CHIẾN TRƯỜNG TÂY NAM VÀ LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ

Tháng 5 năm 1976, sau khi kết thúc lớp học bổ túc trung cấp binh chủng hợp thành K22C ở Học viện Quân sự tại Đà Lạt, tôi được cấp trên giao quyết định về công tác ở Quân khu 7. Khi nhận quyết định, tôi hỏi các đồng chí ở Cục Cán bộ:

- Tại sao khi đi học tôi ở Quân đoàn 4, bây giờ lại điều tôi về Quân khu 7?

Các anh giải thích:

- Khi đi học, đồng chí ở chiến trường B2, học xong thì trở về địa bàn của B2, tức là Quân khu 7.

Tôi về trạm T67 tại số 5 đường Trương Quốc Dung, cách cổng Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chưa đầy 1km mang các quyết định nộp cho cơ quan Quân khu. Trưởng phòng Cán bộ Quân khu là anh Năm Nhẫn, nguyên là cán bộ từ B2, có ý định điều tôi về công tác ở trường H12 của Quân khu, lúc đó đóng ở căn cứ Vạn Kiếp, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhiều lần tôi làm đơn kiến nghị xin được trở về Quân đoàn 4 công tác. Đồng chí Tư Thanh nguyên Chính ủy Sư đoàn 7 lúc này là Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 4 và đồng chí Lê Nam Phong – Sư trưởng Sư đoàn 7 đặt vấn đề với Quân đoàn xin tôi từ Quân khu 7 trở về Quân đoàn 4 công tác. Sau ba tháng nằm chờ ở trạm T.67, cuối cùng cấp trên cũng chấp thuận cho tôi trở về Quân đoàn 4. Tôi vào nhận hồ sơ sinh hoạt Đảng và mang thẳng về Sư đàn 7 rồi xuống Ban chỉ huy Trung đoàn 141 để nhận công tác. Các giấy tờ quyết định, điều động, chuyển tiếp do cơ quan của Bộ sẽ chuyển theo đường công văn.

Tôi về Ban chỉ huy Trung đoàn 141 như trở về nhà mình được gặp lại bao đồng chí, bạn chiến đấu thân thiết. Điều sung sướng nhất là lại được công tác, chiến đấu ở trung đoàn cùng mình đi B, trải qua nhiều dấu mốc lịch sử, nhiều trận đánh. Tuy có vất vả hơn ở Trường Quân sự Quân khu, nhưng tôi tin là sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng chí Trần Xuân Ban, quyền Trung đoàn trưởng và nhiều đồng chí khác tiếp đón tôi rât thân mật. tại Trung đoàn, tôi được giao nhiệm vụ làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, đóng tại căn cứ Lai Khê. Tiểu đoàn trưởng trước tôi là đồng chí Xuân, Chính trị viên Tiểu đoàn là đồng chí Thai, cả hai đều được điều động đi nhận nhiệm vụ khác. Chính trị viên mới là đồng chí Khanh quê ở Thanh Hóa. Đồng chí Gương là Tiểu đoàn phó được cử đi học ở Học viện Quân sự Đà Lạt. Ban chỉ huy Tiểu đoàn còn lại có tôi và đồng chí Khanh. Chúng tôi nhận bàn giao của Ban chỉ huy cũ do đồng chí Thiết trợ lý hậu cần chuyển lại (vì hai đồng chí đã đi nhận nhiệm vụ từ trước).

Tôi chỉ huy Tiểu đoàn 15 tổ chức huấn luyện, xây dựng ở khu vực Lai Khê, Đồng Sổ và khu vực Lai Hưng. Được 5 tháng, Trung đoàn lệnh đưa đơn vị lên đóng dã ngoại ở khu vực Bầu Chư (Phú Giáo – Bình Dương) làm nhiệm vụ phát rừng làm rẫy, trồng lúa, trồng mì, sản xuất lương thực, thực phẩm. Đó là thời điểm giáp tết. Chúng tôi di chuyển đến một khu rừng ở phía đông của Bầu Chư. Toàn Tiểu đoàn phát cây, dọn cỏ, dựng lán trại để nghỉ ăn tết năm Đinh Tỵ, 1977. Tại đây, chúng tôi được giao một khu rừng gân 50 ha để khai phá, trồng lương thực. Ngoài việc làm rẫy, đơn vị còn được Sư đoàn giao nhiệm vụ dọn đắp, ngăn hồ Bầu Chư để làm nơi nuôi cá cho Sư đoàn. Bầu Chư là địa bàn chiến trường cũ, con đường 14 Phú Giáo – Đồng Xoài quá quen thuộc với lớp cán bộ cũ chúng tôi. Tại đây, sau Hiệp định Pari (27-1-1973), Trung đoàn 141 làm “nhà hòa giải hòa hợp dân tộc”. Hôm nay trở lại nhìn cánh rừng rộng mênh mông, bát ngát, lòng tôi rộn lên một mơ ước sẽ biến nơi đây thành một khu kinh tế với vườn cà phê, tiêu, điều, rừng cao su, sản xuất gạch ngói, khu chăn nuôi trù phú với cơ ngơi doanh trại khang trang ngói đỏ soi mình xuống mặt hồ Bầu Chư lung linh gợn sóng.

Trong những năm đầu sau giải phóng, tình hình kinh tế đất nước còn rất khó khăn, lương thực thiếu thốn. Bộ đội ăn ngày một bữa cơm, còn lại hai bữa ăn bo bo. Lao động vất vả, sáng ra lên rừng làm rẫy hoặc đi xuống hố đề đào ao, đắp đập nhưng khẩu phần ăn thì rất đạm bạc, không đảm bảo dinh dưỡng. Tư tưởng của bộ đội có nhiều diễn biến phức tạp. Nhiều đồng chí đào ngũ dăm bảy ngày về quê hoặc đi gặp người thân ở Thành phố Hồ Chí Minh sau đó trở lại đơn vị công tác. Tất nhiên, ngoài lao động kinh tế, chúng tôi vẫn thực hiện nhiệm vụ huấn luyện.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 02:44:34 pm
Từ đầu năm 1977, trên tuyến biên giới Tây Nam, từ địa bàn Quân khu 7 đến địa bàn Quân khu 9, tập đoàn phản động Pôn Pốt liên tục cho quân xâm lấn biên giới, chúng đốt nhà, giết người, cướp của, gây nhiều tội ác với nhân dân ta. Tình hình chiến sự ngày càng phức tạp và mối quan hệ hai nước ngày càng có chiều hướng xấu đi. Điển hình là đêm 30-4-1977, Pôn Pốt cho sư đoàn bộ binh 2 và quân địa phương bất ngờ tiến công vào 13 xã của biên giới tỉnh An Giang. Đi đến đâu, chúng thực hiện chính sách đốt phá, cướp của, giết người đến đó. Trên địa bàn của Quân khu 7, từ tháng 6 đến tháng 7 năm 1977, chúng tăng cường đánh phá ở khu vực từ Xa Mát đến Bến Cầu.

Tháng 7-1977, chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức trinh sát trên địa hình biên giới Việt Nam – Campuchia từ khu vực Bến Cầu đến khu vực Xa Mát. Bên kia biên giới, hoạt động của tập đoàn Pôn Pốt đã lộ nguyên hình chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng liên tục lấn chiếm và gây ra thương vong ở vùng biên giới. Có nơi chúng đi sâu vào đất liền Việt Nam từ 3 đến 7 km để đánh phá tàn sát nhân dân, gây mất ổn định ở khu vực biên giới. Đối tượng tác chiến mới hôm qua còn kề vai sát cánh với Việt Nam đánh Mỹ giải phóng đất nước. Một kẻ thù mới đang dần được hình thành, bộ mặt xâm lược của Pôn Pốt ngày càng lộ rõ. Tiểu đoàn tôi được giao nhiệm vụ tập trung huấn luyện các hình thức chiến thuật ngay trên địa hình khu vực Bầu Chư.

Tình hình diễn biến rất phức tạp. Chiến tranh chắc chắn không tránh khỏi. Trên địa bàn biên giới Tây Ninh đã có các lực lượng của Quân khu 7, một phần lực lượng của Quân đoàn 4 đứng chân chiến đấu ngăn chặn hành động xâm lược của địch, bảo vệ biên giới và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ở Bảy Núi và khu vực Tịnh Biên, An Giang, Bộ đã điều động Sư đoàn 341 của Quân đoàn 4 xuống tác chiến. Để tăng cường thêm lực lượng, Bộ quyết định điều Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7 về làm nhiệm vụ ở khu vực Châu Đốc, An Giang. Ngày 14-8-1977, Trung đoàn hành quân bằng cơ giới xuống địa bàn Châu Đốc.

Tiểu đoàn 1 của tôi ở Bầu Chư, được tăng cường 18 xe ô tô vận tải để cơ động. Sau một ngày đêm hành quân, sáng ngày 15, toàn bộ trung đoàn đã có mặt ở Châu Đốc. Tiểu đoạn 1 đóng ở khu vực xã Khánh Hòa, địa bàn cách Châu Đốc khoảng 5 km. Lực lượng các đơn vị của Trung đoàn đảm nhiệm dọc bờ kênh Vĩnh Tế cho đến khu vực chốt biên phòng Vĩnh Nguyên giáp An Giang và Đồng Tháp. Toàn trung đoàn làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu đảm bảo an ninh không cho lực lượng Pôn Pốt đột nhập vào thị xã Châu Đốc, giữ an ninh chính trị và tính mạng của nhân dân trong khu vực này. Tiểu đoàn 1 là lực lượng cơ động phía sau của trung đoàn. Trong thời gian ba tháng ở địa bàn Châu Đốc, quân Pôn Pốt không có trận đánh nào vào đội hình trung đoàn đảm nhiệm. Chúng tôi, ngoài nhiệm vụ huấn luyện còn làm công tác dân vận và vận động quần chúng, được nhân dân rất quý mến. Cuối tháng 11-1977, cấp trên yêu cầu Trung đoàn 141 trở về đội hình của Sư đoàn 7 để sẵn sàng làm nhiệm vụ ở khu vực biên giới Tây Ninh.

Ngày 3-12-1977, toàn trung đoàn hành quân bằng cơ giới rời Châu Đốc về Gò Dầu, Tây Ninh. Sáng sớm, toàn bộ đơn vị triển khai đội hình hành quân. Chính quyền, nhân dân Châu Đốc ra hai bên đường vẫy tay tiễn đưa cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 141. Quân dân lưu luyến chia tay.

Đêm 5-12-1977, toàn bộ đội hình về đến Tây Ninh. Tiểu đoàn 1 tập kết ở khu vực đông Gò Dầu. Sáng hôm sau, tôi được triệu tập lên Sở chỉ huy Trung đoàn nhận nhiệm vụ. Sở chỉ huy là một vườn nhà dân giáp trên quốc lộ 22. Tại đây tội gặp đồng chí Đỗ Mạnh Thứ - Tham mưu trưởng của Sư đoàn 7 cũ, lúc này là Sư đoàn phó – Tham mưu trưởng Sư đoàn 341. Khi thành phần đã đông đủ, đồng chí thay mặt cho Sư đoàn giao nhiệm vụ cho chúng tôi. Tấm bản đồ được treo lên với mũi tên dài từ Mộc Bài qua Bavet tới tận Chi Phu, theo dọc đường quốc lộ 1 tới khu vực cầu Prasot, hướng bắc là hướng tiến công từ đồn Cây Me, tây Bến Cầu đánh xuống quốc lộ 1.

Nhiệm vụ của Trung đoàn 141 là thực hành tiến công theo quốc lộ 1 từ Mộc Bài đến Chi Phu và đến cầu Tà Yên. Nhiệm vụ này được giao cho Tiểu đoàn 1 thực hiện. Tiểu đoàn được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội ô tô vận tải để thực hiện tác chiến trong điều kiện hành quân cơ giới, với sự chi viện của hỏa lực của các cấp. Tiểu đoàn 2 do đồng chí Dũng làm Tiểu đoàn trưởng là đơn vị đi sau. Tiểu đoàn 3 do đồng chí Ngô Hồng Lập làm Tiểu đoàn trưởng là đơn vị đánh ở phía nam đường 1 – khu vực rừng Sở để đảm bảo cho hướng tấn công chủ yếu của Trung đoàn được thuận lợi.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 02:50:28 pm
Nhận nhiệm vụ xong, trở về vị trí chỉ huy Tiểu đoàn. Tôi và đồng chí Chính trị viên Tiểu đoàn (lúc này đồng chí Khanh – Chính trị viên Tiểu đoàn đi học, đồng chí Vũ Tiến Thả trợ lý tổ chức của Trung đoàn xuống làm Chính trị viên) trao đổi nhiệm vụ của trên giao. Chiều ngày 5-12-1977, chúng tôi đi trinh sát chuẩn bị chiến đấu. Đoàn trinh sát có cán bộ Trung đoàn 141 và đồng chí Mười Kim – Tham mưu trưởng Sư đoàn 7. Trên đài quan sát, tôi chú ý nắm thật chắc khu vực, vật chuẩn, các mục tiêu mà ngày mai Tiểu đoàn phải thực hiện tác chiến. Mọi công tác chuẩn bị ở đơn vị đã được đồng chí Chính trị viên và các đại đội chuẩn bi tương đối tốt. Theo kế hoạch, sáng ngày 6-12-1977 chúng tôi triển khai chiếm lĩnh trận địa. Lúc này Tiểu đoàn đang thiếu Tiểu đoàn phó, cấp trên điều đồng chí Đinh Ngọc Sự từ Trường Quân sự về làm Tiểu đoàn phó. Chúng tôi đón đồng chí ở ngay khu vực triển khai đội hình chiến đấu phía đông Mộc Bài. 5 giờ sáng, hỏa lực các cấp bắt đầu chế áp, bắn vào các khu vực mục tiêu. Dưới sự chỉ huy của Ban chỉ huy Trung đoàn, Tiểu đoàn 1 cùng với các đơn vị binh chủng tăng thiết giáp và phân đội đi đầu – đại đội 1 của Tiểu đoàn, chuẩn bị hành động theo kế hoạch.

Từ 5 giờ 25 phút sáng ngày 6 tháng 12, toàn vùng biên giới Tây Ninh ầm vang tiếng pháo, tiếng rú của xe tăng thiết giáp. Tôi lệnh cho đại đội 1 thực hành mở cửa và các loại hỏa lực ĐKZ, cối 82mm, 12,7mm cùng tham gia bắn chi viện để đại đội 1 xung phong đánh chiếm mục tiêu đầu tiên ở khu vực đông rừng Sở trên quốc lộ 1. Diễn biến trận chiến đấu diễn ra đúng như kế hoạch dưới sự chống trả yếu ớt của địch. Cửa mở đã thông, tôi lệnh cho đại đội 2 và đại đội 3 cùng với cơ giới thực hành vượt qua đại đội 1 thọc sâu vào đánh chiếm khu vực Chi Phu. Đến tây cửa khẩu Mộc Bài khoảng 3km, chúng tôi gặp chướng ngại xe của dân và xe của địch nằm ngồn ngang, hoảng hốt tháo chạy. Nhận định kẻ địch không kịp gài mìn trên quốc lộ 1, cần phải tăng tốc độ tiến công của cơ giới, tôi ra lệnh cho bộ đội dùng nòng pháo gạt những chướng ngại trên đường, đặc biệt là vượt qua xe của địch còn lại để thông đường, tiếp tục cơ động tới khu vực Chi Phu.

Sau hơn một giờ chiến đấu, đại bộ phận lực lượng của Tiểu đoàn đã cơ động qua khu vực rừng Sở. Lúc này Tiểu đoàn 2 đã đến khu vực đông rừng Sở. Tiểu đoàn 3 đi sau truy quét địch ở hai bên đường quốc lộ 1 từ Bavet đến khu vực rừng Sở. tôi báo cáo kết quả sơ bộ về Trung đoàn, đồng chí Trung đoàn trưởng Bế Ích Quân lệnh cho Tiểu đoàn nhanh chóng tổ chức các đơn vị đánh chiếm Chi Phu. Sau đó khi xếp lại đội hình, tiếp tục cho hỏa lực chi viện, 1 giờ sau chúng tôi chiếm được thị trấn Chi Phu. Khi tới nơi, vũ khí địch bỏ lại ta thu được hơn chục khẩu súng, còn đại bộ phận chúng chạy về hướng tây. Bộ đội tiếp tục truy kích và đuổi địch đến tận cầu Tà Yên cách Chi Phu 5 km thì dừng lại. Tôi cho đại đội 1 ở lại giữ khu vực đó, còn đại bộ phận quay về khu vực Chi Phu triển khai đội hình đảm bảo trục hành lang quốc lộ 1 chờ lệnh tiếp tục tiến công.

Vào khoảng 10 giờ 30 phút, đồng chí Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Hoàng Nghĩa Khánh đi kiểm tra trận địa, ra tận cầu Tà Yên (tới lúc này tôi mới biết đồng chí đó là Tham mưu trưởng qua đồng chí Trợ lý tác chiến Quân đoàn nói lại). Tôi báo cáo tình hình và nhận chỉ thị của Tham mưu trưởng là đưa hết lực lượng về Chi Phu không giữ cầu Tà Yên nữa. Chấp hành mệnh lệnh, tôi cho Đại đội 1 cơ động về vị trí quy định và đóng án ngữ khu vực tây Chi Phu để đảm bảo cho Tiểu đoàn 2 đánh lên phía bắc Chi Phu khoảng 4 km.

Đêm hôm đó, Tiểu đoàn nhận được nhiệm vụ giữ ngã ba Chi Phu để đảm bảo việc vận chuyển thương binh, tử sĩ, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho các đơn vị phái trước, đặc biệt là các mũi tiến công của Trung đoàn 165 ở hướng bắc cũng như Sư đoàn 341 tác chiến ở phía tây huyện Bến Cầu. Chúng tôi dừng lại ở thị trấn Chi Phu nhưng tất cả phải ra công sự, hầm hào sẵn sàng đánh địch tập kích ban đêm. Đúng như dự kiến, khoảng 23 giờ, bọn chúng lợi dụng bờ mương, trời tối dùng B40, B41 tập kích vào nam Chi Phu. Nhưng địch ở xa bắn vào nên không có đồng chí nào thương vong. Sáng ngày hôm sau, Sư đoàn 341 đánh chia cắt từ khu vực ngã tư Nhà Thương xuống cầu Prasot trên quốc lộ 1 (cách tây Chi Phu 15 km). Tiểu đoàn 1 chúng tôi nhận lệnh đánh chiếm cầu Tà Yên hỗ trợ cho Sư đoàn 341 ở phía bắc đánh xuống.

Thực hiện nhiệm vụ này, tôi tổ chức một trung đội xe tăng 3 chiếc và đại đội bộ binh 1 dưới sự chỉ huy của đồng chí Tiểu đoàn phó Đinh Ngọc Sự. Triển khai xong đội hình, vừa cơ động lên đoạn 1 km thì gặp phải sự kháng cự rất quyết liệt của quân Pôn Pốt. Chúng lợi dụng bờ mương, bờ đê dọc kênh Tà Yên để làm công sự, dùng B40, B41, ĐKZ bắn vào đội hình đại đội 1. Tiểu đoàn bị cháy 1 xe tăng, đồng chí Sự Tiểu đoàn phó bị thương. Tôi trực tiếp chỉ huy các đội hỏa lực (ĐKZ, 12,7mm, cối 82mm) và pháo 100mm trên xe tăng bắn mãnh liệt vào các ụ súng, chi viện cho đại đội 1 (do đại đội trưởng Nguyễn Văn Ba chỉ huy) tận dụng bờ mương, vòng tránh, đánh vào sườn tây nam cầu. Sau gần 2 giờ chiến đấu, đại đội 1 đã làm chủ cầu Tà Yên.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 02:55:47 pm
Như vậy là sau 2 ngày chiến đấu, đơn vị chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đúng mục tiêu, giữ vững được khu vực đã chiếm và đảm bảo thế phát triển thuận lợi trên chiến trường. Ban chỉ huy Tiểu đoàn chỉ còn tôi và đồng chí Thả - Chính trị viên chỉ huy đơn vị trong những trận chiến đấu tiếp theo. Đây là trận chiến đấu hành tiến bằng bộ binh – cơ giới làm phân đội thọc sâu của chiến dịch. Đơn vị đã nhanh chóng vượt qua cửa mở, tiêu diệt gọn các mục tiêu trên đường và hai bên đường; khắc phục các chướng ngại vật do kẻ địch hoặc người dân (đồ dùng, phương tiện cơ động) tạo ra; tiến chắc, đánh chiếm từng mục tiêu có hỗ trợ chi viện kịp thời; nắm chắc thời cơ (địch rút chạy không kịp gài mìn) chỉ huy kiên quyết, hiệp đồng chặt chẽ giữa các phân đội trong Tiểu đoàn với đơn vị bạn.

Từ ngày 6 đến ngày 10-12-1977, trên nhiều hướng, các đơn vị chủ lực của ta từ biên giới Tây Ninh đẩy địch dạt sang đất Campuchia. Quân đội Việt Nam vào đến các phum, sóc của Campuchia đều thấy cảnh hoang tàn, vườn không nhà trống. Nhân dân bị lực lượng Khơ me đỏ dồn vào các trang trại tập trung lao động khổ sai. Khi quân đội Việt Nam đánh sang, nhân dân chạy theo bộ đội cảm ơn trong niềm vui trào nước mắt. Từng đoàn người cứ nối đuôi nhau từ Chi Phu, Pô Pet theo quốc lộ 1 về Bavet, rừng Sở, khu vực cửa khẩu Mộc Bài. Tại đây, Đảng và Nhà nước Việt Nam tổ chức giúp đỡ, tạo điều kiện cho đồng bào Campuchia ổn định cuộc sống, chờ ngày trở về đất nước của họ.

Các đơn vị quân chủ lực Việt Nam sau khi tiến sang đất Campuchia, tổ chức dừng lại để củng cố, thực hiện nhiệm vụ tiếp theo. Quân Pôn Pốt cơ động về khu vực Xvay Riêng, sau đó liên tục tổ chức lực lượng phản kích về khu vực đường 1 đông Xvay Riêng đến khu vực Chi Phu. Nhiều đơn vị của Sư đoàn 7, đặc biệt là Trung đoàn 165 (các tiểu đoàn mới thành lập) ở khu vực ngã ba Cốc, tây Kokixom liên tục bị lực lượng Pôn Pốt phản kích, gây nhiều tổn thất. Chúng chiếm lại một số khu vực như Kokixom, giữ vững những khu vực đó và tổ chức chiến đấu ngăn chặn chúng ta từ biên giới đánh sang.

Trước tình hình trên, Trung đoàn 141 lên kế hoạch thực hành nhiệm vụ tiêu diệt địch ở khu vực Kokixom. Chiều ngày 17-12-1977, tôi chỉ huy Tiểu đoàn hành quân từ Chi Phu qua Pô Pet đi lên khu vực nam Kokixom. Thời tiết đang vào mùa khô. Cánh đồng lúa vào mùa chín rộ nhưng không có ai thu hoạch. Đang đi, chúng tôi quan sát thấy phía mép nam phum Kokixom có một dãy bờ mương đất mới làm. Bộ đội phải triển khai đi thưa, đi thấp tiến cận về hướng đó. Đến cách bờ đập nước khoảng 500m, chúng tôi bị hỏa lực ĐKZ của Pôn Pốt bắn vào đội hình. Ban chỉ huy Tiểu đoàn gồm tôi và đồng chí Thả đang đi bị một quả ĐKZ bắn xèo qua đầu nổ ở phía sau khoảng 20m. May mà mảnh đạn tập trung ở phía trước nên hai anh em không ai bị thương. Tôi cho Tiểu đoàn dừng lại, triển khai lực lượng vào khu vực mép tây phum Tà Y.

Chiều hôm đó, chúng tôi được lệnh cơ động về khu vực ngã ba Châu Chếch để cùng Tiểu đoàn 3 thực hiện đánh theo con đường lộ 241 từ đông sang tây tức là qua Kokixom tiến qua ngã ba Cốc, ngã ba Nhà Thương giải tỏa cho nhiều đơn vị của chúng ta đang bị kẹt ở đó. Tôi thấy tình hình ở phía nam Kokixom bờ đập nước rất dài, địch đã triển khai trận địa. Nếu như ta chỉ đánh chính diện theo hai mũi nam và bắc đường thì sẽ bị Pôn Pốt chống trả quyết liệt và yếu tố giành thắng lợi sẽ khó khăn. Tôi mạnh dạn đề nghị với đồng chí Thức, Trung đoàn phó xin Tiểu đoàn 1 không cơ động về ngã ba Châu Chếch mà ở lại khu vực nam Kokixom, chờ đến sáng mai, khi đội hình Trung đoàn tiến công (chủ yếu là Tiểu đoàn 3) đánh chính diện từ ngã ba Châu Chếch vào khu vực Kokixom, Tiểu đoàn 1 sẽ đánh từ phía nam lên. Mặc dù gặp tường ủi sẽ khó khăn nhưng đây là điều kiện chia cắt đội hình có tính nghệ thuật cao và ta sẽ giành thắng lợi lớn. Tôi hứa với cấp trên sẽ bắt được tù binh và thu được vũ khí mang về nộp lại cho Trung đoàn. Kiến nghị đó đã được đồng chí Tham mưu trưởng Sư đoàn Mười Kim cùng Ban chỉ huy Trung đoàn đồng ý. Sau đó chúng tôi triển khai ngay trong trong đêm, chiếm lĩnh trận địa ở phía nam đập nước.

Sáng hôm sau, khi những loại hỏa lực của Sư đoàn 7 bắn chế áp vào khu vực Kokixom, các đơn vị của Trung đoàn gồm Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 2 đánh chính diện từ ngã ba Châu Chếch vào khu vực Kokixom. Tiểu đoàn 1 vẫn án binh bất động, nghi binh địch. Khi các lực lượng của Tiểu đoàn 3 vào được một phần ba làng Kokixom, lực lượng địch ở đập nước khoảng 1 đại đội quay nòng súng hướng hỏa lực vào Tiểu đoàn 3 chặn đánh quyết liệt. Trong lúc địch đang tập trung đối phó hướng chính diện của Trung đoàn, tôi lệnh cho các đại đội thực hành xung phong từ phía nam đánh lên hồ nước. Hướng đánh bất ngờ từ phía sau lên đã làm cho chúng bị hở sườn, trở tay không kịp nên luống cuống chống trả rồi bỏ chạy. Trung đoàn giành chiến thắng, tiêu diệt được toàn bộ lực lượng ở khu vực đập nước. Riêng Tiểu đoàn 1 bắt 6 tên địch, thu gần 20 súng (trong số bị bắt có nhiều tên giữ chứng minh thư sĩ quan của cán bộ ta mà ngay hôm trước chúng đã tấn công sát hại). Sau trận đánh, Trung đoàn truy kích địch ra khỏi khu vực Kokixom đến ngã ba Cốc, khôi phục lại một số trận địa của các đơn vị bạn. Tiểu đoàn chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ, tiếp tục đứng chân ở Kokixom làm lực lượng dự bị tác chiến trong những trận tiếp theo. Đây là trận đánh cấp trung đoàn vận động tiến công tiêu diệt lực lượng địch mới tạm chiếm được gần 2 ngày đêm. Nghệ thuật của trận đánh là kết hợp tiến công chính diện với bên sườn bằng lực lượng mạnh, nhanh chóng phá vỡ thế trận của địch, chỉ huy dân chủ, kiên quyết.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 03:00:23 pm
Trong những ngày cuối tháng 12-1977, cấp trên yêu cầu tất cả lực lượng bộ đội Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên đất Campuchia rút về nước. từ ngày 4 đến 6-1-1978, Trung đoàn cơ động toàn bộ lực lượng về làm nhiệm vụ ở khu vực biên giới tỉnh Tây Ninh. Sau gần một tháng chiến đấu với đối tượng mới ở chiến trường mới, Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiểu đoàn 1 của chúng tôi lập công xuất sắc và được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Về đến biên giới, Tiểu đoàn 1 được phân công đóng ở khu vực đồn Cây Me. Đây là một dải đất nhô ra, nằm sâu sang đất Campuchia, nơi gần nhất cách đường quốc lộ số 1 khoảng 4km. Tại đây, đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ củng cố, huấn luyện, giữ vững khu vực vùng biên giới, đảm bảo an ninh chính trị, an toàn cho nhân dân.

Đầu năm 1978, bọn Pôn Pốt bổ sung quân số, củng cố lực lượng, đưa quân áp sát các đơn vị bộ đội ta ở khu vực biên giới. Cách đánh của địch lúc này chủ yếu là dùng phân đội nhỏ cấp đại đội luồn lách, tập kích vào các vị trí chủ chốt, nằm sâu trong biên giới gây tổn thất thương vong cho nhân dân. Chúng gài mìn, chông ở các hướng nghi có quân ta tiến công sang. Nắm vững quy luật hoạt động của địch chủ yếu diễn ra vào ban đêm, tôi tổ chức một đội bắn tỉa gồm 5 đồng chí trang bị súng bắn tỉa hiện đại bố trí bí mật từ ban đêm ở những khu vững trống trải và sát xuống phía bắc đường 1 để ban ngày từ những khu vực bí mật đó quan sát hành động của địch và thực hành bắn tỉa. Việc làm trên rất hiệu quả, mỗi ngày diệt được 5 đến 7 tên, hạn chế việc trinh sát nắm tình hình của địch, ban đêm chúng không dám tiến công đánh phá vào chốt của ta.

Một lần tôi cho khoảng 30 đồng chí từ 15 giờ triển khai đội hình sâu xuống nam Cây Me sát với khu vực đường 1, cơ động vừa bí mật vừa công khai để cho lực lượng Pôn Pốt quan sát thấy hành động của ta, dụ chúng chuyển sang tấn công theo hướng từ tây đánh sang, không đánh từ hướng nam lên. Đến chập tối, tôi cho Đại đội 2, Đại đội 5 triển khai chiếm lĩnh dọc bờ mương thoát nước, lấy khẩu đội cối 82mm của Đại đội 5 làm đơn vị chặn đầu. Đúng theo dự kiến, khoảng 23 giờ ngày 22-2-1978, địch cho gần 1 đại đội đi từ hướng tây theo con đường mương thủy lợi để tập kích vào khu vực đóng quân của Tiểu đoàn. Chờ cho lực lượng đi đầu vào cách khẩu cối 82mm khoảng 200m, tôi lệnh cho cối bắn chặn phía sau, các pháo thủ dùng súng bộ binh ở phía trước trận địa thực hiện nổ sùng và đại đội 2 từ bên trong xung phong đánh vào hai bên bờ mương. Đại bộ phận quân địch nằm gọn trong trận địa. Ta diệt tại chỗ 15 tên và thu được 12 khẩu súng, bị tổn thất nặng ở khu vực đồn Cây Me, trong một thời gian dài, địch không dám tới tập kích.

Sau hai năm cùng công tác, chiến đấu với cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1, đầu tháng 4-1978, tôi được cấp trên điều động lên làm Tham mưu phó Trung đoàn 141.

Lúc này, trên toàn tuyến biên giới, Pôn Pốt tăng cường lực lượng với quy mô lớn có nơi tới cấp trung đoàn, sư đoàn thiếu; thực hành lấn chiếm và đánh sâu sang đất của chúng ta, đặc biệt là khu vực Long Giang, Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nhiều trận chiến đấu cấp trung đoàn hoặc cấp trung đoàn tăng cường của sư đoàn đã diễn ra ở khu vực này. Các trận đánh nhỏ, lẻ liên tục xảy ra với chiến thuật ngăn chặn, be bờ, phòng ngự giữ vững từng tấc đất ở khu vực biên giới. Pháo binh Pôn Pốt liên tục cơ động theo trục đường 1 lên bắn sâu vào khu vực thị trấn Bến Cầu, Gò Dầu và nhiều nơi đông dân cư khác. Kẻ địch gia tăng áp lực biên gới khi ta đang có những điều chỉnh, củng cố và cài thế trận.

Trước tình hình trên, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các đơn vị chủ lực phản kích đẩy quân địch ra xa, không cho chúng bu bám, quấy rối nhân dân ở khu vực biên giới, đặc biệt là không được dùng pháo binh bắn vào khu vực thị trấn, làng mạc của nhân dân. Nhiệm vụ của Trung đoàn 141 là đảm nhiệm hướng tấn công chủ yếu của Sư đoàn 7 ở khu vực Tà Nô, Tà Y, theo đường 241 đánh chiếm Ốt-đô-miên-chay phát triển lên Kokixom, Cốc và Chốp. Sau thời gian nghiên cứu địa hình và lực lượng địch ở phía trước, Sư đoàn 7 mở đợt tấn công vào ngày 26-4-1978. Chỉ huy Trung đoàn là Trung đoàn phó Phạm Văn Thức (Trung đoàn trưởng Bế Ích Quân đang nghỉ phép, sau này là Sư đoàn trưởng 346 Quân khu 1. Hiện nay anh đã nghỉ hưu ở Cao Bằng).

Đêm 25-4-1978, toàn đội hình của Trung đoàn triển khai cơ động chiến đấu. Tiểu đoàn 3 từ tây nam Phước Trường vừa luồn sang bên kia biên giới thì gặp địch. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 vừa tới khu vực Tà Y cũng gặp địch ngăn chặn khi chưa bắt liên lạc được với trinh sát của Sư đoàn. Khả năng chiếm lĩnh vị trí trong khoảng thời gian từ 15 giờ đến 23 giờ là rất khó khăn. Tại Sở chỉ huy trung đoàn, đồng chí Thức, Chính ủy Nguyễn Văn Khải và tôi cùng hội ý quyết tâm thực hiện theo đúng kế hoạch, phương án đã được Sư đoàn phê duyệt. Đồng chí Thức lệnh cho các tiểu đoàn tiếp tục vòng tránh, khắc phục mìn, cơ động lực lượng vào vị trí quy định. Đến khoảng 3 giờ ngày 26 tháng 4, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 báo cáo đã vào chiếm lĩnh đúng vị trí. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 được trinh sát của Sư đoàn dẫn đường vào khu vực tập kết an toàn. Trong Sở chỉ huy Trung đoàn, không khí đã bớt căng thẳng, mọi người đã có thể cười nói vui vẻ.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 03:03:59 pm
Đến 5 giờ 30 phút ngày 26-4-1978, theo đúng giờ quy định, hỏa lực các cấp bắn vào các mục tiêu theo quy định. Các hướng mũi tấn công theo lệnh của Sư đoàn. Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 141 thực hành đánh chiếm cửa mở, bị địch ngăn chặn và gặp chướng ngại vật, khó vượt qua được. Trong lúc đó, Trung đoàn 165 đã mở cửa đánh chiếm khu vực Tà Nô, Tà Y. Trung đoàn 141 nhận lệnh chuyển hướng tấn công vòng theo hướng cửa mở của Trung đoàn 165, từ đây đánh lên Tà Y, khu vực ngã ba Châu Chếch và phát triển vào khu vực Kokixom. Tới 11 giờ trưa ngày 26, toàn bộ Trung đoàn đã vào địa điểm quy định. Sự chống trả của địch chủ yếu diễn ra trên hướng Trung đoàn 165. Đại bộ phận quân địch đang chiếm giữ khu vực nam Kokixom từ khu vực Toten xuống tới Brasot ở trên khu vực đường 1. Trung đoàn 209 cũng đã chiếm được Kokixom vỏng ra ngã ba Cốc. Các đơn vị bạn ở khu vực Bến Sỏi cũng đánh xuống khu vực ngã tư Nhà Thương, bắt liên lạc với nhau. Hết ngày 26 và 28, Trung đoàn 141 điều chỉnh đội hình và chuẩn bị làm nhiệm vụ vào khu vực Kokixom, ngã ba Cốc để thay cho Trung đoàn 209.

Trưa ngày 29-4, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 141 hành quân qua Kokixom, tiến vào ngã ba Cốc làm nhiệm vụ phòng ngự, giữ khu vực ngã ba thay cho Tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 209 cơ động về làm nhiệm vụ khác. Tiểu đoàn 3 vào Tà Oan, Tiểu đoàn 1 vẫn ở vi trí cũ. Ban chỉ huy Trung đoàn vào Kokixom. Chiều hôm đó, đồng chí Hảo – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 dẫn đội hình vào ngã ba Cốc làm nhiệm vụ nhận bàn giao trận địa của Tiểu đoàn 7. Do không giữ được bí mật nên cả ngày 28 và buổi sáng 29 lực lượng Pôn Pốt triển khai lực lượng, áp sát tiền duyên.

Trong lúc đang cơ động và điều chỉnh đội hình, đồng chí Chính ủy Trung đoàn Nguyễn Văn Khải đi xe Jeep vào thẳng bã ba Cốc. Khi đồng chí Khải tới ngã ba Cốc gặp Ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 cũng là lúc đại bộ phận chiến sĩ Tiểu đoàn 7 cơ động về phía sau. Quân Pôn Pốt thấy vậy tưởng lực lượng của ta rút, đã thừa cơ xung phong tiến công vào khu vực ngã ba Cốc. Lúc này các đơn vị của Tiểu đoàn 2 mới bước vào vị trí tập kết, chưa có hiệp đồng tác chiến và chưa nắm bắt được tình hình, mạng chỉ huy chưa có Bộ đội thấy vậy bỏ trận địa cơ động theo chiến sĩ của Tiểu đoàn 7. Đồng chí Chính ủy Trung đoàn cùng khẩu đại liên và tổ thông tin cố thủ tại khu vực ngã ba. Xung quanh ba phía bắc, tây, nam Cốc, bọn Pôn Pốt đã vây chặt. Đồng chí Khải điện về thông báo tình hình và yêu cầu chúng tôi chi viện khẩn cấp để giữ ngã ba Cốc và cứu đồng chí Khải.

 Tại Sở chỉ huy Trung đoàn, tôi và đồng chí Thức cùng trao đổi va đi đến thống nhất: đồng chí Thức chỉ huy chung và lệnh cho Tiểu đoàn 1 cơ động một đại đội bộ binh theo đường quốc lộ 241 từ Kokixom để lên ngã ba Cốc. Tôi làm việc với đồng chí Công – Tiểu đoàn trưởng thiết giáp của Lữ đoàn 22. Anh em rất hăng hái và cử một đại đội thiết giáp cơ động từ khu vực bắc Kokixom vòng đến ngã ba Tà Oan đánh vào ngã ba Cốc. Cách Ban chỉ huy Trung đoàn khoảng 200m, triển khai ngay đại đội cối 120mm. Lúc này đang có hai xe vận chuyển đại cối 120mm của sư đoàn dừng lại ở khu vực chỉ huy. Chúng tôi yêu cầu hai xe đạn cung cấp để cho trận địa cối thực hành nhiệm vụ. Hỏa lực cối 120mm bắn ngăn chặn địch ở hướng tây và hướng nam ngã ba Cốc, không cho chúng tiến vào chiếm khu vực ngã ba, còn lại một đại đội bộ binh với đại đội thiết giáp tiến đánh từ hướng bắc, đông bắc xuống. Sau hơn một tiếng đồng hồ chiến đấu, trận địa cối 120mm chúng tôi đã bắn chi viện trên 200 quả (Chưa bao giờ bắn nhiều đạn liên tục như vậy, súng rất nóng, anh em dội nước cho nguội lại tiếp tục bắn). Trên hướng bắc, đại đội thiết giáp tấn công bị quân của Pôn Pốt bắn cháy một xe. Đồng chí đại đội trưởng thiết giáp quê ở Hà Nội hy sinh trước khi đưa đại đội vào chiếm ngã ba Cốc để khôi phục, giữ vững trận địa. Đến khoảng 24 giờ ngày 29, Tiểu đoàn 2 vào chiếm lĩnh trận địa, giữ vững khu vực ngã ba Cốc. Trận chiến đấu để lại một bài học đắt giá về tình huống làm nhiệm vụ thay phiên chiến đấu phòng ngự trong lúc kẻ địch đã áp sát mục tiêu.

Từ ngày 1 đến ngày 10-5-1978, lực lượng Pôn Pốt liên tục đánh phá, tập kích đội hình Trung đoàn, đặc biệt là khu vực ngã ba Cốc của Tiểu đoàn 2 và khu vực của Tiểu đoàn 3. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 tăng cường đồng chí Dương Liễu – Tham mưu phó Sư đoàn xuống khu vực chỉ huy Trung đoàn (đồng chí Trung đoàn trưởng Bế Ích Quân đi phép chưa vào). Chiều ngày 5-5-1978, tôi và đồng chí Trung đoàn phó Phạm Văn Thức từ Sở chỉ huy Kokixom đi ra bờ tường ủi để chọn trận địa bố trí cho Tiểu đoàn 3 cơ động làm nhiệm vụ ngăn chặn tiêu diệt địch khi chúng phản kích vào khu vực ngã ba Cốc, thống nhất trận địa khu vực bố trí cho cán bộ Tiểu đoàn 3 và trợ lí cơ quan để triển khai. Đêm hôm đó, chờ đến 23 và 24 giờ, đồng chí Dương Liễu rất nóng lòng nên đã lệnh cho đồng chí Thức đi xuống kiểm tra, xem Tiểu đoàn 3 ở đâu để đưa vào đúng trận địa kịp chiến đấu ngày hôm sau. Đồng chí Thức đi được một đoạn, tôi cũng đi theo. Ra khỏi làng Kokixom khoảng 100m, vẫn lối mòn đi từ chiều hôm trước, đồng chí Thức tạt vào đi tiểu, một quả mìn nổ, đồng chí Thức bị thương. Đồng chí chỉ kịp kêu lên:

- Tôi bị thương, các đồng chí ơi…!

Tôi lệnh cho anh em cơ quan đến băng bó cho đồng chí Thức rồi đưa về Sở chỉ huy Trung đoàn. Sáng hôm sau, Sư đoàn điều một máy bay từ sân bay Tân Sơn Nhất lên đưa đồng chí Thức về cấp cứu ở bệnh viện tuyến trên. Do vết thương quá nặng, đồng chí Thức bị cưa một ống chân trái. Sáng ngày 6, Tiểu đoàn 3 cũng về được vị trí quy định để kịp thời làm nhiệm vụ chiến đấu.

Tại vị trí chiến đấu mới, Trung đoàn 141 tổ chức tác chiến nhỏ lẻ. Số bộ đội thương vong ngày một nhiều. Riêng Tiểu đoàn 2 chốt giữ ở khu vực ngã ba Cốc, mỗi ngày thương vong 20 đến 30 đồng chí. Ban chỉ huy Trung đoàn quyết định đề nghị Sư đoàn tổ chức vận dụng những trận đánh phục kích khác, không nên giữ chốt quá lâu. Tôi lên Sư đoàn gặp đồng chí Sư đoàn trưởng Lê Nam Phong. Tôi chào ông nhưng ông không trả lời. Vẻ mặt Sư đoàn trưởng đăm chiêu, bộ râu dài có lẽ cả tuần chưa cạo. Chắc ông rất đau lòng trước những thương vong của cán bộ chiến sĩ các đơn vị trong Sư đoàn. Sau giây lát trầm tư, Sư đoàn trưởng bảo tôi lên làm việc với Tham mưu trưởng Mười Kim. Sau khi báo cáo toàn bộ tình hình và đề xuất xin Sư đoàn không giữ ngã ba Cốc mà cơ động ra phục kích đánh hai, ba trận cấp trung đoàn để tiêu diệt một số sinh lực địch, tạo khí thế cho Trung đoàn làm nhiệm vụ tiếp theo. Đồng chí Tham mưu trưởng đồng tình. Sư đoàn trưởng cũng đồng ý. Khi tôi về, Sư đoàn trưởng còn dặn:

- Phải cố gắng làm sao để anh em trong Trung đoàn dừng sa sút ý chí.

Tôi chỉ biết vâng lời và nói:

- Thủ trưởng tin chúng tôi, còn nếu cứ dùng Trung đoàn 141 đảm nhiệm giữ các chốt như vậy thì không khác gì nhà khó tiêu tiền rách.

Câu nói đó đã làm cho thủ trưởng nở nụ cười và ông cũng tin tưởng Trung đoàn chúng tôi sẽ làm được nhiệm vụ như báo cáo.

Từ tháng 5 cho đến cuối tháng 6, Trung đoàn 141 tổ chức nhiều trận đánh nhỏ lẻ, phục kích cấp trung đoàn hoặc là tiến công trong đội hình của Sư đoàn, phát triển xuống phía bắc Brasot. Trung đoàn hoàn thành được nhiệm vụ và khí thế tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên rất nhiều.

Cuối tháng 6-1978, tôi được cấp trên điều lên làm Trợ lý Tác chiến của Sư đoàn 7.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 03:10:15 pm
*
*   *

Tôi lên Ban Tác chiến Phòng Tham mưu Sư đoàn, nhận nhiệm vụ tổng hợp theo dõi, nắm chắc tình hình hoạt động của các đơn vị, các hướng, đề xuất với Trưởng ban hoặc Tham mưu trưởng phương án chỉ đạo các đơn vị chiến đấu. Trưởng ban Tác chiến Sư đoàn lúc này là đồng chí Hà Thạch Cừ.

Có nhiều kỷ niệm trong những lần đi công tác. Tôi nhớ nhất là ngày 21-7-1978, tôi cùng đồng chí Mười Kim – Tham mưu trưởng Sư đoàn đi qua ngã ba Chóp để kiểm tra Trung đoàn 141. Đường trở về Sở chỉ huy Sư đoàn (nằm ở khu vực đông Kokixom khoảng 2km) là con đường đất, mùa mưa lầy lội khó đi. Thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh tới tăng cường cho Sư đoàn, cùng chúng tôi làm nhiệm vụ vận chuyển, cung cấp lương thực thực phẩm và cáng thương binh từ phía trước về phía sau hoặc giữ các chốt ở trên các trục đường. Khoảng 20 giờ khi về đến ngã ba Cốc, trên hướng quốc lộ 1 từ Xvay Riêng đến bắc Brasot, pháo sáng của Pôn Pốt bắn liên tục. Tiếng động cơ xe tăng và tiếng ô tô vận chuyển nghe rất rõ. Khoảng 22 giờ ngày 21, tôi và đồng chí Tham mưu trưởng về đến Sở chỉ huy Sư đoàn, tôi thắc mắc: “Tại sao đêm nay lại khác các đêm trước, pháo sáng Pôn Pốt bắn dọc quốc lộ 1 hơi nhiều”.

Sau này tìm hiểu mới biết đêm đó, Pôn Pốt đã cơ động 4 tiểu đoàn đặc công được huấn luyện rất cơ bản từ Phnôm Pênh theo quốc lộ 1 qua Xvay Riêng tập kết ở khu vực Brasot. Từ đó 4 tiểu đoàn này luồn lách vào cá mục tiêu ở bên trong trận địa phòng ngự của các đơn vị ta. Trên hướng bắc Brasot về hướng Toten, Kokixom, chúng sử dụng 1 tiểu đoàn. Lợi dụng pháo sáng và đêm tối, chúng luồn lách qua hầu hết các chốt phía trước của Trung đoàn 165 vào tới bắc làng Toten.

Điểm đầu tiên lính Pôn Pốt tập kích là một chốt của thanh niên xung phong (chốt này nằm sau trận địa Trung đoàn 165 trên 10km). Tại chốt, có 24 anh chị em được trang bị đủ súng chiến đấu làm nhiệm vu giữ đường, vận chuyển đạn bổ sung cho phía trước và cáng thương binh tử sĩ (nếu có) về phía sau. Bọn chúng đã vây và bất ngờ tập kích. Do quá chênh lệch về lực lượng, 24 thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh. Sau đó địch phát triển lên Kokixom, nơi bố trí hậu phương của Trung đoàn 141. Tại kho của Trung đoàn có bia, mì tôm, đường, sữa… Bọn chúng đã tranh nhau lấy, ăn uống rồi tiếp tục phát triển về hướng Sở chỉ huy Sư đoàn. Nghe tiếng nổ ngày một gần, tại hầm “tác chiến thất”, Sư đoàn đã nhắc nhở các đơn vị trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. 5 giờ ngày 22 tháng 7, khi trời vừa mờ sáng, một bộ phận đi đầu của Pôn Pốt vượt qua Kokixom vào cách Sở chỉ huy Sư đoàn khoảng 250m. Chúng cứ tiến theo con đường đất, men theo bờ ruộng để cơ động lên. Đồng chí Tham mưu trưởng lệnh cho tôi trực tiếp xuống chỉ huy đại đội vệ binh. Anh Bảy Giáp – Chủ nhiệm Công binh xuống chỉ huy tiểu đoàn thông tin đánh từ hướng bắc xuống mép làng Kokixom. Tôi chỉ huy đại đội vệ binh đánh chính diện cùng với khẩu trung liên đặt cách Sở chỉ huy Sư đoàn khoảng 100m bắn quét dọc đường. Và một trung đội vòng xuống phía sau bên sườn theo con lộ đánh lên. Trước hướng đánh chính diện của đại đội vệ binh, 10 tên bị tiêu diệt ngay trước trận địa, buộc chúng phải lùi về phía làng Kokixom, cũng là lúc tiểu đoàn thông tin từ hướng bắc đánh xuống tiêu diệt cơ bản đại đội đi đầu. Xác lính Pôn Pốt nằm đầy hai bên đường và bờ ruộng.

Khi đã chiếm được Kokixom, tôi cùng đại đội vệ binh phát triển lên tây Kokixom để truy kích lực lượng địch còn lại và phát triển xuống hướng Toten. Cùng lúc này, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 165, các lực lượng ở phía trước triển khai đón đánh tiêu diệt toàn bộ các lực lượng địch đã luồn lọt sâu vào trong trận địa ta. Khi chúng trên đường quay ra bị các Tiểu đoàn 5, 6 của Trung đoàn 165 tiêu diệt. Trong lúc đang nhắc nhở anh em thu dọn lương thực thực phẩm của Trung đoàn 141, tôi nghe thấy tiếng kêu từ trong bụi dứa gai gần dấy:

- Chú Lợi ơi, cứu cháu!

- Ai ở trong đó? Tôi hỏi.

- Cháu là liên lạc của chú Quân, Trung đoàn trưởng.

Tôi biết cậu này ở phía sau cùng hậu phương, giữ gìn căn cứ hậu cần của Trung đoàn. Tôi nói:

- Đồng chí ra đi, Pôn Pốt đi rồi.

- Cháu không thể ra được, chú cứu cháu.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 03:14:16 pm
Vậy là tôi phải tổ chức một trung đội mang dao phát bụi dứa từ ngoài vào. Khi có Pôn Pốt đến, đồng chí này chui vào được nhưng giờ chui ra không được. Sau hơn 1 giờ, trung đội vệ binh phát hết bụi dứa thì mới đưa được đồng chí liên lạc an toàn trở về.

Khi ra kiểm tra ở chốt thanh niên xung phong, thấy anh chị em bị chúng giết chết rất thương tâm. Ban Chỉ huy Sư đoàn tổ chức lực lượng khâm liệm đưa 24 tử sĩ ra đường, lên ô tô chuyển về phía sau. Đây là một tổn thất rất lớn của lực lượng thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã kề vai sát cánh chiến đấu không mệt mỏi với chúng tôi.

Dọc đường về Sở chỉ huy Sư đoàn, trong tôi luôn hiện lên câu hỏi: Tại sao một tiểu đoàn đặc công của Pôn Pốt lại luồn lách qua một đội hình bố trí trận Phải chăng đội hình phòng ngự của trung đoàn trải trên một chính diện quá dài (trên 20km), lực lượng chiến đấu quân số thiếu hụt nhiều. Trận địa chủ yếu bố trí ở các phum của dân bỏ lại nên khoảng cách là rất lớn. Địa hình hầu hết ruộng lúa đã được thủy lợi hóa nên có nhiều con kênh, mương thuận lợi cho bọn địch lợi dụng luồn sâu. Mặc dù vậy, cũng phải khách quan nhận xét rằng công việc nắm địch chưa chắc. Các phân đội phía trước (tiền duyên) không phát hiện được đường, hướng, cơ động của địch. Công tác hiệp đồng chiến đấu chi viện ban đêm chưa được huấn luyện nhiều. Khi Pôn Pốt nổ súng đánh chiếm chốt thanh niên xung phong, không có đơn vị nào tới ứng cứu chi viện. Chế độ trực chỉ huy, bảo đảm thông tin liên lạc ban đêm còn yếu nên không chủ động đối phó từ xa, để Pôn Pốt vào sát Sở chỉ huy, Sư đoàn mới biết.

Mùa khô năm 1978-1979, trên chiến trường đối diện biên giới của tỉnh Tây Ninh, lực lượng Pôn Pốt huy động có lúc tới 3 hoặc 5 sư đoàn. Chúng triển khai đội hình từ nam đường 1 cho tới bắc đường 1, đối diện với khu vực Gò Dầu của Tây Ninh. Hỏa lực, pháo binh 105mm, 122mm của chúng bắn phá liên tục vào các ấp của ta ở ven biên giới, đặc biệt là ở thị xã Tây Ninh, thị trấn Gò Dầu.

Quân đoàn 4 lúc này được cấp trên tăng cường Sư đoàn bộ binh 2 từ Quân khu 5. Toàn Quân đoàn có 4 sư đoàn bộ binh. Cùng chiến đấu với Quân đoàn có các đơn vị quân binh chủng, các đơn vị địa phương, đặc biệt là các trung đoàn chiến đấu của các tỉnh Tây Ninh, Long An.

Mùa khô năm 1978, địch chuẩn bị đánh chiếm những mục tiêu quan trọng của ta ở biên giới Tây Nam với quy mô lớn. Các cơ quan chiến dịch của Quân đoàn 4 được tăng cường thêm lực lượng, đặc biệt là cơ quan nắm địch, cơ quan tác chiến. Tháng 10 năm 1978, tôi được điều động về làm trợ lý Phòng Tác chiến Quân đoàn. Bộ Tư lệnh Quân đoàn lúc này có các đồng chí: Trung tướng Hoàng Cầm – Tư lệnh kiêm Chính ủy; Thiếu tướng Trần Nguyên Độ - Phó Chính ủy; Thiếu tướng Nguyễn Thế Bôn và Thiếu tướng Bùi Cát Vũ, là Phó Tư lệnh; Đại tá Lê Nam Phong – Tham mưu trưởng. Cơ quan Quân đoàn đóng ở rừng cao su Thanh Đức, phía bắc thị trấn Gò Dầu, nam thị xã Tây Ninh, phía đông của sông Vàm Cỏ. đây là một nơi rất thuận lợi cơ động lên Tây Ninh, qua khu vực Bến Sỏi, hoặc đường quốc lộ 1 qua Mộc Bài vào hướng đông tỉnh Xvay Riêng. Phòng Tác chiến do Thượng tá Trần Kính làm Trưởng phòng, Thủ tưởng Nam Phong thường gọi là “Kính tây”, bởi vì anh rất cao, to được học ở Học viện Phòng không của Liên Xô cũ. Phó phòng là đồng chí Trần Viết Phùng quê Thanh Hóa đã có nhiều năm công tác ở Phòng Tác chiến. Trong Phòng Tác chiến có rất nhiều bộ phận: bộ phận tổng hợp, bộ phận chiến trường, bộ phận sĩ quan hướng, bộ phận chỉ huy và ban bảo đảm vật chất.

Tôi được các đồng chí phân công về ban tổng hợp, nhiệm vụ là thường xuyên theo dõi nắm chắc hoạt động tác chiến của các đơn vị trong Quân đoàn trên chiến trường, quan hệ với cơ quan Phòng Quân báo để nắm hoạt động của địch tổng hợp báo cáo trực tiếp cho Trưởng phòng, cho Tham mưu trưởng và Bộ Tư lệnh; đề xuất các phương án tác chiến cũng như truyền đạt các chỉ thị, quyết định của Tư lệnh qua nhiều phương tiện xuống cho các cấp thực hiện. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, yêu cầu phải có tính khái quát cao, theo dõi tình hình phải liên tục, nhạy bén trong việc đánh giá và khi cấp trên kết luận để kịp thời truyền đạt những tinh thần đó xuống các đơn vị. Là trợ lý tổng hợp, tôi thường xuyên được dự các buổi giao ban của Bộ Tư lệnh Quân đoàn, nghe thông báo về địch, hoạt động của các đơn vị trong toàn quân. Điều này tạo cho tôi nhiều thuận lợi khi làm báo cáo tổng hợp hàng tuần, hàng tháng hoặc đột xuất báo cáo tình hình với Tham mưu trưởng hoặc Bộ Tư lệnh khi có yêu cầu. Phòng Tác chiến có 30 anh em, đại bộ phận là sĩ quan đã được đào tạo ở Học viện Lục quân. Có đồng chí đã qua chỉ huy tiểu đoàn, trung đoàn hoặc ở cơ quan trung đoàn, sư đoàn. Có đồng chi từ Học viện về thẳng Phòng Tác chiến. Trong bộ phận tổng hợp có ba anh em: tôi, đồng chí Phi, đồng chí Viễn. Hai đồng chí này cũng đã qua đào tạo ở Học viện. (Sau này, đồng chí Viễn xuống làm cán bộ Trung đoàn của Sư đoàn 7 và hy sinh ở trên chiến trường Campuchia. Còn đồng chí Phí đi nhận công tác thành lập Quân đoàn 7 ở Đà Nẵng, sau đó đơn vị này giải thể và đồng chí nghỉ hưu tại địa phương).


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 03:21:48 pm
Những ngày đầu ở Phòng Tác chiến, tôi chủ yếu làm quen, nắm tình hình, phương pháp làm việc với các đơn vị liên quan, nhất là với Phòng Quân báo vốn có quan hệ mật thiết với Phòng Tác chiến. Cũng may đồng chí Tám Danh – Trưởng phòng, đồng chí Nguyễn Văn Đán – Phó phòng đều là cán bộ của Trung đoàn 141 lên. Được sự hướng dẫn của đồng chí Trưởng phòng, các đồng chí đi trước trong Phòng Tác chiến và các cơ quan bạn, tôi dần dần nắm bắt được tình hình, hiểu được nhiệm vụ và bắt tay thực hiện theo sự phân công của cấp trên.

Đầu tháng 12 năm 1978, Pôn Pốt – Iêng Xari huy động 19 trong số 22 sư đoàn bộ binh và hầu hết các đơn vị binh chủng triển khai trên toàn tuyến biên giới Campuchia – Việt Nam. Trên hướng chủ yếu đối diện với Tây Ninh, Bình Phước và một phần Long An, chúng sử dụng 12 sư đoàn, gọi là quân khu Đông. Cũng đầu tháng 12, có một sự kiện hết sức quan trọng. Đó là ngày 2-12-1978, tại Xnuôn, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia ra đời. Mặt trận kêu gọi nhân dân Việt Nam và các nước yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới ủng hộ, sát cánh cùng nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Giữa tháng 12 năm 1978, Pôn Pốt huy động ba sư đoàn 703, 221, 340 tấn công vào khu vực tây Bến Sỏi. Tới ngày 20, địch chiếm được rừng Hòa Hội. Tại khu vực này, cối 120mm của chúng có thể bắn được vào thị xã Tây ninh. Một số đơn vị địch đã vào được rạch làng Đinh ở khu vực bắc, tây bắc Tây Ninh.

Chiều 19-12-1978, tại Sở chỉ huy Quân đoàn ở Thanh Đức, Tư lệnh Hoàng Cầm, Tham mưu trưởng Lê Nam Phong gọi Trưởng phòng Quân báo, Trưởng phòng Tác chiến và tôi lên. Vừa bước vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tham mưu trưởng nói:

- Phòng Tác chiến làm kế hoạch tiến công mùa khô để kịp báo cáo Bộ và chuẩn bị triển khai cho toàn Quân đoàn thực hiện.

Tư lệnh chỉ thị:

- Tình hình địch như các đồng chí đã biết, theo chỉ đạo của Bộ, Quân đoàn sẽ triển khai chiến dịch theo ba giai đoạn: Giai đoạn 1, mở chiến dịch phản công tiêu diệt 3 sư đoàn Pôn Pốt đã vào rừng Hòa Hội – làng Đinh, quy mô quân đoàn, thời gian trước 31-12-1978. Giai đoạn 2, mở chiến dịch tiến công trên toàn tuyến đường 10 Đôn So phát triển xuống đường số 1 chiếm Bra Nhây (cách tây Xvay Riêng 20km), sau đó nhanh chóng phát triển ra bờ đông sông Mê Kông chiếm giữ phà Niếc Lương (cả hai bên bờ). Gia đoạn 3, hành tiến vào thủ đô Phnôm Pênh. Cụ thể sử dụng lực lượng, đường, hướng tiến công giao Phòng Tác chiến đề xuất.

Trước khi chúng tôi ra về, Tư lệnh dặn thêm:

- Cố gắng đêm nay xong mang lên tôi ký, phải xong trước 22 giờ, sáng mai anh Lê Nam Phong thay tôi đi báo cáo Bộ ở Tân Sơn Nhất vì tôi còn chủ trì họp Đảng ủy ở nhà.

Nói xong, ông bắt tay từng người và dặn thêm:

- Cố gắng, cố gắng.

Tôi quan sát cứ mỗi lần bắt tay Tư lệnh lại nở một nụ cười, nét mặt thủ trưởng rạng rỡ tươi tắn.

Nhận lệnh xong, tôi theo Trưởng phòng Trần Kính về phòng làm việc, thầm nghĩ rằng một ngày không xa nữa đại quân của Quân đoàn 4 và các hướng khác cùng hội tụ ở Pnôm Pênh chứng kiến chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xari sụp đổ. Đồng chí Trần Kính thống nhất với tôi những hướng chính và các lực lượng tham gia trên từng hướng theo từng giai đoạn chiến dịch để thực hiện. Tôi đề xuất:

- Khi đánh chiếm Phnôm Pênh cần bổ bộ đường không khoảng một tiểu đoàn bộ binh ở U Đông và khu phà Đếch Đam (bắc Phnôm Pênh 30km) trên đường 5 để chặn đường tháo chạy của địch.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2019, 03:31:24 pm
Chiều hôm đó tôi cùng đồng chí Trưởng phòng làm các kế hoạch quyết tâm trên bản đồ Qua lớp kính bóng mờ, chúng tôi vẽ các hướng mũi chiến dịch cũng như các lực lượng tham gia từng giai đoạn, viết các bản thuyết minh để trình cho Tham mưu trưởng và Tư lệnh. Khoảng gần 22 giờ ngày 19, chúng tôi làm xong đem lên thông qua những nét cơ bản cho Tư lệnh và Tham mưu trưởng. Rất mừng là cả hai đồng chí đều đồng ý. Khi thông qua xong, Tư lệnh nhắc lại việc Tham mưu trưởng Lê Nam Phong đi báo cáo Bộ. Lúc này mới thấy đói và mệt. Tôi nói với đồng chí Trần Kính:

- Anh Ba cho anh em ra ngoài lai rai tý.

Sáng ngày 20-12-1978, tôi được đi cùng Tham mưu trưởng về Tiền phương Bộ để báo cáo ý định của Tư lệnh. Tại cơ quan Tiền phương Bộ ở khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, vào phòng làm việc, tôi thấy có đồng chí Lê Đức Thọ - ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí Thượng tướng Lê Trọng Tấn – Phó Tổng tham mưu trưởng và các sĩ quan của Bộ đang trực ở Sở chỉ huy Tiền phương. Sau khi nghe đồng chí Tham mưu trưởng Quân đoàn trình bày tình hình địch, tình hình ta và ý định tác chiến, đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Lê Đức Thọ rất đồng tình. Đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng nói thêm:

- Việc tiêu diệt 3 sư đoàn Pôn Pốt ở bắc đường 13 khu Hòa Hội rạch làng Đinh nằm trong kế hoạch tác chiến thường xuyên của Quân đoàn. Còn nhiệm vụ tấn công vào Phnôm Pênh, Quân đoàn đảm nhiệm hướng chủ yếu của toàn chiến dịch, theo hai bước. Bước 1, đánh phá khu vực đường 10 Đôn So, chiếm quốc lộ 1 Brasot, Bra Nhây và chiếm đông tây phà Niếc Lương. Bước hai, từ phà Niếc Lương tiến công vào giải phóng Phnôm Pênh. Bộ sẽ tăng cường cho Quân đoàn Sư đoàn bộ binh 2 (đang trong đội hình Quân đoàn), Trung đoàn đặc công 113 và một số đơn vị của địa phương. Trung đoàn hải quân 962 đang đứng ở khu vực Cần Thơ sẵn sàng theo đường sông Mê Kông lên tham gia tác chiến và một số phà giao thông công chánh của khu vực sông Tiền, sông Hậu để cơ động cho bộ đội vượt sông khi qua phà Niếc Lương. Không nên đổ bộ đường không ở U Đông bởi vì việc tổ chức chỉ huy và chi viện cũng rất khó khăn. Khi vào Phnôm Pênh, hiệp đồng chặt chẽ với cánh quân của Quân khu 9 từ Tà Keo theo đường 2 lên sân bay Pôchentông, hướng Quân đoàn 2 theo đường 4 từ đèo Piclin, Kôngpông Spư vào tây sân bay và Quân đoàn 3 có mũi từ Kôngpông Chàm qua phà Đếch Đam (bắc Phnôm Pênh).

Đồng chí Lê Đức Thọ dặn Bộ Tư lệnh Quân đoàn:

- Quân đoàn 4 tiến công kết hợp chặt chẽ với Binh đoàn 1 của bạn. Đây là lực lượng vũ trang tương đương cấp sư đoàn đầu tiên của lực lượng Mặt trận Đoàn kết dân tộc giải phóng của Campuchia. Quân đoàn cần tạo điều kiện để bạn trưởng thành, làm chủ khi ta giải phóng Phnôm Pênh. Quá trình chiến đấu khi vào thành phố phải hết sức giữ gìn kỷ luật, đặc biệt là kỷ luật dân vận, kỷ luật chiến lợi phẩm, tù hàng binh, đảm bảo chính sách của quân đội Việt Nam khi làm nhiệm vụ quốc tế. Đồng thời quân quản thành phố cho chặt chẽ, chú trọng xây dựng lực lượng cách mạng cho bạn.

Về Sở chỉ huy cơ bản của Quân đoàn, Tham mưu trưởng gọi tôi lên nhà làm việc của Tư lệnh. Sau khi Tham mưu trưởng báo cáo kết quả làm việc ở cơ quan Tiền phương Bộ, đồng chí Tư lệnh nhận định: kế hoạch Quân đoàn phù hợp với ý định của cấp trên và nhiệm vụ của Quân đoàn rất nặng nề. Đó là đảm nhiệm hướng chủ yếu khi tiến công đánh chiếm Phnôm Pênh. Bộ Tham mưu điều chỉnh giai đoạn 2, 3 tiến công giải phóng Phnôm Pênh theo hai bước như Bộ chỉ đạo để thống nhất cách gọi, cách điều hành trong Quân đoàn cũng như toàn chiến dịch. Khi nhận chỉ thị của Tư lệnh xong, tôi đặt vấn đề:

- Đề nghị Tư lệnh và Tham mưu trưởng cho tôi xuống chỉ huy một đơn vị nào cũng được, tôi hứa sẽ vào Phnôm Pênh đúng kế hoạch.

Tư lệnh cười và nói:

- Sớm muộn thì cậu cũng xuống chỉ huy đơn vị. Song lúc này thì chưa phải. Thôi yên tâm về làm cho tốt.

Ngày 22-12-1978, Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Quân đoàn triển khai nhiệm vụ thực hiện kế hoạch mùa khô năm 1978-1979, trước mắt là mở chiến dịch phản công ở tây bắc Bến Sỏi, khu vực rừng Hòa Hội và nam rạch Làng Đinh. Chiến dịch này do Sư đoàn 341, Sư đoàn 2 và một trung đoàn của Sư đoàn 7 cùng với các lực lượng vũ trang của địa phương tỉnh Tây Ninh phối hợp thực hiện. Chiến dịch tiến hành từ ngày 23 đến 27, khôi phục lại địa bàn đã mất và tiêu diệt được đại bộ phận lực lượng chủ lực của ba sư đoàn địch ở khu vực rừng Hòa Hội.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:39:15 pm
*
*   *

Sau khi thực hành phản công giành thắng lợi ở khu vực tây bắc phà Bến Sỏi, ngày 30-12, Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Quân đoàn triệu tập hội nghị quân chính tại khu vực Sở chỉ huy ở Pốt Môn, nam ngã tư Nhà Thương. Hội nghị tập trung quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và nhiệm vụ chung của Quân đoàn về tổ chức hiệp đồng với các đơn vị bạn thực hiện tiến công giải phóng Phnôm Pênh. Không khí trong hội nghị rất phấn khởi. Các đơn vị đều hăng hái nhận, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Đầu năm 1979, Quân đoàn 4 triển khai đánh phá tuyến phòng thủ đường 10 Đôn So. Đây là khu vực Pôn Pốt bố trí lực lượng tinh nhuệ gồm 6 sư đoàn chủ lực (703, 221, 340, 460, 805, 152) cùng các đơn vị binh chủng, chủ yếu trên trục đường 24, đường 109, từ khu vực phái bắc Xvay Riêng đến giáp biên giới Long An, Đồng Tháp và trên tuyến đông, tây bờ sông Mê Kông, đông tây phà Niếc Lương.

Chiến dịch mở màn đúng sáng sớm ngày 1-1-1979. Các đơn vị đang phòng ngự trực tiếp tiếp xúc với bọn địch từ đoạn nam, bắc cầu Đôn So trên tuyến đường 10 đã thực hành nổ súng. Chiến thuật của bọn Pôn Pốt là tập trung lực lượng phía trước án giữ vành đai cho nên ngày mùng 1, mùng 2 việc đột phá đánh chiếm đường 10 của ta gặp rất nhiều khó khăn, quân số thương vong cũng rất cao, mũi tiến công của Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 209 phải chiến đấu liên tục, đồng chí Siêu – Tiểu đoàn trưởng hy sinh. Sư đoàn 7 phát triển chậm. Các hướng khác cũng bị địch ngăn chặn quyết liệt. trong thời gian đó, các hướng chiến dịch trên quốc lộ 2, 3 do Quân khu 9 đảm nhiệm, quốc lộ 4 do Quân đoàn 2 đảm nhiệm phát triển thuận lợi.

Từ thực tế trên, Bộ quyết định chuyển hướng tiến công chủ yếu từ Quân đoàn 4 thực hiện sang cho hai đơn vị trên thực hiện. Hướng Quân đoàn 4 chuyển thành hướng thứ yếu của chiến dịch. Thời gian hiệp đồng ở Phnôm Pênh vào ngay 8-1-1978.

Trước diễn biến mới, Bộ Tư lệnh Quân đoàn lệnh chp các đơn vị nhanh chóng củng cố, tổ chức lực lượng và hỏa lực chi viện, tiếp tục tấn công. Tại Sở chỉ huy Quân đoàn, các đơn vị liên tục báo cáo tình hình chiến sự trên toàn mặt trận. Khu vực rắn nhất ở phía bắc cầu Đôn So trên tuyến đường 10 bị chọc thủng vào 23 giờ đêm 4 rạng ngày 5-1-1979. Các sư đoàn chủ lực của địch bị tiêu diệt một phần, số còn lại đang tháo chạy về hướng Niếc Lương. Nắm chắc tình hình, tôi báo cáo với Tham mưu trưởng:

- Đề nghị thủ trưởng lệnh cho pháo chiến dịch bắn chi viện tối đa (chỉ để một nửa số cơ số mang theo) cho các lực lượng của ta tiến công, đặc biệt là đánh chặn đoạn từ Bra Nhây đi về khu vực đông của phà Niếc Lương.

Tham mưu trưởng hỏi:

- Tại sao lại cho bắn nhiều đạn thế, sau này lấy gì để chi viện tiếp?

Tôi báo cáo:

- Đoạn đường 10 cứng nhất đã bị đột phá, như vậy là tuyến phòng ngự chiến lược ở bờ đông sông Mê Kông của Pôn Pốt đã bị mở toang, khả năng chiến đấu ngăn chặn của địch trong giai đoạn tiếp theo là điều rất khó xảy ra. Nếu có bắn hết đạn, chúng ta vào Phnôm Pênh sẽ lấy lại trang bị sau.

Đồng chí Tham mưu trưởng chỉ cười, sau đó bảo tôi gọi Chủ nhiệm Pháo binh Hoàng Đình Lương lên để Tham mưu trưởng triển khai cho cụm pháo chiến dịch 130mm bắn chặn vào các khu vực sâu trong hậu phương của địch, đặc biệt là trên tuyến quốc lộ 1 nhằm hạn chế việc cơ động pháo binh, xe tăng, thiết giáp của Pôn Pốt, không cho chúng hội tụ về khu vực phà Niếc Lương hoặc Phnôm Pênh. Đồng chí Chủ nhiệm Pháo binh nhận lệnh, triển khai ngay cho cụm pháo thực hiện.

Sáng ngày 6-1-1979, Quân đoàn 4 thành lập Sở chỉ huy tiền phương, đây là sở chỉ huy đốc chiến. Lúc này Quân đoàn giao nhiệm vụ hướng tiến công chủ yếu đánh chiếm Phnôm Pênh do Sư đoàn bộ binh 7 thực hiện. Sở chỉ huy tiền phương do Phó Tư lệnh Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ huy. Tôi được Phòng Tác chiến cử cùng với các đồng chí trợ lý trinh sát, pháo binh, thông tin, giúp việc cho Phó Tư lệnh. Gọi là Sở chỉ huy tiền phương của Quân đoàn, nhưng thực tế là đi cùng Sở chỉ huy Sư đoàn 7 trực tiếp bên cạnh Sư đoàn trưởng để theo dõi nắm tình hình, đôn đốc Sư đoàn thực hiện theo đúng quyết tâm ý định của Tư lệnh chiến dịch. Trung đoàn 165 là đơn vị đi đầu đội hình Sư đoàn, có nhiệm vụ đánh chiếm và giữ vững hai bên bờ đông tây phà Niếc Lương, làm bàn đạp cho đại quân vượt phà tiến vào thành phố Phnôm Pênh.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:41:27 pm
Buổi chiều cùng ngày, tiểu đoàn đầu tiên của Trung đoàn 165 đã tới phà, tại khu vực này Pôn Pốt chống trả yếu ớt. Xe, pháo trên đường chúng vứt lại rất nhiều. Tuy nhiên bên bờ tây phà Niếc Lương, địch đang làm công sự chiến đấu và dùng hỏa lực bắn sang bên bờ đông phà. Quân đoàn được Bộ tăng cường một số xuồng cao su để đưa bộ binh đánh chiếm bờ tây sông Mê Kông, nhưng đến lúc này trung đội thuyền cao su vẫn chưa có mặt. Hỏa lực pháo 105 của Pôn Pốt ở bờ tây sông bắn mãnh liệt vào khu vực đông phà từ 3 đến 6 km. Đồng chí Phó Tư lệnh với nét mặt đăm chiêu liên tục giục tôi:

- Lợi ơi, hỏi xem trung đội thuyền cao su đến nơi chưa? Kêu Trung đoàn pháo 210 lên triển khai trận địa ở ngay cầu Tà Pếch để chi viện cho lực lượng đánh chiếm bờ tây sông, yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ trong đêm nay để đảm bảo ngày mai đại quân vượt sông thực hiện theo đúng kế hoạch. Hỏi anh Trần Kính xem Trung đoàn Hải quân 962 cơ động đến đâu rồi? Yêu cầu tăng tốc độ lên…

Tôi liên tục truyền đạt ý kiến của Phó Tư lệnh cho các đơn vị, giữ liên lạc thường xuyên với sở chỉ huy cơ bản để nắm tình hình ở các hướng khác báo cáo lại cho Phó Tư lệnh. Đến khoảng 16 giờ ngày 6-1-1979, đại bộ phận xuồng cao su của Bộ Tư lệnh Công binh tăng cường đã đến khu vực của Sư đoàn 7 và lúc này nhiệm vụ đánh chiếm bờ tây sông mới bắt đầu thực hiện.

Cùng lúc, Sư đoàn 341 đã đánh chiếm được núi Sa Cách (phía đông phà Niếc Lương 15km). Đây là hướng thứ yếu của Quân đoàn theo trục lộ 103, bắc quốc lộ 1, Trung đoàn 270, đơn vị đi đầu của Trung đoàn 341 do Trung đoàn trưởng Lê Hải Anh chỉ huy, có một bộ phận đang tiến ra hướng đường số 1 phía đông phà. Đại tá Vũ Cao – Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 đến Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn. Tôi đón Sư đoàn trưởng đưa vào gặp Phó Tư lệnh. Sau khi báo cáo tình hình, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 xin Phó Tư lệnh cho phép Sư đoàn được vượt sông sớm và phát triển vào Phnôm Pênh. Phó Tư lệnh Quân đoàn trả lời:

- Trung đoàn 165 Sư đoàn 7 đã ém sát bờ đông bến phà, anh em đã chuẩn bị chiếm bờ phía tây theo kế hoạch như đã thống nhất. Bây giờ không nên thay đổi kế hoạch nữa.

Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 chấp hành mệnh lệnh nhưng trên gương mặt ông thoáng nét không vui. Đại tá Vũ Cao là cán bộ chỉ huy đã từng qua nhiều trận mạc, nhiều chiến dịch, nhiều ngưỡng lịch sử quan trọng. Tôi đoán vì kỷ luật quân đội và lợi ích chung của toàn bộ chiến dịch mà ông tỏ ra điềm tĩnh, vui vẻ. Giây phút vào Phnôm Pênh chỉ còn trong gang tấc, người chỉ huy nào cũng muốn được là đơn vị đầu tiên cắm lá cờ quyết chiến quyết thắng trên sào huyệt của quân thù. Tôi nghĩ nếu không vướng con sông quá rộng kia, chắc ông đã cùng đơn vị thẳng tiến theo đường 15 qua Prây Veng vào Hoàng Cung rồi cũng nên. Sư đoàn trưởng 341 ra về, tôi cũng ra phà kiểm tra bộ đội chuẩn bị vượt sông. Bắt tay ông, tôi nói:

- Chào thủ trưởng, xin gặp thủ trưởng ở thủ đô Phnôm Pênh.

Được pháo binh Sư đoàn và hỏa lực đi cùng của Trung đoàn trực tiếp chi viện, phân đội đầu tiên Trung đoàn 165 đã chiếm được mép bờ tây phà Niếc Lương. Các phân đội của chúng ta chiến đấu giành giật từng khu vực, từng phum, từng bãi trống để mở rộng phía tây phà, làm bàn đạp cho đại bộ phận lực lượng quân ta cơ động qua phà. Cùng lúc này, một số phà giao thông công chính của Cần Thơ cơ động lên, lần lượt vận chuyển các đơn vị bộ binh và binh khí kỹ thuật qua sông, mở rộng chiếm giữ khu vực đầu cầu ở phía tây phà.

Từ sáng đến chiều ngày 6-1-1979, đội hình của sư đoàn 7 nói riêng và đại bộ phận Quân đoàn 4 nói chung đã tiến sâu hơn 40 km từ đường 10 Chi Phu, Kôngpông Rồ đến khu vực Kôngpông Tapéc đến phà Niếc Lương.

Dọc đường đi xe, pháo của Pôn Pốt nằm ngổn ngang, bọn lính lần lượt ra hàng quân tình nguyện Việt Nam. Đến đâu cũng gặp người dân đông nghịt đứng hai bên đường, có nơi cả xe bò, xe trâu, xe đạp, xe máy lẫn lộn. Trong dòng người đang nườm nượp đi trên đường quốc lộ 1 từ phía tây về phía đông, có thể có cả lính Pôn Pốt, trà trộn trong dân, bởi vì tất cả đều một màu đen rất khó phân biệt. Từ người trẻ đến cụ già chỉ một mảnh áo rách lủng lẳng trên người. Đàn bà chỉ có chiếc khăn cà ma quấn lên đủ che bộ ngực, xà rông đen đã bạc phếch, tóc tai rối bời và nhem nhuốc. Quân tình nguyện Việt Nam đã nhường cơm, nhường gạo để người dân Campuchia có chút lương thực ăn dọc đường rở về phum sóc của họ hoặc ngược đường sang khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia sinh sống.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:44:17 pm
Để thực hiện bước 2 của chiến dịch, tại Sở chỉ huy Sư đoàn 7, khoảng 3 giờ sáng ngày 7-1-1979, Sư đoàn trưởng Đỗ Dũng tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ bổ sung và hiệp đồng chiến đấu. Ông phổ biến:

- Sau khi ta đã chiếm được phà Niếc Lương, Bộ tổng tham mưu Pôn Pốt đã điều sư đoàn 260 từ phía bắc về bảo vệ, tăng cường cho thủ đô Phnôm Pênh. Trung đoàn 108 vẫn bảo vệ khu Bộ tổng tham mưu, trung đoàn 331 không quân bảo vệ sân bay Pôchentông, sư đoàn 552 thủy quân lục chiến vẫn hoạt động trên sông ở khu vực Hoàng Cung (căn cứ ở khu vực Bầu Diều). Lực lượng xe tăng thiết giáp đang bảo vệ khu vực ga xe lửa trên đường ra sân bay Pôchentông. Còn lại các lực lượng tàn quân của các sư đoàn ở quân khu Đông chạy về đang dồn cục trên trục đường 1 và các cửa ngõ tiến vào thủ đô Phnôm Pênh. Trước tình hình như vậy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn hạ quyết tâm là không để chậm, không chờ đủ xe, một tiểu đoàn hoặc một trung đoàn cũng tiến công.

Đây là quyết định rất táo bạo, rất đúng lúc của Sư đoàn trưởng. Quyết tâm này được đồng chí Phó Tư lệnh Quân đoàn phê chuẩn và nhắc các trung đoàn khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi triển khai xong, tôi đi ra bến phà, đi sau đội hình của Trung đoàn 141, đến gặp và trao đổi với đồng chí Trần Văn Thuyết – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141. Được biết tiểu đoàn đi đầu của Trung đoàn 141 là Tiểu đoàn 3 do Tiểu đoàn trưởng Lê Minh Thư, Chính trị viên Nguyễn Tấn Phát chỉ huy cùng với trung đội xe tăng do đồng chí Trần Ngọc Giao chỉ huy (sau trận này, đồng chí Giao được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Trung đoàn chỉ có hai tiểu đoàn đủ phương tiện hành tiến. Lực lượng còn lại cơ động bộ khi nào có phương tiện thì cơ động theo.

Đúng 7 giờ 15 phút ngày 7 tháng 1 năm 1979, Tiểu đoàn 3 và trung đội xe tăng thực hành cơ động. Bầu trời đầu xuân, một buổi sáng đầy ánh nắng đang dần xua đi cái se lạnh ban đêm thời tiến mùa khô. Ôi sao mà thời tiết giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Phnôm Pênh gần giống nhau thế! Theo lệnh của Trung đoàn trưởng, đoàn xe băng băng trên đường nhựa nhằm thẳng hướng tiến về thủ đô Phnôm Pênh. Trên xe lá cờ đỏ sao vàng năm cánh bay phần phật. Các chiến sĩ Việt nam – Campuchia mặt mày rạng rỡ, súng cầm nhằm nhăm trong tay sẵn sàng nhả đạn vào đầu quân thù. Xe mới cơ động được 5 km, ra giữa cánh đồng trống, thì phát hiện địch đang triển khai pháo 130 mm, pháo 85mm hạ nòng nhằm vào đội hình hành quân cơ giới của Trung đoàn để chuẩn bị bắn. Trung đoàn trưởng hạ lệnh xuống xe và các phân đội triển khai chiến đấu, dùng hỏa lực chế áp chi viện cho phân đội bộ binh tiêu diệt lực lượng ở phía trước. Tiêu diệt địch xong, đội hình lại nhanh chóng tiếp tục hành quân. Trên các cánh đồng trống, chỉ còn những trận địa kháng cự yếu ớt của bọn tàn quân từ đông sông chạy về.

Tới cầu Mônnivông – cây cầu cửa ngõ vào thủ đô Phnôm Pênh, đồngg chí Tiểu đoàn trưởng báo cáo cầu còn nguyên vẹn. Tôi báo tin này về cho đồng chí Phó Tư lệnh và Sở chỉ huy cơ bản của Quân đoàn. Có lẽ lúc này các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn và chỉ huy Sư đoàn đang thở phào nhẽ nhẹ nhõm. Trong kế hoạch tiến công vào Phnôm Pênh, nếu cầu Mônivông bị kẻ địch đánh phá, sập hỏng thì khả năng tiến công sẽ chậm, việc đánh chiếm thành phố sẽ rất khó khăn và thương vong khó lường. Tại đầu cầu Mônivông,bọn Pôn Pốt chống trả quyết liệt. Đến khi trung đội tăng của đồng chí Trần Ngọc Giao cơ động lên chi viện thì bọn chúng bỏ chạy. Bộ đội ta tiếp tục vượt qua cầu Mônivông tiến vào nội đô. Đội hình của Tiểu đoàn 3, rồi các Tiểu đoàn 1, 2 của Trung đoàn 141 tiến đánh từng mục tiêu: khu Bộ tổng tham mưu Pôn Pốt ở Hoàng Cung, khu hành chính đầu não của chế độ Pôn Pốt, khu đại sứ quán…

Tại khu vực ga xe lửa, quân địch chống cự quyết liệt, bắn cháy của ta một xe tăng. 10 giờ 30 phút ngày 7 tháng 1 năm 1979, đơn vị đầu tiên của Trung đoàn 141 vào được Hoàng Cung. Tới 12 giờ trưa ngày 7 tháng 1, đại bộ phận lực lượng của Sư đoàn 7 cùng với các đơn vị của Binh đoàn 1, Quân đội cách mạng Campuchia đã hoàn toàn làm chủ thủ đô Phnôm Pênh. Theo kế hoạch, chúng ta hoàn thành nhiệm vụ sớm trước 24 giờ.

Cùng lúc này, đội hình Sư đoàn 341 đã vào Phnôm Pênh, chuẩn bị tiến ra hướng sân bay Pôchentông và Kôngpông Spư. Tội gặp lại Sư đoàn trưởng Vũ Cao, vẫn dáng thanh thản, nho nhã và điềm đạm. Tôi chào và bắt tay ông, cung cấp một số tình hình địch ở khu vực nhà ga xe lửa theo đại lộ ra sân bay, ông lại tiếp tục đi cùng Trung đoàn bộ binh 270 tới mục tiêu.

Vào Phnôm Pênh được ít bữa, tới tháng 3-1979, đồng chí Vũ Cao được Nhà nước bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 thay Tham mưu trưởng Lê Nam Phong đi nhận nhiệm vụ khác. Hơn 6 năm tôi được công tác dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông. Tôi học tập và luôn thán phục người cán bộ quân sự mà không bao giờ nóng tính, quát nạt, nặng lời với ai. Đức tính đôn hậu, luôn hăng say trong công việc, uốn nắn sửa cho chúng tôi mỗi khi gặp sai sót. Đó là bài học về đức độ, phẩm chất của người chỉ huy, luôn là gương sáng cho tôi học tập.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:48:29 pm
Sau hơn một tuần chiến đấu, Quân đoàn 4 đã cùng với đơn vị bạn và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xari, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh. Đất nước Campuchia thoát khỏi bàn tay đẫm máu của bọn đao phủ. Trang sử truyền thống của Quân đoàn lại ghi thêm một chiến công mới.

Chiều ngày 7 tháng 1 năm 1979, đại bộ phận Sở chỉ huy cơ bản của Quân đoàn dã vào trong thành phố. Bước đầu ở tạm khu vực Bộ tổng tham mưu Pôn Pốt tại khu vực Hoàng Cung, phía sát bờ sông Mê Kông. Chúng tôi báo cáo ngay tin chiến thắng về Bộ và liên lạc thông báo tinh hình với các hướng. Phía quốc lộ 2 từ Tà Keo đánh lên chiếm sân bay Pôchentông. Quân đoàn 2 theo quốc lộ 4 từ Kôngpông Xom qua Kôngpông Spư và Phnôm Pênh. Quân đoàn 3 từ hướng bắc Kôngpông Chàm vượt qua sông chiếm bờ tây phà U Đông. Tôi lo bố trí cho cán bộ đi cùng với Tư lệnh vào khu Bộ tổng tham mưu Pôn Pốt, sắp xếp vị trí nghỉ cho đồng chí Tư lệnh và đồng chí Tham mưu trưởng. Tôi đi kiểm tra một vòng quanh khu vực Phnôm Pênh, trên chiếc xe Jeep do đồng chí Bính lái. Hai anh em đi với 2 khẩu súng AK sẵn sàng chiến đấu. Thành phố Phnôm Pênh không phải như thành phố Sài Gòn ngày 30-4-1975 mà là một thành phố chết. Không dân, không chợ, không tiền, không hàng hóa, không trường học, không công xưởng nhà máy, không bệnh viện. Các đường hẻm đã bị xây chặn lại, đường nhựa bị đào thành các hố trồng chuối. Tôi đánh xe vòng ra khu vực sân vận động Ôlimpic, đây là sân vận động rất lớn do Liên Xô (cũ) xây dựng từ thời Xihanuc (1960). Trong sân bóng đá là những luống khoai lang, khoai mì trồng để lấy lương thực.

Tôi về Sở chỉ huy khoảng 19 giờ, lúc này pháo 37mm từ hướng nam Pôchentông bắn xối sả vào khu vực đường Mônivông thủ đô Phnôm Pênh. Hướng bên Bầu Diều, Pôn Pốt đã củng cố lực lượng, chúng sử dụng ĐKZ từ bờ đông sông bắn vào Hoàng Cung.Tôi đến Sở chỉ huy mời Tư lệnh sang nhà làm việc của Tham mưu trưởng để nghỉ. Bởi vì nhà Bộ tổng tham mưu Pôn Pốt nằm phơi sườn ra ngay hướng bờ sông. Điều trăn trở nhất là Trung đoàn hải quân 962 cơ động lên rất muộn nên lực lượng hải quân của Pôn Pốt ở khu vực Bầu Diều vẫn hoạt động bình thường. Đến sáng ngày 8-1-1979, Trung đoàn 962 lên đến nơi mới giải phóng khu vực Bầu Diều.

Trong lúc ngồi tổng hợp tình hình báo cáo về Bộ, đồng chí Tham mưu trưởng nói với tôi:

- Sao mãi không thấy Đài tiếng nói Việt Nam phát tin ta đã vào Phnôm Pênh rồi để cho các hướng, mũi biết, không dùng hỏa lực bắn vào Phnôm Pênh.

Đến bản tin lúc 21 giờ, Đài tiếng nói Việt Nam mới phát tin Quân giải phóng Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia cùng quân tình nguyện Việt Nam đã vào giải phóng Phnôm Pênh, tiêu diệt chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng. Lúc này đồng chí Tư lệnh, đồng chí Tham mưu trưởng mới thở phào nhẹ nhõ. Như vậy, lực lượng ta trên các hướng tiến công đã biết được tình hình, việc vào Phnôm Pênh không còn phức tạp nữa. Sau khi ký bản tổng hợp tình hình tác chiến trong ngày báo cáo về Bộ, đồng chí Tham mưu trưởng nói với tôi:

- Lợi kiếm cái gì nấu nồi cháo để tối nay mời anh năm, anh Ba qua ăn cho đỡ mệt (anh Năm là Tư lệnh Hoàng Cầm, anh Ba là Phó Tư lệnh Bì Cát Vũ).

Tôi triển khai rất nhanh. Khoảng 22 giờ đã có nồi cháo gà thơm phức đưa lên. Tôi qua mời Tư lệnh và Phó Tư lệnh. Ba mái đầu bạc ngồi chụm nhau, tôi nghĩ trong giờ phút phấn khởi hoàn thành nhiệm vụ, chắc Tư lệnh và Phó Tư lệnh rất vui. Nhưng không hiểu sao thấy nét mặt của Tư lệnh và Phó Tư lệnh có vẻ đăm chiêu. Tôi múc cháo và mời các thủ trưởng dùng cho nóng. Bưng bát cháo nóng chưa ăn, Tư lệnh vừa cười vừa nói:

- Anh Ba ơi, từ ngày Nam Phong lên ở gần với tôi, tôi lây bệnh nóng tính của nó cho nên sáng nay tôi đã nóng tính với anh Ba. Thôi có chuyện gì bỏ qua nghe anh Ba.

Đồng chí Tư lệnh nói xong, Phó Tư lệnh chỉ cười. Nét mặt của những người cao tuổi lại vui vẻ. Tư lệnh nói xong, Tham mưu trưởng cười rất to. Tôi ngồi ngoài thầm thán phục cách giải quyết mâu thuẫn của bậc tiền bối, những người thầy đi trước của mình quá siêu. Có lẽ sáng ngày 7-1-1979, khi đôn đốc thực hiện nhiệm vụ, giữa Tư lệnh và Phó Tư lệnh có chuyện gì khúc mắc mà chưa nói ra được. Tham mưu trưởng đã nghĩ ra nấu nồi cháo gà. Tôi nghĩ nồi cháo ngon lên rất nhiều lần vì niềm vui chung Quân đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cũng như nỗi ưu phiền giữa hai người được giải tỏa. Trên gương mặt của ba vị chỉ huy của Quân đoàn, trong niềm hân hoan, có ký ức của những chặng đường kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đồng chí Hoàng Cầm, đồng chí Nam Phong đều có mặt ở hầm Đờ Cát trong chiến dịch Điện Biên phủ 1954 và cùng đoàn quân vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội ngày 10-1-1954 lịch sử. Còn ngày 30-4-1975, cả ba đồng chí Hoàng Cầm, Nam Phong và Bùi Cát Vũ đều có mặt ở dinh Độc Lập. Hôm nay ngày 7-1-1979, ba đồng chí lại có mặt ở thủ đô Phnôm Pênh. Tôi nghĩ lúc này các đồng chí đang ôn lại chặng đường binh nghiệp của mình, những chặng đường lịch sử, những giờ phút vinh quang mà họ được là người trong cuộc.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:50:31 pm
Sáng ngày 8-1-1979, theo lệnh của Tham mưu trưởng, Phòng Tác chiến chúng tôi đi tìm khu vực bố trí sở chỉ huy. Theo bản đồ ở phía bắc Phnôm Pênh có làng Tun Cốc. Chúng tôi đến đó. Quả là một khu vực đẹp, nhà ở dạng biệt thự, phân ô như làng Đại học Thủ Đức của Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng hoang sơ không có người ở, cây cối rậm rạp. Phòng quyết định chọn địa điểm này làm Sở chỉ huy và được Bộ Tư lệnh đồng ý. Lần lượt các cơ quan của Quân đoàn cơ động vào vị trí triển khai làm nhiệm vụ tiếp theo.

Ngày 13-1-1979, Đại tướng Văn Tiễn Dũng – Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn đang làm nhiệm vụ quân quản tại thành phố Phnôm Pênh. Đồng chí biểu dương Quân đoàn đã đánh chiếm, giải phóng Phnôm Pênh sớm nhất trước 24 giờ quy định. Thời gian đó có rất nhiều ý nghĩa, tạo thuận lợi cho các hướng khác của chiến dịch cùng phát triển. Tổng Tham mưu trưởng nhấn mạnh đây là thắng lợi rất lớn nhưng chỉ là thắng lợi bước đầu, bởi vì toàn bộ đầu não của chế độ diệt chủng Pôn Pốt vẫn còn tồn tại. Sau này qua tìm hiểu từ tù hàng binh, chúng tôi được biết tập đoàn Pôn Pốt rút khỏi Phnôm Pênh khoảng 7 giờ sáng ngày 7-1-1979 bằng đường bộ rồi lên Pu Sát. Tôi liên tưởng tới phương án nếu trên quyết tâm sử dụng tiểu đoàn đổ bộ đường không xuống U Đông chặn từ sáng sớm ngày mùng 7 thì ó hiệu quả biết mấy. Biết đâu ta tiêu diệt được cơ quan đầu não bọn phản cách mạng Pôn Pốt ngay từ tháng giêng năm 1979.

Đến ngày 10-1-1979, đại bộ phận lực lượng các quân khu, quân đoàn bạn trên các hướng chiến dịch đều đến khu vực quy định. Quân đoàn 3 theo quốc lộ 6 qua Kôngpông Chàm, Kôngpông Thom tiến về tỉnh Bát Tam Băng ngã ba Xixô Phôn – Poi Pét giáp biên giới Campuchia – Thái Lan. Quân khu 9 vượt qua Sát. Quân đoàn 2 theo quốc lộ 4 vượt qua đèo Piclin đi vào Kôngpông Spư. Sau khi chạy khỏi Phnôm Pênh, các lực lượng phản động của Pôn Pốt tụ tập về căn cứ núi Kim Ri, khu vực Âm Leng (hướng tây của quốc lộ 5 và bắc của quốc lộ 4). Chúng tổ chức phản kích đánh chiếm lại những khu vực đã mất.

Trong khi bọn Pôn Pốt đưa lực lượng ra đánh chặn giao thông và chia cắt các thị xã, thì ngày 17-2-1979, Trung Quốc mở cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía bắc nước ta. Tại Sở chỉ huy Quân đoàn, đồng chí Tham mưu trưởng Lê Nam Phong nhận nhiệm vụ ra làm Tư lệnh Quân đoàn 1 – quân đoàn chủ lực của Bộ. Được tin đồng chí Tham mưu trưởng ra Bắc, chúng tôi đến thăm, chào thủ trưởng, ai nấy đều lưu luyến. Tôi nói:

- Anh ra đó cho em theo ra để cùng chiến đấu ở phía Bắc với anh.

Đồng chí Tham mưu trưởng trả lời:

- Thôi, để anh ra trước xem tình hình thế nào rồi tính sau.

Khi đồng chí Lê Nam Phong ra làm Tư lệnh Quân đoàn 1, Bộ điều đồng chí Đại tá Vũ Cao – Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 lên làm Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Ngoài việc san sẻ cán bộ ra các đơn vị phía Bắc, Quân đoàn làm nhiệm vụ quân quản tại thủ đô Phnôm Pênh, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ Campuchia, đồng thời tổ chức lực lượng phản kích tiêu diệt quân địch đang đánh vào đội hình các đơn vị bạn. Nhiệm vụ đầu tiên là giải phóng khu vực đoạn từ U Đông lên Long Véc, rồi từ Long Véc lên Kôngpông Chnăng. Tại khu vực này, Sư đoàn 330 Quân khu 9 cơ động vừa bằng xe dân sự, vừa bằng xe quân sự đã bị lính Pôn Pốt phục kích gây thương vong không nhỏ.

Ngày 23-1-1979, Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 9 được tăng cường Trung đoàn 1 của Sư đoàn 2 thực hành tiến công từ khu vực U Đông, nam Long véc. Sư đoàn 339 cùng với xe tăng thiết giáp đánh từ Kôngpông Chnăng xuống phía nam để bắt liên lạc với Sư đoàn 9 từ Long Véc đánh lên. Tới ngày 27-1, cơ bản các hướng đã liên lạc được với nhau. Đường 5 được giải phóng, tạo điều kiện để các đơn vị khắc phục hậu quả, cơ động lực lượng. Sư đoàn 339 tiếp tục làm nhiệm vụ ở khu vực Pu Sát, Lếch.

Tới đầu tháng 2, Quân đoàn 4 tiếp tục đưa các lực lượng lên giải phóng khu vực đông tây đường sắt từ ngã tư Cralanh cho đến Bâm Nức và Pu Sát. Giải phóng đến đâu, từng đoàn người dân ào ra đến dó. Dọc đường 5, từng đoàn nười dân Campuchia gầy gò, phờ phạc, rách rưới, đói khát từ các cánh rừng, các phum bản, trại tập trung đi ngược về hướng Phnôm Pênh tìm cuộc sống.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:53:41 pm
Đầu tháng 3 năm 1979, ta phát hiện khu vực Âm Leng cách tây bắc Phnôm Pênh khoảng trên 50km theo trục đường 114 từ U Đông đi vào có căn cứ của cơ quan đầu não Pôn Pốt. Tà Mốc trong Bộ Tổng tham mưu Pôn Pốt thường xuất hiện và chỉ đạo các cuộc phản kích, coi Kim Ri như Phnôm Pênh mới. Sư đoàn 74, sư đoàn 260, sư đoàn pháo binh 448 và đơn vị thiết giáp 337 chạy từ Phnôm Pênh vào khu vực này ẩn náu và đang có ý định tấn công ra đường 5 phản kích vào Phnôm Pênh. Trước tình hình trên, Bộ điều động Sư đoàn bộ binh 2 trả về đội hình Quân khu 5, tăng cường Sư đoàn 5 của Quân khu 7, Trung đoàn 250 thuộc Tỉnh đội Đắk Lăk cho Quân đoàn 4 để tổ chức chiến dịch truy quét vào sào huyệt Pôn Pốt ở Âm Leng. Chiến dịch truy quét diễn ra từ ngày 17-3 tới ngày 31-3 thì kết thúc. Ta giành thắng lợi lớn ở khu vực Âm Leng, diệt bắt nhiều tên địch, thu nhiều súng đạn và giải phóng được trên 10 vạn dân. Trong chiến dịch này, đồng chí Mười Kim – Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 hy sinh.

Giải phóng xong Âm Leng, cấp trên điều Thiếu tướng Nguyễn Thế Bôn – Phó Tư lệnh Quân đoàn ra Quân khu 4 công tác. Đại tá Nguyễn Văn Quảng từ Quân khu 7 về giữ chức Phó Chính ủy Quân đoàn. Đại tá Võ Văn Dần – Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 được bổ nhiệm Phó Tư lệnh Quân đoàn. Đại tá Đỗ Dũng – Phó Tham mưu trưởng Quân đoàn ra làm Phó Tư lệnh Quân khu Thủ đô.

Vào đầu tháng 6 năm 1980, trinh sát phát hiện ở khu vực Tà Sanh – Săm Nốp, phía nam đường 10 Pai Lin khoảng 15-20 km có chỉ huy của trung ương Pôn Pốt – Iêng Xari đang hoạt động. Bộ lệnh cho Quân đoàn tổ chức truy quét sào huyệt của Pôn Pốt càng sớm càng tốt. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn giao nhiệm vụ này cho Sư đoàn 341 cùng một phần lực lượng Sư đoàn 7, pháo chiến dịch cơ động vào khu vực nam Pai Lin để làm nhiệm vụ.

Tôi tháp tùng đồng chí Phó Tư lệnh Võ Văn Dần vào giao nhiệm vụ cho Sư đoàn trưởng 341 là đồng chí Hồ Đình Quý. Đoàn cán bộ đến khu vực Bát Tam Băng, đi theo đường 10 tới cua chữ V thì rẽ xuống phía nam, theo đường lâm nghiệp mà công binh mới tu sửa lại. Tôi điện cho Sư đoàn chuẩn bị mọi kế hoạch, khi đoàn vào sẽ làm việc ngay, sau đó ăn cơm nghỉ lại sáng hôm sau mới ra về. Địa hình từ cua chữ V vào đến Sở chỉ huy Sư đoàn là một khu vực rừng nguyên sinh rậm rạp, đường cơ động do ta mới mở và được tổ chức chốt gác chặt chẽ. Xe, pháo cơ động thường xuyên tới Sở chỉ huy Sư đoàn. Đây là đoạn đường bọn Pôn Pốt thường xuyên ra phục kích gài mìn bắn xe vận tải, xe tăng, xe cơ giới. Chúng ta mỗi lần qua đây ít nhiều đều bị tổn thất.

Khoảng 14 giờ tới Sở chỉ huy Sư đoàn. Sau khi thăm hỏi, tôi đề nghị đồng chí Sư đoàn trưởng cho làm việc ngay. Trong phòng làm việc của Sở chỉ huy Sư đoàn 341 đã có đầy đủ các thành phẩn theo quy định. Tấm bản đồ khu vực Tà Sanh – Săm Nốp, nơi có trung ương đầu não của Pon Pốt – Iêng Xari đang hoạt động cách Sở chỉ huy Sư đoàn chỉ khoảng 20km. Đồng chí Sư đoàn trưởng báo cáo toàn bộ tinh hình địch ở khu vực và phương án triển khai lực lượng, tác chiến của các trung đoàn. Đồng chí Phó Tư lệnh kiểm tra một vài đơn vị do các Trung đoàn trưởng báo cáo sau đó kết luận theo phương án của Sư đoàn đã chuẩn bị, lực lượng tăng cường của Sư đoàn 7 cũng như hỏa lực chiến dịch sẽ triển khai chi viện ở nam cua chữ V do Sư đoàn trực tiếp bố trí và giao nhiệm vụ.

Làm việc xong đã hơn 17 giờ. Đồng chí Hồ Đình Quý mới Phó Tư lệnh và đoàn của cơ quan Quân đoàn ở lại dùng cơm. Tôi phán đoán sớm muộn đêm nay hoặc sáng mai địch cũng phục kích hoặc gài mìn trên dọc đường vào. Chiều nay có rất nhiều bộ đội ra chốt đường và gần chục chiếc xe con cơ động từ ngoài đường 10 của chữ V Pai Lin vào Sở chỉ huy sư đoàn, chắc chắn các đài quan sát của Pôn Pốt đã phát hiện. Chúng tất nhiên không thể bỏ qua cơ hội quan trọng này. Tôi đề nghị đồng chí Phó Tư lệnh uống nước rồi lên xe cơ động ra ngay cua chũ V ở khu vực Binh đoàn 1 của bạn, nghỉ lại và dùng cơm ở đó cũng không muộn. Đồng chí Phó Tư lệnh nhất trí, chúng tôi chào Ban chỉ huy Sư đoàn ra về. Đến khoảng 22 giờ, đoàn xe của Phó Tư lệnh tới khu vực đường 10 Pai Lin.

Đúng như tôi dự kiến, sáng ngày hôm sau, đơn vị pháo binh của Sư đoàn 341 cơ động ra để nhận vật tư kỹ thuật đã bị Pôn Pốt phục kích, chúng gài mìn nổ một xe của ta. Dọc đường từ Sỏ chỉ huy Sư đoàn ra khu vực cua chữ V bọn Pôn Pốt đều tổ chức phục kích từng đoạn. Sư đoàn đã tổ chức lực lượng cơ động ra chi viện, giải vây khắc phục hậu quả khi xe bị nổ mìn. Đồng thời tổ chức dò, gỡ mìn suốt từ sở chỉ huy ra cua chữ V, phát hiện được ba khu vực đặt mìn, thu hơn 10 quả mìn chống tăng với hơn 20 quả mìn bộ binh cài ở ven đường.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 04:55:40 pm
Theo kế hoạch, tới ngày 30-6-1980, toàn bộ lực lượng tham gia đánh chiếm Tà Sanh, Săm Nốp đã hoàn thành nhiệm vụ. Tuy không tiêu diệt, không bắt được bọn đầu sổ Pôn Pốt – Iêng Xari nhưng một lần nữa ta đã phá tan căn cứ đứng chân của địch, buộc chúng phải cơ động xuống phía nam.

Bước vào mùa khô năm 1980, Quân đoàn 4 được tăng cường Sư đoàn 339 của Quân khu 9 (làm nhiệm vụ từ Pu Sat vào Lếch và ra tây Lếch theo con đường 56), Trung đoàn 14 công an vũ trang (làm nhiệm vụ bảo vệ tuyến biên giới Campuchia với Thái Lan ở cuối đường 56). Tại khu vực này, bọn Pôn Pốt có 5 nhà, bộ đội ta thường gọi đây là khu vực Năm Nhà. Tại khu vực Năm Nhà, Trung đoàn 14 triển khai đóng quân, làm bãi lên xuống cho trực thăng khi chi viện khẩn cấp hoặc cứu chữa thương binh, đại bộ phận các tiểu đoàn ra đóng ở khu vực tây của khu vực Năm Nhà và cách biên giới Thái Lan khoảng 3-5 km. Sau khi bị ta truy quét, bọn tàn quân Pon Pốt ở khu vực Tà Sanh cơ động về khu vực Nam Nhà, tây nam Pu Sát giáp với tỉnh Changvathuri của Thái Lan. Theo tin kỹ thuật từ Bộ Tổng tham mưu cung cấp, vị trí đài chỉ huy của bọn Pôn Pốt – Iêng Xari đang hoạt động ở khu vực nam của Năm Nhà khoảng 30km. Nhưng theo báo cáo của Trung đoàn 14, Trung đoàn đã nhiều lần hành quân truy quét đến vị trí đó nhưng kết quả vẫn không phát hiện được gì.

Tôi báo cáo với Phó Tư lệnh Võ Văn Dần có lẽ anh em xác định tọa độ chưa chính xác và nhân một lần đi công tác, tôi và Phó Tư lệnh cùng đi kiểm tra Trung đoàn 14. Khi xuống các tiểu đoàn, chúng tôi chọn khu vực đồi trống và cao nhất. Hôm đó thời tiết tốt, tại đây có thể nhìn thấy biển vịnh Thái Lan và doi đất phía nam của tỉnh Chanvathuri rất rõ. Vốn là dân trinh sát, tôi thao tác, xác định điểm đứng chân cho Tiểu đoàn 2. Rõ ràng, anh em xác định sai khoảng độ trên 10 km về phía nam. Khi có trực thăng lên đón đồng chí Phó Tư lệnh về, tôi bảo đồng chí phi công cho bay một vòng kiểm tra dọc biên giới và xác định lại tọa độ, vị trí Trung đoàn 14 cho thật chuẩn xác. Kết quả xác định trên máy bay cũng như khi đứng dưới đất hoàn toàn thống nhất.

Trong lần đi công tác này, có một đêm chúng tôi phải nằm lại giữa cánh rừng nam khu vực Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 14 khoảng 15 km. Đồng chí Tham mưu phó Trung đoàn dẫn đường và bố trí chúng tôi nghỉ đêm trên một đỉnh đồi.

Tôi hỏi:

- Tối nay nghỉ ở đó có đơn vị nào bảo vệ không đồng chí?

Đồng chí Tham mưu phó trả lời:

- Chúng tôi đã bố trí một trung đội bộ binh bảo vệ Phó Tư lệnh.

Tôi không nói gì, đi lên đó kiểm tra. Trời gần tối. Tôi trao đổi với anh Tư Kiếng – Phó phòng Trinh sát đi cùng, sau đó báo cáo với Phó Tư lệnh, không nên nghỉ lại trên đỉnh đồi, bởi vì nếu ta ở đỉnh đồi đêm nay sẽ bị Pôn Pốt tập kích vì quá trình đoàn đi từ sáng tới giờ ít nhiều trên các đài quan sát chúng đã phát hiện được, đề nghị Phó Tư lệnh quay lại ngủ ở dưới bờ suối. Đồng chí Phó Tư lệnh lúc đầu ngần ngừ, sau thấy tôi phân tích đồng chí cũng nhất trí và xuống bờ suối mắc võng nằm. Chúng tôi triển khai đội hình canh gác bảo vệ và triển khai nấu cơm tối, ăn xong đâu đấy vào các vị trí để sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ lực lượng để ngày mai tiếp tục đi trinh sát các mục tiêu tiếp theo.

Đêm hôm đó tôi và anh Tư Kiếng bẻ lá cây rải lên những phiến đá nằm nghỉ cạnh đồng chí Phó Tư lệnh. Hết một vài câu chuyện, mệt quá ai cũng thiếp đi. Tôi đi kiểm tra việc canh gác ở các khu vực, nhắc nhở anh em sẵn sàng chiến đấu đề phòng quân Pôn Pốt tập kích.

Đúng như dự kiến, khoảng 1 giờ sáng, trên khu vực đỉnh đồi nơi có trung đội bộ binh của Trung đoàn 14 đóng giữ, bọn Pôn Pốt đã sử dụng B40, B41 tập kích trong khoảng 5 phút. Hậu quả một đồng chí ta hy sinh và hai đồng chí bị thương. Ở dưới suối, Phó Tư lệnh cùng với chúng tôi vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, nhưng không có gì xảy ra.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi tổ chức cắt đường, vòng tránh đi đến khu vực mục tiêu quy định để bố trí tiểu đoàn cuối cùng cho Trung đoàn 14 làm nhiệm vụ lâu dài ở khu vực biên giới Thái Lan và Campuchia. Buổi trưa hôm đó, đoàn ăn cơm vắt với cá khô chiên. Bốn anh em ngồi vây quanh chiếc thau đựng cá khô. Ăn xong, đứng dậy uống nước, đồng chí phục vụ lại cầm chiếc thau đi. Khi nhắc cái thau lên thì tất cả đều xanh mắt bởi dưới đít thau là một quả mìn của bọn Pôn Pốt gài, không hiểu lý do gì mà nó không nổ. “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, giả sử quả mìn nổ trong lúc mọi người đang ăn cơm thì không biết hậu quả sẽ như thế nào…


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Hai, 2019, 05:00:19 pm
Vào đầu mùa khô năm 1981-1982, Sở chỉ huy Quân đoàn 4 rời khỏi Tun Cốc, Phnôm Pênh ra khu vực U Đông. Trước mắt ở tại khu trường học của U Đông, nơi Sở chỉ huy Sư đoàn 7 đã rời đi vào khu vực sân bay Kôngpông Chnăng. Đại bộ phận Quân đoàn triển khai xây dựng lán trại ở khu vực Long Vét. Tại sở chỉ huy Quân đoàn ở U Đông, đầu tháng 1-1981, đồng chí Tư lệnh Hoàng Cầm, người Tư lệnh đầu tiên từ ngày thành lập Quân đoàn 20-7-1974 tới nay được trên điều động ra làm Tư lệnh Quân khu 4. Người thay đồng chí Hoàng Cầm là Đại tá Nguyễn Văn Quảng – Phó Chính ủy Quân đoàn. Trong buổi liên hoan chia tay đồng chí Tư lệnh ra Quân khu 4, đồng chí Hoàng Cầm nói:

- Anh Năm (tức đồng chí Nguyễn Văn Quảng) cho Lợi đi theo tôi ra Quân khu 4 công tác để có điều kiện được gần gia đình.

Tôi không nói gì, chờ ý kiến của Tư lệnh mới:

Tư lệnh Nguyễn Văn Quảng nói:

- Không được đâu anh Năm ơi, Lợi là tác chiến “cưng” của tôi, anh để cậu ấy ở lại cùng cơ quan tác chiến Bộ Tham mưu giúp Bộ Tư lệnh trong việc thực hiện các kế hoạch tác chiến. Có gì sau này tính sau anh Năm ạ.

Đúng vậy, đồng chí Tư lệnh mới cũng rất quý mến tác phong làm việc của tôi. Mỗi khi Tư lệnh kết luận sau hội nghị giao ban buổi sáng, tôi tổng hợp các ý kiến và nhanh chóng viết những bức điện triển khai cho các đơn vị thực hiện theo quyết định của Tư lệnh. Thường các bức điện tôi viết, đồng chí đều nhất trí và cho rằng làm như vậy rất nhanh nhạy và kịp thời. Đồng chí luôn động viên và nhắc nhở tôi công tác cho tốt. Một điều trùng hợp đồng chí cũng rất thích thể thao, ham mê bóng đá. Tôi cũng vậy. Năm 1982, World cup ở Tây Ban Nha, đội Ý vô địch. Mỗi buổi sáng trước lúc giao ban, đồng chí hỏi tôi tình hình các đội đá trong đêm thế nào? Biết ý Tư lệnh, tôi chuẩn bị báo cáo, đầu tiên là thông báo kết quả các trận đá trong đêm của các bảng trong vòng chung kết để Tư lệnh và cả hội nghị cùng nghe, sau đó mới tới báo cáo tình hình hoạt động của địch, của Quân đoàn để Tư lệnh kết luận. Sau này tuy đồng chí không ở Quân đoàn nữa, khi tôi đi học ở Học viện Quốc phòng trở về Quân đoàn nhận công tác, nhân buổi đến thăm trong Sở chỉ huy Quân đoàn, nghe tin tôi về đồng chí bước ra khỏi phòng họp, ra tận ngoài sảnh ôm tôi và nói “tác chiến cưng, tác chiến cưng”. Đồng chí rất chân tình, luôn dành tình cảm quý mến cho những trợ lý như chúng tôi. Ngược lại, tôi mãi mãi không bao giờ quên được tình cảm của thủ trương, người đáng tuổi như cha chú đối với cán bộ cấp dưới. Đây cũng là tấm gương, bài học quý để tôi cư xử với mọi người, đặc biệt là cấp dưới khi mình ở cương vị chỉ huy. Tháng 9-1981, tôi được phong quân hàm thiếu tá, trước niên hạn một năm. Đây là một vinh dự lớn đối với tôi, một trợ lý cơ quan cấp chiến dịch.

Vào đầu mùa khô 1981-1982, có một vấn đề dặt ra là tổ chức vận chuyên trên đường 56 để đưa lương thực, thực phẩm đảm bảo cho Trung đoàn 14 hoạt động trên khu vực biên giới Campuchia và Thái Lan. Quân đoàn sử dụng một Tiểu đoàn vận tải 6 khoảng 50-60 ô tô cùng Sư đoàn 339 bảo vệ đường 56 để tham gia vận chuyển hàng từ Lếch, tức là Sở chỉ huy Sư đoàn 339 vào khu vực Năm Nhà (cách biên giới Campuchia – Thái Lan 20km). Từ Nhăm Nhà sẽ tải bộ xuống các tiểu đoàn của Trung đoàn 14.

Tư lệnh giao cơ quan làm kế hoạch vận chuyển và bảo vệ trên đường 56 với yêu cầu xe đi và về không gặp nhau trên đường mà chỉ gặp nhau ở khu vực dừng chân nghỉ lại ban đêm. Một số cơ quan có đề xuất phương án nhưng Tư lệnh chưa đồng ý. Một hôm đồng chí Tư lệnh gọi tôi lên giao nhiệm vụ:

- Có lẽ việc này giao cho Phòng Tác chiến thì không đúng lắm nhưng thôi Lợi cứ làm kế hoạch đi, để làm sao vận chuyển cho khoa học, chuyển được hàng mà xe không chồng chéo trên đường, đảm bảo an toàn là yêu cầu cao nhất.

Tôi về báo cáo lại Trưởng phòng Phạm Hựu, đầu tư nghiên cứu hai ngày hai đêm và lập một kế hoạch quy trình để vận chuyển từng cung trạm đi, về, nơi dừng lại, các chốt bảo vệ trên dọc tuyến đường 56 sao cho thuận lợi và bảo vệ xe ra vào được an toàn theo đúng yêu cầu của Tư lệnh. Tôi lên báo cáo với Bộ Tư lệnh và các cơ quan của Quân đoàn. Sau khi phương án được thông qua, tôi được phân công xuống Lếch, nơi có Sở chỉ huy Sư đoàn 339 do anh Tư Mai làm Sư đoàn trưởng để triển khai các khu vực chốt theo kế hoạch mùa khô đến là bắt tay ngay vào vận chuyển. Tôi và hai đồng chí trợ lý của cơ quan đi cùng xuống làm nhiệm vụ truyền đạt cho các đơn vị. Xong, chúng tôi về Kôngpông Chnăng nghỉ tạm – nơi Quân đoàn tổ chức đánh bắt cá, làm thực phẩm phơi khô để dự trữ cung cấp cho các đơn vị tác chiến phía trước.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 02:58:30 pm
Sáng hôm sau, trên đường từ Kôngpông Chnăng về Sở chỉ huy Quân đoàn, đến nam khu vực thị xã, gặp một con rắn, tôi hô anh em dừng lại đuổi theo vào trong rừng để bắt. Nhưng không bắt được vì lỗ nẻ quá lớn, nó luồn lách mất. Quay lại trên chiếc xe Jeep chở ít muối và cá về cho Phòng Tác chiến. Đi được một lúc thì ngủ gà ngủ gật. Tập bản đồ tôi không gập lại mà cuộn tròn như một ống để ở chân. Xe Jeep đi lúc lắc, nó rơi lúc nào không biết được (xe Jeep không có thành chắn như xe Uoat). Khi về tới Sỏ chỉ huy Tun Cốc mới phát hiện cuộn bản đồ đã rơi mất rồi. Tôi báo cáo với Phòng, báo cáo với Bộ Tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân đoàn, đề phòng nếu kẻ địch nhặt được, chúng sẽ tổ chức đối phó, gây khó khăn cho nhiệm vụ vận chuyển của Quân đoàn. Trong thời gian này, tôi liên tục theo dõi tin kỹ thuật xem bọn Pôn Pốt có nhặt được kế hoạch vận chuyển của ta hay không. Đúng lúc mới được phong thiếu tá, tôi phải làm bản kiểm điểm từ cơ sở trở lên, nhận mức độ cảnh cáo. Cuộc họp của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn cũng có ý kiến lên Bộ hạ một cấp nhưng nhìn chung ý kiến đa số vẫn là cảnh cáo. Cuối cùng, quyết định của Bộ ủy quyên cho Tư lệnh Quân đoàn cảnh cáo tôi về mặt thiếu trách nhiệm làm mất tài liệu. Rất may, là trong mùa khô năm đó, hoạt động vận chuyển vẫn vận hành theo kế hoạch. Tất nhiên tôi có kiến nghị với Bộ Tư lệnh Quân đoàn tăng cường sử dụng các lực lượng chốt giữ trên dọc đường 56 đông hơn và nghiêm ngặt hơn. Kết quả trên mấy trăm tấn hàng ra đến khu vực Năm Nhà an toàn. Đoàn xe không bị tập kích và cũng không bị cài mìn đánh phá. Dù sao, đó là một bài học để đời trong binh nghiệp của tôi.

Bên cạnh nhiệm vụ tác chiến đánh địch, lúc này quân tình nguyện Việt Nam còn tập trung làm nhiệm vụ vận động quần chúng xây dựng chính quyền cách mạng. Quân đoàn không những chỉ huy 4 sư đoàn, 1 trung đoàn biên phòng, các binh chủng, lại thêm các đoàn quân sự của các tỉnh miền Tây lên giúp bạn (Bến Tre giúp tỉnh Kan Đan, Hậu Giang giúp tỉnh Kôngpông Chnăng, Tiền Giang giúp tỉnh Pu Sat) và một số tỉnh bạn tham gia trong các đoàn quân sự. Nhiệm vụ chính lúc này là bảo vệ các trục đường giao thông, xây dựng lực lượng vũ trang và giúp nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống, kịp thời cấy hái trồng trọt vào mùa mưa.

Tháng 10 năm 1980, Quân đoàn thực hiện 2 sự kiện lớn. Một là tổ chức cho Sư đoàn 341 cơ động từ khu vực Pai Lin đường 10 tây Bát Tam Băng về bàn giao cho Quân khu 4 tại Nghệ An. Kế hoạch này đã được chuẩn bị từ cuối năm 1979 cho tới thời điểm này mới thực hiện được. Hai là Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn chỉ đạo các đơn vị quán triệt Quyết định 800 QĐ/QB ngày 30-9-1980 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội nhằm thống nhất cả ý chí hành động của cán bộ, chiến sĩ, tăng cường vai trò tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, chống chủ nghĩa cá nhân cục bộ. Có lẽ đây là một việc làm bước ngoặt trong tổ chức lãnh đạo chỉ huy của quân đội ta. Từ trước đến nay vẫn hai người, chỉ huy và chính ủy song quyền, nay chỉ có một người chỉ huy trong tập thể Đảng lãnh đạo.

Tháng 10 năm 1982, tại Sở chỉ huy Quân đoàn ở căn cứ Long Vét, Đại tá Võ Văn Dần được Bộ Chính trị bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Quân đoàn thay đồng chí Nguyễn Văn Quảng chuyển công tác về Bộ Lao động và Thương binh và Xã hội. Ngày 6 tháng 11 năm 1982, hai đồng chí tư lệnh cũ và mới bàn giao cho nhau. Từ tháng 11 năm 1982, đồng chí Võ Văn Dần đảm nhiệm công việc mới.

Cuối năm 1982, Quân đoàn 4 tập trung kiện toàn, tổ chức lại lực lượng, củng cố, giữ vững địa bàn chuẩn bị bàn giao một số đơn vị ở lại làm nhiệm vụ với các mặt trận trên hai chiến trường (tuyến đường 5 và tuyến đường 6), đại bộ phận lực lượng hành quân về nước nhận nhiệm vụ mới.

Tại Sở chỉ huy cơ bản Long Vét, các nhà lá được xây dựng khang trang, điện nước đầy đủ. Đây là một sở chỉ huy dã ngoại hoàn toàn do cơ quan Quân đoàn xây dựng đứng chân tự làm. Các bộ phận đều có tổ chức tăng gia sản xuất cải thiện đời sống. Phòng Tác chiến lúc này do đồng chí Phạm Hựu cán bộ Sư đoàn 7 lên làm Trưởng đoàn. Cán bộ được bổ sung nhiều từ các đơn vị lên hoặc ở các học viện về. Một hôm, Tham mưu trưởng gọi Trưởng phòng Phạm Hựu và tôi lên giao nhiệm vụ làm kế hoạch thực hiện nhiệm vụ mới cho Quân đoàn. Kế hoạch phải thể hiện được hai nội dung cơ bản. Một là đói với các đơn vị còn ở lại làm nhiệm vụ chiến đấu phải củng cố bổ sung trang bị, tổ chức biên chế hoàn chỉnh, điều chỉnh lực lượng phù hợp trong đội hình Mặt trận 479, Mặt trận 979, duy trì sức chiến đấu trong suốt mùa khô và sẵn sàng cơ động bổ sung cho các đơn vị này khi có yêu cầu. Yêu cầu thứ 2 đối với các đơn vị về nước là phải tổ chức hành quân công khai, nghi lễ long trọng, đúng thủ tục, quy định, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người và các phương tiện kỹ thuật, đúng thời gian, giữ nghiêm kỷ luật.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:01:24 pm
Chúng tôi bắt tay xây dựng kế hoạch. Đầu tiên là điều chỉnh lực lượng, tổ chức bàn giao các đơn vị cho Bộ Tư lệnh các mặt trận tại Campuchia. Đầu tháng 3-1982, bàn giao Đội điều trị 6 và Sư đoàn 9 (đang đứng chân hoạt động ở khu vực tây Quốc lộ 6 đoạn từ bắc Kôngpông Thơm lên đến khu vực Xiêm Riệp cho Mặt trận 479. Đầu tháng 4, bàn giao Sư đoàn 339, Trung đoàn 14 biên phòng, Trung đoàn công binh 550, Đoàn chuyên gia quân sự 9903 của Tiền Giang, Đoàn chuyên gia quân sự thuộc Binh đoàn 2 cho Mặt trận 979 và địa bàn đảm nhiệm từ khu vực Pu Sat – Lếch, nam bắc đường 56 kéo dài cho tới khu vực biên giới Thái Lan – Campuchia thuộc phía tây tỉnh Pu Sat. Lực lượng về nước được tổ chức hanh quân công khai theo hai hướng. Hướng đường bộ từ khu vực U Đông qua Phnôm Pênh theo đường 1 qua phà Niếc Lương về Xvay Riêng, Mộc Bài, về các căn cứ của Quân đoàn. Hướng đường sông từ khu vực bến cảng ở cầu Sập cách bắc Phnôm Pênh khoảng 10km, theo đường sông Mê Kông về cập bến Tân Cảng, Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ động đường sông chủ yếu là vận chuyển binh khí kỹ thuật, phương tiện nặng. Ngoài kế hoạch hành quân, còn phải nghiên cứu vị trí đứng chân cho các đơn vị (lúc này có Sư đoàn bộ binh 7, Lữ đoàn pháo binh 434, Lữ đoàn phòng không 71, Lữ đoàn tăng 22, các đơn vị trực thuộc và cơ quan quân đoàn bộ).

Ngày 20-4-1983, tôi được đi cùng đồng chí Tư lệnh lên Bộ Tư lệnh 719 để thông qua kế hoạch. Tại Sở chỉ huy, tôi thấy Tư lệnh 719 – Thượng tướng Lê Đức Anh cùng các cơ quan của Bộ Quốc phòng đã có mặt đông đủ. Nhiều lần tôi được đi cùng với các Tư lệnh Quân đoàn lên thông qua kế hoạch tác chiến mùa khô, mùa mưa. Lúc nào cũng thấy Tư lệnh 719 đăm chiêu suy nghĩ công việc. Ông ít nói và rất hiếm khi thấy ông cười. Có lúc nào nghe báo cáo ông vừa đi đi lại lại rồi thỉnh thoảng hỏi một câu. Sau mỗi lần nghe báo cáo xong, ông thường nói thẳng vào công việc: đồng ý, chỗ này chưa được về cần phải thay đổi thế này, thế này… Nhưng lần này thấy ông rất khác, nét mặt tươi tắn, lắng nghe ý kiến báo cáo của Tư lệnh Quân đoàn, hầu như không hỏi câu nào. Sau khi tư lệnh Quân đoàn trả lời xong câu hỏi của một số cơ quan Bộ, ông hỏi:

- Có ai hỏi gì nữa không?

Rồi ông kết luận:

- Nhất trí với kế hoạch mà Tư lệnh Quân đoàn 4 đã báo cáo. Yêu cầu làm tốt nhiệm vụ bàn giao địa bàn cho chặt chẽ, không để địch tập kích chiếm lại. Khi về nước phải đạt được ý nghĩa cao về chính trị bởi vì chúng ta đã giành thắng lợi sau một thời gian làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Đây là lần đầu tiên có một đơn vị chủ lực quân tình nghuyện cấp quân đoàn hoàn thành nghĩa vụ quốc tế hành quân trở về Tổ quốc. Hệ thống chính trị, thế và lực cách mạng Campuchia đang phát triển mạnh mẽ. Sẽ còn nhiều đơn vị quân tình nguyện Việt Nam lần lượt ra về.

Nói xong, Tư lệnh 719 phê duyệt vào quyết tâm và kế hoạch của Quân đoàn, gọi tắt là “Kế hoạch K83”.

Công việc bàn giao diễn ra thuận lợi, đúng kế hoạch. Nhiệm vụ hành quân về nước, Quân đoàn phải khân trương tiếp nhận 20 xe Zil 131 của Bộ Quốc phòng Campuchia (tăng cường cho Lữ đoàn pháo binh 434 kéo pháo 155mm và 130mm), 130 xe tải (80 xe của Tổng cục Hậu cần, 50 xe của quân đội Hoàng gia Campuchia để giúp cho Sư đoàn 7). Các đơn vị hối hả thực hiện công tác chuẩn bị, giải quyết chính sách huấn luyện các động tác lên xuống xe.

Ghi nhận công lao của Quân đoàn, Chính phủ cách mạng dân tộc giải phóng đoàn kết Campuchia tặng Huân chương Ăngco, huân chương cao quý nhất của Đảng và của Chính phủ nhân dân Campuchia cho Quân đoàn 4. Tôi được vinh dự đi cùng với đồng chí Tư lệnh để đón nhận huân chương từ tay đồng chí Tổng Bí thư Heng Xom Rin. Buổi đi được chuẩn bị có lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Binh đoàn Cửu Long. Tôi và đồng chí Hiệu, Phòng Quân huấn đi trên chiếc xe Uoat do đồng chí Nhàn lái xe tháp tùng Tư lệnh tới hội trường Hoàng Cung.

Sắp tới giờ tổ chức lễ nhận huân chương, một tình huống diễn ra cũng hơi hi hữu. Không hiểu vì sao miếng tiết bên phải của Tư lệnh Võ Văn Dần thanh nhôm bị gãy không tài nào luồn được vào khuy ve áo, trong khi ba thầy trò không kim chỉ, không tấc sắt trong tay. Trong lúc đang loay hoay không biết khắc phục bằng cách nào, tôi ra nói đồng chí Nhàn lái xe:

Chú mở cốp có miếng nào bằng đồng mà luồn được cái ve áo quân hàm của Tư lệnh thì cắt ngay đưa vào để kịp làm lễ, còn xe chú ở ngoài này sửa sau.

Đồng chí Nhàn nhanh chóng mở cốp xe kiếm được đoạn dây điện có ruột bằng đồng cắt ra để tôi kịp mang vào luồn chiếc phù hiệu gắn lên ve áo cho Tư lệnh, vừa xong cũng là lúc ban tổ chức mời Tư lệnh và tổ quân kỳ ra nhận huân chương. Có lẽ vì sự vội vàng như vậy nên Tư lệnh và hai anh em tôi đi ra hội trường ở Hoàng Cung, ba thầy trò đi không được đều và nét mặt của Tư lệnh hơi đăm chiêu. Sau khi nghe công bố quyết định của nhà nước Campuchia, đồng chí Heng Xom Rin đã gắn Huân chương Ăngco lên lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Binh đoàn Cửu Long.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:10:38 pm
Tạm biệt đất nước Chùa Tháp

Rời khỏi Hoàng Cung, xe chúng tôi khẩn trương cơ động về Sở chỉ huy ở Long Vét để Tư lệnh một lần nữa kiểm ta công tác chuẩn bị các đơn vị cơ động. Trên dọc đường từ Hoàng Cung qua đài Độc Lập, hai bên đường rợp cờ đỏ của Việt Nam và cờ năm tháp của Campuchia chuẩn bị cho cuộc tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam vào buổi sớm mai. Trong niềm phấn khởi, đồng chí Tư lệnh dặn tôi:

- Lợi về kiểm tra công tác chuẩn bị ở các khối, các đoàn ngày mai cơ động cho đúng quy định. Nhớ hiệp đồng với không quân để trực thăng đến và đưa về Ba Vet đúng thời gian.

Theo kế hoạch, trong ngày 1-5-1983, Binh đoàn Cửu Long hành quân về nước xuất phát từ U Đông qua Phnôm Pênh, Niếc Lương, Xvay Riêng, Mộc Bài, về Thành phố Hồ Chí Minh. Nhân dân Campuchia sẽ tổ chức tiễn đưa ở thủ đô Phnôm Pênh, bờ tây phà Niếc Lương và ở Ba Vet, tây biên giới Mộc Bài. Trong ba điểm quan trọng đó đều yêu cầu Tư lệnh Binh đoàn Cửu Long có mặt để tiếp nhận sự tiễn đưa của nhân dân, chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang Campuchia cũng như khi qua biên giới về Mộc Bài, Gò Dầu tiếp nhận sự tiếp đón của chính quyền nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh. Mọi kế hoạch chuẩn bị đã cơ bản xong. Khoảng 22 giờ đêm 30-4, tôi nắm tình hình qua trực ban rồi lên báo cáo với Tư lệnh toàn bộ công tác chuẩn bị theo đúng kế hoạch để đồng chí yên tâm.

Có lẽ đêm 30-4-1983 là đêm tất cả cán bộ, chiến sĩ của Binh đoàn Cửu Long thức trắng. Thức trắng để chia tay với nhân dân Campuchia sau hơn bốn năm đồng cam cộng khổ, chia nhau từng lon gạo, hạt muối, viên thuốc, những ngày xây dựng địa bàn, những ngày hành quân truy quét. Có lẽ nhiều người đang liên tưởng đến ngày này cách đây 8 năm, họ có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đêm 30-4-1975, rất nhiều người không ngủ được, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc sau mấy chục năm gian khổ đã giành thắng lợi trọng vẹn. Phòng Tác chiến chúng tôi tổ chức một bữa ăn nho nhỏ vào lúc giữa đêm gọi là bồi dưỡng sức khỏe. Có nồi cháo gà, những ly rượu trắng, những ly nước thốt nốt… Ai cũng cười nói rôm rả chờ đón một buổi sáng quan trọng: Binh đoàn Cửu Long hoàn thành nhiệm vụ hành quân về Tổ quốc.

Tờ mờ sáng 1 tháng 5, các đơn vị trong từng khối hành quân đã vào vị trí xuất phát. Gương mặt cán bộ, chiến sĩ đều rạng ngời trong những bộ quân phục mới nhất. Họ hớn hở vẫy chào lẫn nhau, chào nhân dân, chào đồng chí, những người đã nhiều năm cùng kề vai sát cánh, cùng chiến đấu với quân tình nguyện Việt Nam. Những chiếc xe ô tô cũng được tu sửa, bảo dưỡng lại trông rất oai nghiêm. Bầu trời buổi sáng ngày 1-5, trên thành phố Phnôm Pênh không mưa, mát dịu. Khắp nơi ngát một mùi thơm hoa nhài trên tay các thiếu nữ và những nhà sư. Họ kết thành từng tràng hoa để tặng cho cán bộ, chiến sĩ từng đoàn đi qua. 7 giờ sáng, đi đầu đội hình vào đài Độc Lập là xe của Tư lệnh. Sau khi dừng xe nhận báo cáo của đồng chí thay mặt Quân đội Hoàng gia Campuchia, đồng chí Tư lệnh đến bắt tay, hai đồng chí ôm chầm lấy nhau. Trong giây phút nghiêm trang, đồng chí Bu Thoong và Tư lệnh Quân đoàn 4 cứ muốn ôm mãi, lưu luyến giữ kỷ niệm giữa hai quân đội, hai dân tộc đã chung vai sát cánh vì sự hồi sinh của dân tộc Campuchia. Đồng chí Bu Thoong luôn nói “Nức ná, nức ná, ocun, ocun Chơrơn, chia chuôn côn top Campuchia – Viet Nam săm ma ki” (nhớ lắm, cám ơn nhiều, nhân dân, quân đội hai nước sẽ mãi đoàn kết).

Đoàn xe từ từ lăn bánh trước hàng vạn nhân dân ăn mặc rất đẹp trên tay cầm cờ Việt Nam, cờ Campuchia vẫy chào, miệng liên tục hô “ocum con tạp Việt Nam”, “Viet Nam – Campuchia săm ma ki, Viet Nam – Campuchia săm ma ki”. Những tiếng hô không bao giờ ngớt, rồi có rất nhiều bà mẹ tới tận xe ôm hôn những chiến sĩ của chung ta, nói rằng: “em nứt côn ná, me mứt côn top Việt Nam”. Cứ như thế, đoàn xe lần lượt chậm rãi qua khỏi thành phố Phnôm Pênh trong không khí tiễn đưa đầy lưu luyến cảm động!

Đoàn quân đi qua Phnôm Pênh, qua cầu Mônivông, theo dọc đường quốc lộ số 1 xuống bờ tây phà Niếc Lương, nơi mà Đảng bộ chính quyền nhân dân tỉnh Kan Đan tổ chức tiễn đưa Binh đoàn Cử Long. Đến đây, đoàn được đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đón chào và đọc diễn văn tiễn đưa quân tình nguyện. Những bà mẹ tận tay bê từng quả dừa đầy ắp nước đến từng xe đưa cho chiến sĩ. Chúng tôi mỗi người trên tay cầm một quả dừa, uống những ngụm nước ngọt ngào, mát lạnh. Dòng sông Tông Lê Sáp (Mê Kông) hôm nay đã chứng kiến một cảnh tượng thật tình nghĩa giữa người đi và người ở lại. Cũng dòng sông ấy ngày 7-1-1979 đã chứng kiến quân đội tình nguyện Việt Nam với các lực lượng cách mạng Campuchia ngược dòng sông từ Niếc Lương vào thẳng Hoàng Cung tiêu diệt chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Dòng sông ấy hôm nay rất thanh bình. Dân chài đánh cá làm ăn sinh sống hai bên bờ, hình ảnh hồi sinh của một dân tộc.

Làm xong các thủ tục ở bờ tây phà Niếc Lương cũng đã vào khoảng 14 giờ ngày 1 tháng 5. Khối đi đầu theo quốc lộ 1 đã về gần tới Chi Phu cách biên giới Việt Nam – Campuchia khoảng 15km. Tư lệnh cùng với một số đồng chí ở cơ quan Quân đoàn trong đó có tôi cơ động bằng trực thăng từ bờ tây phà Niếc Lương về khu vực Ba Vet nhập vào khối 1 để 16 giờ cùng ngày, Tư lệnh chủ trì việc đón nhận lễ tiễn đưa của Đảng bộ và chính quyền nhân dân tỉnh Xvay Riêng. Tới vị trí quy định, anh em bắn pháo sáng làm tín hiệu cho các đoàn xe trong khối bắt đầu di chuyển theo kế hoạch. Trong lúc bắn pháo sáng, không hiểu góc độ bắn thế nào một quả pháo sáng rơi xuống gần khu vực lễ đài khoảng 500m. Đang mùa khô, rơm rạ rất nhiều, lửa cháy ngùn ngụt phải triển khai cho một bộ phận dập lửa. Tại khu vực Ba Vet – Mộc Bài, những người bạn chiến đấu Quân đội Hoàng gia Campuchia đã lần lượt ôm, bắt tay, hôn thân mật từ đồng chi Tư lệnh, các sĩ quan đi cùng đến tất cả cán bộ, chiến sĩ trên từng xe.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:14:23 pm
18 giờ, đoàn xe tiếp tục vượt Gò Dầu đến đất Trảng Bàng và tiến về Thành phố Hồ Chí Minh. Các đơn vị tỏa theo các vị trí tập kết đã được chuẩn bị từ trước. Về tới Trảng Bàng mới thấy ngấm mệt và đói. Tôi báo cáo với Tư lệnh:

- Mời thủ trưởng vào đây kiếm bát phở lót dạ rồi hãy đi chứ về đến căn cứ Sóng Thần đã khuya rồi.

Chắc Tư lệnh cũng đói nên rất vui vẻ vào ăn. Trong xe có bốn người nhưng khi vào tôi gọi tám tô phở, đồng chí Tư lệnh ngạc nhiên:

- Kêu gì mà nhiều vậy?

Tôi nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đói quá, chắc thế nào cũng ăn hết đấy!

Khi chủ hàng bê ra, tôi để một tô cho Tư lệnh ăn trước. Cứ thế chúng tôi mỗi người ăn hết hai tô. Ăn xong, chiếc xe đưa chúng tôi về căn cứ 301 Sóng Thần.

Về tới căn cứ, chào Tư lệnh xong, chúng tôi về cơ quan của mình thay đồ đạc, tắm rửa và lên giường nghỉ ngơi. Cứ tưởng sẽ ngủ ngon vì đêm qua thức trắng và chặng đường đi rất mệt. Nhưng hoàn toàn trái ngược, nằm mãi vẫn không sao ngủ được. Bao nhiêu kỷ niệm lại ùa về. Cách đây hơn bốn năm, tôi được Bộ Tư lệnh gọi lên giao làm kế hoạch chiến dịch tiến công giải phóng Phnôm Pênh, lấy trục quốc lộ 1 làm hướng tiến công chủ yếu, các hướng kết hợp, nam bắc quốc lộ 1, đường sông từ dưới Tân Châu lên Niếc Lương vào khu vực Hoàng Cung. Hôm nay ngày hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về tôi cũng được Bộ Tư lệnh giao làm kế hoạch cơ động tổ chức các đoàn hành quân về nước. Giờ phút này các đơn vị, các khối đã cơ bản vượt qua cửa khẩu Mộc Bài về đất mẹ và tiến vào căn cứ của mình theo quy định. Đó là một điều rất sung sướng và rất đỗi tự hào của một trợ lý tham mưu cấp chiến dịch khi được cấp trên tin tưởng giao thực hiện những kế hoạch đặc biệt.

Con đường quốc lộ 1 ngày 7-1-1979 đã chứng kiến những đoàn quân xe tăng, thiết giáp, những sư đoàn binh chủng hợp thành của Quân đoàn 4 từ khu vực đường 10 Đôn So thẳng ra quốc lộ 1 tiến về Niếc Lương, rồi tổ chức vượt phà Niếc Lương một mạch tiến thẳng vào Phnôm Pênh. Cũng con đường đó hôm nay đã rợp bóng cờ và chứng kiến đoàn quân của Binh đoàn Cửu Long ngược đường 1 trở về đất nước trong tiếng reo hò, chào đón, lưu luyến tiễn đưa của người dân Campuchia cần mẫn và rất yêu bộ đội Việt Nam. Dòng sông Mê Kông từng chứng kiến những đoàn tàu chiến của Trung đoàn hải quân 962, những chiếc phà của giao thông công chính chở những chiếc xe tăng, xe kéo pháo lần lượt tiến vào Phnôm Pênh, hôm nay lại in bóng những chiếc phà chở xe tăng, thiết giáp và binh khí kỹ thuật của Binh đoàn xuôi dòng sông trở về đất mẹ.

Cách đây bốn năm, Phnôm Pênh là một thành phố chết, một thành phố không có người dân vẫy chào tiếp đón như ngày 30-4-1975 khi đại quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Nhưng sáng hôm nay ngày 1-5-1983, tất cả các tầng lớp nhân dân, sư sãi, học sinh, sinh viên các quan chức của Đảng, Nhà nước Campuchia đã vẫy chào tiễn đưa Binh đoàn Cửu Long về nước một cách trang trọng, tưng bừng, chân tình và đầy tình nghĩa anh em.

Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và bốn năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn như một cuốn phim hiện lên đầy đủ trong trí óc tôi. Ai có dịp mỗi lần đi lên đồi 82 huyện Tịnh Biên, tỉnh Tây Ninh, sẽ thấy rõ đây là quả đồi nghĩa trang. Những người con hy sinh khi làm nhiệm vụ giữ yên biên giới từ trước ngày 7-1-1971 và những người con tình nguyện hy sinh khi làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia của Quân khu 7, của Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 hầu hết đều mai táng ở đây. Một sự mất mát quá to lớn. trong số những người con Việt Nam đã ngã xuống vì nghĩa lớn, có cả những cán bộ cao cấp. Đó là Thiếu tướng Kim Tuấn (Tư lệnh Quân đoàn 3), đồng chí Mười Kim (Sư đoàn 9), đồng chí Phạm Dũng (Sư đoàn 339), Đại tá Trần Ngọc Chung (Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 Quân đoàn 3), đồng chí Bé Ba (Sư đoàn 330), đồng chí Hải Anh (Sư đoàn 2 Quân khu 5) và nhiều đồng chí khác. Điều đó cho thấy cuộc chiến rất ác liệt và gian khổ.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:17:29 pm
Binh đoàn Cửu Long đã về nước, thực sự mới chỉ được một sư đoàn và một số đơn vị binh chủng, cơ quan của quân đoàn, còn lại Sư đoàn 9, Trung đoàn công binh 550 vẫn đang làm nhiệm vụ bên đó. Ngày về dứt khoát sẽ đến nhưng chưa biết diễn ra vào thời gian nào. Bọn tàn quân Pôn Pốt đang tìm moi cách, mọi biện pháp để phá hoại, ngăn cản sự phát triển của cách mạng Campuchia. Sư đoàn 7 về nước hôm nay liệu rằng có được yên tâm xây dựng củng cố huấn luyện thành một sư đoàn thiện chiến của miền Đông Nam Bộ, hay một ngày nào đó theo yêu cầu nhiệm vụ quốc tế lại phải sang đất bạn Campuchia làm nhiệm vụ theo tiếng gọi của Đảng, Chính phủ và nhân dân đất nước Chùa Tháp?

Sáng ngày 2-5-1983, tất cả các khối hành quân bộ (3 đoàn) đã về đến vị trí quy định và an toàn. Riêng đoàn cơ động đường sông, một tuần sau mới cập bến cảng Sài Gòn. Chúng tôi tổng hợp tình hình báo cáo với Tư lệnh. Đồng chí rất vui vẻ và nhắc nhở chúng tôi truyền đạt tới chỉ huy các đơn vị quản lý bộ đội thật chặt chẽ, không được vi phạm kỷ luật, tránh công thần với chính quyền, nhân dân địa phương, triển khai các kế hoạch huấn luyện, xây dựng doanh trại cho tốt… Thế là sau hơn một ngày đêm, già nửa quân đoàn cơ động trên 200 km bằng nhiều phương tiện, qua nhiều nơi tiễn đưa và đón tiếp khác nhau đã thành công tốt đẹp. Kết quả đó, xuất phát từ sự quán triệt nhiệm vụ một cách sâu sắc từ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn tới các phân đội cơ sở; từ sự tính toán cụ thể hợp lý tổ chức các đoàn, các khối ở từng trạm trên từng tuyến đường; từ sự chỉ huy, hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận; từ công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật đến ý thức tự trọng chấp hành kỷ luật của chiến sĩ.

Sư đoàn 7 về nước, Bộ có ý định xây dựng thành sư đoàn bộ binh cơ giới. Để chuẩn bị thực hiện theo ý định đó, Quân đoàn cử một đoàn cán bộ của Sư đoàn 7 và cơ quan Quân đoàn trong đó có tôi đến Sư đoàn 308 Quân đoàn 1 đóng ở Xuân Mai để nghiên cứu học tập cách tổ chức biên chế, huấn luyện, sử dụng và công tác đảm bảo cho một sư đoàn bộ binh cơ giới. Sư đoàn 308 do đồng chí Đại tá Đỗ Trung Dương làm Sư đoàn trưởng. Đoàn cán bộ của Sư đoàn 7 được phân chia về các trung đoàn để theo dõi cụ thể tổ chức biên chế và học tập tính năng, tác dụng của các loại xe, học tập về phương pháp huấn luyện, phương pháp chỉ huy bảo đảm cho đơn vị cơ giới từ cấp đại đội trở lên. Sau thời gian tìm hiểu và học tập, được Sư đoàn 308 tận tình giúp đỡ, chúng tôi đã tổng hợp kết quả học tập và trở về Quân đoàn để sẵn sàng nhận nhiệm vụ của Bộ triển khai.

Về tới Quân đoàn (6-1983), tôi được Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao chức vụ Phó phòng Tác chiến. Tôi xác định đây là một nhiệm vụ nặng nề trong thời kỳ xây dựng Quân đoàn giai đoạn cách mạng mới. tôi được cử ra Cục Tác chiến – Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu học tập về nội dung kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, diễn tập với các hình thức chiến dịch khác nhau để về truyền đạt, hướng dẫn cho cơ quan, chỉ huy các cấp thực hiện. Tới quý 3 năm 1983, tôi được cử đi học bổ túc văn hóa ở Trường Quân sự Quân đoàn để hoàn thành chương trình 10/10, chuẩn bị thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo.

Sau hơn sáu năm công tác ở cơ quan chiến dịch từ trợ lý đến Phó phòng Tác chiến, được gần gũi giúp việc cho ba đời Tư lệnh (Trung tướng Hoàng Cầm, Đại tá Nguyễn Văn Quảng và Thiếu tướng Võ Văn Dần). Tôi đã học tập được cách tư duy nghệ thuật tác chiến cấp chiến dịch ở nhiều hình thức khác nhau (lúc phòng thủ, lúc phản công, lúc tiến công) với quy mô lực lượng rất đa dạng, cũng như xử lý các tình huống trong chiến dịch, tính kiên quyết của người Tư lệnh đã tạo điều kiện cho chiến dịch (quân đoàn) giành từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.

Người Tư lệnh mà tôi gần gũi, thường xuyên làm việc là Thiếu tướng Võ Văn Dần. Ông sinh ra ở xã Đông Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, tính tình ít nói, rất thích thể thao, đặc biệt là môn bóng chuyền và bắn súng. Nhiều lần ông động viên tôi đưa gia đình vào Nam sinh sống. Khi tôi ra học ở Học viện Quốc phòng, ông luôn dặn: Học cho tốt để về Quân đoàn công tác.

Năm 1984, ông được Nhà nước phong quân hàm cấp tướng, cũng là lúc ông đang đi kiểm tra Sư đoàn 9 công tác giúp bạn ở Campuchia. Tham mưu trưởng Vũ Cao (cũng được phong Thiếu tướng cùng Tư lệnh) nói với tôi:

- Lợi viết điện qua Sư đoàn 9 thông báo cho Tư lệnh biết và mời Tư lệnh về nhận quyết định ở Tân Sơn Nhất, đồng thời ra báo cho chị Thoa (vợ Tư lệnh) để gia đình mừng.

Tôi ra nhà riêng Tư lệnh báo tin này cho chị Thoa, nguyên trung úy bác sĩ đã nghỉ hưu. Chị nói:

- Chị rất mừng là Quân đoàn có đồng chí Tư lệnh được phong quân hàm cấp tướng.

Tôi nói:

- Khi anh Ba về nhớ liên hoan nghe chị.

Khi Tư lệnh về nhận quyết định xong. Chị Ba làm mâm cơm kêu tôi và một số người nữa (vừa đủ một mâm) liên hoan tại nhà.

Khi tôi học xong về công tác ở Sư đoàn 7 được một thời gian thì ông nghỉ hưu. Song lúc nào hình ảnh người Tư lệnh bề ngoài nghiêm khắc, khó gần song nội tâm rất chân thành, giản dị và hết đỗi thương yêu cấp dưới vẫn luôn khắc sâu trong tâm khảm của tôi.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:22:54 pm
Chương năm

TRONG ĐỘI HÌNH QUÂN ĐOÀN THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Trở lại Sư đoàn 7

Sau gần 9 năm xa Sư đoàn, tôi được trở về công tác ngay đơn vị mình đã gắn bó từ lúc vào chiến trường, từ chiến sĩ, qua gần 13 năm công tác và chiến đấu. Đây là điều kiện tốt để tôi tiếp tục cống hiến, xây dựng Sư đoàn.

Tháng 7 năm 1987, sau khi tốt nghiệp Học viện Quốc phòng,tôi được nghỉ phép thời gian gần một tháng. Tôi tập trung hoàn tất giấy tờ để chuyển gia đình từ ngoài quê vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Sau thời gian chuẩn bị, cả gia đình đi cùng chuyến tà từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu gia đình tôi ở hai gian nhà khu tập thể của Quân đoàn 4 cấp từ năm 1985 trước khi tôi đi học. Vào đến nơi, những ngày đầu gặp rất nhiều khó khăn. Được sự giúp đỡ của các bác, các anh, bạn bè đi trước, gia đình tôi dần ổn định nơi ăn chốn ở và các điều kiện sinh hoạt khác. Các cháu được nhập học đúng lớp, đúng độ tuổi. Nhà tôi tổ chức chăn nuôi gia súc kết hợp buôn bán nhỏ nên cũng tạm đủ trang trải chi tiêu hàng ngày.

Khoảng giữa tháng 8-1987, tôi lên Quân đoàn nhận nhiệm vụ về làm Phó Sư đoàn trưởng – Tham mưu trưởng Sư đoàn 7. Sư đoàn 7 tiếp tục làm nhiệm vụ ở Campuchia. Tôi cùng trợ lý cơ quan lên chiếc xe Jeep lại ngược đường 13, từ Bình Long, Lộc Ninh ra biên giới qua đồn Hoàng Diệu sang đất Campuchia, qua thị trấn Sa Nuôn trở lại thị xã Krachiê. Khi Binh đoàn Cửu Long về nước ngày 1-5-1983, Sư đoàn 7 là đơn vị chủ lực của Quân đoàn được hành quân công khai. Nhưng trước yêu cầu cách mạng của đất nước bạn, đầu năm 1987, Sư đoàn lại hành quân sang hoạt động ở khu vực đông bắc Campuchia, đại bộ phận ở tỉnh Krachiê và một phần ở tỉnh Kôngpông Chàm. Những năm 70, tại chiến trường này, Mỹ giật dây Lonnon đảo chính Xihanuc mở rộng cuộc chiến tranh sang đất nước Chùa Tháp. Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7 cũng đã làm nhiệm vụ ở đây và đã lập được nhiều chiến công khi giải phóng thị trấn Sa Nuôn, tiêu diệt quân ngụy Sài Gòn từ Sa Nuôn chạy về Lộc Ninh. Con đường 13 huyết mạch chạy dọc vùng đông bắc Campuchia, hai bên là rừng nguyên sinh rậm rạp xanh tốt. Một địa hình kín đáo liên hoàn rất thuận lợi cho hoạt động của bọn Pôn Pốt. Chúng từ các căn cứ có thể ra phục kích bất cứ ở đoạn đường nào trên trục đường từ Sa Nuôn lên Krachiê. Xe tôi đi trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Từ đồng chí lái xe cho đến đồng chí trợ lý đi cùng và bản thân tôi, mỗi người một khẩu súng sẵn sàng trên tay, nhất là khi qua những khu vực trọng điểm Pôn Pốt thường ra phục kích. Tới buổi chiều thì xe của chúng tôi tới được thị xã Krachiê, nơi Sở chỉ huy Sư đoàn đóng tại đó và chỉ đạo các trung đoàn làm nhiệm vụ ở khu vực bắc, đông Krachiê.

Về đến Sở chỉ huy Sư đoàn, tôi báo cáo với Sư đoàn trưởng – Đại tá Nguyễn Hữu Mão và được đồng chí cho nhận bàn giao từ anh Trần Xuân Ban nguyên là Phó Sư đoàn trưởng – Tham mưu trưởng để đảm nhận chức Phó Sư đoàn trưởng thứ nhất của Sư đoàn. Lúc này do cơ chế mới, Ban chỉ huy Sư đoàn kể cả tôi mới về có 8 đồng chí. Một lần xuống tiểu đoàn liên hoan, đồng chí Thư – Tiểu đoàn trưởng nói đùa:

- Kính thưa các thủ trưởng Sư đoàn hai mâm.

Tám đồng chí gồm đồng chí Mão – Sư đoàn trưởng, đồng chí Trần Xuân Ban – Phó Sư đoàn trưởng thứ nhất, hai đồng chí Phó Sư đoàn trưởng chung là Ngô Hồng Lập và Vũ Ngọc Ính, tôi – Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng, đồng chí Trần Văn Tảo – Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, đồng chí Châu – Phó Sư đoàn trưởng phụ trách hậu cần và đồng chí Phượng – Phó Sư đoàn trưởng phụ trách kỹ thuật.

Sau khi nhận bàn giao, tôi cùng cơ quan Phòng Tham mưu nghiên cứu nắm tình hình. Trung đoàn 165 hoạt động ở khu vực Sa Nuôn cách biên giới Việt Nam khoảng 10 km. Trung đoàn 209 hoạt động ở phía bắc Krachiê và ở đoạn đông tây sông Mê Kông. Trung đoàn 141 hoạt động ở khu vực đường quốc lộ 2, con đường từ ngã ba Krết lên Sa Lông, một huyện của tỉnh Kôngpông Chàm. Địa bàn rộng, hoạt động phân tán, Sư đoàn có nhiều trận đánh tốt nhưng cũng có một số trận truy quét bị bọn Pôn Pốt gây tổn thất. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 141 có lúc bị Pôn Pốt gây thương vong trên 20 đồng chí. Tôi nhanh chóng tìm hiểu và nắm bắt tình hình, tìm ra quy luật hoạt động của địch để báo cáo Sư đoàn trưởng chỉ đạo các đơn vị hoạt động cho tốt hơn.

Lúc này thời tiết đang chuẩn bị bước vào mùa khô. Các đoàn vận chuyển lương thực, các lực lượng chiến đấu của Pôn Pốt giáp Thái Lan đang rục rịch tổ chức vào sâu trong nội địa. Đồng chí Sư đoàn trưởng phân công tôi trực tiếp đi tác chiến với các hướng như Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 209; hoặc có lúc sang khu vực Giô Té phía tây sông Mê Kông, cách Krachiê khoảng độ 40km cùng Tiểu đoàn trinh sát 46 của Quân đoàn đang tăng cường cho Sư đoàn. Lúc này Tiểu đoàn 46 nhận nhiệm vụ sau mùa mưa sẽ trở về đội hình Quân đoàn. Tôi đã chỉ đạo Tiểu đoàn thực hiện một số trận đánh có kết quả tốt.

Giô Té là một phum cũ nhưng người dân đã bỏ đi từ lâu. Pôn Pốt tận dụng khu vực này làm điểm hẹn tổ chức những bộ phận phân công đi hoạt động sâu xuống phía đông và phía nam của bờ sông Mê Kông. Quy luật hoạt động của địch là quan sát, phát hiện thấy lực lượng của ta vào các khu căn cứ của chúng, thì chủ động gài mìn để khi ta vào vườn không nhà trống, vướng mìn của chúng. Khi ta đi ra thì chúng tổ chức phục kích hoặc quay lại để giữ khu vực ta đã rút. Tôi chỉ đạo Tiểu đoàn 46 cử một đơn vị gần 100 đồng chí hành quân vào khu vực Giô Té. Vào đến nơi chỉ ở đó một ngày rồi rút. Khi rút ra bí mật để lại 25 đồng chí do đồng chí Dương đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Số còn lại hành quân về vị trí đóng quân. 25 đồng chí này ở lại chia thành ba cụm có lương khô, nước uống đủ hai ngày và không được mở máy liên lạc khi chưa nổ súng. Đúng như dự kiến, sau khi quan sát thấy lực lượng của chúng ta đã ra về, bọn Pôn Pốt quay trở lại hí hửng cười nói oang oang. Cả ba bộ phận của ta chủ động nổ súng diệt hơn chục tên thu được gần chục khẩu súng, làm chủ khu vực, sau đó ta rút quân về an toàn. Tiểu đoàn 46 đã lập công trước khi trở về đội hình của Quân đoàn.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:24:21 pm
Ở các hướng khác cũng vậy. Tôi rút ra một nhận định là ta thường bị lộ nhiệm vụ trước khi hành quân, yếu tố bí mật không được giữ vững cho nên mỗi khi hiệp đồng chiến đấu hoặc giao nhiệm vụ, cán bộ địa phương của bạn có kẻ hoạt động hai mặt đã cung cấp thông tin cho Pôn Pốt. Chính vì vậy mà bộ đội ta đi đến đâu, cơ động khu vực nào, Pôn Pốt đều biết trước. Chúng tổ chức phục kích gây cho ta nhiều tổn thất. Vì vậy, mỗi lần đi với các tiểu đoàn chiến đấu, tôi đều báo cáo với đồng chí Sư đoàn trưởng:

- Anh yên tâm, tôi đi không cần liên lạc điện thoại nhiều. Khi nào đến mục tiêu, tiêu diệt được địch, tôi sẽ điện báo cáo kết quả về cho anh.

Đồng chí Sư đoàn trưởng hoàn toàn đồng ý và những lần tôi đi cùng Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 209, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 165 và các đơn vị khác, bộ đội truy quét đều có kết quả tốt. Trong những lần đi như vậy, ngoài kẻ thù rình rập phục kích, chúng tôi còn phải đối phó với một loại kẻ thù khác. Rừng ở khu vực đông tây sông Mê Kông, khu vực phía bắc tỉnh Krachiê là rừng già, rừng rậm, có nhiều cây gỗ rất to. Có lần tôi phải kêu ba, bốn anh em giang tay mới ôm hết được một thân cây. Đó cũng là nơi mà sốt rét thường xuyên hoành hành. Trong một cuộc hành quân, đồng chí Toàn – Chính trị viên Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 209, người rất to béo mạnh khoẻ nhưng chỉ sau ba ngày sốt rét đã mất. Chúng tôi bị sốt rét thường xuyên nhưng rất may là không đến mức nguy kịch.

Sau ba tháng công tác, cùng chiến đấu với cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn, tôi thấy việc bố trí Sở chỉ huy Sư đoàn ở Krachiê là rất bất tiện trong việc tổ chức chỉ huy các đơn vị. Như đã nói ở trên, Trung đoàn 165 ở phía sau Sư đoàn (thị trấn Sa Nuôn), Trung đoàn 141 ở hướng đường quốc lộ 2 bắc ngã ba Krết, còn Trung đoàn 209 cùng với cơ quan Sư đoàn bộ ở khu vực bắc thị xã Krachiê. Như vậy mỗi lần cơ động từ hậu phương lên rất phức tạp xa xôi, nhưng khi đi công tác chỉ đạo trung đoàn 165, Trung đoàn 141 lại phải quay về hướng biên giới Việt Nam mới gặp và giao nhiệm vụ cho các trung đoàn được.

Trước tình hình đó, tôi trao đổi xin ý kiến đồng chí Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu Mão. Sau đó, tôi mạnh dạn báo cáo về Tư lệnh Quân đoàn xin được chuyển Sở chỉ huy Sư đoàn về khu vực bắc ngã ba Krết thuộc tỉnh Kôngpông Chàm. Ở đây rất thuận lợi đi theo quốc lộ 2 đến Trung đoàn 141 khoảng 25 – 30 km, cũng từ ngã ba Krết đi theo quốc lộ 7 qua thị trấn Minốt đến Sa Nuôn khoảng cách 70 km. Còn Trung đoàn 209 nên ở khu vực Krachiê hoạt động giữ địa bàn cùng với bạn đảm bảo an ninh thị xã Krachiê và ngăn chặn hướng hoạt động từ bắc biên giới Campcuhia – Thái Lan cơ động xuống. Kế hoạch của Sư đoàn được Tư lệnh Quân đoàn đồng ý và phê chuẩn. Sư đoàn tổ chức hành quân di chuyển về xây dựng Sở chỉ huy ở phía bắc ngã ba Krết. Chúng tôi chủ trương không ở trong nhà dân, dựng lán trại theo dạng nhà tạm, tận dụng gỗ rừng của địa phương để xây dựng các công trình cho sở chỉ huy và các phân đội trực thuộc. Ngã ba Krết là địa bàn rất quen thuộc của chúng tôi trong những năm đầu thập niên 70 đến 3 năm 1972. Tại đây, các trung đoàn tham gia tác chiến trên quốc lộ 2 đoạn Oát Thơ Mây, Đầm Be đi Sa Lông hoặc theo quốc lộ 6 đi Suông, Chúp, ngược về cửa khẩu Xa Mát – Tây Ninh. Sở chỉ huy mới ở trên một trảng trống. Chỉ sau một tháng di chuyển đã xây dựng xong và tổ chức chỉ huy các đơn vị hoạt động trong mùa khô năm 1987-1988

Ngày 13-11-1987, tôi xuống Trung đoàn 141 kiểm tra các đơn vị về phương án chuẩn bị tác chiến hoạt động mùa khô cũng như tất cả các cơ sở kho tàng, đạn, gạo, thực phẩm. Chiều ngày 14, tôi quay về Sở chỉ huy Sư đoàn. Vừa về đến nơi được đồng chí trợ lý trinh sát kỹ thuật đến báo cáo:

- Bọn Pôn Pốt đưa tin sáng ngày 15-11 sẽ phục kích đánh ô tô chở hàng trên quốc lộ 2 của ta.

Tôi bàn với anh em cơ quan đây là điều kiện rất tốt để ta tổ chức những trận phản phục kích địch. Tôi dự kiến một phương án, báo cáo đồng chí Sư đoàn trưởng và được đồng chí nhất trí. Việc đầu tiên triển khai là phát trên sóng vô tuyến điện thông báo cho Trung đoàn 141 ngày mai tổ chức tiếp nhận 25 xe chở gạo của Sư đoàn từ ngã ba Krết đi vào (thông tin phát mở để Pôn Pốt nhận được tin này, trùng hợp với tin mà trinh sát kỹ thuật của ta đã nhận được). Thứ hai là xây dựng một kế hoạch tác chiến, cử đồng chí Thoại trợ lý trinh sát của Sư đoàn cùng hai đồng chí vệ binh đi một chiếc xe Jeep trực tiếp xuống truyền đạt nhiệm vụ cho Trung đoàn 141:

- Chỉ định đồng chí Võ Hữu Minh – Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Trung đoàn trực tiếp xuống chỉ huy Tiểu đoàn 1. Thời gian nhận lệnh và báo động cho Tiểu đoàn 1 vào khoảng 21 giờ đêm (không được báo trước đề phòng bộ đội chuẩn bị thuốc men nói chuyện với dân dễ bị lộ). 21 giờ ngày 14-11-1987, Tiểu đoàn 1 cơ động vòng sâu cách tây đường 4km, sau đó triển khai từ trong rừng đánh ra đường quốc lộ 2 tức là triển khai đội hình ở phía sau trận địa phục kích của bọn Pôn Pốt bởi vì chúng phục kích cách đường tối đa chỉ khoảng 500m. Đồng chí Minh không được dùng bất cứ một phương tiện vô tuyến điện nào, chỉ sử dụng một phương tiện liên lạc là chạy bộ, khi nổ súng mới báo cáo kết quả bằng máy vô tuyến điện về Sư đoàn.

Chấp hành mệnh lệnh, đồng chí Võ Hữu Minh chỉ huy Tiểu đoàn 1 chia thành ba đường từ khu vực tây quốc lộ 2 đoạn nam Oát Thơ Mây dàn hàng ngang cơ động qua hướng đông ra mặt đường. Đúng như dự kiến, khoảng gần 5 giờ sáng, Tiểu đoàn 1 gặp lực lượng địch đang triển khai đội hình phục kích, hướng nòng súng B40, B41 ra quốc lộ 2 để sẵn sàng bắn xe ô tô chở gạo của ta từ ngã ba Krết đi vào. Tiểu đoàn thực hành xung phong từ phía sau, đánh vào đội hình đang phục kích sẵn của bọn Pôn Pốt. Do chủ quan, trận địa của chúng không có công sự vật cản, rất thuận lợi cho Tiểu đoàn 1 thực hành xung phong và tiêu diệt. Tại Sở chỉ huy Sư đoàn, chúng tôi nghe rõ tiếng súng B40, B41, đại liên của Tiểu đoàn 1 nổ ở khu vực tây Oát Thơ Mây. Tiếng súng vừa im được 10 phút thì đồng chí Võ Hữu Minh báo cáo kết quả trận đánh về Sư đoàn. Đồng chí nói ngắn gọn:

- Diễn biến trận đánh như kế hoạch thể hiện trên bản đồ mà Sư đoàn phó Tham mưu trưởng đã giao cho Trung đoàn. Kết quả tiêu diệt 17 tên địch, thu 12 súng và 2 máy bộ đàm, ta an toàn.

Đây là một trận đánh có hiệu suất cao, ta an toàn, phá được hành động chuẩn bị đánh giao thông của địch trên quốc lộ 2. Sau trận này, chúng ta làm chủ đoạn đường suốt trong hai, ba tháng. Hoạt động vận chuyển cơ động ra vào của Trung đoàn 141 không bị bọn Pôn Pốt phục kích. Trận đánh để lại bài học quý về việc giữ bí mật triển khai nhiệm vụ, nghệ thuật nghi binh, ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm túc và chỉ huy sâu sát.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Hai, 2019, 03:30:12 pm
Vào khoảng cuối tháng 11 năm 1987, cấp trên có ý định điều đồng chí Nguyễn Hữu Mão – Sư đoàn trưởng về làm Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân đoàn thăm dò lấy phiếu tín nhiệm chọn người làm Sư đoàn trưởng thay đồng chí Mão. Đoàn cáo bộ của Quân đoàn do đồng chí Vũ Văn Thược – Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng dẫn đầu cùng với đòng chí Đồng – Phó phòng Cán bộ và một số cán bộ từ cơ quan. Đoàn xuống Sở chỉ huy Sư đoàn tập trung quán triệt cho tất cả cán bộ chủ trì phòng, ban, đầu mỗi các đơn vị về ý nghĩa, mục đích của việc lựa chọn người Sư đoàn trưởng, yêu cầu chọn cán bộ tại chỗ với đối tượng các đồng chí Phó sư đoàn trưởng quân sự.

Chiều hôm đó, khi tôi vừa mới ngủ dậy, đồng chí Phó Tư lệnh Vũ Văn Thược từ ngoài đi vào trông thấy tôi, ông cười và bảo:

- Này, phiếu mày cao lắm.

Tôi chỉ cười và nói:

- Thủ trưởng ơi, làm sao tôi làm được.

Thủ trưởng vỗ vai tôi:

- Yên tâm, nếu cấp dưới tin tưởng và cấp trên đồng tình thì tao tin tưởng mày làm tốt.

Tôi chỉ biết cám ơn đồng chí Phó Tư lệnh.

Sở chỉ huy Sư đoàn 7 ở ngã ba Krết cho tới cuối mùa khô 1987 – 1988. Tháng 3 năm 1988, Quân đoàn cử tôi về căn cứ Phú Lợi làm nhiệm vụ sửa sang doanh trại chuẩn bị nơi nơi ăn ở để đón Sư đoàn từ Campuchia rút quân về. Ngày 25 tháng 5 năm 1988, đồng chí Nguyễn Hữu Mão – Sư đoàn trưởng lên Quân đoàn nhận chức Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng, đồng chí Ngô Hồng Lập – Phó Sư đoàn trưởng lên làm Sư đoàn trưởng thay cho đồng chí Mão.

Tại căn cứ Phú Lợi, từ 1983-1986, Sư đoàn sau khi cùng Quân đoàn rút về nước, đã xây dựng một số nhà ở cho các đơn vị. Với quan điểm “lính xây, lính ở”, mỗi một căn nhà được xây dựng một kiểu dưới dạng chồng gạch, gác xà gỗ, lợp tôn. Những năm cuối của thời kỳ bao cấp, nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn. Quân đội cũng vậy. Ngày 4-8-1988, Sư đoàn 7 hành quân về nước. Việc tiến hành cơ động được tổ chức thành 6 khối trên hai hướng. Hướng thứ nhất gồm đơn vị: Trung đoàn 141, Trung đoàn 209, Sở chỉ huy Sư đoàn và các đơn vị trực thuộc cùng với pháo binh của Sư đoàn hành quân theo quốc lộ 2 Đầm Be, Oát Thơ Mây, ngã ba Krết, qua cửa khẩu Xa Mát để về Phú Lợi. Hướng thứ 2 gồm Trung đoàn 165 hành quân đường 13 từ Sa Nuôn qua cửa khẩu Hoa Lư về Lộc Ninh, rồi về Phú Lợi. Đến ngày 29-8-1988, toàn bộ đội hình Sư đoàn 7 đã về căn cứ Phú Lợi an toàn. Tại đây, tôi tiếp nhận chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7 thay đồng chí Ngô Hồng Lập được bổ nhiệm chức vụ Phó Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Lúc này tôi vừa tròn 41 tuổi, quân hàm trung tá.

Về căn cứ Phú lợi, nhiệm vụ đầu tiên của Sư đoàn là ổn định nơi ăn chốn ở và tiếp tục xây dựng doanh trại đủ lán trại cho bộ đội ở, sinh hoạt và học tập. Do xây dựng thiếu quy hoạch, lại không được làm thường xuyên nên chỗ ở từ sở chỉ huy Sư đoàn tới chiến sĩ đều tạm bợ. Một lần có nhà báo người Pháp tới thăm và phỏng vấn tôi ở căn cứ Phú Lợi. Khi về nước, nhà báo này có viết: “Ngài Sư đoàn trưởng của một đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam rất tinh nhuệ tiếp tôi trong một căn nhà vừa là nơi ăn, vừa là nơi làm việc của ngài. Xung quanh nhà, tường chưa tô chứ chưa nói gì đến quét vôi”. Nhiệm vụ thứ hai là phải xây dựng một trong đoàn bộ binh đủ quân theo đúng biên chế của Bộ để sẵn sàng cơ động khi chiến trường đất bạn có yêu cầu. Nhiệm vụ tiếp theo là tổ chức Sư đoàn thành khung rút gọn. Trung đoàn pháo gồm hai tiểu đoàn pháo 105 mm, một tiểu đoàn pháo 85 mm tổ chức thành đơn vị rút gọn, riêng Tiểu đoàn pháo 76,5 mm vẫn biên chế đủ quân huấn luyện và sẵn sàng chuyển giao cho đơn vị mới khi có nhu cầu. Ban chỉ huy Sư đoàn lúc này cơ bản đã thay đổi, tôi làm sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Hồng Giúp làm Phó Sư đoàn trưởng về chính trị thay đồng chí Trần Văn Tảo nhận nhiệm vụ Phó Sư đoàn trưởng về chính trị Sư đoàn 9. Phó Sư đoàn trưởng chung chỉ còn đồng chí Chín Ính. Phó Sư đoàn trưởng – Tham mưu trưởng chờ đồng chí Nguyễn Năng Nguyễn tốt nghiệp khóa 8 Học viện Quốc phòng về nhận. Các đồng chí chỉ huy các phòng cũng được bổ nhiệm bổ sung cho hoàn chỉnh. Chúng tôi tập trung xây dựng Trung đoàn 209 là đơn vị đủ quân, còn lại Trung đoàn 165, Trung đoàn 141, Trung đoàn pháo binh lần lượt trở thành những đơn vị khung rút gọn.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:29:55 am
Những năm tháng gắn bó với Sư đoàn 9

Sau khi ở Campuchia rút quân về nước, Sư đoàn 9 đứng chân ở căn cứ Đồng Dù, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại khu vực này, Sư đoàn được Quân đoàn quyết định xây dựng thành sư đoàn đủ quân, sẵn sàng làm mọi nhiệm vụ cơ động chiến đấu bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh ở khu vực miền Đông, đặc biệt ở biên giới Campuchia – Việt Nam và vùng ven biển. Sư đoàn 9 được thành lập từ ngày 2-9-1965, là sư đoàn chủ lực được thành lập đầu tiên trên chiến trường B2, có bề dày truyền thống vẻ vang trong kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc cũng như trong nhiệm vụ giúp bạn trên đất nước Chùa Tháp.

Ở Phú Lợi được hơn một năm, cuối tháng 9-1989, tôi được Bộ Tư lệnh Quân đoàn điều động sang đảm nhiệm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 thay Trung tá Nguyễn Văn Giáp nghỉ hưu. Ban chỉ huy Sư đoàn có Trung tá Trần Văn Tảo – Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, Trung tá Huỳnh Ngọc Sơn – Phó Sư đoàn trưởng Tham mưu trưởng. Các đơn vị được xây dựng và đứng chân ở căn cứ Đồng Dù, tiếp quản từ nhiều đơn vị như lữ đoàn pháo binh, trung đoàn công binh, lữ đoàn phòng không, trường hạ sĩ quan quân đoàn. Đây là một căn cứ đã được chuyển qua rất nhiều đơn vị đến đóng quân từ sau năm 1975 trở lại đây. Hầu hết các nhà nghỉ của bộ đội là của chế độ cũ để lại, nhà vòm mái tôn rất nóng bức và chật chội. Thao trường huấn luyện thiếu rất nhiều.

Nhiệm vụ đặt ra đối với Ban chỉ huy Sư đoàn 9 là xây dựng đơn vị thành một sư đoàn chính quy của quân đoàn trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Sư đoàn vốn có bề dày truyền thống, nhưng về kinh nghiệm xây dựng một đơn vị chính quy, làm việc đúng tác phong, nền nếp, kế hoạch theo điều lệnh quân đội là điều còn rất mới mẻ. Trước tình hình đó, Bộ Tổng tha mưu cử một đoàn cán bộ của Quân đoàn 2 do Đại tá Đồng Quốc Sự - Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn dẫn đầu vào hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm, cùng ăn, ở, làm việc với chúng tôi từ Ban chỉ huy Sư đoàn tới các tiểu đoàn bộ binh. Nhiệm vụ của đoàn cán bộ Quân đoàn 2 là giúp Sư đoàn 9 xây dựng chương trình, kế hoạch huấn luyện, xây dựng thực hiện điều lệnh, chế độ trong ngày của quân nhân và của từng đơn vị làm sao thống nhất từ trên xuống dưới.

Trong chiến đấu đã khó, giờ thời bình đưa đơn vị vào nền nếp, bỏ qua thói quen sống tự do thiếu kế hoạch, kỷ luật… là điều khó thực hiện trong một sớm một chiều. Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn ra nghị quyết và các chỉ thị xây dựng sư đoàn theo hướng dẫn của Bộ và trao đổi kinh nghiệm của đơn vị bạn. Tình hình kỷ luật của Sư đoàn khi mới về nước rất phức tạp. Tính gương mẫu của một số ít cán bộ hạn chế. Trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo binh 42 quan hệ không lành mạnh. Nhiều cán bộ thực hiện giờ giấc không nghiêm, lâu ngày ở trên đất bạn khi về nước thường la cà quán sá, chểnh mảng công việc.

Tôi và các đồng chí trong Đảng ủy – Ban chỉ huy sư đoàn bàn bạc, kiên quyết đưa sư đoàn vào nền nếp. Việc đầu tiên là kế hoạch huấn luyện từ cấp phân đội cho đến tiểu đoàn, trung đoàn, đều được làm thống nhất, thực hiện chung dưới sự chỉ huy của Sư đoàn để làm tốt nhiệm vụ này. Sư đoàn chọn Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 1 do Đại úy Nguyễn Hoàng làm Tiểu đoàn trưởng làm điểm cho Sư đoàn, sau đó nhân rộng ra các đơn vị khác. Tất cả các chế độ trong ngày được thực hiện nghiêm túc. Dần dần, việc thực hiện huấn luyện điều lệnh, xây dựng đơn vị có nhiều tiến bộ rõ rệt.

Song song với việc xây dựng chính quy, sư đoàn hoàn thành các phương án sẵn sàng chiến đấu theo nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao. Trước mắt tập trung xây dựng phương án A2 bảo vệ các mục tiêu trọng yếu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi hiệp đồng với cơ quan Phòng Tác chiến Bộ Tham mưu Quân đoàn cùng với Quân khu 7, đặc biệt là Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ những mục tiêu quan trọng trong thành phố.

Một hôm, tôi dẫn đoàn cán bộ của Sư đoàn đi hiệp đồng tác chiến bảo vệ một số mục tiêu ở thành phố. Trên đường khảo sát từ hội trường Thống Nhất ra khu vực Đài truyền hình, đến số 9 đại lộ Lê Duẩn, thấy bà con ngồi ở đó tương đối đông, đoàn cán bộ dừng lại. Bà con tới hỏi chuyện, chúng tôi nói chuyện bình thường, không biết đó là số bà con kéo đi kiến nghị với Chính phủ một số yêu cầu về dời sống sinh hoạt, chế độ. Chúng tôi ra về vừa qua ngã tư An Sương thì có hai xe quân sự của Quân khu 7 đuổi theo yêu cầu dừng lại gặp chỉ huy. Tôi báo cáo lại tình hình Sư đoàn thực hiện nhiệm vụ theo mệnh lệnh của Quân đoàn 4. Cùng lúc đó, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 yêu cầu tôi về Sở chỉ huy Quân khu gặp Tư lệnh Bùi Thanh Vân (Út Liêm). Chấp hành mệnh lệnh, tôi tới Sở chỉ huy Quân khu. Đồng chí Tư lệnh hỏi:

- Đồng chí có biết thành phố đang làm gì không? Đi hiệp đồng đã báo cáo với ai? Có biết bà con ở số 9 Lê Duẩn làm gì không?

Tôi trả lời:

- Thưa Tư lệnh, Sư đoàn đi hiệp đồng bảo vệ các mục tiêu quan trọng trong thành phố khi có nhiệm vụ A2 xảy ra. Trước khi đi, Sư đoàn đã báo lên Bộ Tham mưu Quân đoàn 4…

Dáng người nhỏ bé, phong cách làm việc rất nghiêm túc song lại hay nói khôi hài ở vị Tư lệnh làm tôi nhớ mãi. Ông tươi cười:

- Chủ động trong nhiệm vụ như vậy là rất tốt. Song thành phố đang Đại hội Đảng, mọi hoạt động quân sự cần được hiệp đồng, chọn thời gian tiến hành cho chặt chẽ. Thôi về chỉ huy, quản lý sư đoàn cho tốt nhé…


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:35:26 am
Các phương án nhiệm vụ khác, chúng tôi đều làm theo kế hoạch chung của Quân đoàn, như việc cơ động trên tuyến biên giới Tây Nam từ Long An lên Mộc Bài, Xa Mát, tới đường 13 Hoa Lư của Lộc Ninh, Bình Phước. Việc huấn luyện, xây dựng tổ chức biên chế của Sư đoàn được kiện toàn từ cơ quan sư đoàn tới các ban chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn và các phân đội trực thuộc. Cán bộ đã có trách nhiệm cao trong việc xây dựng đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.

Tháng 8 năm 1989, Sư đoàn 9 được Đảng, Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ 2. Công tác tổ chức lễ đón nhận danh hiệu anh hùng lần thứ 2 được tổ chức vào dịp 22-12-1989 nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tôi đến nhà riêng gặp và mời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến dự với Sư đoàn. Đồng chí đang bệnh nhẹ. Đồng chí nói:

- Quốc hội đang họp, tôi không ra dự được, mà đến dự với các đồng chí, báo đài đưa tin Quốc hội họ nghĩ sao?

Suy nghĩ một lát, tôi đề nghị:

- Thưa bác, bác ở trong Quân ủy Miền, người đã cùng ký quyết định thành lập Sư đoàn 9 ngày 2-9-1965. Nay Sư đoàn được tuyên dương đơn vị anh hùng đó là ngày trọng đại của Sư đoàn. Bác nên dành thời gian về dự chung vui với cán bộ, chiến sĩ. Tin rằng niềm vui khi Bác gặp lai lớp cán bộ, chiến sĩ từ năm 1965 trở lại đây, Bác sẽ phấn khởi và sẽ mau lành bệnh. Còn việc đưa tin tuyên truyền khi Bác đến thăm Sư đoàn, tôi sẽ có biện pháp bàn với các phóng viên báo đài để đưa tin khi Quốc hội kết thúc.

Tổng Bí thư vui vẻ nhận lời. Tôi phấn khởi ra về báo cáo lên Bộ Tư lệnh Quân đoàn để các đồng chí biết và chỉ đạo Sư đoàn tổ chức đón Tổng Bí thư.

Sáng 22-12-1989, Sư đoàn long trọng làm lễ đón nhận danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” lần thứ 2 và kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Lần đầu tiên tất cả các đồng chí cán bộ cũ của Sư đoàn từ ngày mới thành lập đều có mặt đông đủ (những năm trước từ 1977 đến đầu năm 1989, Sư đoàn liên tục làm nhiệm vụ ở biên giới Tây Nam và trên đất bạn nên chưa có dịp tổ chức gặp mặt được). Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đến. Đồng chí ôm hôn lần lượt các đồng chí cán bộ cũ của Sư đoàn. Những mái đầu tóc đã hoa râm, bàn tay vỗ nhẹ lên vai nhau. Cuối cùng, đồng chí đến Ban chỉ huy Sư đoàn bắt tay và nhắc nhẹ:

- Các cháu còn trẻ cố gắng công tác cho tốt, phân đầu là sư đoàn anh cả của miền Đông.

Phát biểu tại lễ mít tinh, Tổng Bí thư căn dặn cán bộ chiến sĩ Sư đoàn hãy phát huy những kết quả của mấy chục năm qua mà vững vàng trong thời kỳ đất nước đổi mới để giữ vững thành quả cách mạng của biết bao thế hệ đã đổ xương máu để có được ngày hôm nay.

Vào dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân, Quân đoàn 4 có năm đồng chí được đề bạt quân hàm từ trung tá lên đại tá (ba sao), trong đó có tôi và đồng chí Trần Văn Tảo. Những người được trao trong đợt này ở các đơn vị bạn đã nhận quân hàm trước ngày 22-12. Tôi và đồng chí Hai Tảo đã chuẩn bị sẵn quân hàm chỉ chờ thông báo là mang lên vai để kịp đó đồng chí Tổng Bí thư đến dự. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà tới ngày 25-12 Quân đoàn mới trao quân hàm cho năm chúng tôi. Trong phim truyền thống Sư đoàn 9 có ghi hình tôi phát biểu với phụ đề Đại tá Đào Văn Lợi, nhưng cầu vai của tôi vẫn mang quân hàm trung tá nên có người gọi điện đến thắc mắc. Tôi trao đổi với đồng chí Đinh Phong – Phó Giám đốc Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí nói:

- Lúc ghi hình là vậy, sau đó chú đã nhận quyết định đại tá rồi còn gì. Chi tiết quân hàm đâu quan trọng bằng việc chú là Sư đoàn trưởng đầu tiên của Sư đoàn 9 đưa Tổng Bí thư duyệt đội ngũ. Đó là vinh dự rất lớn của một quân nhân.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:37:44 am
*
*   *

Năm 1991, nhân dịp về tiếp xúc cử tri để tuyên truyền chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa 9, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phan Văn Khải về thăm Sư đoàn 9. Cùng đi có Đại tá Phan Trung Kiên – Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi vừa là cử tri công dân thành phố mang tên Bác Hồ, vừa là những người lính có vinh dự tiếp đón Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Đồng chí chân tình gợi ý:

- Các đồng chí trong Sư đoàn có gì đề đạt với Đảng, Nhà nước cứ mạnh dạn phát biểu.

Thay mặt cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn, tôi đứng dậy:

- Thưa bác Sáu, tình hình quản lý cán bộ chiến sĩ của Sư đoàn trong mấy năm qua tuy có nhiều chuyển biến tích cực, song việc đào bỏ ngũ của chiến sĩ vẫn chưa chấm dứt. Trong đó có một nguyên nhân là nhà ở và chế độ ăn uống còn quá thiếu thốn. Kính mời Bác đi thăm doanh trại của Sư đoàn. Tôi là Sư đoàn trưởng nhưng khi ra gặp nhân dân rất xấu hổ. Doanh trại của một sư đoàn anh hùng nhưng vốn tiếp quản từ cơ sở của chế độ cũ để lại, tới nay đã hơn 16 năm nhưng chưa có gì thay đổi. Nhà ở vẫn nhà tôn vòm rất nóng bức, không đảm bảo sức khỏe cho bộ đội. Ăn thì tiêu chuẩn cả một ngày không bằng một tô phở buổi sáng ở thành phố. Quân phục của bộ đội chất lượng vải kém quá. Khi tôi ra ngoài không bao giờ mặc bộ quân phục mà mặc đồ dân sự.

Đồng chí ngắt lời tôi:

- Tại sao lại vậy?

Tôi trả lời:

- Bộ quân phục hôm nay tôi mặc để tiếp bác là bộ quân phục mới nhất, đây là chất lượng vải đơluyn. Bộ này mang ra chợ bán chỉ được 24-25.000 đồng, không mua nổi một cân thịt 30.000. Nó lại rất tốn điện, mỗi lần giặt xong phải là ủi vì nếu không là ủi thì không khác gì bộ lò xo ống nhún của xe honđa.

Nghe xong, đồng chí cười và nói:

- Quần áo, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã ký và giao cho quân đội, các đồng chí chọn mẫu mã và chất lượng vải sẽ cải tiến trong vài năm tới. Đồng chí nói tiếp di.

Tôi tiếp tục:

- Thưa bác Sáu, bác là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách về mặt ngân sách cấp phát cho các bộ trong đo có Bộ Quốc phòng. Mong bác quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ Sư đoàn 9 nói riêng và toàn quân nói chung để làm sao đổi mới về doanh trại, đổi mới về chế độ ăn, đổi mới về chế độ mặc để các chiến sĩ, thanh niên của mọi miền đất nước yêu mến màu xanh quân đội, màu xanh của bộ đội Cụ Hồ.

Chúng tôi mời bác ở lại dùng cơm trưa. Bác Sáu Khải quay sang nói với đồng chí Phan Trung Kiên:

- Cậu sư trưởng này nói thật. Thôi trưa nay không đi đâu hết, ở đây ăn cơm với Sư đoàn.

Trưa hôm đó, Ban chỉ huy Sư đoàn tiếp đón đoàn đại biểu Quốc hội của Thành phố Hồ Chí Minh. Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng bác Sáu rất vui, ăn ngon miệng và nói chuyện sôi nổi. Khi ra về, bác Sáu bắt tay và căn dặn chúng tôi:

- Cố gắng xây dựng Sư đoàn cho tốt.

Năm 2002, tôi ra Hà Nội dự Hội nghị quân chính toàn quân tại Hội trường Bộ Quốc phòng. Hội nghị vinh dự đón tiếp đồng chí Phan Văn Khải, ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ tới thăm và nói chuyện. Phát biểu tại hội trường, Thủ tướng nhấn mạnh quân đội cần sử dụng kinh phí của Nhà nước đầu tư cho hiệu quả trong việc xây dựng doanh trại, các trang thiết bị cho đúng quy định. Đồng chí nhắc:

- Khi về thăm một sư đoàn ở Đồng Dù – Củ Chi, tôi được nghe anh em báo cáo tình hình ăn, ở, mặc rất khó khăn, không biết doanh trại của Sư đoàn có thay đổi gì chưa?


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:40:07 am
Giờ giải lao, đồng chí Phan Trung Kiên bấy giờ là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng báo cáo với bác Sáu:

- Đồng chí Sư trưởng ngày đó bây giờ lên tướng rồi, làm Giám đốc học viện Lục quân Đà Lạt đang ngồi sau kia.

Đồng chí Phan Văn Khải đi tới bắt tay chúc mừng tôi. Trong lòng tôi cứ nghĩ mãi, phải chăng lời nói thẳng nói thật, thường được nhớ lâu. Những câu nói của tôi từ năm 1991 tới nay đã hơn chục năm mà người đứng đầu chính phủ bận trăm công ngàn việc vẫn còn nhớ. Đó là điều tôi rất tâm đắc.

Căn cứ Đồng Dù – Củ Chi là một căn cứ hoang tàn, không có màu xanh. Có thể đứng trên tầng hai nhà cũ của chuẩn tướng Lý Tòng Bá nhìn ra tận Phước Vĩnh An, Phạm Văn Cội không hề có một bóng cây. Nước sinh hoạt, nước uống thiếu thốn. Rau xanh rất khó trồng vì thiếu nước tưới, đất chủ yếu là sỏi đá, bê tông. Trước tình hình này Đảng ủy – chỉ huy Sư đoàn đề ra chủ trương trồng rau xanh và phủ xanh doanh trại. Trước hết là phát động phong trào trồng ra xanh để cải thiện bữa ăn của bộ đội. Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 được chọn làm đơn vị đột phá. Ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 do đồng chí Bôn – Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Cương – Phó Tiểu đoàn trưởng chính trị đã chỉ huy đơn vị đào bỏ lớp nhựa đường bê tông trên mặt để lộ lớp đất màu bên dưới bón phân trồng rau, tưới cây. Từ Tiểu đoàn 2 nhân rộng ra các đơn vị trong toàn sư đoàn. Dần dần, các đơn vị đã đưa vào bữa ăn của bộ đội 50% rau tự túc. Sau này, kênh dẫn nước của hồ Dầu Tiếng được đưa về đến thị trấn Củ Chi. Tôi mạnh dạn đề nghị với cơ quan thủy lợi các cấp đưa mương dẫn nước vào sát cổng phụ 320 của Sư đoàn để có nguồn nước dẫn vào khu ở doanh trại của các đơn vị. Chính nhờ có mương nước đó, Sư đoàn tổ chức đào ao, kênh dẫn nước. Mảnh đất Đồng Dù khô cằn từ những năm sau chiến tranh đang dần trở thành một vùng rau, cây xanh tươi với nguồn nước tưới quanh năm.

Vấn đề thứ hai là phủ xanh toàn bộ doanh trại với diện tích trên 500 héc-ta ở khu vực Đồng Dù. Đây là một quyết tâm rất lớn. Nguồn vốn của Sư đoàn hạn chế, tôi đặt vấn đề với Sở Nông – Lâm nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (lúc đó đồng chí Trương Tấn Sang làm Giám đốc Sở) xin cung cấp cây trồng cho Sư đoàn. Ngoài số cây được cấp, Sư đoàn mua thêm một số cây dầu, sao về trồng quanh khu vực nhà ở của cơ quan Sư đoàn, còn đại bộ phận trồng tràm bông vàng để trước mắt phủ kín đồi trọc và quanh thao trường để mỗi khi bộ đội huấn luyện có bóng mát nghỉ ngơi. Phong trào trồng cây được triển khai khẩn trương trong mùa mưa năm 1991 và kết quả thật không ngờ. Sau vài năm, cây cối phủ xanh khu vực Đồng Dù, dần biến thành một trong những lá phổi của thành phố. Hiện nay với sự đầu tư có trọng điểm của Bộ Tư lệnh Quân đoàn đến Đảng ủy chỉ huy Sư đoàn 9, cây trồng ở trong că cứ Đồng Dù đã được nâng lên quy mô và chất lượng tốt hơn.

Trong nhiệm vụ huấn luyện, chúng tôi thực hiện việc kết hợp đầu tiên giữa huấn luyện dã ngoại với làm công tác vận động quần chúng. Nhiệm vụ này đã được Đảng ủy - chỉ huy Sư đoàn quán triệt và đưa vào kế hoạch hàng năm. Từng đơn vị được phân công từng địa bàn cụ thể, những nơi, vùng cách mạng cũ như Bời Lời, Phạm Văn Cội, Bến Dược… Mỗi đợt tổ chức huấn luyện thường từ một tuần cho đến 10 ngày. Công việc chủ yếu là huấn luyện theo các nội dung quân sự đã có kế hoạch sẵn và thao trường được chuẩn bị ở ngay nơi làm công tác dân vận. Vừa huấn luyện, bộ đội vừa làm nhiệm vụ vận động quần chúng, cùng nhân dân xây dựng ấp văn hóa, xây dựng nhà tình nghĩa cho những gia đình có công với cách mạng và giúp nhân dân xây dựng dời sống sinh hoạt đảm bảo an ninh và ổn định địa bàn. Mỗi một lần đơn vị đi dã ngoại như vậy đều được sự quan tâm chỉ đạo và kết hợp chặt chẽ của huyện ủy, ủy ban và các đoàn thể huyện Củ Chi. Việc làm của Sư đoàn đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân vùng cách mạng cũ cũng như các đồng chí trong Đảng ủy, chính quyền địa phương. Nhờ huấn luyện tại chỗ, huấn luyện dã ngoại được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, cuối năm 1992 khi cấp trên kiểm tra huấn luyện thực binh cơ động sư đoàn từ Đồng Dù đi lên khu vực Tân Uyên tỉnh Bình Dương, vượt qua sông Đồng Nai, hồ Trị An, qua ngã ba Dầu Giây lên Long Khánh vào khu vực dãy núi Mây Tào làm nhiệm vụ bắn đạn thật diễn tập cấp trung đoàn, Sư đoàn được cấp trên đánh giá là đơn vị có nhiều cố gắng và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Tháng 2 năm 1993, tôi được cử đi học lớp bổ túc chính trị A tại Học viện Chính trị Quân sự ở Hà Đông.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:42:16 am
Những cuộc diễn tập khó quên

Sau khi học xong lớp bổ túc chính trị A tại Học viện Chính trị Quân sự, tháng 9-1993, tôi về đảm nhiệm chức vụ Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng thay cho đồng chí Đại tá Nguyễn Văn Hồng lên đảm nhiệm chức vụ Phó Tư lệnh chung. Bộ Tư lệnh Quân đoàn lúc này có năm đồng chí: Thiếu tướng Lê Văn Dũng – Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Minh Chữ - Phó Tư lệnh về chính trị, Đại tá Nguyễn Hữu Mão và Đại tá Nguyễn Văn Hồng – Phó Tư lệnh chung và tôi là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng. Bộ Tham mưu chỉ có Đại tá Trần Hường là Phó Tham mưu trưởng. Đồng chí Trần Hường cũng nguyên là bạn công tác với tôi ở Bộ Tham mưu Quân đoàn khi còn đứng chân trên đất nước Chùa Tháp. Sau này Bộ bổ nhiệm thêm Đại tá Nguyễn Văn Điền – Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn pháo binh 434 lên đảm nhiệm chức Phó Tham mưu trưởng.

Sau khi nhận bàn giao từ đồng chí Hồng, tôi trực tiếp làm việc với từng phòng, tập trung vào công tác sẵn sàng chiến đấu và công tác huấn luyện để đảm bảo cuối năm hoàn thành các kế hoạch của Quân đoàn đã đề ra. Trọng điểm là hoàn thiện kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ các đơn vị cấp trung, lữ sư đoàn trở lên để Quân đoàn phê duyệt và bản thân Quân đoàn cũng phải hoành chỉnh bộ văn kiện theo đúng quy định để báo cáo Bộ. Đồng thời chúng tôi tổ chức đi khảo sát địa hình ven biển từ nam Thành phố Hồ Chí Minh ra Vũng Tàu, Hàm Thuận, Phan Thiết tới Ninh Thuận. Trong chuyến đi công tác địa hình lâu này, sau khi vòng qua Hàm Tân về Biên Hòa – Đồng Nai, tôi đề xuất với đồng chí Tư lệnh kiến nghị với Bộ cần có một trung đoàn bộ binh của Quân đoàn hoặc của Quân khu 7 đứng chân ở khu vực dãy núi Mây Tào, tức là Trường bắn của Bộ ở phía Nam do Quân khu 7 quản lý. Khu vực Mây Tào nằm tiếp giáp giữa tỉnh Đồng Nai và Bình Thuận, trên một hướng chiến lược từ biển vào Hàm Tân ra quốc lộ 1 Biên Hòa, cần có một đơn vị chủ lực cài thế chiến lược ở đó. Đồng chí Tư lệnh đồng tình. Về tới Sở chỉ huy Quân đoàn, tôi báo cáo kế hoạch đó ra Bộ. Phải tới gần chục năm sau, tới năm 2003, Bộ quyết định điều Trung đoàn bộ binh 3 Sư đoàn 9 từ Đồng Dù – Củ Chi ra đứng chân ở khu vực căn cứ Mây Tào để làm nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

Sau chuyến đi công tác địa hình ở ven biển, chúng tôi tiếp tục đi kiểm tra địa hình ở biên giới Tây Nam từ khu vực Long An tới Mộc Bài, Lò Gò, Xa Mát, Cà Tum và về quốc lộ 13 đoạn Lộc Ninh đi lên đồn biên phòng Hoàng Diệu. Nhiệm vụ của chúng tôi là hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang trên địa bàn Quân khu 7 để bảo vệ an ninh chính trị, giữ vững các mục tiêu trọng yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện tốt kế hoạch A2 mà Bộ Tổng tham mưu đã giao cho Quân đoàn. Việc đầu tiên là điều chỉnh các đơn vị thiết giáp, xe tăng của Lữ đoàn tăng 22 đã bố trí sẵn ở một số mục tiêu trong thành phố, đồng thời bổ sung kế hoạch cơ động các lực lượng bằng nhiều phương tiện đường sông, đường không, đường bộ khác nhau cơ động nhanh nhất vào khu vực mục tiêu khi có tình huống xảy ra. Do có thời kỳ làm Phó phòng tác chiến Quân đoàn, tôi đã được tập huấn ở Bộ và đã tham gia xây dựng các kế hoạch này nên nay triển khai điều chỉnh và lập các kế hoạch sẵn sàng chiến đấu không có gì khó khăn lắm. Các phương án được bổ sung điều chỉnh phù hợp với tình hình quân số biên chế trang bị hiện tại và trên cơ sở đó tổ chức huấn luyện diễn tập cho từng phân đội, tập huấn những vấn đề về lý luận, nội dung, thứ tự các nội dung chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Trong quý 2 năm 1994, Quân đoàn 4 triển khai các hoạt động chuẩn bị kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đoàn (20.7.1974 – 20.7.1994). Lễ kỷ niệm dự kiến sẽ tổ chức tương đối lớn, có diễu duyệt của các đơn vị trong biên chế hiện có của Quân đoàn với lực lượng dân quân tự vệ của Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh), tự vệ ở Biên Hòa tỉnh Đồng Nai. Khách mời ngoài Thủ tướng Chính phủ, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, lãnh đạo chính quyền, lực lượng vũ trang các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Với tư cách là Phó ban chỉ đạo thường trực, tôi tập trung chỉ đạo huấn luyện các khối luyện tập, xây dựng đường diễu hành, khán đài, hiệp đồng với các đơn vị, địa phương có lực lượng tham gia.

Đến ngày tổ chức lễ, buổi sáng tôi được phân công đi đón đồng chí Nguyễn Văn Linh nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tới dự. Xe đi từ nhà bác Mười Cúc tới ngã tư Hàng Xanh theo đường quốc lộ 13 ra cầu Bình Triệu, tới cầu Sơn (giữa ngã tư Hàng Xanh và cầu Bình Triệu) thì bị tắc đường. đứng chờ một lúc vẫn chưa đi được, bác nói:

- Thật khổ cứ tắc đường đi đâu cũng ngại.

Tôi vội trả lời:

- Thưa bác đây là điều rất sung sướng bác ạ.

Bác hỏi lại:

- Sao cháu lại nói vậy?

- Thưa bác, nhờ đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đời sống của nhân dân phát triển, mỗi gia đình đều có xe máy, cơ quan nhà nước ô tô cũng nhiều hơn. Trong lúc đường sá của ta chưa mở rộng kịp, nên tắc đường là diều bình thường.

Nghe tôi nói xong, bác Mười cười thoải mái. Chắc bác cũng đồng tình với ý kiến của tôi. Lúc này chiếc xe tải chết máy đã khắc phục đường, đường thông, tôi tiếp tục đưa bác Mười về kịp dự lễ với Quân đoàn.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:44:41 am
Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đoàn diễn ra đúng kế hoạch và bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và phương tiện. Cùng lúc này, Bộ Tổng tham mưu giao cho Quân đoàn 4 nhiệm vụ huấn luyện chiến dịch, diễn tập tác chiến cấp quân đoàn. Ngày 30-8-]1994, Đảng ủy Quân đoàn họp ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ Bộ giao: diễn tập, thực hành cơ động quân đoàn chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến và thực hành đảm nhiệm các hình thức chiến đấu tiến công, tiêu diệt quân địch khi đã đổ bộ vào một số khu vực. Lần đầu tiên Quân đoàn tổ chức diễn tập với quy mô lớn (gồm toàn bộ 4 cơ quan Quân đoàn, ba sư đoàn bộ binh 7, 9, 309, các lữ đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng, Trung đoàn công binh 550 cũng như các phân đội trực thuộc). Sau nhiều năm làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia, Bộ chỉ đạo Quân đoàn 1 trực tiếp làm nhiệm vụ đạo diễn. Quân đoàn 1 tổ chức một bộ khung song song với bộ khung của Quân đoàn 4 giúp cho quân đoàn thực hiện nhiệm vụ. Thiếu tướng Nguyễn Huy Hiệu – Tư lệnh Quân đoàn 1 làm trưởng đoàn đạo diễn, cơ quan từ trưởng phòng tới thủ trưởng cục và ba đồng chí Sư đoàn trưởng trực tiếp giúp các phòng, các cục của bốn cơ quan và ba sư đoàn trưởng của Quân đoàn 4.

Theo đúng kế hoạch, ngày 5-10-1994, toàn bộ Quân đoàn báo động chuyển trạng thái diễn tập theo lịch điều hành thống nhất. Sau khi đã cơ động ra khu vực tập trung bí mật, mọi công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu được tiến hành một cách song song và theo mệnh lệnh của Bộ. Đang cuối mùa mưa đầu mùa khô, rừng cao su ở miền Đông gặp những trận mưa lớn, hầu hết công sự, đường giao thông hào, các hố chiến đấu đều bị sạt lở, bộ đội phải làm lại.

Ngày 6 và 7-10-1994, Quân đoàn diễn tập làm văn kiện chuẩn bị tác chiến chiến dịch với nội dung Tư lệnh nghe đề đạt của các cơ quan binh chủng để dự kiến công bố quyết tâm, sau đó các cơ quan chiến dịch thực hành xây dựng kế hoạch để Tham mưu tưởng hoặc Tư lệnh thông qua (Tham mưu trưởng hoặc Tư lệnh thông qua các binh chủng, Tư lệnh trực tiếp thông qua quyết tâm chiến đấu của các sư đoàn).

Mặc dù đã được chuẩn bị trước và được các đồng chí đạo diễn hướng dẫn, nhưng khi ra trinh diễn vẫn còn nhiều đồng chí lúng túng, chưa phân biệt lúc nào là đề xuất, chỗ nào là kiến nghị, cho nên kết quả chất lượng diễn tập hạn chế. Chiều ngày 7 tháng 10, tôi thông qua kế hoạch của cá chủ nhiệm binh chủng, đồng chí Thượng tướng Nguyễn Chơn – Thứ trưởng Bộ Quốc phòng tới dự. Một số chủ nhiệm binh chủng lên báo cáo thiếu trình tự, nắm bắt nội dung chưa hết nên phần đề nghị và kế hoạch không gắn với nội dung, ý định diễn tập của chiến dịch.

Đồng chí Nguyễn Chơn hỏi tôi:

- Cơ quan diễn tập thế này thì tác chiến sao được hả đồng chí Tham mưu trưởng?

Tôi trả lời:

- Báo cáo Thứ trưởng, các cơ quan của Quân đoàn đã tác chiến quá lâu trên chiến trường bạn nên chưa quen với hình thức diễn tập bài bản chính quy như thế này.

Tôi xin phép Thứ trưởng cho tạm dừng diễn tập để thống nhất lại những nội dung cần thiết, sáng mai diễn tập lại. Đồng chí Thư trưởng nhất trí. Sau đó, tôi mời các chủ nhiệm binh chủng, các thủ trưởng các cục họp thống nhất nhận thức hình thái chiến dịch để thực hiện cho sát yêu cầu. Buổi diễn tập báo cáo kế hoạch của các chủ nhiệm binh chủng sau đó diễn ra suôn sẻ. Sau khi thông qua kế hoạch chuẩn bị văn kiện xong, Quân đoàn tổ chức thực hành chiến đấu bắn đạn thật ở khu trường bắn Mây Tào cho đội hình một tiểu đoàn bộ binh.

Như vậy, lần đầu tiên kể từ ngày về nước, Quân đoàn tổ chức diễn tập cấp chiến dịch với quy mô thời gian và lực lượng tương đối lớn được diễn ra đúng kế hoạch, đảm bảo an toàn. Tuy rằng chất lượng diễn tập không cao, nhưng đây là bài học tốt để Quân đoàn tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng lại những nội dung để thực hiện các cuộc diễn tập lần sau tốt hơn.

Đầu tháng 9-1995, Quân đoàn nhận được lệnh của Bộ giao nhiệm vụ thực hành diễn tập chiến thuật một bên hai cấp cho Sư đoàn bộ binh 7 được tăng cường binh khí kỹ thuật phòng ngự ở địa hình trung du, đồng bằng và có bắn đạn thật. Cuộc diễn tập do Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo, có đại biểu toàn quân tham mưu rút kinh nghiêm. Thượng tướng Đào Đình Luyện – Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng làm Trưởng ban chỉ đạo, Thiếu tướng Nguyễn Huy Hiệu – Phó Tổng tham mưu trưởng, Phó ban chỉ đạo trực tiếp chỉ đạo Quân đoàn thực hiện nhiệm vụ diễn tập. Đây là lần đầu tiên Quân đoàn diễn tập chiến thuật phòng ngự cấp sư đoàn bộ binh có tăng cường nhiều binh khí kỹ thuật và bắn đạn thật nằm ở địa hình phức tạp.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:46:46 am
Cuối tháng 9, Bộ điều động Thiếu tướng Lê Văn Dũng – Tư lệnh Quân đoàn về đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu 7, tôi là người được Bộ chỉ định nhận toàn bộ bàn giao của đồng chí Lê Văn Dũng. Như vậy, cuộc diễn tập này tôi vừa là Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân đoàn và là Trưởng ban diễn tập của Quân đoàn. Nhiệm vụ nặng nề, tình hình nhân sự thay đổi, tôi biết cấp trên rất lo lắng cho kết quả diễn tập. Đồng chí Nguyễn Huy Hiệu tâm sự với tôi:

- Lợi ơi, đây là tác phẩm (trực tiếp chỉ đạo cuộc diễn tập) đầu tay của anh khi lên làm Phó Tổng tham mưu trưởng, cố gắng nhé.

Tôi trả lời:

- Anh yên tâm, mọi việc sẽ tốt đẹp.

Tôi hiểu đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng lo lắng liệu tôi có lèo lái, chỉ huy cuộc diễn tập đạt kết quả tốt hay không. Tuy nhiên, tôi tự tin vì chúng tôi có cả Đảng ủy, tập thể Bộ Tư lệnh quyết tâm cùng nhau thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó chúng tôi được Bộ tăng cường Đại tá Nguyễn Đức Quý – Chủ nhiệm khoa Chiến dịch – Chiến thuật của Học viện Lục quân về thực tập làm Tham mưu phó Quân đoàn. Tôi vừa làm nhiệm vụ chỉ đạo diễn tập, vừa lo các công việc huấn luyện sẵn sàng chiến đấu hàng ngày của Quân đoàn. Tất cả cơ quan, phòng, cục và chỉ huy các đơn vị đều thực hiện nghị quyết của Đảng ủy Quân đoàn, những chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân đoàn một cách nghiêm túc.

Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Thượng tá Mai Đại Từ rất hăng hái thực hiện nhiệm vụ. Phòng ngự ở địa hình trung du và đồng bằng, một đề tài cấp Bộ vừa nghiên cứu lý luận vừa vận dụng hình thức diễn tập có thực binh để khảo sát sút kinh nghiệm biên tập thành tài liệu chính thức phục vụ cho huấn luyện trong toàn quân. Sư đoàn bộ binh 7 có Trung đoàn bộ binh 209 là đơn vị đủ quân, còn lại hai trung đoàn khung dự bị (141, 165). Lực lượng tăng cường gồm một tiểu đoàn tăng của Trung đoàn tăng thiết giáp 22, một tiểu đoàn lựu pháo 122mm, một đại đội BM 21, một đại đội chống tăng 85 mm của Lữ đoàn pháo binh 434, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm, một tiểu đội có 3 cơ cấu phóng A72 thuộc Lữ đoàn phòng không 71, một tiểu đoàn công binh của Trung đoàn công binh 550, một trung đội hóa học của Tiểu đoàn hóa học Bộ Tham mưu.

Theo kế hoạch ngày 4-11-1995, cuộc diễn tập bắt đầu dưới sự chỉ đạo, giam sát của Thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu, các cơ quan Bộ Quốc phòng, các học viện, nhà trường, các quân khu, quân đoàn trong toàn quân đã chứng kiến cuộc diễn tập và có một phần thực hành bắn đạn thật do Quân đoàn 4 thực hiện. Ngày 23 tháng 11, diễn tập kết thúc. Cuộc diễn tập đã diễn ra đúng kế hoạch, thực hiện được mục đích yêu cầu đề ra và đảm bảo tuyệt đối an toàn về người và vũ khí tang bị. Thủ trưởng Bộ Quốc phòng đánh giá Quân đoàn hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ. Kết quả diễn tập đã làm cơ sở cho việc biên soạn hoàn thiện tài liệu phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nâng cao trình đô tổ chức thực hành chiến đấu hiệp đồng binh chủng của chỉ huy cơ quan đơn vị cấp trung đoàn và sư đoàn.

Khi tôi báo cáo xin phép kết thúc cuộc diễn tập, đồng chí Thứ trưởng Tổng Tham mưu trưởng, Trưởng ban chỉ đạo đến bắt tay và ôm lấy tôi. Ông động viên: Tốt lắm, cuộc diễn tập thành công! Sau đó đồng chí Nguyễn Huy Hiệu đến bắt tay chúc mừng và rất nhiều các đồng chí anh em cùng học, cùng công tác với nhau, cùng chỉ huy các đơn vị về tham quan diễn tập đều đến bắt tay và chia vui với chúng tôi. Có lẽ điều sung sướng nhất mà bản thân tội cảm nhận lúc này là năng lực tổ chức, điều hành, chỉ huy một cuộc diễn tập quy mô cấp quân đoàn có nhiều binh chủng tham gia với một thời gian dài ở một địa hình phức tạp đã được khẳng định. Cuộc diễn tập cũng để lại một bài học lớn, làm cơ sở cho những cuộc diễn tập tiếp theo của Quân đoàn sau này.

Sau diễn tập, trung tuần tháng 12 năm 1995, Bộ Quốc phòng bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Minh Chữ làm Tư lệnh, Đại tá Lưu Phước Lượng – Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7 làm Phó Tư lệnh về Chính trị Quân đoàn thay đồng chí Năm Chữ.

Ngày 27-3-1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn 4 lần thứ 5 khai mạc tại nhà truyền thống của Quân đoàn với 180 đại biểu tham dự. Đại hội được Thượng tướng tướng Lê Khả Phiêu – Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về dự và chỉ đạo. Tại đại hội này, tôi được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ, vào Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn và đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quân.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:51:30 am
Chương sáu

NHÀ TRƯỜNG

Trường Sĩ quan Lục quân 2

Cuối năm 1997, tôi được điều động về làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2 thay Trung tướng Lê Nam Phong nghỉ hưu.

Ngày 21-6-1997, tôi có mặt tại Văn phòng Đảng ủy Quân sự Trung ương để nhận nhiệm vụ. Trong buổi giao nhiệm vụ có Đại tướng Đoàn Khuê – Bộ trưởng, Trung tướng Phạm Thanh Ngân – Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trung tướng Phạm Văn Trà – Tổng Tham mưu trưởng cùng với các cơ quan của Bộ. Cùng nhận nhiệm vụ trong khối học viện nhà trường có Đại tá Lê Ngọc Sanh đảm nhiệm Phó Giám đốc về chính trị Học viện Lục quân, Thiếu tướng Thạc sĩ Nguyễn Khắc Viện đảm nhiệm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1. Sau khi công bố quyết định của Bộ bổ nhiệm cho ba chúng tôi, Bộ trưởng Đoàn Khuê hỏi lần lượt từng đồng chí một. Đồng chí Nguyễn Khắc Viện có ý kiến tương đối dài và đề xuất nhiều nội dung công việc của Trường Sĩ quan Lục quân 1. Đồng chí Lê Ngọc Sanh cũng phát biểu ý kiến bàn về chất lượng và yêu cầu giáo dục của Học viện Lục quân. Tôi không muốn phát biểu gì song Bộ trưởng hỏi lần thứ hai:

- Đồng chí Lợi phát biểu gì không, có gì cứ đề xuất.

Tôi trả lời:

- Thưa Bộ trưởng và các thủ trưởng, tôi được điều động sang công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 là một nhiệm vụ rất mới mẻ, tôi chưa có kinh nghiệm huấn luyện và đào tạo ở một nhà trường vì bản thân trưởng thành từ đơn vị cơ sở chiến đấu trở lên. Do đó khi về nhà trường chắc rằng các đồng chí đi trước làm được 10 phần, tôi cố gắng làm được 5-6 phần là tốt lắm rồi. Có gì mong các thủ trưởng đừng rầy la, rầy nhiều quá có lẽ tôi xin nghỉ hưu trước các thủ trưởng.

Bộ trưởng Đoàn Khuê và các đồng chí trong hội nghị ai cũng cười. Đồng chí nói:

- Thôi cứ yên tâm về đó công tác. Trước mắt sớm lo nhận bàn giao kết thúc năm học 1996-1997 để các đồng chí cũ được nghỉ theo kế hoạch. Thứ hai là về xây dựng nhà trường phải rèn luyện cơ bản từ động tác nhỏ nhất để anh em ra trường huấn luyện đơn vị. Ba là giữ mối đoàn kết trong nội bộ cho tốt và hai trường nên trao đổi với nhau trong quá trình tổ chức huấn luyện và đào tạo, sau này có khó khăn gì thì làm việc với Tổng Tham mưu trưởng.

Sau khi nhận nhiệm vụ xong, rời khỏi nhà làm việc của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Phạm Thanh Ngân gọi tôi lại hỏi:

- Đồng chí có biết việc Quân đoàn chuyển giao diện tích đất ở khu vực xưởng cưa cho Công ty Thành Lễ?

Tôi trả lời:

- Tất cả những việc làm đều được đồng chí Tư lệnh Quân đoàn thông báo trong hội nghị giao ban, tôi có ghi chép đầy đủ. Song từ giờ phút này, tôi là người ngoài Quân đoàn nên tôi không muốn nói bất cứ công việc gì của Quân đoàn 4, mong thủ trưởng thông cảm. Nếu có chỗ nào Thủ trưởng thấy chưa rõ, Thủ trưởng cứ chỉ thị cho các cơ quan của Bộ xuống Quân đoàn kiểm tra.

Có lẽ tuy không hài lòng lắm về câu trả lời của tôi nhưng thủ trưởng vẫn cười, vỗ vai tôi và nói:

- Được, tớ sẽ bàn với cơ quan kiểm tra vấn đề này sau.

Trước khi tôi về, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng cho gọi tôi đến phòng làm việc riêng ngoài Trạm 66 dặn thêm:

- Ông về đó việc đầu tiên là phải nắm tình hình tổ chức biên chế, trang bị cho đúng quy định của Bộ, thứ hai xây dựng trường phải thật chính quy mẫu mực để thực sự là nhà trường đi trước đơn vị, có khó khăn gì tổng hợp, nhận bàn giao xong báo cáo ra đây, Bộ Tổng tham mưu sẽ giúp đỡ.

Từ lúc được Bộ trưởng giao nhiệm vụ, tôi thấy rất phân vân, lo ắng vì trọng trách cấp trên giao cho mình. Trong ki nghỉ phép chờ về nhận bàn giao, không ít các anh đi trước tôi đã qua công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 như Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh – Phó Hiệu trưởng, Đại tá Trần Xuân Ban – Phó Hiệu trưởng (hai anh nguyên là thủ trưởng cũ của tôi ở Trung đoàn 141) rất mừng và đều chung một nỗi lo. Không biết Đào Lợi về đó có trụ được không? Liệu có hoàn thành được nhiệm vụ trên giao? Tôi nghĩ, mặc dầu chưa kinh nghiệm trong công tác nhà trường, nhưng các bác đi trước như Lê Nam Phong, Khuất Duy Tiễn đều là những cán bộ quân sự chỉ huy ở các quân đoàn về đảm nhiệm hiệu trưởng và các bác đều làm tốt. Vậy mình cũng phải cố gắng làm sao thể hiện là một người cán bộ chỉ huy quân sự nay về đảm nhận công tác chỉ huy ở một nhà trường phải phấn đấu hoàn thành được nhiệm vụ của cấp trên giao.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:53:13 am
Về Quân đoàn, tôi báo cáo toàn bộ tình hình cho đồng chí Tư lệnh và xin tổ chức bàn giao vào ngày 10-7-1997. Người nhận bàn giao là Đại tá Huỳnh Ngọc Sơn – Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 lên. Trong cuộc đời binh nghiệp, tôi và đồng chí Huỳnh Ngọc Sơn đã hai lần bàn giao thay thế nhau. Lúc tôi làm Sư trưởng Sư đoàn 9, di học cũng bàn giao cho đồng chí Sơn và hôm nay một lần nữa. Thật là một ngày đáng nhớ, cũng vào buổi sáng ngày 10-7-1997, tôi lần đầu tiên được lên chức ông ngoại. Cháu trai Phạm Anh Dũng, con đầu lòng của cô con gái lớn ra đời vào đúng buổi sáng lúc ông ngoại rời Quân đoàn 4 về nhận nhiệm vụ ở đơn vị mới.

Bàn giao xong chức vụ Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng cho đồng chí Huỳnh Ngọc Sơn, chuẩn bị về nhận nhiệm vụ mới, lòng tôi không khỏi có những nối niềm bịn rịn. Sau hơn 31 năm liên tục công tác chiến đấu, trưởng thành từ chiến sĩ, trong đó có hơn bốn năm đảm nhiệm cương vị trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, không xảy ra khuyết điểm gì, giờ lại được cấp trên tin tưởng giao cho nhiệm vụ ở môi trường mới nặng nề hơn.

Sau khi bàn giao xong, tôi xin nghỉ phép một tháng. Ngày 5-8-1997, hôm đó vào thứ 7, tôi gọi điện thoại cho Trung tướng Lê Nam Phong:

- Ngày mai tôi và các cháu lên trường thăm bác Năm và nhờ bác đưa đi xem nơi ăn, ở, bố trí ở các tiểu đoàn khung của nhà trường, sau đó sẽ nhận bàn giao vào một ngày bác thấy thích hợp.

Bác Năm trả lời:

- Nhất trí, sáng mai 8 giờ lên nhé, sẽ đón chú tại nhà làm việc của Ban Giám hiệu.

Sáng chủ nhật 6-8-1997, tôi mặc dân sự cùng ba cháu lên trường thăm bác như đã nói ngày hôm trước. khi tới phòng Ban Giám hiệu, bác Năm đã đứng đón sẵn, ăm mặc quân phục rất nghiêm túc. Bác bảo:

- Mấy con ở đây chơi, bác đưa bố vào trong xem phòng làm việc rồi sau đó sẽ đón các con sau.

Bác đưa vào phòng và chỉ:

- Đây là nơi làm việc, đây là phòng ngủ, giường mới, các đồ đạc đều mới cả.

Sau đó bác dẫn tôi ra khu vực hội trường. Tôi theo bác lên tầng hai nhà câu lạc bộ. Vừa mới bước chân vào cửa đã thấy tất cả cán bộ của nhà trường ăn mặc chỉnh tề đang ngồi ở các hàng ghế. Tôi được đưa lên bục trên cùng và bắt tay chào các đồng chí trong Ban Giám hiệu. Khi đã ổn định đội hình xong, đồng chí Lê Nam Phong tuyên bố:

- Như các đồng chí đã biết, đây là đồng chí Đào Văn Lợi được trên bổ nhiệm về làm Hiệu trưởng thay tôi và từ giờ phút này đồng chí đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng. Toàn bộ nội dung công việc bàn giao tôi đã để hết trên mặt bàn cứ thế tìm hiểu và thực hiện.

Nghe vậy, tôi rất ngỡ ngàng nhưng không có một phản ứng gì khác, chỉ bắt tay mỉm cười với đồng chí Hiệu trưởng cũ. Sau đó bác Năm vui vẻ:

- Thôi đi xuống liên hoan, cơm nước đã chuẩn bị rồi. Ăn xong ở đâu về đó để tiến hành công việc theo kế hoạch.

Sau bữa cơm, tôi gặp riêng Đại tá Nguyễn Viết Khai, Phó Hiệu trưởng về chính trị, trao đổi với anh Khai sáng mai cho triệu tập tất cả cơ quan, các phòng khoa lên để tôi gặp gỡ và làm việc.

Sáng hôm sau, tôi lên nhà trường làm việc với cương vị Hiệu trưởng. Các thành phần triệu tập có mặt đủ. Tôi mở màn buổi làm việc bằng chuyện nhắc lại việc nhận bàn giao của buổi sáng hôm trước.

- Tôi rất vinh dự được nhận nhiệm vụ về làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2, thay thế Trung tướng Lê Nam Phong, một người thầy, người đồng chí, người thủ trưởng cũ của tôi qua rất nhiều thời kỳ. Trong chiến đấu, đồng chí từng làm trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng dìu dắt giúp đỡ tôi từ lúc còn là chiến sĩ cho tới lúc làm trợ lý cơ quan hoặc chỉ huy đơn vị ở các cấp. Và đến bây giờ tôi được thay chính người thủ trưởng, người thầy cũ của mình. Đó là một điều không có gì sung sướng bằng. Những nội dung bàn giao ngày hôm trước đồng chí để lại, tôi và các đồng chí sẽ cùng nhau tìm hiểu công việc và chúng ta tiếp tục phấn đấu xây dựng đưa nhà trường phát triển theo đúng tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng bộ nhà trường.

Có lẽ nhiều người sẽ tưởng tôi rất bức xúc trước kiểu bàn giao có một không hai ngày hôm qua. Nhưng khi nghe tôi phát biểu xong, thấy có nhiều người gật đầu đồng tình. Sau buổi giao ban, tôi quy định lịch làm việc lần lượt với các Phó Hiệu trưởng, sau đó đến các trưởng phòng, khoa để nắm các tình hình. Trong Ban Giám hệu lúc này, ngoài tôi mới về, có Đại tá Nguyễn Viết Khai – Phó Hiệu trưởng về chính trị, Bí thư Đảng ủy nhà trường; Đại tá Nguyễn Ngọc Đàm phụ trách khoa học, hậu cần, kỹ thuật; Đại tá Đặng Huy Tập phụ trách đào tạo, huấn luyện. Sau một thời gian tìm hiểu và làm việc với các đồng chí trong Ban Giám hiệu và các phòng, ban, khoa, đơn vị quản lý học viên, tôi thấy cần phải tập trung xây dựng nhà trường theo các quy định và những lời căn dặn của thủ trưởng Bộ khi nhận nhiệm vụ.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:54:34 am
Đầu tiên là công tác tổ chức biên chế, quảy lý trang bị. Đây là một việc làm rất nan giải, nếu không cẩn thận sẽ đụng chạm đến đời sống, tâm tư tình cảm của rất nhiều người. Qua tìm hiểu so sánh với biên chế chuẩn của Bộ Tổng tham mưu, nhìn chung ở bộ phần nào cũng đều dư biên chế. Tôi bàn với đồng chí Bí thư Đảng ủy Nguyễn Viết Khai đưa vào nghị quyết lãnh đạo yêu cầu thực hiện đúng quy định biên chế của Bộ và tất cả cấp ủy chỉ huy các cấp đều làm công tác tổ chức biên chế. Đồng chí Bí thư Đảng ủy đồng tình với các đặt vấn đề của tôi, từ đó chỉ đạo cho cơ quan phổ biến biên chế cơ bản từng phòng, từng khoa, từng bộ phận để cấp ủy chỉ huy từng bộ phận đối chiếu lại xem mình thừa hay thiếu và lấy ý kiến từ cơ sở cách giải quyết, ai tiếp tục ở lại làm việc, ai cần phải điều chỉnh sang vị trí khác và ai phải cho nghỉ. Việc này được quán triệt chặt chẽ từ cơ sở trở lên và mọi người đều thống nhất cao cho niên việc chấn chỉnh tổ chức biên chế cũng không có gì nặng nề lắm. Nhờ vậy, nhà trường từng bước kiện toàn quân số cơ bản đúng biên chế chuẩn của Bộ. Về trang bị cũng kiểm tra chấn chỉnh lại theo hướng tập trung cho huấn luyện, không làm các việc khác. Việc này được phòng kỹ thuật, các đơn vị tổ chức thực hiện rất nghiêm túc.

Ngày 11-10-1998, tôi thay mặt Ban Giám hiệu ra Trường Sĩ quan Lục quân 1. Tại đây, Bộ Giáo dục – Đào tạo và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu giao Quyết định số 180/1998/QĐ-TTg ngay 21-9-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học cho 8 trường sĩ quan quân đội (Lục quân 1, Lục quân 2, Phòng hóa, Đặc công, Công binh, Pháo binh, Tăng thiết giáp, Thông tin). Đây là một nhiệm vụ mới, rất khó khăn song cũng rất vinh dự. Nó đánh dấu sự tích lũy kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, sự cố gắng phấn đấu liên tục của nhà trường trong những năm qua. Muốn đào tạo bậc đại học, trước hết đội ngũ giảng viên phải có trình độ đại học và trên đại học. Những năm trước, các đồng chí trong Ban Giám hiệu và Hiệu trưởng rất chú trọng đầu tư, gửi nhiều cán bô lên Học viện Lục quân đào tạo sau đại học, nhưng so với yêu cầu từ 30 đến 45% sau đại học ở đội ngũ giảng viên thì còn thiếu rất nhiều.

Trước tình hình đó, Thường vụ Đảng ủy – Ban Giám hiệu bàn tuyển chọn, điều động bố trí sắp xếp để làm sao có nhiều đồng chí được đi học, trước mắt là hoàn thiện cử nhân, sau đó học cao học và nghiên cứu sinh. Nhà trường hợp đồng với Học viện Lục quân mở nhiều lớp hoàn thiện cử nhân tại trường, mời giáo viên của Học viện xuống giảng dạy liên tục mỗi năm một lớp. Song song chương trình, nội dung huấn luyện chiến thuật được tu sửa và có chỗ làm lại để huấn luyện cả ban ngày và ban đêm. Các giảng đường tăng cường các mô hình, dụng cụ giảng dạy sao cho mỗi trung đội trưởng khi ra trường không bỡ ngỡ, huấn luyện quản lý một trung đội thành thục, có thể đề bạt lên làm cán bộ đại đội hoặc cao hơn.

Tiếp theo là công tác tuyển sinh. Tôi tìm hiểu, số sinh viên đào tạo giữa hai miền Bắc, Nam không cân đối, tỷ lệ sinh viên ở phía Bắc chiếm tới 2/3 còn lại là phía Nam. Đây là một vấn đề tế nhị, giải quyết phải có lý lẽ và cẩn trọng. Một lần tôi đi xuống làm việc nắm tình hình với Tư lệnh Quân khu 9, Thiếu tướng Huỳnh Tiền Phong phản ánh về tỷ lệ mất cân đối này. Rất nhiều trung đội trưởng khi ra trường về đảm nhiệm công tác chỉ được một thời gian. Đào tạo như thế thì vô cùng lãng phí. Tôi dặt vấn đề nên lựa chọn tuyển sinh phía Nam sao cho phù hợp, nếu để tình hình này kéo dài thì cán bộ ở phia Nam sẽ còn rất ít ở cấp cơ sở. Khi về Quân khu 7 gặp Trung tướng Phan Trung Kiên, Tư lệnh Quân khu, đồng chí cũng phản ánh tình hình như Quân khu 9. Có nhiều đồng chí học xong ở trường về đảm nhiệm công việc rất tốt, nhưng ngược lại có không ít đồng chí do chưa hiểu phong tục tập quán chiến sĩ phía Nam nên chỉ huy huấn luyện rất cứng nhắc, chất lượng quản lý huấn luyện thấp, từ đó dẫn đến việc thiếu lòng tin và xin ra quân. Tổng hợp ý kiến của hai Tư lệnh Quân khu, nhân một chuyến Bộ trưởng Phạm Văn Trà vào làm việc với nhà trường năm 1999, tôi đề nghị với Bộ trưởng nên thay đổi phương pháp tuyển sinh cho hai trường Sĩ quan Lục quân 1 và 2. Bộ trưởng hỏi tôi:

- Theo ý đồng chí, nên như thế nào?

Tôi báo cáo:

- Trình độ học vấn của thanh niên phía Bắc so với thanh niên ở đồng bằng sông Cửu Long cùng chương trình phổ thông trung học nhưng chất lượng hai nơi chênh lệch. Cứ thi như thế thì vài năm nữa là thanh niên miền Tây tỷ lệ trúng vào học sĩ quan ở nhà trường sẽ rất ít.

Tôi kiến nghị Bộ trưởng, có lẽ nên chia hẳn khu vực phía Bắc thi và tập trung đào tạo tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, còn ba Quân khu 5, 7, 9 thi và đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân Lục quân 2. Như vậy việc đầu tiên là hạn chế đi lại của thí sinh giữa hai miền, đỡ phức tạp, tốn kém. Được như thế thì khoảng 3-5 năm sau, 3 quân khu phía Nam có số lượng cán bộ trung đội quê ở phía Nam ngày một nhiều hơn. Anh em có điều kiện gần gũi gia đình, nắm bắt tình hình chiến sĩ trong đơn vị, phong tục tập quán ở địa phương, thuận lợi hơn anh em ở ngoài Bắc, không lãng phí trong đào tạo và sản phẩm đào tạo được sử dụng có kết quả cao hơn. Đồng chí Bộ trưởng nói:

- Thôi đồng chí làm văn bản gửi Bộ. Tôi tiếp thu ý kiến này.

Năm 2002, Cục Nhà trường ra quy định chiêu sinh của hai Trường Sĩ quan Lục quân 1 và Trường Sĩ quan Lục quân 2 theo địa chỉ hai miền khác nhau.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:56:17 am
Tháng 3-1998, tôi được tham gia đoàn công tác của Bộ Tổng tham mưu đi tham quan các học viện, nhà trường quân sự của Trung Quốc. Lần đầu tiên được xuất ngoại, đi cùng Phó Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Huy Hiệu, tôi rất phấn khởi. Chúng tôi đến Học viện Nam Kinh (đối tượng, mục tiêu dào tạo giống Học viện Lục quân), Học viện Quế Lâm (đối tượng, mục tiêu đào tạo giống Trường Sĩ quan Lục quân 1 và 2) và một số học viện, sư đoàn bộ binh, sở chỉ huy các quân khu, được xem bộ đội bạn diễn tập, trình diễn tại thao trường hoặc trong sở chỉ huy. Tôi thấy họ tổ chức luyện tập, diễn tập rất nhẹ nhàng, không cồng kềnh, nhiều bộ phận phục vụ bảo đảm như ta. Tình huống mô phỏng rất giống thực tế (tiếng bom, pháo, súng nổ)…) và diễn ra liên tục khiến người tập phải theo dõi rất tập trung mới xử lý kịp thời. Về nước, gặp Bộ trưởng, tôi báo cáo lại và đề xuất một số nội dung cần thay đổi trong huấn luyện. Bộ trưởng đồng ý và nói:

- Đồng chí thấy vận dụng được cái gì thì cứ vận dụng đưa vào đào tạo, tôi ủng hộ.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do đến nay, nhiều nội dung chúng ta tham quan học tập ở nước bạn vẫn chưa thực hiện được.

Sau một thời gian công tác ở nhà trường, ngày 16-4-1998, tôi được phong quân hàm Thiếu tướng. Đây là một vinh dự rất lớn cho nhà trường cũng như với bản thân tôi. Với cương vị hiệu trưởng quân hàm cấp tướng, tôi nhận thấy trách nhiệm của mình càng nặng nề và càng phải phấn đấu nhiều hơn nữa.

Ngoài các vấn đề nêu trên, tôi chủ trương tìm cách nâng cao đời sống của cán bộ giáo viên, học viên. Tôi bàn với các đồng chí trong Ban Giám hiệu tổ chức quy hoạch trồng rừng, trên cơ sở những diện tích đang có, ủi đi và trồng mới. Kết quả được gần 50 héc-ta, sau này thu hoạch với khoản kinh phí không nhỏ. Nấu bếp tập trung bằng chất đốt do nhà trường cung cấp, chấm dứt tình trạng thứ 7, chủ nhật học viên đi lấy củi. Đồng thời phát động phong trào trồng cây kiểng ở các nhà nghỉ, trồng cây xanh ở ven các đường và các khu ở trong doanh trại và tiếp tục xây dựng tường bao quản lý bộ đội khi ra vào doanh trại được tốt hơn. Chủ trương đó được sự đồng tình cao trong Ban Giám hiệu. Tiếc rằng kinh phí quá eo hẹp cho nên chỉ thực hiện từng bước chứ không làm liền một lúc trong một, hai năm có kết quả ngay được. Năm 1999, tôi đặt vấn đề xin chuyển 35 héc-ta đất đang trồng rừng do nhà trường quản lý thành khu vực dân cư quy hoạch lâu dài cho cán bộ sĩ quan sau này. Kế hoạch đó được tiến hành đúng quy định từ xin phép cơ quan Cục Tác chiến, Bộ tổng tham mưu tới Sở Nhà đất và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây là một điều rất quan trọng, tạo tiền đề sau này nhà trường xây dựng khu gia đình rất khang trang, cấp cho cán bộ, công nhân viên yên tâm gắn bó lâu dài với trường.

Rời khỏi Trường Sĩ quan Lục quân 2 tới nay cũng gần chục năm trời. Thời gian đã qua có biết bao diễn biến trong cuộc sống. Song tôi mãi mãi nhớ buổi nhận bàn giao đầu tiên để trở thành người Hiệu trưởng. Người bàn giao việc đó là Trung tướng Lê Nam Phong. Giữa tôi và bác như có cơ duyên trong cuộc sống. Sự gặp nhau từ lúc tôi là chiến sĩ trinh sát, bác là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141; lúc tôi làm Tiểu đoàn trưởng rồi, Tham mưu phó Trung đoàn 141, bác là Sư đoàn trưởng; lúc tôi làm trợ lý tác chiến Quân đoàn, bác là Tham mưu trưởng… Với tôi, bác là người chỉ huy nghiêm khắc, người đã dìu dắt tôi trong suốt cuộc đời chiến đấu qua các cương vị khác nhau. Trong gia đình bác là người rất gần gũi, đã hai lần bác về tận quê thăm hỏi bố mẹ tôi cũng như khi tôi đưa gia đình vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống (1987), bác luôn thăm hỏi mẹ tôi và động viên gia đình vượt qua mọi khó khăn ban đầu để có ngày hôm nay. Đức tính kiên quyết trong công việc, thương yêu mọi người là bài học mãi mãi tôi noi theo.

Sang một môi trường mới, Trường Sĩ quan Lục quân 2 đang tiến lên đào tạo bậc đại học, tôi nghĩ, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thì chỉ huy phải có tri thức, học vấn cao. Từ đó tôi xin phép Bộ cho tôi được vừa học, vừa làm. Đề nghị được cấp trên đồng ý. Cuối năm 1997, tôi thi nghiên cứu sinh đầu vào tại Học viện Lục quân, vừa thực hiện nhiệm vụ, vừa tranh thủ học từ ngoại ngữ, vi tính, cho đến các nội dung binh chủng, bảo đảm thi đủ các chứng chỉ theo quy định. Cuối cùng là chọn đề tài luận án. Tôi mạnh dạn làm đề tài “Trung đoàn bộ binh làm nhiệm vụ chống bạo loạn lật đổ”. Những năm cuối của thập niên 90, nói đến chuyện này còn hơi mới, đây là một đề tài tuy khó nhưng ý nghĩa thực tiễn cao. Người hướng dẫn tôi làm luận án là Thiếu tướng Giáo sư Tiến sĩ Huỳnh Nghĩ – Phó Giám đốc Học viện và Đại tá Phó Giáo sư Tiễn Sĩ Hồ Quốc Thúc – Trưởng phòng Đào tạo của Học viện. Tôi nhờ Quân khu 7 cung cấp những số liệu cần thiết có liên quan đến đề tài trên địa bàn Quân khu cũng như các địa bàn khác. Các nội dung học tôi cố gắng hoàn thành, bảo đảm kiểm tra thi cử đầy đủ với kết quả tốt. Tháng 8-2001, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Khi mà tình hình ở Tây Nguyên có diễn biến phức tạp đầu năm 2001, tôi cho cơ quan và một số khoa lên tìm hiểu, đối chiếu với lý luận đề xuất luận án của mình, thấy rất trùng khớp. Có những nhận định, dự báo rất chính xác. Sau đợt đó, được nhiều đơn vị xin luận án của tôi để về nghiên cứu, vận dụng trong việc chỉ huy chống bạo loạn, lật đổ.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:13:10 pm
Học viện Lục quân

Sau khi công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 được hơn 5 tháng, ngày 29-1-1998, chiều mùng 2 tết Mậu Dần, đồng chí Bộ trưởng Phạm Văn Trà đang nghỉ tại Thành phố Hồ Chí Minh tới thăm và chúc tết gia đình tôi. Sau những lời thăm hỏi theo phong tục cổ truyền, trước lúc ra về, đồng chí nói:

- Này ông Lợi, ông ở đó nắm chắc nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện của nhà trường, thời gian cũng chỉ khoảng 2-3 năm rồi lên Học viện Đà Lạt thay thế cho các đồng chí khác.

Nghe vậy, tôi rất phân vân, chỉ biết trả lời:

- Đề nghị thủ trưởng để tôi ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 một thời gian và sau đó cho tôi thực hiện đúng quy hoạch của Bộ mà cơ quan Tổng cục Chính trị đã trình với Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.

Đồng chí nói lại:

- Tình hình bây giờ rất khó, chọn người lên đảm nhiệm chủ trì một học viện đã được Thường vụ bàn kỹ rồi. Thôi ông cứ chuẩn bị tinh thần lên trên đó sẽ tính sau.

Khi tiễn Bộ trưởng ra về, tôi rất băn khoăn. Nhiệm vụ đào tạo huấn luyện ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 còn quá ít, tích lũy kinh nghiệm chưa được là bao. Hôm nay, Bộ trưởng lại báo động như vậy. Chỉ huy một học viện lớn của quân đội là việc vô cùng nặng nề. Sau này mỗi lần ra Bộ hội họp, có điều kiện gặp Bộ trưởng, tôi liên tục đề nghị Bộ trưởng nghiên cứu phương án chọn đồng chí khác về Học viện Lục quân, còn tôi xin bố trí công việc khác. Đồng chí Phạm Văn Trà chỉ cười và nói:

- Thôi ông cứ công tác cho tốt, rồi đâu sẽ có đó.

Cuối cùng, sau hơn ba năm công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 2, ngày 17-11-2000, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định bổ nhiệm tôi làm Giám đốc Học viện Lục quân.

Ngày 24-11-2000, Bộ trưởng giao nhiệm vụ cho cán bộ được điều động, bổ nhiệm ở khu vực phía Nam tại nhà Tám Mái gần sân bay Tân Sơn Nhất. Sau khi đọc quyết định của Thủ tướng, Bộ trưởng hỏi ý kiến chỉ huy từng đơn vị người đến nhận bàn giao và người chuẩn bị bàn giao. Riêng với Học viện Lục quân, Bộ trưởng đồng ý với đề nghị của giám đốc cũ, sau khi ăn tết xong, ngày 1-2-2001, mới tiến hành bàn giao giữa Giám đốc cũ và Giám đốc mới.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Lục quân lần thứ 9 diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13-12-2000. Tôi lên dự đại hội với tư cách khách mời và là đại biểu được bầu trong Đảng ủy Học viện. Đại hội được Trung tướng Lê Văn Dũng – Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị tới dự và chỉ đạo. Tôi ngồi nghe các đảng viên, đại biểu phát biểu ý kiến. Nhìn chung các ý kiến đều xoay quanh vào nhiệm vụ giáo dục đào tạo và phát triển kinh tế của Học viện, đầu tư chăm lo đội ngũ giáo viên cũng như đời sống cho cán bộ công nhân viên. Cũng có không ít ý kiến phát biểu về mặt tổ chức nghe rất thẳng thắn. Có hai ý kiến nêu rõ quan điểm: Học viện không cần tiếp nhận cán bộ từ nơi khác về, bởi vì bản thân đội ngũ cán bộ của Học viện đủ năng lực đào tạo huấn luyện và xây dựng Học viện. Các đồng chí ở nơi khác về mất nhiều thời gian do không có kinh nghiệm, không có nghiệp vụ trong chỉ đạo, lãnh đạo công tác nhà trường. Tôi nghĩ có lẽ anh em bức xúc, cùng một lúc Bộ điều hai đồng chí từ đơn vị khác về (tôi về làm Giám đốc và đồng chí Nguyễn Hữu Mão về làm Phó Giám đốc) hoặc lo Ban Giám đốc mới khó có khả năng hoàn thành nhiệm vụ trước yêu cầu đổi mới mà nghị quyết Đại hội nêu ra? Khi nghe hai ý kiến phát biểu đó, đồng chí Lê Văn Dũng nói nhỏ với tôi:

- Ông về đây khó khăn đấy, cần nghiên cứu để thực hiện cho tốt.

Tôi chỉ biết gật đầu và tiếp tục lắng nghe các đại biểu phát biểu. Tôi tự nhủ đây là một đơn vị có nhiều khó khăn, thử thách với mình cần phải tự chủ và cố gắng vượt lên. Đại hội kết thúc vào chiều ngày 13-12-2000, tôi được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ và làm Phó Bí thư Đảng ủy của Học viện. Cũng là lúc tôi nhận được tin bố vợ qua đời. Tôi chỉ biết nhanh chóng về Thành phố Hồ Chí Minh kịp cùng với các cháu bay ra để lo việc hậu sự cho ông nhạc được chu toàn.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:15:54 pm
Đúng kế hoạch, sáng ngày 1-2-2001, tôi lên Học viện và buổi chiều tổ chức bàn giao. Thủ tục bàn giao đơn giản, diễn ra trong một không khí vui vẻ và rất thoải mái. Thiếu tướng Lê Ngọc Sanh – Bí thư Đảng ủy đọc các quyết định của Bộ Quốc phòng và của Thủ tướng Chính phủ. Đồng chí Chánh văn phòng đọc biên bản bàn giao. Sau đó tôi và Trung tướng Lê An ký vào biên bản, tới 15 giờ 30 mọi việc đã hoàn thành. Lúc chia tay, tôi chúc bác Lê An mạnh khỏe, hạnh phúc, vui với tuổi già giữa đời thường cùng tổ ấm gia đình. Bác cũng chúc và mong muốn tôi mạnh khỏe, tiếp tục phát huy truyền thống và xây dựng Học viện ngày càng phát triển.

Tôi bắt đầu điều hành Học viện từ chiều ngày 1-2-2001. Khi tiếp nhận Học viện, Ban Giám đốc có năm đồng chí: Thiếu tướng Lê Ngọc Sanh – Phó Giám đốc về chính trị, Bi thư Đảng ủy Học viện; Đại tá Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Quý – Phó Giám đốc phụ trách huấn luyện; Đại tá Nguyễn Hữu Mão – Phó Giám đốc phụ trách khối khoa học công nghệ thông tin; Đại tá Trịnh Văn Noi – Phó Giám đốc phụ trách hậu cần kỹ thuật. Trong năm anh em ở với nhau, đồng chí Sanh là người cao tuổi nhất. Tôi chủ động tới thăm nơi nghỉ, phòng làm việc của anh. Trong lúc thăm hỏi gia đình, tôi đặt vấn đề:

- Anh Sanh ơi, tôi và anh được ở cùng với nhau là do tổ chức phân công sắp đặt. Tôi có một quy định, những việc gì Giám đốc biết mà Bí thư chưa biết là không được và ngược lại những việc gì Bí thư biết mà Giám đốc không biết cũng không tốt. Bác là người nhiều tuổi, các cháu của em tôn trọng bác, quý mến bác, lúc nào cũng coi bác như người anh của bố trong gia đình, còn trong công việc tôi và bác làm theo điều lệnh và mệnh lệnh của quân đội đã quy định.

Tôi nói xong, đồng chí Sanh rất vui vẻ bắt tay:

- Có lẽ tôi chưa ở với ai chỉ huy mà có những tình cảm, lời nói trách nhiệm trong công việc và trong quan hệ tình cảm như anh. Thôi anh em mình cố gắng sống đoàn kết và công tác xây dựng Học viện cho tốt lên.

Công việc đầu tiên tôi đảm nhiệm ở Học viện là bàn với các đồng chí trong Đảng ủy Ban Giám đốc chuẩn bị lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Học viện (7.7.1946-7.7.2001). Sáng ngày 11 tháng 2, Đảng ủy – Ban Giám đốc Học viện họp tại Nhà Tròn, thông qua nội dung đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Học viện và triển khai làm mọi công tác chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm. Trong hội nghị, đồng chí Sanh nói:

- Anh Lợi xem quan hệ với các đơn vị ngoài Bộ và Nhà nước, báo cáo thành tích của Học viện để cấp trên công nhận tuyên dương anh hùng vào dịp kỷ niệm 55 năm.

Tôi nghĩ Học viện đã hai lần đề nghị nhưng chưa được Nhà nước công nhận, lần này đề nghị là lần thứ ba không biết có được hai không. Tôi chỉ nói:

- Học viện có thành tích, có bề dày kinh nghiệm huấn luyện và đào tạo, tất nhiên xứng đáng với danh hiệu anh hùng. Nhưng chúng ta phải có quy trình từng bước để báo cáo, xin ý kiến của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, trình Thủ tướng và Thủ tướng trình lên Chủ tịch nước.

Trong cuộc họp, đồng chí Lê Văn Bảy – Chủ nhiệm chính trị đặt vấn đề Học viện chưa có bài hát riêng để làm truyền thống mặc dù đã có nhiều nhạc sĩ sáng tác nhưng vẫn chưa thành công. Tôi nói:

- Không phải nhờ nhạc sĩ nào, anh cứ ra ngoài Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội gặp nhạc sĩ An Thuyên, nhờ anh ấy sáng tác chỉ trong một tuần là có bài hát cho Học viện.

Đồng chí Bảy cùng với cơ quan Phòng Chính trị ra đặt vấn đề. Nhạc sĩ An Thuyên đã sáng tác giúp cho Học viện một bài hát rất tâm huyết, đó là bài “Học viện Lục quân”. Bài hát có một câu “Học viện Lục quân anh hùng”, đồng chí Bảy đang ở Hà Nội chờ mang bài hát về gọi điện hỏi tôi:

- Liệu việc đề nghị phong tặng Anh hùng của ta thế nào anh?


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:18:16 pm
Tôi trả lời:

- Nhất định sẽ được, cứ nói nhạc sĩ An Thuyên đưa câu đó vào.

Bản báo cáo thành tích của Học viện gửi ra Bộ đã được Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương nhất trí đề nghị sang Chính phủ và Chính phủ cũng đồng tình đề nghị Chủ tịch nước. Sáng ngày 1-6-2001, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương ký quyết định tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Học viện Lục quân. Điều đặc biệt là trong đợt phong tặng danh hiệu Anh hùng lần này, chỉ có duy nhất một tập thể là Học viện Lục quân. Khi nhận được thông tin này, tôi thông báo cho tất cả toàn Học viện biết, anh em từ cán bộ cho tới chiến sĩ, công nhân viên rất phấn khởi.

Vào thời điểm năm 2000, cơ sở hạ tầng, đường sá, sân bãi của Học viện đã xuống cấp có ít nhiều ảnh hưởng tới học tập, công tác và sinh hoạt của cán bộ, giảng viên, học viên. Trục đường chính từ Lữ Gia đi qua cổng Học viện đến khu làm việc của Ban Giám đốc do lâu ngày không được bảo dưỡng, bị hư hỏng rất nhiều kể cả đoạn sang khu B. Sân vận động ở khu B là nơi chào cờ cho khối học viên và bốn hệ chưa được tu sửa, cỏ rất rậm. Tôi ra Hà Nội đề nghị với Bộ trưởng xin được ứng một số tiền để làm con đường từ cổng chính vào khu làm việc của Ban Giám đốc. Riêng sân chào cờ bên khu B tôi kiến nghị Bộ trưởng cho xây dựng một sân trực thăng để làm bãi đáp khi cần thiết vận chuyển cấp cứu bệnh nhân, cán bộ cấp cao của Học viện về các bệnh viện tuyến tên cũng như phục vụ cho công tác bảo vệ an ninh quốc phòng tại thành phố Đà Lạt. Những kiến nghị đó được đồng chí Bộ trưởng đồng tình. Tôi khẩn trương về tổ chức làm đường bê tông từ cổng chính vào khu làm việc và đổ bê tông khu sân chào cờ ở khu B. Trước mắt phục vụ lễ kỷ niệm 55 năm, lâu dài đây là sân chào cờ đầu tháng của toàn Học viện.

Học viện ở trên một diện tích rất rộng nhưng vẫn còn rất nhiều đất trống. Với chủ trương Học viện dưới bóng cây xanh và cây xanh phủ kín Học viện, ngày 20-4-2001, tôi chỉ thị cho toàn Học viện trồng cây xanh trong tất cả các khuôn viên đóng quân và những nơi đang bỏ trống từ khu A, hội trường C sang khu B. Chủ trương này được cán bộ, giáo viên, học viên Học viện ủng hộ. Phòng Hậu cần tổ chức mua cây giống, chia khu vực diện tích trồng. Các đơn vị tổ chức trồng cây và hoàn thành trước khi mùa mưa tới.

Ngày 7-7-2001, lễ kỷ niệm truyền thống 55 năm thành lập Học viện Lục quân và đón nhận danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được tiến hành long trọng, hoành tráng. Trung tướng Phùng Quang Thanh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thay mặt Đảng, Quân đội về dự và gắn huy chương anh hùng lực lượng vũ trang lên quân kỳ quyết thắng của Học viện. Cán bộ của Học viện qua nhiều thời kỳ, cán bộ lãnh đạo chỉ huy các đơn vị trong toàn quân, bạn bè, học viên cũ của Học viện về dự đông đủ, các đại biểu đảng bộ, chính quyền, nhân dân, lực lượng vũ trang các tỉnh trên địa bàn Quân khu 5, 7, 9 cũng như thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng đều đến chung vui và chúc mừng. Đó thực sự là một ngày hội lớn.

Sống giữa thành phố du lịch Đà Lạt, có lẽ chưa hợp với khí hậu độ cao trên 1.500m, nơi có nhiều rừng cây lá nhọn nên sức khỏe của tôi không được khỏe lắm, cộng với áp lực công việc có lúc quá căng thẳng, có đêm không ngủ được, tôi chợt nẩy ra mấy câu thơ:

      Đà Lạt ơi lạnh quá
      Rét buốt nhức hết đầu
      Trằn trọc suốt đêm thâu
      Sao không hề chợp mắt
      Mở cửa ngắm trời sao
      Nhìn ánh đèn vàng nhạt
      Giọt gianh hè tí tách
      Đọng lại cơn mưa chiều
      Lá thông reo ào ào
      Cái rét cứ xoáy… xoáy mãi vào…


Việc lo giữ gìn sức khỏe để đảm đương công việc đặt ra một yêu cầu bức thiết. Những lúc không ngủ được, bên tai tôi văng vẳng lời phát biểu trong Đại hội Đảng bộ Học viện lần thứ 9. Tôi tự nhủ phải cố gắng vượt qua tất cả để hoàn thành chức trách được giao.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:20:07 pm
*
*   *

Học viện Lục quân là đơn vị nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ chỉ huy chiến thuật cấp trung, sư đoàn, chỉ huy trưởng các huyện, quận và tỉnh thành trong thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo cần phù hợp đối tượng đầu vào (thường thấp hơn đào tạo từ một đến hai bậc), với điều kiện chiến tranh trong tương lại và hoàn thành được nhiệm vụ trước mắt. Phương pháp huấn luyện, giảng dạy ở Học viện cần có một bước cải cách mạnh mẽ để đáp ứng được yêu cầu trong nhiệm vụ đào tạo huấn luyện.

Được rút kinh nghiệm đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 hơn ba năm và một học kỳ cuối năm học 2000-2001 ở Học viện, tôi đã tìm hiểu, nắm bắt được phương pháp, nội dung đang đào tạo ở đây. Trên cơ sở tiếp tục phát huy những mặt tích cực đang có, đồng thời chủ trương điều chỉnh những gì chưa phù hợp với hiện tại và tương lai tới. Trước mắt phát hiện những nội dung trùng lặp ở các bộ môn kiên quyết điều chỉnh lại.

Với kinh nghiệm đã qua chỉ huy chiến đấu ở các cấp và đã là học viên được hai lần nghiên cứu học tập chiến thuật, chiến dịch, chiến lược ở các học viện, tôi chỉ đạo Khoa Chiến thuật – Chiến dịch xây dựng các tưởng định tập bài không sử dụng tưởng định đã huấn luyện ba năm trước. Làm như vậy tránh được sự sao chép, nhắc nhở của lớp trước cho lớp sau. Buộc mọi học viện phải tích cực nghiên cứu vận dụng lý luận đã học vào tưởng định đã cho.

Địa hình huấn luyện không nhất thiết chỉ rừng núi hoặc ven biển, mà cần được phân bổ tỷ lệ cân đối giữa rừng núi, đồng bằng, trung du. Đồng bằng cũng phân biệt đồng bằng Bắc Bộ với đồng bằng sông nước Nam Bộ. Địa hình ven biển cũng có những đặc điểm khác nhau, ven biển Quân khu 9 khác với ven biển Quân khu 5. Các khoa xây dựng các tưởng định huấn luyện với nhiều loại địa hình để đảm bảo tính toàn diện cho người học. Các tưởng định tập bài huấn luyện luôn đổi mới, một lần tập bài là một lần học viên tiếp nhận cái mới, từ nội dung để có tư duy tự chủ vận dụng lý luận đã được nghiên cứu học tập ở giảng đường đưa vào bài tập thực tế.

Diễn tập cuối khóa cũng vậy, không diễn tập một hình thức chiến thuật mà diễn tập mang tính tổng hợp. Thường từ 2 đến 3 hình thức chiến thuật diễn ra trong một không gian, thời gian nhất định. Có thể từ phòng ngự chuyển qua đánh lại địch đổ bộ đường không, sau đó tổ chức tập kích (hoặc tiến công khi có điều kiện). Kinh nghiệm này vận dụng từ Tàu Ô năm 1972 của Sư đoàn 7. Hoặc qua diễn tập năm sau lại chỉ đạo nội dung khác nhau từ tiến công chuyển vào phòng ngự trực tiếp tiếp xúc… như chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Trong diễn tập thường không có đáp án cho các đồng chí đạo diễn. Từ đầu bài tưởng định đã cho học viên và đạo diễn cùng nghiên cứu lý luận để vận dụng. Trên cơ sở lấy phương án, quyết tâm của học viên là chính (đạo theo diễn), từ đó đối chiếu với một phương án cơ bản có thể của Ban chỉ đạo đưa ra để các khung học viên và đạo diễn cùng thảo luận, tự kết luận, tự đánh giá kết quả diễn tập. Phương pháp này đã tạo ra tính năng động từ Ban chỉ đạo diễn tập, tới tất cả các đồng chí trong Ban Giám hiệu, các phòng, khoa, ban. Phải đầu tư làm sao khi huấn luyện, học viên vận dụng được tốt nhất.

Trong diễn tập, nội dung đối kháng là vấn đề không mới nhưng đã lâu Học viện chưa thực hiện. Nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy Học viện quyết tâm đưa nội dung diễn tập đối kháng vào chương trình cuối khóa. Đây là một việc làm rất phức tạp. Qua tìm hiểu lý luận từ Cục Quân huấn và bản thân đã được tham gia luyện tập, học viên đã viết bổ sung thêm phần lý luận và thứ tự các bước thực hành, tổ chức bồi dưỡng cho các đạo diễn. Kết quả của hai lần diễn tập, học viên rất hào hứng với phương pháp này và hứa về đơn vị sẽ vận dụng vào huấn luyện. Để diễn tập đạt kết quả, yêu cầu Ban chỉ đạo phải tập trung bám sát các khung tập từ dưới mới cung cấp tình huống nội dung tập, người chỉ huy bám sát tình hình và xử trí tình huống tác chiến diễn ra gần sát với chiến trường.

Khi được Bộ đầu tư xây đựng sở chỉ huy diễn tập xong cuối năm 2002, mua sắm trang thiết bị tương đối hiện đại vào phục vụ cho huấn luyện tác chiến binh chủng hợp thành. Trong luyện tập thường xuyên cũng như diễn tập cuối khóa, từ giảng viên đến học viện đều sử dụng thành thạo công nghệ trong sở chỉ huy, từ đó góp một phần không nhỏ vào kết quả diễn tập. Trong diễn tập, chú trọng hành động thực tế ở ngoài địa hình hoặc những nơi cấu trúc sẵn công sự để cho cán bộ chỉ huy các bộ phận trong từng khung tập từ trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng cho đến các cơ quan hình dung được thứ tự công việc khi trận chiến đấu xảy ra.

Sau mỗi cuộc diễn tập cuối khóa kết thúc, trong nhận xét ngoài việc đánh giá kết quả vận dụng lý luận vào tưởng định, tôi dành thời gian nói về nghệ thuật, cách tạo thế, chọn mục tiêu và cách đánh. Cũng như phân tích nghệ thuật chọn hướng, sử dụng lực lượng, nêu lên ưu, nhược điểm của từng khủng, đối chiếu với lý luận đã học và kinh nghiệm những trận chiến đấu đã qua để củng cố thêm nhận thức cho người học và đó cũng là bài học tốt cho đội ngũ giảng viên khi điều hành các cuộc diễn tập khác.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:22:16 pm
Với chủ trương chuyển dần trọng tâm đào tạo từ người dạy sang người học, phù hợp với chương tình đạo tạo sau đại học. Chương trình giảng bài được rút từ 60% còn 45% (học viên tự học, tự nghiên cứu từ 40 đến 55%). Tạo cho người học có thời gian tiếp cận tài liệu, tìm hiểu trước nội dung mình sắp học. Khi nghe giảng viên truyền đạt, học viên hiểu sâu sắc và lắng đọng hơn.

Song song với việc xây dựng các tưởng định huấn luyện, tập trung đổi mới, nâng cao tài liệu huấn luyện phù hợp với chương trình giảng dạy, với yêu cầu đào tạo. Có rất nhiều tài liệu ban hành đã lâu cần được điểu chỉnh lại. Tôi giao cho từng khoa, từng cơ quan tổng hợp biên soạn một khối lượng tài liệu lớn để phục vụ cho huấn luyện và trực tiếp là tổng chủ biên biên soạn 5 sách giáo trình huấn luyện cấp trung đoàn (đổ bộ đường không, phòng ngự đô thị, vận động tiến công, tiến công địch phòng ngự, vận động phục kích) đưa vào đào tạo. Giáo trình được cập nhật tình hình chiến sự mới, nghiên cứu vũ khí sử dụng ở Irắc năm 2001 để chỉ đạo lực lượng phòng không có phương án phù hợp được tốt. Khoa Quân chủng Phòng không tìm tư liệu viết thành tài liệu huấn luyện cho các đối tượng trong Học viện và gửi về cho các địa phương cấp huyện, tỉnh nghiên cứu, vận dụng. Trong tài liệu chiến thuật, một hình thức (tiến công) ở mỗi địa hình (rừng núi, trung du…) có một tài liệu riêng, song nội dung thứ tự các phần, mục cơ bản giống nhau. Từ đó tôi quy định viết tài liệu theo cụm địa hình. Cùng hình thức chiến thuật đó, lấy một địa hình viết cơ bản, các địa hình còn lại chỉ nêu những điểm khác nhau về đặc điểm; cách đánh của đối phương, rút ra cách đánh, sử dụng lực lượng, chọn hướng của ta ở từng địa hình cho phù hợp. Ý tưởng này năm 2005 được cơ quan Bộ chỉ đạo biên soạn thành tài liệu huấn luyện chung cho toàn quân.

Các tài liệu về công tác đảng, công tác chính trị cũng được biên chỉnh lại cho phù hợp với cơ chế lãnh đạo của Đảng khi Quân đội thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên. Học viện chủ động đầu tư nghiên cứu biên soạn đưa vào giảng dạy, vận dụng trong diễn tập. Qua các cuộc diễn tập của quân khu, quân đoàn, các trung đoàn, chúng tôi đúc kết xây dựng tài liệu thống nhất đưa vào sử dụng trong Học viện và được gửi về các đơn vị trong toàn quân để vận dụng huấn luyện và tiếp tục lấy ý kiến bổ sung ngày một hoàn thiện hơn.

Kinh nghiệm chiến đấu rất cần cho người chỉ huy. Học viện chọn các cán bộ đã qua chiến đấu hoặc mời cán bộ ở các đơn vị bạn, cán bộ nghỉ hưu đã qua chiến đấu chống Mỹ, đánh Pôn Pốt, về kể chuyện chiến đấu, những trận đánh điển hình. Những đồng chí chỉ huy trưởng tỉnh, thành nói về phòng thủ khu vực ở mỗi địa phương, kết hợp kinh tế với quốc phòng… Chúng tôi đã biên soạn, xuất bản được 5 cuốn sách ghi lại trên 50 trận đánh với bài học kinh nghiệm rút ra của từng trận đánh cụ thể. Đây là cơ sở rất tốt để giảng viên, học viên nghiên cứu học tập vận dụng khi luyện tập.

Trong diễn tập, để tránh tình trạng chỉ một, hai đồng chí học khá giỏi đóng vai chỉ huy và một đồng chí trong khung tập đảm nhiệm một chức vụ từ đầu đến cuối. Tôi chỉ đạo tổ chức bốc thăm phân vai để đồng chí nào cũng phải chuẩn bị có thể làm chỉ huy trên cương vị trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng hoặc chỉ huy trưởng huyện, tỉnh và cũng có thể làm các cương vị như trợ lý cơ quan, chủ nhiệm hậu cần, kỹ thuật… Học viện ai cũng phải học tập toàn diện những nội dung đã được nghiên cứu, không học tủ, không ỷ lại người khác.

Những nội dung đổi mới nêu trên đều được các cơ quan, các khoa trong Học viện ủng hộ và chấp hành nghiêm túc. Phòng Đào tạo là cơ quan tham mưu đắc lực nhất, không quản ngày nghỉ, giờ nghỉ đi khảo sát thực tế, tổng hợp, đề xuất nội dung và triển khai tổ chức thực tập. Đại tá Tiến sĩ Hà Văn Cuông – Trưởng phòng Đào tạo là người có nhiều đóng góp trong nhiệm vụ này. Các khoa Giáo viên cũng có nhiều sáng kiến đổi mới nội dung giảng dạy. Khoa Chiến thuật luôn hoạt thành vai trò trung tâm trong các cuộc tập luyện, diễn tập. Đại tá Tiến sĩ Vũ Đức Hinh – Chủ nhiệm khoa là người rất say mê thực hiện các chủ trương đổi mới nội dung đào tạo của Ban Giám đốc.

Năm 2004, Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành quyết định giao cho thủ trưởng cơ sở đào tạo sau đại học được ký bằng tốt nghiệp cao học cho học viên. Thực hiện quyết định này, Đảng ủy và Ban Giám đốc chủ trương xây dựng chương trình nội dung đào tạo sau đại học ở Học viện Lục quân. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng. Cơ quan và các khoa đầu tư đổi mới, địa hình làm luận án, luận văn cũng như các hình thức tác chiến sao cho phù hợp với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra trong tương lai. Các đề tài của nghiên cứu sinh cũng như học viên cao học tránh lặp lại hình thức chiến thuật thời kỳ chiến tranh giải phóng. Học viện ra nhiều ngân hàng đề tài ở từng hình thức chiến thuật để cho học viên lựa chọn, cũng là điều kiện để cho giáo viên, các đồng chí có học hàm, học vị nghiên cứu giúp đỡ học viên thực hiện luận án, luận văn của mình. Đó là các đề tài liên quan đến tác chiến phòng thủ ở từng khu vực trên từng địa bàn, tác chiến phản công, tác chiến tiến công, những hình thức diễn ra rất nhiều trong thời kỳ đầu chiến tranh.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:27:29 pm
Từ năm 2002, Bộ giao nhiệm vụ bổ sung cho Học viện: đào tạo sau đại học cho Quân đội Hoàng gia Campuchia. Học viện nhanh chóng lập chương trình, nội dung, thời gian về đào tạo cao học, nghiên cứu sinh cho cán bộ cao cấp của bạn Lớp học đầu tiên có Trung tướng KunKin. Tôi trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ Trung tướng từ lúc học cho tới lúc bảo vệ thành công luận án. Những năm tiếp theo (đến 2008), Học viện mở các lớp đào tạo vào thời gian tập trung cho 4 đại tướng và 20 thiếu tướng, trung tướng của Quân đội Hoàng gia Campuchia, trong đó có nhiều người đảm nhiệm cương vị cao (Đại tướng KunKin – Phó Tổng tư lệnh quân đội Hoàng gia, cố vấn trực tiếp cho Thủ tướng HunXen, Đại tướng Sô Phia – Tổng Tham mưu trưởng liên quân Quân đội Hoàng gia…). Ngoài chỉ đạo chung, bản thân tôi cũng hướng dẫn 5 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.

Kết quả đào tạo đã góp phần củng cố mối quan hệ đoàn kết quân đội hai nước. Ngoài ra, hàng năm Học viện Lục quân vẫn đi lại thăm hỏi, trao đổi công tác với quân đội bạn. Từ 10 đến 18-7-2007, đoàn cán bộ của Học viện sang Campuchia, tới thăm các quân khu ở Xiêm Riệp, ở Bát Tam Băng; tới thăm và cắt băng và khánh thành nhà ăn Trường Quân chính Quân khu 5 trị giá 35.000 USD do Học viện xây dựng. Đi đến đâu, chúng tôi đều được bạn đón tiếp rất chân tình. Sau 24 năm mới có dịp trở lại Phnôm Pênh, tôi không khỏi bàng hoàng trước sự thay đổi quá nhanh chóng của đất nước bạn. Đường phố rộng rãi, dân tình đông đúc sầm uất, các khách sạn, công sở, nhà ở của dân khang trang. Trở lại Tun Cốc, nơi đặt Sở chỉ huy Quân đoàn 4 ngày nào, ngỡ ngàng mãi tôi mới nhận ra được. Tôi bồi hồi nhớ lại bao đồng chí, đồng đội quân tình nguyện Việt Nam đã hy sinh để có ngày hôm nay, một Campuchia đang ngày phát triển.

Trong quá trình đào tạo, chất lượng giảng viên là yếu tố then chốt. Một lần giao nhiệm vụ cho cán bộ thực hiện năm học 2002-2003, tôi nhấn mạnh tiêu chí để tồn tại và phát triển của cán bộ học viện Lục quân là “phải đào tạo các bậc học theo đúng quy định va đi thực tế để hiểu biết rõ cơ sở về vận dụng vào nhiệm vụ huấn luyện”. Hàng năm, Học viện đều cử một khối lượng cán bộ rất lớn đi nghiên cứu học tập, đào tạo ở các trường học viện ngoài Quân đội để nâng cao trình độ chuyên môn. Đội ngũ cán bộ đi thực tế từ cấp trung, sư đoàn và cơ quan các quân khu, quân đoàn, các cơ quan quận, huyện, tỉnh, thành trên địa bàn các Quân khu 5, 7, 9 và Quân đoàn 1, 2, 3, 4. Hiệp đồng với Học viện Khoa học Quân sự của Tổng cục 2 mở một lớp đại học ngoại ngữ tại học viện cho một số cán bộ vừa học vừa làm trong thời gian gần 3 năm. Đối tượng học là cán bộ trong Ban Giám đốc, trưởng, phó phòng, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm khoa và các cơ quan sau này có thể phát triển thành tiến sĩ hoặc phó giáo sư. Đây là việc làm rất kiên quyết của Thường vụ Đảng ủy và Ban Giám đốc, chống tư tưởng tự ti ngại đi học tập, nặng vào chủ nghĩa kinh nghiệm, hoặc không dám cử cán bộ đi nghiên cứu,…

Hội thảo khoa học là một trong những nội dung quan trọng nhằm bổ sung kiến thức, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học cho đội ngũ giáo viên và cán bộ. Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Học viện đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức hội thảo khoa học “Chiến dịch Điện Biên Phủ với chiến trường Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ”. Đây là một chiến thắng nổi tiếng cả thế giới, nhưng mối liên hệ với chiến trường phái Nam thì đang là vấn đề cần được tìm hiểu, làm tài liệu phục vụ huấn luyện. Hội thảo đã thu được 68 bài tham luận của các nhân chứng lịch sử, tướng lĩnh, nhà khoa học trong và ngoài quân đội trên địa bàn của Quân khu 7 và nam Tây Nguyên, trong đó có 18 bài của cán bộ, giảng viên Học viện Lục quân. Tới dự hội thảo có Thượng tướng Lê Văn Dũng – Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và đồng chí Võ Văn Kiệt – nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng chí Võ Văn Kiệt phát biểu nhấn mạnh về vai trò, vị trí, ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và nêu bật được sự chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam phối hợp tác chiến ở chiến trường miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ để tạo điều kiện giành chiến thắng quan trọng trên chiến trường trọng điểm.

Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, Học viện Lục quân tổ chức hội thảo khoa học “Đại thắng mùa xuân năm 1975 và sự phát triển của chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam”. Hội thảo có 22 bài tham luận của các cán bộ chiến đấu ở các chiến trường và các đồng chí giảng viên trong Học viện. Thượng tướng Lê Văn Dũng tới dự và đọc tham luận. Anh em tham gia rất đông đủ và các bài viết đều có chất lượng tốt. Qua hai lần tổ hức hội thảo, cán bộ giảng viên bổ sung hiểu biết về nghệ thuật chỉ đạo chiến thuật, chiến dịch các cấp, những kiến thức được mô tả lại rất xúc động, vận dụng bổ ích trong giảng bài, luyện tập ở Học viện; đồng thời mở ra mối quan hệ, giao lưu trao đổi khoa học giữa Học viện với các cơ quan, đơn vị, nhà khoa học, nhân chứng lịch sử qua các thời kỳ. Ngoài việc chỉ đạo chung, tôi viết các bài báo về khoa học quân sự (gần 20 bài) đăng tải trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân cũng như Tạp chí Nghiên cứu chiến thuật, chiến dịch. Nội dung các bài viết đi sâu phản ánh thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ, địa bàn nơi đang công tác trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng; phân tích tính khách quan, phát triển sự việc trong tương lai tới, đề cập tới giải giáp trước mắt cũng như lâu dài nhằm nâng cao chất lượng trong giáo dục, đào tạo, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu ở nhà trường và các đơn vị.

Nghiên cứu khoa học là yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ giảng viên. Hàng năm Học viện giao cho 3-4 khoa, mỗi khoa thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học, thời gian trong một năm với kinh phí tự có của Học viện là chính. Cách làm này đã phát huy được chất xám của từng giảng viên, phục vụ ngay cho công tác giảng dậy. Tôi cũng trực tiếp làm chủ nhiệm 4 đề tài cấp Bộ (Trung đoàn bộ binh chuyên trách chống bạo loạn lật đổ (1997-1998); Tổng kết chiến thuật đại đội, tiểu đoàn bộ binh trong hai cuộc kháng chiến cống Pháp, chống Mỹ trên chiến trường miền Nam (1998-1999); Nghiên cứu về phòng ngự trực tiếp tiếp xúc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (2004-2006); Nghệ thuật chia cắt giao thông trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (2005-2007)). Cả 4 đề tài nghiệm thu đều đạt kết quả tốt (có 2 đề tài được tặng bằng khen) và được biên soạn thành tài liệu huấn luyện ở các học viện nhà trường, các đơn vị trong toàn quân.

Sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, tôi tiếp tục xin được học tập và làm các công trình để đăng ký ứng viên xét chức danh danh Phó giáo sự. Việc học tập rất vất vả, căng thẳng vì vừa chỉ huy lãnh đạo rồi phải giành thời gian cho nghiên cứu học tập. Thế nhưng, trước yêu cầu về nâng cao học lực và làm tấm gương cho cán bộ, giảng viên noi theo, tôi quyết tâm học. Các công trình cấp Bộ thường tôi làm chủ nhiệm đề tài nên thực hiện rất thuận lợi. Đề tài “Sư đoàn bộ binh chuyển vào phòng ngự từ trực tiếp tiếp xúc”, đề tài “Nghệ thuật chia cắt giao thông trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”… đề tài nào nghiệm thu cũng được đánh giá loại khá hoặc xuất sắc. Khó nhất là ngoại ngữ, tôi phải giành rất nhiêu thời gian đầu tư vào học tập, mỗi tuần 2 tối, hè dành 3 tuần học liên tục tạo thói quen trong đọc, viết để tránh quên. Hôm bảo vệ trước hội đồng cấp ngành, tôi nghe và trả lời tốt các câu hỏi của các thành viên trong hội đồng. Điểm các công trình khoa học, các bài báo của tôi cũng có số điểm trên mức quy định. Ngày 20-11-2004, tôi và 7 đồng chí khác của Học viện Lục quân được Hội đồng chứng danh giáo sư Nhà nước công nhận chức danh Phó Giáo sư chuyên ngành Khoa học quân sự.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:31:38 pm
*
*   *

Tôi cùng Đảng ủy – Ban Giám đốc luôn chú trọng xây dựng Học viện vững mạnh về mọi mặt. Qua tìm hiểu tình hình quân hàm của giảng viên và cán bộ, thấy có rất nhiều đồng chí đã quá niên hạn nhiều năm nhưng chưa được bố trí đề bạt. Trong phiên họp Thường vụ Đảng ủy đầu năm 2001, tôi kiến nghị nên xoay vòng điều chỉnh bổ nhiệm cán bộ theo phạm vi quyền hạn của Học viện được Bộ Quốc phòng cho phép để tạo điều kiện cho cán bộ có trần được phong quân hàm. Thường vụ đồng tình, các cấp ủy từ cơ sở trở lên hưởng ứng. Từ đó, chúng tôi thực hiện điều động bổ nhiệm thay đổi các vị trí theo chức danh (hoặc chuyển qua bộ phận khác). Năm 2001, học viện được Bộ quốc phòng đề bạt 44 đại tá; năm 2002 được 30 đại tá. Đây là những con số nói lên chất lượng đội ngũ giảng viên Học viện rất cao. Phong quân hàm thể hiện việc đánh giá kết quả công tác cũng như quá trình cống kiến của quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt nam. Riêng bản thân tôi, ngày 10-7-2003 được thăng quân hàm Trung tướng. Đây là một vinh dự rất to lớn cho Học viện Lục quân cũng như cho bản thân tôi và gia đình cũng như dòng họ nói riêng.

Chăm lo đời sống, hậu phương của giảng viên, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng là một vấn đề rất cần. Khi tôi về nhận công tác, có trên 100 cán bộ, giảng viên đưa vợ con gia đình vào nhưng đang ở nhà thuê tại các phòng trọ của dân hoặc một số nhà của Học viện xây dựng. Chúng tôi đề nghị Bộ quốc phòng chuyên giao hơn 7 héc-ta đất do Quân đoàn 4 đang quản lý tại Biên Hòa – Đồng Nai để làm khu gia đình lâu dài. Học viện tiếp tục làm việc với các cơ quan ban ngành của tỉnh Lâm Đồng để chuyển khu Thái Phiên, khu 92 thành khu gia đình quân nhân. Những chủ trương này đã được triển khai và được thực hiện một cách nghiêm túc của các cơ quan chức năng trong Học viện. Ủy ban nhân dân và cơ quan các cấp của tỉnh Đồng Nai, tỉnh Lâm Đồng nhiệt tình giúp đỡ. Quá trình xét cấp đất cho cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng được tiến hành theo một quy trình rất chặt chẽ, thống nhất từ cơ sở tới Thường vụ Đảng ủy Học viện, đồng thời được cơ quan của Bộ kiểm tra, hướng dẫn và phê duyệt. Ba khu vực quy hoạch làm nhà quân nhân nói trên đã có 422 đồng chí được cấp đất, chiếm 44% số cán bộ sĩ quan, công nhân viên của Học viện (nhượng 138 suất đất để lấy kinh phí tái đầu tư các khu gia đình quân nhân). Chủ trương này được thủ trưởng Bộ Quốc phòng đồng ý và Học viện tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định.

Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cảnh quan môi trường cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm. Yêu cầu về xây dựng nhà ở, giảng đường, đường sá đi lại, thao trường của Học viện rất lớn,… Bản thân Học viện là cơ sở đào tạo hoàn toàn phụ thuộc vào kinh phí của Bộ.

Cuối năm 2001, trong hội nghị Quân chính toàn quân, đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tới dự, tôi được Bộ trưởng chỉ định phát biểu. Bức xúc nhất của Học viện lúc này là nơi ăn ở, đồ dùng sinh hoạt xuống cấp… Phát thế nào? Suy nghĩ một lát, tôi thẳng thắn:

- Báo cáo Tổng Bí thư và Bộ trưởng, Học viện Lục quân tiếp quản trường võ bị quốc gia của ngụy tại Đà Lạt từ năm 1976. Đây là cơ sở cũ của địch bỏ lại rất khang trang so với cách đây 25 năm. Nhưng đến nay đã xuống cấp ghê gớm, đường sá hư hỏng nặng. Nếu ai đã có dịp đến thăm hoặc được học tập ở Học viện cách đây 20 năm nay quay lại thì phong cảnh vẫn còn nguyên như cũ. Nếu như có nhà đạo diễn làm phim nếu cần có cảnh quay hình ảnh, đồ dùng của chế độ cũ xin mời tới Học viện Lục quân cho quay toàn bộ từ cổng tới nhà ăn, giảng đường, phòng học, giường nằm, bàn ghế ngồi học,… học viện sẽ giúp đỡ tận tình không lấy thù lao…

Tôi phát biểu xong, toàn bộ hội trường cười ầm. Nhà báo Duy Phục chuyên đưa tin hoạt động của lực lượng vũ trang trên báo Nhân Dân tới bắt tay tôi biểu thị thán phục. Không ngờ sau bài phát biểu ấy, Trung tướng Nguyễn Văn Rinh thay mặt thủ trưởng Bộ vào kiểm tra và yêu cầu Học viện làm gấp kế hoạch giai đoạn 2 để Bộ đầu tư, đồng thời nhanh chóng giải ngân các công trình giai đoạn 1 (giai đoạn 1 được đầu tư 40 tỷ đồng).

Tới năm 2005, toàn bộ mạng đường sá nội bộ trong Học viện được làm lại, cảnh quan trước nhà làm việc của Ban Giám đốc, sở chỉ huy, sân trước nhà ăn, khu học viên… được quy hoạch thống nhất. Những vườn thôn 3 đến 6 tuổi mơn mởn hướng thẳng búp non lên trời tỏa bóng mát. Những hàng cây hoa phượng tím, hoa anh đào mùa xuân đến lại nở hoa khoe sắc.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:33:41 pm
Năm 2005, Đảng bộ Học viện tiến hành Đại hội lần thứ 10. Trong toàn Học viện đang tích cực hưởng ứng phong trào thi đua chào mừng ngày Đại hội Đảng bộ thì ngày 25-6-2005, vụ án Nguyễn Đức Hi ở Khánh Hòa nổ ra có liên quan tài chính đến Công ty Lâm Viên của Học viện Lục quân. Tất cả trên các mặt báo đều đưa tin Công ty Lâm Viên bị lừa. Nhiều tờ báo thêu dệt những nội dung khác nhau gây một tâm lý hoang mang trong toàn Đảng bộ Học viện. Chính bản thân tôi cũng rất lo lắng. Đúng lúc này, Thiếu tướng Lê Ngọc Sanh – Phó Giám đốc về chính trị, Bí thư Đảng ủy Được Bộ Quốc phòng thông báo nghỉ hưu, trên bổ nhiệm Đại tá Lê Văn Bảy – Chủ nhiệm chính trị lên thay. Tôi trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng ủy Học viện tổng hợp thống nhất sự việc từ quá trình diễn biến cho tới khi báo chí đưa tin để có một cái nhìn khách quan, từ đó lãnh đạo toàn Đảng bộ yên tâm tập trung làm nhiệm vụ đào tạo huấn luyện, tránh tình trạng lo lắng, hoài nghi. Đồng chí Bí thư rất đồng tình với quan điểm của tôi và tổ chức quán triệt trong Đảng ủy và toàn Đảng bộ; thống nhất các nội dung báo cáo Bộ Quốc phòng, các cơ quan chức năng, pháp luật của Nhà nước để có hướng giải quyết.

Đây là một tình huống rất phức tạp và diễn biến một cách rất khó lường, từ chỗ chủ động đầu tư kinh doanh thành bị động trong các công việc hợp đồng kinh tế. Nhưng rất may toàn bộ số vốn mà Học viện cho phép Công ty Lâm Viên vay ở các ngân hàng (gần 200 tỷ đồng) đầu tư vào làm ăn chung với Nguyễn Đức Chi vẫn được bảo lưu ở công ty, được rải đều trên 11 dự án đang triển khai thực hiện. Lúc này cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau, phương pháp giải quyết tốt nhất là đề nghị các cơ quan chức năng của Bộ đánh giá kết luận. Tôi kiến nghị Bộ trưởng tổ chức phái đoàn thanh tra của bộ gồm đại diện Cục Điều tra hình sự, Cục Kinh tế, Cục Tài chính để xác minh tất cả nguồn vốn vay của công ty Lâm Viên đầu tư vào 11 dự án cũng như xác định số tiền mà Lâm Viên đã chuyển sang lương thực Trà Vinh. Sau hai tuần, đoàn kiểm tra kết luận: số tiền 192 tỷ công ty Lâm Viên đang vay của các ngân hàng đã được giải trình đầy đủ ở các đối tác mà công ty đang đầu tư. Đó là cơ sở để thủ trưởng Bộ Quốc phòng, cơ quan Bộ đánh giá xử lý Công ty Lâm Viên.

Năm 2007, Bộ Quốc phòng cho tiến hành cổ phần hóa, Công ty Lâm Viên cũng tìm được đối tác mới để nhượng lại toàn bộ số vốn đầu tư và các dự án của công ty. Như vậy hoàn toàn không gây tổn thất, mất mát hoặc ảnh hưởng tài chính của Học viện. Đó là một quãng thời gian ít nhiều ảnh hưởng đến Học viện nói chung và trách nhiệm bản thân của người chỉ huy cao nhất. Đây là một bài học đối với tôi và Học viện về lựa chọn, sử dụng con người trong lĩnh vực làm kinh tế, về tư duy hiểu biết pháp luật liên quan đến kinh tế trong nền kinh tế thị trường.

Khi chuẩn bị tiến hành Đại hội Đảng bộ Học viện, đồng chí Bộ trưởng hỏi tôi;

- Tình hình tổ chức đại hội về nhân sự có gì phức tạp không?

Tôi báo cáo Bộ trưởng:

- Thủ trưởng yên tâm, mọi vấn đề anh đều nhận thức tốt và có trình độ hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn không có gì phức tạp.

Từ ngày 22 đến 25-11-2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Lục quân lần thứ 10 được tổ chức với 149 đại biểu. Trung tướng Bùi Văn Huấn - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cùng các đồng chí cơ quan Bộ đến dự và theo dõi đại hội. Đại hội diễn ra đúng kế hoạch và thành công tốt đẹp, 15 đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ, 5 đồng chí trong Ban Thường vụ và 7 đồng chí đi dự Đại hội Đảng toàn quân. Nhìn chung các nhân sự dự kiến đều được đại hội bầu tín nhiệm với tỷ lệ số phiếu cao. Tôi được bầu lại làm Phó Bí thư Đảng ủy Học viện. Kết quả của đại hội thể hiện sự tin cậy của toàn Đảng bộ đối với bản thân tôi, tôi càng nhận rõ trách nhiệm nặng nề hơn nữa trong nhiệm kỳ tới. Tôi thầm cám ơn các đại biểu, cán bộ của Học viện, những người có năng lực, có trình độ, biết việc đúng, việc sai, biết việc gì mình cần làm để xây dựng Học viện ngày càng phát triển. Đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị báo cáo kết quả đại hội về cho Bộ trưởng và Bộ trưởng đã gọi điện chúc mừng.

Năm 2006 là năm Kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống Học viện Lục quân. Ngoài nhiệm vụ tiếp tục đổi mới chương trình nâng cao chất lượng đào tạo như những năm trước, Thường vụ Đảng ủy lãnh đạo tổ chức kỷ niệm được trọng thể và có tính giáo dục cao. Chuẩn bị cho buổi lễ kỷ niệm này, ngoài việc tổ chức lễ, Học viện khẩn trương xây dựng nhà truyền thống, lưu giữ trưng bày những hiện vật, hình ảnh trong 60 năm xây dựng và trưởng thành của Học viện.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:35:45 pm
Lễ kỷ niệm 60 năm, Học viện được đón đồng chí Thượng tướng Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thay mặt Đảng, Nhà nước, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, thay mặt Đảng, Nhà nước, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, tới dự và nói chuyện trong ngày truyền thống. Trong lúc ngồi trò chuyện, đồng chí thân mật nói:

- Đây là lần đầu đi đơn vị đầu tiên của tôi khi đảm nhiệm chức Bộ trưởng. Các đồng chí bố trí để tôi nghỉ một, hai ngày không mắc điện thoại và cũng không thông báo cho ai biết, tạo điều kiện để tôi đi thăm một số địa điểm trong thành phố Đà Lạt, thăm một số gia đình cán bộ, bạn học, bạn chiến đấu cùng đơn vị với tôi từ những năm trước.

Sáng ngày 7-7-2006, buổi lễ kỷ niệm diễn ra đúng kế hoạch, ban đầu bầu trời Đà Lạt đầy mây và u ám. Chúng tôi vẫn quyết tâm tổ chức lễ ở ngoài trời, đến giờ quy định tiến hành các nghi thức. Ông trời dường như cũng thấu hiểu quyết tâm của Học viện, bầu trời đã trở nên quang đãng, hừng sáng. Lễ điều duyệt và lễ cắt băng khánh thành nhà truyền thống vừa xong cũng là lúc trời bắt đầu đổ mưa. Đó là một kỷ niệm không bao giờ quên của tôi: hai lầm tham dự Đại hội Đại biểu Đảng bộ của Học viện (lần thứ 9 và lần thứ 10), năm 2001 tôi được Đại hội Đại biểu toàn quân lần thứ 7 bầu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Ĩ, đây là một vinh dự rất lớn trong đời quân ngũ; cũng như hai lần đọc diễn văn nhân kỷ niệm 55 năm, đón nhận danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và 60 năm ngày thành lập Học viện Lục quân.

Ngày 25-8-2007, tôi ra Hà Nội gặp Đảng ủy Quân sự Trung ương và thủ trưởng Bộ Quốc phòng nhận thông báo nghỉ hưu. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tất cả cá đồng chí quân hàm cấp tướng nếu không phải ủy viên Trung ương Đảng hoặc đại biểu Quốc hội đều nghỉ hưu ở tuổi 60. Lần đầu tiên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương thông báo số lượng tướng lĩnh nghỉ hưu rất đông: 43 đồng chí.

Tôi về thông báo lại tình hình cho Học viện và chuẩn bị, chờ đồng chí giám đốc mới lên nhận nhiệm vụ sẽ tiến hành bàn giao vài cuối tháng 12-2007. Do Giám đốc mới, Trung tướng Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Xê bận công việc bàn giao ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 và tôi mới đi điều trị ở bệnh viện về cho nên đến ngày 19-1-2008 mới tiến hành bàn giao. Công việc bàn giao được tổ chức chu đáo. Các nội dung bàn giao đã được thống nhất trong Thường vụ Đảng ủy và Ban Giám đốc Học viện, dưới sự chứng kiến của đông đảo các đồng chí trong Ban Giám đốc, Đảng ủy Học viện và chỉ huy các phòng, khoa, ban.

Ngày 3-8-2009, tôi lên Học viện nhận sổ hưu. Trước khi về làm người công dân Thành phố Hồ Chí Minh, tôi làm bữa cơm chia tay với lãnh đạo, chính quyền, các ban ngành đoàn thể của tỉnh Lâm Đồng, các đồng chí trong Ban Giám đốc, các cơ quan, các hệ, các khoa và bạn bè thân thiết. Sự có mặt của đồng chí Huỳnh Phong Tranh - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Lâm Đồng; đồng chí Huỳnh Đức Hòa – Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Đức Thịnh – Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy; đồng chí Hoàng Thị Thu Hồng – Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng các đồng chí ở các sở, ban, ngành, lực lượng vũ trang của tỉnh và đã dành cho tôi một tình cảm thực sự gia đình. Tình cảm đó đã được vun đắp, gắn bó ngay từ lúc tôi mới về Học viện, từ thời anh Nguyễn Hoài Bão, anh Nguyễn Văn Đảng làm Bí thư, anh Phan Thiên làm Chủ tịch tỉnh. Quan hệ giữa Học viện với lãnh đạo, chính quyền của tỉnh càng được thắt chặt nhiều ơn và tỉnh luôn tạo điều kiện giúp đỡ Học viện về nhiều mặt.

Sau 7 năm công tác gắn bó với Học viện Lục quân, đơn vị cuối cùng tôi từ giã đời binh nghiệp, bàn thân tôi thấy rất thoải mái, phấn khởi. Tôi tự hào đã đóng góp sức mình trong đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo ở Học viện, đồng thời mạnh dạn đưa những kinh nghiệm chiến đấu của bàn thân vận dụng vào lý luận giảng dạy, thực tế chỉ huy trên sa bàn, ngoài thực địa cũng như trên bản đồ, bằng nhiều hình thức khác nhau cho đội ngũ giảng viên và học viên, cũng như xây dựng Học viện khang trang sạch đẹp hơn, thực hiện tốt công tác chính sách mang lại nhiều quyền lợi cho cán bộ công nhân viên toàn Học viện. Mặc nhiên, thành quả ấy có sự ủng hộ, đóng góp to lớn của các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy – Ban Giám đốc và toàn thể cán bộ, giảng viên, công nhân viên, chiến sĩ, từng người đã sát cánh cùng với tôi trong suốt 7 năm xây dựng Học viện Lục quân, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:39:04 pm
Thay lời kết

Gần 43 năm phục vụ quân đội, trải qua năm tháng chiến đấu chống Mỹ và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, từ chiến sĩ trở thành sĩ quan chỉ huy cấp tiểu đoàn, sư đoàn, rồi quân đoàn; từ trình độ văn hóa cấp 2 nơi làng quê thành cán bộ nghiên cứu khoa học có học hàm học vị, phụ trách một trong những học viện lớn của quân đội; nhìn lại thấy mình đã đi những bước thật dài. Những bước ấy, giờ đây tôi không thể nào nhớ hết để kể đầy đủ trong cuốn hồi ức này, có chăng chỉ là đọng lại đôi điều suy ngẫm.

Đó là, tôi đã dám chấp nhận thử thách, kiên quyết thực hiện hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Thử thách thì lúc nào cũng có, miễn là chúng ta có niềm tin. Tin Đảng, tin đồng chí, đồng đội, tin vào sự thắng lợi tất yếu của cách mạng, từ đó xây dựng quyết tâm dám dấn thân, chấp nhận gian khổ hy sinh, đặt mình trong những hoàn cảnh khó khăn và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để thực hiện bằng được nhiệm vụ. Bản thân tôi đã trải quả rất nhiều cương vị, lúc bộ binh, lúc trinh sát, lúc trợ lý… Trước mõi công việc, tôi luôn luôn tìm hiểu, nghiên cứu nghiêm túc, khi bắt tay thực hiện thì cố gắng hết sức mình, tìm nhiều biện pháp để vượt qua với tinh thần, thái độ trách nhiệm cao nhất. Có bài hát của thanh niên dẫn lời Bác Hồ dạy: “… Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên…”. Quyết chí để làm nên là điều tôi hằng tâm niệm.

Đó là sự quyết đoán, dám chịu trách nhiệm trước mọi quyết định và hành động của mình. Mỗi khi tin là mình suy nghĩ đúng thì dám quyết, dám làm. Quyết đoán trên cơ sở khoa học. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi, xuôi chèo mát mái, có khi gặp không ít những rào cản, những ý trái chiều, thậm chí có người đứng ngoài xem mình làm kết quả ra sao. Quyết đoán cả trong chiến đấu, trong huấn luyện đào tạo, trong lãnh đạo chỉ huy, trong tổ chức nhân sự, lựa chọn con người bồi dưỡng cho tương lai,… Quyết đoán và dám chịu trách nhiệm với quyết đoán của mình, miễn là chúng ta trong sáng, đặt lợi ích chung của tập thể, của đơn vị, của Tổ quốc lên trên lợi ích của cá nhân hoặc một nhóm người. Tôi cũng ý thức rằng, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm hoàn toàn khác với gia trưởng, độc đoán, vị kỷ cá nhân. Quyết đoán nhưng phải dân chủ. Tôi hạnh phúc được làm chỉ huy ở 5 đơn vị (Tiểu đoàn 1, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Trường sĩ quan Lục quân 2, Học viện Lục quân) với hơn 18 năm công tác trong cơ chế một người chỉ huy (chỉ có một năm thực hiện chế độ chính ủy). Cương vị công tác rèn luyện tới khả năng quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhưng cũng dạy cho tôi cách tôn trọng nguyên tác tập thể lãnh đạo, đảm bảo dân chủ quân sự trong mọi toàn cảnh.

Đó là, dù thực hiện bất cứ điều gì cũng lấy tình người để đối xử. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Từ xưa, các cụ đã có câu “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Chẳng nhà ai, đơn vị nào giống nhau cả. Con người càng không thể cầu toàn, ai cũng có lúc va vấp nhưng phải biết đứng dậy. Người nào làm việc gì cũng là làm tiếp tục của người trước để lại, làm cùng mọi người và để lại cho người sau tiếp tục. Sau mỗi lần nhận bàn giao, có vấn đề này hay vấn đề khác thì đó cũng là tài sản, để từ đó mình tiếp tục đi lên. Tôn trọng quá khứ, biết ơn những người đi trước là lẽ sống của tôi. Đồng đội, đồng chí kể cả cấp dưới khi có khuyết điểm thì thẳng thắn phê bình, nhưng khi xem xét đánh giá thì nhân hậu, vị tha. Mình tiến bộ cũng mong muốn mọi người tiến bộ, không soi mói ganh tị. Có lẽ nhờ điều đó mà tôi được đồng đội, bạn bè ủng hộ, khuyến khích vượt qua những khó khăn, có lúc cam go tưởng chừng không thể qua. Đời người ai cũng vậy, tất cả đều phải trở về với cuộc sống đời thường gia đình. Người xưa có câu “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Mọi việc đối nhân xử thế cuối cùng phải dựa trên cái tình, dựa vào sự yêu thương, kính trọng người trên, thương đồng đội, bạn bè, thương yêu gia đình, điều mà tôi mãi răn mình.

*
*   *

Nhớ ngày mang ba lô chào bố mẹ lên đường nhập ngũ, tôi không nghĩ sẽ trưởng thành như ngày hôm nay. Tôi ghi mãi trong lòng sự biết ơn tới Đảng, tới Bác Hồ, tới Quân đội đã giáo dục, rèn luyện, tạo mọi diều kiện để tôi phấn đấu, phát triển, hoàn thành tốt đẹp con đường binh nghiệp. Biết ơn tổ chức, đặc biệt là Trung đoàn 141, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 và nhiều đơn vị khác cùng các thủ trưởng đã dìu dắt, bồi dưỡng tôi trên từng cương vị.

Biết ơn Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, nơi tôi sinh ra lớn lên và gắn bó suốt đời binh nghiệp của mình, cái nôi để tôi sinh sống, rèn luyện, trưởng thành. Biết ơn bạn bè, đồng chí đã cùng đồng cam cộng khổ với tôi trên từng chặng đường công tác. Biết ơn gia đình tôi, bố mẹ đã hết lòng tận tụy, tần tảo nuôi con tới lúc trưởng thành. Biết ơn người vợ đã thay tôi nuôi dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy các con. Các con luôn ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ. Cũng như những người đã gắn bó, chia ngọt sẻ bùi, là chỗ dựa tinh thần của tôi những lúc hanh phúc cũng như đau khổ…

Xin cảm ơn tất cả. Nếu như tôi đã làm được một điều gì đó, thì công lao trước hết thuộc về họ. Tôi chỉ là một giọt nước nhỏ trong đại dương mênh mông của gia đình, quê hương, quân đội và Tổ quốc Việt Nam!


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:42:33 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/Mzt7bjn2v9nCzA7fcxRAvhf1tKLpoJg8CixgNeW24CN_96wCwBZdym3hZA1tr1oWDDtraL4FSd_6seGJLPm15N3wgorNu0isfMIOJCgt6UY6ULK9OU65gPchvL7156sbZQ4w09Kike4CACJwpYTtjQIWMEnYs19XAQ9uhAt9IuzPgZtcjFMA-ifA6eQtggr_TrVE2ALndDuncFjl1KDo9y0G86Zv_QRYSJvNktNc2iGwG8J6_16hOVgjxk0goydd82ds1O72BwWEfnmvhlpWZFETcuQqDEMx0iUDr8Kj62faTRqcZsVGpMBwC0O-AzTxViT-uJ_5NL-EqupEjmMlfwRkCqYddD_ZrJWzp0v1MuXX4VmITiSeR7jSEVofTBUOWeSStu7jCnOmeZWLlaAA4klgROjccAKeZPpxYoMDutzUYg1wRByb6JCg8r3xdjClQ-Z96r-t8LS04R3YiOXeDLJbVTMNKXmahOTZdL4_KrXQQnwrIEcfKa_2_I1rjR0a9qZiY6HdE2jogRqvLWnFHK1EXIBin2WfiPalXNJj-LNU4RAXYemRFPHNmSUJ5_xBkTb-d-4zV3ByMkLUKIET2VoIMqK2cry20keW5UL4622QNxo9a4ZLXc0ath7lLDzbw4FqWC-hN6KmYyF_KoYy-lIaJSIz5k8=w472-h640-no)

(https://lh3.googleusercontent.com/P_rywL43cxEfLxuWGtAw_wLIcMtx-sippNMYNGnQleF2QY6FkHnmqNp_Y0imF-XRICSsTOzwTKIj59pXsvw8yeXNbSUNbkkZpfA7YSQiXKhzm0XpoEcCpoy_LJbwOevEwf8xzhEeQpH9axjMbticKvbV_I6vGwDzSbapqBcphFtPX9Kd7hyq0EEpr25zEkrE6g8C6e_WzHty91CMvimK6Kw4POrPHtCNlWdjryLL3dyrmcPqjdDEXCTLY05z8BMZaa8wogCB8McKzihJRJCBHAJb-cmyqib7jrbCawANClD_KDZyrZ-tfUctb0yOA2Vdd4XomlzEF4XM_AZAUf-y8Wo-E_50VE5p7BzJdJ2JglV00ekIRtoEedkUymFwSmHn2ze34LB5sHkQmAic73XiHhJJX0pUt2ep_Zh5r-ZnY1VrInFRTP0Z_q_K8_VoQi6LlQQkjCyRhX6zfV-YoO7uh771yJkkwuwigxRQHN3sr0oMBtG3Wi6E6A33yX57gKB-l9oCazSK4T4if8SbnEY-UkOEn-TBsEjOMIUo63eI2m5K_HrG9dwKSjdG6aQIlaBFKGZGfhlWENbzAI3LsgI0kBIrSoToJ4FVlHFztPpaxalkr-2rz0m6GjbHxJHO9OeKv9Y5jn70BaxZ53a5oryiYIT3bGo_p2E=w480-h638-no)

Những ngày đầu trong quân ngũ

(https://lh3.googleusercontent.com/A_L-u7VaRMhgTziowEZy568sKf1L0by88IwSCNkGWDgA9yt_sLe8CreBqiMBuwr5nV2sMxs9fGCW5THa0RsYiNcp4p7Uf-3L96FqInT_4Dm1uHKUkkOFqoEDejFIyrMaU9TE6HAqqkOEbmQGAWblystXEI1JFgNm0awVkpKdFjxrsnq7pOzoMeQCSxGY8Zp8boj_f6fxlASyklEgssmm8ASj3L3tOYAogNpESectAN_UMxPCBghcM5kdV_t3gMrf9QDpe8knHHU_CYM_ghRRpSNiDjw6M7Cikgy8ze2e1i9vD3weEAAPWv7G46Hehw97mJ54o9BNLkB3VmwZvYDWawCQ4kArg0gGsusHyrDVhWSqEpRiP4eOHkbym3_LI0QvJe5kTHfpoh1jiYGs-T36ggfHt3DsoqZ8wJ-_dSA0L6JzgFbTA9ddsmyFz5t1eTyMVMKAdewzk6AF19JVFFTsvib-vHmWXEsVOFw91iVPjWjEcArRcoUs_u6hBG2cr8_gUqNMuzWgRIerZQTaEDePMCOTnkJzw1YsdY1qnY9Ii-YdHMMQ05jTDONOI_k2u5X-BvX38I-JTr7I1GW-5rxP0zH2XhyegpDZxjgxP9DxjqzJ4dOuIZdloDqwvrHYKVXVmVqCHXLlokWHoNDbpHRdrcYj6yUVcXo=w800-h498-no)

Ban Chỉ huy Trung đoàn 141 tổng ekets trận đánh Bù Gia Mập (5-1966)
Từ trái qua: Nguyễn Đức Bảo – Chính ủy Tiểu đoàn; Đỗ Thôn – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3; Trần Độ - Phó Chính ủy Miền; Trần Văn Phác – Chánh văn phòng Quân ủy Miền; Đoàn Khiết – Trung đoàn phó; Vũ Chát – Trung đoàn

(https://lh3.googleusercontent.com/xiLlZfmRCmyvDrFMChf4YAEI3is8HXU5O99KUoxr5WoNMCCFsZbl49HBhVP-JLkMzeJWXAJxwQhF71J2r4csJGp2zZ5Vehs72II_G-r7CUZpg6eds74Gn12Oy9ND3oxe6khKR5lj5qKNuNi85SwZ6sTi-TT2I7QLAg8GSe6WgC6IPtCqbp7evFq4Dpd1-27vjXI-j6n3bwjHptV4myTgR85sdSOoGwQXHvq4OCuM6BghapJa9Lgssnd15ROplXsNHFTzh13TnIMTecNvBNnvkfGi73ROPle87zgax5kHeGJ4IKNttLiuzeV1pXjmVzWvrhF7hMyv7Z6XZ5ZgSIHNECAJGPB45utWGNuaHF8_o86YfcH9tYE9FEFKZJmCQKTmSXeth-2ewdBdqev7obKpaOIDxyw17HSqfyfE_SwbZrHICHu7V8WW0fyX1tBBOt3dizFlFVvuNGy0X-ce-YbPFx7zowGwogIZV44-b0WBl43dRmngzl8StQyBdDMYhEd6nCJXGm4JWofFSYOIarQ1flRubnlrVlGYkXo1Hn-lmiBPjXYHGYG0l192kqs1oBBer6oFv6DlUCuioMKdOf_H0DePQwyTAtAjJ-c80WjpamU4UVoK9a2ETGNh8b3AWjcYYQ_6XIJwdp2j_67k9JLqLDC9PRs4XI4=w800-h518-no)

Đồng chí Đào Văn Lợi cùng Thiếu tướng Hoàng Cầm – Tư lệnh Quân đoàn 4

(https://lh3.googleusercontent.com/PAPO-xNhJeg-ZIMcqsCFXHcHgaFi4b2t6ER6KYUwhvOH30fRiFJIukBxR8FqzsR6g4J6zKLMVSMpLphYlwp_rbNfGqoFtZdjEVOZB_49Ih6amOQ8dq17wLEVE57t7XeD8KUJ7gwDt382IhavQ_D4gpS-XNWBSPr3lN0rNJde_R5GECA-KVCKssn9-0Yer603VCuXx5t-XXv657yjyjou8o0ct1mXXXmnQ4VDd22T-FWmBH0JyU8z5C9HlEtsmtdJFeDf0uzSmXJx0IvPuqYXDhCp5lGXSDHTqXSIFBkSmBULKqw0FhzdZqHq_W_n86trhJoZVGgJg6CCc9ew4q6T0bXr3mjn3zxBgX6He_5xoktHFqdZBFKWZxnGz8xU9dMu1r90bLfMB9kyBXg0vUBo0sWvjhMQKKbI5WlUb-UhEEKxCxQXJ6edu3WCl-jrHh99g1AVRnSjPr-MPRDfxBJrvTqj34dVJSkmVRCuf8qvL8PO36rIzQmQ-8RnZgTlYRX44I9T52yWDzIKWgFFwh_YUz2ftocdGaYWvr5TCINF9ucubiiTCAaQI17P0XGxdijzBAzdqjYbuduAQ6xmN09auaA7f4_GpuckKTxbqwXxY5VWm0UAZGkBFVKmQHc5sz9wjk81Y_P9Nh8e25-7YVy07oFi7RTKy8w=w800-h524-no)

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến thăm và nói chuyện thân mật với cán bộ lãnh đạo Sư đoàn 9 qua các thời kỳ (Từ trái qua phải: Đại tá Nguyễn Văn Quảng; Đào Văn Lợi; Đại tá, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Tạ Quang Tỷ; Trung ướng Lê Hai; Thướng Trần Văn Trà (22.12.1989))


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:47:56 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/3vX5zHI4MRzmRP57VbkBvAh8sBtyqMk9VodOGKRt__flbFylxzuMbvKdp6SzhBZlLb3BSuf2nRadBr32yiFnEfLgOlZW2OJeLNVbSgKcJbIcYeFHLN9Bb9lvCBrUENb8MG1sxBaj-ISxCdBrgonJ5N-56DQZv6Wkl5oyTMeN2z6ed7po3n9mYM6umAaY-IV0X0X-tvQtB6DSA7x1K1bJy5IbrZPxyMeuka-hibrNO21CJBK7WE-zFpzbgQ1jFApQwcONEbNaeBLUVy9IbHyP-MSoiI3Pv2lZR3sVjXtRgBqg96dLyKxnwlk8y1RU_eH3qcnoGGjyH2b1wdRxKDB5JrPSDwBhWQ1452cT8x_fFiJv7KWV2pgz-Jm5BYpeDllpxXi1OJkGUsOM1RRLiNHfmKykby8E252uQKhSbYpMCeBvuc1Rogp_rkHMevgdWHUqqfER8ovDF51fpbHlywGT3caeIe2X8VNLHGjjOgaxQ0jaalBr7yKf9bIjHf8XPMu5xO-ldIPrkdNMWkBKlMpVSIIJLU8hpZ6eKObZS2556TAzDqdz1ftQbTdVPq5qg44bxhqBGL1E8Fm3ehzYK9TiRxU4l3AQa2iYsEh74rqZq_Eqo2O02PoiS2VlN-IVD5w_Mxy6ZMjVENKdTTkJXYq8Ay--C5ANxfw=w794-h506-no)

Tổng Bí thư Đảng nhân dân Cách mạng Campuchia gắn Huân chương Độc Lập lên Quân kỳ Quyết thắng của Quân đoàn 4 vì đã hoàn tốt nhiệm vụ quốc tế vẻ vang (đồng chí Đào Văn Lợi cùng Tư lệnh Quân đoàn trong tổ Quân kỳ

(https://lh3.googleusercontent.com/YEdRVAYFmd57NP3dVUfzCeEtB_w-HgNYxYysn9ZuKe3b2rQ3-YE6GRXcZ7jlV52EOgVhbCLdzXaZoGlK5ZgCTVb7UpOyMtjSi_2Xji5lt8RN-AunUnQVxS3VJToUieOTx0J-2F4QlIBP4CezfG_cXzXWIkWqx93EgA-aTZZ45UU1f6k162sYnHIDSgwfrO-t7suLsyx8SW4mft7yR9VN_uKAJr266CBT2X_a6OeNXo1qsE06XNrkYPcaFfppWRA3YbYtfuT3c_b-9UX6LG5NQ3qfdlf_2WLQPrGx_MhI9z7dVl5q2oleBEbYHqRoxhpPrKMqNrFO_gzMG-CNtlKpzDbpQ8z47WZ81XzgcdQkKJJCcXsP3RHqQPM_O3VxOM1eBl_ENKEmtUM_nrJ6_5aC-qhkRL8ejIG4h5h0oL1T8yx1ZfQmIEsDV71aijM-nVhneICSXQyVbhMi-nId4kLRkDSWN-lgezKyhC6PxR45J4Jo3pNbonAPE6w_suQXljl2Pzwn1Bjs2jNX2nUSfn5HZNoNRHk9G4KV2_faHUBqvY_1Vqwl_njTyommTvtLgc4s1RQdHaR60dyz_0aZk-3zmOPx2xZ6IyIo2XZgAApidp2z-Mtf2IvwdtG2-PSpX9y7aRZ1n91xT3l2u5AQkuBb_lrgYUzznmM=w800-h481-no)

phải: Đại úy Đinh Xuân Viện; Đại tá Võ Văn Dần (Tư lệnh); Thiếu tá Lê Minh Hiệu; Thiếu tá Đào Văn Lợi

(https://lh3.googleusercontent.com/8-lQGJzBCnijomH8XDF4lEqlSc8Fs_8LS0ay1ZR1rIP5Dsg-bSH4DIciUsRcSUyuF-W8BYHFbt6Y9rBpwLgfHtuLba6UVqh7Cmkj29CBApyYLJ9qekEMwITlXmvGhBEOfEEmy7FeDFUZ6Y9RohyXOV92U2XavqYzVHaAYoPIqHkgVpk7lX_P71TOEndiSNrSCuc1MiRsPoauCssIZWPo8aRyy7IJYyMI7aW3bG-vmIZ_R1srt-jcmKaul1EKOE5mJy4yRJLsiAuFh6x5n7gqGukyHFcoT4RKoAyL2lPIbqGFaFqMiEGoGVrs3A2WD88J9c5BKe1YKmdBz1v9B93UCMVoUcRcY4VZT4spRKCVy115MrWOjCrvKoBLtRURVXoM70rYuL5_uRBIydOn82NOm5KThR64B5uzUftd_49AX3sTmz6g41sGmqsFjPO1KU0s0hJe-R0EYMXDia3olbMZPXGekWwhJaeXJmrk2lCZmspiyY-XoQrVwuPNSWrceMfQnHza_KUbNKBL-I31yNJwqfHO365MbHVW-s5GCUquX0LhNpilGGWx9wL0zUxtu8RKFwn-PPuvwh45GmkO1xPA3m2VTU31s-xpqN5SlHDWS5-l_IwwkS7GVPvyzrREvhFsL0jVPo4mMPCtcGKHEbjiafe1vA2gkxg=w800-h512-no)

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm Sư đoàn 9 (22-12-1989)

(https://lh3.googleusercontent.com/j1FUCTPVu-gegZsL0KWV3m0sXXH3XvZEoMEcJxWEBYYm-KirUecThedfFGvvFW8ltdyulnOzWU_ElnqTXkH2xPOCmCiyaoazlRIrrTxKcEM28_bigp2cstyTeo4Uoy3hGiY9paJ7RokEo3DoqllxDARFEIiTPO6cXTk5d6582uP61bt8Xu1RdZxRc7GSbvp79Jr3HzWgpFkCy74wm_KF1DsO84tCs0eXtlwDjWgrsIzLf6BTmMA809Ux8SZsTDMjPylKn7DhPeLHywlZUbEGCKAcKxUbtxbLpYk3urgDzHt6uGtFNexGFXJ6iyK8xPVeVF3HoGGGdjsCWRfswUjLinv7VpCbrEhKAfC0sESxp2Sy7Sez0hjsPfh8u4_5GAdxgAxFtoiqg5B5EvXqqMu1bLIG5dBChlWAkUuByzmcY0Yp-Rsymq2c4GAA8InTJelWMeIxX70YgYZG3AYC11BUebkvgLAgx5GiOu40OjA7Ye5CQnCHn35D_2DoqbCN3qEp4RTSiVWpfXa4i7Qcq8UMQ-vbWOGlSm_36CHMpYE_NieQsHi5ULMIIlUY8Q4ehCkYXTz6h4zEJjTiRnXXUwY_cs2eZvFhuJTFF8P8o2VLBxyPiuFMWk6aeqpKKlgzjaVC4-FKqlvUbiqAsgTHukjxfgMPvXE__l0=w800-h528-no)

Ban Chỉ huy Sư đoàn 9 trồng cây đầu trước Sở Chỉ huy (Từ trái qua phải: đồng chí Nguyễn Đức Xê – Phó Sư đoàn trưởng, TMT; đồng chí Đào Văn Lợi – Sư đoàn trưởng; đồng chí Mai Văn Hào – Phó Sư đoàn trưởng; đồng chí Phùng Hữu Dinh – Phó Sư đoàn trưởng về Chính trị)


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:49:55 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/zq1PJB3D5meXyIXrT8gSg2Nh3Csdo2m9vj8xQiTh6R_ieEKhwbf9ua-Scy2inysLSo5P6mfefiFdLyTkJ_DAMy_hDBaoqLZg2DqCjmpnU6XkkpNm9djjVlfDASvneIaYaB_Vdkp4L_fUDO0Zz5VZ6SQM3jvNULQZemAd97UOX-TL5VIvjuykdtnX2Ub6d60HMj_7gr5whKoKLq9t2Cq_3iwW_IxlimzYe8ZxmLN63e_r8hMPDUY2Sf1PnchXe5d3v9aYOMIdmVifS0k7BajfR1kh9L-HC-G7Zuq1yxBuR_RF4FxyF9bDLATj0uyd2gMfY9XpBK1Ef-O-fpyQfM2_hFPfZcDkQeF_X1K6Fkyzj5PrnJoxf_Xuzgr5gawUQfjKiCHCFFB7pogNF2535J2PislzJX_kmiqEwOd_jclJrCUqbwvzgu_KDAPkXBRCp1j9sflDlwGIwmokx3aYcZgJBlLJJ1_esObpV3h795X5utxeNXqUpBa0CDTm_TQZZ9AfDVqNXmJPORn7bjdM8i7U8oWfzsIIctCq4rm7LT8mY-eqxxbaSU_70y5NZsa10EUWw91iJFfjAV2N5wwJqLXAJsARUWBmmfEcKjgcDn4KJ2-Yl4JQVRC6hVvMimbjLrSSrl7tr4ag2lLDT9x8KjoHiGjmYcdXcbQ=w800-h506-no)

Tham gia diễn tập cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 trực tiếp làm đạo diễn (Thiếu tướng Nguyễn Huy Hiệu – Tư lệnh Quân đoàn 1 (thứ 2 từ tái sang); Thiếu tướng Lê Văn Dũng – Tư lệnh Quân đoàn 4 (Thứ 4 từ trái sang)

(https://lh3.googleusercontent.com/zEfHSdmg0tKBfTXnwiZmVb_TKqQ_MtbU_484q6AwqAUkTCkONosc0qIvItwK6jUHQ7Qt54TlzS4mqrd3g5zueP5EB-jiPFrN4tsObcs0mkuAY_EtRx3V3vB7NwjFEuW2mIA7B1rg9-xyiIqyLFiFn0SOw8b3daVB8uZDghbSVHBh4JKdfHTmmqeVvQsyBpMUfuNs6IDFopsAMhg7UApCSO85pCwM938RUGQ7BX-xQsLfZWwHrDUjofaGoDmWojrx9bZ3kBRERZDUsxyCTuTT4S3_dz7QXFYVXPeWo45fSs9YdGSROeyK1wgNd5snLtf3vYELWZaPzijysXRjhU-yDlCb_4V78LEyJ2a0_rl0l8yqRUq571DIFm78jfHU1lham5i8fX-eTe0XkuDbPzOgR0886-qTk0L6lbhf0Bq7TD8BTQwbm2yOD23U5auBI0sxt2H7YJl9wlfxQ6JrltTY_PEqd7WtBuSGidBwM6P_IbHBLBkC5F0kD2jmZY0vKCCqGrTLfjROxPxNKH_Q518lRW4fHuZ_rfz11KVrX3gAvWzXrLzQoyVchNvYgttrSMUXfmtuB-Y2_u6nagKP9KiIgR7p2VjTt4CuPyAKgMQNjfHJEpnCqI6qQjY7Ah5uzN0jh5H8nGkDqqZAy4gp4FjioagH0liJ_jw=w800-h531-no)

Thượng tướng Đào Đình Luyện – Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Trưởng ban chỉ đạo diễn tập PT95 nhận xét kết quả diễn tập của Quân đoàn 4 tại Mây Tào

(https://lh3.googleusercontent.com/8CTvpN4L0pKvD6Wt146oDC79NimrLaQUVqSUBPA2ljgt41NoyOXfS9ZVETj21c_NHxfp5jke2whUNuXWc4cDkQdQIbXaPlfzboOhwE344c6_ky7TS30K0KOhGifzK3gCZNGPNBt8eQbvbx4uVx7LmlYnaRAnqGUPMEZ8t3nCQsLNIfco6GxzZAY7KA-1pOfAv_ucJt8KY9So6At4FWeenu-IsDls6GaSCZ4h5K9VmXW0GSByAYg249DJyC3ruFOqfwt1XZbGMRiAucXx-_9P_cbEFvuafc5SHl5Jc3patBnxNyopLUmpoCH3wh6SKxRrYaIcMLSumg3KkdIwlmwC3F0ovUcfp4JcBhxOPYl-DSeI1Tapghpg2VTGHW_tOZKdP0N4PmZxNhfifZm5WUff0Mb5ZaNv-ZYiY3OJLMN9l35RSZRrHlisdURzVp1ZwM6BHOMfDNtDBmkWSr4Lu-MFjk2uuXjdb02czJow3iPBjKt5zWwnON_jCs9x9lDqLOewKcPkcc6e95lY9SgzbFH8ob1DWFlgJKw-RVsM2gVXNorXPMLcHOPzHnUCXdanEIu_EkpG5UPK0vTki1EquOzDB3p29DvhE4hGBBwDQ4LeBEVG78GqiunFqrKA_ua1NuCQwDF6XMOcchrPFGtLHxEJuWJjOpdnq4g=w599-h800-no)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Sư đoàn 7 nhân dịp kỷ niệm 30 năm Sư đoàn chiến đấu và trưởng thành trên đất miền Đông Nam Bộ (6.1.1996)

(https://lh3.googleusercontent.com/e0fc9lcxNJz1CGazzGBL2TT0L_DAjuufZvRH4e_rI5ZK0cpw1-GRhboOyffEbwpLuTVIdestaN5qWFW259-YvaqZxzSTATaUXHDw4Cy6wZiGcE9Y5pEh5uqMdoawaeJYpAsi5efP7fC6pLW9sbV5SrWkl2suUqyYvYF7TwmbbNZDNgq_czQLDLMBOjUSZ5oji38_i_iSvKeRNI4tM4gTGJphsMr36Vu170K3q3FN6FCEEYfadphPlE_ZcoBmSNfzZs3PHztRNBQgnhytdmggII63NS8Qxta1x5f_x2PuYCvrO2RWLg5m3Zy7ubJr8O3JA1DowXZ6dUsM75TzVbHmca5-44tnEX7QdxkD6JNPWG6EC9zcB3bqAdInWHkcUaFdBDyE6FMb4QOF5IDSGrMXw0I25ajD6O2T0MvLXkaaT8dFd2DEC-FDiDLTnGtpOiTAxZgwY9SzVTTOqAxaIdjnMcyFX0nAey_egQrjIH3AQy8-7wVZrw777qh8kRCEywL8OffkwUAgFpqWdMD-Hp-cFIjt1YxqOrl97I1SgFyY9FbFFY3SmJ2Y4U71o3apP4Rrh3nc-oLokrvmnxB6oMvYLhccyK3MQOUk1IMlEaNK6jw-FLcm9rzCU9Nr4fyJUKcyR8_KBONw1Ywf-pYuLdWssWJDXCPLR3o=w800-h508-no)

Huấn luyện tập bài dã ngoại tại Học viện Quốc phòng


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:52:09 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/02mqSAsFPhND-OgARbv9CaSxzqXjxVLmC40uJlyM7kmKjAzuQNwaWTgqbvRLxizOHhs4-VRZzjXL1NiRzUk1WJB8ZKHlgGzqWNMuNJWO7vldSBH5DvOufXt41WgcTrqb0Cfg6w2eD79ItI8fdagIoryOMA6N23b4Sq2OnpJJOyzVLxA-73TkmZGg6vhH2MNCJt86cTtZ0cEr_Gc2WsWiT5yccIrMfq7t6PMUw73IXi7aX6610BiRhycOwIVmWPs4WMvTudaFVAHJ6d454t4R5rAJEnQBioeDyaY6nsocxiZO_htoMKNH8GmunNPSmq-0UtlEqj-9rHoLimJXfjs9uM8062_5pZahxYAsjXgArjmxd0OqrssXAaAE5AgTJFItxv2WOzMOclUtSs_SOTyNU4JRKhdo7Pgb27klt36RRSdgHHUuVOw2ZG9m-0OM6zQkri8wK9inlyxVtlWkoXVfaybNilW5M-0eHE1lQpDVDC2-WXCJkSjsPg_YPz_A-YTCxgRlwy7UxWkAjYeQAsSLJcKI9tFhIBXJPbR4cmgFToaQ5XsaNZSVWYl2KZ1mGZ6HEPlqaqyBERexrp8x2LifA_3D9HJmFBWWDcptB0fBgDeH-ACRNOGGndTaU4YmPpeFi4oOUo4dV5MDci_cACOfliNYnmSVc0Q=w800-h490-no)

Cùng những đồng đội đi B thăm 1966 sau 30 năm gặp lại

(https://lh3.googleusercontent.com/hJEY-RCjvNzoBZfdJPI3wXXTr89Gd-X1TF_Tnh6ME5WHPFtZ3_gKddfdVphHswjdPvvzxdRl7I61SnwkISgN9NGo5NC_ga6UKQk8A8pVtWnb30njiH5vBq6qi9-T6Yws4tEnxCEGTCgql1vh0LruTa8lqbH67rveC5WK-r2CbwQQoa0puAOQzghtpmP05ve_dD-WLNpiz-Wv3jmTowXi0Z_St7uYZ8iWdfuEH3yslGs-05sP3wJVM6pbMamBj4-ZD3x_KnlC2SSyfp7hkurCeAO26YxQl8KcF_3-2FDUI5vyVjQ1cRrzD5uOZfX6RX5tJRGDwAbZQZF5OLjV5ZTcKN__xRIGtzsQdRdoabIyNJttfUVg6sQsM7WySmn_BJZKKbYsvxV4HP-SjbxyX-JmNG7dv0PJdI36TI-y74kRTTZUT-24q9cgD295EAL25ZYj0Eupmlaf1yjlaOXuxs7losEN3k_TjkJ0kLcLP0dmaY-aFkqGtd1_J1dF-C9hRRFWcnei9WxZ1DqXC-qRwc5nXpBSCUct-fggA2yMMiGgtUNEEQ7JYVdOzbiVT47xcNt1fIyfJys4mnGcytaWEio5a2Rwglpe8hiZHAmtITe66YgLc68wp4asrZ87uzJBEaA4Wy5ZuaIU3Wg4VSXNW8wnX2ufByaw0d8=w800-h503-no)

Tiểu ban Quân lực sau 30 năm gặp lại (Từ trái qua: Phạm Ngọc Hải; Ma Đạt; Trần Minh Dĩnh; Đào Văn Lợi)

(https://lh3.googleusercontent.com/FIqdgTyVckd1ZKkVVoATjXrjkrquTwLLnAAxQQATBOpiFlNm5M0dFj7BXp5_Zow6pB_NFR8arTVl_N7EfRtmCIMvB87Jljzl0p25xpeCefEiIWtpRZ5HftIXhRDElDiBR4HqYKW7QADJIk0yrq0SX9AyleIstbrUluGgjylvr0TybUGcXvq1OiqUWB1NR1Haqy9EvYbtRwer0_l3f2-fhFiCTzQ9q0VmxzpcnSwEm9Kb7wMmL-cB1ionL9Jp5tO8Z8JfaK-SUlryhRtehayuDPkpj3dvGPWSKVzVVj9BCRUQJ3Ev9cv0_3Y77rlx8gpiXr3rkKda2c3gh5J2ph7U4sWYa4FHvHNS_klvmpmrsJvYiLc6koyTvN2ORcdW0__VTgoC0Rauifqe2_P7hj4Rqvc5l-aFHm3c10kkQY-lTtoOSM8oDFLWOxrjD-0UGNtiPW_HCqxNa07-l9OnTSA8EtekSHoKThqgi_rW_iXSf1GG_LySYKgId2Kxl_vrnj21Kj-n5Bm4nOk0TUrvNZa9YzyFwaDF8MH_SWI7bMblAufBsXXKi6EfBbrOIer6JsMJ69YATDr6ikoq7IsCcNrOFwgT0spAVhj5Kf-ArrjV91KxRgGDndWTcbhrsHQRClaPwamBqim6ZK5w3oIkKwegDT3HtGjdFk4=w800-h505-no)

Đồng đội và học trò đến chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam (20.11.1997)

(https://lh3.googleusercontent.com/cU5jbx9ttWU14ViT-SZD_yt7Zv0fAnagsZZCuKCH1iu9h7A5_EX_N7YI_iXnZ068vLgTjYrMW29YKBkrxcrOH-v9OjEGMbDaA6VGMNUlT8DCC524r1BoeT5JhDWsakaL3FsHrDBtN9Uto55T15ZY_78lLS3SfqoIF_akMJyz73fegDkuhUru6oAVIZbrDLtEyDl5csxPL2h45Kdrys155d4vgxHni6HfA3n1RSsCoLY3dEf5KetPXe44Kx0mdgMWiiT8479jzuDIX90wam-rLge9OxpW6VggvpajwDJjEn7UIu_ppkKeHbD5LvMBuCNzZLYLEKtim8IOE6yHzGlHoO6HbyI3GgLXzhPXyoyteJUQbPaHYxUcDp1VeRf-uvAGh5TTwdfzi7O552ho7MoAoThS_Kao2i2BRWsIQN1SCmUecMMBW6axBJMnsgwkzbsicImV07H26Uf1SBJbX8kP6teuN_BVvPAfARNZCvd8q-qRybLwyQVTpNpIQg6cY534hsDrE5zZfxBFdp-LyoReBnfLuQhwIX0HBUqExo70vPACD3XgCOJwiwJEgXid2HvuGFVPoZ2pE6DtTaO086kOgou05jfMphe9PiZg3B_QBuhHg3Ro93PXUJ1ESxbcEH0SuqPYJONhVznRstBckH7gSxV0s8TwtAE=w600-h800-no)

Thiếu tướng Đào Trọng Lịch – Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thăm và làm việc tại Trường Sĩ quan Lục quân 2 (22.12.1997)


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:54:25 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/NCd-5jxAjQ-wXuiKqVXK3EzZSTAJKhllT6IzDC9Yl76LOxwiHUnMVsvrrnc4VZn5Zz8PW2dWNUjXFb5CuggCwwLIQqcaFvXOLu9cLHi4LvPZih6I2nbZhX9cfuQJX3BYK4xkJvUTF0BTuLJKwi4VtGdG2rO63jsVABwGUAzEhAFwQgPU1WRcZEgt5yX1TovH7ioe7s0iSxRrg91B2lS2v5TDU2JECBwDv38_G4bZbgi4XAe6xIExte0s27pVKUvQviwssSf-pHxARKPHLd9Ba-Sg2gyRzVnB1GLZn7_lCz4Io03TAZcHsJMLVgqbVojcbhrncAopYoK4JNmKjoAA61U8K1cMFCruE1328hPRc3_iu6aSD-gkdJCvUGUZ0zxzeryRVpwX5bxnWkGqy1dZ50pyQ-V5ANafuxK6J1NC5rYzbLdHVlT0xua0_aP4eeljxxiUnWhC39PGaLsVPiTgTk1MtQ_hZoiLcebR-JDdDs_47xo17MfGwP4OxKWccG_jsN_DEUKpUXV1MTofJZb1RqnOFSsW3Mv7jLwlQZp-_9MxggjbyJ-CDBKlFaAaG9ALU-WvBafIZ2R0reTNSM40zYHtginTml7OM-0-HUaohz9anOdSbh-lCkJtO88X4QVaudo8_UTkKYhtCj90ZgKYx_Xewyqu0sg=w800-h497-no)

Thượng tướng Phạm Văn Trà – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Chính phủ ĐUQSTW trao quyết định phong quân hàm Thiếu tướng cho đồng chí Đào Văn Lợi (21.4.1997)

(https://lh3.googleusercontent.com/kn-J2eaPhK9PxEQ3DwUjWC50cG3CRVm6ClN76BKTTS7xZuJJvotwB7ievI26w_S5-gmfdpmV2S9u8BIk10dbHUi-mXi-yWTsKiUM9xPhbvLuIg4MH_uhKCFQJUNNkcZ9vwe7UEuZOhcgvGZYWBFvTU_Tiqvx8hPpCKaFp995Qw4eMAhZ_Gs8SwNJR1u1ji28VGwvaa-c8Rekev8CrP-EhcgfqaWmzxVmB9XQi-B9hitIeQD0qurZpyCYjZRur-kWZ9pr8-zdc55z2owEiG9-GaOaGPeCdfIKge7Yp5Lkti08kZCa45MmrNm4F5s7PooTVqexKmgx0UlFLC9wy7h76mMSPdW1ZEjlzvPntw6mWnjmhOPr6zmz7Y5NvirnizpueDQU-0KwWwMiA-ZnujTiDWFL9LHEHFHHGJxiv2ykdfmk9xfE9L550KtpOqQh9z1R-5phal63dT6DVObzFWabT-ThWBDliy04AFwC7qzaH7hd_DW5Vo_8GAMyPXsCfNFLx21KAvHBvflLX52CvH_qg-fZ6_d05jOyBe1kqwj9OjgM-4lYAIEf-BUuYiN-uuAFJT8AVtS8xn4Nj9RhLIZbOnyQ7B1mpsNULjtzdrI9c1idiXyKXJi-5SYfkRESMImTtkgoz3rFXBAAPojHXDJ7Q8R8fl9nTYg=w600-h788-no)

Trung ướng Lê Văn Dũng - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam thăm và làm việc tại Trường Sĩ quan Lục quân 2

(https://lh3.googleusercontent.com/Lqb_dqLQzjDRJ59Twyk2Gq0Ny5UvybT5d-fCTe7MiqOOpTwdKpdNANOS5kNr7fAxjgr-MJl_a-WWYr_nauA2R-dbOKWUf-ts_l40ZxmKEtjG0AqUVb-_67EjcUu3PSiv1IUT7uYO6pIBqJIbVeaMDVWI_J0YwU2kd_b3sHj7ZmiTCW2CUZcRcNxCUJrXzUp7sXoV-NLFYmQsEWTCxrE_Dl5u2D3478Jqpxf2ZuBU5qefyh1NWdfNEb1oqY-6vaR1HlW5PCp8Qvjj6peVRWs3xCyQl1DVLPrxT4vYuTH0P5moCcrsPSD7wgMaQdkhD0jbKuPs4Sed7DwZ3cu8rb-kVvaudkDQPY-kYPuJ5r0r1yvBvb8AqAxcaH1NTldBMGy_pmFAZkk4iEqwj94zLHMXkh5_Doq7ngXN8Z9509GJilAvn9i-t1vGlCRs4pRSntJuKWQFVRXJdPmpFkJihZLW4D-4HdfkLecCCdJ7SOTkMIHd_ckXmrgjcyOev5f3fg92FtAbDpCoC_tbaYy2m6Ozeebw9WiBu7HF6Fxvin2SRe4rCWDGKFK94H5hG5dWQ4ORGHB1kZVSru_F6bXHioEBwdXBFNujWWwufuLyMHT4OuXWz5j6RUvya_HghWOkqTRJNPtm1UXtO6WIJNVR-zgheGM0d7FzrBo=w800-h510-no)

Trong đoàn đại biểu Quân đội dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX

(https://lh3.googleusercontent.com/j51gbZchtEN0bHylWcmAmhIU7bw1Bh0XMR7jC189mDTLtXut9zKy48cIHTQHhBuNslwTOFNxHZdhlesLVCzpg86AaGAMvcoGZmkI71qUaBCTIMjNAtL9lek-miR2Sp4xN5GYMUYduNugZkxx-bHrhdM3ErTDBpfRbXrvOYUc9mIt8xJRlcbTg8U9XAQfsiWksMET47oMJZnkxlYkv6b0867oBA88azmY42BbYPTRh5S27W-5O2hBz8iRkEjCWvloiSsdgPF-5xRjel6Bj7ScmBBF3KMwkshwYqxDUshVcH5tYCM0sztu89uncrsAXCeLrSaDfj75-EuEgoquggkwu6HXCdJ6zfpaPJOaAYh4Zm1qF87xYeu4c38-uYkrji0l-_LvtC2eJUOZT66f1fbCLedxSSmcNu8-H0ZpQsZY56pWvK3Kjd5RUlYSClnOSld07H-gWfiDDnRsjlQXITLDy0r23czh02JDPeCWg17BRe1bvRNLcH-9JxlLJzH6X6zw1hBuoWcrdqkzOQLX6Ih6pTyPDEXPUVdCHG0WoCkOpE6ngssXzBL1Y7uMQ1zV6u1CvsrDMYAlh1LbLa3kj83zyDFKZ2Xw26ATjFZAJeNuv7kiCnvkpdHamdnjdeDWVhDi5FfDSFl92RitXml06AZEw7NMwUz2e9E=w800-h508-no)

Trung tướng Phùng Quang Thanh UVTW Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam dự Lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Học viện Lục quân và đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2001)


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:56:20 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/XsBo_GAgWDesfycmQOUIOYxf4KNHYYAnunMO9SYo3HsaCgI_cf2iI6KskkQSgbYDjLS-hImzNMg948H3m_yRCXssOa7aMoAJrLDGwlTUj-xqNl5qm0fL6p2qFfuk8ThILYdHs5FOhj9kwQHeN5dxF4hc7uXNqRb1j_gWacWI-CTY9eQGIbHVGe7Gvsfb5q2FfYu43ALlVRFYKRhqRBalcg-6HVVdes7XjLYYQmm0YUdVYKtwVtRqRH0Xvg6gIWQzLHdK-cPZcEirvu7GjTi016fid8IYeeqg0g9F6s448e7KGHtj9DFbTHiJ3mi5qSs2qM9vsdLlUj1dfgvL4IBmS5H-sxOdQaG5l_TOi3b4dEZTbBy-R_C6yXLBcWg6OTUyNzW5Oq2dtisB_P0mR6yyGfyCOxXpOKsxrttokHL2e7ZaO7RcWFvHW9_Q3-nCqjOBIzIK0Lq4PZfdpMiXJueagMnQdgTWoLULxgkbJEQJqckmr4haj3L_TUHgFY8Qd9IplQf6QrqFPCAeq0DM-jarxM10e6bXlEFsyP6TC5JFi5Fb3Z5S7v1n5T5PLANEKqIuVfqlOcnLpiqyKeSQZKSmJ6GP3hIzKnV-l80k4pDUzEh7LISjIpCGtd_M0k_BKMprSOw-86cg-Ywlerjoo1x6fEA1a8nKMA0=w597-h800-no)

Con trai Đào Đức Tiến chúc mừng bố bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ

(https://lh3.googleusercontent.com/jty-8FPALGxPR1ta0pidgIwGZFiO__Shwd5gJ2oWStWX-v4CbDvOJlZ85VmOywEU8PD1gPtu4rcXl8n91lMiaun2ZyEanmKyNymLTGGVnb3PCKYEVJnIZEoE9XEUz88ZjYw4nPYoEdZLkq7pLrBZ_XxtEsxj7YCL-hr3NQPG8OCIj4vX2I5f7FLQYR1J-gVNLb4XggbKQxjR-HD7jmUK6uLiHW0rnS7CEQ0-7Xv8OCuBtHBJ8OS0d4ylXQNbsci7etPYS4GYV203k4AfsNcSSYD0HhMrCEwVxyRBgWSpqy-0A_gYN--X1_U16YhIqNbRyZSHzPuAGghWNBOij6TqhyFtp4GbmHZK-wHdHILNzdNS9IywO1oYa7r3XUZxDW_fYXyn6hExrex8SCITWYUGxUcLtUoyW7TFKqpXwO8QNUYwqPCxFXxXAbs0eSEMphN099SZNrADK82MUn5yvg1ZGaAYdK0cCzwEAXKf_dRWu6vogEYl9DFZj58JWw3IAET-CGSO5B0GLY-mJ2oQqtYusmbky9X0llHIxTgLTExre_dY-_83cySr-8rfX82oL_jswwvKw7uQ6LvaVhXMl3lqbh4z2qydF26tFwOR31uGUt4mGSiuYbHHZItp1AJbr-7HJIk16_Vmt1DXFZ0SkNxJbUVe2Wlcp4A=w588-h800-no)

Trung tướng Phan Trung Kiên – Tư lệnh Quân khu 7 (đơn vị kết nghĩa với Học viện Lục quân) thăm và chúc tết Học viện (2002)

(https://lh3.googleusercontent.com/vplfi86jAVxspKSezCFFQD7Lrg_QauNbzxZc3gAvaG2Pj8AJSY2z9wt68uJB9t_l_998g69IUz5OqC5MIH9huXxOmDYL0zF0RLOr1W9ma6eZpGQp75KWnWF2Fm-waDH37s5hXyPKcGx2Dm3K1VMkFi1jBpmJ3AfFa5dz18bZkIJT1AHcH-bsKrMyMhD9A2NxQ1CZ8amQ-X6eWCXxZTyGvPC9qwxoTi3A7l90FXlN1nncSzX6bgG0-NjSKMYPm6XDAguMFsPxyzAV1HAwP5gZ7iOaVQfPLYCUKtEEO8Q8fdp-OdX71L4ZaWoOH5hn9papOrJ47Wabw-PGjfmEw293iHdRXiF0cBP0xam141q3M4h3gossA2DkbUxuZtMCp6b3pgTOb40n1WQ7fCKRgCU797oMHPXQ-xKXl3iGshHhVtprMLiHVBfRM5EGMNOW5oUv2XIxknAkXDL2dcPgtO_Av652BCy7P2GevpUTmFWvv8PjARD7hhKDSa2KYzSIOeTH-qPco6IyqmoZqu6OiFmxYa5DODJ1FDz4AFoMQwUwH16sAJaxiNVunf3P5e37A-IEcknbI_fKKszHPF8fVyi69qexWXvlb48SOtWZNqk5eCziEh17pppbOHh3xNuQySX9i9cBC-I0a4-rAwdukMv7IXGU6vaa4Q8=w793-h511-no)

Các đồng chí cán bộ cũ của Sư đoàn 7 thăm Học viện Lục quân năm 2002 (Từ trái qua phải: Trung tá Phạm Văn Đốc – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165; Trung tá Nguyễn Văn Lối – Trung đoàn trưởng 141; Thiếu tướng Đào Văn Lợi; Đại tá Doãn Khiết – Phó Sư đoàn trưởng; Đại tá Nguyễn Hữu Mão)

(https://lh3.googleusercontent.com/oHTjnHW3NGH-CDdFJqofVv52jtsY6m772gMwjvk5OsuI4Fk1t0mKceDX35HHzISSCbbwdOxGKVmtJfU6uN2DvwIMoK4_KnsUIXsqSR09B0h9L90PQ3LuyVDc4qXf9pngz5LePXqjL-6ldX36EJKYrW5DnQKn1TbL2Ir0BHVmyXb-HuW2k4Mlbm7PTMpR2GUVO5TPnFFvgsGOgdyjXqIUxCZq173yslxin98WGGQ8Stgl40Z_6Rq6CCouIQLwSB13QSTBDB_4MZV456JyYlJMaVwvbOUcyYknnU4_OgbxxBHSnHd0A4H59LX0wJ7Y-x7RMFZcLDC4csjp6tTzSDML2b346QpPrN1u_vo9RQAAxp6La1IX8Dhauc0Dw8KSwuQh3CyQlG6v8NjynyPOonJUHUCFlJT2Er5RUFtxYeLHgK_qSWI_m6-3Fe_BgmdtgEBSTSNkY_bbaAKaUHNaYXZnJzriHCKCJff81MbyolGTfAHYJDuhBgyXDvOqfErUlqCAI6gJ7jLAAc2hDm3nxSkmV00gJAIOXNQy5R1I5N0YFy2UcJ8IFdm_sbU8cWzdjLFVdNnGdp_3TFZV3dWjZvtV5U3iE5nCVmL-Su4bEPQ95Q7TwMjRYOX6eU06x6RLGvjyilTjn0Aw2qYp66EX4RaSXCqmeDpHOPY=w800-h511-no)

Tặng biểu tượng Học viện Lục quân cho Đại tướng Lê Đức Anh nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhân dịp đồng chí tới thăm Học viện (6.2003)


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 02:57:53 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/HWzc9lNLF-Pek_dO6Oy5QENV7ozIQRLg4s-BQDU2AK5xwCefMCJugXm_1gRWYDsRKrIYpgKaEGOS8OKCAtZ8BwQMfFH4c5WKpzZWLiHLGfBQgoRbDz3c10xABDodEjY6JO7yvLkgEPcYmUBveCK_WSPUcmCaTji1AF6beZCuIwKlAKQJ-Xck9uEjry5KJrOrsEJxALNubDhdKcSV_r-CSdvtWPl-4E5R3oSUsh-BHs9gE806WizUKW78qTiMAp-DBqd6JWUpCP458tfqgxXwFa_2h5vk-itkjlNY1koxwtcIp3vTHk57D5RD0Tq_J-5OZt0jQDiFv6mh26kK6_kEBZN8lTYK-c2rBuncXG2BPiTqh3KnJgUwYH8iqeKYYBu1JIygFUcJLaLABb4WkpvtMIgBb4tJ4TEZp2uCqjBIknhJV-RDmg28FZbpLz6eO0f7Q29dnI6ky9x4lnsf_rPAtktgMRHHnyeLd0N1s8cgVPBQfVEIE7-3pHZTbc2IQcSz8J_zOMRmGhGEtlMNr_EwonjKgutQQVEBq9r4OVB8nMTKyZdC4u5j95r1MIhfljBBLmvWlZNwpw89JVU0ik49yWEkRAzQ3JP1oBVZHGqkCXUf_pdOQYJbWF8TOi_6MaOqCbaPkHJhJnwJ63yTMkpZYQnCw_XEo8I=w800-h511-no)

Nhận chức danh Phó Giáo sư (18.11.2004)

(https://lh3.googleusercontent.com/N0Pa27XfppRX5Q6nvSKHkCQ0UEf64A_lRetIkk1YTvry_nt0CZclYQW2wVagKSvb3WxF8HAoEkpjA1XVH8TY8q9oFNh00SfDA_ZVrXI2OvUlJ0e2xPMzE4IJNDZ0tMJSg0J5xBEvdwH05PHAjFrEZKOE6OIF9wR3a9EDNbWE-J11J74JPcMHGYoB_qTsPJXJMo7iWxEsfJHVFIPsxDzrjktiPWH5meUFD5ZcXn0EvpBHbS3laF9ZDZ7yuUk8K_I24fJm15ld7ESnSdyHmFzTEiRu4jKGy3H4MMpP8rgaaMPYAkESlj5_MCL-0q8d45q05OaleiaP27Qhi6z53D0z6BjPmbHJhqi5__dHVdDjCcvDPjbGaD-ekC7rbZAvFs8lEZRVfCojGhFjuGD5A-soaPmtVL5GSxbWzZqrD8i-dc5azMNOO5Jmhysrma-czsy_BsifbCH--EolyEQr-OYGcfZ9F-lhWPvkFdVvqju-wyA9u23iLlxCUOzSo0zSMTtuiiR7sm6r9noyM1FlHnzpj0zFy1PCbaP3zQx_vPF6r0vEOs7QD5JesYJ7-unkYE9lJ_IRZBNFdv6RIII0rNM9p4D9Z2LhMC4KcV3YFDvvJW2jHNv66Nj2gwtII04eGB18tSmKiRiBva1f8fEC1GRLwSuZdhMA0s0=w800-h510-no)

Thăm các Học viện của Mỹ (8-2004). Trung ướng Wa La Hen (đứng giữa) Hiệu trưởng Học viện thủy quân lục chiến của Mỹ tại Quatimo

(https://lh3.googleusercontent.com/8E5d4WIQPJSjYtY-Z07-9avA-ddr-3rgZq1rb3v0CIxy8OI22GT-T_5NfDW2xrdMBnpeK17o2l5Z967W_FmMLPZ1OLea8QdVcMHm_imgPQX2GhzoGnyY7HChKjUs9kFhpjBfcc99rS52qmpkteEexym1Z5l_nNsiQwq6DrMz6ZGdHVypAH27ZCIriV1CWldCBBBVxUs2E31R1oJmdpoPtt04gmlFhAZ-h9qFH58E_QFE6iKtxgU4a-61MftxXDKQLXzEnZ1VmwZ0VGlEx7hWYtRVM9rXc9EGjqXsapFdgyzSSqqr-rncrVIVpef0kuLaroJxEh4-okNoqPPj3T1H7gNiVrP4-SPAVnCHddpwm8cx9ODK-Fij0YWieeP_hgPut9e_k2Ly01D5soejKGzNl3Al76U6jdo_lrbrDv-7JbwvCNVKAAFwyvIz6mCgBLheTmMsH1wMT1EdBmjK4xrFzItwHkCBz7EWSV3LJs40_8lnm9wL9u_fz9lK0E7-IKSyCjmyEJl_oPrIXCPqcesqw0wq59Ckk5mgEoTRwwfB5ZQzviZbOlJl-jtoV1Hr1Rc2iNE3EsVNyoOJIefgcedgbDUU-FdNRIOyLf0W5DRhswqh0vOHdyygN8EoGIJEp3OvePeHxZNm6psaIVPKJ00SJ8JluXOowf0=w587-h800-no)

Viếng Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn (9.9.2006)

(https://lh3.googleusercontent.com/fzPhUByN4K3lHLB89SIalJXG1Wod-9zPq5LahxAzeyPg6P9SmotsUR8iwRuQzV5Kc41fwXk7o7KK42hyoFAY7NB4T81LGuXSx2th75qqSjvqCtOyHqq0iNlP1RYmS6l-Ja0aqI2sn3ZxSYt_uaAiVYNj2oBGSWAavGM0HEj06k8KvHgRjpOw0Fgto2CUZjyRdSenYWTwFggH33gEV4OHmuIyXiPAFYSrDBtUzsqQKs6IqBEXdmiiJ8pOaJMfMhze9rzq8eLYM3ElWaWgqeOhX-qKVobZAr9mvxlDL0K7881bYyK3WRVePESSHURp9GOzInG00ihRS0HAwmTxIrXfAS9iwlWiP7-IKQTy58CY2bHqzxM1q56XzrP3ZhFkTHiKayY7P0JpCKgoaiLerKN-Vy0oUpE8m_woonDm9KQzzs7TdLTh4RKSxHMvGxv57TH-vsMGFGSfGFhBNph9151wDru0Yh6lagJr_GOFZJKrronSB54YP4n1axQFXTrp0oW7Y5M_YWPLcG_UJ18d3O5YNXKmC6XFFt-1C22l8LfWxcMjgHo-ZLtVxqaX0ODkLeq0mjq5jcuPXAW4n7-YHsoDCKHI0cR40Fkig1fh-dkUA50_wSKQmF4Eu1XlMG21wAHP6vDQqZU_MG9r8QsH7UjZqFEz1d15Ckg=w800-h500-no)

Cùng Trung tướng Lê Nam Phong

(https://lh3.googleusercontent.com/rmkaMJi6bT9D9Ni00CE24cCxkuGGiqdtEfu1j3RKKPCM5CiQery0bXY_PPNxZXyvtXhQPJPyPtPJxCQFjMgP8P28iF5L4l_oCgcEepSaOfUf1iVQBDH1znxW1-kUXsxXGPVdUJT2GTJV6Wt3U9iprJfrWiPlSB4yRF1sFlzxfzwFXbenpHVIxsrjBMUSvD4biXPBMJSGyNkUCwoEnfdwasYnybW4zeqgSADnODPL_7CoBau70rBA-28h4QIEwuFskevxaJvDEr19lM1V5ekLK9GJZsWZOhgfmnLqpYDuwFY04AuheMZnvJYya0VOvwzEUGLkGwR2FolGx3QKqfnqSDkNEgkjfJMVSChrYH-5Y0-Ss8aOLTHl8T6zU_84mUPcDJ4zrL4EMCneeKG9CkKh67bO0jNY5KkLp1gIhg7p6p7WPSgUhcBbnoWx77PBxpXEDZvQV2FDCnqEBZRVrahIz8oDixXejFAJHwiyk9WokDXk8b8VrPz03sV2uSzVzH6mwEnyjGWisgUlDyh-ytZqk5S7I-EguaYM2zD48r3hUnah7cSevLuSlTI6O-N9n3MtqnuNSZgYFCviOG9F7ptxcLbeLvfCJQGQ5IAOnFcZMkrenS5oM7152mM7_CauSxiBqgntnZ-2h_t7hgAuKA__kTvorNiU3zY=w800-h493-no)

Đoàn cán bộ Học viện Lục quân thăm Học viện Quốc phòng Campuchia (7.2007)


Tiêu đề: Trận mạc và giảng đường - Trung tướng Đào Văn Lợi
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Hai, 2019, 03:00:07 pm
(https://lh3.googleusercontent.com/d8O-uBBVGntrREiNdUgo4ZoENQpwn2i3oNWSNjhWv6B33l1_in6OF6_AEuEwHAjkl1vRooIAgfPzmNlCIDC0X5eVWixPrALEo_GdrYd5GliVOe5yRjvm8a9EDg46S4yNfYBzjg-CeFrmpvNLkgt5NkMG8-GS0lS_QYe-6QxWSe6hS8tpvovYWjsI_cELD4KcAr5xO401SSQh2XIEbN874lt6DrQxKHNup3tAy46AehOuaFuPdpP7H5-ASccPvM1M_aGyPS3l3Hs8vsvfNLer0pjEe15OvInykNNl_z5WF4yrCktkLjeHhX6-B99JIBUwUZeXrHBDMHgOP645z6sOWOyi4bqJwSVu7ro1xMIkRnEkuYyrNk1TaoJbYjyMXZ0HjV4avMTHlHFKqsfXGivUBBRZbNEBWDEFDv61GRpgQVBASG8fXlcHTazMGcN445GI9DNo4dEF8gQaU7nfu_OkaaTHIdRm8aonvcs0C5NHHc94bliYxqN8e3UnLxEa3YUagUzbQTHxaIxdhke2GRelmqkCRM6CywqRzbJeBBhN1bLw3CVWGumhbddSpSNXwOPhVLGQD5puv8ZhFv8jRaroPjvyD7hbab11VxYbSf5msW2QRE71pjn3u8vKrM1NNk9doHnOCf5ZuvQnH_JlynivbRD_87zimj8=w794-h506-no)

Đại tướng Kim Kim cùng Quân khu Xiêm Riệp đón đoàn cán bộ Học viện Lục quân (7.2007)

(https://lh3.googleusercontent.com/WT5ay4PykDfmhV-OsqtTX72Yih3fLfuM_63tQBZPZuceprnff9S5zq1UUVBkvvV0LdInQIuUgU-AxZRErYAfqpWcSle3vx1iq61XCLifZB2KpkzUdgNwfrPn-yX7mEwy3HInHgk6Wi6Jb_sM_8sanrSreFXCS8_I9_ceshnqlvIMPvtb6cHMxzO-lDkX9M6KHMDY_jZh-x4dRzZ0Uignc8c5YVCTVUsVze_Am_X2erw4_0ofIyg3ulolFe7WvZDAfliZzgWLJn9teloi6vSAn0sh5XC6_btKw46prM-xH1Cqv7jV-WDyaaSV-ntzf5LUoq7z_o59DT1rAgbFlhhA0NakWztaKWIb0j9N_sVMwLktt241dR33HkCEZvPt_nqGrjQRdH1eMHqA7j3vSvecRGU6_ohspSGVaHT7mDmE0S-pZoYWwH-bKu-Y_cyBk9i4e5DDocw1O9F_rDc37nRobENoey-Su3lAzAOD8MZv4kG8in38WLVCZl-S6IcbJGBSjnvlwu27cOrt-Lpx4Jn5sCcrEMggtOK5gAsFKlg_1U-KFiHEFSPkq8Ox_RZi2kwShOoHI0abG0sIgpQvctR2aHWul8ktSl6R683R1UcKvEHsAcdHYq_eRhmVqfFXUaBHE1PygiI-jzDRAFzZY3X9l5dNqvaRBA0=w800-h596-no)

Nhận quyết định nâng lương lên hệ số 9.8

(https://lh3.googleusercontent.com/YYV0IuCpu76ICOu1xUiqCNYCB-2wD8_fb8m0HsqX0JtEHewvM8tX8umhIojrun2fzx47aKuC8r7tML3P2flyRRgxvsKZrOk0793ftm1oBUz-bBB9IIMAbeBqjmcGpQahyA9BDYhHe1oqfthQ4uV9Cy5tOw8D1aqBHS95EhEhic5SCOX6IhdRHKvAzrgPM29IkK4QY1PNKM3HFxBQscxL9RKWjmRiOz9_OpGWSV_aWk0TSi3-70ajU1KFlUHW1xNSco2LVW1GZ7_IyqGe7hMExauiQcexp9wjTlAstwwMiFufCZTJCd2rZamUOSuekJ5KlWZOBHRSx34O1cxiymStOaIKVEbbgF04JK_rKN02voIWeNaWwD4fswwHXQ0Tm1cvtM_SafehoFpl947tXYXv6Wu_vMlMgbcMFxlQqnE9BDPvNv29nfbIPtE1QeHMcrwxMnDChVLqSqlw_6zrFzgLQzVo7dMlp2memtcL7pxV9R9YOvMorY3mJb9KcFzO3IIFPCM-Xw5_WsVwYrUyQOtc8H9YbfWLyDXuAMv5QB3nmuL-08goq-mPAjanvdi9u247coYJkLs5B9jiZyHuBk_eIXZGZjee_egQhXQt2BBNvwmHcIXGTjjbkDou5WlVfUsr2IjFHN9_4cPB7lWToGRi7g_rifnLwAM=w793-h483-no)

Gặp mặt cán bộ Sư đoàn 7 và lớp đào tạo 7 tại Hà Nội (27.7.2009)

(https://lh3.googleusercontent.com/0x-xYGHiYNOZ4CkpvMoT4owCSTFaRnMWB4CSv-qWIX9b5ES1Df4YIK3mzntQgS51Xv6FY68aitp2o82LMERJbulKQ4jMOdJL2FvWhafx-wg5UBcXfElXerarJwa6eWz7KpQFDXWxebd_-eSQvuQt21E5t-MnsNzs2OSai4S--Yn9J5lbXhPudI0bMp24BvG_Uuw1gyJwX_MrtYg0Vi16_HIy5ajPd6nVzocW0gyUZTXwjofVm08-rv1sx0JfvZRodDP7ByQH1SYK2bs1950el_mhsw_sED_thhIWNhe-wKn3HsWSS2jyHnG5VZXYdW6AQdVySHVyBp2ogYg_OVzqo44lXeFyd3qOS2lqPqrmZUAPyFbAyIBVswtb9SM-xp-GdIUlBHEV0rsTbkCbzOtrb0Zwj3tJvqjz3kP1w0IK2OITfnvCvJnRORoJV_yehszMu4tOpQZW9bVKiUvg_WtIUNyvDw4Eg7pLdUDRx8gzX50_QXJdbW51IpvmJLLypxooeLrIPnDdL1QWpN1koRFxOt6rBwwLz0BvMcYvJfZsi0FnV-7LF9f2FrTUbds_LKiYVUCwL9nhPf94clrAWVR_Qq0yN9joeFyfzo66azNDtkIx7qhT9Y1cJpyoeatguvO_oJAZf0A5lbkZTwQOzHfMbjadG3H0U10=w800-h500-no)

Hạnh phúc gia đình (20.4.1975)

(https://lh3.googleusercontent.com/TJUZZE1TP4OcgYmCMxnLl2xKiNhP9OGm0xI5UROQRBWN78hDk4IM902DQS7sXVh6aFl4v5peTgkF4aMVyVk_jo_TkyQn668Uq9SS_oIFZIbkfwVK31A6uuePNEMwdlzjxaizfV7iIX7dSbLkkNgkbtvYgyHG8RbHQ_DEXGWvAn_KK4XnrAYB2A6_DAeDchVYJ-fhgZ8l2ZGlxK7oGFW5lMl15zVACtoD8Mz00KihdK7VjZI3EIPJDn0hQWO-dEu4weeB9b089v82gUOte1gGkv72LNXE9BYTZjTSl0TBtZu8z7lTdCbLoMz80mCISqP2JpGM2E61iV-rvJ4Ga1QEZwDaAAfmADs8wW97LDa5EDRlAS-dJ3WU69u1ZogttXH2HDeinaEoLWbZnrbSj42SmB-wfYTNU26OyYjf4cxc3WTcmigdwBbuaU2S_efq6grWcS6zDqZsXyj9NZSnJ0Ns0qKw10KWB3ePPJTc32ILUoqw1rn6gy_ooqMo3EXFpydWZAM-bOg5TPK54AHzgjru0OwqFaBhrJuQBct9TzylTQctrqGdsyguOXtQLl2InyICH4fZoHOG1I_x-KrKsmeu7Jhy0CPnce2VWa3NWPsYtClXkw9-oQud-_7ThRCNaT2pmqEosJM-1Z0S6JYjKoBb9eRvQHcjDVs=w800-h514-no)

Mái ấm gia đình