Tiêu đề: Hồi ký De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Hai, 2018, 09:04:24 pm - Tên sách : Hồi ký De Gaulle Người dịch : Vũ Đình Lưu - Tác giả : Général De Gaulle - Nhà xuất bản Cửu Long - Năm xuất bản : 1974 - Số hóa : Giangtvx Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Mười Hai, 2018, 08:06:07 am LỜI TỰA CỦA DỊCH GIẢ Hồi ký của De Gaulle trước hết là hồi ký của một quân nhân chống lại quân đội, thứ trưởng quốc phòng chống lại chánh phủ, một người lãnh án tử hình nhưnq nhất định không chịu chết. Con người nổi loạn ấy trước là một người cô đơn chỉ biết có độc thoại, ông thừa hiểu rằng « xưa nay bao giờ cũng vậy, người lãnh đạo chỉ có một mình mình đối diện với đại họa quốc biến ». Sự say mê độc đáo của ông là lý tưởng một nước Pháp có « số mệnh cao siêu và phi thường». « Con vật đam mê vô ích» ấy phải lao đầu vào « cuộc phiêu lưu rắc rối» vì y khám phá ra mình qua một triết lý hành động, giữa cơn quốc nạn mà thoái bộ, thụ động và chấp nhận đầu hàng. Sự đam vô ích của ông ít ra cũng có ích dụng thế phàm tạo ra cuộc sống, nhất là khi sự đam ấy ám ảnh một người thực tế và hoạt động. Ông xuất giữa bối cảnh lịch sử như một huyền thoại, và chính huyền thoại de Gaulle lại cấu tạo ra con người de Gaulle gang thép để có tầm vóc đương nổi vai trò làm ra lịch sử nước ông. De Gaulle làm ra lịch sử vì de Gaulle đi ngược dòng lịch sử tối đen để mở ra những trang khác bằng sự nghiệp binh bị lẫy lừng. Ông đã chứng kiến những ngày tàn của chế độ đại nghị, quốc gia đi vào con đường tê liệt, không còn sinh lực để đương đầu với biến cố, vận mệnh quốc gia trao cho những người «không chấp nhận chính trị là cái gì khác một cuộc nhào lộn múa may của những chính khách nhà nghề để sản xuất bài báo và diễn văn, chỉ để biểu diễn tài năng hùng biện và phân phối ghế ngồi, xách động quần chúng và chờ đợi phép lạ ». Những người trách nhiệm quốc phòng chỉ biết có loại chiến tranh phòng thủ lỗi thời, chấp nhận tinh thần chủ bại. Tư tưởng của Gaulle quà là tư tưởng cách mạng khi ông chủ trương không chấp nhận tinh thần Mumich để cho địch được đằng chân lân đằng đầu, tấn công tới tấp ngay từ đầu khiến cho địch trở tay không kịp. Vũ khí của ông là vũ khí tấn công với « những sư đoàn hoàn toàn cơ giới, phần nào thiết giáp, có khả năng tạo ra biến cố, có sức tấn công vũ bão, có thể đưa đến bất cứ nơi nào và có thể tiến quân 50 cày số một ngày bất chấp thành trì kiên cố». Chúng ta biết rằng quan niệm của ông nằm trong chiến tranh quy ước và ngày nay phải bổ túc thêm khi phải đương đầu với hình thức chiến tranh nhân dân; nhưng ở thời đại ông, Hitler áp dụng chiến thuật ấy đã làm chủ được Âu Châu trong một thời gian ngắn. De Gaulle không có cái may mãn tạo được đạo quân cơ giới ấy. Khi nước Pháp sụp đổ ông chỉ là một kẻ chiến bại,chạy sang Anh với hai bàn tay trắnq,một tướng lãnh không quân lính, một lãnh tụ không lực lượng hậu thuẫn, một thứ chính quyền không lãnh thổ và dân số. Tất đều phải tạo ra, kể cả tấn thảm kịch của ông mà ổng gắn liền với thảm kịch quốc gia. Chính de Gaulle đã sáng chế ra de Gaulle, một cá nhân mãnh liệt, để thu hút hào kiệt trong nước và ngoài nước, và làm nên nghiệp lớn. Bị quăng ra giữa đường đời sóng gió, tất cả gia tài của ông chỉ có một một niềm tin tưởng. Tia hy vọng cuối cùng của ông trước cảnh sụp đổ hoàn toàn là niềm tin tưởng ở sự tất thẳng chung của nền dân chủ tự do, thoát thai từ những bài học lịch sử đau thương của nhân loại khi bước vào thế kỷ 20. Ông linh cảm được chiều hướng tiến hóa của nhân loại là tinh thần dân chủ. Nên dân chủ liên hệ đến vận mệnh thế giới. Trận chiến tranh này không thể giới hạn trong phạm lãnh thổ của tat trận chiến tranh này không thể chấm dứt bằng chiến trường ở nước Pháp. Pháp ngã quỵ nhưng đồng minh đứng vững.Vấn đề làm sao cho nước Pháp trở lại cuộc chiến, « quân đội xuất hiện trên chiến trường, các lãnh thổ hải ngoại trở lại dự chiến cả nước chia xẻ nỗ lực với chiến sĩ, các cường quốc thừa nhận nước Pháp vẫn tiếp tục chiến đấu, chủ quyền của nước Pháp chuyển giao từ phía những người đầu hàng sang những người chiến đấu, và, một ngày kia, chiến thắng». Đây là những nét lớn của một chương trình hành động đòi hỏi nhiều nghị lực, mạo hiểm, tài năng và mưu trí. Đứng trước những khó khăn ấy de Gaulle đã than rằng mình dồn bị vào cái thế phải uống cạn nước đại cương. Vị tướng không quân lính, vị lãnh tụ không có dân số và lãnh thổ còn phải tạo lấy một thế đứng giữa các đồng minh bận tâm với một địch thủ hùng mạnh đã thôn tính hết Ân Châu hơn là muốn bênh vực quyền lợi của nước Pháp bại trận. Vả chăng sự liên minh quân sự không phải là một lý do để người ta dẹp bỏ tranh chấp quốc gia và mưu đô tư lợi. Anh - Mỹ muốn dùng lực lượng quân sự Pháp Tự Do nhưng muốn nương tay với Pétain để cho hạm đội Pháp khỏi lọt vào tay Hitler, hạm đội Pháp thời ấy mạnh nhất thế giới. Có lẽ vì không được đặt tay lên hạm đội ấy mà Hitler không dám phiêu lưu trên mặt biển đổ bộ sang Anh Quốc, khiến cho đồng minh có thi giờ củng cố lực lượng và sau cùng lật ngược tình thế. Muốn tập hợp tàn lực để tổ chức lại cuộc kháng chiến, de Gaulle cần phải bảo toàn thuộc địa làm mảnh đất dung thân, trong khi Anh - Mỹ muốn đặt các thuộc địa ấy dưới sự kiểm soát quốc tế hay dưới sự kiểm soát của mình đề tiện việc dụng binh ; dĩ nhiên đằng sau nhu cầu quân sự còn có nguồn tài nguyên phong phú của các xứ ấy. Mưu chước, tranh giành, vận động, mà cả của các đại cường đều xảy diễn trước con mắt ngơ ngác của các quốc gia bị trị chỉ được lời hứa trao trả độc lập,còn ngoài thực tế vẫn chịu sự thao túng ngoại bang ; nhiều năm sau khi chiến tranh kết liễu và qua nhiều giai đoạn tranh đấu gay go họ mới giành lại được chủ quyền. Trước bối cảnh Âu Châu kiệt quệ và các phe lâm chiến đã đổ hết tài nguyên vào bãi chiến trường, Hoa Kỳ nhập cuộc với tư thế một nước giàu mạnh cầm cân nẩy mực cho thế giới tự do. Roosevelt chợt nhận thấy trên đầu mình không còn ai, ông không khỏi vuốt ve mộng bành trướng uy thế khắp hoàn vũ. Tất cả những sự kiện ấy tạo thành tranh chấp và mâu thuẫn giữa đồng minh với nhau, lồng vào trong cuộc tranh chấp binh bị với khối Trục. Trước bối cảnh ấy,de Gaulle và nhóm của ông, tạo thế đứng cho mình và cho tiếng của một nước lâm chiến khi chiến tranh kết thúc, sự nghiệp cứu quốc ấy quả là thiên nan vạn nan. Ông xuất hiện trong lịch sử nước Pháp như người hùng của thời đại. Thiên hồi ký của ông tô điểm cho sự nghiêp ấy những nét mỹ miều nhưng đồng cũng cho thấy tham vọng của một người muốn cho nước mình đóng vai trò cường quốc bất cứ giá nào; tham vọng ấy bộc lộ qua chinh sách đối với Syrie, Liban và sau này; khi thế chiến kết liễu, đối với Algérie. Như vậy, ông chiến đấu cho sự hùng cường của nước Pháp chứ không phải cho chính nghĩa dân chủ,c ho sự giải phóng dân tộc và con người như ông đã lỉnh cảm được và bộc lộ qua các bài diễn văn của ông, ông có the gây rắc rối cho nền dân chủ. Phải có một trào lưu tiến hóa dân mạnh mẽ trên thế giới hậu chiến mới đem được cho các dân tộc nhược tiểu sự bình đẳng chính trị, điều kiện tối yếu để quân bình hai quan niệm ý thức hệ chi phối hoàn cầu ngày nay. Người dịch Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2018, 08:17:49 am HỒI KÝ CHIẾN TRANH TẬP 1 1940 - 1942 TRIỂN DỐC Trong đời tôi, tôi đã tự tạo lấy một ý niệm về nước Pháp, bắt nguồn từ tình cảm. cũng như từ lý trí. Về phương diện tình cảm, tự nhiên tôi tưởng tượng ra nước Pháp như một nàng công chúa trong truyện thần tiên hay như Đức Mẹ trong bức bích họa, có một số mệnh cao siêu và phi thường. Theo bản năng, tôi có ấn tượng rằng Trời sinh ra nước Pháp để thành công trọn vẹn hay đau khổ hơn người. Nếu hành động và cử chỉ của tổ quốc tôi hèn kém thì tôi có cảm tưởng như đó là một sự sai lệch phí lý, lỗi lầm tại người Pháp chứ không thể quy về thần khí của nước Pháp. Nhưng đứng về phương diện tích cực của lý trí, tôi cũng tin rằng nước Pháp chỉ là nước Pháp khi đứng hàng đầu các dân tộc ; chỉ có sự nghiệp lớn lao là hàn gắn được những mầm mống chia rẽ tiềm tàng trong khối dân tộc ; một nước Pháp như vậy, đứng bên những nước khác với cá tính của họ, phải nhìn cao và đứng thẳng nếu không thì không tránh khỏi sự suy vong, Tóm lại, theo tôi, nước Pháp không thể là nước Pháp nếu chúng ta không hùng mạnh. Sự tin tưởng ấy cùng lớn mạnh với tôi trong hoàn cảnh tôi sinh trưởng. Cha tôi là người có tư tưởng, có văn hóa và giữ vững nền nếp gia phong, ông thấm nhuần niềm tin tưởng danh dự của nước Pháp. Cha tôi đã làm cho tôi khám phá ra lịch sử của nước nhà. Mẹ tôi có tình yêu tổ quốc mãnh liệt và cố chấp không kém tín ngưỡng tôn giáo. Ba người con trai tôi, em gái tôi và tôi đều có một thứ tự hào ngây ngất về tổ quốc, như một bản chất thứ hai. Một cậu bé thành Lille sống ở Ba Lê như tôi, không có cái gì làm tôi xúc động mạnh mẽ hơn những biểu tượng vinh quang của chúng ta như lúc màn đêm phủ xuống Notre-Dame, trời đêm huy hoàng ở Versailles, Khải Hoàn Môn dưới ảnh thiều quang, cờ phất phới trên cửa tò vò Viện Phế Binh. Không có cái gì làm tôi phấn khích hơn những dịp hội hè biểu dương sự thành công của tổ quốc : sự phấn khởi của dân chúng nhân cuộc viếng thăm của Nga Hoàng, diễn binh ở Longchamp, sản phẩm tuyệt mỹ trưng bày tại các cuộc Triển Lẩm, chuyến bay đầu tiên của phi hành gia Pháp. Không có cái gì làm tôi buồn nản sâu xa hơn những yếu kém và lỗi lầm tôi đã chứng kiến hồi còn nhỏ: sự thoái bộ của Fachoda, vụ Dreyfus; những cuộc tương tranh xã hội, những chuyện xích mích tôn giáo. Không có cái gì làm tôi xúc động bằng những tai nạn quá khứ : cha tôi nhắc lại những trận đánh mở đường thoát một cách vô vọng ở Bonrget và Stains, ỏng đã bị thương ở đấy ; mẹ tôi nói đến sự thất vọng hồi còn con gái khi trông thấy cha mẹ ứa lệ mà than thở: « Bazaine đã đầu hàng ! » Khi đã đến tuổi hoa niên, tôi chú trọng hơn hết đến những việc xảy ra cho nước Pháp, dù là những việc liên quan đến Lịch sử hay đến đời sống công cộng. Bởi vậy, tôi say mê những màn kịch chính trị trường diễn ở nghị trường, nhưng tôi phán đoán một cách nghiêm khắc ; tôi bị lôi cuốn vì trí thông minh, hoạt bát và hăng hái của các chính khách và tôi đau lòng vì chánh tình hỗn loạn, quốc gia chia rẽ, đã làm uổng phí biết bao thiên tài lỗi lạc. Nhất là từ đầu thế kỷ này, khi đã khai mào chiến tranh. Tôi cần phải nói rằng lúc thiếu thời tôi đã tưởng tượng ra cuộc phiêu lưu lạ lùng ấy, không chút ghê SỌ', mà còn tô điểm thêm những nét kỳ thú. Nói tóm lại, tôi yên chí rằng nước Pháp sẽ phải qua những cuộc thử thách vĩ đại, lẽ sống con người là một ngày kia sẽ xây dựng một sự nghiệp theo quan niệm của mình khi nào mình có cơ hội thực hiện. Bước chân vào binh nghiệp, tôi cho rằng đây là cái gì lớn lao nhất trên đời. Những lời chỉ trích và xúc phạm quân đội đã làm cho quân đội giữ bình tĩnh và có lẽ còn hy vọng kín đáo rằng sẽ có ngày tất cả đều tùy thuộc vào sức mạnh và tư thế của mình. Sau khi tốt nghiệp trường Saint-Cyr, tôi vào tập sự sĩ quan tại Chi Đoàn 33 Bộ Binh ở Arras. Vị Đại Tá chỉ huy đầu tiên của tôi là Pétain, ông chỉ cho tôi biết giá trị của thiên năng và nghệ thuật chỉ huy. Sau đấy, bão tố kéo tôi đi như một cọng rơm qua các thảm kịch chiến tranh ; trận khai hỏa đầu tiên, cuộc sống địa ngục dưới hầm, xung kích, bom đạn, thương tích, cầm tù ; tôi đã thấy nước Pháp suy nhược vì dân số sinh sân thấp kém, vì những ý thức hệ trống rỗng, vì chính quyền chênh mảng làm yếu kệm một phần phương tiện phòng thủ ; nhưng nước Pháp biết tự lực cố gắng hy sinh lớn lao để bù đắp khuyết điểm, chịu đựng cuộc thử thách và vươn đến thắng lợi. Tôi đã chứng kiến nước Pháp trong những ngày đen tối nhất biết đoàn kết tinh thần, lúc đầu dưới sự lãnh đạo của thống chế Joffre, về sau, dưới sự thúc đẩy của mặt trận « Tigre ». Sau đấy, tôi đã chứng kiến nước Pháp liệt nhược vì thiệt hại và tàn phá, klmynh đảo trong cơ cấu xã hội và trong thế quân hình của nếp sống tinh thần, nhưng nước Pháp đã gắng gượng tiến theo số mệnh của mình, trong khi chế độ cũ lại xuất hiện không có gì thay đổi, người ta khước từ Clémenceau, người ta khước từ sự hùng mạnh để trở lại tình trạng hỗn độn. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Mười Hai, 2018, 10:53:16 am Trong những năm sau, trên đường binh nghiệp, tôi đã lần lượt giữ những chức vụ sau đây : đặc vụ và hành quân ở Ba Lan, giảng huấn lịch sử tại trường Sảint-Cyr, phục vụ tại trường Vũ Bị, tại văn phòng Thống Chế, chỉ huy trưởng Đại Đội 19 Khinh Binh ở Trèves, nhân viên bộ tham mưu vùng Rhin và Trung Đông. Ở đâu tôi cũng nhận thấy nước Pháp phục hồi được uy tín nhờ các thắng lợi mới đây, nhưng đồng thời những mâu thuẫn của cấp chỉ huy cũng gây ra nhiều thắc mắc tương lai. Tóm lại nguồn cảm hửng mãnh liệt của tôi, tôi đã tìm thấy trong binh nghiệp. Quân đội bây giờ như cái máy điện chạy không, điện không đem ra dùng, tôi đã thấy nỏ là một công cụ để thực hiện những công việc lớn lao sau này. Quả vậy, đã rõ là chiến tranh kết thúc nhưng không bảo đảm được hòa bình. Nước Đức trở lại tham vọng của họ khi đã phục hồi được sức mạnh. Trong khi nước Nga tự cô lập để làm cách mạng ; nước Anh nương tay với Bá Linh để Ba Lê phải cần đến họ, các quốc gia mới còn yếu ớt và chưa thỏa hiệp với nhau, chỉ có mình nước Pháp lãnh lấy trách nhiệm chế ngự nước Đức. Bởi vậy cho nên chính sách đối ngoại của chúng ta trước tiên dùng đến biện pháp cưỡng bách dưới thời Poincaré, sau tìm cách hòa giải theo quan niệm của Briand, sau cùng tìm cách trú ẩn vảo Hội Quốc Liên. Nhưng nước Đức gia tăng mối đe dọa. Hitler sắp lên nắm chánh quyền. Vào thời ấy, tôi phục vụ tại nha Tổng Thư Ký bộ Quốc Phòng, một cơ quan thường trực dưới tầm tay Thủ Tướng để chuẩn bị chiến tranh cho chính phủ và quốc gia. Từ 1932 đến 1937, qua 14 nội các, tôi tham gia trên bình diện nghiên cứu vào tất cả các hoạt động chính trị, kỹ thuật và hành chảnh liên quan đến việc quốc phòng. Nhất là tôi biết rõ những kế hoạch an ninh và giới hạn vũ khí của Andre Tardieu và Paul-Boncour lần lượt đưa ra Genève ; tôi cung cấp cho nội các Doumergue những yếu tố để quyết định khi phải tìm con đường khác từ ngày Đức Quốc Trưởng lên cầm quyền ; tôi làm công việc bất tận lập dự án luật tổ chức quốc gia trong thời chiến, tôi nghiên cứu biện pháp động viên các tổ chức dân sự, các ngành kỹ nghệ, các cơ quan công quyền. Những công việc lôi làm những cuộc tranh luận tôi tham dự, những cuộc tiếp xúc của tôi, đã cho tôi biết nguồn tài nguyên dồi dào của chúng ta, nhưng cũng cho tôi biết điểm yếu kém của chính phủ. Bởi vì, chính trong lãnh vực này chính quyền tỏ ra không vững chắc. Hẳn là không phải những người trách nhiệm thiếu trí thông minh hay lòng ái quốc. Trái lại, tôi nhận thấy các bộ trưởng có những người tài trí lỗi lạc. Nhưng chính thế đã làm họ tê liệt và tiêu tan công lao của họ. Tôi là kẻ chứng kiến việc làm của chính phủ một cách kín đáo nhưng say mê, tôi biết vẫn những màn kịch ấy diễn đi diễn lại không ngừng. Vừa bắt tay vào việc, vị Thủ Tướng đã phải đương đầu với nhiều việc bó buộc, chỉ trích và nhiều hành động quá đáng ; tất cả hoạt động của ông chỉ dùng để đưa dư luận về một hướng khác, chứ ông không làm chủ được tình thế. Nghị Viện không nâng đỡ ông mà còn dựng lên nhiều cạm bẫy và có những hành vi phản bội. Các bộ trưởng của ông là những người cạnh tranh với ông. Dư luận, bảo chí, quyền lợi, đều lấy ông làm đích để trút bỏ nỗi bất bình. Ai cũng biết rằng ông chỉ ngồi vào địa vị ấy trong một thời gian ngắn — vả chăng, ông là người thứ nhất biết như vậy. Ngoài thực tế thì chỉ được vài tháng ông phải nhường chỗ cho người khác, về phương điện quốc phòng tình trạng ấy không cho phép người cầm quyền hội đủ điều kiện liên tục, quyết định chín chắn, hiện pháp đến nơi đến chốn, những cái gọi là một chính sách. Bởi vậy cho nên quân đội lui về tình trạng thủ cựu vì chỉ được chính phủ săn sóc một cách bất nhất và mâu thuẫn. Quân đội ngừng trệ trong những quan niệm từ trước ngày kết thúc cuộc Đệ Nhất Thế Chiến. Quân đội sẵn có khuynh hướng ấy vì cấp chỉ huy giữ mãi địa vị cho đến lúc già, họ chỉ áp dụng những phương thức ngày xưa đã đem lại vinh quang cho họ nhưng ngày nay đã lỗi thời. Bỏi thế cho nên quan niệm về một mặt trận nhất định và liên tục nổi bật trong chiến lược dự định cho chiến trường ngày mai. Chủ thuyết binh bị, sự tổ chức, huấn luyện và võ trang cũng trực tiếp tùy thuộc quan niệm ấy. Người ta đã đồng ý với nhau rằng trong trường hợp chiến tranh bùng nổ, nước Pháp sẽ huy động các lực lượng trừ bị để thành lập càng nhiều sư đoàn càng hay, nhưng chỉ để trấn giữ các khu vực chứ không phải để điều động, tấn công và khai thác. Những sư đoàn ấy sẽ dàn ra dọc theo biên giới nước Pháp và biên giới nước Bỉ và đứng chờ địch tẩn công, bấy giờ Bỉ còn là đồng minh tích cực của ta. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Mười Hai, 2018, 09:49:20 am Các phương tiện như xe tăng, phi cơ, đại pháo lưu động và có trục xoay, trận đại chiến trước đã cho biết có thể dùng để đánh úp và bẻ gãy phòng tuyến địch, sau này sức mạnh gia tăng không ngừng ; người ta chỉ dùng để củng cố phòng tuyến và, nếu cần, lập lại phòng tuyến bằng những trận phản kích địa phương. Do đó mà người ta ấn định các loại chiến cụ : chiến xa chậm trang bị súng nhẹ và ngắn, dùng để yểm trợ bộ binh chứ không để đánh mau và dùng vào việc khác ; phi cơ khu trục để phòng vệ không phận, không quân chỉ có ít oanh tạc cơ và không có phi cơ xung kích ; trọng pháo chế tạo để khai hỏa từ một vị trí nhất định, sức công phá hẹp tầm ngang, không thể di chuyển đi khắp các địa thế và bắn bất cứ vào phương vị nào. Ngoài ra, phòng tuyến được họa theo mẫu phòng tuyến Maginot, nối dài ra bằng những thành lũy ở biên giới Bỉ. Như vậy, người ta tưởng rằng cả nước dự chiến cứ việc nấp sau hàng rào ấy chờ đợi cuộc phong tỏa làm tiêu hao địch, và áp lực của thế giới tự do sẽ dồn họ vào chỗ suy sụp. Một quan niệm chiến tranh như vậy phù hợp với tinh thần của chế độ. Chánh quyền yếu ớt và sự tranh chấp chính trị đã đưa chế độ vào tình trạng ngưng đọng, chế độ không khỏi chấp nhận một hệ thống bất động nhường ấy. Nhưng liều thuốc lang băm cũng làm cho người ta yên tâm vì phù họp với tâm trạng quốc gia quá đỗi, kẻ muốn được bầu, hoan hô và quảng cáo không thể không cho là toàn hảo. Dư luận có ảo tưởng rằng khai chiến với chiến tranh là người ta sẽ ngăn cản được kẻ hiếu chiến gây chiến, dư luận còn giữ kỷ niệm những trận công kích tốn kém và thiệt hại, dư luận không nhận thấy sự cách mạng cơ khí đã bội tăng hỏa lực cho nên không để tâm đến việc tấn công mà chỉ lo phòng thủ. Tóm lại, tất cả đều đưa đến quan niệm thụ động lả nguyên tắc quốc phòng của chúng ta. Đối với tôi thì một chiều hướng như vậy nguy hiểm vô cùng. Tôi cho rằng đứng về phương diện chiến lược chúng ta giao cho địch toàn quyền sáng kiến. Về phương diện chánh trị, tôi cho rằng để lộ ý định án binh tại biên giới là thúc đẩy quân Đức tiến chiếm những vị trí hẻo lánh lúc bấy giờ : Sarre, các xứ miền Rhénanie, Áo, Tiệp, các xứ miền Ballique, Ba Lan, v.v... ; nước Nga sẽ không liên minh với chúng ta, nước Ý sẽ tăng gia yêu sách của họ mà chúng ta không làm gì để ngăn chặn họ. Sau hết, về phương diện tinh thần, tôi cho là một điều tệ hại khi để cho nước nhà lầm tưởng rằng đánh trận là càng đánh ít càng hay. Thực ra, tôi đã chú trọng từ lâu đến các vấn đề : triết lý hành động, chính phủ gợi hứng cho quân đội và sử dụng quân đội, sự liên lạc của chính phủ với việc chỉ huy quân đội. về các vấn đề ấy tôi đã trình bày tư tưởng của tôi trong một vài cuốn sách : La discorde chez l' ennemi, Le Fil de l’Epée, một số bài báo. Tôi đã nói chuyện trước công chúng, thí dụ tại trường Sorbonne, về sự điều hành cuộc chiến. Nhưng đến tháng giêng 1933, Hitler lên cầm quyền nước Đức. Từ đấy mọi việc chỉ có thể diễn biến một cách gấp rút. Không ai đề nghị được điều gì để đối phó với tình thế, tôi đành phải kêu gọi dư luận và đưa ra kế hoạch của tôi. Nhưng vì việc này có thể gây ra hậu quả cho nên tôi chờ đợi sẽ có ngày người ta chĩa đèn pha rọi vào tôi. Thật là đau lòng cho tôi khi tôi phải quyết định làm theo ý riêng sau 25 năm phục vụ theo những tiêu chuẩn quân sự của quốc gia. Dưới nhan đề : Vers l' armée metier, tôi công bố kế hoạch và ý kiến của tôi. Tôi đề nghị thành lập ngay một quân đội có khả năng mẫn hoạt, hỏa lực mạnh, cơ giới hóa, trang bị thiết giáp, gồm những quân nhân ưu tú để thêm vào những đơn vị lớn cung cấp bởi đường lối động viên. Năm 1933, tôi dùng một bài báo đăng trong tờ Rcvuc politique et parlemcntaire làm nhập đề. Đến mùa xuân 1934, tôi ấn hành một cuốn sách trình bày lý do cần phải cấu tạo một đạo quân ưu tú và quan niệm của tôi về đạo quân ấy. Tại sao ? Trước hết tôi bàn đến sự phòng vệ nước Pháp, tôi chứng minh rằng quân Đức xâm lăng lãnh thổ của ta bằng phía Bắc và Đông Bắc, bản chất của dân tộc Đức có những tham vọng lớn, như vậy họ sẽ tiến về hướng Tây và sẽ tràn qua Bỉ để vào Ba Lê, bản tính của dân tộc Pháp là dễ bị lúng túng lúc ban đầu, bởi thế cho nên chúng ta phải luôn luôn đặt một phần lực lượng của chúng ta trong tình trạng báo động, sẵn sàng tỏa hết tiềm năng chiến đấu bất cứ lúc nào. «Chúng ta không thể chịu đựng được cuộc xung kích thứ nhất nếu chỉ có những bộ đội không chắc chắn để phòng thủ vội vàng. Số quân trừ bị và tân binh của chúng ta là yếu tố chính của lực lượng kháng địch nhưng chỉ động viên được một cách chậm chạp mà việc điều động nặng nề, đã đến lúc đào tạo thêm một công cụ có thể sử dụng được ngay, nghĩa là có mặt thường xuyên, nhất trí và được huấn luyện quân sự thuần thục». Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười Hai, 2018, 10:34:17 am Sau đấy tôi đề cập đến vấn đề kỹ thuật. Từ ngày cơ khí ngự trên chiến trường cũng như trên các lãnh vực khác, phẩm chất của những người tổ chức guồng máy chiến tranh trở thành yếu tố chỉnh yếu của hiệu năng chiến cụ. Điều này rất đúng, nhất là đối với những chiến cụ mới : chiến xa, phi CO’, chiến hạm mà máy móc đã cho phép chế tạo những loại ngày càng thêm hoàn hảo theo đà tiến rất nhanh, điều đó lại đòi hỏi việc huấn luyện người sử dụng võ khí ! Tôi đã viết : «Kể từ nay, thực tại đã cho thấy rằng trong các ngành thủy lục không quân, một số người ưu tú biết sử dụng hiệu năng tối đa của một số chiến cụ cực kỳ mạnh mẽ và phức tạp sẽ vượt xa đám người bình thường khả năng không rõ rệt lắm». Tôi trích dẫn lời Valéry : «Người ta sẽ thấy khai triển những nhóm người chọn lọc, hoạt động từng toán, có thể trong chốc lát gây ra những biến cố khủng khiếp tại một nơi chưa biết trước và chỉ trong một giờ đồng hồ». Đề cập đến vấn đề chính trị có thể ràng buộc chiến thuật vào những điều kiện nào đó, tôi nhận thấy chiến lược không thể giới hạn trong phạm vi phòng vệ lãnh thổ vì việc phòng vệ phải nới rộng hoạt động ra ngoài biên cương. « Dù muốn dù không chúng ta cũng ở trong một lớp trật tự mà mọi yếu tố liên đới với nhau... Thí dụ việc gì xảy đến cho Trung Âu và Đông Âu, Bỉ, hạt Sarre, sẽ dụng chạm đến cốt tủy chúng ta... Chúng ta phải trả giả bằng biết bao nhiêu máu và nước mắt, lỗi lầm của thời kỳ Đệ Nhị Đế Chính đã để cho Sadowa tự do hoạt động mà không đưa quân sang miền Rhin ? ... Bởi vậy cho nên chúng ta phải sẵn sàng để tiến quân ra ngoài nước bất cứ lúc nào và bất cứ dịp nào. Ngoài thực tế, nếu muốn thực hiện bất cứ cái gì, chúng ta sẽ trở tay sao kịp khi còn phải gọi nhập ngũ những lực lượng trừ bị?... » Ngoài ra, trong cuộc đua tranh với Đức gia tăng sức mạnh quân đội của chúng ta, chúng ta không thể không bị Đức vượt xa về quân số. Trái lại, « chúng ta có thiên năng, sáng kiến, thích ứng và tự ái, sự hơn trội về phẩm chỉ tùy thuộc ý muốn của chúng ta. » Tôi kết luận như sau :«Một lực lượng tấn công phòng ngự và diệt trừ, đó là công cụ chúng ta phải có ». Cách nào ? máy móc cung cấp cho chúng ta yếu tố trả lời. Đó là cái máy giúp chúng ta đem cái gì chúng ta muốn đến nơi chúng ta cần, với bất cứ tốc độ nào, đến bất cứ nơi nào ;... Đó là cái máy ; nếu có bọc sắt thì máy có sức mạnh hỏa lực và công phá cao làm cho nhịp độ giao tranh phù hợp với nhịp độ tiến hóa đủ loại ». Căn cứ và đó, tôi ấn định mục tiêu phải đạt được : « 6 sư đoàn phòng tuyến và một sư đoàn khinh binh, hoàn toàn cơ giới hóa, phần nào thiết giáp, đó là thành phần của một đạo quân có thể tạo ra biến cố. » Thành phần của đạo quân đó đã được minh định rõ ràng. Mỗi sư đoàn phòng tuyến phải gồm : một lữ đoàn thiết giáp gồm 2 chi đoàn, một có chiến xa nặng, một có chiến xa trung, và một đại đội có chiến xa nhẹ; một lữ đoàn bộ binh gồm 2 chi đoàn và một đại đội khinh binh di chuyển bằng xe chạy trên đất nào cũng được ; một lữ đoàn pháo binh trang bị đại bác đủ tầm, gồm 2 chi đoàn, một dùng đại pháo ngắn, một dùng đại pháo dài, thêm một đội phòng không bổ túc. Để phụ lực với ba lữ đoàn ấy, sư đoàn còn cần có : 1 chi đoàn thám báo, một đại đội công binh; một đại đội truyền tin; một đại đội ngụy trang ; các dịch vụ. Sư đoàn nhẹ dùng để thăm dò và bảo vệ an ninh nơi xa, sẽ trang bị bằng chiến cụ có tốc lực nhanh hơn. Ngoài ra, đạo quân cũng cần được sử dụng những lực lượng trừ bị tổng quát ; chiến xa và đại bác hạng lớn, công binh, truyền tin, ngụy trang. Sau hết, còn phải có một thành phần nữa là một lực lượng Không Quân Trinh Sát, Khu Trục và Xung Kích : một Phi Đội cho mỗi Sư Đoàn, một Phi Đoàn cho toàn thể đạo quân, lực lượng Không Quân ấy không làm giảm bớt hoạt động toàn bộ, cắt đặt sự phối hợp binh lực CO’ giới trên không với binh lực CO’ giới dưới đất, Nhưng, muốn cho đạo quân đột kích này có thể khai thác tối đa hiệu năng của những chiến cụ phức tạp và đắt tiền, muốn cho họ có thể hoạt động tức thời ở bất cứ chiến trường nào không cần tiếp viện hay tập dượt, thì phải dùng những người được huấn luyện thành nghề. Quân số tổng quát : 100.000. Như vậy, chỉ gồm những người tình nguyện, Sau 6 năm phục vụ tại một đạo quân thượng thặng họ sẽ có đủ thời giờ để huấn luyện kỹ thuật, tìm được sự khích lệ và tinh thần đồng đội. Sau đó họ sẽ cung cấp người chỉ huy cho lực lưọng hiện dịch và trừ bị. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2018, 10:28:31 pm Sau đó, tôi mô tả cách sử dụng đạo thiết binh. Chiến thuật ấy để bẻ gãy một sự kháng cự kiên cố và quy củ. Chỉ cần một đêm là có thể bất thần dàn một thế trận với khả năng cơ giới toàn diện, khả năng chuyển quân đi khắp các nơi bất chấp địa thế, khả năng sử dụng ngụy trang xung kích và phòng thủ. Một trận đánh tung ra 3.000 chiến xa, xếp đặt thành nhiều đợt trên một mặt trận trung bình là 50 cây số, yểm trợ sát nách bằng pháo binh di tản ra nhiều nơi, sau đó tụ tập lại ở những mục tiêu lần hồi chiếm được bằng bộ binh có phương tiện hỏa lực và tổ chức riêng ở mặt đất, tất cả đều tiến quân cho ăn khớp nhau thành hai hay ba quân khu có không quân của Sư Đoàn và Quân Đoàn dẫn dường và yểm trợ. Tất cả hệ thống đều tiến trung bình 50 cây số trong một ngày giao tranh. Sau đó, và nếu địch cố thủ kháng cự liên hồi thì toàn thể hệ thống sẽ tập hợp lại, hoặc để mở rộng chỗ lủng phòng tuyến địch theo chiều ngang, hoặc để lấy lại sức tiến binh, hoặc để giữ vững vị trí đã chiếm được. Nhưng khi đã chọc thủng bức tường thì người ta có thể bất thần nhận thấy những viễn tượng rộng lớn hơn. Bấy giờ đạo quân CO’ giới sẽ mỏ rộng tầm khai thác theo hình nan quạt. Về vấn đề này, tôi có viết : «Thường thường, khi đã thành công người ta vội vàng hái lấy quả và thúc quân vào những khu vực có chiến lọi phẩm. Bây giờ người ta sẽ nhận thấy sự khai thác trở thành thực tại khi nó không còn là mơ tưởng... Bấy giờ sẽ mở ra con đường chiến thắng lớn, những chiến thắng có hiệu quả sâu xa và lan rộng rất nhanh, làm cho địch bị lay chuyển toàn diện, cũng như một cái cột đổ có khi làm sụp đổ cả một ngôi nhà thờ lớn... Người ta sẽ thấy những toán quân vũ bão truy kích địch rất xa, đánh vào những nơi hiểm yếu, đảo lộn thế trận của họ... Như vậy chúng ta sẽ phục hồi quan niệm rằng kết quả chiến thuật có thể lan rộng đến phạm vi chiến lược ngày xưa quan niệm ấy là mục tiêu tối hậu cũng như nét cao thượng của nghệ thuật dụng binh...» Nhưng dân chúng và chỉnh phủ kình địch nhau, nếu tình trạng nguy khốn lên cao độ và nếu bộ máy phòng vệ bị tiêu hủy thì cả dân chúng lẫn chính phủ đều có thể sụp đổ. Sự sụp đổ ấy càng dễ dàng và càng nhanh chóng hơn «nếu khả năng hủy diệt của các loại chiến cơ địch đè nặng thêm sự đe dọa xuống một khối dân tộc dễ bị kinh ngạc và tan vơ». Tôi nhắc lại sự kiện sau đây : những vụ oanh tạc của không quân sửa soạn và nối dài các cuộc hành quân trên bộ của bộ đội cơ giới, ngược lại, bộ đội cơ giới tràn như nước lũ vào các vùng bị tàn phá sẽ có tầm ích dụng chiến thuật cho hoạt động tàn phá của các phi đội. Một sự tiến hóa sâu rộng trong nghệ thuật dụng binh như vậy đòi hỏi phải có sự tiến hóa trong việc chỉ huy. Tôi đã làm nổi bật vai trò của máy vô tuyến truyền thanh, từ đây, có thể dùng máy ấy để liên lạc hai yếu tố của đạo quân ngày mai, sau cùng tôi kết thúc cuốn sách bằng một chương nói đến phương pháp chỉ huy sử dụng những công cụ mới. Đối với cấp chỉ huy thì bây giờ không còn là lúc nấp dưới hầm sâu đưa ra những mệnh lệnh không cần cho biết người ra lệnh để điều khiến từ xa một chất liệu rất khó vận dụng là chất liệu người. Trái lại, sự có mặt người chỉ huy, một cải nhìn cảm thông, một cử chỉ làm gương mẫu, trở lại là những yếu tố khích lệ trong một thảm kịch linh động như trận chiến của lực lượng CO’giới đầy bất trắc không thể tính trước, đầy CO’ hội chóp nhoáng. Cá nhân người chỉ huy quan trọng hơn tất cả những kinh nghiệm cô đọng lại. «Nếu sự tiến triển trong binh nghiệp thuận lợi cho việc nâng cao uy tín của những người sống sót sau những giờ thảm khốc, từng loại bom đạn quét sạch ước lệ và thói quen, thì người đó sẽ trở thành những vai trò cần thiết, và như vậy có phải là hay hơn không ? » Để chấm dứt, tôi lên tiếng kêu gọi chính phủ. Cũng như những đoàn thể khác, quân đội không thể tự mình cải tiến được. Đạo quân chuyên nghiệp nói trên đây phải đem lại những thay đổi sâu xa trong định chế quân sự, đồng thời, trong kỹ thuật chiến tranh và chính sách chiến tranh, như vậy chính phủ có trách nhiệm đào tạo ra nó. Hẳn là lần này cũng vậy, lại phải cần đến một Louvois hay một Carnot. Mặt khác, một sự cải cách như vậy chỉ có thể là một phần của một toàn bộ, một yếu tố trong nỗ lực cải tiến quốc gia. «Nhưng, nếu sự tái tạo quốc gia phải bắt đầu bằng quân đội, thì như vậy cũng phù hợp với trật tự thiên nhiên của sự vật ». Trong sự nghiệp trẻ trung hóa nước Pháp rất khó khăn, quân đội sẽ là căn cứ để nương tựa và chất men để khích lệ. Vì lưỡi kiếm là cột trụ của thế giới và sự hùng mạnh không thể phân chia». Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười Hai, 2018, 09:01:39 am Để thiết lập kế hoạch toàn bộ này, tất nhiên tôi sử dụng những trào lưu tư tưởng trên thế giới khơi động lên bởi sự xuất hiện của nền cơ khí áp dụng vào chiến tranh. Tướng Eisenhower, vị cao đồ của chiến xa và người thứ nhất đi thanh sát chiến xa vào năm 1917, đã tưởng tượng ra một đoàn chiến xa đi tiền phong cách xa hẳn những đoàn khác đi theo bộ binh. Bởi vậy cho nên đến cuối năm 1918 các cơ xưởng đã chế tạo những chiến xa lớn nặng 6 tấn. Nhưng cuộc đình chiến đã đình chỉ việc chế tạo và thâu hẹp thuyết chiến xa trong công thức «hoạt động toàn bộ» bổ túc cho hoạt động «trợ lực». Người Anh đã tỏ ra biết đi trước thời đại khi họ tung đoàn Royal Tank Corps của họ vào trận Cambrai vào năm 1917, hỏa lực ồ ạt và sâu xa ; họ vẫn tiếp tục nuôi dưỡng quan niệm một đội thiết giáp tự lực hoạt động, tướng Fuller và ông Lidell Hart là hai người cổ võ cho quan niệm ấy. Tại Pháp, năm 1933, bộ chỉ huy thâu góp những yếu tố rời rạc lại trại Suippes, thử thí nghiệm một sư đoàn nhẹ để giữ an ninh và dùng vào việc nghiên cứu phát minh. Nhiều người khác còn có cái nhìn sâu rộng hơn, Tướng Von Seeckt đã viết một cuốn sách nhan đề là: Tư tưởng của một quân nhân, xuất bản năm 1929 ; ông nói đến khả năng của một đạo binh ưu tú vượt hẳn khối lực lượng quân đội không nhất trí, hẳn là ông nghĩ đến lực lượng Pháp — ông mặc nhiên nói đến đạo quân Đức 100.000 người có thể sử dụng được dài hạn. Tướng Ý Donhet, ước lượng hậu quả của những trận không tập đến các trung tâm kỹ nghệ và đời sống quốc gia, ông cho rằng không quân có thể độc lực đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến. Sau hết, Paul-Boncour vào năm 1932 bênh vực quan niệm của ông về một «kế hoạch tối đa», ông đề nghị trao cho Hội Quốc Liên một lực lượng nhà nghề xung dụng tất cả chiến xa và phi cơ của Âu Châu để giữ an ninh tập thể. Kế hoạch của tôi nhằm thu góp những cách nhìn rời rạc nhưng cùng hướng về một mục tiêu để cấu tạo một toàn bộ phục vụ nước Pháp. Trước tiên cuốn sách của tôi cũng được người ta chú ý nhưng không gây được xúc động. Khi nào cuốn sách Vers ư armée de métier của tôi chỉ xuất hiện như các sách sưu tầm các ý kiến để cho người ta tùy ý sử dụng thì người ta còn muốn cho là một lý thuyết độc đáo. Nhưng không ai nghĩ rằng việc tổ chức quân đội của chúng ta có thể vì thế mà cải đổi. Nếu tôi có cảm tưởng rằng không có cái gì bách thúc chúng ta phải vội vàng, thì tôi có thể bình tâm chờ đợi các chuyên gia chấp nhận thuyết của tôi, hy vọng rằng tình thế biến chuyển, lý lẽ của tôi sẽ trở nên thích đáng. Nhưng còn Hitler, ông ta không chịu chờ đợi cho. Từ tháng mười 1933, ông ta rút chân ra khỏi Hội Quốc Liên và tự động cho mình quyền tự do hành động về phương diện võ trang quân đội. Trong những năm 1934 và 1935 Chính phủ Đức quốc đã có những cố gắng vượt bực để chế tạo vũ khí và tuyên mộ binh sĩ. Chế độ quốc xã Đức công nhiên bày tỏ ý muốn xóa bỏ hiệp định Versailles và đoạt lấy tự do đời sống, Một chính sách như vậy cần phải có một bộ máy binh bị có khả năng tấn công. Hẳn là Hitler chuẩn bị sự động viên đại quy mô. Lên cầm quyền được ít lâu, ông ta lập lại chế độ lao công, rồi sau đến chế độ trưng binh. Ngoài ra ông ta còn cần một công cụ can thiệp để cắt đứt những đầu mối gây trở ngại cho ông ở Mayence, Vienne, Prague, Varsovie, để mũi lao Nhật-nhĩ-man bén nhọn có thể đâm một phát thấu suốt tim nước Pháp. Vả chăng, những người am hiếu tình thế không lạ gì Đức Quốc Trưởng muốn in hình cá tính của mình lên quân đội Đức tân ký ; ông ta nghe theo các sĩ quan trước đây đã quy tụ xung quanh tướng Von Seeckt như Keitel, Runđstedt, Guderian, những ông này bênh vực quan niệm sử dụng máy móc, tốc lực, phẩm chất, như vậy là hướng về lực lượng quân sự cơ giới; sau hết Hitler chấp thuận lý thuyết của Goering, ông ta muốn cho không quân có thể phối hợp hoạt động trực tiếp với bộ chiến. Chẳng bao lâu tôi biết rằng chính ông ta cũng bảo người đọc cho nghe cuốn sách của tôi vì các cố vấn của ông ta đã cho là nên đọc. Vào tháng một 1931 người ta biết rằng chính phủ Đức đang thành lập ba sư đoàn Nhật-nhĩ-man Banzerdivisions đầu tiên. Vào lúc ấy Đại Tá Nehring, bộ chỉ huy quân đội Đức đã in một cuốn sách nói rằng các sư đoàn chủ lực của họ có những thành phần in hệt nhũng sư đoàn do tôi đề nghị cho các sư đoàn thiết giáp ngày mai của chúng ta. Tháng ba 1935, Goering báo tin chính phủ Đức đang thành lập một nền không quân hùng mạnh bao gồm nhiều khu trục cơ, oanh tạc cơ và nhiều đoàn phi cơ xung kích mạnh mễ. Tuy rằng những biện pháp ấy vi phạm trắng trọn các hiệp ước, nhưng thế giới tự do chỉ phản ứng bằng lời kháng nghị trên phương diện tinh thần của Hội Quốc Liên. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười Hai, 2018, 11:54:35 am Tôi không chịu đựng nổi thái độ đứng nhìn địch ngày mai có những phương tiện chiến thắng trong khi ta không có gì cả. Nhưng giữa lúc quốc dân ngụ mị trong sự uể oải, không một ai ở địa vị có quyền nói, lên tiếng kêu gọi người ta phải làm một cái gì. Tình thế ấy không cho phép tôi dè dặt mặc dầu tiếng nói của tôi không quan trọng và địa vị của tôi không đáng kể. Trách nhiệm quốc phòng là trách nhiệm của công quyền. Tôi quyết định đưa vấn đề ra tranh luận. Trước tiên, tôi liên lạc với André Pironneau, chủ bút báo Echo de Paris, sau chủ nhiệm bảo ông cố gắng phổ biến dự án đạo quân cơ giới và dùng uy tín của một cơ quan ngôn luận lớn để bắt buộc chính quyền phải để ý tới vấn đề. Ông phối hợp chiến dịch háo chí với các vấn đề thời sự và viết 40 bài xã luận làm cho vấn đề quân cơ giới trở nên quen thuộc với công chúng. Mỗi khi thời cục biến chuyển khiến cho công chúng chú trọng đến vấn đề quốc phòng, người bạn cộng tác với tôi lại nhân cơ hội mà chứng minh sự cần thiết thành lập đạo quân chuyên biệt. Người ta biết rằng nước Đức lập trung nỗ lực võ trang chính yếu vào các chiến cụ tấn công và khai thác, Pironneaiklên tiếng bạo động nhưng người ta vẫn lạnh lùng cố chấp bóp nghẹt tiếng nói của ông. Có đến 20 lần, ông chứng minh rằng đoàn quân thiết giáp Đức có không quân yểm trợ có thể làm sụp đổ hệ thống phòng thủ của ta, gieo rắc kinh hoảng cho dân chúng và dân chúng không vượt qua được cơn khủng hoảng ấy. Trong khi André Pironneau nhiệt thành như vậy thi một vài ký giả và phê bình gia khác ít ra cũng đặt vấn đề. Đó là : Rémy Roure và tướng Baratier trong báo Le TempsJean-Marie Bourget, các tướng Cugnac và Duyal trong Le Dédals, Emile Bu ré và Charles Giron trong tờ L’ ordre. Andre Lecomte trong tờL' Aube đại tá Emile Mayer, Lucien Nachin, Jean Auburtin trong một vài tờ tập san khác v.v... Tuy nhiên, những việc đã rồi kết lại thành một khối đông đặc khó lòng mà lay chuyển bằng một vài bài báo. Phải làm sao cho giới chánh trị để tâm tới vấn đề. Ông Paul Reynaud là người có tư cách hơn cả để làm công việc ấy. Ông có thừa thông minh để hiểu hết lý do có tài trí để làm tăng giá trị của để án, có can đảm bênh vực quan điểm của ông, vả chăng, tuy ông đã là người tiếng tăm, nhưng xem ra ông sẽ có tương lai rực rỡ. Tôi đến thăm ông và thuyết phục được ông, từ đây tôi sẽ cộng tác với ông. Ngày 15 tháng ba 1935, ông ra trước quốc hội trình bày một cách linh hoạt tại sao và bằng cách nào tổ chức binh bị của chúng ta cần được bổ túc bằng một đạo quân cơ giới ưu tú. Sau đấy ít lâu, chính phủ yêu cầu chấp thuận thời hạn 2 năm quân dịch, ông Paul Reynaud bỏ phiếu thuận và đệ trình luôn một dự án luật « thành lập ngay một đạo quân chuyên nghiệp 10 sư đoàn trận tuyến, 1 sư đoàn nhẹ, quân số trừ bị tổng quát và dịch vụ, quân nhân sẽ tuyển dụng theo khế ước ; đạo quân này phải hoàn thành chậm nhất ngày 15 tháng tư 1940 ». Trong ba năm, Paul Reynaud xác định lập trường của mình bằng nhiều bài diễn văn làm xúc động sâu xa nghị trường, bằng một cuốn sách nhan đề là : LeProblème Prancais, bằng nhiều bài báo và phỏng vấn có giọng cương quyết, sau hết bằng nhiều cuộc hội đàm với các chánh khách và nhân vật quân đội quan trọng. Bởi thế cho nên ông trở thành một nhà chánh trị cả quyết và có tinh thần cải tiến, một người có đủ uy tín để cầm quyền khi quốc gia trải qua những bước khó khăn trọng đại. Tôi cho rằng để cho nhiều loại đàn chơi khúc ca ấy cũng là một cái hay, tôi bèn vận động nhiều người khác tham dự vào việc này. Ông Le Cour Grandmaison khoan khoái vì những khía cạnh của đạo quân nhà nghề phù hợp với nền nếp cồ truyền của chúng ta hèn đứng ra làm một cao đồ cổ võ cho để án của tôi. Ba dân biểu tả phái : Philippe Serre, Marcel Déat, Leo Lagrange, những ngươi có tài làm nổi bật cạnh khía cách mạng của để án cải tiến quân đội, đều nhận lời cộng tác với tôi. Người thứ nhất trổ tài ăn nói, ông được xếp vào hạng hùng biện đại tài, được ít lâu ông vào tham gia chánh phủ. Người thứ hai là người có thiên năng, tôi tin hơn cả, nhưng đến năm 1936 ông thất cử, ông đi theo con đường khác trái ngược với tôi. Người thứ ba không thể xác định tin tưởng của mình được vì ông phải theo chính cương đảng ông. Nhưng chẳng bao lâu những nhân vật quan trọng như ông Paul-Boncour tại Hạ Viện và Chủ Tịch Thượng Viện Mitterand đều cho tôi biết rằng hai ông cũng thuận theo khuynh hưởng cải tổ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Mười Hai, 2018, 08:07:53 am Tuy nhiên, các cơ quan chính thức và những người tán trợ bản chính thức vẫn bám lấy hệ thống hiện hành chứ không thừa nhận tính cách khẩn thiết hiển nhiên, không chấp nhận sự đổi mới bằng một công thức thích hợp và những thủ tục thực hiện. Khốn thay, họ bênh vực lập trường của họ một cách quyết liệt quá, thâm chí họ tự đóng kín cửa thối lui. Để đánh đồ quan niệm quân đội cơ giới họ có gắng làm sai lệch cách nhìn của tôi. Để phản đối sự tiến hỏa kỹ thuật, họ cố gắng bài bác sự tiến hóa ấy. Để đương đầu với các biến chuyển họ làm như không biết gì cả. Nhân dịp này tôi phối kiếm lại sự nhận định của tôi quả không sai, sự đối chiếu các ý kiến sẽ làm bận tâm những người đã ngồi yên vị và đảo lộn những lề lối quen thuộc, bởi thế cho nên cuộc đối chiếu ấy hiện ra sắc thái một cuộc tranh luận thần học. Tướng Debeney là một vị chỉ huy quân đoàn danh tiếng lẫy lừng trong trận Đại Chiến, năm 1927 với tư cách Tổng Tham Mưu Trưởng, ông đã khởi thảo bộ luật tổ chức quân đội, ông chính thức lên án kế hoạch của tôi. Trong báo Mondes, ông dùng lời lẽ đanh thép minh thị rằng cuộc tranh chấp binh bị nào ở Âu Châu rút cục cũng kết thúc ở biên giới Đông - Bắc nước Pháp. Vấn đề là giữ vững phòng tuyến ấy. Như vậy không cần phải thêm bớt gì vào luật hiện hành cùng thể thức áp dụng thực tế, ông chỉ nhấn mạnh đến việc củng cố hệ thống thoát thai từ quy luật ấy. Rồi đến lượt tướng Weygard can thiệp, cũng trên mặt báo Revue desDeux Mondes. Ông theo tiên nghiệm cho rằng quan niệm của tôi tách rời quân đội ra làm hai khúc, ông phản đối : «Hai quân đội ! Không thể chấp nhận với bất cứ giá nào !» Còn như vai trò của đạo quân chuyên nghiệp thì ông không chối cãi sự ích lợi nhưng ông khẳng định rằng có thể trao cho những đơn vị đã thành lập : «Chúng ta đã có một số quân trù bị cơ giới hóa, di chuyển mau chóng bằng chiến xa và đã thành hình hẳn hoi rồi. Không cần phải tạo tác gì cả, tất cả đều có sẵn». Ngày mùng 4 tháng bảy 1939, tướng Weygand nói trước công chúng tại Lille, ông còn tuyên bố rằng theo ông thì chúng ta không thiếu sót gì cả. Thống Chế Pétain cho rằng mình cũng phải lên tiếng. Ông cho biết ý kiến trong bài tựa một cuốn sách của Chauyineau : Une Invasion esl encore possible ? Ông dạy rằng xe tăng và phi cơ không làm thay đổi các dữ kiện chiến tranh, yếu tố chính yếu cho sự an ninh nước Pháp là một mặt trận liên tục chống đỡ bởi những đồn ải kièn cố. Tờ Figaro đăng tải dưới tên ký Jean Rivière, một loạt bài có vẻ thần hứng và đáng để trấn an mọi người : Xe tăng không phải là vô địch. Sự yếu kém của xe tăng, khi chánh khách lỗi lầm, v.v... Cũng trên tớ Mercure de France, một vị tưởng Ba Sao bác bỏ nguyên tắc dùng chiến xa di chuyển các bộ đội cho thật nhanh chỏng. Ông tuyên bố : «Người Đức có bản chất hiếu chiến, tất nhiên họ phải có những sư đoàn Nhật-nhĩ-man. Nhưng nước Pháp hiếu hòa và chỉ có mục đích phòng thủ, nước Pháp chỉ có thể chống chiến xa». Nhiều nhà phê bình khác dùng đến luận điệu chế giễu. Một tờ báo văn nghệ lớn viết : «Muốn xử sự cho có lễ độ thật khó mà xét định những ý kiến gần với trạng thải mê sảng. Ta cứ nói một cách giản dị rằng ông de Gaulle đã có người đi trước ông cách đây nhiều năm, đó là cha Ubu, một chiến thuật gia lớn, có những ý kiến tân kỳ : ông ta nói : « Chúng ta ở Ba Lan về, chúng ta sẽ căn cứ vào khoa vật lý học của chúng ta để tưởng tượng ra một cái máy phát gió có thể bốc cả một quân đoàn ra mặt trận ». Phe bảo thủ tỏ ra ác cảm sâu xa, nhưng tính cách bảo thủ của phe hiếu động cũng không có gì là thiện cảm. Trong báo Le Populaire, số một-chạp 1934, Leon Blum không hề nương tay bày tỏ sự ác cảm và sự lo ngại đối với kế hoạch của tôi. Trong nhiều bài bảo : Lính nghề và quân đội nghề. Người ta tiến tới việc thành lập quân đội nhà nghề chăng ? Đả đảo quân đội nghề ! ông cũng chống lại đạo quân chuyên nghiệp. Khi viết những bài báo ấy, ông không nhắc đến vấn đề quốc phòng mà ông nhân danh một ý thức hệ ông gọi là dân chủ và cộng hòa, theo quan niệm cổ truyền về dân chủ và cộng hòa thì cái gì có tính cách quân sự cũng là một mối đe dọa cho chế độ. Leon Blum nặng lời nguyền rủa đạo quân nhà nghề, theo lời ông thì thành phần của nó, tinh thần của nó và vũ khí trong tay nó tự nhiên sẽ làm cho nền cộng hòa lâm nguy. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Mười Hai, 2018, 11:30:53 am Quan điểm của chính quyền được chống đỡ từ tả sang hữu như vậy cho nên chính phủ từ chối mọi sự thay đổi. Dự án của Paul Reynaud bị ủy ban quân sự Hạ Viện bác bỏ. Bản phúc trình do ông Senac khởi thảo với sự cộng tác trực tiếp của bộ tham mưu quân đội kết luận rằng sự cải tổ đề nghị chỉ là « vô ích, không đáng mong đợi, không thể đứng vững được nếu lấy lý lẽ Lịch sử mà phán đoán». Trước diễn đàn Quốc Hội, tướng Maurin, tổng trưởng Chiến Tranh, trả lời các diễn giả bênh vực đạo quân chuyên nghiệp : « Khi chúng ta đã tốn bao hơi sức để xây dựng một chiến lũy kiên cố, liệu chúng ta có điên rồ đến nỗi bước ra ngoài trường thành để mạo hiểm một cuộc phiêu lưu nào chăng ? » ông còn nói thêm : « Những điều tôi nói đây là ý kiến của chính phủ, ít ra, chính phủ, qua lời phát biểu của cá nhân tôi, cũng biết tường tận kế hoạch chiến tranh ». Lời lẽ ấy quyết định sổ mệnh của đạo quân chuyên nghiệp và đồng thời báo trưởc cho Âu Châu biết rằng dầu sao thì nước Pháp cũng không làm gì khác việc trang trí phòng tuyến Maginot. Đúng như tôi tiên đoán, lời chê bai của bộ Chiến Tranh đã ảnh hưởng đến cá nhân tôi. Tuy nhiên, đây chỉ là những mảnh tạc đạn văng ra từng lúc chứ chưa phải sự trừng phạt chính thúc. Tại điện Elysée, sau một nhiên họp Thượng Hội Đồng Quốc Phòng mà tôi giữ nhiệm vụ thư ký, tưởng Maurin gay gắt bảo tôi : « vĩnh biệt de Gaulle ! Tôi còn ngồi đây thì ở đấy không có chỗ cho ông ! » trong văn phòng ông, khi có người nói đến tôi ông ta la lớn : « ông ta đã dùng đến một cây viết: Pironneau, và ông ta còn dùng đến một cái máy chạy đĩa hát: Paul Réynauđ. Tôi sẽ tống khứ ông ta đi Corse ! » Tuy làm cho sấm động như vậy nhưng ông ta giữ thái độ cao thượng không phỏng lưỡi tầm sét. Sau đó ít lâu, ông Fabry thay thế ông ta và tướng Gamelỉn thay thế tướng Wevgand làm Tổng tham mưu trưởng kiêm nhiệm Tham mưu trưởng quân đội, họ cũng theo những người tiềm nhiệm không chấp thuận kế hoạch của tôi và đối với tôi họ có thải độ ngượng ngập và bực tức. Thực ra, những người trách nhiệm tuy vẫn giữ nguyên tình trạng nhưng trong thâm tâm họ, họ cũng chột dạ vì những lý lẽ của tôi. Vả chăng, họ cũng biết quả rõ rồi không thể tin tưởng lý lẽ của mình đưa ra để bài bác. Khi họ tuyên bố rằng tôi đã đưa ra những ý kiến quả đáng về khả năng của sức mạnh cơ khí họ cũng không khỏi lo ngại vì Đức Quốc tăng cường sức mạnh ấy. Khi họ lý luận rằng sẽ thay thế bảy sư đoàn xung kích bằng những đơn vị lớn loại phòng thủ, khi họ mệnh danh những đơn vị của họ là đơn vị cơ giới vì dùng cam nhông chở lính, họ biết rõ hơn ai hết rằng (tỏ chỉ là một cách lạm dụng danh từ. Khi họ viện lẽ chấp thuận đạo quân chuyên nghiệp tức là chặt quân đội ra làm 2 khúc, họ giả bộ không biết chế độ quân dịch 2 năm từ ngày xuất bản cuốn sách của tôi sẽ cho phép sử dụng một phần lính hiện dịch ; họ giả bộ không biết ta có một hạm đội, một phi dội, một đạo quân thuộc địa, một đạo quân Phi Châu, một nha cảnh sát, một bộ đội lưu động, đó là những bộ đội chuyên môn mà sự hiện hữu không làm cho quân đội mất tích cách nhất trí. Sau hết cái làm cho các lực lượng quốc gia có tỉnh cách thống nhất không phải là tính cách đồng nhất của chiến cụ và nhân sự mà là sự kiện phục vụ tổ quốc theo những quy luật duy nhất dưới một lá quốc kỳ. Bởi vậy cho nên tôi rất buồn rầu mà thấy những người quyền cao chức trọng đã nhân danh một thứ trung thành lộn ngược tỏ ra mình là những phát ngôn nhân trấn an quần chúng chứ không phải những người chỉ đạo đòi hỏi nhiều. Nhưng dưới bề ngoài tin tưởng ấy tôi cảm thấy họ u buồn trước chân trời mở ra dưới mắt họ. Đây là giai đoạn đầu một loại biến cố trong đó một số thượng lưu tri thức lên án những mục tiêu tôi đang theo đuổi, nhưng trong thâm tâm họ họ cũng thất vọng vì chịu bất lực có lẽ qua lời chỉ trích của họ, họ cũng có điều hối hận, thật là hân hạnh cho tôi, một thứ hân hạnh buồn. Nhưng cuộc đời vẫn trôi theo số mệnh của nó. Hitler bây giờ đã biết rõ chúng ta thế nào bèn phóng ra một loạt những hành động bạo lực. Từ 1935, nhân dịp toàn dân biểu quyết hạt Sarre, ông ta tạo ra một bầu không khí đe dọa khiến cho chính phủ Pháp phải nhượng bộ trước khi nhập cuộc, sau đó người Sarrois bị làn sóng Nhật-nhĩ-man lôi cuốn và uy hiếp đều ổ ạt dồn phiếu cho chính phủ Đức. Mussolini nhờ sự trợ giúp của nội các Laval và sự nương tay của nội các Badwin, đã không đếm xỉa gì đến sự trừng phạt của Genève, ông ta xua quân sang thôn tính Ethiopie. Bất thần, ngày mùng 7 tháng ba 1936, quân đội Đức vượt qua sông Rhin. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2018, 09:30:04 am Hiệp ước Versailles ngăn cấm bộ đội Đức Quốc đặt chân lên lãnh thổ vùng tả ngạn sông Rhỉn và thỏa ước Locarno còn trung lập hóa vùng ấy. Đúng ra, chúng ta có quyền chiếm lại khi nước Đức đã không tôn trọng chữ ký. Nếu có đạo quân chuyên nghiệp, dù chỉ có một phần nhỏ, thì với loại chiến xa tốc lực cao và binh sĩ sẵn sàng tham chiến ngay tức khắc, sức mạnh của hoàn cảnh đã tung ngay lực lượng của ta đến bờ sông Rhỉn. Các đồng minh Ba Lan, Tiệp Khắc, Bỉ đều sẵn sàng ủng hộ chúng ta, còn người Anh đã đi với chúng ta từ trước, hẳn là Hitler đã lùi bước. Quả vậy, lúc ấy Hitler mới khởi sự nỗ lực võ trang và chưa đủ sức đương đầu với một cuộc tranh chấp có tầm mức rộng lớn khắp Âu Châu. Vào lúc ấy, một sự thất bại trên mảnh đất ấy khi đụng độ với người Pháp, ắt là có hậu quả tai hại cho nước ông ta. Chơi trò ấy ông ta có thể mất hết ngay một lúc. Ông ta ăn cả làng. Việc tổ chức của chúng ta, tính chất những phương tiện của chúng ta, tinh thần của việc quốc phòng, tất cả đều đưa chánh quyền đến chỗ bất động và ngăn cản chúng ta tiến bước. Vì chúng ta chỉ sẵn sàng để giữ vững biên giới và tự ngăn cấm chúng ta vượt qua trong bất cứ trường hợp nào. Hitler không sợ chúng ta trả đũa. Đức quốc trưởng biết chắc như vậy. Khắp thế giới đều nhận thấy như vậy. Chính phủ Đức đáng lẽ chờ đợi mình phải rút quân thì lại được thể ngang nhiên chiếm đóng trọn vùng Rhénanie, sát nách nước Pháp và nước Bỉ. Bây giờ ông Flandin, bộ trưởng Ngoại Giao choáng váng vì tin ấy, có thể sang Luân Đôn dọ thăm ý hưởng của Anh quốc : ông Sarrot, Thủ Tướng chính phủ, có thể tuyên bố rằng chính phủ Ba Lê «không chấp nhận được Strasbourg bị đặt dưới tầm súng đại bác của quân Đức » ; nền ngoại giao Pháp có thể đòi hỏi Hội Quốc Liên khiển trách Hitler trên. nguyên tắc ; nhưng tất cả đều là vận động và tuyên bố, không thay đổi vì một việc đã rồi. Theo tôi thì biến cố ấy có thể gây xúc động trong lành cho dư luận. Nhà cầm quyền có thể rút tỉa kinh nghiệm để sửa chữa những lỗi lầm trọng đại. Tại Pháp, tuy rằng người ta còn bận bịu với bầu cử và cuộc khủng hoảng xã hội kế theo sau, nhưng mọi người đồng ý phải tăng cường sự phòng vệ quốc gia. Nếu ta không có nỗ lực hướng về sự cấu tạo công cụ chiến dấu thì ta cũng có thể cứu vãn được cái gì là chính yếu. Nhưng người ta chẳng làm gì cả. Ngân khoản quốc phòng năm 1936 thật dồi dào nhưng chỉ dùng để bổ túc hệ thống hiện hữu chứ không thay đổi gì cả. Tuy nhiên, tôi cũng có một cách hy vọng. Quốc gia lâm vào tình trạng bối rối trầm trọng, sự bối rối ấy phản ảnh trong việc cấu kết đảng phái thành mặt trận bình dân để ứng cử và tranh chấp nghị trường, hầu như tôi nhận thấy có một yếu tố tâm lý làm cho người ta thoát khỏi thái độ thụ động. Không có gì lạ cả nếu nhận thấy đảng Quốc Xã thắng thế ở Bá Linh, chủ nghĩa phát xít ngự trị ở Rome, chủ nghĩa quốc chỉ I Pha Nho thắng thế ở Madrid, nền Cộng Hòa Pháp đã sáng mắt ra mà cùng một lúc muốn cải tổ cơ cấu xã hội và lực lượng binh bị. Đến tháng mười, ông Leon Blum, Thủ Tướng chính phủ, mời tôi đến thăm ông. Cuộc hội kiến diễn ra đúng ngày quốc trưởng Bỉ tuyên bố chấm dứt sự liên minh với Pháp và Anh. Nhà vua viện lẽ rằng nếu bị Đức tấn công thì sự liên minh ấy không bảo vệ được nước Bỉ, Nhà vua tuyên bố : « Với khả năng của lực lượng cơ giới tân kỳ, dẫu sao chúng tôi cũng bị cô lập » Léon Blum nhiệt thành cho tôi biết rằng ông rất chú trọng đến ý kiến của tôi. Tôi trả lời : « Tuy nhiên, ông đã bài bác». Ông trả lời: « Người ta đổi nhỡn quan khi người ta trở thành Thủ Tướng chính phủ ». Trước tiên, chúng tôi nói đến việc gì sẽ xảy đến nếu Hitler đưa quân sang chiếm Vienne, Prague hay Varsovie ; chúng ta phải đề phòng trước trường họp ấy. Tôi nói : «giản dị lắm. Tùy từng trường hợp, chúng ta sẽ gọi nhập ngũ số quân nhân dự bị hay chúng ta động viên số trừ bị. Như vậy chúng ta sẽ đứng ngó qua khe tường chiến lũy mà khoanh tay nhìn địch nô lệ hoá Âu Châu». Leon Blum kêu lên : « Sao ? ông muốn chúng ta gửi một đạo quán viễn chinh sang Áo, Bô Hêm, Ba Lan chăng? » Tôi trả lời : «không ! Nhưng nếu quân Đức tiến theo dọc sông Danube hay đảo Elbe thì sao chúng ta lại không đưa quân đến miền Rhin ? Nếu họ tiến vào Vistule thì tại sao chúng ta không tiến vào Ruhr ? vả chăng chí một việc chúng ta có thể trả đũa như vậy cũng có thể ngăn cản sự xâm lăng. Nhưng hệ thống hiện thời không cho phép chúng ta nhúc nhích. Nếu có một đạo quân thiết giáp thì tự nhiên chúng ta sẽ muốn làm một cái gì. Phải chăng một chính phủ đỡ phải lo âu khi cảm thấy mình đã có chiều hướng hành động từ trước ? » Thủ Tướng sẵn lòng tin như vậy nhưng ông tuyên bố : « Hẳn là tình hình quả ư tồi tệ khi các bạn hữu Đông Âu và Trung Âu bị xâm lăng nhất thời. Nhưng chung cục Hitler chẳng làm được trò trống gì nếu chưa hạ được chúng ta. Làm cách nào để hạ chúng ta : Hẳn là ông công nhận rằng hệ thống của chúng ta tuy không thích hợp để tấn công nhưng tuyệt hảo để phòng thủ. » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Mười Hai, 2018, 10:22:48 am Tôi chứng minh rằng không phải như vậy. Sau khi nhắc lại lời tuyên bố sáng nay của vua Leopold III, tôi nói rằng vì chúng ta không có một đạo quân cơ giới cho nên chúng ta kém người Đức, và vì kém người Đức cho nên chúng ta mất đồng minh Bỉ. Thủ Tướng không chối cãi điều ấy tuy ông nghĩ rằng thái độ nước Bí không phải chỉ có những nguyên nhân chiến lược, ông nói : « Dầu sao thì mặt trận phòng thủ và chiến lũy kiên cố của ta cũng bảo vệ được lãnh thổ », tôi trả lời : « không có cái gì là chắc chắn cả. Từ năm 1918 đã không có phòng tuyến nào bất khả xâm phạm. Từ ngày ấy đến bây giờ chiến xa và phi cơ đã tiến bộ bao nhiêu ! Ngày mai, với sự tập trung hỏa lực của một số binh khí vào một khu vực người ta có thể bẻ gãy bất cứ thành trì phòng thủ nào. Khi đã mở ra một lỗ hổng, quân Đức có thể đưa những đoàn thiết giáp vận tốc cao đi rất xa vào hậu cứ của chúng ta nhờ có phi cơ yểm trợ. Nếu chúng ta cũng có chiến xa và phi cơ tương đương với họ thì có thể sửa chữa được lỗi lầm. Nếu không thì tất cả đều sụp đổ». Thủ Tướng tuyên bố rằng chính phủ với sự chuẩn y của Quốc Hội đã quyết định đài thọ quốc phòng những ngân khoản lớn ngoài ngân khoản thường, một phần quan trọng sẽ dùng vào chiến xa và phi cơ. Tôi lưu ý ông đến sự kiện trong số phi cơ dự đóng hầu hết chỉ dùng để chống đỡ chứ không phải để tấn công. Còn như chiến xa thì có đến 9 phần 10 loại Renault và Hotchkiss kiểu 1935, đối với loại ấy thì mới thật, nhưng chậm chạp, nặng nề, đại bác nhỏ và ngắn, chỉ dùng để yểm trợ bộ binh chứ không thể dùng để thiết lập một toàn bộ đơn vị lớn có tính cách tự trị. Vả chăng, người ta cũng không nghĩ đến những đơn vị đó. Như vậy, Sự tổ chức của chúng ta vẫn còn nguyên vẹn tổ chức cũ. Tôi nói : «Chúng ta sẽ chi tiêu những ngân khoản để đóng những loại binh khí tương đương với ngân khoản dành cho một đạo quân cơ giới mà chung quy chúng ta vẫn không có quân cơ giới». Thủ Tướng trả lời : «Việc sử dụng ngân khoản dành cho bộ Chiến Tranh là việc của ông Dalađier và tướng Gamelin » Tôi nói « Hẳn là thế, nhưng ông cho phép tôi nghĩ rằng việc quốc phòng là việc của chính phủ.» Trong khi hội đàm, chuông diện thoại kêu có đến mười lần làm cho Le on Blum phải đãng trí vì những việc nghị trường và hành chánh vặt vụn. Tôi có ý muốn cáo từ, chuông điện thoại lại gọi, ông ra vẻ uể oải và nói : « Ông thấy đấy, Thủ Tướng chính phủ dễ gì mà theo kế hoạch của ông khi không thể theo dõi một ý kiến trong 6 phút ! » Chẳng bao lâu tôi biết rằng Thủ Tướng có xúc động vì cuộc hội đàm với tôi nhưng không lay động cột trụ của ngôi đền cổ kính, người ta vẫn áp dụng nguyên vẹn kế hoạch đã dự trù trước kia. Như vậy khó mà còn hy vọng quân bình lực lượng mới của Đức cho kịp thời. Vả chăng tôi tin chắc rằng tính tình của Hitler, chủ thuyết của ông ta, tuổi tác của ông ta và phương pháp vận động quần chúng Đức của ông ta, không cho phép ông ta chờ đợi nữa. Bây giờ tình hình biến chuyển mau lẹ quá, cấp chỉ huy của nước Pháp có muốn cũng chậm trễ quả rồi không thể làm gì được nữa. Ngày mùng 1 tháng năm 1937, một sư đoàn Nhật-nhĩ-man toàn bộ diễn hành qua Bá Linh, trên không có hàng trăm phi cơ hộ tống, cảm tưởng của quan khách, nhất là của ông Francois Poncet, đại sứ Pháp, và các tùy viên quân sự của chúng ta thật là mãnh liệt, một lực lượng như vậy thì không gì ngăn cản nổi nếu không có một lực lượng tương đương. Nhưng phúc trình của họ không làm cho chính phủ Ba Lê thay đổi những biện pháp đã áp dụng. Ngày 11 tháng ba 1938, Hitler thực hiện cuộc tiến binh, ông ta tung một sư đoàn cơ giới sang Vienne, chỉ thấy bóng sư đoàn ấy là dân chúng đồng loạt phục tòng, ngay tối hôm ấy ông ta tiến vào thủ đô trong đắc thắng. Tại Pháp, người ta không kể đến sự biểu dương lực lượng phũ phàng ấy, người ta cố gắng trấn an quần chúng bằng cách khôi hài, người ta mô tả một vài chiến xa Đức chết máy trong cuộc tiến quân gượng ép. Người ta cũng không sáng mắt hơn khi rút tỉa bài học của trận nội chiến I Pha Nho, xe tăng Ý và phi cơ tấn kích Đức tuy chỉ có một số ít nhưng cũng đóng vai trò chính trong bất cứ chiến trường nào. Đến tháng chín, Đức Quốc Trưởng, với sự đồng lõa của Luân Đòn và Ba Lê, mần thịt Tiệp Khắc. Ba ngày trước vụ Munich, ông ta nói trước Viện Thể Thao Bá Linh, ông ta đánh dấu chấm vào chữ i giữa tiếng cười và tiếng hoan hô đầy phấn khích. Ông ta nói : «Bây giờ tôi có thể công khai nói thật những điều quốc dân đã biết từ trước. Chúng ta đã thực hiện được một loại vũ trang mà thế giới chưa từng nom thấy ! » Ngày 15 tháng ba 1939 ông ta ép buộc Tổng Thống Hacha phải từ chức và tiến quân vào Prague cùng ngày hôm ấy. Qua các màn liên tiếp của một vở bi kịch, nước Pháp đóng vai trò một nạn nhân đang chờ đợi lượt minh bị tấn công. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:28:24 am Đối với tôi, tôi không ngạc nhiên khi chứng kiến những biến cố ấy, nhưng không khỏi đau đớn. Năm 1937 sau khi đã tham dự cuộc nghiên cứu tại Trung Tâm Đại Học Quân Sự, tôi nhiệm chức chỉ huy Chi Đoàn 507 chiến Xa ở Metz. Với trách vụ của một Đại Tá và sống xa cách Ba Lê, tôi không có sự dễ dàng và không tiếp xúc được với mọi ngươi để bênh vực lập trường của tôi trong cuộc tranh luận lớn. Mặt khác, ông Paul Reynaud đã vào nội các Daladier từ mùa xuân 1938 ngồi ghế bộ trưởng Tư Pháp, rồi Tài Chánh. Từ đây nhiệm vụ bộ trưởng ràng buộc ông với chính phủ, ngoài ra việc quân bình kinh tế và tiền tệ cấp bách làm ông không còn thì giờ nghĩ đến việc khác. Chính quyền khăng khăng duy trì một hệ thống binh bi bất động trong khi bộ máy quân sự lưu động của người Đức tỏa ra khắp Âu Châu, chế độ mù quáng theo đuổi một chính sách phi lý trong khi quân Đức sẵn sàng chồm đến thôn tính chúng ta, những kẻ chầu rìa ngu muội hoan hô sự thoái bộ ở Munich, những sự kiện đó thực ra chỉ là hậu quả của một thái độ quốc gia thoái bộ sâu xa. Đứng trước tình trạng ấy tôi đành thúc thủ không làm gì được. Tuy nhiên, vào năm 1938, tôi biết rằng con giỏng tố đã khỏi sự, tôi cho xuất bản cuốn France et son armée. Tôi chứng minh rằng từ bao thế kỷ nay linh hồn và vận mệnh nước Pháp luôn luôn phản ảnh trong quân đội; đấy là lời cảnh cáo tối hậu của tôi đứng ở một địa vị khiêm tốn gửi cho tổ quốc trước ngày xảy ra đại họa. Đến tháng chín 1939, chính phủ Pháp theo gương nội các Anh nhận lời tham gia chiến cuộc đã khởi sự ở Ba Lan, tôi biết rằng người ta đánh trận với ảo tưởng không cần hao tồn nhiều sức lực mặc dầu thế giới đang sống trong tình trạng chiến tranh. Khi ấy tôi chỉ huy chiến xa của quân đoàn V ở Alsace, tôi không lấy làm lạ mà thấy lực lượng của chúng ta lâm vào tình trạng bất động trong khi Ba Lan thất thủ chỉ nội trong 2 tuần lễ đuối sức tiến quân vũ bão của các Sư Đoàn Nhật Nhĩ Man và các Phi đoàn Đức. Hẳn là vì có sự can thiệp của người Nga cho nên Ba Lan bị đè bẹp một cách mau chóng. Nhưng xét thái độ của Staline bất thần đi với Hitler, người ta hiểu rằng ông ta biết trước người Pháp sẽ án binh bất động, Đức sẽ được rảnh tay, như vậy chẳng thà đồng lòng với Đức để chia miếng mồi còn hơn làm mồi cho Đức. Trong khi địch dùng gần hết lực lượng của họ trong lưu vực sông Vistule thì chúng ta chỉ biểu diễn một vài trò vặt chứ không làm gì để đưa quân qua sông Rhin. Chúng ta cũng không làm gì để gạt nước Ý ra ngoài chiến cuộc bằng cách cho Ý chọn lựa hai điều, một là để quân Pháp chiếm đóng hai là cam kết đứng trung lập. Chúng ta cũng không làm gì để thực hiện ngay sự giao liên với nước Bỉ bằng cách đưa quân qua Liège và Kênh Albert. Hầu như cấp chỉ huy muốn cho rằng thái độ chờ đợi ấy là một chiến lược chiến dĩ bất chiến. Trên đài phát thanh, nhà cầm quyền, trước tiên là Thủ Tướng, trên báo chí, nhiều người tai mắt, cố gắng bênh vực ưu thế của sự bất động ; họ nói : nhờ thế bất động chúng ta giữ được toàn vẹn lãnh thổ mà không có tổn thất, ông Brisson, chủ nhiệm báo Firago hỏi ý kiến tôi nhân cuộc viếng thăm tôi ở Wangenbourg, ông thấy tôi phàn nàn lực lượng của chúng ta thụ động bèn kêu lên ; « Ông không thấy chúng ta đã bắt đầu thắng trận Marne một cách chiến dĩ bất chiến đó sao ? » Đến tháng giêng tôi qua Ba Lê, trong một bữa cơm tối tại nhà Paul Reynauđ đường Risoli, tôi gặp Leon Blum. ông này hỏi tôi : ông tiên đoán thế nào ? Tôi trả lời : « Vấn đề là cần phải biết đến mùa xuân quân Đức sẽ đánh phía Tây để chiếm Ba Lê hay phía Đông để tiến vào Mạc Tư Khoa ». Léon Bium kinh ngạc : «ông tưởng thế à ? Quân Đức mà dám đánh phía Đông ? Nhưng tại sao họ lại muốn bỏ xác trong nội địa nước Nga sâu thẳm ? Đánh phía Tây à ? Nhưng họ làm gì được chiến lũy Maginot ? » Thủ Tướng Lebrun đến thăm Quân Đoàn V, tôi đưa ông quan sát chiến xa. Ông ngọt ngào bảo tôi : «Tôi biết ý kiến của ông. Nhưng nếu địch đem áp dụng thì hình như đã muộn quá rồi ». Thực ra chỉ có chúng ta muộn màng quá mà thôi. Tuy nhiên, ngày 26 tháng Giêng, tôi cố gắng một lần chót. Tôi gửi cho 80 nhân vật chính trong chính phủ trong quân đội và chính giới một bức thư thuyết phục mọi người rằng địch sẽ tấn công bằng lực lượng cơ giới, bộ binh và không quân rất mạnh ; bất cứ lúc nào họ cũng có thể vượt qua phòng tuyến của chúng ta ; nếu không có phương tiện tương đương để đối phó chúng ta sẽ bị tiêu diệt ; chúng ta phải cấu tạo cần thiết, cần phải quy tụ ngay thành một đạo quân cơ giới trừ bị những đơn vị sẵn có hay đang thành lập, như thế cũng tạm được. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:28:44 am Tôi kết luận : «với bất cứ giá nào, dân tộc Pháp cũng không có ảo tưởng rằng án binh bất động như hiện thời là phù hợp với tính chất của cuộc chiến tranh đang xảy ra. Sự thật thì trái lại. Máy móc đem lại cho phương tiện công phá kim thời sức mạnh, tốc lực và tầm hoạt động, khác thường khiến cho cuộc xung đột chẳng sớm thì muộn sẽ có những nét đặc biệt như linh hoạt, bất ngờ, ồ ạt, truy lùng, tầm sâu rộng và nhanh chóng vượt xa những cảnh lượng ghê sợ nhất đã diễn ra trong quá khứ... chúng ta không nên lầm lẫn ! Cuộc chiến tranh đã khởi sự có thể là cuộc chiến tranh rộng lớn nhất, phức tạp nhất, tàn khốc nhất, hơn tất cả những trận chiến trước đây đã tàn phá trái đất này. Cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội, tinh thần, do chiến tranh gây ra sẽ sâu rộng và xảy ra ở khắp mọi nơi ; không thể tránh được sự đảo lộn hoàn toàn đời sống của các dân tộc và cơ cấu chính phủ của các quốc gia. Nhịp điệu huyền bí của sự vật đem lại cho cuộc cách mạng ấy một công cụ quân sự — đạo quân của máy móc — có tầm mức tương xứng với kích thước khổng lồ của cuộc cách mạng. Đã đến lúc tối hậu để nước Pháp rút ra những kết luận thích đáng ». Bức thư không làm ai động tâm. Tuy nhiên, những ý kiến tung ra, những chứng cớ trưng ra, rốt cuộc, cũng tạo được một chút ảnh hưởng. Đến cuối năm 1939, đã có 2 sư đoàn cơ giới nhẹ và người ta đang thành lập sư đoàn thứ ba. Tuy nhiên, đây chỉ là những đơn vị thám sát rất có ích cho việc chỉ dẫn một đoàn thiết giáp, nhưng vì không có đoàn thiết giáp cho nên hiệu năng của những đơn vị ấy chẳng là bao. Ngày mùng 2 tháng chạp 1938, Thượng Hội Đồng Chiến Tranh, dưới sự thúc đẩy của tướng Billotte đã quyết định thành lập 2 sư đoàn thiết giáp. Một thành lập vào đầu năm 1940. Sư đoàn kia sẽ hoàn thành vào tháng ba. Những sư đoàn ấy được trang bị bằng chiến xa 30 tấn loại B, những mẫu thứ nhất đã có từ 10 năm nay, bây giờ người ta mới chịu đóng 300 chiếc. Nhưng mỗi sư đoàn, mặc dầu phẩm chất của binh khí tốt đến đâu, cũng vẫn chưa đạt được sức mạnh của tôi đề nghị. Mỗi sư đoàn có 120 chiến xa, tôi muốn có 600 chiếc. Mỗi sư đoàn có một đại đội bộ binh di chuyển bằng cam nhông, theo tôi thì phải dùng 7 chiếc xe di chuyển được trên bất cứ thế đất nào. Mỗi sư đoán có 2 giàn đại pháo, tôi đề nghị 7 giàn, súng bắn đi phương vị nào cũng được... Sư đoàn không có toán quân thám sát, theo tôi thì cần phải có. Sau hết, tôi quan niệm đơn vị cơ giới chỉ sử dụng dưới hình thức một khối tự trị, được tổ chức và chỉ huy theo ý nghĩa ấy. Trái lại, người ta chỉ đặt vấn đề hội nhập các sư đoàn thiết giáp vào các quân khu thuộc loại tổ chức cũ, nói khác đi là hội nhập vào một tổ chức tổng quát. Ý muốn kìm hãm sự đổi thay xuất hiện trên bình diện quân sự vì thiếu thiện chí, bây giờ cũng xuất hiện trên lãnh vực chánh trị. Trần chiến tranh kỳ cục này trước tiên đà gây ra một thứ yên lành cầu an cho giới chỉ huy, bây giờ người ta đã bắt đầu lo ngại. Khi đã động viên hàng triệu người, khi đã đưa kỹ nghệ vào việc đúc súng ống, khi đã chi tiêu những khoản tiền khổng lồ, người ta phải làm đảo lộn đời sống quốc gia, hậu quả bắt đầu ảnh hưởng đến chính sách chính trị. Vả chăng, không có gì báo trước cuộc phong tỏa địch đã làm cho địch yếu dần. Tuy không ra tiếng yêu cầu một chính sách chiến tranh khác vì không có phương tiện, nhưng ai nấy đều trút sự bất mãn gay gắt vào chính sách hiện thời, vẫn như thói quen dùng, chế độ không thi hành được những biện pháp cứu quốc nhưng chỉ tìm cách dối mình và dối dư luận ; người ta gây ra một cuộc khủng hoảng nội các. Ngày 21 tháng ba Hạ Viện lật đổ nội các Daladier. Ngày 23, Paul Reynaud thành lập chính phủ. Thủ Tướng mới gọi tôi về Ba Lè, tôi thảo ra một bản tuyên ngôn minh bạch và vắn tắt, ông chấp nhận nguyên vẹn và đem ra đọc tại nghị trường. Ngoài hành lang đã bắt đầu thêu dệt đủ mọi mưu chước trong khi tôi đến Palais Bourbon dự một phiên họp trình diện. Phiên họp thật là tôi tệ. Sau khi Thủ Tướng đọc bản tuyên ngôn của chính phủ trước một nghị trường bi quan và thảm đạm, trong cuộc tranh luận người ta chỉ nghe tiếng những máy phát thanh của nhóm người nhận thấy mình bị bỏ rơi trong cuộc vận động chánh trị. Tình trạng tổ quốc lâm nguy, nhu cầu nỗ lực toàn dân, sự giúp sức của thế giới tự do, chỉ được nêu ra để tô điểm cho tham vọng và hiềm khích. Chỉ có Léon Blum dùng đến lời lẽ cao thượng tuy ông không được mời giữ ghế nào cả. Nhờ ông mà Paul Reynaud thắng cuộc tuy chỉ vừa đủ số phiếu. Nội Các được tính nhiệm chỉ bằng một lá phiếu đa số thuận. Sau này ông Herriot, Chủ Tịch Hạ Viện, bảo tôi : «Ấy thế mà tôi cũng không chắc là ông ta thắng». Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:29:03 am Trước khi trở về Wangenbourg, tôi ở lại vài ngày gần Thủ Tướng ở Quai d‘ Orsay. Thời gian ấy cũng đủ cho tôi nhận thấy chế độ đã mất tinh thần đến mức nào. Trong các đảng phái, trong báo giới, trong các cơ quan hành chánh, trong các giới kinh doanh, các nghiệp đoàn, đã có những nhóm rất thế lực có ý muốn đình chỉ cuộc chiến tranh. Những người thông thạo tin tức nói ra miệng rằng đó là ý kiến của Thống Chế Pétain đại sứ ở Madrid, ở địa vị ấy ông đã biết qua nguồn tin I Pha Nho rằng người Đức sẵn sàng chấp nhận cuộc dàn xếp. Khắp nơi người ta nói rằng : «Nếu Reynaud đổ thì Laval sẽ lên cầm quyền với Pétain ở bên cạnh. Quả vậy, Thống Chế có đủ tư cách để buộc bộ chỉ huy quân sự phải chấp nhận cuộc đình chiến». Hàng ngàn truyền đơn in hình Thống Chế trên ba trang giấy với lời chú thích, trước tiên ông là tướng lãnh đã thắng cuộc Thế Chiến thứ nhất với tiêu đè : «Hôm qua, quân nhân xuất chúng...» rồi đến khi ông làm đại sứ : «Ngày nay, nhà ngoại giao đại tài !...», sau cùng ông xuất hiện như một nhân vật vĩ đại và chưa rõ rệt : «Ngày mai ?...» Cần phải nói, một vài giới muốn cho rằng kẻ thù là Staline chứ không phải Hitler. Họ bận tâm với phương pháp tấn công Nga, hoặc bằng cách giúp Phần Lan, hoặc oanh tạc Bakou, hoặc đồ bộ Stamboul, chứ họ không muốn tận diệt quân Đức. Nhiều người lớn tiếng ca ngợi Mussolini. Một vài người ở trong chính phủ hoạt động để thúc đẩy nước Pháp làm lành với Mussolini bằng cách nhường cho ông ta Djibouti, đất Tchad, cho ông ta dự cộng đồng chủ qnyền ở Tunisie. Về phía Cộng Sản thì họ làm om sòm để theo chính nghĩa quốc gia khi Bá Linh còn chống lại Mạc Tư Khoa, sau họ chửi bới cuộc chiến tranh «tư bản » từ khi Molotov cấu kết với Ribbentrop. Còn như đám bình dân mất hướng thì cảm thấy những người cầm đầu chính phủ không có hành động nào và không có ai có tư cách để chế ngự hoàn cảnh, họ bềnh bòng trong ngờ vực và bất chắc. đã rõ là chỉ một sự thất bại nghiêm trọng là đủ làm cho quốc dân bỡ ngỡ và kinh hoảng, tất cả sự nghiệp sẽ tiêu tan. Trong bầu không khí u ám ấy, Paul Reynaud cố gắng tạo uy tín. Việc này càng khó vì ông luôn luôn xung đột với Daladier : ông lên làm Thủ Tướng kế tiếp Daladier và Daladier vẫn ở lại chính phủ giữ bộ Quốc Phòng và Chiến Tranh. Tình trạng kỳ dị này . không thể thay đổi được vì đảng cấp tiến bắt buộc phải giữ lại chủ tịch của họ để họ đợi cơ hội nắm lấy chính quyền, nếu không họ sẽ lật đổ chính phủ. Mặt khác, Paul Reynaud muốn tăng thêm số phiếu quá ít ỏi của ông, ông cố gắng đánh tan thành kiến của những người ôn hòa đối với ông. Việc này rất tế nhị vì phần lớn phe hữu mong muốn hòa bình với Hitler và thỏa hiệp với Mussolini. Bởi thế cho nên phải mời Paul Baudouin vào làm phụ tá Quốc Vụ Khanh. Paul Baudouin là người rất hoạt động trong phe hữu, ông mới lập một Ủy Ban chiến tranh bèn cử Baudouin làm thư ký. Thực ra, Paul Reynauđ muốn giao cho tôi chức vụ ấy. Ủy Ban chiến tranh chỉ đạo cuộc chiến, để đạt mục tiêu ấy ủy ban sẽ hội họp các bộ trưởng quan trọng và các tư lệnh thủy lục không quân, như vậy ủy ban có thể đóng một vai trò then chốt. Thư Ký có nhiệm vụ sửa soạn cuộc tranh luận, tham dự các phiên họp, ghi nhận các quyết định và theo dõi sự thi hành. Nhiều việc có thể tùy thuộc cách thực thi nhiệm vụ của người thư ký. Nhưng nếu ông Paul Reynaud muốn dành chức vụ ấy cho tôi thì ông Daladier lại không chịu chấp thuận. Thủ Tướng gửi công hàm đến cho biết ý muốn của mình, Daladier trả lời thẳng : «Nếu de GauHe đến đây tôi sẽ bỏ phòng giấy này, xuống cầu thang và gọi điện thoại bảo Paul Reynaud đặt ông ta vào chõ tôi ». Ông Daladier không có ác cảm với cá nhân tôi. Trước đây ông đã chứng minh điều ấy khi ông lấy tư cách bộ trưởng tự tay ghi tên tôi vào danh sách thăng trật, âm mưu phe đảng đã tìm cách gạt tôi ra ngoài. Nhưng từ nhiều năm nay ông nhận trách nhiệm quốc phòng cho nên ông theo đúng hệ thống hiện hành, ông biết rằng thời cuộc biến chuyển nay mai sẽ chấm dứt tình trạng, ông đã ước lượng trước hậu quả, ông cho rằng dẫu sao thì thay đổi cũng muộn quá rồi, hơn bao giờ hết, ông bám riết lấy lập trường mà ông đã bênh vực. Nhưng đối với tôi thì tất nhiên tôi không thể nhiệm chức thư ký ủy Ban Chiến Tranh với sự chống đối của bộ trưởng Quốc Phòng, Tôi trở lại mặt trận. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:29:29 am Trước khi đi, tôi đến thăm tướng Gamelin, ông cho gọi tôi đến tư dinh của ông ở Vincennes. Ở đây cũng có một khung cảnh tương tự khung cảnh nhà tu, dưới trướng chỉ có ít sĩ quan, ông làm việc và suy tư, không để ý gì đến công việc thường vụ. ông để tướng Georges chỉ huy mặt trận Đông Bắc, nếu không có gì xảy ra thì mọi việc vẫn trôi chảy, nhưng nếu khởi sự giao tranh thì khó mà đứng vững được. Tướng Georges cư ngụ tại FertesousJouarre với một phần bộ tham mưu, trong khi nhiều phòng giấy khác làm việc ở Montry dưới quyền điều khiển của tướng Doumenc, tham mưu trưởng. Ngoài thực tế thì cơ quan chỉ huy tối cao bị chặt làm ha khúc. Trong cái động kín ở Vincennes, tướng Gamelin có vẻ một nhà bác học trong phòng thí nghiệm, phối hợp những phản ứng trước chiến thuật của ông. Trước hết, ông bảo tin cho tôi biết rằng ông muốn tăng số sư đoàn thiết giáp từ 2 lên 4 và cho tôi biết quyết định của ông trao cho tôi việc chỉ huy sư đoàn thứ 4, sư đoàn này sẽ được thành lập từ ngày 15 tháng năm. Theo cách nhìn tổng quát thì mặc dầu tôi bất mãn vì sự chậm trễ vô phương cứu vãn của chúng ta về phương diện lực lượng cơ giới, nhưng tôi cũng rất lấy làm tự hào được chỉ huy một sư đoàn với cấp bực đại tá. Tôi nói cho tướng Gamelin biết, ông chỉ trả lời tôi : «Tôi hiểu ông vui lòng. Còn như sự thắc mắc của ông, tôi thiết tưởng không có lý đo ». Bấy giờ vị tổng tư lệnh mới nói đến tình hình quân sự theo cách nhìn của ông. Ông đưa ra một bản đồ ghi các vị trí của địch và của ta, ông nói rằng vẫn chờ đợi cuộc tấn công sắp tới của địch. Theo dự tính của ông thì quân Đức sẽ đưa lực lượng chính vào Hòa Lan và Bỉ và nhắm vào đích Pas-de-Calais để cắt đứt liên lạc của ta với quân Anh. Nhiều dấu hiệu cho thấy địch muốn có cuộc hành quân yểm trợ hay với tính cách nghi binh về phía các xứ thuộc bán đảo Scandinavie. Chính ông, không những ông tỏ ra tin tưởng cách dụng binh và giá trị các lực lượng của ông, mà ông còn lấy làm thỏa mãn và có lẽ ông nóng lòng đợi cuộc thử thách xem sao. Nghe ông, tôi hiểu rằng miệt mài mãi một hệ thống quân sự và để hết tâm trí vào đó, rốt cuộc người ta sẽ hóa ra tin tưởng. Tôi cũng thấy rằng ông nơi theo gương thống chế Joffre ; vào giai đoạn đầu cuộc Đại Chiến thứ nhất, ông là người cộng tác trực tiếp của Joffre, rồi sau ông giúp ý kiến ; ông tin tưởng rằng ở cấp bậc ông điều cần là chấp nhận một kế hoạch nhất định nào đó rồi giữ vững ý định không để cho diễn biến thăng trăm làm lãng trí. Ông là người thông minh tuyệt vời, trí tuệ tinh vi, tự chủ cao độ, ông tin chắc rằng trong trận chiến ngày mai rốt cuộc ông sẽ thắng. Tôi từ giã vị tướng tài siêu việt, lòng tôn kính lẫn với cảm tưởng bực dọc, trong thâm cung của ông, ông sẵn sàng để bất thần gánh vác một trách nhiệm lớn lao, ông sẽ dốc toàn lực ra đối phó với bất cứ cái gì, theo một đề án mà tôi cho là dở quá ngán. Năm tuần lễ sau sấm sét bắt dầu giáng xuống. Ngày mùng 10 tháng năm, địch đã thôn tính Đan Mạch và gần trọn Na Uy, bèn khởi sự tấn công. Trong cuộc tấn công ấy lực lượng cơ giới và không quân đảm nhiệm hết, biển người cứ theo đà tấn công mà tiến tôi không cần đưa quân vào sâu. Hai cánh quân của Hoth và Kleist gồm 10 sư đoàn thiết giáp và 6 sư đoàn chiến xa tiến như vũ bão về hướng Tây. Bảy trong số 10 Sư Đoàn Nhật-nhỉ- man đó vượt qua vùng Ardennes, tiến tới Meuse chỉ trong 3 ngày. Ngày 14 họ đã qua sông Meuse ở Dinant, Givet, Monthermé, Sedan, có 1 đại đơn vị chiến xa tiếp sức và phi cơ yểm trợ, phi cơ xung kích luôn luôn đi theo, oanh tạc cơ Đức đánh phá hậu phương các đường hỏa xa, các trục lộ giao thông, làm tê liệt đường vận tải. Ngày 18 tháng năm, 7 sư đoàn Nhật Nhĩ Man đó tụ hợp lại xung quanh Saint Quentin, sẵn sàng để xông vào Ba Lê hay Dunkerque sau khi vượt qua phòng tuyến Maginot, bẻ gãy các công sự chiến đấu của ta, tiêu diệt một quân đoàn của ta. Trong thời gian ấy, 3 Sư Đoàn khác hoạt động ở Hòa Lan và Brabant ; ở đây quân đội đồng minh có các lực lượng Hòa Lan, Bỉ, Anh và hai quân đoàn Pháp. Quân Đức tung vào chiến trường này 800.000 quân gây cho chúng ta một sự bối rối khó mà trấn an được. Có thể nói rằng chỉ trong một tuần lễ số mệnh đã quyết định rồi. Trên triền dốc định mệnh đè nặng xuống nước Pháp vì một lỗi lầm trọng đại, cả quân đội, chính phủ, nước Pháp, bây giờ đang lăn tuột xuống theo một tốc độ kinh khủng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:29:52 am Tuy nhiên chúng ta vẫn có 3.000 chiến xa tối tân và 800 liên thanh tự động. Quân Đức đã xài hết rồi không còn gì nữa. Nhưng những binh khí ấy, như đã dự tính, đều phân phát đi các quân khu ở mặt trận. Vả chăng, người ta không chế tạo và vũ trang để thực hiện một cuộc tiến binh ồ ạt. Cả những đơn vị cơ giới lớn có tầm vóc để dự chiến cũng chỉ hoạt động lẻ tẻ. Ba đơn vị nhẹ tung ra Liège và Breda để thám sát đều phải quay về ngay và sau dàn ra để giữ một mặt trận. Sư Đoàn thiết giáp I giao cho một quân đoàn và chỉ đưa ra để phản kích ngày 10 tháng năm ở phía Tây Namur, cũng bị bao vây và tiêu diệt. Cũng ngày hôm ấy, Sư Đoàn II di chuyển bằng hỏa xa đến Hirson, đưa đến nơi thì dần dần bị tan rã trong tình trạng hỗn độn chung. Hỏm trước, ở phía Nam Sedan, Sư Đoàn III vừa mới thành lập, đã bị phân tán để xung vào các đại đội của một sư đoàn bộ binh; những mảnh vụn ấy bị sa lầy trong một trận phản kích bất thành. Nếu những đơn vị cơ giới ấy được tập hợp lại từ trước thì tuy có khuyết điểm cũng có thể giáng xuống địch những đòn chí tử. Nhưng đứng lẻ tẻ mỗi đơn vị một nơi, chỉ sáu ngày sau khi các sư đoàn thiết giáp Đức tràn vào, sư đoàn cơ giới của ta chỉ còn là những mảnh vụn. Về phần tôi, tôi chỉ tìm ra sự thật qua mẩu tin tức rời rạc, không có gì làm cho tôi nhận thấy mình đã lầm lỗi. Nhưng cuộc giao tranh dù có thảm bại cũng làm cho người lính bừng tỉnh. Trận đánh này cũng làm cho tôi bừng tỉnh. Ngày 11 tháng năm tôi nhận được lệnh chỉ huy Sư Đoàn 4 thiết giáp ; không làm gì có sư đoàn này, người ta đã góp nhặt những yếu tố từ những điểm rạt xa xôi giao cho tôi. Bấy giờ tôi đóng doanh trại ở Vésinet, ngày 15 tháng năm tôi được gọi về Tổng Hành Dinh để nhận đặc vụ. Tham mưu trưởng đã ra lệnh đó : «Tướng Doumenc cho tôi biết rằng bộ chỉ huy muốn lập một mặt trận phòng thủ tại quận Aisne và quận Ailette để chặn đường vào Ba Lê. Quân Đoàn VI của tướng Touchon gồm những đơn vị lấy bớt ở mặt trận Đông sẽ dùng để lập mặt trận ấy. Với sư đoàn của ông hoạt động một mình và ở tiền đồn vùng Laon, ông có lợi thời để thành lập. Tướng Georges, chỉ huy trưởng mặt trận Đông-Bắc để ông tự quyết định những phương tiện cần dùng. Vả chăng ông chỉ huy thuộc một mình tướng Georges và tùy thuộc trực tiếp ; thiếu tá Ghomel là sĩ quan liên lạc. » Tướng Georges tiếp tôi, ông bình tĩnh, thân hữu nhưng bực dọc ra mặt. Ông xác nhận những ý kiến của tôi và nói thêm : « ông de Gaulle ! đã từ lâu nay ông có những quan niệm mà địch đã áp dụng, bây giờ là dịp đem ra thi hành ». Sau đấy các phòng làm việc gấp rút để đưa về Laon những yếu tố cần cho tôi sử dụng. Tôi nhận thấy bộ chỉ huy bị tràn ngập bởi biết bao vấn đề điều động và vận tải đặt ra trong những ngày ghê gớm kinh ngạc và đảo lộn, nhưng người ta cố gắng làm được đến nơi đến chốn. Tuy nhiên người ta cảm thấy hy vọng tiêu tan, lò xo đã gãy. Tôi tức tốc đến Laon, đặt hành dinh tại Bruyeres, phía đông nam thành phố và đi quan sát các nơi. Quân Pháp trong vùng này chỉ có một vài yếu tố rời rạc thuộc Sư Đoàn 3 Kỵ binh, một dúm người trấn giữ thành Laon và đội Pháo Binh thứ 4 tự trị, có nhiệm vụ sử dụng khí giới hóa học nếu cần, cũng là ngẫu nhiên mà người ta để quên loại khí giới này ở đây. Tôi xung dụng đội quân ấy, họ là những người gan dạ chỉ có súng mút cơ tông ; tôi dàn quân ra dọc theo kinh Sissonne, để giữ an ninh. Ngay tối hôm ấy, các đợi tuần tiễu địch đã thấm nhập tận nơi. Ngày 16, được một phần bộ tham mưu tới nơi, tôi đưa quân ra thảm sát và thâu lượm tin tức. Cảm tưởng của tôi là đại quân Đức đã từ vùng Ardennes tràn sang bằng ngả Rocroi và Mézières, bây giờ họ không tiến xuống phía Nam mà tiến về phía Tây để chiếm Saint-Quentin, sườn bên trái được bảo vệ bằng những đội quân trắc vệ đưa xuống phía nam hạt Sarre. Trên khắp các ngả đường từ phía Bắc đổ xuống đều tràn ngập những đoàn người tị nạn. Tôi cũng thấy nhiều quân nhân bị tước khí giới. Họ thuộc các bộ đội mấy ngày trước đây đã bị các Sư Đoàn Nhật Nhĩ Man đánh tan nát : trong khi thua chạy họ bị các bộ đội cơ giới của địch đuổi kịp, địch ra lệnh cho họ phải bỏ súng ống chạy về phái Nam để khỏi làm nghẽn đường đi. Địch nói cho họ biết ; «chúng tôi không có thời giờ bắt các anh làm tù binh ! » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:30:18 am Tôi nổi cơn tức giận khôn cùng khi thấy dân chúng rối loạn, quân lính tan vỡ, khi nghe địch đưa ra nhũng lời khinh mạn láo xược. À ! Thật là tồi tệ ! Cuộc chiến khởi sự một cách quá tồi tệ. Như vậy mình còn phải đánh nhiều. Trên thế giới này cỏn nhiều đất đứng. Nếu tôi còn sống tôi sẽ còn đảnh bất cứ ở đâu, bất cứ trong bao lâu, cho đến khi địch không còn mảnh giáp để rửa nhục cho tổ quốc. Những việc tôi có thể làm sau này tôi đã quyết định ngay từ ngày hôm ấy. Để bắt đầu tôi sẽ khởi thế công ngay từ sáng mai với những lực lượng đã nhận được, mặc dầu lực lượng ấy thế nào. Tiến về phía đông bắc độ 20 cây số, tôi rán sức tiến tới Serre, Montcornet ; các lộ giao thông về Saint - Quentin, Laon, Reims, đều đi qua đây. Như vậy, tôi cắt con đường thứ nhất địch có thể dùng để tiến về phía Tây, và ngăn cản hai đường khác địch có thể dùng để đánh thẳng vào mặt tiền Quân Đoàn VI. Bình minh ngày 17 tháng năm tôi nhận được 3 đội chiến xa : một, loại B (Đại Đội 46), thêm một liên đội loại Đ2 của bán Lữ Đoàn 6 ; hai loại khác thuộc loại Renault 35 (Đại Đội 2 và 24) của bán Lữ Đoàn 8. Trời vừa hửng sáng, tôi tung ra ngay chiến trường. Các đội chiến xa đè bẹp địch trên đường tràn lan và tiến vào Montcornet. Cho đến tối, họ đánh ở ven biển và ở phía trong thị trấn, phá vỡ nhiều ổ khảng cự và dùng đại bác ngăn chặn các đoàn xe Đức đang tìm cách đi qua. Nhưng lực lượng địch ở Serre rất mạnh. Dĩ nhiên, không có yểm trợ, chiến xa của ta không thể vượt qua được cửa ải này. Trong ngày hôm ấy, Đại Đội 4 khinh binh đến nơi. Vừa đến nơi tôi dùng ngay để nghiền nốt một đội tiền quân địch ở Chivres, họ nấp kín đợi quân ta đi qua rồi mới đổ ra đánh. Chỉ trong chốc lát đã dẹp xong. Nhưng từ mạn bắc thị trấn Serre pháo binh Đức bắn ra rát lắm. Pháo binh của ta chưa xếp đặt xong. Suốt buổi chiều phi cơ Stukas địch luôn luôn từ trên trời nhào xuống oanh kích chiến xa và cam nhông của ta. Chúng ta không có gì trả đũa. Sau hết, các bộ đội cơ giới Đức mỗi lúc thêm nhiều, đột kích hậu quân của chúng ta. Chúng tôi là những đứa con bị bỏ rơi cách xa Aisne 30 cây số, phải chấm dứt một tình trạng phiêu lưu như vậy. Đến đêm, tôi đặt Chi Đoàn 10 thiết giáp trinh sát ở sát nách địch, Chi Đoàn này mới đến nơi; tôi đưa chiến xa và khinh binh về Chivres. Trên chiến địa có hàng trăm quân Đức tử nạn và nhiều cam nhông địch bị đốt cháy. Chúng ta bắt được 130 tù binh. Chủng ta không tổn thất đến 200 người. Ở hậu phương, trên các ngả đường, không thấy có người chạy nạn nữa. Còn có một số người quay trở về. Bởi vì đã có tiếng đồn trong hàng ngũ không mấy vui vẻ của ta rằng quân ta đã tiến. Bây giờ thì không cần hoạt động ở Đông Bắc nữa mà phải hoạt động ở Bắc Laon vì những lực lượng địch quan trọng từ Marie tiến sang Tây, hướng về La Fère dọc theo sông Serre. Đồng thời quân trắc vệ Đức bắt đầu tỏa xuống phía nam và đe doạ Ailette. Sư Đoàn 4 thiết giáp suốt đêm 18 rạng ngày 19 tháng năm dàn quân ra các trục lộ bắc Laon. Đồng thời, tôi nhận được viện binh : Chi Đoàn 3 thiết giáp gồm 2 trung đoàn chiến xa Somua và Chi Đoàn 322 Pháo Binh có 2 đội đại pháo 75. Ngoài ra tướng Petiet, chỉ huy Sư Đoàn 3 khinh kỵ binh, đã hứa giúp yểm trợ Laon bắng đại bác. Hẳn là trong sổ 150 chiến xa của tôi bây giờ chỉ có 30 chiếc loại B và trang bị súng 75 ly, độ 40 chiếc loại D2 hay hiện Samua với đại bác nhỏ 47 ly, còn thì loại Renault 35 chỉ có đại bác nhỏ 37 ly, tằm ích dụng 600 thước. Hẳn là đối với loại Samua, mỗi xe chỉ có một xa trưởng chưa từng bắn súng đại bác bao giờ và một người tài xế chưa từng lái xe quá 4 giờ đồng hồ. Hẳn là sư đoàn chỉ có một đại đội bộ binh chở bằng xe buýt và như vậy rất dễ bị đánh trong lúc di chuyển. Hẳn là pháo binh gồm những bộ đội chở đến bằng nhiều đợt và nhiều sĩ quan ra mặt trận mới biết mặt binh lính của mình. Hẳn là đối với chúng tôi không làm gì có hệ thống VTĐ, tôi chỉ có thể ra lệnh bằng cách sai người đi mô tô đến liên lạc với cấp dưới, nhất là đến thăm họ. Hẳn là các đơn vị thiếu nhiều phương tiện chuyên chở, bảo trì, tiếp tế bình thường phải có. Nhưng một toàn bộ thành lập theo ngẫu hứng như vậy đã cho thấy một cảm tưởng hăng say chiến đấu. Nào đứng lên ! Còn nước còn tát. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:31:02 am Ngày 19, lên đường từ bình minh ! Các chiến xa trong sư đoàn nhắm vào những mục tiêu liên tiếp : Crésy, Mortiers và Pouilly. Họ phải tiến tới cầu và cắt đường địch không cho vào La Fèíe. Pháo binh đi theo họ. Bên phải, chi đoàn trinh sát và đại đội khinh binh bảo vệ họ trên sông Barantpn, một toán tầm thám khác tiến về Marie. Buổi sáng, mọi việc đều trôi chảy. Chúng tôi tiến vào Serre sau khi đánh đuổi những yếu lố thẩm nhập vào vùng này. Nhưng địch đứng vững ở vị trí phía Bắc con sông. Họ giữ vững các lộ và phá hủy các chiến xa lảng vảng tới gần. Đại pháo của họ nã đâu vào ấy. Chúng tôi đụng độ với những đon vị lớn của địch đang tràn vào Saint - Quentin. Muốn qua sông và đưa chiến xa lên chúng tôi cần phải có bộ binh và đại pháo mạnh hơn, nhưng chúng tôi không có. Trong những giờ phút khó khăn ấy tôi không khỏi nghĩ đến quân cơ giới vẫn mơ tưởng bấy nay. Nếu hôm ấy có quân cơ giới bất thần kéo đến Guise thì các Sư Đoàn Nhật Nhĩ Man sẽ bị chặn đứng ngay, hậu quân của họ sẽ rối loạn, Bắc quân của ta sẽ có thể liên lạc được với Trung quân và Đông quân. Nhưng ở phía Bắc Laon chúng ta chỉ có những phương tiện nghèo nàn. Bởi thế cho nên quân Đức tiến qua được vùng Serre. Hôm qua họ đã lấy được Montcornet sau khi chúng ta rút lui. Từ buổi trưa, họ lấy Marie. Với một số lớn thiết giáp, súng tự động, mọt chê chở bằng xe hơi, bộ binh chở bằng chiến xa, họ đánh cánh phải của ta ở Chambry. Bây giờ phi cơ Stukas xuất hiện ! Họ oanh kích chúng ta cho tới đêm, đáng sợ cho xe của ta không thể ra khỏi mặt đường và cho những cỗ trọng pháo để trần, vào lúc quá trưa, tướng Georges ra lệnh cho tôi không nên tiếp tục nữa. Quân Đoàn VI đã dàn trận xong, sư đoàn của tôi phải đưa ngay đi dùng vào việc khác. Tôi định cầm chân địch một ngày nữa bằng cách trong đêm ấy tập hợp lại xung quanh vùng Vorges để đánh vào sườn địch nếu họ từ Laon tiến tới Reims và Sois- sons ; ngày hôm sau mới trở lại Aisne. Cuộc chuyển quân rất có thứ tự tuy rằng ở đâu địch cũng tìm cách đụng độ với chúng ta. Trong đêm, không ngừng có những trận du kích lối vào các đồn trại. Ngày 20 tháng năm Sư Đoàn 4 thiết giáp tiến về Braine và Fismes giữa đất địch họ có mặt ở suốt dọc đường, lập nhiều điểm tựa và đánh chúng ta bằng nhiều xe thiết giáp. Nhờ có chiến xa tảo thanh đường đi và hai bên lề, chúng tôi về được Aisne không xảy ra việc gì quan trọng. Tuy nhiên, ở Festieux, Chi Đoàn 10 thiết giáp trinh sát, đi hậu tập với một đại đội chiến xa, đã phải khó nhọc mới đi thoát ; trên đồi Craonne, xe lửa của sư đoàn bị tấn công mãnh liệt, đã phải để lại tại chỗ nhiều cam nhông bốc cháy. Trong khi Sư Đoàn 4 thiết giáp hoạt động ở Laon, tại phía cực Bắc tình hỉnh biến chuyển nhanh chóng theo việc tiến quân của các Sư Đoàn Nhật- nhĩ-man. Bộ chỉ huy Đức quyết định thanh toán quân đội đồng minh ở phía Bắc trước khi đánh vào Trung Tâm và phía Đông ; Họ đưa lực lượng cơ giới vào Dunkerque. Các lực lượmg này khởi sự tiến quân từ Saint-Quentin, chia làm hai cánh ; tiến thẳng đến mục tiêu bằng ngả Cambrai và Douai, cánh kia tiến dọc bờ biển qua Etaples và Boulogne. Trong khi ấy thì hai sư đoàn Nhật-nhĩ-man chiếm Amiens và Abbeville và đặt ở phía Nam sông Somme nhiều đầu cầu để sau này sẽ dùng. Về phía Đồng Minh, tối ngày 20 tháng năm quân đội Hòa Lan biến mất, quân đội Bỉ lùi về phía Tây, quân đội Anh và Quân Đoàn I Pháp bị cắt đứt liên lạc với Pháp. Hẳn là bộ chỉ huy Pháp muốn lập lại liên lạc giữa hai khúc bằng cách đưa những quân đoàn phía Bắc tiến từ Arras tôi Amiens, mặt khác đưa tả quân của Trung Ương tiến từ Amiens đến Arras. Tướng Gamelin đã đưa ra kế hoạch ấy ngày 19. Ngày 20, tướng Gamelin lên đường sang Bỉ, tướng Weygand thay thế vẫn giữ nguyên quan điểm của ông. Trên lý thuyết thì kế hoạch này hữu lý. Nhưng muốn thực hiện thì bộ chỉ huy phải giữ được hy vọng và ý muốn chiến đấu. Nhưng cả một hệ thống chủ thuyết và tổ chức được các tướng lãnh của ta yêu chuộng đã sụp đổ, họ không còn nghị lực nữa. Một thứ tê liệt tinh thần bất thần làm cho họ ngờ vực bất cứ cái gì, nhất là họ ngờ vực chính mình. Từ đấy bắt đầu xuất hiện những mãnh lực ly tâm. Vua Bỉ chẳng bao lâu nghĩ đến việc đầu hàng ; Lord Gort nghĩ đến việc lên tầu về, tướng Weygand nghĩ đến cuộc đình chiến. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:31:20 am Trong cơn nguy biến sự chỉ huy không còn, nhưng Sư Boàn 4 thiết giáp vẫn tiếp về phía Tây. Trước tiên vấn đề là đưa sư đoàn này vượt qua sông Somme để dẫn đầu cuộc tấn công dự định ở phía Bắc. Nhưng sau ý kiến ấy bị loại bỏ. Sau đấy người ta định dùng để hợp với những lực lượng khác, dồn quân Đức đã vượt qua sông Somme về Amiens. Nhưng rồi người ta bỏ ý định và chỉ lấy của Sư Đoàn 4 một đại đội chiến xa. Sau chót, đêm 26 rạng ngày 27 tháng năm, vị chỉ huy sư đoàn — được thăng tướng từ hôm trước — nhận được lệnh của tướng Robert Altmayer, tư lệnh Quân Đoàn X gồm các lực lượng đưa vội vã đến phía Nam Som- me ; sư đoàn được lệnh tiến ngay vào Abbeville công kích địch, vì địch đã lập một đầu cầu chắc ở phía nam tỉnh này. Lúc ấy sư đoàn đóng ở xung quanh Grand - Villiers. Lên đường ngày 22 tháng năm, qua các nơi Fismes, Soissons, Villers - Coíterets, Compiè- gne, Montdiđưer, Beauyais, họ tiến được 180 cây số trong 5 ngày. Người ta có thể nói rằng từ ngày thành lập ở Montcornet sư đoàn này không ngừng đánh và đi. Chiến xa mệt mỏi, phải đế lại đến 30 chiếc ở dọc đường. May mà nhiều lực lượng bổ túc quý giá đã theo kịp chúng tôi ở giữa đường ; một đại đội chiến xa B (Đại Đội 47), một đại đội loại D2 (Đại Đội 19) có chiến xa 20 tấn mà trước đấy ở Amiens tôi đã phải đưa đi nơi khác, Đại Bội 7 ; một đội trọng pháo 105 ; một đội phòng không, năm đội súng 47 chống chiến xa. Ngoại trừ Đại Đội D2, còn thì các đơn vị ấy đều được thành lập tùy ngẫu hứng. Nhưng ngay từ khi đến nơi họ cũng lây cái không khí hăng hái bao trùm sư đoàn. Sau hết, tôi được sử dụng Chi Đoàn 22 bộ binh thuộc địa và pháo binh của Sư Đoàn 2 kỵ binh, để thực hiện cuộc hành quân. Tất cả có 140 chiến xa trong tình trạng tốt và 6 đại đội bộ binh, có 6 đội trọng pháo yểm trợ, sẽ tấn công phía Nam của đầu cầu Đức. Tôi quyết định tấn công ngay tối hôm ấy. Vì phi cơ địch không ngừng đó xét chúng ta và chúng ta chỉ có cơ may đánh úp nếu đánh ngay lập tức, Thực ra quân Đức chờ đợi ta, họ chắc như bàn thạch. Từ một tuần lễ nay, họ đóng ở Huppy về phía Tây, Bray-les-Mareuil trên bờ sông Somme về phía Đông, các khu rừng Limeux và Bailleul ở giữa hai làng ấy. Ở phía sau họ đã tổ chức công sự chiến đấu ở các làng Bienfay, Villers, Huchennevil- lẹ, Mareuil. Sau hết, núi Cauhert cũng ở bờ sông Somme, bên ấy là địa điểm trấn giữ Abbeville và các cầu vào tỉnh, họ dùng làm căn cứ phòng thủ. Ba phòng tuyến liên tiếp ấy là ba mục tiêu mà tôi đã ấn định cho sư đoàn phải đoạt được. Cuộc tấn công bắt đầu hồi 18 giờ ; Bán Lữ Đoàn 6, chiến xa nặng với Đại Đọi 4 khinh binh, tiến vào Huppy, Bán Lữ Đoàn 8, chiến xa nhẹ với Đại Đội 22 thuộc địa tiến vào rừng Limeux vả Bailleul, Thiết Đoàn 3, chiến xa cỡ trung với Đại Đội 7 Rồng tiến vào Bray. Đại pháo yểm trợ lực lượng chính giữa. Đến đêm thì lấy được mục tiêu thứ nhất. Tàn quân Đức trong làngHuppy đầu hàng. Gần Limeux chúng tôi bắt được nhiều giàn súng chống chiến xa và tìm được nhiều xác xe tăng của lữ đoàn cơ giới Anh bị phá hủy mấy ngày trước đây. Trước khi bình minh ló dạng chúng tôi đã ra đi rồi. Cánh tả phải lấy được Moyenneville và Bienfay, cánh giữa lấy Huchenneville và Villers, cánh hữu lấy Mareuil. Mục tiêu chính là cắt hậu quân địch bằng hoạt động của chiến xa B đi xéo từ Tây sang Đông. Mục tiêu cuối cùng cho tất cả mọi người là chiếm núi Gaubert. Một ngày chiến đấu thật gian lao. Địch có thêm quân cố thủ giữ vững. Đại pháo của họ dàn ra trên bờ sông Somme bắn rát quá. Dàn pháo khác trên núi Caubert bắn xuống cũng làm chúng tôi tổn thất. Đến tối thì tiến chiếm được mục tiên. Chỉ có Caubert vẫn trong tay địch. Trên chiến địa xác chết cả hai bên nằm ngổn ngang. Chiến xa của ta tổn thất nặng. Chỉ còn độ 100 chiếc hoạt động được. Nhưng bầu không khí chiến thắng đã nổi lên trong hàng ngũ ba quân. Ai nấy đầu ngẩng cao. Người bị thương cũng mĩm cười. Đại pháo nồ rền. Trước mặt, chúng ta đã dàn thành mặt trận quy mô, quân Đúc phải lùi. Trong cuốn sách Abbeville kể lại chiến sự của sư đoàn Đlumm Đức giữ đầu cầu, thiếu tá Gehring đã viết mấy tuần lễ sau : « Ngày 28 tháng năm đã xảy ra chuyện gì cho toàn thể khu vực này ? Địch đã đánh ta bằng những lực lượng thiết giáp mạnh mẽ. Các đơn vị chống chiến xa của ta đã chiến đấu anh dũng. Nhưng hỏa lực kém hiệu năng nhiều vì thiết giáp của địch phẩm chất tốt lắm. Địch đã dùng chiến xa chọc thủng phòng tuyến từ Huppy đến Caumont lực lượng chống chiến xa của chúng ta bị tiêu hủy, bộ binh phải rút lui khỏi chiến địa... Trong khi tin túc dáng ngại đổ đến bộ tham mưu sư đoàn và pháo binh Pháp tấn công liên hồi. không có cách gì liên lạc với một bộ đội nào ngoài mặt trận, tướng chỉ huy sư đoàn phải thân hành tiến ra... Ông gặp đội quân bại trận, bèn tập hợp lại, xếp đặt có thứ tự và đưa về căn cứ phòng thủ cách phòng tuyến thứ nhất vài cây số... « Nhưng binh sĩ của chúng ta đã hoảng SỌ’ bóng vía chiếu xa địch... Tổn thất nặng nề... có thể nói rằng không có người nào không mất một người bạn thân... » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:31:43 am Nhưng quân Đức đã nhận được viện binh. Trong đêm 27 rạng 28 họ thay thế được hết các đơn vị tại mặt trận. Số xác chết và tù binh chứng minh điều ấy. Trong đêm 28 rạng ngày 29 lại thay thế chuyến nữa. Như vậy chúng tôi vẫn đương đầu với những toán quân còn nguyên vẹn vào ngày thứ ba cũng như ngày thứ hai, Bên chúng tôi thì không có gì thay đổi. Tuy nhiên, chỉ cần chẳng bao nhiêu viện binh cũng có thể đem lại toàn thắng. Mặc kệ ! Ngày 29 tháng năm, chúng ta sẽ chiến đấu một chuyến nữa trong tình trạng thiếu thốn hiện thời. Ngày hôm ấy chúng tôi tấn công Caubert. Lực lượng chính dồn vào sườn núi tuyết phía Tây. Các chiến xa cuối cùng loại B sẽ khởi hành từ Moyenneville và Bienfay, cả những chiến xa Sơmuas đưa từ phải sang trái cũng vậy. Theo sau là đại đội khinh binh chỉ còn một nửa, chi đoàn trinh sát hụt mất hai phần ba và một đại đội Rồng. Số chiến xa Renault và Chi Đoàn 22 thuộc địa sẽ khởi hành từ Yillers. Để giúp đỡ tôi, tướng Altmayer đã chỉ thị cho Sư đoàn 5 Khinh kỵ binh đóng theo dọc sông Somme ở hạ lưu đầu cầu, đưa cánh hữu đến tận Cambron. Nhưng sư đoàn này không thể tiến lên được. Ông đã xin không quân oanh kích các ngõ ra của tỉnh Abbeville, nhưng phi cơ đã đem đi nơi khác rồi. 17 giờ, khai hỏa. Triền núi bị ta chiếm nhưng địch vẫn giữ được ngọn núi. Đến đêm, quân Đức có pháo binh hùng hậu trở lại đánh các làng Moyenneville và Bienfay nhưng không lấy được. Ngày 30 tháng năm Sư Đoàn 51 Tô Cách Lan đến thay thế Sư Đoàn 4 thiết giáp ; sư đoàn này mới sang Pháp đầy nhuệ khí. Sư Đoàn 4 tập hợp lại gần Beauyais. Cùng dự chiến với tôi có các đại tá : Suđre, Simon, Franẹois, chỉ huy chiến xa ; de Ham, chỉ huy chi đoàn trinh sát ; Bertrand, khinh binh ; Le Tacon, Thuộc địa, de Longuemare, Rồng; Chaudesolle và Anselme, pháo binh ; Chomel, bộ tham mưu. Chúng tôi không thể thanh toán được đầu cầu Abbeville, tuy địch đã tồn thất đến ba phần tư. Cứ như bây giờ thì địch không thể làm gì được, trừ khi chiếm lại đầu cầu. Ta tồn thất nặng nề nhưng không bằng dịch. Chủng ta bắt được 500 tù binh, thêm vào số bắt được ở Montcornet, và thu được một số lớn vũ khí và vật liệu. Than ôi ! Trên chiến trường Pháp, ta lấy được chỗ nào khác dải đất sâu 14 cây số này không ? Ta còn nhùng thắng lợi nào ngoài số phi cơ bắn rơi trên phòng tuyến của ta và số quân Đức bắt làm tù binh ? Chúng tôi chỉ có một sư đoàn quèn, yếu ớt và thiếu quân, ngẫu nhiên thành lập và chỉ hoạt động lẻ loi, mà đã làm nên công trạng như vậy, kết quả sẽ rực rỡ biết bao nếu có một đạo quân thiết giáp ưu tú? Vả chăng những yếu tố một đạo quân như vậy đã có hẳn hoi nhưng đã bị tản mác khắp nơi và trở thành vô dụng. Nếu chính phủ giữ được vai trò của mình, nếu chính phủ kịp thời hướng hệ thống quân đội về hoạt động tấn công chứ không ngưng đọng trong thế phòng thủ ; nếu cấp chỉ huy biết tạo lấy công cụ xung kích và tấn công đã bao lần đề nghị với chính phủ và bộ chỉ huy ; thì quân đội của chúng ta còn có cơ may cứu vãn tình thế và nước Pháp lấy lại được linh hồn của nước Pháp. Nhưng đến ngày 30 tháng năm thì chúng ta đã làm vào thế bại trận rồi. Cách đấy một hôm quốc vương Bỉ và quân đội Bỉ đã đầu hàng. Tại Dunkerque, quân đội Anh bắt đầu rút về. Tàn quân Pháp ở phía Bắc cùng tính chuyện rút lui, cuộc lui binh thật là tệ hại. Trước đấy ít lâu địch đưa xuống phía Nam đợt tấn công thứ hai, họ chỉ phải đối phó với một lực lượng đã tổn thất một phần ba và hơn bao giờ hết không có phương tiện chống lại lực lượng cơ giới của họ. Bấy giờ tôi đóng doanh trại ở Picardie, ngồi trong doanh trại tôi biết rằng không còn ảo tưởng gì nữa. Nhưng tôi vẫn giữ niềm hy vọng. Nếu rốt cuộc không thể cải thiện tình hình ở chánh quốc thì phải tạo lấy một vị thế ở ngoài. Ta còn có Đế Quốc, ta còn có thể trông mong Đế Quốc. Ta còn hạm đội, hạm đội có thể phòng vệ được Đế Quốc. Dân tộc ta còn đó, tuy chịu nạn xâm lăng nhưng chúng ta có thể khởi động cuộc kháng chiến, và đây sẽ là cơ hội ghê gớm để thực hiện sự thống nhất. Thế giới còn đó, người ta có thể cung cấp khí giới cho chúng ta và sau này có thể giúp chúng ta những lực lượng hùng hậu. Một câu hỏi nổi bật lên trên hết : Mai sau dù có thể nào, các cơ quan công quyền có giữ được cho chính phủ vẹn toàn không bị xúc phạm chăng ? có giữ được độc lập và cứu vãn được tương lai chàng ? Hay là họ sẽ đưa tất cả vào tình trạng kinh hoảng và sụp đổ ? Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:32:02 am Về phương diện ấy, tôi đã thấy trước rằng nhiều điều sẽ tùy thuộc thải độ chỉ huy. Nếu người chỉ huy không chịu hạ cờ khi nào «Chưa dùng hết phương tiện mà bổn phận và danh dự bắt buộc người ta phải áp dụng» theo cách nói của quân kỷ, nói tóm lại, chung cục nếu người ta chấp nhận giải pháp Phi Châu, thì trong cơn nguy biến chính phủ vẫn có phù tiêu để bám víu. Trái lại, nếu cấp chỉ huy đưa chính quyền bấp bênh đến chỗ đầu hàng thì họ sẽ tạo ra lý do đế hạ nhục nước Pháp ! Những ý nghĩ ấy làm tôi điên đầu khi tôi đến gặp tướng Weygand ngày mùng 1 tháng sáu, theo giấy triệu tập của ông. Vị tổng tư lệnh tiếp tôi tại dinh Montry, Như thường lệ, ông để lộ tài diễn ý sáng sủa và giọng nói giản dị, riêng của ông. Trước tiên, ông khen ngợi tôi về cuộc hành quân Abbeville mà ông đã gửi cho một biểu chương tán dương nhiệt liệt. Sau ông hỏi ý kiến tôi về việc sử dụng lối 1.200 chiến xa tân kỳ hiện có. Tôi cho vị nguyên soái biết rằng theo tôi thì những chiến xa ấy nên phân ra ngay làm hai đoàn : đoàn chính để ở Bắc Ba Lê, đoàn kia ở phía Nam Reims, phần còn lại của những sư đoàn CO' giới sẽ dùng làm nòng cốt. Để chỉ huy đoàn thú nhất, tôi đề nghị tướng Delestraint, thanh tra chiến xa. Phụ thuộc vào các đoàn chiến xa này sẽ có hai hay ba sư đoàn bộ binh có đủ phương tiện chuyên chở và đại pháo kép. Như vậy, sẽ có một phương tiện bất đắc dĩ để đánh vào sườn một đạo quân cơ giới Đức khi họ bẻ gãy phòng tuyến của ta mà tiến, dù sao thì chiều ngang cũng bị rời rạc và đạo quân bị kéo dài ra theo chiều sâu. Tướng Weygand ghi nhận đề nghị của tôi. Sau đấy ông nói đến chiến trường. Ông nói: «Đến mùng 6 tháng sáu tôi sẽ bị công kích ở Somme và Aisne. Tôi sẽ phải cầm cự với một số sư đoàn Đức hơn hai lần số của ta. Nghĩa là chúng ta không có triển vọng. Nếu tình hình không biến chuyển mau chóng quá, nếu tôi kịp thời tập hợp lại được các bộ đội Pháp thoát khỏi Dunkerque, nếu tôi có binh khí võ trang cho họ, nếu quân Anh trở lại chiến trường sau khi tái võ trang, nêu Không Lực Hoàng Gia nhận bay sâu vào lục địa dự chiến, thì như vậy chúng ta còn có CO' may». Ông lắc đầu và nói thêm : «Nếu không !...» Thế là tôi biết ý nghĩ của ông. Tôi từ giã tướng Weygand, tâm hồn nặng trĩu. Bất thần, một trách nhiệm tầy trời đè nặng xuống hai vai ông tuy ông không phải là người gánh vác được giang san. Ngày 20 tháng năm, khi ông lên nắm quyền chỉ huy tối cao thì bấy giờ đã quá trễ không thể thắng được trên chiến trường Pháp nữa rồi. Có thể nghĩ rằng tướng Weygand kinh ngạc mà nhận thấy như vậy. Vì chưa bao giờ ông nghĩ đến khả năng thật sự của lực lượng CO' giới ; hậu quả lớn lao và bất thần gây ra vì những trận đánh của địch làm cho ông kinh hoảng. Muốn đương đầu với thảm họa này, ông cần phải đổi mới cả con người ông ; ông cần phải một sớm một chiều dứt đoạn với những quan niệm và nhịp độ những phương pháp không phù hợp với sự việc ngày nay; ông cần phải bỏ ý niệm chiến thuật trong phạm vi chật hẹp chánh quốc; ông cần phải ném trả lại họ món khí giới giết người họ tung ra để giết mình ; ông phải dùng đến những ưu thế của ta như địa thế mông mênh, tài nguyên hùng hậu, tốc lực nhanh chóng, và phải cố gắng tìm đồng minh, sử dụng đất đai ở xa, sử dụng đường biển, ông không phải là người cáng đáng được rhững công việc ấy, vì tuổi tác, vì phong thái suy tư của ông, nhất là vì tính tình của ông. Quả vậy, theo bản chất ông, ông là một người phụ tá đắc lực. Với tư cách ấy ông đã giúp Thống Chế Foch một cách đắc lực. Năm 1920 ông đã gọi y cho Pilsưđski chấp nhận một kế hoạch cứu vãn được nước Ba Lan. Với tư cách Tổng Tham Mưu Trưởng ông đã dùng thông minh và can đảm để bênh vực quyền lợi sinh tử của quân đội trước mặt các bộ trưởng. Nhưng, nếu khả năng cần cho công việc tham mưu không hề mâu thuẫn với khả năng cần cho việc chỉ huy, thì hai loại khả năng ấy cũng không thể lẫn lộn với nhau được. Weygand không có thiên tư và cũng không được sửa soạn để tự mình đảm nhận lấy công việc, muốn cho sự nghiệp chỉ ghi có vết tích của mình, muốn một mình đối phó với vận mệnh ; đó là chí nhiệt tình khắc khổ và riêng biệt của người chỉ huy. Người ta có tâm trạng như vậy vì có khuynh hướng riêng hay vì điều kiện hoàn cảnh sống ; đối với Weygand thì suốt đời binh nghiệp của ông, ông chưa hề giữ một nhiệm vụ chỉ huy bao giờ. Ông chưa từng đứng đầu một chi đoàn, một lữ đoàn, một sư đoàn hay một quân đoàn nào. Lịch sử quân đội của chúng ta cho biết rằng người ta chọn lấy sự nguy hiểm nhất không phải vì người ta biết mình có khả năng mà vì người ta lấy cớ rằng « nó là một lá cờ »; đây là một lỗi lầm — thường xảy ra trên chính trường của chúng ta — mà người ta gọi là sự dễ dãi. Ít ra, khi thấy tướng Weygand không phải là người ngồi vào địa vị ấy thì người ta phải mời ông xuống, hoặc chính ông xin từ chúc, hoặc chính phủ tự ý quyết định thay thế ông. Nhưng người ta chẳng làm gì cả. Từ đấy vị đại nguyên soái của ta bị thời cuộc lôi cuốn đi và ông cũng không muốn làm chủ tình thế nữa, ông tìm lối thoát ở ngay trong tầm tay ông, đó là sự đầu hàng. Nhưng vì ông không muốn nhận lấy trách nhiệm, hoạt động của ông nhắm vào mục đích lôi cuốn chính phủ theo ông. Ông được Thống Chế Pétain trợ giúp, thống chế đòi hỏi giải pháp đầu hàng Vì những lý do khác. Chế độ không tin tưởng và không sức lực đã lựa chọn con đường thoái bộ. Như vậy nước Pháp không những phải trả nợ một cuộc đình chiến quân sự tai hại, mà còn phải trả nợ cuộc nô lệ hóa chánh phủ. Đứng trước những tai biến lớn, chỉ có sự hùng mạnh mới cứu vãn được tình thế, điều này rất đúng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:55:06 am SUY VONG Trong đêm mùng 5 rạng ngày mùng 6 tháng sáu, ông Paul Reynaud cải tổ chính phủ, đưa tôi vào làm thứ trưởng bộ Quốc Phòng. Tin này được Tướng Delestraint báo cho tôi biết vào buổi sáng, ông đã nghe được trên đài phát thanh. Một lát sau có công điện đưa đến xác nhận tin trên. Tôi từ giã sư đoàn, vội vàng trở về Ba Lê. Đến đường Saint - Dominique, tôi gặp Thủ Tướng. Cũng như thường lệ, ông là người tự chủ, nhanh nhẹn, sắc bén, sẵn sàng nghe và cũng quyết đoán mau mắn. Ông giải thích cho tôi nghe tại sao mấy ngày trước đây ông tưởng như phải đưa thống chế Pétain về nội các của ông, vì cả ông lẫn tôi đều không lạ gì Thống chế làm tấm bình phong để cho những người muốn đình chiến nấp đằng sau. Paul Reynaud nói : « Chẳng thà giữ được ông ở trong còn hơn ở ngoài ». Tôi trả lời : « Tôi vẫn lo ông đã đổi ý. Nhất là bây giờ tình hình biến chuyền rất nhanh mà tinh thần chủ bại có thể trùm lên trên hết. Giữa lực lượng của ta và của địch sự chênh lệch quả phũ phàng thậm chí, nếu không có phép lạ thì chúng ta không còn chút hy vọng nào thắng địch tại chánh quốc, mà cũng không thể phục hồi ở đây được nữa. Vả chăng bộ chỉ huy mất tinh thần vì kinh ngạc không thế hồi tĩnh được. Sau hết, ông biết rõ hơn ai hết rằng bầu không khí thoái bộ đã hao trùm chính phủ. Thống chế và những người thúc đẩy ông từ đây sẽ gặp vận may. Nhưng nếu chúng ta thua trận 1940, chúng ta vẫn có thể thắng trận khác. Tuy không khước từ ý định chiến đấu trên lãnh thổ Âu Châu trong bao lâu nếu còn cần thiết, nhưng chúng ta phải quyết định và sửa soạn tiếp tục cuộc chiến ở lãnh thổ Đế Quốc. Như vậy, cần phải có một chính sách thích hợp : chuyên chở phương tiện đến Bắc Phi, lựa chọn người có tài để chỉ huy các cuộc hành quân, giữ liên lạc mật thiết với người Anh, mặc dầu chúng ta có lý do để bất bình họ đến mức nào. Tôi đề nghị ông chỉ cho biện pháp để thực hiện». Ông Paul Reynauđ đồng ý và nói thêm : «Tôi yêu cầu ông sang Luân Đôn ngay. Trong những cuộc tiếp xúc với chính phủ Anh ngày 20 và 31 tháng năm, tôi đã để cho họ có cảm tưởng rằng chúng ta không loại bỏ một viễn tượng đình chiến. Nhưng bây giờ thì trái lại, ta phải thuyết phục người Anh để họ tin rằng chúng ta sẽ cầm cự, mặc dầu phải sang hải ngoại, mặc dầu chiến tranh xoay ra thế nào. Ông sẽ gặp ông Churchill và cho ông ta biết rằng, việc cái tổ nội các của tôi và sự hiện diện của ông bên cạnh tôi, là dấu hiệu chúng ta đã cả quyết». Ngoài cuộc vận động tổng quát ấy ra, tôi còn vận động ở Luân Đôn để Không lực Hoàng Gia — nhất là phi cơ khu trục — tiếp tục tham dự những cuộc hành quân ở Pháp. Sau hết, tôi còn phải yêu cầu người Anh xác định — như Thủ Tướng Pháp đã yêu cầu trước đây — thời hạn tái võ trang các đơn vị Anh thoát khỏi trận Dunkerque để đưa trở lại lục địa. Cần trả lời hai cầu hỏi trên đây gồm những yếu tố kỹ thuật do bộ tham mưu cung cấp, nhưng cũng tùy thuộc những quyết định của ông Winston Churchill với tư cách bộ trưởng Quốc Phòng. Trong khi các cơ quan liên lạc xếp đặt những cuộc tiếp xúc của tôi tại thủ đô Anh Quốc, thì ngày mùng 8 tháng sáu, tôi hội kiến với tướng Weygand tại dinh Montry. Tôi thấy ông bình tĩnh và tự chủ. Nhưng ngồi tiếp chuyện trong chốc lát tôi cũng đa hiền rằng ông đành chấp nhận bại trận và quyết định đình chiến. Sau đây, tôi ghi lại gần đúng từng chữ cuộc đối thoại đã in sâu vào tâm trí tôi. Ông nói : — Hẳn ông nhận thấy, tôi đã không lầm khi tôi nói với ông vài ngày trước đây rằng quân Đức sẽ tấn công vùng Somme ngày mùng 6 tháng sáu. Họ đánh thật. Lúc này họ đang vượt qua sông, tôi không thể ngăn cản được họ. — Vâng, thì họ vượt qua sông Somme, nhưng rồi sao nữa ? — Sao nữa à ? Họ sẽ chiếm Seine và Marne. — Dạ, Rồi sao nữa ? Thế là hết rồi còn gì mà sau với trước ? ! — Sao ? Hết sao ? Thế còn hoàn vũ ? Thế còn Đế Quốc ? Tướng Weygand bật cười thất vọng. — Đế Quốc à ? Chuyện trẻ con ! Thế giới à ? Khi chúng ta bị đánh bại đây thì người Anh không đợi quá tám ngày đã điều đình với Đức quốc. Ông ta nhìn tận mắt tôi mà nói thêm : «À ! Nếu tôi biết chắc rằng quân Đức để cho tôi những lực lượng cần thiết để giữ trật tự...! » Cuộc tranh luận quả là vô bổ. Tôi ra về sau khi nói cho tướng Weygand biết rằng cách nhìn của ông trải ngược với ý muốn của chính phủ. Chính phủ không muốn bỏ cuộc chiến đấu mặc dầu chiến trường sẽ bất lợi. Ông không có ý kiến chống đối nào khác và tỏ ra rất nhã nhặn khi tôi từ biệt ông. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:07:49 pm Trước khi trở về Ba Lê, tôi ngồi nói chuyện với các sĩ quan thuộc các bộ tham mưu, sáng nay họ đến để nhận huấn thị về bản phúc trình của tướng Weygand mà tôi đã biết rồi. Họ xác nhận là có cảm tưởng rằng trên cấp chỉ huy tối cao người ta đã biết thua rồi, ai nấy làm nhiệm vụ của mình một cách mảy móc nhưng mong mỏi trước còn âm thầm, sau lớn tiếng, chấm dứt cuộc chiến tranh trên đất Pháp với bất cứ giá nào. Muốn hướng tâm trí và can đảm mọi người về việc tiếp tục chiến đấu tại lãnh thổ Đế-Ouốc, chính phủ cần phải can thiệp một cách quyết liệt. Khi trở về, tôi tuyên bố với Reynaud và khẩn khoản yêu cầu ông thu hồi quyền tổng tư lệnh của tướng Weygand vì Weygand từ bỏ cuộc chiến. Thủ tướng trả lời tôi : — Lúc này không thể được. Nhưng sau này chúng ta phải nghĩ đến. Ỏng nghĩ sao ? — Về việc phải làm ngay thì lúc này tôi chỉ thấy có việc bổ nhiệm Huntziger. Tuy ông ta không có đủ hết mọi điều kiện, nhưng ông ta có khả năng để lập một kế hoạch chiến lược toàn cầu. » Ông Panl Reynauđ chấp nhận ý kiến của tôi trên nguyên tắc nhưng không muốn đem thi hành ngay. Tuy nhiên, tôi đã quyết định đặt lại vấn đề trong một thời hạn ngắn, tôi để thời giờ khởi thảo kế hoạch chuyên chở sang Bắc Phi tất cả cái gì có thể chở đi được. Bộ chỉ huy Quân Đội, liên lạc với Hải quân và Không quân, đã sửa soạn đưa ra Địa Trung Hải tất cả cái gì không cần thiết cho cuộc chiến. Đặc biệt là hai lớp tân binh đang được huấn luyện trong các trại miền Tây và miền Nam, những người thuộc đơn vị thiết giáp vừa thoát khỏi cuộc chiến bại ở phía Bắc ; tất cả 500.000 người, đều là những người ưu tú. Sau đấy, đám tàn quân của ta chạy đến bờ biển hẳn là có thể chở đi được nhiều người. Dầu sao thì cũng cần phải đưa sang Phi châu phần còn lại của đoàn phi cơ oanh tạc có tầm hoạt động xa, có thể bay qua biển, những phi cơ khu trục còn lại, nhân viên căn cứ hàng không, các thủy thủ, nhất là toàn thể hạm đội của ta. Hải quân có nhiệm vụ chuyên chở ước lượng tới 500.000 tấn số tầu phụ thêm vào tầu bè Pháp đã có sẵn đế thực hiện cuộc chuyên chở sang Phi châu. Chúng ta phải nhờ nước Anh giúp đỡ. Ngày mùng 9 tháng sáu, một chiếc phi cơ đưa tôi sang Luân Đôn từ sáng sớm. Đi theo tôi có người quan hầu của tôi, Geoffray de Courcel, và ông Rolam de Margerie, trưởng phòng ngoại giao của Thủ Tướng. Hôm ấy là chủ nhật. Kinh đô nước Anh có vẻ yên tĩnh gần như lạnh lùng. Phố xá và công viên đông đảo người dạo chơi bình thản, các rạp chiếu bóng người nối đuôi nhau đợi lấy vé, xe hơi đầy đường, trước thềm câu lạc bộ và khách sạn người canh cửa kính cẩn và chu đáo, ở đây người ta sống trong một thế giới khác cảnh thời chiến. Hẳn là báo chí cũng để lộ tình hình chân thực, mặc dầu tin tức đã lọc kỹ và luồng dư luận lạc quan bán chánh thức đưa ra những chuyện vớ vẫn cũng như ở Ba Lê. Đành rằng bích chương, hầm núp phòng không, mặt nạ chống chơi độc, những thứ ấy nhắc nhở người ta nghĩ tới thảm họa lớn. Nhưng đã rõ là đám quần chúng đông đảo không đo lường được tầm quan trọng của những biến cổ ở nước Pháp vì mọi việc diễn biến quá nhanh. Dầu sao thì đối với người Anh, họ cho là biển Manche còn rộng chán, chưa đến nỗi phải lo. Ông Churchill tiếp tôi tại Downing Street. Đây là lần thứ nhất tôi tiếp xúc với ông. Cảm tưởng của tôi nhân cuộc tiếp xúc này càng làm cho tôi tin rằng nước Anh có một tay đô vật như ông thì chắc chắn không bao giờ nao núng được. Ông Churchill có vẻ người coi gánh giang san nhẹ như lông hồng, sự nghiệp của ông quả là cực kỳ khó khăn nếu cũng có tính cách cao đại. Ông là người quyết đoán vững vàng, văn hóa cao, biết rõ phần lớn nhân vật, địa lý và nhu cầu liên hệ đến những vấn đề phải giải quyết, sau hết ông say mê những vấn đề riêng của chiến tranh. Bên trên hết, với bản chất của ông như vậy, ông là người sinh ra để hành động, để mạo hiểm, để đóng vai trò của ông một cách quả quyết không cần gượng nhẹ nể nang gì cả. Tóm lại tôi thấy ông ngồi rất đúng chỗ của một người lãnh đạo. Đó là những cảm tưởng đầu tiên của tôi. Những cuộc tiếp xúc về sau cho tôi biết rằng tôi nhận định rất đúng, ngoài ra tôi còn biết thêm ông Churchill có tài hùng hiện riêng của ông và ông biết cách đem ra sử dụng. Đứng trước một cử tọa nào : đám đỏng, hội nghị, hội họp hay đối thoại duy nhất, có mặt trước diễn đàn, trong bàn tiệc hay ngồi sau bàn giấy của ông, ông cũng có thể nói thao thao bất tuyệt những câu độc đáo, văn vẻ, gợi cảm để diễn tả ý kiến, lý lẽ và tâm tình, ông tạo ra một bầu không khí hấp dẫn, mọi người nín hơi thở mà nghe ông và không thể tránh được ảnh hưởng thu hút của ông. Ông là chính khách lọc lõi, ông dùng thiên tư xuất quỷ nhập thần của ông để nhào nặn quần chúng Anh và cũng để cho người ngoại quốc phải giật mình. Ông có thể dùng hài hước để tô điểm ngôn ngữ và cử chỉ, ông có thể tươi cười hay giận dữ tùy từng lúc, nhưng người ta cảm thấy ông vẫn sáng suốt để làm chủ được mình trong bất cứ trò chơi nào. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:08:10 pm Giữa hai nước Anh Pháp đã xảy ra nhiều rắc rối vì sự và chạm của hai khối dân tộc tính tình khác nhau, vì mâu thuẫn quyền lợi của hai nước, vì nước Anh đã lạm dụng tình thế làm thiệt hại lớn cho nước Pháp trong lúc thương đau, những sự kiện ấy đã ảnh hưởng đến thái độ của tôi đối với Thủ tướng Churchill, nhưng không ảnh hưởng gì đến sự phán đoán của tôi. Từ màn đầu đến màn chót tấn thảm kịch này ông Winston Churchill xuất hiện trước mắt tôi như một nhà kinh doanh cự phách và như một nghệ sĩ tài ba xây dựng một trang lịch sử vĩ đại. Ngày hôm ấy, tôi trình bày với Thủ tướng Anh sứ mạng của Thủ tướng Pháp trao cho tôi, chính phủ của chúng tôi quyết chí theo đuổi cuộc chiến mặc dầu phải thiên đó sang Đế Quốc, ông Churchill tỏ vẻ thỏa mãn hết sức khi biết ý chí của chúng ta. Nhưng liệu có mang lại kết quả gì không? Ông cho tôi hiểu rằng ông không tin tưởng. Dầu sao thì ông cũng không tin rằng có thể tái lập quân đội Pháp ở chánh quốc ; ông cho tôi thấy bằng cách từ chối dứt khoát không để cho phần lớn không quân của ông tham dự cuộc chiến. Từ khi quân đội Anh ở Dunkerque rút về, không lực Hoàng Gia chỉ tham dự chiến cuộc một cách bẩt thường, vả chăng, ngoài trừ phi đoàn khu trục còn đi theo chúng ta, các phi đoàn khác có căn cứ ở Anh quốc đều ở xa quá không thể hoạt động ở một mặt trận mỗi ngày một lùi xa về phía Nam. Tôi khẩn khoản yêu cầu ông di chuyến ít nhất một phần không quân Anh hợp tác với chúng ta đến các căn cứ phía Nam sông Loưe, nhưng ông Churchill chính thức trả lời không chấp thuận. Còn như lực lượng bộ binh thì ông hứa gửi sang Normandie một sư đoàn Gia Nã Đại mới sang và để lại Pháp sư đoàn 51 Tô Cách Lan và tàn quân của chi đoàn cơ giới còn chiến đấu với chúng ta. Nhưng ông tuyên bố rằng không thể cho biết đến bao giờ đoàn quân viễn chinh có thể trở lại chiến trường, đạo quân này vừa bị tồn thất nặng ở Bỉ cho nên phải đưa về. Như vậy, sự liên minh chiến cuộc giữa Luân Bòn và Ba Lê ngoài thực tế đã bị gián đoạn. Mới có một trận thua ở lục địa mà Anh Quốc đã tính chuyện quay về giữ nhà. Đây là sự thành công của một kế hoạch mà người đề xướng là Schlieffen ; sau cuộc đại chiến 1914 - 1918, Đức chiến bại đã ly gián được lực lượng Anh và lực lượng Pháp, đồng thời chia rẽ nước Anh và nước Pháp. Rất dễ mà tưởng tượng ra phe chủ bại của ta có thể rút ra những kết luận nào để khai thác. Ngoài cuộc hội kiến với ông Churchill, ngày hôm ấy tôi còn tiếp xúc với ông Eden, bộ trưởng Chiến Tranh, ông Alexander, tư lệnh Hải Quân, Sir Archibald Sinclau, bộ trưởng Không Quân, tướng Sir John Bill tham mưu trưởng hoàng quân. Ngoài ra tôi còn thảo luận với ông Corbin, đại sứ Pháp, ông Monnet, chủ tịch ủy Ban Pháp Anh phối hợp hoạt động mua bán quân nhu, các trưởng phái đoàn quân sự, hải quân và không quân của chúng ta. Đã rõ là ở Luân Đôn quần chúng vẫn giữ vẻ bình tĩnh nhưng những người am hiểu tình hình đã lo ngại thất trận và ngờ vực thái độ cương quyết của các CO' quan công quyền Pháp. Tối hôm ấy phi cơ đưa tôi về đáp xuống phi trường Bourget một cách khó khăn vì mới bị oanh tạc. Đêm mùng 9 rạng ngày mùng 10, ông Paul Reynaud gọi tôi đến tư thất của ông. Ông vừa nhận được những tin tức nghiêm trọng. Địch đã đến sông Seine ở hạ lưu Ba Lê. Mặt khác tất cả đều cho thấy rằng bất cứ giờ nào, lực lượng thiết giáp Đức cũng có thể tấn công lớn vùng Champagne. Như vậy thủ đô sẽ bị đe dọa trực tiếp các phía Tây, Đông và Bắc. Sau hết, ông Francois - Poncet ở Rome báo tin rằng bất cứ lúc nào ông cũng chờ đợi chính phủ Ý trao chiến thư cho ông. Đứng trước những tin tức nghiêm trọng ấy tôi chỉ biết đưa ra một ý kiến : chọn lựa sự cố gắng lớn nhất, di chuyển sang ngay Phi Châu, chấp nhận một cuộc chiến tranh liên minh và hậu quả của một sự liên minh như vậy. Qua những lúc tôi ngồi trong phòng Paul Reynaud đường Saint-Dominique, tôi chứng kiến nhiều sự việc để tin chắc rằng không còn cách nào hơn. Tình hình biến chuyển mau lẹ quá không thể ở đây mà giải quyết được. Cái gì dự tính cũng trở thành không thực. Người ta căn cứ vào tiền lệ trận chiến 14-18 bây giờ không thể áp dụng được nữa. Người ta làm như còn có một phòng tuyến, một bộ chỉ huy hoạt động, một dân tộc sẵn sàng hy sinh ; nhưng đó chỉ là mơ mộng và ký ức. Ngoài thực tế quốc gia liệt nhược và kinh hoảng, quân đội không tin tưởng và không hy vọng, guồng máy chánh quyền chạy hỗn loạn không thể nào sửa chữa được. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:08:42 pm Không có cái gì làm cho tôi nhận thấy rõ ràng điều ấy hơn những cuộc viếng viếng thăm nghi thức của các nhận vật chính trong nền cộng hòa : trước hết là Tổng Thống Lebrun, tôi được giới thiệu đồng thời với các bộ trưởng mới ; sau đến các chủ tịch Thượng Hạ Viện, sau hết là nhân viên trong chính phủ. Người nào cũng tỏ vẻ bình tĩnh và nghiêm chỉnh. Nhưng đã rõ là họ chỉ ngồi đó cho có mặt giữa một khung cảnh dựng lên vì thói quen. Giữa cơn bão tố, các hội đồng nội các, các chỉ thị cho cấp dưới, các phúc trình cho cấp trên, các tuyên cáo, các hoạt động của quân nhân, công chức nhân viên ngoại giao, nghị sĩ, ký giả, đều cho cảm tưởng một chuỗi hình đèn kéo quân, hành động chẳng ăn nhằm vào đâu và chẳng đưa đến đâu. Đã đi theo con đường này và lâm vào tình trạng này thì không có lối thoát nào khác ngoài việc đầu hàng Cần phải thay đổi ngay nền tảng và khung cảnh hoạt động trừ khi chịu thúc thủ — đã có một số người chịu như vậy mà họ không phải là những người thường. Có thể thực hiện được sự cải thiện kiểu «trận Marne » trước đây, nhưng phải đưa quân về Địa Trung Hải. Ngày mùng 10 tháng sáu là ngày hấp hối. Chính phủ phải rời khỏi Ba Lê chiều hôm ấy. Cuộc lui binh mỗi ngày mỗi thêm mau hơn trước. Nước ý tuyên chiến. Trước mắt mọi người, sự sụp đổ đã hiển nhiêu rồi, nhưng trên cấp thượng đỉnh của chính phủ, tấn kịch bi thảm diễn ra như trong một giấc mơ. Có lúc người ta có cảm tưởng như còn thêm một trò hài hước mỉa mai tô điểm cho sự sụp đổ của nước Pháp lăn tuột từ trên đỉnh cao Lịch Sử xuống đáy sâu vực thẳm. Thí dụ sáng hôm ấy, đại sứ Ý, ông Guariglia, đến đường Saint-Dominique viếng thăm một cách kỳ dị. Ông ta được ông Baudouin kể lại lời nhà ngoại giao Ý sang đây : « Các ông sẽ thấy sự tuyên chiến này sau cùng sẽ làm sáng tỏ mối liên lạc giữa hai nước chúng ta! Nó tạo ra một tình thế mà chung cục sẽ có ảnh hưởng tốt lành...» Sau đó ít làu, tôi đến phòng Paul Reynaud thì thấy ông w. Bullitt cũng có mặt ở đây. Tôi tướng rằng đại sứ Hiệp Chúng Quốc đem lại cho Thủ tướng Pháp một sự khuyến khích của Hoa Thịnh Đốn. Nhưng không ! ông ta đến đây để từ biệt. Đại sứ ở lại Ba Lệ để, nếu có dịp, thì can thiệp giúp thủ đô nước Pháp. Nhưng mặc dầu ông Bullitt có mỹ ý đáng khen, trong những ngày cuối cùng ấy không làm gì còn đại sứ Mỹ bên cạnh chính phủ Pháp. Sự có mặt của ông D. Biddle đặc nhiệm liên lạc với các chính phủ lưu vong, mặc dầu ông là người nhã nhặn và có tài ngoại giao đến đâu, cũng không khỏi làm các nhân vật chính thức của ta có cảm tưởng rằng Hoa kỳ coi nước Pháp không còn đáng bao nhiêu. Trong khi ông Paul Reynaud sửa soạn gấp một bản tuyên ngôn trên đài phát thanh và ông đang hỏi ý kiến tôi thì Tướng Weygand đến thăm Thủ tướng. Người ta vừa báo tin xong, ông tiến thẳng vào văn phong Paul Reynaud. Ông này để lộ sự ngạc nhiên, vị tổng tư lệnh trả lời rằng ông được mời đến. Paul Reynaud nói : « Không phải tôi mời rồi! » Tôi cũng nói thêm : « Cũng không phải tôi nữa!» Tướng Weygand bèn nói tiếp : «Nếu thế thì có sự hiểu lầm. Nhưng sự hiếu lầm lại có ích lợi lắm vì tôi có tin quan trọng thông báo với các ông ». Ổng ngồi xuống trình bày tình hình theo cách nhìn của ông. Qua sự trình bày ấy người ta cũng thấy rõ kết luận của ông. Chúng ta phải xin đình chiến ngay tức khắc, ông đặt một tờ giấy lên bàn và tuyên bố : « Mọi việc đã đâu vào đấy, trách nhiệm của mỗi người phải được xác định rõ ràng. Bởi thế cho nên tôi thảo ra ý kiến của tôi và trao bức điện văn này cho ông». Thủ tướng Reynauđ tuy đang bận tâm về bài diễn văn sắp phải đọc trong một thời gian gấp nhưng cũng bàn luận với vị nguyên soái, ông này không chịu đổi ý. Cuộc chiến ở chánh quốc như vậy là thua rồi. Phải đầu hàng. Tôi đưa ý kiến : «Nhưng chúng ta cũng còn những triển vọng khác». Tướng Weygand ra vẻ chế nhạo : — Ông có gì để đề nghị không ? Tôi trả lời: — Chính phủ không đề nghị mà chỉ ra lệnh để thi hành thôi. Tôi hy vọng rằng chính phủ sẽ ra lệnh. Sau cùng ông Paul Reynaud tìm được cách mời nguyên soái ra, mọi người chia tay trong bầu không khí nặng nề. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:09:14 pm Những giờ cuối cùng chính phủ có mặt tại thủ đô, mọi người nhộn nhịp thi hành biện pháp để thực hiện cuộc thiên di quan trọng như vậy. Thực ra người ta đã chuẩn bị nhiều theo một kế hoạch lui binh của nha Tổng thư ký bộ Quốc Phòng. Nhưng cũng còn nhiều sự bất ngờ. Mặt khác, sự có mặt nay mai của quân Đức ở Ba Lê này sẽ đặt ra những vấn đề ác hại. Từ ngày tôi nhiệm chức, tôi đã chủ trương phải phòng vệ thủ đô và yêu cầu Thủ Tướng, tổng trưởng Quốc Phòng và Chiến Tranh, bổ nhiệm một vị tổng trấn cương quyết. Tôi đề nghị tướng de Lattre, người vừa nổi bật khi cầm đầu một sư đoàn dự chiến xung quanh vùng Rethel. Nhưng chẳng bao lâu vị Tổng Tư Lệnh tuyên bố Ba Lê là thành phố bỏ ngỏ, hội đồng bộ trưởng tán thành ý kiến ấy. Nhưng bất thần phải tổ chức cuộc di cư lớn nhân sự và tài nguyên. Tôi làm công việc này từ sáng tới tối, trong khi chỗ nào cùng vang tiếng búa đinh đóng hòm xiểng, khắp nơi khách khứa đến thăm vào giờ chót, chuông điện thoại thất vọng réo lên từng hơi. Đến nửa đêm, ông Paul Reynaud và tôi cùng leo lên một chiếc xe. Cuộc hành trình chậm chạp trên con đường đông nghẹt người chạy giặc. Đến bình minh chúng tôi đến Orleans và bước vào Tòa Thị Chính gọi dây điện thoại liên lạc ngay với Đại Bản Doanh đóng ở Briare. Sau đó ít lâu tướng Weygand gọi điện thoại về xin nói chuyện với Thủ Tướng. Ông này cầm lấy máy và hết sức ngạc nhiên rằng người ta cho biết tin ông w. Churchill sẽ đến thăm vào buổi quá trưa. Tổng Tư Lệnh Quân Đội đã dùng liên lạc nhà binh yêu cầu Churchill đến ngay Briare. Tướng Weygand còn nói thêm : «Cần phải cho ông Churchill biết trực tiếp tình hình mặt trận một cách đích xác». Tôi hỏi Thủ Tướng: — Sao ? Ông có chấp nhận được rằng ông Tổng Tư Lệnh tự ý mời Thủ Tướng Anh sang đây không ? ông không nhận thấy tướng Weygand không còn hành động trong phạm vi một kế hoạch hành quân nữa mà ông theo đuổi một chỉnh sách chính trị chính sách này lại không phải chính sách của ông? Chính phủ còn có thể để ông ở chức vụ ấy lâu hơn được nữa chăng ? — Ông nói có lý ! Phải chấm dứt tình trạng này. Chúng ta đã nói đến tướng Huntziger là người có thể thay thế được Weygand. Chúng ta phải đến thăm ngay Huntziger mới được ! » Nhưng khi đã đem xe ra, Thủ Tướng Reynaud lại nói: « Suy đi nghĩ lại thì tốt hơn hết là để một mình ông đến nhà tướng Huntziger. Còn tôi, tôi sửa soạn cuộc hội đàm với Churchill và người Anh lát nữa đây. Ông sẽ trở lại kiếm tôi ở Briare. » Tôi đến Arcis-sur-Aube gặp tướng Huntziger tại bản doanh của ông, ông chỉ huy các quân đoàn trung ương. Giữa lúc ấy, trung ương bị chọc thủng ở mặt trận Champagne bởi đạo quân thiết giáp của Guđerian. Nhưng tôi phải ngạc nhiên rằng tướng Huntzigervan giữ thái độ can đảm. Ông cho tôi biết tình hình đen tối. Tôi cho ông biết việc nước một cách tổng quát. Để kết luận, tôi nói: — Chính phủ biết rằng cuộc chiến trên đất Pháp đã lâm vào thế thất trận rồi, nhưng chính phủ muốn tiếp tục chiến tranh và thiên đô sang Phi Châu, mang theo các phương tiện có thể mang theo được. Như vậy, cần phải thay đổi hoàn toàn chiến thuật và tổ chức. Vị tổng tư lệnh hiện thời không thể làm gì được. Ông có thể đảm nhận được công việc ấy chăng ?» — Được ! Huntziger chỉ trả lời gọn gàng có thế thôi. — Nến vậy, ông sẽ nhận được chỉ thị của chính phủ. Khi trở về Briare, tôi ghé qna Romillv và Sens để tiếp xúc với các bộ chỉ huy của các đơn vị lớn. Khắp hơi đều có dấu hiệu mất trật tự và kinh hoảng. Khắp nơi đều có những toán quân chạy về phía Nam lẫn lộn với dân di cư. Đoàn xe nhỏ của tôi phải dừng lại gần Méry một giờ vì đường mắc nghẽn. Một đám sương mù kỳ lạ — nhiều người lầm lộn với một lớp hơi — làm cho đám quân lính thêm lo lắng, không khác nào một đàn cừu không có người chăn dắt. Đến Tổng Hành Dinh Briare, tôi tìm ngay ông Paul Reynauđ và cho ông biết Huntziger đã nhận lời. Nhưng tôi nhận thấy ngay rằng đối với Thủ Tướng Reynauđ, việc thay thế ngay tướng Weyganđ không còn đặt ra trong viễn tượng của ông nữa, ông trở lại y kiến theo đuổi cuộc chiến tranh với một vị nguyên soái muốn theo con đường hòa bình. Khi đi qua hành lang tôi đến chào thống chế Pétain mà tôi không gặp mặt từ năm 1938 đến nay. Ông bảo tôi : «ông được thăng tướng rồi ! Tôi không chúc mừng ông. Ngạch trật thì làm gì trong lúc bại trận ? » Tôi trả lời : «Thưa Thống Chế, chính thống chế cũng được lon sao trong thời kỳ lui binh năm 1914. Một vài ngày sau là trận Marne ». Pétain càu nhàu : «Không có liên lạc gì với tình hình ngày nay !» Về điểm này thì ông có lý. Thủ Tướng Anh đến. Mọi người vào phòng hội nghị. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:09:50 pm Trong phiên họp này người ta công nhiên đem ra đối chiếu những quan niệm vả ý chí nổi bật trong giai đoạn mới của cuộc chiến. Tất cả cái gì đã dùng làm nền tảng để xử sự và hành động cho đến ngày nay đều thuộc về quá khứ. Sự liên hiệp Anh Pháp, sức mạnh của quân đội Pháp, uy quyền của chính phủ, sự trung tín trong việc chỉ huy, tất cả đều tan rã. Mỗi người đã xử sự không như một người tham dự một công cuộc làm ăn chung, nhưng xử sự như một người chỉ biết có mình và quyền lợi của riêng mình. Tưởng Weygandcho biết rằng mối bận tâm của ông là thanh toán chiến trường và cuộc chiến tranh này càng sớm càng hay. Ông dựa vào những chứng từ của các tướng Georges và Besson, ông đưa ra trước hội nghị một tình hình quân sự tuyệt vọng, Vị tổng tư lệnh trước đây đã làm tổng tham mưu trưởng từ 1930 đến 1935, ông trình bày những lý do thất bại của các quân đoàn dưới quyền ông, ông dùng lời lễ ôn tồn tuy gay gắt của một người than phiền nhưng không cho là mình chịu trách nhiệm. Sự kết luận của ông phải chấm dứt cuộc thử thách vì cả một hệ thống phòng vệ quân sự có thể sụp đổ bất thần, gây ra hỗn loạn và nội loạn. Đến lượt Thống Chế đưa ra thêm lý do để bi quan. Ông Churchill muốn giảm bớt không khí căng thẳng bèn nói giọng vui vẻ : — Thưa Thống Chế, ông có nhớ trận Amiens vào tháng ba năm 1918 không ?Mọi việc đều tồi tệ. Bấy giờ tôi đến thăm ông tại tổng hành dinh của ông. Ông chỉ cho tôi biết kế hoạch của ông. Vài ngày sau ông lập lại được phòng tuyến ». Thống chế trả lời gay gắt : — Phải, phòng tuyến được tái lập. Bấy giờ người Anh các ông bị uy hiếp. Tôi gởi 40 sư đoàn đến cứu ông. Ngày chúng tôi bị đánh tả tơi. 40 sư đoàn của các ông đâu ? Thủ Tướng Pháp nhắc lại rằng nước Pháp sẽ không rút lui khỏi cuộc chiến, ông thúc giục người Anh gửi sang giúp phần lớn số phi cơ của họ, ông cho biết rằng dẫu sao thì ông cũng vẫn cộng tác với Pétain và Weygand, ông hy vọng hai người này sẽ có ngày chấp nhận chính sách của ông. Ông Churchill ra vẻ cả quyết không để ai lay chuyển được ông, ông còn tỏ ra người linh lợi, nhưng đối với người Pháp ông vẫn giữ miếng, ông có thái độ dè dặt thân hữu ; có lẽ ông đã có viễn tượng ghê gớm và chói lợi — và có lẽ ông cỏn khoan khoái nữa —về cảnh tượng một nước Anh trở lại trơ trọi một mình trên hải đảo, chính ông sẽ hướng dẫn nước ông tôi con đường cứu quốc. Đối với tôi, tôi nghĩ đến mai sau, tôi cho rằng những chuyện dông dài ấy chỉ có tính cách vô bổ và ước lệ vì không nhắm vào đối tượng duy nhất có giá trị: tập hợp nước Pháp lại tại hải ngoại. Sau ba giờ tranh luận không đem lại kết quả gì người ta dùng cơm ngay tại bàn làm việc. Tôi ngồi bên cạnh Churchill. Ngồi nói chuyện với ông tôi càng thêm tin tưởng chí cương quyết của ông. Có lẽ chính ông cũng nghĩ rằng de Gaulle tuy trơ trụi không có gì nhưng cũng không kém cả quyết. Đô đốc Darlan không có mặt trong cuộc hội nghị bây giờ mới xuất hiện, ông đẩy tướng Vuil- lemin, tổng tham mưu trưởng Không Quân ra một bên để đến gần ông Paul Reynaud. Cử chỉ của ông làm cho người ta phải suy nghĩ lung lắm. Một cuộc hành quân hỗn hợp hạm đội và phi cơ oanh tạc đã được sửa soạn để tấn công Gênes. Theo kế hoạch thì sẽ thực hiện đêm nay. Nhưng Darlan đổi ý, ông muốn ra phản lệnh, nại cớ tướng Vuillemin sợ người Ý trả đũa đốt kho xăng ở Berre. Tuy nhiên, đó đốc đến xin sự chấp thuận của chính phủ. Paul Reynaud hỏi tôi : «Ông nghĩ sao ?» Tôi trả lời : « Trong tình trạng này, trái lại, tốt hơn hết là không nên nể nang gì hết. Phải thi hành cuộc hành quân đã dự định». Nhưng Darlan được chính phủ chấp thuận, phản lệnh được ban bố. Sau đó, Gênes cũng bị oanh tạc nhưng chỉ có một số nhỏ thủy quân tham dự và chậm trễ mất ba ngày. Việc này cho tôi hiểu rằng Darlan bây giờ cũng chỉ đánh ván bài riêng của mình Suốt ngày 12, tôi ở lâu đài Beauyais, nhà ông Le Prevost de Launay, tôi làm việc với tướng Colson thảo kế hoạch chuyên chở đến Bắc Phi. Thực ra, tôi đã chứng kiến những diễn biến ngày hôm qua, bây giờ tôi lại bị cô lập ở đây, tôi lo ngại rằng tinh thần thoái bộ lan rộng, kế hoạch này sẽ không bao giờ áp dụng. Tuy nhiên tôi quyết tâm đem hết tài trí mình ra thuyết phục chính phủ chấp nhận kế hoạch và bắt buộc bộ chỉ huy phải áp dụng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:10:17 pm Sau khi thảo xong phần chính, tôi đến Chissay gặp Paul Reynaud. Chậm quá rồi. Hội đồng nội các vừa họp ở Cangey, không có tôi tham dự ; Thủ Tướng ở phiên họp ra về hơi 11 giờ đêm, đi theo ông có ông Baudouin. Trong khi họ ngồi dùng bữa với những người trong nhóm của họ, tôi ngồi gần bàn và đặt vấn đề Bắc Phi. Nhưng mọi người chỉ muốn nói đến một vấn đề cũng liên lạc đến vấn đề ấy nhưng cấp hách hơn, Hội đồng tổng trưởng vừa gợi ra. Lần này chính phủ sẽ thiên di đi dâu ? Quân Đức đã vượt qua sông Seine, sắp tiến tới sông Loire. Hai giải pháp được đề nghị : Bordeaux hay Quimper ? Xung quanh đĩa ăn người ta thảo luận, nhưng vì mỏi mệt và bối rối cuộc bàn cãi gay gắt và hỗn loạn. Không đi đến một quyết định nào, Paul Reynauđ về nghỉ và hẹn gặp tôi sáng hôm sau. Dĩ nhiên, tôi lựa Quimper. Không phải là tôi có ảo tưởng sẽ cầm cự được Bretagne, nhưng tôi nghĩ rằng nếu chính phủ dời về đấy thì sớm muộn gì cũng chỉ có lối thoát ra đường biển. Quân Đức cần phải chiếm lẩy bán đảo này để đánh sang Anh, như vậy sẽ không làm gì có « khu vực » tự do tại Bretagne. Sau khi đã lên tầu rồi các bộ trưởng hẳn là sẽ sang Phi Châu, hoặc đi trực tiếp, hoặc dừng lại ở Anh quốc ít lâu. Dầu sao thì Quimper cũng là trạm dừng chân để tiến tới những quyết định mạnh mẽ. Bởi thế cho nên ngày tôi bước vào chính phủ, khi Reynaud nói đến kế hoạch « chỗ trú miền Bretayne » tôi tán thánh ngay. Trái lại, những người muốn đầu hàng như Pétain, Weygand, Baudouin phản đối vì mục tiêu chánh trị của họ chứ không phải về nghệ thuật dụng binh, mặc dầu họ tưởng mình biết nghệ thuật ấy. Sảng sớm ngày 13 tôi trở về Chissay. Sau một cuộc tranh luân rất lâu và tuy tôi đưa ra lý lẽ phản đối, Thủ Tướng Reynaud cũng quyết định di tản các cơ quan công quyền về Bordeaux, viện lý do ý kiến của các bộ trưởng từ ngày hôm trước. Tôi lại quyết tâm đòi hỏi một lệnh của Tổng Tư Lệnh ít ra để đề phòng và sửa soạn việc chuyên chở sang Phi Châu. Tôi biết rằng đó là ý muốn tối hậu của Paul Reynaud. Nhưng nhiều âm mưu và ảnh hưởng chống đối lại kế hoạch của chúng tôi, mỗi giờ trôi qua là tôi thấy tiêu tan hy vọng tối hậu ấy. Tuy nhiên, trưa hôm ấy Thủ Tướng gửi cho tướng Weygand một bức thư xác định những mục tiêu chính phủ chờ đợi ông thực hiện cho kỳ được «Giữ vững Massif Central và Bretagne càng lâu càng hay ». Sau đó, «Nếu chúng ta thất bại..., chúng ta sẽ thiên đô và tổ chức tại Đế Quốc, sử dụng sự tự do trên đường biển». Hẳn là, bức thư này bày tỏ một ý muốn có ảnh hưởng tốt lành. Nhưng tôi thì không phải một mệnh lệnh quyết liệt thích hợp với hoàn cảnh. Vả chăng, khi ký rồi, bức thư lại bị đem ra bàn cãi nơi hậu trường, đến hôm sau mới gửi đi. Cũng sáng ngày 13 ấy, ông Jeannèney, Chủ Tịch Thượng Viện và ông Herriot, Chủ Tịch Hạ Viện, đều đến Chissav. Người thứ nhất giữ thái độ cương quyết giữa lúc rối loạn, nhắc đến gương sáng của Clémenceau, ông đã là người cộng tác mật thiết và trực tiếp với chính phủ trong những giờ phút nghiêm trọng năm 1917 — 1918. Người thứ hai, hòa nhã và hoạt bát, diễn tả những xúc động của mình một cách rất hùng hồn. Cả hai người đều chấp thuận ý kiến của Thủ Tướng. Không đầu hàng, sẵn sàng sang Algérie với các cơ quan công quyền. Một lần nữa, tôi nhận thấy ông Paul Reynaud mặc dầu bị bao vây bởi âm mưu thoái bộ nhưng ông vẫn có thể làm chủ tình thế nếu ông không chịu nhượng bộ điều gì. Quá trưa hôm ấy tôi ở Beauyais, ông để Margerie Trưởng phòng ngoại giao của Thủ Tướng Reynaud, gọi điện thoại cho tôi : « Một hội nghị sẽ nhóm họp trong chốc lát nữa tại Tòa Thị Chính Tours, giữa Thủ Tướng và ông w. Churchill mới sang đây cùng một số bộ trưởng. Tôi xin thông báo cho ông biết cũng như tôi vừa được báo cáo tức thời. Tuy rằng người ta không triệu tập ông nhưng tôi thiết nghĩ ông nên có mặt ở đấy. Ông Baudouin đang ra công vận động, tôi không có cảm tưởng tốt chút nào.» Ông để Margerie cho tôi biết như vậy. Tôi đánh xe đến Tours, cảm thấy rõ điều lo ngại trong cuộc hội họp bất thần này ; mấy giờ trước đây tôi ngồi mấy giờ với Thủ Tướng Reynaud, nhưng ông không cho tôi biết. Ngoài sân và trong các hành lang tòa thị chính đều đông nghẹt dân biểu, nghị sĩ, công chức, ký giả, họ nghe tin thì đổ nhào đến để cùng ca bản hợp xướng ồn ào của một màn bi kịch gần chấm dứt. Tôi bước vào phòng thấy ông Paul Reynaud ngồi với Baudouin và Margerie. Phiên họp tạm hoãn. Nhưng ông Churchill và các bộ trưởng của ông trở lại vừa đúng lúc. Margerie cho tôi biết rằng các bộ trưởng Anh bàn định với nhau trước, sẽ trả lời câu hỏi của người Pháp : « Mặc dầu có thỏa ước ngày 28 tháng ba 1940 không cho phép buông súng một mình, nước Anh có chấp nhận để nước Pháp hỏi địch cho biết điều kiện đình chiến với nước Pháp thế nào không ? » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:10:48 pm Ông Churchill ngồi xuống. Lord Halifax, Lor Beaverbrook, Sư Alexander Cadogan, đều ngồi xuống chỗ, cả tướng Spears đi theo phái đoàn của họ. Một phút yên lặng nhọc nhằn trôi qua. Thủ Tướng Anh ngỏ lời bằng tiếng Pháp, ông nói giọng đều đều và buồn bã, đầu lắc lư, điếu xì gà ở miệng ; ông bắt đầu bày tỏ sự thông cảm của ông, của chánh phủ ông, của dân tộc Anh, đối với vận mệnh của nước Pháp : « Chúng tôi biết rõ tình cảnh của nước Pháp. Chúng tôi hiểu các ông cảm thấy mình bị dồn vào đường cùng. Tình thân hữu của chúng tôi đối với các ông vẫn không suy suyển. Bất cử trong trường hợp nào, xin các ông tin chắc rằng nước Anh không rút khỏi cuộc chiến. Chúng tôi sẽ đánh đến cùng, bất cứ bằng cách gì, bất cứ ở đâu, mặc dù phải đánh một mình ». Đề cập đến viễn ảnh đình chiến giữa Pháp và Đức, tôi ngỡ ông phá cuộc đình chiến ấy, nhưng ngược lại ông ra vẻ cám cảnh và hiểu biết. Đến vẩn đề hạm đội thì ông rất đích xác và rất cay nghiệt. Chính phủ Anh hết sức lo ngại việc trao hạm đội Pháp cho người Đức, lúc này còn kịp để ông mà cả, ông bắt buộc chúng ta phải bảo đảm không để hạm đội lọt vào tay quân Đức nêu không thì ông từ khước luôn thỏa ước 25 tháng ba. Cuộc hội nghị thiểu não đã đưa đến quyết định ấy. Trước khi rời khỏi phòng hợp, ông Churchill còn khẩn khoản yêu cầu rằng nếu nước Pháp thôi chiến đấu thì trao lại cho nước Anh 400. phi công Đức bị bắt làm tù binh. Pháp hứa thỏa mãn ông. Thủ tướng Paul Iteynaud đưa người Anh sang phòng bên gặp các chủ tịch quốc hội và nhiều bọ trưởng. Sang đây thì giọng nói lại khác hẳn. Các ông Jeanneney Herriot, Louis Marin, chi nói đến việc tiếp tục cuộc chiến. Tôi đến gần Paul Reynaud hỏi ông một cách sốt sắng : « Có thể nào ông chấp nhận được nước Pháp xin đình chiến chăng? » Ông trả lời: « - Hẳn là không. Nhưng chúng ta phải dàn cảnh làm xúc động người Anh đặng đòi hỏi họ cộng tác rộng rãi hơn ». Dĩ nhiên, tôi không thể cho rằng câu trả lời thỏa đáng. Sau khi đã từ biệt mọi người giữa tiếng ồn ào trong sân tòa thị chính, tôi buồn rầu mà trở về Beauyais, trong khi Thủ Tướng Reynaud đánh điện tín cho Roosevelt yêu cầu ông can thiệp, nếu không thì sụp đổ hết không còn gì. Tối hôm ấy, ông Paul Reynaud tuyên bố trên đài phát thanh «Nếu cần một phép lạ đều cứu nước Pháp thì tôi tin có phép lạ». Tôi nhận thấy chẳng còn bao lâu nữa mọi việc sẽ ngã ngũ. Một địa điểm bị bao vây sẽ gần đến lúc đầu hàng khi vị thống đốc nói đến sự bao vây ; nước Pháp sẽ đình chiến. Nhưng sợ có mặt tôi trong nội các trở thành chuyện không thể có được nữa mặc dầu vai trò của tôi chỉ là phụ thuộc. Nhưng đêm ấy, giữa lúc tôi đệ đơn xin từ chức, ông Georges Mandel được chánh văn phòng của tôi cho biết tin bèn mời tôi đến thăm ông. André Diethelm đưa tôi vào gặp bộ trưởng Nội Vụ. Mandel nói giọng nghiêm nghị và cả quyết làm tôi phải xúc động, ông cũng đồng ý với tôi, tin tưởng rằng nền độc lập và danh dự của nước Pháp chỉ có thể cứu vãn được bằng cách tiếp tục chiến tranh. Nhưng vì nhu cầu quốc gia, ông yêu cầu tôi ở lại nhiệm vụ. Ông nói : «Biết đâu sau này chúng ta không vận động được cho chính phủ thuyên chuyển sang Alger ?» Ông thuật lại cho nghe, sau khi người Anh ra về, người ta trở nên cương quyết, tuy rằng Weygand đến đây làm rắc rối. Ổng báo tin rằng lúc này những yếu tố Đức đầu tiên đã vào Ba Lê. Nhắc đến tương lai, ông nói thêm : « Dầu sao thì bây giờ cũng mới là buổi đầu cuộc thế chiến. Ông sẽ còn những bổn phận lớn lao. Nhưng ông có ưu thế là ở giữa chúng tôi ông là một người còn nguyên vẹn. Ông phải nên nghĩ đến cái gì phải làm cho nước Pháp, lúc cần đến thì chức vụ hiện thời của ông có thể đem lại sự dễ dàng cho ông ». Tôi phải nói rằng lý lẽ của ông làm cho tôi tin là nên chờ đợi trước khi từ chức. Xét những sự kiện hình thức thì sau này tôi có lẽ làm được cái gì, có lẽ cũng cần phải dựa vào những điều đã thực hiện được trong lúc này. Ngày 14 tháng sáu : Chính phủ thiên cư ! Tôi đến từ biệt chủ nhà, Le Prevost để Launay. Họ không đi đàu cả, xung quanh họ là những người không phải nhập ngũ mà cũng không thể động viên được, họ ngồi nhà chờ đợi những trận đánh rút lui và đợi đón rước kẻ xâm lăng. Đến chiều tôi tôi Bordeaux sau một chuyển đi ảm đạm trên đường lộ tấp nập từng đoàn người lánh nạn, tôi hỏi thăm đến trụ sở quân khu, nơi đã đặt văn phòng của Thủ Tướng Reynaud. Ông Marquet, dân biểu thị trưởng có mặt ở đấy, kể cho tôi nghe nhiều điều buồn nản mà ông sắp trình bày với Thủ Tướng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:11:18 pm Khi Thủ Tướng Reynaud đến, tôi bảo ông : «Từ ba ngày nay tôi nhận thấy chúng ta tiến tới việc đầu hàng với một tốc độ nhanh kinh khủng. Tôi đã giúp ông sự cộng tác khiêm tốn của tôi, nhưng hợp tác là để theo đuổi cuộc chiến. Tôi không chấp nhận đình chiến. Nếu ông ở lại đây, ông sẽ bị tràn ngập vì tình hình bại trận. Phải sang Al- gérie càng SỚm càng hay. Ông đã quyết định chưa?» Paul Reynaud trả lời : «Rồi !» Tôi nói : «Trong trường hợp ấy thì tôi phải sang ngay Luân Đòn điều đình với người Anh để họ giúp việc chuyên chở. Ngày mai tôi sẽ đi. Tôi sẽ gặp ông ở đàu ?». Thủ Tướng trả lời: «Ông sẽ gặp tôi ở Alger». Chúng tôi đồng ý với nhau rằng tôi đi ngay đêm ấy, trước hết đến Bretagne để biết có thể chuyên chở được gì. Sau hết, Paul Reynaud bảo tôi mời Parian đến gặp ông sáng mai. Ông muốn nói chuyện với Darlan về hạm đội của Pháp. Darlan đã lên đường đi La Guèritouldé. Tối hôm ấy tôi kêu được ông đến đầu dây điên thoại và hẹn ngày gặp ông. Ông càu nhàu mà trả lời : «Đi Bordeaux ngày mai ? Tôi không biết Thủ Tướng muốn làm gì ở đấy. Nhưng tôi, tôi còn phải chỉ huy tôi không thế bỏ phí thời giờ ». Sau cùng ông cũng nghe theo. Nhưng nghe giọng ông nói người ta cũng biết trước mọi việc sẽ tồi tệ. Vài phút sau tôi có dịp ước lượng sự biến chuyển trong tâm trạng con người khi nói chuyện với Jean Ybarnegaray, bộ trưởng Chính Phủ, trước đây ông vẫn tỏ ra người tán thành việc tiếp tục chiến tranh, ông đến gặp tôi tại khách sạn «Splenđide», nơi tôi dùng com tối vội vàng với GeolTroy de Courcel. Ông nói : «Tôi là cựu chiến binh, không có gì quan trọng hơn nghe lời cấp trên : Pétain và Weygand !» Tôi trả lời ông : «Có lẽ một ngày kia ông sẽ thấy rằng đối với một bộ trưởng thì tiền đồ quốc gia quan trọng hơn vấn đề tình cảm». Thống Chế Pétain cũng ăn cơm trong một phòng, tôi yên lặng đến chào ông. Ông bắt tay tôi không nói một lời. Sau này không bao giờ tôi gặp lại ông nữa. Ông bị dòng đời lôi cuốn theo một vận mệnh khắt khe ! Một người lỗi lạc như ông mà một đời binh nghiệp chỉ là một nỗ lực dồn nén dài. Ông là người hiên ngang không muốn dùng đến mưu chước, ông mạnh mẽ quá, không chịu đựng được sự tầm thường, ông có cao vọng quá, không thể chấp nhận thái độ của người mới giàu sang, ông nuôi dưỡng tham vọng thống trị trong sự có đơn đã từ lâu vì ông tin ở giá trị cá nhân của ông, vì ông đã trải qua nhiều điều ngang trái, vì ông khinh thường người khác. Vinh quang binh nghiệp ngày xưa đã vuốt ve ông trong niềm cay đắng, nhưng không làm cho ông thỏa chí bình sinh vì ông chỉ biết trọng vọng có binh nghiệp ngoài ra không biết đến cái gì khác. Ấy thế mà bất thần, lúc cuộc đời ông đã về quý đông, biến cố đã đem lại cơ hội cho ông khai triển thiên năng và tính kiêu ngạo vô bờ của ông ; nhưng đối với điều kiện là. Ông chấp nhận sự thảm bại làm môi trường để ông vùng vẫy, đoạt lấy quyền hành và danh vọng. Cần phải nói rằng, dẫu sao thì Thống Chế cũng chấp nhận sự bại trận. Người lính già đã khoác chiến bào từ sau trận chiến 1870 này chỉ trông thấy có một khía cạnh cuộc chiến tranh, ông cho đây là cuộc chiến mới giữa Pháp và Đức. Thua trận 1870, chúng ta đã thắng trận 1914-18, hẳn là có đồng minh bên cạnh, nhưng đồng minh chỉ đóng vai trò thứ yếu. Bây giờ chúng ta thua trận thứ ba, Như vậy thì ác hại thật nhưng là chuyện bình thường. Sau trận Sedan và Ba Lê sụp đổ thì chỉ cần thanh toán cho xong, điều đình và nếu cần thì nghiền nát Cách Mạng như Thiers đã làm ngày trước. Theo cách suy luận của Thống Chế thì ông không biết gì đến tính cách quốc tế của cuộc chiến tranh, đến khả năng của lãnh thổ hải ngoại, hậu quả ý thức hệ của sự chiến thắng của Hitler. Theo thói quen của ông, ông không nghĩ đến những sự kiện ẩy. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng biết chắc rằng vào dịp khắc hẳn thống chế Pétain không chịu chấp nhận sự thoái bộ. Tôi chắc rằng trong bất cứ trường hợp nào và nếu ông còn giữ nguyên cá tính của ông thì ông sẽ trở lại con đường tranh đấu nếu ông nhận thấy ông lầm lỗi, chúng ta vẫn có thể chiến thắng và nước Pháp sẽ được nhờ. Nhưng than ôi, dưới cái vỏ ngoài của ông, tháng năm đã làm mòn mỏi tính tình của ông. Tuổi già của ông làm cho những người khôn ngoan lợi dụng sự mệt mỏi oai hùng của ông để mưu đồ công việc của họ. Tuổi già là một cuộc đắm tầu. Chúng ta phải chịu đựng đủ mọi tai họa vì tuổi già của thống chế Pétain đồng nhất hóa với trận đắm tàu của nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:11:52 pm Tôi nghĩ đến điều ấy trong đêm đến miền Bretagne. Đồng thời tôi thêm quyết chí tiếp tục chiến đấu mặc dầu phải đương đầu với những cảnh ngộ nào. Đến Rennes sáng ngày 15 tháng sáu, tôi gặp tướng René Altmayer chỉ huy nhiều phần tử binh chủng hoạt động ở phía đông Mayenne, tướng Guitry, chỉ huy. chiến khu và quận trưởng Ille-et- Vilaine. cả 3 người đều hết sức cố gắng trong lãnh vực của mình. Tôi cố gắng tổ chức sự phối hợp nỗ lực của họ với phương tiện sẵn có để phòng thủ đất đai. Sau đấy, tôi đến Brest, vượt qua những đoàn xe Anh kéo đến đây để lên tầu về nước. Đến ty hàng hải, tôi cùng với đô đốc Traub và đề đốc de Laborde nghiên cứu khả năng và nhu cầu của hải quân để chuyên chở các bộ đội qua hải cảng Bretagne. Đến chiều, tôi lẻn chiếc khu trục hạm Milan đi Plymouth, cùng với một phái đoàn hóa học gia đi theo tướng Lemoine; ông Raoul Dautry, bộ trưởng Quân Nhu giao cho phải đoàn này đem « nước nặng » sang, gửi bên Anh Quốc. Khi rời khỏi hải cảng Brest, tầu Richelieu kéo cờ chào tôi, tầu này đã được trang bị để đi Dakar. Từ Plymouth, tôi đến Luân Đôn, sáng ngày 16 thì tới nơi. Vài phút sau, trong một phòng khách sạn « Hvde Park », tôi đang rửa mặt thì hai ông Corbin và Monnet lại thăm. Trước hết vị đại sứ bảo tin cho biết rạng sáng nay sẽ có những cuộc tiếp xúc của tôi với người Anh để thảo luận vấn đề chuyên chở. Ngoài ra, đã dự định một cuộc hội đàm của ông Churchill với thủ tướng Reynaud ở Concarneau sáng hôm sau, trừ khi nước Pháp xin đình chiến với Đức. Cuộc hội đàm này giải quyết việc chuyên chở, sau đấy, hai người nói sang chuyện khác. Họ nói: « Chúng tôi biết rằng ở Bordeaux, tinh thần thoái bộ lan tràn rất nhanh, vả chăng, trong khi ông đi đường sang đây thì chính phủ Pháp đã gửi điện tín sang xác nhận lời yêu cầu của ông. Paul Reynaud ngày 13, trong một cuộc hội đàm. Ông Paul Reynamđ yêu cầu ông W. Churchill để cho nước Pháp giải ước ký kết ngày 28 tháng ba với nước Anh, chúng ta chưa biết thư trả lời của nước Anh, người ta đợi thư trả lời ấy vào sáng hôm nay. Nhưng chúng ta cho rằng họ sẽ chấp nhận với điều kiện là có bảo đảm cho hạm dội. Như vậy, đã gần tới phút chót rồi. Nhất là Hội Đồng tổng trưởng sẽ họp ở Bordeaux ngày hôm nay, xét tình thế thì hội đồng này sẽ có quyết định chung cục ». Hai ông Corbin và Monnet còn nói thêm rằng : « Chúng tôi nhận thấy hầu như có một yếu tố mới xuất hiện trên thời cuộc và thay đổi ý hướng của mọi người, vì thế mà ông Paul Reynaud thêm cương quyết rút lui về Alger. Bởi thế cho nên chúng tôi đã sửa soạn với ông Robert Vansitlart, thư ký thường trực bộ Ngoại Giao Anh, một kế hoạch có vẻ hấp dẫn. Đày là một đề nghị liên minh Pháp-Anh của chính phủ Luân Đôn long trọng gửi cho chính phủ Bordeaux. Hai nước sẽ quyết định phối hợp các cơ quan công quyền, chung nhau về tài nguyên hay thiệt hại, tóm lại, thực hiện mối tương hệ hoàn toàn của vận mệnh hai quốc gia. Một cuộc vận động như thế và trong lúc này có thể làm cho các bộ trưởng của ta tỉnh ngộ hay ít ra bỏ ý định thoái bộ. Nhưng còn phải làm sao cho chính phủ Anh chấp thuận đề nghị của chúng ta. Chỉ có ông là người có thể làm cho ông Churchill nghe lời. Trong chương trình viếng thăm đã dự định lát nữa ông dùng bữa ăn sáng với Churchill. Đây là cơ hội chót, nếu ông chấp thuận ý kiến này». Tôi đọc bản văn đưa lại cho tôi xem. Tôi nhận thấy ngay rằng cái gì có vẻ vĩ đại cũng không thể thực hiện được mau chóng. Thoáng nhìn cũng thấy ngay rằng không thể trao đổi vài điệp văn mà có thể hợp nhất dù chỉ trên nguyên tắc Pháp với Anh, hai nước có những định chế, quyền lợi và Đế Quốc khác nhau như vậy. cả đến những điểm trong kế hoạch có thể giải quyết trên phương diện thực dụng, cũng cần có những cuộc điều đình phức tạp — Thí dụ việc chung nhau chịu thiệt hại. Nhưng xét đến những đề nghị của chính phủ Anh thì đây là một cách biểu lộ sự đoàn kết, có thể có một ý nghĩa thiết thực. Nhất là tôi cũng nghĩ như các ông Corbin và Monnet rang kế hoạch này có thể đem lại cho ông Paul Reynaud trong lúc ông qua cơn khủng hoảng cùng cực, một yếu tố thuận lợi cho ông để thuyết phục các bộ trưởng. Tôi nhận lời vận động với ông Churchill để ông chấp nhận quan điểm của chúng ta. Buổi sáng hôm ấy công việc túi bụi, Tôi bắt đầu giải quyết vụ tầu Paste, tầu này chở từ Hoa Kỳ sang một ngàn đại bác 75, một ngàn đại liên và nhiều đạn dược. Theo phúc trình của phái đoàn quân sự của chúng ta thì tầu này đang trên đường về đã nhận được lệnh của tôi ở Bordeaux gửi đi, bắt đổi hướng sang một hải cảng ở Anh quốc, Vì tình hình biến chuyến không thuận lợi cho ta nên không thể để cho số vũ khí lớn lao này rơi vào tay địch. Ngoài thực tế thì đại bác và đại liên chở trên tầu Pasteur được dùng để tái võ trang cho quân đội Anh, sau trận Dunkerque họ mất gần hết súng ống. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:12:28 pm Còn về phương diện chuyên chở thì tôi nhận thấy người Anh sốt sắng và thành tâm cung cấp thêm phương tiện cho chúng ta và hộ tống các đoàn tầu, việc thi hành sẽ do Hải Quân Anh thực hiện, liên lạc với phái đoàn Thủy quân của chúng ta dưới quyền chỉ huy của đô đốc Odendhal. Nhưng đã hiển nhiên là ở Luân Đôn người ta không tin rằng nước Pháp chính thức có thể quay trở lại chiến đấu quyết liệt. Những cuộc tiếp xúc của tôi cho tôi biết rằng người Anh sẽ căn cứ vào trường hợp chúng ta bỏ cuộc để tìm biện pháp trên mọi lãnh vực. Bên trên hết, người ta rất lo ngại hạm đội của chúng ta lọt vào tay quân Đức. Trong những giờ phút bi thảm ấy, mỗi người Pháp cảm thấy đè nặng xuống mình câu hỏi câm lặng hay thật sự của mọi người Anh : « Hạm đội của các ông sẽ ra sao ? » Thủ Tướng Anh cũng bận tâm với câu hỏi ấy khi tôi cùng các ông Corbin và Monnet đến dùng cơm sáng với ông tại «Carlton Club». Tôi nói : «Dù có thể nào, người Pháp cũng không tự ý mình nạp hạm đội cho quân Đức. Chính Pétain cũng không chấp nhận như vậy. Vả chăng, hạm đội là thái ấp của Darlan. Một vương hầu phong kiến không, chịu để cho mất thái ấp đâu. Nhưng muốn chắc rằng địch không đặt tay lên hạm đội của chúng tôi, thì chúng tôi phải tiếp tục chiến tranh. Tôi rất tiếc mà phải nói để ông biết rằng thái độ của các ông ở Thành Tours đã làm cho chúng tôi kinh ngạc lắm. Ông có vẻ coi thường sự liên minh của chúng ta. Thái độ thúc thủ của ông chỉ có lợi cho những người nghiêng về giải pháp đầu hàng. Những người này sẽ nói :« Đó, chúng tôi bị dồn vào thế đầu hàng. Chính người Anh cũng bằng lòng như vậy ». Không ! Trong lúc này các ông phải làm cái gì khác để khuyến khích chúng tôi trong cơn nguy biến này». Ồng Churchill có vẻ xúc động, ông bàn định với Thiếu tá Morton, chánh văn phòng của ông một lát. Tôi giả thuyết rằng ông dùng những biện pháp « tối hậu » để sửa đổi một quyết định đã ký rồi. Có lẽ đây là nguyên do một việc xảy ra nửa giờ sau đó ; tại Bordeaux, đại sứ Anh đến đòi lại tận tay ông Paul Reynaud một công hàm vừa trao cho ông theo đó chính phủ Anh chấp thuận trên nguyên tắc rằng nước Pháp có thể yêu cầu nước Đức cho biết điều kiện đình chiến, nếu có thể có. Tôi bàn với ông Churchill dự án liên minh hai dân tộc. Ông bảo tôi : «Lord Halifax đã trình bày với tôi Nhưng đây là một miếng to quá cỡ». Tôi trả lời; «Phải ! Vì thế mà muốn thực hiện thì cần phải có nhiều thời giờ. Nhưng người ta có thể biểu lộ ngay ý chí. Trong lúc này ông không nên chềnh mảng bất cứ điều gì có thể nâng đỡ nước Pháp và duy trì được liên minh của hai nước». Sau một vài câu tranh luận, Thủ Tướng Anh nghiêng về quan điểm của tôi ông triệu tập ngay nội các Anh và thân hành đến Downing Street chủ tọa phiên họp. Tôi cũng theo ông đến đây ; Trong khi các bộ trưởng Anh thảo luận trong phòng họp, tôi ngồi với đại sứ Pháp trong phòng giấy sát bên phòng họp. Trong thời gian ấy, tôi gọi dây nói cho Paul Reynauđ báo cho ông biết rằng tôi hy vọng đến chiều sẽ có thể gởi cho ông một thông tư quan trọng với sự đồng ý của chính phủ Anh. Ông trả lời tôi rằng sẽ hoãn hội đồng bộ trưởng đến 17 giờ nhưng không thể chờ lâu hơn được». Phiên họp nội các Anh kéo dài trong 2 giờ, trong thời gian ấy thỉnh thoảng có một vài bộ trưởng sang gặp tôi để biết đích xác về quan điểm của người Pháp. Bất thần họ đồng loạt kéo nhau vào, đi đầu là ông Churchill. Họ reo lên : «Chúng ta đã đồng ý với nhau !». Quả vậy, ngoại trừ chi tiết, còn thì bản văn họ đem vào cho tôi coi đúng như bản đề nghị của chúng ta. Tôi gọi điện thoại ngay cho Paul Reynauđ và đọc cho ông nghe tải liệu đó. Ông bảo tôi : «Quan trọng lắm ! Tôi sẽ dùng đến trong phiên họp tới đây». Tôi tóm tắt một vài lời khuyến khích ông. Ông Churchill cầm lấy máy : «Allo ! Revnaud ! De Gaulle nói có lý ! Đề nghị của chúng ta có thể có hậu quả lớn lao. Chúng ta phải cầm cự mới được!» Sau khi nghe Revnaud trả lời, ông nói: «Được rồi, ngày mai nhé ! Ở Concarneau». Tôi từ biệt Thủ Tướng Anh. Ông cho tôi mượn một chiếc phi cơ để trở về ngay Bordeaux. Chúng tôi đồng ý ta giữ phi cơ lại Bordeaux đề phòng trường, hợp xảy ra biến cố khi tôi cần trở lại Anh. Ông Churchill cũng phải ra xe hỏa để rồi lên một chiến hạm đến Concarneau. Hồi 21 giờ 30, tôi đáp xuống phi trường Bordeaux. Đại tá Humbert và Auburtin, chánh văn phòng của tôi, đến đón tôi tại phi trường. Họ cho tôi biết rằng Thủ Tướng Reynaud đã xin từ chức và Tổng Thống Lebrun mời thống chế Pétain lập nội các. Sự đầu hàng đã hiển nhiên rồi. Tôi phải quyết định ngay. Sáng hôm sau tôi sẽ ra đi liền. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:32:36 pm Tôi đến gặp Paul Reynaud. Ông không còn ảo tưởng gì về những việc sẽ xảy ra khi Thống Chế xuất hiện trong chính phủ, nhưng ông cũng được nhẹ người về cất được một gánh nặng không chịu nổi. Ông cho tôi cảm tưởng một người đã đạt tới mức cuối cùng của hy vọng. Chỉ những người chứng kiến tận mắt mới có thể ước lượng được người cầm quyền bính phải qua những cuộc thử thách thế nào trong những ngày ghê gớm ấy, Biết bao nhiêu ngày không nghỉ, đêm không ngủ, Thủ Tướng chính phủ cảm thấy đè nặng xuống hai vai mình trách nhiệm toàn diện về vận mệnh nước Pháp. Bởi vì, xưa nay bao giờ cũng vậy, người lãnh đạo chỉ có một mình mình đối diện với đại họa. Những diễn biến đánh dấu từng giai đoạn suy sụp của chúng ta đều đánh thẳng vào người ông : quân Đức chọc thủng Sedan, trận thua lớn ở Dunkerque, cuộc rút lui khỏi Ba Lê, sự suy sụp ở Bordeaux. Tuy nhiên, ông chỉ lên cầm quyền trước ngày xảy ra quốc nạn. Không có thời giờ chuẩn bị để đối phó ; ông đã đề nghị từ lâu một chính sách binh bị có thể tránh được những tai họa ấy. Ống đã dấn thân vào cơn bão tố với tâm hồn chắc chắn của người không lùi bước. Trong những ngày bi thảm ấy chưa lúc nào ông mất tự chủ. Chưa bao giờ người ta thấy ông giận dữ, bất bình hay phàn nàn. Thật là một cảnh đau lòng khi phải chứng kiến một người có tài lỗi lạc như ông phải bó tay thúc thủ để các biến cố nghiền nát. Thực ra, cả tính của ông Paul Beynaud phù hợp với điều kiện chỉ đạo cuộc chiến trong tình trạng trật tự nào đó và dựa trên những nền tảng cổ truyền đã đạt được. Nhưng tất cả đều được quét sạch rồi ! Ông thấy quanh mình ông chế độ sụp đổ, dân chúng bỏ chạy, đồng minh rút về, các tướng lãnh có uy tín nhất ngã lòng. Từ ngày chính phủ di tản khỏi thủ đô, việc điều hành công quyền chỉ còn là một tình trạng hấp hối, một tình trạng tan rã công vụ, kỷ luật và tinh thần. Trong tình trạng ấy, ông Paul Reynaud đem thông minh, can đảm và uy tín của mình áp dụng vào chỗ trống không. Nỗ lực của ông không nhắm vào những biến cố vũ bão. Muốn trở lại nắm vững dây cương thì phải thoát ra ngoài cơn gió lốc, chạy sang Phi Châu và làm lại từ đầu. Ông Paul Reynaud đã trông thấy như vậy. Nhưng phải có những biện pháp cùng cực : thay đổi cấp chỉ huy tối cao, thải hồi Thống Chế và phân nửa các bộ trưởng, bẻ gãy một vài ảnh hưởng tai hại, chịu đựng sự chiếm đóng toàn thể chánh quốc ; tóm lại, ông bị đặt trước một tình trạng chưa hề xảy ra trong lịch sử, vượt hẳn khuôn khổ và phương vị thông thường. Ông Paul Reynaud cho rằng không nên nhận trách nhiệm về mình những quyết định vượt khỏi tầm mức bình thường và sự tính toán quá xa như vậy. Ông tìm các vận dụng tình thế để đạt tới đích. Do đó mà ông có ý xét lại các điều kiện của địch miễn là nước Anh chấp thuận. Hẳn là ông nghĩ rằng những người chủ trương đình chiến cũng không chấp nhận khi họ biết điều kiện của địch, bấy giờ tình hình sẽ đưa đến sự tập hợp mọi quan điểm để theo đuổi cuộc chiến tranh cứu quốc. Nhưng thảm họa xảy đến mạnh như vũ bão không thể vận dụng được tình thế. Theo đuổi cuộc chiến không chút nương tay hay đầu hàng ngay túc khắc, chỉ có hai đường lối cực đoan ấy thôi không có con đường trung dung nào khác Paul Reynaud đã không theo hẳn con đường thứ nhất ông phải nhường chỗ cho Pétain để theo hẳn con đường thứ hai. Cần phải nói rằng vào lúc quyết liệt này chế độ không nói gì đến vị nguyên thủ của Chính phủ cuối cùng nền Đệ Tam Cộng Hoà. Hẳn là nhiều người tại vị không thuận theo giải pháp đầu hàng. Nhưng nhà cầm quyền bàng hoàng trước thảm họa mà họ cảm thấy mình phải gánh trách nhiệm, không phản ứng gì cả. Nước Pháp bị đặt trước một vấn đề trọng đại chi phối hiện tại và tương lai như vậy mà Quốc Hội không họp, chính phủ không đủ sức đưa ra một giải pháp minh bạch, Tổng Thống Cộng Hòa không lên tiếng, mặc dầu chỉ ở hội đồng bộ tưởng, để nói lên quyền lợi tối cao của tổ quốc. Rốt cuộc, sự tan rã chính quyền là nguyên do sâu xa của thảm họa quốc gia. Dưới ánh sáng của tiếng sét, chế độ hiện ra trong tình trạng tàn tật thảm hại, không xứng đáng để bảo vệ danh dự và độc lập của nước Pháp. Đêm đã khuya, tôi đến khách sạn, nơi cư ngụ của ông Ronald Campbell, đại sứ Anh, và nói cho ông biết ý muốn sang Luân Đôn của tôi. Tướng Spears bàn góp với chúng tôi, tuyên bố rằng ông sẽ đi theo tôi. Tôi sai người đến báo tin cho ông PaulReynaud. Ông cấp cho tôi 100.000 quan lấy ở quỹ mật. Tôi yêu cầu ông Margerie gửi ngay cho vợ con tôi ở Carantec giấy thông hành cần thiết để chạy sang Anh ; cả nhà tôi đều đi thoát nhờ có chuyến tầu cuối cùng rời khỏi bến Brest. Ngày 17 tháng sáu và lúc 9 giờ sáng, tôi cùng với tướng Spears và trung úy Coureeldùng chiếc phi cơ hôm qua để trở về Anh. Cuộc khỏi hành không có gì là khó khăn nhưng cũng không có gì là thơ mộng. Chúng tôi bay qua La Rochelle và Rochefort. Trong các hải cảng này tầu đang bốc cháy vì bị phi cơ Đức oanh tạc. Chúng tôi bay qua Paimpont, mẹ tôi ở quận này và đang thời kỳ bệnh nặng. Khu rừng bốc khói đen vì cháy những kho đạn dược ở đây. Sau khi dừng lại một lúc ở Jersey, chúng tôi đến Luân Đòn vào buổi quá trưa. Trong khi tôi đi tìm nhà và Courcel gọi điện thoại cho tòa đại sử và các phải đoàn, tôi đã thấy họ hững hờ lảng tránh rồi ; bây giờ tôi chỉ còn một thần một mình trơ trụi trên đời, như một người đứng trước đại dương mà muốn bơi qua. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:16:07 pm NƯƠC PHÁP TỰ DO Theo đuổi chiến tranh ? Hẳn rồi ! Nhưng với mục đích gì và trong giới hạn nào ? Nhiều người tán thành quan điểm này nhưng không muốn làm gì nhiều hơn việc để cho một dúm người Pháp giúp tay với người Anh còn giữ vững phòng tuyến: Chưa bao giờ tôi muốn theo đuổi chiến tranh bằng cách ấy. Đối với tôi, cái cần phải phục vụ và cứu vãn là dân tộc và chính phủ. Tôi nghĩ rằng trong trận Thế Chiến này, nước Pháp sẽ không còn gì là danh dự, thống nhất, độc lập, nếu nước Pháp đầu hàng và chịu thúc thủ trong tình trạng đầu hàng. Bởi vì, trong trường hợp ấy, cuộc chiến tranh kết liễu thế nào, quân đội ngoại quốc sẽ đẩy lui được kẻ xâm lăng ra khỏi lãnh thổ Pháp hay nước Pháp sẽ sống trong vòng nô lệ, nước Pháp cũng phải ghê tởm mình và làm cho dân tộc khác ghê tởm mình, nước Pháp sẽ đầu độc đời sống mình và linh hồn mình qua nhiều thế hệ. Ngay lúc này, người ta sẽ lấy gì làm chính nghĩa để đưa một số con dân vào một cuộc chiến không phải cuộc chiến của họ ? Đưa người sang phụ giúp lực lượng của một cường quốc khác thì có lợi gì không ? Không! Phải làm cách nào để đưa cả nước. Pháp trở lại cuộc chiến thì mới bõ công cố gắng. Muốn được như vậy thì phải để cho quân đội của ta xuất hiện trên chiến trường, các lãnh thổ của ta trở lại dự chiến, cả nước chia sẻ sự nỗ lực với các chiến sĩ, các cường quốc thừa nhận nước Pháp vẫn tiếp tục chiến đấu, chủ quyền của nước Pháp chuyển giao từ phía những người đầu hàng và chờ đợi sang phía những người chiến đấu, và một ngày kia, chiến thắng. Sự hiểu biết của tôi về người và việc không làm cho tôi có ảo tưởng gì về những khó khăn cần phải vượt qua. Chúng ta còn phải đương đầu với sức mạnh hùng hậu của địch, còn phải lâu ngày mới tiêu mòn được lực lượng của họ, vả chăng họ cũng sẽ được bộ máy chánh quyền Pháp giúp tay để chống lại nước Pháp phục hồi binh lực. Một cuộc chiến tranh lâu dài và kịch liệt sẽ có những khó khăn tinh thần và vật chất cho những người không có phương tiện và xuất hiện với tư thế kẻ nghèo khó. Kẻ bi quan và SỌ’ sệt sẽ chống đối chiến sĩ bằng đủ mọi cách bài xích, vu khống, đồ tội, để che lấp sự thụ động hèn nhát của họ. Người Pháp thích tranh giành, họ không khỏi tạo ra những tổ chức «song song» nhưng thực ra cạnh tranh và kình chống nhau, ngoại bang sẽ dùng họ để lợi dụng họ theo thường lệ. Về phần những kẻ có mục đích phá hoại thì họ muốn thao túng phong trào kháng chiến quốc gia, đưa đến tình trạng hỗn loạn để làm bùng nổ cách mạng và áp đặt chính thể cộng hòa. Sau hết; các đại cường cũng có khuynh hường nhân tình trạng suy yếu của nước Pháp mà mưu tính quyền lợi của họ có hại cho nước Pháp. Còn như tôi, tôi có ngưỡng vọng leo một triền dốc như vậy, lúc dầu tôi không có gì cả. Bên cạnh tôi không có sức mạnh nào, một tổ chức nào. Tại Pháp, không ai biết tới, không ai hướng ứng lời kêu gọi. Tại ngoại quốc, không ai tín nhiệm và cũng không có cách nào biện minh lập trường của mình. Nhưng chính tình trạng trơ trụi ấy lại vạch ra con đường hành động của tôi. Chỉ có cách dốc lòng phụng sự chính nghĩa quốc gia là tôi tạo được uy tín. Chỉ có cách tỏ ra người cương quyết bênh vực quốc dân và chính phủ là tôi có thể quy tụ được những người Pháp nghe theo tôi hay nức lòng vì chính nghĩa để người ngoài kính trọng và vị nể. Trong những ngày thê thảm đã qua, những người tức giận vì thái độ cứng rắn của tôi, không muốn tin rằng tôi cố sức ngăn ngừa những áp lực chống đối tôi vì trong lúc này một sự mềm yếu nhỏ cũng đưa đến sự sụp đổ. Tóm lại, tuy địa vị của tôi khiêm tốn và cô đơn, nhưng chính vì thế mà tôi cần phải leo lên đỉnh cao và không bao giờ xuống nữa. Việc thứ nhất phải làm là thượng quốc kỳ. Có thể dùng được đài phát thanh. Từ chiều ngày 17 tháng sáu tôi đã trình bày ý kiến của tôi với ông Winston Churchill. Là một mảnh ván trời giạt sang bờ biển nước Anh tôi có thể làm gì được nếu không có sự giúp đỡ của ông ta ? ông bằng lòng ngay và để bắt đầu, ông cho phép lời sử dụng đài BBC. Chúng tôi đồng ý là tôi sẽ lên tiếng khi nào chính phủ Pétain xin đình chiến với Đức. Người ta được tin ông đã làm ngay từ tối hôm ấy. Hôm sau, vào lúc 18 giờ tôi đọc trước máy phóng âm, bản văn mà người ta đã biết. Từ khi tung những lời quyết liệt ấy đi, tôi cảm thấy tôi đã chấm dứt một cuộc đời, cuộc đời sống trong khung cảnh nước Pháp vững mạnh, quân đội không chia rẽ. Năm 49 tuổi tôi bước vào một cuộc phiêu lưu như một người bị số mệnh ném ra ngoài cuộc đời. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:16:23 pm Tuy nhiên, trên bước đi chập chững vào cuộc đời không tiền khoáng hậu này, tôi còn có bồn phận phải xét lại xem có một quyền hành nào có tư cách hơn tôi để đảm nhiệm được việc đưa nước Pháp và Đế Quốc trở lại cuộc chiến. Khi mà cuộc đình chiến chưa thực thi thì người ta còn có thể tưởng tượng— dù trái với sự thực rất xa - rằng chính phủ Bordeaux rồi sẽ lựa chọn việc tiếp tục cuộc chiến. Bởi thế cho nên, ngay từ khi mới đến Luân Đòn chiều ngày 17, tôi đã đánh điện về Bordeaux xin đảm nhiệm việc ở lại Anh quốc để điều đình viện trợ Hoa Kỳ, tù binh Đức và vận tải sang Phi Châu. Thư trả lời là một bức điện tín bách thúc tôi phải về Pháp ngay. Ngày 20 tháng sáu tôi viết thư cho tướng Weygand, ông đã ngồi vào chính phủ đầu hàng với chức vụ kỳ dị ; « bộ trưởng Quốc Phòng», tôi khẩn khoản yêu cầu ông đứng đầu phong trào kháng chiến và đoán chắc với ông rằng nếu ông nhận lời, tôi sẽ hoàn toàn phục tòng ông. Nhưng vài tuần lễ sau, bức thư được trao lại cho người gửi với lời phê phán có thể nói là hiểm độc. Ngày 30 tháng sáu, « tòa đại sứ Pháp » thông báo cho tôi biết lệnh phải tự mình làm tù binh tại nhà giam Saint - Michel ở Toulouse đợi Tòa Án Chiến Tranh nghị sử. Tòa án này trước còn phạt tôi 4 năm tù. Sau, theo lời yêu cầu của « bộ trưởng» muốn chọn thảm họa nhỏ nhoi nhất, họ khép tôi vào tội tử hình. Vả chăng, tôi đã tính trước thái độ của Bordeaux, tôi đã quay hướng về các nhà cầm quyền ở hải ngoại. Ngay từ ngày 19 tháng sáu, tôi đã gửi điện văn, cho tướng Noguès, tư lệnh quân đội đặt mình dưới quyền chỉ huy của ông, nến ông không chấp nhận cuộc đình chiến. Ngay tối hôm ẩy, nói trên đài phát thanh, tôi đã kêu gọi khẩn thiết: «Phi châu của Claurel, Bugeaud, Lyautey, Noguès, hãy từ khước điều kiện của địch ». Ngày 24 tháng sáu, tôi gửi điện văn đi lần nữa, kêu gọi Noguès và Cao ủy Trung Đông, tướng Catroux, Toàn Quyền Đông Dương. Tôi gọi y cho những nhà cầm quyền ấy thành lập ngay một cơ quan phòng vệ Đế Quốc, tôi có thể giữ nhiệm vụ liên lạc họ ngay với Luân Đôn. Ngày 27 tháng sáu, sau khi biết tin một bài diễn văn gây gổ của ông Peyrouton, thống sử Tunisie, tôi bách thúc ông phải gia nhập « Ủy Ban Phòng Vệ», đồng thời nhắc lại lời nói tướng Mittelhauser và ông Puaux. Cũng ngày hôm ấy, tình cờ tôi giữ chỗ cho tôi và các sĩ quan của tôi trên một chiếc tầu buôn Pháp sắp sửa khởi hành đi Maroc. Để trả lời tôi, tôi chỉ nhận được một bức điện tín của đô đốc de Carpentier, chỉ huy hạm đội Trung Đông, ông bảo tin cho tôi biết rằng ông Puaux và tướng Mittelhauser đã gửi điện văn cho tướng Noguès cũng theo ý kiến của tôi. Ngoài ra, một người con của tướng Catroux có mặt ở Luân Đòn, đem lại cho tôi coi một bức thư của Catroux nhắn con đến bày tỏ với tội sự biểu đồng tình của ông. Nhưng, đồng thời, người Anh cũng gửi sang Bắc Phi ông Duff Cooper, nhân viên Nội Các, và tướng Gort, để điều đình với tướng Noguès nhận sự tiếp sức của quân đội Anh, nhưng phái đoàn của họ phải trở về Luân Đôn, không được tướng Noguès tiếp đón. Sau hết, tướng Dillon, trưởng đoàn liên lạc quân sự Anh ở Bắc Phi, bị trục xuất khỏi Alger. Nhưng, việc làm thứ nhất, của Noguès là đưa cao lá quốc kỳ. Người ta biết rằng khi biết rõ điều kiện của Đức, ngày 25 tháng sáu ông gửi điện tín về Bordeaux cho biết rằng ông sẵn sàng tiếp tục chiến đấu. Ông dùng danh từ tôi đã đưa ra trên đài phát thanh 6 ngày trước đây, để nhắc đến « sự kinh hoảng của Bordeaux» làm cho chính phủ « không xét định một cách khách quan khả năng chống cự của Bắc Phi». Ông yêu cầu Weygand « xét lại mệnh lệnh thi hành cuộc đình chiến» và kháng nghị rằng nếu giữ nguyên mệnh lệnh ấy, « thì ông chỉ có thể đó mặt tía tai mà thi hành ». Đã rõ là nếu Noguès chọn con đường kháng chiến thì toàn thể Đế Quốc sẽ theo gương ông. Nhưng chẳng bao lâu, chính ông và các thống sứ, toàn quyền, tổng tư lệnh, đều nghe theo lệnh đốc thúc của Pétain và Weygand, chấp nhận đinh chiến. Chỉ có tướng Catroux, toàn quyền Đông Dương và tướng Legentilhomme, chỉ huy bộ đội Somalis, không chấp nhận đình chiến, cả hai người đều bị thay thế, mà những người dưới quyền họ không làm gì để nâng đỡ họ. Vả chăng, sự suy sụp của phần lớn các người cầm quyền ở lãnh địa hải ngoại, cũng phù hợp với sự sụp đổ chánh trị toàn diện ở chánh quốc. Báo chí từ Bordeaux và Vichy gửi sang đều chấp nhận quyết định của chính phủ Retain, cả các đảng phái, đoàn thể, tổ chức. Quốc Hội nhỏm họp ngày 9 và 10 tháng bảy, trao trọn quyền cho thống chế Pétain gần như không tranh luận gì cả. Thực ra, 80 dân biểu có mặt đã can đảm bỏ phiếu chống lại sự thoái bộ. Mặt khác, những dân biểu lên tầu Massilia Sang Bắc Phi đã tỏ ý cho mọi người biết rằng đối với họ Đế Quốc không thể ngừng cuộc chiến. Tuy nhiên, không có một người nào trong các giới chính thức cầm quyền lên tiếng bác bỏ cuộc đình chiến. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:16:39 pm Vả chăng, tuy Pháp sụp đổ đã làm cho hoàn cầu kinh ngạc, tuy quần chúng trên hoàn cầu nhìn ngọn đuốc sáng tắt phụt trong lo ngại, tuy thơ của Charles Morgan hay bài báo của Francois Mauriac đã làm cho biết bao người cảm động rơi lệ, nhưng các chính phủ đồng minh, chẳng bao lâu, cũng coi như việc đã rồi. Các chính phủ lâm chiến với phe trục đều gọi đại sứ của họ về nước, hoặc họ tự ý gọi về như trường hợp Sir Ronald Campell hay tướng Vanier, hoặc người Đức bắt buộc họ phải về nước. Nhưng tại Luân Đòn vẫn còn một lãnh sự ở trong dinh tự tòa Đại Sứ Pháp, giữ liên lạc với chánh quốc ; trong khi ấy thì ông Dupuis, tổng lãnh sự Gia Nà Đại vẫn ở lại bên cạnh Thống Chế. Liên Hiệp Nam Phi cũng để lại đại diện. Nhất là, tại Vichy, còn một ngoại giao đoàn quan trọng, quy tụ xung quanh Đức ông Valerio Valeri, khâm mạng của Giáo Hoàng, xung quanh ông Bogomolov, đại sứ Liên Sô, sau này xung quanh đô đốc Leahy, đại sứ Hiệp Chủng Quốc. Tình trạng ấy đã làm nguội dần vê hăng hái của những nhân vật mà trước đây đã có hành động hưởng về phong trào Pháp chiến đấu. Như vậy, tại Pháp cũng như tại các quốc gia khác, SỌ’ hãi, quyền lợi và thất vọng đã phối hợp ảnh hướng với nhau để đưa nước Pháp đến sư thoái bộ toàn diện. Nhiều người tâm huyết còn trung thành với quá khứ, nhiều sự tính toán còn muốn lợi dụng những mảnh vụn hiện tại để sót lại nhưng trên đời này không có một người nào hành động như vẫn tin tưởng độc lập, danh dự và hùng mạnh của tổ quốc. Đã như vậy thì những người chấp nhận như một việc đã rồi sẽ đè hạ, ô nhục và hèn nhát đến đâu. Trước sự trống rỗng hãi hùng của cảnh thoải bộ toàn diện, sứ mạng của tôi, bất thần hiện ra xán lạn nhưng cũng ghê SỌ’. Trong lúc lịch sử qua cuộc thử thách gay go nhất, tôi phải nhận lấy trách nhiệm cứu quốc. Nhưng không làm gì có nước Pháp nếu không có kiếm cung. Trước hết phải tạo lập lấy một lực lượng chiến đấu. Tôi đem hết tâm trí ra tổ chức lực lượng ấy. Một vài đơn vị quân sự còn ở lại nước Anh. Trước hết là những đơn vị của Sư Đoàn Khinh Binh xứ Alpes, họ đã chiến đấu anh dũng tại Na Uy dưới sự chỉ huy của tướng Béthouart, sau trở về Bretagne giữa tháng sáu và cùng xuống tàu sang Anh với quân đội Anh. Phần khác là những chiến thuyền — tất cả gần 100.000 tấn — trú ẩn ở Cherbourg, Brest, Lorient, ngoài các thủy thủ ra còn nhiều người phụ dịch khác, tổng cộng đến 10.000 thủy binh. Ngoài ra, cũng còn nhiều ngàn thương binh ở Bỉ được đưa về điều trị ở Anh quốc. Các phái đoàn quân sự Pháp đã tổ chức việc chỉ huy và quản trị những lực lượng ấy,đặt dưới quyền của Vichy đợi ngày hồi hương. Nguyên một việc tiếp xúc với những yếu tố đa tạp và rời rạc ấy đối với tôi đã cực kỳ khó khăn. Trước hết tôi chỉ có một số ít sĩ quan, tất cả đều ở cấp dưới, họ có nhiều thiện chí, nhưng không có đủ uy tín để vượt qua hệ thống cấp bậc. Điều họ có thể làm được và họ đã làm là tuyên truyền để lấy lòng các cấp cao hơn và những người tiếp xúc với họ. Kết quả yếu kém. Tám ngày sau lời kêu gọi ngày 18 tháng sáu của tôi, số người tình nguyện đến họp tại rạp Olympia của người Anh cho mượn chỉ có độ vài trăm người. Cằn phải nói rằng nhà cầm quyền Anh không thuận ý cho chúng tôi hoạt động. Đành rằng họ đã phát ra truyền đơn báo cho quân nhân Pháp biết rằng có thể lựa chọn một trong ba trường hợp : Hồi hương, theo tướng de Gaulle hay nhập các đơn vị lực lượmg Hoàng Gia. Hẳn là Churchill có ra chỉ thị ; Spears, người liên lạc Pháp Tự Do với các cơ quan công quyền Anh, đã nhiều lần can thiệp ; có khi họ làm cho người Pháp ở đây bớt nọa tính và chống đối. Hẳn là báo chí và đài phát thanh, nhiều đoàn thể, nhiều tư nhân nhiệt liệt ủng hộ và tuyên truyền cho chúng tôi. Nhưng bộ chỉ huy Anh đang chờ đợi Đức tấn công không biết ngày nào, họ còn SỌ' bị xàm lăng là khác, họ dồn nỗ lực vào việc chuẩn bị ứng chiến của họ chứ không để ý đến một loại công việc mà họ cho là thứ yếu. Vả chăng, theo tiện dụng và thói quen nghề nghiệp, họ nghiêng về sự tôn trọng lớp trật tự đã hình thành, nghĩa là chính phủ Vichy và các phái đoàn của Vichy. Sau hết, họ cũng không thể tin được những người đồng minh với họ trước đây, nhưng bây giờ nhục nhã vì đau khỏ, bất mãn với mình và với người, oán trách người này và người khác. Những người như vậy sẽ làm gì nếu địch kéo ùa sang đây ? Tốt hơn hết là nên đưa họ về Pháp càng sớm càng hay ? Và nói cho cùng thì một vài đại đội không có cấp chỉ huy và không có bộ tham mưu của tướng de Gaulle phỏng có làm được việc gì ? Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:17:01 pm Ngày 29 tháng sáu, tôi đến Tren tham - Park, nơi đóng quân của sư đoàn nhẹ Sơn Cước. Tướng chỉ huy Sư Đoàn cũng muốn trở về Pháp, tuy rằng có ý định sau sẽ trở lại mặt trận — vả chăng sau này ông trở lại chiến đấu anh dũng. Nhưng ông đã xếp đặt để tôi có thể gặp từng bộ đội tập hợp ở một nơi. Bởi thế cho nên tôi có thể quy tụ được phần lớn hai đại đội của Bán Lữ Đoàn 13 Đội Lê Dương, chỉ huy trưởng là trung tá Magrin-Verne- ret, hiệu Monclar, và viên phụ tá của ông, đại úy Koenig, hai trăm khinh binh miền Alpes, hai phần ba một đội chiến xa, nhiều sĩ quan tham mưu và dịch vụ, trong số đó có thiếu tá Conchard, các đại tá Dewavrin và Tissier. Tôi đã làm được việc ấy tuy rằng sau khi ra khỏi trại, các đại tá Anh Chair và Williams‘của Cục Chiến Tranh gửi đến, đã hội họp mọi người lại nói thẳng cho họ biết : «Anh em có tự do để theo tướng de Gaulle. Nhưng chúng tôi cần lấy tư tình mà cho anh em biết : nếu anh em quyết định con đường ấy thì anh em sẽ bị coi như chống lại chính phủ của anh em đó... ». Ngày hôm sau, tôi muốn đến thăm các trại Aintree và Haydock, nơi tập trung nhiều ngàn thủy binh Pháp. Mới đến nơi, vị đề đốc Anh ở Liverpool cho tôi biết ông không muốn để tôi thăm quân lính của ông vì có thể phương hại đến trật tự trong hàng ngũ. Tôi đành trở về không. Vài ngày sau tôi được may mắn hơn khi đến Harrow-Park. Dẫu sao thì trong hàng ngũ của thủy thủ Pháp cũng có một phong trào đầu quân. Một vài sĩ quan quyết định theo tôi ngay và tận tâm phục vụ tổ quốc như các Hải Quân Thiếu Tá D‘ Argenlieu, Wietzel, Moulec, Jourđen. Thủy thủ và sĩ quan của ba chiếc tàu nhỏ : Tiềm thủy đĩnh Rubis (chỉ huy trưởng Cabanier), vẫn hoạt động ở bờ biền Na Uy, Tiềm thủy đĩnh Narưal (chỉ huy trưởng Drogou), nghe lời kêu gọi của tôi bèn rời khỏi Sfax và đến Malte, Sau này bị đánh chìm khi hoạt động ở Địa Trung Hải ; tầu kéo lưới President Honduce (chỉ huy trưởng Deschatres) Việc hồi chánh của phó đề đốc Muselier cho phép tôi thành lập một trung tâm và một nền móng kỹ thuật cho tổ chức hải quân sau này. Cá nhân ông và xích mích nghề nghiệp đã làm cho nhiều người trong Hải quân chống đối ông, nhưng ông là người thông minh và thảo vát có thể giúp ích nhiều cho tôi trong giai đoạn phiêu lưu này. Trong khi ấy, vài chục phi công tôi gặp ở trại Saint - Atham đã quy tụ xung quanh các đại úy de Rancourt, Astier de Villatte, Bécourt - Foch đợi sự chỉ huy của thiếu tá Pijeaud. Nhiều người tình nguyện lẻ tẻ đến nước Anh mỗi ngày mỗi đông. Thường thường họ từ Pháp sang, đáp những chuyến tầu cuối cùng chạy hàng ngày, hay những tầu nhỏ hơn mà họ bắt gặp, hay đi qua I Pha Nho và đã thoát tay sở cảnh sát xứ này. Cảnh sát bắt giam những người bắt được ở trại Miranda. Nhiều phi công lấy được phi cơ của Vichy đã trốn thoát khỏi Bắc Phi và đáp xuống Gibraltar. Nhiều thương thuyền ngẫu nhiên ra khỏi các hải cảng Pháp hay nhân tầu của họ chạy thoát được — thí dụ chiếc Capo Olmo, thuyền trưởng Vuillemain — đều đến xin tham dự cuộc chiến. Những người Pháp sống ở ngoại quốc cũng xin đầu quân. Nhân việc tiếp đón tại White City 2000 thương binh trận Dunkerque, nằm dưỡng bệnh trong các bệnh viện Anh, tôi triệu tập 200 người đầu quân. Một đại đội thuộc địa thuộc Quân Đoàn Trung Đông và đóng ở Chypre, đã tự ý về tập kết với vị chỉ huy trưởng Lorotte. Trong những ngày cuối tháng sáu, một đội tầu đánh cá đến Cornouailles chở theo tất cả trai tráng ở đảo Sein. Ngày lại ngày, nhiều thanh niên hăng hái trở lại hàng ngũ của chúng tôi làm cho chúng tôi thêm quyết chí, nhiều người đã phải qua nhiều bước gian nan mạo hiểm mới về được đến nơi. Các sĩ quan của tôi và phái đoàn Spears đã dùng hết tài khôn khéo và vận động để lo việc chuyên chở họ, Bất thình lình, một biến cố tệ hại làm đình trệ phong trào tập kết ấy. Ngày mùng 4 tháng bảy, đài phát thanh và háo chỉ báo tin hạm đội Anh ở Địa Trung Hải hôm qua đã đánh hạm đội Pháp đậu ở Mers-el-Kébir. Đồng thời chúng tôi cũng biết tin người Anh đã đánh úp những tầu chiến Pháp đậu trong các hải cảng Anh, bắt giam bộ tham mưu và thủy thủ— có giao tranh, đẫm máu. Sau hết, ngày mùng 10 có tin phi cơ Anh đã bắn phá thiết giáp hạm Richelieu bỏ neo tại bến Dakar. Các thông cáo chánh thức và truyền đơn ở Luân Đòn có ý trình bày những vụ uy hiếp ấy như những chiến công hải lực của họ đã rõ là sự lo SỌ' nguy hiểm, vết tích những cuộc tranh giành ưu thế trên mặt biển ngày trước, những sự oán hờn từ lúc khởi sự cuộc chiến và sau khi đình chiến, đều là những nguyên nhân sâu xa làm cho chính phủ và Hải Quân Anh bùng ra những vụ xung đột ấy ; đây cũng là lối thoát cho những bản năng dồn nén của một dân tộc ; cũng vì những bản năng dồn nén ấy mà có khi họ có sức mạnh để phá đổ mọi thành trì ngăn cản. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:17:22 pm Nhưng không thể cho rằng hạm đội Pháp đã tự mình có những hành động căm thù đối với người Anh. Từ ngày tôi đến Luân Đôn tôi không ngừng nhắc lại điều ấy với chính phủ Anh và Hải Quân Anh. Vả chăng, tôi chắc rằng Darlan tuy không kể gì đến những lý do quyền lợi quốc gia nhưng cũng không khi nào trao Hải Quân Pháp cho người Đức vì ông cho là tài sản của riêng ông vậy. Xét cho cùng, Darlan và thuộc hạ của ông không chịu đóng vai trò cứu quốc tạo ra bởi biến cố trong khi họ giữ được hạm đội nguyên vẹn, ấy chỉ vì họ không chắc rằng sẽ bảo vệ được hạm đội ấy. Ông Alexander, tư lệnh Hải quân, Lord Lloyd, bộ trưởng Thuộc Địa, đô đốc Sư Dudley Pound, đến Bordeaux ngày 18 tháng sáu, đã được Darlan lấy danh dự mà hứa rằng không khi nào trao hạm đội của ông cho địch, Pétain và Bauđouin cũng long trọng cam kết như vậy. Sau hết, trái với tin đồn của các hãng thông tấn Anh và Mỹ tung ra, các điều khoản đình chiến không nói gì đến việc quân Đức được quyền sử dụng trực tiếp hạm đội Pháp. Nhưng ai cũng phải thừa nhận rằng đáng trước hành động đầu hàng của nhà cầm quyền Bordeaux và viễn tượng họ có thể hèn yếu sau này, người Anh có thể lo ngại một ngày kia địch sẽ chiếm được hạm đội của chúng ta. Trong trường hợp ấy nước Anh sẽ bị đe dọa trầm trọng. Mặc dầu chúng tôi đau đớ11 và tức giận vì thảm kịch Mers - et - Kébir, vì hành động của người Anh mà họ lấy làm vinh dự, tôi cũng nghĩ rằng phải đặt tiền đồ của nước Pháp lên trên hết, không được đếm xỉa đến số phận của hạm đội; bổn phận của chúng tôi là phải tiếp tục cuộc chiến. Ngay mùng 8 tháng bảy tôi giải thích công khai quan điểm của tôi trên đài phát thanh. Chính phủ Anh theo bản phúc trình của ông Duff Cooper, bộ trướng Thông Tin, đã tỏ ra khéo léo cao kỳ khi để tôi sử dụng đài BBc mặc dầu lời tuyên bố của không làm vừa lòng người Anh chút nào. Nhưng đó là một nhát búa ghê gớm giáng xuống niềm hy vọng của chúng ta, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuyển mộ binh sĩ của chúng ta. Nhiều người, quân nhân hay dân sự sắp sửa đi theo chúng ta đã quay gót về. Ngoài ra, thái độ của các nhà cầm quyền ở Đế Quốc Pháp và của những đơn vị hải quân và bộ binh, trước thuận lợi cho chúng ta tuy còn ngập ngừng, sau đấy đổi ra ác cảm. Tất nhiên, Vichy không bỏ lỡ cơ hội họ đã khai thác triệt để tình trạng ấy. Hậu quả thật là tai hại đối với việc hồi chánh những lãnh thổ Phi Châu. Tuy nhiên chúng tôi vẫn tiếp tục công việc. Ngày 13 tháng bảy, tôi mạo hiểm tung tin : « Hỡi người Pháp! Các bạn nên biết rằng các bạn còn có một đạo quân chiến đấu ». Ngày 14 tháng bảy, tại Whitehall tôi duyệt những toán quân đầu tiên giữa một đám đông vô cùng xúc động, sau đấy tôi dẫn đầu họ đến đặt vòng hoa tam tài trước tượng thống chế Foch. Ngày 21 tháng bảy tôi xin được phép cho nhiều phi công của chúng ta dự trận oanh tạc miền Ruhr và công bố rằng những người Pháp Tự Do đã trở lại chiến đấu. Trong thời gian ấy, theo ý kiến của d’Argenlieu, tất cả các đơn vị đều dùng Thập Tự Lorraine làm phù hiệu. Ngày 24 tháng tám, Vua George VI đến thăm đạo quân nhỏ bé của chúng tôi Xem như vậy thì người ta có thể cho rằng « khúc kiếm » đã tôi già rồi. Nhưng than ôi! khúc ấy ngắn quả ! Hết tháng bảy tổng số quân chưa được 7.000 người. Đấy là tất cả quân số mộ được ở bên Anh những yếu tố quân sự không theo chúng tôi bây giờ đã lên tầu về nước. Chúng tôi phải khó nhọc mới thâu hồi được khí giới và quân cụ để tại chỗ, người Anh và các đồng minh khác cũng tìm cách chiếm đoạt số vũ khí ấy. Còn như tầu bè thì chúng tôi chỉ võ trang được một vài chiếc, chúng tôi tất đau lòng mà thấy tàu bè của ta thượng cờ ngoại quốc. Dầu sao thì dần dần chúng ta cũng thành lập được những sư đoàn thứ nhất, với những phương tiện rời rạc, nhưng toàn là những người cương quyết. Những người này thuộc loại người dũng mãnh, những chiến sĩ của mặt trận kháng chiến Pháp sau này ở bất cứ nơi nào đều thuộc về loại người này. Họ đều ưa mạo hiểm và phiêu lưu và say mê như nghệ thuật, họ khinh bỉ những người ươn hèn và lãnh đạm, gặp những lúc không có cơ hội để mạo hiềm họ trở nên buồn bực và hay gây sự với nhau, đến lúc hoạt động họ hăng say đoán kết với nhau, trong cơn quốc nạn và đụng chạm với các đồng minh sống đầy đủ hơn, họ có ý thức cao độ về danh dự tổ quốc, điều đáng kể hơn hết là họ tin tưởng tuyệt đối sức mạnh và mưu chước của đoàn thể họ ; đó là những nét tâm lý của nhóm người ưu tú không đáng kể vào đâu trong lúc này, nhưng dần dần lớn mạnh và thu hút được toàn thể quốc gia và Đế Quốc Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:17:41 pm Trong khi chúng tôi cố đào luyện lấy ít nhiều lực lượng thì lại đặt ra vấn đề liên lạc với chính phủ Anh Quốc, vả chăng nước Anh sẵn sàng điều chỉnh mới liên lạc ấy, không phải vì sở thích minh bạch pháp lý mà vì ý muốn bắt những người Pháp chiến đấu khả ương ngạnh tuy dễ thương này phải theo kỷ luật quốc gia khi sống trên lãnh thổ của Anh Hoàng. Ngay từ lúc đầu, tôi đã thảo luận với ông Churchill về ý muốn của tôi triệu tập một «Ủy Hội Quốc Gia» nếu có thể được để chỉ đạo nỗ lực chiến tranh. Để giúp đỡ chúng tôi, ngày 23 tháng sáu, chính phủ Anh đã công bố hai bản tuyên cáo. Bản thứ nhất không thừa nhận nền độc lập của chính phủ Bordeaux. Bản thứ hai ghi nhận sự thành lập một Ủy Hội Quốc Gia Phán và có ý thừa nhận Ủy Hội ấy để thảo luận mọi vấn đề liên hệ đến việc tiếp tục cuộc chiến. Ngày 23 tháng sáu, chính phủ Anh tung ra một thông cáo ghi nhận ý muốn kháng chiến của nhiều cơ quan công quyền tối cao tại Đế Quốc Pháp và đề nghị giúp đỡ những cơ quan ấy. Sau đấy, không thấy ai hưởng ứng, nội các Anh lại trở lại với một mình tướng de Gaulle và ngày 28 tháng sáu, quyết định thừa nhận công khai ông ta là « lãnh tụ của người Pháp Tự Do». Với tư cách ấy, tôi thảo luận với Thủ Tướng Anh và bộ Ngoại Giao các vấn đề cần thiết. Khởi điểm là một bức giác thư của tôi gửi đến ông Churchill và ông Halifax ngày 26 tháng sáu. Kết quả là thỏa ước ngày 7 tháng tám 1940 ra đời. Nhiều điều khoản được tôi bênh vực triệt để làm cho cuộc tranh luận của hai phái đoàn rất gay go : Ông Strang, phái đoàn đồng minh, giáo sư René Gassin, phải đoàn của chúng ta. Một mặt tôi đặt giả thuyết tình hình chiến tranh có thể đưa đến nước Anh đến chỗ chấp nhận cuộc dàn hòa, mặt khác tôi nghĩ đến trường hợp người Anh có thể dòm ngó phần lãnh địa hải ngoại nào đó của chúng ta, tôi đòi hỏi cho bằng được nước Anh cam kết lập lại biên giới chánh quốc và Đế Quốc Pháp. Người Anh chấp nhận sẽ « tái lập hoàn toàn nền độc lập và sự hùng mạnh của nước Pháp» nhưng không cam kết gì về sự toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta. Tuy rằng tôi tin chắc các cuộc hành quân chung trên mặt đất, trên mặt biển và không trung phải do các cấp lãnh đạo người Anh đảm nhận việc chỉ huy vì người Anh có tỷ lệ quân số cao hơn, nhưng tôi đòi hỏi cho lực lượng Pháp có quyền « tư lệnh tối cao » của mình, và chỉ nhận « chỉ thị tổng quát của Tư lệnh tối cao Anh ». Như vậy là chúng tôi bảo vệ được tính chất quốc gia của quân đội. Tôi còn nói rõ rằng trong bất cứ trường hợp nào quân tình nguyện cũng « không quay súng bắn lại nước Pháp », điều này không tránh được sự phản đối của người Anh. Điều khoản này không có nghĩa là họ không đánh lại người Pháp. Trái lại, cần phải đánh lại Vichy, mà Vichy chỉ là người Pháp chứ không phải nước Pháp. Điều khoản này nhắm vào sự kiện quân đồng minh, có quân ta đi theo, khi phải đụng độ với lực lượng của nước Pháp chính thức, cũng không dùng để chống lại nước Pháp chân thực, không phá hoại tài nguyên và quyền lợi của nước Pháp chân thực. Theo thỏa ước thì ngân khoản dành cho lực lượng Pháp Tự Do lúc đầu tạm vay chính phủ Anh vì chúng ta không có một nguồn tài nguyên nào, nhưng tôi nhất quyết ghi rõ rằng đây chỉ là tiền ứng trước và một ngày kia chúng ta sẽ hoàn lại sau khi khấu trừ những khoản thanh toán bằng dịch vụ mà chúng ta cung cấp cho họ. Sự thanh toán toàn số sẽ thực hiện dần ngay trong lúc còn chiến tranh để sau này ngân khoản chiến tranh của chúng ta không để cho nước Anh phải gánh chịu bất cứ trong phạm vi nào. Sau hết, mặc dầu quân Anh thu hút một số trọng tải hải thuyền khổng lồ để chuyên chở lực lượng của họ, chúng ta cũng điều đình được để họ lập một « liên lạc thường xuyên » giữa các cơ quan của họ và của chúng ta, để quy định «việc sử dụng thương thuyền Pháp và thủy thủ Pháp ». Churchill và tôi cùng ký bản tài liệu này tại Chequers. Thỏa ước ngày mùng 7 tháng tám có tầm quan trọng lớn đối với Pháp Tự Do, không những vì ngay lúc này chúng ta không phải lúng túng với vấn đề tài chánh, mà nhà cầm quyền Anh có căn bản chánh thức để giao thiệp với chúng ta, họ sẽ dành cho chúng ta nhiều sự dễ dàng. Nhất là thế giới nhìn thấy đã bắt đầu tái lặp sự liên minh Pháp Anh mặc dầu tình thế không thuận lợi. Chẳng bao lâu hậu quả tốt lành đã lan tràn đến một vài lãnh thổ Đế Quốc và một số người Pháp sống ở ngoại quốc. Nhiều nước khác nhận thấy nước Anh đi bước đầu đến việc thừa nhận Pháp Tự Do, cũng đi theo con đường ấy. Trước hết là trường hợp những chính phủ lưu vong tại Anh quốc ; hẳn là lực lượng của những quốc gia ấy chẳng có là bao nhưng họ vẫn có đại diện và ảnh hưởng quốc tế. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:18:12 pm Bởi vì, mỗi quốc gia Âu Châu bị quân của Hitler xàm lăng, chính phủ của họ đều thiên di độc lập và chủ quyền sang các mảnh đất tự do, sau này, những quốc gia khác bị Đức và Ý chiếm cứ lãnh thổ cũng hành động như vậy. Không có một chính phủ nào chấp nhận sự đô hộ của kẻ xâm lăng, ngoại trừ cái gọi là chính phủ Pháp, ấy thế mà nước Pháp có một Đế Quốc to rộng bảo vệ bằng những lực lượng lớn mạnh và một trong những hạm đội hùng mạnh nhất thế giới ! Từ ngày xảy ra cuộc thảm bại tháng sáu, Anh Quốc là nơi trú chân của quốc vương và bộ trưởng các nước Na Uy, Hòa Lan, Lục Xâm Bảo, rồi đến lượt Tổng Thống Cộng Hòa và các bộ trướng Ba Lan, chậm hơn vài ngày, đến lượt Nội Các Bỉ. Người Tiệp Khắc tìm cách tổ chức nội bộ. Quốc vương Albanie tiếp xúc với một vài nơi Nước Anh có sáng kiến tiếp đón các chính phủ lưu vong ấy trong tinh thần độ lượng nhưng cũng có tính toán. Mặc dầu họ bị tước đoạt nhiều nhưng họ vẫn còn chút ít. Nhiều người mang theo vàng và ngoại tệ. Người Hòa Lan còn có Indonesia và một hạm đội đáng kể, người Bỉ còn có xứ Congo, người Ba Lan có một đạo quân nhỏ, người Na Uy có nhiều thương thuyền, người Tiệp Khắc, đúng hơn, Thủ Tướng Benès, có một hệ thống thông tin ở Trung và Đông Âu và họ có liên lạc tốt đẹp với người Mỹ. Ngoài ra, người Anh cũng muốn gây uy tín cho một nước Anh xuất hiện như thành trì cuối cùng của cựu thế giới đang lúc nguy vong. Đối với những người bạn lưu vong đó, Pháp Tự Do mình trần thân trụi là đổi tượng của một cuộc thí nghiệm rất hay. Nhưng nước Pháp được những người lo lắng và khốn đốn hơn cả để ý đến nhiều, như người Ba Lan và người Tiệp Khắc. Trước mắt họ, chúng ta là những người trung thành với nền nếp cổ truyền Pháp, bởi thế chúng ta tượng trưng cho hy vọng và chúng ta là một trung tâm hấp dẫn các dân tộc khác. Nhất là Sikorski và Beuès, tuy họ khổ tâm vì những âm mưu tranh giành và những chuyện khích bác nhau, nhưng họ cũng thiết lập những liên lạc thường xuyên và chặt chẽ với tôi. Sống trong vực thẳm này có lẽ chưa bao giờ tôi cảm thấy rõ rệt hơn lúc này rằng nước Pháp có thiên chức đối với hoàn cầu như thế nào. Trong khi chúng tôi cố gắng lập cho Pháp Tự Do những quan hệ quốc tế, tôi cũng thành lập một bước đầu tổ chức chánh quyền và hành chánh. Trong tình trạng trơ trụi không ai biết đến, chúng tôi không thể mệnh danh tổ chức đơn SO’ của chúng tôi là « chính phủ ». Vả chăng, tuy tôi tin rằng Vichy sẽ đi từ bước suy sụp này đến bước suy sụp khác cho đến lúc tan rã hoàn toàn, tuy tôi tuyên bố tính cách bất hợp pháp của một chế độ nô lệ dịch, nhưng tôi còn muốn có cơ hội để các cơ quan công quyền thời chiến chịu chấp nhận sự cải tổ. Bởi thế cho nên tôi cố giữ mình không làm cái gì quá đáng, dù chỉ trên danh từ, có thể gây khó khăn cho sự cải tổ chính phủ, nếu có. Đối với những người cầm quyền tại Đế Quốc, tôi chỉ gợi ý cho họ đoàn kết với nhau để phòng thủ. Khi tôi nhận thấy họ bất lực tôi mới quyết định «Ủy Hội Quốc Gia». Nhưng cũng còn phải có các nhân vật đủ uy tín để giúp đỡ tôi. Trong mấy ngày đầu, một vài người lạc quan nghĩ rằng có thể tìm ra dễ dàng. Người ta báo tin từng giờ một có chính trị gia nọ, vị tướng lãnh kia, hay nhà hàn lâm nào đó qua Lisbonne hay Liverpool. Nhưng chẳng bao lâu lại có tin cải chính. Ngay tại Luân Đòn này, trừ một vài người, còn thì những người Pháp tiếng tăm làm việc ở đây hay đi qua đây cũng không theo Pháp Tự Do. Nhiều người xin về nước. Một số người khác ở lại nhưng theo chế độ Vichy. Còn như những người chống lại sự đầu hàng thì kẻ xin sang trú ngụ tại Anh hay Mỹ tổ chức lại công cuộc làm ăn, người xin vào làm việc cho chính phủ Anh hay Mỹ, rất hiếm « người có khả năng » chịu nhập hàng ngũ chúng tôi. Ông Corbin, đại sứ Pháp, nói với tôi : « Ông có lý lắm ! Tôi đã để gần hết một đời chức nghiệp phục vụ công cuộc liên minh Anh- Pháp, khi nghe lời kêu gọi của ông, ngay ngày hôm sau tôi có thái độ dứt khoát, tôi xin từ chức. Nhưng tôi là một công chức già. Từ 40 năm nay tôi sống và hoạt động trong một khuôn khổ đều đặn. Tôi không chịu đựng nổi sự bất đồng ý kiến, sự ly khai! » Ông Jean Monnet viết cho tôi như sau : « Ông đã lầm lỗi khi ông thành lập một tổ chức mà người Pháp cò thể hiểu là dựa vào thế lực của người Anh... Tôi hoàn toàn tán thành ý định của ông muốn ngăn cản nước Pháp bỏ dở cuộc chiến... Nhưng nỗ lực phục hồi nước Pháp không thể xuất phát từ Luân Bòn... » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:18:43 pm Ông René Mayer thì nói: « Tôi phải về Pháp để chịu chung số mệnh với những người đồng tôn giáo sắp sửa bị hành hạ ». Ồng Bret khẳng định : «Tôi khen ngợi ông. Còn như tôi, sống ở chánh quốc hay ở Đế quốc, tôi cũng cố gắng hết mình góp phần vào việc phục hồi nước Pháp. » Các ông André Maurois, Henry Bonnet, de Kerillis, đều tuyên bố với tôi rằng : « Chúng tôi sang Mỹ. Vả chăng ở bên Mỹ chúng tôi có thể làm được cái gì có ích cho ông hơn cả ». Ông Roland Margerie báo tin cho tôi biết : « Tôi được bổ nhiệm làm tổng lãnh sự ở Thượng Hải, tôi đi qua Luân Đôn, không phải để theo ông mà để sang Trung Hoa. Tôi sẽ phục Vụ quyền lợi nước Pháp ở bên ấy cũng như ông phục vụ ở đây ». Trái lại, ông Pierre Cot, bốí rối vì các biến cố, cầu khẩn tôi dùng ông vào bất cứ việc gì, « quét cầu thang cũng được ». Nhưng ông ta tọc mạch quá không thể dùng được. Tóm lại, mặc dầu vì lý do nào, các nhân vật Pháp không hợp tác với chúng tôi, điều đó không đem lại uy tín cho chúng tôi. Bởi thế cho nên phải đình hoãn việc thành lập ủy Hội. Càng ít nhân sĩ tham dự thì lại càng ít nhân sĩ khác muốn tham dự. Tuy nhiên, một vài người đến hợp tác với chúng tôi ngay khi đó và đem hết tài trí, hăng say ra giữ cho con thuyền đứng vững được trước sóng gió mà ra khơi. Giáo sư Cassin là người giúp chúng tôi sự cộng tác quý giá của ông, ông đi từ số không tạo ra những tài liệu để xây dựng cơ cấu nội bộ và ngoại giao của chúng tôi, Antoine có nhiệm vụ điều khiển những công việc hành chánh đầu tiên, một loại công việc rất khó khăn trong thời kỳ phải ứng biến để thỏa man mọi nhu cầu. Lapie, Escarra, Hackin giữ liên lạc với các cơ quan của bộ Ngoại Giao Anh và của các chính phủ lưu vong — Hackin và VỌ' ông đã bỏ mạng trong một chuyến công tác. Họ cũng tiếp xúc với những người Pháp sống ở ngoại quốc theo lời kêu gọi của tôi hướng ứng với Pháp Tự Do. Pleven và Denis phụ trách tài chánh nghèo nàn của chúng tôi và sửa soạn điều kiện sống cho những nhóm trở về tập kết, Schuman đưa tiếng nói của Pháp Tự Do lên đài phát thanh, Massip phụ trách bảo chí và cung cấp tin tức cho các hãng thông tấn. Bingen quy định với các đồng minh của chúng ta việc sử dụng thương thuyền và thủy thủ Pháp. Về phương viện thuần túy quân sự, d‘Arge- lieu phụ giúp Muselier, Koenig phụ tá Magrin- Verneret, Rancourt phụ tá Pijeauđ, tổ chức các đơn vị hải, lục, không quân đầu tiên, Morin tổ chức việc vũ trang. Tissier, Dewavrin, Hettier de Boislambert thành lập bộ tham mưu của tôi. Geoffroy để Courcel giữ nhiệm vụ chánh văn phòng, sĩ quan hộ vệ, thông ngôn, và thường thường làm cố vấn rất đắc lực. Đó là nhân vật cộng tác với tôi, sự tuyên truyền đối lập tố cáo là bè lũ phản loạn, đánh giặc mướn và giang hồ phiêu lưu. Nhưng họ biết mình theo đuổi một chính nghĩa cao cả cho nên họ siết chặt hàng ngũ xung quanh mình tôi, dù gặp may mắn hay hoạn nạn. Tướng Spears lập sự liên lạc giữa chúng ta với các cơ quan chính phủ Anh, sự giúp đỡ của các cơ quan này rất cần thiết. Ông có tài kiên trì và khéo léo, sự giúp đỡ của ông trong những buổi đầu khó khăn ấy quả là có một tầm quan trọng chính yếu. Tuy nhiên, ông cũng không tìm được sự dễ dãi nào về phía người Anh. Tinh thần bảo thủ của người Anh tôn trọng giai cấp, họ không tín nhiệm một người vừa là nghị sĩ, sĩ quan, doanh nghiệp gia, nhà ngoại giao, văn sĩ; ông ta kiêm nhiều loại quá không biết xếp vào loại nào. Nhưng ông ta muốn đánh đổ những thành kiến cổ lỗ, ông ta biết sử dụng trí thông minh, biết làm cho người đời kính nể tài ngôn luận của ông, sau hết ông ta biết dùng tài hấp dẫn riêng của cá nhân mình nếu có cơ hội. Ngoài ra, ông am hiểu nước Pháp như một người ngoại quốc có thể hiểu được, và đối với nước Pháp ông có một thứ tình yêu khắc khoải và thống trị. Trong khi nhiều người khác coi việc làm của tôi là một trò phiêu lưu rắc rối, Spears nhận thấy ngay tính chất và tầm quan trọng. Ông đã nhiệt thành với sứ mạng bắc cầu thông cảm giữa Pháp Tự Do và cấp trên của ông. Nhưng nếu ông muốn phục vụ bao nhiêu thì ông lại càng ghen ghét bấy nhiêu, ông chấp nhận rằng Pháp Tự Do và xếp của ông phải đứng độc lập đối với những cái khác, nhưng khi sự độc lập ấy ngăn cản đường tiến tới của ông thì ông chịu không nổi. Bởi thế cho nên lúc ban đầu ông đã làm nhiều để giúp đỡ chúng ta, nhưng một ngày kia ông quay lưng vào chúng ta và bắt đầu chống lại chúng ta. Trong khi ông chống lại như vậy, không biết ông có tiếc công đã dẫn dắt chúng ta và buồn rầu vì phải bỏ rơi chúng ta chăng ? Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:19:04 pm Nhưng nhóm Pháp Tự Do từ khi ra đời chưa từng biết có địch thủ mà sự thành công của mình đã làm xuất hiện. Chúng tôi chỉ vật lộn với sự nghèo nàn xưa nay vẫn là số phận của kẻ yếu ớt, chúng tôi làm việc ở Saint-Stephens House, trên bờ sông Tamise trong một căn phòng lỏng chỏng mấy cái bàn ghế. Đến sau chính phủ Anh cho mượn một căn nhà tại Carlton Gardens, tiện nghi hơn để lập trụ sở chính. Chính ở nơi đây mà từ ngày này sang ngày khác tràn đến từng đợt sóng thất vọng. Nhưng cũng ở đây đã có những đợt sóng khích lệ đưa bồng chúng tôi lên cao. Từ Pháp đưa sang tới tấp những bằng chứng khích lệ. Những người giản dị chất phác gửi thư và điện tín cho chúng tôi bằng đường lối quanh co tài tình, hay có khi người kiểm soát để cho đi lọt. Thí dụ một bức hình chụp ngày 14 tháng sáu công trường Etoile, khi quân Đức vào tôi nơi, bức hình cho thấy một đám người cả đàn ông lẫn đàn bà chết lăn trong đau khổ trước đài chiến sĩ vô danh, bức hình gửi đi ngày 19 tháng sáu với những chữ chú thích : «De Gaulle! Chúng tôi đã nghe tiếng nói của ông. Bây giờ chúng tôi đang chờ đợi ông ! » Thí dụ bức hình chụp một ngôi mộ phủ kín hoa của người đi đường đã rải lên trên ; ngôi mộ ấy là mộ mẹ tôi, chết ở Paimpoint, ngày 10 tháng bảy, kính dường Thượng Đế sự đau đớn của mình để cầu nguyện cho tiền đồ tổ quốc và sứ mạng của con mình. Như vậy, chúng tôi có thể ước lượng được thái độ cương quyết không chấp nhận đầu hàng của chúng tôi đã có vang âm sâu xa đến các tầng lớp dân chúng như thế nào. Đồng thời, chúng tôi cũng có bằng chứng trên khắp lãnh thổ quốc gia người ta nghe đài phát thanh Luân Đôn, do đó chúng tôi đã có trong tay một phương tiện chiến đấu mạnh mẽ. Vả chăng, người Pháp sống ở ngoại quốc cũng có tâm trạng như đồng bào trong nước. Nhiều người đến tiếp xúc với tôi và tập hợp lại để giúp đỡ Pháp Tự Do. Malglaive và Guéritte ở Luân Đôn, Houdry và Jacques để Sieyès ở Hoa Kỳ, Soustelle ở Mễ Tây Cơ, nam tước để Benoist ở Le Caưe, Godard ở Téhéran, Guérin ở A Căn Đình, Rendu ở Ba Tây, Pưauđ ở Chí Lợi, Gé- rauđ Jouye ở Constantinople, Victor ở Delhi, Leya y ở Calcutta, Barbé ở Đông Kinh, V. V... họ là những người đi bước đầu. Chẳng bao lâu tôi biết chắc rằng tuy có áp lực của nhà cầm quyền Vichy, tuy có luận điệu tuyên truyền vu khống, tuy có một số đông người mềm yếu chẳng muốn làm gì cả, nhưng dân chúng hướng về Pháp Tự Do như nguồn tự hào và hy vọng cuối cùng. Từ đấy không lúc nào tôi ngừng nghĩ đến tiếng gọi tối hậu của tổ quốc, khi dấn thân vào công việc và chịu đựng thử thách. Tại ngay nước Anh này người ta cũng thông cảm và ải mộ những người Pháp Tự Do. Trước hết là Anh Hoàng, sau đến mọi người trong hoàng tộc. Mặt khác, các Bộ trưởng và các cơ quan công quyền đều tỏ thiện cảm với chúng tôi nếu có cơ hội. Nhưng người ta không thể tưởng tượ'ng được lòng tử tế rộng lượng của quần chúng Anh đối với chúng tôi về đủ mọi phương diện, có đủ mọi tổ chức giúp đỡ những người tình nguyện gia nhập phong trào. Không thế đếm xuể những người đem đến giúp đỡ chúng ta nhân lực, thời giờ và tiền bạc. Mỗi lần tôi xuất hiện trước công chúng là được chứng kiến những dấu hiệu biểu lộ sự khích lệ. Khi báo chí Luân Đỏn loan tin Vichy lên án tử hình tôi và tịch thu tài sản, nhiều người hảo tâm giấu tên đến Carlton Gardens tặng tôi đồ trang sức của họ, hàng chục bà góa phụ mang đến tặng chiếc nhẫn cưới để đem vàng giúp tướng de Gaulle thực hiện đại nghĩa. Cần phải nói rằng có một bầu không khí khích động bao trùm nước Anh. Người ta chờ đợi quân Đức tấn công bất cứ lúc nào, trước viễn tượng ấy mọi người đều tìm một tấm gương kiên quyết để tự rèn tâm trí. Thật là một cảnh tượng đáng khen khi thấy mỗi người Anh xử sự như mỗi người đều có trách nhiệm riêng về sự hưng vong của tổ quốc. Ý thức trách nhiệm chung càng đáng cảm kích vì thực ra mọi việc đều tùy thuộc vào lực lượng không quân. Quả vậy, nếu địch làm chủ được không phận thì nước Anh sẽ lâm nguy ! Nếu hạm đội bị oanh tạc nặng thì các đoàn tàu Đức vẫn có thể vượt qua Bắc Hải. Lực lượng bộ binh chưa được 12 sư đoàn và đã tổn thất nặng trong trận đánh ở Pháp, lại không đủ võ trang, sẽ không thể nào chống lại được cuộc đổ bộ của địch. Khi đã đổ bộ rồi thì các đơn vị lớn của Đức sẽ chiếm trọn lãnh thổ dễ dàng mặc dầu có sự khảng cự địa phương của quân tự vệ. Hẳn là Anh hoàng và chính phủ sẽ lánh sang Gia Nã Đại. Nhưng những người thạo tin đã nói đến những nhân vật chánh trị, giáo hội, nhà văn, giới kinh doanh, sẽ đứng ra thỏa hiệp với người Đức để tổ chức việc cai trị dưới quyền lãnh đạo của họ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:19:42 pm Nhưng đó chỉ là những chuyện dự đoán không liên hệ gì đến khối người bình dân, Người Anh, kể về số đông đã sửa soạn để kháng chiến đến cùng. Người nào cũng tham dự những tổ chức phòng thủ. Hầm núp, việc cấp phát vũ khí, dụng cụ, vật liệu, công việc cơ xưởng và đồng áng, dịch vụ, canh gác, hạn chế thực phẩm, mọi việc đều hoàn hảo, mọi người làm việc tận lực trong kỷ luật. Chỉ thiếu có phương tiện, vì nước này đã từ lâu lơ là việc canh phòng. Nhưng tất cả đều được trôi chảy, hầu như người Anh muốn tận tâm phục vụ để bổ túc những khuyết điểm của họ. Vả chăng, họ không thiếu tinh thần hài hước. Một bức hí họa trên báo vẽ một đạo quân Đức hùng mạnh với đủ xe tăng, đại bác, chi đoàn, tướng lãnh, đứng dừng lại trước một cái cổng hàng rào bằng gỗ. Một tấm biển gỗ ghi rằng muốn đi qua phải trả giá một đồng tiền Anh. Vì quân Đức không chịu trả đồng tiền vào cửa bắt buộc ấy cho nên người canh cổng, một ông già bé nhỏ, nhã nhặn, nhưng cương quyết, không chịu mở cồng mặc dầu đoàn quân địch tức giận nhao nhao phản đối. Tuy nhiên Không Lực, Hoàng Gia đã được báo động cho nên đã sẵn sàng. Trong dân chúng, nhiều người không chịu nổi sự căng thẳng chờ đợi một thảm họa, họ lớn tiếng mong mỏi địch muốn đánh thì đánh ngay đi. Chính ông Churchill là người thứ nhất sốt ruột vì chờ đợi. Tôi còn trông thấy mãi trong tâm trí, hình ảnh ông ở Chequers, vào một ngày tháng tám, ông nắm hai tay đưa lên trời mà la lên : « Như vậy họ không kéo sang đây hay sao ? » Tôi hỏi ông : « ông mong mỏi họ sang tàn phá cả thành phố của ông thế à ?» ông trả lời : « ông có hiểu không ? Việc oanh tạc Oxford, Coventry, Canterbury sẽ gây công phẫn tại Hoa Kỳ làm cho họ tham dự vào cuộc chiến ! » Tôi tỏ vẻ nghi ngờ, hai tháng trước đây nước Pháp bại trận không làm cho Hoa Kỳ bỏ thái độ trung lập. Thủ Tướng Anh cả quyết: « Vì nước Pháp ngã quỵ ! Sớm muộn gì người Mỹ cũng can thiệp miễn là chúng tôi không khuất phục địch. Bởi vậy cho nên chúng tôi chỉ nghĩ đến phi cơ khu trục ». Ông còn nói thêm : « Chúng tôi có lý do để từ chối đem ra sử dụng vào lúc cuộc chiến ở Pháp đã tàn. Nếu các phi cơ khu trục của chúng tôi bị hư hao hết thì tất cả đều sụp đổ cho các ông cũng như tôi ». Tôi lại nói : « Nhưng trái lại, sự can thiệp của phi cơ khu trục Anh có thể hồi sinh sự liên minh và khuyến khích người Pháp theo đuổi cuộc chiến ở Địa Trung Hải. Người Anh sẽ đỡ bị đe dọa và người Mỹ muốn can thiệp vào Âu Châu hay Phi Châu hơn ». Ông Churchill và tôi sau cùng đồng ý với nhau về một câu kết luận nhàm chán rút ra từ những biến cố đảo lộn Tây Phương : Rốt cuộc, nước Anh là một hòn đảo ; nước Pháp là mũi đất của lục địa ; nước Mỹ là một giới khác. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:54:36 pm PHI CHÂU Đến tháng tám, phong trào Pháp Tự Do đã có một vài phương tiện, một nền móng tổ chức, ít nhiều người biết đến sự hiện hữu. Tôi phải dùng ngay những kết quả đầu tiên ấy. Nếu về nhiều phương diện tôi còn băn khoăn chưa biết mai sau thế nào, thì đối với những công việc phải làm ngay tôi không có gì là do dự cả. Hitler đã thắng keo đầu ở Âu Châu. Nhưng giai đoạn thứ hai sẽ bắt đầu, và chuyến này thì trên bình diện toàn cầu. Một ngày kia sẽ có cơ hội quyết định ở chỗ nào có thể quyết định được nghĩa là ở cựu lục địa. Trong khi chờ đợi chúng ta phải theo đuổi cuộc chiến tại Phi Châu. Vài tuần lễ trước đây tôi đã cố gắng lôi kéo chính phủ và quân đội vào con đường chiến đấu, tất nhiên, bây giờ tôi phải đi theo vì tôi đại diện cho tất cả cái gì là của chính phủ và quân đội ở lại chiến trường. Trong những vùng đất đai rộng lớn ở Phi Châu, nước Pháp có thể tái lập một quân đội và một chủ quyền trong khi chờ đợi những đồng minh mới tham gia chiến cuộc bên cạnh các đồng minh cũ và lộn ngược cán cân lực lượng. Bấy giờ, Phi Châu ở gần các bán đảo : Ý, Ban Căng, I Pha Nho, sẽ là một căn cứ Pháp rất tốt để khởi sự cuộc tiến về Âu Châu, vả chăng nếu cuộc giải phóng quốc gia thực hiện được nhờ lực lượng Đế Quốc thì giữa chánh quốc và các lãnh thổ hải ngoại sẽ có những mối liên lạc cộng đồng. Trái lại, nếu cuộc chiến tranh chấm dứt mà Đế Quốc không làm gì để cứu vãn tổ quốc — mẹ thì hẳn là không còn gì sự nghiệp nước Pháp ở Phi Châu nữa. Vả chăng cũng phải đề phòng trường họp ngoài Đức đưa cuộc chiến qua Địa Trung Hải, hoặc để che sườn phía Nam của Âu Châu, hoặc để chiếm lấy thuộc địa, hoặc để giúp đỡ đồng minh Ý của họ, — có thể là I Pha Nho nữa — mở rộng đất đai thuộc địa. Người ta đã bắt đầu giao tranh rồi là khác. Phe Trục muốn tiến tới kênh Suez. Nếu chúng ta khoanh tay thụ động ở Phi Châu, thì chẳng sớm thì muộn địch sẽ chiếm lấy một vài lãnh địa của chúng la, còn như đồng minh thì họ cũng cần chiếm đoạt những phần lãnh thổ nào đó cần cho chiến lược của họ. Tham dự vào mặt trận Phi Châu với lực lượng và đất đai của nước Pháp là để cho một phần của nước Pháp trở lại cuộc chiến. Như thế là trực tiếp hảo vệ lành địa chống kẻ thù. Như thế còn là ngăn ngừa nước Anh, và một ngày kia nước Mỹ nữa, chiếm lấy những xứ ấy vì nhu cầu chiến tranh cũng có và vì tham vọng thủ lợi cùng có. Sau hết, hành động như vậy là đưa nhóm Pháp Tự Do ra khỏi tình trạng cô lập và làm cho chúng ta có lãnh thổ, có chủ quyền. Nhưng đến Phi Châu bằng ngả nào ? Nói chung thì cả Algérie, Tunisie lẫn Maroc, ngay lúc này tôi không chờ đợi được gì. Thực ra lúc đầu cũng có nhiều điện tin gửi về xin gia nhập của các hội đồng tỉnh thị, các đoàn thể, các đoàn thể sĩ quan, cựu chiến hĩnh. Nhưng chẳng bao lâu không ai nói đến nữa khi chính phủ có những biện pháp trừng phạt và kiểm duyệt, khi xảy ra vụ Mers-el- Kébir bóp nghẹt ý thức kháng chiến từ trứng nước. Vả chăng, tại đây người la đã hèn nhát đến nỗi cảm thấy nhẹ mình khi biết rằng cuộc đình chiến đặt Bắc Phi ở ngoài tình trạng chiếm đóng. Quyền hành của nước Pháp được duy trì dưới hình thức quân sự và trọn vẹn khiến cho thực dân Pháp yên lòng nhưng người Hồi giáo không vui. Sau hết, nhiêu khía cạnh của cái Vichy gọi là « cách mạng quốc gia » trả lời đúng khuynh hướng của nhiều người : kêu gọi các nhân sĩ, để cao vai trò của hành chánh, trình diện các cựu chiến binh, bài Do Thái. Tóm lại, tuy không ngừng tưởng tượng ra Bắc Phi một ngày kia có thể làm được gì, nhưng người ta vẫn có thái độ chờ đợi. Không thể nghĩ rằng sẽ có một phong trào kháng chiến xuất phát tự bên trong. Còn như việc gợi ý cho các nhà cầm quyền phát động phong trào từ bên ngoài thì tất nhiên tôi không thể nghĩ đến rồi. Phi Châu đen thì lại có những khả năng khác. Vào những ngày đầu thành lập Pháp Tự Do, những cuộc biểu tình ở Dakar. Saint-Louis, Ouagadougou, Abidjan, Kanakry, Lome, Douala, Brazzaville, Ta- nanarive, những bức điện văn gửi đến cho tôi đều tỏ ra rằng những lãnh thổ mới nầy người ta còn có tinh thần hoạt động, việc tiếp tục cuộc chiến tự nhiên phải đặt ra cho mọi người. Hẳn là bầu máu nóng của Phi Châu đã nguội bớt vì thái độ nhẫn nhục của Noguès, cảm tưởng bất lợi gây ra vì vụ Oran, hoạt động của Boisson, toàn quyền Trung Phi, sau Cao Uỷ Dakar, ông này đã làm cho sự hăng say của dân chúng tan vào trong một thái độ mập mờ. Tuy nhiên, ngọn lửa vẫn âm ỉ chảy ngầm trong phần lớn các thuộc địa của chúng ta. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:10:59 am Chúng ta có viễn tượng tương lai nhất trong toàn thể các lành thổ Trung Phi. Đặc biệt ở Cameroun, phong trào chống đối đình chiến lan rộng đến đủ các giới. Dân chúng Pháp cũng như bản xứ ở các xứ hoạt động và sống động này bất bình vì sự đầu hàng. Vả chăng, người ta không lạ gì sự thắng trận của Hitler sẽ tái lập nền đô hộ của nước Đức như hồi Đệ Nhất Thế Chiến. Giữa sự xúc động của toàn thể dân chúng, người ta truyền tay nhau đọc những bản truyền đơn của thực dân Đức trước đây, họ đã lui về ở hòn đảo I Pha Nho Fernandơ-Po, giờ họ báo trước sẽ trở tại các đồn trại và các đồn điền. Một ủy ban hành động đã được thành lập xung quanh ông Mauclère, giám đốc Còng Chánh, và đã xin gia nhập Pháp Tự Do. Hẳn là toàn quyền Brunot lo ngại thời cục không dám quyết định. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng nếu có sự can thiệp mạnh mẽ ở ngoài thì tất nhiên phải có giải pháp. Tại vùng Tchad, điều kiện hầu như còn thuận tiện hơn nữa. Toàn quyền Felix Eboué đã phản ứng ngay và đứng về phe kháng chiến. Người thông minh và quả cảm ấy, người Phi Châu hăng máu Pháp ấy, triết gia nhân bản học ấy, ghè tởm rùng rnình khi thấy nước Pháp đầu hàng và chủ nghĩa nazi thắng thế. Nghe tiếng gọi đầu tiên của tôi, Eboué đã đồng ý với ông Laurentie, tổng thư kỷ của mình, quyết định theo kháng chiến trên nguyên tắc. Các yếu tố Pháp trong dân chúng đều nghiêng về phía ấy. Tóm lại, đối với nhiều người, lẽ phải và can đảm đều thúc đẫy họ theo khuynh hướng kháng chiến. Quản nhân tại các đồn trại giáp ranh Libye thuộc ý đều giữ được tinh thần chiến đấu và mong đợi được de Gaulle tiếp viện. Công chức và thươnggia Pháp cũng như các lãnh tụ người Phi Châu, không khỏi thắc mắc khi nghĩ đến tình hình kinh tế vùng Tchad nếu cửa ngõ thông thương. Thường ngày là xứ Nigeria thuộc Anh bất thần đóng cửa biên giới, ông Eboué đã cho tôi biết tình hình ấy và ngày 10 tháng bảy tôi đã gửi điện tín cho ông. Để trả lời, ông gửi cho tôi một bản phúc trình chi tiết báo tin sẽ công khai tập kết, ông trình bày điều kiện phòng thủ và đời sống trên lãnh thổ, sau hết hỏi ý kiến tôi có thể để ông nhận lấy trách nhiệm mà mang phù hiệu Thập Tự Lo Ren. Tại Congo, tình hình có vẻ tối tăm. Toàn quyền Boisson đã ở Brazzaville cho đến giữa tháng bảy. Sau đấy ông sang Dakar nhưng vẫn xem xét công việc ở toàn thể Trung Phi. Người kế tiếp ông là tướng Husson, người quân nhân giá trị, nhưng có một ý thức sai lạc về kỷ luật. Tuy rằng Husson buồn nản vì cuộc chiến bại nhưng chắc chắn là không thoát khỏi tay Vichy. Tại Oubangui, có nhiều yếu tố nghiêng theo phe kháng chiến nhưng họ cũng còn chờ đợi thái độ của Congo. Trái lại, xứ Gabon, một thuộc địa già, bảo thủ và theo cổ lệ, vẫn tách rời khỏi các lãnh thổ khác ở vùng này, vẫn giữ một thái độ bí hiểm. Xem xét tình tình Bắc Phi thuộc Pháp, tôi quyết định thử thực hiện sự tập kết của toàn thể Trung Phi trong một thời gian ngắn. Tôi ước tính sẽ không phải dùng đến binh lực, ngoại trừ xứ Gabon. Nếu công việc đầu tiên này thành công thì sau đấy tôi sẽ hoạt động ở Tây Phi. Nhưng Tây Phi đòi hỏi cố gắng lâu ngày và dùng đến những phương tiện quan trọng. Để bắt đầu, phải chiếm một loạt Fort-Lamy, Douala và Brazzaville. Công việc phải thực hiện ngay một lúc không được ngắt quàng. Vì Vichy có tầu bè, phi cơ, bộ đội ở Dakar, nếu cần còn có thể dùng lực lượng ở Maroc, hay hạm đội ở Toulon, họ có đủ phương tiện để can thiệp nhanh chóng. Đô đốc Platon do Pétain và Darlanphải đến thanh tra xứ Gabon và Cameroon vào tháng bảy, đã tạo ảnh hưởng một vài yếu tố quân sự và dân sự ở đây theo Vichy. Như vậy, tôi phải hành động gấp. Tôi trình bày kế hoạch của tội với Lord Lloyd, bộ trưởng Thuộc Địa Anh, ông hiếu ngay tầm quan trọng, nhất là những vấn đề liên hệ đến sự an ninh của các thuộc địa Anh như Nigeria, Gold- Coast, Sierra-Leone, Gamble, ông ra chỉ thị cho các thống đốc đúng như ý muốn của tôi, và cho tôi mượn một chiếc phi cơ chở từ Luân Đòn đến Lagos phải đoàn của tôi. Phái đoàn gồm có Pleven, Parant, Hettier de Boislambert. Họ đến điều đình với thống đốc Eboué điều kiện tập kết của vùng Tchad và hiệp lực với Mauclère và ủy ban của ông ta, thực hiện cuộc « đảo chánh » ở Douala, vào lúc khởi hành tôi gửi thêm một người thứ tư, sau này người ấy tỏ ra làm việc rất đắc lực. Đó là đại úy de Hau- teclocque. Ông ta nói ở Pháp sang qua ngả I Pha Nho, đầu còn miếng băng vết thương tại mặt trận Champagne, người cũng hơi mỏi mệt. Ông ta ra mắt tôi, trông thấy ông ta tôi hiểu ngay ông ta là người thể nào, bèn gửi ngay sang Phi Châu. Nơi hoạt động của ông ta sẽ là đường xích đạo. Ông ta chỉ có đủ thời giờ để trang bị rồi bay đi với những người khác dưới cái tên thiếu tá Leclerc. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:11:24 am Nhưng để thượng cờ Croix để Lorraine lên hồ Tchad và Cameroun thì cũng phải tập kết ba thuộc địa Bas-Cougo, Oubangui và Gabon, muốn như vậy thì phải chiếm lấy Brazzaville kinh đô của Trung Phi, trụ sở và biểu tượng của uy quyền. Tôi ủy thác cho đại tá de Larminat làm công việc ấy. Bấy giờ người sĩ quan thông minh và hăng hái ấy có mặt ở Le Caưe. Vào cuối tháng sáu, ông là tham mưu trưởng quân đội Trung Đông, ông đã cố gắng thuyết phục tướng Mittelhauser tiếp tục chiến đấu nhưng không thành công, ông bèn tự ý tổ chức cuộc hành binh sang Palestine với những phần tử không chấp nhận đình chiến. Nhưng Mittelhauser bắt buộc mọi người phải kéo về,"nhờ có tướng Wavell tư lệnh quân đội Anh ở Trung Đòng, ông lo ngại cuộc hành binh ấy làm phiền cho ông nhiều hơn là có lợi. Chỉ có một vài phần tử không chịu về và chạy sang khu vực của người Anh. Đến lượt Larminat cũng chạy thoát, ông chạy sang Djibouti phụ giúp tướng Legentilhomme tiếp tục cuộc chiến ở Somalis, sau ông trở về Ai Cập. Ở Ai Cập ông nhận được lệnh của tôi đến Leopoldville. Ông nhận được sự giúp đỡ kín đáo nhưng chu đáo của toàn quyền Ryckmans, cảm tình của dư luận, sau hết, sự giúp đỡ tích cực của những người Pháp lập nghiệp ở đây, và quy tụ xung quanh bác sĩ Staub. Theo chỉ thị của tôi, Larminat phải sửa soạn cuộc tập kết từ bờ bèn này sang bờ sông Congo bên kia, hướng về Brazzaville và phối hợp hoạt động với toàn thể Trung Phi. Khi tất cả đã xong, Larminat, Pleven, Leclerc, Boislanibert và thiếu tá d‘ Ovarno ở Tchad đến, sẽ họp nhau lại ở Lagos. Sir Bernard Bourdillori, toàn quyền Nigeria, sẽ giúp tay người Pháp tự do trong dịp này cũng như những dịp khác, chúng ta cần đến sự giúp sức tích cực và thông minh của họ. Chúng tôi đồng ý rằng Tchad sẽ tập kết đầu tiên. Ngày hôm sau đến lượt Douala. Hôm sau nữa, Brazzaville. Ngày 26 tháng tám, tại Fort - Lamy toàn quyền Eboué và đại tá Marchand, chỉ huy các bộ đội ở đây, long trọng tuyên bố rằng hồ Tchad sẽ theo tướng de Gaulle, Pleven đã đến đây từ hôm trước để giúp đỡ việc tập kết này. Chính tôi loan tin này trên đài phát thanh Luân Đôn và tuyên dương công trạng của xứ Tchad. Ngày 27, Leclerc và Boislambert thành công tốt đẹp việc đảo chánh ở Cameroon. Tuy nhiên, họ chỉ ra đi với những phương tiện khiêm tốn. Trước hết tôi hy vọng kiếm cho họ một đội quân để dễ hành sự. Chúng tôi khám phá ra tại một trại ở bên Anh, một ngàn pháo binh da đen gửi từ Côte d‘ Ivoire sang dự trận đánh Pháp nhưng đến nơi chậm trễ quá, giờ phải dừng lại bên Anh để đợi hồi hương. Tôi đã đồng ý với người Anh để cho họ đến Acơa và giao cho thiếu tá Parant chỉ huy. Người ta có thể cho rằng việc hồi hương những người da đen này sẽ không làm cho Vichy lo ngại. Ngoài thực tế thì họ đã được đưa đến Gold - Coast. Nhưng người Anh thấy toán lính hùng dũng quá, họ sáp nhập ngay vào quân đội họ. Leclerc và Boisla nbert chỉ mộ được một dúm quân nhân và một số thực dân tị nạn ở Douala. Vả chăng, giữa lúc rời khỏi Victoria, họ nhận được lệnh của tướng Giffard, chỉ huy trưởng quân đội Anh, cấm ngặt không cho mộ binh vì người Anh bất thần nhận thấy hậu quả không hay cho họ. Nhưng tôi đã gửi điện tín cho Leclerc biết cứ tự ý hành động ; họ không kể đến lệnh của Giffard, họ thỏa thuận với người Anh ở Victoria, đưa quân lính đến Douala bằng thuyền độc mộc. Toán người nhỏ bé này đến nơi vào giữa ban đêm. Một số người « phe de Gaulle » theo lời chỉ dẫn của bác sĩ Mauze, chạy ra đón rước. Leclerc trở thành đại tá và thống đốc như có phép lạ, bèn nghiễm nhiên tiến vào dinh Thống Đốc. Ngày hôm sau ông mang theo 2 đại đội của đồn binh Douala, dùng xe lửa đến Yaounde gặp nhà cầm quyền. Việc chuyển giao được thực hiện không xảy ra sự đụng chạm nào. Tại Brazzaville, mọi việc cũng xong xuôi. Ngày 28 tháng tám, đến giờ đã định, thiếu tá Delange đến Phủ Thống Đốc với đại đội của ông mời toàn quyền Husson trao lại quyền hành, ông này không kháng cự, tuy có vài lời phản đối. Đồn trại, công chức, thực dân, người bản xứ đều chấp nhận việc đã rồi này một cách vui sướng vì đại tướng quân y Sicé, quản đốc quân lương Souques, đại tá pháo binh Series và trung tá không quân Carretier đã sửa soạn dư luận từ trước. Tướng Larminat đi qua Congo đã nhân danh tôi nhiệm chức cao ủy Trung Phi thuộc Pháp, kiêm lãnh toàn quyền quân sự và dân sự. Chiếc tầu đưa ông sang, sau trở về với tướng Husson về Leopoldville, Còn xứ Oubangui thì toàn quyền de Saint-Mart chỉ đợi có lúc ấy, ông đánh điện tín cho biết xin gia nhập phong trào ngay sau khi ông biết tin tức ở Brazzaville. Tuy nhiên, viên chỉ huy trưởng và một vài phần tử quân sự rút về đồn trại và đe dọa bắn vào thành phố. Nhưng Larminat tới ngay Bangui dàn xếp đưa những người ấy về với chính nghĩa. Chỉ có một số ít sĩ quan được đưa sang Tây Phi theo lời yêu cầu của họ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:11:50 am Như vậy, phần lớn khối Trung Phi - Cameroun đã theo Pháp Tư Do không đổ một giọt máu. Chỉ có xứ Gabon còn tách riêng khỏi toàn khối. Tuy nhiên, chẳng bao lâu nữa, thuộc địa ấy cũng về tập kết. Ngày 29 tháng tám, tại Libreville, toàn quyền Masson đã đánh điện tín cho tôi xin gia nhập vì Larminat đã cho biết có sự thay đổi chính quyền. Đồng thời, ông tuyên bố công khai sự tập kết và ra huấn thị cho vị chỉ huy trưởng bộ đội. Nhưng ở Dakar nhà cầm quyền Vichy đã phân ứng nhanh chóng. Theo chỉ thị của họ, tư lệnh hải quân ở Libreville chống lại thống đốc và báo tin có hạm đội sắp đến nơi ; ở Libreville ông ta cũng có một chiếc thông báo hạm, một tiềm thủy đĩnh và nhiều tầu nhỏ. Ông Masson bèn đổi thải độ, ông tuyên bố rằng việc tập kết xứ Gabon chỉ là một sự hiểu làm. Một chiếc thủy phi cơ của Hải Quân chuyên chở trên đường Libreville và Dakar trục xuất những nhân sĩ thân de Gaulle sang Tây Phi và chở nhân viên trung thành với Vichy đến Gabon. Tình thế bị đảo ngược. Một dải đất thù nghịch rất khó loại trừ vì có đường ra biển, tai hại cho toàn bộ lãnh thổ Trung Phi. Vichy muốn lợi dụng tình thế ấy bèn gửi đến Libreville vị tướng Không quân Têtu làm toàn quyền Trung Phi với đặc vụ đặt quyền hành của ông lên khắp lãnh thổ. Đồng thời nhiều oanh tạc cơ Glenn-Martin vừa hạ cánh xuống sân bay, tướng Têtu dùng làm tiền quân để tiễu trừ. Nói chung thì kết quả cũng thuận lợi. Tôi kết luận rằng giai đoạn hai của chương trình tập kết Phi Châu Đen có thể thành công được. Thực ra giai đoạn mới này khó khăn hơn. Tại Tây Phi quyền hành được tập trung mạnh mẽ và có liên lạc chặt chẽ với Bắc Phi. Phương tiện quân sự ở đây hùng hậu. Khu Dakar có những giàn súng tối tân, có nhiều phi đội yểm trợ, có căn cứ hải quân cho nhiều tiềm thủy đĩnh và thiết giáp hạm Richelieu. Bộ chỉ huy chỉ 111ơ tưởng đến việc trả thù từ khi thủy lôi Anh đã làm hư hại chiếc tầu, như vậy Dakar quả có một lực lượng phòng thủ đáng kiêng nể thật. Sau hết, toàn quyền Boisson là một người cương nghị, ông có nhiều tham vọng hơn sáng suốt, ông đã chọn con đường phục vụ Vichy. Ông đã tỏ thải độ ấy ngay từ khi đến Dakar vào giữa tháng bảy, ông bắt giam ông Louyeau thống đốc Haute-Volta, ông này tuyên bố tập kết Pháp Tự Do. Với phương tiện hiện hữu tôi không thể nghĩ đến việc giải quyết trực tiếp thành trì Dakar. Mặt khác, điều chính yếu là tránh mọi sự đụng chạm, Than ôi ! Tôi không tránh được ảo tưởng giải phóng đất nước mà không đổ màu người Pháp. Nhưng thực ra lúc này trên lãnh thổ này, một trận đánh lớn giữa người Pháp, mặc dầu kết quả thế nào cũng giảm bớt nhiều cơ may của chúng tôi. Người đọc sẽ không hiểu sự diễn biến của vụ Dakar nếu không biết sự tin tưởng sâu sa của tôi, Như vậy kế hoạch ban đầu của tôi loại bỏ sự tấn công trực tiếp. Đường lối của tôi là đổ bộ ở một nơi cách xa Dakar với một đội quân cương quyết để tiến dần đến mục tiêu bằng cách tập kết dần những phần tử và những lãnh thổ chiếm được. Như vậy, có thể hy vọng rằng lực lượng Pháp Tự Do bành trướng dần sẽ tiến đến Dakar trên đất liền. Tôi định đổ bộ lên Konakry. Từ đấy có thể tiến vào kinh đô Tây Phi bằng đường hỏa xa hay đường lộ. Nhưng, nếu muốn ngăn cản hạm đội Dakar tiêu diệt quân của chúng tôi thì cần phải được bảo vệ về phía mặt biển. Bởi thế tôi cần yêu cầu sự giúp đỡ của hạm đội Anh. Tôi đã trình bày kế hoạch này với ông Churchill vào những ngày cuối tháng bảy. Ngay lúc ấy ông không trả lời dứt khoát, như sau đó ít lâu ông mời tôi đến thăm ông. Ngày mùng 6 tháng tám, tôi gặp ông tại phòng lớn Downing Street; theo thường lệ phòng này vẫn dùng làm văn phòng Thủ Tướng và phòng họp của Hoàng Gia. Ong đã dặt nhiều tấm địa đồ lên cái bàn lớn và di lại quanh bàn nói thao thao bất tuyệt. Ông nói: « Chúng ta phải cùng nhau làm chủ được Dakar. Việc ấy tối quan trọng cho ông. Vì nếu chúng ta thành công thì đây sẽ là những phương tiện lớn lao của người Pháp để trở lại cuộc chiến. Việc ấy cũng rất quan trọng cho chúng tôi. Vì nếu có thể dùng được Dakar làm căn cứ thì chúng tôi sẽ có nhiều dễ dàng trong trận chiến gay go ở Đại Tây Dương. Bởi vậy cho nên sau khi đã hội đàm với Hải Quân Anh và các tham mưu trưởng tôi có thể cho ông biết rằng chúng tôi sẵn sàng tham dự cuộc hành quân. Chúng tôi dự tính tung vào trận này một hạm đội hùng hậu. Nhưng chúng tôi không thể để hạm đội ấy lâu ngày ở bờ biển Phi Châu. Chúng tôi cần phải hành động mau chỏng để sau đó đưa ngay hạm dội về phòng vệ nước Anh và các cuộc hành quân ở Địa Trung Hải. Bởi thế cho nên chúng tôi không thể chấp nhận kế hoạch của ông đổ bộ lên Konakry và tiến quân chậm chạp qua rừng rậm, chúng tôi sẽ phải giữ hạm đội ở gần đấy mấy tháng. Tôi sẽ đề nghị với ông một kế hoạch khác ». Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:12:19 am Sau đấy, ông Churchill trổ hết tài hùng biện ra phác họa bức tranh sau đây : «Một buổi sáng kia, Dakar tỉnh giấc trong sự buồn rầu và bất trắc. Dưới ánh mặt trời, dân chúng trông thấy tầu hè kẻo đến đầy mặt biển. Một hạm đội lớn ! Một trăm tầu chiến và chở súng ống ! Đoàn tàu tiến lại gần, dùng máy truyền thanh gửi lời chào thân hữu cho thành phố, hải quân, các đồn trại. Một vài chiếc tầu kẻo cờ tam tài. Những chiếc khác kéo cờ Anh, Hòa Lan, Ba Lan, Bỉ. Một chiếc tầu nhỏ hiền lành, kẻo cờ trắng của phải đoàn du thuyết tiến vào bờ, chở theo sử giả của tướng de Gaulle . Các sử giả đến hội kiến với vị thống đốc. Vấn đề là nói cho ông ta hiểu rằng nếu ông ta để cho tướng de Gaulle đổ bộ thì hạm đội đồng minh sẽ rút lui, chỉ còn việc điều đình điều kiện hợp tác giữa hai người. Trái lại, nếu ông ta nhất định kháng cự thì ông ta sẽ đại bại ». Và ông Churchrll, tin chắc kế hoạch của mình, mô tả và phóng tác khung cảnh cuộc sống ngày mai theo ý muốn và trí tưởng tượng của ông : Trong lúc thống đốc và đại diện của ông thảo luận vời nhau thì phi cơ Pháp Tự Do và Anh quốc bay luôn trên nền trời hòa bình, ném xuông truyền đơn thận thiện. Quân nhân và dân sự, trong số đó có các nhân viên tuyên truyền của ông tranh luận sôi nổi về lợi ích của sự thỏa hiệp và nguy hại của một cuộc xung đột lớn với những người dẫu sao cũng là đồng minh của nước Pháp. Vị thống đốc hiểu rằng nếu ông ta cưỡng lại thì đất sẽ sụt xuống dưới chân đứng, ông sẽ thấy họ theo đuổi cuộc hội đàm cho đến lúc có kết quả mỹ mãn. Có lẽ trong lúc ấy, họ muốn cứu vãn danh dự, họ cho nổ một vài tiếng súng. Nhưng không đến nỗi đi quá trớn. Đến tối, họ sẽ cùng ông cụng ly chào mừng sự thắng lợi cuối cùng ». Phân tích kế hoạch của ông Churchill, một kế hoạch được ông dùng tài ngôn luận tô điểm những nét hấp dẫn, tôi suy nghĩ kỹ thì biết rằng ông dựa vào những dữ kiện chắc chắn. Vì người Anh không thể đưa những lực lương hồi quân quan trọng đến vùng xích đạo lâu ngày, tôi không thể dùng đường lối hành quân trực tiếp để làm chủ Dakar. Cuộc hành quân ấy, trừ phi có tính cách đại quy mô, cần phải dung hòa hai phương pháp thuyết phục và hăm dọa. Mặt khác, tôi cho rằng hải quân Anh rất có thể một sớm một chiều thanh toán vấn đề Dakar, có hay không có quân Pháp Tự Do tham dự, nơi đây cố một căn cứ lớn ở Đại Tây Dương và có chiếc thiết giáp hạm Richelieu làm cho họ vừa ham muốn vừa lo ngại. Tôi kết luận rằng, nếu chúng ta có mặt ở đấy, thì có nhiều cơ may để cuộc hành quân có sắc thái một cuộc tập kết với Pháp Tự Do mặc dầu người Anh không nỡ vuốt mặt mà phải làm vậy. Trái lại, nếu chúng ta không đồng ý với họ thì sớm muộn gì họ cũng tự ý làm lấy để ăn cả. Trong trường hợp sau này, Dakar sẽ chống cự kịch liệt bằng công sự chiến đấu và đại pháo của tầu Richelieu, trong khi các oanh tạc cơ Glenn - Martin, các khu trục cơ Curtiss, các tiềm thủy đĩnh, rất nguy hiểm cho tầu bè không có phươmg tiện phòng thủ, sẽ tàn phá hết đội thuyền chuyên chở. Đến lúc Dakar bị tan nát rồi có chịu đầu hàng người Anh thì rốt cuộc, cuộc hành quân cũng tai hại cho chủ quyền của người Pháp. Sau một thời hạn ngắn, tôi trở lại cho ông Churchill biết rằng tôi chấp thuận ý kiến của ông. Tôi thảo luận kế hoạch hành binh với đô đốc John Cunningham chỉ huy hạm đội Anh quốc ; nhân dịp này tôi được biết ông là một người rất khó chịu nhưng là một tay thủy thủ lành nghề và tận tâm. Đồng thời, tôi chuẩn bị những phương tiện nghèo nàn của chúng ta để tham gia cuộc hành quân. Chúng ta có ba chiếc tiểu hạm : Savorgnan de Brazza, Commandant Duboc, Commandant Dominé, hai chiếc ngư thuyền võ trang : Vaillant và Vikinq. Chúng ta còn gửi qua hai tầu buôn Hòa Lan Pemdand và Westerland, một đại đội lê dương, một liên đội lính mới mộ, một liên đội thủy quân lục chiến, nhân viên đủ cho một liên đội chiến xa, một giàn đại pháo, sau hết là các nhân viên dịch vụ : tất cả hai ngàn người. Ngoài ra còn phi công cho hai phi đội. Sau hết là bốn tầu chuyên chở Pháp: Anadyr, Casamance, Fort-Lamy, Nevada để chở vật liệu nặng : chiến xa, đại bác, phi cơ Lysanderf Hurricance và Blenheim còn đóng, hòm, xe vận tải đủ loại, và vật liệu tiếp tế. Còn như người Anh thì hạm đội của họ không phải là có đủ tàu bè như ông Churchill đã nói trước đây. Hạm đội chỉ có hai thiết giáp hạm kiểu cũ : Barham và Resolution, bốn tuần dương hạm, hàng không mẫu hạm Ark Roya, một vài chiếc khu trục hạm và một chiếc tàu dầu. Ngoài ra còn ba tầu vận tải chở hai đại đội thủy binh dưới quyền chỉ huy của lữ đoàn trưởng Irwin, cùng những phương tiện cần thiết để đồ bộ. Nhưng không thấy nói đến lữ đoàn Ba Lao trước đã dự định tham dự cuộc hành quản này. Hầu như các bộ chỉ huy không mấy tin tưởng tầm quan trọng và kết quả cuộc hành quân cho nên đã tìm cách cắt bớt phần nào lực lượng trù định trước. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:12:41 am Một vài ngày trước khi khỏi hành đã xảy ra một cuộc tranh luận gắt gao với người Anh về khối lượng vàng để ở Bamako ; nếu thành công thì tôi sẽ đem số vàng ấy đi đâu. Đây là số quý kim của Pháp Quốc Ngân Hàng giữ cho mình và cho các ngân hàng Nhà Nước Bỉ và Ba Lan. Vào lúc quân Đức tiến vào Pháp, Pháp Quốc Ngàn Hàng đã di chuyển một phần trữ kim và ký thác sang Senegal, phần khác sang Federal Bank Mỹ Quốc, sẽ còn lại chở sang Martinique, Vùng Bamako vẫn bị các cơ quan tình báo của các nước giao chiến dòm ngó qua hàng rào phong tỏa, biên giới và các đồn canh. Người Bỉ và người Ba Lan muốn lấy lại phần của họ, tôi đã cam kết trả, lại họ với ông Spaak và ông Zauski. Nhưng người Anh, tuy không đòi hỏi gì hết vì họ không có quyền sở hữu, nhưng họ nhưng họ cũng muốn sử dụng số vàng ấy để thanh toán việc mua bán với người Mỹ, họ nại cớ chi tiêu để trang bị quân đồng minh. Trong thời kỳ ấy, Hoa Kỳ chỉ bán tiền ngay chứ không cho chịu. Mặc dân Spears nhấn mạnh đến chuyện ấy và đe đọa bỏ cuộc, tôi cũng nhất định khước từ tham vọng của người Anh. Sau cùng họ cũng thỏa thuận theo sự đề nghị tiên khởi của tôi là vàng Bamako chỉ được, dùng để chi tiêu hàng hỏa do người Anh mua ở Mỹ cho quân Pháp Chiến Đấu. Trước khi lên đường, tin tức tập kết của vùng Tchad, xứ Cameroun, xứ Congo và xứ Oubangui đưa về kịp thời để tăng thêm hy vọng cho chúng tôi. Mặc dầu không chiếm nổi Dakar, ít nhất chúng tôi cũng hy vọng rằng có quân viện, chúng tôi sẽ tổ chức ở Trung Tâm Phi Châu một căn cứ để hoạt động và xác định chủ quyền của nước Pháp dự chiến. Các bộ đội gởi đi từ Liverpool ngày 31 tháng tám. Chính chúng tôi cũng ra đi với một phần các đơn vị Pháp và một bộ tham mưu hạn chế, trên chiếc tầu Wester land treo cờ Pháp bên cạnh cờ Hòa Lan, thuyền trưởng Plagaay, các sĩ quan và thủy thủ, đều tỏ ra những gương mẫu thân hữu và tận tâm. Spears đi theo tôi, thay mặt Churchill, với tư cách sĩ quan liên lạc, nhà ngoại giao và thông tín viên. Tại Anh Quốc tôi để cho Muselier trông coi những lực lượng đang thành lập của chúng ta, Antoine điều khiến việc, quản lý và Dewavrin giữ việc liên lạc và thông tin trực tiếp. Ngoài ra, tướng Catroux từ Đông Dương sắp về tới nơi, tôi để lại bức thư trao cho ông khi ông về đến nơi, thư này trình bày toàn bộ các kế hoạch của tôi và ý định của tôi muốn ủy thác cho ông công việc gì. Tôi tính rằng, trong khi tôi vắng mặt không đến nỗi lâu ngày quá, các đồng chí của tôi cũng tích lũy được đủ khôn ngoan để tránh tranh chấp nội bộ, mưu toan lung đoạn từ bên ngoài, sự nghiệp mong manh của chúng tôi đến nỗi bị lung lay. Nhưng đứng trên cầu tầu rời khỏi hải cảng cùng với dúm quân nhỏ bé và vài chiếc tàu tý hon, tôi cảm thấy trách vụ lớn lao đè nặng xuống hai vai. Ngoài khơi, trong đêm dày, một con tầu ngoại quốc, không đại pháo, không đèn đóm, đang vượt sóng trùng dương mang theo cả vận mệnh của nước Pháp. Trạm nghỉ thứ nhất là Freetown. Theo kế hoạch, chúng tôi phải tập hợp lại ở đây và thâu góp những tin tức cuối cùng. Ngày 17 tháng chín mới đến nơi vì các tầu chở hàng chỉ có tốc lực thấp, vì phải đi một đường vòng vo qua Đại Tây Dương để tránh phi cơ và tầu ngầm Đức; khi đi đường chúng tôi nhận được điện tín từ Luân Đôn cho biết tình hình lực lượng của Vichy, một tin tửc mới khiến cho chúng tôi phải đặt lại các vấn đề. Ngày 11 tháng chín, ba tuần dương hạm lớn: Leygues, Gloưe, Montcalm và ba tuần dương hạm nhẹ : Audacicnx,Fantasqui, ra khỏi Toulon, qua eo biển Gibraltar mà hạm đội Anh không ngăn cản được. Những hạm đội đó sẽ tới Casablanca và vào Dakar. Khi vừa bỏ neo ở Freetown, một tin mới rất quan trọng làm cho chúng tôi càhg thêm lo ngại. Hạm đội ở Dakar vừa có thêm tuần dương hạm Prưnauget, vừa nhổ neo và mở hết tốc lực đi về phía nam. Một khu trục hạm Anh đi theo để canh chừng, vẫn chưa để mất tích. Tôi biết chắc rằng lực lượng hải quân quan trọng này sẽ đến Trung Phi, bến Libreville sẽ mở rộng cửa đón họ và họ sẽ vào Pointe-Noire và Douala dễ dàng . Nếu việc động trời ấy không đảo ngược được tình thế ở Congo và Cameroun thì ít ra mấy chiếc tầu ấy cũng có thể chuyên chở lực lượng từ Dakar, Konakry hay Abidjan sang để đàn áp Congo và Cameroun. Giả thuyết này được thực tại xác định ngay vì chiếc tàu chở hàng Poitiers từ Dakar sang Libreville và được người Anh cho phép, đã bị thuyền trưởng đánh đắm. Đã rõ là Vichy thực hiện một kế hoạch lớn để lấy lại đất đai đã theo Pháp Chiến Đấu ; việc giữ 7 chiếc tuần dương hạm đến vùng xích đạo chỉ có thể thực hiện với sự đồng ý của người Đức nếu không phải là theo lệnh của người Đức. Đô đốc Cunningham đồng ý với tôi rằng phải ngăn cản ngay hạm đội của Vichy. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:13:12 am Chúng tôi đồng ý rằng sẽ khuyên cáo người của Vichy chỉ được đến Casablance thôi chứ không được đến Dakar, nếu không, hạm đội Anh sẽ tạo ra tình trạng thù nghịch. Chúng tôi nghĩ rằng chỉ cần đe dọa thôi, những tầu ấy cũng phải lảng xa. Vi tầu Anh, tuy tốc lực kém không theo kịp tầu của Vichy, nhưng đông gấp đôi, sẽ chiếm ưu thế khi tầu Vichy vào đậu trong các bến Trung Phi không có giàn đại pháo phòng thủ. Nhưng vậy kẻ xâm lăng dành phải bỏ cuộc hay chấp nhận cuộc đụng độ trong nhũng điều kiện bất lợi cho họ. Vị chỉ huy đoàn tầu ít khi chịu để dồn vào thế lưỡng nan như vậy. Ngoài thực tế, các tuần dương hạm Anh liên lạc với đô đốc Bourragué, trưởng đoàn tầu Vichy, bắt buộc ông này phải quay đi chỗ khác khi ông này kinh ngạc mà nhận thấy có một hạm đội Anh - Pháp ở quanh vùng. Nhưng đoàn tầu Vichy hất chấp ai đuổi theo, vẫn vào được Dakar. Chỉ có hai chiếc Gloưc và Priniauguet vì hư máy; hải quân trung tá Thierry d’Argenlieu của chúng ta liên lạc trực tiếp với họ, đã yêu cầu được họ đến Casablanca, họ chấp nhận nhưng từ chối không chịu đến sửa chữa ở Freetown. Nhờ vậy, Phi Châu Pháp Tự Do tránh được một nguy cơ lớn. Chỉ việc ấy cũng chúng minh rằng chúng tôi thực hiện cuộc hành quân này trăm phần hợp lý. Mặt khác, thái độ của đoàn tàu Toulon đi đến vùng xích đạo như không biết chúng tôi đã có mặt ở đấy, sau lại từ bỏ công tác khi biết chúng tôi đã có mặt ở dẩy, như vậy chúng tôi phải ngờ rằng Vicky không biết có đoàn tầu của chúng tôi đi đâu. Nhưng sau khi đã khen tặng nhau rằng phá vỡ được kế hoạch của địch, chúng tôi công phải công nhận rằng kế hoạch của chúng tôi cũng bị xúc phạm nặng. Quả vậy, nhà cầm quyền Dakar đã để ý canh chừng, họ lại nhận thêm được một số tầu quan trọng. Nhân viên tình báo lại cho biết rằng người ta đã thay thế pháo đội thuộc địa yếu kém bằng những khẩu đại bác lớn để giữ mặt trận ngoài biển. Tóm lại, hy vọng chiếm Darka của chúng tôi trở nên rất mong manh. Tại Luân Đôn, ông Churchill và bộ tư lệnh Hải Quản Anh cho rằng tốt hơn hết là không nên thi thố gì nữa. Ông đã gửi điện tín cho tôi ngày 16 tháng chín, nói rằng hạm đội của ông chỉ hộ tống tầu bè của chúng tôi đến Douala thôi, sau đó sẽ rời di nơi khác. Tôi cần phải nói rằng sự thoái hộ ấy chỉ là một giải pháp tồi tệ. Quả vậy, nếu chúng ta để cho Dakar giữ nguyên được tình trạng như lúc này, thì Vichy chỉ việc chờ cho các tầu Anh trở về phương Bắc là trở lại uy hiếp Trung Phi. Đường biển mở rộng thênh thang, các tuần dương hạm của Bourraguet sẽ lại thẳng đường tiến tới đường xích đạo. Như vậy các chiến sĩ Thập Tự Lo Ren, kể cả tướng de Gaulle, chẳng sớm thì muộn sể bị kẹt trong những vùng xa xỏi, nếu không ngã quỵ thì cũng làm vào một cuộc chiến vô hồ với những người Pháp khác trong rừng hoang hay rừng rậm. Trong điều kiện ấy thì không còn hy vọng đánh Đức hay đánh Ý nữa, Tôi chắc rằng đây là mưu sâu của địch mà những bù nhìn Vichy đã làm tay sai cho họ dù ý thức được hay không ý thức được âm mưu ấy. Sự thể đã như vậy, chúng tôi đành phải tiến vào Dakar với bất cứ giá nào. Vả chăng, tôi nhận thấy những cuộc tập kết đã đạt được ở Phi Châu đều đem lại cho tôi chút hy vọng âm thầm, những tin túc mới nhận được từ Luân Đôn chứng thực sự nhận xét của tôi rất đúng. Ngày mùng 2 tháng chín, những thuộc địa Pháp ở Úc Châu dưới quyền các ông Ahne, Lagarde, Martin, đều theo Pháp Tự Do. Ngày mùng 9 tháng chín, thống, đốc, Bonvin tuyên bố rằng các lãnh địa Pháp ở Ấn Độ đều đứng về hàng ngũ chúng ta. Ngày 14 tháng chín, tại Saint-Pierre và Miquelon, Đại Hội Đồng Cựu Chiến Binh gửi thư cho tôi xin chính thức gia nhập, sau đó chính phủ Anh yêu cầu chính phủ Gia Nã Đại nâng đỡ họ. Ngày 20 tháng chín, toàn quyền Sautot đến Noumea sau khi tập kết Nouyelles-Hébrides ngày 18. Tại Noumia «Ủy Ban de Gaulle» do ông Michel Verges cầm đầu đã làm chủ được tình thế nhờ sự hưởng ứng nhiệt liệt của dân chúng, nhờ vậy và Sautot có thể lên cầm quyền. Sau hết, tôi đã thấy đoàn tầu của Bourraguet quay trở về khi nhận được lời khuyên cảo thứ nhất. Ai có thể khẳng định rằng chúng ta không thấy tuy có lệnh nghiêm ngặt nhưng dân chúng đã theo chúng tôi rồi? Dầu sao mình cũng phải làm thử. Đô đốc Cunningham cũng phản ứng như tôi. Chủng tôi đánh điện tín về Luân Đổn khẩn khoản yêu cầu cho phép thử cuộc hành quân. Sau này ông Churchill cho tôi biết rằng lời khẩn khoản ấy làm cho ông vừa kinh ngạc vừa khoan khoái, ông bằng lòng ngay và cuộc hành quân được quyết định. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:13:31 am Tuy nhiên, trước khi đi, tôi bị Cunningham yêu cầu đặt mình dưới quyền chỉ huy của ông, cả số quân nhỏ nho của tôi, để bù lại, ông để tôi sang ở chiếc soái hạm Barham của ông. Dĩ nhiên, tôi từ chối cả lời yêu cầu lẫn lời mời. Tối hôm ấy có lời qua tiếng lại trên chiếc Westerland, nơi hội đàm. Đến đêm, đô đốc viết cho tôi bức thư rất thân hữu và bỏ ý định trước. Chủng tôi nhổ neo ngày 21 tháng chín. Đến bình minh ngày 23, chúng tôi đến trước mặt Dakar giữa lớp sương mù dầy đặc. Sương mù sẽ làm cho cuộc hành quân rất khó khăn. Theo Churchill thì đoàn chiến hạm cửa chúng tôi không có ảnh hưởng tinh thần đến đồn trại binh sĩ và dân chúng vì họ trông ra ngoài khơi không thấy gì. Nhưng không thể đình hoãn được. Kế hoạch dự liệu đành phải đem ra thi hành. Đến 6 giờ, tôi dùng VTĐ gửi điện văn cho hải quân, bộ đội và dân cư báo tin sự có mặt của chúng tới và bày tỏ sự thân hữu của chúng tôi. Ngay sau đấy, từ cầu tầu Royal hai chiếc phi cư « đom đóm » loại du lịch Pháp, không võ trang, cất cánh và đậu xuống bãi đậu của chiếc chở đến ba sĩ quan : Gaillet, Scamaroni, Souffet, ba người đưa tin thân hữu. Tồi được tin ngay hai phi cơ đom đóm hạ cánh xuống không có gì là khó khăn, trên bãi đậu đã vang lên tiếng «Hoàn hảo !». Bất thần có tiếng súng phòng không nổi lên khắp nơi. Đại bác của tầu Richelieu và các giàn pháo ở khắp nơi bắn vào các phi cơ Pháp tự do và Anh đang bay trên thành phố để tung xuống những truyền đơn thân hữu. Tuy nhiên, loạt sủng nghe ghê rợn thật nhưng có vẻ ngập ngừng. Bởi vậy, tôi cho lệnh hai chiếc tầu nhỏ du thuyết tiến vào hải cảng trong khi các tầu nhỏ Pháp Tự Do và hai chiếc Wester land, Pennland, tiến vào cửa khẩu. Mới đầu không có phản ứng gì. Hải quân Trung tá d‘ Argenlieu, đại đội trưởng Gotscho, hai đại úy Bccourt-Focli và Perrin, thiếu úy Porgès đều bỏ neo và lên bộ xin vào gặp thiếu tá chỉ huy hải cảng, ông này ra tiếp D‘ Argenlieu cho biết có bức thư của tướng de Gaulle gửi cho vị toàn quyền và phải trao tận tay. Nhưng ông ta không giấu vẻ bối rối, ông ta tuyên bố có lệnh bắt giam thuyết khách. Đồng thời ông ta tỏ ý muốn gọi lính cận vệ. Thấy vậy bọn d’Argenlieu trở về tầu của mình. Tầu quay mũi ra, từng loạt liên thanh bắn theo. D’Argenlieu và Perrin bị thương nặng phải đưa về tầu Westerlaml. Giàn pháo Dakar bắt đầu bắn vào đoàn tầu Anh và Pháp Tự Do từng đợt nhát gừng trong nhiều giờ nhưng không có tiếng trả lời. Chiếc được tầu kéo quay mũi trong bến để sử dụng đại bác dễ dàng hơn, bây giờ đã bắt đầu nhả đạn. Đến 11 giờ, đó dốc Cunningham dùng VTĐ gửi bức điện tín : « tôi không bắn các ông. Tại sao các ông bắn tôi?» Trả lời: « Rút ra-cách đây 20 dặm ! » Bây giờ đến lượt người Anh nổ vài tiếng súng. Nhưng thời giờ vẫn trôi qua, hai bên chưa ai thực sự muốn đánh mạnh. Cho đến giữa trưa không có chiếc phi cơ nào của Vichy cất cánh lên không trung. Căn cứ vào những dấu hiệu ấy, tôi không có cảm tưởng là Dakar cương quyết kháng cự. Có lẽ hải quân các đồn trại và vị toàn quyền đang đợi một diễn biến nào đó để vin lấy làm cơ hội hòa giải ? Đến trưa đô đốc Cunningham gửi cho tôi một điện tín cho tôi biết ông cũng có cảm tưởng như vậy. Hẳn là không thể nghĩ đến việc đưa đoàn tầu vào bến. Nhưng tại sao lại không đồ bộ các bộ đội Pháp Tự Do lên nơi nào gần hải cảng để tìm cách tiến lại gần bằng đường bộ ? Chúng tôi đã nghĩ đến trường hợp này từ trước. Hải cảng nhỏ Rufisque ở ngoài tầm súng của phần lớn công sự chiến đấu có thể dùng được miễn là cuộc đổ bộ không gặp sức kháng cự mạnh, Nhưng chỉ có tầu nhỏ vào được Rufisque còn tầu lớn không vào được vì nông quá. Như vậy, phải dùng xà lan để đổ độ, không mang theo được súng lớn, và phải thực an toàn mới đồ bộ được. Tuy nhiên Cunningham đã hứa sẽ phòng vệ mặt biển, tôi bèn kéo đến Rufisque. Vào lúc 15 giờ, sương mù vẫn dày đặc, chúng tôi thực hiện cuộc đồ bộ. Chiếc Commandant Duboc chờ một toán thủy quân lục chiến tiến Vào hải cảng và đưa lên bộ vài người thủy thủ để cột tầu. Trên bờ đã có một đám đỏng người bản xứ chạy đến để tiếp đón toán thủy thủ trong khi bộ đội của Vichy dàn trận quanh vùng khai hỏa vào chiếc tiểu hạm của chứng tôi, làm bị thương và tử thương vài người. Trước đây ít lâu hai oanh tạc cơ Glenn-Martin đã bay thấp trên đoàn tầu của chúng tôi để cho chúng tôi biết rằng họ vẫn để ý canh chừng, nên liệu cái thần hồn. Sau chót, đô đốc Cunningham cho biết rằng các tuần dương hạm Georges Leygues và Montcalm ở cảng Dakar chỉ cách chúng ta có một dặm trong sương mù, còn các tàu Anh mắc ở chỗ khác không thể bảo vệ được chúng tôi. Thôi thì là đành phải bỏ ngang. Không những vì không thể đồ bộ được mà còn nguy hiếm là khác, chỉ cần một vài loạt đại bác của tuần dương hạm Vichy bắn ra là đưa cả đoàn quân Pháp Tự Do xuống đáy biển. Tôi quyết định trở ra khơi, lúc về được trôi chảy. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:13:49 am Suốt đêm thao thức. Sáng hôm sau hạm đội Anh nhận được của ông Churchill một điện tín cho phép hoạt động mạnh, họ bèn hạ tối hậu thư cho Dakar. Nhà cầm quyền ở đây nhất định không nhượng bộ. Suốt ngày hôm ây người Anh và giàn pháo trên mặt đất và trên tầu đậu tại bến cùng nhau trao đổi từng loạt súng qua sương mù dầy đặc. Đến chiều cũng chưa thấy có kết quả rõ rệt. Đến tối, chiếc Barham tới gần chiếc và đô đốc Cunningham yêu cầu tôi sang bàn tính. Trên chiếc chiến hạm Anh bầu không khí căng thẳng và buồn tẻ. Hẳn là người ta than phiền vì không thành công. Nhưng cảm tưởng nối bật là sự kinh ngạc. Người Anh họ thực tế, họ không hiểu tại sao nhà cầm quyền, hải quân và bộ đội ở Dakar lại kiên quyết đánh lại đồng bào và đồng minh trong khi nước Pháp nằm bẹp dưới gót giầy xâm lăng. Còn như tôi, tôi đã không còn ngạc nhiên gì nữa. Những việc mới xay ra lại một lần nữa tố giác manh tâm của Vicliy lạm dụng can đảm và tinh thần kỷ luật của những .người dưới quyền họ để chống lại quyền lợi của tổ quốc. Đô đốc Cunningham cho biết tình hình. Ông nói: « Cứ thái độ của Dakar và hạm đội yểm trợ họ thì tôi cho rằng oanh tạc chưa chắc đã giải quyết được tình trạng » Tướng Irwin chỉ huy các đơn vị đổ bộ nói thêm : « sẵn sàng đưa bộ đội lên mặt đất để xung kích các chiến lũy, nhưng cần phải hiểu rằng như thế sẽ nguy hiểm cho mỗi chiếc tầu và mỗi người lính ». Cả hai người đều hỏi tôi, nếu chấm dứt cuộc hành quân này thì «phong trào» Pháp Tự Do sẽ ra sao. Tôi nói : «Cho đến bây giờ chúng ta chưa tận lực đánh Dakar. Cuộc vận động hòa giải đã thất bại. Việc oanh tạc không đem lại kết quả gì. Sau hết, cuộc đổ bộ bằng sức mạnh và việc xung kích các chiến lũy sẽ đưa đến một trận đảnh quy mô mà theo ý tôi thì tôi muốn tránh, vả chăng chính ông cũng cho biết rằng kết quả không chắc chắn. Như vậy lúc này nên bãi bỏ việc chiếm cứ Dakar. Tôi đề nghị đô đốc Cunningham nên ngừng việc ném bom như tướng de Gaulle đã yêu cầu. Nhưng việc phong tỏa vẫn tiếp tục để ngăn cản sự hoạt động của các tầu ở Dakar. Sau này chúng ta sẽ thử một chuyến nữa bằng cách tiến theo đường bộ sau khi đổ bộ lên những điểm không có hay kém phòng thủ như Saint - Louis chẳng hạn. Dẫu sao thì Pháp Tự Do cũng cứ tiếp tục ». Đô đốc Cunningham và tướng Irwin nghe theo lời tôi về những việc phải làm ngay tức khắc. Trong đêm tối, tôi rời khỏi tầu Barham lên chiếc xà lúp bềnh bồng trên ngọn sóng, bộ chỉ huy và đoàn thủy thủ bồng súng chào trong sự buồn rầu. Nhưng có hai sự kiện làm cho đô đốc Cunningham bỏ quyết định hồi tối. Trước bết là một bức điện tín của ông Churchill yêu cầu tiếp tục cuộc hành quân. Ông ngạc nhiên và tức giận là khác, tại sao lại bỏ cuộc trong khi các giới chánh trị ở Luân Đôn và nhất là ở Hoa Thinh Đốn bắt đầu thắc mắc vì đài phát thanh Vichy và Bá Linh làm rùm beng. Mặt khác, sương mù đã tan, có thể thực hiện cuộc oanh tạc. Lần này họ không cần hỏi ý kiến tôi, cuộc giao tranh khởi diễn từ bình minh, đại bác Anh và bên kia nổ rền. Nhưng đến chiều, thiết giáp hạm Resolution trúng mìn của tiềm thủy đĩnh gần chìm, phải cho tầu khác kéo. Nhiều tầu Anh khác bị tổn hại nặng. Bốn phi cơ của Ark Royal bị bắn rơi. Phía bên kia tầu Richelieu và nhiều chiến hạm khác bị thiệt hại nặng. Diệt ngư lôi hạm Audacieux, tiềm thủy đĩnh Persée và Ajax bị đánh chìm, đoàn thủy thủ chiếc sau được một tuần dương hạm Anh cứu vớt. Nhưng các pháo đài trên hải cảng vẫn bắn xuống. Đô Đốc Cunningham quyết định bỏ cuộc. Tôi đành phải nghe theo. Chúng tôi chạy thẳng về Freetwon. Những ngày kế theo đó thật là tàn ác cho tôi. Tôi có cảm tưởng một người nhà bị động đất dữ dội, mái ngói trên nóc trút xuống đầu. Ở Luân Đôn, cơn giận nổi lên như bão. Tại Hoa Thịnh Đốn lời châm biếm chua cay giáng vào đầu tôi như mưa bão. Đối với báo chí Mỹ và nhiều tờ báo Anh thì sự thất bại nảy phải đổ hết lên đầu de Gaulle. « Chính ông ta đã bảy ra trò phiêu lưu phi lý này, ông ta đã đánh lừa người Anh bằng những tin tức thất thiệt về Dakar, làm như Đông Ký Xuất nhào vào Dakar trong khi Dakar đã đưa viện binh tới giữ vững như bàn thạch, vả chăng, những tuần dương hạm Toulon chỉ kéo đến vì Pháp Tự Do vụng về bất cần làm báo động Vichy... cần nói một lần cho cả mọi lần để mọi người thấy rõ rằng không thể tin được những người không giữ nổi một sự bí mật». Chẳng bao lâu, ông Churchill cũng bị chỉ trích nặng nề, người ta chê trách ông đã để cho mình bị lôi kéo đi quả dễ dàng. Spears, mặt sa sầm, mang đến những điện văn của thông tín viên tiên đoán de Gaulle thất vọng, bị các đồng chí bỏ rơi, bị người Anh gạt ra ngoài, sẽ bỏ cuộc ; chính phủ Anh sẽ cùng với Catroux, Muselier tuyên một người Pháp giúp việc trong một phạm vi nhỏ hẹp hơn. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:14:17 am Các sự tuyên truyền của Vichy thì họ lên giọng đắc thắng không kiêng nể gì ai Những bản thông csdo của Dakar trình bày như một trận hải chiến thắng lợi lớn. Nhiều điện tín chúc mừng gửi cho toàn quyền Boisson và các chiến sĩ anh dũng ở Dakar, các báo chính thức của hai khu vực đều đăng tải và phê bình, các làn sóng phát thanh gọi là « làn sóng Pháp » cũng nói nhiều đến những tin ấy. Còn tôi, trong căn phòng nhỏ lạc lõng giữa một hải cảng nóng như thiêu như đốt, tôi được dịp hiểu rõ rằng thế nào là phản ứng của sự sợ hãi, địch phải trả thù vì tôi đã làm cho họ sợ hãi, đồng minh bất thần khiếp nhược vì thất bại. Tuy nhiên, tôi nhận thấy ngay rằng người Pháp tự do thảm bại nhưng không thối chí. Khi đã bỏ neo tôi đến thăm các đơn vị viễn chinh, không ai muốn bỏ về. Trái lại, tất cả đều thêm cương quyết trước thải độ thù nghịch của Vichy. Một chiếc phi cơ từ Dakar đến bay lượn trên đoàn tàu bỏ neo, trên tầu bắn lên như mưa, một tuần lễ trước đây người ta không hung hăng như vậy. Chẳng bao lâu những điện tín nồng nhiệt của Laminat và Leclerc gửi đến cho tôi biết rằng mọi người vẫn một lòng cương quyết trung thành. Tại Luân Đôn, không có gì nao núng, tuy rằng khắp nơi gửi đến lời trách móc chua chát. Sự tin tưởng của những người kết nghĩa với tôi đem lại cho tôi một nguồn an ủi lớn. Như vậy tỏ ra rằng Pháp Tự Do được đặt trên nền móng chắc chắn. Nào! Chúng ta tiếp tục mọi việc ! Spears đã nguôi nguôi, trong một cuộc nỏi chuyện với tôi, ông trích dẫn Victor Hugo: « Ngày hỏm sau, Aymeri chiếm được thành». Cần phải nói rằng tại Luân Đỏn dư luận ác cảm bùng lên như bão, nhưng chính phủ Anh rất kín tiếng. Churchill tuy bị người ta làm rầy rà nhưng không chối bỏ tôi và tôi cũng không hề chối bỏ ông. Ngày 25 tháng chín, ông tường trình việc ấy trước Hạ Viện hết sức khách quan và tuyên bố rằng : « những việc đã qua chỉ làm cho chính phủ Hoàng Gia thêm tin cẩn tướng de Gaulle ». Hẳn là lúc ấy Thủ Tướng Anh biết rõ tại sao hạm đội Toulon có thể đi qua được eo biển Gibraltar, tuy ông không nói ra, chính ông nói cho tôi biết khi tôi trở về Anh quốc hai tháng sau. Một điện tín gửi đi từ Tanger do một sĩ quan Pháp tình báo bí mật tập kết với Pháp Tự Do, đó là đại úy Luizet, ông báo cho Luân Đòn và Gibraltar biết việc khởi hành của đoàn tầu Vichy. Bức điện tín đã đến nơi, nhưng có trận oanh tạc của không quân Đức hàng mấy giờ tại Whitehall, nhân viên phải ở dưới hầm nủp, sau đó công việc của bộ tham mưu bị chậm trễ. Việc phiên dịch mật ngữ chậm qua, Hải Quân không kịp báo động hạm đội Gibraltar. Tồi tệ hơn ! Tùy viên hải quân của Vichy ở Madrid đã ngây thơ báo tin ấy cho tùy viên quân sự Anh ; đô dốc chỉ huy Gibraltar được hai nguồn tin khác nhau báo động, ông không làm gì để ngăn cản đoàn tàu nguy hiểm đó. Tuy nhiên, thái độ công khai của Thủ Tướng Anh đối với phe de Gaulle đã làm giảm bớt tình trạng sôi động tại nghị trường và trên báo chí. Dẫu sao thì vụ Dakar cũng để lại trong tâm trí người Anh một vết thương không lành và trong trí óc người Mỹ cảm tưởng không hay rằng nếu một ngày kia phải đổ bộ lên đất đai của Vichy thì không nên để cho Pháp Tư Do và người Anh tham dự. Dầu sao, ngay lúc này đồng minh Anh của chúng ta cũng nhất quyết không thử lại một lần nữa. Đô đốc Cunningham tuyên đố dứt khoát rằng phải bỏ hẳn việc ấy không trở lại bất cứ dưới hình thức nào. Chính ông cũng không biết làm gì hơn đưa tôi về tôi Cameroun. Đoàn tầu thẳng tiến về Douala. Ngày mùng 8 tháng mười giữa lúc các tầu Pháp vào cửa biển Wouri, đoàn tầu Anh chào từ biệt và quay ra khơi. Tuy nhiên dân chúng trong tỉnh vui mừng nhiệt liệt khi tầu Commandant Duboc chở tôi vào hải cảng Douala, Leclerc đợi tôi ở đấy. Sau khi duyệt binh, tôi đến dinh thống đốc trong khi các đơn vị từ Anh quốc, sang đặt chân lên bờ. Công chức, thực dân Pháp, nhân sĩ bản xứ bày tỏ lòng ái quốc nồng nhiệt. Nhưng ho không quên nghĩ đến công việc riêng của họ, điều chính yếu là xuất cảng sản phẩm trong nước và nhập cảng nhu dụng phẩm không kiếm được ở đây. Nhưng, vượt lên trên những bận tâm và ý kiến dị biệt, sự đoàn kết người Pháp Tự Do tự nhiên bộc lộ ở Luân Đôn cùng như ở Phi Châu. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:14:39 am Những người đứng về hàng ngũ Croix để Lorraine đều có một bản chất như nhau, sau này tính chất đồng nhất ấy trở thành yếu tố cố định của mọi sự nghiệp cứu quốc. Bất cứ ở đâu, bất cứ việc gì, người ta cũng có thể tiên đoán được «cánh de Gaulle » sẽ nghĩ thế nào và hành động thế nào. Thí dụ : mối xúc động phấn khởi mà tôi vừa thấy đấy, sau này có cơ hội nào tiếp xúc với dân chúng tôi cũng thấy bộc lộ sự phấn khởi ấy. Tôi cần phải nói rằng lâu dần tôi bị lệ thuộc vào thái độ phấn khởi của quần chúng. Đối với các đồng chí tôi tượng trưng cho chánh nghĩa, đối với quần chúng Pháp tôi tượng trưng cho hy vọng, đối với ngoại quốc tôi tương trưng cho nước Pháp quật cường giữa cơn thử thách ; sự kiện đó chi phối phong độ của tôi và tôi chấp nhận nó là một cá tính không thể thay đổi được. Nó trở nên một trụ cột nâng đỡ nội tâm nhưng đồng thời cũng là một thứ gông cùm quá nặng. Lúc này cần phải nuôi sống Trung Phi thuộc Pháp và huy động nhân lực và tài nguyên để tham dự cuộc chiến Phi Châu. Ý kiến của tôi là thiết lập trong rừng sâu hồ Tchad và xứ Libye một mặt trận vùng sa mạc đợi ngày tình thế biến chuyển, quân đội Pháp có thể chiếm lấy Fezzan và bước chân vào Địa Trung Hải. Nhưng vì sa mạc hoang vu, giao thông và tiếp tế khó khăn, tôi chỉ có thể cung cấp được những quân số ít ỏi và chuyên về một loại hành quân. Bởi thế cho nên đồng thời tôi muốn gửi sang Trung Đông một đạo quân viễn chinh bên cạnh người Anh. Mục tiêu xa xôi đối với cả mọi người là Bắc Phi thuộc Pháp. Tuy nhiên, trước tiên phải thanh toán xứ Gabon, phần đất nội địa thù nghịch với chúng tôi. Ngày 12 tháng mười tôi ra lệnh cần thiết cho Douala. Trong khi đang sửa soạn cuộc hành quân khó nhọc ấy tôi rời khỏi Cameroun để viếng thăm các lãnh thổ khác. Trước hết tôi đến hồ Tchad sau khi lưu lại một thời gian ngắn ở Yaounde. Sự nghiệp của Pháp Chiến Đấu kể cả lãnh tụ lẫn đồng chí thiếu điều sụp đổ trong chuyến đi này. Chiếc phi cơ Potez 540 đưa chúng tôi về Fort - Larny bị hư máy, thật là may mắn phi thường mà phi công đậu xuống được giữa đồng lầy không bị hư hao nhiều. Ở Tchad tôi thấy bầu không khí sôi động. Ai nấy có cảm tưởng rằng ngón tay Lịch sử vừa đặt xuống mảnh đất đáng khen và đau khổ này. Ở đây muốn làm cái gì cũng phải mạnh tay liều lĩnh vì người ta phải đương đầu với đủ mọi khó khăn lớn : xa xôi, hẻo lánh, khí hậu, thiếu đủ mọi phương tiện. Nhưng bù lại, đã vượng lên bầu không khí hào kiệt từ đó xuất hiện những sự nghiệp lớn lao. Eboué tiếp tôi ở Fort - Lamy. Tồi nhận thấy ông bày tỏ cho tôi biết lòng trung tín không sờn của ông. Đồng thời tôi cũng nhận thấy ông có tài thao lược để tham gia những sự nghiệp lớn lao. Ông đưa ra những ý kiến thích đáng và không bao giờ phản đối về phươ'ng diện cố gắng và mạo hiểm. Tuy nhiên, công việc của ông là phải thực hiện những trục lộ giao thông để vùng Tchad có thể nhận được vật liệu và lương thực từ Brazzaville, Duala, Lagos rồi chuyên chở đến biên giới Libye thuộc Ý để quân Pháp Chiến Đấu có thể chiến đấu hữu hiệu, Tất cả 6.000 cây số đường mòn qua lãnh thổ, ông phải tạo lấy phương tiện mà đắp đường hay sửa chửa. Ngoài ra, còn phải mở mang kinh tế trong nước để nuôi binh lính và công nhân còn phải xuất cảng để có tiền chi phí mọi việc. Công việc khó khăn vì sẽ có một số lớn thực dân và công chức phải nhập ngũ. Tôi cùng với đại tá Marchand, chỉ huy bộ đội ở Tchad, bay đến Faya và các đồn ngoài sa mạc. Tôi được biết các bộ đội đều cương quyết chiến đấu nhưng thiếu thốn đủ mọi phương tiện, về đơn vị lưu động, ở đây chỉ có các đơn vị lạc đà và một vài đội xe hơi. Bởi thế cho nên khi tuyên bố với sĩ quan rằng tôi trông cậy ở họ để một ngày chiếm Fezzan và tiến đến Địa Trung Hải, họ kinh ngạc hiện ra nét mặt. Họ cho rằng việc oanh tạc của phi cơ Đúc và Ý còn dễ xảy ra hơn là cuộc tấn công đại quy mô mà tôi vừa phác họa. Không có ai tỏ vẻ ngập ngừng khi nói đến tiếp tục chiến đấu vì ở đấu người ta cũng bị thu hút bởi hình Thập Tự Lo Ren. Tuy nhiên, trên lãnh thổ Niger và ốc đảo Sahara, bạn hữu họ cũng sống như họ, cũng ở tận thâm sơn cùng cốc xứ Libye, nhưng không có cấp trên dìu dắt, những người bạn không may ấy sẽ chĩa súng bắn chết ngay người nào nói đến chuyện đánh kẻ thù của nước Pháp ! Trong số những thử thách tinh thần mà lỗi lầm của Vichy đã bắt tôi phải gánh chịu, thật không còn gì đau khổ hơn phải chứng kiến những cảnh trải ngược phũ phàng như vậy. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:36:59 am Nhưng khi trở về Fort - Lamy, đã có tin mừng đưa lại cho tôi khá nhiều phấn khích. Đây là tin của tướng Catroux. Khi ông trở về tới Luân Đôn, tôi đã đi Phi Châu, những người tài đặt điều đã tưởng tượng ra người Anh muốn dùng vị tướng quân đoàn đã có những sự nghiệp lớn này trong khi những người thủ cựu thì khích bác đã tự hỏi ông tướng ấy có chịu thuộc quyền một tướng lữ đoàn chăng ? Catroux đã đến thăm Thủ Tướng Anh nhiều lần và nhiều người đã phỏng đoán trong những cuộc hội đàm ấy Thủ Tướng Anh đã gọi ý cho ông nên chiếm lấy chỗ của tôi, không phải để ông thử điều khiển xem sao, mà để Thủ Tướng Anh dùng mánh lới «chia để trị». Một vài ngày trước khi đến Dakar, Churchill đã bất thần báo tin cho tôi biết ông gửi Catroux đến Le Caire để hoạt động ở Trung Đông, nơi người ta vẫn đợi xảy đến dịp may mắn thuận lợi. Tôi đã phản ứng rõ rệt ngay việc ấy, tôi cho rằng không phải là một ý kiến dở, nhưng sáng kiến phải đợi tôi chấp thuận. Churchill đã giải thích một cách trôi chảy, ông nại cớ cấp bách. Bày giờ Catroux từ Le Caưe đến Fort – Lamy. Trong bữa ăn tôi nâng ly chúc mừng vị tướng lãnh cao cấp, xưa nay tôi vẫn có lòng ngưỡng mộ. Ông trả lời một cách rất cao thượng và rất giản dị rằng ông nhận quyền chỉ huy của tôi. Eboué và những người có mặt đều xúc động, đối với Catroux thì de Gaulle đã vượt ra ngoài cấp bậc quân nhân để đảm nhiệm một trách vụ không thể đồng hóa với cấp bậc quân đội. Không ai có thể không biết đến giá trị của tấm gương sáng như vậy. Khi đã ấn định nhiệm vụ của ông, tôi từ biệt tướng Catroux ở gần chiếc phi cơ đưa ông về Le Caire, tôi cảm thấy cá nhân ông đã lớn mạnh thêm nhiều khi ông ra về. Tôi đến Brazzaville ngày 24 tháng mười. Ở đây cái nhìn tổng quát cũng cho thấy là đáng tin tưởng như ở Douala và Fort - Lamy. Nhưng người ta chỉ nhìn thấy dần dần. Đối với « thủ đô » thì như thế là bình thường. Hành chánh, bộ tham mưu, dịch vụ, kinh doanh, tôn giáo, mọi giới đều ước lượng những khó khăn cần phải vượt qua để các vùng xích đạo nghèo nàn nhất Đế Quốc có thể sống được khi mất liên lạc với chánh quốc và góp phần nỗ lực chiến tranh. Thực ra rất dễ bán cho Anh và Mỹ một vài sản phẩm như dầu, cao su, gỗ, bông, cà phê, da. Nhưng vì không có cơ xưởng, không có khoáng sản, ngoại trừ một ít vàng, tổng số xuất cảng không thể quân bình được số hàng hóa mua ở nước ngoài. Để giúp việc Larminat về lãnh vực này, tôi bổ nhiệm Pleven làm tổng thư ký. Ông này, khi đã làm cho guồng máy chạy rồi, sẽ sang Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn điều đình các vấn đề giao dịch tài chánh. Khả năng của ông, nhờ có uy tín của Larminat nâng đỡ, quả là rất hữu hiệu. Các giới công chức, trồng tỉa, doanh thương, vận tải, nhận thấy cần phải hoạt động nhiều và cũng đáng công hoạt động, họ khỏi sự giai đoạn sinh hoạt phồn thịnh đã thay đổi sâu xa đời sống Trung Phi ngay từ những năm chiến tranh. Đến cuối tháng mười tôi viếng thăm Oubangui, được thống đốc Saint-Mart tiếp đón, rồi thăm Pointe - Noire, thống đốc-là Daguin, tôi đã có dịp khích lệ mọi nỗ lực cần thiết. Sau hết, ngày 27 tháng mười, tôi đến Leopold nhà cầm quyền, quân đội, dân chúng và những người Pháp sống ở Congo Bỉ đã dành cho tôi một sự tiếp đón nồng hậu. Toàn quyền Ryckmans cũng sống cô lập với tổ quốc, nhưng mong mỏi nước Bỉ tham dự cuộc chiến và thân hữu vời Pháp Tự Do. Vả chăng nhóm Pháp Tự Do đã che chở cho Congo Bỉ khỏi bị tiêm nhiễm tinh thần đầu hàng từ phía Bắc tràn xuống. Ryckmans phải giữ liên lạc mật thiết với láng giềng Pháp ở bờ bên kia sông Congo. Những bạn đồng liêu người Anh của ông cũng vậy : Bourdillon ở Nigeria và Huddleston ở Soudan. Trước đây vẫn có âm mưu và tranh giành làm mấy nước lân bang kình chống nhau, nhưng bây giờ từ Lagos đến Douala, Brazzaville, Leopoldville, Khartoum, các thống đốc đoàn kết với nhau, có lợi cho nỗ lực chiến tranh và trật tự Phi Châu. Tuy nhiên, tất cả đều sẵn sàng để thanh toán vấn đề Gabon. Trước khi tôi đến Douala, Larminat đã xếp đặt những việc đầu tiên. Dưới quyền chí huy của thiếu tá Parant, một vài yếu tổ rút ra từ lực lượng Congo, đã tiến tới Lambaréné, bờ sông Ggooué. Nhưng họ bị cản lại bởi các lực lượng của Vichy. Đồng thời, một toán nhỏ, gửi từ Cameroun sang, chỉ huy trưởng là đại úy Dio, đang bao vây đồn Mitzic. Tại Lambaréné và Mitzic, hai phe de Gaulle và Vichy trao đổi vài viên đạn và nhiều lời cãi vã. Thỉnh thoảng, một chiếc Glenn- Martin từ Libreville sang địa phận của chúng ta, thả xuống vài trải bom và nhiều truyền đơn. Một chiếc « Bloch 200 » từ Brazzaville, ngày hôm sau, sẽ bay sang trả đũa. Nhưng cuộc giao tranh kẻo dài và đau đớn ấy không đem lại giải pháp nào. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2019, 11:28:32 pm Từ ngày tôi đến, tôi đã quyết định chiếm Libreville và đã có kế hoạch hành động. Khốn thay, không ai ngờ Libreville có thể chống lại mãnh liệt các lực lượng của chúng ta. Tướng Têtu, đóng ở Libreville, có bốn đại đội, pháo binh, bốn oanh tạc cơ tối tân, tiểu hạm Bougainville và tiềm thủy đĩnh Poncelet. Ông ta đã huy động một số thực dân. Mặt khác ông ta cũng nhận được lệnh phải chống cự. Muốn ngăn cản viện binh, tôi phải yêu cầu ông Churchill cảnh cáo Vichy rằng, nếu cần thì hạm đội Anh sẽ can thiệp. Sau khi tôi gửi điện tín đi, đô đốc Cunningham đến thăm tôi ở Douala. Chúng tôi đồng ý với nhau rằng tầu của ông không tham dự trực tiếp vào cuộc tấn công Libreville, nhưng ông sẽ đậu ở ngoài khơi để ngăn cản Dakar gửi thêm tuần dương hạm đến nếu họ có ý ấy. Về phía chúng tôi, chúng tôi bất dắc dĩ mà phải hành động ; tôi tuyên bố trước sự ưng thuận của mọi người, trong dịp hành quân đau khổ này sẽ không có tuyên dương công trạng. Ngày 27 tháng mười, chúng ta chiếm đồn Mitzic. Ngày mùng 5 tháng một đồn Lambaréné buông súng. Ngay sau đó một đoàn tàu đã khởi hành từ Douala đưa quân đến Libreville. Leclerc chỉ huy toàn khối, Koenig cầm đầu bộ binh : một đại đội Lê Dương, một đại đội thuộc địa hỗn hợp; người Senegal và thực dân ở Cameroun. Đổ bộ ở mũi Mondali đêm mùng 8 tháng một, ngày mùng 9 xảy ra nhiều cuộc giao tranh dữ dội ở xung quanh thành phố. Cũng ngày hôm ấy dưới quyền chỉ huy của thiếu tá để Marmier, nhiều phi cơ « Lysanđer» đem từ Anh sang, mới ráp vội vàng ở Douala, đã bay và thả xuống ít nhiều trái bom. Bấy giờ d‘Ar- genlieu, đưa tầu Savorgnan de Brazza vào cảng, theo sau là chiếc Commandant Dominé. Mặc dầu đưa tin tức tỏ tình thân hữu nhiều lần, tầu Bougainville của phía bên kia đậu ơ bến vẫn bắn ra không ngót. Tầu Brazza bắn lại làm họ phải ngậm miệng. Trong khi ấy thì đội Lê Dương bẻ gay sức kháng cự ở phi cảng của những đơn vị Vichy. D'Argenlieu gửi đến tướng Tètu mật điện tín bách thúc phải ngừng tiếng súng. Họ đầu hàng. Koenig chiếm Libreville. Trước đây tôi đã bổ nhiệm Parant làm thống đốc Gabon, bây giờ ông đến nhậm chức. Dầu sao, cũng có đến 20 người tử thương. Hôm qua, chiếc tiêm thủy đĩnh Poncelet ra khỏi cảng Port Gentil và phóng một thủy lôi vào một tuần dương hạm của Cunningham. Chiếc tiềm thủy đĩnh bị mìn, phải nổi lên mặt nước, đoàn thủy thủ được người Anh cứu,chỉ huy trưởng là trung tá hải quân Saussine phá hủy chiếc tầu và chết theo. Bấy giờ còn việc chiếm Port-Gentil. Mọi việc hoàn tất ngày 12 tháng một, sau nhiều cuộc hòa đàm, không có kháng cự. Nạn nhân duy nhất của cuộc hành quân chót này là thống đốc Masson, tháng tám mới rồi ông đã tập kết Gabon, nhưng sau lại đổi ý. Ông lo sợ hậu quả cho nên khi Libreville thất thủ ông lên tầu Brazza chạy sang Port-Gentil, cùng với đại tá Crochu, tham mưu trưởng của Têtu, để yêu cầu đồn binh ngưng cuộc huynh đệ tương tàn. Nhờ vậy mà tránh được thảm họa. Nhưng ông Masson mệt trí sau những cuộc thử thách ấy đã tự vẫn trong ca bin chuyến tầu đưa ông về. Tôi đến Libreville ngày 15, đến Port-Gentil ngày 16 tháng một. Chân tướng nổi bật trong dân chúng là được yên lành khi thoát khỏi tình trạng phi lý. Đến nhà thương đòi thăm thương binh của cả hai bên đặt nằm bên cạnh nhau. Sau đó, người ta trình diện các sĩ quan của các đơn vị Vichy. Một vài yếu tố theo Pháp Tự Do. Phần lớn đã nhận được lệnh của cấp trên và đã tuyên thệ trung thành với Thống Chế, nhưng họ muốn chịu giam cầm hơn là trung thành. Họ chờ đợi Bắc Phi trở lại cuộc chiến để ra mặt trận như nhiều người khác. Tướrng Têtu được trao cho các Cha dòng Thánh Trí và sau này đưa sang bệnh viện Brazzaville. Năm 1943 ông cũng trở lại Alger. Đài phát thanh Dakar, Vichy và Ba Lê tung ra một loạt bài thóa mạ, trước đây họ đã loan những tin thẳng trận quả đáng. Tôi bị vu cáo là đã oanh tạc, đốt phả và cướp bóc Libreville, bắn chết nhân sĩ, bắt đầu từ giám mục Tardy. Người của Vichy bịa ra những tin dối trá ấy để che đậy việc làm ám muội nào đây. Trong vụ Dakar, họ đã bắt giam ba phi công Pháp Tự Do thả xuống Ouakam không có khí giới, rồi đến Boislambert, Bissagnet và Kaouza, bác sĩ Brunei. Những người này được tôi mật gửi đến để du thuyết ôn hòa. Chỉ một người thoát thân được chạy sang Gambie của người Anh đó là Brunel. Lời tố cáo của Dakar làm cho tôi nghĩ rằng có lẽ họ sửa soạn dư luận để trả thù bằng cách hành hạ các tù binh. Tôi đã kín đáo đề nghị với Boissou trao đổi số tù binh ấy lấy tướng Têtu và các sĩ quan của ông, đài phát thanh Dakar công bố ngay đề nghị của tôi kèm theo lời thóa mạ và khiêu khích. Tôi bèn báo cho viên cao ủy của Vichy biết rằng tôi còn giam giữ nhiều người của họ, họ phải đối xử tử tế với tù binh Pháp Tự Do. Họ bèn xuống giọng ngay lập lức. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Giêng, 2019, 11:02:41 pm Vả chăng, nhiều dấu hiệu cho thấy rằng thời cuộc diễn biến làm cho các nhà cầm quyền của Vichy rất bối rối. Thứ yên ồn thấp hèn sau ngày đình chiến tan rã rất chóng. Trái với tin tức họ loan truyền trước đây để biện hộ cho việc đình chiến, địch không làm gì được nước Anh. Mặt khác, nhiều thuộc địa về tập kết với de Gaulle, vụ Dakar, sau hết vụ Gabon, chứng tỏ rằng Pháp Tự Do biết dùng đài phát thanh, chứ họ không phải một « nhóm người đánh giặc mướn xúm quanh một máy vi âm ». Bất thần người ta bắt đầu nhận thấy nước Pháp chỉ có thể trỏng cậy ở người Pháp, còn như người Đức thì đã phải đếm xỉa đến những khó khăn mỗi ngày mỗi lớn gây ra bởi phong trào kháng chiến. Ở tận thâm sơn cùng cốc Phi Châu tôi cảm thấy những dao động mà tình trạng ấy tạo ra cho những người của Vichy. Sau vụ Dakar, họ bắt đầu phản ứng bằng vũ lực. Phi cơ từ Maroc sang oanh tạc Gibraltar. Nhưng ngay san đó người ta trở lại hòa dịu. Điện tín của các ông Churchill và Eden cho tôi biết tin tức về cuộc hòa đàm ngày mùng 1 tháng mười ở Madrid giữa đại sứ Pháp, ông de la Baume, và đại sứ Anh, Sir Samuel Hoare. Vấn đề là quân Anh để cho các tầu từ Phi Châu sang được phép đến nước Pháp, nhà cầm quyền Pháp bảo đảm là sẽ không để lọt vào tay quân Đức. Ngoài ra, ông de la Baume còn tuyên bố rằng « nếu địch chiếm những hàng hóa ấy thì chính phủ sẽ thiên đò sang Bắc Phi và nước Pháp trở lại cuộc chiến bên cạnh đồng minh Anh.» Tôi ghi nhận tình trạng hoang mang nhận thấy qua lời tuyên bố trên đây và nói cho người Anh biết để đề phòng. Khó mà biết được lý do tại sao những người đã chịu phép phục tùng địch và lên án chiến sĩ tiếp tục chiến đấu lại có thể bất thần chống cự mãnh liệt như thế chỉ vì kẻ xâm lăng lấy thêm thực phẩm nhiều hơn số họ lấy hàng ngày. Quả như vậy, mặc dầu chính phủ Luân Đôn khuyến khích Vichy nên có thiện ý, mặc dầu Anh Hoàng và Tổng Thống Hoa Kỳ gửi thư riêng cho Thống Chế, mặc dù ngưới Anh đã tiếp xúc với tướng Weygand bây giờ ở Alger, với Noguès ở Maroc, nhưng vì có áp lực của người Đức cho nên không ai còn ảo tưởng gì nữa. Ngày 2 tháng mười, Pétain gặp gỡ Hitler tại Montoưe. Sự cộng tác giữa Vichy và địch được chính thức công bố. Sau hết, vào những ngày đầu tháng một, Vichy chấm dứt những cuộc điều đình với Madrid. Kể từ đây, những lý do hiển nhiên bắt buộc tôi phải khước từ tính cách họp pháp của các nhà đương quyền Vichy; tôi phải tự coi mình như người quản lý quyền lợi của nước Pháp, nhất là hành xử quyền hạn tại các vùng giải phóng với tư cách một chính phủ. Quyền hành tạm thời đó tôi mệnh danh là nền Cộng Hòa, tôi tuyên bố chủ quyền của nhân dân, tôi sẽ nhận sự trao quyền ấy và chịu trách nhiệm trước nhân dân, tôi long trọng tuyên bố cam kết trả lời trước nhân dân khi đã phục hồi được tự do. Ngày 27 tháng mười, trên lãnh thổ ở Brazzaville, tôi xác định lập trường quốc gia và quốc tế ấy bằng một bản tuyên ngôn hai đạo dụ và một văn kiện tổ chức thành phần, toàn bộ sẽ có giá trị một hiến chương. Tôi thiết nghĩ chưa bao giờ tôi để thiếu sót nhiệm vụ ấy cho đến ngày trao trả quyền hành cho các đại diện quốc gia, năm năm về sau. Mặt khác, tôi lập ra Hội Đồng phòng vệ Đế Quốc để góp ý kiến cho tôi, có các ông: Catroux, Muselier, Cassin, Larminat, Sicé, Sautot, d'Argenlieu. Sau hết, tôi gửi một văn thư ngày mùng 5 tháng một cho chính phủ Anh xác định thải độ của Pháp Tự Do và yêu cầu các đồng minh nên có lập trường dứt khoát với chính phủ Vichy và các đại lý chấp chỉnh của họ như Weygand và Noguès, nhiều người lạc quan vẫn cho rằng sẽ có một ngày kia họ trở lại hoạt động chống địch. Nói tóm lại, cuộc vận động ở Phi Châu tuy chưa đạt được hết mục tiêu dự định, nhưng ít ra cũng đặt được những căn cứ vững chắc cho nỗ lực chiến tranh từ Sahara đến Congo và từ Đại Tây Dương đến lưu vực sông Nil. Eboué được bổ nhiệm toàn quyền Trung Phi thuộc Pháp, sang ở Brazzaville, Marchanđ chỉ huy trưởng các bộ đội. Lapie từ Luân Đôn sang, nhiệm chức thống đốc Tchad, Cournarie nhiệm chức thống đốc Cameroun thay thế Leclerc. Leclerc muốn ở lại hoàn thành công tác đã khởi sự ở Douala, nhưng tôi cũng phải yêu cầu ông đến Tchad chỉ huy những cuộc hành quân ở Sahara, chính nhờ những cuộc hành quân ấy mà ông biết đến vinh quang qua lao khổ gian nan. Sau hết, Larminat, được hồ nhiệm cao ủy Tchad, thống lãnh quyền dân sự và quân sự. Trước khi đi Luân Đòn, tôi cùng ông phác họa chương trình hoạt động trong những tháng tới. Một mặt là đánh những trận đầu tiên bằng quân cơ giới và không quân ở Mourzouk và Koufra. Mặt khác, là đưa sang Erythrée một lữ đoàn hỗn hợp và một đội phi cơ oanh tạc để dự các trận đánh quân Ý. Trận đánh quân Ý sẽ mở màn cuộc tham dự của quân Pháp vào mặt trận Trung Đông. Nhưng cần phải tuyền mộ, huấn luyện, võ trang những yếu tố để tăng cường các đạo quân tiền phong ở Sahara cũng như ở lưu vực sông Nil. Không ai có thể tưởng tượng được chúng tôi đã cố gắng đến mức nào tại Trung Phi mênh mông, khí hậu nóng bức, để tuyên mộ, huấn luyện, võ trang và chuyên chở những lực lượng sau này được tung ra mật trận và đưa đi những nơi cách xa hàng ngàn dặm. Người ta cũng không thể ước lượng được mọi người sẽ phải cố gắng đến mức phi thường. Ngày 17 tháng một, tôi rời khỏi Phi Châu thuộc Pháp Tự Do để về Anh quốc, qua Lagos, Freetown, Bathurst và Gibraltar. Dưới trời mưa thu, phi cơ bay là là mặt biển, tôi nhớ lại những đường lối quanh co mà qua cuộc chiến tranh kỳ dị này, quân Pháp Chiến Đấu đã phải dùng đến để đánh quân Đức và quân Ý. Tôi ước lượng những trở ngại giữa đường mà chính người Pháp lại dựng lên để ngăn cản chúng tôi, than ôi! đó lại là những trở ngại to tát nhất. Nhưng đồng thời tôi cũng thêm phấn chấn khi nghĩ rằng chính nghĩa quốc gia đã làm say mê những người yêu chuộng tự do và muốn phục vụ tổ quốc. Tôi cũng thấy lòng mình phơi phới bay theo tiếng gọi phương xa như những người bước vào một cuộc phiêu lưu có kích thước toàn cầu. Mặc dầu thực tại phũ phàng nhưng có lẽ tôi cũng làm chủ được tình hình, vì tôi có thể, theo câu nói của Chateaubriand, « dẫn dắt người Pháp bằng mơ mộng ». Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:24:59 pm LUÂN ĐÔN Tại Luân Đôn, vảo lúc đầu mùa đông năm ấy, sương mù phủ kín tâm hồn, người Anh lo lắng và buồn rầu. Hẳn là họ tự hào rằng mới thắng một trận công kích và giảm bớt được áp lực xâm lăng của địch. Nhưng, trong khi họ dọn dẹp các nơi tàn phả, nhiều mối lo khác lại đè nặng xuống đầu họ và các đồng minh nghèo khổ của họ. Các trận đánh dưới nước của tiềm thủy đĩnh tăng cường đến cao độ. Dân chúng Anh lo ngại mà thấy tầu ngầm và phi cơ Đức phá hoại tàu bè của họ, vận mệnh của chiến cuộc và cho đến khẩu phần thực phẩm của họ cũng tùy thuộc những tầu bè ấy. Nội các và các cơ quan chính phủ chỉ bàn đến vấn đề hàng hải. Số trọng tải của thương thuyền trở thành một ám ảnh, một áp lực cưỡng chế vượt lên trên hết. Hàng ngày, đời sống và vinh dự của nước Anh được diễn ra trên mặt biển. Tại Trung Đỏng, bắt đầu có những cuộc hành quân kịch liệt. Từ khi Vichy thất thế, Địa Trung Hải trở thành nơi cấm địa đối với những đoàn tầu chậm chạp của người Anh. Quân đôi và quân nhu của Luân Đôn gửi sang Ai Cập phải đi vòng qua Cấp ở Nam Phi Châu, đường xa đến nửa trái đất. Hàng hóa từ Ấn Độ, Úc Châu, Tân Tây Lan gửi về Anh cũng phải qua những chặng đường dài dằng dặc. Mặt khác, nước Anh cần nhập cảng một khối lớn nguyên liệu, vũ khí và tiếp tế — 60 triệu tấn năm 1941 — cần cho kỹ nghệ, quân đội và dân chúng, những hàng hóa ấy phải mua từ những nơi xa như Mỹ Châu, Phi Châu, Ả Châu, cần phải có một số trọng tải khổng lồ, đưa vòng vo qua rất nhiều nơi xa xôi và cần nhiều đoàn tầu hộ tống, mới đưa được hàng hóa đến các hải cảng Mersey và Clyde. Sự lo ngại của người Anh càng nặng nề khi họ nhận thấy không có một viễn tượng tốt lành ở góc trời nào. Trái với sự ước mong của nhiều người Anh, việc oanh tạc các thành phố của họ và những thắng lợi của Không lực Hoàng Gia không làm được cho người Mỹ lâm chiến. Hẳn là ở Hoa Kỳ dư luận căm phẫn Hitler và Mussolini. Hẳn là Tổng Thống Roosevelt sau khi tái đắc cử ngày mùng 6 tháng một, đã tăng gia hoạt động ngoại giao và tuyên ngôn dân chúng để lôi kéo nước Mỹ can thiệp vào cuộc chiến. Nhưng thái độ chính thức của Hoa Thịnh Đốn vẫn là trung lập, vả chăng luật pháp Mỹ cũng bắt buộc họ phải có lập trường ấy. Bởi thế cho nên trong mùa đông u ám này người Anh vẫn phải chi tiền mua hàng của Mỹ bằng vàng và ngoại tệ. Quốc hội và báo chí Mỹ chỉ trích cả những sự can thiệp gián tiếp mà Tổng Thống Roosevelt dùng tài khéo léo điệu xảo của ông để giúp đỡ nước Anh. Tóm lại, theo nhịp gia tăng nhu cầu và chi tiêu như vậy, chẳng còn bao lâu người Anh sẽ kiệt quệ không nhập cảng được đủ vật liệu cần thiết để theo đuổi chiến tranh. Về phía Nga Sô Viết, sự gắn bó của họ với nước Đức vẫn chưa có kẽ nứt rạn. Trái lại, sau hai cuộc du hành của Molotov sang Bá Linh, một thỏa ước giao thương Đức-Nga được ký kết vào tháng giêng, sẽ tăng cường việc tiếp tế nước Đức. Mặt khác, vào tháng mười năm 1940, nước Nhật đã ký vào minh ước tam cường, tuyên bố liên minh với Bá Linh và La Mã. Đồng thời, hầu như Đức đã thực hiện được mộng bá chủ Âu Châu, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Slovaquie, gia nhập Trục vào tháng một, Franco hội kiến Hitler ở Saint- Sébastien và Mussolini ở Bordighera. Sau hết, Vichy không giữ nổi bề ngoài độc lập theo hiệp ước đình chiến, phải tích cực hợp tác với kẻ xâm lăng. Bên ngoài thì chân trời tối sầm, bên trong thì dân chúng Anh phải gánh vác những khoản quốc phí nặng nề. Hai mươi triệu người nam nữ được huy động để đưa vào quân đội, xưởng máy, đồng áng, cơ quan hành chánh, phỏng không thụ động. Sự tiêu thụ phải giới hạn nghiêm ngặt cho đủ mọi người, tòa án phạt rất nặng việc buôn bán chợ đen. Mặt khác, hoạt động không quân của địch tuy không nhắm vào những kết quả quyết định nhưng vẫn đánh phá hải cảng, kỹ nghệ, đường sắt, bất thình lình họ trút bom xuống Coventry, trung tâm Luân Đôn, Portsmouth, Southampton, Liverpool, Glasgow, Swansea, Hull v.v. Họ làm cho dân chúng phải thức nhiều đêm liền trong tình trạng báo động làm cho nhân viên mệt nhọc, họ bắt buộc một số lớn người nghèo phải bỏ nhà cửa đến ngủ tại các hầm núp, tại các trạm xe điện như ở Luân Đôn. Cuối năm 1940 ấy, người Anh bị phong tỏa trong hòn đảo của họ, cảm thấy như sống dưới hầm núi tối đen. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:25:48 pm Người Anh đang trải qua những cuộc thử thách như vậy, sự giao thiệp với họ không có gì là dễ dàng. Họ đang tập trung nỗ lực vào những vấn đề của họ, công việc riêng của chúng ta đối với họ chỉ có tính cách quầy rầy không phải lúc. Ngoài ra, họ càng có ý muốn sáp nhập luôn chúng ta vào với họ cho rảnh chuyện đừng làm rắc rối thêm cho họ. Quả vậy về phương diện hành chánh cũng như chánh trị còn giản tiện hơn việc coi Pháp Tự Do cũng như những yếu tố hội nhập với lực lượng của người Anh chứ không phải coi như bọn đồng minh tham vọng và yêu sách nọ kia. Vả chăng trong thời kỳ cuộc chiến đã ổn định này, nhu dụng phẩm khan hiếm, các giới chỉ huy ở Luân Đôn ít nghiêng về sự cái cách hay giải quyết dứt khoát vấn đề gì. Đối với những vấn đề cấp bách nhưng nan giải, các bộ tham mưu và các bộ trong chánh phủ đều theo chính sách đế lòng dòng và chống bảng nhau về quyền hạn, trong khi chính phủ bị Quốc Hội và báo chí chỉ trích, khó mà dung hòa mọi ý kiến để đưa ra quyết định. Một hôm ông Churchill bảo tôi: « Ông có biết thế nào là một sự liên hiệp không ? Đó ! Nội các Anh là một mẫu liên hiệp đó ». Tuy nhiên, đối với Pháp Tự Do thì cái gì cũng cần gấp. Sau những thực hiện ngẫu hứng mùa hạ và mùa thu, trước khi thực hiện những công việc mới vào mùa xuân, chúng tôi cần được người Anh giúp đỡ những phương tiện cần thiết trong khi vẫn giữ được tỉnh cách độc lập hành động đối với họ. Do tình trạng đó mà xảy ra nhiều sự xích mích. Nhất là tổ chức của chúng ta có tính cách lưu động và phức tạp làm cho người Anh phần nào thận trọng, vả chăng tính cách ấy cũng làm cho tổ chức dễ bị ngoại nhân chi phối. Pháp Tự Do tuyển dụng một cách hấp tấp và lẻ tẻ từng người một, tất nhiên khó lòng thực hiện được sự quân bình nội bộ. Tại Luân Đôn, mỗi loại: quân đội, hải quân, không quân, tài chánh, ngoại giao, hành chánh thuộc địa, thông tin, liên lạc với nước Pháp đều được thành lập và hoạt động với thành tâm thiện chí đáng khen. Nhưng thiếu kinh nghiệm tổ chức nhất trí, mạch lạc. Ngoài ra nhiều người có đầu óc phiêu lưu hay không chịu uốn mình vào quy luật và thể thức một cơ quan công quyền, làm cho guồng máy trục trặc. Như khi tôi ở Phi Châu, André Labarthe đã rời khỏi cơ quan hành chánh và đô đốc Muselier đã gặp nhiều khó khăn với các cơ quan khác. Tại « Carlton Gardens » đã xảy ra nhiều xích mích cá nhân và nhiều bi hài kịch hành chánh làm cho những người tình nguyện của chúng ta bực mình và các đồng minh của chúng ta lo ngại. Từ khi tôi về, vào cuối tháng một, tôi cố gắng lập lại trật tự cho người và việc. Nhưng vừa bắt đầu cuộc tổ chức lại ấy thì gặp ngay khó khăn gây nên bởi một lỗi lầm tai hại của chính phủ Anh, chính phủ Anh cũng bị cơ quan tình báo báo cáo lầm lạc. Con sốt chiến tranh ám ảnh nước Anh làm nảy sinh rất nhiều cơ quan thông tin và an ninh. «Tình báo» đối với người Anh vừa là một cái thú say mê vừa là một cơ quan nhà nước, tất nhiên họ phải để tai mắt theo dõi hành vi của Pháp Tự Do. Họ dùng những người có thiên tài thật nhưng họ cũng dùng những người có thiên tài giả. Căn cứ vào lời xúi giục của một vài nhân viên không đáng dùng. Nội Các Anh bất thình lính gây cho Pháp Tự Do một vết thương chỉ thiếu điều làm độc. Chiều ngày mùng 1 tháng giêng, tôi đang ở nhà với vợ con tại Shropshưe, ông Eden cho mời tôi lại ngay bộ Ngoại Giao, ông mới thay thế Lord Halifax được bổ nhiệm đại sứ Mỹ. Sáng hôm sau tôi trực tiếp đến gặp ông. Khi ngồi tiếp tôi, Eden để lộ nhiều dấu hiệu tức giận ; ông nói : « Đã có chuyện tệ hại. Chúng tôi vừa thâu lượm được bằng chứng đô đốc Muselier liên lạc bí mặt với Vichy ; ông ta định thông báo cho Darlan biết kế hoạch hành binh ở Dakar giữa lúc đang sửa soạn, ông ta định giao cho Darlan chiếc tầu Surcouf. Thủ Tướng được báo tin đã ra lệnh bắt giam đô đốc. Nội Các đã chấp thuận để ông hành động. Muselier bị tống giam rồi. Chúng tôi không giấu giếm việc khốn nạn này sẽ làm xúc động người Anh và cả người Pháp nữa thế nào. Nhưng chúng tôi không thể không hành động ngay ». Ông Eden đưa ra những tài liệu dùng làm bằng chứng để buộc tội. Đây là những điệp văn đánh máy trên giấy có tiêu đề và có dấu đóng của Tòa Lãnh Sự Pháp ở Luân Đôn — Tòa này vẫn có một công chức của Vichy — điệp văn có chữ ký của tướng Rozoy trước đây là Trưởng phái đoàn Không Quân và mới hồi hương. Những điệp văn ấy tường trình những tin tức do đó đốc Muselier cung cấp cho Rozoy. Ông này đưa những tin tức ấy cho một phái bộ Nam-Mỹ ở Luân Đôn, từ đấy sẽ gửi về Vichy. Nhưng, dọc dường, nhiều nhân viên «Tình Báo » Anh đã ngăn chận được tài liệu đó. Ông Eden còn nói thêm : « Sau khi điều tra kỹ càng, nhà cầm quyền Anh phải tin rằng đây là những tài liệu xác thực ». Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:27:27 pm Mới đầu tôi cũng choáng váng, nhưng sau tôi có cảm tưởng ngay là «cà-phê đặc quá », đây chỉ có thể là một sự lầm lẫn trọng đại, hậu quả của một âm mưu phá hoại. Tôi tuyên bố thẳng với ông Eden như vậy và nói rằng tôi sẽ điều tra xem là chuyện gì, trong khi chờ đợi tôi hết sức dè dặt đối với tin động trời ấy. Tuy nhiên, trước tiên, tôi không nghĩ rằng có cuộc âm mưu dưới sự che chở của một cơ quan Anh, tôi cho rằng đây là tác phẩm của Vichy. Phải chăng chính những người trung thành với Vichy đã để lại nước Anh trái bom nổ chậm này ? Sau 48 giờ tra hỏi và suy nghĩ tôi đến kiếm vị bộ trương Anh và tuyên bố : « Các tài liệu rất đáng ngờ vực về nội dung cũng như về nguồn gốc. Dẫu sao thì đây cũng không phải là bằng chứng. Không có cái gì biện hộ cho việc bắt bở một phó đề đốc Pháp, xúc phạm đến danh dự của chúng tôi. Ông này cũng chưa được phép nói gì để tự vệ. Chính tôi cũng không được gặp mặt ông ta. Những sự kiện này không thể chấp nhận được. Lúc này ít nhất đô đốc Muselier cũng phải được trả lại tự do và đối xử xứng đáng cho đến khi mọi việc đều sáng tỏ. » Ông Eden giật mình, nhưng không chịu nghe lời tôi, lấy cớ mọi điều tra của các cơ quan tình báo Anh rất đúng đắn. Tôi gửi một bức thư, rồi một giác thư khẳng định lời kháng nghị của tôi. Tôi đến thăm đó đốc Sư Dudley Pound, Tư lệnh hải quân, và nhắc đến hội quốc tế ái hữu của các đề đốc, yêu cầu ông can thiệp, rửa nhục cho một người đồng liêu của ông. Sau những cuộc vận động của ông, thái độ của nhà cầm quyền Anh có vẻ nao núng. Bởi thế cho nên tôi được phép đến thăm Muselier ở Scotland Yard không phải trong xà lim mà trong một phòng giấy không canh gác và không người chứng kiến, để tỏ cho mọi người biết và cho ông biết rằng tôi không tin lời buộc tội ông. Sau đấy, nhiều dấu hiệu cho thấy có hai người mới tuyển dụng vào «cơ quan an ninh » trong lúc tôi ở Phi Châu, dưới bộ đồng phục Pháp nhưng theo lời yêu cầu của người Anh ; hai người này đã nhúng tay vào vụ Museller ; tôi kêu họ lại, thấy họ sợ hãi, tôi biết ngay rằng đây là « một chuyện do thám ». Ngày mùng 8 tháng giêng, tôi cho mời tướng Spears đến khẳng định rằng tôi biết chắc vụ này. Tôi tuyên bố với ông rằng tôi để cho chính phủ Anh 24 giờ để trả tự do cho đô đốc và đền bù thiệt hại, nếu không mọi sự liên lạc giữa Pháp Tự Do và Anh quốc sẽ cắt đứt không cần biết hậu quả về sau. Ngay ngày hôm ấy Spears mặt buồn thiu trở lại cho tôi biết rằng họ đã biết lỗi lầm, các « tài liệu » đều là ngụy tạo, thủ phạm đã thú nhận, Muselier sẽ được trả tự do. Ngày hôm sau, ông chưởng lý đến thăm tôi, cho biết tin rằng đã có cuộc truy lùng những người chủ mưu, nhất là một số sĩ quan Anh, ông yêu cầu tôi gửi một người Pháp Tự Do sang theo dõi cuộc điều tra và việc xử án. Chiều hôm ấy, ở Downing Street, các ông Churchill và Eđen hẳn là khó chịu lắm nhưng buộc lòng phải bày tỏ lời co lỗi của chính phủ Anh hứa sửa lại lỗi lầm xúc phạm Muselier. Sự thay đổi thái độ của người Anh và của đô đốc thật là hoàn toàn tôi cho là quá đáng, sau này độc giả sẽ thấy. Tôi không giấu giếm rằng câu chuyện rắc rối này làm nổi bật tình trạng liên lạc giữa chúng ta và các đồng minh rất đỗi bấp bênh, điều đó không khỏi ảnh hưởng đến quan niệm của tôi về một chính sách phải thi hành với chính phủ Anh. Nhưng ngay lúc này hậu quả của vụ này không đến nỗi tệ hại lắm. Vì người Anh, hẳn là muốn sửa chữa lỗi lầm, đã tỏ ra sẵn sàng hơn để cùng chúng ta giải quyết những vấn đề còn bỏ lửng. Ngày 15 tháng giêng, tôi ký với ông Eden một thỏa ước về tài phán đối với người Pháp Tự Do sống trên lãnh thổ Anh quốc, nhất là quyền hạn Tòa án của chúng ta, các tòa này xử nghĩ theo đúng pháp chế quân sự quốc gia. Mặt khác, chúng tôi đã có thể điều đình với Ngân Khố Anh một thỏa hiệp tài chánh, kinh tế và tiền tệ. Các ông Cassin, Pleven và Denis bênh vực quyền lợi của chúng ta trong những cuộc điều đình ấy, ngày 19 tháng ba thì có kết quả. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:27:47 pm Các vấn đề cần phải giải quyết đều có tầm mức lớn khiến cho chúng tôi không thể dùng những biện pháp tạm thời. Làm cách nào để nuôi sống toàn bộ những lãnh thổ tập kết ở Phi Châu và Úc Châu, trong khi chúng tôi không có ngân hàng, tiền tệ, vận tải, truyền tin, đại diện thương mại ở ngoại quốc ? Làm cách nào để nuôi quân lính của lực lượng Pháp Tự Do ở khắp mọi nơi trên hoàn cầu? Làm cách nào để chiết tinh vật liệu và dịch vụ của đồng minh cung cấp cho chúng ta hay của chúng ta cung cấp cho đồng minh ? Theo các điều khoản trong thỏa ước thì mọi khoản thanh toán sẽ thực hiện ở Luân Đôn giữa chính phủ Anh và Tướng de Gaulle , chứ không phải do các nhả cầm quyền địa phương Pháp theo ngẫu hửng của hoàn cảnh. Hối suất sẽ là 176 quan một Anh kim, nghĩa là hối suất áp dụng'trước ngày Vichy ký kết đình chiến, Cũng theo chính sách ấy, sau này chúng tôi lập ra « quỹ trung ương của Pháp Tự Do ». Quỹ ấy sẽ đài thọ tất cả các loại chi tiêu : lương bổng, mua bán v.v... và nhận tất cả các loại tiền thu : khoản đóng góp của các lãnh thổ hải ngoại, ứng trước của Ngàn Khố Anh, tiền quyên tặng của người Pháp ở ngoại quốc v.v... Mặt khác, quỹ đó trở thành nhà băng phát hành giấy bạc duy nhất của Pháp Tự Do. Như vậy, trong khi cuộc tập kết sau lưng tướng de Gaulle kết hợp mọi yếu tố về phương diện tinh thần thì nền hành chánh khắp nơi cũng được tập trung triệt để. Trong nội bộ của chúng tôi không có những lãnh địa đứng độc lập về phương diện ngân sách và kinh tế, hay về phương diện chánh trị và quân sự, đồng thời nước Anh không dùng phương tiện tài chánh để xin vào nội bộ bởi thế cho nên chúng tôi thực hiện được sự thống nhất của một toàn bộ tổ chức trước đây đã theo tình thế mà thành lập dần và tản mác trên khắp thế giới. Tuy rằng chúng tôi củng cổ nền tảng hải ngoại nhưng chúng tôi nghĩ nhiều đến Chính Quốc. Biết làm gì ? Làm thế nào ? Với cái gì ? Chúng ta không có một phương tiện nào để hoạt động ở nước Pháp và chúng tôi không biết lấy gì làm đầu mối để hoạt động, nhưng chúng tôi vẫn không ngừng bị ám ảnh bởi những kế hoạch lớn lao và ước mong cả nước sẽ nhất loạt hưởng ứng với chúng tôi. Chúng tôi nghĩ đến một tổ chức có khả năng lấy tin của địch để cung cấp cho đồng minh hành quân, có khả năng thúc đẩy mọi người kháng chiến trên đủ các lãnh vực, võ trang các lực lượng để lúc cần sẽ tấn công hậu cần của địch trong trận chiến giải phóng, sau hết, sửa soạn cuộc tập hợp quốc gia để phục hồi nếp sinh hoạt quốc gia sau ngày chiến thắng. Chúng tôi còn muốn rằng người Pháp đóng góp đủ mọi mặt vào nỗ lực chung để phục vụ quyền lợi của nước Pháp chứ không phải để đồng minh chia rẽ chúng tôi thành từng nhóm phục vụ quyền lợi trực tiếp của họ. Nhưng mảnh đất hoạt động bí mật này đối với chúng tôi hoàn toàn mới mẻ. Không có gì được sửa soạn trên đất Pháp đối phó với tình trạng của nước Pháp hiện thời. Chúng tôi biết rằng cơ quan tình báo Pháp vẫn hoạt động ở Vichy. Chúng tôi cũng không lạ rằng bộ tham mưu cố gắng cất giấu những kho vật liệu nào đó không để cho ủy ban đình chiến đặt tay vào. Chúng tôi cũng ngỡ rằng nhiều yếu tố quân sự muốn chuẩn bị để đối phố với trường hợp trở lại cuộc chiến với Đức. Nhưng những nỗ lực ấy đều thực hiện ở ngoài tổ chức của chúng tôi đế phục vụ một chế độ mà lý do tồn tại là không dùng đến. Vả chăng các cấp chỉ huy không tìm cách và không chấp nhận lập liên lạc với Pháp Tự Do. Tóm lại, không có một sự kiện nào để chúng tôi có thể móc nối mà hành động tại chánh quốc, cần phải làm xuất hiện tự hư không cả một guồng mảy để hoạt động trên chiến trường chính yếu này. Hẳn là xung quanh tôi không thiếu những người xin tình nguyện hoạt động bỉ mật. Hầu như có sự xếp đặt sẵn của thiên nhiên, năm 1940 đã có một phần thế hệ người lớn có ý hướng hoạt động bí mật theo thiên năng. Giữa hai cuộc chiến tranh thế hệ thanh niên đã tỏ ra thích những chuyện phòng nhì, mật thám, họ còn thích âm mưu và đánh phá địch là khác. Sách báo, sân khấu và màn ảnh đều nói nhiều đến những cuộc phiêu lưu của người hùng ít nhiều tưởng tượng, tuyên truyền những chiến công phục vụ tổ quốc. Tâm lý quốc dân như vậy sẽ làm cho việc tuyền dụng những người để thi hành đặc vụ dễ dàng hơn. Nhưng cũng dễ có tinh thần lăng mạn, khinh xuất, có khi gian trá nữa, gây trở ngại cho phong trào. Không có lãnh vực nào người ta tuyển dụng nhiều người như thế, nhưng chỉ nhận những người đứng đắn và can trường. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:28:14 pm Thật là may mắn, chúng tôi đã gặp được người tốt. Người cầm đầu là Dewarin, hiệu là Passy. Passy chưa được sửa soạn để đảm nhiệm đặc vụ chưa từng có trong lịch sử này. Nhưng theo tôi thì như thế lợi hơn. Vả chăng vừa được bổ nhiệm, ông đã có một thứ say mê lạnh lùng công việc của ông, chính sự say mê ấy đã nâng đỡ ông trên con đường tối tăm lẫn lộn cả điều hay nhất lẫn điều dơ nhất. Hoạt động kháng chiến ở Pháp là một tấm thảm kịch diễn ra hàng ngày, nhưng họ lèo lái được con thuyền chống lại những đợt sóng lo lắng, mưu mô và thất vọng ; Passy thực hiện đươc công trình ấy với sự giúp đỡ của Manuel, sau có Vallon, Wybot, Pierre Rloch, v.v... Ông đã tránh được sự ghê tởm và sự khoe khoang, những con quỷ thường ảm ảnh các loại hoạt động ấy. Bởi thế cho nên, mặc dầu « Trung ương thong tin và hành động » phải rút kinh nghiệm để cái tổ lần hồi, tôi vẫn giữ Passy ở lại giữa mọi con gió bão. Điều cấp bách hơn cả là thiết lập tại lãnh thổ quốc gia một nền móng tổ chức tối thiểu. Về phía người Anh thì họ chỉ muốn chúng ta đưa về những nhân viên rời rạc do thám địch đế lấy những tin tức liên quan đến một công tác nhất định nào đó. Nhưng chúng ta muốn làm cái gì hơn thế. Vì hoạch động ở Pháp sẽ thực hiện ở giữa một khối dân có rất nhiều người thiện chí, chúng tôi muốn thành lập những hệ thống tình báo chặt chẽ. Những hệ thống ấy liên lạc với nhau hằng những yếu tố chọn lọc, liên lạc với chúng ta bằng những phương tiện tập trung, sẽ đạt được thảnh quả tối đa. D’Estienne d’Orves, Duclos đổ bộ lên bờ biến Manche ; Fourcault đi qua I Pha Nho, Robert, Monnier từ Tunis đến Malte và gửi trả lại Bắc Phi, là những người thực hiện những cuộc thí nghiệm đầu tiên. Sau đấy ít lâu, đến lượt Rémy bước vào nghề mật vụ và ông đã tỏ ra người có thần khí. Bây giờ mới bùng lên cuộc tranh đấu trên một mặt trận mà trước đây người ta chưa biết đến. Tháng này qua tháng khác hay đúng hơn, từ trăng này tới trăng khác, vì nhiều cuộc hành quân này tùy thuộc mặt trăng đêm, trung tâm thông tin và hành động BCRA bắt đầu hoạt động: tuyển mộ chiến sĩ cho cuộc chiến tranh bí mật; ra lệnh cho các phái đoàn đặc vụ ; đọc bá cáo ; chuyên chở bằng tàu kéo lưới, tầu ngầm, tàu bay; đưa người qua Bồ Đào Nha và I Pha Nho ; thả lính nhảy dù ; tiếp xúc với những người thiện chí ở Pháp ; thanh tra và liên lạc ; truyền tin bằng máy bay VTĐ, thư từ, mật hiệu ; làm việc với các cơ quan đồng minh để họ thông báo cho biết những sự yêu cầu của bộ tham mưu, để họ cung cấp vật liệu và tùy trường hợp, làm cho mọi việc được dễ dàng hơn hay rắc rối hơn; Sau đó, sự hoạt động được mở rộng và bao trùm nhiều đoàn thể võ trang trên lãnh thổ, nhiều phong trào kháng chiến hoạt động đủ loại. Nhưng trong những ngày đông u ám ấy, chúng tôi chưa đạt được tầm rộng lớn như vậy ! Trong khi chờ đợi, cần phải thỏa hiệp cuộc sống chung với người Anh để cho trung tâm BCRA có thể làm việc mà vẫn giữ được tính cách quốc gia. Đây quả là một thách đố gay go. Hẳn là người Anh hiểu rõ họ có lợi nhiều nếu họ có những tin tức của cơ quan tình háo Pháp — và mới đầu thì họ cũng chỉ để ý đến khía cạnh ấy thôi. Nhưng các cơ quan của người Anh chỉ muốn những sự hợp tác trực tiếp. Bởi thế cho nên đã có sự cạnh tranh rảo riết : chúng ta khuyến dụ người Pháp có bổn phận tinh thần và pháp lý không được gia nhập một cơ quan ngoại quốc ; người Anh huy động phương tiện của họ để tuyển dụng nhân viên và hệ thống làm việc của họ. Khi một người Pháp đến nước Anh, trừ khi họ là người đã có tên tuổi, còn thì họ được sở tình hảo mời đến văn phòng « Trường Ái Quốc » để gia nhập các cơ quan tình báo. Chúng tôi phải dùng áp lực và cầu khẩn, họ mới để cho người ấy trở về với chúng tôi. Nhưng nếu người ấy nghe theo người Anh thì người ấy sẽ bị cò lập với chúng tôi và chúng tôi không bao giờ thừa nhận họ nữa. Ngay tại nước Pháp, người Anh cũng lợi dụng sự mập mờ ấy để tuyển dụng người giúp việc cho họ. Họ đưa nhiều khẩu hiệu : « de Gaulle với nước Anh thì cũng là một !» Còn như phương tiện vật chất, chúng ta phải hoàn toàn tùy thuộc các đồng minh, có khi chúng ta phải mà cả ráo riết mỏi được chu cấp phương tiện. Làm như vậy tất nhiên có nhiều va chạm. Hẳn là người Anh luôn luôn làm dữ đến mức giới hạn cuối cùng có thể chịu đựng được nhưng không bao giờ họ vượt quá giới hạn đó. Đến lúc cần, họ sẽ nhượng bộ, ít ra một phần nào, nếu chúng ta bách thúc họ. Bây giờ sẽ mở ra một giai đoạn hợp tác hữu ích, cho đến ngày lại nổi lên giỏ bão mới. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:28:59 pm Nhưng sự cố gắng của chúng ta chỉ có kết quả phần nào nếu dư luận của người Pháp cũng ủng hộ chúng tôi. Ngày 18 tháng sáu tôi nói trên đài truyền thanh lần thứ nhất trong đời tôi, nghĩ đến những thính giả ngồi nghe tôi, tôi không thể không chóng mặt, tôi khám phá ra sự tuyên truyền trên làn sóng có thể đóng vai trò quan trọng trong công cuộc chiến đấu của chúng ta. Người Anh cũng đáng khen ở điểm nhận thấy ngay có thể sử dụng rất tuyệt diệu một đài phát thanh tự do để tuyên truyền đến những khối dân tộc bị cô lập với thế giới bên ngoài. Họ bắt đầu tổ chức ngay cuộc tuyên truyền của họ trên đất Pháp. Về vấn đề này cũng như các vấn đề khác, họ thành thực giúp cho de Gaulle và phe Pháp Tự Do ngày được tiếng vang trong quốc nội, nhưng họ cũng muốn nắm lấy vai trò chủ động để thủ lợi. Đối với chúng tôi thì chúng tôi chỉ muốn có tiếng nói để có phương tiện tiến hành công việc của chúng tôi. Riêng tôi, tất nhiên tôi không chấp nhận ai có quyền kiểm soát tối cao hay đưa ý kiến ngoại bang vào điều tôi muốn nói với nước Pháp. Quan điểm tuy khác nhau nhưng ngoài thực tế đã có sự thỏa hiệp theo đó Pháp Tự Do được sử dụng làn sóng mỗi ngày hai lần năm phút. Ngoài ra, còn có nhóm « người Pháp nói với người Pháp » những ký giả làm cho bài BBC dưới quyền chỉ huy của ông Jacques Duchesne. Nhiều người Pháp Tự Do như Jean Marin và Jean Oberlé đã tham dự nhóm ấy với sự ưng thuận của tôi. Vả chăng, chúng tôi đã đồng ý với nhau sẽ giữ liên lạc chặt chẽ rất lâu. Tôi cần phải nói rằng tài năng và hiệu lực của toán người ấy làm cho chúng tôi trọng vọng và hết sức giúp đỡ họ. Chúng tôi cũng giúp đỡ tập san France Libre, phát hành do sáng kiến của hai ông Labarthe và Raymond Aron. Chúng tôi cũng giúp đỡ « Cơ quan ngôn luận Pháp độc lập » và nhật báo France,một tờ do ông Maillaiul, hiệu Bourdan, tờ kia do ông Comert, điều khiến với sự giúp đỡ trực tiếp của bộ Thông Tin Anh, nhưng không dính dáng gì đến chúng tôi. Mọi việc đều diễn biến như vậy, thỉnh thoảng có ít nhiều va chạm, khi mà quyền lợi và chỉnh sách của Anh quốc và của Pháp Tự Do còn đi song song với nhau. Sau này mới xảy ra những sự khủng hoảng, những nhóm dân vận « người Pháp nói với người Pháp », « Cơ quan ngôn luận Pháp độc lập», nhật báo France, đều đứng ở ngoài không tham dự cuộc tranh chấp. Đã đành là có đài phát thanh Brazzayille, chúng tôi vẫn có thể công bố điều gì xét ra có ích. Ngay từ đầu, đài phát thanh Phi Châu khiêm tốn của chúng tôi đã hoạt động mạnh và tôi cũng dùng đến nhiều lần. Nhưng chúng tôi muốn mở rộng và tăng sức mạnh. Vật liệu cần thiết được mua từ bên Mỹ. Không những cần phải chờ đợi lâu và trả giá đắt, mà còn phải phá nhiều âm mưu bắt bí ở Mỹ. Sau hết, đến mùa xuân năm 1943, đài nhỏ kháng chiến anh dũng ở Congo được thay thế bằng đài lớn Pháp Chiến Đấu. Người ta sẽ hiểu tại sao chúng tôi chú trọng đến những buổi phát thanh ngắn ngủn ở Luân Đôn của chúng tôi. Mỗi ngày, người nhân danh tôi lên tiếng trên làn sóng bước vào phòng vi âm với ý thức rõ rệt về trách nhiệm của mình. Người ta biết rằng thường thường Maurice Schumann lãnh trách nhiệm ấy. Người ta cũng biết rằng ông thực hiện với tài nghệ cao cường. Cách tám ngày tôi lại lên đài với cảm tưởng mãnh liệt rằng mình làm một thứ nghi thức tôn giáo trước mặt hàng triệu thính giả đang nghe tôi trong sự lo âu. Những bài diễn văn của tôi dùng những yếu tố giản dị như : chiến sự, chiến tranh tiếp diễn đã chứng minh lỗi lầm của kẻ đầu hàng ; lòng kiêu hãnh quốc gia, khi phải tiếp xúc với kẻ thù, tâm hồn người ta đã xúc động sâu xa ; sau hết là hy vọng chiến thắng và phục hồi sự hùng cường cho «bà mệnh phụ Pháp», Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:29:41 pm Tuy nhiên, kết quả có tốt đẹp, nhưng chúng tôi cũng nhận thấy trong cả hai khu vực, dư luận quần chúng vẫn là thứ dư luận thụ động. Hẳn là khắp nơi người ta nghe đài phát thanh Luân Đôn một cách thích thú, nhiều khi hâm mộ là khác. Cuộc hội đàm ở Montoưe được xét đoán nghiêm khắc. Cuộc biểu tình của sinh viên ở Ba Lê đi theo hai cái sào dài (deux gaulcs), ngày 11 tháng một dưới Khải Hoàn Môn, lính Đức phải dùng súng và liên thanh để giải tán, việc ấy làm cho mọi người cảm động và ấm lòng. Ông Layal bị loại ra khỏi chính phủ trong một thời gian, điều đó có vẻ như một ý muốn chính thức quật khởi. Ngày mùng 1 tháng giêng, phần đông dân chúng, nhất là trong vùng bị chiếm đóng, đã theo lời kêu gọi của tôi ở nhà một giờ : « giờ hy vọng », phố xá và thị tứ đều vắng tanh người qua lại. Nhưng không có dấu hiệu gì cho thay rằng đã có một số lớn người Pháp quyết chí hành động. Địch ở chỗ nào trên lãnh thổ của chúng ta cũng không gặp sự nguy hiểm nào. Rất ít người không chấp nhận quyền hành của Vichy. Thống chế cũng là người được quần chúng yêu mến lắm. Một cuốn phim quay cuộc viếng thăm của ông tại các tỉnh ở miền Trung và miền Nam nước Pháp đem lại cho chúng tôi biết bằng chứng hiển nhiên. Thực ra phần lớn dân chúng Pháp muốn tin rằng Pétain chỉ trá hàng đợi ngày trở lại cầm súng. Dư luận chung là Pétain và tôi đã bí mật thỏa thuận với nhau. Rốt cuộc, sự tuyên truyền xưa nay vẫn thế, chỉ có giá trị nhỏ nhoi. Tất cả đều tùy thuộc các diễn biến thời cuộc. Ngay lúc này, điều đáng bận tâm hơn cả là chiến trường Phi Châu. Pháp Tự Do đã bắt đầu có mặt ở chiến trường ấy. Từ ngày 14 tháng bảy, tôi đã tiếp xúc trực tiếp với tướng Wayell, tư lệnh quân Anh tại « Middle - East » để yêu cầu ông tập hợp những yếu tố Pháp trong khu vực hành quân của ông, gửi sang Djibouti tiếp viện cho tướng Legentilhomme. Khi biết rằng Somalis thuộc Pháp theo phe đình chiến, tôi đã được tướng Wayell đồng ý để cho đại đội khinh binh hải quân về tập kết ở Chypre hồi tháng sáu, phụ thêm số quân Pháp ở Ai Cập, sẽ tham dự cuộc tấn công thứ nhất của người Anh ở Tơbrouk và Derna miền Cyrénạique. Tại Pháp và ở nước ngoài, nhiều người ái quốc rùng mình khi biết rằng ngày 11 tháng chạp, đại đội anh dũng của thiếu tá Folliot đã tỏ ra rất xuất sắc trong trận đánh Sidi - Bar- rani. Nhưng vấn đề lớn là bày giờ làm cách nào để đưa một sư đoàn — nhẹ thôi — từ Trung Phi sang Hồng Hải và để cho tham dự cuộc hành quân. Về phía người Anh thì họ muốn dồn nỗ lực vào Erythrée và Ethiopie mùa xuân này để thanh toán đạo quân của Công Tước d ‘ Aoste trước khi thực hiện cái gì khác trên bờ Địa Trung Hải. Mặc dầu xa cách, tôi cũng quyết định gửi một toán quân Pháp đầu tiên sang dự chiến. Ngày 11 và 18 tháng Chạp tôi đã gửi cho Larminat và Catroux mọi huấn thị cần thiết. Tôi huy động một bán lữ đoàn Lê Dương, một đại đội người Senegal ở hồ Tchad, một liên đội thủy quân lục chiến, một liên đội chiến xa, một giàn hỏa pháo, nhiều yếu tố dịch vụ, tất cả được đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Monclar. Đã có những toán quân khác chiến đấu bên cạnh người Anh như một trung đoàn lính Spahis đưa từ Syrie về tháng sáu 1910, một số phi công từ Tunis sang với đại úy Dodelier, một số khác từ Rayak sang với các đại úy Cornez và để Maismont. Với sự ưng thuận của tướng Wayell tôi đã trả binh phí cho đội quân Lê Dương gửi sang Port - Soudan, chiến xa và pháo binh sẽ đi theo sau cùng bằng đường biển. Còn như đại đội ở hồ Tchad thì được chở đi Kartouin, bằng xe cam nhông nhỏ bản xứ đi qua các đường mòn. Vả chăng, cần phải làm sao đưa được họ đến nơi không xảy ra tai nạn dễ họ bớt tin những người đoán già đoán non đi không có ngày về ; từ ngày 20 tháng hai, đội binh ấy lâm trận ở gần Kub - Kub dưới quyền chi huy của thiếu tá Garbay và đã có thắng lợi. Sau đấy, còn thêm 4 đại đội lính Senegal bổ xung tốp đi tiền phong, tất cả cũng trở thành một đơn vị mặt trận đáng kể. Mặt khác, một toán phi công oanh tạc Pháp, có phi cơ « Blenheim » đưa từ Anh sang, sẽ được gửi đi Khartum. Sau hết, những chiến hạm nhỏ Sayorgnan để Brazza và Commandant Duboc đã can đảm lên đường sang Hồng Hải. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:30:23 pm Phần đóng góp của nước Pháp vào trận đánh Abyssinie sẽ quan trọng nhiều nếu Somalis thuộc Pháp với 10.000 binh sĩ đầy đủ võ trang và cửa bể Djibouti, nơi chấm dứt đường hỏa xa Addis-Abéba, trở lại là nước tham chiến ! Trong khi tôi làm áp lực để đưa quân vào Ethiopie, tôi muốn thử tập kết xứ thuộc địa Pháp này. Ở Djibouti, sau khi bày tỏ thiện chí khước từ đình chiến, người ta đã chấp nhân mệnh lệnh của Vichy. Nhưng có lẽ nếu tại đây có một trận giao tranh với địch và có người Pháp tham dự thì thái độ sẽ thay đổi chăng ? Trong trường hợp ấy thì phải đổ bộ Pháp Tự Do lên Djibouti để tiếp viện cho các đồn trại. Bấy giờ một lực lượng Pháp quan trọng thật sự sẽ tham gia cuộc tấn công bên cạnh lực lượng Anh. Trái lại, nếu Somalis không chịu tập kết thì chỉ có quân viễn chinh Pháp Tự Do chiến đấu bên cạnh quân Anh. Luân Đôn đã đồng ý với chúng ta về chương trình ấy. Tôi ủy thác cho tướng Legentilhomme thử khuyến dụ các bộ đội cũ của ông ở Djibouti trở lại cuộc chiến và hướng dẫn những bộ đội từ Trung Phi gửi sang Hồng Hải. Ông khởi hành ngay đến Khartum. Tôi báo cho tướng Catroux và tướng Waye 11 biết những điều kiện hoạt động của tướng Legentilhomme và lực lượng dưới quyền ông. Đồng thời, tôi yêu cầu ông Churchill thỏa hiệp với sáng kiến của người Pháp, mới đầu ông ta có vẻ không mặn mà cho lắm. Trong khi chúng tôi muốn củng cố lực lượng Anh ở Trung Đỏng thì chúng tôi cũng muốn mở một mặt trận riêng của người Pháp ở Tchad và Libye. Nói đúng ra thì chỉ còn với những phương tiện eo hẹp mà phải hoạt động trên những khoảng đất mông mênh, nhưng ở đấy chúng tôi hoàn toàn tự chủ, và đó là điều chính yếu tôi muốn có. Từ khi trở về hồ Tchad, tướng Leclerc đã được Cao ủy Larminat cung cấp đủ mọi phương tiện có thể có được, ông đã hăng hải tổ chức những cuộc hành quân đầu tiên trong sa mạc. Đến tháng giêng ông cùng với trung tá d‘Ornano đưa quân trinh sát đến tận Mourzouk của người Y ; Ornano bị giết trong trận đánh này ; một toán quân Anh từ sông Nil sang cũng theo quân của chúng ta. Cuối tháng giêng, Leclerc cầm đầu một toán quân, có phi cơ của ta yểm trợ, tiến tới ốc đảo Koufra cách căn cứ tới 1.000 cây số. Trong nhiều tuần lễ đôn quân và tấn kích, ông đánh thẳng vào các đồn trại của người Ý đẩy lui những bộ đội lưu động, và ngày mùng 1 tháng ba bắt địch phải đầu hàng. Giữa lúc ấy quân Anh đang tiến nhanh ở Libye làm cho chúng tôi có những viễn tượng rộng lớn hơn. Bởi thế cho nên ngày 17 tháng hai, tôi chỉ thị cho tướng Larminat sửa soạn cuộc đánh chiếm Fezzan. Tình hình biến chuyển sau này ở Libye không cho phép chúng tôi thi hành. Nhưng Leclerc và bộ đội lính Sahara của ông vẫn không ngừng nhắm vào mục tiêu chính yếu đó. Tôi đã nghĩ đến số phận củaKoufra và Fezzan, đến khả năng của người Pháp so với khả năng của người Anh. Chúng tôi sẽ ở lại Koufra, tuy rằng trước đây ốc đảo này vẫu thuộc về xứ Soudan Anh-Ai. Khi nào chúng tôi chiếm được Fezzan, và miễn là người Anh thừa nhận chúng tôi có quyền đó, chúng tôi sẽ rời khỏi Koufra. Tuy nhiên, người Anh và người Pháp Tự Do muốn làm gì thì làm, địch vẫn là người chủ động chiến lược. Chiều hướng chiến cuộc vẫn tùy thuộc ý muốn của họ. Phải chăng vì không thể xâm lăng được nước Anh, bây giờ họ sẽ tràn xuống bắc Phi bằng 2 ngả Suez và Gibraltar ? Hay là họ muốn thanh toán nhau với Nga Sô? Dầu sao thì cũng có dấu hiệu cho thấy họ sắp sửa thực hiện chuyện nọ hay chuyện kia. Trong trường hợp nào thì những biện pháp của chúng tôi đưa ra, theo tôi, cũng cho phép chúng tôi sử dụng lực lượng của chúng tôi một cách hữu ích. Tuy rằng chúng tôi còn yếu ớt nhưng tôi cũng quyết định rằng đứng trước mỗi vấn đề đặt ra cho đồng minh về các trận tấn công địch sau này, tôi sẽ nhân danh nước Pháp mà nói chuyện và nói chuyện đàng hoàng. Đến tháng một 1940, quân Ý tiến đánh Hy Lạp. Ngày mùng 1 tháng ba 1941, Đức quốc bách thúc Bảo Gia Lợi phải theo Trục. Vào những ngày đầu tháng tư, quân Đức kéo vào Hy Lạp và Nam Tư. Đặt tay lên vùng Ba Nhĩ Cán, địch có thể đưa quân vào Trung Đông hay ngăn cản người Anh lập đầu cầu sau nước Đức nếu nước Đức đánh sang Nga. Từ ngày nước Ý khởi sự tấn công Hy Lạp, tôi đã gửi điện tín cho tướng Metaxas, Thủ tưởng Hy Lạp, để mọi người công khai biết rõ sự trung thành và hoài vọng của nước Pháp. Thư trả lời của Metaxas tỏ ra ông ta hiểu lắm. Tuy nhiên, tôi không thể làm cho người Anh chịu chở một toán quân Pháp mà tôi chỉ muốn gửi sang cho có tính cách biểu tượng. Cần phải nói rằng Wayell đang bận tâm với trận Libye và Erythrée, cũng không gửi đơn vị nào của ông ta sang Hy Lạp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:31:09 pm Đầu tháng hai, chúng tôi biết tin một phái đoàn Đức do Von Hintig và Boser cầm đầu đã tới Syrie. Phái đoàn ấy sẽ tạo ra một luồng dư luận xôn xao, và dư luận đó sẽ sửa soạn việc đưa quân TRỤC vào cái xứ Á Rập, hoặc làm lạc hướng người Nga khi Đức bất thần đánh Kiev và Odessa. Đồng thời, sự đe dọa của người Nhật dần dần hiện rõ ở Trung Đòng. Hẳn là người ta khó mà biết được người Nhật có ý định nhất quyết nhảy vào vòng chiến hay đây chỉ là cách cầm chân càng nhiều càng hay lực lượng Anh và công việc sửa soạn của người Mỹ, trong khi đó thì Đức và Ý được rảnh tay để phóng binh lực về phía Mạc Tư Khoa hay vượt Địa Trung Hải. Nhưng dẫu sao thì người Nhật cũng muốn đoạt ngay lấy quyền kiếm soát Đông Dương, vả chăng nếu họ lâm chiến theo Trục thì Nouyelle Calédonie, các quần đảo của chúng ta ở Thái Bình Dương, các lãnh địa Pháp ở Ấn Độ, và cả Madagascar nữa, cũng sẽ bị đe dọa. Tại Đông Dương, sự can thiệp của người Nhật đã bắt đầu từ ngày Pháp thua trận ở Âu Châu. Đến tháng sáu 1940, tướng Catroux, toàn quyền Đông Dương buộc lòng phải thỏa mãn những đòi hỏi đầu tiên của người Nhật. Trước khi quyết định, ông đã thăm dò ý kiến người Mỹ và người Anh, ông đã đi đến kết luận là không thế chờ đợi gì sự cứu trợ ở ngoài. Sau đó, Vichy đã gửi Decoux sang thay thế Catroux. Đối với tôi, tôi không thể dấy lên tại Đông Dương một phong trào để nắm lấy xứ này, tôi cũng không thể lợi dụng phong trào ấy để ngăn cản người Nhật, và cũng không thể thúc đầy được đồng minh chống lại sự can thiệp của họ, như vậy, cho đến khi có điều kiện khác, tôi buộc lòng phải bỏ lửng vấn đề. Hẳn độc giả cũng đoán được tôi vui sướng thế nào khi tôi gửi điện tín từ Douala cho ông Cazaux, Tổng Thanh Tra Thuộc Địa, và cho ông Giám Đốc Tài Chánh ở Saigon, để trả lời một bản phúc trình cho biết cảm tình của phần lớn dân chúng Đông Dương đối với Pháp Tự Do nhưng không thể làm theo ý muốn. Tôi chỉ là người lái một con thuyền nhỏ bé trên biển khơi chiến trường, xứ Đông Dương đối với tôi chẳng khác nào một chiếc tàu lớn đang gặp nạn, tôi chỉ có thể đến cứu khi nào hội đủ phương tiện. Trông thấy Dỏng Dương trời xa dần trong sương mù, tôi tự nguyện sẽ có ngày đưa nó trở về. Vào đầu năm 1941, người Nhật xúi bay nước Xiêm La chiếm hai bên bờ sông Cửu Long, lấn đất cả ở Cao Miên và ở Lào. Đồng thời Nhật đòi hỏi gắt gao, trước hết họ đặt tay lên nền kinh tế Đông Dương, sau đấy là chiếm đóng quân sự những nơi hiểm yếu. Tôi biết tin tức về tình hình biến chuyển nghiêm trọng qua các cơ quan thông tin Anh và Hòa Lan ở Luân Đôn, và các đại diện Pháp Tự Do ở các ngã tư thế giới quan trọng. Schompré, Baron và Langlade ở Tân Gia Ba, Garreau- Dombasle ở Hoa Thịnh Đốn, Egal ở Thượng Hải, Vignes ở Đông Kinh, Brénac ở Sydney, André Guibaut, Béchamp ở Trùng Khánh, Victor ở Tân Đề Li. Tôi nhận thấy chính sách của các nơi ấy lúc này rất phức tạp và rất lúng túng ; nhưng trong bất cứ trường hợp nào, không ai chịu giúp đỡ Đông Dương chống lại quân Nhật. Tất nhiên Pháp Tự Do không có phương tiện, về phía người Anh, tuy họ biết rằng giông tố sẽ tràn tới Tân Gia Ba nay mai nhưng họ chí muốn nấn ná cho qua ngày, đại diện của họ ở Vọng Các chỉ muốn giữ liên lạc thân hữu với Thái Lan không cần biết đến chuyện ven bờ sông Cửu Long. Còn như người Mỹ thì họ chưa sẵn sàng cả về tinh thần lẫn vật chất để đương đầu với một cuộc tranh chấp, họ cho rằng tốt hơn hết là không nên can thiệp. Trong những điều kiện ấy, tất cả cái gì chúng tôi có thể làm được và chúng tôi đã làm là tung ra tin Pháp Tự Do không thừa nhận bất cứ sự thoái bộ nào của chính phủ Vichy đối với Đông Dương. Chúng tôi cũng còn làm cho các bạn chúng tôi ở đấy không theo chính sách và chủ thuyết Vichy và không làm gì cản trở những phong trào nội địa chống Nhật và Thái Lan. Chúng tôi cũng còn muốn phối hợp hoạt động ở Thái Bình Dương với hoạt động của những cường quốc khác bị đe dọa, và cố gắng vô vọng nhờ Anh, Mỹ, Hòa Lan đứng ra làm trung gian hòa giải việc Đông Dương. Sau hết, chúng tôi tổ chức việc phòng thủ Nouyelle Calédonie và Tahiti chung với Úc Châu và Tân Tây Lan. Về vấn đề sau cùng này, tôi đã hội đàm với ông Manzics, Thủ Tướng Úc, nhân dịp ông qua Luân Đôn vào tháng ba, tôi đã cùng với vị chính khách am hiểu tình hình ấy thỏa thuận những điểm chính yếu. Sau đó, thống đốc Sautot điều đình và nhân danh tôi ký kết một thỏa hiệp đích xác với người Úc, mọi điều khoản đều được trù liệu để không có việc xen lấn vào chủ quyền của nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:32:06 pm Chẳng bao lâu, tôi biết được tin Thái Lan tiến đánh sông Cửu Long, sau nhiều cuộc thất bại trên lục địa cũng như dưới mặt biển, họ cũng chiếm được các vùng đất thèm muốn nhớ áp lực Nhật ở Saigon và Vichy. Sau này, chính Nhật Bản đặt quyền kiêm soát lên lãnh thổ Đông Dương. Không có sự chống đối hay kêu ca gì của các cường quốc liên hệ ở Thái Bình Dương. Từ lúc ấy, đã rõ là Nhật tham dự cuộc thế chiến chỉ còn là một vấn đề ngày giờ. Từ ngày người ta thấy rõ lý do cần phải hoạt động chung, sự liên lạc Pháp Anh trở nên mật thiết hơn. Vả chăng ngày tháng trôi qua đã làm cho người ta quen biết nhau. Tôi có bổn phận phải nói rằng nếu tôi được cấp chỉ huy người Anh yêu mến thì tôi cũng yêu mến họ như vậy. Trước hết, Anh hoàng, hoàng hậu, mọi người trong hoàng tộc, đều bày tỏ tình yêu mến đó nếu có cơ hội. Trong số các bộ trưởng, tôi chỉ giao thiệp nhiều với ông Churchill, việc công cũng như việc tư. Nhưng vào thời ấy tôi cũng tiếp xúc nhiều, hoặc để thương lượng công việc, hoặc họp mặt thân hữu, với các ông : ông Eden, Sir John Anderson, ông Amery, Sir Edward Grigg, ông Alexander, Sir Archibald Sinclaư, Lord Lloyd, Lord Granborne, Lord Hankey, Sir Stafford Cripps. Các ông Attlee, Duff Cooper, Dalton, Bevin, Morrison, Bevan, Butt- ler, Brendan-Bràcken. Trong số những nhân vật dân sự hay quân sự, thường thường có các ông : Sir Robert Vansittart, Sir Alexander Cadogon, ông Strang, ông Mortin, các tướng Sir John Dill và Ismay đô đốc Sir Dudlev Pound, Thống chế không quân Por- tal. Nhưngtất cả mọi người, mặc dầu họ là nhà cầm quyền, chỉ huy cao cấp, công chức cao cấp hay nhân vật quốc hội, ký giả, nhà lý tài v.v... ai nấy đều tỏ vẻ bênh vực và trung thành với quyền lợi Anh quốc khiến cho người ngoài phải để ý và phải kính nể. Tất nhiên, không phải là họ không có tinh thần phê phán, họ còn có tinh thần bay bướm là khác. Biết bao lần, tôi được thưởng thức tinh thần hài hước của họ, mặc dầu họ làm việc quá sức nhưng họ vẫn tỉnh táo để phán đoán người và việc giữa tấn thảm kịch đang lôi cuốn mình đi như biển khơi cuốn theo đá sỏi ! Nhưng người nào cũng tận tâm với công vụ, có một thứ cộng đồng ý hướng ràng buộc người nọ với người kia. Toàn bộ nhân viên chỉ huy ấy cho tôi một cảm tưởng đoàn kết mà tôi thèm muốn và thường thường lấy làm khen ngợi. Nhưng sự đoàn kết của họ cũng gây nhiều trở ngại cho tôi. Bởi vì, khi bộ máy chánh quyền Anh đã quay đều để áp đặt một biện pháp nào đó thì kẻ chống lại sẽ gặp phải những thử thách ghê gớm. Phải qua kinh nghiệm rồi mới hiểu chứ không ai tưởng tượng được người Anh có thể tập trung nỗ lực đến mức nào, dùng những mánh khóe tinh vi đến đâu, họ có thể trưng ra đủ bộ mặt tươi tỉnh, quyến rũ, bách thúc hay đe dọa để đòi hỏi cho được sự thỏa mãn. Trước hết là những cách nói bóng gió đến điểm này hay điểm khác, nhưng họ nhấn mạnh đến những nét phù hợp với nhau làm cho chúng ta phải chú ý ; như vậy họ gọi cho chúng ta ý thức về vấn đề và họ chuẩn bị chúng ta một cách có phương pháp để đợi lúc khai thác. Bất thần, giữa một cuộc hội đàm tổ chức dưới hình thức rất chính đáng, nhân vật có thầm quyền đưa lời yêu cầu hay bách thúc của nhà cầm quyền Anh. Nếu chúng ta không chịu đi theo con đường họ đề nghị —mà thường thường thì chúng ta hay làm thế— họ sẽ dùng đến « áp lực » của họ. Mà họ đã dùng thì xung quanh mình họ các cấp từ cao xuống thấp đều nhất loạt hành động ăn khớp với nhau. Cỏ những cuộc hội đàm chính thức hay bán chính thức, nhân viên các cấp từ cao đến thấp thuộc đủ mọi ngành, tùy từng dịp, bày tỏ tình thân hữu, quyền lợi, sự sợ hãi. có hoạt động của báo chí, tránh nói đến đối tượng tranh chấp, nhưng tạo ra cho chúng ta một bầu không khí chê trách buồn xo liên hệ đến những vấn đề của chúng ta. có thái độ của những kẻ đối với chúng tôi có tình thân giao, nhưng họ theo bản năng của họ, tự nhiên họ bênh vực lập trường của chánh phủ họ để thuyết phục chúng tôi. Chỗ nào cũng nổi lên cùng một lúc oán trách và than phiền lẫn với hứa hẹn và tức giận. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:43:31 pm Khuynh hướng tự nhiên của người Pháp dễ nghe theo người ngoại quốc và dễ chia rẽ với nhau đã giúp nhiều cho người Anh thực hiện được áp lực của họ như đã nói trên đây. Đối với chúng ta, trong số những người đã có kinh nghiệm giao dịch với nước ngoài thường thường họ coi sự nhượng bộ là một thói quen, nếu không là một nguyên tắc. Đối với nhiều người, vì đã sống lâu dưới một chế độ không ổn định, họ mặc nhiên chấp nhận rằng nước Pháp không bao giờ nói : « Không ! » Bởi thế cho nên trong những thời kỳ tôi đương đầu với sự bắt buộc của người Anh, tôi thấy xung quanh tôi mọi người tỏ vẻ ngạc nhiên, bất mãn và lo ngại. Tôi nghe thấy bàn tán ngoài hành lang và tôi đọc rõ trong khóe mắt mọi người câu hỏi sau đây : «Không biết ông ta muốn đi tôi đâu ? » Làm như không chấp thuận là một điều không thể nào quan niệm được. Còn như những người Pháp di cư không theo chúng tôi, họ chống đối chúng tôi một cách gần như tự động : phần lớn họ có xu hương chính trị quái gở rằng nước Pháp mà muốn tự xác định thì chỉ có lầm lẫn mà thôi ; tất cả đều bài xích de Gaulle , họ cho thái độ cương quyết của de Gaulle là độc tài, thái độ ấy đối vó i họ đáng ngờ vực chứ không như thái độ thoái bộ mà họ cho là thái độ phải có của một nền Cộng Hòa ! Khi tất cả những ảnh hưởng đa tạp ấy đà có đủ thì giờ tác động lẫn nhau thật sâu rộng, bất thần nổi lên sự yên lặng. Người Anh đã tạo ra xung quanh chúng ta một thứ trống rỗng. Không có hội đàm, thư từ, viếng thăm hay tiệc tùng gì nữa. Các vấn đề đều bỏ lửng. Chuông điện thoại cũng không reo nữa. Những người Anh mà chúng tôi còn gặp gỡ một cách tình cờ đều dăm chiêu kín đáo. Chúng tôi bị bỏ quên, hầu như đối với chúng tôi, trang sử liên minh, có thể là trang sách đời sống đã lật qua rồi. Một luồng khí giá băng bao phủ chúng tôi ở giữa một nước Anh cương quyết và tập trung hết nỗ lực vào mục tiêu họ muốn đạt được. Bấy giờ là lúc xảy ra trận đánh tối hậu. Bất thần họ tổ chức một phiên họp Anh - Pháp rất trọng thể. Họ huy đông đủ mọi phương tiện ; họ trưng ra đủ mọi lý lẽ ; họ nêu ra đủ cớ để trách cứ chúng ta ; họ đồng thanh ca hát đủ mọi luận điệu. Tuy rằng đối với những người Anh trách nhiệm thì đóng kịch hơn kém khác nhau xa, nhưng mỗi người đóng vai trò của mình như một nghệ sĩ có hạng. Những màn bi đát và giật gân kẻo dài hàng giờ. Họ từ biệt chúng tôi giữa những lời thách thức chỉ vì chúng tôi không nhượng bộ. Sau đó ít lâu là một màn chung cục. Nhiều nguồn tin Anh đưa ra những dấu hiệu hòa hoãn. Nhiều người trung gian đến cho biết rằng đã có sự hiểu lầm. Nhiều nhân vật quan trọng hỏi tin tức của tôi. Một vài cột báo có giọng hòa dịu, nhân nhượng. Bấy giờ là lúc người Anh đưa ra một sự dàn xếp để giải quyết vấn đề đang tranh chấp, ý kiến của họ không khác bao nhiêu những điều chúng ta đã đề nghị với họ trước đây. Điều kiện đã có thể chấp nhận được, công việc được giải quyết nhanh chóng, ít ra là bề ngoài, Trong một cuộc hội họp thân thiện nào đó, tình thế ấy chấm dứt, nhưng ít ra phe của chúng ta cũng nhân sự hòa dịu thâu lượm được ít nhiều lợi lộc rồi. Rồi sự liên lạc lại được tái lập như trước ; chỗ ách yếu của vấn đề vẫn còn nguyên, chưa nhất quyết một đường nào. Bởi vì, đối với nước Anh thì chưa bao giờ người ta nghe lời ai bao giờ. Vào đầu tháng ba 1941 tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng đến giai đoạn chiến tranh này, ở Trung Đông và ở Phi Châu, chúng tôi sẽ phải qua những cuộc thử thách lớn với địch, với thái độ cố chấp của Vichy và với các đồng minh của chúng ta. Tôi phải có những quyết định cần thiết ngay tại chỗ. Tôi sẽ thực hiện xem sao. Tôi đến nghỉ cuối tuần ở Chequers với Thủ Tướng Anh trước khi ông đi xa, ông có lời từ hiệt tôi, đồng thời báo cho biết hai tin sốt dẻo. Ngày mùng 9 tháng ba,ông Churchill đến thăm tôi từ sáng sớm, ông nhảy cỡn vui vẻ mà bảo tôi rằng Quốc Hội Mỹ đã bỏ thăm thuận luật thuê vay, bàn cái từ nhiều tuẫn lễ nay. Chúng ta đáng cho là tin mừng không những vì các nước lâm chiến chắc chắn sẽ nhận được vật liệu cần thiết cho cuộc chiến, mà nước Mỹ còn trở thành « xưởng đóng tầu của các nước dân chủ », theo câu nói của Roosevelt, nước Mỹ tiến thêm một bước vào cuộc chiến. Hẳn là ông Churchill muốn lợi dụng sự vui mừng của tôi, cho nên ông nỏi ngay đến tin thử hai : « Tôi biết rằng ông có chuyện bất hình với Spears, trưởng phái đoàn của chúng tôi. Nhưng tôi yêu cầu ông nên chịu đựng ông ấy nữa và cùng ông ấy sang Trung Đông. Đày là một việc riêng của tôi nhờ cậy ông đó. » Tôi không thể từ chối được, chúng tôi từ biệt nhau. Ngày 14 tháng ba, khi bay trở về đường xích đạo, lần này tôi có cảm tưởng là Pháp Tự Do đã có một cơ cấu khả quan. Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc, mặc dầu nhân viên tản mác khắp nơi, nhưng cũng trở thành một toàn bộ hữu hiệu và nhất trí, vả chăng ngày 20 tháng chạp 1940 đã được chính phủ Anh thừa nhận. Nền hành chảnh trung ương của chúng tôi được củng cố ; đầu não là những người có khả năng như Cassin, Pleven, Palewski, Antoine, Tissier, Dejean, Alphand, Dermery, Boris, Antier, v.v. Mặt khác, về plurơng diện quân sự, cũng có nhiều sĩ quan lỗi lạc như các đại tá Petit, Angenot, Dassonville, Brosset, từ Nam Mỹ sang; Bureau từ Cameroun về ; Đại tá không quân Valin từ Ba Tây về. Ở Trung Đông, tướng Catroux, ở Phi Châu, tường Larminat, đều nắm vững mọi việc. Dưới sự thúc đẩy của Garreau-Dombasle ở Hoa Kỳ, Ledouxở Mỹ, Soustelle ở Trung Mỹ, d‘Argenlieu và Martin - Prevel ở Gia Nã Đại, các phải đoàn của chúng ta đã có mặt ở khắp nơi trên Tân Lục Địa. Các ủy ban của chúng ta ở ngoại quốc không ngừng phát triển, mặc dầu các đại diện Vichy làm áp lực tại chỗ, các nhân sĩ Pháp phần nhiều có ác cảm, và đồng bào của chúng ta thường gây chuyện xích mích với nhau. Tôi đặt ra Giải Phóng Huân Chương ở Brazzayille ngày 16 tháng một 1941 và ở Luân Đôn ngày 29 tháng Giêng 1941, đó là một yếu tố khích lệ có tầm quan trọng lớn đối với mọi người trong hàng ngũ Pháp Tự Do. Bây giờ chúng tôi đã cảm thấy qua biên khơi, nước Pháp quay mặt lại với chúng tôi. Pháp Tự Do đã tiến bộ, đã có phương tiện, đã có tổ chức chắc chắn, tôi nhận thấy sự kiện ấy qua cuộc, hành trình của tôi, khi tôi gặp các thống đốc ở các trạm dừng chân Gibraltar. Bathurst, Freetown, Lagos. Trước kia tôi thấy họ rất thân hữu, bây giờ tôi thấy họ ra vẻ trọng vọng lắm. Đi qua khối Trung Phi thuộc Pháp, tôi không thấy ở đâu tỏ ra lo lắng hay bất trắc. Bây giờ mọi người đều tin tưởng và hy vọng, đều quay mắt nhìn ra ngoài, ngưỡng vọng của mọi người là được thấy lực lượng của chúng ta lớn mạnh từ những căn cứ xa xôi, tập hợp thêm nhiều người khác để kháng cự địch và tiến lại gần nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:05:57 pm TRUNG ĐÔNG Tôi bay đến xử Trung Đỏng phức tạp với những ý kiến rất giản dị. Tôi biết rằng người ta đang chơi ván bài chính yếu giữa những màn phụ diễn chẳng chịt. Như vậy thì mình phải nắm lấy lá bài chính đó. Tôi biết rằng đối với đồng minh thì then chốt của mọi vấn đề là kinh Suez, mất con kinh ấy tức là dâng cho Trục vùng Tiểu Ả và Ai Cập, nhưng giữ được thì đồng minh có cơ đánh sang Đông và Tây, sang Tunissie, Ý và miền Nam nước Pháp. Nói như vậy nghĩa là tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải có mặt ở các trận giao tranh nhằm vào kinh đào Suez. Tôi biết rằng từ Tripoli đến Bagdad, qua Le Caire, Jerusalem, Damas, từ Alexandrie đến Naươbi, qua Djeddah, Khartoum, Djibouti, tham vọng chánh trị, chúng tộc, tôn giáo đều nồi dậy dưới sự kích thích của chiến tranh ; các vị trí của nước Pháp ở đây đều bị dòm ngó và uy hiếp ; trong bất cứ giả thuyết nào, nước Pháp cũng không có hy vọng giữ được vị trí nào nếu nước Pháp chịu thúc thủ thụ động trong khi tất cả đều sôi động. Như vậy bổn phận của nước Pháp là phải làm cái gì cũng như ở nơi khác trong khi những người của Vichy không chịu làm gì cả. Về phương tiện của nước Pháp có ở đây thì trước hết là những phương tiện mà tôi đã có : các đội quân chiến đấu, các đội quân trừ bị đang huấn luyện; lãnh địa Tchad cho phép chúng tôi hoạt động ở Libve bằng phía Nam, ngoài ra còn cho phép đồng minh đem máy bay bằng không lộ từ Đại Tây Dương đến sông Nil một cách trực tiếp, không cần phải chở bằng tầu thủy qua mũi Hảo Vọng. Ngoài ra, chúng ta sẽ có những ưu điểm mà Vichy đang bỏ mất : sự có mặt của nước Pháp ở các nước Trung Đông, nơi có quân Pháp và có dầu hỏa đưa tới nơi ; thuộc địa Djibouti ; hạm đội Alexandrie. Nếu vì chiến thuật hay vì nhu cầu, tôi có thể tạm để yếu tố nào đó ở ngoài chiến cuộc nếu tôi biết rằng Vichy không đáng trách lắm vì họ bị quan thầy ngăn cản, họ phải có thái độ chờ đợi, thì những sự kiện đó cũng không làm cho tôi bỏ ý định cương quyết, chiếm lấy những vị trí ấy. Giữa lúc rời khỏi Luân Đôn, tôi đã hỏi ý kiến nhân viên Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc để biết nên làm gì nếu quân Đức đe dọa trực tiếp mà Anh và Thổ quyết định chiếm đóng Syrie và Liban. Tóm lại, tôi đến Trung Đòng quyết tâm không lùi bước, một mặt để mở rộng môi trường hoạt động của chúng ta, mặt khác để cứu vãn cái gì còn lại của nước Pháp, Trước tiên, tôi đáp phi cơ xuống Khartoum, căn cứ của chiến trường Erythrée và Soudan. Chỉ huy trưởng là tướng Platt, người lanh lẹ và linh hoạt, ông vừa chiếm được trên núi Keren, phòng tuyến chính của người Ý. Lữ đoàn của đại tá Monclar và phi đội của thiến tá Astier để Villatte cũng tham dự trận đánh này một cách đắc lực. Còn như các bộ đội ở Djibouti thì tướng Legentilhomme đã tìm cách liên lạc nhưng chưa có kết quả ; thống đốc Noailhetas dùng hết mọi phương tiện, kể cả án tử hình, để đàn áp những phong trào tập kết, Như vậy, không thể trông mong gì Djibouti tự nguyện gia nhập Pháp Tự Do để trở lại cuộc chiến. Vả chăng tôi cũng không muốn dùng vũ khí đế đặt chân lên đây. Còn phương pháp phong tỏa, phương pháp này hẳn là làm chơ người ta hiểu biết hơn vì việc tiếp tế nhu yếu phàm tủy thuộc đường biển : Aden, Arabie, Madagascar. Nhưng chưa bao giờ chúng ta nhờ được người Anh thực hiện công việc ấy. Hẳn là giới quân sự Anh trên nguyên tắc cũng thuận dễ cho Djibouti lựa con đường tập kết, họ có thêm quân tiếp viện của Djibouti. Nhưng những cơ quan khác của người Anh không tỏ vẻ mặn mà lắm. Hẳn là họ nghĩ rằng : « Từ 60 năm nay Anh, Pháp, Ý vẫn chống báng và tranh giành nhau, mà nay Ý thua trận, Pháp thụ động và bất lực, thì thật là cơ hội bằng vàng để người Anh làm bá chủ cả vùng : Abyssinie, Erythrée, Somalie, Soudan ! Chẳng lẽ khước từ miếng to ấy để nhận thêm một vài đại đội của Djibouti trong khi người Anh coi như thắng trận này rồi. Tâm trạng ấy khá phổ biến trong các giới người Anh. Theo tôi thì sự kiện ấy giải thích được tại sao Vichy tiếp tế được cho thuộc địa ấy trong hai năm và giữ được chủ quyền ở đấy. Sự khiếm khuyết ẩy làm cho những bộ đội Pháp chiến đấu ở Erythrẻe thêm giả trị. Tôi sẽ đến thăm những bộ đội ấy vào ngày 29 và 30 tháng ba. Một phi cơ Pháp chở tôi đi từ phi trường Agordat, tôi đến một vùng ở phía Nam Keren, ở đấy lữ đoàn của chúng ta, hiệp lực với một chi đoàn Ấn Độ giữ địa vị cảnh hữu của quân đồng minh. Các bộ đội của ta đã có thành tích vẻ vang. Sau trận Kub-Kub, họ đã dự phần quan trọng vào cuộc chiến thắng ở Keren, họ đã nghiền nát và tràn qua sườn phải của quân Ý. Chuẩn tưởng Gé- nin, người hùng của trận chiến đến chào tôi. Ông đã đưa quân từ Alger băng qua Phi Châu, và mới đến nơi đã giao tranh liền. Tôi hỏi ông ; « BBaay giờ ông đã trông thấy đấy, ông nghĩ sao ? » — « Than ôi ! Nếu tất cả mọi người ở phía bên kia đều tròng thấy được, thì đã không nên chuyện ! » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:06:35 pm Hôm sau ngày tôi đến thăm, tướng Platt mở cuộc hành quân, vị chỉ huy trưởng lữ đoàn Pháp đưa quân của mình đến Massaouah, thủ đô và kho tàng của xử Erythrẻe. Quân ta chiếm Montecullo và Fort Umberto ngày mùng 7 tháng tư, đội quân tràn vào Massaouah, lẫn lộn với một đám người Ý chạy trốn, tiến đến hải cảng chiếm bộ tham mưu hải quân ; đại tả Monclar được cái hân hạnh chấp nhận cuộc đầu hàng của hải quân địch ở Hồng Hải. Tổng cộng, quân Pháp đã bắt được hơn 4.000 tù binh và nhận cho 10.000 quân địch đầu hàng ở Massaouah. Từ đây tàn quân Ý dồn về Abytssinie chỉ có thể đánh những trận rời rạc. Nhưng điều đảng tiếc là Somalie thuộc Pháp đứng ngoài cuộc lảm cho nước Pháp không thể đóng được vai trò quyết định bằng cách tiến dọc đường hỏa xa từ Djibouti tới Addis-Abẻba. Tôi chỉ có thể lãnh lấy hậu quả tồi tệ. Bây giờ phải đưa các bộ đội Pháp Tự Do đi nơi khác, kễ cả những lực lượng mới nhập ngũ. Palewski sẽ ở lại đây làm đại lý chỉnh trị và quân sự, giữ lại một đại đội và vài chiếc phi cơ, Tôi đáp xuống Le Caire ngày mùng 1 tháng Tư, bước vào trung tâm chiến cuộc với một trái tim không vững chắc. Tình trạng người Anh và các đồng minh của họ ở đây quả là bất ổn không những vì các biến cố quân sự mà còn vì họ đứng trên một dải đất bị khuynh đảo vì các đợt sóng chính trị ; dân chúng chỉ đứng xem Tây Phương đánh lộn nhau để vỗ tay chơi và sẵn sàng giày xéo lên xác kẻ bại trận mà thủ lợi. Những điều kiện ấy làm cho việc chỉ đạo chiến tranh ở Trung Đông cực kỳ phức tạp. Tướng Wayell, tư lệnh quân đội Anh là người tài trí và can đảm, ông hoạt động ở giữa những yếu tố ngẫu nhĩ, nhiều yếu tố chỉ có liên lạc giản tiếp với chiến lược. Vả chăng, chiến lược ấy cũng không phải là cái gì để phác họa. Vào đầu tháng tư, tướng Wayell thực hiện cuộc giao tranh trên ba mặt trận, trục lộ giao thông dài dòng và vất vả vô cùng. Tại Libye, sau hai trận chiến thắng đưa người Anh đến ngưỡng cửa Tripolitáine, họ cũng đành phải thụt lùi. Cyrénaique sắp thất thủ, ngoại trừ Tobrouk. Bộ chỉ huy có giá trị thật, quân lính can đảm thật, nhưng họ chưa có kinh nghiệm đánh ngoài sa mạc, lưu động và mau chóng trên những khoảng đất trống rộng mênh mông, còn phải kể đến mỏi mệt, khát nước và sốt rét kinh niên dưới trời nắng, cát nóng, ruồi muỗi nhiều vô kể. Rommel đã thay đổi số mệnh vào lúc chính phủ Luân Đôn bắt buộc Wayell phải bớt quân số của mình để gửi những đơn vị quan trọng sang Hy Lạp. Mặt trận Hy Lạp cũng không có gì là khả quan. Đành là những trận thắng ở Erythrẻe và Abyssinie cũng đem lại được chút an ủi. Nhưng trong các nước Ả Rập có nhiều dấu hiệu báo động. Về vấn đề Syrie, người Đức đang điều đình rảo riết với Vichy. Tại Palestine đã có sự chống đối âm thầm giữa người Á Rập và người Do Thái, bởi thế cho nên cần phải hết sức thận trọng. Thêm vào những khó khăn tích lũy xung quanh mình tướng Wayell như vậy, còn có những ảnh hưởng giao thoa từ nhiều lãnh vực tràn tới. Có những bức điện tín từ Luân Đôn gửi sang. Vì ông Churchill là người nóng nảy nhưng lại hiểu rõ mọi việc, ông không ngừng yêu cầu giải thích và ra chỉ thị. Không kể những cuộc viếng thăm của ông E- đen, trước là tổng trưởng Chiến Tranh, và từ năm 1941, Quốc Vụ Khanh phụ trách Ngoại Giao, còn có những cuộc vận động của đại sứ Sir Miles Lam- pson; với giá trị của ông này và vì sức mạnh của hoàn cảnh, ông này đóng vai trò một phái đoàn phối hợp thường xuyên. Quân đội ở Trung Đông gồm một phần lớn những đơn vị của các nước tự trị : Úc, Tân Tây Lan, Nam Phi, các chính phủ ẩy canh chừng gẳt gao việc sử dụng các lực lượng của họ ; cả các đơn vị Ấn Độ cũng chỉ được sử dụng cách nào không có vẻ lạm dụng. Tóm lại, tướng Wayell chỉ huy quân đội qua tất cả những chướng ngại chính trị như vậy. Tôi cần phải nói rằng ông chịu đựng được, hết một cách bình tĩnh cao thượng. Thậm chí, ông gửi tổng hành dinh ở lại Le Claire để bị bao vây tứ phía. Ở trung tâm một thảnh phố tấp nập trong bụi bặm, ông ngồi trong một phòng giấy nhỏ nóng như thiêu như đốt, đợi những cuộc can thiệp bên ngoài vào lãnh vực quân sự của ông. Tôi đến gặp ông trong khung cảnh ấy, với ý clú cương quyết cho nước Pháp những vấn đề liên hệ đến nước Anh, trước tiên là vị tư lệnh quân đội của họ. Tôi đã cùng tướng Catroux phác họa những kế hoạch sắp thực hiện của chúng ta. Đối với chúng tôi, điều then chốt là cái gì sẽ xảy đến ở Syrie và Liban. Sớm muộn gì chúng ta cũng phải sang hai nước ấy. Ngày nào chúng ta đặt chân lên đây rồi thì nước Pháp sẽ có cơ may góp phần quan trọng vào 11ỗ lực chung. Nếu không thì cơ may đó mất hẳn, kéo theo sự suy sụp của vị thế nước Pháp. Bởi vì, trong trường hợp Trục thắng thì họ sẽ làm bá chủ ở đây cũng như ở chỗ khác. Trái lại, nếu người Anh thắng thì người Anh sẽ chiếm chỗ của chúng ta. Vậy thì uy quyền của Pháp Tự Do phải lan rộng đến Damas và Beyrouth, khi nào tình hình biến chuyển cho phép chúng ta đặt uy quyền ấy ở đây. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:07:31 pm Nhưng khi tôi có mặt Le Caire thì cơ hội chưa đến, Chỉ có thể hy vọng rằng nhà cầm quyền và quân đội ở Trung Đông tự mình giải tỏa tình trạng ma trêu quỷ ám đó mà thôi. Vào cuối tháng sáu 1940, có một phong trào đưa từng đội quân sang Palestine, đến nay phong trào ấy đã đổi ra thái độ chờ đợi. Vả chăng, sau ngày đình chiến, Vichy đã giải ngũ nhiều sĩ quan và binh lính để đưa về Pháp. Ngoài ra, trong số những quân nhân và công chức còn ở lại chức vụ. Vichy đã hồi hương, có khi bắt giam những người theo de Gaulle . Tóm lại, phong trào mà Catroux hy vọng sẽ dấy lên khi ông đến Le Caire đã không xảy ra, các hãng thông tin của chúng ta ở Beyrouth và Damas không cho chúng ta biết tin gì để nghĩ rằng phong trào ấy sắp xảy đến. Cũng vẫn tinh thần thoái bộ ấy đã làm cho hạm đội Pháp ở Alexanđrie bất động. Từ khi đô đốc Godfroy ký kết với Andrew Cunningham thỏa ước trung lập hóa hạm đội Pháp, những chiến hạm sau đấy vẫn bỏ neo ở vững tầu ; thiết giáp hạm Lorraine ; tuần dương hạm : ne,Stiffren,Tourville ; khu trục hạm : Fortune ; tiềm thủy đĩnh Protée. Thỉnh thoảng có một vài nhân viên bộ tham mưu và thủy thủ trở về với chúng tôi. Nhưng những người khác nghe lời Vichy, đã dùng thời giờ quỷ báu thời chiến này để chửng tỏ cho nhau biết rằng cách phục vụ nước Pháp bị chiếm đóng hữu hiệu nhất là đừng chiến đấu gì cả. Một ngày tháng tư, tôi đi qua bến Alexanđrie để xuống tầu thăm đô đốc Cunningham tôi thấy tim mình thắt lại khí nhìn những tàu chiến đẹp dễ của Pháp nằm ngủ gật và vô dụng ở giữa những chiến hạm Anh đang tấp nập sửa soạn chiến đấu. Nhưng chúng tôi không thể chấp nhận được rằng tình hình chiến sự ở Địa Trung Hải không ảnh hưởng gì đến tâm trạng những người chỉ huy ở Phi Châu và Trung Đông ; bởi thế cho nên tôi tìm cách thử tiếp xúc với họ. Vảo tháng một, tướng Catroux gửi đến Weygand một bức thư tỏ tình thân hữu lân bang. Mặc dầu ảo tưởng rất mong manh nhưng tôi cũng chấp thuận. Chính tôi cũng lên tiếng gọi trên đài phát thanh, ngày 28 tháng chạp 1940 tôi tuyên bố : « Các tướng lãnh Pháp mặc dầu có lỗi gì, nếu đã quyết chỉ rút lưỡi kiếm ra khỏi bao, sẽ là bạn của chúng tôi, chúng tôi không phải là những người độc đoản hay tham vọng. Nếu Phi Châu thuộc Pháp đứng lên để tham chiến, chúng tôi sẽ đem mảnh Đế Quốc nhỏ này sát nhập với Phi Châu làm một. » Đến tháng giêng, tôi hỏi ý kiến các nhân viên trong Hội Đồng Phòng Vệ để biết nên có thái độ nào nếu Vichy trở lại cuộc chiến, tôi thấy mọi người cũng nghĩ như tôi, cũng sẵn sàng chấp nhận thống nhất. Ngày 24 tháng Hai, tôi lại gửi thư cho tường Weygand trình bày ý kiến trên dây, mặc dầu ông đã lên án tôi và ông đã có thải độ khiếm nhã đối với bức thư thứ nhất của tôi. Tôi bách thúc Weygand phải nắm lấy cơ hội cuối cùng đế trở lại cuộc chiến. Tôi đề nghị đoàn kết với ông và nói cho ông hiểu rằng nếu ông chấp thuận thì tôi sẽ kính trọng ông và tận tâm với ông. Mặt khác, tướng Catroux không bỏ lỡ cơ hội nào để tỏ tình thân thiện với đô đốc Godfray. Sau hết, đến tháng một, Catroux gửi thư cho các nhân vật ở Trung Đông để tìm cách liên lạc ; ông đã gửi cho ông Puaux, Cao Ủy Trung Đông, tướng Fougère, tổng tư lệnh quân đội, tướng Arlabosse, phụ tá. Nhưng, tất cả những cuộc vận động ấy đều không đem lại kết quả gì. Tướng Wevgand khi thì trả lời rằng « Phải đem de Gaulle ra mà xử bắn », khi thì ông nói : « Hai phần ba nước Pháp bị địch chiếm đóng, còn một phần ba thuộc về Hải Lực, điều này còn tồi tệ hơn vì Darlan vẫn luôn luôn cho dò xét ông, ông không thể làm gì được, dù có muốn làm gì cũng phải bó tay ». Còn như đô đốc Godfroy thì ông nhã nhặn tiếp đón thư từ của tướng Catroux, nhưng ông không trả lời. Sau cùng, Arlabosse từ Beyrouth gửi cho Catroux một thư trả lời lịch sự nhưng ướp lạnh. Vả chăng từ cuối tháng chạp, sau tai nạn phi cơ ở Chiappe, đại sứ Puaux. được Dentz thay thế, ông này là sĩ quan bảo thủ và sẵn sàng áp dụng nguyên văn các chỉ thị của Darlan. Sau đó ít lâu, đến lượt Fougere bị thay thế, Verdilhac lên cầm quyền chỉ huy quân sự. Trong những điều kiện ấy, chúng tôi chỉ có thể nghĩ đến việc đặt chân lên Syrie khi nào địch đặt chân lên đấy. Trong khi chờ đợi, chỉ còn cách giao các bộ đội của Legentilhomme cho Wayell để ông này đưa sang Libyc. Tôi đã thỏa thuận điều ấy với vị tư lệnh Anh. Đồng thời, tôi dàn xếp với thống chế không quân Longmore, việc tổ chức và sử dụng phi đội nhỏ bé của chúng ta. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:07:59 pm Tôi cần phải nói rằng quân lính của chúng ta đến đây đã gây được một ấn tượng tốt. Tại xứ Trung Đông sôi động này uy danh của nước Pháp đã vang dội hàng mấy thể kỷ nay, bởi thế cho nên quân lính của ta sẵn có tư thế để trở nên những tay thiện chiến, vả chăng người Ai cập tiếp đón niềm nở, có lẽ người Ai còn muốn ân cần với người Pháp, để làm nổi bật sự lạnh nhạt của họ đối với người Anh. Chính tôi cũng được biết sự thích thú ngồi tiếp hoàng thân Mohamed - Ali, anh em họ và thế tự của nhà vua, tôi cũng tiếp xúc với Sikry Pacha, Thủ Tướng và nhiều bộ trưởng trong chính phủ. Còn như những người Pháp ở Ai Cập : bác học gia, sư phạm gia, chuyên viên khảo cổ học, các nhà truyền giáo, doanh gia, thương gia, kỹ sư và nhân viên quản trị Kinh Suez ; phần nhiều họ nhiệt thành giúp đỡ các bộ đội của chúng ta. Từ ngày 18 tháng sáu, họ đã thành lập một tổ chức đáng coi là một trong những rường cột của Pháp Tự Do. Tuy nhiên, có một số đồng bào của ta vẫn xa lánh phong trào. Thỉnh thoảng tôi dạo gót đi chơi tối, trong vườn bách thú Le Caire, đi qua tòa lãnh sự Pháp trông sang vườn bách thú, tôi thấy bóng dáng đăm chiêu những người không theo de Gaulle xuất hiện dưới cửa sổ,tuy nhiên họ vẫn dõi mắt nhìn theo tôi. Hai tuần lễ sống ở Soudan, Ai Cập và Palestine đã đem lại ánh sáng cho một vài việc. Nhưng việc chính yếu vẫn chưa được sáng tỏ, lúc này tôi không thể làm gì được. Tôi đành trở về Brazzayille. Dẫu sao thì cũng cần phải phát triển tổ chức khối Trung Phi. Nếu mất Trung Đông thì Trung Phi sẽ là hậu cứ của đồng minh ; nếu không thì chúng ta sẽ dùng làm căn cứ để xuất phát một cuộc tấn công sau này. Trong cuộc kinh lý này tôi trở lại thăm Douala, Yaounde, Moroua, Libreville, Port - Gentil, Fort Lamy, Moussoro, Faya, Fada, Abéché, Fort Acham- bault, Bangui, Pointe - Noire. Thiếu thốn thì nhiều nhưng không thiếu trật tự, thiện chí. Các thống đốc : Cournarie ở Cameroun, Lapie ở Tchad, Saint Mart ở Oubangui, Fortune ở Moyen-Congo, Valentin - Smith ở Gabon — ông mới đến thay Parant tử nạn phi cơ. Họ chỉ huy và cai trị trong hoàn cảnh mọi người đều vững tin, người Pháp vẫn tạo được bầu không khí ấy khi họ thỏa thuận với nhau để lập đại nghĩa. Trong lãnh vực quân sự, tôi dành ưu tiên cho việc thành lập gấp rút đạo quân sa mạc của Leclerc. Tôi đưa từ Anh sang cho ông số sĩ quan còn lại của chúng ta và các vật liệu cần thiết mà người Anh chịu cung cấp cho chúng ta. Nhưng từ cuối tháng tư, tôi yên chí rằng sẽ có ngày chúng ta phải hoạt động ở Trung Đông. Thật vậy, người Đức đã đặt chân xuống Địa Trung Hải. Ngày 24 tháng tư họ đập tan lực lượng khảng cự của Anh-Hy, quân Nam Tư cũng vừa thua trận. Hẳn là người Anh sẽ tìm cách bấu víu lấy đảo Crete. Nhưng liệu họ có đứng vững được không ? Hầu như chắc chắn rằng địch sẽ từ bờ biển Hy Lạp đưa quân sang Syrie, ít ra là một tiểu phi đội. Sự hiện diện của những phi đội ẩy tại các xứ A Rập sẽ gieo kinh hãi cho dân chúng và sửa soạn cho quân Đức đến. Mặt khác, các phi trường ở Damas, Rayak, Beyrouth, cách Suez và Port- Said chỉ có 500 cây số, sẽ dùng làm căn cứ cho phi cơ Đức đến oanh tạc kênh đào và các ngả đường vào kênh đào. Về phương diện ấy thì Darlan không thể từ chối sự bắt buộc của Hitler. Nhưng trong giả thuyết binh sĩ Pháp ở Trung Đông trông thấy phi cơ Luftwaffe (Đức) đậu xuống căn cứ của họ, tôi vuốt ve hy vọng rằng nhiều người sẽ không chịu khoanh tay đứng nhìn và sẽ không chịu buông súng. Trong trường hợp ấy thì mình phải sẵn sàng để đưa tay ra đón tiếp họ. Bởi vậy cho nên tôi đã quyết định đường lối để hành động. Phải đưa thẳng từ Damas sang sư đoàn của Legentilhomme khi nào quân Đức xuất hiện làm cho dân chúng xúc động, thuận lợi cho chúng ta đưa quân vào cứu. Trong giả thuyết ấy, Catroux sẽ tiếp xúc với các nơi, nếu cần thì tiếp xúc cả với Dentz, để lập một mặt trận chung của người Pháp để chống xâm lăng ở Syrie. Nhưng những kế hoạch ấy không được người Auh tán thành. Tướng Wayell đang bận bịu với ba mặt trận hiện thời nhất định không muốn mở một mặt trận thứ tư. Ông không cho rằng tình thế đã đến nỗi tồi tệ, ông tin tưởng những bản phúc trình của tổng lãnh sự Anh tại Beyrouth, ông chắc chắn rằng Dentz sẽ đủ sức chống lại quân Đức nếu họ kéo đến. Đồng thời, chính phủ Luân Đôn cũng tìm cách vuốt ve Vichy. Bởi thế cho nên đến tháng hai, Hải Quân Anh đã cho phép tầu Providence chở những người theo de Gaulle từ Beyrouth về Marseille giao cho Vichy, mặc dầu có lời cảnh cáo của tôi. Bởi thế cho nên đến cuối tháng tư, một hiệp ước thương mại đã được kỹ kết với Dentz để bảo đảm việc tiếp tế Trung Đông. Bởi thế cho nên ở Aden vẫn tiếp tục những cuộc điều đình của thống đốc Noailhetas để tiếp tế Djibouti. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:08:31 pm Tin tức từ Pháp đưa sang làm cho tôi nghĩ rằng ảnh hưởng Mỹ hẳn là đóng một vai trò nào đó trong chính sách hòa dịu của người Anh. Về phía Vichy thì người ta cho tôi biết rằng Pétain và Darlan đã tìm cách lẩy lòng đô đốc Leahy, đại sứ Mỹ ở Vichy, giữa lúc họ đã bí mật chấp nhận những yêu sách của Hitler. Rồi đến lượt Roosevelt bị ảnh hưởng của những bức điện tin của Leahy, cũng thúc đẩy người Anh phải hòa hoãn. Tôi càng nhận thấy cần phải chuẩn bị hành động ở Trung Đông thì đồng minh của chúng ta lại càng tỏ ra chểnh mảng. Ngày mùng 9 tháng năm, Spears từ Le Caire báo cho tôi biết : « Hiện thời không trù liệu cuộc hành quân nào cho Pháp Tự Do, đối với tôi thì sang Ai Cập lúc này bất lợi, tốt hơn hết là nên quay trở lại Luân Đôn ». Tôi tin chắc rằng sự chậm trễ nào chúng ta cũng phải trả giá đắt, bởi thế cho nên tôi nhận thấy cần phải làm cho người Anh xúc động một chút. Ngày mùng 10 tháng năm, tôi gởi điện tín về tòa đại sử Anh ở Le Cairevà bộ tư lệnh để phản đối những « quyết định đơn phương về việc tiếp tế Trung Đông và Djibouti», mặt khác, để phản đối « sự chậm trễ trong việc tập trung quân của Legentilhomme ở Syrie, trong khi mỗi ngày càng thấy rõ dấu hiệu Đức muốn đưa quân vào đây ». Trong những điều kiện như thế tôi không còn muốn đến Le Caire nữa mà từ đây tôi sẽ tập trung mọi nỗ lực của Pháp Tự Do vào miền hồ Tchad. Rồi tôi cho Luân Đôn biết rằng tôi sẽ gọi tướng Catroux ở Le Caire về vì sự có mặt của ông ở đấy trở nên vô ích. Sau hết ông Parr, Tổng lãnh sự Anh ở Brazzayille, đem lại cho tôi bức thư của ông Eđen giải thích chính sách hòa hoãn với Vichy ; tôi trả lời ông, lên án gắt gao chính sách ấy vì tôi biết tin Darlan đã hội đàm với Hitler ở Berchtesgađen, hai người đã kỷ thỏa ước với nhau, sau hết phi cơ Đức đã hạ cánh xuống Damas và Alep. Địch cũng đang đánh ván bài lớn của họ, Theo kế hoạch của địch, Thủ Tướng Irak, Rachid Ali Kilani tạo ra tình trạng thù nghịch vào những ngày đầu tháng năm. Người Anh bị bao vây trong các phi trường. Ngày 12 tháng năm, phi cơ Đức đến Syrie và từ đấy bay sang Bagdad. Hôm trước, nhà cầm quyền Vichy đã gửi đến Tel-Kotchek gần biên giới Irak, vật liệu chiến tranh mà ủy ban đình chiến Ý trước đây đã để cho họ kiểm soát. Tất nhiên số vũ khí đó để cho Rachid Ali. Người Anh cật vấn Dentz, ông này chỉ trả lời mơ hồ nhưng không chối cãi những sự việc đã xảy ra. Ông còn nói thêm rằng nếu nhận được lệnh của Vichy cho phép quân Đức đổ bộ thì ông cũng phải tuân theo, nói như vậy nghĩa là lệnh đã ra rồi. Quả vậy, người ta biết rằng những bãi biển mà địch dùng để lên mặt đất liền đã được chỉ định từ trước. Luân Đôn cho rằng trong những điều kiện ấy thì tốt hơn hết là nên chấp nhận cách nhìn của tôi. Họ đổi ý một cách bất thần và đổi ý hoàn toàn. Ngày 14 tháng năm, ông Eden một đằng, ông Spears ở Ai Cập đằng khác, mời tôi sang ngay, họ nói thẳng ra không cần thớ lợ gì cả. Sau hết, một bức thư của ông Churchill yêu cầu tôi đến Le Caire và đừng rút Catroux về vì phải thực hiện cuộc hành quân nay mai. Tôi rất thỏa mãn vì thái độ của Thủ Tướng Anh, tôi trả lời ông với cảm tình nồng hậu và lần này tôi dùng tiếng Anh. Tuy nhiên, thái độ của đồng minh chúng ta trong việc này khiến cho tôi phải rút ra những kết luận cần thiết. Còn như tướng Wayell thì chính phủ ông ra lệnh cho ông phải hành quân sang Syrie như tôi đã tiên liệu trước đây. Khi tôi đến Le Caire ngày 25 tháng năm, tôi thấy ông có thái độ người buộc lòng phải làm việc ấy. Hẳn là lúc này mất đảo Crete và mặt trận Hy Lạp, công việc của tướng tư lệnh được nhẹ nhàng hơn trước nhiều. Tuy nhiên, ngay tại Syrie, mọi việc cũng không được như chúng tôi mong muốn, có lúc Catroux đã tưởng rằng có thể thực hiện kế hoạch của chúng ta và tiến quân vào Damas với lực lượng Pháp Tự Do cũng đủ. Nhưng chẳng bao lâu chúng tôi nhận thấy việc Vichy âm mưu với địch không làm cho quân đội Trung Đông phản ứng nhiều. Trái lại quân đội Trung Đông dàn ra biên giới để chống cự lại Pháp Tự Do và đồng minh, trong khi ấy thì ở phía sau quân Đức có thể di chuyên tự do. Dentz có hơn 30.000 người đầy đủ trọng pháo, phi cơ, thiết giáp, không kể các bộ đội Syrie và Liban ; kế hoạch tiên khởi của chúng tôi dự định tiến vào Damas với 6.000 khinh binh, 8 đại bác và 10 chiến xa, có 2 tá phi cơ yểm trợ, chúng tôi hy vọng rằng sẽ được quân đội tại chỗ ủng hộ và theo luôn ; đến nay kế hoạch ấy không thể áp dụng nguyên vẹn được nữa. Phải có sự phụ lực của người Anh, sẽ có một trận đánh quy mô. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:08:58 pm Ít nhất, chúng tôi cũng muốn rằng trận đánh ấy không đến nỗi ác liệt và kẻo dài quá. Đây là một vấn đề phương tiện. Các bạn ở Beyrouth và Damas bảo chúng tôi : « Nếu đồng minh vào Syrie thật đông và từ khắp nơi thì bấy giờ chỉ có một cuộc chiến tranh danh dự. Trái lại, nếu các bộ đội Trung Đông chỉ thấy có những lực lượng ít ỏi, trang bị sơ sài thì điều đó tai hại cho lòng tự ái của họ, những cuộc giao tranh sẽ ác liệt về vấn đề này, tôi với Catroux đã nhiều lần hội đàm với Wayell. Chúng tôi hối thúc ông đưa quân vào Trung Đông, không những bằng phía Nam, theo ngả Palestine, mà còn bằng phía Đông, theo ngả Irak, ở đây người Anh đang tìm cách khống chế Rachid Ali. Chúng tôi yêu cầu vị tư lệnh tung ra bốn sư đoàn, trong số đó có một sư đoàn thiết giáp và cho Không Lực Hoàng Gia hoạt động trên không phận Syrie. Chúng tôi yêu cầu ông cung cấp cho Legentilhomme những phương tiện còn thiếu : xe chuyên chở và yểm trợ pháo binh. Hẳn là tướng Wayell không thiếu thông minh chiến lược. Vả chăng ông cũng muốn thỏa mãn chúng ta. Nhưng vì ông mắc bận với chiến trường Libye và có lẽ vì những bức điện văn bách thúc của ông Churchill mà ông thấy ảnh hưởng của chúng ta, cho nên ông phản đối chúng ta bằng một thứ thuận ý thụ động, ông chỉ dành cho mặt trận Syrie một số lực lượng tối thiểu cần thiết, không thể nào làm cho ông đổi ý được, ông chỉ đưa ra mặt trận, dưới quyền chỉ huy của tướng Wilson, một sư đoàn Úc Châu và một lữ đoàn kỵ binh đi đường ven biển Tyr-Saida, một lữ đoàn khinh binh tiến theo đường Kuneitra và Merdjayoun, một lữ đoàn Ấn Độ giao cho Legentilhomme, tiến vào Damns bằng ngả Deraa. Sau này Wayell cho thêm hai đại đội Úc Châu. Sau hết, một chi đội Ấn Độ đánh từ Irak sang. Tất cả lực lượng ấy được 60 phi cơ yểm trợ ; nhiều loại tầu chiến tiến dọc theo ven bờ biển để phụ lực với các cuộc hành quân trên mặt đất. Tổng cộng, quân đồng minh đưa vào chiến trường ít lực lượng, không tương đương với số lực lượng địch ở đây. Tuy nhiên, cũng đành phải hoạt động trên những căn bản yếu kém ấy để giải quyết cho xong việc Trung Đông. Đã có quyết định tối hậu, màn bi kịch bắt đầu. Ngày 26 tháng năm tôi đến Kistina thanh sát các bộ đội Pháp Tự Do, bây giờ đã tập trung vào một nơi, nhưng sự trang bị vẫn thiếu thốn. Legentilhomme đưa tôi đi thăm 7 đại đội, một liên đội chiến xa, một giàn hỏa pháo, các đơn vị dịch vụ. Vào dịp này tôi trao tặng những huy chương Giải Phóng đầu tiên trong các trận đánh Libye và Erythrée. Tiếp xúc với sĩ quan và binh lính, tôi nhận thấy họ cũng có tâm trạng như tôi: buồn rầu và ghê tởm vì phải đánh lại người Pháp; công phẫn vì Vichy đã dùng kỷ luật để làm lạc hướng các bộ đội ; tin chắc rằng phải tiến tới, phải chiếm lấy Trung Đông để mọi người quay súng lại đánh địch. Ngày 21 tháng năm, đại tá Collet, một sĩ. quan có tài và can đảm phi thường, vượt biên giới, mang một phần lực lượng của ông về theo chúng tôi. Ngày mùng 8 tháng sáu, Pháp Tự Do và quân đội Anh tiến quân dưới cờ đồng minh, Wayell và Catroux đồng ký lệnh cho quân sĩ chỉ dùng đến võ khí khi nào bị công kích. Một đài phát thanh đặt ở Palestine từ mấy tuần nay, các đại úy Schmittlein, Coulit và Repiton dùng lời thân hữu khuyến dụ đồng bào không nên coi Pháp Tự Do là cừu địch. Nhưng con đường đã vạch rồi, chúng ta phải đi. Trên một bản tuyên ngôn đọc trước công chúng, tôi nói rõ lập trường của tôi không để chút nghi ngờ nào nữa. Vả chăng, tôi phải quyết tâm thực hiện mau chóng và đến nơi đến chốn, vì đã có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng Vichy và có lẽ Trục muốn tấn công Phi Châu của Pháp Tự Do. Theo tin tức tình báo của chúng tôi thì, trong những cuộc hội đàm Berchtesgađen ngày 11 và 12 tháng năm, Hitler đã bắt buộc Darlan phải trao cho quân Đức các phi trường và hải cảng ở Syrie, phải để thủy lục không quân Đức sử dụng Tunis, Sfax và Gabès, phải chiểm lại lãnh thổ Trung Phi bằng lực lượng của Vichy. Thông tín viên của chúng ta còn nói thêm rằng Weygand từ chối không chịu để cho Đức vào Tunisie, không chịu tấn công các lãnh thổ Pháp Tự Do, nại cớ không bảo được cấp dưới nghe theo. Nhưng nếu Hitler đã quyết chí thực hiện kế hoạch thì lời phản kháng của Weygand chẳng có bao nhiêu sức nặng vì cùng kỳ lý Weygand cũng chỉ có thể, theo lời Thống Chế, xin từ chức mà thôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:09:29 pm Bởi thế cho nên chúng tôi phải sẵn sàng để trả đũa một cuộc tấn công. Phi cơ Đức đến Syrie gây xúc động mạnh trong một vài giới ở Côte d‘Ivoưe, Dahomey. Togo, Niger : Larminat lợi dụng tình trạng ấy, sẵn sàng để tiến quân vào những nơi ấy nếu có cơ hội thứ nhất. Chính tôi cũng chỉ thị cho ông biết đường lối phải theo. Mặt khác, tôi hỏi chính phủ Anh sẽ làm gì trong trường hợp Vichy muốn tấn công Tchad chẳng hạn, có hay không có quân Đức phụ lực ; chính phủ Anh, qua bức thư của ông Eden, cho tôi biết rằng sẽ giúp tôi chống cự bằng đủ mọi phương tiện có thể sử dụng được. Sau hết, chúng tối đã làm cho người Mỹ để ý trực tiếp đến sự an ninh của Phi Châu thuộc Pháp Tự Do. Ngày mùng 5 tháng sáu, tôi trao cho bộ trưởng Mỹ qua Le Caire một giác thư nói rõ rằng Phi Châu sẽ có ngày phải dùng làm căn cứ khởi binh của người Mỹ để giải phóng Âu Châu, tôi đề nghị Hoa Thạnh Đốn đưa ngay lực lượng không quân đến Cameroun, Tchad và Congo. Bốn ngày sau, lãnh sự Hoa kỳ ở Leopold ville đến thăm tướng Larminat và thay mặt chính phủ hỏi ý kiến ông về tình hình Trung Phi thuộc Pháp ; nếu cao ủy Larminat cho rằng có sự đe dọa thì cứ cho biết Cần sự viện trợ trực tiếp nào, nhất là về phương diện vũ khí. Mặc dầu có chuẩn bị để phòng thủ thành lũy Trung Phi, mặc dầu thấy Trục và đồng minh của họ đang nỗ lực lớn ở Phi Châu, nhưng tôi vẫn nóng lòng muốn cho Trung Đông thoát vòng đe dọa của quân Đức và Vichy. Trong khi người Anh và Pháp Tự Do sẵn sàng để hoạt động chung trên bình diện quân sự, thì phía sau đã hiện rõ cuộc cạnh tranh chính trị. Xung quanh các bộ tham mưu Anh, tòa đại sứ Anh ở Le Caire, tòa Cao Ủy Anh ở Jerusalem, qua các thông cáo của Bộ Ngoại Giao Anh gửi cho đại diện của chúng ta : Cassin, Pleven, Dejean, qua các nhật trình, nhất là tờ Palesiine Post, chúng ta đã có thể thấy sự hoạt động tới tấp của các nhân viên chuyên trách, họ đem áp dụng tại Syrie những chương trình hành động đã được sửa soạn từ lâu. Các biến cố đã đem lại cho người Anh thế thượng phong chánh trị, quân sự và kinh tế, tất nhiên họ không quên khai thác để thủ lợi. Nhất là khi đã vào Damas và Beyrouth chúng ta cũng không thể giữ được tình trạng như trước khi xảy ra những biến cố này. Những đảo lộn gây ra vì cuộc bại trận 1940, cuộc đầu hàng của Vichy, cuộc vận động của địch, tất cả những biến cố ấy khiến cho Pháp Tự Do phải có lập trường mới đối với Trung Đông để trả lời vào tình trạng sự vật biến chuyển mạnh mẽ. vả chăng, chúng tôi cũng thấy rõ rằng sau khi chấm dứt chiến tranh chúng ta không giữ quyền ủy trị ở đây nữa. Chúng ta có muốn giữ quyền ấy, dân chúng A Rập và nhu cầu quốc tế cũng không cho phép. Để thay thế cho chế độ ủy trị, trên pháp lý cũng như ngoài thực tế, chỉ có thể trao trả độc lập cho các xứ ấy, sự hiện diện lịch sử và quyền lợi của nước Pháp sẽ được bảo đảm. Vả chăng những thỏa hiệp ký ở Ba Lê năm 1936 với Syrie và Liban đều hướng về mục tiêu ấy. Những thỏa hiệp ấy tuy chưa được phê chuẩn nhưng lấy lương tri và hoàn cảnh mà xét thì chúng ta cũng thấy đó là những hành động khôn ngoan. Bởi thế cho nên chúng tôi đã quyết định rằng khi đặt chân lên đất Syrie và Liban, Pháp Tự Do sẽ tuyên bố là quyết tâm chấm dứt chế độ ủy trị và ký những thỏa ước với các quốc gia đã lấy lại được chủ quyền. Khi nào còn chiến tranh ở Trung Đông, tất nhiên chúng ta giữ quyền tối cao của một nước thừa ủy trị, đồng thời, chúng ta chu toàn nhiệm vụ của nước ấy. Sau hết, lãnh thổ Syrie và Liban nằm trong vùng hành quân ở Trung Đông, người Anh hơn trội hẳn chúng ta về phương tiện, bởi vậy, chúng ta chấp nhận bộ chỉ huy Anh điều động toàn thể chiến lược để chống kẻ thù chung. Nhưng chúng tôi nhận thấy người Anh còn muốn đòi hỏi nhiều hơn thể. Ván bài của họ nhằm đặt quyền lãnh đạo của người Anh lên toàn cõi Trung Dông, tại Luân Đôn họ có những cơ quan đầu não chắc chắn, tại chỗ, họ có những toán người thiếu hẳn lương tâm nhưng không thiếu phương tiện, bộ Ngoại Giao có khi phải buồn rầu với toán người ấy nhưng vẫn dung túng, Thủ Tướng Anh có những hứa hẹn mơ hồ và những xúc động có tính toán để che đậy ý muốn kín đáo của ông. Như vậy, chính sách của người Anh nhằm cố gắng khi thì âm thầm khi thì mạnh bạo để thay thế người Pháp ở Damasvà Beyrouth. Chính sách của họ là dùng cách bới bèo ra bọ, họ đưa ra luận điệu nhờ có họ tiếp tay mà Pháp chịu trao trả Syrie và Liban những quyền hành nào đó. họ khuyến khích các chính phủ địa phương đưa ra những đòi hỏi gắt gao, sau hết họ đứng sau lưng người bản xứ khi người bản xứ khiêu khích người Pháp. Đồng thời họ dùng người Pháp làm cái mộc đỡ đạn cho họ, họ vận động dư luận địa phương và quốc tế chống đối người Pháp để che lấp sự phẫn nộ của dân chúng phản đối họ xen lấn vào nội bộ của các xứ A Rập khác. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:10:18 pm Quyết định hành động chung để tiến vào Syrie vừa được ký kết, người Anh đã để lộ ẩn ý của họ. Catroux đang sửa soạn một bản tuyên ngôn công bố nền độc lập của Syrie thì Sir Miles Lampson yêu cầu tuyên ngôn nhân danh cả nước Anh lẫn Pháp Tự Do. Tất nhiên, tôi phản đối. Bấy giờ vị đại sứ mới cố năn nỉ để bản văn nói đến sự bảo đảm mà người Anh có thể mang lại cho sự hứa hẹn của chúng tôi. Tôi từ chối, lấy lệ rằng lời nói của nước Pháp không cần phải có sự bảo đảm của nước ngoài. Ngày mùng 6 tháng sáu, ông Churchill gửi điện tín cho tôi trước khi lên đường, tỏ lời chúc mừng thân hữu, ông còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự bảo đảm kỳ dị ấy. Tôi trả lời câu chúc tụng của ông, chứ không trả lời ý muốn của ông. Rất dễ nhận thấy người Anh muốn tạo ra cảm tưởng rằng, người Syrie và Liban mà đạt được độc lập là nhờ có nước Anh, và sau đấy họ sẽ đứng làm trọng tài để phân xử chúng ta và Trung Đông. Sau cùng, bản tuyên ngôn của tướng Catroux được làm theo ý muốn của chúng tôi. Nhưng sau đó, chính phủ Luân Đôn công bố một bản khác riêng rẽ và nhân danh nước Anh. Đó là những kỷ niệm ác độc mà cuộc hành quân ấy đã gợi lại cho tôi. Tôi lại thấy mình đi lại giữa tổng hành dinh của tôi ở Jerusalem và nơi các bộ đội của chúng ta tiến vào Damas, hay đến thăm thương binh tại trạm cứu thương Anh- Pháp của bà Spears và bác sĩ Fruchaud. Dần dần tôi biết tin nhiều chiến sĩ ưu tú của ta đã phải ở lại giữa đường: thí dụ : tướng Legentilhomme bị thương nặng, đại tá Génin và hải quân thiếu tá Dẻtroyat bị giết, các thiếu tá de Chivignẻ, de Bois- soudy, de Villoutreys đều bị trọng thương, phía bên kia cũng nhiều người ngã gục dưới hỏa lực của chúug ta, nhiều trận đánh đẫm máu xảy ra tại Litani ngày mùng 9 và mùng 10 tháng sáu, Kiswa ngày 12,Kuneitra và Ezrna ngày 15 và 16, người Pháp cả hai phe và người Anh xác chết lẫn lộn ; tôi phải bồn chồn mà mến trọng và thương xót những người chỉ vì tự ái mà chống đối chúng tôi. Trong khi địch chiếm đóng Ba Lê; tấn công Phi Châu và xâm nhập Trung Đông, anh em nhà đem can đảm ra đương đầu với một cuộc tranh chấp huynh đệ tương tàn do Hitler thủ xướng, điều ấy đối với tôi quả là một sự phi phạm ghê gớm. Nhưng tới càng nghẹn ngào vì đau khổ, tôi càng thêm quyết chỉ làm cho xong việc này. Vả chăng, binh sĩ Pháp Tự Do cũng nghĩ như tôi, không có một người nào chịu bỏ cuộc. Các đồng bào của chúng ta sống ở Ai Cập cũng nghĩ như vậy trong một buổi họp kỷ niệm ngày 18 tháng sáu tại Le Caire, mọi người đồng thanh hoan hô bài diễn văn của tôi. Ngày hôm ấy người ta tưởng rằng Dentz có thể chấm dứt một cuộc chiến tranh tồi tệ. vả chăng ông ta cũng không còn hy vọng gì. Quả vậy, Vichy gửi Benoist-Méchin sang Ankara xin viện binh cho Trung Đông đã gặp sự từ chối. Mặt khác Rachid Ali thua ở Irak và phải chạy sang nước Đức ngày 31 tháng năm, như vậy đồng mình sẽ có cửa vào Syrie bằng bãi sa mạc và sông Euphrate. Do đó, người Đức không muốn gấp rút đưa thêm lực lượng sang các xứ A Rập, Trái lại, những phi cơ của địch ở đây đều đưa trở về Hy Lạp. Số viện binh duy nhất mang sang Trung Đông từ ngày khởi chiến là hai tiểu phi dội Pháp đưa từ Bắc Phi sang qua ngả Athènes, phi đội này được quân Đức tiếp đón và tiếp tế. Bất thần có tin từ Hoa Thịnh Đốn cho biết rằng ông Conty, giám đốc chính trị tại phủ Cao ủy Trung Đông, ngày 18 tháng sáu, đã yêu cần tổng lãnh sự Mỹ ở Beyrouth liên lạc với người Anh để biết gấp điều kiện chấm dứt tình trạng thù nghịch với họ và Pháp Tự Do. Từ ngày 13 tháng sáu, tôi đã cẩn thận cho ông Churchill biết trước những căn bản nào theo tôi có thể kỷ kết cuộc đình chiến tương lai. Trong cuộc hội họp ngày 19 tháng sáu, tại nhà Sir Miles Lampson có sự tham dự của Wayell và Catroux, tôi cũng nhắc lại ý kiến ấy trong một bản văn định rõ điều kiện có thể chấp thuận được cho cả hai phe lâm chiến. Tôi viết : « Cuộc điều đình phải dựa trên những căn bản : đối xử với quân nhân và công chức trong điều kiện danh dự, Anh quốc bảo đảm chủ quyền và quyền lợi của nước Pháp ở Trung Đông ; Pháp Tự Do đại diện cho nước Pháp tại Trung Đông.» Tôi nói rõ rằng « tất cả quân nhân, công chức và gia đình họ đều được phép ở lại Trung Đông nếu họ muốn ở lại, nếu không họ sẽ được hồi hương sau ». Nhưng tôi nói thêm rằng « mọi biện pháp phải được đồng minh thi hành để sự lựa chọn được hoàn toàn tự do. » Sau hết, để trả lời những tin đồn đại do Vichy tung ra, tôi tuyên bố rằng « chưa bao giờ tôi đưa ra tòa những bạn đồng ngũ đã nghe lệnh trên mà đánh lại tôi, hiện thời tôi không hề có ý làm như vậy ». Chính những điềm cốt yếu đó đã được người Anh chấp thuận ngay tại chỗ, họ gửi điện văn ngay về Luân Đôn để đánh sang Hoa Thịnh Đốn và từ Hoa Thịnh Đốn gửi đến Beyrouth. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:10:37 pm Bởi thế cho nên ngày hôm sau tôi có một cảm tưởng khó chịu khi tôi nhận được bản văn chính thức của chính phủ Anh không đúng với những sự kiện tôi đề nghị. Họ cũng không nói đến Pháp Tự Do, họ làm như đề nghị với Dentz trao Syrie cho nước Anh ! Ngoài ra, họ cũng không nói đến những điều tôi đã dự liệu để khỏi bắt buộc quân nhân và công chức Trung Đông phải hồi hương một loạt ; tôi thì tôi muốn giữ lại càng nhiều càng hay. Tôi gửi cho ông Eden một kháng thư và báo trước cho ông biết rằng tôi chỉ kể đến những điều kiện đã thỏa thuận ngày 19 tháng 6, và không biết đến những điều kiện nào khác. Sự dè dặt ấy có tầm quan trọng của nó, sau này người ta sẽ thấy. Vì những lý do nào Vichy đợi đến hơn 3 tuần lễ mới quyết định dứt khoát điều đình khi chỉnh họ có ý muốn điều đình trước ? Tại sao lại tiếp tục những cuộc giao tranh không thể thay đổi được gì, ngoại trừ tổng số tổn thất? Tôi chỉ tìm ra lời giải thích khi người Đức mở cuộc tấn công vào nước Nga. Ngày 22 tháng sáu, sau ngày lãnh sự Hoa Kỳ Ở Beyrouth trao thư trả lời của Anh quốc cho vị cao ủy Pháp, Hitler tung quân sang Nga tiến về Mạc Tư Khoa, ông ta thấy có lợi hiển nhiên khi càng cầm chân được nhiều lực lượng địch ở Phi Châu và Syrie càng hay. Rommel lãnh trách nhiệm ấy ở một phía, phía kia là phần của những lực lượng Pháp Vichy ở Trung Đông. Tuy nhiên, ngày 21 tháng sáu, sau một trận giao tranh kịch liệt ở Kiswa, các bộ đội của chúng ta tiến vào Damas. Catroux vội vàng tới nơi. Ngày 23 tôi cũng đến nơi. Đêm hôm ấy, phi cơ Đức đến oanh tạc thành phố, giết hại hàng trăm người trong khu phố công giáo, bằng cách ấy họ chứng tỏ sự cộng tác với Vichy. Nhưng chúng tôi vừa vào đến nơi thì có nhiều tin đáng lo ngại về thái độ của người Anh gửi đến từ Hauran, Djebel, Druze, Palmyre, Djezưeh. Không nên để mất thời giờ, cần phải chứng tỏ ngay rằng sự tan rã của Vichy không phải là dấu hiệu nước Pháp thụt lùi, cần phải xác định quyền hành của chúng ta. Ngày 24 tháng sáu, tôi hồ nhiệm tướng Catroux làm tổng đại lý toàn quyền ở Trung Đông và ấn định mục tiêu đặc vụ của ông : « Tái lập một tình trạng nội bộ và kinh tế càng gần với tình trạng bình thường càng hay trong khi chiến tranh còn tiếp diễn ; điều đình với các đại diện có uy tín của dân chúng những thỏa ước tái lập nền độc lập và chủ quyền của các quốc gia Trung Đông và thiết lập sự đồng minh của các quốc gia ấy với nước Pháp ; giữ việc quốc phòng chống quân thù ; hợp tác với đồng minh trong cuộc hành quân ở Trung Đông,» Trong khi chờ đợi sự áp dụng những hiệp ước sau này, tướng Catroux đảm lãnh « toàn thể quyền hành và trách nhiệm của một Cao Ủy Pháp ở Trung Đông». Còn như việc điều đình thì phải thực hiện với những «chánh phủ được tấn phong bởi các quốc hội thực sự đại diện cho toàn thể dân tộc và hội họp ngay khi nào có thể được ; khởi điểm cho việc điều đình là các thỏa ước 1936 ». Như vậy, « quyền ủy trị trao cho nước Pháp ở Trung Đông sẽ được đưa đến chỗ hoàn tất và sự nghiệp của nước Pháp vẫn tiếp tục ». Thời kỳ tôi ở Damas tôi tiếp xúc vời đủ mặt nhân sĩ, các giới tôn giáo và hành chánh, một số người rất đông đảo. Qua thói quen thận trọng ở Đông Phương, người ta có thể nhận thấy dân chúng đã thừa nhận chúng ta đại diện cho quyền hành của nước Pháp ; người Đức đã thất bại trong kế hoạch tiến chiếm Syrie, điều đó có lợi cho chúng ta; sau hết, mọi người chờ đợi chúng ta tái lập guồng máy công quyền và thành lập chính phủ mới. Tướng Catroux với sự hiểu biết sâu xa người và vật xứ này sẽ thực hiện trật tự tiếp tế, y tế xã hội, nhưng ông sẽ đành nhiều thời giờ để bồ nhiệm các bộ trưởng. Vả chăng, thảm kịch đã đến ngày kết thúc. Ngày 26 tháng sáu, tướng Legentilhomme tuy bị thương nặng nhưng vẫn cầm quyền chỉ huy, ông chiếm Nebeek, và ngày 30, đầy lui một cuộc phân công tối hậu. Một đơn vị Ấn Độ từ Irak vượt sông Euphrate ngày mùng 3 tháng bảy, qua cầu Deư-ez-Zor, tiến về Alep và Homs. về phía ven biển ngày mùng 9, người Anh tiến tới Damour và về phía Đông, tiến tới Zezzin. Ngày mùng 10 tháng bảy, Dentz đưa hết tầu chiến và phi cơ sang Thổ Nhĩ Kỳ để chịu giam cầm ở bên ấy. Sau ông ta xin ngưng chiến và được đồng minh chấp thuận. Hai bên thỏa thuận đưa đặc sứ toàn quyền đến họp ở Saint-Jean-d‘Acre ba ngày sau. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:11:34 pm Nhiều dấn hiệu cho tôi biết rằng kết quả đạt được trong cuộc hội đàm này sẽ không phù hợp với quyền lợi của nước Pháp. Hẳn là ngày 28 tháng sáu tôi đã cảnh cảo ông Churchill rằng « thái độ của nước Anh đối với chúng tôi về vấn đề Trung Đông sẽ có tầm quan trọng cực lớn đối với cuộc đồng minh Anh-Pháp.» Hẳn là tôi đã yêu cầu được cho tướng Catroux có mặt tại cuộc thương nghị. Hẳn là các đại lý của chúng ta ở Luân Đôn đã nhận được chỉ thị minh bạch về cách thiết lập quyền hành của chúng ta ở Trung Đông để họ sử dụng làm tài liệu vận động ngoại giao. Nhưng tình hình không thuận lợi cho chúng ta, điều kiện đinh chiến của ông Eden với tướng Dentz, bầu không khí của các cơ quan quân sự và hành chảnh Anh, tướng Wayell vừa được chỉ định lảm phó vương bên Ấn Độ, ông vừa rời khỏi Le Caire, người kế vị ông là Auchinleck chưa tới nơi, như vậy cửa vẫn mở rộng cho những người «thân Ả Rập ». Sau cùng, hiệp ước đình chiến cũng được ký kết giữa Wilson và Verđilhac. Tôi không có cách nào giới hạn sự thiệt hại khác cách bay lên mây cao và từ đó đưa ra một thỏa ước không ràng buộc gì cả và lúc nào thuận tiện thì sẽ xẻ bỏ. Đám mây ấy là Brazzayille. Tôi ở yên Brazzayille trong khi tại Saint-Jean-d‘Acre người ta đang thiết lập bản thỏa ước mà nội dung cũng như hình thức vượt hẳn cả cái gì tôi cho là tồi tệ nhất. Quả vậy, bản văn của thỏa ước có nghĩa là chuyên giao một cách đơn thuần vá giản dị hai nước Syrie và Liban cho người Anh. Không có một chữ nói đến quyền của nước Pháp hiện tại cũng như tương lai. Không nói gì đến các quốc gia Trung Đông. Vichy nhượng hộ hết cho nước ngoài để đổi lấy một điều duy nhất là hồi hương toàn thể quân đội, tối đa công chức và công dân Pháp. Như vậy, tướng de Gaulle sẽ khó mà tăng cường lực lượng và giữ được địa vị của nước Pháp ở Trung Đông. Khi ký bản án đầu hàng ấy, Vichy tỏ ra trung thành vởỉ xu hướng suy vong của mình. Nhưng người Anh thì như mở cờ trong bụng. Họ làm ra vẻ không biết đến đồng minh Pháp Tự Do của họ ngay trên văn tự, tuy rằng Pháp Tự Do đã có sáng kiến và cộng tác với họ để đạt mục tiêu chiến lược, họ lợi dụng cái bề ngoài bỏ liều của Vichy để áp đặt bộ máy chỉ huy quân sự của họ vào quyền hành vừa được Dentz trao cho ở Beyrouth và Damas. Ngoài ra họ cũng đồng ý để các bộ đội rời khỏi Trung Đông càng sớm càng hay. Theo thỏa ước thì các bộ đội sẽ được tập trung lại để đưa xuống tầu của Darlan gửi sang. Hơn thế, người Pháp Tự Do bị cấm ngặt không được tiến xúc với bộ đội và tìm cách dụ hàng, Vật liệu quân nhu để lại sẽ giao cho người Anh. Sau hết, những bộ đội đặc biệt, nghĩa là người Syrie và Liban vẫn trung thành với nước Pháp, thậm chí Vichy không dám dùng họ để đánh chúng ta trong những trận mới đây, những lực lượng ấy phải trao nguyên vẹn cho người Anh. Trước khi biết rõ chi tiết, tôi căn cứ vào những lời chỉ dẫn đã gọt gạnh bớt đi như thế do đài phát thanh Luân Đôn loan đi, tôi tuyên bố rằng tôi không thừa nhận thỏa ước Saint-Jean d‘ Acre. Sau đó, tôi đi Le Caire, trên mỗi trạm dừng chân trên đường về tôi nói cho các thống đốc và các nhà quân sự Anh biết rằng việc này rất nghiêm trọng. Tôi đã nói như vậy với tướng Sir Arthur Huddleston thống đốc Soudan ở Khartoum, với thống đốc Kampala, với một nhân vật ở Ouadi-Halfa, bởi vậy cho nên tôi đến đâu là có điện tín báo động trước. Ngày 21 tháng bảy, tôi tiếp xúc với ông Olivier Lyttelton, bộ trưởng chính phủ Anh vừa được phái sang Le Caire để cứu xét toàn bộ các vấn đề của nước Anh ở Trung Đông. Lyttelton là người dễ thương, điềm đạm, linh lợi và cỏi mở, ông không muốn khỏi sự đặc vụ của ông bằng một biến cố lớn. Ông tiếp tôi với thái độ lúng túng. Tôi có gắng tránh những phút gắt gỏng, tôi lạnh lùng tuyên bố với ông : — Nhờ cuộc hành binh chung mới rồi, chúng ta đã chiếm được lợi thế chiến lược đáng kề. Như vậy là chúng ta thanh toán được ở Trung Đỏng một chướng ngại mà tình trạng lệ thuộc của Vichy vào phe Trục đã tạo ra cho chúng ta ở mặt trận Trung Đông. Nhưng tôi cần phải nói rằng thỏa ước của ông mới ký với Dentz không thể nào chấp nhận được. Tại Svrie và Liban, quyền hành không thể chuyển giao từ tay người Pháp sang tay người Anh. Chỉ có Pháp Tự Do là người duy nhất có tư cách đảm lãnh quyền hành ấy cho nước Pháp. Mặt khác, tôi cần tập kết càng nhiều càng hay những bộ đội vừa chống cự chúng tôi. Việc hồi hương cấp tốc toàn khối binh sĩ, việc tập trung họ lại và cô lập họ ở một nơi như vậy làm cho tôi không có cách gì thu phục được họ. Tóm lại, người Pháp Tự Do không thể chấp nhận tình trạng bị cô lập đối với một nguồn nhân lực khả dĩ tăng cường lực lượng chiến đấu, nhất là Pháp Tự Do không chấp nhận rằng nỗ lực chung Anh Pháp đưa đến kết quả là để các ông áp dặt quyền thống trị lên Damas và Beyrouth. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:39:29 pm Ông Lyttelton trả lời : — Chúng tôi không có ý ấy. Nước Anh không theo đuổi mục đích nào khác mục đích thắng trận này ở Syrie và Liban. Muốn theo đuổi mục đích ấy thì nội bộ phải được ổn định. Bởi thế cho nên các quốc gia ở Trung Đông cần được độc lập và nước Anh đã bảo đảm cho họ nền độc lập ấy. Mặt khác, khi mà còn chiến tranh thì bộ chỉ huy quân sự có quyền tối cao về trật tự công cộng. Như vậy thì, cùng kỳ lý, quyền quyết định tại chỗ là quyền của quân đội. Còn như điều kiện kỹ thuật do các tướng Wilson và Verdilhac quyết định để hồi hương các đơn vị Pháp thì cũng chiều theo nhu cau cho mọi việc được thực hiện trong vòng trật tự. Sau hết, tôi không hiếu tại sao các ông lại không tín nhiệm chúng tôi. Dẫu sao thì chúng ta cũng chung một đại nghĩa. — Phải, chúng ta cùng chung một đại nghĩa. Nhưng lập trường của chúng ta có thể không còn gì là chung nhau nữa. Tại Trung Đỏng, nước Pháp là nước thừa ủy trị chứ không phải nước Anh. Ông đã nói đến nền độc lập của các quốc gia. Nhưng chỉ có chúng tôi có đủ tư cách để trả lại nền độc lập ấy cho họ, vì những lý do và trong những điều kiện chỉ có chúng tôi xét định và chịu trách nhiệm. Hẳn là các ông có thể đứng ngoài mà tán đồng chúng tôi, nhưng các ông không có quyền xen lấn vào bên trong. Còn như trật tự công cộng ở Syrie và Liban thì đó là việc của chúng tôi chứ không phải của các ông. —Tuy nhiên, theo thỏa hiệp ngày mùng 7 tháng tám 1940 đã ký kết giữa chúng ta thì chính ông đã thừa nhận quyền của bộ chỉ huy Anh. — Bộ chỉ huy ấy thực sự có quyền chỉ đạo Lực Lượng Pháp Tự Do, nhưng chỉ trên phương diện chiến thuật và để chống kẻ thù chung. Chưa bao giờ tôi nghe nói rằng quyền ấy được nới rộng ra bình diện chủ quyền, chính trị, hành chánh, trong những lãnh thổ mà nước Pháp có trách nhiệm bảo vệ. Khi nào chúng tôi đồ bộ lên lãnh thổ Pháp, liệu ông có lấy cớ quyền chỉ huy quân đội để đòi thống trị nước Pháp chăng ? Mặt khác, tôi cần nhắc lại rằng tôi muốn tiếp xúc với những yếu tố trước kia đã vâng lệnh Vichy. Điều này cũng có lợi cho các ông. Thật là phi lý, nếu để hồi hương những bộ đội đang hăng hái để ra trận, sau này thế nào chúng ta cũng lại thấy họ ở Phi Châu hay ở nơi nào đó. Sau hết, vật liệu của Pháp và việc chỉ huy những bộ đội đặc biệt người Syrie và Liban phải trao cho Pháp Tự Do. — Ông đã cho tôi biết quan điếm của ông. Các vấn đề thuộc phạm vi liên lạc giữa chúng ta ở Sỵrie và Liban, chúng ta có thể đem ra bàn được. Còn như thỏa ước đình chiến thì đã ký rồi. Chúng ta phải thi hành. — Thỏa ước ấy không ràng buộc Pháp Tự Do. Tôi không phê chuẩn. — Thế thì ông tính làm gì ? — Để chấm dứt tình trạng hồ đồ mà bộ chỉ huy quân sự Anh muốn tạo ra ở Syrie và Liban, tôi hân hạnh báo cho ông biết rằng Lực Lượng Pháp Tự Do không tùy thuộc bộ chỉ huy ấy nữa kể từ ngày 24 tháng bảy, nghĩa là trong ba ngày nữa. Ngoài ra, tôi đã chí thị cho tướng Catroux nắm lấy ngay quyền hành trên khắp lãnh thổ Svrie và Liban, dẹp tan mọi sự chống cự bất cứ dưới hình thức nào. Tôi ra lệnh cho Lực Lượng Pháp Tự Do tiếp xúc với các yếu tố Pháp khác và tiếp thâu vật liệu quân nhu của họ. Sau hết, việc tổ chức quân đội Syrie và Liban mà chúng tôi đã khởi sự, sẽ được tiếp tục mạnh mẽ. Tôi trao cho ông Lyttelton một điệp văn được sửa soạn từ trước và minh định những điều nói trên đây. Lúc ra ve tôi còn bảo ông : — Hẳn ông biết chính tôi và các đồng chí của tôi đã làm gì để siết chặt sự đồng minh của chúng ta. Như vậy ông có thể ước lượng được sự tiếc nuối của chúng tôi nếu vạn nhất sự đồng minh ấy bị tan rã. Nhưng chúng tôi và những người trong nước chúng tôi đặt hy vọng vào chúng tôi, chúng tôi không thể chấp nhận rằng sự đồng minh ấy có hại cho nước Pháp. Nếu chẳng may trường hợp ấy xảy ra thì chẳng thà chúng tôi hủy bỏ những cam kết đối với nước Anh. Vả chăng, dầu sao thi chúng tôi cũng theo đuổi cuộc chiến tranh chống kẻ thù với những phương tiện của chúng tôi. Tôi có ý muốn đi Beyrouth trong ba ngày nữa. Từ nay đến hỏm ấy, tôi sẵn sàng điều đình nếu các ông nhận thấy nên có cuộc điều đình.» Khi từ biệt tôi, Lyttelton giữ bề ngoài cứng cựa nhưng thực ra ông xúc động và lo lắng. Chính tôi cung xúc động. Buổi quá trưa hôm ấy tôi xác nhận bằng công thư rằng Lực Lượng Pháp Tự Do chấm dứt việc tùy thuộc quyền chỉ huy của người Anh vào giữa trưa ngày 24, nhưng tôi sẵn sàng điều đình với họ điều kiện mới để hợp tác binh bị. Sau hết tôi đánh điện tín cho Churchill : « Chủng tôi coi nội dung thỏa ước Saint-Jean d‘ Acre như trải với quyền lợi quân sự và chính trị của Pháp Tự Do, nghĩa là của nước Pháp, còn về hình thức thì thật là tai hại cho danh dự của chúng tôi... Tôi mong rằng tự ông cũng cảm thấy thái độ của người Anh đối với một vấn đề sinh tử cho chúng ta, sẽ tạo ra rất nhiều sự khó khăn và sẽ có hậu quả tai hại cho công cuộc tôi đang thực hiện.» Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 10:55:42 pm Bây giờ đến lượt người Anh lên tiếng. Họ ưng chịu một vài nhượng bộ. Tối hôm ấy, ông Lyttelton đến gặp tôi và nói thứ ngôn ngữ sau đây : — Tôi công nhận rằng bề ngoài có những sự việc khiến cho ông nghĩ rằng chúng tôi muốn chiếm chỗ của Pháp ở Trung Đông. Tôi đoan với ông rằng ông đã nghĩ làm. Để đảnh tan sự hiểu lầm ấy tôi sẵn sàng viết cho ông một văn thư bảo đảm rằng chúng tôi hoàn toàn không chú trọng gì đến lãnh vực chính trị và hành chánh. — Việc khẳng định trên nguyên tắc như vậy hay lắm. Nhưng còn thỏa ước Saint-Jean d‘Acre vi phạm nguyên tắc một cách ngao ngán, ngoài ra thỏa ước ấy còn tạo ra những xung đột giữa người của ông đảm lãnh việc thi hành và người của chúng tôi không chấp nhận. Cũng còn vấn đề các ông muốn nới rộng quyền kiểm soát quân đội Anh đến các lãnh vực khác ở Trung Đông, điều đó không thể dung hòa được với địa vị của chúng tôi ở đây. « — Cỏ lẽ ông có gì đề nghị với chúng tới về hai vấn đề ấy? « — Vấn để thứ nhất, chúng tôi không có lối thoát nào khác việc thỏa hiệp ngay tức khắc giữa chúng ta về việc « thi hành » hiệp ước đình chiến, khuyết điểm trong bản văn sẽ được sửa chữa khi đem ra áp dụng. Còn như vấn đề thứ hai, thì điều cân gấp là ông cần giới hạn việc chỉ huy trên lãnh thổ Syrie và Liban vào phạm vi hành quân chống kẻ thù chung. « - Ông cho phép tôi suy nghĩ ». Bầu không khí sáng sủa hơn. Sau nhiều cuộc bàn luận, trước tiên, chúng tôi đi đến một thỏa hiệp « suy diễn » hiệp ước Saint' Jean-đ‘Acre vào ngày 24 tháng bảy, tướng Larminat và đại tá Valin đã điều đình thỏa hiệp ấy. Người Anh tuyên bố sẵn sàng để chúng ta tiếp xúc với bộ đội Trung Đỏng đế tìm người trở về tập kết, họ thừa nhận rằng vật liệu sẽ giao hoàn Lực Lượng Pháp Tự Do và họ không thu dùng binh sĩ người Syrie và Liban. Ngoài ra, chúng tôi đồng ý với nhau rằng «nếu Vichy vi phạm nhiều hiệp ước đình chiến, lực lượng Anh và Lực Lượng Pháp Tự Do sẽ dùng mọi biện pháp cần thiết để tập kết các bộ đội của Vichy về với Pháp Tự Do.» Vì đã xảy ra nhiều « cuộc vi phạm nặng nề », người ta có thể tin rằng rốt cuộc sẽ xét lại toàn thể vấn đề bộ đội Pháp ở Trung Đông — Chính ông Lyttelton cũng cho tôi biết như vậy. Tôi không nghi ngờ thiện chí của vị bộ trưởng Anh. Nhưng tướng Wilson và nhóm người thân A Rập của ông sẽ làm gì mặc dầu đã có sự ký kết ? Để bắt buộc họ phải tôn trọng, tôi gửi điện tín cho ông Churchill hối thúc ông : « đừng để cho Vichy sử dụng trở lại được cả một quân đoàn các đơn vị đã thành lập xong xuôi.» Tôi còn nói thêm rằng : « Tôi cần phải nhắc lại, ý thức tối sơ về sự an ninh cũng cho ta thấy nên đình chỉ việc hồi hương đạo quân của Dents và để cho Pháp Tự Do hoạt động đưa những phần tử lạc hướng vì tuyên truyền địch, trở về chính nghĩa. Ngày hôm sau, ngày 25, ông Oliver Lyttelton bộ trưởng chính phủ trong chính phủ Anh, nhân danh nước ông, viết cho tôi như sau : « Chúng tôi thừa nhận quyền lợi lịch sử của nước Pháp ở Trung Dông. Anh Quốc không có quyền lợi gì ở Syrie và Liban ngoài quyền lợi thẳng cuộc chiến tranh này. Chúng tôi không có ý dẫm chân lên địa vị của người Pháp bằng bất cứ cách nào. Pháp Tự Do và Anh Quốc, hai bên đều hứa hẹn trả lại độc lập cho Syrie và Liban. Chúng tôi sẵn lòng chấp nhận rằng, khi đã qua giai đoạn này và không trở lại lần nữa, nước Pháp phải có một địa vị ưu tiên và hơn trội các quốc gia Âu Châu khác ở Trung Đông... ông đã nhận được những lời bảo đảm mới đây của Thủ Tướng Anh về việc này. Tôi rất vui mừng xác định với ông những sự kiện ấy.» Cũng trong bức thư ẩy, ông Lyttelton tuyến bố rằng ông chấp nhận bản văn một thỏa hiệp của tôi trao cho ông, liên hệ đến sự hợp tác giữa giới cầm quyền quận sự Anh và Pháp ở Trung Đông. Theo thỏa hiệp ấy thì người Anh không can thiệp vào các lãnh vực chánh trị và hành chánh ở Trung Đòng, để bù lại, chúng tôi chấp nhận để họ đảm lãnh việc chi huy chiến lược trong những điều kiện ấn định rõ ràng. Ngay ngày hôm ấy, tôi đi Damas và Beyrouth. Lãnh tụ Pháp Tự Do long trọng bước vào thủ đô Syrie; Người ta có thể thấy sự vui mừng tràn ngập một đô thị lớn mà trước đây lúc nào cũng tỏ ra lãnh đạm với nhà cầm quyền Pháp. Một vài ngày sau, trong khuôn viên trường Đại Học, tôi ngỏ lời với các nhân sĩ trong nước quy tụ xung quanh chính phủ Syrie tôi xác định mục tiêu của nước Pháp ở Trung Đòng, tất nhiên tôi được mọi người nghe theo. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 10:57:36 pm Tôi đến Beyrouth ngày 27 tháng bảy. Các bộ đội Pháp và Liban lập hàng rào danh dự trong khi quần chúng đứng dọc đường lộ, vỗ tay khen ngợi. Từ công trường Canons vang dậy tiếng reo hò, tôi tới dinh Thủ Tướng Liban, ông Alfred Mac- cache, long trọng trao đổi với tôi những lời lẽ hết sức lạc quan. Sau đây tôi đến Đại Điện, nơi hội họp của các nhân vật Pháp. Phần lớn những người này đã hợp tác, nhiều khi tin tưởng hệ thống Vichy. Nhưng khi đã tiếp xúc với họ, lại một lần nữa tôi nhận thấy rằng những việc đã rồi có thể đè nặng xuống thái độ và sức tin tưởng của con người đến mức nào. Công chức, nhân sĩ, tu sĩ, mọi người đều cam kết trung thành với tôi và hứa tận tâm phục vụ xứ sở và chánh quyền mới. Tôi cần phải nói rằng họ đã giữ đúng lời hứa, ngoại trừ một vài ngoại lệ. Gần hết những người Pháp ở Liban và Syrie không ngừng đoàn kết xung quanh Pháp Tự Do, mặc dầu họ phải qua những hoàn cảnh cực kỷ khó khăn, vì Pháp Tự Do chiến đấu cho cuộc giải phóng quốc gia, đồng thời đảm lãnh tại đây quyền hành và bổn phận của nước Pháp. Quyền hành và bổn phận ấy cần phải thực hiện cấp bách. Tôi vừa đến Beyrouth thì ngạc nhiên mà nhận thấy rằng tướng Wilson và những nhân viên chính trị mặc binh phục của ông không đếm xỉa gì đến thỏa hiệp của tôi ký với Lyttelton. Việc thi hành hiệp ước cũng như thái độ của người Anh ở Syrie và Liban, tất cả đều xảy ra như không ai phải bận tâm gì đến chúng tôi. Dentz đã thỏa hiệp với người Anh, tập trung quân đội trong vùng Tripoli, ông ta vẫn tiếp tục công việc chỉ huy. Các đơn vị, các sĩ quan chỉ huy vũ khí, cờ xí, tất cả đều đống doanh trại bên cạnh nhau : Vichy ban tặng cho họ rất nhiều huy chương và tuyên dương công trạng ; họ chỉ đọc những bản tin gửi đến theo hệ thống quân giai và tất cả đều yên tri đợi ngày hồi hương gần kề. Vả chăng, tàu bè sang đón đã báo tin sẵn sàng ở Marseille ; Dar- lan không để mất ngày nào lo cho họ về và quân Đức không làm gì để ngăn cản họ trở về. Trong khi chờ đợi, ủy ban đình chiến và đồn bóp cảnh sát Anh bắt buộc phải tôn trọng triệt để những mệnh lệnh của Dentz; binh sĩ bị nghiêm cấm không được liên lạc với Pháp Tự Do, quân Pháp Tự Do cũng không được phép đến gần họ, Trong điều kiện ấy thật ít khi có người hồi chánh, Đáng lẽ dùng hành động thẳng thắn để đặt mọi người trước lương tâm của mình, quyết định chọn lựa trong tự do và sáng suốt, người ta chỉ nghĩ đến một việc hồi hương tập thể một đạo quân bị giam hãm trong bầu không khí, thù hận và ô nhục làm cho con người chỉ muốn từ bỏ ngay nơi đã hy sinh vô bổ, đã cố gắng chua chát. Sự cam kết của người Anh đối với chúng tôi về việc suy diễn hiệp ước đình chiến chỉ còn là văn kiện chết, những vấn đề khác cũng không hơn, họ cam kết không nhúng tay vào việc chính trị ở Syrie và giới hạn quyền chỉ huy quân sự, nhưng họ không tôn trọng. Ở Damas và Beyrouth sự xen lấn còn giữ bề ngoài kín đáo, nhưng trái lại, những nơi dân chúng hoang mang đều là mồi ngon cho tham vọng của nước Anh và những cán bộ trung kiên của họ. Tại Djezưeh, thiếu tả Reyniers, đại lý của tướng Catroux, bị các lực lượng Anh tình nghi, ông bị cản trở không lập lại được những đại đội người Assyrie-Chaldẻe và những trung đoàn người Syrie vừa bị giải tán. Tại Palmyr, trong bãi sa mạc, ông Glubb, hiệu là « Glubb-Pacha ». chỉ huy lực lượng Transjordanie, cố gắng tuyển mộ các bộ lạc Bẻdouin cho vị thủ hiến Abdullah. Trong vùng Hauran, nhân viên Anh ép buộc các tù trưởng phải thừa nhận quyền hành của thủ hiến Abdullah và trả thuế má cho thủ hiến. Từ Alep cũng như từ Alamites gửi về những bản phúc trình dáng lo ngại. Nhưng người Anh để lộ ý muốn công khai của họ nhất là ở Djebel Druze. Tuy nhiên, ở đây không có trận giao tranh nào, Catroux và Wilson đều đồng ý rằng các bộ đội đồng minh chưa tiến vào nếu chưa có quyết định chung. Chúng tôi rất đỗi kinh ngạc khi biết rằng một lữ đoàn Anh đã tiến vào đây, họ tự quyền xáp nhập những trung đoàn Druze ; một vài tù trưởng được ông Bass, người mà dân bản xử gọi bà tướng Bass, đền bù thiệt hại tuyên bố không chấp nhận chủ quyền người Pháp; tại Soueida « tòa Nhà Pháp », dinh đại lý của chúng ta, bị người Anh dùng sức mạnh lấy làm trụ sở bộ chỉ huy của họ, họ đã hạ cờ tam sắc và thượng cờ của họ trước mặt bộ đội và dân chúng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 10:58:08 pm Cần phải hành động ngay. Tướng Catroux đồng ý với tôi, ngày 29 tháng bảy ra lệnh cho đại tá Monclar đưa một đội quân hùng hậu đến ngay Soueida, chiếm lại « tòa Nhà Pháp » và tập hợp các trung đoàn Druze. Wilson biết tin ấy gửi cho tôi bức thư đe dọa bắt buộc phải ngưng chỉ ngay cuộc tiến quân. Tôi trả lời rằng :« Đội quân đã đến nơi rồi... Chính ông ta có thể điều đình với Catroux vấn đề đóng quân Anh và Pháp ở Djebel- Druze.,. tôi rất tiếc rằng ông ta đã có những luận điệu đe dọa... nhưng vì tôi sẵn hợp tác quân sự một cách thẳng thắn, cho nên tôi mong sẽ không xảy ra điều gì xúc phạm đến chủ quyền của nước Pháp ở Syrie và Liban và danh dự của quân đội Pháp. Trong khi ấy thì Monclar đã đến Soueida ; chỉ huy trưởng lữ đoàn Anh tuyên hố : « Nếu phải đánh nhau thì chúng tôi sẽ đánh ». Monclar chấp nhận cuộc thách thức. Nhưng sự việc không đi xa hơn. Ngày 31 tháng bảy, Monclar chiếm lại « Tòa nhà Pháp », long trọng thượng cờ tam sắc, cho các bộ đội vào đóng đồn trại trong tỉnh và tái lập trung đoàn Druzes đặt dưới quyền chỉ huy của người Pháp. Sau đó ít lâu, các đơn vị Anh rời khỏi vùng. Nhưng dẹp êm được một chuyện thỉ lại có nhiều chuyện khác bùng nổ ở khắp nơi. Vả chăng Wilson báo tin rằng ông ta lập cái gọi là « thiết quân luật » và nắm lấy toàn thể quyền hành. Chủng tôi cảnh cảo ông ta rằng trong trường hợp ấy chúng sẽ dùng quyền hành của chúng tôi đế chống lại quyền hành của ông ta và mọi việc sẽ đi đến chỗ đồ vỡ. Lyttelton tuy biết rõ tình hình nhưng không muốn can thiệp. Ông ta nghe ngóng biết rằng Catroux sắp đến Beyrouth và Damas để thương thuyết những hiệp ước tương lai, ông ta bèn viết thư trực tiếp cho Catroux yêu cầu đế Spears có mặt trong những cuộc điều đình ấy, làm như xưa nay ai cũng làm vậy. Họ vẫn cố ý xen vào công việc của chúng ta mỗi ngày nhiều hơn, bây giờ đã tới mức cùng mà chúng ta có thể chịu đựng được rồi. Ngày mùng 1 tháng tám, tôi đánh điện tín cho Cassin, bao ông đến thăm Eden và nhắn giùm tôi rằng « sự xen lấn của người Anh gây ra những rắc rối cực kỷ nghiêm trọng ; cái lợi đáng ngờ vực mà chỉnh sách của họ ở Trung Đông cho phép họ thụ hưởng sẽ không có giá trị gì so với hậu quả trọng đại của sự chia rễ giữa Pháp Tự Do vả Anh quốc.» Hẳn là Luân Đôn không muốn có sự bất hòa. Ngày mùng 7 tháng tám, ông Lyttelton đến thăm tôi tại Beyrouth và ở choi với tôi một ngày. Đây là cơ hội mở một cuộc hòa đàm dứt khách ở Trung Đông để người Anh làm được cái gì nếu họ muốn làm. Ổng thẳng thắn nhìn nhận rằng quân nhân Anh không thi hành những hiệp ước ngày 24 và 25 tháng bảy. Ông khẳng định : « Đây chỉ lả sự chậm trễ, hậu quả của sự khuyết điểm thông tin và có lẽ của sự thiếu hiểu biết, tôi rất lấy làm tiếc và tôi nhất định chấm dứt tình trạng này.» Ông ra vẻ kinh ngạc và bất bình về những vụ rắc rối do nhân viên người Anh gây ra và được tướng Catroux tường trình. Ông tuyên bố rằng Vichy vi phạm hiệp ước đình chiến : thí dụ 52 sĩ quan Anh bị bắt trong những trận giao tranh mới đây, đáng lẽ phải trao trả ngay nhưng Vichy đã không trao trả và cũng không ai biết họ bị giam giữ ở đâu ; bởi thế cho nên Dentz sẽ được thuyên chuyển sang Palestine và từ sau chúng ta sẽ có đủ dễ dàng để thực hiện việc hồi chánh. Tôi không giấu giếm rằng chúng ta rất buồn phiền vì cách hợp tác của người Anh. Tôi nói cho ông biết ; « Nếu tiếp tục làm việc với nhau trong điều kiện này thì chẳng thà ai đi con đường của người ấy. » Đến lượt ông than phiền vì chúng ta gây trở ngại cho chính phủ Anh, tôi trả lời ông rằng, theo di ngôn của Foch trước đây thì sự chỉ huy đồng minh mà thiếu vô tư thì không thể nào hữu hiệu được, chính ông, ông có thể rất thành thật mà nói tôi hay viết cho tôi điều gì đó nhưng đáng tiếc rằng đó lại không phải là trường hợp của những người Anh khác. Còn như việc Wilson nại cớ nhu cầu phòng vệ Trung Đông để chiếm đoạt quyền hành ở Djezưeh, Palmyre. Djebel Druze, thì như vậy chỉ là hạ sách. Bây giờ địch đã xa Diebel Druze, Palmyre, Djezưeh. Nếu cần phải đề phòng sự đe dọa khác của địch xuống Syrie và Liban thì nên thiết lập một kế hoạch phòng thủ chung chứ không nên nghĩ đến một chỉnh sách xen lấn vào lãnh vực của chúng tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 10:58:24 pm Ông Lyttelton đang kiếm cách cáo lui giữa một điệu hòa âm nào đó, ông bèn nắm ngay lấy « kế hoạch phòng thủ » để gọi chuyện, ông đề nghị đưa tướng Wilson vào, nhưng tới không muốn ông này có mặt trong buổi họp. Tôi từ chối, nhưng chấp nhận để Wilson gặp đỡ Catroux ở ngoài thành Beyrouth tham gia việc khởi thảo kế hoạch. Họ gặp nhau ngày hôm sau. Không đạt được cái gì ngoài thực tế, đây là chứng cớ rằng đối với vấn đề Trung Đông người Anh họ bận tâm đến cái gì khác chứ không phải cuộc tấn công của quân Đức. Tuy nhiên, bộ trưởng chánh phủ Anh muốn tỏ thiện chí, lúc ra về ông trao cho tôi một bức thư nhắc lại sự cam kết rằng người Anh không có mưu toan chính trị gì cả. Ngoài ra, ông Lyttelton còn xác định bằng lời nói rằng tôi sẽ được thỏa mãn về mặt thực tiễn sau cuộc hội đàm này. Đã trải qua nhiều sóng gió mà Pháp Tự Do không hề nao núng, tôi cho rằng đã đến lúc qua được sự khó khăn. Nhưng tôi đã từng trải, tôi biết chắc rằng chẳng sớm thì muộn lại xảy đến những khủng hoảng khác. Nhưng được ngày nào hay ngày ấy. Để kết luận một cuộc thử thách đã tạm thời qua khỏi, tôi gửi cho phái đoàn của Luân Đôn những bức thư tóm lược mọi biến cố và lên giọng đạo đức mà tuyên bố « Sự cao cả và sức mạnh của chúng tôi là ở điểm chúng tôi cương quyết bênh vực quyền lợi của nước Pháp. Chủng tôi cần sự nhất quyết cho đến tận sông Rhin, kể cả con sông ấy. » Nhưng dẫu sao thì từ đấy trở đi sự việc cũng xuất hiện với bộ mặt khác. Larminat đã có thể cùng các phụ tá của ông đến những đơn vị chưa lên tàu hồi hương và đưa lời kêu gọi binh sĩ vào phút chót. Catroux có thì giờ đến thăm một vài công chức mà ông muốn dùng. Chính tôi, tôi cũng tiếp kiến với nhiều người. Sau cùng, chúng tôi tập kết được 127 sĩ quan, 6.000 hạ sĩ và binh nhì, nghĩa là 1 phần 5 quân số ở Trung Đông. Ngoài ra chúng tôi cũng tải lập được một lực lượng người Syrie và tổng cộng 290 sĩ quan và 14.000 binh lính. Nhưng chúng tôi đã không thu dùng được 25.000 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính, bộ binh và không quân Pháp ; nếu chúng tôi có đủ thời giờ và phương tiện đế giảng giải cho họ biết thì phần lớn đã theo chúng tôi. Bởi vì những người Pháp được địch cho phép hồi hương, nhưng phải giải ngũ không được trở lại binh nghiệp, những người ấy đều ngờ vực và lo buồn. Còn như tôi, tôi thấy tim thắt lại khi trông thấy tầu vận tải của Vichy gửi sang đậu dài ngoài bến; sau đấy tầu tiến ra khơi, mang đi một phần hy vọng của tổ quốc. Ít ra những phần còn lại cũng sử dụng một cách hữu ích. Tướng Catroux cố gắng thực hiện công việc đó. Ông là người có ý thức về sự cao cả của nước Pháp, ông thích có uy quyền, ông khéo chăn dắt loài người, nhất là người Phương Đông mà ông hiếu rõ tâm tình và khát vọng ; ông tin chắc ở giá trị của mình cũng như ông tận tâm với một công cuộc lớn lao và với người điều khiến công cuộc ấy ; ông sẽ là người danh dự và tài ba lỗi lạc để chơi ván bài của nước Pháp ở Trung Đông, có khi tôi nghĩ rằng tính ông thích làm cho người ta cảm phục ông, Xu hướng dung hòa của ông không phải lúc nào cũng trả lời vào yêu cầu của loại đấu kiếm mà ông đang đảm nhiệm đây, đặc biệt là ông chậm hiếu ý nghĩa sâu xa những độc kế của người Anh, nhưng không bao giờ tôi quên công lao và những đức tính quý báu của ông. Trong tình trạng khó khăn đặc biệt lúc ban đầu tạo ra vì điều kiện sinh hoạt tồi tệ, phương tiện thiếu thốn, trở ngại nổi lên khắp nơi, tướng Catroux đã phục vụ nước Pháp trong tình trạng cực kỳ khó khăn ấy. Để bắt đầu, phải tổ chức lại từ trên xuống dưới. Sự đại diện của nước Pháp ; ở đây gần như không còn gì sau khi hơi hương phần lớn những công chực có khả năng, những sĩ quan tình báo. Catroux dùng làm thư ký riêng ông Paul Lepissiẻ trước là bộ trưởng Pháp ở Vọng Các! Các tướng Collet và Pierre Bart được phái đến bên cạnh các chính phủ Syrie và Liban. Đồng thời, ông gởi các ông Dayid và Fauquenot đến Alep, để Montjou đến Tripoli, Dumarẹay đến Saida, thống đốc Schoeffer, sau tướng Monclar đến Alaouites, các đại tá : Brosset đến Djezưeh, des Essars đến Homs, Oliva - Roget đến Djebel Druze ; những người ấy sẽ đến các vùng trọng nhiệm để thể hiện sự có mặt của nước Pháp và gây ảnh hưởng của nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 10:58:48 pm Tôi cần phải nói rằng dân chúng nhiệt liệt tán thưởng việc làm của chúng ta. Họ trông thấy trong người Pháp Tự Do cái gì là can đảm, khác thường, hào hiệp, trả lời vào con người lý tưởng của nước Pháp đối với họ. Ngoài ra, họ cảm thấy rằng sự có mặt của chúng ta sẽ đẩy xa được nạn xâm lăng của quân Đức, bảo đảm được nền kinh tế cho ngày mai và hạn chế sự hà hiếp của các lãnh chúa phong kiến. Sau hết, chúng tôi loan báo sẽ trả lại nền độc lập cho họ, điều ấy đã làm cho họ xúc động vô cùng. Dân chúng đã niềm nở đón chào tôi khi tôi đến Damas và Beyrouth vài ngày sau họ nhắc lại cử chỉ thân hữu ấy khi tôi đến Alep, Lattaquiẻ, Tripoli, và nhiều thành phố khác ở vùng nầy, nơi nào cũng là một chứng nhân lịch sử với vẻ thơ mộng bi hùng. Cảm tình của quần chúng rõ ràng thuận lợi cho chúng ta nhưng về phương diện chảnh trị không có gì là minh bạch. Về phương diện này, điều cấp bách hơn cả là thành lập tại mỗi quốc gia một chính phủ có khả năng đảm nhiệm được những trách vụ mới của chúng tôi sẽ trao trả họ, nhất là về phương diện tài chảnh, kinh tế, trật tự công cộng. Chúng tôi quyết định chỉ giữ lại cho nước thừa ủy trị trách nhiệm quốc phòng, ngoại giao và « quyền lợi chung » của hai quốc gia : tiền tệ, thương chánh, tiếp tế, đó là những lãnh vực không thể chuyển giao ngay được cũng như không thể tách rời Syrie và Liban. Sau này khi nào tình hình chiến tranh biến chuyển và cho phép, người ta sẽ tổ chức bầu cử để tuyển lựa toàn thể các đại diện quốc gia. Trong khi chờ đợi tình hình biến chuyển một cách tốt đẹp như vậy, chính phủ hiện hữu đã nắm sẵn trong tay những quyền hành rộng rãi hơn trước, điều đó không khỏi làm sôi sục sự ham muốn của các đoàn thể, sự tranh giành của cá nhân. Đối với Syrie thì về phương diện này tình hình phức tạp lạ lùng. Vào tháng bảy 1939, Ba Lê đã không chuẩn y thỏa ước 1936, vị Cao ủy Pháp phải hạ bệ Tổng Thống Hachem Bey el Atassi và giải tán Quốc Hội. Chúng ta có sẵn một nội các ở Damas đặt dưới quyền Khaled Bev Azem, một nhân vật được nể vì và được việc lắm, nội các này chỉ xử lý thường vụ chứ không có tư cách một chính phủ quốc gia. Trước tiên tôi hy vọng rằng có thể tái lập tình trạng hiện hữu trước đây tại Syrie. Tôi đã cùng tướng Catroux hội đàm với nhiều nhân vật và thấy họ đồng ý với tôi trên nguyên tắc : đó là Tổng Thống Hachem Bey và vị Thủ Tướng chính phủ cuối cùng của ông, ông Djemil MarđamBey, ông Fares El Koury, Chủ Tịch Quốc Hội mới giải tán. Tuy rằng cả ba người đều là những chính trị gia nhiều kinh nghiệm, những nhà ái quốc, những người muốn cứu vãn tình thân hữu với người Pháp, nhưng hầu như họ không nhìn thấu tầm sâu rộng của vấn đề; đây là cơ may lịch sử để họ đưa nước Syrie lên con đường độc lập trong sự thỏa hiệp với nước Pháp và vượt lên trên mọi thành kiến, mọi thù hận. Tôi nhận thấy họ bận tâm quá nhiều đến hình thức pháp lý và dễ xức động vì tự ái quốc gia. Tuy nhiên, tôi yêu cầu tướng Catroux theo đuổi cuộc đàm phán và hướng về một giải pháp khác nếu họ quá dè dặt không cho đạt được một kết quả nào. Tại Liban, chúng ta có thể tiến mau hơn tuy chưa đạt được giải pháp lý tưởng. Tổng Thống Cộng Hòa, Emile Eddé, người bạn vững chắc của nước Pháp và chinh khách có tài, ông đã tự ý xin từ chức ba tháng trước khi có cuộc hành binh vào Beyrouth. Không có ai thay thế ông. Mặt khác, nhiệm kỳ của Quốc Hội chấm dứt đã từ lâu. Xét về phương diện nguyên tắc và Hiến Pháp thì không còn gì dùng làm điểm tựa. Nhưng vẫn có sự tranh chấp ác liệt giữa các phe phái chính trị, Emile Eđdé đang cạnh tranh rảo riết với một nhân vật đối lập là ông Bechara El Koúry. Ông này thông thạo các vấn đề của Liban, đã quy tụ xung quanh ông nhiều tín đồ và quyền lợi. Ông Koury cho tôi biết : « Eddẻ đã ngồi ghế ấy một thời gian rồi, bây giở đến lượt tôi làm Tổng Thống ! » Sau hết, còn có Riad Solh, lãnh tụ Hồi Giảo chính thống, trưng cờ kéo biển quốc gia Á Rập tại các đền miếu làm cho hai lãnh tụ đối lập giật mình, nhưng hai người vẫn không thỏa hiệp được với nhau. Trong những điều kiện ấy, chúng tôi cho rằng tốt hơn hết là nên dành ngồi tối cao cho người trước đây đã đứng đầu chính phủ, ông Alfred Naccache, người không nổi tiếng bằng ba người kia nhưng có khả năng, được nhiều người yêu mến vả chăng trong thời kỳ chuyến tiếp này, để ông đứng đầu chính phủ cũng không gây ra những sự chống đối mãnh liệt. Tuy nhiên, nói như vậy chỉ đúng một phần thôi. Vì thực ra, Emile Eddé chấp nhận sự lựa chọn của chúng tôi lúc này, RiadSolh không gây rắc rối gì cho người cầm quyền, nhưng Bechara E1 Koury tung ra một loạt âm mưu và ma giáo để công kích Naccache. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 10:59:33 pm Trong khi chờ đợi sự bầu cử tự do, tình hình chính trị ở Beyrouth và Damas như vậy, tự nó không có gì đáng lo ngại. Trật tự công cộng không đến nỗi bị đe dọa, công việc hành chánh vẫn chạy đều. Dư luận chấp nhận không cần giải thích rằng bầu cử chậm trễ vì áp lực mạnh mẽ của chiến tranh. Tóm lại, thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ ủy trị sang chế độ độc lập có thể và phải trôi chảy êm thắm nếu sự can thiệp của người Anh không cố tình cơ hội và manh mối để gây rối. Trong khi ở Le Caire ông Lyttelton lo giải quyết những vấn đề tiếp tế Trung Đông, trong khi tướng Wilson tự xóa bỏ vai trò của mình bằng cách thiết quân luật và can thiệp trực tiếp, thì Spears nghiễm nhiên hiện diện ở Beyrouth với tư cách trưởng liên lạc Anh, sau, đến tháng giêng ông trờ thành đại diện toàn quyền Anh bên cạnh chính phủ Syrie và Liban. Ông có những phương tiện hùng hậu : quân đội Anh, hoạt động đa diện của nhân viên tình bảo, làm chủ tình hình kinh tế của hai nước sống về sự thông thương, sự hỗ trợ của một nền ngoại giao bậc nhất hoàn cầu trên khắp các thủ đô thế giới, ông có phương tiện tuyên truyền dồi dào, ông có sự giúp đỡ của các quốc gia A Rập láng giềng như : Irak và Transjordanie với các hoàng thân thân cận với Hussein; Palestine với một vị Cao ủy Anh luôn luôn giả bộ hoảng hot vì sự « đàn ảp » ngươi Syrie và Liban có hậu quả tai hại đến người A Rập trên lãnh thổ của ông ta ; sau hết là nước Ai Cập, nơi có tình trạng ổn định của các bộ trưởng đương quyền cũng như người muốn dòm ngó ghế bộ trưởng, cả hai loại phải có cơ may thực sự làm bộ trưởng nếu có lời ưng thuận của người Anh. Xứ Trung Đỏng có hoàn cảnh dễ làm ăn, đầy âm mưu, đày tham vọng, để người Anh thực hiện kế hoạch của họ như vậy, cho nên họ chỉ muốn sử dụng lá bài đã có trong tay. Muốn làm cho Luân Đôn có thái độ ôn hòa hơn chỉ có cách dọa đoạn giao vội họ và làm cho họ cần phải nương tay đừng làm người Pháp uất ức. Nhưng nếu dùng kế sách ấy thì chúng ta cũng phải giới hạn cách đỡ’ đòn và trả đũa của chúng ta. Sự chia rẽ với nước Anh sẽ có hậu quả nghiêm trọng về tinh thần và vật chất cho chúng ta, bởi thế cho nên chúng ta cũng phải biết điều, vả chăng, Pháp Tự Do dần dần bành trướng, phải chăng chúng ta đã mất sức tập trung cương nghị để lần này được cuộc bằng cách đánh xả láng ? Sau hết, chúng ta cần gì phải tố giác với dân chúng Pháp mưu mô của đồng minh chúng ta, khi chúng ta còn ở dưới vực thẳm, và điều cần thiết hơn cả là làm cho mọi người tin tưởng và hy vọng để khích lệ quốc dân chiến đấu chống xâm lăng ? Mặc dầu trải qua nhiều gian nan, chúng ta cũng tái lập được chủ quyền ở Syrie và Liban. Sự kiện ấy tăng thêm nhiều sức mạnh cho phe tự do. Từ đây, hậu cứ của đồng minh ở Trung Đông đã được vững vàng. Đối với người Đức thì họ không còn cách nào đặt chân lên các nước Ả Rập trừ khi hực hiện một cuộc viễn chinh rộng lớn và nguy hiểm. Hitler đã tính làm cho Thổ Nhĩ Kỳ phải núng thế và chịu nghiêng về phía Trục để làm cầu nổi Âu Châu với Á Châu cho họ, nhưng bây giờ Thổ không còn bị đe dọa nữa, Thổ sẽ vững mạnh. Sau hết, Pháp Tự Do đã có phương tiện để đưa ra phóng tuyến nhiều lực lượng hơn. Về phương diện này, chúng tôi quyết định dùng quân đội Syrie và Liban để bảo vệ lãnh thổ Trung Dông, bờ biển sẽ giao cho hải quân gồm lực lượng phòng vệ thường trú và một lữ đoàn Pháp trừ bị, tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Humblot. Đồng thời chúng ta thành lập bộ đội viễn chinh gồm hai lữ đoàn hỗn hợp và một đại đội thiết giáp đẫy đủ dịch vụ cần thiết. Tướng Larminat được tướng quân y Sicé thay thế chức vụ Cao ủy Brazzayille, bây giờ ông được chỉ định để chỉ huy toàn bộ lưu động ấy, giới hạn về quân số nhưng có hỏa lực rất mạnh nhờ vật liệu mới thâu hồi được ở Trung Đông. Khi đi qua Le Caire, tôi gặp tướng Auchinleck, tân tư lệnh, tôi bèn bảo ông : «Khi nào lực lượng của chúng tôi sẽ giao cho ông với điều kiện là để chiến đấu ». Ông trả lời: « —Rommel sẽ làm đủ mọi việc cần thiết để tôi có cơ hội tiếp ông ta. » Trong khi ở Địa Trung Hải, chiến tranh tập trung lại ở biên thùy Ai Cặp và Libye, trong những điều kiện thuận lợi nhất cho chúng ta và các đồng minh của chúng ta, thì tại biển Baltique và Hắc Hải nó trải rộng trên những khoảng đất rộng lớn ở Âu Châu. Cuộc tấn công của Đức ở bên Nga tiến nhanh như vũ bão, Nhưng, mặc dầu vào lúc đầu quân của Hitler thắng lợi, nhưng dần dần sức chống cự của người Nga mỗi ngày thêm mạnh hơn. Trên bình diện chính trị cũng như trên bình diện chiến thuật, đó là những diễn biến có tầm quan trọng khó mà ước lượng được. Nhìn vào tình hình đó, người Mỹ trông thấy có cơ tung ra những hành động quyết định. Hẳn là có thể nghĩ đến trường hợp Nhật Bản gây rối ở Thái Bình Dương làm cho Mỹ chậm trễ việc can thiệp và giảm bớt tầm mức can thiệp. Những việc Mỹ đánh sang Âu Chầu và Phi Châu này có thể coi như chắc chắn rồi vì lực lượng chính của Đức đã bị lôi cuốn vào một cuộc phiêu lưu xa xôi đưa họ vào sâu trong nội địa nước Nga ; về phần người Anh thì nhờ có sự giúp sức của Pháp Tự Do, họ đã có thể chiếm những vị trí chắc chắn ở Trung Đông ; sau hết, chiến trường có thể khích lệ hy vọng và ý thức tranh đấu của những dân tộc bị áp bức. Điều tôi phải làm bây giờ là, trong phạm vi khả năng của tôi, vận động với Hoa Thịnh Đốn và Mạc Tư Khoa, phát triển mạnh mẽ phong trào kháng chiến Pháp, cố gắng bành trướng các lực lượng của ta ra khắp thế giới. Như vậy, tôi cần phải trở về Luân Đôn, trung tâm truyền thông quốc tế và kinh đô của chiến tranh. Tôi về đến nơi ngày mùng một tháng chín, sau những kinh nghiệm mới đây, tôi cảm thấy trước rằng sự nghiệp của tôi sẽ còn gặp nhiều thử thách cho đến ngày cuối cùng, nhưng tôi tin chắc rằng chung cuộc tôi sẽ chiến thắng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 11:00:59 pm ĐỒNG MINH Trước mắt thế giới, đến mùa thu năm thứ hai ra đời, Pháp Tự Do không còn là một nhóm người kỳ dị để mọi người đón chào với vẻ chế diễn, thương hại hay cảm động ứa lệ. Bây giờ ở đâu người ta cũng tiếp xúc với thực tại chính trị, chiến tranh và lãnh thổ của Pháp Tự Dọ. Từ những nền móng đó chúng tôi phải tiến vào bình diện ngoại giao, tạo lấy một chỗ đứng giữa các đồng minh, xuất hiện như một nước Pháp tham chiến và có chủ quyền, bắt mọi người phải tôn trọng quyền của mình và cho mình dự phần chiến thắng. Về phương diện ấy thì tôi sẵn sàng chấp nhận những giai đoạn chuyển tiếp. Nhưng tôi không muốn và cũng không thể hy sinh cái gì là cốt yếu. Ngoài ra, tôi còn muốn đạt được sở nguyện và chiếm được địa vị, trước khi có cuộc đụng độ quyết định thanh toán chiến tranh. Như vậy chúng tôi không thể để uổng phí thời giờ, nhất là đối với các đại cường: Hoa Thịnh Đốn, Mạc Tư Khoa và Luân Đôn. Đối với việc lớn thì người Mỹ chỉ có những cảm tưởng thô sơ và một chính sách rắc rối. Đó là thải độ của họ đối với nước Pháp vào năm 1941. Trong khi sự nghiệp cứu quốc của de Gaulle khởi động những phản ứng mến phục dưới bề sâu dư luận quần chúng Mỹ thì trên mặt dư luận bán chính thức cố gắng giữ thái độ lạnh lùng coi thường. Còn như các nhân vật chính thức thì họ vẫn giữ nguyên sự liên lạc với Vichy, họ cho rằng làm như vậy là tranh thủ với người Đức ảnh hưởng của Mỹ ở nước Pháp, là ngăn cản, không để hạm đội Pháp lọt vào tay quân Đức, là giữ liên lạc với Wevgand, Noguès, Boisson, đợi một ngày kia mấy ông tướng này mở cửa đón họ và Phi Châu. Nhưng kỳ dị thay, chính sách của Hoa Kỳ có đại diện bên cạnh Pétain, vẫn đứng xa Pháp Tự Do, nại cớ rằng không thể biết trước dân tộc Pháp sẽ lựa chọn chính phủ nào khi được giải phóng. Xét cho cùng thì điều mà các nhà đương quyền Mỹ cho rằng đã đạt được là nước Pháp đã thất thế không còn một địa vị đáng kế nữa. Bởi thế cho nên họ thỏa thuận với chính phủ Vichy. Tuy nhiên, nếu vì nhu cầu chiến tranh họ cần phải hợp tác với những nhóm người Pháp có quyền ở một thỏa hiệp nào đó trên thế giới, thì họ chỉ dùng những biện pháp thỏa hiệp nhất thời và có tính cách địa phương. Những điều kiện ấy làm cho chúng tôi khó thỏa thuận với Hoa Thịnh Đốn. Vả chăng, cá nhân Tổng Thống Roosevelt còn đè nặng xuống vấn đề làm cho không có cạnh khía nào thuận lợi với chúng ta cả. Tuy rằng Franklin Roosevelt và tôi chưa có dịp tiếp xúc với nhau, nhưng đã có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng ông có thái độ dè dặt đối với tôi. Nhưng tôi cũng làm mọi việc có thể làm được để ngăn cản Hoa Kỳ và Pháp đi vào những con đường dị biệt vì Hoa Kỳ sắp sửa bước vào cuộc chiến còn Pháp thì chưa bao giờ chịu khoanh tay bỏ cuộc. Còn như hình thức của những mối liên lạc ấy thì lúc bấy giờ tôi không để ý đến cho lắm, mặc dầu các nhà chính trị, ngoại giao và quảng cảo đặt thành vấn đề bàn cãi sôi nổi. Luật gia Hoa Thịnh Đốn dùng nhiều bộ áo để mặc cho nguyên tắc thừa nhận, nhưng tôi ít chú trọng đến những hình thức ẩy mà chỉ chú trọng đến thực tại và nội dung mối liên lạc. Tuy nhiên đứng trước những nguồn tài nguyên khổng lồ của người Mỹ, và tham vọng làm luật và nói luật trên thế giới của Roosevelt, tôi cảm thấy quả là vấn đề độc lập của chúng ta quả đang bị nhiều thử thách. Tóm lại, nếu tôi muốn thỏa thuận với Hoa Thịnh Đốn thì phải dựa vào những căn bản thực dụng và phải đứng vững đừng ngã quy. Trong thời kỳ phôi thai những tháng mới ra đời của Pháp Tự Do, Garreau-Dortjbasle và Jacques de Sièyes đã là những phát ngôn nhân đắc lực của tôi. Bây giờ đã đến giai đoạn điều đình. Tôi ủy nhiệm cho Pleven tìm cách tiến lại gần. Ông ta biết nước Mỹ. Ông ta là người khéo léo, ông ta không lạ gì công việc của chúng ta. Từ tháng năm 1941, khi còn ở Brazzayille, tôi đã định rõ đặc vụ ấy như sau: « Thiết lập liên lạc thường xuyên và trực tiếp với bộ Liên Bang chính phủ Mỹ, thiết lập liên lạc kinh tế của Phi Châu và Úc Châu thuộc Pháp Tự Do với Mỹ quốc và tổ chức việc mua bán trực tiếp vật liệu cần thiết cho chiến tranh ; thiết lập tại Hoa kỳ bộ máy thông tin và tuyên truyền của chúng ta ; thiết lập các ủy ban, các tổ chức thu hút những người Mỹ có thiện cảm.» Pleven ra đi vào đầu tháng sáu, ông không đến nỗi trở về tay không. Quả vậy, chúng ta tặng ngay người Mỹ quyền đặt căn cứ không quân ở Cameroum, ở Tchad và Congo, trong khi Phi Châu được chỉ định để dùng làm căn cứ cho họ tiến vào Âu Châu ngày nào họ định dụng binh. Ngoài ra, trước sự đe dọa của người Nhật, những hòn đảo ở Thái Binh Dương phất phới cờ Thập Tự Lo Ren sẽ có tầm quan trọng nào đó đối với họ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 11:01:54 pm Ngoài thực tế thì chính phủ Mỹ đã xin phép chúng tôi cho quyền xử dụng một vài căn cứ không quân ở Phi Châu, ở Nouyelles-Hébrides và Nouvelle-Calédonie. Họ chưa nhập chiến cuộc, họ chi xin xử dụng cho hãng « Pan American Airways » của họ nhưng ai cũng rõ là họ nhắm vào những mục tiêu quan trọng hơn. Hiệp Chúng Quốc càng tiến đến gần ngày lâm chiến, Hoa Thịnh Đốn càng chú trọng đến những vị trí của chúng ta. Đến tháng tám, một phái đoàn liên lạc do đại tá Cunningham được gửi đến Tehad. Đến tháng chín, ông Cordell Hubl chính thức tuyên bố rằng chính phủ Mỹ và Pháp Tự Do có những quyền bố lợi chung. Ông còn nói thêm : «Mọi liên lạc trong khuôn khổ ấy đều tốt đẹp về đủ mọi phương diện. Ngày mùng 1 tháng mười, Pleven được thứ trưởng Summer Welles chính thứ tiếp đón tại chính phủ Mỹ. Ngày 11 tháng một, tổng thống Roosevelt gửi thư cho ông Settinius, nới rộng cho Pháp Tự Do hưởng chế độ « thuê vay » và « sự phòng thủ những lãnh thổ tập kết với Pháp Tự Do là sự kiện sinh tử của việc phòng thủ Hoa Kỳ ». Vào cuối tháng ấy Weygand được gọi từ Alger về, mang theo ảo tưởng rằng Hoa Thịnh Đốn chưa biết kiếm người khác để thay ông. Đồng thời, Pleven trở về Luân Đôn để dự Ủy hội quốc gia mới thành lập, Adrien Tixier trở thành trưởng phái đoàn với sự đồng ý của Chính phủ Mỹ. Sau hết, tại Luân Đôn, đã có những liên lạc thường xuyên giữa chúng ta và ông Drexel Biddle, đại sứ Mỹ bên cạnh các chính phủ lưu vong lại Anh quốc. Trong khi thiết lập những liên lạc chính thức đầu tiên, người ta cũng nhận thấy có sự thay đổi trong luận điệu của đài phát thanh và báo chí; cho đến bây giờ họ chỉ có thải độ ác cảm đối với chúng ta hoặc họ giữ yên lặng. Mặt khác, trong số những người Pháp di cư, có những người tai mắt, họ tỏ ý muốn liên lạc với những người phất cờ chỉnh nghĩa. Giáo sư Focillon lập một Viện Khảo Cứu ở Nữu Ước, quy tụ những nhân vật thượng đỉnh của khoa học, sử học, triết học, đã đồng ý với các bạn đồng liêu viết thư xin tướng de Gaulle thừa nhân Viện này bằng một sắc luật. Ngày mùng 7 tháng Chạp, quân Nhật đánh Pearl Harbor làm cho nước Mỹ nhẫy vào vòng chiến. Người ta có thể cho rằng chính sách Mỹ sẽ đối xử với Pháp Tự Do như một đồng minh cũng đứng về hàng ngũ họ để chống kẻ thù. Nhưng Mỹ đã không làm vậy. Trước khi Hoa Thịnh Đốn quyết định thừa nhận, chúng ta còn phải chịu đựng nhiều thăng trầm tai hại. Ngày 13 tháng chạp, chính phủ Mỹ tịch thu tầu Normandie và 13 chiếc tầu Pháp khác đậu trong bến của họ mà không điều đình với chúng ta và cho chúng ta biết dùng làm gì. Một vài tuần lễ sau tầu Normandie bốc lửa cháy trong những điều kiện thê thảm. Trong tháng chạp, Minh ước các Quốc Gia Liên Hiệp được kỷ kết giữa 27 chính phủ, không có chúng tôi tham dự. Điểm kỳ dị, nếu không phải là vần đục, trong thái độ của nước Mỹ đối với chúng ta chẳng bao lâu được bộc lộ nhân một việc nhỏ nhưng phản ứng chính thức của Họa Thịnh Đốn đã làm nồi bật tầm quan trọng. Có lẽ, về phía tôi, tự tôi đã khiêu khích để làm cho sự vật rung động đến gốc rễ như người liệng hòn đá xuống ao. Đây là việc tập kết các đảo Saint - Pierre và Miquelon. Chủng tôi đã nghĩ đến từ đầu. Gần Terre- Neuye có một quần đảo Pháp, dân chúng muốn theo chúng tôi, mà lại phải phụ thuộc vào Vichy thì đó quả là một điều chướng tai nghịch nhĩ. Người Anh muốn cho các đảo này tập kết vì họ vẫn muốn trên con đường qua lại của những đoàn tàu lớn, không nên để cho tiềm thủy đĩnh Đức lảng vảng ở đây lợi dụng được những đài VTĐ ở Saint - Pierre. Nhưng họ cho rằng cần phải có sự ưng thuận của Hoa Thịnh Đốn. Còn như tôi, tôi cho rằng sự ưng thận ấy không những đáng mong đợi mà còn cần thiết nữa, vì không phải chỉ có việc nội bộ của nước Pháp mà thôi. Tôi còn quyết chiếm lấy quần đảo ấy khi tôi thấy đô đốc Robert, người của Vichy, cao ủy Antilles, Guyanne và Saint - Pierre, đã điều đình với người Mỹ, họ có thể đi đến việc trung lập hỏa các lãnh thổ Pháp ấy dưới sự bảo đảm của Hoa Thịnh Đốn. Đến tháng chạp, tôi biết rằng đô đốc Horne đã được Roosevelt gửi đến Fort-France để điều đình với Robert điều kiện trung lập hóa các lãnh địa của chúng ta ở Châu Mỹ, kể cả tầu bè đậu ở đấy, tôi bèn dụng cơ hội thứ nhất thuận tiêu để hành động. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 11:02:20 pm Cơ hội đến với chúng tôi nhờ có đô đốc Muse lier. Ông sắp sang Gia Nã Đại để thanh sát tiềm thủy đĩnh Snrcouf đận ở Halifax và các tầu duyên phòng Pháp hộ tống các đoàn tầu, tôi đã đồng ý với ông là ông sẽ thực hiện công tác này. Ngày 12 tháng chạp, ông tập hợp các tàu duyên phòng Mimosa, Aconit, Alyssc xung quanh tiềm thủy đĩnh Surcouf và sẵn sảng để đến Saint-Pierre và Miquelon. Ông cho rằng nên hỏi ý với người Mỹ và người Gia Nã Đại. Như vậy là bí mật bị phanh phui. Tôi thấy cần phải nói cho người Anh biết để tránh tiếng giấu giếm. Hoa Thịnh Đôn trả lời Muselier : « không ! », ông này thoái từ ngay không chịu đến quần đảo nữa. Chính phủ Luân Đôn cho tôi biết rằng người Anh không cản trở nhưng vì người Mỹ phản đối cho nên họ yêu cầu hoãn việc này lại. Trong những điều kiện ấy, trừ khi có việc gì mới xảy ra, chúng tôi đành chịu thúc thủ. Nhưng việc gì mới đó lại xảy ra. Một vài giờ sau khi trả lời chúng tôi, bộ Ngoại Giao Anh cho chúng tôi biết rằng chính phủ Gia Nã Đại đã đồng ý với Hoa kỳ, quyết định đồ bộ lên Saint Pierre một số người cần thiết để giữ đài T.V.Đ. Chúng tôi phản kháng ngay với Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn. Tôi không thể lưỡng lự khi có nước ngoài can thiệp vào lãnh thổ Pháp. Tôi ra lệnh cho đô đốc Muselier phải đến ngay Saint Pierre và Miquelon. Ông tới nơi trước lễ Noel, giữa sự vui mừng của dân chúng và không cần một tiếng súng nào. Một cuộc biểu quyết toàn dân đem lại cho Pháp Tự Do đa sổ tuyệt đối. Thanh niên ra đầu quân. Những người đứng tuổi lập ra một đạo quân đặc biệt để trấn giữ hải đảo. Sayary được bổ nhiệm thay thế thống đốc cũ. Người ta có thể nghĩ rằng cuộc hành quân nhỏ thực hiện rất gọn gàng ấy không làm cho chính phủ Mỹ xúc động bao nhiêu. Nhiều nhất là một cử chỉ bực tức trong các văn phòng bộ Liên Bang Hoa Kỳ. Nhưng thực ra đã nổi lên một cơn bão tố thực sự. Ông Cordell Hull châm ngòi vào thùng thuốc súng bằng cách ra thông cáo báo tin chấm dứt ngày nghỉ lễ Nỏ En để trở về ngay Hoa Thịnh Đốn. « Cuộc hành quân của các tầu gọi là Pháp Tự Do để chiếm đảo Saint - Pierre và Miquelon, không hề cho Hiệp Chúng Quốc biết trước và không hề có sự thỏa thuận của Hiệp Chủng Quốc». Ông chấm dứt bản thông cáo bằng cách tuyên bố rằng chính phủ ông đã « hỏi chính phủ Gia Nã Đại để biết chính phủ này dùng biện pháp gì để tái lập tình trạng nguyên thủy của quần đảo này ». Tại Hoa Kỳ, báo chí và dư luận quần chúng sỏi nổi trong ba tuần lễ liền, quá sức tưởng tượng của mọi người. Sở dĩ như vậy vì việc này là cơ hội để dân chúng Mỹ bày tỏ ý kiến đối với chính sách của nhà nước lựa chọn chế độ Pétain và cảm tình của nhiều người nghiêng về phe de Gaulle. Đối với chúng tôi, chúng tôi đã đạt được mục đích bây giờ chúng tôi chỉ còn việc làm cho Hoa Thịnh Đốn biết người biết của hơn. Churchill đang ở Quebec hội đàm với Roosevelt, tôi đánh điện tín cho Thủ Tướng Anh báo cho biết thái độ của chính phủ Mỹ đã ảnh hưởng khốc hại đến dư luận Pháp. Churchill trả lời tôi ông sẽ làm hết mọi việc có thể làm được để thu xếp cho ổn thỏa, ông nói đến những hậu quả có thể xảy ra và ông sẽ rán ngăn cản. Đồng thời, ông Tixier trao cho ông Cordell Hull điệp văn hòa dịu của tôi, trong khi Roussy để Sales dùng cảm tình của báo chí Mỹ dành riêng cho tôi để vận động dư luận Mỹ, chúng tôi cũng vận động với ông M. W. Bullitt vị đại sứ Mỹ cuối cùng bên cạnh chế độ cộng hòa Pháp, ông này bây giờ đang ở Le Caire. Chính phủ Hoa Thịnh Đốn bị người trong nước chỉ trích gắt gao, Anh và Gia Nã Đại cũng phản đối một cách yên lặng, rốt cuộc đành phải chấp nhận là một việc đã rồi. Tuy nhiên, trước khi chấp nhận họ cũng thử dùng cách thị uy, họ dùng chính phủ Anh làm trung gian. Nhưng chẳng may chính nước trung gian đó cũng không tin lắm. Ông Eden đến thăm tôi hai lần ngày 14 tháng giêng và nhấn mạnh đến giải pháp trung lập hóa quân đảo, nền hành chánh sẽ đứng độc lập đối với Uy Hội Quốc Gia, các công chức đồng minh sẽ kiềm soát các đảo này. Tôi bác bỏ biện pháp ấy. Ông Eden báo tin rằng Hoa Kỳ muốn gửi đến Saint Pierre một tuần dương hạm và hai khu trục hạm. Ông hỏi tôi : « Trong trường hợp ấy ông sẽ làm gì ?» Tôi trả lời : « Tàu đồng minh sẽ dừng lại ở hải phận lãnh thổ Pháp và đô đốc Mỹ sẽ đến nhà Muselier dùng bữa, Muselier sẽ vui lòng được tiếp đón ông ta ». « — Nếu chiếc tuần dương hạm vào quá giới hạn thì sao ? » « — Ngườicủa chúng tôi sẽ theo thường lệ bách thúc họ quay đi ». « — Nếu họ không nghe ? » « — Thế thì thật là bất hạnh, vì chúng tôi phải khai hỏa». Ông Eden giơ hai tay lên trời. Tôi mỉm cười và kết luận : « Tôi biết ông sửng sốt là phải lắm, nhưng tôi tin tưởng ở chế độ dân chủ. » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 11:02:42 pm Thế là chỉ còn việc lật qua trang sử. Ngày 19 tháng giêng, ông Cordell Hull tiếp ông Tixier và ôn tồn trình bày tường tận lý do làm cho ông theo chính sách hiện thời. Sau đó ít lâu, ông ghi nhận những câu trả lời của tôi. Ngày 22, ông Churchill trở về Anh mời tôi đến chơi. Tôi đến thăm ông cùng với Pleven. Thủ Tướng Anh cũng có ông Eden ở bên cạnh, ông nhân danh Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn và Ottawa đề nghị một cách dàn xếp theo đó Saint-Pierre và Miquelon sẽ giữ nguyên tình trạng mà chúng tôi đã tạo ra tại đó. Để bù lại, chúng tôi phải để cho ba chính phủ công bố một thông cảo cứu vãn lá mặt cho bộ Liên Bang Mỹ. « Sau đó, không ai nói đến vấn đề ấy nữa. » Chúng tôi chấp nhận sự dàn xếp. Nhưng rút cục chẳng có một thông cáo nào cả. Chúng ta giữ được Sain-Pierre và Miquelon còn về phần đồng minh thì họ không để ý đến nữa. Vả chăng, mặc dầu Hoa Thịnh Đốn có lập trường pháp lý và tình cảm thế nào đối với chúng tôi, nước Mỹ đã tham gia chiến cuộc thì họ buộc lòng phải hợp tác với Pháp Tự Do. Điều ấy rất đúng, ngay từ bây giờ quân Nhật tiến như vũ bão ở Thái Bình Dương, các thuộc địa của chúng ta có thể trở thành những điếm then chốt của chiến lược đồng minh : Nouvelle-Calétlonie, các đảo như : Marquises, Touamotou, Société, Tahiti. Một sổ hải đảo đã được sử dụng làm trạm thủy phi thuyền. Ngoài ra, kền ở Calédonie rất cằn cho việc đúc súng. Người Mỹ chẳng bao lâu nữa sẽ nhận thấy mối lợi lớn khi thỏa hiệp với chúng tôi. Cái nhìn ngược lại cũng đúng, vì nếu xảy ra chuyện gì thì chúng tôi cũng không đủ sức để phòng thủ các đảo ấy. Bởi vậy cho nên chúng tôi đã quyết định từ trước sẽ thỏa mãn sự đòi hỏi của người Mỹ về các thuộc địa của chúng ta ở Thái Binh Dương với điều kiện duy nhất là họ tôn trọng chủ quyền của người Pháp và quyền hành của chúng tôi ở những nơi đó. Nhưng quyền hành đó cũng phải được thực thi nghiêm chỉnh ở những nơi ấy. Điều này không phải là dễ, vì các đảo ở rải rác tại những nơi cực kỳ xa xôi, vì phương diện thiếu thốn, vì dân chúng tuy đã tập kết để tỏ lòng yên mến nước Pháp, những họ dễ bị dao động, dễ bị xách động bởi những người trong xứ hay ngoại bang mưu đồ tư lợi. Ngoài ra,trong số những yếu tố được động viên, nhiều người đã theo lệnh của tôi rời khỏi Đại Dương Châu theo Pháp Tự Do sang chiến đấu tại Phi Châu. Một đại đội Thái Bình Dương và nhiều yếu tố khác dưới quyền chỉ huy của trung tá Broche đã được gửi sang Trung Đông. Sự đóng góp của Đại Dương Châu vào những trận đánh giải phóng nước Pháp có một ý nghĩa cao cả. Nhưng sự phòng thủ trực tiếp đất đai thật là khó khăn. Sau hết, tình trạng chiến tranh gầy rối loạn trong đời sống kinh tế của những thuộc địa xa xôi ấy. Tóm lại, Cần có một quyền trung ương mạnh và tập trung tại Đại Dương Châu. Từ mùa xuân 1941, tôi đã cho rằng nên gửi vị toàn quyền Brunot sang thanh sát vùng ấy, Brunot chưa nhận chức vụ gì từ ngày Leclerc trở về Cameroun. Nhưng Brunot đã và chạm mạnh với công chức, những người này đổ lỗi cho ông muốn đem bạn hữu lại chiếm địa vị của họ. Những tấn bi hài kịch như vậy đã xảy ra tại Papeete. Thống đốc, tổng thư ký, lãnh sự Anh bị bắt giam theo lệnh của Brunot tại Noumea, thống đốc Sautot bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với Brunot. Như vậy cần phải có những biện pháp đặc biệt. Đến tháng bảy 1941, tôi bồ nhiệm hải quân đại tá— sau là đô đốc Thierry d‘Argenlieu làm Cao Ủy Thải Bình Dương với toàn quyền dân sự và quân sự để thi hành đặc vụ « Tái lập hoàn toàn quyền hành của Pháp Tự Do, không chấp nhận những biện pháp lưng chừng, khai thác mọi tài nguyên để phục vụ chiến tranh, bảo đảm sự phòng thủ các lãnh thổ Pháp trong sự cộng tác với đồng minh, chống lại những hiềm họa có thể xảy ra và có lẽ sắp xảy ra. » Tôi rất tin tướng d'Argenlieu. Tâm hồn ông cao cả, tính ông cương trực, như vậy, về phương diện tinh thần ông sẽ ngự trị được mọi âm mưu tranh chấp. Khả năng chỉ đạo của ông sẽ cho phép ông sử dụng những phương tiện của chúng ta một cách hợp tình hợp lý. Khả năng ngoại giao sẽ có dịp đem ra áp dụng. Theo bản tính của ông, có thể nói, theo thiên khiếu của ông, ông quan niệm hành động của Pháp Tự Do như một loại thánh chiến, ông nghĩ rất đúng rằng có thể thực hiện cuộc thảnh chiến một cách rất khéo léo. Chiếc tuần dương hạm nhẹ Triomphant và tiêu hạm Chevreuil được đặt dưới quyền sử dụng của vị Cao Uy tại Thái Bình Dương. Ông bắt đầu lập lại trật tự ở Tahiti. Orselli được bổ nhiệm làm thống đốc, còn Brunot và các « nạn nhân » của ông ta sẽ về Luân Đôn giải thích. Mặt khác, vi tinh hình Viễn Đông ngày càng thêm nghiêm trọng, d‘Argenlieu nhận thêm nhiệm vụ phối hợp hành động của các đại diện Pháp Tự Do ở Úc Châu, Tân Gia Ba, Manila, Batayia. Đồng thời, Escarra, người đã nổi tiếng ở Trung Hoa là một luật gia quốc tế, sẽ đến Trùng Khánh để hội đàm với thống chế Tưởng Giới Thạch và sửa soạn việc thiết lập bang giao chỉnh thức. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 11:50:58 pm Bất thình lình, vào đầu tháng chạp, Thái Bình Dương nổi sóng. Sau khi quân Nhật đánh úp Pearl Harbor, họ đổ bộ lên Mã Lai thuộc Anh, Nam Dương Quần Đảo, Phi Luật Tân, chiếm đảo Guam, Wake, Hong Kong. Vào đầu tháng giêng họ phong tỏa một quân đoàn Anh ở Tân Gia Ba, đạo quân này phải đầu hàng. Đồng thời họ tiến chiếm Manila. Mac Arthur bị bao vây tại bản đảo Bataan. Những điều tôi biết về Mac Arthur làm cho tôi rất mến trọng ông. Một hôm tôi gặp John Winant, đại sứ Hoa Kỳ ở Luân Đôn, một nhà ngoại giao rất thông minh và đức độ, tôi nói với ông điều này : « Nhân danh một quân nhân và một đồng minh, tôi cần phải nói cho ông biết rằng để mất Mac Arthur sẽ là một sự bất hạnh cho chúng ta. Trong hàng ngũ của chúng ta rất ít tướng lãnh lỗi lạc. Ông ấy là một người lỗi lạc. Không nên để mất ông ta. Thực ra bây giờ ông ta lâm nguy rồi, trừ khi chính phủ Mỹ ra lệnh cho ông ta phải rời khỏi Bataan bằng một mưu chước thoát thân với tầu nhỏ và thủy phi cơ. Tôi thiết nghĩ cần phải ra lệnh ấy yêu cầu ông nói lại Tổng thống Roosevelt biết, đây là ý kiến của tướng de Gaulle. Tôi không biết rõ người ta có kể đến ý kiến của tôi khi quyết định về việc này không. Dẫu sao thì tôi cũng rất vui lỏng khi biết rằng sau đó ít lâu tướng Mac Arthur đến được Melbourne. Từ cuối tháng chạp, Nouyelle Caléđonie bị đe dọa nhất là đảo này nằm sát nách Úc Châu, mục tiêu chính yếu của dịch. Vả chăng, ngày 22 tháng chạp, Vichy, đoán trước Nhật sẽ chiếm các đảo của chúng ta ở Đại Dương Châu, và cũng muốn lấy lại quyền hành ở đây, bèn bổ nhiệm đô đốc Decoux làm Cao ủy Thải Bình Dương, nhờ sự che chở của kẻ xâm lăng. Deeoux không quên dùng đài phát thanh Saigon xúi giục dân chúng Xouyelle-Caléđonie nổi loạn chống Pháp Tự do. Cũng trong thời gian ấy, d‘ Argenlieu phải đối phó với nhiều khó khăn và lo lắng, ông gửi về cho tôi những bản phúc trình đầy nghị lực nhưng không có ảo tưởng. Còn như tôi, tôi cho ông biết rằng tôi tin chắc ít ra ông cũng cứu vãn được danh dự ; tôi đưa sang Noumea ít nhiều viện binh có sẵn : sĩ quan, đại bác hải quân, tuần dương hạm phụ Cap del Palmes sau hết là tiềm thủy đĩnh Surcouf. Khả năng và tầm hoạt động rộng lớn của tầu này sẽ hợp với công dụng ở Thái Bình Dương. Nhưng đêm hòm 19 tháng hai, gần cửa Panama, chiếc tầu ngầm lớn nhất hoàn cầu ấy đã va phải một chiếc tầu chở hàng và làm mồ chôn thiếu tá Blaison cùng 130 thủy thủ. Nhưng dưới áp lực của hoàn cảnh, người ta bắt đầu tổ chức sự hợp tác của các đồng minh. Ngày 15 tháng giêng, chánh phủ Mỹ gửi cho phái đoàn của chúng ta ở Hoa Thịnh Đốn một giác thư minh định sự cam kết của Hoa Kỳ « tôn trọng chủ quyền của nước Pháp trên các hải đảo Thái Bình Dương; những căn cứ và công sự của họ thiết lập trên các hải đảo ấy sẽ thuộc quyền sở hữu của nước Pháp; nước Pháp sẽ được hưởng quyền tương đương trên lãnh thổ Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ còn dùng các căn cứ ấy sau thời chiến. » Ngày 23 tháng giêng, ông Cordell Hull đánh điện tín cho tôi biết rằng « các tham mưu trưởng Anh và Mỹ công nhận tầm quan trọng của đảo Nouyelle Call- donie và tìm mọi biện phảp đề phòng thủ đảo ấy, phù hợp với những điều kiện dự định trong giác thư ngày 15 tháng giêng. » Quốc vụ khanh ân cần bày tỏ « hy vọng rằng sự giúp đỡ mỹ mãn và sự cộng tác tốt đẹp trong quá khứ của vị cao ủy Pháp sẽ được tiếp tục trong tương lai. » Tiếp theo sau là những biện pháp thực dụng. Ngày 25 tháng hai, tôi đã có thể báo tin cho d‘Argenlieu biết rằng tướng Patch được bổ nhiệm tư lệnh lục quân Mỹ tại Thái Bình Dương, ông đã nhận lệnh của chính phủ ông đến Noumea để thỏa thuận với d‘ Argenlieu « trực tiếp và trong tinh thần thân hữu nhất », hầu tổ chức việc chỉ huy. Ngày mùng 6 tháng ba, Uỷ Hội Quốc Gia Pháp được mời gửi đại diện đến « Uỷ Ban Chiến Tranh Thái Bình Dương » họp tại Luân Đôn để trao đổi tin tửc và ý kiến, có các đại diện của Anh quốc, Tân Tày Lan, Úc Châu và Hoa Kỳ tham dự. Ngày mùng 7 tháng ba, chính phủ Mỹ yêu cầu chúng tôi và được chúng tôi cho phép thiết lập căn cứ trên quần đảo Touamotou và quân đảo Sociẻté. Sau hết, ngày mùng 9 tháng ba, tướng Patch đến Noumea, đem theo những lực lượng quan trọng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:10:34 pm Như vậy các lãnh địa Pháp ở Thải Bình Dương từ đây có nhiều may mắn tránh được xâm lăng. Tuy nhiên, trước khi thực hiện được sự cộng tác tại chỗ với đồng minh như hằng mong ước, chúng ta còn phải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Hẳn là, lúc đầu vẫn có sự giao hảo giữa Patch và d‘ Argenlieu. Nhưng chẳng được bao lâu sự có mặt của lực lượng quân sự, dô la và dịch vụ Mỹ giữa một dân tộc sống trong tình trạng nóng sốt sau hồi bị phong tỏa, đã làm gia tăng nguyên do rối loạn. Một phần dân quân có tham vọng địa phương không tuân lệnh cao ủy và tìm sự che chở của tướng Patch, ông này đã lầm lẫn mà dung túng cho họ. Mặt khác, thống đốc Sautot không chịu phục tòng d‘Argenlieu, ông ta tìm cách thân thuộc với dân chúng dễ lợi dụng quần chúng vào mục tiêu nào đó. Sau khi đã nản lòng chờ đợi ít lâu, tôi triệu hồi Sautot để bồ nhiệm ông đi nơi khác, vả chăng việc này cũng là để trả ơn công lao của ông ; mới đầu ông cũng nghe lời, nhưng sau ông viện lý « lệnh trên đã làm cho dân chúng vô cùng công phẫn » ông « hoãn cuộc khởi hành đến một ngày vô hạn định. » Nhưng dầu sao Saútot cũng được mời xuống tầu một cách cương quyết nhưng dưới hình thức đứng đắn. Tôi gửi Montchamp từ Tchad sang thay thế ông và gửi đại tả Conchard từ Luân Đôn sang để chỉ huy quân đội. Nhưng sau đó đã có những cuộc biểu tình bạo động ở Noumea và ngoài rừng rậm ; người Mỹ công khai khuyến khích những hành động gây rối loạn ấy. Tôi cảm thấy trước sẽ có những phong trào này khác cho nên đã có lời cảnh giác Hoa Thịnh Đốn ; mặt khác, tôi cảnh cáo Patch rằng «chúng tôi không thể chấp nhận để ông ta xen lấn vào việc của nước Pháp. Nhưng, đồng thời tôi yêu cầu d'Argenlieu « cố gắng gây mối giao hảo cá nhân với tướng Patch và nếu có thể thì cố gắng lấy lại cảm tình của dân chúng đế bớt sự rối loạn.» Sau ba ngày lộn xộn người ta trở lại với lương tri và d‘ Argenlieu nắm được then chốt chỉ huy. Điều đó rất quan trọng vì ngày mùng 6 tháng năm ở Corregidor, ngày mùng 10 ở Mindanao, những lực lượng Mỹ cuối cùng ở Phi luật Tân đã đầu hàng, trong khi tại biển Corail Đông Bắc Úc Châu có cuộc giao tranh giữa hạm đội Nhật Bản và hạm đội Hoa Kỳ, tất cả đều tùy thuộc cuộc hải chiến này. Bất cứ lúc nào Noumea cũng có thể bị tấn công. Đứng trước nguy cơ hiển nhiên ấy dân chúng chán ghét những vụ rối loạn mới đây, trở lại siết chặt hàng ngũ xung quanh nhà cầm quyền Pháp. Những thủ lãnh các vụ biến loạn được gửi sang Syrie. Về phía Patch, ông ta cũng đến thăm d‘Argenlieu đế xin lỗi vì đã nhúng tay vào vụ «hiểu lầm». Tôi gửi điện văn cho tướng Mỹ bày tỏ cho ông biết sự tín cẩn của tôi và của Pháp chiến đấu miễn là ông thân thiện với vị cao ủy của nước Pháp. Sau đó Mỹ và Pháp cùng nhau quyết chí cầm súng ra trận. Vả chăng họ cũng không cần phải khó nhọc gì cả. Vì giữa lúc ấy quân Nhật thua trận biển Corail, phải từ bỏ mộng tấn công Úc Châu và Nouyelte-Calédonie. Như vậy, chiến tranh thúc đẩy Hoa Kỳ duy trì những liên lạc ngày càng mật thiết hơn với chúng ta. Cần phải nói rằng dân chúng Hoa Kỳ sẵn lòng giao hiếu với chúng ta. Người Mỹ theo bản năng của họ hướng về lý tưởng cho nên khi bước vào cuộc thánh chiến này, họ quyết tâm thực hiện nỗ lực lớn lao và huy hoàng để trang bị và động viên, trong một bầu không khí như vậy tất nhiên các chiến sĩ Pháp Tự Do dễ lấy được cảm tình của họ. Tất nhiên phải có hậu quả đến chính sách chính trị. Tháng hai năm 1942 chúng tôi đã có thể bổ túc phái đoàn Hoa Thịnh Đốn bằng một phái đoàn quân sự giao cho đại tá Chevigné. Ngày mùng 1 tháng ba, trong một bản tuyên cáo công khai, nước Mỹ thừa nhận « các hải đảo Pháp ở Thái Binh Dương đều thực sự dưới quyền kiểm soát của Uỷ Hội Quốc Gia Pháp, chính phủ Hoa Kỳ sẽ điều đình và tiếp tục điều đình với người cầm quyền kiểm soát ấy. Đối với Trung Phi, bộ Liên Bang Hoa Kỳ tuyên bố trong một thông cáo ngày mùng 4 tháng tư rằng họ thừa nhận quyền hành của Pháp Tự Do, trong khi ấy họ sẽ hồ nhiệm một tổng lãnh sự Hoa Kỳ đến Brazzayille. Họ yêu cầu chúng ta cho phép sử dụng phi trường Pointe- Noire làm căn cứ cho oanh tạc cơ hạng nặng,chúng ta nhận lời với điều kiện họ cung cấp ngay cho chúng ta 8 phi cơ « Lockheed » cần thiết cho việc giao thông của chúng ta. Sau một cuộc điều đình khít khao, chúng ta nhận được phi cơ, nhờ vậy đại tá có thể thiết lập một đường bay Pháp từ Brazzayille đến Damas, phi cơ Mỹ cũng có thể dùng Brazzayille làm trạm nghỉ. Giữa người Mỹ và chúng ta, bầu không khí đã thêm sáng sủa và chúng ta không ngừng củng cố địa vị của nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:11:16 pm Trong khi chúng ta giảm bớt lần hồi sự cách biệt ngoại giao giữa Hoa Thịnh Đốn và Pháp Tự Do thì sự liên lạc liên minh giữa chúng ta và Mạc Tư Khoa được thành lập ngay một lúc. Cần phải nói rằng vì có cuộc tấn công của Hitler làm cho Nga Sô lâm nguy chơ nên mọi thủ lục đều được giản dị hóa. Vả chăng người Sô Viết cũng nhận thấy chính sách phi lý của họ khi họ chỉ điều đình với nước Đức vào những năm 1917 và 1939, họ đã quay lưng vào nước Pháp và nước Anh. Người ta nhận thấy các yếu nhân điện Cẩm Linh trong lúc rối loạn cực điểm vì cuộc tấn công của Hitler, đã thay đổi ngay thái độ không cần đắn đo gì cả. Đài phát thanh Mạc Tư Khoa không ngừng mạt sát «đế quốc Anh » và « tụi de Gaulle đánh giặc mướn » chờ đến lúc chiến xa Đức vượt biên giới Nga Sô, chỉ một giờ sau người ta đã nghe thấy họ ca ngợi Churchill và de Gaulle. Trong trường hợp nào, nước Nga bị lôi vào vòng chiến cũng là một biến cố quan trọng mở ra cho nước Pháp bị tàn phá nhiều hy vọng lớn lao. Nếu Đức không thanh toán được lực lượng Nga Sô một cách mau chỏng thì lâu ngày quân Nga sẽ làm cho lực lượng Đức hao tổn ghê gớm. Hẳn là tôi không lạ gì một cuộc chiến thắng trong đó người Sô Viết đóng góp phần lớn sẽ gây ra nhiều tai họa lớn lao khác cho thế giới sau này. Tuy chúng ta chiến đấu bên cạnh họ nhưng chúng ta vẫn phải để ý đến vấn đề ấy. Nhưng tôi nghĩ rằng trước khi làm triết lý chúng ta cần sống cái đã, nghĩa là chúng ta cần chiến thắng. Nước Nga là cơ hội để chúng ta chiến thắng. Vả chăng, sự hiện diện của Nga Sô trong hàng ngũ đồng minh đem lại cho Pháp Chiến Đấu một yếu tố quân bình đối với người Anh Mỹ ; tôi muốn dùng yếu tố ấy. Tôi đến Damas sau khi các bộ đội của chúng ta đã tiến vào đây, ngày 23 tháng sáu 1941 tôi được tin người Nga và người Đức bắt đầu thù nghịch nhau. Tôi đã quyết định ngay mình phải làm gì. Từ ngày 24, tôi gửi cho phái đoàn Luân Đôn chỉ thị sau đây : « Hiện thời chúng ta không bàn đến tật xấu và tội ác của chế độ Nga Sô, chúng ta cần phải tuyên bố như Churchill rằng chúng ta hợp tác thẳng thắn với người Nga vì họ chiến đấu chống quân Đức... Không phải quân Nga tàn phá nước Pháp, chiếm Ba Lé, Reims, Bordeaux, Strasbourg... Phi cơ, chiến xa, lính Đức mà người Nga đã tiêu hủy và sẽ tiêu hủy sẽ không còn đấy để ngăn trở chúng ta giải phỏng nước Pháp, » Tôi đã chỉ thị cho các phái đoàn của chúng ta dùng luận điệu ấy để tuyên truyền. Đồng thời tôi yêu cầu họ thay mặt tôi nói với ông Maisky, đại sứ Sô Viết ở Luân Đôn : « Dân tộc Pháp sát cánh với dân tộc Nga chống lại quân Đức. Như vậy, chúng tôi mong rằng sẽ tổ chức liên lạc quân sự với Mac Tư Khoa. » Gassin và Dejean đến thăm ông Maisky và ông này ra vẻ mặn mà ngay. Còn như hậu quả thực dụng thì sự gián đoạn bang giao giữa Vichy và Mạc Tư Khoa dưới áp lực của Hitler sẽ làm cho mọi việc được dễ dàng. Bởi thế cho nên từ Beyrouth, ngày mùng 2 tháng tám, tôi yêu cầu Cassin và Dejean hỏi ông Maisky cho biết « nước Nga có sẵn sàng thiết lập liên lạc trực tiếp với chúng ta không... có ý định tuyên bố ý muốn phục hồi nền độc lập và sự hùng mạnh của nước Pháp, nếu có thể được thì thêm chữ vẹn toàn quốc gia. » Những cuộc hội đàm đưa đến việc trao đổi thư tín của ông Maisky với tôi vào ngày 26 tháng chín. Đại sứ Liên Bang Sô Viết nhân danh chính phủ ông tuyên bố rằng chính phủ ông «thừa nhận tôi là lãnh tụ Pháp Tự Do... chính phủ ông sẵn sàng liên lạc với Hội Đồng Phòng Thủ Đế Quốc Pháp để giải quyết mọi vốn để hợp tác với các lãnh thổ hải ngoại dưới quyền lãnh đạo của tôi... chính phủ ông sẵn sàng giúp đỡ và hỗ trợ người Pháp Tự Do trong cuộc trạnh đấu chung... chính phủ ông quyết định phục hồi đầy đủ và toàn vẹn nền độc lập và sự hùng mạnh của nước Pháp... » Tuy nhiên Nga Sô không nói gì đến sự vẹn toàn quốc gia — cũng như nước Anh không nói đến trong thỏa ước ngày mùng 7 tháng tám 1940. Sau đó ít lâu, chính phủ Sô Viết gửi ông Bogomolov làm đại diện bên cạnh Uỷ Hội Quốc Gia. Ông Bogomolov từ Vichy sang, ông đã làm đại sứ bên cạnh Pétain từ một năm nay. Ỏng không hề lúng túng, ông thích ứng được ngay với điều kiện mới trong công việc của ông. Tuy nhiên, chưa bao giờ tôi nghe ông nói một lời ác cảm đối với những người vừa mới làm việc với ông trước đây : Thống Chế và các bộ trưởng của Thống Chế. Trong một cuộc hội đàm ông còn kể lại cho tôi nghe câu chuyện sau đây : « Tại Vichy, tôi có thời giờ rảnh rang để giấu tên tuổi, một nông dân tay kẻo cày bảo tôi : « Người Pháp bị thua trận thì đáng buồn thật. Nhưng ông xem thửa ruộng này ! Tôi còn được cầy ruộng là nhờ người ta đã khéo thu xếp với quân Đức để lại ruộng cho tôi. Rồi ông xem người ta sẽ thụ xếp nữa để người Đức đi khỏi nước Pháp.» Tôi giả thiết rằng ông dùng cách nói bóng gió này để tỏ ra ông am hiểu tình hình nước Pháp, và đồng thời giải thích thái độ của Nga Sô. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:11:33 pm Từ ngày ấy tôi thường gặp ông Bogomolov. Tuy ông buộc lòng phải có một thái độ phù hợp với vai trò đại diện ngoại giao nhưng nếu tình thế cho phép ông vẫn có sức bày tỏ qua cử chỉ và hành động rằng ông cũng sống như một người bình thường. Khi ông đưa ra hay nhận lãnh một bản thông điệp chính thức, ông trưng ra thái độ cứng rắn, dè dặt, nhất phiến, nhưng vào những dịp khác ông tỏ ra người có văn hóa cao, nhã nhặn và thiệp liệp. Ông biết dùng hài hước để phán đoán người và vật, có khi ông còn biết mỉm cười Tôi cần phải nói rằng tuy kỷ luật thép Nga Sô bắt buộc cán bộ của họ phải đeo một bộ giáp sắt không kẽ hở nhưng dưới bộ giáp sắt đó họ vẫn sống như một người thường. Về phía chúng tôi, chúng tôi đã gửi tướng Petit sang Mạc Tư Khoa giữ liên lạc quân sự. Người Sô Viết có ngay thái độ niềm nở trọng vọng: hội nghị tham mưu, viếng thăm mặt trận. Staline đích thân tiếp đón. Vả chăng, sau cùng thì tự hỏi phải chăng sự niềm nở đón tiếp tướng Petit chỉ là mảnh lới nhà nghề. Trong trường hợp nào thì phúc trình các nơi gửi về cũng cho tôi cảm tưởng rằng quân đội Nga Sô trước tiên bị quân Đức đánh tan rã nhưng dần dần đã phục hồi, toàn thế dân tộc vùng lên chống cự ; trong lúc quốc gia nguy biến. Staline tự phong mình làm Thống Chế, ông không rời bỏ bộ đồng phục nữa, ông không muốn xuất hiện như một người được chế độ ủy nhiệm đứng ra cầm quyền mà như một lãnh tụ của Nga tự ngàn xưa. Địa đồ ghi bãi chiến trường mênh mông khắp thế giới được treo trên tường các văn phòng của chúng ta. Cỏ thể trông thấy nỗ lực quân sự vĩ đại của người Đức. Ba quân đoàn : Von Loeb, Von Bock, Von Rùmđstedt đã tiến vào trung tâm nội địa nước Nga chỉ trong ba tháng, họ bắt được hàng trăm ngàn tù binh và đoạt được rất nhiều chiếm lợi phẩm. Nhưng đến tháng chạp, ở xung quanh Mạc Tư Khoa, Joukov phản công mãnh liệt, nhớ có mùa đông đến sớm và lạnh lẽo hơn mọi khi, ông chặn đứng được địch rồi đến lượt địch phải rút lui. Leningrad không thất thủ. Sebastopol vẫn đứng vững. Đã rõ là Hitler chưa bắt được bộ tư lệnh Đức tuân theo triệt đế chiến lược của mình, chỉ có chiến lược" ấy có tầm quan trọng quyết định, đó là việc tập trung tất cả các lực lượng cơ giới tiến theo một hướng duy nhất vào thẳng thủ đô Nga để đánh trúng trái tim của địch. Mặc dầu có những chiến thắng vẻ vang trong các cuộc hành binh ở Ba Lan, Pháp, Ba Nhĩ Cán. Đức Quốc Trưởng lần này cũng phải trở lại nền nếp cổ phong, phân chia phương tiện xung kích đồng đều cho ba vị thống chế, tỏa rộng một mặt trận, chứ không phóng ra một mũi dùi cực mạnh. Người Nga đã qua sự kinh ngạc lúc ban đầu, họ lợi dụng được địa thế rộng mông mênh để bắt quân Đức phải trả giá đắt. Trong khi chờ đợi, chúng tôi cố gắng góp phần trực tiếp vào mặt trận phương Đông, mặc dầu sự đóng góp rất khiêm tốn. Các tầu buôn của chúng ta tham dự vào các đoàn tầu đồng minh vượt qua Bắc Băng Dương trong những điều kiện cực kỳ nguy hiểm, chuyên chở vật liệu đến Mourmansk. Trước tiên người Anh không chịu cho hai sư đoàn nhẹ của Larminat thành lập ở Trung Đông tham dự vào mặt trận Libye, đến tháng hai tôi ra lệnh cho tướng Catroux sửa soạn gửi một sư đoàn sang Iran và miền Caucase, điều đó làm cho người Nga khoan khoái nhưng làm cho ngưòi Anh phải suy nghĩ. Sau đó, các bộ đội của Larminat được đưa ra mặt trận đương cự với quân của Rommel, tôi gửi sang Nga Sò đại đội khinh binh « Normandie », sau gửi thêm cho đoàn «Normandie- Niemen», chi đoàn này chiến đấu rất anh dũng,đó là đơn vị Tày Phương duy nhất chiếu đấu trên mặt trận Đòng Phương. Ngược lại, chúng tôi đã chứng kiến ở Luân Đôn một toán 15 sĩ quan và 200 quân nhân thoát khỏi trại giam Đức và trốn sang Nga nhưng bị giam giữ ở đấy. Đại úy Billotte cầm đầu toán người này. Sau khi khởi sự chiến cuộc Đức - Nga họ được trả tự do và trở về Luân Đôn bằng ngã Spitzberg trèn một đoàn tầu từ Arkhangelsk trở về. Ngày 20 tháng giêng 1942 tôi nói chuyện trên đài phát thanh, tôi chào mừng sự phục hồi quân sự của Nga Sô và xác nhận sự liên minh với Nga Sô trong hiện tại cũng như trong tương lai. Đến tháng hai, Roger Garreau công sử toàn quyền tại Vọng Các đã theo Pháp Tự Do được gửi đến Mạc Tư Khoa làm đại lý Ủy Hội Quốc Gia Pháp. Trong ba năm, ông đại diện nước Pháp tại Nga Sô, ông phục vụ một cách thông minh và đắc lực, ông tiếp xúc với đủ mọi nơi có thể tiếp được và cho chúng ta biết đủ mọi tin tức cần thiết. Ngay từ ngày đến nhiệm chức, ông đã tiếp xúc với các ông Molotov, Vichynsky, Ủy viên và phó ủy Ngoại Giao, ông cũng tiếp xúc cả với ông Lozovsky, thứ trưởng, cả ba người đều cho biết ý muốn của chính phủ họ thiết lập với Pháp Tự Do những liên lạc càng chặt chẽ càng hay. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:12:05 pm Đến tháng năm ông Molotov sang Luân Đôn. Ngày 21 tôi mở cuộc hội đàm sâu rộng. Tháp tùng ông có ông Bogomolov, còn tôi có ông Dejean. Ngày hôm ấy cũng như về sau này tôi thấy ông Molotov là một người hầu như cả thể chất lẫn tinh thần được cấu tạo để đảm đương vai trò của ông. Ăn nói nghiêm chỉnh, cử chỉ cao nhã, ân cần nhưng đứng đắn đúng mức, ông biết quan sát nội tâm ông để trình bày ý nghĩ của ông rất từ tốn và ông cũng biết chú ý nghe người khác nói. Nhưng không bao giờ ông SO’ sẩy mà nói ra điều gì kín đảo bao giờ. Không có cách nào làm cho ông xúc động, bật cười hay tức giận. Đề cập đến vấn đề này người ta cũng có cảm tướng như ông biết hết hồ sơ, ông ghi nhận không thiếu sót những yếu tố mới do cuộc thảo luận đem lại, ông diễn đạt ý tưởng đúng với lập trường chính thức của ông, nhưng không bao giờ ông vượt ra ngoài phạm vi những điều đã được quyết định ở nơi khác. Trước đây, ông đã kỷ kết với Ribbentrop thỏa ước Đức - Nga một cách chắc chắn, không khác nào thái độ của ông lúc này để điều đình với Tây Phương. Ông Molotov chỉ muốn là một bánh xe thật trơn tru của một guồng máy cay nghiệt, tôi nhận thấy đây là sự thành công trọn vẹn của một hệ thống độc tài. Tôi nghiêng mình chào nét vẻ cao siêu đó. Nhưng mặc dầu người ta có giấu giếm tôi cái gì về sự thật thâm sâu của chế độ, tôi cũng cảm thấy một sự buồn rầu man mác. Trong một cuộc hội đàm ở Luân Đôn, bộ trưởng Ngoại Giao Liên Sô đồng ý với tôi về điều gì phải thực hiện ngay, về phần chính phủ của ông cũng như về phần úy Hội Quốc Gia Pháp. Pháp Tự Do sẽ thúc đẩy đồng minh Mỹ và Anh mở ngay một mặt trận thứ hai ở Âu Châu. Mặt khác Pháp Tự Do cũng dùng ảnh hưởng bang giao và quần chúng của mình để giúp Nga Sô thoát khỏi tình trạng cô lập của họ từ lâu nay. Về phía Nga Sô, họ sẽ ủng hộ chúng ta ở Hoa Thịnh Đốn và Luân Đôn để tái lập nền thống nhất quốc gia và Đế Quốc bằng sự nghiệp chiến chinh. Khái niệm thống nhất ấy sẽ áp dụng cho việc hành chánh tại các lãnh thổ — thí dụ Madagascar —, cho các công tác được gọi là có tính cách song song nhưng thực ra có tính cách ly tâm mà người Anh dung túng ngoài ý muốn của chúng ta, sau hết, cho các phong trào kháng chiến tại Pháp mà Mạc Tư Khoa thừa nhận rằng không có chính phủ ngoại bang nào, kể cả Sô Viết, có quyền tách rời khỏi quyền chỉ đạo của tướng de Gaulle. Còn như tương lai thì chúng tôi đồng ý rằng Pháp và Nga sẽ thỏa hiệp với nhau đế xây dựng hòa bình, ông Molotov nói : « Chính phủ của tôi là đồng minh của các chính phủ Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn. Điều cốt yếu là chúng tôi cộng tác mật thiết với họ để theo đuổi chiến tranh. Nhưng Nga Sô muốn có sự đồng minh độc lập với nước Pháp ». Đã có nhiều nỗ lực của Pháp Tự Do để tăng gia mối liên lạc với Hoa Thịnh Đốn và Mạc Tư Khoa, nhưng trung tâm của nước Pháp vẫn phải hoạt động ở Luân Đôn và công việc của nước Pháp hầu như bị sức mạnh của hoàn cảnh làm cho bị cột liền vào với công việc của người Anh. Như vậy chúng ta buộc lòng phải giữ liên lạc chạt chẽ với họ hơn bao giờ hết. Nhưng chúng ta càng lớn mạnh thì sự xen lẫn của họ càng khó chịu cho chúng ta. Tuy nhiên Nga và Mỹ tham giạ chiến cuộc, sự liên lạc với hai nước khổng lồ ấy đặt ra cho người Anh nhiều hệ lụy nặng nề, tình trạng ấy có thể làm cho họ xích gần lại với chúng ta dễ đoàn kết thẳng thắn với chúng ta, theo đuổi một chính sách gần gụi với chúng ta đối với các vấn đề Âu Châu, Trung Đông, Phi Châu, Thái Bình Dương. Chúng ta sẵn sàng thực hiện sự thay đổi ấy và có khi chúng ta có cảm tưởng rằng một vài nhân vật chỉ đạo của nước Anh cũng có ý kiến như chúng ta. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:12:30 pm Thỉ dụ ông Anthony Eden, vị bộ trưởng Anh này, tuy có phong độ một người Anh và một bộ trưởng, nhưng cũng tỏ ra người khoáng đạt và nhạy cảm ở đất liền Âu Châu hơn là người ở hải đảo, ông có tâm hồn một người bình thường hơn là tác phong của một nhân viên chính phủ. Ông là đứa con cưng của nền nếp cổ truyền Anh : Eton, Oxford, Đảng bảo thủ, Hạ Viện, Bộ Ngoại Giao ; trên chính nghiệp của ông ông đã từng ấy đoạn đường, nhưng tâm hồn ông còn biết mở ra đón những ngọn gió thần hứng và cái cách. Nhà ngoại giao hoàn toàn tận tâm với quyền lợi của xử sở này không coi thường quyền lợi của người khác và còn để tâm đến vấn đề đạo đức quốc tế giữa một thời đại mà người ta chỉ dùng những sự tàn bạo vô liêm Sỉ. Tôi thường có việc phải giao thiệp với ông Eđen. Nhiều vấn đề phái thảo luận quả là rất khó chịu. Trong phần lớn những cuộc thảo luận ấy không những tôi khen ngợi trí thông minh tuyệt vời của ông, sự hiểu biết công việc của ông, cách cục phong nhã của ông, mà tôi còn khen ngợi tài nghệ tạo ra một bầu không khí thân hữu thuận lợi cho Sự thỏa hiệp nếu có thể thỏa hiệp được và tránh được sự thương tồn cho hai bên nếu không thể thỏa hiệp được. Bên trên hết, tôi tin chắc rằng đối với nước Pháp, ông Anthony Eden rất có thiện, cảm. Phần lớn kiến thức văn hóa của ông, ông hấp thụ của nước Pháp. Nước Pháp xuất hiện tư tưởng chính trị của ông như sự kiện cần thiết cho sự quân bình của một thế giới lung lạc bởi nhiều yếu tố dã man. Sau hết, con người nhân từ bác ái này không thể không rung động trước sự thống khổ của một dân tộc lớn. Tuy nhiên, thành tâm thiện chí của Eden không thể làm cho sự liên minh trở thành một đóa hoa hồng không gai. Tôi biết rằng trên bước đường cố gắng của ông ông thường gặp phải thái độ gồ ghề và đa nghi của chúng ta. Nhưng phần lớn sự khó khăn là ở phía người Anh : thái độ ngờ vực của bộ Ngoại Giao, tham giọng của thực dân, thành kiến của quân nhân, âm mưu của tình bảo. Mặt khác, giới chánh khách ở Luân Đôn nói chung có cảm tình với Pháp Tư Do, nhưng bị ảnh hưởng của những người không hẳn là có cảm tình ấy. Một vài giới bảo thủ cau mặt khi nghe những người Pháp đeo thập tự Lo Ren này nói đến cách mạng. Nhiều yếu tố đảng lao động tự hỏi rằng de Gaulle và các đồng chí của ông ta liệu có theo phát xít không ? Tôi còn thấy ông Attlee nhẹ nhàng bước vào phòng tôi yêu cầu tôi cho biết những bảo đảm để một người dân chủ như ông được yên lòng, khi đã nghe tôi nói rồi, ông mới mỉm cười mà rút lui. Xét cho cùng thì mọi việc đều tùy thuộc vị Thủ Tướng, ông này không thể chấp nhận được sự độc lập của Pháp Tự Do. Ngoài ra, mỗi lần chúng tôi phải đụng độ với ông vì bênh vực quyền lợi của hai khối dân tộc, ông lại cho rằng sự và chạm ấy là việc riêng của cá nhân ông. Tình thân hữu của ông đối với tôi càng nhiều bao nhiêu thì ông lại càng tê tái và buồn rầu bấy nhiêu. Tâm hồn ông đã như vậy, lại thêm mánh lới chiến thuật chánh trị của ông nữa, cho nên ông thường nổi những cơn tức giận lôi đình khiến cho tình thâm giao bị thương tồn. Vả chăng còn nhiều lý do khác làm cho vị chính khách lỗi lạc này hay gắt gỏng. Trong thời kỳ ấy người Anh đã có những nỗ lực đáng khen và đáng phục, nhất là trong các trận đánh của tiềm thủy đĩnh, nhưng họ cũng chịu đựng những tổn thất nặng nề, tuy rằng địch không có phương tiện vật chất hùng hậu hơn họ. Ngày mùng 10 tháng chạp 1941 ngoài khơi Mã Lai Á thiết giáp hạm Princes of wales và tuần dương hạm lớn Repulse đã bị phi cơ Nhật đánh chìm trước khi cho nổ một tiếng đại bác. Ngày 15 tháng hai 1942, 7300 quân Anh ở Tân Gia Ba đầu hàng sau một thời gian ngắn chống cự với Nhật. Đến tháng sáu, mặc dầu có những phương tiện hùng hậu của người Anh xúc tích ở Trung Đông, tướng Đức Rommel cũng đánh tan phòng tuyến của Quân Đoàn Vlll và đẩy lui về tận Alexandrie trong khi ấy thì 33.000 quân vội vàng đầu hàng quân Đức, điều đó khó mà giải thích vì đạo quân này trước đầy đã giữ vững được Tobrouk. Ông Churchill là người sáng suốt hơn ai hết để ước lượng hậu quả của sự thảm bại đến tình hình chiến sự, ông cũng đau khổ vì sự thảm bại ấy như một người Anh và một người chiến sĩ. Cần phải nói thêm rằng trong các giới chỉ đạo một số người không quên âm thầm đồ lỗi cho ông đã gây ra tổn thất của quân đội Anh. Tuy rằng toàn thể nước Anh coi Churchill là tai mắt của mình nhưng báo chí, nghị trường, các ủy ban, các hội đoàn, không thiếu những người chỉ trích ông gay gắt. Do đó mà ông Churchill, trong những ngày tháng đầu năm 1942 không sẵn sàng hòa dịu và hỉ hả nhất là đối với tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:13:18 pm Sau hết có lẽ Thủ Tướng Anh đã quyết chí không làm gì quan trọng mà không có sự đồng ý của Roosevelt. Hơn bất cứ một người Anh nào, ông thấy vướng víu vì cung cách của Hoa Thịnh Đốn, ông khó chịu vì tình trạng lệ thuộc vào Hoa Kỳ khi phải nhận viện trợ của họ, ông cay đắng vì giọng kẻ cả của Tổng Thống Mỹ đối với ông, nhưng ông đã quyết chí một lần cho cả mọi lần nghiêng mình trước nhu cầu cấp thiết duy trì sự đồng minh của Hoa Kỳ. Bởi thế cho nên ông không muốn có một thái độ đối với Pháp Tự Do mâu thuẫn hẳn thái độ của tòa Bạch Ốc. Roosevelt có thái độ ngờ vực đối với de Gaulle, Churchill sẽ tỏ ra dè dặt. Khi tôi đến Luân Đôn vảo tháng chín 1941, Churchill đang thời kỳ buồn bực lớn. Ông khó nuốt trời những biến cố xảy ra ở Syrie và Liban giữa chúng tôi và Anh Quốc. Ngày mùng 2 tháng chín ông viết thư cho tôi biết rằng vì thái độ của tôi lúc này ông có gặp tôi cũng vô ích. Trước Hạ Viện ông tuyên bố những điều đáng lo ngại vào ngày mùng 9 tháng chín. Hẳn là ông thừa nhận rằng «trong cường quốc Âu Châu,địa vị của nước Pháp ở Trung Đông có ưu thế hơn cả». Nhưng ông vội thêm rằng «không có vấn đề nước Pháp duy trì ở Syrie địa vị của họ có trước ngày chiến tranh... Trong thời chiến cũng không thể nói đến việc để cho Pháp Tự Do thừa hưởng quyền lợi của Vichy.» Cũng như thường lệ, sự bất bình của ông Churchill kèm theo một tình trạng căng thẳng trong mối liên lạc Pháp Anh. Trong mấy ngày liền chính phủ Luân Đôn làm như không có việc gì điều đình với chúng ta và họ đóng cửa không tiếp chúng ta khiến cho tôi ngưng việc tham dự vào chương trình phát thanh của đài Luân Đôn. Tuy nhiên việc đời vẫn có nhịp thăng trầm của nó, sau chuyến giận dỗi ấy, chúng tôi lại tiếp nối liên lạc với nhau. Ngày 15 tháng chín, tôi hội đàm với ông Churchill, tuy lúc khởi sự rất khó khăn nhưng lúc chấm dứt lại có kết quả. Để kết luận, ông cam đoan với tôi rằng chính sách Trung Đông của chính phủ ông vẫn giữ đúng như đã quy định trong thỏa ước Le Caire giữa Anh và Pháp. Để biết rõ thêm các cạnh khía, tôi trở lại thăm ông Eden nhiều lần vào tháng mười và tháng một. Chúng tôi đi đến một sự dàn xếp về các điều chính cốt. Nước Anh thừa nhận rằng nước Pháp vẫn còn quyền ủy trị ở Trung Đông và tướng de Gaulle thi hành quyền ấy cho đến khi có những hiệp ước khác phê chuẩn theo pháp chế Cộng Hòa Pháp, nghĩa là ngoài thực tế, khi nào chấm dứt tình trạng chiến tranh. Nước Anh chấp nhận rằng Pháp Tự Do tuyên bố nền độc lập của Syrie và Liban sẽ không làm thay đổi gì tình trạng pháp lý. Ngoài ra chúng tôi còn đồng ý rằng các thỏa ước Lyttelton de Gaulle sẽ dùng làm hiến chương để quy định mọi liên lạc Anh - Pháp ở Trung Đông. Ngày 27 tháng chín, tướng Catroux xác định độc lập và chủ quyền của nước Cộng Hòa Syrie dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Cheik Tagedđine, ngày 26 tháng một, độc lập và chủ quyền của nước Cộng Hòa Liban dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Alfred Naccache ; nước Anh dị nghị nhiều về quyết định của Catroux nhưng rồi cũng ưng chịu và thừa nhận hai nước cộng hòa cùng hai vị Tổng Thống nói trên. Mặt khác, tôi thông báo những quyết định ở Syrie và Liban cho hội Quốc Liên ngày 28 tháng một, cho chánh phủ Hoa Kỳ, chính phủ Thổ và các đồng minh khác ngày 29 tháng một. Văn kiện nói rõ rằng «những điều khoản ấy không làm thay đổi tình trạng pháp lý xuất phát từ văn kiện trao quyền ủy trị, tình trạng pháp lý ấy sẽ tồn tại cho đến ngày ký kết những văn kiện quốc tế mới ». Chính phủ Anh không kháng nghị gì khi nhận được những văn kiện ấy, vả chăng chính họ cũng gợi ý cho chúng tôi. Như vậy, người ta có thể cho rằng vấn đề đã được giải quyết ít ra cho đến ngày có hòa bình. Tuy rằng tôi là người thận trọng tôi cũng viết thư cho tổng phải đoàn của chúng ta ở Trung Đông rằng theo ý tôi thì « đứng trước những khó khăn tại các xứ A Rập, nước Anh cũng như chúng ta muốn chấm dứt tình trạng tranh giành quá khứ và bắt đầu cuộc đoàn kết của hai đại cường Hồi Giáo ». Tôi ra chỉ thị cho phải đoàn : « tránh việc gia tăng khó khăn cho đồng minh của chúng ta và tìm mọi dễ dàng cho họ trong tinh thần hợp tác chân thành, nhưng phải bảo vệ sự toàn vẹn của địa vị và chủ quyền Pháp.» Khốn thay, nói như vậy là chắc bằng ở cái gì không có thực. Thực ra chính sách của người Anh tuy không khước từ chủ quyền trên lý thuyết nhưng vẫn không tôn trọng chủ quyền ấy ngoài thực tế. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:13:49 pm Nhiều việc ngẫu nhiên xảy ra tại Trung Đông đã làm cho sự xung đột giữa người Anh và người Pháp vẫn còn. Người Anh đã tuyển một đội kỵ binh người bản xứ, điều này bất hợp pháp. Họ tự ý tuyên bố tình trạng phong tỏa Djezưch để chiếm lấy quyền hành, ở đây tình hình xáo trộn vì ảnh hưởng cuộc nổi loạn ở Irak; tất nhiên chúng ta ngăn cản họ. Họ lạm quyền xen lấn vảo hoạt động của Cục Lúa Mì do chúng tôi thành lập ở Trung Đông, họ bắt buộc phải được dự phần quản trị với mục đích bảo vệ nền hành chánh địa phương. Tướng Wilson đe dọa sẽ trục xuất một vài công chức Pháp làm khó dễ cho ông, nhưng đe dọa cũng vô ích. Spears có những luận điệu khiếm nhã và đe dọa, ông ta còn can thiệp vào việc giao thiệp của phải đoàn trung ương Pháp với các chính phủ Damas và Beyrouth. Tướng Catroux bơi thuyền giữa một nơi đầy đá ngầm. Tuy ông không thích mưu mô và ông nhượng bộ người Anh nhiều hơn sự mong muốn của tôi, nhưng mỗi lúc ông lại bị đặt trước những vụ xâm lấn mới. Do đó mà Trung Đông lâm vào tình trạng dao động thường xuyên trong khi tại Luân Đôn diễn ra những cuộc điều đình cay cú. Đến tháng năm 1942, người Anh làm áp lực để đòi phải có bầu cử ngay ở Syrie và Liban. Ủy Hội Quốc Gia của chúng ta không hề chống đối một cuộc trưng cầu dân ý để lựa những chánh phủ đại diện toàn diện quốc dân. Những chánh phủ do chúng tôi thành lập chỉ là những cơ quan lâm thời. Đặc biệt là ở Damas ; riêng tôi, tôi rất lấy làm tiếc rằng Tổng Thống Hachem Bey không chịu trở lại cầm quyền. Nhưng chúng tôi chủ trương phải chờ ngày hết chiến tranh mới tổ chức cuộc bầu cử nghĩa là phải đợi khi nào hai quốc gia trở lại đời sống bình thường, chúng tôi nhẹ bớt trách nhiệm thừa ủy trị và phòng thủ, người Anh không còn có mặt ở đây để gây áp lực. Tuy nhiên, tướng Catroux bị ông Casey, bộ trưởng chính phủ Anh ở Le Gaưe, làm áp lực, ông hứa sẽ có bầu cử nay mai, báo chí công bố ngay tin ấy. Tôi đành phải chấp nhận sự thỏa thuận ấy nhưng chỉ thị cho ông đình hoãn ngày bầu cử. Nhưng cũng dễ nhặn thấy đây là nguồn gốc phát sinh nhiều cuộc và chạm giữa người Anh và người Pháp. Tại nơi khác không phải là không có. Đồng minh của chúng ta đi nước đôi ở Djibouti. Họ để cho lực lượng ít ỏi của chúng ta, một đại đội của Bouillon, tiếp tục phong tỏa trên đường bộ, trong khi họ đã giải tỏa đường biển. Thuộc địa này đã có thể nhận đồ tiếp tế từ Madagascar bằng tiềm thủy đĩnh, bằng tiểu hạm d‘ Iberville, để yên chí chờ đợi trời giải phóng giùm. Nhưng trong thời kỳ ấy người Anh điều đình với Négus một hiệp ước chấp nhận quyền giám hộ của họ trên lãnh thổ Ethiopie. Hành động của họ tại Addis- Abéba giải thích tại sao họ không làm gì ở Djibouti. Bởi vì, nếu họ giúp Pháp Tự Do tập kết được Somalie và nắm giữ hải cảng, hỏa xa và một lực lượng quan trọng, thì Pháp Tự Do có thể bảo vệ an ninh và mở đường thông thương cho Abyssinie. Trái lại, nếu Vichy chiếm đóng ở đấy thì người Anh sẽ độc quyền nắm giữ số mệnh của nhà vua và đất đai của nhà vua. Bởi thế cho nên Gaston Palewski không thuyết phục được họ phong tỏa thuộc địa ấy. Ông cũng không thuyết phục được người Anh và người Abyssinie ký thỏa ước tay ba chứ không phải tay đôi. Tuy nhiên, hoạt động của ông và các phụ tá của ông cũng có ích lợi là sửa soạn đường đất cho việc tập kết sau này. Palewski lập liên lạc với những yếu tố Pháp ở Djibouti và người bản xứ, tuyên truyền bằng truyền đơn và đài phát thanh, lập liên lạc với tướng Platt : hậu quả là đến ngày tình thế chín mùi, việc tập kết Somalie chỉ còn là một vấn đề hình thức. Mặt khác, ông lập lại đại diện của nước Pháp ở Addis - Abéđa.. Chúng ta lấy lại quyền lợi về hỏa xa ; các hoạt động tôn giáo và dân sự đình chỉ trong thời kỳ chiếm đóng của người Ý nay lại tiếp tục ; như vậy sứ quán Pháp lại mở cửa hoạt động. Tuy tôi phàn nàn sự chậm trễ nhưng tôi biết rằng trái cây đang chín trên bờ biển Hồng Hải. Nhưng bất thần người Anh lại can thiệp vào một nơi khác trên Đế Quốc của chúng ta khiến cho tôi lo ngại và tức bực đến cùng cực. Ngày mùng 5 tháng năm 1942 vào lúc 3 giờ sáng, một cú điện thoại của một hãng thông tin cho tôi biết rằng một hạm đội Anh vừa đổ bộ lên Diego — Suarez, Các đồng minh của chúng ta dùng vũ lực chiếm một thuộc địa Pháp mà không hỏi ý kiến chúng ta ! Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:14:35 pm Từ ngày xảy ra vụ Pearl Harhor, tôi vẫn cố gắng vận động nhiều cách đế bàn với chính phủ Luân Đôn về việc tập kết Madagascar : ngày mùng 10 tháng chạp, hội thảo với tướng Brooke, tham mưu trưởng ; ngày 16, thư gửi cho ông Churchill ; ngày 11 tháng hai kế hoạch hành binh gửi cho Thủ Tướng, tướng Brooke và Cao Uy Nam Phi, ngày 19 tháng hai thư thứ hai cho ông Churchill, sau hết, ngày mùng 9 tháng tư, điệp văn gấp cho ông Eđen. Trong các tài liệu ấy tôi đề nghị để đổ bộ một sư đoàn Pháp Tự Do lên Majunga và tiến nhanh về Tananarive, nếu cầu thì nhờ không quân Anh yểm trợ, trong khi đó đồng minh của chúng ta dùng nghi binh phong tỏa Diégo bằng đường biển. Mặt khác, tôi đòi hỏi cho Uỷ Hội Quốc Gia quyền hành chánh trên đảo này. Trong khoảng thời gian ấy, Nam Phi có vẻ như chú trọng đặc biệt đến việc này, tôi bèn hỏi ý kiến chính phủ Pretoria. Từ cuối năm 1941, tôi đã gửi đại tá Pechkoff làm đại diện Pháp Tự Do. Pechkoff được tướng Smuts yêu mến, tôi hy vọng rằng nếu Nam Phi muốn can thiệp vào vụ này thì ông sẽ không giấu giếm đại diện của tôi. Sau hết, đến tháng ba, Cao ủy Sicẻ ở Brazzayille đến thăm Nam Phi. Trong những cuộc hội đàm với Smuts và các bộ trưởng của ông, Sicẻ có cảm tưởng rằng Nam Phi không tự mình can thiệp vào Madagascar. Như vậy nỗ lực của tôi phải hướng về Luân Đôn, tôi yên trí rằng không thể nương tay một chút nào. Quả vậy, người Nhật nhảy vào vòng chiến làm cho Madagascar bị đe dọa. Cần đề phòng trường hợp quân Đức ép buộc Vichy phải để cho phi cơ và tầu ngầm Nhật sử dụng căn cứ Madagascar và làm tê liệt hải lộ đồng minh ngoài khơi Nam Phi. Chúng tôi biết khá nhiều tin tức về tâm trạng dân chúng trên đảo nhờ những người tình nguyện theo chúng tôi thỉnh thoảng trốn thoát khỏi đảo hay nhờ những thủy thủ tầu bè ghé bến đảo ấy. Trước tiên người ta không tán thành cuộc đình chiến 1940. Toàn quyền de Coppet có thể theo Pháp Chiến Đấu không khó khăn gì nếu ông ta cứ hành động theo lời tuyên bố trước. Nhưng ông ta không cương quyết. Vichy gửi ngay Cayla đến thay thế; Cayla được tướng không quân Jeannaud phụ tá, đã cố sức ru ngủ phe kháng chiến trước khi nhường chỗ cho toàn quyền Annet. Nếu Pétain ra lệnh cho phép quân Nhật đố bộ lên hải đảo hẳn là lệnh sẽ được thi hành. Nếu ông ra lệnh chống lại cuộc đổ bộ của đồng minh thì người ta cũng nghe ông. Nhưng vì chính sách của quân Anh vẫn có những ngẫu hứng theo truyền thống của họ cho nên Pháp Tự Do phải có mặt ở cuộc hành quân này. Xem như vậy thì đủ hiểu hành động và cung cách của người Anh đã làm cho tôi phải lo ngại đến mức nào. Nhất là ngày đánh DiegơSuarez, Hoa Thịnh Đốn công bố một thông cáo tuyên bố rằng « Hoa Kỳ và Anh quốc đồng ý quy hoàn Madagascar cho nước Pháp khi nào sự chiếm đóng đảo này không cần thiết cho cuộc hợp tác giữa các quốc gia đồng minh,» Nhưng trong khi chờ đợi Madagascar sẽ bị cắt ra khỏi lãnh thổ Pháp hay sao ? Madagascar sẽ sáp nhập vào cường quốc nào nếu không phải vào Anh - Mỹ ? Ở đây sự đỏng góp của Pháp vào cuộc chiến sẽ như thế nào ? Trong tương lai sẽ còn lại cái gi là chủ quyền của nước Pháp ? Chúng tôi phải đánh ván bài thật quyết liệt. Tôi cố ý để 6 ngày trôi qua rồi mới tiếp xúc với ông Eden theo lời mời của ông. Trong cuộc hội đàm ngày 11 tháng năm với ông, ông tỏ vẻ hơi lúng túng. Ông bảo tôi : « Tôi bảo đảm với ông rằng chúng tôi không có tham vọng đất đai ở Madagascar. Chúng tôi muốn người Pháp vẫn tiếp tục cầm quyền ». Tôi vội hỏi : « Nhà cầm quyền nào ? » Nghe lời ông Eden tôi hiểu rằng người Anh định thương lượng với toàn quyền Annet để giữ nguyên tình trạng ở Madagascar, mọi việc vẫn như trước ; được như vậy đồng minh sẽ đóng ở Diégo-Suarez và canh phòng phần còn lại của hải đảo! Tôi tuyên bố với ông Eden rằng chúng tôi phản đối kế hoạch ấy. « Một là kế hoạch thành công, kết quả sẽ là sự trung lập hóa một lãnh thổ Pháp dưới sự bảo đảm của đổng minh, điều mà chúng tôi không chấp thuận bao giờ. Hai là không đi đến đâu, trong vài tuần lễ nữa một mình các ông sẽ phải thực hiện một cuộc hành quân có tính cách một cuộc chinh phạt, vả chăng giả thuyết thứ hai này rất dễ trở thành sự thực vì người Đức biết cách ép buộc Vichy phải đánh lại các ông,» Ông Eden cững phải công nhận : « Quả là chúng tôi bước vào một cuộc phiêu lưu có thể gây ra nhiều rắc rối lắm. Nhưng tôi có thể cam đoan với ông, chính phủ tôi ước mong rằng rốt cuộc ông sẽ nắm giữ chủ quyền trên đảo Madagascar. Chúng tôi sẵn sàng tuyên bố công khai ». Họ quyết định để chính phủ Luân Đôn công bố một thông cáo có ý nghía đó ; bản thông cáo được đưa ra ngày 14 tháng năm : « Về vấn đề Madagascar, ý muốn của chính phủ Anh hoàng là Uỷ Hội Quốc Gia Pháp với tư cách đại diện cho Pháp Chiến Đấu và đã hợp tác với các Quốc Gia Liên Hiệp, sẽ đỏng vai trò dành cho họ trong nền hành chánh của lãnh thổ được giải phóng.» Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:15:19 pm Trong lời tuyên bố ấy có sự can kết quan trọng của người Anh. Ngày hôm sau, khi nói đến đài phát thanh tôi ghi nhận sự kiện ấy. Để bù lại tôi tỏ lòng tin tưởng đồng minh trong bài diễn văn của tôi. Nhưng tôi công khai bác bỏ mọi biện pháp tạm thời về Madagascar, tôi cho rằng ý muốn của nước Pháp là giữ toàn vẹn lãnh thổ không để cho ai chia cắt và trung lập hóa. Tôi còn nói thêm : « Nước Pháp muốn rằng Pháp Chiến Đấu sẽ nhân danh nước Pháp để chỉ đạo và tổ chức nỗ lực chiến tranh dưới đủ mọi hình thức và trên đủ mọi lãnh vực, để dại diện cho quyền lợi của nước Pháp đối với đồng minh và chống lại kẻ thù, để bảo vệ chủ quyền Pháp trên các lãnh thổ đã được giải phóng hay sẽ được giải phóng ». Cũng ngày hỏm ấy, tôi ra chỉ thị cho bộ đội Trung Phi chuẩn bị một lữ đoàn hỗn họp để gửi sang Madagascar. Nhưng lời hứa của chính phủ Anh cũng như lời khẳng định của tôi về vai trò tương lai của Ủy Hội Quốc Gia đều đặt trên giả thuyết vấn đề đã giải quyết xong, ngoài thực tế thì chưa giải quyết gì cả. Vichy còn làm chủ hầu hết hòn đảo. Chẳng bao lâu tôi được tin rằng người Anh chỉ cốt lấy được Diégo thôi, san họ điều đình với toàn quyền Annet. Đồng thời, sở tình báo Đông Phi gửi sang một toán nhân viên dưới quyền chỉ huy của ông Lush. Những biện pháp ấy trái ngược với V muốn của Pháp Tự Do. Chúng chỉ làm trì trệ việc tham chiến của Madagascar, củng cố quyền hành của Annet và kéo dài tình trạng chia cắt Đế Quốc Pháp. Ngoài ra tôi còn e ngại rằng toán nhân viên chánh trị của người Anh có thể tạo ra nhũng ảnh hưởng tai hại nào đó như chúng tôi đã từng chứng kiến ở Trung Đông, Djibouti, Abyssini chúng tôi đã có ngay một dấu hiệu của ảnh hướng đó. Tôi muốn gửi Pechkoff sang Diégo Suarez để thăm dò tin tức nhưng ông này bị cản trở không đi được. Như vậy, vào đầu tháng sáu 1942, những đám mây nặng nề đã bao phủ lên mối liên lạc Anh Pháp. Người Anh tăng gia những hành động bất thân thiện và khiêu khích ở Syrié, Somalie, Madagascar, họ còn có thêm nhiều biện pháp khiến cho chúng tôi phải căm giận họ. Tại Gold - Coast, một phái đoàn Anh, trưởng đoàn là ông Frank, bí mật tiếp xúc với dân chúng ở đất Pháp vùng Niger. Đồng thời tướng Giffard tư lệnh Tây Phi cảnh cáo các phái đoàn Pháp Tự Do Bathurst và Freetown phải rời khỏi nơi này. Tôi cũng có ý định đến Libye thanh sát các bộ đội của chúng ta, chính phủ Anh khẩn khoản yêu cầu tôi hoãn cuộc khởi hành như thế có nghĩa là họ không cấp cho tôi phương tiện. Tại Luân Đôn, nhà cầm quyền, các cơ quan công quyền các bộ tư lệnh Anh, đều giữ thái độ bí mật, có thể là ngờ vực. Hẳn là người Anh - Mỹ đang soạn thảo một kế hoạch hành binh rộng lớn trên chiến trường Tây Phương. Tướng Marshall, tham mưu trưởng quân đội Mỹ, đô đốc King, tư lệnh Hải Quân Đại Tây Dương, đều có mặt ở Luân Đôn vào tháng năm nhưng họ lánh mặt không muốn gặp tôi. Tuy nhiên, đồng minh dự định làm cái gì thì nước Pháp cũng là nước thứ nhất liên hệ đến công việc của họ vì lãnh thổ, vì dân chúng vì lực lượng của nước Pháp. Nhưng có lẽ họ muốn gạt những yếu tố hoạt động là Pháp Tự Do ra ngoài, họ muốn dùng một vài mảnh rời đất đai và tài nguyên, có lẽ họ muốn lợi dụng sự tản mác ấy để chiếm đoạt lấy một vài mảnh vụn lãnh thổ của nước Pháp. Đã đến lúc phải phản ứng. Phải cho đồng minh hiểu rằng Pháp Tự Do có mặt ở trong hàng ngũ của họ là để đại diện cho nước Pháp chứ không phải để che chở những lạm dụng và xen lấn thiệt hại cho dân tộc Pháp, ủy Hội Quốc Gia, sau một cuộc tranh luận sôi nổi rất sâu rộng, đã đồng thanh chấp nhận quan điểm ấy. Ngày mùng 6 tháng sáu, tôi yêu cầu ông Charles Peake, nhà ngoại giao lỗi lạc của bộ Ngoại Giao Anh, thông báo cho ông Churchill và ông Eden biết lập trường của chúng ta : «Nếu vì các đồng minh mà nước Pháp mất cái gì của mình ở Madagascar, Syrie hay ở nơi nào khác, thì nước Pháp không còn lý do gì để hợp tác trực tiếp với Anh hay Mỹ. Chúng tôi phải chấm dứt. Ngoài thực tế, chúng tôi sẽ tập trung lại những nơi đã tập kết rồi hay sẽ tập kết để theo đuổi cuộc chiến tranh chống quân thù trong phạm vi sức lực của mình và chỉ biết có quyền lợi của mình ». Cùng ngày hôm ấy, tôi gửi điện tín cho Ebouẻ vàEeclerc, cho Catroux và Larminat thòng báo cho biết quyết định của tôi để họ kịp chuẩn bị. Tôi cũng yêu cầu họ báo tin cho các đại diện đồng minh ở gần họ biết quyết định của chúng tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:16:08 pm Chẳng bao lâu đã thấy ngay hậu quả. Ngày mùng 10 tháng sáu, ông Churchill mời tôi đến thăm ông. Chúng tôi ngồi với nhau một giờ, chuyện liên miên. Sau khi ca ngợi bộ đội Pháp chiến đấu anh dùng ở Bin - Hakeim, Thủ Tướng đề cập đến vấn đề Madagascar, ông công nhận rằng Pháp Tự Do mích lòng là phải vì cuộc hành quân đã thực hiện trong những điều kiện như vậy, « nhưng chúng tôi không có ý đồ gì trong vấn đề Madagascar. Còn như chúng tôi sẽ làm gì ở đấy thì chúng tôi cùng không biết nữa ! Hải đảo rộng mênh mông. Chúng tôi muốn có một sự thỏa hiệp nào đó để khỏi lạc lõng giữa hòn đảo này ». Tôi trả lời ông : « Điều chúng tôi muốn là Madagascar theo Pháp Tự Do và trở lại cuộc chiến. Chúng tôi đã sẵn sàng từ hôm nay để đưa quân vào, đúng như đã đề nghị với ông hôm qua ». Thủ Tướng nói : « Các ông không phải là đồng minh duy nhất của chúng tôi ». Nói như vậy ông có ý cho tôi hiếu rằng Hoa Thịnh Đốn không muốn cho chúng tôi tham dự. Điều này quả là tôi không ngờ. Tôi lưu ý ông Churchill đến điểm nguy hại cho cuộc liên minh nếu xảy ra điều gì không hay cho Đế Quốc Pháp và có lẽ ngày mai sẽ xảy ra cho nước Pháp, ông phản đối và cãi rằng ông chỉ có thiện chí. Rồi bất thần ông giãy nảy lên : « Tôi là người bạn của nước Pháp ! Tôi vẫn muốn cho nước Pháp hùng mạnh và có một quân đội hùng mạnh, cần phải như vậy để bảo vệ hòa hình trật tự và an ninh của Âu Châu. Chưa bao giờ tôi có đường lối chính trị nào khác ! » Tôi trả lời : « — Đúng như vậy ! Ông còn đáng khen ngợi vì sau khi có hiệp ước đình chiến Vichy, ông còn muốn đánh lá bài của nước Pháp. Lá bài đó là de Gaulle, xin ông đừng để mất bây giờ ! Điều đó lại càng phi lý khi chính sách của ông thành công, Pháp Tự Do trở thành linh hồn và khuôn khổ cho cuộc kháng chiến Pháp.» Chúng tôi nói đến Roosevelt và thái độ của ông đối với tôi. Ông Churchill nói : «không nên hấp tấp ! Chính tôi đây, có lúc tôi uốn mình có lúc tôi vươn lên» Tôi trả lời :«ông có thể làm được như vậy vì ông ngự trị trên một chính phủ vững vàng, một quốc gia đoàn kết, một Đế Quốc thống nhất, một quân đội hùng mạnh. Nhưng tôi! Tôi không có phương tiện gì cả. Ấy thế mà xin ông biết cho tôi phải gánh vác quyền lợi và vận mệnh của nước Pháp. Gánh giang san nặng quá và tôi nghèo nàn quả không thể uốn mình được.» Ông Churchill kết luận bằng cách bảy tỏ cảm tình và thân hữu : « Chúng ta còn phải vượt qua nhiều trở ngại. Nhưng một ngày kia chúng ta sẽ trở về nước Pháp, có lẽ sang năm không chừng. Dẫu sao thì chúng ta cũng sát cánh với nhau!» Ông đưa tôi xuống tận hè phố và nhắc lại:«Tôi không bỏ rơi ông đâu. Ông có thể tin tôi.» Ba ngày sau đến lượt ông Eden trở lại cam kết với tôi rằng nước Anh không có tham vọng gì trên Đế Quốc Pháp nói chung và Madagascar nói riêng. Ông bảo tin cho tôi biết rằng « chuẩn tướng» Lush đã được triệu hồi, Pechkoff sẽ có thể khởi hành được: «Ông hãy tin tôi, chúng tôi ước mong rằng sẽ cùng với ông tay nắm tay để chuẩn bị mặt trận phía Tây » Như vậy, mọi việc còn tạm thời bỏ lửng. Tuy nhiên người ta đã để ý đến lời cảnh cáo của chúng tôi. Như vậy, những hành vi độc đoán của người Anh đối với Đế Quốc của chúng ta từ đây có lẽ sẽ không thể vượt qua một giới hạn nào đó. Cỏ nhiều may mắn để việc Syrie bớt găng. Somalie đành phải chấp nhận sự tập kết, và một ngày kia Thập Tự Lo Ren bay phất phới trên đảo Madagascar. Ngoài ra, tôi cảm thấy rõ hơn bao giờ hết rằng xét cho cùng thì nước Anh không hủy bỏ cuộc đồng minh với chúng ta. Tấn kịch ngoại giao đã được Pháp Tự Do trình diễn với hàng trăm màn sôi động để giành lại địa vị của nước Pháp, những khán giả chú trọng nhiều nhất đến vở kịch ấy là các chính phủ lưu vong tại Anh Quốc. Vào năm 1941 con số khản giả ấy tăng thêm vì có thêm quốc vương và các bộ trưởng Hy Lạp, quốc vương và các bộ trưởng Nam Tư. Đối với các chính phủ lưu vong ấy, điều gì xảy ra cho nước Pháp cũng là mối bận tâm chính yếu của họ. Họ bị nhóm người trong nước tiếm quyền của họ ngược đãi và phản bội, bởi vậy họ ác cảm với Vichy vì thái độ của Vichy được những người cộng tác với địch nêu ra làm gương mẫu để biện hộ cho mình. Mặt khác, tuy rằng các cường quốc không xúc phạm chủ quyền của họ nhưng họ không tránh khỏi được cảnh kẻ yếu bị đặt vào vòng ảnh hưởng của kẻ mạnh. Sau hết, họ tin rằng sự phục hồi của nước Pháp là điều kiện cần thiết cho thế quân bình Âu Châu và tương lai của họ. Bởi thế cho nên họ lấy làm vui mừng kín đáo mà theo dõi Pháp Tự Do hành động để phục hồi nền độc lập của mình. Chúng tôi vẫn được họ tiếp đón niềm nở. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:38:54 pm Chủng tôi cũng không quên giữ vững tình thân giao với các chính phủ ấy, tuy họ không có lãnh thổ nhưng họ có đại diện chính thức và ảnh hưởng đáng kể ở khắp các nơi trên thế giới tự do. Dejean và các bạn đồng sự của ông trong Ủy Hội Quốc Gia giữ liên lạc với các bộ trưởng vả các công chức của họ. Các bộ tham mưu của ta, các cơ quan của ta cũng có phận sự giữ mối liên lạc ấy. Chính tôi cũng đến thăm các quốc trưởng và giới chỉ huy của họ. Những cuộc tiếp xúc và hội đàm ấy rất hữu ích vì chúng tôi giao thiệp với những người tài trí. Nhưng dưới bề ngoài lễ độ ấy chúng tôi nhận thấy thảm kịch nội tâm của họ gây nên vì bại trận và lưu vong. Hẳn là các chính phủ ấy vẫn nắm giữ bộ máy chánh quyền và cố gắng giữ thái độ bình tĩnh. Nhưng họ sống trong lo âu và buồn rầu, tấn kịch bi thảm cháy âm âm thầm dưới đáy sâu tâm hồn. Thực ra, từ khi Nga Sô và Hoa Kỳ lâm chiến nhà cầm quyền các nước Tây Phương tin chắc rằng nước của họ sẽ được giải phóng. Nhưng rồi tình trạng của họ sẽ ra saơ ? Đó là mối bận tâm ám ảnh người Hòa Lan, Bỉ, Lục Xâm Bảo, Na Uy. Bà hoàng Wilhelmine, vị Thủ Tướng của bà, giáo sư Geerbrandy, vị bộ trưởng Ngoại Giao, ông Van Keffens, ông hoàng Bernhardt nước Hòa Lan, đều thất vọng mà chứng kiến sự tan rã của Đế Quốc Hòa Lan, tuy đã có những cố gắng của đô đốc Helfrich và cuộc kháng chiến ngoài bưng biền của tướng Ter Porten. Các ông Pierlot, Gutt, Spaak, họp thành một nhóm người tượng trưng cho tài trí, hăng hái và khôn ngoan để phục vụ nước Bỉ ; họ đều buồn rầu khi nhắc đến vấn đề hoàng gia. Còn như bà đại công tước Charlotte và chồng bà, ông hoàng Felix de Bourbon - Parme, ông Bech, bộ trưởng của họ, họ không ngừng ước lượng hậu quả vật chất và tinh thần mà chính thể Nazi có thể gây ra cho Lục Xâm Bảo. Sau hết, quốc vương Na Uy Haakon VII, một mẫu người tin tưởng và cương quyết, và ông Trygve - Lie, người không ngừng hoạt động trong đủ mọi lãnh vực, đều buồn rầu vì mất cả một đội thương thuyền Người Na Uy không ngừng nhắc lại : « Đây là cả dấn vốn quốc gia của chúng ta bị chìm đắm ». Tình trạng các nước Hy Lạp, Nam Tư, Tiệp Khắc và Ba Lan lại càng bi đát hơn. Nước Nga lâm chiến có thể bảo đảm cho họ rằng Đức sẽ thua, nhưng họ sẽ gặp phải những đe dọa khác. Quốc trưởng và các bộ trưởng của họ đều nói thẳng ra điều ấy. Quốc vương Georges II nước Hy Lạp và ông Tsouđeros, Thủ Tướng chính phủ, cho tôi biết rằng cuộc xâm lăng đã xô đầy dân tộc Hy Lạp vào cảnh nghèo đói khủng khiếp, dẫu sao họ cũng cố gắng chống lại quân thù, nhưng họ e ngại đảng cộng sản đã lợi dụng tình trạng đói khát để đầu độc dân chúng và chiến sĩ. Đồng thời, tôi nhận thấy quốc vương trẻ tuổi Nam Tư, vua Pierre II, nội các Nam Tư dưới quyền lãnh đạo liên tiếp của tướng Simovitch, ông Yayanovitch và ông Trifunovitch, đều xúc động vì những biến cố chia cắt đất nước họ : vùng Croatic tuyên bố lập thành quốc gia riêng, công tước Spolète lên ngôi vua ; nước Ý sáp nhập Ljubljana và vùng Dalmatie ; tướng Tito canh tranh rồi chống đối tướng Mikhailovitch tuy rằng ông này vẫn chống xâm lăng ở bên Serbie. Hẳn là Tổng Thống Benès và các bộ trưởng của ông, Shramek, Masaryk, Ripka, tướng Ingr, đều có thái độ bề ngoài tin tưởng ở người Sô Viết. Qua sự trung gian của ông Bogomolov, họ giữ mối giao hảo bề ngoài với điện Cầm Linh. Đại diện của họ ở Mạc Tư Khoa, ông Fierlinger, có vẻ được trọng đãi lắm. Một đội quân Tiệp Khắc,tuyển lựa trong số tù binh Tiệp bị người Nga bắt làm tù binh, đã được thành lập và đặt dưới quyền chỉ huy Nga Sô. Người ta nhận thấy nếu Benès muốn trở về Prague và tái lập chính phủ Tiệp thì trước hết ông ta phải nhờ đến Nga Sô mặc dầu ông ta thù ghét cay độc chế độ Sô Viết. Ngồi nối chuyện với Benès người ta được nghe ông diễn giảng những bài học chính trị và lịch sử có giá trị cao, người nghe không chán mà thầy giảng cũng không mệt. Tôi còn được nghe ông nhắc đến vận mệnh của chính phủ Tiệp mà ông lãnh đạo gần 20 năm nay. Ông nói:«Chính phủ ấy không thể đứng vững được nếu không có sự nâng đỡ trực tiếp của Mạc Tư Khoa, vì Tiệp Khắc cần phải lấy lại vùng Suđètes, dân là người Đức, vùng Slơvaquie mà người Hung không muốn để mất, vùng Teschen mà người Ba Lan vẫn dòm ngó. Nước Pháp thì tương lai còn mù mịt, chúng tôi không thể trông cậy gì thiện chí của Pháp. » Ông kết luận : « Trong tương lai chúng tôi có thể tránh tình trạng bấp bênh của sự liên minh duy nhất với điện Cẩm Linh nhưng với điều kiện là nước Pháp lấy lại địa vị và vai trò trước kia của mình ở Âu Châu. Trong khi chờ đợi, tôi biết lựa chọn cách nào ? » Ông Benès lý luận như vậy, không thể không đế lộ sự bối rối trong thâm sâu tâm hồn của ông. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Giêng, 2019, 11:26:20 pm Người Ba Lan thì không nghi ngờ gì cả. Trước mắt họ, người Nga là địch thủ mặc dầu họ phải đi với Nga để chống lại kẻ thù chung. Đối với Tổng Thống Rackievicz, Tướng Sikorski, Thủ Tướng chính phủ và tổng tư lệnh quân đội, các bộ trưởng Zaleski, Raczynski, tướng Kukiel, thì sau khi Đức bại trận tất nhiên quân Nga phải kéo sang ồ ạt. Còn như việc ngăn chặn tham vọng của Mạc Tư Khoa sau khi đã đánh bại Bá Linh thì ý kiến của người Ba Lan chia làm 2 khuynh hướng. Khi thì họ nghiêng về một chủ thuyết thảm bại để tìm những ảo tưởng say sưa trong sự thất vọng như Chopin tìm mơ mộng trong đau khổ. Khi thì họ vuốt ve hy vọng một giải pháp mở rộng đất đai của Ba Lan về phía Tây, họ sẽ nhượng cho Nga Sô một phần đất Galicic và Lithuanie, để đổi lại, Nga Sô sẽ không thống trị Varsovie và ép buộc Ba Lan phải chấp nhận chính phủ cộng sản. Nhưng khi họ tính đến thỏa hiệp thì họ trở nên nóng nảy, thái quả, họ làm cho đồng minh bản tín bản nghi. Sô Viết bất bình. Tuy rằng sự dung hòa khó khăn nhưng tướng Sikorski cũng cố gắng thực hiện. Ông là người cương nghị, một mình ông gánh vác hết trách nhiệm về vận mạng xứ sở ông. Trước kia ông đã chống lại chính sách của thống chế Pilsuđski, từ ngày bại trận ông nắm được hết quyền hành một chính phủ lưu vong có thể có được. Từ khi quân đội Đức tiến vào Nga Sô, Sikorski không ngần ngại lập liên lạc ngoại giao với Nga Sô mặc dầu người Ba Lan chồng chất căm thù người Nga. Thảng bảy 1941 ông ký với Nga Sô một thỏa hiệp tuyên bố vô hiệu lực chia cắt nước Ba- Lan năm 1939 bởi Nga Sô và Đức. Đến tháng chạp chính ông thân hành sang Mạc Tư Khoa để điều đình việc phóng thích tù binh và đưa họ về miền Cauase, từ đấy họ sẽ theo tướng Anders trở về Địa Trung Hải. Sikorski đã hội đàm rất lâu với Staline. Lúc trở về, ông kể lại cuộc hội đàm, ông mô tả cho tôi nghe vị lãnh chúa điện Cẩm Linh vô cùng bối rối nhưng không hề kém sáng suốt, cay nghiệt và quỷ quyệt, ông nói : « Staline tỏ ra thuận ý với nguyên tắc thỏa hiệp. Nhưng thỏa hiệp về hai bên đem ra làm hậu thuẫn, nói như vậy nghĩa là tùy thuộc chúng tôi có tìm được sự nâng đỡ của Tây Phương hay không. Đến lúc ấy ai là người giúp đỡ Ba Lan? một là có nước Pháp hai là không có ai cả.» Như vậy, điệu hát lo âu của các chính phủ lưu vong vẫn âm thầm họa theo nhịp tiến triển của Pháp Tự Do. Mọi người đều theo người Anh thừa nhận Ủy Hội Quốc Gia một cách dè dặt. Nhưng mọi người đều coi tướng de Gaulle là người Pháp có đủ tư cách để thay mặt nước Pháp. Thí dụ họ ký với tôi một thông cáo chung về việc tội phạm chiến tranh ngày 12 tháng giêng 1942 nhân một hội nghị các Thủ tướng chính phủ. Tóm lại, sự liên lạc của chúng tôi với chính phủ lưu vong đã đem lại cho chúng tôi ít nhiều uy tín để giúp chúng tôi trên đường ngoại giao và tạo cho chúng tôi những luồng dư luận thuận lợi không thể ước lượng trước được. Trong tấn kịch bi thảm trên thế giới này, những nhân vật vĩ đại kéo dân chúng Anh-Mỹ theo dư luận của họ, nhưng ngược lại dư luận quần chúng cũng hướng dẫn các chính phủ mặc dầu có sự kiểm duyệt thời chiến. Bởi thế cho nên chúng tôi cố gắng làm sao cho dư luận quần chúng ủng hộ chúng tôi. Chính tôi cũng cố gắng bằng cách khai thác cảm tình và sự hiếu kỳ của quần chúng đối với công cuộc cứu quốc của chúng tôi. Tôi thường tiếp xúc với quần chúng Anh và Mỹ. Theo phương cách cổ điển, tôi chọn lựa trong sổ những hội đoàn mời tôi đến nói chuyện những thính giả nào hợp với đề tài và hợp với lúc đưa vấn đề ấy ra trình bày. Tôi đến dự một bữa tiệc với tư cách khách mời danh dự, sau bữa ăn tôi nhận thấy nhiều người kéo đến ngồi chật ních cả căn phòng, đó là những nhân viên thòng tin nhà nghề hay những người tai mắt đến để nghe tôi nói chuyện. Theo thói tục của người Anh, tôi được mời làm chủ tọa phiên họp, bấy giờ tôi muốn nói gì thì cứ việc nói. Đáng tiếc vì tôi nói tiếng Anh không được rành cho nên thường thường tôi chỉ dùng tiếng Pháp. Nhưng sau đó Soustelle đóng vai trò giúp tôi. Bài diễn văn của tôi được dịch ra từ trước khi tôi bắt đầu nói thì người ta đã phát cho các thính giả. Báo chí và đài phát thanh Anh Mỹ sẽ công bố những đoạn chính yếu. Còn như tính cách khách quan thì tôi cho rằng chỉ tương đối trên các báo Mỹ vì họ thổi phồng một vài câu suy diễn rộng của tôi. Tất nhiên, những câu nói đó đi quá trớn. Người Anh thì không làm sai lệch bản văn, nhưng họ chỉ trích không tiếc lời. Cần phải nói thêm rằng báo Nam Mỹ vẫn có cảm tình với nước Pháp, với « phong trào de Gaulle », họ trích dẫn lời tuyên bố của tôi rất đứng đắn, có lẽ họ có ý muốn quân bình thải độ của Hoa Kỳ. Tóm lại ngoại trừ một vài cơn khủng hoảng người ta nại cớ «nhu cầu quân sự» để bịt miệng tôi còn thì tôi vẫn thấy các nước dân chủ đồng minh kính trọng tự do ngôn luận. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:31:36 pm Trước khi đến Trung Đông vào mùa xuân 1941 tôi đã đứng nói trước một cử tọa Anh nhất là tại những «buổi tiệc trà văn nghệ»và nhỏm Anh Pháp ở Nghị Trường. Sau khi trở về Luân Đôn vảo tháng chín và cho đến tháng sáu năm sau, tôi đã xuất hiện tại các nơi sau đây : «cơ quan báo chí quốc tế», xưởng đúc xe tăng «English Electric» ở Stafford Hội Phi Châu Hoàng Gia Hiệp hội Báo chí ngoại quốc, Hội người Pháp tại trường Đại Học Oxford, Hiệp Hội Anh văn, Hội bảo vệ công cộng hội đồng thị xã và các nhân sĩ Eđimbourg, một buổi họp tại Nghị trường hội họp các dân biểu Hạ Viện. Đến tháng năm 1942 lần thử nhứt tôi tổ chức một cuộc họp báo. Ngày 14 tháng 7 năm 1941 tôi ở Brazzayille, đài National Broadcasting Corporation Hoa Kỳ đã dùng hết các làn sóng đế tiếp vận một bản hiệu triệu của tôi gửi dân tộc Hoa Kỳ. Ngày mùng 8 tháng bảy 1942 hãng Columbia phổ biến tại Mỹ nhất là tại Central Park Nữu Ước một bài diễn văn bằng tiếng Anh của « người bạn và đồng minh, tướng de Gaulle. » Ngày 14 tháng bảy, ngày khánh tiết Pháp, tôi cũng có lời chào mừng dân tộc Mỹ. Thêm vào những ngày lễ chính ấy, còn có những dịp khác, tôi phải nói trước công chúng không kịp sửa soạn nhưng cũng gây được tiếng vang. Đỏ là những buổi tiếp đón dành cho tôi tại các tỉnh Birmingham, Leeds, Liverpool, Glasgow, Hull, Oxford, trường Đại Học Edimbourg, Hải Quân Portsmouth, Hải xưởng Brigham và Cowan, xưởng Talbot, nhà máy Harmelin, tòa báo The Times, sau hết là những câu lạc bộ rất yêu mến và có cảm tình với chúng tôi. Luận điệu của tôi dùng thay đổi tùy từng trường hợp nhưng tôi vẫn đem những ý tưởng và cảm tình ấy ra trình bày với thính giả nước ngoài. Đối với sự bại trận trước đây của nước Pháp tôi giải thích là tại hai hệ thống binh bị lỗi thời mà các nước dân chủ đều áp dụng khi mới khởi sự chiến tranh ; nước tôi là nạn nhân vì không được bảo vệ bằng mặt biển và phải một mình đứng hàng tiền đạo chống địch. Tôi xác định rằng dân tộc Pháp tuy sống dưới sự áp bức nhưng vẫn sống sâu xa và mãnh liệt và rồi sẽ có nỗ lực đổi mới. Tôi đưa ra bằng chứng là phong trào kháng chiến mạnh ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Nhưng tôi chứng minh rằng nước Pháp cũng bị đau khổ và nhục nhã thì nước Pháp càng cảm kích vì sự cảm thông của các bạn đồng minh ; sự tuyên truyền của Hitler trưng ra trước mắt dân tộc Pháp viễn tượng phục hồi và tái thiết nếu Pháp đứng về phe độc tài ; trong trường hợp ấy, Vichy chỉ lẫm lỗi nếu các nước dân chủ tôn trọng quyền lợi của nước Pháp. Ngày mùng 1 tháng tư 1942 tôi đọc một bài diễn văn đánh dấu chấm vào chữ i, bài diễn văn này gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Tôi tuyên bố : « Người ta không nên cho rằng phép lạ Pháp Chiến Đấu này không phải là cái gì cứ đưa ra trình diện là xong việc... Tất cả đều dựa trên điểm này : Pháp Chiến Đấu quyết chí đi với đồng minh với điều kiện minh bạch là đồng minh phải đi với mình... » Nhắm thẳng vào việc Hoa Kỳ tiếp tục duy trì liên lạc với Vichy và những cuộc mà cả thậm thụt với tay sai của Vichy, tôi nói thêm : « Đối với các nước dân chủ, giao thiệp với những người đã phá hoại tự do Pháp và muốn thành lập một chế độ khuôn theo phát xít, là đưa vào chính trị những nguyên tắc của anh chàng Gribouille nhảy xuống biển để cho khỏi ướt áo. . . » Tôi còn nói thêm, tìm cách làm cho tiếng sấm vang lên : « Điều quan trọng là người ta không biết đến một điều trọng yếu chi phối toàn thể vấn đề nước Pháp, đó là cuộc cách mạng. Đây là một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng lởn nhất lịch sử mà nước Pháp muốn thực hiện sau khi bị giới thượng lưu và những người được ưu đãi phản bội». Tôi kêu lên : « Không thể tha thứ được cái gọi là quan niệm thực tế, hết hội nghị Munich này qua hội nghị Munich khác, đã đưa tự do đến bên bờ vực thẳm, quan niệm ấy còn tiếp tục đánh lừa những người hăng hái và hy sinh...». Lập trường đã quyết định. Pháp Tự Do đã được mọi người biết đến nhờ cảm tình của công chúng và nhờ sự ưng thuận của các chính phủ, không những chúng tôi là người nối nghiệp kiếm cung của nước Pháp mà chúng tôi còn là người quản lý quyền lợi của nước Pháp và nhất quyết bảo vệ quyền lợi đó. Kết quả ấy chúng tôi đạt được. Bởi vì vào đầu mùa hạ năm 1942, mọi điều kiện đã có đủ để chiến tranh chuyển sang giai đoạn chung quyết. Nga Sô vẫn đứng vững, bây giờ chuyền sang thế công. Nước Anh, tuy gửi sang Trung Đông nhiều viện binh, nhưng còn để lại trên lãnh thổ quốc nội những lực lượng hùng hậu. Hoa Kỳ đã sẵn sàng để đưa sang Âu Châu những đơn vị mới nguyên của họ và kho vật liệu khổng lồ của họ. Sau hết, tuy nước Pháp bị giày xéo và tàn phá tại chánh quốc, tuy phần lớn lãnh địa hải ngoại Pháp chỉ có thái độ thụ động, nhưng bây giờ nước Pháp đã có thể đưa những lực lượng quân sự quan trọng, Đế Quốc và phong trào kháng chiến và tham dự cuộc giao tranh cuối cùng. Người ta đã đưa cao ngọn cờ ngoài bãi chiến trưởng, đến mùa xuân 1942, tôi dùng danh xưng « Pháp Chiến Đấu » để thay thế cho tèn cũ « Pháp Tự Do » và thông báo cho các đồng minh biết. Vận mệnh của nước Pháp sẽ được định đoạt trong cuộc đụng độ lớn mai này. Lãnh thổ Pháp - Bắc Phi hay Chánh Quốc — sẽ trở thành nơi chiến địa. Tùy nước Pháp có đương cự với kẻ thù hay không; nước Pháp sẽ có phần của mình trong lúc chiến thắng. Nhưng địa vị của nước Pháp, trên thế giới, nền thống nhất quốc gia, sự toàn vẹn Đế Quốc, sẽ tùy thuộc thái độ của đồng minh. Tôi không thế không nghi ngờ một số người, không phải là những người thường, âm mưu để cho đến giai đoạn quyết liệt ấy các cơ cấu của nước Pháp chênh vênh và lệ thuộc nước ngoài càng nhiều càng hay, Pháp Chiến Đấu sẽ bị chìm ngập vào tình trạng chung ấy hay bị đẩy xa ra đứng ngoài thời cuộc. Nhưng địa vị của nước Pháp trên thế giới đã khá vững mạnh rồi, người ta không thể phá đồ chúng tôi từ bên ngoài. Với điều kiện là Pháp Chiến Đấu đứng vững và được sự nâng đỡ của quốc gia khi nào quốc gia lần hồi xuất hiện ngoài thực tế. Trong khi điều khiển cuộc giao tranh, tôi không nghĩ điều gì khác những điều ấy. Trong cuộc thử thách ngày mai, Pháp Chiến Đấu có đủ hăng hái, tài trí và sức mạnh để không bị tan vỡ từ bên trong không ? Dân tộc Pháp, liệt nhược, mê muội, xâu xé, liệu có muốn nghe tôi và theo tôi chăng ? Tôi có thể tập hợp được nước Pháp chăng ? Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:33:57 pm PHÁP CHIẾN ĐẤU Từ mùa hạ 1941 đến mùa hạ 1942, Pháp Chiến Đấu mở rộng một trận ngoại giao, Pháp Chiến Đấu cũng không ngừng lớn mạnh. Đoạn này trình bày riêng rẽ sự phát triển của hai loại nỗ lực, nhưng thực ra hai loại nỗ lực đã được thực hiện đồng thời và phối hợp với nhau. Từ khi tầm hoạt động mở rộng thêm, chúng tôi phải đặt ra một tổ chức đầu não tương xứng. De Gaulle không đủ sức để điều khiển hết. Số lượng và kích thước các vấn đề đòi hỏi rằng trước khi quyết định, người ta cần phải đem đối chiếu nhiều quan điểm và nhiều giải pháp. Các biện pháp thi hành cần được tản quyền. Sau hết, quốc gia nào cũng chọn hình thức hiệp nghị để thực thi chánh quyền, chúng tôi cũng phải theo hình thức ấy để được các nước bạn thừa nhận. Ngày 24 tháng chín 1941, tôi ký đạo dụ thành lập Ủy Hội Quốc Gia. Thực ra, tôi đã nghĩ đến điều này ngay từ lúc ban đầu. Nhưng trong thời gian một năm trời, tôi phải sống 8 tháng ở Phi Châu và Trung Đông, nhất là thiếu những người « đại diện » cho nên tôi phải đình hoãn. Trái lại, khi trở về Luân Đôn sau vụ Syrie, tôi có thể trù liệu trước một giai đoạn tổ chức lâu dài. Vả chăng, phần lớn những người theo tôi trước đây chưa được thành thạo thì bây giờ đã có đủ tư cách lắm. Như vậy tôi có thể đem lại cho Ủy Hội những thành phần đầy đủ khả năng. Đối với Pháp Chiến Đấu thì Ủy Hội Quốc Gia sẽ là cơ quan đầu não thành lập xung quanh mình tôi. Các « ủy viên » sẽ tranh luận tập thể đủ mọi vấn đề của chúng tôi. Mỗi người sẽ điều khiển một «bộ» để chỉ đạo hoạt động của Ủy Hội. Tất cả mọi người đều có trách nhiệm liên đới về các quyết định của Ủy Hội. Tóm lại, Ủy Hội sẽ là chính phủ, vì có quyền hạn và cơ cấu của một chính phủ. Tuy nhiên, Ủy Hội không có danh xưng chánh phủ vì tôi để dành danh xưng ấy đến một ngày còn xa lắc, người ta có thể thành lập một chính quyền có kích thước của nước Pháp thống nhất. Cũng trong viễn ảnh ấy, đạo dụ của tôi dự định sự thành lập sau này một Hội Đồng Tư Vấn « với nhiệm vụ cung cấp cho Ủy Hội ý nguyện của quốc gia càng rộng rãi càng hay ». Tuy nhiên, cũng còn phải qua nhiều thời gian trước khi Hội đồng Tư vấn ra đời. Tất nhiên phải có phản ứng quyết định của tôi gây ra những vụ trích tại những nhóm người Pháp nhỏ, họ cho rằng làm chính trị là phải nhân cơ hội này làm rùm beng ở Anh Quốc cũng như ở Hoa Kỳ. Những người ấy bằng lòng cho de Gaulle hoạt động như một người chiến binh cung cấp một số quân nào đó cho đồng minh nhưng họ không thể chấp nhận được lãnh tụ Pháp Tự Do nhận lấy trách nhiệm của một chánh phủ. Họ không theo tôi, họ bác bỏ quyền hành của tôi và thích để cho người ngoài nắm lấy quyền ấy để quyết định tương lai nước Pháp: Roosevelt, Churchill, Staline. Tôi công nhận rằng có sự màu thuẫn từ căn cơ giữa quan niệm của họ và quan niệm của tôi. Đối với tôi, trong tấn thảm kịch quốc gia này, chính trị phải là hành động phục vụ một ý tưởng mạnh mẽ và giản dị. Nhưng đối với họ vẫn theo đuổi những ảo tưởng xưa nay, họ không chấp nhận chánh trị là cái gì khác một cuộc nhào lộn những thải độ và mưu chước trong một màn múa may của những tay nhà nghề, chỉ để sản xuất bài báo và diễn văn, chỉ để biểu diễn tài hùng biện và phân phối ghế ngồi. Tuy rằng biến cố đã quét sạch chế độ ấy, tuy rằng chế độ ấy đã làm cho nước Pháp phải thảm bại cơ hồ không thể phục hồi, tuy rằng những kẻ u mê ấy lúc này không còn phương tiệp quen thuộc để xách động quần chúng như ; nghị trường, hội nghị, nội các, tòa soạn, nhưng họ lại tìm cách đưa trò chơi của họ sang Nữu Ước hay Luân Đôn, họ tìm cách lôi cuốn những nhà cầm quyền, những dân biểu những ký giả Anh-Mỹ vào trò múa rối của họ vì ở nhà không còn ai nghe họ nữa. Nguyên do những vụ rắc rối do đồng minh gây ra cho Pháp Tự Do, những trận đả kích trên báo chỉ hay đài phát thanh thường thường vẫn có ảnh hưởng của một vài người Pháp di cư. Những người ấy không thiếu điều công kích loại phát kiến chỉnh trị của Pháp Chiến Đấu như Ủy Hội Quốc Gia, và họ làm đủ mọi cách để ngăn cản. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:38:31 pm Đô đốc Muselier sẽ là công cụ của họ, Đô đốc là một người có hai cả tính. Với tư cách một thủy thủ thì ông là người tài trí lỗi lạc, cũng nhớ tài trí của ông mà chúng ta có một tổ chức hải quận bé nhỏ, nhưng thỉnh thoảng ông cũng để cho mối lo xô đẩy ông vào những âm mưu này khác. Khi ông biết tôi có ý định thành lập Ủy Hội ông viết thư cho tôi, tự cho ông là quán quân của tinh thần thỏa hiệp với đồng minh và quán quân của tinh thần dân chủ ; theo ông thì chính sách của tôi sẽ làm cho nền dân chủ lâm nguy. Muốn cứu vãn hai giá trị đó ông đề nghị tôi lui về địa vị một nhân vật cố vấn danh dự để nhường quyền hành thực tế cho ông. Còn như phương tiện của ông dùng để ép buộc tôi nhượng bộ ông thì ông cũng không có sảng kiến nào khác sự đe dọa tách rời hải quân của ông ra để « hoạt động độc lập và theo đuổi cuộc chiến ». Phản ứng của tôi minh bạch và nhanh chóng. Đô đốc phục tòng ngay và đổ lỗi cho sự hiểu lầm. Vì lý do tình cảm và vì muốn làm đẹp ý ông, tôi làm như nghe lời thuyết phục của ông, ghi nhận sự cam kết của ông và bổ dụng ông làm ủy viên Hải Quân và Hải Thương trong Ủy Hội Quốc Gia. Trong ủy Hội này, ông Pleven phụ trách Kinh Tế, Tài Chánh, Thuộc Địa, Cassin : Tư Pháp và Giáo Dục; Dejean : Ngoại Giao ; Legentilhomme, Chiến Tranh ; Valin : Không Quân ; Diethelm ; Hoạt động Chánh Quốc, Lao Động, Thông Tin. Catroux và d ‘ Argenlieu vắng mặt vì công vụ, trở thành ủy viên không giữ bộ nào. Tôi để ông Pleven phối hợp công việc hành chánh của các bộ dân sự như « quy chế, lương bổng, bổ dụng nhân viên, sử dụng công ốc, v.v... Đã nhiều lần tôi thử mở rộng Ủy Hội và mời tham dự một vài nhân vật Pháp cư ngụ bên Mỹ. Tôi mời các ông Maritain và Alexis Léger. Họ trả lời mõi người mỗi khác, nhưng đều từ chối. Ủy Hội đang trơn tru guồng máy thì Muselier lại gây ra một Cơn khủng hoảng nữa. Sau cuộc hành binh sang Saint - Pierre, ông được mọi người đồng thanh tán thưởng, nhưng ngày mùng 3 tháng ba, ông tuyên bố trước phiên họp Ủy Hội rằng công việc của Pháp Tự Do không trôi chảy chút nào, ông xin từ chức ủy viên quốc gia và viết thư xin có lời xác nhận của tôi. Tôi chấp thuận cho ông từ chức, đặt ông vào tình trạng trừ bị và để Auboyneau thay thế ông. Ông này được triệu hồi từ Thái Bình Dương. Nhưng Muselier tuyên bố rằng ông từ chức Ủy Hội Quốc Gia, nhưng ông vẫn giữ quyền tư lệnh lực lượng Hải Quân, làm như Hải Quân là một lãnh vực của riêng ông. Điều đó không thể chấp nhận được và việc này coi như đã giải quyết từ trước rồi, nhưng bất thần có sự can thiệp của chính phủ Anh. Người ta đã sửa soạn sự can thiệp này từ lâu, chủ mưu là một số người di cư đang làm náo động và một vài yếu tố trong Hạ Viện và Hải Quân Anh, Họ tìm được người nâng đỡ họ, đó là ông Alexander, nhân vật số một của bộ hải Quân. Họ trình bày với Alexander rằng Muselier, với tư cách một bộ trưởng mà ra đi thì hải quân của Pháp Tự Do sẽ tan rã làm cho Hải Quàn Hoàng Gia Anh sẽ thiệt mất một lực lượng phụ trợ đáng kể. Họ còn kể lể rằng de Gaulle và ủy Hội Quốc Gia của ông nghiêng về phát xít, cần phải giữ cho lực lượng hải quân Pháp không bị ảnh hưởng chính trị của Uy Hội Quốc Gia. Nội các Anh, vì lý do quân bình nội bộ, và cũng có thể vì muốn làm suy yếu de Gaulle để dễ bề sai bảo, đã chấp nhận giả thuyết của Alexander. Họ định bắt buộc tở phải giữ Muselier ở lại chức vụ tư lệnh Hải Lực Pháp Tự Do. Ngày mùng 5 và mùng 6 tháng ba, ông Eden có ông Alexander bèn cạnh, thông báo cho tôi lời hăm dọa ấy. Đối với tôi thì lúc ấy mọi việc đã vỡ lẽ rồi. Quyết định của Ủy Hội Quốc gia can được thi hành nguyên vẹn và nước Anh phải từ bỏ ý đồ xen lấn vào việc riêng của nước Pháp. Ngày mùng 8 tháng ba, tôi viết thư cho ông Eden biết rằng tôi và ủy Hội Quốc Gia đã quyết định thu hồi quyền tư lệnh Hải Quân của Muselier, và chúng tôi không chấp nhận sự xen lấn của chính phủ Anh vào lành vực này. Tôi còn nói thêm :« Người Pháp Tự Do cho rằng, để thực hiện những công việc của họ bèn cạnh Đồng Minh Anh, họ cần phải được đối xử và đãi ngộ với tư cách một đồng minh, sự giúp đỡ của người Anh không thể ban phát cho họ trong những điều kiện không dung hòa được với lý do tồn tại của họ... Nếu không có đủ điều kiện để hoạt động thì tướng de Gaulle và Ủy Hội Quốc Gia sẽ chấm dứt một công cuộc không thể nào thực hiện được. Điều chính yếu là trung thành với mục đích đã đề ra để phục vụ nước Pháp trong tương lai cũng như hiện tại. Mục đích ấy là phục hồi nước Pháp và tái lập sự thống nhất quốc gia để chiến đấu bên cạnh đồng minh, nhưng không hy sinh độc lập, chủ quyền và định chế của nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:40:01 pm Lúc này tôi chưa nhận được thư trả lời. Hẳn là trước khi đi xa hơn, người Anh chờ xem sẽ xảy ra việc gì trong nội bộ Hải Quân của chúng ta. Không hề có một hành động chia rẽ trên một chiếc tầu, trong một nhóm thủy thủ hay trong một cơ quan nào. Trái lại, mọi yếu tố của lực lượng hải quân Pháp Tự Do đều siết chặt hàng ngũ chung quanh tướng de Gaulle, mức hăng say của họ tương đương với những khó khăn cản trở đường tiến tới của họ. Chỉ có một số sĩ quan quy tụ xung quanh đô đốc, tổ chức tại trụ sở bộ tham mưu một buổi họp mặt phản đối, tôi cũng đến dự buổi họp ấy để giảng giải cho họ nghe. Tôi định đưa Muselier đến cư ngụ một tháng ở một nơi cách biệt hẳn không để ông liên lạc với Hải Quân. Tôi yêu cầu chính phủ Anh thi hành biện pháp ấy đúng theo thỏa ước tài phản ngày 15 tháng giêng 1941, vì biện pháp này được thi hành trên lãnh thổ Anh quốc. Vì người Anh không cho tôi những bảo đảm cần thiết, tôi bỏ về nhà quê ở, sẵn sàng chấp nhận hết, tôi trao lại cho Pleven, Diethelm và Coulet một bản chúc thư bí mật giao phó cho họ trách nhiệm giải thích với đồng bào lý do khiến cho tôi phải bỏ dở mọi việc, nếu tôi không thể tự giải thích với đồng bào. Đồng thời, tôi bảo tin cho đồng mình biết tôi rất tiếc không thể tiếp tục liên lạc với họ nếu họ không chịu áp dụng những thỏa ước đã kỷ với tôi. Ngày 23 tháng ba ông Peake đến thăm tôi. Ông trao cho tôi một điệp vặn bảo tin rằng chính phủ ông sẽ không đòi hỏi phải gửi Muselier lại làm tư lệnh Hải Quân và sẽ canh chừng ông ta một tháng không cho tiếp xúc với một yếu tố nào trong lực lượng Hải Quân Pháp. Tuy nhiên, chính phủ Anh yêu cầu tôi lấy nhân từ mà đối xử với ông, bổ nhiệm ông vào một chức vụ hợp với khả năng của ông. Trong khi ấy, Auboyneau từ Thái Bình Dương về nhậm chức Hải Quân. Đến tháng năm, tôi muốn để cho đố đốc Muselier một cơ may khác, tôi mời ông lại thăm tôi để thảo luận điêu kiện một đặc vụ thanh tra muốn giao phó cho ông. Ông không đến. Một vài ngày sau, vị thượng tướng đã có công nhiều với Hải Quân, cho tôi biết rằng ông chấm dứt sự cộng tác với Pháp Tự Do. Tôi rất tiếc cho ông, Sau vụ rắc rối tai hại ấy, không còn gì cản trở sự hoạt động đều hòa của « Ủy Ban Luân Đôn » ; sự tuyên truyền đổi lập — không phải chỉ có địch và Vichy — lúc thì cho chúng tôi là một nhóm chính khách cay cú, lúc thì cho là một bè lũ phiêu lưu phát xít, một nhóm người cuồng tín nghiêng về cộng sản ; những lời bàn tán dông dài của bọ không có gì đáng quan tâm so với tiền đồ của quốc gia. Ủy Hội Quốc Gia mỗi tuần hội họp ít ra một cách khá trịnh trọng, trong một phòng lớn của « Carlton Garden » gọi là phòng đồng hồ ». Theo đúng chương trình nghị sự,người ta nghe phúc trình của mỗi ủy viên về công việc của mỗi bộ hay về những vấn đề có thể nêu ra trong phiên họp. Người ta đọc các tài liệu và các bản tin, người ta tranh luận và kết luận bằng những quyết định thảo ra trong phiên họp hay dưới hình thức một biên bản để sau này gửi cho các cơ quan quân sự và dân sự. Chúng tôi không quyết định một vấn đề quan trọng nào nếu không đem ra tranh luận tại Ủy Hội. Ủy Hội Quốc Gia với tư cách một cơ quan tập thể hay ý kiến của từng hội viên vẫn đem lại cho tôi một sự giúp đỡ quý giá và chân thành. Hẳn là, riêng cá nhân tôi, tôi phải hiểu biết cái gì đáng làm cái gì không. Nhưng tôi cũng bứt được gánh nặng vì có bên mình những cố vấn và phụ tá tài giới. Hẳn là các bộ trưởng có thể thiếu uy tín và không được lòng dân vì phương diện nào đó vì trước đây chưa từng tiếp xúc với công chúng. Nhưng rồi hỌ thâu đạt được những yếu tố ấy. Vả chăng người nào cũng có kinh nghiệm và cá tính của mình. Họ tạo thành một toàn bộ để mở ra cho Pháp Chiến Đấu những ngõ ngách ảnh hưởng, nếu không có họ thì chúng tôi bị khép kín những cửa ngõ ấy. Tôi có thể gặp ở những người cộng sự ấy những ý kiến tương dị chứ không đến nỗi đối lập có thể là những ý kiến mâu thuẫn với ýtưởng và hành động của tôi. Gặp những trường hợp khó khăn, tôi thường nghiêng về những giải pháp cứng rắn, cỏn nhiều nhân viên ủy Hội thiên về sự dung hòa. Nhưng nghĩ cho cùng thì như thế lại hay. Chung cục, họ đem lại ánh sáng cho tôi, nhưng không ai phản đối sự quyết định của tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:41:11 pm Ý kiến có thể bất đồng, nhưng trách nhiệm về phần tôi và trách nhiệm ấy tôi gánh chịu toàn vẹn chứ không chia xẻ với ai. Trong cuộc tranh đấu cho cuộc giải phóng này, rốt cục, bao giờ cũng vẫn cái thằng tôi lãnh đủ. Tại Pháp, những người hướng về de Gaulle mỗi ngày mỗi nhiều và họ bắt đầu quay về hành động kháng chiến tích cực. Họ hướng ứng lời kêu gọi của tôi nhưng mỗi người hưởng ứng một cách khác. Nhưng về phương diện tình cảm, có một điểm hồi tụ chung cho cả mọi người, tôi cho rằng điều ấy rất cần, nhất là nó đáng làm cho chúng ta phải cảm kích. Tôi nhận thấy người Pháp có tính chia rẽ và phân tán khi bị áp bức, bởi vậy họ nổi loạn cũng theo nhiều cách khác biệt nhau vô cùng ; điều quan tâm của tôi là làm sao thống nhất được cuộc kháng chiến với những tâm hồn như vậy. Sự thống nhất ấy là điều kiện để cho công cuộc khảng chiến có hiệu lực về phương diện binh bị, có giá trị quốc gia và có sức nặng đối với hoàn cầu. Từ mùa hạ 1941, dần dần chúng tôi biết hết những gì xảy ra trong Chánh Quốc. Ngoài những điều có thể luận ra khi đọc vài dòng bài báo, khi nghe một bài phát thanh của hai miền, chúng tôi còn có cả một hệ thống thông tin như phúc trình của các ban tình báo, phúc trình của một vài người tại chỗ đã đặt những mối truyền tin, tường thuật của những người từ Pháp sang, chỉ dẫn của những cơ quan ngoại giao, tuyên ngôn của những người di cư qua Madrid, Lisbònne, Tanger, New York, thư gửi cho người Pháp Tự Do, gia đình và bạn hữu của họ dùng nhiều cách để gửi đến tay họ. Do đó mà trong tâm trí tôi có 1 tấm bảng phác họa tình hình luôn luôn cập nhật hóa. Nhiều lần, ngồi nói chuyện với đồng bào vừa rời khỏi nước Pháp nhưng họ sống bưng bít trong phạm vi nghề nghiệp hay trong một thị trấn nhỏ, tôi nhận thấy tôi cũng biết tường tận như bất kỳ ai về những chuyện xảy ra trên bất Pháp, ấy là nhờ nỗ lực thâu lượm truyền thông và tổng họp tin tức. Điều tôi rút ra được từ nguồn tin ấy là chế độ Vichy suy yếu. Những ảo tưởng cuối cùng của chế độ đã tan biến. Trước hết, sự thắng trận của quân Đức mà người ta để cao để biện hộ cho sự đầu hàng của nước Pháp, hy vọng thắng trận ấy trở thành vô lý khi mà Nga Sô nhảy vào vòng chiến. Hoa Kỳ cũng làm theo, Anh và Pháp Tự Do đứng vững. Giải pháp chấp nhận nô lệ để bỏ mặc sụp đổ căn nhà mà cứu vãn lấy bàn ghế quả là vô bổ, vì không đưa về được 1.500.00 tù binh, người Đức vẫn thôn tính hai tỉnh Alsau và Lorraine ngoài thực tế, họ vẫn cắt miền Bắc Pháp khỏi miền Nam về phương diện hành chánh, họ bắt đỏng góp một số lớn tiền bạc, nguyên liệu, nông phẫm và kỹ nghệ phẩm làm cho nền kinh tế kiệt quệ, sau hết họ bắt mỗi ngày một thêm nhiều người Pháp làm việc cho họ. Người ta không thể đánh lừa được ai khi người ta khẳng định phòng vệ Đế Quốc chống lại bất cứ sự dòm ngó nào, vì người ta ép buộc quân đội và Hải Lực đánh lại đồng minh và de Gaulle ở Dakar, Gabon, Svrie, Madagascar, trong khi Đức và Ý đã ký hiệp ước đình chiến lại còn ngang nhiên hoạt động ở Alger, Tunis, Casablanca, Beyrouth, trong khi phi cơ Đức đậu xuông Alep và Damas, quân Nhật chiếm đóng Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Kể từ đây, trước mắt mọi người, chỉ có Pháp Tự Do đại diện cho hy vọng tái chinh phục những lãnh thổ hải ngoại; Pháp Chiến Đấu đã lần hồi chiếm được Trung Phi, các hải đảo ở Đại Dương Châu, Pondichẻry, Trung Đỏng, Saint- Pierre, Madagascar, Somalie ; bóng dáng biên ngang của Pháp Tự Do đã dần dần xuất hiện ở Bắc Phi, Tây Phi, quần đảo Antilles, Đông Dương. Còn như cuộc « cách mạng quốc gia » của Vichy đưa ra để khỏa lấp tội đầu hàng, thì người ta có cảm tưởng như Vichy làm phí phạm những sự cái cách tự nó có giá trị chân xác, nhưng vì đem hội nhập vào với thất bại và nô lệ cho nên mất cả giá trị và tín nhiệm. Ngưỡng vọng cách mạng tinh thần, nâng cao uy tín của Vichy, cả đến nỗ lực chân thành tổ chức kinh tế và xã hội, rút cục chỉ đưa đến những cuộc diễn hành, thần thánh hóa Thống Chế, đến sự bành trướng hội nọ đoàn kia, và dưới sâu là những vụ đàn áp đê hèn, là sự thống trị của cảnh sát công an, là ưu đãi thiểu số và nạn chợ đen. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:42:05 pm Như vậy, ngay từ bên trong chế độ, người ta đã thấy xuất hiện những dấu hiệu hỗn loạn. Từ cuối năm 1940 cho đến mùa hạ 1942, đã xảy ra liên tiếp những diễn biến chính tri sau đây : bãi nhiệm Layal ; nhóm Déat, Deloncle, Luchaưe, Marquet, Suarez v.v... thành lập tại Ba Lê phong trào « tập hợp quốc dân », họ nhờ sự giúp đỡ trực tiếp của người Đức, thóa mạ các nhà cầm quyền và ồn ào tán dương sự hợp tác với người Đức ; trách vụ của Darlan luôn luôn thay đổi ; nhân viên Nội Các xin từ chức : Ybarnegaray, Bauđouin, Alibert, Flandin, Peyrouton, Chevalier, Achard v.v... họ tuyên bố rằng không thể nào lam việc được; vụ án Riom bất thần đình chỉ một cách kỳ dị ; tướng Weygand bị bắt buộc phải về hưu ; Colette mưu hại Layal được chỉ định đứng ra lập chính phủ. Chính Thống Chế cũng công khai nói ra sự tuyệt vọng của mình. Trong những buổi phát thanh tháng tám 1941, ông nói : « Tại nhiều nơi trên lãnh thổ Pháp tôi đã thấy nổi lên cơn gió độc. Dân chúng hoang mang. Tâm hồn người ta ngờ vực. Quyền hành của chính phủ không được người ta tuân hành triệt để. Mệnh lệnh không được thi hành nghiêm chỉnh. Dân tộc Pháp đang qua một cơn khủng hoảng thực sự ». Đến tháng sáu năm sau, đệ nhị chu niên lễ đình chiến, Thống Chế nói trên làn sóng : «Tôi không giấu giếm rằng lời kêu gọi của tôi chỉ có tiếng vang yếu ớt ». Sự nghiệp và vẻ hào nhoáng của Vichy bắt đầu suy tàn thì rải rác khắp nơi trên lãnh thổ chánh quốc, bắt đầu xuất hiện những tổ kháng chiến. Dĩ nhiên, đây là những hoạt động đủ loại, thường thường không được phân định rõ, nhưng đều biểu lộ ý chí cứu quốc. Chỗ này người ta in và phát một vài truyền đơn. Chỗ khác ngướ1 ta dò xét địch để cung cấp tin tức cho một vài hệ thống tình báo. Một số người quả quyết thành lập những nhóm hoạt động theo đuổi mục tiêu rốt khác nhau : tập kích, phá hoại, tiếp nhận và phân phối súng đạn thả dù hay chuyên chở đến, đưa đón nhân viên, di chuyến từ vùng này sang vùng khác, vượt biên giới, v.v... Một số người lập ra những yếu tố đầu tiên của một phong trào, hội viên ràng buộc với nhau chỉ theo lời giao ước hay chỉ vì cùng một chí hướng. Tóm lại, dưới bề ngài thụ động, sinh hoạt yếu ớt tùy theo hoàn cảnh trong chánh quốc, phong trào kháng chiến đã bước vào cuộc sống mãnh liệt và bí mật. Trong nước, bây giờ các chiến sĩ nghĩ cách đánh địch qua màng lưới cảnh sát và những kẻ điếm chỉ. Đến tháng tám 1941, bắt đầu có những vụ phục kích lẻ tẻ giết hại các quân nhân Đức. Một đại úy từ trên xe điện xuống, một sĩ quan ở Bordeaux, hai quân nhân ở đường Championnet Ba Lê là những người bị giết đầu tiên. Tiếp theo sau là những vụ ám sát khác. Địch dùng biện pháp đàn áp, họ bắt hàng trăm con tin xử bắn, bỏ tù hàng ngàn người khác rồi đem lưu đầy, họ trừng phạt và nô lệ hóa những nơi có người của họ bị hại. Chúng tôi cảm thấy một thứ tự hào u buồn khi biết tin những hành động quật cường của tư nhân chống xâm lăng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, những người Pháp chết vì sự báo thù của địch làm cho chúng tôi đau khổ nhưng không thất vọng vì như thế cũng tương đương với sự hy sinh của quân nhân trên bãi chiến trường. Nhưng vì lý do sơ yếu của chiến thuật, chúng tôi cho rằng cuộc chiến đẩu cần được hướng dẫn, vả chăng, chưa đến lúc hoạt động công khai trên lãnh thổ chánh quốc. Việc khủng bố địch, việc đột kích ở một vài địa điềm chọn lựa trước, sau hết cuộc nổi dậy của toàn thể quốc gia vào một ngày nào đấy chỉ có hiệu lực mạnh mẽ với điều kiện là tổ chức thành một hoạt động toàn bộ và phối hợp với quân đội giải phóng. Nhưng năm 1941 phong trào kháng chiến mỏi được phác họa thô sơ, vả chăng chúng tôi biết rằng còn phải vài năm nữa các đồng minh chúng ta mới chuẩn bị xong cuộc đổ bộ. Bởi thể cho nên ngày 23 tháng mười tôi tuyên bố trên đài phát thanh :« Người Đức bị người Pháp giết là một sự kiện hết sức bình thường và có lý do đích đảng. Nếu người Đức không muốn chết dưới bàn tay chúng ta thì họ cứ việc kéo về nước, họ là xong .... Khi họ đã không thôn tính được hoàn cầu thì chắc chắn mọi người của họ sẽ trở thảnh một xác chết hay một tù binh... Nhưng chiến tranh cần phải có chiến thuật. Chiến tranh phải do những người có trách nhiệm điều khiển... Hiện thời, tại các nơi bị chiếm đóng, khẩu lệnh của tôi là không được công khai giết người Đức. Lý do duy nhất là lúc này địch có phương tiện quả dễ dàng để trả đũa bằng cách giết hại những chiến sĩ không được võ trang của chúng ta. Trái lại, khi nào chúng ta có phương tiện để chuyển sang thế công, chúng tôi sẽ đưa ra các chỉ thị cần thiết. » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:42:45 pm Tuy rằng phải giới hạn sự tổn thất trong những trường hợp tổn thất quá quan trọng mà kết quả quá khiêm tốn nhưng chúng ta cũng phải lợi dụng lòng công phẫn gây ra vì những cuộc đàn áp của người Đức để nuôi dưỡng nghị lực và đoàn kết quốc gia. Ngày 25 tháng mười, địch vừa thủ tiêu 50 con tin ở Nantes và 50 ở Bordeaux, tôi vội nói trên đài phát thanh : « Đem xử bắn những đồng bào vô tội của chúng ta địch tưởng rằng sẽ là cho nước Pháp phải khiếp sợ, nhưng nước Pháp sẽ tỏ cho họ biết rằng nước Pháp không sợ họ... Tôi yêu cầu tất cả công dân Pháp nam cũng như nữ đình chỉ mọi hoạt động và đứng yên một chỗ từ 4 giờ đến 4 giờ 5, ngày 31 tháng mười... cử chí « đứng nghiêm » vĩ đại đó, cuộc đình công toàn quốc đó, sẽ cho địch thấy họ đang bị đe dọa trước sức mạnh của tình huynh đệ Pháp. Trước ngày đã định tôi nhắc lại lời kêu gọi một lần nữa. Ngoài thực tế, việc đình công ấy diễn ra tại nhiều nơi, nhất là tại các xưởng mảy, một cách rất cảm kích. Nhân việc này tôi quyết tâm lợi dụng sự đối kháng của quốc dân, không nên để cho sự đối kháng trở thành biến loạn, nhưng trái lại, phải làm sao cho nó trở thành một phản ứng có tổ chức , điều cốt yếu là đừng làm mất động lực chính yếu là sáng kiến và sự ngăn cách, không có sự ngán cách ấy thì ý thức kháng cự có thể biến mất hoàn toàn ngay một lúc. Dầu sao thì những yếu tố then chốt, tức là những phong trào kháng cự đã có rồi và đã cương quyết hành động, nhưng chỉ còn thiếu mặt cấp chỉ huy quân sự. Chủng ta có thể tuyển lựa những người chỉ huy ấy trong sổ các đơn vị còn sót lại của quân đội, nhưng Vichy đã tìm cách cản đường chúng ta. Tuy nhiên, những hành động kháng chiến đầu tiên đã xuất phát từ giới quân nhân. Các sĩ quan thuộc bộ tham mưu trung ương hay ở các nơi khác đã gửi lại được nhiều vật liệu không giao cho các ủy ban đình chiến. Cơ quan tình báo vẫn hoạt động trong bóng tối, họ áp dụng những biện pháp phản thám báo và thỉnh thoảng gửi tin tức cho người Anh. Các biện pháp động viên đã được chuẩn bị nhờ hoạt động của các tướng Frère, Delestreint, Verneau, Bloch-Dassault, Durr- mever, và cách dùng các câu lạc bộ của quân nhân. Tướng Cochet khai mào cuộc tuyên truyền tích cực chống lại tinh thần đầu hàng. Trong số những huấn luyện viên Công Trường Thanh Niên, nhiều người là cựu quân nhân, họ tập luyện cho mình và cho người khác cầm súng để ra trận. Phần còn lại của những đơn vị đã thành lập : sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính, tất cả đều không giấu giếm ý chí và hy vọng trở lại chiến trường. Vả chăng quần chúng tán thành quan điểm ấy. Một cuốn phim từ Pháp mới gửi sang và được tôi cho đem chiếu ở Luân Đôn, đã cho biết một bằng chứng rất ý nghĩa. Người ta thấy Pétain, nhân một chuyến viếng thăm Marseille, xuất hiện trước bao lơn tòa thị sảnh trước bộ đội và quần chúng đang xúc động vì lòng ái quốc. Đám quần chúng hăng say gợi ý cho ông, bỗng dưng ông la lớn : « Đồng bào chớ quên rằng tất cả đều ở trong tình trạng động binh ! » Lời nói ẩy làm mọi người, cả quân nhân lẫn dân sự, đều xúc động mạnh mẽ, kẻ cười vang, người ứa nước mắt. Xem như vậy thì đã rõ, mặc dầu đã có nhiều người bị bắt và bị chết, thường thường là những người ưu tú, quân đội tự nhiên vẫn sẵn lòng gánh lấy trách nhiệm kháng chiến. Nhưng « chính phủ » không muốn bao dung một phong trào kháng chiến như vậy. Vichy trước tiên đã áp dụng sự trung lập giả tạo, sau đó đã hợp tác với địch, bởi vậy chính phủ không để cho quốc dân phát triển những tiềm năng trả lời vào khuynh hướng của mình. Về phương diện tinh thần, dán chúng bị dồn vào một ngõ cụt, chỉ có thể thoát ra bằng cách dứt đoạn với kỷ luật quốc gia. Nhiều yếu tố quân sự đã vượt qua hàng rào, đó là những người gia nhập hệ thống tình báo, những người sắp gia nhập đạo quân bí mật, sau hết là những người sau này thành lập « Tổ chức kháng chiến của quân đội », nhưng thực ra lúc ban đầu các phong trào ấy đều phải tự mình thành lập lấy theo sáng kiến riêng. Trong khu vực tự do đã có những hoạt động tuyên truyền và huấn luyện lực lượng bán quân sự, đứng đầu là phong trào « Chiến Đấu » với đại úy Fresnay, phong trào « Giải Phóng », vai chính là Astier de la Vigerie, phong trào « Du Kích đầu não là Jean - Pierre Lévy. Đồng thời, một số ít nhân viên các nghiệp đoàn cũng tuyên truyền cho một khuynh hướng kháng chiến, đó là « Tổng Công Đoàn » và « Liên Đoàn Công Giáo Pháp ». Một vài đoàn thể bắt nguồn từ các đảng xã hội, dân chủ bình dân, liên minh Cộng Hòa, cũng hoạt động theo chiều hướng ấy. Và không có mặt quân Đức trong vùng này cho nên người ta hướng sự chống đối vào Vichy, người ta gây khó khăn cho cảnh sát và tòa án. Vả chăng các lãnh tụ đều nghĩ đến việc cướp chính quyền khi chuẩn bị các lực lượng để chống lại kẻ thù, họ coi những lực lượng ấy không những là công cụ chiến tranh, mà còn là phương tiện để thay đổi chế độ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:43:48 pm Hẳn là cạnh khía chánh trị của những phong trào miền Nam đã đem lại tinh thần sống động và linh động của khuynh hưởng kháng địch, đã thu hút những yếu tố có ảnh hưởng vào hàng ngũ của mình, đã làm cho việc tuyên truyền thêm khởi sắc hấp dẫn, phản ảnh được thời cuộc, khiến cho công chúng phải chú ý. Nhưng, mặt khác, họ cũng gây khó khăn cho các ủy ban chỉ đạo trung ương. Cần phải nói rằng số đông gia nhập và tán trợ không hề nghĩ đến chương trình kháng chiến phải áp dụng sau này, điều kiện để sau này nắm chảnh quyền, việc tuyển lựa những người sẽ lên cầm quyền. Nói chung thì người ta chỉ mới kịp nghĩ đến việc chiến đấu, hay ít ra, sửa soạn cho cuộc chiến đấu; nhưng còn phải làm sao cho có súng ống, có chỗ chôn giấu, còn phải nghiên cứu và thực hiện những cuộc tập kích chứ ! Muốn thực hiện những điều đó thì cần phải có một tổ chức tại chỗ gồm những người hiểu biết, tìm ra phương tiện và giữ kín bỉ mật hành động. Tóm lại, trong nội bộ các phong trào, tuy rằng tinh thần người ta cùng hướng về một mục tiêu cứu quốc nhưng hoạt động của người ta phân tán ra từng nhóm riêng rẽ, mỗi nhóm có người cầm đầu riêng của mình, nhóm nọ còn tranh giành với nhóm kia những số vũ khí và tiền bạc ít ỏi. Trong khu vực bị chiếm đóng không có sự cạnh tranh ấy vì mọi người đứng trước nguy hiếm trực tiếp, nhưng vẫn cỏn tình trạng phân tán nhân lực và phương tiện. Ở đây người ta đụng độ trực tiếp với những lực lượng hùng hậu của địch. Người ta phải đối phó với Mật Vụ Đức. Không có phương tiện chuyên vận, thông tín và lập trụ sở, vì phải qua nhiều chặng kiểm soát gắt gao. Trong những điều kiện ấy sự hoạt động bị phân tán đến cùng cực. Nhưng trái lại, sự có mặt của địch lại khích động người ta chống cự và âm mưu sát hại địch. Bởi thế cho nên trong khu vực này phong tráo có màu sắc chiến tranh và âm mưu. « Tổ chức Dân Sự và Quân Sự » của đại tá Tony, « Người của Giải Phóng », lãnh tụ là Ripoeh, « Người của Kháng Chiến », lãnh tụ Lecompte-Boinet, « Giải Phóng Bắc » lãnh tụ Cavaillès, « Tiếng nói Miền Bắc » của Houcke trong vùng hầm mỏ miền Flajndre những phong trào ấy dẹp bỏ mọi khuynh hướng chính trị, họ chỉ chú trọng đến việc chiến đấu, họ tập hợp một số đông những toán nhỏ hoạt động bí mật và riêng rẽ. Cuối năm 1941, đến lượt cộng sản mở màn những hoạt động của họ vẫn có thái độ dung hòa với địch, trái lại họ công kích tư bản Anh-Mỹ và gia nô của Anh-Mỹ là phe de Gaulle. Nhưng họ thay đổi thái độ khi Hitler đưa quân sang xâm lăng tìôiký chiển tranh Nga Sô và họ lập được sào huyệt của họ, họ cũng tổ chức xong những đường dây hoạt động chìm. Vả chăng về phương diện này họ rất có khả năng với hệ thống chỉ huy ẩn danh và những cán hộ trung kiên của họ. Như vậy, họ sẽ tham dự vào mặt trận quốc gia Kháng Chiến, một cách can đảm và khéo léo ; hẳn là trong số những người có tâm hồn giản dị, nhiều người cũng xúc động vì tiếng gọi tổ quốc, nhưng cộng sản không quên rằng với tư cách chiến sĩ cách mạng, mục tiêu của họ là lợi dụng thảm kịch của nước Pháp để áp đặt chế độ độc tài. Bởi thế cho nên họ luôn luôn cố gắng giữ lấy tự do hành động của họ. Nhưng họ cũng định lợi dụng khuynh hướng của những chiến sĩ chỉ biết có cuộc chiến, họ cố thủ lũng đoạn các phong trào kháng chiến để nếu có thể thì dùng làm công cụ phục vụ tham vọng của họ. Chính vì thế mà họ thành lập tại khu vực chiếm đóng «Mặt Trận Quốc Gia», một nhóm có bộ mặt thuần túy ái quốc, và « Du kích và chiến sĩ du kích », một lực lượng có bề ngoài chỉ chống đối quân Đức. Nhờ thế họ thu hút được nhiều yếu tố không cộng sản, và họ dùng những yếu tố này để che đậy âm mưu của họ. Nhờ thế, họ đưa những người của họ vào các cơ quan đầu não của tất cả các phong trào khác. Bởi thể cho nên chẳng bao lâu họ đến đề nghị hợp tác với tôi, trong khi họ không ngừng âm thầm tố giác « huyền thoại de Gaulle ». Nhưng tôi thì tôi muốn để họ phục vụ. Để đánh địch, không có lực lượng nào là không nên dùng, tôi cho rằng lực lượng của họ sẽ có sức nặng lớn trong loại chiến tranh xảy diễn trên lãnh thổ bị chiếm đóng. Nhưng chỉ có thể chấp nhận cho họ hoạt động như một phần của một toàn bộ, và nên nói thẳng ra rằng họ phải ở dưới quyền điều khiển của de Gaulle. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:44:23 pm Tôi tin chắc ở ý thức quốc gia và lòng tín nhiệm của quốc dân, tôi đã quyết định cho họ một chỗ đứng trong nền kháng chiến Pháp, và một ngày kia cho họ tham dự việc chỉ huy. Nhưng tôi cung quyết tâm không để cho họ được đằng chân lân đằng đầu và qua mặt tôi. Trong tấn kịch bi thảm quyết định vận mệnh của quốc gia này, những người Pháp thiên cộng ấy cũng phải chịu bất công và hậu quả lỗi lầm, họ sẽ có cơ hội lịch sử để trở về với sự thống nhất quốc gia, mặc dầu chỉ trong thời kỳ chiến đấu chống địch. Cơ hội ấy tôi muốn làm cách nào để không bỏ lỡ. Một lần nữa, những người bỏ mình cho tổ quốc bất cứ ở đâu và bất cứ bằng cách nào, cũng có thể hô to trước khi nhắm mắt : « Nước Pháp muôn năm ! » Cuộc đời luôn luôn tiến tới, chủ thuyết nào, ý tưởng hệ nào, cuộc khởi nghĩa nào cung chỉ có một thời thôi. Cộng sản rồi cũng qua đi như những biến cố lịch sử khác. Nhưng nước sẽ còn. Tôi chắc chắn rằng, đến chung cục, điều đáng kể là nước Pháp chỉ còn lả một khối dân tộc đoàn kết khi nào được giải phóng, ngày giải phỏng chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủn trên dòng Lịch sử nhưng đó chỉ là một khoảng khắc quyết định. Đến tháng mười 1941, tôi được tin Jean Moulin có mặt ở Lisbonne, ông mới ở Pháp sang và đang tìm cách đến Luân Đôn. Tôi biết ông này lắm. Đặc biệt là tôi biết rằng ông đã làm quận trưởng Eure - et - Loư khi người Đức đưa quân vào Chartres, ông đã tỏ ra một gương mẫu cương quyết và danh dự, thậm chí địch giam giữ và ngược đãi ông chán rồi cũng phải trả tự do cho ông, xin lỗi và cúi chào ông ; Vichy đã cho người khác thay thế ông và không cho ông tham gia việc nước. Tôi biết rang ông muốn phục vụ xử sở. Tôi bèn yêu cầu các cơ quan người Anh đưa con người lỗi lạc ấy sang Anh Quốc. Phải hai tháng sau người ta mới thỏa mãn tôi. Sở tình báo Anh cũng muốn dùng Jean Moulin. Nhưng ông yêu cầu được đưa đến với tôi. Nhở một bức thư hối thúc gửi cho ông Eđen, người Anh chịu trao trả Jean Moulin cho tôi. Sau này tôi cũng gặp nhiều khó khăn mới gửi được ông trở lại đất Pháp. Trong tháng chạp, tôi có dịp ngồi nói chuyện với ông rất lâu. Trước khi đến Luân Đôn ông đã tiếp xúc rất nhiều với từng phong trào kháng chiến, mặt khác, ông cũng thăm dò nhiều giới chính trị, kinh tế và hành chánh, ông biết rõ môi trường hoạt động mà tôi muốn giao phó cho ông. Ông đưa ra những đề nghị minh bạch và những yêu cầu đích xác. Ông còn trẻ tuổi nhưng đã rút được khá kinh nghiệm, ông cũng là người được tôi luyện già giặn như những đồng chí ưu tú của tôi. Tâm hồn ông tràn đầy tình say mê tổ quốc, ông tin chắc rằng « chủ thuyết de Gaulle » không những chỉ là một công cụ để chiến đấu mà còn là động lực của sự đổi mới, ông cho rằng chính phủ phải đồng hóa với Pháp Tự Do, ông hoài bão những sự nghiệp lớn. Nhưng ông cũng là người biết suy xét, ông nhận định người và vật đúng với giá trị chân thực, ông biết thận trọng đi từng bước vững vàng lên một con đường đầy cạm bẫy của địch và đầy trở ngại của bạn. Ông là người tin tưởng và biết tính toán, ông không nghi ngờ gì hết và cái gì ông cũng không tin, ông vừa là một giáo đồ vừa là một tỳ khưu, sau 18 tháng hoạt động ông đã lập được một sự nghiệp rường cột. Phong trào Kháng Chiến tại Chánh Quốc mới được phác họa như một biểu tượng thống nhất, chính ông đã thực hiện được sự thống nhất ngoài thực tại. Nhưng đến sau ông bị phản bội và bị bắt cầm tù, ông đã bị một địch thủ không biết đến danh dự hành hạ tra tấn phải bỏ mình cho nước Pháp, cũng như các chiến sĩ anh dũng khác ; dưới mặt trời hay trong bóng tối, các chiến sĩ ấy hy sinh một buổi tối trống rỗng để sống đầy đủ sáng hôm sau. Trước hết, chúng tôi đồng ý với nhau ta hãy tác động đến các phong trào ở miền Nam để thúc đầy họ thành lập một cơ quan đầu não chung liên lạc trực tiếp Ủy Hội Quốc Gia ; cơ quan đầu não đó sẽ đặt dưới quyền chủ tọa của ông để củng cố sự thống nhất, đưa ra chỉ thị và giải quyết những tranh chấp nội bộ. Xong việc ấy, ông sẽ đến miền Bắc và cố gắng thành lập cho toàn thể lãnh thổ một hội đồng chỉ đạo tất cả các phong trào kháng chiến và phụ thuộc trực tiếp Pháp Chiến Đấu. Nhưng khi đã có đầu não trung ương cho tất cả mọi nhỏm tham dự vào công cuộc giải phóng quốc gia như vậy, thì hai vấn đề được đặt ra : vấn đề đảng phải chính trị và vấn đề lực lượng quân sự quốc nội. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:44:57 pm Hội đồng tôi nói trên đây sẽ có tính cách đại diện hơn là chỉ huy, bởi thế cho nên tôi không muốn loại bỏ các đảng phải, vả chăng, cũng không thể tránh khỏi được sự có mặt của đảng phái. Theo tôi thì tai họa không phải tại có mặt họ mà chỉ tại định chế suy đồi cho nên họ có dịp lấn át để đoạt lấy các công quyền. Bởi thế cho nên tôi có ý dành cho họ thế đứng, nhưng bây giờ không để cho họ cầm đầu được kháng chiến. Thực ra kháng chiến không hề có tinh thần như họ, không có hành động như họ, vì trước đây, đến lúc quốc gia hữu sự, tất cả các đảng phái đều thất bại không một ai làm được cái gì để cứu nước. Nhưng, hôm qua người ta ngã quy vì quốc nạn, hôm nay người ta bắt đầu tỉnh ngộ. Một vài yếu tố vừa theo phong trào kháng chiến, vừa tập hợp lại trong khuôn khổ những đảng phái ngày trước. Họ không có khách hàng để phỉnh nịnh, không có âm mưu để vận động ngược xuôi, không có «ghế» để mà cả, họ tưởng rằng và họ cho cảm tưởng rằng họ trở về nguồn gốc những cảm hửng cao thượng của hoạt động chính trị: công bình, xã hội, nền nếp cổ truyền, ý thức thế phàm,ý thức tôn giảo. Họ thanh lọc tổ chức nội bộ, hầu như họ chỉ muốn huy động một khuynh hướng nào đó của dư luận để góp phần trực tiếp vào công cuộc khảng chiến. Vả chăng dư luận cũng muốn như chấp nhận khả năng làm việc của những nhóm ấy, nhất là khi họ đã từ bỏ những thải độ lầm lỗi của họ trước đây. Sau hết, đồng minh cũng chú ý đến thái độ của lãnh tụ đảng phải. Đó là những sự kiện mà tôi không thể không biết đến khi muốn thực hiện nền thống nhất nước Pháp. Bởi thế cho nên tôi chỉ thị cho Jean Moulin, đến lúc cần thì sẽ đưa đại diện các đảng phải vào Hội Đồng bên cạnh các phong trào kháng chiến. Sự thống nhất mà tôi muốn có trong lãnh vực chính trị ở nước Pháp, tôi cũng muốn thực hiệp trong lãnh vực quân sự. Vì phương diện này, sự khó khăn đầu tiên cũng do các phong trào tạo ra khi họ tuyển dụng những đơn vị chiến đấu, họ lại có ý muốn giữ riêng cho họ. Vả chăng, những nhóm người chiến đấu ấy chỉ có từng toán nhỏ năm bảy người, ngoại trừ ở những nơi rừng rú rất kín đáo rậm rạp. Nhưng phong trào Kháng Chiến ở bưng biền đều như vậy, họ là những người bất phục tòng phải luôn luôn hoạt động ở miền nông thôn. Hình thức chiến tranh duy nhất có thể áp dụng được là du kích có thể có hiện lực lớn nếu những hoạt động lẻ tẻ của họ được coi là thành phần của một guồng máy lớn có sự chỉ đạo trung ương. Để cho những phần tử tự trị ấy hoạt động theo sáng kiến riêng của họ thì vấn đề đặt ra là làm sao liên lạc được các phần tử ấy với nhau bằng một bộ sườn mềm dẻo nhưng hữu hiệu đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tôi. Do đó mà có thể ấn định cho họ những mục tiêu để họ tùy hoàn cảnh mà thực hiện, nhất là khi có cuộc đồ bộ của đồng minh ; những kế hoạch ấy đều được lập ra với sự đồng ý của bộ chỉ huy đồng minh. Tôi ủy nhiệm cho Moulin thúc đẩy các phong trào cố gắng đạt được sư nhất trí cho các yếu tố quân sự của họ. Nhưng tôi phải đợi mấy tháng sau mới có thể thống nhất được sự chỉ huy đạo quân bí mật và giao cho tướng Delestraint. Jean Moulin được thả dù xuống miền Nam vào đêm hôm mùng 1 tháng giêng, ông mang theo lệnh của tôi bổ nhiệm ông đại diện tôi tại khu vực không bị chiếm đóng của chánh quốc để thống nhất hành động của các phần tử kháng chiến. Như vậy sẽ không ai bắt bẻ ông về nguyên tắc nhiệm quyền. Nhưng ông có nhiệm vụ thi hành quyền ấy, còn tôi thì có nhiệm vụ nâng đỡ ông. Bởi thế cho nên chúng tôi đã đồng ý để ông đứng làm trung tâm tại Pháp cho mọi công việc truyền tin và liên lạc trước hết với khu vực Nam và sau này với khu vực Bắc khi nào có thể được, ông sẽ kiểm soát hết các phương tiện truyền tin, các phái đoàn đặc nhiệm ; các việc thuyên chuyên nhân viên, vận chuyển vật liệu, thư từ, gửi từ Pháp sang Anh và từ Anh sang Pháp ; sau hết, ông tiếp nhận và phân phối ngân khoản dành cho các cơ quan hoạt động ở Chánh Quốc. Moulin bước chân vào lãnh vực thi hành khi đã nhận được những quyền hạn rộng lớn trên đây. Được sự thúc đẩy của ông, và nhờ những áp lực từ nguồn cội, các lãnh tụ phong trào miền Nam chẳng bao lâu thành lập được một thứ hội đồng dưới quyền chủ tọa của vị đại lý ủy Hội Quốc Gia. Đến tháng ba, họ công bố một bản thông cáo chung dưới nhan đề Một chiến một lãnh tụ ; bản thông cáo xác định lập trường thống nhất hành động dưới quyền chỉ đạo của tướng de Gaulle. Các hoạt động kháng chiến đã bắt đầu có trật tự. Về phương diện bán quân sự, người ta sửa soạn sự thống hợp làm một lực lượng duy nhất. Đồng thời, Jean Moulin, với sự giúp đỡ của chúng tôi, cần thiết lập cho phái đoàn của ông những cơ quan quản trị có tính cách tập trung. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 10:14:52 pm Bởi vậy cho nên ngành « Hành quân không lực và Hải lực » nhận trực tiếp chỉ thị của đại tá Dewayrin về việc chuyến vận bằng phi cơ và hải thuyền. Mỗi tháng, vào những đêm có trăng, các phi cơ Lysander hay oanh tạc cơ hạ cánh xuống những bãi đậu riêng, đây là những phi cơ chuyên trách những công tác đặc biệt ấy, điều khiển bởi các phi công như Lauren và Livry-Level. Mỗi chuyến bay như thế họ mạo hiểm đời sống của họ để chuyên chở vũ khí và nhân lực đến bảo vệ an toàn cho tất cả và cho mọi người. Thường thường họ thả dù xuống những điểm định trước rồi quân kháng chiến địa phương sẽ tiếp nhận, chôn giấu và phân phối sau. Việc truyền tin bằng VTĐ được Julite khởi sự tổ chức đơn sơ, sau này đã hoạt động dưởi sự kiểm soát của viên đại lý ; đã có liên lạc với Luân Đôn, mỗi tháng chuyển vận hàng trăm điện tín ; địch đã dùng máy dò xét theo dõi luôn luôn cho nên đài VTĐ phải làm việc lưu động và lo việc thay thế dụng cụ bị phá hoại. Moulin cũng thành lập « Phòng Thông Tin và Báo Chí », Trưởng phòng là Georges Bidault, để cho biết yếu tố tinh thần của dân chúng, nhất là trong các giới tư tưởng, tình hình xã hội, chính trị. « Ủy Ban Nghiên Cứu Trung Ương » đặt dưới quyền chỉ huy của vị đại lý sẽ lập ra những kế hoạch cho hoạt động tương lai, ủy ban này có các nhân viên Bastid, Lacoste, để Menthon, Parodi, Teitgen, Courtin, Dẹbré. Bloch- Lainé điều khiển những công việc tài chánh của phái đoàn và thu nhận ngân khoản từ Luân Đôn gửi sang. Như vậy, Moulin nắm chắc những cơ quan đầu não, đã cho thấy ảnh hưởng của chính phủ ta tại chánh quốc. Ngay từ những tháng đầu 1942, những người từ Pháp sang đã cho chúng tôi biết ảnh hưởng ấy. Thí dụ : Bémv. Ông từ Ba Lê sang vào một đêm tháng hai, đem lại cho chúng ta nhiều tài liệu, ông còn mang tặng nhà tôi một chậu hoa mua ở đường Royale. Hệ thống « Confrerie Notre- Dame» của ông đang hoạt động mạnh. Thí dụ, không có chiếc tầu thủy nào của Đức đến hay rời khỏi các biến cố sau đây mà không có điện tín bảo tin cho chúng tôi biết : Brest, Lorient, Nante, Rochefort, La Rochelle, Bordeaux. Không có một công sự chiến đấu nào của địch xây trên bờ biển Manche hay Đại Tây Dương, nhất là những căn cứ tiềm thủy đĩnh, mà chúng tôi không biết vị trí và họa đồ. Ngoài ra, Rémv còn tiếp xúc với các hệ thống khốc hoặc với những phong trào ở các vùng bị chiếm đóng, hoặc với các tổ chức của cộng sản. Phe cộng có giao thiệp với ông trước ngày ông sang đây đã nhắc ông cho tôi biết họ sẵn sàng chấp nhận quyền chỉ đạo của tôi và sẵn sàng gửi một Ủy viên của họ sang Luân Đôn. Đến tháng ba, một trong những lãnh tụ mặt trận « giải phóng — Bắc » là ông Pineau, đến làm việc với chúng tôi trong ba tháng và giải quyết được nhiều vấn đề, ông là người được tín nhiệm của các nghiệp đoàn. Đến tháng tư, ông Emmanuel d‘ Astier sang Luân Đôn, ông mang theo nhiều kế hoạch và cũng nhiều mưu mẹo ; tôi cho rằng trước khi trở về Pháp ông nên sang Mỹ cho họ biết trực tiếp nhiều chi tiết xác thực về phong trào kháng chiến. Sau đó, Brossollette sang tới nơi, ông có rất nhiều ý kiến, ông vươn lên những bình diện cao của tư tưởng chánh trị, ông ước lượng chiều sâu vực thẳm của nước Pháp và ông chỉ còn đặt hy vọng vào phong trào de Gaulle để thực hiện sự nghiệp cứu quốc, ông đưa tư tưởng của để Gaulle lên hàng một chủ thuyết. Sau này ông giúp nhiều ý kiến cho chúng tôi để hoạt động trong nội địa nước Pháp. Rồi một ngày kia, trong khi thi hành một đặc vụ, ông sa lưới địch, ông tìm cái chết để khỏi sa xuống chỗ hèn yếu. Roques cũng sang đây, mang theo một số thư tín của nhiều dân biểu. Sau ông bị bắt và thủ tiêu. Paul Simon được gửi sang từ khu vực chiếm đóng, ông lập liên lạc cho « Tổ chức dân sự và quân sự » Simon đem trí khôn nồng nhiệt và sự cương quyết lạnh lùng của ông ra phục vụ và ông đã lập được những công trạng đáng chú ý. Sau hết, còn nhiều người khác như Philip, Charles Vallin, Vienot, Daniel Mayer và nhiều người khác nữa muốn đến Luân Đôn. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:03:25 pm Họ phần nhiều là những người trẻ tuổi, bầu máu nóng sôi sục, họ đều có tham vọng và ham chiến đấu ; những cuộc hội đàm với họ cho tôi biết rằng tâm hồn dân tộc Pháp đã nao núng nhiều vì chế độ xã hội trong những ngày xảy ra trận thảm bại. Cuộc kháng chiến không phải chỉ là một trận vùng dậy của kẻ bị dồn đến đường cùng, nó còn gọi lên hy vọng đổi mới. Nếu sau ngày chiến thắng khối kháng chiến này không tan rã thì người ta có thể hy vọng rằng họ sẽ khơi nguồn một cuộc thay đổi sâu xa trong cơ cấu xã hội và một nỗ lực quốc gia rộng lớn. Được tiếp xúc với các lãnh tụ đã hưởng ứng lời kêu gọi của tôi mà đến thăm tôi, tôi nghĩ rằng, có lẽ những người nào sống sót sẽ cộng tác với tôi để tạo lập một cấp chỉ huy hầu thực hiện một sự nghiệp nhân đạo và có cả tính của người Pháp. Nhưng sự nghiệp đó chỉ có thể thực hiện được nếu khi nào quốc nạn đã qua, họ còn chấp nhận kỷ luật tinh thần và hoài bão đã từng ôm ấp ; chính vì hoài hão đó mà họ sát cánh với nhau và không có hoài bão đó thì không có cái gì ra cái gì hết trọi. Trong trường hợp nào, bây giờ cũng đã đến lúc tôi đồng ý với toàn thể kháng chiến và nhân danh kháng chiến mà tuyên bố mục tiêu chúng tôi đang theo đuổi. Mục đích ấy, là giải phóng, giải phóng theo nghĩa trọn vẹn và đầy đủ nhất của danh từ, nghĩa là giải phóng con người và tổ quốc. Tôi trình bày ý tưởng ấy dưới hình thức một bản tuyên ngôn được Ủy Hội Quốc Gia chấp thuận sau khi lấy ý kiến của các phong trào và các phái đoàn. Tôi tuyên bố rằng chúng tôi quyết chí diệt địch để đem lại cho nước Pháp tự do, danh dự và an ninh; chúng tôi quyết chí đem lại cho mỗi công dân nam cũng như nữ, những giá trị tối yếu của đời sống đó, bằng cách thay đổi hẳn chế độ xã hội tồi tệ đã tước đoạt của nhiều người. Như vậy, tôi lên án chế độ tinh thần, xã hội, chính trị, kinh tế, đã thoái bộ trong thảm bại, đồng thời, tôi cũng lên án «chế độ thoát thai từ một cuộc đầu hàng đắc tội». Và tôi khẳng định: « Trong khi dân tộc Pháp đoàn kết để chiến thắng thì nhóm giải phóng tập hợp lại để thực hiện cách mạng ». Bản tuyên ngôn được công bố ngày 23 tháng sáu 1942, trên khắp các báo bí mật ở hai khu vực, trên đài phát thanh Brazzay ville, Beyrouth, Luân Đôn. Trong thời kỳ ấy, điều kiện hoạt động ở Chánh Quốc bắt buộc tôi phải giữ trụ sở Ủy Hội Quốc Gia ở Luân Đôn. Tuy nhiên, nhiều khi tôi đã nghĩ đến việc thiên di sang lãnh thổ Pháp, sang Brazzay ville chẳng hạn. Xưa nay vẫn vậy, mỗi lần xảy ra khủng hoảng trong mối liên lạc của chúng tôi với nước Anh, tôi lại nghĩ đến điều đó. Nhưng tôi phải tự tìm lấy câu giải đáp : «Tại thâm sơn cùng cốc Phi Châu, làm sao có thể liên lạc với tổ quốc làm cho quốc dân nghe tiếng nói của tôi, điều khiển kháng chiến ? Trái lại, ở nước Anh, tôi có thể tìm được đủ phương tiện liên lạc và thông tin. Mặt khác, nỗ lực ngoại giao bốn cạnh các chính phủ đồng minh đòi hỏi những liên hệ giao tế, một bầu không khí quốc tế, chỉ có kinh đô nước Anh mới có được, còn Congo thì thiếu hẳn. Sau hết, tôi cần giữ liên lạc với các lực lượng của chúng ta và các lực lượng này chỉ có thể lập căn cứ trên các đảo Anh Quốc ». Sau khi ở Trung Đông về, tôi quyết định đặt trụ sở ở Luân Đôn. Tôi ở đây trong 10 tháng. Tôi có thể thấy lại cuộc sống của tôi trong thời kỳ ấy. Có thể nói là sống đầy đủ. Nói một cách giản dị, tôi ở khách sạn Connaught. Ngoài ra tôi còn thuê một căn nhà ở thôn quê để về sống những ngày cuối tuần với vợ con, trước ở Ellesmere trong miền Shropshưe, sau ở Berkhaamsted gần Luân Đôn. Sau đấy chúng tôi dọn đến quận Hampstead ở Luân Đôn. Thằng Philippe, con tôi, sau khi tốt nghiệp Trường Thủy Quân, đã theo đuổi cuộc chiến ngoài Đại Tây Dương trên tầu Roselys, sau, trong biển Manche, trên trinh sát phóng ngư lôi hạm 96. Con Elisabeth nội trú Dames để Sion, đang sửa soạn để vào trường Oxford. Xung quanh chúng tôi, dân chúng Anh có một thái độ thiện cảm kín đáo. Khi tôi xuất hiện trước công chúng người ta làm ồn ào bao nhiêu thì họ trở lại dè dặt bấy nhiêu khi họ thấy tôi cùng vợ con đi qua một phố, vòng quanh một vườn hoa hay bước vào một rạp chiếu bỏng. Bởi vậy cho nên tôi có dịp để phối kiểm cho biết dân tộc Anh kính trọng tự do của người khác, điều đó rất có ích cho tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:03:59 pm Thường thường tôi sống trọn ngày ở « Carlton Gardens ». Tại đây, Francois Coulet và Billottecho tôi biết các bản phúc trình, thư tín và điện tín ; Coulet trở thành chánh văn phòng của tôi từ ngày Courcel sang Libye cầm đầu một trung đoàn liên thanh, Billotte trở thành tham mưu trưởng của tôi, thay thế Petit giờ sang Mạc Tư Khoa và Ortoli ra làm thuyền trưởng tầu Triomphant. Tại Carlton Gardens Soustelle cho biết tin tức hàng ngày, Passv - Dewayrin tường thuật những báo cáo từ Pháp gửi sang, Schuman nhận chỉ thị của tôi để thực hiện chương trình phát thanh. Cũng tại nơi đó, tôi giải quyết các công việc với các ủy viên Ủy Hội Quốc Gia và các chánh sự vụ, tôi tiếp đón các quan khách và những người được tôi mời đến thăm, tôi ban hành mệnh lệnh và chí thị, ký các sắc lệnh. Thường thường, vào bữa ăn sáng hay bữa tối, tôi họp mặt với các nhân vật đồng minh và những người Pháp mà tôi muốn tiếp xúc. Còn như công việc lớn lao đối với tôi là viết những bài diễn văn, thì tôi làm ở nhà tôi, buổi tối hay ngày chúa nhật. Dẫu sao, tôi cũng không muốn gây trục trặc cho guồng máy công quyền vì dùng thời giờ không thích hợp. Trên nguyên tắc, tại « Carlton Gardens» người ta không làm việc ban đêm, ngoại trừ phòng Mật Hiệu. Vả chăng, tôi cũng cần đi thăm nhiều nơi. Không kể những cuộc hội đàm với các tổng trưởng Anh, những hội nghị tham mưu, những buổi lễ mà các chính phủ Anh hay đồng minh mời tôi tham dự, tôi cũng tìm cơ hội đến những trung tâm sinh hoạt các ngành của người Pháp ở Luân Đôn. « Học viện Pháp » đã theo chúng tôi ngay từ buổi đầu, theo lời tuyên bố của giáo sư Saiưat, viện này đã đem lại cho đồng bào ta những phương tiện giáo dục quý giá và một trung tâm văn hóa tích cực hoạt động. Hội « Đồng Minh Pháp » tiếp tục công cuộc truyền bá với sự cố gắng của ông Thémoin và có Salmon. Cho đến ngày bị trúng bom, Học Viện Pháp vẫn cung cấp cho chúng tôi những tài liệu quan trọng tàng trữ trong thư viện. Những hội và đoàn thể sau đây đã đem lại cho các chiến sĩ của chúng ta sự giúp đỡ thông minh và hào hiệp : « Bạn của những người Pháp tình nguyện », hội này của các ông Lord Tyrell, Lord để la Warr, Lord Ivor Churchill; « ủy Ban Phối Hợp Pháp Chiến Đấu » bên Tô Cách Lan, chủ tịch Lord Inverclyde. Phòng Thương Mại Pháp đóng một vai trò quan trọng trong việc mậu dịch của Anh Quốc với các lãnh thổ tập kết. « Trung Tâm Tiếp Đón Pháp Tự Do » thu nhận những người Pháp sang. Bệnh viện Pháp chăm sóc nhiều thương binh. Khi gia nhập những cơ quan ấy tôi nhắm vào mục đích thắt chặt tình đoàn kết quốc gia tại Anh Quốc cũng như tôi cố gắng thực hiện ở những nơi khác. « Hội Đoàn Người Pháp tại Anh Quốc » đã tích cực giúp đỡ chúng tôi. Nhờ có hội đoàn này mà chúng tôi tổ chức được những buổi hội họp lớn quy tụ nhiều nhân vật dân sự và quản sự, nhân đó tôi gặp mặt quần chúng Pháp ; trong những buổi hội họp ấy người ta có cơ hội bày tỏ và khích lệ tin tưởng, đưa tiếng nói về Chánh Quốc qua làn sóng phát thanh nhắc lại những bài diễn văn và thuật lại hoạt động của buổi họp mặt. Từ ngày mùng 1 tháng ba 1941, trước hàng ngàn thính giả ở Kingsway Hall, tôi đã xác định sứ mạng của chúng tôi và hy vọng, của chúng tôi. Ngày 15 tháng một, trước một số đông người hội họp trên tầu Albert Hall, tôi long trọng công bố ba điểm trong chính sách của chúng tôi. Tôi nói : « Điều thứ nhất là lâm chiến, nghĩa là đem lại cho lực lượng quân sự Pháp sức bành trướng lớn nhất và hỏa lực mạnh nhất có thể đạt được... Nhưng sự nỗ lực ấy, chúng tôi chỉ thực hiện theo tiếng gọi của nước Pháp và để phục vụ nước Pháp ». Tôi lên án cả chế độ tiền chiến tranh lẫn chế độ Vichy : « Chúng tôi cho rằng cần phải có một lớp sóng ngầm dưới sâu tổ quốc nổi lên quét sạch những thảm họa liên miên và một kiến trúc xây dựng trên sự đầu hàng. Bởi thế cho nên điều thứ hai trong chính sách của chúng tôi là nói lên tiếng nói của quốc dân khi mà các diễn biến cho phép tự do bộc lộ điều mình muốn và điều mình không muốn ». Sau hết, trong điều 3, tôi phác họa nền tảng của những định chế nước Pháp đổi mới : « Những nền tảng ấy đã được minh định trong ba khẩu hiệu của Pháp Tự Do. Chúng tôi nói : « Danh dự và tổ quốc », chúng tôi hiểu rằng quốc gia chỉ có thể phục hồi trong sự chiến thắng và tồn tại trong sự tôn sùng nét kiêu hùng. Chúng tôi nói đến « giải phóng » vì sự cố gắng của chúng tôi không thể chấm dứt trước khi địch bại trận, sự cố gắng ấy phải đem lại điều kiện để sống còn và làm việc trong danh dự và an toàn ». Cử tọa xúc động, nổi lên từng đợt sóng vỗ tay reo hò, biểu lộ sự tin tưởng của họ, vang dội ra ngoài khuôn viên chiếc tầu Albert Hall. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:04:46 pm Ít khi có những cuộc hội họp ấy. Tôi thường hay tiếp xúc với những người tình nguyện gia nhập Pháp Tự Do khi đi thanh tra quân sự. Lực lượng lục hải không quân của chúng ta tuy ít ỏi và phân tán khắp nơi và tuy chỉ mới có từng mảnh vụn, nhưng cũng tạo thành một toàn bộ nhất trí mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh. Sơ đồ tổ chức của tôi ấn định cho các ủy viên Hải Lục Không Quân vẫn được thi hành như dự định. Tôi có thể phối kiểm điều ấy khi đi thăm các đơn vị đặt căn cứ ở nước Anh. Mọi người được thấy tận mặt người mà họ gọi « người anh cả Charles », con người ấy đã chứng kiến những cặp mắt, những cử chỉ, những niềm hăng say của đồng chí, y biết rằng sự yêu mến của các đồng chí không thể phai nhòa. Trên đất Anh này chỉ có những trung tâm huấn luyện đạo quân bé nhỏ của chúng tôi để gửi Sang Phi Châu và Trung Đông. Nhưng những trung tâm ấy huấn luyện rất nhiều cấp chỉ huy. Tại trại Camberley, đại tá Renouard giới thiệu với tôi đại đội kỵ binh, chi đội pháo binh, trung đoàn thiết giáp, chi đội công binh, đơn vị truyền tin, từ đó, sau tháng sau xuất hiện các sĩ quan và chuyên viên. Tôi đến thăm kho đại pháo ; dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Boutet, người ta sửa chữa những vật liệu Pháp trước đây chở từ Na Uy về Anh hoặc chở từ Pháp sang khi quân Đức xâm lăng lãnh thổ. Binh khí, đạn được, xe cộ được gửi đi để thành lập những đơn vị mới, cùng với vật liệu của người Anh cung cấp theo thỏa ước ngày mùng 7 tháng tám 1940, hay của người Mỹ cung cấp theo chế độ « Thuê Vay ». Đây là phận việc chính yếu mà Nha Quân Nhu có nhiệm vụ điều đình và tìm biện pháp thực hiện. Người chỉ huy là đại tá Morin, ông đã thực hiện được nhiều trước khi tử nạn trên một chuyến phi cơ đặc vụ ở xa. Người thay thệ là thiếu tá Hưsch. Tại Luân Đôn, thỉnh thoảng tôi cũng đến chào Hội Phụ Nữ thiện chí Pháp dưới quyền chỉ huy của cô Terré và bà Mathieu, những người xứng đáng với chức vụ chỉ đạo, y tá và thư kỷ. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Malvern, Ribbers- ford, nơi có đặt trụ sở của « Thiếu sinh Pháp Tự Do ». Tôi đã thành lập trường này vào năm 1940, dành cho sinh viên và học sinh chạy sang Anh, chẳng bao lâu chúng tôi đã đào tạo được một số chuẩn úy. Thiếu tá Bauđouin điều khiển trường thiếu sinh. Năm khóa huấn luyện, tổng cộng 211 trưởng toán hay đội trưởng ; trong số ấy 52 người tử trận. Không có gì làm cho người lãnh tụ Pháp Tự Do ấm lòng bằng những cuộc tiếp xúc với thế hệ thanh niên này, tinh hoa hy vọng thêm vào vinh quang lu mờ của nước Pháp. Trong khi các đơn vị bộ binh đóng ở nước Anh huấn luyện những yếu tố để đưa ra các mặt trận thì các hải cảng Anh cũng là căn cứ xuất phát phần lớn lực lượng hải quân của chúng ta để tham dự các cuộc chiến tranh giao thông trên Đại Tây Dương, biển Manclie, Biển Bắc, Bắc Băng Dương. Muốn thực hiện cuộc chiến tranh ấy, tất cả đều bắt buộc chúng tôi phải lợi dụng các căn cứ của đồng minh. Quả vậy, chúng tôi còn không có phương tiện sửa chữa, bảo trì, tiếp tế tầu hè của chúng tôi ở nơi nào khác, huống hồ khả năng tối tân hóa hạm đội : phòng không, ra đa V.V., sự tiến triển của chiến tranh đòi hỏi những cái tiến ấy. Sau hết, trên một phòng tuyến hải chiến rộng lớn mà nước Anh là trung tâm, cần phải có sự thống nhất lực lượng về phương diện kỹ thuật và chiến thuật. Bởi thế cho nên, tuy rằng tầu bè được chúng ta trang bị và võ trang vẫn thuộc quyền sở hữu của chúng ta, tàu bè của chúng ta chỉ mang cờ tam sắc, bộ tham mưu và thủy thủ chỉ theo quân kỷ Pháp, chỉ nghe mệnh lệnh của cấp chỉ huy Pháp, tóm lại hải quân của chúng ta vẫn có tính cách quốc gia, nhưng chúng ta chấp nhận hải quân Pháp là một bộ phận của toàn bộ hải chiến dưới quyền chỉ huy của người Anh, ngoại trừ trường hợp chúng tôi có việc phải trực tiếp dùng đến trong một thời hạn nào đó. Vả chăng nước Anh có một hệ thống khả năng, kỷ luật và hành động để giữ vững giá trị hải quân của họ. Về phía người Anh thì họ hiểu rõ cái lợi của sự hợp tác, họ giúp đỡ hải quân Pháp rất nhiều về phương diện vật chất. Hải xưởng và các cơ quan của họ có nhiều sáng kiến để sửa chữa và trang bị tầu bè của chúng ta mặc dầu khác loại và khác vũ khí. Hải quân Anh cung cấp gấp rút vật liệu mới cho chúng ta. Họ cung cấp cho chúng ta những tầu bè mới đóng : duyên phòng, trinh sát, sau này, chiến hạm nhẹ, khu trục hạm. Hạm đội nhỏ của chúng ta giữ được vai trò của mình và bảo vệ được danh dự của nước Pháp trên các hải lộ là nhờ sự giúp đỡ của đồng minh cũng như tài năng của thủy thủ Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:05:29 pm Tôi nhận thấy điều ấy mỗi lần tôi đến thăm một vài đơn vị của chúng ta ở Greenock, Portsmouth Cowes, Darmouth. Vì tính chất cuộc chiến, vì quân số giới hạn của chúng ta chỉ võ trang những chiếc tầu nhỏ. Nhưng người ta đã cố gắng đến mức cùng có thể cố gắng được trên những chiến hạm của Pháp Tự Do. Tất nhiên, những chiếc tàu từ Pháp sang là những chiếc được chúng tôi võ trang đầu tiên. Vào mùa xuân năm 1942, chúng tôi có giữ được 3 chiếc trong số 5 chiếc tiềm thủy đĩnh đầu tiên, đó là : Rubos, Minerve, Tunon, những tầu ấy hoạt động ở Đan Mạch, Na Uy, Pháp, đánh đắm tầu địch, đặt mìn, đồ bộ biệt kích. Chiếc Narvabị đắm ở gần Malte và vào tháng chạp 1940; Surcouf bị đắm tháng hai 1942. Khu trục hạm Triomphant và Léopard phóng thủy lôi hạm Melpomène và Bouclier, đã hộ tống các đoàn tầu trên đại dương và trong biển Manclie trong nhiều tháng. Đến sau, chiếc Triomphant được gửi sang Thái Bình Dương, chiếc Léopard đến Nam Phi, sau bị đắm ở Tobrouk. Chiếc Melpomene được gửi sang Bắc Hải. Trong số năm chiếc chiến hạm nhỏ, ba chiếc hoạt động ở Phi Châu : Sayorgnan de Brazza, Commandant Duboc, Commandant Dominé- Chiếc Moqueuse hộ tống các tầu chở hàng ở biên Ai Nhĩ Lan. Chiếc Chevreuil tuần tiễu ngoài khơi Noumea, ngày 27 tháng năm 1942 đưa các đảo Wallis và Futunu về tập kết với Pháp Tự Do. Hai chiếc tầu gỡ mìn Congre và Lucienne Jeanne đề phòng cửa vào các bến của nước Anh. Mười chiếc khu trục tiềm thủy đĩnh dự phần vào vệ những tầu đồng minh từ Cornouaille đến Pas-để-Calais. Sáu chiếc kéo lưới, tuần tiễu mới hạ thủy : chiếc này bị đắm tại Plymouth vào tháng một 1940. Viktng, đắm tại ngoài khơi Tripolitaine tháng tư 1942; Vaillant. President Honderce Reine des Flots vẫn tung hoành trên mặt biển ; Léonille, dùng vào việc hải thương. Chiếc tuần dương phụ Cap des Palmes đi lại giữa Sydney và Noumea. Bốn chiếc căn cứ Ouraqan, Anciens. Arras, Diligente, bổ túc các đơn vị hải quân Greenock; tầu Bir-Hakeim ở Portsmouth dùng vào việc huấn luyện thủy thủ. Thiết giáp hạm già Courbet dùng làm một trung tâm tân binh, một khu cơ xưởng, một kho chứa đạn và đồ tiếp tế, tầu này bỏ neo ở Portsmouth và dùng dàn pháo trên tàu đề phòng thủ bến tầu. Nhiều chiến hạm khác của người Anh cung cấp được sáp nhập vào hạm đội của chúng ta. Trước hết là những hải phòng hạm đóng từ những ngày đầu cuộc chiến đế bảo vệ các đoàn tầu từ Anh sang Ích Lan, Đất Mới và Gia Nã Đại. Chúng ta nhận được chín chiếc : bị chìm tháng ba 1942, Mimosa bị chìm ba tháng sau với hải quân trung tá Bươt; Aconit, Lobelca, Roselys, Renoncule, Commandant d’Estienne d’Orves. Commandant Drogou, Commandant Détroqat. Chúng ta còn nhận được 8 chiếc phóng thủy lôi của Tiểu Đội 28, những chiếc tầu này chạy qua biển Manche hết tốc lực để tấn công các tầu hàng Đức đi dọc bờ biển Pháp, có tầu chiến hộ tống. Còn 8 chiếc « Thủy Cơ » của Tiểu Đội 20, đi theo các khu trục hạm kiểu Pháp của ta ở biển Manche. Vả chăng, chúng ta cũng sửa soạn võ trang những chiến hạm mới đóng. Trong số những chiến hạm cỡ trung của Anh mới hạ thủy, nhiều chiếc mới dùng ít lâu đã dem tặng chúng ta. Đó là bốn chiếc :Découverte, La Aventure, La Surprise, La Croix de Lorraine. Chúng ta cũng giữ trước những tầu đóng gần xong: La Combattante, các tiềm thủy đĩnh Curie và Doris. Chúng tôi còn muốn có thêm nữa đế gia tăng số tầu địch bị đánh chìm, phi cơ địch bị bắn hạ. Nhưng chúng tôi phải giới hạn hoạt động và khối lượng hải thuyền vì thiếu nhân viên chứ không phải vì thiếu tầu. Đến tháng sáu 1942 đã có 700 thủy thủ Pháp Tự Do tử nạn, hiến mình cho nước Pháp. Lực lượng hải quân của chúng tôi có 3600 thủy thủ. Sau đó còn thêm đại đội thủy quân lục chiến do Amyot d‘Inville chỉ huy từ khi Détroyat tử nạn trên trường danh dự. Thêm vào đó còn có những chiếc thủy phi cơ riêng rẽ, không thể thành lập một đơn vị cho nên đã phục vụ cho không quân. Sau hết có những toán «biệt kích» huấn luyện ở Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của trung úy hải quân Kieffer. Đến tháng năm, tôi điều đình với đô đốc Lord Mounlbatten, người phụ trách những cuộc hành quân phối hợp, để tìm điều kiện hoạt động cho toàn người quả quyết chiến đấu này. Chẳng bao lâu, họ tham dự vào những vụ đánh phá ở bờ biển Pháp. Phân nửa những quân số ấy được tuyển mộ trong số những yếu tố hải quân có mặt ở bên Anh từ năm 1940. Một số khác đã theo chúng tôi sau khi chống lại chúng tôi ở Gabon và Trung Đông. Đây cũng là trường hợp thủy thủ chiếc tiềm thủy đĩnh A jax bi đánh chìm trước cửa biển Dakar, tiềm thủy đĩnh Ponceịet chìm trước Port Gentil, tầu ville bị an trí tai bến Libreville. Thỉnh thoảng, một vài người về hồi chánh từ Chánh Quốc, Bắc Phi Alexanđrie, Antilles, Viễn Đông. Hải quân thâu nhận tất cả những thanh niên Pháp ở Anh, Mỹ, Trung Đông, Ai Cập, Saint-Pierre. Sau hết, các tầu buôn đã cung cấp cho lực lượng hải quân phần lớn nhân viên của họ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:06:04 pm Cũng một cảm tưởng tương tự lẫn với chút tự hào khi tôi tiếp xúc với các phi công của chúng ta tại các căn cứ Anh. Trông thấy khả năng của họ và nghĩ đến sự nghiệp mà họ có thể xây dựng nêu để họ chiến đấu từ những căn cứ ở Bắc Phi, Trung Đông hay Anh quốc, tôi có cảm tưởng rằng đã bỏ qua mất một dịp may lớn lao của nước nhà. Nhưng cảm tưởng đó càng khiến cho tôi thêm nỗ lực để những người theo tôi có thể đem tài trí ra phục vụ nước Pháp. Tất nhiên, tôi chấp nhận rằng những người lái phi cơ của nước Anh thì phải thuộc về hệ thống không lực của người Anh, nhưng tôi vẫn muốn các chiến sĩ trên không là một yếu tố quốc gia. Điều đó không phải là dễ. Mới đầu, các đồng minh của chúng ta không hề bận tâm đến một lực lượng không quân Pháp. Họ theo cách nhìn thực tiễn và cấp bách, cho một vài phi công của chúng ta nhập vào các đơn vị của họ. Nhưng họ chỉ thâu nhận những người tình nguyện của chúng ta vào Không Lực Hoàng Gia của họ thôi. Tôi không thể bằng lòng như vậy được. Bởi thế cho nên trong một năm trời số mệnh không quân của chúng ta vẫn chưa được giải quyết. Một số, họp lại thành phi đội Pháp bất đắc dĩ, đã có thể tham dự các trận đánh ở Erythrée và Libye. Một số khác, tạm theo người Anh, dự các trận đánh bên Anh. Nhưng một số lớn không có vật liệu, tổ chức và huấn luyện, đều ngậm hờn ngồi không ở các căn cứ Anh hay Ai Cập. Tuy nhiên, rồi sau vấn đề cũng được giải quyết. Đến mùa xuân 1941, tôi đã có thể giải quyết những vấn đề nguyên tắc với Sir Archibald Sinclair, bộ trưởng Không Quân Anh. Ông là người hiểu biết và rộng lượng, ông thừa nhận rằng sự hiện hữu của một nền không quân Pháp không phải là không có ích lợi gì. Theo sự yêu cầu của tôi, ông chấp nhận rằng chúng tôi sẽ thành lập những đơn vị theo kiêu mẫu những phi đội của Anh. Người Anh sẽ cho mượn nhân viên dưới mặt đất mà chúng tôi chưa có, họ sẽ huấn luyện sinh viên đầu quân trong các trường của họ. Số phi công của chúng ta có dư sẽ phục vụ trong các đơn vị Anh, nhưng sẽ ở trong tình trạng sĩ quan Pháp biệt phái, theo quân kỷ Pháp và mặc đồng phục Pháp. Từ Le Caire, ngày mùng 8 tháng sáu 1941, tôi viết thư cho Sir Archibald để xác định những thỏa hiệp đã được đại tá Valin ký kết theo nguyên tắc trên đây. Từ đây, Valin được sự nâng đỡ luôn luôn của các Thống chế không quân : Portal ơ Luân Đôn, Long more, rồi sau Tedder ở Trung Đông. Cuối năm 1941, chúng tôi đã thành lập tại Anh Quốc phi đội khu trục «Ile de France» đặt dưới quyền chỉ huy của Scitivaux ; sau ông bị nạn ở Pháp và được Dupérier thay thế. Sau ngày hành quân ở Syrie, phi đội khu trục « Alsace » được thành lập tại Ai Cập để chiến đấu ở Libye dưới quyền chỉ huy của Pouliguen, sau chuyển về Anh Quốc và để cho Mouchotte điều khiển, ông này bị địch hạ vào năm sau. Phi đội oanh tạc « Lorraine » ra đời ở Trung Đỏng và đặt dưới quyền chỉ huy của Pijeaud. Ông này bị hạ tại phòng tuyến địch, một vài tuần lễ sau đã thoát thân về mặt trận nhà, nhưng đã bỏ mình sau đó. Người thay thế là Corniglion-Molinier. Phi đội hỗn hộp « Bretagne » được thành lập ở Tchad, với Saint-Péreuse để yểm trợ những cuộc hành quân ở Sahara, vào mùa xuân 1942, chúng tôi đã tập hợp ở hai nơi, Luân Đôn và Ilayak, những yếu tố sau này đưa sang Nga Sô để thành lập phi đội — rồi sau phi đoàn — « Normandie » người chí huy là Tulasme, rồi sau là Littoff. Khi cả hai tử nạn thì Pouyade lên. thay thế. Sau hết, một vài phi công của ta được tôi phải sang làm việc cho Không Lực Hoàng Gia. Đó là Morlaix, Fayolle, Guedj, họ chỉ huy những phi đoàn. Hai người sau tử nạn trong một chuyến bay. Trên trời, danh vọng phải trả bằng giá đắt. Không quân Pháp Tự Do tổng cộng đã mất một số người tử nạn lớn gấp đôi số người đang thi hành phi vụ. Tính cách toàn cầu của cuộc chiến tranh này khiến cho tôi phải gửi các lực lượng Pháp ra khắp các mặt trận, nhưng tôi vẫn cố gắng tập trung lực lượng chỉnh yếu vào mặt trận liên hệ trực tiếp đến nước Pháp, đó là mặt trận Bắc Phi. Sau khi chúng ta đã đánh tan quân đội Ý ở Ethiopia ngăn chặn quân Đức tiến vào Syrie, ngăn chặn từ trứng nước ý đồ Vichy muốn nhúng tay vào Phi Châu của Pháp Tự Do, bây giờ chúng ta phải hành động ở Libye. Vào tháng một 1941, người Anh đã quay trở lại thế công them một lần nữa. Nếu họ tiến được tới biên giới Tunisie thì điều cốt yếu là chúng ta cũng phải có mặt ở đấy với họ vì chúng ta trước đây đã cùng họ chống địch. Trái lại, nếu địch đẫy lui được người Anh thì chúng ta phải làm tất cả để ngăn cản lại không cho họ tràn đến Ai Cập. Dẫu sao thì bây giờ cũng là lúc tung hết lực lượng ra chiến trường, nhưng phải biết đóng vai trò của mình để thâu đạt những thành quả có cả tính của người Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:06:43 pm Chủng tôi có hai phương thế hành động : một là đưa đội quân Sahara của Leclerc từ hồ Tchad tới Fezzan, hai là theo người Anh, đưa những lực lượng lưu động của Larminat ở Trung Đông sang Libye. Tôi định thực hiện cả hai cuộc hành quân đó, nhưng làm cách nào để xương máu binh sĩ của chúng ta có ích lợi trực tiếp cho nước Pháp. Việc tiến chiếm Fezzan và việc đưa quân vào Tripoli đều là những cuộc hành quân phải mạo hiểm một lần cho xong. Nếu thất bại thì còn lâu mới có thể thực hiện lần nữa, vì lập được một lực lượng như bộ đội Tchad người ta đã gặp những khó khăn trọng đại về việc tổ chức trang bị và tiếp tế. Chỉ khi nào người Anh lấy lại được Cyrẻnaique và tiến vào Tripolitaine thì bộ đội Tchad của chúng tôi mới dốc toàn lực ra hành động. Nếu không thì chúng tôi chỉ khủng bố người Ý bằng những trận đột kích chớp nhoáng vào sâu trong lãnh thổ của họ. Mặt khắc tôi muốn rằng «mặt trận Tchad» giữ được cá tính của một mặt trận Pháp — nếu có thể gọi một toàn bộ những hoạt động đứt quãng như vậy là một mặt trận. Hẳn là mở cuộc hành binh của những lực lượng Sahara này chúng tôi phải phối hợp với cuộc tiến quân của Quân Đoàn VIII Anh Quốc. Đây là một việc liên lạc với Le Caire. Nhưng ngoài sự liên lạc ấy ra, những công việc chỉ đạo khác chỉ tùy thuộc có tôi, cho đến ngày lập được sự giao liên với quân đồng minh ở bờ biển Địa Trung Hải, bấy giờ chúng tôi đặt mình dưới sự chỉ huy của đồng minh thì cũng hợp lý. Tôi càng đòi hỏi cho được sự tự trị ấy vì vụ tiến chiếm Fezzan sẽ đem lại cho chúng tôi một bảo đảm để sau này giải quyết số phận nước Libye. Vào những tháng một và chạp, quân Anh đã chiến đấu can đảm và cam go. họ tiến vào được Cyrénaique. Chúng tôi đã tính trước sẽ có ngày họ tiến ồ ạt vào Tripolitaine, cho nên Leclerc cùng với tướng Serres, tư lệnh quân Pháp tại Phi Châu Tự Do, đã chuẩn bị đưa quân vào Fezzan. Đối với tôi, tôi chỉ lạc quan một cách dè dặt. Tôi biết rằng Rommel đã thoát được gọng kềm của quân Anh, Weygand đã được gọi từ Bắc Phi về, việc áp dụng thỏa ước Hitler- Darlan bây giờ cho phép địch nhận tiếp tế từ Tunisiẹ, bởi thế cho nên tôi không hy vọng nhiều đồng minh sẽ tiến nhanh được về Tripoli. Trái lại, địch phản công là cái chắc. Bởi vậy, tuy tôi để cho người ta sửa soạn cuộc tấn công nhưng chính tôi dành lấy quyền ra chỉ thị lúc tung quân ra mặt trận. Mặt khác, phái đoàn liên lạc của Leclerc gửi sang Le Caire đã chấp nhân sự phụ thuộc vào quyền chỉ huy của người Anh, nhưng tôi xác định với tướng Ismay rằng không có sự lệ thuộc ấy và sửa chữa lại cho đúng với tinh thần của bộ đội Tchad. Ngoài thực tế thì các đồng minh của chúng ta không tiến vào Tripolitaine. Những tháng đầu năm 1942 là một thời kỳ án binh cho cả hai phe lâm chiến. Như vậy, đối với bộ đội Tchad thì chỉ nên tung ra những trận đột kích rồi rút lui. Leclerc muốn hành động lắm. Tôi cho phép ông khởi sự ngày mùng 4 tháng hai. Trong tháng ba, ông mở những cuộc hành quân tuần tiễu trong vùng Fezzan, có phi cơ yễm trợ, ông phá hủy nhiều đồn trại của địch và bắt được nhiều tù binh, tịch thu được nhiều vũ khí. Sau cuộc tấn công lại trở về căn cứ, tồn thất rất nhẹ. Để mở rộng môi trường và tăng gia phương tiện hoạt động của vị tướng có tài thao lược này, tôi để ông toàn quyền chỉ huy các lực lượng của Phi Châu thuộc Pháp Tự Do. Lại một lần nữa, tôi phải trấn an ông vì ông vẫn quá khiêm tốn mà tìm cách từ chối, ông và các bộ đội của ông chắc chắn rằng sẽ chiếm được các ốc đảo khi nào tình hình Libye biến chuyển một cách thuận lợi. Tuy nhiên, ông còn phải đợi 10 tháng dưới trời nhiệt đới giữa những vùng cát sỏi trước khi nắm được thế thắng và tiến vào biến Địa Trung Hải để rửa sạch các bụi sa mạc. Trong khi chúng tôi phải đình hoãn cuộc hành quân quyết định ở hồ Tchad thì ở Cyrẻnaique có cơ hội chờ đợi lâu để thực hiện một cuộc hành binh ngoạn mục. Tuy nhiên, chúng tôi đã phải vượt qua nhiều trở ngại trước khi được đồng minh ưng thuận cho chúng tôi đưa những đơn vị lớn vào chiến địa này. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:07:02 pm Quả vậy, hai sư đoàn nhẹ và chi đoàn thiết giáp của Larminat thành lập ở Syrie không được, bộ chi huy Anh dự định cho tham dự cuộc tấn công cuối tháng mười. Nhưng hai đơn vị lớn ấy đều thiện chiến và được trang bị đầy đủ vũ khí, Mỗi đơn vị đều được cơ giới hóa, gồm 5 đại đội khinh binh, một chi đoàn pháo binh, một liên đội chống chiến xa, một liên đội phòng không, một đại đội trinh sát, một liên đội và một trường công binh, một liên đội truyền tin, một liên đội vận tải, một liên đội tổng hành dinh, các dịch vụ. Các đơn vị ấy có đủ loại khí giới, và như thể đều là những sư đoàn có khả năng đóng một vai trò chiến thuật đặc biệt. Mặc dầu chỉ là sư đoàn «nhẹ», nhưng tôi muốn đặt cho một cái tên xứng đáng. Larminat sử dụng những vũ khí của Dentz để lại hay lấy được trong các kho chứa do các ủy ban đình chiến Ý canh giữ, ông trang bị các bộ đội những vũ khí rất tốt mà những chiến sĩ hăng hái và khéo léo của ta biết dùng hơn ai hết. Ngoài pháo binh của sư đoàn mỗi đại đội của ta còn có riêng 6 đại bác 75. Họ còn có nhiều súng cối và vũ khí tự động. Đến lúc lên đường tấn công thì phải bỏ bớt vũ khí nặng. Nhưng bây giờ còn là lúc giữ vững vị trí cho nên ta có hỏa lực mạnh khác thường. Ngày 20 tháng chín, tôi đã chấp thuận thành phần của hai sư đoàn nhẹ, ngày mùng 7 tháng mười tôi gởi cho ông Churchill một công hàm trình bày nguyện vọng và phương tiện của chúng tôi. Đồng thời, tôi gửi thư cho tướng Auchinleck, tư lệnh quân đội Trung Đông, để nhắc lại ý muốn sang chiến đấu bèn Libyẹ. Tôi xác định với ông Churchill và tướng Auchinleck rằng tôi sẵn sàng đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huy Anh toàn thể các bộ đội của tướng Larminat, mặt khác, tuy rằng tướng Leclerc hoạt động một cách tự trị, nhưng ông cũng có thể đưa quân vào Fezzan đúng ngày đã định. Ngày mùng 9 tháng mười, tôi đến thăm ông. Margesson, bộ trưởng Chiến Tranh Anh, và yêu cầu ông can thiệp. Sau hết, ngày 30 tháng mười, tôi cho tướng Catroux biết những điều kiện để chúng ta cho những đơn vị lớn tham dự chiến trường Libye. Mãi đến ngày 27 tháng một tôi mới nhận được thư trả lời của người Anh, tướng Ismay, tham mưu trưởng Phòng Chiến Tranh của ông Churchill. Bức thư có ý nghĩa chối từ triệt để một cách vừa nhã nhặn vừa cương quyết. Để giải thích sự từ chối ấy, họ viện cớ : «các đơn vị Pháp đỏng rải rác khắp các nơi trên lãnh thổ Syrie», «không được huấn luyện để hoạt động theo tiêu chuẩn sư đoàn hay lữ đoàn» , sau hết «thiếu trang bị». Tuy nhiên, họ hy vọng trong tương lai sẽ xét lại vấn đề. Đã hiển nhiên là bộ tư lệnh Anh tính chinh phạt Libye và đánh bại được Rommel không cần đến người Pháp. Hẳn là họ có tại chỗ những lực lượng bộ binh và không quân hùng hậu và họ tin rằng đô đốc Andrew Cunningham có thể làm hơn một phép lạ và ngăn cản đường giao thông của địch từ Ý Đại Lợi đến Tripolitaine. Độc giả có thể tưởng tượng được thư trả lời của người Anh làm tôi thất vọng đến mức nào. Tôi không thế chấp nhận rằng quân đội của chúng ta án binh bất động không biết đến bao giờ trong khi vận mệnh thế giới đang được định đoạt tại các chiến trường. Tôi không đợi đến lúc ấy, tôi muốn cầu may đổi hướng hành động. Tôi cho mời ông Bogomolov đến và yêu cầu thông báo cho chính phủ ông biết rằng Ủy Hội Quốc Gia Pháp ước mong để lực lượng Pháp trực tiếp tham dự những cuộc hành quân đồng minh ở mặt trận phía Đông trong trường hợp Pháp không được dự các trận đánh Bắc Phi. Dĩ nhiên, tôi không giữ bí mật cuộc vận động này ở Luân Đôn. Nhưng trước khi Mạc Tư Khoa trả lời, người Anh đã thay đổi ý kiến. Ngày mùng 7 tháng chạp, ông Churchill gửi cho tôi một bức thư rất thân thiết nói rằng « ông mới được tin tưởng Auchinleck đang mong đợi đưa một lữ đoàn Pháp Tự Do vào các cuộc hành quân ở Cyrẻnaique ». Ông còn nói thêm : « Tôi biết rằng ý kiến ấy phù hợp với ý muốn của ông. Tôi cũng biết rằng binh sĩ của ông đang nóng lòng muốn thanh toán với quân Đức ». Tôi trả lời ông Churchill rằng tôi tán đồng kế hoạch ấy và tôi gửi cho Cotnoux những chỉ thị cần thiết. Thực ra, người Anh, ngoài việc không muốn để cho lực lương Pháp di chuyển sang Nga, họ cũng bắt đầu nhận thấy lợi ích quân sự nếu để cho chúng tôi tham dự vảo các trận đánh Cyrénaique. Họ nhận thấy địch chỉ rút lui rất chạm chạp, các bộ đội của họ bị tổn thất nặng, cần phải tổ chức lại tại chỗ một bộ chỉ huy, vì bộ chỉ huy hiện thời không thích hợp với những cuộc hành quân cơ giới. Trước đay họ không muốn thúc đẩy cuộc tấn công vào Tripolitaine, bây giờ họ đang chờ đợi Rommel phóng ra cuộc tấn công ấy. Trong viễn tượng ấy, họ ước mong chúng tôi tiếp tay với họ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:07:24 pm Tại Le Caire, Catroux thảo luận với Auchinleck việc đưa Sư Đoàn I nhẹ vào Libye, Koenig, thảo luận về chi tiết, đã đòi hỏi được đồng minh cung cấp thêm vũ khí chống chiến xa, súng phòng không và phương tiện chuyên chở. Đến tháng giêng, sư đoàn này có một vài trận đánh với quân của Rommel, một số yếu tố bị bao vây ở Solium và Bardia đã đầu hàng quân ta. Khi trông thấy những toán tù binh Đức mà chúng ta đã bắt được, các bộ đội của chúng ta rùng mình như bị điện giật. Họ bước chân lẹ làng tiến về miền Tây. Vào tháng hai, quân Anh đóng các lực lượng chính ở trung tâm xứ Cyrénaique, vùng .« Gazala » gồm nhiều khu vực kháng cự, quân ta đóng ở Bư-Hakeim, về phía Nam. Đóng ở đấy chúng ta tổ chức lại hàng ngũ và đánh những trận nhỏ và tuần tiễu trong dải đất hẻo lánh ngăn cách ta với khối quân lớn địch. Sư Đoàn I nhẹ có cơ may để xuất đầu lộ diện, nhưng Sư Đoàn 2 vẫn hầm hiu nằm lỳ tại Trung Đông. Tôi muốn cho sư đoàn này cũng được tham dự các cuộc hành quân. Ngày mùng 10 tháng chạp, ông Bogomolov đến gặp tôi để nói chuyện ấy ; kế hoạch gửi quân Pháp sang Nga được chính phủ ông hoan nghênh nồng nhiệt ; chính phủ ông sẵn sàng cung cấp tại chỗ tất cả các vật liệu cần thiết. Bởi vậy tôi đang trù tính gửi sang mặt trận Đông không những phi đoàn « Normandie » mà cả Sư Đoàn 2 nhẹ nữa. Sư Đoàn này sẽ khỏi hành từ Syriè đến Bagdad và đi qua Ba Tư bằng cam nhông đến Tabriz sẽ được chuyên chở hằng hỏa xa đến miền Caucase. Những đoàn xe chở vật liệu của đồng minh cung cấp cho Nga Sô vẫn đi theo con đường này từ những bến tầu xứ Iran. Ngày 29 tháng chạp, tôi viết thư cho tướng Ismay, cho biết ý định của tôi, đồng thời, tôi gửi các chỉ thị cho tướng Catronx Sư Đoàn II sẽ khởi hành ngày 15 tháng ba sang Caucase nếu cho đến ngày ấy không dùng vào mặt trận Libye. Bộ chỉ huy Anh tìm hết cách chống lại việc gửi đơn vị ấy sang Nga Sô. Nhưng tại Mạc Tư Khoa người Sô Viết hết sức hoan hỉ. Molotov nói chuyện với Garreau, tướng Panfilov nói chuyện với Petit, hối thúc chúng tôi trả lời dứt khoát ; về phía Anh, ông Eden cũng lên tiếng để bênh vực quan điểm của giới quân sự Anh. Về phần tôi, tôi chỉ kể đến quan điểm của riêng tôi, rốt cục, đến cuối tháng hai, bộ chỉ huy đồng minh phải theo quan điểm của tôi. Tướng Ismay cho tôi biết điều ấy. Auchinleck yêu cầu Catroux để ông sử dụng Sư Đoàn II nhẹ. Sư Đoàn này rời khỏi Syrie, tiến tới Lybie vào những ngày đầu tháng ba. Từ đây Larminat có đủ các bộ đội để hoạt động : Koenig tại phòng tuyến ở Bir-Hakeim với Sư Đoàn I ; Cazaud đứng trừ bị với Sư Đoàn II. Chi đoàn thiết giáp của đại tá Rémy ở hậu cứ nhận được súng ống mới. Một liên đội dù được tôi gởi từ Anh sang, bây giờ đang tập dượt ở Ismailia, sẵn sàng để thực hiện những cuộc đột kích giao phó cho họ. Tổng sổ 12.000 quân, nghĩa là một phần năm số quân đồng minh tung ra trong một cuộc hành binh. Phi đoàn « Alsace » và phi đoàn oanh tạc «Lorraine » vẫn chiến đấu trên trời Cyrénaique từ tháng mười. Nhiều chiến hạm nhỏ và tầu kéo lưới của chúng ta hộ tống các đoàn tầu dọc bờ biền. Nhờ vậy một lực lượng Pháp quan trọng đã được kịp thời tung ra chiến trường chính. Ông Trời các chiến trường đã công bình để cho người Pháp Tự Do tham dự một trận đánh lớn hầu giành lấy vinh dự lớn. Ngày 27 tháng năm Rommel khỏi sự cuộc tấn công. Bir- Hakeim bị công kích. Trong những việc lớn đòi hỏi sự mạo hiểm toàn diện, thường có lúc kẻ lãnh đạo cảm thấy trước vận mệnh được định đoạt. Thời cơ hầu như dẫn đến lúc hàng ngàn yếu tố bất thần tụ lại để nở bung ra trong một khoảnh khắc quyết định. Nếu là vận hội may mắn thì mọi việc đều trôi chảy. Nếu vận rủi lảm cho kẽ lãnh đạo phải đảo điên thì tất cả sẽ sụp đổ. Trong khi tấn kịch bi thảm Bir - Hakeim đang diễn ra trong một dải đất hình đa giác rộng 16 cây số vuông, nơi đóng quân của tướng Koenig, thì tôi ở Luân Đôn đọc các điện văn, nghe các bài bình luận, nhìn các khóe mắt khi hớn hở khi sa sầm, tôi có thể ước lượng được hậu quả quan trọng của những việc xảy ra ở Libye. 5.500 chiến sĩ tình nguyện từ Pháp Phi Châu, Trung Đông, Thái Bình Dương, mang theo băn khoăn và hy vọng sang vùng chiến địa qua bao nhiêu gian nan vất vả ; nếu vạn nhất họ thất bại thì sự nghiệp của chúng ta sẽ lâm nguy Ngược lại, lúc này, tại chiến địa này, họ lập được ít nhiều công trạng sáng rỡ thì tương lai sẽ thuộc về ta ! Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:07:43 pm Những trận đánh đầu tiên không đến nỗi dở. Tôi biết rằng ngày 27 tháng năm, khi lực lượng của địch chuyển xuống phía Nam Bir-Hakeim để xoay lại vị trí của dồng minh, thì sư đoàn Cơ giới của Ý «Ariete đã tung 100 chiến xa ra đánh quân Pháp, 40 chiếc đã bị đánh hư nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường. Ngày 28 và 29 các chi đội của chúng ta tỏa ra các phía còn phá hủy thêm 15 chiến xa nữa và bắt được 200 tù binh. Ngày 30, tướng Rommel không thể thanh toán được đạo quân Cơ giới Anh trong mấy trận đầu, bèn quyết định rút về để sửa soạn cuộc tấn công khác. Hai ngày sau, một đạo quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Trung Tả Broche, tiến vào Rotonda Signali, 50 cây số về phía Tây và chiếm được vị trí ấy. Ngày mùng 1 tháng sáu Larminat đi thanh sát các bộ đội. Bản báo cáo của ông đầy vẻ lạc quan. Trên thế giới đã có một luồng dư luận. Một số người có linh cảm rằng việc này có thể vượt quá phạm vi một chiến thuật. Những cuộc tranh luận với chút dè dặt, những bài phát thanh với ngôn từ kín đáo, báo chí với thái độ thận trọng, đã bắt đầu khen ngợi các bộ đội Pháp và tướng tá của họ. Ngày hôm sau tướng Rommel lại giành lấy thế chủ động. Lần nầy ông ta đưa quân vào trung tâm vị trí của tướng Ritchie, ông này được Auchinleck giao cho việc chỉ huy chiến trường. Quân Đức đánh tan một lữ đoàn của Anh ở Got-el-Skarah, họ vượt qua một bãi mìn lớn của đồng minh dùng để che chở địa phận từ Gazala đến Bir-Hakeim, họ đưa một sư đoàn Phi Châu của họ công kích chúng ta để mở rộng lỗ hổng phòng tuyến mới tạo được. Lần thứ nhất từ năm 1940 quân Pháp và quân Đức đụng độ với nhau trên một chiến trường rộng rãi. Trước tiên còn là những trận chạm sủng nhỏ, chúng ta bắt được 150 tù binh. Nhưng chẳng bao lâu mặt trận mở lớn thành một bãi chiến trường. Địch phái hai du khách đến thuyết phục nên đầu hàng, tướng Koenig tuyên bố rằng ông không đến đây để đầu hàng. Những ngày hôm sau địch siết chặt thêm gọng kìm. Đại pháo cỡ lớn, kể cả súng 155,và 220 dồn hỏa lực vào các vị trí của chúng ta mỗi lúc mỗi thêm mạnh hơn. Hàng ngày, ba, bốn hay năm lần phi cơ Stukas và Junder đến dội bom từng đoàn 100 chiếc. Tiếp tế chỉ được đưa đến từng số ít. Tại Bir - Hakeim, các kho đạn được, lương thực và nước uống đều cạn dần. Dưới mặt trời nóng như thiêu, giữa những cơn gió lọc cát bụi, kẻ giữ thành sống trong tình trạng báo động thường xuyên bên cạnh thương binh, họ phải chôn những người chết ngay ở sát nách, Ngày mùng 3 tháng sáu, tướng Rommel đưa ra mảnh giấy viết tay hối thúc đầu hảng buông súng «nếu không sẽ bị tiêu diệt như lữ đoàn của người Anh ở Got-el- Skarab ». Ngày mùng 5 tháng sáu, một sĩ quan của họ lại đưa ra lời bách thúc tối hậu. Chúng ta chỉ trả lời bằng đại pháo. Nhưng đồng thời tại nhiều nước, công chúng đã để ý đến trận đánh. Người Pháp ở Bir - Hakeim càng ngày càng được báo chí nói đến. Dư luận sẵn sàng để phán đoán. Vấn để là cần biết vinh quang còn yêu mến binh sĩ của chúng ta nữa hay không. Ngày mùng 7 tháng sáu, sự bao vây Bir - Hakeim đã tròn vẹn. Sư Đoàn 90 và sư đoàn Ý « Trieste » với 20 giàn đại pháo và hàng trăm chiến xa đã sẵn sàng để xung kích. Bộ chỉ huy dồng minh ra lệnh cho tướng Koenig chiều ngày mùng 1 tháng sáu : « Giữ vững thêm 6 ngày nữa ! » Sáu ngày đã trôi qua. Tướng Ritchie yêu cầu : «Ở lại thêm 48 giờ nữa» ! Cần phải nói rằng Quân Đoàn VIII đã tồn thất và dao động nhiều không thể gửi viện binh hay thay thế được. Còn như Rommel thì ông ta muốn sang Ai Cập, thừa lúc người Anh rối loạn hàng ngũ, ông ta khó chịu về sự kháng cự kéo dài ở hậu quân của họ và cản trở sự lưu thông của họ. Bir-Hakeim trở thành mối ưu tư chỉnh và mục tiêu chính của ông ta. Đã nhiều lần ông ta đến thăm chiến trường và ông ta còn đến nữa đề đốc thúc việc phong tỏa. Ngày mùng 8 xảy ra những trận đánh lớn. Bộ binh địch nhiều lần dùng pháo binh và chiến xa định liều lĩnh lấy vị trí nào đó nhưng không lẩy nổi. Ban ngày cuộc phòng thủ thật là cam go. Ban đêm cũng vậy, người ta sửa chữa những vị trí bị đảo lộn. Ngày mùng 9 họ lại xung kích. Đại pháo địch tăng cường thêm súng nặng hơn, súng 75 của đại tá Laurent - Champrosay chống không nổi. Người của chúng ta chỉ được chưa đến 2 lít nước trong 24 giò, dưới trời nóng bức này thật là quá thiếu thốn. Nhưng còn phải cầm cự nữa, vì giữa lúc sự lộn xộn lan rộng trong hàng ngũ quân đội Anh, cuộc chổng cự của tướng Koenig có một tầm quan trọng chính yếu. Người ta đưa ra trên báo những hàng tít : « Sự chống cự anh dũng của người Pháp » ! — « Những chiến công ngoạn mục » ! — « Người Đức bị đánh trước vị trí Bir-Hakeim ! » Đây là những hàng tít giật gân trên báo Luân Đôn Nữu Ước, Montreal, Le Caire, Rio Buenos-Aires, trên các loa truyền tin. Chúng tôi đã đến gần mục đích bằng cách để cho các bộ đội Pháp Tự Do với số quân nhỏ bé đóng một vai trò lớn trong một thời cơ lớn. Đối với hoàn cầu thì súng thần công Bir-Hakeim báo trước bước đầu của sự phục hồi nước Pháp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:08:14 pm Nhưng mối bận tâm ám ảnh tôi là số mệnh của binh sĩ thủ thành. Tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa họ không chống đỡ nổi những cuộc xung kích với phương tiện hùng hậu. Tôi chắc chắn rằng dẫu sao thì sư đoàn cũng không đầu hàng; địch không được hưởng sự thích thủ xem một đoàn tù binh Pháp dài diễn hành qua trước mặt Rommel, nếu các bộ đội của chúng ta cố thủ thì muốn thanh toán tất phải diệt lần hồi từng đại đội một. Nhưng vấn đề của chúng tôi là cứu sống họ chứ không phải khoanh tay đứng nhìn họ bị giết hại một cách anh dũng. Tôi rất cần hàng trăm sĩ quan và hạ sĩ quan, hàng ngàn binh nhì thiện chiến này cho những cuộc hành quân về sau. Họ đã được danh vọng, bây giờ phải thực hiện được một loại danh vọng khác bằng cách vạch ra được lối thoát giữa quân địch bao vây và bãi mìn để trở về với các lực lượng đồng minh. Tuy rằng tôi không can thiệp trực tiếp vào việc điều động mặt trận, nhưng ngày 8 và 9 tháng sáu tôi cũng cho bộ chỉ huy Anh biết gấp rằng cần phải cho Koenig lệnh rút lui kịp thời. Ngày mùng 10 tháng sáu tôi nhắc lại lời yêu cầu ấy tới ông Churchill khi đề cập với ông vấn đề Madagascar; Dầu sao thì cũng đã đến màn kết liễu, tôi gửi điện tín cho chỉ huy trưởng Sư Đoàn I nhẹ : « Tướng Koenig ! tôi gửi lời khen ngợi ông và xin ông thông báo cho binh sĩ các Gấp dưới quyền ông biết rằng tất cả nước Pháp đều hướng về ông, ông là niềm kiên hãnh của nước Pháp ! » Ngay tối hôm ấy, tướng Sir Alan Brooke, tham mưu trưởng của người Anh, báo tin cho tôi biết rằng từ bình minh địch không ngừng công hãm Bir- Hakeim, nhưng Ritchie đã ra chỉ thị cho Koenig đến một vị trí mới nếu có thể được. Cuộc lui binh được định vào đêm nay. Sáng hôm sau, 11 tháng sáu, lời bình luận trên đài phát thanh và báo chí khen ngợi quá đảng và trở nên bị thảm quá đỗi. Vì không biết rằng quân Pháp đang tìm cách thoát ra ngoài, mọi người đều yên chí rằng họ sẽ bị thủ tiêu bất cứ lúc nào. Nhưng tối hôm ấy Brooke cho người lại báo tin : « Tướng Koenig và phần lớn bộ đội của ông đã đến được El Gobi ngoài tầm công kích của địch ». Tôi cám ơn người đưa thư, tiễn họ ra về và đóng cửa lại. Tôi chỉ có một mình. Trời ! Tim tôi rung động, tôi nấc lên vì kiêu ngạo, tôi chảy nước mắt vì vui sướng ! Trước vụ Bir-Hakeim Sư Đoàn I nhẹ có độ 5.500 người, sau 14 ngày cầm cự, Koenig đưa về được 4.000 người khỏe mạnh. Một số thương binh cũng có thể đưa về hậu phương được với các đơn vị. Chúng ta bỏ lại chiến trường 1.109 sĩ quan và binh lính chết, bị thương hay mất tích. Trong số tử nạn có ba sĩ quan cao cấp : trung tá Broche, các thiếu tá Sayey và Bricogne. Trong số thương binh bỏ lại : Puchois và Babonneau. Vật liệu bỏ lại đã cần thận tiêu hủy hết. Nhưng chúng tôi đã làm cho địch tồn thất gấp ba lần chúng tôi. Ngày l2 tháng sáu, người Đức loan báo rằng hôm trước họ đã xung kích Bir - Hakeim. Sau đó Bá Linh công bố một, thông cáo : « Người Pháp da trắng và da màu bị bắt làm tù binh ở Bir - Hakeim không thuộc về một đạo quân chính quy nào, sẽ phải chịu đối xử theo luật chiến tranh và sẽ đem ra xử bắn ».. Một giờ sau, tôi công bố trên đài BBC bằng đủ thử tiếng : « Nếu quân đội Đức tự làm ô nhục mình đến độ giết chết người Pháp bị bắt làm tù binh khi họ chiến đấu cho tổ quốc họ, thì tướng de Gaulle rất tiếc mà nói cho biết rằng ông ta sẽ đối xử đúng như vậy với người Đức bị bộ đội của ông ta bắt làm tù binh ». Chưa hết ngày hôm ấy đài Bá Linh vội vàng tuyên bố :‘« Không thể có sự hiểu lầm nào về những quân nhân Pháp bị bắt trong những trận đánh Bir-Hakeim. Binh sĩ của tướng de Gaulle cũng được đối xử như binh sĩ khác » và họ xử sự đúng như lời tuyên bố. Trong khi Sư Đoàn I nhẹ tập hợp lại ở Sidi- Barrani và tướng Catronx cố gắng bổ xung quân số thì phi đoàn Alsace vẫn tiếp tục tham gia những phi vụ khu trục tăng cường với người Anh và phi đoàn Lorraine tăng cường những trận oanh tạc các trục lộ giao thông với Không lực Hoàng Gia. Đồng thời các lính dù của ta thực hiện nhiều trận đột kích ngoạn mục. Trong đêm 12 rạng ngày 13 tháng sáu, họ phá hủy được 12 phi cơ địch trên phi trường ở Libye ; đại úy Bergé nhảy dù xuống đảo Crete với vài người bạn đã đốt cháy được 21 chiếc oanh tạc cơ, 15 cam nhông và một kho xăng trước khi bị bắt. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:43:51 pm Nhưng Quân Đoàn VIII bất thần mỏi mệt tinh thần đã bỏ miền Cyrẻnaique đi nơi khác, để lại một số vật liệu khổng lồ. Tưởng Auchinleck hy vọng ít ra cũng giữ được Tobrouk, một căn cứ chắc chắn và được tiếp tế bằng đường biển. Nhưng ngày 24 tháng sáu, cả đồn trại 33.000 người đã đâu hàng quân địch. Phải khó nhọc lắm người Anh mới lập lại được căn cứ ở gần El Alamein. Một khu của vị trí mới này giao cho tưởng Cazaud và Sư Đoàn II nhẹ của ông, như vậy là chúng ta đã có mặt ở phòng tuyến. Trong số quân trừ bị có đại đội Thiết giáp của đại tá Rémy, được trang bị một cách hấp tấp. Tình hình nghiêm trọng. Toàn thể Trung Đông rùng mình lo sợ, chờ đợi quân Đức và quân Ý kéo vào Le Caire và Alexandrie. Sự suy nhược tinh thần của đồng minh chỉ nhất thời thôi. Sẽ có ngày họ lấy lại được tinh thần khi họ làm chủ được mặt biển, họ có thêm viện binh, họ hơn trội về không quân, sau hết, họ trông cậy được tài năng của tướng Montgomery. Vả chăng, Rommel hết tiếp tế cũng không tiến thêm bước nào. Tuy nhiên, toàn thể cảc diễn tiến cũng, làm nổi bặt tầm quan trọng những hành động của chúng tôi. Tướng Auchinleck công nhận điều ấy một cách cao thượng. Ngày 12 tháng sáu, ông ký một thông cáo khen ngợi Sư Đoàn I nhẹ : « Các Quốc Gia Liên Hiệp đều khen ngợi và biết ơn những bộ đội Pháp và vị tướng can đảm của họ ». Sáu ngày sau, ở Luân Đôn, 10.000 Pháp, quân nhân và dân sự, hội họp làm lễ kỷ niệm đệ nhị chu niên ngày tung ra tiếng gọi 18 tháng sáu. Bốn tầng lầu Albert Hall đều chật ních người đến mức độ biện pháp an ninh cho phép. Một lá cờ Thập Tự Lo Ren lớn căng sau diễn đàn và được mọi người chú ý. Quốc thiều Marseillaise và bài Hành khúc Lo Ren trỗi lên, vang âm dội lại trong các trái tim. Tôi ngồi cùng với nhân viên trong Ủy Hội Quốc Gia và những người tình nguyện vừa mới ở Pháp sang, mọi người đều nói lên lòng tin tưởng của đám người hân hoan. Ngày hôm ấy tôi vừa hy vọng vừa vui mừng. Tôi ngỏ lời với mọi người,, lúc này lời nói toi rất cần. Hành động lá thể hiện lòng hàng say, nhưng cần phải có lời nói để khích lệ lòng hăng say ấy. Tôi trích dẫn lời nói của Chamfort : « Kẻ biết lẽ phải sẽ tồn tại, kẻ say mê sẽ hết thời ». Tôi nhắc lại hai năm sinh hoạt của Pháp Tự Do. « Chúng ta đã có nhiều cái lỗi thời vì chúng ta say mê. Nhưng chúng ta cũng tồn tại vì chúng ta biết lẽ phải!... » Chúng ta đã nói ngay ngày đầu tiên : « Nước Pháp chưa từng ra khỏi cuộc chiến tranh, chánh quyền thành lập sau cuộc đầu hàng không phải là chánh quyền hợp pháp, chúng ta vẫn tiếp tục liên minh với các nước bạn, chúng ta chúng thật sự liên minh ấy bằng những trận giao tranh... Hẳn là chúng ta phải tin tưởng rằng nước Anh sẽ đứng vững, nước Nga và nước Mỹ sẽ buộc lòng phải tham chiến, dân tộc Pháp không chấp nhận sự thua trận. Thực vậy ! Chúng ta đã không lầm... » Sau đấy, tôi gửi lời chào các chiến sĩ của chúng ta trên khắp thế giới và các phong trào kháng chiến của chúng ta ở nước Pháp. Tôi cũng gửi lời chào Đế Quốc, Đế Quốc trung thành, khởi điểm sự phục hồi của nước Pháp. Hẳn là, sau cuộc chiến tranh này cơ cấu Đế Quốc phải thay đổi. Nhưng nước Pháp đồng thanh bảo vệ nền thống nhất và sự vẹn toàn lãnh thổ của Đế Quốc Pháp. « Sự dối trả của Vichy đã lạm dụng lòng can đảm của quân sĩ Pháp để chống lại người Pháp Chiến Đấu và đồng minh, sự kiện đó là một bằng chứng không thể chối cãi được của chí cương quyết người Pháp, tuy là sự chứng quyết sai lạc... » Tôi cho rằng, mặc dầu trải qua nhiều thăng trầm, nước Pháp vẫn nổi lên từ đại dương. « Còn như Bir - Hakeim thì một tia vinh quang mới phục hồi đã vuốt ve vừng trán đẫm máu của binh sĩ ; thế giới đã thừa nhận nước Pháp... » Mọi người dự buổi họp trả lời bằng tiếng hoàn hô vang dậy và cùng cất giọng nồng nhiệt hát bài quốc ca. Ngoài xa tại chảnh quốc người ta cũng nghe thấy chúng tôi, những người ngồi trong phòng cửa kín then cài đang theo dõi trên làn sóng buổi họp kỷ niệm cảm động này. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Giêng, 2019, 11:06:08 pm Tiếng hoan hô đã chầm dứt, buổi họp bế mạc. Mỗi người trở về công việc hàng ngày. Còn lại một mình tôi, đứng đối điện với tôi. Trong cuộc đối diện ấy người ta không thể tạo ra thải độ nào khác thái độ tự nhiên của chúng ta, chúng ta cũng không thể có ảo tưởng nào cả. Tính sổ quá khứ, kết quả tích cực nhưng ác độc. « Kể từng người một và kể từng miếng một » thì Pháp Chiến Đấu đã trở nên một khối vững mạnh và mạch lạc. Nhưng chúng ta đã phải trá giá kết quả ấy bằng biết bao tổn thất, u buồn, đau khổ ! Sang giai đoạn mới, chúng tôi đã có những phương tiện đáng kể : 70.000 ngưòi cầm vũ khí, cấp chỉ huy tài trí, nhiều lãnh thổ nỗ lực chiến tranh, kháng chiến quốc nội mỗi ngày mời lớn mạnh, chính phủ được quốc dân nghe theo ; uy tín, nếu không được hoàn cầu thừa nhận, thì cũng được hoàn cầu biết đến. Hẳn là sau này sự việc diễn biến sẽ còn tăng cường sức mạnh của chúng ta, nhưng tôi không hề bỏ quên những trở ngại giữa đường : uy thế của địch, ác cảm của đồng minh ; trong số người Pháp, thái độ thù nghịch của chánh quyền và của giới ưu đãi, âm mưu của một số người, nọa tính của phần đông, sau hết là nguy cơ của sự phá hoại chung. Còn tôi, một người đáng thương hại như tôi, liệu tôi có đủ sáng suốt, cương quyết, khéo léo, để làm chủ được tình thế mà chịu đựng được mọi cuộc thử thách ? Vả chăng, dù tôi có thành công tập hợp dân tộc lại và đưa đến cuộc chiến thắng, biết rằng sau này tương lai của dân tộc sẽ ra sao ! Trong khi ấy thì biết bao tàn phá sẽ thêm vào những tàn phá hiện nay, biết bao chia rẽ sẽ thêm vào những phía rẽ đã có ? Khi tai nạn đã qua, đèn đóm đã tắt ngúm, những đợt bùn lầy nào sẽ dội xuống nước Pháp. Không còn nghi ngờ'gì nữa! Tôi đã cúi nhìn Vực thẳm của nước Pháp, tôi là con của nước Pháp đứng ra kêu gợi, đem lại đuốc sáng và con đường cứu quốc Nhiều người đã theo tôi. Chắc chắn là sẽ còn nhiều người khác ! Bây giờ tôi nghe nước Pháp trả lời tôi. Nước Pháp trỗi dậy từ dưới vực thẳm và leo lên triền dốc. Hỡi đất mẹ ! Chúng con là con của đất mẹ như mẹ thấy đấy, chúng con sẽ cứu đất mẹ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Giêng, 2019, 11:49:41 pm TÀI LIỆU Những tài liệu công bố trong cuốn sách này được trích ra từ tập điện tín, thư từ, điệp văn, báo cáo v.v... của tôi thảo ra hay nhận được với tư cách lãnh tụ Pháp Tự Do và Chủ Tịch ủy Hội Quốc Gia Pháp (1940 - 1941 - 1942). Những bản văn trích ra đây, tôi cho là quan trọng và ý nghĩa hơn cả. Toàn tập đã được tôi nạp vào Tàng Thư Viện Quốc Gia. Để độc giả có một ý niệm về manh mối và công dụng của những văn kiện ấy, tôi sao lại cả bản văn đã công bố của một vài sắc lệnh, dụ, hiệp ước quốc tế mà tôi đã ký kết trong khoảng thời gian ấy. Tôi cũng sao lục nhiều tuyên cáo công khai liên hệ đến một trường hợp xác định lập trường trên nguyên tắc hay một sự cam kết có tính cách tổng quát. PHÁP TỰ DO Lời hiện triệu của tướng de Gaulle gửi người Pháp Ngày 18 tháng sáu 1940 Các tướng lãnh từ nhiều năm nay vẫn đứng đầu quân đội Pháp đã thành lập một chính phủ. Chính phủ ấy viện cớ quân đội của ta bại trận đã điều đình với địch ngưng cuộc giao tranh. Hẳn là chúng ta đã bị và đang bị tràn ngập bởi lực lượng cơ giới, bộ binh và không quân của địch. Nhiều hơn gấp bội lần quân số của họ là chiến xa, phi cơ và chiến thuật của người Đức làm cho chúng ta phải thoái lui. Chiến xa, phi cơ và chiến thuật của người Đức làm cho các cấp chỉ huy của chúng ta bất ngờ và bối rối khiến họ lâm vào tình trạng mà ngày nay vẫn không thể vượt qua được. Nhưng họ đã nói lời cuối cùng hay chưa ? Chúng ta không còn hy vọng gì nữa hay sao ? Cuộc bại trận này có nghĩa là chung quyết không ? Không ! Đồng bào hãy tin tôi, tôi nói chuyện với đồng bào như một người hiểu biết vấn đề, tôi xin thưa rằng nước Pháp chưa mất gì cả. Vẫn những phương tiện địch đã dùng để đánh bại ta, sẽ có ngày ta dùng trở lại để chiến thắng địch. Bỏi vì nước Pháp không chiến đấu một mình ! Nước Pháp không chiến đấu một mình, nước Pháp có một Đế Quốc rộng lớn đứng sau lưng mình. Nước Pháp có thể đoàn kết làm một với nước Anh bá chủ các đường biên để tiếp tục cuộc chiến. Nước Pháp cũng như nước Anh có thể sử dụng vô giới hạn nền kỹ nghệ khổng lồ của Hoa Kỳ. Trận chiến tranh này không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của nước ta. Trận chiến tranh này không thể chấm dứt bằng chiến trường ở nước Pháp. Trận chiến tranh này là một trận thế chiến. Mọi lỗi lầm, mọi chậm trễ, mọi đau khổ đều không ngăn cản được trên thế giới còn có đủ phương tiện để một ngày kia nghiền nát các lực lượng địch. Ngày nay chúng ta bị thua vì lực lượng cơ giới sấm sét, nhưng ngày mai chúng ta có thể chiến thắng nhớ một lực lượng cơ giới mạnh hơn. Đó là vận mệnh của thế giới. Tôi, tướng de Gaulle, hiện ở Luân Đôn, tôi mời những sĩ quan và binh lính Pháp ở đất Anh hay mới sang nước Anh, có vũ khí hay không vu khí, tôi mời các kỹ sư và thợ chuyên môn kỹ nghệ đúc súng ở đất Anh hay mới sang nước Anh, tôi mời những người ấy đến tiếp xúc với tôi. Dù có xảy ra những biến cố nào, ngọn lửa thiêng kháng chiến Pháp cũng không thế tắt được và sẽ không bao giờ tắt. Ngày mai cũng như hôm nay, tôi sẽ nói trên đài phát thanh Luân Đôn. . Điện tín của bộ trưởng Chiến Tranh ở Bordeaux gửi tùy viên quân sự Pháp ở Luân Đôn Bordeaux, 19 tháng sáu 1940 Nay thông báo cho tướng de Gaulle biết rằng ông được trả về Tướng Tư Lệnh Quân Đội và ông phải về Pháp ngay. Điện tín của tướng de Gaulte gửi các đoàn thể Pháp ở ngoại quốc Yêu cầu quý vị chỉ định một đại diện để liên lạc trực tiếp với tôi. Gửi điện tín cho biết tên và chức nghiệp của đại diện. Thân hữu. Điện tín của tưởng de Gaulle gửi tướng Nogucs Tư lệnh chiến trường Bắc Phi ở Alger Luân Đôn, ngày 9 tháng sáu 1940 Hiện tôi ở Luận Đôn, trực tiếp tiếp xúc một cách bán chính thức với chính phủ Anh. Chấp nhận sự chỉ huy của ông hoặc đế chiến đấu dưới quyền lãnh đạo của ông, hoặc để thực hiện mọi công tảc có ích dụng cho ông, Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 10:44:47 pm Lời hiệu triệu của tưởng de Gaulle trên đài phát thanh Luân Đôn Ngày 19 tháng sáu 1910 Lúc này, tất cả các người Pháp đều biết rằng những hình thức chỉnh quyền thông thường đã không còn. Trước sự hoang mang của tâm hồn người Pháp, trước sự tan rã một chính phủ nô lệ địch, trước tinh trạng ngưng đọng không thể thi hành được các định chế, tôi, tướng de Gaulle, quân nhân và lãnh tụ Pháp, tôi bình tâm lên tiếng nói, nhân danh nước Pháp. Nhân danh nước Pháp, tôi cương quyết tuyên bố những lời sau dây : Mọi người Pháp còn mang súng ông đều có bổn phận tuyệt đối tiếp tục cuộc kháng chiến. Buông súng, rời bỏ một vị trí quân sự, chịu để cho địch kiểm soát bất cứ mảnh đất nào của nước Pháp, cũng là trọng tội đối với tổ quốc. Vào giờ này, trước hết, tôi nói cho Bắc Phi thuộc Pháp, Bắc Phi còn toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc đình chiến với người Ý chỉ là một cạm bẫy thô thiền. Trên đất Phi Châu của Clauzel, của Bugeauđ, của Lyautey, của Noguès, những người có danh dự đều có bổn phận từ chối việc thi hành những điều kiện của địch. Không thể tha thử được thái độ khiếp nhược ở Bordeaux vượt qua biển mà tràn đến Bắc Phi. Mỗi người lính Pháp, mặc dầu cảc bạn ở đâu, các bạn cũng phải đứng vững ! Thư của tướng de Gaulle gửi tướng Weggand1 Luân Đôn, ngày 20 tháng sáu 1940 Thưa Đại Tướng, Tôi đã nhận được lệnh của Đai Tưởng triệu hồi tôi về Pháp. Bởi thế cho nên tôi đang thăm dò phương tiện để hồi hương, vì thực ra tôi không có quyết định nào khác quyết định phục vụ xứ sở với tư cách chiến sĩ. Như vậy, tôi nghĩ rằng tôi sẽ đến trình diện ông nội trong 24 giờ nếu trong thời gian ấy chưa ký thỏa ước đầu hàng. Trong trường hợp ký rồi, tôi sẽ theo bất cứ phong trào kháng chiến Pháp nào, tổ chức ở bất cứ nơi nào. Đặc biệt là ở Luân Đôn còn có những yếu tố quân sự quyết tâm chiến đấu mặc dầu tình hình chánh quốc biến chuyển cách nào, chắc chắn sẽ cỏn nhiều người nữa, chạy sang đây chiến đấu. Tôi nhận thấy cần phải nói một cách giản dị để ông biết rằng, tôi mong mỏi nước Pháp và ông có thể tránh được cơn nguy biến, lui về Pháp hải ngoại để tiếp tục cuộc chiến tranh. Lúc này không thể nào có đình chiến trong danh dự. Tôi xin nói thêm rằng liên lạc cá nhân của tôi với chính phủ Anh—nhất là ông Churchill— có thể giúp ích cho ông hay nhân vật cao cấp Pháp nào muốn cầm đầu phong trào kháng chiến liên tục Pháp. Thưa Đại Tưởng, xin Đại Tướng, chấp nhận nơi đây lòng tôn kính và tận tâm của tôi. Tuyên cáo trên làn sóng phát thanh đài BritishBrodcastinq Corporation Ngày 23 tháng sáu 1940 Tuyên cáo thứ nhất : « Chính phủ Anh xét rằng các điều khoản hiệp ước đình chiến mới ký đã vi phạm những thỏa ước đã long trọng ký kết giữa các chính phủ đồng minh, và đặt chính phủ Bordeaux vào tình trạng hoàn toàn lệ thuộc kẻ thù, hiệp ước đình chiến ấy khiến cho chính phủ Bordeaux không có đủ tự do và quyền hành để đại diện những công dân tự do Pháp. Bởi vậy, chính phủ Anh không thể coi chính phủ Bordeaux là chính phủ của một nước độc lập ». Tuyên cáo thứ hai : « Chính phủ Anh đã ghi nhận dự án thành lập một Ủy Hội Quốc Gia Lâm Thời Pháp, đại diện toàn diện cho những người Pháp độc lập quyết chí theo đuổi cuộc chiến để làm đầy đủ bổn phận quốc tế mà nước Pháp đã cam kết. «Chính phủ Anh tuyên bố sẽ thừa nhận một Ủy Hội Pháp có tính chất như trên và sẽ điều đình với Ủy Hội ấy mọi vấn đề liên hệ đến việc tiếp tục cuộc chiến, chừng nào Ủy Hội còn tiếp tục đại diện nhũng người Pháp quyết chí chiến đấu chống lại kẻ thù chung». ------------------ 1. Bức thư này tôi nhờ tướng Lelong, tùy viên quân sư ở Luân Đôn. gửi về cho tướng Weygand, Vichy gửi trả lại tướng de Gaulle vào tháng chín 1946 với một phiếu nhỏ đánh máy như sau : «Nếu đại tá hồi hưu de Gaulle muốn tiếp xúc với tướng Weygand thì ông ta phải theo đúng thể thức» Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 10:48:08 pm Thư của ông Jean Monnet gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn Luân Đôn, 23 tháng sáu 1940 Kính thưa Thiếu Tướng, Sau khi tiếp kiến ông, tôi đã hội đàm với Sir Alexander Cadogan và tôi đã nhắc lại ý kiến của tôi về thiếu tướng Spears : Tôi cho là một lỗi lầm lớn khi thành lập ở nước Anh một tổ chức có thể bị người Pháp cho là ngụy quyền tạo ra nhờ sự che chở của ngoại bang. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng phải ngăn cản nước Pháp bỏ cuộc chiến tranh và tôi tin tưởng rằng chính phủ Bordeaux đáng ra phải đưa sang Bắc Phi vị Nguyên Thủ Quốc Gia, các chủ tịch Thượng Hạ Viện và một số nhân viên chính phủ, đồng ý với tướng Noguès, làm cho Bắc Phi trở thành một chiến lũy của công cuộc kháng chiến Pháp. Tôi vẫn tin rằng cho đến ngày hôm nay quyết định kháng địch của tướng Noguès sẽ cho phép tập kết tất cả những người ở Pháp muốn tiếp tục cuộc chiến và trung thành với những cam kết của nước Pháp long trọng ký với đồng minh. Nến công cuộc kháng chiến có thể tổ chức ở đất Bắc Phi, nghĩa là trên lãnh thổ Pháp, dưới sự chỉ đạo của những người được trao quyền trong điều kiện hợp thức, nói khác đi, nhận quyền của một chính phủ được tấn phong lúc chưa bị địch kiểm soát, thì tôi chắc rằng công cuộc khảng chiến ấy sẽ có tiếng vang rộng lớn tại Pháp và các đoàn thể người Pháp ở ngoại quốc, Nhưng lúc này không phải tự Luân Đôn mà xuất phát nỗ lực phục hồi nước Pháp. Dưới mắt người Pháp thì một tổ chức như thế sẽ xuất hiện như một phong trào do người Anh che chở và tạo ra để phục vụ quyền lợi của họ ; bởi lẽ ấy, phong trào bị kết án và bị dồn vào chỗ thất bại, gây thêm nhiều khó khăn cho những cố gắng cứu quốc sau này. Như tôi đã trình bày với ông trên đây, tôi cũng trình bày với Sir Alexander Cadogan ; tôi vừa nhắc lại với Sir Robert Vansittart và vị đại sứ Pháp. Cũng như ông, tôi có một mục đích : thức tỉnh nghị lực của nước Pháp và thuyết phục nước Pháp không nên thúc thủ chịu thua như vậy. Tôi muốn được ông biết tường tận tư tưởng của tôi. Xin gửi lên ông tâm tình trọng vọng đặc biệt của tôi. Tái bút.— Tất nhiên, sự thành lập một Ủy Ban giúp đỡ những người Pháp muốn tiếp tục chiến đấu với nước Anh lúc này có ích lợi vô cùng. Như tôi đã nói với ông, tôi sẵn sàng tiếp xúc với ông và ông Spears để thảo luận những vấn để này bất cứ lúc nào. Điện văn của tướng de Gaulle gửi tướng Noguès, Tư lệnh chiến trường Phi Luân Đôn, 24 tháng sáu 19l0 Xin thông bảo để ông biết hiện chúng tôi đang thành lập một Ủy Hội Quốc Gia Pháp để liên kết mọi yếu tố kháng chiến Pháp với nhau và với đồng minh. Yêu cầu ông gia nhập Ủy Hội này. Tất cả mọi người ở đây đều coi ông là lãnh tụ tối cao của kháng chiến Pháp. Kính gửi ông lòng tôn kính và niềm hy vọng của chúng tôi. Thay mặt ủy Hội Quốc Gia Pháp đang thành lập Tướng de Gaulle Điện văn của tướng de Gaulle gửi — Tướng Mittelhauser, Tư lệnh Chiến Trường Đông Địa Trung Hải ; — Ông G.Puax, Cao ủy Pháp tại Syrie và Liban : — Tướng Caươux. Toàn quyền Đông Dương. Luân Đôn, ngày 24 tháng sáu 1940 Hoàn toàn liên minh với các ông trong ý chí cương quyết tiếp tục chiến tranh. Chúng tôi thành lập một Ủy Hội Quốc Gia Pháp để liên lạc các yếu tố kháng chiến Pháp. Yêu cầu quý ông gia nhập thành phần ủy Hội này. Kính gửi ông lòng tôn kính và niềm hy vọng Thay mặt ủy Hội Quốc Gia Pháp : Tướng de Gaulle Thông cáo của Chính phủ Anh Ngày 25 tháng sáu 1940 « Việc ký kết hiệp ước của chính phủ Pháp đã chấm dứt công cuộc kháng địch có tổ chức của những lực lượng Pháp ở chánh quốc. Tại Syrie, tướng Mittelbauser, Tư lệnh quân đội Pháp, đã tuyên bố ý chí chiến đấu của lực lượng Pháp. Tại Đông Dương, vị Toàn Quyền đã tuyên bố không chịu hạ cờ. Tại Tunis, vị Thống Sứ cương quyết theo đuổi chiến tranh. Nhà cầm quyền quân sự và dân sự ở Maroc, Sénégal, Cameroun, Djibouti, đều cho biết sẽ chân thành giúp đỡ đồng minh. Chính phủ Anh sẵn sàng kỷ kết những thỏa ước tài chánh để giúp đỡ Đế Quốc Pháp theo đuổi vai trò của mình. Đúng như Thủ Tướng Anh đã nói, mục đích của Anh quốc là thâu hồi toàn thể lãnh địa và lãnh thổ Pháp. » Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 10:51:55 pm Giác thư của tướng de Gaulle gửi thiếu tá Morion và Sir R. .Vansitlarlde đệ trình các ông Churchill và Halipax Luân Đôn. 26 tháng sáu 1940 I. Không cần đợi lúc thành lập được một Ủy Hội Quốc Gia chính thức, ngay bây giờ tôi có thể thành lập một ủy Ban Pháp với mục đích : a) Quy tụ tại lãnh thổ Anh mọi yếu tố Pháp kháng chiến hiện có mặt ở đây hay sẽ có mặt ở đây ; b) Phục vụ những đoàn thể kháng chiến Pháp thành lận ở Đế Quốc và có lẽ ở Chánh Quốc để liên lạc họ với nhau, liên lạc họ với đồng minh, cung cấp vật liệu cho họ, v.v... II.— Ủy Ban Pháp có thể tổ chúc : a) Một lực lượng quân sự Pháp thuộc các ngành thủy, lục và không quân, gồm những người tình nguyện, lúc này còn ít ỏi, nhưng chắc chắn sẽ tăng gia nhiều. Lực lượng ấy sẽ tách rời khỏi những yếu tố quân sự Pháp không tình nguyện, và sẽ được tập trung ngay ở gần Luân Đôn. b) Một yếu tố (kỹ sư và thợ chuyên môn) để phục vụ các xưởng chế tạo vật dụng chiến tranh. Tổ chức này có thể làm việc ngay trong các xưởng kỹ nghệ Anh theo điều kiện ấn định sau. c) Một tổ chức nghiên cứu và mua bán vật dụng chiến tranh, có thể điều đình trực tiếp với các cơ quan quân dụng Anh và nền kỹ nghệ Mỹ. d) Một tổ chức vận tải và tiếp tế. e) Một tổ chức thông tin và tuyên truyền. III. — Muốn thực hiện chương trình này tôi cần được sự đồng ý của chính phủ Anh về các điểm sau đày : a) Tất cả mọi hoạt động của người Pháp trên lãnh thổ Anh, nhất là việc cung cấp các dịch vụ quân sự, kỹ nghệ, khoa học, kinh tế, cho các tổ chức của người Anh, đều không thể điều đình trực tiếp giữa các cơ quan Anh với đương sự, mà phải qua sự trung gian của ủy Ban Pháp và với sự chấp thuận của Ủy Ban ấy. b) Chính phủ Anh cung cấp cho Ủy Ban Pháp những khoản tín dụng cần thiết để hoạt động và thanh toán lương bổng và thù lao quân sự và dân sự cho những người làm việc với Ủy Ban. c) Ủy Ban Pháp sẽ trực tiếp tiếp xúc với nhà cầm quyền Anh để giải quyết các vấn đề vẫn được giải quyết bởi các phái đoàn quân sự Pháp hay các phái đoàn nghiên cứu và phối hợp. d) Ủy Ban Pháp sẽ liên lạc trực tiếp với các cơ quan thuộc các bộ trong chính phủ Anh. e) Những điều khoản trên đây có thể có hiệu lực kể từ ngày 28 tháng sáu. Chính phủ Anh sẽ công bố một văn kiện thỏa hiệp trên nguyên tắc. IV. — Một thỏa ước chính xác và quy định đủ chi tiết sau này sẽ được soạn thảo giữa ủy Ban và các cơ quan thuộc các bộ trong chính phủ Anh. Điện văn của tướng de Gaulle — Tướng Mittelhauser, Tư Lệnh chiến trường Đông Địa Trung Hải ; — Ông. G. Puaux, Cao Ủy Pháp tại Syrie và Liban ; — Ông Peyrouton, Thống sứ Tunisie Luân Đôn, 27 tháng sáu 1940 Tôi xin gợi ý các ông nên nhận làm hội viên Hội Đồng Phòng Vệ Pháp Hải ngoại, Hội đồng này có mục đích tổ chức và liên lạc mọi yếu tố kháng chiến của Pháp trong Đế Quốc và ở bên Anh. Tôi có phương tiện để gửi đến lãnh thổ của quý ông vật liệu Mỹ đã chuyển xuống tầu và trên đường về rồi, hay những vật liệu khác tùy ông yêu cầu. Đứng trước sự kiện Chính phủ Bordeaux mất hẳn tư cách độc lập, bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ danh dự và sự toàn vẹn của Đế Quốc Pháp và của nước Pháp. Tòn kính và tận tâm. Thông cáo của chính phủ Anh Ngày 28 tháng sáu 1940 « Chính phủ Anh thừa nhận tướng de Gaulle là lãnh tụ các người Pháp Tự Do bất cứ ở đâu về tập kết với ông để chiến đấu cho chính nghĩa của đồng minh. » Thư của ông de Caslellane, xử lý thường vụ Pháp ở Luân Đôn, gửi tướng de Gaulle Luân Đôn, ngày 30 tháng sáu 1940 Thưa Thiếu Tướng : Tôi hân hạnh gửi kèm theo đây một thông cáo của chính phủ Pháp ủy thác tôi trao lại cho ông. Xin ông báo cho biết đã nhận được thông cáo này. Kính chào Thiếu Tướng, Bản đính kèm (Bản sao) Theo án lệnh ngày 27 tháng này, của thẩm phán Dự Thẩm bên cạnh Tòa Án Quân Sự thường trực Khu 17, Tướng Lữ Đoàn tạm thời de Gaulle (Charles, André, Joseph, Marie) đã bị đưa ra Tòa Án Quân Sự Khu 17 về tội bất tuân thượng lệnh đối với địch và tội xác động quân nhân xúi giục họ không phục tòng thượng cấp. Mặt khác, trát bắt giam đương sự cũng được ban hành cùng ngày. Chánh án đã ký một án lệnh ngày 28 tháng sáu bắt buộc đương sự phải đến tự nạp mình tại Nhà giam Saint - Michel ở Toulouse trước thời hạn 5 ngày kể từ ngày 29 tháng sáu 1940, nếu không tòa sẽ xử vắng mặt. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 10:54:03 pm Phúc thư của tướng de Gaulle gửi xử lý thường vụ Luân Đôn Luân Đôn, mùng 3 tháng bảy 1940 Thưa ông, Kính hoàn bản tài liệu của ông mới gửi cho tôi. Tôi trân trọng yêu cầu ông nói cho những người đã ủy thác ông gửi bản thông cáo ấy đối với tôi không có giá trị gì hết. Tràn trọng kính chào ông. Diễn văn đọc trên đài phát thanh Luân Đôn của tướng de Gaulle. Ngày mùng 8 tháng bảy 1940. Trong việc thanh toán nhất thời lực lượng Pháp sau ngày đầu hàng, một giai đoạn cực kỳ tàn ác đã xảy ra ngày mùng 3 tháng bảy. Hẳn là quý vị cũng biết tôi muốn nói đến vụ nổ súng ở Oran. Tôi sẽ nói minh bạch không úp mở, vì trong một thảm kịch liên hệ đến đời sống của một dân tộc , những người tâm huyết phải có can đảm nhìn thẳng vào sự thật và nói ra một cách thẳng thắn. Trước hết tôi xin nói rằng không có người Pháp nào không đau đớn và giận dữ khi biết tin hạm đội Pháp đã bị đồng minh đánh chìm. Sự đau đớn ấy, sự giận dữ ấy, tự thâm tâm chúng ta. Không có lý do gì để tìm cách che giấu, và tôi, tôi cũng nói ra một cách công khai. Bởi vậy cho nên tôi ngỏ lời với người Anh. tôi yêu cầu họ tránh cho chúng ta và cả cho họ việc trình bày bi kịch ô nhục này như một thắng lợi hải quân. Luận điệu ấy sẽ bất công và không phải chỗ. Thực ra, những chiếc tầu ở Oran đã hư hỏng nhiều không thể tham chiến được nữa. Người ta đã phải để yên đấy không thể xử dụng được nữa; thuyền trưởng và thủy thủ quằn quại trong đau khổ tinh thần từ 15 ngày nay. Họ đã để cho tầu Anh bắn trước ; ai cưng biết ở độ xa ấy thì những phát đạn ấy đã quyết định số mệnh của một đoàn tàu. Sự phá hủy đoàn chiến hạm ấy không phải là kết quả của một cuộc hải chiến anh dũng. Đó là những điều mà một quân nhân Pháp đã tuyên bố với đồng minh Anh, ông này nói ra một cách minh bạch, nhất là khi ông này có cảm tình với người Anh về phương diện hải quân. Sau hết, tôi xin nói với người Pháp, tôi yêu cầu họ chỉ nên xét mọi việc một phương diện duy nhất đáng kể đến là phương diện chiến thắng và giải phóng. Nhân danh một lời cam kết ô nhục, chính phủ Bordeaux đã bằng lòng giao hạm đội của chúng ta cho địch. Trên nguyên tắc và tùy theo nhu cầu, chắc chắn là sẽ có ngày địch dùng để đánh nước Anh hay Đế Quốc của chúng ta. Như vậy, tôi có thể nói thẳng ra rằng tốt hơn hết là nên phá hủy đi ! Tôi còn muốn cho tầu Dunkerque của chúng ta chiếc tàu Dunkerque đẹp đẽ, mạnh mẽ của chúng ta đắm chìm trước cửa Mers-El-Kébir để chúng ta khỏi trông thấy nó bị quân Đức đưa đến đánh phá các bến tầu Anh hay Alger, Casablanca, Dakar. Chính phủ Bordeaux đã gây ra trận bắn nhau giữa anh em nhà, rồi lại tìm cách trút sự tức giận của người Pháp xuống đầu người Anh ; đây quả là sở trường của chính phủ Bordeaux sở trường của kẻ nô lệ. Khai thác biến cố này để gây xích mích giữa dân tộc Pháp và dân tộc Anh, địch quả đã làm đúng vai trò của họ, vai trò của kẻ chinh phạt. Tấn kịch bi thảm này tự nó bỉ ổi và tệ hại, những người sáng suốt của hai dân tộc Anh và Pháp nên ngăn cản đừng để gây ảnh hưởng chống đối tinh thần giữa hai dân tộc, đó là vai trò hợp với họ, vai trò ái quốc. Người Anh biết suy nghĩ không thể không hiểu rằng đối với họ không làm gì có thắng lợi nếu linh hồn nước Pháp nghiêng về phía địch. Người Pháp đáng mặt người Pháp không thể không biết rằng sự bại trận của người Anh sẽ đưa họ vào con đường nô lệ vĩnh viễn. Mai sau dù có thể nào, mặc dầu một dân tộc tạm thời chịu ách xâm lăng, hai dân tộc chúng ta, hai đại dân tộc chúng ta vẫn sát cánh với nhau. Chúng ta sẽ cùng quỵ ngã hay chúng ta sẽ cùng thắng trận. Còn như những người Pháp được tự do hành động trong danh dự và quyền lợi nước Pháp, tôi xin đỡ lời họ mà tuyên bố một lần cho cả mọi lần rằng họ đã lựa lấy một quyết định khó khăn. Họ đã quyết định một lần cho cả mọi lần, quyết định chiến đấu. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 10:55:18 pm Thư của tướng de Gaulle gửi ông Winston Churchill. Luân Đôn. ngày mùng 3 tháng tám 1940 Kính thưa Thủ Tướng, Giữa lúc nhu cầu chiến tranh nghiêm trọng bắt buộc chính phủ Anh quyết định phong tỏa lãnh thổ Chánh quốc Pháp và Bắc Phi, ông sẽ không lấy làm lạ nếu lãnh tụ của những người Pháp tình nguyện tiếp tục chiến đấu bên cạnh nước Anh, nhận thấy cần phải trình bày với ông một vài ý nghĩa như sau ; Chính phủ Anh lúc này lãnh phần trách nhiệm chính về cuộc chiến tranh, ngoài thực tế chính phủ Anh là người duy nhất có quyền thẩm định những phạm lệ có thể thi hành cho thể thức phong tỏa. Tuy nhiên, tôi cần phải lưu ý ông đến sự kiện sau đây : trong trận thế chiến trước có thể tổ chức sự tiếp tế giới hạn những dân tộc Bỉ và Bắc Pháp, nhờ sự giúp đỡ của những tổ chức bác ái Mỹ, và không làm suy giảm hiệu lực những biện pháp chống Đức. Những biện pháp kiểm soát của Ủy ban Hoover đem áp dụng với sự đồng ý của đồng minh đã cho phép đem lại nhu yếu phẩm cho dân chúng sự phản đối những nhu yếu phẩm đó không hề giúp tay cho địch nhưng đã giúp dân chúng bảo tồn sức khỏe, do đó mà có sức mạnh vật chất và tinh thần để chống lại áp lực của địch. Hiện thời, phân nửa dân tộc Pháp sống trong khu vực không bị chiếm đỏng nhưng tài nguyên và khả năng sản xuất không đủ để nuôi sống khối dân, cần phải trông cậy vào sự hợp tác của người Mỹ để tổ chức việc phân phối thực phẩm cách nào không thể lọt vào tay địch được, Như chính ông đã nói với tôi trong nhiều cơ hội khác, nước Pháp chỉ tạm thời đứng ngoài vòng chiến. Đẳng sau những chính phủ hợp tan bất nhất, còn có linh hồn nước Pháp, còn có dư luận của một dân tộc có đủ sáng suốt để hiểu rằng vì quyền lợi tối cao, nước Anh phải thi hành những biện pháp có hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của họ, nhưng họ càng biết rõ giá trị của một cử chỉ thân hữu tránh cho đàn bà con trẻ những thiếu thốn cơ cực. Nếu ông cho là việc đáng làm thì tôi sẵn sàng kêu gọi lòng từ thiện của người Mỹ, có sự chấp thuận của chính phủ Hoa Kỳ, tôi có thể thành lập một ủy ban thảo luận với giới thẩm quyền của chính phủ Anh đế tìm biện pháp ngăn ngừa không để đồ viện trợ Mỹ lọt vào tay địch. Hơn thế, chính ông có thể đưa ra ý kiến này để cho dân tộc Pháp thấy rõ nước Anh vẫn để tâm đến thống khổ và tương lai của họ. Trân trọng kính chào Thủ Tướng. Thư của ông Winston Churchill gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn (Bản dịch) Luân Đôn, ngày mùng 7 tháng tám 1940 Kính thưa Đại Tướng, Ông đã cho tôi biết ý kiến của ông về việc tổ chức , sử dụng và điều kiện hoạt động của lực lượng tình nguyện Pháp đang thành lập và đặt dưới quyền chỉ huy của ông; với quyền chỉ huy ấy Chính phủ của Anh Hoàng đã thừa nhận ông là lãnh tụ của mọi người Pháp Tự Do bất cứ ở nơi nào về tập kết với ông để chiến đấu cho chính nghĩa của đồng minh. Bây giờ tôi kính chuyển đến ông một giác thư nếu ông chấp thuận thì giác thư sẽ coi như một thỏa hiệp giữa chúng ta về việc tổ chức, sử dụng và điều kiện hoạt động của các lực lượng dưới quyền ông. Nhân cơ hội này, tôi xin tuyên bố rằng Chính Phủ của Anh Hoàng đã quyết định, khi quân đội đồng minh thắng trận, sẽ phục hồi toàn vẹn nền độc lập và sự hùng cường của nước Pháp. Thành thật kính chào ông. Phúc thư của tướng de Gaulle gửi ông Winston Churchill Luân Đôn mùng 7 tháng tám 1940 Kính thưa Thủ Tướng, Ông đã có nhã ý gửi cho tôi một giác thư liên hệ đến việc tổ chức, sử dụng và điều kiện hoạt động của lực lượng tình nguyện Pháp đang thành lập và do tôi chỉ huy. Với tư cách lãnh tụ các người Pháp Tự Do bất cứ ở đâu cũng về tập kết với tôi để chiến dấu cho chính nghĩa của đồng minh, đã được Chính Phủ của Anh Hoàng thừa nhận, tôi xin trả lời để ông biết rằng tôi chấp thuận giác thư ấy. Giác thư sẽ được coi như một thỏa ước ký kết giữa chúng ta liên hệ đến những vấn đề ấy. Tôi rất vui sướng khi được biết nhân dịp này Chính phủ Anh xác nhận rằng sẽ phục hồi toàn vẹn nền độc lập và sự hùng cường của nước Pháp khi nào quân đội đồng minh chiến thắng. Về phần tôi, tôi xin xác nhận rằng lực lượng Pháp đang thành lập sẽ tham dự các cuộc hành quân chống kẻ thù chung ( Đức, Ý hay cường quốc nào thù nghịch với đồng minh), kể cả việc phòng thủ lãnh thổ Pháp, các lãnh thổ đặt dưới quyền ủy trị của nước Pháp, việc phòng thủ lãnh thổ Anh, các đường giao thông và các lãnh thổ đặt dưới quyền ủy trị của người Anh, Tràn trọng kính chào Thủ Tướng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 10:58:56 pm Điều khoản thỏa ước ngày 7 tháng tám 1940 I 1) Tướng de Gaulle thành lập một lực lượng Pháp gồm những người tình nguyện. Lực lượng ấy gồm có các đơn vị thủy quân, lục quân và không quân và các yếu tố kỹ thuật và khoa học, sẽ được tổ chức và sử dụng để chống kẻ thù chung. 2) Lực lượng ấy không bao giờ mang vũ khí đảnh lại nước Pháp, II 1) Trong phạm vi có thể thực hiện được, lực lượng ấy sẽ giữ tính chất một lực lượng Pháp về phương diện nhân sự, nhất là những điểm liên hệ đến kỷ luật, ngôn ngữ, thăng thưởng và nhiệm sở. 2) Trong phạm vi nhu cầu trang bị, lực lượng ấy sẽ được quyền ưu tiên sở hữu và sử dụng các vật liệu như vũ khí, phi cơ, xe cộ, đạn được, máy móc và lương thực, đã do lực lượng Pháp bất cứ ở đâu mang đến hay sẽ mang đến lãnh thổ đặt dưới quyền chính phủ của Anh Hoàng hay đến những nơi thuộc ảnh hưởng của bộ Chỉ Huy Tối Cao Anh. Trong trường hợp quyền chỉ huy một lực lượng Pháp đã được tướng de Gaulle thỏa thuận trao lại cho bộ Chỉ Huy Tối Cao Anh, thì tướng de Gaulle không thể ra lệnh chuyền giao, trao đổi hay tái phấn phối các đồ trang bị, tiền của và vật liệu sở hữu của lực lượng Pháp ấy, nếu không hỏi ý kiến và được sự ưng thuận của bộ Chỉ Huy Tối Cao Anh. 3) Chính phủ của Anh Hoàng sẽ cung cấp cho lực lượng Pháp — Khi nào có thể thực hiện được số vật liệu bổ túc cần để trang bị các đơn vị của mình cho tương đương với các đơn vị Anh đồng loại. 4) Các tầu bè của hạm đội Pháp sẽ được sung dụng như sau : a) Lực lượng Pháp sẽ võ trang và sử dụng tất cả các tầu bè mà lực lượng ấy có thể cung cấp thủy thủ. b) Việc sung dụng các tầu bè có võ trang và được lực lượng Pháp đem ra sử dụng chiếu theo đoạn (a) sẽ quy định bởi một thỏa ước giữa tướng de Gaulle và bộ Tư Lệnh Hải Quân Anh, thỏa ước này thỉnh thoảng sẽ được xét lại. c) Những tầu bè khởng được lực lượng Pháp sung dụng chiếu theo đoạn (b), sẽ đặt vào tình trạng dự bị để bộ Tư Lệnh Hải Quân Anh trang bị và sử dụng. d) Trong số những tầu bè ghi ở đoạn (c), có những chiếc đưỢC bộ Tư Lệnh Hải Quân Anh trực tiếp sử dụng, có những chiếc khác được các hải lực đồng minh khác sử dụng. e) Đoàn thủy thủ các tầu bè đặt dưới quyền kiểm soát của người Anh sẽ có một thành phần sĩ quan và thủy thủ Pháp khi nào thực hiện được sự phổi hợp ấy. f) Tất cả các tầu bè của hạm đội Pháp vẫn thuộc quyền sở hữu Pháp. 5) Việc sử dụng những thương thuyền Pháp và thủy thủ của các thương thuyền ấy vào việc hành quân của quân lực de Gaulle, sẽ do sự dàn xếp của tướng de Gaulle với các bộ sở quan trong chính phủ Anh. Sẽ thiết lập sự liên lạc thường xuyên giữa bộ Hải Thương và tướng de Gaulle để quy định việc sử dụng phần còn lại những thương thuyền và các thủy thủ. 6)Tướng de Gaulle, tư lệnh tối cao lực lượng Pháp, tuyên bố qua những điều kiện trên đây rằng ông chấp nhận việc chỉ đạo tổng quát của bộ chỉ huy Anh, trong trường hợp cần thiết ông sẽ đồng ý với bộ chỉ huy tối cao Anh trao lại quyền chỉ huy trực tiếp một phần lực lượng nào đó cho một hay nhiều sĩ quan Anh ở cấp bậc phù hợp với nhiệm vụ, nhưng sự trao quyền này không phương hại đến những sự kiện nói trong đoạn cuối điều thứ I. III Quy chế binh sĩ tình nguyện Pháp sẽ được thành lập theo thể thức sau đây : 1) Binh sĩ tình nguyện sẽ đầu quân suốt trong thời gian chiến tranh để chiến đấu chống kẻ thù chung. 2) Họ sẽ được hưởng một số lương bổng theo căn bản ấn định riêng biệt do sự thoả thuận giữa tướng de Gaulle và các bộ sở quan, thời gian áp dụng hối suất để tỉnh lương bồng sẽ được ấn định do sự thoả thuận giữa tướng de Gaulle và chính phủ của Anh Hoàng. 3) Binh sĩ tình nguyện và gia đình sẽ được hưởng tiền quả tuất và những khoản cấp dưỡng khác trong trường hợp tàn phế hay tử nạn của những người tình nguyện, căn bản các khoản cấp dưỡng ấy sẽ đươc ấn định bởi thỏa ước giữa tưởng de Gaulle và các bộ sở quan. 4) Tướng de Gaulle có quyền tạo lập một cơ quan dân sự gồm các nha sở hành chánh cần thiết cho việc tổ chức lực lượng quân sự. Nhân số và lương bổng nhân viên sẽ được ẩn định sau khi hỏi ý kiến Ngân Khố Anh. 5) Tướng de Gaulle cũng có quyền tuyền dụng nhân viên kỹ thuật và khoa học phục vụ chiến tranh. Nhân số, lương bổng và việc sử dụng nhân viên ấy sẽ được ấn định sau khi hỏi ý kiến các bộ sở quan trọng chính phủ của Anh Hoàng. 6) Chính phủ của Anh Hoảng sẽ cố gắng, khi ký kết đình chiến, giúp đỡ các binh sĩ tình nguyện Pháp phục hồi các quyền công dân kể cả quốc tịch mà họ có thể bị truất hữu vì họ tham dự cuộc chiến chống kẻ thù chung. Chính phủ của Anh Hoàng sẵn sàng cung cấp cho những người tình nguyện ấy những dễ dàng đặc biệt để nhập quốc tịch Anh và dùng mọi quyền hành cần thiết dễ thực hiện việc ấy. IV 1) Mọi khoản chi tiêu để thành lập và bảo trì lực lượng Pháp theo bản thỏa ước này sẽ tạm thời được các bộ sở quan trọng Chính Phủ của Anh Hoàng đài thọ, Các bộ sở quan có quyền dùng mọi biện pháp xem xét và kiểm chứng cần thiết. 2) Những khoản tiền chi phí vào việc ấy được coi là tiền ứng trước và tính riêng. Những vấn đề liên hệ đến việc thanh toán cuối cùng những khoản ứng trước áy và những khoản tiền chi theo một thoả ước chung, sẽ được bàn lại sau này. Bản thoả ước này có hiệu lực kể từ mùng 1 tháng bảy 1940 Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 11:00:18 pm Mật thư của ông Winston Churchill gửi tướng de Gaull liên hệ đến thoả ước ngàg 7 tháng tám 1940 (Bản dịch) Luân Đôn, mùng 7 tháng tám 1940 Thân gửi ông de Gaulle, Trong những bức thư trao đổi với ông và sẽ được công bố, tôi thiết tưởng cần phải xác định rõ danh từ « phục hồi toàn vẹn nền độc lập và sự hùng cường của nước Pháp » không ám chỉ các biên giới lãnh thổ một cách chặt chẽ. Chúng tôi không thể bảo đảm những biên giới ấy cho một quốc gia nào chiến đấu bên cạnh chúng tôi; nhưng, dĩ nhiên, chúng tôi cũng cố gắng làm được đến đâu hay đến đấy Điều nói đến các bộ đội của ông không « dùng vũ khí chống lại nước Pháp » phải hiểu là ám chỉ nước Pháp Tự Do lựa chọn đường đi của mình không chịu áp lực trực tiếp hay gián tiếp của nước Đức. Như vậy, một chiến thư của chính phủ Vichy khai chiến với nước Anh không được coi là chiến thư của nước Pháp ; có thể có nhiều trường hợp khác tương tự. Nếu có thể, xin ông cho biết sự đồng ý của ông về các điểm trên đây. Kính chào thân hữu. Mật thư của tướng de Gaulle trả lời ông Winton Churchill Luân Đôn, mùng 7 tháng tám 1940 Kỉnh thưa Thủ Tướng, Quý thư ngày mùng 7 tháng tám 1940 cho tôi biết rằng trong những bức thư trao đổi giữa chúng ta cần được công bố, chính phủ Anh suy diễn danh từ « phục hồi toàn vẹn nền độc lập và sự hùng cường của nước Pháp » là không áp dụng chặt chẽ cho các biên giới lãnh thổ. Ông cũng cho biết rằng: « chúng tỏi không thể bảo đảm những biên giới ấy cho một quốc gia nào chiến đấu bên cạnh chúng tỏi ; nhưng, dĩ nhiên, chúng tôi cũng cố gắng làm được càng nhiều càng hay. » Mặt khác, ông cho biết ý kiến rằng các bộ đội của chúng tôi không «mang vũ khí chống lại nước Pháp », câu ấy phải hiểu là ám chỉ « nước Pháp Tự Do lựa chọn đường đi của mình không chịu áp bức trực tiếp hay gián tiếp của nước Đức ». Thưa Thủ Tướng, tôi xin ghi nhận cách suy diễn những danh từ dùng trên đây của chính phủ Anh. Tòi mong rằng hoàn cảnh biến chuyển sẽ có ngày cho phép chính phủ Anh xét những vấn đề ấy một cách ít dè dặt hơn. Trân trọng kính chào Thủ Tướng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 11:01:38 pm PHI CHÂU Điện văn của tướng de Gaulle gửi ông Felix Ebouẻ, Thống Đốc Tchad Luân Đôn, 16 tháng bảy 1940 Tôi được báo cáo cho biết thái độ của ông và tôi hoàn toàn tán thành ông. Bổn phận của chúng ta là giữ vững từng vị trí của Đế Quốc Pháp chống lại quân Đức và Ý. Xin ông cho biết tình hình ở đấy trong phạm vi ông xét ra cần phải cho biết để tôi trù liệu mọi biện pháp có thể thi hành để giúp đỡ ông. Xin ông giữ liên lạc luôn luôn với tôi. Thân hữu. Điện văn của Henri Sautot Thông Sứ, Ủy Viên Pháp tại Nouyelles-Hébrides, gửi tưởng de Gaulle ở Luân Đôn Port-Vila, 22 tháng bảy 1940 Nhân danh quần chúng Pháp ở Nouyelles-Hebrides, tôi chuyền đạt lên Ngài bức thông điệp sau đây : « Xét rằng chính phủ hiện thời ở Chính Quốc không có một chánh quyền tự do độc lập nào, bởi vậy chính phủ ấy không thể phục hồi Tồ Quốc và dùng những lực lượng còn nguyên vẹn ở Đế Quốc Pháp vào mục tiêu ấy , mặt khác, xét rằng hy vọng cứu quốc duy nhất là sự chiến thắng của đồng minh Anh quốc của chúng ta ; xét rằng chính phủ của Anh Hoàng đã kêu gọi sự hợp tác của tất cả các thuộc địa Pháp để theo đuổi cuộc chiến đến cùng; chính phủ ấy đã hứa giúp đỡ chúng ta về phương diện chính trị, kinh tế, tài chánh; chính phủ ấy đã thừa nhận Ngài là lãnh tụ hợp pháp của những người Pháp Tự Do; xét rằng Ngài đã nhiều lần biểu lộ ý chí chiến đấu bên cạnh nước Anh để cứu quốc và tôn trọng lời đã hứa ; dân tộc Pháp ở Nou- velles-Hẻbrides tin cẩn và kính cẩn tự đặt mình dưới quyền chỉ huy của Ngài và sẵn lòng nghe lời kêu gọi của Ngài gửi về những lớp thanh tráng niên có đủ khả năng chiến đấu. « Quần chúng Pháp ở Nouyelles - Hebrides từ bốn mươi năm nay đã làm việc với người Anh. đã hiếu biết, phẩm bình và yêu mến người Anh ; chúng tôi yêu cầu Ngài chấp nhận lời tuyên ngôn long trọng này như lời cam kết quyết tâm cùng Ngài chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng. « Cộng đồng chủ quyền Pháp và người lãnh đạo, Thống Sứ ủy viên Pháp, hoàn toàn chấp nhận lời tuyên ngôn trên đây và lấy làm hân hạnh đứng dưới bóng cờ của Ngài.Cameroun, về tập kết với tướng de Gaulle để chống lại việc thi hành hiệp ước đình chiến, tiếp tục cuộc chiến tranh chống quân Đức và quân Ý. 1) Tiếp xúc càng nhiều càng hay với các nhân vật Pháp ở các thuộc địa ấy, mặc dầu họ có được chính thức trao quyền hay không. 2) Thiết lập vả duy trì sự liên lạc với giới cầm quyền Anh ở Gamble, Sierra-Leone, Gold-Coast, Nigeria và, nếu gặp trường hợp, với các nhà cầm quyền ngoại quốc khác. 3) Cho tướng de Gaulle biết toàn diện tình hình các thuộc địa Pháp ở Tây Phi và Đông Phi, và những điều kiện tốt đẹp nhất để hành động tại các thuộc địa ấy. I. — Trong công việc thừa hành đặc vụ chung này, thiếu tá Leclerc sẽ đại diện cho tướng de Gaulle bên cạnh Đại Tướng Tư Lệnh quân đội Anh Nam Đại Tây Dương và Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân Anh Nam Đại Tây Dương. Thiếu tá Leclerc sẽ có trụ sở chính ở Accra. Ông Pleven và đại úy Boislambert sẽ là thành phần lưu động của phái đoàn để tới những địa điểm thích hợp hơn cả mở cuộc tiếp xúc. II. —Tin tức do phái đoàn gửi về cho tướng de Gaulle bằng điện tín sẽ chuyển đến cho ông qua sự trung gian của nhà cầm quyền Anh. Điện tín của tướng de Gaulle gửi cho phái đoàn, trên nguyên tắc, sẽ nhờ sự trung gian của Thống Đốc Gold-Coast hay tướng chỉ huy quân đội Anh Nam Đại Tày Dương hay đồng thời nhờ cả hai nơi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 11:04:58 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi đại tá de Larminat, ở Leopoldville Luân Đôn, ngày 16 tháng tám 1940 Như ông đẵ biết, tình hình Tây Phi và Đông Phi có thể cái thiện được. Quyết định của tôi là khai thác triệt để những khả năng ấy. Tôi trông cậy nhiều ở ông để thực hiện công việc này. Trước hết, phải hành động cùng một lúc ở Brazzayille, Douala và Fort-Lamy. Tôi đã yêu cầu ông trước hết đến Leopoldville để tiếp xúc với những yếu tố thuận tiện ở Brazzaville. Quan niệm của tôi là những yếu tố có thiện cảm với chúng ta phải đe bẹp những yếu tổ ác cảm hay rụt rè, nếu cần thì phải dùng những phương tiện quyết liệt, Về tình hình vả hành động ở Douala và Fort- Lamy, phải đoàn của tôi hiện thời ở Lagos có đủ tài liệu cần thiết cho ông. Những hành động này có tầm quan trọng lớn. Nếu thành công, chúng ta sẽ có khả năng hành động quyết liệt ở nơi khác ; tôi đang chuẩn bị những hành động ấy ở đây và sẽ đến tận nơi để điều khiển. Trong lúc này, tôi coi ông cũng như tôi thứ hai để điều khiên công việc ở Brazzayille, Douala, Fort-Lamy. Tôi tin tưởng tài sáng kiến và quyết đoán của ông. Chúng ta đã đồng ý rằng tôi đặt dưới quyền chỉ huy của ông tất cả các yếu tố quân sự Pháp tự do hiện có mặt ở Nigeria và Gold-Coast. Thiếu tả Leclerc và thiếu tá Parant sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của ông. Dĩ nhiên, những yếu tố ấy không nên gửi sang Đông Phi. Thân hữu, Điện tín của tướng de Gaulle gửi ông Henri Sautot Thống sứ ủy viên Pháp taijNouvelles Hebrides 23 tháng tám 1940 Tôi được biết toàn thể nhân dân và có lẽ cả các đồn trại ở Nouyelle - Calédonie đầy thiện chí và rất sẵn sàng tập kết với tôi một cách công khai. Nhưng chính viên thống đốc còn do dự. Mặt khác, tầu Dumont d‘Urville được Vichy gỏi đến Noumea để làm áp lực bắt dân chúng theo Vichy. Tôi yêu cầu ông đến Noumea thay thế thống đốc để thực hiệu cuộc tập kết, dựa vào dân chúng thuộc địa, họ cũng muốn tập kết lắm. Một chiến hạm Anh sẽ đưa ông đến nơi và sẽ hộ tống ông. Chiến hạm đó nay mai sẽ chuẩn bị xong, với sự đồng ý của tôi. Điều tối quan trọng là phải đưa được xứ Nouyelle Calédonie về tập kết như ông đã thực hiện được một cách cao minh ở Nouyelles Hebrides Thân hữu, Điện tín của tướng de Gaulle gửi Leclerc và Boislambert Lagos 26 tháng tám 1940 Tôi được biết có một vài sự bất đồng ý kiến giữa bộ chỉ huy Anh và các ông. Đành rằng bộ chỉ huy Anh có quyền chỉ đạo tất cả các yếu tố quân sự Pháp trên lãnh thổ Anh, nhưng mọi người đều đồng ý rằng ông chịu trách nhiệm về cuộc hành quân trên lãnh thổ Pháp. Bộ chỉ huy Anh chỉ can thiệp để giúp cho mọi việc thừa hành được dễ dàng mà thôi. Tôi chú trọng đặc biệt đến cuộc hành quân này, cuộc hành quân phải được thực hiện nếu có hy vọng thành công, tôi tin rằng có hy vọng đó. Hết lòng tin cẩn ông. Tuyên dương công trạng Tchad được huy chương Đế Quốc 27 tháng tám 1940 Hôm nay, ngày 27 tháng tám 1940, ngày thứ 360 của cuộc thế chiến, tôi tuyên dương công trạng lãnh thổ Tchad và tưởng thưởng huy chương Đế Quốc, vì những lý do sau đây : «Dưới sự hướng dẫn của cấp trên, thống dốc Eboué và đại tả Marchand chỉ huy quân đội, xứ Tchad đã chứng tỏ mình xứng đáng là một vùng đất của những người Pháp anh dũng. Mặc dầu tình hình quân sự và kinh tế cực kỳ nguy hiếm, lãnh thổ Tchad đã không chịu theo lệnh đầu hàng nhục nhã và quyết định tiếp tục chiến tranh cho đến thắng lợi. Với quyết định đảng khen ấy lãnh thổ Tchad đã nêu cao con đường bổn phận và báo hiệu sự phục hồi của toàn thể Đế Quốc Pháp. Tướng de Gaulle » Điện tín của đại tá Leclerc và đại Boislambert gửi de Gaull Douala, 28 tháng tám 1940. Vì chúng tôi không có được một phần nhỏ những lực lượng của Parant và vì có nhiều hy vọng thành công cho nên chúng tôi đã cho tiến quân vào Douala với một lực lượng chỉ có 20 người Pháp. Chúng tôi đã đổ bộ vào ban đêm với 3 chiếc ghe bản xứ. Chúng tôi đã kêu gọi những phần tử có cảm tình và ra lệnh tấn công gấp một cách mãnh liệt. Kết quả là toàn thể các lực lượng đều về tập kết, ngoại trừ một vài yếu tố bị trung lập hóa hay bắt giam. Vì nhu cầu chỉ huy, đại tá Leclerc đã nhân danh ông nhận chức Tổng úy. Vì tính chất đặc biệt của cuộc hành quân này, dựa vào thuyết phục và uy quyền, chúng tôi phải tự nhận lấy những địa vị cao hơn để mọi việc thành công, tất nhiên chỉ có tính cách tạm thời. Xin ông thứ lỗi, vì chỉ có kết quả là đáng kể. Trật tự đã được tái lập. Các biện pháp phòng thủ đã được thi hành nhất là để chống lại những cuộc tấn công từ miền biển tới. Các lực lượng quân sự đều trở về tập kết. Một vài sĩ quan bất phục tòng đã bị bắt giam đợi ngày trục xuất. Chúng tôi đã yêu cầu Pleven tới nơi ngay tức khắc. Chúng tôi đề nghị gửi ngay tới đây những lực lượng hải quân tự do, không quân và pháo đội. Chúng tôi rất vui mừng háo cáo sự thành công của chúng tôi, sự tận tâm của chúng tôi và ý chí sắt đá tiếp tục những hành động cương quyết. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 11:06:07 pm Điện tín của đại tá de Larminal gửi tướng de Gaulle Brazzayille, ngày 28 tháng tám 1940 Tôi đã đến Brazzayille ngày hôm nay, hồi 11 giờ, và tôi nắm trọn quyền hành. Không có phản ứng. Điện tín của ông Masson, Thống dốc Gabon gửi tướng deGaull Libreville, 29 tháng tám 1940 Sau cuộc hội nghị, có mặt Chỉ Huy Trưởng quân sự, Chưởng Lý, Chủ Tịch Phòng Thương Mại và Chủ Tịch Cựu Chiến Binh, lẵnh thổ Gabon vui mừng tập kết với Pháp Tự Do và cộng tác với Pháp Tự Do về đủ mọi phương diện. Thư của tướng de Gaulle gửi tướng Catroux Ngày 29 tháng tám 1940 Kính thưa Đại Tướng, Ông không thể tưởng tượng được sự vui mừng của tôi khi tôi được tin ông sẽ trở về nay mai. Biết bao nhiêu việc phải làm để cứu nước Pháp ra khỏi vực thẳm ; một người và một lãnh tụ như ông có thể đóng một vai trò quan trọng trong cuộc phục hồi ấy. Đã từ lâu, như ông biết, tôi vẫn kính mến ông và có tình thân hữu chân thành và tôn kính đối với ông. Thái độ của ông đối với vấn đề Đông Dương đã làm tôi thêm trọng vọng. Bây giờ đã đến lúc phải kiến thiết ! Chẳng bao lâu ông sẽ biết rõ những gì đã xảy ra ở đây và ở nơi khác. Đối với tôi, tôi đã ở trong chính phủ vào những ngày cuối cùng các trận chiến, tôi đã chứng kiến tài khéo léo sâu xa của địch để chi phối các giới thân cận với cặp chỉ huy và chi phối cả tinh thần cấp chỉ huy của nước Pháp. Chưa có phút nào tôi ngờ rẳng sự sụp đổ của Paul Beynaud, người bạn của chúng ta và việc lên cầm quyền của vị Thống Chế già, lại có nghĩa là nước Pháp sẽ đầu hàng. Tôi không chấp nhận sự đầu hàng đó cho nên tôi đã sang Luân Đôn để tổ chức lại một nước Pháp chiến đấu.. Tôi đã kêu gọi người Pháp thành lập những viên đá đầu tiên của lực lượng quân sự, thủy quân và không quân và của những cơ quan hành chánh : Ngoại vụ, thuộc địa, tài chánh, thông tin vân vân... Chúng tôi đã tiếp xức với nhiều nơi trên thế giới. Không thiếu gì, tiềm năng ở nước Pháp và ở Đế Quốc. Các thuộc địa Nouyelles-Hébrides, Tchad, Cameroun, Haute- Côte d ‘ Ivoưe, đã trở về tập kết. Khi ông nhận được bức thư này, tôi đã đi Dakar với bộ đội, tầu bè, phi cơ và... sự giúp đỡ của người Anh. Nếu cuộc hành quân này thành công thì vấn đề then chốt là Bắc Phi sẽ đặt ra ngay sau đó. Nhất là sự để dọa của quân Đức, Ý và I Pha Nho, theo tôi, là mối họa hiển nhiên rồi. Tôi nhận thấy những người tại chức ở Bắc Phi và đã chịu khuất phục điều kiện đình chiến, đều mất tư cách rồi, không thể nào trở là những « người của chiến tranh » được nữa. Khi nói ra điều này, tôi nhắm vào tướng Noguès, ngay từ ngày đầu ông ta đã dùng nhiều thủ đoạn để củng cố địa vị. Khi chúng tôi đã nắm được Bắc Phi thì phải có người nào đó để cầm đầu xử ấy. Người ấy sẽ là ông, nếu ông nhận lời. Ông cũng biết rằng chính phủ Anh, sau khi đã thừa nhận tôi là « Lãnh tụ người Pháp Tự Do », đã tiên tương chấp nhận điều đình mọi vấn đề phòng thủ và kinh tế Đế Quốc của chúng ta với một « Hội Đồng phòng vệ Pháp Hải Ngoại », nếu tôi thành lập một hội đồng như vậy. Đó là ý kiến của chúng tôi. Tôi yêu cầu ông chấp nhận địa vị « Bắc Phi » trong Hội Đồng này. Trong khi chờ đợi, ông ở đây sẽ thuận tiện hơn cả để chuẩn bị mọi việc. Khi thời cơ đã đến, nghĩa là, ngoài thực tế, khi chúng ta đã đặt chân lên Maroc và Algẻrie, có lẽ ông sẽ nhân cơ hội thuận tiện đến nhiệm chức cai trị và chỉ huy quân đội toàn bộ : Maroc, Algérie, Tunisie chăng ? Đỏ đốc Muselier và Antoine (tên hiệu là Fontaine) được tôi giao phó tạm quyền chỉ huy Thủy lục Không quân ở bên Anh và điều khiển các cơ quan dân sự trong khi tôi vắng mặt, sẽ trình bày với ông tình hình quân lực và hành chánh của chúng ta. Lúc này, điều quan trọng nhất là việc tái võ trang một số chiến hạm của chúng ta. Khi ông tiếp xúc với đô đốc Muselier ông sẽ có một ý niệm về ông ta. Đã có nhiều người chỉ trích ông ta. Ông ta có tính xấu nhưng cũng có tính tốt- Xét cho cùng thì ông ta cũng là người ngay thật. Dĩ nhiên, tôi cũng muốn Darlan trở về với hạm đội của ông ta, Nhưng Darlan không trở về... Nói một cách tổng quát, tôi tin tưởng ở sự chiến thắng cuối cùng. Người Anh đã chuẩn bị ráo riết cho ngày đó ; thật là may mắn cho họ và cho cả chúng ta, ông Winston Churchill là « người của chiến tranh ». Ván bài này chỉ đánh giữa Hitler và Churchill. Trong khi chờ đợi được hân hạnh tiếp kiến ông, tôi xin kính gửi ông lời chào mến trọng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 11:31:48 pm Điện tín của Thống Đốc tạm quyền Tahiti gửi tướng de Gaulle Tahiti, mùng 2 tháng chín 1940 Hôm nay, ngày mùng 2 tháng chín 1940, là ngày kỷ niệm cuộc bộc phát tình trạng thù nghịch ; toàn thể dân tộc lãnh địa Pháp ở Úc Châu đều vui mừng quyết định siết chặt hàng ngũ bên cạnh ông để cùng đồng minh Anh tiếp tục cuộc chiến tranh của người Pháp Tự Do chống lại chủ nghĩa Hitler Đức và Phát xít Ý. Vị thống đốc đã không chịu nghe theo ý dân, bởi vậy, ba nhân viên Hội Đồng tư nhân và vị đốc lý Papeete đã thành lập ngay một cơ quan cai trị tạm thời trong khi chờ đợi việc bổ nhiệm một vị thống đốc mới. Vị đại diện nước Anh, các trưởng cơ quan hành chánh và quân đội đều theo chúng tôi — ngoại trừ chỉ huy trưởng hải quân, và ông này đã được trung úy hải quân thay thế. Trong Ủy Ban cai trị lâm thời: Ahne, Lagarde, Martin. Điện tín của Toàn Quyền Noiwelle Zeslande gửi Cục Lãnh Địa Tự Trị (Bản dịch) Mùng 3 tháng chín 1940 Thủ tướng đã nhận được điện tín sau đây của Papeete : « Kết quả cuộc toàn dân biểu quyết ở Tahiti— Mooréa và Touamotou như sau ; Theo de Gaulle : 5.564 phiếu. Theo Pétain : 18 phiếu. «Thống Đốc Úc Châu Pháp đã bị truất phế. Việc cai trị trao cho một văn phòng gồm 3 nhân viên của Hội Đồng tư nhân trong khi chờ đợi tướng de Gàulle bổ nhiệm một vị thống đốc.» Tuyên ngôn của Louis Bonvỉu Thống Đốc Lãnh Địa Pháp ở Ấn Bộ Mùng 9 Tháng chín 1940 « Thống Đốc và các lãnh địa ở Ấn Độ đứng về hàng ngũ tướng de Gaulle » Điện tín của tổng lãnh sự Anh ở Tanev gửi Đô Đốc Gibaliar và bộ Tư Lệnh Hải Quản Anh ở Luân Bôn Tanger, mùng 6 tháng chín 1940. Tin của đại úy Luizet (cơ quan tình báo Pháp, bí mật tập kết Pháp Tự Do) : « Hạm đội Địa Trung Hải có thể tìm cách vượt qua eo biển Gibraltar, đi về hướng Tây, không biết nơi đến. Việc vượt biển này có thể xảy ra trong 72 giờ sắp tới ». Điện tín của Cựu Chiến Binh Saint-Pierre và Miquelon gửi tướng de Gaulle qua Terre-Neuye. Saint-Pierre, 14 tháng chín 1940 Cựu chiến binh Saint-Pierre và Miquelon, nhóm họp phiên đại hội đồng ngày 14 tháng chín 1940, xét định tình hình hiện thời và các diễn biến sau đây : 1) Sự bất lực của chính phủ Vichy hoàn toàn dưới sự thống trị của người Đức, điều ô nhục và nguy hiểm nếu theo mệnh lệnh của chính phủ ấy ; 2) Không khước từ tự do của mình và đem đặt vào tay Hitle trước khi làm đủ mọi cách để bảo vệ tự do ấy dù phải trả tới giá nào ; tình thế đặc biệt của thuộc địa xa cách hẳn Chánh Quốc hiện bị Đức đô hộ và không cho phép trông cậy vào sự che chở hữu hiệu của láng giềng Gia Nã Đại và Mỹ ; 3) Tin tưởng rằng sự chiến thắng của nước Anh cũng chiến đấu với tướng de Gaulle và các đồng chí sẽ trả lại tự do cho tổ quốc. Kính gửi Đế Quốc Anh và tướng de Gaulle kiến nghị sau đây : « Cựu chiến binh Saint-Pierre tin tưởng rằng tướng de Gaulle và quân đội của ông cùng với quân đội Anh chiến đấu cho tự do của nước Pháp và của thế giới sẽ đem lại chiến thắng cuối cùng, kính gửi ông và quân đội của ông lời khen tặng sâu sắc và sự biết ơn chân thành, mong mỏi quân đội của ông sẽ sớm giải phóng lãnh thổ Pháp. « Nước Pháp muôn năm ! Đế Quốc Anh muôn năm ! de Gaulle muôn năm ! » Bản tuyên ngôn của Ủy Ban ở Noumea 16 tháng chín 1940 Hỡi người Calédonie ! Đã nhiều lần chúng ta khẩn khoản yêu cầu thực hiện sự trưng cầu dân ý vì chúng ta biết rõ tinh thần ái quốc của dân chúng. Chúng ta chỉ nhận được lời khước từ quyết liệt của thống đốc. Giờ đã điểm để chúng ta biểu lộ ý muốn của chúng ta và chứng tỏ rằng chúng ta có khả năng làm được cái gì để nắm vững vận mệnh tổ quốc. Mỗi ngày qua đi, chúng ta lại tiến gần tôi một giải pháp trái với ý muốn của người Calédonie. Thời giờ đang gấp rút. Các bạn hãy sửa soạn ngay càng đông càng hay, ngày thứ năm 19 tháng 9 này, hồi 6 giờ sáng, ở Noumea. Chúng tôi tin tưởng rằng các bạn có đủ ý chí và can đảm để chịu đựng mọi sự hy sinh cần thiết hầu bảo vệ quyền lợi và tự do. Ngày ấy sẽ là một ngày lịch sử của đất nước này. Chúng tôi sẽ đến thăm ông nay mai càng sớm càng hay. Chúng ta đang sống những giờ phút nghiêm trọng. Các bạn hãy vùng lên ! Nước Pháp muôn năm ! Calédonie muôn năm ! Verges, Prinet, Mouleđoux, Rabot. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Giêng, 2019, 11:41:28 pm Thư của tướng de Gaulle gửi ông Boisson, Toàn quyền Tây Phi thuộc Pháp1. Trèn tàu biển trước hải căng Dakar, ngày 18 tháng chín 1940 Kính thưa Toàn Quyền. Trước phong trào phục hồi nước Pháp rộng lớn đang lôi cuốn đế quốc của chúng ta, ông sẽ đóng một vai trò quan trọng. Giờ của ông đã đến. Tôi yêu cầu ông cộng tác với tôi để tiếp tục cuộc chiến tranh giải phóng Tổ Quốc. Hiện tôi đã đến gần đây với một lực lượng lục hải không quân hùng hậu. Lực lượng ấy tiến vào Dakar để tăng cường đồn trại, đề phòng mọi cuộc tấn công của địch và lo việc tiếp tế cho lãnh địa... Tôi dự định cho đổ bộ lực lượng ấy bất cứ lúc nào đồng thời mang đến sự tiếp tế cho lãnh địa, mong rằng sẽ không có sự chống đối. Nếu vạn bất đắc dĩ mà có cuộc chống đối ấy thì tôi chắc chắn rằng ông sẽ làm mọi cách để không xẩy ra những sự và chạm thê thảm. Những cuộc đụng độ ấy sẽ càng thê thảm hơn nếu có sự can thiệp của lực lượng đồng minh đi theo tôi ; họ có nhiệm vụ dùng đủ mọi phương tiện để ngăn cản địch đặt tay lên căn cứ Dakar. Tôi chờ đợi thư trả lời của ông trong sự tin tưởng. Trân trọng kính chào ông Toàn Quyền. Điện tín của Lord Lloyd, bộ trưởng Lãnh Địa của chính phủ Anh, gửi Cao Ủy Anh ở Gia Nã Đại (Bản dịch) Luân Đôn, 19 tháng chín 1640 Theo tài liệu trong điện văn của chính quyền vùng Terre-Neuye ngày 14 tháng chín về hiện tình các đảo Saint-Píerre và Miquelon, chúng tôi cho rằng nên để cho tướng de Gaulle tìm biện pháp nắm quyền cai trị Saint-Pierre và Miquelon như đã làm ở Trung Phi thuộc Pháp và ở Tahti. Chính phủ Gia Nã Đại, trong điện văn ngày 12 tháng bảy gửi thống đốc Terre-Neuye, đã cho biết ý định không muốn can thiệp vào nội bộ các hải đảo ấy ; Gia Nã Đại đã cho chính phủ Hoa Kỳ biết ý kiến của mình và Thống đốc Terre-Neuye cũng cho biết ý kiến tương tự. Nhưng phong trào ủng hộ de Gaulle có thể có tính cách một phong trào địa phương, không cần sự giúp đỡ ở bên ngoài. Nếu việc này thành công, tất nhiên, chúng ta sẽ lập liên lạc thân hữu với nên cai trị mới và chúng ta cam kết cung cấp cho Saint-Pierre và Miquelon sự viện trợ kinh tế và hải quân vẫn dành cho các thuộc địa Pháp đã tuyên bố theo de Gaulle. Chúng ta ước mong rằng chính phủ Gia Nã Đại cũng sẵn sàng để viện trợ cho họ với điều kiện tương tự điều kiện của chúng ta. Như vậy, tôi yêu cầu ông thông báo cho chính phủ Gia Nã Đại biết rằng chúng ta không phản đối cuộc hành quân của de Gaulle ; cuộc hành quân ấy cũng đòi hỏi một thời gian nào đó để đem lại kết quả. Mặt khác, chúng ta có ý định báo cáo việc này cho chính phủ Hoa Kỳ biết một cách kín đáo. Điện văn của tưởng de Gaulle gửi thuyền trưởng tuần dương hạm Gloire và thuyền trưởng tuần dương hạm Primaugel2. 20 tháng chín 1940 Tôi được báo cáo cho biết thái độ và tình trạng của ông, tôi tán thành thái độ ấy. Tôi yêu cầu ông nhận lời đến Freetown để sửa chữa tầu bè của ông. Tôi xin lấy danh dự hứa với ông rằng tôi và đồng minh đồng ý để ông và các thủy thủ của ông được tự do ở Freetown cho đến ngày sửa chữa xong, tùy y muốn của ông, ông có thể trở về Casablanca. Điện tín của Henri Sautot, Thống đốc Nouyelle-Caliédonie gửi tướng để Gaulle Noumea, 24 tháng chín 1910 Tiếp theo điện tín ngày 20 tháng chín của tôi. Ngày 23 tháng chín chúng tôi đã trung lập hóa hoàn toàn các yếu tố quân sự phản động không theo Pháp Tự Do, họ đã bị giam trên chiếc tầu buôn đậu lại bến. Chúng tôi đã thành công tuy chỉ có 700 người tình nguyện ở trong nước. Đã làm chủ các đồn trại và giàn hỏa pháo bờ biển do chiến sĩ trung thành chiếm giữ. Yêu cầu bổ nhiệm ngay đại úy Broche chỉ huy tối cao các lực lượng nội địa. Chỉ còn tình trạng tầu d'Urville vẫn mập mờ. Các chiến sĩ Pháp Tự Do đều tỏ ra can đảm và dũng mãnh trong thời gian bốn ngày lịch sử thay đổi vận mệnh một khối dân tộc không đổ một giọt máu. Ngày nay, đảo Caléđonie làm lễ kỷ niệm năm thứ 87 chu niên chủ quyền Pháp trong vòng trật tự và vui mừng. Thành phố Noumea tràn ngập cờ tam sắc ghi thêm hình thập tự Lo Ren. ----------------- 1. Bức thư này khòngđến nơi. Người ta hiểu tại sao. 2. Hai chiếc tuần dương hạm này cũng như các chiến hạm khác, vừa quay mũi đi nơi khác theo lời yêu cầu của đô đốc Cunningham. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Giêng, 2019, 11:54:51 pm Điện tín của ủng Winston Churchill gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn, mùng 3 tháng mười 1940 I.— Ngày mùng 1 tháng mười, đại sứ Pháp ở Madrid đã trao cho đại sứ Anh quốc một thông diệp do ông Baudouin chuyền đạt để gửi lên chính phủ của Anh Hoàng. II.— Bản thông điệp có mục đích chứng minh rằng nếu nước Anh không muốn dâng nạp toàn thể chính phủ Pháp cho người Đức thì nước Anh phải cho phép các thuộc địa Pháp đưa đồ tiếp tế vào khu vực không bị chiếm đóng của nước Pháp. Trong trường hợp nước Anh cho phép tiếp tế, chính phủ Pháp sẽ điều đình việc kiểm soát cách nào để bảo đảm rằng đồ tiếp tế ấy hay phần lương thực tương đương với số lượng tiếp tế ấy không bị lọt vào tay quân Đức. Trong trường hợp quân Đức tìm cách chiếm đoạt thì chính phủ Pháp sẽ di chuyển sang Maroc và nước Pháp trở lại hợp tác với nước Anh để chống quân Đức. III.— Khi xuất trình bức thông điệp này, đại sứ Pháp đã tuyên bố rằng mục đích chính của ông là trừ bỏ từ trứng nước những khuynh hướng bài Anh đã tái xuất hiện ở Pháp và đem lại cho nước Pháp và nước Anh cơ may để cùng tiến bước trên đường đưa đến thẳng lợi cuối cùng. Đại sứ của Anh Hoàng đã trả lời đại sứ Pháp rằng mục đích duy nhất của mình là chiến thắng, Ông không có ý định đưa lời kháng nghị về nhũng việc vừa xảy ra. Bởi thế cho nên ông không muốn tranh luận về việc tấn công Gibraltar hay việc nổ súng vào nhóm thuyết khách mang cờ trắng ở Dakar đã làm dư luận Anh quốc vô cùng phẫn nộ. IV.— Đại sứ Anh lúc này đã nhận được chỉ thị để trả lời đại sứ Pháp như sau và yêu cầu chuyền đạt tới tay ông Baudouin : 1) Chính phủ của Anh Hoàng sẵn sàng để thảo luận với chính phủ Pháp ở Vichy, vì muốn tránh mọi sự hiểu lầm và và chạm. Khi ông Baudouin gửi bức thông điệp thứ nhất qua tay đại sứ Pháp ở Madrid, đề nghị giữ nguyên trạng các thuộc địa Pháp, chính phủ Anh đã trả lời ngay, yêu cầu xác định minh bạch quan điểm của ông Baudouin. Chúng tôi không nhận được câu trả lời nào, và sau đấy các chiến lũy Pháp ở Dakar đã bắn vào tầu chiến của người Anh, trong khi họ được mời đến điều đình, các phi cơ Pháp đã oanh tạc Gibraltar không hề báo trước. Mặc dầu có những hành động thù nghịch ấy chính phủ Anh cũng vẫn sẵn sàng để mở những cuộc điều đình với chính phủ Pháp. Nhưng trước tiên, cần phải minh xác hai điểm sau đây : a)Trong trường hợp quân lực Pháp tấn công trở lại các tàu Anh hay lãnh thổ Anh như cảng Gibraltar, chính phủ Anh sẽ trả đũa ngay, dùng lực lượng của mình để tấn công những hải cảng và lãnh thổ Pháp. h) Chính phủ Anh xin nhắc lại một lần cho cả mọi lần rằng không thể rút lại sự nâng đỡ phong trào chiến đấu của tướng de Gaulle và sẽ viện trợ đầy đủ mọi mặt đế ông này giữ được uy tín trên các thuộc địa Pháp theo ông và chiến đấu cho chính nghĩa. 2) Dựa vào những điều kiện trên đây, chính phủ Anh sẽ thảo luận về ba vấn đề sau đây : a) Để thỏa mãn chính phủ Anh Hoàng, làm cách nào để phần Đế quốc Pháp hiện thời hay sau này chưa đặt dưới sự kiểm soát của tướng de Gaulle , không rơi vào vào vùng ảnh hưởng Đức hay Ý ? (Về vấn đề này, ông có thể nhắc lại cho đại sứ Pháp biết lời cam kết nhiều lần công bố của chúng ta rằng khi hết chiến tranh chúng ta muốn cho nước Pháp phục hồi nền độc lập và sự hùng cường của mình. Dĩ nhiên, sự cam kết đó cũng có giá trị đối với những lãnh thổ có thể tự mình xin tập kết với tướng de Gaulle). b) Nếu chính phủ Pháp có thể đưa ra những sự cam kết có giá trị đối với những điếm trên đây thì chính phủ Pháp liên hệ đến sự trao đổi thương mại giữa các thuộc địa Pháp và chính quốc Pháp, khu vực không bị chiếm đóng. c) Làm cách nào để thương thuyền Pháp không thể rơi vào tay Đức hay Ý trong bất cứ trường hợp nào. 3) Cần phải nói rõ rằng chính phủ Anh gán một tầm quan trọng lớn cho việc phong tỏa địch. Chính phủ không thể hòa dịu nếu không biết chắc rằng chính phủ Pháp có thể và có ý muốn hành động độc lập để giải quyết vấn đề lãnh thổ hải ngoại không phải nghe theo mệnh lệnh của người Đức hay người Ý ; ngoài ra chính phủ Pháp cũng cần phải có thái độ hợp tác trong việc giao dịch với chính phủ Anh, điều mà Pháp chưa cho thấy hiện nay. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 09:58:32 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi Thủ tướng Anh Lagos, mùng 3 tháng mười 1940, I. — Tướng de Gaulle đã chú trọng đặc biệt lần thử nhất đến sự kiện sau đây : trong một bản thông cáo chính thức, chính phủ Vichy đã nói đến những trường hợp nào nước Pháp chính thức có thể trở lại tiếp tục cuộc chiến tranh bên cạnh nước Anh. II.— Chính sách của Vichy đã tạo ra những việc đã rồi, sự vận động trên đây phải coi là dấu hiệu của sự hỗn loạn chính trị gần tới mức tuyệt vọng, chứ không thể cho là nhà cầm quyền thẳng thắn thú nhận lỗi lầm trọng đại đối với quốc gia và quốc tế. III.— Trong trường hợp nào cũng cần phải nhấn mạnh điểm sau đây : Mặc dầu chính phủ Vichy có ngày thiên chuyền toàn phần hay một phần sang Bắc Phi và tuyên bố rằng trở lại cuộc chiến, chính phủ ấy cũng không có đủ uy tín và hiệu năng để điều khiên chiến tranh. Sau khi đã hoàn toàn chịu ách thống trị của địch và tước khí giới của Đế Quốc, chính phủ ấy không còn uy tín dễ dẫn dắt và thu hút những người họ kêu gọi cầm sủng ra trận. IV.— Chính phủ Anh có thể thỏa thuận với chính phủ Vichy những điều khoản liên hệ đến việc trao đổi kinh tế giữa khu vực không bị chiếm đóng của chánh quốc với Đế Quốc Pháp, nhưng sự thỏa thuận ấy sẽ cải thiện ít ra trong một thời gian ảnh hưởng của Vichy đến các thuộc địa ; hiện thời ảnh hưởng ấy đang tan rã. Như vậy thì tốt hơn hết là nên đề nghị với Vichy một giải pháp tiếp tế trực tiếp của các hội từ thiện Hoa Kỳ, với điều kiện kiểm soát chặt chẽ. Trong trường hợp ấy, và phù hợp với một đề nghị trước đây của tướng de Gaulle, nhưng sự thỏa thuận về việc tiếp tế nên cho là thực hiện theo lời yêu cầu của tướng de Gaulle . V.— Tướng de Gaulle lấy làm hài lòng mà ghi nhận rằng chính phủ Anh đã thông báo cho chính phủ Vichy biết : a) Quyết định nâng đỡ phong trào de Gaulle tại các thuộc địa muốn tập kết và chấp nhận quyền hành của ông ; b) Ý định chính thức giúp nước Pháp phục hồi độc lập và hùng cường khi hết chiến tranh, nhất là đối với những thuộc địa ấy. Điện tín của tướng de Gaulle gửi ông Winston Douala, 12 tháng mười 1910 Sau khi nghiên cứu sâu rộng tình hình địa phương, tôi quyết định thanh toán vấn đề Libreville càng sớm càng hay. Nhiều tin tức nhận được cho biết rằng tình trạng Libreville rất nghiêm trọng về phương diện thực phẩm và các đồ tiếp tế khác. Điều quan trọng sinh tử là không để lọt vào Libreville hay Port - Gentil một sự tiếp tế hay viện trợ bất cứ loại nào. Mặt khác, kể đến điều kiện thời hạn cần có để ráp phi cơ và bố trí lực lượng, tôi có ý định phóng ra cuộc hành binh trong một tuẫn lễ nữa. Trong lúc này và để đề phòng biến cố về sau tôi cho rằng điều tối yếu là ngăn cản mọi cuộc tấn công đường biển của Vichy vào Trung Phi, Dahomey, Côte clTvoưe và Guinẻe, để tránh mọi sự hiều lầm vời Vichy, tôi đề nghị chính phủ Anh cảnh cáo ngay chính phủ Vichy rằng, vì lý do an ninh tuyệt đối nước Anh không thế cho phép chiến hạm của Vichy lai vãng đến Nam Dakar nếu không có bảo tin trước. Đã có lời cảnh cáo ấy mà tầu nào còn lai vãng đến đây thì sẽ bị coi là tầu địch. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:00:52 pm Điện tin của Bộ Ngoại Giao Anh gửi tướng để Gaulle (Bản dịch) Luân Đôn, 22 tháng mười 1940 PHẦN THỨ NHẮT Sau đây là tóm lươc thư trả lời của chính phủ Vichy sau khi nhận được thông cáo của chúng ta : 1) Chính phủ Pháp đã chấp thuận đề nghị Anh về vấn đề... (Mật ngữ không đọc được). Vì vấn đề gợi ra trong điệp văn của nước Anh, chính phủ Pháp có lập trường như sau : a) Nước Pháp chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là nước xâm lăng. Như vậy chính phủ Pháp không hiểu sao lại có sự đe dọa của nước Anh phải đề phòng Pháp xâm lăng. Chính phủ Pháp cực lực chống lại bất cử cuộc tấn công nào khác của người Anh hay sự yểm trợ lực lượng binh bị nào tấn công tầu bè hay lãnh thổ Pháp. b) Chính phủ Pháp chấp thuận rằng những cuộc hòa đàm sắp tới sẽ diễn ra trong phạm vi ấn định bởi cuộc thảo luận ngày 27 tháng chín ở Madrid giữa hai vị đại sứ. c) Chính phủ Pháp không chấp nhận cho tướng de Gaulle có quyền hành gì hoặc quyền bào chữa cho hành động của ông. Chính phủ Anh thừa nhận một quyền hành nào khác hay yểm trợ mưu toan cắt xén lãnh thổ Pháp dưới quyền Vichy, chỉ làm cho mất những căn bản để thực hiện nỗ lực hòa giải hai dân tộc. Nếu chính phủ của Anh Hoàng đồng ý với chính phủ Pháp theo đuổi chinh sách hòa hoãn thì chính sách của họ phải phù hợp với danh dự, phẩm cách và quyền lợi của nước Pháp. 2) Trước khi nhận được điệp văn cuối cùng của chính phủ Anh, chánh phủ Pháp đã công khai tuyên bố nhiều lần ý định cương quyết bảo vệ sự kiểm soát Đế Quốc và hạm đội của nước Pháp. Chính phủ Pháp muốn cho những quyền hạn dành cho mình theo bản thỏa hiệp đình chiến phải được tôn trọng. 3) Chính phủ Pháp thành thực muốn có một sự thỏa hiệp về việc giao thương giữa nước Pháp và các thuộc địa của nước Pháp. 4) Chính phủ Pháp không thể hiện được cách suy diễn của người Anh khi người Anh tìm hiểu thải độ của chính phủ Pháp. Chính phủ Pháp có lý do để cho mình đã bị xúc phạm. Chính phủ Pháp đang mong rằng sẽ gặt hái được kết quả do chính sách kiên nhẫn của mình mang lại, chính phủ Pháp rất lấy làm tiếc rằng mới phải bỏ chỉnh sách kiên nhẫn chưa bao lâu. PHẦN THỨ HAI Đại sứ của Anh Hoàng ở Madrid đã nhận được chỉ thị để chuyên đạt tới đồng sự Pháp những nhận xét tóm tắt sau đây : 1) Tuy rằng không được thỏa mãn với lời lẽ phúc thư, chính phủ của Anh Hoàng cũng sẵn sàng tiếp tục cuộc hội đàm theo đường hướng ấn định bởi bản thông cáo mới đây. 2) Chính phủ của Anh Hoàng nhắc lại với Chính phủ Pháp ý định thực hiện sự phục hồi toàn vẹn độc lạp và hùng cường của nước Pháp. Chúng tôi khước từ bất cứ đề nghị hòa bình nào cho phép Đức và Ý thủ lợi trên lành thổ Pháp. Bởi lẽ đó và bởi lẽ nhu cầu quân sự của chúng tôi, chúng tôi phải làm tất cả để ngăn cản Đức Quốc và hạm đội Pháp rơi vào tay kẻ thù. Chính phủ Pháp không thể tự mình phòng thủ các lãnh thổ Pháp hải ngoại, chúng tôi phải tiếp tục nâng đỡ phong trào thành lập để phòng thủ các lãnh thổ ấy chống lại Đức và ý và để hợp tác với nước Anh. 3) Ngoại trừ những nhượng bộ có thể chấp thuận khi hội đàm, còn thì chính phủ Anh buộc lòng phải duy trì sự phong tỏa vì đây là một nỗ lực chính yêu của chính cuộc. . 4) Chính phủ của Anh Hoàng rất vui lòng vì chính phủ Pháp đã quyết tâm bảo tồn sự kiềm soát Để Quốc và hạm đội Pháp. Chính phủ ấy hiếu rằng như thế có nghĩa là Đế Quốc và hạm đội Pháp không rơi vào tay địch hay vào vùng ảnh hưởng của địch. Nếu chính phủ Pháp có thể thuyết, chúng tôi... » (không nhận được phần còn lại) PHẦN THỨ BA Thư phúc đáp của chính phủ Vichy làm cho chúng tôi buồn bực tuy không làm cho chúng tôi ngạc nhiên. Hầu như chính phủ ấy không muốn tuyệt giao, như vậy chúng tôi chỉ cố gắng rút tỉa những điểm hữu ích trong tình trạng này. Chúng tôi cho rằng tốt hơn hết là nên tiếp tục trao đổi quan điểm với Vichy với hy vọng họ nhận thấy rằng thỏa hiệp với chúng tôi vẫn có lợi, nhưng họ cũng không thể chối cãi được rằng họ sợ gót giầy của người Đức, họ làm gì cũng không thể cho rang họ có tự do. Như vậy chúng tôi không thể trông đợi họ cam kết trên giấy tờ vì người Đức sẽ không cho phép họ làm như vậy, vả chăng, cho tới ngày nay họ cho chúng tôi biết rất ít bằng chứng để tin tưởng ở một lời nói cam kết. Nhưng họ ở vào một địa vị mà trong lúc hội đàm chúng tôi không thế chờ đợi họ dùng đến những phương kế khác. Sự bảo đảm duy nhất mà chúng tôi có thể có được là nếu họ không giữ lời cam kết thì chúng tôi coi mọi thỏa ước như không có và chúng tôi sẽ khước từ mọi thỏa ước như không có và chúng, tôi sẽ khước từ mọi lợi ích có thể cho họ hướng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:02:19 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi đại tá Leclerc và đại tá de Marmier, ở Douala Brazzayille, 27 tháng mười 1940 Khởi sự một cuộc không kích mạnh mẽ xuống Libreville là điều tối cần và tối khẩn. Trước hết, cần phải phá hủy những phi cơ của Vichy đậu trên mặt đất, sau nữa, cần phải làm cho họ không thể sử dụng được sân bay, sau hết, thanh toán vấn đề tầu bè của Vichy. Nhiều đặc vụ trinh sát và oanh tạc sẽ được thực hiện ở Mit— ic. Hoạt động không quân này có tỉnh cách trọng yếu để ngăn cản trước mọi hành động để dọa Douala sau này của Vichy. Bản luyên ngôn của tường de Gaulle đọc trên đài Brazzayille Ngày 27 tháng mười 1940 Nước Pháp đang trải qua cơn khủng hoảng ghê gớm nhất lịch sử của mình. Biên giới, đế quốc, độc lập và đến cả tâm hồn của mình cũng bị đe dọa tiêu hủy. Giới chỉ huy, trong một cơn khiếp nhược không thể tha thứ được, đã chấp nhận cúi mình theo luật của địch chiếm đóng. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy dân tộc và Đế Quốc chúng ta không chấp nhận sự nô lệ ghê tởm. Hàng triệu người Pháp và theo Pháp đã quyết tâm tiếp tục chiến đấu cho đến ngày giải phóng. Hàng triệu và hàng triệu người khác chỉ đợi người xứng đáng ra lãnh đạo họ để bước ra chiến trường. Nhưng bây giờ không làm gì còn có chính phủ Pháp thực sự. Quả vậy, cơ quan thành lập ở Vichy và cho rằng mình là một chính phủ, thực ra bất hợp hiến và lệ thuộc kẻ xâm lăng. Trong tình trạng nô lệ như thế, cơ quan ấy chỉ có thể là một công cụ của địch dùng để phá hoại danh dự và quyền lợi của nước Pháp. Bởi thế cho nên cần phải có một chính quyền khác chỉ đạo nước Pháp trong nỗ lực chiến tranh. Tình hình biến chuyển đã bắt buộc tôi nhận lấy trách nhiệm thiêng liêng ấy. Tôi sẽ không lùi bước trước mọi gian lao. Tôi nhân danh nước Pháp mà thi hành quyền hạn của tôi chỉ để bảo vệ nước Pháp và tôi long trọng cam kết điều trần trước các đại diện của quốc gia khi nào có đủ tự do để tuyển lựa những đại diện ấy. Để giúp tôi thi hành nhiệm vụ, từ ngày hôm nay tôi thành lập một Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc. Hội đồng ấy gồm những người đã cầm quyền trên lãnh thổ Pháp hay tượng trưng cho những giá trị đạo đức và tinh thần cao cả nhất của quốc gia, họ sẽ đại diện cho quốc gia và Đế Quốc đang chiến đấu để giành lấy quyền sống. Tôi kêu gọi mọi người nam cũng như nữ trên lãnh thổ Pháp về tập kết với tôi, hãy cùng nhau lên đường chinh chiến, nghĩa là hy sinh và ra mặt trận. Chúng ta đoàn kết chặt chẽ với các đồng minh của chúng ta, họ đã tuyên bố ý định góp phần phục hồi độc lập và hùng cường của nước Pháp, chúng ta sẽ chống lại địch và tay sai của địch để bảo vệ phần gia tài của tổ quốc chúng ta còn giữ được, chúng ta sẽ đánh địch bất cứ ở đâu, chúng ta sẽ huy động tất cả tài nguyên quân sự, kinh tế, tinh thần, chúng ta sẽ bảo vệ trật tự công cộng và công lý xã hội. Sự nghiệp lớn lao đó, chúng ta sẽ thực hiện cho nước Pháp trong ý thức phục vụ hết mình và trong niềm tin tưởng chiến thắng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:06:34 pm Dụ số 1 Nhân danh dân tộc và Đế Quốc Pháp, chúng tôi, tướng de Gaulle, lãnh tụ Pháp Tự Do, ban hành dụ sau đây : Điều thứ 1. — Trong suốt thời gian chưa thể thành lập được một chính phủ Pháp và một cơ quan đại diện dân tộc Pháp một cách hợp thức và độc lập đối với kẻ thù, các cơ quan công quyền trong tất cả các phần đất Đế Quốc được giải phóng khỏi sự kiểm soát của địch, sẽ hành xử quyền hạn trên căn bản lập pháp Pháp trước ngày 23 tháng sáu 1940 và trong những điều kiện sau đây : Điều thứ2.— Nay đã thành lập một Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc có nhiệm vụ duy trì sự trung thành với nước Pháp, bảo vệ an ninh bên ngoài và bên trong, chỉ huy hoạt động kinh tế và nâng đỡ sự đoàn kết tinh thần của các dân tộc và các lãnh thổ Đế Quốc. Hội đồng ấy chỉ đạo toàn thể cuộc chiến tranh trên mọi lãnh vực để giải phóng tổ quốc và điều đình với các cường quốc những vấn đề liên hệ đến việc phòng thủ những lãnh địa Pháp và đến quyền lợi Pháp. Điều thứ 3.— Lãnh tụ Pháp Tự Do có quyền quyết định sau khi hỏi ý kiến Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc, nếu cần. Những quyết định có tính cách tổng quát sẽ có hình thức đạo dụ ban hành trên Công Báo của Đế Quốc, và tạm thời trên Công Báo của Trung Phi thuộc Pháp. Những đạo dụ ấy, theo nội dung, sẽ có giá trị một đạo luật hay một sắc lệnh kể từ ngày ban hành. Điều thứ 4.— Hội Đồng Phòng Vệ sẽ thành lập những cơ quan có quyền tài phán bình thường vẫn dành cho Hội Nghị Tham Chính, tòa Phá Án và Tối Cao Pháp Viện. Điều thứ 5.— Quyền quản trị thường dành cho các bộ trưởng sẽ do các chánh sự vụ đảm nhiệm, chánh sự vụ sẽ do lãnh tụ Pháp Tự Do chỉ định. Điều thứ 6.— Trụ sở Hội Đồng Phòng Vệ sẽ đặt ở nơi nào thuận tiện để điều hành chiến cuộc trong điều kiện tốt đẹp nhất. Điều thứ 7.— Các điều khoản trái với dụ này đều bị bãi bỏ. Điều thứ 8.— Dụ này sẽ đăng vào Công Báo Đế Quốc và tạm thời, vào Công Báo của Trung Phi thuộc Pháp, Làm tại Brazzayille, ngày 27 tháng mười 1940 c. de Gaulle. Dụ số 2 Nhân danh Dân Tộc và Đế Quốc Pháp, Chúng tôi, Tướng de Gaulle, Lãnh Tụ Pháp Tự Do ban hành dụ sau đây : Điều thứ 1.— Chiếu dụ số 1 ngày 27 tháng mười 1940, quỹ vị có tên sau đây được chỉ định làm hội viên Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc ; tướng Catroux, phó đó đốc Muselier, tướng Larminat thống đốc Ebouẻ, thống đốc Sautot, tướng Quân y Sicẻ, giáo sư Cassin, linh mục d‘Argenlieu, đại tá Leclerc. Điều thứ 2.— Dụ này sẽ đăng vào Công Báo của Đế Quốc và tạm thời vào Công Báo của Trung Phi thuộc Pháp. Làm tại Brazzayille ngày 27 tháng mười 1940 c, de Gaulle Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:07:55 pm Thông cáo của Quốc Vụ Khanh đặc trách ngoại giao gửi tướng để Gaulle (Bản dịch) Luân Đôn, 28 tháng mười 1910 I.— Sau đây là bản tóm lược những biện pháp đã được chấp thuận trong của hòa đàm Pháp - Đức : II.— Ngày 20 tháng mười, khi đã hiển nhiên là người Đức đang tìm cách điều đình với Layal, chúng tôi đã ủy thác cho đại sứ của Anh Hoàng ở Madrid chuyển giao cho đại sứ Pháp một thông điệp của Thủ tướng Anh, mục đích thông báo cho Vichy biết : a) Chúng tôi sẵn sàng làm việc với Vichy để chống lại kẻ thù chung ; b) Không cái gì ngăn cản được chúng tôi trên đường chiến đấu để đoạt lấy chiên thẳng ; c) Chúng tôi không hiểu tại sao không có một tướng lãnh Pháp nào chạy sang Bắc Phi với tư cách người ly khai để cộng tác với chúng tôi ở Bắc Phi. Trong khi gửi bức thông điệp này, Sir Samuel Hoare đã gọi ý cho chúng tôi rằng nên gửi riêng cho Weygand và Noguès một bức thư nói xa xôi đến việc cộng tác với chúng tôi. Đại sứ Pháp đã ghi nhận ý kiến ấy. III.— Ngày 24 tháng mười, đại sứ Pháp đã cho Sir Samuel Hoare biết rằng Layal và Darlan nghiêng về hiện pháp thỏa hiệp với người tìức, còn Pétain và Wevgand thì chống lại. Ông nghĩ rang bức thòng điệp của Thủ Tướng sẽ có ảnh hưởng mạnh đến Vichy và gọi Ý rằng bức thòng diệp ấy có thể thêm ảnh hưởng nhờ một lời kêu gọi riêng của Quốc vương Anh gửi Pétain. IV.— Thông diệp của Anh Hoàng được gửi đi vào buổi chiều ngày 25 tháng mười. Sau khi bày tỏ tình thân hữu, nhắc lại ý chí cương quyết chiến đấu cho đến thắng lợi, và phục hồi độc lập, lự do và hùng cường của nước Pháp, bức thông điệp ấy nói đến tin đồn đại chính phủ Đức muốn Pháp phải chấp nhận những điều kiện vượt quá xa những điều khoản của hòa ước đình chiến. Đức thông điệp nhắc lại sự cương quyết của Pétain từ chối những điều kiện phương hại đến danh dự cửa nước Pháp, bức thông điệp bày tỏ sự tin tưởng rằng Thống chế Pétain sẽ bác bỏ những đề nghị xúc phạm danh dự của nước Pháp và tạo khó khăn cho nước Anh. Hành động như vậy, Pétain sẽ được hậu thuẫn của những người trong nước Pháp cũng như ở ngoài, tin tưởng ở danh dự quân nhân của thống chế và đặt hy vọng cứu quốc vào sự chiến thắng của người Anh. V.— Thủ Tướng Anh đã gợi ý cho tổng thống Roosevelt gửi một thông điệp tương tự cho Pétain. Ngày 25 tháng mười Tổng Thống đã trao cho đại sứ Pháp ở Hoa Thịnh Đốn một thông điệp của riêng Tổng Thống để chuyển đạt ngay cho chính phủ Vichy, bức thông điệp cảnh cáo Vichy bằng lời lẽ cương nghị mọi ý đồ thỏa hiệp cho phép Đức dùng hạm đội Pháp để đánh lại nước Anh. VI.— Theo nguồn tin chắc chắn, chúng ta nghe nói rằng điều kiện hòa bình của Đức lúc đầu gắt gao quả thậm chí chính phủ Vichy đã bác bỏ. Sau đó, chúng tôi được tin rằng Hitler đã đưa ra những điều kiện ôn hòa hơn khi ông ta tiếp xúc với Pétain. Những điều kiện ấy như sau : — Miền Alsace - Lorraine và một vài vùng ở Maroc sẽ trao cho nước Đức (một phần Maroc để cho I Pha Nho) ; — Tunis sẽ thuộc cộng đồng chủ quyền Pháp, Ý ; — Nice, Corse và những lãnh địa hải ngoại khác vẫn thuộc chủ quyền nước Pháp. — Những căn cứ Hải Quân và « giàn pháo phòng không ở thuộc địa » sẽ thuộc về Trụe ; — Hitler, Mussolini, Pétain và Franco sẽ đề nghị với nước Anh một thỏa hiệp hòa bình, điều kiện dễ dãi, bao gồm sự khước từ Hòa Lan và Bỉ. Đề nghị này được đưa ra trước ngày mùng 5 tháng một để tạo ảnh hưởng đến cuộc bầu cử Tổng Thống ở Hoa Kỳ. Bản báo cáo sau cùng này không được xác nhận, tình hình đã thay đổi sâu xa nhân việc Ý đưa quân sang Hy Lạp. Cho đến đây, chúng tôi không được tin tức gì về thái độ của Pétain, ngoại trừ tin tức trong bản thông cáo của Vichy. VII.— Chúng tôi sẽ làm đủ mọi cách, qua ngả Tan— er, để cho Weygand biết sự diễn tiến của mọi việc nhưng chúng tôi không biết thư tín của chúng tôi có đến tay ông hay không. Thái độ của ông, cũng như thái độ của Noguès, dĩ nhiên, sẽ có tầm quan trọng lớn. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc chặt chẽ với ông trong khi tình hình đang tiến triển. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:09:46 pm Thông cáo của Quốc Vụ Khanh đặc trách Ngoại giao gửi tướng de Gaulle (Bản dịch) Luân Đôn, 31 tháng mười 1940 I.— Chúng tôi vẫn không biết trong những cuộc điều đình với Hitler, chính phủ Vichy đã nhượng bộ những khoản nào, nhưng chúng tôi đã nhận được một nguồn tin đáng tin cậy theo đó những tin đồn đại nói trong đoạn VI, điện tín ngày 28 tháng mười, đều là tin thất thiệt (người ta đã nói một cách quá đáng về tin này). Tình hình vẫn còn mờ mịt nhưng có ít nhiều may mắn rằng lúc này chính phủ Vichy chưa có quyết định dứt khoát nào ; ít ra chưa có gì rõ rệt về tầm quan trọng của những nhượng bộ cho người Đức. II.— Muốn ngăn cản mọi hành vi có thể làm cho dư luận nghiêng về phía chống đối chúng ta, nhát là những việc liên hệ đến hạm đội, căn cứ hải quân và không quân, chúng tôi tránh mọi việc công khai lên án chính phủ Vichy giả thiết rằng sự phản bội của họ chỉ ít ỏi không đáng kể, cho đến khi những tin đồn đại tren đây được kiểm chứng cẩn thận. Trong trường hợp ấy thì dĩ nhiên chúng tôi không cần dè dặt gì nữa. III.— Vì hoàn cảnh và vì chúng tôi không có thì giờ hỏi ý kiến ông, chúng tôi buộc lòng phải dùng những biện pháp ngăn cản tổ chức của ông tố cáo Vichy trên đài phát thanh hay báo chí ; nếu sự phản bội trở thành hiên nhiên thì sự tố cáo ấy có lý do vững chắc. Chúng tôi cho rằng các ông không thể biết đầy đủ tin tức về mọi khía cạnh của tình hình bằng chính phủ của Anh Hoàng. Chúng tôi mong rằng ông sẽ tán thành sự can thiệp của chúng tôi để tránh sự bất đồng ý không thể chấp nhận được trong chính sách tổng quát thông tin báo chỉ và tuyên truyền của chính phủ Anh và Lực Lượng Pháp Tự Do. IV.— Sau khi khởi thảo bản văn trên đây, chúng tôi được tin rằng chinh phủ Vichy đã gửi điện tín cho các xứ ở Bắc Phi tuyên bố rằng những tin đồn đại về dự tính hòa với Pháp Đức đều vô căn cứ, nhất là tin đồn nhượng lại lãnh thổ, hay nhượng lại căn cứ chiến lược, hay cắt xén bớt lãnh thổ chánh quốc và Đế Quốc. Nhưng bản cải chính không nói đến sự từ bỏ hạm đội Pháp và không quân Pháp. V.— Một bản cải chính tương tự cũng được đăng tải trên mặt báo Dếpêche Marocaine kèm theo bức thông điệp sau đây của tướng Weygand và tướng Noguès : « Tướng Weygand báo tin để dân chúng Phi Châu thuộc Pháp khỏi bị lầm lẫn vì những tin đồn thất thiệt và mâu thuẫn của ngoại quốc liên quan đến thái độ và mệnh lệnh của chính phủ Pháp. Ông yêu cầu các thống đốc và thống sứ thông báo cho dân chúng biết ngay việc này. Chính phủ do Thống chế Pétain điều khiển không hề chấp nhận và sẽ không chấp nhận cái gì trái với danh dự và quyền lợi của nước Pháp và của những dân tộc đã tin cẩn nước Pháp ». Chúng tôi đang tìm cách làm cho chính phủ Vichy phải thú nhận điều kiện thực sự của họ để thỏa hiệp với người Đức. Điện tín của tướng de Gaulle gửi đại tá Leclec, Douala. Brazzayille, 31 tháng mười 1940 Trong tình trạng hiện thời, tôi quyết định thanh toán cho xong, trước hết là miền Lambarẻné. Nếu việc Lambaréné được giải quyết thuận lợi, và nếu Vichy không tăng cường lực lượng ở Libreville, thì tôi sằn sàng thực hiện cuộc hành quân với hải lục không lực vào Libreville không cần sự can thiệp của người Anh. Tôi yêu cầu ông chuẩn bị cuộc hành quân ấy và cho phép ông sử dụng toàn thế phi cơ và tầu chiến dự trữ cùng những phương tiện lục quân đã ấn định. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:15:53 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi ông w. Churchill Luân Đôn Brazzayille, mùng 2 tháng mười 1940 I.— Tướng de Gaulle và Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp hiếu rõ lý do khiến cho chính phủ Anh nương tay đối với chính phủ Vichy nếu chưa có bằng chứng rằng Vichy đã có những nhượng bộ mới cho Đức và Ý, tai hại cho tình hình quân sự của Đế Quốc Anh. II.— Nói một cách tổng quát, tướng de Gaulle và Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp hiểu rõ rằng cũng vì lý do ấy, chính phủ Anh vẫn hy vọng chính phủ Vichy có những hành vi hối cái để cải thiện điều kiện cho Đế Quốc Anh theo đuổi cuộc chiến mà chỉ trông cậy vào sức của riêng mình. III.— Tuy nhiên, tướng de Gaulle và Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp, nhân danh người Pháp Tự Do, những người duy nhất cầm súng bảo vệ danh dự và quyền lợi của nước Pháp, tưởng rằng cần phải lưu ý chánh phủ Anh đến sự kiện sau đây : chính sách và thái độ của họ nương theo lý lẽ đặc thù của người Pháp, khác hẳn chính sách và thái độ hiện lại của chính phủ Anh, Sự hiện hữu của chính phủ Vichy trong điều kiện hiện thời đối với người Pháp Tự Do là một vi phạm danh dự và quyền lợi nước Pháp không thể nào biện minh được. Nguyên tắc hiện thời của Vichy điều đình với kẻ thù của nước Pháp là một cách gia tăng tội ác đối với Tổ Quốc bằng cách điều đình và áp dụng những hiệp ước đình chiến. Sau hết, việc chấp nhận sự cộng tác với địch như Vichy đã tuyên bố, mặc dù dưới hình thức áp dụng nào, cũng là một sự hạ mình ô nhục không thể tha thứ được, không thể nương tay đối với kẻ đắc tội được. Người Pháp Tự Do cho rằng mọi chính sách dung hòa với Vichy ngoài thực tế đều tai hại. Rốt cuộc, một chính sách như vậy không thể đem lại những kết quả thuận lợi thực sự vì Vichy phải lệ thuộc người Đức và người Ý. Chính sách ấy sẽ có lợi cho Vichy, trước là tại Đế Quốc, sau nữa là trong dư luận của người Pháp. Hiện nay dư luận ấy càng ngày càng chê trách Vichy tăng gia những vụ bắt bớ, giam cầm, xử phạt, v.v... IV. — Tướng de Gaulle và Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc không hề phản đối việc chính phủ Anh khuyến khích một vài nhà cầm quyền Pháp tuy vẫn theo lệnh Vichy nhưng có thể một ngày kia sẽ bác bỏ lệnh đó, như các tướng Noguès và Weyganđ. Nếu những người ấy công khai tỏ ý muốn cầm súng chống lại địch thì cử chỉ của họ hẳn là sẽ ảnh hưởng tốt đẹp và mạnh mẽ đến Đế Quốc nhất là Phi Châu. Tuy nhiên, tướng de Gaulle và Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc không hy vọng nhiều họ có thái độ nhất là có hành động khác hẳn trước để tự thú nhận lỗi lầm của mình. Dẫu sao, sự thay đổi thái độ ấy nếu có xảy ra và nếu họ yêu cầu chính phủ Anh nâng đỡ, thì tướng de Gaulle và Hội Đồng cho rằng không có sự thỏa hiệp nào nếu không có sự tham dự và sự ưng thuận của tướng de Gaulle và Hội Đồng, mặc dầu họ có đưa ra lý do cá nhân nào để phản đối chúng tôi. Quả vậy, không kể những lời cam kết giữa chính phủ Anh và tướng de Gaulle, ngoài thực tế, Hội Đồng Phòng Vệ Đê Quốc thật sự có chủ quyền trên một phần lớn Đế Quốc, có lực lượng quân sự đáng kể; đối với dư luận Pháp và dư luận quốc tế, Hội Đồng ấy tượng trưng cho đầu não kháng chiến Pháp. Mọi thỏa ước về chiến cuộc ký kết giữa chính phủ Anh và bất cứ nhà cầm quyền Pháp nào khác không có sự tham gia trực tiếp của tướng de Gaulle và Hội Đồng, chỉ có thể gây ra chia rễ trầm trọng trong khi Đế Quốc Anh theo đuổi mục đích đoàn kết mọi người Pháp để theo đuổi cuộc chiến với mình, vả chăng, tướng de Gaulle và Hội Đồng, trong những dịp hội họp ấy sẽ không tỏ thải độ giận dỗi hay yêu sách, mà chỉ kể đến nhu cầu quốc gia nâng cao ý chí tranh đấu và tái lập quân sự Pháp. V.— Tướng de Gaulle và Hội Đồng Phòng vệ Đế Quốc Pháp chắc chắn rằng chính phủ Anh sẽ đồng ý về các điểm trên đây. Họ muốn có một sự bảo đảm như vậy. Điện tín của để Ganlle gửi đại tá Leclerc, Douala. Brazzayille, mùng 4 tháng một1 1940 Đồng ý cuộc hành quân dự định sẽ thực hiện ngày mùng 6 tháng một. Điện tín của tướng de Gaulle gửi trung tá Parant, Lambarénẻ Brazzayille mùng 6 tháng một 1940 Nhiệt liệt chúc mừng trung tá Parant, thống đốc Gabon. Gửi lời chúc mừng tất cả những người dưới quyền ông, nhất là thiếu tá Dio. Xin ông nói cho binh sĩ của ông biết rằng họ đã làm việc đắc lực. Họ chiến thắng ở Sindara, Mit— ic, N‘Djole, Lambaréné là để phục vụ nước Pháp. Bây giờ phải hoàn tất những thành quả đã đạt được. ------------------- 1. Một loạt các mốc thời gian ghi là "tháng một 1940" - là mốc thời gian không đúng (Đức chưa xâm lược Pháp). Biết là sai nhưng tôi vẫn giữ nguyên theo bản sách giấy - Giangtvx Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:18:03 pm Thông cáo của Quốc Vụ Khanh đặc trách Ngoại giao gửi tướng de Gaulle (Bản Dịch) Luân Đôn, mùng 7 tháng một 1940 I.— Ngày mùng 1 tháng một, đại sứ Pháp đã trao cho đại sứ Anh Hoàng một thông điệp khẩn của Vichy cho biết rằng thống chế Pétain trong hai ngày nữa sẽ trả lời thư của Anh Hoàng, của Tổng Thống Hoa Kỳ và của Thủ Tướng; có sự chậm trễ phúc đáp vì sự vắng mặt của bộ trưởng Ngoại Giao. Thư trả lời Anh Hoàng và Thủ Tướng chưa về tới Luân Đôn, tuy rằng Tổng Thống Roosevelt đã nhận được phúc thư để ngày mùng 1 tháng một, với những điếm sau đây : Chính phủ Pháp : 1) không trả lời một vài điểm trong thông điệp của Tổng Thống vì sợ gây ra nhiều thắc mắc về thái độ của chính phủ Hoa Kỳ ; 2) giữ tư cách hoàn toàn tự do hành động ; 3) đã cam kết rằng không trao hạm đội Pháp cho ai; 4) Yêu cầu Hoa Kỳ nhớ lại rằng những trận công kích quân Anh xảy ra vì người Anh đã có những trận tấn kích bất ngờ trước khi có thái độ thù nghịch với nước Pháp và dùng hạm đội, phi cơ, yểm trợ những người nổi loạn. 5) Mặc dầu đã xảy ra những việc đáng tiếc ấy, chính phủ Pháp cũng không hành động tấn công người Anh nếu không bị khiêu khích. Bản thông điệp của Pétain gửi Roosevelt kết luận rằng chính phủ Pháp sẽ thi hành mọi biện pháp để quyền lợi của nước Pháp được tôn trọng, chính phủ Pháp tha thiết muốn duy trì tình thân hữu cổ truyền với Hoa Kỳ và mong rằng sẽ tránh được những hiểu lầm và lỗi lầm suy diễn khiến cho Tổng Thống phải gửi bức thông điệp kia. II.— Ngày mùng 4 tháng một, đại sứ Anh đã tiếp xúc lại với đại sứ Pháp và trao cho ông này một bức giác thư nhấn mạnh đến sự kiện Chính phủ Anh đòi hỏi biết đích xác lập trường của chính phủ Vichy và những điều khoản thỏa ước Vichy vừa ký với người Đức. Đại sứ Pháp buồn nản lắm. Ông ta cho rằng Layal có ý định ký thỏa ước ngày 11 tháng một đã sử dụng hạm đội Pháp và một vài đơn vị quân sự đế lấy lại thuộc địa Pháp đã tập kết với tướng de Gaulle , với sự thỏa thuận của chính phủ Đức. III.— Đồng thời, chúng tôi gửi một thông điệp cho Vichy qua sự trung gian của Sir Samuel Hoare, thông báo cho biết việc sau đây : chúng tôi được biết rằng hai chiến hạm Rihelieu và Jean-Bart sẽ di chuyển từ Dakar và Casablanca đến những hải cảng Pháp để sửa chữa; vì chúng tôi không muốn có sự đụng độ giữa các hải quân Anh và Pháp cho nên chúng tôi mong rằng chính phủ Vichy sẽ không có quyết định ấy. Điện tín của tướng de Gaulle gửi đại tá Leclerc, Libreville Brazzayille, mùng 10 tháng một l940 Tôi có lời khen tặng ông và các bộ đội dưới quyền ông về cuộc hành quân thành công rực rỡ đế giải phóng Libreville. Tôi đã dùng V.T.Đ yêu cầu Port Gentil gửi ngay phái đoàn thương thuyết đến gặp đoàn quân Pháp Tự Do đang xuống miền Ogooué. Yêu cầu ông cho phi cơ bay trên không phận Port Gentil, thả truyền đơn báo tin sự đầu hàng của tướng Têtu ở Libreville và yêu cầu mọi người nên phục tòng buông súng. Yêu cầu ông gửi thêm một lực lượng hải quân, lực lượng ấy phải giữ liên lạc V.T.Đ. với tôi. Thông điệp cua Thiếu tá Luizet gửi tướng de Gaulle Tanger, 14 tháng một l940, Cuộc giải phỏng Gabon đã tạo ảnh hưởng tốt lắm, bạn hữu của chúng ta đều chứa chan hy vọng, địch và những kẻ cộng tác với địch đều căm giận, như vậy đủ tỏ ra hành động của chúng ta hữu hiệu lắm. Nhưng điều cần thiết là tướng de Gaulle nên biết rõ những sự kiện sau đây : Sự phản bội của Layal và bạn hữu của ông ta đã gây ra những phán ứng trong lành. Tướng Weygand cũng hiểu rằng chỉ có sự thắng trận của người Anh là cứu vãn được nước Pháp. Chỉ tại ông ta lớn tuổi và thiếu nghị lực cho nên không dám tự mình quyết chỉ hành động. Bá tước Paris cũng có lập trường như vậy. Ông ta chỉ đợi dịp hành động và trút bỏ mặt nạ Vichy mà ông vẫn đeo cho có hình thức mà thôi. Maurras đã ngờ vực ông và đứng về phía nước Đức, bây giờ đã chống đối ông ra mặt. Bá tước Paris đã nghiên cứu một cuộc tấn công từ Bắc Phi với sự yếm trợ của quân Anh. Ông muốn lúc hữu sự sẽ liên lạc với Weygand nếu có thể được, ông đã đưa ra đề nghị hợp tác. Thư trả lời của Wevgand đã đến tay ông ngày 13 tháng một. Trên nguyên tắc Weygand đã thỏa thuận. Với một vài sự dè dặt, tướng Weygand ưng thuận theo bá tước Paris vì ông công phẫn Vichy hèn nhát, dần dần để Tanger lọt vào tay nước I Pha Nho, và còn muốn nhường thêm ít đất của Maroc. Người ta có thể mong đợi, khi nào biết chắc chi tiết viện trợ của Anh Mỹ, Bá tước Paris sẽ dựa vào Weygand tuyên bố trở lại cuộc chiến và dùng Bắc Phi làm căn cứ. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:19:18 pm Tuyên ngôn cơ bản bổ túc bản Tuyên ngôn ngày 27 tháng mười 1940 Nhân danh dân tộc và Đế Quốc Pháp. Chiếu đạo luật ngày 15 tháng hai 1872 liên quan đến vai trò của các Tổng Hội Đồng trong những trường hợp bất thường ; Chiếu các hiến luật ngày 25 tháng giêng 1875, 16 tháng bảy 1875, 2 tháng tám 1875 và 14 tháng tám 1884 ; Chiếu tình trạng chiến tranh giữa hai nước Pháp và Đức kể từ ngày mùng 3 tháng chín 1939, và giữa hai nước Pháp, Ý, kể từ ngày 10 tháng sáu 1940 ; Chiếu sự kiện chúng tôi cầm quyền và sự thành lập Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp theo dự ngày 27 tháng mười 1940, trong các vùng lãnh thổ tự do của Đế Quốc Pháp ; Xét rằng việc cầm quyền ấy và sự thành lập Hội Đồng ấy có mục đích và đối tượng giải phóng toàn thể nước Pháp ; bởi vậy cho nên chúng tôi cần phải công bố để mọi người Pháp và các cường quốc ngoại bang biết trong điều kiện thực tế và pháp lý nào chúng tôi đã chiếm giữ và hành xử quyền bính của nước Pháp ; Chúng tôi, tướng de Gaulle, lãnh tụ Người Pháp Tự Do, Xét rằng toàn thể lãnh thổ chánh quốc Pháp bị đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp của địch, do đó, cơ quan gọi là «Chính phủ Vichy», tuy cho rằng mình thay thế chính phủ Cộng Hòa, nhưng không có đủ tự do cần cho việc hành xử toàn vẹn chủ quyền ; Xét rằng cơ quan ấy giả cách xét lại hiến luật để biện minh cho sự cấu tạo và sự hiện hữu của mình, nhưng thực ra đây chỉ là vi phạm trắng trợn và liên tiếp Hiến pháp của nước Pháp; Xét rằng việc xét lại Hiến pháp tự nó vẫn có ích dụng của nó, nhưng đề xướng và thực hiện việc xét lại Hiến pháp giữa lúc hỗn loạn và khiếp nhược của Quốc Hội và dư luận cũng đủ làm cho việc xét lại ấy mất tính chất tự do, nhất trí và bình tĩnh ; Thiếu những tính chất ấy, một việc làm chính yếu của chính phủ và quốc gia như thế không thể có giá trị lập hiến chân thực ; Xét rằng vị Tổng Thống Cộng Hòa đã bị truất hết quyền hành mà không chịu từ chức ; Xét rằng, chiếu các điều khoản Hiến pháp 1875, một quyết nghị xét lại phải là kết quả đầu phiếu của Hạ Viện và Thượng Viện ; Hai viện họp riêng, sau đó đề nghị xét lại mới được đưa ra khoáng đại hội nghị, và hội nghị này phải họp ở Versailles ; Xét rằng, những điều kiện giản dị này được các luật gia danh tiếng của nền Cộng Hòa nhất là Gambetta và Jules Ferry, coi là sự bảo đảm cần thiết cho sự thuận ý sáng suốt của hai viện và ngăn ngừa những cuộc xét lại vội vàng hay có dụng ý gian dối ; những điều kiện ấy đã không được tôn trọng hay bị vi phạm ; Xét rằng thực ra, cả hai viện và Quốc Hội không được quyền tự do thảo luận ; một vài nguyên tắc nền tảng đã bị đại diện của cái gọi là chính phủ ấy không biết đến và coi thường như « vấn đề thủ tục » : Xét rằng một số nhân vật Quốc Hội bị cản trở không được tham dự, chuyến tàu chở họ về đã bị bắt giữ lại ở xa theo lệnh chính phủ hay với sự đồng ý của chính phủ ; trong cuộc thảo luận công khai đã có áp lực của những đệ tam nhân vô thẩm quyền ; trái với luật lệ không có tờ biên bản phiên họp nào được công bố ; Xét rằng, khi nhóm họp cái gọi là Quốc Hội ở Vichy chứ không phải ở Versailles, người làm luật không hiểu rằng người ta có thể lợi dụng tình trạng chiến tranh, bất thần triệu tập một nghị viện chạy tán loạn mỗi người một hơi về họp tại một thị trấn tổng, như vậy người ta có thể cưỡng ép nghị viện vi phạm những luật lệ nền tảng của nền Cộng Hòa ; Xét rằng, nếu quả thực Quốc Hội Vichy có nhóm họp để xét lại Hiến pháp, thì Quốc Hội cũng phải thảo luận từng điều khoản và bỏ phiếu chấp thuận bản văn chung quyết, bản văn ấy ban hành sẽ là một trong những hiến luật quốc gia ; nhưng Quốc Hội ấy đã không thực hiện mục tiêu chính của mình, đã thoái từ một thầm quyền của riêng mình, và chỉ lấy một quyết định bất hợp hiến cũng như ngu xuẩn, giao cho một đệ tam nhân dùng quyền khống chế để tự mình khởi thảo và áp dụng hiến pháp mới; Xét rằng đạo luật 1884 quy định rằng « hình thức cộng hòa của chính phủ không được xét lại» ; Xét rằng, cái gọi là chính phủ Vichy tuy đã có lời hứa long trọng với quốc gia khi tự nhận là « Chính phủ Cộng Hòa » và chiếm lấy toàn thể quyền hành, nhưng hành động như vậy họ đã thủ tiêu Hiến pháp Cộng hòa cả về hình thức lẫn nội dung ; Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 10:32:39 pm Xét rằng họ đã khước từ cả danh từ « Cộng hòa » khi ban hành những đạo luật ngụy danh là hiến định, họ đã đế cho vị quốc trưởng cái gọi là « quốc gia Pháp » những quyền hành rộng lớn như quyền hành của một vị vua chuyên chế ; vị quốc trưởng ấy sẽ hưởng quyền ấy trọn đời người hay truyền cho người khác tùy ý muốn, hay truyền tử nhược tôn mãi về sau ; Xét rằng, sau hết họ không ngần ngại bóp nghẹt quyền tự quyết của dân tộc, một quyền truyền thống và thiêng liêng của nước Pháp bằng cách cho phép Quốc Trưởng dùng chữ ký của một mình mình để ký kết và phê chuẩn mọi hiệp ước, kể cả những hiệp ước hòa bình hay chuyên nhượng lãnh thổ xúc phạm đến sự toàn vẹn, nền độc lập và lẽ sống của nước Pháp, thuộc địa Pháp và những nước dưới quyền bảo hộ và ủy trị Pháp. Xét rằng thực ra quyền khống chế ban cho cái gọi là chính phủ ấy có quy định rằng hiến pháp mới sẽ được « phê chuẩn bởi Quốc Gia và áp dụng bởi Quốc Hội mà quốc gia sẽ thành lập, » nhưng điều khoản này vô hiệu, vi Quốc Trưởng có quyền tùy nghi ấn định thành phần quốc hội mai sau và thể thức phê chuẩn ; Xét rằng, ông ta có thể trì hoãn sự phê chuẩn đến một thời hạn xa vời và có thể vô hạn định ; Xét rằng, nếu không có một nghị trường tự do và hoạt động điều hòa, nước Pháp còn có thể biểu lộ dân ý qua tiếng nói của các Đại Hội Đồng ; theo đạo luật ngày 15 tháng hai 1872 và tính cách bất họp pháp của cơ quan Vichy, Đại Hội Đòng có thể đảm nhiệm việc cai trị quốc gia, nhưng Vichy đã ra sắc lệnh ngày 20 tháng tám 1940 ngăn cấm Đại Hội Đồng nhóm họp, còn ra đạp luật ngày 12 tháng mười 1940, thay thế Đại Hội Đồng bằng những ủy ban do quyền trung ương chỉ định ; Xét rằng, mặc dầu Vichy đã vi phạm phép nước nhưng Hiến pháp vẫn có hiệu lực pháp lý ; trong trường hợp ấy, người Pháp nào, nhất là người Pháp Tự Do, cũng không có bổn phận gì đối với ngụy quyền Vichy, vì ngụy quyền này chỉ là con đẻ một trò hề Quốc Hội, không tôn trọng Nhân Quyền, quyền công dân, quyền dân tộc tự quyết ; tất cả đều chứng tỏ rằng ngụy quyền nảy lệ thuộc ý muốn của địch ; Xét rằng việc phòng thủ lãnh thổ hải ngoại cũng như việc giải phóng chánh quốc đòi hỏi rằng lực lượng của nước Pháp tản mác khắp nơi trên thế giới cần được đặt ngay dưới một quyền trung ương lâm thời; Xét rằng sự thành lập quyền trung ương làm thời ấy hiện thời không thể thực hiện đúng điều kiện luật định, vì lý do bất khả kháng ; Xét rằng người làm Hiến pháp không thể đề phòng trường hợp người Pháp phải thiết lập một chính quyền ở ngoài lãnh thổ Pháp ; vả chăng, cung không thế nghĩ đến việc bầu cử để trao quyền ấy vì thiết lập một hệ thống bầu cử giữa lúc chiến tranh và ở những nơi cách biệt xa xôi sẽ đặt ra những vấn đề nan giải, những sự chậm trễ không thể chấp nhận được ; Xét rằng, lúc này chỉ cần để cho những người Pháp Tự Do biểu lộ ý chỉ, không bị ép buộc, không có sự mập mờ; với điều kiện minh bạch là chính quyền tạm thời phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình trước đại diện Toàn Quốc, khi nào các đại diện ấy có tự do để thực thi quyền của quốc dân ủy thác cho mình ; Chúng tôi, tướng de Gaulle, Lãnh tụ người Pháp Tự Do, Sau khi hỏi ý kiến của Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc : Nhận định rằng, tại khắp địa điểm trên thế giới, hàng triệu người Pháp, người theo Pháp, các lãnh thổ Pháp, cả nhân hay tập thế, đã kêu gọi chúng tôi đứng lên dẫn dắt họ theo đuổi cuộc chiến ; Chúng tôi tuyên bố rằng tiếng nói của những người Pháp ấy là tiếng nói duy nhất không bị tập đoàn Vichy, tay sai của địch, bóp nghẹt ; tiếng nói ấy chính là tiếng nói của Tổ Quốc ; chúng tôi có bổn phận thiêng liêng hoàn thành sử mạng đã trao cho chúng tôi ; Chúng tôi tuyên bố hoàn thành sứ mạng ấy trong sự tôn trọng những định chế của nước Pháp và chúng tôi sẽ giải thích trước các đại diện của quốc gia Pháp khi nào có thể tuyển lựa được các đại diện ấy một cách tự do và bình thường. Bản tuyên ngôn cơ bản này sẽ ban hành và công bố ở bất cứ nơi nào cần phải công bố. Brazzayille, ngày 16 tháng một 1940 C. de Gaulle. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 11:19:20 pm LUẴN ĐÔN Điện tín của tướng de Gaulle gửi tướng Wavell Tư lệnh quân đội Trung Đông Luân Đôn, 14 tháng bảy 1940 Đã nhận điện tín ngày 12 tháng bảy của ông và xin chân thành cám ơn ông. Hoàn toàn đồng ý với ông về các điểm sau đây: 1) Quy tụ thành từng đơn vị tất cả các yếu tố Pháp có mặt trong khu vực hành quân của ông ; 2) Dùng các yếu tố ấy để tăng cường việc phòng thủ Djibouti dưới quyền chỉ huy của tướng Legentilhomme. 3) Đặc biệt, dùng vào mục tiêu ấy đại đội Pháp ở Chypre, đại đội ấy đã tự đặt mình dưới quyền chỉ huy của tôi. Ngày hôm nay tôi đã gửi điện tin cho thống đốc Chypre nhờ chuyển giao cho bộ đội biết tin được đặt dưới quyền thống lĩnh của ông. Trân trọng nhờ ông trao cho tướng Legentilhomme bức điện tín sau đây của tôi gửi choLegentilhomme qua sự chuyển giao của ông. Thư của tướng de Gaulle gửi tướng Wawell,Tư lệnh quân đội Trung Đông Luân Đôn, 28 tháng tám 1940 Thưa Đại Tướng, Nhơn dịp đại tá Masan đến liên lạc với ông, tôi xin bảo tin để ông biết tôi rất vui mừng được tiếp kiến ông. Từ đấy, như ông đã biết Tchad và Cameroun đều về tập kết với chúng tôi. Tôi cho rằng ông cũng đồng ý với tôi về tâm quan trọng của việc tập kết ấy, nhất là về phương diện quân sự. Đại tá Marchand, chỉ huy trưởng bộ đội FortLamy, là một sĩ quan ưu tú. Tôi nghĩ rằng chúng ta rất có lợi nếu ông có thể tiếp xúc với vị sĩ quan ấy, khuyến khích ông ta và cho ông ta biết rằng ông ta sẽ được phục vụ ở mặt trận miền Đông cũng như đã phục vụ ở mặt trân miền Tây. Nếu ông cho ông ta biết những tin tức về người Ý ở Libye thì những tin tức ấy cũng giúp ích ông ta nhiều lắm. Về đại đội Pháp ở Ai Cập, tôi rất mong đợi đơn vị đầu tiên sẽ được đưa ra mặt trận chống quân Ý và sớm nhận được tin tức đã lâm chiến. Kính chúc Đại Tướng may mắn và vinh quang và trân trọng kính chào Đại Tướng. Công hàm của ông Cazanx Tổng Thanh Tra Thuộc Địa, Giám Đốc Tài chính Đông Dương, gửi tướng de Ganlle, Hải Phòng Ngày 16 tháng chín 1940 I.— Đa Số dân chúng Đông Dương vẫn trung thành với hiệp ước đồng minh Anh Pháp. Dân chúng chú ý theo dõi nỗ lực của ông, nhưng ở đây thực hiện được việc tập kết vì có thể xảy ra những cuộc đàn áp tức thời, mọi chia rẽ trong dân chúng Pháp lúc này đều làm suy yếu nỗ lực phòng thủ thuộc địa này. II.— Vì những lý do chánh trị, kinh tế và địa dư, trong hoàn cảnh hiện thời chúng tôi không thể ủng hộ ông một cách thẳng thắn và tích cực mà không phương hại đến quyền lợi của thuộc địa và của dân chúng. Sự tập kết ấy có thể thực hiện được khi nào tình hình Âu Châu cho phép hợp tác sức mạnh với nước Anh. III.— Chính phủ Anh phải giúp đỡ chúng ta mua được phi cơ và vũ khí của Hoa Kỳ, phí khoản sẽ được thanh toán ngay. Đông Dương là một tiền đồn của lãnh địa Âu Châu ở Viễn Đông, sự toàn vẹn của Đông Dương sẽ bảo đảm trên thực tế cho các thuộc địa Hòa Lan, Ấn Độ và Mẵ Lai. Chính phủ Anh và tướng de Gaulle nên tin tưởng hoàn toàn lòng trung thành của những lãnh địa hải ngoại, đặc biệt là Đông Dương. Nếu có thể được thì chúng tôi sẽ hoàn toàn cộng tác với ông để chiến đấu cho Luật Pháp và Tự Do thắng thế. Phúc thư của tường de Galle gửi ông Cazanx, Tổng Thanh Tra Thuộc Địa, Giám đốc Tài Chánh Đông Dương Douala, mùng 8 tháng mười 1940 I.— Tôi xin gửi lời cảm ơn ông về bức công hàm bày tỏ sự trung thành với chúng tôi, đặc biệt là đoạn I và II. Chúng tôi hiểu rõ những khó khăn của quý ông và hiện thời lực lượng Phảp Tự Do không thể giúp đỡ quỷ ông một cách hữu hiệu. Trong khi chờ đợi ngày có thể thực hiện được ước vọng ấy, chúng tôi chắc chắn rằng các ông vẫn hành động để phục vụ quyền lợi của người Pháp ở Viễn Đông và các ông sẽ tích cực hợp tác với chúng tôi khi nào có thể nắm vững sự chiến thắng. Hẳn là ngay từ lúc này ông có thể cho chúng tôi biết rằng những nhu cầu phải thỏa mẩn cấp bách khi nào tình thế cho phép chúng ta hành động. Dẫu sao, chúng tôi cũng vui sướng mà nhận được tin tức của các ông và chúng tôi hoàn toàn tin tưởng các ông cố gắng duy trì và phát triển tinh thần kháng chiến của các bạn hữu chúng ta. II.— Tướng Catroux, sau khi về tập kết, đã cho tôi biết tình bình trong những tuần lễ sau ngày đình chiến. Kỉnh gửi ông lòng tin tưởng và thân hữu của tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Giêng, 2019, 11:34:55 pm Điện tín của Sir James Crosby, bộ trưởng Anh ở Thái Lan gửi Bộ Ngoại Giao, Luân Đôn, và thông qua tướng de Gaulle (Bản dịch) Vọng Các, 11 tháng mười 1910 I.— Bộ trưởng Pháp, hôm qua đã viếng thăm Thủ Tướng Anh và ông này đã bí mật tuyên bố những lời đảng ngại như sau : II.— Đức và Nhật bách thúc Thái Lan phải dùng binh lực mà chiếm đoạt lãnh thổ Đông Dương của nước Pháp. Nếu việc ấy xảy ra thì Đức và Nhật sẽ can thiệp cách nào có lợi cho Thái Lan với tư cách trọng tài. Chính phủ Đức đã cam kết sẽ can thiệp ngay với Vichy nội trong 48 giờ sau những tiếng súng thứ nhất và bắt buộc chính phủ Pháp phải phân phối lại đất đai căn cứ vào các sắc dân và phải cho Thái Lan hưởng tất cả mọi điều đòi hỏi của Thái Lan, kề cả Cao Mên và Lào. III.— Thủ Tướng đã tuyên bố rằng những đề nghị ấy rất rắc rối, bởi vì, nếu chấp nhận thi có nghĩa là phải tiến gần lại với Trục bằng cách hy sinh Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn. Ông không muốn hướng chính sách của ông về chiều ấy vì ông thích giữ sự trung lập và cảm tình của Anh, Mỹ. Tuy nhiên, khí hào hùng của qnân đội có thể bắt buộc phải dùng đến sức mạnh nếu chính phủ Vicby không tìm cách xoa dịu Thái Lan bằng cách định lại biên giới sông Cửu Long, nhường lại cho Thái Lan hai vùng đất hữu ngạn con sông ấy. Thủ Tướng đã yêu cầu triệu tập ngay một hội nghị Pháp, Thái Lan để xem xét vấn đề lạch sông Cửu Long và các hòn đảo trên sông ấy. Bộ trưởng Pháp cho rằng hội nghị này sẽ làm xong công việc vào cuối tháng một, nghĩa là chúng ta còn được rảnh rang trong 6 tuần lễ nữa. Đến lúc ấy tình hình sẽ trở nên khẩn trương, và nếu Vichy không chịu nghe lời thì chính phủ Thái Lan không có cách nào khác dùng đến võ lực. Nếu việc ấy xảy ra thì lời hứa của Đức và Nhật sẽ trở thành sự thật và Thủ Tướng rất lo ngại hậu quả. Điện tín của tướng de Gaulle gửi chủ lịch Melaxas,Thủ Tướng Hy Lạp Brazzayille ngày 2 tháng một 1940 Nhân danh tất cả mọi người Pháp, những người đang chiến đấu cũng như những người tạm thời sống dưới ách nô lệ của địch, tôi kính gửi Ngài, chính phủ và nhân dân Hy Lạp, lời khen tặng và sự tin tưởng của chúng tôi. Một lần nữa, dân tộc Hy Lạp đứng lên bảo vệ nền độc lập của minh và nêu gương anh dũng cổ truyền cho thế giới soi chung. Chủng ta sẽ cùng với các đồng minh của chúng ta chiến thắng kẻ thù chung. Thư trả lời của chủ tịch Metaxas gửi tướng de Gaulle. Athẻnes, mùng 4 tháng một 1940 Cám ơn nồng nhiệt điện văn chúc mừng của ông. Toàn thể nước Hy Lạp tin chắc rằng những giờ phút nghiêm trọng của lịch sử, trái tim mọi người Pháp đều rung động, mong cho chúng tôi thành công trên đường bảo vệ chính nghĩa. Đại dân tộc Pháp đã theo gương cao thượng của tồ tiên chúng tôi và đã can đảm nâng đỡ chúng tôi trong các cuộc chiến tranh giành lấy độc lập, dân tộc ấy không thể không sát cánh với chúng tôi một lần nữa. Điện tin của tướng de Gaulle gửi Jacques de Sieyès,Nữu Ước. Brazzayille, mùng 4 tháng một 1940 Chính phủ Vichy đã thiết lập trên các lãnh thổ Phi Châu dưới quyền kiêm soát của họ một hệ thống máy phát thanh rất mạnh để phá các làn sóng của đài Phi Châu Pháp Tự Do. Để đối phó, chúng tôi có ý định tăng cường sức mạnh của đài Brazzaville bằng máy Hoa Kỳ trị giá 150 000 Mỹ kim. Chúng tôi không có số tiền ấy; chúng tôi nghĩ rằng có lẽ France For Ever sẽ đài thọ được để dùng vào mục tiêu ấy. Xin cho biết ngay có thể được không vì chúng tôi đã sẵn sàng để gởi mua tại một nhà sản xuất Mỹ. Dụ thiết lập Huy Chương Giải Phóng Nhân danh Nhân Dân và Đế Quốc Pháp, Chúng tôi, tướng de Gaulle, lãnh tụ người Pháp Tự Do, Chiếu dụ số 1 ngày 27 tháng mười 1940 tổ chức công quyền trong thời chiến và thành lập một Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc ; Chiếu dụ số 5 ngày 12 tháng một 1940, minh định điều kiện ký quyết định của Lãnh Tụ người Pháp Tự Do. ban hành dụ sau đây : Điều thứ nhất.— Nay thiết lập một loại huy chương gọi là « Huy Chương Giải Phóng », người được thưởng huy chương sẽ gọi là «Bạn Giải Phóng». Huy chương này sẽ dùng để tưởng thưởng những đoàn thể quân sự hay dân sự có công với việc giải phóng nước Pháp và Đế Quốc Pháp. Điều thứ hai.— Phù hiệu duy nhất của Huy Chương này là Thập Tự Giải Phóng. Điều thứ ba.— Lãnh tụ người Pháp Tự Do có quyền tuyển lựa người được tưởng thướng Huy Chương Giải Phỏng. Điều thứ tư.— Thể thức thi hành Dụ này sẽ được ban hành hằng sắc lệnh. Điều thứ năm.— Dụ này sẽ đăng vảo Công Báo của Pháp Tự Do và tạm thời vào Công Báo của Trung Phi thuộc Pháp. Làm tại Libreville ngày 16 tháng một 1940 C. de Gaulle Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Giêng, 2019, 12:13:06 am Công hàm của tướng John Dill Tham mưu trưởng quân Anh gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn (Bản dịch) Luân Đôn, 26 tháng một 1940 Kính thưa Đại Tướng, Tôi đã nhận được điện tín của tướng Wayell theo đó ông có ý muốn gửi một đạo quân Pháp Ai Cập sang Hy Lạp. Có lẽ, giữa lúc ông cho biết ý nguyện ấy, ông chưa biết rằng không có một đơn vị chiến đẩu Anh nào được gửi sang Hy Lạp ngoại trừ súng phòng không để phòng thủ phi trường, từ Trung Đông cũng chưa có đơn vị nào được chuẩn bị để gửi đi. Tướug Wayell đã cho tôi biết rằng chỉ có một đại đội Pháp được chuẩn bị trong lúc này và đại đội ấy cũng là một số quân trừ bị rất cần trong trường hợp cần có những lực lượng để gửi sang Syrie. Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của tướng Wayell và tôi ước mong rằng khi đã biết những dữ kiện nói trên đây, ông còn giữ ý định gửi quân Pháp sang Hy Lạp. Tồi rất vui sướng nhân cơ hội này gửi ông lời khen tặng các cuộc hành binh Pháp ở Tây Phi đã thành công lớn. Kinh chào thân hữu. Công hàm của tướng de Gaulle gửi tướng Sir John Dill, Tham mưu trưởng quân đội Anh1 Luân Đôn, 27 tháng một 1940 Kính thưa Đại Tưởng, Tôi đã nhận được thư của ông ngày 26 tháng một về việc gửi quân Pháp ở Ai Cập sang Hy Lạp. Mặc dầu ông cho biết những lý do quan trọng về mặt quân sự khiến ông không chấp thuận việc gửi quân ấy, nhưng theo thiển ý thì sự quan trọng ấy cũng không lớn lao lắm so với tầm quan trọng về phương diện chính trị và tinh thần tạo được nhờ sự hiện diện của bộ đội Pháp ở Hy Lạp. Hiện thời Pháp Tự Do chưa có phương tiện gửi không quân sang đấy, tôi khẩn khoản yêu cầu ông trích ra một đại đội trong số quân Pháp ở Trung Đông và gửi ngay sang cho bộ Tổng Tư Lệnh tại lãnh thổ Hy Lạp. Thành thực kỉnh chào ông. Công hàm của tường Ismay, tham mưu trưởng Phòng Chiến Tranh của bộ trưởng Quốc Phòng Anh gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn. (Bản dịch ) Luân Đôn, mùng 3 tháng chạp 1940 Kính thưa Đại Tướng, Tôi rất vui mừng bảo tin ông biết rằng Thủ tướng và các tham mưu trướng đều đồng ý với ông về kế hoạch của ông đã thảo luận với các tham mưu trưởng tuần lễ trước. Chúng tôi đề nghị cuộc hành quân ấy lấy tên là « Marie » ; các tham mưu trưởng nhấn mạnh đến điều quan trọng là tránh nói đến địa điểm hành quân và chỉ dùng ám hiệu. Phần thử nhất của cuộc hành quân trước hết là một vấn đề chuyên chở bộ bội, trang bị và tiếp tế, từ Trung Phi đến Trung Đông. Chúng tôi hiếu rằng ông đang thi hành biện pháp để khởi sự cuộc đôn quân ấy vào một ngày gần đây. Nhưng nếu ông gặp khó khăn hay có những điểm phải bàn bạc với các tham mưu trưởng Anh, thì vấn đề có thể được giải quyết để dàng. Giai đoạn thứ hai, xa hơn, sẽ là cuộc hành quân chính thức. Các tham mưu trưởng sẽ vui lòng được cùng ông nghiên cứu kế hoạch của ông khi nào thảo xong, nhất là về vai trò của người Anh trong khi và sau khi hành quân. Kính chào thân hữu. ----------------- 1. Tiếp theo bức thư này, tướng Sir John Dill tuyên bố miệng với tướng de Gaulle rằng Hải Quân Anh không nhận chuyên chở bộ đội sang Hy Lạp. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Giêng, 2019, 11:50:26 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi tướng để Larminat,Cao ủy Pháp ở Brazzayille. Luân Đôn, 11 tháng chạp 1940 Phong trào của chúng, ta mỗi lúc mỗi ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước Pháp và nhu cầu tổng quát chiến tranh bắt buộc chúng ta phải tăng cường mau chóng áp lực quân sự chống lại địch. Tôi đã quyết định tăng cường lực lượng Trung Đỏng của chúng ta và gửi sang dấy : — Đội quân Lê Dương, — Một liên đội thủy quân lục chiến, — Một đại đội lính Senegal, — Một chi đội chiến xa, — Một toán pháo binh 75, — Một đại đội vô tuyến truyền tin, — Một chi đội chuyên chở, — Những yếu tố dịch vụ, Những yếu tố trên đây được đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Magrin - Verneret. Những cuộc điều đình với chính phủ Anh về việc chuyên chở bộ đội và vật liệu vừa đưa đến sự thỏa hiệp. Nhưng ngay từ bây giờ, tôi yêu cầu ông thi hành mọi biện pháp để toàn thể các yếu tố ấy sẵn sàng lên tầu trong một thời hạn tối đa là 20 ngày kể từ hôm nay. Những lời chỉ dẫn ấy cũng áp dụng cho đại đội lỉnh Senegal mà tôi yêu cầu ông hoàn thành việc tổ chức gấp rút. Đại đội ấy ít ra phải gồm 4, hay nếu có thể được, 6 chi dội. Tôi hiểu rõ rằng việc gửi những bộ đội ấy đi sẽ gây khó khăn việc phòng thủ Trung Phi thuộc Pháp. Tôi cũng biết những khó khăn trong việc thành lập một bộ đội lính Senegal để ra trận trong một thời hạn ngắn như vậy. Nhưng vì những lý do hành quân khẩn thiết, cho nên tôi chỉ có thể gán cho những lý do kể trên một tầm quan trọng thứ yếu. Tướng Legentilhomme sẽ đến Brazzayille nay mai và sẽ cho ông biết nhiều chi tiết không thể nói ra trong bức điện tin này. Công hàm của tướng Wawell, Trung Đông gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn. (Bản dịch) Le Caire, 14 tháp chạp 1940 Kính thưa Đại Tướng, Cám ơn ông về bức thư ngày 16 tháng một gửi từ Brazzayille. Tôi thành thực cảm ơn ông đã gửi cho một đại đội quân Lê Dương, để tôi có thể sử dụng đắc lực ở Soudan khi nào gửi đến nơi. Tôi rất vui mừng được tiếp xúc với tướng Catroux ở đây và đã tiếp xúc chặt chẽ với ông. Hiện thời không có thay đổi lớn trong tình hình Syrie nhưng tôi nhận thấy có một phong trào ủng hộ Pháp Tự Do mỗi ngày mỗi lớn mạnh, ít ra trong số sĩ quan cấp dưới. Tôi mong rằng những diễn biến gần đây sẽ tăng gia khuynh hướng ấy. Một phần Đại Đội I Khinh Binh Hải Chiến đã được đưa ra tiền tuyến trong những cuộc hành quân ngoài sa mạc phía Tây, nhưng tôi chưa nhận được tin chi tiết cuộc hành quân này. Phân đội Kỵ binh ở Soudan vừa lập được công trạng đánh tan một đội tuần tiễu địch và giết chết một số người Ý. Tiếc rằng ông trở về Luân Đôn gấp cho nên tôi không được cái vui sướng tiếp kiến ông ở Le Caire, nhưng tôi mong rằng sau này ông sẽ có dịp trở lại đây. Tôi gửi lời cầu chúc ông thành công trên sự nghiệp giải phóng nước Pháp và phục vụ chính nghĩa chung. Xin ông tin rằng chúng tôi sẽ hết lòng cộng tác với ông. Kính chào thân hữu. Điện tín của tướng de Gaulle gửi tướng de Layminat, Cao Ủy Pháp,Brazzayille Luân Đôn, 18 tháng chạp 1940 Như tôi đã gửi điện tín cho ông ngày 11 tháng chạp việc gửi Lữ Đoàn Đông Phương sang Trung Đông là một việc khẩn cấp. Tôi xin nhắc lại rằng lữ đoàn ấy phải gồm đội quân Lê Dương và Thủy quân lục chiến, một đại đội pháo binh 6 chi đội, một chi đội chiến xa, một toán pháo binh, một chi đội chuyên chở, một phân đội truyền tin, các dịch vụ. Như ông đã biết, những biện pháp cần thiết đã được người Anh thi hành, đồng ý với tôi, để lo việc chuyên chở và hộ tống những yếu tố ấy. Ông làm ơn cho tôi biết tin tức của đại đội Tchad tiến theo đường bộ về Khartoum. Tôi chấp thuận quyết định của ông về phương diện này. Đại đội ấy sẽ là đại đội bộ binh thuộc thành phần lữ đoàn. Nhưng cũng cần gửi thêm hai chi đội bộ binh đưa ở bờ biển về bể đủ số một đại đội gồm 6 chi đội. Hai chi đội đưa ở bờ biển về sẽ giao liên với đại đội ở điểm đến. Cũng cần lấy thêm từ bờ biển về số vũ khí bổ túc cần cho đại đội. Tôi mong rằng ông sẽ thực hiện mọi công việc này, và cho tôi biết kết quả cùng ngày tháng khỏi hành của những yếu tố trong lữ đoán. Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với ông về chính sách tuyên truyền nhưng không can thiệp vào những thuộc địa của Vichy. Theo những tin tức tôi nhận được thì ảnh hưởng của chúng ta tại Pháp tăng gia rất nhanh. Tôi cũng quan niệm như ông rằng điểm trọng yếu bây giờ là dồn lực lượng vào cuộc chiến chống quân Ý. Về vấn đề này xin ông cho tôi biết kế hoạch và sự chuẩn bị của ông ở biên giới Tchad - Libye. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Giêng, 2019, 11:10:56 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi tướng Catroux, Le Caire Luân Đôn, 18 tháng chạp 1940 Như chúng ta đã giao ước với nhau trong cuộc hội đàm ở Fort-Lamy, nỗ lực chính phủ của chúng ta về phương diện quân sự lúc này phải thực hiện ở Trung Đông, chống quân Ý. Lữ Đoàn 1 Trung Đông của chúng ta gồm đại đội Lê Dương 6 chi đội, phân đội Thủy quân lục chiến, một chi đội chiến xa Hotchkiss kiểu 1939, một toán đại pháo 75, một phân đội truyền tin, những yếu tố dịch vụ, kể cá cứu thương, tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của Magrin-Verneret, hiện là Monclar, sẽ lên đường sang Trung Đông. Khởi hành ngay tháng này. Phần lớn bằng đường biển. Đại đội lính Senegal từ Tchad, sẽ đi đường bộ tới Khartoum. Lữ đoàn này, như ông đã biết, sẽ hoạt động ở Soudan. Theo sự đồng ý của tướng Wayell. Mặt khác, Sautot hiện đang tổ chức một chi đoàn Thái Bình Dương hỗn hợp người Âu và người bản xứ. Tôi sẽ gửi chi đoàn ấy đến Ai Cập theo lời yêu cầu của ông. Một đại đội thứ nhất 700 người đã thành lập xong ở Noumea, tôi đang điều đình ở đây để lo phương tiện chuyên chở trong một ngày gần đây. Tôi đang thu thập số vũ khí Pháp còn lại ở bên Anh và sẽ gửi ngay sang cho ông. Tôi dự tính có thể võ trang được chi đoàn Thái Bình Dương và Đại Đội 2 Ai Cập của ông bắt đầu thành lập. Như vậy, thiết tưởng không cần phải chờ đợi gì để tiến hành ngay việc tuyên mộ, Cùng một lúc với việc gửi khí giới đạn được, tôi cũng gửi thêm sĩ quan cho ông để được túc số. Sau hết, tôi rất mong muốn các phi công ở Trung Đông trở lại là không quân Pháp, mặc dầu lúc này họ hoạt động trong các phi đội Anh. Tất nhiên, những yếu tổ ấy sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của ông khi nào họ đến Trung Đông, việc sử dụng sẽ do ông và tướng Wayell thỏa thuận với nhau để quyết định, trừ khi đã có quyết định trước ở Luân Đôn giữa chính phủ Anh và tôi. Tôi đang chờ đợi đại tá Petit mà có lẽ ông cũng quen biết, ông ta sẽ làm tham mưu trưởng của tôi. Điện tín của tướng de Gaulle gửi de Larminat, Brazzaville Luân Đôn, 23 tháng chạp 1940 Tôi có những tin rất chắc chắn về thái độ của Vichy đối Phi Châu thuộc Pháp Tự Do, tin tức này nhận được trực tiếp ở Vichy, một mặt do bộ ngoại giao Anh, mặt khác do các đại lý của tôi gởi đến Vichy và Vichy đã để cho họ trở về. Những tin tức ấy cho phép kết luận rằng, lúc này Vichy chấp nhận chúng ta có chủ quyền ở Trung Phi như một việc đã rồi và không có ý định tấn công ít ra trước tháng hai, còn việc tuyên truyền chống đối thì vẫn có. Ngoài ra, nỗ lực đánh quân Ý của chúng ta được quần chúng tán thưởng, cả người ở Vichy. Như vậy, sự gia tăng nỗ lực ấy là hoạt động hữu hiệu nhất của chúng ta trong lúc này, xét về phương diện quốc gia cũng như về phương diện quốc tế. Xin ông thông báo những tin tức trên đây cho Ebouẻ, Sicé, d’Argenlieu, Leclerc, nhân viên trong Hội Đồng. Về phương diện ấy, tôi dự tính rằng Lữ Đoàn Trung Đông mà tôi đã cho ông biết thành phần bằng những điện tín trước đây, sẽ quy hoàn Soudan vào đầu tháng hai, kể cả nhân sự lẫn vật liệu gửi đi từ Douala và Pointe-Noire, và kể cả đại đội lính Sẻnẻgal ở vùng Tchad đưa đến bằng đường bộ. Nhưng ngay từ bây gìờ cần phải chuẩn bị đợt hai lực lượng gởi sang Trung Đông. Đợt hai này sẽ gồm hai đại đội lính Senegal và một toán pháo binh. Tôi yêu cầu ông thúc đẩy mạnh việc tổ chức đợt hai này để có thể hoạt động được kể từ cuối tháng giêng. Xin ông liên lạc với tướng Catroux để biết những điềm nói trên đây. Xin nói thêm để ông biết qua rằng chi đoàn Thái Bình Dương cũng sẽ đưa sang Trung Đông và những yếu tố đầu tiên sẽ lên tầu nay mai ở bến Noumea. Sau hết, một đại đội mới đã được tuyển mộ ở Ai Cập. Tóm lại, tôi mong rằng chúng ta có thể giàn ra Trung Động 9 đại đội vào đầu mùa xuân, trong số đó có 5 đại đội người Âu với ít pháo binh và một chi đội chiến xa. Những lực lượng đó sẽ hoạt động riêng không liên hợp với các bộ đội ở Tchad, các bộ đội này sẽ tiến đến Koufra và Mourzouk vởi sự yểm trợ của phi cơ và các bộ đội đặc công. Xin ông cho Leclerc biết tin chúng tôi rất tin tưởng cuộc hành quân trên đây. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:05:22 pm Công hàm của ông Winston Churchill gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn. (Bản dịch) Luân Đôn ngày 24 tháng chạp 1940 Kính gửi tướng de Gaulle, Lord Halifax đã lưu ý tôi đến hai tài liệu của ông gửi cho ngày mùng 10 tháng chạp. Trước hết là một bản tuyên ngôn làm tại Brazzayille ngày 27 tháng mười 1910, dùng làm nền tảng cho hai sắc lệnh cùng ngày, do ông ban hành với tư cách Lãnh tụ người Pháp Tự Do, thiết lập Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc và chỉ định nhân viên Hội Đồng ấy. Mặt khác là một bản tuyên ngôn cơ bản ngày 16 tháng một, bổ túc cho bản tuyên ngôn chính. Xin ông nhở lại, ngày mùng 4 tháng tám 1940, tôi đã tuyên bố với ông rằng Chính phủ của Anh Hoàng sẽ vui lòng điều đình với ông, vì Lãnh Tụ người Pháp Tự Do được chúng tôi thừa nhận, và Hội Đồng Phòng Vệ thành lập bởi sắc lệnh ngày 27 tháng mười 1940. Những cuộc điều đình ấy sẽ đề cập đến mọi vấn đề hợp tác của nước Anh với các lãnh thổ Pháp Tự Do và lực lượng của Anh Hoàng cùng tiếp tục cuộc chiến tranh chống kẻ thù chung, và để giải quyết quyền lợi kinh tế và chính trị của những lãnh thổ ấy. Khi gửi ông bản thông cáo này, tôi muốn minh xác rằng Chính phủ Anh không bày tỏ một ý kiến nào liên hệ đến cạnh khía hiến định và pháp lý của bản tuyên ngôn và bản tuyên ngôn cơ bản. Trấn trọng kinh chào ông. Điện tín của tướng de Larminat Cao ủy Pháp ở Brazzaville gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn Brazzayille, 25 tháng chạp 1940 Chương trình hoạt động ở Nam Libye như sau : 1) Đột kích và du kích ở phía Nam Fezzan, do nhóm quân du mục Tibesti thực hiện ngay bây giờ. 2) Trinh sát tấn kích của quân cơ giới hỗn hợp Pháp - Anh vào vùng Ouahou - el - Kébir, phía Nam Mourzouk. Cuộc hành quân này sẽ mở khi nào quân đội Anh đến nơi, sau khi phải ngừng lại vì cuộc công kích Bardia mở rộng. 3) Đồng thời hay sau đó, tùy khả năng, mở cuộc trinh sát tấn kích cơ giới vào vùng El Aouen ; chưa định ngày giờ. 4) Nếu sự tiếp xúc thuận lợi, sẽ mở một cuộc hành quân cơ giới quan trọng của lính « lạc đà » và vùng Roufra ; thời gian chuẩn bị khá đầy đủ . 5) Việc không tạc vùng Kouf ra dự định đã bị chậm trễ vì cần phải đem đến những căn cứ gần đấy xăng và bom, và cần phải huy động một phần cam nhông ở Tchad để chuyên chở đại đội « bộ hành ». 6) Sẽ cho ông biết tin dần dần mức độ chuẩn bị và thi hành những cuộc hành quân thực hiện chung với người Anh này. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:08:09 pm Thư của đại tá Leclerc, chỉ huy bộ Tchad, gửi tướng de Galle, Luân Đôn Fort - Lamy, 31 tháng chạp 1910 Kính thưa Đại Tướng, Xin cho phép tôi gửi thư chúc Tết theo lệ thường. Đây là một cơ hội để tôi viết thư cho ômg, nhưng than ôi ! không biết bao giờ thư đến nơi. Năm nay rất dễ tỏ bày nguyện vọng... vì chúng ta đã mất hết không còn gì. Một lần nữa, tôi xin tái xác định rằng tôi vẫn đứng sau lưng ông để thực hiện cuộc chiến tranh vĩ đại này. Tôi biết rằng tôi đã có kẻ ganh ghét, tôi đã làm cho nhiều người áy náy... Điều đó rất thường khi người ta muốn chống lại hủ tục và mọa tính, nguyên tắc nền tảng của việc chỉ huy dân sự và quân sự Pháp. Nhưng tôi không để ý bao nhiêu đến những sự kiện ấy. Xin tóm tắt những diễn biến từng tháng một và tình trạng miền Tchad : người ta đã trình bày với tôi lãnh thổ này đang bị trực tiếp đe dọa nguy hiểm. Nhưng sự thật khác hẳn lại : Chuyến đến Libreville đã làm rối loạn phe Vichy, họ yên chí rằng Niger và Dahomey sẽ bị tấn công kế theo sau, do đó mà có hai loại biện pháp : 1) Thiết lập tại biên giới một bệ thống phòng thủ đông gấp hai lần quân của chúng ta, và có tinh thần chống cự mãnh liệt ; 2) Tuyên truyền rộng rãi để « chặn đứng tội ác ». Nhắm vào mục tiêu ấy, nên gửi đến Zinder những người ở hồ Tchad... Gửi đến luôn luôn thư từ và điện tín nói đến tình thương mến và sự đe dọa, tin tức vui, nhất là buồn, của gia đình, lời hứa sẽ có những sự tố giác động trời. Kế sách này có vẻ bắt chước người Đức thật, nhưng có thể làm nao núng những người yếu bóng vía. Tôi đã ủy thác cho Dio, láng giềng trực tiếp của họ, thi hành mọi biện pháp : nói chuyện với họ, viết thư, hẹn nơi gặp gỡ họ, dùng cách hoãn binh, kéo dài thời gian. Tôi còn trao cho họ coi những bản văn quan trọng, thí dụ một nhật lệnh nói đến đại đội « bộ hành » ở hồ Tchad đã lên đường. Nếu Niger định tấn công, điều này có thể xảy ra lắm, tôi sẽ kêu gọi đại đội Bouillon ở Maroua. Xin nói đến những vùng xa xôi. Tôi đã quyết dùng đủ mọi cách để đổi phó với người Ý, như ông đã chỉ thị : 1) Tôi đã ra lệnh cho nhóm du mục Tibesti đột kích Tedjẻrẻ từ mùng 3 đến mùng 10 (đã lập một đoàn lạc đà từ ngày mùng 3). 2) Một nhóm 10 người sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp ở Ornano tham dự trận đánh Bagnold từ mùng 7 đến 20. 3) Tôi đã quyết định đến cuối tháng giêng sẽ thực hiện một cuộc đột kích mạnh mẽ vào vùng Koufra. Để thực hiện mục tiêu ấy, Parazols cố gắng tạo lập một phân đội kiểu Bagnold. Trong hai ngày nữa đàn lạc đà sẽ cho biết đích xác khả năng của chúng như thế nào. Không quân sẽ tham dự trước, trong, và sau cuộc hành quân. Rồi sẽ bắt được liên lạc với người Anh. Tôi đang trong thời kỳ còn phải vượt qua nhiều trở lực : người ta nói đến những sự nguy hiếm của cuộc hành quân này để làm cho bộ máy sai lệch giữa lúc bắt đầu chạy... Đây lại vẫn những mánh lới quen dùng của người Pháp, họ không biết rằng chỉ có tinh thần đồng đội mới cho phép người ta thực hiện được cái gì. Đã có lúc tôi muốn buông trôi hết, nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi chỉ cầu nguyện như ông tôi đã dậy tôi ngày trước : « Lạy Chúa, xin Chúa giải thoát cho tôi khỏi tay các bạn hữu của tôi, còn kẻ thù của tôi thì cứ mặc tôi đối phó ». Dĩ nhiên, chuyện này không ám chỉ tướng de Larminat vì ông có cái nhìn rất sáng suốt. Cảm tướng về bộ đội vùng Tachađ : Sĩ quan người Âu tăng gia nhiều, nhất là ở bắc bộ, nhưng chưa có ai có kinh nghiệm cuộc chiến này hay cuộc chiến trước. Đại đội « bộ hành » đà làm cho họ xuống tinh thần nhiều rồi. Giá trị của những bộ đội bản xứ kém, kém quá. Chỉ vì Buhrer phạm lỗi lầm, tưởng rằng có thể huấn luyện hộ binh mau như làm đồ hộp. Thiếu hẳn nhân viên cấp chỉ huy. Tôi hy vọng rằng có thể đạt được con số 1 Trung sĩ bản xứ và 2 hạ sĩ cho 30 người, nhưng thực ra một toán lính da đen chỉ có giá trị thực sự nếu trung bình để 1 người Âu cầm đầu 10 người bản xứ. Nếu tôi hành quân ở Koufra thì tôi phải tuyển lựa người như đã tuyển lựa trong trận đánh Libreville. De Marmier đã đi rồi... Mặc dầu có khuyết điểm, nhưng không bao giờ tôi quên sự giúp đỡ toàn diện của ông ta trong vụ Libreville. Không có ông ta thì phi cơ hãy còn đóng hòm giữ ở kho Douala. Xin ông đừng buồn lòng nếu trong ba hay bốn tuần lễ nữa chưa thấy phi cơ của chúng ta oanh tạc quân Ý ; tôi cố gắng để khỏi sự một cách oanh liệt, đánh mạnh ngay từ lúc đầu. Vấn đề lớn là đường xa và lấy nước cho xe hơi và lạc đà. Ông nên chắc chắn rằng chúng tôi không chịu lùi bước trước một khó khăn nào, từ tiền tuyến hay hậu cần. Xin kính gửi ông sự tận tâm hoàn toàn, sự tin tưởng tôn kính và sự biết ơn lớn lao ông cho phép tôi còn là người Pháp. 1-1-41. — Hỏm nay trở về Ounianga, tôi nhận được một điện tín của tướng Larminat cho tôi biết rằng ông rất tin cẩn tôi. Tôi cám ơn ông đã dành cho tôi sự tin cần ấy. Nếu ông trông thấy chúng tôi bị mắc kẹt ở một nơi vì cơn bão cát trong ba ngày thì hẳn ông tin chắc rằng chúng tôi đã làm tất cả cái gì có thể làm được để giải thoát. Chúng tôi đã thực hiện được cuộc thám sát bằng phi cơ trên không phận Koufra. Đã phát hiện được bảy chiếc phi cơ đậu dưới bãi. Chiến lũy Tadj có vẻ kiên cố và ở vị trí tốt. Như vậy, tôi không tính lấy chiến lũy ấy, nhưng chỉ gây thiệt hại tối đa cho căn cứ không quân và những tổ chức khác ở ngoài chiến lũy. Với số quân 200 người khả dụng, tôi phải dùng 70 cỗ xe vì nơi đột kích ở xa và xe cam nhông ăn tốn xăng quá không thích hợp với loại công việc này. Mặc dầu khó khăn đủ loại, nhưng chúng tôi cũng mạnh tiến và chúng tôi sẽ thành công. Chúng tôi sẽ nghĩ đến ông, thưa Đại Tướng... Một lần nữa, xin gửi lên ông lòng tin tưởng tôn kinh của tôi. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:16:24 pm Công hàm của tướng de Gaulle gửi ông A. Eden, Quốc Vụ Khanh đặc trách Ngoại Giao Luân Đôn, mùng 4 tháng giêng 1940 Kinh thưa ông Bộ Trưởng, Trong lúc này, không có lý do gì để buộc tội đô đốc Muselier, ngoại trừ « tài liệu » của Vichy, nghĩa là dáng ngờ vực đối với Pháp Tự Do vì là tài liệu của địch thủ. Mặt khác, tôi cho rằng rất có thể Vichy đã âm mưu đưa ra những « tài liệu » ấy để cột Pháp Tự Dơ vào một lỗi lẫm trọng đại không thể sửa chữa được và gây sự bất hòa giữa Pháp Tự Do và người Anh. Tôi buộc lòng phải chính thức tuyên bố một lần nữa rằng cách thức điều hành công việc trong vụ này có nhiều khuyết điểm. Tôi cho rằng đây chỉ là những khẳng định không có kiểm chứng, của những người quyết tâm làm hại Pháp Tự Do và phá hoại sự liên minh với nước Anh ; những tài liệu như thế không đủ để bắt giam một phó đề đốc Pháp chỉ huy hạm đội Pháp cùng tham dự chiến cuộc với hạm đội Anh. Ngoài ra, trong trường hợp nào, tôi cùng cho rằng đáng ra chính phủ Anh không nên bắt giam như thế khi chưa cho tôi biết tin. Sau hết, tôi không thể chấp nhận điều kiện vật chất và tinh thần đã thực hiện sự bắt giữ và giam cầm ấy. Bởi vậy tôi yêu cầu Chính phủ Anh cấp bách tìm những biện pháp cần thiết để đó đốc Muselier được đối xử một cách xứng đáng với danh dự và để tôi được thông báo cho biết những lý do kéo dài thời gian giam cầm. Trân trọng kính chào ông Bộ Trưởng. Nhận xét về các tài liệu dùng làm bằng chứng để bắt giam phó đô đốc Muselỉer. Trao cho tướng Spears ngày mùng 7 tháng giêng 1941 1) Nói chung, những tài liệu có vẻ như do một nhân viên của Vichy (tướng Rozoy) soạn thảo và kỹ tên, để bôi nhọ một trong những nhân vật chỉ huy quân sự của Pháp Tự Do, chỉ đáng ngờ vực và không thể tin được. 2) Những tài liệu này xuất phát từ tay một nhà ngoại giao ngoại quốc trao cho một nhân viên an ninh một cách giản dị quá, sau khi tướng Rozoy rời khỏi nước Anh, việc ấy kỳ dị quá. Giữa một bầu không khí đầy âm mưu chính trị, việc này càng làm cho thấy rõ có sự xếp đặt. 3) Ngoại trừ có âm mưu xếp đặt sẵn, còn thì khó mà tin đượe rằng một sĩ quan cao cấp gửi về cho chính phủ mình những tin tức quan trọng tối mật như vậy, lại có thể bất cẩn đến nỗi viết vào giấy công văn chính thức có tiêu để tổng Lãnh Sự Pháp và có đóng dấu của cơ quan hành chánh ; bản tài liệu không có chút thận trọng nào, không dùng những danh từ ước định, không dùng chữ viết tắt, mà còn ghi hết tên những người đã cung cấp tin tức, còn ghi cả tên và địa chỉ người nhận trong các bản văn (Thư để ngày 17 tháng chín). 4) Cả 4 bản tài liệu hợp lại với nhau thành một toàn bộ gần như chỉ nhắm vào đó đốc Muselier. Điều ấy chỉ có thể làm cho người đọc có thêm cảm tưởng rằng đây chỉ là một âm mưu, nhất là người ta ám chỉ những vụ dễ làm cho nhà cầm quyền Anh và tướng de Gaulle bị xúc động — như vụ Dakar, Surcouf, việc tiếp đón tướng Catroux ở Luân Đôn, Bức công hàm ngày mùng 5 tháng tám 5) Nhiều điếm làm cho người đọc nghĩ rằng bản tài liệu không viết ra ngày ghi trong tài liệu mà chỉ viết ra sau ngày ấy. Người ta đã cột đô đốc Muselier vào với những việc như sau : «Bộ Hải Quân Anh đã hoàn thành một kế hoạch hành quân lớn vào lãnh địa Pháp ở Phi Châu. Đại đội trưởng Parant và bộ tham mưu của ông đã lên đường ... Thuộc địa duy nhất định tiến chiếm là Senegal. Một cuộc đổ bộ sẽ được thực hiện ở Dakar... Đô đốc Muselier bài bác cuộc hành quân điên rồ này». Ngày mùng 4 tháng tám. Tuy đã dự định cuộc viễn chinh Dakar trên nguyên tắc, nhưng kế hoạch hành quân vẫn chưa thảo xong. Mặt khác, đại tá Parant và nhiều sĩ quan có rời khỏi nước Anh vào tháng bảy nhưng không phải đến Senegal. Họ đi qua Accra để đến Cameroun, tướng de Gaulle đã tính lôi kéo xứ này về tập kết (đã về tập kết thực sự ngày 27 tháng tám) Những điểm trên đây, đô đốc Muselier đều biết rõ vào ngày mùng 5 tháng tám, những điều người ta đổ lỗi cho ông mâu thuẫn hiển nhiên với sự thực. Sau hết, khó mà tin được rằng đô đốc Muselier dùng danh từ «điên rồ» để ám chỉ cuộc hành quân ấy khi ông biết rõ điều kiện vào ngày mùng 5 tháng tám. Bức công hàm ngày 11 tháng tám 6) Theo bức thư này thì 2000 Anh Kim đã được trao cho đô đốc Muselier và còn chuyển thêm cho ông nhiều nữa, để ông tìm cách cản trở việc tuyển mộ thủy thủ cho Lực Lượng Pháp Tự Do. Mọi người Anh và Pháp đen nhận thấy điều này hết sức vô lý khi họ biết rõ đô đốc Muselier đã cố gắng hoạt động như thế nào để vượt bao nỗi khó khăn mà tuyển mộ các đoàn thủy thủ ngày nay phục vụ trên các tầu bè dưới quyền chỉ huy của ông. ( đính theo một biểu đồ tuyển dụng Thủy Binh Pháp Tự Do) Công hàm ngày 17 tháng 9 7) «Catroux đã có mặt ở đây từ buổi sáng hôm nay. Hẳn là gây được cảm tưởng tốt đẹp đối với quần chúng Anh. Người ta nghĩ rằng ông sẽ thay thế tướng de Gaulle vì ông này mỗi ngày mỗi xuống thấp, Ngày tướng Catroux đến Luân Đôn, thật tướng Bozoy khó mà biết được chắc chắn cảm tưởng của người Anh đối với ông ta thế nào. Mặt khác, nếu sau vụ Dakar, dĩ nhiên uy tín của de Gaulle ở Luân Đôn xuống thật, nhưng trước vụ Dakar 4 ngày, giữa lúc mọi người đang hy vọng chứa chan thì bảo rằng de Ganlle «mỗi ngày một xuống thấp» quả là không đúng chút nào. Công hàm ngày 26 tháng chín 8) Nên để ý rằng tài liệu nói đến tầu Surconf và cách trao tiềm thủy đĩnh ấy cho Vichy, nói một cách bóng gió để làm cho các nhà cầm quyền Anh ngờ vực và công phẫn đối với người Pháp Tự Do, Cũng nên biết rằng chính đô đốc Muselier đã chỉ định hải quân trung tá Ortoli chỉ huy tầu Surcouf và chưa bao giờ nói đến vấn đề thay thế ông cả. Trái với điều nói trong bức công hàm của tướng Rozoy, Hải Lực Pháp Tự Do ít nhất cũng có một sĩ quan cao cấp có thể chỉ huy được tầu ấy là hải quân đại tá Cabanier. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:21:34 pm Sự vụ lệnh của tướng de Gaulle gửi tướng Legentilhomme Luân Đôn, 17 tháng giêng 1941 Chiếu thỏa ước ký kết giữa chính phủ Anh và tướng de Gaulle, tướng chỉ huy sư đoàn Legentilhomme dẫn các bộ đội và vật liệu đến Port-Soudan, được ủy nhiệm để thực hiện cuộc hành quân «Marie» trong trường hợp có quyết định thực hiện. Ông sẽ thảo luận trực tiếp với nhà cầm quyền Anh ở Trung Đông đế quy định chi tiết thừa hành. Tướng Legentilhomme sẽ được đặt quyền trực, tiếp của tướng Sir Archibald Wayell , KCB , CMG MC , Tư Lệnh Lực Lượng Đồng Minh ở Trung Đông. Công hàm của tướng de Gaulle gửi René Cassin, Luân Đôn ; đô đốc Muselier, Luân Đôn, tướng Catroux, Le Caire; tướng Larminat, Brazzayille; toàn quyền Eboué, Brazzayille; tướng quân y Sieé, Brazzayile ; đại tá Leclerc, Fort- Lamy ; đại tá hải quân d'Araenlieu, Ottawa nhân viên Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc. Luân Đôn, 18 tháng giêng 1911 Tôi giả thiết rằng quý vị đã biết tin về lập trường của tôi trong các bài diễn văn mới đây trên đài phát thanh, trong bài diễn văn đọc trước đức Hồng Y Hinsley về thái độ của Pháp Tự Do đối với đồng minh và Chỉnh phủ Vichy. Tôi mong rằng quỷ vị sẽ cho biết ý kiến về ba sự việc có thể xảy đến như sau ; 1) Trong hiện tình, nghĩa là Vichy chấp nhận sống dưới chế độ đình chiến và hợp tác với địch, ông có cho rằng, đối với chúng ta, chúng ta cần phải khước từ mọi liên lạc với Vichy không ? 2) Nếu Vichy thôi chấp nhận chế độ đình chiến và hợp tác và định tránh ra ngoài vòng kiểm soát của địch, không phải để trở lại cuộc chiến mà để giữ thái độ trung lập trong trường hợp ấy ông có cho rằng chúng ta nên tiếp tục không thừa nhận quyền hành của họ miễn là thiết lập với họ một vài loại liên lạc nhắm vào tương lai ? 3) Giả thiết rằng Chính phủ Vichy quyết định thiên đô sang Bắc Phi và trở lại cuộc chiến thì chúng ta phải đòi hỏi những điều kiện đối nội và đối ngoại thế nào để phối hợp với họ ? Điện tín của tướng de Larminat, Cao ủy Brazzayille, gởi tướng de Gaulle, Luân Đôn. Fort Lamy, 20 tháng giêng 1941. Trong một cuộc tuần tiễu của quân Anh - Pháp, đồn Mourjouk của Ý đã bị công kích hôm 11 tháng này. Trong khi hỏa lực phong tỏa cả đồn lính tại chỗ thì sân bay bị tấn công và nhiều tù binh bị bắt. Tất cả đồ trang bị, kho chứa phi cơ và ba chiếc phi cư bị phá hủy. Người Ý thiệt hại 30 người chết và bị thương. Hôm sau đồn Traghen bị chiếm Gatroum bị công kích ngày 13. Phân đội trở Về không gặp trở ngại nào. Đồng minh thiệt hại hai tử trận và một bị thương. Công hàm của tướng de Gaulle gửi Sir Alexander Cadogan, Thứ trưởng Ngoại Giao Luân Đôn, 21 tháng giêng 1941 Kinh thưa Thứ Trưởng, Ông đã có nhã ý gửi cho tôi một bản giác thư trình bày quan điểm của chính phủ Anh về tình hình Đông Dương. Về phía tôi, tôi tưởng nên gửi đến quý ông một giác thư của chúng tôi để xác định lập trường của Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp đối với tình hình ấy. Tôi cũng gửi tới ông bản văn một thông cáo của Hội Đồng Phỏng Vệ Đế Quốc Pháp, bản văn đã được sửa chữa, thế theo những đề nghị của ông về việc này. Trân trọng kính chào Thứ Trưởng. Giác thư 20 tháng giêng 1941 1) Đứng trước cuộc xâm lăng Đông Dương của lực lượng võ trang Nhật và Thái Lan, Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp nhận định rằng hiện thời không có đủ phương tiện vật chất cần thiết đề phòng thủ Đông Dương từ bên ngoài. Nhưng tình trạng ấy có thể thay đổi trong tương lai. Trong trường hợp nào thì Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp cũng cho rằng mình phải bảo vệ quyền của nước Pháp bất cứ ở nơi nào quyền ấy bị đe dọa. 2) Một phong trào quốc nội đòi hỏi thay thế nhà cầm quyền của Vichy bởi những người do Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc Pháp chỉ định, sẽ làm cho nước Nhật tăng cường ngay biện pháp xâm lăng ; lúc này Đông Dương không thể tự lực đối phó với cuộc xâm lăng ấy. Bởi thế cho nên Hội Đồng không muốn đề nghị xách động một phong trào như vậy. Hội Đồng đã ghi nhận rằng nhà cầm quyền của Vichy ở Đông Dương hình như muốn hứa rằng không làm gì để phá rối trật tự tại các lãnh thổ Pháp ở Thái Bình Dương, vả chăng họ cũng không đủ khả năng để làm như vậy dù có ý định chăng nữa. 3) Ngoài vấn đề thích ứng với hoàn cảnh ấy, chúng tôi nghĩ rằng dù sao thì quyền lợi của nước Pháp ở Viễn Đông cũng liên đới với quyền lợi của các cường quốc khác. Đặc biệt là sự bành trướng của Nhật và Thái Lan ở Đông Dương — nhất là tình trạng ấy sẽ tồn tại sau này — không thể không ảnh hưởng đến địa vị ngày nay của Đế Quốc Anh, Hoa Kỳ và Hòa Lan tại miền Á Châu này. 4) Nếu chỉ có một cường quốc đứng ra làm trọng tài thì việc hòa giải có thể không thành vì sự thiếu thiện chí của nhà cầm quyền Đông Dương hay của Nhật và Thái Lan ; nhưng nếu cả ba đại cường đứng làm trọng tài, ít ra để chấm dứt tình trạng thù nghịch, thì hẳn là sẽ có hy vọng đem lại kết quả. Tình hình quân sự của người Nhật, nhất là tại Quảng Tây và tình trạng giao thông xa xôi giữa Nhật và Đông Dương sẽ là điều kiện giới hạn những đòi hỏi của Nhật, dĩ nhiên là của Thái Lan nữa, nếu ngay lúc này đưa ra một đề nghị trọng tài tập thể. Trải lại, nếu khả năng kháng cự của Đỏng Dương sút kém thì Nhật và Thái Lan sẽ trở lại cố chấp không nhượng bộ. 5) Trong trường hợp nào và nếu nhà cầm quyền ở Đồng Dương còn có ý muốn chống lại sự xen lấn của Nhật Bản và Thái Lan, thì Hội Đồng không chống lại một vài dễ dãi giúp nhà cầm quyền giữ trật tự trong nước và bênh vực quyền lợi nước Pháp. Điều này liên hệ đến việc lập lại liên lạc kinh tế với đồng minh và việc cho phép Đông Dương tăng cường vũ khí. Về phương diện này thì việc di chuyển phi cơ « Bẻarn » sang Đông Dương tuy khó khăn nhưng theo tôi thì cũng được, miễn là nhà cầm quyền Đông Dương cam kết không để ai dùng những phi cơ chống lại lực lượng Pháp chống lại Đồng minh. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:25:58 pm Điện tín của tướng de Gaulle gửi tướng Catroux, Le Caire Luân Đôn, 21 tháng giêng 1941 Đồng ý với chỉnh phủ và bộ chỉ huy chiến tranh Anh Quốc, tôi đã ký một dự án hợp tác của lực lượng quân sự Pháp trong những cuộc hành quân ở Abyssinie. Kế hoạch này khỏi sự bằng việc chiếm lẩy thuộc địa Djibouti bằng lực lượng Pháp Tự Do vào cuối tháng ba, nếu tin tức trên lấy được trong những tuần lễ tới về tình hình Djibouti cho biết rằng việc tiến chiếm không đến nỗi khó khăn lắm. Tướng Legentilhomme có nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân, ông sẽ rời khỏi nước Anh ngày 27 tháng giêng bằng phi cơ, đi qua Brazzayille rồi đến ngay Le Caire để đến thăm ông và tường trình mọi việc. Tôi dự định ông có thể đến nơi vào ngày 12 tháng hai. Vì sự hợp tác quân sự của chúng ta là một phần của toàn bộ kế hoạch hành quân do tướng Wayell chỉ đạo, cho nên tướng Legentilhomme sẽ đươc đặt dưới quyền tư lệnh của tướng Wayell. Dĩ nhiên, tướng Legentilhomme và các bộ đội của ông ta sẽ thống thuộc ông về các phương diện khác, nhất là các phương diện kỷ luật, thăng thưởng v.v... Tướng Legentilhomme sẽ phải phúc trình lên ông tất cả mọi việc. Mặt khác, ông cũng có nhiệm vụ cất đặt công việc hành chánh xứ Somalie thuộc Pháp nếu chúng ta thực hiện được việc tập kết xứ ấy. Mọi vấn đề chánh trị khác có thể đặt ra, nhất là các vấn đề của Abyssinie, cũng sẽ thuộc thầm quyền của ông. Vả chăng, tôi cũng mong rằng sẽ được hội kiến với ông ở Le Caire trước khi mở cuộc hành quân. Từ đây cho đến ngày ấy tôi yêu cầu ông chơ biết tất cả tin tức và ý kiến cần thiết, tất nhiên phải kể đến những điểm cần phải giữ bí mật, tùy ông ước lượng tầm quan trọng của sự bí mật ấy. Điện tín của Garreau - Dombasle đại úy Pháp Tự Do tại Hoa Kỳ, gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn, Nữu Ước, 21 tháng giêng 1941 Giáo sư May đã tiếp xúc với các giới trong chính phủ để mở cuộc điều tra. Kết quả cho biết rằng chính phủ Hoa kỳ rất bối rối vì những biến cố mới xảy ra ở Đông Dương, nhưng lúc này Hoa Kỳ muốn tránh mọi cuộc đụng độ với Nhật bất với cứ giờ nào. Hoa Kỳ cho rằng Đông Dương ngoài thực tế là một quốc gia tự trị, họ giữ liên lạc chặt chẽ và trực tiếp với đại sứ Haye và đô đốc Decoux, như vậy là chúng ta đã hoàn toàn ở ngoài vòng rồi. Trong một cuộc tiếp xúc với phái viên của Thái Lan, Bộ Trưởng Hull hình như đã có áp lực nào đó để ngăn chặn cuộc xung đột hiện thời. Ý kiến riêng của tôi là lúc này không có chút hy vọng nào để áp lực có thể đem lại kết quả. Uy tín cả nhân của nhà độc tài Luang - Pibul sẽ bị xúc phạm. Một sự nhượng bộ hay thất bại quân sự nào cũng nguy hại cho phe đảng của ông và có lợi cho phe đối lập. Ngoài ra, người Nhật là những người giật dây cuộc tranh chấp Đông Dương, họ không chịu chấm dứt chỉ vì có lời yêu cầu của chính phủ Hoa Kỳ. Hầu như Hoa Kỳ cho rằng cuộc xâm lăng Đỏng Dương không thể tránh được, mà cũng chẳng cần phải phản đối làm gì cho mệt ; họ chỉ ra tay khi nào các giới thông thạo việc Nhật Bản cho rằng người Nhật quyết định bành trướng xuống phương Nam. Điện tín của tướng Catroux, tổng đại lý ở Le Caire, gửi tướng de Gaulle, Luân Đôn. Le Caire, 24 tháng giêng 1941 Trong cuộc tấn công Tobrouck, một phân đội Pháp Tự Do đã tham dự cuộc hành quân, phân đội này gồm hai chi đội cơ giới, chỉ huy trưởng thiếu tá Folliot. Sau khi chiếm được một công sự chiến đấu, ngay từ tối hôm đầu tiên, họ đã tiến sâu vào phòng tuyến địch đến 6 cây số. Chính đài V.T.Đ Ý đã loan báo tin ấy. Cuộc tiến binh rất ngoạn mục của kỵ binh Phi Châu này vẫn tiếp tục. Điện tín của tướng de Gaulle gửi Thống đốc Nouvelle Calédonie Noumea Luân Đôn, 28 tháng giêng 1941 I.— Vì tình hình tổng quát, nhất là về phía người Nhật, ông cần phải đảm lãnh trách nhiệm phòng thủ Nouyelle Calẻdonie và Tahiti và hoàn bị sự phòng thủ ấy. II.— Như vậy, tất cả các bộ đội hiện có ở Nouyelle Calẻdonie và Tahiti và các bộ đội ông tuyển mộ được đều dùng để phòng vệ Nouyelle - Calédonie và Tahiti cho đến khi có lệnh mới của tôi, ngoại trừ 300 người của Nouyelle-Calẻdonie và 300 người của Tahiti gửi sang Trung Đông khi nào có đủ điều kiện để ra trận nghĩa là được xung vào quân ngũ võ trang, trang bị và huấn luyện. III.— Việc chuẩn bị và chuyên chở lính tình nguyện từ Nouyelle-Calédonie sang Trung Đông sẽ thực hiện với sự giúp sức của chính phủ Úc, việc phòng thủ Nouyelle-Calẻdonie cũng có thể nhờ sự yểm trợ của chính phủ Úc, bởi thể cho nên tôi đã yêu cầu chính phủ Úc gởi sĩ quan liên lạc sang tiếp xúc với ông để xếp đặt mọi vấn đề thực tiễn liên hệ đến việc yểm trợ quân sự. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:29:17 pm Sắc lệnh quy định việc tổ chức Huy Chương Giải Phóng. Tướng de Gaulle, Lãnh tụ người Pháp Tự Do, quyết định ; Điều thứ 1.— Thi hành dụ số 7 ngày 16 tháng 1 năm 1940 thiết lập Huy Chương Giải Phóng. Hội đồng này đặt dưới quyền chủ tọa của lãnh tụ người Pháp Tự Do, sẽ gồm có 5 hội viên, trong số đó một người sẽ giữ nhiệm vụ Chưởng Quản. Quý vị có tên sau đây được chỉ định làm Bạn Giải Phóng và Hội Viên. Đại tá hải quân Thierry d‘ Argenlieu ; Toàn Quyền Ebouẻ ; Trung Úy đ‘ Ollonde ; Sĩ quan vô Tuyến Điện Viên Hải Thương Popieul; Thượng sĩ Không Quân Bouquillard ; Đại tá hải quân Thierry d‘ Argenlieu được chỉ định làm Chưởng Quản. Điều thứ 2.— Hội Đồng Huy Chương Giải Phóng sẽ nhóm hợp ba tháng một lần nếu có thì giờ nhóm họp ngoài các cuộc hành quân, và nhóm phiên bất thường khi nào có giấy triệu tập của Lãnh Tụ người Pháp Tự Do, Sổ sách sẽ giao cho một viên thư ký, kiêm việc chưởng ấn. Hội Đồng thảo luận và cho ý kiến về tất cả mọi đề nghị chuyển lên lãnh tụ người Pháp Tự Do ; vị này có thể hỏi ý kiến riêng một hay nhiều hội viên, hội viên trả lời bằng thư. Điều thứ 3.— Phù hiệu của Huy Chương Giải Phóng có hình đồng tiền khắc mũi kiếm và thập tự Lo Ren. Mặt trái thích chữ : Patriam Servando Victoriam Tulit. Dải băng có vân đen và xanh tượng trưng cho tang tóc và hy vọng của Tổ Quốc. Điều thứ 4.— Huy chương Giải Phóng sẽ được Lãnh Tụ người Pháp Tự Do ban cấp sau khi lấy ý kiến của Hội Đồng. Lãnh Tụ người Pháp Tự Do đưa đề nghị hay chiếu đề nghị của các Cao Ủy, Thống Đốc và toàn quyền thuộc địa, của các đại diện Pháp Tự Do ở Ngoại Quốc, của các nhân viên Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc hay các nhân vật khác được hỏi ý kiến về việc đề nghị này. Điều thứ 5.— Huy chương Giải Phóng sẽ do Lãnh Tụ người Pháp Tự Do long trọng trao tặng người được ân thưởng hay do người nào được ông ủy nhiệm trao tặng. Người ngoại quốc có công với Pháp Tự Do có thể được trao tặng Huy Chương Giải Phóng và được coi là nhân viên của tổ chức này. Điều thứ 6.— Kỷ luật sẽ được Hội Đồng bảo vệ ; Hội Đồng "Có thể đưa ra lời khiển trách và đề nghị khai trừ ; sự khai trừ sẽ do Lãnh Tụ người Pháp Tự Do quyết định. Sự khai trừ sẽ được quyết định khi nào có những hành vi trái với danh dự của những người được ân thưởng huy chương, không liên hệ gì đến hình phạt kỷ luật hay pháp định. Hành vi xúc phạm danh dự có thể xảy ra sau khi ân thưởng Huy Chương hay trước khi ân thưởng nhưng sau khi ân thưởng mới được phát giác. Điều thứ 7.— Nghị định quy định thể thức áp dụng sắc lệnh này sẽ được ban hành sau ; sắc lệnh này sẽ được đăng vào Báo Pháp Tự Do. Làm tại Luân Đôn ngày 29 tháng giêng 1941 C. de Gaulle Công hàm của tướng de Gaulle gửi tướng Wavell Tư Lệnh quân đội Anh tại Trung Đông Luân Đôn, 30 tháng giêng 1941 Kinh thưa Đại Tướng, Lại một lần nữa, tướng Legentilhomme sẽ đến trình diện ông nay mai. Như tôi đã nói rõ trong sự vụ lệnh của ông ta, tôi đặt ông ta dưới quyền sử dụng của ông, vì tôi hiểu rõ rằng việc chỉ huy quân sự trong những cuộc hành quân cần được thống nhất. Xin nói thêm rằng tướng Legentilhomme rất vui sướng và tự hào vì được làm dưới quyền ông. Tôi đã thông báo cho tướng Catroux biết việc này. Như tôi đã trình bày, ý muốn của tôi là các bộ đội đưa từ Trung Phi sang và do tướng Legentilhomme chỉ huy sẽ được dùng ở cùng một chiến địa. Tất cả gồm có 6 đại đội, một chi đội chiến xa, một giàn đại pháo và một toán pháo binh. Nếu cuộc hành quân « Marie » có thể thực hiện được và nếu thành công thì con số ấy sẽ tăng thêm để các bộ đội có thể cùng nhau tham dự cuộc chiến sau trận đánh này. Trái lại, nếu không thì xin ông cho tôi tập hợp tất cả các bộ đội từ Trung Phi sang để cùng dự chiến ở một nơi. Ông hiểu hơn ai hết rằng, không kể những lợi ích khác, việc tập trung các lực lượng Pháp vào một nơi như vậy sẽ có ảnh hưởng chính trị và tinh thần to rộng hơn. Trân trọng kính chào Đại Tướng và khen ngợi những chiến công oanh liệt của Đại Tướng. Tiêu đề: Re: Nguyên thủ thế chiến 2 : De Gaulle Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Giêng, 2019, 11:34:49 pm Bảng ghi những câu trả của hội viên Hội Đồng Phòng Vệ Đế Quốc về thái độ đối phó với Vichy. Người ghi chú :René Cassin. Luân Đôn, tháng hai 1941 I.— Tóm tắt những câu trả lời vấn đề thứ nhất : thái độ 1)Tướng Catroux : Theo sự hiểu biết nội bộ Vichy của chúng ta, bổn phận của chúng ta là không nên đã kích Thống Chế Pétain mà chỉ nên gây ảnh hưởng đến ông qua một vài nhận vật, thí dụ : tướng Leclerc). 2) Đô đốc Muselier ; Pháp Tự Do phải cố gắng lập liên lạc với một vài nhân vật trong chính phủ Vichy. Phải liên lạc với thống đốc thuộc địa, nhất là Bắc Phi. Nên bắt liên lạc riêng từng người một, trực tiếp hay trung gian thuộc viên của họ, để có những người trung gian sẵn sàng giúp tay cho mình. Hành động như vậy không có nghĩa là thừa nhận Vichy. 3) Tướng de Larminat : Chỉ nên có những liên lạc tùy cơ hội và giới hạn trong một phạm vi nào đó. Trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta cũng không thừa nhận tính cách hợp pháp của một chỉnh quyền Pháp không tiếp tục cuộc chiến. 4) Toàn quyền Eboué : Chúng ta phải tiếp tục bác bỏ mọi sự liên lạc với Vichy và tỏ cho người Pháp biết rằng quyền hành của Vichy không được thừa nhận là hợp pháp. 5) Giáo sư Cassin: Trên nguyên tắc, khước từ mọi sự liên lạc với Vichy đế tránh việc hạ thấp giá trị tinh thần của chúng ta đối với dân tộc Pháp, và tránh âm mưu phá hoại nội bộ của chúng ta. Tiếp xúc kín dáo và gián tiếp. Lúc này, phải nhấn mạnh sự thiếu tự do, quyền hành và tính cách bất hợp pháp của Vichy. Lúc này không nên công kích Pétain. Công kích mạnh thêm, nếu Vichy ngồi lâu ở địa vị ấy đe dọa khả năng phòng thủ Đế Quốc. 6) Đại tá hải quân d’Argenlieu : Phải tiếp tục khước từ mọi liên lạc chính thức với Vichy ; nhấn mạnh đến sự kiện chính phủ ấy chấp nhận đình chiến nên mất hết uy quyền và phái chịu trách nhiệm về hậu quả của cuộc đình chiến ấy ; không nến công khai nói đến cá nhân Thống Chế. 7) Đại tá Leclerc : Đồng ý kiến với toàn quyền Eboué. Kết quả toàn bộ : Nhiều hội viên trong Hội Đồng tản thành việc lập liên lạc không chính thức với một vài nhân vật trong chính phủ Vichy, với một vài đại lãnh tụ hay thống đốc và những thuộc viên của các vị ấy. Nhưng điều nổi bật là sự thận trọng : tiếp xúc, liên lạc không chính thức. Mọi người đều đỏng thanh không thừa nhận chính quyền Vichy, nhưng không đả kích cả nhân Pétain. II. — Tóm lược những câu trả lời vấn đề hai :giả thuyết di chuyển chinh phủ Vichy sang Phi Cháu nhưng vẫn giữ thái độ lập. 1) Tướng Cairoux : Cần phải tăng thêm những cuộc tiếp xúc, nhưng không thừa nhận chính phủ ấy là hợp pháp chừng nào chưa trở lại cầm súng ra trận. Pháp Tự Do không thể ngưng cuộc chiến. Chúng ta trung thành với ý chí chiến đấu bên cạnh người Anh là để đổi lấy những cam kết của ông Churchill. 2) Đô đốc Muselier : Cố gắng tiếp xúc với chính phủ ấy nhưng không thừa nhận quyền hành của chinh phủ ấy vì sự trung lập lại còn hèn nhát hơn và không thể đứng ngoài vòng ảnh hưởng của địch để có thể tha thứ được. 3) Tướng de Larminat : Nếu có thể được thì nói rộng thêm liên lạc nhưng không thay đổi thái độ đối với một chính quyền bất hợp pháp không chịu tiếp tục chiến tranh. 4) Toàn quyền Ẻbouẻ : Cũng trả lời như trên. |