Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 11:18:58 am



Tiêu đề: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 11:18:58 am

        - Tên sách : Khoảng trời Ban-Tích

        - Tác giả : Ni-cô-lai Tsu-kô-ski
           Nhà văn Lê Khánh dịch từ bản tiếng Pháp. Người hiệu đính:  Tất Vinh

        - Nhà xuất bản Lao Động

        - Năm xuất bản : 2001

        - Số hóa : Giangtvx


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Mười Hai, 2018, 11:21:21 am

CHƯƠNG MỘT

MA-SA SÉC-GHÊ-Ê-VƠ-NA

I

        Nhỏ bé trong chiếc áo len, Ma-sa từ xe ca-mi-ông nhảy xuống trước ga Ban-tích, rũ váy dính đất và đi về phía xe điện đỗ.

        Từ hơn một tháng không ở trong thành phố, nay chị quan sát chỗ quen thuộc cũ một cách tò mò lo lắng. Cả tháng vừa qua, chị đi đào hố chống xe tăng, lúc đầu ở phía Kim-gi-sép, rồi ở phía nam O-ra-ni-en-bôm, sau cùng, khi quân Đức chiếm Pê-tê-rốp và Stren-na, thì đào ngay ở sát thành phố, ngay cạnh xưởng chế tạo máy chữ "Lê-nin-grát". Cả tháng đó, cũng như hàng vạn phụ nữ khác, chị cứ để nguyên quần áo mà ngủ, ngủ ngay trên đất, dưới bom đạn, giữa những làng xóm ngụt cháy và những cánh đồng bị cầy xới tung lên. Tin tức về thành phố sơ sài và hiếm; nhưng chị biết là thành phố bị oanh tạc từ những ngày đầu tháng chín và mặt trận cũng chẳng còn cách bao xa. Chị không thể hình dung nổi khi chị về thì phố xá sẽ ra sao, nhưng chị đoán chắc thế nào cũng có sự thay đổi.

        Cho nên chị rất ngạc nhiên khi thấy thành phố vẫn như cũ. Trước ga. những quán bát giác vẫn bán các thứ nước đường nhiều mầu. Các em gái bé vẫn vẽ những ô vuông vẫn đánh đáo trên hè. Người qua đường vẫn nhấm nháp kem cây. Ở ngã ba, đồng chí nữ công an đang giũ chân cho khỏi mỏi. Nước tù trên con kênh, óng ánh vệt dầu lửa. Xe điện vẫn rít bánh như hồi trước chiến tranh. Nhưng trên không cao tít, trong những áng mây nhẹ đầy ánh sáng mặt trời, vệt trắng của một chiếc máy bay ẩn hiện vẽ những đường loằng ngoằng. Ta hay địch? Ma-sa không rõ. Chiếc máy bay làm chị nghĩ đến Kô-li-a Sê-rốp.

        Chị dự định hãy về nhà Bi-strốp ở bên cù lao Vít-si-li. Vì ở nhà chị, còn ai đợi chị đâu! Từ đầu tháng bảy, hai con chị I-ri-nốt-ska và Sê-ri-ô-gia đã đi Van-đai cùng với trại hè rồi.

        Chị còn ở lại một mình cả tháng bảy, đợi tản cư với trường nơi chị dạy Nga văn; trường đã đi thì đi tất cả thầy và trò.

        Những ngày đợi chờ ấy thật là một hình phạt: trong lúc này mà chẳng làm được gì cả! Đầu tháng tám mới quyết định ngày đi, và Ma-sa được lệnh mang theo hành lý đến trường. Đến nơi, lúc đó cần người xung phong đi đào hố chống xe tăng trong mười ngày, được biết hoãn lại mười lăm ngày. Chị xin đi tức thì; không thể cứ ngồi nhà, trong hai gian phòng rỗng, mà đợi được nữa. Chị đi luôn với Ka-tê-ri-na, giảng viên vạn vật học, và không về qua nhà.

        Mười ngày qua, vì đội bổ sung chưa tới, nên vẫn cứ phải tiếp tục. Mười ngày sau nữa, Ma-sa và Ka-tê-ri-na tình cờ gặp một nữ nhân viên Học vụ và được biết trường đã rời đi. Lại qua hai tuần nữa. Một chiếc Mét-séc-mít bắn phá một hố chống  xe tăng đầy phụ nữ đang làm việc. Ka-tê-ri-na bị đạn chết ngay trước mắt Ma-sa. Việc xẩy xa cách đây ba ngày.

        Trước chiến tranh, Ma-sa chỉ hơi quen Ka-tê-ri-na vì hai người không dạy cùng khoa, cùng lớp. Ka-tê-ri-na hơn Ma-sa mười tuổi, hơi có vẻ bề chị, và cũng ít gần gũi. Nhưng tháng vừa qua đã giúp hai người gần nhau và trở thành đôi bạn. Không phải vì họ cùng làm việc, ăn ngủ cạnh nhau, mà vì Ka-tê-ri-na đã tỏ ra rất thông cảm khi Ma-sa kể chuyện dài về cuộc hôn nhân đầu, cảnh goá bụa và tình yêu thứ hai của chị.

        Mùa xuân năm qua, ngày gần trước chiến tranh, tuy có hai con nhưng Ma-sa đã yêu một phi công, Kô-li-a Sê-rốp. Chính chị cũng tự lấy làm ngạc nhiên. Hơn nữa Kô-li-a lại kém chị vài tuổi.

        Trước kia, chị học trường Sư phạm cùng với người mà sau nay là chồng chị. Cùng một lớp, cùng theo Văn khoa nên trước khi lấy nhau, họ đã qua một thời gian yêu đương đằm thắm. Họ hiểu nhau sâu sắc, cùng sở thích, cùng chí hướng, bạn bè là bạn bè chung, nguyện vọng là nguyện vọng chung. Ở trường ra lại cùng một công tác, và họ chắc chắn sẽ sung sướng nếu người chồng không bị bệnh lao. Bệnh tình anh ngày càng trầm trọng. Trong mấy năm liền, một con trên tay, rồi hai con, Ma-sa chữa chạy cho chồng, đem chồng từ an dưỡng đường nay qua bệnh viện khác. Chị phải làm việc đến kiệt sức để nuôi chồng theo mức mà bệnh trạng đòi hỏi, và để cố gắng cứu được chồng. Khi gần chết, anh đâm khó tính, hay cáu gắt, ác một cách vô tình như một đứa trẻ. Tuy vậy khi anh mất, Ma-sa không phải vì thế mà không đau buồn hầu như tuyệt vọng, bao nhiêu lâu vẫn không nguôi. Sau chị tiếp tục làm việc nuôi con, trở lại bình thường và đọc sách rất nhiều, tưởng như cuộc đời sẽ mãi mãi ổn định như thế. Không bao giờ chị nghĩ đến việc đi bước nữa. Công tác, và các con đủ làm cho đời chị đầy đủ.

        Người đàn bà đứng đắn, giản dị và có học ấy tự lấy làm kinh ngạc về mối tình đột nhiên thứ hai. Là sĩ quan không quân, anh thuộc một giới khác, cũng không ở cùng một thành phố. Tình cờ quen biết, Ma-sa đã yêu anh với một tình yêu mà chính chị không ngờ, một tình yêu nó quét sạch hết mọi trở ngại, và khổ thay, đối với cái loại tình yêu như vậy, nghị lực không ăn thua gì cả.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Mười Hai, 2018, 11:31:57 am

        Tuy nhiên một tuần lễ trước chiến tranh, khi anh đề nghị làm lễ cưới, chị đã có can đảm từ chối. Chị từ chối vì chị đã có hai con, chị nghĩ rằng mặc dầu những lời âu yếm, anh không thể yêu được chị, hay có yêu cũng chẳng được bền. Một đêm, khi chị kể câu chuyện này với Ka-tê-ri-na, chị nói thêm: "Thật rõ ràng như 2 với 2 là 4". Có cái chị không kể là lòng nhớ nhung êm nhẹ khi chị nhớ tới con mắt hiền từ, cái lưng hơi cong, đôi bàn tay khỏe mạnh của anh. Trong nỗi nhớ nhung ấy có lẫn cả chút hy vọng thầm kín.

        Trước khi chia tay, hai người chỉ gặp nhau độ bảy, tám bận. Anh thì ở một trường bay ngoại ô xa, và chỉ được tự do ngày chủ nhật. Tháng năm, tháng sáu, không tuần nào anh không đến mời chị đi chơi. Những ngày ấy đã làm cho Ma-sa rất khó xử: chị thấy ngượng với bà cụ hàng xóm và ngượng cả với con bé I-ri-nốt-ska đã gần 9 tuổi. Anh cũng thấy khó xử với lũ trẻ: anh nói chuyện với con I-ri-nốt-ska như với một người lớn. Và khi cho thằng Sê-ri-ô-gia nhẩy trên đùi gối, anh cũng cười, nhưng cười một cách ngượng nghịu.

        Sau khi từ chối cuộc hôn nhân, Ma-sa nghĩ rằng không bao giờ còn gặp anh nữa. Nhưng trong lòng vẫn thầm mong chủ nhật sau anh đến. Anh đến thực, và chị không giấu nổi sự vui mừng. Hôm ấy là ngày 22 tháng 6. Hai người rùng nghe phát thanh lời kêu gọi của đồng chí Mô- lô-tôp. Một giờ sau, anh ra đi.

        Ma-sa tiễn anh ra tận ga Ban-tích. Hai người cùng đi trên xe điện chạy theo kênh. Anh xanh hơn mọi ngày, không nói gì, và suốt thời gian cùng đứng trên xe anh cầm tay chị không rời. Bé nhỏ, chị ngước mắt nhìn anh, đoán xem anh nghĩ gì mà không ra, và kinh ngạc thấy mình sao có thể hiểu anh ít như vậy. Cả hai đều bối rối đến nỗi gần như chẳng nói với nhau câu nào. Chị chỉ có một ý định: là ghi tạc vĩnh viễn nét mặt của anh vào trí nhớ.

        Trên sân ga, anh dặn chị:

        - Phải thận trọng nhé!

        Rồi anh cúi xuống hôn trên môi chị, nhẩy lên toa và tầu chuyển bánh. Chị đi bộ về nhà, đi qua hết cả chiều ngang thành phố.

        Chị chưa hề nói chuyện về anh với một người nào, cho đến cái đêm mà chị kế hết với Ka-tê-ri-na.

        Hai người cùng trú trong một kho lúa. Ánh sao lọt qua kẽ mái nhà. Xung quanh, các phụ nữ khác đều ngủ, kiệt sức vì lao động ban ngày, thu hình người nọ sát người kia để chống lạnh. Ma-sa và Ka-tê-ri-na thức đến sáng. Ma- sa vừa kể thì thầm, vừa khóc. Chị kể hết, không giấu giếm gì, đầy tin tưởng và biết ơn đối với Ka-tê-ri-na, một phần vì Ka-tê-ri-na hy sinh cả giấc ngủ, phần khác vì Ka-tê-ri- na phân tách được những nghi ngờ của chị là vớ vẩn. Câu chuyện kể xong, với tư cách nhiều tuổi hơn, nhiều kinh nghiệm hơn, Ka-tê-ri-na kết luận là chỉ cần bền bỉ chờ đợi vì hai người nhất định sẽ lại tìm gặp được nhau, chị nói thêm:

        - Tất nhiên là nếu cả hai người đều sống.

        Ngày hôm sau, Ka-tê-ri-na bị máy bay bắn chết.

        Ma-sa ít khi đến cù lao Vat-si-li, và cũng khó khăn mới tìm được nhà Bít-strốp, ở một dãv nhà năm tầng trong một phố nhỏ yên tĩnh đằng sau viện khoa học và trường đại học. Từ đầu phố, đã thấy bến sông "Nê-va nhỏ", ánh nước sáng, và sà lan. Ma-sa nhìn dãy nhà và đứng lại.

        Báo tin dữ này sao đây? Chị chưa hề đến chơi nhà Ka- tê-ri-na và không biết mặt ai trong gia đình này. Nghe nói người chồng ra mặt trận. Còn trẻ con thì một trai còn nhỏ, chắc cùng tuổi với I-ri-nốt-ska con gái chị, và một gái -  "Con gái lớn" - như Ka-tê-ri-na vẫn thường kể. Chắc khoảng 18 tuổi. Ka-tê-ri-na đã 40, rất có thể có con gái lớn bằng ấy. Nhưng tên nó là gì? Đúng, là Sô-ni-a... Lại còn ông cụ đẻ ra Ka-tê-ri-na, ông cụ làm trong một viện khoa học; chắc ông cụ đã già...

        Ma-sa nhìn tờ giấy có ghi địa chỉ. Số nhà 28, tầng thứ năm trong sân mé phải. Chị đi dưới một cổng vòm dài vào sân.

        Sân vuông, sâu, xiên ánh nắng mặt trời. Một mũi tên lớn mầu trắng ở trên tường, chỉ lối vào nhà. Một đám trẻ em, phần đông là con trai, đang chơi đùa ồn ào và la hét. Ma-sa thấy một em gái chân dài, lớn và ồn hơn cả bọn. Chúng đang chơi ú tim hoặc mèo đuổi chuột, và cô em gái say mê trong cuộc chơi đến nỗi suýt bổ vào người Ma-sa. Chị để ý đến làn tóc đen của nó, đến cái miệng rộng, cái mũi thẳng, những chấm tàn hương như vẽ thành đôi cánh chim trên đầu mũi, và đôi mắt sâu sáng long lanh đang ham vui đùa.

        Ma-sa rẽ sang phải, dừng lại ở chân cầu thang và ngẩng đầu lên, tìm nhà. Trên cao, cửa kính phản chiếu ánh sáng, chói như ngày hè, chim bồ câu đậu trên bờ cửa sổ.

        Chị đang mải nhìn thì có tiếng chân người dẫm mạnh đằng sau. Chị quay lại: một sĩ quan hải quân đi qua sân; chị thoáng nhìn thấy thân sau chiếc áo ngoài và cái cát- két lật ra sau gáy. Chị nín thở như bị điện giật.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Mười Hai, 2018, 11:32:29 am

        Kô-li-a Sê-rốp củng mặc quản phục Hải quân. Lúc đầu, chị tưởng anh là thủy quân. Chính anh phải giảng cho chị rõ là anh ở trong không quân của hải quân và anh phải giải thích ý nghĩa các phù hiệu anh đeo trên cổ tay. Nhung chị vẫn không hiểu gì lắm. vả lại cái đó đôi với chị không quan trọng hệ. Từ khi anh ra đi, mỗi lần gặp một áo quân phục mầu đen là chị lại rùng mình.

        Người đàn ông tiến về một cửa, ở sâu trong sân. Trước khi vào, ông ta quay lại nhìn Ma-sa: khuôn mặt ông ta đầy đặn và đã luống tuổi, không giống Kô-li-a chút nào.

        Thang gác hơi tối. Ma-sa lên đến tầng 5. Ngoài cửa số nhà 28, sáng loáng một tấm biển đồng đánh bóng kỹ: "Giáo sư I-li-a Mét-ni-kôp". Kiểu chữ là kiểu chữ trước cách mạng. Ma-sa đứng sững trước tấm biển đồng. Mét-ni-kốp là ai? Người thuê nhà hay hàng xóm? Đúng là ông cụ đẻ ra Ka-tê-ri-na. Còn Bít-strốp là tên ông chồng.

        Ma-sa còn tần ngần trước cửa thì có tiếng chân trên cầu thang: có ai vừa lên vừa chạy. Chị cúi nhìn qua lan can thấy em gái suýt làm chị ngã lúc nãy. Nó chạy và leo hai bậc một. Hai người nhìn nhau và đứa em gái nói to:

        - Cô đến nhà cháu phải không? Cháu đoán là cô tìm nhà cháu...

        Ma-sa đợi ở cầu tháng. Đứa em gái đến tầng 5 nhưng chỉ thở gọi là. Không nghi ngờ gì nữa: đúng là con gái của Ka-tê-ri-na. Ma-sa tự lấy làm lạ sao không đoán được ngay từ nãy. Ka-tê-ri-na cũng cao lớn và nước da cũng bánh mật, chỉ có khác là nhiều tóc bạc rồi. Cũng cái mũi nhỏ và thẳng, cái miệng hơi lớn, đôi lông mày... Chị nghĩ bụng: "Con bé chỉ 16 tuổi, có lẽ chưa tới".

        Đôi mắt đứa em gái đã mất cái vẻ vui sướng hồn nhiên. Em nhìn Ma-sa, lo lắng bồn chồn và nghiêm trang:

        - Có phải tin mẹ cháu không? - Em hỏi nhanh và khẽ khi qua những bậc thang cuối cùng.

        Ma-sa gật đầu.

        - Cháu biết ngay là cô ở đằng ấy về. Váy cô đầy dất.

        Em thăm dò nét mặt của Ma-sa, và càng thêm lo lắng:

        - Mẹ cháu đâu? Mẹ cháu làm sao?

        - Cháu tên là Sô-ni-a phải không? - Ma-sa bắt đầu nói.

        - Mẹ cháu chết rồi à?

        Ngạc nhiên thấy em đoán được, Ma-sa lại gật đầu và quay mặt đi.

        Chị nghe thấy hơi thở của em bé đằng sau lưng. Không một tiếng khóc, không một tiếng thở dài. Hai người đứng im như vậy khá lâu. Rồi Ma-sa tìm trong túi áo một gói nhỏ buộc chỉ chữ thập, rút ra và quay lại.

        Hai mắt Sô-ni-a mở lớn, và nước mắt chảy ròng ròng xuống cằm. Nhưng chắc chắn em không biết rằng em khóc.

        - Đạn trái phá phải không cô?

        - Không. Chúng tôi bị máy bay bắn.

        - Hôm nào, cô?

        Ma-sa nghĩ ngợi:

        - Thứ năm...

        - Người ta đã chôn mẹ cháu rồi chứ?

        - Không. Chúng tôi phải lập tức rời cái hố đang ở, và không trở lại được nữa. Bọn Đức bây giờ ở đấy... Cháu cầm lấy cái này...

        Chị đưa cái gói. Dưới dây buộc, là những thư từ còn cả phong bì, chứng minh thư, ba tờ giấy bạc 100 rúp, ảnh một người đàn ông trán hói mặc áo mầu xám và thắt ca-vát, đó là tất cả cái mà Ka-tê-ri-na mang trong người.

        Đứa em gái nhận lấy gói. cầm thờ thẫn nơi đầu ngón tay và cũng chẳng nhìn tới gói. Những giọt nước mắt đọng lớn, rơi xuống thềm.

        Ma-sa khẽ sờ vai em.

        Lúc đó, một tiếng đi nhẹ phía trong cửa. Sô-ni-a giật mình và nét mặt tức thì trở lại bình thản. Em lấy tay áo chùi nước mắt, giấu cái gói vào áo.

        - Cô đi đi, cháu van cô! - Em nói trong một hơi thoảng với Ma-sa - Cháu cảm ơn cô...

        Ma-sa chưa xuống được bốn bậc thì nghe thấy tiếng mở then. Cửa nhà số 28 mở: một ông già bé nhỏ, mặc áo ngả màu da trời, đi giầy vải đỏ đứng ở ngưỡng cửa; ông cụ có một vẻ mặt đã hom hem, mũi dọc dừa, ria nửa trắng nửa xanh. Ông cụ dứng rất thẳng, và cái đầu đội ca lô đen hiên ngang ngửa ra đằng sau.

        - Có phải tin tức của mẹ không? - Ông cụ hỏi với một giọng nghiêm nghị.

        - Vâng - Em bé trả lời rất bình tĩnh, vừa chắn lối để ông cụ không nhìn thấy Ma-sa. - Mẹ cháu nhắn rằng còn ở lại đằng ấy ít lâu nữa.

        - Thì ông đã bảo các cháu rằng đừng vội đi đâu. Đợi mẹ cháu về đã.

        Đứa em gái đẩy nhẹ ông vào trong nhà và vào theo. Cửa đóng lại.
Ma-sa ở phố Mai-a-cốp-ski, trước kia gọi là phố "Hy vọng", trước kia nữa, cách đây một thế kỷ gọi là phố "Sáu cửa hiệu". Chị xuống xe điện ở Nê-vơ-ski và đi vào trong phố, nơi chị thuộc từng vết nứt của lề đường, vừa đi vừa chú ý nhìn xung quanh. Chị thấy ngay ở đây có thay đổi, nhiều hơn những phố khác mà chị đã đi qua.

        Kể từ góc phố, thì cửa kính nhà thứ hai vỡ hết. ở nhà hộ sinh Snê-gây-rếp, tường toác một lỗ lớn, và những giường sắt bị bẻ vặn xếp đống trong vườn. Trước mặt, ở bệnh viện "những người bị nạn trong cách mạng", một trong những chái nhà trắng biến mất gần nửa. Cái nhà ở góc phố Du-cốp-ski hoàn toàn bị tàn phá: những xà sắt trật ra, chổng lên giời. Chỉ còn một góc nhà, xa góc phố nhất là còn đứng chênh vênh, phơi bày các đồ đạc trong nhà tưởng như bị con con dao lớn mổ xẻ ra: nào những giấy hoa có hình vẽ màu lá cây, màu vàng, màu xanh, nào ảnh trên tường, một cái tủ mất cánh trong đó còn lủng lẳng cái áo, và trên cao nhất ở tầng gác trên cùng, một chiếc gương còn phản chiếu màu da trời trong nhợt của tháng chín.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Mười Hai, 2018, 11:04:18 am

        Chắc một quả bom lớn đã rơi ở đấy, vì từ đó đến mãi phố Nê-cờ-rát-sô, các cửa kính đều vỡ. Ma-sa rảo bước, nóng về xem nhà. Tuy vậy chị chẳng lo gì cả. Chẳng còn ai ở nhà nữa nên chị cho rằng quyến luyến với mấy cái đồ vật lặt vặt là vô lý. Từ khi chiến tranh nổ ra, từ khi Kô-li-a Sê-rốp đi và nhất là từ khi các con tản cư theo trường, chị thấy chẳng còn vướng víu gì nữa. Nhà nào đối với chị cũng đáng quý mến như nhà chị? Chị có cảm giác là nhà nào cũng có thể cho chị trú, và ở với ai đi nữa thì cũng chẳng khó hơn là lúc sống ở vựa lúa thời gian đào công sự vừa qua. Chị biết rằng chỉ có cuộc chiến đấu tiếp diễn từ ba tháng nay là đáng kể, và chị sốt ruột được tham gia ngay. Chị sẽ lại đi đào công sự, hoặc sẽ làm việc trong một xưởng vũ khí. Chị còn cần đi tìm các con, gửi gấm chúng và được yên trí là chúng ở một nơi chắc chắn.

        Sau phố Nê-cờ-rát-sô, các cửa kính đều nguyên vẹn. Từ xa, chị trông thấy nhà mình. Chẳng suy suyển gì cả. Trước cửa, chị thấy chị quản lý cười và muốn nói gì với chị. Nhưng Ma-sa vội lên tầng ba, mở cửa - chị giữ chìa khoá trong mình - và bước vào nhà.

        Nhà có ba buồng. Ma-sa ở hai. Cụ An-na, một bà cụ già bé nhỏ nhanh nhẹn, không đứng yên ngồi yên đâu bao giờ và nổi tiếng là hay chuyện ở buồng thứ ba. Trước kìa, bà ở với chồng làm thợ nhà máy, và các con gái. Nhưng ông chồng chết đã lâu, các con gái đi lấy chồng ở tỉnh khác, nên mười lăm năm nay bà ở một mình. Ma-sa đã nhiều lần kỳ kèo bà cụ về cái tính khổ sở là hay đâm chõ vào những việc không dính líu gì đến cụ cả: như cách nấu ăn của Ma- sa, cách dạy dỗ con cái của chị, hay khách khứa của chị. Nhưng kỳ kèo không đến nỗi xảy ra mất lòng bao giờ: vì sửa đổi tính nết cụ An-na là một ảo tưởng vô lý. Phớt đều với kỳ kèo, bà cụ vẫn tiếp tục đâm chõ vào công việc của người khác.

        Một tấm lòng tốt nhưng trái tính trái nết của người già!

        Khéo léo và cương quyết, Ma-sa tìm cách lái câu chuyện về phía mà chị cần biết: tức là trường của chị dọn ngày nào và đi đâu? Đã nhiều năm kinh nghiệm, chị kiên nhẫn đợi khi cụ An-na nghỉ xả hơi là chị len vào một tiếng. Dần dần trong diễn văn cụ An-na đã đả động đến câu chuyện trường; trước cụ tưởng trường dọn đi đã lâu, và cả Ma-sa nữa; rồi cụ lại hay tin là hoãn ngày dọn và Ma-sa thì đi đào công sự.

        Cụ không thể tự tha thứ vì đã không biết dù là một cái gì, và cứ nghĩ đến sự sai lầm của cụ là cụ than thở tự trách mình mãi. Trường dọn đi ngày 20 tháng 8 về phía Vô-lô- đa, sau đó thì không biết là đi đâu nữa; phải đến tận nơi mà hỏi. Trường thật là may vì là bộ phận cuối cùng ra đi ngay trước mũi bọn Đức, từ đó, không ai đi, không ai về được nữa...

        - Thế nào? Không ai đi nữa sao? - Chị Ma-sa hỏi - Có lẽ nào?

        Nhưng cụ An-na lấy tin ấy từ một nguồn chính xác, và cụ lại bắt đầu kể với vô số chi tiết về những người mà từ mười lăm ngày nay ở liền trong các toa xe đằng sau ga Mát-scơ-va, nấu ăn đây, giặt giũ đấy, và đợi ngày ra đi. Nhiều người chờ đợi đâm chán, đã trở về nhà.

        - Thế bao giờ họ lại đi?

        - Khi nào thành phố hết bị vây. - Cụ An-na vừa nói vừa nhìn Ma-sa một cách có ý nghĩa. - Cũng chẳng sao! Thằng I-u-đê-nít1 trước kia cũng đã đến sát đây. Thế rồi sao? Nó có vào được hay không?

        Chính mắt Ma-sa đã thấy ở phía đông nam bọn Đức gần tới ngoại ô. Nhưng thành phố bị vây ư, chị không hề nghĩ đến hoàn cảnh kinh khủng ấy. Thật ra, hồi làm ở công sự, có một chị thuật chuyện rằng các đường sắt đều bị cắt, và thành phố đã thành một cái bẫy chuột; những câu nói đó đã làm công phẫn mọi người, khiến chị ta phải im ngay, và Ma-sa cũng không tin lời nói đó.

        - Cụ An-na, cụ nói gì vậy? Ngày mai tôi đi Van-đai đây?

        Nghĩ rằng một chướng ngại không thể vượt nổi đã ngăn

        cách chị với các con, Ma-sa không ngăn nổi nỗi tuyệt vọng. Nhưng cụ An-na vẫn thản nhiên:

        - Chị sẽ không đi. Không. Không đi được. - Cụ nhắc lại vài chục lần.

        Cụ nêu lên một loạt ví dụ, kể một tràng tên kèm cả biệt hiệu, cả nghề nghiệp, tuổi và hoàn cảnh gia đình, làm cho lòi nói của cụ có vẻ không thể sai vào đâu được. Ma-sa bàng hoàng, đứng không vững nữa. Chị ngồi xuống mép giường.

        - Nhưng chị đi Van-đai làm gì? - Cụ An-na hỏi bất thình lình.

----------------------
        1. Bạch vệ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Mười Hai, 2018, 11:04:48 am

        Ma-sa phẫn uất vì câu hỏi. Cái bà già này đã sống mười năm cạnh chị, ngõ ngách nào cũng đâm chõ vào, và nay lại chẳng hiểu gì cả sao?

        - Thế cụ không biết rằng các con tôi ở Van-đai à?

        Một tia sáng cho cụ An-na. Chưa chi, mắt cụ đã ngời lên vui sướng, và cụ vừa nói vừa nghẹn:

        - Nhưng... I-ri-nốt-ska và Se-ri-ô-gia ở đây mà...

        - Đâu?

        Ma-sa đứng phắt lên.

        - Phố Ba-skốp, ở nhà bà Toóc-cu-nốp.

        Cụ An-na hai tay ôm đầu và tự trách móc mình. Xuẩn thay cho cụ đã không nghĩ ngay từ đầu là Ma-sa đâu có biết việc trở lại của hai con chị.

        Rồi cụ lại còn ngạc nhiên khi thấy chị muốn đi Van-dai! Đúng, người ta đã đưa hai đứa trẻ về ngay hôm nhà trường dọn đi. Vì trại trẻ bị oanh tạc dữ không thể để ở Van-đai, người ta đưa chúng về để hy vọng đưa chúng tản cư đi nơi khác. Chúng về đến nơi yên ổn. Nhưng không làm sao cho chúng đi được nữa. Vì Ma-sa đi làm công sự nên bà Toóc-cu-nốp đem hai đứa trẻ về nhà mình.

        Ma-sa lần đầu tiên nghe nói đến tên Toóc-cu-nốp mà theo ý cụ An-na thì tất cả mọi người đều phải biết. Đứng trước cụ, chị hỏi lại:

        - Các cháu ở đâu? Đi ngay cụ.

        Ma-sa để nguyên áo quần và chân đất như vậy chạy té ra cửa, cụ An-na bắt chị phải đi giầy đã. Cụ lăng xăng, đầy kiêu hãnh vì đã chứng kiến một sự việc vui sướng như thế, và đã nắm trong tay mình hạnh phúc của chị láng giềng. Trong khi Ma-sa lóng cóng xỏ vội đôi tất, cụ mới giảng cho nghe là bà Toóc-cu-nốp ở phố Ba-skốp, cũng gần đây, rằng ông chồng thì ở ngoài mặt trận, rằng đứa con gái tên là Luy-xi-a cũng bằng tuổi với I-ri-nốt-ska...

        Hai người xuống cầu thang, cụ An-na đi trước, nhanh và nhỏ như con chuột, chị Ma-sa theo sau. Chiều xuống, hoàng hôn đã phủ nhà cửa một mầu xanh xanh nhưng trên không còn đỏ và mặt trời chiếu vào những vệt trắng của máy bay. Chẳng nhìn gì cả, Ma-sa chạy đến phố Ba- skốp. Hai người leo một cầu thang, dừng lại trước một căn nhà và gõ cửa. Một người đàn bà lạ mặt vóc cao lớn, ra mở cửa và nhìn Ma-sa bằng con mắt nghiêm khắc. Ma-sa không hỏi, cũng không nói phân trần gì cả. Sau người đàn bà lạ mặt, phía trong cùng căn phòng, Sê-ri-ô-gia đang cúi xuống cái ca-mi-ông sắt tây và cho xe chạy, Ma-sa chạy xổ lại ôm con vào tay. Lúc đó chị mới trông thấy cả I-ri-nôt-ska trên đầu đeo cái nơ lớn không giống cái nơ mọi khi.

        Trong lúc ở ngoài buồng khách, cụ An-na đưa bà Toóc- cu-nốp chìm đắm vào một bể chuyện, thì Ma-sa ôm hai con sát vào lòng, vuốt ve chúng, cho chúng nhẩy lên cánh tay, hôn chúng, cả ba, và nhất là người mẹ, đều nói những tiếng không đâu vào đâu... Đã hai tháng rưỡi chị không trông thấy con. Chúng nó có thay đổi. Nghỉ hè ở Van-đai có lợi cho chúng. Lớn và khỏe ra, nhất là Sê-ri-ô-gia thì mớ tóc vàng hoe đã được mặt trời làm sáng ra, sáng hơn nước da mặt rám nắng.

        Bà Toóc-cu-nôp muốn mời chị Ma-sa ngồi và uống chén chè. Nhưng chị không muốn ở lại thêm một phút nào nữa, nóng đem con về nhà để được hú hí riêng. Chị vội vã cảm ơn, hứa ngày mai sẽ lại hôn em bé Luy-xi-a và dẫn con đi. Một tay bế Sê-ri-ô-gia - thằng bé vẫn không rời cái xe ca- mi-ông; chị đeo cái túi dết đựng quần áo của chúng; I-ri- nốt-ska chạy trước.

        Về nhà trước hết là sửa soạn che ánh sáng vì phải châm đèn. May thay cụ An-na còn mắc bận đi loan báo tin mừng! Trong bếp, nước lục bục sôi. Ma-sa lau cho mình và cho các con. Rồi cùng ăn cơm và uống nước chè, ăn kẹo. Sê- ri-ô-gia chưa uống xong đã ngủ, Ma-sa đặt con lên giường với cả chiếc xe ca-mi-ông. Nửa giờ sau, I-ri-nốt-ska cũng ngủ nốt.

        Ma-sa còn lăng xăng thêm ít việc, mệt mỏi nhưng rất sung siíớng. Đã hơn một tháng chị chưa được ngủ trong một cái giường tốt, có đệm, có vải trải giường sạch sẽ. Chị duỗi mình khoan khoái. Ngày mai, chẳng đi đâu cả. Tiếng súng cao xạ phòng không lúc mau, lúc thưa, khi xa khi gần, như tiếng sủa của con chó săn. Nhưng Ma-sa không để vào tai, chỉ chăm chú nghe tiếng thở của các con. Chị còn thiếu gì nữa? Tìm thấy các con, là chị thấy đầy đủ rồi.

        Cụ An-na về, đẩy cửa buồng Ma-sa và đứng dừng ở ngưỡng cửa: đã mười năm chung sống, Ma-sa không làm sao huấn luyện được cho cụ biết gõ cửa trước khi vào.

        - Chị ngủ à?

        Ma-sa mở mắt.

        - Chị biết chưa, anh ấy đến đấy!...

        - Ai cơ ạ?

        - Người yêu của...? Người phi công ấy.

        Ma-sa ngồi nhỏm dậy.

        - Anh ấy đến à? - Chị nhắc lại một cách sợ hãi. Hai tai chị lùng bùng. Niềm vô tư sung sướng từ chiều biến mất.

        - Anh ấy lại, ở chơi bên tôi nói chuyện từ sáng đến bữa cơm trưa. Anh ấy hỏi thăm chị và các cháu. Tôi kể hết.

        - Cụ kể cái gì?

        - Kể ráo.

        - Gì chứ?

        - Kể là trẻ thì đi trại và chị thì đi với trường.

        - Với trường? Nhưng tôi có đi với trường đâu?

        - Thì trước tôi tưởng vậy.

        - Thế sau đó anh ấy có trở lại nữa không?

        - Còn trờ lại làm gì nữa. Anh ta tưởng chị di Vô-lô-đa rồi.

        Lê đế giầy, cụ An-na trở về buồng mình, vừa đi vừa lẩm bẩm.

        Chị Ma-sa nghĩ thầm: "Dù sao thì anh ấy cũng có lại".


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Mười Hai, 2018, 07:54:47 am

CHƯƠNG HAI

THIẾU TÁ LU-NIN

I

        Ngay ngày hôm đầu của chiến tranh, Công-stăng-tanh Lu-nin, huấn luyện viên trường dạy lái máy bay ở một thành phố miền nam Liên Xô, đã đệ đơn xin ra mặt trận. Anh là một người to ngang, đứng tuổi, mắt sáng xanh, gò má rộng, bắt đầu hói.

        Ở trong ngành hàng không từ khi còn rất trẻ, anh đã có hàng ngàn giờ bay trong bảng thành tích và đã huấn luyện được hàng trăm phi công trong đó có nhiều người đã nổi tiếng. Loại chuyên gia như anh, không ai tự nhiên bằng lòng cho ra mặt trận cả. Nhưng anh rất cứng đầu. Sau một thời gian ngắn tập sự trong một trung đoàn dự bị, cuối tháng tám người ta chuyển anh về sư đoàn máy bay chiến đấu của Hạm đội Ban-tích.

        Anh nhận giấy đi đường ở Mát-scơ-va. Hội đồng cấp bậc đề bạt anh chức thiếu tá, chắc là căn cứ vào những năm chiến đấu của anh trong thời kỳ nội chiến và thâm niên của anh trong ngành Hàng không. Hơi có vẻ ngượng nghịu dưới cái cát-két đen và trong cái áo ngoài lon vàng, tay phải xách va li, tay trái ôm áo ca-pôt, anh đi về phía ga

        Lê-nin-grát: đến Lê-nin-grát anh sẽ biết địa điểm của Sư đoàn.

        Toa xe anh lên chật ních bộ đội. Phần đông không đi quá Ka-li-nin. Nhiều người nói chắc là tầu sẽ không đi được xa hơn, vì đường tẩu bị oanh tạc. Người ta bảo anh:

        - Đồng chí thiếu tá nên đi lối Vô-lô-đa thì hơn. Đường Vô-lô-đa - Lê-nin-grát vẫn chạy đều đến cả giờ tàu cũng không thay đổi.

        Tuy nhiên sau vài giờ ngừng ở Ka-li-nin và thay đổi gần hết hành khách, tầu lại đi. Tầu đi chậm, đỗ hàng giờ ở những nơi bất ngờ nhất. Ai có hỏi, thì các nhân viên xe lửa chỉ trả lời một câu:

        - Đang chữa đường.

        Những cánh rừng bị bom bốc cháy. Những miệng phễu mới há toác dọc đường tầu: những đầu tầu què quặt, những toa tầu nát vụn xếp đống dưới chân đường. Ga Bô- lô-gô-i-ê chỉ còn là một đống gạch vữa. Mỗi phút người ta đều chuẩn bị tinh thần chịu oanh tạc. Cũng lạ là tầu còn nguyên vẹn mà đi.

        Sáng hôm thứ tư, tầu vượt qua cầu Von-khốp và đỗ ở ga Tơ-su-đô-vô. Chỉ còn khoảng 100 cây số thì đến Lê-nin- grát. Khắp nơi bốc cháy như điên cuồng, từng đoàn dầy đặc người, bò, xe, đi trên đường. Tầu ở đấy cả ngày, và tiếng đại bác mỗi lúc một lớn.

        Thoạt tiên người ta tưởng là đường còn đang chữa. Nhưng các nhân viên hỏa xa cho biết là giữa Tu-si-đô-vô và Lê-nin-grát bọn Đức đã cắt đường.

        Có tin tầu sẽ đi ngả khác. Tuy vậy, người ta biết có một đường sắt đơn nối Tơ-su-đô-vô với ga Ki-ri-si trên đường nhánh Ri-bin - Pê-stô-vô - Lê-nin-grát. Chiều đến, lợi dụng bóng tối, tầu men theo hữu ngạn sông Von-khôp đi về phía đông bắc.

        Đến sáng khi tầu đỗ ở Ki-ri-si, hành khách trông thấy dòng nước đục sông Von-khốp; trên sông chậm lướt những sà lan đen lớn chở đồng bào tản cư, với tiếng trẻ khóc và tiếng bò kêu. Nhân dân Nô-gô-rốt chạy giặc Đức bằng đường sông, về phía hồ La-đô-ga. Được tin đường Pê-stô- vô - Lê-nin-grát cũng bị cắt vì bọn Đức đã tràn qua mé nam Lê-nin-grát.

        Con đường sắt độc nhất chạy theo sông Von-khốp gặp đường Lê-nin-grát - Vô-lô-đa ở Von-khô-strôi. Đỗ một hồi lâu, tàu lại đi về phía Von-khô-strôi để theo đường Lê- nin-grát về phía đông còn đi được.

        Cuộc hành trình kéo dài đã năm ngày. Ba ngày liền sát ngay mặt trận: tiếng nổ ầm ầm khắp nơi, các rừng bốc cháy. Cuối cùng Lu-nin nhìn thấy qua cửa toa một cái thác khổng lồ trông như thép chảy, và ở dưới, bọt trắng như không động - cái đập cạnh nhà máy Thủy điện Von-khôp.

        Đến ga Von-khô-strôi, được tin tầu không đi Lê-nin- grát mà rẽ đi Vô-lô-đa, theo lệnh trên.

        Lu-nin xách va li xuống.

        Các đường ngộn những đoàn tầu. Tất cả hướng về phía đông, tất cả muốn vượt cầu Von-khốp, nhưng tầu đông quá, phải đợi lượt. Máy khoan, máy tiện... xếp đống trên toa chở hàng. Đàn ông, đàn bà, trẻ con chen chúc nhau trong toa - tất cà đều là dân Lê-nin-grát đã lợi dụng con đường cuối cùng còn đi được. Dạo từ đường này qua đường khác và hỏi chuyện mọi người Lu-nin biết họ khởi hành đã từ lâu. Ngày hôm đó, không một chuyến tầu nào từ phía tây lại. Tin đồn có sự gì xẩy ra ở ga Mơ-ga, đúng giữa chặng từ Von-khô-strôi đi Lê-nin-grát, nhưng chẳng ai nói được rõ xẩy ra cái gì, và còn có thể đến Lê-nin-grát bằng tầu hay không?

        Đi vơ vẩn giữa các đường, theo bóng các toa tầu để tránh nắng chiều đang hun đốt những đống cứt sắt, Lu-nin  đứng ngay cạnh một đầu tầu tỏa kín hơi nước. Hơi nước tan, anh nhận thấy đầu tầu không quay về phía cầu như mọi cái khác mà lại quay về phía tây, phía Lê-nin- grát.

        Đây là một cái đầu máy dùng để thay phiên. Đồng chí thợ máy râu rậm, cúi cái đầu đội chiếc cát-két đầy dầu mỡ qua lan can. Một sĩ quan hải quân ngồi vát vẻo trên các khúc cây ở toa củi, và ánh nắng làm lóng lánh những chiếc lon vàng trên tay áo.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Mười Hai, 2018, 07:55:46 am

        Chiếc đầu máy quay về phía Lê-nin-grát và đồng chí thủy quân làm Lu-nin chú ý. Anh đến gần toa củi và dừng lại. Đồng chí sĩ quan đã quá tuổi thanh niên. Anh ta có một bộ mặt mỏng như lưỡi dao, lưng hơi còng, và gầy đến nỗi quân phục như chỉ mắc vào một cái khuy. Vì trên cao, anh nheo đôi mắt cận thị nhìn Lu-nin.

        - Đồng chí đi đâu? - Lu-nin hỏi.

        - Lê-nin-grát.

        - Đi bằng đầu máy này à?

        - Hẵng biết bây giờ là như thế.

        - Đi qua Mơ-ga phải không? Đồng chí có chắc đi qua được không?

        - Sau sẽ hay.

        Anh ta còn nói thêm gì nữa, nhưng đầu máy rúc còi và lại tỏa kín hơi nước, nên Lu-nin không nghe rõ. Chậm chạp, bánh xe bắt đầu chuyển.

        - Tôi đi theo đồng chí! - Lu-nin bất thình lình kêu to và bám vào bực thang tầu.

        Tự ngạc nhiên về ý định của bản thân mình, Lu-nin đứng hồi lâu cheo leo ở cái thang thẳng đứng. Đồng chí thủy quân đưa tay đón, bàn tay xương xẩu và không có một tí sức mạnh, Lu-nin gạt ra và để chân lên toa củi.

        Đầu máy đã mở hết tốc lực và rít ken két khi đi qua các chỗ bẻ ghi. Người lái đầu máy còn trẻ nhìn hai người sĩ quan bằng con mắt không tán thành, nhưng không nói gì hết. Lu-nin  ngồi trên một khúc cây. Anh nhìn đồng chí thủy quân, đồng chí này nhìn lại. Dù sao cũng phải nói chuyện.

        - Đồng chí ở xa đến à? - Đồng chí thủy quân hỏi thật to để át tiếng bánh xe.

        - Từ miền nam. Từ biển A-dôp.

        - Đồng chí đi biển A-dốp à?

        Lu-nin bèn cười:

        - Tôi chưa hề đi biển.

        Đồng chí thủy quân nhìn Lu-nin, ngạc nhiên hỏi:

        - Thế lon của đồng chí là thế nào? - Anh hỏi có vẻ ngượng - Tôi xấu hổ mà thú thật ràng tuy tôi có đeo lon hải quân nhưng tôi thực không phân biệt được cấp bậc. Phù hiệu bộ binh tôi còn biết ít chút... Đồng chí là thiếu tá hải quân phải không?

        Lại đến lượt Lu-nin ngạc nhiên. Bản thân anh chẳng giỏi gì về lon, nhưng dù sao một sĩ quan hải quân cũng phải nhận được chứ. Và anh trả lời:

        - Tôi là thiếu tá không quân.

        - Thiếu tá không quân?

        - Chính thế! Tôi không phải sĩ quan hải quân mà là phi công. Đồng chí xem, tôi đeo lon nền xanh. Tôi là phi công ngành hàng không dân dụng, chuyến sang phi công trong hải quân. Còn đồng chí có phải là đại úy hải quân không?

        - Xem ra đồng chí cũng lúng túng về lon như tôi. Tôi thuộc ngành chính trị. Và cũng chưa hề đi biển lần nào.

        Cả hai cùng phá lên cười.

        - Tôi viết báo - Đồng chí thủy quân chưa hề đi biển kia giải thích. - Tôi phụ trách một tờ báo địa phương. Người ta phát cho tôi bộ quân phục và một tờ giấy đi đường đến Lê- nin-grát là nơi tôi nhận công tác.

        - Chắc là công tác ở một tờ báo của Hạm đội.

        - Chưa biết... Cho phép tôi tự giới thiệu: Khô-vơ-rin.

        Lu-nin cũng tự giới thiệu. Khô-vơ-rin hỏi:

        - Đồng chí ở miền nam đến mà lại nói giọng bắc?

        - Tôi quê miền Vô-lô-đa.

        - Đồng chí ở hàng không đã lâu chưa?

        - Từ nhỏ. Tám tuổi, tôi đã mơ ước máy bay. Bay bằng bong bóng bò, và tập nhảy từ vựa lúa xuống bằng lông gà sống! Năm 12 tuổi, tôi đã chế ra một kiểu nhỏ bay cao được 100 thước.

        - Đồng chí học bay từ bao giờ?

        - Ngay sau nội chiến, khi mở lớp Ôt-sô-a-ri-a-khim.

        - Các đồng chí hành khách, làm ơn đưa hộ ít củi.

        Anh lái đầu máy gọi nhưng không nhìn hai người.

        Lu-nin làm ngay, kéo củi ra và chuyền cho anh lái đầu máy. Khô-vơ-rin nặng nhọc nhắc một khúc. Mồ hôi lấm tấm trên trán anh. Sau khi chuyển được năm khúc, anh thở dốc và ngồi xuống mặt tái nhợt.

        "Cậu chẳng có gì là võ sĩ cả" Lu-nin nghĩ thầm, và tiếp tục chuyển củi không vội vàng, không mệt nhọc.

        Đầu máy lao thẳng về phía mặt trời lặn, không đỗ ở ga nào, và rúc còi inh ỏi khi qua các khúc đường cong. Tất cả đều im lặng, hoang vắng. Lu-nin nhận thấy không gặp một chuyến tầu nào. Các miệng phễu bom há toác, hai bên đường. Hoàng hôn xuống mau và mọi vật sẫm lại, lẫn vào nhau.

        Đột nhiên, đầu máy hãm phanh trước một nhà ga tối. Thợ máy và lái đầu máy đều xuống và biến sau ga. Họ vắng mặt gần một giờ. Đêm đã xuống, tròi lành lạnh. Ngồi trên một khúc cây trong toa củi, Lu-nin lại nhận thấy những tiếng quen thuộc của mặt trận. Từng đám cháy lớn ranh giới không rõ, làm mờ ánh sao. Những lưỡi lửa nhẩy múa ở chân trời phía tây, và trên nền đó, rừng in rõ bóng nhấp nhô.

        Thợ máy và người lái đã về. Đầu máy chuyển bánh, nhưng lần này, chỉ tiến chậm chạp thận trọng. Tầu vượt hai ga nữa và đỗ ở ga thứ ba. Người lái nói:

        - Xuống thôi, không đi xa hơn nữa.

        Chắc anh ta thương hại khi thấy hai người dấn vào đêm tối. Từ xa anh ta nói to:

        - Gõ cửa ngay nhà đầu tiên. Đâu cũng cho các đồng chí nghỉ.

        - Đường ô tô ở phía nào? - Khô-vơ-rin hỏi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Mười Hai, 2018, 08:14:46 am

        Người thợ máy râu rậm cúi đầu qua lan can:

        - Các đồng chí đi đâu? Đi Lê-nin-grát à?

        - Đi Lê-nin-grát.

        - Hết đường. Bọn Đức đã chiếm Mơ-ga.

        Người thợ lái nói:

        - Đường ô tô qua phía bắc Mơ-ga, giữa đường sắt và hồ La-đô-ga, qua Cờ-rát-ni-sum.

        Người thợ máy nói:

        - Thế ngộ đường ô tô cũng bị cắt thì sao?

        - Thế ngộ chưa bị cát thì sao? - Khô-vơ-rin trả lời.

        - Tôi chẳng biết rõ đâu - Người thợ máy nói một cách đắn đo: ở đây thì đường ôtô ngay gần, cách ba cây số.

        Hai người đi vào đêm tối, trước thì đi giữa những nhà gỗ thông cửa sổ tối om, sau đi trên một con đường nhỏ vẽ thành một vệt mờ trắng lờ mờ qua cánh đồng, cả hai mang va li, Khô-vơ-rin mang một chiếc nhỏ xíu mà có vẻ vất vả, Lu-nin một chiếc lớn rất nặng nhưng không vướng vít gì cả. Khô-vơ-rin nói:

        - Thử đi đường ôtô xem, ít nhất cũng khỏi thắc mắc.

        Đến ngã ba, một người đội cát-két quân đội lại hỏi, Lu-nin chiếu sáng người đó bằng đèn pin. Một thiếu úy vóc người rất nhỏ. Anh đứng nghiêm và chào theo điều lệnh, rồi hỏi:

        - Các đồng chí đợi xe Von-khô-strôi?

        - Không, đợi xe Lê-nin-grát.

        Đồng chí thiếu úy bé nhỏ lặng im, quan sát nét mặt hai người thủy quân. Rồi lại nói:

        - Trước đây một giờ rưỡi, còn đầy xe, từng đoàn.

        - Đi Lê-nin-grát à ?

        - Không, đi Von-khô-strôi. Tôi đi đằng ấy. Đi phía Lê- nin-grát thì hình như trưa không thấy xe nào. Tôi vừa vào trú xá lấy đồ đạc. Trở lại, thì đường đứt hẳn, không còn một xe. Tôi đợi đã 40 phút.

        Mọi người ngồi xuống cỏ bên đường. Lu-nin nhìn sao. Trong im lặng của đêm tối, nghe rõ mỗi tiếng động, tiếng đại bác như nổ gần sát ở mé tây, vì khoảng cách giữa tiếng đạn nổ và tiếng đạn ra khỏi nòng rất ngắn. Mỗi lần đạn nổ, không khí lại rung lên.

        Bắt đầu lạnh. Đồng chí thiếu úy mặc áo ca-pốt vào và nói:

        - Đạn từ La-đô-ga.

        - Đây đến La-đô-ga có xa không? - Lu-nin hỏi.

        - Không, vài cây số thôi.

        Tất cả chồm dậy, khi nghe tiếng ôtô tới. Xe từ phía Lê- nin-grát lại. Đồng chí thiếu úy đứng sững giữa đường để chắn xe. Anh yêu cầu Lu-nin:

        - Đồng chí chiếu đèn pin đi, nếu không, họ không dừng lại đâu.

        Bóng một ca-mi-ông lớn đến gần, không đèn lửa gì hết. Những bóng người chùm áo kín nhẩy chồm chồm trong khoang xe. Lu-nin bật đèn. Đồng chí thiếu úy vẫy tay. Xe rít bánh đỗ lại.

        Trên xe, sáu, bảy người đàn bà trùm kín im lặng nhìn mặt họ. Người lái xe ra khỏi ca-bin, và chẳng nhìn ai, trước hết đi thử bánh. Một ca-mi-ông dân dụng và đồng chí lái xe ngành dân dụng.

        - Anh ở Lê-nin-grát lại? - Khô-vơ-rin hỏi trong khi đồng chí thiếu úy trèo lên khoang sau.

        Người lái xe gật đầu.

        - Anh ở đấy đi lúc nào?

        - Hai giờ.

        - Đằng ấy ra sao?

        - Rất tốt! - Người lái xe nói cụt lủn.

        Anh ta đứng ngay lên, nhìn kỹ Khô-vơ-rin và Lu-nin, rồi nhắc lại:

        - Rất tốt, nhưng không ai đi qua được nữa. Hết đường!

        - Thể sao anh qua được!

        - Thì vẫn qua... Đường bị ném bom; bốn lần, chúng tôi đầy đất... Chẳng còn ai qua được nữa.

        Anh ta lên xe và xe chuyển bánh.

        Lu-nin nhìn Khô-vơ-rin. Anh chàng viết báo khẳng khiu này sẽ làm gì đây?

        Có đáng đợi nữa không?

        Khô-vơ-rin lại ngồi xuống cỏ. Lu-nin làm theo.

        Anh nhìn thấy rõ tình huống Lê-nin-grát. Bọn Đức đã tràn qua phía nam thành phố, cắt con đường sắt cuối cùng. Chúng oanh tạc cách đây một giờ, nhưng bây giờ có lẽ đường đã bị cắt. Chỉ vài cây số từ đường đến bờ hồ La-đô- ga. Khi nào kẻ thù tới hồ, là Lê-nin-grát bị bao vây. Phía bắc giữa vịnh và hồ là quân Phần Lan. Phía tây là vịnh. Phía nam là bọn Đức. Phía đông là hồ. Eo đất Ca-rê-li trên đó có Lê-nin-grát sẽ thành một cái đảo. Có lẽ đã thành rồi.

        Họ ngồi lâu trên cỏ không nói gì. Sao lạc trên đầu họ. Tiếng đạn ra nòng, tiếng đạn nổ, tiếng đạn ra, tiếng đạn nổ. Hình như nổ dữ hơn trước.

        Đột nhiên họ nghe tiếng sắt lại gần. Ở phía đông lại, mé Von-khô-strôi - chắc là một ca-mi-ông. Trên thùng xe, có tiếng gì nghe rờn rợn.

        Chiếc xe nhô khỏi đêm tôi nhanh quá làm họ chỉ vừa vặn đủ thì giờ nhẩy chồm ra mặt đường. Lu-nin bấm đèn và vừa nhẩy xổ vào phía đầu máy vừa kêu. Xe vượt họ, phanh cách đó mươi thước và đứng lại. Họ lao đến cho kịp xe. Người lái nhìn họ qua cánh cửa mở.

        Lu-nin chiếu đèn vào anh ta. Một chiến sĩ rất trẻ, vẻ mặt trẻ măng, tinh nghịch. Khô-vơ-rin nói:

        - Cho chúng tôi đi với!

        - Các đồng chí đi đâu?

        - Thế cậu?

        - Đi chỗ tôi đi, chắc các đồng chí không đi chỗ ấy...

        - Cậu biết đâu. Thế cậu đi đâu?

        - Đi ra tỉnh lỵ.

        - Chúng tôi cũng thế. - Khô-vơ-rin vừa nói vừa đặt va li vào khoang sau.

        Chói mắt vì đèn, đồng chí lái xe bây giờ mối biết là hai sĩ quan. Anh ta thay hẳn giọng nói với Lu-nin vì Lu-nin cấp bậc cao hơn:

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá, không đi được nữa.

        - Thế sao cậu đi được?

        - Tôi đi được, cần phải thế.

        - Chúng tôi cũng cần phải thế! - Khô-vơ-rin vừa nói vừa trèo lên khoang sau.

        Đồng chí lái xe đề nghị Lu-nin ngồi trong ca-bin, nhưng từ chối:

        - Ngoài trời tốt hơn. Tôi ngồi với bạn tôi.

        Hai người ngồi trên rơm, lưng tựa vào thành ca-bin. Chiếc ca-mi-ông phóng đi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Mười Hai, 2018, 08:15:23 am

        Một thùng xăng rỗng lăn ầm ĩ trên xe. Lu-nin và Khô- vơ-rin cắt lượt nhau lấy chân đẩy nó ra nhưng nó lại tấn công tức thì. Dần dần, sự việc xung quanh làm họ không để ý đến nó nữa.

        Đạn ra... đạn nổ... ra... nổ. Sau đó nhận rõ đạn ra bên trái, và nổ bên phải. Tiếng nổ ngày càng dữ. Ca-mi-ông xông thẳng vào khu vực bị oanh tạc. Cứ mội tiếng nổ, sáng lòe rất mạnh đến nỗi Lu-nin nhìn thấy rõ cả chân mình, thùng xăng, thành xe phía sau và con đường giữa hai hàng cây nhấp nhô.

        Xen với tiếng đạn ra nòng, tiếng đạn nổ, thêm tiêng thứ ba một tiếng dài khó chịu.

        - Tiếng gì nhỉ? - Khô-vơ-rin hỏi.

        Chắc chắn anh ta chưa hề nghe tiếng đạn bay. Mỗi tiếng đạn ra nòng, anh thụt đầu vào hai vai, tai vểnh lên và ngừng thở cho đến khi đạn nổ.

        Ca-mi-ông không ngừng phóng. Phóng với một tốc độ điên rồ làm họ nhẩy chồm chồm trên rơm cứng. Họ không đẩy cái thùng xăng nữa, chỉ chắn bằng bàn chân cho nó khỏi lăn lên người. Tiếng nổ ầm ầm gần sát, váng tai như sấm gầm.

        Ù tai vì tiếng động, và loé mắt vì ánh lửa, Lu-nin thình lình thấy mình rơi tụt vào phía cùng của khoang xe. Thùng xăng lăn trên lưng. Đất bám đầy người, dính cả vào mặt. Anh đẩy thùng xăng ra và ngồi lại, tìm xem trong người có còn nguyên vẹn? Toàn thân đau dần. Duy một sự việc là rõ: anh vẫn ngồi với Khô-vơ-rin trong xe và xe vẫn chạy.

        Tiếng nổ liên tiếp không ngừng, và dưới ánh sáng lòe, Lu-nin nhìn thấy cây cối bị xé. Thùng xăng như điên cuồng và luôn luôn lăn vào họ. Họ đang xông vào giữa lò lửa.

        Lu-nin lại thấy mình ngã lật xuống và sắp va vào thành sau xe, nhưng lần này không nghe thấy tiếng nổ. Ca-mi-ông chúi mũi xuống một cách lạ kỳ, chồm lên rồi dừng lại. Dừng lại trong giờ phút này thật là đáng sợ hơn cả. Khô-vơ-rin đứng lên trước tiên và nhìn qua ca-bin.

        - Bánh xe rơi ngập vào một miệng phễu.

        Ca-mi-ông vừa rú, vừa chồm chồm vài cái, nhưng không ăn thua gì.

        Cửa hé mở, người lái xe trẻ tuổi nhẩy xuống mặt đường. Anh ta kêu to một câu gì mà Lu-nin nghe không rõ vì lại có một tiếng nổ gần nữa. Khô-vơ-rin dán mình xuống sàn xe, anh lái chui dưới bánh xe, nhưng một khoảnh khắc sau, lại đứng dậy, và thò cái đầu đội mũ ca-lô xệch đến tai lên trên thành sau xe.

        - Các đồng chí chạy vào rừng đi.

        - Thế cậu? - Khô-vơ-rin hỏi.

        - Chạy đi, chạy đi! Tôi sẽ tới sau... - Anh ta khoa tay mạnh.

        Khô-vơ-rin ném va li qua thành xe, và nhẩy xuống đất. Lu-nin theo sau. Họ chạy vài bước trong rừng. Thình lình nghe thấy tiếng rú ghê rợn của một quả đạn bay tới. Lu-nin  kêu lên:

        - Nằm xuống.

        Anh nằm dính xuống đất và kéo tay áo Khô-vơ-rin bắt cũng làm như vậy. Bằng đuôi con mắt anh nhìn thấy, in rõ trên nền lửa, những thân cây khổng lồ gẫy rập như cọng rơm. Anh nghĩ đến người lái xe. Anh ta ở đâu? vẫn ở gần xe chăng? Hai người lại đứng lên, chạy vượt được mấy thước rồi lại rằm bẹp xuống. Chốc chốc lại phải nằm: cứ tiếng rú đến, thì rơi ngã xuống để lại vùng dậy sau tiếng nổ mà chạy xa thêm một ít. Họ gắng giữ phương hướng bằng cách đi men theo đường không tách xa quá. Lu-nin bị ám ảnh về ý nghĩ là "thằng ranh con lái xe" đã nói dối họ để ở lại trên đường với xe. Liệu còn sống không?

        Khô-vơ-rin nói:

        - Đã hơi yên một tí rồi đấy!

        Có thể nói là cuộc bắn phá dịu dần thật. Tiếng nổ ở phía sau. Lu-nin và Khô-vơ-rin ít phải nằm hơn; họ ra khỏi tầm bắn chăng, hay bọn Đức dồn hỏa lực vào khu vực khác? Họ ngoặt về mé trái. Cây thưa dần và họ lại ra đường.

        Khô-vơ-rin nói:

        - Ta đi bộ thôi!

        Đi chưa được 100 bước họ đã nghe phía sau tiếng lăn quen thuộc của thùng xăng trên sàn xe. Lu-nin dừng lại. Ca-mi-ông vọt khỏi bóng tối trong tiếng sắt vụn. Lu-nin bấm đèn. Xe dừng lại, cửa ca-bin mở ra kêu ken két.

        - Còn sống à? - Lu-nin hỏi.

        - Sống. - Anh lái xe trả lời giọng vui vẻ đắc thắng - Các đồng chí lên.

        Họ lại ngồi trên thùng xe và xe lại phóng hết tốc độ. Tiếng nổ bây giờ vọng xa đằng sau. Một cảm giác sung sướng và yên tĩnh xâm chiếm Lu-nin. cả đến thùng xăng cũng hết làm anh khó chịu. Anh thấy đầu Khô-vơ-rin dựa vào vai anh: Khô-vơ-rin ngủ. Cố gắng không động đậy để bạn khỏi thức giấc, Lu-nin cũng ngủ nốt, kìm thùng xăng dưới chân.

        Thức dậy, anh thấy xe đang bon trên một cái cầu, trên con sông rộng phản chiếu ánh sáng sớm mai: sông Nê-va! Qua cầu, họ lại chui vào rừng.

        Lu-nin lại ngủ.

        Khi anh thức giấc lần thứ hai, đã thấy nhà cửa hai bên đường lấp lánh dưới ánh mật trời, Khô-vơ-rin nói:

        - Gần đến rồi. Đồng chí đã ở Lê-nin-grát chưa?

        - Một lần. Tôi đã qua một mùa hè ở đó. Tôi lấy vợ ở đó.

        - Chị ở lại miên nam à?

        Lu-nin sa sầm nét mặt:

        - Tôi không còn vợ.

        - Chị đã mất?

        - Tôi đã ly dị.

        Xe chạy theo một đường phố. Và một xe điện màu đỏ chạy ngang họ, kéo chuông leng keng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Mười Hai, 2018, 11:12:49 am

        Sau khi bắt tay Khô-vơ-rin và nhẩy từ ca-mi-ông xuống, Lu-nin dạo qua các phố. Phải tìm ra phòng thường trực để biết sư đoàn mình ở đâu.

        Càng đi ngược theo các phố dài, thẳng qua các cầu và men theo các con kênh, lòng anh càng xúc động mạnh. Mọi vật làm anh bối rối, cả đến không khí của thành phố, cái không khí mát, nhẹ, ẩm làm ánh sáng như thêm tươi, tiếng động như thêm rõ, ở đấy anh đã gặp Li-đa, ở đấy hai người đã cùng dạo bước trong những đêm hè dài dưới ánh trăng, ở đấy Li-đa đã thành vợ anh.

        Phòng thường trực ở trên Sa-đô-vai-a, gần Toà công trình sư. Với tư cách sĩ quan hải quân. Lu-nin được đồng chí chỉ huy phó nơi đó tiếp: một thiếu tá hải quân cao, gầy, đứng tuổi, rất lễ phép, cúc áo sáng loáng, cổ tay áo là cứng lâu ngày đã ngả mầu vàng để lộ ra hai cổ tay xương xẩu. Cổ tay áo là đó, và những ngón tay thanh tú đó mang cốt cách riêng biệt của thành phố Lê-nin-grát! Sau khi xét giấy tờ của Lu-nin, đồng chí bảo Lu-nin phải đến Bộ tham mưu các lực lượng không quân của Hạm đội, ở đấy người ta sẽ chỉ địa điểm của sư đoàn. Nhưng khi Lu-nin hỏi địa điểm của Bộ tham mưu, thì im lặng một lúc, đồng chí chỉ huy phó hình như không biết tí gì về cái đó cả. Đồng chí nói:

        - Hiện nay, mặt trận rất linh động.

        Đồng chí đề nghị Lu-nin đợi, đi vào phía trong cùng gian phòng thì thầm rất lâu với một đồng chí giúp việc. Lu-nin nghe rõ tên Pê-tơ-rốp và anh tưởng Bộ tham mưu ở thành phố đó. Nhưng đồng chí chi huy phó, đáng lẽ cho anh đi Pê-tơ-rốp thì lại sang phòng bên và gọi dây nói. Khi đồng chí về, người giúp việc nói:

        - Tôi đã báo cáo đồng chí là không gọi được nữa. Có lẽ họ không còn ở đấy.

        Đồng chí chỉ huy phó khuyên Lu-nin đi tìm sĩ quan liên lạc của lực lượng không quân ở dinh Thủy sư đô đốc.

        Lu-nin đi lên Mỏm Nê-vơ-ski và trông thấy mũi tên dinh Thủy sư. Các kỷ niệm vui buồn tràn ngập anh. "Mũi tên sáng dinh Thủy sư..." câu thơ của Puskin không còn đúng với sự thật, vì mũi tên đã phủ mầu vôi ngụy trang, không còn sáng nữa. Từ vườn dinh Thủy sư, tỏa ra mùi ẩm mốc ngôn ngọt. Mùi hương đó đối với anh cũng rất quen thuộc, mùi hương đặc biệt của Lê-nin-grát. Anh mất hàng giờ tìm kiếm sĩ quan liên lạc qua tòa lâu đài cũ của vua Pi-e Đại đế, mênh mông như một thành phố bỏ hoang, theo những hành lang vô tận qua những căn phòng nóc vòm ít ánh sáng mà người ta ngăn vội vằng vách ván. Sĩ quan liên lạc hình như cũng không biết Bộ tham mưu các lực lượng không quân ở đâu. Và khuyên Lu-nin đến thẳng Bộ tham mưu sư đoàn, nghe như đã lui về núi Pô-lon-nai-a bên kia Lê-nôi-ê.

        Lu-nin tới đó bằng xe điện số 9. Anh đứng ở đầu toa. Anh tự lấy làm lạ rằng đi ra phía mặt trận lại bằng xe điện, cùng đi lại có các bà nội trợ đi chợ về, và các nữ sinh viên Đại học Bách khoa, rồi cả nữ đồng chí phát vé suốt chặng đường vừa lo "chiến đấu" với lũ nhãi cứ bám vào sau xe vừa lo đòi anh cũng như đòi người khác 15 xu tiền tầu!

        Tuy nhiên, đâu anh cũng tìm thấy dấu hiệu tỏ ra gần mặt trận. Thành phố không chịu để bị đánh bất ngờ. Chiến hào sâu, bãi dây thép gai, chướng ngại vật chống xe tăng chắn lấy các phố chạy ngang. Sau chiến lũy, cao xạ chõ nòng lên. Những nhà ở góc phố thì cửa sổ đã bịt gạch và để hở lỗ châu mai hẹp. Những lồ châu mai lặng lẽ và cảnh giác, quan sát xung quanh. Trên khuôn mặt mọi người, anh thấy một ý chí quyết tâm và bình tĩnh.

        Trong một góc xe, trước mặt nữ đồng chí phát vé, một đồng chí bộ đội cặp giữa hai đầu gối một cái túi vải dài. Lu-nin lúc đầu tưởng là một nhạc cụ vì mặt anh chàng có vẻ nhạc sĩ. Nhưng nhìn kỹ hơn, anh hiểu là bao súng. Súng mà đem trong bao thì để làm gì nhỉ? Đột nhiên anh hiểu: đó là một tay xạ thủ ra làm việc ở tiền duyên.

        Khi xe đỗ ở Lê-nôi-ê, một phi công lên. Cũng cát-két sĩ quan hải quân, nhưng mặc bơ-lu-dông da, như các phi công thường mặc vào mùa hè, tay áo không có phù hiệu. Người tầm thước, quảng 30, mặt tròn, mắt nhanh và chăm chú. Anh dừng lại ngay trước Lu-nin, ngắm Lu-nin từ đầu đến chân với một nụ cười rộng lượng nhưng không vồn vã lắm. Họ qua mấy ga liền, nhưng không ai nói với ai một câu. Rồi đồng chí phi công mặc bờ-lu-dông báo:

        - Đồng chí thiếu tá, chúng ta xuống đây.

        Ngoan ngoãn Lu-nin theo xuống.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Mười Hai, 2018, 11:13:53 am

        "Núi Pô-lon-nai-a" là một thung lũng lớn, đầy nhà kiểu biệt thự. Lu-nin và ông bạn đồng hành xuống một cái dốc đứng không lát đá.

        - Đồng chí là huấn luyện viên ở một trường Hàng không? - Người mặc bờ-lu-dông hỏi và vẫn tiếp tục nheo mắt xem xét Lu-nin.

        Lu-nin gật.

        - Đồng chí ở miền nam đến?

        Lu-nin lại gật.

        - Đồng chí đã khuấy trời đảo đất để được ra mặt trận?

        - Đúng.

        - Và chính đồng chí đã tìm cách đến đây được bằng ca- mi-ông?

        Lu-nin nghĩ thầm: "Anh chàng này là ma xó hay sao mà gì cũng biết".

        Trông-dây điện thoại từ khắp ngả châu về một cái biệt thự, thì không khó gì mà không nhận ra được đó là phòng tham mưu! Nhưng chắc rằng đường dây còn chưa đủ, vi các điện thoại viên vẫn đang bận mở dây ở trước biệt thự. Trông thấy người cùng đi với Lu-nin, họ ngừng tay đứng nghiêm.

        - Thế nào, các đồng chí có bị uống nước1 nhiều không? - Người đi với Lu-nin hỏi.

          Ý nói các thủy thủ bơi khi tàu đắm bị uống nước. - (N.D)

        - Báo cáo: tất cả. - Họ đồng thanh trả lời.

        Người phi công mặc bờ-lu-dông dừng lại và ngắm nghía họ cũng kỹ như khi ngắm Lu-nin. Anh hỏi:

        - Các đồng chí ăn ở thế nào?

        - Báo cáo: rất tốt. - Một người trong bọn trả lời và tiến lên một bước - Nhưng chưa được phát quân phục khác. Báo cáo đồng chí nhìn trên lưng chúng tôi!

        Anh ta mặc một cái ca-pốt bộ binh cũ, mất hết cúc và một cái áo lót lính thủy.

        - Tôi sẽ giải quyết việc này, - người phi công trả lời.

        Anh im lặng và chú ý nhìn nét mặt trẻ và sáng của người

        điện thoại viên với một vẻ hài lòng rõ rệt. Rồi anh tiếp:

        - Thế là đồng chí I-nha-tốp đã giật giải nhé... Tốt lắm. Bơi bao lâu?

        - Báo cáo: trước thì bốn tiếng cho đến lúc người ta tìm được tôi. Rồi sau lại hai tiếng nữa.

        - Các các đồng chí nữ?

        - Báo cáo: hy sinh hai.

        - Ma-ni-a Sô-kô-lô-va?

        - Đổng chí ấy bơi khá. Nhưng một chiếc Mét-séc-mít đã bắn đồng chí ấy.

        Người điện thoại viên hạ thấp giọng và nhìn Lu-nin bằng con mắt không bằng lòng. Chắc anh thấy khó chịu phải nói trước một người lạ. Người phi công nói với Lu-nin:

        - Đồng chí thiếu tá, mời đồng chí vào. Tôi còn dở câu chuyện.

        Lu-nin đi qua cái vườn nhỏ. Hoa đa-li-át nở rực rõ trước hiên. Anh trèo qua mấy bực vào nhà. Đồng chí sĩ quan thường trực ngồi cạnh máy điện thoại, sơ mi trần, đang bận thay cổ áo sạch cho áo ngoài. Khuôn mặt trẻ măng sạm nắng. Khi thấy Lu-nin, anh ghé hàm răng trắng trẻo, cắn đứt sợi chỉ và mặc áo ngoài vào: một trung úy.

        Anh cầm giấy tờ của Lu-nin, xem xét, và nói sẽ đi báo cáo với đồng chí tham mưu phó. Anh đang đi về cửa buồng cạnh, giấy tờ cầm tay, thì người phi công mà Lu-nin gặp trên xe điện di vào. Đồng chí trung úy đứng nghiêm, chào và hô:

        - Đứng nghiêm!

        Rồi anh bắt dầu báo cáo:

        - Báo cáo đồng chí chính uỷ...

        Nhưng đồng chí chí kia ngăn lại, dáng mệt mỏi.

        "À ra đồng chí chính ủy - Lu-nin lúc đó mới biết - Trẻ quá!"

        - Ở đây đẹp không. - Đồng chí chính ủy vừa nói vừa ngắm hoa đa-li-át qua cửa sổ.

        - Báo cáo không rõ. - Đồng chí trung úy trả lời. - Tôi chưa có thì giờ ngắm, mới đến chiều qua. Ở Tan-lin, hoa còn nhiều nữa.

        - Ai chỉ huy ngoài Vịnh? - Đồng chí chính ủy hỏi.

        - Đồng chí tham mưu phó.

        - Không, tham mưu trưởng.

        - Đồng chí phó...

        - Nay là trưởng. - Đồng chí chính ủy nói với giọng quả quyết.

        - Thế còn đồng chí trung tá?

        Chính ủy không trả lời.

        - Hay là bị hy sinh ngoài biển?

        Chính ủy gật đầu.

        - Thật thế chứ?

        Chính ủy lại gật đầu.

        Im lặng hồi lâu. Rồi đồng chí trung úy sửa tư thế và hỏi, với một giọng như trong khi làm việc:

        - Báo cáo đồng chí chính ủy, đồng chí muốn gặp đồng chí tham mưu trưởng?

        - Bây giờ thì không. Tôi đi xem chỗ ăn ở của chiến sĩ ra sao? Tại sao trang phục của đại đội Thông tin lại lôi thôi như thế?

        - Họ mất hết trang phục ngoài biển. Nhưng chúng tôi đã nhận được quân trang mới.

        - Bao giờ phát?

        - Sau cơm chiều.

        Trước khi đi, chính ủy bắt tay Lu-nin và tự giới thiệu một cách thân mật:

        - Chính ủy sư đoàn U-va-rôp.

        Lu-nin xưng tên.

        - Chúng ta sẽ lại gặp nhau, đồng chí Lu-nin ạ.

        Đồng chí chính ủy đi. Đồng chí trung úy sang buồng tham mưu trưởng. Anh trở ra, đưa cho Lu-nin lệnh ra ngay đơn vị. Nhưng cũng không biết rõ hẳn đơn vị ở đâu: Ba phi đội đóng ở ba địa điểm, đội một ở bờ biển bắc, đội hai ở bờ biển nam, đội ba ở Cờ-rông-stat. Ban Tham mưu trung đoàn cùng đóng với phi đội 1. Lu-nin không biết cái gọi "Bờ Nam" là cái gì; nhưng dù sao thì cũng chắc là một khu vực khó tới. Muốn bắt được số điện thoại, đồng chí sĩ quan liên lạc phải gọi tuần tự mặt trời, mặt trăng và bẩy hành tinh. Đồng chí không ngừng kêu trong máy, mất đến 40 phút.

        - Thượng úy Ta-ra-rác-xim? Ai ở máy đó? Đồng chí Ta- ra-rắc-xim phải không?

        Vậy là Lu-nin được nghe thấy tên này lần đầu tiên.

        Cuối cùng dồng chí sĩ quan liên lạc bắt được số. Đồng chí trung đoàn trưởng Prôt-cua-ri-a-kôp lệnh cho đồng chí phi công mới ra nhận ngay công tác dưới sự điều khiển của phi đội trưởng phi đội 2.

        - Đại úy Rát-sô-khin chỉ huy phi đội 2, - Đồng chí trung úy nói rõ và nhấn mạnh chữ đại úy, như muốn Lu-nin  chú ý đến cái việc là mình sẽ dưới quyền một sĩ quan cấp thấp hơn. Anh nhìn Lu-nin vào tận lòng trắng mắt, muốn đoán cảm giác của Lu-nin sau tin này. Nhưng Lu-nin  không hiểu gì. Anh vẫn tự coi như mình chỉ là một phi công ngành dân dụng và cho rằng một đại úy chuyên nghiệp làm cấp trên anh là lẽ dĩ nhiên.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Hai, 2018, 03:24:39 pm
       
II

        Một chiếc ca-mi-ông đi xuống phi đội 2. Người sĩ quan trực nhật để Lu-nin ngồi cạnh người lái xe. Lu-nin nhìn cảnh vật, tìm hiểu xem đi đâu. Chỉ biết là mình ở phía bắc thành phố, giữa Lê-nin-grát và quân Phần Lan đang tấn xuống eo Ca-rê-li nhưng bị chặn lại trên đường Sê-trô-ret Bê-lô-trốp. Anh cũng biết là mình đi về phía biển.

        Xe chạy mãi, dọc theo những biệt thự không người và đầy hoa đa-li-át đỏ chói trước hiên. Đôi lúc qua những biệt thự thì lại đến những cánh đồng khoai, ở đó các chị phụ nữ có vẻ rất bận rộn. Lu-nin không ngừng nhìn về trước, đợi xem biển, nhưng trời đã tối, mà bờ biển vẫn không thấy đâu. Họ đến trường bay.

        Cố nhiên không phải là một trường bay thực sự, mà là một mảnh đất thưa xuềnh xoàng sửa sang lại trong một rừng thông, cạnh những biệt thự không người ở. Tuy tối trời, con mắt quen thuộc của Lu-nin cũng thấy ngay những máy bay phân tán ở dìa bãi, dưới cành cây - 6 khu trục I-16.

        Người lái xe chỉ cho anh lối vào chỉ huy sở của Rát-sô- khin. Lu-nin đi một mình, lễ mễ cái vali. Chỉ huy sở ở đầu sân bay, trong một cái hầm mái tròn phủ cỏ hơi nhô qua mặt đất. Trước cửa vào, một dồng chí thủy quân đội cát- két, đeo tiểu liên đứng gác. Anh đề nghị Lu-nin chờ và bấm chuông. Một lúc sau, một người ra khỏi hầm. To ngang, rất thấp, mặc quần áo bay, đầu trần, "Võ sĩ hạng lông" Lu-nin nghĩ bụng. Anh chàng bé. nhỏ có vẻ nghĩ ngợi, nhìn Lu-nin một cách khó chịu. Tuy nhiên anh tự giới thiệu rất đúng mực:

        - Thượng úy Ka-ban-kốp, chính trị viên phi đội 2.

        Lu-nin bắt tay và nói tên.

        - Đồng chí muốn gặp đồng chí đại úy? - Ka-bân-kốp hỏi.

        - Vâng, đại úy Rát-sô-khin.

        Khuôn mặt bé nhỏ cương quyết của Ka-ban-kốp lại có dáng khó chịu. "Mình đến chắc không đúng lúc" Lu-nin tự nghĩ.

        - Đồng chí thiếu tá, đồng chí ở Sư đoàn bộ lại? - Ka-ba- kốp hỏi và không vội đưa Lu-nin vào.

        - Đúng. - Nhưng Lu-nin cảm thấy ngay là Ka-ban-kốp đã hiểu lầm: anh muôn nói là từ phòng Tham mưu lại, nhưng Ka-ban-kóp lại tưởng anh là phái viên của phòng Tham mưu. Tuy vậy, Lu-nin không tìm được câu nào để cải chính.

        Ka-ban-kốp mòi anh xuống, đẩy cửa và đi vào. Một hành lang ngầm, tối, che ván, nước róc rách ở dưới. Ka- ban-kốp mở cửa thứ hai, và họ vào một buồng nhỏ leo lét ngộn đèn dầu thông phong ám khói, treo ở vách. Mùi nhựa thông ngôn ngọt. Trần thì thấp: Lu-nin gần đụng cát-két. Trong cùng, còn một cửa thứ ba, và hai phi công mặc quần áo bay lắng nghe tiếng nói bên trong, dáng ỉu xìu. Khi Ka- ban-kôp và Lu-nin vào, họ quay lại.

        - Ka-ban-kôp, cậu trông thấy đồng chí Ni-cơ-ri-tin chứ? - Một thanh niên xinh trai quãng 19 tuổi, má phình như con gái hỏi khẽ.

        Ka-ban-kốp gật đầu.

        - Có thật đồng chí ấy còn sống thèm được 20 phút không?

        - Không biết nữa... Mươi phút hay ít hơn nữa. - Ka- ban-kốp trả lời rất khẽ và đến gần cửa. - Máu trào lên làm đồng chí ấy nghẹt thở. Ngực bị đạn xuyên qua hai chỗ. Khi kéo được ra ngoài máy bay, máu ở miệng vọt ra như tia nước.

        - Còn tỉnh không? - Người phi công trẻ tuổi hỏi tò mò như đứa trẻ.

        - Lúc đó mê rồi, - Ka-ban-kôp trả lời.

        - Đồng chí ấy bay vượt qua biển trong khi ngực đã thủng. Đồng chí ấy theo đồng chí đại úy và Sê-rốp không chệnh hướng lần nào. Tôi trông thấy: tôi bay đàng đuôi, sau Bé-sây-tốp. Mà lúc đó đồng chí ấy đã hấp hối.

        - Người thợ máy của đồng chí ấy đoán biết được, vì khi thấy máy bay hạ cánh mà bánh xe không mở. - Người phi công thứ hai lặng im từ nãy giờ mới nói.

        Đồng chí này nhiều tuổi hơn một ít, cao, mảnh, lưng hơi còng, mặt buồn, thông minh và hiền hậu.

        Đồng chí nói tiếp:

        - Đồng chí ấy lượn một vòng đúng lệ thường, nhưng không mở bánh xe, thành ra hạ xuống đất bằng bụng máy bay. Máy mở bánh xe vẫn tốt nhưng do đồng chí ấy không đủ sức kéo máy nữa; đã ngất đi khi hạ. Một cái hạ kỳ diệu: máy bay chỉ hơi hư hại. Các đồng chí thợ máy sẽ chữa xong đêm nay. Mai, máy lại có thể bay.

        - Nhưng có ai mà bay chứ! - Ka-ban-kốp nói.

        Anh hé cửa và nhìn qua khe. Mọi người im lặng. Anh mở thêm.

        Lu-nin cũng nhìn một cái và lần đầu tiên trông thấy Rát-sô-khin.

        Đại úy ngồi sau bàn, trước một cái đèn dầu lửa to. Chiếu rõ mặt anh, gò má rộng, lông mày hung hung, da sần sùi với những chấm tàn hương lớn, y như mặt người đang thổi vào cám. Những nét dăn nhỏ như que diêm chụm lên phía hai con mắt linh lợi và cách xa nhau. Anh trạc ba mươi tuổi. Kiểu mặt người ở đồng ruộng. Anh đang bực tức.

        Rát-sô-khin không biết Ka-ban-kôp và Lu-nin vào, có lẽ vì ánh đèn loé quá. Anh chỉ để mắt nhìn người đứng trước anh, bên kia bàn: một chàng đẹp trai tóc nâu mảnh và thẳng, mũi như mỏ chim cắt, da mai mái, lông mày đen giao nhau trên sông mũi. Dưới đôi bụi rậm ấy anh nhìn chòng chọc vào Rát-sô-khin bằng con mắt dữ dội. Anh vò nhầu trong tay chiếc mũ bay và mỗi lúc lại ngoái đầu ra sau, như sợ có ai, tuy chẳng có ai sau anh cả.

        - Đồng chí đã để đồng chí ấy chết! - Rát-sô-khin nói và nhìn bằng con mắt tức giận. - Đồng chí phải bảo vệ không cho kẻ nào đánh vào sau đồng chí ấy. Thế mà đồng chí đã để cho đồng chí ấy chết.

        - Tôi đã hạ một gioong-ke. - Anh phi công có cái mũi dọc dừa trả lời và ngước cao dôi mắt đẹp nhìn Rát-sô-khin.

        - Tôi cóc cần là đồng chí đã hạ một gioong-ke! - Rát-sô-khin quát lên. Anh tái đi vì tức giận, và như vậy lại càng thấy rõ vệt tàn hương. - Khi mà đồng chí săn đuổi cái gioong-ke của đồng chí, chúng đã giết mất đồng chí ấy! Không bao giờ người ta có quyền để chết tiểu đội trưởng của mình. Không bao giờ!

        - Tôi đã hạ một gioong-ke. - Anh chàng nhắc lại, ngang bướng, và lại ngoái đầu ra phía sau.

        Chắc anh ta đã nhắc câu này nhiều lần.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Hai, 2018, 03:25:38 pm

        Rát-sô-khin đập tay xuống bàn, nắm tay lốm đốm vết chấm. Anh muốn quát lên nhưng tức giận làm nghẹt cổ, và như trong một hơi thoảng anh bật ra:

        - Cút đi!

        Anh chàng phi công vò cái mũ da như cái giẻ và bước ra khỏi buồng len giữa Ka-ban-kốp và Lu-nin.

        - Báo cáo đồng chí đại úy. - Ka-ban-kốp có vẻ khổ tâm vì một người lạ mặt đã chứng kiến việc vừa xảy ra. - Đồng chí thiếu tá ở Sư đoàn xuống.

        Loá mắt vì ánh đèn, Rát-sô-khin chớp mắt nhìn ra phía cửa, và lúc đó mới nhìn thấy Lu-nin. Nhìn thấy lon, anh thong thả đứng dậy. Vóc anh tầm thước, người thô, vai rộng. Anh đăm đăm nhìn Lu-nin vẫn với dáng tức giận như đối với anh chàng có cái mũi như mỏ chim cắt. Lu-nin sửa tư thế, để tay lên vành mũ:

        - Báo cáo đồng chí đại úy, tôi, thiếu tá Lu-nin, đến xin đồng chí cắt công tác.

        Rát-sô-khin mới thoạt nghe không hiểu, đọc giấy tờ mà phòng tham mưu sư đoàn giao cho Lu-nin hồi lâu, sau cùng hiểu và ngồi xuống.

        Lu-nin bỏ mũ và lấy khăn lau mồ hôi trán.

        - Đồng chí là phi công? - Rát-sô-khin hỏi, mắt dán vào cái trán hói và cái thân thể hơi đẫy đà của Lu-nin.

        - Vâng.

        Mắt Rát-sô-khin nheo lại, như có vẻ hài hước.

        - Phi công dân dụng?

        - Vâng, đúng.

        - Đồng chí đã lái khu trục?

        - Rất ít, ở nhà máy.

        - Đồng chí đã tác chiến?

        - Tôi chưa có dịp. - Lu-nin không muốn nói tới các trận đánh của anh hồi nội chiến.

        - Người ta gửi đồng chí xuống để bổ sung? - Rát-sô- khin lần này tỏ rõ vẻ diễu cợt. - Để thay thế Ni-cơ-ri-tin.

        Lu-nin lặng yên.

        - Tại sao chỉ một đồng chí? Chúng tôi chỉ còn năm người. Người ta không nói vậy với đồng chí sao?

        Lu-nin vẫn lặng yên.

        Rát-sô-khin cũng im, suy nghĩ. Rồi nói, lần này không một chút hài hước:

        - Giao cho đồng chí thiếu tá chiếc máy bay của Ni-cơ- ri-tin, phải không, cậu Ka-ban-kốp?

        - Còn cái nào khác nữa. Ka-ban-kốp trả lời.

        Rát-sô-khin gọi to:

        - Bê-sây-tôp!

        Anh chàng mũi dọc dừa vào, đứng nghiêm, mắt đen nhìn trừng trừng Rát-sô-khin.

        - Thiếu tá Lu-nin sẽ lái chiếc máy bay của đồng chí Ni-cơ- ri-tin. Tôi không giao thiếu tá cho đồng chí, đồng chí lại đê thiếu tá bị giết. Ai đồng chí cũng để bị giết! Tôi không giao bất cứ ai cho đồng chí, đồng chí đi với tôi. Đồng chí sẽ là đồng đội của tôi, thế chân Sê-rốp.

        Bê-sây-tổp chẳng nói gì. Một lần nữa anh ngoái đầu qua vai, như tìm ai đằng sau.

        - Đồng chí thiếu tá, tôi nhường Sê-rốp cho đồng chí, Rát-sô- khin nói tiếp - đồng đội của tôi. Hắn chưa hể chơi tôi một vố nào từ đầu chiến tranh - Giọng Rát-sô-khin dịu đi - Sê-rôp!

        Một trong hai người phi công khi nãy nghe ở cửa, người nhiều tuổi hơn và lưng hơi cong, bước vào. Trong đôi bốt lông lớn, anh như có vẻ ngượng nghịu.

        Rát-sô-khin nói:

        - Kô-li-a, chúng ta ly dị nhau! Thiếu tá Lu-nin sẽ là tiểu đội trưởng của đồng chí, thay Ni-cơ-ri-tin.

        - Rõ!

        Sê-rổp buồn ra mặt. Nhưng chắc vì không muốn làm Lu-nin phật ý, anh mỉm cười vui vẻ với Lu-nin.

        - Bây giờ thì đi ăn cơm! - Rát-sô-khin nói sau khi xem giờ.

        Mọi người ra nhà ăn - Lu-nin, Sê-rốp, Bê-sây-tốp và thiếu úy Sê-pen-kin, người phi công trẻ tuổi má phình như con gái, người đã hỏi Ka-ban-kốp là Ni-cơ-ri-tin sống thêm được mấy phút sau khi hạ cánh. Bê-sây-tốp đi hơi tách ra khỏi mọi người. Đột nhiên anh cất tiếng hát hơi đá giọng Cô-ca-dơ:

        "Chết oanh liệt, hay làm kinh ngạc mọi người"

        Anh cứ hát nghêu ngao và chắc là đợi có người bắt chuyện. Nhưng ai nấy đều im, rồi anh cũng im nốt. Cứ mười bước anh lại ngoái cổ nhìn về sau.

        Lu-nin lặng yên, biết rằng mọi người đang nghĩ đến đồng chí mới hy sinh. Riêng Sê-rốp liếc về phía anh, và sau cùng mới hỏi:

        - Xin lỗi đồng chí thiếu tá, có phải đồng chí chính là Lu-nin đã nổi tiếng đó không?

         Lu-nin chưa hề cho mình là nổi tiếng, và anh cho rằng Sê-rốp lầm. Sê-rôp đâm ngượng, nhưng với giọng nói không chắc chắn lắm, anh kể lại một cuộc bay nổi tiếng cách đây mười lăm năm và hỏi xem Lu-nin có dự cuộc đó không? Lu-nin nhận có.

        - Tôi biết ngay là chính đồng chí! - Sê-rốp vui sướng reo lên - Còn Lu-nin nào nữa. Tôi biết rất nhiều học trò của đồng chí.

        Rát-sô-khin tới kịp khi hụ gần đến nhà ăn. Anh có vẻ vội. Đến ngang Lu-nin, anh hỏi:

        - Đồng chí thiếu tá, đồng chí ở Vô-lô-da?

        - Đúng.

        - Nghe tiếng đầu của đồng chí tôi đã ngợ. Tôi cũng ở đấy. Chúng ta là đồng hương.

        - Tôi cũng ngợ từ tiếng đầu của đồng chí. - Lu-nin nói.

        Rát-sô-khin mỉm cười, bước vội và vượt họ. Chắc anh muốn chữa lại sự tiếp đón khô khan lúc nãy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Mười Hai, 2018, 09:41:14 am

        Nhà ăn, thường gọi là "nhà vuông" theo thói quen của con nhà đi biển, ở trong một biệt thự nhỏ có những cây phong trắng vặn mình trước mái hiên. Phía trong cửa sổ che giấy xanh. Một ngọn đèn dầu lửa chiếu sáng hai chiếc bàn to vừa phải và kê theo hình chữ "T". Đĩa bát đủ cho sáu người ăn. Bê-sây-tốp, Sê-pen-kin và Sê-rốp ngồi mãi đằng đầu bàn, có vẻ quen thuộc. Sê-pen-kin gọi to:

        - Đồng chí Hin-đa! Mau lên!

        Lu-nin lưỡng lự, chưa rõ nên ngồi ở chỗ nào. Sê-rốp chi cho anh một cái ghế giữa Bê-sây-tốp và Sê-rốp. Hin-da, một cô gái nhỏ nhắn xứ Ét-tô-ni cái mặt sáng sủa đáng yêu như mặt búp bê, đi vào với một khay đầy đĩa. Trong đoàn đã qua những tháng đầu của chiến tranh ở Ét-tô-ni và đã đem Hin-đa từ đó về. Cô dừng lại trên ngưỡng cửa vì thấy Lu-nin ngồi giữa Bê-sây-tốp và Sê-rốp, và sự kinh hoàng hiện lên trong khoé mắt:

        - Trung úy Ni-cơ-ri-tin không về ư? - Cô hỏi.

        Sê-rôp quay mặt đi.

        - Anh ấy không về nữa. - Sê-pen-kin trả lời buồn bã.

        Hai dòng lệ chảy trên má cô thiếu nữ, và cô không gạt đi được vì tay cô còn mắc bận. Cô để khay xuống mép bàn, che mặt sau khăn, và chạy xuống bếp. Mấy phút sau trở lại, mắt cô đã ráo. dáng bình tĩnh, cô đặt trước mỗi ngươi một đĩa cơm thịt bò.

        Mọi người im lặng ăn, riêng Bê-sây-tốp thì không nói hẳn với ai nhưng luôn luôn cố gợi chuyện. Anh nói, mắt long lanh:

        - Chảng gì bằng săn tự do để thấy mình thực là chủ. Tại sao người ta không cho tụi mình đi săn tự do nữa nhỉ? Ái dà! Thời kỳ ở Ét-tô-ni thật là khoái. Trên đường Pác-nu Tan-lin, đầy ắp mô tô Đức. Mình ở sau rừng vụt ra, bổ nhào xuống, nã vào tốp đầu. Chúng rụng đầy đường; thằng đi sau bổ vào thằng trước. Một món nháo nhào. Cứ việc nã vào cả đống.

        Anh phá lên cười và lại ngoái cổ lại để thử xem có ai đằng sau. Mọi người yên lặng. Anh kể thêm:

        - Và còn ôtô! Món săn bở! Bao giờ cũng có tụi quan to ở trong. Mình ở sau lại lia một băng. Chúng chúi mũi chổng bánh lên trời!

        Anh lại phá lên cười và ngoái nhìn qua vai. Không ai nói một tiếng. Anh đứng dậy, đĩa cơm còn nguyên, cầm mũ đi ra; ngang cửa, anh suýt va phải Ka-ban-kốp và tránh ra một bên. Hai người gặp nhau im lặng. Ka-ban-kôp ngồi cạnh cái ghế của Rát-sô-khin. Anh thấp quá đến nỗi chân không tới sàn.

        Anh gọi:

        - Đồng chí Hin-đa! Đề nghị cho tôi ăn với.

        Anh gập chân phải lại và ngồi đè lên, thành ra có vẻ cao ra. Hin-đa đem một đĩa lại và cất bát đĩa của Bê-sây-tốp.

        - Cậu ấy không ăn tí gì à? - Ka-ban-kốp vừa hỏi, vừa ăn đầy mồm.
   
-   Chẳng ăn gì. - Sê-pen-kin trả lời. - Cậu ấy kể chuyện là thích săn tự do.

        - Ai chẳng thích. - Ka-ban-kốp trả lời.

        - Đúng cậu ấy đã hạ một gioong-ke thật. - Sê-rôp nhẹ nhàng nói. - Chính mắt tôi trông thấy, và nhìn xuống đất thì càng rõ. Đồng chí ấy săn nó và đuổi kịp, hạ nó ở gần O-ra-ni-en-bôm. Chiếc gioong-ke đâm xuống ngay trước chỗ có hai hàng cọc ấy.

        - Tôi không nghi ngờ là cậu ấy hạ chiếc gioong-ke hay không. - Ka-ban-kôp nói một cách bực tức. - Thế nhưng, không phải lối hạ như thế. Không, không như thế! Phải hạ nó mà lại không thiệt mất dồng chí mình, nhất là đồng chí đó còn bằng mấy mình.

        - Đúng. - Sê-pen-kin công nhận.

        - Cậu nghĩ xem - Ka-ban-kốp tiếp tục - Từ tháng 6, người ta đã hạ bao nhiêu gioong-ke. Từ Đông Đức đến Lê- nin-grát, đầy rẫy xác nó. Nếu mỗi gioong-ke hạ dược lại phải trả giá bằng sinh mạng một dồng chí, thì đã từ lâu, không còn một người trong bọn mình.

        Mọi người lặng im. Chỉ còn nghe tiếng đĩa. Lu-nin biết mọi người đang nghĩ đến Bê-sê-tốp.

        - Cậu có nhận thấy hắn hay ngoái cổ không? - Ka-ban- kốp hỏi và nhìn Sê-rốp.

        Sê-rốp gật đầu.

        - Ngay khi ăn cơm cũng thế.

        - Mình biết thế là thế nào rồi. - Ka-ban-kốp nói tiếp với Sê-rốp. - Cậu còn nhớ Ku-lê-sôp?

        Sê-rõp gật đầu.

        - Thế là thế nào? - Lu-nin hỏi. Ka-ban-kốp nói:

        - Đồng chí ấy ngoái cố xem có cái Mét-séc-mít nào phía sau không.

        Thấy Lu-nin không hiểu, anh tiếp:

        - Cố tật nhà nghề.

        - Đồng chí ấy cứ 40 giây đồng hồ lại ngoái cô một lần, như khi bay. Vì khi bay, tối thiểu cứ 40 giây phải quay lại xem, không cho Mét-séc-mít bám được vào đuôi mình.

        Sê-pen-kin nói:

        - Một bữa ở nhà ăn, Ku-lê-sốp bắt đầu mắc tật ấy. Thì hôm sau, anh bị hạ.

        Lẽ ra Sê-pen-kin không nên nói câu đó thì phải. Ka- ban-kôp lườm anh. Đôi má thanh niên của Sê-pen-kin ửng đỏ. Anh chàng từ đó đến cuối bữa không nói một tiếng nào nữa.

        Khi mọi người ra khỏi nhà ăn, Lu-nin đêm trước thức suốt sáng, cảm thấy mệt; vừa đi vừa ngủ. Các phi công ơ biệt thự cạnh đó và họ đặt tên là "trạm phi công". Ớ đó cũng một ngọn đèn dầu lửa chiếu sáng sáu cái giường, kê làm hai hàng hai bên vách.

        Bê-sây-tốp đã đi nằm và đang ngủ. Khuôn mặt sạm nắng in thành một vệt đen trên gối.

        Ai nấy ngồi xuống giường mình để cởi quần áo, cởi bỏ đôi bốt lông và bộ quần áo bay một cách khoan khoái. Những thân thể trẻ, chắc đầy bắp thịt, ngực rộng. Chàng Ka-ban-kốp bé nhỏ nhưng lực sĩ nhất: dưới làn da, bắp thịt anh cuộn như những thỏi thép. Nhưng mọi nét mặt đều sạm lại vì mệt. Không còn sức nói chuyện và vừa cởi xong quần áo đã ngủ mất rồi!

        Lu-nin đặt va li lên sàn, lưỡng lự. Hai giường bỏ không. Không biết ngủ giường nào.

        - Đấy là giường đồng chí đại úy. - Sê-rốp nói khi thấy anh không nằm xuống - đồng chí ấy thường ngủ ở Chỉ huy sở. Nhưng cũng lưu một giường ở nhà ngủ. Đồng chí thiếu tá ngủ giường này.

        Lu-nin ngồi xuống mép giường và cởi cúc áo ngoài. Chiếc bàn đêm ở đầu giường, phủ một chiếc khăn. Một chiếc gương tròn nhỏ, in trên mặt khăn một vệt sáng tươi. Còn những bức thư gấp chéo, một tấm ảnh phai màu, là lại cho khỏi nhầu: hình một bà cụ trùm chiếc khăn len. Lu-nin  đột nhiên hiểu những vật đó của ai, và giường của ai. Anh đứng dậy: đêm trước, đồng chí phi công Ni-cơ-ri-tin ngủ trong chăn này, soi trong gương này; và ảnh là ảnh bà mẹ. Mọi người đã ngủ, trừ Sê-rốp nằm im lặng ở giường bên, sau cái bàn đêm. Lu-nin cởi quần áo và đắp chăn.

        Sê-rốp đột nhiên nói:

        - Thế là chúng ta ở ngay cửa Lê-nin-grát, không thể lùi thêm.

        - Đồng chí có người nhà ở Lê-nin-grát? - Lu-nin hỏi.

        - Không, chả còn ai. - Anh nói tiếp giọng hơi run. - Cô ta đã đi. Tôi lại tìm thì cô ta đã đi với trẻ con.

        - Con đồng chí à?

        - Coi như là con tôi.

        - Đồng chí bao nhiêu tuổi.

        - Đã 27.

        Lu-nin hơn tuổi hắn, nhưng chưa có con.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Mười Hai, 2018, 09:42:33 am

III

        "- Không đánh với Mét-séc-mít! Không săn gioong-ke! Chủ yếu là không để chúng ném bom bằng kính ngắm.

        Rát-sô-khin nhắc đến mười lần. Nói xong anh hỏi:

        - Mọi người đã rõ cả chứ?

        - Rõ cả! - Sê-pen-kin trả lời.

        Lu-nin không rõ lắm, nhưng lặng yên. Không đánh với Mét-séc-mít. Không săn gioong-ke lẻ. Vậy thì làm gì?

        Khi họ ra khỏi hầm, mặt tròi đã lên, những ngôi sao muộn đã lặn.

        - "Chết oanh liệt hay làm kinh ngạc mọi người!" - Bê- sây-tcíp cất tiếng hát.

        - Im đi! - Rát-sô-khin gắt.

        Sáu khu trục đỗ trên đường vòng, hướng về phía gió. Trong ánh nắng sớm, Lu-nin thấy các thợ máy đang tất tả. Rát-sô-khin đi đầu dáng khệnh khạng như con gấu, hình như không quen đi trên đất liền. Bê-sây-tốp theo sát không rời một bước, và cứ một quãng lại ngoái cổ nhìn qua vai. Anh chàng Ka-ban-kổp bé nhỏ đi nhanh hơn mọi người, và nhẩy như hòn bi sắt trên cò sân bay. Đồng đội của anh, Sê-pen-kin nặng nề to lớn, theo rất mệt. Họ vượt Rát-sô-khin và đến máy bay trước nhất. Lu-nin và Sê-rốp cùng đi. Sê-rốp chỉ:

        - Máy bay của đồng chí đây.

        Người thợ máy đứng nghiêm trước Lu-nin và chào lối quân sự.

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá, chữa xong. Bộ phận đánh xe đã nắn; sáu lỗ đã bịt.

        Thân và cánh máy bay còn giữ lại vết tích các trận của Ni-cơ-ri-tin, kể cả trận cuối cùng, trận mà anh mang được máy về trong khi đã hấp hối. Đầy thương tích, máy bay vẫn sống tuy chủ nó đã chết.

        Lu-nin đội mũ bay, ngồi vào trong buồng máy, mắc dây da đeo người, và cho máy chạy. Anh cảm thấy hết sức bình tĩnh, 5 phút trước đây, anh cảm động khi các phi công, ngủ chưa đủ giấc, co ro trong khí lạnh ban mai, đứng nghe Rát-sô-khin, dưới ánh sáng vàng nhạt cúa chiếc đèn dầu lửa, nói cho biết là hôm nay quân Đức đến ném bom Hạm đội từ phía tây nam. Lúc đó, hình như có một cái gì ảm đạm, ngay cả đến những hình người xù xù in lên tường. Nhưng tiếng máy đã làm Lu-nin trở nên bình tĩnh hơn: từ bao năm, tiếng ồn đó có phép làm cho dây thần kinh anh hết căng thẳng.

        Trời sáng mau, đã thấy cỏ run rẩy trong gió cánh quạt của Rát-sô-khin. Máy bay của đại úy lấy đà và cất cánh, đằng sau là Bê-sây-tốp. Họ lượn trên trường bay khi Ka- ban-kôp và Sê-pen-kin cất cánh. Đến lượt Lu-nin. Anh rời mặt đất, và trông thấy ngay biển lấp lánh sau rừng.

        Quay lại, anh thấy thẳng sau là máy bay của Sê-rốp. Lấy chiêu cao, Rát-sô-khin quay mũi ra biển. Họ bay theo một hình ba cạnh rộng, đi đầu là Rát-sô-khin và Bê-sây- tốp, Ka-ban-kốp và Sê-pen-km bên phải, Lu-nin và Sê- rcíp bên trái. Họ vượt qua bờ biển. Phía dưới, gương nước phản ánh da trời mỗi lúc một sáng.

        Lê-nin-grát ở tay trái về phía đông: thành phố vĩ đại có sông Nê-va chảy qua còn lò mờ vì ánh sáng loé mặt trời mọc. Bên phải, trên hòn đảo thon, dẹt, Cờ-rông-stát với những ống khói nhà máy, những cần trục, và giữa những cái đó, hiện ra một mái nhà thờ giống như cái bánh ngày lễ Phục sinh. Đằng trước, trên bờ nam có cây che, những ngôi nhà thấp của Pê-tê-rốp và O-ra-ni-a-bôm, in thành những chấm trắng. Hai mươi nhăm cây số trên vịnh Phần Lan đó, giữa Lê-nin-grát và Cơ-rông-stát, cái khuỷu trồi ra nhất phía đông cửa biển Ban-tích, mang tên là vũng Mác-ki. Từ cái vũng đó, tất cả đông Ban-tích trong tay quán Đức và quân Phần Lan. Và chính ở đây, giữa Cơ-rông-stát và Pê- tê-rốp, tập trung hạm đội của ta.

        Lu-nin nhận rõ các chiến hạm. Chúng im lìm, nhưng các bệ súng động đậy, kéo theo các cỡ nòng. Chúng đã nhả dạn, tất cả chĩa về nam, và đông nam.

        Nhưng không thể nhận được cái gì ở phía tây nam. Một đám mây lốn mầu tro tím nhạt đã bò đến ngay trên đỉnh bờ biển và dừng sững ở dấy như có bức tường vô hình ngăn lại. Lu-nin chỉ nhìn thấy bờ biển, mà ở đấy thì chẳng có cái đáng nhìn; đạn của Hạm đội nổ xa về mé bên kia.

        Rát-sô-khin dẫn phi đội đến đám mây, rồi men theo mép trái nó, mũi hướng về đông. Bên phải Lu-nin, như một rặng núi, bốc lên những luồng hơi khổng lồ chậm chạp, với những hõm sâu đầy ánh sáng lúc tím lúc đồi mồi. Đến đinh bên tầu, Rát-sô-khin lại ngoặt về phía bắc. Họ vượt ngang một lần nữa vũng Mác-ki ngay trước cửa sông Nê-va, và tiến về tây men theo bờ bắc. Đến gần "lưỡi cáo" - một dải đất dài có cây che chạy ra biển về phía Cơ-rông-stát, - họ lại ngoặt lại phía nam và nhào thẳng về dám mây.

        Nó to ra không ngừng không chỉ như một quả núi không thể vượt qua mà còn rung rinh chất lỏng của thời cổ sơ. Và đột nhiên Lu-nin thấy máy bay địch vụt ra.

        Chúng ra khỏi những luồng hơi nước từng tốp 8, 12, 15, từ khắp chân trời, ở mọi khoảng cao, thoạt dầu độ vài ba chục, đen thuôn, hơi chậm, nhưng rồi không ngừng tràn khắp ngoài đám mây, như ong võ tổ, rồi chẳng mấy lúc đầy trời, từ đông nam qua tây nam. Từng cụm bay lại nhau, tập hợp, lại tập hợp nữa, mũi hướng về Hạm đội.

        Lu-nin quay đầu và kiếm một lượt phi đội của Rát-sô- khin - sáu chiếc bé nhó.

        Tay nắm chặt tay lái, anh nhìn chiếc máy bay dẫn đầu. Đại úy sẽ làm gì đây? Lu-nin nhớ lại tiếng nói của anh: "Không đánh với gioong-ke lẻ!". Nay với cả đống như thê này thì chắc chá còn phải lo đánh nữa chứ! Rát-sô-khin ngoặt. Chắc anh sẽ quay lại dẫn phi đội về trường bay.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2018, 08:48:18 am

        Nhưng anh không quay lại, mà hướng mũi thẳng vào cái đám nhung nhúc đang ra khỏi mây và lao tới.

        Ý nghĩ lộn nhào, toàn thân như cứng lại vì lạnh, Lu-nin cảm thấy một sung sướng không tả được. Anh thấy Bê-sây- tôp, Ka-ban-kôp, Sê-pen-kin rú hết ga xông vào, theo Rát- sô-khin. Anh cũng mở hết ga quay lại: Sê-rốp theo sau giữ đúng cự ly. Sáu người, họ xông vào trước đàn máy bay oanh tạc đã chiếm hết nửa không trung, từ đầu đến cuối chân trời.

        Lu-nin nín thơ. Gioong-ke lại gần, to ra trông thấy: cánh chúng như dài ra. Phi đội vút qua bờ đông Cờ-rông- stát như vòi nước cuốn, và Lu-nin nhìn thấy các chiến hạm. Trên cao, dưới thấp, bên phải, bên trái, không trung đầy từng đám khói, lại tan ngay: lưới đạn chặn của cao xạ Cơ-rông-stát. Lu-nin dột nhiên hiểu ràng các gioong-ke châu vào hạm đội. Phải vượt chúng. Anh bay hết tốc lực, đuôi mắt phải theo dõi chiếc máy bay của Rát-sô-khin.

        Cuộc gặp gỡ ngay trên dầu Hạm đội.

        Cái này đến cái khác, đôi cánh lớn mỏ rộng, gioong-ke hiện vào ông kính. Nhưng chúng biến ngay tức thì, vì mọi vật đều rung. Sốt ruột, Lu-nin bắn ngay, tuy còn cách chiếc oanh tạc đầu tiên tới hơn bốn trăm thước. Từng lười lửa dài mà mặt trời làm mờ đi, rung rung như bộ ria ở mũi một chiếc gioong-ke: luồng đạn bắn thẳng.

        Một khoảnh khắc sau, gioong-ke ở khắp chỗ: trước sau, trên, dưới. Nhìn đâu, Lu-nin cũng chỉ thấy cái thân dài đen của chúng. Anh rơi vào giữa trung tâm cuộc bát nháo. Những lưỡi lửa giao chéo xung quanh anh như một tấm lưới. Phải đổi hướng từng nửa giây để không đâm vào máy bay oanh tạc. Cứ mỗi chiếc vào ống kính là anh bấm nút súng liên thanh. Nhưng chúng biến nhanh quá, rồi đến cái khác, thành không có thời giờ nhận định kết quả bắn của anh. Chỉ biết chúng gờm anh và tránh ngay lập tức, như lũ bò cái khi chó xông vào giữa bầy. Nhận định ấy làm anh đầy vui sướng. Và anh xông xáo bên phải bên trái, buộc chúng tụm lại, rồi lại buộc chúng tản ra.

        Trong cuộc hỗn loạn ấy, anh quên đứt là phải theo Rát- sô-khin, và đã mất hút Rát-sô-khin cũng như các bạn khác từ lâu. Nhưng anh đoán họ ngay cạnh mỗi khi, tự nhiên, bọn oanh tạc như sắp đằm phải nhau. Quay đầu, anh thấy ngay đằng sau chiếc máy bay cúa Sê-rốp và lấy làm lạ là đồng đội anh sao không lạc anh trong cuộc xoay tít này.

        Tít dưới thấp, anh thấy Hạm đội, như những chồng diêm. Bom rơi xiên, chậm, chúng nổ tung từng tràng những chấm trắng nhỏ trên mặt biển. Gioong-ke thả vu vơ, khi chưa tới mục tiêu. Không cho chúng ném bom bằng ống kính, vậy là thế chăng? Phi đội tuy có sáu mống nhưng họ đã tròn nhiệm vụ: bom rơi xuống nước. Trong cơn kích thích khoái trá, Lu-nin xông xáo vào giữa đám gioong-ke, chúng dạt ra bên, và anh bán không ngừng.

        Sau khi thả xong số bom của nó, mỗi gioong-ke quay đầu về chĩa mũi lên đám mây. Trong cuộc tháo lui, chúng tản khắp bốn phương, hình như muốn tránh gặp nhau. Chúng tìm cách lẩn vào dám mây, nhưng trong cuộc chiến đấu, đám mây đã bay xa về phía nam, với cả bộ hình châu mai, ngọn chòi của nó, và bây giờ mặt tròi tràn ngập cả bờ biển nam, chiếu sáng làn khói lè xè của những đám cháy.

        Thình lình hoang vắng quanh Lu-nin. Anh nhìn khắp phía: không một chiếc gioong-ke nào gần đó. Anh lạ quá, đến nỗi không nghĩ ra được sự thay đổi ấy là nghĩa lý gì. Trong sự kích thích của trận đánh, anh định lùng một chiếc oanh tạc để bắn. Nhưng những chiếc gioong-ke nhìn thấy thì xa quá, và tản mác quá. Mỗi khoảnh khắc, anh lại đổi hướng, không biết chọn cái nào làm bia. cả bọn chúng bay về phía nam ở khoảng cao khác nhau và cả anh cũng đã vượt qua bờ biển. Mỗi lần quay lại, thấy trong luồng bay của mình, máy bay Sê-rốp theo đúng đường động tác của anh.

        Sau một cái liệng ngoặt, thình lình anh thấy hai gioong-ke cánh sát cánh, cách khoảng bốn trăm thước. Anh xông thẳng, hết sức mừng rỡ khi thấy chúng to dần trong ống kính. Hai oanh tạc nhả đạn, nhưng anh chẳng thèm để ý, bay gần lại chiếc bên trái đằng mé trái, lia một bảng vào cánh nó, suýt nữa đâm phải nó, đến khoảng giây cuối cùng kéo tay lái nhẩy vọt qua nó. Vì anh hơi lượt ngoặt một tí, anh thấy Sê-rốp cũng bắn vào cái gioong-ke đó và cũng nhẩy qua nó.

        Một luồng khói đen dầy phụt từ chiếc oanh tạc và bao kín lấy nó. Chiếc máy bay bốc cháy bay chầm chậm bằng một máy. Chiếc gioong-ke bên phải mỗi lúc một bay xa ra. Hai chiếc đến gần đám mây ngay gần đây, đám mây với những hình chòi, hình châu mai, che kín nửa khoảng tròi.

        "Không để nó thoát, Lu-nin nghĩ thầm và nhìn chiếc oanh tạc đang cháy. Một băng nữa là mình kết liễu nó".


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2018, 08:49:13 am

        Quay đầu xem Sê-rốp có theo anh không, anh thấy đàng xa máy bay Rát-sô-khin đang bay trên mặt biển và nghiêng cánh. Lu-nin biết cái hiệu đó: Đại úy tập hợp các phi công "một chút nữa, Lu-nin nghĩ thầm, anh đang mê săn đuổi - Đợi một giây! Chỉ một băng nhỏ vào chiếc gioong-ke là tôi lại ngay".

        Anh vội vã, vì đám mây đã gần sát. Chiếc oanh tạc cháy xoay xở lúng túng, và hiện ngay vào ống kính. Lu-nin định bắn ăn chắc nên chi bấm nút khi còn hơn trăm thước. Nhưng súng tắc.

        Như trong ác mộng, như có ai chài mình. Súng vẫn hoàn toàn thông cho đến lúc ấy. Đã xẩy ra cái gì? Lu-nin nhẩy vọt qua chiếc gioong-ke cháy và liệng ngoặt tức thì để bắt lại nó vào ống kính.

        Những cụm trắng của đám mây gần đụng chiếc gioong- ke thì Lu-nin lại bấm nút. Nhưng súng vẫn không động. Lu-nin bổ hết ga vào giữa đám mây và phúc chốc, chiếc gioong-ke, đất, trời, biển, tất cả đểu biến mất.

        Không may biết mấy! Liều lĩnh anh xông xáo thêm mấy khoảnh khắc trong đám mây mù dày đặc, chẳng nhìn rõ đến cả hai chiếc cánh của máy bay mình nữa. Rõ ràng là không còn một chút hy vọng tìm thấy chiếc gioong-ke trong cái lùm hơi khổng lồ này. Lu-nin lại nghĩ đến súng: nếu không hóc vào giây cuối cùng thì chiếc oanh tạc đã bị hạ. Anh bấm nút một lần nữa, vẫn như không. Và bất giác anh hiểu: anh đã tiêu phí hết đạn trong cuộc đánh.

        Lúc đó anh mới nhớ đến Rát-sô-khin. Bạn anh chắc đã về đến trường bay. Thật là rồ mà tiếp tục cuộc săn đuổi. Phải về ngay. Anh xoay hướng theo địa bàn và hướng mũi về phía bắc bay qua mây mù.

        Đột nhiên, im lặng và tôi mò, như anh đã rơi xuống đáy biển... Thế là nghĩa lý gì? Máy không nổ!... Máy bay mất chiều cao và im lặng xuống trong khối hơi dầy xoáy tròn.

        Gì vậy? Chác bị một viên đạn găm vào máy trong khi săn gioong-ke.

        Hỏng không nặng lắm: vì máy đột nhiên lại chạy. Lu-nin  lại lấy chiều cao, mũi hướng về bắc. Nhưng như vậy chỉ được vài giây. Máy lại câm, và Lu-nin lại phải liệng.

        Sự việc xẩy ra nhiều lần: máy chạy rồi lại tịt. Rồi nó tắt hẳn. Lu-nin hết sức lái về hướng bắc, nơi mà bờ biển còn ở tay quân ta. Nhưng anh chỉ có một ý mơ hồ về vị trí của mình, và rất ít hy vọng đến đích vì máy bay cứ xuống mãi.

        Khi ra khỏi đám mây anh thấy biển cách độ mười hai cây số, thẳng trước mặt. Nhưng anh chỉ còn ở cao tám tràm thước với gió ngược. Không đời nào còn ở trên không mà đến đó dược. Mé dưới, thấy một cánh rừng với những cuộn khói vương cành tùng. Ai ở rừng dó và làm gì ớ đó?

        Anh quan sát địa hình, tìm một bãi trống để hạ. Nhưng chẳng có gì ở gần đấy, chỉ có cây, toàn là cây. Anh thấy một con đường ngoằn ngoèo qua rừng và một xóm nhỏ ven rừng. Anh muốn quay mũi về phía xóm để hạ trong đồng hay trong vườn. Nhưng phái biết chắc không có bọn Đức. Nếu không, thì đậu ngay trên ngọn tùng...!

        Đột nhiên anh thây một ca-mi-ông đầy lính Hồng quân! Yên chỉ, anh cho xuống và hướng thăng mũi về phía xóm.

        Hạ cánh khó khăn lạ lùng. Cái mà anh tương là đồng té ra một bãi đầy gốc cây. Anh bay qua, định đỗ trên vườn su hào lại thấy chật quá, nhảy qua hàng rào ra đường, đụng đất bụi mù, và đỗ cách một cái nhà năm thước.

        Các mùi, các tiếng dưới đất lặp tức đánh vào giác quan. Mùi cháy khét nghẹt lấy họng: cánh rừng ngay bờ đường đẩy khói cuộn xoáy giữa cành cây. Những quả đạn trái phá vô hình rít bay qua xóm. Cứ mỗi phát, tiếng rú nổi lên từ bắc, từ mé biển, rít qua đầu, bay về nam nổ trong một tiếng oàng làm rung cả không khí: pháo chính của Hạm đội bắn chặn dường tiến của bọn Đức.

        Lu-nin nhẩy xuống để thử máy và thấy ngay lập tức tại sao máy hỏng: khi bay, anh đã đoán trước, ở trường bay, chữa hai phút xong; nhưng ở đây, chẳng có gì trong tay.

        Anh thấy hai thằng bé tóc mây đứng ở bờ rãnh, chân đất, nhìn mê mải. Một đứa quãng 11, đứa kia lên 5.

        - Em có một cái dùi không? - Lu-nin hỏi đứa lớn.

        - Không.

        - Em hỏi trong xóm xem ai có?

        - Đi hết rồi.

        Lu-nin ngạc nhiên:

        - Các em ở đây một mình sao?

        - Với bà.

        - Sao các em không đi?

        - Đi đến Stren-na, nhưng đạn bắn ở đường nhiều quá. Bà sợ rồi quay lại.

        "Stren-na! Ở bờ biển, gần sát Lê-nin-grát! Lu-nin nghĩ thầm, nếu quân chúng đến tận đấy. thì cả bờ nam bị cắt khỏi thành phố".

        - Anh cần một cái đinh dài, mỏng. Các em cố tìm cho anh một cái.

        Chúng chạy về xóm và vắng một hồi lâu. Đạn rít qua. Châu chấu kêu trong cỏ. Cao trên trời, Lu-nin nghe thấy tiếng máy bay. Anh ngẩng đầu và nhận thấy một Mét-séc- mít lượn vòng. Thám thính, chắc thế...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Hai, 2018, 08:00:41 am

        Hai đứa trở lại. Đứa lớn đưa mươi cái đinh quằn và rỉ đủ các cỡ. Lu-nin chọn cái dài nhất.

        - Em tên gì? - Anh hỏi đứa bé.

        - Dô-di-a.

        Lu-nin lạ và hỏi:

        - Dô-di-a à?

        Đứa lớn trả lời:

        - Nó tên là Sê-ri-ô-gia.

        Lu-nin bắt đầu chữa. Khá lâu. Mặt trời lên mãi. Hai đứa trẻ không rời máy bay một bước. Máy lại nổ. Phải cất cánh. Nhưng cất ở đâu?

        Vườn rau bé quá. Bãi trông thì đầy gốc. Chỉ còn con đường. Nhưng dằng sau, nó đi vào giữa rừng, giữa những cây tùng lớn; và đằng trước, nó thành đường phố, thu hẹp giữa hai hàng nhà. Lu-nin do chiều rộng. Nếu lăn đúng giữa, có thể không chạm nhà, khổ thay, con đường lại ngoặt, và chính ở chỗ cất cánh thì bị một cái nhà chán lại.

        Anh đi đến gần cái nhà, đếm bước, và hy vọng là mình đã đếm nhầm. Hai đứa trẻ theo sau, say mê theo dõi mỗi cử chỉ của anh. Anh đã không lầm! Không tài nào cất cánh trước chỗ đường ngoặt. Phân vân, anh trở lại máy bay. Hai đứa trẻ không rời anh.

        Cả ba đều đứng gần máy bay khi họ nghe thấy tiếng động cơ ù ù lại gần. Lu-nin ngáng đầu lên. Một gioong-ke từ phía rừng hiện ra bay là là mặt đất, thả một chùm bom.

        - Nằm xuống! - Anh kêu hai đứa trẻ, và anh ập người trong hố.

        Chiếc gioong-ke nhằm chiếc máy bay của anh mà chảng có gì che cả. Bom nô theo một tràng loại nhỏ 25 cân, quả thứ nhất khá xa, quả thứ hai gần hơn, quả thứ ba gần sát. Đất phủ Lu-nin nằm sấp trong cống. Quả thứ tư nổ xa nữa, bên kia đường, quả thứ năm xa nữa.

        Từ từ Lu-nin đứng lên, tai ù đặc và lấy tay lau mặt. Máy bay còn nguyên. Đất khô bắn lên vì tiếng nổ nay lại rơi nhè nhẹ từ ngọn tùng xuống.

        Thằng bé lớn chạy về phía xóm và hét:

        - Bà ơi, Dô-di-a chết rồi!

        Thoạt đầu, Lu-nin tưởng là một cái túi giẻ rách. Anh cúi đầu xuồng, và như cái máy, nâng em bé lên. Dô-di-a nhẹ một cách lạ lùng - những xương như chảng có một chút nặng. Sợ đụng vào cái dầu nhỏ tóc vàng hoe, Lu-nin cúi nhìn mặt em. Không còn mặt nữa.

        Đủng cạnh máy bay, ôm thây em bé sát vào ngực, Lu-nin  nhìn theo em lớn đang chạy qua phố vắng với một dáng nhẩy lạ lùng mồm không ngừng kêu.

        Khi em đã khuất sau ngoặt dường, Lu-nin nhẩy qua hố, dặt Dô-di-a trên đám rêu ở gốc cây tùng, trở lại máy bay, ngồi vào chỗ lái và dận máy: anh không còn một chút sợ là sẽ đâm gẫy máy bay vào tường ngôi nhà chắn ở ngoẹo đường nữa!

        Mũi chiếc 1-16 chắn tầm mắt anh. Anh mở hết máy và lao thẳng. Đuôi máy bay ngỏng lên. Anh nhìn thấy dẫy phố và cái nhà chắn ngang. Nó gần lại như chớp. Đầu cánh máy bay gần đụng các thềm nhà nhỏ bàng gỗ ở hai bên. Máy bay lăn hết tốc lực, bánh ngập vào trong những rãnh bánh xe bò. Vấp phải cái bướu, nó chồm lên, hơi lìa đất, rồi lại đụng đất... Nhưng cái bướu đã làm thành đà và máy bay thoát. Sau cái đụng đất nó nhẩy thêm một cái lần này cao hơn trước nhiều, và vọt qua mái nhà.

        Nhà vượt qua, máy bay lại là xuống phía bờ dậu và một đống thùng gỗ nát, gần như chạm phải chúng, rồi ngẩng lên và lên thẳng. Lu-nin rút bánh xe vào, lấy chiều cao, và lượn trên xóm. Phía bắc trông thấy Hạm đội trong ánh gương lấp lánh mặt biển. Đúng trưa, mặt trời ở phía nam. Xoay lưng vào mặt trời, Lu-nin hướng mũi về các chiến hạm.

        Anh bay trên biển, nhìn bóng máy bay lướt trên sóng. Thình lình anh thấy gần đấy những bóng khác mờ mò. Anh ngẩng lên và thấy trên trời trong hai máy bay. Anh nhận được chúng tức khắc: Mét-séc-mít 109.

        Chúng cùng đi một đường với anh, cao hơn 700 thước, chắc là sắp tấn công anh. Lu-nin nghĩ bụng:

        -"Thôi chết. Mình không còn một viên đạn và xăng cũng sắp hết".

        Trong khi tự cáu với mình, anh không còn biết sợ và tự mắng mình: "Thật là ngốc! Muốn ăn to thì được gặp to! Nhưng không biết chúng nó còn đợi cái gì nữa mà chưa đánh".

        Anh thấy trên biển một máy bay thứ ba, một máy bay ta, một chiếc 1-16 giống hệt của anh! Anh mừng rơn. Vài giây sau, họ bay cùng, và Lu-nin nhận được Sê-rốp đang mỉm cười dưới cái mũ bay.

        Mấy cái Méc-séc-mít đi đâu? Chúng sẽ làm gì? Chúng đã biến mất, như bốc thành hơi trong ánh nắng mặt trời.

        Khi với một chút xăng còn lại, rồi chẳng còn một giọt, Lu-nin đem được máy bay về bãi và đỗ mãi tít đằng cuối, thì đầu anh đã lảo đảo vì mệt. Anh xuống. Mọi vật nhẩy múa. Mặt trời rực rỡ. Một con ong to kêu vo vo. cỏ mềm quấn vào bốt lông. Hoa đa-li-át đò rực đằng xa, gần cái biệt thự nhà ăn. Đồng chí thợ máy đã chạy lại phía Lu-nin , kèm theo là anh chàng Sê-rôp thân dài, lưng cong, anh ta đã đỗ chính ngay gần chữ T. Hai người mỉm cười.

        Lu-nin nói:

        - Cảm ơn đồng chí! Không có đồng chí thì...

        Sê-rốp nói:
 
        - Đồng chí có thây là chúng khôn không? Chúng chỉ tấn công khi chúng đông hơn. Một khi thấy chúng mình đi đôi, là chúng chuồn... Tôi lạc đồng chí trong đám mây... Tìm mãi! Tôi về mãi tới trường bay, rồi tôi lại cất cánh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Hai, 2018, 08:01:52 am

        Anh sung sướng rõ rệt vì đã tìm thấy Lu-nin. Lu-nin cảm thấy lòng mến yêu bạn, sờ nhẹ vào vai anh, và hỏi:

        - Thế đồng chí đại úy?

        - Đồng chí ấy lo lắng.

        - Chắc là bực mình?

        - Với tôi, vâng.

        - Sao?

        - Vì tôi đã bỏ đồng chí.

        Lu-nin vội vã cãi:

        - Đồng chí không bỏ tôi! Lỗi chỉ tại mình tôi thôi! Đi báo cáo với đồng chí ấy.

        Anh muốn đến ngay chỉ huy sở. Anh nhớ lúc có hiệu lệnh tập hợp của đại úy, anh đã tự để lôi cuốn một cách ngu dại vào việc săn hai cái gioong-ke. Bây giờ phải ra trước Rát-sô- khin như Bê-sây-tốp hôm qua, và Rát-sô-khin sẽ sạt anh cũng như đã sạt Bê-sây-tốp. Nhưng Sê-rốp bảo anh không cần đi tới hầm. Đến giờ cơm trưa rồi. Mọi người ở nhà ăn, cả Rát-sô-khin. Lu-nin rảo bước về phía biệt thự.

        - Đồng chí bị thương à? - Sê-rốp đang di bên trái kêu lên.

        - Không. - Lu-nin nói.

        - Đồng chí có máu trên áo!

        Lu-nin thấy một chấm sẫm nhỏ trên ngực anh, và nói với Sê-rốp:

        - Tôi không hề bị trúng đạn đâu.

        Đó là máu em bé Dô-di-a. Nhưng anh không muốn kể chuyện em bé với ai.

        Rát-sô-khin, Ka-ban-kôp và Sê-pen-kin đợi anh trên thềm. Từ xa, họ cười với anh. Hin-đa nhìn thấy anh qua cửa, giơ hai tay và chạy ra thềm, đầy vui sướng.

        Lu-nin dừng lại, ngượng vì cuộc tiếp đón ấy.

        Rát-sô-khin nói:

        - Vào, đồng chí thiếu tá, vào. Đang ăn. - Anh cười với tất cả các nét dăn trên bộ mặt đầy tàn hương.

        Nhưng Lu-nin ngập ngừng:

        - Thưa đồng chí thiếu tá, hình như tôi xử sự không khả lắm.

        - Khá chứ! - Rát-sô-khin trả lời.

        - Khá thế nào?

        - Khá sai! - Rát-sô-khin nói rõ. - Bây giờ vào ăn thôi.

        U-va-rốp, chính ủy sư đoàn ở bàn ăn. Thấy đồng chí,

        Lu-nin càng luống cuống. Nhưng U-va-rốp cũng cười.

        - Chúc mừng cuộc thử lửa của đồng chí, đồng chí thiếu tá ạ! Đồng chí làm chúng tôi lo sốt vó.

        - Báo cáo đồng chí chính ủy...

        - Thật ra, tôi tin rằng đồng chí sẽ tự xoay sờ được. Đồng chí đói mềm chứ? Đồng chí Hin-đa, đem một cốc cho đồng chí thiếu tá nào!
-   
        Các phi công vẫn còn bị kích thích vê trận đánh. Các cặp mắt sáng lên. Họ phân tách và kể chi tiết với U-va- rốp. U-va-rốp ngồi nghe, không nói gì.

        Sê-pen-kin hỏi:

        - Hôm nay chúng bao nhiêu?

        - Không nhiều: 73. Hôm qua thì 119.

        - Thê là cũng hạ dược ba chiếc.

        Thật là một tin mới đối với Lu-nin: trong cuộc loạn ẩu, anh không thây một chiếc nào rơi. Hai gioong-ke bị đội Rát-sô-khin - Bê-sây-tốp hạ, cái nữa do Ka-ban-kốp - Sê- pen-kin. Họ phân tách sự biến diễn của trận đánh và Lu-nin  nhận ra một cách ngạc nhiên là trận đánh đối với anh thì rối nhu mở bòng bong, thế mà đối với họ thì như là cái gì nhịp nhàng cân đối, diễn biến theo một kế hoạch tỉ mỉ, lại chia ra từng yếu tố rõ ràng, có đầu, có đuôi và họ có thể tả lại ngọn ngành từng đoạn.

        Hơn nữa, mọi người còn có một hiểu biết khá rõ về những sự việc xẩy ra cùng lúc đó ở các vùng trời khác của Lê-nin-grát. Họ luôn kể đến tên các thủ trưởng trung đoàn, phi đội, nhìn thấy chung cả khối không quân và Hạm đội bảo vệ Lê-nin-grát như một cơ thể dính liền, và hoàn toàn thông suốt nhiệm vụ của mỗi bộ phận. Tuy trong trận đánh, họ chỉ trông thấy máy bay của họ, nhưng không một lúc nào họ có cảm giác lẻ loi. Họ băn khoăn nhất là các phi đội khác, và các đơn vị lục quân, hải quân nhận định về trận họ vừa đánh như thế nào?

        Bỗng U-va-rốp nói:

        - Tôi vừa nói chuyện với Bộ tham mưu hạm đội. Không một chiến hạm nào cùa ta bị trúng cả.

        Mọi người quay về phía đồng chí.

        - Cái đó là chính! Sê-pen-kin vé đác thắng nói to.

        - Cái chính, là bọn Đức phải chúi xuống đất, - U-va-rốp tiếp. Sê-pen-kin ngạc nhiên hỏi:

        - Chúng chúi xuống đất? Tại sao?

        - Bởi vì thế có nghĩa là ta đã chặn chúng lại. Chúng tính vét nguyên vẹn Lê-nin-grát và hạm đội cùng một mẻ lưới.

        - Thế là chúng vỡ đĩa! - Ka-ban-kốp reo lên, và giơ quả đấm rắn nhỏ của anh.

        - Hoàn toàn vỡ. - U-va-rôp nói nốt.

        - Bây giờ chúng sẽ làm gì? - Sê-pen-kin hỏi.

        - Tìm cách chiếm thành phố.

        Đồng chí không nói gì nữa và theo Rát-sô-khin sang buồng bên có dây nói gọi.

        Một phút sau, Rát-sô-khin trở lại, và gọi.

        - Ra máy bay!

        Trong tiếng xô ghế, họ ra khỏi nhà ăn, chen nhau trong căn buồng hẹp liền cửa ra. Chạy sau Sê-rôp, Lu-nin đến máy bay của anh đã ở sẵn trên đường bay. Về phía đông nam sau rặng tùng, trên đầu Lê-nin-grát đã thấy khói đạn cao xạ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Hai, 2018, 09:59:38 am
         
CHƯƠNG BA

CĂN NHÀ Ở CÙ LAO VÁT-SI-LI

I

        Sau khi người đàn bà lạ mặt váy dính đất bảo Sô-ni-a là mẹ em đã chết, thì em gái bé có ngay một ý định: Không cho ông biết gì cả. Nếu ông đã không biết gì cả, thì thằng Sla-va cũng không được biết gì nốt. Không ai được biết. Em đi vào nhà với bộ mặt thản nhiên, đặt bàn ăn -  việc hàng ngày của em - và còn tủm tỉm cười khi thấy ông ở bếp ra nhìn mình dò xét. Nhưng đĩa bát đặt xong, em trốn vào buồng mẹ, nơi đã bao năm em ngủ với mẹ. Ngồi trước chiếc bàn nhỏ trên có cái sân khấu múa rối bằng bìa cứng, em khóc. Phải khóc im lặng, và em cố nín thở: mỗi lần thở ra, một tiếng giống như tiếng rít lại bật khỏi miệng.

        - Sô-ni-a, đi ăn cơm! - Ông gọi từ nhà ăn, tiếng mạnh và xẵng. Ông phụ trách việc làm cơm.

        Em chùi nhanh nước mắt và đi ra, mặt tươi cười. Ông đã ngồi vào bàn, đầu nhỏ hất ra đằng sau, dáng quan trọng. Có một lúc, ông nhìn Sô-ni-a bằng đuôi mắt, cái nhìn quá soi mói khiến trong giây phút đó em tưởng là ông đã biết hết rồi. Tuy vậy ông chẳng nói gì. Để tranh thủ thời gian

        và giữ được tư thế vững vàng hơn, em vội vã ra cửa sổ. cúi xuống sân và gọi to từ suốt năm tầng cao xuống:

        - Sla-va, về ăn cơm!

        Từ khi người mẹ đi đào công sự, ông phụ trách làm bếp. Cụ làm cơm cho cả ba, không cho Sô-ni-a đến gần xoong chảo của cụ, cũng nhu trước kia không cho đến gần sách, bản đồ và những vở viết tay của cụ.

        - "Ông là một nhà thám hiểm, mà nhà thám hiểm nào cũng thạo làm bếp!", cụ tuyên bố trước lò bếp, đầu đội mũ giáo sư, áo ngủ màu xanh da trời và giầy vải đỏ. "Mỗi kỳ đi thám hiểm, chính ông phụ trách cơm nước".

        Những món ông làm sẵn cho Sô-ni-a và Sla-va củng đều có kiểu đặc biệt, phát minh riêng của ông, nhưng khoa học quá đỗi đến nỗi khó mà phân biệt được khoai tây với thịt bò, thịt bò với mì ống.

        Cụ I-li-a Mát-ni-kốp dạy về khoa Thủy hệ học. Cụ đã để suốt, đời nghiên cứu sông, hồ; đã thám hiểm khắp nước, mầy mò đến những nơi hẻo lánh nhất. Trước kia, cứ mùa xuân cụ ra đi, đến mùa thu mới trở về. Về già, những cuộc đi như vậy đã quá sức cụ. Cụ đi thưa hơn, và sau cùng không rời khỏi cái bàn làm việc của cụ nữa. Từ năm năm nay, cụ sửa soạn bộ địa chí hồ La-đô-ga. Tác phẩm này hoàn thành sự nghiệp của cụ.

        Ka-tê-ri-na là con gái độc nhất của cụ. Goá vợ từ lâu năm, cụ rất sợ phải xa con, và có một thời gian cụ mang cả con đi thám hiểm. Lấy chồng cách đây mười bẩy năm, Ka- tê-ri-na không dám rời cha, và chồng chị cũng đến ở cái nhà này. Sê-vô-lốt Bi-strop cũng nghiên cứu khoa học nhưng ngành khác: ngôn ngữ học và lịch sử văn hoá Tây Âu. Ra mặt trận từ những ngày đầu chiến tranh anh đi rất xa, đâu quãng U-cơ-ren. Sô-ni-a biết qua thư từ là bố làm một công tác đặc biệt rất cần đến ngoại ngữ. Em viết thư cho bố luôn. Em nhất định báo cho bố biết tin mẹ - không phải ngay bây giờ, nhưng rồi ra một chút, - và em lờ mờ hiểu là không có quyền giấu bố sự thật. Nhưng ông thì nhất định không được biết gì. I-li-a yêu con gái, mẹ Sô-ni-a, với một tình thương khác thường, như ghen cả với kẻ khác. Trước chiến tranh, mỗi khi ở Viện khoa học về, không thấy chị ở nhà là cụ đợi chờ nôn nóng, cứ có tiếng động ở cầu thang là cụ lê đòi giầy vải ra mở cửa. Cụ vẫn tị với con rể, và quan hệ giữa hai người vẫn hơi mát mẻ. Nhưng khi vào đầu tháng tám, Ka-tê-ri-na đi mười ngày công sự thì cụ chịu đựng rất cứng cỏi, chẳng cho ai biết là cụ sốt ruột. Mười ngày qua, mười ngày qua nữa, rồi mười ngày nữa. Cụ đợi chờ, không nói một tiếng. Người ta đã dọn Viện mà cụ làm việc đi cùng với tất cả nhân viên và gia đình họ. Trường của Ka-tê-ri-na cũng dọn đi. Cụ vẫn đợi không nói một tiếng, nhưng cái đầu nhỏ giống như đầu gà sống của cụ cất lên hiên ngang, giọng cụ xẵng hơn, và Sô-ni-a hiểu cái đó có ý nghĩa gì.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Hai, 2018, 10:00:00 am

        Trước kia cũng thế, cụ ngẩng cao đầu và nói to với cái giọng như chém xuống khi cụ nói đến đối thủ về khoa học của cụ. Trong ngành cụ, cụ vẫn có đối thủ, trong và ngoài nước. Ngoài nước - ở Đức hay ở Mỹ, - những nhà chuyên môn phân tích phê phán mỗi tác phẩm của cụ. Và khi cụ nói câu chuyện đó ở bàn ăn, với một giọng hài hước không cười, cụ lại ngẩng hiên ngang cái đầu với bộ ria phớt xanh; người ta trông thấy đôi mắt sâu nẩy lửa - cái mắt mà Sô- ni-a kế tự cụ; và tiêng nói cũng lại rít như chém xuống. Như thách với định mệnh, như tuyên bố là con người không bao giờ chịu cúi đầu.

        Khi Sô-ni-a còn bé tí mà có ai hỏi. "Cháu là gì?" thì cm trả lời "Cháu bé của ông". Em giữ cái tên hèm ấy mãi. Đối với người ông nghiêm nghị và đúng mực ấy, em còn thân hơn là đối với bố. Từ khi Ka-tê-ri-na đi công sự, cụ càng gầy đi. Mặt héo đi, mũi dọc dừa dài ra, mắt to lên và sâu vào; cổ thành mỏng không, với những đường gân trồi ra. Sau cái hôm mà em được tin mẹ chết, em gặp ông ở cầu thang. Cũng là lần đầu tiên mà em nhận thấy ông bé nhỏ, hom hem và già. Ông ở thư viện về, nơi mà ông vẫn làm việc mỗi ngày mấy giờ, và ôm dưới tay một chồng sách nặng. Phờ phạc, lút trong cái áo ba-đờ-suy bạc mầu, gõ bực thang bằng đầu cán ô, ông lê bước chân uể oải. Ông bé quá, mỏng manh quá, nhẹ quá, làm Sô-ni-a muốn ôm chầm lấy ông mà cõng ông về. Nhưng trông thấy cháu, cụ lại ngấc đầu một cách trẻ trung và rảo bước, cố đi cho rắn rỏi. Nhưng không đánh lừa được Sô-ni-a nữa! Em tự biết mình bây giờ là chị cả, số phận của ông và của Sla-va trong tay mình, và có nhiệm vụ phải chăm sóc đến hai người.

        Thật là bất ngờ! Mới hôm qua, còn là một em gái bé ở với cha, mẹ, ông là những người lớn tuổi, gì cùng biết và đầy uy quyển, hoạt động trong cái thực tại của người lớn, và căng giữa em với cái thực tại đó một hàng rào che chở khiến em được mặc sức chơi đùa mơ mộng, học hành. Chẳng bao giờ em để ý đến chiến tranh, và em khinh thằng Sla-va vì cái tính thích tầu bay tầu bò của nó. Chẳng bao giờ em nghĩ rằng chiến tranh có thể nổ, và em không hiểu cái ấy nó thế nào.

        Một lúc mà thay đổi hết. Mẹ, mẹ ơi...! Sô-ni-a mở mắt giữa đêm khuya. Có tiếng động bất thường làm em thức giấc. Em ngóc đầu, tìm cái gì đã làm em tỉnh. Bom chăng? Không. Đêm yên tĩnh, và trong bóng tối dày đặc của đêm thu, em chẳng nghe thấy gì. Nhưng em nhớ rất rõ có một tiếng đã đánh thức em. Gì vậy?

        Em nằm trên cái ghế dài nhỏ sát giường mẹ nơi đôi gối làm thành một vệt trắng mát. Vệt đó, trước kia em cũng thấy khi em thức giấc canh khuya. Nhưng, trước kia, em chỉ với tay là đụng mẹ. Nay, mẹ em không còn đó. Mẹ không bao giò còn ở đó. Sô-ni-a ở lại một mình trong đêm mênh mang, trong lạnh lùng sợ hãi.

        Kẻ thù nó giết mẹ đang vây thành phố. Nó ở ngay sát đâu ngoài kia, sau những mái nhà lờ mờ qua những cánh cửa sổ mở ra trong đêm tối. Làm thế nào? Quyết phải ra mặt trận. Em nghĩ nhiều đến việc đó. Mười sáu tuổi, con gái lớn rồi, lớn hơn ông. Em sẽ không sợ, không sợ hơn ở đây. Ở đó, em sẽ có bạn xung quanh. Em đã đọc trong báo "Sự thật Lê-nin-grát" câu chuyện một cô gái thành xạ thủ!... Hay thành cái gì khác cũng được, nhưng làm tròn được bổn phận. Như mẹ chẳng hạn, mẹ chỉ mang một cái xẻng đi đào đất và chúng nó đã giết mẹ... Sô-ni-a không ngủ lại được. Mắt em mở to trong bóng tối và đêm khuya lặng lẽ dầy đặc vây quanh em.

        Em bỗng nghe thấy cái tiếng đã làm em tỉnh giấc. Em nhận ra lập tức. Tiếng động ấy từ phía cuối nhà vọng lại. Sô- ni-a ngồi dậy, lắng tai. Tiếng đứt. Gì vậy? Tiếng người? Tiếng người có cái âm ấy không? Tiếng ấy lại tiếp.

        Chân không, em chạy ra cửa. Chiếc áo ngủ dài trắng của em thoáng một giây trong mặt gương tối. Em ra buồng ăn và dừng lại.

        Sla-va ngủ ở đây. Trật tự đã quy định là mỗi chiểu, đặt cái giường gấp của nó cạnh tủ thức ăn. Ánh sáng mơ hồ của trời đêm chiếu vào mặt nó. Nó nằm ngửa, ngáy khe khẽ, và cái mặt không lo nghĩ, tròn trĩnh với đôi môi dầy hé mở, trong giấc ngủ giống như mặt đứa trẻ sơ sinh. Sô- ni-a tự nhủ rằng từ mai, em sẽ đem nó vào buồng mẹ, để nó ngủ cạnh mình. Đứng cạnh bàn, em lắng tai. Em rùng mình. Em định quay về giường thì lại nghe thấy cái tiếng lạ lùng khi nẫy.

        Đó là một tiếng khóc nấc dữ dội, đứt đoạn, cao, và rất đỗi tuyệt vọng khiến tim em muốn ngừng đập... Tiếng ấy từ buồng ông lại. Khi cao quá, tiếng bỗng tắc, hình như người khóc vùi mặt vào gối. Tất cả lại im lìm nhưng Sô-ni-a đã chạy trong hành lang... Em chưa hề nghe thấy một người đàn ông khóc. Ông biết tin mẹ chết rồi ư? Hay ông đoán?

        - Ông ơi!

        Chẳng nghe thấy gì trong buồng ông. Em dừng trước cửa. Rồi tiếng ông nói to, vẫn tiếng nói cũ nhưng hơi khàn hơn.

        - Tao ho. Đi ngủ đi!

        - Ông ơi, mẹ sẽ về! Cháu nói thật. Cháu biết...

        - Ngủ đi! - Ông tức giận quát.

        - Ông ngủ đi, ông...

        Em mò mẫm trở lại buồng. Trong buồng ăn, em lại dừng cạnh Sla-va. Làm sao mà em ra mặt trận được? Em bỏ hai người cho ai?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Hai, 2018, 08:27:59 pm

II

        Khi quân Đức chuẩn bị tấn công Lê-nin-grát thì thành phố đã là một tòa thành mà mỗi căn nhà là một pháo đài nằm trong một vòng đai rộng, đầy công sự chống xe tăng. Dẫy nhà Sô-ni-a ở cũng là một trong những căn nhà ấy.

        Một sự việc lớn đã xẩy đến trong đời Sô-ni-a vào thời kỳ đó: em yêu - yêu một phụ nữ quãng 38 tuổi, người tầm thước, ăn mặc giản dị, vẻ mặt rất bình thường nhưng lại vô cùng hấp dẫn đối với Sô-ni-a. Người ta gọi chị là Ang- tô-ni-a Trô-phi-mô-ra. Và chính chị đã tham gia nhiều nhất vào việc biến đổi dẫy nhà thành pháo đài.

        Trước chiến tranh, Sô-ni-a đã gặp chị trong sân. Ang- tô-ni-a hút thứ thuốc lá nhẹ, nhỏ. Chị mặc một cái áo chẽn cũ, duyên dáng thoải mái, dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyển, tiếng nói ấm và dịu.

        Tiếng đó, Sô-ni-a nghe thấy lần thứ nhất vào đầu tháng tám ở trong sân, khi một thằng nhãi, bạn Sla-va, lao một củ khoai vào Ang-tô-ni-a. Viên đạn sạt vào váy chị trước khi võ trên vỉa hè. Thằng nhãi trốn tức khắc. Khi chị quay lại, Ang-tô-ni-a chỉ trông thấy Sla-va. Chị nhìn nó chằm chằm bằng con mắt chế nhạo cau đôi mày vàng hoe một cách nghiêm nghị mà hỏi:

        - Tại sao lại làm thế? Chú bé?

        Sla-va không nói không rằng và nhếch mép cười một cách ngớ ngẩn. Sô-ni-a đợi Ang-tô-ni-a đã khuất sau cổng mới cho cậu em một trận:

        - Đồ ba láp!

        - Không phải em. - Sla-va cãi.

        Một bà già đã chứng kiến cả tấn kịch qua cửa sổ nhà dưới, hỏi bà giữ cổng đi qua:

        - Cái chị đó là ai?

        - Nhà 16.

        - Có chồng chưa?

        - Chồng ở mặt trận.

        - Thế con?

        - Tản cư rồi. Bây giờ chỉ một mình.

        - Chị ta làm việc à?

        - Trước cơ. Ở xương dệt.

        - Các chị thợ đều đi cả mà.

        - Chị này ở lại.

        - Để làm gì?

        - Tôi không biết. - Bà giữ cửa trả lời, tỏ vẻ coi thường.

        Một tháng sau, bà già, bà giữ cửa và các phụ nữ khác ở dẫy nhà, lắng nghe Ang-tô-ni-a, vẻ kính trọng. Chẳng ai chỉ định hay bầu chị. Tự chị đứng ra chỉ huy, và mọi người đều sẵn sàng nghe chị, vì dù sao cũng phải có một người đứng ra chỉ huy.

        Chị bắt đầu bằng việc làm hầm trú ẩn. Tuy đã có một cái rồi nhưng nó nhỏ xíu, ẩm thấp, tối mò. Trận ném bom đầu tiên, người chất đông ở đó đến nỗi chỉ có thể đứng. Chị bảo phải mở rộng nó ra vì dãy nhà này là dãy nhà quan trọng độc nhất trong khu phố và hầm của nó có thể chứa 2000 người. Sô-ni-a tham gia thám hiểm các hầm lần đầu tiên do Ang-tô-ni-a dẫn đầu. Sô-ni-a chưa bao giờ ngờ là dưới nhà lại có cả một khu vực rộng đến thế, tối đến thế, huyền bí đến thế - một dẫy ngang dọc rối loạn những hành lang mái vòm, ở đó những ống lầy nhầy giao nhau vô số vũng nước đọng hôi thôi lộn mửa như không có đáy. Đi trên những tấm ván trơn tuột, Ang-tô-ni-a vượt qua những vũng sâu đen ngòm với bước chân nhẹ nhõm, tay giơ ngọn nến. Theo sau chị, chừng hai mươi phụ nữ rón bước thận trọng và im lặng, như bị bóng tối âm u của cái hầm khổng lồ đè trĩu xuống. Người đàn ông duy nhất trong đám giúp việc, ông giữ cửa A-bra-ham, một ông già Tác-ta vóc cao lớn mặt buồn và trang nghiêm, thuộc lòng cái hầm này. Nhưng Ang-tô-ni-a không cần người đưa đường. Tuy đến đó lần đầu, chị lại chính là người đưa đường cho người khác. Lỡ bước trượt, và sa chân xuống nước, chị điềm nhiên rút giầy ra, dốc bỏ bùn, xỏ giầy lại và lại đi tiên phong, vừa đi vừa cắt nghĩa: rồi đây sẽ tạo thành một cái hầm trú ẩn huy hoàng như thế nào? Chị nói:

        - Ở đây chúng ta sẽ đóng nhũng ván ghép, và sẽ đặt điện để nhân dân có thể ngủ, hôm sau đi làm cho khoan khoái. Trong phố ta, phần đông là thợ, ai cũng như tôi đều biết hiện nay, thợ còn phải làm gì ban ngày... Ta sẽ mắc điện, làm sàn, bơm nước đi, đem lò tôn lại để hơ khô tường, và mắc máy phóng thanh để nghe hiệu hết báo động.

        Người ta khó tin là kế hoạch có thể thực hiện được: hầm lớn quá, âm u quá, ẩm ướt quá. Nhưng chẳng ai phản đối. Mọi người đều im lặng. Chị còn nói: "Ông A-bra-ham ạ, ông có cái bơm phải không? Ông để vào trong sân nhé. Điện thì ta đi quyên ở mỗi nhà. Chắc các cô đều có thừa chứ?" Chẳng ai từ chối, chẳng ai tranh cãi.

        Ngay hôm đó, hai bơm ghép một. Và nhiều người xung phong bơm quá đến nỗi cả hai bơm kèn kẹt không nghỉ bốn tám giờ liền, đổ đi từng bể nước. Sô-ni-a cũng bơm, nhưng chưa đủ thích thì đã bị gạt ra khỏi tay bơm dể đến lượt người khác. Bọn nhãi là hăng nhất: chúng ở hàng giờ trong sân để đợi được bơm năm phút. Cái thằng mà trước đã ném khoai vào Ang-tô-ni-a thì lo nịnh chị để chị cho vào bơm, vì chị cũng cắt đặt lượt công tác cho mọi người.

        Bọn thiếu niên 15 tuổi tỏ ra là những tay mắc điện và ra-đi-ô cừ nhất. Người ta lót ván xuống đất, làm ván ghép, vác lò sưởi đến - tất cả đều thực hiện được như Ang-tô-ni- a đã nói trước.

        - Chị ta là đảng viên! - Bây giờ thì bà giữ cửa nói có vẻ tán thành, khi Ang-tô-ni-a đi qua sân.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Mười Hai, 2018, 07:50:16 am

        Dưới sự hướng dẫn của chị, người ta bầy bàn đánh bài và đánh cờ. Trên tường đóng một mảnh gỗ để hàng ngày treo báo Sự thật Lê-nin-grát. Ngay đêm báo động đầu tiên, toàn dân khu phố tập họp ở đó. Gần tường hơi lạnh, nhưng đã có các lò tôn nhỏ bé tỏa hơi nóng. Các bà mẹ và con nít đóng đô trên ván ghép. Bọn trẻ không rời các bàn đánh bài. Tiếng gầm của cao xạ chỉ còn nghe thấy nhẹ, và thế cũng đã yên trí lắm rồi. Mỗi người cảm thấy trên vòm trần thấp là cả khôi dầy năm tầng nhà, và tin tưởng. Bom nổ cũng không rung không khí. Báo động suốt đêm. Mãi 5 giờ sáng mới kẻng hết. Nhưng nhiều người ngủ ấm, muốn ở lại trong hầm.

        Từ đó hầm thành nơi đỏng nhất của khu phố. Ngay lúc thường, không có báo động, cũng một lô người chen nhau, nhất là ở cái góc mà Ang-tô-ni-a đặt bàn làm việc và trụ sở bộ tham mưu của chị. Ngồi dưới ánh đèn một trăm oát, trước một máy điện thoại, xung quanh là biểu ngữ, chị phân phối công tác và ra lệnh. Chị có hàng núi công việc và nhiệm vụ. Riêng việc phân công tác đã đòi hỏi phải bàn cãi không cùng, phải phối hợp, phải thương lượng, vì có gác đêm, gác ngày, gác trên mái, gác ngoài cổng, gác ở các cửa. Trong một dãy nhà lớn và đông người như vậy, chỉ một việc che đèn phòng thủ cũng đã phải lo nghĩ tới khá nhiều.

        - Cô em, ra xem ở tầng hai, cầu thang 4: cửa sổ thấy sáng.

        - Thế nào, cô em, định để nhà làm mồi cho bọn Đức phải không? Cửa sổ ba nhà cô bong hết giấy che.

        - Ông A-bra-ham, ông đi ngay đến số 11 và xô cưa mà vào. Họ đi mà quên tắt đèn, cửa sổ lại không có rèm, mà trời tôi rồi.

        Và còn bao rắc rối trong việc gửi các nạn nhân vào những nhà vắng chủ! Công việc càng phức tạp và càng phải suy nghĩ vì làm không được sẽ để thiệt thòi đến quyền lợi những người bị động viên. Ang-tô-ni-a còn phải lo không để đụng chạm đến của cải những người tản cư. Chị có vẻ lo nghĩ nhiều, nhưng hình như chú ý đến những người còn ở lại hơn.

        - Ở đây là mặt trận. - Chị nhắc lại nghiêm nghị. Và các phụ nữ nghe chị nói lấy làm tự hào rằng mình đã không đi, dù chỉ là vì đi không kịp.

        Ngồi trong hầm, Sô-ni-a nhìn chị Ang-tô-ni-a bằng con mắt trìu mến, và mơ ước rằng chị sẽ giao cho mình việc sắp tới. Tính rụt rè làm em không dám hỏi việc, cũng chẳng dám gợi chuyện; và người ta chỉ giao cho em những việc không đâu: như chạy ra đâu đó, giao cái này nọ cho người kia. Em làm việc sốt sắng cho đến sau cùng Ang-tô- ni-a đi kiểm tra các thùng cát đặt trong các vựa ở mỗi đầu thang, và cho Sô-ni-a đi theo.

        Những thùng cát đó dự trù cho việc dập bom cháy. Đầu tiên người ta tôn trọng chúng như một dụng cụ chiến tranh hơi huyền bí. Nhưng dần dần, quen quá đến nỗi vứt cả mọi thứ vào đó - đầu mẩu thuốc lá, rác rưởi. Kỷ luật lỏng dần và Ang-tô-ni-a quyết định để mắt vào đó.

        - Em là cháu giáo sư Mét-ni-kốp phải không? - Chị hỏi Sô-ni-a khi hai người trèo lên tầng 5 lần thứ tư.

        - Vâng. - Sô-ni-a trả lời, và em lấy làm hãnh diện khi nhận thấy từ câu nói của chị Ang-tô-ni-a một vẻ tôn trọng rõ rệt đối với người ông giáo sư.

        - Sao ông em không xuống hầm? Nhà em ở tầng 5 phải không?

        - Ông em không sợ. Cứ nói là lần sau xuống, còn lần này thì nhất định bọn Đức ném không trúng!

        - Thế là ông sai.

        Sô-ni-a lặng yên.

        - Học lớp mấy, cô em? - Ang-tô-ni-a hỏi khi hai người đến đầu thang sau.

        - Em lên lớp 9. - Sô-ni-a nói và lại càng hãnh diện với sự chú ý đó. - Nhưng trường em đã dọn đi.

        - Em là đoàn viên?

        - Em vào Công-sô-môn mùa xuân vừa qua...

        Ang-tô-ni-a leo thang nhẹ nhàng và không quay đầu lại. Sô-ni-a kính cẩn theo sau.

        - Chị sẽ giới thiệu em với những đoàn viên Công-sô- môn của chị. Chị có những em gái khá lắm.

        Sau bữa nói chuyện ấy, Sô-ni-a thành một tuỳ tòng riêng của Ang-tô-ni-a, một liên lạc. Em biết tất cả các cầu thang, tất cả các buồng, tất cả các xó xỉnh của dãy nhà, vựa trên cũng như hầm dưới, và em đi lại trên mái cũng nhiều như trong sân.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Mười Hai, 2018, 07:50:39 am

        Đi trên mái, lúc đầu em thấy rất lúng túng: mái tôn cứ mỗi bước lại kêu như quỷ, chân thì tuột dốc, cái vực 5 tầng rình dưới kia. sức ép bật ra giật lại của gió từ vịnh thổi vào cũng muôn lật ngã, và sức nặng của chiếc mặt nạ chống độc cứ muốn lôi mình xuống. Ang-tô-ni-a đi đâu, cũng không rời cái dụng cụ này, và bắt Sô-ni-a đeo, nó rất vướng khi đi lại, nhưng có dáng nhà binh nên Sô-ni-a cũng thích. Sô-ni-a sợ nhất khi Sla-va đi theo, có lẽ chính vì thằng ranh chẳng biết sợ cái gì cả. Nó chạy như thằng rồ, làm tôn kêu ioảng xoảng, cốt để nạt chị. Đi thì tít ngoài mép, lại nhìn xuống, và còn ngồi chân bỏ thõng, ông máng kẹp giữa hai đầu gối. Sô-ni-a khiếp đảm kêu lên thì nó còn giơ hai tay để cho biết là nó không bám vào cái gì hết!

        Với thời gian, cái sợ khoảng sân hút đã mất, rồi Sô-ni-a không hiểu tại sao trước lại sợ đến như thế. Bây giờ, mái nhà cũng vững như dưới sân, và em thích lên mái, vì từ trên đó, khám phá ra cả một thế giới.

        Mây lướt trên cao; thành phố bị vây rộng mênh mang dưới chân, ngang dọc những phố và sông. Sô-ni-a ưa tìm những chỗ quen thuộc. Một xe điện bò trên cầu gỗ ở gần Ngân hàng. Sau cầu, là đống nhà khu phố Pê-trô-gờ-rát, những thớ núi nhô ra như cái bướu và những cây trụi lá vườn Bách thú. Mé dưới, nằm dài mái trường Đại học. Sau đó một khúc nhỏ sông Nê-va. Bờ bên kia, là Dinh thủy sư Đô đốc, Xanh-i-da-ắc, vòm tròn và thấp của nhà thờ Ka- dăng, rồi ở khắp nơi, một rừng mái nhà xa tít đến chân trời. Ngoài kia nữa, không nom thấy, là quân địch đang vây thành phố.

        Có hiệu báo động, Sô-ni-a chạy lên mái, ở chỗ hiểm nghèo nhất cũng vinh quang nhất. Em thuộc một đội nhỏ gồm những tay can đảm mà Ang-tô-ni-a lựa chọn để dập bom cháy. Địch thường vẫn thả bom cháy ở nhiều chỗ trong thành phố. Có vô số chuyện về cách phá bom. Sla-va sốt ruột mong bom, vì cu cậu nóng muốn trổ tài. Nhưng quân địch lại không kể đến nguyện vọng của cu cậu.

        Ở trên mái, như ở ghế xem hát hàng đầu. Cao xạ báo máy bay địch gần đến: thoạt tiên thấy đạn nổ, rồi máy bay oanh tạc, sắp hàng đen trũi bay đến, biến vào mây rồi

        khoảnh khắc sau lại chui ra. Dần dần chúng mất thẳng hàng. Cao xạ cản chúng mạnh. Chúng tản mát trên thành phố. Cao xạ khác lại bắn. Chỗ nào cũng có. Khi một cái máy bay bay qua nhà, tim muốn ngừng đập, đầu tự nhiên rụt vào vai, và phải nấp sau cái cửa sổ tròn ở hồi nhà vì mảnh đạn rơi xuống như mưa đá. Nhưng cũng không phải vội lắm: mảnh đạn rơi chậm và khi nó rơi đến nóc nhà thì máy bay đã xa. Lại có thể ra trông máy bay bổ nhào và đoán xem nó ném đâu: khu phố Pê-trô-gờ-rát, nhà ga Ban-tích, cảng vịnh, nhà máy, hay các tầu bỏ neo trên sông Nê-va? Sô-ni-a nằm sấp xuống mái tôn để tránh hơi bom: khi một quả bom nổ, thân nhà rung rõ rệt. Nhiều lần em thấy cao xạ hạ một oanh tạc cơ. Nó bốc cháy và lộn như chong chóng. Sung sướng em nhẩy lên reo, và tụt thang xuống báo tin cho nhân dân trong hầm.

        Cũng có khi đêm em phải lên mái. Bóng tối bí mật và nham hiểm bao trùm thành phố, nhưng trên trời lấp lánh ánh lửa. Luồng sáng xanh của các đèn chiếu giao nhau như hai lưỡi kiếm. Qua ánh sáng xanh đó những ngôi sao bao vây lấy thành phố hất lên tròi ánh sáng cháy.

        Cuộc tấn công Lê-nin-grát tiếp tục. Tiếng ầm ầm không ngớt của trận đánh vọng đến mãi trung tâm thành phố như biển gầm. Hình như ở đâu ngoài kia, đằng sau khối nhà ủ bóng tối, những đợt sóng khổng lồ xô đập vào những tảng đá khổng lồ. Như mọi người khác, Sô-ni-a đã từ lâu biết phân biệt tiếng đạn đi và tiếng đạn đến, pháo ta và pháo địch. Đêm đêm, người ta nghe rất rõ tiếng gầm mãnh liệt của những khẩu lớn của hạm đội làm rung chuyển không khí. Thoảng đôi lúc mà đại bác ngừng một chút, gió mang tiếp lốp đốp súng liên thanh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2018, 07:58:26 am

CHƯƠNG BỐN

THU

I

        Suốt đầu tháng chín, bọn Đức, sau khi chiếm Gát-si-na đổ xô về phía biển, về bờ nam vũng Mác-ki, và sau cùng từ đó, chúng đổ về dải đất hẹp giữa Pê-tê-rốp và ngoại ô tây nam Lê-nin-grát. Chưa ở chỗ nào chúng tiến được tới gần thành phố bị bao vây như vậy. Chiếm xong Stren-na và Li-gô-rô mà từ lâu vẫn coi như liền khoảnh với thành phố, chúng bị chặn lại trước những bức tường của xưởng chế tạo máy chữ tiền dồn Lê-nin-grát. Chưa ở chỗ nào, thế đứng của chúng lại bị đe doạ như ở đây nơi chúng hoàn toàn thành hình một mũi tên: O-ra-ni-en- bôm, phía tây Pê-tê-rốp vẫn trong tay ta, và xa hơn, phía tây O-ra-ni-en-bôm, một dải bờ biển chừng mười hai cây số vẫn vững - Bon-sai-a và Mai-lai-a I-jo-ra, Lê-bi-a-ji-ê, Go-ía-van-đai - vì địch không vượt qua nổi hàng rào chắn mãnh liệt của các pháo đài nam Cơ-rông-stát. Cái mà người ta gọi là "đai vây Lê-nin-grát" bây giờ giờ gồm hai đoạn không dính nhau bằng đất liền. Đoạn một bao Lê- nin-grát và chỗ thắt cổ bồng của eo Ca-rê-li. Đoạn hai gồm một phần bờ biển nam vịnh Phần Lan, từ O-ra-ni-en-bôm đến cửa sông Vô-rông-ka. Tụi Đức đâm một mũi giữa hai đoạn đó, cả tháng chín, lao về phía thành phố, tập trung ở đó từng đống đại bác, xe tăng, máy bay.

        Mỗi ngày bao nhiêu lần, chúng tung vào thành phố và Hạm đội từng bầy oanh tạc; chặn chúng, là những cụm nhỏ khu trục Xô Viết cất cánh từ các sân bay đặt quanh thành phố và ngay cả trong thành phố, khu trục của quân đoàn Lê- nin-grát và của hải quân, dưới sự chỉ huy chung, chiến đấu trong một kế hoạch chung, và phối hợp tuyệt đối chặt chẽ. Để đối phó với cái ưu thế về số lượng của máy bay Đức, sự phối hợp thường xuyên của mọi đơn vị là tối cần thiết.

        Nửa tá 1-16 của Rát-sô-khin ra trận bốn, năm, sáu, bảy lần một ngày, tấn công bọn "Lớp-táp" không kể chúng nhiều ít.

        Giữa những trận ném bom lớn đông đặc máy bay, thì những cụm nhỏ máy bay địch hoạt động gần như không ngừng: một máy bay thám thính cao tít trên Cơ-rông-stát, chỉ nhìn thây vệt trắng khói của nó; một máy bay chỉ điểm pháo bay là là sát trận địa tiền duyên. Một oanh tạc lách khéo giữa mây để ném bom lấy được một mục tiêu quan trọng; những Mét-séc-mít muốn buộc phi đội của Rát-sô- khin phải giao chiến... Vì sáu máy bay không thể bay mãi không đỗ, nên trong những ngày tương đối êm, chỉ tuần tiễu hai cái một. Người ta đã dựng trên đường vòng của sân bay một chiếc lều nhỏ bằng cành tùng để các phi công tạm trú khi đợi lượt bay. Lu-nin vẫn có Sê-rốp đi theo.

        Anh hạ chiếc máy bay đầu tiên ngày 10 tháng 9. Họ bay trên biển về Pê-tê-rốp. Ngoài kia, tất cả bốc cháy. Không thể nhìn thấy gì qua lớp khói mịt mùng không một ngọn gió lay dộng trong không khi ẩm ướt. Men theo cái khu vực mù mịt ấy, họ trông thấy đằng xa một Mét-séc-mít - 110 đang là thấp trên trận tuyết, chốc chốc lại biến vào trong khói. Để nó không trốn được, Lu-nin cũng chui vào khói và săn mò. Chỉ trông thấy những chấm lửa mầu máu đỉa chập chờn ở phía dưới và qua sương mù, vành đỏ mặt trời ở phía trên. Lu-nin không thấy Sê-rôp nữa, không biết là Sê-rốp vẫn theo. Họ đột nhiên ra khỏi khói, đâm vào giữa chiếc máy bay Đức.

        Lu-nin lia một băng ngắn, và ngoặt: từ chiếc máy bay Đức, chúng đã nhìn thấy họ một khoảnh khắc trước, và liên thanh chúng nhả đạn, Mét-séc-mít hai chỗ ngồi khó đánh, vì nó có thể bắn cả đằng sau đằng trước. Khi lượn, Lu-nin thấy Sê-rốp cũng lia một băng, và khẩu liên thanh phía đuôi của máy bay Đức im bặt: tên điều khiển súng máy kiêm ra-đi-ô chắc đã trúng đạn.

        Lu-nin bám vào đuôi địch. Bây giò phải bắn, bắn cho đến khi nó rụng. Chiếc Mét-séc-mít trốn vào trong màn khói. Nhưng Lu-nin bám nó rất sát không rời mắt. Khi ra khỏi màn khói, anh thấy dưới đất những xe tăng xám chữ thập đen. Anh nghĩ bụng: "Mình hạ nó ngay dưới mũi chúng. Cho chúng xem luôn thể". Anh bay như muốn chạm vào máy bay địch, bám sát từng động tác của nó và bắn không ngừng. Máy bay Đức chúi mũi, rụng như chiếc lá khô, cắm như cái cột cách bãi xe tăng vài trăm thước, và tức khắc biến thành một cột khói đen.

        Từ dưới, chúng bắn lên Lu-nin. Trước khi đi, anh lượn một vòng trên cái máy bay bị hạ. Vậy là hết sức thừa, không bao giờ anh còn làm như thế nữa.

        Ngày hôm sau, trời khô buồn, với những đám mây nằm một cách kỳ lạ, từng lớp từng lớp chồng lên nhau. Mỗi lớp có mầu sác riêng, và di dộng với một tốc độ khác nhau. Khoảng giữa các lớp tràn đầy một làn ánh sáng mờ mờ và nhấp nháy. Mây xếp thành những hành lang dầy mà ở đó, từng chục oanh tạc có thể bay lẩn, từ trên không hay từ dưới đất đều không trông thấy được. Lu-nin và Sê-rôp bay lên bay xuống từ tầng này qua tầng khác, đế dò xét.

        Trên và dưới họ, mây trôi từng cuộn. Hai chiếc máy bay chọc thủng lớp trên: lại mây trên mây dưới. Họ lên nữa, chọc thủng lớp trên nữa: cảnh vật không thay đổi. Rồi chỉ còn lớp cuối cùng, vì đã trông thấy mặt trời: khoảng không xung quanh gợi tới hình ảnh một cái động khổng lồ ở đáy biển, ánh mặt trời xuyên qua nước tới. Trong cái dộng ấy họ trông thấy thẳng trước mặt một gioong-ke lẻ loi, lờ mờ in cái bóng kếch sù trên đám mây bay phía dưới.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Mười Hai, 2018, 10:43:21 am

        Lu-nin và Sê-rôp cùng nhả đạn một lúc. Chiếc gioong- ke lập tức lẩn vào trong các cột hơi và biến mất. Họ cũng lao vào, xuyên qua mây và xuống tầng thứ hai trước địch. Chiếc gioong-ke chui ra trên đầu họ, ngay trong ống kính. Họ chỉ vừa kịp lia một băng ngán. Địch lại đảo lên và biến. Họ lao đuổi theo, lần này không vượt được nó. Một khoảnh khắc, họ trông thấy nó đang lên mãi. Họ rượt hết ga, vượt qua lớp cuối cùng và thấy mặt trời chiếu rực bầu trời trong, trên vô số hình đồi, hình lũng của những đám mây.

        Họ ở đúng giữa mặt trời và chiếc gioong-ke. Nó bắn vu vơ vì bị chói nắng. Lu-nin và Sê-rốp lia mấy băng ngay đầu tầm súng. Chiếc cánh quạt bên phải ngừng lại. Trúng đạn, nó bổ nhào vào mây.

        Bây giờ vượt nó không khó gì: nó đã chậm và khó xoay xở. Nó vẫn xuống từ lớp mây này qua lớp khác, và mỗi lần, Lu-nin và Sê-rốp đợi nó ở chỗ trống để bắn cho đến khi nó biến trong lớp mây dưới. Nó bốc cháy, nhưng cánh quạt trái vẫn quay.

        Họ chọc qua lớp cuối cùng và trông thấy biển ngay trước mắt, nhưng không thấy chiếc gioong-ke. Lu-nin lượn một vòng để dễ tìm và thình lình thất một cột nước vọt lên. Mặt biển khép lại trên chiếc máy bay Đức.

        Hai máy bay hạ được, đã làm cho Lu-nin cảm thấy mình có thể bằng hàng với các bạn anh. Sau 15 ngày ở phi đội, 15 ngày đầy sự việc như dài hàng mấy tháng, anh không còn tự cảm thấy mình là một người khờ khạo, vả lại, mọi người đã quen anh: họ coi anh như một người cũ.

        Một hôm, toàn phi đội suýt bị tiêu diệt.

        Trạm quan sát báo tin một đoàn gioong-ke từ phía nam tiến về phía biển, Rát-sô-khin cho cất cánh sáu chiếc máy bay của anh. Gioong-ke ở rất xa và không quá mười cái. Trông thấy khu trục, chúng rẽ ngang và biến mất. Rát-sô- khin đã ngoặt trở về trường bay thì đột nhiên, ở rất cao, anh trông thấy hai mươi Mét-séc-mít 109.

        Với bộ máy làm lạnh bằng không khí, và cái thân cộc của nó, 1-16 dễ điểu khiển hơn Mét-séc-mít. Nhưng Mét- séc-mít nhanh hơn và cái đó giúp nó tránh giao chiến nếu nó không muốn. Nhưng 20 chọi với 6, thì như ăn sẵn nên chúng tấn liền.

        Rát-sô-khin tập hợp các máy bay của anh thành hình vòng tròn. Lu-nin tán thành thế trận đó: người này che đuôi cho người khác, Sê-rốp che Lu-nin, Lu-nin che Sê- pen-kin, Sê-pen-kin che Ka-ban-kốp, Ka-ban-kốp che Bê- sây-tốp, Bê-sây-tốp che Rát-sô-khin và Rát-sô-khin che Sê-rốp. Thành một vòng tròn trong đó ai nấy đều phải tuyệt đôi giữ đúng khoảng cách.

        Lũ khu trục Đức, cũng làm thành một vòng tròn - một vòng tròn rộng hơn nhiêu và bay ngược chiều với phi đội Rát-sô-khin. Lu-nin không hiểu tụi Đức định làm gì với cái trò diễu vòng đôi ấy, và anh lo lắng. Mét-séc-mít diễu trước anh như các toa tầu một chuyên xe lửa. Anh đếm: có 18. Đáng lý phải 20... còn hai chiếc nữa đâu?

        Anh ngẩng đầu lên và thấy chúng lượn vòng tít trên cao. Chúng bất thình lình tản ra và bổ thẳng xuống Ka- ban-kốp và Sê-pen-kin. Thấy chúng đến gần Ka-ban-kốp và Sê-pen-kin chĩa mũi hai chiếc 1-16 lên và nhả đạn. Bê-sây-tôp mất che đằng đuôi. Bôn chiếc Mét-séc-mít tách ra để đánh. Tụi còn lại xông vào Sê-pen-kin và Ka- ban-kốp.

        Lu-nin thấy Bê-sây-tốp quay lại nhìn hướng đạn. Nếu lái sang bên, anh ấy có thể chống lại. Nhưng như vậy thì Rát-sô-khin sẽ bị hở. Bê-sây-tốp chịu để mình bị bắn không xoay hướng.

        Lu-nin ở bên kia vòng, bay ngược lại. Anh ngoắt gọn, bắn vào sườn mấy cái Mét-séc-mít đang rượt Bê-sây-tốp làm chúng phải tản ra, và anh bám vào đuôi Bê-sây-tốp, nối liền vòng lại.

        Nhưng vòng nhỏ lại vì chỉ còn bốn: Rát-sô-khin, Bê-sây- tôp, Lu-nin, Sê-rôp. Mất hút Ka-ban-kốp và Sê-pen-kin, Lu-nin  bắt đầu tìm họ. Họ bị hạ rồi chăng? Bỗng anh thấy họ ngay gần, đang lượn vòng, người nọ che đuôi cho người kia. Một bầy Mét-séc-mít bâu lấy họ từ khắp phía, như bầy cá sán vào con sâu. Ka-ban-kôp và Sê-pen-kin tuy vậy không ngừng quay tròn và sát gần lại phi đội. Một lúc, Ka-ban-kôp đâm xuống, lao dưới các Mét-séc-mít và lại chúc lên về phía máy bay của Lu-nin. Sê-pen-kin lắp đúng động tác từng điểm. Lu-nin khẽ né ra và đổ họ về chỗ cũ. Vòng tròn lại khép lại.

        Tụi Đức cũng làm như vậy, và hai vòng tròn song song lại quay. Sẽ kết liễu cách nào đây? Lu-nin nhìn kim chỉ xăng: chỉ còn 20 phút. Rồi sau ra sao? Mà chúng nó có để yên cho 20 phút đó không? Mười tám Mét-séc-mít theo đuôi nhau. Và hai cái khác đâu? Chúng lấp lánh trên cao, trong ánh nắng, sẵn sàng bổ xuống.

        Lần này, chúng bố vào Lu-hin và Sê-rốp. Lu-nin chịu đựng cú đánh, không nhích hướng. Dù sao đi nữa, phải giữ được đội hình. Đạn đập vào cánh. Máy bay rùng mình, lảo đảo; Lu-nin quay lại và thấy Sê-rốp vẫn theo sau. Vòng còn nguyên. Nhưng hai chiếc Mét-séc-mít bổ nhào lại ngóc lên, chúng lại bổ xuống. Cuối cùng tất chúng sẽ hạ được một người nào đó, bẻ gẫy vòng, và thế là hết.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Mười Hai, 2018, 09:43:36 am

        Nhìn thấy lần lượt Cơ-rông-stát, Pê-tê-rốp, cái cần trục khổng lồ ở Công trường Bắc trước cửa sông Nê-va, dải lưỡi cáo, rồi lại Cơ-rông-stát, Pê-tê-rôp, cái cần trục mà đằng sau lấp loáng mái nhà, và dải lưỡi cáo. Mất năm phút xăng rồi. Hai cái máy bay địch, từ trên kia lại bổ nhào. Lần này chúng tấn công Bê-sây-tổp. Bê-sây-tốp che cho Rát-sô-khin; anh không nhúc nhích, anh không tránh. Máy bay anh chắc bị đạn: anh chúi xuống, lảo đảo. Nhưng người phi công đó chồi lên lập tức và lại vào chỗ, đằng sau đại úy. Hai cái Mét-séc- mít lại ngóc lên và đánh nữa. Cái vòng tròn đôi quay đều như máy. Một vòng... Hai vòng... Ba vòng. Mười hai phút ét xàng nữa, và là kết liễu... Kết liễu có lẽ sớm hơn... không còn lôi thoát... Có đúng không còn lối thoát nào không?

        Thì lúc đó Mét-séc-mít biến, cả hai mươi cái lùi về phía nam và tan trong không trung. Không dám tin là thật, tự hỏi cú đánh sau của chúng từ mé nào đến, Lu-nin tiếp tục theo sau máy bay của Sê-pen-kin.

        Rồi anh nhìn thây tám khu trục Xô Viết từ đông tới. Và anh hiểu.

        Đó là các bạn hàng xóm, máy bay của Lục quân đến viện trợ. Nhìn thấy họ, bọn Đức thấy chuồn là tốt hơn.

        Xuống máy bay, Lu-nin còn thấy các cây tùng quay mãi. Anh không thể ngờ anh còn sống và các bạn anh còn nguyên lành.

        Mọi người chắc cũng cùng một cảm giác đó, vì họ đạp trên cỏ với một bước chân không vững vàng, chẳng nói chẳng rằng. Bê-sây-tốp và Sê-pen-kin mặt hốc đi, da muốn sạm lại. Dưới đôi mày hung hung, đôi mắt nhỏ của Rát-sô-khin tối rầm.

        - Oai thật! - Sê-pen-kin nói, vừa phấn khởi vừa bối rối.

        Rát-sô-khin nổi khùng:

        - Đồng chí thấy cái gì oai? Là bọn Đức bắn kém? Hay là người ta cứu mình? Chúng ta có quyển đợi cầu cứu à? Chỉ hai phút nữa thì chúng ta bị quét sạch tuốt!

        Mặt đỏ bừng Sê-pen-kin đứng trước Rát-sô-khin, mắt nhìn xuống đất, cố đoán xem có phải đại úy cáu với mình không.

        - Cái lối đội hình vòng tròn, là không còn ra thoát được, - Rát-sô-khin nói. Té ra anh nổi khùng với bản thân anh. -  Chỉ có một lôi tự vệ đáng kể: là tấn công!

        Chẳng ai đả động đến cái vòng địa ngục ấy nữa. Nhưng Lu-nin cảm thấy nó gắn chặt mọi người lại, không lời, vì cái lý đơn giản là mỗi người đã nhiều lần cứu sống người khác. Rát-sô-khin có thể lớn tiếng tự nhận sự sai lầm của mình, mà chỉ do tình cờ đã cứu ra khỏi tan vỡ cuối cùng, nhưng sai lầm đó không làm giảm lòng tin tướng của anh em, cũng như tính cáu kỉnh châm biếm của anh không thể làm giảm tình thương mến đối với anh.

        Lu-nin vẫn đi đôi với Sê-rốp, sự giúp đỡ lẫn nhau đã gắn liền Sê-rốp với anh rắn chắc hơn cả những người khác trong phi đội. Ngay buổi chiều hôm xẩy ra cuộc diễn vòng thê thảm, vào lúc mặt trời lặn, Sê-rôp đã cứu anh một lần nữa. Họ đang quay về trường bay, bay trên mặt biển. Sương mù sáng ra. Nhìn không rõ: chìm dần trong nước, cái khuôn mặt trời lớn sụ và đọng sương kia, biến sương mù thành một màu đỏ chói lọi. Một Mét-séc-mít - 109 bất thình lình bổ vào Lu-nin; may thay, anh đã nhìn thấy nó từ ngoài 500 thước và lái thẳng vào nó.

        Hai chiếc khu trục xông thẳng vào nhau, bắn hết đạn. Lu-nin nghĩ: "Mày có tránh thì tránh, tao thì không đâu". Nhưng chiếc Mét-séc-mít cũng không nhường. Hai cái gần đâm vào nhau, thì giây khác cuối cùng, tên Đức kéo tay lái và vút một luồng trên Lu-nin mà bụng máy bay nó gần đụng phải. Lu-nin cứ đi thẳng, khoái chí đả bắt được nó theo ý mình; bỗng nhiên anh thấy luồng đạn từ phía sau lại: thì ra chiếc Mét-séc-mít đã ngoắt lại bám vào đuôi anh. Lu-nin lái thành chữ s. Nó lắp lại đúng động tác của anh và lia hết băng này đến băng khác. Chắc chắn nó sẽ hạ được anh. Nhưng Sê-rốp đã bám vào đuôi nó. Trong sương mờ lấp lánh, tên Đức không trông thây Sê-rốp. Sê- rốp bắn chết nó. Chiếc Mét-séc-mít, như một con chim đen gầy, tụt xuống trước mặt trời khổng lồ, và rơi xuống biển đỏ rực.

        Ngày hôm sau, đến lượt Lu-nin cứu Sê-rốp. Hai Mét- séc-mít tấn họ trên mặt biển và đã làm cho họ phải rời nhau ra. Lu-nin mắc với một cái, Sê-rốp mắc với một cái. Lu-nin không gỡ khỏi được thằng địch: mỗi bên đểu cố luồn vào đuôi nhau; cả một chuỗi trò ảo thuật diễn ra: họ bổ nhào, lên thẳng, tấn vào cạnh sườn. Lu-nin chẳng bao giờ rõ là anh đã bắn hỏng máy, hay bắn bị thương tên phi công. Chỉ biết đến một lúc thì chiếc Mét-séc-mít bỏ cuộc và chạy trốn. Lu-nin nhìn quanh, tìm Sê-rốp. Trời vắng tanh.

        "Anh bị hạ rồi chăng". Lu-nin nghĩ, lo lắng. Và lòng se lại, anh bổ đi tìm.

        Anh lượn vòng trên biển, khi lên cao, khi xuống thấp, rồi khỏi chiến trường rồi lại trở lại chiến trường. Hy vọng lúc một tiêu tan. Sau rốt, anh tìm tòi chỉ còn cốt để kéo dài đến phút cuối cùng cái giây phút phải trở về trường bay. Vừa hay trên đầu sóng, anh bỗng thấy hai cái máy bay.

        Cái nọ săn đuổi cái kia, họ bổ xuống hết sức thấp đến nỗi trên nhìn xuống, họ như lướt trên mặt nước. Chính là cái Mét-séc-mít rượt Sê-rốp. Dính vào sóng, Sê-rốp lượn theo chữ "S" mà không bắn, chỉ cố tránh làn đạn của tên Đức. Đạn anh đã hết.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười Hai, 2018, 10:28:52 am

        Lu-nin bổ nhào, và anh vừa bấm nút, thì chiếc Mét-séc- mít đã lộn ngược, dâm vào nước, bụng lên trời, và biến trong bọt nước. Sự việc xẩy ra trong khoảnh khắc. Sê-rốp lên thẳng và và nghiêng cánh gọi Lu-nin. Họ song song về. Trên sân bay, Lu-nin cảm thấy trìu mến bạn quá đến nỗi vừa đi anh vừa sờ vai bạn nhiều lần mà không biết.

        Đôi khi về đêm, trong lúc mọi người ngủ, Lu-nin và Sê- rôp nói chuyện.

        Mệt lả người, ai nấy vừa ăn xong đã ngủ, Sê-pen-kin, Ka-ban-kôp và Bê-sây-tôp, đầu vừa đặt vào gối đã ngủ tức thì. Nếu không ai gọi, thì họ có thể ngủ cả 24 tiếng.

        Ka-ban-kốp và Sê-pen-kin ngủ sao thì lúc dậy vẫn tư thế ấy. Bê-sây-tốp thì giấc ngủ không yên; anh chồm dậy, rên rỉ, nói lảm nhảm bằng tiếng A-déc-bai-giăng. Rát-sô-khin ngủ ở chỉ huy sở - có trời biết anh ấy ngủ nghê ra sao! Còn Lu-nin, tuy mệt, nhưng giấc ngủ thường chậm đến.

        Và có khi anh thấy Sê-rốp, nằm giường bên, mắt cũng mở to. Một hôm Lu-nin hỏi:

        - Sao đồng chí không ngủ?

        - Như thường thôi. Tôi suy nghĩ.

        Ánh sáng vàng nhạt của chiếc đèn dầu lửa nhẩy múa trong đôi mắt Sê-rôp. "Chắc lại nghĩ đến vợ". Lu-nin tự nhủ.

        - Tôi đã viết thư đến Bộ Giáo dục để hỏi xem trường dọn đi đâu. Tôi vừa nhận được trả lời.

        - Thế họ trả lời sao?

        - Là hiện nay họ chưa rõ gì cả, và hễ biết thì họ sẽ báo tin cho ngay.

        - Tốt lắm.

        - Vâng, tốt. - Sê-rốp nói tiếp, vẻ không tin tưởng, hình như anh nói chưa hết ý nghĩ thật của anh.

        Hai người im lặng một lúc. Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí lấy vợ đã lâu?

        - Tôi chưa lấy vợ.

        - Chưa à? - Lu-nin ngạc nhiên. - Thế sao đồng chí bảo là có hai con?

        - Không phải con tôi. Tuy nhiên, cũng như con tôi thôi.

        Họ im lặng hồi lâu. Lu-nin tưởng Sê-rôp ngủ. Nhưng

        bỗng nhiên thấy anh nói:

        - Tôi cho là cô ta không thể yêu tôi.

        - Gì lạ vậy! - Lu-nin bất bình. - Sao chị ấy lại không thể! Chị ấy hơn đồng chí lắm sao?

        - Ồ! Hơn...

        - Hơn cái gì?

        - Gì cũng hơn.

        - Ví dụ.

        - Cô ta có học hơn.

        - Thôi đi! - Lu-nin thốt ra. - Chị ấy có học trong nghề của chị ấy, cũng như đồng chí trong nghề của đồng chí.

        Lại im lặng hồi lậu. Đến lượt Sê-rốp tưởng Lu-nin ngủ. Có vẻ chẳng dính gì đến câu chuyện trước, Lu-nin bỗng nói:

        - Chẳng ai cấm mình yêu, nhưng cũng chẳng ai buộc mình cả. Sự dối trá, cái đó mới không thể nào chịu được!

        Anh xây lưng ra làm đệm rơm kêu sột soạt và lấy chăn trùm kín đầu.

        Câu chuyện đó vào hạ tuần tháng chín, khi bọn Đức còn tưởng có thể chiếm Lê-nin-grát, và tập trung một lực lượng không quân rất mạnh để hy vọng phá tan thành phố dưới bom đạn. Chúng bom suốt ngày đêm Lê-nin-grát, Cơ- rông-stát và Hạm đội. Tiếng sủa của cao xạ bao trùm ngày đêm lấy thành phố, sông Nê-va, những Nê-va con và vũng Mác-ki. Những cuộc ném bom của gioong-ke kế tục nhau, tuần tự như máy; khu trục của ta cất cánh bay tới chúng: sáu máy bay của Rát-sô-khin không lúc nào nghỉ.

        Không chiến mỗi ngày bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và tiếp tục gần như không lúc nào ngừng cho đến khi mặt trời lặn. Họ trở về trường bay chừng vài phút. Nằm sấp xuống cỏ trong khi đợi thợ máy đổ đầy xăng và lắp đầy đạn. Rồi lại cất cánh đi đánh nhau nữa. Lu-nin đã mấy cái cảm giác lành lạnh sau lưng mà anh cảm thấy lúc đầu, khi với sáu người, họ xông vào một bầy 80 con quái vật nhả đạn bằng 160 đại bác. Thời gian đả làm cùn cảm giác. Bây giờ, anh đã nắm được cái gioong-ke trên đầu ngón tay, biết cái chậm chạp của nó, cái khó điều khiển của nó, và anh tự thấy mình là kẻ mạnh. Anh đã học bắn nó từ trong tử giác và chơi ú tim với bọn Mét-séc-mít - 109 trong cái đàn khổng lố máy bay oanh tạc.

        Đánh với gioong-ke không còn cho anh cái cảm tưởng hỗn loạn đạn bắn ngang dọc tơi bời nữa. Như mọi người khác, nay anh có thể kể thành chuyện có ngọn có ngành về những việc xẩy ra trong trận đánh, và nhận xét được lối đánh của mỗi người. Anh đã hiểu chiến thuật Rát-sô-khin - chiến thuật duy nhất trong điều kiện thua kém về số lượng: là không cho bọn Đức có thể bom bằng ống kính và không bao giờ quên cái nhiệm vụ đó.

        Bọn anh gặp từng đoàn Lớp-táp và buộc chúng ném bom xuống nước. Tụi gioong-ke gờm họ, chúng lảng hoặc trớn mỗi khi trông thấy họ từ xa tắp. Nhưng chúng nhiều quá đến nỗi không thể ngăn xuể được chúng ào đến. Khi mà mình còn mắc với đợt thứ nhất thì đợt sau đã đến và thả bom.

        Neo giữa Cơ-rông-stát và Pê-tê-rôp, Hạm đội Ban-tích làm cho tụi Đức ở Pê-tê-rốp mất ăn mất ngủ. Đại bác của Hạm đội quấy chúng ngày đêm, ngăn không cho chúng tập trung quân và cố thủ ở đó. Suốt tháng chín, chúng lăn xả đến Hạm đội bằng đường trên không, với hy vọng tiêu diệt Hạm dội. Ngàv 25, rốt cuộc chúng ném trúng chiếc Sô-kôn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2018, 10:14:27 pm
       
        Sự việc xẩy ra dưới mắt Lu-nin giữa hôm sáu người ngăn 130 gioong-ke. Như mọi khi, bọn chúng tản ra khi gặp họ. Nhưng đội hình chúng hàng cây số, và tràn qua hai bên họ, chúng kiên quyết tiến về phía Hạm đội. Bom nổ trên chiếc Sô-kôn lớn đến nỗi Lu-nin ở trên không mà cũng thấy sức giật. Một luồng khói đen che lấp chiếc tuần dương hạm hồi lâu. Lu-nin chỉ trông thấy nó lúc về, khi bọn gioong-ke đã đi rồi.

        Chiếc Sô-kôn đã chìm. Nhưng nước không sâu. Boong va chòi tầu còn ló lên. Những khẩu đại bác lớn, như những ngón tay xoè ra vẫn động đậy, vẫn bắn. Xác tầu vẫn tiếp tục nhã đạn. Và như thế trong bao nhiêu ngày, ngay trước mắt kẻ địch đóng trên bờ biển. Khi bọn Đức tìm được cách đặt pháo phòng thủ bờ biển ở Pê-tê-rổp và Hạm đội lùi vào cửa sông Nê-va, thì chiếc Sô-kôn ở lại một mình. Biến thành tiền đồn xa nhất của Cờ-rông-stát và vẫn tiếp tục bắn...

        Mỗi lần phi đội xuất trận đều trông thấy nó. Đôi khi lúc các khẩu đội của nó im lặng, họ tưởng nó đã chết. Họ bay xuống thấp lướt như vòi cuốn trên đầu nó ít thước: thì các đồng chí thủy thủ trú ẩn trong các chòi súng một cách không ngờ mới ló ra trong cái áo tơi đen. Chiếc Sô-kôn bất diệt, vẫn ngoan cường.

        Ở phi đội không hề ai nhắc tới chiếc Sô-kôn. Xác nó như một lời trách móc. Riêng Bê-sây-tốp mỗi lần bay về lại reo ầm:

        - Các đồng chí có nhìn thấy nó không? Nó nã khỏe đấy chứ! - Và anh khen không ngớt.

        Bê-sây-tốp giữ mãi cái tật của anh: là ngoái cổ nhìn qua vai, mặt sầm lại, và đôi mắt nẩy lửa. Anh gầy quá, giông như một con chim săn mồi. và khi ngủ không ngớt nói mê. Trong chiến đấu. anh dính chặt vào Rát-sô-khin, ngang tàng như thách thức. Đại úy không hề còn có gì nhận xét anh. Mỗi lúc nhìn anh, đôi mắt Rát-sô-khin thường thoáng một nét gì như thương cảm.

        Thương cảm đó. Lu-nin cũng thấy. Anh cỏ cảm giác là Bê-sây-tôp không chịu đựng nổi sự căng thăng tinh thần, và có cái lò so nào đã gẫy trong người anh. Sự đau đớn mà mọi người phải chịu, trước sức tiến của bọn Đức, lòng căm thù giặc, sự va chạm không ngừng với thần chết, sự mệt nhọc quá sức con người, tất cả cái làm cho người khác trầm lặng, thêm nghiêm nghị, thì lại làm anh phải nói quàng nói xiên, nghêu ngao những bài hát của con nhà lính, mơ ước công khai lối săn tự do và chiến công phi thường.

        Anh yêu Hin-đa, và mọi người đều biết, kể cả Hin-đa.

        Biết vậy là do thấy con mắt anh nhìn cô mỗi bữa cơm. Cái mơn mởn và cái mỏng manh của cô thật như của một nàng mơ đối với người phi công to lớn và sạm phong sương ấy. Trước chiến tranh, nhất định là anh biết cách tỏ tình. Nhưng thời gian và nhất là hơi sức anh không còn. Mệt nhọc làm sạm bộ mặt gầy với đôi mắt mênh mông. Ngồi trên ghế, anh đành chỉ có ngắm cô tha thiết u buồn, và theo dõi mỗi cử chỉ của cô. Còn cô thì đoán biết cái nhìn ấy, và đôi khi cũng nhìn anh, với cái vẻ như cuống, như sợ, như xót thương hiện trong đôi mắt sáng thơ ngây.

        Anh hy sinh anh dũng vào đầu tháng mười, trong một cuộc đi tuần với Rát-sô-khin dọc bờ nam Vịnh, giữa dải lưỡi cáo và Sê-trô-rết. Mưa phùn làm không nhìn được quá 300 thước. Một Mét-séc-mít lao vào đuôi Rát-sô-khin. Nó chắc chắn sẽ hạ anh, nếu Bê-sây-tốp không có linh tính đối phó tức khắc. Anh bắn và chiếc Mét-séc-mít rơi xuõng như một cánh lá rụng nhưng chính là lúc phải ngoái đầu trở lại nhìn qua vai, nếu không thì chẳng bao giờ còn làm dược nữa: Bê-sây-tốp không còn thì giờ! Một Mét-séc-mít thứ hai tấn đàng đuôi, giết anh, và trốn vào mưa phùn.

        Cái sau theo cái trước, hai chiếc máv bay đâm vật xuống cát ướt bãi biển, cách nhau vài trăm thuốc. Tuy mưa mà cháy rất mạnh đến nỗi bộ binh chạy tới mà không dám đến gần.

        Về đến trường bay, Rát-sô-khin lên ca-mi-ông đi ngay. Bữa cơm chiều, Hin-đa khóc, và cũng như chiểu hôm Lu-nin  đến, cô không chùi được nước mắt, vì hai tay còn bận bát đĩa.

        Đến khuya Rát-sô-khin mới về, ướt đầm. Ở nhà không ai ngủ. Ka-ban-kốp hỏi:

        - Đã chôn đồng chí ấy?

        Rát-sô-khin gật, và nói:

        - Thế là chúng ta chỉ còn năm người!

        Mưa không ngừng. Bãi thành vũng. Gió quét lá vàng. Những cuộc oanh tạc của bọn Lóp-táp ngừng hẳn.

        Vào giữa thu, bọn Đức biết rằng không thế chiếm Lê- nin-grát bằng sức mạnh.

        Chúng tiến tới ngoại ô từ đầu tháng chín và không tiến thêm được một bước. Bảy tuần liền, chúng đã tung vào thành phố mỗi ngày hàng trăm oanh tạc cơ. Chúng nã pháo hạng nặng. Xe tăng tấn công liên tục.

        Tiếp viện đưa đến là chúng dốc ngay vào chiến trường. Nhưng Lê-nin-grát vẫn đứng vững.

        Kẻ thù không muốn tin là đã bị chặn. Từ hai năm nay, chiến tranh đối với chúng chỉ là một thứ diễu binh, và chúng đã tràn ngập khắp châu Âu không bị ai cản. Nay chúng lao mình vào tấn công với kết quả là từng đoàn máy bay tiêu tan, xe tăng thành sát vụn, và từng sư đoàn mòn dần.

        Tháng mười bắt đầu cuộc tấn công Mát-scơ-va. Cuộc tấn công không biến diễn theo ý muốn của bộ tư lệnh Hít- le. Chúng càng tiến, sự chống cự càng mạnh. Trên giấy tờ, thì kinh thành đáng lẽ chiếm được từ lâu. Nhưng kẻ thù chưa tới được đến ngoại vi, chúng tổn thất ghê gớm, dự trữ mòn dần; và mùa đông sắp tới. Tạm ngừng tấn công Lê- nin-grát, chúng rút ở đấy đi gần hết máy bay để chuyển ra phía Mát-scơ-va. Những người chống giữ Mát-scơ-va đã giúp những người chông đỡ Lê-nin-grát.

        Nhưng bọn Đức không bỏ Lê-nin-grát. Chúng quyết định đưa thành phố này đến bước đường cùng bằng cách khác mà chúng cho là ăn chắc hơn.

        Không bẻ gẫy được bộ đội, chúng định bẻ gẫy nhân dân.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười Hai, 2018, 08:52:08 am

*

*      *

        Lương thực bắt đầu khan hiếm vào tháng chín. Tháng mười, người ta chỉ còn phiếu bánh mì, và cũng được phát rất ít đến nỗi Sla-va chỉ ngốn một loáng là hết lương thực hai ngày của cả nhà.

        Thoạt đầu Sô-ni-a chưa hiểu. Còn mê mải với cái mái nhà và cái hầm trú ẩn, em cho đó là một sự việc tạm bợ. Ở nhà, cũng còn ít bột dự trữ từ thời còn mẹ. Ông quản lý những món đó. Ông vẫn làm cơm thường ngày, bây giờ thường là chỉ một món không biết là món gì, cái gì nó trung dung giữa súp lòng, súp sệt và món nấu đồng, với một khuynh hướng mỗi ngày một ngả về súp lỏng.

        - Ông ơi, ăn nữa! - Sla-va nói sau khi làm một húp cạn đĩa.

        Cụ I-li-a lại cho thêm. Sô-ni-a hỏi:

        - Sao ông không ăn?

        - Ông ăn trong bếp khi nấu rồi.

        Sô-ni-a tin lời ông.

        Ông phát khẩu phần bánh - một miếng con buổi sáng, một miếng con buổi trưa, và một miếng con buổi chiều. Sô- ni-a và Sla-va nuốt trong chớp mát, uống nước trà nóng không đường rồi chuồn đi với khối lớn công việc của chúng.

        Cuối tháng mười, người ta sẽ làm Sô-ni-a rất ngạc nhiên nếu hỏi em có đói không. Thật thì em rất thèm ăn và luôn luôn cảm thấy bụng dạ trống rỗng nhớ cái gì. Nhưng em quen quá đến nỗi không nghĩ đến nữa. Hình như từ trước vẫn cứ thế này!

        Dự trữ đến lúc hết. Ông chi làm súp những hôm các kho phân phối cái gì - như rau khô hay lá cải. Còn những hôm khác, ông nói:

        - Uống chè vậy!

        Cụ I-li-a trở thành ít nói. Cụ có một cái vẻ rất lạ khi cụ quan sát mặt Sô-ni-a và Sla-va: cái nhìn của cụ rất khổ não. Một hôm cụ bảo chúng:

        - Các cháu nên bớt cử động mà nên ngổi nhiều.

        - Sao thê ông?

        - Đế dành sức.

        Cũng như chị, Sla-va không đi học nữa và cũng chẳng lấy thế làm buồn tí nào. Tất cả tháng chín nó ở trên mái nhà hay trong sân để theo dõi các cuộc không chiến; từ xa nó đã nhận ra được các loại máy bay Xô Viết hay Đức. Nó chỉ về nhà để ăn và ngủ. Tháng mười, nóc nhà và sân không đủ thích nữa: nó mở những cuộc thám hiểm trong thành phố ngày một xa rồi về kể chuyện cho Sô-ni-a và ông nghe.

        Bữa ăn nay chỉ còn là một cốc nước chè, nên cu cậu về dự ăn rất thất thường.

        Một buổi sáng, nó đi từ sớm và suốt ngày không thấy nó. Trời lạnh, sương mù và tuyết ướt, gió thổi căm căm; sông Neva dâng cao và nước sông sủi bọt. Ông hỏi luôn miệng:

        - Sla-va đâu?

        - Nó sắp về. - Sô-ni-a trả lời.

        Em cũng lo. Vắt cái khăn vuông len lên vai, em đi kiểm tra những sân bên bốn lần. Tôi đến, em sắp đi lần thứ năm thì Sla-va về.

        Người nó đầy đất ẩm, dính cả trên khuôn mặt tái đi vì lạnh nhưng dáng đắc ý, và dưới đôi lông mày ướt, đôi mắt ánh ra tia chiến thắng.

        - Đây này! - Nó vừa nói vừa để xuống bàn sáu củ khoai tây lớn bẩn rút trong túi ra.

        Ông hỏi:

        - Ở đâu ra thế?

        - Ở đằng kia...

        Sô-ni-a gắt:

        - Mày nói ngay ở đâu!

        Em sợ nó ăn cắp.

        - Ẹm đi đào.

        - Đào? Ở đâu?

        - Đằng kia. Trong một cánh đồng. Có bẩy củ, nhưng em đã ăn một.

        - Ăn sông à?

        - Tất nhiên! Bây giò em biết chỗ rồi. Lần sau, em đi xa hơn.

        Ông tiếp:

        - Lần sau, không đi đâu cả.

        Thay cho câu trả lời, Sla-va huýt sáo mồm. Ông đi nấu khoai trong bếp. Sô-ni-a muốn mỗi người đúng hai củ, nhưng ông thái vụn li ti không ai còn kiểm tra khẩu phần được nữa. Cụ khám phá được ở đáy cái ống thủy tinh một thìa đầy dầu cá thu. Cái món khoai tây rán mà lại có mùi cá thật là say sưa. Sô-ni-a và Sla-va liên hoan ở buồng ăn. Ông thì quả quyết là đã ăn phần ông trong bếp rồi.

        Sau bữa tiệc thần tiên ấy, Sô-ni-a mối thấy thật sự đói, đói đến nỗi đêm ấy em thức giấc mấy lần. Đến sáng, cái cảm giác trống rỗng đáng sợ trờ thành không thể chịu được nữa. Sla-va nuốt mẩu bánh tẩm nưóc chè nóng rồi lại di ngay lập tức. Sô-ni-a hiểu là nó lại đi kiếm khoai, nhưng không nhận xét gì cả. Em đợi nó suốt ngày. Băng đóng lần đầu tiên. Những vũng nay đầy nước đá, và những bông tuyết khô êm nhẹ rơi. Chiều rồi Sla-va mới về chẳng có gì: đất đóng băng, không đào được.

        Ngày hôm sau, ở cầu thang Sô-ni-a gặp bà láng giềng số nhà 27. Bà chú ý cái nhìn của em. Bà hỏi:

        - Tôi gầy đi phải không?

        Thực ra bà có hơi gầy đi. Nhưng bé đi thì đúng hơn, mặt sạm đi. Bà nói rất khẽ:

        - Tôi gầy đi. Váy mặc không chặt nữa. Chúng ta sẽ ra sao, Sô-ni-a? Chúng ta sẽ chết hết.

        Hai môi bà run lên. Mặt Sô-ni-a sầm lại:

        - Chúng ta sẽ không chết, chính chúng nó sẽ chết.

        - Ai?

        - Bọn Đức!

        Bà láng giềng nhìn em, nghi ngờ:

        - Em tin à? Tại sao?

        Sô-ni-a chẳng hiểu tại sao cả. Em nói theo linh tính. Không cắt nghĩa được, em nói thêm, với một giọng trịnh trọng nhất mà em có thể có:

        - Rồi bà xem.

        Và em đi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười Hai, 2018, 11:42:27 am

III

        Cuộc tấn công của bọn Đức đả bị chặn lại. Những cuộc oanh tạc thành phố và Hạm đội chỉ còn lẻ tẻ. Nhưng cái yên lặng ấy rất đáng ngờ vực. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, những khu trục của Rát-sô-khin tuần tiễu trên bờ biển và trên biển, không để chúng núp trong sương mò luôn luôn bao trùm mặt đất và mặt nước.

        Mùa thu ấy, băng có sớm, và đất lầy lội vì những trận mưa liên miên, nay cứng lại dưới một lớp tuyết mỏng. Trên sân bay, đường vòng và những rãnh bánh xe, những ổ gà trở nên cứng như gang Khi cất cánh, hạ cánh, máy bay nhẩy chồm chồm; và mỗi lần như thế thì tướng như lần sau đến vỡ máy. Biển lạnh dần dần, và hơi nước dầy đặc đêm ngày bốc lên từ mặt nước còn ấm. Không gió nào thổi tan được nó khi mà vịnh chưa đóng băng.

        Các máy bay đầy sương giá nặng nề, dính xuống sóng và xuống ngọn cây. Trên không phải để phòng đứt liên lạc, và phải bay bàng địa bàn. Những việc ấy làm cho tinh thần căng thẳng đến nỗi chiều tối, Lu-nin không còn đủ sức nói nổi một câu chuyện.

        Anh có cảm giác đến phi đội đã từ lâu và đời anh chia ra hai nửa - nửa trước, xa xôi, gần như huyền ảo; và nửa sau thì tính từ khi anh đến trường bay. Sê-rốp, Rát-sô- khin, Ka-ban-kốp và Sê-pon-kin những người mà anh không rời lúc nào, dù ở trên không, ở đường vòng, ở nhà ăn, hay trong giấc ngủ; anh biết họ như biết bản thân anh, và lấy làm lạ sao đã có thời gian anh không biết đến sự có mặt của họ trong cuộc sống.

        Những buổi tối trở nên dài dằng dặc, và họ cùng qua những buổi tối ấy trong nhà ngủ, cạnh lò sưởi đốt rừng rực. Bải hoải vì đã phải mầy mò trong sương mù, trong mưa và tuyết ướt, trên chiếc máy bay trĩu sương gió. Lu-nin  nằm dài, sơ mi trần, tay dưới gáy, mắt nhìn ngọn đèn dầu lửa. Sê-rôp nghỉ ở giường bên, Ka-ban-kốp và Sê-pen- kin không nằm. Trẻ hơn Lu-nin và khoẻ hơn Sê-rốp, họ phớt đều với mệt mỏi.

        Có thể nói rằng anh chàng Ka-ban-kốp bé nhỏ ấy toàn thân là lò so thép, nhậy, và căng hết mực. Sức khoẻ và cái lanh lẹ của anh làm Lu-nin phải lấy làm lạ tuy đã quen với cái sức lực con người phi công. Ka-ban-kốp không bước: anh bật lên như một quả bóng qua giường ghế, không có vẻ phải dùng sức không tiếng dộng, và chỉ cái bờm tóc màu vàng hoe rung rung trong mỗi bước nhẩy. Anh say mê món vũ kiểu Nga. Và cũng từ món ấy mà bắt đầu những cuộc biểu diễn lạ lùng của anh vào buổi tối. Đột nhiên anh bắt đầu nhẩy khe khẽ, rung hai vai, đánh ngón tay và hát nhửng điệu đứt khúc. Dần dần, anh nhẩy cao hơn, ngồi lên gót, đánh hai lòng bàn tay, đập chan chát vào đầu gối, và cứ làm những vòng tròn với đôi chân ngắn, anh lướt êm từ đầu đến cuối buồng. Bộ mặt hồng hào búp bê của Sê-pen-kin đã sung sướng nở ra sẵn. Ka-ban-kốp dồn dịp, quay tít mãi và gần như không đụng tới sàn nữa. Toàn thân anh chỉ là vũ - tay, chân, bụng, vai. Chỉ có cái mặt dương ra thì vẫn im như cái mặt nạ. Anh không hát nữa, từ đôi môi hé chỉ thấy:

        - Ê! ê! ê!„.

        Ngồi trên một gót, tay dang ra trước, anh xoay xung quanh Sê-pen-kin để mời nhẩy. Vụng về và xấu hổ, anh chàng này lùi sát tường. Thế là Ka-ban-kôp không một phút ngừng điệu múa say mê lấy đôi nắm tay nhỏ thụi thẳng vào Sê-pen-kin. Anh chàng tìm cách chống đõ, cười ngượng nghịu và luống cuống khoa hai tay. Bị xua từ góc của mình ra giữa buồng, anh buộc cũng phải nhẩy để tự vệ. Cử chỉ anh chậm chạp nặng nề. Bên cạnh anh chàng Ka-ban-kốp bé nhỏ quay như gió bão xung quanh anh, anh vụng về như một con gấu. Bất đắc dĩ, anh cũng lắc lư trên một chân, ngồi trên gót, và nhẩy choi choi. Dần dần, anh cùng bị lôi cuốn vào cuộc múa. Nhẩy và khuỵu đầu gối đã nhanh nhẹn hơn và bộ mặt to lớn của anh đượm vẻ say sưa.

        Rát-sô-khin đôi khi vào đúng lúc đó. Đứng ở cửa, anh nheo đôi mi một cách dễ dãi và kêu lên:

        - Các cậu lại phá sàn ra phái không?

        - Lại bắt đầu! - Ka-ban-kốp đối lại với cái giọng chua và cái vẻ thách thức, tuy thật ra chỉ có Sê-pen-kin mới thật là "phá" sàn: những cái nhẩy của anh làm rung cả tường, lảo đảo cả ngọn đèn và làm cửa kính như kêu lên, đau đớn.

        Rát-sô-khin ngồi trên cái giường không của Bê-sây-tốp. Gập người làm đôi, hai đầu gối mở rộng, anh nhìn theo các nhà vũ. Và một vẻ mơ màng êm dịu in trên bộ mặt tàn hương thô rắn của anh. Anh gọi:

        - Ka-ban-kốp à, cậu chơi cho tụi mình nghe cái gì thì hơn.

        Sê-pen-kin dừng ngay giữa cuộc múa, lấy tay túm lấy Ka-ban-kốp và nhắc lại, giọng van lơn:

        - I-go, chơi cái gì cho tụi mình nghe đi! Chơi đi!

        Ka-ban-kốp chẳng nhận mà cũng chẳng chối, có lẽ vì không biết có nên nhận lời mời không, cũng có lẽ vì anh chàng còn muốn người ta phải cầu khẩn. Sau một vòng lượn cuối cùng, anh để mình rơi vào trong giường, không lộ một chút mệt, rồi rút từ dưới gối một cái bít tất thủng một sợi chỉ, một cây kim và bất đầu vá bằng những ngón tay bé nhỏ, thoăn thoắt như tay con gái.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Mười Hai, 2018, 08:03:40 am

        Sê-rôp lại tiếp viện:

        - Đúng đấy, ông bạn già I-go, chơi cho chúng tớ nghe cái gì chứ?

        - Vất mẹ nó cái bít tất đi! - Rát-sô-khin sốt ruột gắt lên.

        Nhưng Ka-ban-kốp vẫn cứ rề rà. Bỏ cái bít tất, anh làm việc khác: ngồi xổm trước cái bàn ngủ, anh xếp lại chai lọ, thư từ, mấy cái cúc áo màu vàng có mở neo, hộp thuốc đánh răng. Khi mọi người đà đợi chán chê và bắt đầu nói sang chuyện khác thì lúc đó anh mới lôi cái ác-coóc-đê-ông ở gầm giường ra, ngồi bắt chéo chân, để đàn lên đầu gối và mở rộng đàn.

        Chẳng bao giờ anh chơi một điệu nhất định, luôn luôn chạy từ để này sang đề khác, và không bao giờ chơi lại bài gì hai lần: dù có cầu khẩn, anh cũng chịu không chơi lại được. Nhạc của anh là một lớp sóng vô tận, nó như từ ngón tay anh vọt ra một cách dễ dàng. Cái say mê của tiếng đàn anh phần lớn do cái bất ngờ của các điệu trái ngược. Đang vui nhộn như bốc cháy bỗng lướt ém buồn bã làm Sê-pen- kin muốn ứa nước mắt và cả đến trên mặt Rát-sô-khin cũng thoáng buồn; và hình như muốn tự chứng tỏ cho mình cái uy thế hấp dẫn đối với người nghe, Ka-ban-kốp bất thình lình chuyển sang một bản nhạc đắc thắng. Người ta lại thấy trong tiếng nhạc tất cả cái sức mạnh con người, tất cả lòng tin đời, tất cả chí quyết thắng.

        Lu-nin nghe, mắt nhắm lại, và người ta tưởng anh ngủ. Đôi khi anh lơ mơ ngủ thật, nhưng không ngừng mơ mộng chìm đắm trong sóng nhạc. Những bức tranh vô tận diễn trong đầu. Thường thì là lặp lại những cái đã trông thấy trong ngày... Sương mù, vẫn sương mù, và đột nhiên là màu biển xám xịt dưới cánh máy bay. Gần đấy, nhưng chỉ hơi lờ mờ, là những chòi súng của chiếc Sô-kôn là là mặt nước... Bờ biển là một dải băng viển rua, rặng tùng thưa của Pê-tê-rôp chỉ ló ra cái đỉnh khỏi sương mù... Những ánh lửa lập loè nhỏ của luồng đạn chầm chậm bay đến. Một cái giật vào tay lái để lên cao thêm vài trăm thước. Ngoặt sang trái... Bay trên thành phố... vẫn sương mù, chẳng thấy gì, đường phố mơ hồ như những thung lũng thon thon nhẩy múa, và như sa lầy khi máy bay nghiêng cánh rẽ... Thành phố anh dũng! Ở đấy cực khổ lắm, chắc chắn là hết sức cực khổ. Nhưng không phải chỉ ở Lê-nin- grát. Đạp lớp tuyết mỏng, bọn Đức ào về Mát-scơ-va. Từ bắc và từ nam, một gọng kìm khổng lồ há hốc miệng: Ka- li-nin, Bơ-ri-ăng, O-ren, trung tâm đất nước, và O-ka, Đôn-bát., O-đét-sa, Ma-ri-u-pon. Chúng tiến, tiến mãi và ta chỉ có lùi. Những thành phố... những làng mạc... Thật là gay... Li-da ở Lê-nin-grát, phố Mô-khô-vai-a. Nàng sống với mẹ. Lần cuối cùng mà anh gặp bà mẹ, là năm 1930. Bà còn trẻ. Bà không ưa gì Lu-nin, không chịu được Lu-nin là khác. Bà vẫn ở chỗ cũ. Có lẽ hôm nay Lu-nin đã lượn trên dẫy nhà. Chắc bà biết Li-da ở đâu... Nhưng biết để làm gì, vì tất cả đã tan vỡ không còn mong trở lại?...

        Ka-ban-kốp thuộc cái loại nhiều thứ tài mà tài gì cũng khá, đã làm là được. Anh nhẩy, chơi đàn ắc-coóc-đê-ông, vẽ và làm thơ. Từ ngày 22 tháng 6, anh có sáng kiến ra mỗi ngày một tờ "Báo bay". Anh có dưới gầm giường một cuộn giấy lớn cứ mỗi ngày anh rút ra một tờ đế làm báo. Không bao giờ anh quên công việc đó: số báo thứ 100 thì ra ngày thứ 100 của chiến tranh.

        Hàng ngày anh chiến đấu và đóng góp vào những sự việc nhiều như của cả một đời người. Nhưng "Báo bay" không ngừng xuất bản. Đã thành thói quen, bây giờ anh không mất quá 15 phút để làm thành tờ báo. Anh dán nó khi ở nhà ăn, khi ở nhà ngủ, khi ở chỉ huy sở. Phi công và thợ máy đợi chờ nó, tò mò xem trong có cái gì. Ít bài, mà thường là tranh, phần đông là hài hước, vẽ bằng hai màu, bằng bút chì xanh đỏ. Anh biết châm phá một nhân vật đang bay, hoặc thường lấy đề tài trong những việc hàng ngày: như cảnh Hin-đa, khiếp sợ trước một con chuột cống và leo lên bàn, trong khi Sê-pen-kin đến tấn công nó, cái cời lửa trong tay, nhưng cũng khiếp sợ rõ ràng trước con vật; hoặc ở trên là câu chuyện lịch sử: "12 máy bay địch bị hạ” hoặc đồng chí thợ máy Đê-ép cao lớn mặc áo blu thầy thuốc, đứng trước một hàng dài máy bay ốm - cánh gẫy, thán thủng, cánh quạt trẹo, máy mở tung - dầu đề là: "Đồng chí phục sinh cả người chết"; hoặc nữa là Sê-pen-kin lia một băng vào cái cây gỗ bập bềnh trên sóng mà anh tưởng là một chiếc tàu ngầm của thủy quân Đức.

        Rất nhiều bức hoạt hoạ tả cái không may của bọn phi công Đức, chuyện đều có thực, và trong phi đội đều biết một gioong-ke chạy trốn Rát-sô-khin, và thằng lái mới vào nghề ngoặt thế nào đâm tháng vào cây. Năm oanh tạc trông thấy khu trục ta đến. thì dội ngay bom vào đầu lính của chúng để trốn cho dễ. Một Mét-séc-mít lái nhầm, đâm ngay vào chiếc gioong-ke mà nó phải hộ vệ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Mười Hai, 2018, 11:25:22 am

        Kèm theo các tranh đó, Ka-ban-kốp thêm cá thơ ứng biến của anh. Đó là nhiều đoạn của một bài thơ dài, nó cùng như âm nhạc của anh, không đầu không cuối. Đề thơ là "Trả thù" mỗi đoạn đều có ghi ở đầu "Tiếp theo" và ở cuối "Còn nữa". Trái với hình vẽ, thơ không có gì hài hước. Ka-ban-kốp thường gợi cái cảnh Nô-gô-rốt thời thơ ấu của anh:

        "Ta thấy mi, Nô-gô-rôt của những ngày thơ ấu
        Mái nhà ta, và sông Von-khốp xanh
        Và nhà thờ với điện Krem-lanh
        Đứng hiên ngang trên mỏm đá.
        Thành xưa ấy, nay quân thù tản phá
        Nhà ta, đã hoá tro tàn
        Nhưng Hít-le trong giấc mơ vô đạo
        Hết hòng thành phố Lê-nin!
        Trước tàn hoang, cướp bóc, giết người,
        Khói lứa và hung bạo
        Trước cái biển tội phạm
        Hỡi quân khôn nạn!
        Ta quyết:
        Trả thù!"


        Một việc đáng kể hàng ngày là hôm sau, có ngay trong đoạn tiếp của bài thơ. Khi Sê-pen-kin, người không ngớt bị diễu bằng hoạt hoạ, bị bốn Mét-séc-mít tấn công, và chỉ nhờ có anh em trong phi đội đến cứu mà sống, thì anh viết:

        “Thần chết cướp sao được bạn!
        Ta bắt nó phải lùi
        Gì bằng nỗi sướng vui
        Khi bay liền cánh, sương mai tỏ mờ?'


        Anh chế giễu cái giác mơ iêng hùng ngu xuẩn của bọn Đức:

        "Chúng ta kiên trì nghe đại bác,
        Để rồi tống cổ chúng bay!
        Như đàn chồn hôi ra khỏi hốc!
        Còn Lê-nin-grát?
        Xin ngài
        Khoan tính nuốt!"


        Kể cả mọi tài của Ka-ban-kốp, thì cái khiếu làm thơ làm cho Lu-nin lạ nhất. Trong khi còn ở ngành dân dụng anh đã gặp nhiều người biết múa, biết chơi ắc-coóc-đê-ông, biết vẽ hoạt hoạ. Nhưng nay là lần đầu mà anh thấy một nhà thơ. Cái mà anh càng lạ nữa, là cùng sống trong một buồng, anh chưa hề bắt gặp Ka-ban-kôp làm thơ. Vậy thì làm ở đâu, và bao giờ? Một hôm ngồi một mình với bạn, anh đặt câu hỏi.

        - Tôi có viết lách gì đâu - Ka-ban-kôp trả lời. - Tôi bịa quấy quá như vậy; khi bay chẳng hạn.

        Lu-nin ngẩn người. Làm thế nào mà có thể nghĩ ra thơ trong lúc mà mọi tâm trí đều mắc vào cái lo giữ được hướng, không mất. hút hạn, không đâm vào cây, lại phải bắt được tín hiện của Rát-sô-khin, nhìn kim luôn động trên mặt bảng bay, và nhất là không để địch thoát?

        Ka-ban-kốp là chính trị viên phi đội. Và cái đó thì không làm cho Lu-nin lạ chút nào, mà anh còn cho là vô lý nếu còn hỏi tại sao Ka-ban-kốp giữ chức vụ đó. Sĩ quan tác chiến, Ka-ban-kốp chưa hề ở ngành chính trị. Về bằng cấp thì chỉ có cái bằng tốt nghiệp không quân. Anh là đảng viên thật, nhưng Sê-rôp thì cũng thế.

        Ka-ban-kốp được chí định là chính trị viên ngay trước hôm Lu-nin đến. Đầu tiên phi đội có một chính trị viên chuyên nghiệp, một người công tác dưới đất. Anh đã bị hy sinh với ba người khác trong vịnh Phần Lan trong lúc rút khỏi Tan-lin. Khi phi đội đến trường bay mới thì không còn chính trị viên nữa. U-va-rôp vừa nhận công tác ở sư đoàn, đến thăm các phi công. Anh ở một tối với họ, nghe Ka-ban-kôp chơi đàn ắc-coóc-đê-ông, liếc qua tò Báo bay và ngay trước khi ra đi, giao cho Ka-ban-kốp nhiệm vụ mới.

        Người ta không hề cho là Ka-ban-kôp có thể làm chính trị viên. Nhưng một khi anh được chỉ định, thì ai cũng lại cho là chẳng có việc chí định nào đúng hơn nữa. Thực ra Ka-ban-kốp đã làm nhiêm vụ ấy sẵn rồi. Người ta yêu anh, trọng anh, nghe anh, và anh cũng chẳng cần đọc diễn văn, hay ra mệnh lệnh. Việc chính của anh là tìm hiểu mọi người để khuyên bảo giúp họ. Nếu không có chức vụ chính thức thì anh cũng vẫn làm như thế, và mọi người đều biết là trong thực tế, anh là người chỉ huy sau Rát-sô-khin.

        Tuy vậy những ngày đầu cũng khó, nếu anh không được đồng chí thợ máy Đê-ép, bí thư chi bộ của phi đội giúp đỡ.

        Mỗi máy bay có một thợ máy riêng, mà người ta gọi là "ông chủ”. Nếu cả năm chiếc 1-16 của phi đội còn bay được dù là đòi hỏi chúng việc gi, và dù là chúng thương tích đầy mình, chính là nhờ các đồng chí thợ máy đó. Trong khi các phi công ngủ, họ suốt đêm soát lại máy, đổi bộ phận, băng bó vết thương. Việc nặng nề, mỏi mệt phải làm đi làm lại, và không được phép sai lầm một sợi tóc. Các đồng chí thợ máy không còn thời gian ăn ngủ; sương giá và gió lạnh làm ngón tay họ nứt ra, sưng lên; nhưng cái lo trách nhiệm còn đè nặng họ hơn là mất ngủ và lao lực. Mỗi lần ra trận, người phi công nhận máy bay từ tay người thợ máy, trở về lại giao trả. Và ai cũng biết là một sai lầm bằng sợi tóc, một cái vô ý không đáng kể nhất cũng có thể đem cái chết đến cho người phi công, đem đến mất máy bay và đem đến cái thất bại trên không. Suốt thời gian phi đội ở trên không và đánh nhau, ở đâu đó đằng kia chân trời, là người thợ máy đứng đợi ở đường bay, im lặng, tái nhợt. Mắt họ không rời nhìn trời. Và khi một chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh ló ra ở ngọn cây tùng thì "ông chủ" đã nhận ngay ra nó và như bị thôi miên bởi mỗi động tác của nó: lắng cái tai mê mải nghe máy, lo lắng đoán xem máy có nguyên vẹn và phi công có vô sự hay không?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2018, 09:26:34 am

        Những giờ hồi hộp hàng ngày ấy đã gây cho người thợ máy lòng âu yếm lo lắng đối với người phi công. Anh dầy công đoán trong con mắt họ, xem họ có ngủ ngon không, xem họ có khát, có lạnh không, xem cái quai mũ có chặt quá không. Tất cả cố gắng của anh nhằm làm cho công việc người phi công được dễ dàng, nhằm giúp họ những việc nhỏ, an ủi họ, tránh cho họ mọi tiêu phí sinh lực vô ích. Ka-ban-kốp nói:

        - Thật là những chị nuôi trẻ! Và mỗi phi công có một người chị.

        Đê-ép là người tận tâm nhất. Rất cao với đôi cánh tay dài và đôi chân cao lêu nghêu, đối với Ka-ban-kôp anh có cái âu yếm của người mẹ. Khi cả hai lăng xăng quanh máy bay, thì đôi lứa trông đến phì cười; đó là một nguồn chuyện đùa vô tận; những nhà hài hước trong phi đội thuật chuyện rằng Đê-ép nhặt Ka-ban-kốp ở đầu cánh tay để đặt vào khoang máy bay, hay là Ka-ban-kổp lên đó bằng cách chui dưới háng anh thợ máy. Chuyện đó có thêm dầu thêm dấm, nhưng nói thực ra thì Ka-ban-kốp cũng có thể không cúi mà đi qua dưới cánh tay dang ra của Đê-ép, và đã nhiều lần sự việc đó được chứng minh.

        Đê-ép đã quá ba mươi và nhìn đời với cái nghiêm nghị bình tĩnh. Chẳng được tin nhà ở vùng tạm chiếm, xứ Smô- len, anh đau đớn âm thầm. Là một trong loại người bình thường lăn lộn với công việc và chịu đựng một cách lầm lỳ anh dũng cái gánh nặng của chiến tranh, ở phi đội, người ta đặc biệt kính nể anh mà anh thì chẳng tỏ ra cái gì là khác người. Anh kế tục làm bí thư, sau đồng chí I-va-sép hy sinh ở Tan-lin. Khi Ka-ban-kôp được chỉ định chính trị viên, Đê-ép giúp đỡ anh trong nhiệm vụ mới với tất cả lòng sốt sắng cũng như đối với công việc chuyên môn của anh trên trường bay.

        Thời kỳ đầu, những buổi nói chuyện chính trị làm Ka- ban-kốp lúng túng. Anh vốn là người biết nói chuyện trước công chúng và am hiểu vấn đề của mình: như sự đau khổ của nhân dân, nhiệm vụ của mỗi người trước Tổ quốc và nhân loại, sự cần thiết phải gan dạ, nghĩa vụ quân sự, lòng tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng... Nhưng, một khi anh thấy mắt mọi người dán vào anh. thì luồng tư tưởng bay đâu mất, tiếng nói thắt lại, và anh chỉ có thể nói lên những cái chung chung. Lúc đó là lúc Đê-ép đến gỡ bí cho. Đồng chí đặt một câu hỏi cho anh và tự trả lời với cái giọng bình thường, nhưng cốt sao cho mọi người không để sót một lời nói. Lập tức, buổi nói chuyện thực sự bắt đầu. Quên cả cương vị của mình, Ka-ban-kốp lại nói và thường là rất khá. Buổi họp nhộn lên, và nếu người ta có chút rảnh rỗi là buổi họp kéo dài.

        - Tôi không thể rời được đồng chí. - Một hôm Ka-ban- kốp thú thật với người thợ máy của anh. - Đối với tôi đồng chí như một cái lò so, một cái đà nhẩy.

        Đê-ép giải thích:

        - Rồi sẽ quen. Tập nói chuyện không bao giờ khó. Chủ yếu là quan tâm đến con người; chủ yếu là con người.

        Chính Ka-ban-kốp cùng hiểu cái đó.

        Những lúc mệt mỏi và lo buồn, Lu-nin cảm thấy mắt Ka-ban-kôp dán vào mỗi cử chỉ của mình, như để tìm hiểu tư tương mình. Nhưng Lu-nin không muốn giúp Ka-ban- kốp trong việc đó, và Ka-ban-kốp biết vậy. Tuy nhiên, có một lần anh hói Lu-nin một cách lự nhiên:

        - Đồng chí thiếu tá không bao giờ viết thư à?

        - Không bao giờ!

        Câu chuyện không đi xa hơn và Ka-ban-kốp thôi không cố gợi Lu-nin điều mà anh muốn để bụng.

        Nhưng Ka-ban-kốp lại rất tương tận về mối tình của Sê-rốp. Vào giữa tháng mười, Sê-rôp nhận được thư trả lời của Bộ Giáo dục. Trường học đã dọn đến một thị trấn vùng Mô-lô-tôp mà chẳng ai ở phi đội đã hề nghe đến tên. Ka- ban-kôp lập tức ra chỉ huy sở và đắc ý đem về một cái bản đồ trên giường và tất cả các phi công cúi xuống xem. Dưới tên thị trấn đó có gạch một vạch mực to. Ka-ban-kốp cắt nghĩa rằng chỗ ấy nhất định rất tốt: một huyện lỵ, bên bờ môt sông con, ở ngang sát Mô-lô-tốp, khí hậu lành, vá ngoài tầm máy bay Đức. Sê-rôp nghe và đồng ý một cách buồn rầu.

        - Cậu viết thư đến đấy ngay đi. - Ka-ban-kốp khuyên bạn.

        - Được!

        Và Sê-rốp không viết.

        Cái tin mới, không có vẻ làm cho anh vui. Anh xanh và ít nói hơn mọi ngày. Đêm khuya, thức giấc dậy, Lu-nin thấy bạn không ngủ và đăm đăm con mắt như sốt lên trần nhà. ở nhà ăn, sáng hôm sau, Sê-rốp đang đưa cái thìa lên mồm thì bỗng bặt lại. Khi men theo đường vòng ra máy bay, anh bỗng đứng dừng lại, và Lu-nin phải gọi.

        Đến tôi Ka-ban-kốp lại hỏi:

        - Cậu viết xong thư rồi chứ?

        - Chưa...

        - Mau lên. Mình tìm được cơ hội chúa lắm.

        Ngày hôm sau nữa, có một máy bay vận tải của thủy không quân cất cánh từ một trường bay của Lè-nin-grát đến Mô-lô-tốp để lấy những mảnh máy tháo rời về. Người lái là một bạn cũ của Ka-ban-kốp, một tay rất dáng tin cẩn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Mười Hai, 2018, 10:19:19 am

        Hai quân khí viên của phi đội, ngay mai sẽ ra trường bay ấy; họ có thể đem thư đi cho.

        Thật là dịp may duy nhất: từ khi bọn Đức chiếm bờ nam La-đô-ga, thư phải sáu tuần mới đến nơi, và bưu điện không nhận điện tư nữa. Sê-rốp không trả lời và không viết.

        Đến gần sáng, một tiếng thở dài lón đánh thức Lu-nin. Anh chàng Sê-rốp dài và gầy đang ngồi trên giường, chân thõng xuống. Lu-nin hỏi;

        - Đồng chí làm sao thế? Đồng chí không ngủ được à?

        Sê-rôp rõ ràng là đã hết sức chịu dựng.

        - Hôm tôi đến thăm, trường chưa dọn đi. Sáu ngày sau trường mới dọn đi.

        Lu-nin không hiểu. Nhát gừng, thì thào trong tiếng nghẹn, Sê-rốp nói rõ thêm. Quãng giữa tháng tám, anh từ Tan-lin đến Pê-tê-rốp và ở đó người ta cho mấy giờ phép đi Lê-nin-grát. Anh đến thăm cô bạn gái; bà láng giềng bảo là cô ta đã rời thành phố đi với nhà trường. Vậy nhưng trong thư trả lời của Bộ Giáo dục thì lại rõ ràng là sáu hôm sau cái hôm anh đến thăm, trường mới dọn đi.

        - Vậy thì sao? - Lu-nin cố bình tĩnh hỏi. Nhưng anh rất hiểu... Đáng thương cho Sê-rôp.

        - Cô ta không muốn gặp tôi, - Sê-rốp nói dằn từng tiếng. - Cô ta đã nhờ bà hàng xóm nói dối tôi là đi rồi.

        Một tiếng bực tức vọt lên từ giường Ka-ban-kôp:

        - Cậu kể cái gì vô lý vậy? Cậu biết đâu? Chẳng biết cái gì hết?

        Anh tung chăn và chạy lại Sê-rốp. Chân không, anh lại càng như bé hơn nữa. Và cái mặt to bằng hai nắm đấm đỏ lên vì tức giận.

        Sê-pen-kin, thức giấc dậy. cựa quậy trong giường và giương con mắt ngây ngô nhìn Sê-rốp. Sê-rốp thu hình lại, cúi đầu, môi tái đi và sự lo buồn hiện ra trong khoé mắt.

        - Thôi đừng lo vớ lo vẩn nữa! - Ka-ban-kôp gắt, tức điên lên. - Đứng dậy và viết thư đi! Còn một tiếng nữa mới đến giờ dậy. Cậu còn đủ thì giờ.

        Quần đùi, lưng cong, với cái vẻ như con vật bị đánh, Sê- rốp ngoan ngoãn đi ra bàn ngồi viết. Mọi người im lặng. Ka-ban-kôp vẫn giữ cái vẻ bức tức. Sê-rốp viết lâu, rồi gập tờ giấy theo hình ba góc và đề địa chỉ.

        - Cậu đã ghi hộp thư của chúng mình chưa? - Ka-ban- kốp hỏi.

        - Rồi.

        - Bây giờ cậu viết cái thư thứ hai, nghe chưa?

        Anh đọc cho Sê-rốp viết thư cho ông Hiệu trưởng, với đề nghị là cho biết địa chỉ của Ma-sa. Và anh giải thích:

        - Để cho có mọi thuận lợi. Cậu đưa thư tớ!

        Anh cầm cả hai bức thư và đặt dưới gối.

        Thư gửi ngay hôm đó và không ai nói đến chuyện ấy nữa. Một việc mới làm mọi người chú ý: ở nhà ăn, Sê-pen- kin bắt đầu để ý đến cô Hin-đa. Hệt như Bê-sây-tôp.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2018, 08:44:04 am

IV

        Hin-đa đã đẹp, độ rầy lại đẹp thêm: mảnh, nhỏ, nước da mầu bát sứ lại hồng thêm vì lửa bếp, và đôi mắt xanh da trời - thật là một búp bê. Sê-pen-kin vốn vẫn ngọt ngào với cô, nhưng không có ý gì khác, mãi cho đến xẩy ra việc con chuột cống mà Ka-ban-kôp đã tạo thành một bức hoạt hoạ cho "Báo bay". Một con chuột cống sụ diễn qua nhà ăn với cái vẻ chậm chạp hỗn hào. Hin-đa có một mình, cô rú lên và leo lên bàn. Nghe tiếng kêu, Sê-pen-kin tình cờ lúc đó ở buồng ngoài, chạy lại, vớ lấy cây còi lửa và chắn lôi xuống bếp của con vật. Con chuột cống - với bộ lông trắng trên sườn - lùi vào một góc nhìn Sê-pen-kin băng đôi mắt đen dữ tợn. Hin-đa đã thôi kêu la, và từ trên bàn, vạch kế hoạch cho Sê-pen-kin. Nhưng anh chàng không có vẻ vững chãi lắm: cu cậu tiến đến con vật với bước chân do dự. Con chuột cống nhẩy bốp về phía anh, Sê-pen-kin đánh bài rút, tay khua lia lịa cây còi lừa, nhưng lại đập xuống sàn. Con chuột chuồn trước mũi anh và thong thả biến sau cửa nhà bếp.

        Hin-đa nhẩy xuống bàn, hết sức công phẫn. Giật lấy cây cời lửa, cô diễn tả cho anh biết là ở địa vị anh, anh phải làm như thế nào. Đến vừa đúng lúc, Ka-ban-kốp và Sê-rốp phải đứng nghe từ đầu đến đuôi câu chuyện; cô vạch cho họ biết rằng Sê-pen-kin cầm que cời lửa đứng ở đâu, và con chuột ở đâu. Sê-pen-kin tự cảm thấy rất ngượng ngùng. Anh tự bào chữa và đổ lỗi cho cái đuôi dài và trụi gớm ghiếc của con chuột. Nhưng Hin-đa nhìn anh bằng con mắt đầy khinh bỉ khiến anh phải im miệng.

        Từ hôm đó, có sự thay đổi trong quan hệ giữa Sê-pen- kin và Hin-đa mà ai cũng thấy ngay, ở bàn ăn, anh im lặng và ngắm cái cửa bếp. Hin-đa vào, thì có hai vết ửng đỏ trên má anh. Suốt thời gian cô đi đi lại lại qua nhà ăn, anh nhìn cô không rời mắt. Cứ mỗi lúc, đôi má anh lại đổi mầu Ai hỏi thì anh mất hồi lâu mới trả lời được, ngẩn ngơ như người đang ngủ vừa bị ai đánh thức. Còn tình ý phía cô Hin-đa thì vẫn không rõ. Nhưng cô đã nhận thấy cái thay đổi thái độ đó và cau đôi mày mỗi khi người ta nhắc lại trước mặt cô chuyện con chuột cống.

        Cũng chính vào thòi kỹ ấy họ biết được chắc chắn điều mà họ vẫn nghe phong phanh từ lâu: vấn đề đói ở Lê-nin-grát.

        Họ bảo vệ Lê-nin-grát và đóng cách thành phố mây cây số. Mỗi ngày, họ bay trên thành phố nhiều lần, nhưng rất cao. Đời họ sống trên không hoặc ở trường bay. Ở đó không có một người nào ngoài bộ đội.

        Rát-sô-khin phải biết rõ hơn cả: người ta từ Trung đoàn hoặc Sư đoàn xuống chỗ anh; và bản thân anh thỉnh thoảng đi ca-mi-ông đến núi Pô-cơ-lon-nai-a. Có thể anh biết, nhưng thấy không cần thiết nói chuyện lại với những sĩ quan của anh.

        Chẳng ai là dân Lê-nin-grát. Rát-sô-khin ở Vô-lô-đa, Ka-ban-kốp ở Nô-gô-rốt, Sê-pen-kin ở Smô-len và Sê-rốp ổ Ka-li-nin. Ngay trước chiến tranh, trung đoàn đã đóng lâu ở quận Kim-gi-sép, nhưng đi xe lửa đến Lê-nin-grát cũng mất bốn giờ tròn, và chỉ Sê-rốp là ngày chủ nhật có đi. Tuy nhiên cũng như tất cả những người quê ở miền Bắc, họ cảm thấy ràng buộc liền với thành phố bằng trăm nghìn sợi dây. Cái huy hoàng của Lê-nin-grát choán cảm giác họ. Mỗi người đều cho những ngày đã sống ở đó là quãng đời đẹp nhất và mơ ước ngày trở lại.

        Vậy mà bây giờ đói ở đó. Kiệt sức vì đói, người ta gục trên phố: những quân khí viên ra thành phố lấy súng đạn đã chính mắt trông thấy. Vả lại, dộ này tiêu chuẩn cấp dưỡng cho các phi công đã không như trước. Trước kia, có lẽ trừ Sê-pen-kin, chẳng ai ăn hết suất. Nay khẩu phần thịt và bánh đã giảm, rau thì biến hẳn. Bánh không còn được mặc sức ăn: 500 grơ-ram một ngày. Đối với Lu-nin thì như thế đã là đủ, tuy anh là tay ăn khoẻ, và dù những giờ bay đằng đẵng mỗi ngày bắt phải tiêu phí nhiều sinh lực. Nhưng đối với bạn trẻ thì hơi ít quá. Tuy vậy chẳng ai phàn nàn. Sê-rốp còn không ăn hết 500 gờ-ram; anh bọc một mẩu bánh vào tờ giấy và bỏ túi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2018, 08:24:34 pm

        Vì các đồng chí thợ máy chỉ được hưởng 300 gờ-ram bánh và hai đĩa súp, một vào bữa trưa, một vào bữa chiều. Và các phi công đã mang một cảm giác rất nặng nề khi họ biết rằng những người đã mang bao tâm huyết vào công việc nay phải chịu đói.

        Sê-rốp là người đầu tiên chia khẩu phần bánh với đồng chí thợ máy của anh. Và Lu-nin bất chước. Anh rất ngạc nhiên thấy người thợ máy từ chối. Lu-nin vờ giận nhưng không kết quả. Lúc đó anh phải làm như hạ lệnh. Người thợ máy phải tuân theo, và cầm lấy bánh. Được mấy ngày, thì Rát-sô-khin biết chuyện.

        Một buổi tối, anh vào nhà ngủ, mặt biến dạng đi vì tức giận.

        - Sê-rốp!

        Nghe tiếng - một âm thanh đã được nghiên cứu từ lâu -  biết ngay là người phải gọi lên sắp sửa bị sạt, Sê-rôp tái đi và sửa lại tư thế, Dưới đôi mày hung hung, mắt Rát-sô- khin thật đáng sợ.

        - Thế nào? Đồng chí tưởng là những người quyết định về khẩu phần không rõ nghiệp vụ của họ phải không? -  Đồng chí tưởng là đồng chí khôn hơn họ à? Đồng chí muốn lên lớp cho họ phải không? Đồng chí đưa bánh cho một đồng chí thợ máy trong khi ở Lê-nin-grát thì trẻ con chết đói. Nếu người ta nuôi đồng chí, khi trẻ con phải chết đói là để giữ sức cho đồng chí tống cổ bọn Đức. Hiểu không?

        Anh quay đi và kết luận, chẳng nói hẳn với ai:

        - Không phái là hy sinh miếng bánh, và là phải hy sinh tính mạng mình...

        Im lặng hồi lâu, Sê-rốp vẫn đứng nghiêm. Lu-nin thấy ngượng ở chỗ chỉ thấy riêng Sê-rốp bị sạt: anh cũng làm vậy và Rát-sô-khin không thể không biết. Nhưng Rát-sô- khin chẳng bao giò nhận xét Lu-nin, chắc vì Lu-nin lớn tuổi hơn và vì cấp bậc cao hơn. Nhưng hôm đó, sau một lúc im lặng, anh cũng gắt:

        - Đồng chí thiếu tá, về phần đồng chí nữa, tôi lấy làm lạ...

        Anh quay gót, và đi.

        Nhà ngủ im lặng. Cả Ka-ban-kốp cũng im. và ngồi trên giường, ủ rũ vá bít tất. Lu-nin nằm cả áo và nhắm mắt, làm như ngủ. Nhưng giấc ngủ không tới, và anh biết rằng anh sẽ không ngủ được.

        Sau khi nằm gần một tiếng rưỡi, anh dậy, mặc áo choàng và ra ngoài.

        Tuyết tan từ buổi sáng. Mưa làm tuyết chảy ra, và bên ngoài tôì đen đến nỗi không thấy cả bàn tay mình. Lu-nin đi mò trong bóng đêm, muốn cho mưa quật vào mặt. Bỗng nhiên anh nghe thấy tiếng bước chân, anh không kịp tránh và đụng phải Rát-sô-khin.

        - Đồng chí thiếu tá đấy à? - Rát-sô-khin hỏi. - Đồng chí đi đâu vậy?

        - Chảng đi đâu cả.

        - Tôi cũng vậy.

        Hai người đứng đối diện nhau mà không thấy nhau, và im lặng. Chỉ nghe lách tách tiếng mưa thu.

        Rát-sô-khin nói:

        - Chào đồng chí! - Và anh bước một bước ra xa.

        Rồi anh đứng lại. Và nói:

        - Tôi cũng vậy, bánh tắc trong cổ họng.

        Nói xong anh đi.

        Lu-nin còn ở lại thêm mấy phút, rồi tiếp tục đi dạo, vấp vào dây điện thoại, va phải một cây phong và dựa vào nó... Trẻ con chết đói. Lu-nin không có con và cũng không có nhiều dịp gặp trẻ con. Cho nên chúng cho anh một cảm giác mỏng manh rất đáng thương. Mỗi lần anh gặp một đứa, là anh bàng hoàng: một con người bé như vậy, tay không như vậy trước sự sống, mà cái gì cũng có thể làm bị thương làm tiêu huỷ - một cái xe hơi, một người, một con chó - Mà bây giờ trẻ con đang chết đói!

        À ra vì thế mà bọn Đức im lặng như vậy. Sao anh không sớm nghĩ đến cái đó? Một thành phố với hàng triệu dân không một đường tiếp tế, một thành phố bị phong toả, bị vây. Thế còn dự trữ? Nhưng ai dự trữ nổi cho ba triệu con người, có thể hơn ba triệu nữa? Chắc có dự trữ, và người ta phải dè sẻn. Nhưng trong một tháng, trong hai tháng? Bọn Đức muốn ăn chắc. Chúng đợi, và chúng sẽ tiến vào một thành phố chết... Ôi! Cái kết liễu ghê gớm! Tất cả y nguyên, nhà ở cũng như xưởng máy. Tất cả im lặng, và không còn một người sống... Anh rùng mình.

        Còn chỗ khác của nước Nga? Cái gì xảy ra bên kia đường chiến tuyến kép? Từ hai tháng khi anh đến đây, anh chưa hề trông thấy một người bên kia? Chỉ nhận được những tin ngắn không lành. Ta đã rút O-ren Bơ-ri-ăng, Vi-a-giơ-ma, rồi Ma-ri-u-pôn. Ma-ri-u-pôn ở trên biển A- dốp, không xa cái chỗ có trường của anh, cái nhà con, cái vườn của anh. Người ta lại báo là tình huống nghiêm trọng thêm ở mặt trận tây: quân Đức đã chọc thủng. Mặt trận tây, đúng rồi, nghĩa là Mát-scơ-va. Mười lăm ngày đã qua, hai tuần lễ, ta đã rút O-đét-sa, Ta-gan-rốc, Kác-kốp. Nhưng ở Mát-scơ-va thì sao? Đang đánh nhau ở đó. Không có tin nào khác.

        Ướt đầm và run bắn, Lu-nin trở lại nhà ngủ, ngần ngại. Anh tìm cái bực nhỏ hồi lâu trong bóng tối. Khi vào, mọi người đã ngủ trừ Sê-rốp vẫn nằm mở mắt. Nhưng thấy Lu-nin, anh nhắm ngay mắt lại.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2018, 08:48:55 pm

V

        Tuyết tan kéo dài mấy ngày, rồi lại đóng. Mới vào cuối tháng mưòi những đã dầy vẻ mùa đông. Tuyết rơi không ngừng.

        Phi đội thỉnh thoảng mới bay, vì tuyết rơi ít, nhưng thường là vì bọn Lớp-táp nằm im hoàn toàn. Và sự nghỉ ngơi bắt buộc ấy dè trĩu họ. Họ muốn bay, muốn đánh để lương tâm được yên ổn.

        - Có thật là không còn dịp hạ được một cái máy bay Đức nào trước ngày lễ không? - Ka-ban-kốp vừa nói vừa di đi lại lại trong nhà ngủ, bước nhanh chân, đôi nắm tay nhó riết lại.

        Chỉ còn mấy ngày là đến mồng 7 tháng 11 mà năm đó người ta đợi chờ đặc biệt tha thiết: kẻ thù chẳng đang làm nguy ngập tất cả những cái gì mà Cách mạng tháng mười đã tạo ra cái lẽ sống của mỗi người hay sao?

        Sáng mồng sáu mây thưa hơn mọi ngày. Có cả một chút mặt trời. Nhưng một lớp sương mù dầy tám trăm thước vẫn bao phủ mặt biển và bờ biển. Người ta có thể nhìn không chớp mắt cái khuôn lớn tướng và mờ mờ của mặt trời.

        Buổi sáng hôm đó, các trạm quan sát đã phát hiện đó đây một số máy bay Đức - chỉ là bọn máy bay thám thính đi tuần tiễu từng đôi một. bay thấp trong sương mù, và cố đến nhìn trộm thành phố, kiểu như khi người ta liếc vội vào trong xoong xem món ăn đã chín chưa?

        - Chỉ cốt gặp được chúng! - Ka-ban-kôp reo lên trong khi họ chạy ra máy bay, trên tấm thảm tuyết cứng trắng xoá.

        Một phút sau, năm chiếc máy bay của Rát-sô-khin theo hình ba cạnh, bay trong sương lấp lánh ánh cầu vồng vì mặt trời phản chiếu. Phải nắm vững cả khối, vì nếu không giữ vững cự ly. thì máy bay bên cạnh nhìn hoá thành đôi ngay và sẽ biến mất, như bị tẩy xoá nhoà. Họ hướng mũi về Lê-nin-grát và vượt qua cửa sông Ne-va: không thấy một máy bay địch nào. Họ lái sang phải và bay trên Pê-tê- rốp: vẫn chẳng thấy gì. Lại lái sang phải về phía Cơ-rông- stát: vẫn không thấy bọn Đức. Làm thế nào phát hiện được chúng bây giờ? Chỉ nhìn xa được 50 thước. Thế thì trở về suông hay sao? Trên Cơ-rông-stát, Rat-sô-khin lại lái về phía tâv và dẫn phi đội ra khơi.

        Vừa ngay lúc đó, Lu-nin thấy thẳng trước mặt bốn vệt thon mờ mờ: Mét-séc-mít. Chỉ thấy trong khoảnh khắc. Rát-sô-khin ra lệnh ngoặt trái.

        Lẩn trong sương, phi đội dán vào bọn Mét-séc-mít, cao hơn chúng một chút. Một khoảnh khác sau, Sê-pen-kin tách khỏi dội, bay sang phải.

        Đó là một mẹo dử mà họ thường vẫn tranh luận ở nhà ngủ. Nếu bọn Mét-séc-mít thấy phải chọi với năm chiếc 1-16, thì chúng lủi mất. Phái có cái mồi. Hám mồi, chúng sẽ xổ vào Sê-pen-kin và như vậy chúng không thoát được nữa.

        Cả phi đội còn lại, tiếp tục đường cũ một phút, rồi cũng ngoặt sang phải.

        Họ không thấy bọn Mét-séc-mít ngay trong cái đám sương mù đáng ghét ấy. Họ lượn vòng, lên cao, xuống thấp... Thời gian qua. Sê-pen-kin có thể đã bị hạ. Họ bắt đầu lo ngại dữ thì đột nhiên họ bổ trúng ngay vào kẻ thù: bốn cái Mét-séc-mít đang lăn xả vào cái máy bay của Sê- pen-kin.

        Nhưng Sê-pen-kin là tay lão luvện. Trong luồng đạn toé ra, anh bay loằng ngoằng hụp xuống, lên thẳng, bổ nhào chí chết, và ngoặt đến phắt làm cho bọn Mét-séc-mít không đụng đến được.

        Về phía anh, thì anh cho chúng những cú chí tử: chính lúc các bạn trông thấy anh, thì anh vừa cho một tên địch rụng xuống biển.

        Chiến công đó vừa xong, thì lập tức đến chiến thắng thứ hai. Vì ba chiếc Mét-séc-mít đang lái chệnh đi để đương đầu với phi đội bất thình lình hiện ra, Sê-pen-kin đánh ngay vào đuôi chúng và hạ luôn một cái nữa.

        Hai cái còn lại bay lên cao rồi biến mất trong sương. Thất vọng kích thích bởi hai chiến công của bạn, những phi công của Rát-sô-khin lượn hồi lâu trên biển, hy vọng lại tóm được máy bay bọn Lớp-táp. Rốt cuộc, Lu-nin tìm được hai cái Mét-séc-mít lúc nãy. Để tránh giao chiến, chứng ngoặt đi và tản ra. một rẽ sang trái, một rẽ sang phải. Rát-sô-khin, Ka-ban-kốp và Sê-pen-kin lao đuổi theo chiếc bên trái, Lu-nin và Sê-rôp săn chiếc bên phải.

        Lu-nin lao hết ga. Một lúc, anh đã giữ được cái Mét- séc-mít trong tầm mắt. Rồi nó biến, - đột nhiên như biến vào khoảng không. Lu-nin vẫn lao về phía ấy, luôn hy vọng sẽ lại thấy nó. Nhưng chỉ thấy sương óng ánh đủ các mầu: đỏ, da cam, vàng, xanh, xanh lá cây...

        Lu-nin quay đầu lại xem Sê-rốp có đàng sau không. Nhưng Sê-rốp cũng biến. Lu-nin một mình trong đám sương.

        Anh ngoặt một cái, rồi một cái nữa, đi đường khác, lượn vòng, hy vọng tôi thiểu cũng tìm được một người trong tốp bạn. Nhưng bạn và thù đểu biến. Anh lên cao để ra khỏi sương mù. Một khoảng bao la mở ra trước anh. Trong vắt và lạnh buốt, bầu trời vắng tanh tắm một mầu xanh nhợt.

        Xăng cạn dần, sân bay thì xa. Tuy vậy, Lu-nin quyết thử tìm phi đội một lần nữa. Anh lại chui vào sương mù, nhìn ngang thấy mặt sóng biển và thấy hai cái bóng lướt nhanh trên đó. Sát mặt nước, một Mét-séc-mít đuổi một chiếc máy bay đang trốn và vẽ những đường loằng ngoằng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Giêng, 2019, 10:32:19 am

        Máy bay Sê-rôp, chắc thế? Chiếc Mét-séc-mít ngay dưới Lu-nin. Phải hành động nhanh. Lu-nin bổ nhào thẳng tắp xuống và lia một băng. Để tránh Lu-nin, chiếc Mét-séc- mít làm một cái ngoặt phải bất thình lình, nhưng trong cái ngoặt, nó vướng cánh vào nước, lộn sấp lại và chìm nghỉm.

        Chiếc máy bay bị đuổi đã lợi dụng phút ngừng đó để lẩn vào sương mù. Lu-nin đuổi kịp. Không phải Sê-rốp, mà là Sê-pen-kin.

        Lu-nin nghiêng cánh, bay sát bên và lấy chiều cao, vì anh không còn được mấy tí ét-xăng. Tốt hơn là bay trên sương để không lạc và có một chiều cao khá để đề phòng. Sê-pen-kin bắt chước, những không lên quá được trăm thước. Và Lu-nin nhận thây hình như anh gặp khó khăn với chiếc máy bay - máy bay di rất chậm, từng cái nhảy, như lôì nhảy cừu. Chiếc Mét-séc- mít có lẽ đã bắn trúng máy? Hay Sê-pen-kin bị thương? Anh không trả lời khi Lu-nin ra hiệu tay. Và nếu anh không còn sức về đến trường bay? Phải dìu anh vể Cơ-rông-stát. và đỗ ở đó.

        ... Cơ-rông-stát vẫn chưa thấy. Lu-nin bắt đầu lo: có lẽ quá Cơ-rông-stát rồi chăng? Tuyết trắng xoá, một mũi đất xung quanh là nước đen hiện ra đột nhiên ở đằng trước: cái phần phía tây vắng vẻ của đảo Kốt-lin trên đó là Cơ- rông-stát. Lu-nin nhẹ cả người. Nhưng lạ quá, Sê-pen-kin không chuẩn bị để hạ cánh. Anh cứ tiến chậm chạp về đông, bay trên dái đất thon dài.

        Lúc đầu hoảng hốt, sau Lu-nin lại yên chí ngay: Sê- pen-kin phải biết chắc việc anh làm; chắc anh bị thương, nhưng có thế gắng đến trường bay. Thế tốt hơn.

        Lu-nin thường bay luôn trên Cơ-rông-stát nên anh thuộc lòng thành phố như cái túi của anh tuy không bao giờ ở đó. Dưới thấp, trải ra những đường phố thẳng tắp với những ngôi nhà buồn buồn bằng đá cổ đến hai trăm năm, những vườn, những phố rộng cây trụi lơ thơ. Trồi ra khỏi sương, cái khối lớn của nhà thờ ngày một chạy gần lại; họ bay thấp đến nỗi cái vòm nhà thờ che mắt họ. Quá đằng kia, thấy tường gạch các nhà máy, những ống khỏi đen cao, một con kênh thẳng tắp đã đóng băng màu gio. Trong phố, các thủy thủ nhìn máy bay, và Lu-nin phân biệt rõ mặt họ. Sê-pen-kin lại mất thêm chiểu cao và Lu-nin  nghĩ rằng anh đã quyết định hạ cánh. Hãy còn có thể hạ trong cái bãi trống nào đó ở phía đông đảo. Nhưng đã trông thấy bờ biển trong sương, và Sê-pen-kin tiếp tục bay. Họ bay qua những mái nhà cuối cùng và lại bay trên mặt biển.

        Lu-nin muốn dìu Sô-pen-kin đến mấy cái đảo nhỏ mà ở đó là những pháo .đài của Cơ-rông-stát, nhưng Sê-pen-kin bay thẳng trước mặt, qua vũng Mác-ki, về phía La-ta. Sương mù lại che kín mắt họ. Bây giờ họ lê thê trên mặt nước, Sê-pen-kin bay trước, Lu-nin ở quãng ba mươi thước sau, gần như đụng vào những tảng băng dài nhỏ hình dẹt và ở giửa nước bốc khói.

        Giữa hai tảng băng, máy bay Sê-pen-kin chậm chạp chúi mũi đâm xuống và biến mất.

        Lu-nin kêu lên một tiếng mà tiếng máy nổ át đi không nghe thấy, và lượn vòng tròn trên chỗ Sê-pen-kin, yên chí là anh sắp nhoi lên, vì sự thể không thể xẩy ra như thế được. Rồi Lu-nin hết hy vọng. Thế là hết, chắc chắn là xong hết. Nhưng anh không thế rời khỏi cái chỗ khủng khiếp ấy và cứ lượn, lượn mãi...

        Khi anh hoàn hồn, thì bình ét xăng chỉ còn đủ hai phút. Anh lên thẳng và chĩa thẳng về trường bay. Khi anh về đến đất liền, anh thấy hai cái máy bay: Rát-sô-khin và Ka-ban-kôp đã về. Còn Sê-rôp? Khi sửa soạn để hạ cánh, anh trông thấy máy bay của người bạn đồng đội Sê-rôp đã về trước hai người kia.

        Giữa các đồng chí thợ máy, Rát-sô-khin và Ka-ban-kốp vừa đỗ xong, đang thuật lại cái gì cho Sê-rốp. Khi ở khoang máy bay xuống Lu-nin đến gần họ, Ka-ban-kốp quay lại anh, đôi mắt sáng lên sung sướng. Anh khoe lớn:

        - Đồng chí thiếu tá, lúc trở về, bọn tôi lại cùng với đại uý hạ thêm một cái. Ngày lễ khá đây chứ?

        Anh nhận thấy cái mặt biến sắc của Lu-nin và chợt hiểu.

        - Sê-pen-kin?...

        Lu-nin gật.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2019, 11:24:05 pm

CHƯƠNG NĂM

ĐỊA ĐIẾM MỚI

I

        Tháng mười hai, sân dãy nhà lớn cù lao Vát-si-li vắng ngắt. Một lốp tuyết dày bao phủ. Chỉ còn vài lối đi ngoằn ngoèo từ cổng vào các cầu thang. Mỗi buổi sáng, ông già Tác-ta A-bra-ham cố gắng dọn tuyết. Trong mấy tháng qua, ông gầy đi một cách kinh khủng, và với cái vóc cao, cái kiểu đứng thẳng, cái mặt sạm, cái vẻ chịu đựng và nghiêm nghị, ông càng giống với hình người bị hành tội trong bức tranh đạo. Đôi chân khẳng khiu lùng bùng trong đôi ủng rộng mới. Với cử chỉ quen thuộc, ông đâm cái xẻng vào tuyết, nhưng cứ hai, ba xẻng, ông lại ngừng và bắt đầu loạng choạng một cách lạ kỳ, như cái thân dài của ông không còn đứng vững nổi nữa. Những lúc ấy ông ngồi lên bệ đá, và hơi thở nặng nề, ông đăm đăm nhìn tuyết hồi lâu. Ông ghét tuyết lắm, nhưng kiệt sức, ông phải chịu hàng phục nó.

        Lúc đó là giờ mà giáo sư Mét-ni-kốp thường ra sân thở chút không khí. Cụ đứng trước ông A-bra-ham, tì trên gậy, cái đầu nhỏ vẫn ngấc lên hiên ngang, như con chim sẻ bướng bỉnh. Những người xung quanh đấy, từ lâu đã biết ông cụ bé nhỏ gần sáu nhăm tuổi mặc cái áo dài đẹp, đội mũ lông và đi ủng che tuyết ấy là một giáo sư. Chẳng ai biết là một giáo sư khoa gì? Nhưng tất cả - các bà nội trợ cũng như ông gác cổng A-bra-ham và cả đồng chí thủy binh thường làm những cái việc quán sự bí mật gì ở nhà dưới - đều tỏ vẻ kính trọng cụ, cái kính trọng đối với sự hiểu biết.

        Thông thường, cụ im lặng. Đôi khi cụ nói chuyện với ông A-bra-ham, hay nói đúng hơn là cụ làm một vở kịch dài độc tấu trước ông A-bra-ham. Ngồi trên bệ đá, ông A- bra-ham nghiêm trang nhìn tuyết, và qua nét mặt, thì không thể biết rõ ông có lắng nghe hay không.

        Một hôm giáo sư dang tay trái, vén cổ tay áo ngoài, rút bít tất tay và ngắm cái cổ tay nhỏ như tay trẻ con. Rồi cụ giải thích, giọng bình tĩnh:

        - Không có ăn, thì người ta tự ăn mình, theo một trật tự bất di bất dịch. Trước hết là ăn chỗ mỡ dự trữ, rồi ăn đến bắp thịt.

        Sô-ni-a hiện ra ở cửa cầu thang. Em mặc măng tô trùm cái khăn len trắng và đi bốt lông. Em gọi:

        - Ông đi về đi kẻo nhiễm lạnh. Hôm nay ông ở ngoài lâu quá. Ông có về không ông?

        Cụ I-li-a nhìn em không trả lời và tiếp tục bài giảng:

        - Cái bị ăn cuối cùng, là óc và bộ dây thần kinh, cái quý nhất và khó tạo lại nhất. Khi mà người bắt đầu ăn đến óc mình, thì hết cứu chữa.

        - Cụ sợ chết à? - Ông A-bra-ham đột ngột hỏi.

        Giáo sư nhìn ông bằng con mắt đàn anh.

        - Sợ cái chết của tôi ấy à? Không, cái chết, tôi không sợ cho tôi. Tôi và nó không bao giờ gặp nhau. Tôi còn sống, thi nó không có cơ hội nào, và khi nó đà đến thì tôi không còn nữa. Cái chết của người khác mới là cái...

        Cụ cau mày và im bặt.

        - Khi người ta không chịu thua, thì người ta không chết. - Sô-ni-a tuyên bố. - Ông ơi, về di.

        Em kéo túi áo ông và dìu ông về nhà.

        "Khi người ta không chịu thua thì người ta không chết" em không sáng tạo ra công thức đó; em chép của chị Ang- tô-ni-a Trô-phi-mô-na.

        Sô-ni-a đã lâu không gặp chị và vừa đây mới lại thấy.

        Tháng mười, khi các trận oanh tạc của Lớp-táp gần ngừng hẳn, Ang-tô-ni-a biến khỏi cái nhà mà Sô-ni-a ở. Chị cũng chẳng về ngủ nữa. Những phụ nữ khác phụ trách công việc hầm, sân và mái; được Ang-tô-ni-a huấn luyện, họ giữ hết sức đúng cái trật tự do chị đã lập nên. Họ cho Sô-ni-a biết là chị đã được giao những nhiệm vụ quan trọng hơn và chị ngủ đêm ngay ở chỗ làm việc.

        Một tháng sau, khi sắp hàng trước cửa hiệu bánh, một thiếu nữ cho Sô-ni-a biết là Ban chấp hành Thanh niên quận có thể đề cử em vào một xưởng vũ khí. Sô-ni-a nghĩ đến cái đó từ lâu; tất nhiên không được bằng ra mặt trận, nhưng như vậy em có thể công tác mà không bỏ ông và Sla-va. Em mới đến Ban chấp hành Thanh niên một lần, mùa xuân trước, khi đi với các bạn gái cùng lớp, em đến lấy thẻ Công-sô-môn. Rồi chiến tranh bùng nổ, trưòng dời đi và Sô-ni-a mất liên lạc với Đoàn. Cho nên do dự hồi lâu em mới tới Ban chấp hành.

        Em cầm thẻ trên tay - em sợ người ta biết là từ mấy tháng em không đóng nguyệt phí và việc này làm em rất hoảng. Nhưng em vừa vào trong nhà, thì bao nhiêu sợ hãi đểu tiêu tan hết. Những cô gái mà em hỏi chẳng có gì đáng sợ: cũng đội khăn vuông và đi ủng nhu mọi người. Các cô hỏi em. Em kể chuyện Sla-va, chuyện ông, chuyện mẹ chết. Tìm được việc ở xưởng máy không phải là dễ; một số bộ phận đã dọn di, một số đóng cửa vì không có than, những bộ phận còn chạy - những bộ phận quan trọng nhất - thì số người làm đã đủ.

        - Phải dẫn cô ấy đến chị Ang-tô-ni-a, - một cô đề nghị, mọi người tán thành.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Giêng, 2019, 10:55:55 pm

           Sô-ni-a không ngờ có thể là chị Ang-tô-ni-a mà em biết. Người ta dẫn em đến Ban chấp hành Đảng bộ cũng đóng ở đấy. Các cô đi qua những cánh cửa mang nhiều tên khác nhau, theo những hành lang vô tận lạnh gớm ghiếc không kém gì ngoài đường. Mặc áo da lông, trùm khăn và đi bốt, chị Ang-tô-ni-a ngồi trong cải buồng giấy lạnh giá và đang gọi điện thoại.

        - Chị Ang-tô-ni-a, tôi dẫn đến cho chị một người rừng đấy - Cô gái dẫn Sô-ni-a nói. - Chị nói chuyện với cô ấy đi, cô ấy có thể giúp chị được ít nhiều đấy.

        "Một người rừng" không phải là nói bóng cái tính nết của Sô-ni-a, mà nghĩa là em không ở trong đoàn thể nào.

        Chị Ang-tô-ni-a vẫn có đôi mắt như cười và chăm chú dưới đôi mày vàng hoe. Nhưng bộ mặt thì đã bị phù.

        - À! Người quen cũ đây mà! - Chị reo lên sau khi thoáng nhìn Sô-ni-a. - Em lạ lắm phải không? Chị được chỉ định vào công tác này, và ngủ luôn ở buồng làm việc này...

        Chị đi ngay vào việc;

        - Đã hơn một tháng nay, các nhà tắm công cộng trong thành phố đều đóng cửa. Em có muốn giúp chị mở cửa một nhà tắm không?

        - Thưa chị được lắm ạ! - Sô-ni-a trả lời không một giây do dự.

        Ang-tô-ni-a Trô-phi-mô-na để hai bàn tay xuống bàn: trước kia thon và bóng, ngón tay của chị nay vặn vọ và cứng nhắc. Chị nói:

        - Trong các nhà, hiện nay không còn thể rửa ráy cũng như không còn thể sưởi được. Đã ba tháng rồi, người ta cứ nguyên quần áo mà ngủ. Không còn một cái nhà tắm trong thành phố. Không còn có thể làm cho nó chạy được nữa: không than, không phương tiện vận tải, người còn có thể chịu đựng được cũng không còn nốt... Chúng ta đi coi.

        Chị đứng dậy. Cái áo lông da quá ngắn để lòi ra cái váy quá rộng và cũng quá ngắn trùm trên một cái quần bông ngắn bó vào trong ủng. Trong cái mớ lùng thùng ấy, chị vẫn còn giữ được vẻ duyên dáng nhẹ nhàng.

        - Chị tìm thấy trong khu phố một nhà tắm nhỏ kiểu cổ. - Chị kể khi đi xuống thang với Sô-ni-a. - Cái nồi súp-de cũng không to tắm và ngốn ít than. Ta đi xem một tí.

        Họ đi qua những phố vắng trên đảo, những phố sáng rực một màu tuyết trắng khác thường. Khí lạnh làm Sô- ni-a khó thở.

        - Sáng nay, em đã uống trà chưa? - Ang-tô-ni-a hỏi. - Khi không có gì ăn thì sáng dậy uống lấy một cốc nước chè hay nước lã đun sôi.

        Nhà tắm cũng nhỏ, ở tầng dưới một căn nhà kiểu cổ từ thể kỷ trước, phía góc hai phố, cách đại lộ chừng một trăm thước. Vữa trên tường đã rụng từng mảng vì ẩm thấp, lộ gạch trần. Từ xa trông, ngôi nhà có vẻ còn y nguyên. Nhưng đến nơi, mối thấy là các kính cửa chính đều vỡ.

        Cửa không đóng. Họ đấy cửa vào buồng ngoài. Những bông tuyết lớn lấp lánh trên sàn trơn như long não. Còn lạnh giá hơn ở ngoài đường: cái lạnh của nhà mồ.

        - Có ai không? - Chị Ang-tô-ni-a hỏi to.

        Họ lắng tai. Gió lùa qua kẽ cửa sổ, xoay tít những bông tuyết.

        Cái cửa vòm chỗ thu tiền đã chắn lại bằng một miếng ván; lối vào phòng tắm hạng nhất của phụ nữ ở bên phải, lối vào phòng tắm hạng nhất của nam giới ở bên trái. Một hành lang đâm sâu vào quãng tối om om. Trong một góc buồng ngoài họ thấy một cửa thấp có đề chữ: "Ban phụ trách". Ang-tô-ni-a kiên quyết đẩy cửa và lùi ra ngay lập tức.

        Có thể nói là một cái hố đen lớn mở ra dưới chân họ. Một ngọn đèn leo lét đâu đây trong đêm tối phía dưới xông lên một mùi nóng ẩm ướt và cái hôi chua chua của những nhà thiếu khí trời.

        - Cửa kìa! - Một giọng đàn bà khàn khàn kêu. - Đóng lại chứ!

        Cầm lấy tay Sô-ni-a, Ang-tô-ni-a tiến thận trọng trong bóng tối.

        - Chú ý kẻo ngã. - Chị nói - Có bậc thang đấy!

        Họ xuống những bậc thang gỗ lầy nhầy. Một sợi bấc đút vào cái hộp thịt cũ, chiếu lên trên bàn một ánh sáng xỉn. Khi đã quen với bóng tối, Sô-ni-a nhận thấy cạnh bàn một đống tã hình như động đậy.

        - Có ai trong ban phụ trách không? - Ang-tô-ni-a hỏi rất lớn, và trong cái hang ghê tởm này, giọng chị lại hoá ra có vẻ chính quy một cách lạ lùng.

        - Có. - Tiếng nói lúc nãy trả lời.

        - Chị là ai?

        - Phụ trách trướng.

        Từ đông tã, lòi ra một bóng người tùm hum cái khăn khoác chăn quàng trên mãng tô: một và già còng, như gù, mặt gần đen sịt, cái mũi khoằm như lưỡi dao bà đôi mắt dữ tợn, hệt một mụ phụ thủy trong một giác mê.

        - Các người muốn gì? - Mụ hỏi với giọng doạ nạt.

        - Chúng tôi ở Uỷ ban.

        - À! Vậy ra là một cuộc đến thăm! - Mụ phụ trách reo lên với cái giọng châm biếm độc ác, - Vậy thì nhìn xem. Cũng là uỷ ban đã chỉ định tôi đến đây vào tháng chín, để trông nom cho cái nhà này chạy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Giêng, 2019, 10:36:20 pm

        Ang-tô-ni-a nói:

        - A! Tôi nhận được ra chị rồi! Trước kia chị đã gặp tôi... Chị bao nhiêu tuổi?

        - Hai mươi bốn. Tôi thay đổi quá phải không?

        - Cũng khá.

        - Tôi không hể soi gương.

        - Chị còn nhớ tôi không?

        - Nghe tiếng, dần dần tôi nhận ra.

        Hai người nhìn nhau im lặng hồi lâu. Rồi chị Ang-tô- ni-a nhìn quanh cái hầm và hỏi:

        - Sao tối thế?

        - Tôi không mở cái che đèn phòng thủ.

        - Tại sao?

        - Vì chiều lại phải đóng.

        - Như vậy là không được. - Chị Ang-tô-ni-a nghiêm nghị nói.

        Chị nhanh nhẹn trèo lên ghế, từ ghế trèo lên bàn, và bỏ cái mành giấy xanh ra. Phủ một lớp tuyết dầy, cánh cửa sổ nhà hầm mở ngay trước một đống băng, nó chỉ cho lọt xiên qua một tia sáng. Nhưng căn buồng như bừng sáng lên -  người ta thấy hai giường lồm cồm những tã, một cái lò sưởi con bằng gang và một đống than vụn ở một xó ngay trên sàn. Ngọn đèn đêm nay gần như không trông thấy nữa. Ang-tô-ni-a tắt đi và từ trên bàn tụt xuống đánh ầm.

        - Chị sống ở đây à?

        - Trong khi đợi...

        - Đợi gì?

        - Chị cũng biết như tôi. Hôm nay tôi sống, mai tôi đã chết rồi.

        - Tại sao lại mai?

        - Có lẽ là ngay hôm nay.

        - Chị ở đây đá từ lâu à?

        - Phải. Ở trên nhà không có gì sưởi.

        - Chị có một mình?

        - Không, còn Li-da-vơ-ta.

        - Li-da-vơ-ta nào?

        - Phụ trách buồng tắm hạng nhất. Giường chị ấy đây này.

        - Thê chị ấy đâu?

        - Chết rồi. Hôm kia. Khi tôi di lĩnh bánh. Khi tôi về, chị ấy đã cứng đờ. Tôi đưa xác chị ấy lên bực thang trên cùng. Trên đó có băng.

        - Chị ấy vẫn ở đó?

        - Vẫn ở đó.

        Sô-ni-a lùi xa giường Li-da-vơ-ta. Ang-tô-ni-a nghiêm sắc mặt. Như muốn nói "Thôi đừng kể lể nữa. Để làm gì... nói chuyện công việc đi". Và chị hỏi:

        - Còn nhà tắm?

        - Đóng cửa vào lớp sau cùng. Vì súp-de của chúng tôi ăn ít than hơn.

        - Thế bây giờ?

        Chị phụ trách không hiểu câu hỏi.

        - "Bây giờ" cái gì?

        - Tại sao đóng cửa?

        Một tiếng cười như điên rồ vặn cái mặt chim gầy còm của chị phụ trách.

        - Chị không thấy là các cửa kính vỡ hết rồi à?

        - Thế than cũng không còn chứ?

        - Sao lại không có than! - Chị kêu lên như phật ý. - Than thì có. Khi tôi về đây, tôi đã có dự trữ. Còn đủ đốt sáu tuần nữa. Đấy cái than tôi dùng đốt lò sưởi đấy. Li-da-vơ-ta đã đem ở lò về. À! Trước đây còn có một bà đốt lửa rất khéo. Chúng tôi đóng cửa sau cùng, sau cùng trong các nhà tắm của thành phố.

        - Bà ấy nay đâu?

        - Bà đốt lửa ấy à? Khi các cửa kính vỡ hết, bà ấy về nhà, còn ở đây làm gì? Bà ta chỉ còn vừa đủ sức đứng được. Có lẽ đã chết...

        Ang-tô-ni-a nói:

        - Cửa kính thì chúng tôi không kiếm được cho chị đâu. Chẳng đâu có cả. Thế tất cả cửa kính của chị đểu vỡ à?

        - Tất cả buồng hạng nhất đàn bà, hạng nhất đàn ông và ở hạng nhì đàn ông - tất cả ở phía cửa chính - thế sao?

        - Còn ở đây? - Ang-tô-ni-a hỏi và chỉ cái kính nguyên vẹn của buồng phụ trách.

        - Ở đây trông xuống sân. Phía xuống sản thì cửa kính đều nguyên.

        - Thế có buồng tắm trông xuống sân không?

        - Có. Buồng hạng nhì đàn bà! vẫn còn nguyên kính.

        - Thế thì phải đốt nóng các buồng đó.

        - Chỉ một hạng thôi à?

        - Một thôi! Một ngày đàn ông, một ngày đàn bà.

        Chị phụ trách còn léo nhéo thêm:

        - Mùa đông, thì tôi không đảm bảo, vì các ống đến mùa xuân mới tan băng, bây giờ thì ống băng cứng nhắc còn gì.

        - Ống nào?

        - Ống nước ấy, thưa bà chị. Đầy nước đá. Phải đốt bằng ống thổi hơi.

        - Sẽ tìm cái đó cho chị, trong bất cứ xưởng máy nào cũng có. Chỉ cần báo họ: nếu gửi đến cho tôi một thợ hàn, thì các anh được tắm trước tiên.

        - Thật chứ? - chị phụ trách lẩm bẩm, vẫn sầm nét mặt, nhưng đã bớt ác cảm.

        - Cái gì thật nhất thì là thế. Tôi không biết là chị có than. Nhưng chị đã có cái đó thì người ta sẽ tìm cho chị đủ các thứ khác.

        Chị phụ trách nghĩ ngợi:

        - Ai đứng ra làm. Tôi chẳng còn ai, chỉ còn một mình.

        - Sẽ tìm người cho chị. Đây là một. - Ang-tô-ni-a chỉ Sô-ni-a. - Chị cần bao nhiêu người? Mười, mười lăm? Chị sẽ có mười lăm người. Tôi cũng đến làm.

        Chị phụ trách đột nhiên nói:

        - Tôi đưa chị đi xem nhà! Hãy còn một buồng có thể đốt nóng được, nếu có ván bịt hai cửa sổ. Còn ống nước thì tôi không rõ... Nếu bà chị đốt lửa không quên thông ống thì có thể nó còn chạy được.

        Chị tung chăn, vất xuống giường và hiện ra gầy nhom, còng hẳn xuống, với cái mặt bẩn thỉu của một bà già lôi thôi. Chị kéo Ang-tô-ni-a và Sô-ni-a ra cầu thang.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2019, 11:35:31 pm

        Thế là Sô-ni-a tham gia vào việc sửa soạn cho nhà tắm chạy. Mỗi sáng, em đến rất sớm, và ở đến chiều tối, Ang- tô-ni-a giữ lời hứa và cung cấp những cô gái cho chị phụ trách, không được mười lăm, nhưng được năm người, thế cũng khá rồi. Tất cả trước đều ở xưởng dệt. Xưởng dọn đi từ mùa hè, và các cô ở lại vì nhiều lý do khác nhau. Các cô ở trong một đội thanh niên thành lập vào cuối hè trong việc đào công sự đằng trước Lê-nin-grát. Khi về, Ang-tô- ni-a khuyên các cô đừng giải tán đội: các cô sẽ giúp chị để chiến đấu với thần chết.

        Tất cả đều trùm kín từ chân đến đầu - chỉ thấy cái mũi đầy bồ hóng và bộ má nứt nẻ. Không hề lúc nào họ cởi áo, vì không bao giờ được ấm. Đói đã làm cho ngón tay họ nung mủ và chân phù lên; còn đứng được cũng là một sự lạ; tuy vậy, tuổi thanh niên có cái quyền của nó: các cô vẫn hay chuyện, hay cười và hay làm dáng.

        - Ây dà! Nếu mà đằng ấy trông thấy tớ hồi trước chiến tranh!

        Rất yêu Ang-tô-ni-a, nên các cô đem hết sức vào việc sửa chữa nhà tắm.

        Công việc tiến dần. Chị phụ trách nắm hết lấy công việc: ra khỏi cái hang của chị, chị tỏ ra tay phụ nữ đứng đầu, và thi hành quyền uy rất gắt. Ghen với Ang-tô-ni-a, chị cốt cho bọn con gái biết rằng chị là người chỉ huy. Chị dám rửa ráy cả bằng tuyết, làm cho cái mặt tái nhợt và răn reo như mặt bà cụ non.

        Họ mất ba ngày tìm kiếm ván cho cửa sổ và còng lưng khênh ván qua mặt băng sông Nê-va, rồi một ngày nữa để đóng nó vào cửa sổ. Lúc đầu, tưởng như không ai còn nhắc nổi cái búa. Nhưng khi Ang-tô-ni-a trèo lên bậc cửa số và chính chị đóng lá gỗ đầu tiên thì không ai muôn tụt lại sau nữa. Chị phụ trách đòi đóng lấy và chỉ cho phép bọn con gái đưa đinh. Chống cái cán chổi, bà đốt lửa lê đến chỗ làm việc. Đói làm người bà sưng lên, đầy nước. Bà thở ì ạch, và đôi khi người ta khó mà tìm được đôi mắt trong cái mặt sưng húp của bà. Bà ngồi xuống đống than và bắt đầu chứng minh một cách hăm hở cho chị phụ trách biết là khi ra đi, bà đã làm mọi việc đúng quy tắc: các ống đều thông, chỉ còn phải đốt nóng chúng lên là xong.

        Bà không đi được nữa và chính bọn con gái làm hết, mở khoá nước, cho than vào lò trong khi bà cụ ngồi chỉ huy. Bà là một con người cáu kỉnh, câu mắng luôn ở mồm, không ngớt tru tréo, và sử dụng cái cán chổi rất lẹ, đừng đến gần mà nguy. Các cô gái phải quấn thuốc lá cho bà vì bà nói là có thể không ăn mà sống, chứ không thuốc thì chắc chắn là chết; trước sự hãi hùng của mọi người, bà còn giảng giải là bà đã đổi cả khẩu phần bánh lấy thuốc hút. Ngón tay không quân được điếu thuốc nữa, bà nhờ bất cứ ai làm giúp và mắng người ta sa sả nếu không làm được đúng ý muốn của bà.

        Rất lành nghề, bà tỏ ra nhiều sáng kiến và nhất là rất thận trọng. Vì cần thiết phải thế - một ống mà vỡ thì đi đời hết. Bà cho nhiệt độ trong các nồi súp-de lên chầm chậm, lắng tai nghe tiếng nước trong ống. Bà ngủ đêm ngay tại chỗ: chị phụ trách và Sô-ni-a đã đem đến cho bà cái giường của Li-da-vơ-ta. Ngày thứ ba, hàn thử biểu ở buồng hạng nhì đàn bà đã chỉ hai độ dưới không.

        Chị phụ trách sướng cuống lên: - "Nhà tắm sắp chạy được rồi". Chị loan báo. Cái tuyệt vọng cũ của chị không còn dấu vết; chị lên xuống cầu thang trong cái trạng thái luôn kích thích, chỗ nào cũng có mặt, chỉ huy bằng cái giọng đã khản đặc, và cái gì cũng muốn tự mình làm lấy hết. Chị quyết định lau nhà. Lột cái áo ngoài, lột cả áo chẽn, cả váy, và gần như ở trần, gầy nhom như con cào cào, chị lấy giẻ đánh thềm đá. Chính hôm đó là hôm Ang- tô-ni-a bảo Sô-ni-a:

        - Khi người ta không chịu thua, thì người ta không chết.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2019, 11:48:14 pm

II

        Quân Phần Lan chiếm eo biển giữa hồ La-đô-ga và hồ Ô-nê-ga, tràn xuống bờ nam Svia. Từ ga Bu-đô-gốt, quân Đức tiến xuống để gặp chúng và đã chiếm Tích-vin một vòng đai thứ hai siết quanh Lê-nin-grát, chỉ còn lọt một dải hẹp quãng hai mươi cây số giữa Tích-vin và bờ nam Svia. Nhưng lỗ thủng đó không có một đường giao thông nào, không có đường sắt, cũng chẳng có đường ôtô.

        Thống báo mất Tích-vin ngày 30 tháng 11. Tin đó làm Lu-nin bàng hoàng. Nghiên cứu tấm bản đồ treo trên tường chi huy sở, anh thấy rõ Lê-nin-grát mỗi ngày mỗi chìm sâu vào sau lưng địch.

        Khi bay, Lu-nin thấy như bị lôi cuốn về phía thành phố vì một ý muốn không thể nào kìm được là muốn xem ở đấy ra sao? Anh biết là chỉ mười phút thì có thể vượt ngang qua khắp chiều rộng của khoảng đất liền dính vào Lê-nin- grát bị bao vây. Nhưng ít có dịp được bay trên Lê-nin-grát, và từ chỗ anh xa như vậy, thì không nhìn ra được cái gì.

        Một hôm, tháng chạp, anh bay trên suốt thành phố với Sê-rốp, từ bắc qua nam. Trời khá sáng và da trời xanh trong. Nhưng hơi sương giá đọng trên mặt đất, và các mái nhà như nhô lên trong bể sữa. Lu-nin thấy những đường phố dài thẳng nhưng chẳng nhận ra được gì, ngay cả lúc anh là sát mái nhà. Anh muốn biết quá. Xe điện không chạy, nhưng có người đi bộ. Không, rõ ràng không phải là một thành phố chết Lê-nin-grát bị bao vây vẫn sống; qua những đám lốc tuyết, Lu-nin vẫn thấy dấu vết sự sống đó: súng cao xạ đặt trong những chỗ đất rộng; trên những chiến hạm đã bị giam trong băng sông Nê-va, chòi súng vẫn quay, xe ca-mi-ông quân sự vẫn bận rộn lao nhanh trong đường phố...

        Khi anh bay trên nam phần thành phố lởm chởm những nhà máy khổng lồ, anh thấy những luồng khói nhỏ vẫn bốc, khi thì từ mặt ống khói cao bằng gạch, khi từ một ống khói khác. Và những luồng khói nhỏ ngoan cường ấy rập rờn trong gió, chứng tỏ không phải chỉ là một thành phố bằng đá, mà là một thành phố người, những con người không ngừng lao động.

        Lu-nin bay hồi lâu trên các nhà máy, đến hai phút, kinh ngạc vì cái đồ sộ của thành phố. Rồi anh thấy trước mặt một cánh đồng bao la phẳng tắp, phủ một lớp tuyết mỏng. Trận tuyến giáp Lê-nin-grát ở tây nam, đến phía nam dãn xa ra từ mười lăm đến hai mươi cây số, và xa đến hai nhăm cây số ở mé Kon-pi-nô. Lu-nin đã nghiên cứu kỹ khu vực đó trên bản đồ và nhận ngay ra được hai đường xe lửa chạy xuyên qua cánh đồng và tẽ dần ra như ngón tay xoè. Anh thấy ở trên đường những chùm toa nhỏ với những đầu tàu. Phần nhiều dã thành sắt vụn. Không cái gì động đậy. Anh thấy cả một con đường xám lờ mờ trong mầu trắng rực rỡ. Ba ca-mi-ông đầy bộ đội bò chầm chậm trên đó về phía mặt trận, cái nọ cách cái kia rất xa.

        Xa trước mặt, anh thấy một trái đồi rộng, thấp, lởm chởm một lùm cây thưa. Nhờ bản đồ, anh đoán là đồi Pưn- kô-vô và bay lại đó. Chính ở đấy có cái đài thiên văn nổi tiếng. Bọn Đức chiếm đó nhưng trận tuyến ngay sát bên, nên Lu-nin quyết định tới mãi đó.

        Quan sát cái bãi mà anh bay ở trên, anh thấy những chấm nhỏ đen: pháo Đức bắn, từng cột đất bị đạn nổ tung lên. Anh định lên cao để phát hiện vị trí pháo. Nhưng vừa lên được quãng trăm thước thì máy tắc.

        Đà nhiều lần chiếc 1-16 cho anh những vố đó; cái ấy chắc đã có từ ngày Ni-cơ-ri-tin còn lái nó. Trong sáu tháng chiến tranh chiếc máy bay đã bị trúng đạn, vá víu nhiều lần làm Lu-nin mãi lấy làm lạ tại sao nó còn bay được? Ngay lần bay đầu, anh đã buộc phải hạ cánh vì máy tắc. Từ đó, khi máy bắt đầu lục đục, anh chẳng buồn hạ cánh nữa: cứ chịu khó đợi một lát là máy lại chạy đều. Nhưng phải có một độ cao dự trữ, mà bây giờ thì anh không có, vì bay thấp để quan sát cho rõ hơn. Mặt đất đến gần một cách mau chóng.

        May thay là chưa vượt, quá trận tuyến! Tất cả bây giờ là bay quá cái phần cánh đồng có đạn đại bác rót vào. Anh liệng thận trọng, với hy vọng là máy lại chạy. Nhưng máy cứ câm hoài, và chỉ còn vài giây nữa là hạ. Anh mở bánh xe, đụng vào đất đóng băng và phủ một lớp tuyết mỏng.

        Khi còn ở trên không, anh không ngờ là ở quãng đó lại ầm ỹ như thế này - rõ ràng là hoà tấu bát nháo của mọi thứ tiếng động. Anh vừa đỗ thì cách dộ sáu mươi thước bên phải, một cột khói vọt lên, và máy bay lảo đảo trong hơi đạn. Phải chữa cho nhanh. Lu-nin nhảy từ khoang xuống và định đi ra máy. Nhưng lại một tiếng nổ nữa, ở sau đâu đây, làm anh vật sấp xuống tuyết. Cái bãi đất mê hồn quá! Anh đứng dậy, quan sát xung quanh, rũ người - tuyết đầy mặt anh. Sê- rốp, như thường lệ, đã không bỏ anh: trên cao kia, máy bay vẫn lượn vòng. Cánh đồng vắng tanh. Đồi Pun-kô-vô mờ mờ che lấp chân trời. Ngay đầu cánh đồng là bắt đầu cái khối nhà cửa của Lê-nin-grát. Xa xa, bên phái, những con sâu nhỏ đang bò - ba cái ca-mi-ông đầy bộ đội lúc nãy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2019, 11:31:42 pm

        Lu-nin bắt tay vào chữa máy thì lại có tiếng rít theo sau là tiếng nổ. Anh thụp xuống. Liệu chúng nó có để anh làm xong không? Bắn vào cái bãi trống này làm trò gì nhi? Hay có lẽ chúng trông thấy anh hạ cánh? Không! Cuộc titới đạn này đã bắt đầu từ khi Lu-nin còn ở trên không. Hay là bắn chặn đường?

        Chỗ này không hoang vu như anh tưởng. Có ai đang bới đất ở chỗ bị đạn xới tung lên - một bóng đen nhỏ xíu. Lu-nin  lúc đầu tưởng là con chó, nhưng cái bóng đứng lên thì ra một đứa trẻ con.

        "Lại đứa nữa". Lu-nin nghĩ đến thằng bé Dô-di-a mà hết hồn. Thằng này chắc đến mười hai tuổi và ăn mặc chải chuốt: ba-đờ-suy vải tốt, cắt đẹp. viền cổ lông, mũ da chùm tai, ủng bọc da hắn hoi. Nó cầm cái gì như cái túi một nửa rỗng, mắt đăm đăm nhìn Lu-nin và cái máy bay một cách chăm chú bình tĩnh.

        Lu-nin khoa tay gọi to.

        - Làm cái gì ở đấy? Có đi ngay không?

        Một quả đạn réo. Lu-nin thụp xuống. Sau tiếng nổ, anh ngửng đầu lên thì thằng bé vẫn không nhúc nhích, hình như tiếng nổ đối với nó không có quan hệ gì. Và Lu-nin tự thấy ngượng.

        Lu-nin lại khoa tay:

        - Đi đi!

        Thong thả, thằng bé lại gần máy bay. Trong cai mặt mỏng manh tái mét đi vì lạnh, đôi mắt xanh có vẻ cương quyết. Gần đụng vào máy bay nó mối đứng lại và nói có vẻ hơi coi thường.

        - A, một cái 1-16.

        - Cháu ở đấy làm gì? Tại sao cháu đến đây? - Lu-nin hỏi, đầu cúi trên máy.

        Thằng nhỏ không buồn trả lời.

        - Máy bay Lác tốt hơn phải không bác? - Nó nói rất mau. - Còn Míc số 3 thì hình như chỉ ở trên thật cao là tốt?

        Tiếng rít nữa... Tiếng nổ nữa... Lu-nin rụt đầu vào vai. Anh chỉ muốn thụp xuống. Nhưng thằng nhỏ không động đậy: chỉ liếc qua về phía đạn nổ.

        - Cháu không sợ à? - Lu-nin hỏi.

        - Không.

        - Có thể chết đấy.

        Thằng nhỏ bĩu môi:

        - Chúng không bắn trúng cháu đâu.

        - Ai bảo cháu thế?

        - Cháu còn bé, mà bãi thì rộng. Pháo binh, nó bắn theo ô, không phải là nhằm vào người nào.

        Nó nghĩ một giây rồi chữa lại câu nói, như để động viên người sĩ quan:

        - Bác và cháu thì bé thôi, mà bãi thì rộng.

        - Cháu ở đâu?

        - Ở trong thành phố.

        - Cháu đến đây làm gì?

        - Cháu mót khoai.

        Nó đến gần và mở cái túi: đầy túi có cái gì đen đen, như cục đất.

        - Gì đấy?

        - Khoai. Ở đây có cả một bãi. Chăng ai nhặt. Còn nguyên. Khi chúng bắn, đất lộn lên và làm bật khoai ra.

        - Cháu đến đây là vì có pháo oanh tạc à?

        - Tất nhiên! Nếu không thế thì cháu không thể có khoai được. Đất đóng băng cứng như sắt.

        Một quả đạn tới và nổ. Nhưng cả Lu-nin cũng không động nữa và tiếp tục chữa máy. Đã nói là cái bài thì rộng mà...

        - Cháu tên gì?

        - Rô-sti Sla-va.

        - Rô-sti Sla-va?

        - Vâng, Rô-sti Sla-va Bi-strốp.

        - Ba cháu ở trong phố à?

        - Không, ở mặt trận, xa lắm.

        - Thế mẹ?

        - Mẹ cháu không về.

        - Không về thế nào?

        - Mẹ cháu đi đào công sự, và không trở về.

        - Cháu ở với ai?

        - Với ông cháu.

        - Ông bảo cháu đi mót khoai à?

        - Không! Ông cháu không biết cháu lấy khoai ở đâu cả. Máy lại nổ. Cánh quạt quay, lốc tròn bụi tuyết, và tiếng máy nổ làm đứt câu chuyện.

        Lu-nin giật lấy cái túi, trèo lên khoang tìm lương thực dự trữ của anh: súc cù là, hộp thịt, bánh, và cứ nguyên thế nhét vào túi và vất túi xuống tuyết.

        - Cháu lùi ra! - Anh dùng hết hơi hét to lên. Anh lăn bánh và cất cánh. Ngoái lại, anh thấy thằng bé vẫn đứng, cái túi ở tay, nhìn theo anh, thành một chấm đen nhỏ trên tuyết. Lu-nin nghĩ thầm: "Sau chiến tranh, mình phải nuôi một thằng quãng tuổi ấy, sẽ sống hai người. Chảng cần ai nữa".

        Sê-rốp bay lại anh. Họ trở về trường bay.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Giêng, 2019, 11:20:30 pm

III

        "Thần chết và tôi không bao giờ gặp nhau. Tôi còn sống, thì nó không có cơ hội nào; và khi nó đã đến thì tôi không còn nữa".

        Cụ I-li-a ngẫm nghĩ như vậy, và ngấc cái đầu kiêu hãnh.

        Kiêu hãnh, thì cụ vốn đã thế suốt đời. Lúc trẻ, sức khoẻ đã kém, người gày gò, bệnh luôn, và cái đó làm cụ rất bực. Cho nên cụ chỉ tìm những cuộc thám hiểm nặng nhọc nhất, như các sông miền Bắc và miền Si-bê-ri, những nơi mà -vào cái thời kỳ xa xôi đó, chưa ai khám phá cả. Yếu nhất trong đoàn, nhưng luôn luôn đi đầu. Chưa có nước nào mà trong lịch sử của nó, những con sông đã đóng một vai trò quan trọng như ở nước Nga. Chúng đã trung thành phục vụ nước Nga trong quá khứ, chúng sẽ phục vụ tốt hơn nhiều trong tương lai... Cụ I-li-a không nghi ngờ cái đó, và cảm ơn số mạng đà làm cụ đi được nhiều trong thời niên thiếu. Cụ đã tập trung rất nhiều kết quả quan sát đo lường, ghi chép và con số. Đến giờ rút ra tổng kết, cụ thấy rất là thư thái.

        Từ những năm xa xôi ấy, cụ vẫn qua những mùa đông trong thành phố này, vẫn trong cái dãy phố này, vẫn trong căn nhà này. Bà cụ đã mất trong năm đầu của đại chiến thứ nhất, và cụ ở lại với cô con gái Ka-tăng-ka1 lúc đó 14 tuổi; nhỏ xíu, yếu ớt, cô mặc cái áo học sinh màu nâu, quàng cái khăn đằng trước màu đen. Vì Ka-tăng-ka, cụ không lấy vợ nữa, tuy rất có thể như thế, và không bao giờ cụ tiếc cái đó. Có phải ngay giờ đây củng có tiếng con không nhỉ? Không, Ka-tăng-ka không trở về.

          Ka-tăng-ka là tên ở nhà của Ka-tê-ri-na.

        Cụ I-li-a như có cái gì buồn buồn trong lỗ mũi, và lệ ứa lên mắt. Cụ chậm rãi rút mùi soa trong áo ngủ, xì mũi và gọi Sô-ni-a.

        Chẳng ai trả lời. Cụ một mình trong nhà. Lũ trẻ con, chỉ ra ra vào vào, chẳng báo là đi đâu cả. Những cơn buồn ngủ ngăn cụ không theo dõi được sự đi lại luôn luôn của chúng.

        Bếp... đã lâu nay cụ sống ở đó, cạnh cái lò gang. Lâu lắm rồi, từ hai tháng nay. Cụ làm việc ở đó, lọ mực vĩnh viễn ở trên bàn. Ở đấy, cụ đã hoàn thành bộ tài liệu đặc chủng về hồ La-đô-ga. Nét cuối cùng của chữ "HẾT" vạch xong, cụ đem bản thảo đến nhà sách Viện Hàn lâm khoa học để giữ được an toàn hơn. Rồi cụ lại lục soạn những ghi chép cũ - chỉ là để có việc. Với bộ sách hồ La-đô-ga cụ đã hoàn thành sự nghiệp của đời cụ.

        Cụ quen với cái bếp này rồi. Những cái xoong trên giá chỉ hơi óng ánh vì một lớp băng dầy đã phủ lấy cửa kính. Lò lạnh ngắt: cụ I-li-a còn ngủ nữa. Nhiệt độ bao nhiêu nhì? Từ ít lâu nay cụ không biết nóng lạnh là gì nữa. Tuy chân đã như gỗ, và có khi quản bút từ ngón tay rơi xuống mà cụ củng chẳng hay... Không như lũ trẻ, chúng khổ vì lạnh biết bao nhiêu! Nhất là Sô-ni-a: ngón tay nó sưng vù, đầy vết nung mủ... Ba trăm sáu mươi gam bánh một ngày cho ba người, tuyệt nhiên không còn gì khác. Chao ôi! Cụ có được ăn phần cụ luôn đâu: cụ giấu thêm vào phần lũ trẻ, và có khi còn không dấu được. Sô-ni-a đã thành ra rất đa nghi; em đoán ra ngay lập tức, em rình cụ và buộc cụ phải ăn ngay trước mắt em.

        Chúng nó gầy đi quá, Sô-ni-a và Sla-va! cổ thằng Slava mỏng tanh đến nỗi có thể đánh vòng bằng ngón cái và ngón trỏ. Còn may là tuần vừa qua, trước sự kinh ngạc của cả nhà nó đem đâu về tám củ khoai tây, một gói bánh, mấy hộp thịt và súc cù là! Nghe đâu một phi công từ trên trời đi thẳng xuống làm quà cho nó... khó tin thật... Ồ, nhưng cũng biết đâu?... Cái hay không phải lúc nào cũng không tin được, cũng như cái dở không phải lúc nào cũng như thật... Sau bữa tiệc đó, lũ trẻ ngủ hai mươi giờ liền một mạch, vì chúng quên mất thói quen ăn rồi, mà lúc dậy, chúng lại ngốn nữa... Cụ đã lừa Sô-ni-a một vố hôm đó. Em vẫn còn ngốc, thực là con nít và lừa em cũng không khó gì.

        Số là cụ thái tất ra từng miếng nhỏ để không ai kiểm soát được nữa, sau đó cụ đã ngầm lỏn phần cụ vào đĩa lũ trẻ. Vả lại, cái món súc cù là, chỉ tổ làm cụ cồn ruột mà thôi. Cụ đã không chịu đựng được thức ăn nữa. Sự chịu đựng đã quá mức nào đó, thì không thể trở lại được nữa... Cốt sao Ka-tê-ri-na lại thấy được lũ trẻ lành mạnh nguyên vẹn.

        Cụ lại thấy cái gì buồn buồn trong lỗ mũi và cào cào trong cuống họng. Cốt yếu là đừng rời cái tay cầm thang gác, xuống dạo một vòng, ra thư viện chẳng hạn. Vì thư viện vẫn mở đều! Ở trong các phòng đọc sách rét 20 độ dưới không. Nhưng các chị nhân viên, kiệt sức vì đói, vẫn trèo lên thang để rút sách từ các ngăn ra, những cuốn sách quý thì đã phải chuyển xuống hầm, tránh bom... Cụ I-li-a phải ra đó vì hai lẽ: một là để người ta không lo về cụ, và sau nữa là xem lại có phải Viện khoa học sau khi đòi hỏi cuốn sách của cụ, đã gửi máy bay đi Mát-scơ-va chưa? Cái nước lạ kỳ, thật vậy! Kẻ thù ở ngay cửa kinh thành, nhưng ở đó người ta vẫn chăm chú đến một công trình khoa học về hồ La-đô-ga.

        Cụ đi đôi ủng... Năm hôm trước, cụ đã phái lấy dao cạo rạch ủng, vì chân nó phù to quá... Cụ cởi áo ngủ, buộc cái khăn che mũi, đội mũ lông, mặc áo ngoài, lồng đôi bao tay, cầm cái gậy và khoá cửa ra đi: Sô-ni-a và Sla-va đều có khoá riêng rồi.

        Cụ qua sân, men theo lối đi hẹp giữa những đông tuyết cao, và ra phố. Trước khi đi thư viện, dạo một ít cũng tốt. Cụ men theo mặt cửa chính. Lối đi hẹp quá làm mọi người phải trèo lên tuyết để nhường lối cụ. Người gặp cũng không có nhiều. Đến góc phố, cụ ngoặt sang phía sông Nê-va.

        Có ba xác chết gần đấy. Hai xác đã có từ hôm trước. Cụ I-li-a không nhìn: không nên xúc phạm người đã chết bằng một sự tò mò không đúng chỗ. Cụ chỉ ngả cái mũ lông, cái mũ đội đến mùa đông thứ 25.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2019, 09:58:22 pm
     
        Cụ ra bờ sông và tì khuỷu tay vào thành bộ, lưng quay về trường Đại học. Sương phủ sông Nê-va. Trên bờ đối diện, dinh thủy sư Đô đôc và nhà Xanh-I-da-ắc như lơ lửng giữa đất trời. Bên phải, là khối vàng nhạt toà Thượng nghị viện với cái mái cháy sém vì bom, bên trái là Cung điện Mùa đông. Đã hàng nghìn lần, cụ I-li-a ngắm cái cảnh đó. Nó đã thành như một phần cơ thể cụ, và cũng là lần thứ một nghìn trước cái cảnh lớn lao đó, cụ xúc cảm như cái gì mắc nghẹn trong cổ.

        Cũng như mây bão trong khu vực ấy, cũng như những tảng băng khổng lồ kia, cái số phận đau thương của thành phô càng làm cho nó thêm trẻ, thêm đẹp. Những đông tuyết kia, những phố vắng kia, không phải là lần đầu mà cụ I-li-a nhìn thấy. Năm 19, cũng thế thôi: người ta cũng chẳng có gì ăn, chẳng có gì sưởi, chẳng có gì thắp, vì tên I- u-đê-nít đã cắt tất các đường giao thông. Nhưng thành phố vẫn đứng...

        Thời kỳ cách mạng đó, cụ I-li-a không vào cái hạng trí thức hèn mạt thông đồng với bọn "Bạch quân" và mơ tưởng trốn ra nước ngoài. Cụ cũng không phải là Bôn-sê-vích, nhưng những người Bôn-sê-vích làm cụ mến ngay từ đầu, và cụ theo dõi công việc họ với cái tò mò xen lẫn sự kính trọng. Cái mà cụ thích ở họ, là sự tôn trọng lý trí của con người và lòng tin tưởng vào sức mạnh của con người. Ngay từ đầu, cụ đã cộng tác với họ, khi mà các đồng nghiệp của cụ lủi trốn, và Đảng đã xác nhận công việc cụ làm.

        A! Cụ đã làm cho ra làm! Bọn xấu bụng nói rằng cụ chỉ giỏi tìm tòi nhưng không có khả năng tổng hợp. Làm như là trước khi tìm ra quy luật, không cần phải tìm tòi! Nhưng đến lúc phải rút từ thực nghiệm ra bài học, thì chúng lại rêu rao là cụ xa rời thực tế, là cụ suy luận dông dài, là các bản lịch sử sông ngòi của cụ chẳng ăn nhập vào đâu. Nhưng người ta bảo cụ: không thèm nghe chúng, đồng chí cứ tiếp tục công việc; cái gì nay còn là lý thuyết thì mai sẽ trở nên thực tiễn... Khi tình thế đã ổn định và người ta bắt đầu xây dựng các nhà Thuỷ điện theo kế hoạch của Lê-nin, thì mới rõ ràng là cụ đúng.

        Là điểm kết thúc của tất cả các tìm tòi của cụ, cuốn sách nghiên cứu hồ La-đô-ga giúp người ta giải đáp những bài tính về địa chất, về khí hậu, về sinh vật trong các quan hệ cơ cấu của chúng, cũng như trong việc áp dụng vào vấn đề giao thông và điện lực. Cái hồ lớn nhất châu Âu - 18.000 cây sốvuông bề mặt. 200 cây số từ bắc xuống nam và 125 cây số từ tây sang đông. Sâu nhất là 250 thước và mực nước so với mặt biển cao hơn 5 thước. Biết bao là sức mạnh tiềm tàng trong hàng ngàn thước khối nước xanh tím ấy! Nhưng cái sôi nổi nhất trong công trình nghiên cứu này không phải chỉ là cái rừng tính toán đó. Là dân miền Bắc, người Nga sống nửa đời người trong băng. Nên phải hiểu tất cả cái gì về băng, dù là trong hoà bình hay chiến tranh. Theo ý kiến của tác giả, thì đoạn mới nhất, chủ yếu nhất, là đoạn nói về sự đóng băng trên hồ La-gô- đa. Ở đó có đủ các số liệu về thời hạn đóng băng từ đời Nô- gô-rôt-la-gơ-răng-đơ, về bề dày của lớp băng, về những kẽ nứt, về sự di chuyển của những tảng bảng, sức chịu đựng, những chỗ vỡ...

        Sông Nê-va, dinh thủy sư Đô đốc Xanh-i-da-ắc, đều nháy múa trong mắt cụ I-li-a. Cụ sợ lại bị một cơn ngủ bất thình lình như cụ thường mắc phải ít lâu nay. Cái lo mình ngủ đứng ở giữa phố buộc cụ phải tiếp tục bước. Bốn bước nữa... Thì ngủ ở đây hay ở nhà có khác gì nhau? Không, phải về. Cũng như Sô-ni-a nói: khi người ta không chịu thua thì người ta không chết. Hừ! Thật ra cái ý đó cũng lạ! Ý đó chỉ có thể đẻ ra trong thành phố này, trong đất nước này... Một liều thuốc bất tử cho thành phố bất tử... Đúng bất tử!... Nhưng người khác ở lại mà thử xem thôi! Còn cụ thì cụ chết trước. Chết nhưng không đầu hàng. Và nhiều người cũng sẽ chết nhưng không đầu hàng. Và người còn sống sẽ chiến thắng. Vì tư tưởng là không bao giờ chết, cũng như Tổ quốc và sự thật... Cụ sẽ đi đến cùng đường, đến cùng...

        Khó nhất là cái thang gác. Biết bao lần, bạn hữu cụ nhắc đi nhắc lại là với tuổi cụ mà ở tầng thứ 5 không có thang máy là một sự vô lý không thể tưởng tượng được. Cụ chỉ cười. Tim cụ khoẻ. Nhưng nay, mỗi bậc thang đã như một ngọn núi. Mỗi bậc cụ lại phải nghỉ hơi lâu. A! Cốt là đừng ngủ! Hôm nọ cụ nói: người nhịn đói tự mình ăn mình, trước là ăn mõ, sau đến bắp thịt, rồi đến óc... Cụ đã đến giai đoạn tự mình nuôi mình băng óc chưa? Không, tư tưởng cụ ngày hôm nay vẫn sáng suốt, sáng hơn hôm qua, hôm kia bao nhiêu mà! Ví dụ, cụ vừa nhận định được rằng Ka-tăng-ka vĩnh viễn không bao giờ còn trở về. Cụ vừa mới nhận thấy ư?... Ngốc thay! Cụ biết từ lâu rồi. Cụ chi muốn dối lòng Sô-ni-a, cho em tưởng là em đã giấu được cụ... và rồi cụ cũng muốn dối cả lòng mình nữa... Thế là đến từng ba... còn hai tầng nữa.

        Cụ nhích từng bước mà không còn trông thấy gì, như có mây mù trong mắt. Nhưng vẫn cảm giác hoàn toàn sáng suốt. Phải đến đầu cuộn chỉ rồi. Cụ vẫn sống bằng chí kiêu hãnh vẫn ước vọng những đỉnh cao. Ai có thể nói là cụ đã không sống dầy đủ một kiếp ngươi? Cụ đã yêu, đã làm việc, đã phục vụ lý trí với hết sức lực của mình, đã phục vụ loài người. Đời cụ chẳng đã thấy sự huy hoàng hay sao? Chẳng đã góp sức vào đó sao? Chẳng đã xứng đáng với nó sao? Có chứ! Khoa học, đó là huy hoàng. Cách mạng, đó là huy hoàng. Cái thành phố này, cái thành phố chiến luỹ này, đó cũng là huy hoàng, cái thành phố mà ở đó người ta đến lúc chết vẫn khinh tởm kẻ giết người!

        Cụ I-li-a không nhét nổi cái khoá vào lỗ khoá, cụ sặc thở và không nhìn thấy gì. Có ai mở từ bên trong? Đôi bàn tay ấm nào ôm lấy cụ. Ai dẫn cụ vào bếp. Ai đó? Ka-tăng- ka? Không, Ka-tăng-ka không còn nữa. Chắc là Sô-ni-a. Qua mây mù, cụ thấy một ngọn lửa sáng nhảy múa trong lò. Sô-ni-a kiếm ở đâu ra củi thế nhỉ? Chà là ấm quá. Cụ không còn cảm giác được lạnh, nhưng còn cảm giác được nóng.

        Ai cởi áo ngoài, cởi mũ, ai lấy cái áo ngủ vào cho cụ... Không, cụ tự làm lấy... Nhưng ai đặt cụ vào ghế bành. Cụ duỗi đôi ủng đã xẻ ra về phía lò sưởi... Bây giờ thì ngủ được rồi. Ngủ thật là dễ chịu quá!...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2019, 11:38:06 pm

IV

        Ngồi trong hầm, dưới ánh đèn, Ka-ban-kốp như trong cơn sốt viết một bài báo về Sê-pen-kin, một bài báo dài đến phải ba kỳ "Báo bay" mới đăng hết.

        Bay với Sê-pen-kin từ ngày đầu chiến tranh, anh không sao tưởng tượng được là bạn đã chết. Anh đem cái rương con của Sê-pen-kin vào dưới giường anh. Rương che lấp cái đàn ắc-coóc-đê-ông. Sê-rôp đã nhìn thấy. Trước khi ngủ anh hỏi Ka-ban-kốp:

        - I-go ơi, cậu không chơi cho tụi mình nghe nữa à?

        Mặt Ka-ban-kốp sầm lại. Anh sẵng giọng:

        - Bây giờ thì không!

        Rồi anh nói thêm như nạt nộ:

        - Nhưng khi tôi chơi lại, tôi sẽ chơi cho cậu nghe một thứ điệu khác...

        Sau một buổi đến thăm phi đội, U-va-rốp lấy bài báo về Sê-pen-kin đem về toà báo Sư đoàn. Người ta cắt bớt ba phần tư. Nhưng Ka-ban-kôp hả dạ là họ cũng đã đăng.

        U-va-rốp hay đến phi đội, và Lu-nin bây giờ đã biết rõ anh. Tuy đẻ ở Mát-scơ-va, nhưng người ta vẫn gọi anh là đồng chí Tây Ban Nha, vì anh trước kia là quân tình nguyện trong đội không quân cộng hoà. Bị thương ở đấy, anh không được phép lái máy bay ra trận nữa. Nhưng anh vẫn còn lái U-2 và lái rất khá. Tốt nghiệp trường cán bộ chính trị không quân vừa đúng trước ngày nổ ra chiến tranh, anh được chỉ định về sư đoàn và đến trước Lu-nin mấy ngày.

        Anh chỉ có mặt ở phi đội từng lúc rất ngắn, và thường là về đêm. Sân bay tương đối gần bộ tham mưu sư đoàn, nên U-va-rốp có thói quen gửi nhờ U-2 mà anh vẫn thường dùng để đi công tác và đi kiểm tra đơn vị. Anh lái lấy cái máy bay tí hon không có súng máy, đôi khi còn đèo thêm một đồng chí giúp việc trong phòng chính trị hoặc một sĩ quan tham mưu, họ đi đến bờ biển nam hoặc đi Cơ- rông-stát hay đến hồ La-đô-ga. Mỗi lần đi hay về, anh ở lại phi đội một hoặc hai tiếng.

        Anh thường đến bất ngờ. Một buối thăm đêm đã đặc biệt làm Lu-nin chú ý.

        Vào lúc quá nửa đêm, khi mọi người đã ngủ say thì đồng chí chính uỷ vào. Thấy Lu-nin và Ka-ban-kốp định đứng dậy, anh giơ tay chào và nói thêm:

        - Đừng lo đến tôi và ngủ đi. Tôi chỉ ở lại một tí thôi.

        Chắc anh phải cất cánh rất sớm và ngồi đợi sáng. Tuy trong nhà ngủ rất nóng nhưng anh vẫn để nguyên đôi ủng lông, quần áo bay, chỉ bỏ cái cát-két trước khi nhẹ nhàng ngồi xuống mép giường Sê-pen-kin trước kia. Anh hình như mệt nhọc và bị kích thích quá nên không ngủ được.

        Lu-nin nửa thức nửa ngủ. Nhưng Ka-ban-kốp thì chủ tâm định nói chuyện với U-va-rốp. Anh tự cho là không làm tròn nhiệm vụ chính trị viên, và hy vọng những lời giải thích của U-va-rốp sẽ giúp đõ anh thêm. Giường anh gần giường Sê-pen-kin. Anh nói khe khẽ. U-va-rốp cũng trả lời như vậy. Chuyện đến sáng. Lu-nin thỉnh thoảng thức giấc rồi lại ngủ ngay, và chỉ nghe được từng mẩu.

        U-va-rốp không nói gì khác thường. Ví dụ, anh cắt nghĩa rằng vấn đề chủ yếu hiện nay của không quân là che sân bay chống tuyết. Gió không ngừng thổi, và các đồng chí chiến sĩ thủy quân có nhiệm vụ quét dọn sân bay thì đứng không vững, vì không thể cung cấp cho họ như cung cấp cho phi công. Họ đã kiệt sức, xẻng rời tay rơi xuống, vậy mà họ phải quét dọn suốt ngày đêm trong giá lạnh. Phải lo lắng hơn nữa đến các nhân viên mặt đất như thợ máy, quân khí, chuyên môn các loại, và cho anh em thấy rằng ta coi anh em không kém gì các chiến đấu viên khác.

        - Chiến tranh là lao động. - U-va-rốp nói. - Tôi hiểu được như vậy ở Tây Ban Nha. Chiến đấu là lao động, và anh hùng, cũng vẫn là lao động.

        Lu-nin chìm vào giấc ngủ và chắc ngủ được khá lâu. Một tiếng nói to của Ka-ban-kốp đánh thức anh dậy:

        - Tôi thật là một chính trị viên đáng nực cười, đồng chí I-van I-va-nô-vít ạ! Tôi không thạo nghề, và cũng vì không thạo nghề mà gì tôi cũng mó vào.

        - Thời kỳ đầu, tôi cũng không biết nghề, và gì tôi cũng mó tay vào như đồng chí.

        - Thế bây giờ thì sao? Đồng chí hẳn biết nghề rồi chứ?

        - Tôi biết nghề rồi. Tôi biết là gì cũng phải mó tay vào, ít nhất là về tất cả cái gì thuộc về con người. Xung quanh tôi, có rất nhiều người, và bổn phận tôi là phải làm tất cả để cho đời sống của họ được dễ chịu hơn. Các đồng chí thủy thủ công tác ở sân bay mất chăn trong cuộc rút lui, thì tôi phải làm cho họ có cái khác. Họ lĩnh được ít thức ăn quá, thì tôi phải lo sao không để lãng phí thức ăn. Họ mất tin gia đình họ: cả bộ phận làm việc của tôi phải giúp họ tìm lại được, và đó là việc chủ yếu. Tôi phải lo cho họ được ấm, được khô trong hầm. Sách vở, báo chí, giấy má, thư từ, đó cũng là việc của tôi. Chúng mình do Đảng cử đến. Đảng thì phục vụ nhân dân, chúng mình thì phục vụ con người. Cái chính của việc chúng mình, là làm sao cho mỗi người hiểu tại sao họ chiến đấu, vì một khi họ đã hiểu thì không còn gì đối với họ là không thể làm được. Phải giữ vững tinh thần họ, cho nên tôi cố gắng làm cho họ hiểu rằng ta nhất định chiến thắng.

        - Thế cả đồng chí, đồng chí có tin chắc không? - Ka- ban-kốp hỏi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Giêng, 2019, 10:59:34 pm

        U-va-rốp nhìn anh vào tận lòng trắng mắt và nghiêm nghị nói:

        - Tuyệt đối tin tưởng. Nếu không, thì tôi đã chết rồi. Thế đồng chí không tin à?

        - Có chứ! - Ka-ban-kốp trả lời.

        Đến sáng, U-va-rốp lại cất cánh. Từ buổi nói chuyện đêm ấy, Ka-ban-kốp tự tin hơn. Nhưng anh vẫn không quên được cái chết của Sê-pen-kin. Mỗi tối, ở chỉ huy sở, không nói năng gì, anh vẽ dưới ánh đèn hình những chiếc gioong-ke bằng vài nét nhưng lại mô tả rất rõ: sườn máy bay vỡ, bốc cháy, cánh gãy, một đống vô số nhũng chùm gioong-ke què quặt. Từ trong đó, rơi xuống những tên Hít- le lố bịch và nhơ nhớp, với những bộ mặt không còn là người, méo mó vì đau đớn và khiếp sợ...

        Ở nhà ăn, anh trở nên rất dịu dàng với Hin-đa, người mà trước kia anh hay trù thẳng cánh. Cô gái lớn gầy đi, nét mặt sọm lại, đôi má màu sứ đã mất hồng, và hai nét răn nhỏ làm rõ hai khoé mép. Cô trở nên ít nói hơn, hiền hơn, buồn hơn. Mỗi khi cô mang cái khay quá nặng thì Ka- ban-kốp nhảy bổ ra và bưng lấy chồng đĩa giúp cô! Cô rất ngượng. Khi cô vào bếp, Ka-ban-kôp giải thích với anh em:

        - Cô ta đã ở với chúng mình từ bao lâu! Cô ta biết hết các đồng chí chúng ta cũ...

        Một hôm cô nói:

        - Tôi thèm nghe một tin mừng quá!

        Cô nói tiếng Nga hoàn toàn, nhưng cái giọng hơi khác.

        - Đồng chí sẽ được nghe! Và không lâu đâu! - Ka-ban- kốp hãm hở nói lớn.

        Anh không lầm. Ngày 8 tháng 12, đài phát thanh báo tin ta đã đánh bại quân Đức ở Tích-vin, thành phố đã giải phóng và ta đang truy kích tàn quân địch chạy về phía ga Bu-đô-gốt. Cái tin đích đáng! Bọn Đức bị đánh bại, chúng đang chạy trốn, người ta đã cướp lại trong tay chúng một thành phố Nga, mà có cách đây bao xa đâu, ngay ở mặt trận Von-khốp bên cạnh.

        Mọi khuôn mặt đều tươi lên như hoa. Ai nấy đềư chắc rằng đó mới chỉ là bước đầu. Những sự việc mới, những sự việc lớn sẽ chẳng còn bao xa nữa...

        - Trong khi mọi người đang đánh bọn Đức, thì ta ở đây làm gì, trong cái hầm này? - Ka-ban-kôp kêu lên. - Đã bao nhiêu ngày không được cất cánh!

        Anh không phải đợi lâu. Gió ngừng thổi. Hàn thử biểu chỉ 20 độ dưới không. Lợi dụng trời quang, oanh tạc Đức từ bốn phía dốc vào Lê-nin-grát một trận bom dữ dội, cũng dữ dội như các trận tháng chín.

        Chúng mong gì ở cuộc dội bom đó? Cái chắc chắn nhất chỉ là chúng muốn trả thù cuộc thất bại thảm hại ở Tích- vin. Chúng đã đưa lực lượng không quân của chúng trở lại các đường bay lân cận ít lâu nay vắng vẻ, và tung ra từ bốn phía bốn phi đoàn một lúc.

        Khi người ta báo điện thoại cho Rát-số-khin, thì đã nom thấy đoàn máy bay địch từ tây nam lại. Nhảy bổ ra khỏi hầm, Ka-ban-kốp thấy ở chân trời bọn gioong-ke chậm chạp tối, và phá lên cười khoái trá. Họ chạy lại máy bay bằng lối mòn hẹp trên tuyết, Ka-ban-kốp chạy đầu. Giá buốt tê mật. Họ bay qua sân bay trắng xoá, vượt qua đường tuyết trên ngọn cảy tùng, Ka-ban-kốp bay sau Rát- số-khin và Sê-rốp sau Lu-nin. Mở rộng đội hình trên Pê- tê-rốp, đoàn máy bay Đức bay về cửa sông Nê-va. Rát-số- khin ngoặt trên La-hơ-ta để bắt được bọn gioong-ke trước khi chúng tới thành phố. Phi đội mở hết ga sau khi bánh xe đã rút. Vũng Mác-ki đã hoàn toàn đóng băng như bị phủ dưới một cái mu rùa nước đá trên có tuyết trắng bong tựa một tấm vải trải giường, về phía tây nam Cơ-rông-stát, người ta thấy những vũng nước đen trong những cuộn băng, ánh mặt trời nhuộm thành màu da cam. Họ vừa lao thẳng vào địch, vừa lấy chiều cao, thì bỗng Lu-nin thấy ở trên cao tít loang loáng những chiếc Mét- séc-mít khi ngoặt giống như những chiếc kim. Anh không đếm được, nhưng ít nhất cũng tám đôi. Chúng đi trước gioong-ke và bay rất cao. Lần này, oanh tạc có khu trục đi hộ vệ.

        Rát-sô-khin cũng thấy Mét-séc-mít, và bay xuống. Lu-nin  đoán biết chiến thuật của anh. Nếu khu trục giao chiến thì hỏng hết: trong khi I-16 và Mét-séc-mít quần nhau, thì gioong-ke có đủ thời giờ trút bom và rút. Phái tìm cách chui xuống dưới bọn oanh tạc mà không để cho khu trục biết để đánh bọn oanh tạc từ dưới đánh lên. Gioong-ke vẫn tiến, theo bờ biển, trong khói đạn cao xạ. Bóng xanh nhạt của chúng lướt trên tuyết. Bọn Mét-séc- mít mất hồi lâu để tìm ra bốn chiếc máy bay của Rát-sô- khin. nhưng vừa thấy là chúng bổ nhào như những hạt rơi từ trên trời. Chậm rồi: bốn cái 1-16 đã luồn xuống dưới đoàn oanh tạc.

        Bay ngang trên đầu các cửa ô tây nam thành phố, trên công trường Bắc và trên Kênh hàng hải. Khi cái đám đen gioong-ke bay qua đầu anh, Lu-nin kéo tay lái lên thẳng, lia một bàng vào bụng một chiếc oanh tạc và nhảy vọt qua nó, ngay đằng đuôi, không kịp xem kết quả, nhưng Sê-rốp chắc đã bồi cho nó một phát chót. Vả lại cái đó không quan trọng: chủ yếu là không cho bọn gioong-ke đột nhập đuợc trung tâm thành phô đến các cầu và chiếc tuần dương hạm Ki-rốp đã bị giam trong băng trưỏc cầu "Trung uý Smít". Lu-nin sung sướng thấy bọn oanh tạc rối loạn, chồng chất lên nhau. Anh lại nhào xuống đánh một keo mới.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Giêng, 2019, 11:53:11 pm

        Cứ như vậy, họ xuyên qua đoàn máy bay địch nhiều lượt, từ trên xuống, từ dưới lên. Thỉnh thoảng Lu-nin thoáng trông thấy tụi Mét-séc-mít khi thì ở dưới, khi thì ở trên đầu, nhưng anh lẩn tức thì vào trong cái đám oanh tạc, dùng chúng làm lá chắn. Hoảng hốt, gioong-ke thả bom xuống bãi băng, xuống bãi đất trống, và từng cái một quay mũi về tây nam. Nhiều cái bốc cháy, nhưng Lu-nin không thể biết ai đã bắn trúng - có lẽ bản thân anh, hay bạn anh, nếu không phải là cao xạ vẫn bắn liên hồi.

        Khi đoàn oanh tạc đã tản khắp bốn chân trời, Lu-nin lại thấy Mét-séc-mít - thoạt tiên thì hai. Chúng tiến thẳng về phía anh và Sê-rốp. Anh lia một băng làm chúng tản ra và lúc đó chợt thấy hai cái khu trục khác từ trên cao bố nhào xuống. Anh tránh luồng đạn nhưng bọn Mét-séc-mít không rời anh. Phải hai chọi bốn. Cái khổ nhất, là tụi Đức đã tách họ được. Lu-nin chống cự với hai Mét-séc-mít và Sê-rốp, rất xa, đang mắc với hai cái khác.

        Lu-nin vừa đánh lùi một, thì cái khác đã tấn anh đằng sau. Phải lái cho chặt. Lu-nin lên thẳng, bổ nhào, ngoặt vút sang phải sang trái, lộn cánh. Nhưng chúng không ngừng săn anh, tìm cách đánh vào sườn, đợi anh ra khỏi vòng ngoặt, và không cho anh thoát. Không có hai mươi năm lái máy bay, thì anh không thể tránh nổi những luồng đạn lập loè.

        Tất cả đều quay tít, cái khuôn mờ mờ của mặt trời mùa đông lên lên xuống xuống, khối nhà Xanhl-da-ắc "nhảy cầu" với mũi tên dinh thủy sư Đô đốc; cả thành phố, nhà, phố, cầu và dải rộng sông Nê-va - nhảy vọt lên trời rồi lại tụt xuống vực thẳm. Cái thảm trắng mặt Vịnh cong lên trước khi rơi ụp xuống Lu-nin. Cách khoảng bảy trăm thước, anh thoáng thấy trong một khoảnh khắc máy bay của Sê-rôp vẫn đang mắc với Mét-séc-mít. Rát-sô-khin và Ka-ban-kốp đã biến. Họ không ở đâu xa, nhưng chắc chắn họ cũng mắc, nếu không thì họ đã đến tiếp viện, vả lại anh cũng không rảnh mà quay đầu tìm họ. Nhất định hạ anh cho được, bọn Mét-séc-mít lăn xả vào với một quyết tâm chưa từng thấy.

        Những phút nối tiếp nhau, và Lu-nin bắt đầu thấy mệt nhọc với sự căng thẳng kinh khủng ấy. Anh vừa tránh được một băng thì một băng khác đã rình anh. Anh lộn cánh, lật sấp, xoáy trôn ốc, ngoặt vút, lên thẳng, lia băng trong tầm súng... Một Mét-séc-mít vừa phải tránh ra, thì cái khác đã tức thì ở sau lưng.

        Khi nhìn xuống đất, Lu-nin không thấy thành phố cũng chẳng thấy vịnh, nhưng là một cánh rừng mà bóng đen lẫn những khoảng đã đốm cây màu trắng. Mình ở đâu đấy? Tại sao từ dưới đấy có người bắn lên mình?

        Có phải bọn Mét-séc-mít đã lôi cuôn anh quá Pê-tê-rốp sang bên kia trận tuyến không? Đạn anh gần cạn. Nếu trong hai phút nữa anh không bị hạ thì chỉ còn cách đâm vào chiếc máy bay Đức gần nhất để kết thúc.

        Kiệt sức, anh thoáng thấy máy bay Ka-ban-kốp không biết từ đâu tới, Ka-ban-kốp lao vào cái Mét-séc-mít đang bắn Lu-nin và bắn chúng nó. Phủ khói đen, nó ngoặt đường về phía tây nam. Ka-ban-kốp vụt đuổi nó bay cách Lu-nin mấy thước. Lu-nin trông thây dưới mũ, cái mặt nhỏ cương quyết và kích thích vì trận đánh. Nhưng rồi một băng của địch đã lia vào giữa lưng anh.

        Máy bay Ka-ban-kốp lái tách ra, vừa xuống vừa lượn thành một vòng xoáy trôn ốc mỗi lúc một hẹp dần, mỗi vòng, mặt trời chiếu vào thân máy bay một tia lấp lánh rồi lại mất ngay. Và Ka-ban-kốp biến vào khoảng sâu khủng khiếp đâm xuồng giữa rặng tùng, trong cánh rừng mà quân thù chiếm đóng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Giêng, 2019, 11:37:22 pm

V

        Mỗi khi ở nhà tắm về, Sô-ni-a bao giờ cũng tìm cách để ở lại một mình với Ang-tô-ni-a. Không phải lúc nào em cũng đạt được mục đích, vì các cô gái khác cũng cùng ý nghĩ ấy. Nhưng nếu gặp, thì hai người trao đổi với nhau những câu chuyện mà Sô-ni-a không quên được. Thường thì chỉ Sô-ni-a nói. Ang-tô-ni-a chỉ lắng nghe, đặt một vài câu hỏi, thêm đôi ba tiếng. Theo lệ thường, Sô-ni- a chỉ kể cho chị nghe cái gì đã làm em chú ý trong mấy ngày hôm nay.

        Cái chết của ông gác cửa A-bra-ham chẳng hạn... Ông chẻ củi, để bà có cái đốt lò, rồi thay áo chào mọi người, duỗi cái thân dài trên ghế, nhắm mắt lại, và nửa giờ sau, ông chết. Trong sân các bà kể lại như vậy và tỏ ra rất kính cẩn đôi với cái chết nghiễm nhiên ấy. Khi Sô-ni-a vào trong buồng, ông A-bra-ham nằm trên bàn. Bộ mặt đẹp, nghiêm nghị, giống như trong tranh đạo hơn bao giờ hết. Nhỏ xíu, bà vợ goá của ông ngồi trên ghế bên cạnh, vẻ mặt cũng nghiêm nghị như ông. Rất bình tĩnh, bà kể lại cho khách đến thăm những phút cuối cùng của ông, thỉnh thoảng lại quay lại ông nói vài tiếng Tác-ta, cứ như ông còn sống.

        Ang-tô-ni-a hỏi Sô-ni-a xem em có biết hết dân phố và em có hay lại thăm họ không?

        - Trước đây em đi thăm mọi người. - Sô-ni-a trả lời. -  Nhưng bây giờ thì ít. Phải có bánh đem đến cho họ, mà em thì không có. Chảng lẽ đến tay không, hả chị?...

        - Không, em cứ đến. Chảng ai nghĩ là em sẽ đem bánh lại. Em lấy ở đâu được? Vì họ không đứng được nữa, trong khi em còn đi được thì em phải đến thăm họ. Không được để họ có cảm giác là bị bỏ quên...

        Chị nhất quyết là mỗi cô gái của chị phải đến thăm các nhà hàng xóm. Từ ngày sửa soạn hầm, Sô-ni-a đã quen tất cả nhân dân trong dãy phố. Bây giờ, hễ trông thấy người này người nọ trong sân là em tức khắc chạy đi lấy tin.

        Em đi từ cầu thang nọ đến cầu thang kia, từ tầng nọ đến tầng kia. Chăng còn phải giật chuông cửa, vì mọi người cũng thôi khoá cửa, chẳng còn gì mà lo cho của cải. Qua những buồng đằng trước, và những hành lang lạnh ngắt trông vào những buồng trống rỗng không ánh sáng và có những tiếng vọng thê thảm, Sô-ni-a tìm đến cái xó tít đằng xa nơi sự sống còn duy trì. Khuyết đi đã nhiều người, nay họ thành thói quen ở tập trung trong một buồng hay trong bếp để chỉ phải đốt nóng một buồng. Sô-ni-a gặp họ đủ mặt dưới ánh sáng ngọn bấc dìm trong cái hộp thịt cũ. Họ đang lấy những mảnh đồ gỗ vụn hay là ván sàn để nuôi lửa, cái lò quỷ quái bao nhiêu ngôn cũng hết. Ống lò ngoắt cánh khuỷu tuồn ra ngoài cửa sổ con.

        Những người còn đứng được vững như Sô-ni-a khi mà chân còn bước được, vẫn tiếp tục làm việc trong các nhà máy sửa chữa xe tăng và ca-mi-ông, hoặc chế tạo đạn dược bằng số than củi dự trữ cuối cùng. Trong mỗi nhà đều có những người không đứng dậy được nữa. Tuy trong tình trạng ấy, nhưng họ vẫn cười khi nghe được câu chuyện vui, vẫn khóc những người của họ đã chết, vui mừng với mỗi lá thư ở mặt trận về, chia nhau từng mẩu ruột bánh làm thức ăn nuôi thân, đọc báo, tranh luận, suy nghĩ. Ở ngay sát ranh giới của thẩn chết, cuộc sống của họ đã không nghèo nàn. Họ sung sướng khi trông thấy Sô-ni-a, khi mà họ không còn đi đến nhà bạn hữu được nữa, và nằm 24 trên 24 tiếng, họ chỉ còn nói chuyện lẫn với nhau. Sô-ni-a đọc thư cho họ, nghe họ kể chuyện nằm mơ, xem ảnh, và cô giúp đỡ họ với hết sức em.

        Tuy vậy không phải là em không còn phải lo đến Sla-va và ông... Ông, phải,... mê mẩn trong việc sửa chữa nhà tắm, em chỉ thỉnh thoảng gặp ông và không còn đủ thì giờ chăm lo cho ông nữa. Em tự trách mình. Dạo này ông thay đổi quá, -  sao ít chuyện trò thế, mà ngủ liên miên... nhưng ông vẫn cứ đi thư viện. Ngộ xảy ra cái gì ở dọc đường thì sao? Không thể để ông đi một mình được. Em sẽ đi theo ông. Ngày mai, dẫn ông và Sla-va đến nhà tắm kể cũng hay.

        Nhà tắm đã gần có thể nhận được khách. Trong hai phòng, nhiệt độ lên tới 15 độ, và các vòi nước cung cấp nước tuy không sôi hẳn, tất nhiên, nhưng cũng là nước nóng. Ra-đi-ô nheo nhéo khắp nơi: chị phụ trách lắp loa phóng thanh khắp các xó. Ngày mở cửa ấn định vào hôm sau. Ang-tô-ni-a đề nghị: các chị nào đã tham gia vào việc sửa chữa chiếc nhà tắm, thì được tắm trước tiên, coi như là một phần thưởng.

        Ang-tô-ni-a, chị phụ trách và các cô gái cởi áo ngay trong phòng - vì buồng thay quần áo còn lạnh lắm. Riêng bà đốt lửa vắng mặt: bà không chịu rời những nồi súp-de của bà. Các chị đều vui sướng vì đã thành công, vì thấy hơi ấm, bể tắm sạch, và thấy nước. Nhưng rộn rịp tắt hẳn sau khi họ bỏ quần áo. Gầy còm đến thảm hại. Các cô gái và chị phụ trách như những bộ xương. Và thân thể chị Ang-tô-ni-a cũng sưng húp lên như bộ mặt bà đốt lửa. Họ im lặng và quay mặt đi.

        Tuy nhiên, họ cũng thấy khoan khoái khi tắm rửa trong một căn nhà tắm tự tay mình đã gây dựng lại. cảm giác ấm, sạch, và chiến thắng choán ngập hết. Khi đã phủ quần áo lên thân hình gầy gò, thì họ lại vui vẻ. Sáng hôm sau nhà tắm mở cửa; họ tranh cãi về những biện pháp cần thi hành để tránh phải sắp hàng lâu quá và để phân phối thật đúng vé tắm trong các nhà máy và khu phố.

        Họ mặc áo gần xong thì âm nhạc ở loa phóng thanh truyền ra bỗng im bặt. Họ im lặng, lắng tai nghe: lại báo động, chắc thế? Nhưng tiếng đồng chí phát thanh cao giọng: một thông báo đặc biệt.

        Và thế là họ được tin cuộc thất bại của bọn Đức ở Mát- scơ-va, kinh thành đã giải thoát và kẻ thù đang rút lui.

        Hơi thở ngừng lại, họ nghe những tên thị trấn ngoại thành được giải phóng, những tên thân yêu biết bao đối với tai người Nga. Rồi đến thông kê các sư đoàn Đức bị tiêu diệt. Rồi đến các con số: bao nhiêu là tăng, máy bay, ca-mi-ông. Và sau cùng, cái kết luận rất gọn: "Cuộc phản công tiếp tục".

        Chị phụ trách nhảy vào cổ Ang-tô-ni-a Trô-phi-mô-ra và hôn chị trên môi. Các cô gái ôm chặt lấy nhau chạm đôi má ướt nước mắt... Mát-scơ-va giải thoát! Những giọt lệ vui sướng long lanh trên khoé mắt. Họ nôn nao lên: phải về nhà cấp tốc, tìm người thân để chia sẻ hạnh phúc này.

        Ông đã nghe thấy chưa? Và Sla-va? Sô-ni-a nhớ lại khi em ra đi thì ra-đi-ô không mở. Ông chắc lại ngủ. Phải đánh thức ông dậy ngay, kể cho ông nghe... Tóc còn ướt, nhưng Sô-ni-a không thể đợi được nữa. Em quàng cái măng-tô, trùm khăn, và quàng chân lên cổ mà chạy.

        Cái ngày mùa đông ngắn ngủi đã sắp tàn khi em leo bốn bực thang một và mở cửa... Tất nhiên rồi! Ra-đi-ô im bặt, và Sla-va không có nhà.

        - Óng ơi! Có tin.

        Ớ nhà bếp, cái gì cũng vẫn thứ tự. Ông ngồi trong ghế bành, bộ mặt bình tĩnh thành một chấm trắng mơ hồ trong bóng tôi. Nhưng Số-ni-a hiểu ngay lập tức.

        - Ông ơi!

        Ông không động.

        Em nhẩy xổ đến cầm lấy tay ông. Tay cứng đờ, lạnh ngắt. Không rời tay ông, em oà lên khóc nức nở và ngồi xuống sàn...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Giêng, 2019, 11:51:35 pm

VI

        Từ khi được tin chiến thắng Mát-scơ-va, ở Lê-nin-grát một ánh sáng mới chiếu các bộ mặt. Tuy ở đây chẳng có gì thay đổi; cái thòng lọng vẫn không mở thêm được ít nào, đói vẫn chưa bớt. Nhưng một sự việc đã hiển nhiên: là trong mấy ngày số người chết giảm đi.

        Ở chỉ huy sở của Rát-số-khin, cũng cái ánh sáng đó rạng rỡ trên mặt các phi công.

        Họ chỉ còn ba người.

        Bỏ nhà ngủ, họ sống trong hầm, không muốn rời nhau, đêm cũng như ngày, vả lại, cần gì? Dù nhỏ thì chỉ huy sở cũng chứa được hết quân số bay. Họ cũng chẳng đến cả nhà ăn nữa. Hin-đa đem cơm lại cho họ, trong cái cà-mèn. Bữa cơm mỗi ngày một gầy guộc. Mặt họ sắt lại trong cuộc chiến đấu với bọn Mét-séc-mít; những miếng da thừa đen sạm lùng thùng ở má và mũi. Rát-sô-khin thì phải đặc biệt chịu đựng, và những vết đen đó làm cái mặt rộng gồ ghề với đôi mày màu nâu, càng thêm dữ dội.

        Mỗi tối, sau một ngày băn khoăn chờ đợi, họ nghe ra-đi-ô những tên thành phố, tên làng được giải phóng: Rát-gát-sốp, I-a-crô-ma, Son-nét-nô-goóc... Trước kia, Son-nét-nô-goóc gọi là gì nhỉ? Trước kia, liệu cái thành phố đó đã có chưa? I- stra, Vê-nép, Sta-li-nô-goóc, Mi-khai-lô, E-pi-phan. Rồi đến Vec-khô-vi-ê, Đup-nô gần Tu-la, rồi Kơ-lanh - trên đường xe lửa Mát-scơ-va Lê-nin-grát, I-a-snai Pô-li-a-na - quê hương nhà văn hào Lép Tôn-stôi... Ki-li-nin - sinh quán của Kô-li-a Sê-rôp hay cũng gần như thế, vì anh ta đẻ trong một cái làng cách đó quãng hai mươi cây số và học Trung học ở Ka-li- nin... ở đấy có thân thích của anh không? Không, chẳng có ai, chỉ có bạn hữu... Những thông báo đó làm cho họ thấy cái chiều sâu của sự tiến quân của bọn Đức. Rồi sau ra sao? Cốt là đánh bại được chúng, còn kệ chúng tha hồ tiến sâu! Chúng đại bại ở Mát-scơ-va! Nhưng ở Lê-nin-grát yên lặng quá. Chẳng nhúc nhích một tí nào. Liệu rồi có sắp sửa không?

        Sự việc duy nhất của những ngày gần đây ở phi đội là Sê-rốp nhận được một lá thư. Người ta đem nó tới chỉ huy sở và chính Lu-nin cầm lấy đầu tiên. Thật là cái bì thư từ trước chiến tranh, trên đó tên Sê-rốp được viết bằng một nét chữ xinh xắn, chắc là chữ đàn bà. "Của cô ta đây" Lu-nin  nghĩ, và tưởng đến cái vui của bạn, mặt anh cũng nóng bừng vì sung sướng. Khi Sê-rốp run run xé bì thư thì Rát- sô-khin, từ xó anh ngồi, nhìn chăm chăm y như nhìn cái gioong-ke vậy.

        - Không, không phải của cô ta, - Sê-rốp nói nhanh. - Không phải chữ cô ta.

        Trong ánh đèn yếu ớt, cũng thấy anh tái đi. Anh đọc cái thư ngắn đến cùng rồi lại đọc lại một lần nữa, rồi đọc lần thứ ba, như không hiểu.

        - Thế sao? - Cuối cùng Rát-số-khin hỏi.

        - Thư bà giám đốc của cô ta. - Sê-rôp nói và chìa tờ giấy.

        Đó là trả lời cái thư mà Ka-ban-kốp đã bắt anh gửi cho nhà trường - một bức thư trả lời kiểu công văn có tiêu đề, trong đó báo là đồng chí giáo sư Nga văn mà anh hỏi tin tức thì không đi với trường lúc trường dọn, và hiện nay thì địa chỉ đồng chí ấy không biết ở đâu.

        Sê-rốp không đả động gì đến bức thư nữa. Rát-sô-khin và Lu-nin cũng vậy. Và cuộc sống lại như cũ. Tuy nhiên, vài ngày sau, ngồi một mình với Sê-rốp, Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí đã viết?

        - Viết đi đâu?

        Thấp giọng, tiếp thêm như nói thầm:

        - Để làm gì nữa?

        - Sao vậy?

        - Để làm gì, vì cô ta đã nhờ bà láng giềng báo là cô ta đi rồi, khi mà trường còn ở Lê-nin-grát.

        Sê-rốp có lý lắm... Lu-nin tự nhủ nếu còn Ka-ban-kôp thì chắc anh còn bắt Sê-rốp viết nữa. Và, nhìn mắt Sê-rôp, Lu-nin hiểu rằng anh cũng đang nghĩ đến Ka-ban-kổp.

        Mọi cái đều gợi đến Ka-ban-kốp. Vết thương còn nóng hổi, và họ không thể tưởng tượng là anh không còn nữa. Họ luôn nhớ đến những câu đùa của anh, dáng điệu anh, và tiếng nói của anh còn vẳng bên tai họ. Trong tưởng tượng họ như vẫn trò chuyện với anh, hỏi ý kiến anh, kể lể nỗi lòng với anh. Sê-rốp còn không tin là anh đã chết: Ka- ban-kốp còn lang thang đâu đây ở hậu địch; chắc chắn một ngày nào đó anh sẽ vượt trận tuyến về chỉ huy sở. Lu-nin không phủ nhận ý nghĩ đó, nhưng cũng không tin lắm.

        Mỗi ngày, họ cất cánh bộ ba, tìm kiếm đến cùng bọn Lốp-táp. Họ muốn bay chiến đấu, nhưng bầu trời vắng tanh, tất cả máy bay địch đã dồn về phía Mát-scơ-va nơi bộ tư lệnh của Hít-le đang cố chết cố sông ngăn lại cuộc phản công. Ở Lê-nin-grát chắc kẻ thù không muốn tiêu phí ét-xăng, tiêu phí phi công, tiêu phí máy bay vô ích. Ở phi dội, những ngày ngắn ngủi xám xịt tiếp theo những đêm dài vô tận. Chẳng có gì xảy ra.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Giêng, 2019, 11:58:43 pm

*

*        *

        Tuy vậy, những sự việc đang sửa soạn trong bóng tối. Ai nấy đều cảm thấy nó đến gần với một hy vọng băn khoăn, cố tìm kiếm một dấu hiệu nhỏ của những thay đổi tất nhiên và chưa rõ ấy.

        Thoạt đầu là những tiếng điện thoại từ trung đoàn và sư đoàn gọi xuống muốn biết hiện trạng đúng về các phương tiện vận tải của phi đội. Rồi một đồng chí thợ máy của phi dội 3 đóng ở Cơ-rông-stát đi ngang qua vào thăm. Cóng tê vì cuộc hành trình trong khoang ca-mi-ông qua eo biển đóng băng, anh uống nước chè nóng ở chỉ huy sở cho ấm người lại. Suốt dọc đường, từ Cơ-rông-stát đến dải Lưỡi cáo, pháo Đức không ngừng bắn xả vào ca-mi-ông của anh; anh bị kích thích vì cảm xúc và đang muốn nói. Nghe chuyện anh, đoán được là phi đội 3 sắp rời Cơ-rông-Stát, và người ta gọi anh về sư đoàn về những vấn đề cung cấp liên quan với cuộc rời đi ấy.

        - Về quân số bay, các đồng chí chỉ còn ba thôi à? - Anh hỏi lần lượt nhìn Rát-sô-khin, Sê-rốp và Lu-nin. - Bên tôi, còn bốn người, nhưng chỉ còn ba máy bay.

        Vài ngày sau, giữa hai trận bão tuyết thì đồng chí Prốt- cua-ri-a-kốp chỉ huy trưởng trung đoàn đến thăm. Một hộ pháp mặt rộng, mắt xanh, răng rất trắng và giọng nói ồm ồm. Đồng chí thiếu tá đến bằng khu trục, một I-16 của phi dội 1 đi hộ tống. Trước chiến tranh, anh đã nổi tiếng, vì đã thử lửa ở Khan-khin-gôn, và được tặng huân chương ở đó. Lu-nin chưa trông thấy anh lần nào. Hầm chỉ huy sở trở nên bé nhỏ quá khi Prốt-cua-ri-a-kốp cúi đầu bước vào, và các sĩ quan đứng nghiêm phải dán mình vào tường.

        Đồng chí nghe Rát-sô-khin giới thiệu phi đội, dang đôi tay kếch sù và ôm hôn anh đẫy tay, rồi bắt tay Lu-nin vẻ kính trọng rõ rệt, cái bắt tay gớm ghiếc quá làm Lu-nin dù bàn tay đã lớn mà cũng đau gần muốn nhăn mật. Rồi, theo sau là Rát-sô-khin, anh đi kiểm tra máy móc, Lu-nin và Sê-rốp ở lại trong hầm.

        Trở về, sau chừng bốn mươi phút, Rát-sô-khin mặc vội quần áo, mặc tất cả những gì ấm nhất. Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí trung đoàn trưởng ở đâu?

        - Đồng chí đợi tôi ở ca-mi-ông. Chúng tôi lên sư đoàn. Đêm tôi về.

        Sau khi nhìn xem có chắc chắn rằng chỉ có Lu-nin và Sê-rốp trong hầm, anh thêm khẽ:

        - Trung đoàn di chuyển đến địa điểm mới.

        - Bao giờ đi?

        - Sắp.

        - Chúng ta cũng đi chứ?

        - Tất nhiên.

        - Đi đâu?

        - Tôi không rõ.

        - Đồng chí Prốt-cua-ri-a-kôp biết chứ?

        - Có thể.

        Còn lại hai người, Lu-nin và Sê-rốp đoán già đoán non. Đi đâu? Chắc xa. về hậu phương để nhận tiếp viện phi công và máy bay chăng? Không chắc. Phi công và máy bay có thể gửi đến đây. Mặt trận khác ư?

        Họ thấy là họ không muốn đi. Chưa làm được gì ở đây cả. Thành phố vẫn bị vây, chưa trông thấy đoạn cuối của cuộc phong toả. Ở đây họ đã chiến đấu cạnh Ka-ban-kốp, Sê-pen-kin, Bê-sây-tốp. Bỏ Lê-nin-grát mà đi thì đáng xấu hổ.

        Sáng, Rát-sô-khin trở vế với Prốt-cua-ri-a-kốp. Đồng chí Prôt lại cất cánh bay. Tuy thức suốt đêm ở sư đoàn, Rát-sô-khin vừa phấn khởi vừa lo việc. Lu-nin và Sê-rốp không hề bao giờ hỏi anh về những lệnh đã nhận được. Nhưng tự anh báo cho họ biết:

        - Sắp rồi!

        - Bao giờ? - Sê-rốp hỏi.

        - Đợi lệnh. Phải chuẩn bị. Nhân viên dưới đất đi trước. Chúng mình theo sau bằng máy bay.

        - Xa không?

        - Không xa lắm. Chúng mình là không quân thuộc Hải quân, không bao giờ xa Hạm đội quá.

        Họ thở ra. Sao không nghĩ đến cái ấy từ trước nhỉ? Hạm đội ở Lê-nin-grát, thì họ không thể xa thành phố được. Rát-sô-khin nói:

        - Ở đây hiện nay thì yên tĩnh. Chẳng có gì làm. Có những khu vực quan trọng hơn.

        Anh cau mày dáng có ý nghĩa, cúi xuống và nói thêm trong một hơi thoảng:

        - Con đường.

        Lu-nin hiểu ngay lập tức và reo lên:

        - Vậy là có một con đường?

        Rát-sô-khin gật.

        - Qua hồ La-đô-ga?

        Rát-sô-khin lại gật và nói thêm, một tia chớp đắc thắng trong khoé mắt:

        - Tôi vẫn biết từ trước là sẽ có một con đường.

        Ở phi đội, tiếng đồn đã mấy ngày nay là người ta làm trên băng hồ La-đô-ga, một con đường nối Lê-nin-grát với hậu phương. Lu-nin không biết có nên tin không nhưng nếu thật có con đường đó, thì dù khả năng đi lại được bao nhiêu, cái mộng cuối cùng của bọn Đức cũng tan vỡ. Tuy vậy anh không tưởng tượng được ra con đường: làm sao làm được đường trên cái hồ mà hầu hết các bờ đã ở trong tay quân Đức và quân Phần Lan? Làm thế nào bảo vệ được cái dải hẹp, dài, trông, lại ở trên băng mà trên đó thì không thể dựng được bất cứ một công sự nào. Rát-sô-khin nói:

        - Chúng ta phải có trách nhiệm báo vệ con đường ấy.

        Anh không nói được gì hơn, vì cũng không hiểu gì hơn và đã mắc hết tâm trí vào cái khối việc rất bận rộn là chuẩn bị cho nhân viên chuyên môn và máy móc lên ca-mi-ông.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Giêng, 2019, 11:25:38 pm

*

*       *

        Vấn đề không đến nỗi rắc rối lắm nếu không đẻ ra ngay cái chuyện mà Rát-sô-khin có vẻ rất lo ngại: về Hin-đa thì làm thế nào?

        Cũng như nhân viên khác ở nhà ăn, Hin-đa phụ thuộc vào nhân số trường bay và phải ở lại tại chỗ. Nhưng khác cái là cô từ Ét-tô-ni về với phi đội, và cô nói với Rát-sô- khin là cô không muốn rời phi đội. Một hôm, cô còn oà lên khóc nức nở khi đem cơm đến chỉ huy số và tất tả chạy trốn, lấy tay che mặt. Rát-sô-khin quyết định đem cô đi bằng được. Anh nói:

        - Không thể bỏ đồng chí ấy được. Chúng ta đều quen đồng chí ấy rồi. - Đó là câu nói của đồng chí Ka-ban-kốp. -  Đồng chí ấy biết hết chúng ta... Đồng chí ấy còn nhớ cả đồng chí Ku-lê-sốp...

        Thoạt đầu anh tưởng là cũng chẳng khó. Nhưng anh lầm. Chẳng ai muốn giữ Hin-đa ở lại trường bay, chẳng ai phản đối việc cô đi, nhưng nguyên tắc nó chọc gậy vào bánh xe. Phụ thuộc nhân số trường bay, Hin-đa không thể phụ thuộc vào phi đội. Trở ngại càng khó vượt thì Rát-sô- khin càng hăm hở tìm cách vượt.

        Mặt đỏ gay - cái đó càng làm nổi bật thêm những chấm hung hung và những miếng da thừa đen sạm anh gọi điện thoại về trung đoàn, vể sư đoàn, về bộ tham mưu hải không quân và về sở quản lý các trường bay. Người ta sẵn lòng nghe anh, chỉ cho anh chỗ tìm hỏi, nhưng chẳng ai muốn vơ lấy cái trách nhiệm giải quyết vấn đề.

        Buổi tối, anh nói rõ cho Lu-nin và Sê-rốp nghe là đem Hin-đa đi thì được bao nhiêu việc cho mọi người. Bên kia hồ La-đô-ga, đồng chí ấy sẽ không phải kể vào trong số nhân dân của Lê-nin-grát bị bao vây. Như vậy là bớt một miệng phải lo nuôi. Thế vào chân đồng chí đó, sẽ lấy một phụ nữ trong thành phố và chị ta được một khẩu phần nhà binh thì sẽ được ăn vào lúc đói. Cái lý luận ấy giúp anh tự chứng minh là việc anh làm rất phải. Lu-nin và Sê-rốp tán thành: họ thấy rõ ràng là sự việc choán tâm trí anh, và cả họ nữa cũng ràng buộc với cô em gái. Sau rốt Rát-sê-khin lên sư đoàn để "thu xếp", nhưng chẳng thu xếp được gì, và không nói đến chuyện đi của Hin-đa nữa, như là trong bụng anh đã có quyết định rồi.

        Ban tham mưu trung đoàn và phi đội 1 đã ở trên hồ La- gô-đa. Rồi phi đội 3 - đóng ở Cơ-rông-stát - đi theo sau. Cuối cùng, lệnh đến cho phi đội 2 di chuyển.

        Tuyết khô lốc trên bãi khi nhàn viên chuyên môn ra đi bằng ba ca-mi-ông. Xe đậu một lát trước chỉ huy sở. Lu-nin  ra chào anh em, mặc áo lông da, đội mũ lông đen quàng kín tai dây mũ thắt dưới cầm, thủy thủ và thợ máy ai cũng giống ai, và Lu-nin chỉ hơi nhận được mặt họ trong đêm tối. Gần cái ca-mi-ông cuối cùng, Rát-sô-khin đỡ một cái bóng đen nhỏ trèo lên khoang xe. Té ra Hin-đa, mặc áo ca-pốt hải quân, một cái rương nhỏ ở tay. Rát-sô-khin bắt cóc cô đi!

        Cô đã ở trong khoang xe thì bỗng Rát-sô-khin kêu lên:

        - Sao đồng chí không mặc áo da lông? Đồng chí không có à? Thế thì đồng chí chết rét mất!

        - Không đâu, đồng chí đại uý đừng lo.

        - Một phút! - Rát-sô-khin gọi người lái xe đã ấn vào nút mở máy.

        Lộc sộc đôi ủng, anh tụt thang nhà hầm và một giây sau trở lên với cái áo da lông mà anh vẫn mặc khi lên sư đoàn. Anh đợi cho Hin-đa phải trùm kín quá đầu mới ra hiệu tay và ra lệnh:

        - Lên đường!

        Sáng hôm sau các phi công sẽ đi. Nhưng một trận bão tuyết ngăn trở, rồi cả hôm sau nữa. Đêm sau, hàn thử biểu xuống, trời sáng ra, và đến sáng thì lấp ló mặt trời.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Giêng, 2019, 11:39:05 pm

VII

        Gió mạnh muốn đứt cả hơi, lùa tuyết bạc quay lốc trên mặt đất, Lu-nin cất cánh sau Rát-sô-khin. Lần cuối cùng, anh nhìn từng ngọn tùng quen thuộc. Đằng sau kia là vịnh mầu trắng loá. Họ quay lưng vào vịnh và hướng mũi về Đông. Rát-sô-khin bay đầu, theo sau là Lu-nin và Sê-rốp.

        Trước hết phải vượt qua bốn mươi cây số của eo Ca-rê- li. Trong màn sương tái nhợt, rừng thấp thoáng qua cơn bão tuyết ở mặt đất. Dưới đó tuyết cuộn bốc ngoằn ngoèo quá ngọn cây. Bên phải, về phía nam, chỉ hơi nhận được sông Nê-va trong lớp sóng trắng lồng lộn trên mặt sông. Bên kia sông là bọn Đức. Gió thổi các bông tuyết rất cao, đến cả ở trên bảy trăm thước cũng thấy tuyết óng ánh. Nhưng Rát-sô-khin muốn bay khá thấp để không mất mục tiêu trong cái hành lang chật hẹp và quen thuộc ấy. Gió lạnh cuốn từng mảng mảy mù lẫn lộn, mà mặt trời chiếu thành những chấm vàng mờ: về phía đông nam, mặt trời thấp tận chân trời chiếu sáng loé mắt.

        Phía nam sông Nê-va, vẽ thành một cái khuỷu rộng và biến mất, để rồi lại hiện ra nơi xa xa. Đằng sau những rặng cây nhấp nhô bao phủ dưới một màn bụi mầu bạc là khoảng trắng bao la vô tận.

        Chính chỗ sông Nê-va ra khỏi hồ La-đô-ga, Lu-nin thấv một hòn đao nhỏ, và trên đảo một khối không ra hình thù gì, như chồng đá dưới tuyết. Chắc đây là pháo đài nổi tiếng Sơ-luýt-sen-bua đã từng chắn lối vào sông và nằm dưới lưới đạn của đại bác Đức suốt từ tháng tám. Anh muốn nhìn gần hơn chút nữa, nhưng Rát-sô-khin bỗng lái về bắc, rời sông Nê-va để men theo bờ hồ. Họ bay như vậy đến mãi cái mũi đất có cây che nơi sừng sững một tháp cao mầu đỏ, như ngón tay chỏ nhô ra khỏi mặt tuyết quay lốc: đèn pha Ot-si-nô-vét. Bay qua tháp, họ lộn lại phía đông, cốt ngang qua hồ.

        Từng cuộn tuyết chạy, và bốc khói trên mặt hồ. Ở đấy, gió còn thổi mãnh liệt hơn nữa. Bờ hồ thấp đã biến, và nhìn đâu cũng chỉ thấy băng và lốc. Lu-nin tìm con đường. Và đột nhiên, anh nhìn thấy...

        Một dãy ca-mi-ông tiến chậm trên băng, từ đông sang tây, về Lê-nin-grát. Ca-mi-ông như bốc khói; từng cột khói thỉnh thoảng lại trùm lên chúng, che lấp mắt. Quan sát kỹ, Lu-nin thấy chúng tiến theo một hàng cọc tiêu như nhảy múa trong gió. Đấy, con đường duy nhất nối liền thành phố với hậu phương. Xe cộ nhiều. Một phút sau, anh thấy một dãy ca-mi-ông thứ hai hướng về đông. Từ trên cao, không biết là nó động đậy hay bị sa lầy trong tuyết.

        Anh không rảnh mà nhìn được lâu: với linh tính nhà nghề anh ngẩng đầu lên, thì thấy quãng năm trăm thước trên cao hai Mét-séc-mít. Rát-sô-khin cũng đang nhìn chúng: thấy mũ anh động đậy thì biết. Tụi Mét-séc-mít bay trên đường, và khó đoán được ý muốn của chúng. Vả lại không phải lúc giao chiến, phi đội sẽ mất một thời gian quý báu và hết mất ét-xăng. Lu-nin nhẹ người khi thấy khu trục dịch chĩa về nam và biến trong khoảng không.

        Trên băng, hai bên dường, anh thấy những thủy thủ mặc áo da lông, chắc là bộ phận bảo vệ. Họ làm thế nào mà đứng vững được suốt ngày đêm trong tuyết, phơi gió phơi lạnh không một chút gì che, cũng không thể đào hầm mà ở? Vài người lấy tay chào máy bay và Lu-nin muốn nhìn họ gần tí nữa. Nhưng không thể được: mỗi lúc tầm mắt lại bị hạn chế. Mặt trời chỉ còn là một cái vòng rộng, đục. Da trời tái đi. Hơi sương che mỗi lúc một dày. Đến cái máy bay của Rát-sô-khin có khi chỉ vào trăm thước đằng trước mà cũng biến vào sương mù. Lu-nin luôn ngoái cổ để dò trời. Có lúc anh tưởng như lại thấy bọn Mét-séc-mít, bay trên. Có lẽ là một ảo ảnh. Nhung anh vẫn lo bị chúng rình.

        Bay ra xa đường: Rát-sô-khin bây giờ dẫn họ hơi về phía bắc một chút. Dưới, chỉ thấy băng và những cuộn tuyết lướt trên đó. Chỉ còn vài phút bay thì đến bờ trước mặt mà nếu trời quang hơn thì đã nhìn thấy bờ. Nhưng Lu-nin chỉ thấy tuyết lốc trên mặt đất và vòng mặt trời hung hung trên cao, máy bay Sê-rốp đằng sau và máy bay Rát-sô-khin đằng trước.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Giêng, 2019, 12:16:29 am

        Bốn vệt thon dài bỗng lừ lừ đàng trước: bọn Mét-séc- mít. Chúng tiến lại với đội hình chiến đấu, với ý định rõ rệt là chặn dường không cho ba chiếc máy bay Xô Viết đến bờ phía đông.

        Chúng chỉ còn cách 1000 thước, cần quyết định tức khắc, không còn đủ ét-xăng để lái tránh chúng. Rát-sô- khin xông thẳng.

        Họ gần chạm trán. Tất cả là do ý chí quyết thắng, lòng tự tin, kỹ thuật lái và bắn chính xác.

        Đến giây thứ 30, bị Rát-sô-khin hạ, một Mét-séc-mít rụng xuống băng, và cái luồng khói đen của nó quyện vào những cuộn tuyết trắng.

        Cái Mét-séc-mít thứ hai nhào nghiêng, gượng lên được khi sắp đụng vào băng, và lảo đảo chuồn về phía nam. Còn lại hai cái lên thẳng về phía mặt trời và biến trong những đám mây màu hung.

        Đường đã mở.

        Lúc đó, Lu-nin nhận thấy máy bay Rát-sô-khin lảo đảo một cách kỳ lạ và chúc xuống đất.

        Anh mồt chiều cao một cách mau lẹ, chìm vào trong bụi tuyết mờ. Máy của Rát-sô-khin không chạy nữ "Một Mét-séc-mít đã bắn trúng anh? Lu-nin nghĩ thầm. Cốt sao Rát-sô-khin không bị thương, và hạ được cánh!".

        Máy tắt mà hạ cánh trên băng không phải là an toàn với cái gió này. Giữa lốc tuyết, máy bay đụng đất, vọt nhảy rất cao, lại đụng đất, chạy một ít và đứng lại, nghiêng hẳn đi.

        Nếu Rát-sô-khin xuống máy bay để ra xem máy thì Lu-nin không đến nỗi quá lo. Nhưng Rát-sô-khin không nhúc nhích khỏi khoang. Lu-nin và Sê-rốp bay đi bay lại không ngừng trên chỗ rơi, trông thấy rõ cái đầu im phắc dưới mũ, và cái im phác ấy làm họ hoảng. "Anh làm sao? - Lu-nin tự hỏi. Chắc anh còn sống. Nếu không thì không thể hạ cánh được".

        Để nhìn rõ hơn, Lu-nin mỗi lúc xuống một thấp, lao vào trong tuyết lốc. Có một lúc, đại uý ngẩng đầu, rồi giơ tay, nhìn Lu-nin và vẫy.

        Cử chỉ đó chỉ có nghĩa là cứ tiếp tục bay đi. Đó là cái lệnh, nhưng thi hành cái lệnh đó vượt quá sức của họ. Khộng thể bỏ đồng chí ở chỗ này, không có gì cứu, không biết cả đồng chí làm sao? Lu-nin lượn một vòng rộng. Khi anh lượn một vòng nữa để bay ngay trên đầu đại uý, anh thấy đồng chí ra khỏi máy bay, đi hai ba bước vể phía nam - con đường cách đó mấy cây số - ngã vật xuống tuyết rồi bắt đầu bò.

        Chắc là Rát-sô-khin bị thương. Không thể bò mà đến nơi được. Bỏ đồng chí ở đây thì đồng chí sẽ bị Mét-séc-mít bán hoặc nửa giờ nữa cùng sẽ chết cóng với 22 độ dưới không này. Phải quyết định tức khắc. Là là trên băng, Lu-nin  tìm chỗ hạ cánh.

        Anh hiểu tại sao máy bay của Rát-sô-khin khi hạ cánh đã nhảy vọt lên thế: vì ở dây chỉ là sự xếp đống của những tảng băng nhỏ đứng dựng lên như chướng ngại vật chống xe tăng. Thử hạ cánh vào đấy với cái gió này thì chắc chắn là máy bay sẽ bửa đôi. Lu-nin mãi mới tìm được một góc hơi phăng cách Rát-sô-khin chừng hai trăm thước, và hạ cánh được sao hay vậy.

        Trên sông, Sê-rốp liệng vòng dể bảo vệ họ. Sau khi hướng cái I-16 cho gió khỏi xô đẩy, Lu-nin nhảy xuống. Một cục tuyết khô quất vào mặt anh. Máy bay của Rát-sô-khin thành một chấm đen giữa cái luồng gió lốc. Lu-nin chạy lại.

        Rát-sô-khin đã cách máy bay của anh ta đến ba mươi bước và vẫn cố bờ về phía nam. Lu-nin kêu lên, gọi anh, nhưng Rát-sô-khin không quay đầu lại: với cái gió này thì anh nghe thấy sao được? Và bỗng nhiên, anh ngẩng đầu, rõ ràng là tìm cách đứng dậy.

        Thoạt đầu anh chống một đầu gối. Rồi, im lặng hồi lâu, anh chống hai tay xuống băng và đứng thẳng dậy.

        Anh đứng một phút giữa đám lốc tuyết, cái bóng rộng và mờ mờ, chân dạng ra một cách kỳ lạ. Rồi anh giơ hai nắm tay như để đe ai và ngã vật xuống.

        Khi Lu-nin đến nơi thì anh đã chết, nằm trên tuyết đỏ những máu, mắt ngửng lên trời. Một viên đạn đã xuyên qua ngực anh. Hai bàn tay lớn của anh vẫn nắm chặt. Lu-nin  bế anh đến cái máy bay mà xung quanh băng dã bắt đầu đóng, trùm cái dù lên người, và đặt anh dưới một cánh.

        Rồi Lu-nin cất cánh. Sê-rốp theo sau. Một phút sau, một bờ thấp lướt trên cánh. Lại đến cánh rừng trong tuyết mù. Lu-nin tìm mục tiêu không khó lắm: một quãng rừng đốn cây có trồng cột xung quanh. Anh bay thấp theo đó. Anh muốn bay mãi mãi để không phải nói, không phải thuật lại... Nhưng bãi rừng đôn cây dẫn đến một làng, đến một quả đồi trọc màu trắng và đến một cánh đồng trên đó có chữ T hạ cánh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Giêng, 2019, 11:54:30 pm

CHƯƠNG SÁU

CON ĐƯỜNG

I

        Toàn Trung đoàn đóng trong làng. Đối với miền Bắc, thì là một làng to - hơn bốn mươi xóm. Nhà nào cũng có bộ đội. Ở phố chính hai bên là những cây phong vặn mình, từ sáng đến tối là một đám đông quân phục các kiểu - áo bay, áo da lông hay ca-pốt đen hải quân. Bộ đội gác trước những ngôi nhà có các cơ quan của Trung đoàn và các nhân viên trường bay: hai ban tham mưu, tiểu ban Tác chiến và Cơ yếu, quân y xá, ban Cung cấp, đội Thông tin, đội Vận tải, các kho đạn và dù, các xưởng lưu động v.v... - một đống người mà cơ quan quy định cho một quân số chiến đấu thông thường và một số máy bay thông thường. Nhưng quân số chiến đấu cũng như máy bay có đủ đâu. Trên cánh đồng sửa thành sân bay tạm thời, những mái nhà dựng vội chỉ che có sáu chiếc máy bay: ba cái của phi đội 3, hai cái của phi đội 1 và một chiếc của đồng chí Prốt-cua-ri-a-kốp.

        Phi đội 2 - hai phi công - không có máy bay. Prôt-cua-ri- a-kốp lợi dụng lúc bọn Lớp-táp còn ra ít, để cho sửa chữa lại hoàn toàn những máy bay của phi đội. Phi đội Rát-sô-khin chỉ còn là một đơn vị dưới đất, dưới quyền Lu-nin.

        Anh được chỉ định sau hôm đưa đám Rát-sô-khin. Người ta cử cả một đạo quân thợ máy và thủy thủ với xẻng, đồ lướt băng, ca-mi-ông, để đi tìm thi hài đại úy. Sê- rốp dẫn đường, tìm ra ngay quãng Rát-sô-khin bị hy sinh, nhưng mất khá lâu mới kiếm ra được thi hài và chiếc máy bay. Bão đã lấp bao nhiều tuyết đến nỗi người ta không nhìn cả thấy những tảng băng đã ngăn trở Lu-nin khi hạ cánh. Một vài người phỏng đoán là quân Đức ở phía Nam, hoặc quân Phần Lan ở phía Bắc đã lấy mất máy bay. Nhưng vẫn tìm kiếm, sau cùng một đồng chí thủy thủ trông thày một mẩu cánh quạt tòi ra khỏi băng. Họ lấy xẻng đào. Chiếc I-16 ở đó. Rát-sô-khin nằm dưới cánh.

        Lúc họ đưa thi hài và máy bay về trường bay thì đã khuya.

        Tang lễ cử hành sáng hôm sau. Toàn trung đoàn dự. Prốt-cua-ri-a-kốp cho đào huyệt ở đỉnh quả đồi trọc, vẫn dùng làm mục tiêu cho máy bay khi trở về. Từ đỉnh, trông thấy cánh đồng và hồ La-đô-ga.

        Tuyết xuống dầy và từ trong làng không trông thấy qua đồi. Lễ khâm liệm ở trong nhà bản tham mưu đóng. Trong cái quan tài mở, căng vải đỏ, Rát-sô-khin vẫn như lúc thường: mặc áo bay và bốt lông, với bộ mặt nông dân thô mạnh, gò má rộng và cái miệng cương quyết. Đôi mí mắt, với hàng mi màu hung, không nhắm hẳn, làm cho anh có cái dáng như còn sống - như sắp mở đôi mắt xanh nhìn đâu như xuyên thủng đấy. Những bông tuyết rơi trên mặt chưa tan, như những lông tơ trong tròng mắt.

        Một chiếc ca-mi-ông đưa quan tài đến đồi. Nhưng sườn dốc quá. Người ta khiêng áo quan bằng tay - trước hết là Prôt-cua-ri-a-kôp, đồng chí chính ủy Éc-ma-kốp, đồng chí tham mưu trưởng Sác-ba-di-ăng, Lu-nin và Sê-rốp. Rồi những người khác thay, rồi lại thay một lần nữa, trừ Lu-nin  và Sê-rốp không chịu. Quan tài nặng, góc nghiến vào vai Lu-nin, chân anh lầy và trượt, cái tay giơ lên cứng đờ vì rét, anh nghe thấy sau lưng hơi thỏ hồng hộc của Sê-rốp và chính anh cũng bắt đầu muốn ngừng thở thì đến đỉnh.

        Gió thổi còn mạnh hơn ở chân đồi. Những tảng đất bảng cứng nhô ra khỏi tuyết. Một lượt tuyết tơ trắng, phủ đáy huyệt màu hung. Bờ huyệt cứng lại. Quan tài đặt bên huyệt. To lớn, đầu trần, tuyết đóng bông trên tóc, Prôt- cua-ri-a-kốp lưỡng lự nhìn đồng chí chính uỷ. Éc-ma-kốp - một người tầm thước, to ngang, dáng quả quyết - tiến một bước về phía quan tài và cất cao giọng, thề với Rát-sô- khin là trung đoàn sẽ báo thù cho anh. Trông mặt cúi xuống của mọi người ta thấy ai nấy cùng nhắc lại lời thề, Lu-nin nghĩ: "Báo thù cho anh, nhất định".

        Éc-ma-kốp im lặng. Chưa đậy nắp áo quan. Lu-nin cảm thấy đến lượt mình nói, và người ta đợi anh: anh chẳng là người bạn chiến đấu gần nhất của người đã mất sao? Nhưng anh chưa hề nói như vậy lần nào. Và biết nói gì? nói trả thù chăng? Nhưng tiếng "trả thù" yếu ớt quá đối với điều anh cảm thấy trong lòng: nửa Tổ quốc bị chà đạp dưới chân kẻ thù... thành phố bên kia hồ bị dồn vào chỗ chết dần chết mòn... Bê-sây-tốp bị giết... Sê-pen-kin bị giết, Ka-ban-kốp mất tích, Rát-sô-khin bị giết... không, không phải chỉ là báo thù. Không thù nào báo cho hết! Phải làm lại thế giới này, làm lại cái thế giới cho người ta ở đó có thể sống được mà không chết. Biết chắc anh không diễn tả nổi những ý nghĩ dồn dập trong người, anh cúi xuống thi hài và hôn vào đôi môi lạnh giá của Rát-sô-khin.

        Sê-rôp làm theo anh. Prót-cua-ri-a-kôp nghiêng mình trước áo quan, che khuất một lúc người quá cố bằng cái lưng rộng của đồng chí và ôm lấy áo quan. Rồi, đứng lên, anh ra hiệu cho các đồng chí thủy thủ giữ nắp áo quan đậy lại. Vừa lúc đó, một bóng người nhỏ bé lùng thùng trong cái áo lông cừu quá lớn lách giữa Lu-nin và Prốt-cua-ri-a-cốp. Chính là Hin-đa trong cái áo da lông mà Rát-sô-khin đã cho cô để khỏi lạnh. Cô để rơi đầu vào ngực Rát-sô-khin, trên hai bàn tay lạnh của anh, và im lặng hồi lâu. Đồng chí thủy thủ giữ nắp áo quan như bị tê dại. Cô đứng dậy, dấu mặt vào trong cái cánh tay áo vàng của chiếc áo da lông, chạy xuống dốc giữa những cành cây và những đống băng, và biến sau màn tuyết.

        Một loạt đạn nổ xé trời. Hạ quan tài vào huyệt.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Giêng, 2019, 11:15:29 pm

*

*       *

        Khi người ta gọi anh lên Ban chỉ huy trung đoàn và đồng chí Prốt-cua-ri-a-kốp báo cho anh rõ là anh được chỉ định chỉ huy phi đội, thì Lu-nin hỏi :

        - Phi đội nào ?

        - Phi đội 2, tất nhiên !

        - Phi đội 2 còn ư ?

        Bộ mặt rộng, lớn của Prốt-cua-ri-a-kốp sầm lại :

        - Một người có thể chết, nhưng một phi đội, không bao giờ, nhất là phi đội này! Rát-sô-khin đã chết, nhưng phi đội của đồng chí ấy phải sống. Đồng chí còn sống, cả Sê- rốp nữa. Sẽ có máy bay mới, phi công mới...

        - Đồng chí có chắc không? Đồng chí Rát-sô-khin đã đợi chờ biết bao nhiêu!

        - Thì đến lượt đồng chí đợi! - Prốt-cua-ri-a-kốp gắt lên và dập cái bàn tay khổng lồ xuống hàn.

        Anh đang cáu. Cái đó cũng thường đến và trung đoàn sợ những cơn cáu của anh. Nhưng Lu-nin không sợ. Rát-sô- khin chẳng hạn làm anh phải nể. Nhưng với Prốt-cua-ri- a-kốp thì là việc khác. "Thật là người dễ dàng trung hậu". Lu-nin nghĩ bụng khi nhìn thấy đôi mắt xanh, cái mũi mập không ra hình thù gì, cái trán rộng và đôi môi dầy. " Dễ dàng kỳ lạ!".

        Chưa đầy một phút, Prốt-cua-ri-a-kốp đã tươi cười:

        - Mình không tin là bọn Đức đã hiểu được! - Anh nói và nháy mắt.

        - Cái gì mà chúng không hiểu?

        - Cái con đường mà người ta vừa làm dưới mũi chúng. Đường trên hồ. Chúng nó chưa hiểu cái đó có nghĩa gì đối với chúng.

        - Sao đồng chí biết là chúng nó chưa hiểu?

        - Mình thấy khi bay. Chúng nó thám thính, chúng từ bờ bắn đại bác vào, thỉnh thoảng chúng cho Mét-séc-mít đến. Nhưng ý nghĩa của con đường, chúng chẳng hiểu gì cả. Chúng nó không hiểu rằng với con đường ấy thì cuộc bao vây Lê-nin-grát chẳng còn tích sự gì. Cái ý nghĩa đặt một con đường trên băng, là quá bạo đối với chúng để chúng có thể hiểu... Nhưng giao thông ngày một tăng, và chúng nó đã bắt đầu hiểu.

        - Chúng nó bắt đầu hiểu à?

        - Mình chắc là thế, và chúng nó không lâu sẽ hiểu hẳn.

        - Vậy thì sẽ ra thê nào?

        - Sẽ đánh nhau. Phải đánh, đồng chí thiếu tá ạ.

        Lu-nin trả lời:

        - Đồng chí thì có thể. Chứ tôi thi không. Tôi có máy bay đâu mà đánh.

        - Thế nào, thế nào? - Prốt-cua-ri-a-kốp gắt, và anh lại nổi cáu.

*

*       *

        Mỗi ngày Lu-nin đi trên tuyết nhẽo ra mãi đầu cái phố lớn, đến một ngôi nhà mênh mông lạnh lẽo ở cửa rừng. Đó là xưởng lưu động, ở đó mấy đồng chí thợ máy, áo liền quần và đầy dầu mõ, đang chữa máy bay của phi đội, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư cao cấp Fê-đô-rốp và Đê-ép.

        Về phương diện cao và gầy, Fê-đô-rổp không thua Đê- ép và theo lời bác sĩ Grô-mê-kô, thì không kém giống "Đông-ki-sốt". Cho nên người ta gọi hai người là Đông-ki- sốt Trung đoàn và Đông-ki-sôt phi đội. Fê-đô-rốp có phần còn giống nhân vật của Séc-văng-tess hơn vì anh đứng rất thẳng, và đeo một bộ râu dê cứng vàng hoe làm cho mặt anh dài thêm. Tuy vậy, anh chỉ "Đông-ki-sốt" ở cái vỏ ngoài. Quãng ba nhăm tuổi, đầu óc sáng suốt, con mát nghiêm, cử chỉ chậm, anh cũng điều độ và ít nói như Đê- ép. Tóm lấy cái câu của Grô-mê-kô, có người cho cái dự định chữa lại máy bay của họ cũng là "Đông-ki-sôt". Những kế hoạch của họ thực ra có suy nghĩ chín chắn.

        Họ làm việc gần như hai tư tiếng một ngày. Công việc tiến hết sức chậm: vì máy bay bị hư hỏng nhiều quá, thiếu máy, thiếu các bộ phận lặt vặt cần thiết, xưởng lưu động thường chỉ làm những việc sửa chữa thông thường, có gì lớn thì phải gửi máy bay đến nhà máy mé Vô-lô-đa. Nhưng Prốt-cua-ri-a-kốp không bằng lòng rời máy bay của anh ra, ngại là nếu gửi đi thì không bao giờ trở lại, và quyết định cho chữa tại chỗ những máy bay của phi đội 2.

        Rất thông thạo máy móc, Lu-nin muốn tự mình thử tất cả. Anh tranh cãi mỗi chi tiết với các kỹ sư, vui sướng về mỗi thành công, bực mình về mỗi thất bại. Người ta đã quyết định hy sinh chiếc máy bay của Rát-sô-khin đã rõ ràng không dùng được nữa, để chữa hai cái khác. Lu-nin ở lại xưởng đến trưa, rồi về nhà ăn.

        Anh tìm cách ăn sớm, trước khi phi công các phi đội khác trở về. Anh tự thấy ngượng trước những bộ mặt mệt mỏi, đỏ lên vì gió lạnh. Đã nhiều lần anh xin Prốt-cua-ri- a-kôp cho phép anh và Sê-rốp bay trên máy bay của các bạn. Số phi công nhiều hơn máy bay, thì người ta có thể thu xếp việc cho mọi người chứ! Éc-ma-kốp cũng nói giúp thêm, cho là phải phân chia công bằng giờ bay, giờ nghỉ. Nhưng Prốt-cua-ri-a-kôp nhất định không nghe:

        - Mỗi phi công chịu trách nhiệm máy bay của mình, Không ai chịu trách nhiệm được về máy bay người khác, máy bay mà mình không thuộc. Chỉ có máy bay từ nhà máy mới đưa ra mới giống nhau. Những cái đã thử lửa thì cái nào có đặc tính cái ấy.

        Nhà ăn để trong căn nhà to nhất làng. Trước chiến tranh nó là hợp tác xã - kho ở tầng dưới, bàn giấy ở từng trên. Bây giờ thì thợ máy ăn ở dưới, phi công ở trên. Lu-nin trèo lên cái cầu thang gỗ sơn mà các bực kêu kèn kẹt. Bàn ăn đặt trong một phòng lớn. Lò sưởi luôn luôn giữ ấm áp. Đến trưa, chẳng có ai, trừ Sê-rốp đã ngồi đó đợi Lu-nin về mới ăn.

        Lu-nin vừa ngồi thì sau cửa đã có tiếng đàn bà:

        - Hin-đa, khách của chị đây này.

        Việc Rát-sô-khin bắt cóc Hin-đa thế mà được. Prôt- cua-ri-a-kôp và Éc-ma-kôp, hơi phạm điều lệ, đã sát nhập cô vào nhân viên trường bay, phục vụ ở nhà ăn phi công. Còn hai nữ đồng chí phục vụ viên nữa ở đấy. Hin-đa không bao giờ để cho họ được đem cho Sê-rốp và Lu-nin dù là lọ muối, hay một cốc nước.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Giêng, 2019, 10:53:25 am

        Cô vẫn như cũ - vẫn khăn quàng trắng, với đôi má mỏng manh mà hơi nóng lò bếp tô thêm hồng. Tuy nhiên, có cái gì trong cô đã thay đổi. Lu-nin thấy thế, nhưng không nói được là thế nào. Cô trở nên âm thầm hơn, âm thầm một cách kỳ lạ. Tuy bộ mặt vẫn tươi đẹp như xưa, nhưng cô không còn cái dáng gần như khiêu khích nó bắt con mắt người ta phải nhìn.

        Cuộc nghỉ ngơi bắt buộc dầy vò Sê-rốp còn hơn là Lu-nin. Kỷ niệm và lo âu tấn công anh dồn dập. Và Lu-nin bỗng khám phá thấy ở người bạn một tính cáu kỉnh không ngờ.

        Cho đến ngày đó, Lu-nin cho là không thể có một người đúng mực hơn và dễ sống hơn Sê-rốp. Thế mà Sê-rôp lại đang thù ghét vô cớ anh chàng vô tội Grô-mê-kô, bác sỹ đại uý.

        Đó là một sỹ quan bảnh nhất trung đoàn. Anh mặc áo bay với cái duyên dáng chẳng phi công nào sánh kịp. Một lô phù hiệu bạc - cánh máy bay, chiến hạm đại bác - rực rỡ trên ngực anh. Cái bộ ria, bộ ria duy nhất trong trung đoàn - sắc một cách tinh vi. Tuy trán bắt đầu hói, nhưng nhìn đôi mắt trẻ con, người ta còn như thấy người sinh viên thuở nọ. Anh nói to, cái giọng trầm đàn ông, với những chữ "r" uốn lưỡi khủng khiếp. Và cái vai trò lão từng trải của anh đóng rất khéo đến nỗi một nhà báo qua đường cho anh là một phi công lão luyện, đã hết cách bắt anh phải thú thực con số chiến công.

        Grô-mê-kô cũng đến nhà ăn sớm và ăn trưa với Lu-nin và Sê-rốp. Anh tỏ ra rất dễ dãi, nói chuyện cừ, và thường tán với Sê-rốp vì cũng hơi e cái tuổi tác của Lu-nin.

        Anh xưng cậu với Sê-rốp, gọi anh là "Truý", và uốn lưỡi chữ "r". Kể ra thì chẳng có gì là xúc phạm: ở mặt trận, thì cậu tớ là thường, và gọi trạnh "Thượng uý" ra "Truý" cũng là thường. Sê- rốp không bao giờ bực mình nếu người khác gọi anh vậy. Nhưng trong cái miệng của người thầy thuốc này "cậu" và "Truý" làm anh muốn nổi khùng. Anh chàng kia thì chẳng nhận thấy gì và vẫn tiếp tục coi Sê-rốp như người bạn muôn thuở.

        Grô-mê-kô thích vậy. Món rượu - rượu bào chế 86 độ - chiếm hàng đầu trong câu chuyện của anh. Anh cho có cái của ấy trong tay, thì uy thế không có ai bằng và anh không quên kể là các chỉ huy cao cấp cũng thường phải lấy lòng anh để có đường lui tới với cái chất nước tinh hoa ấy. Anh khoe rằng bản thân anh cũng tự nốc một số lượng kinh khủng, hầu như cái khả năng tiêu thụ rượu bào chế là một đức tính thiêng liêng nhất của con người.

        Máy hát chiếm hàng nhì trong câu chuyện. Trong trung đoàn, mình anh có một cái, một cái máy cừ nhãn hiệu ngoại quốc mà anh mua ở Tan-lin, ngày trung đoàn còn đóng ở đó. Anh tha thiết với nó đến nỗi khi tầu anh bị đắm và phải xuống xuồng cứu nạn, thì nó là vật duy nhất mà anh nghĩ đến chuyện cứu. Hy sinh từng va li quần áo, anh chỉ mang theo bộ đồ giải phẫu, một chai con rượu và cái máy hát nổi tiếng ấy. Đĩa hát, ôi thôi, đã bị mất. Mà toàn dĩa trứ danh cả! Cứ nói đến chúng là đủ làm cho anh phải tắc lưỡi. Chỉ còn ba cái, tình cảm nhất, đã thoát nạn. Một tối nào đấy, anh sẽ đến chơi - anh biết rõ địa chi. cái nhà với cây phong chẽ hai ngay đằng trước - và không quên mang rượu và máy hát đến.

        Cuộc hẹn hò bất ngờ ấy chẳng làm vui lòng Lu-nin chút nào. Còn Sê-rốp, anh nhăn mặt như uông phải thìa dấm. Nhưng đồng chí thầy thuốc chẳng biết gì cả. Cho đến hết bữa ăn, anh vẫn khao họ một cách thân ái bằng những câu chuyện. Anh cũng ưa nói về nghề mình, nhưng với cái lối sông sượng loè người anh chỉ công nhận thuật giải phẫu; cái còn lại của nghề thuốc, theo anh nói chỉ còn là nghệ thuật bơm thụt. Nhưng con dao giải phẫu, đó mới là cái anh thích sử dụng.

        - Cứ lại đằng tôi. Muôn cắt gì tôi cắt rra cho! - Anh uốn lưỡi chữ "r", có vẻ khoái chí về câu nói.

        Chuyện đàn bà cũng là sở trường của anh, và anh kể chuyện với cái kiêu hãnh khinh bỉ của người chiến thắng. Nghe anh nói, thì không có người đàn bà nào lại không gần được; chỉ cần anh ra mắt là đủ cho họ phải ngã vào tay anh. Cái ý nghĩ là một người đàn bà có thể trung thành được, đối với anh, thực là khôi hài; anh thuật chuyện rằng ở hậu phương, vợ các người bị động viên phất phơ hết cả với các nhân viên cung cấp và hợp tác xã nhà binh.

        - Vậy thì chúng ta, không nên đụng vào những miếng đó nữa phải không "Trúy"? - Anh nói với Sê-rốp.

        Lu-nin không bất bình. Anh chàng thầy thuốc này đáng thương hại là khác. Cứ nhìn cái mặt thanh nhã bị cái tật giật gân ấy, Lu-nin không thể bỏ được cái cảm giác là cậu trẻ con này đã tự khoác cái mặt nạ ngu xuẩn, mà chính bản thân nó khổ trước tiên, nhưng không có cách gì thoát ra được nữa. Sê-rốp thì không châm chước chút gì cho người thầy thuốc và nhìn anh chàng chẳng nói chẳng rằng, đầy căm tức ghê tởm.

        Nhưng anh chỉ đâm khùng hơn khi mà Grô-mê-kô định quàng ngang lưng Hin-đa. Cô đẩy ra, không giận dữ, nhưng Sê-rốp đứng nửa người lên và hét:

        - Có bỏ người ta ra ngay không?

        Grô-mê-kô bỏ cô phục vụ viên ra và lặp tức phá lên cười:

        - Cậu ghen à, "Trúy"? Mình quên đấy là con cưng của phi đội 2! Gì mà làm dữ thế, ông bạn.

        Anh hơi lùi cái ghế, vì Sê-rốp tiến lại phía anh với bộ mặt đáng sợ, và quát:

        - Đồ múa rối! Anh chỉ là đồ múa rối! Hiểu chưa?

        - Cậu quá đấy. - Grô-mê-kô nói và vẫn lùi... - Tôi không cho phép cậu...

        Khốn thay, anh lại nhếch mép cười. Điên người lên, Sê- rốp giơ quả đấm, Lu-nin gọi:

        - Sê-rốp!

        Sê-rôp lập tức bỏ tay xuống, quay lại Lu-nin, đứng im một lát chẳng nói chẳng rằng rồi cái lưng cong cong bước ra từng bước dài.

        - Đồng chí thiếu tá, cậu ấy có phải hơi có máu động kinh không? - Grô-mê-kô nói và nhích gần ghê lại Lu-nin. - Sao hắn lại dở chứng vậy? Tôi có làm gì hắn đâu... Phải giải hoà mới được.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Giêng, 2019, 11:44:58 pm

II

        Lu-nin ở với Sê-rốp trong nhà một bà già gần điếc hẳn, cả ngày đêm ngồi bên lò sưởi lẩm nhẩm những câu gì không rõ.

        Nhà sạch, không có rệp, không có gián. Khăn thêu treo ở cửa sổ nhỏ. Lò sưởi toả hơi ấm khô. Qua cửa kính, nhìn thấy cây phong chẽ hai đầy tuyết. Cái giường lớn êm của Lu-nin kê trong một góc, sau chiếc rèm gai thô. Đêm, anh nằm suy nghĩ không chợp được mắt.

        Anh nghĩ đến chiến tranh, đến những người đã cùng anh chung sống mùa thu qua, đến các bạn hữu cũ. Kỷ niệm dồn dập, anh chẳng cần gợi nó cũng ra, và anh chưa biết cách làm thế nào kết liễu cuộc trình diễn đó. Anh lại thấy những chi tiết muốn quên đi. Và những gợi ý đó để lại cho anh một cảm giác mình bực với mình, vì trước đây đã có lúc anh hành động không đúng nhẽ.

        Một kỷ niệm ngay gần đây nặng nề nhất. Anh vừa qua bốn tháng gần Lê-nin-grát mà không tìm cách gặp bà mẹ vợ cũ. Thật ra, đã nhiều lần anh có ý định tìm hiểu, nhưng chẳng lần nào đem thực hiện ý định đó. Rồi lại có việc di chuyển địa điểm này. Và Lê-nin-grát bây giờ thành cách biệt...

        Xa Li-da từ mấy năm, anh không còn nghe nói tới nàng nữa. Chỉ có bà mẹ còn có thể cho biết nàng ở đâu. Nhưng anh không muốn biết gì về Li-da, và đó là lý do chính làm anh không đi tìm bà mẹ vợ; không thể để bà ta tưởng tượng là mình đi tìm...

        Bà cụ, thật ra là người quen duy nhất của anh ở Lê- nin-grát. Sau khi ly dị, thực ra anh không có bổn phận gì đối với bà. Nhưng đó là lý luận trước chiến tranh. Bây giờ bổn phận anh phải tìm bà và giúp đỡ bà. Vả lại, chẳng có gì bắt buộc anh phải hỏi thăm Li-da. Và rồi. nếu bà ta cho địa chỉ, thì cũng thế thôi!... Ngay nếu anh biết Li-da ở Lê- nin-grát...

        Lu-nin và Sê-rôp không ăn cơm chiều ở nhà ăn. Thành nhân viên dưới đất, hai người không muốn nghe anh em phi công nói chuyện về những chuyến bay của họ nhưng không sao tránh được chuyện đó, vì buổi tối, toàn trung đoàn ăn ở một nơi. Krô-míc, vẫn là cần vụ của đồng chí chỉ huy phi đội, đem cơm về nhà cho họ.

        Đồng chí thầy thuốc đến thăm để làm lành, vừa lúc họ ăn xong cơm chiều.

        - Bỏ đi, "Trruý", đừng làm cái bộ ấy nữa! - Anh ta nói và cúi xuống giường Sê-rốp. - Cậu đọc tiểu thuyết à? Bỏ đi, nó làm cậu nhức đầu bây giờ. Cô bé người Ét-tô-ni ở nhà ăn, tớ thề là chưa hề để mắt... A, cô ta có dính líu gì với tớ đâu... Bỏ sách xuống, tớ bảo. Nhìn xem tớ đem lại cái gì dây này.

        Những bông tuyết dính trên phù hiệu tan xuống. Bụi trắng tụ ngoài cửa kính. Ngọn đèn dầu nhỏ cháy trên đầu giường Sê-rốp. Cái bóng khổng lồ của Grô-mê-kô lác lư trên trần và trên tường. Đồng chí thầy thuốc đặt trên bàn một hộp lớn, mở ra thì là cái máy hát. Rồi anh móc từ trong túi quần lớn trên dầu gối trái một lọ nước không màu sắc.

        - Bà cụ ơi, cụ xuống hầm lấy cho xin ít dưa nào? Làm một chén cho khoái. A! Cậu có dưa góp ngâm dấm cơ đấy! Ấy, 86 độ đấy nhé! Thề nào, "Trruý", cậu có ưng không? Tớ ấy à, chẳng bao giờ tớ pha nước, nhưng, để uống với cậu, pha cũng được... Gọi đồng chí thiếu tá của cậu dậy... Đồng chí "phi trưởng" - Anh gọi tất cả chữ phi đội trưởng - rra khỏi cái rrèm đi thôi!

        Sê-rốp vẫn không yêu gì đồng chí thầy thuốc, nhưng cơn giận đã qua, anh cũng thấy tấn kịch ở nhà ăn hôm qua là vô lý.

        Cái máy hát bắt đầu rống lên. Lu-nin khoan khoái uống một chén rượu pha nước, nhưng từ chối chén thứ hai. Bà già cũng uống một chén nhỏ và mắt bá dịu đi; bà ra ngồi một xó, im lặng ngây người xem đoạn sau của tấn kịch. Sê-rốp và đồng chí thầy thuốc không ngừng nốc. Họ ôm nhau ngang người mà nhảy, và cùng hát một bài trong khi cái máy hát lè nhè một bài khác. Lu-nin bị đánh thức dậy, chỉ mong đồng chí bác sỹ chóng về để Sê-rốp có thể đi ngủ. Nhưng họ không muốn rời nhau nữa. Họ cùng đi ra, mang trên tay cái máy hát đang quay và tiếp tục lải nhải dọc đường phố chính.

        Lu-nin thức giấc lúc nửa đêm: Krô-míc tha vê một Sê- rốp người đầy những tuyết mắt nhắm nghiền, mà anh dựng đứng ở giữa nhà, cởi áo cho và đặt vào giường. Rồi anh trình bày với Lu-nin:

        - Tôi nhặt được họ ở phía Cao xạ. May là họ đi lối ấy. Nếu ở trong làng, thì họ bị ngay đồng chí chính uỷ bắt gặp. Họ muốn tìm đến hầm các đồng chí pháo thủ, nhưng lại đâm vào tuyết đến thắt lưng, và không ra được nữa. Đồng chí bác sỹ thì ngồi vặn kèn hát. Đồng chí thượng uý thì ngủ.

        - Thế còn đồng chí thì làm gì ở phía ấy? - Lu-nin hỏi.

        - Tôi theo dõi họ. Dù sao tôi cũng không thể để đồng chí thượng uý ở tình trạng ấy. Nếu thật là một tay rượu chè, một tay thực thụ, thì khắc tự xoay xở ra được; nhưng đồng chí ấy chẳng uống bao giờ...

        Lu-nin không muốn đánh thức Sê-rốp và đi ăn sáng một mình. Phải nói chuyện với Prốt-cua-ri-a-kôp. Đồng chí phải cho họ bất cứ việc gì, nếu cần thì dọn tuyết, chứ cứ ngồi không thế này, rất là mất tinh thần.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Giêng, 2019, 11:54:05 pm

        Gió đã ngừng. Tuyết nhẹ rơi trông cái êm đềm của buổi sáng mầu tro. Lu-nin đi ngược con phố chính, thì nghe thấy tiếng máy bay U-2. Anh ngẩng đầu và thấy nó từ phía rừng bay ra ở mé tây là là trên mái nhà và xuống trường bay. "Từ Lê-nin-grát lại chăng? - Lu-nin tự hỏi - và không có hộ tống? Gặp Mét-séc-mít trong cái lồng gà chẳng có đến một khẩu súng máy ấy! Xin lỗi đừng đùa dai." Anh nhớ ra là U-va-rốp có một chiếc U-2 riêng. "Hay là đồng chí ấy?"

        Anh trèo lên thềm nhà ăn, phủi bốt bằng một cành tùng và đi lên thang gác. Bây giờ là lúc mà thường gặp Prốt- cua-ri-a-kôp và Éc-ma-kốp ở bàn ăn. Nhưng buồng vắng...

        Hin-đa đem thức ăn sáng đến. Cô nói:

        - Chưa ai lại. Đồng chí chính uỷ Sư đoàn tới. Họ đi tất cả ra chào đồng chí ấy trên sân bay.

        Lu-nin vẫn thích những buổi đến thăm của đồng chí U- va-rốp. Anh mến con người ấy. Họ thường gặp nhau trong hầm Rát-sô-khin hay ở nhà ngủ, cùng với các đồng chí thân, và câu chuyện thường là không gò bó, gần như ngang hàng. Nhưng ở đây, là chính thức đồng chí chính uỷ Sư đến thăm Trung đoàn. Lu-nin ghét lối màu mè trước mặt cấp trên. Anh nuốt vội bữa sáng để rút cho mau.

        Cuộc đến thăm của U-va-rốp còn đáng ngại. Nếu Prốt- cua-ri-a-kôp và Éc-ma-kốp biết chuyện Sê-rốp thì sự đến thăm của đồng chí chính uỷ Sư chẳng báo hiệu cái gì tốt lành cả. Ở phạm vi trung đoàn, còn dễ được hưởng khoan hồng. Nhưng bây giờ...

        Cũng như mọi sáng , Lu-nin đi đến chỗ các đồng chí thợ máy phi đội, rồi ra xưởng lưu động, ở lại đó gần một giờ. Anh đi ra, kèm theo Đê-ép phái đi dự một cuộc họp thanh niên ở chỗ các đồng chí thợ máy. Đê-ép nói:

        - Sê-rôp vừa đến thăm tôi.

        - Bao giờ? - Lu-nin ngạc nhiên hỏi.

        - Khi đồng chí đi ăn sáng.

        Đê-ép nén một nụ cười:

        - Vừa dậy xong, Sê-rốp đã chạy lại đồng chí bí thư kể câu chuyện không may của anh.

        - Thê đồng chí nói gì với hắn?

        - Đồng chí muốn tôi nói gì? Hắn đã đủ lớn để tự hiểu. Và còn có những tội to hơn. Hắn không bao giờ thành kẻ nát rượu. Nhưng có cái khác nó làm tôi nghĩ nát óc.

        - Cái gì?

        - Hắn buồn, chán vẩn vơ. Và không có việc gì nên lúc này, thì buồn chán vẩn vơ càng nguy hại.

        Họ im lặng đi mươi bước. Rồi Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí Éc-ma-kốp biết không?

        - Biết ngay từ đêm.

        - Thế rồi sao?

        - Đồng chí Éc-ma-kốp không đùa với những ông be bét đâu.

        - Rồi thì ra sao?

        - Đồng chí đã gọi đồng chí bác sỹ lên.

        - Chỉ đồng chí bác sỹ thôi à?

        - Phải, vì là lỗi hắn ta... Đồng chí Éc-ma-kôp định sạt.

        - Sạt chưa?

        - Không kịp. Đồng chí U-va-rốp lúc ấy vừa đến.

        - Họ rồi có nói chuyện với đồng chí ấy không?

        - Tôi không rõ. Theo ý tôi...

        Lu-nin không nghe kịp nữa: trước nhà các đồng chí thợ máy, U-va-rốp đợi họ, tươi cười.

        - A, Công-stăng-tanh I-nha-ti-ê-vít! - Anh nói khi họ đến gần. Anh bắt tay Lu-nin và Đê-ép - Vào thôi, không để đồng chí đi đâu. Vừa, dịp có một đồng chí thợ máy của đồng chí vào đoàn Công-sô-môn đấy.

        Vẻ thân ái của U-va-rốp làm tinh thần Lu-nin có lên hơn một chút. Anh chẳng muốn dự cuộc họp. Tuy vậy, anh thực vui thích khi bước vào cái nhà rộng sặc mùi thuốc lá và trông thấy những khuôn mặt trẻ mà gió tuyết đã thuộc di thuộc lại. Bờ vách và ghế dài chật cứng. U-va-rốp nói:

        - Xin cứ ngồi và cứ tiếp tục. Chào tất cả các đồng chí. -  Rồi anh cùng Lu-nin và Đê-ép đi vào ngồi ở một góc.

        Người sắp được kết nạp, I-va-sen-kô, thợ máy của Sê- rốp, đứng giữa nhà - một thanh niên vóc lớn vai rộng, khoảng chừng 19 tuổi. Từng giọt mồ hôi lớn chảy trên cái mặt đỏ. Anh chẳng biết làm gì với đôi bàn tay khoẻ mạnh và những ngón tay to sạm lại, và không biết tìm câu gì để tả lại cuộc đời không có sự việc.

        Khi anh nói xong, đồng chí bí thư Đoàn thanh niên phi đội, vừa thích, vừa cuống trước sự có mặt của chính uỷ sư đoàn, hỏi xem có ai hỏi gì không? Chẳng ai giơ tay, vi đểu đã biết rõ I-va-sen-kô.

        Lúc đó, Đê-ép, xin nói:

        - Chiếc máy bay đồng chí phụ trách đã xuất trận từ đầu chiến tranh bao nhiêu lần?

        - 202 lần. - I-va-sen-kô trả lời.

        - Bao nhiêu lần nó trở về mà không làm được nhiệm vụ?

        - Không một lần nào!

        I-va-sen-kô trả lời và không giấu sự kiêu hãnh. Nếu thượng uý Sê-rôp đã xuất được 202 lần trong sáu tháng của cuộc chiến tranh này, thì đồng chí thợ máy phải vào loại khá. Ai cũng hiểu vậy, và cả Đê-ép nữa, anh đặt câu hỏi không phải vì anh không biết con số, nhưng cốt để đồng chí chính uỷ nghe thấy, đế đồng chí biết các thợ máy của phi đội chưa kết nạp vào Đoàn thanh niên là những gã như thế nào?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Giêng, 2019, 11:32:30 pm

        I-va-sen-kô được chấp nhận, buổi họp bế mạc. Lu-nin cùng với đám đông ra ngoài thềm. U-va-rốp đề nghị:

        - Nếu rảnh đồng chí đi với tôi một tí.

        Họ chầm chậm đi xuông theo phố chính. U-va-rốp nói:

        - Tôi luôn nghĩ đến Rát-sô-khin. Thấy đồng chí, tôi lại nhớ đến đồng chí ấy. Tôi biết đồng chí ấy đã lâu. Chúng tôi cùng học, cùng phục vụ. Tôi vẫn mến phục đồng chí ấy, nhưng cho đến mùa thu vừa rồi mới thực hiểu là con người như thế nào? Một tâm hồn lớn, và một chiến sĩ xứng đáng! Tháng trước, người ta đã đề nghị Huy hiệu Anh hùng cho đồng chí ấy. Tôi vừa được biết là đồng chí ấy được truy tặng.

        Lu-nin nói:

        - Nhưng bây giờ thì đối với đồng chí ấy, có cũng vậy thôi!

        - Đối với đồng chí ấy, đúng. Nhưng đối với đồng chí thì sao?

        - Đôi với tôi à? Khác chứ! - Lu-nin nói và cảm thấy đỏ mặt.

        - Đối với tôi cũng khác.

        Họ đến trước nhà ăn. U-va-rốp tiếp tục đi:

        - Nhân thể, tôi có lời chúc mừng đồng chí.

        - Mừng gì cơ? - Lu-nin hỏi.

        - Mừng đồng chí được chỉ huy phi đội khá nhất của trung đoàn.

        - Một phi đội không còn...

        - Không còn?... Ai có thể nói là phi đội của Rát-sô-khin không còn? Trước chiến tranh, người ta có thể giải tán bất cứ đơn vị nào và nói là đơn vị ấy không còn nữa: đơn vị nào cũng giống nhau; chỉ có số hiệu khác. Nhưng nay, sau sáu tháng chiến tranh này, mỗi đơn vị có một bộ mặt riêng, là một người sống. Và cái lạ nhất là những người đã chết vẫn tiếp tục sống ở đó, tiếp tục giáo dục người sống, tiếp tục dẫn họ đi chiến đấu! Đó là việc thật. Phi đội 2 vẫn tiếp tục sống. Không phải ngẫu nhiên đồng chí được chỉ huy nó, mà lại không phải là người này người khác. Đồng chí không thấy thế sao?

        Họ đã qua làng, và đường phố đã thành con đường rừng. "Đồng chí ấy dẫn mình đi đâu đây". Lu-nin tự hỏi. Nhưng U-va-rốp quay lại: chỉ một cuộc dạo chơi.

        - Tôi cũng có thể nói rằng tôi là chính uỷ sư đoàn không có, - U-va-rốp nói tiếp. - Chúng ta có ba trung đoàn, có các đơn vị thành hình, có tham mưu, chính trị, bộ phận hậu phương, công binh, xưởng, tác chiến... Nhưng nêu tất cả các máy bay đều bay, thì không đủ nổi một phi đội với quân số đầy đủ. Cái đó không ngăn trở chúng ta thành một sư, dù chỉ là để bọn Đức tưởng chúng ta như thế.

        - Thật sao?

        - Phải tin là như thế, vì chúng chưa dám tấn công con đường bằng máy bay, vì chúng tỏ ra rất dè dặt, và chúng đang huy động tất cả lực lượng không quân của chúng lại.

        - Chúng huy động?

        - Có tin như thế.

        - Chúng bắt đầu hiểu tầm quan trọng của con đường?

        - Bắt đầu, trước chúng không hiểu hết, nhưng cái đó rồi cũng thấy và chúng sẽ hiểu hẳn hoàn toàn ngay sau khi sự việc ở Lê-nin-grát khá hơn.

        - Thê bâv giờ chưa khá sao?

        - Bây giờ thì chưa.

                - Khi nào khá?

        - Tôi biết đâu được! Trước khi tăng khẩu phần, còn phải dự trữ. Thành phố thì khổng lồ: nào nhân dân, nào bao nhiêu đạo quân... Khả năng giao thông của con đường không lớn lắm. Nhưng nếu chúng ta giữ vững, thì chúng ta sẽ làm được những dự trữ đó.

        - Đồng chí cho là bao giờ chúng tấn công?

        U-va-rốp phá lên cười:

        - Đồng chí đòi hỏi tôi quá! Dù sao cũng chính vào hôm mà máy bay đồng chí chữa xong.

        - Không trước à?

        - Tôi không cho là thế.

        Họ im lặng và khi lại đi qua nhà ăn, U-va-rốp nhìn sang Lu-nin và đột nhiên hỏi:

        - Đồng chí thiếu tá, chờ đợi khổ lắm phải không?

        - Rất khổ.

        - Đồng chí không muốn nghỉ à?

        - Không. Cái nghỉ ấy, chính là cái khổ nhất.

        U-va-rồp nhìn trộm anh, không nói gì. Rồi anh cười khẽ, như vừa sực nhớ:

        - Đồng chí bác sỹ đã bị phạt.

        - Ấy? - Lu-nin nói, vẻ đắn đo.

        Vậy là U-va-rốp biết chuyện đêm qua rồi. "Sê-rốp không may". Lu-nin nghĩ và lo ngại. Anh không dám hỏi, hy vọng U-va-rốp tự nói ra. Nhưng U-va-rốp đổi sang chuyện khác. Anh xoay trên gót và thình lình hỏi:

        - Con đường trên băng, đồng chí đã nhìn thấy rõ khi bay ở trên đó chưa?

        - Gần như không. Gió thổi dưới đất, mà chúng tôi cũng không bay theo nó. Chỉ đi cắt ngang nó ở hai chỗ.

        - Tôi sáng nay cũng chăng nhìn thấy gì, vì sương mù. Nhưng dù sao cũng phải am hiểu nó, vì sẽ chiến đấu cho nó.

        - Đúng. - Lu-nin tán thành.

        - Phải đi hẳn trên đó. Đồng chí thử xem.

        Bất ngờ quá làm Lu-nin không nghe ra ngay.

        - Tôi ư?

        - Đúng, vì đồng chí có thời gian rỗi, một lần đi về trên hồ thôi.

        - Rõ!

        Lu-nin nghĩ một lát.

        - Tôi có thể đi quá đến Lê-nin-grát được không?

        - Đồng chí có ai ở đấy?

        - Không, chẳng có ai... À mà có...

        - Được... Đồng chí ra cung cấp lĩnh khẩu phần đi đường, và đi đi!... Đồng chí để ai lại chỉ huy phân đội?

        - Sê-rốp.

        - Sê-rốp?

        U-va-rốp như lưỡng lự. Lu-nin nghĩ thầm: "Sau cái chuyện hôm qua, đồng chí ấy không cho phép đâu". Nhưng U-va-rốp nói tiếp:

        - Đồng ý là Sê-rốp. Trách nhiệm có ích cho hắn. Đồng chí ở đây phải không?

        Lu-nin ngoảnh lại: đả đến cây phong chẽ hai. U-va-rốp theo anh đến cửa, chào anh và ra đi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Giêng, 2019, 10:55:39 pm

III

        Xri-a-kốp ở chung với Éc-ma-kốp và Sác-ba-di-ăng, còn tên "chỉ huy sở" thì dành cho cái hầm mà thượng uý Ta-ra-rắc-xin ở suốt ngày đêm. Tuy ban tham mưu trung đoàn không có sỹ quan tác chiến, nhiệm vụ ấy phải phản công lần lượt trong quân sô bay, nhưng Ta-ra-rắc-xin rốt cuộc thành ra thường xuyên thường trực, trừ mấy giờ để ngủ và ăn.

        Anh là một chàng trai lớn, lưng hơi còng, quãng 23 tuổi, nụ cười dè dặt, con mát hiền, nước da mai mái như những người thường sống mãi dưới đất. Là người đầu tiên biết tin về các cuộc không chiến, nhưng thực ra hàng tuần lễ không trông thấy tròi, nếu không phải gọi diện thoại hàng trăm lần một ngày về thông báo khí hậu thì có lệ anh không biết thời tiết ra sao; và chắc vì cái trần nhà thấp quá nên không quen đứng thẳng nữa. Mặc cái ca-pốt hải quân lùng thùng, sườn ảo đã sém đi vì luôn chạm với cái ống lò sưởi đỏ lửa, anh ngồi trước sáu máy diện thoại, làm ảo thuật yối các móì dây để giữ dược liên lạc vối các phi đội, vối sư đoàn và ba đoàn của Lê-nin-grát., Von-khốp và Ca-rê-li. Từ Cơ-rông-stát đến Vô-lô-đa và từ Svia đến Bu-đô-gôt, hàng ngàn người thuộc tiếng nói và biết tên anh, tuy không bao giờ trông thấy anh. Vì anh hơi lắp, người ta đặt biệt hiệu cho anh là "Tata-ra-rắc-xin". Anh cũng biết mọi người, và cái gì củng biết. Trong khu vực La-đô-ga, không một chiếc máy bay, dù bạn hay địch, có thể cất cánh, không một ca-mi-ông ở sư đoàn có thể chuyển bánh mà anh lại không hay. Cho nên, Lu-nin có việc phải vượt qua hồ đến mãi Lê-nin-grát, đã đến ngồi ở chỉ huy sở với hành lý, để đợi Ta-ra-rắc-xin gọi điện thoại liên hồi, tìm được một cái xe sẵn lòng cho anh.

        Cái khối hành lý vượt mọi tưởng tượng. Bốn mươi tám giờ trước đây, khi ở trung đoàn người ta biết tin là đồng chí thiếu tá Lu-nin đi Lê-nin-grát, thì từ mọi nơi, dồn lại nào bánh, nào thịt cá hộp, bánh bột gạo và nước thịt ép.

        - Để cho gia đình, đồng chí thiếu tá ạ...

        - Tôi không có gia đình.

        - Đồng chí vẫn có thể tìm được một người nào đó mà những thứ này giúp cho họ được.

        Các món quà tặng cộng với khẩu phần bốn ngày của bản thân anh, xếp trong hai cái bao khâu liền để có thê khoác vai được. Nhưng cái bao nặng quá anh phải khó nhọc lắm mới nhấc khỏi mặt đất. Anh đến ngồi ở chỉ huy sở từ chiều, vì Ta-ra-rắc-xin cho biết ca-mi-ông thường qua đó vào sáng sớm, và anh đợi suốt đêm trên cái ghế dài, cạnh lò sưởi hồng, trong cái leng keng của điện thoại và tiếng nói nhức óc của Ta-ra-rác-xin.

        Ta-ra-rắc-xin báo:

        - Đồng chí thiếu tá, hàn thử biểu vẫn xuống. Gió đông bắc trời lại quang. Đồng chí sẽ gặp tuyết.

        Đúng như vậy, vào hai giờ sáng khi Lu-nin ra khỏi hầm để trông sao, hơi lạnh giá buốt cổ họng. Sông Ngân Hà rõ đến nỗi mỗi ngôi sao nhỏ cũng lấp lánh. Tuyết sào sạo dưới gót giầy. Và trong rừng, vỏ cây răng rắc như súng trường bắn. Vào trong hầm, Lu-nin ngủ ngay cạnh lò sưởi. Tiếng Ta-ra-rắc-xin sang sảng đánh thức anh dậy:

        - Đồng chí đi xe này chứ? Hay đợi cái sau.

        Lu-nin chồm dậy:

        - Đi cái này thôi chứ còn gì nữa!

        - Nặng lắm, vì đầy dạn đại bác.

        - Cốt sao đi được.

        Lu-nin đă chán với cái sửa soạn, đợi chờ ấy. Khoác bao lên vai, anh vội ra khỏi chỉ huy sở.

        Mặt trời như đóng băng, đang nhô lên khỏi rừng, và tuyết rực rỡ làm Lu-nin phải nheo mắt. Máy nổ, một chiếc ZIS khổng lồ rùng rùng trước cửa. Khoang sau đầy cứng những hòm, giẻ, rơm, và cả một cái áo bông cũ bọc lấy đầu máy. Đồng chí lái xe nhỏ bé sù sù đôi ủng, đi bách bộ. và rúm người lại giữa những cuộn hơi sương; sương giá, ma- dút, dầu mỡ đã làm nhọ nhem cái mặt tròn và trẻ.

        - Nhanh lên, đồng chí thiếu tá! Không, đừng để bao bánh đằng sau, bẩn hết; cho vào đây, để trong ca bin. Còn có thể ngồi được...

        Anh nhìn với cái dáng kẻ cà, đồng chí sỹ quan vụng về trong cái áo da lông mầu sáng, và đôi ủng mới lĩnh ở kho ra. Nhưng anh nhanh nhẩu giúp đồng chí bỏ bao xuống và giúp đặt vào trong xe.

        - Không, không làm thể được. Thế chắn mất lối ra. Đồng chí sẽ không mở được khi cần nhảy ra.

        -  Nhảy ra?

        - Đôi khi chúng nó bắn... Để chỗ này. Như vậy, đồng chí có thể ra bằng cửa này, và tôi bằng cửa kia.

        Họ vừa ngồi vào xe là mở máy ngay, và xe lăn ầm ầm trên đường làng. Mặt trời nhuộm vàng những cột khói từ cái lò sưởi tuôn ra thăng tắp y như là đứng yên. Qua thềm nhà ăn. Hết phố. Chỉ còn con đường rừng hẹp lượn khúc giữa hai rặng tùng. Ca-mi-ỏng phóng nhanh trên tuyết cứng, không khí đông đặc vang tiếng máy nổ. Chỗ ngồi khá khó chịu vì cái bao làm không duỗi được cẳng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Giêng, 2019, 10:51:23 pm

        Người lái xe nói:

        - Thê tốt hơn: không sợ ngủ gật. Có những bạn còn mắc cà-mèn vào ca-bin để cho nó va vào đầu; hoặc để súng trước chỗ tựa để cho nó lằn vào lưng. Với cái lạnh này, là cứ muốn díp mắt lại. Cái hồ thì trắng toát, mà mắt thì chẳng nhìn thấy gì, người thì cóng, cho nên buồn ngủ lắm. Không cưỡng lại được.

        - Đồng chí được xem làm con đường này từ đầu chứ?

        - Đầu ấy à, chẳng ai trông thấy. Đầu làm ở Mát-scơ-va. Hình như ngày đầu mùa thu, người ta đã thu thập tất cả các tài liệu đã viết về hồ?

        - Tài liệu gì?

        - Tài liệu khoa học. Tất cả cái gì mà người ta đã viết ấy. Cái giống băng là láu cá lắm; trong túi nó, khối mẹo. Chỉ có khoa học mới xoay xở với nó được, ở Trung ương, người ta đã đọc các tài liệu đó và cho làm đường. Sau đó, tôi đã nhìn thấy đủ, từ tháng mười, từ mảng băng đầu tiên. Người ta chăng dây sắt, cắm cọc tiêu và thế là đường làm xong. Lúc đó, bắt đầu chở lương thực đến Lê-nin-grát - với cả xe trượt tuyết mà bộ đội kéo ngay trước mũi bọn Đức. Một ngày xem không đủ, thử coi xem, đồng chí ạ - họ ở đêm trên băng. Cứ kể những thứ mà họ chở bằng xe trượt tuyết... Bắt đầu làm con đường là như thế đấy.

        - Có ô tô từ khi nào?

        - Lúc đầu, còn dùng ngựa, ở Kô-bôn, người ta đã tải lương thực đến bằng hàng lô đường nhỏ chỉ vừa đi được, vì không có đường thực. Rồi người ta đem ngựa đến chở sang mé kia, vì ca-mi-ông đi thì vơ băng. Khi tôi qua hồ lần đầu tiên, hãy còn ngựa. Thật ra, hồi đó đi ca-mi-ông là liều. Một cái thì còn đi được; nhưng hễ bị ùn, là rắc rối. Băng kêu răng rắc. Làm được một cái cầu trên chỗ sụt là hàng bốn chục ca-mi-ông kéo đến. Thế là băng bắt đầu sụt, kéo thêm tất cả cái gì ở trên nó; nước vọt ra từ khắp nơi vào bánh xe, có cái ca-mi-ông tự động tuột vào hố, chìm xuông, mất hút... Có khi, bọn Đức nhòm thấy. Chúng bắn vào cả đống. Thật là đủ...

        Họ đi đến Kô-bôn. Giữa mươi lăm cái nhà gỗ thông, một nhà thờ sừng sững trên bờ con kênh cổ - Kru-gô-la-đô-ga -  nhà thờ kiểu đời xưa với những bầu cây xanh và những nhà làm bằng gỗ để nguyên cây đầy rêu. Nhà làm to như mọi nhà ở phương bắc, nhà dưới rất cao trong đó để các đồ vật đánh cá, đồ đóng ngựa và khoai tây. Ca-mi-ông đi vào cầu, vượt con kênh, và Lu-nin bỗng nhiên thấy từng núi hòm và bao tải lấm tấm tuyết, vải bạt che không kín, cao vượt cả nóc nhà, gần ngang vói mức nhà thờ. Tất nhiên làm gì có kho ở Kô-bôn, và lương thực tích trữ ở đấy phải để ngoài trời đợi chuyến vượt qua hồ. "Đây là cái mà bọn Đức sẽ oanh tạc một khi chúng có đủ máy bay" Lu-nin nghĩ thầm.

        Ca-mi-ông ngoặt ở góc, lao một ngọn đồi cuối cùng, và Lu-nin  nhìn thấy toàn bộ chiều rộng của hồ, với con đường xuyên qua. Anh nheo mắt lại vì cái màu trắng xóa dưới ánh mặt trời không thể nào chịu được. Con đường cũng dễ nhận được, vì cái đoàn ca-mi-ông kéo dài đến xa tít. Xe của Lu-nin xuống một cái dốc thoải vượt qua đường giới hạn và từ đó là băng.

        Con đường rộng khoảng năm mươi thước, rất phẳng và hai bên, có những con chạch cao một thước đắp bằng băng tảng để bảo vệ cho đường khỏi tuyết đọng. Tuy khi đi qua rừng, gió có vẻ nhẹ. Nhưng, ở đây, thì gió thổi không ngừng làm bốc khói từ những tảng băng khổng lồ đầy hai bên đường. Cái hơi bốc trông như pha lê ấy rực rỡ ngàn ánh lửa, vượt qua ngọn con chạch băng từng làn óng ánh, và đọng lại trên đường thành băng vụn ngập bánh xe. Chỗ nào tuyết trở ngại đến giao thông thì các đồng chí bộ đội mặc áo da lông xúc tuyết bằng xẻng. Nhiều người làm việc giữ gìn con đường. Cứ hai hoặc ba cây số lại có một nhân viên giao thông, hệt như ở các ngã tư thành phố. Các pháo thủ đi đi lại lại gần những cỗ cao xạ sơn trắng. Công binh chữa con chạch. Một đại đội súng máy mặc áo quàng trắng đi hàng một ngang qua đường và dấn vào bãi băng đầy tuyết, đi về phía Nam. Tất cả những người này sống ở đâu, ăn ngủ ở đâu? Tránh lạnh, tránh gió ở đâu? Trên lớp băng này sao? Có thể thế được không?

        Người lái xe chỉ:

        - Lều vải kia.

        Lu-nin chắc không nhận ra được, nếu không có ai chỉ, vì lẫn vào ánh đống băng. Nhưng, một khi đã để ý thì cũng dễ nhận thấy, vì cái hình cong cong, những lối đi tụ vào, và những làn khói trong đó bốc ra.

        - Vì không đào được hầm, thì đấy là cách họ sống qua mùa đông.

        - Làm thế nào mà họ ngủ được? Ngủ ngay trên băng à?

        - Không! Trên cành tùng. Dưới mỗi lều vải, đều trải cành tùng xuống mặt băng. Khi mà lò sưởi còn cháy, thì ở đó ấm lắm, có khi nóng nữa, nếu không có gió quá lớn.

        - Lò sưởi không làm tan băng à?

        - Vì thế nên mới phải đế cành cây, nếu không thì đầy nước. Tôi ngủ đêm ớ đó mỗi khi có bão. Trong một số lều, có thể lĩnh xăng cho đầy bình, có cả sửa chữa xe nữa. Họ nghĩ đến đủ mọi cái. Phục nhất, vẫn là những trạm cứu thương. Đó là những trạm đầu tiên dựng lên chờ để cứu những người đi bộ bị cóng lạnh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Hai, 2019, 11:16:05 pm

        - Đi bộ?

        - Thời kỳ đầu, hàng đống người từ Lê-nin-grát đi bộ ra. Chỉ hơi trông thấy đường vì tuyết phủ kín. Trời âm u, chỉ có ba giờ trong hai mươi tư giờ là có ánh sáng. Rất dễ lạc. Những người đi lạc đường trước hết quanh đi quẩn lại theo đường vòng tròn, sau rốt nằm xuống, và thế là hết. Những tay cáng đêm đêm đi tìm họ và cáng về lều sưởi cho họ nóng lại. Tôi biết một tay cáng phụ nữ người bé nhỏ, vững chắc, có đêm chị ta đem về được mười hai người. Sau khi đã cõng được người về thì chị đặt bên lò sưởi, rồi lại lập tức ra đi trong gió bão cho đến khi tìm được người khác. Chị vẫn ở đây. Tôi trông thấy chị ta cách đây không lâu, một cô gái dũng cảm, bé nhỏ, nhưng vững chắc...

        Ngay đằng trước, Lu-nin thấy một ca-mi-ông đầy những tảng thịt cừu ướp lạnh. Trên màu tuyết, thịt có những sắc tim tím rất lạ. Cái ca-mi-ông đó đôi khi đi trước được vài ba trăm thước, rồi lại bị đuổi kịp, và cứ nhìn nó Lu-nin đâm buồn ngủ. Người lái xe không nói gì nữa và nhìn con đường im phăng phắc. Lu-nin phải khó khăn lắm mới giữ được mắt mở. Chân phải của anh bắt đầu tê vì lạnh và chắc cũng vì vướng cái bao không để chân được thoải mái. Anh thấy phải xoay bao đi mới duỗi được cẳng, nhưng anh không muốn động đậy tí nào, chẳng thà chịu đau.

        Cửa xe thình lình mó đến ầm, và một luồng không khí lạnh ào vào ca-bin. Choàng dậy, Lu-nin thấy ngưồi lái xe tay không rời lái, cũng chẳng đõ xe, thò đầu ra ngoài để xem trời. Ngay lúc đó, anh nghe thấy tiếng máy bay. Người lái xe nói:

        - Máy bay ta.

        Nghe tiếng máy bay Lu-nin cũng đã biết rồi.

        Bóng máy bay cắt ngang đường và đi xa về phía tay phải. Lu-nin cũng mở cửa để nhìn. Sáu khu trục lấp loáng dưới mặt đất, và trong bầu trời lạnh ngắt, để lại những luồng hơi trắng: Prôt-cua-ri-a-kốp và trung đoàn của anh. Bỗng nhiên, Lu-nin cảm thấy một ước muốn không thể kìm nổi, là được ở trên cao lộng gió kia với họ. Buồn thực, anh đóng cửa xe đến thình.

        Anh hỏi:

        - Bọn Đức oanh tạc phải không?

        - Chứ còn gì nữa? Đồng chí nhìn coi cái miệng phễu này!

        Lu-nin nhìn thấy một lỗ khoét trong băng. Anh nhớ là đã qua nhiều cái như thế ở dọc đường và lấy làm lạ: ngay những bom nhỏ của Mét-séc-mít-110 cũng phải để lại những miệng phễu lớn hơn nhiều. Người lái xe cắt nghĩa:

        - Bom thì không đáng sợ. Trên băng, chúng không quá nguy hiểm: chúng làm thành một lỗ rồi chìm thẳng xuống: đồng chí nhìn xem có phải cái miệng phễu cũng nhỏ. Ngay nếu bom bỏ từ trước, thì cũng không có mảnh văng nhiều. Có cái không khoái lắm, là khi bị bọn Mét-séc-mít nó bắn. Chúng tìm chỗ nào có nhiều ca-mi-ông nhất, chúng bắn vào xe đầu, bắt xe đứng lại bằng cách đốt cháy xe, bắn chết lái xe hoặc bắt buộc lái xe phải ra khỏi ca-bin. Khi xe đầu đã dừng lại, thì tha hồ mà ùn, và chiếc Mét-séc-mít tha hồ bắn vào cả đông. Mọi người đều phải bỏ xe. Nhưng mặt băng, nó phăng như bàn tay tôi này, không có xó nào mà ẩn được.

        - Thế thì cũng gay nhỉ. Ca-mi-ông có hay bị bắn không?

        - Thời kỳ đầư thì có đấy. Bây giờ ít hơn. Chúng thực tình bắt đầu sợ không quân của ta. Còn pháo, thì thường bắn. Trời quang, thì qua ống nhòm chúng nhìn rất rõ mọi hoạt động trên đường. Khi không có bão, thì chắc chắn là luôn luôn bị chúng dội.

        - Thế có nghĩa là hôm nay chúng ta gặp may. Không có bão mà chúng lại không bắn vào mình.

        - Đừng nói vậy! - Người lái xe trịnh trọng nói. - Chưa đến nửa đường mà.

        Cái ca-mi-ông chở thịt cừu, nhẹ hơn, luôn tìm cách đi trước, nhưng vì bị những cầu bắc qua hố ngăn trở nên lần nào cũng bị đuổi kịp. Hố thì nhiều, và từ xa người ta đã đoán được chúng do những cuộn khói bốc khỏi mặt nước. Lạnh như hôm nay, cái nước đó là một ấn tượng lạ, và người ta không tưởng tượng được rằng cái khối băng dày như vậy lại có thể bỗng nhiên nứt ra được. Dưới vỏ băng cứng, nước hồ vẫn lồng lộn, hình như bộ áo giáp chật quá làm nó giận dữ muốn xé ra.

        Những cầu thường làm bằng gỗ còn nguyên cây. Lu-nin để ý sự cấu tạo của chúng. Một đầu khúc cây thì vít xuống băng, còn đầu kia để tự do, chắc là để cho cái hố khi nhỏ đi hoặc to ra không làm gẫy cầu. Ca-mi-ông thận trọng lăn trên mặt ván rung rinh bắc cheo leo trên nước đen ngòm bốc khói.

        Lu-nin không buồn ngủ nữa. Đôi chân tê dại khó chịu và anh ngọ nguậy không ngừng. Nhưng chân đau cũng không bằng cái sốt ruột muốn tới nơi. Cũng như bất cứ người lữ hành nào đã đi được đoạn đường, anh ham xem đường nữa, và tập trung ý nghĩ vào lúc đến. Sau bao năm, anh sẽ lên cầu thang vào trong nhà, và có lẽ sẽ biết cái mà anh sợ phải biết, tuy rất nóng lòng muốn biết.

        Thình lình anh nghe thấy tiếng rú quen thuộc của đạn đại bác dội tới, và chỉ còn cảm thấy bực dọc vì mình đã đi chậm.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Hai, 2019, 10:49:00 am

        Tuy đã dầy dạn từ lâu, người lái xe cũng hơi tái mặt, và do đó những vết đầu nhọ nhem trên má cũng rõ thêm.

        - Nếu mình bị một phát vào đằng sau, thì Lê-nin-grát cũng nghe tiếng, - anh nói và cười một cách lo ngại. - Kể về âm nhạc thì tha hồ mà hưởng.

        Anh dận hết ga. Những tiếng đạn rít thưa thớt, rời rạc. Nhưng tiếng nổ thì như làm vỡ cả một bể không khí dưới vòm trời xanh.

        - "Đồ khốn! Hôm nay chúng nó giở trò” - Giọng người lái xe thắt lại - "Hơi dài quá, ngắn quá, dài quá, ngắn quá... Mình bị mắc vào dĩa".

        Cái tiếng chuyên môn đó đối với anh như có phép ma! Thực ra, những tiếng nổ mau thêm. Anh chuyển máy sang số 4. Không may, con đường cho đến đây vẫn phẳng, thì bây giờ đầy ổ gà, ca-mi-ông nhảy chồm chồm rít lên cứ mỗi vòng bánh lại rung chuyển cả toàn thân xe. Đạn xếp ở sau xe va vào nhau loảng xoảng. Cái xe chạy đằng trước lao hết tốc lực, gặp ổ gà thì chồm lên, và những tảng thịt cừu lại nhảy theo. Người lái xe nói:

        - Đúng cây số 9! Không gặp may. Có thể không qua nổi!

        - Cây số 9 là thế nào?

        - Nơi có những hố lớn nhất. Không có chỗ nào trên hồ lại khổ hơn.

        Thực thì Lu-nin cũng nhìn thấy ở mọi chỗ dấu hiệu cuộc vật lộn gay go với những mạch nước thẩm lậu. Bị lắc quá như thế này, chính là vì nước mỗi khi tràn qua băng, thì lại đông cứng lại thành bướu, ở chỗ này, con đường chắc đã bị uốn nhiều lần: còn nhận thấy loằng ngoằng những lối đi và chỗ ngoặt trước đã bỏ.

        Đạn đại bác tiếp tục rơi mỗi lúc một gần, mà ca-mi- ông thì tiến hết sức chậm. Các tảng thịt cừu của ca-mi- ông đi trước lác lư ngay trước mũi xe, và chắn cả tầm mắt. Người lái xe định vượt. Nhưng, xa hơn chút, một đoàn ca-mi-ông đang bò trên những chiếc cầu chật hẹp làm bằng thân cây, bắc trên các nhánh một con hào dài ngoằn ngoèo. Và khi một xe trước còn núng nính, dù một cách thận trọng trên mặt ván rung rinh, thì những cái khác phải đợi.

        Có khi cả đoàn phải ngừng hẳn lại. Không tắt máy, các đồng chí lái xe từ ca-bin xuống, gọi nhau và duỗi cẳng cho khỏi tê. Trước các bạn, người lái xe của Lu-nin ra cái bộ phớt lạnh với oanh tạc, ngáp với vẻ mặt chán chường khi một quả đại bác nổ ngay gần. Rồi xe lại đi.

        Lu-nin tưởng những trắc trở đó đã hết thì một luồng khói đen dày dặc bốc ngay đằng trước mắt.

        - Trúng rồi! - Ngitời lái xe nói, mặt tái nhợt.

        Nặng và có mùi đầu, khói cuộn xoáy trước gió, toả trên tuyết hai bên như cái đuôi ngựa và che lấp cả chân trời.

        - Một chiếc ca-mi-ông đầu. Chúng nã trúng giữa.

        Các xe ca-mi-ông không dám đi gần đám cháy. Thoạt tiên, họ đỗ lại, rồi, từng cái một, đi ra khỏi đường về phía phải, và lết bánh trên tuyết khô, gắng đi vòng tránh cái xe đang bốc lửa: Xe đi rất chậm, tuy năm quả đại bác nổ ngay cạnh. Rồi lại vào đường. Đương lại nhẵn, không có nước không có hố. Xe lao thẳng.

        Bọn Đức đã ngừng bắn, hay lại bắn vào khu vực khác? Lu-nin đã thấy thẳng trước mặt, cái mép rừng xanh mồi lúc một rõ. Anh nhận thấy ngay trên ngọn cây, đèn pha Ôt-si-nô-vét rnà anh đã nhìn thấy lần thứ nhất khi phi đội bay trên hồ. Đôi chân tê dại, đau nhừ. Anh không ngừng ngọ nguậy nhưng cũng không quá chú ý đến nó lắm, vì tâm trí còn mong đến cho nhanh.

        Rốt cuộc họ cũng leo đến bờ hồ và bon trên bóng in rập rờn xanh của hàng tùng. Một thị trấn vô tô chức với những dãy lán tạm thời, đã mọc lên trên bò hồ. Lu-nin nghe tiếng còi tầu: một đoàn tầu hàng đỗ trên đê. Cũng như ở Kô-bôn, từng núi bao tải và hòm dưới vải bạt nằm đợi lương thực mà các ca-mi-ông tải đến. Từ đó, lương thục được đưa đến ga Phần Lan bằng xe lửa.

        Từ đây đến Lê-nin-grát, chỉ còn chừng bốn mươi cây số nhưng người lái xe dừng lại:

        - Ta nghỉ một tí.

        Chừng một tá ca-mi-ông đầy hàng, trên tuyết đã cứng lại vì sức bánh xe, nằm đợi trước một dãy lán bằng ván ghép vội. Khói phun ra từ các ông tôn chọc dựng đứng khỏi mái nhà. Chậm trễ như thế này làm Lu-nin ngao ngán. Nhưng được sưởi ấm cũng khá hấp dẫn.

        - Nhưng dừng quá lâu nhé, - Anh nói và theo người lái xe vào trong lán.

        Một bức vách nửa vời ngăn nhà ra hai căn. Trong căn thứ nhất rộng rãi, ba lò sưởi gang đang reo. Một luồng hơi nóng ấm áp phả vào mặt Lu-nin, và anh cảm thấy như sống lại. Các đồng chí lái xe, kẻ đứng người ngồi, ngây người quanh lò sưởi. Nước nấu trong thùng, trong các ấm lớn tướng. Một luồng hơi nóng bỏng bốc lên trần. Và họ uống từng ca nước nóng một cách khoan khoái, nắm giữa các ngón tay đen sì những lát bánh lạnh cứng.

        - Sắp sửa ăn đấy. - Người lái xe mời Lu-nin. - Đồng chí thiếu tá, đồng chí ngồi xuống.

        Những người khác chắc đều đã quen với anh đã lâu: anh tán chuyện với họ, vừa nói vừa rút từ cái túi quần bông ra một con cá sấy lớn bọc trong một mẩu báo và để cá xuống một chiếc ghế dài để sửa soạn bữa ăn.

        Một người từ căn trong bước ra, chắc là một đồng chí lái xe nói khẽ mấy tiếng mà Lu-nin không nghe thấy. Mọi người im lặng. Người nọ sau người kia, các đồng chí lái xe đi vào sau bức vách. Người lái xe của Lu-nin cũng đi, để cá trên ghế. Lu-nin còn lại một mình.

        Hơi ấm làm chân anh càng đau hơn. Anh tụt đôi bốt lông, sửa lại bít tất và muôn cho đỡ đau, anh đi lại đợi quanh lò sưởi.

        Người lái xe trở ra và khẽ nói:

        - Chị ấy chết rồi.

        - Ai vậy? - Lu-nin hỏi.

        - Vợ đồng chí đại uý... một đại uý ở quân đoàn Von- khôp đi Lê-nin-grát công tác và đem vợ ra. Đem được đến hồ, nhưng chị ấy đã gần chết. Đồng chí ở với vợ hai ngày trong cái lán này. Đồng chí cố bón cho chị ăn, nhưng cơ thể đã không thể tiêu được nữa. Chị đã chết.

        - Bây giờ ta làm gì?

        Người lái xe lắc đầu, và nhìn con cá, vẻ gượng gạo.

        - Đồng chí thiếu tá có đói không? Tôi cũng hết đói. Không thể nuốt được. Cứ đến đây, là không bao giờ nuốt được. Mỗi khi tôi qua hồ, là hết muốn đói.

        Anh bọc cá vào giấy báo và nhét vào túi.

        - Đi chứ?

        - Đồng ý.

        Họ ra khỏi lán.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Hai, 2019, 11:34:21 pm

IV

        Lu-nin vào thành phố bằng ngả Rơ-jê-vơ-ka, O-khơ-ta, phố Vi-boóc, nhà máy Sta-lin và ga Phần Lan. Qua sông Nê-va trên cầu Li-tê-i-ni. Mặt trời chưa lặn và những tia sáng cuối cùng nhuộm hồng những tòa nhà to lớn. Lu-nin mải miết ngắm các khu phố đầy tuyết, đường đi gần như không còn trông thấy, ngắm các khung nhà bị phá hủy. Không ôtô, không ngựa, không có xe điện, không có cả một con quạ. Anh tưởng đến những thành thị bị chìm đắm trong những cuốn truyện trẻ con. Những người đi đường hết sức thưa thớt càng làm tăng cảm giác đó: họ lê từng bước cũng khó nhọc như đi trong nước ngược dòng.

        Qua cầu Li-tê-i-ni, là cái phố mà Lu-nin quen thuộc nhất. Trước khi cưới, Li-da ở mé này, trên Mô-khô-vai-a. Đã bao lần Lu-nin đi với nàng trên những đường phố này, đưa nàng về tận cửa. Anh bàng hoàng khi từ trên cầu nhìn thây đồi Li-tê-i-ni bầy ra trước mắt. Mùa hè năm ấy đã bao lần anh leo nó, đã bao lần anh nhìn những mái nhà này, cái phố thẳng tắp đến chân trời. Anh chưa hề tưởng tượng được những cái đó lại xáo lộn đầu óc anh đến thế này. Lu-nin đến các ngả đường mà anh thuộc nhất, ở góc phố Pê-sten, anh đề nghị người lái xe đỗ lại.

        Người lái xe xuống, giúp anh đeo bao lên vai, và thân ái chào anh. Đôi chân tê buốt của Lu-nin đã dại đi vì cái thế nằm im lâu. Bước chân lảo đảo, anh chậm chạp đi vào phô Pé-sten trên cái lối đi hẹp dọc theo mặt trước các nhà. Khi anh gặp người đi đường, phần đông là đàn bà, còng hẳn người xuống, mặt lấp trong cái khăn len, chỉ còn vừa đủ sức lết trong đôi ủng dã phải rạch bằng dao cạo - anh rón rén tránh những bước họ, và dẫm ngập chân vào tuyết... Sau cái mặt kính này, trước đây là một cửa hàng hoa... Rồi nhà bào chế Túp... Anh nhớ cái biển hàng làm sao! Tim anh đập mạnh đến nỗi anh phải đứng lại một lát.

        Anh đến gần ngã tư nơi phố Pê-sten chọc qua Mó-khơ- vai-a và bỗng nhìn thấy một góc ngã tư đã bị sạt bom, như cắt bằng dao cạo. Bốn tầng gác ở góc đó đã bị phanh ra: buồng dán giấy mầu, bàn đầy tuyết, tủ, gương, "Bom nổ ngay gần nhà Li-da". Anh lo lắng. "Chỉ cách hai hay ba nhà". Anh rẽ bên phải và nhìn thấy ngay nhà.

        Đầư tiên, chảng thấy gì thay đổi: cái mặt trước màu tro buồn buồn của dãy nhà năm tầng với những đường gờ đen sạm. Cửa vào... Anh nhớ lại cái mùi bụi chua chưa, cái lớp kính màu ánh sáng đục mà những hình người dũng sỹ đời xưa đã làm cho con người tỉnh nhỏ của anh ngẩn ra mà ngắm nghía.

        Anh đi thêm vài bước và đứng lại bàng hoàng. Sao anh lại không thấy ngay là các cửa sổ đâu còn kính?

        Cố bám lấy hy vọng, anh rảo bước. Nhưng nhà chỉ còn bộ xương: không mái, không trần - như một hạt dẻ rỗng. Qua các cửa sổ không kính, thấy một đống nhằng nhịt những xà nhà đã bửa ra và vặn vẹo.

        Không còn hy vọng gì tìm thấy bà mẹ Li-da. Lu-nin, lần đầu tiên, mối thấy rõ cái hết sức mong muốn được gặp bà, mặc dù, anh sợ cuộc gặp gỡ... Bà là người duy nhất có thể cho anh tin tức... Trong thâm tâm, tuy không hề dám tự thú vói mình, anh còn vẫn nuôi hy vọng là Li-da đã trở về nhà.

        Trĩu người dưới bao nặng, anh suy nghĩ trước ngôi nhà bị phá hủy. Nó có thể cho anh biết bà ra sao? Nhưng hỏi ai? Nhà đã bị phá hủy lâu rồi, chắc từ tháng chín. Và Mô- khơ-vai-a bị phá hủy đến mức nào? Không một cửa số còn nguyên vẹn... Không một người ở... Không một người ngoài đường phố... Không một tiếng động.

        Mặt trời lặn. và ánh sáng hoàng hôn mùa đông xanh ngắt giữa các nhà, tuy nền trời còn sáng. Lu-nin bước chậm chạp trở lại. Anh không biết là đi đâu. Cái ý định duy nhất tìm Li-da đã tan vỡ. Không bao giờ anh còn được biết gì nửa.

        Đến phô Pê-sten, anh rẽ ra mé Fông-tăng-ka như một cái máy, và một lối đi hẹp giữa những đống băng đưa anh đến bờ sông. Anh đứng lại.

        Anh không còn chú ý đến bao nặng. Bên kia Fông-tăng- ka, là Vườn mùa hè. Trong bóng tối ngày một dầy, vẫn trông thấy các khẩu cao xạ giữa những cây trụi lá.

        Anh im lặng nhìn. Bỗng một người đàn bà nhỏ xíu đi ngang. Tuy lạnh, nhưng măng-tô của chị không cài cúc, và cái khăn len chỉ là đặt hò trên tóc.

        Anh chỉ trông thấy mặt trong một khoảnh khắc - khuôn mặt gầy guộc, môi tái nhợt và mím lại, da hắt lại những vệt xanh. Cái thương tâm nhất là qua đôi mắt: người ta thấy cả một sự chịu đựng khủng khiếp.

        Chị đi ra xa, dọc theo bờ sông, và anh không rời được mắt. Chị có vẻ rất vội, có thể nói là chị đi trốn cái gì, nhưng đôi chân mang ủng sẫm không theo ý chị nữa. Chị gắng không rời mặt trước dãy nhà và thỉnh thoảng lại bám vào để đứng được vững. Chị ngã xuống tuyết, đứng dậy, đi hai, ha bước, lại ngã, lại đứng dậy...

        Lu-nin chạy lại, thở hồng hộc dưới bao nặng:

        - Khoan một tí.

        Chị không nghe thấy và vẫn đi không ngoái cổ lại. Khoảng cách ngắn đi mau chóng.

        - Xin lỗi chị.

        Chị lảo đảo đứng lại, ngước nhìn anh bằng một con mắt đã hết tinh thần, và lại đi.

        - Chị khoan một tí! - Anh cầm lấy tay.

        Chị đứng lại. Anh để rơi bao xuống tuyết, và không nghĩ ngợi, cởi nút rất nhanh, như sợ chị lại đi nữa.

        - Có lẽ đã lâu chị không ăn. - Anh ấp úng nói, vừa cô mở nút dây bằng các ngón tay đã tê dại.

        Chị như không hiểu và nhìn anh với cái vẻ thản nhiên đau đớn.

        Cái nút mở được. Anh vùi hai tay vào bao và gặp cái gì thì rút ra cái nấy. Anh đưa chị miếng bánh mì:

        - Chị cầm lấy.

         Trông thấy bánh, mặt chị run lên, môi hé dần, và một tia sợ hãi hiện lên đôi mắt. Chị hơi lùi lại.

        - Chị cầm lấy đi! - Anh để bánh vào tay chị.

        - Cho tôi à? - Chị hỏi, vẻ không tin.

        - Chứ sao? - Lòng anh đầy thương cảm trước đôi tay chỉ còn da bọc xương.

        Mắt chị nhìn bánh, lại nhìn Lu-nin.

        - Tại sao đồng chí cho tôi?

        - Tôi không cần đến, - Anh ấp úng... - Tôi đi qua đây và lại đi ngay... tôi có đủ cái cần thiết.

        Một dòng nước mắt trào ra khoé mắt người đàn bà. Trước khi anh kịp hiểu, chị khuỵu xuống trước anh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Hai, 2019, 11:42:46 pm
     
        Thật quá sức anh chịu nổi. Hoảng hốt, anh nâng chị dậy.

        - Tôi còn biếu chị nữa! - Anh nhét một hộp thịt vào túi măng-tô của người lạ mặt. - Nhưng chị ăn đi chứ? Sao chị không ăn? - Cảm xúc làm anh lúng túng - Chị ăn một miếng, sẽ dễ chịu ngay. Tôi còn biếu chị nữa, tôi còn nhiều...

        Chị nhét chiếc bánh vào trong măng-tô và lác đầu.

        - Tại sao?

        - Còn các cháu ...

        - Mấy cháu?

        - Hai.

        - Thế chị đi đâu?

        - Tôi đi... Tôi không còn gì cho các cháu ăn nữa.

        Lu-nin cúi xuống buộc bao, và nhắc bông lên vai:

        - Chúng ta về nhà! Chị chỉ đường cho tôi.

        Anh bước vội. Chị không theo kịp tuy cố chạy. Và anh phải ngừng lại đợi. Khi chị sắp ngã, thì anh lại phải đỡ lấy khuỷu tay. Họ trở lại phố Pê-sten, đi theo phố đến đồi Li- tê-ni-i và sang bên kia hè. Đêm xuống mau. Họ đi qua một khoảng vắng trên một lối nhỏ, tuyết sào sạo dưới chân. Mé sau lờ mờ thấy bóng trắng chiếc nhà thờ lớn, xung quanh là hàng giậu găng. Họ vượt ngang qua và rẽ vào phố Mai- a-kốp-ski, bên phải.

        - Đến rồi chứ?

        - Ngay đây rồi, - chị nói gần như không ra tiếng.

        Sự đau đớn của người lớn, cả đến cái chết của họ, anh còn có thể chịu đựng được, nhưng cái khổ của trẻ con thì anh chịu không nổi. Họ đi vào trong sân, "chị đã đi một chặng đường, liệu chúng còn sống không?"

        - Ở đây?... Hay trên kia?... - Anh hỏi trong khi trèo một cầu thang lạ trong bóng tối.

        Kiệt sức vì cố gắng quá, chị không trả lời nổi. Anh đợi ở cầu thang. Gần như không trông rõ người trong bóng tối và ôm cái bánh sát vào lòng, chị cố mãi cũng đến kịp anh rồi đẩy cửa.

        Anh theo sau. Rèm che tối om, và cũng không ấm gì hơn ngoài thang gác. Anh dò theo tiếng chân người đàn bà. Họ còn qua một ngẫng cửa. Bên trong, vẫn không ấm gì hơn. Anh đụng đầu gối đến xoảng vào một cái lò sưởi gang nhỏ. Chắc là đến rồi. Anh bỏ bao xuống và tìm cái đèn bấm trong túi.

        Một vòng ánh sáng tròn nhỏ mầu vàng chạy trên tường. Buồng như trông rỗng: không bàn, không ghế, không tủ. Người đàn bà đi đâu rồi? Anh nghe tiếng vải sột soạt nhẹ, chiếu sáng vào mé đó và thấy chị cúi xuống một cái giường to.

        Hai cái đầu nhỏ trùm khăn kín nằm trên gối. Chị rơi cả mình xuống ngay giường, lấy thân ấp lấy các con.

        Đứng im, nín thở, anh nhìn mặt chúng. Còn sống không? Chỉ có cái mũi thò ra ngoài khăn, nhưng cũng thấy được là có một đứa con gái, đứa chị và thằng bé em. Chúng còn thở không? Ánh sáng đèn bỗng làm đứa chị nhăn mặt và mở mắt.

        Một phút sau, nó đã ngồi dậy và lấy ngón tay lều nghều đưa từng miếng nhỏ ruột bánh lạnh cứng lên mồm. Ở một góc nhà, ngay dưới sàn - vì kliòng còn đồ đạc gì ngoài cái giường - một sợi bấc cháy trong cái lọ, vì ánh sáng lờ mờ phản chiếu trong mắt đứa bé gái. Thằng em bé còn sống, nhưng không làm nó tỉnh lại được. Người mẹ để một một miếng bánh nhỏ vào mồm nó, nhưng nó có vẻ thản nhiên không nuốt. Những phút vô cùng đau đớn. Bỗng nhiên, hàm nó động đậy.

        - Nó nhai, nó nhai! - Lu-nin reo lên. - Chị nhìn này: nó nuốt!

        Anh tìm vài tờ báo, giở ra trên sàn cạnh ngọn đèn, và bầy ra tất cả những các thứ đựng trong bao: một chiếc bánh mì lớn, nhiều bánh mì nhỏ, rồi nào bánh bít-cốt, nào hộp thịt bằng sắt tây, cá sấy, đường, bánh bột gạo. Sợ còn quên cái gì, anh rũ bao, lộn trái bao ra.

        Anh nghĩ bụng: "Bánh đối với họ chưa đủ. Phải có xúp, xúp đặc. Phải nấu cho họ".

        Tôi có thể đem một mẩu xuống bếp được không? Cho bà cụ... Có một bà cụ nằm ở đó.

        - Bà cụ sinh ra chị phải không?

        - Không. Bà cụ hàng xóm... Có được không?

        - Được chứ! Của chị tất cả đấy. Chị muốn làm gì thì làm...

        Chị đi xuống bếp. Trên sàn, gần cái máy khâu, có một cái rìu. Chủ yếu bây giờ là làm sao cho họ ấm áp. Tay cầm rìu, và soi đường bằng cái đèn bấm, anh ra ngoài nhà, cũng chẳng biết tìm củi ở đâu, nhưng chắc cũng sẽ tìm được, vì cái lòng muốn tận tâm giúp đỡ người mẹ và lũ trẻ, những người mà dù thế nào cũng phải cho ăn, cho ấm và cứu sống lại.

        Đêm, anh không buồn ngủ và ngồi thức trên sàn, cạnh lửa, cằm tì trên đầu gối. Một hơi ấm êm đềm tràn ngập căn buồng, và cái lò đỏ lửa, luôn ngốn những thanh củi nhỏ vứt vào. Anh đã làm hết khả năng: trong một càn nhà bỏ trống, anh đã tìm được mấy cái ghế dài, mấy cái giá làm củi; anh đã nấu một xoong lớn xúp đặc có mỡ và cho mọi người ăn, bón cả cho thằng nhỏ. Nó vẫn chưa tỉnh hẳn và phái đổ bàng thìa. Người mẹ và lũ trẻ bảy giờ ngủ trên giường. Ngồi trên cái áo da lông, anh nghe họ thở.

        Anh quá xúc động, không muốn ngủ để mất cái sung sướng ngắm họ no và sống. Ngay giờ phải đi rồi. Những thức ăn đó lại đủ cho họ sống mấy ngay. Rồi sau ra sao?

        - Đồng chí tên là gì? - Bỗng nhiên có tiếng hỏi.

        Anh giật mình. Người đàn bà này đã dậy. Anh quay đầu lại. Có lẽ chị đã thức từ lâu. Nhưng tối quá, anh chẳng nhìn thấy gì.

        - Công-stăng-tanh I-nha-ti-ê-vit- - Anh trả lời.

        Im lặng hồi lâu anh hỏi:

        - Thế tên chị?

        - Ma-sa.

        Chị im lặng. Chắc là ngủ lại. Anh không dám hỏi nữa.

        Làm sao mà anh bỏ họ ra đi được?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Hai, 2019, 12:46:59 am

V

        Anh ngủ lúc nào không biết, co quắp trong l ái áo da lông. Mệt mỏi vì đi, và vì lạnh, anh ngủ thăng một giấc và dậy trưa.

        Sau cứa sổ đóng băng, bên ngoài dà sáng rõ và một ánh nắng mùa đông tràn ngạp dầy buồng. Cái ấm nước đang sôi trên lò sưởi. Lu-nin thoạt tiên ngạc nhiên sao mình lại ờ đây, rối anh ngượng: anh đã nằm ngủ giữa nhà.

        Lũ trẻ ở trên giường nhìn anh. Thằng bé con cũng đã tỉnh. Mẹ chúng đã bỏ khăn cho chúng, vì cũng ấm. Chúng không nằm nữa, mà ngồi giữa những cái gối như con chim non trong tổ. Tay chúng gầy còm không thể tưởng tượng được. Đứng bên cửa sổ, người mẹ im lặng nhìn Lu-nin. Trên ngưỡng cửa, một bà cụ già đang chăm chú ngắm anh. Anh vừa dậy thì cụ tức thì biến mất và đóng cửa lại.

        Mọi người chắc đợi anh dậy từ lâu. Họ chưa động đến các thức ăn.

        - Thế nào, ăn sáng chứ? - Anh nói và cười.

        Một phút sau, mọi người uống nước đường nóng và ăn bánh. Súp đặc nấu trong cà mèn. Và Lu-nin lại thấy cái vui đêm qua.

        Người đàn bà nói chuyện với anh như với một người bạn thân. Chị kể là thằng bé không nói được đã mấy ngày, nay lại bắt đầu nói chuyện.

        - Sê-ri-ô-gia, con có yêu bác không?

        Mồm đầy thức ăn, thằng bé bẽn lẽn cười và quay đầu đi. Cổ nó như sợi chì.

        - Bác là ai nào? - Lu-nin hỏi.

        - Thuỷ quân, - Lần này thằng bé Sê-ri-ô-gia trả lời và ngắm nghía cái lon vàng.

        Sau mấy thìa súp đặc, lũ trẻ lại ngủ: chúng yếu quá nên cứ ăn một lúc là lại buồn ngủ. Người mẹ và Lu-nin tiếp tục uống nước, anh ngồi dưới đất, chị ngồi trên mép giường.

        - Vì cái áo da lông che, nên hôm qua tôi không nhận được là đồng chí ở Thuỷ quân.

        Hình như chị muốn hỏi cái gì. Nhưng lại thay dối ý kiến. Anh đoán là chị muốn hỏi tin và hỏi ngay:

        - Thế bố các cháu dâu? - Anh hỏi khẽ và hất đầu chỉ lũ trẻ.

        - Bố cháu mất rồi.

        - Bị hy sinh?

        - Không. Chết bệnh từ trước chiến tranh.

        Anh đã đoán lầm. Nhưng rõ ràng là chị có vẻ muốn hỏi xem anh có gặp người chồng không?

        Chị kể cho nghe là chị làm giáo sư ở một trường đã dọn đi trong mùa hè qua, còn chị thì mắc lại ở Lê-nin-grát vì lúc đó còn đi đào công sự. Sau, chị làm việc trong một xưởng làm mũ ca-lô mùa đông cho bộ đội. Chị đưa cho xem mấy tá đã khâu xong. Nhưng câu chuyện chứng tỏ là đã từ lâu chị không bước chân đến xưởng, vì không còn đủ sức đạp máy may.

        Chị nói:

        - Hôm nay thì nhất định tôi lại đến. Đồng chí chỉ giúp tôi đem cái máy khâu ra cửa sổ. Bây giờ tôi đã ăn một chút, thì lại máy được. Tôi sẽ đi giao trả những ca-lô này và nhận việc mới.

        Lu-nin hoài nghi:

        - Nếu xưởng còn tồn tại mới được chứ.

        Chị cãi:

        - Nhất định là còn.

        Lu-nin vẫn hoài nghi:

        - Còn xem xem đã. Nếu chị không còn máy nổi, thì các bạn chị cũng thế vì cũng không có ăn như chị.

        - Tất nhiên, nhưng các chị đó không có cháu...

        - Vậy thì khác gì?

        Anh không nói hết câu. Anh bồng hiểu: ai không có con thì được ăn hết phần mình. Anh nghĩ:

        "Không thể bỏ họ được". Thật ra thì anh chỉ kéo dài cuộc sống của họ được mấy ngày. Anh đi, thì người mẹ sẽ chết, và lũ trẻ nữa... Anh nhìn mặt người đàn bà gầy guộc, tái nhợt hôm qua còn là người lạ và anh mới vừa quen biết. Và ý nghĩ rằng chị chắc chắn sẽ chết quá sức chịu đựng của anh. Anh mặc vội cái áo da lông.

        - Đồng chí đi ngay à?

        - Vâng.

        - Nhưng đồng chí không đi khỏi Lê-nin-grát chứ? Đồng chí lại trở lại chứ?

        - Tôi không biết khi nào rời Lê-nin-grát. Nhưng không quá ngày mai, khi tìm được chiếc ca-mi-ông nào cho đi. Tôi phải có mặt ở đơn vị vào ngày kia.

        - Có xa không?

        - Bên kia hồ.

        - Đúng như tôi nghĩ... Trước khi đi, đồng chí trở lại thăm chúng tôi nhé? Đồng chí trở lại nhé?

        - Nhất định có.

        - Chắc không?

        - Chắc lắm chứ.

        Anh đã đội mũ lông. Nhưng chị giữ tay áo ngoài, và anh không dám gỡ ra.

        Chị nói:

        - Tôi không cảm ơn đồng chí. Không một lời cảm ơn nào nói lên nỗi lòng tôi, nên tôi không cần nói cám ơn với đồng chí. Tôi biết là không phải vì cá nhân tôi mà đồng chí đã làm như vậy. Vì thế mà tôi đã nhận sự giúp đỡ của đồng chí.

        -  Chị cứ nói thế, chị Ma-sa...

        Chị ngước mắt nhìn anh. Nhưng anh không nói hết câu và đi ra.

        Bây giờ anh phải tìm ở mé cù lao Vát-si-li một người tên là Sa-ra-pốp ở phòng chính trị. Người đó sẽ giúp anh tìm một ca-mi-ông mà về. Ta-ra-rắc-xin đã dặn anh như vậy. A! Nếu cái ca-mi-ông có thể chở được cả người đàn bà này và lũ trẻ sang bên kia hồ nhỉ...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Hai, 2019, 10:56:42 pm

VI

        Lu-nin sốt sắng muốn thăm dò tin tức và tìm những phương sách cần thiết, như làm anh mọc thêm cánh. Phòng chính trị sư đoàn có đặt trong thành phố một tạm trú xá cho những sỹ quan đi công tác qua và đó là chỗ ở thưòng trực của Sa-ra-pốp. Trời lạnh và nắng như hôm qua, nhưng gió còn mạnh hơn... Lu-nin đi về phía mỏm Nê-vơ-ski, men dọc theo phố Mai-a-kốp-ski. Vì quá vắng vẻ nên phố trông như rộng ra.

        Đến góc phố Du-cốp-ski, có một cửa hàng bánh. Đứng giữa gió trước cái cửa khoá, những bóng người đen chen chúc nhau, chắc đã đợi xe bánh tới từ hàng giờ. Lu-nin vòng ra đằng đuôi, không dám nhìn họ và nín thỏ.

        Anh đi ra mỏm Nê-vơ-ski và theo con đường về dinh Thuỷ sư Đô đốc. Các tảng băng bốc khói trên mặt đường, cũng bốc mạnh như trên mặt hồ La-đô-ga, và các người qua đường biến trong cái màu trắng ấy. Mặt trời lạnh lẽo chiếu vào da tròi xanh nhợt và những toà nhà đẹp đẽ, giá lạnh.

        Thành phố bị vây phơi trước Lu-nin cái vẻ huy hoàng nghiêm nghị của nó. Trong cái thành phố làm mồi cho đói rét và bị thần chết đe dọa, không thấy một dấu vết của yếu đuối và sợ hãi. Trùm kín trong khăn, những người đàn bà mặt tái mét, gầy guộc vẫn có cái nhìn bình tĩnh vững vàng như các chiến sỹ gầy gò trong bộ áo da lông đứng các ngả đường chào Lu-nin. Và cái đó làm dịu lòng anh. Những con người đó không cần sự thương xót...

        Đầu ngọn đồi, trước dinh Thuỷ sư Đô đốc, đường rất trơn làm Lu-nin khó mới đứng vững: một cái vỏ băng bao lấy tuyết đọng. Anh nhận ra ngay nguyên nhân: mỗi lúc lại gặp những người đàn bà xách thùng, và nước sánh ra biến mặt đất thành một bãi trượt băng. Máy nước của thành phố đã không chạy được nữa.

        Kiệt sức vì mang nặng, cứ ba, bôn bước họ lại ngồi thụp xuống tuyết để thở. Lu-nin thoạt đầu lo họ không đứng dậy được nữa. Nhưng họ lại chống bừng hai tay hai chân, và chầm chậm vừa đứng lên vừa trượt trên băng rồi lại lê cái thùng đi xa hơn một chút.

        Chắc là chỗ đông người nhất ở Lê-nin-grát. Họ từ Nê- vơ-ski, từ Gô-rô-khô-vai-a. từ Vô-dơ-nét-săng-ski đến lấy nước. Men theo cái lối đi như trượt băng ấy, trong tiếng đụng thùng, tiếng nước vỗ, Lu-nin vòng quanh dinh Thuỷ sư về phía phải, đi theo một quãng rộng, ở đó gió cuốn lên từng cụm tuyết, và lên cầu.

        Sông Nê-va phơi ra trước mắt. Một màn hơi màu xanh, mặt trời chiếu óng ánh vàng bao phủ hết mặt sông, và cái anh nhận thấy đầu tiên là hai đám cháy cực lớn ở khu phố Pê-trô-grát. Trông thấy từ bên kia sông, hai tòa nhà lớn cháy liền nhau không xa cái cầu gần nhà Ngân hàng. Từng cột khói hung hung bốc sáng lên. Không để con mắt vào tai nạn đó, những người đàn bà chen chúc nhau thành đám đông, gần một bậc thang đá rộng đi xuống sóng.

        Lu-nin ra gần thành cầu đá và nhìn xuống: họ đứng quanh một cái hố đen lớn đào trong băng cách bờ sông chừng 15 thước, ở chỗ trơn nhất, họ đứng thành một dãy và chuyền tay nhau từng thùng. Thật, là một cuộc chiến đấu với nước, và trong cuộc chiến đấu ấy, những người đàn bà kiệt sức đã chiến thắng bằng sự tương trợ.

        Gần dứt hơi vì gió, Lu-nin qua cầu và đến cù lao Vát- si-li. Quãng này vắng vẻ nên tuyết phủ các phố như còn mới tinh. Sa-ra-pốp ở đâu đằng sau trường Đại học. Lu-nin  vòng quanh trường không gặp một người. Anh đi qua Thư viện của viện khoa học, qua những viện khác, qua những tòa nhà lớn, và lạc trong cái mớ nhỏ rối rít, không tìm được ai mà hỏi đường.

        Một tiếng ù ù quen thuộc làm anh giặt mình. Anh đứng sững lại.

        Một động cơ máy bay đang chạy. Nghe tiếng chạy giật, thì chắc là nắp hơi bị lệch. Chắc họ đang thử máy.

        Lu-nin ngẩng nhìn thấy một hàng giậu dài bàng ván đằng sau đó chạy dài những mái nhà thấp trắng xóa. Tiếng động ở trong đó. Một nhà máy chẳng? Hay các xưởng sửa chữa? Dù sao, trong cái thành phố bị vây không điện, không than, không bánh, người ta vẫn làm việc.

        Máy ngừng nổ.

        -  Chào bác...

        Lu-nin quay lại và thấy một thằng bé mặc áo lông đen, đi ủng, đội mũ lông bịt tai. Cái mặt gầy còm quá. Đôi mắt cách xa nhau nhìn Lu-nin với cái vẻ điềm tĩnh mà anh nhận ra ngay.

        - Sla-va! - Anh reo lên.

        - Đúng. - Thằng bé trả lời nghiêm chỉnh. - Cháu chạy theo bác từ đầu góc phố.

        - Cháu vẫn đi mót khoai chứ?

        - Thòi từ lâu. Bọn Đức không bắn vào đấy nữa. Chúng thường nã vào thành phố. Và tuyết cũng dày quá không móc được, nên cháu không đến.

        - Ông cháu thế nào? ở với ông có sướng không? Bác không quên đấy nhé, cháu xem.

        - Ông cháu chết rồi.

        - Chết rồi? Thế cháu còn một mình sao?

        - Không, còn chị cháu.

        - Củng tuổi cháu à?

        - Ồ không, đã lớn.

        - Cháu làm gì ở đây?

        - Cháu ở đây, ngay trong cái dãy nhà lớn mà bác tìm.

        - Sao cháu biết là nhà bác tìm?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Hai, 2019, 11:30:31 pm

        Sla-va phá lên cười:

        - Còn gì nữa! Cháu biết ngay là bác đi đâu. Bác đi, cháu dẫn. Không đi được một hàng hai người, vì lôi hẹp. Thằng bé chạy trước và luôn ngoái đầu lại.

        - Bác lại đi ngay hôm nay à? Phải rồi. Bác ở đây làm gì? Bác còn phải bay... Bác biết cháu muốn nói gì? Bác cho cháu đi với.

        - Đi đâu?

        - Đi về trường bay.

        Lu-nin sửng sốt:

        - Ở trường bay thì cháu làm gì?

        - Cháu thích máy bay, cái ấy là cháu thích nhất, và cháu muốn bay. Bác đừng cười - Nó quay lại xem phản ứng của Lu-nin, nhưng Lu-nin vẫn thản nhiên - Cháu không xin bác cho cháu bay ngay. Vì phải học. Nhưng trong khi chờ đợi, ai bảo gì cháu làm nấy: dọn tuyết, lau chùi máy bay, nếu cần, thì đánh tín hiệu... Bác cho cháu đi nhé.

        - Không được!

        - Sao vậy? Bác không muốn, hay bác không có quyền?

        - Bác không có quyền.

        Thăng bé suy nghĩ và một lát sau nó nói:

        - Bác ạ, nếu bác U-va-rốp cho phép, thì bác cho cháu đi nhé?

        - U-va-rôp? - Lu-nin ngạc nhiên - Sao cháu biết bác U- va-rốp?

        - Biết chứ! Có phải là cấp trên của bác không? Bác làm với bác ấy phải không?

        - Ừ

        - Bác ấy có thể nhận cháu vào trường bay chứ? Bác ấy có thể cho phép chứ? Đúng rồi! Và nếu cháu nói là bác đồng ý, thì bác ấy cũng sẽ đồng ý. Vậy bác đồng ý nhé! Cháu có thể nói vói bác ấy là bác đồng ý không? Được chứ hở bác?

        Hai người đi dưới cổng một tòa nhà lớn và vào trong sân đầy tuyết đóng thành từng bức tường cao hơn người.

        - Đi lên cầu thang này. - Thằng bé vừa nói vừa mở cửa. - ở tầng thứ nhất. Bác để ý, còn một bậc nữa. Chú Sa-ra- pốp ơi, chú xem cháu dẫn ai về đây này! Chú Sa-ra-pốp đâu rồi?

        Sla-va vào tự do, như ở nhà nó vậy. Chắc cu cậu muốn tỏ cho Lu-nin biết ta đây là người quen thuộc ở chỗ này. Các đồng chí thợ máy - nhận được vậy là vì họ đeo phù hiệu trắng trên mũ lông - và các đồng chí thuỷ thủ có mặt ở trong nhà nhìn nó một cách bình thản, như là đôi với người quen đã lâu.

        - Chú Sa-ra-pốp đi vắng. Lát chú về ngay.

        Lu-nin nhìn cái nhà. Ồng lò sưởi đỏ lửa chạy trên bàn và thò ra ngoài bằng cửa sổ con. Đâu cũng có tủ, một cái máy chữ, và những ram giấy xếp cẩn thận. Cái gì cũng sạch sẽ: cái sàn mới đánh bóng. Trong một góc, Lu-nin thấy một người mặc ca-pôt sỹ quan Hải quân cười với mình. Đồng chí ấy có lon trên nền đỏ của cán bộ chính trị. Thoạt tiên Lu-nin nghĩ "Mình có gặp ở đâu thì phải" rồi anh reo to:

        - A! té ra đồng chí...

        Đúng là người mà hồi tháng tám đã cùng anh vượt vòng vây Lê-nin-grát bằng xe lửa và ca-mi-ông.

        - Chỉ có núi là không gặp nhau thôi! - Đồng chí sỹ quan chính trị nói.

        Họ nhìn nhau tò mò vui vẻ. Lu-nin nghĩ rằng anh chàng nay có lẽ là người duy nhất ở Lê-nin-grát không gầy đi một chút nào. Vì hồi tháng tám anh cũng thân hình bộ xương như vậy, cũng không kém lùng thùng trong cái ca- pốt, cũng nước da tai tái, có lẽ bây giờ còn béo hơn một tí...

        - Đồng chí còn nhớ cái thùng xăng?

        - Sao không nhớ! Tôi nhớ đến chết. Lúc đó cứ tưởng là nó sắp đè gẫy xương... Lâu quá rồi nhỉ? Hình như sự việc xảy ra hồi tôi còn bé, còn quấn tã.

        - Chúng mình có lẽ là những người cuối cùng lọt vào được.

        - Thì tôi cũng không nghe nói ai lọt qua sau chúng mình. Đồng chí công tác ở Sư đoàn?

        - Đúng.

        - Đồng chí ở các tòa báo, tôi đoán thế... Vậy có tình cờ ở ngay tòa báo của sư đoàn không?

        - Đúng vậy. Tôi là chủ bút tờ "Cánh máy bay trên Ban- tích"

        - Ờ phải - Lu-nin reo lên. - Tôi đọc thấy tên đồng chí ở dưới mỗi số báo: Chủ bút "A-khô-vơ-rin...". Lẽ ra tôi phải đoán ngay được là đồng chí mới phải.

        - Còn về phần đồng chí, thì tôi vẫn biết. Mọi người ở sư đoàn đều biết đồng chí.

        Hơi ngượng, Lu-nin nhận thấy anh là cái bia cho mọi người chú ý. Thợ máy và thuỷ thủ không rời mắt nhìn anh, cố không để sót một mẩu chuyện giữa hai người.

        - Chắc đồng chí chưa xem số báo mới của chúng tôi. Đưa tôi tờ báo, đồng chí Tơ-svét-kốp.

        Một đồng chí thuỷ thủ giở tờ báo. Và cái đầu tiên Lu-nin trông thây là cái ảnh của mình đội mũ dạ và quần áo bay, với cái đầu kếch sù mà anh thây có vẻ tự mãn lố lăng. Bên cạnh, cả bề rộng của trang báo là cái đầu để: "Đồng chí chỉ huy trưởng phi đội 2...". Lu-nin nghĩ: "Lại một tin thêu dệt thổi phồng..." Chơi khăm quá... Rồi đứng trước các bạn đồng đội, anh sẽ ra sao... Anh bỏ tờ báo xuống và hỏi sẵng:

        -  Đồng chí Sa-ra-pốp đâu?

        Khô-vơ-rin hơi phật ý vì sự coi thường đối với bài báo ấy.

        - Đồng chí ấy sắp về. Đồng chí muốn gì?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Hai, 2019, 10:29:18 pm

        Lu-nin trình bày là muốn nhờ Sa-ra-pốp tìm cho một cái xe ca-mi-ông.

        - Đúng tủ của hắn rồi. Nay hay mai hắn sẽ tìm ra được. Tôi cũng đợi một cái lên sư đoàn. Tiếc rằng chúng mình không đi cùng.

        Lu-nin suy nghĩ. Hay là hỏi ý kiến Khô-vơ-rin? Một chủ bút tất phải biết nhiều. Hơn nữa con người lại có vẻ dễ. Và Lu-nin cũng đang rất muốn tâm sự.

        - Tôi muốn nói tí chuyện với đồng chí. Muốn hỏi đồng chí một tí. Nếu không có gì phiền...

        Khô-vơ-rin nói:

        - Đồng chí lại đây. Tôi cũng muốn nói chuyện với đồng chí một lát.

        Anh đưa Lu-nin sang phòng bên, mời ngồi trên giường, ngồi xuống bên cạnh, và đợi nghe.

        Sau một phút do dự, Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí có biết là nhân dân có được phép ra khỏi thành phố bằng con đường hồ không?

        Ngạc nhiên thoáng trên mắt Khô-vơ-rin.

        - Tôi không rõ, nhưng hình như hiện nay thì chưa cho phép.

        - Tại sao hiện nay chưa?

        - Nếu cho phép, thì cả thành phố đã biết.

        - Đúng, nhưng sao hiện nay chưa cho phép?

        - Vì sau này sẽ cho phép.

        - Sau này là bao giờ? Đợi khi mọi người đã chết sao? -  Lu-nin hỏi và cảm thấy tức giận.

        Khô-vơ-rin lạnh lùng nhìn anh và không nói gì.

        Lu-nin hối hận về cái tức giận của mình và hỏi tiếp:

        - Tôi muốn hiểu. Chủ trương gì cũng phải có lý do. Đồng chí có hiểu tại sao cấm không?

        - Hiện trạng của con đường chưa cho phép. Đường vừa làm xong. Còn phải dùng đế chở lương thực, chở vũ khí vào thành phố và thuyên chuyển các đơn vị. Với cái rét này, nếu từng đoàn đàn bà con trẻ đã gần chết đói mà lao vào trên hồ thì sẽ ra sao? Chết hết. 

        - Đúng. - Lu-nin không khó gi má không nghĩ ra được cảnh tượng khủng khiếp ấy. - Nhưng tại sao sau này thì lại có thể?

        - Đồng chí đừng tưởng rằng tôi biết nhiều. Chỉ là một cách suy luận, thế thôi. Tất nhiên sẽ phải cho đi những người không cần thiết cho việc bảo vệ thành phố. Họ chết vô ích, và tiêu thụ những lương thực khan hiếm đem được vào Lê-nin- grát một cách vô ích. Chuyển nhân dân cũng cần thiết như chuyển lương thực. Hai vấn đề cùng một mục đích, và con đường tất là để làm hai việc đó. Nhưng muốn chuyến người ốm và người đã suy yếu, phải tổ chức trên đường những bếp cho hàng vạn người, những nhà rạp cho họ có thể sưởi, phải có ca-mi-ông che bạt., những đường nối tốt giữa hồ và đường xe lửa, phải bao nhiêu cái khác nữa, nếu muốn đem đến nơi đến chôn những người sống, chứ không phải đem xác chết mà rải dọc đường. Ví dụ, phải có một kế hoạch di chuyển trong đó có tính toán chi ly khả năng giao thông của đường, mà khả năng đó thì khá thấp, và cái số lượng người đi qua...

        - Bao giờ thì cuộc đi chuyển đó bắt đầu.

        - Tôi tin chắc người ta sẽ làm đủ mọi cách để có thể sớm nhất được...

        Khô-vơ-rin ngừng một chút rồi nói thêm:

        - Không phải chỉ là một vấn đề ngày giờ. Còn phải xem bọn Đức làm gì khi chúng thấy việc tản cư hàng loạt ấy. Cuộc chiến đấu trên đường chắc chưa bắt đầu.

        - Ý anh cũng thế chứ? - Lu-nin hỏi và nhớ đến câu chuyện nói với U-va-rốp.

        - Tôi cho là như thế.

        Hai người im lặng. Đoán rằng Lu-nin chưa nói tới câu chuyện chính, Khô-vơ-rin đợi. Và Lu-nin thì tự bực với mình: khó nói quá. Anh hỏi:

        - Đồng chí đã thấy cái gì trong thành phố chưa?

        - Có.

        - Vậy theo ý đồng chí, bổn phận chúng mình phải làm gì?

        - Làm tất cả cái gì mà cá nhân có thể làm.

        - Ví dụ như tôi, nếu tôi có thể đem ra khỏi đây một người đàn bà với hai đứa trẻ con, thì có nên không?

        Khô-vơ-rin nhìn vào tận mặt Lu-nin:

        - Đồng chí thực có thể đem họ đi được không?

        - Nhất định được, vì chính tôi cũng đi! - Lu-nin trả lời hăng hái. - Tết nhiên nếu người ta cho phép tôi! Nhưng có người đã được phép như vậy. Tôi có gặp trên đường một đồng chí đại uý ở quân đoàn Von-khôp. Đồng chí ấy đi Lê- nin-grát công tác, hệt như tôi. Đồng chí ấy đã đem vợ đi. Đồng ý là chị ấy đến hồ thì chết...

        - Đấy, đồng chí xem. Đồng chí đại uý cũng tưởng là đem được... Tại sao đồng chí lại cho rằng đồng chí có thể thành công hơn? Một hành trình trên ca-mi-ông, trên hòm, trên thùng, với cái lạnh này... Họ có thể chết dọc đường.

        - Có lẽ... nhưng, ở đây thì họ lại chắc chắn là sẽ chết. Chỉ cốt sao tôi được phép... Người ta đã cho phép đồng chí đại uý...

        - Vì là vợ của đồng chí ấy.

        Lu-nin nhìn chòng chọc vào mắt Khô-vơ-rin:

        - Đây cũng là vợ và các con tôi.

        Anh bỗng nhớ ngay là hồi tháng tám, anh đã nói với Khô- vơ-rin là anh không có vợ. Tuy vậy, Khô-vơ-rin không phản ứng. Nhưng Lu-nin cảm thấy anh có nhớ câu chuyện đó.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2019, 11:30:25 pm

        Lu-nin nói dối. Anh biết là người ta không tin anh. Nhưng mặt anh phớt lạnh như suốt đời anh chỉ quen nghề nói dối. Anh chỉ đợi Khô-vơ-rin trả lời.

        - Tiếc thay đồng chí không nói với đồng chí U-va-rốp trước khi đi. Nếu đồng chí nói rằng muốn đưa gia đình ra thì đồng chí ấy thể nào cũng giúp một tay. Tuần trước, đống chí ấy đã giúp tôi chuyển gia đình đồng chí thợ in Tơ-sven-kốp - hai người đàn bà và một đứa bé trong một tình trạng nghiêm trọng. Đã tìm cho được một chỗ trên ca-mi-ông chở bom về trường bay. Người lái xe đã hứa sẽ lo lắng chu đáo, nhưng hiện nay chưa biết là anh ta có đưa được đến nơi đến chốn không? Ai dà! Tiếc thay là đồng chí không nói chuyện trước với đồng chí U-va-rốp.

        - Đúng, thật đáng tiếc. - Lu-nin công nhận và nghĩ thầm: hay hắn nghi mình không có vợ và hai con.

        - Đáng tiếc, nhưng không phải là lúc ngồi mà tiếc! -  Khô-vơ-rin nói thêm. - Tôi xem có cách nào giúp đồng chí khỏi cần đến đồng chí U-va-rôp... không cần nói với Sa-ra- pốp. Tôi thu xếp lấy.

        Khô-vơ-rin trở vào căn buồng lớn, để anh lại một mình trong bàn giấy U-va-rốp.

        Lu-nin tự hỏi với một hy vọng mỏng manh. "Liệu hắn có giúp được không? Liệu may ra có thể được không? Một người tốt và thật đáng mến. Tuy cái mặt hắn vàng, mà ngay lần đầu, mình đã thích. Cốt sao hắn làm được".

        Lâu mãi Khô-vơ-rin mới ra. Lu-nin lo: "Chắc không xong". Rồi anh nghĩ lại: "Chắc còn phải làm giấy tờ... Và nếu Sa-ra-pốp thấy trong lý lịch mình không vợ con... Mà chắc là họ biết..."

        Cuối cùng, cửa mở. Khô-vơ-rin nói với vào:

        - Tôi chịu trách nhiệm hết.

        Và tiếp:

        - Bản thân tôi sẽ phải trình bày với đồng chí chính uỷ, không phải đồng chí.

        Anh khép cửa lại, đến gần Lu-nin và báo tin:

        - Sáng mai, đồng chí trở lại đây. Người ta sẽ giao giấy tờ cho đồng chí. Xe ca-mi-ông sẽ đến đón, và đồng chí sẽ lên xe đi đón gia đình.

        Lu-nin vội đi ngay. Bây giờ phải thuyết phục Ma-sa, vì anh chưa hề nói gì với chị về việc này.

        Mọi người tiễn chân anh: Khô-vơ-rin, các đồng chí thợ máy và thuỷ thủ, thằng bé Sla-va với cái nhìn rất đáng yêu, rất thân ái - câu chuyện của nó chắc mọi người đã biết. Trên ngưỡng cửa, Lu-nin sực nhớ mình quên cả cám ơn Khô-vơ-rin. Anh quay lại và lấy hai bàn tay bắt lấy cánh tay Khô-vơ-rin giật giật:

        - Đồng chí đã giúp tôi một việc lớn quá!

        Sla-va theo anh đến mãi góc phố:

        - Ngày mai bác đi à? - Nó nhìn chòng chọc vào anh. -  Cháu sẽ nói với bác U-va-rốp là bác đồng ý cho cháu đi trường bay nhé!


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Hai, 2019, 11:33:45 pm

VII

        Họ qua hồ ban đêm. Nằm ngửa đằng sau ca-mi-ông, Lu-nin nhìn sao lấp lánh như những hạt muôi Đất liền đã hết, tựa hồ như anh bị treo lơ lửng trong khoảng không và trong đêm, giữa cái vô tận của bầu tròi phương Bắc và cái rét kinh người đương tấn công từ mọi mặt. Và trong cái vũ trụ băng giá ấy, chỉ một chỗ ấm: là thằng bé con ngủ trong cái áo da lông của anh, nó làm ấm sườn anh như một cái lò sưởi tí hon.Anh không dám cựa, sợ nó dậy và cái thân hình bé nhỏ nóng nóng ấy làm anh tràn ngập vui sướng: nó không lạnh, tức là nó sống.

        Lu-nin tê dại cả người. Anh không hiểu còn có thể động đậy được đôi chân đã dại không? Nằm giữa hai quả không lôi, anh cảm thấy, qua cái vỏ rơm bọc chúng và qua cái áo da lông, sự cọ sát của khối thép tròn như lạnh hơn không khí xung quanh đến bao nhiêu độ! Vào lúc khác, thì cuộc hành trình như thế này quả là một cực hình. Nhưng từ lúc mà trên bến Fông-tăng-ka, anh đã cho người đàn bà lạ mặt chiếc bánh mì, thì tâm hồn anh ở trong một trạng thái không cho phép nghĩ đến bản thân mình nữa...

        Sau khi từ biệt Khô-vơ-rin, anh chạy về phố Mai-a- cốp-ski để thuyết phục Ma-sa đi theo anh và để giúp đỡ chị sửa soạn. Anh nhớ lại là chị có ý đi đến xưởng và anh lo không gặp chị ở nhà. Anh leo cầu thang từng bốn bậc một, đẩy cửa, ngừng lại trong buồng sau cửa và lắng tai nghe. Tất cả đều im lặng. Anh vào buồng: y nguyên quần áo, người đàn bà nằm trên giường, giữa hai đứa con.

        Lu-nin cảm thấy tim muốn ngừng lại khi trông thấy bộ mặt xanh nhợt im lìm của họ, nó không còn là mặt người sống. Nhưng anh nghe thấy hơi thở êm đềm: họ ngủ. Anh không đoán trước được vậy. Có nên đánh thức người đàn bà dậy không?

        Anh không có can đảm làm và đợi lúc chị mở mắt. Trong buồng đã bắt đầu lạnh. Anh khơi lò sưởi. Thấy thùng nước rỗng, anh xuống cầu thang lấy nước ở dưới hầm. Anh xếp lại các thức ăn. Anh cố làm nhiều tiếng động - mà cái đó cũng không khó khi người ta bổ ván bằng rìu. Nhưng cả mẹ, cà con không ai thức dậy.

        Anh tì khuỷu tay vào đệm giường và nhìn Ma-sa. Lần đầu tiên anh tự hỏi là chị có thể bao nhiêu tuổi. Với thời buổi đói như thỏ này, đàn bà không có tuổi nữa. Chị này chắc còn trẻ, nhưng cũng khoảng 30. Trước chiến tranh, bộ mặt chắc phải đầy đặn, với cái mũi nhỏ tròn... Một bộ mặt dễ coi, nhưng nói chung cũng thường thôi... Thì nay cũng đoán như vậy... Má hóp lại. Quầng mắt làm mắt trũng hẳn xuống. Đôi mày xếch lên cái trán trong trắng có cái vẻ mệt nhọc sửng sốt nó làm se lòng người, Lu-nin cảm thấy tràn ngập xót thương, và anh không rời được mắt.

        Anh nghe thấy tiếng chân lê phía sau cửa: bà cụ già. May là cụ không ngủ! Anh mở cửa, trông thấy cụ lủi xuống bếp và đi theo.

        Bà cụ đã quá già, người còng hẳn, mặt xám xịt đầy răn reo với đôi mắt cú mèo trụi cả lông mi và đôi bàn tay lớn xương xẩu, vàng khè. Đứng gần cửa sổ, bà cụ nhìn chăm chăm vào Lu-nin không chớp mắt.

        - Chào cụ.

        Anh không hiểu câu trả lời. Bà cụ bắt đầu kể cho anh nghe một câu chuyện mà anh chẳng hiểu được một giọt, hình như bà cụ bắt đầu bằng giữa câu chuyện, và cho là anh đã biết đoạn đầu. Bà cụ kể chuyện một người lạ, một người bộ đội mà đáng là phải đem thức ăn đến chứ không phải là Lu-nin, và như thế mới là hợp lý.

        - Cụ nói chuyện ai vậy?

        - Tất nhiên là nói chuyện hắn. Mùa hè vừa rồi, hắn đến ở với tôi cả ngày, không dứt ra đi được. Rồi đi và không hề viết thư lại.

        - Ai vậy? Chồng chị ấy phải không?

        - Không. Chồng chị ta đã chết. Một người tốt lắm! Anh ấy đã làm khổ chị ta nhiều, vì anh ấy cũng luôn luôn ốm, rồi chết. Còn người kia thì tôi không hiểu là thể nào? Một người bộ đội. Trước chiến tranh đã là bộ đội. Chủ nhật nào cũng đến. Khi không cần đến hắn thì hắn đến. Bây giờ rất cần thì không thấy mặt đâu.

        Lu-nin cau mày nghĩ:

        "Đúng rồi! Lại thêm một thằng khốn đã bỏ người ta". Lòng xót thương của anh càng dào dạt, đến nỗi tuy không biết là ai mà anh đã liệt người bộ đội vào cái loại khốn nạn. "Lại phải có một thằng để lừa dối, để phản bội chị nữa hay sao?"

        - Chị ta có đói lắm không?

        - Nào tôi biết đâu? Nếu hỏi chị ta. thì chị ta nói không.

        - Thê nếu không hỏi?

        - Thì phải cho là có.

        Lu-nin im lặng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Hai, 2019, 12:26:21 am

        Sau một lát, bà cụ nói thỏm:

        - Hay là đã bị hy sinh.

        Không cái gì có thể đúng hơn thế nữa. Lu-nin thấy sự tức giận của mình là bất công, là anh lầm, nhưng ý nghĩ về con người ấy vẫn làm anh khó chịu. Nhưng đầu sao thì cái đó có quan hệ gì với anh đâu! Đưa chị ra khỏi đây, đó là việc phải làm, ngoài ra không còn gì hết...

        - Chị ấy ngủ đã lâu chưa? - Anh hỏi khẽ.

        - Từ lúc anh ra đi.

        - Chị ấy không đi xưởng à?

        - Định đi thì vừa buồn ngủ.

        - Cụ xem chị ấy có sắp thức dậy không?

        - Ồ! Không bao giờ thức dậy cả.

        - Thẻ nào?

        - Nếu không ai đánh thức thì không hao giờ dậy. Cũng vì là đã ăn.

        - Thế sao cụ không ngủ? Mà cụ cũng đã ăn...

        -  Tôi ấy à, tôi chỉ ngủ khi nào chết. Từ đây đến đó. tôi không buồn ngủ.

        Anh qua cả ngày đó, lưỡng lự, thỉnh thoảng lại đi xem họ ngủ, rồi ho, rồi dụng thùng, mó cái cửa lò cho kêu thành tiếng, cho đến vờ đụng vào đệm giường. Nhưng cả mẹ, cả con vẫn cứ ngủ. Anh hết hy vọng. Khi chiều xuống phải châm đèn, anh để cái đèn làm sao cho nó chiếu vỗ vào mặt họ. Mi mắt người mẹ nhấp nháy, nhưng chị vẫn không thức dậv. Anh cố lấy can đảm và cầm lấy bàn tay chị.

        Chị mở đôi mắt mà cái ánh sáng đèn rung rung làm thành tôi sầm và to tướng.

        - Đồng chí đấy à? - Chị khẽ hỏi. Và bàn tay chị vô tình nắm chặt lấy bàn tay Lu-nin.

        Sau này, thường anh vẫn nhớ cái cử chỉ ấy. Chị sung sướng biết bao khi lại trông thấy anh! Chị khẽ bỏ chân ra khỏi giường, ngồi dậy, sửa lại mái tóc và nhìn anh một cách biết ơn. Rất cảm xúc, anh giảng giải cho chị nghe.

        Chị im lặng, và cái im lặng đó như là từ chối. Hoảng hốt, Lu-nin càng gặng, rồi yêu cầu, rồi lập luận, ở đây, chị sẽ chết mà không một chút ích gì cho chiến thắng. Chị và các con chị phải ăn phần bánh của chiến sỹ. Chị không có quyền hy sinh hai đứa con một cách dại dột. Chính cái đó là cái muốn của Hit-le, chính vì thế mà nó bao vây thành phố; cứu được con, tức là làm hỏng kế hoạch của Hít-le. Qua hồ xong, khi chị lại sức và lũ trẻ bình phục, chị sẽ có thể làm việc, chiến đấu, phục vụ Tổ quốc. Lại một lần nữa, chị không có quyển hy sinh lũ trẻ.

        Nét mặt chị biến đổi, và anh sốt sắng quan sát, tìm đoán tư tưởng chị. Chị nói:

        - Vâng. Nhưng còn bà cụ An-na thì làm thế nào? Tôi không thể bỏ bà cụ được.

        Bà cụ An-na nào? Có phải bà cụ trong bếp không. Anh không nghĩ đến đó. Nhưng cũng dễ thu xếp thôi. Anh sẽ đề nghị thêm tên bà cụ vào tờ giấy. Sẽ trình bày là một bà cụ có họ, một bà cô, hay là bà ruột nếu cần. Anh đi ngay xuống bếp báo cho cụ An-na rằng anh sẽ mang cụ đi theo.

        Anh khỏi phải làm việc ấy: bà cụ An-na đứng trên ngưỡng cửa, thò cái đầu qua cửa mỏ, hai tay lủng lẳng. Anh báo tin ngay là mai bà cụ sẽ đi. Bà cụ lắc. Anh thoạt đầu tưởng là bà cụ hiểu nhầm. Nhưng bà cụ hiểu hết, và chẳng tìm cách    tranh luận với lý lẽ của Lu-nin, cũng chẳng phản đối  câu gì, bà cụ chỉ lắc. Bà cụ chẳng có đâu mà đi, chẳng có    lý do gì mà đi. Đã sống ba phần tư thế kỷ ở khu phố này mà bà cụ thuộc từng viên đá, từng cầu thang, từng người. Thì sẽ chết ở đây mà thôi.

        Ma-sa nói:

        - Vậy thì tôi cũng không đi nốt.

        Lu-nin nhìn chị, thất vọng. Nhưng cụ An-na tiếp viện anh và giận dữ nói:

        - Chị phải đi. Chị không ví với tôi được. Tôi chẳng phải nuôi ai cả.

        Không ngăn cụ được nữa. Cụ nói từng tràng, tối nghĩa, đi ngược lên đến đời hồng thuỷ, kể những ví dụ hoàn toàn kín mít đối với Lu-nin, nhưng rốt cuộc vẫn trở lại cái câu là bà cụ chẳng phải nuôi ai, còn lũ trẻ thì phải sống. Rồi đền lúc ôm nhau khóc lúc chia tay. Nhưng bà cụ không rỏ một giọt nước mắt: nước mắt cụ đâu có phải là dễ rơi

        Thế là mọi việc đã quyết định như vậy.

        Họ ra đi vào chiều tối ngày hôm sau, trong một ca-mi- ông chất nặng không lôi. Lũ trẻ rất mệt: thằng bé nôn hai lần trước khi đi, và con bé thì ngủ say đến nỗi vẫn ăn mà không tỉnh giấc. Làm sao mà những con người yếu đuối như thế này có thể chịu đựng được cuộc hành trình trên ca-mi-ông trong đêm giá buốt như vậy?

        Người lái xe là một người đứng tuổi, mà chắc là vì mệt nhọc đã thành ít nói. Anh nhăn mặt khi ở phòng chính trị được tin là sẽ chở gia đình thiếu tá Lu-nin. Nhưng rồi cũng không tiếc sức để gắng làm cho cuộc hành trình của họ được dễ dàng hơn. Anh để người mẹ và hai đứa trẻ trong ca-bin và giúp Lu-nin che đậy cho họ. Bọc kín trong những chiếc khăn, lũ trẻ ngủ ngáy tức thì, ấp chặt vào lòng mẹ. Đêm xuống. Lu-nin  trẻo lên phía sau và xe chuyển bánh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2019, 11:09:42 pm

        Mất hơn hai giờ để vượt bốn mươi cây số đến hồ. Con đường chạy qua eo và đi qua rừng; những cây tùng tối om bao tất cả xung quanh, và Lu-nin nhìn thấy một vòm trời tối sẫm diễn qua như một dòng suối có sao. Anh không thể nhìn thấy gì trong ca-bin, và như vậy lại làm anh bồn chồn hơn là cái lạnh của không lôi và cái gió buốt cắt thịt. Cái mà anh lo nhất, là đồng chí lái xe thì rất vội, nhưng cái xe chở nặng thì chỉ tiến chậm chạp, vậy không còn hy vọng gì có thể đỗ lại dọc đường mà sưởi: không lôi phải đến ga Von-khô-stôi vào sáng sớm.

        Trên hồ, xe tiếp tục đi đèn. Các ca-mi-ông khác cũng vậy. Đường đi như đánh dấu bằng vô số ánh đèn xa dần trong đêm tối. Trên đường không có lệnh tắt đèn. Trong mười lăm ngày cuối cùng của tháng một, kinh nghiệm đã chứng minh rằng pháo Đức và máy bay oanh tạc đêm của bọn Lốp-táp còn không đáng sợ bằng đi trong đêm tối giữa những tảng băng, những đống băng vụn và gặp những xe đột nhiên trong bóng tối chồm ra. Do đó, các lái xe đểu được phép để đèn.

        Vừa đi được ba cây số trên băng, thì ca-mi-ông đứng lại. Người lái xe từ ca-bin nhảy xuống. Lu-nin lo lắng ngẩng đầu lên. Anh lái xe nói khẽ:

        -  Đồng chí có cái áo da lông ấm. Thằng bé đang lạnh giá đi. Tôi lo nó không đến nơi được. Đồng chí cởi áo ra, ôm nó sát vào người, may ra nó nóng lại. Tôi đã thấy một trường hợp tương tự: làm vậy đã cứu được. Và như vậy thì đồng chí cũng ấm...

        Lu-rtin nhảy xuống đất và lê đôi chân tê dại đến ca-bin. Đôi mắt sợ hãi của người mẹ nhìn anh trong tối. Anh ôm lấy thằng bé vào tay. Có thể nói là nó không thở nữa. Sự kinh sợ của người mẹ lây sang anh. Và, lần đầu tiên, anh hoài nghi việc mình đem họ đi là đúng!

        Thằng bé tuy vậy còn hơi thở. Lu-nin mở cúc áo ngoài, áo trong, áo lót, và ấp chặt nó vào liền da anh. Cái thân hình bé nhỏ lạnh ngát chạm vào da anh làm anh có cảm giác như bị đốt. Anh đóng kín áo, trèo lên khoang sau và nằm xuống. Thằng bé bắt đầu nóng lại và làm ấm cả Lu-nin. Nó sống rồi.

        Sao đi chuyển thấy rõ, Nằm ước lượng cây số đã chán Lu-nin ngạc nhiên khi thấy ca-mi-ông bỗng nhiên trèo lên một cái dốc, và anh nhận thấy trên cao, giữa những ngôi sao, cái ngọn nhọn hoắt của cây tùng. Xe đỗ. Ngẩng đầu lên, Lu-nin thấy một. cái nhà gỗ thông lớn. Có thực đã đến Fô-bôn không? Anh lái xe nói:

        - Đồng chí thiếu tá xuống đi. Có thể sưởi một lát. Tôi đã bù được sự chậm trễ.

        Họ vào nhà, người lái xe đi trước, ẵm đứa con gái vẫn ngủ, rồi đến người đàn bà mà Lu-nin thấy như càng bé đi, rồi sau là Lu-nin với thằng bé. Một luồng ấm áp tuyệt diệu phả vào mặt, một hơi ấm tốt lành đầy sức sống: mùi thuốc lá, mùi bánh và mùi da cừu. Ánh lửa cái lò sưởi lớn kiểu Nga đặt giữa nhà, rập rờn trên tường. Và dưới ánh lửa, đầy người ngủ ở sàn, áo da lông, ca-pốt, áo bông, khăn trùm, đàn ông đàn bà nằm ngổn ngang, mặt ngửa lên trần, miệng há ra, phớt đều với những con gián kếch sù bò trên má, trên trán. Đó là các đồng chí lái xe, quét đường, khuân vác, giữ kho, những người đi Lê-nin-grát hay ở đấy ra. Bộ đội hay người thường đều biết rằng trong cái nhà gỗ thông đã bỏ từ lâu này, ai cũng có thể tìm được một mẩu ván ngủ qua đêm.

        Bước qua các thân người với cái vững vàng của một người đã quen thuộc, đồng chí lái xe giúp họ đến một góc xa, còn chỗ nằm, và để họ ngồi trên mấy cái bao. Lúc đó, Lu-nin mới móc thằng bé từ tít sâu trong chiếc áo da lông ra. Người mẹ theo dõi mỗi cử chỉ của anh một cách lo lắng. Thằng bé ngủ và thở đều, cái mồm ngáy thơ hé mở tay chân đều ấm.

        Người đàn bà vồ lấy con từ tay Lu-nin, vội quá gần như sỗ sàng, đặt nó lên đầu gối và ôm nó sát vào ngực. Thằng bé vươn vai, mở mắt, nhận được mẹ và mỉm cười. Anh lái xe nói:

        - Bây giờ thì nó không sao nữa rồi.

        Anh đi ra với cái cà-mèn loảng xoảng. Mấy phút sau, mọi người cùng ăn - một miếng bánh rưới nước sôi mà ai nấy lần lượt uống chung trong một ca. Thằng bé ăn uống có vẻ bận rộn. Con bé cũng thế, ngồi sát vào mẹ, và tò mò nhìn cái nhà gỗ thông, cái lò sưởi và những người ngủ. Và nó tủm tỉm cười với Lu-nin như quen thuộc đã lâu rồi.

        Người mẹ cũng tươi cười và hỏi xem dọc đường anh có lạnh quá không? Nhưng anh cảm thấy chị chỉ lo lắng về các con, sung sướng thấy chúng vẫn sống và đang ăn. Lu-nin  ngồi lánh ra một chỗ, trong một xó tối để có thể nhìn thấy họ mà họ không thấy mình. Trong nửa giờ nữa, có lẽ ít hơn, anh sẽ không bao giờ còn gặp họ nữa.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2019, 09:52:36 pm

        Vì ý anh đã định: không phải đưa họ mãi đến Von-khô- strôi mà sẽ từ biệt họ ở đây, và đến sáng, anh đi thẳng về trường bay cách đây mười lăm cây số. Anh đã cho họ ăn, đã đưa họ qua hồ; chẳng còn gì có thể xảy ra cho họ nữa, vài giờ sau, họ sẽ lên một cái toa xe ấm áp đưa họ đến Vô-lô-đa, rồi từ đó họ muốn đi đâu cũng được; gặp ai trên đường thì người ta cũng cố gắng gấp bốn lần mà giúp đỡ, cũng như đồng chí lái xe già này. Còn Lu-nin, anh phải về ngay trường bay, với Sê-rốp, với Prốt-cua-ri-a-kốp, với các đồng chí thợ máy. Không thể kéo dài phép được, dù chẳng ai trách, vì U-va-rốp cho đi, là chỉ để quan sát đường thôi chứ...

        No bụng, lũ trẻ lại ngủ sát vào mẹ. Im lặng, sợ chúng thức giấc, chị nhìn về phía Lu-nin với con mắt tin cậy. Nhưng mỗi lần, anh đểu nhắm mắt lại để chị tưởng là anh ngủ. Chị thôi không nhìn anh nữa và nghĩ ngợi. Qua hàng mi khẽ mở Lu-nin ngắm khuôn mặt sáng. Và trong óc anh đếm thầm: "Còn 15 phút... 10 phút... 5 phút....".

        Người lái xe ăn uống hồi lâu, rồi còn đi làm dăm ba câu chuyện với xung quanh, vì đất này là đất quen thuộc của anh. Sau cùng anh báo là đi ra xem xe. Lu-nin nghĩ "còn ba phút....", Nhưng người lái xe ở ngoài đó lâu hơn anh tưởng. Người đàn bà thiếp đi, đấu cúi xuống đứa con gái. Lu-nin nhìn chị không rời mắt. Anh hy vọng đến cả xe hư hỏng cái gì đó và chữa kéo dài đến sáng! Nhưng người lại xe trở lại. Giò phút chia tay đã đến.

        Khi anh báo cho Ma-sa là anh không đi xe hơi nữa, thì chị có vẻ buồn rầu. Anh vội giải thích là từ nay chị không cần phải có sự giúp đỡ của anh nữa. Nếu chị gặng, thì chắc anh cũng đưa chị đến tận Von-khô-strôi. Nhưng chị không gặng. Người lái xe đã bế đứa con gái ra cửa. Thằng bé bám vào cổ nhưng Ma-sa vẫn còn nhìn Lu-nin.

        Chị bỗng nhiên hỏi:

        - Có phải chúng ta không còn gặp nhau nữa không?

        - Biết đâu hở chị.

        Chắc chị còn muốn hỏi một câu nữa. Nhưng anh không khơi mào giúp. Anh đi đầu tiến ra cửa, và họ cùng bước ra.

        Phía đông, ánh sao đã nhạt. Mặt trời giá lạnh đang lên khỏi rừng. Người lái xe để người đàn bà và lũ trẻ vào ca- bin, và nói:

        - Bây giờ sắp qua rừng. Sẽ ấm hơn dây.

        Cái nhìn cuối cùng, cái bắt tay cuối cùng với bàn tay nhỏ xíu trong cái bao tay. Ca-mi-ông từ từ đi và ngoặt sau một cái nhà gỗ thông lớn.

        Lu-nin đáng lẽ có thể đợi đáp xe đi trường bay. Nhưng thở cái không khí nặng nề này làm anh khó chịu. Tuy thức suốt đêm, anh vẫn không buồn ngủ chút nào vì không có hành lý gì, anh quyết định đi bộ về.

        Anh bước mau trong rừng, ở đó, mặt trời đã lên. Anh nghĩ đến người đàn bà, hay nói cho đúng hơn, anh lại trông thây mãi mãi cái bộ mặt, đôi bàn tay, đôi mắt, cái dáng đi, cái miệng cười, và anh tưởng như còn nghe tiếng nói, như đã mang theo hình ảnh trong lòng. Mặt trời thấp, sáng loà, sau những thân cây tùng màu tím... Ma-sa hỏi anh xem có ngày nào gặp nhau. Chị còn muốn hỏi câu gì nữa? Có lẽ phải cho chị số hòm thư... Nhưng để làm gì? Chị không còn cần mình phải giúp đỡ. Cái mà chị nói, chỉ là vì lễ phép, chỉ là không tỏ ra mình quên ơn... cả thời gian chị chỉ nghĩ đến anh kia... Không, và rồi sao nữa?...

        "Rồi sao nữa? ..." Anh nhắc lại và bước dài trên tuyết sào sạo, mặt hướng về mặt trời mọc. Anh tránh ra cho các xe ca- mi-ông đi, vui vẻ chào lại mọi người. Một mùi khói và bánh bốc từ những nhà tạm trú rải rác trong rừng. Sau gần hai giờ đi bộ, anh trông thấy sau rặng cây, mỏm đồi, có mộ Rát-số- khin. Anh đã về đến nhà. Ở đây, tất cả là một bộ phận của con người anh: cái đường phố lớn, cái cột khói thẳng tắp bay khỏi nhà ăn mà ở đó Hin-đa đang chờ anh ăn sáng, cây phong chẻ hai màu tuyết đọng thành đường thêu rua trên cành... Anh bước vào nhà. Sê-rốp đang cạo râu ở cửa sổ...

        Cái mừng của Sê-rốp làm anh sung sướng. Anh rửa mặt. Sê-rốp nói lại những tin tức cuối cùng của phi đội - không có gì quan trọng. Khi hai người cùng đi ra nhà ăn, Sê-rốp hỏi:

        - Đồng chí đã thăm được gia đình chứ?

        Lu-nin trả lời buồn rầu:

         -  Đồng chí cũng biết là tôi có gia đình ở đó đâu!

        - Nhưng những người mà đồng chí muốn gặp?...

        - Tôi không tìm thấy.

        - Thế thức ăn thì đồng chí cho ai?

        - Cho người không quen biết.

        - Đồng chí làm đúng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2019, 10:41:38 pm

CHƯƠNG BẢY

ĐOÀN CẬN VỆ

        Sau khi sửa chữa xong nhà tắm, các cô gái chuyển đại bản doanh về một căn nhà lạnh ngắt của trụ sở Ban chấp hành Đoàn Thanh niên Công-sô-môn khu. Các cô được đề cử là "đội cứu tế nhân dân". Ban đầu, cũng chưa biết là cứu tế cái gì? Nhưng các cô tự biết là còn có một ưu thể rất lớn so với đa số nhân dân, tức là còn đứng nổi. Theo lời khuyên của Ang-tô-ni-a, các cô quyết định đi lĩnh khẩu phần giúp cho những người không còn đủ sức xuống hàng bánh nữa. Rồi sau sẽ hay...

        Sô-ni-a phụ trách dãy nhà trong đó có nhà em ở. Sáng hôm sau, em bắt đầu làm một vòng quanh dãy nhà.

        Vào một buổi sáng lạnh có nắng, em cũng mang theo cái đèn bấm của ông, vì kinh nghiệm cho biết là ngay giữa trưa, trong nhiều nhà vẫn tối om, vì người ở nhà không còn đủ sức mở rèm che phòng thủ. để rồi tối lại phái đóng lại. Vừa bước qua ngưỡng cửa nhà thứ nhất, em đã thấy bao nhiêu là việc, bao nhiêu là lo âu, làm em hiểu ngay rằng muốn xong một vòng khu nhà em phụ trách, thì phải hàng tháng.

        Gánh nặng đó không làm em bối rối. Sáng suốt và thực tế, em gắng làm tròn những việc phải làm như quẩy nước, chẻ ván sàn thành củi nhỏ, không để rác rưởi ngập buồng, hay giải thích cho những người bị tê liệt hết nghi ngờ và giao cho em những phiếu bánh của họ.

        Trong phần đông các nhà, bà con đều tiếp em bằng một vẻ hân hoan, biết ơn. Trong các cuộc đi thăm đó em thường dẫn Sla-va đi theo, trước hết để nó khỏi lê la đường phố, và nhất là để nó giúp em trong việc nhóm lửa. Vì chuyên làm mãi việc sửa sang lò của nhà nên mùa đông ấy, cu cậu đã trở thành một tay chữa lò thực thụ: nó biết cách làm cho củi ướt bén lửa, không khói, cháy đều, và biết thay ông. Nó đem hết cả tâm trí và tính tự phụ vào các công việc đó. Vì trong phần đông các nhà, đều không còn đàn ông, mà bọn đàn bà kia thì còn biết gì đến lò sưởi!

        Sau khi đã đẩy cổng vào - cổng chẳng ai cài nữa - Sô- ni-a và Sla-va qua một hành lang lạnh buốt và một dãy buồng bỏ không trước khi đến cái cửa duy nhất, nơi còn lại ở phía trong một chút hơi ấm và sụ sống. Sô-ni-a khẽ mở cửa, cho Sla-va vào trước và em vào sau.

        Ngồi trên giường, dựa lưng vào tường, moi người âu yếm nhìn hai chị em. Trước chiến tranh, nhiều gia đình đông người ở cái nhà rộng lớn này. Nhưng một số ra mặt trận, một số đã đi được khỏi Lê-nin-grát từ mùa hè, một số ngủ lại chỗ làm việc, một số đã chết, và những người còn lại không kể đến cái hàng rào đời tư nữa, dọn lại ở chung một buồng để chỉ phải đốt một lò sưởi. Họ kiệt dần sức mà khống biết: càng ngày càng ít rời khỏi buồng, càng ngày càng bớt cứ động, thường là nằm, rồi đến không rời cái giường nữa, và từ lâu, chỉ còn liên hệ với bên ngoài qua Sô-ni-a và Sla-va. Cũng có một bà cụ thỉnh thoảng có cô con gái làm ở xưởng đạn đến thăm, nhưng Sô-ni-a và Sla-va vẫn có vẻ thân thích gia đình hơn cả.

        Kiệt sức, nhưng những con người hấp hối đó vẫn say mê nghe ra-đi-ô, vẫn theo dõi sự biến diễn các trận đánh một cách lo lắng, vẫn nghĩ đến người thân ở mặt trận, vẫn giữ được bộ óc và trái tim nguyên vẹn, vẫn là những con người cho đến phút cuối cùng!

        Ai cũng biết Sô-ni-a và Sla-va là cháu một giáo sư vừa chết, mẹ hy sinh, bố ở mặt trận, và nay chỉ còn trơ trọi hai chị em. Các bà già trông thấy là reo lên:

        -  Mấy đứa bé mồ côi của chúng mình đã đến!

        Chúng vào là làm việc ngay - lấy bánh, quẩy nước, đổ rác, quét nhà, nhóm lửa. Lại còn phải đọc thư, - những thư mới tới, nội dung cũng như những thư trước - phải kể lại chuyện con đường làm trên băng, chuyện khẩu phần bánh có thể tăng, chuyện chị phục vụ ở hàng bánh đã ốm, chuyện các người láng giềng ai còn sống, ai đã chết. Chuyện thì không thiếu, vì sự có mặt của Sô-ni-a và Slay-va là một nguồn giải trí cho các bà, họ lại náo nức kể lại những câu chuyện đã kể cho nhau nghe đến nghìn lần. Thời gian trôi qua, nhưng Sô-ni-a không bao giờ đi được hết vòng.

        Càng ngày em càng bận, vì Ang-tô-ni-a vừa giao cho em một việc tối quan trọng là đi tìm các trẻ sơ sinh bị nguy kịch. Trong việc này em có Sla-va giúp thêm.

        Ban chấp hành giao cho Ang-tô-ni-a tổ chức "nhà trẻ sơ sinh" của khu. Vì được ưu tiên nên đã tập trung được một số lương thực dự trữ. Nhưng cũng ít thôi. Thì vừa đúng lúc mà đôi chân phù sũng của Ang-tô-ni-a không còn được việc gì nữa. Mặc áo blu nhà thương, bệt vào cái ghế bành, chị ngồi ngoài cửa, làm thường trực một căn buồng lớn, trong đó đã đặt các nôi trẻ em thành hàng. "Nhà trẻ sơ sinh" chiếm một cản nhà mà người ta đã mất hàng tuần điều đình với lòng quyết tâm vô hạn mới có lửa sưởi ấm được. Giúp đỡ Ang-tô-ni-a có một nữ bác sỹ còn đi lại được và vài người giữ trẻ chọn trong đám các cô đã sửa chữa nhà tắm.

        Sô-ni-a và Sla-va không thể chỉ quanh quẩn trong mấy căn nhà của khu vực mình phụ trách, nơi các em đã thuộc lòng. Phải thăm dò chỗ mới. Cứ mỗi bước là lại đụng phải sự bất ngờ, và phải vận dụng hết tinh thần thận trọng, óc nhận xét và trí sáng kiến.

        Thoạt tiên, Sô-ni-a còn hỏi dò. Em hỏi các người ở số nhà 12 hoặc 14 xem tại sao số nhà 13 cứ đóng cửa mãi...

        Mọi người đã đi từ mùa hè rồi mà... Được, nhưng còn nhà số 17 và 19 ở tầng dưới?... Càng nhiều người nói, càng có nhiều tin tức. Ví dụ người ta biết, chị Kla-va có đứa con đẻ từ tháng tư hồi còn tuyết, nay đã gần mười tháng, và từ mấy ngày nay không thấy người mẹ đâu... Mọi người cố nhớ lại. Họ đặt giả thuyết. Rồi Sô-ni-a và Sla-va đi tìm.

        Sla-va bao giờ cũng vào trước. Nó lao vào những công việc khám phá này một cách hăm hở mà không gì làm sao nhãng được, cửa đóng chăng? Nó thích chui vào nhà bằng chỗ cửa kính vỡ hoặc một lỗ thủng trong tường, nó leo lên tận căn gác xép trên cùng mà thang đã nát, và say mê trong những cuộc suy luận ước đoán thông thái: suy đoán càng hóc hiểm thì nó càng cho là chắc đúng không ai chối cãi được.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2019, 11:28:29 pm

        Do việc khám phá ra một đứa trẻ mồ côi mà Sô-ni-a quen Sa-ra-pốp, đồng chí thuỷ quân chuyên làm cái việc quân sự gì bí mật ở trong căn nhà cùng dãy. Với Sla-va thì là chỗ quen biết đã thân rồi.

        Đứa bé được độ một năm. Sô-ni-a và Sla-va tìm thấy nó trong khu phố. Nhưng "Nhà trẻ sơ sinh" còn xa.

        Một kinh nghiệm đau đốn đã dạy cho Sô-ni-a biết thận trọng: đứa bé nhặt được lần trước đã chết trên tay em khi em đem nó đến cho Ang-tô-ni-a.

        Sô-ni-a bảo Sla-va:

        - Hãy đem nó vê nhà chúng mình đã.

        - Đúng rồi, đem về cho nó uống nước nóng.

        Trong sân, hai chị em gặp Sa-ra-pốp. Anh tránh đường, chào hai chị em và tò mò nhìn cái bọc lớn trên tay Sô-ni-a. Sla-va không nhịn được khoe:

        - Chú Sa-ra-pốp ạ, chú xem chúng cháu mang về cái gì này!

        Sô-ni-a hé một góc chăn. Sa-ra-pổp thấy một cái mặt cụ non bé choát, với đôi môi mấp máy.

        Đồng chí rùng mình:

        - Các em vừa tìm được đấy à?

        Sô-ni-a gật.

        - Đem đến "Nhà trẻ sơ sinh" phải không? Nghe nói các em làm việc đó.

        Anh nhìn Sô-ni-a với cái vẻ khâm phục ngượng nghịu. Sla-va khoe:

        - Đứa thứ sáu đấy. Đáng lẽ là thứ bảy, nhưng một đứa bị chết ở dọc đường.

        Sa-ra-pôp nói:

        - Tên nó là gì?

        - Chảng biết là gì cả. Ồ, sẽ đặt cả tên cả họ cho nó. Thoạt đầu đều gọi chúng Lê-nin-grát-ski. Bây giờ không đặt trùng tên thế nữa. Ví dụ thằng này, thì chắc sẽ đặt là Sô-nin, vì chị Sô-ni-a tìm thấy, ở đằng ấy đã có khối Sô-nin rồi.

        - Tại sao các em lại đem nó về nhà?

        - Để cho nó uống.

        - Chúng tôi có một ấm đầy ở chỗ làm việc. Đem nó về nhà đi, tôi sẽ đem nước đến ngay.

        Sô-ni-a cảm thấy đồng chí rất xúc động và điều ấy làm em tự hào. Nói chung, em vẫn tự hào là đồng chí bộ đội ấy coi em như người lớn, gần như có vẻ kính trọng em về cái gì. Và em vui mừng khi thấy một phút sau đồng chí hớt hải vào nhà, tay cầm một cái ấm khổng lồ bốc từng cuộn hơi.

        Lò ở bếp còn ấm. Có thể cởi tã cho đứa trẻ.

        Sô-ni-a bảo Sa-ra-pốp:

        - Chú bế nó, để cháu thay tã.

        Hoảng hốt, Sa-ra-pốp chìa tay cho Sô-ni-a đặt thằng bé vào. Anh chưa từng bế trẻ và anh lo sợ không dám nhúc nhích sợ nó đau. Thằng bé bắt đầu khóc với cái giọng khe khẽ đáng thương, làm cho Sa-ra-pốp cuống lên.

        Sô-ni-a bảo:

        - Chú bế đầu nó cao lên một tí. Cháu đón nó ngay bây giờ.

        Em xé một tấm đệm ra thành từng mảnh nhỏ và giải trên giường. Rồi em đón lấy thằng bé. Nó nín ngay lập tức. Em cởi tã cũ rồi quấn tã mới chặt chẽ. Khi nó đã thành con búp bê con cứng nhắc, thì em ngồi lên giường, đặt nó trên đầu gối và rót nước sôi vào cốc.

        Sa-ra-pốp móc ở túi ca-pốt ra một mẩu bánh đen đưa cho Sô-ni-a và hỏi:

        - Nó có ăn được không em?

        - Để xem.

        Và em dầm mẩu bánh mì vào nước nóng.

        Em thổi thìa cho nguội và đổ vào mồm thằng bé. Sla-va và Sa-ra-pôp mừng rỡ thấy nó nhai một cách ngon lành. Bốn cái răng sữa của nó dụng lách cách vào cái thìa, và nó nuốt cả thìa nước dầm bánh không làm khó dễ gì cả. Nhưng rồi nó hét lên, và bỗng bị co giật.

        Sô-ni-a nói:

        -  Nó bị đau bụng, vì lâu quá không được ăn.

        Sa-ra-pốp thấy Sô-ni-a lo thì hết cả hồn vía. Làm thể nào cho khỏi đau thằng bé? Nó kêu rát thương tâm. Sô-ni- a nâng nó lên, và để sát đầu vào cái thân hình bé nhỏ của mình, em thổi qua tã vào bụng nó. Chả biết là do cách chữa, hay tự nhiên hết đau, nhưng thằng bé bỗng thôi khóc và ngủ.

        Sô-ni-a bọc nó vào chăn và ẵm đến nhà trẻ... Em cần nói chuyện với Ang-tô-ni-a. Những khó khăn mới lại giày vò em: em mới nhận được thư bố, và chưa biết trả lời thế nào?

        Em vừa nhận được một lúc sáu bức thư của bố, viết từ cuối tháng mười một và đầu tháng mười hai sau khi nhận được thư của Sô-ni-a báo tin mẹ chết. Hai thư gửi cho Sô- ni-a, còn những cái khác thì gửi cho ông.

        Ở trong một quân đoàn khá xa Lê-nin-grát, chắc là về mé Vô-rô-ne-giơ, người bố chỉ có một quan niệm mơ hồ về sự đói khổ ở nhà. Đầu óc rối bời vì cái chết của vợ, ông không hiểu tại sao gia đình không rời khởi Lê-nin-grát trong khi quân Đức tiến gần sát thành phố. Cuộc sống của ông có vẻ vất vả lắm, công việc thì rất nhiều, không ngăn được ông day dứt và lo nghĩ ghê gớm về gia đình: mỗi khi có giờ rảnh, là ông lại viết thư. Thư đầy những câu hỏi khó mà trả lời, đầy những lời khuyên không tài nào theo được.

        Ví dụ, ông góp ý là nên bán cái tủ sách để ra ngoại ô mua mấy bao khoai. Hoặc tha thiết dặn tìm đến mấy người bạn đã tản cư từ lâu rồi. Hoặc đề nghị cụ I-li-a đem trẻ đi bất cứ đâu, càng xa mặt trận càng tốt, đồng thời lại lo lạc hẳn mất chúng nếu chúng rời khỏi thành phố. Xem những lời khuyên tỉ mỉ, người ta cảm thấy ông coi bố vợ như một ông già bất lực trước cuộc sống, và coi Sô-ni-a như đứa con nít. Cái cảnh ngộ không sao giúp đỡ được gia đình đã làm cho ông đau đớn không chịu nổi nữa, và Sô-ni-a mỗi lần đọc lại thư, chỉ thương bố mà khóc.

        Em đưa thư cho Ang-tô-ni-a và hỏi chị cách trả lời. Ang-tô-ni-a chăm chú đọc. Nhưng khuyên cái gì được? Nếu cho biết là ông cụ đã chết đói, và hai đứa trẻ bơ vơ trong thành phố cũng đang đói, thì đau đớn cho người bố quá. Hay là không trả lời? Thì lại càng khổ nữa, vì người bố sẽ tưởng là Sla-va và Sô-ni-a cũng đã chết rồi? Hay không cho biết là cụ I-li-a đã chết?

        Sô-ni-a nói:

        - Em không nói dối. Dù sao, bố em cũng sẽ biết cái chết của ông em. Em rất muốn làm cho bố yên lòng. Nhưng làm cách nào?

        Em cau mày nói:

        - Dù sao em cũng không thể viết: "Ông chết rồi, ngoài ra vẫn bình yên". Bố em sẽ cho em là đồ ngốc.

        Em lật đi lật lại trong tay những phong bì nhầu nát đầy những con dấu đóng, và viết bằng một kiểu chữ to lớn không đều của bố.

        Hôm đó là ngày 23 tháng giêng năm 1942. Ngày 24, Sô- ni-a lĩnh ở hàng bánh 250 gam bánh mì chứ không phải là 125 như mọi khi.

        Lúc đầu, em tưởng có sự nhầm lẫn. Nhưng thấy các bộ mặt hớn hở xung quanh, em đoán mà cũng chưa dám tin hẳn:

        - Thật à?

        Cả người bán lẫn người mua1 đều gật.

        H) Mua theo tiêu chuẩn cung cấp hạn chế.

        Đó là kết quả cụ thể đầu tiên của con đường trên hồ La- dô-ga. Khẩu phần còn quá ít ỏi. Tình huống còn nghiêm trọng. Nhưng ai nấy đều thấy một con đường thoát đã mở. Thành phố không còn bị cắt đứt, và bè lũ Hít-le đã thất bại trong kế hoạch của chúng.

        Ngày hôm sau, Ang-tô-ni-a hỏi Sô-ni-a:

        - Em đã viết thư cho bố chưa?

        - Rồi ạ.

        - Em viết gì?

        - Là còn sống và đợi bố.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2019, 11:00:19 pm

*

*       *

        Vào tháng hai, giao thông trên đường đã được bảo đảm đến mức người ta có thể cho nhân dân tản cư hàng loạt mà không mạo hiểm lắm, việc mà từ tháng bảy năm ngoái phải cắt đứt. Ca-mi-ông từ phía đông tới thì chở lương thực, ca-mi-ông từ tây đi thì chở đàn bà trẻ con.

        Người ta đã quyết định đi chuyển theo danh sách có thứ bực ưu tiên, tất cả những ai không cần thiết cho việc bảo vệ thành phố - vừa để cứu người đi, vừa để cứu người ở lại. Vì càng ít miệng phải nuôi ở Lê-nin-grát, thì tiếp tế càng dễ.

        Đi bằng xe lửa ở ga Phần Lan. Tầu vượt qua eo Ca-rê-li đến mãi bờ tây hồ La-đô-ga. Ở mũi Ot-si-nô-vét, chở bằng ca-mi-ông qua hồ đến Kô-bôn. Từ đấy. một đường sắt mới nối liền với hậu phương. Nhân dân tản cư ăn một bữa cơm ở Kô-bôn rồi lên tầu đi về phía đông, qua Tích-vin, Tơ-sê- ri-pô-vét và Vô-lô-đa.

        Một hôm, Ang-tô-ni-a báo cho Sô-ni-a:

        - Cái mong ước của bố em sắp thực hiện được. "Nhà trẻ sơ sinh" đi U-ran. Em đi theo làm công tác giữ trẻ.

        Việc dời những bộ phận như vậy đã được quyết định ngay từ hồi đầu cuộc di chuyển. Nhà trẻ được để ra ba ngày để sửa soạn. Đi theo trẻ con, là tất cả nhân viên, kể cả những người đã được tăng cường thêm để đề phòng những khó khăn gặp trong cuộc hành trình với trẻ sơ sinh.

        Sô-ni-a hỏi Ang-tô-ni-a:

        - Thế chị cũng đi chứ?

        - Chị thì khác. Chị do ban Chấp hành khu định đoạt. Nhà trẻ đi rồi, chị lại có việc khác.

        - Vậy em cũng không đi.

        Ang-tô-ni-a gắt lên:

        - Thế là nghĩa lý gì? Tại sao không đi?

        - Em không thể bỏ thằng Sla-va.

        - Ai bảo bỏ? Dứt khoát là nó cũng đi, và thế là thêm một lý do để em phải đi. Đi với nhà trẻ sơ sinh, các em chắc chắn là ở đâu cũng có ăn.

        - Em sợ thằng Sala-va nó không muốn đi... Có một đồng chí phi công đã hứa cho nó về trường bay.

        - Vớ vẩn lắm! Ai cần đến nó ở trường bay chứ!

        - Chị cũng biết là nó cứng cổ lắm. Nó đã thoả thuận với mọi người. Cả đồng chí chính uỷ sư đoàn cũng đã hứa với nó.

        - Thôi đủ rồi! Về nhà đi, và cả hai đứa đều phải sẵn sàng!

        Sô-ni-a không cãi và trở về cù lao Vát-si-li. Nhưng đêm tối, em choàng khăn lên vai và chạy đến buồng Sa-ra-pốp. Em chưa vào đấy lần nào. Dưới ngọn đèn đầu hoả tay cầm thước, Sa-ra-pốp đang kẻ một cái bảng.

        - A! Em đấy à? Em ngồi chơi.

        Sô-ni-a ngồi sát bàn. ánh đèn màu vàng nhảy múa trong đôi mắt.

        - Cháu nghĩ mãi chưa biết hỏi ai, và cháu định đến nói chuyện với chú. - Em kể chuyện nhà trẻ dọn đi - Vậy cháu có nên đi không hở chú?

        - Đi chứ! - Sa-ra-pốp trả lời không một chút do dự.

        Em nhìn ngọn đèn hồi lâu rồi nói:

        - Cháu tưởng là chú sẽ khuyên cháu ở lại.

        Sa-ra-pốp cố giải thích. Mỗi lý lẽ của đồng chí đều rõ ràng. Sô-ni-a lặng im nghe, không phản đôi.

        - Em đã bảo Sla-va là sẽ đem nó đi chứ?

        - Chưa. Nếu bây giờ cháu bảo nó, nó sẽ chối thẳng, vì nó đang đợi đi trường bay. Cháu còn chưa biết làm cách nào mà lôi nó đi được. Nó có thể trốn hoặc ẩn vào đâu...

        Sa-ra-pốp biết ước vọng của Sla-va và chính đồng chí cũng giúp thêm nó phần nào trong việc này. Đồng chí đã nhiều lần nghe thấy nó nêu lên sự đồng ý của Lu-nin để xin với Khô-vơ-rin, xin cả với U-va-rốp cho nó vào trung đoàn khu trục. Và U-va-rốp đã hứa gửi nó cho Lu-nin. Lúc đầu Sa-ra-pốp tưởng đồng chí chính uỷ nói đùa. Một hôm chỉ có hai người, đồng chí hỏi lại mới biết U-va-rốp không hề coi thường câu chuyện đó.

        - Phải cho thằng bé nó ăn chứ. Trông nó tội nghiệp quá. Kể cũng trái điều lệ. Nhưng không cần. Sau này người ta sẽ khoan thứ cho chúng ta. Có thể có nhiều việc

        khác người ta không khoan thứ, nhưng việc này thì được.

        Nhưng bây giờ thì sự việc thay đổi. Sla-va đi theo chị vẫn là hợp lý nhất.

        Sa-ra-pốp bàn:

        - Để tôi xin phép đồng chí chính uỷ báo cho nó biết là trường bay không thể nhận được nó.

        Sô-ni-a không phản đối. Im lặng một lúc, em chỉ hỏi:

        - Chính uỷ đi vắng hở chú?

        - Phải.

        - Bao giờ bác qua đây?

        - Mai hoặc ngày kia.

        Em không nói gì nữa. Mọi việc đã quyết định.

        Mây hôm sau, U-va-rốp đến vào buổi tối và bảo Sa-ra- pốp ra đem những túi sách ở ngoài xe vào. Mang đầy hai tay, Sa-ra-pốp đang lên cầu thang thì nghe tiếng chạy nhẹ đằng sau. Anh tưởng là Sla-va và đứng lại. Thì ra Sô-ni-a: cái khăn len làm thành một chấm sáng trong bóng tối.

        - Chú Sa-ra-pốp, chú khoan một tí!

        Em đuổi kịp Sa-ra-pốp và nói khẽ:

        - Cháu chạy theo chú mãi... Và thằng Sla-va, chú đừng nói gì với cấp trên và chú cứ cho nó đi trường bay nhé.

        - Em không muốn mang nó đi à?

        Sô-ni-a không trả lời, và Sa-ra-pốp nhìn vào mắt em, chịu không tìm được ra lý do nào.

        Trong buồng giấy tầng trên, U-va-rốp nói chuyện với Khô-vơ-rin. Khô-vơ-rin đợi anh đã hơn một giờ

        U-va-rốp đến trong một trạng thái vui sướng hớn hở. Đồng chí hỏi Khô-vơ-rin:

        - Đồng chí không biết tôi ở đâu về à?... Ở bộ tham mưu Hải quân về! Đồng chí không biết tin gì à?

        Nheo đôi mắt tươi cười, U-va-rốp im lặng một lát đế kích thích sự tò mò của Khô-vơ-rin, rồi mới báo tin:

        - Trung đoàn của Prốt-cua-ri-a-kốp được tuyên dương Cận vệ đoàn đấy.

        -  Thật ư?

        Khô-vơ-rin thấy ngay tầm quan trọng của tin này. Đoàn Cận vệ vừa được thành lập trong Hồng quân. Đoàn mới có mấy đơn vị trên mặt trận khổng lồ này, những đơn vị có chiến công bất hủ.

        - Sáng mai, đi bằng con đường hồ đến trung đoàn Prôt- cua-ri-a-kôp. Chúng ta dự lễ trao cờ. Đồng chí phải viết cho tôi một bài.

        - Viết báo à?

        - Không những chỉ viết báo... Tất nhiên là cả viết báo... đề tài không thiếu: chúng ta sắp xông vào giữa lò lửa, tụi Đức đang bám chặt.

        - Chúng bám chặt?

        - Chứ sao? Chúng mới tung không quân thôi, nhưng oanh tạc cũng như khu trục chúng ngày càng nhiều. Prôt- cua-ri-a-kốp có đất hoạt động: từ tháng chín chưa tìm thấy một cuộc giao tranh trên không như vậy.

        Nghe tiếng chân sau cửa, U-va-rốp gọi:

        - Đồng chí Sa-ra-pốp.

        Sa-ra-pốp chạy vào.

        - Đồng chí đi tìm thằng bé lại cho tôi. Bảo nó sửa soạn quần áo. Ngay mai tôi dẫn nó đến với Lu-nin.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2019, 08:44:13 pm
        
II

        Khô-vơ-rin và Sla-va ngồi trong căn nhà gỗ thông có cây phong chẽ hai mọc trước cửa. Vừa ở ca-mi-ông xuống, thì họ được dẫn lại đấy.

        Nhưng ở nhà chỉ có bà già điếc. Từ năm hôm nay, Lu-nin  và Sê-rốp không ngủ nhà.

        Họ lại tiếp tục bay và chiến đấu. Xưởng lưu động đã chữa xong máy bay của họ bằng các bộ phận lấy từ chiếc máy bay Rát-sô-khin. Họ ngủ đêm trong hầm trú cạnh đường bay. Tinh sương, họ đã đứng đợi cạnh máy. Có pháo lệnh là họ cất cánh, làm bốc từng đám mây bụi mầu bạc. Bóng máy bay của họ còn lướt trên tuyết thì Ta-ra-rác-xin đã báo cáo với sư đoàn:

        -  Phi đội 2 đã cất cánh.

        Họ bay rất thấp trên ngọn đồi trọc. Chào hương hồn Rát-sô-khin đã thành một thói quen. Miếng đá mộ chí xám, nhọn, mà các đồng chí thợ máy đã giúp họ khuân về sau đám tang mấy ngày, đang chạy lùi dưới bánh xe máy bay. Nó là vật đầu tiên trông thấy, mỗi lần họ cất cánh hay hạ cánh. Gió luôn luôn quét sạch tuyết trên đỉnh đồi, và ngay những ngày tuyết xuống nhiều, vẫn nom thấy miếng đá. Ngọn đồi đã vượt qua, họ lấy chiều cao và hướng về con đường sắt mối bắc đến Kô-bôn. Càng lên cao, mặt hồ bao la càng mở rộng ra trước mắt họ. Họ vượt qua bờ hồ ở Kô-bôn. Từ trên cao họ nhìn thây như nhìn xuống đáy một đầm nước, những nhà gỗ thông nhỏ xíu, những toa tầu tí ti, những đầu tầu như đồ chơi trẻ con đi đi lại lại trên tuyết óng ánh trong những cuộn khói. Người ta đang chuyển đàn bà trẻ con vừa vượt qua hồ. Lu-nin và Sê-rốp lượn mấy vòng để quan sát kỹ hơn.

        Rồi Kô-bôn biến sau họ, và mặt hồ trắng xóa choán tất cả chân trời. Phải để mắt vào cánh rừng xanh xanh phía Nam: kẻ thù ở đó.

        Con đường cắt ngang bằng một đường thẳng tắp tấm thảm trắng tinh. Họ không bay trên đường nhưng luôn trông thấy nó, vì có hai ngả ngược xuôi chở lương thực và vũ khí về phía tây, chở người tản cư vê phía đông. Rồi máy bay chĩa mũi về phía bắc. Bờ nam và con đường biến mất; chỉ còn thấy khoảng trắng vô tận lấp lánh im lìm. Họ giữ nguyên hướng đó, cho đến khi thấy ngay đằng trước một cái đảo nhỏ đầy tuyết chỉ còn nhận diện được nhờ cái chòi đèn pha nhỏ xíu. Hòn đảo mang cái tên kỳ khôi: Hòn khô. Vừa nhận định được nó thì Lu-nin và Sê-rổp rẽ về cửa sông Von-khốp và Nô-vai-ra La-đô-ga, ở đó họ lại rẽ về trường bay, bay là là trên mộ Rát-sô-khin.

        Đối với họ, hành trình đó cũng trở thành quen thuộc như hành trình trên vũng Mác-ki giữa Lê-nin-grát, Cơ- rông-stát và Pê-tê-rốp. Nhưng họ chỉ đi hết được hành trình nếu không có đánh nhau với Mét-séc-mít. Mà những cuộc đi không có đánh nhau thì càng ngày càng hiếm.

        Từ khi bọn Tư lệnh Đức thấy hàng chục vạn người đang tuần tự ra khỏi Lê-nin-grát, thì tất cả Lớp-táp của khu vực đều được tung ra để ngăn cản sự giao thông.

        Càng ngày bọn Mét-séc-mít càng quấy rầy. Chúng săn ca-mi-ông trên đường, đánh máy bay vận tải của ta trên hồ, bắn phá phố xá ở Kô-bôn và con đường sắt mới làm, buộc dân tản cư phải trốn vào trong rừng, tuyết ngập đến thắt lưng. Chúng ngăn cản không cho dỡ các toa hàng, bắn vào các nhân viên công chính. Họ chỉ có xẻng để tự vệ và băng để trú ẩn. Chúng luôn luôn khiêu chiến với khu trục ta, cố tình làm rối loạn sự bảo vệ trên không đối với con đường.

        Tuy nhiên qua các cuộc giao chiến này, chúng chỉ tỏ ra ham chiến và về kỹ thuật thì cũng tương đối thôi. Không còn là Lớp-táp buổi đầu nữa.

        Sáu tháng chiến tranh đã dạy cho Lu-nin biết nhận định ngay lập tức kẻ địch trước mặt là loại đối thủ nào: một anh chàng tân binh chưa vững lắm, hay một tay cáo già thận trọng thích làm xiếc trong khi đánh nhau - vài ba hiệp rồi cáo biệt! Tự tin ở nghệ thuật lái của mình hơn phần lớn khu trục Đức, anh tìm cách buộc đối phương phải giao chiến trong những điều kiện bất lợi nhất cho việc lái, như bay là là trên ngọn rừng, có khi ngay giữa hai bờ sông dựng đứng, cốt để đối thủ nào mà trí phản ứng không vững là chắc chắn bị loại.

        Thoáng nhìn, anh đã có thể nhận ra ngay những tay phi công già dặn, thận trọng, mặc đầu cái hăm hở giả tạo của chúng, hay nói cho đúng hơn chính nhờ cái hiếu chiến bề ngoài ấy. Đã biết rằng muốn thắng, thì phải không sợ chết - cái phương pháp của Rát-sô-khin khi anh tung sáu máy bay của anh chống lại hàng chục gioong-ke và Mét- séc-mít - nên Lu-nin, chỉ có một mình Sê-rốp che đằng sau, nhưng dù chọi với tám, mười, ngay đến mười hai khu trục địch, cũng tìm cách cho chúng hiểu ngay là anh sẵn sàng đổi mạng mình lấy ít nhất một đứa trong bọn chúng. Nhưng địch thì không muốn hy sinh cái mạng chúng để hạ anh mà chơi, nên cuộc giao chiến trở thành một trò biểu diễn nghệ thuật lối hạng cao, điểm xuyết mấy băng đạn bắn từ mãi xa. Đó là biểu hiện của cái gọi là tinh thần, nó không ghi trong bản chứng nghiệm hay thống kê nào!

        Một buổi sáng, gió từ phía tây thổi lại và hàn thử biểu lên. Tuyết xuống từng bông lớn, và trong cái thời tiết mờ mịt rất hiếm có vào tháng hai ấy, bốn Mét-séc-mít bắn phá một đoàn tàu đang chạy về Kô-bôn, bắn hư đầu máy và làm bị thương hai nữ nhân viên.
        Gặp trời sáng sủa, thì khu trục Đức chẳng dám bắn phá đường sắt: bay trên cao 3.000 thước, chúng chỉ đành quan sát sự di chuyển của các đoàn tàu. Nhưng có tuyết xuống nên chúng yên chí không việc gì. Lặp tức trường bay được báo tin. Vài phút sau, Lu-nin và Sê-rốp cất cánh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:41:09 pm

        Chẳng trông thấy gì cả đến cánh rừng cũng biến, tuy Lu-nin đã bay hết sức thấp, đế nhìn được đường sắt. Sê- rốp bay sau, gẩn muốn chạm phải Lu-nin: vì cứ cách 200 thước là có thế mất hút. Đúng ra sau bốn phút bay, họ đã vượt qua đường sắt, nhưng bay đã năm phút mà vẫn không trông thấy đường ray. Lu-nin ngoặt ngược lại, và lại bay qua đường sắt mà không biết. Thời tiết này thì hết hy vọng tìm được bọn Mét-séc-mít vì chỉ cách mấy thước là đã không trông thấy chúng. Nhưng đến cả đường sắt cũng không tìm thấy. Lu-nin bực mình, và anh lượn sáu bẩy lần bay, là sát mặt đất, cố tìm ra cái khoảng rừng đốn gỗ hẹp nơi đường sắt chạy qua. Bông tuyết mỗi lúc một dầy, và cái màn tuyết rơi chéo ấy che mờ mịt hoàn toàn.

        Ngay trên hồ, về phía đông bắc, trời đỡ mù sương hơn. Lu-nin bay lại đó: từ Kô-bôn bay lại để tìm con đường sắt thì dễ hơn. Anh bay dọc theo bò hồ đến Kô-bôn và thấy ngay đường ray, vì ở mé này tuyết xuống thưa hơn. Bay là thấp trên đường sắt để không mất hút nó, họ hướng về nam, vượt qua một cái đầu máy hỏng. Một phút sau họ bay tới chỗ có chiếc đầu máy bị thương. Không trông thấy nó, vì nó bị che trong màn hơi từ chỗ súp-de thủng phọt ra. Đoàn tầu thì dài và tạp nham đủ các loại toa: toa chở khách, toa chở hàng, tòa không mui, toa chở đầu. Cạnh các toa, từng nhóm người đang dẫm xéo trên tuyết.

        Bọn Mét-séc-mít đã biến vừa đúng dịp, và tìm kiếm chúng chỉ tổ mất thì giờ. Lu-nin hướng về trường bay.

        Ánh tuyết lấp lánh bắt đầu làm anh thực sự mệt mỏi. Đường sắt vừa khuất, là anh mất mục tiêu. Anh lo tìm được trường bay còn khó hơn tìm đường sắt. Anh lo vượt quá nó. Nên khi nom thấy mỏm đồi vượt cao khỏi rặng tùng thì anh thở ra dễ chịu.

        Anh bay là sát trên mộ Rát-sô-khin và bay xuống mặt tuyết mềm sân bay. Vừa định mở bánh xe ra thì anh trông thấy các đồng chí thợ máy đang chạy. Lạ quá. Anh quay đầu nhìn: bên phải anh, một chiếc Mét-séc-mít đang bắn phá.

        Anh ngoặt, bổ nhào muốn đụng phải đất, lên thẳng, và lia một băng vào bụng chiếc máy bay Đức. Tay chân anh phản ứng trước khi anh nghĩ ra. Anh vừa lấy chiều cao, vừa quan sát: một Mét-séc-mít nhào thẳng vào sáu chiếc mậy bay ta sắp hàng gần rặng tùng. Chắc là một Mét-séc- mít khác, không phải cái anh vừa bắn. Nó bắn vào cái số máy bay còn lại của trung đoàn, làm Lu-nin muôn điên lên. Nó bắn vào các 1-16, ra khỏi thế bổ nhào, và khi nó chuẩn bị lấy chiều cao, thì Sê-rốp đã bám vào đuôi nó. Nhưng một cái Mét-séc-mít thứ ba ở sau đuôi Sê-rốp. Lu-nin  bám vào nó. Tức thì một luồng đạn thấp thoáng bao lấy anh: có kẻ săn anh. Thoạt đầu anh tưởng là cái Mét- séc-mít thứ nhất. Nhưng cùng lúc đó anh thấy một cột khói từ sân bay bốc lên: cái Mét-séc-mít thứ nhất đang cháy. Thì ra chiếc thứ tư bắn anh, chiếc thứ tư trong bọn mà 20 phút trước đây đã bắn vào đoàn tầu. Chúng cố tình đến đây, hay lạc đường?

        Sê-rốp rẽ ngang để tránh luồng đạn và bắn vào Mét- séc-mít đang săn Lu-nin. Thế là thành một cuộc "quần ngựa tay năm" ngay trên trường bay, trong cái màn tuyết lằn vằn luồng đạn.

        Bọn Đức này là bọn thạo nghề, và chúng bám chặt. Lu-nin  đoán chúng hơi hoảng vì cái Mét-séc-mít đang biến thành bó đuốc. Nhưng chúng muốn báo thù, và hơn nữa, chúng có ba chọi hai. Tuy vậy chúng không lợi dụng được số lượng trội hơn đó vì Lu-nin và Sê-rốp tấn công chúng rất dữ. Chúng quyết định rút lui, nhưng Sê-rốp vòng quanh mỏm đồi, biến một lát trong tuyết, rồi nhô ra bất ngờ trên ngọn rừng bắn vào một Mét-séc-mít. Nó lật úp và chúi êm vào rặng tùng. Hai cái còn lại bay ra khỏi, mỗi cái biến theo một phía.

        Sau khi hạ cánh, Lu-nin nhẩy xuống tuyết, lật mũ và mở áo bay. Mặc quá ấm với cái nhịp độ chiến đấu sát mặt đất vừa qua và trong thời tiết ấm nên anh như tắm mồ hôi. Prôt-cua-ri-a-kôp đi lại phía anh. Lu-nin đứng nghiêm báo cáo. Nhưng Prốt-cua-ri-a-kốp không để nói:

        -  Được rồi, đồng chí Lu-nin ạ. Tôi nhìn thấy cả.

        Phi công, thợ máy, thuỷ thủ, lái xe, văn thư, cấp dưỡng, toàn trường bay đã dự tất cả các giai đoạn chiến đấu, và còn rõ hơn cả Lu-nin vì anh chỉ thấp thoáng trông thấy đối thủ trong khoảnh khắc. Riêng có Ta-ra-rắc-xin cột chặt

        vào máy điện thoại là chẳng trông thấy gì. Nhưng anh lại tường tận hơn bất cứ ai, và đã loan báo ngay cho sư đoàn và Bộ tư lệnh Hải quân mọi chi tiết của trận đánh.

        Lu-nin hỏi:

        -  Máy bay thế nào? Người có việc gì không? Không việc gì à?

        Thiệt hại không đáng kể. Bọn Mét-séc-mít không đủ thời giờ tác hại. Chẳng ai chết, chẳng ai bị thương. Máy bay chỉ sây sát, sửa chữa được ngay. Chiếc Mét-séc-mít bị hạ, cháy đến tận chiều tối làm tuyết tan trong một bán kính dài đến 10 thước. Hôm sau, khi các đồng chí thợ máy tìm kiếm trong cái khung vụn còn lại chỉ thấy một huy chương sắt đen sịt - tất cả về tên phi công còn lại có vậy.

        Grô-mê-kô được cử vào rừng với các thuỷ thủ để tìm cái Mét-séc-mít bị Sê-rốp hạ. Bác sỹ lăm lăm súng lục cầm tay. Vì tên phi công có thể còn lẩn trong rừng. Nhưng nó vẫn ở trong máy bay, một viên đạn xuyên qua đầu. Máy bay gần còn nguyên. Nếu Sê-rốp không giết thằng lái thì có lẽ máy bay còn bay được.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:43:16 pm

III

        Mọi người càng mừng rỡ đón Khô-vơ-rin và Sla-va vì có cả U-va-rốp đi cùng, mang đến một tin quan trọng là sắp làm lễ trao cờ Cận vệ cho trung đoàn. Trong các nhà, các hầm, người ta cảm động và nghiêm trang đón tin đó. ở nhà ăn, họ tập xưng hô: "Đồng chí trung uý Cận vệ, đưa giùm tôi cái lọ mù-tạt"... "Đồng chí đại uý Cận vệ, đồng chí bỏ quên cái túi thuốc". Người ta còn gọi cả "Hin- da cận vệ". Sác-ba-đi-ăng treo ở Ban tham mưu một cái bảng lớn viết bằng bút chì màu:

        Máy bay Đức bị hạ: 139

        Gồm:

        Oanh tạc: 62
        Khu trục: 59
        Thám thính và máy bay chỉnh lý xạ kích của pháo: 18

        Mọi người đến xem, và Ta-ra-rắc-xin dụng ý treo một bản thuyết minh:

        - 139 nghĩa là gần 5 trung đoàn quân số đầy đủ như trung đoàn ta ngày 22 tháng 61.

        Chỉ có một điểm làm họ chưa vừa ý: 139 chưa phải là con số tròn, Sê-rốp nói:

        - Trước ngày lễ trao cờ, phải hạ thêm một cái nữa, cho chẵn 140.

        Mọi người đều tán thành.

        Lu-nin nghe nói Sla-va đã đến chỗ anh ở thì sốt ruột. Phải ở lại trường bay mãi đến chiều, anh lo người ta quên cho thằng bé ăn và quên đốt lò sưởi.

        Tròi đã tối, anh mới tất tả về trong làng. Sla-va ngủ trên giường Sê-rốp. Sơ mi trần, Khô-vơ-rin đang viết dưới ánh đèn đầu.

        Trông thấy Lu-nin, anh tươi cười đứng dậy. Lu-nin cảm thấy anh chàng lều nghểu mặt vàng ấy rất sung sướng muốn gặp mình. Và bản thân anh cũng sung sướng vì cuộc đến thăm bất ngờ đó. Quá nhiều kỷ niệm khó phai nhạt đã nối liền họ với nhau: cuộc hành trình trên đầu máy, chiếc ca-mi-ông, cái thùng xăng lăn long lóc, cuộc điều đình xin giấy thông hành cho người đàn bà có hai con nhỏ... Bắt tay nhau xong, họ đứng hồi lâu tủm tỉm cười, chẳng biết nói chuyện gì, Lu-nin nói là anh về cốt xem Sla-va ra sao?

        -  Không lo, - Khô-vơ-rin trả lời. - Người ta đã chăm sóc nó rồi.

        Kể ra không có gì đáng lo thật. Toàn bộ trường bay đã chăm sóc đến thằng bé con của Lê-nin-grát vừa giật lại được từ tay thần chết. Thằng bé không biết rằng cái mặt võ vàng của nó đã làm mọi người xúc động. Các chú thợ máy đem nó về chỗ ở, rồi thi nhau mà cho nó ăn. Họ đã từng nhịn đói trên các trường bay Lê-nin-grát hồi đầu mùa đông trước. Bây giờ lương thực không thiếu nữa, ai nấy đều muốn chia khẩu phần mình cho thằng bé. Và Sla-va cứ việc ăn. Nó quên cả thế nào là "no" và quên rằng con người cũng có lúc đến ngấy vì ăn. Người ta nhồi cho nó nào rau khô, nào bánh mì, bơ, mỡ miếng, cá sấy. Rồi U-va-rốp đến tìm nó. Nhưng U-va-rốp bảo còn phải đi ăn cơm trưa và dẫn nó đến nhà ăn. Prốt-cua-ri-a-kốp và Éc-ma-kốp đã ở đó. Thằng bé quá gầy làm các chị em phục vụ và cấp dưỡng bàng hoàng cũng như nó đã làm bàng hoàng các đồng chí thợ máy. Tuy có mặt cả đồng chí chính uỷ sư đoàn, nhưng các chị cũng xúm lại ở các cửa và nhìn nó bằng con mắt thương xót. Họ đem đến cho nó những đĩa thức ăn đầy tràn tương đương một số ca-lo quá mọi mức. Và Sla-va ngốn tất, với cái vẻ thản nhiên của một kẻ tin chắc rằng dạ dầy con người không có đáy. Nếu Éc-ma-kôp không can thiệp thì chắc sẽ đâm nguy. Người chính uỷ đúng mực ấy hiểu sự nguy hiểm và gạt các đĩa ra bảo thôi.

        Sla-va ăn cơm trưa xong muốn ra trường bay ngay. Nhưng đĩa vừa cất, thì cơn buồn ngủ không thể nào cưỡng được đã kéo đến. Cuộc hành trình bao nhiêu giờ đằng đẵng trong giá lạnh, cộng thêm cái số lượng ăn khổng lồ ấy làm nó nằm vật xuống ghế mà ngủ một giấc không ai gọi dậy được nữa. Hin-đa mặc măng-tô cho nó mà nó vẫn ngủ. Éc- ma-kốp bê nó về giường Sê-rốp. Hàng giờ thằng bé không nhúc nhích. Nhưng trong thời gian đó thì cuộc đòi nó đã được xếp đặt: người ta đã quyết định sáp nhập nó vào quân số trường bay, phát khẩu phần cho nó và cho nó vào làm ở kho quân nhu.

        Vội về ban tham mưu, Lu-nin chi nói chuyện được rất ít với Khô-vơ-rin.

        - Thế nào? - Khô-vơ-rin hỏi. - Đồng chí đã dẫn được họ về đến nơi đến chốn?

        - Không xảy ra chuyện gì. - Lu-nin trả lời, hơi không vui.

        Khô-vơ-rin hiểu là không nên hỏi gặng về cái người mà Lu-nin nhận là vợ!

        Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí viết gì thế. Viết báo à?

        - Không. Đồng chí chính uỷ Sư đòi tôi viết về một việc mà nó cứ không ra!... - Trên mặt bàn, đầy những tờ giấy gạch xóa.

        Lu-nin ngạc nhiên nói to:

        - Tôi chẳng tin lại như thế được.

        - Thật đấy, nó cứ nhất định không ra! Tôi loay hoay đã hàng giờ...

        Sáng hôm sau, Lu-nin dẫn Sla-va đến kho quân nhu. Phải ngược lên hết cả cái phố trong làng, đi trên tuyết mới.

        Theo lệ thường, Sla-va nhẩy nhót chạy trước. Nhưng rồi cu cậu chùn lại, đến nỗi Lu-nin phải dừng lại đợi. Thì ra thằng ông mãnh ấy nay chỉ còn là một đứa trẻ ngượng nghịu đến tội nghiệp. Càng đến gần kho, cu cậu càng tái đi bước lê từng bước. Rốt cuộc cu cậu hỏi Lu-nin:

        - Có phải là nói thế này không: "Tôi đến đợi lệnh đồng chí".

        - Đúng rồi.

        - Bác vào với cháu nhé, cháu van bác...

        Mặc áo da lông, đi ủng, khoác tiểu liên, một cô gái đi bách bộ trước kho quân nhu. Quân số ở  đấy toàn là các cô Công-sô-môn tình nguyện tòng quân từ cuối 1941. Sinh ra ở U-ran, họ đều thấp, mập và không quá 18 tuổi. Đồng chí hạ sỹ quan Di-na phụ trách họ, là một chị cao gầy, có vẻ khó tính.

-------------------
        1. 22 tháng 6 là ngày nổ ra chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:43:56 pm

        Lu-nin và Sla-va vào. Trông thấy Lu-nin, đồng chí hạ sỹ quan Di-na đàng hoàng đưa bàn tay phải lên thái dương và rập gót đôi bốt da. Sla-va thì ấp úng một cách khá thảm hại:

        - "Tôi đến... đợi lệnh... đồng chí"

        Nhưng Éc-ma-kốp đã nói rõ trước cả rồi. Di-na nói:

        - Sẽ phát quần áo cho chú.

        Đằng sau bàn, tửng chồng ca-pốt đen, áo ngoài, quần, chất đống lên tận mái, và ở đó ló ra những bộ mặt tròn hồng hào, ngắm Sla-va với cái vẻ tò mò trêu ghẹo.

        Theo lệnh đồng chí hạ sỹ, các cô đi tìm một bộ quân phục hải quân đúng lệ bộ. Họ tìm những quần áo lót nhỏ nhất, đôi giầy nhỏ nhất, cái quần ngắn nhất, cái áo ngoài chật nhất, những món để từ lâu trong kho, chẳng ai mặc vừa và cũng chẳng là biết là phát cho ai được. Các cô tìm được chỗ tiêu thụ những món đó thì lấy làm thích thú lắm. Tuy vậy vẫn còn quá khổ nhiều đối với Sla-va và phải chữa lại tất cả. Đứng trước gương, cậu thấy các cô lê dưới đầu gối mình, mồm đầy đanh ghim, tay thì cầm kim và kéo, dưới sự chỉ huy của đồng chí hạ sỹ Di-na.

        -  Xinh quá! Xinh thật là xinh! - Các cô reo lên bắt nó xoay đi xoay lại.

        Cau đôi mày để ra cái vẻ chững, Sla-va thấy cái dáng mình trong bộ quân phục lính thuỷ cũng có vẻ: cổ màu xanh da trời, quần đen, thắt lưng có mỏ neo! Chỉ tiếc là còn chưa phát ngay cái mũ nồi. Sang xuân sẽ phát, và từ nay đến đó, đội cái mũ lông đen có sao đỏ củng không kém bảnh. Sau mấy phút, cu cậu hết ngượng. Chỉ còn ngại đồng chí hạ sỹ Di-na. Lu-nin về, để nó ở lại trước gương, một bên ông quần lên bao nhiêu gấu bằng đanh ghim, còn các cô thì ngồi sụp ở dưới chân!

        Mọi người đồng ý là cho nó ngủ ở nhà Lu-nin.

        Thế là bắt đầu cuộc đời mới của Sla-va. Công việc không nặng lắm: chỉ là mang từng chồng mũ lông và đếm sơ mi. Kể ra công việc cũng không hào hứng lắm, nhưng nó làm việc chăm chỉ và cũng không quên tỏ ra vẻ quan trọng một tí. Vả lại U-va-rốp đã báo cho biết công tác này chỉ là tạm thời, là bước đầu, nên cu cậu nuôi nhiều cao vọng. Nó đối xử với bọn con gái như ngang hàng, và nếu bọn này có ôm nó chặt quá thì nó đẩy lùi ra bằng quả thụi. Mỗi ngày ba lần, nó cùng đi với họ ra nhà ăn, sắp hàng tư và đi đầu. Chỗ đứng của nó trong hàng là ở mép trái, tuy theo ý nó thì bọn con gái chẳng qua cũng cao xấp xỉ như mình, nhưng cu cậu không phản đối, không thèm bàn cãi rườm rà. Nó vẫn ngốn hết bất cứ cái gì người ta cho nó, và ngốn một cách ngon lành. Nhưng khi bọn con gái mà định sẻ súp hay bánh bột gạo cho nó, thì cu cậu từ chối một cách kiêu hãnh. Đôi với chị phụ trách Di-na, thì nó phục tùng nhưng lườm trộm. Và khi có lệnh nào không vừa ý thì nó lẩm bẩm ngầm "Di-na quả na", cho cái tên ghép vần ấy là tuyệt trần bỉ thử! Nhưng cu cậu cũng không bực tức quá mức: nó đến đây vì máy bay, và máy bay chiếm hết cả tâm trí nó.

        Nhà kho chia ra hai phần: một nửa có sưởi và một nửa không. Nửa có sưởi dành cho các cô; ở đây kê một cái bàn. Trên bàn đó, Di-na làm những con tính bí mật gì đó, hoặc phát quân trang có phiếu lĩnh đem đến, hoặc chỉ huy các cuộc thử áo. Mãi đằng đầu nửa nhà không có sưởi dùng làm kho, có một cái cửa sổ trổ ở mái nhà. Muốn leo đến cửa đó, phải bò trên các chồng áo ca-pốt. Nhưng từ đó, thì nhìn thấy cả trường bay, đến mãi chân đồi.

        Bọn con gái mách cái đó với Sla-va. Chính các cô cũng hay lên nhòm qua kính. Tuy đã hai tháng thâm niên ở trường bay, nhưng các cô hiểu biết về máy bay rất kém so với thằng nhãi và không thể ngắm hàng giờ như nó, rúc cả vào dưới đống ca-pốt khi trời lạnh quá.

        Từ đài quan sát ấy, khám phá ra được nhiều cái lạ kỳ. Đại uý Sác-ba-đi-ăng ra khỏi chỉ huy sở với cái súng lục khổng lồ để bắn pháo hiệu các mầu lên trời. Máy bay lăn trong tuyết, cất cánh và biến sau đồi. Prốt-cua-ri-a-kốp, Éc-ma-kôp, bác sỹ Grô-mê-kô và các thợ máy đứng gần cái vết tôi tối của chữ T hạ cánh. Các I-16 lượn để hạ, đụng đất làm bụi tuyết bay tung lên, rồi lại nhảy lên như quả bóng, lại đụng đất lại chạy lướt trên bãi trắng xóa, vừa chạy vừa phanh lại. Các thợ máy chạy lại đón, và nắm lấy cánh máy bay đẩy vào chỗ. Rồi đến cái lúc nghiêm trang mà phi công nhảy từ khoang xuống báo cáo với Prốt-cua- ri-a-kốp. Từ cửa số nhìn ra, máy bay giống như các đồ chơi trẻ con nhỏ xíu, và phi công thì như những người lính đúc bằng chì. Nhưng Sla-va nhận được họ và không lầm. Nó cố tìm hiểu. Và chỗ nào còn mít đặc thì cu cậu tưởng tượng thêm vào.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:44:57 pm

        Nhưng cái cảnh ngắm từ xa ấy không đủ thích. Cũng nhiều khi không có việc gì ở kho thì nó đi tìm Di-na:

        - Báo cáo đồng chí hạ sỹ, cho phép tôi ra ngoài!

        - Được! - Di-na nói sau một phút nghĩ. - Nhưng đến bữa ăn, không được về chậm!

        Nó đã đi xa, chị còn gọi:

        - Ê, có mang ủng đấy không? Cẩn thận, nghe không...

        Nó nói vụng chị là "Di-na quả na" và lẩm bẩm với những lệnh của chị kế cũng là sai, vì chị rất dễ đối với nó. Đối với bọn con gái thì chị rất nghiệt, vì chị tin là ở trên trường bay các cô luôn luôn dễ mắc vào cái món yêu đương lắm. Về Sla-va, chị khỏi lo cái đó, nên bằng lòng cho nó đi. Chị nghĩ bụng: "Cho nó thở khí trời một tí. Thê tốt".

        Lo chị thay đổi ý kiến nên Sla-va không để kéo dài một giây nào. Vừa ra khỏi nhà là nó chạy như biến, hơi thở muốn đứt vì gió lạnh, mắt thì nháy nháy vì chói nắng. Nó khoái nhất là khi gặp các xe bơm xăng có đề chữ "Nguy hiểm. Dễ cháy", từ đằng sau đi tới. Nó giơ tay. Chiếc ca- mi-ông phanh lại, và Sla-va nhảy lên bậc xe, tay bấu vào cái cửa mất kính, mắt nhìn chăm chăm cái mặt lấm ma- dút của người lái xe. Nhờ chiếc xe, nó vào đường bay với cái vẻ chiến thắng. Từ xa, nó trông thấy Lu-nin đã ngồi trong máy bay. Nhảv từ bậc xe xuống, nó chạy lại anh.

        Nó quen hết các phi công của trung đoàn. Nhưng Lu-nin  là bạn cũ nhất, nên nó tự coi là cổ động viên cho phi đội 2. Nhìn qua một cái, là nó biết ai đang bay, và hỏi các chú thợ máy xem sắp đến lượt ai. Từ trong khoang máy bay, các phi công đội mũ da cười với nó trong khi đợi lệnh xuất phát. Lu-nin cho phép nó trèo lên cánh chiếc 1-16. Đứng trên cánh máy bay, Sla-va nhìn chỗ lái. Lu-nin giảng cho nó nghe về cái bảng bay. Một hôm anh còn cho nó ngồi vào chỗ lái. Đứng trên cánh, anh cho phép nó mó vào tay lái và ngắm vào ống kính. Như mờ cờ trong bụng, Sla-va chú ý không dám chạm đến cái nút liên thanh. Lu-nin  bảo:

        - Ấn vào!

        Sla-va không tin là tai mình nghe đúng. Nó quay ngoắt lại và nhìn chòng chọc vào đồng chí thiếu tá. Không: Lu-nin  không nói đùa. Tái đi vì xúc cảm, thằng nhãi ấn vào cái nút. Tiếng nổ gọn, và một chùm lửa đạn lấp loáng bay qua sân bay vắng ngắt. Sla-va rụt tay ra và nhìn Lu-nin đang mỉm cười, mặt anh đỏ lên vì lạnh.

        Mặc dù rất quan tâm đến các thứ nhồi vào dạ dày, nhưng Sla-va không rời được máy bay để tự động về nhà ăn. Mỗi lần hạ sỹ Di-na cứ phải gọi. Chị ra sau nhà kho và khoa tay lớn làm hiệu. Nó tảng lò như không nom thấy, nhưng Lu-nin bảo ngay:

        - Về đi chứ. Thế không tốt.

        Và Sla-va lầm bầm chạy về với Di-na. Được mấy bước, nó lại quay lại và nói to với Lu-nin:

        - Ăn cơm xong, cháu lại xin phép đến!

        Nó ăn vội ăn vàng, và mồm còn đầy thức ăn, đã kể lại những tin cuối cùng của trường bay với tụi con gái.

        Các cô chăm chú nghe nó, có vẻ hơi tị nạnh. Cái vũ trụ anh hùng của những trận không chiến mà các cô chỉ tham dự từ xa ấy, tham dự qua cái cửa sổ giá lạnh nhà kho, thì nó được nhìn sát, nó được phép đến. Biết cái thèm muốn của các cô, nó càng làm bộ. Nó nhét vào câu chuyện, những tiếng chuyên môn học lỏm được ở các đồng chí thợ máy -  nào xương cái cánh tàu bay, nào cánh cửa vòm, nào máy ổn định. Nó nhếch mép cười, ra cái vẻ khinh bỉ khi họ hỏi những cái đó là cái gì. Nó tả chuyện không chiến bằng cái lối nói kín mít, vì toàn mượn tiếng lóng của phi công. Nó gọi Lu-nin là "Công-stăng-tanh I-nha-tít", gọi Sê-rốp bằng tên cái, có khi còn gọi tắt là "Kôn-ka".

        Đĩa thịt vừa nuốt xong, và miếng bánh cuối cùng còn trong mồm, nó đã bồn chồn liếc về phía Di-na.

        -  Đồng ý, thôi xéo đi! Nhưng nhớ về ăn cơm chiều. Ta không đi gọi mãi đâu. Nếu chậm thì nghỉ ăn!

        Bữa cơm chiều, nó ít mồm mép hơn, và mệt không buồn nhai nữa. Mắt đã nghiền lại. Chỉ còn đủ sức lê về giường, vừa đi vừa ngủ, và húc cả vào người khác.

        Bây giờ, cứ mỗi chiều, Lu-nin lại chạy về nhà, và ngồi một hai giờ ở bàn với Khô-vơ-rin, dưới ngọn đèn đầu. Nhà ấm, mà cả ngày đã run lên vì rét, nên Lu-nin hưởng cái hơi ấm đó thực là khoan khoái. Từng giọt mồ hôi lớn lấp lánh trên cái trán hói. Anh mở cúc áo bay và hiền từ nhìn Khô-vơ-rin.

        Tuy vậy, không nói chuyện gì. cả hai đang làm cái việc mà thoạt đầu U-va-rốp giao cho một mình Khô-vơ-rin, Sla-va biết là việc gì: lời thề mà các phi công sẽ đọc hôm làm lễ nhận cờ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:45:28 pm

        Khô-vơ-rin đã phác đến hàng tá bản, nhưng U-va-rốp đều vất vào sọt. Đồng chí chính uỷ phê bình:

        - Nhiều văn vẻ quá, và ít tình. Lối nói phải đơn giản hơn. Mọi người phải nói được những câu đó, không phải như một bài học thuộc lòng, phải như là tự trong lòng mà ra. Đồng chí tìm lấy một phi công thực để họ giúp đỡ. Hỏi Lu-nin xem. Đọc cho đồng chí ấy nghe dự thảo, và lắng nghe ý kiến phê bình.

        Lu-nin thì lại thấy mỗi câu đều hay. Anh khen thực tình phục cái tài viết và chữ nghĩa súc tích của Khô-vơ- rin. Anh còn phá lên cười khi biết U-va-rốp định nhờ mình. Nhưng Khô-vơ-rin cảm thấy chưa bản nào làm Lu-nin  vừa ý. Lu-nin nói:

        - Nó hay quá. Một người phi công không nói như vậy.

        - Vậy nói thế nào?

        - Tôi cũng không biết nữa... Những cái gì có vẻ giản dị hơn... Ví dụ nói về cái tay lái, cái máy nổ...

        Khô-vơ-rin đi đi lại lại trong phòng, in bóng từ tường này qua tường khác, cái bóng cong cong của anh và dò xét trong mặt Lu-nin với hy vọng tìm hiểu xem Lu-nin muôn nói gì. Anh nghiên ngẫm một câu, và cao giọng nhắc lại. Rồi hỏi:

        - Vậy được không? Được không?

        - Được đấy. - Lu-nin trả lời. - Chưa hẳn được, nhưng gần được.

        Sla-va không lắng nghe những câu đó. Vì nó không hiểu. Đặt mình vào giường là nó nghĩ đến Sô-ni-a.

        Ban ngày, cảm giác dồn dập làm nó không còn thì giờ nghĩ đến chị. Nhưng chỉ cần nằm và nhắm đôi mắt lại là thấy ngay hình chị từ bóng tối nhẩy ra... Giờ này, chắc chị ở trong bếp, chỗ ông chết, độc một mình trong căn nhà lạnh lẽo, đang uống nước đun sôi trong ấm... Buổi sáng chị đã ăn hết phần bánh cả ngày mất rối, buổi chiều chẳng còn lấy một miếng.

        Đột nhiên nó hỏi Khô-vơ-rin:

        - Chú à, chú có thể đem giúp một gói cho chị cháu?

        - Được chứ, đã hứa rồi mà.

        Cái gói gửi cho Sô-ni-a, Sla-va đã nghĩ đến ngay từ khi mới tới. Nó tự hứa sẽ để dành một ít bánh bít-cốt lấy ở phần của nó. Nhưng các nhân viên nhà ăn đểu bảo nó là khi nào nó gửi được, thì khắc sẽ cho nó hẳn một cái bánh mì lớn, có thể hai chiếc, lại có cả bánh bột gạo, cả mấy hộp thịt nữa, vì nó thường ngày đã ăn hết khẩu phần đâu... Thật không? Hay hai cái bánh mì lớn ấy lại rút ở dự trữ nào chẳng ai biết?

        Nó hỏi Lu-nin:

        - Bác à, chị Sô-ni-a rồi có thể đến thăm cháu được không. Bây giờ thì chưa đâu, nhưng sau này, sang xuân? Cháu chưa muốn nói ngay với bác U-va-rốp, sợ bác ấy không bằng lòng... Nhưng ít lâu nữa... xin phép bác ấy cho chị cháu đến một, hai ngày... Bác nói hộ cháu nhé.

        - Được. Nhưng ngủ đi...

        Một phút sau, tư tưởng của Sla-va đã chuyển sang hướng khác.

        - Bác à. Bác có cho là sẽ hạ được thêm một máy bay Đức cho tròn 140 không?

        - Biết đâu được. Ngủ đi...

        Sla-va ngủ tít.

        Lu-nin thuộc cái loại rất thiểu số trong trung đoàn là không áy náy đến cái việc con số 139 chưa tròn. Cũng là vì anh đã đứng tuổi. Anh để ý trong các bạn, càng bọn trẻ, thì càng mơ ước đến con số tròn 140 trước ngày làm lễ nhận cờ. Riêng anh, anh cho là cũng sẽ có ngay cái máy bay Đức bị hạ thứ 140 ấy. Nhưng hạ trước hay sau ngày nhận cờ thì đối với anh không quan hệ.

        Ra khỏi nhà, anh thấy giá lạnh và sao sáng hơn mọi khi. Ngày mai trời sẽ quang, phải bay từ sáng sớm. Chắc có dịp hạ cái máy bay địch thứ 140...

        Quả nhiên được xuất trận từ tinh mơ. Các đài quan sát phát hiện ra những cụm nhỏ Mét-séc-mít ở gần khắp các nơi. Chúng bay rất cao, dò xét con đường sắt Kô-bôn và con đường bên hồ, nhưng không bắn phá. Chắc là chúng tránh không muốn đánh nhau.

        Tám chiếc máy bay của trung đoàn cắt lượt nhau mà cất cánh từng đôi một. Sau khi đã tuần tiễu khắp khu vực, họ trở về trường bay, chẳng được đánh trận nào, tuy vẫn trông thấy Mét-séc-mít. Rõ ràng là bọn Đức đang chuẩn bị cái gì.

        Chưa hôm nào mặt trời lại rực rỡ như hôm nay. Dù lạnh 20 độ dưới không, mà như ánh nắng mùa xuân. Không nhìn được về phía mặt trời nữa, vì mắt nó khắc nhắm lại, vì tuy trời hoàn toàn quang, nhưng bọn Mét-séc- mít lại càng dễ biến mất trong cái ánh sáng rực rỡ ấy.

        Về chiều, mặt trời càng khó chịu. Cái cục lửa ấy xuống dần về tây nam, và chẳng nhận được ra gì trong ánh sáng chói lọi lạnh lẽo, làm một nửa chân trời như bốc cháy.

        Chính cái màn lửa ấy giúp cho Lu-nin và Sê-rốp. Họ xuất trận lần này là lần thứ tư. Họ vừa đến phía cùng đông nam của khu vực thì trông thấy ở đông bắc một đoàn chín gioong-ke đang bay về mé Kô-bôn để ném bom.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:46:03 pm

        Bọn gioong-ke bay cao 3000 thước, và trên cao nữa, có Mét-séc-mít yểm hộ cùng song song bay theo. Thời gian ném bom kể chúng đã chọn đúng, vì từ Kô-bôn nhìn tới thì vướng mặt trời không thấy chúng đến được. Nhưng chúng cũng không nhìn thấy được Lu-nin và Sê-rốp. Chở nặng bom, chúng thản nhiên bay cách hai chiếc 1-16 chừng 2000 thước không biết gì cả. Tim Lu-nin đập như người đi săn vừa tìm được mồi bở. Anh nghiêng cánh báo hiệu cho Sê-rốp và cả hai lao vào.

        Từ mùa thu qua họ đã học được ở Rát-sô-khin cái nghệ thuật hạ những máy bay khổng lồ ấy, khổng lồ nhưng chậm và kềnh càng so với máy bay của họ. Đoàn gioong-ke rung lên, vặn vẹo và một khoảnh khắc sau, hai cái đã bốc cháy trên mặt băng.

        Lu-nin nghĩ thầm và hơi mỉm cười:

        "Thế là 141, lại không phải con số tròn".

        Đoàn oanh tạc bị bẻ gẫy. Bẩy cái gioong-ke tán loạn và thả bom cho nhẹ và dễ trốn. Bom nổ trên mặt hồ trắng xóa.

        Bọn Mét-séc-mít quay cuồng. Chúng thấy hai chiếc oanh tạc bị hạ mà vẫn không tìm ra được khu trục ta. Để làm chúng không nhìn thấy, Lu-nin và Sê-rốp hướng máy bay về tây nam. Họ đã vượt qua đường bờ hồ và đang bay trên đám rừng đen thì Lu-nin chói mắt, thấy ngay thẳng trước mặt một cái bóng đen lớn ra trông thấy.

        Một Mét-séc-mít bay lại họ. Nó che lấp mặt trời, và vút như một tia chớp ngay cạnh, rồi biến mất.

        Lu-nin rùng mình nghĩ thầm:

        "Sao nó không bắn mình nhỉ". Và anh nghĩ ngay đến Sê-rốp. Anh quay lại: máy bay Sê-rốp bốc cháy.

        Ngọn lửa bao lấy máy bay Sê-rốp, còn rực rỡ hơn cả ánh lửa cháy trên trời. Cái lạ nhất là máy bay tuy cháy mà vẫn bay thẳng hướng.

        Lu-nin thét lên một tiếng. Nhưng tiếng anh bị tiếng máy che lấp.

        Từ 2000 thước, Sê-rốp nhẩy ra, và rơi xuống như một hòn đá, hai tay vung vẩy rất lạ.

        Anh không mở dù. Lu-nin cho là anh hỏng mất rồi. Anh lại thét lên một tiếng và bổ nhào một cái liều lĩnh về phía Sê-rốp, như muốn đâm cả xuống cây. Sê-rốp vẫn rơi, và mặt trời xuống thấp chân trời, càng lớn và đỏ thêm, như xuống theo Sê-rốp.

        Đến 1200 thước, thì dù mở. Sức giật chắc là ghê gớm. Mái dù chồm lên, lảo đảo, và Sê-rốp thì im lìm ở đầu dây. Anh đã cố ý rơi 800 thước không dù để tránh đạn Mét-séc- mít? Hay không còn sức kéo vòng? Dầu sao, anh còn sống.

        Chiếc dù xuông chậm sốt cả ruột. Lu-nin lượn vòng để che chở. Trên rất cao, hai chiếc Mét-séc-mít lấp lánh. Chắc chúng trông thấy rõ cái dù sáng rực rõ, nhưng Lu-nin  còn đó thì chúng chưa đánh... Mặt đất gần dần. Bây giờ thì yên trí: dù sẽ rơi trong cái đám thông còi này. Mặt trời gần đụng chân trời, nhuộm vàng ngọn cây, nhưng ở dưới thấp nữa, giữa những thân cây, thì ánh nắng đã tắt hẳn. Dù rơi giữa hai cây thông, không dụng phải một cành nào. Sê-rốp ngã vật xuống tuyết.

        Lu-nin thấy rõ là anh nằm sấp trong một cái thế lạ lùng, co quắp và không động đậy. Chiếc dù hết hơi gió xếp thành đống ngay cạnh, im lìm. Dưới đất không có gió. Lu-nin  vẫn lượn vòng, bay là ngọn thông, mắt không rời Sê- rốp. Tại sao anh không dộng đậy?

        Khi Lu-nin lượn dến vòng thứ mười hai. Sê-rốp hơi nhỏm dậy và bò trên sườn trái một cách lạ kỳ, tay phải và chán phải không đụng đậy, lôi theo cái dù chưa tháo khỏi người.

        Đến một cây thông, anh dựa lưng vào thân cây. Tay trái co quáp bôc lấy một nắm .tuyết bỏ mồm. Chắc là khát ghê gớm. Cỏ lẽ mặt bị bỏng?

        Lu-nin lượn đi lượn lại sát ngọn tùng, cố làm cho Sê- rốp chú ý. Sê-rốp không trông thấy sao? Sau, cùng anh mới giơ được tay trái lên và khẽ làm hiệu.

        Lu-nin vẫn lượn vòng. Sê-rốp bị thương, bị trọng thương, chắc là bị bỏng. Làm thế nào cứu được?

        Bọn Mét-séc-mít đã đi khỏi. Mặt trời đã lặn. Hoàng hôn bao trùm lấy khu rừng. Nếu xung quanh có cái bãi nào có thể hạ cánh! Nhưng chỉ cây là cây, không một khoảng trống, không một chỗ đỗ... Sau cùng Lu-nin trông thấy một con đường, nhưng chật quá không thể tự nhiên mà hạ cánh được. Chỉ có thể từ trường bay đi cứu Sê-rốp bằng đường bộ được thôi.

        Lu-nin lượn thêm vòng cuối cùng và mở hết ga về trường bay.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:47:05 pm

IV

        Ban chỉ huy đã biết là Lu-nin và Sê-rốp hạ hai gioong- ke ngay khi sự việc xảy ra. Cuộc không chiến diễn ra trên hồ La-đô-ga: Các đài quan sát ở hồ đã gọi điện ngay cho Ta-ra-rắc-xin. Nhưng người ta không biết rồi sau Lu-nin và Sê-rốp ra sao khi họ bay khuất trên cánh rừng.

        Bọn Đức đã thất bại trong kế hoạch ném bom Kô-bôn. Prôt-cua-ri-a-kốp, tuy không có định kiến gì, cũng cho phi đội 1 và phi đội 3 cất cánh, bản thân anh dẫn đầu. Trên sân bay chỉ còn các đồng chí thợ máy, Éc-ma-kốp và Grô- mê-kô.

        Mặt trời vừa lặn. Hoàng hôn mùa đông chói lọi trên cánh rừng. Trời còn sáng, nhưng dưới đất thì đã tối dần. Tuyết sào sạo dưới gót giầy. Lạnh buốt đến nỗi mọi người phải đi bách bộ, vừa đi vừa dò xét chân trời. Đáng lẽ Lu-nin  và Sê-rốp phải về rồi mới phải. Nhưng phút này qua phút khác vẫn mất tăm.

        Éc-ma-kốp biết họ còn bao nhiêu xăng. Anh coi đồng hồ. Ba phút nữa mà họ không về, thì tức là không bao giờ về nữa.

        Máy bay Lu-nin nhô ra khỏi mỏm đồi và chuẩn bị hạ cánh. Lu-nin từ khoang nhảy xuống, và mọi người nhìn mặt anh đã hiểu có tai nạn xảy ra.

        Éc-ma-kốp hỏi:

        - Đồng chí ấy còn sống không?

        Lu-nin gật.

        - Ở đâu?

        Lu-nin đặt bản đồ lên đầu gối. Chỗ Sê-rốp rơi cách chừng bốn mươi cây số, giữa rừng, không có làng nào gần đó.

        Éc-ma-kốp hỏi:

        -  Rơi gần đường không?

        - Không xa, quãng bay trăm thước bên phải, ở chỗ này. Tôi còn muốn hạ cánh ở đó, nhưng chật quá.

        - Ô tô có đi được không? Có nhiều tuyết quá không?

        Lu-nin chẳng biết nữa. Từ trên cao thì khó mà nhận định. Anh không thấy xe cộ trên con đường đó.

        Sau một giây suy nghĩ, Éc-ma-kốp nói:

        -  Đi được. Đó là con đường chạy ra mặt trận. Tuyết chắc đã đóng cứng.

        Anh ra lệnh, giọng nói vẫn như thường. Cũng là cái đặc tính của chính uỷ: anh càng cảm động thì giọng nói càng vững vàng.

        Cái gan dạ ấy đối với Lu-nin có hiệu quả như một liều thuốc an thần. Anh nghĩ bụng: "Thế có nghĩa là đồng chí chính uỷ có hy vọng". Bản thân anh thì lúc hy vọng, lúc tuyệt vọng. "Cốt sao đến được nhanh, không mất thì giờ..."

        Mọi việc sửa soạn rất nhanh. Đi theo đồng chí bác sỹ là đồng chí nữ y tá - một phụ nữ nhỏ xíu mặc áo da lông kín chỉ còn chừa ra gấu chiếc váy đen và đôi ủng sù sù, vai đeo một cái sà-cột lớn. Chiếc xe hòm M-l của Prốt-cua-ri-a- kốp đến. Éc-ma-kốp bảo người lái xe về, và tự cầm lái lấy. Grô-mê-kô ngồi đằng trước. Lu-nin và đồng chí nữ y tá ngồi phía sau.

        Thêm một ca-mi-ông đầy thuỷ thủ đổ trên sân bay. Kể từ khi Lu-nin về đến khi hai xe mở máy chỉ có mười phút. Prốt-cua-ri-a-kốp chưa về.

        Trong bóng tối ngày càng dày đặc, con đường trắng phủ tuyết cứng chạy dài đằng trước. Éc-ma-kốp mở hết tốc lực; chẳng mấy lúc đã bỏ mất hút chiếc ca-mi-ông. Nhưng Lu-nin vẫn cảm thấy như chỉ tiến được gọi là. Sê-rốp bị ngâm giá lạnh hai tiếng đồng hồ! Ngay với những vết thương nhỏ, cũng là nguy hiểm. Nhưng nếu anh bị mất máu nhiều thì thế nào?... Có lẽ nào Lu-nin hoá ra người độc nhất sót lại của phi đội?

        Đồng chí bác sỹ yên lặng. Cũng không ngoái đầu lại. Chắc là cảm động quá, nên anh đã mất cái kiểu huênh hoang, và cái tư thế nghiêm chỉnh ấy làm Lu-nin tưởng như là một người nào khác.

        Đồng chí nữ y tá cũng không nhúc nhích. Chỉ mỗi lần xe giật làm chị thở dài, thì người ta mối nhớ ra là có chị.

        Tối hẳn. Hai bên đường, sừng sững hai bức tường cây. Con đường hẹp lại và ngoặt lưôn. Vấp phải mỗi chỗ sống trâu, xe lại chồm lên. Tuy Éc-ma-kốp mở hết ga nhưng cũng mất không kém một giờ mới đến khu vực Sê-rốp rơi.

        Khu vực đại khái... Khi Éc-ma-kốp quay đầu lại để hỏi xem đã phải đỗ chưa, thì Lu-nin không biết thế nào mà trả lời. Trên không, thì anh tìm ra ngay lập tức, nhưng ở dưới đất, mọi vật hình như đều không giống. Anh soi đèn bấm xem bản đồ. Xe lại chạy rồi lại đỗ xa đó một ít.

        Lu-nin nhớ là con đường ngoặt đột ngột về tay trái, ngay ở chỗ mà nó gần nơi Sê-rốp rơi nhất. Nhưng giữa đêm tối và ở dưới đất, thì cái ngoặt nào cũng như cái ngoặt nào. Khi ô tô đỗ lại, thì chẳng thấy cái ngoặt nào có vẻ đúng. Nhưng ôtô vừa đi thì anh lại lo là đã đi quá mất rồi.

        Xe đỗ lần thứ năm.

        Grô-mê-kô mỏ cửa xe hỏi:

        - Ở đây chăng?

        Lu-nin nhìn ngọn rặng tùng nhấp nhô. Sao lấp lánh trên đầu. Lưỡng lự anh trả lời:

        - Ở đây.

        Éc-ma-kổp đề nghị:

        - Hay là đi chút nữa. Đồng chí đừng sốt ruột và nhìn cho kỹ. Nếu không đúng chỗ, thì càng mất thì giờ.

        - Không. Cái ngoặt này đột ngột lắm.

        Anh thực cũng không tin chắc lắm, nhưng sau cái ngoặt gần thước thợ này thì con đường có thể đưa đi mãi xa không còn có thể tìm ra Sê-rốp nữa. Bác sỹ và y tá xuống xe, đứng ở bên đường. Phân công đồng chí Éc-ma-kốp đứng lại đó chờ ca-mi-ông, còn ba người thì đi thăm dò trong rừng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:47:51 pm

        Lu-nin nói:

        - Bên phải. Sau rừng tùng này thì đến một cái rừng thông nhỏ.

        Dưới bóng cây, còn tối hơn trên đường, nhưng nhìn trên tuyết thì cái gì cũng rõ. Tuyết cứng như miếng đường, đi vào không bị lầy sâu. Cố nhiên là phải vòng quanh những đông tuyết vụn mà gió đã lùa vào qua những chỗ tùng mọc dầy.

        Đôi bốt lông làm Lu-nin khó bước. Và anh luôn tự hỏi có phải đúng cái ngoặt này không. Sê-rốp ở trong một cái rừng thông non khá thưa, mà ở đây thì rừng rậm, mà lại là rừng tùng. Anh đã nhận định kỹ là tùng chỉ mọc bên đường, và ý nghĩ đó lúc đầu làm anh yên trí là tùng sắp hết và sẽ thấy thông. Anh tưởng mình lạc: hay là anh đi song song với con đường mà không đi sâu vào? Anh rẽ sang trái, sang trái nữa. vẫn chỉ là bóng tối om.

        Bây giờ thì anh gần như chạy, tuyết đến đầu gối, chốc lại đổi hướng, thấy chỗ nào có vẻ thưa là bổ lại. Nhưng ở chỗ thưa đó, vẫn chỉ là tùng. Mà chắc là đã xa đường lắm rồi. Có lẽ nhận lầm cái ngoặt thật chăng? Đáng lẽ phải đi tìm chỗ khác mới phải. Đã mất bao nhiêu phút quý báu vì lỗi ở mình, những phút đã có thể làm chết mất Sê-rổp. Anh cố tìm kiếm một lúc. Rồi tuyệt vọng, anh quyết tâm trở lại đường. Anh vừa định gọi hai người kia thì bỗng nhiên những cây tùng thưa hẳn ra như bất ngờ, để lộ ra cái gò thông non và thưa. Ớ đây sáng hẳn ra. Tuyết lấp lánh và các ngôi sao như mác vào những cành thông.

        Lu-nin kêu to:

        - Lối này!

        Có tiếng thanh niên trả lời: các đồng chí thuỷ thủ đi xe ca-mi-ông đã đến cùng với Éc-ma-kốp. Không đợi họ, Lu- nin lao ngay lên gò và tưởng trông thấy bóng người nằm. Anh chạy bổ lại, tim đập mạnh. Chỉ là một gốc cây.

        Hai ba lần anh bị ảo ảnh đó. Cuối cùng, anh đến đỉnh gò, quan sát xung quanh và xuống mé gò bên kia. vẫn cánh rừng thông non. Nhưng ngay gần sát rừng tùng, lại chắn ngang như một bức tường thành tua tủa lỗ châu mai.

        Lu-nin đến tận rừng tùng rồi ngoặt lại, nhưng không trở về chỗ cũ mà tạt sang bên phải quãng trăm thước. Trước khi anh lên đến mỏm, đã gặp các đồng chí thuỷ thủ đang cào bới trong cánh rừng con. Éc-ma-kốp và Grô-mê- kô đi theo sau.

        Ec-ma-kốp nói:

        - Sẽ tìm thấy Sê-rốp ngay đồng chí thiếu tá ạ. Cánh rừng rộng. Nếu rơi ở đầy thì chắc chắn sẽ tìm thấy.

        - Tôi thây đúng là cánh rừng con chỗ Sê-rốp rơi.

        - Rừng nào cũng thế thôi, bao giờ chẳng có tùng ở dưới thấp và thông ở trên cao.

        Lu-nin tiếp tục tìm kiếm, nhưng bị câu nói của đồng chí chính uỷ ám ảnh. Sự tin tưởng khi anh thoạt trông thấy cánh rừng thông đã biến mất. Anh gần như chắc chắn là đã nhận lầm khúc ngoặt đường. Ba phút sau, lại đụng vào rừng tùng, anh quay lại và lại leo lên mỏm gò lần thứ ba. Chỗ nào cũng có dấu giầy ủng: toàn bộ cánh rừng thông đã bị cào bối lên rồi. Lu-nin nghĩ bụng: "Trong khi vì lỗi của mình anh em loay hoay ở đây thì Sê-rốp có lẽ đã chết vì lạnh hay vì mất máu". Anh đi tìm Éc-ma-kốp, và nhận là chắc chắn đã lầm.

        Nhưng Éc-ma-kốp thì lại hết sức tin tưởng. Lu-nin lấy làm lạ. Bây giờ thì anh nhất định là mình đã lầm. Anh còn nhớ rất rõ: không phải cái ngoặt như thể này; và rừng thông cũng khác kia - thông rậm hơn, và cũng non, nhưng không non quá như vậy. Éc-ma-kốp không nói gì những vẫn tỏ vẻ hoài nghi.

        Thì vừa lúc đó Grô-mê-kô gọi. Mọi người chạy lại, Lu-nin  chạy trước tất cả. Cái dù nằm trong tuyết, nhầu nát. Đồng chí thầy thuốc bới trong lụa, hy vọng tìm thấy Sê- rốp ở trong.

        Không thấy Sê-rốp.

        Éc-ma-kôp nói:

        - Đồng chí ấy đi rồi.

        Lu-nin kêu to lên:

        - Không thể được! Đồng chí ấy đứng còn không nổi!

        Grô-mê-kô nằm sấp xuống để quan sát mặt tuyết. Máu đọng thành từng chấm đen, khó mà phân biệt được với vỏ cây và cành khô vụn. Nhiều vết lắm, Tuyết đã cứng - đó là cái vệt bò của Sê-rốp để lại. Hay là anh nghe thấy tiếng ôtô và cố lê ra phía xe?

        Đồng chí bác sỹ đứng dậy và đi theo vệt bò, mình cúi xuống đằng trước... Bao nhiêu là máu! Chắc Sê-rốp đã bò vào trong bụi rậm này. Đồng chí bác sỹ luồn vào, lấy tay rẽ cành. Tuyết rơi như bột. Một đống tuyết cao chắn lối đi. Grô-mê-kô bước vào. Có tiếng rơi và tiếng cành cây gẫy.

        Lu-nin kêu lên:

        - Đồng chí bác sỹ, đồng chí ở đáu rồi?

        Đồng chí thầy thuốc đã biến mất.

        Lu-nin đi theo bước chân, tuyết ngập đến thắt lưng.

        Từ mé dưới, có tiếng Grô-mê-kô kêu lên:

        - Đứng lại! Đứng lại kẻo ngã!

        - Cái gì đấy? Miệng phễu à?

        - Hố hay miệng phễu cũng chẳng hiểu là cái đếch gì nữa. Đi vòng xung quanh. Đồng chí ấy ở đây rồi.

        - Còn sống không?

        Grô-mê-kô không trả lời.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:48:32 pm

        Bẻ cành và lội ngập vào tuyết, Lu-nin tìm đường đến cái hố mà anh chỉ trông thấy lờ mờ. Dưới đáy hố, có ánh đèn sáng, đèn bấm của Grô-mê-kô. Mặt Sê-rốp hiện ra trong ánh'sáng, một bộ mặt biến dạng đi một cách lạ thường có những chấm đen trên má và trên trán. Đôi mắt vẫn mở.

        Lu-nin kêu lên:

        - Kô-li-a! Kô-li-a! Không nghe thấy gì nữa rồi... Còn sống không?

        - Bây giờ thì còn, - Grô-mê-kô trả lời.

        Đồng chí nữ y tá đến vào nói:

        - Mắt còn phản ứng với ánh sáng.

        Đèn tắt. Grô-mê-kô bế Sê-rốp một cách dễ dàng và đặt lên miệng hố. Anh ra lệnh cho Lu-nin:

        - Tránh xa ra! Mọi người đều tránh xa ra!

        Ai nấy đều tuân lời. Bây giờ người thầy thuốc là chủ. Mọi người đứng quanh Sê-rốp, Grô-mê-kô và đồng chí nữ y tá thành một vòng rộng.

        Grô-mê-kô giọng như thường:

        - Cáng đâu?

        Một thuỷ thủ đem cáng đến, mở cáng trên tuyết. Grô- mê-kô đặt Sê-rốp vào. Cái đầu lắc lư một cách lạ lùng, như một cái đầu bù nhìn. Lu-nin rùng mình; Grô-mê-kô đã nói: "Bây giờ thì còn". Bây giờ thì...

        Quỳ trước cáng, Grô-mê-kô làm việc. Đồng chí nữ y tá tuần tự rút từ sà-cột ra những thứ anh cần dùng. Anh lấy dao rạch cái bốt vất đi vào đòi:

        - Đưa ga-rô.

        Anh cắt bộ quần áp bay đẫm máu, để trần cái chân ra và buộc ga-rô ngay dưới đầu gối, trên vết thương một ít. Đồng chí nữ y tá soi cho anh bằng cái đèn bấm trong khi anh coi vết thương xem xương có việc gì không? Rồi anh làm đến cánh tay phải. Nó chỉ còn là một đống lẫn lộn máu, mảnh xương gẫy vụn, vải, bông và thịt. Anh rửa chỗ bị thương, nhanh, gọn và nhẹ nhàng. Khi anh kéo vào cánh tay, thì Sê-rốp kêu rên một tiếng, nhưng vẫn không tỉnh. Grộ-mê-kô buộc một ga-rô rất chặt ở vai, băng lại và đặt một cái máng bó xương.

        Lu-nin không hiểu ý nghĩa của việc làm đó. Nhưng cái bình tĩnh và dáng điệu chắc chắn của người thầy thuốc làm anh tin tưởng. Và anh càng ngạc nhiên khi nhận ra là thường ngày ở trường bay, cái thô bạo cố tình, những câu chuyện đàn bà và chè rượu của con người ấy chỉ là do cái tâm lý tự ti mà thôi. Cúi xuống những vết thương của Sê- rốp, Grô-mê-kô như thành một con người khác. Đến tiếng nói cũng không giống nữa. Ai cũng nhận thấy thế, và Lu-nin  cũng như Éc-ma-kốp và các đồng chí thuỷ thủ đều nhìn anh một cách kính trọng.

        Grô-mê-kô bảo:

        - Cáng anh lên xe! Cốt nhất là đừng để anh bị lắc quá! Lên đường thôi!

        Người ta trùm một chiếc áo da lông cho Sê-rốp và cáng anh đi qua rừng. Đồng chí nữ y tá lên ca-mi-ông với các thuỷ thủ. Éc-ma-kốp, Grô-mê-kô và Lu-nin thì cùng đi với Sê-rốp trong chiếc M-l. Cái cáng quá lớn nên Grô-mê-kô và Lu-nin phải giữ Sê-rốp trong lòng, đầu anh dựa vào ngực Lu-nin. Lu-nin không dám thờ mạnh sợ anh đau.

        Tuy tôì trời, Lu-nin cũng nhìn thấy bộ mặt méo mó đi vì vết bỏng, sưng vù lên và đầy những chấm đen. Bây giờ thì mắt Sê-rốp nhắm. Éc-ma-kốp lái xe, nhưng thỉnh thoảng lại ngoái đầu lại xem: những chấm đen có vẻ làm anh lo ngại. Sau cùng anh bảo Grô-mê-kô:
        - Đồng chí ấy bị bỏng tợn quá!

        - Không sao cả. Chủ yếu là hai con mắt không việc gì. Vết bỏng sẽ lành. Tất nhiên nếu...

        Grô-mê-kô không nói hết câu. Nhưng Lu-nin đoán "Tất nhiên nếu anh sống được".

        Ec-ma-kôp hỏi:

        - Mất nhiều máu phải không?

        - Nhiều. Nhưng cái nguy hiểm nhất là cái lạnh. Đồng chí ấy may mà lại rơi vào trong cái hố đó: tuyết đã giữ ấm cho. Nếu không, thì đã chết cóng rồi.

        Đi được năm cây số. Éc-ma-kốp lại hỏi:

        - Cái chân có bị nặng không?

        - Không chạm vào xương, hoặc chỉ hơi chạm. Rồi có thể đi được.

        Lu-nin cảm thấy hơi yên trí. Nhưng Grô-mê-kô nói thêm:

        - Nhưng cánh tay phải, thì khi đến nơi, tôi sẽ cưa.

        Lu-nin sợ hãi hỏi:

        - Phải cưa thật?

        - Cưa.

        Lu-nin rùng mình. Bất tỉnh, Sê-rốp như bị phó thác cho mọi ý kiến, không còn làm gì được. Và Lu-nin nhớ lại cái khoái chí của Grô-mê-kô trước kia.khi anh nói chuyện "mổ, cắt". Và anh cảm thấy bất bình: "Phải rồi, cắt vốn vẫn là dễ hơn chữa".

        Grô-mê-kô như đoán được tư tưởng Lu-nin. Sau cùng, khi người ta mang Sê-rốp vào đến bệnh xá thì anh tỏ vẻ rất không bằng lòng khi thấy Lu-nin cũng vào. Một bức vách bằng ván chia bệnh xá ra hai phần, một căn gọi là "phòng khám bệnh”, một căn gọi là "phòng bệnh nhân". Lu-nin ở trong "phòng khám bệnh" không dám đi xa hơn. Căn buồng không có đèn, nhưng một cái đèn đầu thắp trong "buồng bệnh nhân” để lọt ánh sáng qua kẽ vách. Nghe tiếng thì thầm ra lệnh trong buồng bên kia, thấy tiếng xê giường, xê bàn. Lu-nin đứng im trong bóng tối đến năm phút, không dám động, không dám ngồi sợ người ta biết. Nhưng không được, Grô-mê-kô rửa tay hồi lâu rồi ra cửa, không mặc áo bay như thường lệ, mà mặc áo blu nhà thương, tay cầm khăn mặt, ông tay áo vén lên đên khuỷu. Anh bảo Lu-nin:

        -  Đồng chí phi đội trưởng, đồng chí nên về đi. Khi nào đưa anh ấy đi, tôi sẽ cho người lại tìm đồng chí.

        Cái giọng nói rõ cương quyết, dứt khoát, khiến Lu-nin không cưỡng lại được. Nhưng anh càng bực, nhất là muốn điên lên vì câu "Đồng chí nên về đi". Anh nghĩ bụng "Cảm ơn cái lòng tốt. Bây giờ mà đi ngủ thì phải quá rồi!”. Anh vừa đi được mấy bước thì nghe thấy tiếng chân nặng. Anh quay lại thấy Prốt-cua-ri-a-kôp đang lên bậc thềm. Anh muốn gọi. nhưng đồng chí trung đoàn trưởng đã đóng cửa lại. Lu-nin quyết định đứng đợi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2019, 10:49:13 pm

        Anh đứng một lúc lâu trong con đường lớn tối om. Chỉ còn ánh sáng ở mấy cái cửa sổ nhỏ của bệnh xá mà ở đó lờ mờ có những bóng người lăng xăng đi lại. Và Lu-nin trông thấy cái bóng chập chờn nhảy múa mới thê lương làm sao! Sau cùng, cửa mở mạnh, và cái vóc người to lớn của Prôt- cua-ri-a-kôp làm gỗ trên sàn thềm kêu kẽo kẹt.

        Lu-nin gọi:

        - Đồng chí thiếu tá.

        - Đồng chí đấy à? - Prốt-cua-ri-a-kốp không một chút ngạc nhiên, hình như anh cho là việc Lu-nin đứng canh đêm trước bệnh xá là rất thường. Lu-nin hỏi:

        - - Đồng chí có trông thấy Sê-rốp không?

        Prốt-cua-ri-a-kốp gật và nói:

        - Đồng chí ấy sẽ khỏi.

        - Tôi cũng biết vậy. Nhưng người ta sắp cưa cánh tay phải của đồng chí ấy.

        - Thật là khổ tâm! Một phi công có tài như vậy...

        - Liệu có thể tránh không cưa được không?

        - Đồng chí bác sỹ nói là đồng chí không tin đồng chí ấy.

        - Đồng chí ấy nói thế à?

        -  Không. - Éc-ma-kôp bảo tôi. - Tôi đến để xem có tránh không cưa được không. Nhưng có lẽ chẳng tránh được.

        Lu-nin thở dài. Prôt-cua-ri-a-kổp nói tiếp:

        - Tay gẫy bốn chỗ. Xương chỉ còn là một mớ lộn xộn. Có thể nói là không còn tay nữa. Chẳng còn gì mà chữa. Sáng mai, đem đồng chí ấy đi Von-khô-strôi. Ở đấy, sẽ chuyển lên toa Hồng thập tự đem về phía đông. Nếu không cưa tay, sẽ bị nhiễm trùng mà chết.

        Lu-nin lặng yên. Prốt-cua-ri-a-kốp buồn rầu bảo:

        - Chúng mình có hiểu gì về thuốc đâu. Tôi thà là chết tại trận còn hơn bị cắt cái nọ cái kia, và chắc đồng chí cũng thế... Tiếc thay Sê-rốp không có mặt với chúng ta hôm làm lễ nhận cờ.

        Hai người từ biệt nhau.

        Lu-nin lê bước về hầm trên sân bay.

        Trong hầm vẫn ấm như thường lệ. Cái lò sưởi gang reo vui. Thấy Lu-nin vào, Krô-míc lặng lẽ đứng dậy trong đôi ủng lớn, nhìn chằm chằm vào thủ trưởng nhưng không hỏi câu gì. Lu-nin cảm ơn thầm.

        Krô-míc đặt thức ăn lên bàn, nhưng Lu-nin không sao nuốt được. Anh cũng chẳng tìm cách ngủ nữa, tuy rất mệt, vì anh cho là có buồn ngủ cũng không sao nhắm được mắt. Anh bỏ mũ, để nguyên quần áo bay và bốt lông, ngồi trên ghế dài nghe tiếng lách tách quen thuộc của lò sưởi. Thế mà rồi kéo luôn một giấc.

        Anh giật mình tỉnh dậy và xem đồng hồ. Từ lúc cả bọn về tới trường bay, đến bây giờ đã có hơn ba giờ. Chắc là xong xuôi cả mất rồi, và Sê-rốp không còn tay nữa! Cái hơi ấm trong hầm, anh như không chịu nổi nó nữa. Anh đội mũ đến bệnh xá.

        Tối như mực. Một đám mây vô hình từ phía đông lên đang che lấp dần từng ngôi sao; và cái bóng tối to dần ấy có cái gì nó làm thắt lòng Lu-nin lại.

        Vẫn cái ánh sáng ở cửa sổ bệnh xá, Lu-nin đẩy cửa vào.

        Tiếng thì thầm giận dữ của Grô-mê-kô.

        -  Ai đây? Đừng làm có tiếng động...

        Cái đèn đầu từ "buồng bệnh nhân" đã chuyển sang "buồng khám bệnh". Đồng chí nữ y tá ngủ ngồi trên ghế dài. Grô-mê-kô tìm chai lọ trong tủ thuốc. Anh quay lại khi nghe thấy tiếng Lu-nin vào. Mặt anh tiều tuỵ mệt nhọc.

        Lu-nin hỏi khẽ:

        - Tôi muốn biết...

        - Đồng chí ấy ngủ.

        - Ngủ à?

        - Đồng chí ấy tỉnh lại, rồi lại ngủ. Yếu lắm.

        - Có đau không?

        - Có, nhất là các vết bỏng.

        - Còn cánh tay?

        - Hiện nay thì chỉ vết bỏng là đau.

        Ý Lu-nin muốn biết có cưa không, nhưng anh không có can dam hỏi. Grô-mê-kô đoán biết ý anh và chỉ nói:

        - Không... Chưa cưa.

        Đồng chí nữ y tá mớ mắt và nói, giọng nghiêm khác:

        - Chúng tôi đã truyền máu cho đồng chí ấy. Đợi sáng xem sao.

        Lu-nin hỏi:

        - Thì thế nào?

        - Còn tuỳ nhiệt dộ.

        Grô-mê-kô giải thích:

        - Nêu nhiệt độ không lên, thì tôi cứ để như thể đưa ra tầu.

        - Thế nếu nhiệt độ lên?

        - Thì chắc là quá muộn... - Grô-mê-kô đi vài bước rồi nói. giọng như lạc đi: - Tôi chịu cái trách nhiệm mạo hiểm ấy.

        Không ai nói gì nữa. Lu-nin ngồi vật xuống cái ghế dài, cạnh đồng chí nữ y tá. Grô-mô-kô bước từng bước dài trong phòng. Lu-nin nhìn cái mặt xanh tái của anh, lòng cảm kích bối rối. Không, con người ấy không phải là một tên đồ tể như thường ngày anh vẫn làm ra vẻ. Anh đã có gan gánh lấy trách nhiệm: Trách nhiệm nặng nề dầy vò anh. Và Lu-nin hiểu rằng đêm hôm nay đã làm mình gần gũi người thầy thuốc hơn trước.

        Grô-mê-kô nói:

        - Đồng chí đi ngủ đi. Dù sao, thì Sê-rốp không dậy trước sáng dâu.

        Lu-nin bất đác dĩ phải đi về, trong bụng quyết định sáng sớm lại đến.

        Lần này, anh cũng yên trí là không thể ngủ được. Nhưng rồi lại ngủ ngay lập tức, thiếp đi vì hơi ấm và cái im lặng của gian hầm. Tiếng diện thoại làm anh tỉnh giấc.

        Điện gọi của Ta-ra-rắc-xin. Các đồng chí đại diện bộ tham mưu sẽ đến ngày hòm nay để trao cờ Cận vệ cho trung đoàn. Lu-nin ra khói hầm và chạy. Có lẽ trong khi anh ngủ người ta đã đem Sê-rốp đi mất rồi!


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2019, 07:30:23 am

        Trời đã gần sáng. Một buối sáng âm u. Những đám mây thấp chạm cái cánh màu gio bẩn xuống mỏm đồi. Tuyết sắp xuống. Một chiếc xe quân y dài đợi trước bệnh xá. Lu-nin  rảo bước. Không có cái xe nào như thế ở trung đoàn cũng như ở trường bay. Grô-mê-kô đã phải gọi từ chỗ khác đến để chở Sê-rốp. Anh đón Lu-nin trên thềm;

        - Tôi đang định cho người đi tìm đồng chí. Sê-rốp muốn gặp đồng chi.

        - Nhiệt độ có lên không?

        - Hiện nay thi không...

        Thế là không cưa tay! Hơi thở muốn dứt vì cảm xúc, Lu-nin vào "buồng khám bệnh" gặp một người đàn bà bé nhỏ quàng khàn và mặc áo da lông. Thì ra Hin-da. Cô như khóc, gật đầu chào và đi ra.

        Grô-mê-kô dặn:

        - Đừng có bắt Sê-rốp phải trả lời. Mở miệng là đau lắm. Các vết bỏng...

        Lu-nin rón rén đi vào "buồng bệnh nhân".

        Mặt Sê-rốp bị băng kín. Chỉ trông thây đôi mắt như cười thân mật và buồn rầu. Lu-nin cảm thấy môi mình mấp máy run run như hồi còn trẻ thơ. Nhưng anh gượng mỉm cười.

        Grô-mê-kô đi ra để cho họ được tự do.

        Chưa hề nói chuyện với nhau lâu, và cũng chỉ nói những câu chuyện thông thường, nhưng họ đã thành đôi bạn không lời, và họ không còn cần lời để hiểu nhau. Trông mắt Sê-rốp là Lu-nin đã hiểu ngay, cũng như Sê- rốp đã hiểu ngay khi thấy cái môi run run của Lu-nin.

        Họ sắp xa nhau... Để phá sự im lặng, Lu-nin dặn Sê- rốp đến đâu thì gửi tin và địa chỉ về. Hễ biết Sê-rốp ở nhà thương nào thì anh sẽ gửi thư ngay cho Sê-rốp báo tin tức của trung đoàn. Sê-rốp chớp mắt ra hiệu là đồng ý.

        Lu-nin nói:

         -  Tôi sẽ giữ cái va-li của đồng chí. Có dịp nào là tôi gửi ngay - Một thoáng buồn trên mắt Sê-rốp. Lu-nin cải chính luôn:

        - Nhưng mà làm gì mà phải gửi... Tôi giữ cho đến khi đồng chí trở về.

        Rồi anh lặng yên. Từ ngoài đường thấy tiếng đồng chí bác sỹ đang ra lệnh sửa soạn chỗ đặt người bị thương. Đồng chí lái xe đổ nước vào đầu máy. Lu-nin nhìn Sê-rốp với cảm giác là nhìn nhau lần cuối cùng. Có bước chân nặng làm ván sàn rằng rắc. Prốt-cua-ri-a-kốp và Éc-ma- kốp... Cuộc gặp mặt tay đôi thế là hết.

        Thì lúc đó, cái băng động đậy. Lu-nin cúi xuống. Sê-rốp cố nói rõ từng tiếng:

        - Có bức thư nào gửi cho tôi...

        Lu-nin hiểu, và nói:

        - Được rồi, tất nhiên tôi sẽ chuyển ngay, và tôi sẽ báo tin cho chị ấy.

        Prôt-cua-ri-a-kôp và Éc-ma-kốp vào trong buồng. Lu-nin  lặng lẽ đi ra thềm. Một đám đông xúm quanh xe để tiễn biệt Sê-rốp. Mọi con mắt đều quay về Lu-nin, nhưng không ai hỏi gì.

        Trong cửa vào, Lu-nin nghe thấy Grô-mê-kô cắt nghĩa cho Prốt-cua-rí-a-kốp:

        - Tôi không cưa, nhưng thế không có nghĩa là thôi. Có thể đến nhà thương người ta sẽ cưa.

        Họ đi qua Lu-nin. Grô-mê-kô mở cửa xe, nhìn một lượt vào bên trong và mời Prốt-cua-ri-a-kốp cùng nhìn vào. Các đồng chí cáng khiêng Sê-rốp ra. Người anh trùm kín, không nhúc nhích và ngay đơ như một tấm ván. Lu-nin muốn nhìn đôi mắt. Nhưng đôi mắt đã nhắm lại. Cáng đưa vào trong xe. Grô-mê-kô ngồi cạnh Sê-rốp. Cửa xe đóng lại. Xe mở máy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2019, 10:24:33 pm

V

        Buổi sáng xám xịt tuồng như mặt trời không muốn lên.

        Người ta đợi từ sớm cho đến bữa cơm trưa. Buổi chiều còn ảm đạm hơn nữa.

        Khô-vơ-rin đang viết thì có xe đỗ trước cây phong chẽ hai. Có tiếng chân trên thềm, và U-va-rốp bước vào nhà. Khô-vơ-rin hiểu, và đứng dậy:

        - Đến rồi sao?

        U-va-rốp có vẻ xanh và ít nói hợn mọi khi.

        Anh bảo:

        - Mặc ca-pốt vào và đi. Phải tới dự.

        Hai người ra xe. U-va-rốp hỏi:

        - Có biết ai đến trao cờ không?

        - Đồng chí tư lệnh Hải không quân.

        - Không phải.

        - Vậy là ai?

        - Đồng chí Đa-nốp!

        Một chiếc ôtô lớn mầu đen vượt qua.

        Trong buổi hoàng hôn, sân bay ngập tuyết, giống như bãi sa mạc bao la. Bên bờ cái bãi trắng xóa ấy, một dúm người làm thành một dây nhỏ đen. Trung đoàn tập hợp.

        Khô-vơ-rin náo nức nhìn, cả trung đoàn ở đó. Hai cái kẽ trống kia ngăn ra phi đội. Các phi đội đứng thành hai hàng, thợ máy đằng sau, phi công đằng trước - tất cả các phi công còn lại. Đứng trước các đồng chí thợ máy phi đội 2, Lu-nin chỉ có một mình.

        Prốt-cua-ri-a-kôp, Éc-ma-kốp và Sác-ba-di-ăng thành một nhóm đứng riêng. Prôt-cua-ri-a-kôp với cái thân hình khổng lồ cao trội hẳn lên.

        Hai ôtô đỗ lại.

        Đa-nốp xuống trước tiên. Trung đoàn nhận ra đồng chí. Không ai ngờ một trong các lảnh tụ của Đảng lại có mặt trong buổi lễ này.

        Đến lượt đồng chí tư lệnh Hải không quân từ chiếc xe đen bước ra - một người tầm thước, khá vạm vỡ - Rồi đến một thuỷ sư Đô đốc người dong dỏng, mặc áo ca-pổt thêu vàng, tay cầm cờ.

        Đồng chí đưa cờ cho Đa-nốp. Gió thổi, cờ bay phần phật.

        Prốt-cua-ri-a-kốp tiến lại giới thiệu đơn vị.

        Bụi tuyết lóng lánh trên bộ ria, trên lông mày đồng chí Đa-nôp. Đồng chí nhìn chăm chăm những người đứng dưới cờ, và trông đôi môi mím chặt của đồng chí, người ta đoán biết được cảm xúc khi nhìn thấy trung đoàn bị thương vong nặng. Khi đồng chí nói, giọng không to lắm, nhưng rõ từng tiếng. Giọng nói ấm áp lạ thường:

        - Đảng và chính phủ, ủy nhiệm chúng tôi trao cờ cho các đồng chí, và biết rằng các đồng chí xứng đáng với lá cờ này.

        Đồng chí đưa cờ cho Prốt-cua-ri-a-kốp. Đồng chí Prốt- cua-ri-a-kổp nhận cờ, gối quỳ xuống đất. Cả trưng đoàn quỳ xuống. Prốt-cua-ri-a-kốp dằn từng tiếng:

        - Tổ quốc xin lắng nghe chúng tôi.

        Và cả trung đoàn, gốì quỳ xuống đất, nhắc lại:

        - Tô quốc xin lắng nghe chúng tôi.

        Prốt-cua-ri-a-kốp lại tiếp tục:

        - Chúng tôi xin thề! Xin thề giáng cho kẻ thù những đòn khốc liệt hơn nữa để tỏ ra xứng đáng với vinh quang quân đội Xô Viết.

        Khô-vơ-rin không nhận ra được những chữ mà chính anh đã cùng viết với Lu-nin. Trong lời tuyên bố của Prôt- cua-ri-a-kốp mà toàn trung đoàn nhắc lại, gối quỳ xuống đất, có cái gì thiêng liêng và cao cả.

        - Tổ quốc! Khi mà bàn tay chúng tôi còn lái nổi chiếc máy bay, khi mà con mắt chúng tôi còn trông thấy đất nước bị chà đạp dưới gót giầy bọn phát xít, khi mà tim chúng tôi còn đập trong lồng ngực; và máu còn chảy trong người, chúng tôi sẽ chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, không sợ hãi, không thương hại, và coi thường cái chết.

        Nhìn thẳng vào lá cờ do thành tích người sống lẫn người chết đã đoạt được, toàn trung đoàn nhắc lại lời thề.

        - Đoàn cận vệ không biết chiến bại...

        Khô-vơ-rin nghĩ thầm "Đúng quá, họ còn sót lại ít người, nhưng có ai đánh bại được họ đâu".

        - Đoàn cận vệ có thể chết, nhưng phải chiến thắng.

        Khô-vơ-rin tán thành "Rất đúng". Hình như anh mới nghe thấy câu này là lần đầu! Và mắt anh đầy nước, có lẽ vì gió bấc thổi vào mặt.

        Sác-ba-di-ăng ra lệnh:

        - Chào cờ!

        Toàn trung đoàn đứng dậy. Hai tay cầm cán cờ, Prốt- cua-ri-a-kốp đi trước hàng quân - cờ phất phới trên đầu mọi người - giao cờ cho đồng chí giữ cờ, và toàn trung đoàn, cờ đi đầu, diễu binh trước đồng chí Đa-nốp.

        Tối dần.

        Khô-vơ-rin thầm nhắc lại, cái mặt vàng nhăn nheo trước gió "Đoàn cận vệ có thể chết, nhưng phải chiến thắng. Đúng quá".


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Hai, 2019, 07:52:45 am

CHƯƠNG TÁM

BỔ SUNG

I

        Sắp nhận được máy bay mới. Tin đồn như vậy từ mùa xuân.

        Kỹ nghệ Xô Viết đã bắt đầu sản xuất ra những khu trục kiểu mới. Người ta nói là tốt hơn I-16 nhiều. Có người đã chính mắt trông thấy chúng, tất nhiên là trông thấy từ xa, chúng đang bay. Trong các đặc tính của chúng mà người ta kể lại thì vấn đề tốc độ làm cho các phi công thích nhất. Nghe nói tốc độ vượt xa Mét-séc-mít 109. Thế là sẽ có dịp thanh toán với cái lũ này.

        Nhưng ngày lại ngày, trung đoàn vẫn chẳng thấy gì. Đôi khi chỉ nhận được một hai cái I-16 cũng thương tích đầy mình như những cái mà trung đoàn đã dùng từ đầu chiến tranh. Cái đó chứng tỏ là một số đơn vị đã được trang bị máy bay kiểu mới. vì có như thế thì mới dư những cái cũ gửi cho các trung đoàn khác. Nói một cách khác thì có nơi đã được bắt đầu trang bị mới.

        Đồng chí Éc-ma-kốp phát biểu một cách đúng mực:

        - Người ta đã bắt đầu, thì rồi cũng đến lượt mình thôi. Ta cứ đợi...

        Prốt-cua-ri-a-kốp lầu nhầu:

        - Phải rồi, đợi dưới bóng cây du!1

        1Ý nói chẳng biết đến bao giờ.

        Cái lạc quan thường xuyên của đồng chí chính ủy làm anh rất bực. Có lẽ nào ở trên lại ra vẻ quên cái trung đoàn cận vệ như trung đoàn anh?

        Đồng chí Éc-ma-kốp nói:

        - Không quên đâu, rồi đồng chí xem, chúng ta sẽ được lĩnh.

        - Thế sao bây giờ thì người ta ném cho mình tất cả những cái cũ rích của không quân! Sao vậy? Người khác hơn mình hay sao?

        - Không hơn. Nhưng họ cần hơn mình.

        - Đồng chí nói thế nào? - Prôt-cua-ri-a-kốp công phẫn và mặt anh đỏ lên. - cần hơn? Có lẽ người ta cho là bọn Đức ở đây không biết đánh chắc? Từ khi băng tan đến nay, chúng không ngừng ném bom...

        Thực ra, từ khi các kiện hàng gửi đi Lê-nin-grát phải chuyên chở bằng sà-lan, thì việc bảo vệ trên không càng phải tăng cường, vì những cái sà-lan khổng lồ ấy còn dễ bị máy bay bắn phá hơn là ca-mi-ông. Nhưng trong thâm tâm Lu-nin đồng ý với Éc-ma-kốp. Vì trong mùa xuân, bọn Đức đã mở một đợt tấn công mới ở phía nam, và anh hiểu rằng những sự việc đang chuẩn bị ở đó còn quan trọng hơn tình hình Lê-nin-grát hiện nay.

        Trung đoàn nhận được vài phi công mới, cũng không "mới" hơn máy bay bao nhiêu! Vì là những phi công bị thương từ đầu chiến tranh ở bệnh viện về. Cũng thêm một người cho phi đội 2, và chưa bị thương lần nào - một phi công vào loại khá đặc biệt.

        Một hôm, U-va-rốp dẫn đến bằng U-2 một thượng sỹ cao lớn mặt gân guốc và có vẻ đăm chiêu khó gần. Anh tên là Ang-tông Kút-nét-sôp. Anh trước là nhân viên trường bay. Người ta dùng anh trong công việc quét tuyết và dọn gốc cây.

        U-va-rốp tình cờ gặp anh. Đồng chí vừa thoáng gặp đã nhận ra là ai. Đồng chí có tài nhớ mặt kỳ lạ:

        - Hình như chúng mình biết nhau thì phải.

        Đồng chí đã biết Kút-nét-sốp từ trước chiến tranh, trong một trường dạy lái máy bay. Đồng chí đà khai trừ Kút-nét-sốp ra khỏi trường bay vi tội nát rượu.

        Kút-nét-sôp cũng nhận ngay đồng chí U-va-rốp và càng ỉu xìu. Đồng chí chính ủy hỏi:

        - Làm thế nào lại đến đây?

        Kút-nét-sốp đứng nghiêm trả lời:

        - Báo cáo đồng chí chính ủy, tôi được động viên.

        U-va-rốp vờ như không nhận thấy cái xuẩn ngốc cố tình của câu trả lời.

        - Được, nhưng tại sao lại công tác trong bộ phận nhân viên trường bay?

        - Do tôi đề nghị, - Kút-nét-sốp trình bày, vẫn với cái dáng đau khổ, nhưng lần này thì tuyệt nhiên không còn chút ngang bướng nào - Người ta định cho tôi làm về xe lửa, xe hơi vì tôi biết máy, nhưng tôi đã cố nài xin công tác ở phi trường. Vì ít nhất ở đó củng được trông thấy máy bay.

        - Đồng chí thích máy bay à?

        - Vâng.

        Rồi anh lặng yên. Cáu chuyện có vẻ làm anh khổ sở.

        - Đồng chí chưa quên lái chứ?

        - Tôi không rõ nữa... Chưa thử lần nào...

        - Có muốn thử không?...

        Kút-nét-sốp nhìn trộm U-va-rốp? Đồng chí đùa chăng? Nhưng U-va-rốp không đùa:

        - Đồng chí chưa tốt nghiệp, phải rồi, nhưng tôi nhớ đồng chí lái khá và bắn bay khá... Đồng chí có thể thành một phi công khu trục tốt... Đồng chí nghĩ thế nào?

        - Báo cáo, tôi không rõ thế nào.

        Kút-nét-sốp vẫn chưa tin là đồng chí U-va-rốp nói thật.

        - Nhưng tôi thì rõ. Khi tôi nói là đồng chí có thể thành một phi công khu trục tốt, thì đồng chí cứ tin lời tôi... Tất nhiên nếu đồng chí muốn vậy.

        - Báo cáo đồng chí chính ủy, tôi rất muốn. - Kút-nét- sốp trả lời cương quyết.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Ba, 2019, 10:37:20 pm

        Ở trường bay, người ta chào đón anh phi công mới với cái vẻ không hào hứng lắm. Các phi công không tin ở khả năng của anh. Nhất là Éc-ma-kốp thì tỏ vẻ hoài nghi. Không uống rượu, nên anh rất ghét những tay nát rượu và thi hành kỷ luật với họ nghiêm khắc. Đồng chí nhăn mặt khi thấy U-va-rốp định cho Kút-nét-sốp vào phi đội 2.

        - Vào phi đội 2 sao?

        - Thì sao, - U-va-rốp trả lời - Lu-nin đang cần có đồng đội.

        - Thế nếu hắn ta lại uống rượu?

        - Hắn không uống nữa.

        - Không uống tí nào?

        - Nhất định vậy.

        - Xin lỗi đồng chí chính ủy, tại sao dồng chí biết?

        - Hắn đã nói với tôi thế.

        Éc-ma-kốp ngạc nhiên vì cái ngây thơ của cấp trên:

        - Hắn nói với đồng chí như thế... Nhưng nếu hắn lại tái phạm?

        - Thì cho hắn vào nhà cải hối. - U-va-rốp trả lời và cười nói tiếp: - Và cho cả tôi vào theo nữa.

        Người ta giao cho Kút-nét-sốp một chiếc I-16 mới nhặn được, và anh bay thử mấy lần dưới sự chỉ dẫn của Lu-nin. Lúc đầu, anh lái còn chập choạng như một người đã mất thói quen. Nhưng Lu-nin đã huấn luyện hàng trăm phi công, và nhận thấy ngay con người lanh trí, bển bỉ và gan dạ.

        Mười ngày sau, Prôt-cua-ri-a-kốp hỏi Lu-nin:

        - Liệu có dùng hắn dược việc gì không?

        - Nhất định có chứ.

        - Coi chừng hắn lại chơi cho đồng chí một vô đấy! Vì hắn phải che đằng đuôi cho đồng chí đấy.

        - Hắn sẽ không chơi tôi vố nào đâu.

        Ngày hôm sau nữa, Lu-nin dẫn Kút-nét-sốp đi công tác.

        Ngay trong những trận đầu với Mét-séc-mít trên hồ, Kút-nét-sốp đã tỏ ra có kỷ luật, thông minh và can đảm. Thực là có thể tin cậy được. Anh ta không vượt lên trước, cũng không tụt lại sau, không bao giờ rời tiểu đội trưởng và bảo vệ tiểu đội trưởng có hiệu quả.

        Rồi người ta cũng quen anh. Nhưng vẫn còn lạnh nhạt, ở nhà ăn, Hin-đa phục vụ anh, nhưng không nhìn anh một lần nào, rõ ràng là cô chưa công nhận anh. Nhưng chính anh là người chịu trách nhiệm đầu tiên vì anh rất ít gần gũi, như có vẻ nói: "Tôi biết các người coi thường tôi, nhưng chẳng cần, tôi làm việc tôi và bất kể dư luận".

        Lu-nin là người đối xử với anh tốt nhất. Anh có cảm tình với Kút-nét-sôp và cũng biết rõ là Kút-nét-sốp thầm kính trọng và biết ơn mình. Nhưng ngay giữa hai người cũng vẫn lạnh nhạt. Lu-nin vô tình mà như không chịu là Kút-nét-sôp đã thay thế Sê-rốp. Đồng chí cho như là phụ người bạn cũ, nếu cư xử với đồng chí mới cũng như đôi với người xưa.

        Tháng sau, tháng năm, Prốt-cua-ri-a-kôp được lệnh lên bộ tham mưu Hải không quân. Ở đó về, anh rạng rỡ mà lo lắng, đem theo một lệnh làm chấn động mọi người: một phi đội phải về trường bay hậu phương để đón phi công bổ sung và lĩnh máy bay kiểu mới.

        Éc-ma-kốp nói:

        -  Thế là chúng ta sắp được xem những máy bay cừ khôi ấy như thế nào. Ít nhất cũng có một phi đội đủ quân số.

        Trung đoàn phải tự chọn lựa lấy phi đội gửi về hậu phương. Tôn trọng hương hồn Rát-sô-khin, Prôt-cua-ri-a- kốp và Éc-ma-kôp quyết định chọn phi đội 2, vì trong ba phi đội trưởng thì Lu-nin là người giàu kinh nghiệm nhất, và còn vì hai phi đội kia tuy cũng bị tổn thất nhiều, nhưng phi đội 2 vẫn là khẳng khiu nhất.

        Lu-nin chuẩn bị ra đi. Anh phải xa rời chiếc máy bay cũ của Ni-cơ-ri-tin để lại từ tháng tám năm ngoái. Anh giao lại cho phi đội 1 vì một phi công của phi đội này chưa có. Kút-nét-sốp giao máy bay của mình cho phi đội 3.

        Phải lên tầu ở ga Vôn-khô-strôi. Trước khi ra đi, nhận được điện thoại của sư đoàn báo là có tám phi công trẻ tuổi đã đợi phi đội 2. Vì Lu-nin phải đi tầu mất mấy ngày mới tới nơi, nên Éc-ma-kốp quyết định đi trước ngay bằng U-2 để lo chỗ ăn ở cho các phi công mới, không để họ chơ vơ và nhất là để xem họ ra sao? Đồng chí kỹ sư trung đoàn đi theo Éc- ma-kôp vì máy bay cũng chỉ đến sau phi công ít lâu.

        Lu-nin ra ga Vôn-khô-strôi. Cùng đi có Kút-nét-sôp, tất cả các đồng chí thợ máy, Sla-va và Hin-đa. Lần này chẳng cần phải "bắt cóc" cô nữa, vì ai nấy đều quen coi cô như của riêng phi đội 2, và chẳng ai giữ cô lại.

        Lu-nin không trông thấy Vôn-khô-strôi từ tháng tám 1941. Anh ngạc nhiên vì những sự đổi thay. Những nhà gỗ nhỏ, hàng rào, những nhà không tường, cột điện, hết thẩy đều bị bom tàn phá. Cây cối chĩa lên trời những cành cháy trụi. Xe ca-mi-ông chốc chốc lại phải tránh những hố bom khổng lồ. Hố bom cũ thì đầy nước và phân ếch nhái. Hố bom mới thì đất đỏ lòm còn khô. Ga và các nhà phụ thuộc chỉ còn là một đống gạch vữa. Bọn Lớp-táp cố tình phá bằng được cái đập, và nhất là cái cầu mà xe lửa dùng để chở lương thực dụng cụ đến Lê-nin-grát. Những cuộc oanh tạc gần như ngày nào cũng có và đã cầy xới từng thước đất. Nhưng đập và cầu vẫn nguyên vẹn một cách kỳ lạ. Hình như chúng thách thức với cái điên cuồng của quân địch.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Ba, 2019, 11:53:46 am

        Ở đó, Lu-nin lần đầu tiên bị gioong-ke ném bom, và là lần đầu tiên anh đứng dưới đất xem một cuộc không chiến. Anh đã từng thấy hàng chục lần gioong-ke thả bom, nhưng chưa có dịp nào đứng ở chỗ bị bom. Trông những con quạ đen ấy, từ những cụm mây nhỏ nhuộm nắng trên Vôn-khô-strôi nhô ra, nghe tiếng máy nổ nhức óc khó chịu, và khi trông thấy bom rơi đều đều một cách quái ác, Lu-nin có cảm giác hoàn toàn bất lực và thấy khổ sở vì cảm giác đó. Anh đành chỉ đứng mà nhìn. Khi bom bắt đầu nổ trên bờ cỏ xanh bên sông và gần cầu, cách chỗ anh chừng hai trăm thước thì anh bổ đi tìm Sla-va - như con gà mái đi tìm con - nắm lấy nó không rời, như cho là nếu ôm chặt được nó thì che chở nó qua được tai nạn.

        Hết báo động, anh hơi ngượng mà nhớ lại cái dũng cảm của các đồng chí lái xe lửa đã không ngừng công tác trong khi bị oanh tạc. Trong tiếng bom nổ, tiếng đạn cao xạ, các đầu tầu nhỏ bé chuyên việc phân phối dẫn dắt và phân phối toa trên các đường tầu, vẫn không quên rúc còi khi qua chỗ bẻ ghi. Đồng chí chi huy vẫn phất cờ. Các đồng chí làm công tác dầu mỡ vẫn soát các trục bánh xe. Gioong-ke vừa biến khỏi trong mây thì một chiếc xe goòng tự động đã bon bon lại phía cầu để thay một khúc đường ray bị bom làm vặn lại. Các đồng chí khiêng cáng mặc áo blu trắng cũng chạy lại đó, lạch bạch tiếng giầy bốt. Ở đó có người bị thương.

        Gioong-ke nhô ra khỏi mây, dự định oanh tạc nữa. Nhưng khu trục ta lao về phía chúng - độc có hai chiếc. Trông thấy họ, bọn gioong-ke trốn vào mây và hai chiếc Mét-séc-mít chắn đường họ để che chở cho bọn oanh tạc.

        Giao chiến bắt đầu. Cứ hai, ba giây, là các máy bay đã thay đổi vị trí. Ở dưới đất mà nghe, thì tiếng nổ các băng đạn ngắn ngủi như tiếng ếch kêu. Máy bay quấn lấy nhau không thể nhìn ra cái nào được nữa. Mỗi lần lượn ngoặt, thì tiếng máy lại ro ro như hát. Lu-nin đã từng dự trăm cuộc đánh giáp lá cà như vậy mà không mảy may cảm động, động tác đánh đỡ xuất kỳ bất ý như máy; và không bao giờ để bị đánh bất ngờ. Nhưng từ dưới đất mà theo dõi cái trò biến diễn bay lắt léo ấy thì anh lại hết sức lo âu. Chỉ đứng mà chứng kiến suông không thể cứu giúp được các đồng chí mình, nên anh theo dõi cuộc không chiến một cách khủng khiếp. Khi bốn chiếc máy bay vẫn quấn lấy nhau biến sau cánh rừng thì anh kiệt sức nằm vật xuống cỏ.

        - Lâu quá! - Anh vừa nói vừa bỏ cái cát-két để lau mồ hôi trán.

        Kút-nét-sốp chỉ rõ:   

        - Chưa đầy ba phút. Tôi đã đếm trên đồng hồ.

        Chỉ còn 300 cây số thì đến trường bay hậu phương, nhưng phải đi mất ba ngày. Nóng oi ả. Các toa xe chở hàng như bốc lửa. Qua cửa toa Lu-nin ngắm cảnh rừng miền Bắc quen thuộc với đời anh từ hồi thơ ấu. Hoa dâu trắng rụng trên cỏ lấp lánh như sao. Những gò nhỏ đầy lê dại và cỏ đá nóng hừng hực dưới ánh nắng mặt tròi tưởng như không bao giờ lặn. Từng luồng hơi ẩm lạnh từ các bãi lầy bốc lên. Nước bùn tù đọng dưới bóng liễu.

        Éc-ma-kôp đã chờ họ ở ga. Có xe ca-mi-ông đợi sẵn. Các đồng chí thợ máy trèo lên khoang sau. Lu-nin và đồng chí chính ủy ngồi cạnh người lái xe. Lu-nin hỏi:

        - Thế nào?

        - Máy bay chưa tới.

        - Chưa có tin gì sao?

        - Chưa có gì hết.

        - Thế còn họ?

        Ec-ma-kôp quay đầu nhìn Lu-nin và đoán là anh hói về các tân binh:

        - Một vườn trẻ.

        Cái mà thoạt tiên đã thấy ngay, đúng là cái tuổi rất trẻ của đám bổ sung. Nhiều tuổi nhất trung đoàn và kể cả sư đoàn, Lu-nin đã quen với lứa tuổi thanh niên. Toàn không quân đều trẻ. Một phi công quá 40 thì coi như một di tích đời xưa, gần như một quái vật hồi tiền cổ. Tuy vậy mà anh cũng phải ngạc nhiên khi nom thấy bọn con nít này.

        Khi gần tới trường học của xã nơi các tân binh ở, Éc- ma-kốp, Lu-nin, và Kút-nét-sốp thoạt đầu nghe thấy tiếng ồn ào qua cửa sổ. Rồi họ trông thấy ngay những bóng người kỳ quặc: thì ra bọn tân binh đang chơi nhảy cừu.

        Khi họ lên tới thềm, thì cuộc chơi tan ngay. Trông mặt các tay chơi, có vẻ hơi ngơ ngác. Rồi có tiếng ai hô "nghiêm", tiếng hô nghẹn trong hoảng hốt. Một anh chàng phục phịch bổ về phía các vị đang tiến tới, tiếng giầy bốt lục xục. Cậu ta vấp phải ngưỡng cửa, mãi mới đứng thẳng lên được, đứng nghiêm, và lúng túng tuôn ra một tràng:

        -  Báo cáo đồng chí chính ủy trung đoàn... Tôi, thượng sĩ cận vệ O-trô-sa-blin, hạ sĩ quan trực nhật... Không có gì xảy ra.

        Mồ hôi rỏ giọt trên khuôn mặt đỏ rộng: cậu ta vừa rời khỏi cuộc chơi xong!


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Ba, 2019, 01:30:09 am

        O-trô-sa-blin... Cái giọng nói, cái dáng đi, cả đến đôi chân vòng kiểng kia đều làm cho Lu-nin nhớ đến cái gì. Anh bỗng nghĩ ra: "Một dân cô-dắc!". Anh đã ở lâu trong vùng đó. "Cô-dắc trăm phần trăm... Hắn tất là sành về cưỡi ngựa nhưng không hiểu lái máy bay thì ra sao?..."

        Mọi người đi vào. Lớp học bề bộn những giường. Éc-ma-kốp ra lệnh:

        -  Nghỉ.

        Các bộ mặt đểu còn đỏ lên vì cuộc chơi sôi nổi vừa qua, và đều hoảng hốt vì cái đến bất chợt của bao nhiêu cấp trên. Một khuôn mặt làm Lu-nin chú ý ngay - tóc quăn từng cuộn và đen nhánh, đôi lông mày cùng mầu với tóc, đôi má rám nắng, đôi môi búp bê xinh xinh, và hàm răng khoẻ trắng nõn. Thoạt đầu, Lu-nin tự nhủ: "Không có lẽ? Dân Di-gan chăng?". Đôi mắt xanh xanh rất sâu, chăm chú bình tĩnh và tươi cười lại có vẻ dân Bô-hêm. Con người thì có cái dáng rất đỗi phóng khoáng tự nhiên.

        Đứng cạnh, là một anh chàng mặt tròn đầy tàn hương màu hung hung. Anh chàng mặt tàn hương màu hung hung. Anh chàng này thì trái lại, rất dút dát. Lu-nin nghĩ: "Chắc chắn là cu cậu này chưa hề biết cạo râu lần nào".

        Éc-ma-kốp giới thiệu các phi công mới với Lu-nin. Mọi con mắt đều châu vào vị phi đội trưởng chờ đợi từ lâu ấy, mà họ đã nghe nói chuyện tới bao nhiêu lần. Họ nhìn anh một cách kính trọng. Trong vài khoé mắt, Lu-nin còn đọc thấy cả vẻ ngạc nhiên. Chắc là họ không tưởng tượng anh như vậy.

        Ec-ma-kốp đi ra để câu chuyện đầu tiên giữa Lu-nin và bọn họ được thoải mái. Lu-nin ngồi vào một chiếc ghế dựa và mời các phi công mới cùng ngồi. Họ ngồi lên giường. Dưới gầm giường, là những hòm con và va li đầy bụi. Tất cả đểu là thượng sỹ. Họ được huấn luyện có sáu tháng nên chưa được đề bạt thiếu úy như các phi công tốt nghiệp hồi trước chiến tranh.

        Lu-nin cũng lây cái ngượng nghịu của họ. Anh hỏi cu cậu mặt tròn đầy tàn hương mà có vẻ em út nhất:

        - Tên đồng chí là gì?

        Anh ta choàng đứng dậy:

        - Báo cáo, Ri-a-bu-skin.

        "Thật là một đứa trẻ"

        - Đồng chí bao nhiêu tuổi?

        Giá phỏng anh ta trả lời mới 17 tuổi thì Lu-nin cũng không lấy gì làm lạ.

        Ri-a-bu-skin ấp úng trả lời không ra tiếng:

        - Mồng bốn tháng năm này thì tôi được 21 tuổi.

        Mặt anh ta tái hẳn đi, và vì thế càng làm hiện rõ những chấm tàn hương như chấm cám. Câu hỏi làm cu cậu khổ sở, và chắc là cũng bực với mình là đã trẻ hơn tuổi.

        Nhưng lại còn có người trẻ hơn nữa. Ví dụ như I-li-a Ta-ta-ren-kô, cái anh chàng giống như những tay đàn hát giang hồ thì mới có 19 tuổi. Hắn ta chẳng phải là dân Di-gan chút nào, mà là con một người thợ mỏ vùng Đông- bát.

        Bản thân hắn cũng là thợ mỏ, nhưng lúc nào cũng mơ ước trở thành phi công: chiến tranh vừa nổ thì hắn xin vào một trường dạy lái máy bay. Ông bố và hai anh thì vẫn là thợ mỏ làm việc ở hầm sâu. Ta-ta-ren-kô nói, và tủm tỉm cười với bộ răng trắng nõn:

        - Ở chỗ chúng tôi, không ai làm việc trên mặt đất. Hoặc là ở dưới hầm, hoặc là làm ở trên không.

        Thật thì Lu-nin mến anh chàng đó. Đồng chí nghĩ thầm: "Thằng cha này có vẻ khá. Nhưng cũng rắc rối với nó đây. Có cá tính, đúng, nhưng tự tin quá".

        Một thanh niên mảnh dẻ, tóc vàng hoe, làm Lu-nin chú ý.

        Bộ ria mép uốn cong, tay đeo nhẫn cưới, hắn ta có vẻ diêm dúa và có cái nhìn phớt đời và lơ đãng thế nào ấy. Tên anh chàng là Va-đim La-da-rô-vít. Lu-nin không ưa cái kiểu người này. Nhưng đến khi Va-đim cười, cái cười ngay thẳng và hồn nhiên nó buộc người ta phải có cảm tình, thì Lu-nin không còn cảm giác khó chịu nữa. Chàng ta quê ở một thành phố nhỏ miền Nam, ở nơi đó, có bộ ria uốn cong và đôi mắt nồng cháy là rất mốt.

        Trong đám thanh niên này, chỉ mình anh ta đã có vợ. Và anh sẵn sàng khoe ảnh vợ trong cái ví rất kiểu - một chị chàng bé nhỏ mũm mĩm, nước da bánh mật, tóc quăn như lông cừu.

        La-da-rô-vít khoe là vợ làm trong một xưởng bánh kẹo. Anh ta có vẻ kiêu hãnh và cho cái công tác ấy là oai lắm.

        Lu-nin gợi cho họ nói chuyện. Ta-ta-ren-kô hỏi:

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá cận vệ, tôi xin phép hỏi một câu: Chúng ta đã sắp nhận được máy bay chưa?

        Các bộ mặt nhộn lên, các cặp mắt nhìn chăm chăm vào Lu-nin. Họ chờ đợi đã phát ngán. Chiến tranh đã vào năm thứ hai, mà họ vẫn chưa trông thấy nó, tuy khao khát muôn chiến đấu.

        Lu-nin trả lời:

        - Cũng sắp sửa thôi.

        Trong thâm tâm, anh chưa biết là bao giờ, và cũng chẳng buồn giấu giếm ý nghĩ ấy. Mọi người tranh luận. Họ còn biết hơn anh về các khu trục kiểu mới. Vài kiểu hiện đại nhất, như kiểu I-a-kô-vơ-lép và La-vốt-skin đã xuất hiện ở trường huấn luyện của họ. Vài người như Ta-ta- ren-kô và cả Kô-stin, - một gã xương xương môi dầy - đã có dịp bay đôi ba lần trên các khu trục mới đó.

        Mắt long lanh, họ kể chuyện và ngắt lời lẫn nhau. Những máy bay mới đó rất vững vàng và dễ điều khiển. Hoả lực mạnh, và nhất là tốc độ rất nhanh. Trong câu chuyện, bọn trẻ điểm thêm những danh từ chuyên môn để tỏ ra cái vẻ thông thạo nghề bay. Và cứ nhìn mặt họ, Lunin cũng hiểu là họ vào không quân vì say mê với nghề, cũng như anh trước kia.

        Ngay hôm sau, anh lo huấn luyện họ. Không có máy bay, đành tạm giảng lý thuyết trước. Tuy không thông thái lắm, nhưng họ cũng tỏ ra hiểu biết nhiều hơn là anh tưởng.

        Kô-stin còn làm ngạc nhiên là khác. Rất giỏi toán và lý, anh chàng biết trình bày bằng giọng nói trầm trầm tại sao khi bay có những dải không khí dính vào cánh máy. Anh chàng tuôn ra một tràng công thức, mắt thì chăm chăm vào tường hay xuống sàn làm như ở đó có ghi các số liệu. Tất cả cái gì thuộc về máy bay đều làm anh ta chú ý. Người ta cảm thấy anh nghiên cứu rất sâu. Và mỗi khi anh trả lời, thì cả bọn đều lắng tai nghe, làm cho Lu-nin lại cố đặt ra những câu hỏi có tác dụng cho mọi người.

        Trong khi chờ đợi các máy bay mới, Lu-nin cố làm cho họ thật bận rộn, vì kinh nghiệm cho biết không gì tác hại bằng không có việc. Anh dạy họ các nguyên lý về khí thể động lực học. Một đồng chí thợ máy bảo họ cách tháo lắp. Một đồng chí quân khí dạy về súng máy. Éc-ma-kổp và Đê-ép chia nhau dạy chính trị. Trước giờ ăn chiều, họ ra bãi cỏ sau làng, tập bắn súng máy và ném lựu đạn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Ba, 2019, 12:37:00 am
     
III

        Tin tức đáng lo ngại. Ngày 3 tháng bảy, có tin quân ra rút khỏi Sê-ba-stô-pôn. Ngày 8, đến lượt Sta-ri-ô- skon, ngày 12, là Kăng-tê-mi-rô-vơ-ka và Lít-sít-săng, ngày 15, là Bô-gút-sa và Min-lê-rô-vô và ngày 19, là thành phố lớn cuối cùng của xứ U-cơ-ren: Vô-rô-si-lô-gơ- rát. Mặt trận phía bắc và mặt trận giữa không nhúc nhích. Nhưng ở phía nam, cách Vô-lô-đa hai ngàn cây số, bọn Đức vẫn tiến, và chưa biết bao giờ mới chặn chúng lại được.

        Các bạn cũ cùng chiến đấu với Lu-nin từ đầu chiến tranh như Rát-sô-khin, Sê-rốp, Ka-ban-kốp hoặc Sê-pen- kin đều là người phương bắc. Nhưng đám bổ sung này đều quê ở phương nam. Trường không quân tuyển học sinh miền nam. Các phi công mới đều quê ở Rô-stốp, Đông-bát hay Ku-băng, trừ có Ri-a-bu-skin quê ở ngoại ô Sa-ra-tốp, và các thành phố mà đài phát thanh nhắc tới hàng ngày đểu là những tên quen thuộc đối với họ.

        Họ bồn chồn lo lắng cho gia đình ở hậu phương. Hậu phương ấy bây giờ chính là mặt trận nơi kẻ thù đang tấn công. Khổ nhất là đang lúc này, đáng lẽ có thể chiến đấu thì lại phải nằm ở cái làng hẻo lánh này mà chờ đợi máy bay. Mỗi buổi sáng, thấy Lu-nin bước vào là họ lại hỏi tin. Nhưng chưa có tin gì cả.

        Trong thời kỳ lo âu đó, chỉ Sla-va là hoàn toàn sung sướng. Cảnh hè thật đẹp. Trời xanh, cỏ mơn mởn. Trước hôm ra đi, người ta đã trả nó cho phi đội trưởng phi đội 2 sử dụng. Trận oanh tạc ở Von-khô-strôi chẳng gây cảm xúc gì đối với nó. Cuộc hành trình đằng đẵng chỉ là một chuỗi trò giải trí liên tiếp. Và đến chỗ ở mới là hoàn toàn tự do, Chẳng còn dì "Di-na quả na" để mà tròn mắt lên nhận xét! Ngủ trong buồng Lu-nin, nhưng cả ngày thì nó là chủ. Nó làm thân ngay lập tức với bọn nhãi địa phương, nhưng lại ra bộ kẻ cả, ra cái đều ta đây là chiến sỹ. Hơn nữa, nó lại lợi thế ở chỗ còn có cái mũ bê-rê lính thuỷ, và quần áo quân phục bảnh choẹ. Nó được sự tôn sùng của đám nhãi, nó to mồm chỉ huy lũ này trong những cuộc dạo chơi vô tận trong rừng, trong những cuộc thám hiểm bằng bè trên dòng sông con, sâu và lặng sóng trong những cuộc tắm triền miên cho đến khi người run lên và da tái nhợt.

        Khi người ta 12 tuổi, thì một năm bằng mười năm của đời người lớn. Thời kỳ trước chiến tranh ở với cha, mẹ, ông và Sô-ni-a, nay đã thành dĩ vãng. Từ đó nó đã sống hẳn một cuộc đời: nạn đói mùa đông ở Lê-nin-grát, cánh đồng khoai bị đạn đại bác cày xới tung lên, rồi ông chết... Nhưng cả những cái đó cũng là dĩ vãng. Tuy không quên chút gì, nhưng cũng như mọi đứa trẻ khác, nó quá nặng vê hiện tại và ít đi ngược về quá khứ.

        Trung đoàn, phi đội và Lu-nin đôi với nó như quen thuộc đã lâu rồi. Nó biết hết về sinh hoạt thường ngày của trung đoàn, nếu không biết hơn Prôt-cua-ri-a-kôp, thì mặt khác lại biết vô số là chi tiết. Nó biết tính nết từng người, biết ai nhận được nhiều thơ từ, ai không nhận được và có thể ghi đủ một quyển sách về những câu nói đùa hoặc những tiếng lóng. Nó kiêu hãnh thấy mình cũng là một phần tử của trung đoàn. Không những ai cũng biết nó, mà còn biết rằng nếu nó gặp cái gì thì cả trung đoàn sẽ bênh vực nó.

        Đám tân binh chú ý đến nó ngay. Thoạt đầu, họ tưởng là con Lu-nin. Nhưng sau được biết nó là con đỡ đầu của phi đội, và là một đứa trẻ ở Lê-nin-grát được cứu ra khỏi nạn đói. Và thế là họ trìu mến nó ngay.

        Họ tò mò sốt sắng muốn biết lịch sử của trung đoàn và mỗi phi đội, vì họ đang kiêu hãnh được bổ sung vào một đơn vị cận vệ. Mùa đông trước, các tò báo lớn có thuật lại chiến công của Rát-sô-khin, Lu-nin, Ka-ban-kốp và Sê- pen-kin. Vì họ ngốn tất cả cái gì nói tới binh chủng họ, nên những tên đó đã in sâu vào trí nhớ. Được phục vụ dưới sự chỉ huy của Lu-nin - của "Lu-nin nổi tiếng" - họ lấy làm hãnh diện lắm, tuy Lu-nin chẳng giống với hình ảnh một anh hùng theo họ tưởng tượng. Và Éc-ma-kốp đã làm họ phấn khỏi đến tột bực khi đồng chí cho phép họ giở xem toàn tập "Báo bay".

        Khi Ka-ban-kôp đã bị coi là mất tích, thì đồng chí chính ủy tập trung các số báo cũ làm di tích kỷ niệm. Nhưng, dù hết sức quý báu tập báo, đồng chí vẫn không thể ngờ tập giấy minh họa bằng bút chì màu ấy lại có thể làm đám tân binh xúc cảm đến thế.

        Họ trải báo trên giường để nghiên cứu và tranh luận không dứt. Tuy không phải là họa sĩ, Ka-ban-kôp đã biết làm cho các bức vẽ thật một cách lạ lùng. Sê-rốp, Rát-sô- khin, Sê-pen-kin, Bê-sây-tốp, Ni-cơ-ri-tin, và tất cả những người đã ngã từ trước ở Ét-tô-ni, đều sống lại trong những trang giấy ngả màu vàng. Xem hình những đội gioong-ke đang đi ném bom thành phố bị vây hãm, người ta có cảm giác như chính mình đã được dự vô số những cuộc không chiến đó. Và mọi người thuộc lòng mỗi đoạn của bài thơ "Trả thù".


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Ba, 2019, 12:44:07 am
          
        Họ càng biết, thì càng thèm biết nữa. Đê-ép trước là thợ máy của Ka-ban-kốp, còn giữ trong va-li các số báo "Cánh Ban tích" trong đó có bài của Ka-ban-kốp viết hoặc các bài nói về anh. Đê-ép cho luân chuyển xem những tờ báo đó. Đám tân binh ngốn một cách say mê.

        Đê-ép còn giữ được ảnh các phi công phi đội 2 từ đầu chiến tranh. Cái mẩu người thấp bé, đầu bù, mắt xếch và luôn luôn đùa cợt. Mi-sa Ka-ri-a-kin chiếm lấy ảnh và dán vào một tờ bìa cứng lớn vẽ trên dầu một lá cờ Cận vệ cắt bằng giấy đỏ. Dưới mỗi bức ảnh, Kô-li-a Kla-mê-tôp kẻ tên, họ, bí danh, cấp bậc và số máy bay đã hạ được. Tất cả đểu trình bày lên tường, trong nhà ngủ. Và bọn trẻ bỏ hàng giờ để ngắm nghía các bậc đàn anh.

        Mỗi cậu tìm một mẫu. Ví dụ Mi-sa Ka-ri-a-kin thì tự cho là có điểm giống với Ka-ban-kốp. Thực ra, chỉ giống vể vóc người, vi Ka-ri-a-kin thấp nhất trong bọn. Không biết vẽ, không biết làm thơ, không biết cả chơi đàn ắc-coóc-đê-ông như Ka-ban-kôp. Nhưng thích đùa cợt, và thật là một cây cù - chắc Ka-ban-kôp trước cũng vậy vì đã vẽ ra những bức tranh đến buồn cười. Hơn nữa, Mi-sa Ka-ri-a-kin lại thích hát, và về mặt này thì lại hơn Ka-ban-kốp một điểm.

        Các tay khác đều tôn trọng Ka-ban-kốp, nhưng tự chọn mẫu khác. Ta-ta-ren-kô thì mải mê về Rát-sô-khin. "Thật rõ là một người chỉ huy! Thật là một phi công!"

        Kô-stin cũng mơ Rát-sô-khin. Đọc trong một số báo cũ thuật lại chuyện Rát-sô-khin đánh đuổi 80 chiếc gioong- ke khi chúng kéo đến định ném bom phi đội, anh chàng tuyên bố:

        - Chiến thuật là một khoa học. Không chiến, phải xuất phát từ nguyên tắc khoa học.

        Câu đó làm Kút-nét-sốp nhếch mép cười, Kô-stin nom thấy và quay lại nói, nhưng không tự ái:

        - Đồng chí Kút-nét-sốp, tôi biết tại sao đồng chí cười. Đồng chí cho là: thằng này chưa thử lửa mà đã dám bàn đến chiến thuật. Phải vậy không?

        Kút-nét-sốp không trả lời. Kô-stin tỏ vẻ biết điểu nói tiếp:

        - Đồng chí nghĩ phải. Tôi chưa thử lửa. Nhưng dù sao, thì ý của tôi cũng đúng. Không chiến phải xuất phát từ nguyên tắc khoa học.

        Ta-ta-ren-kô hỏi:

        - Thế theo ý cậu, thì Rát-sô-khin có xuất phát từ nguyên tắc khoa học không?

        - Tất nhiên!

        - Thế à? Không phải. Tớ nghĩ là đồng chí ấy xuất phát từ cái gì khác.

        - Từ cái gì?

        Ta-ta-ren-kô suy nghĩ một lát:

        - Tớ không biết gọi đúng là cái gì. Nhưng gần gần như linh tính... - Mặt Ta-ta-ren-kô đỏ lên. Anh chàng nhìn xem Kút-nét-sốp có coi thường câu nói không? Nhưng Kút-nét- sôp vẫn tỉnh khô. Anh vẫn sống âm thầm, đối với đám tân binh cũng ít nói như khi ở trung đoàn. Và bọn mới cho anh là con người đã thử lửa nên làm cao với bọn mới tập tọng trong nghề.

        Ở nhà ăn, họ chú ý ngay đến Hin-đa. Tất nhiên. Cô vẫn giữ cái vẻ búp bê xinh xinh với đôi má hồng sau làn khói thức ăn từ đĩa bay lên. Nhưng cái làm họ chú ý nhất, là "cô

        Hin-đa" mà Ka-ban-kốp đã vẽ trong Báo bay - trong bức hoạt họa Sê-pen-kin săn đuổi con chuột cống, là "cô Hin- đa" đã từng biết các phi công lịch sử, đã từng mỗi ngày phục vụ họ ba lần. Cô không phải chỉ là một cô gái đáng yêu mà còn gần như là một di tích.

        Họ coi Sla-va cũng như vậy, vì nó cũng là một tay kỳ cựu trong phi đội, chỉ kém kỳ cựu hơn Hin-đa một tí. Thằng bé cũng biết thế và lại càng làm bộ với bọn tân binh, lên cái mặt đỡ đầu. Nó mách nước cho họ để lĩnh được dây đeo súng kiểu sỹ quan, lĩnh được thuốc lá thơm và khấu phần bồi dưỡng. Thấy nó thân với phi đội trưởng, thân cả với chính ủy sư đoàn, thì bọn tân binh càng khâm phục khi nó kể lại những mánh lới làm thân với cấp trên. Có khi nó còn lên giọng kẻ cả với cái đám lính mới này. Tuy vậy quan hệ vẫn tốt, thân ái và giản dị.

        -  Ê, Sla-va, một chầu nhảy nào! - Ta-ta-ren-kô gọi to.

        Thằng bé chạy lại, cười như nắc nẻ. Ta-ta-ren-kô vừa nhảy, vừa túm lấy nó, thẳng tay đưa nó lên quá đầu, cho nó trèo lên vai lên cổ, cho nó quay, cho nó nhẩy, tung nó lên không rồi lại bắt lấy nó ở sát mặt đất, cho nó đu giữa đôi chân dài của mình. Ka-ri-a-kin hoặc O-strô-sa-blin tham gia cuộc chơi: họ tung Sla-va cho nhau như một quả bóng, tay nắm lấy nó mà nhẩy. Đôi khi thằng nhãi chống cự lại và tìm cách trốn. Nhưng cơn cười làm nó rúm lại. Cuộc chơi chỉ ngừng khi nào đã kiệt sức. Bọn tân binh ngồi thở cho lại người rồi lại xúm quanh Sla-va mà hỏi chuyện.

        Thằng bé không biết Ka-ban-kốp, Sê-pen-kin và Bê- sây-tốp. Vê Rát-sô-khin thì nó chỉ biết nấm mộ trên đồi. Nhưng khi nó đến trường bay, thì kỷ niệm về những người đó còn nóng hổi. Với Kô-li-a Sê-rổp thì nó trò chuyện hàng ngày. Nó còn trông thấy Sê-rốp và Lu-nin đánh nhau với tụi Mét-séc-mít khi chúng đến tấn công trường bay. Nó đã đi theo Grô-mê-kô vào rừng để tìm chiếc máy bay do Sê- rốp hạ. Mỗi chuyện nó đều thêm thắt vào, và ai nấy đều nghe không biết chán. Cái vinh quang của phi đội làm nó như cũng thơm lây. Và cu cậu lợi dụng ngay cái đó để nói với cái vẻ lập lờ:

        - Bọn tôi, người của Rát-sô-khin....

        Đám tân binh ghi nhớ ngay câu nói đó. Từ đó họ chỉ gọi phi đội 2 là "Phi đội Rát-sô-khin" và tất nhiên là chính họ cũng tự xưng danh là "người của Rát-sô-khin".

        Lu-nin hơi ngạc nhiên về cái "đơn vị tính" ấy. Trong ngạc nhiên, có lẫn kiêu hãnh và ngậm ngùi: người đã khuất đâu có biết cái vinh quang của họ. Anh còn cảm thấy hơi ghen tị: "người của Rát-sô-khin", lũ nhãi này đã làm nên cái gì để xứng đáng với danh hiệu đó?

        Vào nửa tháng bảy, một buổi chiều, Éc-ma-kốp vào nhà Lu-nin và nháy mắt nói:

        - Đồng chí thiếu tá, đồng chí có biết 1000 mét là bao nhiêu i-a1 không?

        - Chịu. Để làm gì? - Lu-nin ngạc nhiên hỏi.

        - 1000 mét là bao nhiêu "chân"2? Và một hải lý là bao nhiêu mét?

        - Chịu.

        - Phải học cái đó, và dạy cho người khác nữa. Có lệnh.

        - Lệnh gì?

        - Lệnh cho phi đội đồng chí phái bát đầu học ngay các đơn vị đo chiều dài của Anh. Đồng chí có biết tại sao không?

        Lu-nin thoạt đầu còn ngơ ngẩn, nhưng rồi linh tính cho anh hiểu:

        - Máy bay của Anh chăng?

        - Đúng. Đồng chí sắp lĩnh máy bay Anh. Lĩnh "Hơ-ri- can". Đồng chí biết chứ?

        - Không.

        - Tôi cũng không nốt. Chỉ nghe tin trong báo "Hơ-ri- can" đã hạ được ở không phận Luân Đôn hai oanh tạc Đức. Đồng chí Lu-nin, đồng chí thất vọng à? Đừng lo, người ta không gửi cho mình những đồ vất đi đâu.

        Trước khi thử tốc độ, Lu-nin muốn thử một cảm giác: anh nhận thấy Hơ-ri-can tuy tuân theo một tay lái nhưng hình như kém chính xác hơn I-16. Thật là khó mà kiểm tra cái đó vì sự kém chính xác đây chỉ là trong khoảnh khác và độ vài phán. Anh lái theo nhiều hình khó, bổ nhào, ra nhào.. Máy bay tuân theo tay lái. Nhưng kém chính xác rõ ràng, một sự kém chính xác không đáng kể, nhưng trong không chiến, sống chết lại do từng khoảnh khắc, do một vài phân quyết định.

        Rốt cuộc anh chuyển sang thử tốc độ và đi tới một nhận định không ngờ: tốc độ thường thường của Hơ-ri-can không hơn I-16, và chỉ do phương pháp "cho ăn gấp xăng" mới có thể tăng tốc độ lên được một mức không đáng kể vài chục cây số, mà như vậy chỉ được trong mấy phút. Xăng tốn rất nhiều, thì lại giảm mất thời gian bay. Thật là trả giá quá đắt hai, ba phút bay với tốc độ tối đa...

        Mọi việc thế là rõ. Lu-nin lượn một vòng trên trường bay rồi hạ cánh.

        Ở dưới đất xem anh biểu diễn thì không biết gì hết. Cái chuỗi hình khó mà Lu-nin đã vẽ ra trên không, đôi với mọi người là một cảnh tuyệt tác. Tuy không cố tình, mà Lu-nin thành ra đã trình bầy cái tài năng khác thường của anh. Và trong lúc hào hứng, mọi người không tưởng tượng được là anh đã làm những vũ thuật ly kỳ ấy trong một chiếc máy bay mà chính anh không tin tưởng. Ec-ma-kôp phấn khởi chạy lại. Nhưng cái cười của đồng chí héo đi khi trông thấy mặt Lu-nin. Đồng chí hỏi:

        - Thế nào?

        - Tồi hơn là tôi tưởng.

        Éc-ma-kôp như bàng hoàng. Tuy rất tin Lu-nin, nhưng đồng chí vẫn không thể ngờ như vậy.

        - Có chiến đấu với nó được không?

        Lu-nin suy nghĩ một lát:

        - Cũng phải chiến đấu thôi. Khi không đủ máy bay Xô Viết cho mọi người, thì đành bằng lòng với cái đã có. Chúng mình không may bị máy xấu, nhưng vẫn cứ phải chiến đấu.

        Éc-ma-kốp buồn rầu im lặng một lúc. Rồi đồng chí khuyên phi đội trưởng:

        - Đừng làm cho anh em thất vọng: phi công phải tin tưởng vào máy bay của mình.

        - Tất nhiên. Để họ buồn làm gì?

        Nhưng Lu-nin nghĩ thầm: "Làm sao giấu nổi họ? Họ sẽ là người đầu tiên nhận thấy rõ".

-------------------
        1. yard: dơn vị đo chiều dài của Anh, 1 yard = 0,914m (B.T).

        2. Pied: một đơn vị đo chiều dài của Anh, l pied = 12 pouce (pút) = 30,48cm (B.T).


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Ba, 2019, 08:38:29 pm

IV

        Ngày 19 tháng bảy, ta rút khỏi Vô-rô-si-lô-grát. Ngày 27, đến lượt Nô-vôí-séc-cát và Rô-stốp trên sông Đông.

        Các phi công không bao giờ nhắc đến tin đó. Hìni như đã thầm đồng ý như vậy. Nhưng những tin mặt trận đau đớn ấy làm cho các bộ mặt tối rầm lại.

        Riêng anh chàng bé nhỏ Mi-sa Ka-ri-a-kin vẫn hát vẫn đùa, như thách thức với định mệnh. Mở mắt dậy là anh nheo đôi mi xếch lên như người Mông cổ và nghêu ngao:

        Đồng chí thợ máy

        Nhìn I-mười sáu

        Qua cửa khung vòm

        Cái gì cũng xôm

        Thưa bà Hầu tước!

        Ta-ta-ren-kô kêu lên:

        - Im đi. Hết cái chuyện I-16 rồi!

        - Biết đâu đấy. Có thể rồi người ta lại nói đến nó.

        Mọi người đã biết sắp nhận được máy bay Anh, nhưng chưa biết nên đón cái tin này thế nào. Họ đang mong mỏi máy bay Xô Viết kiểu hiện đại mà người ta nói là tốt lắm. Thế mà bây giờ lại... Biết đâu Hơ-ri-can lại không tốt hơn. Người Anh là một dân tộc sáng tạo...

        Kô-stin giải thích:

        - Hơ-ri-can, nghĩa là giông tố. - Anh chàng có vẻ đã học tiếng Anh. Nhưng anh chàng hơi ngượng mà thú thật:

        - Ồ! Có học, nhưng ít thôi. Tuy vậy cũng đọc được sách nói về máy móc.

        Về Hơ-ri-can thì rõ là anh ta hiểu hơn bất cứ ai. Hay nói đúng ra thì chỉ mình anh ta là biết đôi chút. Sáu tháng trước đây, anh ta có đọc một bài trong tạp chí "Không quân" nói về nó, và còn nhớ vài con số. Tạp chí tán dương chúng hết sức. Nhất là tốc độ thì đặc biệt lắm.

        Ta-ta-ren-kô reo lên:

        - Cừ lám! Gấp một lần rưỡi tốc độ I-16. Bọn Đức đừng có đùa.

        Họ lập tức học tính quy "chân" ra mét và ngược lại, để có thể đọc bảng bay chữ Anh. Rồi thì cái việc quy tính đó làm được rất nhanh, như máy.

        Chắc không lâu nữa thì lĩnh được "Hơ-ri-can". Những ngày oi bức tháng bảy kế tiếp nhau mà máy bay vẫn chẳng tới. Đợi mãi phát chán, các phi công chăng buồn nhắc tới nữa và cũng chẳng tin là có nữa, thì bỗng nhiên một hôm có điện thoại ở ga gọi về là máy bay đã tới...

        Éc-ma-kốp, Lu-nin và đồng chí kỹ sư trung đoàn đi ra ga, dẫn theo tất cả các đồng chí thợ máy và tất cả các ca- mi-ông trưng dụng được. Đường thì xa, và đi qua rừng. Ca-mi-ông nhẩy chồm trên các gốc cây đã đốn.

        Xe vượt qua bãi lầy, lăn trên những khúc cây đặt ngang, làm hai hàm mọi người đánh vào nhau. Tuy vậy mà xe vẫn phóng hết tốc lực vì ai cũng nóng lĩnh máy bay.

        Ở ga, mười hòm lớn bằng gỗ hình gần vuông đã đặt ở dọc đường xe lửa. Thành hòm có ghi chữ đen. Một hàng chữ đập vào mắt: CẢNG MUÔC MANK. Đã chuyển đến bằng đường Bắc-băng-dương, mũi bắc và biển Ba-ren.

        Cái dáng hòm đẹp làm người ta chú ý. Éc-ma-kốp lấy lòng bàn tay vỗ vào một cái mà nói:

        -  Đóng hòm cừ đấy.

        Đồng chí kỹ sư có vẻ đồng ý.

        Phải chuyển những hòm này đi - công việc lôi thôi và tốn thời gian. Dùng máy kéo và những xe như kiểu xe trượt lớn làm ngay tại chỗ. Hòm đầu tiên đến trường bay vào nửa đêm. Quyết định sáng sớm thì mở.

        Chẳng ai ngủ. Mặt trời vừa mọc ở phía đông, in bóng thông rộng khắp bãi, thì một đồng chí thợ mộc trèo lên một hòm và thận trọng lấy rìu bửa cái vỏ ngoài. Tiếng đinh rít lên. Vỏ rơi xuống, ánh nhựa kính lóng lánh trong bóng tối của chiếc hòm. Các đồng chí thợ máy dùng tay kéo chiếc Hơ-ri-can đầu tiên ra ánh sáng. Nó in một bóng đen xuống nền cỏ sương.

        Ai nấy đều trô mắt nhìn. Kinh nghiệm đã cho Lu-nin biết giá trị của cảm giác đầu tiên: một kiểu tốt thì xem cái dáng là biết ngay. Anh còn nhớ mấy năm trước, I-16 đã làm anh chú ý ngay đến cái mõm ngắn và đôi cánh cộc của nó. "Rõ là một con vật đánh trận giỏi".

        Thoạt đầu nhìn Hơ-ri-can thiếu cá tính. Nó giống như mọi máy bay khác. Nhưng Lu-nin chưa vội kết luận. Anh nghĩ thầm: "Phải thử đã. I-16 đã già rồi, tốc độ không đủ, nếu Hơ-ri-can thật có tốc độ gấp rưỡi, thì không cần đòi hỏi gì khác nữa".

        Trong khi đồng chí kỹ sư xem máy, thì anh trèo lên khoang, đẩy tay lái và xem bảng bay. Chỗ ngồi có vẻ chật, chắc cũng là do thói quen mà thôi. Bảng bay trình bầy khá: nhiều kính nhựa và bộ phận mạ kền.

        Phê-đê-rốp, - "Đông ky-sốt trung đoàn" - chỉ huy công việc. Cũng như Lu-nin anh chưa nhận xét. Ai hỏi thì anh chỉ trả lời:

        -  Khi bay và chiến đấu sẽ biết.

        Rồi một buổi sáng, Lu-nin đã có thể lái được.

        Ở trường huấn luyện nơi anh làm việc hồi trước chiến tranh, anh vẫn thử máy bay, và không hề lo ngại gì cho bản thân. Nhưng anh lo cho máy bay: chưa biết Hơ-ri-can sẽ ra sao?

        Máy bay cất cánh dễ sàng. Lu-nin kéo tay lái lên thẳng. So với I-16, Hơ-ri-can leo không hơn không kém... Thế nghĩa là lên thẳng thì không hơn gì I-16. Mét-séc-mít nó leo khá hơn vẫn giữ ưu thế. Trên 2000 thước, anh bay ngang và ngoặt đột ngột. Ngoặt không gọn bằng I-16. Để biết chắc hơn, anh ngoặt một cái nữa, vòng thật hẹp. Không nghi ngờ gì nữa: bay ngang thì I-16 khá hơn. Thất vọng. Lu-nin nhớ đến những chiếc Mét-séc-mít đã hạ được nhờ có động tác bay ngang khá của I-16... Tất nhiên máy bay nào tốc độ nhanh thì khi bay ngang điểu khiển nó vẫn khó hơn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Ba, 2019, 12:29:16 am
       
V

        Những cuộc bay rượt bắt đầu ngay hôm đó. Lu-nin chỉ có nhiều nhất là ba tuần để chuẩn bị cho phi đội chiến đấu, và làm cho bọn trẻ tiếp thu được những kinh nghiệm lớn lao mà không quân Xô Viết đã có được trong năm đầu của chiến tranh.

        Phải bay, bay không ngừng, làm cho mỗi động tác thành tự nhiên như máy. Thời gian thiếu. Không thể để phí một giờ nào. Từ sáng sớm đến đêm, ròng rã những ngày hè dài đó, họ tập cất cánh theo thứ tự, tập bay theo đội hình, tập đổi đội hình trong khi bay, tập làm đi làm lại những hình khó, tập đánh trận giả, bắn, hạ cánh rồi lại bay.

        Ngay buổi đầu, Lu-nin nhận thấy Ta-ta-ren-kô lái khá hơn cả. Tuy cũng chỉ được học tập như các bạn, nhưng anh ta điều khiển máy bay một cách chính xác lạ lùng và rất nhanh chóng, hình như anh sẵn có tài nắm được không trung. Động tác rất vững vàng, và phản ứng rất nhậy, khiến cho anh ta vẫn được thảnh thơi mà suy nghĩ.

        Anh ta biết là mình khá, và đó cũng là khuyết điểm chính. Anh ta xử sự với cái vẻ tự tin thái quá, làm những vũ thuật vô ích để tỏ ra mình giỏi. Muốn cho anh một bài học, Lu-nin tảng lờ như không để ý gì cả, và bó buộc anh chàng phải cùng lắp lại những động tác tập luyện như các bạn khác. Chính cũng vì anh ta cho những cái đó là sơ đẳng và không ích lợi gì. Ta-ta-ren-kô ngoan ngoãn nghe phi đội trưởng nhận xét, được lệnh gì cũng làm, không tỏ ra chút gì tự ái, nhưng với cái vẻ: "Bố thừa biết là tôi lái khá hơn người khác, nhưng bố chỉ làm tôi mất thì giờ vì vấn đề nguyên tắc huấn luyện. Bố muốn thế cũng được! Tôi kính mến bố thì tôi vâng lời. Nhưng bố cũng thừa biết hơn tôi là thế chẳng có ích lợi gì”.

        Kô-stin là một tay lái cừ. Cái gì anh đã học, thì anh học đến nơi, và cái gì anh đã làm thì cũng làm đến cùng. Nhũn nhặn và siêng năng, anh thu nhận kỳ cùng những lời khuyên bảo của Lu-nin để sau về nghiền ngẫm thêm. Nhưng khi bay, anh vẫn còn thích lý luận, do đó động tác kém nhậy. Đó là chướng ngại chính phải vượt: có khi đáng lý phải phản ứng hành động tức khắc thì lại cứ suy nghĩ. Và Lu-nin hết sức làm cho những động tác chiến đấu thường thức của anh được tự nhiên như máy.

        Kô-li-a Klê-ma-tốp lái cũng khá. Là một gã nhỏ bé xứ Kra-snô-đa, với đôi mắt con gái trên bộ mặt đều đặn thanh tú. Nói nhỏ nhẻ, và cứ mỗi tuần hai lần nắn nót viết thư cho cha mẹ đều là giáo sư. Trước chiến tranh, anh không xa cha mẹ một ngày nào. Khi ta mất Rô-stốp, thì rõ ràng là quân Đức tiến đến Kra-snô-đa, và da mặt sạm nắng của Kô-li-a cũng tái đi. Ba má liệu có thời giờ tản cư không? Chẳng nhận được thư nào...

        Khi bay, anh tỏ ra can đảm và tập dượt một cách say mê. Cái đó làm Lu-nin rất sung sướng. Nhưng anh ta lái không xuất sắc lắm. Ra lệnh gì cho anh, thì anh làm đúng tăm tắp. Cái kiểu lái cũng giống lối viết nắn nót. Bản thân anh cũng đều hoà, dứt khoát, rõ ràng. Con người đó nhất định sẽ thành một tay lái khu trục vững, có thể tin cậy được trong mọi trường hợp.

        Buổi bay đầu Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin không tỏ ra vững lắm trong khoa lái máy bay. Nhưng khi tập đến bắn bia bay và đánh trận giả, thì họ lại tỏ ra mắt tinh, và nhiều sáng kiến khác thường.

        Người ta cho máy bay đèo thêm một dải vải dài hình nón để các phi công tập bắn ở nhiều cự ly khác nhau, sau đó đếm các lỗ đạn. Ka-ri-a-kin bắn dải hơn mọi người, hơn cả Ta-ta-ren-kô. Ri-a-bu-skin đứng thứ ba. Nhưng Ka-ri- a-kin không tự mãn. Nếu bắn trượt một phát, thì chính hắn lại là người đầu tiên chế nhạo mình:

        - Tôi bắn vào cung trăng.

        Và hắn nói thêm:

        - Tôi bắn vào cung trăng cũng như các tay khác bắn vào cái nút chai!

        Hắn thích hát, và ngay khi bay cũng nghêu ngao. Ra- đi-ô đã phản hắn: Lu-nin từ chỉ huy sở nghe tiếng hát từ trên cao 3000 thước.

        Lu-nin cũng mãi mới quen chỉ huy bằng ra-di-ô. Một hôm, cùng với Éc-ma-kôp, anh theo dõi một cuộc đánh trận giả giữa Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin. Hai phi công lăn xả vào nhau như hai con gà sống non, quay tít, lộn ngửa, và luôn tìm trăm phương nghìn kế để luồn được vào đuôi nhau.

        Thấy Ka-ri-a-kin đánh một miếng rất thành công, Lunin bảo Éc-ma-kốp:

        - Ka-ri-a-kin khá lắm!

        Thì có tiếng Ka-ri-a-kin nói lại:

        - Cám ơn đồng chí thiếu tá.

        Lu-nin phá lên cười:

        - Ka-ri-a-kin, tôi nói chuyện với đồng chí chính ủy; đừng nghe trộm ở ngoài nhé!


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Ba, 2019, 04:37:49 pm

        Ka-ri-a-kin lúc nào củng vui. Đức tính ấy rất đáng quý trong những ngày mỏi mệt. Những ngày mà tin mặt trận phía nam mỗi lúc thêm đáng ngại. Tuy không cầu kỳ, và nhắc đi nhắc lại mãi, nhưng câu pha trò của hắn vẫn làm cười đến chảy nước mắt. Mỗi buổi sáng, phi đội ca-mi-ông từ làng ra trường bay. Phải đứng, vì xe chật cứng. Gần trường bay, đường ôtô đi qua đường xe lửa, và ai cũng phải cúi xuống. Ngày nào cũng vậy, cứ đến cách cái xà chắn ba trăm thước thì Ka-ri-a-kin đã hô:

        - Coi chừng đụng đầu!

        Bất giác ai cũng còng lưng xuống, nhất là những tay cao như Ta-ta-ren-kô và Kô-stin thì lại càng vội vã. Rồi phá lên cười với nhau vì xà chắn còn xa! Tuy ngày nào củng nhắc lại cái trò ấy, mà vẫn cứ có kết quả.

        Mi-sa Ka-ri-a-kin còn bịa ra câu chuyện một chàng phi công ngớ ngẩn làm cái gì cũng hỏng mà cứ đổ tại người dạy mình. Ka-ri-a-kin kể câu chuyện hàng chục lần, mỗi lần lại lấy những sự việc xảy ra hàng ngày thêm thắt vào. Cái đoạn tả về lúc hạ cánh là được mọi người thưởng thức nhất. Sau khi đã làm hoàn toàn ngược lại các động tác và làm máy bay nát vụn từng mảnh, đến lúc gần chết được người ta lôi ra khỏi máy, thì anh chàng phi công lịch sử ấy vẫn còn tự mãn và khoa tay trách móc lớn:

        - Người ta dạy tôi làm như thế đấy?

        "Người ta dạy tôi làm như thế đấy" thành ra một câu tục ngữ trong phi đội. Nếu một phi công nào làm cái gì sai lầm, thi từ bốn phía có tiếng kêu:

        - Người ta dậy tôi làm như thế đấy!

        Một hôm thấy Ri-a-bu-skin hạ cánh, đã để cho máy bay nhẩy chồm lên bốn lần, thì mọi người kêu lên câu ấy. Cũng câu đó để tặng cho đồng chí lái xe đã làm chiếc ca-mi-ông chở nặng sa lầy ngập nửa bánh sau. Và một lần đánh đổ cả đĩa súp xuống chiếc khăn giải bàn trắng tinh, Ta-ta-ren- kô đã đàng hoàng phân bua với Hin-đa:

        - Người ta dạy tôi làm như thế đấy!

        Va-đim La-da-rô-vít và I-van Di-ga thì luôn phải nghe câu đó bên tai. Chậm hiểu hơn các bạn, họ là những người khố nhất với cái việc huấn luyện gấp rút này.

        Ngược với anh chàng La-da-rô-vít mảnh dẻ và công tử, I-van Di-ga là một nông dân ở nông trường U-kơ-ren, với bộ ngực lực sỹ và những bắp tay thợ rèn. Chảng ai địch nổi hắn về cái khoẻ, nhưng cái khoẻ ấy chẳng giúp hắn được việc gì, và hắn vụng về một cách kỳ lạ. Đôi bàn tay kếch sù quờ quạo bất lực trong khoang máy bay, không sao lái theo ý muốn được. Và cũng như La-da-rô-vít, cu cậu khổ về những rủi ro của mình. Nhưng cả hai đều kiên trì một cách hiếm có. Họ quyết tâm trở thành một phi công khu trục giỏi, nên không tiếc sức lăn vào học tập.

        Lu-nin chia phi đội ra thành tiểu đội, cử tiểu đội trưởng và tiểu đội viên. Tất nhiên, việc đề cử đó không khỏi gây một vài cảm xúc. Nói chung, mọi người đều thông cảm các lý do chọn lựa của Lu-nin. Ví dụ, không ai phản đối gì vê việc Kút-nét-sốp là tiểu đội trưởng, vì trừ Lu-nin ra, thì anh là người duy nhất đã thử lửa. Hoặc ai cũng thấy hoàn toàn đúng là cái anh chàng phục phịch O-strô-sa-blin kia là đội viên của Kút-nét-sốp. Người ta cũng công nhận Ka-. ri-a-kin ỵà Ri-a-bu-skin là một đôi rất tốt mà Ka-ri-a-kin thì phải là tiểu đội trưởng. Cũng không còn nói gì được nữa vể việc Kô-stin và Kla-mê-tốp là tiểu đội trưởng, hoặc La-da-rô-vít và Di-ga là đội viên. Chỉ có một điểm nhiều người chưa hiểu: là Lu-nin để Ta-ta-ren-kô làm đội viên của đồng chí.

        Đó là vinh dự hay một sự bất công? Vấn đề làm mọi người suy nghĩ. Như Kô-li-a Klê-ma-tôp thì nói chắc rằng đó là một vinh dự lớn cho Ta-ta-ren-kô: bản thân anh được chỉ định là tiểu đội trưởng, nhưng nếu được làm đội viên của Lu-nin thì anh cũng sẽ rất sung sướng.

        Anh chàng vốn là dễ sùng bái cá nhân, và hiện nay thì Lu-nin là đôi tượng sùng bái của anh. Người phi công trẻ tuổi ấy cho Lu-nin là hoàn hảo và muốn bắt chước anh trong mọi việc. Đồng chí thiếu tá vừa hỏi một câu là cu cậu đã đỏ mặt lên sung sướng.

        Trái lại, Ri-a-bu-skin thì lại cho là nếu có một người xứng đáng làm tiểu đội trưởng, thì người đó phải là Ta-ta-ren-kô. Bản thân anh là đội viên của Ka-ri-a-kin, nhưng anh chẳng tự ái chút nào. Anh chỉ buồn cho bạn. Phục Lu-nin và lấy làm hãnh diện được phục vụ dưới sự chỉ huy của đồng chí, nhưng anh phục Ta-ta-ren-kô cũng không kém kể từ khi đánh bạn với nhau ở trường không quân. Trong tình bạn đó, thì Ta-ta-ren-kô là người chỉ dẫn, và anh chàng Ri-a-bu- skin khiêm tốn kia tự cho mình đóng vai đàn em là lẽ tất nhiên. Thế mà bây giờ Ta-ta-ren-kô cũng chỉ là đội viên, như mình, hay Va-ni-a Di-ga. Chẳng còn hiểu ra sao cả.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Ba, 2019, 09:27:39 pm

        Chỉ có La-da-rô-vít cho là việc lựa chọn rất dễ hiểu:

        -  Cậu còn ngạc nhiên cái gì nữa? Ông ấy chỉ định cậu ta làm đội viên là để dạy cho cậu ấy bớt tự kiêu.

        Cũng như tất cả các bạn khác, La-da-rô-vít rất thân với Ta-ta-ren-kô và công nhận những ưu điểm của bạn. Nhưng anh cho là bạn hơi kiêu.

        Lu-nin muốn biết thái độ của Ta-ta-ren-kô thế nào. Nhưng hắn ta không lộ vẻ gì hết. vẫn cười một cách cởi mở, và đôi mắt như muốn nói: "Bố già kỳ quái ơi, bố đặt tôi vào đâu thì tuỳ ý. Nhưng không phải vì thế mà bố không nhận thấy trước ai hết là tôi đáng giá loại nào và tỏ rõ cái đó như thế nào?"

        Nếu không đúng như vậy thì ít nhất đó cũng là ý nghĩ mà Lu-nin gán cho Ta-ta-ren-kô. Và đồng chí thầm phản ứng "Có chú mình kỳ quái thì có. Chú nào có biết rằng không chiến đâu phải chuyện đùa. Nó tàn nhẫn với những anh chàng kiêu lắm đấy, với những anh chàng chỉ muốn bứt lên trước, muốn tìm vinh quang cho bản thân, hơn là vinh quang chung cho tiểu đội. Chú mình tự tin ở bản thân, và thế là đúng. Nhưng nếu tôi không chăm sóc thì chú sẽ bị hạ ngay trong trận đầu".

        Thật ra, Lu-nin cũng công nhận Ta-ta-ren-kô là khá, không khác gì ý của Ri-a-bu-skin, và có thể còn hơn nữa. Vì anh còn ở cương vị nhận định được rõ hơn, nhận định thấy sáng kiến của Ta-ta-ren-kô khi bay, trí phản ứng mau lẹ, khả năng quyết định cấp kỳ của hắn. Chỉ nhìn đường lượn khéo léo, Lu-nin cũng đoán được ngay máy bay của Ta-ta-ren-kô. Muốn lái được như vậy, phải có khiếu nắm vững không trung và lòng yêu nghề tha thiết.

        Nhiều lý do đã giúp dồng chí quyết định. Trước hết, đồng chí không công nhận ý kiến của tụi trẻ là dội viên thì dễ và ít cần thành thạo hơn là tiểu đội trưởng. Như Sê- rốp, thì khỏi đầu là đội viên của Rát-sô-khin, rồi thành đội viên của Lu-nin. Thế nhưng Sê-rốp là loại phi công như thế nào? Hơn nữa, Ta-ta-ren-kô có tài, mà ai không thích huấn luyện một người học trò có tài. Sau hết, Lu-nin cho Ta-ta-ren-kô quá tự tin và cần được trông nom hơn mọi người khác. Đồng chí lo ngại cho hắn nhiều hơn bất cứ ai, nên muốn lúc nào hắn cũng ở bên cạnh mình.

        Nhưng đồng chí lo người ta nhận thấy cái biệt đãi của đồng chí đối với Ta-ta-ren-kô. Do đó đối với anh chàng, đồng chí lại tỏ ra nghiêm hơn, cách bức hơn là đối với mọi người khác. Đối với Ta-ta-ren-kô, đồng chí rất tiết kiệm lời khen, và không bao giờ bỏ qua cái gì mà không nhận xét, đến nỗi mọi người đâm ngờ là đồng chí không yêu hắn, thậm chí ngờ là bất công với hắn.

        Nếu Lu-nin khéo léo che giấu tinh cảm, thì Hin-đa lại - không biết nghệ thuật ây.

        Chỉ nhìn thấy Ta-ta-ren-kô là đủ cho cô nàng đỏ mặt. Hắn hỏi một câu là cô luống cuống. Chiếu đãi hắn từng tí một, cô bổ đi tìm muối, tìm mù-tạt. Bọn phi công nhận thấy ngay cái đó. Nhưng họ chẳng dám nói gì, vì Hin-đa đã từng quen biết các anh hùng của phi đội, còn cái ngữ I- li-a Ta-ta-ren-kô chưa từng cả đến thử lửa thì di đến đâu.

        Chỉ La-da-rô-vít. là không ngại lời mà nói toạc ra:

        - I-li-a, đúng là cô ả mê mày đấy.

        Lu-nin củng nhận thấy cái trò đó. Một hôm dự đoán của anh đã thành sự thật, khi anh thấy Hin-đa thay đổi hẳn thái độ: lúc bất chợt gặp Ta-ta-rcn-kô, cô nàng vờ như không trông thây không ngẩng mặt lên nữa. Suốt buổi im lặng. Cô chuồn xuống bếp khi hắn ta vào nhà ăn, và đưa súp cho hắn ta ăn mà tay run rẩy.

        Lu-nin cảm thấy hơi ngượng. Vì nhớ đến Bê-sây-tốp cũng đã yêu Hin-đa, cả Sê-pen-kin nữa, và có lẽ cả một số khác đã khuất. Mà Hin-đa thì chỉ đáp lại bằng tình bạn thân ái. Và anh nhớ đến chuyện nàng công chúa và 12 anh em. Trong khi họ đi săn, công chúa ở nhà dọn dẹp nhưng chẳng yêu ai, vì nếu yêu một người nào, thì hết mất chuyện...

        Cái kỳ khôi nhất trong vấn đề này, là Ta-ta-ren-kô vẫn tỉnh khô với Hin-đa. Không một khách nhà ăn nào mà lại ít chú ý đến cô như vậy. Cái khuôn mặt xinh xinh trắng hồng, đôi mắt xanh, cái dáng người thanh tú, mớ tóc mượt hoe vàng không làm hắn ta cảm động. Hắn là người duy nhất không biết chuyện gì, cái chuyện mà đến Lu-nin cũng phải biết. Hắn chẳng hề nhìn cô lần nào, và điềm nhiên ăn súp, hình như đĩa súp tự nhiên ở đâu bay tới.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Ba, 2019, 08:45:54 pm

VI

        Năm đó, mùa hè ở miền bắc Liên Xô đặc biệt nóng bức. Gì cùng khô nỏ. Bụi cuốn lốc trên đường. Mùi rừng cháy khét lẹt. Nền trời của sân bay xám xịt và đầy bụi khói. Qua màn khói bụi, mặt tròi khổng lồ đỏ rực. Và chính trong cái lò lửa đó, cái khói bụi đó, chính dưới mặt trời khổng lồ đỏ rực đó, mà các máy bay cất cánh hạ cánh không ngừng.

        Lu-nin buộc các phi công phải nhắc lại mỗi động tác cho đến thuộc lầu. Ai hạ cánh kém, phải làm lại, nếu còn chỗ nào chưa hoàn hảo thì làm lại hai mươi lần nếu cần. Các bộ mặt sạm lại: nắng và bụi làm da đen sạm. Không ai còn sức, không ai còn muốn chơi "nhẩy cừu" hay mời Sla-va "quay một bài". Đêm đến, mới từ trường bay về, thế là vật xuống giường và kéo một mạch. Vừa tảng sáng thì trực phòng đã kéo dậy. Họ nuốt vội bữa ăn sáng rồi lại đi.

        Lu-nin cũng cảm thấy mệt: anh gầy đi, mặt sắt lại, cổ họng khô vì bụi. Mỗi lúc anh lại phải bỏ mũ bay ra để lau những giọt mồ hôi lớn đọng trên cái trán hói. Anh mê mải công việc. Ngày qua vùn vụt. Không còn đủ thời gian ăn ngủ. Tháng tám đã đến rồi. Lệnh ra mặt trận có thể tới bất chợt lúc nào, nên phải làm việc không ngừng.

        Là một giáo viên đầy kinh nghiệm, Lu-nin ham thích huấn luyện. Anh thấy đúng lĩnh vực của mình và không tiếc sức. Cái gì anh cũng thích: từ cái nóng bức oi ả trên sân bay, đến cái khuôn mặt cháy nắng của đám thanh niên.

        Chỉ có một lần, anh được đứng lẻ một mình và nghĩ đến những cái ngoài công việc của phi đội.

        Từ lâu, anh vẫn ước ao tắm sông một lần cho thoả. Dịp ấy đã đến. Các phi công còn ăn trưa. Đến nhà ăn sớm hơn họ nửa giờ, anh ăn vội cho xong, lẳng lặng ra khỏi làng để không ai nhìn thấy và xuống cái dốc đứng ở bờ sông.

        Từ sau hồi thơ ấu, anh chưa được tắm sông, trước chiến tranh, anh chỉ tắm biển. Nước mặn, nặng và xanh ngắt không thật là mát người. Nhưng anh chưa quên gì cả, và khoan khoái nhận thấy cảnh vặt vẫn như xưa: những lá sen rộng, bóng liễu rườm rà, sậy reo vi vu, từng đoàn cá nhỏ thao diễn như có sự chỉ huy, và thẳng đằng trước là ánh nước long lanh.

        Anh cỏi quần áo, hụp và khoan khoái đầm mình nóng bỏng vào nước. Bóng cây bên bờ làm nước đen ngòm. Anh thấy nước chảy trong kẽ chân. Dịu mát và mạnh mẽ, dòng nước quyện lấy anh, làm anh quay tít, và cuốn anh đi. Anh không chống lại. Nước ngập đầu. Anh tự buông trôi một lát, cho đến khi gót chân đụng cát mềm. Anh mở mắt và nhìn thấy mặt trời nhẩy múa giữa những bóng cành cây gẫy trong gương nước. Anh làm một sải, nhô mình lên, nhè nhẹ bơi ra giữa dòng, ngoảnh lại rồi bơi vào và leo lên bờ, thở hít một cách sung sướng.

        Anh tắm xong, vừa hết bụi hết mồ hôi, mà còn hết cả ưu tư. Trong khi mặc quần áo, anh mới thấy là bờ sông đầy cây bồn, mà những chùm lớn làm thành những chấm mầu thẫm trong lá cây xanh. Tự nhiên như cái máy, anh với tay... Hồi thơ ấu, khi dạo chơi hàng giờ từ cành này sang cành khác, anh vẫn không hái. Quên cả hiện tại, anh len vào các bụi theo thói quen xưa. Mỗi chùm giống như một ngọn đèn đỏ bé xíu treo dưới cành trắng nhỏ. Anh hái một cách khéo léo, bỏ mồm ăn và nước bồn làm đỏ cả ngón tay.

        Những kỷ niệm cũ đến hàng loạt. Anh ở cách cái thị trấn nhỏ đã sinh ra anh chỉ độ một trăm cây số. Ở đấy cũng có những con sông bờ dựng đứng và xanh tươi như thế này, cũng có rừng, có cây bồn. Giọng nói phương bắc -  giọng nói của anh - cũng hơi nặng như ở đây. Anh như nom thấy cái phố lớn mà ở một đầu là ngôi nhà thờ to trăng toát, ở đầu kia là một nhà thờ nhỏ bằng gỗ với cái nghĩa địa. Nếu không có phố lớn này thì người ta tưởng như ở trong một làng nông thôn. Cái nhà không có tường đó là nơi anh đã làm những kiểu máy bay đầu tiên của anh, nằm giữa các bụi mộc. Lúc đó anh chẳng muốn nhìn thấy những máy bay thực trong ảnh. Nhưng đã mơ đến chúng biết bao!... Anh nhớ lại các khuôn mặt bà con xóm làng, mặt những đứa trẻ vừa trai vừa gái. Bây giờ họ ở đâu? Họ thế nào? Liệu còn nhận ra họ không? Nhiêu người có lẽ vẫn ở đó... Anh nhớ lại những cô gái mà anh đã chú ý. Hình ảnh của họ đã in vào trí nhớ, nhưng anh lại gặp Lida, và anh đã quên ngay họ, cho đến ngày hôm nay mới lại nhớ đến họ. Ồ, giá có mấy giờ rỗi rãi mà lên ôtô nhẩy về chơi nhỉ! Nhưng mong mỏi như thế vô ích... Có thè đi máy bay, sà thấp trên con đường phố lớn? Ý nghĩ thật là điên rồ...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Ba, 2019, 12:35:26 am

        Từ trên không, liệu có nhận ra thị trấn ấy không? Mục tiêu không thiếu: nhà thờ lớn, nhà thờ nhỏ, khuỷu sông, chiếc cầu trên cột gỗ... Nhưng liệu cái cầu còn không? Hình như người ta đã dựng cầu mới bằng sắt. Lu-nin đọc tin ấy trong báo, hồi kế hoạch năm năm lần thứ hai. Người ta còn xây dựng một nhà máy thuỷ tinh, cả đến cái nhà thờ lớn. liệu còn nhận được không?... Kể cũng lạ: chính cái thị trấn nơi trước kia anh từng mơ ước đến máy bay bao nhiêu, thì anh lại chưa hể được từ trên máy bay nhìn xuôáig!

        Những trái bồn như bắc một nhịp cầu giữa dĩ vãng và hiện tại. Và bất chợt anh vui sướng nhận thấy cái nhất trí trong đời anh. Chính ở miền này, trong rừng sâu là nơi mà hồi măng trẻ anh đã mơ máy bay. Thì mơ ước đó đã thành thực tế hàng ngày. Và không bao giờ anh ân hận là đã chọn cuộc đời ấy. Anh chỉ thấy sung sướng khi bay. Và cũng lúc đó anh mới thấy sức mạnh và tác dụng có ích của mình. Cái nghề phi công đã cho anh bao nhiêu bạn! Nó cũng đã làm cho anh trở nên hữu dụng đối với đất nước. Nó đã dạy anh biết bảo vệ Tố quốc.

        Anh xem đồng hồ và leo vội lên bờ, vừa leo vừa bẻ những cành bồn yếu ớt. Đứng giữa nắng trên cao, Krô-míc đang đợi anh. Người ta bảo đồng chí đi tìm phi đội trưởng vì xe đang chờ. Đồng chí kiên trì đứng nhìn Lu-nin ăn trái bồn!...

        Ngày 16 tháng tám, ta rút Mai-kốp. Ngày 19, quân thù chiếm Kra-snô-đa, quê hương của Kô-li-a Kla-mê-tơp.

        Ngày ngắn lại. Tròi mát hơn. Mưa nhiều hơn. Những túp lá vàng đầu tiên xuất hiện trên cành phong. Một buổi sáng chiếc U-2 hạ cánh ở trường bay và U-va-rốp xuống. Đồng chí chính ủy sư đoàn đã đến thì chỉ có một ý nghĩa là giờ ra mặt trận đã tới.

        Theo thói quen, U-va-rốp bắt đầu hỏi đến những việc nhỏ như ăn, mặc, ngủ. Anh muốn biết báo chí có đến đều không, và đã thảo luận những vấn đề nào trong các buổi phổ biến thời sự. Anh nói chuyện với mọi người, hỏi thăm mỗi người, và làm quen với các phi công mới.

        Anh hỏi Lu-nin và Éc-ma-kôp:

        - Kút-nét-sốp thế nào?

        Lu-nin biết là Éc-ma-kốp không ưa Kút-nét-sốp, nên anh vội trả lời:

        - Hắn ta là một phi công khá.

        - Về kỷ luật thế nào?

        Éc-ma-kốp lầu nhầu trá lời:

        - Hiện nay thì không có gì.

        U-va-rốp ra sân bay xem tập hai tiếng đồng hồ. Anh cùng về với phi đội. Sau mỗi tiết mục diễn tập, anh họp các phi công và hỏi chuyện. Bọn trẻ không bao lâu cũng hết rụt rè đối với anh.

        Anh muốn biết nhiều nhất là cảm tưởng của họ đôi với các máy bay mới. Nhưng những câu trả lời vế chất lượng của "Hơ-ri-can" không rõ ràng và không phấn hứng lắm. Ta-ta-ren-kô còn nói:

        - Tôi không thể trả lời được.

        U-va-rốp ngạc nhiên:

        - Thế nào? Đồng chí bay trên nó mà không biết sao?

        - Tôi không có căn cứ mà nhận xét. Chúng tôi chưa được biết nhiều loại máy bay. Đồng chí hỏi thiếu tá thì rõ hơn. Vì đồng chí thiếu tá có điều kiện so sánh.

        Mỗi lần U-va-rốp hỏi ai về Hơ-ri-can thì Éc-ma-kôp lại lắng tai nghe. Riêng phần anh, thì anh thấy vấn đề máy bay Ăng-lê chưa ngã ngũ. Ý kiến của Lu-nin về cái đó đôi khi hình như bất công và thiên lệch. Anh đã trông thấy kết quả mà bọn trẻ thu lượm được sau mấy tuần tập dượt. Và tuy anh không lái khu trục, cũng không phải là thợ máy, nhưng anh đã phục vụ lâu trong không quân và cũng biết lái U-2. Vả lại anh nhận thấy kết quả tháng tám hơn tháng bảy. Nếu máy bay xấu thì sao lại được như vậy? Máy bay đó mà cứ bảo là kém máy bay của ta thì cũng vô lý.

        Mà dù Lu-nin có lý phần nào đi nữa, thì thái độ đối với Hơ-ri-can như vậy cũng chỉ có hại. Có khi nào một phi công trẻ lại yên tâm bay được, khi hắn biết cấp trên hắn coi máy bay này như một loại không ra gì!

        Éc-ma-kốp ngỏ ý nghĩ đó với U-va-rốp và nói:

        - Một phi công phải tin ở máy bay của mình!

        Éc-ma-kôp giữ vững câu đó, - chính câu nói cũ của U-va-rốp.

        U-va-rốp mỉm cưởi:

        - Thế nếu là thứ máy bay không tin tưởng được thì sao?

        - Đồng chí chính ủy Sư đoàn, theo ý tôi thì bọn trẻ đầy tin tưởng vào máy bay. Đồng chí đã hỏi họ đấy. Có ai phàn nàn gì đâu?

        - Không phàn nàn câu gì là rất tốt rồi. - U-va-rốp nói to có vẻ rất bằng lòng.

        Ba ngày sau hôm anh đến, U-va-rốp báo cho phi đội biết là phải về ngay trường bay bên hồ La-đô-ga. Để hai phi đội khác của trung đoàn đến đây nhận phi công và máy bay mới.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Ba, 2019, 12:36:32 am

CHƯƠNG CHÍN

SI-NI-A-VI-NÔ

I

        Sô-ni-a đã mất hẳn thói quen trở về tầng gác năm vắng vẻ của mình rồi.

        Cô không rời đội Công-sô-môn của cô, và thường ngủ đêm ở nơi làm việc với các bạn.

        Đội này có thay đổi nhưng vẫn do Ang-tô-ni-a chỉ huy. Hai cô đã hy sinh từ mùa xuân. Một số cô khác tản cư. Một số khác mới tới. Tuy ít tuổi nhất nhưng Sô-ni-a lại là một trong số người cũ nhất.

        Đội không chuvên hẳn một công tác gì. Cái gì cần nhất thì làm trước.

        Xuân hạ, họ tập trung sức lực vào vườn rau.

        Tuyết vừa tan, thì bắt tay ngay vào việc cuốc xới các bãi trống, các vườn cũ, các sân, các vườn hoa. Lê-nin-grát không còn ngoại ô nữa. Người ta làm vườn ngay giữa thành phố. Những luống rau chụm quanh các cỗ cao xạ đặt giữa Hồng trường. Người ta trồng xu hào và khoai tây ở vườn Tô-rít, ở bãi Mi-khai-lô-ski, trên các cù lao sông Nê-va, trên bờ dốc không lát đá của các sông con chạy ngang thành phố, ở bất cứ chỗ nào không giải đá giải nhựa.

        Nhân dân lĩnh bánh mì, bánh bột gạo, ít nhiều thịt, bơ và đường. Nhưng khan rau tươi vì chuyên chở khó. Mỗi bao lương thực phải chuyển hai lần - từ xe lửa xuống xà-lan, lại từ xà-lan lên xe lửa. Ở bộ phận cung cấp quân đoàn, người ta nói là khoai tây không thể chuyên chở được. Nhưng rau tươi lại cần thiết. Nhân dân Lê-nin-grát cố gắng ăn súp gai và uống nước búp tùng để thay rau. Mùa xuân tới, ai cũng trở thành tay trồng rau chuyên nghiệp.

        Người ta chở tới nhiều khoai tây giống và hạt giống. Vườn rau hoặc là của tư nhân, hoặc là của tập thể, thuộc chính quyền hay thuộc Công đoàn. Cái vườn mà đội của Sô-ni-a làm, thuộc về Xô viết khu phố và hoa lợi thu được sẽ để phục vụ các nhà trẻ. Vườn chiếm một bãi trống rộng ba mặt xung quanh là phố nhà gạch, còn mặt thứ tư thì trông xuống bến một nhánh Nê-va nhỏ.

        Từ trăm năm nay, chẳng có gì mọc ở đấy, không có cả cỏ dại nữa, vì nền đất do đi lại nhiều đã cứng lại và đầy rác rưởi. Các cô mất mấy ngày dọn rác. Rồi đào, mai không xuống nữa: cứ mỗi nhát lại đụng phải một viên gạch, một vòng sắt, hay một hộp thức ăn cũ. Cứ trông những xương xẩu dọn được, cũng có thế biết những món ăn của nhân dân từ đời vua Pi-e Đại đế đến nay. Thoạt đầu các cô tưởng như mất cả mùa hè cũng không đào xới xong khoảng đất này. Nhưng rồi quen việc đến nỗi đào chưa đầy một tuần đã xong. Nhưng các luống đều như rắc muối, vì nhiều mảnh vỏ chai quá.

        Thành phố vắng tanh. Phần đông nhân dân đã tản cư. Cái thành phố xây đá khổng lồ ấy chỉ còn chứa hơn một phần sáu số người trước chiến tranh. ít người qua lại. Có khi nhìn thẳng dọc một phố dài, chảng thấy mống nào. cỏ mọc trên đường các phố nhỏ, và từng đàn muỗi vo vo một điệu trong các phố giữa. Noi đó kể từ thế kỷ thứ 18 đến nay muỗi mới lại dám xuất hiện. Một sự im lặng ghê rợn bao trùm các khu nhà, các lâu đài, các nhà thờ. Thỉnh thoảng mới có tiếng vọng xa vắng của một toa xe điện vượt qua cầu, hoặc tiếng đạn đại bác nổ làm tung từng đám khói và gạch vữa. Trên không cao tít, bên kia các khinh khí cầu phòng thủ, ánh bình minh hồng sáng. Ánh sáng dịu phản chiếu trên mặt kênh, mặt sông và các cửa kính còn lại.

        Phần bắc xa xôi của cù lao Vát-si-li, chỗ các cô làm việc, lại còn vắng vẻ và im lặng hơn nữa. Chắc chắn không có ai nom thấy, nên gặp khi trời nóng các cô gần như xoay trần. Nếu nắng quá, thì dừng mai cuốc, chạy ra bến nhánh sông Nê-va, và tắm ngay giữa thành phố, cười ầm ĩ trong dòng nước còn lạnh buốt, chẳng buồn để ý đến đồng chí bộ đội đứng gác trên cầu gỗ đang nhìn xuống.

        Những mầm đầu tiên vừa nhú ra khỏi đất là phải tìm ngay cách bảo vệ vườn rau. Các cô dựng túp lều bằng ván củ xù xì đã gần nát, cắt lượt mỗi đêm hai ba người ngủ ở đó. Họ đặc biệt sốt sắng với nhiệm vụ ấy. Còn thêm cả vài cô bạn nữa đến ngủ lấy cớ là để "khỏi sợ", nhưng thật ra là để chuyện gẫu cả đêm. Rồi bất chợt sát vào nhau mà ngủ thiếp trên ổ rơm... Trong túp lều, vì gió lùa qua kẽ ván nên chẳng bao giờ quá nóng. Cũng qua kẽ đó, xa xa nhìn thấy những ngôi sao mờ. Đôi khi một quả dại bác rít ngang và nổ xa đó ít nhiều. Nếu tỉnh dậy là các cô lại dự đoán ngay chỗ đạn rơi  có thể một ngôi nhà gần đó, hay cái cầu, hay khu vườn đằng sau sông Nê-va. Nhưng chảng ai muốn rời khỏi túp lều để xem có cháy không. Rồi là ngủ lại.

        Họ đã quen với tiếng nổ. Nhưng một vài tiếng xào xạc, một vài tiếng ken két lại làm họ rất hoảng: tiếng chuột.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Ba, 2019, 11:08:18 pm

        Sau nạn đói mùa đông ấy, ở Lê-nin-grát không còn ngựa, cũng chẳng còn chim bồ câu, chẳng còn chó, đến quạ và cưỡng cũng đều biến. Chim sẻ họa hoằn mới có. Nhưng chuột thì vẫn gan góc. Chúng rời bỏ những ngôi nhà vắng chẳng còn gì mà mò. Đến mùa xuân, chúng kéo ra phố, tấn công các vườn rau, bới các luống, quật những củ giống mới nẩy mầm non, và nếu có cái lá nào, chúng cũng không từ. Chúng lăn vào chân các cô gái làm họ rú lên, khiếp sợ cái đuôi dài và cái thân chùi chũi của chúng. Họ kịch liệt chiến đấu với chúng nhưng không phải lúc nào cũng thắng lợi. Ở cửa lều, họ trữ sẵn từng đống đá, que, và mảnh chai, để tự vệ. Đêm đến, thường phải xuất quân hàng đoàn, và la hét để đuổi chúng khỏi các luông. Nhưng đôi khi bọn chuột phản công lại, và dồn các cô phải rút lui về lều.

        Tuy có chuột, bãi rau vẫn xanh. Hết vun lại giẫy cỏ. Đến tháng tám, cây nở hoa. Thì lúc đó, đội lại nhận thêm một nhiệm vụ nữa.

        Sang tháng tám, người ta bắt đầu dự trữ củi cho mùa đông. Chẳng còn than, chẳng còn củi trong thành phố, và cũng không thể mơ tưởng đến việc chuyên chở than củi đến, vì các rừng xanh xung quanh đều ở trong tay địch. Quyết định dỡ tất cả các nhà gỗ ở ngoại ô.

        Phần đông các nhà đều vắng người. Hãn hữu có người còn lại thì được chuyển đến ở các nhà xây giữa thành phố. Và mọi người bắt tay vào việc.

        Đội của Ang-tô-ni-a nhận khu vực "Xóm mới" gồm nhiều dãy nhà gỗ thấp. Ở trụ sở Xô viết khu, người ta phát cho các cô đòn bẩy, rìu, cưa và xe một bánh. Các cô qua những cầu rộng, men them những lối đi vắng vẻ trong vườn hoa, trong các cù lao và tới chỗ làm việc.

        Các cô không ưa công tác mới này, không phải vì nó khó, nhưng vì nó nhằm phá hoại phần nào thành phố quê hương của mình. Các cô thấy như có cái gì xấu hổ: phá nhà ra làm củi mà lại gọi là thành tích ư? Các cô càng ngậm ngùi, khi trông thấy những căn nhà nhỏ xiêu vẹo ấy tuy từ lâu chưa sơn và nay đã đầy rêu, nhưng vẫn còn nguyên, tưởng như hôm qua còn có người ở.

        Những mảnh vườn nhỏ, đầy hoa đa-li-át, hoa thuỷ cúc. Những lồng sáo xinh xinh trên đầu ngọn sào dài.

        Trong ánh nắng rực rỡ, những cây trà gầy guộc in bóng lên thềm nhà cũ kỹ. Mặc dù vắng vẻ và im lặng, nhưng vẫn tưởng như các chủ nhà sắp ở đâu về, và tiếng trẻ reo vui sắp vọng lên từ khắp các mảnh vườn.

        Quang cảnh ấy tuyệt nhiên không làm Ang-tô-ni-a xúc động. Chị chỉ thấy kinh tởm những căn nhà gỗ, những vườn nhỏ, những lồng sáo.

        - Còn gì bẩn hơn! Còn gì kinh hơn! - Chị vừa lớn tiếng chê, vừa lanh lẹ men theo các mép lối di bằng gỗ, tay cầm một cái đòn bẩy nặng. - Thật là những ổ rệp, đáng xấu hổ cho thành phố! Đáng lẽ phải phá tất cả di từ lâu. Chó cũng chẳng buồn ở! Ít nhất thì chiến tranh cũng giúp chúng mình có dịp xây dựng lại cho trật tự hơn. Rồi các cô sẽ thấy những ngôi ' nhà xây dựng ở đây ra sao...

        - Sẽ xây dựng ở đây hở chị?

        - Tất nhiên! Những nhà bẩy tầng... Thôi, ta lam việc đi!

        Chị thẳng tay chọc cái đòn bẩy vào sà lớn cái nhà một

        tầng. Cái đòn như chọc phải bìa giấy, và mọt rơi đầy mặt đất

        Sự việc đó làm các cô lại quyết tâm: từ một năm nay, chỉ thấy tàn phá, thế mà nay chị Ang-tô-ni-a đã nói đến xây dựng. Rồi sẽ đến lúc mà các cô hết phải nhá mà chỉ có xây dựng! Vả lại trong việc này. các cô có phá gì đâu? Không! Các cô cung cấp củi sưởi ấm cho nhân dân, và dọn đất cho việc xây dựng của ngày mai...

        Cả mùa thu, họ dỡ nhà, cưa những sà, kèo đầy rêu, và xếp lại thành đống. Họ vẫn tiếp tục làm rau. Đến cuối tháng chín, khi rau đã được hái và giao cho Xô viết khu, thì các cô lại được giao một công việc đòi hỏi sự tin cẩn, là sửa chữa các ống dẫn nước.

        Trong những ngày rất lạnh của mùa đông trước, vì nhiều ống bị vỡ nên người ta phải cắt nước, cả mùa hè, phải sửa chữa lại các ống. Nhưng phần đông thợ hàn ở mặt trận, nên công việc tiến chậm. Đến mùa thu, thì rõ ràng là không làm kịp nữa. Và ở trên tìm đến các đội thanh niên. Chảng ai biết nghề, nhưng ít nhất thì họ vẫn cung cấp được sức lao động.

        Làm rau và dỡ nhà, là những công việc giữa trời, giữa nắng mưa. Bây giờ thì phải chui xuống hầm. Cũng như hồi sửa soạn hầm trú ẩn năm ngoái, cái vũ trụ ngầm và huyền bí này làm cho Sô-ni-a sửng sốt về cái mênh mang của nó. cả một thành phố bí hiểm náu trong bụng thành phố mắt nom thấy. So với cái mà cô đã trông thấy mùa đông trước, thì nay còn rộng lớn hơn biết bao nhiêu. Rồi đây, phải làm việc hàng tháng trong bóng tối của nó, phải quen thuộc với các ngõ ngách chằng chịt, phải nghiên cứu những quy luật của nó.

        Ban đầu, công tác của Sô-ni-a là loại tầm thường nhất, như khuân vác những ống chì nặng, tát nước hôi thôi, và đưa tiếp dụng cụ. Các thợ hàn là những tay trẻ tuổi chừng 18, có khi 16. Thế mà lại ra cái bộ người lớn, khi mở mồm thì cố lấy giọng ồ ồ, hút thuốc lá "ma-coóc ka", đi thì khệnh khạng, nện mạnh gót bốt. Nhưng cái vóc người thì không cao cho; giọng ồ đôi khi đâm thất thanh, và đôi bốt rộng quá đâm lùng nhùng.

        Nhưng các cậu công tác từ mùa xuân, học nghề trực tiếp với những tay thợ hàn thực thụ, do đó nắm vững công việc. Bọn con gái tha hồ mà chế giễu họ. Nhưng các cô cũng phải tôn trọng sự hiểu biết của họ và tỏ ra ngoan ngoãn vâng lời.

        Sô-ni-a phục nhất là hàn sì. Đối với cô cái ánh lửa sáng loà trong đêm tối dưới hầm, và làm cho loại kim khí rắn nhất cũng đỏ rực và chảy ra, ánh lửa ấy mang một vẻ đẹp huyền bí huy hoàng. Khi lửa bùng bùng, thì mọi vật tràn trề một ánh sáng xanh sân khấu, nó làm cho con đường hầm nhơ nhớp thành một lâu đài rực rõ. Trong ngọn lửa có thể làm cho hai khúc ống nước nốì tịt với nhau đến nỗi không còn tìm ra vết hàn. Có cái gì như ảo thuật.

        Sô-ni-a bám sát cậu thợ hàn ít tuổi, thi hành mọi mệnh lệnh của cậu, và bỏ qua không chấp cái dáng điệu kẻ cả, những lời nhận xét chua chát, và cả những câu mơn trớn của cậu.

        Nhỏ bằng hai nắm đấm, cái mặt xanh xao của cậu bé lấp sau đôi kính đen lớn. Và cậu đối xử với Sô-ni-a bàng cái điệu thợ già, trịch thượng, tuy cậu đứng chưa đến tai cô. Nhưng rồi cậu cũng nhận thấy tính tình của Sô-ni-a, và chăng bao lâu thì cậu lại một mực đòi được cô giúp việc, không nhận bất cứ ai khác.

        Khi cô đã xoay được một đôi kính giông hệt của cậu, thì cậu cho phép cô giữ ống trong khi hàn. Và sau một thời gian lâu cấm không cho cô mó vào các mỏ hàn sì, dần dần câu cũng bớt gay gắt và hết bệ vệ. Thoạt đầu cô có hỏi han gì, thì cậu chỉ trả lời bằng một cái nhếch mũi ra vẻ hoàn toàn coi thường khả năng hiểu biết của cô gái. Nhưng rồi sau cùng, cậu cũng truyền cho cô những bí quyết của nghề. Vấn đề chủ yếu là ngọn lửa gồm nhiều bậc, mỗi bậc có một nhiệt độ riêng. Cái khéo tay là ở chỗ biết dùng lửa đúng lúc: lửa xanh, lửa vàng hay lửa trắng.

        Sau rốt, cậu cho phép cô hàn hai đoạn. Sô-ni-a trở thành thợ hàn, lúc đầu là vai phụ; rồi sau thì tự làm lấy được.

        Công việc dưới hầm làm cô không chú ý đến thời gian. Một hôm lên mặt đất nghỉ, cô rất ngạc nhiên thấy những bông tuyết nhẹ chầm chậm rơi xuống mặt sân đã phủ một tấm thảm trắng xóa.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Ba, 2019, 11:08:54 pm

II

        Độ này Sô-ni-a mặc quần đàn ông vì Ang-tô-ni-a đã kiếm được cho cô một bộ quần áo xanh làm việc. Nó chẳng còn gì là xanh nữa, vì đầy bồ hóng, dầu mỡ, ri và đất. Kìm, búa, cuộn dây đồng, lòi ra ngoài những túi quần lớn há miệng. Do đôi cẳng dài và cái vóc mảnh dẻ, người ta thường tưởng lầm Sô-ni-a là con trai. Cái đó không vừa ý cô chút nào. Nên cô quyết định đội một cái khăn nhỏ đã bạc mầu trên mớ tóc cát ngắn.

        Về công việc thì cô vào loại khá nhất- trong đội. Về tuổi thì là em út. Tuy người ta vẫn gọi đội là "đội thanh nữ" nhưng trong mùa hè, đội có nhận được thêm một số bổ sung trong đó có cả các chị không còn là thanh nữ nữa. Cho nên, tuy rất yêu mến các bạn, nhưng Sô-ni-a vẫn hơi tách lẻ ra.

        Thật là một thế giới có nhiều cái khác hẳn nhau. Các chị lớn thì chồng ở mặt trận, các cô trẻ hơn thì có người yêu thư từ đi lại. Sự xa cách và mới lo sợ không còn được gặp nhau khiến cho tình cảm họ bồng bột và lẫn vẻ ưu tư. Sự hăng hái làm việc cũng có liên quan đến vấn đề tình ái, vì họ muốn tỏ ra xứng đáng với người yêu.

        Có thư nào tới, là họ loan báo cho nhau biết ngay. Các chị đã có chồng thì ít nói. Nếu có ai hỏi anh ấy viết gì, thì các chị chỉ trả lời: mạnh khoẻ.

        Nhưng các cô gái thì đưa thư cho bạn xem và cùng nhau tranh luận không ngừng về nội dung thư. Trong thư nói nhiều nhất là về tình yêu, và tình yêu cũng là vấn đề chính của các câu chuyện.

        Trong đầu óc các cô, Sô-ni-a thấy rõ như vậy: tình yêu chiếm vị trí chủ yếu. Trong đội có một đoàn viên Công-sô- môn mà mọi người gọi là "Nuy-ra đẹp", để phân biệt với một sô tên trùng khác. Cô ta tóc hoe vàng, đôi mắt xanh, khuôn mặt xinh tròn. Tiểu đoàn của người yêu cô, đóng đâu ở mé Pun-kô-vô, chỉ cách đây có dăm cây số. Quãng một tháng một lần, cậu ta thu xếp ra thị xã và đi tìm đội, Tuy thân hình hơi nhỏ mà áo ca-pốt lại to quá nên dáng đi thiếu tự nhiên, nhưng hễ anh đến là các cô lại nhao nhao, và từ bốn phía gọi:

        -  Nuy-ra, Nuy-ra! Nuy-ra đâu? Anh Vát-si-a đến kìa.

        Mặt tươi hẳn lên và ửng đỏ. Nuy-ra lau đôi bàn tay rắn rỏi vào cái khăn ẩm rồi chạy lại. Họ đi dạo chơi với nhau. Các cô lại làm việc. Và chẳng ai nghĩ đến trách Nuy-ra đã bỏ đội ngày hôm đó. Chính Ang-tô-ni-a cũng không nhận xét gì. Đối với những người phụ nữ ấy, tình yêu có những quyền phải tôn trọng. Tối đến, Nuy-ra lại về với các bạn, và mọi người đều chú ý lắng nghe cô cởi mở tâm tình cho đến sáng. Đôi khi, cô kể là lòng cô đang nguội lạnh dần, và thậm chí có lúc GÔ như hết yêu Vát-si- a. Thế là mọi người khẩn khoản yêu cầu cô nghĩ lại. Cô lại hối hận, và thề thốt một tình yêu vĩnh viễn... Mỗi lần đến thăm, Vát- si-a đem cho cô một gói kẹo thơm mà anh đã dành dụm trong cả tháng, vì tiểu đoàn của anh lĩnh kẹo thay đường. Nuy-ra xởi lởi chia đều với các bạn. Và mọi người công nhận là kẹo thơm có cái vị đặc biệt, vì đó là kẹo thơm có "dấu thánh" của tình yêu.

        Sô-ni-a không hề tham gia loại trò chuyện đó, và cô còn lấy làm lạ sao các chị lớn coi những vấn đề yêu đương quan trọng đến thế. Riêng cô thì chẳng nghĩ đến bao giờ. Trước chiến tranh, cô quyết chí không bao giờ lấy chồng, và tin chắc như vậy. Lấy chồng làm gì nhỉ? Cô không sao tự trả lời được... Một năm đã qua. Kinh nghiệm đời sống đã phong phú hơn, cô không còn nhắc lại câu chuyện trẻ con ấy. Vì mắt đã thấy nhiều quá, không thể không hiểu thế nào là "gia đình", "chồng", "vợ" và "con". Nhưng cô tránh tham gia những câu chuyện yêu đương. Và cô khó chịu khi nghe kể cậu này cậu nọ yêu cô... hay là không yêu cô.

        Nhưng mà cái kiểu đùa ấy lại phổ thông trong đội. Ví dụ các bạn cho là cái cậu dạy Sô-ni-a hàn sì đã mê cô. Về điểm này, họ chế Sô-ni-a tợn. Sô-ni-a biết ngay là họ bịa chuyện mà chơi, chứ cũng chẳng ai tin, chẳng ai cho là quan trọng. Nhưng cô cũng không chịu nổi và tức giận rất ghê. Vì cô vừa khám phá ra là cô rất xấu, chẳng ai có thể mê với mẩn được!

        Cho đến dạo ấy, cô chưa hề tự hỏi mình đẹp hay xấu. Để làm gì kia chứ? Có dải khăn xinh, có áo cộc đẹp, có đôi giày đẹp. Còn con người có đẹp không, thì không thành vấn đề. Đấy người thế nào thì khắc nó thế ấy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Ba, 2019, 12:22:44 am

        Bây giờ cô thấy mình xấu. Có lẽ là cái mặt nó chỉ thường thường thôi. Nhưng không phải chỉ là do cái mặt.

        Cô cảm thấy mình cao quá, lều nghều, vụng về, đến nỗi có ai nhìn là cô không thể giữ được không đỏ mặt.

        Giá mà ăn mặc khá thì còn ra nhẽ. Nhưng lại chỉ có bộ đồ xanh bẩn thỉu. Những áo mà mẹ may cho từ trước chiến tranh thì bây giờ ngắn tủn... Đó là chưa kể đến đôi bàn tay thành chai, nẻ nứt, đầy vết gỉ không sao tẩy nổi... Có họa là ngu xuẩn thì mới tự cho là đáng yêu được...

        Mà cô cũng chẳng cần. Cứ cho cái bọn bạn gái đang thương ấy ngồi suốt đời mà nói chuyện yêu đương. Đối với cô, còn có việc khác. Và vênh cái đầu hiên ngang như kiểu ông ngày trước, cô lẩm bẩm một mình:

        -  Chỉ còn thiếu cái nợ ấy...

        Nghĩ cho cùng thì yêu đương có ra cái gì? Có hạnh phúc không đã? Xung quanh Sô-ni-a, mọi người khổ sở vì cách xa người thân  hệt như Sô-ni-a đau đớn vì không mẹ.

        Cả mẹ cả ông đều không còn nữa, không bao giờ còn trở lại nữa... Sô-ni-a không làm sao tưởng tượng được như vậy. Ôi! Cô biết rằng không bao giờ còn gặp được. Nhưng cô vẫn thầm tâm sự luôn với người quá cố, nhất là với mẹ.

        Tất cả cái gì trông thấy ban ngày, thì trong im lặng của đêm tối, Sô-ni-a kể lại với mẹ. Như vậy đã thành một việc cần thiết phải làm. Mẹ trả lời, mẹ ngồi xuống mép giường, như một người mẹ thật, còn sống và ấm, thì vừa lúc đó Sô- ni-a ngủ thiếp đi. Ngủ dậy, Sô-ni-a nhìn quanh, nhưng mẹ đã đi rồi. Sô-ni-a nhớ lại, và lại thấy cái gì nhói lạnh trong tim, giống như hôm nhận được cái tin khủng khiếp.

        Kệ, trong những người còn lại, thì cô nhớ nhất là Slava. Hồi chị em còn ở với nhau, cô đâu ngờ có thể yêu đứa em tha thiết đến thế Tuy hai tuổi chênh lệch mà vẫn cãi cọ nhau luôn, có khi đến đánh nhau. Nhưng bây giờ, cô không ngừng lo lắng về Sla-va và cô phát cuồng lên nếu lâu không thấy thư nó.

        Cô đòi nó mỗi tuần phải viết thư một lần. Nhưng cứ đều đặn như vậy thì quá sức của Sla-va. Tuy vậy, cứ mỗi tháng cô nhận được hai thư do đồng chí Sa-ra-pốp chuyển giúp. Thư thường thường là ít "âu yếm". Tự cho là đã đến tuổi mà "tình cảm" quá là không xứng đáng nên Sla-va thường mở đầu bức thư bằng những công thức kiểu: "Thân gửi chị Sôn-ka" hoặc chỉ nói xuông: "Chị thế nào? Em thì như thường". Sô-ni-a chẳng giận, vì cô biết là không chờ đợi được câu nào khác của nó. Dù sao thì thư cũng nhắc lại tiếng nói. Cô không hoài nghi lòng em, vì nó có cách khác để bộc lộ tình cảm: đôi khi, đồng chí Sa-ra- pốp đưa kèm thư một gói nhỏ bánh bít-cốt, bánh mì đen, gói ghém rất cẩn thận. Hôm nếm bánh lần đầu tiên cô nghẹn ngào nơi cổ họng.

        Thoạt đầu, cô tự an ủi về sự về sự xa cách đó, và tự nhủ là ở trường bay, ít nhất nó cũng không đói. Nhưng về sau, khi vấn đề tiếp tế đã bình thường rồi, thì cô lại lo nghĩ. Trong thư, cô hỏi nó có năng tắm không, có rận không, có cắt tóc không, có năng thay áo không, đôi giầy có bị sũng nước không? Nó không bao giờ thèm trả lời về những cái đó và chỉ thuật lại ngắn ngủi các việc linh tinh khác ở trường bay, thì lại là nhưng vấn đề kín mít đối với Sô-ni- a.

        Giá cô có thể nhảy đến đấy thăm nó, tìm hiểu và thu vén cho nó nhỉ. Nhưng nghĩ đến cái đó làm gì? Ai người ta cấp giấy tờ cho?

        Cô muốn đến trường bay, không phải chỉ vì em. Trong thư, Sla-va thường tả các cuộc không chiến, với vô số danh từ chuyên môn mà Sô-ni-a chảng hiểu là cái gì hết. Toàn là "thân máy bay”, "xoắn", "đầu cánh", "ma-nhê-tô, "ton-nô, "súp-páp", "ông ngắm", và các loại danh từ khác mà Sô-ni-a cũng chẳng buồn tìm hiểu, vì cô thừa biết là nó chỉ dùng để trộ cô thôi. Nhưng còn có những tên người, mà cô nhớ như in vào óc. Tất nhiên không phải là nhớ tất cả, nhưng nhớ các tên mà nó thường nhắc tới. Ví dụ cô biết Éc-ma-kốp là chính ủy trung đoàn, Lu-nin là phi đội trưởng và có một phi công đặc biệt, một anh hùng, bạn thân nhất của Sla-va, tên là I-li- a Ta-ta-ren-kô. Trưởc kia, cô thường lạnh lùng với máy bay, chắc cũng vì thấy Sla-va mê mẩn với cái đó. Cô cho cũng chỉ là một chuyện tầm phơ của lũ trẻ con trai mà thôi...

        Chiến tranh đã làm thay đổi thái độ cô đối với máy bay và đối với phi công. Biết bao lần tim cô se lại theo dõi những trận không chiến trên thành phố, theo dõi những con chim sắt nhỏ xíu lấp lánh trong ánh mặt trời và quay lộn trong mây. Biết bao lần, cảnh tượng ấy đã đưa cô trong vài giây từ lo âu đến tuyệt vọng, từ tuyệt vọng sang hy vọng, từ hy vọng lên vui mừng. Biết bao lần cô lắng nghe tiếng tặc tặc của những khẩu liên thanh vô hình, suy đoán ý nghĩa ghê gốm của bản nhạc gió đưa tới ây...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Ba, 2019, 12:23:17 am

        Các đồng chí phi công...

        Đôi với các cô bạn gái trong đội, tiếng đó như bao trùm một hào quang vinh dự. Trong óc các cô, ngay đến các đồng chí thuỷ thủ cũng không bằng. Ai cũng có một người quen ở mặt trận, nhưng chẳng ai có may mắn có người quen là phi công. Do đó, các cô say mê đọc thư mà Sô-ni-a nhận được của cậu em, chỉ vì cậu em đó sống trên một trường bay. Việc Sla-va sống giữa các phi công, khiến cho nó và cả Sô-ni-a nữa, ít nhiều cũng được thơm lây.

        Cứ nghe các cô nói chuyện mãi về phi công một cách quá hiếu kỳ, Sô-ni-a đâm lại nghĩ đến họ nhiều hơn nữa.

        Cô cứ tưởng tượng ra các nhân vật mà Sla-va kể trong thư. Nhưng không phải là dễ, vì Sla-va có chịu tả mặt mũi họ đâu. Ví như I-li-a Ta-ta-ren-kô thì Sô-ni-a chảng để ý tới chút nào, vì thấy Sla-va gọi "I-li-a" như gọi một đứa trẻ con, và thấy nó nhận là bạn. Chắc cũng là một thằng bé nào kiểu Sla-va. Éc-ma-kốp phải là một người rất tốt, một nhân vật quan trọng, nhưng chắc tuổi đã cao nên Sô- ni-a cũng không chú ý lâu. O-strô-sa-blin... Có ai lại tên là thế bao giờ1? . Tên như thế thì người giống cái gì nhỉ? Và Kla-mê-tốp, và Ri-a-bu-skin?... Cô nghĩ nát óc, mà chẳng ra hình ảnh gì. Nhưng Lu-nin thì khác. Cô nhìn thấy rõ như đã gặp rồi.

          Nghĩa là "Gươm nhọn"

        Trước khi đi, Sla-va đã nói nhiều, và trong các thư, cũng thường lại nhắc đến tên ấy. Chắc là một người cao lớn, nghiêm trang và dũng cảm trong mọi thử thách. Nhưng bao nhiều tuổi? Sô-ni-a liệt những người trên hai nhăm vào loại đứng tuổi. Cô tưởng tượng Lu-nin như thế. Chắc là khuôn mặt gầy, mũi như mỏ diều hâu, đôi môi mỏng. Tất nhiên là rất tốt, vì đã làm bao nhiêu việc cho Sla-va. Nhưng nếu ngày nào Sô-ni-a được giới thiệu với anh, chắc cô sẽ nhút nhát, sợ lắm.

        Có ngày nào thế không nhỉ? Thực tình mà nói, thì cô luôn nghĩ đến ngày đó. Đôi khi cô còn nghĩ là có bổn phận phải làm quen với Lu-nin để cảm ơn. Cô sẽ đến anh, xưng tên mình, rồi nhân danh cha, nhân danh mình mà cảm ơn. Cô hình dung thấy rất rõ cảnh đó. Cô nói. Anh nghe, nghiêm nghị từ trên nhìn xuống cô; rồi cô chào và đi. Không thể buộc anh phải tiếp một người mà anh không để ý tới. Anh có trò chuyện với Sla-va thật, và Sla-va còn kém cô những năm tuổi. Nhưng đối với Sla-va thì anh nói chuyện như đối với trẻ con, còn lấy làm vui với những chuyện ngớ ngẩn của nó. Nhưng Sô-ni-a thì không còn là trẻ con nữa...

        Giá cô viết thư? Viết thư để anh không trông thấy người, để không biết dáng cô ra thế nào? Anh sẽ trả lời. Cô sẽ lại viết nữa. Hai người sẽ viết thư cho nhau. Đã nhiều lần, cô sắp sửa lấy giấy bút. Nhưng mấy câu cô nghĩ ra nó "nặng" quá, "sáo" quá...

        Cô không ngừng nghĩ đến Lu-nin. Trí tưởng tượng của cô miên man... Giả thuyết anh hơi bị thương, và người ta đem anh ra thị xã. Chắc Sla-va sẽ đi theo và nó có thể nói với anh: "Không cần đi nhà thương. Nhà em rộng. Anh ở đây rất tốt, chị em sẽ trông nom cho anh".

        Mơ màng như vậy kể cũng vớ vẩn... Nhưng có ai biết cái nhớ ấy đâu.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Ba, 2019, 11:23:14 pm

III

        Một buổi sáng sương mù, mười khu trục của Lu-nin cất cánh, và theo đội hình tam giác như kiểu cờ bay, bay là sát ngọn cây, hướng mũi về phía tây.

        Sương mù màu xám mùa thu nhấp nhô trên biển cây xanh. Sương mắc vào cành cây, bao trùm ngọn thông, sương thành những đợt sóng khổng lồ. Máy bay đâm vào đấy, rồi lại nhô ra ở đằng xa. Bay đầu, Lu-nin bản khoăn nhìn cả đội: mọi người có theo được không? Có ai lạc trong sương không? Có giữ được thẳng hàng không? Nhưng ra khỏi mây thì hình tam giác vẫn y nguyên. Phi đội trưởng có thể hài lòng. Các phi công của anh bay trong trật tự hoàn toàn. Dẫn đầu mười chiếc khu trục luôn lắp lại mỗi động tác của anh, Lu-nin thấy một cảm giác hùng mạnh mới mẻ. Lòng anh tràn ngập vui sướng trong khi dẫn phi đội bay như vậy trên những cánh rừng miền Bắc.

        Anh dẫn họ thẳng đến ngọn đồi trụi và cho họ bay là trên mộ Rát-sô-khin. Cái sân bay quen thuộc biết bao. Anh thuộc từng ngọn thông, từng căn nhà gỗ ở phố lớn. Đồng chí Prôt-cua-ri-a-kốp to lớn đang hớn hở đón chờ. Lu-nin đem bọn trẻ trình diện. Prốt-cua-ri-a-cốp ôm hôn anh.

        Lu-nin có cảm tưởng như về nhà mình. Mọi người ai cũng đáng yêu, từ Ta-ta-ren-kô đến hạ sỹ Di-na, kể cả bác sỹ Grô-mê-kô. Anh vui mừng thấy chỗ ngồi cũ ở nhà ăn, và tôi đến, anh trở về cái nhà có cây phong chẽ hai, lòng tràn ngập sung sướng. Bà cụ điếc chủ nhà đón anh như đón con trai, chạy xuống hầm lấy dưa chuột, dưa cải bắp thái nhỏ, và sửa soạn giường cho anh sau chiếc rèm vải thô.

        Ngày hôm sau, Prôt-cua-ri-a-kôp ra đi với hai phi đội khác để đón người bổ sung và máy mới ở trường bay, nơi Lu-nin từ đó trở về. Một vấn đề làm anh rất lo ngại: liệu người ta có giao máy bay của ta hay lại chỉ có loại Hơ-ri- can? Trong thâm tâm, anh không hy vọng gì có máy bay ta. Anh giao lại khu vực cho phi đội 2 bây giờ lại bắt đầu tham gia chiến đấu.

        Những cuộc tấn công tháng chín của ta ở phía nam hồ La-đô-ga gọi là trận Si-ni-a-vi-nô: một làng bản thân ít quan trọng, nhưng chủ yếu là do những cao điểm trong đó.

        Trong thời kỳ tiền cổ, hồ La-đô-ga nhập vào biển Ban- tích hồi đó là một biển có bờ dựng đứng. Những cao điểm ở Si-ni-a-vi-nô là dấu vết còn lại. Cái dải đất dài có cây cối giống như một bậc thang khổng lồ ấy, hoàn toàn trong tay quân Đức, còn quân ta thì ở dưới thung lũng. Bọn Đức cho căn cứ đó là chủ yếu và phòng ngự kiên cố.

        Cả hai bên đều quyết liệt và địch phải tung thêm dự trữ vào, Thì đó cũng là nhiệm vụ chính của ta trong trận đánh. Chiến trường Sta-lin-grát vẫn tiếp diễn. Và các quân đoàn mặt trận phía bắc có nhiệm vụ giam chân phần lớn lực lượng địch.

        Có khu trục che chở, oanh tạc và máy bay xung kích của ta đánh phá không ngừng những công sự địch trong khu vực.

        Phi đội của Lu-nin giữ nhiệm vụ làm "mũ", tên đặt cho các đơn vị khu trục có nhiệm vụ yểm hộ phía trên.

        Ngày thứ nhất, sư trưởng gọi dây nói cho Lu-nin:

        -  Cho cất cảnh sáu máy bay. Các đồng chí làm "mũ" cho đội Ba-ka-nốp. Gặp nhau lúc 15 giờ, ô 28 trên mũi bờ biển.

        Đội Ba-ka-nốp, tức là đội máy bay xung kích. Thế là Lu-nin sắp được chính mắt xem họ làm việc.

        Thòi kỳ ấy, trong không quân, người ta nói nhiều đến các máy bay cừ khôi "Stuôc-mô-vi-ki" của nhà chế tạo I-li- u-sin. Chưa có quân đội nào có máy bay đặc biệt chế tạo cho xung kích. Vào mùa thu 1942, thì không còn là một sự mới lạ. Nhưng hồi đầu chiến tranh, loại máy bay ấy còn hiếm, và ta cũng chỉ vừa đủ số cho mặt trận Ban-tích. Cho nên đây là lần đầu mà Lu-nin được cùng bay với chúng.

        Chuẩn bị ba tiểu đội: Lu-nin với Ta-ta-ren-kô, Kút- nét-sốp với O-strô-sa-blin, Ka-ri-a-kin với Ri-a-bu-skin.

        Lu-nin dặn khẽ đồng đội của anh:

        - Cốt nhất là đồng chí đừng tách ra. Nhiệm vụ của đồng chí là theo tôi dù có xảy ra bất cứ sự việc gì.

        Hình như anh thoáng thấy cái vẻ không bằng lòng trên mặt Ta-ta-ren-kô. Anh nói thêm, giọng sẵng lại một cách vô tình:

        - Còn mọi việc khác không bận gì đến đồng chí.

        Sáu máy bay tuần tự chuyển bánh trên cỏ ướt. Tròi vừa mưa, và chắc còn mưa nữa. Lu-nin cất cánh đầu tiên và bay là trên mộ Rát-sô-khin. Từ đó, thường trông thấy hồ. Nhưng hôm nay, trời thấp đặc biệt: mây là là ngọn thông và không nhìn được xa quá hai, ba cây số. Ngược lại, lá cây rừng mùa thu rực rỡ ánh vàng ánh đỏ. Phi đội bay theo đội hình chiến đấu, hướng mũi về ô 28.

        Cuối cùng, Lu-nin nhìn thấy bờ hồ quen thuộc, rồi thấy dải nước đen nhấp nhô sóng trắng mỗi lúc một rộng ra. Nhưng chân trời vẫn mờ mịt, khuất sau viền rua những đám mây gần chạm mặt hồ. Các máy bay của anh bay theo bờ và theo cánh phải. Đến đỉnh mũi bò biển, thấy sáu chiếc máy bay lưng gù: sáu Stuốc-mô-vi-ki.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Ba, 2019, 11:23:48 pm
 
        Sau khi gặp nhau, khu trục và máy bay xung kích hướng mũi vê tây nam, Stuốc-mô-vi-ki bay trước, là là mặt nước, Hơ-ri-can bay sau, ngay dưới mây. Thỉnh thoảng Lu-nin quay đầu lại để thử xem Ta-ta-ren-kô có theo sau không. Mỗi lần như thế, anh đều vui lòng nhận thấy đồng đội lắp lại tất cả các động tác của anh, và giữ rất đúng cự ly.

        Nếu nhìn được xa hơn, thì đã từ lâu trông thấy bờ biển và dải đất có cây che của Si-ni-a-vi-nô. Chỉ còn cách mục tiêu vài ba phút bay thì bốn Mét-séc-mít từ trong mây xổ ra, nhào thẳng vào Stuốc-mô-vi-ki.

        Phải chặn chúng ngay lập tức. Nhưng nếu ba tiểu đội Hơ- ri-can cùng tham chiến, thì Stuốc-mô-vi-ki sẽ không có gì che trên và nhất định sẽ bị hạ ngay trên mục tiêu. Lu-nin ra lệnh bằng ra-đi-ô cho hai tiểu đội Kút-nét-sốp và Ka-ri-a- kin tiếp tục đi và tránh giao chiến. Riêng anh thì lao thẳng vào bọn Mét-séc-mít, theo sau là Ta-ta-ren-kô.

        Hai người liệu có đủ sức bắt buộc địch giao chiến, không cho một cái nào trong bốn máy bay địch có thể bén mảng đến Stuốc-mô-vi-ki hay không? Với một đồng đội có kinh nghiệm thì Lu-nin tin chắc Nhưng đây là trận đầu tiên của Ta-ta-ren-kô. Liệu hắn có hiểu là chỉ có cách bám sát tiểu đội trưởng, người nọ che chở cho người kia, thì mới thắng lợi được không?

        Trông thấy Lu-nin và Ta-ta-ren-kô, bọn Đức quay lại và lao vào. Vì đông hơn, nên chúng sẵn sàng nghênh chiến.

        Lu-nin và Ta-ta-ren-kô xoay sang thế phòng thủ: để tránh bất ngờ, họ bay theo vòng tròn, người này bảo vệ đuôi máy bay người kia Bọn Mét-séc-mit từ ngoài tấn công vào, rình lúc nào đuôi một chiếc Hơ-ri-can vào đúng tầm đạn là bắn. Nhưng mỗi lúc, Lu-nin lại phản công, buộc bon Mét-séc-nút cũng phải bay thành vòng, tất nhiên là vòng rộng hơn vòng của hai Hơ-ri-can nhiều, vòng ngoài bọc vòng trong và quay ngược chiều.

        Lu-nin cố ý đưa địch vào vòng quay, tuy anh nhớ rất rõ là Rát-sô-khin đã dặn các phi công coi chừng nguy cơ của chiến thuật ấy. Nhưng nhiệm vụ cần như thế này, nếu Rát-sô-khin còn sông củng phải đồng ý.

        Phải giam chân bằng được bọn Mét-séc-mít lại khi mà Stuốc-mô-vi-ki chưa làm xong nhiệm vụ. Muốn tranh thủ thời gian, chảng gì bằng cái vòng điên rồ này - tất nhiên là với điều kiện không được hớ hênh một chút nào. vả lại, vòng quay ngay dưới mây: khi nào không cần thiết thì chỉ việc lẩn vào mây l'à xông.

        Một vòng, hai, ba, mười vòng... Chắc bọn Đức sắp sửa chia cắt tiểu đội mình. Cốt sao Ta-ta-ren-kô đừng mắc lừà! Tìm cách hạ được một tên, thì ai cũng thích mê đi chứ. Phải gan lắm mới nhịn được.

        Địch biết vậy: Một Mét-séc-mít rút ra khỏi vòng, chui vào mây, bổ nhào xuống máy bay của Lu-nin, lia một băng ra cạnh, lọt giữa hai Hơ-ri-can và tiếp tục xuống mãi hở tênh hênh cái đuôi làm Ta-ta-ren-kô bổ theo ngay mồi.

        Tiểu đội bị tách đôi. Bọn Đức lợi dụng thòi cơ ngay lập tức! Chiếc Mét-séc-mít thứ hai ra khỏi vòng và lao theo vết máy hay của Ta-ta-ren-kô. Bây giờ mỗi Hơ-ri-can mắc với hai máy bay Đức, Lu-nin thì ngay dưới mây, còn đồng đội của anh thì ở là là mặt nước.

        Lunnin không lo gì cho bản thân. Anh tăng cường những cú "mõm" để buộc địch phải dãn ra xa. Nếu bọn Đức bám sát quá thì anh vẫn có thể lẩn vào mây.

        Nhưng anh rất lo cho đồng đội. Ta-ta-ren-kô không phải là đối thủ có thể đương đầu với hai Mét-séc-mít một lúc. Và hắn lại chiến đấu trong những điểu kiện kém hơn Lu-nin nhiều, ngay gần mặt nước là nơi mà động tác gì cùng nguy hiểm như khi là sát mặt đất. Chỉ sai lầm một thước là vỡ tan.

        Nhưng bỗng nhiên Lu-nin thấy máy bay Ta-ta-ren-kô cứ xuống mãi: hắn bay là sát mặt sóng. Vì tai nạn, động tác sai hay là hữu ý?

        Nếu là hữu ý thì hoan hô! Vì hai cái Mét-séc-mít lượn trên Ta-ta-ren-kô, không dám xuấng thấp hơn nữa. Chỉ tay lái xuất sắc hạng cứng, tay lái hoàn toàn chù động được phản ứng của mình mới dám chơi cái trò ấy. Và như vậy thì không ai địch nổi, vì kẻ thù ít tự tin hơn, không dám mạo hiểm xuống đấy. Thật rất bực là Ta-ta-ren-kô lại bỏ tiểu đội trưởng nhưng thằng nhỏ quả thật là ngông!

        Sau cùng một Mét-séc-mit liều bổ nhào xuống chiếc Hơ-ri-can của thượng sỹ Ta-ta-ren-kỏ. Thật là một cuộc tự sát. Vừa ra khỏi đường bổ nhào, thì tên Đức đụng cánh vào nước và mảy bay gẫy.

        Địch dao động trong giây phút. Lu-nin lợi dụng thời cơ hạ luôn một chiếc. Hai cái còn lại bỏ cuộc đấu lẩn vào mây. Ta-ta-ren-kô bay lại với Lu-nin.

        Hai tiểu đội theo Stuốc-mô-vi-ki đã trở về sân bay. Lại lần này nữa, Lu-nin lỡ dịp không trông thấy máy bay xung kích làm việc.

        . Anh xuống máy bay gần cùng lúc với Ta-ta-ren-kô: đồng đội của anh có vẻ cao hứng như lên tiên.

        Cái đó làm thiếu tá tức lộn ruột. Thằng cha còn dám mỉm cười à? Ông đã tưởng ông là anh hùng cái thế chỉ vì đã được thử lửa và đã ranh mãnh làm chết đuôi một thằng địch ư? Ông chẳng hiểu gì cả sao? Được, sẽ cho ông một bài học.

        -  Đồng chí thượng sỹ Cận vệ Ta-ta-ren-kô!

        Đứng cạnh máy bay, Ta-ta-ren-kô đang hoa chân múa tay kể lại cho đám phi công và thợ máy nghe chiếc Mét- séc-mít đã bổ nhào vào nước như thê nào. Mái tóc quăn của hắn cao át hẳn xung quanh, đôi mắt sáng ngời. Mọi người nhìn hắn, khâm phục. Nghe Lu-nin gọi, hắn ngước đôi mày ngạc nhiên và chạy lại. Phi đội trưởng thường ngày chỉ gọi là Ta-ta-ren-kô có gọi cả cấp bậc đâu. Mọi người nhìn theo. Ta-ta-ren-kô đứng nghiêm tỏ vẻ tôn trọng, nụ cười hơi nở trên môi, rõ ràng là chuẩn bị đón lời khen.

        Cái nụ cười ấy làm Lu-nin nổi khùng:

        - Đồng chí thượng sỹ Cận vệ Ta-ta-ren-kô - Lu-nin nói với cái giọng mà chính anh không nhận ra được nữa. -  Đồng chí đã xử sự một cách đáng xấu hổ.

        Mặt Ta-ta-ren-kô biến sắc.

        - Đồng chí đã bỏ tôi trong khi chiến đấu. Đối với một người phi công, không còn hành động nào đáng nhục hơn.

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá... Tôi... Tôi có bỏ đồng chí đâu...

        - Nếu lần sau còn như thế, đồng chí sẽ không còn ở trong quân số bay. - Lu-nin nói xong tỏ vẻ không muốn nghe nữa.

        - Tôi không cố tình... Tôi rượt theo một chiếc Mét-séc- mít.

        - Đủ rồi! Đồng chí có thể nghỉ.

        Ta-ta-ren-kô quay gót đi, đầu cúi gằm. Mọi người im lặng nhìn theo. Hắn không dám ngẩng mặt. Và bất chợt Lu-nin ái ngại: anh không còn tin chắc là mình đã xử trí đúng. Trận đầu tiên của anh, anh đă không xử sự xuẩn hơn Ta-ta-ren-kô nữa ư? Thế mà Rát-sô-khin không nhận xét anh... Thực ra thì Lu-nin lúc đó tự biết lỗi. Rát-sô- khin cũng biết vậy nên không nói gì. Còn Ta-ta-ren-kô thì

        chẳng hiểu gì, cần uốn nắn lại cho hắn ta... Nhưng có lẽ nên bình tĩnh hơn đừng quá tàn nhẫn như vậy. Không, có thể tàn nhẫn hơn nữa, nhưng đừng làm trước người khác: thằng cha có tự ái của nó chứ.... vả lại biết đâu là nó sai? ... Bây giờ, lỡ rồi không nói lại dược nữa.!.. Lãnh đạo người, thật khó hơn máy bay nhiều...

        ... Từ đó, phi đội chiến đấu không ngừng. Ta-ta-ren-kô vẫn là đồng đội của Lu-nin, họ không bao giờ rời nhau dù ở dưới đất; hay trên trời. Không bao giờ còn nhắc lại câu chuyện xuất trận lần đầu tiên, coi như không có gì đáng kể. Nhưng mỗi lần Lu-nin nhìn Ta-ta-ren-kô, thì anh biết là hắn ta không quên chút gì. Và Ta-ta-ren-kô cũng đọc thấy thế trong mắt Lu-nin.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Ba, 2019, 05:03:12 pm

IV

        Trong nhiệm vụ yểm hộ oanh tạc cho Stuốc-mô-vi-ki đánh phá Si-ni-a-vi-nô, bao giờ họ cũng gặp Mét-séc- mít. Giao chiến trên ngọn rừng, ngay trên đầu các đường hầm của ta, bên kia mặt trận, và thường thì trên mặt hồ, vì các khu trục địch cố làm sao chặn được máy bay ta càng xa mục tiêu càng tốt. Tham gia trận đánh, về phía ta thường là hai hoặc ba tiểu đội, đôi khi cả phi đội.

        Trận Si-ni-a-vi-nô càng tiến triển thì trên không càng nhiều Mét-séc-mít Nhưng máy bay của ta cũng nhiều thêm. Từ mùa hè ở các bãi trỗng trong rừng gần hồ La-đô- ga, người ta đã sửa soạn nhiều sản bay cho các đơn vị mới thành lập. Chưa bao giờ trên mặt hồ lại nhiều máy bay

        như vậy, kể cả của ta lẫn của địch. Đôi khi, số khu trục của mỗi bên tham gia trận đánh lên đến hàng chục chiếc. Trong khi tốp này về sân bay để lấy xăng thì tốp kia lại thay thế chiên đấu. Và từ tinh sương đến tối, trên trời nhung nhúc máy bay săn đuổi nhau giữa những luồng đạn.

        Sau ba bốn ngày sống như vậy, lớp tân binh trong phi đội tự cảm thấy đã thành những tay cựu trào, và mọi người cũng đã coi họ như vậy. Vì họ đã bao lần đôi mặt với thần chết. Các bộ mặt, cả đến các đôi mắt đã có cái vẻ trầm ngâm không thấy ở lớp tuổi trẻ. Số đông trong bọn đã có thành tích chiến thắng. Bảng thành tích của Ta-ta- ren-kô đã có năm chiếc máy bay bị hạ: một cái do mình hắn ta hạ được, - tức là chiếc bị gẫy tung trong trận đầu tiên - còn bốn cái khác là thành tích chung với Lu-nin, và cho đến bây giờ thì tiểu đội này đã trở nên đều tay quá đến nỗi người ta không thê phân biệt được đích xác là ai đã hạ được tên Đức.

        Những ngày vất vả ấy cũng là những ngày rạng rỡ: mọi người cảm thấy mình đã mạnh hơn địch. Bọn Mét-séc-mít hầu như không lần nào chặn nổi các máy bay oanh tạc và Stuổc-mô-vi-ki của ta. Mỗi lần đánh, các khu trục ta giam chân chúng ở một chỗ cho đến khi các đơn vị oanh tạc đã làm xong nhiệm vụ.

        Thiệt hại của bọn Đức chắc là nhiều. Nhưng phi đội của Lu-nin cũng thiệt hại khá.

        Kút-nét-sốp mất máy bay trong một trường hợp mà lúc đầu người ta lấy làm kỳ lạ. Khi anh bay trên hồ với O- strô-sa-blin, thì một chiếc Mét-séc-mít bắn vào họ nhưng có tính cầu may. Chỉ một băng bắn từ ngoài ba trăm thước. Kút-nét-sốp cho là máy bay mình không việc gì, nhưng vừa quay đầu lại thì thấy cháy. Vài giây sau, lửa bén đến thân máy. Anh nhẩy dù xuống.

        O-strô-sa-blin kinh ngạc. Anh cũng nghĩ là chiếc Mét- séc-mít, dù có bắn trúng máy bay Kút-nét-sốp đi nữa, thì bất quá cũng chỉ sây sát ít nhiều là cùng.

        Kút-nét-sốp đeo cái phao cao su. Gặp nước, phao tự động phồng lên. Anh vừa rơi đến mặt biển, thì tháo bỏ dù. Còn cách bờ quãng mười cây số, nhưng anh không sợ hãi gì cả, vì có O-strô-sa-blin che chở cho anh và chắc sẽ có người ra cứu. Nước lạnh buốt và đôi bàn tay bị bỏng khá đau. Nhưng cái việc mất máy bay còn làm anh rối ruột hơn là lạnh và bỏng.

        O-strô-sa-blin báo tin về trường bay bằng ra-đi-ô. Lu-nin đề nghị Ta-ra-rắc-xin gọi dây nói cho phân Hạm đội La-đô-ga. O-strô-sa-blin hướng dẫn, một ca-nô lập tức đi tìm nạn nhân. Kút-nét-sốp ở dưới nước tất cả là một giờ mười phút, Người ta cho anh vào một bệnh xá ở Kôn-bôn vì lo anh bị sưng phổi. Nhưng đến cảm xoàng anh cũng không hề bị, và ngày hôm sau, anh đi bộ về trường bay, hoàn toàn khoẻ như thường, trừ vài vết bỏng nhẹ ở bàn tay. Duy vẻ mặt còn tối xầm hơn cả trong những ngày xấu nhất. Từ ít lâu nay, nhất là từ khi lại tiếp tục chiến đấu, anh không xa lánh mọi người nữa, và đánh bạn với vài đồng chí mới. Lu-nin nhiều lần nghe thấy anh cười giòn giã trong lều trú ẩn chỗ các phi công đợi lượt cất cánh ở sân bay. Mọi người quý trọng anh: mới trong mấy trận đầu, anh đã hạ hai Mét-séc-mít, một cái do anh hạ một mình, cái khác thì cùng hạ với O-strô-sa-blin. Ngay dưới mắt của chính bản thân anh, anh cũng tự thấy giá trị của mình được nâng lên sau hai trận thắng đó. Thế mà nay thì tan võ hết: vì anh đã không đem được máy bay về!

        Người ta đã từng thấy những máy bay tiếp tục phục vụ sau khi phi công đã chết, ví dụ trường hợp chiếc I-16 của Ni-cơ-ri-tin. Nhưng trở về người không thì thực là chưa hề có trong lịch sử trung đoàn. Và khổ hơn nữa, là Kút- nét-sôp không sao cung cấp được lý do xác đáng về việc chiếc Hơ-ri-can bị cháy.

        Vừa dịp từ trường bay mà hai phi đội bạn đang ở, Éc- ma-kốp trở về bằng chiếc U-2. Đồng chí tỏ ra rất hoài nghi, và hỏi riêng Lu-nin:

        -  Liệu hắn có làm một chén trước khi cất cánh không?

        Lu-nin nhăn mặt. Giả thuyết này anh cho là tuyệt đối không thể có. Nhưng anh lo sau tai nạn này, Kút-nét-sốp lại uống chăng? Không có máy bay, hắn chẳng biết làm gì khác là vơ vẩn qua ngày trong nhà ở các phi công với đồng chí sỹ quan trực nhật. Trong khi các bạn vẫn bay! Và cái dáng nặng trĩu của hắn khiến người ta nghĩ rằng hắn sẽ không chịu đựng nổi. Nhưng một tai nạn khác làm mọi người chú ý. Cùng trong một trận đánh, máy bay của O- strô-sa-blin và Di-ga đều bị ra tro.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Ba, 2019, 05:03:32 pm

        Ngày hôm đó, lạnh và có gió lớn. Mặt trời tháng chín rực rỡ, mắt thường có thế nhìn xa tới hai nhăm cây số. Từ 1000 thước, có thể thấy rõ chiếc lá khô bay. Một phần các cao điểm ở Si-ni-a-vi-nô đã ở trong tay ta, nhưng bọn Đức nhận được tiếp viện và phản công không ngừng.

        Từ sáng đến chiều, máy bay oanh tạc và Stuốc-mô-vi- ki bay đi bay lại như những con thoi trên hồ, và các khu trục đi bảo vệ luôn đụng phái Mét-séc-mít. Hôm đó từ bờ này sang bờ kia, một luồng máy bay lẫn lộn quay cuồng trên mặt hồ.

        Toàn phi đội củả Lu-nin tham chiến. Trận đánh sôi nổi, và thắng lợi. Bọn Đức có lợi về số đông, nhưng không hơn về kỹ thuật. Máy bay oanh tạc và Stuốc-mô-vi-ki gần như không bị thiệt hại gì.

        Mỗi lúc, Lu-nin lại được các phi công của anh báo tin bằng ra-đi-ô. Ka-ri-a-kin reo to:

        - Nó "uống nước" no rồi.

        Thế nghĩa là chiếc Mét-séc-mít mà hắn ta săn đuổi vừa bị rơi và chìm xuống nước.

        Tiếng trầm trầm của anh chàng đúng mực Kô-stin:

        - Thằng thứ hai "uống nước". Tôi đã cùng La-da-rô-vít hạ một cái.

        Vài phút sau, Ka-ri-a-kin lại reo:

        - Lại một thằng nữa "uống nước"!

        Kô-stin nói rõ thêm:

        - Thế là ba.

        Đúng lúc ấy, Lu-nin thấy một chiếc máy bay của phi dội bốc cháy. Không trông thấy lửa - có lẽ vì ánh mặt trời chói quá - Nhưng một hình nón dài đen phọt khỏi thân máy bay và che gần hết cả bầu trời.

        Nhận dấu, Lu-nin biết là máy bay của O-strô-sa-blin.

        Việc gì đã xảy đến vậy? O-strô-sa-blin vừa lấy đầy xăng và đạn ở trường bay. Hắn còn chưa có thì giờ tham gia lại trận đánh. Chắc bị đạn bất ngờ.

        Máy bay vẫn bay. O-strô-sa-blin tìm cách lái nó về phi trường. Sợ bị nổ, Lu-nin ra lệnh cho anh nhảy dù. Nhưng chắc máy thu thanh bị hỏng: anh không trả lời và vẫn ở trong máy bay.

        Hai Mét-séc-mít định bám vào đuôi máy bay O-strô- sa-blin. Chúng lẫn trong khói, chực bắn phi công khi nhảy dù. Lu-nin vượt lên trước, theo sau là Ta-ta-ren-kô, và bay theo vệt máy bay O-strô-sa-blin.

        O-strô-sa-blin không về được đến trường bay. Anh vượt qua đường bờ hồ và nhảy dù trên cánh rừng, vào độ cao khoảng năm trăm thước. Lu-nin và Ta-ta-ren-kô thấy chiếc dù mắc vào một cây tùng. O-strô-sa-blin để rơi mình xuống đất và ra hiệu cho hai người yên tâm.

        Hai người lại bay vê phía phi đội. Trước khi đến khu vực chiến đấu, họ gặp một chiếc máy bay thứ hai đang cháy, máy bay của Di-ga. Khi họ nom thấy thì vừa lúc Di- ga nhảy dù ngay trên đầu một chiếc tầu kéo hai xà lan. Di-ga không xây xát chút gì. Lặp tức người ta kéo anh khỏi mặt nước. Một giờ sau, anh đã ở Kô-bôn.

        Anh về trường bay cùng lúc với O-strô-sa-blin. Không hơn gì Kút-nét-sôp, hai người đểu không cắt nghĩa được lý do vì sao cháy. Bọn Đức có bắn vào họ thật, nhưng bắn xa như vậy thì có trúng bất quá củng chi vài ba viên đạn lạc. Lu-nin nhớ lại lại chiếc I-16 của anh sau một số trận đánh: nó khác nào một cái rây bột đầy lỗ, nhưng nó vẫn không cháy.

        Thế là bây giờ ba phi công không có máy bay Họ rầu rĩ đi thơ thẩn ở đường phố lớn, trong khi các bạn đang bay Kút-nét-sôp đau khố âm thầm. Nhưng O-strô-sa-blin và Di-ga thì khó mà chịu nổi sự nhàn rỗi ấy. Người ta tìm việc cho họ: bổ củi giúp nhà bếp. Các đồng chí nuôi quân và phục vụ ra mà xem họ lầm lầm giơ cao cái rìu nặng và chỉ một nhát là bổ đôi những khúc gỗ phong, một người ôm chưa khít. Ra mà xem họ chất từng núi củi cho khuây nỗi u sầu!

        Ngày hôm sau, lại một thiệt hại mới, một cái tang của phi đội: Va-đim La-da-rô-vít bị cháy ra than trong máy bay.

        Việc xảy ra gần Si-ni-a-vi-nô, trên mặt trận tiền duyên. Lu-nin, Ta-ta-ren-kô, Kla-mê-tốp và La-da-rô-vít theo sau đội oanh tạc đi dội bom vào lô cốt địch trên một quả đồi. Cao xạ địch bắn, nhưng uể oải quá không ai để ý. Rồi hai Mét- séc-mít bay tới và định chặn các oanh tạc của ta. Bôn Hơ-ri- can đuổi chúng. Chúng vẫn bay lại ở đằng xa, thỉnh thoảng lia một băng. Bỗng máy bay của La-da-rô-vít bốc cháy.

        Lập tức một luồng khói den dầy phọt ra, bao trùm lấy máy bay. Máy bay mất chiều cao trông thấy. Lu-nin không rời mắt, sốt ruột đợi một hình người đeo dù nhảy ra. Nhưng La- da-rô-vít không nhảy. Bị thương chăng? Không bao giờ còn ai biết dược điều đó nữa! Máy bay vẫn cháy và rơi xuống rừng, sau tuyến một, và La-da-rô-vít hy sinh với máy bay.

        Đảy là người đầu tiên hy sinh trong số các phi công bổ sung. Nỗi thương đau cho mọi người thấy họ đã gắn với nhau đến mực nào! Ka-ri-a-kin kê tục Ka-ban-kốp làm chủ bút "Báo bay", trình bày chiếc ảnh viển đen của La- da-rô-vít kèm theo một bài báo dài đầu đề là "Va-đim, chúng tôi sẽ báo thù cho đồng chí". Buổi tôi, dưới ánh dèn dầu, anh em trong phi đội viết thư cho vợ Va-đim. Bức thư kể rõ là anh đã hy sinh một cách anh hùng. Mọi người mến anh, không bao giờ quên anh, và sẽ tiếp tục sự nghiệp mà anh đã hiến dâng cuộc đời để xây dựng, và nếu cần giúp đỡ, chị có thể tin tưởng ở các bạn.

        Sau một tuần chiến dấu, trong mười chiếc máy bay đã bao lâu chờ đợi, nay chỉ còn sáu. Phi dội gần như tan rã mất một nửa. Lu-nin và Éc-ma-kôp càng khổ sở hơn, là vì có một nhân tố không giải thích được. Đồng chí chính ủy nói:

        -  Nói gì thì nói, nhung cũng do lỗi phi công O-strô-sa- blin, Di-ga, và đồng chí La-da-rô-vít tội nghiệp kia đểu là những đồng chí yếu nhất. Sao máy bay của đồng chí, của Ta-ta-ren-kô không cháy?

        Nhưng Lu-nin tin chắc nghệ thuật lái không dính gì với việc này. Vài hôm sau, sự việc chứng tỏ là anh đúng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Ba, 2019, 11:30:09 pm

V

        Có thể nói là Sla-va đã được trông thấy đủ mọi cái: nó theo các phi công ra tận máy bay, khi họ về thì nó đón, và họ vừa ra khỏi khoang máy bay, thì nó được truyền miệng ngay về chi tiết của trận đánh. Trong thời gian họ xuất trận, thì nó ở với Kút-nét-sốp, Di-ga và O-strô-sa-blin. Nó nghe họ than thở, cùng đau khố với họ và hết sức an ủi họ.

        Nó bực dọc không kém Lu-nin và các bạn khác, khi nó biết tin phi đội 1 và phi đội 3 đã lĩnh được máy bay Xô Viết kiểu mới mà người ta đã nói tới biết bao nhiêu lần từ mùa xuân. Thật là bất công rõ rệt: phi đội 2 vì có thành tích lẽ ra được trang bị mới trước hết, thì nay lại xuống vế bà con nghèo. Di-ga thở dài:

        - Mình muốn thử máy bay mới ấy quá.

        O-strô-sa-blin bồn chồn cãi

        - Thế dễ tớ thì không' Mình thì lê ghệt trên sân, trong khi người khác được đi đánh!

        Sla-va tán thành cái công phẫn ấy. Phi đội 2 thực là ở trong một tình thế đáng buồn!

        Chẳng bao lâu, thì những ưu tư cá nhân làm nó quên cái bực bội chung. Một bó thư lớn của ông bố đã đợi sản khi nó ở Vô-lô-đa vể Sê-vô-lốt. Ang-đơ-rê-vít đã biết tin gia đình, cả cái chết của vợ lẫn cái chết của bố vợ. Biết tin quá chậm. Cũng như mọi người, anh cũng đã biết là có nạn đói ở Lê-nin-grát. Tất nhiên chỉ có ý niệm khá lờ mò vể các sự việc xảy ra trong thành phố, nhưng chính cái lò mờ ấy càng làm lo ngại thêm: hai đứa trẻ mồ côi, lạc lõng giữa đám người lạ trong một thành phố, bị bao vây, bị bom, mà ở đấy người ta đang chết đói, lạc lõng giữa điêu tàn và xác người... Sư đoàn anh đang tác chiến gay go trên thượng lưu sông Đông, nên không cách nào mà giúp đỡ chúng được! Chỉ có thể viết thư cho chúng, bởi vậy anh viết hết thư này đến thư khác.

        Thư của Sô-ni-a tới nơi rất chậm và báo cho anh biết là Sla-va đã rời khỏi thành phố đến một trường bay, ở đó nó sống chung với các phi công. Hình như ở đấy, nó được ăn uống tử tế, nhưng cái đó vẫn chưa làm yên lòng Ang-đơ- rê-vít. Một trường bay dù sao vẫn là ở mặt trận, và mặt trận không phải chỗ ở của đứa trẻ dưới 12 tuổi. Thời kỳ đó, anh lại thư từ với một người bà con đã đứng tuổi và đã có con, tản cư từ Các-kốp đi Xi-bê-ri với nhà máy của ông chồng. Bà ta nhận trông nom Sla-va giúp. Tuy kèm theo cái nhận đó, là một lô chuyện sinh hoạt đắt đỏ và rào trước đón sau, làm người ta có thể hoài nghi cả lòng sốt sắng của bà, nhưng người bố vẫn cho là Sla-va đã ra được khỏi thành phố, thì nhất định phải đến chỗ bà cô đó.

        Vì Sô-ni-a có cho bố biết hòm thư của phi đội, nên Ang- đơ-rê-vít viết thư ngay lập tức, trước là viết cho Sla-va sau là viết cho đồng chí chính ủy Éc-ma-kốp. Anh cảm ơn nhiệt liệt đồng chí đã cứu thằng bé, đã quan tâm đến nó, đồng thời để nghị đồng chí gửi nó đi Xi-bê-ri với người cô.

        Éc-ma-kốp quyến luyến thằng bé không kém gì Lu-nin. Kể cho cùng thì anh còn làm hư nó là khác, vì đã bỏ qua những cái láo lếu của nó mà không uốn nắn. Nhưng thư của Ang-đơ-rê-vít làm anh lưỡng lự chưa biết tính sao.

        Anh chẳng có ý muốn rời Sla-va, và củng chưa thông với lý do của việc xa cách này. Như cái sinh hoạt ở trung đoàn thì rất tốt đối với sức khoẻ thằng bé. Không thể nghi ngờ gì, cứ trông đôi má nó thì biết, nhất là khi người ta nhớ đến cái dáng dấp nó khi mới ở Lê-nin-grát ra. Tuy thâm tâm Éc-ma-kốp còn cho là sự có mặt của Sla-va không kém phần có ích đối với trung đoàn. Phân tách rõ ra được ý nghĩ ấy kể cũng khó cho anh. Điều lệ tổ chức không dự kiến công tác cho trẻ con 12 tuổi. Nhưng dù tôn trọng điều lệ thì đồng chí chính ủy cũng không thể không nhận thấy là ai cũng tươi lên khi trông thấy Sla-va, và cái cười của mọi người ròn rã, khi họ đùa với nó. Đó rõ là một việc rất tốt. Thư của Ang-đơ-rê-vít còn làm anh thù ngầm cái bà cô xứ Xi-bê-ri. Vì danh nghĩa nào mà trung đoàn lại phải trả bà thằng bé mà người ta đã cứu khỏi chết đói, đã may mặc cho nó, đã nuông chiều nó như đứa em út?

        Khôn thay phải đếm xỉa đến ý muốn của người cha! Một trung đoàn không phải là một nhà dạy trẻ nhất là nó phải chiến đấu như cái kiểu hiện giờ từ một năm nay. Một đứa trẻ vào tuổi Sla-va nhất định phải đi học. Mà ở mặt trận thì không có trường.

        Đó là lý lẽ chính trong các thư của Ang-đơ-rê-vít. Khi mới đến trường bay, thì Sla-va quả là yếu quá, chưa thể nghĩ đến việc học hành được. Phải cho nó ăn đã. Nhưng bây giờ nó đã khoẻ, thì phải đi học. Nó đã mất một năm.

        Không thể để nó mất một năm nữa. Và chỉ có đến ở với bà cô Xi-bê-ri thì nó mới tiếp tục học được.

        Được thư của bố và được Éc-ma-kốp cho biết dự định này thì mỗi khi ai đả động đến bà cô là Sla-va tái người, vì thù ghét và khiếp sợ. Đi với bà cô tức là vĩnh viễn xa rời Lu-nin, xa rời các phi công, xa ròi trung đoàn đã thành gia đình của nó. Trông thấy rõ cái nguy cơ thật sự, nó có cảm giác như đứng trên bờ vực thẳm.

        Nó quên nỗi lo sợ ấy, khi được tin Lu-nin đã phải nhảy dù từ chiếc máy bay bốc cháy xuống sau lưng dịch, và Ta- ta-ren-kô thì coi như mất tích.

        Sự việc xảy ra trong khi họ làm nhiệm vụ bảo vệ cho Stuốc-mô-vi-ki ném bom các pháo đài gần Si-ni-a-vi-nô. Một lưới dạn cao xạ dữ dội đã đón tiếp các máy bay của ta. Lu-nin không ngại lắm, vì chiếc Hơ-ri-can nhỏ và rất dễ điểu khiển, bay ngang qua lưới lửa cũng dẻ thôi.

        Đột nhiên, một cái đụng nhẹ làm máy bay anh hơi rung: chắc là một mảnh đạn đã hết tầm. Lu-nin quay lại xem bị trúng đâu, thì máy bay đã cháy.

        Ngọn lửa còn rất nhỏ, Lu-nin tìm cách tát. Anh lộn cánh, đột ngột bổ nhào một cái. Nhưng lửa cháy lem lém như diêm. Lửa bò về phía khoang và bình xăng.

        Mỗi lần ngoặt, Lu-nin thấy máy bay Ta-ta-ren-kô bị những vòng trắng nhỏ đạn cao xạ bao vây bốn bề. "Hắn còn theo mình làm gì chứ? Lại cháy mất thôi".


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Ba, 2019, 11:30:30 pm

        Biết là cố dập tất lửa cũng vô ích, anh hướng mũi về đông để vượt qua đường mặt trận. Nếu có phải nhảy dù, thì ít nhất cũng không nhảy phải trận địa Đức.

        Lửa đã bén đến bình xăng. Trong khoang, nóng nghẹt thở. Lu-rin nhảy dù khi áo anh bén lửa.

        Anh chỉ còn ở trên cao độ tám trăm thước. Anh giật ngay vòng dù. Dù mở làm anh lơ lửng dưới dây.

        Anh nghe thấy ngay bản nhạc mà lúc nãy tiếng máy nổ át đi: tiếng gầm của mặt trận, đều đều như tiếng biển gầm, tiếng liên thanh tắc tắc, tiếng nổ rung trời. Lu-nin mê mải nhìn xuống đất, đoán xem mình sẽ hạ chỗ nào?

        Nhưng trong cái sặc sỡ của mùa thu, chẳng có thể trông thấy gì. Những mảnh mây rách nát làm thành những chấm chi chít và cử động, qua dớ, mặt trời chiếu vỗ xuống bãi lầy, vũng nước làm chói mắt. Rồi thì những lá cây dưới đất đủ các màu đỏ, vàng, da cam làm thành một màn ngụy trang kỳ lạ. Toàn là bãi lầy với cây liễu, cây tràn, cây phong, với những khẩu đại bác, những lô-cốt không biết là của địch hay của ta.

        Nhìn lên trời còn dịu mắt hơn. Lu-nin nhìn lên và thoáng thấy ngay một luồng khói đen: một chiếc máy bay cháy. Thoạt dầu anh tưởng là máy bay anh và lấy làm lạ sao nó còn bay được. Không, không thể được... Chác là một chiếc khác? Có lẽ là của Ta-ta-ren-kô ?... Vừa lúc đó, một luồng gió đè cái mái dù xuống, che mắt Lu-nin không trông thấy khoảng trời có chiếc máy bay cháy nữa.

        Càng gần tới mặt đất, thì anh càng bị gió lắc mạnh. Mây bay từ tây sang đông, vậy là anh được đẩy về phía mong muốn. Nhưng xuống thấp, thì gió lại đổi chiểu. Đến bốn trăm thước thì gió lại thổi Lu-nin ngược hẳn lại. Anh nghe tiếng dạn rít; những lỗ thủng lác đác trong vải dù. Dưới thấp nữa, gió càng thổi mạnh từng đợt. Một cơn lốc đây Lu-nin về phía đông, lá rụng xoáy theo. Địch thôi không nhằm anh làm đích mà bắn nữa. Anh gần chạm ngọn cây. Nhưng mỗi lần anh tương là hạ được, thì một luồng gió mới lại cuốn anh đi xa.

        Sau cùng, anh bíu được vào một thân cây liễu già trụi lá. Phồng lên vì gió, chiếc dù củ hết sức lôi anh vể phía đông, như trói anh vào đám dây dù. Tay trái bíu chặt lấy cây, anh móc dao cắt dâv dù.

        Chỉ còn cách đất năm thước. Nhưng trong đám cành lá chi chít này, thì không thấy quá mười bưởc. Xung quanh, chỉ là những tiếng nổ ầm ầm. Đạn đại bác vèo qua, rú đến ghê sợ. Liên thanh tắc tắc bôn phía từng băng điên cuồng. Ai bắn? Bắn ai?

        Dán người vào thân cây sần sùi ẩm ướt, Lu-nin dự định xuống. Một cành lớn gẫy dưới chán anh. Mất thăng bằng, anh bỏ tay. Trong tiếng cành lá rào rào rụng, cái thân hình tám mươi cân của anh đổ vật xuống.

        Chân trái chạm đất trước. Xương kêu đến cắc. Chỗ háng đau ghê gớm quá làm anh ngất đi.

        Một cảm giác lành lạnh làm anh tỉnh lại: anh năm ngửa và những hạt mưa bay đẫm mặt. Mặt đất là bùn, đen đen, nhẽo nhẽo vì ẩm, với những gốc cây chồi ra khỏi cái thảm lá rụng. Tròi tôi tối. Không thấy gió. Những thân cây vặn vẹo che lấp tầm mắt. Mùi ẩm mục và mùi nấm xông lên. Trong huyên náo của chiến trường lá vẫn chầm chậm rơi. Có sương. Lu-nin thử cựa mình và hét lên vì đau. Chân trái như to hơn cả thân người. Cứ mỗi lần cố đổi thế nằm, thì lại đau đớn không thể chịu được.

        Anh cắn răng để khỏi rên sợ có thể vì thế ma lộ. Ai bắn? Đằng kia, chắc là bọn Đửc, vậy thì ở đây là ta .. Nếu không phải là ngược lại...? Và nếu bị rơi giữa bọn địch? Nếu... ối chao? Nếu có thể bước dược một tí. Thật thì ở giữa rừng ít nguy hiểm hơn. Phải đi! Mỗi chốc, có thể có kẻ đi qua đây... Mà ở đây ẩm lắm ..

        Anh đang nằm trong một cái ao thực sự, và nước đẫm nặng bộ quần áo. Sau cùng điều đó buộc anh phải di động. Nhắm mắt lại vì đau, và cô nén không kêu, anh nằm sấp xuống và nâng người lên bằng hai khuỷu tay. Chống như vậy, và đỡ thêm bằng gối phải, anh có thể sẽ bò được. Nhưng bò về hướng nào? Tốt nhất, là thử bò về phía trái, ở chỗ mà tiếng súng nghe gần nhất. Sẽ có thể biết là ai bắn. Nếu là bọn Đức, thì chỉ cần ngoặt lại...

        Chân trái không chịu theo ý muốn nữa, nó lết trên đất và vướng vào các gốc cây. Cứ hai hay ba thước, Lu-nin lại ngừng lại, đẫm mồ hôi, cho đến khi cái đau quá sức ấy dịu đi đôi chút. Rồi anh lại cố bò xa thêm một tí.

        Rồi anh cũng ra khỏi được rừng liễu và bò vào những bụi cây rậm rạp rụng lá đến một nửa. Tiếng súng gần thêm lại. Không vượt qua đám bụi rậm được, anh định bò vòng quanh. Nhưng lại gặp đám bụi rậm khác. Kiệt sức vì đau đớn, anh nằm thẳng cẳng mà thở.

        Một cành gẫy: có ai đi. Lặng lẽ, anh rút súng lục ra khỏi bao và đợi. Tiếng bước chân gần lại: chắc là hai người. Đột nhiên, anh thoáng trông thấy chúng qua rèm cây: hai cái bóng mờ, nhưng chắc chắn là bọn Đức.

        Chúng cúi đầu tiến thận trọng. Trông thấy mũ chúng. Chúng nói khẽ, nhưng gần quá nên Lu-nin nghe rõ thấy tiếng thì thầm. Rồi chúng đi ra xa: cái lối chúng đang theo chắc là có chỗ ngoặt.

        Quên đau, Lu-nin nhìn theo chúng đi, như bị thôi miên. Anh chiến đấu từ một năm nay, nhưng chưa hề nghe nói tiếng Đức.

        Tiếng hai đôi bốt nặng nề đã tắt. Lu-nin thấy rõ là anh đã bò về phía địch. Theo hướng ngược lại thì sẽ thấy ai? Nén đau, anh bò lùi, lại một lần nữa bò quanh các đám rậm và trở lại rừng liễu. Hết mưa. Loé nắng. Rồi lại mưa. Lunin vẫn bò. Lại thấy cái cây chỗ anh rơi xuống, anh ngừng lại cho đỡ đau một chút. Ruột gan như bị rút hết làm anh không muốn cựa nữa. Nhưng vẫn phải tiếp tục bò.

        Cứ mỗi thước, đất càng mềm và nhẽo hơn. Bây giờ thì anh bò giữa nước... Hai khuỷu tay đầm trong bùn. Rồi bùn đến cằm. Rõ là anh đã sa vào bãi lầy không thể nào bò mà vượt qua được. Anh bò lùi lại, và cố gắng hồi lâu mới lại tới cái cây chỗ anh ngã...

        Chưa bao giờ anh thấy đau như thế này. Đau quá không còn thấy gì hết. Hơi cựa là đau càng dữ dội. Thà chẳng cựa nữa, chẳng đi đâu nữa...

        Anh ngất đi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Ba, 2019, 09:21:27 pm
        
VI

        Bỗng anh tỉnh lại, và nghe như có tiếng sột soạt. Anh quay đầu lại lắng tai nghe. Hình như có ai bò, rất gần... Lu-nin rút súng lục. Trước hết anh sẽ bắn vào kẻ đi tới. Viên đạn cuối cùng dùng cho anh...

        Có ai thì thầm:

        - Đừng bắn, tôi đây!

        Ngay trước cái chấm đen đầu ruồi súng, mặt Ta-ta- ren-kô như ở dưới đất chui lên. Đồng chí thượng sỹ nói trong một hơi thoảng:

        - Tôi đã biết là đồng chí ở đây. Tôi trông thấy đồng chí rơi.

        Đôi mắt đen của anh long lanh: anh sung sướng biết bao khi tìm thấy phi đội trưdng.

        Đau đớn, cảm động và vui mừng làm Lu-nin không nói được nữa. Ta-ta-ren-kô nói thêm rất khẽ:

        - Tôi không rời đồng chí... Máy bay tôi bốc cháy sau máy bay của đồng chí một phút, khi đồng chí còn chưa nhảy. Đồng chí không trông thấy à? Tôi thì không rời mắt đồng chí. Tôi cùng nhảy một lúc với đồng chí.

        - Cùng một lúc à? - Lu-nin hỏi và như có một sức trực giác đột nhièn.

        - Gần như cũng một lúc.. Máy bay tôi cũng cháy...

        - Thế đồng chí không bay được nữa à?

        - Nóng quá... Có lẽ tôi còn bay được mươi giây. Nhưng dù sao rồi cũng phải nhảy nên...

        - Đồng chí không về nổi trận tuyến của ta à?

        - Có lẽ được... Nhưng dù sao tôi không thể bỏ đồng chí được... Lúc ây, tôi có cảm giác là gió đưa đồng chí về phía bọn Đức.

        Ta-ta-ren-kô bỗng im lặng, vì không chắc lắm là Lu-nin tán thành cách xử sự như vậy. Nhưng Lu-nin đã hiểu cả và bàng hoàng nhìn anh. Ta-ta-ren-kô đáng lẽ có thể đợi tới trận tuyến của ta mới dùng đến dù. Nhưng anh thấy Lu-nin rơi vào giữa bọn Đức, và đã nhảy theo đồng chí, không để đồng chí một mình.

        - Gió từng đợt đã làm tôi tách xa đồng chí. Tôi chạm đất ở trận địa ta.

        - Ta ở đâu?

        - Đằng kia. - Ta-ta-ren-kô chỉ các bãi lầy đã chắn đường Lu-nin mé trái. - Tôi vừa mới phát hiện được một cái lô cốt Đức gần sát, cách 100 thước, chỗ nào cũng đầy hầm hố, và khắp nơi có dây thép gai; chúng nó rúc xuống như chuột... ở đây là đai trắng. Đồng chí rơi xuống đây là may, trong rừng rậm chỉ cách hai thước không trông thấy... Tôi đã đến cây này. Lúc đó đồng chí đi khỏi phải không?

        Lu-nin gật đầu.

        - Tôi trở lại là đúng lắm.

        Ta-ta-ren- kô ngừng nói, nhìn Lu-nin và hỏi:

        - Đồng chí thiếu tá, đồng chí bị thương à?

        - Không, nhưng tôi bị trật cái gì.

        - Ở chân phải không?

        - Phải.

        - Đồng chí gẫy chân hay sao?

        - Tôi không biết. Tôi không đi được nữa.

        - Tôi ngốc quá! Đáng lẽ tôi phải hiểu ngay... Đồng chí bò cũng không được nữa chứ? Chắc là đau lắm đấy.

        Ang đến gần thiếu tá, nhoài người tới đồng chí, cầm lấy cánh tay, và đặt vào cô mình.

        - Đồng chí giữ lấy tôi thế này.

        Đặt Lu-nin nằm trên cái lưng rộng của mình, Ta-ta-ren- kô bắt đầu bò hết sức thận trọng, để cho chiếc chân bị thương không vướng vào bụi rậm. Anh đâm minh vào bùn lỏng. Đạn đại bác rú qua đầu. Có tiếng lắc cắc nghi ngờ là anh ngừng lại. Chốc chốc lại mưa. Đôi khi loè nắng trong chốc lát, ánh mặt trời thấp táp xiên qua cành cây. Ta-ta-ren-kô mò mẫm bò tới, nhưng không lưỡng lự. Anh có vẻ rất kích thích, và Lu-nin luôn nghe tiếng anh thầm thì bổi hổi:

        - Thoạt tiên tôi tìm thấy cái dù của đồng chí. Trong một vũng nước, cách đây vài trăm thước... Gió đã đưa nó đi khá xa...

        Không quen với cảnh rừng miền bắc, anh bực tức với cái ẩm ướt:

        - Ở đây, ra sống trong nước! Ở vùng tôi, mùa này đồng cỏ đều khô. Bất cứ đâu, cũng có thể làm một giấc ngủ ngay trên cỏ.

        Anh bỗng nhớ đến chiếc máy bay đã mất:

        - Tôi bay chưa được hai tuần... Bao giờ lại có cái mới? Có lẽ lại phải đợi? Như vậy thật là khó coi! Hết nhà ăn, đến nhà nghỉ, rồi lại nhà ăn... Có lẽ cả mùa đông như vậy sao?

        Chốc chốc, anh lại hỏi xem Lu-nin ra sao, có dễ chịu không?

        - Dựa vào tôi, đồng chí đừng ngại phiền! Đồng chí đau lắm à? Có đỡ không?

        - Có đỡ ít nhiều.

        Thực ra thì chăng đỡ tí nào cả. Lu-nin có cảm giác vừa như cứng đờ ra, vừa như hết cả sức lực.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Ba, 2019, 09:22:10 pm

        Một đồng chí bộ binh đứng vụt lên, lựu đạn ở tay, và nhận thây là quân ta:

        - Dừng lại. Các đồng chí bò thẳng vào bãi mìn đấy. ớ đây, không cần phải bò nữa. - Đồng chí bộ binh dẫn họ đi theo một lối ẩm ướt qua một bãi phong đã trụi mà đạn đã cắt cụt gần hết các cây. Ta-ta-ren-kô ẵm Lu-nin trên tay như ẵm đứa trẻ. Lu-nin khẩn khoán:

        - Để tôi xuông đất.

        - Đồng chí đau à?

        - Không. Nhưng đồng chí mệt. Đồng chí nghỉ một chút.

        - Đồng chí chỉ nghĩ quẩn? Tôi chẳng mệt chút nào. Chỉ cần đồng chí bám chắc vào tôi.

        Và Ta-ta-ren-kô cứ đi.

        Cuối cùng họ đi vào một giao thông hào dài, ở đó phải lội vào nước đen đến đầu gối. Dựa vào thành hào, các chiến sĩ đeo tiểu liên đang ngủ gà ngủ gật giữa cảnh lụt lội ấy. Ta-ta-ren-kô đem Lu-nin đến một lều tạm trú gần ngập nước. Ở đó, một trung úy trẻ măng đi bốt cao su đứng đợi họ. Đồng chí dửng chót vót trên mép miếng ván như con chim trên "cầu đậu". Đồng chí giải thích cho Ta- ta-ren-kô:

        - Mùa đông thì sẽ khô. Nhưng tạm thời phải sống trong nước.

        Ta-ta-ren-kô tò mò nhìn cái thế giới lạ lùng của người chiến sĩ bộ binh.

        - Các dồng chí ở cái bãi lầy này đã lâu chưa?

        - Gần một năm. Đơn vị bên phải chúng tôi, ở Si-ni-a- vi-nô, ít nhất cũng được chiến đấu. - Đồng chí trung úy nói thêm với một vẻ thèm muốn. - Nhưng tụi tôi thì im lặng quá... Chỉ nằm. Hoạ có đến lúc đại tấn công giải phóng Lê-nin-grát... Đồng chí chưa nghe nói gì tới việc đó à?.

        Đồng chí trung úy chưa hề gần các phi công bao giờ, và cho là họ am hiểu hơn mình nhiều. Anh hỏi Lu-nin vê vết thương, giải thích là trạm cứu thương có một thầy thuốc rất khá, và định chỉ đường. Lu-nin, cho tới lúc đó vẫn im lặng và nằm bẹp vì đau dớn, bỗng lên tiếng phản kháng. Y nghĩ phải điều trị xa các bạn làm anh hoảng hốt. Phải về trường bay bằng được. Anh thầm thì với Ta-ta-ren-kô:

        - Đừng bỏ tôi nhé! Tôi còn đứng được. Đừng bỏ tôi dấy.

        Nhìn thấy vẻ lo âu rõ rệt trong mắt thủ trưởng, Ta-ta-ren-kô không lưỡng lự nữa. Anh cương quyết từ chối đề nghị của đồng chí trung úy và xin một chiếc ô-tô. Đồng chí trung úy sốt sắng gọi dây nói ngay. Hai mươi phút sau, đồng chí báo cho biết là tham mưu trướng đã dành riêng cho đồng chí bị thương chiêc xe riêng M.l của mình.

        Khó mà đặt được Lu-nin vào xe. Vướng chân không ngồi được. Ta-ta-ren-kô phải bê vào lòng để Lu-nin đỡ bị lắc.

        Đêm thu phú lên mặt đất một bóng tôi ẩm ướt. Lửa đạn tóe, đôi khi chọc thủng màn đêm và trong khoảnh khắc làm nổi bật những cái bóng ma quái của những cây phong trụi lá. Xe chạy hàng giờ trong rừng làm toé nước khi chạy qua vũng, và nhảy chồm chồm khi qua ổ gà.

        Đèn pha nguy trang chiếu ra đằng trước hai vệt xanh lờ mờ.

        Lu-nin nhớ lại buổi chơ Sê-rốp bị thương về. Bây giờ thì đến lượt anh, chỉ khác là Sê-rốp bị thương ở tay còn anh thì ó chân... Liệu người ta có chuyển anh vể một nơi xa nào, buộc anh phải xa cách phi đội, trung đoàn của anh không? Cái viễn cảnh ấy hãi hùng quá, khiến anh quên cả đau. Cũng may là Ta-ta-ren-kô không phó thác anh cho một bác sỹ vu vơ nào. Ông ta sẽ lập tức giải anh về hậu phương. Với Grô-mê-kô, còn có thể thương lượng được.

        Tuy đau nhưng rồi anh cũng ngủ thiếp đi. Tiếng người và ánh sáng chói làm anh tỉnh dậy, người ta đang khiêng anh vào bệnh xá. Anh thấy Éc-ma-kôp, Hin-đa, Sla-va, Kô-li-a Kla-mê-tốp, Kô-stin, Đê-ép, Di-ga.... Họ xanh làm sao! Có lẽ vì ánh sáng đèn. Ngọn đèn dầu chập chờn trong mắt họ.

        Đêm đó, ở trường bay chẳng ai ngủ. Mọi người biết là Ta-ta-ren-kô đã trở về và mang theo Lu-nin bị thương. Ta-ra-rắc-xin được báo trước bằng dây nói, và anh lập tức loan báo tin này.

        - Để nghị các đồng chí đi vê... Tôi nhắc đã bao nhiển lần rồi? - Grô-mê-kỏ vừa gắt vừa quàng áo blu - Đặt anh ấy lên bàn nhưng nhè nhẹ đấy.

        Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí bác sỹ, đồng chí không gửi tôi đi đâu chứ? Đừng gửi tôi đi như Sê-rốp... Muốn làm thế nào cũng được, nhưng xin cho tôi ở đây!

        - Gửi dồng chí đi? Đi đâu vậy? - Grô-mê-kô nói ồm ồm, tay lột bộ áo bay đầy bùn và dẫm nước của Lu-nin một cách gọn gàng. - Tại sao tôi lại gửi dồng chí đi? Một vết thương như vậy ở dây có thể chữa lấy được. Xương chẳng gẫy tí nào. Hoàn toàn y nguyên, chỉ sai khớp vớ vẩn... Tôi sẽ nắn cho đồng chí. Trong ba ngày, đồng chí có thể khiêu vũ được!

        Hai tay anh nắm lấy đùi trái Lu-nin, Ta-ta-ren-kô đang giữ vai Lu-nin bèn hỏi, môi run run:

        - Ngay bây giờ sao?

        Đồng chí bác sỹ quan sát nét mặt Ta-ta-ren-kô và ra lệnh:

        - Thượng sỹ Ta-ta-ren-kô, dồng chí sắp lác cả mắt rồi đấy. Thôi cút đi! Đồng chí y tá Ma-sa, quàng tay qua nách đồng chí thiếu tá. Giữ như thế này!

        Grô-mê-kô kéo đùi và Lu-nin ngất đi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Ba, 2019, 12:35:54 am

VII

        Vào cuối tháng chín, trận Si-ni-a-vi-nô tạm yên tĩnh.

        Đối với mặt trận nói chung, thì trận đó cũng chưa đem lại những thay đổi quan trọng. Nhưng dù sao cũng đã đạt được mục tiêu chiến đâu. Bây giờ thì bọn Đức đã hiểu là không thể lấy bớt ở đây cho Sta-lin-grát, dù là một tiểu đoàn.

        Một hôm, khi đến thăm Lu-nin ở bệnh xá, đồng chí U- va-rốp giải thích:

        - Đó là chuyện thằng ngốc khoe bắt được còn gấu. Người ta bảo ngốc đem gấu lại coi, thì ngốc la ó "chịu thôi, con gấu nó không buông tôi ra!"

        Chưa bao giờ Lu-nin thấy U-va-rốp vui như thế. Đồng chí chính ủy có cái vẻ đã biết một tin gì rất hay mà chưa chịu cho ai biết. Lu-nin hỏi đồng chí về tình hình Lé-nin- grát. Đồng chí chính ủy đã quen với loại câu hỏi đó. Trận Von-ga vẫn tiếp diễn rất lớn, và thông cáo thì lại rất dè dặt. U-va-rốp nói:

        - Tôi cũng không hiểu gì hơn đồng chí, nhưng ý nghĩ của tôi cũng như đồng chí thôi.

        - Đồng chí nghĩ thế nào?

        - Cánh cung đã giương hết mức.

        - Nghĩa là nó sắp bật phải không?

        - Chính thế.

        - Cảm giác tôi củng vậy.

        Lúc ra đi, U-va-rốp mới hở ra:

        - Đồng chí thiếu tá, ráng lành mạnh mau mau đi. Có tin lạ cho đồng chí đấy.

        Khớp xương trẹo đã nắn xong, Lu-nin bình phục khá mau. Cái chân sưng to tướng giống như chiếc sà nhà. Nhưng Grô-mê-kô chữa bằng cách chườm nóng nên dần dần bót sưng. Trong buồng không có bệnh nhân nào khác, nhưng Lu-nin không thấy lẻ loi chút nào, vì biết bao nhiêu khách khứa đến thăm ở đầu giường.

        Sáng sớm vừa dậy thì các phi công của anh đã đến từng tốp hai ba người. Họ ngồi trên chiếc ghè gỗ dài đã mang từ "phòng khám bệnh" vào. Lúc quá đông, nếu Grô-mê-kô không lo tống bốt đi thi có lẽ cả phi đội tập họp ở gần phi đội trưởng. Vậy thì người ta thay phiên nhau mà đến. Nhìn bộ mặt trẻ trung của họ, thẳng thắn và đáng yêu biết bao, Lu-nin không ngờ rằng họ mến anh đến thế.

        Bản thân anh thì cũng hết sức mến họ, tuy mới biết họ được vẻn vẹn hai tháng. Nếu mấy giờ đồng hồ không thấy họ là nhớ. Sáng dậy, anh mong chờ họ. Vừa nghe tiếng kẹt cửa là anh đã mừng.

        -  R...Rri-a-bu-skin, chùi chân đi, anh lại đem bùn vào buồng bệnh... - Bác sỹ Grô-mê-kô la lên.

        Đêm đêm, khi nghĩ đến họ, Lu-nin lấy làm thích là đã không có gia đình. Nếu anh không trơ trọi một thân trên đời, thì liệu còn yêu mến họ được như thế không?

        Mỗi ngày hàng vài chục lần, Ta-tá-ren-kô chạy đến bệnh xá để báo những tin mới mẻ.

        Tin tức thì không thiếu. Ví dụ sau trận Si-ni-a-vi-nô cả bọn tân binh được đề bạt thiếu úy. Vui sướng như trẻ con, họ đem khoe không biết chán với Lu-nin những áo ngoài kiểu sĩ quan, những cúc vàng mới toanh. Nhưng việc phi đội chưa có máy bay vẫn làm vẩn nỗi vui đó.

        Khổ nhất là chưa thể hy vọng có ngay máy bay mới được. Và một sự việc làm tình thế họ thêm chua xót: vào cuối tháng chín, phi đội 1 và phi đội 3 trở về trường bay với các máy bay Xô Viết tối tân!

        Nằm trên giường, suốt ngày Lu-nin nghe thấy tiếng máy bay reo vui. Vừa về tới nơi thì ngay tối hôm đó, Prốt- cua-ri-a-kốp dến thăm anh. Con người to lớn làm chật cả gian buồng. Mặt đồng chí sáng lên vì sung sướng và kiêu hãnh bởi chưa bao giờ trung đoàn lại có máy bay tốt như vậy.

        Những tay "bò sát" của phi đội 2 ngắm nghía thèm thuồng máy bay mới, thở dài ghen tị và chạy đi than thở với Lu-nin. Họ khen hết lời. Máy bay mới xinh biết bao, cất cánh đẹp biết bao, lên rất nhanh, hạ rất gọn, và nhất là tốc độ thì rất cừ: cả I-16, Hơ-ri-can, lẫn Mét-séc-mít chưa hể bay nhanh được như thế!

        Mỗi người đều nóng lòng muốn biết bọn Mét-séc-mít. làm ăn ra sao khi chúng gặp loại máy bay Xô Viết kiểu mới này? Nhưng bọn Mét-séc-mít tỏ ra rất thận trọng. Khi các phi đội trang bị mới của ta bay trên hồ, thì chúng biến mất hoặc lảng ra xa.

        Ksô-stin giải thích:

        - Rồi đây phải xét lại tất cả chiến thuật đối với bọn Mét-séc-mít.

        Ta-ta-ren-kô vặn lại:

        - Xét lại à? Xét lại làm gì? Săn chúng nó thì có.

        Câu chuyện đối đáp ở đầu giường Lu-nin. Một con chim sắt óng ánh bay vút ở một góc trời, hiện qua cửa sổ và biến ngay lập tức. Ta-ta-ren-kô reo lên:

        - Đồng chí thiếu tá, đồng chí nhìn thấy không? Xinh quá! Lại khoẻ, lại thanh. Cứ nhìn cái mình thon thon, cái đường lượn của đôi cánh, thì tôi đã ngứa ngáy chân tay rồi.

        Chân bớt sưng dần. Các khớp lại bắt đầu cử động được. Tuy vậy Lu-nin vẫn thấy thời gian hồi phục này chậm quá, và anh sốt ruột đợi ngày được phép dứng dậy. Nhưng xét cho cùng, thì vội làm gì chứ? Máy bay không có thì sao chăng nằm mà nghỉ ngơi. Ai cũng bảo anh vậy. Éc-ma-kôp luôn nhắc nhở:

        -  Đồng chí nghỉ cho thật khoẻ. Đồng chí đã làm việc khá nhiều thì nay nghỉ cho ra nghỉ. Trong khi bác sỹ người ta bắt nằm, thì nhân cơ hội đó, nghỉ ngơi cho kỹ...

        Lu-nin nhăn mặt. Anh chăng muốn nghỉ tí nào. Vả lại, khi bay, anh chẳng thấy mệt bao giờ. Mà cái đó có can gì đến ai đâu. Bị lâm vào cái thế bất lực, cái đó mới làm anh khổ. Anh không quen người khác chăm sóc mình, vì cuộc sống lẻ loi làm anh quen tự lực rồi đi rồi. Và những sự chú ý trông nom ở bệnh xá đối với anh làm anh ngượng. Ai cũng cứ lo đến sức khoẻ và sự dễ chịu của anh, kể từ U- va-rốp, Prốt-cua-ri-a-kốp, Éc-ma-kốp, các đồng chí phi công và thợ máy đến chị nữ y tá Ma-sa và nhất là Grô- mê-kô.

        Đồng chí bác sĩ ở ngay trong bệnh xá, đằng sau vách. Cả ngày Lu-nin trông thấy anh, và bây giờ thì đồng chí nhìn anh ta bằng con mắt khác. Vì sao nhỉ? Con người đã thay đổi chăng? Hay là Lu-nin đã khám phá ra những đức tính tốt mà trước không nhìn ra? Chắc là cả hai lẽ đểu đúng.

        Trước kia dồng chí đâu ngờ là người thầy thuốc trẻ tuổi ấy lại có đôi bàn tay chắc chắn vững vàng như vậy, đế nắn khớp xương, buộc băng, chườm, tiêm mạch máu, hay giản dị nữa, là xoay thế nằm nghiêng cho người ốm để lưng không bị liệt? Anh đâu ngờ là trong con người ấy lại nhiều cái tốt có công dụng như vậy? Anh đâu ngờ là con người ấy lại hiểu biết nhiều đến như vậy?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Ba, 2019, 12:36:18 am

        Lu-nin tự biết mình rất kém về khoa học, vì anh chưa hề học quá Trung học. Nhưng trước chiến tranh, nhất là từ khi ly dị vợ, anh đọc nhiều, nhất là các loại sách khoa học thường thức về Thiên văn, lịch sử quả đất và sinh vật học. Ngồi chơi riêng với đồng chí bác sỹ, anh hỏi liên miên hết cái này đến cái khác. Grô-mê-kô không đợi yêu cầu đã trả lời và trả lời rất tỉ mỉ. Hai người nói chuyện về chiến tranh, về lịch sử, về nguyên nhân của sự sống, về tinh vân, về thái dương hệ. Đồng chí bác sỹ nói cho Lu-nin nghe về Pát-stơ, vể Mét- sni-kốp, về các thuốc tiêm phòng bệnh, về cấu tạo tổ chức tế bào. Câu chuyện kéo dài đến khuya, đến quá nửa đêm và nếu đồng chí nữ y tá không gắt lên thì đèn chưa tắt.

        Tuy nhiên Grô-mê-kô vẩn giữ cái tính thích trộ, nhất là khi có đông người nghe. Lúc đó thì anh lại không phải con người lúc nãy, khi còn nói chuyện tay đôi. Hình như anh cố che dấu những đức tính tốt của mình. Cả đến giọng nói cũng thay đổi và trở thành thô bạo. Quả là anh cứ thích đội lốt con người ăn chơi trơ trẽn chán chường. Lúc ấy Lu-nin lại thấy cái vẻ giả tạo trong giọng nói, như bửa gặp nhau lần đầu. Rõ ràng là Grô-mê-kô cô tìm những phương pháp đó để khắc phục cái thiếu tự tin của mình.

        Nhưng có cái rõ, là từ bữa gây lộn với Sê-rốp vê chuyện Hin-đa, thì bác sĩ không đóng vai sành sỏi về đàn bà nữa. Bài học đã có hiệu nghiệm. Nhưng trước mặt Lu-nin, anh lại bị một bài học thứ hai nữa, nó làm anh chán cả một câu chuyện thú vị khác, là chuyện rượu cồn 90 độ.

        Nguyên là một hôm, Kút-nét-sôp đến thăm Lu-nin. Anh "mặc mở hàng" bộ áo sỹ quan mới gắn lon thiếu úy. Grô-mè-kô đang thật thà giúp đỡ đồng chí nữ y tá lau cửa sổ, nhưng vừa thấy Kút-nét-sỗp là tức thì biến dạng cũng như khi gặp bất cứ khách nào vào. Anh ném cái khăn ướt vào một xó, rồi nói với cái vẻ phóng đãng:

        - Ê. thiếu úy, cậu không biết ngượng à? Lon mới thì phải cỏ tí "tửu" chứ! Làm như cậu không khoái rrrượu bao giờ chắc? Cậu thật là đứng đắn! Công đâu làm hại cái tốt... Mà cậu chẳng bao giờ chịu đến chơi trrrạm cấp cứu với tớ để cùng làm một chén! Mà, sau lưng, thì ai biết đâu ma ăn cỗ!

        Kút-nét-sôp tái mặt. Grô-mê-kô nhận thấy mình lỡ lời và im bặt.

        - Tôi biết đồng chí muốn nói cái gì. - Giọng Kút-nét- sốp thoạt đầu còn như thường. - Tự anh thấy, hay đứa nào mách anh? Dù sao tôi cũng cóc cần. Điều lệ không cho phép anh chê giễu bất cứ ai. Tôi không cho phép anh chế giễu tôi... - Kút-nét-sốp nói lớn những tiếng sau cùng và tiến về phía Grô-mê-kô một cách dữ tợn, khiến Lu-nin quên cả cái chân đau, định từ trên giường nhảy xuông ngăn lại.

        Nhưng Kút-nét-sốp đã quay gót và bước ra, đóng cửa đánh thình.

        Hoang mang, Grô-mê-kô đứng lặng người giữa căn buồng: đến ngay bây giờ anh mới hiểu cái vụng về của mình. Anh muốn thanh minh với Lu-nin, nhìn Lu-nin một cách ủ rũ, và im lặng. Nhưng từ đấy không bao giờ ai nghe thấy anh khoe khoang về tài rượu nữa...

        Sla-va thì tất nhiên là một trong những người hay đến thăm Lu-nin nhất, bệnh xá thành cái nhà ở thứ hai của nó. Đôi khi nó còn ăn cơm ở đây với Lu-nin, vừa ăn vừa luôn miệng cãi vã với đồng chí nữ y tá. Rồi nó vơ vét các vỏ hộp thuốc không... Cái tai nạn của Lu-nin thoạt đầu làm nó bàng hoàng. Nó luôn luôn cầm lấy bàn tay đồng chí thiếu tá và hỏi:

        - Bác có đau không?

        - Hơi đau thôi.

        - Chắc là đau lắm.

        Nó vẫn không quên câu chuyện đi Xi-bê-ri còn đang đe doạ nó. Vả lại, đồng chí Éc-ma-kốp cứ mỗi lần gặp nó là không quên nhắc cho cu cậu luôn nhớ. Càng ngày đồng chí càng băn khoăn về việc học của nó. Đồng chí chỉ đợi có dịp nào tốt là gửi nó đến chỗ bà cô, và cũng không giấu ý nghĩ đó.

        Một hôm, đồng chí cùng Đê-ép đi thăm Lu-nin. Sla-va đứng đầu giường. Đồng chí chính ủy trở lại câu chuyện cũ:

        - Mày đến thành dốt nát mất thôi, ở thời buổi này, ở một xã hội như của ta, thì không có chỗ đứng cho những người dốt nát.

        Sla-va hoảng hồn. Éc-ma-kốp nói tiếp với Lu-nin:

        - Thật ra, chúng mình làm hại thằng bé đấy. Yêu nó mà lại làm hỏng tương lai của nó. Con người không phái là một thứ đồ chơi. Sla-va nhất định phải đi học.

        Đê-ép can thiệp:

        - Đồng chí chính úy, đồng chí có thể cho phép tôi dạy nó không?

        - Đồng chí dạy được sao?

        - Tôi đã học hết Sư phạm sơ cấp.

        Éc-ma-kốp suy nghĩ:

        - Đồng chí Đê-ép, với cái khối công việc của đồng chí, đã không còn thì giờ nào nghỉ ngơi...

        - Tôi liệu thu xếp.

        - Nếu muôn cho nó học, thì phải là học hẳn hỏi.

        - Sẽ học hẳn hỏi, đồng chí chính ủy ạ.

        Người ta đều biết rõ cái tinh thần trách nhiệm của Đê- ép. Đã hứa là không còn nghi ngờ gì nữa. Éc-ma-kôp đồng ý cho Sla-va ở lại trung đoàn. Nhưng trịnh trọng giao hẹn trước với nó là nếu nó hơi lười một chút, hơi không vâng lời một chút, là lập tức sẽ dẫn ra ga Von-khô-strôi cho lên chuyến tầu đầu tiên, và gửi về bà cô!

        Từ đó hàng ngày Sla-va đến học ở chỗ đồng chí Đê-ép. Thực ra cu cậu cũng không hào hứng lắm. Trước đây, nó có bao giờ là học trò gương mẫu đâu. Từ ngày chiến tranh, lêu lổng quen rồi. Và nó quên gần hết cái đã học. Nhưng Đê-ép thi hành nhiệm vụ một cách cương quyết, bình tĩnh và không bỏ qua một thiếu sót gì của cậu học trò. Bắt đầu học những cái sơ sài về số học và mẹo đặt câu. Khiếp sợ về cái chuyện phải về chỗ bà cô, nên Sla-va mỗi sáng phải để hàng giờ làm bài. Và trước khi đến chỗ Đê-ép, muốn cho chắn chắn hơn, nó đi ra bệnh xá đưa vở cho Lu-nin coi giúp trước.

        Éc-ma-kốp và Lu-nin viết chung một thư cho người bố, đề nghị ông ta cứ để Sla-va ở trung đoàn, ở đây chịu trách nhiệm dạy nó học.

        Một hôm thằng nhải chạy đến bệnh xá và reo lên:

        - Đến rồi! Đến rồi.

        - Cái gì đến?

        - Máy bay! Mười cái cho phi đội ta! Cũng giống như máy bay của phi đội 1 và phi đội 3.

        Lu-nin gọi như ra lệnh:

        - Đổng chí bác sĩ, cho tôi cái quần.

        Anh mặc quần áo loáng một cái xong ngay, rồi chống gậy đi ra.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Ba, 2019, 05:06:23 am
     
CHƯƠNG MƯỜI

MƠ MỘNG VÀ CÔNG VIỆC

I

        Ngày mồng một tháng mười hai, Lu-nin nhận được một phong thư... Thật là một sự lạ. Cả trung đoàn đều biết là phi đội trưởng phi đội 2 không bao giờ có thư. Những luận đoán về vấn đề này tha hồ mà phát sinh ở hầm của các đồng chí thợ máy cũng như ở nhà ngủ các phi công, ở các chỉ huy sở phi đội cũng như ở hai nhà ăn. Thế mà bây giờ lại có một bì thư mầu xám đề tên Công-stăng- tanh I-nha-ti-ê-vít Lu-nin.

        Trước khi đến tay người nhận, phong thư đã đi một vòng khắp trung đoàn. Thoạt tiên người ta đem đến cái nhà có cây phong chẽ hai. Lu-nin đi vắng, chỉ có kỹ sư Fê- đô-rốp ngủ trưa ở đấy. Anh cầm phong thư, xoay bốn phía, tra cứu các dấu tem, rồi xỏ bốt, và tức khắc đi ra chỉ huy sở phi đội.

        Lu-nin không có ở đây. Chỉ có Kút-nét-sốp và Kla-mê- tốp. Kla-mê-tốp cầm lấy thư và đưa cho Kút-nét-sốp coi với cái dáng có nhiểu ngụ ý. Rồi anh nói:

        -  Đồng chí thiếu tá chắc là đang ăn trưa.

        Và đề nghị Krô-míc đi ngay ra nhà ăn.

        Lu-nin không có đấy. Nhưng nhiều phi công của ba phi đội đã ăn cơm xong. Krô-míc đến, làm mọi người nhốn nháo. Họ tranh nhau mách là đồng chí thiếu tá cách đây 10 phút đi lên chỉ huy sở trung đoàn cùng với đồng chí Éc-ma-kốp và đồng chí Prốt-cua-ri-a-kốp. Có người tình nguyện đem ngay thư đi. Nhưng Krô-míc không đồng ý nhờ ai, và chạy lên chỉ huy sở, nắm tay to tướng nắm chật lấy phong thư.

        Trong hầm. Prốt-cua-ri-a-kốp, Éc-ma-kốp, Sác-ba-di- ăng, Lu-nin và Ta-ra-rác-xin đang nghiên cứu một tấm bản đồ lớn mở rộng ra trên bàn - bản đồ vùng Sta-lin- grát, trong tập bản đồ mà Sác-ba-di-ăng quý nhất. Mỗi ngày theo tin tức nhận được anh đánh dấu lên bàn đồ những bước bao vây lực lượng địch ở Sta-lin-grát. Bằng bút chì màu, anh vạch ra đường mặt trận luôn luôn thay đổi, vẽ các mũi tên để chỉ các hướng tấn công, và ai cũng muôn nhìn một lượt vào cái mớ rốì rít nhưng gợi cảm một cách mầu nhiệm ấy.

        Mọi người tranh nhau nói:

        - Có thư của đồng chí này.

        - Đồng chí thiếu tá, có thư đây.

        - Công-stăng-tanh I-nha-ti-ê-vít, có thư của anh.

        Bỏ bản đồ đấy, mọi người tò mò nhìn Lu-nin. Người ta thấy anh tái đi và tay run run cầm lá thư. Anh nhìn địa chỉ, nhìn phía sau phong bì, lưõng lự chưa mở. Biết, mọi người nhìn, anh buộc phải mỏ phong bì.

        Mặt anh đang tái bỗng đỏ lên:

        - Thư của Sê-rốp.

        Mắt anh sáng ngời sung sướng, Prốt-cua-ri-a-kốp reo lên như sấm:

        - Có lẽ nào! Cậu ấy sống à?

        Từ ngày chở Sê-rốp đi, không có tin gì nữa, và nhiều người cho là anh khó sống được với những thương tích ấy.

        - Cậu ấy kể cái gì đấy?

        - Cậu ấy ở đâu?

        Viết bằng một lối chữ to và không đều, lá thư ngắn quá không rút ra được nhiều "tài liệu". Sê-rốp giải thích là sở dĩ anh chưa viết vì trước đây, anh không hy vọng có thể trở lại trung đoàn.

        Sê-rốp viết: "Bây giờ tôi mới lại có hy vọng trở về với các đồng chí, nếu không làm phi công, thì ít nhất cũng làm công tác gì đó mà các đồng chí sẽ giao cho, dù là ở kho quần áo. Tôi điểu trị ở Bác-na-un, cách mặt trận 4.000 cây số”. Trừ một vài cái lằng nhằng còn lại, thì tôi gần khỏi hẳn rồi".

        Sê-rốp đề nghị Lu-nin cho anh những tin tức tỉ mỉ về trung đoàn và gửi lời chào mọi người nhất là Prốt-cua-ri- a-kốp và đồng chí chính ủy. Phần kết luận của lá thư hơi buồn: "Tôi và đồng chí đểu không có vợ; chắc đồng chí hiểu tôi: tôi chỉ còn trung đoàn là gia đình". Có mấy chữ tái bút viết rất nhỏ. "Nếu tôi có thư, thì đồng chí cứ gửi giúp đến cho tôi".

        Mọi người hiểu là Sê-rõp đợi thư ai, Prôt-cua-ri-a-kôp sa sầm lại và lầu nhầu:

        - Cứ trông mong vào đấy mà khổ!

        Ai cũng chắc là người đàn bà đã cố tình bỏ rơi Sê-rốp. Và đểu nhận xét nghiêm khắc thái độ của cô ta. Sác-ba- di-ăng tuyên bố:

        - Nó không viết thư cho Sê-rốp lại càng tốt. ít nhất như vậy thì cũng rõ ràng cho đồng chí ấy. Đau khổ ít lâu, nhưng rồi cũng tìm được người khác. Con người ấy không xứng đáng với Sê-rốp.

        Ta-ra-rắc-xin bật nói to, đôi mắt cận thị long lanh vui sướng sau đôi kính:

        - Ổ! Phớt nó đi. Chủ yếu là Sê-rốp còn sống và lành mạnh.

        Éc-ma-kốp nói:

        - Đồng chí Lu-nin, đồng chí nói rõ cho Sê-rốp biết là tất cả bọn mình đều mong! Mà tôi cũng viết thư cho đồng chí ấy đây.

        Chưa đầy nửa giờ tin vui về Sê-rốp đã lan hết vòng trường bay. Đi theo Lu-nin về chỉ huy sở phi đội, Krô-míc luôn mồm nhắc:

        - Thế là đồng chí thượng úy đã khỏi... Thích quá... Trước tôi không dám tin... vậy mà khỏi... kỳ diệu.

        Đôi với đám tân binh, thì họ rất trân trọng cái việc Sê- rốp - một trong những phi công nổi tiếng của thời Rát- sô-khin - có lẽ sắp về trung doàn và chiến đấu bên cạnh họ. Trên sân bay, ở nhà ăn, nhà ngủ, họ luôn mồm nói đến việc đó. Và mọi người nhìn Lu-nin như muốn chia vui. Bây giờ người ta đã cùng chung nhìn thấy cái chết, thì người ta hiểu rõ tin đó làm cho Lu-nin mừng đến bậc nào.

        Chắc chắn là Grô-mê-kô sung sướng nhất về tin đó. Anh đã trải qua những nỗi lo âu ghê gớm. Bây giờ biết là Sê-rốp sắp khỏi, thì lòng anh tràn ngập kiêu hãnh. Gặp Lu-nin ở nhà ăn, anh nói lớn:

        - Tôi đã bảo là không cần cưa tay mà! Cưa một cánh tay thì một anh đồ tồi nào cũng làm được!

        Nhưng rồi anh hỏi khẽ:

        - Đồng chí có chắc là chữ hắn ta không? Hay là hắn đọc cho ai viết hộ.

        - Không, tôi biết chữ hắn.

        Đồng chí thầy thuốc thở ra yên trí và nói:

        - Thê là tốt! Trừ phi hắn đã tập viết tay trái? Đồng chí không cho là thế à?

        Sau bữa cơm chiều, Lu-nin trở vể nhà để được viết thư trá lời một cách thư thái. Sla-va yên ôn ngáy khe khẽ trên giường. Lu-nin đặt cây đèn dầu lên bàn, lây một tò giấy, mở nút lọ mực và suy nghĩ...

        Anh có nhiều cái muốn nói với Sê-rốp quá thành ra chảng biết nói gì. Và anh càng suy nghĩ thì anh càng thấy là có viết cả tháng cũng không nói hết. Rốt cuộc, anh nhắn cho Sê-rốp biết là mọi người mong đợi và chúc Sê-rốp mau lành mạnh, và không có thư nào của Sê-rốp cả... Viết gì nữa đây? ... Anh thêm "Có phải gửi cái rương con đến Bác- na-un không?"

        Thư hơi cộc. Lu-nin đọc lại, thở dài và gấp chéo tờ giấy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Ba, 2019, 05:07:49 am
           
II

        Ngày hôm sau, U-va-rốp đi U-2 tới.

        Anh bước vào chỉ huy sở giữa lúc mọi người đang xem chiếc bản đồ của Sác-ba-di-ăng. Prôt-cua-ri-a-kôp hô lớn: "Nghiêm!" và báo cáo. U-va-rốp lần lượt bắt tay mọi người và đi lại phía tấm bản đồ che kín cả mặt bàn.

        Sác-ba-di-ăng thanh minh, với cái dáng cậu học trò bị bắt gặp lúc đang có lỗi:


        - Báo cáo đồng chí chính ủy đồng chí biết cho là mọi người còn thích nghiên cứu bản đồ Lê-nin-grát hơn nữa.

        - Đúng. Cái bản đồ tốt quá! Tôi cũng có một bản đồ như vậy và nghiên cứu đến mờ cả mắt. Hiện giờ thì số phận của Lê-nin-grát quyết định ở Sta-lin-grát.

        Như mọi lần, trước khi cho biết nội dung việc đến thăm, U-va-rốp bắt đầu đi kiểm tra trung đoàn một cách ung dung, xem khắp các nhà, và nói chuyện với mọi người. Anh dự hai cuộc họp thanh niên ở phi đội 1 và phi đội 2, và bông đùa với, các thợ máy trẻ tuổi. Anh ăn trưa ở nhà ăn với các phi công, nói ít và để người khác nói. Nhưng ai trông thấy cái vẻ cương quyết và vui mừng của anh cũng đoán là anh có mang lại một tin gì lớn.

        Sau bữa cơm trưa, anh họp các phi đội trưởng ở chỉ huy sở trung đoàn và báo cáo cho biết nội dung cuộc đến thăm: trung đoàn phải cấp tốc di chuyển.

        Éc-ma-kốp hỏi:

        - Sang bờ hồ bên kia?

        U-va-rốp gật, và tuyên bố:

        - Từ nay, không đi về phía đông nữa mà chỉ đi về phía tây!

        Im lặng một hồi lâu. Ai nấy hiểu tầm quan trọng của tin này. Thực ra, người ta cũng đã đoán trước được ít nhiều. Các thông báo về Sta-lin-grát vừa làm hy vọng, vừa làm sốt ruột. Người ta đã cảm thấy những sự việc lớn sẽ quyết định số phận Lê-nin-grát, hồ La-đô-ga và Hạm đội Ban-tích.

        Các máy bay phải vượt qua hồ trước khi mặt trời mọc để địch không chú ý. Quân số dưới đất sẽ đi trước: các máy bay "Đu-gờ-lát" sẽ đến đón đúng nửa đêm. Chỉ vừa vặn đủ thời gian chuẩn bị.

        Lu-nin là một trong những người đầu tiên rời khỏi chỉ huy sở. Vì anh còn nhiều việc ở phi đội. U-va-rốp liền theo gót:

        - Đồng chí Lu-nin, một phút.

        Lu-nin đứng lại. U-va-rốp tới kịp.

        - Đồng chí vội à? Đồng chí còn thì giờ chán. Đi với tôi một lúc. Bộ phận cao xạ đang đợi tôi.

        Mới quá bốn giờ mà trời đã tôi tối. Cứ mỗi bước lại thấy cảm giác chân mình bước trên lượt tuyết mỏng bao phủ đất đóng băng của trường bay. Trong cái im lặng tuyệt đối, người ta nghe vọng thấy tiếng ầm ì đằng xa - tiếng ầm ì của mặt trận hay tiếng rừng xào xạc. U-va-rốp và Lu-nin cùng sát cánh đi, và hai người cảm thấy sung sướng đi bên nhau.. U-va-rốp hỏi:

        - Sê-rốp muốn mình gửi cho những thư từ của hắn à?

        - Vâng - Lu-nin trả lời, không lấy làm lạ rằng U-va- rốp đã biết chuyện ấy. - Nhưng chẳng có thư nào cả.

        - Người ta cũng đã nói với tôi câu chuyện đó. Sê-rốp vẫn yêu cầu và còn hy vọng. Ngày nay, mất tin một người là một việc quá thường.

        - Tôi cho là cô ta không muốn tìm lại tin Sê-rốp.

        - Có thể. Nhưng tôi không buộc tội cô ta. Tôi không biết cô ta, nhưng tôi biết Sê-rốp: hắn không bao giờ đặt tình cảm vào chỗ lông bông đâu.

        - Người ta vẫn có thể lầm!

        Lu-nin không phải chỉ nghĩ đến Sê-rốp mà thôi. Và U- va-rốp đoán biết như vậy. Lu-nin nói tiếp:

        - Nếu đối với bản thân mình có thể nhận định lầm, thì tất nhiên đối với người khác càng dễ lầm hơn.

        - Đúng. Có thể nhận định người lầm. Nhưng không phải luôn như vậy. Đã bao nhiêu lần tôi phải tự hỏi: về người ấy, người nọ, có thể tin được không? Ta suy nghĩ kỹ, ta cân nhắc mọi cái, và bỗng nhiên có cái gì quét sạch hết nghi ngờ: phải có thể tin được. Tin được một người thật là sung sướng.

        Lu-nin hỏi:

        - Đồng chí nói gì? Tin được một người là sung sướng?

        - Chứ sao! Đồng chí không đồng ý à?

        - Có chứ! Đồng chí nói rất phải.

        - Đồng chí cứ tưởng tượng là tôi gần như chưa hề phải ân hận về việc tin người.

        Lu-nin khăng khăng nhắc lại:

        - Nhưng Sê-rốp vẫn có thể lầm.

        - Sê-rốp có thể lầm, nhưng chúng ta không được lầm. Chưa biết chuyện gi đã xẩy ra cho người đàn bà ấy, thì ta không có quyền chơi lối phỏng đoán. Phải lấy tài liệu, phải tìm ra cô ta, và tìm hiểu tại sao cô ta không viết thư.

        - Rất đúng! Phải tìm. hiểu. Nhưng làm thế nào tìm ra cô ta?

        - Tôi sẽ liệu.

        Hai người tiếp tục im lặng bước trong bóng tối tĩnh mịch của sân bay. Nói chuyện đến Sê-rốp làm hai người lại thêm gần nhau hơn. Nhưng Lu-nin không khỏi ngạc nhiên khi thấy U-va-rốp hỏi:

        - Đồng chí Lu-nin, tại sao đồng chí chưa xin vào Đảng?

        Lu-nin không trả lời ngay. Sau cùng anh mới nói:

        - Vì có việc trùng hợp...

        - Trùng hợp không may sao?

        - Tại sao lại không may... Tôi có than phiền đâu.

        Lu-nin im lặng. U-va-rốp tôn trọng sự im lặng của Lunin. Sau cùng Lu-nin nói:

        - Tôi muốn gia nhập Đảng từ lâu. Tôi đả được sự giới thiệu... Trước chiến tranh một chút... Đơn xin của tôi đã sẵn sàng...

        - Thế rồi sao?

        - Tôi không nộp đơn.

        - Tại sao?

        - Vì đã xảy đến cho tôi một sự việc.

        Hai người lại im lặng. Lu-nin đợi một câu hỏi. Nhưng U-va-rốp vẫn im lặng. Sau cùng Lu-nin nói:

        - Tôi ly dị vợ. Đồng chí có biết không?

        - Biết. Người ta trách đồng chí về cái đó à.

        - Không. Nhưng có thể là như thế.

        - Người ta trách về chuyện ly dị à?

        - Nếu không trách thì cũng có thể đặt câu hỏi. Mà tôi thì không muốn thanh minh. Nên tôi chưa nộp đơn.

        U-va-rốp không nói gì hết, cho là Lu-nin đã nói hết. Nhưng Lu-nin tiếp luôn:

        - Tôi đã đuổi cô ta khi tôi biết tin cô ta ăn nằm với người khác. Cô ta van lơn, và thề không tái phạm. Cô ta không muốn bỏ tôi. Cô ta van vỉ...

        - Thế đồng chí?

        - Tôi bắt buộc cô ta đi. Tôi không còn gặp cô ta nữa.

        Lần này, thì Lu-nin đã nói hết. U-va-rốp đợi một phút, rồi hỏi:

        - Đồng chí có tự cho là phải không?

        - Trước kia thì có.

        - Thế bây giờ?

        - Tôi không hiểu nữa...

        Từ đó đến hầm cao xạ pháo, hai người không nói với nhau câu nào nữa. Lu-nin phải trở về phi đội. Hai người đứng lại và im lặng hồi lâu, không quả quyết rời nhau ra được. Không còn tiếng giầy bốt nện xuống tuyết, thì người ta càng nghe rõ tiếng ầm ì mơ hồ trong đêm.

        U-va-rốp bỗng hỏi:

        - Đồng chí biết là tiếng gì chứ? Tiếng vùng tạm chiếm gọi chúng ta đấy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Ba, 2019, 12:32:42 am

III

        Các phi đội cất cánh. Thoạt tiên là phi đội 1, rồi đến phi đội 3, sau cùng là phi đội Lu-nin.

        Đêm dài tháng mười hai đã gần tàn. Đường mép nhấp nhô các ngọn cây bao quanh sân bay in rõ lên nền trời. Lu-nin và phi đội của anh bay là là lần cuối cùng trên mộ Rát-số-khin, lượn một vòng lớn, tập hợp thành đội hình tam giác và hướng mũi về tây.

        Trời đục, và ở phía đông, qua một lỗ thủng trong mây, bình minh chiếu ánh hồng xuống tuyết. Dưới máy bay, mặt hồ mênh mông im lặng. Một năm trước đây, cũng vào thời kỳ này, từng đoàn ca-mi-ông qua lại. Nhưng, mùa đông này, có những lạch nước vằn vèo trên băng hàng mấy cây số. Mùa thu kéo dài mãi chưa lạnh lắm, và hồ đóng băng rất chậm. Giao thông trên nước đã ngừng, nhưng chưa lập được giao thông bằng ô tô trên băng. Thế là lại chỉ còn đường trên không nối Lê-nin-grát với hậu phương.

        Lu-nin nhìn thấv mũi Ốt-si-nô-vet, bóng cánh rừng và ngọn đèn pha mùa đông trước, anh đã bay qua đó với Rát- số-khin và Sê-rốp. Chỉ ba người, và họ bay về phía đông. Rát-sô-khin không tới đích. Bây giờ Lu-nin bay ngược chiều với chín chiếc máy bay đằng sau. Và máy bay vào loại như thế nào!

        Họ không trở lại trường bay năm ngoái, và Lu-nin cũng muốn như vậy. Vì trông lại cái biệt thự mà ở đó Ka-ban-kốp mỗi chiều chơi đàn ác-coóc-đê-ông, vì ăn ở cái nhà ăn mà trước đây có Bê-sây-tôp, Sê-pen-kin, Sê-rốp và Rát-số-khin là bạn ăn cùng bàn, thì chỉ thêm đau lòng. Trường bay cũ ở tây bắc Lê-nin-grát, cách vịnh mấy cây số; trường bay sắp tới ở phía đông bắc. Con đường sắt độc nhất còn hoạt động trong khu vực bị bao vây, con đường nối Lê-nin-grát đến bờ tây hồ La-đô-ga chạy ngay cạnh, và khi máy bay của phi đội hạ cánh, thì tiếng động đầu tiên dưới đất chào họ, là một tiếng còi tầu. Lu-nin đã từ lâu không nghe thấy tiếng ấy. Nó có cái vẻ thanh bình làm dịu tâm hồn anh như một liều thuốc an thần.

        Họ tưởng được tham gia chiến đấu ngay. Nhưng ngày lại ngày vẫn không có trận đánh nào. Bộ tư lệnh như cốt lo sao để không cho địch biết là một trung đoàn đầy đủ và trang bị máy bay kiểu mới nhất đã tới. Các máy bay được cất giấu kỹ ở mép rừng, và người ta chỉ sử dụng từng nhóm nhỏ, không bao giờ quá hai tiểu đội một lúc.

        Trời vừa hé sáng, Lu-nin cắt lượt cho các phi công cất cánh để họ quen phương hướng. Bản thân anh thì lấy Ta- ta-ren-kô hoặc Kô-stin đi theo. Tiểu đội cùng đi, thì có khi là cặp Ka-ri-a-kin, Ri-a-bu-skin, có khi là cặp Kla-mê- tốp, Di-ga, có khi là cặp Kút-nét-sốp, O-strô-sa-blin. Và họ bay một chặng dài.

        Mỗi lần bay, họ trông thấy Lê-nin-grát. Ngay cạnh trường bay đã là ngoại ô thành phố. Chỉ có Lu-nin và Kút- nét-sốp là đã biết Lé-nin-grát. Do đó bọn trẻ ngắm cái thành phố nổi tiếng ấy một cách tò mò và thèm thuồng. Cái mà họ chú ý nhất là cái vĩ đại của thành phố. Lê- nin-grát nằm trong một khoảng đất phẳng có những dòng sông uốn khúc, và ngay khi trời quang, bay cao cũng không thể nhìn bao quát được hết. Mà trời quang lại hiếm. Thường thường, thành phố chìm trong sương rung rinh của tháng chạp, và trồi ra những ngọn tháp, những hình mũi tên, những hình vòm và những ống khói.

        Họ muốn bay trên thành phố lắm... Nhưng chưa hể có nhiệm vụ đi tới. Họ hướng mũi về những cánh rừng phía nam, về phía khu vực mặt trận chạy theo bờ sông Nê-va. Đến ngay trên sông thì họ ngoặt về tay trái, vê phía đông, và bay theo chiến tuyến ta mãi đến chỗ sông Nê-va ra khỏi hồ La-đô-ga.

        Họ quan sát hai bờ thấp có rừng bao phủ. Dưới màn tuyết, hai bờ như không có ai ở, trừ mấy làn khói nhỏ từ đó đây bốc lên. Các phi công dần dần quen thuộc với chiến hào, với hầm, với những dàn pháo ngụy trang, những giao thông hào chằng chịt, những cứ điểm và lô cốt. Họ hiểu rằng khoảng đất xới lộn tung lên và giống như là cái tổ ong ấy, đã chứa một lò người dưới bóng cây rừng. Trong khu vực nay, mặt trận yên tĩnh từ hơn một năm, và hai đạo quân đủ thời gian để độn thổ kỹ. Ngăn cách, chì có một con sông; mấy dải nước còn lại, và ngày càng co hẹp dần, và một cầu băng càng ngày càng rắn chắc đã nối hai bờ.

        Sau khi lượn một vòng trên di tích tàn phá của pháo đài Sluýt-sen-bua, các máy bay lại về trường bay bằng con đường cũ. Rồi khi các phi công đã quen với hai bờ sông Nê-va, thì Lu-nin dẫn họ qua sông, bay trên vùng tạm chiếm.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Ba, 2019, 12:33:00 am

        Những cuộc xuất quân ấy đòi hỏi phải hết sức thận trọng. Mét-séc-mít thì hiếm, và bọn Lớp-táp nói chung ít hoạt động, nhưng cao xạ địch thì điên cuồng. Rõ ràng là có vô số dàn cao xạ đã phân chia bầu trời ra từng ô. Sự phân công thật là hoàn toàn. Kỹ thuật xạ thủ của chúng không chê được, và những mảnh nổ đầy trời buộc phi công ta phải bay rất cao và luôn luôn tìm cách lẩn vào mây. Trò chơi thật nguy hiểm. Mỗi lúc, Lu-nin sợ mất máy bay và phi công: bị hạ trên tuyến địch, thì phi công không còn cách nào thoát. Nhưng bộ tư lệnh muốn mỗi người đều thuộc lòng bờ bên trái sông Nê-va, và những cuộc bay từng nhóm nhỏ tiếp tục không ngừng.

        Vào giữa tháng chạp, trên giao nhiệm vụ thám thính cho phi đội. Ta-ra-rắc-xin xin nhận lệnh trực tiếp từ bộ tư lệnh, và trung đoàn lấy việc đó là một vinh dự lớn lao. Bay thám thính cần một sự thận trọng gấp mười lần bay thường, vì dù khi máy bay có bị phát hiện, thì cũng không được để địch đoán biết mình quan sát mục tiêu nào - đường sắt, cầu, hay dàn pháo di động. Phải có khi bay đôi, có khi bay một người, để địch không chú ý. Phải lẩn trong mây cho đến tận mục tiêu. Ra khỏi mây trong chớp nhoáng, rồi lại phải nhanh chóng biến vào mây mù để báo kết quả quan sát về bằng vô tuyến điện. Để kiểm tra những kết quả của bản thân mình, người phi công phải quan sát mục tiêu từ khắp các phía. Nếu có cái Mét-séc-mít nào, hoặc nếu cao xạ địch dữ quá thì lui một lát rồi trở lại ngay lập tức.

        Trời u ám là trở ngại chính cho các cuộc bay như vậy. Vào cuối tháng chạp, dưới vĩ tuyến 60 thì ngày chỉ sáng được ba bốn giờ, mà cũng không bao giờ là sáng thật. Trong cái hoàng hôn bất tận ấy, từ cao nhìn xuống mặt đất phủ tuyết như một cánh đồng trắng xoá, lấp ló bóng rừng và bóng công sự. Phải có con mắt thật tinh tường mới nhận được đường. Và Lu-nin phải tự đả thông cho mình khá mau là anh không còn giá trị gì trong việc thám thính.

        Lúc đầu anh tưởng vẫn nhìn được rõ như hồi niên thiếu. Nhưng đi công tác về, anh khổ sở khi nghe chính mồm Ta-ra-rắc-xin thuật lại rằng: những tài liệu của anh không làm bộ tư lệnh hài lòng. Anh đã nhìn những cái mà ai cũng nhìn thấy, những cái mà người ta đã biết trước anh, và về việc này thì chẳng có nghi khí quan sát nào có thể giúp anh được đôi chút. Có lẽ không phải chỉ là vấn đề tinh mắt, mà là cái khả năng quan sát thiếu. Dù sao, anh phải công nhận khá mau là trong cái loại biểu diễn ấy, anh không thể địch nổi bọn trẻ.

        Về mặt này thì nhất có hai người: Ta-ta-ren-kô và Kút- nét-sốp. Kút-nét-sôp còn hơn cả Ta-ta-ren-kô. Không phải là Ta-ta-ren-kô chịu nhường cương vị nhất đó một cách thoải mái. Nhưng cuộc thi tài không kéo dài nổi. Người ta gần như thấy rành rành cái khả nàng kỳ lạ của Kút-nét-sốp về thám thính. Bộ tư lệnh ghi nhớ tên anh. Và mỗi nhiệm vụ quan trọng là trên yêu cầu phải giao cho Kút-nét-sốp.

        Phi đội 2 đóng trong một căn nhà gỗ. Lập tức nó dược đặt tên là nhà phi công. Mỗi chiều, sau bữa cơm, các phi công tụ tập ở đó, và ngồi trên mép giường, họ viết thư, đọc sách, hay chơi bài "cẩu", quật rất mạnh con bài xuống bàn để ra cái vẻ "tay đi biển" lão luyện.

        Buổi tối kéo dài và yên lặng. Một đoàn xe lửa tiếp tế từ hồ La-đô-ga ầm ầm tới. Rồi im lặng lại bao trùm, một sự im lặng hoàn toàn đến nỗi người ta có cảm giác như ở dưới đáy biển.

        Chẳng ai bị mắc lừa vì cái màn yên tĩnh ấy: những sự việc đang được chuẩn bị; người cũng chuẩn bị. Bước ngoặt lớn không còn xa; và họ say sưa phát hiện từng triệu chứng nhỏ. Là phi công, nên họ nhạy cảm nhất với các biến đổi trong không chiến: Mét-séc-mít gần như biến hẳn, và hoàn toàn vắng bóng oanh tạc địch. Có phải là bọn Đức phải công nhận ưu thế của những khu trục Xô Viết kiểu mới mà đành nhường vai chủ không trung chăng? Chẳng ai tin như vậy? Vậy thế nghĩa là gì?

        Ở nhà phi công, Kô-stin không ngừng đặt giả thuyết:

        - Bọn Đức vẫn chiến đấu bằng những khu trục cũ như hồi mới chiến tranh, mà ta thì đã hoàn toàn thay đổi trang bị. Kỹ nghệ ta đã vượt chúng về điểm ấy, và ta đã có ưu thế. Nếu bọn Đức muốn tiếp tục giao chiến trên không, thì chúng còn phải làm gì? Phải có gì thay thế cho bọn Mét-séc-mít. Chúng ta không lâu sẽ biết mặt những máy bay mới của chúng.

        Cử tọa hiểu bạn đang nghĩ đến loại máy bay gì của địch. Người ta đã biết cả tên chúng: Phôc-un-phơ 190. Nhưng nếu chúng đã xuất hiện chớp nhoáng trên các mặt trận xa xôi miền nam, thì ở khu vực Lê-nin-grát lại chưa hề ai trông thấy chúng. Mọi người hỏi Kô-stin.

        - Chúng thế nào? Mạnh hơn Mét-séc-mít rất nhiều phải không?

        - Tất nhiên! Nếu không thì địch cho ra làm gì?

        - Hơn về gì? Về tốc độ? Về vũ khí? về sử dụng lẹ làng?

        Kô-stin không rõ gì hơn các bạn. Ta-ta-ren-kô nói:

        - Việc quái gì phải dặt giả thuyết. Hạ cái đầu tiên là khắc biết.

        - Thì còn phải hạ chứ!

        - Cậu cứ yên trí...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Ba, 2019, 06:20:40 am
        
IV

        Vào đầu tháng chạp, Sô-ni-a lợi dụng vài giờ rỗi ghé qua nhà. Cô muốn xem nhất là có thư hay không. Từ lâu, Sla-va không viết, và điểu ấy làm cô lo ngại.

        Tròi tối. Hơi có tuyết. Lẫn với bụi, tuyết khô và lác đác quay lốc trên mặt hè. Sô-ni-a quàng trên bộ áo xanh một cái măng tô cũ cộc gần đến gối. Càng đến gần nhà cô càng rảo bước. Đến cổng, thì gần như chạy.

        Sân im lìm vắng vẻ. Một chiếc ôtô đợi dưới cầu thang nhà đồng chí Sa-ra-pốp. Sô-ni-a nghĩ: "Chắc có U-va-rốp đến". Cô không thích đến chỗ Sa-ra-pốp khi có người, sợ phiền đồng chí. Nhưng cô nhất định phải tìm xem có tin gì của Sla-va. Và cô vào.

        Trong buồng đầu, gần lò sưởi đang cháy, đồng chí lái xe của U-va-rốp đang khoan khoái nghỉ xả hơi. Sa-ra-pôp vẫn ở cái bàn quen thuộc, dưới ống lò sưởi, với cái vẻ bận rộn và trang nghiêm mà đồng chí vẫn thường trương ra mỗi lần có chính ủy đến thăm. Có tiếng người nói từ buồng U-va-rốp, Sa-ra-pôp vừa thoáng thấy Sô-ni-a đã nói:

        - Chăng có gì cả.

        Sô-ni-a không thể tin:

        - Thật chẳng có tí gì à?

        - Không có thư cho cô, - Sa-ra-pốp khẽ nhắc lại.

        Tất cả dáng điệu của anh chỉ cho biết là không phải giờ nói chuyện. Nhưng Sô-ni-a lo ngại quá không dứt ra đi được.

        - Thế là một tháng tôi không nhận được thư. Không biết có cái gì xảy ra với nó không?

        Mặt Sa-ra-pôp hơi dịu một chút, và anh nói rất khẽ:

        - Cô đừng lo. Chẳng xảy ra cái gì về nó cả; cô sẽ biết tại sao nó không viết thư.

        - Người ta gửi nó đi chỗ khác à?

        - Không... Thì tôi đã nói là cô sẽ biết tại sao mà.

        - Sao?

        Vừa lúc đó, có tiếng U-va-rốp gọi từ sau cửa:

        - Sa-ra-pốp!

        Sa-ra-pốp ra hiệu cho Sô-ni-a rút lui và đi vào buồng bên.

        Rõ ràng là không tìm hiểu được gì thêm. Sô-ni-a ra đi rất lo và quyết định lát nữa lại tới: Vì U-va-rốp đi rồi, thì Sa-ra-pôp chắc là nói nhiều hơn.

        Cô qua cái sân vắng vẻ và trèo lên cầu thang mà cô thuộc từng vết nứt của mỗi một bậc, và từng cái châm trên tường. Chẳng có gì thay đổi trừ ở cửa sổ tầng hai không còn kính nữa. Gió thổi hoa tuyết quay lốc, và một tấm thảm tuyết phủ lên đầu thang, không thấy lấy một vết chân người: các nhà đều vắng.

        Cô tới tầng 5 và tra khoá vào lỗ. Cái lưỡi khoá bị đẩy với tiếng cắc quen thuộc. Cô đứng sững trên ngưỡng cửa: buồng ngoài có ánh sáng mơ mờ.

        Lúc đầu cô tưởng là có ai... Không, đèn thắp trong khi cô đi vắng, và có lẽ thắp từ lâu: từ mùa thu, người ta lại có điện. Cá mùa đông năm ngoái điện đã phải cắt trong khắp thành phố.

        Trong nhà, hãy còn khá nóng: tường chưa kịp giá lạnh. Nhưng cái cảm giác ấm ấy chỉ là dối trá, và Sô-ni-a biêt là chỉ mười phút sau, tay chân sẽ bị cóng. Cô lập tức dóm lò bếp - cái lò gang mà ông đã chết cạnh đó. Lửa bùng lên ngay với tiếng reo êm ái, và ánh lửa rập rờn trong lòng xoong.

        Sô-ni-a cỏi áo măng tô, ngồi trên ghê đẩu và duỗi chân về phía lửa. Một cảm giác buồn buồn và êm dịu xâm chiếm người cô. Bóng tối chiều đông qua kính mờ, tiếng lửa reo, trần nhà, mấy bức tường, vết sơn lở trên cánh cửa, cái gì cùng gợi nhố tới mẹ, tới ông, tới Sla-va...

        Một lúc đã thấy ấm, cô đặt một ấm nước lớn lên lò để giặt và rửa. Trong khi đợi nước nóng, cô quyết định vào buồng mẹ xem có cái áo nào mặc trong bộ áo xanh được không.

        Cả một năm qua, từ khi dọn ra ở ngoài bếp với ông và Sla-va, cô chưa vào buồng đó. Đụng phải ghê - giấy xanh phòng thủ làm các buồng bỏ không luôn'luôn tối - Sô-ni-a qua buồng ăn, vào buồng mẹ và vặn đèn: một ánh đèn mờ mò trên trần dọi ánh sáng vàng nhạt vào tường.

        Cái sân khấu múa rối vẫn ở trên bàn, cạnh chiếc ghê nằm nhỏ mà Sô-ni-a đã ngủ gần cả cuộc dời cũ. Và các núm kền ở thành giường lấp lánh ánh quen thuộc...

        Có ai lặng lẽ động đậy. Sô-ni-a rùng mình. Gần tường một thiếu niên mảnh dẻ đang nhìn cô. Cô phá lên cười: chi là bóng cô trong cậi gương to.

        Cô chưa soi gương cả người từ lâu quá, đến nỗi suýt không nhận ra mình nữa. Hay là tại cái ánh sáng rriò mờ? Cô gái trong gương không đến nỗi khó coi quá, và bộ áo xanh không làm cho xấu quá như cô vẫn tưỏng. Cô đi sát lại để ngắm cái mặt gầy đi, như là mới trông thấy nó lần đầu. Rồi cô ra phía tủ.

        Những quần áo treo ờ đó gợi nhớ đến người quá cố nhiều quá làm cô không dám mó tới. Cái này là cái áo len cũ mẹ mặc khi làm bếp. Cái này là cái áo màu tro mới tinh mẹ mặc đi dạy học; cô mặc vừa quá, cái áo có vẻ xinh quá; mà mẹ mặc chưa được sáu tháng!... Cái này lá cái măng-tô giả da rái cá cạnh cái áo đen lễ phục mà mẹ mặc khi đi VỚI ba đến viện Bác học ngày 31 tháng chạp... Còn những yếm, những áo choàng... Cái gì mẹ cũng tự tay xếp dọn, mỗi cái áo đều như đợi mẹ. Chẳng mó tới cái gì? Sô-ni-a cúi tìm trong xó chiếc áo len trắng có cổ. Áo đó, gần như chẳng bao giờ mẹ mặc. Một hôm, run lên vì rét trong hầm, Sô-ni-a đã quyết định tìm ra bằng được cái áo đó. Đầy mùi long não lẫn mùi nước hoa kín đáo, cô thăm dò đáy tủ mà không tìm ra. Cái vải đến mát tay này là cái gì đây? À, cái khăn san của mẹ.

        Đã năm năm nay Sô-ni-a chưa hề trông thấy nó... Mẹ chẳng hề dùng vì mẹ sợ những mầu sặc sỡ. Sô-ni-a lấy cái khăn san ra khỏi tủ và đem ra chỗ sáng nhìn. Nó lấp lánh làm sao! Nét vẽ đẹp làm sao! Cô cầm vào một góc, và chiếc khăn toả rộng. Rồi cô giơ hai tay lên. Chiếc khăn toả bao lấy cô như một đám mây.

        Sô-ni-a lại gần gương. Dáng mình lịch sự làm sao! Như một vũ nữ trong tranh "giếng Bác-sít-sa-rai”! Đứng trên đầu ngón chân, cô lướt một điệu vũ xoay tròn, và cái khăn san tung bay. Cô cúi chào, vươn người lên, và bước: mỗi động tác như một điệu vũ ba lê. Cô có cảm giác như cái vải nhẹ mầu rực rỡ đó làm mặt cô thêm đặc sắc và cái màn bạc mơ hồ ấy thật trùng hợp với mái tóc nâu! A, như vậy lên sân khấu, thảng người đi đến chỗ "vai nhắc"... Cô cau mày, và đôi mắt long lanh một ánh sâu thảm; cô mỉm cười; hàm răng và đôi mắt toả hào quang...

        Đúng lúc ấy thì trong cải im lặng của gian buồng không người, có tiếng sắt của lưỡi khoá. Ai mở cửa vào. Sô-ni-a đứng sững, kinh ngạc. Ai vậy? Cô không có thì giờ suy nghĩ: tiêng chân người lại gần. Một tiếng nói mà cô đã quen quá cất lên:

        - Chị ấy có nhà!

        Và cửa buồng mở toang. Sô-ni-a kêu lên, cổ họng tắc lại vì cảm xúc:

        - Sla-va đấy à!

        Sla-va đu vào cổ gần muôn xô ngã chị. Ngạt thở vì Sla-va ôm chặt và không thoát ra nổi cái khăn san. Sô-ni-a kêu lên từng tiếng đứt quãng:

        - Sla-va! Mày khác quá! Nhớn quá! Gần đến lông mày chị rồi. Nhưng bỏ chị ra một tí, mày làm chị ngã bây giờ! Cho chị nhìn nào! Mày còn ở đây lâu chứ? Ở mãi chứ? Tại sao không viết thư?

        Sau cùng cô thoát khỏi cái khăn san và hai cánh tay Sla-va. Nó lại múa may xung quanh chị và giải thích:

        - Em đem cá mòi cho chị đây này!... Lĩnh ở trung đoàn... Bây giờ em ở một trường bay khác... cả trung đoàn đã qua hồ... Chị có biết là em đi bằng máy bay Đu-gơ-lát... Gần đây lắm... Đến đây chưa quá một giờ... Đả lâu chị chưa ăn cá mòi phỏng?...

        Sô-ni-a không nghe nữa: cô vừa nhận thấy một người lạ đứng trên ngưỡng cửa nhìn cô. Một người đã đứng tuổi, khá mập, cao vừa vừa, mặc áo ca-pốt đen, cái mặt tròn khá thông thường. Anh cầm trong tay cái mũ lông đen, ánh đèn chiếu vào cái trán bắt đầu hói và anh nhìn Sô-ni-a cười ngượng nghịu.

        Sla-va như bất thình lình nhớ đến sự có mặt của người ấy và kêu lên:

        - Chị Sô-ni-a, đồng chí thiếu tá Lu-nin đấy!


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Ba, 2019, 06:22:16 am

V

        Sô-ni-a chẳng giống tí nào với cái hình ảnh mà Lu-nin tưỏng tượng. Nghe chuyện Sla-va, anh tưởng cô lớn tuổi hơn nhiều. Nhưng chỉ là một cô gái bé, gần như trẻ con, như thằng Sla-va! Anh cũng không ngờ tới cái khăn san sặc sỡ không phù hợp với cái quần đàn ông ấy, với cái trán trong trắng kia, với đôi mày nâu xinh xinh, với bộ mặt sáng sủa đầy vui mừng. Và những cái tìm ra phong phú ấy làm anh bàng hoàng.

        Khi Sla-va nói tên anh thì Sô-ni-a đỏ bừng mặt và reo lên:

        - Tôi không tưởng tượng đồng chí như vậy!

        Cô thốt ra câu nói không suy nghĩ, và da mặt từ hồng lập tức sang mầu đỏ sẫm, làm cho Lu-nin càng ngượng nghịu.

        Sla-va sốt ruột muốn cho chị nếm mùi cá mòi đem từ trường bay tới. Mọi người xuống bếp. Ở đó nước đang sôi. Sô-ni-a làm cá, pha trà, cắt bánh ra từng khoanh lớn. Ngượng nghịu đã hết cô gần như không còn ngại nhìn Lunin. Cô rải lên bàn một cái khăn trắng tinh: dù sao cũng không thể để ăn trên một mảnh báo... Cô thấy cá mòi ngon tuyệt, và không giấu ý nghĩ đó. Cô nài ép Lu-nin cũng phải ăn. Nhưng thiếu tá nói là chỉ khát. Và qua làn khói nước chè, anh ngắm đôi chị em. Họ không giống nhau. Tóc vàng hoe, mắt xanh, da trắng, Sla-va giông bố. Còn Sô-ni- a tóc nâu, mắt huyền thì giống mẹ và ông như tạc. Cô chỉ thừa tự cái vóc của người cha. Nếu không biết trước, thì không đoán ra được là hai chị em. Nhưng, nhìn gần hơn nữa, thì thấy những nét chung. Lu-nin thấy Sô-ni-a có chỗ giống Sla-va, cái giống nhau giữa hai người cùng máu mủ. Như tiếng nói, kiểu nói, cái cười, đường nét rắn rỏi của vừng trán và cái mũi...

        Thoạt tiên Sla-va và Sô-ni-a ham món cá mòi quá, quên cả nói chuyện. Đến khi nói, thì Sô-ni-a tỏ ra nhiều lời gần bằng Sla-va.

        Chuyện nhát gừng. Sla-va tả hàng ngàn chuyện về phi đội, về không chiến, về cuộc hành trình trên Đu-gơ-lát về cảnh đêm trên hồ La-đô-ga. Nỏ gọi các phi công bằng tên cái, và bỗng nhiên hỏi:

        - Đôi giầy trượt băng của em, chị làm gì rồi?

        Sô-ni-a ngắm kỹ quần áo cậu em, đưa ý kiến là trong cái quần dạ thô ấy thì phải ấm lắm, nhưng kết luận bằng một câu tuyên án:

        - Dù em có mặc quân phục Hải quân thật, nhưng vẫn quên rửa tai...

        Sla-va bĩu môi và chỉ cãi lại:

        - Vớ vẩn!

        Tuy vậy lời nhận xét không làm nó giận chút nào. Nó đoán là bộ quân phục, cuộc sinh hoạt của nó ở trung đoàn và sự quen biết Lu-nin làm Sô-ni-a phải kính phục. Và cu cậu hãnh diện về cái đó.

        Sô-ni-a liều nói vài câu vụng về để cảm ơn Lu-nin đã săn sóc đến Sla-va. Nhưng mỗi lần nói, thì đồng chí thiếu tá có vẻ khổ sở quá, gần như giận, làm cô ấp úng. Không muốn cô trở lại vấn để này, anh hỏi thăm về cuộc sống của cô. Cô nói chuyện về đội Công-sô-môn. Câu chuyện làm anh bàng hoàng kính phục. Chuyện cứu tế nạn đói, chuyện cứu trẻ con sơ sinh, chuyện cái vườn rau, chuyện dỡ các nhà gỗ, cái gì đôi với anh cũng như chuỗi việc lớn kỳ lạ, và anh không ngừng hỏi chi tiết để tìm hiểu rõ hơn. Sô-ni-a sẵn sàng trả lời nhưng cộc lốc quá... Cô thấy cuộc sống và công tác ấy rất tầm thường, và cô không hiểu sao lại có thể làm một đồng chí thiếu tá cận vệ phải chú ý. Cô chỉ trở nên hùng biện khi nói tới vấn đề mà cô say sưa: là việc hàn sì các ống nước. Lu-nin nói:

        - Bây giờ trung đoàn gần đây, Sla-va mỗi tuần có thể đến thăm cô. Cô cũng phải đến thăm chỗ chúng tôi một tí chứ.

        Sô-ni-a ngạc nhiên:

        - Có thể được sao?

        - Có thể thu xếp được.

        Thằng Sla-va nói rõ thêm, dáng trịnh trọng:

        - Nếu đồng chí thiếu tá đã nói, thì khắc là được. Tất nhiên người ta không cho chị đến gần máy bay, nhưng chị vẫn có thể xem nhà các phi công ở. Em sẽ giới thiệu tất cả các bạn của em - Ta-ta-ren-kô, Kla-mê-tốp, Ri-a-bu- skin...

        Mọi người quyết định là Sla-va ngủ lại đêm ở đó và sáng mai tự tìm cách về trường bay bằng xe điện số 10 rồi đi bộ. Sô-ni-a quyết định ở lại nhà với nó. Lu-nin phải về ngay trường bay. Đáng lẽ anh đi từ lâu, vì còn muốn làm một vòng trong thành phố đã gần một năm chưa nom thấy. Nhưng anh còn mải nghe đôi trẻ bi bô nói chuyện.

        Cuối cùng anh đứng dậy, và cầm lấy cái mũ lông. Đi giữa Sô-ni-a và Sla-va, anh qua buồng ngoài và vừa mở cửa thì một quả đạn đại bác bay rú qua nhà và nổ gần sát.

        Sla-va nắm lấy tay trái Lu-nin. Sô-ni-a nắm lấy tay phải và nói:

        - Chúng nó oanh tạc Đồng chí đừng ra vội! Đợi hết đã.

        Hai chị em không rời Lu-nin. Hai quả đạn nổ thêm, hơi xa một chút.

        Rồi hết tiếng rú và chỉ còn những tiếng nổ xa... Vì đã quen tai, nên Sô-ni-a giải thích:

        - Bây giờ chúng bắn vào khu phố Vi-bo. Hãy đợi. Chúng sẽ lại bắt đầu.

        Nhưng Lu-nin nhẹ nhàng gỡ tay, và ra đi.

        Gió thổi luồn vào các phố thẳng làm bốc những cuộn tuyết nhỏ. Lu-nin thở không khí lạnh một cách khoan khoái... Sô-ni-a như vậy đó - giản dị, thực thà, đầy cái tươi mát của tuổi xanh. Cô gợi nhớ đến Li-da làm sao! Không phải Li-da những năm cuối cùng mà Li-da của thời kỳ chưa cưới...

        Sô-ni-a không giống Li-da nhưng khi anh mới biết thì Li-da cũng vừa đến tuổi. Và buổi gặp gỡ tình cờ với Sô-ni- a khuấy động trong người anh một thế giới hình ảnh cũ. Anh lại thấy cái cảm giác bồng bột ngày xưa... Tất cả những cái ấy là quá khứ rồi sao? Anh đã hành động theo lẽ phải... Biết đâu?... Không! Dù lỗi ở anh thì sửa chữa cũng chậm quá rồi, không thể trở lại việc đã làm... Thật không còn hy vọng gì nữa ư? Tại sao anh luôn trông thấy đôi mày cong của Sô-ni-a, và cái cười măng trẻ? Tại sao anh vẳng nghe thấy mãi âm thanh của tiếng nói?

        Anh bước từng bước dài, không hiểu là đi đâu. Ở ngoài trời, tiếng đạn nổ có vẻ dữ dội hơn. Anh không để ý. Anh muốn lợi dụng những giờ này để dạo chơi thành phố; nhưng óc nghĩ miên man anh chẳng nhìn đến cảnh. Anh đã đến gần giữa chiếc cầu trước Điện thì một quả đạn réo qua đầu.

        Như Sô-ni-a đả báo trước, bọn Đức lại bắt đầu oanh tạc về mé Ngân hàng, dinh Thuỷ sư đô đốc và vườn Cơ-rông- stát; chắc là chúng dùng mũi tên của pháo đài Pic và Pôn làm chuẩn. Những quả đạn đầu tiên rơi xuống sông Neva, giữa pháo đài và Điện mùa Đông, làm bốc lên từng cuộn nước khổng lồ. Sông chưa đóng băng.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Ba, 2019, 02:14:01 am

        Trên cầu, chỉ có một người đàn bà, cách chừng năm mươi thước về đằng trước. Chị rảo bước, quay đầu lại xem có ai nhìn mình không, thấy Lu-nin thì cô giữ mình cho khỏi chạy. Nhưng chiếc xe điện vào cầu thì phóng với tốc độ điên rồ để mau ra khỏi vùng nguy hiểm.

        Hoàn toàn vắng vẻ, khoảng trống trước Điện như rộng thêm ra. Sau khi qua vòm "Tổng Hành Dinh", Lu-nin đến mỏm Nê-vơ-ski. Ngay ở đây, ở giữa thành phố, mà người qua lại cũng hiếm. Dưới một lượt tuyết mỏng, các lề đường như rộng mênh mông. Xe hơi - nhất là xe ca-mi-ông quân sự - phóng hết ga, qua ngã tư cũng không phanh.

        Năm ngoái, ngoài phố nhiều người hơn, nhưng chỉ là những bóng ma lết không nổi. Những người mà Lu-nin gặp hôm nay có vẻ tất tả, không chú ý gì đến tiếng đạn nổ, hay tiếng chuông xe điện. Mặc dù có những toà nhà vỡ toác, những mặt nhà đầy vết bom đạn, những nhà hình vòng cung cháy sém khói của Mậu dịch, thành phố vẫn giữ được tư thế.

        Lu-nin quay vào Li-ti-ê-ni và hiểu rằng đôi chân muốn dẫn anh đến đâu - đến khu phố của Li-da. Li-da không còn ở đó; căn nhà đã bị tàn phá; nhưng nhất định anh phải xem lại nơi này. Anh vào phố Pé-sten, đi qua nhà bào chế Túp, ra phố Mô-khô-vai-a, và đứng dừng mấy phút trước toà nhà trống rỗng như vẫn còn y nguyên.

        Rồi anh đi lang thang. Cũng như năm ngoái, anh ra bờ sông Fông-tăng-ka và lại trông thấy dàn cao xạ ngụy trang dưới cành lá "Vườn mùa hạ". Chính ở đó, anh đã đuổi kịp người đàn bà, anh đã cho chị chỗ bánh dành cho bà mẹ Li-da...

        Bây giờ thì chị ta ở đâu, cái chị mà anh không còn được tin sau khi từ biệt ở Kô-bôn? Bọn trẻ con có sống sót được không?

        Anh nhớ đến bà cụ An-na Stê-pa-nô-vơ-na người đã từ chối không đi. Bà cụ còn sống không? ít hy vọng lắm. Hay là đi tìm bà cụ? Không, đến nhà cũng chưa chắc còn nhận ra được. Tuy vậy anh cũng vào phố Mai-a-kốp-ski và tìm thấy nhà khá dễ dàng. Anh lên thang, bấm chuông, gõ cửa, nhưng chẳng ai mở.

        Anh đứng một lúc trên đầu thang và chậm chạp đi xuống, lòng không dứt nổi kỷ niệm xưa. Cửa dưới kẹt mở. Anh nghe thấy tiếng đi nhẹ. Có ai lên thang.

        - Cụ An-na.

        - Chào đồng chí Lu-nin. Ta lại gặp nhau! Tôi nhận ngay ra đồng chí! Vào đây, vào đây. Tôi không buông đồng chí ra đâu.

        Bà cụ đẩy Lu-nin vào. Cái buồng trống rỗng, các cửa đều đóng. Cụ An-na sống trong bếp. Bếp ấm và rất ngăn nắp. Để Lu-nin ngồi cạnh bàn, cụ nhóm lò với cái dáng lanh lẹ không ngờ được ở tuổi ấy, đặt ấm nước, rửa đôi bàn tay rắn rỏi, sần sùi, và không ngừng nói chuyện. Mỗi lúc cụ lại nhắc lại câu: "Ở chỗ chúng tôi, trong nhà máy..."... Lu-nin hỏi:

        - Cụ độ rầy thế nào?

        - Như thường. Tôi công tác.

        - Cụ công tác? Đã lâu chưa?

        - Từ mùa xuân vừa rồi.

        - Cụ làm ở đâu?

        - Ở nhà máy.

        - Nhà máy gì?

        - Bí mật.

        Bà cụ nhìn Lu-nin, cái nhìn đầy bí hiểm kiêu hãnh.

        - Cụ làm gì ở đấy?

        - Vũ khí, nhưng tôi không thể nói cho đồng chí biết là vũ khí gì, vì là bí mật.

        Bà cụ nói chuyện về những người cụ gặp trên xe điện đi làm việc và kể lại những câu nói của họ. Cho đến ngày chiến tranh, cụ chỉ sống trong khu phố. Bây giờ thì cuộc hành trình dài ra tới ngoại ô, đối với cụ, có cái hấp dẫn của một cuộc viễn du lớn.

        Lu-nin không thể có ý nghĩ rằng bà cụ An-na cổ xưa bây giờ lại chế tạo vũ khí. Anh hỏi:

        - Đúng việc của cụ là gì?

        - Công tác lau.

        - Lau gì?

        Bà cụ bằng lòng giải thích:

        - Các cỗ súng đại bác đầy dầu mỡ, vậy nên tôi phải lau bằng giẻ.

        Bà cụ pha trà và rót vào hai tách. Lu-nin móc trong túi ra một mẩu bánh bọc trong giấy. Nhưng bà cụ bất bình.

        - Chỉ còn thiếu cái nỗi ấy! Bây giờ không ai đem bánh đi thăm bà con nữa. Cái thời ấy đã hết rồi.

        Có đường trong nước trà. Bà cụ đặt bánh kê rán lên bàn và nhất định bắt Lu-nin phải nếm thử. Vừa ăn, cụ vừa kể là cụ không tài nào ăn hết khẩu phần của cụ.

        - Năm ngoái, tôi quên cả việc ăn. Trong bụng nó khô héo đến nỗi chỉ một đầu mẩu bánh là đủ hết đói cả ngày. Còn lại đâu tôi mang cho bà Toóc-ku-nốp, cái bà ở phô Ba- skốp với đứa con gái bé. Để cho đứa trẻ...

        Rồi cụ đột nhiên nói sang chuyện khác:

        - Chị Ma-sa trong thư nào cũng hỏi xem tôi có gặp đồng chí Lu-nin không, cái đồng chí bộ đội đã cứu chị và hai con chị.

        Lu-nin hỏi:

        - Chị ấy viết thư cho cụ à?

        - Có.

        - Chị ấy độ rầy thế nào?

        - Như thường thôi. Đầu tiên, chị ấy ốm nhiều, cả con bé I-ri-nô-ska. Nhưng bây giờ thì khá. Tôi sẽ nói là đồng chí có đến, vì chị ta thư nào cũng hỏi. Tôi biết rõ là chị ta còn muốn biết có ai khác nữa đến không, hoặc viết thư cho chị không? Nhưng chị ta không dám hỏi. Người ấy không còn lại nữa, không còn viết thư nữa, phải không nhỉ. Chậm quá rồi. Nếu anh ta không chết, thì chắc là anh ta đã có người khác.

        Lu-nin hỏi:

        - Chị Ma-sa nay ở đâu?

        Cụ An-na kể lại là hồi xuân hạ Ma-sa ở I-a-rô-sláp, ở đó có một bệnh viện cho dân Lê-nin-grát tản cư. Ba mẹ con khi xuống tầu hoả thì gần chết. Chị ta ốm lâu, rồi phục hồi lại và viết thư cho ông hiệu trưởng trường chị dạy học trước kia. Trường ở U-ran. Ông hiệu trưởng gọi chị về vào tháng tám, và chị làm việc ở đó từ ngày khai trường tháng chín.

        Cụ hỏi:

        - Đồng chí có muốn viết thư cho chị ấy không? Tôi đưa địa chỉ cho.

        - Viết làm gì? Cụ viết thôi. Cụ nói giúp tôi có lời hỏi thăm... Và cảm ơn chị đã không quên tôi.

        Khi ra đi, anh hỏi bà cụ:

        - Cụ không cần gì chứ?

        - Hoàn toàn không cần cái gì hết. - Cụ rắn rỏi trả lời.

        Ngoài đường, trời đã tối hoàn toàn. Trời đen đặc. Những ngôi nhà cửa sổ đen ngòm chìm trong bóng tối. Chỉ còn lề đường thành một vệt trắng. Lu-nin qua cầu Li-tê-i- ni, và đến đầu khu phố Vi-bo thì tìm được một chiếc ca- mi-ông quân sự đồng ý cho anh lên. Vừa đúng lúc ấy, pháo địch lại bắt đầu oanh tạc về phía viện Quân y và ga Phần Lan. Tiếng nổ trong các phố vắng như vang dội hơn lên. Từng cuộn lửa rực trời. Xe ca-mi-ông lắc dữ. Lu-nin nghĩ đến Sô-ni-a sống hàng ngày trong các cuộc oanh tạc đó. Và anh biết là từ nay không rứt được nỗi lo ngại.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2019, 06:13:11 am

CHƯƠNG MƯỜI MỘT

CHỌC THỦNG CHIẾN TUYẾN ĐỊCH

I

        Trong những cánh đồng giữa sông Von-ga và sông Đông, việc tiêu diệt các binh đoàn Đức bị bao vây đang tiếp diễn. Trước hôm tết đầu năm một ngày, một thông cáo đặc biệt cho biết rõ về số phận của chúng. Ở mặt trận Bắc thì vẫn yên tĩnh như thường.

        Tuyết xuống. Các nhân viên phi trường hết sức chống đỡ với các đống tuyết mỗi ngày mỗi đùn lên trên các đường bay. Từng màn trắng đục ngăn cách Lu-nin và các phi công của anh với thế giới bên ngoài.

        Nhưng sự yên tĩnh ấy chỉ là giả tạo. Trong những cơn lốc tuyết, từng đơn vị di động, các dàn pháo chiếm lĩnh trận địa, một trận đại tấn công đang được chuẩn bị. Ai nấy đoán cái ngày quan trọng - cái ngày viết bằng chữ N hoa sắp tới.

        Ở chỉ huy sở trung đoàn, các phi công nghiên cứu tấm bản đồ Sta-lin-grát, mà Sác-ba-di-ăng vẫn lấy làm kiêu hãnh - và nói:

        - Lượt chúng ta cũng không còn lâu đâu.

        Và họ cho là một người biết nhiều tin như Ta-ra-rắc- xin không thể nào lại không biết cái đó nên họ túm lấy anh mà quấy rầy:

        - Bao giờ thế?

        - Sắp.

        - Nghĩa là bao giờ?

        Ta-ra-rắc-xin nháy mắt ra cái vẻ thạo:

        - Ngay sau khi nắng lên.

        - Đừng nghe hắn, hắn chẳng biết gì đâu...

        - Mà nếu hắn có biết, thì hắn cũng không nói đâu.

        Bão tuyết vẫn thổi. Đôi khi yếu đi vài giờ như mệt mỏi vì cái hung dữ của chính bản thân nó. Đầu tuần thứ hai của tháng giêng, mặt trời ló ra nhưng còn đục đến nỗi có thể nhìn không chớp mắt. Loé nắng không được bao lâu, rồi gió lại thổi, một cơn gió điên cuồng và sắc như dao cuộn lên từng đám lốc tuyết khô. Đầu mồng 10 thì gió cũng dữ dội đến tột độ. Các phi công phải khó khản lắm mới đứng vững được trên lối đi chật hẹp, lối đi mà họ nối đuôi nhau men theo để về nhà ngủ sau bữa cơm chiều. Trong buồng ngoài nhà ngủ, họ rũ tuyết trên người ầm ĩ hồi lâu, vụng về trong đôi giầy bốt lông trông như đàn gấu. Rồi họ kỳ cọ bộ mặt đầy tuyết, và kiệt sức nằm vật xuống giường. Dưới ánh đèn, người ta trông thấy những bông tuyết vướng vào lông mày họ đang tan ra. Căn nhà rung chuyển vì những đợt gió ào ào. Gió nhè nhẹ quét tuyết trên cửa kính. Gió rú điên cuồng trong ống lò sưởi làm át mọi tiếng khác.

        Giữa cơn gió bão ấy, thì trong nhà lại có một không khí thân mật êm ái. Một luồng hơi ấm tốt lành từ lò sưởi toả ra. Những con bài cẩu quật chan chát xuống bàn. Trên giường, người đọc sách, người viết thư và Kô-stin thì tranh luận về chiến thuật với Ta-ta-ren-kô một cách khoan thai. Anh lấy hai bàn tay giả định vị trí các máy bay tham chiến. Hơi mủm mỉm cười, Ta-ta-ren-kô nghe những suy luận thông thái của bạn, và giữa lúc bất ngờ nhất, thì đưa một cùi tay mà bác bỏ hết. Bao giờ tranh luận hắn cũng thắng, vì hắn biết tìm những chi tiết nhỏ sơ hở trong những giả thuyết của Kô-stin. Với những bài tính phức tạp mà Kô-stin nghĩ ra, hắn cho lại những giải đáp đơn giản lạ lùng. Hắn vung hai bàn tay, cười lớn với đôi hàm răng trắng khỏe... Thế là anh chàng kia chỉ có việc lập luận lại.

        Trong một góc, cách mọi người một cái giường bỏ không, Ka-ri-a-kin và Kla-mê-tốp ngồi dưới sàn đang chuẩn bị cho "Báo bay" số” mới. Họ không cho ai xem, trước khi làm xong hẳn. Anh chàng hội họa Kla-mê-tôp viết và vẽ; nhưng ý thì do Ka-ri-a-kin cung cấp. Đôi khi, họ trao đổi khẽ một vài câu, rồi lại lúi húi vào việc. Ka-ri-a-kin hay hát, - một chuỗi điệu hát không lời, khi u sầu, khi lôi cuốn. Có khi hắn cãi nhau với Kla-mê-tốp, làm cả buồng khoái chí. Chẳng hạn, khi hắn làm rớt mực trên giấy, bạn có bất bình nhận xét thì hắn lại cãi bằng cái câu cổ truyền:

        - Người ta dạy tôi thế đấy!

        Chiều ngày 11 tháng giêng, Prốt-cua-ri-a-kốp vào nhà ngủ của phi đội 2, đi sau là Éc-ma-kốp và Lu-nin. Các phi công vừa đi nằm, nhiều người đã lơ mơ ngủ. Nhưng vừa nhìn thấy Prốt-cua-ri-a-kốp thì mọi người hiểu ngay là cái giờ chờ đợi từ bao lâu đã tới.

        Prốt-cua-ri-a-kốp vào tận giữa buồng, cũng chẳng buồn rũ tuyết còn phủ trên đôi vai áo da rộng: Mặt đồng chí như bốc lửa. Đồng chí đưa tay làm hiệu là không cần đứng dậy.

        - Các bạn, có lệnh của Bộ Tư lệnh: sắp phá vòng vây!...

        Tất cả nhỏm dậy trên giường. Có tiếng người thốt ra:

        - Thế là đã đến lúc!

        Prốt-cua-ri-a-kổp nhắc lại:

        - Đúng, thế là đã đến lúc. Chúng ta ở đoàn Cận vệ. Các đồng chí còn nhớ lời thề chứ?

        Những tiếng thanh niên đáp lại:

        - Chúng tôi nhớ!

        Trong những người có mặt đây, không có ai đã dự buổi lễ trao cờ, nhưng cả bọn thuộc lòng lời thề. Prốt-cua-ri-a- kôp nói tiếp:

        - Chúng ta sẽ phá vòng vây, và Tổ quốc sẽ ngợi khen chúng ta. Sáng sớm mai bắt đầu.

        Prốt-cua-ri-a-kốp không biết diễn thuyết dài dòng và hầu như chưa hề làm việc đó bao giờ. Nhưng lệnh mà anh vừa nhận được làm anh cảm xúc quá không thể nhịn được mà không báo ngay. Anh còn vừa tranh cãi với Éc-ma- kốp, đồng chí này cho rằng chỉ nên cho các thợ máy biết trước, còn các phi công thì đến sáng sẽ hay. Y kiến rất hợp lý vì các đồng chí thợ máy phải làm việc suốt đêm, còn các phi công thì cần thiết phải ngủ. Nhưng Prốt-cua-ri-a-kốp cảm xúc quá không còn bụng nào quan tâm đến những cái tế nhị về tâm lý nữa, và anh nhất định phải báo cho các phi công biết ngay. Anh nói:

        - Với cái tuổi ấy, thì trước trận đánh vẫn ngủ như kéo gỗ.

        Sự việc đúng như ý anh. Sau khi anh về, thì lúc đầu chuyện còn nhộn nhịp. Nhưng nửa giờ sau, thì nhiều người đã thiếp đi, và sau một giờ thì cả buồng đều ngủ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Ba, 2019, 12:19:58 pm

II

        Sáng sớm, lúc trở dậy, mọi người lắng tai nghe xem còn bão không? Nhà vẫn rung lên dưới các luồng gió. Gió gào rú trong ống lò sưởi, và vừa bước ra hè, thì một cơn xoáy tuyết đẩy họ vào trong. Bão càng dữ dội hơn. Khi đi ra máy bay, họ chỉ có thể nói với nhau bằng cách gào to thật lực, và cách nhau năm thước là không còn nhìn thấy nhau nữa.

        Tuy vậy, tiếng đại bác như sấm dậy át cả tiếng bão rú.

        Chín giờ bốn mươi, hàng vạn khẩu đại bác khai hoả bắn vào các vị trí địch trên bờ nam sông Nê-va. Từ trường bay đến chiến tuyến, gần mười cây số. Nhưng sân bay như rung chuyển dưới chân họ. Tiếng nổ liên tiếp trong hai giờ, chỉ có khi lớn khi nhỏ tùy theo từng đợt gió.

        Mười một giờ bốn mươi, pháo tăng chiều dài tầm bắn. Từ một phi trường lân cận, người ta báo cho Ta-ra-rắc-xin là các máy bay Stuốc-mô-vi-ki cất cánh về phía sông Neva. Phi đội của Lu-nin được lệnh đi yểm hộ.

        Sác-ba-di-ăng nhẩy bổ ra khỏi chỉ huy sở, đầu trần, súng hiệu cầm tay. Nhưng trong cơn lốc tuyết bao bọc lấy anh, ngay lúc đó, anh sợ mọi người không trông thấy pháo hiệu. Không đội mũ, mớ tóc nâu đầy bông tuyết, anh chạy đến tận các máy bay và bắn pháo hiệu kề sát. Từng cái một các máy bay cất cánh và biến ngay trong màn sương trắng.

        Trên cao 100 thước thì bụi tuyết thưa hơn dưới đất và nhìn ngang được rõ hơn. Phi đội không thể lên cao hơn nữa: mây cao nhất là ở cao 150 thước, mà những chiếc Stuôc-mô-vi-ki phải yếm hộ thì chắc chắn không bay trên các tầng mây. Lu-nin còn sợ không gặp bọn họ và chăm chú quan sát chân trời. Đến chỗ đã định, bất thần họ trông thấy đội bạn thẳng trước mặt - một bầy máy bay to sụ thân gồ lên như giông bò rừng Trung cổ.

        Lu-nin trông thấy sông Nê-va, và đằng sau là một dải đen rộng mấy cây số. Giữa bể tuyết trắng, dải đen ấy có vẻ không tự nhiên: đó là vì pháo ta đã bắn trơ đất ra ở bờ Nam con sông mà men theo đó là những tuyến đầu của quân Đức. Bộ binh ta xung phong vào dải đen ấy. Tan lẫn trong mầu tuyết lốc, cái khối di động khổng lồ mang áo da lông và áo blu trắng nguy trang ấy, phủ kín lượt băng trên mặt sông từ bờ nọ sang bờ kia.

        Suốt cả ngày, các phi công thấy những con người ấy tiến về nam, khi thì như chạy thi, khi thì bò. Ngày tấn công đầu tiên, cả ba phi đội của trung đoàn đều ở trên không phận của chiến trường giải ra khắp thượng lưu và trung lưu sông Nê-va. Cứ 45 phút, các máy bay trở lại phi trường lấy xăng rồi lại bay đi ngay lập tức.

        Phần lớn thời gian họ yểm hộ Stuôc-mô-vi-ki. Và cả Lu-nin lẫn các phi công của anh chưa hề trông thấy nhiều máy bay loại này như thế. Các máy bay xung kích ấy chia cắt từng đoàn xe tăng địch, phá hủy ca-mi-ông, phá hủy cầu, diệt các tiểu đoàn bộ binh trên đường, đè bẹp các dàn pháo và mở trong hệ thống phòng ngự của địch từng lỗ hổng lớn đề bộ binh ta ào vào ngay tức khắc.

        Bọn Đức chống cự kịch liệt, bám chặt vào những đường hầm chi chít của chúng, bám vào mỗi cao điểm, mỗi ngọn suối, mỗi căn nhà. Chúng chống lại bước tiến của quân ta bằng một lưới lửa dày đặc. Chúng phản công hết lần này đến lần khác, cố đẩy bật bằng được bộ binh ta ra sông Neva. Nhưng chúng làm không nổi. Lực lượng của chúng bị hãm chặt, vì quân đoàn Von-khốp, cùng tấn công một lúc với quân đoàn Lê-nin-grát, đã đánh một trận kịch liệt trên bờ nam hồ La-đô-ga, trong khu vực Si-ni-a-vi-nô. Và địch không thể đem viện binh lớn tới, vì tất cả dự trữ đã ném vào phía sông Đông, phía bắc Cô-ca-dơ và đông U-cơ- en để tiếp viện cho các binh đoàn đang bị ta bao vây và tiêu diệt trước Sta-lin-grát. Chiều ngày đầu tiên, ta đã chiếm lĩnh trên bò nam sông E-va một đầu cầu dài hơn 20 cây số, rộng 5 cây.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Ba, 2019, 09:33:52 pm

        Có thể nói rằng không quân địch không tham chiến. Chẳng thấy một chiếc oanh tạc nào. Thỉnh thoảng vài chiếc Mét-séc-mít bay trên chiến trường không có vẻ gì hiếu chiến lắm. Vì điều kiện quan sát khó, nên gần như không có đụng chạm gì với khu trục ta, và sở dĩ phát hiện được chúng, chỉ là nhờ có tin từ các trạm quan sát dưới đất báo lên.

        Bọn Mét-séc-mít có nhiệm vụ ngăn cản không cho Stuốc-mô-vi-ki hoạt động. Nhưng nhiệm vụ quá sức chúng. Stuốc-mô-vi-ki có khu trục yểm hộ, mà Mét-séc- mít chẳng muốn đọ sức với các khu trục kiểu mới của ta. Chúng chỉ có thể ẩn núp vào mây mà quan sát từ xa đợi ta hở ra một tí là nhẩy vào.

        Vì thế nên Ri-a-bu-skin là người duy nhất trong phi đội bị tấn công hôm đó. Anh về trường bay, bay sau cùng phi đội. Trời gần tối; trời nhập nhoạng lại có bão nên nhìn càng khó, có lúc các máy bay đằng trước nhoè hết cả cạnh, như bị tẩy xoá. Và bỗng nhiên Ri-a-bu-skin còn có một mình. Anh không hoang mang vì sông Nê-va ngay đó và chỉ vài phút nữa là anh tới phi trường. Nhưng từ dưới đất, vô tuyển điện báo lên:

        - Coi chừng! Hai cái Mét-séc-mít đằng sau!

        Anh quay đầu máy bay lại, lao thẳng, và nhìn thấy hai chiếc phi cơ địch trong khoảnh khắc: chúng leo lên những đám mây thấp. Không do dự, Ri-a-bu-skin lên theo, tuy tự biết là trong đám mây mù ấy thì chẳng còn hy vọng tìm ra chúng được.

        Cứ lên mãi, cuối cùng anh chọc thủng tầng mây cao nhất và anh chớp mắt, chói loà. Một bầu trời trong vắt mở rộng trên đầu anh và chính ngay ở chân trời, mặt trời lận trông như một. quả tròn khổng lồ chiếu xiên vào một biển mây giống như đám tóc rối bù.

        Anh thấy một chiếc Mét-séc-mít ngay sát nách, hẳn là một trong hai cái mà anh đang săn đuổi. Anh lia trượt một băng. Chiếc Mét-séc-mít nhào vào mây mù. Cáu vì bắn trượt, Ri-a-bu-skin phóng theo sau, bay xuyên qua lốp mây và lại xuống sát mặt sông Nê-va, đụng mũi vào chiếc Mét-séc-mít. Nó lại lên thẳng, Ri-a-bu-skin lên theo.

        Họ lại chọc thủng "trần" một lần nữa. Đỏ hào quang vì ánh sáng mặt trời lặn, chiếc Mét-séc-mít in hình lên nền trời, ngay dưới Ri-a-bu-skin. Anh lia hai băng, chắc là trúng đích, vì thấy địch bổ nhào vào mây.

        Nhưng Ri-a-bu-skin muốn biết xem có đích đã hạ được nó không? Lần thứ tư, anh lao vào mây mù và nhào ra khỏi mây cùng một lúc với đối phương. Một cột khói từ chiếc Mét-séc-mít bay ra. Nó vẫn bổ nhào, rõ ràng là bị trúng vào những bộ phận quan trọng.

        Ở dưới, là sông Nê-va đầy ắp cơ man là bộ đội ta mặc áo da lông. Ri-a-bu-skin tưởng là tên Đức sắp đâm xuống đất, nhưng nó gần muốn đụng phải băng thì lại ngóc lên được, và lên thẳng. Thật là quá bất ngờ làm Ri-a-bu-skin phản ứng không kịp. Khi anh kéo tay lái thì chiếc Mét- séc-mít đã gần đụng "trần", vẫn một luồng khói theo sau.

        Liệu anh có phải vượt "trần" lần thứ năm, đeo đuổi chiếc Mét-séc-mít nhất định chưa chịu chết ấy không? Kiệt sức vì cái trò chơi đu ghê gớm ấy, nhưng Ri-a-bu- skin vẫn không chịu để địch thoát.

        Chiếc Mét-séc-mít không còn sức dấn vào mây nữa, và nó lượn vòng ngay dưới. Đến vòng ngoặt thứ ba, thì Ri-a- bu-skin hạ được nó.

        Nó rơi xuống. Anh bay theo gần đến tận mặt băng, vì anh sợ nó còn sống lại nữa. Nhưng thật là đoạn kết thúc. Các đồng chí bộ binh vẫy mũ lông khi Ri-a-bu-skin đắc thắng bay qua.

        Nửa giờ sau, ở nhà ăn, anh chén món cừu nấu với kê. Bộ mặt tròn hồng lên vì cảm xúc. Trời đã tối, gió vẫn gào.

        Các bạn anh gần như ngủ đứng. Nhưng họ cũng vậy, đều cảm thấy sung sướng như điên: bây giờ kẻ thù khiếp sợ họ.

        Kô-stin mắc việc ở lại chỉ huy sở, vào ăn cuối cùng và nói:

        - Mai xem sao.

        - Cũng lại như hôm nay thôi, - Ta-ta-ren-kô trả lời.

         - Không hẳn thế đâu. Có cái mới.

        -Gì?

        - Tụi "Phốc-un-phơ". Phải chuẩn bị gặp chúng.

        - Sao cậu biết?

        - Hỏi lạ. Đó là một tài liệu của tham mưu.

        Ka-ri-a-kin reo lên:

        - Được lắm! ít nhất cũng có kẻ để "nói chuyện".

        Mọi người cười tán thành. Tuy vậy ai cũng hiểu tin đó là nghiêm trọng. Sự có mặt của các khu trục mới lạ ấy thay đổi tương quan lực lượng trên không. Chỉ có thực nghiệm mới cho phép nói là thay đổi đến mức nào.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Ba, 2019, 11:59:37 am

III

        Sáng hôm sau, thời tiết thay đổi. Gió nhẹ đi, đôi khi hết hẳn. Trời còn u ám, nhưng lớp mây đã mỏng đi, để lộ mặt trời. Hàn thử biểu xuống 20 dưới không. Nhìn vẫn khó. Gần như không hơn gì. Tiết trời vào cái loại rất lạnh kèm theo sương mù và ẩm ướt, đặc kiểu tiết trời Ban-tích. Những cành trơ trụi của phong, liễu, trà, trĩu nặng vì sương giá. Tuyết mù đọng ở các chỗ thấp và dọc lưu vực sông Nê-va. Khói những đám cháy nhuộm nó thành mầu xám bẩn: bên kia sông, lửa bốc khắp nơi.

        Trục chính của cuộc tấn công phải cố gắng tạo nên bây giờ đã rõ: không phải là hướng nam, như mọi người tường lúc đầu, mà là hướng đông nam để liên lạc với quân đoàn Von-khốp. Hệ thống pháo đài mà bọn Đức đã xây dựng trong mười bảy tháng bao vây, làm chậm bước tiến của ta. Phải đánh lấy từng cứ điểm. Máy bay xung kích phối hợp với bộ binh, pháo binh và xe tăng. Và khu trục thì dùng để yểm hộ cũng như hôm qua.

        Phi đội Lu-hin tham gia toàn đội vào trận đánh lớn nhất trong ngày đó, trận oanh tạc ga Si-ni-a-vi-nô.

        Trên đã định một hướng khác hẳn cho các Stuốc-mô- vi-ki do phi đội Lu-nin yểm hộ, thì có lệnh vô tuyến điện báo phải quay mũi về Si-ni-a-vi-nô để tiêu hủy các đoàn tầu vừa tới ga đó, trước khi chúng dỡ hàng.

        Từ tháng chín, Lu-nin chưa bay trên Si-ni-a-vi-nô, và lần này là lần đầu mà anh bay tới đó bằng đường từ phía tây tới. Còn cách ga khá xa, thì một hoả lực cao xạ dầy đặc đã lộ ra. Nghe giọng gay gắt của nó và xem chiều dầy của lưới đạn thì cũng rõ đây là một mục tiêu quan trọng. Stuốc-mô-vi-ki và khu trục của ta thật là phải dấn vào một vòng tử chiến.

        Chi có thể lọt vào bằng mưu trí. Từng cụm nhỏ đôi hoặc ba chiếc luôn thay đổi hướng bay đế lừa bọn cao xạ, rồi cả đoàn từ khắp các phía tiến vào ga. Đường sắt ngộn những đoàn tầu: Lu-nin đếm thấy tám đoàn. Một đoàn dài ca-mi- ông che bạt đỗ trên đường cái song song với đường sắt.

        Trong tiếng nổ đầu tiên, sức giặt làm Lu-nin tưởng như mình bị cao xạ bắn trúng giữa máy. Hai cái giật dữ dội nữa làm anh lao đảo và anh hiểu dó là những làn sóng giật. Một làn khói đặc che mặt đất. Stuốc-mô-vi-ki dũng cảm xông vào khói để tiếp tục nhiệm vụ. Những tiếng nổ liên tiếp. Mỗi lần như thế, máy bay Lu-nin lại bị giật bắn đi. Đồng chí thiếu tá chưa hề được nếm mùi như vậy. Anh thấy rõ cái ghê gớm của sức phá, khi nom thấy một toà nhà hai tầng xây đá đổ xụp cách dường sắt chừng 500 thước: thì ra các Stuốc-mô-vi-ki đã làm nổ các đoàn tàu chứa đạn trái phá.

        Hiệu lực bất ngờ đến nỗi thoạt dầu cao xạ địch yếu hẳn đi. Rồi nó tiếp tục với một sức dữ dội mới. Các khẩu đội gần như lộ ra ở mỗi bụi rậm. Di động rất mau, và không bị bó buộc phải bay đi bay lại luôn trên đường sắt, nên các khu trục tương đối ít nguy hiếm. Nhưng các Stuốc-mô-vi-ki thì gần như chắc chắn sẽ bị tổn thất nếu tình trạng này kéo dài.

        Mà lại phải có thời gian mới thanh toán xong được các đoàn tầu kéo dài trên hàng cây số. Máy bay xung kích tiếp tục dấn vào khói, như những con "bọ hung" khổng lồ. Đến phút thứ tư, thì một chiếc bị trúng đạn.

        Lu-nin không trông thấy luồng đạn, mà chỉ thấy một luồng khói đen dài từ máy bay tỏa ra. Trong vài giây, lửa bốc khắp chiếc máy bay. Trong khoang máy bốc cháy, phi công và đồng chí bắn liên thanh vẫn tiếp tục công việc như thường. Máy bay vẫn bổ nhào trong khói, và người ta trông thấy miệng đại bác đỏ lòm vẫn nháp nháy. Rồi máy bay bỏ đường sắt, là trên các toà nhà ga và bay theo đường cái.

        Khi ta mới tấn công, những ca-mi-ông che bạt đỗ ở đó tìm cách trốn. Nhưng lập tức ba cái bị hơi bom lật đổ, và chắn mất lối chạy. Những quả đạn đại bác của chúng lăn trên tuyết thành những điểm lóng lánh. Hoảng hồn, các xe khác vẫn cố vượt lên, thành ra dồn đứng lại. Thong thả. chiếc Stuốc-mô-vi-ki bôc cháy lao thẳng vào đống ấy.

        Lu-nin lại bị tung lên trời. Khi khói trên đường cái dã tan thì đống ca-mi-ông đã biến và cũng không còn máy bay nữa: chỉ còn là một chấm đen lớn.

        Sự hy sinh quá đơn giản ấy làm mọi người được chứng kiến nức lòng. Bây giờ mới bắt đầu tấn công thực sự. Phớt đều cao xạ, Stuốc-mô-vi-ki chỉ còn lo tiêu hủy các toa tầu đến chiếc cuối cùng. Ga, làng, rừng, tất cả đểu biến trong khói. Đất, trời, rung lên không ngừng.

        ... Đến chiểu, thì sương tan trong các chỗ thấp. Gió đứng, và nhìn được rõ hơn nhiều. Lu-nin được lệnh tách bốn máy bay đi yểm hộ bộ binh, vì thời tiết khá hơn thì bộ binh có thể bị máy bay địch oanh tạc. Anh chỉ định Ta-ta- ren-kô, Kô-stin, Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin. Ta-ta-ren- kô chỉ huy.

        Sau khi bay suốt dọc theo các tuyến tiền duyên họ quay lại, vì chỉ còn vừa đủ xăng vể phi trường. Kô-stin, Ka-ri- a-kin và Ri-a-bu-skin bay dưới mây, cao chừng 1.500 thước Ta-ta-ren-kô bay trước, và bổ nhào để quan sát một đoàn ca-mi-ông tiến ra mặt trận. Anh bay dưới các bạn chừng 600 thước. Kô-stin trông thấy hai máy bay từ mây nhô ra và lao thẳng vào Ta-ta-ren-kô. Chúng có cái mũi lạ kỳ và cánh như gọt bằng lưỡi bào. Kô-stin chưa hề gặp máy bay nào giống như vậy. Anh biết là Phốc-un-phơ. À đây rồi! Để xem sao...

        Kô-stin chắc chắn là bọn Phốc-un-phơ sẽ tấn công Ta- ta-ren-kô vì chúng tưởng anh có một mình. Quả thực, khi chúng trông thấy ba chiếc khu trục Xô Viết nữa. thì chúng lập tức leo thẳng lên mây, gần dựng dửng với tóc độ nhanh lạ lùng. So sánh với chúng, thì Mét-séc-mít chỉ là những chiếc "bàn là".

        Cơ hội tốt quá. Các khu trục Xô Viết quên rằng mình gần hết xăng. Họ cũng lên thẳng, liền đuôi nhau và cùng bổ ra khỏi mây một lúc, gần như ra cùng một chỗ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Ba, 2019, 11:50:26 pm

        Bọn Đức buộc phải giao chiến. Kô-stin nghĩ: "Cốt nhất không để bị tấn công vào chính diện! Hoả lực nó phải mạnh hơn Mét-séc-mít rất nhiều. Tiếc thay các bạn chưa nghiên cứu chiến thuật đầy đủ". Nhưng ai cũng nghĩ như vậy và tìm cách bám vào đuôi bọn Phốc-un-phơ. Đây là cơ hội duy nhất để thử xem máy bay dễ điểu khiển đến đâu. Thì thấy bay ngang cũng như lên xuống theo chiểu đứng, khu trục của ta tương xứng với máy bay kiểu mới của Đức. Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin tấn công thằng đi sau và tách nó ra khỏi tiểu đội trưởng của nó. Ta-ta-ren-kô tiến đến gần phía trước tên này, nhưng bay dưới thấp một chút, và lia một băng.

        Hốt hoảng, chiếc Phốc-un-phơ rớt nghiêng cánh. Đồng đội của nó lẩn trốn vào trong mây. Bên quân ta, xăng đã gần cạn, phải về ngay lập tức. Cái Phôc-un-phơ vẫn rơi như chiếc lá khô. Máy nó còn nổ, và tên phi công cố gắng một cách tuyệt vọng đế ngấc lên. Gần sát ngọn cây thì nó ngấc lên được và bay về hướng đông, chập choạng mất thăng bằng như một thằng mù.

        Nếu còn xăng thì giải quyết được nó rồi. Nhưng phân đội của Ta-ta-ren-kô chỉ vừa kịp về được đến trường bay.

        Khi họ đặt chân xuống đất, thì mặt còn hồng lên vì cảm xúc. Họ là những người đầu tiên đã tấn công bọn Phôc-un- phơ, và họ đã thắng!

        Kô-stin rít lên:

        - Trời, nếu còn kha khá xăng một chút. Giá gặp mười phút trước thì hạ được cả hai!

        Ta-ta-ren-kô kêu lên:

        - Mình giã vào bụng nó một phát ra trò! Nó không thể bay xa thêm được nữa đâu.

        - Đúng, nó không bay xa thêm được nữa thật. - Prốt- cua-ri-a-kốp bước ra khỏi chỉ huy sở, và xác nhận như vậy.

        Mọi người đã biết tin. Cả mặt trận theo dõi trận đánh. Một phút sau khi sự việc xảy ra, thì ban chỉ huy đã biết là Ta-ta-ren-kô hạ được một Phốc-un-phơ, biết cả số phận của nó nữa.

        Prốt-cua-ri-a-kốp giải thích:

        - Nó ngấc lên được, nhưng không còn làm chủ được hướng bay nữa. Đến bờ hồ La-đô-ga, ngay trên các tuyến tiền duyên của ta, thì nó không còn sức ngoặt sang phải, mà hạ cánh ngay trên băng, cách ta 400 thước, cách trận địa địch cũng 400 thước.

        Ta-ta-ren-kô hỏi:

        - Thê còn tên phi công?

        - Nó đã bò được đến chiến tuyến của bọn Đức.

        Fê-đô-rốp vẫn theo dõi câu chuyện từ nãy không nói gì bỗng bật nói to:

        - Thằng phi công thì mặc xác nó. Cái máy bay mới là cần cho mình.

        Các đồng chí thợ máy cũng quan tâm đến chiếc Phổc-un-phơ không kém gì các phi công. Họ muốn biết tụi Đức đã chế ra cái gì mối, bọn kỹ sư của chúng đã tìm được cái gì chọi với các khu trục kiểu tối tân của ta, và hỏi dồn dập các phi công. Nhưng các đồng chí này cũng không thỏa mãn được sự tò mò của họ.

        Ka-ri-a-kin nói:

        - Chúng bay nhanh lắm, nhưng cũng không bỏ xa được bọn mình đâu.

        Ri-a-bu-skin tiếp lời:

        - Hoả lực chắc là mạnh. Nhưng mà lại không bắn trúng bọn mình!

        Ta-ta-ren-kô xác nhận:

        - Rõ ràng là chúng dễ điều khiển... Nhưng có lẽ chưa bằng máy bay mình.

        Kô-stin giải thích:

        - Bộ máy có vẻ theo cách làm nguội bằng không khí. Như vậy lợi hay hại?

        Những câu trả lời căn cứ vào cảm giác sơ bộ ấy chưa làm mọi người thỏa mãn. Fê-đô-rốp khẩn khoán Prốt-cua- ri-a-kốp cho người đi lấy chiếc Phốc-un-phơ bị hạ về:

        - Đó là quyền lợi của chúng ta, vì do người của trung đoàn mình hạ.

        Ta-ra-rắc-xin cứ chừng 20 phút lại gọi dây nói xem cái máy bay thế nào? Chiếc Phốc-un-phơ vẫn nằm chết trên băng. Bọn Đức tìm cách lấy lại nhưng vô hiệu. Chúng ngăn cản không cho mình đến gần. Theo những tin cuối cùng, thì chúng cố tình phá hủy.

        Fê-đô-rốp vật nài:

        - Phải mau lên kẻo đại bác chúng phá hủy mất.

        Prôt-cua-ri-a-kốp tha thiết với chiếc Phôc-un-phơ cũng không kém gì ai. Nhưng anh không muốn hy sinh người của anh. Khi Fê-đô-rốp tuyên bố là lợi dụng đêm tối, anh sẽ thân hành đi lấy, thì Prốt không ngăn cản nữa. Trong đêm tối dần, một tốp lên đường: Fê-đô-rốp, vài đồng chí thợ máy trong đó có Đê-ép, và một số lớn thủy thủ trong quân số trường bay. Các phi công đã dự trận đánh lập tức xin tham gia, nhưng Prốt-cua-ri-a-kốp cấm chỉ một cách dữ dội. Đi bằng ca-mi-ông, Fê-đô-rốp ngồi trong cabin, còn mọi người ở đằng sau.

        Trời lạnh như cắt. Gió đã ngừng. Mây đã biến. Lần đầu tiên từ một tháng nay, sao lác đác trên nền trời trong. Trong không khí im lìm, tiếng đại bác gần như ở ngay sau hàng tùng đưa lại. Đạn nổ chiếu rực cả nửa nam chân trời.

        Trước Sluýt-sen-bua, ca-mi-ông bỏ con đường tuyết đi vào mặt băng sông Nê-va. Đêm đã xuông hẳn, nhưng trong bóng tối, bên trái, người ta trông thấy in trên nên trời sao, cái khối khổng lồ đen ngòm của chiếc pháo đài bị tàn phá còn rực khói. Chiến công của những người đã giữ vững nó hàng tháng, nay hoàn thành thắng lợi. Sluýt-sen- bua giải phóng đã thuộc về hậu phương ta.

        Đi qua suốt chiểu dọc cù lao Sluýt-sen-bua, ca-mi-ông ra tới bờ hồ nam mà ở đó người ta vừa tống cổ xong bọn Đức. Chính từ đó trước đây bọn Đức vẫn nã đại bác ra con đường trên hồ La-đô-ga. Nhưng chúng còn bám vào mé Đông, gần làng Líp-ki. Chiếc Phôc-un-phơ nằm chết trên băng đúng giữa quãng tuyến ta và tuyến địch.

        Để ca-mi-ông ở bờ sông, Fê-đô-rốp đi thăm dò địa hình cũng với các đội nhỏ của anh. Gió đã quét tuyết, nên đi lại dễ dàng. Họ tìm thấy khá nhanh chóng cái xác máy bay và khe khẽ hội ý với nhau. Đồng chí kỹ sư đề nghị kéo chiếc máy bay bằng tay ra bờ sông. Nhưng bánh xe hạ cánh bị gẫy lên di động khó khăn. Mà lại phải giải quyết cho mau mới được. Đê-ép đê nghị đem ca-mi-ông lên mặt băng. Đó là mạo hiểm, vì nghe thấy tiếng máy nổ thì địch có thể đoán ra được, sau một lúc nghĩ ngợi, Fê-đô-rốp đồng ý.

        Ca-mi-ông đến tận xác chiếc máy bay không có gì trở ngại. Các đồng chí thợ máy gác đuôi máy lên hòm xe và buộc lại. Ca-mi-ông rú ga, kéo theo chiếc Phổc-un-phơ bị hạ.

        Trận địa địch bất chợt tỉnh dậy. Liên thanh, súng cối, đại bác đều phát hoả một lúc. Mìn nổ ầm ầm, đại bác réo, đàn rít. Các đồng chí thợ máy qua mấy phút khá vất vả. Khiếp nhất là vướng máy bay đèo sau nên chiếc ca-mi-ông chỉ tiến được hết sức chậm.

        Nhưng rồi cuối cùng cũng ra khỏi khu vực nguy hiểm. Địch bắn ít đi. Ca-mi-ông lôi chiếc Phốc-un-phơ ra bờ sông, rồi từ đấy qua sông Nê-va đến Sluýt-sen-bua, và sau cùng băng qua rừng về trường bay.

        Khi xác chiếc máy bay về đến xưởng lưu động thì đã quá 2 giờ đêm. Fê-đô-rốp cũng như các đồng chí thợ máy, chẳng ai ngủ. Họ thức suốt sáng, mô xẻ chiếc máy bay, tháo bộ máy, nghiên cứu mỗi bộ phận. Sáng sớm, Lu-nin bước vào xưởng, theo sau là Ta-ta-ren-kô:

        - Thế nào?

        - Vẫn chuyện cũ rích. - Fê-đô-rốp trả lời.

        - So với máy bay ta thì hơn cái gì?

        - Chảng hơn cái gì hết.

        - Thế kém cái gì?

        - Nó có một khuyết điểm lớn.

        - Sao?

        - Khó cho phi công quan sát, nhất là về mé dưới. Vì bộ máy to quá che lấp tầm mắt.

        Ta-ta-ren-kô reo lên:

        - Tôi biết ngay mà! Tôi từ dưới bắn lên nó đấy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Ba, 2019, 06:56:26 am

IV

        Sáng ngày tấn công thứ ba, trời trong vắt. Một mặt trời vĩ đại mầu hoa bồn chiếu xuống tuyết. Không một chút hơi, không một chút sương. Mọi tiếng động của chiến trường đểu vọng đến tận trường bay. Cứ mỗi tiếng nổ, không khí rung lên như một cái chuông khổng lồ.

        Thời tiết điều hoà lại. Bão tuyết, sương gió như vĩnh viễn biến hẳn. Ngày nắng gắt, thì lại tiếp đến đêm sao, rồi lại tiếp đến một ngày rực rỡ không kém ngày trước. Đêm cũng như ngày, cuộc tấn công tiếp diễn trên lớp tuyết sáng và mềm. Bọn Đức cô bám một cách tuyệt vọng, nhung mỗi ngày, khoảng cách giữa quân đoàn Lê-nin-grát và quân đoàn Von-khốp càng nhỏ đi. Vòng vây của địch tan dần.

        Các phi công bay từ sáng sớm đến tối mịt. Những ngày nặng nhọc. Mọi người sọm đi, những bộ mặt thành nghiêm nghị và già đi. Buổi tối, chuyện cũng hết. Vừa đặt mình vào giường, là ai nấy thiếp đi tức khắc.

        Nhưng cũng là những ngày vui sướng. Tuy bọn Lóp-táp mỗi ngày một tăng lên, nhưng mỗi trận giao tranh là một lần chiến thắng. Chúng ta làm chủ không trung. Và cái đó làm mọi trái tim tràn trề hạnh phúc và kiêu hãnh.

        Nhờ lưới vô tuyến điện rất tốt, các đài quan sát ở mặt đất giúp nhiều cho các phi công.

        - Coi chừng! - Quan sát viên báo tin. - Hai chiếc Mét- séc-mít đằng sau. phía dưới.

        Một hôm, Ta-ta-ren-kô và Kla-mê-tốp giải quyết hai Mét-séc-mít nhanh quá làm trạm quan sát vừa báo tin cho họ không đủ thì giờ hiểu, và phóng tin lên không:

        - Coi chừng! Coi chừng! Tôi không trông thấy hai chiếc Méc-sec-mít nữa.

        - Đồng chí không bao giờ còn thấy chúng. - Ta-ta-ren- kô ứng đối lại. - Chúng đã bị hạ.

        Những trận đánh tháng giêng ấy làm bật rõ đức tính của mỗi người. Bây giờ người ta biết rằng trong phi đội Lu-nin có hai phi công ngoại hạng: Ta-ta-ren-kô và Kút- nét-sốp. Họ nhiều chiến công trong bảng thành tích nhất. Tên của họ, gần như mỗi ngày trở lại đầu lưỡi mọi người. Mỗi khi phi đội không xuất trận toàn bộ, thì họ được chi định làm cụm trưởng. Họ cố che giấu sự ganh đua ngầm giữa hai người với nhau. Nhưng ai cũng biết.

        Người ta biết răng cái vẻ lạnh lùng bê ngoài của Kút- nét-sốp kỳ thực che giấu một tâm hồn sôi nôi. So với Ta- ta-ren-kô thì anh là bậc đàn anh, và có nhiều giờ bay trong bảng thành tích hơn nên Kút-nét-scíp không muốn bị vượt. Vả lại, có một phạm vi mà trong toàn sư đoàn không ai có thể so được với anh: về thám thính thì anh nhất. Nhưng cái gì cũng có mặt trái của nó: anh có ít cơ hội được giao chiến như Ta-ta-ren-kô, do đó trong bảng thành tích chiến đấu thì anh lại ít chiến công hơn.

        Ta-ta-ren-kô chẳng biết che giấu cái gì cả. Và người ta yêu anh cũng vì cái vui mừng chân thật của anh khi thấy bạn có thắng lợi. Nếu Ri-a-bu-skin, Kla-mê-tốp hay O- strô-sa-blin hạ được một tên địch, thì anh vui sướng với họ, khâm phục cái dũng cảm của họ và phô bầy sự tài tình của họ. Khi cùng ai hạ được một chiếc máy bay, thì anh luôn gán công cho người ấy. Nhưng, nếu anh là người đầu tiên tự phụ cho là chẳng ai bằng gót chân mình, thi riêng đối với Kút-nét-sôp, anh phải kiểng. Mà khi Kút chiến thắng, anh hỏi chi tiết, một lô chi tiết. Rồi chỉ kết luận: - Tôi thấy rồi...

        Ngày 13 tháng 1 là ngày mà Ta-ta-ren-kô hạ được chiếc Phốc-un-phơ đầu tiên.

        Gần hết cả ngày hôm sau, Kút-nét-sôp đi làm còng tác thám thính. Chỉ một lần, anh cất cánh với O-strô-sa-blin đi yểm hộ bộ binh. Con mắt diều hâu của anh phát hiện ra hai chiếc Mét-séc-mít. bay là là mặt đất. Anh bổ nhào, O- strô-sa-blin theo sau đuôi và hạ ngay lập tức một Mét- séc-mít, và đuổi chiếc kia suốt dọc mặt trận đến mãi Si- ni-a-vi-nô rồi đốt cháy nó ở đây. Tên phi công phải nhảy dù.

        Ngày 15, Ta-ta-ren-kô dẫn dầu hai tiểu đội, gặp bảy Mét-séc-mít. Ba cái bị hạ ngay lập tức, hai cái do chính anh hạ, một cái do cặp Ka-ri-a-kin, Ri-a-bu-skin hạ.

        Sáng ngày 16, Kút-nét-sốp đang đi thám thính thì phát hiện ra một Mét-séc-mít 110 ở dưới thấp. Anh tiên gần đến nó bằng mé sau. Tên giữ liên thanh đằng đuôi nổ súng từ xa. Kút-nét-sốp lại gần và lia một băng. Liên thanh tịt. Vậy là Kút-nét-sốp tiến sát, gần muôn chạm phải tên Đức, và hạ nó bằng bốn băng.

        Ngay chiều hôm đó, dưới ánh sáng chói loá của mặt trời hoàng hôn chiếu rực cả một nửa trời, Ta-ta-ren-kô theo sau là Kô-stin, Kla-mê-tốp và Di-ga, gặp năm gioong-ke 88 có hai Mét-séc-mít và hai Phốc-un-phơ yểm hộ. Anh tấn công vào chính diện. Bọn gioong-ke bay nối đuôi nhau. Ta-ta-ren-kô lia một băng vào chiếc máy bay đầu đoàn, luôn dưới bụng nó, cũng chăng buồn xem bắn có trúng hay không, và lao thẳng vào chiếc thứ hai. Anh muốn thanh toán bọn oanh tạc trước khi khu trục của chúng có thì giờ can thiệp. Cái gioong-ke thứ hai vỡ tan trong rừng cùng một lúc với cái thứ nhất, Kô-stin đã giải quyết nốt cho nó. Ta-ta-ren-kô còn thời giờ tấn công chiếc gioong-ke thứ ba, rồi cái thứ tư. Mét-séc-mít và Phốc-un-phơ lăn xả vào anh. Nhưng anh lánh chúng, và dốc sức vào bọn oanh tạc. Kla-mê-tôp và Di-ga theo chiến thuật của anh là tránh giao chiến với khu trục và không để oanh tạc thoát. Chiếc gioong-ke thứ ba và thứ tư bị hạ 30 giây sau hai cái trước. Chiếc thứ năm chạy trốn và biến về phía nam, có hai Phốc-un-phơ và hai Mét-séc-mít che chở.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Tư, 2019, 06:58:46 am

        Bốn oanh tạc có yểm hộ bị bốn khu trục hạ đó là một sự việc mà cả sư đoàn tranh luận. Nhưng hôm sau, chiều ngày 17, trong những điều kiện ít thuận lợi hơn, Kút-nét- sôp lập lại chiên công của Ta-ta-ren-kô. Anh có: O-strô- sa-blin, Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin đi theo. Vào chiểu tối, họ gặp 20 máy bay Đức: 10 gioong-ke có 8 Mét-séc-mít và 2 Phốc-un-phơ bay phía dưới một chút yểm hộ. Kút- nét-sôp lắp lại chiến thuật Ta-ta-ren-kô. Bốn máy bay của anh tấn công vào chính diện, do đó đến trước khu trục địch. Bốn gioong-ke bị hạ trong vài giây, trước khi Mét- séc-mít và Phốc-un-phơ có thể can thiệp. Các gioong-ke khác thả bom bừa bãi trong rừng và chạy trốn. Kút-nét- sôp tìm cách tách được ra khỏi bọn khu trục địch và dẫn hai tiểu đội của anh về trường bay.

        Hôm đó là ngày tấn công thứ sáu. Đêm đã khuya, Lu-nin  dạo một vòng như thường lệ đến nhà ngủ. Mọi người đã ngủ như lệ thường, trừ Kút-nét-sốp ngồi ở bàn, đang viết, lưng quay ra phía cửa. Lu-nin ngạc nhiên vì anh biết ngày vừa qua rất mệt nhọc, và anh hỏi:

        - Đồng chí viết thư à?

        Anh đạt tay lên vai Kút-nét-sốp để ngăn Kút-nét-sôp khỏi đứng dậv.

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá cận vệ không phải... Đồng chí có thể đọc.

        Và Lu-nin đọc:

        "Tôi để nghị tổ chức chiếu cố chấp nhận tôi vào trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Liên Xô. Tôi muốn đứng trong hàng ngũ đó để giải phóng cho xứ sở tôi, chiến đấu với bọn phát xít đến giọt máu cuối cùng.

        Kút-nét-sốp Ang-tông I-va-nô-vít"

        Đẩy nhẹ tay Lu-nin, Kút-nét-sốp đứng dậy và nhìn thẳng vào mặt anh, chờ xem Lu-nin bảo sao.

        Nhưng Lu-nin không nói gì hết. Kút-nét-sốp nói tiếp:

        - Sáng mai tôi đưa đơn cho đồng chí Đê-ép.

        Sáng hôm 18 tháng giêng còn rạng rờ hơn hôm trước. Phi trường đang vui mừng, vì trên bờ nam hồ La-đô-ga, quân đoàn Lê-nin-grát chỉ còn cách quân đoàn Von-khôp ba cây số. Cô một chút nữa, là vòng vây đứt.

        U-va-rốp ở trung đoàn. Từ một tuần nay gần như mỗi ngày anh đến thăm các đơn vị một lần. Anh đến từ đêm. Đi cùng có đại úy Dúp-kốp văn thư Đảng ủy. Buổi sáng Đê-ép đưa cho anh lá đơn của Kút-nét-sôp. Sự cảm xúc mà đồng chí chính ủy để lộ ra khi xem đơn khiến đồng chí bí thư Đê-ép cũng hơi lấy làm lạ. U-va-rốp khuyên Đê-ép triệu tập ngay một cuộc họp để xét đơn.

        - Vừa dịp đồng chí văn thư Đảng ủy ở ngay đây. Tôi sẽ cùng đến với đồng chí ấy.

        Đê-ép đưa ý kiến ngược lại:

        - Bắt đầu xuất trận rồi. Tất cá các phi công và thợ máy đã ở ngoài sân bay.

        - Thì họp ở trên sân. - U-va-rốp nói.

        Mọi người tập họp trong cái lều trú ẩn nhỏ cạnh đường bay, là chỗ mà các phi công thường tới sưởi ít phút trong khi chờ đợi. Các đảng viên - phần đông là thợ máy - chen chúc nhau quanh lò sưởi. Khói lam của thuốc lá "ma-coóc-ka” bốc từ những tẩu thuốc chế bằng nhựa kính, tụ thành từng đám mây trên đầu mọi người. Ngoài Dúp-kôp, U-va-rốp còn dẫn dến cá Éc-ma-kôp và Prốt-cua-ri-a-kôp. Lều quá chật đối với con người to lớn này. Prôt phải dừng lại ở ngưỡng cửa, cúi hẳn xuông, đầu thụt vào vai để không bị va trán vào sà ngang.

        Mặc quần áo bay, đi bốt bay, Kút-nét-sốp đứng giữa lều, gần lò sưởi, tay cầm mũ. Anh mới xuất trận lần thứ hai về.

        Đê-ép cao giọng đọc đơn, rồi móc từ trong ví ra bản trích lục nhận xét về Kút. Và nói:

        - Đồng chí thiếu úy Kút-nét-sốp được nhận xét tốt.

        Anh sửa soạn đọc thì Prốt-cua-ri-a-kốp đề nghị sang vấn đề khác:

        - Chúng ta đểu biết Kút-nét-sốp, chúng ta đã thấy đồng chí ấy chiến đấu như thế nào rồi.

        Rồi người ta đọc những lời giới thiệu. Giới thiệu của Éc-ma-kốp rất nồng nhiệt và cái đó làm mọi người ngạc nhiên. Vì ở phi đội, nhiều người còn nhớ mối hoài nghi kéo dài của đồng chí chính ủy đối với Kút-nét-sốp.

        Theo yêu cầu của Dúp-kốp, Kút-nét-sốp thuật lại đời mình với cái giọng đều đều và cũng bình tĩnh như là thuật chuyện người nào khác, nhưng hai tay không ngừng vò mũ.

        Đó là một cuộc đời không có biến cố gì lớn. Con của một nữ công nhân ở xưởng dệt I-va-nô-vô, anh mồ côi cha từ sớm. Từ những ngày xa xôi nhất mà anh còn nhớ lại, anh vẫn thường mơ ước trở thành phi công. Là học sinh kém nên cậu Kút đã phải học lại một lớp. Từ đội viên thiêu nhi, cậu thành Thanh niên Công-sô-môn. Được nhận vào trường lái máy bay, anh đã không theo học đến tận cùng. Anh bị đuổi, và cùng dịp đó bị khai trừ khỏi Công-sô-môn.

        Giọng nói vẫn thế, nhưng cái mũ bị vặn vẹo như miếng giẻ và quay cuồng giữa những ngón tay anh - Phải, đoàn thể đã khai trừ vì phạm khuyết điểm trong khi say rượu.

        U-va-rốp nói:

        - Không cần thiết phải dài dòng về chuyện dó. Nỏ là chuyện cũ không ai cần biết. Đồng chí tiếp tục đi...

        Kút-nét-sốp gần như chẳng còn gì nói. Sau khi bị đuổi, anh không quay lại chỗ mẹ vì quá xấu hổ. Anh lên miền Bắc làm bè và chở gỗ. Hết mùa, anh về Lê-nin-grát xin vào nhà máy. Mùa hè năm sau, chiến tranh bùng nổ, anh được động viên vào phục vụ ở phi trường. Người ta dùng anh trong việc dọn tuyết trên các đường bay. Đồng chí chính ủy nhận ra anh và giúp đỡ cho vào hàng ngũ phi công... Vậy là hết.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Tư, 2019, 10:26:38 pm

        Anh được đồng thanh chấp nhận.

        Có dây nói gọi. Prôít-cua-ri-a-kốp cầm ống nghe rồi nói:

        - Phi đội 2, cất cánh ngay lập tức.

        Mọi người xô nhau ra khỏi lều. Các phi công còn ngồi trong khoang máy đợi lệnh xuất phát thì Sác-ba-di-ăng tất tưởi chạy lại:

        - Kút-nét-sốp không đi. Có nhiệm vụ đặc biệt.

        Mọi người cất cánh, trừ Kút-nét-sôp. Phi đội phải yểm hộ bộ binh chống địch oanh tạc. Lu-nin dẫn phi đội sang bờ bên kia sông Nê-va, rồi hướng mũi về phía đông, cho phi đội bay qua dải đất rộng đã chiếm lại. Mặc dù trời trong vắt, chảng thấy một chiếc máy bay địch nào. Từ xa, 20 cây số đã nhìn thấy hồ La-đô-ga, và tấm thảm tuyết chói lọi rộng dần, theo đà họ bay tới.

        Vượt qua Sluýt-sen-bua, Lu-nin tiếp tục bay về phía đông, về bờ nam hồ. Cũng như mọi người trong phi đội, anh muốn tự mắt trông thấy khu vực mà hai quân đoàn xô lại gặp nhau. Họ sắp bắt liên lạc chưa nhỉ?

        Máy bay bay thấp và trông thấy rõ mặt đất. Dọc các đường, trong rừng, qua cánh đồng, và theo dải băng con kênh chật hẹp Kru-glô La-đô-ga, bộ đội di chuyển về đông, rất vội vã có khi chạy. Càng tiến thì tốc độ càng tăng thêm. Họ khua tiểu liên, khua súng trường, tung mũ lên trời, reo hò. Lu-nin tìm hoài các cứ điểm tiền duyên của địch mà không thấy. Chỉ có từng đoàn bộ binh Xô Viết đang chạy, không phải về phía đông nữa, mà chạy vể phía tây.

        Lu-nin hiểu. Liên lạc đã hoàn thành. Phi đội bay trên các đơn vị của quân đoàn Von-khốp. Theo hiệu lệnh phi đội trưởng họ ngoặt lên về phía tây. Phải xem hai quân đoàn gặp nhau ở đâu.

        Chừng mấy giây thì phi đội tới nơi. Bay trên bãi lầy đóng băng bao la từ Si-ni-a-vi-nô đến hồ. Ở đó, mọc vài bụi cây trụi lá in bóng xanh xanh xuông tuyết. Hai làn sóng người gặp nhau ở đó. Từng tốp người khua chân múa tay đang tập trung. Họ ôm lấy nhau. Tuy 20 độ dưới không nhưng họ lật mũ ra mà tung lên trời.

        Niềm phấn khởi lan đến các phi công. Máy bay múa may, lồng lên, bổ nhào, bay sát đất. Thê là hết! Cái thòng lọng bóp nghẹt thành phố lớn này đã đứt. Ta đã chọc một lỗ thủng. Rồi đây có cả một con đường trên đất liền. Lu-nin có cảm giác như mắt mờ đi. Có lẽ mặt kính đọng sương chăng. Đó là vì nước mắt trào lên... Anh lấy mặt trái bao tay chùi mắt và nhìn.

        Anh quen thuộc biết mấy cái bờ bãi lầy vừa mới chiếm lại xong! Đây là con đường xuyên qua rừng, song song với bờ biển, con đường mà anh đã đi theo để vào Lê-nin-grát cách đây 18 tháng, ngồi trên chiếc ca-mi-ông lịch sử. Hồi đó, hẳn anh cùng với Khô-vơ-rin là hai người cuối cùng theo con đường ấy. Và bây giờ, thì nó đã được giải phóng. Xe tăng, ca-mi-ông, pháo, bộ đội liên tục trên đường.

        Khi Lu-nin về đến phi trường, máy bay của Kút-nét- sốp vẫn còn ở trên đường bay Theo sau là Ta-ta-ren-kô, đồng chí thiếu tá vào chỉ huy sở trung đoàn. Ở đó có U-va- rốp, Prốt-cua-ri-a-kốp, Éc-ma-kốp, Sác-ba-di-ăng, Ta-ra-rác-xin, và trong một góc là Kút-nét-sốp đang đợi giao nhiệm vụ. Mọi người đều đã biết tin, U-va-rốp hỏi Lu-nin:

        - Đồng chí đã trông thấy rồi chứ?

        - Vâng, thấy rồi.

        Lu-nin không biết kể chuyện, và khi cảm xúc thì lại càng kém nữa. Ta-ta-ren-kô kể thay đồng chí. Mặt anh hồng lên vui sướng, anh cười lộ cả hai hàm răng, mắt long lanh sáng.

        Prốt-cua-ri-a-kốp nói:

        - Bọn Đức phản công. Chúng đem thêm pháo tới.

        Dây nói gọi, Ta-ra-rác-xin nhận tin: Kút-nét-sôp phải phát hiện vị trí các dàn pháo địch ở phía nam lỗ thủng mà ta đã chọc được vào trận địa địch.

        Đồng chí thiếu úy đứng dậy và hỏi U-va-rốp:

        - Báo cáo đồng chí chính ủy trung đoàn, tôi có thế đi được chứ?

        - Đồng chí đi.

        Hai phút sau, Sác-ba-di-ăng bắt liên lạc với Kút-nét- sôp bằng vô tuyến điện. Tiếng nói bình thản của đồng chí phi công vang lên trong ống phóng thanh:

        - Tôi cất cánh.

        Vài phút qua. Kút-nét-sốp cho số ô chỗ anh quan sát.

        Prôt-cua-ri-ạ-kôp nói:

        - Ở cái góc ấy, cao xạ chúng bắn thật như điên dại. Thật như một lò lửa chính cống.

        Kút-nét-sốp báo:

        - Một dàn pháo ở bờ sông con, gần cái nhà hai tầng.

        Sác-ba-di-ăng ghi chú lên bản đồ trước khi hỏi:

        - Cao xạ thế nào?

        - Báo cáo đồng chí đại úy, bình thường... Một dàn pháo ở mé phải trường học.

        Prốt-cua-ri-a-kốp bình luận rất khẽ:

        - Bình thường, nghĩa là chúng bắn như mưa...

        - Một dàn pháo ở bờ trái con suối, gần cầu... Một dàn ờ sườn nam cao điểm 116...

        Sác-ba-di-ăng ghi.

        - Hai cỗ ở bên phải xưởng máy cách 100 thước.

        Sác-ba-di-ăng viết.

        - Ô số 5. Pháo rất mạnh bắn hướng tây nam.

        Im lặng hồi lâu. Rồi nghe tiếng Kút-nét-sốp nói rõ từng tiếng: "Con khỉ". Rồi thoảng tiếng rên, gần như một tiếng thở dài toát ra từ ống phóng thanh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:34:00 pm

        Prốt-cua-ri-a-kốp bổ vào dây nói, giật lấy ống nghe từ tay Sác-ba-di-ăng và hét lên:

        - Kút-nét-sốp! Kút-nét-sốp! Cái gì vậy?

        - Đồng chí... thiếu tá... - giọng nói lịm đi, với tiếng rên - Hai dàn pháo đằng sau ga... gần đài chứa nước. .

        Anh nói thêm trong hơi thoảng:

        - Vĩnh biệt...

        Tái mặt, Ta-ra-rắc-xin nhảy đổ cái ghế dài, chui dầu vào sát Prốt-cua-ri-a-kốp, và kêu lên:

        - Ang-tông! Ang-tông! Ang-tông!

        Kút-nét-sốp không còn có thể nghe thấy nữa.

        Sác-ba-di-ăng là người đầu tiên trấn tĩnh lại.

        - Phải truyền đạt lên Bộ Tư lệnh.

        U-va-rốp nói:

        - Để tôi.

        Anh cầm tờ giấy trong đó Sác-ba-di-ăng đã ghi các chi dẫn của Kút-nét-sốp. Ta-ra-rắc-xin bắt liên lạc với bộ tham mưu quản đoàn, đưa ông nghe cho U-va-rốp và báo:

        - Đồng chí thiếu tướng chỉ huy pháo binh có ở đầu dây.

        U-va-rốp thong thả đọc các tọa độ và kết luận:

        - Đó là những chỉ dẫn do thiếu úy cận vệ Kút-nét-sốp sưu tập.

        - Rất tốt! - Đồng chí chỉ huy pháo binh trả lời! - Chúng tôi sẽ nã vào đấy.

        Giọng U-va-rốp bỗng cao lên:

        - Đồng chí Kút-nét-sốp đã hy sinh trong khi cho các tọa độ này... Đồng chí đã hy sinh cách đầy ba phút... Đồng chí thiếu tướng nghe rõ?...

        - Tôi nghe.

        U-va-rốp và Lu-nin cùng ra khỏi nhà. Một tiếng gầm lớn rung trong không khí lạnh lẽo trên đầy ánh nắng: pháo binh ta oanh tạc các dàn pháo mà Kút-nét-sốp đã phát hiện.

        Không một lời, U-va-rổp và Lu-nin đi qua cả bãi đến tận đường bay. Khi leo lên thang máy bay, Lu-nin bỗng hỏi:

        - I-van I-va-nít, đồng chí giới thiệu cho tôi vào Đảng chứ?

        U-va-rốp nhìn anh hồi lâu:

        - Tất nhiên.

        Mấy ngày nữa là đến ngày kỷ niệm đầu tiên lễ trao cờ Cận vệ. Mọi người mải miết chuẩn bị.

        Trong những người năm ngoái đã quỳ gối xuống đất tuyên thệ, nay còn có mấy người! Phần đông phi công chỉ nghe truyền khẩu lại, nhưng hình như đó là một chuyện đã có từ ngàn xưa, vì mấy tháng ở trung đoàn đủ làm họ thành cựu chiến sĩ, xứng đáng tự nhắc lại lời thề của những bậc đàn anh, lời thề mà họ thuộc lòng.

        Sô-ni-a tình cờ đúng hôm ấy đến thăm em. Hai chị em đã thỏa thuận ngày gặp từ trước, và Sla-va đi đón chị ở ga tận cùng xe điện. Prốt-cua-ri-a-kôp đã đồng ý. Không cần giấy thông hành nào cả. Trường bay thì nhân dân không đến được. Nhưng vào trong làng thì tự do.

        Sla-va lấy làm bất bình rằng Sô-ni-a đã do dự mãi không muốn đến. Lý do thì quá đơn giản: cô chẳng có gì mặc cả. Cô đi làm với bộ quần áo xanh muôn thủa, ngoài trùm cái măng tô quá cộc, chân đi ủng. Cô đã lớn quá không dùng được quần áo cũ nữa. Quần áo của mẹ thì lùng thùng trên cái thân người quá gầy gò. Cô không có giầy, tất thì chỉ còn là miếng vá đụp. Cô định bụng không đến, cũng chẳng cho em biết tại sao. Nhưng các cô gái trong đội làm cô thay đổi lại ý định. Họ tìm kiếm cho cô, người thì cái áo chẽn ngoài, người thì cái váy, người thì đôi giầy. Và được các bạn trang bị nên cô lên đường.

        Ngày hôm ấy, lạnh buốt quá khiến Sô-ni-a tê dại trong khi ngồi xe điện. Sla-va đứng đợi, còn cóng hơn nữa. Để cho nóng người lại, hai chị em chạy một mạch về cái làng mà các phi công đóng.

        Đến những nhà đầu, Sô-ni-a bỗng ríu người lại mà van nài:

        - Sla-va, chúng mình ở bất cứ đâu cũng được, nhưng đừng giới thiệu chị với ai!

        - Lại còn có nước ấy nữa! Em đã báo mọi người là chị đến.

        Nó dẫn chị vào cái nhà nhỏ mà nó ở với Lu-nin. Chổi cầm tay, Krô-míc tiếp hai chị em ở buồng ngoài.

        Sla-va hỏi:

        - Đồng chí thiếu tá có nhà không?

        - Không, ra trường bay rồi.

        - Lâu chưa?

        - Vừa đi xong.

        Sla-va quay về phía chị:

        - Em đã báo chị phải đến sớm. Bây giờ thì chắc là mọi người đã ở trên sân để dự lễ... Người ta không cho chị xem đâu, và chị không đi thì tất nhiên em cũng không đi nữa. -  Nó nói thêm câu đó với cái vẻ hy sinh đau xót, nhưng vẫn không khỏi tiếc rẻ... Giới thiệu với chị đây là đồng chí Krô-míc.

        Sô-ni-a bỏ bao tay và chìa tay ra. Krô-míc bỏ cái chổi sang tay trái và bắt tay cô. Sla-va nói rõ:

        - Chị tôi đấy.

        - Tôi biết.

        - Người mà tôi đã nói chuyện với đồng chí đấy.

        - Biết lắm. Vào sưởi cả đi.

        Qua cái buồng ngoài chật hẹp, Sla-va dẫn chị vào tận căn buồng mà nó ở với Lu-nin. Sô-ni-a hỏi rất khẽ:

        - Đó là một phi công à?

        - Không, cần vụ của đồng chí Lu-nin. Một. tay cừ lắm. Trước kia là cần vụ của đồng chí Rát-sô-khin.

        Sla-va và Lu-nin ở trong một căn buồng nhỏ, sàn bằng gỗ, trần gỗ, cái cửa sổ nhỏ xíu sương giá đọng kín cả. Có hai chiếc giường sắt xếp đặt gọn ghẽ, một cái bàn cạnh cửa sổ và hai cái ghế. Sla-va nói:

        - Chị bỏ áo măng-tô ra, ở đây ấm. Giường em đấy, và đây là giường đồng chí Lu-nin.

        Sô-ni-a cởi bỏ khăn quàng len, mở cúc áo ngoài, ngồi xuống một cái ghế, và nhìn quanh. Cô không ngờ các chiến sĩ lại ăn ở được phong quang như vậy. Nhà ngủ của đội cô cũng không gọn ghẽ bằng.

        - Có phải đồng chí cần vụ xếp đặt không?

        - Ồ, không - Sla-va trả lời - Đồng chí Krô-míc chỉ quét ngoài hiên và buồng ngoài. Đồng chí Lu-nin là một người lạ: đồng chí tự dọn dẹp lấy. Bản thân đồng chí dọn giường của mình, và em dọn giường của em. Nếu đồng chí Krô- mic mà cao hứng động vào đây thì Lu-nin cáu phải biết... Em thì đồng chí cho phép làm, vì em ở đây, Em nhóm lửa và lau nhà. Em không thể để một phi đội trưỏng quét sàn được.

        Sô-ni-a khen:

        - Đúng... nếu em nói thực. Đồng chí ấy không có vợ à?

        - Không.

        - Vì thế mà biết cách xoay xở lấy.

        Hai chị em đã sưởi ấm, và Sla-va thuyết phục Sô-ni-a đi sang thăm nhà ngủ chung, ở đấy có thể sẽ gặp một người nào đó. Sô-ni-a phản đối nói là ở buồng Sla-va cũng thấy rất tốt rồi. Cô thấy trên bàn những vở học của cậu em. Cô giở từng tờ và phát biểu những câu phê phán không lấy gì làm bùi tai lắm, lại càng làm cho Sla-va thêm quyết tâm ra khỏi chỗ này cho mau chóng. Nó phân trần:

        - Chị là khách, thì ai bảo sao chị làm vậy, chứ không phải hứng cái gì thì làm đâu nhé.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Tư, 2019, 05:01:31 am

        Vài phút sau, hai chị em leo lên thềm nhà các phi công. Sô-ni-a rất rụt rè. Đến ngưỡng cửa, cô đứng lại và thì thào:

        - Em vào một mình. Chị đợi ở đây.

        Sla-va vào, rồi tức khắc chạy ra. Trong nhà không có ai.

        - Chị vào đi, em chỉ cho xem họ ăn ở ra sao.

        Sô-ni-a rón rén bước vào chú ý không để kẹt cửa.

        - Chỗ ngủ của họ đây sao? - Cô ngạc nhiên hỏi.

        - Thế chị tưởng như thế nào?

        Hẳn là cô hình dung những điều khác hẳn với những chiếc giường trẻ ngoan này, gối trắng tinh, khăn tay rõ sạch treo đầu giường, bàn xoay đầy các thứ đánh răng rửa mặt, đầy ảnh, sách, cuộn chỉ, lại có cả gương con bỏ túi nữa. Và những cái rương con cũ có bọc lưới thừng, và những con bài cẩu ngây ngô trên bàn... Thế mà họ lại là những người chiến sĩ...

        Cô đến gần tờ "Báo bay" treo trên tường. Dưới cái đầu đề viết bằng chữ in, là một ghi chú chép tay bằng chữ lớn, báo tin là Thiếu úy Cận vệ Ang-tông Kút-nét-sốp được tặng huy hiệu Anh hùng Liên Xô. Sô-ni-a bảo:

        - Rồi em chỉ cho chị xem đồng chí ấy nhé.

        - Không.

        - Sao?

        - Đồng chí ấy đã hy sinh. Thế gọi là truy tặng.

        Quả vậy, một khung đen bọc lấy cả tờ báo, và đầu bài tiểu sử có ghi "Để tưởng nhớ lại".

        - Đồng chí ấy trước ở nhà này à?

        - Giường của đồng chí ấy đấy.

        Chính là cái giường mà Sô-ni-a vịn tay vào.

        - Bây giờ ai ngủ đây?

        - Chưa có ai cả.

        Bàng hoàng vì cảm xúc, Sô-ni-a theo Sla-va ra phố. Hai chị em gặp Éc-ma-kôp đang vội vã đi ra trường bay. Sla-va đứng nghiêm:

        - Báo cáo đồng chí chính ủy, đây là chị tôi.

        Éc-ma-kốp bắt tay Sô-ni-a, và tươi cười hỏi:

        - Cô không đi ngay chứ? Xin lỗi, tôi bận lắm, nhưng lát nữa chúng ta sẽ lại gặp. Trong khi chờ đợi, mời cô đi ăn trưa.

        Anh mở sổ tay ngoáy một cái vé ăn, đưa cho Sla-va rồi chào và đi. Sla-va thường ăn trưa ở nhà ăn. Nó kéo tay Sô-ni-a:

        - Đi ngay đi. Chị Hin-đa sẽ cho mình ăn.

        - Chị không đói tí nào - Sự dút dát đã làm Sô-ni-a nói dối.

        - Thôi đừng có đùa! Đi đi. Ăn súp xong, có món sườn.

        Nhà ăn của các đồng chí thợ máy ở tầng dưới, của các phi công ở tầng trên, Sla-va và Sô-ni-a leo lên cầu thang gỗ. Hin-đa có một mình ở nhà ăn.

        - Chị Hin-đa, giói thiệu dây là chị em!

        Hin-đa mỉm cười chào, để hai chị em ngồi vào một bàn trong góc, và đem lại một đĩa súp rau cải. Sô-ni-a thì thầm:

        - Cô ấy xinh làm sao chứ! Chắc ai cũng phải mê.

        Sla-va sửng sốt. Nó chưa hề tự hỏi là Hin-đa có xinh hay không?

        - Chăng ai mê cả. Nhưng chị ấy lại mê cuồng anh Ta- ta-ren-kô.

        - Sao em biết?

        - Ai cũng biết - Sla-va nói với cái giọng chắc chắn, vừa nói vừa cho "mù tạt" vào súp để làm cái bộ người lớn.

        - Thế anh ta có yêu chị ấy không?

        - Anh ta chẳng nhìn đến nữa là khác.

        - Thế thì đáng ghét quá. Một cô xinh như vậy, đáng lẽ phải mê mới phải.

        Hin-đa đưa thêm thức ăn và đi ra phía chiếc cửa sổ trông xuông trường bay. Cửa kính bị sương đọng đến tận nửa, và Hin-đa phải kiễng chân lên. Hai cô gái nữa ghé đầu qua cửa ra vào. Họ hỏi Hin-đa:

        - Bắt đầu à?

        Hin-đa gật đầu. Các cô chạv ra cửa sổ và cũng kiễng chân lên, nhưng chàng thấy gì, vì thấp hơn Hin-đa. Thế là họ leo lên mép cửa sổ, và sau một phút lưỡng lự, thì Hin- đa cũng làm theo. Sla-va nói:

        - Bắt đầu!

        Mồm còn đầy, nó đã chạy ra cửa sổ, rúc đầu qua váy các cô phục vụ, nhưng chẳng nhìn thấy gì.

        Nó chạy bổ lại Sô-ni-a:

        - Chị này, đợi em một lát... Em không thể bỏ lỡ xem buổi lễ được, một năm mối có một lần.

        Sô-ni-a hốt hoảng:

        - Mày để tao một mình à?

        - Đã có chị Hin-đa ở đây mà.

        - Sla-va, thế không coi được, tao là khách...

        - Em với các bạn về ngay lập tức... Chị đừng giận, một tí là em về...

        Sla-va chạy nhào xuống thang.

        Trung đoàn đã đứng theo hàng ngũ. Mặt trời lớn tướng và giá bàng chiếu sáng rực trường bay. Các phi đội toả ra làm ba hàng, phi công đi đầu. in bóng đen trên tuyết. Lông mày mọi người trắng ra vì sương đọng. Hơi nước ở miệng phào ra.

        Prốt-cua-ri-a-kốp cầm lấy cán cờ từ tay đồng chí giữ cờ, và đặt gối xuống đất. Đều một loạt, cả trung đoàn làm theo:

        - Tổ quốc, hãy nghe chúng tôi! Chúng tôi xin thề...

        Quỳ ở hàng đầu phi đội, Lu-nin cảm thấy con tim rung lên. Anh không trông thấy phi đội của anh, nhưng anh nghe thấy họ nhắc lại lời thề sau Prốt-cua-ri-a-kốp và nghe những giọng thanh niên của họ hơi run run, anh biết là buổi lễ đối với họ cũng không kém rung động như đối với bản thân anh.

        - Chúng tôi sẽ phất ngọn cờ đỏ của Đoàn Cận vệ Xô Viết qua các bão táp của chiến tranh cho đến ngày chiến thắng rạng rỡ...

        Khi trung đoàn nhắc lại chữ "Chiến thắng", thì nó dội lên như một tiếng sấm trong không khí giá lạnh. "Chiến thắng", ai cũng biết nó là thế nào rồi. Nó không còn là một giấc mơ, cũng không là một hy vọng hay một tiên đoán. Họ đã trông thấy nó, bản thân họ đã chiến thắng. Cách đây mấy cây số sừng sững cái thành phố vĩ đại quang vinh. Họ vừa chọc thủng lưới phong toả.

        Địch còn bám chắc. Chúng giữ Cơ-ri-mê, U-cơ-ren, Bi- ê-lô-ruýt-si. Dù ta đã chọc thủng, chúng còn dính vào thành phố ở phía tây nam, và trọng pháo của chúng còn tiếp tục oanh tạc. Con đường phải đi nốt còn mênh mang. Nhân dân còn phải biết bao là hy sinh nữa... Nhưng "Chiến thắng" sẽ đến. Bình minh rạng rỡ sẽ lên. Ánh bình minh đầu tiên đã nhuộm chân trời.

        - Chào cờ! - Đồng chí Prốt-cua-ri-a-kốp ra lệnh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Tư, 2019, 12:00:26 am
        
CHƯƠNG MƯỜI HAI
        
CHIẾN ĐẤU TRÊN BIỂN

I


        Đến bữa ăn trưa, Sô-ni-a gặp các phi công. Khi họ kéo từng đoàn vào nhà ăn, thì gần như phải dùng vũ lực mới giữ cô lại được.

        Hôm nay tiệc liên hoan, có món "pa tê", và mọi người buộc cô phải ăn một miếng lớn tuy cô đã đã trưa rồi. Đến cuối bữa tiệc, thì U-va-rốp tới. Anh thân ái chào Sô-ni-a. Và tuyên bố một vài câu về cuộc lễ buổi sáng. Rồi người ta dẹp bàn lại. Một đồng chí thủy thủ trẻ tuổi giở đàn ắc- coóc-đê-ông. Và bát đầu nhảy.

        Các phi công mặc lễ phục - áo xanh, quần đen là thật phẳng, và giầy thật bóng. Lấp lánh những lon, những cúc vàng và huân chương. Một sỹ quan trẻ tuổi, mà Sô-ni-a thoạt đầu tưởng là phi công, nhưng thật ra là đồng chí thầy thuốc, đem tới một cái máy hát. Và mọi người càng nhảy khỏe.

        Ai nấy đều mời Sô-ni-a, nhưng cô cố tình chối là không biết nhảy. Thực ra, hồi đi học có nhảy đôi chút với các bạn gái nhỏ cùng lớp, nhưng thời kỳ ấy đã quá xa rồi! Anh chàng bé nhỏ Ka-ri-a-kin tỏ ra hay vật nài nhất. Và Sô-ni-a thấy anh chàng buồn cười nhất. Anh ta quay xung quanh cô, đánh ngón tay, nắm lấy tay cô kéo ra giữa nhà. Nhưng cô cười gỡ tay ra, và đầy ngượng nghịu lánh ra một xó.

        Còn có vài cô gái nữa quần áo cũng chẳng hơn gì Sô-ni- a và cái đó yên ủi cô đôi chút. Các cô đều nhảy, nhưng chẳng cô nào nhảy khéo bàng Hin-đa. Sô-ni-a khống ngớt ngắm nghía Hin-đa. Người đẹp như thế, chỉ trong tranh mối có. Ngay đến cô ả "Nuy-ra đẹp" ở đội cô cũng chưa thấm vào đâu!

        Lu-nin không nhảy. Anh đứng riêng với nhóm "đứng đắn”. Sô-ni-a nhận thấy anh nhìn cô tủm tỉm cười, như muốn khuyến khích cô. Và cô mỉm cười lại.

        Một phi công cao lớn, tóc nâu, răng trắng, nhìn cô chằm chằm không rời mắt. Cô sang một góc nhà khác. Anh ta đi theo, nhưng có vẻ rụt rè và không dám gợi chuyện. Cô hỏi:

        - Tại sao anh không nhảy?

        - Tôi không biết nhảy.

        - Vậy là cũng như tôi sao?

        - Còn kém hơn nữa.

        Cô cho là vô lý và hỏi:

        - Sao anh biết?

        - Thì chúng ta thí nghiệm xem, chị có đồng ý không?

        Cô không kịp từ chối. Anh đã nhẹ nhàng đặt tay vào

        ngang người cô, và họ thử nhảy một điệu "van".

        - Tôi biết chị là chị Sô-ni-a.  Anh chàng nói xong thì hơi đỏ mặt.

        - Vâng. Còn anh?

        - I-li-a

        - I-li-a Ta-ta-ren-kô?

        - Đúng.

        - Tôi không tưởng anh như vậy.

        - Vậy chị tưởng như thế nào?

        - Tôi tưởng anh còn bé, còn ít tuổi như kiểu Sla-va. Nó nói rằng anh là bạn nó.

        - Thì chúng tôi là một đôi bạn thực.

        Sô-ni-a nhảy cả buổi với Ta-ta-ren-cô. Chưa bao giờ cô cảm thấy vui vẻ như vậy. Càng nhảy càng mạnh dạn thêm lên, nên họ không bỏ một điệu nào, và nhảy cũng không kém gì người khác. Sô-ni-a không còn để ý đến ai nữa. Nhưng có hai lần, cô thấy Lu-nin nhìn cô, vẻ hơi buồn, và cái đó làm cô bối rối trong giây phút.

        Cô chỉ nhớ lại thế giới bên ngoài khi có người gọi Ta-ta- ren-kô, và anh phải rời cô lần đầu tiên trong cả buổi tối. Sla-va đi ngủ từ lâu. Cô cũng đến giờ phải về rồi! Cô không có giây thông hành đêm, nếu nhỡ chuyến xe điện cuối cùng thì... Cô chạy bổ ra buồng ngoài để lấy áo măng- tô.

        Lu-nin đã ở đấy.

        - Tôi mặc áo ca-pôt rồi đưa cô về.

        - Không đâu, đồng chí Lu-nin ạ. Tôi về một mình được.

        Ta-ta-ren-kô vừa chạy xổ tới và đứng dừng hẳn lại khi thấy Sô-ni-a đứng với Lu-nin.

        Đồng chí thiếu tá đã lấy ca-pốt ra khỏi mắc áo. Anh mắc lại và ung dung nói.

        - Cậu đưa cô ấy về.

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá.

        Nhưng Lu-nin đã quay gót.

        Khi thấy Ta-ta-ren-kô sửa soạn đi tiễn cô, mà không mặc ca-pốt, không đội mũ lông thì Sô-ni-a hốt hoảng:

        - Trời lạnh thế này thì anh chết cóng mất.

        Anh phân trần là anh không hề thấy lạnh, vả lại, thời tiết cũng ấm. Thực thì thời tiết có bớt lạnh đi thật và hơi xuống tuyết. Trăng lấp ló sau mây, và dưới ánh trăng mò, thấy những bông tuyết mắc vào mớ tóc nâu của đồng chí thiếu úy. Họ vừa cười vừa chạy ra đoạn tận cùng của đường xe điện. Nhưng khi Sô-ni-a đã leo lên cuối toa, ánh sáng xanh của ngọn đèn điện bao lấy người cô như một lớp hào quang, thì bỗng nhiên anh chàng Ta-ta-ren-kô như ỉu hẳn đi.

        Xe điện chuyển bánh.

        - Chào chị.

        - Chào anh. - Sô-ni-a giơ bàn tay đeo găng khẽ vẫy.

        Anh biến vào đêm tôi. Cô đứng ở cuối toa, gió thổi quật  vào người nhưng lại thấy dễ chịu. Xe rít bánh chạy nhanh thêm. Bất chợt Sô-ni-a nghe thấy ai chạy đuổi theo xe điện. Thì là anh! Một tay nắm lấy cái núm đồng, anh nhảy lên xe. Cô hét lên:

        - Nguy hiểm chết!

        - Tôi còn muốn chào chị một lần nữa.

        Các phố vắng tanh. Xe điện mở hết tốc lực. Sô-ni-a kêu lên:

        - Tôi cấm anh không được nhảy! Ở đây trơn lắm. Đến ga sau anh sẽ xuống.

        Anh cứ nhẩy và biến vào đêm tôi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Tư, 2019, 04:13:13 am

*

*      *

        Sô-ni-a tiến bộ lớn trong công việc hàn sì. Cô tự thấy tình cờ đã học được một nghề chuyên môn vào loại quý nhất, và hiện nay thì hết sức cần thiết. Mọi người đã hết coi cô như một đứa trẻ con. Có những người lớn tuổi hơn nhiều mà vẫn đến hỏi ý kiến cô.

        Đội Công-sô-môn của cô bây giờ giải tán. Tuy lỗ hổng mà ta đã chọc được vào trận địa địch còn nhỏ, tuy kẻ thù vẫn ở cửa ngõ thành phố, và mặc dầu bị oanh tạc mỗi ngày một nặng, nhưng các nhà máy vẫn mọc lên từng cái một. Những đoàn tàu chở lương thực và than củi tới thành phố bằng đường bờ nam hồ La-đô-ga, đi men theo các tuyến tiền duyên. Cũng do đường đó mà lấy điện từ Von-khốp lại. Ông khói nhà máy lại phun khói. Máy lại nổ. Công việc đã tiếp tục như thường. Và các cô gái trong đội Sô-ni- a trở về với công tác cũ.

        Xô viết khu giữ lại Sô-ni-a. Phải chữa lại các ống nước, các cống, chữa lại bộ phận đốt lửa trung tâm và củng cố bộ phận kèo cột bằng sắt của các nhà. Đâu cũng cần đến thợ hàn. Sô-ni-a được ghép vào một đội gồm thợ nguội, thợ chì, thợ lợp nhà, và trực thuộc Xô viết khu. Các cô gái ở đó hơi nhiều tuổi hơn Sô-ni-a, và bọn con trai thì lại hơi ít tuổi hơn. Trong đội, với danh nghĩa là chuyên môn trong một nghề khó, nên cô có cương vị đặc biệt.

        Họ làm việc từ sáng sớm đến chiều tối, không nghỉ chủ nhật, với ngọn lửa thanh xuân và ý thức phục vụ tốt. Mỗi lần, sau hàng tuần lễ lăn lộn với công việc, thấy nước đã chảy vào được các ống một khu nhà thì họ vui mừng tưởng đến bật cả trái tim ra ngoài. Họ có cảm giác như làm sống lại những cái đã chết, như bắt những cái tàn phế phải phục vụ người sống.

        Càng ngày, Sô-ni-a càng luôn luôn gắn bó với nghề. Lúc đầu, chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài nó đã cám dỗ cô: nào kính, nào những tua nước kim khí đang chảy, cái ngọn lửa xanh bí mật của mỏ hàn. Nhưng càng làm việc, cô càng hiểu và mê mải với những đặc tính của kim khí mà từ trước đến nay cô chưa biết. Người ta có thể làm cho kim khí mềm ra và theo ý muốn của mình. Chỉ cần nắm được cái bí quyết của chúng. Ngành luyện kim thật là một phạm vi hoạt động vĩ đại của con người! Chính cái đó là cần phải học; phải cống hiến cuộc đời cho nó, cũng như ông ngoại đã cống hiến cuộc đời cho khoa học sông, hồ.

        Ang-tô-ni-a giải thích cho Sô-ni-a:

        - Nghĩ đến cái ấy sớm quá. Em phải thi đỗ chuyên khoa đã. Năm ngoái, không thể nghĩ đến học được. Nhưng thời kỳ đó đã qua rồi. Bây giờ, ngay thằng Sla-va cũng đã tiếp tục học.

        - Vì em còn phải làm việc. Em không thể bỏ đội được...

        - Phải nghĩ đến cái đó... Để chị xem xem nên như thế nào.

        Ang-tô-ni-a vẫn ở Ban chấp hành Xô viết khu. Có phút nào rỗi là Sô-ni-a lại đến gặp chị ở bàn giấy để nói chuyện, thường đã thấy các cô bạn Công-sô-môn khác ở đấy.

        Vài ngày sau, chị Ang-tô-ni-a hỏi cô:

        - Em có khả năng tự học không?

        Và không đợi trả lời, chị nói luôn:

        - Bọn trẻ con không biết tự học. Ngay đến người lớn cũng ít người học được đến nơi. Cái đó cần nghị lực nhiều lắm. Em sẽ tiếp tục học mà không phải ngừng công tác. Em có khả năng chuẩn bị để thi chuyên khoa được không?

        - Em lấy thì giờ đâu mà học?

        - Sẽ cho em thì giờ. Chị quyết định cái đó thì chị sẽ bảo đảm.

        - Nhưng còn toán pháp... Một mình thì em không đến nơi được.

        - Chị sẽ giúp. Trước chiến tranh, chị dạy thêm đại số cho ba em ở xưởng dệt thi chuyên khoa. Nếu cả ngày chị bận thì sau mười giờ tối em đến tìm chị.

        Sô-ni-a lại học. Ang-tô-ni-a xoay xở sách giúp cô, và đặt cho cô một chương trình rất sát. Từ nay, đời sống của Sô-ni-a chia làm hai: hàn sì và sách vở.

        Thời gian thiếu một cách quái ác, nhất là lúc đầu. Mặc dù ý muốn của cấp trên, nhưng người ta nhất thiết cần đến công việc của Sô-ni-a.

        Ang-tô-ni-a nhiều lần can thiệp, và trên đi đến thỏa thuận là Sô-ni-a sẽ tìm một người thay thế. Cô sẽ dạy nghề cho người đó, và hai người sẽ cắt lượt nhau phục vụ.

        Sô-ni-a vẫn có một người giúp việc trong công tác, có khi hai người. Cái đó làm cô có cảm giác như một người phụ trách thực thụ. Cô nhớ đến hồi cậu thợ bé đã dạy cô hàn sì, và nay đến lượt cô phải ra sức dạy nghề cho các bạn. Trong thời gian dài cô không gặp may, vì rơi vào những tay phụ mới trông thấy cái mỏ hàn sì đã hết vía. Rồi có một cô bé cùng tuổi giúp việc tên là "Tô-ni-a còm". Trông như mới 12 tuổi, vì nạn đói đã làm cô liệt giường sáu tháng. Mọi người tưởng không bao giờ cô còn dậy được nữa, và bộ mặt tái nhợt còn giữ lại dấu vết của những ngày đói khổ. Nhưng cô cũng qua được tai nạn, và đi tìm kiếm công việc. Và đôi bàn tay bé như bàn tay trẻ con lại khéo léo một cách hiếm có. Cô thích nghề hàn sì, và nhận việc tập sự giúp Sô-ni-a với tấm lòng biết ơn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:07:32 am

CHƯƠNG MƯỜI HAI

CHIẾN ĐẤU TRÊN BIỂN

I

        Đến bữa ăn trưa, Sô-ni-a gặp các phi công. Khi họ kéo từng đoàn vào nhà ăn, thì gần như phải dùng vũ lực mới giữ cô lại được.

        Hôm nay tiệc liên hoan, có món "pa tê", và mọi người buộc cô phải ăn một miếng lớn tuy cô đã đã trưa rồi. Đến cuối bữa tiệc, thì U-va-rốp tới. Anh thân ái chào Sô-ni-a. Và tuyên bố một vài câu về cuộc lễ buổi sáng. Rồi người ta dẹp bàn lại. Một đồng chí thủy thủ trẻ tuổi giở đàn ắc- coóc-đê-ông. Và bát đầu nhảy.

        Các phi công mặc lễ phục - áo xanh, quần đen là thật phẳng, và giầy thật bóng. Lấp lánh những lon, những cúc vàng và huân chương. Một sỹ quan trẻ tuổi, mà Sô-ni-a thoạt đầu tưởng là phi công, nhưng thật ra là đồng chí thầy thuốc, đem tới một cái máy hát. Và mọi người càng nhảy khỏe.

        Ai nấy đều mời Sô-ni-a, nhưng cô cố tình chối là không biết nhảy. Thực ra, hồi đi học có nhảy đôi chút với các bạn gái nhỏ cùng lớp, nhưng thời kỳ ấy đã quá xa rồi! Anh chàng bé nhỏ Ka-ri-a-kin tỏ ra hay vật nài nhất. Và Sô-ni-a thấy anh chàng buồn cười nhất. Anh ta quay xung quanh cô, đánh ngón tay, nắm lấy tay cô kéo ra giữa nhà. Nhưng cô cười gỡ tay ra, và đầy ngượng nghịu lánh ra một xó.

        Còn có vài cô gái nữa quần áo cũng chẳng hơn gì Sô-ni- a và cái đó yên ủi cô đôi chút. Các cô đều nhảy, nhưng chẳng cô nào nhảy khéo bàng Hin-đa. Sô-ni-a khống ngớt ngắm nghía Hin-đa. Người đẹp như thế, chỉ trong tranh mối có. Ngay đến cô ả "Nuy-ra đẹp" ở đội cô cũng chưa thấm vào đâu!

        Lu-nin không nhảy. Anh đứng riêng với nhóm "đứng đắn”. Sô-ni-a nhận thấy anh nhìn cô tủm tỉm cười, như muốn khuyến khích cô. Và cô mỉm cười lại.

        Một phi công cao lớn, tóc nâu, răng trắng, nhìn cô chằm chằm không rời mắt. Cô sang một góc nhà khác. Anh ta đi theo, nhưng có vẻ rụt rè và không dám gợi chuyện. Cô hỏi:

        - Tại sao anh không nhảy?

        - Tôi không biết nhảy.

        - Vậy là cũng như tôi sao?

        - Còn kém hơn nữa.

        Cô cho là vô lý và hỏi:

        - Sao anh biết?

        - Thì chúng ta thí nghiệm xem, chị có đồng ý không?

        Cô không kịp từ chối. Anh đã nhẹ nhàng đặt tay vào

        ngang người cô, và họ thử nhảy một điệu "van".

        - Tôi biết chị là chị Sô-ni-a.  Anh chàng nói xong thì hơi đỏ mặt.

        - Vâng. Còn anh?

        - I-li-a

        - I-li-a Ta-ta-ren-kô?

        - Đúng.

        - Tôi không tưởng anh như vậy.

        - Vậy chị tưởng như thế nào?

        - Tôi tưởng anh còn bé, còn ít tuổi như kiểu Sla-va. Nó nói rằng anh là bạn nó.

        - Thì chúng tôi là một đôi bạn thực.

        Sô-ni-a nhảy cả buổi với Ta-ta-ren-cô. Chưa bao giờ cô cảm thấy vui vẻ như vậy. Càng nhảy càng mạnh dạn thêm lên, nên họ không bỏ một điệu nào, và nhảy cũng không kém gì người khác. Sô-ni-a không còn để ý đến ai nữa. Nhưng có hai lần, cô thấy Lu-nin nhìn cô, vẻ hơi buồn, và cái đó làm cô bối rối trong giây phút.

        Cô chỉ nhớ lại thế giới bên ngoài khi có người gọi Ta-ta- ren-kô, và anh phải rời cô lần đầu tiên trong cả buổi tối. Sla-va đi ngủ từ lâu. Cô cũng đến giờ phải về rồi! Cô không có giây thông hành đêm, nếu nhỡ chuyến xe điện cuối cùng thì... Cô chạy bổ ra buồng ngoài để lấy áo măng- tô.

        Lu-nin đã ở đấy.

        - Tôi mặc áo ca-pôt rồi đưa cô về.

        - Không đâu, đồng chí Lu-nin ạ. Tôi về một mình được.

        Ta-ta-ren-kô vừa chạy xổ tới và đứng dừng hẳn lại khi thấy Sô-ni-a đứng với Lu-nin.

        Đồng chí thiếu tá đã lấy ca-pốt ra khỏi mắc áo. Anh mắc lại và ung dung nói.

        - Cậu đưa cô ấy về.

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá.

        Nhưng Lu-nin đã quay gót.

        Khi thấy Ta-ta-ren-kô sửa soạn đi tiễn cô, mà không mặc ca-pốt, không đội mũ lông thì Sô-ni-a hốt hoảng:

        - Trời lạnh thế này thì anh chết cóng mất.

        Anh phân trần là anh không hề thấy lạnh, vả lại, thời tiết cũng ấm. Thực thì thời tiết có bớt lạnh đi thật và hơi xuống tuyết. Trăng lấp ló sau mây, và dưới ánh trăng mò, thấy những bông tuyết mắc vào mớ tóc nâu của đồng chí thiếu úy. Họ vừa cười vừa chạy ra đoạn tận cùng của đường xe điện. Nhưng khi Sô-ni-a đã leo lên cuối toa, ánh sáng xanh của ngọn đèn điện bao lấy người cô như một lớp hào quang, thì bỗng nhiên anh chàng Ta-ta-ren-kô như ỉu hẳn đi.

        Xe điện chuyển bánh.

        - Chào chị.

        - Chào anh. - Sô-ni-a giơ bàn tay đeo găng khẽ vẫy.

        Anh biến vào đêm tôi. Cô đứng ở cuối toa, gió thổi quật

        vào người nhưng lại thấy dễ chịu. Xe rít bánh chạy nhanh thêm. Bất chợt Sô-ni-a nghe thấy ai chạy đuổi theo xe điện. Thì là anh! Một tay nắm lấy cái núm đồng, anh nhảy lên xe. Cô hét lên:

        - Nguy hiểm chết!

        - Tôi còn muốn chào chị một lần nữa.

        Các phố vắng tanh. Xe điện mở hết tốc lực. Sô-ni-a kêu lên:

        - Tôi cấm anh không được nhảy! Ở đây trơn lắm. Đến ga sau anh sẽ xuống.

        Anh cứ nhẩy và biến vào đêm tôi.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:09:01 am

*
*  *

        Sô-ni-a tiến bộ lớn trong công việc hàn sì. Cô tự thấy tình cờ đã học được một nghề chuyên môn vào loại quý nhất, và hiện nay thì hết sức cần thiết. Mọi người đã hết coi cô như một đứa trẻ con. Có những người lớn tuổi hơn nhiều mà vẫn đến hỏi ý kiến cô.

        Đội Công-sô-môn của cô bây giờ giải tán. Tuy lỗ hổng mà ta đã chọc được vào trận địa địch còn nhỏ, tuy kẻ thù vẫn ở cửa ngõ thành phố, và mặc dầu bị oanh tạc mỗi ngày một nặng, nhưng các nhà máy vẫn mọc lên từng cái một. Những đoàn tàu chở lương thực và than củi tới thành phố bằng đường bờ nam hồ La-đô-ga, đi men theo các tuyến tiền duyên. Cũng do đường đó mà lấy điện từ Von-khốp lại. Ông khói nhà máy lại phun khói. Máy lại nổ. Công việc đã tiếp tục như thường. Và các cô gái trong đội Sô-ni- a trở về với công tác cũ.

        Xô viết khu giữ lại Sô-ni-a. Phải chữa lại các ống nước, các cống, chữa lại bộ phận đốt lửa trung tâm và củng cố bộ phận kèo cột bằng sắt của các nhà. Đâu cũng cần đến thợ hàn. Sô-ni-a được ghép vào một đội gồm thợ nguội, thợ chì, thợ lợp nhà, và trực thuộc Xô viết khu. Các cô gái ở đó hơi nhiều tuổi hơn Sô-ni-a, và bọn con trai thì lại hơi ít tuổi hơn. Trong đội, với danh nghĩa là chuyên môn trong một nghề khó, nên cô có cương vị đặc biệt.

        Họ làm việc từ sáng sớm đến chiều tối, không nghỉ chủ nhật, với ngọn lửa thanh xuân và ý thức phục vụ tốt. Mỗi lần, sau hàng tuần lễ lăn lộn với công việc, thấy nước đã chảy vào được các ống một khu nhà thì họ vui mừng tưởng đến bật cả trái tim ra ngoài. Họ có cảm giác như làm sống lại những cái đã chết, như bắt những cái tàn phế phải phục vụ người sống.

        Càng ngày, Sô-ni-a càng luôn luôn gắn bó với nghề. Lúc đầu, chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài nó đã cám dỗ cô: nào kính, nào những tua nước kim khí đang chảy, cái ngọn lửa xanh bí mật của mỏ hàn. Nhưng càng làm việc, cô càng hiểu và mê mải với những đặc tính của kim khí mà từ trước đến nay cô chưa biết. Người ta có thể làm cho kim khí mềm ra và theo ý muốn của mình. Chỉ cần nắm được cái bí quyết của chúng. Ngành luyện kim thật là một phạm vi hoạt động vĩ đại của con người! Chính cái đó là cần phải học; phải cống hiến cuộc đời cho nó, cũng như ông ngoại đã cống hiến cuộc đời cho khoa học sông, hồ.

        Ang-tô-ni-a giải thích cho Sô-ni-a:

        - Nghĩ đến cái ấy sớm quá. Em phải thi đỗ chuyên khoa đã. Năm ngoái, không thể nghĩ đến học được. Nhưng thời kỳ đó đã qua rồi. Bây giờ, ngay thằng Sla-va cũng đã tiếp tục học.

        - Vì em còn phải làm việc. Em không thể bỏ đội được...

        - Phải nghĩ đến cái đó... Để chị xem xem nên như thế nào.

        Ang-tô-ni-a vẫn ở Ban chấp hành Xô viết khu. Có phút nào rỗi là Sô-ni-a lại đến gặp chị ở bàn giấy để nói chuyện, thường đã thấy các cô bạn Công-sô-môn khác ở đấy.

        Vài ngày sau, chị Ang-tô-ni-a hỏi cô:

        - Em có khả năng tự học không?

        Và không đợi trả lời, chị nói luôn:

        - Bọn trẻ con không biết tự học. Ngay đến người lớn cũng ít người học được đến nơi. Cái đó cần nghị lực nhiều lắm. Em sẽ tiếp tục học mà không phải ngừng công tác. Em có khả năng chuẩn bị để thi chuyên khoa được không?

        - Em lấy thì giờ đâu mà học?

        - Sẽ cho em thì giờ. Chị quyết định cái đó thì chị sẽ bảo đảm.

        - Nhưng còn toán pháp... Một mình thì em không đến nơi được.

        - Chị sẽ giúp. Trước chiến tranh, chị dạy thêm đại số cho ba em ở xưởng dệt thi chuyên khoa. Nếu cả ngày chị bận thì sau mười giờ tối em đến tìm chị.

        Sô-ni-a lại học. Ang-tô-ni-a xoay xở sách giúp cô, và đặt cho cô một chương trình rất sát. Từ nay, đời sống của Sô-ni-a chia làm hai: hàn sì và sách vở.

        Thời gian thiếu một cách quái ác, nhất là lúc đầu. Mặc dù ý muốn của cấp trên, nhưng người ta nhất thiết cần đến công việc của Sô-ni-a.

        Ang-tô-ni-a nhiều lần can thiệp, và trên đi đến thỏa thuận là Sô-ni-a sẽ tìm một người thay thế. Cô sẽ dạy nghề cho người đó, và hai người sẽ cắt lượt nhau phục vụ.

        Sô-ni-a vẫn có một người giúp việc trong công tác, có khi hai người. Cái đó làm cô có cảm giác như một người phụ trách thực thụ. Cô nhớ đến hồi cậu thợ bé đã dạy cô hàn sì, và nay đến lượt cô phải ra sức dạy nghề cho các bạn. Trong thời gian dài cô không gặp may, vì rơi vào những tay phụ mới trông thấy cái mỏ hàn sì đã hết vía. Rồi có một cô bé cùng tuổi giúp việc tên là "Tô-ni-a còm". Trông như mới 12 tuổi, vì nạn đói đã làm cô liệt giường sáu tháng. Mọi người tưởng không bao giờ cô còn dậy được nữa, và bộ mặt tái nhợt còn giữ lại dấu vết của những ngày đói khổ. Nhưng cô cũng qua được tai nạn, và đi tìm kiếm công việc. Và đôi bàn tay bé như bàn tay trẻ con lại khéo léo một cách hiếm có. Cô thích nghề hàn sì, và nhận việc tập sự giúp Sô-ni-a với tấm lòng biết ơn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:09:28 am

        Sô-ni-a phải dạy cô trong những điều kiện khó khăn. Hai người làm việc trong một cái lồng gỗ treo vào một vòm cầu bị đạn đại bác làm hư hại. Treo bằng một sợi dây cáp. Chiếc lồng rung rinh trong gió. Chim én kêu liệng sát lồng. Ở dưới con sông sâu thăm thẳm, trôi những tảng băng cuối cùng. Sô-ni-a thấy chóng mặt, mắt mờ đi, và cô sợ cái khoảng không giữa mây hàng ván mỏng chúng trĩu xuống dưới những "chai hơi" nặng. Giọng cô nghẹn lại, động tác đâm ít chính xác, và đầu óc đi đâu cả! Nhưng mà phải công tác phải giảng dạy cho Tô-ni-a, và nhất là không cho cô thợ phụ gan góc ấy biết là mình sợ. Tô-ni-a thì tụt theo một chiếc thừng trơn mà xuống lồng, và ngồi ngay mép ván, thõng chân trên vực thảm.

        Sô-ni-a tự động viên mình là dưới chân các phi công còn có một vực sâu thẳm hơn nhiều. Đó là chưa kể thường xuyên họ bay trên mặt biến.

        Từ buổi lễ của trung đoàn, đầu óc cô luôn nghĩ đến các đồng chí phi công. Đôi khi cô gặp Ta-ta-ren-kô. Cô đến thăm Sla-va hai lần ở trường bay, và Ta-ta-ren-kô chạy lại để chào cô. Nhưng ở đó thì Ta-ta-ren-kô rất bận và chăng bao giờ ở lại với cô được hơn mấy phút.

        Ở thành phố, thì họ gặp nhau được lâu hơn. Một hôm, vào giữa tháng năm, Lu-nin đến thăm cô cùng với Ta-ta- ren-kô.

        Đến chiều tôi họ mới lại. Sau khi ăn chiều xong ở quán cơm Xô viết khu, cô vừa về và bắt đầu làm bài trên cái bàn nhà bếp. Bây giờ thì cô thợ phụ đã khá thuộc nghề để buổi chiều có thể thay Sô-ni-a. Sô-ni-a định học khuya. Nhưng vừa mở cửa cho Lu-nin và Ta-ta-ren-kô thì bao nhiêu ý định cũ, đã bay đi đằng nào!

        Lu-nin ra thành phố có việc, Fê-đô-rốp phải đưa anh xem những bộ phận máy bay mới. Ta-ta-ren-kô xin đi theo, không những vì các máy móc đó, nhưng còn là vì anh rất thèm coi thành phố mà anh chưa biết, tuy đã đóng gần sáu tháng ở cửa ngõ của nó.

        Kho vật liệu ở cù lao Vát-si-li, gần bến tầu. Ba người đến đó bằng ôtô của trung đoàn. Sau khi xem xét các máy móc. họ chia tay nhau. Fê-đô-rốp dùng ôtô đi lên sư đoàn. Lu-nin và Ta-ta-ren-kô đi dạo thành phố. Đến tối đồng chí kỹ sư sẽ lại tìm.

        Lu-nin bảo Sô-ni-a:

        - Tôi chẳng chỉ được cho hắn ta xem cái gì cả, vì bản thân tôi cùng chẳng biết gì. Tôi thật là một người dẫn đường đáng trách. Nếu có thì giờ cô chỉ cho hắn xem thành phố một chút, trong khi tôi nghỉ ở đây.

        Anh cho cô biết tin Sla-va, trong khi Ta-ta-ren-kô rụt rè quan sát xung quanh. Sách vở làm hắn rất phục - cả một bức tường sách từ sàn cho đến trần nhà. Hắn hỏi Sô- ni-a:

        - Sách của chị đấy à?

        - Của ba tôi.

        Sô-ni-a rất am hiểu và yêu mến thành phố của mình. Cô dẫn Ta-ta-ren-kô qua vườn hoa, qua cầu, qua bến: chưa lần nào Lê-nin-grát đôi với cô lại huyền diệu như buổi tối sáng trời và mát mẻ ấy. Thực ra thì cũng chưa bao giờ thành phố lại đẹp như hồi tháng năm, năm 1943 ấy. Lơ lửng giữa nước trời, đầm ánh sáng của hai cảnh tranh tối tranh sáng trong đêm trăng, nghiêm nghị và vắng tanh như một thành phố trong mơ. Mỗi hòn đá, mỗi tấm cửa kính vỡ, mỗi bộ mặt người qua dường như rực sáng lửa chiến thắng. Chưa bao giờ lá cây vườn hoa lại xum xuê mát mẻ như vậy. cỏ dại mọc khắp nơi, tràn lên thềm đá

        các toà nhà và các lâu đài. Cái nhựa chan hoà ấy như biểu dương sự chiến thắng của cuộc sống.

        Sô-ni-a chỉ cho Ta-ta-ren-kô coi trường Đại học, nhà Ngân hàng, những cột kỷ niệm Thủy chiến, và dinh Thủy sư Đô đốc. Mặt nước dinh Thủy sư đầy vết cào cấu của mảnh đạn. Nhạn làm tổ trong các vết thương ấy. Và chúng bay thành từng vằn trên trời, kêu những tiếng dài. Sô-ni- a đưa bạn đi xem cả Điện Mùa Đông, quảng trưởng, hàng cột A-lếch-dăng-đrơ. Và họ ngắm hồi lâu cái hình nửa bồ dục hùng tráng của "Tổng hành dinh".

        - Có phải ở đó là chỗ bắt đầu xung phong vào Điện Mùa Đông năm 1917 không?

        - Phải.

        - Và A-vrô-ra thì ở đâu?

        - Đằng kia...

        Bậc thềm của Điện Mùa Đông đã bị đạn đại bác bắn vỡ. và mảnh đạn đã cắt cụt một cột tượng người ở khu Éc- mít-ta-giơ. Sô-ni-a chỉ cho Ta-ta-ren-kô xem con "Kênh Mùa Đông", Hồng trường, mồ liệt sĩ cách mạng, "Điện công trình sư" mà Hoàng đế Pôn đệ nhất đã bị thắt cổ, nhà riêng của Pi-e Đại đế ở Vườn Mùa hè... Ta-ta-ren-kó mê mải với tiếng nói của cô. Cái dáng đi của nàng nhẹ biết bao! Anh ngắm mỗi cái rung rinh của đôi mày, mỗi cái chớp của hàng mi, mỗi cử động của đôi vai, mỗi cách uốn giọng nói. Và sự hiểu biết của cô làm anh ngạc nhiên. Anh cũng thích lịch sử. Nhưng thua nàng bao nhiêu! Anh lẫn lộn các Nga hoàng, quên rằng Ca-tơ-rin vợ Pi-e là Ca-tơ- rin nào, và Pôn là con ai?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:10:02 am

        Đôi khi cô hỏi anh về các trận không chiến. Nhưng anh trả lời lững lờ và không hào hứng. Anh chỉ muốn nghe nàng nói. Trên đường về, khi qua cầu, lúc cô chỉ cho anh xem cảnh mặt trời lặn làm bừng cháy rực cả phần bắc bầu trời, thì bỗng nhiên anh trở nên nhiều lời hơn trước:

        - Nếu chị trông thấy những cảnh hoàng hôn mà chúng tôi thấy!

        - Ở đâu cơ?

        - Trong khi bay! Trên cao 8.000 thước, bầu trời chỉ là một đám cháy mênh mang. Bay trong một cái lò lửa. Ai dà! Nếu chị được xem!

        Khi hai người về đến nhà thì đã khuya. Lu-nin ra đi không đợi Ta-ta-ren-kô. Fê-đô-rốp chắc đã lại tìm anh. Ta-ta-ren-kô vội đi kẻo lỡ chuyến xe điện cuối cùng.

        - Chị đến thăm chúng tôi nhé.

        - Anh ra Lê-nin-grát thì hơn.

        - Vui lòng, nhưng chưa biết là bao giờ đâu. Chúng tôi phải xuất trận nhiều. Hôm nào yên yên một chút, tôi sẽ xin phép đồng chí thiếu tá.

        - Đồng chí Lu-nin phải không?

        Ta-ta-ren-kô gật.

        - Anh mến đồng chí ấy lắm phải không? Đồng chí ấy có tốt không?

        - Còn gì nữa! Không ai hơn đồng chí ấy được.

        - Tôi cũng cho đồng chí ấy là một người đáng kính phục. Đồng chí ấy đối với Sla-va tốt một cách lạ.

        Từ đó, cứ mươi, mười lăm ngày, Ta-ta-ren-kô lại đến thăm Sô-ni-a vào buổi chiểu. Không báo được trước, nên lần nào cũng đến bất thình lình. Nhưng bao giờ cũng gặp, vì lúc đó là giờ cô làm bài. Có tiếng chuông là cô ra mở cửa, mặt tươi lên.

        Họ dắt nhau đi chơi ngay. Đó là thời kỳ những đêm trăng. Mỗi lần mặt trời lại lặn chậm đi hơn và cảnh hoàng hôn càng rực rỡ. Họ luôn chọn những khu phố mới để dạo chơi, và như vậy đã thăm thành phố được ở khắp mọi chỗ, từ bến tầu đến Le-snô-ê. Họ nói chuyện kiến trúc, chuyện lịch sử, chuyện sân khấu, chuyện sách vở. Ta-ta-ren-kô thích nói chuyện Lê- nin và Cách mạng Tháng 10. Cô đưa anh đi coi chỗ ga Phần Lan mà Lê-nin đứng trên ôtô bọc sắt kêu gọi quần chúng, coi các phố ở khu Pê-trô-grát mà đồng chí đã ở hồi năm 1917, coi Điện Krơ-din-ska mà đồng chí đã bao lần đứng trên bao lơn nói chuyện với nhân dân, và cuối cùng là đi coi Smôn-ni.

        Sô-ni-a đi xem kịch nhiều hơn Ta-ta-ren-kô, và đọc sách nhiều hơn anh. Trong khi đi dạo chơi, cô nói chuyện về các vở kịch đã coi, tả lại cảnh trang trí. Anh chăm chú nghe, đầy tôn kính đối với sự hiểu biết của cô gái. Chắc là cũng tự ái, vì anh chàng không muốn có ai hơn mình. Khi cô kể tên một cuốn sách nào mà anh chưa đọc thì anh ghi tên tác giả vào quyển sổ tay và rít răng tự nhủ:

        - Mình sẽ đọc cuốn ấy!

        Một buổi chiều hạ tuần tháng sáu, trong khi hai người dạo chơi qua các cù lao cây cỏ mọc um tùm thì họ thấy ở một nhánh đất bồi có một chỗ cho sỹ quan thuê thuyền. Sau khi ta chọc thủng trận địa địch, Ta-ta-ren-kô và các đồng chí khác trong phi đội đã được đề bạt Trung úy. Đôi lon vàng nền da trời lấp lánh trên vai áo màu xanh. Hơi ngượng nghịu, Ta-ta-ren-kô nói với đồng chí thượng sỹ giữ thuyền giao cho một chiếc. Đồng chí hạ sỹ quan đem bơi chèo tới, và Ta-ta-ren-kô xuống thuyền với Sô-ni-a.

        Anh chèo, chị giữ lái. Họ bơi vào khoảng giữa các cù lao, tìm những lối chật và hẻo lánh nhất. Trời chiểu ngàn màu sắc phản chiếu trong nước. Thuyên lềnh bềnh dưới vòm cây. Sáu Stuốc-mô-vi-ki bay là mặt thuyền.

        Ta-ta-ren-kô lắng tai nghe và nói:

        - Họ đi bắn phá những dàn pháo địch ở Stren-na.

        Từ đó đến Stren-na, chỉ có mấy cấy số. Trong không khí im lìm, nghe thấy rõ mồn một tiếng bom nổ lẫn tiếng sủa của cao xạ địch. Rồi Stuốc-mô-vi-ki bay trở về.

        Thuyền ra đến biển. Mặt trời lặn làm sáng rực vũng Mác-ki phảng lặng như gương. Sô-ni-a phá lên cười.

        - Anh có biết tôi nghĩ đến gì không? ... Tôi nghĩ rằng: may áo bằng cái màu trời hoàng hôn này thì lộng lẫy biết mấy... Vớ vẩn quá anh nhỉ?

        Chàng cười âu yếm:

        - Chị có vui không?

        - Tất nhiên. Thế anh?

        - Tôi cũng thế, nhưng không vui lắm.

        - Tại sao?

        - Vì chúng tôi sắp đi.

        - Sao?

        Anh giải thích là phi đội di chuyển. Không biết bao giờ, nhưng chắc là sắp. Cũng không biết là đi đầu.

        - Có xa không anh?

        - Có lẽ không xa lắm, nhưng cũng khá xa, không thể ra dạo chơi thành phố được.

        Cô nhìn thấy ngay vấn đề. Hai người không còn gặp nhau nữa. Cho đến bao giờ? Ai mà biết...

        Giữa họ, chưa hề nói đến chuyện yêu đương. Nhưng Sô-ni-a mất hẳn vui. Cuộc dạo chơi không còn hứng thú gì đối với họ nữa. Họ trở lại bến, và đi sát nhau trong cái mát mẻ buổi hoàng hôn. Và họ đôi khi đụng phải nhau. Đến cửa nhà, anh hỏi:

        - Chị sẽ viết thư cho tôi nhé.

        Cô gật đầu.

        Họ đứng hồi lâu dưới cửa tò vò trong sân, không thể rời nhau. Sô-ni-a hỏi:

        - Chúng ta còn gặp nhau không?

        Anh không dám chắc chắn. Lệnh xuất phát bao giờ cũng đến vào phút cuối cùng. Nhưng anh sẽ cố thu xếp đến từ biệt.

        - Nếu tôi không thể đến được, tôi sẽ nhắn tin.

        - Bằng cách nào?

        - Nhờ Sla-va. Đồng chí Lu-nin chắc sẽ cho phép nó về chào chị. Chị sẽ tới nhé. Đồng ý không?

        - Tôi sẽ đến.

        Cô tiễn anh ra bến xe điện. Nhưng chuyến xe cuối cùng vừa đi. Anh nhảy lên một chiếc ca-mi-ông đi ngang đó. Sô- ni-a chạy vội về nhà, vì cô không có giấy thông hành đêm.

        ...Một tuần qua không thấy tin Ta-ta-ren-kô, Sô-ni-a biết là phi đội chưa đi, vì Sla-va hai lần ra Lê-nin-grát. Mỗi lần, cô yên trí là nó có tin gì của Ta-ta-ren-kô. Nhưng đến tên anh nó cũng không nhắc tới. Chắc là nó không ngờ phi đội sắp di chuyển.

        Hôm đi, nó mới biết. Lu-nin cho nó ra chào chị, hẹn sau ba giờ phải về. Sla-va về đến nhà, vẻ mặt đầy kích thích. Nó nói là ?sắp đến ở một hòn đảo.

        - Em đi máy bay vận tải với đồng chí Đê-ép. Tất cả các nhân viên dưới đất đi bằng máy bay vận tải. Em thích quá! Lần trước, khi qua hồ La-đô-ga, một đồng chí thủy thủ bị chóng mặt. Em thì chẳng thấy gì... À, anh Ta-ta- ren-kô bảo chị đi với em đến chỗ tận cùng đường xe điện. Anh ấy đợi chị ở đấy, vì không được phép ra thành phố... Ô! Sao chị đỏ mặt?

        Nó reo lên bất ngờ, vẻ đắc thắng.

        Thực thì mặt Sô-ni-a đỏ bừng.

        - Đồ nỡm. Tại sao mày bảo tao đỏ mặt?

        Sla-va nhẩy múa xung quanh chị:

        - Ai chả biết còn gì!

        - Biết cái gì?

        - Là chị yêu anh Ta-ta-ren-kô và tranh của Hin-đa...

        - Tao tranh của Hin-đa? Nói láo!

        - Đúng rồi!... Thế chị đến nhé?

        - Không.

        - Đến chứ. Anh ấy đợi. Và em đã hứa với anh là chị đến.

        - Không, không và không!

        Sô-ni-a không ra chỗ hẹn.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:10:56 am

II

        Hè 1943, đầu xa nhất về phía tây của mặt trận mênh mông từ Hắc hải đến Bắc băng dương là một cái đảo nhỏ trong vịnh Phần Lan cách Tây Cơ-rông-stát mấy chục cây số. Vào những buổi sáng trời, từ đó người ta có thể nhìn thấy cái dải đen của bờ biển. Phía bắc, thấy bờ eo Ca-rê-li do quân Phần Lan chiếm đóng. Phía nam, thấy bờ khu vực Lê-nin-grát trong tay quân Đức. Tóm lại là hòn đảo nằm trong hậu phương địch.

        Hồi đầu chiến tranh, cả quân Đức và quân Phần Lan đều không chú ý đến hòn đảo đó. Chiếm cái mảnh đất ấy không phải không nguy hiểm, vì trên đảo có đặt một pháo đài phòng thủ bờ biển.

        Vả lại nó cũng không thể cản bước tiến của chúng vào Lê-nin-grát được. Khi mà địch còn làm chủ trên không, thì chúng luôn chỉ có dùng máy bay để oanh tạc và thực tế là cắt đứt hòn đảo với Cơ-rông-stát. Nhưng, khi tương quan lực lượng càng ngày càng thay đổi trên không cũng như ở mặt đất, thì hòn đảo lại có cái thế mũi nhọn đâm vào giữa quân Đức và quân Phần Lan. Và nó làm trở ngại đường giao thông của địch, làm cầu nối tới trận địa địch, và luôn luôn thành một mối đe dọa đối với chúng.

        Có thể nói nó là một dải cát dài chỉ hơi nhô khỏi mặt nước. Thông phủ kín mặt đảo. Và trên khoảnh đất gió bốn bề ấy, những thân cây cằn cỗi vặn vẹo của chúng giống những con quái vật.

        Không có một nếp nhà. Những mái lều thưa thớt của dân chài hồi trước chiến tranh nay đã bị bom đốt phá trụi. Cả đến những ống lò sưởi cũng bị quét sạch. Trên bờ cát nhỏ và trắng lỗ chỗ những hố bom các cỡ. Ở miệng hố cát xốp và tơi, mảnh đạn chi chít trên thân các cây tùng. Hòn đảo như hoang vu. Nhưng chú ý nhìn thì thấy đây đó những làn khói xanh lam thơm nhẹ bốc phía hàng cây trong không khí ẩm ướt. Hoặc thấy một cửa hầm, một khúc ray tàu dùng làm kẻng báo động, hoặc một cỗ cao xạ nguy trang dưới cành cây. Dàn pháo phòng thủ bờ biển thì hầu như không thể nào tìm ra được, vì nó lẫn với những tảng đá cứng khổng lồ rải rác khắp bờ biển.

        Đến hè 1943, một sân bay được đặt ở trên đảo. Trông ngoài, có thể nói chỉ là một bãi trống tầm thường trong rừng. Nhưng những tảng đá kếch sù xếp dưới bóng tùng cho ta biết khối công việc đã làm để sửa sang được một sân bay ở chỗ đó.

        Đến tháng tám, khi ở giữa đất nước đang tiếp diễn trận đánh lớn mà sau này gọi là trận "mảnh đất lồi ở Kuốc", thì phi đội Lu-nin đến ở sân bay này.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:12:32 am

*
*  *

        Ngay hôm đầu, đã hạ được một gioong-ke thám thính.

        Chiếc oanh tạc bay trên đảo từ mây ngày rồi, chắc là để chụp ảnh. Sợ cao xạ, nó không bao giờ xuống thấp quá 3000 thước. Khi phi đội đến hạ cánh trên đảo lần đầu tiên, thì nó đang bay ở tầng cao đó. Cao xạ bắn thật lực, nhưng chiếc gioong-ke tự cho mình là bất khả phạm nên ung dung tiếp tục lượn.

        Ta-ta-ren-kô và O-strô-sa-blin lên đuổi. Trông thấy hai máy bay Xô Viết leo thẳng, thì chiếc gioong-ke mở hết máy chạy về phía tây. Ba phút sau, tiểu đội khu trục đuổi kịp nó ở trên biển. Đáng lẽ có thể hạ được ở đó, nhưng Ta- ta-ren-kô có kế hoạch khác. Anh vượt qua chiếc oanh tạc và từ phía tây đánh lại để buộc nó phải quay về phía đảo mà hạ nó ở đó. Chiếc máy bay kếch sù đeo dấu thập ngoặc đen quay tròn là là ngọn tùng và gần muốn chết. Sau cùng, Ta-ta-ren-kô hạ nó ở ngoài khơi, cách đảo khoảng vài trăm thước, giữa tiếng hoan hô của các đồng chí cao xạ pháo.

        Anh cố tình muốn đạt tới kết quả ấy. Số là các đồng chí cao xạ vẫn tự cho mình là chủ hòn đảo và tiếp đón các phi công một cách khá mát mẻ. Nhưng khi chính mắt họ thấy Ta-ta-ren-kô và O-strô-sa-blin hạ chiếc gioong-ke, thì họ thay đổi hẳn thái độ. Từ đấy, phi đội được trọng đãi.

        Bọn Đức không vì thế mà không tiếp tục dò la trên đảo. Mất chiếc gioong-ke cái tò mò của chúng còn bị kích thích hơn nữa là đằng khác. Thoạt đầu, các phi công của Lu-nin ngày nào cũng phát hiện ra được bọn Lớp-táp nhiều lần và bay lên săn đuổi chúng. Nhưng bọn Đức ngày càng thận trọng hơn. Chúng từ phía mặt trời lại, lẩn trong mây, có khi bay cao bảy, tám ngàn thước, làm cho việc quan sát trực tiếp của ta gần như vô hiệu. Nhưng giữ gìn như vậy cũng không cứu được chúng. Cuối cùng, phi đội đã ngăn hẳn được trên cả một khoảng không hàng chục cây số không cho chúng tới. Tuy vậy việc săn đuổi các máy bay thám thính không phải là nhiệm vụ chính của phi đội. Không phải vì việc đó mà người ta đã cử phi đội đến cái hòn đảo ăn ở khó khăn và lòi ra quá xa mặt trận như vậy. Nhiệm vụ chính là yểm hộ các máy bay oanh tạc và Stuốc- mô-vi-ki đi đánh phá các căn cứ và chiến hạm địch trong khu vực trung tâm và ở phía đông Vịnh. Máy bay oanh tạc và Stuốc-mô-vi-ki có một bán kính hoạt động lớn hơn khu trục nhiều, và như vậy không thể có yểm hộ trên suốt dọc đường được. Nếu cùng xuất phát từ một trường bay, thì đến giữa đường là khu trục phải bỏ dở. Thế mà trong những cuộc oanh tạc xa thì đoạn đường cuối cùng lại chính là đoạn nguy hiểm nhất. Do đó hòn đảo ở phía tây Cơ-rông-stát ngoài khơi vịnh Phần Lan rất có ích. Những máy bay oanh tạc và Stuổc-mô-vi-ki từ căn cứ đến đây không cần yểm hộ.

        Từ đấy các khu trục sẽ bay theo đến tận mục tiêu. Từ sáng tinh mơ đến chiều tối, các phi công của Lu-nin chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát. Giữa những thân cây đỏ kệch hình dáng cổ quái, trông thấy mặt biển lấp lánh khắp nơi.

        Ở phía đông, có tiếng máy bay ngày càng rõ thêm. Rồi các máy bay dũng mãnh mang sao đỏ hiện ra từng bầy trên trời, bay thấp trên mặt đảo. Khu trục cất cánh trong nháy mắt. Họ cùng hướng mũi vể Kla-mi-na, Nác-va hoặc Rác- ve để phá hủy chiến hạm địch, phá hủy các đoàn tầu chở lính và súng đạn, các kho tàng và pháo phòng thủ bờ biển.

        Có khi một ngày xuất trận đến năm lần, và gần như mỗi lần đểu có giao chiến với Phốc-un-phơ.

        Khu trục mới của quân Đức không còn là một bí hiểm nữa. Chẳng làm ai e sợ, chẳng làm ai phải tò mò nữa. Bọn Lớp-táp trang bị chậm mất sáu tháng. Tất nhiên là trên mọi lĩnh vực, Phốc-un-phơ đều hơn Mét-séc-mít 109. Nhưng chúng không thể đọ với khu trục Xô Viết của năm chiến tranh thứ ba này. Và sự khác nhau về chất lượng phi công hai bên thì lại càng rõ rệt.

        Giao chiến gần như hàng ngày, nhưng bao giờ cũng như bao giờ, thắng lợi về phía các phi công của Lu-nin. Họ biết hết những đặc điểm của Phốc-un-phơ, biết tất cả các chỗ yếu của nó và tất cả các thủ đoạn chiến thuật của phi công địch. Trong ba tháng, từ tháng bảy đến tháng chín, phi đội cất cánh hàng bao nhiêu chục lần để yểm hộ Stuốc-mô-vi-ki và oanh tạc. Không một lần nào Phốc-un- phơ cản trở được nhiệm vụ của họ.

        Các phi công sống trong hầm đào sâu dưới đất. Hầm chia ra hai ngăn, một ngăn làm chỉ huy sở của Lu-nin, một ngăn có vách gỗ sắp xếp làm buồng ngủ. Trần thì bằng cột thông còn lấp lánh những giọt nhựa trong suốt. Trong hầm có mùi cây rừng, nó thấm vào quần áo, vào tóc, vào tay. Một bóng điện nhỏ chạy bằng ác quy làm cho da mặt hoá ra nhợt nhạt.

        A! Những bộ mặt thản thiết biết bao đối với Lu-nin! Kể từ khi anh trông thấy họ lần thứ nhất anh tưởng đã đến một thế kỷ. Trong một năm, họ đã thay đổi rất nhiều. Lu-nin  nhớ lại câu nói của Éc-ma-kốp: "Một vườn trẻ...". Thời kỳ ấy đã xa xôi quá! Ngay bộ mặt tròn của Ri-a-bu-skin cũng đã mất cái vẻ trẻ con. Một năm chiến đấu đã tôi luyện họ thành người lớn. Cá tính đã rắn rỏi lại. Kinh nghiệm chiến tranh làm họ trở nên nghiêm nghị.

        Bây giờ Lu-nin biết là họ chẳng thua anh chút nào vể kỹ thuật lái nữa. Anh không nén được mỉm cười khi nhớ lại rằng mới năm trước đây, anh còn phải dạy họ cất cánh và hạ cánh. Trên một vài lĩnh vực, họ còn vượt anh nữa, với cái lẽ đơn giản là họ trẻ hơn. Cố nhiên, kinh nghiệm họ còn chưa bằng anh, cả vê mặt tự rèn luyện để có thể tính toán được hết, nhìn trước được hết. Nhưng sử dụng tay lái và súng thì họ không kém anh chút nào.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:12:59 am

        Mỗi người một kiểu. Ví như O-strô-sa-blin và Di-ga thì là những đội viên rất quý. Chỉ thiếu ít nhiều ý thức tự quyết. Do đó Lu-nin tránh thả họ đi một mình. Nhưng không thể ai thay họ mỗi khi cần che chở cho tiểu đội trường. Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin thì nhất vể xạ kích. Hơn nữa, Ka-ri-a-kin có cái hàng đặc biệt. Anh có cái lối đâm xổ vào địch làm nó mất tinh thẩn ngay lập tức. Anh thường bay với Ri-a-bu-skin, và trên không thi cặp đó như thành một người. Trái lại Kla-mê-tốp và Kô-stin thì tuyệt đối bình tĩnh trong khi chiến đấu. Phản ứng của họ hơi chậm, nhưng mỗi động tác là có suy nghĩ chín chắn. Không bao giờ họ làm một động tác thừa. Trong mỗi giai đoạn chiến đấu, họ tự sắp xếp đề ra cho mình một nhiệm vụ rõ rệt. Và họ thi hành đến cùng.

        Uyển chuyển khéo léo là cái dấu hiệu riêng biệt của Kô-li-a Kla-mê-tốp. Anh chiến đấu cũng khéo léo như khi lái máy bay. Còn về Kô-stin, thì lúc bay vẫn say mê về lý luận như buổi tối ở nhà.

        Đôi khi người ta gọi anh là "ông hàn lâm". Nhưng trong cái biệt hiệu đó có đôi chút tôn trọng. Mỗi lần chiên đấu về, anh lại phê phán trận đánh một cách khoa học.

        Anh phân tách như một nhà chơi cờ phân tách một ván cờ, tìm ra nguyên nhân thắng lợi, và dừng lâu ở mỗi sai lầm khuyết điểm. Anh như muốn biểu thị chiến thuật bằng phương trình, và xây dựng cho mỗi phương trình một giải đoán mẫu. Ước đoán của anh thường bị sự việc phản lại, nhưng cũng đôi khi thực tế chiến đấu đúng như vậy, và lúc đó thì Kô-stin vui sướng như đứa trẻ.

        Mà các bạn cũng đều vui, vì ai cũng rất yêu anh. Phi đội cũng thống nhất như thời kỳ Rát-sô-khin: không hề xảy ra cãi cọ tủn mủn do mệt nhọc và ganh tị mà ta thường thấy giữa những người phải sống chật hẹp chồng chất lên nhau. Nhưng rõ ràng là ai cũng thích nhất Ta-ta- ren-kô, gần như khâm phục, cả Lu-nin cũng vậy.

        Người phi đội trưởng ấy chưa hề gặp một phi công khu trục nào như vậy. Lái máy bay cũng như đánh trận, Ta- ta-ren-kô không có đối thủ. Không phải chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà thật là một thiên tài tự nhiên, giống như những nhà vi-ô-lông nổi tiếng, những nhà thơ thực sự và những nhà họa sĩ xứng đáng với tên gọi ấy.

        Trong bảng thành tích, anh có nhiều chiến công hơn bất kể ai ở trung đoàn. Nhưng cái kiểu đánh còn đáng kể hơn số lượng. Trái với Kô-stin, anh không tự chế ra trước những dự kiến nhất định. Mọi cái đều do sự ứng cảm của từng lúc. Mỗi trận đánh là một công trình nghệ thuật và không trận nào giống trận nào.

        Anh lái khéo léo uyển chuyển đến nỗi máy bay với phi công như là một cơ cấu duy nhất. Không ai có thể làm cho máy bay dễ sử dụng và có một tốc độ nhanh như vậy. Anh thực hiện những hình bay phức tạp nhất mà cứ như chơi đùa, không phải cố, không vấp váp. Nhưng đó chưa phải là cái mà Lu-nín đánh giá anh hơn cả. Do kinh nghiệm, anh biết rằng trong chiến đấu, thì những biểu diễn với trình độ cao ấy chưa phải là tốt cả. Cái chân giá trị của Ta-ta-ren-kô là ở chỗ biết coi cuộc chiến là một thử thách về tinh thần hơn là một thử thách về máy móc.

        Ta-ta-ren-kô không hề chiến đấu với máy bay, nhưng chiến đấu với tên phi công. Xem động tác của máy bay địch, là anh nhận ra ngay đây là loại đối thủ nào, một kiểu anh hùng rơm căn bản không vững, hay là kiểu nhút nhát cố làm vai trò dũng cảm để cấp trên biết tới, hay là một tay can đảm thực, nhưng hoài nghi và chán chường. Thế là anh xoay xở khiến chúng phải khuất phục dưới tay anh. Vì về mặt con người thì anh hơn hẳn chúng.

        Anh vẫn giữ ít nhiều cái phong thái đáng yêu của dân Di-gan. Anh vẫn xởi lởi, dễ dàng. Nhưng có cái gì thay đổi trong người. Và anh đã biến đổi hơn các bạn nhiều lắm.

        Anh thích dạo chơi hoặc đi tắm biển một mình. Khuôn khổ hòn đảo không đủ dạo chơi dài. vả lại bản thân anh cũng không rỗi. Nào xuất trận, nào tham gia tiểu đội tuần tiễu thường trực trên sân bay, lại còn ăn, lại còn ngủ. Nhưng mỗi khi có giờ rảnh, là anh đi chơi.

        Anh hay đi theo bãi cát, giữa rặng thông và sông nước. Nền bãi cao. Mỗi đợt sóng tới lại có tiếng ầm ầm kéo dài. Rồi nước lùi chầm chậm, lùi rất xa, để lộ một dải rộng và ẩm ướt. Ta-ta-ren-kô bước từng bước lớn. Gió thổi cát vào mặt và làm mớ tóc rối bù. Anh đi như vậy ra mãi mũi phía đông, một mũi đất dài và thấp, đâm ngập xuông nước. Anh ở đó, im lặng nhìn ra khơi về phía Cơ-rông-stát và Lê-nin-grát. Rồi lại trở về, dáng âu sầu.

        Anh đi ngược ra phía tây. Anh càng ra đến gần đích, thì bờ biển càng lắm đá. Anh nhẹ nhàng nhảy qua các tảng lớn màu xám mà nước triều đã mài tròn. Càng đi càng gặp những tảng đá lớn hơn. Mũi phía tây là một chuỗi tảng đá lớn gồ ghề. Dưới ánh mặt trời lặn, chúng giống như một dàn bò rừng khổng lồ thời trung cổ đang chạy trốn về phía chân trời. Chuỗi dó còn tiếp tục dưới nước. Vì gió thổi nhiều nhất là từ phía tây, tức là ngoài khơi vào, nên ở đó sóng biển sủi bọt và gầm thét.

        Ta-ta-ren-kô thường quen tắm ở đó.

        Anh tắm vào buổi chiểu. Không phải là ngày nào cũng dễ tìm ra được thì giờ rảnh mà dạo chòi quanh đảo. Nhưng mũi phía tây khá gần, vẫn có thể có thì giờ đến được. Anh không chú ý về thời tiết. Dù mưa, dù bão, anh cũng cởi áo trên tảng đá ngoài cùng, tảng đá cao nhất, lấy một hòn đá chặn quần áo để khỏi bay rồi nhào xuống nước.

        Sau khi ngoi lên, anh bơi ra cái tảng đá mà ở đó sóng vỗ vào bật ra dữ dội nhất. Anh bám hai tay vào đó rồi đánh vật với sóng. Khi thi cả đợt sóng ào ạt trùm lên anh, khi thì sóng rút ra, muốn kéo bật anh ra khỏi tảng đá. Anh cảm thấy một thích thú lạ kỳ với cái trò chơi ấy, nó làm các bắp thịt phải căng thẳng. Mùa thu gần tới, sóng vỗ càng mạnh. Nước lạnh buốt. Da như phải bỏng. Nhưng Ta-ta-ren-kô vẫn không ngừng những cuộc vật lộn với sóng biển.

        Mặc quần áo xong, anh đến hầm nhà ăn của các phi công. Hai chiếc ghế dài và một cái bàn phủ vải sơn. Trần hầm rất thấp. Các bạn đã ăn xong. Chỉ còn Hin-đa trong hầm.

        Cô vẫn theo phi đội 2. Trên trường bay này chỉ có cô là phụ nữ nên cô còn phải vá bít tất cho các phi công, giặt giũ quần áo cho hỌ. Cô dã quen với cái chậm trễ của Ta- ta-ren-kỏ, nhưng cô vẫn đợi, và phát huy từng kho sáng kiến để làm cơm canh khói nguội, khỏi khê. Trong khi anh ăn thì cô nhìn anh chăm chằm, chú ý dưa lọ muối, lọ mù tạt, thìa hoặc dĩa.

        Anh chẳng đế ý đến Hin-da cũng như chẳng để ý đến món ăn. Có khi không nói với cô một câu nào. Cũng như cả phi đội, cô biết tại sao. Không ai còn lạ là Ta-ta-ren-kô mê chị Sla-va.

        Hin-đa coi cái chuvện ấy ra sao, các phi công tha hồ mà phán đoán vô ích. Vì cô không quen thổ lộ tâm tình.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:14:56 am

III

        Từ mùa xuân, trước việc phi đội di chuyển ra đảo, thì một hôm U-va-rốp đã báo Lu-nin.

        - Suýt tôi quên... Đồng chí giúp tôi ý kiến.

        - Vê việc gì?

        - Cũng khá là khó chịu. Tôi đã tìm được địa chỉ cái người mà Sê-rốp định lấy.

        - Thật ư?

        - Cô ta ở U-ran cùng với nhà trường.

        Lu-nin kêu lên:

        - Có lẽ nào! Sê-rổp viết thư đến đấy, và không thấy trả lời.

        - Thì chính cái đó làm tôi bực mình.

        - Đồng chí cho là cô ta nhận được thư và cố ý không trả lời chăng?

        - Rõ là thế.

        - Xin lỗi đồng chí. Chính mắt tôi đọc bức công văn của đồng chí hiệu trưởng nói rằng cô đó không tản cư với trường.

        - Tôi biết. Nhưng lại chính đồng chí hiệu trưởng ấy trả lời tôi là cô ta công tác ở trường, mà cũng bằng công văn hẳn hoi.

        Lu-nin không đáp. U-va-rốp nhìn vào thẳng mặt anh.

        - Đồng chí giúp tôi ý kiến. Tôi có nên cho Sê-rốp biết địa chỉ cô ta không?

        - Đồng chí cũng thấy là hiệu quả sẽ như thế nào, khi Sê-rốp biết rằng cô ta không muốn trả lời.

        - Vậy không cho biết sao?

        - Thế còn hơn.

        - Thế còn đôi với cô ta?   

        Lu-nin suy nghĩ:

        - Hay là đồng chí gửi cho cô ta một công văn nhỏ, đại loại: "Đồng chí thượng úy Ni-kô-lai Sê-rốp hiện điều trị ở Bác-na-un, bệnh viện số..." Không nói gì thêm... Cô ta sẽ xử sự như thế nào, cái đó tùy lương tâm.   ;

        - Thì chính như cái thư mà tôi đã chuẩn bị.

        Lu-nin ngậm ngùi suy nghĩ:

        "Thế là Sê-rốp thật cô đơn. Có những người mà định mệnh bắt phải sống cô độc!".

        Sla-va hoàn toàn bằng lòng với cuộc sống của nó. Mà cuộc sống trong trại, trên hòn đảo này, thì nhìn bế ngoài chẳng có gì thích thú cho một thằng bé 13 tuổi rắn chắc như nó. Vậy mà nó không có cả thì giờ nghỉ cẳng: hai mươi bốn giờ sau khi nó tới là nó đã thông thuộc từng gốc cây, từng hòn đá. Chưa bao giờ nó thấy sung sướng như hiện nay.

        Cái đó cũng vì vấn đề máy bay. Ồ, nó yêu máy bay từ thuở còn bé dại. Nhưng trước kia thì chỉ biết đây là cái gì biết bay, và dùng để đánh trận. Tại sao bay được, thì nó không biết, tí gì. Sự va chạm hàng ngày với các máy móc đã giúp nó thấy đại cương những bí hiểm của chúng. Và trên đời chẳng còn có gì ham mê bằng đi sâu vào những cái bí quyết ấy...

        Sự đi lại với Đê-ép cũng gây nhiêu cho nó lòng ham thích ấy. Không phải Đê-ép nói chuyện máy bay với nó, mà các mục của chương trình học tập là vấn đề nói chú yếu. Nhưng vì Đê-ép cả đời chỉ tháo máy, bảo quản máy, chữa máy, nên Sla-va cùng có một nhận thức lờ mờ về máy móc. Và một khi nó đã có một nhận thức lờ mờ về cái gì, thì nó phải tìm hiểu bằng được.

        Nó bám sát các đồng chí thợ máy, xem họ làm, đặt hàng lô câu hỏi. Ai cũng sẵn lòng trả lời nó, vì người chuyên môn nào cũng thích nói về chuyên môn của mình. Bây giờ thì Sla-va hiểu tác dụng của mỗi bộ phận. Nghe tiếng, nó đã biết nhận định vì sao máy không chạy đều. Đối với nó, không có gì khoái hơn là mày mò vào những súp-páp. Vì các đồng chí thợ máy sẵn lòng nhận sự giúp đỡ của nó, vì nó tinh ý và để hết tâm trí vào công việc.

        Trong một năm, nó đã lớn lên nhiều. Bây giờ nó có tên trong số nhân chính là thợ máy bay - như vậy thì về mặt chính quyển được chính thức hơn. Cũng cứ như thế, nó mặc bộ đồ xanh cũ đầy dầu mỡ. Nó cố làm vẻ người lớn và tập nói giọng cổ, tuy vẫn còn nhảy chân sáo và thốt ra những câu hát lạc diệu. Lu-nin không còn nhà riêng, nên nó ở với các đồng chí thợ máy. Nó biết hết các tật nói của họ, cũng thân thiết với họ như với các phi công. Và nó lấy làm kiêu hãnh rằng trong khi làm việc, họ nói với nó như nói với người ngang hàng.

        Tuy vậy, nó vẫn thích nhất là Ta-ta-ren-kô. Và bây giờ thì lại thêm một lý do vào tình cảm của anh đối với nó: Sla-va là em người anh yêu. Anh không thể trông thấy nó mà không nghĩ đến nàng. Không thể không gợi thêm nhớ, thêm lo âu và đau khổ.

        Sla-va không hề biết dược cái dó. ít để ý đến vấn đề tình ái, nên mối tình của Ta-ta-ren-kô đối với Sô-ni-a chẳng làm nó bận tâm chút nào. Nó chỉ thấy đó là một dịp tốt để trêu ghẹo chị, và còn đồng ý với phi đội là đáng lẽ Ta-ta-ren-kô yêu Hin-đa thì phải hơn. Nhưng nó lờ mò đoán dược là cái đó làm nó có thêm "uy thế" đối với anh. Về điểm này thì nó không lầm.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Sáu, 2019, 04:15:37 am

        Hồi di chuyển ra đảo, Sô-ni-a không đến tiễn Ta-ta-ren-kô. Cũng chẳng trả lời bức thư ngắn ngủi vụng về mà anh gửi cho cô sau hôm đến chỗ ở mới. Vậy nên Sla-va thành cái dây liên lạc duy nhất giữa hai người. Thỉnh thoảng cô viết thư cho Sla-va thì nó lại vội vã đưa cho anh xem. Và tuy không bao giờ thấy nói đến tên mình, nhưng anh vẫn thuộc lòng thư, và còn sốt ruột mong hơn thằng bé.

        Lu-nin đã đoán thấy giữa Ta-ta-ren-kô và Sô-ni-a có chuyện gì xích mích, nhưng không hiểu lý do. Anh chỉ biết là đồng chí trung úy đang đau khổ. Cái đó làm anh buồn. Và anh lấy làm lạ: chẳng lẽ không có mối tình nào là không đau khổ ư? Trước thì anh tưởng chỉ có mình anh khổ. Vậy mà bây giờ Sê-rốp cũng vậy, có lẽ cả Hin-đa và cả đến Ta-ta-ren-kô nữa.

        Ít lâu nay, anh cô tự đả thông cho mình là cuộc đời đầy đủ. Thì anh còn cần gì hơn nữa? Tình yêu của bè bạn chưa đủ hay sao?

        Cấp dưới cũng như cấp trên, ai cũng yêu anh. Anh biết thế, tự cho là không xứng đáng và mỗi lần ai tỏ ý mến yêu anh thì anh hết sức ngượng. Nhưng từ mấy tháng nay thì những cử chỉ ấy lại cứ tăng lên mãi. Anh vừa thốt ra là thích bột trái cây, thì đến bữa cơm chiều đã thấy một đĩa ở bàn. Anh phàn nàn là nhậy cắn lông mũ ca-lô đội rét, thì đến chuyến tầu sau từ Cơ-rông-stát lại, đã có chiếc mũ ca- lô mới rất đẹp. Anh không dám ngắm nghía cái gì nữa, dù là cái bật lửa, áo len có cổ, bút máy, súng lục chiến lợi phẩm, sách, xi đánh giầy, bản đồ, thuốc đánh răng, khuy cổ tay áo - vì anh sợ chủ nó sẽ làm quà cho anh ngay tức khác. Lệnh của anh đưa ra thì được thi hành một cách phấn khởi vì đó là lệnh của anh! Vì anh mà giữa các phi công nảy ra ganh tị, và anh cố tỏ ra chú ý đều tới mọi người để không làm phật ý ai. Có những người kỹ thuật lái khu trục không kém gì anh, nhưng nếu được anh lấy đi theo làm đội viên thì lại rất lấy làm vinh dự. Và trong chiến đấu, nếu anh hơi có gì nguy hiểm là ai cũng sẵn sàng lao đến để viện trợ.

        Ở trung doàn, ai cũng là bạn anh, kể cá Sác-ba-di-ăng, Ec-ma-kốp, hay Prôt-cua-ri-a-kôp vừa mới được đề bạt trung tá. Đối với họ, anh là người bạn chiến đấu của những ngày gian khổ. Khi Prốt-cua-ri-a-kốp nói với anh trong điện thoại, thì cái giọng nói lớn mà các cô điện thoại vẫn khiếp sợ, tự nhiên dịu đi một cách kỳ lạ.

        Toàn sư đoàn mến anh và tự hào về anh. Mặc dù bể ngoài chỉ có sự liên hệ thông thường về công tác giữa hai người, nhưng U-va-rốp rất quý anh. Đã nhiều lần, đồng chí tuyên dương phi đội của anh làm gương cho các đơn vị khác. Và có nhiệm vụ gì đòi hỏi tin cẩn cũng là giao cho phi đội anh.

        Một buổi chiểu, khi các máy bay xuất trận đã trở về và đến bữa cơm thì có tin báo là U-va-rốp và Prốt-cua-ri-a- kôp vừa hạ cánh và đợi anh ở hầm chỉ huy sở. Anh chạy ngay lại.

        Sang thu đã lâu rồi. Mưa phùn. Lu-nin suýt lạc lối trong đêm tối tuy dã thuộc lòng con đường mòn nhỏ hẹp. Ở chỉ huy sở cũng tối: một ngọn đèn duy nhất chiếu sáng riêng chiếc bàn mà đồng chí chính ủy và đồng chí trung đoàn trưởng ngồi cạnh đó.

        Lu-nin nghe tiếng U-va-rốp nói:

        - Việc gì mà chuốc lấy những cái nguy hiểm. Công việc đòi hỏi một phi công có kinh nghiệm và có trí. Tôi thì tôi giao việc ngay cho bản thân Lu-nin.

        Hiểu là mọi người chưa biết anh đến, Lu-nin ho lên, và tiến lại gần bàn. U-va-rốp mời anh ngồi, mở một tờ bản đồ và giải thích công việc.

        Sau đây một giờ, phải cất cánh hướng về nam và tới đất liền mà không cho bọn Đức biết. Đến 0 D3 sẽ thấy một cái hồ nhỏ hình con số 8. Đúng 23 giờ 20, một chiếc máy bay vận tải lớn sẽ đi ngang qua hồ. Phải yểm hộ nó cho đến Lê-nin-grát.

        U-va-rốp nói:

        - Đồng chí phái bảo đảm an toàn đấy.

        - Rõ..

        - Đồng chí lấy ai làm đội viên?

        - Ta-ta-ren-kô.

        - Được! Bây giờ thì lên đường!

        Khi Lu-nin và Ta-ta-ren-kô đi ra máy bay, thì mưa phùn đã hết, nhưng trời càng tối thêm, đến nỗi nếu Lu-nin  đứng lại thì Ta-ta-ren-kô va ngay phải. Chỉ có những vũng nước là lờ mờ lấp lánh. Cất cánh trong đêm tối.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Sáu, 2019, 03:59:53 pm

        Vượt, qua bờ biển rất cao để địch không nghe thấy tiếng máy. Phải bay mò, và nêu địa bàn chệch một sợi tóc là sẽ không tìm thấy cái hồ dài không quá hai cây số. Nhưng trong cái tối tăm này, liệu có nhìn thấy nó được không?

        Thấy một ánh mờ mờ ở dưới đất. Theo bản đồ thì ở đó có con sông con chạy qua. Lu-nin bay trên sông đến cái khuỷu gần nhất với hồ, ngoặt sang phải và lại bay trong đêm tối như mực. Tất nhiên nếu không chệch hướng... kim đồng hồ chỉ đúng 23 giờ 18 phút... một làn nước lấp lánh mơ hồ ở dưới đất!. .. Anh thở phào một tiếng.

        Hồ đúng là hình con số 8 - hai đầu rộng, thắt lại ở giữa. Đêm tôi đen như thế này, không thể thấy cái máy bay vận tải nếu nó không in bóng xuống gương nước. Lu-nin lại lấy chiều cao và bắt đầu lượn.

        Ẹỗng Ta-ta-ren-kô gọi:

        - Tôi thấy rồi!

        Lu-nin cũng trông thấy cùng lúc đó. Một bóng đen lớn lướt trên mặt nước màu gio. Ba chiếc máy bay hướng mũi về Lê-nin-grát. Họ sắp đến gần mặt trận thì luồng xanh lớn của chiếc đèn chiếu chém vào đêm tối. Hẳn tiếng nổ của chiếc máy bay vận tải đã khiến cho địch biết. Lần trong không, luồng ánh sáng rứt từng cụm mây ra khỏi bóng tối. Bất chợt, nó chiếu vào đuôi máy bay Ta-ta-ren- kô đi sau cùng. Từng cụm lửa toé bao ngay lấy anh và tàn ngay tức thì. Cao xạ chúng bắn. Nhưng chậm quá. Đã vượt qua đường mặt trận. Ta-ta-ren-kô vượt ra khỏi luồng ánh sáng xanh. Bây giờ thì cao xạ bắn vào chỗ trống.

        Chỉ còn hai phút là đến trường bay, chỗ mà Lu-nin biết rất rõ. Chính là căn cứ cũ của phi đội hồi mùa thu 1941. Đường hạ cánh hình chữ T hiện ra. Pháo hiệu chiếu sáng đường bay. Chiếc máy bay vận tải tìm cách hạ cánh.

        Khi Lu-nin ra khỏi khoang máy bay thì một chiếc ôtô đến gần. Cửa xe mở và có tiếng U-va-rốp gọi:

        - Lên đây, đồng chí Lu-nin. Ra xem các bạn mà đồng chí mới đưa về.

        Lu-nin ngồi cạnh đồng chí chính ủy. Xe chạy.

        Đèn pha ôtô ngụy trang xanh chiếu ánh sáng yếu ớt vào cái thân nặng nề của chiếc máy bay vận tải. Nhiều xe ở đấy - xe quân y mang dấu Hồng thập tự ở sườn. Áo blu nhà thương làm thành những vệt trắng trong đám quân phục. Cửa máy bay mở rộng, thang đã bắc lên. Vô cùng thận trọng, người ta chuyển xuống bằng tay những thân người trùm kín.

        Lai-nin hỏi:

        - Thương binh à?

        U-va-rốp giải thích:

        - Phải, các đồng chí du kích.

        Mọi người lùi ra một cách kính trọng để đồng chí Tư lệnh phó sư đoàn vào. Tiếp tục mang người ốm và bị thương xuống, đặt vào cáng rồi mang ngay lên xe quân y. Im lặng hoàn toàn: không một tiếng kêu, không một tiếng rên, không một câu hỏi.

        Trong đêm tối, và dưới những mảnh quần áo rách bọc lấy người, khó mà phân biệt được đàn ông hay đàn bà. Nhưng hình như phần đông là đàn bà. Xuống đến đất, có người còn bước được. Nhưng phần đông phải mang bằng cáng.

        Một người đàn ông đứng trên đầu thang. Ánh đèn pha chiếu rõ từng nét mặt. Người rất gầy, rất mỏi mệt, bộ mặt cương quyết. Ánh sáng loá, làm bộ râu thành mầu đen như mực. Anh mặc một cái áo ca-pốt rách tươm, và tay bế một đứa trẻ trùm chăn. Đứa con gái chừng ba tuổi, mắt sợ hãi, nép vào má bố.

        Mọi người giơ tay đón đứa bé làm nó sợ rúm lại. Người đàn ông nói:

        - Khỏi cần!

        Anh từ từ xuông thang. Hình như anh bị thọt. Mọi người lại giơ tay đỡ. Anh từ chối. Có ai nói sau lưng Lu-nin :

        - Đó là đồng chí chỉ huy đội du kích và con gái đồng chí.

         - Mẹ nó có đây không?

        - Hình như có.

        Đứa bé gọi:   /

        - Mẹ ơi!

        Người bố gắng đi mấy bước và nói:

        - Mẹ kia.

        Anh đến gần một cái cáng vừa có hai người nâng lên. Dưới chăn, Lu-nin nhận ra một thần hình đàn bà im lìm không cử động. Người mặc áo ca-pốt rách tươm cúi xuống:

        - Li-da!

        Mặt người đàn bà hơi động đậy.

        - Li-da, anh đây! Chúng mình tới nơi rồi! Xong rồi Lida ạ! Nhưng nhìn anh chứ... Li-da!... Li-da!...

        Người đàn bà mở mắt. Và trong bóng tối Lu-nin đã nhận ra chị sau cái lưng người đàn ông che gần hết.

        - Khởi hành.

        Các đồng chí cáng khiêng cáng đến xe quân y. Bồng đứa nhỏ trên tay, người đàn ông khập khiễng đi theo. Máy đã nổ. Cáng đã đặt vào trong xe. Người ta chìa tay ra đón đứa bé, và đỡ người bố lên. Cửa xe đóng lạỉ. Ôtô chuyển bánh. Ánh đèn pha lướt trên bãi.

        Lu-nin nhìn xe chạy xa dần trong đêm tối.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Sáu, 2019, 09:32:56 pm

CHƯƠNG MƯỜI BA

TIẾN VỀ PHÍA TÂY

I

        Mùa thu 1942, Ma-sa Séc-ghê-ê-vơ-na lại về cái trường Lê-nin-grát cũ của chị ở trong một thị trấn nhỏ vùng Mô-lô-tốp và tiếp tục công tác.

        Thị trấn đó trước chỉ là một khu phố công nhân nhỏ xung quanh một nhà máy cũ kỹ từ thế kỷ thứ 18, và trong chiến tranh đã mọc lên như một cái nấm. Xí nghiệp và cơ quan di chuyển đến ùn ùn: hai xưởng làm quần áo từ Bi-ê-ruýt-si tới, một xưởng thép lớn vùng U-kơ-ren, một xưởng dệt, nhiều trường học và hai viện khảo cứu khoa học. Công việc lại được tiếp tục với mức sản xuất tối đa. Trong những nhà gỗ ám khói ở giữa rặng đồi tùng và con sông có cái vẻ đẹp u buồn, người nọ sống chồng chất lên người kia.

        Trường Lê-nin-grát chiếm một ngôi nhà gỗ cũ kỹ hai tầng, mái lợp tôn. Ma-sa Séc-ghê-ê-vơ-na dạy tiếng Nga và làm nhiệm vụ giám thị. Ông hiệu trưởng là người đã trả lời thư đầu tiên hỏi thăm tin tức về chị, nay không còn ở đó và có một phụ nữ thay thế. Ngoài việc lên lớp, Ma-sa còn phải lo ăn uống cho học sinh, kiếm quần áo cho chúng, giặt giũ trông nom chúng, viết thư cho cha mẹ chúng, đốt lò sưởi, lau sàn, làm bếp, chửa mái nhà, thông ống khói, dàn hoà những việc cãi cọ nhau. Và còn phải khuyên giải vị nữ hiệu trưởng, một phụ nữ cương quyết nhưng khó tính, thích giấy tờ và hơi "đồng bóng". Ma-sa dậy từ 5 giờ, và quá nửa đêm mới đi ngủ. Chị trông thấy hai con là I-ri- nốt-ska và Sê-ri-ô-gia lẫn trong các học sinh khác.

        Khi ở bệnh viện ra thì so với trước chiến tranh, chị có hơi béo hơn một chút. Nhưng nạn đói còn để lại những vết tích vĩnh viễn: mầu da đã mất cái tươi mát, trên mặt đã chớm thấy những vết nhăn, và chị mắc bệnh nhức đầu ghê gớm, nhưng vì công việc vẫn không dám nằm. Không đem theo quần áo khi đi khỏi Lê-nin-grát, nên hiện nay bốn mùa cũng vẫn cái áo len cũ và cái măng-tô sờn! Trời có lạnh quá, thì chị quàng lên đẩu một cái khăn len bạc mầu và đi đôi ủng, nó làm chị càng bé đi.

        Chị chẳng có thì giờ nghĩ đến chuyện yêu. Tuy vậy hình ảnh đồng chí phi công Kô-li-a Sê-rốp vẫn ghi tạc trong trí nhớ như một vết thương còn rỉ máu.

        Đầu xuân năm 1943, chị nhận dược mấy chữ lửng lơ của một đại tá U-va-rốp nào đó chơ chị biết một cách rất bàng quan là thượng úy Ni-kô-lai Sê-rốp đang điều trị ờ bệnh viện 8 Bác-na-un. Chị choáng váng. Kô-li-a còn sống! Nhưng bị nạn gì? Què chăng? Có lẽ là què tay? Hay là bị vào mắt?... Chị lật đi lật lại tờ giấy, hy vọng tìm ra một tia sáng nào. Nhưng bức thư ít lời một cách tuyệt vọng, và không thể tìm hiểu thêm được cái gì!

        Ý định đầu tiên của chị là bỏ hết để đi ngay Bác-na-un. Nhưng ai cho chị đi? Ồ! Có thể chị không xin phép, rồi cứ ra ga đáp chuyến xe lửa đầu tiên về miền Đông. Xe tốc hành qua Si-bê-ri đi ngang ngay nơi đó. Nhưng trường học thiếu người, và đi như vậy thì như đào ngũ. Nên chị quyết định chỉ gửi thư cho Sê-rốp.

        Quá nửa đêm thì chị viết thư. Nghe thấy hơi thở của sáu giáo viên ngủ trong buồng. Sương giá U-ran làm vách gỗ nứt ra thành tiếng. Lò sưởi gang vẫn réo. Những hạt sương giá lấp lánh trong các góc nhà. Ma-sa viết trên giấy vở học trò. Và chưa lần nào chị lại cỏi mở với Kô-li-a như lần này. Chị nói lên cái buồn rầu phải xa anh, sự lo lắng vì đã lâu không thấy tin anh, lòng vui sướng khi biết tin anh còn sống, và sự quyết tâm từ nay sẽ thuộc về anh hoàn toàn. Chị chấm dấu hết khi các bạn đồng nghiệp đã bắt đầu mặc áo. Đến sáng, thì chị gửi thư.

        Sê-rốp không được đọc thư đó. Một tháng sau, thư trở về chỗ người gửi. Trên phong bì, giữa những dấu đóng chằng chịt, có ai đã viết bằng chữ lớn "Người nhận thư đã đi ngày 13 tháng 3-1943".

        Thì ra Sê-rốp không còn ở Bác-na-un, mà đã đến một bệnh viện lớn ở Svéc-lốp, ngay gần với địa phương Ma-sa ở. Ở đó, một giáo sư nổi tiếng chữa bệnh cho anh.

        Một năm trước đây, ngay sau khi bị thương thì cái tay là đáng lo ngại nhất. Nó bị gẫy nhiều chỗ, và đã nhiều lần người ta nghĩ đến cưa. Tuy vậy sau khi do dự một thời gian lâu, các thầy thuốc ở Bác-na-un quyết định thôi. Và thực sự các đồng chí đã xử trí đúng, và sau mấy tháng thì khớp xương vai lại cử động được, rồi đến khớp xương khuỷu tay. Cuối cùng, Sê-rốp cử động được ngón tay và cái hôm anh viết được thư cho Lu-nin cũng là một ngày vui mừng lớn cho tất cả nhân viên ở bệnh viện.

        Nhưng không phải chỉ có cái tay. Những vết bỏng ở mặt, lúc đấu rất đau đớn và trông rất sợ, thì cũng đóng sẹo khá mau. Lông mi, lông mày lại mọc. Chỉ còn những vết trắng trên da. Nhưng cái vết thương ở chân thì không chịu kín miệng. Không làm dứt được mủ.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Sáu, 2019, 10:14:09 am
       
        Chiếu quang tuyến K thì thấy xương bị nhiễm trùng. Chữa hết mọi cách vẫn vô hiệu. Khi cánh tay dần dần trở lại bình thường, thì cái chân vẫn nguyên tình trạng cũ. Mỗi lần thử đứng dậy, Sê-rốp thấy đau hết sức. Đôi khi, anh có cảm giác là có thể đi lại được nếu trả anh đôi bốt. Nhưng thầy thuốc cấm ngặt không cho dùng đến cái chân đau. Và anh dựa vào đôi nạng, tập tễnh qua các hành lang và trong cái vườn nhỏ!

        Thời gian suy nghĩ không thiếu! Anh nghĩ đến chiến tranh, đến tương lai của đất nước, đến trung đoàn, và cả đến Ma-sa Séc-ghê-ê-vơ-na...

        Dù quyết tâm quên Ma-sa, nhưng vẫn cứ nghĩ đến nàng. Anh không giận chị, vì chị đã xử sự rất phải. Anh đã thấy chị lưỡng lự như thế nào khi chị định yêu anh. Và sự lưỡng lự ấy có lý do. Nếu lây nhau thì sẽ thành một cặp chênh lệch như thế nào! Cạnh nàng, anh tự xét thấy thô kệch quá, dốt nát quá...

        Trong thời gian anh nằm điều trị ở bệnh viện, những sự việc lớn đã làm đảo lộn thế giới! Mỗi buổi chiều, nghe thông cáo ở ra-đi-ô, anh theo dõi cuộc rút lui của ta trong mùa hè 1942, biết tin mất Sê-bát-tô-pôn, Rô-stốp bị địch chiếm lại, quân Đức vào Cô-ca-dơ và đã tới sông Von-ga. Nhưng rồi anh lại được sung sướng với chiến thắng Sta- lin-grát, và tin phá vỡ vòng vây ở Lê-nin-grát. Nhưng tất cả cái ấy xảy ra mà không có anh. Trong khi hàng triệu người chiến đấu cho Tổ quốc và tương lai của nhân loại, thì anh nằm liệt giường một cách vô ích!

        Anh say mê theo dõi các tin tức về không quân, trước hết vì đó là binh chủng của anh, và cũng vì anh hy vọng được thấy tin gì về trung đoàn mình. Nhưng hy vọng đó ít khi được toại nguyện. Biết bao trung đoàn trên mặt trận khổng lồ ấy! Mà các thông cáo không bao giờ nói đến tên đơn vị. Cũng có đôi ba lần anh thấy những tờ báo lớn đả động đến các "phi công trong đơn vị do đồng chí Prốt-cua- ri-a-kốp chỉ huy”. Trong một bài báo có nói đến tên Lu-nin . Còn những tên khác đều là những tên lạ.

        Anh cắt các bài báo để vào ví, cạnh bức thư ngắn ngủi của Lu-nin. Đó là những dây liên lạc duy nhất với các bạn cũ.

        Càng gần khỏi bệnh, anh càng lo rằng sau khi ra viện, trên sẽ điều động anh đến một trung đoàn nào đó. Có mấy ai đã trở lại đơn vị cũ được! Nhưng anh vẫn cố hy vọng, vì chắc là đến ngày đó, thì sao cũng tìm được cách xoay sở.

        Chân anh vẫn ra mủ. Đồng chí thầy thuốc chữa cho anh, trước đây là học trò một chuyên gia ở Svéc-lốp nổi tiếng về khoa xương. Đến lúc đã hết cách, thì đồng chí viết thư cho giáo sư cũ. Đến giữa tháng ba, Sê-rốp đi Svéc-lốp.

        Lê la với đôi nạng trên toa tầu xóc lên xóc xuống, anh gắng tự an ủi rằng dù sao thì Svéc-lốp cũng gần mặt trận hơn Bác-na-un. Nhưng niềm an ủi thật mong manh. Ở bệnh viện Svéc-lổp, đồng chí giáo sư quyết định mổ. Mổ vào tháng tư. Ổ nhiễm trùng được trừ bỏ, và chữa bằng cách nạo. Sê-rốp lại liệt giường ba tháng.

        Đến tháng bảy và tháng tám, trong thời gian xảy ra trận Kuốc và giải phóng bờ trái sông Dim-ép-pơ, anh lại có thể đi lại từ buồng nọ sang buồng kia. Việc điều trị của giáo sư đã có kết quả, vết thương đã kín miệng. Sê-rốp lại bắt đầu tự giày vò mình: liệu có được trở lại trung đoàn cũ không?

        Một sỹ quan tuyển quân đến nói chuyện với các đồng chí mới khỏi bệnh. Đồng chí nói rất có lý với Sê-rốp, là cái việc phục vụ Tổ quốc thì bất cứ ở trung đoàn nào cũng thế. Nhưng đối với Sê-rốp thì lại là vấn đề quan trọng, vì ở một đơn vị khác thì người ta không cho anh lái máy bay nữa. Thực thì anh đã khỏi. Nhưng sau bao nhiêu tháng ở bệnh viện, chắc anh không thể bị quên việc kiểm tra sức khỏe để làm phi công khu trục. Vậy thì người ta sẽ dùng anh vào việc gì? Ghi chép chăng? Khí tài chăng? Chỉ có những người còn nhớ đến tài lái máy bay của anh như thế nào mới giao tay lái cho anh thôi. Anh viết thư cho U-va- rốp. Đồng chí hứa sẽ thu xếp và viết thư ngay tới cơ quan tuyển quân địa phương và lên Bộ Tổng tham mưu.

        Sau cùng, đến cuối tháng mười thì tình thế đã rõ hơn. Ra khỏi bệnh viện, Sê-rốp phải đến trình diện ở Bộ Quốc phòng.

        Tháng mười hai, anh ra viện, trả lại quần áo nhà thương, lĩnh giấy tờ và một bộ quân phục bộ binh, vì nhà kho không có quân phục Hải quân, lĩnh cả các lương thực đi đường. Anh từ biệt các đồng chí thầy thuốc và y tá, các đồng chí nằm cạnh giường. Các đồng chí này nhìn anh một cách thèm thuồng. Rồi anh tập tễnh đi ra ga.

        Tháng mười hai năm đó, mưa nhiều. Mưa từ lâu. Từng đám mây lớn thấp là là mái nhà. ớ ga, người đông nghìn , nghịt, tràn cả ra sân ga: hàng ngàn phụ nữ, trẻ con, bộ đội đang đợi tầu, người đi về phía tây, người đi về phía đông. Có người đợi đã mấy ngày. Sê-rốp mãi mới len lỏi được đến đồng chí trưởng ga thì được trả lời bằng cái giọng cứng đơ:

        - Đợi đấy.

        - Bao giờ thì đến lượt tôi?

        - Hôm nay thì chưa. Đồng chí đại tá còn đợi từ thứ ba đến giờ.

        Sê-rốp ngồi trên cái túi dết trong một xó ga mất hai đêm hai ngày, lắng nghe cái ầm ầm của đám đông và tiếng mưa rơi tí tách trên sân ga. Rồi anh làm quen với một trung úy bộ binh trẻ tuổi, người dài như một ngày không cơm. Đồng chí này trở về đơn vị ở quá Mát-scơ-va.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Sáu, 2019, 11:11:02 am

        Đồng chí trung úy nóng nảy muốn đi ngay và tìm cách thuyết phục Sê-rốp: đợi tầu Mát-scơ-va là vô ích, chủ yếu là rời khỏi Svéc-lốp, rồi sẽ xoay sau. Đồng chí giải thích: muốn tới, thì phải đi! Từng đoàn tầu quân sự không ngừng đi về phía tây. Tại sao không xin đi trong một chuyến nào đấy? Trước hết phải ra sân ga xem có đoàn tầu nào không. Sê-rốp thấy cái phương sách đó không lấy gì làm đáng tin lắm. Nhưng bản thân anh cũng đã phát ngấy nên ngoan ngoãn đi theo ông thầy mách nước.

        Vấp cả vào đường ray, họ vơ vẩn hồi lâu dưới mưa, đi giữa các toa tầu, và sau cùng thì phát hiện ra được một đoàn đã có mắc đầu máy - chừng vài chục toa chở hàng đầy ắp của Công binh, và một toa hành khách. Đồng chí trung úy dũng cảm mở cửa toa và hai người leo lên đầu toa.

        Một thiếu tá công binh mái tóc đã hoa râm tiếp hai người. Đồng chí trung úy trình bày nguyện vọng. Đồng chí thiếu tá trả lời.

        - Đồng ý thôi. Nhưng chúng tôi không đi quá Mô-lô-tốp.

        Đồng chí trung úy giữ đúng phương châm: muốn tới, thì phải đi. Và anh có vẻ đầy kinh nghiệm về xe lửa thời chiến. Mô-lô-tốp gần Mát-scơ-va hơn Svéc-lốp. Ở đó, rồi anh sẽ tìm được cách tiếp tục cuộc hành trình.... Đồng chí thiếu tá không có ý kiến gì nữa. Sê-rốp và dồng chí trung úy ngồi vào chỗ.

        Tàu chạy chậm, đỗ lâu ở các ga. Các sỹ quan đọc sách, đánh bài hoặc viết thư. Đối với họ, đi như thế này là nghỉ. Họ là một tiểu đoàn công binh làm cầu, có nhiệm vụ bảo quản các cầu cống trên những đường dùng để chuyên chở vũ khí vật liệu từ U-ran ra mặt trận. Sê-rốp nằm suốt đêm không nhắm được mắt, tai nghe tiếng bánh xe nghiến vào đường, và tiếng mưa rơi tí tách. Y nghĩ sắp được ra mặt trận làm anh không buồn ngủ. Đến sáng bạch mới thiếp đi và ngủ cả ngày hôm đó.

        Đồng chí trung úy lắc mạnh anh dậy:

        - Dậy thôi, đến rồi.

        Đã năm giờ. Trời tối dần. vẫn mưa. Các đồng chí công binh xuông tầu. Sê-rốp hỏi:

        - Ở đâu thế này?

        - Đếch biết nữa! Một xứ hẻo lánh nào của vùng Mô-lô- tốp. Chúng mình đi tìm trưởng ga đi.

        Anh bước từng bước lớn qua đường ray. Sê-rốp tập tễnh theo anh mà mệt. Trên tường ga, anh đọc thấy tên thị trấn mà rùng mình.

        Đây là cái thị trấn nhỏ mà trường của Ma-sa đã dọn tới. Anh đã gửi thư đến chỗ này. Chính từ đây mà đồng chí hiệu trưởng đã trả lời rằng Ma-sa không đi theo bộ phận nhân vỉên đi sau cùng của nhà trường. Trường còn ở đây không? Chắc là còn, cả đồng chí hiệu trưởng nữa...

        Đồng chí trưởng ga cố chứng minh cho hai đồng chí sỹ quan rõ là hai anh đã dại dột. Ở Svéc-lốp thì rồi cũng tìm được một chỗ trong xe tốc hành đi Mát-scơ-va. Chứ ở đây thì đừng hòng. Tầu tốc hành thì đông nghịt và chỉ đỗ bốn phút. Còn về tầu quân sự thì không thấy báo có. Tốt hơn hết là đi tìm chỗ ngủ. Ngày mai, sẽ cho lên tầu đi Ki-rốp.

        Bà cụ già quét ga ủng hộ chỗ ngủ trong cái nhà con của bà ở gần ga và còn hứa cho uống nước nóng. Đồng chí trung úy với ngay lấy cái va-li và đi theo bà cụ. Anh rất ngạc nhiên thấy Sê-rốp muốn ở lại đợi ở ga. Nhưng câu chuyện vô tận với đồng chí trung úy, những nơi ở bí đến bốc mùi lên, và nước chè đều không làm anh ham thích. Anh muốn ở lại một mình.

        Anh ngồi trên ghế dài buồng đợi và suy nghĩ, bị ám ảnh bởi ý nghĩ: trường học ở đây... Ma-sa không có ở đây thì ít nhất cũng nhìn qua cái nhà. .. Anh tự biết là vớ vẩn. Nhưng không hiểu có sức gì lôi cuốn. Mà tại sao không đi tìm nhỉ? Ngủ suốt ngày rồi, dù sao thì cũng không ngủ được nữa.

        Anh hỏi thăm một nữ nhân viên đội cát-két đỏ. Chị biết rõ trường học. Nhưng mà xa. Từ ga đến thị trấn, phải ba cây số. Và trường ở đầu kia thị trấn, gần con sông.

        Túi dết lên vai, anh ra đi. Trời đã tối. Một dọc đèn điện dài nhưng thưa thớt chiếu vào các vũng nước. Men theo một phố vắng lơ thơ mấy càn nhà thấp lè tè, anh đi trên hè lát gỗ. Mưa quật vào mặt. Sau một giờ đi bộ, áo ca-pốt cứng nhắc lại và chiếc cát-két ướt nặng bệt vào đầu. Anh trông thấy một nhà gạch ba tầng. Đến thị trấn rồi. Xa nữa, là một công viên trồng bạch dương và có tượng Lê- nin. Chắc là trung tâm thị trấn. Nhưng trường ở đâu?

        Một thiếu nữ mặc binh phục Dân cảnh chỉ đường cho anh: ở phố thứ ba, bên phải, và có cái nhà hai tầng, không có nhà nào khác.

        Anh lại đi. Đèn điện càng ít hơn. Phố thứ ba bên phải tối om. Nhà ở đâu? Giầy bốt của anh lầy đất. Một bóng điện lắc lư trước gió giữa hai trụ. Ánh đèn mờ mờ chiếu vào cái hè lát gỗ dưới mái hiên. Một người đàn bà đứng trên bậc cao nhất, khăn len trùm kín đầu.

        Sê-rốp hỏi chị:

        - Trường học ở đâu chị?

        Người đàn bà lấy tay che mắt và oà lên khóc nức nở.

        Anh bỗng nhận ra chị và kêu lên:

        - Ma-sa.

        Và chạy vụt lên thềm, chị ôm chặt lấy anh, áp má vào chiếc áo ca-pôt đẫm nước mưa.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Sáu, 2019, 09:39:16 pm
   
*

*       *

        Ngay sau khi chị khóc và anh trông thấy chị khóc, thì bao nhiêu nghi ngờ, thắc mắc, tất cả cái gì đã ngăn cách họ đểu biến hết không còn dấu vết. Không cần giải thích, mà hai người đã tìm thấy nhau, hai người đã hiểu nhau. Và họ chỉ muốn được ngồi với nhau, nhìn vào tận mắt nhau trong mấy giờ còn lại trước cuộc chia phôi thứ hai sắp tới này.

        Ma-sa báo tin là chồng chị vừa đến, và tức khắc toàn trường biết tin đó. Chẳng ai biết là Ma-sa đã có chồng, nhưng chẳng ai hỏi. Đồng chí nữ hiệu trưởng khó tính - mà lại có một tí xung khắc đặc biệt với Ma-sa - cũng lập tức nhường ngay phòng làm việc tuy chẳng ai yêu cầu, và đi ngủ trong buồng các giáo viên. Ma-sa được miễn công tác, chẳng cần phải có giấy nghỉ phép đặc biệt. Chị mắc việc gì là đã có một người xung phong làm hộ. Người ta cũng chẳng quấy rầy chị bằng những cái tò mò vô ý, không kiếm cách nhìn mặt ông chồng đó quá gần. Vì tất cả mọi người đều hiểu là đối với họ, mỗi phút được gần nhau là rất quí.

        Ma-sa không khóc nữa. Ngồi trên chiếc trường kỷ đã sờn da, trước bàn làm việc của đồng chí nữ hiệu trưởng, chị cầm tay Sê-rốp và kể lại cho anh nghe cuộc đời của chị, bằng cái giọng nhát gừng. Anh nghe chị, nhưng cũng chẳng tìm hiểu ý nghĩa của mỗi câu, mà chỉ cốt nhìn vào mặt chị. Anh thấy chị có thay đổi, nhưng bộ mặt còn mang những dấu vết đói khổ ấy, đối với anh lại càng thân yêu hơn. Chị thấy anh gầy đi, yếu đi, mặt đầy sẹo, chân tập tễnh. Nhưng cái đó lại càng làm chị yêu tha thiết thành kính hơn.

        Chị cảm động, khi anh hỏi thăm các con chị và nhất định đòi được gặp chúng ngay lập tức. Sê-ri-ô-gia và I-ri- nốt-ska đã đi ngủ, cũng như các học sinh khác. Đến sáng, người ta mới đưa chúng lại. I-ri-nôt-ska người mảnh khảnh, nhưng đã cao gần bằng mẹ. Nó nhận ra ngay Sê- rốp, và tỏ vẻ rụt rè. Nó chẳng nói gì, và nhìn anh bằng đôi mắt mở to và e ngại.

        Phải cắt nghĩa cho Sê-ri-ô-gia biết đồng chí sỹ quan này là ai. Thế là nó nhảy ngay lên đầu gối anh, leo lên vai anh, hỏi anh túi bụi, định chiếm những chiếc cúc vàng và sao trên lon. Tóm lại, nó xử sự như một tay quen biết cũ.

        Ma-sa tiễn Sê-rốp ra ga. Tròi thấp. Mưa lạnh vẫn rơi, Tay cầm tay, họ đi theo dãy phố lát đá nham nhở và sũng nước, và muốn con đường dài vô tận. Còn hai cây số thì đến ga. Rồi còn một cây. Còn qua chiếc cầu gỗ. Bây giờ đã đến nơi, đến những dãy nhà ga thấp và bẩn. Thế là hết...

        Tắm rửa tinh tươm; bốt bóng nhoáng, chiếc cát-két ngạo nghễ lật ra đằng sau, đồng chí trung úy sửng sốt khi biết tin Sê-rốp đã tìm thấy vợ trong cái xứ hẻo lánh này. Rồi là chen nhau đến chỗ đồng chí trưởng ga, xếp hàng lấy vé, im lặng chò đợi trên chiếc sân ga lát gỗ. Tầu đến và dừng lại. .. Một lần nữa, Sê-rốp cúi xuống hôn Ma-sa, áp mặt vào cái má đầy lệ và nước mưa của chị...

        Chị chạy theo tầu, mãi đến cuối sân ga. Anh nhìn chị qua cửa kính mờ, lòng tràn trề niềm hạnh phúc chưa từng thấy.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Sáu, 2019, 09:40:26 pm

II

        Lu-nin và Ta-ta-ren-kô còn ở lại hai ngày ở Lê-nin- grát. Chiều hôm sau, hai người phải đến Bộ tham mưu không quân.

        Họ ngủ đêm ở trường bay với U-va-rốp, trong cái buồng nhỏ tạm trú xá. Nhưng Lu-nin không ngủ được.

        Trằn trọc suốt hai giờ trên giường, rồi anh lặng lẽ mặc áo và đi ra. Gió thổi ào ào, mưa quật vào mặt... Năm nay, mùa đông đến chậm. Mặc gió mưa, Lu-nin đi bách bộ cả đêm trên con đường mòn sũng nước trước biệt thự.

        Anh lục lọi lại những kỷ niệm xưa. Anh như nghe thấy tiếng Li-da, hình như chị vừa nói với anh xong. Anh như trông thấy chị cười, trông thấy chị ăn mứt, tiếng thìa lách cách đụng vào răng, trông thấy chị giơ tay tết búi tóc... Tất cả những cái đó dã xa, rất xa, vĩnh viễn không còn trở lại...

        Đã bao năm, ngày nào cũng trông thấy chị. Bất cứ lúc nào, anh cũng có thể thấy đôi mắt, nghe hơi thô của chị. Và bỗng nhiên, chị biến đi, và anh mất chị. Thế rồi chị sống ra sao, chị người chí thân của anh? Chị đã gặp người chồng sau như thế nào? Đẻ con ở  đâu? Lúc chiến tranh bùng nổ thì ở đâu? Làm sao lại ở hậu tuyến, trong một đội du kích? Chị làm gì? Chị nghĩ gì? Chị thích gì? Anh không hề biết những cái đó. Không còn bao giờ anh còn biết những cái đó.

        Trong khoảnh khắc hai cuộc đời của họ đã lại chạm nhau. Chị không biết, chị không bao giờ biết, chị không bao giờ biết là anh đã yểm hộ chiếc máy bay chở chị, rằng anh đã thấy chị nằm trên cáng... Mà chị đau ốm bệnh gì? Có khỏi được không? Không bao giờ anh biết cái đó... Người chồng tập tễnh đi cạnh chiếc cáng chắc là yêu chị lắm, cứ xem mỗi cử chỉ cũng biết. Lu-nin không thấy thù ghét gì người chồng đó. Đứa con gái của họ mới xinh làm sao... Con gái Li-da... Nếu trước đây anh chị đã có con thì có lẽ chẳng xảy ra chuyện gì!...

        Anh lại như trông thấy hai cánh tay chị, cái cười, khuôn mặt đang cúi xuống quyển sách... Anh lại như nghe thấy tiếng chị một lần nữa... Tất cả những cái đó, không còn trở lại nữa...

        Được tự do đến tận chiểu, nên vừa sáng thì anh ra thành phố cùng với Ta-ta-ren-kô. Xuống xe điện, họ dạo chơi hồi lâu qua các phố ẩm ướt. Lu-nin im lặng. Ta-ta-ren-kô kể chuyện hôm trước, trên một trường bay ngoại ô, anh làm quen với các phi công của đội Stuốc-mô-vi-ki mà họ vẫn thường yểm hộ, nhưng chưa hề gặp nhau ở dưới đất.

        - Các đồng chí ấy tự tìm tôi. Tôi đang hút thuốc lá thì có ai nói đằng sau: "Ô này, một phi công của phi đội Lu-nin ".

        Lu-nin lẩm bẩm:

        - Phi đội Rát-sô-khin chứ.

        - Thì cũng thế. Ai cũng biết... Tôi quay lại. Một thiếu tá và hai đại úy vồ lấy tôi, đập mạnh vào lưng tôi mà kêu lên: "Đây là người đã luôn cứu nguy cho bọn mình!". Tất nhiên đó không phải là nói riêng tôi! Mà là nói cả phi đội. Họ biết tất cả chúng ta. Trong các cuộc chiến đấu, họ nhận diện mỗi người chúng ta... Chúng tôi nói chuyện và nhắc lại những trận đã cùng dự.

        Đến chiếc cầu sang cù lao Vát-si-li, Ta-ta-ren-kô hỏi:

        - Chúng ta đi đâu?

        Lu-nin lắc đầu và nhìn xung quanh, như quên mất là đi đâu. Bỗng nhiên anh nhớ ra:

        - Đến nhà Sô-ni-a... Cũng phải vào đâu mà ngồi đợi chứ.

        Ta-ta-ren-kô dừng lại giữa hè.

        - Tôi không đi.

        - Tại sao?

        - Tôi không đi.

        - Cho biết lý do...

        - Cô ấy không muốn gặp tôi nữa.

        - Chắc không?

        - Chắc.

        Lu-nin chăm chú nhìn anh và nói một giọng quả quyết:

        - Cứ đi theo tôi. Trong khi tôi lên nhà thì đồng chí đợi trong sân nhà cô ấy.

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá, tôi không muốn đợi trong sân nhà cô ấy.

        - Vậy thì đợi ngoài bến, trước trường Đại học.

        - Rõ.

        Thấy Lu-nin đến thăm, Sô-ni-a rất mừng và dẫn anh vào trong bếp, mời anh ngồi trước cái bàn đầy sách vở rồi pha chè. Kể từ lần gặp gỡ trước, nay cô lại lớn thêm và rất xinh.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Sáu, 2019, 05:32:56 pm
     
        Thoạt đầu nói chuyện về Sla-va. Lu-nin cho biết là thằng bé học khá. Nếu nó còn thích máy bay, thì sẽ đào tạo nó thành một kỹ sư giỏi.

        Rồi Sô-ni-a nói chuyện về cuộc sống của cô, phân chia giữa công tác và việc chuẩn bị thi. Không bao giờ đủ thời gian. Ngày thi chỉ còn sáu tháng, sắc mặt cô khác đi khi nói đến thi.

           Cô còn nói chuyện về cái nghề của cô. Và Lu-nin nghĩ đến tất cả những cái mà đôi mắt thiếu nữ ấy đã nom thấy, tất cả những cái mà đôi tay gần như trẻ con ấy đã làm lên.

        Cô không hỏi về Ta-ta-ren-kô. Và Lu-nin tự mình nhắc khéo tới. Nhân tiện qua câu chuyện, anh cho biết là hắn có đến Lê-nin-grát với anh. Đôi mắt Sô-ni-a trở nên nghiêm nghị. Cô lảng sang chuyện khác. Nhưng nhìn mặt thì Lu-nin đoán chắc là cô cảm động. Phải làm cho cô ả tự nói lên mới được.

        Và cô nói. Nhưng không nói đến Ta-ta-ren-kô. Mà lại nói về Hin-đa. Đúng tủ nguyên do là thế đấy! Lu-nin cười thầm.

        Cô biện bạch là cô rất thích Hin-đa, và Hin-đa xinh đẹp lạ kỳ. Lu-nin không thể không đồng ý:

        - Chúng tôi nhìn cô ấy quen quá rồi nên cũng không nhận được là cô ấy xinh. Nhưng thực thì đẹp thật. Rõ là một bức tượng người miền sắc-xơ: mắt xanh da trời, má hồng, nét mặt thanh tú một cách lạ...

        - Tôi chỉ thấy một khuyết điểm, là bộ mặt thiếu linh lợi. Cô ta có thông minh không?

        Câu hỏi làm Lu-nin sững sờ. Anh chưa hề tự hỏi như vậy bao giờ. Muôn cho công bằng, anh trả lời:

        - Trí khôn là ở trong tấm lòng của cô ấy. - Và anh giải thích. - Cô ấy là con một công nhân nông nghiệp ở tận nông thôn xứ Ét-tô-ni, và cô ấy chỉ được học hai năm ở trường làng. Không thể đòi hỏi cô biết hết cả, nhưng cô có nhận thức đúng. Cô đã tham gia từ đầu kháng chiến với các phi công. Và trong những ngày đen tối, cô đã tỏ ra là một người tận tụy, làm hoàn toàn trọn vẹn cái nhiệm vụ rất bình thường của cô. Vả lại các phi công không thể quan niệm được phi đội 2 mà lại thiếu cô. Hin-đa nối liền hiện tại của phi đội với quá khứ. Đối với họ, cô là một người rất thân vì cô đã rất thân với những người đã khuất như các đồng chí Bê-sây-tốp, Sê-pen-kin, Ka-ba-kốp, Rát- số-khin...

        Sô-ni-a ngắt lời:

        - Cả anh ấy nữa, anh ấy cũng nên yêu cô ấy, mà đừng làm người ta đau khổ. Đồng chí là cấp trên, đáng lẽ đồng chí phải bảo...

        Đôi mày nâu giao nhau trên sống mũi, đôi mắt cô long lanh, gò má ửng đỏ.

        Lu-nin vờ như không hiểu gì và hỏi:

        - Bảo ai cơ?

        - Bảo Ta-ta-ren-kô của đồng chí ấy!

        Sô-ni-a đứng dậy. Lu-nin phá lên cười, và tự nghe tiếng mình cười mà cũng thích chí. Cái cười bật lên một cạch tự nhiên.

        - Bảo Ta-ta-ren-kô? Tại sao lại bảo Ta-ta-ren-kô? - Nét mặt đồng chí thiếu tá càng tả vẻ sững sờ đến cực độ - Nhưng thế thì ngớ ngẩn lắm! - Anh lại phá lên cười - Ta-ta-ren-kô và Hin-đa, có thể gán bất cứ ai với cô ta, chứ đừng gán Ta-ta-ren-kô! Từ 18 tháng nay ở phi đội, hắn chưa hể nhìn cô ta đến một lần. Và Hin-đa thì không phải cái loại đi tha thiết với một kẻ đã không chú ý đến cô... Ai kể cái chuyện điên rồ như vậy? Chắc thằng nhãi Sla-va. Thật là buồn cười đến chết. Chà Sla-va chuyên về khoa tâm lý yêu đương.

        Anh càng cười lớn thi mặt Sô-ni-a càng sáng ra. Cô nói:

        - Đã lâu tôi không thấy anh ta.

        - Thế cô có muôn gặp hắn không?

        Sô-ni-a đỏ bừng mặt hỏi:

        - Anh ấy ở đâu cơ?

        - Dưới kia, ở trên bến tầu trước trường Đại học. Chắc là đến chết cóng. Nhưng hắn không muốn lên đây.

        - Anh ấy không muốn à? Tại sao?

        - Hắn sợ.

        - Sợ?

        - Phải, sợ cô đấy.

        Sô-ni-a đang ngồi trên ghế đẩu, bỗng nhỏm lên, rồi lại ngồi xuông. Lu-nin bảo:

        - Đi tìm hắn đi, tôi đợi ở đây.

        Sô-ni-a lại đứng dậy nhưng còn do dự. Lu-nin giục:

        - Đi đi chứ!

        Cô quàng khăn len, chạy vội ra. Tiếng cửa đóng lách cách.

        Năm phút sau, cô dẫn Ta-ta-ren-kô về. Cả hai đều tươi cười và ngượng nghịu. Mọi người uống nước chè. Đôi trẻ làm bộ như chỉ nói chuyện với Lu-nin. Nhưng họ không rời mắt nhìn nhau.

        Từ đó đến chiều còn nhiều thì giờ. Nhưng Lu-nin đứng dậy cáo từ. Ta-ta-ren-kô ra vẻ muốn theo anh đi, nhưng đồng chí thiếu tá nghiêm nghị tuyên bố rằng anh không cần có "bảo mẫu". Và anh ra đi một mình. 

        Buổi chiều, anh gặp Ta-ta-ren-kô và U-va-rốp ở Bộ tham mưu. Trong cái lệnh mà họ nhận được, có nhiều thay đổi quan trọng. Đại tá cận vệ Prôt-cua-ri-a-kôp nay chỉ huy sư đoàn. Trung tá cận vệ Lu-nin được đề bạt chỉ huy trung đoàn khu trục. Thượng úy cận vệ Ta-ta-ren-kô lên phi đội trưởng phi đội 2.

        Ta-ta-ren-kô đỏ mặt lên vì hãnh diện. U-va-rốp trông thấy và cau mày nói:

        - Đồng chí có nhận rõ phi đội giao cho đồng chí là phi đội nào không?

        - Báo cáo đồng chí đại tá, rõ.

        - Đồng chí sẽ tiết kiệm nhân lực của nó chứ? Đồng chí không để lãng phí cả vốn vinh quang của nó chứ?

        - Tôi xin thề.

        Lu-nin giơ hai tay ôm hôn Ta-ta-ren-kô.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Sáu, 2019, 03:44:50 pm

III

        Sê-rốp đến Mát-scơ-va vào cái thời kỳ không bao giờ quên được. Mỗi buổi tối, từng loạt đại bác chiến thắng chiếu sáng rực trời.

        Anh đến vào sáng sớm. Trong các phố dốc lưng lừa, rắc phủ một lớp tuyết mới đang tan, anh thở cái không khí nhẹ nhàng, và có cái cảm giác vui sướng mà người Nga nào qua Mát-scơ-va cũng cảm thấy. Tuy lần đầu trông thấy, mà phố lớn, phố nhỏ, đại lộ, tháp, những toà nhà lớn và những căn nhà nhỏ, cái gì đối với anh cũng như quen trước, cũng như đã biết từ bé. Anh dạo chơi một cách khoan khoái, đi tìm Bộ Quốc phòng. Và anh không thể không mỉm cười với các trẻ con chơi trên hè, với các phụ nữ đứng trên ngưỡng cửa, với các đồng chí Dân cảnh, với cả các quáng trường, với xe điện, với cây cối.

        Đồng chí thiếu tướng mà anh cần gặp lại rất bận. Sê-rốp được hẹn ngày khác tới, và anh ở trong chiêu đãi sở của sỹ quan. Anh ăn Tết đầu năm ở đó, vì năm ngày sau mới đến lượt được tiếp. Anh đã thấy rất khó chịu với đồng chí thiếu tướng. Nhưng khi anh được tiếp, thì lại thay đổi ngay ý kiến. Đồng chí thiếu tướng là một ông già bé nhỏ, dễ dãi, và tiếp anh rất nhã nhặn:

        - Tất nhiên là tôi biết phi đội Rát-sô-khin.

        Do bức thư U-va-rốp, đồng chí biết cả chuyện Sê-rốp, và ân cần hỏi thăm sức khỏe của anh. Sê-rốp cảnh giác trước sự ân cần đó, và cương quyết trả lời rằng mình rất khỏe. Và anh cô tránh di lại nhiêu để không ai trỏng thấy anh tập tễnh. Đồng chí thiếu tướng nói:

        - Tốt! Tất nhiên chúng tôi không phân tán những phi công đã chiến đấu với Rát-sô-khin và Lu-nin. Đồng chí trước là người của chúng tôi, thì nay vẫn là người của chúng tôi. Đồng chí trở về với trung đoàn. Ở đó, người ta sẽ coi xem nên xếp đồng chí vào công tác gì. Sau một phút suy nghĩ, đồng chí nói thêm:

        - Đồng chí đến giữa lúc hay nhất .

        Sê-rốp đánh bạo hỏi:

        - Ta đang chuẩn bị cái gì chăng?

        - Việc gì bây giờ củng có thể tới được.

        Đồng chí thiếu tướng đứng dậy, tiễn anh ra mãi cửa phòng, nhắn lời hỏi thăm U-va-rỏp là bạn cũ của đồng chí. Đến cửa, đồng chí hỏi:

        - Đồng chí chắc là biết Ta-ta-ren-kô?

        Sê-rốp chưa từng nghe thấy tên đó bao giờ.

        - Chắc là hắn đến trung đoàn khi đồng chí còn ở bệnh viện. Chính tôi muốn biết cảm giác của đồng chí về hắn ta. Đến đấy, đồng chí sẽ quen. Một phi công hạng nhất...

        Sê-rốp chẳng biết tí gì về địa điểm trung đoàn. Anh đi Lê-nin-grát mất bốn ngày - đi qua Vô-lô-đa, Tsê-rê-pô- vét, Vôn-khô-strôi và Sluýt-sen-bua. Trong thời gian anh ngồi ngắm qua cửa sổ toa tàu, nhìn các ga bị tàn phá, những lò sưởi gạch các nhà gỗ bị cháy, cánh rừng bị đại bác xé tơi bời, thì ta mở một đợt tấn công mới ở cửa ngõ Lê-nin-grát.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Sáu, 2019, 04:02:11 pm

*

*      *

        Trong cái tháng giêng ẩm ướt năm 1944, đúng một năm sau khi ta chọc thủng vòng vây địch, thì đợt tấn công vào các binh đoàn Đức ở phía bắc là trận đầu trong mười trận lớn năm 1944 đã đi tới giải phóng hoàn toàn đất nước ta.

        Do đầu cầu mà ta đã giữ được từ 1941 trên bờ nam vịnh Phần Lan, về mé O-ra-ni-en-bôm, phía tây Pê-tê-rốp, mà việc tiêu diệt các lực lượng địch trước Lê-nin-grát được thuận lợi lớn. Rõ ràng là chúng đã coi thường cái dải đất hẹp tách ra hẳn thành phố Lê-nin-grát, nhưng vẫn chưa được đại bác ở Cơ-rông-stát che chở. Nên chúng chưa hề tỏ ra một cố gắng nào đáng kể để chiếm lĩnh chỗ đó. Nhưng chính vì O-ra-ni-en-bôm ở trong tay chúng ta, mà ta có thể đồng thời tung ra hai đợt xung kích thành hình thế hai vòng tròn đồng tâm. Một từ O-ra-ni-en-bôm, và một từ ngoại ô phía nam Lê-nin-grát. Ta nối liền được hai bộ phận ở khu vực Rốp-sa, dồn quân Đức trong khu vực Pê-tê-rốp - Stren-na, Li-gốp vào nguy cơ bao vây.

        Bắt đầu tấn công hôm 14 tháng giêng. Sê-rốp tới Lê- nin-grát vào sáng 15. Tiếng gầm của đại bác làm rung chuyển không khí. Các dàn pháo địch ở Stren-na tuần tự nã vào thành phố. Đạn réo qua phố. Cửa kính vỡ loảng xoảng. Nhưng không ai lắng nghe những tiếng nổ ấy, mà lắng nghe tiếng ầm ì liên tiếp của mặt trận và tiếng ầm ầm của pháo ta ngày càng đinh tai nhức óc.

        Ở Bộ tham mưu Hải không quân, mọi người đều mệt nhoài. Điện thoại réo, máy chữ lách cách, các đồng chí văn thư và sỹ quan chuyển tin chạy đi chạy lại trên cầu thang, từng sắp giấy trong tay. Những sỹ quan đã phục vụ ở đó từ đầu chiến tranh nhận ra Sê-rốp và cười với anh như đôi với một người bạn. Nhưng họ không có thì giờ nói chuyện với anh. Nước da vàng đi vì thức đêm và khói thuốc lá. Ngoài công tác tham mưu, họ còn phải chuẩn bị công việc di chuyển cơ quan để theo kịp hạm đội và không quân.

        Một sỹ quan tùy tùng chuyển cho Sê-rốp lệnh điều động về phòng tham mưu sư đoàn của anh ở đâu đằng sau O-ra-ni-en-bôm.

        Rất xúc cảm, Sê-rốp đi ca-mi-ông trên mặt băng vũng Mác-ki. Băng chưa rắn lắm, đôi chỗ nước chưa đóng băng còn bốc khói. Cái gì đôi với anh cũng quen thuộc biết bao! Xanh I-da-ắc, cái cần trục khổng lồ ở các công trường phía bắc, và xa hơn nữa, thẳng trước mặt, là nhà thờ Cơ-rông- stát giống như một bánh đường. Mùa thu 1941 đã bao lần anh đã bay trên các chỗ đó, đã bao lần anh trông thấy cái đầu mỏm dài của dải lưỡi cáo, và ngoài kia là đường bờ biển Pê-tê-rốp xanh xanh mà trước kia, gioong-ke thường xuất hiện từ đó...

        Dọc đường, gặp một đồng chí thợ máy chỉ biết rằng phi đội Lu-nin đã đóng hàng mấy tháng trên một hòn đảo nhỏ ở phía tây Cơ-rông-stát. Sê-rốp biết, chỗ đó: chỗ đã xảy ra trận dánh trong sương mù mà sau dó thì Sê-pen-kin bị hy sinh.

        Đồng chí thợ máy nói tiếp:

        - Nhưng bây giờ thì không ở đấy nữa. Hiện nay, mặt trận di dộng luôn.

        Quá O-ra-ni-en-bôm tiếng gầm của đại bác ta càng đinh tai nhức óc. Gặp vô số là xe tăng hạng nặng, vô số là đại bác, vô số cầu tháo rời. Đó là những lực lượng dự bị và là hậu cần đuổi theo bộ đội đang tiến. Mặt mọi người đều vui sướng biết bao. Bộ đội trẻ và dồi dào sức khỏe biết bao! Vũ khí loá cả mắt, và người đông không biết bao nhiêu!

        Cái đập vào mắt Sê-rốp nhất, là máy bay. Càng đi, càng thấy nhiều ở trên trời. Hàng phi đội Stuôc-mô-vi-ki bay sát mặt đất, ẩm ầm như sấm. Hàng mấy chục oanh tạc bất thình lình che kín trời, tiến trong một đội hình thẳng tắp, như diễu binh. Các khu trục bay rất cao, và mỗi khi lượn lại lấp lánh như cá lòng tong giữa nước trong. Từ sáng đến chiều, bầu trời rung tiếng máy. Tất cả các máy bay đều là kiểu mới: Sê-rốp không thấy một cái nào như kiểu anh đã lái hồi trước.

        Phòng tham mưu sư đoàn đóng trên một trường bay do địch bỏ lại, trong một toà nhà còn nguyên trông ra con đường bay đầy xác gioong-ke. Một phần dụng cụ còn ở trong ca-mi-ông. Các đồng chí cần vụ khênh những hòm tài liệu, khênh bàn và máy chữ. Các đồng chí điện thoại viên căng dây. Trong khi đồng chí gác xét giấy tờ thì Sê-rốp ước thầm: "Giá mà đồng chí Prốt-cua-ri-a-kốp ở đây".

        Nhưng đồng chí tư lệnh sư đoàn còn đi kiểm tra các trung đoàn. Đồng chí tham mưu phó, một trung tá không quen biết tiếp Sê-rốp. Đồng chí đã nghe nói tới anh nhiều.

        - Đổng chí đấy à? Đổng chí ở phi đội Rát-sô-khin phải không?

        Đồng chí nhìn mặt anh, hỏi một tràng về sức khỏe, và lắc đầu có vẻ hoài nghi.

        - Để dồng chí trung tá Lu-nin tự quyết định vể công tác của đồng chí thì hơn...


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Sáu, 2019, 09:51:47 pm
   
        Cũng như đồng chí thiếu tướng ở Mát-scơ-va, đồng chí lấy làm lạ tại sao Sê-rốp không biết Ta-ta-ren-kô. Đồng chí hỏi anh mấy câu về xứ U-ran, về tình hình sinh hoạt ở hậu phương, rồi ra lệnh cho đồng chí sỹ quan trực nhật.

        - Để đồng chí thượng úy gọi dây nói về trung đoàn Lu-nin .

        Sê-rốp sướng run lên khi nghe thấy tiếng Ta-ra-rác- xin trong ống dây nói. Mình như cái tiếng quen thuộc và thân thiết ấy chính là tiếng của trung doàn.

        - Đồng chí Sê-rốp đấy à? Thích quá! Đổng chí thiêu tá Sác-ha-di-ăng gửi lời chào đồng chí đấy. Đồng chí ấy đứng cạnh tôi và bảo đồng chí đến ngay lập túc. Xe của trung đoàn mình ở sư đoàn đầy, đồng chi tìm xe mà tới đây... Đồng chí Đê-ép cũng vừa vào chỉ huy sở và chào đồng chí đấy... Đồng chí xem, dù sao vẫn còn những người cũ!

        Hai giờ sau. Sê-rốp đến trung đoàn.

        Sân bay rộng lớn, đầy máy bay. Những chiếc máy bay lộng lẫy. dáng thanh tú, cái đậu trên dường bay, cái lấy đà, cái cất cánh bay thành hàng trên không, cái trở về và hạ cánh. Và nhũng phi công lạ mặt từ máy bay bước ra. Họ nhìn Sê-rốp nhưng không để ý. Bỗng không, Sê-rốp cảm thấy mình bé xíu, gần như không có mình nữa. Có đúng là cái trung đoàn mà anh thường mơ ước khi còn ở trên giường bệnh? Liệu

        người ta có giao cho anh lái một máy bay như thế này không? Sau bao nhiêu tháng không làm gì, liệu còn lái được không?

        Cần hỏi xem chỉ huy sở ở đâu. Một người đẫy đà, mặc quần áo bay mầu xanh, đứng cạnh chiếc máy bay, và quay lưng trở lại. Sê-rốp đến gần. Người đó ngoảnh lại. Người đó có bộ mặt to, đỏ lên vì nắng gió, - bộ mặt mà Sê-rốp quen thuộc nhất trên đời.

        - Báo cáo đồng chí trung tá, tôi thượng úy Sê-rốp...

        Anh không nói được hết lời. Hai bàn tay khỏe mạnh nắm chặt lấy anh. Một cái má ấm áp sát vào má anh. Cách đó mấy bước, những phi công trẻ tuổi và lạ mặt tụm đông một chỗ. Không dám đến gần, họ thầm thì với một vẻ ngạc nhiên và kính trọng:

        - Đồng chí Sê-rốp đấy, Sê-rốp nổi tiếng đấy...

        Lu-nin không rảnh được phút nào để nói chuyện với Sê-rốp. Anh nghe báo cáo, ra lệnh; các máy bay thì cất cánh và hạ cánh liên tiếp. Thỉnh thoảng, anh quay lại nháy mắt làm hiệu cho Sê-rốp, là anh vẫn nhớ đến bạn. Sau cùng mới rảnh được một tí, thì anh gọi các đồng chí trẻ:

        - Ka-ri-a-kin, Ri-a-bu-skin, các đồng chí dẫn đồng chí thượng úy Sê-rốp đến nhà ăn...

        Sê-rốp hỏi:

        - Đồng chí Lu-nin, đồng chí định cho tôi công tác ở đâu?

        - Sẽ nói chuyện sau. Hẵng đi ăn đã.

        Rất lấy làm hãnh diện, Ka-ri-a-kin và Ri-a-bu-skin dẫn người "đàn anh" đi.

        Sê-rốp nói:

        - Trước kia, chúng tôi có một đồng chí nữ phục vụ viên là Hin-đa.

        - Đồng chí ấy vẫn ở đây. Chắc ở trong bếp sắp ra.

        Nhưng rồi là một đồng chi phụ nữ lạ mặt phục vụ Sê- rốp.

        Ka-ri-a-kin hỏi chị:

        - Đồng chí Hin-đa đâu hở đồng chí?

        - Vừa đi khỏi. Để tôi gọi.

        Chị bước ra, và người ta nghe thấy tiếng đàn bà sau vách.

        - Hin-đa đâu ấy nhi? Có người quen cũ muốn gặp.

        - Hin-đa ơi!

        - Đồng chí áy ra kho ăn rồi.

        - Đồng chí ấy về ngay bây giờ.

        Sê-rốp và hai người đã ra khỏi nhà ăn, thì bỗng nghe tiếng ai chạy đằng sau, Sé-rốp quay lại thì ra Hin-đa.

        Đỏ mật lên vì xúc cảm và tức thở vì chạy, nhưng cô vẫn dẹp như xưa. Có bắt tay Sê-rốp hồi lâu. Đôi môi hồng như môi búp bê mỉm cười. Nhưng trong đôi mắt xanh, long lanh giọt lệ:

        - Tôi lại được phục vụ đồng chí ở nhà ăn như xưa...

        Sê-rốp cũng cảm thấy nước mắt muôn trào lên. Anh hỏi:

        - Đồng chí còn nhớ các đồng chí cũ không?

        Mắt Hin-da mờ lệ. Cô chỉ trả lời:

        - Tôi nhớ hết.

        Rồi cô lắc đầu cười hỏi:

        - Đồng chí có nghe thấy tiếng đại bác mình nã không? Không bao lâu, chúng ta sẽ vào Ét-tô-ni.

        Sau rừng, tiếng đại bác càng gầm khỏe.

        Sê-rốp vội vã về chỉ huy sở, cố sao cho tập tễnh rất ít. Nhưng đặc biệt là càng cảm động thì càng tập tễnh thêm! Trong nhà hầm vừa đào trong một đêm xong Sác-ba-di- ăng reo mừng đón Sê-rốp. Anh biết chuyện Sê-rốp viết thư cho U-va-rốp và chính anh đã nài U-va-rốp can thiệp. Anh giải thích bằng cái giọng nói lớn:

        - Tất nhiên rồi! Đồng chí là người nhà. Tôi đã nói với đồng chí U-va-rốp: "Sê-rốp đã góp phần xây dựng trung đoàn được như ngày nay. Nếu ta được tuyên dương Cận vệ đoàn thì cũng có phần đóng góp của đồng chí ấy. Không bỏ đồng chí ấy được".

        Nhưng anh có vẻ chưa tin lắm là có thể giao ngay một khu trục cho Sê-rốp. Và Sê-rốp đoán được vậy vì thấy anh cứ hỏi nhiều về sức khỏe.

        Sác-ba-di-ăng nói:

        - Đồng chí thu xếp chỗ ở đã. Rồi lại làm việc. Chúng tôi sẽ xếp được công tác cho đồng chí.

        Nghe đến lần thứ ba câu hứa hẹn mơ hồ là "sẽ xếp công tác". Sê-rốp cúi đầu buồn bã. Thì có tiếng Lu-nin từ một góc hầm tới:

        - Đồng chí thiếu tá ạ. Sê-rốp là một phi công khu trục.

        Sác-ba-di-ăng trả lời:

        - Báo cáo đồng chí trung tá. tôi biết. Và còn là một phi công khá như thế nào.

        - Một phì công hạng nhất.

        - Nhưng từ hai năm nay không lái máy bay. Đồng chí đã bị thương nặng, yếu đi và chân thì tập tễnh...

        - Tập tễnh không can gì đến sử dụng súng và tay lái. Đồng chí ấy lại cùng đi với tôi như cũ. Sau mười lăm ngày, đồng chí ấy sẽ lấy lại phong độ xưa... Đồng chí Krô-míc, đồng chí dẫn đồng chí thượng úy về nhà ngủ và đồng chí làm giường cho đồng chí ấy cạnh chỗ tôi...

        Về nhà ngủ. vừa đặt đầu xuống gối là Sê-rốp ngủ liền. Đến khuya trở dậy thấy Lu-nin vào buồng. Lu-nin nhìn anh cười.

        Bỗng Sé-rốp nói:

        - Đồng chí Lu-nin ạ. tôi lập gia đình rồi.

        - Vối chị ấy phái không?

        - Vâng.

        - Thế thì tốt .

        Giọng Lu-nin thiếu vẻ tin tưởng, Sê-rốp nói to:

        - Rất tốt là khác!

        Lu-nin thở dài nằm xuống giường im lặng. Mười phút sau, Sê-rốp khẽ hỏi:

        - Đồng chí không ngủ à?

        - Không.

        - Tôi muốn hỏi đồng chí... Có phải đồng chí đã dẫn ở Lê-nin-grát ra một người đàn bà và hai dứa trẻ tên là 1-ri-nốt-ska và Sê-ri-ô-gia phài không?

        Lu-nin không trả lời ngay. Rồi bỏng nhiên anh ngồi dậy hỏi:

        - Chị ấy đấy à?

        - Đúng.

        Lu-nin im lặng hồi lâu, cuối cùng nói:

        - Đồng chí nói đúng, rất tốt thực.


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Sáu, 2019, 05:38:24 pm

IV

        Sự phối hợp tất cả các binh chủng - bộ binh pháo binh, xe tăng, không quân vừa khu trục, vừa oanh tạc và xung kích. - là cái nét nổi bật trong cuộc tấn công tháng giêng 1944 ở Lê-nin-grát. Trời xuống tuyết ẩm. không nhìn được xa mười thước, nhưng cứ năm phút là từng đợt oanh tạc có khu trục yểm hộ hiện lên trên tiền duyên của địch để ném bom. Khi pháo binh và không quân đã phá được thành một lỗ hổng thì xe tăng hạng nặng lao vào, có Stuốc-mỏ- vi-ki bay theo. Mỗi đoàn thiết, giáp có sáu đội Stuốc-mô- vi-ki phối hợp, đợt khác chưa tới thay thì đợt này chưa rời bỏ chiến trường. Mỗi đội Stuốc-mô-vi-ki lại có một đội khu trục đi theo, yểm hộ cả xe tăng lẫn máy bay xung kích, đồng thời phát hiện các ổ liên thanh và các điểm tựa của địch.

        Trong chiếc xe tăng đầu đoàn, một sỹ quan không quân giữ liên lạc với khu trục và Stuốc-mô-vi-ki.

        Stuốc-mô-vi-ki gọi bằng vô tuyến điện:

        - Báo cáo đồng chí đại úy, xin giao nhiệm vụ cho chúng tôi.

        Đồng chí sỹ quan liên lạc mở nắp xe quan sát xung quanh và trả lời trong máy truyền thanh

        - Nhìn về bên trái... Hai xe tăng... Trông thấy không? Một của ta đang mắc với một cua địch... Cái đen là của quân Đức.

        - Rõ! Tôi sẽ giúp một tay.

        Chiếc Stuốc-mô-vi-ki lái sang trái và qua những bông tuyết cái bóng lờ mờ của nó bay trên chiếc xe tăng vỏ đen. Chiếc xe Đức bốc cháy.

        Đồng chí phi công muốn biết kết quả điện hỏi:

        - Đồng chí đại úy, thế nào?

        - Như thường!

        Nếu xe tăng ta vấp phải một lưới lửa dữ dội thì đồng chí sỹ quan liên lạc gọi:

        - Đồng chí Ta-ta-ren-kô: đạn cùa chúng bắn từ đâu?

        Khu trục bay vào sương mù, bay là mặt đất, phát hiện ra

        các dàn pháo địch, và các Stuốc-mô-vi-ki lại có việc.

        - Thế nào?

        - Như thường. Xe tăng cám ơn các đồng chí.

        Phi dội Ta-ta-ren-kô tham gia từ ngày đầu tấn công vào các trận đánh phối hợp mọi binh chủng như vậy. Cái kiểu đánh ấy rất nhiều khó khăn, nhưng cũng có cái hấp dẫn của sự mới mẻ. Giữa trận đánh, không thể phân công dứt khoát được: xe tăng và Stuôc-mô-vi-ki đôi khi phải làm công tác thám thính trong khi khu trục lại trở thành máy bay. xung kích. Mỗi lần phát hiện ở một ngã tư nào có đoàn bộ binh hay ca-mi-ông địch, là khu trục đánh luôn không đợi Stuốc-mô- vi-ki.

        Chẳng bao lâu Ta-ta-ren-kô đã say mê với những cuộc bắn phá dưới đất như vậy. Khác với Stuôc-mô-vi-ki, khu trục vô hiệu quả trước các hầm và lô cốt. Họ chỉ đánh được bọn Đức ở ngoài trời, vì cái đó yêu cầu vừa phải tinh mắt. vừa phải có những khả năng đặc biệt về xạ kích, vừa phải có nghệ thuật lẩn được vào một mảnh sương mù hay lẩn trên ngọn thông. Cái thời tiết mục nát ấy, thấp tịt gần như chẳng thấy trời đâu, lúc mưa, lúc xuống tuyết, tuy khó khăn cho việc bay nhưng lại dễ cho việc bắn phá dưới đất. Nhưng các phi công thì phải qua một thử thách nặng, phải là tay thiện nghệ về lái cũng như về bắn gần, như phải biết lấy hướng mò trong tối, biết nhận định được tình hình trong khoảnh khắc, về mọi mặt đó, thì phi đội Ta-ta-ren-kô đứng đầu các đơn vị khu trục trong quân đoàn.

        Cuộc tấn công diễn ra được mấy ngày thì những đơn vị xuất kích từ O-ra-ni-en-bôm đã bắt đầu nghe rõ tiếng đại bác của bộ đội từ Lê-nin-grát và từ các điểm vùng Pun-kô-vô tới.

        Lực lượng quân Đức chúi vào ngoại ô. Ở tây nam thành phố chỉ còn một hành lang nhỏ hẹp để liên lạc với hậu phương chúng, ở đâu, chúng cũng cố bám chặt, đại bác chúng tiếp tục oanh tạc Lê-nin-grát. Tuy chẳng có lợi gì về chiến lược, nhưng chúng vẫn cố tình phá hoại nhà cửa và bắn giết nhân dân. Chúng phải mua với giá đắt trò chơi ấy. Khi chúng dự định rút thì đã quá chậm. Từ Li-gốp. Stren-na và Pê-tê-rốp. chúng bỏ cá súng ống và hỗn dọn ào vào cái hành lang, phủ tuyết ướt, nó mỗi giờ mỗi hẹp lại và bị pháo ta nã vào hai sườn. Bọn chạy trốn dẫm lên xác những đứa đã tìm cách trốn trước. Để mở rộng lối đi, bộ tư lệnh Đức tung vào đó tất cả thiết giáp của chúng. Nhưng lại dụng phải xe tăng, Stuôc-mô-vi-ki và khu trục của ta.

        - Đồng chí đại úy. cho chúng tôi công việc.

        - Bén phải, đồng chi Ta-ta-ren-kô ạ. Bọn Đức đang tìm cách từ rừng tiến ra.

        Khu trục lao về phía rừng lia nhanh mấy băng.

        - Thế nào đồng chí dại úy?

        - Như thường.

        Trong các phi đội. bọn Đức đã nhận ra được phi dội Ta-ta- ren-kô. Hết vía với họ. trong các báo cáo. chúng gọi họ là "phi đội vô địch". Chúng không biết rằng cái "bọn già" ấy - như trước đây chúng vẫn gọi, chỉ là một dúm phi công chưa có râu, trước 1941 chưa hề cầm đến chiếc tay lái máy bay. Chúng không biết rằng người chỉ huy họ chưa đến 22 tuổi, mới biết yêu lần đầu tiên, và mỗi lần xuất trận về còn hỏi bằng cái dáng ngượng nghịu xem mình có thư hay không?


Tiêu đề: Re: Khoảng trời Ban-Tích
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Sáu, 2019, 12:56:07 pm

*

*      *

        Ngày 20 tháng giêng, hai gọng kìm khép vào làng Rốp-sa. Bảy sư đoàn Đức bị cắt và tiêu diệt mau lẹ. Trong mấy ngày, dịch chết hơn hai vạn tên. Hai trăm khẩu dại bác, kể cả 30 khẩu bắn xa vẫn oanh tạc Lê-nin-grát, đã rơi vào tay ta. Đã mở được một lỗ hổng lớn. Bộ đội ta ùa vào dó. tiến vê phía Pu-skin, Si-u-đa, Lu-ga và Na-rô-va.

        ... Trung đoàn được lệnh đi chiếm đóng một trường bay vừa giải phóng được mấy giờ đồng hồ. Ở chỉ huy sở, mọi người tấp nập chuẩn bị. Dây nói gọi không ngừng. Ta-ra-rắc- xin nói đến khản cả tiếng. Các đồng chí cần vụ thì buộc bịu đồ đạc. Nhiều người chạy lại, nhận lệnh của Lu-nin hoặc của Sác-ba-di-ăng, rồi lại cấp tốc ra đi, nện gót giầy cồm cộp xuống phên sắt. Nhưng cái bận rộn có cái vẻ ngày hội. Vì người ta đi về phía tây.

        Sla-va cũng ở chỉ huy sở, một Sla-va đã sắp 15 tuổi, có cái mặt tròn xoay, nước da sáng, và bộ quần áo xanh đầy dầu mỡ. Nó lớn nhiều. Và mỗi lần gặp nó, Lu-nin không khỏi kêu lên: "Cái thằng mau lớn quá”.

        Trong khi đợi lệnh lên chiếc máy bay vận tải có nhiệm vụ chở các đồng chí thợ máy, tháng bé ngồi ở một góc hầm giữa Kô-stin và Ri-a-bu-skin và nghe họ nói chuyện.

        Kô-stin giải thích:

        - Mấy năm nữa thì máy bay của ta chỉ còn tốt cho viện bảo tàng.

        Ri-a-bu-skin bị đụng đến những tình cảm thân yêu nhất:

        - Dầu sao chúng cũng đã là những máy bay khá nhất trên thế giới...

        Nhưng Kô-stin ngang ngạnh bĩu môi:

        - Nếu cậu tưởng tượng được các máy bay mà sau đây ba năm người ta sẽ chế tạo!

        - Thê cậu tưởng tượng được không?   

        - Ít nhiều...

        Thực ra, thì ít hơn là nhiều. Và Sla-va từ nãy vẵn hoài nghi thì nay nhếch mép cười ngạo mạn. Vì chính nó vẫn thường nghĩ cách chế tạo máy bay. Những vở học của nó, nó vẫn học đồng chí Đê-ép, - đầy những con quái vật có cánh. Có khi trong khi tranh luận, nó còn có thể làm Kô-stin phải im lặng, vì nó thông thuộc máy móc hơn, biết đôi chút khí thể động lực học và giữa những công thức đại số thì nó cảm thấy dễ dàng như con cá trong nước. Sla-va tự khám phá ra là mình có cái "bướu" toán học. Vì toán học cũng là cái món sở trưởng của Đê-ép, nên chẳng bao lâu mà thầy trò đã vượt xa phạm vi chương trình. Từ nay, Sla-va thấy rõ tương lai. Nó sẽ trở thành kỹ sư hàng không và chế tạo máy bay.

        U-va-rốp vào trong hầm. Mọi người đứng dậy. Đi theo đồng chí là đại úy Khô-vơ-rin, chút bút tờ báo Sư đoàn đang lần lượt đi các trường bay. Chiến tranh làm Khô-vơ-rin khỏe mạnh rắn rỏi. Da mặt trước kia tái mét nay đã có sắc. Đứng thẳng hơn, như cao lên, và hình như cả to ra. Chảng còn gì là cái dáng thiểu não như hồi Lu-nin gặp. Tưởng như là anh ta ở trong bộ quân phục mà sinh ra.

        Đôi với Khô-vơ-rin thì lúc này gặp Lu-nin là một sự kỳ lạ. Vì họ quen nhau cũng chỉ vài giờ trước khi vòng vây Lê-nin- grát khép lại.

        Anh hỏi Lu-nin:

        - Đồng chí có nhớ cái thùng xăng?

        Cái kỷ niệm ấy có vẻ rất quí đối với anh... Rồi anh nhắc lại chuyện gặp gỡ trước, cái hồi đói mùa đông ở nhà Sa-ra-pôp. Chuyện Lu-nin đã nhờ anh giúp đỡ, để đưạ ra khỏi Lê-nin- grát một người đàn bà và hai đứa trẻ mà Lu-nin nhận là vợ con.

        Anh cười nói:

        - Đồng chí trung tá, thật là đồng chí không biết nói dối. Cả Sa-ra-pốp lẫn tôi chẳng tin một giây phút nào!...

        Lu-nin nhìn đồng hồ:

        - Đến giờ rồi.

        Đồng chí xin phép U-va-rốp và đi ra. Hầm vắng dần. U-va-rốp, Khô-vơ-rin và Sác-ba-di-ăng còn ở lại một lúc.

        Khô-vơ-rin hỏi U-va-rốp:   

        - Trước đây đồng chí Lu-nin nói với tôi là đã ly dị vợ. Đồng chí có biết không?

        - Biết.

        Sác-ba-di-ăng nhận định:

        - Chắp là đồng chí ấy không yêu nữa.

        U-Va-rốp nói:

        - Đồng chí nhầm rồi.

        - Thế đồng chí Lu-nin nói với đồng chí à?

        . - Nói nửa chừng thôi. Nhưng tôi hiểu. Những người như Lu-nin khi đã yêu thì yêu mãi mãi.

        ... Khi đó Lu-nin đã cất cánh, cả trung đoàn theo sau. Hôm nay là ngày đóng băng đầu tiên trong mùa đông, và trời đã gần chiều. Gió bất chợt quét sạch mây, và thẳng đằng trước, về phía tây mặt trời đỏ khổng lồ đang xuống dần trên ngọn rừng. Lu-nin bay về phía ấy. Các máy bay của trung đoàn đi theo đồng chí, trong đội hình chiến đấu. Nhiều quá, như che kín cả không trung, từ đầu nọ đến đầu kia chân trời. Những máy bay đó đem lại tự do, hy vọng, và tương lai cho các dân tộc. Và không một sức nào trên đời có thể cản trở cuộc bay của họ.

HẾT