Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 19 Tháng Chín, 2017, 12:41:37 am



Tiêu đề: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Chín, 2017, 12:41:37 am

        - Tên sách : Những nẻo đường chinh chiến (Trung đoàn 271 Miền đông Nam bộ anh hùng)

        - Tác giả : Dương Công Hợi

        - Nhà xuất bản Thanh niên

        - Số hóa : Giangtvx


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Chín, 2017, 09:38:59 pm

MỤC LỤC

•   Cựu chiến binh Dương Công Hợi và nỗi nhớ một thời chinh chiến   
•   Lời tác già

PHẦN I

Bước vào quản ngũ và sự khởi đầu ở tiểu đoàn 16 su đoàn 325


+ Những ngày đầu quân ngũ
+ Giải phóng A Sầu, A Lưới
+ Lên tây nguyên
+ Trận đánh bãi Đi na mô
+ Đánh căn cứ Đức Vinh
+ Lại tiếp những ngày sốt rét

PHẦN II

Đại đội 16 trung đoàn 95


+ Về đại đội 16 trung đoàn 95
+ Bám đường 19 đánh giao thông
+ Trở thành đảng viên và tlếp tục những ngày tháng ác liệt

PHẦN III

Niềm vui, nỗi buồn


+ Trường quân chính b3 và một trận bom oan nghiệt
+ Về thăm nhà và trở thành sỹ quan chính trị

PHẦN IV

Trung đoàn 271 miền đông Nam bộ


+ Cuộc hành quân về đông Nam bộ
+ Chuyện láu cá của lính
+ Những ngày đầu ở Căm pu chia
+ Tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ
+ Trận Gò Dầu
+ Về Đức Hòa - Long An
+ Cuộc chiến tại Công Pông Rô
+ Trận đánh Công Pông, Tà bếch
+ Trận Sa Thia - bài học lịch sử
+ Ngày 12 tháng 1 năm 1973
+ Nhiệm vụ mới
+ Chiến đấu giữ đất, giữ dân truớc và sau ngày ký hiệp định Pari
+ Mặt trận Quảng Đức, chiến thắng Bù Bông
+ Chốt chặn lộ 14, bảo vệ hành lang chiến lược
+ Các trận đánh trên lộ 8b
+ Chiến dịch giải phóng Bù Đăng
+ "Về Phuớc Long xây chiến thắng"
+ Đánh đồn An Thạnh
+ Qua Kiến Tường về Mỹ Tho tấn công đồn An Hiệp và chống càn ở Tân Lý
+ Về lại Đức Hoà, chiến dịch Hồ Chí Minh, Niềm vui toàn thắng
+ Trung đoàn đuợc phong danh hiệu Anh hùng lực luợng vũ trang nhân dân lần thứ nhất   
+ "Chúng ta mai ãải là đồng đội"


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Chín, 2017, 04:56:54 am

CỰU CHIẾN BINH DƯƠNG CÔNG HỢI VÀ NỖI NHỚ MỘT THỜI CHINH CHIẾN

        Cựu chiến binh Dươmg Công Hợi năm nay đã bảy mươi xuân - Ông thuộc lớp người xưa nay hiểm. Vậy mà tác phong, nụ cười và bước đi của ông vẫn rắn chắc như thời trai trẻ. Nhìn dáng ông đi, nghe lời ông nói không ai có thế biết, ông là một thương binh mất gần bốn mươi phần trăm sức khỏe.

        Ông Hợi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đông con thuộc xã Hưng Thái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Chính vì cái nghèo, cái khó của một gia đình đông con nên 10 tuổi ông mới được đi học. Cũng chính từ cái nghèo khó ấy thôi thúc Hợi học giỏi và nhiệt tình tham gia các sinh hoạt tập thể.

        Mùa hè năm 1964, khi Dương Công Hợi chuẩn bị vào lớp 7 thì xảy ra “Sự kiện vịnh Bắc Bộ Ngày 5 thảng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc. Đáp lời kêu gọi tòng quân cứu nước, anh trai Dương Công Hợi đã lên đường nhập ngũ.

        Chưa đầy một năm sau, khi vừa tròn 18 tuổi Dương Công Hợi tạm biệt mẹ già người thân, xếp bút nghiên tiếp bước lên đường ra trận. Từ đó ông gắn cuộc đời mình với 24 năm trong quân đội và 18 năm ngang dọc trên những nẻo đường chinh chiến, khắp ba nước Đông Dương.

        “Những nẻo đường chinh chiến ” là cuốn sách ông nhớ lại, viết lại một quãng đời hi sinh gian khổ của ông và hàng ngàn đồng đội yêu dấu đã xả thân cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

        Các trang đầu của “Những nẻo đường chinh chiến ” đưa người đọc về với ngày nhập ngũ và những ngày huấn luyện vất vả để tôi rèn nên một chiến sỹ thông tin Dương Công Hợi.

        Qua chín tháng huấn luyện, tác giả cùng cả Sư đoàn hành quân vào chiến trường, các trận đánh A sầu, A Lưới; Đánh căn cứ Đức Vinh; Trận đánh bãi Đi na mô... đã thử thách, tôi rèn nên một đảng viên Đảng Lao động Việt Nam Dương Công Hợi.

        Những chặng đường người chiến binh Dương Công Hợi đã đi qua; Những trận sốt rét rừng và những ngày đánh địch ở Căm Pu Chia, ở Đức Hòa, Long An quần nhau với xe tăng địch; Những trận bom B52 rải thảm và những đợt bom pháo cày xới trận địa đã không làm nao núng quyết tâm của những người “Đi giải phóng làng quê”.

        “Những nẻo đường chinh chiến” đã đưa người chiến binh từ quê hương qua Lào, về Tây Nguyên, qua Căm Pu Chia về miền Đông Nam Bộ. Từ Đông Nam Bộ, đoàn binh lại trở về Nam Tây Nguyên với trận đánh Bù Bông mở thông đường 14 từ Tây Nguyên vào Nam Bộ.

        Đọc “Những nẻo đường chinh chiến” ta thấy khí thế tiến công hừng hực của đoàn binh từ Bù Đăng qua Bù Đổp, Phước Long đến Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Đức Hòa, Long An cùng toàn quân, toàn dân hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

        “Những nẻo đường chinh chiến” của Dương Công Hợi đã mô tả chân thực những khó khăn, gian khổ, những ác liệt hi sinh mà những người lính từng nếm trải. Đọc “Những nẻo đường chỉnh chiến ” ta thấy được tầm vóc vĩ đại của cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng đất nước.

        "Những nẻo đường chinh chiến ” còn cho ta thấy nghĩa tình đồng đội của những người chiến binh và cựu chiến binh thật là sâu nặng. Lúc xung trận thì sẵn sàng sẻ chia sự sống và cái chết, khi về với đời thường thì luôn tìm đến để giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

        Những người đã từng đi qua, từng sống trong thời kỳ chiến tranh hãy tìm đọc “Những nẻo đường chinh chiến ” để thêm yêu hơn những ngày đã qua. Các bạn trẻ hôm nay, hãy đọc “Những nẻo đường chinh chiến ” để hiểu thêm về cuộc sống gian lao mà anh dũng của thế hệ ông cha để có thêm nghị lực vượt qua những thử thách trong đời và thêm yêu cuộc sống hòa bình đã được trả giá bằng sự hi sinh của bao thế hệ đi trước.

        Trở về sau chiến tranh với nỗi lo thường nhật, Dương Công Hợi vẫn luôn đau đáu nhớ về những năm tháng chiến chinh. Nhiều lần ông muốn viết “Những nẻo đường chinh chiến ”. Vậy mà phải 28 năm sau, khi đã ở tuổi 70, ông mới vượt qua được rào cản tâm lý để hoàn thành cuốn sách.

        Đọc sách ta càng thêm yêu quý người chiến binh và nỗi nhớ về một thời chinh chiến. Tôi hy vọng “Những nẻo đường chinh chiến ” của Dương Công Hợi sẽ được bạn đọc cả nước đón nhận với tình cảm yêu mến và trân trọng.

Tháng 6 năm 2016 CCB Hoàng Liêm       


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Chín, 2017, 04:58:52 am

LỜI TÁC GIẢ

        Con người ta khi đã ở tuổi xế chiều thường hay hoài niệm. Nhớ về quá khứ, nhớ thuở bé thơ, nhở thời trai trẻ, nhớ lúc mình đã trường thành. Tôi nhớ về cuộc đời mình, nhớ những chiến công, những giây phút vinh quang và nhớ cà những gian khổ, đau thương thấm đẫm mồ hôi và nước mắt.

        Ở cái tuổi gần bảy mươi, cái mới khó tiếp thu. Thậm chỉ, con cháu còn cỏ lúc chà nhớ tên, nghĩ mãi mới ra. Thế mà, cứ nhớ mãi một thời đã qua - Một thời “...Mây núi bao la, lối quân đi bước mòn sỏi đả...

        Có lúc nghĩ tiêu cực: Nhớ lại làm gì? Nhắc lại làm gì? Có còn ai nghe nữa không? Có khi lại bị người đời cho là công thần, kể công với con cháu. Bởi thế, cũng có khi tôi tự nhủ: Hãy cố quên đi, vấn vương làm gì cho khổ tâm. Hãy đế những năm cuối đời sống thật thanh thản, tĩnh tâm để chuẩn bị sang với thế giới mới.

        Vậy mà không sao quên được quá khứ khó khăn, gian khổ và ác liệt. Nó cứ tồn tại dai dẳng, theo bám, ám ảnh. Phải chăng đây là hội chứng chiến tranh?

        Nhiều đêm nằm mơ, tôi hét ầm lên, làm cả nhà hoảng sợ. Nhớ bạn bè, nhớ đồng đội, nhớ nhiều trận đánh. Nhớ lại hai mươi bốn năm làm lính, mười tám năm cầm súng, đi khắp các chiến trường từ Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và đi gần khắp hai phần ba đất nước Căm Pu Chia.

        Tôi tận mất chứng kiến hàng trăm đồng đội đã anh dũng hi sinh. Bàn tay tôi đã bao lần vuốt mắt, gói liệm, chôn cất các anh - Những người thân yêu gắn bó máu thịt, cùng chung sống, cùng chia sẻ khó khăn, thuận lợi với mình. Họ đã lần lượt ra đi, nằm rải rác khắp các chiến trường.

        "Nước còn giặc còn đi đánh giặc/Chiến trường giục giã bước hành quăn". Người chiến binh chúng tôi đảnh giặc liên tục, năm này qua năm khác. Thoát được trận này, ai biết trận sau thế nào? Chỉ người nào bị thương được về phía sau hoặc ra Bắc thì mới chắc là còn sống. Những người ở lại đều chấp nhận hi sinh, chi là kẻ trước người sau mà thôi.

        Những người trở về luôn bị ám ảnh bởi ký ức chiến tranh. Tôi may mắn trong sổ người được sống sót ấy. Bây giờ, dù đã qua gần 50 năm rồi, tôi vẫn nhớ từng khuôn mặt, hàng trăm chiến sỹ yêu dấu, đồng đội của tôi đã ngã xuống vì Tổ quốc thân yêu.

        Từ nhận thức về sự hi sinh to lớn của những người chiến sỹ cho nền độc lập của dân tộc, tôi nhớ lại, ghi chép lại những kỷ niệm sâu sắc của mình trên những nẻo đường chinh chiến, với mong muốn góp một tiếng nói chân thật vào truyền thống chiến đấu vẻ vang của dân tộc và quân đội.

        Là người trong cuộc, viết về những kỷ niệm của mình, của đơn vị mình, nhưng tôi không thể kể hết được những sự kiện dã đi qua. Do thời gian quá lâu, tuổi tác đã cao, trí nhớ có hạn nên nhớ đến đâu, tôi viết đến đó.

        Tháng năm thì đúng, ngày giờ thì có lúc chưa chuẩn xác nhưng tất cả đều là sự thật. Các sự kiện, con người, cảnh vật trong các trang viết này gắn liền với các đơn vị: Đại đội 2, Tiểu đoàn 16, Sư đoàn 325; Đại đội 16, Trung đoàn 95, Mặt trận Tây Nguyên; Các đơn vị của Trung đoàn 271 Miền Đông Nam Bộ anh hùng.

        Tôi hy vọng những người đã qua trận mạc, nhất là những người lính ở các đơn vị tôi đã từng công tác và bà con nơi tôi đã đi qua, khi đọc những dòng này sẽ thấy cỏ mình trong đó. Những người lính ra trận, chịu đựng muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, nếm đù mùi bom đạn, gian khổ, hi sinh sẽ thấu hiểu và trân quý hơn nghĩa tình đồng đội.

        Qua các trang viết này, tôi mong sao các bạn đọc trẻ hôm nay cũng hiểu hơn về sự hi sinh to lớn của những người đi trước để thêm yêu quý hơn, trân trọng hơn và có trách nhiệm hơn trong việc xây dựng và bảo vệ một nền hoà bình vững chắc trên quê hương, Tổ quốc thân yêu của mình.

        Để hoàn thành những trang viết đã ấp ủ từ nhiều năm qua, tôi đã được sự động viên ủng hộ của gia đình, vợ con và rất nhiều đồng đội là CCB Trung đoàn 271. Tự sâu thẳm lòng mình tôi luôn trân trọng những sự giúp đỡ quý báu đỏ.

        Qua đây tôi xin gửi lời cám ơn đến CCB Hoàng Đại Tuấn, CCB Hoàng Liêm, CCB Hoàng Chinh, Thạc sĩ, Biên tập viên chính Lê Minh Hiền và các cán bộ nhân viên Nhà Xuất bản Thanh niên đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành những trang viết này.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Chín, 2017, 12:34:32 am
           
Phần 1

BƯỚC VÀO QUÂN NGŨ VÀ SỰ KHỞI ĐẦU Ở TIỂU ĐOÀN 16 SƯ ĐOÀN 325
         
NHỮNG NGÀY ĐẦU QUÂN NGŨ

        Ngày mồng 7 Tết Nguyên Đán 1965, tôi nhận được lệnh: Ngày 15 tháng 2 năm 1965 (14 Tết) sẽ nhập ngũ. Thời gian báo gấp, chi có 7 ngày mà rất nhiều việc phải làm. Vì tôi đang học lớp 7 nên phải lấy giấy xác nhận của nhà trường, giấy sinh hoạt Đoàn, rồi gặp gỡ liên hoan chia tay bạn bè, thầy cô, đi chào chia tay ông bà, anh em, chú bác, nội ngoại gần xa.

        Cha mẹ tôi thì phải lo tiền bạc cho con đi. Anh trai tôi mới đi bộ đội được hơn một năm, nay tôi lại nhập ngũ khiến cha mẹ buồn lắm, nhưng chẳng ai nói câu nào.

        Nhà đông con, nên lúc nào mẹ tôi cũng dè xẻn, ăn uống cầm chừng để ngày ba tháng 8 khỏi đứt bữa. Nhưng những ngày này, mẹ thường nhắc tôi: “Con ăn cho no để còn có sức mà đi. Con ạ!”. Mẹ lên hợp tác xã rút được 10 đồng bạc thừa trong phương án để lo cho tôi đi.

        Chúng tôi ra đi không tổ chức liên hoan. Hoàn cảnh chiến tranh nó vậy. Xã đội gọi lên tập trung quán triệt giao nhiệm vụ. Gia đình chúng tôi thì chẳng có gì mà liên hoan, chi được ăn mấy bữa cơm no.

        Xã Hưng Thái nhập ngũ đợt này có 23 người. Xóm tôi có 3 người: Tôi, Trường và Tiềm. Xóm Hạ có Chiến và Lân. Ở cái tuổi ăn chưa biết no, làm không biết mệt, hồn nhiên, vô tư như những đứa trẻ, vậy mà lúc chia lìa tổ ấm gia đình tôi không khỏi bùi ngùi, xúc động. Đêm cuối cùng rời cái căn nhà nhỏ bé của mình tôi không sao chợp mắt được, lòng miên man nghĩ về từng chi tiết trong nhà, nhớ từng bờ tre đầu xóm, nhớ những khuôn mặt người thân, bạn bè, nhớ con đường nhỏ ngày ngày tới trường.

        Sáng ngày 15 tháng 2 năm 1965, chúng tôi ra đi. Hành lý chi có: Một cái túi xách bằng lưới, bên trong chỉ một bộ đồ lót, một chiếc khăn tay, một hộp thuốc đánh răng và bàn chải. Nếu như không có nắm cơm trưa thì chưa đến nửa cân.

        Bà nội và cha cứ chăm chú nhìn tôi làm tôi nhớ mãi giây phút chia ly. Trước khi tôi bước ra khỏi nhà chẳng ai nói điều gì, các cụ xúc động quá không nói nên lời. Các em Quý, Xuân, Đồng thì còn nhỏ dại. o Mạo và mẹ tôi đi tiễn chân tôi tới nơi tập trung.

        Cha tôi ít nói nhưng ông là người nhìn xa trông rộng. Ông biết tôi sẽ ra đi vào nơi chiến trận, không hẹn ngày về. Đây là lần thứ 2 ông tiễn những đứa con thân yêu nhất của mình ra trận. Tôi nắm chặt tay cha và nói: “Cha ở nhà mạnh khỏe! Con sẽ không làm gì hổ thẹn đến thanh danh gia đình đâu, cha cứ yên tâm!”

        Bà nội, ông bà ngoại đều có mặt trước lúc tôi đi. Các bà cứ ôm lấy tôi sờ hết đầu đến mặt, nước mắt trào ra: “Chúc con đi chân cứng đá mềm, bằng anh bằng em!”

        Mẹ tôi thì lo lắng mấy ngày rồi, mẹ lo cho tôi bữa ăn, giấc ngủ. Tôi nhớ trước nhập ngũ hai ngày, buổi tối, đi chơi về khuya, tôi lên phản ngủ mà không bỏ màn. Mẹ tôi cầm đèn dầu đi kiểm tra, thả màn và soi muỗi cho tôi. Thấy mẹ, tôi giả vờ ngủ say, mẹ vừa bỏ màn, vừa nói: “Vài ngày nữa, ai bỏ màn cho mày, có lẽ muỗi sẽ ăn thịt mày thôi. Mày có nghe được còi báo động không con?”. Mải soi muỗi, không biết mẹ có thấy những giọt nước mắt lăn trên gối tôi không? Tôi thương mẹ vô cùng mà không thể nói với mẹ vào lúc này.

        Cách đây chi hơn một năm, mẹ đã tiễn anh trai tôi lên đường, lúc đó ờ nhà còn có tôi. Nay tôi đi rồi, bên mẹ chỉ còn bốn đứa em tôi bé dại. Gia đình trở nên trống vắng và hẫng hụt về nhiều mặt.

        7 giờ sáng, chúng tôi tạm biệt gia đình, tạm biệt quê hương lên đường đến địa điểm tập kết ờ gần chợ Đước xã Hưng Chính.

        Xóm tôi và xóm Hạ có năm anh em cùng nhập ngũ. Gia đình các bạn chẳng có ai tiền chân. Nhà tôi thì có mẹ tôi và o Mạo đi cùng. Mặc dù tôi không muốn mẹ đi, sợ mẹ vất vả. Nhưng mẹ tôi kiên quyết: “Tao phải đi tới nơi, giao quân xong mới về”. Tôi nói mấy mẹ vẫn quyết đi. O Mạo mới 13 tuổi cũng lẽo đẽo đi theo.

        Chúng tôi đi theo đường qua đội Cống, đội Nhà Hời, đội Sau Nha. Đây là những cánh đồng quen thuộc đã gắn bó với dân làng chúng tôi từ bao đời. Lúc này, xã viên hợp tác xã đang tập trung làm khoai lang, thấy chúng tôi, ai cũng dừng lại vẫy tay chào tạm biệt.

        Sang tới Đước, 5 đứa chúng tôi tập hợp thành một tốp vì sợ lạc nhau. Đây là điểm giao quân của huyện nên rất đông. Anh Lân ở xóm Hạ không có túi, chi có một nắm cơm đùm trong chiếc khăn tay. Thấy tôi có túi xách anh mừng lắm xin bỏ nhờ. Lân nói đùa: “Tao phải bám thằng Hợi không thì mất ăn”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Chín, 2017, 01:29:23 am

        Thanh niên trong làng không ai tiễn chân chúng tôi. Lớp 7A chúng tôi nhập ngũ đợt này có 10 người nên cả lớp nghỉ học đi tiễn chân chúng tôi.

        Khi vào đơn vị, các bạn lớp 7A viết thư cho biết: Lớp phải buồn đến cả tháng vì lớp chỉ có 52 học sinh mà nhập ngũ một lần những 10 người. Những người nhập ngũ lại là lực lượng sôi nổi nhất của lớp cả về học tập cũng như các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao.

        Nơi tập trung là một bãi phi lao rộng và râm mát. Gần 10 giờ, Huyện đội mới tập trung làm công tác giao quân. Đơn vị nhận quân, biên chế chúng tôi vào các tiểu đội, trung đội, đại đội. Chúng tôi được người chi huy phổ biến một số quy chế của đơn vị rồi từng tiểu đội nghi tại chỗ chờ lệnh của cấp trên.

        Quá trưa chúng tôi mang cơm nắm ra ăn. Cơm của chúng tôi, đứa thì gia đình nắm cho cục cơm nếp, đứa thì cơm tẻ, đứa thì có miếng thịt gà, đứa thì chi có chút muối vừng. Tôi mở cơm ra mời mẹ tôi và o Mạo cùng ăn nhưng không ai chịu ăn. Nhìn chúng tôi ăn, nước măt mẹ cứ trào ra. Trưa hôm đó mẹ tôi và o Mạo đã nhịn đói.

        14 giờ, chúng tôi được lệnh lên Huyện đội để nhận quân tư trang. Khi đó, tôi giục mãi mẹ tôi mới chịu về. Tôi nhìn mẹ và o Mạo ra về mà lòng rười rượi buồn. Lần này xa bà, xa cha mẹ và các em không biết bao giờ mới được gặp lại. Hình ảnh mẹ và em xa dần, xa dần... đã in đậm trong ký ước tôi suốt cuộc đời quân ngũ.

        Trước khi nhập ngũ, tôi mới hơn 17 tuổi nhưng khỏe mạnh, mọi việc nặng nhọc trong gia đình tôi đều đảm nhiệm. Hằng năm, tôi còn bắt được hàng trăm cân cá tép, lươn, ếch để cải thiện bữa ăn gia đình và còn bán lấy tiền mua quần áo, sách vở, dầu đèn. Bây giờ tôi đi rồi gia đình sẽ bị hẫng hụt, cuộc sống chắc sẽ gặp nhiều khó khăn.

        Sau khi đi nhận quân trang về, chúng tôi được trang bị mỗi người một chiếc mũ cứng, một đôi giày, hai người một cái màn, hai người một cái vỏ chăn và 2 chiếc bánh mì ăn tối. Chúng tôi sẵn sàng chờ lệnh hành quân.

        Thời gian này không quân Mỹ đã tăng cường ném bom miền Bắc, chủ yếu tập trung ở Quảng Bình, Quảng Ninh. Chúng tập trung đánh phá các căn cứ quân sự của ta như doanh trại Sư đoàn 325 ở Quảng Bình, doanh trại Sư đoàn 341 ở Vĩnh Linh, các quân cảng ở Hải Phòng và Quảng Ninh.

        Trong thời gian chờ lệnh, chúng tôi ngồi tụm ba, tụm bảy tán gẫu và phán đoán. Đứa nói ta đi hải quân, đứa bảo đi pháo binh; đứa bảo đi tàu, đứa lại nói đi ô tô; Đứa bảo đi ra Bắc, đứa cho là đi vào phía Nam...

        Gần tối, đồng chí Đại đội trường tập trung quán triệt phổ biến kế hoạch hành quân và một số quy định về ki luật hành quân, trú quân của đom vị. Sau đó hạ mệnh lệnh hành quân. Đồng chí dõng dạc: “Hướng hành quân: Hướng Nam. Cự li hành quân: khoảng 20 km hành quân bộ. Tốc độ hành quân: 4 km/giờ. Thời gian bắt đầu xuất phát: 18 giờ 30 phút”.

        Những phán đoán của chúng tôi đều sai. Ai cũng bất ngờ vì đây là lần đầu tiên một đơn vị nhận quân đưa anh em đi bộ về đơn vị. Trước đó tất cả đều đi tàu hoặc ô tô và chưa bao giờ đi đêm. Nay đi bộ, lại đi ban đêm, vì lúc này cả nước đã bước sang thời chiến.

        Đoàn của huyện Hưng Nguyên được biên chế thành 2 đại đội. Mồi đại đội có 3 trung đội, mỗi trung đội có 3 tiểu đội. Tiểu đội trưởng cũng là tân binh. Các anh hầu hết là đảng viên và lớn tuổi hơn chúng tôi. Đến giờ, đơn vị bắt đầu hành quân. Chúng tôi đi qua thành phố Vinh, qua phà Bến Thủy đến địa phận xã Xuân Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh thì nghỉ lại.

        Từ nhà tôi xuống Bển Thủy chỉ hơn 10 km, nhưng chưa bao giờ tôi đến nên bây giờ tới đất Nghi Xuân, Hà Tĩnh cái gì tôi cũng lạ. Nếu đêm đó thả cho về, chúng tôi cũng chẳng biết đường mà về.

        Chúng tôi được anh em tiền trạm ra đón và anh em dân quân địa phương dẫn vào từng nhà dân để nghỉ. Một đơn vị hành quân đến có hàng trăm người vào một làng. Người đông mà không hề nghe một tiếng động, chúng tôi bám sát nhau đi theo sự chỉ dẫn của dân quân địa phương. Tùy theo nhà dân rộng hay chật để bố trí người. Mỗi nhà 3 đến 4 người.

        Tôi và Trường được ở một nhà. Đơn vị quán triệt ai vào nhà nấy theo sự phân công. Vào nhà rồi, tuyệt đối giữ bí mật không được đi lại ngoài đường. Bên ngoài có anh em dân quân canh phòng chặt chẽ.

        Chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy, chúng tôi vào nhà, chào gia đình, được gia đình bố trí rồi vào nghỉ ngay. Tôi, Trường được gia đình dành cho một chiếc phản. Hai đứa mắc màn nằm tào phào, rồi tôi lăn ra ngủ lúc nào không biết. Cả ngày căng thẳng, đi đường khá xa nên bây giờ đặt lưng xuống là ngủ như chết.



Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Chín, 2017, 04:02:32 am
         
        Khoảng nửa đêm Trường thúc mạnh vào tôi khẽ nói: “Hợi oi! Tao nhớ nhà lắm, chảng ngủ được”. Có lẽ Trường đã rơi nước mắt vì tôi nghe giọng nói quá xúc động. Tôi ra vẻ cứng cỏi hơn bảo Trường: “Cố ngủ đi mà lấy sức, đừng nghĩ lung tung nữa”. Nhưng rồi có ngủ được đâu. Hai đứa nằm rầm rì, to nhỏ cho đến sáng.

        Khi còn ở nhà tôi hình dung cuộc sống của anh bộ đội là được ăn uống đầy đủ, quần áo, quân hàm, quân hiệu nghiêm trang và được mọi người trọng vọng trìu mến.

        Những anh bộ đội đi được mấy tháng về thăm nhà, nhìn họ thật oai phong, hồng hào nên chúng tôi cứ ước mong chóng lớn để được đi bộ đội. Nay mới qua một ngày, một đêm và qua quán triệt của Chính trị viên Đại đội, tôi đã thấy ớn lắm rồi. Tôi thầm nhớ hai câu thơ của Quang Dũng:

        “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
        Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

        Đây chỉ là những thử thách đầu đời của người lính trẻ.

        Mấy đứa trong làng cùng chung một tiểu đội, anh Kim ở xóm Vạc làm Tiểu đội trưởng. Tôi và Trường như hình với bóng, đi đâu cũng có nhau. Hai đứa thường nhắc lại thời thơ ấu.

        Tôi và Trường ờ cạnh nhà nhau, hoàn cảnh hai gia đình cũng giống nhau, Trường hơn tôi một tuổi, cũng chín mười tuổi mới đi mẫu giáo. Hai đứa học chung từ lớp 1 đến lớp 7. Từ khi học lớp 2, lớp 3 là hai đứa đã biết đi nơm, đi nhủi. Có bữa nước rào cạn đi nơm suốt đêm mà sáng ra vẫn đi học bình thường.

        Không có một đoạn rào nào, một cánh đồng nào nhiều cá, tép mà chúng tôi không biết. Thường thì chủng tôi đi bắt hai ba ngày rồi dân làng mới biết. Có nhiều bữa đi nơm xa ở tận Hưng Chính, được cá đem vào chợ bán mua mấy trái dâu da nhai cho đỡ đói. Bao ki niệm của thời thơ ấu cứ ùa về...

        Đơn vị dừng chân ở Xuân Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh hai ngày để củng cố tổ chức, quán triệt nhiệm vụ hành quân, kỷ luật dân vận.

        Dân ở đây tốt lắm, họ xem chúng tôi như con em mình. Đời sống nhân dân nơi đây nghèo lắm. Dân chủ yếu làm ruộng, đan bị cói. Anh em tân binh chúng tôi đi tay không, được phát mỗi người 2 ngày gạo chẳng biết bỏ vào đâu. Mỗi người mua một cái bị để đựng. Gia đình tôi ở có 4 người, cần 4 cái bị. Thời gian quá gấp ông, bà và 2 đứa cháu cố đan nhanh để kịp cho chúng tôi.

        Trên đường hành quân, từ đầu hàng đến cuối hàng, mỗi người xách một cái bị. Trông thật buồn cười.

        Ở nhà, tôi là lao động chính, lăn lộn với cuộc sống, khó khăn gian khổ, nhưng tất cả đều tự do theo ý thích. Nay mọi hoạt động trong khuôn khổ, mới chỉ là bước đầu nhưng cũng đã thấy ớn và khó chịu. Mỗi đêm, đơn vị hành quân trên dưới 30 km người mệt lừ, hai chân cứng đờ nặng như treo đá. Có một số bị ngất xỉu, loét chân, bong gân.

        Đơn vị hành quân theo Quốc lộ 1, đêm đi ngày vào nhà dân nghỉ. Gần một tuần vất vả, chúng tôi đã tới ngã ba Hòn Lão, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Đơn vị dừng lại một ngày để biên chế.

        Anh em xã tôi được bổ sung cho nhiều đơn vị. Tôi, anh Tân, anh Định, anh Thân, anh Niêm, anh Kim, anh Trung cùng một đại đội. Tiềm, Trường, Nghệ, Lập, Tiến ở đại đội khác, cùng Tiểu đoàn 16 Sư đoàn 325. Số còn lại bổ sung cho đơn vị khác huấn luyện đi chiến trường Lào.

        Biên chế xong, chúng tôi tiếp tục hành quân về nông trường Việt Trung. Tiểu đoàn 16 trú quân trong một khu rừng non, cây cối rậm rạp, toàn cây sim, cây mua dày đặc, không có cây to. Chúng tôi được biên chế vào các tiểu đội, trung đội. Mỗi tiểu đội chỉ ba hoặc bốn tân binh còn lại là lính cũ ở nhiều đơn vị bổ sung về đây, hầu hết là ở sư đoàn 341.

        Trung đội trưởng của tôi là ông Đạm quê Quảng Ninh, Quảng Bình, nhập ngũ năm 1953, quân hàm Chuẩn úy. Trung đội phó Thuận quê Lệ Thủy, Quảng Bình, nhập ngũ năm 1961. Tiểu đội trường Phú quê Yên Thành, Nghệ An, nhập ngũ năm 1962. Tiểu đội phó Quế quê Diễn Châu, đảng viên nhập ngũ năm 1963. Cán bộ đại đội gồm ông Sáu, Đại đội trưởng. Ông Hương, Chính trị viên. Ông Vấn, Đại đội phó. ông Miền chính trị viên phó. Cả bốn ông đều là cán bộ miền Nam tập kết.

        Chúng tôi làm lán trại nghỉ tạm ở đây mấy ngày để nhận quân trang, vũ khí, khí tài. Làng tôi có ba đứa thì tôi ở Đại đội 2, hữu tuyến điện, còn Trường, Tiềm ở Đại đội 1 vô tuyến điện thuộc Tiểu đoàn 16 thông tin Sư đoàn 325.

        Ở đây chúng tôi được anh Sử đến tìm và gặp. Anh Sử là bảo mật của Sư đoàn nên biết chúng tôi là người cùng làng. Gặp nhau anh em mừng lắm, rủ nhau ra bãi sim ngồi chuyện trò tâm sự. Mới đi được mấy ngày, mà tôi đã biết thêm bao thứ, biết rừng, biết biển, biết đèo...


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Chín, 2017, 04:03:37 am

        Những ngày này, máy bay Mỹ ném bom dữ dội thị xã Đồng Hới, và doanh trại Sư đoàn 325. Nhưng Sư đoàn đã sơ tán về vùng nông trường Việt Trung. Chúng tôi được lệnh hành quân di chuyển. Để đảm bảo bí mật, đom vị không phổ biến kế hoạch trước, nên chúng tôi đi tới đâu biết tới đó.

        Cuộc hành quân này khác với cuộc hành quân trước đó mấy ngày. Bây giờ là anh bộ đội thực sự. Quần áo, sao mũ, giày dép, vũ khí trang bị kĩ thuật đầy đủ. Tôi được phân công mang theo một cái xẻng con, một cuộn dây điện thoại nặng 7kg, 3kg gạo. Một tân binh đi đường dài như vậy là quá nặng, đến hơn 20kg.

        Một ngày cuối tháng giêng năm 1965, khoảng 7 giờ tối, đơn vị bắt đầu hành quân. Đơn vị phổ biến hành quân về phía Tây sau đó đi theo hướng Bắc. Tân binh chúng tôi chẳng biết Tây, Bắc là chỗ nào, cứ bám đơn vị mà đi. Đi về phía Tây, chúng tôi gặp đường tàu Bắc Nam rồi theo đường tàu về phía Bắc.

        Đường tàu có từ thời Pháp đã lâu tàu không chạy. Vì từ Vinh vào tới Quảng Bình, hệ thống cầu cống chưa được khắc phục xong thì chiến tranh phá hoại xảy ra. Hai bên đường tàu cây cối rậm rạp. Trên đường tàu có đoạn cỏ tranh cao tới bụng. Hành quân mấy đêm liền, chúng tôi đã tới được vị trí trú quân.

        Đơn vị tôi đóng quân ở xóm Trường Sơn, xã Hương Vĩnh, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh.

        Đây là xóm cuối của xã Hương Vĩnh giáp với chân dãy Trường Sơn. Cách đồn biên phòng Giằng khoảng 16 km. Từ nhà dân tới bìa rừng khoảng 3 km đồi cây lúp xúp xen lẫn nương, rẫy, bãi sình, dân canh tác lúa. Giáp tới gần bìa rừng là những đồi sim, mua xen nhau dày đặc.

        Rừng ở đây là rừng đại ngàn, cây cối rậm rạp, có nhiều gỗ quý, có những cây lim, cây sến hai ba người ôm không xuể.

        Dân ở đây còn nghèo, làm nông nghiệp, chủ yếu trồng ngô với sắn, lúa rất ít vì không có ruộng. Hàng ngày, họ vào rừng khai thác mây, song, lá nón, củ nâu đem bán. Việc khai thác gỗ, rất ít gia đình làm vì họ không có phương tiện kéo ra và cưa xẻ. Gia đình nào cần thì vào chặt cây, cho trâu kéo về để làm nhà. Nhà dân chủ yếu làm bằng gỗ mít, trâm, tre, mét... gỗ vườn nhà. Nhà lợp lá cọ. Đất vườn mỗi nhà có tới ba bốn sào, quanh vườn trồng toàn mít, tắt, cọ rậm như rừng.

        Tôi và anh Cương quê Quảng Bình (nhập ngũ tháng 2 năm 1964), ở nhà bà Toàn. Bà Toàn có anh con trai bằng tuổi tôi, đi bộ đội cùng ngày với tôi, nhưng anh được về bộ đội biên phòng. Theo bà cụ và các anh chị trong nhà thì tôi giống hệt anh ấy nên cả nhà rất yêu quý tôi, coi tôi như con em. Ở nhà được hơn một tháng thì tôi chuyển sang nhà anh Đức cách đó khoảng 100 mét.

        Nhà anh Đức có hai vợ chồng, ngoài 30 tuổi và ba cháu gái. Tuy ở nhà anh Đức, nhưng rảnh là tôi sang nhà bà Toàn chơi. Mỗi khi nhà có hoa quả và cái gì ngon bà đều dành phần cho tôi. Sau khi ổn định nơi ăn, chốn ở, hầm hào, đơn vị được quán triệt nhiệm vụ là Sư đoàn bộ binh huấn luyện sẵn sàng vào Nam chiến đấu.

        Tôi nhớ nhất ngày đầu huấn luyện, Trung đội trường Đạm trực tiếp lên lớp phần binh khí kĩ thuật, bắn xạ kích bài 1 và chiến thuật lợi dụng địa hình, địa vật thực hiện 7 động tác tiền nhập: Lăn lê, bò, toài... Sau phần lí thuyết đến phần thực hành, Trung đội trưởng tự ôm súng làm mẫu luôn.

        Trung đội trưởng Đạm mặc một bộ quần áo gọi là vải muồng 20, hơi cũ nhưng trắng tinh. Anh ôm súng lăn trên một bãi đất toàn dũi trùn, lại vừa bị trận mưa ban đêm nên toàn thân bê bết bùn đất, giống như một con trâu lăn ở vũng bùn lên.

        Đến phần lợi dụng địa hình, địa vật, tiếp cận mục tiêu. Trung đội trường đang vận động gặp một bãi sình bên dưới nước đen sì, bẩn thỉu. Anh nhảy xuống nước bẩn ngang tới ngực. Những động tác, thực hành, thực tế của Trung đội trưởng nhanh nhẹn, nhẹ nhàng như con sóc làm cho tôi thực sự choáng ngợp. Trung đội trưởng Đạm nói: “Ta học thế này nhưng trong thực tế còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Vì đó là cuộc chiến đấu giữa con người với con người, ai cũng có trí khôn và ai cũng muốn chiến thắng. Ai nhanh hơn, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn sẽ giành thắng lợi”.

        Những ngày đầu xa nhà nhưng được ở trong nhà dân nên cũng đỡ nhớ. Dân ở đây nghèo nhưng họ hiểu cái tuổi như chúng tôi tập tành cả ngày, cả đêm, mỗi ngày chỉ có 7 lạng gạo nên đói. Vì thế, mỗi lần chúng tôi đi tập đêm là gia đình nào cũng luộc sẵn một nồi sắn cho bộ đội. Những ngày đầu còn mời, về sau họ dặn các chú đi tập về sắn đã luộc sẵn gác trên dàn, đưa xuống mà ăn. Vì nhiều bữa, chúng tôi tập một, hai giờ sáng mới về.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Chín, 2017, 05:02:02 pm

        Thời gian tập luyện của chúng tôi hết sức căng thẳng, không có chủ nhật. Một tháng chỉ có một ngày nghi. Sáng vào rừng lấy một gánh củi, chiều mới được đi choi. Thời gian tập thì một nửa là tập ban đêm. Sau này cả rèn luyện, mang vác nặng nữa nên hai phần ba là tập đêm.

        Chúng tôi huấn luyện theo chương trình tân binh chỉ một tháng. Chương trình này trước đây là 3 tháng. chỉ một tháng mà cả bắn xạ kích bài 1, các loại hình chiến thuật từ cá nhân đến đại đội, trên nhiều địa hình (rừng núi, thành phố, đồng bằng...) và nhiều hình thức chiến thuật (đánh công kiên, đánh vận động, tấn công đánh chốt, phòng ngự...).

        Sau 1 tháng huấn luyện quân sự tổng hợp, bắt đầu huấn luyện nghiệp vụ thông tin. Tiểu đội tôi có 10 người được trang bị 7 km dây điện, 3 khẩu súng, 3 máy 0743. Dây điện được chia thành 14 cuộn, mỗi cuộn 500 mét, nặng 7kg, máy điện thoại 0743 nặng 5kg.

        Những ngày trời mưa, đơn vị tổ chức học về tính năng tác dụng của máy, cách tháo lắp, sửa chữa thông thường, kĩ thuật rải dây. Chủ yếu là tập chiến thuật rải dây phục vụ các loại hình chiến thuật trên mọi địa hình phức tạp, yêu cầu của thông tin là nhanh chóng, chính xác, kịp thời, bí mật.

        Đom vị cỏ 3 lần tham gia diễn tập cấp Sư đoàn giống như thật; Có quân xanh, quân đỏ, rải dây phục vụ Sư đoàn chỉ huy Trung đoàn 101 đánh chiếm Khe Ve ở Quỳ Đạt, Quảng Bình (10 ngày), phục vụ Sư đoàn chỉ huy Trung đoàn 95 đánh chiếm thị xã Hà Tĩnh, thị trấn Can Lộc.

        Ngoài tập luyện kĩ chiến thuật, đơn vị còn tổ chức rèn luyện mang vác nặng, hành quân dã ngoại. Mỗi người làm một chiếc ba lô đất nặng 25kg. Mỗi ngày, tiểu đội tổ chức cho anh em tập luyện 1 giờ, thường là sau ăn cơm chiều hoặc buổi sáng thay tập thể dục. Trung đội tập luyện mỗi tuần 2 lần, mang ba lô đất, súng đạn, trang bị, dây, máy đi 3 đến 4 giờ. Đại đội, mỗi tháng ba lần tập hành quân dã ngoại, khi thì lên đồn biên phòng Giằng, khi thi đồn Trai Trụ, toàn rừng rậm, dốc cao qua nhiều khe suối, đi cả ngày lẫn đêm.

        Có đêm mưa, trời tối như mực, đường trơn, thinh thoảng có người ngã “oạch”, anh em lại hô “Tháo đạn đứng dậy”. Sên vắt nhiều vô kể. Có những hôm hành quân dã ngoại vào giữa rừng sâu, đào hầm, làm lán, đào bếp Hoàng Cầm, thổi cơm mãi tới chín, mười giờ đêm mới về.

        Những ngày tập luyện gian khổ, vất vả nhưng anh em ai cũng tự giác tập luyện. Khẩu hiệu dán trên mũ “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Đồng chí Miễn, Chính trị viên phó Đại đội nói: “Ta tập luyện vất và thế này, nhưng so với chiến trường chỉ bằng một phần trăm mà thôi. Vì chiến trường có đạn pháo, máy bay, bộ binh, biệt kích địch. Ở đây chỉ có ta với ta”.

        Địa hình tập luyện ở đây rất thuận lợi, vừa có núi cao, rừng rậm, nhiều khe suối, vừa có đồng bằng trung du, sông ngòi.

        Khó khăn nhất là vượt sông. Con sông Tiêm bình thường nhiều đoạn nước chỉ quá đầu gối nhưng chỉ cần mưa vài tiếng đồng hồ thì nước dâng lên cao 2 đến 3 mét. Có đoạn, sông rộng 500 đến 600 mét. Cây cối từ trên nguồn trôi về ầm ầm, nước chảy rất xiết. Thế nhưng, chỉ tạnh mưa vài giờ là nước lại rút hết, sông trở lại bình thường như cũ. Đơn vị chọn những đoạn sông hợp lí để tập, nước sâu, ít chảy xiết, rộng khoảng 100 mét để luyện tập.

        Tập ban đêm giả định là gần địch, vừa bơi, vừa rải dây, súng có thể ướt nhưng máy thì không thể để ướt vì ướt máy sẽ không liên lạc được. Chúng tôi dùng túi ni lông bỏ quần áo, máy, vơ một ít lá cây, tay cầm miệng bao chao vài chao cho không khí vào nhiều hơn rồi cột chặt miệng lại, gác cuộn dây lên vừa bơi, vừa đẩy phao vừa rải dây. Đây là những buổi tập vất vả nhất, mặc dù mình ở nhà bơi lặn như rái cá nhưng là bơi tự do, nay bơi có phương tiện, súng đạn và phải đảm bảo bí mật nên khó khăn hơn nhiều.

        Một kỉ niệm mà tôi không quên và anh em cũng thường đùa tôi mãi. Vào một đêm mưa, Tiểu đội tôi tập rải dây qua những cánh đồng ngô bạt ngàn vừa mới thu hoạch. Đường dây dài 6 km, đoạn giữa chúng tôi đặt trạm để bảo vệ và sửa chữa dây khi có bất trắc.

        Tôi được tiểu đội phân công ở lại trực. Cạnh chỗ tôi đặt máy có một cái chòi trên lợp lá cọ. Tôi tường chòi canh ngô của dân nên kéo máy đặt ngay vào chòi. Chòi mới làm nền cao hơn mặt nương ngô khoảng 50 phân. Trời mưa, đêm tối được cái chòi thì còn gì bằng. Tôi trải ni lông, vừa nằm vừa ngồi trực cho tới sáng, chờ lệnh để thu dây.

        Hết giờ tập, anh em phía trên vừa thu dây đến là tôi tiếp tục thu dây về tổng đài. Tôi thu máy xong thì thấy mấy người đội khăn tang vừa đi vào chòi, vừa khóc mẹ. May mà trời đã sáng và tôi đã thu dọn xong nên không sợ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Chín, 2017, 05:02:42 pm

        Tôi nhìn vào chòi thấy đây là phần mộ một bà cụ mới chôn. Hương không thắp trên mộ mà cắm vào cái ống buộc vào cột giữa chòi, có nhiều chân hương cháy chưa hết. Vì ban đêm trời tối nên tôi không nhìn thấy gì hết. Hôm nay, con cháu đi thắp hương để làm lễ ba ngày.

        Về tới nhà, hỏi anh Đức chủ nhà tôi mới biết. Phong tục ở đây, khi có người chết, người ta chôn ở phần nương nhà mình. Mộ đắp bằng, vuông vắn, cao khoảng 50 phân, đủ ba ngày, con cháu đưa tre đóng cọc, rào kĩ xung quanh. Chòi này được trông coi chu đáo cho đến khi bốc mộ (sau 3-4 năm). Khi tôi kể lại một đêm trải ni lông ngồi trên ngôi mộ bà cụ cả nhà lẫn anh em trong tiểu đội ai cũng rợn tóc gáy.

        Chín tháng huấn luyện ở xã Hương Vĩnh, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh cực kì gian khổ, vất vả. Tập tành suốt ngày đêm, nhất là những hôm tập mang vác nặng, hành quân trên mọi địa hình. Có đêm mưa, trời tối như mực, người ướt như chuột lột thế mà mỗi khi nghỉ 10 phút là tôi lăn ra ngủ. Nếu không có người thúc vào chắc tôi ngủ quên luôn.

        Cả đơn vị chăm lo tập luyện để sẵn sàng có lệnh là vào Nam chiến đấu. Ai cũng sợ mình không được đi. Cả tiểu đoàn không ai đổ bệnh hay có tư tưởng đào ngũ. Chính trị viên phó Miền tuổi cao, người gầy, bị bệnh dạ dày, hàng ngày phải ăn cơm nhão, thế mà ngày nào ông cũng bám thao trường.

        Thời gian huấn luyện, anh em trong xã thỉnh thoảng mới gặp nhau vì hai đại đội huấn luyện khác nhau. Thỉnh thoảng Trường, Tiềm sang chơi với tôi hoặc tôi sang đó.

        Mỗi khi ba đứa gặp nhau lại kể chuyện về tuổi thơ, về gia đình, về chuyện bắt cá, tép... chỗ nào nhiều, chỗ nào ít, rồi chuyện đùa nghịch thời học sinh. Toàn là chuyện trẻ con, cả ba đứa chưa đứa nào có một mảnh tình vắt vai hoặc một sự hẹn hò tình tứ gì và cũng chẳng đứa nào nghĩ về chuyện tương lai sướng khổ ra sao.

        Đứa nào trước lúc đi xa cũng muốn có ảnh gửi về cho gia đình mà không chụp được vì hồi đó cả huyện Hương Khê chỉ có một hiệu ảnh. Do chiến tranh, họ sơ tán đâu không ai biết. Cả ba đứa chưa đứa nào có một cái ảnh lưu lại ở gia đình.

        Khoảng tháng 10 năm 1965, tôi được đại đội điều lên trạm quân bưu của Sư đoàn ở xã Hương Phú cạnh Bộ chỉ huy Sư đoàn.

        Do chiến tranh nên toàn bộ thư từ, bưu phẩm, bưu kiện của các đơn vị đều gửi theo ngành dọc từ dưới lên. Sau đó, quân bưu Sư đoàn ra bưu điện gửi và nhận báo chí từ bưu điện gửi xuống cho các đơn vị. Tất cả đều vác vai và đi bộ.

        Những hôm có công văn hỏa tốc tôi phải chạy cả ngày, cả đêm vì các đơn vị ở rất xa nhau. Trung đoàn 101 ở Quảng Bình, Trung đoàn 95 ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Các tiểu đoàn trực thuộc rải rác khắp huyện Hương Khê.

        Những ngày này, máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Các đơn vị chuyển dịch về phía trong nên lượng thư từ, bưu phẩm, báo chí gửi về chất đầy nhà mà chúng tôi thì không sao chuyển ra bưu điện được. Đến khi đi B, chúng tôi phải chuyển giao cho tổ quân bưu Quân khu 4. Có lẽ tất cả thư từ chẳng có cái nào tới được người nhận vì bưu điện sơ tán khi ở chỗ này khi ở chỗ khác. Các đơn vị bộ đội cũng thường xuyên di chuyển.

        Giữa tháng 11 năm 1965, chúng tôi được bồi dưỡng 15 ngày, mỗi ngày một đồng hai (gấp đôi ăn thường). 100% bộ đội viết quyết tâm thư bàng máu xin tình nguyện vào Nam chiến đấu.

        Đơn vị vừa ăn dưỡng, vừa bổ sung trang thiết bị. Toàn bộ dây máy được thay thế loại mới. Máy điện thoại 0743 được thay bàng máy B600, nhẹ hơn gần 2kg. Súng đạn được thu hồi để đổi lại loại mới hơn và liên tiếp nhận các quân tư trang. Mỗi người đến hai ba chục loại từ quần, áo, mũ, dép, các loại thực phẩm, các loại thuốc quân y, cho tới cái kim sợi chỉ, tăng võng...

        Riêng tư trang cá nhân mỗi người cũng khoảng 20kg, không kể đến súng, đạn, gạo, dây, máy. Tính ra mỗi người phải mang trọng lượng hơn 30kg. Nếu người sắp xếp ẩu thì cái ba lô con cóc không thể nhét hết.

        Chúng tôi được trang bị mỗi người một bộ ka ki màu sữa, vải Vĩnh Phú may theo kiểu Quân giải phóng, hai bộ ba ba đen. Bộ ka ki khi vào chiến trường chúng tôi phải lấy vỏ cây dẻ nấu lên nhuộm thành màu đất dễ ngụy trang và đỡ bẩn. Mỗi người một cái mũ tai bèo.

        Những ngày này đơn vị ít tập luyện, chủ yếu học chính trị và tập mang vác nặng, dã ngoại. Thời gian có rảnh hơn nên Hợi, Trường, Tiềm hay gặp nhau và có vài lần rủ nhau lên anh Sử chơi.

        Hồi tháng 7, anh Sử được về thăm nhà mấy ngày. Cả tiểu đoàn chúng tôi chẳng ai được đi phép. Có anh đi bộ đội từ năm 1963 nay cũng chẳng được về.

        Hơn chín tháng đóng quân trong nhà vợ chồng anh Đức, anh chị và các cháu quý tôi như người nhà. Các cháu nhỏ biết chúng tôi sắp đi xa, nên mỗi khi tôi đi sinh hoạt về lại quấn quýt hỏi bao giờ chú đi. Chú đi rồi nhớ về bày cho cháu học nhé.

        Vợ chồng anh Đức hàng ngày tranh thù chăm sóc chúng tôi nhiều hơn như nấu thêm bát canh, bát cháo gà rồi quả dừa, quả chuối cho chúng tôi. Tối hôm tôi đi, hai anh chị ôm tôi nức nở. Ba đứa cháu cứ níu chặt ba lô cùa tôi, đứa nào cũng khóc theo mẹ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Chín, 2017, 05:04:08 pm

        Không phải chỉ có gia đình tôi mà cả làng ai cũng rơi nước mắt, nhất là các bạn nam nữ thanh niên trong xóm. Chủng tôi đóng quân ở đây chín tháng mà luôn giữ được tình cảm quân dân tốt đẹp. Không có quan hệ nam nữ bất chính, cũng không có ai vương vấn yêu đương. Tất cả tập trung cho huấn luyện đi B.

        Những ngày ăn dưỡng, tôi nhận được thư của anh Danh, của gia đình và của cậu Chính. Tất cả đều động viên tôi yên tâm ra đi và hoàn thành nhiệm vụ. Tôi và cậu

        Chính ở cùng một Sư đoàn. Tôi ở trực thuộc của Sư bộ còn cậu Chính ở Trung đoàn bộ binh 18. Hai cậu cháu cách nhau không xa nhưng không sao gặp nhau được.

        Có một lá thư cậu nói bây giờ hai cậu cháu ta đang được ăn dưỡng. Một ngày không xa sẽ vào chiến trường, phải chấp nhận một cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn và phải chấp nhận sự hi sinh, ác liệt. Chiến thắng sẽ đến, nhưng ngày đó cậu cháu ta còn sống mà gặp được nhau không?Không ai biết được. Trước khi đi xa cậu muốn về thăm ông bà và hai đứa con (đứa thứ hai cậu chưa biết mặt) và cậu cũng muốn tới gặp cháu lắm nhưng không thể được.

        Đúng như cậu nói trong thư. Cậu đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại thị xã Nha Trang năm Mậu Thân (1968).

        Thư của anh Danh thì nói: "Em ra đi không hẹn ngày về. Em sẽ phải chấp nhận cuộc sống chiến đẩu gay go, ác liệt, thiếu thốn và gian khổ, thậm chí là hi sinh. Tuổi trẻ chúng ta là như vậy, phải đi theo tiếng gọi của Đảng, của Tổ quốc. Em cứ yên tâm ra đi. Anh thường xuyên viết thư về động viên cha mẹ và các em, cái gì đến rồi sẽ đến".

        Đêm 26 tháng 12 năm 1965 (6/12 Âm lịch) đơn vị chúng tôi chính thức hành quân đi B. Sau 2 đêm hành quân lòng vòng, chúng tôi món tới khu rừng Truông Bát là vùng giáp ranh giữa huyện Đức Thọ và Hương Khê. Đây là trạm giao liên đầu tiên đơn vị nhập trạm. Từ đây vào tới sông Bến Hải chúng tôi cứ ngày nghỉ đêm đi, mọi sinh hoạt cũng thay đổi. Ăn uống nấu theo bếp tiểu đội.

        Tới Cự Nam, thấy các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong đi khiêng lợn và nhận hàng Tết. Khi đó, tôi mới biết hôm ấy là ngày 28 Tết âm lịch. Đơn vị chúng tôi là đơn vị hành quân trên đường nên không có một tí quà bánh, tiêu chuẩn Tết gì cả, mặc dù đây còn trên đất Bắc.

        Đơn vị phổ biến dịp Tết Nguyên Đán, ta và địch đều tuyên bố ngừng chiến. Chúng ta phải nhanh chóng vượt sông Bến Hải.

        Từ làng Ho trở vào, thực phẩm chỉ nhìn vào ống mắm kem nhét ở túi cóc ba lô, mặn nhạt tùy từng người. Ăn uống phải biết tiết kiệm, không có thì bổ sung dọc đường, chỉ được bổ sung thêm muối mỏ.

        Chiều 30 Tết, sau khi ăn xong, đơn vị cho nắm theo mỗi người một nắm cơm. Ngày thường không có, nhưng hôm nay Tết mới có ngoại lệ này. Chờ trời tối, đơn vị bắt đầu hành quân. Trời lạnh, có mưa phùn lất phất, đoàn quân lặng lẽ, cặm cụi bám theo nhau trong đêm. Tư trang cá nhân đã nặng rồi nay nhận thêm mỗi người 10 ngày gạo, súng đạn, dây máy, đường trơn, mỗi người phải có một cái gậy để chống.

        Trời tối như mực, người nọ bám sát người kia giống như con sâu đo di chuyển. Trời lạnh mà mồ hôi đứa nào cũng ướt như tắm. Mỗi người một chiếc khăn tay vắt vai để liên tục lau mồ hôi, thế mà mồ hôi vẫn chảy vào mắt cay và xót. Đường vừa dốc lại vừa trơn, mang vác nặng có một số anh em yếu hơn ngã như ếch.

        Đúng giao thừa, đơn vị chúng tôi vượt sông Bến Hải. Đoạn sông thượng nguồn nên chỉ rộng khoảng vài chục mét. Nước quá đầu gối, trong suốt, chảy lờ đờ. Đáy sông toàn sỏi. Hai bên bờ sông cây cối rậm rạp.

        Qua sông, chúng tôi vượt một quả đồi nữa mới nghỉ 10 phút. Sau đó, chúng tôi được lệnh ăn cơm nắm vì buổi chiều ăn cơm hơi sớm. Cái Tết đầu tiên trong quân ngũ, lúc giao thừa, được ăn cơm nắm với tí mắm kem mà tôi cảm thấy ngon như ăn bánh.

        Vì đói quá nên vừa ăn, tôi và mấy bạn tán gẫu: "Bây giờ ở nhà ông bà cha mẹ, anh em, con cháu đang chúc tụng nhau, sang năm mới có nhiều sức khỏe, phát lộc, phát tài và có lẽ cũng nhớ ta lắm nhi. Dù sao thì Tết cũng được bữa cơm no. Chúng ta ở đây mỗi người được một nắm cơm như quả cam, ăn rồi cũng thấy như không, chẳng khác nào voi uống thuốc gió".

        Đường hành quân vào Nam đi theo đường Hồ Chí Minh đã được anh em bộ đội Trường Sơn đoàn 559 chuẩn bị từ lâu. Đường cũ do địch phát hiện phong tỏa nên đường mới được chuyển dịch về phía tây Trường Sơn chủ yếu đi trên đất Lào.

        Đường mới anh em chuẩn bị chưa kịp nên phải đi qua nhiều địa hình phức tạp, cung trạm lại quá xa. Có nhiều trạm đi từ mờ sáng đến tối mịt mới tới nơi. Có đoạn phải mang tới hơn 10 ngày gạo, do vậy trong quá trình hành quân bộ đội bị rơi rớt, tụt tạt dọc đường khá nhiều.

        Từ trước tới nay, các đơn vị hành quân vào Nam chủ yếu cấp tiểu đoàn và cấp trung đoàn. Đơn vị chủng tôi hành quân cấp Sư đoàn thực binh trang bị rất nặng, lại đi theo con đường mới. Có ngày, phải vận động qua bãi bom B52 địch vừa mới đánh. Có hôm, qua rừng bị địch rải chất độc hóa học, cây cối chết khô không còn một cái lá. Những nương rẫy cùa đồng bào dân tộc lúa, ngô, khoai sắn bị chết trụi. Dân phải vào rừng đào các loại củ để ăn cho qua ngày.

        Đến trạm T45 chúng tôi dừng lại. Trung đoàn bộ binh 18 hành quân thẳng vào Tây Nguyên. Sau này, tồi mới biết Trung đoàn 18 hành quân vào Tây Nguyên và xuống thẳng Khánh Hòa hoạt động. Trung đoàn này, xã tôi có 3 người là cậu Chinh, anh Trinh, anh Nhật. Cả ba đã hi sinh dịp Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Khánh Hòa.

        Khu vực T45 thuộc vùng biên giới Việt - Lào giáp với tinh Thừa Thiên Huế, toàn là những đồi thông chỉ hai bên bờ khe suối là có các loại cây khác. Ở Lào dịp này là mùa khô nên thòi tiết rất thuận lợi. Đất rừng khô ráo không có sên, vắt, lại gần sông lớn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Chín, 2017, 12:28:12 am

GIẢI PHÓNG A SẦU, A LƯỚI

        Nghỉ mấy ngày, đơn vị phổ biến nhiệm vụ hoạt động ở vùng Thừa Thiên Huế. Trước mắt, đánh căn cứ A sầu để mở rộng địa bàn rộng lớn và liên kết về phía đông. Đơn vị nghỉ chân làm công tác chuẩn bị.

        Tôi được đơn vị cử cùng với một số cán bộ của nhiều đơn vị trong Sư đoàn đi trước chuẩn bị chiến trường. Đại đội tôi có 6 người, Trung đội trưởng Đạm trực tiếp chỉ huy. Đoàn đi được một ngày thì dừng lại phổ biến và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị. Sau đó, các đơn vị tự đi điều nghiên.

        Căn cứ A Sầu là một trại huấn luyện biệt kích của địch, quân sổ hơn một tiểu đoàn, có hầm hào kiên cố, có sân bay dã chiến. Đây là căn cứ bàn đạp địch tung quân hoạt động thăm dò, phát hiện kho tàng, các hành lang di chuyển của ta để phục kích đánh phá và gọi máy bay đến oanh tạc. Căn cứ này, anh em trinh sát Sư đoàn và Trung đoàn 95 đã tổ chức trinh sát nhiều ngày mà địch không hề hay biết.

        Đường hành quân cùa bộ đội từ T45 vào tới căn cứ A Sầu phải đi khoảng 7 ngày. Địa hình hết sức phức tạp, rừng rậm, dốc cao, phải đi qua dốc 2.800 mét rồi 1.800 mét.

        Nhiệm vụ của chúng tôi là phải soi đường để cho bộ đội hành quân vào vị trí tập kết và soi đường để rải dây từ Sở chỉ huy Sư đoàn tới Sở Chỉ huy Trung đoàn 95 (Đơn vị đảm nhiệm đánh căn cứ A sầu) và từ Sở chỉ huy Sư đoàn tới Sở chỉ huy Trung đoàn 88, đánh phục kích, đánh đổ bộ đường không ở bản A Lưới.

        Theo tính toán của các đồng chí cán bộ, chúng tôi vào tới A Lưới, bắt đầu soi đường từ A Lưới vào tới Sở Chỉ huy Sư đoàn và tiếp từ Sở chỉ huy Sư đoàn tới Sở chỉ huy Trung đoàn 95. Từ A Lưới vào tới Sở chỉ huy Sư đoàn dự kiến 40 km. Từ Sở chỉ huy Sư đoàn xuống Trung đoàn 95 khoảng 5 km.

        Chúng tôi được giao nhiệm vụ trên bản đồ. Một ông già người dân tộc dẫn đường. Đồng bào ở đây không biết nói tiếng Kinh, không biết xem bản đồ nhưng chỉ nói đi từ đồi nọ sang đồi kia, tìm con đường ngắn nhất, dễ đi nhất là họ hiểu và họ làm được.

        Ông già người dán tộc có dáng người cao, gầy, da đen, có lẽ đã ngoài 50 tuổi, mình trần, chân đất chỉ có một cái khố, tay cầm một cái rựa ngóe, sắc ngọt, ông già tài thật, rừng núi rậm rạp, qua nhiều núi cao, khe suối mà chỉ có 2 ngày ông đã đưa chúng tôi đi tới địa điểm quy định.

        Thời gian này, ở Lào là mùa khô, nhưng sang đất ta đây là mùa xuân, gió mùa Đông Bắc, tron se lạnh, mưa xuân lất phất. Ông già dẫn đường đi trước tay cầm dao, phát cây sơ sơ, chúng tôi đi phía sau phát thêm cho đường rộng hơn và rẽ ra để cho bộ đội hành quân và cũng là đường để chúng tôi rải dây.

        Rừng rậm, đất ẩm ướt nên sên, vắt nhiều vô kể. Ông già chân đất, nên cứ được vài chục bước, ông lại dừng lại dùng lưỡi dao gạt bớt vắt rồi lại tiếp tục đi. Chúng tôi bị vắt bám vào quần chui vào chân cắn, máu chảy đỏ cả chân, chảy vào giày đi cứ loét nhoét như có nhựa. Có khi vắt chui cả vào bụng, vào nách cắn no rớt khi nào không biết. Loài vắt giống như loài đỉa nó cắn no rồi rớt đi nhưng máu thì cử chảy mãi hàng tiếng đồng hồ không đông. Nếu không có tí lá nón khô hoặc tí bông dán vào thì nó cứ chảy mãi.

        Lần đầu ra trận, chúng tôi là lính thông tin Sư đoàn, không biết căn cứ A sầu ở đâu nên cứ bâng khuâng, hồi hộp chờ đến giờ nổ súng và cũng chưa hình dung được sự hi sinh ác liệt là thế nào.

        Tôi nhớ hồi huấn luyện ở Hương Khê, Hà Tĩnh cũng vất vả lắm rồi. Cũng giống như thực tế có nhiều giả định giống như thật. Vậy mà thực tế này còn vất vả hơn hàng trăm lần. Trời mưa, đường dốc, mang vác nặng, cắt đường mà đi, đói, rét, sên, vắt may là chưa có bom đạn ác liệt. Là lính thông tin Sư đoàn, nên thời gian hành quân của bộ đội, giờ nổ súng chúng tôi đều được biết trước.

        Sư đoàn chỉ thị 18 giờ, ngày 7 tháng 3 năm 1966, toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc cả hữu tuyến và vô tuyến từ Sư đoàn tới các trung đoàn và các đơn vị trực thuộc phải được thông suốt. Do địa hình phức tạp và cự li quá xa đơn vị chúng tôi đã phải triển khai rải dây trước 2 ngày. 15 giờ ngày 7 tháng 3, đường dây hữu tuyến từ Sở chỉ huy đến các đơn vị đã thông suốt.

        Tôi và anh Dũng, Tiểu đội phó được giao nhiệm vụ đặt trạm giữa từ Sở Chỉ huy Sư đoàn tới Sở chỉ huy Trung đoàn 95, có nhiệm vụ sửa chữa hư hỏng đường dây đi về cả 2 phía trước và sau. Chúng tôi đào hầm mắc võng, mắc máy vào ngồi chờ đợi. Ngày 8 tháng 3 là ngày N (ngày nổ súng).


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Chín, 2017, 12:28:59 am

        Một điều bất ngờ, vô cùng nguy hiểm cũng là nguyên nhân dẫn đến trận đánh thương vong nhiều. Đêm ngày mồng 6 rạng 7 tháng 3 (trước ngày N, 2 ngày), hai chiến sĩ trinh sát của Trung đoàn 95 đã chiêu hồi. Lúc này công tác chuẩn bị đã hoàn tất, các đơn vị đã vào chiếm lĩnh trận địa.

        Ngay sau khi hai chiến sĩ chiêu hồi, địch dùng máy bay OV10 bay quần lượn khắp cả vùng Sư đoàn ém quân, dùng loa tuyên truyền kích động, kêu gọi quân giải phóng chiêu hồi sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Tệ hại hơn nó còn thu âm giọng nói của hai người lính trinh sát vừa chiêu hồi phóng thật to kêu gọi anh em chiêu hồi.

        Tin này không cần ai phổ biến nhưng chiến sĩ cả Sư đoàn ai cũng biết và ai cũng rất căm phẫn trước hành động hèn nhát, phản quốc của hai người lính. Mới bước đầu đã đánh đấm gì đâu, đã biết cái ác liệt, hi sinh là gì mà đã chiêu hồi địch và đã nhanh chỏng trở thành cái loa tuyên truyền cho chúng.

        Tuy tình hình diễn ra phức tạp như vậy nhưng Sư đoàn vẫn thực hiện theo quyết tâm và các phương án tác chiến đã được thông qua. Chúng tôi mắc máy vào nghe Sư đoàn chỉ đạo xuống các đơn vị và các đơn vị báo cáo lên. Mọi công tác tiền nhập, tiếp cận mục tiêu và việc triển khai trận địa của các đơn vị hỏa lực đều diễn ra thuận lợi theo đúng ý định và phương án đã được hội nghị quân chính thông qua.

        Đúng giờ G (4 giờ sáng ngày 8 tháng 3 năm 1966), Sư đoàn đồng loạt nổ súng vào căn cứ A sầu. Trạm giữa của chúng tôi nghe rõ tiếng pháo dồn dập bắn vào căn cứ A Sầu, nào là sơn pháo 75, cối 120, ĐKZ 75, cối 82.

        Pháo của ta bắn từ nhiều hướng, tiếng nổ vang và liên tục như lò sấy ngô. Chúng tôi nghe Trung đoàn 95 báo cáo lên, pháo 75 bắn không đúng mục tiêu, đạn toàn vọt sang đồi bên kia vì căn cứ A Sầu nằm giữa một thung lũng bằng. Sơn pháo 75 là loại pháo bẳn thẳng, trận địa pháo chuẩn bị không tốt nên đạn đã bay qua căn cứ, không đúng mục tiêu.

        Sơn pháo 75 của ta là vua chiến trường miền Nam, lần đầu tiên ta đưa vào chiến trường và đây cũng là trận đánh đầu tiên. Ở miền Bắc sơn pháo 75 có xe kéo chủ yếu để bảo vệ bờ biển và bắn các mục tiêu lộ trên đất. Đưa vào đây anh em pháo binh phải tháo ra nhiều bộ phận, có bộ phận 4 người khiêng rồi 2 người khiêng. Đại đội hơn 100 người chỉ có một khẩu pháo.

        Đưa pháo vào được đây anh em pháo binh đã phải chịu muôn vàn khó khăn gian khổ thế mà tham gia chiến đấu trận đầu coi như không phát huy tác dụng vì địa hình rừng núi, cây cối rậm rạp, che khuất tầm ngắm. Sư đoàn lệnh cho pháo binh phải tìm trận địa thích hợp, tiếp tục bắn chỉ viện cho Trung đoàn 95 mở cửa.

        Theo phương án, sau khi các loại pháo chuyển làn và ngừng bắn các Tiểu đoàn bộ binh nhanh chóng dùng hỏa lực đi cùng bắn kìm chế để tổ mở cửa dùng bộc phá đánh phá hàng rào các loại, bộ binh tấn công vào căn cứ.

        Chỗ chúng tôi không nghe được tiếng súng bộ binh mà chỉ nghe được tiếng nổ của bộc phá và các loại hỏa lực của ta và địch. Gần sáng, tôi nghe Trung đoàn 95 báo cáo về Sư đoàn, Tiểu đoàn 2 đã đánh chiếm được một số lô cốt của địch và vấp phải hàng rào bùng nhùng anh em không thể tiến được nữa vì trời đã sáng. Địch co cụm chổng trả quyết liệt.

        Hướng Tiểu đoàn 1 đánh từ sân bay vào, địa hình bằng phăng, địch dùng hỏa lực mạnh phản kích, quân ta không thể tiến vào được. Sư đoàn chỉ thị Trung đoàn 95, cho bộ đội lợi dụng chiến hào của địch đào công sự đánh địch phản kích, chờ lệnh của Sư đoàn.

        Hướng thứ yếu đánh do Tiểu đoàn 1 đảm nhiệm. Trong quá trình điều nghiên anh em cho rằng hướng này địch phòng thủ sơ sài. Nhưng thực tế địch đã bố trí một hệ thống hầm hào kiên cố. Xung quanh sân bay có một hệ thống hỏa lực liên hoàn như: Đại liên, trung liên, cối 61, M79 nên khi bộ đội ta vào tới đầu sân bay đã bị hỏa lực địch chặn lại. Địa hình bằng phẳng, trống trải gây cho ta nhiều thương vong. Bộ đội phải lùi lại đào công sự để chốt tại đây.

        Tính chất cùa trận đánh này là công đồn diệt viện. Trung đoàn 95 và một số đơn vị hỏa lực tập trung đánh tiêu diệt căn cứ A Sầu. Khi bị tấn công A Sầu, địch nhất định sẽ đổ quân tiếp viện. Lực lượng đánh quân tiếp viện của ta có Trung đoàn 88, các đơn vị hỏa lực, bộ đội địa phương tỉnh Thừa Thiên Huế và tinh Quảng Trị tham gia. Các trận địa phục kích đánh quân đổ bộ chủ yếu ở bản A Lưới, bản Con Ngan, sẵn sàng cơ động đánh địch ở các khu vực đã được dự kiến.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Chín, 2017, 12:29:59 am

        Cả ngày 8 tháng 3, địch cho máy bay các loại phản kích quyết liệt. Chúng chủ yếu dùng L19, OV10 trinh sát, phát hiện rồi gọi AD6 đến ném bom tập trung xung quanh Trung đoàn 95. Tiểu đoàn 12,7 đã nổ súng nhiều lần bắn rơi 2 máy bay, còn lực lượng bộ binh thì cả ta và địch đều nằm tại chỗ bám trụ chờ trời tối.

        Đêm mồng 8, rạng ngày mồng 9 tháng 3 năm 1966, quân ta tập trung khắc phục hậu quả, bổ sung súng đạn, đào hầm vây lấn chọc cho địch phải đổ quân tiếp viện ứng cứu. Một điều kỳ lạ ngày 9 tháng 3, địch phản ứng dè dặt chủ yếu dùng máy bay trinh sát, máy bay trực thăng vòng lượn bắn phá xung quanh A Sầu, dùng máy bay OV10 kêu gọi quân giải phóng chiêu hồi về với Việt Nam cộng hòa và rải truyền đơn, giấy thông hành khắp rừng.

        Căn cứ A Sầu là một căn cứ độc lập nằm sâu về phía tây tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên Huế, không có một loại pháo nào của địch bắn tới đây được nên anh em ta cũng đỡ thương vong vì pháo. Qua hai ngày địch vẫn không đổ bộ bằng bộ binh. Các đơn vị phục kích của ta vẫn đảm bảo bí mật tuyệt đối, có lẽ do hai kẻ chiêu hồi khai báo kế hoạch tác chiến của ta.

        Rạng sáng ngày 10 tháng 3 năm 1966, lệnh của Sư đoàn cho Trung đoàn 95 nổ súng tấn công tiêu diệt căn cứ A Sầu. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch kéo dài từ mờ sáng tới 5 giờ chiều mới kết thúc. Ta và địch giành giật từng lô cốt, từng đoạn chiến hào, máy bay trực thăng bắn phá xối xả vào trận địa của ta. Cả bộ binh và pháo 12,7 đã bắn rơi 3 chiếc mà nó vẫn không chịu lơi ra.

        Khoảng 4 giờ chiều, cả ta và địch đều mỏi mệt. Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 95 bị thương vong quá lớn, Trung đoàn tăng cường hỏa lực và tung 2 Đại đội bộ binh của Tiểu đoàn 3 (lực lượng dự bị) vào, mở một đợt tấn công đánh thẳng vào trung tâm. Địch bị tấn công bất ngờ, co cụm đối phó. Thừa thắng quân ta ở các mũi đều đồng loạt tấn công, hàng trăm tên địch kéo cờ trắng xin hàng.

        Hơn 5 giờ chiều, quân ta làm chủ trận địa. Ta đã tiêu diệt được 150 tên địch, bắt sống hơn 300 tên, thu nhiều quân trang, quân dụng, vũ khí. Kể từ đó, mảnh đất này trở thành vùng giải phóng hoàn toàn của quân ta.

        Trận đánh này, Trung đoàn 95 bị tổn thất khá nặng nề. Một số đồng chí cán bộ cho biết ta hi sinh gần 300 chiến sĩ, bị thương hàng trăm đồng chí, có Đại đội bộ binh chỉ còn lại vài chục người. Khi hành quân ra tới rừng thông, Sư đoàn phải giải tán Tiểu đoàn vận tải. Tiểu đoàn sơn pháo 75 để bổ sung cho Trung đoàn 95.

        Trận đánh kết thúc, các Tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn 95 không đủ người để vào giải quyết hậu quả chôn cất từ sỹ. Sư đoàn và Trung đoàn phải điều động cán bộ, chiến sỹ của các đơn vị trực thuộc vào giải quyết giúp.

        Tiểu đoàn 16 điều hơn 20 người vào chôn cất tử sỹ. Tôi cũng được Đại đội cử trong số đó. Khi vào tới căn cứ A Sầu tôi mới thấy sự khủng khiếp, trận đánh quá ác liệt. Tinh thần chiến đấu hi sinh của bộ đội ta không thề tưởng tượng được tất cả vì chiến thắng.

        Các hướng tấn công, các điểm cửa mở, bộ đội chết chồng lên nhau, súng đạn, xẻng cuốc, cơm nắm, lựu đạn còn quấn đầy thắt lưng. Mỗi người chết một tư thế khác nhau, người nằm ngửa, người nằm nghiêng, người nằm sấp đất, bụi, khói, bom đạn lấm đầy mặt, quần áo. Có người chết từ bữa đầu, nay đã sình to nên chẳng nhận ra ai với ai. Địch cũng chết đầy hầm, đầy hào. Việc phân biệt lính ta và địch chỉ nhìn vào thắt lưng mà thôi.

        Chúng tôi vội vàng đào hố rồi khiêng anh em vào chôn thành từng dãy, chẳng cỏ túi ni lông đâu mà đùm gói, miễn là chôn cất thật nhanh để ra vì còn sợ máy bay Mỹ đến đánh phá hủy diệt. Có người trên thắt lưng còn treo cả lựu đạn, súng ngắn cũng chẳng ai tháo ra. Các đồng chí cán bộ thì liên tục hô khẩn trương, khẩn trương.

        Sau khi tìm kiếm, chôn cất hết các tử sĩ, chúng tôi trở về đơn vị. Tôi được Trung đội trưởng Đạm phân công đi lấy gạo. Đại đội có 10 người, theo quản lí đến kho để nhận gạo. Đại đội gần một trăm người chỉ có chưa đầy một tạ gạo.

        Đồng chí quản lí nói: “Số lương thực này ăn trong mười ngày, mỗi ngày mỗi người chỉ có một lạng, các đồng chí về báo với Trung đội chìa ra mà ăn dè cho đủ”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Chín, 2017, 04:36:21 am

        Anh Hương, Chính trị viên Đại đội phổ biến nhiệm vụ và động viên anh em: “Chúng ta hành quân ra T45, đường nhiều đèo dốc, khe suối, lại mang vác nặng. Khi vào ta mang vác nặng nhưng nay lại còn nặng hơn vì qua chiến đấu có một sổ anh em bị ốm đau bệnh tật, ta phải thay nhau khiêng cáng anh em đi cùng. Thời gian hành quân nếu đi nhanh phải mất 6 đến 7 ngày. Anh em đói khát đã mấy ngày rồi, nay lại phải đói hơn vì mỗi người mỗi ngày chỉ có một lạng gạo. Gạo ít các đồng chí cán bộ, đảng viên phải trực tiếp mang và chia cho anh em ăn hàng ngày, không để anh em nấu ăn tùy tiện, hết gạo sẽ bị chết đói”.

        Đường hành quân từ A sầu ra đồi thông, bộ đội đi đông như kiến. Khi vào, mỗi đơn vị đi một đường. Nay ra, đơn vị nào cũng tìm con đường ngắn nhất, dễ đi nhất để hành quân nên tất cả các đơn vị cùng đổ dồn vào một con đường.

        Anh em Trung đoàn 95 dùng số tù binh đề khiêng cáng thương binh. Tất cả đều phải mang vác rất nặng. Ngoài ba lô cá nhân, tôi phải mang theo 2 cuộn dây điện 14kg và một chiếc máy điện thoại 4kg nữa. Đường hành quân hết sức vất vả phải đi qua nhiều dốc cao và dài. Có ngày, chúng tôi đi từ sáng đến chiều mới tới đỉnh dốc.

        Ngày nào cũng vậy, 7 giờ sáng hành quân, 4 giờ chiều là cho bộ đội nghỉ để tìm rau môn thục về nấu ăn. Rừng ở đây là rừng già cây to. Hai bên bò suối và lưng chừng thung lũng cây môn thục mọc dày đặc.

        Cây môn thục là loại cây họ môn. Cả thân và lá đều nhỏ hơn cây môn của ta, nó chỉ cao khoảng 30 phân. Có nơi thì gọi là cây môn chóc vì lá nó chóc lên. Cây này ăn được cả lá và cây. Nhưng cây thì ăn ngon hơn, khi nào thiếu, ít thì mới ăn cả lá.

        Bộ đội ta lấy môn thục về cắt lá rửa sạch thái ra nấu như nấu cám lợn. Cứ một nồi 20 quân dụng Tiểu đội đổ vào cho một bát gạo vì mỗi ngày một lạng gạo phải chia ra làm ba bữa. Để chống đói, cả Tiểu đội tập trung lấy rau về một đống to như cồn mả. Nấu nước sôi, thay nhau bỏ rau vào, bỏ mãi khi nào đặc quánh sôi lệt sệt như cám lợn thì thôi.

        Bữa tối và bữa sáng anh em ăn no thoải mái. Bữa trưa nấu cháo rau nhừ đóng mỗi người một bi đông mang theo. Dọc đường ai khát nước thì uống nước suối vì ở đây rất nhiều khe suối. Hành quân từ sáng tới khoảng 11 giờ trưa, đơn vị nghỉ chân để ăn trưa. Mỗi người một bi đông, có người đổ ra bát, có người tu như Tây uống rượu nhưng có anh đói quá đã chén gần hết.

        Một hôm, đang hành quân nghe rộ lên bên trong có sắn. Tôi nói với anh Dũng Tiểu đội phó giữ đồ cho tôi, tôi theo anh em vào tìm sắn.

        Lần theo dấu đường mòn của các đơn vị trước đi khoảng 600 mét thì thấy một rẫy sắn của dân bị máy bay

        Mỹ rải chất độc hóa học rụng hết lá, thân sắn trơ trụi như những cái que chọc lên trời, lại được anh em các đơn vị đến trước đào phá vứt ngổn ngang giống như một bãi củi. Anh em họ đào phá hết cả rẫy, không có một gốc nào sót.

        Chúng tôi dùng dao chặt mót lại những mẫu cuống tràm sót lại, toàn xương xẩu, chỉ to bằng ngón tay, ngón chân, nhanh chóng dùng dao gọt loa qua cho sạch đất rồi bỏ mồm nhai ngấu nghiến, nuốt lấy nước, còn chặt thêm được một mớ đem về cho anh em. Nấu mãi cũng chỉ nhai lấy nước vì toàn cuống trăm, nếu củ nào có ruột thì lật sật như nhai tàu lá chuối, chẳng có mùi vị gì.

        Nghe nói sắn bị máy bay rải chất độc hóa học chỉ bị rụng lá, cây không chết nhưng lớp lá cũ sỗ bị thối. Sau đó, sán ra lớp lá mới nhưng phải sau một năm, nếu địch không rải tiếp chất độc hóa học thì mới có ăn. Cũng từ đây vùng này là căn cứ địa của ta, địch liên tục rải chất độc hóa học cho tới những năm 1969 - 1970. Rừng cây cũng trơ trụi không có một lá xanh.

        Ở những rừng cây bị Mỹ rải chất độc hóa học, bộ đội ta trú quân có nhiều cái chết thương tâm do cây khô mục nát, đổ sập. Có người bị cây đổ đàn qua người anh em phải dùng cưa, búa bừa hàng tiếng đồng hồ mới lấy được xác ra.

        Hành quân 6 ngày thì ra tới rừng thông, nếu kéo dài nữa chắc sẽ có người chết đói vì anh em đã kiệt sức.

        Có một số đơn vị thì anh nào khỏe cho vượt nhanh ra tới T45, rồi bỏ đồ đoàn tại đó, mang lương thực vào cứu số anh em ốm đau tụt tạt phía sau. Dọc đường gặp rất nhiều người lê lết, kiệt sức nhờ anh em quay lại mang cháo, gạo tiếp sức không thì sẽ chết dọc đường mà không ai biết.

        Qua những ngày chiến đấu và hành quân vất vả, đơn vị ra tới T45 thì dừng lại mấy ngày để củng cố ổn định tổ chức, rút kinh nghiệm về trận chiến đấu và việc tổ chức hành quân ra.

        Đơn vị tôi được Sư đoàn đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ, có nhiều đồng chí được biểu dương, khen thưởng. Trong hội nghị rút kinh nghiệm trận chiến đấu giải phóng A Sầu không ai nói ra nhưng ngoài họp, các đồng chí cán bộ kháo với nhau nhiều: Trận đánh phải trả giá quá đắt, thương vong nhiều quá. Đã có hai chiến sỹ của ta đầu hàng làm lộ ý đồ tác chiến mà Sư đoàn vẫn giữ nguyên phương án tác chiến cũ, dẫn đến thương vong cao...


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Chín, 2017, 04:37:17 am
        
LÊN TÂY NGUYÊN

        Bộ đội chưa kịp lẩy lại sức thì đơn vị phổ biến nhiệm vụ. Sư đoàn không hoạt động vùng này mà đi B dài với kí hiệu B45 đi Bác Danh. Thế là cuộc hành quân đi B dài lại tiếp tục. Chúng tôi hành quân theo đường giao liên do Đoàn 559 hướng dẫn.

        Mỗi ngày chỉ 4 lạng gạo đói vô cùng và không có một thứ gì ăn thêm, thực phẩm bổ sung chỉ có muối mỏ, mắm kem và 2 lạng mì chính mang từ Bắc vào nay cũng đã cạn dần phải ăn dè xẻn.

        Rừng Lào mùa khô không thể tìm ra một loại rau gì, cứ mỗi lần dến trạm anh em nhanh chóng chạy vào rừng tìm cây bứa lấy lá về nấu canh chua. Nói là canh chua nhưng thực ra chỉ có lá bứa nấu với nước lã, cho muối và một chút mì chính. Đó là những bữa ăn lí tưởng. Những hôm gặp con suối cạn anh em lật đá tìm cua, cá. Bắt được con nào thì về nấu canh dành cho người sốt rét, ốm yếu.

        Nhiều đồng chí đã bị sốt rét, đon vị phải khiêng cáng đi vì không biết gửi vào đâu. Mỗi buổi sáng, trước lúc hành quân, đơn vị lại quán triệt phải đảm bảo quân số vào tới chiến trường 100% và chiến đấu được ngay. Cà một Sư đoàn thực binh đến gần vạn người cùng hành quân. Tuy đã có lịch trình cho từng đơn vị nhưng số anh em ốm yếu, sốt rét tụt tạt thì rải rác nên chẳng ra đội hình nào cả. Thinh thoảng lại thấy có vài anh trùm khăn lút cả đầu, vừa đi vừa rên.

        Cuối tháng 4 năm 1966, đơn vị hành quân tới Kon Tum, rồi rẽ về phía Đông cách đường giao liên khoảng một ngày đường thì dừng lại. Chúng tôi đinh ninh đây là địa bàn hoạt động của đơn vị. Các đơn vị cho anh em đào hầm, chặt cây làm lán trại.

        Đây là một khu rừng già xen lẫn các lùm cây lồ ô, đơn vị tôi đóng quân sát một con suối, rộng khoảng bảy, tám mét. Nước suối trong vắt chảy lờ đờ, hai bên bờ suối toàn cây dâu da, có nhiều cây đã có quả nhỏ bằng quả táo.

        Cây lô ô ở miền Bắc không có. Nó giống như cây tre, không có gai và mỏng hơn cây tre nhưng lại lại dày thịt hơn cây nứa. Cây cao to bằng cẳng chân, thẳng táp, bộ đội chặt làm lán trại rất thuận lợi. Lấy thân cây lồ ô làm khung lợp tăng và đập dập làm sạp để nằm.

        Lồ ô ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ rất nhiều. Đến mùa măng thì đi lấy măng lồ ô là thích nhất vì măng to, gốc không có gai, măng ngon, không đắng, chỉ cần thái nhỏ, luộc chín là ăn được.

        Tôi vào loại khỏe trong Đại đội. Trên đường hành quân tôi thường đến trạm trước, sau đó quay về để đón anh em, mang dùm ba lô, bao gạo hoặc dây máy để anh em cố về trạm kẻo tối.

        Đến vị trí tập kết, làm xong lán trại thì tôi bắt đầu bị sốt rét. Đầu đau, chóng mặt, lên cơn sốt cao, ăn vào là nôn mửa. Khi lên cơn, hai hàm răng cứ đánh vào nhau liên hồi, miệng rên không thành tiếng. Anh em dùng hai ba cái chăn quấn chặt vẫn cứ thấy lạnh. Lạnh từ trong ruột lạnh ra. Y tá, y sỹ Tiểu đoàn đến thăm hỏi thường xuyên nhưng cũng chỉ có mấy viên thuốc Nivaquyn và mấy viên B1.

        Ba bốn ngày liền tôi không ăn được một tí gì, cứ ăn vào là nôn ọe. Những ngày này Trường thường sang thăm hỏi tôi. Tôi nói đắng miệng lắm không ăn uống được cái gì cả. Trường đi dọc bờ suối tìm được mấy chùm quả dâu da mang về, quả non nên chua, tôi ăn vào thấy đã vô cùng. Nhưng đồng chí y sỹ Tiểu đoàn lại nói không nên ăn vì ăn quả này vào hay bị sốt rét nên tôi đành để dành và ăn vụng, sợ hết mất không ai đi hái cho.

        Sang ngày thứ tư thì tôi không thể đứng và đi được nữa. Lúc nào tôi cũng thấy ười đất quay cuồng, không dám mở mắt. Đi tiểu cũng phải nhờ anh em giữ và dựa vào cây không thì ngã. Trong Đại đội có ba bốn đồng chí cũng bị sốt rét nhưng họ không nôn, không chóng mặt, nên trường hợp của tôi cũng hơi khác. Do vậy các cán bộ trung đội trưởng, chính trị viên, quân y sỹ liên tục đến kiểm tra, thăm hỏi tôi.

        Tôi không hiểu vì sao đơn vị không cử người khiêng tôi và Trung đội phó Thuận vào viện mà là 8 người của Tiểu đoàn vận tải Sư đoàn xuống làm các thủ tục rồi đưa chúng tôi đi. Sau này tôi mới biết đơn vị cũng đang chuẩn bị hành quân vào Gia Lai.

        Nằm trên võng, tôi được cáng đi, chẳng biết đi hướng nào và đi bao nhiêu ngày thì tới bệnh viện. Những người khiêng cáng, tôi chưa hề quen biết mà anh em thật chu đáo. Có lẽ sợ tôi chết trên võng mà không biết, nên cứ mỗi khi nghỉ 10 phút, anh em lại mở chăn kiểm tra. Đến chỗ nghỉ, anh em tranh thủ nấu cơm và nấu cho tôi một ăng gô cháo.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Chín, 2017, 04:38:21 am

        Ở đơn vị đã hơn bốn ngày tôi không ăn một tý cơm, cháo nào vào bụng. Cứ nhìn thấy cháo là nôn ra nước xanh, nước vàng. Thế mà bây giờ, anh em vận tải đưa cháo giục tôi ăn, tôi cố nuốt được nửa bát cháo mà không thấy nôn ọe. Tối hôm đó tôi đã ngủ được đôi hồi. Anh em thay nhau canh gác. Mỗi lần thay gác, họ lại tốc màn lên kiểm tra, sờ trán, sờ mũi tôi.

        Sáng ra, anh em nấu cơm và một ít cháo nấu cho tôi vừa ăn sáng, vừa mang theo. Tuy miệng đẳng như ngậm thuốc ký ninh nhưng tôi cố nuốt được mấy thìa cháo nên thấy trong người đỡ hơn, không chóng mặt nữa. Anh Thuận thì đã ăn được cơm và tự chống gậy đi được. Đường rừng toàn là dốc cao, hết lên, lại xuống. Trời mưa, đường trơn, nằm trên võng tôi cảm nhận được anh em khiêng mình quá vất vả.

        Tôi nghe thấy mọi người nhắc nhau cẩn thận ngã là chết đấy. Quá trưa, nghỉ ăn cơm, anh em hâm lại gô cháo cho nóng rồi múc ra một bát, giục tôi cố gắng mà ăn. Tôi nhờ anh em dìu xuống võng, ngồi tựa gốc cây, tự tay xúc ăn. Tôi ăn đã ngon miệng và ăn hết bát cháo.

        Ân xong, tôi tự đi lại chuyện trò với anh em. Tôi đề nghị cho tôi tự đi, nhưng anh em không đồng ý: “Cậu còn yếu! Đường dốc và trơn nếu té ngã thì rất nguy hiểm. Hơn nữa cậu đi chậm tối không tới được trạm đâu”.

        Tối hôm đó anh em nấu cháo cho tôi và cho tôi một mẩu sắn nướng. Tôi ăn ngon miệng và đêm đó đã ngủ ngon giấc. Sáng ra, tôi thấy trong người đã tỉnh táo và đã ăn được cơm. Tôi nói: Bây giờ tôi có thể tự đi được, các anh chỉ cần mang ba lô cho tôi. Tôi đã tự chống gậy đi từ sáng cho tới chiều.

        Cũng chiều đó, chúng tôi đến bệnh viện. Nhập viện xong, anh Thuận nói với tôi: "Ở nhà thì nằm la lết, vào tới bệnh viện thì thấy khỏe rồi".

        Đây là bệnh viện dã chiến, không biết của Bộ Tư lệnh B3 hay của Đoàn 559. Bệnh viện mới được chuyển đến đây. Một khu rừng già, xen lẫn các bãi cây lô ô. Lán trại được làm bằng cây lô ô, trên lợp tăng, liếp cũng bằng cây lô ô đập dập. Lán nằm cạnh một con suối cạn. Mỗi lán có thể có bảy tám người.

        Anh em đến đây điều trị khá đông, có cả thương binh nhưng chủ yếu là lính sốt rét. Nhân viên y tá, hộ lý hầu hết là các cô gái khu năm. Có lẽ nhân viên bệnh viện ít người nên số anh em bệnh binh khỏe hơn được bệnh viện cắt cừ xuống làm giúp bệnh viện như đi lấy măng, lấy củi, nấu ăn, làm lán...

        Anh em nằm viện đều trông cho nhanh chóng khỏe là ra thôi. Ở đây khổ lắm, thuốc thang cũng chẳng có gì ngoài mấy ống ký ninh và mấy ống Bl. Nếu ai lên cơn ác tính thì cũng chết thôi. Nếu ai khỏe rồi thì viện còn giữ thêm mấy ngày để làm lán, đi lấy củi, lấy măng... Một đồng chí cho biết: “Sáng nay tôi đi lấy măng thấy bãi nghĩa trang có hàng chục ngôi mộ mới chôn. Có mộ đã bị kỳ đà đào tung tóe, đất ùn lên từng đống to như cái thúng” - “Kỳ đà đào làm gì vậy?” - “Đào lên để ăn xác chứ gì nữa”. Nghe nói vậy, tôi thấy phát khiếp.

        Những ngày đầu chưa có kinh nghiệm, khi có người qua đời, trạm xá chỉ quấn ni lông rồi đem chôn. Chôn nông, kỳ đà thấy mùi và đất lạ nên đào bới, tìm mồi. Sau này, để khắc phục kỳ đà đào bới, khi có người qua đời, anh em dùng cây lồ ô chẻ thanh to bằng ba ngón tay, kết lại quấn chặt người, mới đem chôn và chôn sâu hơn. Kỳ đà không thể đào được nữa.

        Tôi và anh Thuận vào điều trị được năm ngày thì bệnh tình thuyên giảm hẳn, ăn uống được và đã giúp nhà bếp chẻ củi, thái măng... Khi ấy, một chiến sỹ của đơn vị nhập viện. Anh này cho biết đơn vị đang hành quân vào phía trong.

        Anh Thuận gặp tôi nói: "Như vậy đơn vị chuyển địa bàn hoạt động, ngày mai bọn mình xin ra viện để đuổi kịp. Đơn vị mới hành quân ba bốn ngày, mang vác nặng có lẽ chưa đi được xa. Hơn nữa cả Sư đoàn hành quân dọc đường thiếu gì lính. Mình cứ bám theo họ mà đi".

        Nghe anh Thuận bàn, tôi nhất trí ngay. Sáng hôm sau hai anh em gặp chỉ huy trạm xin ra viện. Tôi xuống nhà bếp để lấy gạo, lấy muối đi đường nấu ăn. Gặp đồng chí quản lý, tôi trình bày: “Hai anh em chúng tôi vào đây mới được 5 ngày, nay đã khỏe. Đơn vị đang hành quân vào phía trong, đi được ba, bốn ngày rồi. Chúng tôi ra viện để đuổi kịp đơn vị. Chúng tôi chẳng có gì để nấu ăn, anh cho chúng tôi xin mấy cân gạo và một cái nồi để dùng trên đường”.

        Nghe vậy đồng chí quản lí thương tình cho chúng tôi mỗi người ba cân gạo và một cái nồi nhỏ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Chín, 2017, 04:38:57 am

        Tôi lấy được một con dao tông chè củi của nhà bếp. Hai anh em không có súng, mỗi người chỉ có hai quả lựu đạn. Anh Thuận có con dao găm còn tôi có dao tông. Ra viện, hai anh em quyết tâm bám theo đơn vị.

        Hơn một giờ đi bộ, chúng tôi ra được đường giao liên. Tất cả các đơn vị của Sư đoàn đều hành quân trên một tuyến. Tuy đã có lịch hành quân cho từng đơn vị để khỏi ùn tắc và dễ quản lý, nhưng do hành quân mang vác nặng, bộ đội bị ốm đau nhiều nên số tụt tạt lại phía sau khá lớn, đơn vị nào cũng có. Thỉnh thoảng lại thấy vài ba người mắc võng nằm cạnh suối.

        Tôi và anh Thuận hòa chung vào đoàn người, chẳng ai biết chúng tôi ở đơn vị nào. Cứ sáng đi chiều gần đến trạm giao liên là nghỉ. Đến điểm nghỉ, người thì đi kiếm củi, người thì đi kiếm rau, kiếm sắn, lấy măng.

        Trước đó mấy năm, bộ đội Tây Nguyên ngoài đánh giặc ra mỗi người một năm phải trồng được 500 gốc sắn. Dân bản mỗi năm, mỗi bản phải trồng ba bốn hec ta sắn, nên sắn được trồng khắp nơi. Có rẫy sắn được trồng ba, bốn năm, cây to bằng cẳng chân có thể mắc võng được. Nhất là dọc hai bên sông Xê Sụ những củ sắn nặng tới ba cân, có ba, bốn lớp ròng, vì sắn cứ mỗi năm ra một lớp ròng.

        Gạo ít chúng tôi phải ăn dè, bữa nào cũng lấy sắn về xắt mỏng, nấu đặc như cháo để ăn cho no. Thức ăn chi có muối trắng và một tý mì chính. Chỉ có một cái nồi hai chúng tôi phải nấu rất nhiều lần: nấu nước sôi đổ bi đông, nấu com đổ ra ni lông, sau đó mới nấu canh, nấu sắn. Mùa mưa nấu được bữa ăn cũng khá vất vả, phải lấy những cây củi to dùng dao đẽo nhỏ như phoi bào nó mới cháy và mới nhen được lửa.

        Được mấy ngày thì gạo muối cũng hết. Tôi phải đánh liều vào trạm giao liên trình bày và xin họ. Nhưng họ cùng có dư dật gì đâu. Mỗi lần xin họ chi cho chúng tôi l kg gạo và một nhón muối. Họ nói chúng tôi chỉ nhận gạo ăn tháng một, đây là bớt khẩu phần anh em cho các đồng chí thôi và cũng cỏ nhiều anh em vào xin lắm, mong các đồng chí thông cảm.

        Cuộc truy đuổi đơn vị kéo dài cả chục ngày. Tuy vất vả nhưng thú vị vì thoải mái, chúng tôi đi tự do, mang vác lại nhẹ.

        Vượt sông Pô cô đi mấy ngày thì sang đất Căm Pu Chia, địa hình bằng phẳng. Có ngày chúng tôi đi hai trạm mong sao sớm đuổi kịp đơn vị. Vùng biên giới Việt Nam -  Căm Pu Chia, cây thấp, rừng thưa, không có núi cao. Thỉnh thoảng, gặp biên phòng Căm Pu Chia đi tuần.

        Bộ đội đến đây được phổ biến nếu bị lính Căm Pu Chia bắt thì khai là lính của ông Phương, ông Phương chuyên mua lúa gạo, thực phẩm để cung cấp cho bộ đội Tây Nguyên. Anh em giao liên chọn chỗ vượt qua đường 19 (đường Việt Nam sang Căm Pu Chia), theo một con suối cạn rồi chui cống qua đường. Bộ đội hành quân đông mà không để lại một tý dấu vết nào.

        Vào tới đây, chúng tôi gặp lính cùa Đoàn 559 thồ gạo, thực phẩm. Có những kho gạo, thực phẩm hàng trăm tấn cất giấu trong rừng. Thực phẩm chủ yếu là khô, muối, mắm tôm, cá khô mua từ Biển Hồ chuyển về, có con cá lóc được chẻ banh ra nhiều mảnh to như cái quạt, nặng tới 2kg. Muối mỏ, hạt to như ngón tay, như viên bi, viên sỏi, bỏ vào nước ngâm hàng mấy chục phút mới tan hết.

        Trước năm 1970, Căm Pu Chia là thánh địa của quân giải phóng. Kho tàng, hậu cần, Sở Chỉ huy, Bộ Tư lệnh B3, Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ đều ở trên đất Căm Pu Chia. Những năm này, Mỹ vẫn còn tôn trọng chủ quyền của Căm Pu Chia nên nơi đây không bị bom pháo.

        Một lần trên đường hành quân, chúng tôi gặp một đoàn xe thồ Đoàn 559 chở cá khô, đi ngược chiều. Biết đoàn chúng tôi là lính Nghệ An mới vào, nên dù phải còng lưng đẩy xe thồ nặng nhưng họ cứ liên tục hỏi có anh nào dân Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên không? Các anh này vào Nam từ đầu năm 1964 nên rất muốn biết tình hình quê nhà.

        Nghe: “Có anh nào dân Hưng Nguyên không?”, tôi chạy tới thì gặp anh Minh ở xóm 12. Anh em gặp nhau mừng quá. Tôi thông báo: “Có anh Tiến em ruột anh đang hành quân phía sau”. Anh Minh rút ra cho chúng tôi mỗi người một con cá khô rồi vội đi cho kịp đoàn và mong chóng gặp được em mình.

        Đơn vị hành quân đến làng Tung thì dừng lại nghỉ mấy ngày nên chúng tôi gặp đơn vị tại đây. Gặp lại, ai cũng mừng vì sợ chúng tôi đi viện sẽ bị cắt quân số chuyển sang đơn vị khác.

        Làng Tung tương đối lớn, có tới hàng trăm nhà sàn đồng bào dân tộc Căm Pu Chia. Đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố giống như dân tộc Ba Na, Ê Đê của ta, nói tiếng cũng giống nhau.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Chín, 2017, 04:39:29 am

        Đơn vị tôi dừng ờ đây mấy ngày để cán bộ đi địa hình tìm chỗ đứng chân. Khu vực này rừng bằng, cỏ le cao lút đầu người. Cách vài chục mét lại có những cây khộp cao to, có cây đường kính từ 1 đến 1,5 mét thẳng như cây đũa dựng ngược, lá to như lá đa. Hai bên suối toàn là rừng le, những bụi le mọc sát nhau. Phía trên cành, ngọn lá đan khít vào nhau như một tấm lợp dày, cả ngày không có một tý ánh nắng rọi vào.

        Bộ đội ta làm lán, mắc võng dưới rừng le thật là lí tường. Nhất là mùa khô mát cả ngày. Cây le họ nhà tre nhưng thân nó chi bằng cán dao, cán cuốc, ruột hầu như đặc. Le chi cao khoảng ba bốn mét, nhiều cành, nhiều lá chằng chịt với nhau, mọc thành từng bụi. Măng le dễ lấy và là loại măng ngon, nhưng nhỏ và ít.

        Đơn vị tổ chức đi lấy gạo, thực phẩm để chuẩn bị hành quân. Gạo, thực phẩm được anh em hậu cần chuẩn bị từ lâu, hầu hết gạo được đóng trong bì sọc xanh đã mất chất, đổ dầu, có nhiều bì đã mốc xanh, nấu cơm toàn nghe mùi bì.

        Thực phẩm chủ yếu là muối mỏ, mắm tôm và một ít cá khô. Tất cả đều do anh em hậu cần mua ở Căm Pu Chia chuyển về. Chúng tôi hành quân về phía Đông, đứng chân trên đất Việt Nam và xác định đây là địa bàn hoạt động của đơn vị. Vị trí đóng quân là một khu rừng già, cây cối xum xuê, ba tầng.

        Trong khi bộ đội làm lán trại, một số cán bộ đi địa hình chuẩn bị chiến trường. Sau trận A Sầu, lại hành quân dài ngày, vất vả, quân số đã bị thiếu hụt, chủ yếu bị sốt rét. Quân số đông, nhưng sức chiến đấu thì yếu. Sư đoàn chúng tôi lúc này chỉ có hai Trung đoàn bộ binh. Trung đoàn 95 và Trung đoàn 88.

        Trung đoàn 95 qua trận chiến đấu A sầu, quân số bị thương vong nhưng sức dẻo dai, chịu đựng tốt, ít bị sốt rét. Trung đoàn 88 anh em quê Hà Nội chưa đánh đấm gì, chỉ có hành quân vào mà đã mất sức chiến đấu. Cả đơn vị hầu như bị sốt rét.

        Đơn vị tôi hơn một trăm người khỏe mạnh hành quân bị rơi rớt rất ít. Tới đây nghỉ mấy ngày đã có tới gần 50% bị sốt rét.

        Khi hành quân thì đói như vậy, nay nấu cơm lên, nhiều người chẳng muốn xuống lấy. Cơm thừa đổ hàng rá, có người ngửi thấy mùi cơm, mùi mắm tôm là nôn mật xanh, mật vàng. Tôi bị sốt rét trước, nay được xếp vào loại khỏe của Đại đội nên mọi việc nặng nhọc như đào hầm, chặt cây, làm lán, đi lấy gạo chúng tôi đều phải cáng đáng.

        Ổn định xong nơi ăn ở, tôi và một số đồng chí nữa được đi theo đoàn cán bộ nghiên cứu trận địa. Đoàn cán bộ đi nghiên cứu trận địa rất đông, trong đó có ông Trân, Sư đoàn đoàn phó, cán bộ tham mưu tác chiến của Sư đoàn, Trung đoàn 95 và một số đơn vị trực thuộc như pháo binh, trinh sát thông tin.

        Tiểu đoàn tôi có đồng chí Sáu đại đội trưởng chỉ huy. Trung đội trưởng Đạm, hai chiến sỹ đó là tôi và anh Âu. Chúng tôi được phổ biến về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của địch.

        Vùng này, địch từ căn cứ Đức Cơ, Đức Vinh thường ra lùng sục, phát hiện, đánh sâu vào hậu phương ta, nhằm bảo vệ căn cứ của chúng từ xa. Chúng thường dùng các tiểu đoàn bộ binh Mỹ, được pháo binh và phi cơ hộ tống, bảo vệ, khi tấn công. Mỗi đợt hoạt động của chúng thường kéo dài 7 đến 10 ngày. Địch thường dùng các bãi trống, địa hình có lợi để trú quân dã ngoại phòng bị tấn công, có thể gọi pháo và máy bay hỗ trợ.

        Nhiệm vụ cùa Sư đoàn là nghiên cứu các bãi đổ bộ, các đồi có địa hình thuận lợi dự kiến địch sẽ dừng chân để tổ chức một trận tập kích hoặc vận động phục kích những đường chúng có thể đi qua.

        Chúng tôi theo đoàn cán bộ đi trinh sát hai ba ngày toàn bộ khu vực này. Đây là một vùng rừng bằng, cỏ le cao ngang mặt người xen lẫn cây khộp, lác đác có nhiều bụi le. Có nhiều bãi trống, cỏ thấp là tà rộng như sân bóng đá. Địch thường xuyên dã ngoại ở đây nên chỗ nào cũng có vỏ đồ hộp của Mỹ vứt bừa bãi.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Chín, 2017, 06:32:42 am

TRẬN ĐÁNH BÃI ĐI NA MÔ

        Qua nghiên cứu các thủ trường xác định trận địa chính là bãi Đi na mô vì mỗi khi địch đi lùng sục, càn quét mấy ngày thường về đây nghỉ tạm, gọi máy bay trực thăng chở về căn cứ.

        Bãi Đi na mô rộng như một cái sân bóng đá, còn chiều dài thì có hàng trăm mét, nó cao hẳn so với mặt bằng ở đây. Xung quanh bãi trống là rừng thưa và cây thấp. Phía phải có một con suối cạn rộng chừng 10 mét, nước sâu khoảng 60 phân, dưới đáy suối toàn sỏi đá, nước ừong vắt, bờ thoải, dễ lên xuống. Hai bên bờ suối, cây le mọc kế tiếp nhau kín đáo dễ tiếp cận mục tiêu. Cái tên bãi Đi na mô được anh em đặt, không có trong bản đồ.

        Anh em trinh sát thấy một cái Đi na mô xe đạp ai vứt ở đây từ bao giờ, nên đặt tên bãi này là bãi Đi na mô. Bãi Trung thu là bãi bộ đội hành quân qua đúng Tết Trung thu. Đồi Im Lặng vì có một đơn vị trú quân gần địch quá, yêu cầu phải giữ bí mật, im lặng cả ngày, anh nào muốn ho cũng phải xuống hầm mà ho nên sau đó anh em gọi là đồi Im Lặng.

        Từ những sự việc như vậy, rất nhiều địa danh được các đơn vị đặt tên và cũng từ đó những tên này được các dơn vị đưa vào mật danh liên lạc, điểm hẹn đi và đến trên các sóng thông tin 15W, 2W. Dù địch bắt được sóng cũng không biết đâu mà lần.

        Sau khi đi nghiên cứu địa hình, xác định mục tiêu, chúng tôi quay về đơn vị chờ lệnh. Anh em trinh sát của Sư đoàn và Trung đoàn 95 ở lại bám địch. Các đơn vị bộ binh của Trung đoàn 95 dịch đội hình lên phía trên, cách bãi Đi na mô khoảng 4 giờ đi bộ, đào hầm bí mật, chờ lệnh. Khi nào trinh sát báo về có địch là hành quân chiếm lĩnh trận địa và chiến đấu ngay. Chúng tôi là lính thông tin nên mọi diễn biến hằng ngày của trinh sát báo về đều được biết khá đầy đủ.

        Sáng 16 tháng 6 năm 1966, trinh sát Sư đoàn báo về, có một Tiểu đoàn lính Mỹ vừa về đóng quân sát bãi Đi na mô. Một lực lượng nhỏ ở ngoài bãi trống còn phần lớn ở trong bìa rừng dọc theo bờ suối. Lệnh của Sư đoàn cho các đơn vị chuẩn bị hành quân chiếm lĩnh.

        Gần tối, trinh sát lại báo về địch đã di chuyển, chưa nắm được chúng đi đường nào. Sư đoàn lại lệnh các đơn vị quay về vị trí cũ chờ lệnh. Sáng 18 tháng 6 năm 1966, trinh sát lại báo về địch quay lại vị trí giống như ngày 16 tháng 6.

        Căn cứ vào tình hình nắm địch của trinh sát và âm mưu thủ đoạn hoạt động của địch, Sư đoàn quyết định cho Trung đoàn 95 và các đơn vị của Sư đoàn hành quân chiếm lĩnh trận địa vào đêm 19 tháng 6. Sở Chỉ huy tiền phương cùa Sư đoàn dịch lên cách Sở Chỉ huy Trung đoàn 95 khoảng 5 km. Sư đoàn dự định và giao nhiệm vụ cho các đơn vị phải chiếm lĩnh trận địa xong trước 12 giờ đêm ngày 19 tháng 6.

        Chúng tôi rải dây từ Sở Chi huy Sư đoàn bám theo đường hành quân của Trung đoàn 95, xuống tận Sở Chi huy Trung đoàn. Tất cả các đơn vị của Sư đoàn đã vào chiếm lĩnh trận địa xong trước giờ quy định.

        Tôi và anh Tịnh quê ở xã Hưng Trung, Hưng Nguyên được Trung đội phân công đặt trạm giữa trên tuyến đường từ Sư đoàn xuống Trung đoàn 95. Trạm giữa của chúng tôi được đặt ngay cạnh trận địa 12,7 ly của Sư đoàn.

        Trạm chi cách Sở Chi huy Trung đoàn 95 khoảng hơn 1 km, về phía sau, có nhiệm vụ đảm bảo thông tin thông suốt cho Sư đoàn chỉ huy Trung đoàn 95, trong mọi tình huống. Trận địa 12,7 đặt ở một cánh rừng khộp, cây thưa, nhiều cây cao. Anh em đào đắp trận địa giao thông hào liên hoàn, hầm trú ẩn, ngụy trang kín đáo trước lúc trời sáng.

        Tôi và anh Tịnh không có thời gian đào hầm nên chúng tôi kéo dây máy, nằm vào một con suối cạn, hai bên vực rất cao, có nhiều chỗ hõm vào rất thuận tiện cho việc phòng tránh pháo. Tôi thường xuyên cầm ống nghe, để nghe các chỉ thị của Sư đoàn và các báo cáo của các đơn vị lên, đặc biệt là Trung đoàn 95.

        Gần 3 giờ sáng, tôi nghe Trung đoàn 95 báo cáo lên Sư đoàn, bộ đội đã tiền nhập đúng địa điểm nhưng không thấy địch đâu cả. Địch đã di chuyển, có dấu vết xe tăng vượt qua suối, có nhiều vết loang dầu trên mặt nước. Tôi nghe Sư đoàn chi thị, cho trinh sát bám địch, nếu phát hiện tổ chức tấn công ngay trước lúc trời sáng và có phương án đánh xe tăng. Xe tăng ở đây chỉ có M113 thôi. Động viên bộ đội bình tĩnh dùng hỏa lực B40 diệt ngay từng chiếc một. Các đơn vị tuyệt đối giữ bí mật.

        Bình minh hừng sáng, trời trong xanh, không khí hết sức yên tĩnh. Đường dây thông tin từ Sư đoàn xuống các đơn vị thông suốt. Trung đoàn 95 vẫn không thấy địch. Anh Tịnh ngồi trực máy, tôi lên đơn vị 12,7 ly thăm.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Chín, 2017, 06:33:13 am

        Trận địa 12,7 ly anh em làm rất công phu và chu đáo. Hầm hào có cành cây ngụy trang cẩn thận, hệ thống giao thông hào được liên kết với các khẩu đội. Chúng tôi là lính thông tin nhìn trận địa pháo, thấy cái gì cũng lạ, cũng muốn xem. Phía trước trận địa có các tổ cảnh giới.

        Gần 8 giờ sáng, tôi quay thử máy thấy dây không đứt, không chập, nhưng không liên lạc được. Tôi và anh Tịnh nói với nhau, có lẽ có một múi nối nào đó ta quấn nhựa không tốt, chạm đất bị nhiễm, cần lần theo đường dây, kiểm tra các múi nối và thừ từng đoạn.

        Đây là những trường hợp trục trặc kỹ thuật, chúng tôi đã được huấn luyện và biết cách xử lý. Hai anh em chúng tôi lần theo đường dây đi qua trận địa 12,7 ly thì gặp một múi nối ngay giữa con suối cạn. Chúng tôi đang mắc máy vào để thử thì thấy một đoàn cán bộ của Trung đoàn 95, khoảng bảy, tám người đang lần theo đường dây của chúng tôi để đi xuống Sở Chi huy Trung đoàn.

        Họ hỏi: “Các cậu có phải thông tin Sư đoàn không?” - “Đúng rồi! Chúng tôi là thông tin Sư đoàn đây. Dây hỏng, chúng tôi đang đi chữa” - “Từ đây tới Sở Chỉ huy Trung đoàn 95 bao xa nữa?” - “Còn một cây số nữa, các anh chờ chúng tôi với, chúng ta cùng đi” - “Các đồng chí còn chữa dây, chúng tôi đi trước thôi”. Tôi nói: “Các anh cứ theo đường dây này mà đi sẽ đến ngay hầm chi huy Trung đoàn 95”.

        Mấy đồng chí đi trước, vừa bước lên khỏi suối cạn vài bước, bị địch bắn xối xả. Tất cả chúng tôi nằm rạp xuống bờ suối để tránh đạn.

        Tôi đoán địch đã cắt đường dây điện rồi chập một múi xuống đất để đường dây không liên lạc được. Lính thông tin đi sửa sẽ bắt sống. Một lực lượng địch lần theo đường dây để đánh vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 95. Đoàn cán bộ và chúng tôi chạy về trận địa 12,7 ly để tránh đạn.

        Tôi quay máy báo về Sư đoàn, địch đã tổ chức phục kích ngay trên đường dây đoạn từ tiểu đoàn 12,7 ly đến Sở Chi huy Trung đoàn 95. Như vậy, địch đã ờ phía sau Sờ Chi huy Trung đoàn 95. Trong khi đó, các tiểu đoàn bộ binh đều nằm ở phía trước. Tôi đang cầm máy báo về Sở Chi huy Sư đoàn thì hai tổ cảnh giới của Tiểu đoàn 12,7 ly nổ súng giòn giã. Tiếng súng ta, súng địch, pháo cối nổ liên hồi. Tiếng súng bộ binh ngớt là hàng loạt pháo cối của địch giã vào trận địa, đất đá bị cày xới, cây cối gãy ngổn ngang, khói đạn mù mịt, cay xè.

        Ngớt tiếng pháo cối, anh em 12,71y nói, một toán lính đột nhập từ hướng Đông vào, ta phát hiện nổ súng diệt được mấy tên. Một lính Mỹ da đen bị bắn chết chỉ cách hầm tổ cảnh giới khoảng 10 mét.

        Vì gần ta quá, địch tổ chức bắn pháo cối kiềm chế để lấy xác nhưng không được. Thằng chết còn nằm sình ra đó. Vì tò mò, tôi và một số người nữa lần ra tận nơi để xem lính Mỹ nó thế nào, nghe nói nhiều nhưng nay mới thấy. Tên lính to cao, thân xác còn nguyên vẹn, da đen sì. Có anh còn lật lên, lật xuống để xem cho kỹ. Sau đó, tôi nghe súng, pháo từ phía Trung đoàn 95 vọng về dữ dội.

        Sau này, chúng tôi được biết địch có hai Tiểu đoàn. Một Đại đội đi về phía hậu phương của ta, gặp phải lực lượng cảnh giới của đơn vị 12,7 ly, còn hai Tiểu đoàn thiếu, tập trung đánh vào Trung đoàn 95. Cả ba Tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn 95 đều nổ súng. Đặc biệt, Trung đoàn bộ tất cả đều cầm súng tấn công địch. Địch dùng hai Đại đội đánh từ phía sau vào Sở Chỉ huy Trung đoàn. Còn một Tiểu đoàn đánh chính diện gặp phải Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 đang nằm chờ. Trung đoàn điều Tiểu đoàn 3, vận động trong làn đạn và pháo cối, đánh vu hồi để bảo vệ Trung đoàn bộ.

        Cuộc chiến đấu kéo dài hàng tiếng đồng hồ, anh em ta vừa đánh, vừa đào công sự để chống phàn kích và tránh phi pháo địch. Hai trận địa pháo 105 ly, từ căn cứ Đức Vinh bắn như vãi đạn vào trận địa ta. Hàng chục phản lực và trực thăng vừa thả bom, bấn sốc két, đạn 20 ly, vừa đổ quân thêm và đưa lính chết, bị thương về. Anh em Tiểu đoàn 3 bị thương vong khá lớn vì đánh vận động không có công sự.

        Khu vực trạm giữa và trận địa 12,7 ly, bộ binh địch không tấn công nữa mà chốt lại đó, ngăn chặn lực lượng ta tấn công. Pháo bắn như vãi lúa vào trận địa 12,7 ly. Máy bay đánh bom, bắn rốc két, bắn đạn 20 ly, trận địa 12,7 ly đã bị bom đạn cày xới.

        Trận địa bị lộ, địch tập trung hỏa lực đánh phá nhằm hủy diệt, hầm hào bị tróc gần hết. Có một vài khẩu 12 7 ly bị trúng đạn pháo, anh em hi sinh, pháo bị dập nát. Chúng tôi phải nằm sát dãy hào để tránh mảnh đạn pháo và đạn 20 ly. Đoạn hào cạnh tôi ngồi khoảng 5 mét, một quả pháo 105 ly, rơi đúng giữa hào, làm 3 đồng chí mình bay xác.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Chín, 2017, 06:34:39 am

        Ngớt pháo, Chính trị viên Đại đội động viên anh em cố đào bới, tìm kiếm nhưng cũng chi tìm, nhặt được mấy đùm thịt. Người được cái này, người được cái kia. Chúng tôi gói ni lông lại rồi chôn cất anh em ngay cạnh đó.

        Hết đạt pháo rồi lại đến máy bay các loại thay nhau đánh phá. Máy bay C130 bắn đạn 20 ly, hai nòng đỏ lừ như một luồng lửa cứ xả xối vào trận địa, vào các chiên hào không nắp. Đạn cứ phầm phập cắm vào bờ hào. Các khẩu pháo của ta không hề nổ được một phát đạn nào.

        Địch càng đánh, trận địa càng lộ rõ, chúng lại đánh tiếp. Tôi nghe một đồng chí cán bộ Tiểu đoàn xuống động viên cán bộ và chiến sỹ quyết tâm bám trận địa, đề phòng địch dùng máy bay trực thăng đổ bộ để lấy pháo của ta. Tôi nói với anh Tịnh: “Ta chuyển dây máy xuống suối cạn, ờ đây không ổn. Ở suối cạn, hai bên có vực cao lại có nhiều hốc, nó bắn bên này, ta tránh bên kia. Chứ ở đây, hầm hào bị hỏng hết rồi, còn gì nữa đâu”. Hai anh em chuyển dây, máy xuống suối cạn, anh Tịnh nói vói tôi: “Ở đây, nếu bom, pháo rơi trúng đầu thì mới chết, còn đạn 20 ly và rốc két thì nó bắn bên này, ta tránh bên kia”.

        Chúng tôi ngồi dưới suối cạn nghe tiếng pháo, tiếng máy bay, tiếng các loại bom đạn nổ xé tai suốt cả tiếng đồng hồ. Tiếng máy bay trực thăng, từng đàn 5 đến 7 chiếc bay sát ngọn cây. Địch tưởng trận địa 12,7 ly của ta đã bị hủy diệt, mất sức chiến đấu. Chúng dùng trực thăng đổ bộ và cẩu pháo của ta, nhưng đã bị các tay súng bộ binh của ta đánh trả quyết liệt. Một số khẩu 12,7 ly, phía ngoài chân bị hỏng đã hạ nòng chuẩn bị bắn bộ binh.

        Tôi truyền lệnh của Sư đoàn tới đồng chí Tiểu đoàn trưởng: “Sư đoàn ra lệnh các đồng chí xốc lại lực lượng cho nổ súng, bắn máy bay để bảo vệ trận địa và chia lửa cho Trung đoàn 95”. Địch bị bất ngờ, anh em 12,7 ly đã bắn rơi một máy bay trực thăng loại HU1A và sau đó là một chiếc AD6.

        Sau khi hai chiếc bị bắn rơi, máy bay tản ra, gọi pháo bắn vào trận địa. Như vậy từ 8 giờ sáng tới khoảng hơn 2 giờ chiều, Sư đoàn không chỉ huy Trung đoàn 95 bằng máy hữu tuyến được. Mọi chỉ thị mệnh lệnh của Sư đoàn xuống Trung đoàn đều dùng máy 15W và truyền đạt.

        Tiểu đội truyền đạt của chúng tôi do đồng chí Âu đảm nhiệm, đưa công văn từ Sư đoàn xuống Trung đoàn 95, nhiều lần tổ chức đi nhưng không tới được đều bị địch phục kích ở phía sau Trung đoàn 95, đồng chí Âu đã bị hi sinh.

        Sư đoàn chi thị phải khôi phục bằng được đường dây hữu tuyến vì liên lạc máy 15W cũng gặp khó khăn, pháo địch bắn đứt hết dây ăng ten. Tiểu đoàn đưa đồng chí Điều đại đội phó và ba bốn chiến sỹ nữa xuống gặp tôi và anh Tịnh bàn cách khắc phục đường dây. Tôi nói:

        - Đường dây của ta đi qua bãi trống bây giờ đã có một đơn vị địch nằm ngay trên đường dây ta không thể khắc phục được.

        Thủ trưởng Điều nói:

        - Ta đánh địch mà đi, nhất định phải nối lại đường dây. Tôi đề nghị:

        - Nếu thủ trưởng nói vậy thì tất cả chúng ta cùng đi.

        Tất cả chỉ có 7 người, hai khẩu súng AK, hai khẩu súng CKC, còn lại mỗi người cầm hai quả lựu đạn. Thủ trưởng Điều nói:

        - Tất cả phải phục tùng mệnh lệnh của tôi.

        Chúng tôi triển khai đội hình đi qua trận địa 12,7 ly. Đồng chí đi trước mới ngóc đầu lên khỏi bờ suối, địch đã bắn xối xả, vừa đạn AR15, vừa đạn M79. May mà có con suối cạn không thì chúng tôi chết hết. Thủ trưởng Điều thất vọng nói:

        - Bây giờ phải làm thế nào đây.

        Tôi nói đề nghị thủ trưởng dùng khoảng 2 km dây điện dự trữ ở Sở Chi huy Sư đoàn, mắc một đường vòng, lợi dụng bìa rừng bên phải may ra có thể tới được Sở Chi huy Trung đoàn 95. Ý kiến đề nghị của tôi được thủ trưởng nhất trí, cho triển khai ngay. Được anh em phía dưới mang dây lên, chúng tôi tổ chức rải một đường dây.

        Tôi và anh Tịnh chịu trách nhiệm rải dây. Thủ trưởng Điều và một số anh em đi hộ tống, bảo vệ. Anh em bảo vệ toàn lính vô tuyến, chẳng biết gì đánh đấm, may không gặp địch. Chúng tôi đi dọc theo bìa rừng vừa đi, vừa rải dây.

        Khoảng hơn 5 giờ chiều, thì chúng tôi tìm được Sở Chi huy Trung đoàn 95. Tôi và anh Tịnh ở lại trực máy. Thủ trưởng Điều và anh em thì lần theo đường dây về phía sau. Đường dây thông suốt từ Sở Chỉ huy Sư đoàn tới Sở Chỉ huy Trung đoàn 95.

        Sau gần 10 giờ mất liên lạc, tôi và anh Tịnh được ngồi ngay trong hầm chỉ huy Trung đoàn. Tôi nói với thủ trưởng Trung đoàn: "Đường dây chúng tôi rải đi qua trận địa, thấy một số anh em mình hi sinh còn nằm đó, chưa ai chôn cất. Nếu có lực lượng đi làm công tác tử sỹ thủ trường cứ bảo họ bám theo đường dây mà đi sẽ thấy ngay. Số từ sỹ này là của Tiểu đoàn 3 đánh vận động để bảo vệ phía sau của Sở Chỉ huy Trung đoàn bộ".


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Chín, 2017, 06:35:22 am

        Tôi ngồi bên máy, cạnh Trung đoàn trường nghe các đơn vị báo về để Trung đoàn tổng hợp, báo cáo về Sư đoàn và nghe các chi thị của Sư đoàn xuống Trung đoàn. Trung đoàn trưởng liên tục cầm máy điện thoại, lúc dạ, lúc vâng, lúc quát tháo, nét mặt lúc vui, lúc buồn. Gần 12 giờ đêm, vẫn chưa nắm hết được tình hình các đơn vị, nhất là công tác chôn cất, tìm kiếm liệt sỹ.   

        Từ chiều qua tới giờ chưa có tý gì vào bụng, có nắm gạo rang mang theo mà chẳng muốn ăn. Căng thẳng quá, tôi ngồi dựa lưng vào hầm tranh thủ lúc ngủ, lúc thức.

        Đồng chí Trung đoàn trưởng trao đổi với đồng chí Chính ủy, theo các đơn vị báo cáo về, cả ngày các đơn vị đã diệt được hơn 100 tên lính Mỹ, bắn rơi một máy bay trực thăng. Hiện nay địch đã lùi ra xa cách ta chừng 1 km. Chúng chờ có thể sáng mai tăng thêm quân để tấn công tiếp hoặc có thể gọi trực thăng tới để chở về vì đơn vị này cũng đã bị tổn thất rất lớn.

        Lính Mỹ dựa vào phi pháo nên thường hoạt động vào ban ngày, ban đêm co cụm nghỉ ngơi.

        Quân ta bị thương vong quá lớn, một số đơn vị mất sức chiến đấu. Thương vong, chủ yếu là do phi pháo, (sau này chúng tôi được các đồng chí cán bộ tiết lộ ta hi sinh khoảng 150 người và bị thương hàng trăm người). Đồng chí Chính ủy cầm máy điện thoại gọi các đơn vị, động viên cố gắng tìm kiếm số anh em mất tích, hi sinh do bom pháo, chôn cất anh em chu đáo, đưa thương binh nặng ra phía sau. Động viên anh em bị thương nhẹ ở lại tiếp tục chiến đấu. Mọi hành động tuyệt đối giữ bí mật. Nếu để địch phát hiện sẽ gọi pháo bắn, gây cho ta nhiều khó khăn.

        Suốt ngày không hề ngớt tiếng bom đạn, tiếng máy bay các loại. Ẩy thế mà, khoảng từ 6 giờ chiều trở đi không hề nghe một tiếng súng. Cả một rừng cây xanh tốt, nay xơ xác. Có những cây to bị pháo, bom xé tung ra đang cháy như những bó đuốc. Có cây bốc cháy như một cột lừa cao 9 đến 10 mét, tiếng nổ cứ lách tách như ở gần lò rang ngô.

        Tôi mệt quá ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Đang ngủ, tôi thấy Trung đoàn trưởng thúc vào người: “Cậu dậy cầm máy nhận lệnh”. Tôi hốt hoảng cầm máy đưa lên tai nghe. Tiếng đồng chí Đạm trung đội trường nói: “Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 95 rút quân ra phía sau. Đồng chí và đồng chí Tịnh hai người cuốn dây về trạm giữa, ở dưới này sẽ có lực lượng cuốn dây lên, chú ý phải cuốn hết dây, không được bỏ sót một đoạn nào”.

        Lính thông tin chúng tôi bao giờ cùng đi trước về sau. Đơn vị rút hết rồi, chúng tôi mới được cuốn dây. Anh Tịnh nói với tôi: “Bây giờ chi có hai anh em ta mà hai đường dây, súng thì chi có một khẩu AK. Đường trục chính buổi chiều địch còn đứng chân trên đó, bây giờ đã rút hay chưa thì không ai biết. Nhưng theo Trung đoàn 95 nói thì địch đã rút hết. Đường tránh có 1,5 km, tuy an toàn nhưng đi qua nhiều tử sỹ”. Tôi trả lời: “Tôi mang súng để tôi cuốn đường trục chính, tôi không sợ địch đâu. Còn đường vòng thì anh thu, hẹn gặp nhau ở trạm giữa, vì máy và đồ đoàn ta còn để ở đó”.

        Thực tình, đi qua nhiều tử sỹ tôi sợ lắm, may mà anh Tịnh đồng ý ngay. Đường ngoài rủi ro nhiều lắm, nếu gặp địch thì sẽ bị chết ngay vì mình vừa đi, vừa cuốn dây. Lúc ấy chúng tôi chẳng biết sợ chết là gì, chi sợ không hoàn thành nhiệm vụ thôi.

        Khoảng gần 2 giờ sáng, chúng tôi được lệnh thu dây. Các đom vị của Trung đoàn 95 rút đi đường nào chúng tôi không hề biết. Hai anh em chúng tôi mỗi người một đường dây bắt đầu cuộn. Đường dây tôi đảm nhiệm cả ngày bị đánh phá đứt ra nhiều đoạn, có chỗ bị cây to hoặc cả bụi cây đổ phải dùng răng cắn đứt chứ không thể luồn qua được, chỉ một kilômét nếu suôn sẽ, chúng tôi chi cuốn khoảng 20 phút là xong, ấy thế mà tôi đã lần mò hàng tiếng đồng hồ mà vẫn chưa xong.

        Đến gần bờ suối, bên kia là trận địa 12,7 ly, gần trạm giữa của chúng tôi, một bụi le bị bom đánh đổ, cả bụi đè lên đường dây. Tôi dùng răng cắn đứt đoạn dây còn lại, thì nghe tiếng chân đạp lên những bụi le gần đó. Tôi tưởng địch nên cố giấu mình để nghe ngóng. Tôi nghe tiếng nói nhỏ: “Ta đi đúng đường rồi, đây là đường dây điện của thông tin Sư đoàn mắc hôm qua nay chưa thu lại đây này, nhưng bây giờ cây đổ không tìm ra dây nữa”. Nghe vậy tôi đoán chắc đây là lính Trung đoàn 95. Tôi sợ anh em bắn nhầm nên lợi dụng gốc cây né tránh.

        Tôi lên tiếng: “Các anh ở đơn vị nào, tôi là lính thông tin đây”. Một đồng chí nói ngay: “Chúng tôi là lính 95 đây”. Gặp nhau, chúng tôi mừng lắm. Có đồng chí hỏi: “Đồng chí có biết đường về Sư đoàn không”. Tôi nói: “Có! Nhưng bây giờ trời tối đen như mực, cây cối đổ ngổn ngang, các anh chờ tôi thu dây rồi ta cùng đi”. Các đồng chí ấy nói: “Chúng tôi sẽ đi cùng đồng chí”. Tôi vừa đi, vừa cuốn dây, vượt qua bãi cây đổ, đi qua trận địa 12,7 ly.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Chín, 2017, 08:37:25 pm

        Khi đến trạm giữa, số anh em cuốn dây phía sau lên đến đây họ đã quay về từ bao giờ nên đường về Sư đoàn tôi cũng chịu thôi. Hơn nữa tôi chưa gặp anh Tịnh và đồ đoàn của chúng tôi còn giấu chưa tìm được vì trời tối quá. Tôi liền nghĩ cách, tôi nói với đồng chí cán bộ của Trung đoàn 95:

        - Bây giờ đường dây không còn để mà bám về Sư đoàn, trời cũng sắp sáng rồi. Từ đây về Sư đoàn cũng gần, anh cho bộ đội nghỉ lại đây, sáng mai đi, chứ tối thế này biết đâu mà tìm. Hơn nữa đây là con suối cạn, hai bên bờ cao và dốc, cả ngày bom pháo vậy mà chúng tôi vẫn an toàn. Anh cho người gác về phía trận địa 12,7 ly, có hầm hào cẩn thận là được, sáng ra tôi sẽ dẫn các anh đi.

        Đồng chí cán bộ nghe vậy cũng thấy có lý vì bộ đội thì đã quá mệt mỏi và cảm thấy an toàn nên đồng chí ấy đồng ý ngay.

        Thực tình, nếu tôi ở lại một mình thì cũng sợ vì cả ngày anh em thương binh, tử sỹ của Tiểu đoàn pháo đều khâm liệm và chôn cất ngay bên cạnh bờ suối. Anh em tranh thủ nghỉ. Hỏi chuyện tôi mới biết các anh ở 15W của Trung đoàn 95 phải thu dây máy nên đi chậm không bám được đơn vị, may mà có một Trung đội bộ binh cả ngày bảo vệ đi cùng không thì gay lắm.

        Sau khi tổ chức cảnh giới xong, bộ đội dựa lưng vào vách suối lăn ra ngủ. Trời hửng sáng, tôi và anh Trung đội trưởng thông tin đi lượn một vòng, hình dung và nhận dạng lại khu vực này. Tôi nói: “Hôm qua, bộ đội hành quân khi gặp con suối phải đi xuôi khoảng 100 mét rồi mới đi lên, bây giờ đi ngược 100 mét chắc là tìm ra đường đi lên”.

        Hai anh em tôi đi ngược đúng khoảng gần 100 mét thì thấy múi đường bộ đội ta hành quân, rộng có đến hơn một mét. Tôi nói với đồng chí cán bộ Trung đoàn 95, từ đây về Sư đoàn chi 5 km thôi, đường an toàn anh cho bộ đội đi, tôi không phải dẫn nữa. Tôi quay lại tìm máy, tư trang và để tìm anh Tịnh theo điểm hẹn.

        Quay lại điểm hẹn, tôi gặp ngay anh Tịnh. Anh nói:

        - Mình đến đây từ đêm không thấy cậu. Mình sợ pháo bắn nên đứng vào lỗ sâu cây săng lẻ.

        Tôi và Tịnh thu gom tư trang rồi cùng đoàn lính của Trung đoàn 95 hành quân về phía sau.

        Chúng tôi về gần Sở Chi huy Sư đoàn thì thấy anh Sử. Anh chạy ra gọi lớn:

        - Hợi ơi! Tao tưởng mày đã chết, có ai ngờ mày còn sống, cả ngày bom pháo ác liệt quá.

        Chúng tôi hành quân về hậu cứ nghi ngơi, rút kinh nghiệm. Tôi nhớ hồi tháng ba, trận A sầu. Tôi cũng ngồi ở trạm giữa cũng phục vụ đường dây thông tin từ Sư đoàn xuống Trung đoàn 95, nhưng chi nghe tiếng máy bay gầm rú và nghe tiếng đề pa pháo của ta còn phía trước đánh đấm thế nào tôi không hay biết. Sau đó tôi được đi làm công tác tử sỹ thì mới thấy anh em ta hi sinh nhiều quá.

        Lần này thì thật khủng khiếp. Đây là lần đầu tiên tôi giáp mặt với lính bộ binh Mỹ, thấy được một tên lính Mỹ chết. Thấy hàng chục chiếc máy bay trực thăng bay một lần giống như đàn chuồn chuồn, bay thấp báo hiệu sắp có mưa. Thấy máy bay C130, AD6 bay thấp tự do bắn phá, thấy hàng chục khẩu pháo 105 của địch bắn hàng tiếng đồng hồ vào trận địa, vào chính nơi mình ngồi.

        Cả một khu rừng rộng lớn bị tan hoang, đâu cũng có dấu hố bom, hố pháo. Ban đêm, cây cháy như một rừng lửa. Có những cây cao chín, mười mét, lừa cháy từ trên ngọn xuống giống như một cây nến khổng lồ. Có cây lửa cháy xám từ ngoài vào trong, từ gốc tới ngọn giống như một thanh thép đỏ rực từ lò nung ra được dựng đứng lên trời.

        Tôi còn thấy được sự chịu đựng hi sinh chiến đấu của bộ đội .ta, dù ác liệt mấy cũng bám trận địa đến cùng. Cái giá phải trả quá đắt. Đồng chí Trung đoàn phó, đồng chí Tham mưu trường Trung đoàn 95 đã anh dũng hi sinh và hơn một trăm chiến sỹ đã ngã xuống.

        Tuổi trẻ thật vô tư và kiên cường. Thương vong như vậy nhưng không ai có tư tường lùi về phía sau và không hề biết sợ hãi. Cứ sau một trận đánh về rút kinh nghiệm, nghi ngơi ít ngày, bổ sung quân số, trang bị rồi lại tiếp tục cho trận chiến đấu tiếp theo.

        Những ngày ở đây, các đơn vị thay nhau hoạt động nhỏ lẻ, phục kích, tập kích, pháo kích gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc chúng phải co cụm vào các căn cứ.

        Đang giữa mùa mưa, khí hậu ẩm thấp lại mới vào chiến trường bộ đội, bị sốt rét nhiều các đơn vị chi bảo đảm được 50% quân số khỏe là cao, thậm chí có đơn vị còn mất sức chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Chín, 2017, 08:38:44 pm

ĐÁNH CĂN CỨ ĐỨC VINH

        Ngày 9 tháng 8 năm 1966, đơn vị tôi lại được đi phục vụ trận đánh căn cứ Đức Vinh do Trung đoàn 88 đảm nhiệm.

        Đức Vinh là một bản đông dân, nhưng Mỹ Ngụy đã dồn dân đi nơi khác để dễ bề quản lý, tạo nên một vùng trống khiến ta khó tiếp cận vùng sâu của chúng.

        Mỗi khi địch càn sâu vào hậu phương ta, chúng dùng Đức Vinh làm căn cứ điểm tựa, đặt Sở Chi huy, đặt trận địa pháo để chi viện cho bộ binh.

        Lần này do ta hoạt động mạnh, để bảo vệ từ xa, địch cho một tiểu đoàn lính Mỹ đóng chốt, có hầm hào, dây thép gai tương đối kiên cố và có hệ thống hỏa lực chi viện lẫn nhau khi bị tấn công.

        Khu vực này rộng, địch đóng phân tán thành nhiều cụm, có trước, có sau thành thế chân kiềng để chi viện lẫn nhau. Nhưng khi anh em trinh sát của ta vào nghiên cứu thì chỉ phát hiện được một số điểm địch đóng dã ngoại. Hầm hố sơ sài, hàng rào đơn giản giống như để trẻ trâu bò và người qua lại. Nhưng khi đánh vào thì hoàn toàn khác.

        Bị tấn công, địch nhanh chóng lùi vào tuyến hai có hệ thống hầm hào kiên cố chống cự. Hệ thống vật cản có ba bốn lớp hàng rào thép gai, các loại mìn sáng và mìn sát thương.

        Sở Chỉ huy Sư đoàn tới Sở Chi huy Trung đoàn 88 khá xa, khoảng 8 km. Cả trung đội tôi dồn sức mới đủ phục vụ đường dây này vì quân số ốm, sốt rét nhiều quá. Rút kinh nghiệm trận đánh Đi na mô, đường dây lần này chúng tôi đặt hai trạm giữa và có hai đồng chí trực máy tại Sở Chi huy Trung đoàn. Chúng tôi rải dây theo đường hành quân của Trung đoàn 88. Khoảng 21 giờ, chúng tôi rải xong tới Sở Chỉ huy. Tôi và anh Quế tiểu đội phó phụ trách trạm giữa thứ 2 cách Sở Chỉ huy Trung đoàn 88 chừng 2 km.

        Đây là ứận đánh tập kích, quân địch dã ngoại có hầm hào và vật cản sơ sài. Ý định của ta là đánh nhanh, rút nhanh, giải quyết gọn trong đêm, rút quân trước lúc trời sáng. Trạm giữa của chúng tôi đặt ở một khu rừng bằng, phía dưới toàn cỏ le cao ngang thắt lưng, lác đác có những cây khộp cao to.

        Chúng tôi lợi dụng một gốc cây to và một hổ pháo cũ to bằng hố trâu đằm, sâu khoảng 60 phân làm hầm, vì đất toàn sỏi và rễ cỏ le nên không đào được hầm. Tìm được chỗ như thế này coi như quá lý tưởng. Tôi trải ni lông nằm khoanh dưới hố, còn anh Quế thì ngồi cạnh miệng hố trực máy, hai chân anh xỏ vào bụng tôi để đỡ muỗi cắn. Khoảng 2 giờ sáng, tôi nghe Trung đoàn 88 báo cáo về Sư đoàn các đơn vị đã chiếm lĩnh xong trận địa, sẵn sàng chờ lệnh.

        Sư đoàn chỉ thị các đơn vị bám sát mục tiêu chuẩn bị tấn công.

        Ba giờ sáng, các đơn vị bộ binh đồng loạt nổ súng. Một mũi bộ đội ta thọc được vào trung tâm. Còn hai mũi địch bỏ tuyến ngoài lùi về tuyến hai chống cự quyết liệt. Vấp phải vật cản hàng rào, mìn và các loại hỏa lực của địch, bộ đội ta không thể tấn công lên được.

        Địch gọi máy bay C130 lên thả pháo sáng và cùng với các trận địa pháo bắn vào trận địa ta hết sức dữ dội, đồng thời cho pháo bắn ngăn chặn đường rút lui của ta. Đường hành quân cùa bộ đội đi trên bãi cỏ, nhất là những đoạn cỏ xấu làm cho đường rộng đến hàng mét, pháo sáng cứ liên tục, trời sáng như ban ngày.

        Qua điện cùa Trung đoàn 88 báo về, chúng tôi biết Trung đoàn đang gặp rất nhiều khó khăn, không thể dứt điểm mục tiêu theo dự kiến được vì yếu tố bất ngờ không còn nữa. Các hướng tấn công của ta đã bị địch đánh bật ra ngoài. Địch lợi dụng hầm hào và vật cản, dùng các loại hỏa lực như cối 81, M79 bắn ra như vãi đạn, gây cho ta nhiều thương vong.

        Anh Quế đang cầm máy trên tay nói chuyện với anh Trung đội phó ở Sở Chi huy Sư đoàn. Tôi nghe một tiếng pháo nổ như sét đánh ngay trên đầu. Mảnh đạn bay vù vù, cành, lá cây rơi rào rào. Dưới ánh đèn pháo sáng, tôi thấy anh Quế bị một mảnh đạn chặt đứt đầu chi còn lại từ lỗ mũi trở xuống mà người cứ ngồi yên. Máy điện thoại thì rơi xuống người tôi vì hai chân anh xốc vào bụng tôi ghì chặt nên anh chưa đổ xuống. Tôi hốt hoàng, cầm máy gọi về anh Thuận. Tôi nói trong nước mắt:

        - Anh Thuận ơi! Anh Quế... Bị pháo bắn... hi sinh rồi.

        - Nó vừa nói chuyện với tao mà!

        - Anh có nghe... nghe tiếng pháo vừa mới nổ không? Pháo bắn trúng chỗ tôi và anh Quế. Anh Quế... bị rồi! Đề nghị anh cho người lên với tôi và đưa anh Quế về.

        Anh Thuận lúc này mới tin và nói:

        - Cậu cứ yên tâm tôi sẽ xử lý. Để báo về phía sau xin lực lượng chứ giờ đây chưa có người lên cho cậu được đâu.

        Tôi thật sự hốt hoảng chỉ có hai anh em ở giữa rừng, nay anh Quế hi sinh rồi. Tôi nhìn lên sợ quá, máu me loang đỏ, chi nhìn thấy hai cái lỗ mũi. Tôi trấn tĩnh, đỡ anh Quế nằm xuống và kéo dịch anh vào cạnh gốc cây. Tôi lại nằm vào đáy hố, mặc cho máu nhầy nhụa, loét nhoét. Để bớt sợ hãi tôi cầm máy gọi về anh Thuận. Anh Thuận liên tục gọi động viên tôi:

        - Cứ ở đó tôi sẽ cho người lên ngay.

        Tôi nghĩ: “Tại sao lại có một quả pháo rơi vào đây? Địch đã bắn hàng trăm quả pháo đều bay chéo chéo, vượt qua đầu nổ về phía Trung đoàn 88 và từ đó cho đến sáng duy nhất chi có một quả pháo rơi nổ ở đây. Nếu anh Quế nằm dưới hố như tôi thì chắc không chết, vì anh ngồi trên miệng hố nên mới bị mảnh phạt ngang đầu”.

        Thấy mùi máu, từng đàn kiến đen mò đến. Loại kiến đen to gần bằng con mối nó cắn đau vô cùng. Những con vật bị thương như con mang, con lợn mà gặp phải loại kiến này, có thể bị kiến vây chặt và cắn chết ngay. Kiến đi thành đàn, có hàng vạn con, tôi phải né về một bên để tránh.

        Gần sáng, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 88 rút quân nhưng cắt rừng đi đường khác, không đi theo đường cũ, sợ địch bắn chặn. Đơn vị tôi được lệnh thu dây. Anh Thuận bảo:

        - Cậu ngồi đó anh em dưới này cuốn dây lên và phía trên cuốn xuống, sẽ tổ chức đưa anh Quế về dưới này.

        Một lát sau anh em phía trên, phía dưới đều cuộn dây về tới đây, trong đó có anh Thuận. Anh Thuận nhìn anh Quế rồi nói: “Các cậu tìm xem cái đầu anh Quế nằm ở đâu, có lẽ còn nằm đâu đây”. Chúng tôi tìm mà chẳng thấy vì nó có lẽ đã bị nát bét bay vào cỏ, trời lại còn tối. Tìm mãi không được chúng tôi đành đùm gói và thay nhau khiêng anh Quế về Sở Chỉ huy Sư đoàn chôn cất.

        Trận đánh kết thúc, thắng thua chúng tôi cũng chẳng biết thế nào, nhưng đây là trận đánh chưa dứt điểm, chưa làm chủ được trận địa. Bộ đội ta không có hầm trú ẩn lại nằm trong tầm phi pháo nên thương vong rất lớn.

        Lính thông tin chúng tôi trong trận này vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đảm bảo thông tin liên lạc từ đầu tới cuối.

        Anh Quế đã hi sinh. Mộ anh nằm ở giữa rừng đại ngàn. Tôi cũng chẳng hình dung ra được vùng đó nay thuộc huyện nào của tỉnh Gia Lai. Vì sau đó, chúng tôi lại tiếp tục đi và không còn hoạt động ở khu vực này nữa. Có thể hài cốt anh đã hóa thành đất đá. Có ai biết chôn anh nơi đâu mà đưa về nghĩa trang liệt sỹ. Trung đoàn 88 có hơn 100 chiến sỹ hi sinh không lấy được xác.

        Từ tháng 3 cho đến tháng 9 năm 1966, cả ba trận đánh lớn của Sư đoàn, tôi đều được tham gia và đều được phân công đặt trạm giữa. Đây là nơi khó khăn nhất của người lính đường dây. Nhưng cả ba trận, tôi đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Chín, 2017, 09:42:40 pm

LẠI TIẾP NHỮNG NGÀY SỐT RÉT

        Đầu tháng 10 năm 1966, tôi lại bị sốt rét lần thứ hai. Như vậy những người khỏe mạnh nhất đơn vị đều lần lượt bị căn bệnh sốt rét quật ngã. Người nào khỏe thì lại bị nặng.

        Mỗi buổi sáng, Đại đội hô dậy tập thể dục nhưng chẳng có mấy ai dậy được. Có dậy cũng chỉ đứng dựa vào võng thôi. Mỗi ngày, mỗi người lên 1 đến 2 cơn sốt. Khi nóng thì mồ hôi nhễ nhại khắp cả người, nhiệt độ lên 40 đến 41 độ. Khi rét thì như xé trong thớ thịt, trong bụng ra, đắp hai ba cái chăn mà vẫn thấy rét, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập, phải nhờ đồng đội đè lên người vẫn cứ thấy rét. Tuy khỏe mạnh nhưng chỉ vài cơn sốt là da vàng như nghệ, thân hình tiều tụy, đi không vững nữa.

        Thời điểm này còn mùa mưa, quần áo giặt chẳng biết phơi vào đâu, lại bị mồ hôi nhớt nên người hôi như chuột trù. Nhiều đồng chí có chấy rận, phải cắt trọc. Quần áo phải đem luộc cho chết chấy rận.

        Ăn toàn gạo hôi bì và mắm tôm, thiếu chất. Có một số đồng chí bị phù thũng mặt sưng to, chân như chân voi. Các đồng chí quân y phải vào bản đem gạo đổi lấy cám và rang lên cho bộ đội ăn.

        Ngày ba bữa, cứ nhìn thấy cơm và mùi mắm tôm là buồn nôn rồi. Gạo này nấu cháo thì nghe mùi mốc và mùi bì còn nặng hơn. Ngửi thấy mùi cháo là phát khiếp luôn. Trạm xá Sư đoàn, thuốc sốt rét cũng chẳng đủ, số thuốc anh em quân y và vận tải mang vào, chi có mấy viên Ni va quyn và mấy viên B1 nên bệnh nhân đưa lên trạm xá Sư đoàn tử vong cao hơn để tại đơn vị.

        Hồi đó Căm Pu Chia còn nghèo lắm, hậu cần của ta chỉ mua được gạo, cá khô, mắm tôm và một số thuốc kháng sinh, còn thuốc sốt rét họ không có. Ngày nào tôi cũng được cán bộ đến thăm hỏi động viên như Chính trị viên Hương, Đại đội trưởng Sáu, Trung đội trường Đạm.

        Chính trị viên Hương lấy lược dày chải đầu cho tôi nói: “Cậu để tớ chải kiểm tra, nếu có chay thì phải cắt trọc”. Rất may là tôi không có chấy.

        Cơn sốt rét lên rất đúng quy luật, ngày hôm nay nó lên cơn vào giờ nào thì ngày hôm sau cũng như vậy.

        Để chống lại căn bệnh sốt rét, Sư đoàn phát động từng cá nhân, từng đơn vị phải tự tập thể dục, rèn luyện, đi lấy gạo, lấy củi, chơi tu lơ khơ, cờ tướng. Từng người biết được giờ cao điểm của mình lên cơn sốt thì phải tham gia mọi hoạt động để cơn sốt qua đi, phá vỡ quy luật của nó. Nếu nhiều người cùng chuẩn bị lên cơn sốt thì tổ chức thành một tốp chống gậy đi rèn luyện. Biện pháp này có hiệu nghiệm nên các đơn vị anh em cứ tự chống gậy dìu nhau đi. Những người khỏe hơn thì kết hợp đi lấy gạo cũng chi mang 9 đến 10kg.

        Trong đoàn người đi rèn luyện của đơn vị kết hợp đi lấy gạo có anh Hoàng quê ở xã Hưng Đông cùng đi với anh Tiềm cùng xóm tôi. về gần đơn vị Hoàng ngồi lại đỉnh dốc nói với Tiềm:

        - Cậu về trước tớ nghỉ một tý về sau.

        Vì chi qua con suối là tới đơn vị nên Tiềm đồng ý về trước. Hoàng tựa lưng vào ba lô gạo ngồi nghỉ và anh tắt thở khi nào không ai biết. Khi đoàn cán bộ cùa Sư đoàn cũng đi rèn về, thấy Hoàng ngồi tựa lưng vào ba lô. Một người cất tiếng hỏi:

        - Cậu ở đơn vị nào?

        Hỏi mấy lần không thấy Hoàng trả lời, lấy tay sờ vào không thấy nhúc nhích, thì ra Hoàng đã tát thở. Họ kêu toáng lên. Mọi người đơn vị chạy tới mới nhận ra Hoàng. Tiềm ân hận vô cùng. Tiềm mới về được 10 phút chứ đã lâu la gì đâu.

        Đơn vị để Hoàng nằm đó, anh em Hưng Nguyên chúng tôi túc trực bên Hoàng suốt đêm và sáng hôm sau chôn cất cạnh đường đi, bên sườn núi.

        Như vậy trong tháng 10, đoàn Hưng Nguyên đã có 2 người ra đi. Anh Thung ở xã Hưng Đạo đi địa hình bị địch phục kích bắn chết, ba bốn ngày sau mới lấy được xác, nay anh Hoàng ở Hưng Đông chết vì sốt rét.

        Giừa tháng 11 năm 1966, đơn vị nhận nhiệm vụ mới hành quân di chuyển đi hoạt động ở chiến trường khác. Nhận nhiệm vụ, đơn vị khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, xổc lại lực lượng, trang bị biên chế cho phù hợp để tổ chức một cuộc hành quân xa.

        Tôi nghe anh em nói hành quân về Quân khu 5, phải đi hàng tháng mới tới nơi. Tôi nằm lì trên võng, ăn uống chẳng được, đứng không vững nữa. Tôi cố ăn, cố tập thể dục và mong sao ngày hành quân của đơn vị chậm lại đề mình có sức khỏe mà đi.

        Các thù trưởng Đại đội thường đến động viên tôi cố ăn uống cho khỏe để đi cùng đơn vị. Vì tôi thuộc loại nhanh nhẹn, khỏe mạnh nên đơn vị ai cũng yêu mến. Các nhiệm vụ được giao tôi đều hoàn thành xuất sắc và đã được xét vào đối tượng cảm tình Đảng. Nếu tôi ờ lại thì ai cũng tiếc. Tôi nghĩ mình không theo được đơn vị khi về trạm thu dung họ sẽ bổ sung đi đơn vị khác, không có người thân quen. Vì đơn vị này hầu như người Nghệ An và người Hưng Nguyên cũng đã có mấy chục người. Riêng xã tôi đã có 10 người. Anh em đã quen, thân thiết nhau từ ngày nhập ngũ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2017, 10:03:24 pm
         
        Cứ mỗi lần đi đánh về Trường, Tiềm thường đến gặp tôi chuyện trò, thăm hỏi ai cũng mừng cho tôi còn sổng trở về vì tôi là lính đường dây, trận nào cũng vô cùng ác liệt. Còn các bạn ấy đều ở đài 15 w nên sự ác liệt cũng đỡ hơn.

        Nếu không đi theo được là sẽ xa mãi mãi, chiến trường thì rộng làm sao mà gặp nhau được. Nghĩ như vậy lòng tôi lại quặn đau rồi nước mắt cứ trào ra. Các đồng chí ổm yếu hầu hết đã chuyển về trạm xá Sư đoàn.

        Trong số ốm yếu chi còn tôi và ông Đạm, Trung đội trưởng cũng vừa đổ bệnh, đơn vị cố để lại may ra đủ sức đi theo. Nhưng rồi, để chuẩn bị sáng mai hành quân, chiều hôm trước đơn vị tổ chức cáng tôi và ông Đạm lên trạm xá Sư đoàn. Tôi nằm trên võng ở bên này suối cứ nghe Trường từ bên kia suối gọi sang:

        - Hợi ơi! Mày đi nhé!

        Tôi bùi ngùi chua xót, không cầm được nước mắt, vẫy tay chào anh em ở lại. Từ ngày nhập ngũ đến nay tôi chỉ ở một đơn vị, biết bao tình cảm gắn bó, sâu nặng, sống chết có nhau, lại hầu hết là người làng, người xã, người trong huyện. Nay mình phải xa anh em chỉ vì căn bệnh sốt rét, thật đau lòng.

        Tôi được chuyển đến trạm xá, gặp khá đông anh em cùng tiểu đoàn và đại đội như anh Khánh, anh Cung ở xã Hưng Thông, anh Đáng, anh Quế, anh Tân quê ở xã Hưng Đạo, anh Đạm, Trung đội trưởng và một số anh nữa.

        Đến đây được ba bốn ngày thì tôi thấy bệnh tình thuyên giảm hẳn, ăn được, ngủ được, đi lại nhẹ nhàng. Tôi nói với ông Đạm:

        - Lần trước ở tinh Kon Tum tôi sốt nặng thế mà vào tới bệnh viện là khỏi, nay cũng vậy. Lần ấy tôi và anh Thuận đã xin ra viện để đuổi kịp đơn vị, nay tôi với anh ta xin ra viện nhất định sẽ đuổi kịp đơn vị.

        Anh Đạm động viên tôi:

        - Cậu cứ yên tâm điều trị khi nào khỏe mạnh, tập trung thành đoàn rồi ta xin hành quân về đơn vị. Vì lính của tiểu đoàn ta ở đây có đến mấy chục người, riêng đại đội ta đã có 16 người.

        Nghe anh Đạm nói vậy tôi đồng ý.

        Trạm xá Sư đoàn đứng chân trên hai bờ của con suối nhỏ toàn là cây le, cách làng Tung đồng bào dân tộc Căm Pu Chia khoảng vài kilômét. Cách bờ suối dăm chục mét là đồi trọc, lác đác có những cây khộp to. Ở đây thật an toàn, pháo địch không có nơi nào bắn tới và lại là đất Căm Pu Chia nên địch không dám bắn phá.

        Lợi dụng các khóm le nhân viên làm sẵn nơi mắc tăng võng, giá để ba lô. Bệnh nhân đến chi cần căng tăng võng lên là nằm. Chi có vài cái chõng tre dành cho người cấp cứu hoặc mổ xẻ.

        Tôi và Trung đội trường Đạm mắc võng nằm gần nhau. Anh Đạm nhập ngũ đầu năm 1953, anh hơn tôi gần chục tuổi, đã có vợ và hai con, quê ở Quảng Ninh, Quảng Bình. Tính anh nghiêm khắc, ít nói nhưng thương lính vô cùng. Anh có cảm tình với tôi ngay từ ngày tôi mới vào đơn vị, vì tôi trẻ, khỏe lại nhanh nhẹn, dễ bảo.

        Khi ở ngoài Bắc, những ngày tập xạ kích, bắn súng bài 1, anh thấy tôi có đường ngắm tốt đã đưa tôi đi chỉnh súng cho Tiểu đoàn. Anh là xạ thủ bắn súng có tiếng của Quân khu 4. Những lần anh làm trực ban Tiểu đoàn, anh đều đưa tôi lên làm liên lạc. Vào chiến đấu, cả ba trận đánh lớn anh đi đều đưa tôi đi theo. Anh thương tôi như em út và tôi cũng rất quý trọng anh.

        Những ngày giảm sốt, tôi và anh thường đi dạo quanh trạm xá. Sau trạm xá khoảng 100 mét, có một nghĩa trang, có mấy chục ngôi mộ mới chôn, toàn là lính sốt rét cùa Sư đoàn. Nghe anh em nói lại cứ một ngày một đêm có một chiến sỹ ta ra đi. Sau đó mấy ngày anh Đàng quê ở xã Hưng Đạo, vào loại to khỏe nhất Đại đội, nhập viện trước tôi mấy ngày cũng ra đi vì một cơn ác tính.

        Anh Quế cùng ở Hưng Đạo, sau một thời gian sốt kiệt sức, không có gì bồi dưỡng, anh theo anh em vào làng Tung dùng quần áo, muối để đổi lấy nải chuối, mớ rau, con gà về cải thiện. Anh Quế lấy muối đổi được một mảnh da trâu khô to như cái dép. Mảnh da trâu gác bếp đen sì, cứng như miếng vỏ cây dẻ. Quế đem miếng da ngâm nước rồi xuống suối kì cọ thật sạch, bỏ vào ống cóng, ninh sáng đêm mới nhừ dẻo như nhựa vá xe đạp. Thèm quá anh ăn vào bị kiết lỵ, sau mấy ngày rồi chết. Đại đội tôi có 16 người đi viện mà đã có hai người chết, đều là người xã Hưng Đạo.

        Sau khi khỏi bệnh, chúng tôi được về trạm thu dung của Sư đoàn và hy vọng tập trung quân lại thành đoàn dể hành quân theo Tiểu đoàn nhưng không ngờ họ chỉ cho những đồng chí từ Trung đội phó trở lên về Bộ Tu lệnh B3 để nhận nhiệm vụ.

        Trước khi đi, anh Đạm ôm tôi, cả hai anh em đều rơi nước mắt. Một người cán bộ sống thủy chung, có tình, có nghĩa. Tôi nài ni anh cho theo, nhưng anh nói: “Không thể được vì lệnh của cấp trên”.

        Tháng 12 năm 1975, khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, anh Đạm ở Quân khu 5 được đi phép trước. Nhà anh gần bến phà Quán Hầu, Quảng Bình. Ngày nào cũng vậy, cứ buổi chiều có các đoàn quân đi phép, nhập trạm qua đây, anh đều ra tìm kiếm may ra gặp được ai đó cùng đơn vị.

        Tình cờ tôi gặp được anh. Anh ôm choàng lấy tôi, vuốt từ mặt xuống người, miệng liên tục hỏi: “Hợi ơi! Hợi ơi! Anh em ta đâu cả rồi? Mày có biết, đứa nào còn, đứa nào mất không?”. Tôi nói: “ Ngày anh xa tôi, rồi tôi và một số anh em được bổ sung về Trung đoàn 95 nên có biết ai đâu. Anh cũng nói: “Tớ xuống Quân khu 5, rồi cũng bổ sung đi đơn vị khác, chứ có được về đơn vị cũ đâu”. Anh nói tiếp: “Một tháng nay, ngày nào tao cũng ra đây, duy nhất mới gặp được mày, hạnh phúc quá! Tao và mày còn gặp được nhau”, thấy tôi đeo khẩu súng ngắn, anh hỏi:

        - Mày bây giờ làm gì rồi?

        - Tôi hiện nay là Chính trị viên Tiểu đoàn.

        Hai anh em cứ ôm lấy nhau. Anh lại nói:

        - Mày cố gắng tìm xem anh em ở đâu cả rồi, sống chết ra sao, có gặp đứa nào thì bảo thằng Đạm này luôn nhớ chúng nó nhé!

        Một cuộc gặp gỡ thật bất ngờ và xúc động. Anh Đạm là thủ trưởng của tôi, sao mà tình cảm còn hơn cả tình cảm anh em ruột thịt. Qua bao nhiêu năm mới gặp lại, xa anh đã chục năm nhưng tôi không bao giờ quên được.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2017, 10:05:40 pm
       
PHẦN II

ĐẠI ĐỘI 16 TRUNG ĐOÀN 95

 
VỀ ĐẠI ĐỘI 16 TRUNG ĐOÀN 95

        Những ngày ở trạm thu dung Sư đoàn, tôi và anh Sử thường xuyên gặp nhau. Nhưng sau Tết 1967, anh Sử thì được điều về binh trạm Nam còn anh em chúng tôi thì dược điều đi khắp noi. Mấy anh Hưng Nguyên th có anh Vinh, anh Tân ở Hưng Đạo được điều về làm vệ binh của trường quân chính B3. Tôi và anh Khánh khỏe hơn thì điều về Đại đội 16 thông tin của Trung đoàn 95. Anh Khá về Trung đội vệ binh của Trung đoàn.

        Về đơn vị mới, tôi rất phấn khởi, vì đơn vị này cũng hầu hết anh em quê ở Nghệ An. Hưng Nguyên thì chỉ có anh Hồ Lâm ở xã Hưng Lĩnh và anh Vợi xã Hưng Long, làm công vụ cho ông Huế thủ trưởng Trung đoàn. Tôi được bổ sung về Trung đội 2, anh Mộc quê Thanh Hóa làm Trung đội trường. Anh Mộc là lính chống Pháp, nhập ngũ từ năm 1953.

        Qua chuyện trò tôi mới biết, anh Mộc chính là người cán bộ dẫn anh em thông tin Trung đoàn 95 khi rút quân trong trận đánh Đi na mô ngày 20 tháng 6 năm 1966, bị lạc đường và tôi đã dẫn đường cho họ đêm hôm đó. Ông Mộc nhìn tôi cười và nói:

        - Cậu thật láu cá, hôm đó từ trận địa 12,7 ly, về tới Sư đoàn chỉ có hơn 3 km đường rộng như đường ô tô mà cậu bảo không biết để chúng mình phải nằm lại bên bờ suối. Sáng ra chờ các cậu thu hết dây máy rồi mới chỉ đường cho bọn tớ đi.

        - Anh nói oan cho em quá. Anh thấy đấy, từ trận địa 12,71y xuống suối ta phải đi ngược khoảng gần 100 mét mới có múi đường lên. Ban đêm, ười tối như mực anh bảo làm sao em tìm được. Hơn nữa, em thấy bộ đội cũng đã quá mệt, nếu tìm không ra đường, đi lung tung gặp pháo bắn thì chỉ có chết. Ta ở lại suối cạn an toàn hơn, sáng ra tìm đường dễ hơn. Nếu lúc đó tìm được đường các anh đi về, còn em ở lại thì cũng quá gay go phải không, ta được cả hai việc.

        Chúng tôi nhìn nhau cười, té ra toàn người quen cả.

        Tháng 2 hàng năm là tháng giữa mùa khô Tây Nguyên. Sông suối cạn kiệt, thú rừng cũng dồn về gần các con suối lớn để ăn và uống nước. Cá cũng nhiều vô kể. Bộ đội thì khan hiếm thực phẩm nên Trung đoàn tổ chức một đội vừa đi săn bắn thú, vừa đi đánh cá bằng lưới và mìn, thuốc nổ.

        Đoàn có mười người, tôi cũng được Đại đội cử đi. Địa bàn chúng tôi đến là những vùng giáp ranh giữa Căm Pu Chia và tỉnh Buôn Mê Thuột, cách buôn Hồ khoảng 8 giờ về phía Căm Pu Chia. Chủng tôi chia làm 2 tổ. Tổ đánh cá 5 người thì dừng lại đánh cá dọc sông Ya Trăng.

        Tổ săn bắn 5 người chúng tôi thì đi sâu vào vùng đệm giữa đường dây giao liên và buôn Hồ. Đây là vùng rừng núi rộng mênh mông, toàn cây khộp, dưới là cỏ le. Cây khộp rụng hết lá, tạo nên một khu rừng trống trải tầm nhìn có đến năm bảy trăm mét. Chi dọc hai bên bờ suối là có cây xanh nên thú rừng đủ các loại dồn về đây để nghỉ ngơi, tránh nắng và tìm ăn cỏ khô.

        Tổ chúng tôi hạ trại cạnh một con suối cạn. Cứ mỗi buổi sáng, chúng tôi đi dọc theo bờ suối thấy trâu, bò rừng, hươu, nai, mang, voi tranh nhau từng đàn xuống suối uống nước. Có đàn hàng trăm con bò tót, voi đi thành từng đàn chín mười con, chúng vừa đi vừa đùa giỡn nhau.

        Chúng tôi mỗi ngày chi bắn một con thú là đủ sức làm thịt, thái ra từng thanh phơi khô. Có những con bò phải đến hai, ba tạ thịt, trâu thì có con ba, bốn tạ thịt. Thịt lấy không hết, đêm hổ đến tha đi.

        Những ngày đầu, thịt thú chúng tôi thái từng thanh hoặc miếng mỏng rải lên đá phơi, chi cần 2 nắng là khô queo vì những tháng này mùa khô, trời nắng như thiêu, như đốt. Phơi được mấy ngày, hổ nghe mùi đêm rủ nhau hai ba con đến ăn sạch. Mặc dù rất gần chúng tôi, nhưng bọn hổ không sợ và chúng tôi thì đêm cũng không dám bắn. Để tránh hổ ăn, chúng tôi dùng dây giăng cao ngang đầu người, ngoắc thịt treo vào đó nên hổ không thể lẩy được.

        Thịt chúng tôi phơi khô, đóng bì cứ 10 ngày có khoảng 9 đến 10 người lính vận tài vào mang về cho Trung đoàn, cả thịt khô và cá khô. Thời gian săn bắn của chúng tôi kéo dài gần 3 tháng. Chúng tôi đã săn bắn được hàng tấn thịt và cá cho Trung đoàn.

        Thú rừng vùng này hồi đó chẳng khác nào nông trường chăn nuôi cùa ta. Cứ tờ mờ sáng nhìn thấy hàng trăm con thú đủ các loại ra ăn cỏ khô, ăn lá tươi và xuống suối uổng nước. Cá cũng vậy chi cần ném một quả lựu đạn là bắt được hàng mấy chục cân.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2017, 10:06:05 pm

        Trung đoàn 95 thời điểm này có hai Tiểu đoàn bộ binh đã hoạt động sâu vùng địch hậu, xung quanh thị xã PLâycu, tỉnh Gia Lai. Còn các Đại đội trực thuộc và Trung đoàn bộ thì làm nhiệm vụ hậu cần tiếp tế gạo, đạn, thuốc men, cáng thương binh ra phía sau. Có những chuyến đi bị địch phục vừa thương vong, vừa mất hết hàng, lấy thương binh tử sỹ về cũng khó. Tôi được đơn vị cho đi vận chuyển một chuyến may mà trót lọt

        Sau đó được đơn vị giao nhiệm vụ cùng Sở Chi huy tiền phương nhẹ của Trung đoàn, đi hoạt động châm ngòi, quấy rối, kéo địch ra mà diệt.

        Vì đầu mùa mưa, địch co cụm vào các căn cứ. Sở Chi huy tiền phương chi có một mình thủ trường Huế - Trung đoàn phó, nguyên là Chủ nhiệm pháo binh Sư đoàn, 5 trinh sát, ba vệ binh và ba lính chuyền đạt. Bộ Tư lệnh B3 giao cho hai khẩu cối 120 ly, hai khẩu ĐKZ 751y, có nhiệm vụ tổ chức pháo kích vào căn cứ Đức Cơ, Đức Vinh.

        Chúng tôi cùng với trinh sát pháo binh đi nghiên cứu thực địa đo đạc cự ly, chuẩn bị trận địa xong, sau đó về dẫn đơn vị pháo đi pháo kích. Hai căn cứ này liên tục bị chúng tôi pháo kích, trên nhiều hướng và nhiều cự ly khác nhau, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc chúng phải bung lực lượng bộ binh đi càn quét lùng sục và đã bị Trung đoàn bộ binh 66 diệt gọn một Tiểu đoàn lính Mỹ, bắt sống 6 tên Mỹ vào tháng 8 năm 1967.

        Sang tháng 9 năm 1967, Tiểu đoàn l0l của ta diệt gọn một Tiểu đoàn Mỹ ờ khu đồi Im lặng. Trung đoàn 320 liên tiếp diệt nhiều tiểu đoàn địch ờ bên kia sông Sa Thầy. Các đơn vị pháo cối 82, ĐKZ thì tập kích, pháo kích phá hủy nhiều trận địa pháo dã chiến của địch.

        Những ngày tháng 9, tháng 10 năm 1967, trên bầu trời tiếng máy bay trực thăng Mỹ liên tục nổ phành phạch, bay thành từng tốp 5 đến 7 chiếc, lúc thì đổ quân, lúc thì di chuyển quân, khi thì đổ quân tư trang, đạn dược, lương thực, khi thì chở thương binh tử sỹ và những khẩu pháo bị ta bẩn hỏng về căn cứ.

        Đầu tháng 10 năm 1967, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 95, hoạt động ở vùng địch hậu, phía tây của thị xã PLâycu, bị địch đánh bom vào Sở Chỉ huy. Đồng chí cơ yếu bị hi sinh và toàn bộ tài liệu mật của đồng chí này bị mất hết. Anh em thông tin đài 15 w báo về phải dùng mật mã của đài 2W. Đây là đài 15W của Đại đội 16 chúng tôi đi tăng cường cho Tiểu đoàn 1.

        Mật mã cơ yếu mất là một điều cực kì nguy hiểm, nên toàn bộ chiến trường B3 phải thay đổi mã khóa khác. Bộ Tư lệnh B3 quyết định giao cho thủ trường Huế, Trung đoàn phó trực tiếp mang tài liệu cơ yếu vào cho đài 15W của Tiểu đoàn 1.

        Cơ yếu có hai đồng chí thì hi sinh một, không có người để bổ sung vào. Đây là nhiệm vụ ngoài ý muốn vì theo quy định của ngành cơ yếu thì dù thủ trưởng có chức vụ cao cũng không được giữ mật mã cơ yếu.

        Đường từ hậu cứ vào tới Tiểu đoàn 1, nếu đi trót lọt phải mất sáu, bảy ngày. Rừng rậm rạp, qua nhiều khe suối và núi cao. Từ đây vào tới đó không có dân và cũng không có một đơn vị nào hoạt động. Yêu cầu cắt đường mà đi, lực lượng càng ít càng tốt, dễ tránh né địch, không để lại dấu vết.

        Tôi và anh Nhị thuộc Đại đội thông tin 16 được chi định đi cùng đoàn, đoàn gồm có thủ trưởng Huế, hai vệ binh, ba trinh sát, hai truyền đạt (tôi và Nhị). Anh Nhung, Trung đội trường trinh sát được giao nhiệm vụ chi huy chung. Nhiệm vụ được giao cụ thể: Trinh sát và truyền đạt chịu trách nhiệm cắt đường mà đi còn vệ binh bàng mọi giá phải bảo vệ thủ trưởng Huế và tài liệu. Yêu cầu tuyệt đối giữ bí mật không được nổ súng. Sau khi điện hợp đồng với Tiểu đoàn 1 về tọa độ, thời gian đón là chúng tôi lên đường ngay.

        Trong tay chúng tôi chỉ có hai mảnh bàn đồ 1/50.000 và hai cái địa bàn không có máy liên lạc cả phía sau lẫn phía trước. Chúng tôi được biết tọa độ đón chúng tôi ở một chòi canh rẫy cùa dân. Rầy rộng khoảng hơn một héc ta. Chúng tôi xuất phát được năm ngày thì Tiểu đoàn 1 lúc nào cũng cho người đi đón vì sợ bị lộ địch phục kích sẵn. Hai bên thống nhất ám hiệu để đến đó bắt liên lạc với nhau.

        Đoàn của chúng tôi hầu hết là những người đã từng phục vụ thủ trưởng Huế chỉ huy pháo kích Đức Cơ, Đức Vinh. Thủ trường quý chúng tôi vì chúng tôi đều là những người nhanh nhẹn, giỏi tính toán xác định điểm, đường trên bàn đồ và giỏi cắt đường theo phương vị.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2017, 11:12:42 pm

        Cái khó nhất của người đi rừng là xác định điểm đứng của mình, nhận dạng địa hình, thực địa với bản đồ. Nếu không xác định đúng điểm đứng thì đi bị lạc là trăm phần trăm vì rừng núi khác hoàn toàn với đồng bàng. Đồng bằng có nhiều điểm để giao hội, tìm ra điểm đứng còn rừng núi thì chẳng biết nhìn vào đâu. Ngay cả ánh mặt trời cũng chẳng nhìn thấy, nếu không có địa bàn chẳng biết đi hướng nào.

        Đoàn chúng tôi, chẳng khác nào thầy trò Đường Tăng đi Tây Thiên lấy kinh. Sau khi làm công tác chuẩn bị xong, chúng tôi bắt đầu lên đường. Chúng tôi vừa cắt đường đi, vừa dò theo bản đồ vừa phải tìm cách tránh né địch nên suốt cả ngày, lúc nào cũng phải nhẹ nhàng và tuyệt đối giữ bí mật.

        Chúng tôi đi qua biết bao địa hình phức tạp, núi cao, dốc đứng. Có đoạn, qua suối sâu phải đi ngược hàng tiếng đồng hồ mới có chỗ vượt qua. Sang bên kia suối, lại phải đi trả lại nếu tính toán không tốt là bị lạc ngay. Ngày nào cũng vậy, chúng tôi đi từ mờ sáng tới 4 giờ chiều mới nghỉ nấu corm ăn, nắm cơm cho bữa sáng và bữa trưa hôm sau. Sau đó chờ cho trời tối lại di chuyển cách năm bảy trăm mét mới mắc tăng võng để ngủ.

        Trời mùa mưa, nấu được bữa cơm ăn cực kì khó khăn. Có người nấu phải có người quạt để khói không bay lên cao đề phòng kẻ địch phát hiện. Nấu ăn xong, cũng như chỗ ngủ trước khi đi phải xóa hết dấu vết. Đồng chí Nhung bố trí chúng tôi nằm nghỉ theo kiểu trâu rừng thành hình tròn. Trinh sát, truyền đạt nằm vòng ngoài, vệ binh và thủ trưởng nằm ở giữa nhưng cũng còn tùy thuộc vào cây để mắc võng, vì chẳng biết địch ở phía nào mà có trước có sau.

        Một hôm, khoảng nửa đêm, đang ngủ tôi tinh giấc nghe mùi hôi hôi và sau đó cứ nghe tiếng tép tép, tiếng kêu cứ một gần lại. Tôi biết đây là con hổ đi ăn đêm, đang ở gần. Vì hồi tháng 2, tháng 3, tôi đi săn cho Trung đoàn thường nghe tiếng kêu và mùi hôi của hổ, mỗi khi nó đến ăn thịt trâu của chúng tôi phơi. Vì thế nghe mùi và tiếng kêu, tôi biết ngay đây là hổ. Bởi chúng tôi mắc tăng võng nên hổ không dám vào.

        Tôi thò tay ra ngoài bọc võng mở khóa an toàn khẩu AK, ban đêm tĩnh mịch tiếng kêu nghe khá to. Nhị nằm sát cạnh tôi hỏi: “Hợi ơi, con gì vậy?”. Tôi bảo: “Không có gì đâu”, Nhị cũng thò tay ra mở khóa an toàn súng. Không ai bảo ai, tất cả đều thức và đều mở khóa an toàn súng. Con hổ rất lì, nó cứ đi vòng xung quanh chúng tôi kêu tép tép. Vì không được bắn, tôi thò tay ra khỏi bọc màn dùng một cành lá nhỏ quẹt vào cái tăng nghe xoẹt xoẹt, con hổ thấy động từ từ đi xa.

        Sáng ra, ai cũng hú vía, sợ con hổ nhảy vào. Tôi nói: “Hổ tuy dừ nhưng ta nằm trong tăng, có màn nó không dám vào đâu vì hồi đi săn, đêm nào cũng thấy hổ đến để rình ăn thịt của chúng tôi phơi, chi cách chúng tôi nằm chừng 15 mét”. Nhị nói: “Tớ nằm ngoài nhất nên đã nghe tiếng nó kêu từ lâu mà không dám động đậy, khi nghe Hợi mở khóa an toàn súng, mình vội dậy mở ngay”.

        Thủ trưởng Huế lại bào:

        -  May mà thằng Hợi có kinh nghiệm dùng cành lá quẹt vào tăng, nó chạy mất chứ nó nhảy vào thì nguy thật.

        Qua 7 ngày vừa tìm đường vừa tránh địch để đi, đầy vất vả, gian khổ. Đủng trưa ngày thứ bảy, chúng tôi xác định đã đến điểm hẹn. Nhị trèo lên một cây cao để tìm cái rẫy của đồng bào dân tộc. Nhị đã thấy cái rẫy cách không xa. Chúng tôi tin là đúng nên cắt đường đến đó.

        Qua ám hiệu của anh em Tiểu đoàn 1, chúng tôi đến chòi canh thì thấy anh em trinh sát đã liên tục thay nhau đón chúng tôi từ hai ngày nay, gặp nhau hai bên đều mừng.

        Chúng tôi được trinh sát Tiểu đoàn 1 dẫn về một hang đá to để nghỉ. Tới đây chúng tôi gặp thủ trưởng Nguyên, Phó Chính ủy Trung đoàn đi chỉ đạo Tiểu đoàn 1. Tiểu đoàn hoạt động phân tán. Mỗi đại đội một xã độc lập, theo sự hướng dẫn của bộ đội địa phương. Xuống tới xã lại phân tán tới từng tiểu đội để cùng địa phương diệt ác phá kìm xung quanh các ấp chiến lược.

        Ngoài việc diệt ác, phá kìm còn phải bảo vệ dân công tải gạo lên núi cất giấu, số gạo này do ban Kinh tài của huyện tuyên truyền, vận động nhân dân đóng góp. Đây là số lương thực địa phương chuẩn bị cho các đơn vị bộ đội chủ lực ăn và dự trữ được cất giấu trong các hang đá.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2017, 11:13:10 pm

        Địa hình phía tây PLâycu, bằng phẳng cây non thành từng đám xen lẫn các nương rẫy của dân, kéo dài tới tận các ấp chiến lược. Dân cư hầu hết là đồng bào Ê đê và Gia rai. Trước đây họ sống rải rác ưên các núi cao. Để tạo thành vành đai trắng giữa quân giải phóng với đồng bào, Mỹ Ngụy đã lập ấp chiến lược bắt dân phải sống tập trung ly khai với cộng sản.

        Tuy là sống trong ấp chiến lược nhưng đồng bào Tây Nguyên vẫn một lòng theo cách mạng. Họ vẫn thường xuyên vào rừng liên lạc với bộ đội, vẫn đóng góp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, tố cáo những tên ác ôn để bộ đội và địa phương diệt ác, phá kìm.

        Khu vực này có đồn Chư Nghé nằm ưên một điểm cao do một đại đội lính ngụy đóng, toàn là người dân tộc.

        Tên Chui trung úy người dân tộc làm đồn trường. Tên này tàn ác luôn ức hiếp nhân dân, đưa quân đi càn quét, cướp bóc của dân. Chính quyền địa phương viết thư nhiều lần khuyên ngăn, dằn mặt nó, nhưng nó vẫn ngoan cố thách đố, hăm dọa dân.

        Chui là người dân tộc lại hoạt động trên địa bàn quen thuộc nên các thủ đoạn đi lại hắn rất khôn ngoan. Chui lúc nào cũng đi một đường, về một đường và đi đường không theo một quy luật nào. Địa phương yêu cầu phải tiêu diệt tên này để phát động quần chúng, làm công tác binh vận, gọi con em cùa mình trở về làm ăn, không ức hiếp dân.

        Tên Chui còn thì phong trào địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Lực lượng của tiểu đoàn 1, bộ đội địa phương, du kích nhiều lần phục mà chưa diệt được nó.

        Sau nhiều lần bàn cãi anh em quyết định độn thổ phục ngay trước nhà vợ Chui. Khoảng 9 giờ tối, sau khi xong việc ở đồn, một tiểu đội hộ tống Chui về nhà. Thông thường Chui ngủ, tiểu đội lính phải canh gác sáng đêm.

        Hôm nay cũng vậy, Chui và tiểu đội lính vừa vào tới cổng nhà thì bị tấn công và tiêu diệt gọn ngay trước cổng nhà nó.

        Tên Chui chết, nhân dân hết sức phấn khởi và dằn mặt được nhiều tên khác, hạn chế việc lùng sục ức hiếp dân. Địa hình ở vùng này bằng, cây thấp, các điểm cao địch đóng chốt nên việc đi lại nấu ăn của bộ đội ban ngày rất khó khăn, chủ yếu là ban đêm.

        Các đơn vị của Tiểu đoàn 1, ban ngày phân tán, từng Tiểu đội sống chung với cán bộ địa phương, việc ăn uống đi lại do cán bộ địa phương lo. Họ có kế hoạch vận động nhân dân mỗi nhà mỗi ngày đóng góp một đùm cơm. Năm bảy nhà tập trung vào một chỗ rồi có người bí mật mang ra điểm hẹn. Anh em du kích mang đến từng điểm bộ đội trú quân phát cho mỗi người một đùm ăn cả ngày.

        Tùy từng gia đình, người thì cơm nếp, người thì cơm tẻ, người thì sắn độn ngô, có nhà chỉ có sắn nấu lên bỏ cối giã nhỏ giống như bánh dày ở ta. Nhà nào cũng dùng lá chuối đùm kín lại, nên người phát theo quân số, mỗi người một đùm, ai trúng đùm nào thì ăn đùm đó. Thông thường đùm mềm là cơm nếp nên lính ta có một số láu cá mỗi khi nhận cơm cứ nắn thấy đùm nào mềm là lấy trước.

        Việc tiếp tế cho bộ đội kéo dài cả tháng nên có nhà không có khả năng. Nhiều nhà chi có rau khoai, rau bầu, rau tàu bay luộc miễn là có đùm mang cho địa phương vì tất cả được đùm bằng lá chuối, không ai mở ra kiểm tra. Những lính láu cá cứ tưởng đùm mềm là cơm nếp thì nay lấy phải đùm rau, khóc dở, mếu dở. Anh em nhìn nhau cười ra nước mắt.

        Trung đoàn và Tiểu đoàn bộ đóng trên núi cao, dựa vào các hang đá nên việc đi lại thoải mái hơn. Trung đoàn bộ chỉ có hai thủ trường là Trung đoàn phó Huế và Phó Chính ủy Nguyên, không có trợ lí, các cơ quan, chi có một đài 15W, bốn trinh sát, hai truyền đạt, ba vệ binh. Trung đội trường Nhung, chi huy chung và mọi việc thủ trưởng đều giao cho đồng chí Nhung triển khai giống như Tham mưu trưởng.

        Những lần thầy trò đi địa hình, nghiên cứu trận địa về các thủ trưởng cũng chẳng có ai để bàn bạc, chia sẻ nên thường gọi chúng tôi đến góp ý. Ví dụ như bộ đội hành quân đi đường nào thuận lợi nhất, rồi tổ chức các trận phục kích chỗ nào cho hợp lý. Bước đầu chúng tôi không dám nói sợ thủ trường cho rằng lính tráng hay tóp leo. Thủ trưởng Huế động viên: “Các cậu cứ tham gia vì các cậu đi nhiều lần hơn, nắm tình hình sát hơn mình”. Thế rồi chúng tôi mạnh dạn tham gia tranh luận với thủ trưởng vì chúng tôi là người thực tế hơn. Thủ trường hứng lên nói: “Thằng này nói đúng, thằng này nói hay”. Thế là từ đó cứ mỗi khi có nhiệm vụ, có kế hoạch thầy trò lại đàm đạo, bàn cách để thực hiện. Tất nhiên có cái thủ trường không bao giờ nói và có cái khi thủ trường nói ra thì coi như mọi việc đã đâu vào đó.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2017, 11:14:01 pm

        Cuối tháng 11 năm 1967, chúng tôi được lệnh đi đón anh em trinh sát pháo của Bộ Tư lệnh B3 vào. Thủ trưởng Huế nguyên là Chủ nhiệm pháo binh Sư đoàn nên lần này Bộ Tư lệnh B3 giao nhiệm vụ tổ chức trận pháo kích bằng ĐKB vào Sở Chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy và tiểu khu tinh Gia Lai ở ngay thị xã PLâycu. Tôi và Nhị được thủ trường giao nhiệm vụ đi tìm và mời các đồng chí trong tỉnh đội Gia Lai, các đồng chí Huyện đội đến gặp thủ trưởng để làm việc phổ biến nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh B3 giao.

        Thủ trường giao nhiệm vụ cho các đồng chí cán bộ địa phương phải điều tra về địa hình địa vật, quân số, trang bị nơi ăn ở của địch trong căn cứ, ta có ý định pháo kích. Sau mấy ngày điều tra nghiên cứu, anh em cơ sở của ta đã vẽ được sơ đồ bổ trí của địch ở hai vị trí Quân đoàn 3 và Sở Chi huy tiểu khu ngụy.

        Qua sơ đồ, chúng tôi thấy Quân đoàn 3 ngụy đứng chân trên một địa bàn rất rộng, chia ra thành nhiều phân khu liên hoàn. Lực lượng chủ yếu là cơ quan Quân đoàn bộ, Sở Chỉ huy của Sư đoàn kị binh số 1 Mỹ, Lữ đoàn xe tăng thiết giáp, trận địa pháo 105, bệnh viện Quân đoàn (nơi điều trị thương binh, bệnh binh và là nơi nghi ngơi điều dưỡng của sỹ quan Mỹ. Quân số có tới hàng mấy ngàn tên).

        Tiểu khu là Sở Chi huy của Bộ Chỉ huy tỉnh Gia Lai. Có nhiều Tiểu đoàn bộ binh, biệt kích, xe tăng, xe cơ giới đóng, bao bọc nhiều tầng lớp bảo vệ. Ngoài ra còn có nhiều trận địa pháo hỗn hợp chi viện cho nhau. Cả hai căn cứ này đều là hậu phương an toàn của địch nên hầm hào đơn giản.

        Sau khi nghiên cứu sơ đồ của địa phương gửi ra, thủ trường Huế gọi anh Nhung và chúng tôi lên giao nhiệm vụ. “Các đồng chí cùng trinh sát pháo binh được địa phương dẫn đường vào điều nghiên. Thời gian chi có 5 ngày”.

        Chúng tôi được du kích dẫn đường tiếp cận mục tiêu là ấp chiến lược. Dân nuôi chó nhiều, chúng sủa inh tai. Đêm thứ nhất chúng tôi không thể tiếp cận được. Tròn sáng, chúng tôi ra ém quân vào các lùm cây và trốn ở các rẫy lúa của dân chuẩn bị thu hoạch. Chờ trời tối lại tiếp tục vào nhờ ánh đèn sáng, chúng tôi xác định cự ly từ chỗ chúng tôi vào tới trung tâm.

        Sau đó anh em pháo binh rải dây đo từ chỗ này ra tới vị trí đặt pháo. Xác định nơi đặt đài quan sát để hiệu chỉnh pháo. Tất cả kết quả điều nghiên được đồng chí Nhung và đồng chí Tiểu đoàn trưởng pháo binh tổng hợp báo cáo với thủ trường. Sau khi thống nhất với các báo cáo, thủ trưởng Huế nói:

        - Pháo ĐKB ở chiến trường Quảng Trị, ở Bắc Tây Nguyên, ta đã sử dụng có sức công phá và hủy diệt cao, làm cho địch khiếp sợ. Lần này ta đánh vào hai căn cứ này là vùng sâu, vùng hậu phương của địch. Địch chủ quan cho ràng pháo binh của ta không thể bắn tới đây nên việc bố phòng, hầm hào còn đơn giản nên trận pháo kích này nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi.

        Trong khi chúng tôi đi làm công tác chuẩn bị thì anh em pháo binh ở phía sau cũng đã bắt đầu hành quân. Anh em phải đi gần chục ngày mới tới. Những ngày này anh em Tiểu đoàn 1 liên tục có những hoạt động đánh nhỏ lẻ để nghi binh thu hút địch.

        Ngày 25 tháng 11 năm 1967, chúng tôi được lệnh dẫn Tiểu đoàn ĐKB chiếm lĩnh trận địa. Cả tiểu đoàn có 10 khẩu đặt thành hai trận địa, bắn hai mục tiêu khác nhau. Bắn xong dẫn anh em nhanh chóng chạy lên núi và sau đó họ hành quân ra phía sau.

        Sở Chi huy đặt cách trận địa khoảng 500 mét. 12 giờ đêm, các đơn vị báo về đã chiếm lĩnh xong trận địa, sẵn sàng chờ lệnh nổ súng. Thủ trường Huế nhắc đồng chí Tiểu đoàn trưởng pháo binh, kiểm tra đài quan sát có nhìn rõ mục tiêu không và kiểm tra lại phần từ bắn báo ngay cho thủ trường.

        Thủ trưởng lên khỏi miệng hầm vươn vai nhìn về phía Quân đoàn 3 điện vẫn sáng bình thường, rồi ông bảo tôi: “Cậu quay máy cho tôi gặp Tiểu đoàn trưởng pháo”. Tôi nghe Tiểu đoàn trưởng vâng dạ liên tục rồi ông ra lệnh nổ súng. Lần đầu tiên tôi mới được nghe tiếng đề pa pháo ĐKB bắn. Không nghe rõ tiếng nổ chỉ nghe tiếng rú hút hút của viên đạn lao đi, chúng tôi nhìn về phía hai mục tiêu điện đã bị tắt và đã có nhiều đám cháy.

        Đài quan sát báo về tất cả đạn đều rơi đúng mục tiêu. Thủ trường Huế nhắc các đơn vị vừa bắn vừa kiểm tra phần từ và bắn hết số đạn mang theo. ĐKB là loại pháo hỏa tiễn, thời chiến tranh thế giới thứ 2, quân đội Liên Xô bắn trên xe có hàng chục nòng. Ta cải tiến tách ra từng nòng. Sau này ở chiến trường miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, bộ đội ta lại bắn ứng dụng không cần nòng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2017, 11:14:20 pm

        Đây là loại pháo có sức công phá mạnh, sát thương cao. Nguyên độ nóng đã hơn 4000 độ, bán kính sát thương của nó đến vài chục mét. Đạn nổ gần xe tăng, xe bọc thép đều bị thiêu hủy. Trận pháo kích chi diễn ra hơn 20 phút, anh em pháo binh đã rút chạy ra xa mới thấy máy bay C130 lên thả pháo sáng, xung quanh căn cứ bị ta pháo kích và gọi pháo bắn lung tung chặn đường rút quân của ta.

        Địch cho rằng chủ lực của ta không thể hoạt động được ở khu vực này lấy gì mà ăn và pháo binh thì làm sao mà cõng được pháo vào đây. Địch thật sự choáng váng trước trận pháo kích phủ đầu này. Sau khi bị ta pháo kích, hai căn cứ này nội bất xuất, ngoại bất nhập nên ta rất khó nắm kết quả thiệt hại.

        Theo cơ sở báo về, sáng hôm sau có hàng chục chiếc máy bay lên chở binh lính Mỹ chết về Bình Định đóng gói rồi chở về Mỹ. Hai ba ngày sau, theo tổng hợp của nhiều thông tin tất cả đạn pháo của ta đã bắn trúng mục tiêu.

        Đài phát thanh Việt Nam cộng hòa tố cáo quân giải phóng bắn hỏa tiễn vào bệnh viện giết nhiều dân thường.

        Thực chất đều là sỹ quan Mỹ Ngụy. Dân làm sao mà vào được bệnh viện Quân đoàn. Đài phát thanh Giải phóng thì đưa tin, trận pháo kích hai căn cứ trên ta đã diệt được hơn 600 tên Mỹ Ngụy. Trong đó có nhiều sỹ quan Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, có 30 xe tăng, xe cơ giới, phá hủy một trận địa pháo 105 ly.

        Là người trong cuộc, chúng tôi vô cùng vui sướng, còn cán bộ địa phương thì báo ra pháo ta bắn tài quá không có một quả nào rơi vào khu dân cư.

        Sau trận pháo kích, địch đổ quân ra càn quét, lùng sục. Tiểu đoàn 1, liên tục tổ chức nhiều trận phục kích diệt nhiều tên địch. Đồng thời Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 2 hoạt động ở khu vực đường 14 đoạn từ ngã ba đường 19 đi Buôn Mê Thuột, dùng cối 82 pháo kích vào Đồn Rồng và tổ chức đánh giao thông trên đường 14 để kéo địch giãn ra. Đồng thời nhanh chóng hành quân xuống sâu hoạt động đánh giao thông trên quốc lộ 19, đoạn Đông đèo Mang Giang, để Tiểu đoàn 1 và Sở Chi huy nhẹ của Trung đoàn hành quân xuống cùng hoạt động đánh giao thông trên đường 19.

        Tiểu đoàn 1 và Sở Chỉ huy tiền phương Trung đoàn được bộ đội địa phương dẫn đường, tổ chức cuộc hành quân mạo hiểm. Phải đi qua nhiều căn cứ địch, vượt qua sông Ya Dun, vượt qua đường 14, sau mấy ngày đêm hành quân Trung đoàn bộ và Tiểu đoàn 1 đã tới được vị trí quy định.

        Chúng tôi đóng quân trên một dãy núi cao có nhiều hang đá. Đây là dày núi kéo dài tới đèo Mang Giang. Trong những ngày Tiểu đoàn 1 hành quân để nghi binh địch,

        Trung đoàn cho Tiểu đoàn 2 đánh chiếm ấp Lệ Chí trên đường 19, diệt gọn Đại đội bảo an, thu toàn bộ vũ khí quân trang và quân dụng. Sau đó Tiểu đoàn 2 tổ chức một trận phục kích đánh giao thông trên đường 19, đoạn Đông cầu Xà Guồng diệt 59 xe các loại.

        Lúc đó hai bên đường 19, cây cối rậm rạp ra tận mép đường, bộ đội phục kích chỉ nằm cách mép đường 5 đến 7 mét, dùng mìn định hướng AK lựu đạn tấn công gặp phải xe M113 thì mới dùng đến súng B40. Trận đánh chi diễn ra khoảng 10 phút là rút ngay, địch phản ứng không kịp.

        Những ngày Tiểu đoàn 2 hoạt động mạnh tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 1 ổn định tổ chức, nghiên cứu địa hình để phối hợp chiến đấu. Chính thời điểm này các đơn vị phía sau đang di chuyển để chuẩn bị cho cuộc tấn công Mậu Thân 1968. Tất đều hành quân theo đường xuống Bình Định.

        Khoảng giữa tháng 12 năm 1967, Trung đoàn giao cho tôi, anh Nhị và hai trinh sát được bộ đội địa phương dẫn đường, vượt đường 19, sang phía Bắc để đón Trung đoàn bộ hành quân từ hậu cứ vào.

        Theo hiệp đồng, chúng tôi vượt đường 19 đi sâu vào phía Bắc, được anh em trinh sát Tỉnh đội Bình Định đón và đưa chúng tôi về căn cứ của Tỉnh đội. Sáng hôm sau, Trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc mới tới. Chúng tôi được anh em tỉnh đội bố trí nơi ở chờ cơ hội vượt đường 19 về địa bàn hoạt động của Trung đoàn.

        Cách đây mấy ngày, chúng tôi chưa đầy chục người vượt đường 19 đã khó nay có tới mấy trăm con người, chi một sơ suất để lộ là chết ngay.

        Ở đây được hai ngày, tôi đưa công văn lên mặt trận tình cờ gặp được anh Lô xã Hưng Chính. Hai anh em hồi nhỏ học chung một lớp và đi bộ đội một ngày. Lô ở Tiểu đoàn vận tải vào tới B3 thì đi học y tá về phục vụ Bộ Tư lệnh B3. Nay thủ trường Hà, Phó Tư lệnh B3 đi tiền phương nên Lô đi theo để phục vụ. Anh em gặp nhau mừng khôn xiết. Lô chi vào nơi quần áo tôi bị rách. Tôi nói:

        - Từ ngày vào đến giờ đánh nhau liên tục, có được bổ sung một bộ quần áo nào đâu, đi hành quân, đi đánh nhau toàn mặc quần đùi.

        - Mình đi tiền phương chẳng mang theo tư trang, chi có một cái áo lót cộc tay, Hợi cầm lấy mà mặc, mình không mặc áo lót cũng được.

        Thế rồi hai đứa chia tay nhau, mãi đến năm 1976, sau chuyến đi phép tôi mới gặp được Lô.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2017, 11:14:51 pm
     
        Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, L19 rồi máy bay trực thăng HU1A quần lượn trên đầu. Theo như anh em Tinh đội Bình Định, đây là khu hậu cứ an toàn, rừng núi trùng điệp, không hề có dấu hố bom pháo. Tôi nghĩ có ai làm lộ hay sao mà địch lại đến sớm vậy. LI9 bay hẹp vòng lại và bắn pháo khói chi điểm ngay đồi bên cạnh, cách chúng tôi khoảng vài trăm mét. Trong chốc lát, ba bốn chiếc AD6 đến ném bom dữ dội. Nó cắt bom ngay trên đầu chúng tôi nên nghe tiếng bom rít rùng rợn.

        Trực thăng HU1A và một loại máy bay mới có cán gáo quạt gió. Đây là loại máy bay xuất hiện lần đầu tiên ờ chiến trường miền Nam. Tiếng nó kêu vù vù, bay tiến rồi lại bay lùi, bay sát ngọn cây. Nỏ dùng hệ thống quạt gió dưới bụng thổi xuống, gió mạnh cấp 11-12, cây cối ngả nghiêng, cây lồ ô gãy rắc rắc. Nó quạt gió để phát hiện mục tiêu dưới đất. Khi phát hiện được nó dùng lựu đạn, đạn cối thả xuống tiêu diệt mục tiêu.

        Như vậy, địch đã phát hiện được nơi trú quân của Tiểu đoàn đặc công nên nó đánh phá hàng tiếng đồng hồ bằng các loại bom và bắn rốc két. Vì lệnh tuyệt đối giữ bí mật không được nổ súng nên nó tự do đánh phá. Sau cùng nó dùng máy bay cán gáo đến quạt và để bắt sống bộ đội ta. Máy bay sà xuống tận ngọn cây, quạt thấy miệng hầm, dùng càng thò xuống hầm để gắp người trong hầm ra, hai càng của nó giống như cái gọng kìm.

        Trước diễn biến phức tạp như vậy, anh em đặc công đã phải nổ súng. Bị bắn bất ngờ, cái càng thả xuống đã mắc vào rễ cây không sao nhổ lên được, nó đành phải chặt xích cho càng nằm lại để máy bay chuồn đi. Loại máy bay này dưới bụng nó gắn một lớp cao su dày, bắn đạn AK không thủng được. Sau này ta có kinh nghiệm cứ bắn thẳng vào hai bên cửa vì nó bao giờ cũng bay thấp.

        Chúng tôi tưởng thế là đủ, ai ngờ quá trưa địch dùng lực lượng lớn hơn cho L19 trinh sát tìm kiếm, lần ra xung quanh địa bàn buổi sáng nó oanh tạc và nó đã tới đơn vị tôi. Khi sáng, chúng tôi ngồi trong hầm xem địch đánh đơn vị bạn. Nay nó trực tiếp đánh vào mình mới thấy ghê sợ.

        Tiếng máy bay các loại ầm ầm, tiếng rít của bom giống như cơn lốc, không phân biệt được loại nào nữa. Cứ sau một phát pháo khói của LI9 là ba bốn chiếc phản lực bổ nhào ném bom. Hết bom thì hai ba chiếc trực thăng HUI A đến ném lựu đạn, bắn rốc két, bắn đại liên, rồi nghe tiếng máy bay cán gáo cứ vù vù như trận tố đến quạt cây cối ngả nghiêng. Những bụi cây lồ ô to như bụi tre gai ở đồng bàng cứ quật bên này, quật bên kia gãy oang oác. Chúng tôi nhìn rõ từng tên lính trên máy bay mặt đỏ gay, tay cầm lựu đạn sẵn sàng thả xuống.

        Bộ Tư lệnh tiền phương biết đem vị tôi bị lộ nên đã cho liên lạc xuống báo. Đơn vị tổ chức một bộ phận nhỏ ở lại chiến đấu, còn toàn bộ lợi dụng khi máy bay ngừng hoạt động cho lui khẩn trương về phía tây, nhanh chóng thoát ra khỏi vòng kiểm soát của địch. Tuy địch đánh phá như vậy nhưng chúng tôi mới có hai đồng chí bị thương vì đã có công sự vững chắc và các cửa hầm đã được ngụy trang cẩn thận.

        Đại đội rút quân, đồng chí Đạm ở lại cùng 5 đồng chí nữa tổ chức chiến đấu để nghi binh, cho đơn vị rút quân an toàn. Trong số ở lại có tôi, anh Đạm, Quý, Nhị, Thuật, Đông toàn lính truyền đạt.

        Đơn vị rút quân trong vòng lượn của máy bay các loại. Sau khi rút, một số miệng hầm lộ ra. Máy bay cán gáo đến quần lượn và thả lựu đạn xuống. Sau khi đơn vị rút được vài chục phút, ra khỏi vòng nguy hiểm, chúng tôi định rút nhưng không sao lên được vì máy bay quần đảo liên tục. Năm anh em chúng tôi cụm lại hầm Ban Chi huy Đại đội, anh Đạm nói:

        - Ta chia ra ba tổ bám sảt nhau người nọ yểm trợ người kia lui về phía Tây. Bây giờ ta nổ súng để địch biết là còn lực lượng ta ở đây, không dám đổ quân xuống và không truy đuổi đơn vị đang rút quân. Vừa bắn, vừa tránh né, vừa lui quân, ít người dễ xoay xở hơn.

        Anh Đạm phân công Thuật với Đông rút trước, rồi đến Đạm và Nhị, Hợi cùng Quý rút sau cùng. Chiếc máy bay cán gáo vòng lượn hạ thấp để quạt gió, tôi và Quý đồng loạt nổ súng. Nó vội bay vọt lên. Bốn anh lần lượt vọt ra khỏi hầm lợi dụng địa hình, địa vật, lui quân. Tôi và Quý vẫn ở lại nổ súng vào chiếc máy bay thứ hai. Chiếc này vòng lượn ra xa, gọi LI9 đến vòng lượn bắn pháo hiệu cho phản lực đến đánh tiếp. Lúc này tôi và Quý rời khỏi hầm chạy thẳng về phía tây thoát ra khỏi vòng nguy hiểm. Chúng tôi rút rồi máy bay còn đến đánh phá dữ dội hàng tiếng đồng hồ nữa.

        Anh Đạm, Nhị, Đông, Thuật khi chạy ra bị máy bay trực thăng phát hiện bắn AR15 từ máy bay xuống làm Đông và Nhị bị thương. Anh Đạm và Nhị bám được với nhau, Đông và Thuật mỗi người chạy một đường, bị thất lạc nhau.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Mười, 2017, 10:08:37 pm
   
        Gần tối, tôi và Quý tìm được đơn vị, các thủ trưởng mừng lắm, hỏi anh em ta đâu cả rồi. Tôi nói:

        - Tôi và Quý bắn máy bay để nghi binh. Anh Đạm, Nhị, Thuật, Đông rút trước nên chúng tôi không biết. Không hiểu anh em có làm sao không? Trời sắp tối rồi mà không ai về.

        Trời tối hẳn mới thấy Thuật lếch thếch về nói:

        - Tôi và Đông vừa chạy, vừa tránh đạn máy bay, nó bắn dữ quá nên hai anh em không bám được nhau. Ra khỏi vòng nguy hiểm tôi chờ và tìm mãi chẳng thấy anh Đông ở đâu. Gần tối, tôi gặp đường mòn bộ đội mới đi qua, tôi lần theo may mà về được đến đây.

        Khu vực này rừng rậm, lắm dốc, nhiều khe, hai người đi cách nhau vài chục mét là đã không nhận ra nhau, hơn nữa đi trong tình trạng bí mật không dám kêu to. Đơn vị hết sức lo lắng. Cử ở lại 6 người, tối rồi mới có 3 người về được, còn 3 nữa đi đâu, hi sinh, bị thương hay bị bắt. Nếu bị địch bắt, căn cứ này sẽ bị lộ, địch nhất định sẽ dùng B52 rải thảm.

        Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, thấy anh Đạm mò về, mặt mũi hốc hác như người mất hồn rồi nói lại:

        - Khi tôi và Nhị lên khỏi hầm chạy mấy chục mét thì Nhị bị thương do một mảnh đạn cối, từ trên trực thăng ném xuống. Mảnh đạn sạt vào đùi rất nặng. Tôi băng bó cho Nhị rồi hai anh em cố dìu nhau ra khỏi vòng nguy hiểm thì dừng lại nhưng không xác định được phương hướng vì địa bàn đã mất. Hai anh em cố dìu nhau đi tìm chỗ dốc cao để may ra nhìn được mặt trời, đi mãi chăng thấy gì cả.

        Gần tối Nhị mệt quá, cái bắp chân bị thương, quấn chặt băng và vận động liên tục nên bị sưng tấy, không thể đi được nữa. Từ sáng, chẳng có tí gì vào bụng, hai anh em móc gạo sấy ra ăn, nuốt chẳng vào vì miệng khát, khô cứng, lưỡi không làm sao cuốn thức ăn xuống cổ họng.

        Hai anh em bàn nhau mắc võng nghỉ tại đây chờ sáng mai tìm đường về đơn vị. Nhị bảo tôi ngồi lại để anh xuống suối tìm nước không thì chết khát mất. Tôi nói: “Cậu cứ ngồi đây chờ mình xuống suối tìm nước sau đó ta sẽ tìm chỗ nghi tạm”

        Khi tìm được nước đưa về tới chỗ Nhị ngồi thì chẳng thấy Nhị đâu cả, tôi tìm mãi vẫn không thấy. Trời tối, tôi đành mắc võng nằm ngủ ngay tại đó. Thật vô lý khẩu súng AK dựa vào gốc cây vẫn còn nằm nguyên, vậy mà Nhị đi đâu. Cả đêm tôi không hề ngủ được, cứ mong trời sáng để tìm Nhị. Sáng ra tôi tìm khắp cũng chẳng thấy đâu, may mà tìm được đường mòn và lần về được đến đây.

        Theo anh Đạm kể, chỗ anh nghỉ đêm qua cách đây không xa, chỉ một tiếng đồng hồ. Đơn vị tổ chức lực lượng đi tìm cả ngày mà chả thấy Đồng và Nhị đâu. Sáng ngày thứ ba, người dân tộc vào báo có một bộ đội bị thương đang nằm gần rẫy của dân không đi được nữa.

        Đơn vị theo hướng dẫn của người dân đến để xem Nhị hay là Đông. Đến nơi thì thấy Đông. Đông bị thương ờ bụng, tự băng bó nên mất liên lạc với Thuật, rồi cắm cổ chạy mà chẳng thấy đơn vị đâu. Chạy mãi, kiệt sức Đông thấy một cái rẫy của dân nên năm ngay cạnh đó.

        Đông bị một viên đạn A RI5 của địch bắn từ máy bay xuống xuyên qua ổ bụng, bị thủng một chỗ mà không chết. Khi đưa anh về trạm phẩu thuật, các bác sỹ đã phẫu thuật thành công, vá và cắt bỏ một số đoạn ruột đã bị hoại tử. Các bác sỹ nói sờ dĩ anh Đông sống được là nhờ bị thương khi trong ruột không có gì.

        Cũng vào chiều thứ ba một người dân tộc vào báo có một bộ đội bị ông cọp ăn hết thịt rồi, còn xương thôi. Đơn vị đoán chắc là Nhị, liền tổ chức người đi theo người dân dẫn đường. Khi đến nơi thấy một bộ xương người còn tươi. Anh em chỉ xác định qua mấy mảnh vải quần áo hổ xé tung tóe dính đầy máu. Đó đúng là Nhị rồi, anh em đùm gói đưa Nhị về chôn cất chu đáo.

        Đơn vị chúng tôi bị địch đánh trúng vị trí trú quân là do đài 15W phát sóng làm việc bị ra đa định hướng của địch bắt được sóng. Địch cho L19 lên xác định đúng mục tiêu để đánh phá.

        Chúng tôi cùng anh em bộ đội địa phương liên tục bám đường 19 tìm cơ hội tốt dẫn đơn vị vượt đường 19 về phía Đông Nam. Hôm trước chúng tôi vượt đơn giản hơn, nay đơn vị quân số đến năm sáu trăm người lại toàn cơ quan Trung đoàn bộ và các Đại đội trực thuộc, nếu gặp địch là rất khó khăn.

        Trung đoàn cho Tiểu đoàn 1 bám địch bảo vệ Đông Nam đường 19 để chúng tôi vượt qua đường an toàn. Cuối tháng 12, đơn vị vượt đường an toàn, hành quân thẳng lên dãy núi cao trú quân.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Mười, 2017, 10:10:26 pm

BÁM ĐƯỜNG 19 ĐÁNH GIAO THÔNG

        Như vậy Trung đoàn chúng tôi suốt hơn 6 tháng hoạt động phân tán trải dài trên một địa bàn rộng. Trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc hoạt động ờ phía sau, còn hai Tiểu đoàn bộ binh thì hoạt động độc lập sâu vào hậu phương của địch.

        Lương thực, thực phẩm và công tác hậu cần đều do cơ quan Tỉnh đội Gia Lai cung cấp. Do nhiệm vụ và địa hình nên các đơn vị đóng quân xa nhau. Hai Tiểu đoàn bộ binh và Đại đội công binh liên tục bám đường 19 đánh giao thông đoạn Đông - Tây cầu Xà Guồng và Đông đèo

        Mang Giang. Trung đoàn vừa ổn định nơi ăn ở, vừa nghiên cứu trận địa tổ chức ngay một trận đánh cấp Trung đoàn trên đường 19.

        Ngày 27 tháng 12 năm 1967, hai Tiểu đoàn bộ binh tổ chức một trận đánh giao thông trên đường 19. Chỉ sau 10 phút vận động tấn công, ta đã tiêu diệt 69 xe quân sự, trong đó có một số xe M113. Quân ta an toàn. Hai tiểu đoàn được bố trí trên một đoạn khá dài, tổ chức chặn đầu khóa đuôi rất tốt. Cả đoàn xe quân sự, lọt gọn vào giữa trận địa phục kích.

        Đánh xong bộ đội vận động xa hàng cây số rồi địch mới phản ứng. Địch cho hàng chục lần máy bay trực thăng lên để khắc phục hậu quả, chờ thương binh, tử sỹ và cho kéo những chiếc xe bị cháy xuống đường. Anh em cả Trung đoàn ai cũng phấn khởi, nhất là khi nghe Đài phát thanh Giải phóng nhiều lần phát tin trên đài.

        Ngày 27 Tết, Trung đoàn tổ chức 2 đoàn đi nghiên cứu trận địa trên đường 19, Tiểu đoàn 1 nghiên cứu đoạn chân đèo Mang Giang. Còn Tiểu đoàn 2 nghiên cứu trận địa chốt chặn ngay trên đỉnh đèo Mang Giang về phía Nam đường. Vì Trung đoàn trưởng ốm nên Chính ủy Nguyễn Hữu Hưu đi nghiên cứu cùng Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 2, có 4 trinh sát Trung đoàn và 2 truyền đạt là tôi và Quý đi cùng.

        Chiều 28 Tết, chúng tôi tới gần mặt đường thì dừng lại, chờ trời tối mới ra đường 19. Đêm yên lặng, không có xe cộ qua lại, chúng tôi thoải mái đi trên đường. Xác định trận địa chốt chặn, trận địa hỏa lực, trận địa đặt 2 khẩu súng phun lửa tăng cường cho Tiểu đoàn 2, xác định vị trí Sở Chi huy Tiểu đoàn.

        Sở Chỉ huy Tiểu đoàn đặt trên đinh đồi, cây cối rậm rạp, nhưng lại nhìn rất rõ toàn bộ trận địa chốt của đơn vị chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, chúng tôi lùi ra hơn một kilômét, dựa vào một khe cạn tranh thủ nghi, sáng hôm sau đi tiếp. Từ đây ra phía sau toàn rừng rậm nên đi ban ngày được.

        Đêm đó tôi trải ni lông nằm bên cạnh Chính ủy Nguyễn Hữu Hưu chuyện trò thân mật như tình cha con, vì địa vị xã hội và tuổi tác ông vào bậc cha chú. Ông nói:

        - Sáng mai đoàn cán bộ quay về, hai trinh sát, hai truyền đạt ở lại đây chờ bộ đội hành quân đến rồi dẫn các đơn vị vào chiếm lĩnh trận địa.

        Tôi hỏi:

        - Thủ trường ơi! Tết Nguyên Đán ta và địch đều ngừng bắn sao lại đưa bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa?

        Ông trả lời:

        - Ta muốn ngừng bắn nhưng địch nó có ngừng đâu nên ta phải đánh chứ sao. Nếu không có gì thay đổi chỗ này sẽ đặt Sở Chi huy Trung đoàn. Các cậu khi đưa bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa xong quay về đào hầm ở ngay cạnh Sở Chỉ huy Tiểu đoàn 2 để sẵn sàng chạy đi chạy lại, truyền đạt chỉ thị mệnh lệnh của Trung đoàn và đưa các báo cáo của Tiểu đoàn lên chứ đường dây điện thoại thì khi nổ súng chắc là bị đứt không liên lạc được. Tuy Trung đoàn đã tăng cường cho Tiểu đoàn 2, máy 2W nhưng đề phòng trục trặc.

        Sáng ra đoàn cán bộ quay về đơn vị để dẫn bộ đội. Tôi, Quý và hai trinh sát bám địch chờ bộ đội hành quân tới sẽ dẫn vào chiếm lĩnh trận địa.

        Ban ngày chúng tôi đứng trên dốc cao nhìn xuống đường 19, đèo Măng Giang đẹp vô cùng. Con đường uốn khúc quanh co, có đoạn gấp khúc theo đường bình độ của dãy núi có lẽ từ chân đèo đến đỉnh đèo có đến mấy chục kilômét. Xe cộ cứ nối đuôi nhau chạy cả ngày vì giáp Tết nên lượng xe càng đông, chủ yếu là xe quân sự xe GMC, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe khách. Tất cả các loại xe đều cắm cờ ba sọc lên đầu xe giống như đoàn xe đi đưa đám.

        Ở tận dưới chân dốc, có một cụm vừa lính vừa nhân viên bảo dưỡng đường, có hai đến ba chiếc xe M113 và mấy chiếc xe húc, xe ủi. Bộ đội lợi dụng rừng rậm hành quân ban ngày. Khoảng hon bảy giờ tối 30 tháng 12 Tết, Tiểu đoàn 2 đã hành quân tới chỗ chúng tôi. Chúng tôi cùng các đồng chí cán bộ dẫn bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa.

        Bộ đội chiếm lĩnh trận địa xong, bốn chúng tôi về đào hầm nằm ngay cạnh hầm Tiểu đoàn trưởng Bảy, để vừa trực phóng, vừa trực máy điện thoại.

        Bộ đội người thì đào hầm, người thì vào rừng cưa cây làm hầm. Những cây gỗ to như cột nhà, nặng đến 60kg mỗi người một khúc vác vẫn thấy dễ dàng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Mười, 2017, 10:13:12 pm

        Trận địa chốt của Tiểu đoàn 2 có hai Đại đội phía trước nằm trên đồi trọc chi có cỏ tranh, còn các đơn vị nằm ở bìa rừng. Hai khẩu súng phun lửa nằm ở bờ dốc phải đề phòng địch cho bộ binh đánh chọc sườn trận địa chốt

        Tiểu đoàn 1 và một số đơn vị trực thuộc như công binh, pháo binh, cối 82, ĐKZ phục kích đánh vận động dưới chân đèo Măng Giang. Dự kiến khi địch đến đỉnh đèo, ta sẽ tấn công làm xe cộ ùn lại, bộ đội sẽ vận động tấn công. Cối 82 và ĐKZ bắn vào các trận địa pháo 105 ly dã chiến của địch ở cầu Xà Guồng. Tất cả nhằm chi viện cho Tiểu đoàn 2 chốt chặn ờ đỉnh đèo Măng Giang

        Đúng giao thừa Tết Mậu Thân, Tiểu đoàn trưởng Bảy reo lên:

        - Toàn miền Nam tổng tấn công và nổi dậy rồi! Miền Nam sắp giải phóng rồi!

        Từ giao thừa cho tới sáng bộ đội tranh thủ củng cố lại công sự. Chúng tôi liên tục theo dõi Đài phát thanh Giải phóng, ai cũng bồi hồi xúc động, vui sướng vô cùng và ai cũng tin là giải phóng tới nơi rồi.

        Khoảng hơn 7 giờ sáng, một chiêc L19 bay rất thấp lướt nhẹ trên đường 19. Vì chúng tôi ở trên dốc nên cảm giác mình cao hơn chiếc LI9. Sau đó có hai chiếc trực thăng bay thấp sát ngọn cây dọc hai bên đường 19, từ An Khê lên PLâycu để trinh sát phát hiện lực lượng ta. Trận địa chốt tuy ở ngoài trống, nhưng anh em ngụy trang kín đáo nên vẫn giữ được bí mật.

        Khoảng 9 giờ sáng, chúng tôi lại thấy chiếc LI9 và hai chiếc trực thăng đi trước, trinh sát, hộ tống hơn 100 xe quân sự chạy từ An Khê lên PLâycu. Chúng tôi nhìn rất rõ những chiếc xe GMC chở đủ các loại hàng, chủ yếu là súng đạn, xăng dầu bò lên dốc, chậm chạp uốn lượn theo đường có tới mấy cây số.

        Chiếc M113 dẫn đầu vừa tới trận địa chốt của ta, bị B40 bắn cháy ngay tại chỗ. Sau đó, AK, cối 60, cối 82 bắn xối xả vào đoàn xe làm cho đường ở đinh dốc bị tắc nghẽn, nhiều chiếc nằm ngay giữa đường. Đoàn xe quân sự của địch dừng lại ở phía dưới chân dốc kéo dài hàng mấy cây sổ. Tiểu đoàn 1 vận động tẩn công tiêu diệt hàng chục chiếc.

        Địch biết ta tổ chức chốt ở đèo Măng Giang nên đã gọi máy bay và pháo binh bắn dữ dội vào trận địa chốt của ta. Bộ đội dựa vào công sự kiên quyết bám trụ, không cho địch đến khắc phục hậu quả để thông xe.

        Bị tấn công bất ngờ trên các chiến trường, đặc biệt là các thành phố lớn nên địch phải căng kéo bị động đối phó. Do đó, ở trận địa chốt của ta chủ yếu chúng dùng pháo binh và máy bay đánh phá chứ chưa cỏ bộ binh phối hợp tấn công.

        Đường 19, con đường huyết mạch vận chuyển lương thực, thực phẩm và mọi phương tiện chiến tranh như xăng dầu, sủng đạn, quân trang, quân dụng khác cho Tây Nguyên. Lúc này các trung tâm tinh lỵ PLâycu, Buôn Mê Thuật, Kon Tum đang bị ta tấn công và làm chủ.

        Ta cắt đường 19 coi như cắt cuống họng, cắt nguồn thực phẩm xuống dạ dày của địch, nên chúng phản ứng quyết liệt. Cả ngày mồng một Tết trận địa chốt Tiểu đoàn 2 vẫn kiên cường bám trụ, không hầm nào bị sập, không ai bị thương vong. Tối đến bộ đội củng cố lại hầm hào và được bổ sung thêm đạn dược.

        Sáng ngày mồng 2 Tết, địch phản ứng quyết liệt hơn. Mới khoảng 7 giờ sáng, pháo địch đã cấp tập bắn vào trận địa. Chúng tăng cường xe tăng M41 và M48 bắn thẳng vào trận địa, máy bay liên tục thay nhau bổ nhào cắt bom, trực thăng đổ quân cả phía trước và sườn trái để đánh vào trận địa. Trận địa của ta chỉ hơn một héc ta mà không biết bao nhiêu bom đạn địch đổ vào.

        Lúc bắn pháo, địch tranh thủ cho xe tăng kéo xác các loại xe bị cháy xếp thành một dãy như một bức tường trước mặt trận địa để xe chờ hàng đi phía bên kia. Chúng làm vậy đã hạn chế được súng bộ binh ta. Tiểu đoàn cho cối 60, cối 82 bắn ngay vào giữa đoàn xe làm nhiều chiếc bốc cháy. Vì xe chủ yếu chở xăng dầu và đạn pháo.

        Tôi nghe Tiểu đoàn trưởng Bảy nói, để giảm bớt khó khăn cho Tiểu đoàn ta Trung đoàn đang lệnh cho Tiểu đoàn 1 tổ chức vận động tấn công địch liên tục ở phía sau, vừa tiêu diệt địch vừa làm cho chúng hoang mang, dao động không dám đi lên. Tôi ngồi sát hầm Tiểu đoàn trường suốt 2 ngày, liên tục chịu bom pháo, cây cối xơ xác, cành lá đổ ngổn ngang, chỉ có quả nào trúng hầm thì anh em mình hi sinh, tất cả bám hầm chiến đấu.

        Đường dây điện thoại của Trung đoàn xuống Tiểu đoàn chỉ sử dụng được mấy tiếng đồng hồ sau đó đứt hết, may mà 2W làm việc thông suốt, nên đến tối Tiểu đoàn tổng hợp hai anh em chúng tôi mới phải về Trung đoàn báo cáo một lần.   

        Tối ngày thứ hai, vận tải Trung đoàn mang cơm, nước, đạn dược ra rồi cáng thương binh, tử sỹ về phía sau. Chúng tôi tranh thủ đào đắp thêm công sự, cưa những khúc gỗ to chất thành nhiều lớp trên hầm, nếu địch có bắn pháo trúng cũng sẽ không bị sập.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Mười, 2017, 10:13:41 pm

        Sáng ngày thứ ba, tức mồng 3 Tết Mậu Thân - 1968, địch đánh phá ác liệt hơn. Chúng tăng cường lên 2 trận địa pháo 105. Mới tảng sáng, địch đã bắn như vãi đạn vào trận địa. Sau đó, dùng máy bay lên thả bom đào, bom tấn, rồi dùng trực thăng đổ quân cả phía trước, phía phải tấn công vào trận địa ta.

        Địch quyết tâm nhổ bằng được trận địa chốt của ta. Anh em ta kiên quyết bám trụ. Địch không có công sự nên mỗi đợt tấn công lên đều bị đánh bật xuống. Tiểu đoàn trưởng Bảy nói:

        - Ta được tăng cường 2 khẩu súng phun lửa, bố trí ở giữa sườn bên phải gần 3 ngày rồi chẳng có một thằng địch nào lên uổng quá. Chắc chúng đoán hướng này địa hình trống trải, dốc thoải, ta sẽ có lực lượng mạnh nên địch đều tổ chức tấn công ở những nơi ta cho là khó khăn nhất như bên trái và phía sau.

        Những lúc pháo bắn dữ dội vào trận địa ta, có một số xe địch liều mạng vượt qua. Địch quyết hủy diệt chốt để thông xe cứu lấy Tây Nguyên.

        Tiểu đoàn 1 và các đơn vị trực thuộc liên tục tổ chức nhiều trận địa vận động phục kích, tập kích, pháo kích bắn cháy nhiều xe tăng phá hủy nhiều khẩu pháo, gây cho địch nhiều thiệt hại. Tuy vậy chúng, vẫn tập trung lực lượng để nhổ chốt của ta.

        Tối ngày thứ ba, chúng tôi được lệnh rời khỏi chốt hành quân ra phía sau nhận nhiệm vụ gấp. Vào thời điểm này, các đơn vị tấn công vào thị xã PLâycu đã gặp nhiều khó khăn. Địch đã lấy lại tinh thần, phản kích quyết liệt. Quân ta lọt vào thị xã PLâycu lực lượng mỏng. Chi có một Tiểu đoàn bộ đội địa phương và 2 Tiểu đoàn đặc công.

        Trung đoàn bộ binh 24 bị địch phản kích vòng ngoài không vào được. Vì vậy, hai ngày đầu anh em bộ đội địa phương và đặc công đã đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng trong thị xã nhưng không thể giữ được. Trung đoàn 95 hoạt động ở phía đông đèo Măng Giang cách thị xã PLâycu quá xa, phải đi ba bốn ngày mới tới. Nhưng Bộ Tư lệnh B3 quyết định cả Trung đoàn kiện toàn lại tổ chức, xốc lại lực lượng nhanh chóng hành quân về phía tây, tấn công vào thị xã PLâycu theo hướng đường 19 đánh lên để hỗ trợ cho các đơn vị bên trong đang gặp khó khăn.

        Chúng tôi hành quân mấy ngày liền đến khu vực ngã ba đường 14 và đường 19 (đường 14 đi Buôn Mê Thuật), dừng lại chấn chinh đội hình để tối hành quân tấn công vào thị xã PLâycu thì nhận được điện không tổ chức tấn công vào thị xã nữa.

        Mậu Thân 1968, thắng lợi vang dội, gây cho địch nhiều thiệt hại phải bị động đối phó và phải chấp nhận ngồi đàm phán với ta ở Pa ri. Song hậu quả để lại cũng vô cùng to lớn về người và của.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Mười, 2017, 10:15:34 pm

TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN VÀ TIẾP TỤC NHỮNG NGÀY THÁNG ÁC LIỆT

        Gần 6 tháng đi công tác xa đại đội, tôi theo các thủ trưởng Trung đoàn liên tục hoạt động độc lập. Chỉ mấy thầy trò đi nghiên cứu địa hình, nghiên cứu trận địa, rồi tổ chức chiến đấu giành nhiều thắng lợi.

        Tôi và Quý về đơn vị, các thủ trưởng ai cũng mừng. Thủ trường Như, Chính trị viên Đại đội gọi tôi và Quý lên gặp. Chúng tôi kể lại những việc làm của mình trong thời gian đi phục vụ thủ trưởng Trung đoàn. Thủ trưởng Như cũng như các đồng chí khác trong Ban Chi huy Đại đội rất vui và nói:

        - Chúng tôi biết tất cà, các thủ trưởng Trung đoàn cũng đã nói hết với chúng tôi rồi. Các đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Thủ trưởng Như nói tiếp:

        - Cấp ủy họp và đã xét kết nạp Đảng cho hai đồng chí ngay tại trận, ngay ở trên chốt, nhưng do địch đánh phá ác liệt quá chúng tôi không lên được. Chiều nay chi bộ sẽ tổ chức kết nạp Đảng cho hai đồng chí coi như kết nạp tại trận mong các đồng chí thông cảm.

        Ngày vào Đảng của tôi và Quý là ngày 11 tháng 2 năm 1968, chúng tôi mừng lắm vì mình mới về đơn vị được một năm lại liên tục đi công tác xa ấy thế mà cấp ủy, các thủ trưởng luôn quan tâm theo dõi những công việc của mình làm. Ngày ấy vào Đảng sao khó thế. Đại đội 16 chúng tôi từ ngày vào Nam đến giờ đã hơn 2 năm, mới kết nạp được hai đồng chí, nay thêm tôi và Quý nữa là bốn.

        Được vào Đảng là vinh dự, tự hào. Với thời gian dự bị là 9 tháng, phải thừ thách trong điều kiện chiến đấu ác liệt. Nếu mình không phấn đấu tiếp sẽ bị xóa tên. Vì thế, mình phải gương mẫu hơn và đơn vị sẽ còn giao nhiều nhiệm vụ khó khăn hơn.

        Sau Mậu Thân 1968, địa bàn hoạt động của Trung đoàn gặp rất nhiều khó khăn. Địch đổ quân lùng sục khắp nơi, đặc biệt là nó rải quân phục kích đường tiếp tế từ ngoài vào cho Trung đoàn.

        Cả một Trung đoàn bộ binh, gạo, đạn, thuốc men với một khối lượng rất lớn, chi trông cậy vào Tiểu đoàn vận tải của Bộ Tư lệnh B3. Địch liên tục phục kích. Ba đại đội đi vận tải thì chi có một đại đội mang hàng, còn hai đại đội bảo vệ và chiến đấu.

        Trung đoàn phải điều thêm một Tiểu đoàn bộ binh và rút bớt lực lượng trực thuộc đi vận chuyển, nhưng chẳng được mấy chuyến đi trót lọt. Quân số thương vong đi lấy hàng cao hơn nhiều so với chiến đấu. Đồng chí Thắng, Chính trị viên Tiểu đoàn bị hi sinh khi đi lấy hàng.

        Nguồn hàng mì chính, muối và một số thuốc kháng sinh trước đây Ban kinh tài các huyện mua từ vùng địch hậu, nay địch đã khóa chặt và cơ sở của ta cũng bị bắt gần hết. Một chuyến hàng từ hậu cứ vào Trung đoàn chúng tôi nếu đi suôn sẻ phải mất 7 ngày. Do khó khăn về vận tải nên chi ưu tiên vận chuyển súng đạn, thuốc men, còn lương thực thì từ tháng 3 năm 1968 đơn vị ăn toàn sắn và ngô của dân tại chỗ.

        Người ốm đau không ăn được cơm thì mới có tý gạo nấu cháo. Tôi nhớ Trung đoàn trường cần cứ mỗi khi ăn sắn nẩu với ngô là nôn. Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn quyết định để bảo đảm sức khỏe cho thủ trường, Trung đoàn trưởng cần mỗi ngày được ăn một lạng gạo. Ấy thế mà thủ trường chẳng dám ăn, anh em công vụ phải tìm mọi biện pháp cải tiến để thủ trưởng ăn được. Ngô thì rang lên, sắn thì làm bánh và nướng.

        Anh em đi chiến đấu hai ba ngày phải dùng sắn nướng cả vỏ cột gói mang theo chẳng khác nào vác thêm mấy quả đạn B40. sắn nướng ăn ba bốn ngày không bị thiu.

        Muối cũng vô cùng khan hiếm. Mỗi người, mỗi tháng chi được ba lạng muối, anh em phải đào thêm riềng gió dã nhỏ trộn vào để ăn cho đủ. Bữa nào săn được con thú rừng, cán bộ phải đi gom mỗi đồng chí một thìa muối để nấu. Hằng ngày canh nấu chín rồi thì chia ra, người nào người nấy tự bỏ muối vào mà ăn. Vì chúng tôi đi công tác lẻ thường xuyên, nên mồi khi nhận muối về là cán bộ chia ra từng đồng chí tự bảo quản và tự chia ra mà ăn cho đủ tháng. Mì chính thì chỉ dành cho thương binh, bệnh binh ăn cháo.

        Địch liên tục đổ quân lùng sục lên tận các hang đá, đổ nhiều trận địa pháo để bắn phá lung tung.

        Chúng tôi phải thường xuyên di chuyển vị trí. Đại đội quân y được tăng cường, cả Đại đội vận tải đi cùng để khiêng cáng thương binh. Tất cả thương binh, bệnh binh đều nằm trên cáng để sẵn sàng di chuyển khi có địch càn. Chúng tôi thường xuyên theo dõi nắm địch để tránh né các đường hành quân của chúng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Mười, 2017, 09:41:32 pm

        Chiến trường vùng này toàn là lính Mỹ nên nó đổ quân ở đâu, đường hướng đi thế nào rất dễ phán đoán.

        Trước khi đổ quân địch cho pháo hoặc máy bay bắn phá cả một vùng để dọn bãi, đường hành quân có máy bay dẫn đường. Địch đi thường theo phương vị trên bản đồ nên nó cứ đi thẳng. Trên đường đi, gặp dốc núi cao, đứng bao nhiêu cũng cứ đi thẳng, không vòng tránh. Gặp suối sâu, không qua được thì chúng gọi máy bay trực thăng đến tăng bo. Gặp các đường cắt ngang của bộ đội ta cũng không lùng sục theo vì sợ mìn và sợ ta phục. Địch đi theo mệnh lệnh và sự chi dẫn của trung tâm do vậy ta rất dễ tránh né. Có những lần chúng tôi đi bám địch chỉ nằm cách nó vài trăm mét, cứ ngồi chờ nó đi đường nào là chạy về báo đơn vị tránh né.

        Các đơn vị cùa Trung đoàn đóng cách nhau rất xa, nhất là 2 Tiểu đoàn bộ binh có khi phải đi 2 đến 3 ngày đường.

        Hệ thống thông tin liên lạc rất khó khăn chủ yếu là chạy bộ và hiệp đồng. Máy 15W của Trung đoàn chủ yếu dùng để báo cáo lên cấp trên và nhận chi thị của trên xuống. Nhưng cứ mỗi lần mở máy ra làm việc là hầu như bị lộ, chỉ một chốc là có pháo hoặc máy bay trinh sát đến, rồi máy bay phản lực ném bom và nhiều lần bị B52 đánh bom.

        Vùng này chi có một dãy núi cao, cái đuôi của đèo Măng Giang xuống còn lại là bằng phăng. Địch có hệ thống ra đa quét ở đèo An Khê nên cứ mở máy ra là nó phát hiện được. Chính vì vậy nên ta chủ yếu dùng máy 2W dành cho lúc nổ súng.

        Trung đoàn giao nhiệm vụ cho các đơn vị liên tục chủ động tấn công địch bằng nhiều hình thức: Phục kích, tập kích, pháo kích... đánh cả phía trước và phía sau. Mỗi lần địch đổ quân ra càn quét về hậu phương ta thì ta lại tổ chức những trận đánh giao thông trên đường 19.

        Các đơn vị trực thuộc như công binh, trinh sát, thông tin, truyền đạt, thay nhau 5 đến 7 người bám đường 19, đánh mìn, bắn phá đường ống dẫn dầu của địch. Khi ống bị bắn thủng, dầu chảy lênh láng xuống sông làm cá chết trôi trắng sông cả tuần.

        Tháng 6 năm 1968, địch đổ một Đại đội 5 khẩu pháo 105 ly xuống để bắn chi viện cho một Tiểu đoàn lính Mỹ đi càn. Nó vừa đổ xong, lập tức Trung đoàn cho 2 khẩu cối 82 tập kích, cả 5 khẩu pháo đều bị hỏng nặng, lính bị thương vong nhiều, địch phải cho máy bay lên cẩu pháo về.

        Khu vực chúng tôi hoạt động rộng lắm, có nhiều chỗ pháo binh của địch ở các căn cứ không thể bắn tới nên mỗi lần đi càn quét địch đều đổ pháo 105 ly xuống để hỗ trợ.

        Những tháng đầu mùa mưa là khó khăn nhất về đạn dược. Lúc nào Trung đoàn cũng hô hào đánh tiết kiệm, thiếu nhất là đạn hỏa lực B40-B41, ĐKZ và cối 82. Đơn vị đánh giao thông mà đạn B40, B41 chỉ để dành bắn xe tăng, còn xe chở dầu, chờ đạn thì bắn AK và lựu đạn, thủ pháo.

        Cuối mùa mưa năm 1968, máy bay địch rải chất độc hóa học dọc hai bên đường 19 làm cho cỏ cây chết hết. Sau đó cho mảy máy bay phun xăng rồi đốt cháy hết tạo nên một dải trống rỗng khoảng 300 đến 400 mét. Việc đánh giao thông của ta gặp rất nhiều khó khăn. Trước đây bộ đội nằm cách mép đường có mười đến mười lăm mét nay phải nằm cách xa 300 đến 400 mét.

        Tổ chức một trận đánh hết sức công phu, phải hiệp đồng nhiều bộ phận, nhiều loại hỏa lực, nhiều đơn vị với nhau. Trung đoàn tổ chức đặt một đài quan sát trên núi cao theo dõi lưu lượng xe đi trên đường, cự ly, khoảng cách, tốc độ và cách tổ chức bảo vệ của nó. Chúng tôi có 4 trinh sát và 4 lính truyền đạt đặt đài quan sát này.

        Cứ hai ngày chúng tôi về báo cáo với Trung đoàn một lần vì không có máy 2W. Hằng ngày chúng tôi theo dõi, thấy địch hoạt động như sau:

        Sáng ra, các tổ công binh đi kiểm tra, dò mìn trên đường và cả hai bên đường. Tiếp đó, LI9 bay thật thấp dọc đường quan sát rồi đến 2 chiếc trực thăng HU1A bay thấp 2 bên đường từ An Khê đến PLâycu rồi quay lại. Sau đó, lính bảo vệ đường rải ra chốt những điểm xung yếu mà ta hay tấn công. Mỗi điểm một tiểu đội lính và một chiếc xe M113. Khoảng gần 8 giờ sáng, máy bay đi trước dẫn đường, cho các đoàn xe vận tải đi sau.

        Nắm được quy luật hoạt động của địch như vậy, Trung đoàn cho Đại đội công binh dùng một Tiểu đội bẩn tỉa, bắn lính địch đi dò mìn. Súng bắn tia ở cự ly 500 đến 600 mét thì bắn phát nào trúng phát đó. Cứ mỗi sáng diệt vài tên, làm cho lính công binh của địch phát khiếp không dám đi dò mìn nữa.

        Sau nhiều lần đánh cấp đại đội và tiểu đoàn, Trung đoàn quyết định tổ chức một trận đánh cấp Trung đoàn, lực lượng chủ yếu vẫn là 2 Tiểu đoàn bộ binh. Nhưng trận đánh này huy động toàn bộ các Đại đội trực thuộc tham gia.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Mười, 2017, 09:42:26 pm

        Tôi nhớ hôm đó là một ngày cuối tháng 7 năm 1968, trận phục kích vận động đánh giao thông trên đường 19 đoạn phía tây cầu Xà Guồng.

        Hơn 8 giờ sáng, đài quan sát báo về Trung đoàn, đoàn xe của địch hơn 100 chiếc, có xe tăng hộ tống đã vượt qua đèo An Khê, trước trận địa phục kích của 2 Tiểu đoàn. Địch có 2 cụm lính, mỗi cụm 2 chiếc xe M113 làm nhiệm vụ canh phòng và sẵn sàng tác chiến bảo vệ đoàn xe trên đường hành quân.

        Theo hiệp đồng, khi đoàn xe địch chạy lọt vào đội hình, chiếc đầu tới tổ chặn đầu thì lập tức dùng ĐKZ bắn chặn đầu và bắn khóa đuôi. Hai tiểu đoàn dùng ĐKZ 82 kết hợp B41 diệt hai cụm xe tăng cảnh giới của địch để bộ đội xung phong đánh thẳng vào đoàn xe.

        Đường vận động của bộ đội khá xa, đến 500 mét. Khi bộ đội vận động tấn công, 2 khẩu cối 82 bắn kiềm chế vào hai trận địa pháo để đảm bảo cho bộ binh rút quân an toàn về phía sau.

        Khi cối 82 bắn, lực lượng công binh cho nổ mìn ở trận địa giả để địch cho máy bay lên oanh tạc và pháo phản pháo vào trận địa giả, tạo điều kiện cho pháo binh rút quân ra khỏi vòng nguy hiểm.

        Tôi ngồi ở đài quan sát cùng với anh em trinh sát theo dõi trận đánh. Trận đánh đúng theo ý định của ta, giống như diễn tập. Tiếc thay đoàn xe chạy cách nhau quá xa nên chi có 2 phần 3 lọt vào đội hình. Quân ta nhảy ra mặt đường tiêu diệt đoàn xe, bắn cháy hơn 60 chiếc, trong đó có một số xe tăng, xe bọc thép.

        Một số anh em nhảy vào ca bin xe, lấy được hơn 10 khẩu súng AR15 và một số quân dụng khác. Đoàn xe bốc cháy hàng tiếng đồng hồ làm đoạn đường tắc nghẽn.Buổi chiều địch cho xe tăng, xe ủi lên húc những chiếc xe cháy xuống vệ đường. Trận đánh kết thúc. Khi về phía sau rút kinh nghiệm, từ cán bộ đến chiến sỹ ai cũng thừa nhận đây là một trận đánh hay, hiệu quả cao, không có thương vong.

        Tổng kết 6 tháng hoạt động của đầu năm 1968, Trung đoàn tôi đã bắn cháy 660 xe quân sự các loại. Trong đó có một số xe tăng, xe bọc thép M113, được Bộ Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đánh giá là Trung đoàn đánh giao thông giỏi nhất toàn Miền. Tổng số xe của Trung đoàn diệt được bằng 1 phần 4 số xe Mỹ Ngụy bị quân giải phóng tiêu diệt.

        Địch choáng váng trước trận đánh thần kỳ của Trung đoàn 95, chúng đổ quân đi càn quét ra phía sau của ta. Trung đoàn cho công binh, trinh sát dùng nhiều tổ nhỏ lẻ, cài mìn đánh phá đường ống dẫn dầu trên đường 19. Tổ chúng tôi vẫn liên tục bám đài quan sát để theo dõi mọi hoạt động của địch từ An Khê đến đèo Mang Giang. Thực chất thì chỉ nắm được một đoạn đường tây cầu Xà Guồng vì địa hình đoạn này ta mới triển khai được trận địa phục kích.

        Các đoạn khác dốc ngược, bộ đội không thể vận động được. Nếu ờ phía bên kia đường đánh sang thì thuận lợi nhưng toàn dốc cao, không có nơi dấu quân, đánh xong không biết chạy về đâu.

        Chúng tôi ờ đài quan sát theo dõi quy luật hoạt động của một Trung đội lính Mỹ, có xe tăng hỗ trợ để bảo vệ cầu Xà Guồng.

        Sáng ra, địch trên hai chiếc M113 đi tuần tra trên tuyến đảm nhiệm. Nếu đường an toàn không có vấn đề gì là chúng về đậu xe thành hai điểm, cởi quần áo chỉ mặc có một cái quần lót chơi bóng chuyền. Thằng nào thằng nấy to cao, béo đỏ chia nhau ra chơi bóng hàng tiếng đồng hồ rồi nhảy xuống suối tắm.

        Địa hình xung quanh sân bóng, địch cho xe ủi bằng phẳng và có một con suối bao bọc phía ngoài. Bên này bờ suối vào tới bìa rừng dài khoảng 400 mét, cây cối bị đốt cháy sạch. Đang mùa mưa nên có nhiều rãnh nước chảy xói mòn, một số cây cháy chưa hết còn ngổn ngang.

        Chúng tôi báo cáo với Trung đoàn về quy luật hoạt động của Trung đội lính Mỹ và địa hình, địa vật xung quanh cầu Xà Guồng, đặc biệt là địa hình tiếp cận sân bóng chuyền của địch. Sau khi nghe báo cáo, Trung đoàn quyết định tổ chức một trận tập kích diệt Trung đội Mỹ này.

        Trung đoàn giao cho trinh sát dẫn cán bộ đại đội, cán bộ Tiểu đoàn 2, ban đêm mò vào nghiên cứu trận địa và xác định cách đánh. Qua nghiên cứu thực địa và tình hình cụ thể, Trung đoàn quyết định dùng một Trung đội bộ binh tăng cường do Đại đội trường Đại đội 3 chỉ huy. Trung đội độn thổ sẵn, khi địch xuất hiện dùng hỏa lực và súng bộ binh tập kích.

        Hôm đó, vào giữa tháng 7 năm 1968, tối đến Đại đội 3 tiền nhập trận địa lợi dụng các rãnh đất, các loại cây cháy dở anh em vẹt đất nằm độn thổ, 12 người mà chi có 3 khẩu súng B40. số còn lại ngụy trang cho anh em chu đáo rồi rút ra bìa rừng nằm để chờ bảo vệ cho anh em khi đánh xong rút quân được an toàn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Mười, 2017, 09:57:34 pm

        Từ chỗ anh em độn thổ sang đến sân bóng chuyền ước khoảng 30 mét, cách một con suối. Chúng tôi ờ đài quan sát theo dõi, địch vẫn hoạt động đúng như thường ngày. Chúng tôi và Tiểu đoàn trường Bảy vô cùng sốt ruột, lo lắng, sợ anh em ta nằm từ đêm, nếu có ai ho một tiếng thì lộ hết. Máy bay trực thăng bay thấp vậy nó có phát hiện được không? Anh em ta thì ngụy trang ban đêm liệu có ai sơ suất gì không?

        Ai cũng vô cùng lo lắng cho số phận của 12 đồng chí làm nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và nguy hiểm. Tuy vậy địch không phát hiện được gì cả, ta vẫn đảm bảo bí mật.

        Giống như mọi hôm, địch đi kiểm tra tuần đường về rồi cởi trần chơi bóng chuyền. Hai bên đang lộn xộn giữa sân, chưa phát bóng thì ba quả đạn B40 lao vút vào giữa sân, súng AK bắn xối xả vào sân bóng. Anh em đều đứng dậy bắn tiêu diệt từng tên địch. Trận đánh diễn ra chỉ vài phút rồi bộ đội nhanh chóng rút về bìa rừng. Vì ta ở bên này bờ suối bắn, không vượt qua suối nên địch trở tay không kịp.

        Sau trận đánh, Đài phát thanh Giải phóng liên tục đưa tin ca ngợi tinh thần chiến đấu của đơn vị. Chi một lực lượng nhỏ độn thổ, ta tập kích diệt gọn Trung đội Mỹ giữa ban ngày.

        Cuối tháng 9 năm 1968, Trung đoàn chủ trương hoạt động xuống vùng tây An Khê trên đường 19. Đây là lần đầu tiên Trung đoàn hành quân xuống khu vực này. Một khu rừng tương đối bằng, rộng lớn giáp ranh với các tinh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Định. Đến đây, chúng tôi gặp anh em Trung đoàn 18. Họ cho biết Trung đoàn 18 ở Phú Yên, Khánh Hòa lên đây mua sắn khô về ăn.

        Nghe anh em nói lại bộ đội ta dưới đó đói lắm phải thay nhau mang muối và các thứ khác lên đây đổi đồng bào lấy sắn gạc nai về ăn. Đi sáu, bảy ngày mới được một chuyến hàng về.

        Sắn tươi thì mang nặng và phải đi dài ngày sợ sẽ bị hỏng nên anh em hậu cần lên trước hiệp đồng với dân làm sắn gạc nai để mang được nhiều và bảo quản được lâu.

        Sắn gạc nai là sắn để cả củ, mùa khô thì phơi dài ngày, mùa mưa thì xông khói, khi nào sắn khô như que củi là được. Củ sắn cả vỏ, xông khói đen và cứng như gạc nai nên bộ đội gọi là sắn gạc nai. Trước khi ăn, phải đem xuống suối ngâm cả ngày mới có thể thái mỏng nấu. sắn gạc nai, để nơi khô ráo thì hàng năm không hỏng.

        Khu vực này có lẽ chưa có đơn vị bộ đội nào đóng quân và địch cũng chưa bao giờ càn quét lên đây, vì không thấy dấu vết bom đạn, xa các trung tâm căn cứ, không có đường giao thông.

        Các đơn vị đều ở hai bên bờ suối, dựa vào các lùm tre kín đáo để đào hầm và mắc võng. Một số nhà dân, lợi dụng những bụi tre to, dùng dao chặt khoét sâu vào làm nhà để ở. Những bụi tre gai này, không một loại đạn nào có thể bắn xuyên qua. Trừ bom tấn, còn bom nhỏ hơn và pháo chỉ nổ trên ngọn cây, dưới vẫn an toàn.

        Sau khi ổn định nơi ăn ở, Trung đoàn tổ chức một đoàn cán bộ đi nghiên cứu chiến trường vùng tây đèo An Khê, có thể 5 đến 7 ngày mới về. Đoàn cán bộ mới đi được bốn ngày, thì 22 giờ ngày thứ năm, cấp trên thông báo Trung đoàn bộ phải rút khỏi nơi trú quân trước 12 giờ đêm vi B52 sẽ ném bom.

        Nhận được điện, Trung đoàn khẩn trương rút khỏi khu vực. Tôi và Thuật được đơn vị cử ở lại đón đoàn đi địa hình, dẫn họ về vị trí mới của Trung đoàn.

        Chủng tôi dọn đến hầm chính ủy để nghỉ lại. Thực tế chiến trường, Trung đoàn tôi đã nhiều lần được cấp trên báo B52 đến ném bom, nhưng chỉ vài lần nó ném trúng vị trí, còn là ném trật về một bên. Tôi cũng đã hai lần bị B52 cắt bom ngay trên đầu, nghe thì khủng khiếp nhưng bom lại rơi nơi khác.

        Sáng ra, tôi và Thuật đi lượn một vòng xung quanh khu vực trú quân, không khí thật thanh bình. Chúng tôi thấy một bụi tre cạnh suối, dân khoét làm nhà ở chắc chắn hơn hầm Chính ủy. Hai đứa liền chuyển ngay đến ở. Bụi tre này chi có bom tấn mới làm sập được.

        Hai đứa đưa mấy cù sắn ra bóc vỏ, xắt ra thành miếng để nấu ăn. Đứa xắt sắn, đứa đang tìm que đóng cọc để treo ăng gô và chuẩn bị nhóm lừa thì thấy một chiếc máy bay trinh sát L19 lượn dọc suối. Tôi và Thuật bàn với nhau, nếu nó không ném bom B52 thì chác là nó sẽ đổ quân, đổ biệt kích.

        Chi một lát sau, tôi nghe tiếng máy bay rì rì, đoán chắc là B52. Chúng tôi chi kịp lao nhanh vào giữa bụi tre. Tiếng bom nổ như ngô rang ngay trên đầu, mảnh bom bay vù vù. Ba chiếc B52 kế tiếp nhau cắt bom. Mỗi chiếc có đến hàng trăm quả, toàn bom sát thương các loại. Hầu hết bom nổ trên không, mảnh bay cắm phầm phập xuống đất.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Mười, 2017, 10:41:22 pm

        Hết ba đợt bom, hai chúng tôi ra ngoài quan sát. Bom rải một vệt dài theo đội hình trú quân của Trung đoàn bộ. Các bụi tre to hầu như bị mảnh bom bắn chặt đứt hết phần trên, chi trừ lại đoạn gốc 7 đến 8m. Hố bom lỗ chỗ nham nhở. Cây cỏ bị quật nát giống như bãi cỏ bị đàn voi giày, mùi khói khét lẹt.

        Nếu Trung đoàn không di chuyển trước, trận bom này thương vong sẽ rất lớn. Một lúc sau, chúng tôi lại thấy một chiếc LI9 bay lượn, quan sát lại toàn bộ khu vực nó vừa ném bom. Tôi nhận định địch sẽ ném bom một lần nữa. Quy luật hoạt động của nó là vậy nếu LI9 không lên trinh sát lại thì nó chỉ đánh một lần, có LI9 lên kiểm tra lại thì chắc chắn nó sẽ đánh lần thứ hai.

        Gần 12 giờ, ba chiếc B52 lại tiếp tục cắt bom vào khu vực lần trước. Chúng tôi ngồi trong bụi tre, nghe tiếng mảnh bom chém cây rất ghê rợn, hàng trăm, hàng ngàn mảnh bom găm vào bụi tre. Hai chúng tôi nằm úp sát đất cứ sợ mảnh bom cắm vào lưng.

        Hết ba loạt bom, chúng tôi ra ngoài quan sát. Chiếc ăng gô chúng tôi treo nấu sắn cạnh cửa hầm cũng đã bị hàng chục mảnh bom chồng lên nhau, thủng toe toét.

        Những ngày sau đó, chúng tôi chẳng có đồ để nấu ăn. Hai đứa, ngày ba bữa chi ăn toàn sắn nướng. Hai ngày sau, đoàn cán bộ đi địa hình mới về. Chúng tôi dẫn họ đi về Trung đoàn theo điểm hẹn.

        Trung đoàn định xuống đây hoạt động, nhưng đoàn cán bộ đi điều nghiên về cho biết việc tổ chức đánh giao thông đoạn tây An Khê không thể được. Địa hình phức tạp, quá xa hậu phương, rừng cây thưa, không có nơi trú quân nên đành quay về địa bàn cũ.

        Sau trận B52, lính Trung đoàn ai cũng sợ Trung đoàn bộ. Ông Bảy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 thường nói Trung đoàn bộ đi đâu là kéo B52 và pháo đến, nên tao bao giờ cũng đóng xa Trung đoàn bộ. Máy 15W của Trung đoàn chỉ làm việc mấy phiên là địch phát hiện được ngay. Anh em thông tin đã tìm mọi cách để khắc phục nhưng cũng chỉ hạn chế được mấy ngày đầu vì địch có nhiều phương tiện để phát hiện sóng của ta phát lên.

        Cuối tháng 10 tháng 1968, Trung đoàn tổ chức một đợt hoạt động tập trung đánh giao thông trên đường 19, đoạn Đồng cầu Xà Guồng.

        Ý định của Trung đoàn là tác chiến cấp Trung đoàn diệt gọn nhiều đoàn xe quân sự của địch. Tuy vậy, địch không hoạt động theo ý định của Trung đoàn. Chúng vận tải nhỏ lẻ mỗi đoàn chi vài chục chiếc, đi cách xa nhau và tổ chức canh phòng, hộ tống rất chặt chẽ. Địch chủ yếu vận chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm, còn xăng dầu thì vận chuyển theo đường ống dẫn từ An Khê đi PLâycu.

        Trung đoàn tổ chức nhiều trận đánh cấp Đại đội, cấp Tiểu đoàn thiếu, thay nhau đánh liên tục, làm cho địch bị hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Ban đêm, trinh sát, công binh tổ chức thành các tổ nhỏ bắn phá đường ống dẫn dầu. Chiến dịch hoạt động kéo dài gần nửa tháng, gây cho địch rất nhiều khó khăn.

        Ta đã bắn cháy, bắn hỏng gần một trăm xe quân sự. Đường ống dẫn dầu bị phá, ban đêm hầu như không hoạt động được. Dầu lênh láng trên mặt sông Ba, làm cá chết, cả tuần trôi trắng sông.

        Để ngăn chặn hoạt động của ta, địch đổ quân về phía sau lùng sục, càn quét vào hậu cứ và tổ chức phục kích các đường vận chuyển tiếp tế.

        Trước tình hình đó, Trung đoàn quyết định điều Tiểu đoàn 2 bí mật quay về phía sau đánh quân đổ bộ càn quét. Các đơn vị vẫn tiếp tục nghi binh hoạt động phía trước. Tiểu đoàn 2 được tăng cường một số đơn vị hỏa lực chia hành hai bộ phận tổ chức bám địch. Gặp địch là tổ chức tập kích, phục kích ngay vì địch còn chủ quan cho rằng lực lượng của ta đang ở phía trước.

        Địch đi càn cũng rất khôn ngoan, di chuyển liên tục. Trinh sát bám được địch về dẫn bộ binh đến nó lại đi rồi. Hai lực lượng của Tiểu đoàn 2 truy tìm ba bốn ngày mà vẫn chưa đánh được trận nào.

        Lực lượng địch chủ yếu là Tiểu đoàn biệt kích Mỹ. Chúng cũng chia nhỏ ra hai ba bộ phận để càn quét và chúng cũng đi rất bí mật, không có máy bay dẫn đường, không có bom pháo dọn bãi.

        Bộ phận Đại đội 3 tăng cường do đồng chí Bảy, Tiểu đoàn trường đi cùng chi huy. Đến ngày thứ tư vẫn chưa gặp địch, tối đến, Đại đội bí mật nghỉ tạm ở một bờ suối nhỏ.

        Khoảng hơn 7 giờ tối, bộ đội nghe tiếng chân người đi rào rào rồi ánh đèn pin lia lia từ trên đồi xuống. Xác định đây đúng là địch rồi, chúng cách mình gần quá. Tiểu đoàn trưởng Bảy cho bộ đội lùi ra xa hơn, tổ chức đào hầm và sẵn sàng chiến đẩu. Còn cán bộ từ Trung đội trưởng, Đại đội, Tiểu đoàn và trinh sát thì nhanh chóng bám địch.

        Lính Mỹ cứ mỗi lần hành quân càn quét, tối đến co cụm để nghỉ. Vì bị ta tập kích nhiều lần khi thì bằng bộ binh, khi thì bằng pháo cối nên bây giờ nó rất ranh mãnh.

        Chập tối nó tổ chức trú quân một nơi, chờ trời tối hẳn lại chuyển sang một địa điểm mới nên trinh sát của ta bám địch rất khó.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Mười, 2017, 11:34:13 pm

        Đặc điểm của lính Mỹ là tối đến dù nghỉ tạm nó cũng đều đào hầm. Hầm nó đào sâu khoảng 30 phân rồi trải ni lông để nằm. Ba đến bốn đứa một hầm. Hầm đi đại tiện nó cũng đào và trước khi đi đều tổ chức lấp đất hết. Còn lính Việt Nam Cộng hoà ở đâu thì cách vài chục mét đã ngửi thấy mùi phân vì nó đi đại tiện lung tung.

        Anh em trinh sát mò vào, trở ra báo cáo. Đây là một Đại đội biệt kích Mỹ đang tổ chức đào hầm để ngủ lại. Chúng chi đóng gọn trên một quả đồi thấp, toàn cây non, hình yên ngựa nối sang quả đồi bên kia cao hơn. Anh em nhìn rõ có hai khẩu cối 61 li đặt giữa, hầm hố đào sát nhau. Địch dùng bình ắc quy bật sáng lên đào hầm nên ta rất dễ quan sát.

        Sau khi các hướng đi trinh sát về, Tiểu đoàn trưởng Bảy xác định đây là một Đại đội biệt kích Mỹ tăng cường. Ta tổ chức thành ba mũi tập kich. Thời gian nổ súng là mờ sáng. Vì rừng non rậm rạp, khó quan sát nên chờ sáng khi nhìn rõ mục tiêu ta mới nổ súng. Hiệp đồng, sau khi súng bộ binh dứt thì hai khẩu cổi 60 bắn vào trận để bộ đội rút lui an toàn.

        Cối 60 chi đặt cách mục tiêu khoảng 100 mét, ưu tiên mũi chính diện nổ súng trước. Cả ba mũi nhanh chóng hành quân tiền nhập anh em ta bám sát mục tiêu cách địch có mũi chi khoảng 9 đến 10 mét mà địch vẫn không hay biết vì chúng mệt quá nên nằm lăn ra ngủ.

        Mũi chính diện đồng chí Ngọc, Trung đội trưởng mò vào trước chi cách tên lính gác ngồi cạnh gò mối khoảng 5 mét mà nó không biết. Mờ sáng, tên lính gác nhìn thấy Ngọc hốt hoảng, la lên một tiếng, liền bị Ngọc lia một loạt tiểu liên. Nó gục ngay tại chỗ.

        Thế là cả ba mũi anh em ta dùng lựu đạn thủ pháo tung vào và dùng súng AK, hỏa lực bắn cấp tập vào trận địa, chỉ trong nháy mắt cả đại đội địch bị tiêu diệt. Đồng chí Bảy hô nhảy vào lấy súng. Lúc này cối cùa ta ở ngoài bắn vào. Đồng chí Bảy vội hô lui quân.

        Súng cối bắn vào đội hình làm mấy đồng chí bị thương, trong đó có chính trị viên Đại đội bị mất gân gót. Tiểu đoàn trưởng Bảy cõng Chính trị viên Chương chạy gần 1 cây số ra phía sau. Khi bộ đội lui quân, một khẩu đại liên cùa địch ở đồi bên kia yên ngựa bắn sang làm một đồng chí hi sinh.

        Trận đánh kết thúc, ta tiêu diệt gọn một Đại đội biệt kích Mỹ, diệt gần 100 tên, phá hủy toàn bộ vũ khí quân trang, quân dụng, trong đó có hai khẩu cối 61 li. Ta có hai đồng chí hi sinh, 4 đồng chí bị thương, chủ yếu do cối 60 của ta đấm lưng. Anh em ai cũng tiếc nếu không có cối 60 ly đấm lưng thì ta thu toàn bộ vũ khí và có thể sẽ bắt sống được một số tên lính Mỹ bị thương hoặc nằm giả chết.

        Sáng ra, địch cho máy bay đổ quân, lùng sục, chở xác lính Mỹ về căn cứ, thu dọn chiến trường và nó cũng kết thúc đợt càn quét phía sau ta.

        Trung đoàn rút quân về phía sau để học tập chính trị, huấn luyện bổ sung. Cán bộ tiếp tục đi địa hình để chuẩn bị cho mùa khô 1968- 1969.

        Hết chiến dịch về hậu cứ học tập chính trị, nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969, tôi và Quý được cấp trên chuyển Đảng chính thức đúng kì hạn (vào Đảng ngày 11 tháng 2 năm 1968, chính thức 11 tháng 11 năm 1968).

        Ngày 15 tháng 12 năm 1968, cả hai chúng tôi đều được bổ nhiệm chức Trung đội phó và phong quân hàm B bậc phó.

        Được bổ nhiệm làm cán bộ Trung đội nhưng công việc của chúng tôi cũng không thay đổi nhiều. Mỗi khi cỏ công việc quan trọng, thủ trưởng Trung đoàn gợi ý lấy người này hay người kia, Đại đội cứ thế chấp hành, chi trừ trường hợp đặc biệt thì mới có thể thay người khác được.

        Đại đội 16 chúng tôi, cán bộ được đề bạt đi học, chủ yếu lấy ở Trung đội truyền đạt vì chúng tôi có khác gì bộ binh, trinh sát. Ai thế nào, khả năng ra sao chi qua một chiến dịch, qua một đợt công tác là thủ trưởng hiểu được ngay.

        Đầu tháng 12 năm 1968, đơn vị tổ chức một đợt quấy phá trên tuyến đường 19 dài mấy chục cây sổ. Cách đánh của ta là dùng lực lượng công binh, trinh sát, truyền đạt, tổ chức bắn phá đường ống dẫn dầu; dùng cối 82 pháo kích vào các trận địa pháo và căn cứ của địch. Đây là hoạt động châm ngòi mùa khô. Hai Tiểu đoàn bộ binh sẵn sàng chờ địch đổ bộ là tổ chức phục kích, tập kích, làm chúng hoang mang dao động, hạn chế đi càn quét để cán bộ di nghiên cứu trận địa chuẩn bị cho Tết 1968 - 1969.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Mười, 2017, 11:15:11 pm

        Tôi lại được đi nghiên cứu địa hình với Chính ủy Nguyễn Hữu Hưu. Lần này khi đi nghiên cứu về tôi trải ni lông nằm ngủ cạnh ông, tự nhiên thấy ông hỏi: “Cậu vào Đảng đã chính thức chưa?” - “Dạ! Đã chính thức hơn một tháng rồi”. Tôi tò mò hỏi: “Thủ trưởng ơi! Tết năm nay ta có chốt ở đèo Măng Giăng nữa không?” - “Có lẽ năm nay ta không chốt ở đó, nhưng ta lại chốt cách khác và nơi khác”. Rồi tự nhiên ông nói: “Tết năm nay cậu không phải đi chốt đâu!”. Tôi thưa lại: “Thủ trưởng đi đâu, ăn Tết ở đâu, thì em sẽ đi cùng thủ trưởng”. Ông cười và chẳng nói thêm điều gì nữa.

        Sau đợt đi địa hình với thủ trưởng, tôi lại được đơn vị cử đi với đoàn cán bộ của Trung đoàn xuống Tiểu đoàn 2 để tổ chức một trận đánh giao thông, vì ta đã chọc tức mãi mà địch vẫn không đổ quân. Ban đêm, chúng tôi đi hẳn trên đường 19. Mấy cây số đường vắng tanh, không có lính tuần, chẳng có xe nào chạy đêm. Sau khi nghiên cứu xong, đoàn cán bộ quay về còn chúng tôi ở lại bám địch để đêm mai bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa không bị địch phục.

        Tiểu đoàn 2 tổ chức một trận đánh cấp Tiểu đoàn, có sự tăng cường hỏa lực của Trung đoàn nhưng cũng chỉ diệt được hơn hơn 10 chiếc xe quân sự vì thủ đoạn của địch khôn ngoan hơn.

        Qua trận đánh của Tiểu đoàn, Trung đoàn đã tổ chức rút kinh nghiệm để tìm ra cách đánh mới. Cùng lúc đó chúng tôi nhận được điện của đơn vị, tôi và Quý về nhận nhiệm vụ mới. Chúng tôi vội cắt rừng đi gần 2 ngày mới về tới Trung đoàn bộ.

        Về tới đơn vị, các thủ trưởng ai cũng tay bắt mặt mừng, chúc mừng rối rít. Tôi chẳng hiểu điều gì cả. Thủ trưởng Như, Chính trị viên Đại đội nói : “Cậu và Quý được cấp ủy Ban Chỉ huy Đại đội nhất trí đề nghị Trung đoàn và cả hai đã được Trung đoàn cho đi học Trường Quân chính B3 đợt này. Lớp đào tạo cán bộ Chính trị viên phó Đại đội”. Tôi và Quý rất vui mừng.

        Biết đi học là xa đơn vị và chưa chắc đã về lại Trung đoàn nên rất nhớ anh em, đồng đội. Nhưng đây là cơ hội thăng tiến của bản thân nên chúng tôi rất phấn khởi. Tôi nhớ lại câu nói của thủ trường Hưu, Chính ủy Trung đoàn khi đi địa hình về ông nói: “Tết này cậu không phải chốt đường 19 đâu”. Như vậy ông đã có ý định cho tôi đi học để phát triển.

        Thời gian rất gấp, chỉ có 2 ngày để làm công tác chuẩn bị, nên toàn bộ giấy tờ sinh hoạt Đảng, lý lịch quân nhân do ban cán bộ và quân lực Trung đoàn chuẩn bị giao cho trường đoàn cầm. Chúng tôi chẳng có gì cầm tay.

        Đoàn cán bộ của Trung đoàn đi học lần này khá đông: 7 học lớp chính trị viên phó Đại đội; 10 người học lớp cán bộ đại đội phó; 13 người học lớp cán bộ Trung đội và 4 cán bộ Đại đội tuổi cao, sức yếu được điều ra Bộ Tư lệnh B3 rồi ra Bẳc vì các anh đã hơn 45 tuổi. Ngoài ra còn phải đưa 10 thương binh nặng ra phía sau. Trong đó có 5 đồng chí phải nằm trên cáng.

        Trung đoàn cho một Đại đội đi để bảo vệ đoàn. Đoàn tổ chức thành hai Đại đội. Đồng chí Hưng, Đại đội trưởng 16 của chúng tôi làm Đại đội trường, đồng chí Trinh, Chính trị viên Đại đội 23 làm Chính trị viên.

        Từ Trung đoàn ra tới đường giao liên nếu đi suôn sẻ phải mất sáu, bảy ngày, cỏ hai chặng phải đi đêm là chặng vượt qua đường 14 và vượt qua sông A Dun. Đoàn phải tự cắt đường bám địch mà đi. Trung đoàn giao cho tôi, Quý và anh Hựu trinh sát cùng đi học với chúng tôi, ba anh em chịu trách nhiệm vừa đi, vừa bám địch, cắt đường dẫn đoàn về phía sau.

        Trước lúc phải rời xa đơn vị, tôi thực sự bùi ngùi xúc động, nhớ anh em, nhớ đồng đội. Nay được các thủ trưởng quan tâm cho đi học để phát triển thành cán bộ, trước lúc ra đi các thủ trưởng đã động viên, tiễn đưa. Thủ trưởng Hưu, Chính ủy Trung đoàn cứ nắm chặt tay tôi nói:

        -  Các cậu đi Trung đoàn cũng tiếc lắm, nhưng không thể giữ mãi được, nay Trung đoàn cho cả ba cậu đi học rồi cố gắng xin về đơn vị công tác.

        Chúng tôi hứa sẽ cố gắng học tập và trước mắt sẽ cắt đường dẫn đoàn ra phía sau an toàn.

        Sáng ngày 22 tháng 12 năm 1968 âm lịch, chúng tôi xuất phát. Cả đoàn vừa đi học, vừa cán bộ, thương binh và một Đại đội hộ tống gần 100 người. Quân số đông nhưng sức chiến đấu không có, nếu gặp địch thì gay lắm. Tuy nhiên số học viên chúng tôi đều được trang bị vũ khí đầy đủ.

        Thật sự may mắn, chúng tôi đã cắt đường vòng tránh đưa đoàn đi ra an toàn. Đến ngày thứ 7 (27 Tết), chúng tôi gặp được đường giao liên Bắc, Nam.

        Anh em mừng lắm. Tới đây được hưởng không khí hòa bình, anh em thoả sức la hét. Có anh liều lĩnh bắn cả loạt AK chào mừng.

        Đi ngược về phía Bắc khoảng hai giờ thì gặp trạm giao liên, chúng tôi đưa giấy giới thiệu của Trung đoàn cho trạm rồi nhận gạo, cá khô, mắm tôm, muối và mì chính. Kho cho chúng tôi thêm một bao gạo nên cả đoàn nấu một bữa cơm ăn thật no để liên hoan chia tay nhau luôn.

        Anh em vận tải và Đại đội bảo vệ nhận gạo quay về. Thương binh chúng tôi bàn giao cho trạm giao liên. Học viên chúng tôi và 4 đồng chí cán bộ hành quân tiếp về Bộ Tư lệnh B3.

        Chiều 30 Tết, tới bờ sông Ya Trăng, chúng tôi quyết định ngày mồng Một Tết nghỉ một ngày đi đánh cá để ăn Tết. Đoạn sông này gần đường giao liên, lính ta đánh đi đánh lại nhiều lần nên không có cá. Chúng tôi đánh 10 quả lựu đạn và thủ pháo mà chi được mấy con cá mương vừa đủ nấu một nồi canh chua lá bứa.

        Sau một ngày ăn Tết, chúng tôi tiếp tục hành quân 4 ngày nữa mới tới trạm khách Bộ Tư lệnh B3. Bốn đồng chí cán bộ ở lại chờ giải quyết chính sách, số đi học được chỉ đường về trường quân chính B3.

        Trường quân chính B3, được gọi là trường sĩ quan cầu Lầy vì có một cái cầu cạnh trường bắc qua một bãi lầy dài 200 - 300 mét

        Thời gian học ờ trường quân chính là 6 tháng nhưng cả đi lẫn về và có hai tháng lao động sản xuất nên tính từ ngày nhập trường đến lúc ra trường phải đến 9 tháng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Mười, 2017, 10:17:26 pm

PHẦN III

NIỀM VUI, NỖI BUỒN

 
TRƯỜNG QUÂN CHÍNH B3 VÀ MỘT TRẬN BOM OAN NGHIỆT

        Đầu tháng 2 năm 1969, đoàn học viên Trung đoàn 95 của chúng tôi đến trường Quân chính B3.

        Trường Quân chính B3 là trường đào tạo tổng hợp đa ngành, nhiều loại hình đào tạo. Các lớp học được tổ chức thành từng Đại đội, biên chế đầy đủ súng đạn như một đơn vị bộ binh, sẵn sàng tác chiến ở những khu vực được phân công.

        Trường có hai lớp cán bộ Tiểu đoàn, hai lớp Đại đội và bốn lớp Trung đội. Một Tiểu đoàn văn hóa dành riêng cho cán bộ dân tộc Tây Nguyên. Một Tiểu đoàn đào tạo y sỹ và bác sỹ. Có một Đại đội học đài trưởng và báo vụ. Thời gian đào tạo tùy thuộc vào khoa, có loại 6 tháng, có loại 2 năm như lớp bác sỹ.

        Chúng tôi nhập trường từ tháng 2 mà mãi tới cuối tháng 4 mới khai giảng vì phải tham gia trồng sắn hai tháng. Ở đơn vị chúng tôi thiếu thổn đủ thứ, gạo không có ăn, quần áo 4 năm chưa hề được bổ sung. Chúng tôi cứ tưởng ra tới trường sẽ được bổ sung nhưng, tới đây mới thấy cái khó của nhà trường.

        Học viên mỗi ngày một lạng gạo cộng với 6 lạng sắn khô. Quần áo không có bổ sung. Các đơn vị hầu hết ở phía ngoài, quần áo có bổ sung nên họ mặc lành lặn hơn. Riêng lính Trung đoàn 95 chúng tôi ra đây trông thật xấu hổ, đứa nào quần áo cũng rách phải vá chàng vá đụp đủ màu.

        Tôi và Thụ quê Thanh Hóa quen nhau từ thời ở Trung đoàn, giờ hai đứa chung một Tiểu đội. Chúng tôi bàn nhau cắt một thân võng (võng có 2 thân để nằm và đắp) may quần mặc. Thụ nói:

        - Tớ ở nhà, gia đình làm thợ may, tớ biết cắt.

        Thụ lấy lưỡi lam cắt, còn tôi đi tìm bao cát, tháo ra làm chi để may. May xong, mặc quần vào, trông chẳng giống ai. Vì không có nên đành mặc vừa tây vừa ta vậy.

        Những ngày lao động trồng sắn, cứ sáng ra tới rẫy là nhặt củi, đốt một đống lửa thật to rồi đi tìm mót sán sót thà vào đống lửa để ăn cả ngày nên cái bụng khi nào cũng no.

        Bắt đầu vào học, thì cái đói lại hành hạ. Mỗi học viên, một ngày chi có một lạng gạo và sáu lạng sán khô. Rồi hạ dần xuống 5 lạng và cuối cùng là 3 lạng sắn khô. sắn khô của các lớp học trước, họ thu hoạch, chặt thành miếng phơi ra bãi cỏ, hai ba ngày mới đem về. sắn dính dày một lớp đất đỏ. Có những miếng sắn cũng đỏ như đất. sắn khô được đem về chất vào kho, cho các lớp khóa sau ăn. Trước khi ăn, anh nuôi bỏ vào bao tải ngâm dưới suối hai ba ngày cho nhả hết đất và sắn mềm ra mới nấu ăn được.

        Thời điểm này, toàn miền Nam quân và dân ta đang rất khó khăn, nhất là lương thực, thực phẩm và súng đạn vì địch đã phong tỏa một cách quyết liệt. Mỹ tuyên bố ngừng ném bom từ vỹ tuyến 20 trở ra để tập trung bom đạn ngăn chặn tuyến hành lang tiếp tế của ta, gây cho ta nhiều khó khăn.

        Tây Nguyên là địa bàn thuận lợi mà hàng hóa vẫn không vào được. Các đơn vị chủ lực Tây Nguyên gạo cũng không đủ ăn, đạn dược không đủ để đánh, sắn khoai cũng cạn kiệt.

        Một ngày cuối tháng 5 năm 1969, chúng tôi được nhà trường phổ biến, quán triệt nhiệm vụ. Trường sẽ chuyển ra phía Bắc Tây Nguyên, chúng tôi ai cũng đoán trường sẽ chuyển ra tỉnh Kon Tum.

        Công tác tổ chức hết sức khẩn trương, từ khi phổ biến đến khi hành quân chỉ có hai ngày. Tất cả trang bị, vũ khí đều tập trung gửi vào kho. Mỗi tiểu đội chi mang theo vài khẩu súng để bảo vệ. Nhà trường phổ biến, ra đó sẽ được bổ sung, trang bị lại, tất cả súng đạn để lại đây đỡ công vận chuyển vào.

        Thế là cuộc hành quân bắt đầu. Chúng tôi đi bốn ngày liên tục, đến một khu rừng của tỉnh Kon Tum thì dừng lại nghe phổ biến nhiệm vụ. Chúng tôi đều nghĩ trường sẽ đóng quân tại đây. Thế nhưng không phải vậy!

        Nhiệm vụ của trường là nhanh chóng hành quân ra Bắc tiếp tục học tập để quay về chiến trường nhận nhiệm vụ. Hiện nay chiến trường Tây Nguyên đang gặp khó khăn về lương thực, thực phẩm và đạn dược.

        Niềm vui thật bất ngờ. Đêm đó không ai ngủ được. Chúng tôi hầu hết đã vào chiến trường bốn, năm năm rồi. Không có tin tức và không ai nhận được một lá thư gia đình, nay ra Bắc có vui sướng nào bằng.

        Đại đội chọn sáu người khỏe nhất lên hiệu bộ nhận nhiệm vụ. Tôi nằm trong số đó. Chúng tôi được giao nhiệm vụ khiêng đồng chí Chính ủy nhà trường Đặng Hồng Thanh. Chính uỷ Thanh bị bom đánh sập hầm nên bị dãn dây chằng cột sống. Ở trường, khi lên lớp ông chỉ đứng được thời gian ngắn rồi phải ngồi trên võng lên lớp.

        Chúng tôi vừa khiêng cáng ông vừa bảo vệ ông. Mấy anh em chúng tôi đi tự do, ăn nghỉ trong trạm giao liên nhưng vẫn bám theo đoàn. Hằng ngày chúng tôi thay nhau khiêng khoảng ba, bốn giờ. Đoạn nào đường bằng, dễ đi thì ông tự đi.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười, 2017, 09:08:41 am

        Cuối năm 1965, chúng tôi hành quân vào Nam cũng đi trên đường Trường Sơn. Nay đi ra, trạm đã ngắn hơn, đường ít dốc hơn, mang vác nhẹ lại có động cơ ra Bắc nên đoàn chúng tôi liên tục vượt trạm.

        Một hôm, đang đi trên đất Nam Lào, bộ phận chúng tôi đi trước nghi được 10 phút thì đoàn của trường vừa đến. Đồng chí Thanh giục chúng tôi: “Ta tranh thủ đi, để anh em đến đây nghỉ 10 phút”. Chúng tôi đi được khoảng 10 phút thì một chiếc máy bay B57 bay qua cắt một loạt bom trúng giữa đội hình bộ đội đang nghi.

        Nghe bom nổ, biết là bom đã nổ trúng đội hình đơn vị, Chính uỷ Thanh nói:

        - Các cậu vác cáng quay trở lại trợ giúp đơn vị ngay! Anh em trúng bom rồi!

        Chúng tôi chạy quay lại, thấy anh em người hi sinh, người bị thương nằm la liệt. Anh em đang băng bó cho nhau. Mấy đồng chí cán bộ khung bị hi sinh, trong đó có anh Tư, Chính trị viên Đại đội quê Thanh Tiên, Thanh Chương, Nghệ An.

        Tôi thấy ông Cam, Chủ nhiệm Chính trị của trường bị bom cắt cụt một chân sát đầu gối đang được anh em ga rô. Tôi và anh Liêu quê Hưng Phú, Hưng Nguyên xốc ông Cam lên võng chạy thẳng về trạm giao liên để cấp cứu. Đoàn y sỹ, bác sỹ của trường tổ chức cấp cứu đến gần sáng mới hết số người bị thương. Có 17 đồng chí hi sinh tại chỗ, hai, ba đồng chí nữa về trạm phẫu, do vết thương quá nặng nên cũng đã hi sinh.

        Cuộc chiến qua đi đã mấy chục năm nhưng tôi vẫn nhớ khuôn mặt anh Tư người cao to, râu quai nón, hay nói tếu, lúc nào cũng vui cười thoải mái. Đầu năm 1967, khi tôi được bổ sung về C16, Trung đoàn 95, anh Tư là Trung đội trưởng của tôi. Sau đó anh đi học và được giữ lại trường làm cán bộ khung. Ngày tôi ra học gặp anh, hai anh em mừng lắm. Anh thường xuống chỗ tôi chơi, anh xem tôi như một đứa em. Anh Tư đã có vợ nhưng chưa có con. Ở chiến trường nhiều năm chiếu đấu ác liệt kẻ thù không giết nổi, thế mà nay được ra Bắc chi mấy ngày nữa là anh được gặp người vợ sau nhiều năm xa cách. Vậy mà anh lại hi sinh, thật đau lòng!

        Trạm cuối cùng vượt vỹ tuyến 17, sang địa phận an toàn. Tối hôm đó, trong trạm giao liên, chúng tôi chuyện trò đến gần sáng mà chẳng ai muốn ngủ. Sáng ra, chúng tôi hành quân liên tục hai tiếng đồng hồ không nghỉ. Đồng chí giao liên nói: “Các anh cố gắng vượt qua đồi bên kia nghỉ thoải mái, đó là đất miền Bắc an toàn rồi”.

        Chúng tôi khiêng đồng chí Chính ủy đi thật nhanh, chẳng thấy mệt. Đến một đỉnh đồi cao, đồng chí giao liên nói: “Ở đây an toàn rồi, các đồng chí nghỉ thoải mái”.

        Chúng tôi đứng trên đồi phóng tầm mắt nhìn xuống xa hàng chục cây số, thấy có núi đồi, sông ngòi, làng mạc, đường sá của các huyện thuộc tinh Quảng Trị. Anh em muốn reo lên: “Miền Bắc đây rồi!”. Suốt gần 5 năm ở núi rừng Tây Nguyên có bao giờ tầm mắt của chúng tôi được nhìn xa như vậy.

        Tuy nhìn thấy đất trời miền Bắc rồi nhưng còn phải đi mấy ngày nữa mới tới làng Ho, Cự Nẫm, Quảng Bình. Ra tới Cự Nẫm được trạm thông báo: Từ đây ra Bắc các đồng chí hành quân bằng cơ giới nhưng xe có hạn nên đoàn phải đi nhiều lần. Tuy miền Bắc ngừng bắn nhưng tất cả xe quân sự đều chạy ban đêm.

        Chúng tôi và chính ủy Thanh được ưu tiên đi trước làm tiền trạm. Đoàn chúng tôi đi trên những chiếc xe Zin, xe Gát chở hàng.

        Xe chạy đèn gầm và đi theo đường chiến lược. Đường xấu nhiều ổ gà, ổ voi nên cứ lắc lư, lúc lên, lúc xuống. Nếu không giữ chặt thành xe thì có người sẽ bị rơi xuống đường. Chúng tôi rất khâm phục các anh lái xe. Đường xấu, đèn gầm chỉ phát ra ánh sáng bằng cái đèn pin và khoảng sáng chi được khoảng 10 mét về phía trước thế mà họ chạy hàng trăm chuyến an toàn.

        Đến các trạm, tôi thấy băng rôn, khẩu hiệu nhiệt liệt chào đón đoàn cán bộ Tây Nguyên ra Bắc nhận nhiệm vụ. Chính ủy Thanh nói khẩu hiệu họ đón đoàn ta đấy. Từ Quảng Bình ra tới ngoài Bắc các trạm đều tổ chức đón đoàn chúng tôi hết sức long trọng. Trạm nào cũng có phim, văn công biểu diễn chiêu đãi.

        Khi đoàn đến trạm Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh, dừng nghỉ, chờ xà lan chở ra Vinh. Chính ủy Thanh gọi tôi và Liêu quê ở Hưng Phủ lên gặp. Ông bảo:

        - Hai cậu có thể theo giao liên đi trước về thăm nhà vài ngày, sau đó ra trạm Hưng Lộc thành phố Vinh đón đoàn.

        - Cảm ơn thủ trưởng chờ bữa nào ra Vinh bọn em về cũng được.

        Thực ra, từ đây về nhà, tôi chẳng biết đi đường nào và quần áo thì rách, trông nhếch nhác lắm. Sau hai ngày nghỉ tại Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh xà lan chở chúng tôi về trạm Hưng Lộc thành phố Vinh.

        Về tới trạm, mới hơn 10 giờ tối, chính ủy Thanh lại gợi ý:

        - Hai cậu quê Hưng Nguyên có về thăm nhà thì về vài ngày rồi tới, vì đoàn có thể ba bốn ngày nữa mới tới hết. Các cậu ra đây sẽ gặp đoàn.

        Tôi trả lời:


        - Chờ sáng mai bọn em sẽ về luôn, bây giờ trời tối bọn em chẳng biết đi đường nào.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Mười, 2017, 10:31:14 pm

VỀ THĂM NHÀ VÀ TRỞ THÀNH SỸ QUAN CHÍNH TRỊ

        Sáng ra, Chính ủy Thanh thấy quần tôi có hai miếng vá to ở hai đầu gối. Ông nói như ra lệnh:

        - Hợi! Lấy quần mình mà mặc, bọn mình ở đây mai sẽ nhận quân trang.

        Không thể từ chối, tôi lấy quần Chính ủy mặc, còn cái ba lô rách, che được mành vá của cái áo. Tôi lấy chéo dù hoa quấn chặt chiếc ba lô rồi chào thủ trưởng và anh em ra về.

        Thủ trưởng Thanh là người lớn tuổi nên ông hiểu nỗi lòng của những người làm cha, làm mẹ, nỗi khát khao nhớ con khi đi xa. Nên khi về tới Đức Thọ, Hà Tinh là ông đã giục và cho chúng tôi tranh thủ về thăm nhà. Còn tụi trẻ chúng tôi quá vô tư, suy nghĩ còn đơn giản, về sớm về muộn không quan họng miễn là được về. Hơn nữa quần áo rách nát quá, tôi hy vọng tới các trạm sẽ được phát bổ sung để khi về nhà trông cho tươm tất một chút.

        Tôi và Liêu hỏi đường đi Vinh qua hướng dẫn của chủ nhà. Chúng tôi đi một lúc thì ra đường chính, gặp nhiều người đi buôn cá. Họ gánh cá từ Cửa Hội lên chợ Vinh. Chúng tôi theo họ về tới Vinh.

        Cách đây 5 năm, trước khi chúng tôi ra đi, thành phố Vinh còn nguyên vẹn, các đường phố, nhà cửa san sát nay thành phố Vinh không còn một cái nhà nào nguyên vẹn, dân cư thưa thớt. Chỉ lác đác đôi nhà về dựng lều buôn bán nhỏ. Các cơ quan của tỉnh chưa có cơ quan nào về. Những điểm lớn để ai đi xa cũng nhớ về như Cửa hàng bách hóa, Ngã tư Nhà thờ, cầu Rầm... nay đã trờ thành những đống gạch vụn.

        Đến ngã tư Vinh thì hai anh em chia tay nhau, Liêu về cầu Cửa Tiền đi Hưng Phú, còn tôi bám theo đường 49 về nhà.

        Xa quê, xa gia đình gần 5 năm rồi, không hề nhận được một lá thư nhà, quê mình lại là trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ, không hiểu tình hình gia đình thế nào? Có lẽ gia đình tôi nghĩ rằng liệu tôi có còn sống để được ra Bắc.

        Tôi đang miên man suy nghĩ thì đã đến gần cầu Đước. Tôi thấy anh Trợ con dượng Duyệt đang quảy tùng teng một đầu cưa một đầu đục. Anh đi làm thợ mộc về. Tôi mừng quá gọi to:

        - Anh Trợ, anh Trợ!

        Hai anh em gặp nhau vô cùng xúc động. Tôi hỏi dồn dập về tình hình gia đình quê hương. Qua anh Trợ nói, tôi rất mừng vì đã giải tỏa được tâm lý lo lắng suy nghĩ bấy lâu nay, rồi hai anh em lại chia tay. Về tới xí nghiệp 22/12, tôi thấy ông Trần Ba đi bán rau muống về. Tôi chạy lại hỏi ông Ba:

        - Ông có biết con không?

        - Thằng Hợi à? Sao mày ra được đây, làng ta có đứa nào được ra nữa không?

        Thế rồi hai ông cháu vừa đi vừa kể chuyện, về tới Đội Nhà Hời, ông Ba nói:

        - Có lẽ cha mày đang đi cày ở đây, để tao xem ông cày ở ruộng nào.

        Vì cày tập thể nên rất đông người có khi một ruộng hai ba người cày, rồi ông chi tay:

        - Cha mày cày ruộng kia kìa.

        Ông Ba dẫn tôi đi thẳng đến thửa ruộng cha tôi và hai người nữa đang cày. Đến sát bờ ruộng, ông Ba gọi to:

        - Ông ơi con về đây này!

        Cha tôi dừng trâu lại đứng chôn chân như Từ Hải, cuống cuồng hỏi:

        - Đứa nào đó thằng Danh hay thằng Hợi?

        Tôi sung sướng trả lời:

        - Con đây! Thằng Hợi đây cha ạ!

        Cha tôi giữ trâu đứng im ở giữa ruộng chẳng nói được câu gì. Ông xúc động vì bất ngờ quá. Tôi về có lẽ như trên trời rơi xuống. Gia đình đã hơn 4 năm không hề biết tin tức gì về tôi. Nay tôi đột nhiên xuất hiện ai mà ngờ tới. Tay cha cứ giữ cái cày và ghì chặt dây thừng cho trâu đứng lại. Vì cày ruộng nước bùn nên tôi cũng không ra để ôm lấy cha. Tôi nói với cha:

        - Cha cứ cày đi! Con về nhà đây.

        Cha tôi bảo:

        - Con về đi! Bà, mẹ và các em ở nhà cả đấy.

        Bao nhiêu năm xa cách hai cha con bây giờ mới gặp nhau. Tôi mừng khôn xiết.

        Ngoài đồng, dân đi làm đông nhưng không ai phát hiện được tôi, vì quần áo của tôi ăn mặc chẳng giống ai. Ba lô thì quấn chặt chéo dù hoa, quần thì vải ka ki màu nâu đã cũ, chiếc mũ tai bèo xung quanh rách xơ cũ kỹ. Vì hồi đó chân dung của người bộ đội là quần áo Tô Châu, giày, mũ sao gạch đàng hoàng, dáng đi oai vệ, còn tôi thì khác hoàn toàn.

        Tôi về tới nhà. Bước vào ngõ, thấy bà nội đang ôm nắm củi tre, mẹ thì đang hái rau ngoài vườn, tôi mừng quá reo to:

        - Bà nội ơi! Mẹ ơi! Con đã về đây.

        Cả bà và mẹ tôi hấp tấp chạy tới. Bà quăng luôn nắm củi tre toàn gai góc ra giữa đường, mẹ thì quăng luôn cả nắm rau. Cả bà và mẹ ôm lấy tôi, mẹ mừng quá, khóc òa lên rồi hỏi liên tục:

        - Làm sao con ra được đây? Con có khỏe không? Con bị thương à? Bị ở đâu? Chắc bị thương nặng rồi họ cho ra phải không?...


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười, 2017, 11:23:35 am

        Tôi không thể trả lời kịp vì mẹ cứ hỏi liên tục:

        - Con khỏe mạnh, không bị gì hết.

        Nhà tôi ở đầu làng, nên chi một lát sau, người làng đi làm đồng về, rồi người trong làng đến hỏi thăm chật nhà. Mọi người, ai cũng muốn đến nhìn mặt và hỏi chuyện.

        Xã tôi có tới hơn 10 người đi B dài cùng ngày, cùng Sư đoàn vào Nam, cuối năm 1965. Làng tôi có 7 người, tôi là người đầu tiên của làng đi B dài được ra Bắc nên ai cũng muốn đến để hỏi về người thân của mình. Tôi về tới nhà vào khoảng 10 giờ sáng mà mãi gần 2 giờ chiều người làng cứ thay nhau đến. Mẹ đã nấu cơm, mà tôi chẳng làm sao ăn được. Khi bà ngoại vào hỏi:

        - Cháu đã ăn uống gì chưa?

        - Cháu chẳng thấy đói.

        Thế là bà ngoại tôi la lên:

        - Bà con thông cảm để cháu nó ăn cơm, đã từ sáng đến giờ nó đã được ăn gì đâu.

        Thực ra do mừng quá nên cả nhà quên ăn mà chẳng biết đói. Bà ngoại nhìn tôi, bà sờ khắp người tôi xem tôi có bị thương ở đâu không. Rồi bà hỏi:

        - Cậu Chinh con đâu? Cậu có khỏe và có được về không?

        Hai cậu cháu tôi ở cùng một Sư đoàn và đi B cùng ngày, cậu ở Trung đoàn 18. Trung đoàn 18 đi thẳng xuống Phú Yên, Khánh Hòa nên hai cậu cháu tôi mất liên lạc từ đầu năm 1966.

        Mẹ tôi kể lại mấy năm chiến tranh phá hoại, bom Mỹ đánh xuống xóm ta mấy lần. ông ngoại con bị bom chết. Cậu Thìn thì bị mảnh vào đầu nay bị chấn thương sọ não, sống dở chết dở. Cha con nằm ở giường bom bi nổ ngay trên nhà may có cái chạn ở phía trên không thì nay cũng chẳng còn nữa.

        Có ai sống trong hoàn cảnh đó mới biết sự khao khát tình cảm của những người ở nhà và người đi xa. Làng tôi nhà nào cũng có con đi bộ đội, có hơn chục người đi B dài, biệt vô âm tín.

        Cùng đơn vị với tôi còn có Trường, Tiềm, anh Sử, anh Trinh, cậu Chinh. Nay tôi thật là trúng số độc đắc mới được ra Bắc. Trong xã, trong huyện còn có mấy chục người cùng đơn vị với tôi.

        Tin tôi được ra Bắc lan nhanh, chi có hai ngày ở nhà mà tôi liên tục tiếp khách, chẳng khi nào ngớt. Có nhiều người ở tận Hưng Thông, Hưng Đạo, cũng đến hỏi thăm tin tức về người thân của mình. Họ có hiểu đâu, chiến trường thì rộng và anh em chúng tôi khi vào chiến trường, xé lẻ bổ sung cho nhiều dơn vị. Tuy thế, tôi biết ở xã Hưng Đạo có ba người đã hi sinh nhưng không dám nói.

        Chiều hôm sau, tôi tranh thủ đi một vòng quanh làng, ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu với cây đa, giếng nước, sân đình. Mới xa quê 5 năm mà làng tôi đã đổi thay nhiều quá, vết tích chiến tranh để lại quá nhiều. Nhiều cây cối bị bom Mỹ chặt đứt, chưa lên lại.

        Dấu vết nhà ông bà ngoại tôi bị bom đánh cháy trụi. Ông ngoại tôi trúng mảnh chết, bà ngoại và mấy mẹ con mợ Chinh chuyển đi nơi khác ở. Đất vườn bỏ hoang, cỏ mọc kín cả nền nhà, trông thật thảm thương.

        Sáng ngày thứ ba, chúng tôi xuống nhập trạm ờ Hưng Lộc. Thủ trưởng Thanh đã được ô tô chở ra Hà Nội trước. Tới trạm, tôi gặp đoàn của đơn vị cũng vừa tới. Chúng tôi được nhận quân tư trang như một tân binh. Tối hôm đỏ, đoàn lên tàu ra Thường Tín, Hà Đông thì dừng lại mấy ngày để làm công tác tổ chức.

        Tại đây, chúng tôi được các đồng chí trong Bộ Tham mưu, cán bộ Tổng cục Chính trị tới nói chuyện, động viên. Anh em chúng tôi đề nghị được gặp Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Các đồng chí cán bộ Tổng cục trả lời:

        - Bác Hồ và Đại tướng bận lắm không xuống thăm và chúc mừng các đồng chí được nên đề nghị đoàn cử hai người lên gặp Bác Hồ rồi về kể lại cho cả đoàn.

        Nhà trường cử đồng chí Hiệu trường và Anh hùng AKa Pơ Lơn người dân tộc Tây Nguyên lên gặp Bác Hồ.

        Hiệu trường và Anh hùng AKa Pơ Lơn đi gặp Bác Hồ về kể lại, họ chi được gặp Bác khoảng 5 phút tại nhà riêng. Bác gửi lời chúc sức khỏe cả đoàn. Bác gầy và yếu lắm. Không ai ngờ, đúng hai tháng sau Bác ra đi. Chính lúc Anh hùng AKa PơLơn đến gặp, Bác đã mệt lắm rồi.

        Cũng tại đây, khung nhà trường giữ nguyên, học viên được về các trường sỹ quan của miền Bắc để học. Lớp cán bộ Đại đội phó về Trường sỹ quan Lục quân ở Sơn Tây. Chúng tôi, lớp cán bộ Chính trị về Học viện Chính trị tại Vĩnh Phúc.

        Học viện Chính trị có ba hệ. Hệ đào tạo cán bộ cấp cao thì ở Quần Ngựa Hà Nội. Lớp đào tạo trung cấp và sơ cấp thì thì về xã Liên Mạc, Yên Lãng, Vĩnh Phúc. Trường sơ tán học viên ở nhà dân.

        Chúng tôi được an dưỡng một tháng và đi phép 15 ngày, mãi tới ngày 8 tháng 9 năm 1969 lớp học mới khai giảng. Thời gian học là một năm.

        Tuy trường sơ tán, học viên ở nhà dân nhưng việc học tập rèn luyện hết sức nghiêm túc, quân phong, quân kỷ, điều lệnh nội vụ được duy trì chặt chẽ. Học viên, ai cũng cố găng nỗ lực học tập rèn luyện và tự giác tu dưỡng.

        Nhân dân ở đây rất tốt. Họ biết chúng tôi là những học viên trẻ, những sỹ quan tương lai. Hơn nữa hầu hết học viên đều từ các chiến trường về, học xong lại vào chiến trường nên nhân dân tôn trọng và yêu mến. Họ tạo điều kiện tốt nhất để chúng tôi ăn ờ học tập và rèn luyện. Kết thúc khóa học, tôi được nhà trường xếp loại Khá.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười, 2017, 04:21:01 am
     
PHẦN IV

TRUNG ĐOÀN 271 MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

        
CUỘC HÀNH QUÂN VỀ ĐÔNG NAM BỘ

        Ngày 5 tháng 9 năm 1970, nhà trường làm lễ bế giảng lớp đào tạo cán bộ chính trị sơ cấp khóa 13 Học viện Chính trị. Học viên được bổ sung đi toàn quân.

        Chúng tôi có 5 anh em được bổ sung về Quân khu 4. Tôi mừng lắm, bao nhiêu năm xa quê, nay được bổ sung về đây nhận nhiệm vụ, cỏ điều kiện gần nhà, ai mà không vui, không sướng.

        Sau mấy ngày chờ đợi tại trạm khách ở Nam Anh, Nam Đàn. Ngày 18 tháng 9 năm 1970, tôi, anh Căn, anh Dung được bổ sung về Trung đoàn 271. Anh Canh về Đoàn 22. Anh Hóa về Trung đoàn công binh.

        Anh Căn quê ở Nam Thượng, Nam Đàn được bổ nhiệm làm chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 8. Anh Dung quê ở Hưng Lợi, Hưng Nguyên được bổ nhiệm làm chính trị viên phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 7. Còn tôi được bổ nhiệm làm chính trị viên phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 8.

        Về trung đoàn 271, chúng tôi được Chính ủy Trung đoàn gặp động viên, giao nhiệm vụ. Đồng chí nói:

        - Từ trước đến nay Trung đoàn 271 là Trung đoàn bộ binh hỗn hợp vừa có các Tiểu đoàn bộ binh, vừa có các

        Tiểu đoàn pháo mặt đất và phòng không lại còn đảm nhiệm mấy hòn đảo như: Hòn Ngư, Hòn Mê, Đảo Mắt. Vừa chiến đấu vừa xây dựng các công trình quốc phòng trên địa bàn quân khu 4. Nay Trung đoàn tách ra thành lập một Trung đoàn bộ binh cơ động, một Trung đoàn pháo còn các đảo bàn giao lại cho các tỉnh quản lý.

        Tiểu đoàn 8 mới được thành lập, Trung đoàn điều động cán bộ từ Tiểu đội trưởng đến Tiểu đoàn, từ khắp các đơn vị và một số đi học về như chúng tôi. Binh sỹ, nhập ngũ ngày 20 tháng 8 năm 1970, quê ở Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Anh Sơn, Đô Lương... từ Đoàn huấn luyện 22 bổ sung về.

        Ban Chỉ huy Đại đội 1 của tôi có anh Chi quê ở Đô Lương, sinh năm 1938, nhập ngũ năm 1960 làm Đại đội trưởng. Anh Thăng quê ở Thanh Hóa, sinh năm 1942, nhập ngũ năm 1963. Anh Xuyên quê ờ Thanh Hóa, sinh năm 1940, nhập ngũ năm 1963. Trong Ban Chỉ huy tôi là người trẻ nhất cả về tuổi đời và tuổi quân. Ba đồng chí trung đội trưởng đều nhập ngũ năm 1965 nhưng tuổi đều hơn tôi.

        Tiểu đoàn 8 đóng quân ở xã Nghi Phong, Nghi Lộc, vừa làm công tác tổ chức vừa sẵn sàng cơ động chiến đấu.

        Vào những ngày cuối năm 1970, đầu năm 1971, địch có ý định mở Chiến dịch Đường Chín-Nam Lào (Lam Sơn 719). Nhưng chúng lại nghi binh là đổ bộ quân ở bờ biển Nghệ An. Đoạn từ Cửa Hội đến Diễn Châu.

        Chúng tôi liên tục được thông báo, địch liên tiếp dùng biệt kích người nhái xâm nhập bắt liên lạc với các phần tử xấu trong đồng bào công giáo. Thậm chí người nhái vào bắt cóc xã đội phó Nghi Tiến, Nghi Lộc.

        Bà con giáo dân bị kẻ xấu xúi giục, tổ chức nhiều cuộc họp tuyên truyền kích động bất hợp pháp. Các đơn vị của Trung đoàn liên tục cơ động diễn tập trên địa bàn hai huyện Diễn Châu và Nghi Lộc. Các điểm cao như đồi 200, đền Cuông, Truông sắt, Thần Vũ đều được các đơn vị Tiểu đoàn 8 chốt giữ.

        Các phương án và các đơn vị tham gia diễn tập, đánh quân đổ bộ đường biển của địch, có rất nhiều đơn vị tham gia, cả bộ binh, pháo binh, xe tăng, các đơn vị của Quân khu và Sư đoàn bộ binh 308.

        Địch cho rằng ta đang tập trung lực lượng lớn, quân số và phương tiện kỹ thuật ở Nghệ An, nên chúng lại tập trung lực lượng lớn mở chiến dịch Lam Sơn 719, đánh sâu lên Đường Chín - Nam Lào.

        Ta biết trước âm mưu của địch nên đã chuẩn bị một lực lượng lớn mai phục sẵn chờ địch đến đâu bị tiêu diệt ngay đến đó. Các đơn vị cơ động như Sư đoàn 308, từ Nghệ An đã hành quân bằng cơ giới vào chiến đấu ngay.

        Trung đoàn 271 được vào làm nhiệm vụ tiếp nhận, dẫn giải tù binh và mở đường.

        Chiến dịch Lam Sơn 719, địch bị thất bại nặng nề chưa từng có. Hàng ngàn tên bị tiêu diệt và bắt sống trong đó có Đại tá Thọ. Theo thú nhận của địch hơn 50% quân số tham gia chiến dịch đã bị quân giải phóng tiêu diệt và bắt sống.

        Tháng 3 năm 1971, đơn vị tham gia mở đường thắng lợi. Trung đoàn 271 được giao nhiệm vụ mở một tuyến đường cơ giới phía đông Trường Sơn đoạn từ Mo đến ngã ba Cam Lộ (phía Nam sông Bến Hải), chiều dài khoảng 60 km.

        Làm đường ở đây cũng vô cùng gian khổ, ác liệt. Con đường quanh co, đi theo bình độ của dãy núi đông Trường Sơn, tây Quảng Trị. Đứng ở đây nhìn rõ cao điểm 544 và tới tận các huyện đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Trị.

        Bộ đội đào đất, phá đá hàng mấy tháng trời bằàng thủ công. Cây cối được giữ nguyên không chặt nên địch không phát hiện được. Mặt đường rộng 6m, những đoạn cua bán kính phải 15 mét, để xe kéo pháo lớn có thể đi được an toàn. Khi con đường sắp hoàn thành mới cho bộ đội chặt cây to nên con đường đã lộ rõ nguyên hình từ Bắc vào Nam và đây cũng là những ngày ác liệt nhất.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười, 2017, 12:23:25 am

        Hằng ngày L19 lên quần lượn rồi gọi phản lực lên đánh bom. B52 đánh trúng đội hình trú quân của Tiểu đoàn 9, may mà hơn 8 giờ sáng, bộ đội đã ra mặt đường chi còn lại anh em hậu cần và ốm yếu ờ nhà. Thế mà vẫn có 17 đồng chí hi sinh và hàng chục đồng chí bị thương.

        Con đường hoàn thành cũng là thời điểm địch bắn phá ác liệt. Một đêm, lệnh của cấp trên cho Trung đoàn nhanh chóng vượt sông Bến Hải trước lúc trời sáng để tránh B52. Thế nhưng đường lại chưa bàn giao cho lực lượng công binh. Trung đoàn quyết định tôi và 7 chiến sỹ ở lại, sáng hôm sau đi kiểm tra đường và vào tận Cam Lộ để bàn giao đường cho đơn vị bạn.

        Đây là nhiệm vụ khó khăn, ác liệt có thể tất cả chúng tôi bị hi sinh vì B52. cấp trên cho biết tất cả các vị trí trú quân của các đơn vị đều nằm trong tọa độ B52.

        Đơn vị rút đi, tôi gọi mấy anh em lại động viên, rồi tìm mấy cái hầm tốt nhất của Ban Chi huy Tiểu đoàn mắc võng ngủ. Sáng ra tôi đi từng hầm đánh thức anh em dậy và phổ biến nhiệm vụ.

        Chúng tôi xuống mặt đường đi thẳng về phía Cam Lộ nếu có đoạn nào hư hỏng thì khắc phục sửa chữa để bàn giao cho đơn vị bạn. Chúng tôi đi được một đoạn khá xa thì gặp anh em công binh đi từ Cam Lộ ra. Tôi trao đổi với họ:

        - Con đường từ Mo đến Cam Lộ, Trung đoàn chúng tôi đã làm xong. Sáng nay anh em chúng tôi đi từ ngoài đó vào đây đường tốt không bị sạt lở chỗ nào cả. Các anh đi từ trong đó ra tới đây có thấy đoạn nào hư hỏng không?

        Các đồng chí công binh trả lời:

        - Đường tốt, an toàn.

        - Theo thông báo của ưên ngày hôm nay địch sẽ cho B52 đánh trên con đường này. Nên Trung đoàn chúng tôi, tối qua đã vượt qua sông Bến Hải. Trung đoàn giao cho anh em chúng tôi, sáng nay đi kiểm tra và vào Cam Lộ để bàn giao cho các anh. Nếu các anh thấy đường tốt thì chúng tôi xin bàn giao lại cho các anh quản lý. Đoạn từ đây ra tới Mo các anh không phải kiểm tra nữa đâu, vì chúng tôi đã kiểm tra rồi.

        Thế rồi chúng tôi hai bên giao nhận. Anh em công binh quay về Cam Lộ còn chúng tôi tìm đường ra Bắc.

        Chúng tôi mới đi được chừng 30 phút thì thấy một chiếc LI9 lên quần lượn. Tôi hô anh em:

        - Không đi theo mặt đường nữa mà nhanh chóng vượt qua đồi bên kia. Ta cứ cắt thẳng làm sao cách xa con đường này 2 đến 3 cây số, rồi cắt đường đi ra Bắc. Bám mặt đường này thì sẽ bị máy bay B52 đánh ngay.

        Mấy anh em chúng tôi vượt qua hai quả đồi, qua hai thung lũng. Cách con đường, khoảng 3 km thì dừng lại lấy sức để tìm đường ra Bắc.

        Đúng như dự kiến của tôi, chi hơn một giờ sau ba chiếc B52 lên rải bom dọc theo đường vừa làm và các điểm trú quân của Trung đoàn. Anh em ai cũng hú vía nói không nghe anh Hợi, cứ đi theo đường bằng thi chắc là chẳng còn ai sống sót. Tôi thì nghĩ: “Không hiểu anh em công binh mình có dính bom không”.

        Mấy anh em chúng tôi tiếp tục cắt đường đến gần tối thì gặp sông Bến Hải. Chúng tôi theo dòng nước chảy xuống hạ lưu khoảng một giờ thì gặp binh trạm Mo, anh em binh trạm chỉ đường cho chúng tôi về đơn vị.

        Về gặp Trung đoàn, ai cũng mừng vì tưởng chúng tôi đã dính B52. Chúng tôi về lại Tiểu đoàn và tiếp tục hành quân về xã Đức Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình để trú quân huấn luyện, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.

        Xã Đức Trạch chạy dài, nằm sát theo bờ biển. Dân ở chỉ cách bờ biển khoảng 100 mét. Những năm chiến tranh, ở đây ác liệt lắm, dân đi sơ tán mới về dựng nhà ở tạm để làm nghề chài lưới ngoài biển. Nhà cửa chật chội nhưng nhà nào cũng nhận cho 2 đến 3 bộ đội vào ở. Họ dành chỗ tốt nhất cho bộ đội nằm.

        Hằng ngày họ đi đánh cá. Được con cá, con tôm nào ngon thường đem biếu bộ đội. Biết Ban Chi huy chúng tôi ở trong nhà anh Toán (trạm trưởng y tế xã) không đi biển, nên các gia đình xung quanh mỗi khi đi biển về đều cho con mang tôm, cá ngon sang biếu.

        Có hôm có nhà cho cả con cá thu đến vài cân. Có nhà cho ba, bốn con tôm hùm to bằng cẳng tay. Mỗi người chi ăn một con là ngán vì mỗi con nặng tới 5 đến 7 lạng.

        Không hiểu có được cán bộ địa phương phổ biến không mà tôi thấy nhà nào cũng tranh thủ quan tâm, chăm sóc bộ đội. Tôi đoán chắc họ cũng hiểu đơn vị chúng tôi vừa ở chiến trường ra và nay lại đang huấn luyện để chuẩn bị đi B dài.

        Kể từ ngày về công tác tại Trung đoàn 271 cho đến nay, tôi mới thực sự hiểu biết nhiều hơn về con người và mảnh đất Quân khu 4. Đặc biệt là Nghệ An quê mình. Từ lúc lớn lên cho tới khi đi bộ đội, tôi chỉ biết xã mình, huyện mình và một phần Thành phố Vinh, ngay cả Bến Thủy vẫn chưa tới. Chỉ có mấy tháng về Trung đoàn 271, tôi đã cùng đơn vị hành quân diễn tập hầu như khắp các huyện Nghi Lộc, Diễn Châu, Yên Thành rồi miền tây Quảng Trị và một số huyện của tỉnh Quảng Bình.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười, 2017, 06:38:10 am

        Đầu tháng 9, đơn vị cho anh em đi phép về thăm nhà 15 ngày để vào an dưỡng đi B dài.

        Chúng tôi thường nói đùa nhau về tình yêu của lính. Chỉ 15 ngày phép mà cả Trung đoàn có đến mấy trăm đồng chí vừa yêu, vừa hỏi, vừa cưới. Tôi cũng nằm trong số đó.

        Tôi thật sự khâm phục tinh thần của chị em phụ nữ. Biết người lính ra trận có mấy ai được về và được trở về cũng liệu còn nguyên vẹn, thế mà họ vẫn yêu, vẫn cưới để làm vợ lính.

        Sau chiến tranh, chúng tôi kiểm lại, có trên 70%, trong số chị em đó có chồng là liệt sĩ. Chiến tranh nghiệt ngã, sự hi sinh mất mát của phụ nữ Việt Nam nói chung và những người vợ lính Trung đoàn chúng tôi là không gì bù đắp nổi.

        Tổ quốc, dân tộc tôn vinh họ là những phụ nữ Việt Nam anh hùng. Đất nước có chiến tranh, người thiệt thòi nhất, mất mát nhiều nhất là phụ nữ. Những người quả phụ sau chiến tranh, cuộc sống đã đưa đẩy họ mỗi người một số phận. Nhiều chị đã có con ở cái tuổi rất trẻ nhưng họ vẫn ở vậy thờ chồng, nuôi con. Người may mắn hơn thì đi bước nữa, nhưng người ta thường nói rổ rá cạp lại có mấy ai tròn trĩnh như cuộc tình đầu.

        Có nhiều chị, cứ hy vọng chờ đợi người thân của mình còn sống trở về. Nhưng chiến tranh đã lùi xa thời gian đâu có dừng lại tuổi xuân. Chị em cứ chờ đợi dù là chờ đợi trong tuyệt vọng. Nên mới có chuyện làng Lòi ở huyện Yên Thành, Nghệ An. Nơi hội tụ mấy chục chị em không chồng, không con ở với nhau. Trong số họ có cả vợ các liệt sĩ Trung đoàn chúng tôi.

        Từ ngày 10 tháng 11 năm 1971, Trung đoàn thông báo chính thức lịch hành quân, di chuyển cho các đơn vị. Các đơn vị theo lịch lần lượt rời khỏi khu vực trú quân ở huyện Bố Trạch. Đến đây, bộ đội được bổ sung lương thực, thực phẩm và hành quân ngược về phía Tây theo đường mòn Hồ Chí Minh vào Nam chiến đấu.

        Khi ở B5 ra, tôi được Trung đoàn điều động và quyết định về làm Chính trị viên Đại đội 4 (Đại đội hỏa lực) của Tiểu đoàn 8. Đại đội tôi có 103 người được trang bị hai khẩu cối 82, 1 khẩu 12,7 ly, 2 khẩu đại liên, 2 khẩu ĐKZ 82, 5 khẩuB41.

        Trung đoàn 271 là đơn vị thực binh đi B dài, được trang bị đầy đủ súng đạn và các phương tiện kỹ thuật. Đi đến đâu gặp địch là có thể tác chiến được ngay. Do vậy bộ đội hành quân mang vác rất nặng từ 30 đến 35kg, các đơn vị hỏa lực có thể hơn 40kg.

        Đường Trường Sơn đối với anh em là mới lạ vì họ lần đầu mới được đặt chân đến đây. Còn tôi thì đây là lần thứ 3 đi trên con đường này. Nhưng lần này khác hoàn toàn với hai lần trước. Trước đây là chiến sỹ, nay tôi đã là Chính trị viên Đại đội.

        Ngày 12 tháng 11 năm 1971, chúng tôi rời Cự Nẫm, Quảng Bình. Đây là ngày chính thức đi B của Tiểu đoàn 8. Biết bao tình cảm quyến luyến gia đình, vợ con, quê hương, đặc biệt là tình cảm với người dân Quảng Bình. Nhiều người dân ở xã Đức Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình đã đi bộ hàng mấy chục cây số lên đây để tiễn chân bộ đội.

        Lệnh hành quân đã bắt đầu, quân dân quyến luyến tạm biệt nhau. Không biết ai khởi xướng mà cả đơn vị hô vang: “Tạm biệt miền Bắc! Tạm biệt quê hương! Hẹn ngày chiến thắng gặp lại. Tất cả vì miền Nam thân yêu, tất cả vì giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc”.

        Bộ đội hành quân liên tục mấy tháng trời, vừa đi vừa huấn luyện quân sự, vừa rèn luyện thể lực mang vác nặng, leo đèo, lội suối. Những ngày đầu hành quân thật vất vả, mũi miệng thi nhau thở.

        Đại đội tôi có đến một phần tư quân số là sinh viên đại học Vinh, hầu hết anh em đang học dở năm thứ hai. Có nhiều đồng chí con quan chức ở thành phố, ăn uống sinh hoạt có điều kiện hơn, ít lao động nặng nhọc như các đồng chí ở nông thôn. Bây giờ bước vào cuộc trường chinh này thật sự là một thử thách lớn đối với anh em. Nếu không có sự giác ngộ cao về lý tường thì không thể vượt qua được.

        Tôi cũng hết sức thông cảm và chia sẻ với anh em vì liên hệ từ mình mà ra. Tôi lúc đó mới 24 tuổi, cái tuổi cường tráng được rèn luyện thử thách như vậy mà đi vẫn thấy bở hơi tai. Còn anh em thì quá trẻ, lại ngồi trên ghế nhà trường mới được tập luyện có 6 tháng.

        Qua một ngày hành quân, sáng hôm sau, trước khi đi tôi tập trung đơn vị, đánh giá, nhận xét, biểu dương những cá nhân, tập thể có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có tinh thần giúp đỡ nhau để về trạm đúng thời gian quy định. Đồng thời động viên nhắc nhở một số cá nhân chưa thật sự cố gắng để bám đội hình.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Mười, 2017, 09:47:20 am

        Hồi đó tôi trí nhớ khá tốt, hàng ngày cứ nghe mấy bản tin thời sự phát trên đài phát thanh, nhất là những tin chiến thắng trên các chiến trường là tôi nhớ lại gần như toàn bộ. Mỗi buổi sáng sau khi nhận xét kết quả hành quân hôm trước, phổ biến kế hoạch trong ngày là tôi lại nói chuyện thời sự, toàn những tin nóng hổi nên anh em rất phấn khởi, tạo nên một không khí mới làm xua đi nổi vất vả, nhọc nhằn. Rồi chúng tôi phát động thi đua từng cá nhân, Tiểu đội, Trung đội, đăng ký hành quân giữ đúng đội hình về trạm gọn nhất và đảm bảo 100% quân số đến tận chiến trường chiến đấu được ngay.

        Miền Bắc cứ lùi xa dần. Đoàn chúng tôi đã vượt qua bao nhiêu núi đèo, qua biết bao nhiêu trọng điểm ác liệt, qua biết bao nhiêu khu rừng lạ.

        Rừng ở Đông Trường Sơn, cây to xen lẫn cây nhỏ nên trông rậm rạp. Sang Tây Trường Sơn rừng cây to thưa, khô ráo, khe suối nhiều nơi đã cạn kiệt, trơ ra toàn sỏi đá. Có khi đi hai ba ngày toàn rừng săng lẻ, cây to, cao, thẳng, thân vỏ trắng và đẹp như da báo, có những cái banh chìa ra hai ba mét. Đã có nhiều đoàn đi qua đây, nhiều người dùng dao găm khắc vào cây biệt danh của đoàn, có cả những câu ca dao, những bài thơ ngắn, những địa chi.

        Qua Nam Lào, về Tây Nguyên, rồi qua đất Căm Pu Chia. Chúng tôi đã đi qua những rừng lồ ô, rừng le, rừng khộp. Khộp là loại cây to, cao, mọc thưa, về mùa khô lá rụng hết, đi dưới rừng mà nắng như đi trên đường trống vậy.

        Qua thông báo thời sự, tôi biết được thế mạnh của anh em sinh viên nên Đại đội phát động làm thơ ca, hò vè, xướng, họa.

        Chúng tôi giao chỉ tiêu cho các Trung đội, thế là sáng nào sau phần của Đại đội anh em lên thay nhau đọc thơ, xướng, họa. Nhờ làm tốt công tác tư tưởng và các hoạt động văn hóa, văn nghệ với khẩu hiệu "Tiếng hát át tiếng bom" mà đơn vị tôi hành quân được hai tháng vẫn chưa một người nào phải khiêng cáng. Quân số vẫn đảm bảo 100%, có một số đồng chí yếu đau được anh em san sẻ tư trang, súng đạn rồi tự chống gậy đi.

        Tâm lý của anh em là sợ ốm phải gửi vào trạm vì anh em trong Tiểu đoàn 8 chúng tôi ngoài tình đồng chí, đồng đội thì còn tình đồng hương. Anh em toàn là người cùng xã, cùng huyện. Một số anh em con chú, con bác nên rất sợ xa nhau. Khi đơn vị đi hết địa phận B3 thì được chuyển tiếp sang binh trạm 470 Nam Bộ.

        Từ đây các điều kiện cơ sở vật chất, hậu cần được cải thiện nhiều. Đường hành quân đi qua các tỉnh của Căm Pu Chia bằng phẳng, địa hình trống trải, có nhiều trạm phải đi đêm. Những đồng chí ốm đau, yêu cầu gửi vào trạm sẽ được chăm sóc chu đáo. Có trạm đã có rau xanh, cá khô, đậu xanh cấp cho bộ đội.

        Tôi có kinh nghiệm vì đã vào ra trên đường Trường Sơn hai lần. Trước khi đi B, tôi động viên anh em có bao nhiêu tiền mua hết thuốc B1, pôlyvitamin, chứ đường sữa thì mang nặng, ăn lại mau hết. Hai loại thuốc BI và pôlyvitamin trợ sức rất tốt nên trên đường hành quân, Đại đội tôi mang vác nặng mà quân số đảm bảo, lúc nào cũng dẫn đầu Tiểu đoàn và được Tiểu đoàn biểu dương liên tục. Anh em các Đại đội khác thường gọi Đại đội 4 là Đại đội pôlyvitamin.

        Trước khi đi B, lúc về phép, tôi xuống gặp chị Nhơn (chị con bác tôi). Chị Nhơn bán hàng giải khát ở Vinh. Tôi xin chị khoảng nửa cân bột chanh khô. Chị bảo đây là bột chanh hóa học, bọn chị là nhân viên bán nước chanh mà chả dám uống. Tôi bảo bọn tôi là lính kể gì.

        Hành quân hai, ba tháng làm gì có rau. Thinh thoảng tìm được cây bứa, người trước thì hái lá non, người sau hái lá già, người sau nữa đẽo cả vỏ về nấu. Cây bứa từ quả, lá và vỏ đều chua, anh em đem về nấu với nước lã bỏ tý mì chính, xí muội thế là được bữa canh ngon lành.

        Thỉnh thoảng tôi cho mỗi Trung đội vài thìa cà phê bột chanh là có thể nấu được một nồi 20 canh chua. Còn Đại đội bộ thì dùng thường xuyên. Chỉ chừng ấy bột chanh mà tôi phân phối ăn dè cho cả Đại đội vào tận binh trạm 470 mới hết.

        Những ngày hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội biết bao thiếu thốn, mỗi ngày ăn 7 lạng gạo mà vẫn đói vì lao động nặng nhọc, ăn cơm với mắm kem, uống nước suối. Có một bữa anh em tìm được một nắm rêu mọc trên những tảng đá dọc suối mang về nấu ăn. Tôi hoảng hốt kêu: “Các cậu ăn thế này mà chết à!”. Một cậu nhanh miệng nói:

        -  Bọn em hỏi đồng bào dân tộc rồi, họ bảo ăn được, không chết đâu, con heo đồng bào ăn được thì người cũng ăn được.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười, 2017, 04:49:48 am
         
CHUYỆN LÁU CÁ CỦA LÍNH

        Trên chặng đường hành quân xảy ra hai chuyện. Từ đó đến nay đã hơn 45 năm rồi mà tôi vẫn nhớ. Cứ mỗi lần chúng tôi gặp nhau, anh em lại nhắc lại và cười ra nước mắt.

        Vụ thứ nhất là:

        Như thường lệ sáng ra, chúng tôi tập trung đơn vị để sinh hoạt. Bữa ấy tôi thấy Trung đội đại liên do đồng chí Quang quê ở Quảng Bình làm Trung đội trưởng, cả Trung đội mang vác cồng kềnh, ba lô căng phồng mà tư trang quần áo, chăn màn thì gói ni lông mang ngoài, có cậu gánh một đầu hòm đạn và một đầu tư trang.

        Có một đồng chí giao liên ở trạm xin gặp Ban Chi huy Đại đội. Không hiểu lý do gì, tôi ân cần tiếp đón. Đồng chí giao liên nói:

        - Tối qua bọn em mất sạch một vườn rau cải hơn một tạ rau, có lẽ anh em chiến sỹ của thủ trưởng lấy.

        Tôi hỏi:

        - Vườn rau ở đâu? Cách đây có xa không?

        - Cách đây khoảng 40 phút, bên đồi bên kia.

        Tôi nói:

        - Thực sự thì tôi không biết. Hôm qua trạm hơi xa, anh em tôi mãi 5 giờ chiều mới thu quân hết rồi lo kiếm củi nấu ăn là tối, còn thời gian và sức đâu mà đi tìm rau. Mà vườn rau các đồng chí làm xa và kín thế anh em tôi làm sao biết được. Hơn nữa đồng chí nói mất cả tạ rau, anh em ăn làm sao hết và có dấu vết gì đâu.

        Có lẽ đồng chí giao liên biết anh em ta bỏ ba lô nên ranh mãnh đề nghị:

        - Thủ trưởng cho khám ba lô.

        Tôi nói ngay:

        - Việc khám ba lô tư trang cá nhân là quyền của chúng tôi, người ngoài đơn vị không được quyền làm việc ấy. Thời gian hành quân đã đến rồi mong đồng chí thông cảm.

        Đồng chí giao liên bực tức ra về. Đơn vị tiếp tục hành quân. Trung đội đại liên hết sức vất vả vì quá nặng. Nhìn thái độ anh em tôi linh tính, có lẽ Trung đội 2 tối qua đã đi lấy cắp rau. Vì chưa kịp ăn, còn mang theo nên đã bỏ vào ba lô còn đồ đoàn đùm lại đeo bên ngoài.

        Chiều tối nhập trạm xong, tôi xuống các Trung đội kiểm tra như thường ngày. Đến Trung đội 2, thấy mấy chiếc ba lô to cồng kềnh, anh em mệt quá nên còn vứt ngổn ngang, tôi nói đùa đồng chí Quang, Trung đội trưởng:

        - Quang ơi cho atrh em tháo rau ra đi không thì hỏng hết đấy.

        Quang trả lời:

        - Rau đâu ra, thủ trưởng?

        Tôi chi tay vào mấy chiếc ba lô và nói:

        - Cậu lừa được giao liên chứ làm sao qua được mắt tôi.

        Quang không sao biện bạch được đành thú nhận:

        - Lúc sáng, nếu thủ trưởng cho khám ba lô thì bọn em không có đất đâu mà chui. Bọn giao liên nó nghi ngờ bọn em bỏ rau vào ba lô.

        - Cậu tưởng mình là trẻ con hay sao? - Tôi tỏ vẻ thông cảm nói - Nếu là mất vũ khí, khí tài thì tôi cho kiểm tra, chỉ có mấy ký rau thì ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới. Làm sao mà mình lại nghe mấy lời đề nghị của họ. Làm lính như họ thì quá sướng, ở phía sau ăn rồi làm gì mà không trồng rau.

        Tôi giả vờ cời mở với việc làm sai trái của Quang. Thế rồi Quang bộc bạch ra hết. Quang nói:

        - Chiều qua có cậu Dũng đau chân bị tụt lại sau, khi bọn em đến trạm quay lại đón Dũng thì thấy một anh giao liên đi từ hướng ấy ra có mang theo mấy mớ rau cải. Tối đến bọn em nghĩ nhất định trạm họ trồng rau hướng đó vì trồng gần sợ bộ đội ta lấy. Nghĩ vậy em cho 7 người tổ chức đi về hướng ấy, không ngờ chín mười giờ đêm anh em vác mỗi người một bó rau to về. Ban đêm nấu thì sợ ánh sáng. Sáng nay anh em mới ăn một ít. Còn lại anh em bỏ vào ba lô, đồ đoàn thì treo ờ ngoài. Ngày hôm nay Trung đội em hành quân mệt muốn chết nhưng anh em đều cố gắng không dám kêu sợ bị lộ.

        Tôi bảo Quang:

        - Thôi tháo rau ra chia cho toàn Đại đội mỗi người ăn một tý gọi là "cái lộc" cùa anh Quang.

        Nói đến "cái lộc" cùa anh Quang, hắn hốt hoảng xin lỗi thủ trưởng mấy tháng nay bộ đội mới được ăn một tý rau.

        Việc làm của Quang nếu ờ miền Bắc hoặc ở vị trí khác thì đáng phải phê bình, kiểm điểm nhưng rồi chúng tôi chỉ nhắc nhờ tuyệt đối không được tái phạm nữa, đó là rau của lính chứ rau của dân thì kỷ luật cả nút.
       
        Chuyện thứ hai:

        Hôm hành quân trên đất Tây Nguyên gần giáp với đất Cam Pu Chia, trạm cuối cùng để nhập vào binh trạm 470, bộ đội nghỉ một ngày để đi lấy gạo và thực phẩm. Gần tối tôi đi động viên và kiểm tra đơn vị, khi tới Tiểu đội 10 (Tiểu đội B41) do Lê Quảng Ba làm Tiểu đội trưởng, tôi thấy anh em rất vui vẻ tranh nhau mời thủ trường ngồi xuống võng chơi. Tất cả nhằm ngăn không muốn cho tôi xuống chỗ bếp nấu ăn. Nhưng việc kiểm tra nơi ngủ, nghỉ, ăn uống là việc thường nhật của tôi. Tôi nhìn vào bếp thấy nấu hai nồi cơm to, một nồi 20 và một nồi 10. Thông thường tiểu đội này mỗi bữa ăn nấu một nồi 10 chưa đầy. Tôi hỏi ngay:

        - Các cậu nấu cơm cả ngày mai hay sao mà nhiều thế? Như thế này là không được. Đơn vị đã quy định trên đường hành quân bộ đội ăn hai nóng một nguội có nghĩa là buổi trưa bộ đội phải ăn cơm nắm. Sao các cậu lại làm thế này?

        Tôi nhìn vào đầu giá để ba lô, mỗi người một ruột tượng gạo đầy căng. Tôi nghĩ ngay có lẽ các cậu này khi đi lấy gạo đã vào kho ăn cấp được gạo. Tôi chi nhìn mà không nói gì hết, thế rồi đồng chí Ba, Tiểu đội trường tự thổ lộ:

        - Khi đi lấy gạo bọn em đã vác trộm được một bao gạo 70 kg. Một mình đồng chí Yên cõng từ ngoài kho về đây trót lọt nên anh em bàn cho anh em ăn một bữa thật no vì đã mấy tháng đói rồi.

        - Các cậu nấu vậy ăn làm sao hết?

        - Ba nói anh em còn đòi nấu một người 1 kg nhưng em chi cho nấu mỗi người 7 lạng.
   
        Khoảng 8 giờ tối, tôi bấm đèn pin xuống kiểm tra xem có anh nào bị bội thực không. Ba bộc bạch:

        - Anh em ăn hết sạch trơn còn đòi ăn nữa, chính trị viên cứ yên tâm.

        Những chuyện đã qua đi mấy chục năm thế mà mỗi khi anh em gặp nhau, nhắc lại. Anh em đều thừa nhận cách xử lý của tôi khi ấy là thấu lý, đạt tình.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Mười, 2017, 03:37:22 am

NHỮNG NGÀY ĐẦU Ở CĂM PU CHIA

        Đầu tháng 2 năm 1971, đơn vị đã đi qua hai tỉnh Căm Pu Chia là Na Ta Ga Ri và Môn Đôn Ga Ri. Tới tinh Công Pông Chàm, bộ đội phải hành quân đêm vì đường hành quân bằng phẳng, trống trải, qua nhiều đường dân sinh ngang dọc, qua nhiều Phum Sóc có một số làng Việt Kiều và Hoa Kiều.

        Đêm hành quân, ngày bộ đội trú quân trong rừng cao su bỏ hoang nhiều năm không ai khai thác. Có những rừng cao su đã già cỗi, trồng từ những năm 1938, có những cây cao to hai người ôm không xuể. Song cũng có những rừng mới trồng được chín, mười năm.

        Đầu mùa xuân và cũng là giữa mùa khô, cây cao su đổ lá đã nảy lộc, dưới đất lá cao su dày đến cả gang tay đi cứ lộp xộp như đi trên chiếc bánh đa khô. Bộ đội đi từ Bắc vào đây phải qua nhiều loại rừng, dốc cao, khe suối, sông ngòi nay được mắc võng nghi trong rừng cao su sẽ rất thoải mái. Những hàng cao su thẳng tắp trông thật lãng mạn.

        Khi hành quân đến cần Ché (Kra Chê) bên bờ sông Mê Công, tôi cảm thấy một không khí hòa bình thực sự. Bên bờ sông phố xá, nhà hàng thắp đèn Măng xông sáng như đèn điện. Dân buôn bán ờ đây chủ yếu là Hoa Kiều và Việt Kiều. Dân Việt Kiều gặp bộ đội miền Bắc họ tranh nhau hỏi về quê quán.

        Việt Kiều ở đây hầu hết quê ở Thái Bình, Nam Định. Họ đi phu đồn điền cao su cho Pháp, sang đây từ những năm 1938 - 1940. Năm 1970, khi chính quyền Xi Ha Núc bị lật đổ, người trồng và khai thác cây cao su bị thất nghiệp, họ chuyển sang sản xuất lúa và buôn bán.

        Từ Cần Ché, đơn vị có đêm hành quân bằng đường thủy. Bộ đội ngồi trên phà do một chiếc ca nô kéo đi dọc dòng Mê Công. Ngồi trên phà, nhìn hai bên bờ sông nhiều nhà hàng buôn bán, bến cá, đèn Măng xông sáng như đèn điện đường phố.

        Trên sông, nhiều thuyền của ngư dân đánh bắt cá bằng nhiều loại phương tiện như lưới, câu, trễ, xúc... Trên mỗi thuyền đều có đèn thắp sáng nên nhìn mặt sông rộng mênh mông, đèn sáng như sao, trông thật kỳ thú. Có ai biết nơi đây từng là một chiến trường ác liệt, đẫm máu. Trận càn Gian Sơn xi ty, năm 1967, của quân ngụy Sài Gòn và trận càn năm 1970, khi Xi Ha Núc bị lật đổ.

        Hai trận này, quân Sài Gòn đã đưa lên đây mấy vạn quân, có hàng trăm xe tăng, xe cơ giới và có hàng trăm chiếc máy bay yểm trợ nhằm quét sạch quân giải phóng, cứu nguy cho chính quyền Lon Non. Dấu tích để lại là nhiều làng, nhiều đồn điền cao su dân bỏ chạy không quay về nữa. Nay trở thành hoang vắng và công nhân cao su không có việc làm, thất nghiệp. Phà chạy trên sông mấy chục kilômét thì cập bến, chúng tôi rẽ về phía trái của dòng sông và cũng chẳng biết đây là địa phận nào.

        Cập bến đã quá nữa đêm, dân Hoa Kiều, Việt Kiều và cả dân Căm Pu Chia ra đón tiếp rất đông. Không ai tổ chức, dân tự phát, không cờ, đèn, trống. Các ông, bà già là chính đứng thành cụm ba bốn người, dọc hai bên đường, họ đưa một thúng thuốc lá cuộn bộ đội đi qua phát cho một người 2 điếu. Có chỗ thì họ mời nước, mỗi người đi qua đưa cho một bát nước. Bộ đội chi dừng lại mấy giây uống nước.

        Từ đầu tới cuối hàng quân, ai cũng được hưởng lộc cùa dân như vậy. Về tới trạm có đồng chí đưa ra đếm được 20 điếu thuốc lá cuộn. Xa miền Bắc mấy tháng, nay được điếu thuốc lá cuộn anh em mừng lắm.

        Từ đây các trạm giao liên đường dây 559 và 470 đã hoàn thành nhiệm vụ đưa Trung đoàn bộ binh 271 bàn giao cho Bộ Chỉ huy Miền. Trung đoàn 271 được bổ sung cho Quân khu miền Đông Nam Bộ thuộc Bộ Chi huy Miền trực tiếp chi huy quản lý và chính thức hoạt động trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ.

        Đơn vị hành quân thêm mấy ngày nữa thì tới khu vực gọi là đại bản doanh của Quân giải phóng. Đây vẫn là đất Căm Pu Chia tiếp giáp với hai huyện Lộc Ninh tinh Phước Long và huyện Tân Biên tinh Tây Ninh. Khu vực này trước đây là hậu cứ của Bộ Chi huy Miền và các đơn vị như Sư 9, Sư 7, Sư 5. Có nhiều con đường mòn cắt qua, cắt lại ngang dọc, nhiều hầm hào kiên cố, nhiều nhà và kho tàng lợp lá trung quân kết lại trông rất đẹp.

        Lá trung quân chi to bàng bàn tay, dài khoảng 20 phân, loại lá này chịu mưa, chịu nắng. Nhà lợp lá trung quân 5 đến 7 năm không mục và lại chống cháy rất tốt. Lá khó cháy và chi cháy âm ỉ, không bốc lừa như các loại lá khô khác.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Mười, 2017, 07:38:43 am

        Ở đây có nhiều giếng đào sâu hơn 20 mét, lá khô đã đổ xuống dày hàng mét nước đen như hắc ÚI thế mà bộ đội vẫn múc lên ăn và uống vì cả vùng này không có suối. Vùng này là rừng già nguyên sinh, cây to, cao nhưng thưa, phía dưới cây nhỏ bàng cẳng tay, cẳng chân thì dày đặc, kín đáo cho bộ đội trú quân.

        Bên cạnh đội hình trú quân có một con đường vận tải chiến lược, đường rộng khoảng 2m. Đường mở quanh co, dưới tán các cây to nên rất kín đáo. Ban ngày, bộ đội hậu cần của Miền cả nam và nữ đi thồ hàng trên con đường này. Khi đi, họ còng lưng đẩy xe hàng nặng hàng trăm cân. Khi về, xe không thì họ đạp xe chạy băng băng, vừa đi vừa trêu đùa nhau. Tiếng các cô gái miền Đông ngọt như mía lùi.

        Chúng tôi là lính mới chẳng biết mô tê gì. Nghe phổ biến không được đi lại, không được quan hệ tiếp xúc với bên ngoài, tuyệt đối giữ bí mật phiên hiệu đơn vị từ Bắc vào. Nhưng không hiểu lý do gì ngày 18 tháng 2 năm 1972, Tiểu đoàn 9 hành quân di chuyển bị máy bay LI9 lên quần đảo và gọi mấy chiếc trực thăng HU1A lên bắn phá. Chủ yếu bắn rốc két và ĐK đinh trúng đội hình gây cho ta một số tổn thất. Trong số các đồng chí hi sinh, có đồng chí Khôi, Chính trị viên Đại đội 2, Tiểu đoàn 9 quê ở Nghi Lộc.

        Ngày 19 tháng 2 năm 1972, Trung đoàn đang đóng quân trên một tuyến đường xe thồ cũ. Gần sáng các đơn vị nhận lệnh của Trung đoàn nhanh chóng hành quân di chuyển, địch sẽ đánn B52.

        Tất cả vị trí trú quân của Trung đoàn đều nằm trong tọa độ oanh tạc của B52. Các đơn vị đều hành quân trên một tuyến đường, lực lượng quá đông dẫn đến ùn tắc, tốc độ rất chậm.

        Tiểu đoàn 8 chúng tôi hành quân được khoảng 20 phút thì Tiểu đoàn 7 hành quân tới vị trí Tiểu đoàn 8.

        Tiểu đoàn 7 đang hành quân thì bị B 52 rải bom trúng đội hình. Biết Tiểu đoàn 7 đã dính bom, Trung đoàn huy động mỗi đcm vị 20 người quay lại giúp khắc phục hậu quả.

        Một mất mát to lớn. Ba mươi lăm đồng chí hi sinh tại chỗ và hàng chục đồng chí bị thương, số bị thương được đưa về tuyến sau cấp cứu, thêm một số hi sinh vì vết thương quá nặng.

        Qua trận B52, Tiểu đoàn 7 chi còn một vài Đại đội mất sức chiến đấu, quân số thương vong hơn một nửa. Trong số hi sinh có đồng chí Hồ Xuân Quý chính trị viên Đại đội, quê Hưng Thắng, Hưng Nguyên, về đến vị trí mới, Bộ Chỉ huy Miền phải lấy Tiểu đoàn 5 tân binh đi từ Bắc vào cùng Trung đoàn bổ sung cho Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9. Tiểu đoàn 5 tân binh hầu hết người Nghi Lộc, Nghệ An.

        Như vậy, mới vào chiến trường chưa kịp đánh đấm gì mà hai Tiểu đoàn kỳ cựu có truyền thống của Trung đoàn đã bị thiệt hại nặng, nhất là Tiểu đoàn 7.

        Tiểu đoàn 8 chúng tôi đóng quân tại một rừng cao su gần làng 54 Việt Kiều. Bộ đội được ăn dưỡng 10 ngày, mỗi ngày 10 Ria (tiền Căm Pu Chia). Bộ đội vừa nghi ngơi, vừa huấn luyện bổ sung và học chính trị. Cán bộ các cấp từ Đại đội đến Trung đoàn thì đi nghiên cứu chiến trường.

        Thời gian này, Trung đoàn được bổ sung mấy chục đồng chí cán bộ từ Đại đội đến Trung đoàn từ các Sư đoàn 9, Sư đoàn 5 về. Đây là đội ngũ cán bộ dày dặn kinh nghiệm hoạt động nhiều năm ở chiến trường miền Đông Nam Bộ. Bước đầu đã giải quyết được sự thiếu hụt, đội ngũ cán bộ các cấp và sự bỡ ngỡ khi đơn vị được hoạt động ở một chiến trường mới lạ.

        Chiến trường đồng bằng đầy gay go ác liệt. Đại đội tôi được trên bổ sung đồng chí Huệ quê ở Vĩnh Phú từ Sư 9 về làm chính trị viên phó Đại đội và đồng chí Hứa Trung đội trưởng cối 82 được bổ nhiệm lên làm Đại đội phó.

        Bộ đội ở đây mấy ngày sống thoải mái ăn uống khá đầy đủ, ra chợ mua cá, thịt, rau xanh. Chuối và đu đủ thì có cả mấy đồn điền rộng hàng chục héc ta, bộ đội tha hồ lấy ăn. Những ngày hành quân vất vả thiếu đói đủ thứ nay được nghi ngơi, ăn uống khá nên trông anh nào cũng sáng sủa ra và lên cân.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười, 2017, 05:40:22 am

THAM GIA CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ

        Sau khi đội ngũ cán bộ đi nghiên cứu chiến trường về, Trung đoàn 271 được giao nhiệm vụ tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ và nằm trong đội hình Sư đoàn 30B. Sư đoàn có nhiệm vụ đánh mở màn chiến dịch.

        Trung đoàn quyết tâm ra quân đánh thắng trận đầu, nên mọi công tác chuẩn bị được làm hết sức chu đáo, nhất là công tác Đảng, công tác chính trị. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên các đơn vị đều hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

        Đảng ủy, Ban Chỉ huy Trung đoàn ra lời kêu gọi cán bộ, chiến sỹ quyết tâm hoàn thành xuất sác nhiệm vụ để trả thù cho Tiểu đoàn 7 bị B52 giết hại và làm rạng danh Trung đoàn bộ binh của Quân khu 4 - Con em của quê hương Xô viết anh hùng. Khí thế ra trận cùa Trung đoàn vui như trảy hội.

        Cuối tháng 3 năm 1972, cả Trung đoàn hành quân di chuyển đến vị trí tập kết, sẵn sàng chiếm lĩnh trận địa. Đến khu vực Sáu Cầu gần Tà Âm, đơn vị dừng lại để phổ biến nhiệm vụ. Cán bộ các cấp tiếp tục đi nghiên cứu trận địa.

        Trung đoàn giao nhiệm vụ cho các đơn vị như sau: Tiểu đoàn 7 tổ chức phục kích trên tuyến đường 22 đoạn từ Thiện Ngôn đi Cần Đăng.

        Tiểu đoàn 8 có hai Đại đội bộ binh và một số hỏa lực làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn đánh vào Thiện Ngôn. Đại đội 3 bộ binh cùng với một khẩu cối 82, một khẩu đại liên, hai khẩu B41 của Đại đội 4, vận động phục kích trên đoạn đường đất đỏ từ Thiện Ngôn đi Tà Xia.

        Tiểu đoàn 9 vây ép Tà Xia và sẵn sàng đánh tiêu diệt căn cứ Tà Xia.

        Đoàn cán bộ đi địa hình bị một quả pháo bẳn vu vơ trúng đội hình làm một số hi sinh và bị thương. Trong đó có đồng chí Lê Ồn, Trung đoàn trưởng bị mất một cánh tay.

        Trận đánh mở màn Chiến dịch Nguyễn Huệ của Sư đoàn là trận đánh vào Thiện Ngôn. Lực lượng Sư đoàn tham gia vào trận này có một Trung đoàn bộ binh, tăng cường đặc công, pháo binh, xe tăng, ngày N (ngày nổ súng) là ngày 31 tháng 3 năm 1972.

        Chiều ngày 30 tháng 3 năm 1972, anh Đoàn Hồng Vu, Đại đội trưởng Đại đội tôi đi địa hình về, quần áo đầy bùn đất. Vì thời gian quá gấp, tôi đề nghị: “Anh cởi quần áo vứt lại đó, lấy quần áo tôi mà mặc, ta tranh thủ trao đổi trong Ban Chi huy một số vấn đề để bộ đội hành quân cho kịp thời gian quy định của Tiểu đoàn”.

        Anh Vu lấy quần áo tôi mặc và chẳng kịp ăn uống gì. Chủng tôi bàn bạc và thống nhất phân công Ban Chỉ huy. Anh Vu và anh Huệ, Chính trị viên phó đi với đội hình Tiểu đoàn làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn. Tôi và anh Hứa, Đại đội phó đưa một khẩu cối 82, một khẩu đại liên, hai khẩu B41 đi tăng cường cùng Đại đội 3 tổ chức trận địa phục kích trên đoạn đường đất đỏ từ Thiện Ngôn đi Tà Xia.

        Như vậy, Đại đội tôi chia làm hai bộ phận chiến đấu trên hai hướng khác nhau. Anh em tranh thủ ăn cơm vội, rồi tháo bớt đồ đoàn mỗi người chỉ mang theo một cái tăng, một cái võng, một nắm cơm và hai ngày gạo rang cùng với súng đạn. Anh em chúng tôi chào tạm biệt nhau rồi mỗi người đi một hướng.

        Bộ phận chúng tôi đi với Đại đội 3, mang vác rất nặng: cối 82 mang 40 quả đạn, đại liên mang 700 viên, mỗi khẩu B41 tám quả đạn, súng bộ binh một cơ số 300 viên. Anh em chúng tôi cắt rừng 5 tiếng đồng hồ thì tới được vị trí quy định, lúc đó khoảng 2 giờ sáng.

        Trận địa chúng tôi bố trí cạnh một bãi cỏ tranh cao quá đầu gối dễ quan sát về phía trước, hầm bộ đội đào sát bìa rừng. Chúng tôi nhanh chóng triển khai phương án chiến đấu cho bộ đội rồi động viên anh em đào hầm sâu, cưa cây làm nắp cẩn thận. Những hầm ở gần đường thì ngụy trang thật kín đáo.

        Gần sáng, bộ đội đã đào xong hầm hào. Tôi và anh Hứa sang gặp Ban Chi huy Đại đội 3 bàn bạc thống nhất phương án tác chiến. Xác định khu vực quyết chiến điểm, xác định phần tử cho cối 82 và cối 60 bắn và dự kiến các tình huống có thể xảy ra để chi viện cho nhau. Đi kiểm tra và thống nhất phương án, hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh xong, tôi hoàn toàn yên tâm.

        Nếu địch đi đúng dự kiến, chúng ta có thể diệt gọn một Đại đội địch. Ngồi trong hầm tôi cứ bồn chồn, lo lắng vì cả ngày hành quân, đêm thức trắng, bộ đội mệt quá có thể ngủ quên. Đây là lần đầu tiên anh em ra trận chưa có kinh nghiệm, còn tôi thì đã có năm năm ở chiến trường Tây Nguyên.

        Hồi ở Trung đoàn 95, đơn vị chuyên môn đánh giao thông hên đường 19 nên tôi có kinh nghiệm và bản lĩnh đánh vận động chiến. Nhưng hồi đó mình là chiến sỹ nay ở vị trí chi huy thì thực sự lo lắng, chi một sơ suất nhỏ là đơn vị bị thương vong và không hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, tôi liên tục bò xuống các hầm để động viên nhắc nhờ bộ đội sẵn sàng chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười, 2017, 10:46:06 pm

        Đêm 31 tháng 3 rạng 1 tháng 4 năm 1972, trên toàn chiến trường miền Nam đồng loạt nổ súng, mở màn cho chiến dịch Nguyễn Huệ. Hướng chính của Sư đoàn chúng tôi là đánh vào Thiện Ngôn, Sa Mát.

        Thiện Ngôn một căn cứ quân sự lớn. Trước đây, do một Tiểu đoàn Mỹ, án ngữ ngay trên đường 22, có hầm hào, vật cản kiên cố, có sân bay dã chiến, có 9 đến 10 lớp hàng rào kẽm gai. Địch ờ đây, có một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 25 Sài Gòn, có xe tăng, pháo binh và ưận địa pháo Cần Đăng chi viện.

        Ngày thứ nhất lực lượng của Sư đoàn đánh vào đây không dứt điểm, trận đánh diễn ra hết sức ác liệt.

        Ngày thứ hai (2 tháng 4 năm 1972), Sư đoàn tập trung lực lượng bộ binh, pháo binh, xe tăng và tung cả lực lượng dự bị vào kiên quyết tấn công giải phóng bằng được chi khu Thiện Ngôn. Với sức mạnh tổng hợp của ta, địch không thể chống cự nổi đã kéo cả xe pháo tháo chạy theo đường 22 về cần Đăng và roi vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 7. Tiểu đoàn 7 đã vận động tấn công tiêu diệt hàng trăm tên địch, thu hơn 30 xe quân sự các loại.

        Ngày 1 tháng 4, chúng tôi chờ đợi từ sáng đến trưa, địch vẫn không đi vào trận địa. Trời năng như thiêu, bộ đội hết sức căng thẳng. Tôi ngồi trong hầm lấy sổ ra ghi nhật kí. Từ chiều 30 đến giờ tôi viết một lúc được bốn, năm trang. Cái gì cũng muốn ghi lại, kể cả trời đất, cảnh vật nhất là tinh thần hào hứng sôi nổi của bộ đội, trước lúc ra ưận, rồi đến những giờ phút căng thẳng chờ địch.

        Tôi đang mải suy nghĩ, bồng nghe tiếng súng nổ dồn dập từ tổ khóa đầu bên kia đường. Tôi nghe rõ tiếng nổ của súng B40, B41, súng AK và sau đó là tiếng súng phản kích của địch, đạn bay vèo vèo qua đầu, đạn M79 nổ to như đạn cối 60 vào gần hầm của tôi. Tôi nói với Đại đội phó Hứa:

        - Địch không đi đúng dự kiến của ta. Anh em đại đội 3 chưa ai nổ súng.

        Tôi nhảy sang hầm đồng chí Thái đại đội trưởng Đại đội 3 và nói:

        - Địch không đi đúng dự kiến của ta, nó không đi trên đường mòn mà lần theo bìa rừng bên kia đường, đi từ Tà Xia về Thiện Ngôn nên đã gặp phải tổ khóa đầu của ta bên kia đường.

        Địch tưởng quân ta chi một lực lượng nhỏ nên dù bị bất ngờ chúng vẫn củng cố lại tinh thần cho phản công quyết liệt và hô xung phong. Tôi nói với đồng chí Thái:

-           Ta cho cối 82 và cối 60 bắn chi viện, nếu không anh em sẽ gặp khó khăn vì phía bên kia đường ta chi có 6 đồng chí.

        Anh Hứa nhảy sang hầm cối 82 cho bắn cấp tập 5 quả, hai khẩu cối 60 mỗi khẩu bắn 5 quả. Đạn cối nổ đúng vào giữa đội hình địch, buộc chúng tháo chạy.

        Bất đắc dĩ ta đã cho xuất hiện cối 82 nên địch biết lực lượng của ta ở đây khá đông, chúng gọi pháo từ cần Đăng bắn vào trận địa như mưa. Hết đợt pháo, tôi bò qua đường đến mấy hầm anh em vừa nổ súng để nắm tình hình. Anh em nói, địch rất đông nó đi từ Tà Xia về bám theo bìa rừng.

        Đoạn này rừng bám sát mặt đường nên chúng đi thảng, cắt ra đường. Không ngờ gặp phải 3 cái hầm của chúng tôi. Chúng tôi nổ súng diệt được mấy tên. Địch phản kích để lấy xác. Mấy cái xác gần quá, địch lấy không dược còn nằm đó, anh em đã ra lấy súng và tư trang. Tôi động viên anh em quyết tâm giữ vững trận địa, Đại đội sẽ chi viện đắc lực cho các đồng chí.

        Trinh sát L19 lên quần lượn rồi gọi phản lực đến đánh bom. Vì chưa có kinh nghiệm, Ban Chỉ huy Đại đội đặt trong đám rừng già nên trở thành mục tiêu đánh phá của máy bay. Nhiều quả bơn rơi sát hầm chúng tôi, bom phát quang nổ trên mặt đất, nên hầm chúng tôi không bị sập cái nào.

        Khu rừng rậm chi trong chốc lát đã bị pháo, bom cày nát, có một cây to đổ sập lấp cả trận địa cối 82, suýt nữa thì cả cán bộ Đại đội và khẩu cổi 82 đi chầu Diêm Vương. Hầm của tôi và hầm cối 82 chi cách nhau khoảng 7m, một quả bom nổ ngay ờ giữa. Tôi thì tường anh em cối đã hi sinh hết, còn anh em cối thì tường Ban Chi huy chẳng còn ai.

        Dứt tiếng bom, qua màn khói bụi thấy ai cũng còn sống cả. Sau đợt bom pháo, tôi bảo anh em tranh thủ cưa cây đắp lên hầm để pháo bom đánh trúng hầm vẫn không sập.

        Tôi và đồng chí Thái, Đại đội trường Đại đội 3 đi kiểm tra toàn bộ trận địa về, hai anh em nhận định:

        "Căn cứ Thiện Ngôn đang bị ta tấn công, căn cứ Tà Xia đang bị Tiểu đoàn 9 vây ép. Do đó, con đường này là con đường duy nhất để địch liên lạc với nhau, chi viện cho nhau. Nếu căn cứ Tà Xia tháo chạy cũng phải kéo xe pháo đi trên con đường này. Vì vậy, địch nhất định sẽ tập trung lực lượng để nhổ cho bằng được. Nhất định chúng sẽ vòng ra phía sau hoặc chọc sườn. Nếu ta không điều chỉnh lực lượng nhanh địch sẽ đánh vào hai Ban Chi huy Đại đội và khẩu cối 82, chúng ta không có cách nào chống đỡ".


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười, 2017, 11:36:19 pm

        Chúng tôi nhanh chóng điều chinh bộ binh Đại đội 3 về bên trái. Anh em tranh thủ đào hầm và sẵn sàng đánh địch phản kích. Tôi ngồi trong hầm quan sát gần khắp trận địa vì cây cối đã bị bom pháo phát quang gần hết.

        Trực thăng HU1A lên quần lượn bắn rốc két, đại liên, ném cối 81 xuống trận địa chúng tôi. Tôi nghĩ có thể địch sẽ đổ quân thêm nhưng không phải nó chi hỗ trợ cho lực lượng tại đây, chúng vòng ra phía sau để đánh úp chúng tôi. Anh em chiến sỹ của Đại đội 3 vừa được điều chỉnh đến, hầm mới đào được 40 -50 phân chưa có nắp đã phải nổ súng đánh địch.

        Bị đánh bất ngờ, địch tạt sang bên trái thì vấp phải ổ đại liên của ta. Anh em bắn như vãi đạn vào đội hình của địch. Lúc này trời cũng sắp tối. Tôi trao đổi với Đại đội trưởng Đại đội 3: “Trời sắp tối rồi máy bay địch không còn lên đánh bom nữa đâu, ta tập trung nện cho nó một trận, buộc nó phải giãn ra để bộ đội có điều kiện củng cố công sự”.

        Anh em cối nhìn rõ địch cỏ hàng trăm tên đang dạt ra ở bìa rừng, cách chúng tôi khoảng 200 mét. Tôi nói với anh Hứa: "Khi cối 60 Đại đội 3 nổ, anh cho cối 82 bắn cấp tập 10 quả".

        Cả cối 82 và cối 60 cấp tập nện vào đội hình địch, tiếng kêu la tháo chạy bạt vía. Chúng lùi ra xa gọi pháo Cần Đăng bắn hàng trăm quả vào trận địa. Vì anh em Đại đội 3 mới cơ động đến, hầm đào còn nông lại không có nắp nên đã có 4 đồng chí hi sinh và mấy đồng chí bị thương. Đại đội tôi nhờ có hầm hào kiên cố, pháo bắn trúng hầm chi làm cho anh em bị sức ép chứ không có ai hi sinh.

        Trời tối, chúng tôi nhanh chóng đi kiểm tra, xốc lại lực lượng và động viên anh em chuẩn bị cho trận chiến đấu ngày mai có thể ác liệt hơn. Cán bộ chiến sỹ ai cũng mệt lử vì thức trắng cả ngày lẫn đêm.

        Bộ đội chiến đấu phải chịu bao nhiêu trận bom pháo, chỉ có một nắm cơm to bàng quả cam, ăn từ sáng. Từ trưa đến lúc này, vừa đói vừa khát. Đưa gạo rang ra ăn mà không sao nuốt nổi.

        Tôi cho anh em gom bi đông lại cho người quay về phía sau khoảng 20 phút có con suối để lấy nước uống. Hầm nào, hầm nấy tranh thủ củng cố lại rồi thay nhau người ngủ, người gác. Tôi tổng hợp tình hình của đơn vị báo cáo về Tiểu đoàn và xin ý kiến chi đạo.

        Đồng chí Hiêu, Tiểu đoàn trưởng thông báo kết quả chiến đấu của Sư đoàn và Trung đoàn trong ngày đầu ra quân và quyết tâm ngày mai phải nhổ bàng được căn cứ Thiện Ngôn. Tiểu đoàn 9 vẫn đang tiếp tục vây ép Tà Xia Ngày mai địch có thể tập trung lực lượng đánh vào chốt chúng tôi. Chúng tôi phải cho củng cố hầm hào, điều chinh phương án thích hợp để đảm bảo chiến đấu thắng lợi.

        Tối nay, Tiểu đoàn sẽ cho anh Vu, Đại đội trường xuống cùng với chúng tôi. Đi cùng với anh Vu là anh em vận tải sẽ mang đạn cối 82, cối 60 xuống và khiêng cáng thương binh, từ sỹ về tuyến sau.

        Từ chỗ tập kết tới trận địa chúng tôi, nếu theo chúng tôi đi tối qua thì chi 5 giờ là tới. Tiểu đoàn thông báo: “Đoàn anh Vu đi lúc 5 giờ chiêu, nêu chậm 10 giờ đêm là tới. Anh cho người bắt liên lạc với anh Vu kẻo bắn nhầm nhau”.

        Tôi sốt ruột, cử mấy tổ ra đón vẫn không gặp anh Vu. Khoảng 11 giờ đêm tôi báo về Tiểu đoàn vẫn chưa bắt liên lạc được với anh Vu. Tiểu đoàn điện cho tôi tiếp tục đón, có thể anh em đi lạc đường nên chậm. Khoảng hơn 12 giờ đêm, chúng tôi đã bắt liên lạc được với anh em vận tải đi cùng anh Vu mang đạn lên.

        Anh em vận tải cho biết: Khoảng lúc 8 giờ tối khi chúng tôi vượt qua bầu một quãng khá xa thì gặp một cái trảng nhỏ phía bên kia là bia rừng. Đồng chí trinh sát đi trước thấy có mùi thuốc lá Ru Bi. Anh em phán đoán địch đã phục kích hoặc quân thám báo đi cả ngày đến tối ngủ tại đó. Đồng chí trinh sát đề nghị cắt đường khác mà đi, nhưng đồng chí Vu nói: “Đi vậy sợ lạc đường!”, rồi đồng chí nói: “Chưa chắc phải địch mà nếu có địch thì đánh địch mà đi”.

        Đồng chí Vu tiếp: “Các cậu ở lại đây tớ, Tịnh mang khẩu B41 và Sơn liên lạc ta đi lên xem sao”. Khi 3 đồng chí đi đến bìa rừng thì nghe một tiếng mìn nổ to và sau đó không thấy 3 đồng chí quay trở lại nữa. Vì trời tối anh em vận tải không dám bò lên. Đợi mãi không được, anh em cắt đường tránh mãi mới tới đây.

        Qua trao đổi, tôi báo cáo về Tiểu đoàn. Tiểu đoàn nhắc chúng tôi củng cố trận địa xây dựng quyết tâm cho bộ đội để ngày mai đánh cho tốt. Còn việc tìm kiếm ba đồng chí Vu, Tịnh, Sơn, Tiểu đoàn sẽ xử lý.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười, 2017, 08:29:45 pm

        Sáng ngày 2 tháng 4 tháng 1972, trời trong xanh mới sáng ra mà mặt trời đã như một đống lửa trút vào trận địa.

        Không gian yên tĩnh, chúng tôi lại căng thẳng chờ đợi. Càng về trưa trời càng nắng. Tôi bò đi các hầm kiểm tra bộ đội. Có hầm cả hai chiến sỹ đều dựa súng vào thành hầm ngủ ngáy khò khò. Tôi nghĩ kiểu này thì chết nếu địch vào, nó sẽ ném lựu đạn vào hầm. Tôi nhắc nhờ anh em tuy có mệt nhưng phải ngủ thay nhau chứ cả hai đều ngủ thì nguy hiểm lắm.

        Tôi cho liên lạc đi mời mấy đồng chí cán bộ Trung đội, Tiểu đội và đảng viên đến hầm tôi để hội ý, nhắc nhở:

        -  Vì anh em đã quá mệt do đó các đồng chí phải phân công nhau liên tục bò đi kiểm tra nhắc nhờ bộ đội, chứ nhắc một lần không được đâu. Chi một sơ suất thiếu trách nhiệm của cán bộ đảng viên là chết cả nút. Khi đó, đơn vị sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, mong các đồng chí gương mẫu và cố gắng làm.

        Cả một ngày căng thẳng chờ đợi mãi 5 giờ chiều, Tiểu đoàn mới thông báo: Lúc 5 giờ sáng lực lượng của Sư đoàn đã tẩn công vào Thiện Ngôn. Lực lượng Đại đội 1, Đại đội 2, dự bị đã được Sư đoàn tung vào trận. Trước sức mạnh của ta (có hiệp đồng xe tăng), địch vừa chổng cự vừa tháo chạy về cần Đăng. Chúng đã bị tiểu đoàn 7 tiêu diệt.

        Địch ở Tà Xia bị Tiểu đoàn 9 vây ép, đã cắt rừng tháo chạy về Bến cầu.

        Trước khi rút khỏi Tà Xia, địch cho trực thăng lên cẩu pháo 105 ly về đà bị cối 82 của Tiểu đoàn 9 bắn rơi cả máy bay và pháo xuống đất. Vì nó biết rút theo đường đất đỏ về Thiện Ngôn thì sẽ gặp trận địa chốt của chủng tôi. Khi chiếc máy bay và khẩu pháo bị rơi ở Tà Xia, biết không thể lấy được nên pháo địch ở cần Đăng bắn hàng trăm quả vào Tà Xia để hủy diệt.

        Tôi nhận được điện của Tiểu đoàn: Đại đội 3 và Đại đội 4 không quay về hậu cứ nữa mà tổ chức hành quân về Đường 1 Căm Pu Chia sẽ có lực lượng đón.

        Như vậy toàn bộ đồ đoàn, quần áo, chăn màn, xoong chảo đều vứt lại chỗ tập kết. Việc tìm kiếm Đại đội trưởng Vu và hai chiến sỹ mất tích tối qua Tiểu đoàn cũng không thực hiện được mà giao lại cho bộ đội địa phương tìm kiếm giúp.

        Hơn một ngày hành quân, chúng tôi mới về được đội hình của Tiểu đoàn. Anh em chúng tôi gặp nhau mừng lắm, nhưng ai cũng thương tiếc ba đồng chí chưa tìm được. Tôi thật sự hụt hẫng, vỉ được biết anh Vu đã hi sinh, đồng chí Huệ mới được bổ sung về, đồng chí Hứa mới lên chưa có kinh nghiệm. Tiểu đoàn 8 vừa hành quân vừa nhận lệnh rồi tự cắt đường mà đi.

        Chúng tôi hành quân trên đất Căm Pu Chia. Đường qua nhiều phum, sóc, địa hình trống trải nên bộ đội phải hành quân đêm. Ban ngày bộ đội nghi tạm trong nhà dân.

        Ngôn ngữ bất đồng, quan hệ tiếp xúc rất khó khăn, nhất là khi mượn, xin các vật dụng trong gia đình bộ đội thường làm động tác giao tiếp như với người câm. Có lúc làm cho các cô gái Căm Pu Chia lúng túng.

        Ngày 15 tháng 4 năm 1972, chúng tôi hành quân tới vị trí tập kết. Các đơn vị mới được giao nhiệm vụ cụ thể. Bộ đội tranh thù nghi ngơi, sinh hoạt rút kinh nghiệm trận chiến đấu vừa rồi. Còn cán bộ các cấp thì đi nghiên cứu trận địa.

        Đại đội tôi là đơn vị hỏa lực, trận đầu ra quân đã có ba đồng chí hi sinh. Trong đó có Đại đội trường. Đồng chí Hứa được đề bạt lên Đại đội phó chưa đầy nửa tháng nay giao quyền Đại đội trưởng.

        Nhiệm vụ của Trung đoàn 271 được giao là tập trung lực lượng tiêu diệt địch và giải phóng tuyến đường 1 đoạn từ Chi Phu đến Ba Vách dài khoảng hơn 30 km. Địch ở đây là lính Lon Lon, đóng thành ba cứ điểm. Đó là Lò Súc, Trung Liên 1 Trung Liên 2 và căn cứ Ba Vách.

        Địch đóng xen kẽ trong phố xá có dân cư đông đúc, chỉ có Trung Liên 1 và 2 là địch đóng ngoài bãi trống ngay trên đường 1. Ba căn cứ này đều nằm trên tuyến đường 1, các điểm cách nhau khoảng 10 km. Vì căn cứ Lò Súc tiếp giáp với vùng giải phóng của ta nên địch bố trí lực lượng mạnh nhất, khoảng một Tiểu đoàn, quân số khoảng 400 tên.

        Tiểu đoàn 7 được giao nhiệm vụ đánh chi khu Ba Vách. Tiểu đoàn 8 và Đại đội đặc công được giao nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Lò Súc. Tiểu đoàn 9 được giao nhiệm vụ tiêu diệt Trung Liên 1 và 2. Thời gian nổ súng cùng một ngày.

        Căn cứ Lò Súc quân địch có một Tiểu đoàn được bố trí thành hai cụm Đông đường và Tây đường 1, có hàng rào dây thép gai, hầm hào kiên cố, có hệ thống hỏa lực chi viện cho nhau.

        Ý định tác chiến của Tiểu đoàn và nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị như sau: Đại đội đặc công mở hàng rào đánh chiếm khu phía Tây đường, sau đó Đại đội 2 được tăng cường hỏa lực cùa Tiểu đoàn nhanh chóng bám theo đội hình tẩn công của đặc công để tiêu diệt địch ở những hầm còn sót lại.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Mười, 2017, 08:13:12 pm

        Đại đội 1 làm lực lượng phục kích chốt chặn ngay trên tuyến đường 1, cách Lò Súc khoảng 1.000 mét về hướng Trung Liên 1 và 2.

        Đại đội 3 và Đại đội 4 tổ chức trận địa phục kích về phía Đông cách Lò Súc khoảng 1.500 mét, cách đường 1 về phía Tây khoảng 1.000 mét, chặn đánh quân địch tháo chạy.

        Tiểu đoàn xác định, địch tháo chạy theo đường 1 nên Đại đội 1 vẫn là lực lượng chủ yếu.

        Đêm 18 tháng 4 năm 1972, các đơn vị của Trung đoàn hành quân chiếm lĩnh trận địa theo nhiệm vụ được giao.

        Đại đội 4 của tôi phải chia làm 3 bộ phận. Một khẩu đại liên, hai khẩu B41 đi phối thuộc với Đại đội 2, đồng chi Huệ chi huy. Một khẩu cối 82 nằm ở Sở Chi huy Tiểu đoàn để bắn trực tiếp chi viện cho Đại đội 2 đồng chí Hứa chi huy. Lực lượng còn lại gồm một khẩu cối 82, hai khẩu B41 do tôi chỉ huy đi với Đại đội 3.

        Theo phương án tác chiến Đại đội đặc công và Đại đội 2 đánh chiếm Lò Súc phía Tây đường 1 buộc địch tháo chạy về hướng Trung Liên 1 và 2. Chúng sẽ gặp Đại đội 1 phục kích, tiêu diệt. Nếu nó tạt sang hướng Đông thì bị Đại đội 3 và Đại đội 4 đánh chặn tiêu diệt.

        Khoảng 5 giờ sáng ngày 19 tháng 4 năm 1972, Đại đội đặc công nổ súng, chi trong chớp nhoáng anh em đã tiêu diệt và làm chủ phần phía Tây đường 1. Đại đội 2 nhanh chóng chiếm lĩnh. Đồng chí Tống Cao Miên, Đại đội trưởng đặc công đứng trên hầm bàn giao trận địa cho đồng chí Thông đại đội trưởng đại đội 2 bộ binh. Đồng chí Miên nói:

        -  Khu vực này toàn bộ quân địch đã bị chúng tôi tiêu diệt!

        Vừa dứt lời, một loạt đạn từ phía bên kia đường bắn sang làm đồng chí Miên hi sinh tại chỗ. Do thời gian quá gấp, anh em đi điều nghiên xác định địch ở phía Tây đường là chính. Đại đội đặc công mới tiêu diệt được mươi cái hầm, vài chục tên địch, còn đại bộ phận binh lực, hỏa lực của chúng vẫn nằm phía Đông đường.

        Sau khi tạm thời im tiếng súng, địch lấy lại tinh thần bắt đầu phản kích. Đại đội đặc công rút ra. Đại đội 2 và lực lượng phối thuộc lợi dụng địa hình địa vật, chiến hào, công sự của địch trụ lại chống địch phản kích. Anh em ta công sự chưa có địch lại dùng hỏa lực cối 81, cối 61 và M79, trung liên, đại liên bắn như vãi đạn vào trận địa ta.

        Đồng chí Đàm Kháng, Chính trị viên phó Tiểu đoàn và hai chiến sỹ thông tin đi với Đại đội 2 chui vào một ống sát dẫn nước. Tưởng là an toàn, không ngờ, bị một quả cối 81 nổ ngay trên ống sắt làm ba đồng chí bị sức ép hi sinh.

        Đồng chí thông tin 2W hi sinh, Đại đội 2 đã nhanh chỏng cho anh em chạy về Tiểu đoàn báo cáo tình hình. Tiểu đoàn tăng cường một máy 2W cho Đại đội 2 để trực tiếp chỉ huy. Tiểu đoàn đã cho cối 82 bắn cấp tập vào đội hình địch để Đại đội 2 có điều kiện củng cố hầm hào chống phản kích.

        Khoảng 8 giờ sáng, cả hai bên tạm yên tiếng súng. Trận địa phục kích của chúng tôi vẫn bình an. Chúng tôi ém quân trong một phum Căm Pu Chia, dân vừa sơ tán lúc chúng tôi tới. Trước mặt về hướng địch và hướng Đông là một cánh đồng bàng phăng, rộng mênh mông chạy dài tới Lò Súc.

        Trận địa cùa chúng tôi cách Lò Súc khoảng 2 km. Chúng tôi trèo lên cây me to cao nhìn rõ khu vực tác chiến của Đại đội 2 ở Lò Súc, nhất là khi pháo cối bắn vào đất cát, khói bụi tung lên mù mịt.

        Từ Lò Súc có một con suối nhỏ chạy xuôi về hướng Đông, cây cối hai bên bờ rậm rạp. Chúng tôi dự kiến nếu địch không rút theo đường 1 thì nhất định nó sẽ lần theo con suối này và sẽ đi về phum chúng tôi đang phục kích. Từ đây nhìn thẳng về phía Đông là đất Việt Nam nhưng là một cánh đồng bằng phăng có lẽ phải đến cả chục cây số, chi nhìn thấy phía bên kia lờ mờ không phân biệt được cây cối và xóm làng.

        Trận địa chúng tôi vẫn im lìm. Dân đã sơ tán, bộ đội tự do đi lại, nấu nướng, ăn uống thoải mải. Tuy Đại đội đã quán triệt và kiểm tra chu đáo về công tác dân vận, nhưng vẫn có cậu láu cá lấy trứng gà của dân dùng ấm nấu nước để luộc ăn và bị bắt quả tang.

        Ban Chi huy Đại đội 3 và tôi thật cỏ duyên nợ. Mới cùng nhau chiến đấu trong trận phục kích ở đoạn đường từ Thiện Ngôn đi Tà Xia, nay tôi lại cùng nhau tổ chức trận mai phục ở đây. Anh em chúng tôi qua lại trao đổi bàn bạc phương án tác chiến. Tôi nghĩ nếu địch đi đúng phương án dự kiến của ta thì chắc là chảng có đứa nào chạy thoát.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Mười, 2017, 11:01:32 pm

        Khoảng 4 giờ chiều, tôi thấy pháo cối của địch gồm tất cả các loại dồn dập, xối xả bắn vào trận địa Đại đội 2 kể cả súng bắn thẳng (đại liên và AR15).

        Tiểu đoàn thông báo và nhận định địch có thể tập trung lực lượng để đánh bật trận địa chốt của Đại đội 2. Tiểu đoàn đã cho bắn mấy chục quả đạn cối 82 vào chốt địch. Sau một đợt đấu súng, đấu pháo, tự nhiên cả hai bên ngừng bặt. Đại đội 2 tranh thủ củng cố công sự. Tiểu đoàn, tổ chức tiếp đạn cho Đại đội 2 và khiêng cáng anh em bị hi sinh, bị thương ra.

        Khoảng hơn 5 giờ chiều, đồng chí cảnh giới của tôi ngồi trên cây me cao hốt hoảng nhảy xuống gọi to:

        - Địch! Địch! Địch bỏ chạy đỏ cả đồng.

        Tôi vội nhìn ra phía Đông, đúng địch chạy tán loạn đỏ cả đồng cách chúng tôi khoảng 1.000 mét. Địa hình đồng ruộng trống trải, bằng phẳng nhìn rất rõ. Tôi và anh Thái, Đại đội trường Đại đội 3 trao đổi thống nhất nhanh chóng cho bộ đội vận động. Đại đội 3 chặn đầu, Đại đội 4 khóa đuôi kiên quyết không cho địch chạy thoát.

        Tôi gọi đồng chí cối 82 cự ly 1.000 mét, đồng chí cho bắn cấp tập ngay 5 quả rồi không cần đế, cần chân gì hết nhanh chóng vận động với bộ binh bán ứng dụng. Anh em pháo thù nhanh chóng thả đạn, đạn nổ ngay gần đội hình địch. Tôi hô:

        - Bắn tăng tầm lên chặn đầu nó lại không cho chúng chạy thoát.

        Thế rồi cả Đại đội tôi và Đại đội 3 anh em đồng loạt hô xung phong. Anh em cối vừa chạy vừa dừng lại bẳn ứng dụng. Vì cự ly quá gần, bắn liều không nên viên đạn bay lên rất chậm. Bộ đội chạy nhanh quá, đạn cối nổ sát trước mặt bộ binh.

        Địch đã mất tinh thần rút chạy, không ngờ bị chúng tôi phục kích đánh phủ đầu nên chúng không sao chống cự nổi. Tụi lính quăng súng nằm sát bờ ruộng giơ tay đầu hàng.

        Chúng tôi nhanh chóng thu súng và giải tù binh về. Những tên bị thương không đi được thì anh em chỉ băng bó rồi để lại đó vì chúng tôi không có sức mà khiêng. Tôi biết đến tối dân về, thế nào tụi lính bị thương cũng sẽ được cứu. Để kèm cặp bộ đội Căm Pu Chia (bộ đội K), trong trận chiến đấu này có một Đại đội đi theo chúng tôi. Nhưng lúc này họ đang ở phía sau Tiểu đoàn.

        Trong khi vận động, tôi không kịp báo cáo về Tiểu đoàn nhưng anh em thông tin họ rất sáng tạo và nhanh nhạy đã báo cáo. Tiểu đoàn đã cho đại đội K vận động xuống để hỗ trợ chúng tôi giải quyết công tác tù binh và chiến lợi phẩm.

        Đại đội tôi và Đại đội 3 đã bắt sống 120 tên và thu hàng trăm khẩu súng, có hàng chục tên chết và bị thương chúng tôi chỉ thu súng rồi bỏ lại ở chiến trường. Cũng may, có Đại đội bộ đội K không thì chúng tôi không thể mang nổi số súng đạn thu được và giải 120 tên tù binh về phía sau.

        Tối hôm đó cả Tiểu đoàn lui quân về tuyến sau để nhận nhiệm vụ mới. Vì vận động quá sức, hò hét nhiều nên tôi không nói được nữa. Ngồi hội ý, tôi chỉ nghe anh em báo cáo và ra hiệu chứ không thể nói được một lời nào và phải viết ra giấy. Cái cổ họng tôi vừa đau vừa rát. Tôi nghĩ có lẽ mình đã bể họng. Tiểu đoàn cho đồng chí Bản, quân y sỹ xuống kiểm tra cho thuốc và truyền dịch cả đêm, sáng ra tôi thấy nhẹ hơn. Hai ba ngày sau tôi mới nói được bình thường.

        Qua hai trận chiến đấu, Đại đội tôi là đơn vị hỏa lực được đi tăng cường xuống các Đại đội bộ binh. Cả hai trận chúng tôi đều nổ súng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhưng thật đáng tiếc, Đại đội bộ của tôi bị tổn thất lớn quá. Trận đầu ngày 1 tháng 4 có Đại đội trưởng Vu, Tiểu đội trưởng B41 Tịnh và liên lạc Sơn hi sinh. Trận 19 tháng 4   đánh Lò Súc bộ phận đi tăng cường cho Đại đội 2 có ba đồng chí hi sinh. Trong đó có đồng chí Tào quản lý đại đội.

        Tào làm quản lý mà cứ xin đi đánh nhau. Tôi nói:

        - Cậu làm quản lý hậu cần biết gì súng đạn mà đi đánh nhau.


        - Trước lúc làm quản lý em là xả thủ đại liên.

        Tào nói vậy tôi mới cho đi cùng với khẩu đại liên và Tào đã hi sinh. Rồi cậu Phú làm văn thư, quân khí quê ở Diễn Châu cùng với anh em vận tải tiếp đạn ra cho Đại đội 2 và khẩu đại liên cũng bị hi sinh.

        Hai trận đánh Đại đội tôi hi sinh 6 người, trong đó có 5 ở Đại đội bộ. Những anh em này, từ Bắc vào tới đây đều ăn chung với tôi một nồi, ngủ chung một chỗ và là những cộng sự đắc lực. Mới chiến đấu có nửa thảng mà các anh ấy đã ra đi để lại trong tôi một sự trống vắng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười, 2017, 06:17:28 pm

        Thật thương tiếc anh Đoàn Hồng Vu, Đại đội trưởng sinh năm 1940, nhập ngũ năm 1962, người cao to, đẹp trai, da trắng. Anh đã có vợ và hai con gái, anh được đào tạo qua trường sỹ quan pháo binh, trường thành ở miền Bắc, chưa qua chiến đấu nhiều nên bước đầu thiếu kinh nghiệm. Anh rất nhiệt tình và có tinh thần chiến đấu dũng cảm. Khi hi sinh, anh còn mặc nguyên bộ quần áo của tôi. Điều này người Việt mình kiêng lắm, nhưng chúng tôi là lính nên cũng thấy bình thường.

        Trong chiến dịch giải phóng đường 1, Trung đoàn 271 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiểu đoàn 9 đã tiêu diệt, bắt sổng toàn bộ quân địch ở Trung Liên 1 và 2. Tiểu đoàn 7 đã giải phóng Ba Vách. Tiểu đoàn 8 giải phóng Lò Súc.

        Cả Trung đoàn nhận lệnh hành quân về vây ép và cùng với lực lượng Sư đoàn giải phóng thị xã Xoài Riêng thuộc tinh Xoài Riêng.

        Thị xã Xoài Riêng nằm ngay trên đường 1, xung quanh đã bị ta cô lập hoàn toàn, mọi sinh hoạt cùa địch và nhân dân trong thị xã đều do máy bay vận tải C130 thả dù. Địch hết sức hoang mang, dao động. Bộ đội ta đã ém quân xong. Do bất đồng giữa ta và bạn (bạn sợ ta giải phóng lấy hét chiến lợi phẩm) nên họ ngăn cản. Họ nói họ có 6 tiểu đoàn bộ binh cộng với hỏa lực có khả năng giải phóng thị xã. Khi ta rút ra, bạn nổ súng chiến đấu bị thất bại và thị xã Xoài Riêng mãi tới tháng 4 năm 1975 mới được giải phóng.

        Trên đường đi đánh Xoài Riêng, tôi được Trung đoàn điều động về làm chính trị viên Đại đội 1, Tiểu đoàn 8 -  Đại đội chù công của tiểu đoàn.

        Tôi đi dọc hàng quân, bát tay tạm biệt anh em để về Đại đội 1. Cả Đại đội ai cũng lưu luyến và nuối tiếc vì qua hai trận chiến đấu tôi cũng đã thể hiện là một người có bản lĩnh, có kinh nghiệm trong chỉ huy chiến đấu.

        Cách đây 6 tháng tôi từ Đại đội 1 ra đi làm chính trị viên Đại đội 4 nay về lại làm chính trị viên. Đại đội 1 được thông báo tôi về, ai cũng vui mừng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Mười, 2017, 05:07:51 am

TRẬN GÒ DẦU

        Cả Trung đoàn hành quân quay lại vùng Ba Vách, Mộc Bài. Đến đây, chúng tôi mới được phổ biến nhiệm vụ là Trung đoàn tập trung lực lượng giải phóng vùng Bến Cầu, Tây Ninh. Tiểu đoàn 8 được giao nhiệm vụ đánh và giải phóng ấp Gò Dầu. Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 đánh giải phóng khu vực Bến Cầu.

        Toàn bộ khu vực tác chiến của Trung đoàn nằm ở phía Tây sông Vàm Cỏ Đông huyện Bến cầu, Tây Ninh. Đại đội tôi được giao nhiệm vụ đánh đồn Gò Dầu. Đại đội 3 đánh phía bên trái tức là đánh vào ấp Gò Dầu. Đồn Gò Dầu nằm ở đầu về phía trái của ấp Gò Dầu.

        Tiểu đoàn phổ biến và giao nhiệm vụ. Địch ở đồn Gò Dầu có một đại đội bảo an xây dựng đồn bốt kiên cố có nhiều lớp hàng rào dây thép gai, có hệ thống mìn các loại, có các trận địa pháo và máy bay chi viện khi bị tấn công.

        Nghe tiểu đoàn phổ biến và giao nhiệm vụ, tôi chẳng yên tâm tý nào. Tôi nói:

        - Đánh đồn mà không được đi điều nghiên, chẳng biết địch bố trí binh lực, hỏa lực thế nào? Đồn to nhỏ, dài ngắn, cấu trúc vật cản ra sao? Không biết thì làm sao đánh được. Hơn nữa Đại đội không có bộc phá sào để phá hàng rào và kéo cắt dây thép gai thì làm sao vào được.

        Đồng chí Hiêu, Tiểu đoàn trường nói:

        - Bây giờ ta đánh địch theo thời cơ chiến dịch. Địch đã hoang mang, dao động cực độ. Quân ta đang chiến thắng trên khắp các chiến trường, nếu chúng ta không nhanh sẽ mất thời cơ. Thời gian đâu mà đi điều nghiên. Thực ra, cả Trung đoàn chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, xuống đánh vùng này chẳng ai biết địch bổ trí thế nào.

        Tối ngày 28 tháng 4 năm 1972, Tiểu đoàn 8 được một số du kích địa phương dẫn đường chiếm lĩnh trận địa.

        Chúng tôi đi từ Ba Vách, Căm Pu Chia xuống. Bộ đội đi qua địa hình trống trải, lác đác có các cây tràm cao ngang thắt lưng xen kẽ là nương rẫy cùa dân trồng dưa hấu. Đơn vị đã được quán triệt phải chấp hành tốt công tác dân vận, nhưng không sao quản lý nổi. Anh em vẫn lấy dưa ăn vứt vỏ bên đường.

        Đốn một gò đất tương đối cao có nhiều cây tràm mọc lưa thưa, cao không quá đầu người, cả Tiểu đoàn dừng lại. Đồng chí Tiểu đoàn trường nói :“Sở Chi huy Tiểu đoàn đặt ở đây. Đại đội 1 đi theo đường xe bò này khoảng 1.500 mét nữa là sẽ thấy đồn địch. Đại đội 3 đi phía trái cùng khoảng 1.500 mét là tới bìa ấp, nhanh chóng đánh chiếm đồn Gò Dầu”.

        Đại đội 2 nằm cạnh Tiểu đoàn bộ. Đại đội tôi được tăng cường một khẩu cối 82 của Đại đội 4. Chúng tôi hành quân chiếm lĩnh trận địa. Đi được khoảng 1.000 mét, gặp một gò đất cạnh con suối cạn, chúng tôi cho đặt trận địa cối 82 và giao nhiệm vụ hiệp đồng tác chiến giữa bộ binh và pháo binh. Đi hết một cánh đồng trống trải, bằng phăng, thì gặp các đồi nương đất cao dần bậc thang về phía ấp.

        Thinh thoảng, dọc theo bờ nương có các bụi cây gai thấp lè tè, to bằng cái rổ úp. Đến đây chúng tôi đã nhìn rõ tháp canh nằm giữa đồn địch cao khoảng 15 mét. Đại đội dừng lại, giao nhiệm vụ cho các Trung đội và thống nhất hiệu lệnh tấn công, phân công chi huy đi các hướng.

        Tôi và đồng chí Xuyên, Đại đội trưởng đi ở mũi chủ công, đánh chính diện. Hai đồng chí cấp phó đi với hai Trung đội đánh hai mũi hai bên.

        Triển khai nhiệm vụ xong, các mũi bắt đầu tiền nhập. Mũi của tôi bò qua lớp hàng rào thứ hai. Trời sáng như ban ngày, có đồng chí chủ quan đứng dậy mà địch vẫn không biết. Đồng chí Ngọc trung đội trường đã bò vào tới hàng rào thứ ba, hàng rào cuối cùng. Tôi đang nằm ở hàng rào thứ hai đã nhìn rõ lô cốt địch mà tại sao địch không phát hiện được anh em mình.

        Một đồng chí bò ra báo cáo địch chi có ba hàng rào nhưng lớp trong cùng nó rào bằng lưới B40, cao khoảng gần 2m. Bộ đội không vào được. Tôi nói với đồng chí Ngọc trung đội trưởng: “Đồng chí cho cột 2 quả bộc phá ( loại 0,5kg ) lại với nhau đặt vào hàng rào mà đánh, phá được hàng rào rồi nhanh chóng cho bộ đội nhảy vào”.

        Đồng chí Ngọc chưa kịp giật nụ xòe cho bộc phá nổ thì ở ngoài có một đơn vị vây ép nã mấy quả cối 82 vào đồn. Anh em chúng tôi tưởng lệnh nổ súng nên vội nổ súng và quăng lựu đạn vào đồn. Có đồng chí đạp phải mìn sáng làm cho khu vực mũi chính diện của tôi sáng như ban ngày.

        Địch hốt hoảng, nhảy ra công sự, lô cốt chống trà quyết liệt. Bị kẹt ở lớp rào B40, không sao vào được, chúng tôi nằm trơ giữa bãi trống, ra không được mà vào cũng không xong.

        Tôi cho anh em lui ra hàng rào thứ hai, lợi dụng bờ ruộng bậc thang đào hầm trụ lại. Đại đội trưởng Xuyên đi sau nhanh chân hơn nhảy được ra hàng rào ngoài cùng, còn tôi và hai đồng chí thông tin 2W kẹt lại ở giữa hàng rào thứ hai.

        Lợi dụng bờ ruộng và đất mềm, tôi cũng khoét được một cái hầm sát bờ ruộng sâu khoảng 50 phân, gần với hai chiến sĩ thông tin. Trước hầm tôi là một bụi gai nhỏ, bằng một bó chè. Tôi ghé mắt vào đó nhìn về phía trước thấy ba chiến sỹ đã hi sinh, cách tôi khoảng 5 mét. Tôi nhìn rõ lô cốt địch, từng tên địch đi lại, cách hàng rào B40 khoảng 30 mét.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười, 2017, 10:47:42 pm

        Thấy anh em hi sinh, nhưng địch không dám ra lấy sủng vi nó sợ bị đạn cối của đơn vị vây ép bắn. Chúng cũng không dám trèo lên tháp canh để quan sát, đi lại trong khu vực đồn.

        Từ sáng, chúng tôi liên tục bị địch dùng các loại đạn bắn ra nên bộ đội chỉ nằm yên không nhúc nhích. Khoảng 9 giờ sáng, tôi thấy một thằng chi huy đứng lên lô cốt nói với thăng lính cầm khẩu súng M79. Nó chỉ tay và nói:

        “Theo các bụi cây kia, mày bắn cho tao mỗi chỗ vài quả”. Tên lính cầm súng bán khắp lượt. Tôi theo dõi, chờ đợi nó bắn vào chỗ mình. Bỗng tên địch chĩa nòng súng vào ngay chỗ tôi. Tôi vội nhắm mắt lại, áp sát người xuống đất. Một quả đạn nổ ngay miệng hầm tôi và hầm của hai chiến sỹ thông tin 2W, đất cát, khói bụi mù mịt.

        Có đến năm, sáu mảnh đạn găm vào lưng tôi, có một mảnh ờ hông khá to. Máu chảy đầm đìa ướt cả áo. Tôi vội lấy hai chéo dù hoa quấn chặt lưng và ép sát vào thành hầm cho đỡ chảy máu. Đồng chí thông tin nằm sát tôi, tưởng tôi đã chết cứ ghé miệng gọi nhẹ: “Thủ trưởng ơi! Cỏ can chi không?”.

        Vì đang cố quấn chéo dù hoa vào người, nên tôi chưa trả lời ngay được. Một chiến sỹ nói: “Có lẽ thủ trưởng chết rồi”. Tôi sợ anh em bò sang nên vội nói nhỏ: “Tôi chỉ bị thương nhẹ, không chết đâu. Cứ ngồi yên đó, ngóc đầu dậy là chết đấy”. Vì vướng bờ ruộng nên địch không bắn thẳng ra được. Chúng gọi pháo, máy bay đến đánh liên tục.

        Máy bay bay sát ngọn cây, bắn đại liên xuống như mưa. Các trận địa pháo xung quanh cũng liên tục bắn vào đội hình của chúng tôi. Bị kẹt trong hàng rào thứ hai, không làm gì được, tôi sợ tụi địch ra lấy súng của mấy đồng chí hi sinh, sẽ phát hiện được chúng tôi.

        Tôi nói với đồng chí thông tin: “Liên lạc với Tiểu đoàn báo Đại đội 1 đang gặp khó khó khăn. Đề nghị cho 12,7 ly nổ súng để kéo máy bay ra không thì Đại đội 1 sẽ bị nó hủy diệt và cho khẩu cối 82 đi cùng Đại đội 1 bắn vào đồn để địch không dám mò ra, vì tôi hiện nay không nẳm được cối 82”. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng điện lại:

        “Anh cố gắng giữ vững trận địa, Tiểu đoàn cũng đang gặp khó khăn”.

        Bom pháo cả ngày, tôi đoán chắc là Đại đội đã hi sinh rất nhiều. Tôi mong trời mưa hoặc mau tối. 5 giờ chiều, có một trận mưa đám mây. Tôi nhìn ra phía sau thấy Đại đội trường Xuyên chắp tay vái, làm hiệu cho tôi. Tôi giơ tay làm hiệu không ra được vì trời còn sáng.

        Mưa mỗi lúc một to, tôi tranh thủ há miệng để hứng những giọt mưa quý hiếm vì cả ngày nhịn khát lại bị thương, máu ra nhiều. Tôi giơ hai bàn tay, toàn đất và máu xoa xoa cho bớt đất rồi giơ ra hứng nước mưa để uống. Lợi dụng trời mưa, địch chui vào lô cốt, tôi và hai chiến sỹ thông tin bò ra. Gặp được anh Xuyên hai anh em mừng lắm. Như vậy cả ngày anh Xuyên chi nằm cách tôi khoảng 20 mét ở cái bờ ruộng phía sau. Xuyên nói:

        - Tôi vẫn thấy anh.

        - Anh có can gì không? - Tôi hỏi.

        - Tôi bị thương ở vai vì hầm cạn quá.

        - Tôi suýt nữa bị quả đạn M79 rơi trúng lưng, đạn nổ sát mép hầm, tôi bị mảnh găm ở lưng không biết bao nhiêu mảnh.

        Trời mưa nhẹ và tối dần, tôi trao đổi với anh Xuyên : “Ta sẽ đi nắm lại tình hình đơn vị chứ cả ngày ta có nắm được ai đâu. Riêng Trung đội chủ công đi chính diện anh em có lẽ bị hi sinh gần hết, có ba bốn đồng chí hi sinh nằm cả ngày cách tôi chỉ 6m”. Trời tối hẳn, các Trung đội về báo cáo.

        Hai Trung đội đánh hai bên sườn vì đi chậm nên khi nổ súng còn nằm ngoài hàng rào. Riêng trung đội anh Dư thì vào được trong ấp, lợi dụng công sự của dân trú ẩn nên an toàn. Trung đội anh Tình đánh bên phải chi hi sinh một đồng chí và mấy đồng chí bị thương nhẹ. Trung đội anh Ngọc đánh chính diện, 5 đồng chí hi sinh và mấy đồng chí bị thương nặng.

        Ngọc chui vào hố xí của địch để ẩn nấp cả ngày. May mà chúng sợ, không thằng nào dám đi ngoài. Ngọc cho biết hố xí này nằm ngoài hàng rào, có cửa để hàng ngày đi ra đi vào. Ngọc nói: “Tụi lính này hoang mang cực độ chi chui dưới hầm hào. Nếu có tên nào trèo lên chòi canh hoặc chỉ cần đứng trên lô cốt cao thì cả Đại đội ta ngày hôm nay chẳng còn ai sống sót”.

        Sau khi nắm lại tình hình đơn vị, tôi với anh Xuyên thống nhất kế hoạch như sau: "Đại đội có 6 đồng chí hi sinh nằm trong hàng rào thứ ba Ta tổ chức vào đưa anh em ra rất khó khăn, địch sẽ bắn, ta lại thương vong tiếp. Do vậy, ta báo về Tiểu đoàn xin tổ chức tấn công ngay. Ta tập trung lực lượng tấn công hướng mà đồng chí Ngọc đã biết được cái cửa vào ra của chúng".

        Tôi nói cách đánh, dùng hỏa lực cối 82, cối 60 cấp tập bắn vào đồn. Đồng chí Ngọc biết đường đi, dẫn đầu đội hình. Đại đội tấn công vào, chiếm ngay cửa mở. Sau đó dùng lựu đạn thủ pháo đảnh lô cốt, nhanh chóng làm chủ trận địa vì địch hiện nay vẫn rất chủ quan. Chúng cho rằng ta không tấn công mà chỉ vây ép. Đánh kiểu này thì địch bị bất ngờ, chống cự không được, nhất định sẽ tháo chạy. Ta có giải phóng đồn thì mới đưa được anh em thương binh tử sỹ ra.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười, 2017, 10:19:30 pm

        Phương án tác chiến của Ban Chi huy Đại đội được anh em đồng tình và quyết tâm thực hiện. Tôi nói: “Càng nhanh càng tốt, càng bất ngờ. Anh Thụ, Chính trị viên phó Đại đội trực tiếp chỉ huy khẩu cối 82. Tôi và anh Xuyên đi ở mũi chính diện, sau 20 phút nữa cho nổ súng”.

        Gần 8 giờ tối, chúng tôi cho tổ chức tấn công. Sau khi pháo cối cấp tập bắn vào trận địa, chủng tôi cho bộ đội dịch lên bám sát cửa mở. Pháo vừa dứt, Ngọc đạp tung cửa nhảy vào chiếm ngay lô cốt đầu cầu. Anh em lần lượt bám theo nhanh chóng dùng lựu đạn thủ pháo đánh thẳng vào trung tâm. Địch bị đánh bất ngờ, mấy hầm hào lô cốt đầu cầu bị chúng tôi tiêu diệt, số còn lại hô nhau chạy ra cổng chính.

        Nhà cửa, đồ đoàn, bị đạn B40 bốc cháy sáng rực sáng cả một vùng. Anh em dùng hỏa lực bắn, đuổi theo và nhanh chóng tảo trừ những tên lính còn nằm lại dưới hầm, thu chiến lợi phẩm. Tôi hô bộ đội chi lấy xẻng Mỹ và đèn pin thôi, chú ý đề phòng địch cho bắn pháo vào hủy diệt. Tôi nói đồ đoàn, súng đạn đập gãy và đốt hết. Nhanh chóng tìm đòn để khiêng cáng anh em tử sỹ, thương binh về.

        Tôi báo điện về Tiểu đoàn. Tiểu đoàn vui mừng và lệnh cho anh em nhanh chóng đưa thương binh, tử sỹ về Sở Chỉ huy Tiểu đoàn. Vị trí đó sẽ cỏ một đơn vị bộ đội địa phương tiếp quản, bám trụ.

        Cả Đại đội ai cùng vui mừng với chiến thắng vừa rồi và cũng lấy được nhiều chiến lợi phẩm. Tuy vậy, khi nhìn 6 anh em của mình bị hi sinh, ai cũng đau lòng. Các anh cả ngày phơi nắng, phơi mưa, nằm nhiều tư thế khác nhau, đen như cột nhà cháy, nhận không ra ai với ai nữa.

        Lực lượng quá ít, có mấy chục người, trong đó có nhiều người còn bị thương mà phải khiêng 6 đồng chí liệt sỹ, 4 đồng chí bị thương nặng. Tôi bị thương cả người nhưng vẫn nhận vác hai khẩu AK, một khẩu trung liên vì thấy anh em khiêng vác nặng quá.

        Ra tới vị trí chỉ huy Tiểu đoàn, chúng tôi được Tiểu đoàn bộ giúp đỡ chôn cất tử sỹ chu đáo. Tiểu đoàn lệnh lui quân về Ba Vách. Từ đây ra tới đó, đường đi an toàn nhưng cự ly quá xa. Đã hai giờ rồi, nếu đi không kịp ra đó trước lúc trời sáng thì cực kỳ nguy hiểm vì đường bằng, trống trải chỉ làm mồi cho trực thăng địch.

        Tôi động viên anh em cố gắng đi thật nhanh tạo điều kiện giúp đỡ nhau nhất là việc khiêng cáng 4 đồng chí thương binh phải tuyệt đối an toàn. Tất cả cứ thẳng hướng tây mà đi cố gắng bám kịp đội hình để còn hỗ trợ nhau. Tôi nói: “Anh Xuyên cùng với số anh em bị thương nhẹ cố gắng bám đội hình Tiểu đoàn đi trước. Tôi và anh Thụ đi sau, cùng với số anh em khiêng 4 đồng chí bị thương, cố gắng vét hết đội hình trước lúc trời sáng”.

        Bộ đội quá mệt vì cả ngày nhịn đói, chịu bao bom pháo nay lại khiêng cáng anh em thương binh, mang vác nặng. May mà cỏ mấy quả dưa hấu của dân trồng dọc đường không thì có lẽ không thể đi nổi.

        Đồng chí Thụ, chính trị viên phó cột chặt 4 khẩu AK vác ưên vai như vác củi. Tôi đùa:

        - Thụ ơi! Gặp địch bắn làm sao được?

        - Tôi bắn cả 4 khẩu một lúc, có khi địch nó lại tưởng Việt cộng có súng 4 nòng.

        Tôi vác hai khẩu AK và một khẩu trung liên. Mình có vác khẩu trung liên mới biết thương chiến sỹ xạ thủ trung liên. Súng vừa dài vừa nặng, toàn là sắt chạm đâu cũng đau.

        Chúng tôi cắm cụi đi không dám nghi, chi sợ trời sáng. Tròi vừa hửng đông, chúng tôi đã nhìn thấy những cây bạch đàn cao ngút trời ở phía tây. Tôi hô: “Anh em cố lên sắp tới rồi, đã nhìn thấy cây thốt nốt rồi”. Thấy đó rồi chi hơn 1.000 mét thôi mà cứ đi mãi chẳng tới. Anh em chúng tôi lê từng bước, có anh gục xuống rồi lại gượng dậy đi tiếp.

        Hai chân tôi như đeo đá, hai vai tê không có cảm giác nữa vì bị hai cáỉ quai súng AK chéo qua rồi lại bị khẩu trung liên đè lên. Chân bước không qua ngọn cỏ, khi bước qua cái bờ ruộng cao không quá 20 phân mà lê cái chân không nổi, phải khịu xuống lấy sức mới vượt qua được.

        Tôi mừng khi cậu liên lạc đi trước với anh Xuyên quay lại đón. Đồng chí vác giúp tôi mấy khẩu súng. Tôi hỏi:

        - Có xa nữa không?

        - Còn khoảng 4 trăm mét nữa, thủ trường ạ!

        Lúc này một mét cũng cảm thấy như cả cây số. Ra tới đây anh em đã có tư tưởng chủ quan có anh vì kiệt sức bị ngã rồi nằm lăn ra ngủ thiếp đi mà không biết. Tôi nhìn thấy, lấy chân thúc mạnh mấy cái vào chân mới tỉnh. Nếu không ai thúc nằm ngủ quên sẽ chẳng ai biết vì cỏ rất tốt. Tôi động viên: “Cố gắng lên! Chỉ còn vài ba trăm mét nữa thôi”. Tôi đi sau cùng để nhắc nhờ và vét hết đội hình Đại đội trước lúc trời sáng.

        Ra tới Ba Vách, tôi rất mừng vì thấy các Trung đội báo cáo anh em đã về đầy đủ. Tôi nói với liên lạc cho mời Ban Chỉ huy và các Trung đội về hội ý. Khi các thành phần triệu tập đã đủ tôi nói:

        - Các đơn vị kiểm tra quân số thật chắc nếu thiếu ai phải tim về ngay.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười, 2017, 04:39:02 pm

        Đồng chí Đại đội trưởng nói:

        - Các đơn vị cho bộ đội lợi dụng công sự của địch để trú ẳn và nghi ngoi vì đây là vùng mới được Tiểu đoàn 7 giải phóng cách đây mấy ngày, dân đi sơ tán vẫn chưa về hết. Các Trung đội trưởng sau khi hội ý xong sẽ cùng với Đại đội đi kiểm tra địa hình thống nhất phương án tác chiến tại chỗ đề phòng địch tập kích.

        Tôi nói tiêp:

        - Các đồng chí về tắm rửa, băng bó lại cho anh em thương binh, nhất là số anh em bị thương nặng, nấu cơm cháo cho anh em ăn. Cơm nước xong, tôi sẽ báo với Tiểu đoàn chuyển số anh em bị thương nặng ra tuyến sau. Ai bị thương nhẹ thì động viên ở lại chiến đấu vì quân số chẳng còn được mấy nữa. Anh Xuyên bị thương, hãy đi viện điều trị. Đại đội phó Thập sẽ thay vị trí anh Xuyên duy trì đơn vị.

        Vừa triển khai xong công việc của Đại đội thì tôi được liên lạc Tiểu đoàn gọi lên báo cáo tình hình. Người tôi còn dính bê bết đất, bùn và máu, tôi chưa kịp rửa nhưng đồng chí liên lạc nói: “Thủ trưởng lên ngay, Tiểu đoàn mong lắm, về tắm sau cũng được”. Tôi biết từ ngày qua đến giờ Tiểu đoàn lo lắng, cả ngày qua tôi nằm trong hàng rào thứ hai.

        Thấy tôi, Chính trị viên Mười và Tiểu đoàn trưởng Hiêu mừng lắm. Ông Mười nói:

        - Ngày qua bọn mình cứ nghĩ Đại đội 1 bị xóa sổ. Biết mà không cứu được vì Tiểu đoàn cũng bị địch tấn công. Tuy bị thương vong một số nhưng ta đã giải phóng được đồn Gò Dầu và làm tốt chính sách thương binh, tử sỹ. Các đồng chí đã chủ động xử lý rất tốt khi có thời cơ. Tổ chức đánh vào đồn, giải phóng làm chủ trận địa tạo điều kiện làm tốt công tác chính sách, đưa bộ đội ra tới đây an toàn.

        Tiểu đoàn trưởng Hiêu nhắc lại:

        - Số anh em bị thương nặng Tiểu đoàn sẽ cho vận tải khiêng về ưạm phẫu Trung đoàn, số nhẹ thì tự đi. Anh về củng cố đơn vị để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới.

        Tôi về đơn vị, thay quần áo, tám rửa mới biết trên lưng có tới 4 mảnh đạn, có một vết thương ở hông to bằng đồng xu và hơi sâu. Tất cả các vết thương miệng đã khô và đóng vảy. Anh Phán, y tá kiểm tra, băng bó lại các vết thương cho tôi và nói:

        - Thủ trưởng nên đi viện vì vết thương to và sâu. Một tý nữa là thấu bụng, may mà nằm sát đất nên mảnh đạn chỉ xẹt qua.

        Tôi bảo Phán : “ Xin thuốc tiêm cho tôi chứ làm sao đi viện được. Đại đội trưởng bị thương đi rồi. Nếu tôi đi lúc này thì đơn vị sẽ gặp khó khăn”. Tôi quyết định ở lại với anh em.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười Một, 2017, 08:09:01 pm
     
       VỀ ĐỨC HÒA - LONG AN

        Ngày 2 tháng 5 năm 1972, đơn vị được lệnh hành quân về chi khu Thóc Nóc, thuộc tinh Xoài Riêng, tiếp giáp với huyện Gò Dầu Tây Ninh, huyện Đức Huệ, huyện Đức Hoà, Long An. Trung đoàn 271 được giao nhiệm vụ tấn công giải phóng, mở vùng, mở mảng một số xã thuộc huyện Đức Hoà.

        Từ Thóc Nóc đi Đức Hoà phải đi qua ấp Tà Nôi, ấp Tà Cao huyện Gò Dầu, Tây Ninh. Phía bên phải đường là chi khu Đức Huệ thuộc huyện Đức Huệ. Các mục tiêu nhiệm vụ trên giao đều nằm bên kia Vàm Cỏ Đông. Địa hình từ Thóc Nóc xuống Đức Hòa rất trống trải. Gần bờ sông Vàm Cỏ là kênh rạch, bưng biền lau lách, cây sú, cây chàm mọc lưa thưa.

        Sông Vàm Cỏ rộng đến năm trăm mét, nước sâu đến bốn, năm mét. Mùa mưa, vùng này nước ngập sâu đến thắt lưng, bộ đội hành quân phải ngâm mình dưới nước sáu, bảy tiếng đồng hồ. Trong quá trình hành quân chi cần một sơ suất nhỏ làm lộ bí mật là ngay lập tức ba trận địa pháo của địch có thể bắn hủy diệt.

        Tiểu đoàn 8 được giao nhiệm vụ cùng với Đại đội đặc công và một số đơn vị hỏa lực phổi thuộc đánh chiếm và giải phóng ngã ba Lộc Giang.

        Ngày 5 tháng 5 năm 1972, tất các đơn vị phối thuộc đã có mặt tại Tiểu đoàn để họp quân chính nghe phổ biến nhiệm vụ và bàn luận quyết tâm chiến đấu. Trong hội nghị anh em cán bộ tranh luận nhiều nhất là tổ chức hành quân.

        Đường chưa biết, lại đi qua nhiều khu vực địch còn đang chốt giữ. Quân số quá đông đến gần 500 người. Tổ chức vượt sông Vàm Cỏ Đông thuyền bè ra sao? - Chưa ai biết.

        Bộ đội qua sông là tổ chức đi ngay vì cả Trung đoàn đều tập kết ở bờ sông rất đông, không có chỗ để mà dừng lại. Chiến đấu theo thời cơ chiến dịch, đơn vị nhận nhiệm vụ trên bản đồ và thông tin do cán bộ địa phương cung cấp.

        5 giờ chiều ngày 7 tháng 5, các đơn vị của Tiểu đoàn 8 hành quân ra tới bìa rừng, chờ trời tối mới đi ấp Tà Nôi. Anh em trinh sát vừa bám địch vừa đi. Trên đoạn đường này địch từ ấp Tà Cao và ở chi khu Đức Huệ, thường thay nhau ra đây phục kích. Vừa sợ địch phục kích lại vừa sợ bị lạc vì chỉ cần đi chệch một chút là sẽ đi vào đồn địch.

        Khi đi đến gần ấp Tà Cao anh em trinh sát phát hiện dịch phục kích, phải tìm đường tránh về bên phải. Trời tối như mực, bộ đội đông, mang vác nặng cứ bám theo nhau nhích từng bước. Đội hình loàng ngoằng mãi tới 3 giờ sáng vẫn chưa tới được sông Vàm Cỏ. Bộ đội đứng giữa cánh đồng trống, phía trước chưa biết mà quay lại thì không kịp vì trời sắp sáng rồi.

        Trước tình hình đó Tiểu đoàn cho bộ đội dạt về bên phải có một ấp cũ địch đã dồn dân về ấp Tà Cao dừng chân. Áp cũ này tuy dân không được ở nhưng có nhiều cây trái như xoài, mít, nhãn, mãng cầu và còn bao nhiêu loại cây hoang dã như cây me, cây dới, cây tre, cây hóp. Một số dân hàng ngày vẫn ra đây canh tác và thu hoạch cây trái, chặt cây, đốn củi. Ẩp nằm trên một gò đất cao. Tiểu đoàn bố trí các Đại đội bộ binh đào hầm nằm ở rìa ấp.

        Đại đội tôi được bố trí phía ngoài tiếp giáp với nghĩa địa, phía trung tâm cây cối kín đáo ưu tiên Tiểu đoàn bộ, Đại đội đặc công, khẩu đội 12,7 ly và khẩu ĐKZ 75. Bộ đội đào công sự xong, tôi và cán bộ Trung đội trường đi kiểm tra, thông qua phương án tác chiến thì trời vừa sáng.

        Tôi và Thụ tìm được rành nước sát bụi tre, sâu khoảng 40 phân, rộng khoảng 50 phân. Chúng tôi đào sâu thêm được mấy lớp xẻng, chẳng có cái gì làm nấp, đào mấy lớp cỏ ngụy trang kín đáo. Sát cạnh tôi là Đại đội đặc công, khẩu 12,7 tăng cường cùng Đại đội tôi đánh vào ngả ba Lộc Giang.

        Khoảng hơn 7 giờ sáng, có ba người dân đánh một chiếc xe bò đi từ ấp Tà Cao vào ngay chính diện với Đại đội ba. Tiểu đoàn cho bắt giữ và hỏi thì họ nói họ đi lấy cây trái trong ấp cũ. Đồng chí Dư, trợ lý tham mưu Tiểu đoàn giải thích rồi cho họ quay về Tà Cao.

        Mọi chuyện tưởng bình yên. Ngờ đâu, vài giờ sau, một Đại đội địch lần theo đường xe bò, bí mật đột nhập nơi trú quân của ta. Chúng đụng Đại đội 2. Bộ đội đồng loạt nổ súng tiêu diệt được một số tên. Địch dạt sang bên phải đụng Đại đội tôi. Anh em nổ súng, buộc địch dạt ra trước nghĩa địa, co cụm lại gọi pháo bắn.

        Cả ba trận địa pháo của địch ở Gò Dầu, Đức Huệ, Lộc Giang đều dồn dập nã pháo vào đội hình Tiểu đoàn. Địch bắn hàng trăm quả pháo, L19 quần lượn bắn pháo khói để phản lực đến thay nhau thả bom. Hết bom lại pháo bắn phá hàng tiếng đồng hồ. Một cái ấp cũ cây cối tương đối kín đáo có nhiều cây to như xoài, me, bụi tre thế mà nay bị bom pháo phạt sạch trơn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Mười Một, 2017, 09:58:23 pm

        Khoảng 2 giờ chiều, một quả bom trúng hầm chỉ huy của Đại đội đặc công. Chính trị viên Đại đội hi sinh tại chỗ, Đại đội trưởng bị thương nặng. Anh em đặc công hoảng hốt nhào sang hầm tôi. Họ đè lên người tôi muốn chết. Tôi hô thế nào họ cũng không chịu về hầm mà cứ ở lỳ hầm tôi.

        Vì địa hình bằng phăng, trống trải, nhìn ra phía nghĩa địa thấy địch từng tốp đi đi lại lại, anh em nói: “Thủ trưởng ơi! Địch vào bắt sống tụi em mất”. Tôi bảo: “Phía trước các đồng chí anh em Đại đội tôi còn đó địch làm sao vào được đây, các đồng chí về hầm đi”. Thấy anh em chạy nhốn nháo địch gọi pháo bắn tiếp.

        Bụi tre cạnh tôi là mục tiêu cho địch cắt bom, bắn pháo. Tuy đã có nhiều quả bom và pháo nổ gần nhưng cắt chưa hết nên cứ mỗi khi LI9 vòng lượn là nó bắn hỏa mù vào bụi tre.

        Tôi bàn với Thụ lấy quả bộc phá sào đánh tan bụi tre đi. Thụ nhất trí ngay. Lợi dụng pháo địch đang bẩn, Thụ giật nụ xòe tung quả bộc phá vào bụi tre. Tiếng nổ to như quả bom làm đất đá, cành ừe, thân ừe bị xé tung bay tả tơi. Anh em tưởng bom nổ trúng hầm tôi nên một số bò lại hỏi anh có can gì không. Tôi bảo họ cứ về vị trí chiến đấu.

        Gần 4 giờ chiều, địch tưởng bom pháo cả ngày, đơn vị tôi đã bị tiêu diệt nên chúng cho một Đại đội lần theo nghĩa địa bò vào. Chúng không ngờ anh em Đại đội tôi đã chờ sẵn để nện cho chúng một trận. Tròi sắp tối, tôi nói với Thụ: “Ta nện cho nó mấy quả đạn cối 60 để cho nó cút đi”. Tôi cho bắn cấp tập 20 quả đạn cối 60 vào đội hình địch.

        Địch chạy nháo nhào lợi dụng lăng mộ để tránh đạn không thì chết hết và chúng nó chạy về Tà Cao luôn.

        Lợi dụng địch chưa gọi pháo tôi bàn với Thụ: “Bây giờ anh em ta, mỗi người xuống một Trung đội vừa để chi huy vừa để tránh bom pháo vì ở phía trước từ sáng đến giờ có bị quả bom nào đâu. Ở đây ta ưu tiên anh em đặc công ngồi đội bom pháo. Vừa rồi ta chọc tức nó chắc nó sẽ hủy diệt chỗ này”. Thống nhất xong tôi và cậu liên lạc nhanh chóng chạy xuống Trung đội 3 ngay sát nghĩa địa ngồi chung hầm với anh em và cũng từ đó cho tới tối địch chi cho pháo bắn mấy chục quả rồi im luôn.

        Tối đến Tiểu đoàn nhanh chóng cho thông tin rải dây xuống Ban Chi huy các Đại đội. Từ khoảng 10 giờ sáng đến tối Tiểu đoàn không nắm được các Đại đội. Tôi cả ngày cũng không báo cáo được với Tiểu đoàn vì máy 2W bị pháo bắn đứt dây ăng ten. Tôi báo cáo tình hình đơn vị tôi và hai đơn vị phối thuộc là Đại đội đặc công và khẩu 12,71y.

        Đại đội tôi không ai hi sinh, chi bị sức ép mấy đồng chí. Đại đội đặc công thì thương vong lớn, có 8 đồng chí hi sinh và hơn chục đồng chí bị thương. Trong đó có đồng chí Bay, Chính trị viên. Vũ khí, thuốc nổ bị phá hủy gần hết. khẩu đội 12,7 cũng tổn thất quá nặng, có hai đồng chí hi sinh. Trong đó có đồng chí Anh, Trung đội trường và 6 đồng chí bị thương, súng bị hư hỏng nặng. Đại đội đặc công và khẩu 12,7 mất sức chiến đấu, không còn người để khắc phục hậu quả và làm công tác chính sách.

        Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội tôi và Đại đội 3 trực tiếp giúp Đại đội đặc công và Trung đội 12,7 khắc phục hậu quả chôn cất tử sỹ và khiêng cáng anh em thương binh về tuyến sau. Đêm đó, mãi tới gần 2 giờ sáng Trung đoàn mới cho lui quân về Thóc Nóc để củng cố lực lượng và sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

        Qua một ngày chịu đựng bom pháo như vậy nhưng Tiểu đoàn 8 chỉ có 3 đồng chí của Đại đội 2 hi sinh vì bị hai quả pháo bắn trúng hầm và hơn chục đồng chí bị thương. Trong khi đó các Đại đội đi phối thuộc lại tổn thất lớn.

        Chiến sỹ bộ binh khi máy bay và pháo đánh vào đội hình là nhanh chóng năm sát dưới hầm. Ngớt pháo bom là ngóc dậy đánh bộ binh phản kích. Bộ đội binh chủng phối thuộc thì bom pháo nổ họ vẫn chạy đi, chạy lại. Họ sợ bộ binh địch tấn công vào. Vì lúc đó có một Đại đội địch đứng ngoài nghĩa địa chỉ điểm cho pháo bắn. Bộ đội đặc công chuyên đánh đêm, nay thấy địch ban ngày họ cũng chưa có kinh nghiệm.

        Một ngày chịu đựng bom pháo, hai đêm thức trắng, bộ đội hốc hác, người gầy sọp đi, anh nào mắt cũng trắng dã. Từ đầu tháng 4 đến nay, bộ đội liên tục hành quân chiến đấu, ăn uống, ngủ nghỉ thất thường, chủ yếu là cơm nắm, gạo rang, uống nước lã.

        Nhiệm vụ của Trung đoàn giao không thay đổi nhưng lực lượng và phương thức tác chiến thay đổi vì Đại đội đặc công đã mất sức chiến đấu. Đến ngày 10 tháng 5, Tiểu đoàn 8 tiếp tục hành quân, vẫn phải đi theo đường cũ nhưng nay đã có một đơn vị của Trung đoàn 14 chốt chặn gần ấp Tà Cao nên đường hành quân thuận lợi hơn. Khoảng 12 giờ đêm, cả đơn vị đã tới được bờ sông Vàm Cỏ Đông.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Mười Một, 2017, 10:44:15 pm

        Hai bên bờ sông, cây tràm, cây mua mọc khá dày và có nhiều kênh rạch chảy ra sông, địa hình trú quân kín đáo. Đến đây chúng tôi được bộ đội địa phương, cán bộ và anh em du kích huyện Đức Hòa đón tiếp, hướng dẫn đường đi, lối lại và lần lượt tổ chức cho bộ đội vượt sông.

        Sông sâu, rộng hơn 300 mét, nước trong xanh, chảy lờ đờ. Chúng tôi được thông báo du kích xã An Ninh đã chuẩn bị sẵn 10 chiếc thuyền sẽ đưa Tiểu đoàn qua sông. Yêu cầu bộ đội phải tuyệt đối giữ bí mật và tuân theo hướng dẫn của anh em địa phương. Đoạn sông này địch thường hay cho Bo Bo đi tuần tiễu và bắn pháo sáng.

        Khoảng 3 giờ sáng, Tiểu đoàn 8 đã vượt hết qua sông sang tới Gò Nổi xã An Ninh, huyện Đức Hòa. Tất cả các đơn vị của Trung đoàn đều tập kết ở đây rồi mới tỏa ra đi các điểm đã phân công nên quân sổ dồn về đây quá đông. Tiểu đoàn 8 chỉ tạm dừng để thu quân sang hết sông là tổ chức hành quân đi chiếm lĩnh trận địa theo mệnh lệnh chiến đấu của Trung đoàn.

        Tiểu đoàn 8 được giao nhiệm vụ đánh chiếm ngã ba Lộc Giang. Đại đội tôi được tăng cường một khẩu ĐKZ 75, tấn công trên hướng chủ yếu vào ngã ba Lộc Giang. Đại đội 2 và Đại đội 3 thì tấn công hai bên sườn của Đại đội tôi.

        Ngã ba Lộc Giang, tôi cũng chi biết trên bản đồ. Thực tế đồn, bốt của địch đứng chân ờ chỗ nào, lực lượng binh khí kỹ thuật cấu trúc ra sao thì chưa ai biết.

        Đơn vị tôi được một du kích dẫn đường. Cách ngã ba Lộc Giang khoảng gần 1 km. Người du kích nói: “Ngã ba Lộc Giang trước mắt các anh cứ đánh mà vào”.

        Tôi cho bộ đội đào hầm, cán bộ thì tranh thủ đi lên phía trước xem xét địa hình để nắm địch và giao nhiệm vụ cụ thể cho các Trung đội sẵn sàng tấn công khi có lệnh của Tiểu đoàn. Gần sáng, bộ đội dịch lên cách ngã ba khoảng 100 mét. Khi vào ấp chiến lược thì dân đã đi sơ tán hết, chỉ còn lại vườn không, nhà trống. Tôi báo về Tiểu đoàn chăng thấy địch đâu cả. Tiểu đoàn lệnh: "Đến giờ G, nổ súng tấn công, đánh chiếm ngã ba Lộc Giang. Phối hợp với Tiểu đoàn 9, giải phóng chi khu Lộc Giang".

        Khoảng hơn 5 giờ sáng, lệnh của Tiểu đoàn cho nổ súng, tấn công. Tôi cho bắn ba quả đạn ĐKZ 75. Bộ đội vận động qua ấp chiến lược thì gặp một cánh đồng trống, tiếp đến mới nhìn thấy con đường lớn chạy từ Đức Hòa đi Lộc Giang. Tôi đã nhìn rõ tháp canh của địch. Tôi lệnh cho ĐKZ bắn ngay vào mục tiêu. Đạn vừa nổ, khói đen xả ra cả một vùng. Tôi hô: "Xung phong!". Cả Đại đội vận động ra giữa bãi trống thì địch phản kích. Như vậy, địch sợ không ở trong đồn mà ra đào hầm nằm ngoài hàng rào.

        Bị đánh bất ngờ, lại ngay giữa bãi trống nên một số anh em bị thương vong. Tôi cho bộ đội chạy quay lại ấp chiến lược, lợi dụng hầm hào của dân trụ lại. Địch không dám tấn công mà gọi pháo bắn vào đội hình Đại đội tôi. Sau đó chúng cho mấy chiếc AD6 lên đánh bom.

        Ban Chi huy Đại đội ở trong một căn nhà dân, có một cái hầm sâu khoảng 50 phân, không có nắp. Xung quanh nhà trát bàng phên đất, ở giữa có một bức ngăn cũng bằng phên đất. Một quà bom rơi đúng một đầu nhà cắt đứt ngôi nhà, gian tôi nằm thì vẫn còn nguyên. Cả Ban Chi huy Đại đội và hai chiến sỹ thông tin ờ trong hầm. Tôi và Thập, quyền đại đội trường bị thương nhiều mảnh vào lưng.

        Các đợt bom pháo đánh tan nát cái ấp chiến lược có nhiều nhà dân. Địch tường chủng tôi hi sinh hết nên cho bộ binh xông lên, liền bị chúng tôi đánh bật lại.

        11 giờ trưa, một quả cối 81 nổ sát cạnh làm tôi và Thập tiếp tục bị nhiều mảnh vào người. Thập bị nặng hơn, một mảnh khá to găm vào mông. Trước tình thế đó, tôi điện về Tiểu đoàn xin lui quân về tuyến 2, ở đó có hầm hào chứ ờ đây trống trải quá. Việc lợi dụng hầm trong nhà dân, địch đã biết nên chúng cho máy bay và pháo đặc biệt là cối 81 bắn phá dữ dội. Chúng đã đánh sập từng căn nhà làm cho bộ đội thương vong nhiều.

        Được sự nhất trí của Tiểu đoàn, tôi bàn trong Ban Chi huy: Anh Thập chỉ huy mấy đồng chí bị thương, lợi dụng địa hình, địa vật lui quân trước. Đồng chí Thụ xuống trực tiếp chỉ huy Trung đội 3, cảnh giới rút sau cùng đề phòng địch đánh phản kích phía sau.

        Quá trình lui quân, khó nhất là mấy thương binh nặng và khẩu đội súng ĐKZ. Phía sau là những trảng lớn, địa hình trống trải, không thể khiêng cáng thương binh nặng ra tuyến sau được. Đồng chí Yên quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh bị một viên đạn AR15 bắn xuyên bụng, đau vật vã ngay trong hầm tôi. Mặc nguy hiểm, tôi cho 2 người thay nhau cõng Yên ra phía sau để vận tải Tiểu đoàn đưa về trạm phẩu thuật. Do vết thương quá nặng, lại để lâu nên Yên đã hi sinh khi đang phẫu thuật.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 04 Tháng Mười Một, 2017, 11:45:21 pm

        Chúng tôi rút ra được mấy tiếng đồng hồ mà địch không hề biết. Chúng tưởng chúng tôi đã rút ra sông Vàm Cỏ Đông nên mãi tới 3 giờ chiều mới cho lính đi lùng sục. Địch rất chủ quan, không ngờ vấp ngay vào trận địa của chúng tôi. Sau khi nghe anh em báo về, địch đi đúng vào đội hình, tôi vội trao đổi với các anh trong Ban Chi huy và cả cậu liên lạc nhanh chóng bò xuống các hầm nhắc bộ đội để địch vào thật gần mới nổ súng.

        Tôi đi đến từng hầm đề phòng bộ đội mệt quá ngủ quên. Đúng vậy! Tôi bò ra những hầm tiền tiêu phía trước, chứng kiến anh em đã ngủ quên. Tôi gọi mãi mới thưa. Tôi nói: “Địch vào rồi! Phải chờ nó vào thật gần mới nổ súng nhé”.

        Theo kinh nghiệm chờ địch vào gần mới nổ súng, xác địch nằm gần trận địa ta, lượng bom pháo của địch sẽ ít hơn, còn nó phản kích bằng bộ binh thì ta không sợ. Hầm hào bộ đội được ngụy trang rất cẩn thận. Tôi đi ở phía sau trận địa mà vẫn khó phát hiện ra hầm.

        Tôi ghé mắt qua miệng hầm để quan sát, theo dõi địch có khoảng một đại đội. Chúng đi nghênh ngang, chủ quan, xem thường đối phương. Có thằng còn dương súng lên ngắm những con chim cu đậu ữên những ngọn hóp. Khi bọn địch vào cách chúng tôi gần 100 mét, khoảng 20 tên ngồi lại ngay trên vực mương của dân chống súng vào vai chơi đùa. Lực lượng còn lại chia làm 2 mũi đi thẳng vào trận địa chúng tôi.

        Chúng đi ngay vào hầm chỉ huy, trước tôi chi có 2 hầm bộ binh. Tôi lệnh anh em liên lạc, y tá, thông tin sẵn sàng nổ súng. Anh Thụ nhanh chóng xuống Trung đội 3, khi nào chúng tôi nổ súng thì cho Trung đội 3 đánh tạt sang bên sườn địch, đồng thời cho cối 60 bắn trực tiếp vào tụi lính đang ngồi trước trận địa để khóa chặt đuôi nó lại.

        Tụi lính đến gần, chi cách hầm của Lộc khoảng 15 m vẫn không thấy anh em nổ súng. Tôi lo anh em ngủ quên thì nó sẽ xông thẳng vào hầm chỉ huy. Đột nhiên, từ hầm Lộc một loạt AK kéo dài, tên lính đi đầu ngã lăn tại chỗ. Liên tiếp tiếng lựu đạn, thủ pháo và các loại hỏa lực của ta bắn ra như vãi đạn vào đội hình địch.

        Địch bị đánh bất ngờ nên chi biết tháo chạy, có 8 tên chết ngay trước trận địa của chúng tôi khoảng 15 m. Anh em ta bò ra thu súng, lựu đạn và các loại tư trang như thắt lưng, túi mìn...

        Tôi đoán sau trận này địch sẽ tập trung phi pháo đánh vào trận địa. Ban Chi huy đại đội chỉ còn hai người là tôi và Thụ, Chính trị viên phó. Thập, Đại đội trưởng bị thương đã ra tuyến sau. Tôi nói: “Anh Thụ này! Bây giờ Ban Chi huy chỉ còn tôi và anh, ta phân tán ra không nên ngồi một chỗ, Nếu thương vong người này còn có người khác chỉ huy đơn vị. Kinh nghiệm như Đại đội đặc công, Ban Chỉ huy bị trúng bom, anh em chẳng khác nào gà con mất mẹ”.

        Thụ nhất trí sang hầm đồng chí Định liên lạc. Tôi thì ở lại với 2 chiến sỹ thông tin 2W. Địch lui ra mấy trăm mét rồi trụ lại gọi pháo bắn vào trận địa hàng trăm quả và nhiều tốp máy bay đánh bom nhằm hủy diệt trận địa chúng tôi.

        Gần tối, địch tổ chức một đợt tấn công hết sức quyết liệt. Chủng dùng cối 81, cối 61, ĐKZ và đại liên đứng ngay trước trận địa cách khoảng 300 mét bắn như vãi đạn vào trận địa rồi cho bộ binh xông lên nhằm để lấy xác đồng bọn. Chúng đã bị chúng tôi đánh bật ra.

        Vào lấy xác không được nên bọn địch đã thay đổi bằng một thủ đoạn hết sức khôn ngoan. Tụi lính nằm cách trận địa chúng tôi khoảng 300 mét rồi bắt dân cứ 2 người 1 cái cáng, tay cầm một miếng vải trắng đi thẳng vào trận địa chúng tôi. Dân vừa đi vừa hô to: "Các em ơi đừng có bắn, tụi tôi bị nó ép vào lấy xác". Tôi trao đổi với Thụ để cho dân họ vào lấy xác. Trời cũng sắp tối rồi, để mấy cái xác ở đây nếu ngày mai ta vẫn tiếp tục chốt thì làm sao chịu được.

        Tôi cho liên lạc bò đi các hầm truyền lệnh không được bắn dân để cho họ lấy xác. Dân chúng họ sợ quá, vừa đi vừa giơ cái cáng lên trời, miệng hô: "Đừng bắn các em ơi". Họ đi thẳng chẳng dám nhìn ngang, nhìn ngừa, khi vào thấy xác là họ vội lăn lên cáng và khiêng chạy về phía sau.

        Trong lúc bom đạn như vậy mà Thụ và Định liên lạc đã làm một việc thật không ai tưởng tượng được giống như truyện cổ tích. Tối đến, tôi thấy Định liên lạc đưa cho tôi một đùm thịt còn nóng hổi. Định nói: “Thủ trưởng ăn đi, thịt heo đấy”.

        Tôi hỏi làm sao có thịt heo, thế là Định kể lại: “Lúc chiều, khi thủ trưởng bảo anh Thụ sang hầm em, thấy một con heo của dân khoảng 20kg bị pháo bắn chết. Anh Thụ bảo em ra kéo vào hầm làm thịt. Hai anh em cứ để nguyên con heo vậy, lột da đến đâu thì cắt xẻo thịt đến đấy bỏ vào ca inốc, anh Thụ cho phá luôn quả mìn lấy thuốc TNT để nấu. Nấu được ca nào xé ni lông đùm lại, sợ đất cát té vào, cứ thế 2 anh em đã nấu được 8 ca thịt. Bây giờ em đi chia cho các hầm, mỗi hầm 1 ca, để người nào cũng được ăn”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Mười Một, 2017, 11:27:38 pm

        Chỉ với 1 con dao găm, một cái ca, Thụ, Định đã làm và nấu hết con heo khoảng 20kg. Con heo chi còn lại cái đầu, da, xương, bộ lòng, khi nói ra ai cũng tưởng chuyện bịa nhưng là có thật. Thụ là con người gan dạ, dũng cảm, năng động, rất hợp và tôn trọng tôi. Vì Thụ ít hơn tôi 3 tuổi và nhập ngũ cũng sau tôi 3 năm. Sau này, Thụ chuyển sang làm đại đội trường Đại đội 2, Tiểu đoàn 9 và đã hi sinh trong trận đánh ngày 1 tháng 10 năm 1972, tại Sa Thìa Căm Pu Chia.

        Ngày 11 tháng 5 năm 1972, là một ngày đáng ghi nhớ của Trung đoàn 271. Cả 3 Tiểu đoàn bộ binh đều bị thương vong lớn. Tiểu đoàn 7 bị thiệt hại lớn nhất, cả Tiểu đoàn hi sinh 85 đồng chí. Đại đội 1 đánh vào ngã ba An Định không dứt điểm. 62 đồng chí hi sinh, cả Đại đội chi còn lại mấy người sống sót bò ra được. Trong số hi sinh có Tiểu đoàn phó Phạm và Chính trị viên Đại đội Dung. Tối 11 tháng 5, tôi được Tiểu đoàn cho ra trạm phẫu của Trung đoàn để xử lý các vết thương. Anh em yêu cầu tôi lui về tuyến sau để điều trị, nhưng tôi thấy các vết thương đều phần mềm nên xin quay về đơn vị. Vì nếu tôi đi thì cán bộ Đại đội chi còn một mình Chính trị viên phó Thụ.

        Đơn vị tôi được lệnh hành quân về xã Hiệp Hòa tiếp tục chiến đấu. Từ đầu tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, cả Trung đoàn tham gia chiến đấu mở mảng, mở vùng, tập kích, phục kích, chống càn trên 4 xã thuộc huyện Đức Hòa, Long An. Đó là các xã : An Ninh, Lộc Giang, Tân Phú, Hiệp Hòa. Bộ đội đi tới đâu là dân đi sơ tán hết, cứ chiều tối im tiếng súng là dân quay về. Toàn bộ nhà cửa, cây cối, vườn tược, gia súc, gia cầm đã bị thiêu trụi.

        Những ngày chiến đấu ở đây mới thấy hết tấm lòng và sự hi sinh to lớn của nhân dân Đức Hòa. Dân quay về nhà mặc dù tài sản bị mất mát như vậy nhưng họ không hề nao núng mà bắt tay vào giúp bộ đội, chôn cất tử sỹ, khiêng cáng thương binh, mua gạo, mua thuốc, mua thực phẩm cho bộ đội.

        Đức Hòa là địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng, là cửa ngõ vào Sài Gòn, cách Sài Gòn hơn 50 km nên địch cố thủ với lực lượng mạnh. Chúng có hàng chục Tiểu đoàn bảo an và Sư đoàn bộ binh 25. Lực lượng của ta chi có một Trung đoàn, lại căng kéo ra trên một diện rộng, vận chuyển tiếp tế đạn dược gặp nhiều khó khăn.

        Các trận đánh ở đây thường diễn ra vào buổi sáng, khi địch bất ngờ đi vào trận địa ta. Chúng chỉ bị diệt mấy tên đi đầu, sau đó lùi ra gọi phi pháo bắn cả ngày. Địa hình đồng bằng trống trải bộ đội ta không cơ động được. Địch lợi dụng các gò đất cao, dùng súng ĐKZ 75, 57 gắn trên xe tăng bắn găm vào hầm của anh em mình, gây cho ta tổn thất khá lớn.

        Đợt 1 mới chỉ hơn 1 tháng, Trung đoàn đã có mấy trăm đồng chí hi sinh. Trung đoàn đã được bổ sung mấy đợt tân binh. Đại đội tôi cũng được bổ sung 2 lần, mỗi lần 5 đến 7 đồng chí. Thường anh em được bổ sung về đơn vị vào khoảng 2 đến 3 giờ sáng. Tôi chỉ vội đưa anh em xuống Trung đội đào hầm ngay để tiếp tục chiến đấu. Vì vậy có một số đồng chí hi sinh tôi chỉ mới biết tên, mặt mũi ra sao nhìn cũng chưa rõ vì ban đêm, trời tối. Tôi cũng chưa kịp ghi tên vào sổ. May mà trước lúc bổ sung về đơn vị, Tiểu đoàn đã ghi đầy đủ hồ sơ trích ngang. Căn cứ vào đó để Tiểu đoàn làm công tác chính sách.

        Những ngày chiến đấu ở đây, tôi nhớ nhất là trận đánh ngày 4 tháng 6, tại ấp Bàu Trại xã Tân Phú. Trận địa mai phục nằm ngoài rìa ấp cách ấp khoảng 50 mét. Bộ đội lợi dụng bờ vùng, nương dưa của dân để đào hầm. Nóc hầm chi cao bàng bờ ruộng được ngụy ưang kỹ. Trước đó các trận đánh ta thường đào hầm sát làng, lại đắp hầm lên cao nên đều bị súng DK của địch bắn ưóc hết, bộ đội thương vong nhiều.

        Lần này chúng tôi đào hầm cách làng, lại làm nắp hầm thấp nên địch rất khó phát hiện. Ban Chi huy Đại đội đào hầm ngay dưới bụi ưe độc lập cũng cạnh rìa làng. Trung đội đồng chí Lộc bố trí ưong một nương dưa của dân. Nhân dân nhất trí cho chúng tôi vào nhà lấy được cái gì ra làm hầm thì cứ lấy.

        Hầm Ban Chỉ huy được đậy bằng một tấm phản gỗ của dân rộng khoảng lm, dày hơn 10 phân. Tôi bảo tấm phản quý thế này sao lại lấy ra đây làm hầm. Đồng chí Định liên lạc nói bác chủ nhà bảo cứ lấy mà làm, phản nằm dưới đất an toàn hơn, để trong nhà bom đánh sẽ bị cháy.

        Khoảng 9 giờ sáng, địch lợi dụng mấy nương dưa, kín đáo triển khai lực lượng tấn công vào làng, không ngờ vấp phải chúng tôi đã phục sẵn. Có tên đã vào cách hầm của ta chỉ khoảng 15 mét. Đại đội tôi nổ súng diệt 7 - 8 tên tại chỗ.

        Bị đánh bất ngờ và gần quá, địch trở tay không kịp, đành tháo chạy tạt sang một gò đất cao trước mặt chúng tôi khoảng ba trăm mét, gọi pháo, máy bay đến đánh phá. Chúng bắn hàng trăm quả đạn pháo cối vào trận địa chúng tôi rồi cho trực thăng HU1A bay thấp sát ngọn tre tìm hầm bộ đội ta để thả lựu đạn và đạn cối. Vì ta không nổ súng nên máy bay địch tự do bay đi bay lại.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Mười Một, 2017, 10:32:22 pm

        Tôi rất lo. Bọn địch làm kiểu này, chúng sẽ tìm được hầm anh em mình. Nếu để nó tự do bắn phá, anh em mình sẽ chết hết. Tôi điện đề nghị Tiểu đoàn lệnh cho các Đại đội, máy bay vào đơn vị nào thì đơn vị đó nổ súng. Tiểu đoàn nhất trí và lệnh cho các đơn vị khi máy bay vào trận địa tất cả đều nổ súng.

        Tiểu đoàn vừa lệnh xong, có hai chiếc trực thăng HU1A quen như cũ không ai dám bắn, nó bay thấp sát ngọn tre theo dọc đội hình Tiểu đoàn. Khi nó bay vào trận địa Đại đội tôi, tất cả chúng tôi đều nổ súng. Cả Tiểu đoàn đồng loạt nổ súng. Một chiếc máy bay bị gãy chong chóng, roi giữa cánh đồng, cách chúng tôi chưa đầy ngàn mét. Chiếc thứ hai vội bay lên cao và biến mất.

        Chúng gọi máy bay phản lực đến đánh bom. Loạt bom thứ nhất một quả rơi đúng góc nương dưa có hầm Trung đội Lộc, cách tôi chừng 20 mét. Tôi nghĩ hầm Lộc đã trúng bom, chắc anh em ta đã hi sinh. Đợi cho lớp khói bụi tản ra để bò lên xem Lộc thế nào thì thấy Lộc ngồi thò đầu lên lấy tay ra hiệu là an toàn. Tôi vẫn bò đến hầm Lộc. Tôi chứng kiến cảnh tượng quả bom phạt quang nổ ngay trên hầm. Nắp hầm được đậy bằng một tấm phản dày, được lấp đất cao khoảng 30 phân mà cả phản và đất bay sạch trơn. Lộc và một chiến sỹ ngồi thò đầu ra giống như con chim đang ngồi trong tổ chờ mẹ về đút mồi.

        Tôi và Lộc cố kéo tấm phản bị lật bên cạnh đậy lên hầm để tránh mảnh bom pháo. Tôi vừa về tới hầm thì một quả pháo khói từ máy bay LI9 bắn ngay vào bụi tre cạnh hầm của tôi. Tôi vội nói với cậu thông tin: “Nỏ đánh đúng hầm ta rồi!”. Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng rít xé tai rồi nghe một tiếng nổ ục đất khói mù mịt, tôi chẳng biết gì nữa. Một quả bom tấn nổ ngay canh hầm tôi làm cả bụi tre và cả cái hầm của tôi cứ từ từ trôi xuống đáy hố bom sâu hơn 2 mét.

        Hố bom sâu và to bằng cái giếng làng. Anh em biết hầm của Đại đội đã bị trúng bom, ai cũng sợ chỉ huy chết nên đều lần lượt bò đến xem sao. Lộc, Trung đội trưởng là người đến đầu tiên. Lộc mừng quá thấy mấy thầy trò chúng tôi còn sống. Lộc nói: “Em chắc Ban Chi huy tiêu hết rồi!”. Tôi nói: “Thôi cậu về đi! Cho bộ đội cảnh giới, bộ binh nó mò vào bây giờ đấy”.

        Chúng tôi lợi dụng ngồi dưới hố bom cưa các cây tre đổ để làm giá gác tấm phản lên che mảnh đạn. Cả ngày bom đạn như vậy nhưng Đại đội tôi chi bị sập có hai hầm may mà không ai hi sinh.

        Đây cũng là trận cuối cùng đợt một hoạt động ờ huyện Đức Hòa, Long An. Tối hôm đó, đơn vị được lệnh rút lên Căm Pu Chia nhận nhiệm vụ mới.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Mười Một, 2017, 09:14:42 am

CUỘC CHIẾN TẠI CÔNG PÔNG RỒ

        Công Pông Rồ là địa danh một huyện thuộc tỉnh Soài Riêng Căm Pu Chia. Ta thường gọi là vùng mỏ vẹt nơi tiếp giáp với 3 tỉnh của Việt Nam là Tây Ninh, Long An và Kiến Tường vì nó nằm lõm vào đất Việt Nam.

        Đây là một vùng thường diễn ra nhiều cuộc chiến ác liệt nên dân đã bỏ đi từ những năm 1970. Từ ngày 5 tháng 6 năm 1972, Trung đoàn 271 lần lượt rút quân từ Đức Hòa, Long An lên vùng này hoạt động. Ở đây địa hình bằng phẳng, làng mạc đều vườn không nhà trống, cây cối, bụi bờ rậm rạp, ruộng đồng bỏ hoang nhiều năm có chỗ cỏ ngập đến bụng. Xung quanh nhà dân và các phum đều đào mương để thoát nước, lấy đất vượt nền nhà, làm đường.

        Từ Long Khốt, tinh Kiến Tường, có một con đường đá chạy thẳng sang Căm Pu Chia. Gặp con đường đất cắt ngang nên gọi là ngã ba Công Pông Rồ. Các đơn vị của Trung đoàn đều hoạt động hai bên con đường này và ngã ba Công Pông Rồ.

        Lúc đầu các đơn vị triển khai đội hình chiến đấu sát với Long Khốt. Trận đánh ngày 17 tháng 6 năm 1972 của Tiểu đoàn 7 diễn ra ngay tại ngã ba Long Khốt thuộc địa phận đất Việt Nam. Trận vận động tập kích đã tiêu diệt được một lực lượng địch khá lớn nhưng do địa hình uống trải địch dùng pháo binh và máy bay phản kích gây cho ta thương vong nhiều.

        Chúng tôi được cấp trên thông báo địch tập trung toàn bộ Sư đoàn 7 được tăng cường hàng chục chiếc xe tăng, xe bọc thép, ba trận địa pháo, máy bay chi viện, tổ chức càn quét vùng mỏ vẹt. Địch biết đây là nơi xuất phát của các đơn vị, bộ đội ta xuống tác chiến ở 3 tỉnh Tây Ninh, Long An và Kiến Tường.

        Sư đoàn 7 bộ binh của địch là một Sư đoàn thiện chiến nhất của quân đội Việt Nam Cộng hòa, tác chiến ở đồng bằng Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Sở Chỉ huy Sư đoàn đóng tại thị xã Kiến Tường.

        Đêm 15 tháng 6, Đại đội tôi được giao nhiệm vụ phục kích và chốt chặn tại một phum bỏ hoang phía đông chùa PLây Chăm Na khoảng 5 km. Chủng tôi bố trí trận địa xong thì đã gần 2 giờ sáng.

        Vùng này đất rắn vô cùng, anh em phải dùng cuốc chim để đào hầm. Hầm của Ban Chi huy Đại đội do liên lạc và hai chiến sỹ thông tin thay nhau đào. Trời sắp sáng, mà hầm chỉ đào sâu được khoảng 40 phân. Anh em vào nhà dờ hai cái cột nhà kê lên cho cao rồi chặt cây làm nắp lấp đất lại nên ngồi trong hầm đầu vẫn cao hơn mặt đất. Nếu không cúi xuống đạn thẳng và mảnh pháo có thể bắn vào đầu.

        Đồng chí Xuyên đại đội trường bị thương trong trận 14 tháng 4, tại ấp Gò Dầu, nay mới trở lại đơn vị. Chúng tôi đợi từ sáng mà mãi tới chiều vẫn không thấy địch vào. Khoảng 3 giờ chiều, anh em cảnh giới báo có một lực lượng địch rất đông đang đi vào hướng Đại đội bộ.

        Thông thường chúng tôi bố trí Ban Chi huy phải đảm bảo một hướng tấn công phụ. Nhưng bây giờ địch lại đi thẳng hướng vào Ban Chi huy. Đồng chí chiến sỹ vừa quay về tới hầm là anh em nổ súng ngay.

        Địch dựa vào lực lượng đông, có hỏa lực yểm trợ. Tuy bị đánh bất ngờ nhưng nó chi lui ra vài trăm mét rồi tổ chức tấn công vào. Mấy lần chủng tấn công lên đều bị chúng tôi đánh bật lại. Hầm Ban Chỉ huy có 4 người, tôi và cậu liên lạc ngồi phía trước thay nhau nổ súng. Đồng chí Xuyên ngồi ở cửa phía sau với đồng chí thông tin đường dây của Tiểu đoàn. Địch có hai khẩu cối 81 và hai khẩu cối 61 liên tục bắn vào đội hình Đại đội tôi.

        Tôi nói với đồng chí Xuyên: “Anh báo về tiểu đoàn đề nghị cho cối 82 bắn, để địch giãn bớt ra chứ nó bắn kiểu này nguy hiểm lắm vì hầm của anh em mình đào quá nông, dễ bị tróc”. Tôi và đồng chí liên lạc ngẩng lên để quan sát địch rồi lại cúi xuống để tránh đạn đại liên, mảnh cối. Đạn đại liên cứ bay vèo vèo qua đầu tôi.

        Tôi nói với đồng chí liên lạc: “Em phải liên tục bám địch đề phòng nó nâng tầm bắn đại liên để cho bộ binh bò vào”. Địch bắn rát quá cả đại liên và cối nên tôi muốn bò xuống kiểm tra đơn vị mà không đi được. Tôi cứ sợ anh em lo cúi đầu tránh pháo để bộ binh địch bò vào ném lựu đạn xuống hầm. Anh Xuyên nói: “Anh cứ yên tâm, địch nó đánh vào theo đúng phương án của ta, anh em mình có hầm cứ thế mà bắn”.

        Bỗng tôi nghe một tiếng nổ như sét đánh ngang tai một quả cối nổ ngay cửa hầm phía sau. Đất cát, khói thuốc xả vào hầm mù mịt. Tôi nhìn lên thấy Đại đội trường Xuyên cứ hực hực còn cái tai nghe điện thoại thì rơi vào chân tôi. Xuyên chẳng nói được gì, máu ở cổ tay thì vọt ra như cắt tiết ngan, rồi máu ở đầu cứ lăn dài xuống mặt. Tôi nói lớn: “Các đồng chí bám cửa hầm đề phòng địch vào” Rồi tôi lấy ngay cái dây bảo hiểm súng ngắn, thắt ga rô ờ tay cho Xuyên. Xuyên vẫn cứ hực hực, nước mắt, nước mũi, máu chảy ra đầy mặt. Tôi gạt máu, sờ lên đầu Xuyên, thấy một lỗ thủng ở phía ừên trán. Tôi vội xé băng quấn ngay lại cho Xuyên và đỡ Xuyên nằm xuống hầm. Tôi nói với cậu thông tin: “Em bò sang hầm y tá nói đồng chí Xuyến sang ngay anh Xuyên đã bị thương nặng”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Mười Một, 2017, 11:09:47 pm

        Xuyến y tá băng bó lại cho Xuyên rồi tiêm trợ sức, nhưng Xuyên cũng chẳng biết gì cả và vẫn tiếp tục hực, tiếng mỗi lúc một to hơn. Tôi ghé vào tai Xuyên nói: “Anh đừng hực nữa! Địch nghe nó đánh vào đấy. Anh cố gắng chịu đựng để chúng tôi chiến đấu, địch nó vào đông lắm”. Không hiểu Xuyên có nghe được không mà thấy Xuyên ít hực hơn.

        Ngớt tiếng súng, tôi báo với Tiểu đoàn cho vận tải xuống cáng anh Xuyên về phẫu Trung đoàn. Do vết thương quá nặng, vừa về tới phẫu thì Xuyên đã hi sinh.

        Cũng từ đây các đơn vị của Trung đoàn và Tiểu đoàn 8 liên tục ngày nào cũng nổ súng. Những ngày đầu ta đánh nhau giáp đất Việt Nam nay cứ lùi dần sâu vào đất Căm Pu Chia.

        Đêm 1 tháng 7 năm 1972, Đại đội tôi được giao nhiệm vụ phục kích ờ một phum bỏ hoang, có con đường đất chạy từ Long Khốt lên. Do tính chất của trận đánh nên Trung đoàn tăng cường cho tôi một khẩu 12,71y và một khẩu ĐKZ 75. Chúng tôi bố trí trận địa, cho bộ đội đào hầm ở cách rìa phum. Trong khi đó địch co cụm cả bộ binh cùng xe tăng nằm ờ giữa cánh đồng cách chúng tôi chưa đầy ngàn mét mà không ai biết.

        Sáng ra, anh em chúng tôi nhìn thấy địch nhốn nháo khắp cả cánh đồng và cả một bãi xe tăng có khoảng 30 chiếc đủ các loại MI 13, M41, M48. Tôi báo về Tiểu đoàn, địch rất đông và có khoảng 30 xe tăng, xe thiết giáp cách chúng tôi chưa đầy ngàn mét, chưa biết chúng triển khai đi về hướng nào, đề nghị Tiểu đoàn có phương án chi viện.

        Phum này bỏ hoang đã lâu, cây cối rậm rạp. Tôi tranh thủ đi khắp lượt các hầm của Đại đội và 2 đơn vị phối thuộc. Sau đó chúng tôi thống nhất phương án tác chiến, sẵn sàng chi viện cho nhau, quyết tâm giữ vững trận địa.

        Trời nắng mà địch thì cứ ngồi giữa bãi trống, cả xe tăng, bộ binh. Quá trưa, tôi thấy chúng đưa cơm ra ăn. Tôi tưởng ăn cơm xong chúng quay về, ai ngờ chúng đi thẳng vào trận địa chúng tôi. Đại bộ phận bộ binh và xe tăng nằm im, chi có một Trung đội đi vào mõm làng, ở đó có 3 hầm tiền tiêu của chúng tôi.

        Địch vào gần anh em nổ súng, diệt được mấy tên. Chúng lùi ra, hỏa lực gắn trên xe tăng bắn như mưa vào trận địa chúng tôi. Những bụi cây phía ngoài bị pháo bắn dứt sạch trơn. Chúng tôi có kinh nghiệm chiến đấu ờ Đức Hòa nên không bố trí hầm ờ các góc lồi và các gốc cây to.

        Tiểu đoàn sợ địch tạt sườn đánh vào phía sau Đại đội tôi nên cho Đại đội 3 vận động lên để ngăn chặn hướng tấn công vu hồi của địch. Không hiểu địch có đài quan sát thế nào mà khi Đại đội 3 vừa vận động nó đã bắn pháo ngăn chặn. Vì anh em mình chưa có hầm nên đã bị thương vong nhiều.

        Địch cho 5 chiếc xe tăng M41 cứ chạy đi, chạy lại trước trận địa chúng tôi, cách khoảng 400 mét để thăm dò hỏa lực ta. Chúng tôi không nổ súng vì ờ cự ly đó chỉ có ĐKZ mới bắn được mà chưa chắc đã trúng. Nếu mình bắn không trúng địch sẽ tập trung hỏa lực để diệt mình.

        Gần tối, địch cho hỏa lực tập trung đánh vào đội hình chúng tôi rồi cho bộ binh có xe tăng hỗ trợ phía sau, tấn công nhưng đều bị chúng tôi đánh bật ra. Tối đến, anh em tôi ai cũng xuýt xoa, nếu tụi lính này gan đánh thẳng vào

        Đại đội thì mình làm sao chống đỡ nổi. Đại đội tôi bị nó đánh tróc một hầm, có 2 đồng chí hi sinh. Trong đó cỏ trung đội trưởng Tân quê ở Nam Phúc, Nam Đàn, Nghệ An.

        Đêm 13 tháng 8 năm 1972, Tiểu đoàn 8 phục kích chống càn tại một phum sâu phía phải Công Pông Rồ. Đây là phum lớn được liên kết bằng 5 phum nhỏ, độc lập giữa một cánh đồng rộng mênh mông. Dân đã bỏ đi từ lâu, đường đi trong phum cây cối hai bên um tùm, cỏ mọc lan kín đường. Xung quanh làng là những bụi tre liên kết nhau giống như một lớp hàng rào. Phía trong lũy tre là kênh rạch, dân đào lấy đất vượt nền nhà và làm đường. Về mùa mưa, các kênh rạch trong làng nước sâu đến bụng, bộ đội lợi dụng các gò đất cao dọc theo bờ kênh để đào hầm.

        Đại đội tôi và Đại đội 3 được bố trí ở hai phum lồi lên phía trước. Đây là hướng chính diện của Tiểu đoàn, đón địch đi từ Long Khốt lên. Đại đội 2 nằm ờ phía phải phum, còn Tiểu đoàn bộ và Đại đội 4 nằm chếch về phía sau.

        Đại đội 3 có một Trung đội bố trí độc lập ở một góc phum nhỏ lồi lên phía trước, cách Đại đội tôi khoảng 200 mét, nhìn qua một thửa ruộng trống trải, cỏ mọc cao quá đầu gối. Cả Tiểu đoàn bố trí trận địa, đào công sự xong trước lúc trời sáng, bí mật chờ đợi.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Mười Một, 2017, 10:15:21 pm

        Khoảng 9 giờ, một Đại đội địch đi vào hướng Đại đội tôi, hơi lệch về phía Đại đội 4 và Tiểu đoàn bộ. Ở đó có một bờ ruộng cao tụi lính ngồi nghi, đưa cơm ra ăn. Tôi báo về Tiểu đoàn tình hình địch đề nghị Tiểu đoàn đề phòng địch đánh vu hồi vào Đại đội 4 và Tiểu đoàn bộ.

        Đồng chí Hiêu tiểu đoàn trường nghe tôi báo tin, liền cho trinh sát ra kiểm tra thấy đúng như tôi báo cáo. Đồng chí điện ngay cho tôi: “Anh cần có ngay phương án đánh địch bảo vệ Tiểu đoàn bộ” Tôi trả lời: “Anh cứ yên chí, chúng tôi sẽ quyết tâm bảo vệ mối chúa đến cùng”.

        Khoảng hơn một giờ sau, Đại đội địch tiến thẳng vào Đại đội tôi. Chúng tôi trong phum, địch ngoài trảng. Ban Chi huy Đại đội lợi dụng địa hình che khuất, bò xuống từng hầm nhắc nhở bộ đội chờ địch vào thật gần mới nổ súng. Cố gắng đánh tiết kiệm đạn vì ngày hôm nay địch vào sớm quá, ta phải chiến đấu cả ngày.

        Tôi nghĩ, địch rất đông nó đã cho một Đại đội án ngữ phía sau đề phòng ta vận động tấn công tạt sườn. Tôi vừa về tới hầm, thì súng đã nổ ầm ầm. Tôi hô: “Cối 60 cho bắn 5 quả vào đội hình địch”. Bị đánh bất ngờ, địch dạt về một phía, gọi pháo từ Long Khốt bắn hàng trăm quả vào trận địa ta. Máy bay thay nhau đánh bom.

        Địch đánh cả tiếng đồng hồ. Tôi điện lên Tiểu đoàn đề nghị cho súng 12,7 bắn, chứ để nó tự do đánh kiểu này Đại đội tôi chịu sao xiết. Tiểu đoàn điện trả lời: “12,7 bắn buổi sáng làm sao mà chịu được, các đồng chí cố gắng bám trụ”. Sau một đợt bom pháo, tôi lại bò xuống từng hầm xem anh em có ai bị sập hầm không và động viên anh em cổ gắng giữ vững trận địa.

        Cây cối trong phum rậm rạp mà nay bom pháo phạt trắng bằng. Tôi ngồi trong hầm có thể quan sát khắp các hầm của Đại đội.

        11 giờ trưa tôi đưa ống nhòm nhìn lên phía trước. Cách khoảng 1.000 mét, tôi thấy mấy chục xe tăng và hàng trăm tên lính đang tiến vào Đại đội tôi. Tôi trao đổi với các đồng chí trong Ban Chi huy: “Bây giờ, ta tranh thủ mỗi người xuống một Trung đội động viên anh em giữ vững trận địa và yêu cầu các Trung đội trường trực tiếp ngồi với đồng chí bắn B40, B41. Tập trung hỏa lực quyết tâm bắn cháy từng chiếc xe tăng, làm giảm bót sự hung hăng của nó. Tôi nhắc lại nhiều lần, đã bắn chiếc nào tập trung ba đến bốn khẩu cùng bắn, không được bắn dàn trải, quả này không trúng sẽ có quả khác trúng. Đánh như vậy địch mới sợ và tránh không kịp”.

        Tôi thấy 5 chiếc xe Tăng M41 lao thẳng vào hướng đại đội. Tôi nghĩ tụi này liều thật, nó vừa chạy vừa bắn đại liên, 12,7 đạn bay vèo vèo vào trận địa, đạn cắm phẩm phật vào thành hầm, một đồng chí xả thủ trung liên vì hầm nông, súng dài, rút súng xuống không kịp bị nó bắn đứt ngang nòng súng phía trên. Bộ binh của địch núp sau xe tăng bắn xối xả, chúng dàn thành hàng ngang ào ào xông vào, miệng hô vang: “Bắt sống, bắt sống Việt cộng”.

        Tôi báo về Tiểu đoàn, địch rất đông, lại có xe tăng, đề nghị Tiểu đoàn chi viện cối 82. Tôi nói: “Khi nào chúng tôi nổ súng thì Tiểu đoàn cứ cho cối 82 bắn trước đội hình chúng tôi 200 mét. Địch hiện nay cách tôi khoảng 250 mét”.

        Ngồi trong hầm, tôi nghe tiếng rít của đạn cao hơn. Tôi dùng một cái que đẩy chiếc mũ lên không thấy trúng đạn. Tôi đoán địch đã nâng tầm bắn để bộ binh bò vào. Tôi nói với Đại đội trường Tịnh: “Địch đã nâng tầm bắn cho bộ binh bò vào. Bây giờ tôi, anh và Định liên lạc nhanh chóng xuống các Trung đội nhắc các hầm sẵn sàng chiến đấu vì anh em mình chưa có kinh nghiệm, có khi mệt quá có hầm anh em ngủ quên mất”.

        Ba anh em chúng tôi lợi dụng các rãnh nước, bò xuống từng hầm nhắc nhở bộ đội. Tôi nói với chính trị viên phó Hội: “Anh nhảy sang nắm khẩu cối 60, khi nào anh em nổ súng thì anh cho bắn 10 quả”. Đúng như dự đoán của tôi, địch lợi dụng cỏ tốt lúc nhúc bò vào, phía ngoài xe tăng vẫn bắn vào trận địa. Đợi địch vào thật gần, cả Đại đội tôi nổ súng. Cùng lúc, cối 82 bắn vào giữa đội hình địch.

        Địch có hàng trăm tên nhưng bị đánh bất ngờ và hỏa lực quá mạnh của ta nó chùn lại rồi hè nhau tháo chạy về phía sau. Vì đạn có hạn, chúng tôi không dám bắn nhiều. Trong lần nổ súng này có một Trung đội của Đại đội 3 cũng đã nổ súng.

        Như vậy, địch đã đoán được lực lượng của ta ở đây là cấp Tiểu đoàn vì súng cối 82 đã bắn. Tôi thấy lạ là khoảng một Đại đội địch nằm ở phía trái Đại đội tôi vẫn án binh bất động. Nó vẫn ngồi chơi trên bờ ruộng. Quá trưa, địch lùi ra co cụm lại ăn trưa. Tiểu đoàn điện xuống nhắc “Anh cho bộ đội tranh thủ củng cố lại công sự. Địch có khoảng 2 Tiểu đoàn lại có xe tăng, pháo binh chi viện nó không dừng lại ở đây đâu, ta phải chi viện cho nhau, quyết tâm giữ vững trận địa”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:46:50 pm

        Thủ đoạn của địch hết sức nham hiểm. Địch biết Tiểu đoàn 8 tác chiến ở một khu độc lập không thể có lực lượng nào ban ngày đến chi viện được, xung quanh trổng trải, ba phía chúng làm chủ. Khoảng 2 giờ chiều, địch cho một đại đội từ rất xa đi vòng ra phía sau để đánh úp vào Tiểu đoàn bộ. Tiểu đoàn không phát hiện được nhưng Sở Chỉ huy Trung đoàn qua máy kỹ thuật đã phát hiện được, nên đã điện cho Tiểu đoàn biết. Đồng thời Trung đoàn đã lệnh cho đại đội 16 mang hai khẩu cối 82 với 30 quả đạn vận động giữa ban ngày bắn vào giữa đội hình địch, gây cho chúng thương vong lớn buộc phải khiêng cáng nhau và yếu tố bất ngờ đánh phía sau của chúng cũng không còn nữa.

        Tiểu đoàn trưởng Hiêu lại điện cho tôi: “Xung quanh ta đều có địch, đề nghị các đơn vị chủ động đánh địch và chi viện cho nhau để giữ vững trận địa”.

        Được vài giờ yên tĩnh, địch lại tập trung bắn pháo vào đội hình Tiểu đoàn. Đạn rơi chủ yếu vào Đại đội tôi, Đại đội 3, Đại đội 4. Tôi thấy một chiếc xe tăng M41, trên cỏ gắn một khẩu súng ĐKZ 57 chạy lướt qua góc bụi tre rồi ra trước trận địa Đại đội tôi. Nó đoán chúng tôi sẽ bố trí ở đó một hầm hỏa lực. Theo mắt nhà binh, nếu bố trí ở đó một cái hầm hỏa lực B40, B41 thì rất có lý vì nó khống chế được cả 2 bên. Nhưng rút kinh nghiệm từ Đức Hòa những góc chết này nếu bố trí hầm sẽ bị địch tập trung hỏa lực tiêu diệt ngay. Chúng tôi không bố trí ở đó mà bố trí cách góc 5 đến 7m và phải bố trí hai bên hai hầm.

        Chiếc xe tăng này chạy lướt qua, lướt lại hai ba lần xem hỏa lực của chúng tôi có bắn ra không. Nhưng chúng tôi không bắn vì nó khôn lắm, nó chạy cách chúng tôi khoảng 250 mét, B40 không thể bắn cháy được. Thế là nó chạy chệch sang bên phải ờ cự li khoảng 200 mét, rồi hạ nòng pháo bắn như điện vào trận địa. Nó bắn bay cả bụi tre ờ góc phum, cành lá bay tả tơi rồi cháy rần rật.

        Chiếc xe không lùi ra mà nằm ngay tại đó, bắn hết ĐKZ rồi đến đại liên. Nó nghi binh khiến ta tập trung vào đó, để tập trung lực lượng cả bộ binh và xe tăng đánh vào bên trái trận địa chúng tôi. Tôi trao đổi với đại đội trưởng Tịnh, quyết tâm tiêu diệt chiếc xe này. Tịnh nói: “Từ hầm trung đội trưởng Lộc có một cái rãnh nước sâu khoảng 60 phân, cỏ mọc dày, kéo dài tới chiếc xe tăng, ta lợi dụng địa hình địa vật cho một đồng chí mang B40 bò ra thật gần tiêu diệt chúng”.

        Tôi và Tịnh bò đến Hầm Lộc và Tao. Tao quê ở Diễn Trung, Diễn Châu, bắn B40 giỏi lại gan dạ, tôi nói: “Địch hiện nay đang tập trung lực lượng tấn công ta ở phía trái nhưng nó lại cho chiếc xe tăng M41 đứng ở bên phải bắn vào trận địa ta để nghi binh. Tôi đã bố trí lực lượng đánh địch ở phía trái rồi. Bây giờ Lộc và Tao lợi dụng mương nước, lấy cỏ ngụy trang kín đáo, vận động đến cự li thích hợp, bắn bằng được chiếc xe tăng này. Địch chủ quan không biết cái rãnh nước này đâu. Tôi và Tịnh ngồi tại hầm này sẽ bắn chi viện nếu bộ binh địch phát hiện và kiềm chế địch để các đồng chí rút ra an toàn”. Tôi động viên: “Các cậu cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, nếu bắn cháy chiếc xe này thì địch sẽ chùn tay”.

        Lộc và Tao đắp cỏ trên đầu, bò theo rãnh nước tới gần mục tiêu. Tôi và Tịnh, hai cửa hầm, mỗi người một khẩu AK chăm chú theo dõi Lộc và Tao bò đi. Tôi sợ cỏ tốt địch nằm trên bờ mà ta không biết, chúng sẽ bắt sống Lộc và Tao.

        Đang lúc lo lắng và chờ đợi, tôi nghe một tiếng nổ đinh tai. Chiếc xe tăng bốc cháy khói đen ngòm. Địch tập trung hỏa lực bắn vào chúng tôi. Tôi, Tịnh mỗi người bắn hết một băng AK thì thấy Lộc và Tao bò về. Hai người tranh nhau nói. Tao bảo bọn em chỉ cách chiếc xe tăng chưa đầy trăm mét. Em bình tĩnh ngắm như bắn tập vì xe năm cổ định lại bắn bên hông nên rất dễ trúng. Lộc thì nói em chi sợ Tao bắn không trúng, xe mà không cháy chắc bọn em không có đường về.

        Tôi mừng quá: “Thế là tốt lắm rồi! Các cậu chuẩn bị chiến đấu cho tốt, nó không chịu tha cho ta đâu”. Tôi và Tịnh quay về hầm mình, nhanh chóng thông báo cho cả Đại đội đều biết tin Tao bắn cháy chiếc xe tăng M41.

        Địch cho máy trinh sát lên vòng lượn rồi bắn một quả pháo khỏi ngay hầm tôi. Tôi biết thế nào nó cũng cho phi pháo hủy diệt. Tôi nói: “Ngay bây giờ anh em mình phân tán mỗi người xuống một hầm với anh em. Anh Hội sang hầm cối 60. Anh Tịnh ở lại đây. Tôi sang hầm y tá đề phòng địch đánh hủy diệt, chết người này còn có người khác chỉ huy đơn vị”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:47:25 pm

        Chi trong chốc lát 3 chiếc AD6 lên bổ nhào cắt bom. Tôi ghé mắt qua cừa hầm quan sát thấy liên tiếp những quả bom to có dù điều khiển cứ lao xuống hầm. Tôi chi vội ghé đầu xuống là nghe tiếng bom nổ xung quanh hầm. Hầm tôi và Tịnh chỉ cách nhau khoảng 10 mét mà một quả bom tấn nổ ở giữa rồi nhiều hố bom chi chít to như cái giếng. Tôi nghĩ Đại đội mình sẽ bị hi sinh nhiều lắm. Tôi trông cho hết đợt bom để bò đi xem sao.

        Hàng chục quả bom như vậy mà chi một quả nổ trúng hầm làm hai chiến sỹ mất tích. Vì quả bom đào nỏ khoét sâu tới 3 mét và rộng như cái giếng làng, nước chảy vào ào ào. Anh em chúng tôi tìm kiếm mãi vẫn không thấy xác. Cả trận địa trống băng, cây cối đổ ngổn ngang.

        L19 tiếp tục lên trinh sát. Trận địa Đại đội tôi trống trơn. Địch tưởng chúng tôi đã bị hủy diệt. Khu vực Đại đội 4 phía sau còn khá rậm rạp. Tôi thấy nó bắn một quả pháo khói vào đó, tôi đoán địch sẽ đánh vào Ban Chi huy Đại đội 4. Pháo khói vừa bắn xong, Bốn chiếc phản lực thay nhau bổ nhào, cắt bom ngay trên đầu chúng tôi nên nghe tiếng bom rít thật khủng khiếp. Địch toàn đánh bom đào, bom tấn có dù điều khiển.

        Một quả bom đã rơi trúng hầm Ban Chi huy Đại đội 4 làm bốn đồng chí hi sinh.Trong đó có anh Huệ, Chính trị viên đại đội. Một quả rơi sát khẩu đội 12,7 làm mấy đồng chí hi sinh, bị thương, khẩu pháo bị hỏng nặng.

        Tiểu đoàn thông báo: “Địch đã đánh bom khắp Tiểu đoàn. Đại đội 4 bị thiệt hại nặng cả người và vũ khí. Khẩu cối 82 bị hỏng, chúng tôi đang cho khắc phục để bắn ứng dụng. Anh cho bộ đội cũng cố lại công sự, sẵn sàng chiến đấu và chủ động chi viện cho nhau, để quyết tâm giữ vững trận địa”.

        Từ sáng đến giờ, Đại đội tôi đã có 4 đồng chí hi sinh, 5 đồng chí bị thương đang dồn về các hầm xung quanh Đại đội. Trận địa quá trống trải, tôi ngồi tại chỗ mà nhìn rõ từng hầm của anh em và sang tận Đại đội 3. Tôi hội ý Ban Chi huy: “Bây giờ nhường hầm này lại cho anh em thương binh, chúng ta xuống các hầm của anh em. Vừa chỉ huy, vừa chiến đấu vì cả Đại đội chi còn lại 7 đến 8 hầm. Xuống động viên anh em quyết tâm giữ vững trận địa, chúng ta chi có chiến đấu không có đường lùi nữa đâu”.

        Tôi bò đi khắp các hầm để kiểm tra lại quân số, trang bị vũ khí, đạn dược rồi điều chinh lại đội hình. Chúng tôi bố trí theo hình tam giác để chi viện cho nhau. Cái khó nhất là đạn còn lại quá ít, hỏa lực B40, B41 chỉ còn lại mỗi khẩu 2 quả, cối 60 còn 15 quà, chỉ nổ súng được một lần nữa là hết. Chúng tôi cầu cho trời mau tối.

        Tôi báo cáo tình hình đơn vị và đề nghị Tiểu đoàn có kế hoạch chi viện.

        Tôi yêu cầu ba đồng chí Trung đội trưởng trực tiếp ngồi với B40, B41. Đồng chí Hội trực tiếp chi huy khẩu cối 60. Tôi nhắc lại lần này ta không để địch vào gần mới nổ súng mà cách 50 mét là cho anh em nổ súng. Nếu để vào gần, địch đông, quân ta ít thì địch nhảy tràn vào hầm, ta bắn không kịp đâu. B40, B41 cho bắn hết đạn, cối 60 giành 5 quả vì trời sắp tối rồi, địch cũng chỉ phản kích một lần này nữa thôi.

        Chúng tôi triển khai xong, chi huy mỗi người một khẩu AK giống như chiến sỹ sẵn sàng nổ súng.

        Hơn 5 giờ chiều, địch dồn dập nã pháo vào trận địa. Hơn chục chiếc xe tăng ở cự li 500 mét, bắn liên tục đạn ĐKZ, đạn 12,7 và đại liên vào trận địa. Chúng cho bộ binh chia thành 3 mũi, 2 mũi vào Đại đội tôi. Một mũi bên phải vào Trung đội của Đại đội 3.

        Địch đánh vào Trung đội của Đại đội 3, lúc đầu bị bật ra. Chúng biết lực lượng của ta quá ít, chi có 3 hầm, không liên hoàn với Đại đội nên tập trung đánh vào đây. Đại đội 3 không chi viện được cho anh em. Do đó, lần thứ 2 địch tập trung hỏa lực, bộ binh tấn công ồ ạt vào, chúng đã làm chủ được trận địa. Anh em, một số bị hi sinh và một số bị địch bắt sống.

        Sau khi làm chủ được một phần trận địa của đại đội 3 địch hò hét, kêu gọi chúng tôi đầu hàng. Đồng chí Hội hoảng hốt nói với tôi: “Anh ơi! Địch đông lắm, nó hô bắt sống và làm chủ trận địa Đại đội 3 rồi, nỏ còn mang dây nhựa để bắt sống chúng ta”. Tôi quát lớn: “Anh về đi! Địch bắt thế nào được, anh em ta còn đầy đủ vũ khí kiên quyết nện cho nó một trận”. Tôi bò sang hầm Tịnh nói: “Anh điện về cho Tiểu đoàn nói khi ta nổ súng thì cho cối 82 bắn trước mặt Đại đội ta khoảng 150 mét”. Tịnh nói: “Anh yên tâm, ta chiến đấu đến cùng”. Tôi bò sang hầm Lộc ra lệnh: “Cậu cầm khẩu B41 bắn cho ăn chắc”


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:47:49 pm

        Đạn trên xe tăng địch bắt đầu bắn nâng tầm cao lên, hàng trăm tên lính dàn hàng ngang vừa chạy, vừa hô xung phong: “Bắt sống, bắt sống Việt cộng”. Địch vào đúng ý định, cả Đại đội tôi đồng loạt nổ súng, đạn B40, B41, đạn cối 60 nổ giữa đội hình địch. Tôi và chiến sỹ y tá, hai người hai cửa hầm quạt từng loạt AK. Địch không chống cự nổi, phải hô nhau tháo chạy. Đạn cối 82 liên tiếp nổ đúng đội hình địch trận địa mù mịt khói, đất.

        Địch chủ quan tưởng qua nhiều loạt bom pháo, chúng tôi không còn khả năng chiến đấu và vào dễ như vào Trung đội của Đại đội 3, không ngờ đã bị chúng tôi dồn hết xung lực và hỏa lực nện cho một trận. Hàng chục tên chết và bị thương bỏ lại không dám vào lấy xác nữa vì lúc này ười đã sẩm tối.

        Tụi lính ở cái chiến trường này chỉ đánh ban ngày. Ban đêm chúng co cụm lại hoặc rút về căn cứ, vì ban đêm máy bay không chi viện được.

        Tối đến, chúng tôi tranh thủ cùng cố lại trận địa, làm công tác thương binh, tử sỹ. Các đơn vị trong Tiểu đoàn đều bị thương vong nên tự giải quyết không ai giúp ai được. Số anh em hi sinh được đùm gói ni lông lại rồi lợi dụng các công sự chiến đấu để chôn cất anh em ngay lại chỗ, chẳng có hàng lối gì cả.

        Những khẩu súng bị hư hỏng, tôi cho đập gãy quăng xuống hố bom. Khoảng 12 giờ đêm, mọi công việc mới được giải quyết xong, Trung đoàn cho Tiểu đoàn lui quân về phía sau.

        Cả Đại đội tôi còn lại hơn 20 người, trong đó có 3 thương binh nặng phải khiêng cáng. Sau trận này, Trung đoàn 271 lần lượt hành quân về hoạt động ở khu vực Tà Béch, Sa Thia thuộc tinh Soài Riêng, Căm Pu Chia.

        Lui quân về phía sau, Trung đoàn tổ chức họp quân chính, rút kinh nghiệm đợt chiến đấu ở Công Pông Rồ. Trung đoàn đã đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm và làm rõ những nguyên nhân, tồn tại, tìm ra cách đánh tốt nhất nhằm giảm bớt thương vong cho bộ đội.

        Cuộc họp quân chính từ cán bộ Đại đội đến cán bộ Trung đoàn và các cơ quan diễn ra hết sức căng thẳng. Vì chỉ có 2 tháng hoạt động ở Công Pông Rồ mà có mấy trăm cán bộ, chiến sỹ hi sinh. Do thương vong quá lớn nên một số cán bộ bức xúc. Đồng chí Tĩnh, Chính trị viên Tiểu đoàn 9 nói: “Ta đánh nhau chả có chiến thuật gì cả. Đánh theo kiểu trâu điên chỉ biết húc nhau, chẳng biết được mất cái gì”. Đồng chí Hiêu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 thì nói: “Tính mạng của mấy trăm cán bộ, chiến sỹ ta hi sinh được cái gì, giữ mấy cái tổ mối, mấy cái phum bỏ, vườn không nhà trống, ta giữ làm gì mà ngày nào bộ đội cũng hi sinh”.

        Từ hội nghị quân chính tháng 3 năm 1972, gần 5 tháng Trung đoàn liên tục chiến đấu, nay mới có điều kiện họp quân chính nên đội ngũ cán bộ cũng mới có dịp gặp nhau. Chúng tôi điểm mặt lại đội ngũ cán bộ chẳng còn lại mấy, nhất là cán bộ 3 Tiểu đoàn bộ binh. Có mẩy chục đồng chí cán bộ Đại đội và Tiểu đoàn hi sinh.

        Có một số chiến sỹ liên lạc, văn thư, quản lí Đại đội đầu chiến dịch là chiến sỹ mà chỉ sau 5 tháng có đồng chí đã giữ chức Đại đội trưởng, chính trị viên Đại đội. Các đồng chí mới được lên ngồi họp quân chính gặp ai cũng gọi thủ trưởng, không dám xưng ngang hàng.

        Vì anh em quá trẻ lên nhanh quá, nhìn anh nào mặt mũi cũng hốc hác, da bọc lấy xương, toàn thấy mắt và răng. Anh em tranh luận gay gắt và có phần bức xúc. Đồng chí Đoàn Sáu, Chính ủy Trung đoàn phát biểu: “Tất cả ý kiến các đồng chí phát biểu đều đúng, đều thể hiện trách nhiệm của người cán bộ trước sinh mệnh của anh em và thể hiện ý thức tổ chức kỷ luật của người cán bộ là quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của cấp ưên giao”.

        Đồng chí tiếp: “Các đồng chí phải thấy cho hết ý nghĩa của đợt hoạt động vừa qua của Trung đoàn là chúng ta chiến đấu theo thòi cơ chiến dịch, phối hợp chung với các chiến trường. Chúng ta đã kéo và giam chân được Sư đoàn 7 ngụy. Nó là Sư đoàn mạnh nhất của Việt Nam Cộng hòa, tác chiến ở đồng bằng Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Ta kéo nó lên đây đã tạo điều kiện để các đơn vị ở

        Long An, Kiến Phong, kiến Tường, Mỹ Tho, mở mảng, mở vùng, phát động quần chúng đấu tranh chính trị”.

        Qua phát biểu của Chính ủy, cuộc họp được hạ nhiệt nhưng anh em còn nhiều cái chưa thỏa mãn.

        Đồng chí Trung đoàn trưởng nói là cuộc họp thành công tốt đẹp. Đội ngũ cán bộ dự họp quân chính lần này cách đây 5 tháng thay đổi nhiều quá. Có đồng chí nói đùa: “Cán bộ đơn vị ta lên nhanh như nấm gặp mưa, nhưng cũng rơi nhanh như khế gặp bão”. Các đơn vị trực thuộc và cơ quan chiến sỹ nhập ngũ năm 1965 - 1966, vẫn có đồng chí là cán bộ Tiểu đội, Trung đội mà ở các Tiểu đoàn bộ binh có nhiều đồng chí nhập ngũ tháng 8 năm 1970, sinh năm 1952 hoặc 1953, đã là cán bộ Đại đội trưởng, Chính trị viên. Nhiều đồng chí quyết định chưa xuống kịp thì đã hi sinh.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:49:02 pm

TRẬN ĐÁNH CÔNG PÔNG, TÀ BÉCH

        Sau đợt sinh hoạt chính trị, đơn vị hành quân về khu vực Tà Béch, Sa Thia thuộc tinh Soài Riêng, Cam Pu Chia. Tà Béch là một cái cầu bắc qua một con sông rộng khoảng 50 mét, địch đóng quân cả hai bên cầu.

        Trước năm 1972, địch chủ yếu đóng ở phía đông cầu. Đầu chiến dịch Nguyễn Huệ, căn cứ này đã bị Tiểu đoàn 2 C50 (Tiểu đoàn 2 này tháng 8 năm 1973 đã bổ sung cho trung đoàn 271) đánh, tiêu diệt và bắt sống hơn 400 tên lính Lon Non.

        Khi các đơn vị của ta rút khỏi khu vực này, địch tổ chức chiếm lại, lần này chúng xây dựng trận địa phòng thủ ờ phía tây cầu Tà Béch, quân số một Tiểu đoàn, có một trận địa pháo hai khẩu 105 ly và 4 khẩu cối 81 ly.

        Về mùa mưa, khu vực này nước ngập trắng băng, chỉ có quốc lộ 1 cao hẳn lên giữa cánh đồng nước. Địch lợi dụng gò đất cao đầu cầu và dọc hai bên đường 1 để xây dựng trận địa phòng ngự. Tiếp cận để triển khai lực lượng đánh vào đây rất khó.

        Ngày 12 tháng 9 năm 1972, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 271, tổ chức tấn công vào căn cứ này dọc theo đường 1 từ hướng Đông lên không thành. Ta có 17 đồng chí hi sinh. Sau đó Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 8 phải tiêu diệt bằng được căn cứ này.

        Anh em cán bộ Tiểu đoàn 8 đi trinh sát địa hình. Vì địa hình bốn bề là nước nên chúng tôi mỗi người đội một nắm cỏ trên đầu, ngâm mình dưới nước từ 7 giờ tối đến 3 giờ sáng, để bò vào đồn địch.

        Đại đội tôi được giao nhiệm vụ đánh trên hướng chủ yếu của Tiểu đoàn. Qua hai đêm đi trinh sát về. Anh em chúng tôi thấy địch ở đây là lính Khơ Me, Trà Vinh tức lính Lon Non có quân số đông, trang bị mạnh, có các vật cản như hàng rào thép gai, mìn các loại. Địa hình toàn nước, nên khó bố trí lực lượng và triển khai hỏa lực.

        Chỉ duy nhất đánh từ hướng tây bám theo đường 1 xuống là có thể triển khai lực lượng. Hướng Nam bộ binh vào được nhưng trận địa cối không có chỗ đặt vì toàn là nước. Chỉ một gò đất nhỏ, địch lại đông nên mật độ của nó dày đặc, pháo cối của ta bắn vào địch sẽ bị thương vong lớn. Tiểu đoàn 8, tổ chức hội nghị quân chính, phân tích tình hình địch, địa hình và quyết định tổ chức đánh vây lấn dựa vào đường 1, đánh từ hướng tây xuống.

        Hướng Đông, trước đây Tiểu đoàn 9 đánh không thành nay có một Đại đội đứng ở đó làm nhiệm vụ vây lấn và sẵn sàng cùng với Tiểu đoàn 8 đánh tiêu diệt căn cứ này. Đại đội này được quân khu C50 tăng cường một khẩu cối 120 ly, tổ chức đánh chi viện cho Tiểu đoàn 8.

        Đại đội tôi được Tiểu đoàn 8 giao nhiệm vụ đánh trên hướng chính diện, từ hướng Tây dựa theo đường 1 tấn công vào. Đại đội 3, chặn địch trên đường 1 từ hướng Tây xuống để bảo vệ cho Đại đội tôi. Còn Đại đội 2 tấn công ở hướng Nam lên. Phía Bắc có một cánh đồng nước rộng mênh mông.

        Chiều 18 tháng 9, chúng tôi họp quân chính Đại đội bàn phương án tác chiến. Đang họp, tôi bị lên cơn sốt rét, nhiệt độ cơ thể lên đến 40 độ, phải nằm lăn ra võng. Đồng chí Doãn chính trị viên Tiểu đoàn dự họp nói: “Thế này tối nay đồng chí Hợi không đi được rồi vì sốt cao quá”. Tôi thấy cả Đại đội ai cũng nhìn tôi buồn thiu. Đồng chí Tịnh, Đại đội trưởng nói toẹt ra: “Anh Hợi không đi được thì đánh đấm thế nào? Chúng tôi đều mới lên cán bộ đã có kinh nghiệm gì đâu”. Tôi biết tâm trạng của anh em, tuy mình chẳng giỏi giang gì nhưng chẳng khác nào già làng, là linh hồn của đơn vị. Tôi nói với cậu y tá: “Cố tiêm trợ sức cho tớ, hết cơn sốt là tớ đi được ngay”. Nếu tôi không đi, đơn vị sẽ gặp khó khăn, nhất là Ban Chi huy cả 3 đồng chí đều mới được đề bạt lên.

        Gần đến giờ hành quân, cơn sốt đã giảm nên tôi chống gậy đi theo anh em. Đường hành quân toàn là nước, có chỗ đi qua hố, rãnh nước sâu đến bụng.

        Một giờ sáng, đơn vị tôi chiếm lĩnh xong trận địa. Địa hình quá phức tạp. Hai Trung đội bố trí ở hai gò đất, hai bên đường 1. Một Trung đội và Ban Chỉ huy, khẩu cối 82, khẩu ĐKZ, một khẩu cối 60 nằm ở một gò đất bên này đường, cách đường khoảng 50 mét. Chúng tôi cho bộ đội tranh thủ đào hầm, bố trí xong trận địa mà tôi thấy không an tâm tý nào. Vì cả đại đội đều lợi dụng các gò đất cao để đào hầm, địa hình không liên hoàn, nếu bị phi pháo nó tập trung đánh thì dễ bị sập hầm và bộ binh địch tập trung tấn công, ta dễ mất từng phần trận địa vì bộ binh không vận động được, chỉ có hỏa lực mới chi viện được cho anh em.

        Tôi mời các đồng chí cán bộ Trung đội trường, các đồng chí hỏa lực tới bàn bạc, giao nhiệm vụ cụ thể thống nhất phương án tác chiến chi viện lẫn nhau và cho đặt hai quả mìn định hướng trước đội hình. Hai Trung đội bộ binh chốt hai bên mặt đường đề phòng địch liều chết mở đường máu chạy về Sa Thia.

        Tôi hoàn toàn yên tâm khi đã thống nhất được phương án tác chiến để tự bảo vệ mình. Mệt quá, tôi dựa lưng vào tổ mối ngủ quên, sáng rồi vẫn không biết. Đồng chí liên lạc đánh thức dậy, tôi vui vẻ nói với anh em: “Yên tâm đi! Hôm nào, bố trí trận địa xong mà mình ngủ quên là ngày hôm sau đơn vị sẽ thắng lớn và thuận lợi. Hôm nào mà trằn trọc không thiếp được một tý là đơn vị sẽ gặp khó khăn”. Cái linh tính này của tôi hầu như suốt mấy năm trời chiến đấu đều đúng.

        Tuy trời sáng đã lâu nhưng trận địa Tiểu đoàn 8 vẫn giữ bí mật. Phía Đông khẩu cối 120 ly của ta vẫn thỉnh thoảng bắn vài quả vào trận địa địch.

        Khoảng 3 giờ chiều, địch bắn 6 quả pháo 105 về hướng chúng tôi, nhưng đạn đều vượt qua trận địa. Sau đó nó cho bắn hàng chục quả đạn cối 81 vào khu vực trận địa chúng tôi. Tất cả đều bắn vu vơ, có lẽ nó thử nghiệm các phần tử bắn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:49:43 pm

        Khi hỏa lực địch bắn, chúng tôi mới có cơ hội nhìn rõ trận địa pháo 105 và cối 81 của địch. Tôi đưa ống nhòm lên nhìn thấy rất rõ 2 khẩu pháo 105. Từ sáng đến giờ nó ngụy trang, nay nó bắn ta mới phát hiện được. Như vậy, 2 khẩu pháo 105 ly và 4 khẩu cối 81 đều đặt ở phía gần đại đội tôi. Vì đây là phía sau an toàn của địch. Địch phòng thù mạnh ở đầu cầu phía đông.

        Tôi điện báo cáo tình hình với Tiểu đoàn. Tôi nói: Hỏa lực của địch đều đặt ờ phía sau của chúng tức là trước mặt Đại đội tôi. Bây giờ ta cho cối 82 bắn có thể phá hủy trận địa pháo của nó. Trận địa chúng tôi chi sợ cối 81 của nó, còn pháo 105 thì chắc gần quá không bắn được.

        Gần tối, có 3 tên địch đi tuần tra nhưng lại vừa đi, vừa rinh để bắn mấy con vịt trời nên chúng đi ngay vào trận địa chúng tôi. Bộ đội nổ súng, 2 tên chết tại chỗ, tên đi sau chạy thoát. Chi một lát sau, một trận mưa cối 81 vào trận địa chúng tôi may mà trời tối, không máy bay đánh được. Pháo 105 bắn mấy quả nhưng đều vọt ra phía sau.

        Tối đến, Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội tôi lấn dịch lên phía trước càng gần địch càng tốt. Tôi cho cả đơn vị dịch đội hình lên khoảng 500 mét. Ở đây có một gò đất khá rộng, tôi cho đơn vị đào hầm chốt lại. Tiểu đoàn thống nhất với tôi là sáng mai khi Đại đội tôi nổ súng sẽ cho cối 82 và ĐKZ bắn hủy diệt trận địa pháo cối địch vì anh em đã lấy phần tử bắn từ chiều qua khá chính xác.

        Cả đội hình Tiểu đoàn đều dịch lên ám sát địch. Đêm yên tĩnh, bộ đội vừa cảnh giới, vừa đào hầm. Khoảng 3 giờ sáng thì trận địa Đại đội tôi có thể sẵn sàng nổ súng. Anh em đang căng thẳng chờ đợi thì khoảng 4 giờ sáng không hiểu tại sao pháo cối địch bắn hàng trăm quả về phía chúng tôi, nhưng đều vọt tầm rori lung tung về phía sau.

        Tôi báo về Tiểu đoàn là có thể địch đã phát hiện được chúng tôi. Chúng bắn thăm dò, chắc sáng mai sẽ đánh lớn. Sau loạt pháo cối trận địa lại im lặng.

        Trời vừa tảng sáng, tôi cho bộ đội bò lên phía trước thăm dò địch xem sao mà im lặng thế. Anh em quay về báo: “Bọn em bò lên sát hàng rào mà chẳng thấy gì cả”. Tôi trao đổi với các đồng chí trong Ban Chỉ huy: “Ta cho bộ đội dịch lên nữa, anh em tranh thủ vừa đào hầm, vừa hỗ trợ nhau đề phòng địch lừa sẽ đánh sau lưng”.

        Tôi cho Đại đội dịch lên cách hàng rào địch khoảng 100 mét thì đào hầm trụ lại. Tôi báo về Tiểu đoàn: “Hiện nay Đại đội tôi chi cách hàng rào địch hơn 100 mét. Bộ đội đang triển khai đào hầm chốt lại, không thấy địch đi lại, hoạt động gì cả. Đề nghị Tiểu đoàn sẵn sàng chi viện cho chúng tôi vì anh em chưa có hầm đang bám theo hai bên đường 1 để tiến lên”. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng nói: “Anh cứ yên tâm! Tôi đã cho Đại đội 3 dịch lên, bám sát sau lưng Đại đội anh, hỏa lực Tiểu đoàn sẵn sàng chi viện. Anh cho một bộ phận nhỏ bò lên trinh sát kiểm tra xem sao hay địch đã rút chạy. Đề phòng bị địch lừa cho ta lọt vào rồi nó mới đánh, thì trở tay không kịp đấy”.

        Tôi và Tịnh đi lên trước đội hình, cùng với Trung đội đi đầu tiếp tục bò lên quan sát. Đồng chí đi đầu nói địch đã rút chạy rồi. Tôi nhìn vào trận địa thấy 2 khẩu pháo 105 ly đang hướng nòng về phía tây mà không thấy tên lính nào xung quanh. Tôi mừng quá. Đúng là địch đã rút chạy rồi. Chúng tôi nhanh chóng nhảy vào, chiếm lĩnh các mục tiêu và lùng sục.

        Tôi báo điện về Tiểu đoàn: “Địch đã bò chạy để lại 2 khẩu pháo 105 ly, 4 khẩu cối 81 ly và rất nhiều đạn dược các loại. Đặc biệt súng M72, đạn đại liên còn nguyên một hầm, đề phòng địch tập kích. Đề nghị Tiểu đoàn cho Đại đội 3 vận động lên để lấp đầy khu vực vì trận địa khá rộng.

        Như vậy lúc 4 giờ sáng, địch cho bắn pháo cối nghi binh và tổ chức rút chạy. Chúng đi ngược bờ sông Công Pông Tà Béch cắt lên phía tây, rồi vòng về Sa Thia. Con đường rút chạy của địch là một cánh đồng nước, có chồ sâu tới bụng. Ta chủ quan nghĩ rằng địch không bao giờ rút theo hướng này. Vì chúng biết 2 đầu đường 1 quân ta đã chốt chặn không thể mở đường máu mà chạy về Sa Thia được nên đã mạo hiểm rút theo đường đồng nước, bỏ lại các loại vũ khí nặng và đạn dược.

        Làm chủ trận địa, chúng tôi thấy: với địa hình trận địa, bố trí phòng thủ của địch và có hệ thống hỏa lực mạnh như thế này. Ta chi tấn công dọc theo đường 1 vào. Nếu địch cầm cự thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Khả năng cả Trung đoàn cũng khó dứt điểm.

        Hầm địch bố trí ở đầu cầu, hai bên đường chúng đặt hai khẩu đại liên, băng đạn kết lại với nhau dài đến hàng chục mét. Mỗi hầm có mấy chục quả M72. Bốn khẩu cối 81 cỏ mấy trăm viên đạn. Ta chi vây ép, địch bỏ chạy thì thật là một thắng lợi không ngờ.

        Anh em chúng tôi vui sướng quá, lấy súng đạn của địch bắn lung tung ra bãi nước chơi và thừ nghiệm súng M72. Còn hai khẩu pháo 105 ly, anh em chủng tôi ngồi lên bệ cứ quay tít đi nhiều hướng, nạp đạn vào đạp cò không nổ.

        Sau khi chúng tôi báo cáo về cấp trên tin vui này, đoàn pháo 75 đã cho anh em pháo binh xuống tiếp quản. Anh em phát hiện pháo không có kim hỏa. Bọn địch trước khi rút, đã tháo kim hỏa quăng đi. Các đồng chí pháo binh cho biết, kim hỏa nặng lắm, địch không thể mang đi được, nhất định chúng giấu ờ đâu đây. Anh em chúng tôi lặn mò và đã tìm được. Nó quăng xuống một hố bom sâu gần đó.

        Súng M72, trước đó chúng tôi đã bị địch bắn và quăng vỏ lại chứ cả khẩu súng, cách bắn thì chúng tôi chưa biết. Súng M72 dùng bắn xe tăng nhưng sức công phá không bằng B40, B41. Quả đạn gắn vói súng phóng nên đã rút đạn ra là phải bóp cò cho nổ chứ không đẩy đạn trở lại được.

        Anh em chúng tôi mày mò mãi mới biết sử dụng và đã bắn thừ xuống sông hàng chục quả để lấy cá ăn.

        Trận đánh Công Pông, Tà Béch thật đáng nhớ. Chúng tôi xác định đây là trận đánh khó khăn nhất nhưng ngược lại không phải đánh mà thu kết quả cao, giải phóng được một vùng rộng lớn, thu được nhiều vũ khí, đạn dược, đặc biệt là hai khẩu pháo 105 ly còn nguyên vẹn. Đây là một căn cứ độc lập, địch dùng máy bay cẩu pháo đến, không có xe kéo nên đoàn pháo 75 đã phải cho ô tô vào kéo pháo ra.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:51:33 pm

TRẬN SA THIA - BÀI HỌC LỊCH SỬ

        Sa Thia một phum lớn nằm hai bên đường 1, từ Mộc Bài đi Nông Pênh cách Nếp Lương khoảng 30 km về phía Tây, cách Công Pông Tà Béc khoảng 20 km về phía Đông. Xung quanh phum toàn là nước. Đường vào phum chi có duy nhất là đường 1. Đường chạy dọc phum.

        Về mùa mưa con đường 1 nổi lên như một con đê. Đây là một gò đất tương đối cao, xung quanh phum dân trồng lúa nước. Loại lúa, nước dâng đến đâu thì lúa vươn cao đến đó.

        Sa Thia có nhiều phum liên kết lại nên diện tích tương đối rộng, mỗi chiều phải đến hơn 1.000 mét. Sa Thìa thuộc tinh Plây-Veng, Căm Pu Chia. Nó là một khu vực độc lập. Khi bị tấn công, pháo binh và bộ binh không thể chi viện được mà duy nhất chỉ có không quân.

        Trung đoàn 271 được giao nhiệm vụ tấn công, tiêu diệt căn cứ Sa Thia, để tạo thành một vùng giải phỏng liên hoàn rộng lớn trên tuyến đường 1 từ Soài Riêng đi Nếp

        Lương dài hơn 50 km. Tạo điều kiện cho hành lang hậu cần xuống miền Tây Nam Bộ. Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 9 là lực lượng chủ yếu đánh vào căn cứ này. Trung đoàn giao nhiệm vụ cụ thể.

        Tiểu đoàn 8 tấn công từ phía Bắc xuống có một mũi vòng lên phía Tây đánh cặp theo tuyến đường 1 xuống.

        Tiểu đoàn 9 đánh từ hướng Nam vào có một mũi đánh cặp theo đường 1 từ hướng Đông lên. Quyết chiến điểm là giữa trung tâm phum.

        Đường hành quân tiếp cận mục tiêu của cả hai Tiểu đoàn đều phải đi qua một cánh đồng, nước có chỗ sâu đến bụng. Sau khi được giao nhiệm vụ, các đơn vị tổ chức đi nghiên cứu trận địa. Đại đội tôi được giao nhiệm vụ tấn công trên hướng chủ yếu của Tiểu đoàn.

        Chúng tôi tổ chức đi trinh sát. Sau ba bốn giờ trườn dưới nước, chúng tôi tới rìa phum và phát hiện địch có một chòi gác ngay đầu phum. Chúng tôi nghĩ cái phum này bám sát đường 1. Vì trời sắp sáng, tôi cho anh em bò ra và có ý định tối mai sẽ tiếp tục bò vào sát đường để xem địch bố trí thế nào. Không hiểu do thời gian gấp mà Trung đoàn tổ chức họp quân chính không đi điều nghiên nữa.

        Trong hội nghị quân chính, các đơn vị tham chiến tranh luận rất nhiều. Ai cũng băn khoăn là chưa nắm được địch. Không biết được số lượng, trang bị, bố trí phòng thủ của địch ra sao mà tổ chức đánh là điều rất khó khăn. Khó khăn lớn nhất là đường hành quân tiếp cận của bộ đội toàn nước, không có chỗ đặt hỏa lực, cối 60 và cối 82 nên trận này chi có bộ binh không có hoả lực đi cùng.

        Tranh luận mãi nhung rồi vẫn phải nhất trí theo phương án của Trung đoàn là đưa bộ đội hành quân tiền nhập. Gặp địch là tổ chức tấn công luôn.

        Tiểu đoàn 8 hành quân tiền nhập rất phức tạp, phải vượt qua đường 1, đi vòng lên phía Bắc rồi mới tấn công xuống. Đại đội tôi được giao nhiệm vụ đánh trên hướng chủ yếu của Tiểu đoàn, có một mũi đánh cặp theo đường 1 xuống. Đại đội 3 đánh bên trái, còn Đại đội 2 làm lực lượng dự bị cho Tiểu đoàn và Trung đoàn.

        Đêm 31 tháng 10 năm 1972, các đơn vị tiền nhập. Các loại đạn B40, B41, máy thông tin, mìn ĐH10, anh em phải làm bè chuối để lên rồi kéo theo người. Khoảng 8 giờ tối, bộ đội đã phải ngâm mình dưới nước. Ba giờ sáng thì chúng tôi mới vào được gần phum.

        Vào đây gặp nhiều ruộng lúa nước cùa dân, nước dưới ruộng vẫn sâu 50 đến 60 phân. Bộ phận của Đại đội trưởng Tịnh đánh cặp dọc đường 1 nên tiếp tục bò đi theo kế hoạch. Lực lượng còn lại tổ chức cho anh em bám vào rìa phum, sẵn sàng chờ lệnh tấn công.

        Tôi cho đặt mìn ĐH10, định hướng vào góc đầu phum. Theo hiệp đồng, mờ sáng, Tiểu đoàn lệnh nổ súng. ĐH10 nổ, bộ đội ào ào xông lên. Mấy tên lính ở chòi canh đầu phum bị diệt do sức công phá của ĐH10. Anh em chúng tôi reo lên đã thu được khẩu đại liên. Địch trong phum không chống cự mà theo dân chạy sang phum trước mặt về phía đường 1.

        Đến đây chúng tôi mới biết đây là phum phía ngoài, từ đây vào đường 1 còn qua mấy thừa ruộng rồi mới vào tới phum chính. Tôi cho bộ đội tiếp tục vượt mấy thửa ruộng để tấn công tiếp. Đến gần phum, địch bắt đầu phản kích. Chúng tôi ở ngoài trống, giữa ruộng nước. Địch ở trong phum, lại trên cao, có công sự phòng thủ. Tôi chi huy bộ đội quay về phum cũ. Lúc này, đã có mấy đồng chí bị thương và hi sinh.

        Tôi triển khai lực lượng cho bộ đội bám vào các bụi tre, gốc cây để bắn trả. Một quả đạn cối 60 nổ sát tôi. Theo phản xạ, tôi nằm úp xuống nước. Không hiểu do sức ép hay sức bắn của nước mà cả hai má tôi bị dộp da, cháy sạm. Tôi không biết, chỉ thấy rất rát.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:53:36 pm
     
        Thấy chúng tôi lui quân, dịch tập trung phản kích, quyết lấy lại cái phum vừa bị chúng tôi chiếm. Pháo cối bắn như mưa vào trận địa rồi bộ binh ào ào xông lên. Anh em chúng tôi hầu hết đã bị thương nhưng vẫn kiên cường đánh trả.

        Một tên địch choàng trên vai khẩu đại liên, chạy vòng ra phía phải để đánh tạt sườn chúng tôi. Nước lội gần đến bụng mà nó chạy như điên. Tôi ghì khẩu AK vào gốc tre ngắm chính xác, bóp cò làm tên lính ngã gục. Nó nằm dưới nước, trong ruộng lúa cho tới chiều cũng chẳng có thằng nào ra lấy xác.

        Cạnh đó có hơn chục tên cũng đang liều mạng xông vào. Tôi bảo Nam, xạ thủ B40: “Nện cho nó một quả”. Nam trả lời: “Em bị thương không bắn được”. Thực chất Nam nhát quá, cứ chúi đầu vào bụi tre để tránh đạn. Tôi giật ngay khẩu B40 của Nam, ép người vào bụi tre bắn liên tục hai quả vào giữa đội hình địch. Chúng hốt hoảng chạy về phía sau.

        Tôi nhìn về hướng tên lính mang súng đại liên vừa bị bắn chết, thấy một bóng người bò dưới lúa, vào sát bờ phum phía bên kia một cái ao nhỏ. Tôi tường là địch định giơ súng lên bắn thì thấy một cánh tay cứ giơ lên bám vào bụi cây, rồi cả cái đầu thò lên. Tôi nhận ra Tiến đi ở hướng anh Tịnh, bị thương bò quay ra. Tôi gọi Thuyên y tá nhanh chóng bơi qua ao dìu Tiến vào. Tiến bị thương quá nặng lại to cao, một mình Thuyên không thể đưa qua được. Hai anh em cứ vật nhau, tôi vội nhảy xuống ao, cùng Thuyên đưa được Tiến lên bờ. Có lẽ Tiến bị thương thấu phổi vì tôi thấy Tiến thở cứ phì bọt ở vết thương sau lưng. Tiến được cấp cứu và nằm đó tới tối mới được đưa về phẫu. Sau phẫu thuật, Tiến đã được cứu sống.

        Tôi điện về Tiểu đoàn báo cáo tình hình, đặc biệt bộ phận đồng chí Tịnh. Tôi đề nghị Tiểu đoàn cho Đại đội 3 sang chi viện. Lực lượng của tôi hầu hết bị thương và đạn cũng đã gần hết. Địch thì đang phản kích quyết liệt.

        Tôi chạy đi, chạy lại điều chinh lực lượng, nhắc nhở anh em bám vào bụi tre, địch vào là bắn, không cho nó vào, chú ý bắn tiết kiệm đạn. Ta ở trong phum, địch ngoài trống nước sâu, chúng không chạy nhanh được đâu, cứ bình tĩnh ngắm từng thằng mà bắn. Anh em bị thương nhưng không còn con đường nào khác, không dựa được vào ai nên đồng chí nào cũng kiên cường nổ súng đánh địch. Anh nào cũng muốn ôm lấy súng.

        Hơn 9 giờ sáng, Đại đội 3 cho một Trung đội, 7 đồng chí sang tăng cường. Tôi mừng quá: “Các đồng chí cùng chúng tôi chiến đấu đến cùng. Yên tâm! Ta ở trên khô và trong phum, trước mặt là ruộng nước, địch không thể vào được. Từ sáng đến giờ địch đã ba lần phản kích đều bị chúng tôi đánh bật ra. Bây giờ lại có các đồng chí đển góp sức, ta hoàn toàn yên tâm”.

        Thực sự lúc này tôi mới hết lo, mới ngồi lại lấy sức. Đồng chí y tá nói:

        - Thủ trường bị thương à?

        - Không! Tôi có bị đâu.

        - Cả hai má của thủ trường bị cháy sạm hết rồi.

        - Không can gì đâu.

        Trung đội trưởng Đắc bị thương lo lắng:

        - Anh làm sao vào cứu bộ phận anh Tịnh còn kẹt phía trong chứ bỏ mặc anh Tịnh vậy à.

        - Ta có lực lượng đâu mà vào. Từ sáng đến giờ ta đã chiến đấu kiên cường mới bảo vệ được trận địa. Nếu ta chùn tay thì chấc là nó đã diệt chúng ta rồi.

        Từ đó tới chiều, địch không dám tấn công nữa. Lúc này tôi mới có điều kiện đi thị sát khắp phum và nhìn sang địa hình phía địch.

        Từ phum ngoài này tới bờ phum bên kia khoảng gần 500 mét phải qua mấy thửa ruộng lúa nước. Phía bên kia là một dải đất cao, địch bố trí phòng thủ ở vòng ngoài rồi mới đến một cái phum, sau đó mới tới đường 1.

        Phum chúng tôi ở rất dài, nhưng chiều rộng chỉ khoảng 50 mét. Đầu phum địch đặt một cái chốt tiền tiêu, chúng tôi đã tiêu diệt ngay từ đầu. Trong phum địch không bố trí gì.

        Tôi báo cáo về Tiểu đoàn, nếu đêm mai chúng ta tiếp tục tấn công thì rất thuận lợi, đưa Sở Chỉ huy Tiểu đoàn và cối 82 vào chỗ tôi hiện nay. Còn chúng tôi đã nằm ở phía trước, nhìn rõ quân địch bố trí phòng thủ nên tấn công là rất dễ dàng và chắc thắng.

        Tôi rất sốt ruột và lo lắng, không hiểu bộ phận anh Tịnh thế nào? sống chết ra sao?

        Phía Tiểu đoàn 9, chi có Đại đội 2 lọt được vào gần trung tâm địch. Hai Đại đội còn lại không vào được. Địch đã tập trung lực lượng phản kích làm lực lượng Đại đội 2 bị thương vong lớn. Trong đó có Tiểu đoàn phó và Đại đội trưởng Thụ. Thụ trước đó ở Đại đội tôi làm chính trị viên phó mới được đề bạt Đại đội trưởng, ra quân trận đầu với vai trò Đại đội trưởng đã hi sinh.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:55:03 pm

        5 giờ chiều, tôi thấy tụi lính xếp lán trại, tăng bạt nhét vào ba lô. Tôi báo về Tiểu đoàn có lẽ địch sẽ rút chạy.

        Tôi mong tối nay Trung đoàn cho đánh tiếp, nhất định sẽ thắng và tôi mới có thể tìm, bắt liên lạc được với bộ phận anh Tịnh.

        Tôi nghĩ sở dĩ tụi địch ngoan cố chống cự là do ta đánh cả 4 hướng. Đặc biệt là mũi anh Tịnh đánh cặp theo đường từ hướng Tây xuống, khóa chặt đường chạy về Nếp Lương của địch nên chúng sẽ phản kích đến cùng. Hơn nữa ta đánh theo kiểu tù mù, địa hình thì rộng do nhiều phum liên kết với nhau nhưng ta chỉ mới biết mấy phum ờ phía ngoài.

        Khoảng 9 giờ tối, lệnh của Trung đoàn cho rút. Tôi thất vọng, điện lên Tiểu đoàn thắc mắc: “Bây giờ ta rút quân thì bộ phận anh Tịnh thế nào? Đã ai bắt liên lạc được đâu? Còn 9 đồng chí, trong đó có Đại đội trưởng Tịnh, chẳng biết chết sống ra sao”. Tiểu đoàn trả lời: “Hãy chấp hành mệnh lệnh, anh cứ cho lui quân, tổ chức khiêng cáng thương binh ra, dọc đường sẽ có anh em vận tải đón”.

        Khi ra phía sau, tất cả anh em thương binh được đưa thẳng lên phẫu Trung đoàn rồi về các bệnh viện tuyến sau, còn chúng tôi thì quay về hậu cứ. Chiều qua, Đại đội trước lúc xuất quân đông vui như hội, bây giờ còn lại mấy người. Cả Đại đội nấu một nồi 5 cơm mà ăn cũng không hết. Ban Chỉ huy Đại đội chỉ còn lại mình tôi.

        Trung đoàn thông báo. Tiểu đoàn 9 bị tổn thất nhiều, 26 đồng chí hi sinh, trong đó có một Tiểu đoàn phó và một Đại đội trưởng. Đại đội tôi thì bộ phận anh Tịnh 10 đồng chí chi có một đồng chí bị thương ra được còn lại anh em đều hi sinh.

        Đúng như tôi dự đoán, tối đến các đơn vị của Trung đoàn 271 rút ra thì địch cũng tổ chức rút chạy về Nếp Lương. Khi Trung đoàn 271 rút ra, Phân khu C30 cho Trung đoàn 205 vào thay thế. Sáng ra, Trung đoàn 205 tấn công vào, địch đã bỏ chạy từ lâu, do vậy việc giải quyết chính sách, chôn cất liệt sỹ của tiểu đoàn 8 và 9 đều do Trung đoàn 205 làm. Ngày 1 tháng 10 năm 1972, trở thành ngày bi thương của Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 9.

        Các đơn vị của Trung đoàn 271 lui quân về gần khu vực Thóc Nóc để củng cố học tập và bổ sung lực lượng. Đơn vị tôi được bổ sung 20 đồng chí. Anh em hầu hết là thương, bệnh binh được điều trị ở các bệnh viện và các trạm thu dung về. Ban Chi huy được bổ sung Đại đội phó Châu. Trung đội trường Thanh của Đại đội 2 được bổ nhiệm làm Chính trị viên phó.

        Vào những ngày cuối tháng 10 năm 1972, đơn vị được học tập các điều khoản cùa Hiệp định Pa-ri chuẩn bị ký kết vào ngày 27 tháng 10 năm 1972. Trong Hiệp định Pa-ri có một điều khoản: (sau khi ký kết lực lượng quân sự hai bên đứng nguyên tại chỗ và đó coi như vùng kiểm soát, quản lý hành chính cùa mình).

        Căn cứ điều khoản trên, ta chủ trương các đơn vị đêm 26 tháng 10 tổ chức đánh chiếm nhiều khu vực đồn bốt, cắm cờ ở các ấp chiến lược sâu vào hậu phương địch. Nếu làm được như vậy và địch chấp hành đúng Hiệp định Pa-ri thì hoàn toàn có lợi cho ta, tạo thành nhiều vùng giải phóng giống như da báo ngay giữa hậu phương địch. Nghe cấp trên quán triệt, bộ đội vô cùng vui sướng, phấn khởi và ai cũng nghĩ ràng chiến thắng đã ở trong tầm tay.

        Ngày 25 tháng 10 năm 1972, các đơn vị của Trung đoàn lần lượt hành quân xuống Đức Hòa, Long An. Đơn vị nào cũng vui như hội vì nghĩ chiến thắng sắp tới nơi, được quay về chiến trường cũ, có điều kiện gặp lại bà con Đức Hòa.

        Lần này xuống Đức Hòa tác chiến không như lần trước, các đơn vị phân tán, dãn ra trên diện rộng để cắm được nhiều cờ vào càng sâu hậu phương địch càng tốt. Các đơn vị hoạt động độc lập.

        Ngày 26 tháng 10 năm 1972, trên bàn đàm phán tại Pa-ri, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lật lọng không ký Hiệp định.

        Tuy vậy, nhiệm vụ Trung đoàn giao cho các đon vị không thay đổi. Tối ngày 26 tháng 10 năm 1972, Đại đội tôi đuợc giao nhiệm vụ chốt và cắm cờ ở ấp Rừng Tre, xã An Ninh, cách đồn Rừng Tre chưa đầy một trăm mét.

        Quá nửa đêm, chúng tôi đột nhập vào ấp đào hầm, chống càn. Khi bộ đội vào, dân đi sơ tán, bắt lợn, gà, ưâu, bò, chó làm lợn kêu, chó sủa, gà toác...ầm ĩ lên. Chúng tôi vào đây chưa nắm được địa hình nên chưa xác định được hướng nào là hướng tấn công chính của địch.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:55:46 pm

        Dân vừa sơ tán xong là địch tấn công ngay. Chúng tôi không kịp trờ tay, bộ đội đào hầm chưa xong, hầu hết hầm chưa kịp làm nắp. Anh em vừa đào hầm, vừa chiến đấu.

        Địch dùng cối 61, cối 81 từ đồn câu vào. Địch thông thạo địa hình, nó bám vào các bụi tre, gốc cây tấn công. Đạn các loại bắn vào như mưa. cối 60, B40, B41 của ta không phát huy được vì toàn những bụi tre to. Đặc biệt là cối 60, nếu bắn là sẽ chạm ngọn tre nổ ngay ưên đầu. Tôi và Tiến liên lạc, hai người hai cửa hầm thay nhau bắn trả. Một viên đạn thẳng của địch trúng giữa trán Tiến. Tiến hi sinh, đầu gục ngay bên cửa hầm.

        Chỉ trong chốc lát địch đã lọt được vào trong ấp. Anh em ta quần nhau với địch, từng căn nhà, từng mảnh vườn. Đơn vị bị hi sinh quá nhiều, một số hết đạn đã rút lui ra bưng. Trước mặt Ban Chỉ huy Đại đội chẳng còn ai. Tôi, liên lạc Định và hai đồng chí thông tin bắn trả quyết liệt. Tình hình nguy kịch, tôi nói: “Anh em ta hỗ trợ lẫn nhau rút ra bưng thôi”.

        Hai đồng chí thông tin 2W, vứt máy xuống ao rồi bò ra ruộng lúa trước. Tôi và Định bò ra sau cùng. Lúa tốt, mỗi người bò một lối, chẳng ai nhìn thấy ai. Tôi bò ra được khoảng 50 mét thì vấp phải một bờ ruộng phải bò qua. Tôi áp mặt vào góc bờ để quay lại quan sát.

        Một quả đạn M79 bắn sượt đỉnh đầu tôi, đạn không nổ cắm ngay vào bờ ruộng vàng khè. Tôi gục ngay xuống ruộng và nghĩ có thể mình sẽ bị chết, cắm khẩu súng K54 xuống bờ ruộng, tôi hy vọng khi anh em đi tìm liệt sỹ sẽ nhìn thấy. Nhưng không ngờ, khi tôi nằm ngửa xuống mộng, nước đã vào mũi, vào tai làm tôi tinh lại. Thế là tôi đứng dậy chạy ngay trên bờ ruộng. Chạy tới bờ vùng, tôi nhảy được sang phía bên kia bờ.

        Địch phát hiện tôi chạy, chúng tập trung các loại súng bắn đuổi theo. Không hiểu tại sao mấy chục khẩu súng cùng bắn mà tôi chẳng dính viên nào. Khi tôi nhảy được xuống bờ vùng bên kia thì thấy mấy đồng chí của mình đã ra được đó. Tôi vội nói ngay: “Đây có bờ đắp cao to ta tổ chức phòng thủ để đón anh em mình, có ai trong đó ra được không”.

        Anh em thấy tôi máu chảy từ đầu xuống ướt đỏ cả lưng. Có đồng chí hỏi: “Anh bị thương à?” Tôi bảo: “Tớ bị một quả đạn M79 bắn trượt đầu không nổ. Địch nó bắn như mưa may mà không chết, tớ mất khẩu K54 cắm ở bờ mộng”. Có đồng chí nói: “Súng còn đeo đó, mất đâu”.

        Khẩu K54 có dây bảo hiểm tôi treo ở cổ nên vẫn còn khi chạy khẩu súng va đập làm tím bầm hai bên đùi và mông mà không biết. Tôi nói:

        - Địch không dám ra đây đâu vì từ ấp ra đây địa hình trống trải, ta lại có cái bờ vùng to cao, ta chốt lại đây.

        Toàn bộ tư trang của tôi trong đó có sổ trích ngang quân nhân, danh sách đảng viên, danh sách những đồng chí đã hi sinh qua các trận đánh từ đầu chiến dịch đến nay rồi cờ Đảng, cờ Tổ quốc, đài Nationan đã bị mất. Hai đồng chí thông tin thì đã quăng máy xuống ao nhưng sau này địch vẫn mò được.

        Từ sáng đến giờ, tôi không liên lạc được với Tiểu đoàn. Đại đội tôi có một Trung đội 7 người do đồng chí Thanh, Chính trị viên phó nằm ở gò đất phía ngoài ấp Rừng Tre khoảng 200 mét cũng không hiểu sống chết ra sao. Tôi cứ mong cho trời tối thật nhanh để có điều kiện đi tìm kiếm anh em.

        Tối đến, tôi dẫn anh em vào ấp An Thuận bắt liên lạc với địa phương. Vào tới ấp, các đồng chí cán bộ địa phương đã có mặt, họ nắm rất chắc tình hình đơn vị tôi, qua cơ sở báo lại. Họ nói tình hình đơn vị đồng chí chúng tôi đã báo cáo về Trung đoàn rồi. Đơn vị đồng chí tổn thất khá nặng, Ban Chi huy chẳng còn ai. Đồng chí chính trị viên đã hi sinh, địch lấy được toàn bộ tài liệu của đồng chí ấy và tất cả có 10 đồng chí hi sinh. Tôi nói ngay: “Tôi - chính trị viên còn sống đây. Bây giờ tôi đề nghị các anh bắt liên lạc với bộ phận đồng chí Thanh và nhờ các anh chôn cất tử sỹ. Có đồng chí nào thất lạc thì nhờ các anh gom lại rồi giúp đỡ họ đưa về đơn vị”.

        Đại đội tôi có 10 đồng chí hi sinh, ừong đó có đồng chí Châu đại đội phó,hai đồng chỉ Tiến và Định liên lạc đều hi sinh.

        Ngày 1 tháng 10 năm 1972, tại trận chiến đấu ở Sa Thia, Đại đội tôi có 10 đồng chí hi sinh, trong đó có Đại đội trưởng Tịnh mới được bổ sung. Ngày 27 tháng 10 năm 1972, lại có 10 đồng chí hi sinh, trong đó có đồng chí Châu đại đội phó. Đặc biệt có hai đồng chí liên lạc Tiến và Định. Hai em đã gắn bó với tôi từ đầu chiến dịch nay cả hai đều hi sinh. Đây là một tổn thất thật vô cùng to lớn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Mười Một, 2017, 10:56:14 pm

        Sau khi gom hết anh em, được lệnh của Tiểu đoàn, chúng tôi hành quân về xã Tân Phú và đi thẳng ra Lạch Nhum sát sông Vàm Cỏ Đông để ẩn náu củng cố. Ra tới bờ kênh, anh em trải ni lông nằm trên bờ kênh. Có đồng chí nằm ở chỗ thấp nước dâng ướt cả lưng.

        Qua một ngày vất vả ác liệt lại bị thương ở đầu, sáng ra tôi thấy người cứng một bên, quậy mãi vẫn không sao đứng được. Tôi gọi đồng chí y tá: “Tôi bị liệt nửa người không đứng, không đi được nữa rồi, có thuốc gì tiêm cho tôi chứ địch vào thì làm sao đi nổi”. Đồng chí y tá nói “Có lẽ thủ trưởng bị thương đầu ảnh hưởng thần kinh, để em tiêm các loại thuốc trợ sức vài ngày sẽ khỏi”. Cả đơn vị ai cũng lo lắng cho tôi. Tôi bảo chiến sỹ y tá: “Cậu sang Đại đội 4, nhờ họ chuyển bức điện của tôi về Tiểu đoàn”. Trong điện tôi tóm tắt báo cáo tình hình đơn vị và tình trạng sức khỏe của tôi đề nghị Tiểu đoàn giúp đỡ, bổ sung cán bộ.

        Rạch Nhum là một khu vực bưng biền thuộc xã Tân Phú, các con rạch chạy dài ra tận sông Vàm Cỏ Đông, có hai gò đất lớn gọi là cồn cát nhỏ và cồn cát lớn. Cứ mỗi lần đánh nhau trong ấp bộ đội ta lại ra trú ẩn ở đây. Khu vực này cán bộ địa phương xã Tân Phú và ban an ninh huyện cũng thường xuyên trú quân ở đây.

Địch thường xuyên đi càn quét và cho máy bay săn lùng nhưng không làm gì được vì mỗi khi lính đi lùng, bộ đội địa phương rút tới đâu cài mìn tới đó. Sợ dính mìn nên lính đi càn chỉ đi ngoài trống.

        Mỗi khi địch càn, anh em cho quần áo vào túi ni lông nhận chìm dưới gốc cây chi còn khẩu súng, dầm mình dưới nước theo các con kênh để ần trú, tuyệt đối không được nổ súng. Bộ đội ta cứ bám theo địch, nó đi bên này, mình tránh bên kia vì mình chủ động hoàn toàn về địa hình, khi địch rút, mình quay về gờ mìn gom lại.

        Đúng như chúng tôi dự đoán, 8 giờ sáng ngày 28 tháng 10, một Đại đội địch xuất phát từ đồn Trại Bí, qua ấp Giồng Giáng, đi thẳng ra Rạch Nhum. Anh em cảnh giới báo địch đi đúng về hướng ta. Tôi nói: “Bây giờ các đồng chí đưa tôi vào một bụi cây ngụy trang kín đáo, cài mìn từ ngoài vào rồi lẩn theo bờ kênh mà tránh địch. Chứ đưa tôi đi theo không được đâu”. Anh em ái ngại. Tôi nói: “Cứ yên tâm! Chưa chắc địch vào, vì từ trước đến nay nó đều đi ngoài trống. Mình có 2 quả lựu đạn. Nếu nghe lựu đạn nổ thì tối đến đưa xác tôi về mà chôn. Nếu không, khi địch rút, đến đưa tôi ra. Chú ý gỡ mìn cẩn thận không quân ta "chiến thắng" quân mình”. Địch đến gần quá, tôi giục anh em đi khẩn trương nếu để lộ, pháo và máy bay nó sẽ quần nát mất.

        Anh em đi rồi, tôi nằm lại một mình. Anh em dùng cỏ và cây bòng bong phủ kín người tôi. Tôi thò đầu ra ngoài để quan sát theo dõi địch. Địch có khoảng 60 tên, đi theo hàng dọc ngoài rìa bờ kênh. Chúng đi giữa bãi cỏ, nước ngập có chỗ đến bụng, tay cầm khẩu súng A RI 5, chĩa lên trời vì sợ ướt. Vì AR15 bị ướt bắn sẽ không nổ. Địch đi gần tôi, khoảng 100 mét.

        Tôi nằm nghiêng, bóp cho chốt hai quà lựu đạn mỏ vịt thẳng ra và mở khóa súng sằn sàng chờ đợi. Nếu địch vào, tôi sẵn sàng sống chết. Tuy vậy, cũng có lúc tôi lại nghĩ có lẽ để anh em họ cõng mình đi theo thì hay hơn.

        Đúng như anh em địa phưomg báo, bọn lính đi càn ngoài bưng trống chứ không dám lên bờ kênh vì đây toàn lính bảo an sợ chết. Giây phút căng thẳng qua đi, tôi nhẹ nhõm chờ đợi anh em đến đón.

        Khi địch rút hết, anh em quay về gặp nhau, chúng tôi mừng lắm. Anh em thổ lộ: “Khi địch đi vào gần, bọn em lo lắm, nếu có bề chi thì bọn em ân hận vô cùng”.

        Hằng ngày, tôi được y tá chăm sóc, tiêm thuốc, sau 5 ngày thì tôi đã đi lại tương đối bình thường. Do vết thương ở đầu nên hàng chục năm qua, khi thời tiết thay đổi, tôi bị đau đầu như búa bổ và tê liệt nửa người.

        Sau mấy ngày, Trung đoàn điều anh Minh, Đại đội phó, Đại đội 18 về làm Đại đội trường. Các đơn vị của Trung đoàn rút ra bưng ở gò nổi xã An Ninh, Lạch Nhum xã Tân Phú huyện Đức Hòa để củng cố và hàng đêm cùng với cán bộ địa phương vào ấp, tuyên truyền các chính sách của cách mạng, vận động nhân dân, động viên con em mình bỏ hàng ngũ địch về với cách mạng.

        Đức Hòa cỏ nhiều gia đình vừa có con em đi theo cách mạng, vừa có con đi lính cho địch. Nếu gia đình nào có con phân chia như vậy thì dễ sông hơn, còn gia đình nào chỉ có con em đi theo cách mạng thì địch hay làm khó, lùng sục hỏi xét luôn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Mười Một, 2017, 11:50:16 pm
         
        Đường tiếp tế của ta từ Căm Pu Chia xuống gặp rất nhiều khó khăn, chỉ ưu tiên vận chuyển súng đạn và một phần thuốc men. Lương thực, thực phẩm đều do nhân dân Đức Hòa cung cấp. Các đơn vị đưa dân tiền mua gom gạo. Hàng đêm, bộ đội theo các ám hiệu an toàn là vào nhà dân lẩy gạo, thực phẩm mang về. Địch biết nên quản lý rất gắt gao. Mỗi người dân ra chợ chỉ được mua 5 đến 7 kg gạo. Đặc biệt là thuốc kháng sinh, nếu ai mua nhiều sẽ bị bắt. Đã có hàng chục người bị bắt, bị giam. Thậm chí ban đêm, dẫn đường cho bộ đội đã có người vướng mìn chết.

        Ngày 12 tháng 12 năm 1972, Tiểu đoàn 8 được điều về xã Hòa Khánh để hoạt động. Đồng chí Cửu, Tham mưu trưởng Trung đoàn đi với Tiểu đoàn 8 và trực tiếp giao nhiệm vụ cho các đơn vị.

        Đại đội tôi được giao nhiệm vụ cùng với bộ đội địa phương Đức Hòa tổ chức phục kích trên đường 8, đoạn từ Đức Hòa đi Hòa Khánh, cách Đức Hòa 3 km. Được tăng cường một khẩu cối 82 của Đại đội 4, 7 bộ đội địa phương huyện, tổ chức đào hầm ở ấp mới phía ngoài từ bưng vào. Đưa một Trung đội 10 người cùng du kích đi phục, sát mép đường 8 đánh địch kiểm tra đường từ Đức Hòa đến đồn Giồng Cám. Sau đó vận động về tuyến 1 đánh địch phản kích.

        Đại đội 3 tác chiến ở ấp Giồng Cám. Cách đánh cũng giống như Đại đội 1, tổ chức phục kích đường 8, đánh địch đi kiểm tra đường từ Hòa Khánh đến Giồng Cám. Sau đó, tổ chức đánh địch phản kích tại ấp Giồng Cám.

        Theo kế hoạch, tối ngày 13 tháng 12 năm 1972, các đơn vị hành quân chiếm lĩnh trận địa.

        Khoảng hơn 10 giờ đêm, đơn vị tôi vào chiếm lĩnh ở ấp mới. Ấp này chỉ có mấy nhà cũ, còn đại bộ phận nhân dân mới ra lập nghiệp cây cối còn ít, chủ yếu là cây chuối, nhà dân rất thưa.

        Ban Chỉ huy Đại đội chỉ có tôi và anh Lê Cường ở Đại đội công binh được điều về làm đại đội phó (anh Cường sau này là Đại tá, Cục phó Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị). Anh Cường đi với Trung đội tổ chức phục kích ở lộ 8.

        Khi đồng chí Cửu tham mưu trưởng Trung đoàn giao nhiệm vụ cho chúng tôi, tôi đã thấy rất mạo hiểm. Mình chỉ có một lực lượng nhỏ nếu tổ chức phục kích đánh xong hỗ trợ nhau rút ra bưng thì được. Còn bám trụ lại, thì mình trụ không nổi. Trong khi Đức Hòa là hậu phương của địch, có một trận địa pháo 105 ly 4 khẩu, có Tiểu đoàn bảo an và có 3 đồn, mỗi đồn một Đại đội. Ta lực lượng ít, đạn dược thiếu, máy thông tin 2W cũng không có.

        Chúng tôi bàn cãi mãi không được. Đồng chí Cửu không thay đổi ý định tác chiến buộc chúng tôi phải chấp hành. Đồng chí Cửu còn nói: “Ta tổ chức trận đánh này sẽ tạo nên quả đấm bất ngờ ngay sát sào huyệt địch”. Chúng tôi đoán trước trận đánh này sẽ gặp nhiều khó khăn.

        Khi bộ đội hành quân vào tới ấp nhân dân mừng lắm, vì mấy năm nay mới thấy bộ đội chủ lực miền Bắc vào. Bà con nấu cơm nước cho bộ đội ăn và giúp bộ đội dào hầm, gần sáng thì họ đi sơ tán hết. Ban Chi huy Đại đội đào hầm ờ gần bụi chuối ở một căn nhà nhỏ 2 gian sát ngoài làng. Phía trước, cách vài chục mét tương đối kín đáo chúng tôi đặt khẩu cối 82.

        Khoảng 4 giờ sáng, anh em cơ bản đào xong hầm và bộ phận đi phục kích ở lộ 8 bắt đầu đi lên tìm chỗ mai phục. Anh em ra đường 8 tìm chỗ phục kích rất khó, chỗ cao thì dân ở, chỗ thấp thì ruộng nước. Sau khi nghiên cứu địa hình, Đại đội phó Lê Cường quyết định cho anh em nằm dưới ruộng lúa sắp chín của dân cách đường 8 bảy, tám mét để chờ địch. Mấy du kích thì lợi dụng các bụi chuối sát nhà dân để mai phục.

        Gần sáng, một người dân dậy rút rơm cho bò, thấy người lạ hoảng hốt kêu lên. Anh em du kích trấn an người dân, nhưng sợ lộ nên rút về tuyến đường 1.

        Sáng ra, một cậu bé đi lấy ống lươn, suýt nữa đạp phải bộ đội ở bộ phận anh Cường nên hoảng hốt bỏ chạy. Anh em giữ lại và bảo cậu bé tuyệt đối bí mật. Các chú là bộ đội giải phóng.

        Có thể cậu bé đã làm lộ nên chúng không đi trên đường mà đi vòng ra phía sau. Anh em ta phát hiện đã nổ súng kịp thời diệt được mấy tên, số còn lại bỏ chạy. Anh em cũng vận động về tuyến 1 để đánh địch phản kích. Địch biết chúng tôi ở đây, nhưng bố trí thế nào, lực lượng bao nhiêu thì chúng không biết.

        Sau 8 giờ sáng, 3 khẩu pháo 105 của địch ở Đức Hòa bắn hàng trăm quả đạn vào khu vực chúng tôi. Một số nhà dân bị cháy. Cây cối đổ ngổn ngang nhưng không có quả đạn nào trúng hầm.

        Hết đợt pháo tôi và Cường trao đổi. Địch thế nào cũng tập trung lực lượng đánh vào, súng đạn của ta ít quá. Khẩu cối 82 chi có 15 quả, B40, B41 mỗi khẩu 2 đến 3 quả đạn, AK cũng chỉ có chưa đầy trăm viên một khẩu. Địch đánh sớm thế này nên phải nhắc nhờ bộ đội tiết kiệm đạn để bám trụ cả ngày.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Mười Một, 2017, 11:51:24 pm
    
        Cường xuống trực tiếp một Trung đội để chỉ huy. Ỏ đây còn 7 du kích và bộ đội địa phương nữa. Địch có khoảng một Đại đội tấn công vào. Anh em chúng tôi chờ địch vào thật gần mới nổ súng. Có đến hàng trăm tên địch xông vào nên cả Đại đội đều nổ súng, cối 82 bắn trúng giữa đội hình địch. Bọn chúng phải dãn ra và lùi về phía sau. Lúc này cũng đã quá trưa, tụi lính rút hết lên lộ 8.

        Tôi tranh thủ đi xuống các hầm để động viên anh em và nhắc nhở bộ đội tiết kiệm đạn để bám trụ đến tối. Tôi gặp anh Khai, Chính trị viên Đại đội 4. Khai nói: “ Đạn cối 82 ít quá, chi còn lại 7 đến 8 quả”. Tôi trao đổi: “Anh cho một vài đồng chí đào hầm chặn phía trái ấp, nhất định nó sẽ đi vòng sang phía trái để tấn công ta, vì nó đã phát hiện được khẩu cối 82 của ta đặt ở đây rồi”.

        Tôi thực sự lo lắng vì thiếu đạn. Địch thì đông và mạnh như vậy ngay cả đạn AK mỗi khẩu cũng chi còn lại vài băng. B40, B41 mỗi khẩu chi còn lại một quả mà lúc này mới khoảng một giờ chiều, chịu làm sao nổi cho đến tối. Tôi thấy từ sáng đến giờ Đại đội 3 chưa nổ súng. Tôi không có điện để báo về Tiểu đoàn yêu cầu Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 3 nổ súng chia lừa cùng chúng tói. Nếu địch tập trung lực lượng cả gần 2 Tiểu đoàn bộ binh đánh vào đơn vị mình thì sẽ rất khó khăn.

        Tôi đang nghĩ cách giải quyết thì một chiếc L19 quần lượn rồi bắn ngay một quả pháo khói vào gần khẩu cối 82. Chỉ trong nháy mắt 3 đến 4 máy bay phản lực lên bổ nhào đánh bom. Trận địa cối 82 bị bom đánh tan hoang, một quả rơi trúng hầm chỉ huy Đại đội 4 làm đồng chí Khai và 2 chiến sỹ hi sinh. Anh em Đại đội 4 hoảng hốt, chạy tới báo cáo. Tôi nói: “Anh Khai hi sinh nhưng cả Đại đội tôi đang còn ở đây, ta kiên quyết bám trụ chiến đấu đến cùng”.

        Khoảng 3 giờ chiều, địch cho đặt mấy khẩu 12,7 trên lộ 8, cối 81 và pháo 105 từ chi khu Đức Hòa bắn như vãi đạn vào trận địa. Bộ binh địch chia thành ba mũi ào ào tấn công vào, hò hét xung phong. Khi vào tới gần, bị anh em mình bất ngờ đồng loạt nổ súng, chúng phải quay về lộ 8.

        Im tiếng súng, anh Cường bò đến gặp tôi nói:

        - Anh em đã gần hết đạn rồi, AK bắn phát một mà vẫn không đủ vì địch đông và bám dai quá. Mấy đồng chí hi sinh và bị thương. Anh em du kích đã ra bưng hết rồi. Tôi cũng đã bị thương đầy người, súng đã hết đạn.

        - Anh đưa anh em bị thương bò ra bưng trước đi, tôi và anh em còn đạn, còn sức ở lại chặn địch rồi rút sau.

        Lúc này địch rút lên lộ 8, tiếp tục gọi pháo bắn và dùng loa cực mạnh chĩa xuống kêu gọi chúng tôi đầu hàng, nếu không sẽ bị hủy diệt.

        Tôi bò sang hầm cối 82 nói: “Lần này địch vào, ta bắn hết đạn luôn vì trời cũng đã sắp tối rồi”. Tôi về tới hầm là địch tấn công. Đạn 12,7 ly, đạn đại liên đặt trên đường 8 bắn như mưa. Bộ binh địch triển khai trên diện rộng tấn công vào.

        Đúng như dự đoán, một tốp địch vòng ra phía sau, tấn công Đại đội 4, chúng phải vượt qua một cái bờ đắp cao. Tôi và chiến sỹ liên lạc từ hai cửa hầm, thấy tên nào ngóc lên bờ, vượt qua bờ là bắn vì đạn ít nên chi bắn viên một. Súng đang nổ ầm ầm thì mấy đồng chí từ hướng chính điện bò đến báo: “Tụi em hết đạn và cũng đã bị thương cả rồi”. Anh em vào, hầm tôi chật ních. Tôi bảo: “Thôi anh em lợi dụng ruộng lúa bò ra bưng đi”. Anh em cứ lừng chừng không muốn lui vì địch bắn dữ quá, rời khỏi hầm là hết sức nguy hiểm. Tôi giục:

        - Đi nhanh lên không có đạn ở đây làm gì? Ở đây cho địch bắt à?

        Tôi nói vậy anh em mới chịu đi. Địch vòng ra phía sau bị tôi và chiến sỹ liên lạc bắn chặn nên không vào được. Nhưng ở hai hướng chính, anh em mình vừa hi sinh, vừa bị thương, hết đạn rút rồi nên địch đã chiếm được trận địa. Địch vừa bắn vừa hô “Xung phong!”, “Bắt sống!”. Chúng đánh thẳng vào trận địa cối 82. Anh em cối 82 không có súng đạn chạy ra hướng tôi.

        Chờ cho anh em chạy hết, tôi mới từ hầm bò ra ruộng lúa cách đó mấy mét, lấy tay khỏa lúa lại, che dấu vết cho địch khỏi thấy. Địch thấy anh em mình rút liền đuổi theo. Nó chạy trên bờ ruộng ra tận mép bưng. Hầu hết anh em hi sinh và bị bắt. Đồng chí Luân quê ở Diễn Châu bị địch bắt sau này được trao trả.

        Tôi nằm nghiêng mình và dùng tay khỏa lúa che kín nên địch mải đuổi theo anh em không phát hiện ra. Tôi chi có một khẩu AK còn 2-3 viên dạn và một quả lựu đạn sẵn sàng sống chết với địch. Bọn địch đuổi theo anh em ra tới bưng rồi quay về. Chúng không đi theo đường cũ mà đi trên trục đường to. Nếu đi lại đường cũ thì chắc chúng sẽ phát hiện được tôi.

        Chờ cho địch rút hết và trời tối hẳn tôi đi dọc theo bờ đắp sát bưng vào lại trận địa xem có anh em mình còn sống hoặc bị thương không, nhưng chẳng thấy ai cả. Khoảng 9 giờ tối, tôi mới cắt đường ra bưng tìm về cứ.

        Về tới nơi đồng chí quản lý ở lại hậu cứ nói anh em ta về đây cũng được khá đông, ai cũng nghĩ anh đã hi sinh rồi. Trước lúc nhận nhiệm vụ tôi đã nói rồi, đánh xong mà trụ lại làm sao mình trụ nổi? Đại đội tôi mới được củng cố, bổ sung quân số nay lại bị một vố nữa.

        Tôi làm việc với các đồng chí cán bộ địa phương thông báo có một chiến sỹ thất lạc, tối vào dân xin cơm ăn, ngày ra bưng trốn, nhờ địa phương giúp đỡ. Tôi phải tổ chức tìm ba bốn ngày mới bắt được liên lạc. Trong trận này anh em Đại đội 4 bị tổn thất nặng nhất. Có 6 hi sinh, 2 bị bắt. Trong số hi sinh có đồng chí Khai, Chính trị viên đại đội. Đại đội tôi hi sinh 4, bị bắt 1. Sau khi thu hết quân, đơn vị tôi lại được điều về Lạch Nhum, Tân Phú để củng cố.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 09:58:03 pm

        NGÀY 12 THÁNG 1 NĂM 1973

        Ngày 11 tháng 1 năm 1973, tôi được cán bộ địa phương mời khoảng 8 giờ tối 12, có mặt tại nhà bà Tư bán quán (bà Tư là bí thư Đảng uỷ xã, hoạt động hợp pháp trong lòng địch), để họp bàn kế hoạch cùng địa phương làm công tác tuyên truyền. Đi với tôi có anh Thông trợ lý quân nhu Tiểu đoàn, anh Hiền quản lý và mấy đồng chí trinh sát, kết hợp vào mua và lấy gạo, thực phẩm.

        Từ Lạch Nhum, chúng tôi lần bám địch chờ trời tối hẳn thì đột nhập vào ấp Gò Sao. Tại đây tôi được gặp bà Sáu bí thư chi bộ, anh Ba Hoàng xã đội trưởng.

        Sau khi bàn bạc thống nhất kế hoạch, tôi và Ba Hoàng tới nhà Bà Tư để bàn công chuyện. Anh em đi lấy gạo thì bà Sáu dẫn đi ấp Bàu Trâu đến nhà ông Tư để lấy gạo. Khoảng hơn 9 giờ tối, tôi, ba Hoàng và bà Tư đang họp bàn thì nghe một tiếng nổ to từ ấp Bàu Trâu. Tôi đoán có lẽ anh em đi lấy gạo bị dính mìn.

        Chỉ một lát sau, một đồng chí du kích và một đồng chí trinh sát tới báo: Địch chọi mìn vào nhà ông Tư làm bà Sáu, ông Tư và anh Thông chết tại chỗ, anh Hiền bị thương nặng, mấy anh nữa bị thương nhẹ. Anh em bị nhẹ đã chạy về Gò Sao rồi.

        Tôi và ba Hoàng vội chạy tới nhà ông Tư giải quyết hậu quả. Để chậm địch mò vào thì nguy hiểm lắm, vì từ đây tới đồn địch ở đầu ấp không đầy 200 mét. Tới nơi, tôi thấy Bà Sáu, ông Tư nằm chết ngay trên phản, anh Thông nằm chết trên một cái chõng tre máu chảy ra lênh láng. Hiền bị thương vào bụng bò ra bụi nằm. Cô con gái chủ nhà chừng 18 tuổi ôm lấy tôi: “Chú ơi! Khổ cháu lắm chú ơi! Bố cháu mất rồi”. Tôi nói: “Các chú cũng khổ, cháu cố đừng khóc. Địch biết, chủng sẽ làm khó cho cháu đó”. Tôi và ba Hoàng trao đổi. Ba Hoàng giải quyết việc bà Sáu và ông Tư còn tôi giải quyết người của đơn vị.

        Tôi cho chặt cây làm cáng khiêng anh Thông và Hiền ra ấp Gò Sao. Ba Hoàng cho du kích khiêng bà Sáu về nhà bà cũng tại ấp Gò Sao. Còn ông Tư thì nhờ một cơ sở sang động viên cô con gái đến mai sẽ mai táng. Tôi và một trinh sát khiêng anh Thông chạy một mạch khoảng 2 km mà không biết mệt. Anh Thông to béo, khoảng 65kg. Khi tới nhà bà Sáu tôi và ba Hoàng trao đổi nên tổ chức chôn cất anh Thông và bà Sáu trong đêm để xóa dấu vết. Ông bố bà Sáu không chịu. Ông nói: “Con tôi, ngày mai tôi chôn cất đàng hoàng, mua hòm vỏ chu đáo”. Các con của bà Sáu cứ ôm tôi rồi lại ôm mẹ khóc tấm tức không thành tiếng vì sợ địch nghe thấy.

        Chúng tôi đưa anh Thông ra gò Cây Gạo chôn cất, rồi khiêng anh Hiền ra bưng thì ười cũng vừa sáng.

        Chồng bà Sáu, bị địch bắt tù Côn Đảo. Bà có 3 con (1 trai 2 gái). Sáng ra, địch đi càn đến nhà bà Sáu bắt cả ông bố và 3 đứa nhỏ lên đồn xét hỏi. Thi thể bà Sáu, địch kiểm ưa xét nghiệm. Ồng già và 3 đứa nhỏ không khai báo gì cả chi nói ràng nửa đêm có người khiêng xác má về bỏ đó.

        Địch biết bà Sáu là cơ sở cách mạng nhưng không có cớ để bắt. Nay chúng điều ưa nhưng cũng không điều tra được gì. Sang ngày thứ 3, địch mới cho gia đình chôn cất bà Sáu. Hiền bị thương ở bụng phải nằm đợi một ngày nữa. Mãi tối hôm sau, Hiền được đưa về trạm phẫu Trung đoàn ở Gò Nổi. Do vết thương quá nặng, lại để lâu nên Hiền đã hi sinh ưên bàn mổ.

        Sau khi điều tra, vụ nổ mìn được xác định không phải do địch ném lựu đạn vào mà do anh Thông đeo một quả lựu đạn mỏ vịt, anh ngồi trên chõng ưe di chuyển đi lại làm vòng chốt lựu đạn kẹt vào nan chõng, lựu đạn tụt chốt nổ làm 4 người chết và 3 người bị thương. Một tổn thất nặng nề chỉ do sự bất cẩn khi đeo lựu đạn của anh Thông.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 09:58:41 pm

        NHIỆM VỤ MỚI

        Ngày 16 tháng 1 năm 1973, tôi được lệnh của Tiểu đoàn bàn giao đơn vị lại cho đồng chí Thanh và đồng chí Yến là hai đồng chí cấp phó. Tôi, anh Minh cùng một liên lạc, một quản lý, một y tá, về Trung đoàn nhận nhiệm vụ.

        Lúc này Trung đoàn đang ở Thóc Nóc, Căm Pu Chia. Từ Lạch Nhum, Tân Phú Đức Hòa đi lên Căm Pu Chia phải vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, đi qua chi khu Đức Huệ, về Ba Thu rồi mới đi Thóc Nóc.

        Hôm đó, khoảng 2 giờ chiều, chúng tôi được anh em du kích dùng thuyền chở đi theo một con kênh nhỏ, cây cối hết sức kín đáo ra tận bờ sông Vàm Cỏ Đông. Ban ngày nhìn con sông thật thơ mộng. Sông sâu, rộng chừng hơn 300 mét, nước trong xanh, thỉnh thoảng có đôi chiếc thuyền nhỏ đánh cá của dân lướt qua. Hai bên bờ sông cây cối xum xuê kín đáo.

        Theo anh em địa phương, đoạn sông này thình thoảng có bo bo địch đi tuần tra (bo bo là một loại tàu nhỏ, tốc độ cực nhanh, được trang bị vũ khí mạnh). Anh em du kích lặn xuống kênh lấy lên cho chúng tôi một chiếc thuyền nhỏ, có hai mái chèo và dặn: “Các anh chờ ở đây, khoảng hơn 5 giờ chiều, lúc đó tụi lính đã về đồn và gió cũng lặng thì bơi thuyền qua sông, rồi dìm thuyền vào một con kênh nào đó. Sau đó tranh thủ bám lên theo dõi địch ở Đức Huệ. Qua Đức Huệ, cắt về Ba Thu là an toàn”.

        Giữa trời đất sông nước, 5 anh em chưa biết đường hướng, chưa nắm được địch. Qua sông rồi nếu xác định hướng đi không tốt sẽ dẫn vào đồn địch, chẳng khác nào đưa xác đến cho cọp ăn. Tôi trao đổi với anh Minh: “Ta tranh thủ vượt sông sớm, sang bên kia bám địch, tối mới đi được. Tối rồi mới sang, không biết nhìn cái gì làm chuẩn vì trong tay chẳng có bản đồ địa bàn”.

        Gần 5 giờ chiều, chúng tôi vượt sông, tôi chèo mũi, Minh chèo lái. Hai anh em dùng hết sức chèo thật thanh. Sông rộng ra giữa mới biết, gió rất mạnh vừa sợ chạm địch vừa sợ lật thuyền. Thế rồi chúng tôi cũng vượt được sang bờ bên kia.

        Sau khi giấu thuyền, chúng tôi bám theo bờ kênh đi về phía chi khu Đức Huệ. Có mấy người dân gặt lúa ở một thửa ruộng gần chúng tôi. Chúng tôi lần tới hỏi thăm.

        Thấy chúng tôi xuất hiện đột ngột, một ông già hốt hoảng định bỏ chạy. Tôi ra hiệu: “Chúng cháu là Quân giải phóng, ông cho chúng cháu hỏi nhờ”. Ông già lấy lại bình tĩnh rồi chỉ cho chúng tôi vào một bụi cây gần đó để mọi người không ai biết và để bọn địch không nhìn thấy.

        Tôi hỏi: “Chúng cháu muốn đi về Ba Thu đất Căm Pu Chia, nhờ ông chi hộ đường”, ông nói: “Bây giờ các chú chưa đi được đâu. Địch ở chi khu Đức Huệ chúng nhìn thấy. Chờ tối, các chú đi dọc cánh đồng này sang bên kia là bưng biền, cứ đi thẳng về phía tây là tới Ba Thu. Từ đây tới Ba Thu còn xa lắm, phải đi sáng đêm mới tới, ráng mà đi chứ để sáng ra nguy hiểm lắm vì toàn bưng, cỏ trống trải nếu máy bay phát hiện là nó quần chết đó”.

        Chúng tôi cảm ơn ông già, chờ trời tối bắt đầu đi. Vừa đi, vừa bám địch, vòng ra phía sau của căn cứ Đức Huệ là an toàn. Chúng tôi nhằm hướng Tây mà đi. Chẳng có đường, toàn cỏ năn, có chỗ cỏ cao tới cổ, có đoạn khô, đoạn ướt. Quá nửa đêm, mệt quá, thấy gò đất cao tường là đã tới Ba Thu, anh em chúng tôi dựa lưng vào gò đất ngủ một giấc để lấy sức. Ngủ được một lúc, trời đất vần vũ, mây đen kéo kín bầu trời không thấy trăng sao đâu cả, thế là mất hết phương hướng. Chúng tôi phải lần theo đường vừa đi để tìm đường mới vì không có bản đồ địa bàn. Chẳng có xóm làng cây cối gì để mà làm chuẩn.

        Tôi bàn với anh Minh: “Thôi ta cứ nghỉ ở đây chờ tới hửng sáng ta xác định lại hướng rồi đi tiếp chứ giờ đi lung tung không khéo lại quay về Đức Huệ làm mồi cho địch”. Nghỉ một lúc thì vừng đông hửng sáng, chúng tôi xác định được hướng tây rồi tiếp tục đi.

        Đi một lúc, chúng tôi phát hiện một bóng người trong đám cỏ. Người này cũng phát hiện ra chúng tôi. Anh ta tưởng chúng tôi là thám báo nên bỏ chạy. Chúng tôi vừa đuổi theo, vừa hô chúng tôi là bộ đội giải phóng. Anh ta chần chừ một lát rồi đứng lại. Hỏi ra mới biết anh ta là bộ dội địa phương. Anh là người ờ trạm giao liên để đưa đón quân ta từ Ba Thu xuống miền Tây Nam Bộ vùng Mỹ Tho, Kiến Tường. Trạm ở gần đây. Anh đi lấy lờ cá và ống lươn.

        Chúng tôi mừng quá được anh chi đường. Anh nói từ đây tới Ba Thu đi khoảng 4 tiếng là tới. Các anh tranh thủ đi nhanh càng xa Đức Huệ càng tốt. Đường an toàn chỉ sợ máy bay trực thăng thôi. Nếu các anh nghe tiếng trực thăng thì rúc vào cỏ để trốn, chứ chạy là chết với nó đấy.

        Về tới Trung đoàn, chúng tôi kể lại cuộc hành trình của mình, anh em lính cơ quan ai cũng ngán và nói các anh liều thật. Tôi và Minh lên Trung đoàn làm việc. Chúng tôi được Trung đoàn giao nhiệm vụ thành lập một Đại đội bộ binh, quân số thu gom từ các bệnh viện, các trạm thu dung về.

        Theo kế hoạch, hàng ngày, chúng tôi cứ nhận được đồng chí nào về là biên chế thành Trung đội, Tiểu đội. Anh em hầu hết là thương binh bệnh binh ở khắp các đơn vị trong toàn Trung đoàn. Có đầy đủ cán bộ Trung đội, Tiểu đội và chiến sỹ.

        Chi trong mấy ngày chúng tôi đã thu gom và tổ chức biên chế thành một Đại đội bộ binh, quân số hơn 40 người và được trang bị đầy đủ súng đạn theo biên chế và có thể sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu được ngay.

        Tuy quân số khá đông nhưng tổng hợp bao gồm bộ binh, pháo binh, thông tin, trinh sát. Số anh em binh chủng họ thiếu an tâm vì họ sử dụng không thành thạo các loại vũ khí bộ binh như súng B40, B41 ...


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 09:59:36 pm

        CHIẾN ĐẤU GIỮ ĐẤT, GIỮ DÂN TRƯỚC VÀ SAU NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH PARI

        Lúc này Mỹ đã ồ ạt dùng máy bay B52 ném bom, hòng hủy diệt Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác. Quân và dân miền Bắc đặc biệt là quân, dân Hà Nội đã làm nên một lịch sử Điện Biên Phủ trên không, với 12 ngày đêm chiến đấu vô cùng ác liệt bắn rơi hàng chục máy bay B52. Đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Buộc chúng phải xuống thang, ngồi vào đàm phán bốn bên và phải chấp nhận ký Hiệp định Pa ri vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.

        Để chuẩn bị cho ngày ký Hiệp đinh Pa ri, các đơn vị Quân giải phóng được lệnh nhanh chóng đánh chiếm các căn cứ, cắm cờ, chiếm đất, giành dân tạo nên một tình thế da báo có lợi cho ta sau khi có Hiệp định.

        Lần đầu, ngày 27 tháng 10 năm 1972, Mỹ đã lật lọng không ký Hiệp định Pa ri, các đơn vị của Trung đoàn 271, Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 7 xuống Đức Hòa, Long An làm nhiệm vụ chồm lên, cắm cờ đã bị tổn thất lớn.

        Lần này, cả Trung đoàn được lệnh xuống Đức Hòa làm nhiệm vụ cắm cờ, giành đất, giành dân. Đại đội tôi nhanh chóng ổn định biên chế trang bị và được Trung đoàn giao nhiệm vụ nằm trong đội hình Tiểu đoàn 9 hành quân xuống Đức Hòa.

        Những người lính ở chiến trường khi nhận được thông báo Hiệp định Pa ri được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, ai cũng vô cùng phấn khởi và tin tưởng rằng ngày chiến thắng đã đến rất gần. Ai cũng tin tưởng Hiệp định Pa ri có sự giám sát của quốc tế, nếu bốn bên chấp hành đúng Hiệp định thì thắng lợi là cầm chắc, chỉ cần đợi ngày, đợi tháng nữa mà thôi.

        Đêm 25 tháng 1 năm 1973, Đại đội tôi và Tiểu đoàn 9 hành quân từ Thóc Nóc xuống Đức Hòa vẫn đi theo đường cũ. Qua ấp Tà Nôi khoáng 3 km, đường không an toàn vì địch hay ra phục. Do vậy trinh sát vừa đi, vừa bám địch. Trinh sát bám được đoạn nào thì đội hình lại dịch lên, tốc độ đi rất chậm người nọ kế người kia.

        Đang đi, tôi nghe một tiếng đề pa pháo từ Gò Dầu bắn lên tiếng rít ngay trên đầu, quả đạn rơi sau đội hình khoảng 500 mét. Tôi nghĩ nếu nó rút tầm chắc là đạn sẽ rơi trúng đội hình. Tôi lo quá, đội hình hành quân bộ đội đi dày đặc, địa hình trống trải nếu nó bẳn trúng thì thương vong sẽ rất lớn.

        Suy nghĩ của tôi đang ở trong đầu và tôi cũng vừa dịch lên được mấy bước thì ngay lập tức tiếng đề pa pháo rít xé tai. Tôi chi kịp nằm ẹp xuống đất, một quả pháo nổ ngay giữa đội hình cách tôi khoảng 10 mét về phía sau. Tiếng nổ vừa xong, tôi đã nghe tiếng kêu của nhiều người. Chiến sỹ đi trước tôi nằm không kịp, bị một mảnh phạt vào mông to bằng cái bát. Trời tối, tôi sờ thấy miệng vết thương quá to, phải lấy cả cái túi gạo rang ép vào mới băng được.

        Tôi cúi xuống, thấy mấy đồng chí nằm lăn ra, lấy tay xô lăn từng người chẳng thấy ai động đậy. Tôi hô anh em nhanh chóng băng bó cho các đồng chí bị thương, đề phòng pháo bắn tiếp. Lệnh cùa Tiểu đoàn, đơn vị nhanh chóng vượt qua khu vực nguy hiểm. Tiểu đoàn quyết định cử đồng chí Hội, Chính trị viên phó Đại đội cùng một số anh em dẫn số bị thương đi về ấp Tà Nôi nhờ du kích, nhân dân ra giúp đỡ, giải quyết công tác thương binh, tử sỹ.

        Địch chi bắn 2 quả pháo. Một quả vượt qua đầu. Một quả gây tổn thất rất lớn. Đặc biệt là Đại đội tôi mới được thành lập. Anh em mới gặp nhau được mấy ngày. Chiều hôm qua, cả đơn vị ăn một bữa cơm vui như hội. Tuy chẳng có thịt cá, rượu, bia gì, chỉ cỏ mẩy cây chuối non thái ra trộn với muối và một nồi canh lỏng vỏng, lơ thơ mấy cọng rau muống mà anh em hò hét ầm lên để chào mừng Hiệp định Pa ri chờ ngày chiến thắng.

        Chẳng ai biết, chỉ sau có mấy tiếng đồng hồ, bốn đồng chí đã vĩnh viễn ra đi. Tuy bị tổn thất như vậy nhưng Tiểu đoàn vẫn tiếp tục hành quân. Cả Tiểu đoàn vượt được qua sông Vàm Cỏ Đông thì tròi cũng tảng sáng. Vì thế, đơn vị hành quân ra vùng Lạch Gần để trú quân.

        Đêm 26 tháng 1 năm 1973, các đơn vị của Trung đoàn 271 hành quân chiếm lĩnh các mục tiêu theo kế hoạch để giành đất cắm cờ. Đại đội tôi được phân công vào chiếm ấp An Hòa, cắm cờ sát đồn An Định và tổ chức trận địa phục kích chống càn, để bảo vệ vùng giải phóng.

        Sáng ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pa-ri được ký kết và có hiệu lực. Có lẽ từ đêm địch ở đồn An Định đã biết chúng tôi đứng chân ở đây. Thế nhưng sáng ra cả 2 bên cùng im tiếng súng và địch cũng không nống ra. Mãi tới khoảng gần 11 giờ trưa, ngày 27 tháng 1 năm 1973, chúng tôi thấy tiếng một chiếc trực thăng HU1A, bay lượn vòng qua trận địa của Tiểu đoàn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:00:13 pm

        Chúng tôi tin là máy bay của ủy ban giám sát Quốc Tế đi kiểm tra, Tiểu đoàn thông báo phải nhìn kỹ, ký hiệu không khéo bắn nhầm máy bay của ủy ban giám sát Quốc Tế. Khi máy bay đến gần, chúng tôi nhìn lên chẳng có ký hiệu gì hết. Nó lượn đi lượn lại mấy vòng rồi bắn rốc két và đạn khói vào trận địa. Pháo từ Hậu Nghĩa cấp tập bắn lên. Sau đó địch cho bộ binh ra nhổ cờ, bị anh em chúng tôi nổ súng bắn chết mấy tên, chúng phải bỏ chạy không dám ra nhổ cờ nữa.

        Ngày 2 tháng 2 năm 1973 dương lịch, trùng với ngày 29 Tết. Tối hôm đó Đại đội tôi được điều về ấp An Thuận để phục kích, chống càn. Trận địa của chúng tôi chỉ cách đồn An Thuận khoảng 500 mét. Cả ngày 30 Tết, chúng tôi nằm bên này ấp, địch thì bên kia ấp. Cả hai bên đều im tiếng súng. Tôi ngồi trong hầm mỏi mệt quá và cũng thấy yên tĩnh.

        Khoảng 4 giờ chiều, tôi lên hầm đi lại kiểm tra bộ đội, khắp cả ấp. Quay về, tôi ngồi dưới bụi tre sát hầm đưa chiếc đồng hồ pôn jốt ra lau lại vì bị ướt mấy hôm rồi. Bỗng địch ờ phía bên kia ấp bắn một quả đạn M79 nổ ngay trên bụi tre. Tôi lao vội xuống hầm không kịp nên bị một mảnh vào mông.

        Khoảng 8 giờ tối, một bà già và mấy cô gái mang sang cho chúng tôi rất nhiều bánh trái. Bà già ôm lấy tôi và nói:

-           Tụi bay chủ quan quá, tụi bay ở đây, bọn địch nó biết hết. Từ sáng nó ra khỏi đồn, nằm khắp mấy bờ ao nhà tao. Khi mày ở bụi tre, có đến cả chục thàng ngắm súng vào mày, nó gọi tao ra xem thằng Việt cộng. Tao nói từ giờ nào tao có biết bọn Việt cộng là ai đâu. Nó nói bà nhìn cho kỹ đi.

        Cự ly từ bờ ao sang chỗ tôi không đầy 100 mét, bà già nhìn rõ khuôn mặt tôi vì tối hôm qua chúng tôi mới gặp bà. Bà tiếp:

-           Tao hoảng quá, cứ sợ nó bắn, rồi tao nói: “Việt cộng việt cách gì không biết. Tụi bay bắn nó chết, nó thụt pháo sang đây làm nhà tao cháy. Hôm nay đã 30 Tết rồi, bay để yên cho tao hương khói tổ tiên và tao làm mâm cho mà ăn. Tụi bay còn có nhà, có cửa, tụi nó ngoài bưng, ngoài biền, Tết nhất chẳng có miếng gì, bắn nó chi cho tội”, thế là tụi lính nghe tao không bắn. Trước khi ra về, nó bắn một quả lên ngọn tre để cảnh báo mày. Bà nói tao không xin cho mày thì cỏ lẽ cái đầu mày nát bét, chứ 10 đầu súng đủ loại cứ nhắm vào mày làm tao phát khiếp.

        Tôi thực sự cảm động ôm lấy má, càm ơn và nói: “Má là người thứ 2 sinh con ra”. Mấy cô gái cứ nắm tay tôi xuýt xoa, nói: “Thiếu chút nữa thì bọn em không đuợc nhìn thấy anh Ba”.

        Càng khuya bà con cô bác về càng đông, nhà nào cũng mang theo bánh trái các loại cho bộ đội. Tôi nói: “Bà con cho nhiều thế này làm sao chúng con ăn hết được” Bà con hả lời: “Ăn không hết thì chia nhau mang theo mà ăn, ba ngày Tết cơ mà”.Hơn 11 giờ đêm, tôi nhận lệnh của Trung đoàn, cho Đại đội hành quân về xã Tân Phú, về với đội hình của Tiểu đoàn 8.

        Giao thừa gần đến, bà con cô bác ấp An Thuận tiễn chúng tôi, kẻ đi người ở vào lúc chuyển giao năm cũ sang năm mới ai cũng bịn rịn. Nhiều người rơi nước mắt, nhất là các bà già và mấy cô gái.

        Sau khi có Hiệp định Pa ri, ta chù trương chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định, nhưng Mỹ và quân đội Sài Gòn đã lật lọng. Chúng cố tình phá hoại, không chấp hành. Chúng chủ trương giành đất, giành dân, tranh thủ lấn chiếm. Do vậy cuộc chiến đấu của Trung đoàn 271 trên đất Đức Hòa, Long An từ ngày 27 tháng 1 năm 1973 đến cuối tháng 3 năm 1973 là vô cùng ác liệt. Các đơn vị bị thương vong khá lớn, quân sổ bổ sung không kịp.

        Cuối tháng 3, các đơn vị được lệnh rút quân ra bưng biền, dọc sông Vàm cỏ Đông, để củng cố, sau đó lần lượt rút lên Căm Pu Chia.

        Cuối tháng 5 năm 1973, Bộ Chỉ huy miền quyết định cắt Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 271 cho tỉnh đội Long An. Trung đoàn đã điều động quân số của Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 9 bổ sung cho Tiểu đoàn 7, khung của Trung đoàn hành quân về Lộc Ninh nhận nhiệm vụ mới.

        Đây là thời điểm rất khó khăn về công tác tư tưởng và tổ chức. Hầu hết số cán bộ chiến sỹ bổ sung cho Tiểu đoàn 7 đều không an tâm, có một số cố tình không đi. Trung đoàn đã dùng nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động mãi mới ổn định được tổ chức biên chế cho Tiểu đoàn 7. Lúc này, có tin Trung đoàn hành quân về Lộc Ninh ra Bắc. Vì thế, một số cán bộ Tiểu đoàn 7 cũng không an tâm mà cho rằng Trung đoàn đem con bỏ chợ.

        Trung đoàn về Lộc Ninh được mấy ngày thì được lệnh về Bù Bông, Tuy Đức thuộc tinh Quảng Đức để nhận nhiệm vụ chiến đấu (Quảng Đức nay là Đắc Nông). Trung đoàn vừa hành quân, vừa bổ sung quân số. Các Tiểu đoàn bộ binh hành quân lên thẳng các cao điểm sát đường 14, xây dựng các trận địa chốt ngay.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:01:23 pm

        MẶT TRẬN QUẢNG ĐỨC, CHIẾN THẮNG BÙ BÔNG

        Những địa danh đồi chè Pu Brăng, ngã ba Tuy Đức, ngã ba Sân bay, ngã ba Lâm Bí, Trương Tấn Bửu, Đức An, Đức Song, Bù Bông, Đạo Trung, Kiến Đức, Gia Nghĩa gắn liền với hoạt động của Trung đoàn 271 từ đây. Vùng này, trước đây thuộc tinh Quảng Đức nay là tinh Đắc Nông.

        Đây là vùng rừng núi rộng lớn, phía bắc tiếp giáp với các tỉnh Tây Nguyên, có đường 14 chạy theo biên giới

        Việt Nam, Căm Pu Chia. Từ Đắc Lắc vào tới Nam Bộ hoàn toàn do địch kiểm soát.

        Trên đường 14, từ Tây Nguyên vào, địch xây dựng nhiều căn cứ quân sự lớn có thể chi viện cho nhau, như căn cứ Đức Lập, Núi Lửa, ngã ba Đức Song, Đạo Trung, Bù Bông, Kiến Đức, Bù Đăng... Ngoài các căn cứ lớn còn có các căn cứ nhỏ cấp Đại đội và cấp Tiểu đoàn.

        Sau khi có Hiệp định Pa ri, địch đã dùng một lực lượng lớn bung ra lấn chiếm vùng đồi chè Bu Brăng, ngã ba sân bay sát với biên giới Căm Pu Chia. Đây là vùng giải phóng của ta từ đầu năm 1972. Để ngăn chặn sự lấn chiếm của địch từ tháng 5 năm 1973, Bộ Chi huy Miền đã điều Tiểu đoàn 2 bộ binh của Quân khu C50 lên vùng này. Tiểu đoàn 2 đã đánh bật địch ra khỏi khu đồi chè.

        Sau đó Tiểu đoàn 2 Quân khu C50 được điều về đội hình Trung đoàn 271. Ngoài ra Trung đoàn còn được bổ sung thêm Tiểu đoàn 4 cùa Quân khu C40. Như vậy thời điểm này, Trung đoàn 271 có 4 Tiểu đoàn bộ binh.

        Các đơn vị đã tiêu diệt một số chốt cấp Đại đội địch trên đường 14, từ Đức Song đến ngã ba Tuy Đức như ngã ba Đức An, ngã ba Bãi Gồ. Xây dựng các trận địa chốt chặn trên đường 14, đoạn từ Đức Song về tới Tuy Đức, cô lập căn cứ Tuy Đức, Bù Bông.

        Địch đã dùng nhiều thủ đoạn, tung ra một lực lượng lớn, nhằm nhổ mấy chốt của ta nhưng không được vì thời điểm này vào mùa mưa nên hoạt động phi pháo gặp nhiều khó khăn.

        Từ đầu tháng 9 năm 1973, các đơn vị của Trung đoàn vừa chốt chặn vừa tranh thủ nghiên cứu địa hình chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô. Trung đoàn 271 được giao nhiệm vụ kết hợp với Trung đoàn đặc công 429, pháo binh, xe tăng tiêu diệt và giải phóng căn cứ Bù Bông và ngã ba Tuy Đức.

        Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ cùng với Trung đoàn đặc công 429 tiêu diệt căn cứ Bù Bông. Đặc công đánh lướt, bộ binh hỗ trợ phía sau tiêu diệt địch và tổ chức đánh địch phản kích. Phương án 2 nếu đặc công đánh không dứt điểm thì dùng các loại pháo như pháo 85, pháo 122, cối 120 bắn phá hủy diệt một số mục tiêu quan trọng. Sau đó Trung đoàn 271 cùng với xe tăng dùng bộc phá đánh mở cửa vào tiêu diệt địch.

        Bù Bông một căn cứ quân sự mạnh, có một Tiểu đoàn bộ binh địch, một trận địa pháo 105 ly, một chi đội xe tăng thiết giáp. Quân sổ khoảng trên 700 tên, bố trí trên một quả đồi trọc cao hơn đường 14 khoảng 600 mét, nằm về bên phải đường 14.

        Từ phía Bắc vào các ngọn đồi ở đây đều là đồi trọc, cỏ chỉ cao không quá 10 phân, sát căn cứ toàn sỏi đá, cỏ cũng không thể mọc được. Dưới chân đồi là rừng già. Địch bố trí đội hình tương đối rộng, chia nhỏ ra thành từng cụm, có hàng rào dây thép gai ngăn cách, có hệ thống hỏa lực, xung lực chi viện cho nhau, hầm hào hết sức kiên cố, có 7 lớp hàng rào dây thép gai, hệ thống mìn dày đặc.

        Căn cứ ngã ba Tuy Đức địch chi có một đại đội nhưng đã chốt giữ từ lâu nên có hệ thống hàng rào dây thép gai và mỉn, công sự kiên cố. Khi bị tấn công, trận địa pháo 105 ly Bù Bông chi viện, hai điểm này cách nhau khoảng 8 km.

        Chúng tôi được giao nhiệm vụ là tiêu diệt căn cứ Bù Bông, Tuy Đức bàng mọi giá. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao từ đầu tháng 10 năm 1973, các đơn vị tiếh hành đi nghiên cứu trận địa.

        Khi từ Lộc Ninh lên đồi chè, tôi được Trung đoàn điều về làm Chính trị viên Đại đội 1, Tiểu đoàn 2.

        Cuối tháng 10 năm 1973, Bộ Chỉ huy Miền thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương chiến dịch gọi là Đoàn 95 do Thiếu tướng Hoàng Cầm, Phó Tư lệnh Miền làm Tư lệnh chiến dịch. Công tác điều nghiên đến giữa tháng 11 cơ bản hoàn thành.

        Đây là chiến dịch được chuẩn bị công phu, chu đáo, tác chiến quy mô lớn, hiệp đồng binh chùng. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: 2 Trung đoàn bộ binh là 271 và 205, một Trung đoàn pháo binh phòng không và mặt đất. Một trung đoàn đặc công, một Tiểu đoàn xe tăng thiết giáp.

        Trước khi bước vào chiến dịch các đơn vị đã cử người lên gần sân bay đất Căm Pu Chia làm trại nhốt tù binh, dự kiến sẽ bắt khoảng 300 tên tập kết về đây.

        Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ có 2 Đại đội bộ binh là Đại đội 1 và Đại đội 3 bám theo đội hình đặc công. Khi đặc công nổ súng, dùng bộc phá, phá hàng rào, xông vào cùng đặc công tiêu diệt các mục tiêu trong căn cứ. Đại đội hai cùng với xe tăng tấn công từ hướng ngã ba Tuy Đức, theo đường 14 đánh lên Bù Bông.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:02:00 pm

        Lần cuối cùng vào đầu tháng 12 năm 1973, chúng tôi được họp quân chính giữa bốn đơn vị binh chủng tham gia tác chiến. Đồng chí Trung đoàn trưởng đặc công báo cáo.

        Đồng chí nói: “Trung đoàn 429 có 2 Tiểu đoàn tham gia trực tiếp đánh vào Bù Bông, tổ chức thành 7 mũi tấn công theo nhiều hướng. Hiện nay, cả 7 mũi báo cáo đã nắm chắc và được vào tận các mục tiêu được phân công, kể cả khu trung tâm thông tin và chi huy của địch”.

        Tất cả các đơn vị đều báo cáo là công tác chuẩn bị đã hoàn tất chỉ chờ ngày nổ súng. Là những người được dự họp quân chính, chúng tôi hoàn toàn yên tâm và tin tưởng sẽ giành thắng lợi.

        Thòi điểm này các đơn vị của Trung đoàn vẫn nằm trên các điểm chốt. Tiểu đoàn 9 đã được Tiểu đoàn 3 thay thế để chuẩn bị cho nhiệm vụ tấn công ngã ba Tuy Đức.

        Để chuẩn bị chiến dịch, các đơn vị đã tập kết về khá đông. Từ Tuy Đức tới Đồi Thông bộ đội trú quân dày đặc mà địch không hề hay biết.

        Đầu tháng 12 năm 1973, địch tăng cường lên ba tiểu đoàn bảo an tinh Khánh Hòa hòng tập trung lực lượng nhổ chốt của ta. Do vậy, các chốt của ta ngày nào bộ đội cũng nổ súng và chịu hàng chục đợt pháo kích và không kích của địch.

        Bộ Chi huy chiến dịch quyết định ngày nổ súng là ngày 8 tháng 12 năm 1973.

        Theo hiệp đồng, Trung đoàn đặc công 429 là lực lượng chủ yếu đánh chiếm chi khu Bù Bông, được bổ trợ 2 Đại đội bộ binh của Trung đoàn 271 đánh phía sau và chốt giữ các mục tiêu đã chiếm được, đánh trả địch phản kích.

        Khi Bù Bông nổ súng thì ở ngã ba Tuy Đức, Đại đội công binh của Trung đoàn mở cửa, Tiểu đoàn 9 nhanh chóng tấn công tiêu diệt và làm chủ ngã ba Tuy Đức, tạo điều kiện cho một đại đội của Tiểu đoàn 2 cùng xe tăng tấn công theo đường 14 lên chi viện cho các đơn vị tấn công Bù Bông.

        Trung đoàn 205 phục kích, đánh địch phản kích từ chi khu Kiến Đức lên, sằn sàng tấn công giải phóng Kiến Đức và đánh địch tháo chạy từ Bù Bông về Kiến Đức. 2 Tiểu đoàn pháo mặt đất, sẵn sàng chi viện cho bộ binh trong mọi tình huống. Lần đầu tiên ở Đông Nam Bộ, có 1 Tiểu đoàn pháo phòng không 37 ly tham gia chiến dịch, cùng với 12,7 ly kiên quyết khống chế bầu trời để các đơn vị bộ binh, đặc công hoàn thành nhiệm vụ.

        Quân địch ở 2 căn cứ này có khoảng 800 tên, bao gồm nhiều sắc lính và quân binh chùng. Đầu tháng 12 địch đã tăng cường lên đây khoảng 3 tiểu đoàn bảo an Khánh Hòa, nâng số quân địch lên gần 2.000 tên. Tuy lực lượng địch được tăng cường nhưng quyết tâm của trên vẫn không thay đổi và cho rằng đây là cơ hội để ta tiêu diệt nhiều địch hơn.

        Sáng ngày 7 tháng 12, các đơn vị hành quân chiếm lĩnh trận địa theo nhiệm vụ được phân công. Hôm đó, trời không mưa nhưng gió rất to và lạnh. Bộ đội hành quân mang vác nặng, mồ hôi ướt hết quần áo nhưng mỗi khi nghỉ, trời lạnh quá nên hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập.

        Hơn 7 giờ tối, mũi của chúng tôi đến vị trí chiếm lĩnh, chi cách hàng rào thứ nhất của địch vài trăm mét. Bộ đội đào hầm dã chiến, chờ tấn công. Anh em đặc công chi có quần xả lỏn, mình bôi đầy nhọ, đầu đội mũ cỏ, bắt đầu hành quân tiền nhập.

        Theo hiệp đồng, 3 giờ sáng ngày 8 tháng 12, đặc công sẵn sàng nổ súng tấn công. Một đêm đầy căng thẳng, chúng tôi căng mắt chờ. Tôi nghĩ miên man, không hiểu đặc công có vào được không? Thỉnh thoảng tôi lại điện về Trung đoàn hỏi tình hình thế nào, gần 3 giờ sáng rồi mà chưa thấy gì hết. Trung đoàn trả lời yên tâm chờ.

        Một tình huống bất ngờ xảy ra.

        Khoảng 9 giờ tối ngày 7 tháng 12, khi đặc công đã triển khai tiền nhập vào các mục tiêu, một chiến sỹ thông tin Trung đoàn đi sửa dây đoạn từ Trung đoàn xuống chốt Tiểu đoàn 3 gần ngã ba Tuy Đức bị địch bắt sống. Bọn địch luồn ra phía sau chốt của ta lần gặp đường dây điện thoại, chúng cắt đứt và phục sẵn. Anh em thông tin thấy đứt dây đi sủa bị chúng tóm gọn.

        Địch đưa chiến sỹ thông tin về ngã ba Tuy Đức tra khảo, đánh đập dã man nhưng chiến sỹ này không khai. Anh nói thấy dây đứt thì tôi đi sửa vì cái chốt này đã có cách đây vài tháng.

        Chiến sỹ thông tin bị bắt, Đại đội 20 và chốt Tiểu đoàn 3 không biết nhưng máy kỹ thuật của Trung đoàn, Đoàn 95 thì bắt được tin này.

        Tư lệnh chiến dịch hết sức lo lắng. Đồng chí bị bắt mà khai thì kế hoạch lộ hết. Trong khi đó đặc công các mũi các hướng đã tiền nhập được mấy tiếng đồng hồ rồi. Tất cả đều đang nằm trong các lớp hàng rào của địch. Nếu lộ, xương máu đổ ra không sao tính được, trận đánh sẽ gặp muôn vàn khó khăn.

        Qua kiểm tra, biết được tinh thần dũng cảm của chiến sỹ thông tin, trận đánh diễn ra đúng kế hoạch.

        Kết thúc trận đánh 3 ngày, bọn địch ở ngã ba Tuy Đức bắt chiến sỹ thông tin dẫn đường đưa chúng chạy trốn. Chiến sỹ này đã dẫn địch vào một đơn vị bộ binh của ta. Bọn địch đã bị tiêu diệt và bắt sống hết. Chiến sỹ thông tin kể lại: “Tuy bị địch bắt, tra tấn, đánh đập nhưng tôi không khai vì tôi biết chi còn mấy tiếng đồng hồ nữa là ta nổ súng. Địch nhất định bị tiêu diệt, tôi sẽ tìm cách trốn thoát”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:02:23 pm

        Khoảng 4 giờ sáng, Trung đoàn ra lệnh cho chúng tôi cho dịch đội hình lên sát với hàng rào địch, sẵn sàng chờ lệnh.

        Bộ đội triển khai đội hình tấn công, tôi bò đi nhắc nhở bộ phận mờ cửa. Khi đặc công nổ súng thì nhanh chóng lên đánh bộc phá sào liên tiếp, phá được hàng rào, bộ đội bám theo đánh thẳng vào trung tâm, bắt liên lạc với đặc công.

        Từ tối bộ đội nằm trong rừng có hầm trú ẩn nay phải phơi ra giữa đồi trọc, cỏ chỉ cao không quá 10 phân. Đất toàn sỏi không thể đào được hầm, sợ lộ, bộ đội phải nằm sấp sát dưới mặt đất, lạnh như cắt da. Căng thẳng quá, tôi chi sợ bộ đội chịu không nổi, có ai đó ho một tiếng thì lộ hết.

        Tôi cùng 2 chiến sỹ thông tin nằm sát đất không thể đi lại được nữa. Tôi liên tục xem đồng hồ. Bộ đội nằm phơi ra hơn 30 phút rồi.

        4h45 phút, bộc phá lệnh nổ. Đêm khuya thanh vắng, tiếng nổ to như tiếng bom. Những tiếng nổ vang rền cả trận địa. Lửa khói, mìn sáng làm trận địa bừng sáng. Anh em xông lên đánh bộc phá sào liên tiếp 7 quả, các lớp hàng rào được phá toang.

        Bộ đội lao vào trung tâm cùng với đặc công tiêu diệt từ hầm này sang hầm khác. Mờ sáng, toàn bộ chi khu Bù Bông đã bị tiêu diệt.

        Sáng ra, anh em đặc công thu dọn chiến trường, làm công tác chính sách và rút ra Toàn bộ Tiểu đoàn 2 vào chốt giữ căn cứ.

        Theo hiệp đồng, ở ngã 3 Tuy Đức, khi đặc công tấn công Bù Bông thì Đại đội công binh đánh mìn và bộc phá mở cửa, Tiểu đoàn 9 nhanh chóng tấn công tiêu diệt địch và chốt giữ để một Đại đội bộ binh, một Đại đội xe tăng T59 tấn công theo đường 14 lên chi viện cho các đơn vị ở Bù Bông.

        Đường xa, xe tăng phải chạy hơn 1 giờ mới tới Bù Bông. Khi xe tăng tới, toàn bộ căn cứ Bù Bông đã bị tiêu diệt và chúng tôi đang chốt giữ.

        Căn cứ Bù Bông, địch triển khai rộng, có 3 điểm chốt xung quanh. Ta tấn công tiêu diệt khu trung tâm, buộc địch ở các chốt xung quanh phải bò chạy. Trung đoàn 205 làm nhiệm vụ chốt chặn đón lõng địch bỏ chạy về Kiến Đức và đánh đich phản kích từ Kiến Đức lên.

        Địch có trận địa pháo và xe tăng ở đồi Yên Ngựa phía sau, cách Bù Bông một thung lũng chừng 800 mét. Xe tăng ta lên căn cứ Bù Bông đang triền khai đội hình để tấn công sang thì địch đã hạ nòng pháo bắn thẳng làm cháy một chiếc. Sau đó, một đơn vị bộ binh của Trung đoàn 205 kết hợp xe tăng tấn công tiêu diệt, thu 3 khẩu pháo 1051y và 6 xe tăng.

        Chiến thắng Bù Bông, bộ đội đặc công đã làm nên một kỳ tích. Nếu tác chiến theo kiểu hỏa lực kết hợp bộ binh thì thương vong sẽ rất lớn. Ta chỉ đánh vào trung tâm chi khu Bù Bông và ngã ba Tuy Đức. Nhưng quân địch từ ngã ba Tuy Đức đến Kiến Đức trên tuyến đường 14 dài khoảng hơn 50 km đã bị tan rã hoàn toàn.

        Khi căn cứ Tuy Đức và Bù Bông bị ta tiêu diệt, địch ở ngoài các căn cứ này còn có hàng ngàn tên (Trong đó có 6 tiểu đoàn lính bảo an từ Khánh Hòa mới điều lên). Tất cả đều như ong vỡ tổ, tìm đường chạy về Kiến Đức và bị Trung đoàn 205 khóa chặt. Đường về ngã ba Đức Song bị Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 271 chốt chặn.

        Địch hoảng loạn, cắt rừng chạy về lộ 8B để về Gia Nghĩa. Trung đoàn ra lệnh cho Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 9 tổ chức truy kích, lùng sục bắt tù binh. Có thể nói một chiến dịch bắt tù binh chưa từng thấy.

        Địch chia nhỏ ra thành từng Đại đội để mạnh ai nấy chạy. Những tên lính đồng bằng lên rừng rậm, địa hình hiểm trở và phức tạp nên hầu hết bị bắt sống. Một số chạy ra đường 14, gặp bộ đội ta xin đầu hàng tránh bị chết đói. Có những toán lính lạc bảy, tám ngày trong rừng, bị ốm, bị đói, mới gặp được quân ta cứu sống.

        Các đơn vị trực thuộc của Trung đoàn thay nhau giải tù binh về tuyến sau không kịp. Chi trong mấy ngày, toàn chiến dịch đã bắt sống hơn 600 tù binh, trong khi ta dự kiến chỉ bắt 300 tên.

        Từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 12 năm 1973, khu vực từ Đức Song đến Kiến Đức ta làm chủ hoàn toàn. Địch phản ứng yếu ớt, tất cả các đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiểu đoàn 2 bắt sống hơn 100 tên. Riêng đại đội tôi đã bắt 40 tên.

        Nơi ăn ở của tù binh vượt quá dự kiến nên gặp nhiều khó khăn. Bọn lính đưa lên đây thả tự do làm lấy lán trại để ở và không có một tên nào dám trốn trại vì toàn rừng núi, sảy ra là lạc đường và chết đói.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:03:29 pm
       
       CHỐT CHẶN LỘ 14, BẢO VỆ HÀNH LANG CHIẾN LƯỢC

        Từ ngày 20 tháng 12 năm 1973, địch dùng một lực lượng lớn bao gồm Sư đoàn 23 ngụy và hơn 10 Tiểu đoàn lính bảo an, tổ chức phản kích quyết liệt nhằm chiếm lại vùng đất mà ta mới giải phóng. Vào thời điểm nay, Trung đoàn được bổ sung hơn 200 cán bộ chiến sĩ đa số là kỹ sư, công nhân kỹ thuật và sinh viên các trường Đại học ờ Hà Nội (Đại học Bách khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Kinh tế Kế hoạch...).

        Ở hướng Kiến Đức do Trung đoàn 205 đảm nhiệm địch đã phản kích và chiếm lại chi khu Kiến Đức. Trung đoàn 271 đảm nhiệm từ ngã ba Tuy Đức đến Núi lừa, Đức Song, cao điểm 943, Lâm Bí, Đức An địch đã dùng hàng trăm phi vụ ném bơn và bắn hàng ngàn quả pháo các loại, kết hợp Sư đoàn bộ binh 23 tổ chức tấn công liên tiếp cả ngày lẫn đêm.

        Các đơn vị của các Trung đoàn đã chiến đấu vô cùng khó khăn, ác liệt. Binh lực, hỏa lực địch mạnh hơn và đông hơn ta nhiều lần. Có một số chốt như chốt điểm cao 943 của Đại đội công binh, anh em phải mở đường máu mới rút ra được an toàn.

        Một số chốt của Tiểu đoàn 3 bị thương vong khá lớn. Tiểu đoàn 2 của chúng tôi giữ các điểm chốt từ Đức Song về tới Đức An trên đường 14 và một số điểm cao phía tây đường 14. Đại đội tôi có ngày bị địch đánh từ bảy, tám giờ sáng đến chín mười giờ đêm. Nuôi quân không thể đem cơm lên được.

        Anh em chúng tôi chiến đấu liên tục, thay nhau đào sâu thêm công sự. Cứ qua một đợt bom pháo là bộ binh địch lại tấn công lên. Chúng tôi lại đánh bật chúng xuống. Ngày nào cũng có bộ đội thương vong, chủ yếu do bom pháo đánh sập hầm. Tiểu đoàn 2 có ưu thế hơn các Tiểu đoàn khác là có máy kỹ thuật.

        Đồng chí Dũng trung đội trưởng thông tin quê ở Bình Dương rất giỏi bắt máy kỹ thuật. Mỗi khi địch dừng bom pháo để cho bộ binh triển khai tấn công vào ở hướng nào, lực lượng bao nhiêu, Tiểu đoàn đều biết trước và thông báo để các Đại đội bung lực lượng ra trước chốt khoảng ba, bốn trăm mét phục sẵn. Vì cự ly này địch rất chủ quan. Với chiến thuật này có nhiều mũi tiến công của địch đã bị chúng tôi diệt gọn khi chưa kịp triển khai lực lượng.

        Ở những hướng trống trải, không cho bộ binh ra phục được thì chúng tôi gọi cả pháo cối cấp trên và cối 60 của Đại đội bắn tiêu diệt. Do vậy các chốt của Tiểu đoàn 2 đứng vững được hàng tháng trời, tiêu diệt và làm tan rã hàng Tiểu đoàn quân địch.

        Đại đội tôi chốt ở ngã ba Lâm Bí, địch phản kích hàng chục ngày vẫn không lấy được chốt. Chúng tôi đã diệt được hàng chục tên. Đại đội tôi chốt ở đây, ngoài hỏa lực của Tiểu đoàn chi viện còn có một trận địa pháo 85 nòng dài của Đoàn 95, trực tiếp chi viện để bảo vệ trận địa.

        Anh Căn quê ở xóm 9 cùng xã với tôi làm Chính trị viên và anh Dương quê Đô Lương làm Tiểu đoàn trưởng pháo binh. Chúng tôi có máy thông tin liên lạc với nhau bằng đường dây và cả 2W. Im tiếng súng tôi và anh Căn lại tâm sự chuyện quê hương vì anh Căn mới ở ngoài Bắc vào.

        Mỗi khi bộ đội chuẩn bị ăn cơm, tôi lại gọi anh Căn bắn cho mấy quả pháo phía trước trận địa để địch dạt ra cho bộ đội yên tâm ăn. Sau khi chốt của Đại đội 2, Tiểu đoàn 9 gặp khó khăn, quân số bị thương vong nhiều, Trung đoàn điều Đại đội tôi lên thay thế. Chốt nằm ở ngã ba Đức An án ngữ đường 14 trên một quả đồi trọc, phía dưới là rừng rậm. Đại đội tôi chốt ở đây được 12 ngày. Ngày nào cũng nổ súng đánh địch phản kích và chịu đựng hàng chục đợt pháo.

        Trận địa rộng chừng 800m2 chi có 17 tay súng. Hầm của anh em Đại đội 2, Tiểu đoàn 9 để lại, hầm kèo dài sâu và chắc, pháo, bom phát quang nổ ngay trên hầm vẫn không sập.

        Mờ sáng ngày thứ 12, tôi đi kiểm tra và nhắc bộ đội dậy thay nhau gác thì Tiểu đoàn thông báo địch chuẩn bị tấn công vào. Tôi vừa về tới hầm chi huy thì tiếng súng của anh em đã rộ lên cả trận địa. Tôi gọi Tuấn cối 60 bắn cấp tập vào đội hình địch. Tôi cầm máy gọi và đề nghị Tiểu đoàn cho pháo cối bắn chi viện. Cả trận địa đất cát mù mịt, đạn thẳng của địch bay vù vù trước cửa hầm. Đạn cối địch nổ ngay trên hầm, tiếng súng ta và địch kéo dài khoảng chục phút rồi im bặt. Địch lùi ra.

        Tôi và Móng liên lạc đi từng hầm kiểm tra. Bộ đội tất cả đều an toàn. Tôi mừng quá. Trung đội trưởng Thành nói: “Đại đội vừa tới nhắc. Chúng tôi mắt nhắm, mắt mở thò đầu ra cửa hầm thì thấy hàng trăm tên địch đang bò lúc nhúc trước mặt. Tôi vội tống một quả B40 thế là tất cả nổ súng”. Với sức phản kích của ta, lại có pháo cối chi viện, địch nằm giữa bãi trống bị thương vong nhiều, chúng hò nhau tháo chạy.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:04:26 pm

        Tôi đi nhắc bộ đội: “Địch có ý định thay đổi chiến thuật đánh úp ta từ sáng nhưng đã thất bại. Ngày hôm nay, chúng không cho ta yên đâu, sẵn sàng mà chịu đựng”. Bộ binh địch lùi ra, pháo từ Núi Lửa bắn hàng trăm quả, sau đó mấy tốp máy bay thay nhau thả bom vào trận địa.

        Vì không bị bắn, nên máy bay địch bay rất thấp cắt bom. Máy bay AD6 cắt từng quả bom nên chúng đánh dai như đìa đói. Tôi ngồi ở cửa hầm theo dõi máy bay cắt bom. Mỗi lần bom nổ tôi chỉ cần cúi đầu vào hầm là an toàn. Bỗng tôi thấy một quả bom ừòn xoe lao thẳng xuống, tôi liền thụt đầu vào hầm. Quả bom nổ ngay trên nóc hầm. Đất cát, khói bom phả vào hầm khét lẹt. Đất trên nắp hầm bay gần hết, trơ ra toàn những thanh gỗ trông sáng choang. Tôi, Móng và 2 chiến sỹ thông tin nhìn nhau. Tôi nói: “Mình thấy quả bom tròn xoe nó lao thẳng vào mặt, mình nghĩ ngay mấy anh em ta sẽ rửa chân lên bàn thờ rồi, không ngờ an toàn cả”.

        Khói bụi chưa tan, anh em trong Đại đội biết bom nổ trúng hầm chỉ huy. Hoàng Đại Tuấn bò sang đầu tiên hỏi: “Các anh có bị gì không?” Tôi nói: “Không bị chi, hầm bay mất nắp thôi” thế rồi Trung đội trưởng Chủng, Thành, lần lượt tới ai cũng nói tụi em chắc Đại đội tiêu hết rồi.

        Vì ưên đồi trọc trống trải quá, không khắc phục được, tôi nói: “Thôi phân ra xuống các hầm của anh em để chiến đấu địch nó vào ngay bây giờ đấy”.

        Sau khi dùng pháo, bom đánh hủy diệt, địch tưởng lực lượng của chúng tôi đã mất sức chiến đấu. Chúng cho một Đại đội cắt rừng, luồn ra phía sau để đánh úp lên. Thấy đường dây thông tin, địch cắt dây và triển khai tấn công thì gặp anh em chiến sỹ thông tin của Tiểu đoàn đi chữa dây. Hai bên đã nổ súng, nên chúng tôi mới biết có lực lượng địch ở phía sau. Tôi vội bò xuống nói với Trung đội trường Thành: “Điều 2 chiến sỹ có 1 khẩu B41 lên ngay hầm Đại đội để đánh địch tấn công từ phía sau và cho cối 60 sẵn sàng bắn chi viện”. Tôi vừa điều chinh xong đội hình thì địch tấn công. Địa hình trống trải, chúng tôi nhìn rõ địch dàn hàng ngang đánh vào hầm chi huy. Anh em để địch vào thật gần mới đồng loạt nổ súng. Địch bị đánh bất ngờ hàng chục tên phơi xác trên trận địa, số bị thương la hét om sòm để đồng bọn lên kéo về.

        Cối 82 của Tiểu đoàn bắn hàng chục quả vào đội hình rút chạy của địch. Thủ đoạn tập hậu của địch bị thất bại. Chúng cho pháo, máy bay lên đánh bom vào trận địa và cho 4 chiếc trực thăng HU1A lên chở xác, lính bị thương về. Địch tiếp tục gọi pháo bắn cả tiếng đồng hồ vào trận địa.

        Cả quả đồi đất đá bị đào bới, khói thuốc khét lẹt, có lẽ không có một ngọn cỏ nào được sống nguyên vẹn. Hết đợt pháo, tôi bò đi kiểm tra trận địa và động viên bộ đội sẵn sàng chiến đấu. Bom pháo cày xới như vậy, cả Đại đội chi có 12 cái hầm thu gọn trên một ngọn đồi khoảng 800m2 mà không có hầm nào bị sập.

        Kể cũng lạ thật, hố bom pháo chồng lên nhau mà cứ tránh hầm ra, cả Đại đội vẫn an toàn và giữ vững trận địa.

        Đã gần 2 tháng các đơn vị của Trung đoàn dàn quân ra chốt giữ trên đường 14 đã đánh bại gần 20 Tiểu đoàn bộ binh của địch có phi pháo yểm trợ. Nhiều trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, bị địch bao vây cô lập, bộ đội phải nhịn đói, nhịn khát mấy ngày rồi phải mở đường máu mới rút ra được.

        Khoảng cuối tháng 4 năm 1974, địch thay đổi chiến thuật. Một lực lượng biệt động quân luồn sâu đánh vào hậu phương ta, cắt đứt đường tiếp tế, đánh vào trận địa pháo và Trung đoàn bộ.

        Nắm được ý đồ của địch, Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 2 bí mật rút khỏi các chốt đi vòng lên hướng sân bay trên đất Căm Pu Chia. Sau đó hành quân về bắc Tuy Đức tổ chức trận địa phục kích. Suốt một ngày đêm hành quân, chúng tôi vừa về tới khu vực gần Trung đoàn bộ. Trung đoàn thông báo có một Tiểu đoàn địch đã luồn sâu, vượt qua chốt của các Tiểu đoàn đánh thẳng vào trận địa 37 ly. Vì anh em pháo binh rút quân không kịp bị địch bịt đường. Anh em pháo 37 phải hạ nòng để bắn bộ binh và hiện nay địch có ý định đánh thẳng vào Trung đoàn bộ.

        Nhận lệnh của xong, Tiểu đoàn giao nhiệm vụ cho Đại đội tôi và Đại đội 3 tổ chức bám địch, thấy địch là tấn công ngay. Lúc này, địch cho ràng các Tiểu đoàn bộ binh của ta đang ở phía trước, phía sau toàn lính binh chủng và lính cơ quan khiến cho quân địch chủ quan.

        Nhận lệnh xong, chúng tôi vội trao đổi trong Ban Chi huy rồi phân công mỗi người xuống một Trung đội để chi huy đánh “tao ngộ chiến”. Theo đài kỹ thuật của ta, địch có 2 Đại đội, chia thành 2 mũi đánh chiếm trận địa pháo 37 và một Đại đội luồn sâu đánh vào trận địa pháo 85 nòng dài.

        Tiểu đoàn giao nhiệm vụ Đại đội tôi và Đại đội 3 đánh quân địch bảo vệ trận địa pháo 37. Đại đội 2 và Đại đội 4 phục kích quân địch luồn sâu đánh trận địa pháo 85.

        Rừng rậm, nhiều khe suối, chúng tôi vừa đi, vừa bám địch. Theo chỉ đạo của Tiểu đoàn chúng tôi đã đến đúng điểm địch đang triểu khai đội hình để tấn công vào trận địa pháo 37.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Một, 2017, 10:04:54 pm

        Chúng tôi phát hiện địch đứa đứng, đứa ngồi dày đặc dọc trong suối cạn, phía bên kia đồi là trận địa pháo của ta. Chúng tôi ở phía trên chỉ cách địch khoảng 40 mét mà chúng không hề hay biết. Tôi báo cáo tình hình và đề nghị Tiểu đoàn thông báo cho anh em pháo binh biết địch đã ở phía sau để phối hợp với chúng tôi trong chiến đấu. Tôi cũng đề nghị cho chúng tôi tấn công ngay vì địch đang mất cảnh giác. Tiểu đoàn nhất trí. Trong khi đó đại đội 3 chưa phát hiện được địch.

        Tôi hội ý Ban Chi huy và phân công mỗi người xuống một Trung đội. Chúng tôi chia thành 3 mũi. Ta ở trên cao địch ở dưới suối, ta có hoả lực mạnh địch mất cảnh giác. Tôi nhắc đi nhắc lại tuyệt đối giữ bí mật tiếp cận thật gần, ưu tiên Trung đội đồng chí Thành nổ súng trước, tất cả phải khẩn trương chậm nhất 10 phút nữa là nổ súng.

        Vì địch quá đông chúng tôi chỉ có mười mấy tay súng nên thống nhất phương án là dùng hỏa lực, lựu đạn đứng trên triền đồi tấn công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, chứ không xung phong ra để làm chủ trận địa, bắt tù binh, thu vũ khí.

        Địch chi cách chúng tôi khoảng vài chục mét. Trời mưa lác đác, có một số tên trùm áo mưa kín cả đầu. Chúng triển khai đội hình khá dài, dọc theo bờ suối để tấn công lên trận địa pháo của ta. Tôi nói với Đại đội trưởng Dũng: “Trời mưa tốt quá, ta nổ súng ngay thôi”, Dũng cũng nói: “Cho đánh ngay”. Các loại hỏa lực B40, B41, AK, thù pháo tới tấp bắn xối xả vào quân địch. Cuộc chiến đấu chỉ diễn ra khoảng 5 phút. Địch bị tấn công bất ngờ, lại bất lợi về địa hình nên chổng cự yếu ớt. Do lực lượng quá ít nên chúng tôi cho bộ đội rút về phía sau. Chúng tôi chạy được hàng trăm mét, địch mới hoàn hồn cho cối 61 và M79 bắn đuổi theo.

        Sau trận đánh, Tiểu đoàn thông báo 2 Đại đội địch bị các đồng chí đánh thiệt hại nặng đang giải quyết hậu quả đưa thương binh từ sỹ về phía sau từ bỏ ý đồ đánh chiếm trận địa pháo 37. Tiểu đoàn đã lệnh cho Đại đội 3 quay về phục kích đánh địch rút chạy. Địch lợi dụng suối cạn để lui quân không ngờ gặp trận địa phục kích của Đại đội 3. Đại đội 3 đã nổ súng tẩn công tiêu diệt thêm mấy chục tên nữa.

        Hai đại đội địch tan tác, đứa nào khỏe thì liều mạng chạy về ngã ba Bãi gỗ đường 14 để thoát thân. Ở hướng Đại đội 2 và Đại đội 4, bộ đội phục kích ngay trước trận địa pháo 85 khoảng 2 km, đánh địch tấn công vào trận địa pháo và Trung đoàn bộ.

        Trận mai phục đã thắng lợi lớn, một Đại đội địch bị tiêu diệt gần hết, bỏ lại hàng chục xác chết và bị thương. Bộ đội làm chủ trận địa, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Một Tiểu đoàn biệt động quân luồn ra phía sau đã bị Tiểu đoàn 2 xóa sổ.

        Trong trận này, Đại đội tôi, trung đội trưởng Tỵ hi sinh. Đại đội 2 có chiến sĩ Nguyễn Văn Tâm (sinh viên năm thứ 2 khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) hi sinh và chiến sỹ Quý bị thương nặng.

        Địch dùng máy bay kêu gọi tụi lính lên các đồi cao giật lựu đạn khói hoặc đốt khói sẽ có trực thăng đến cứu. Con bài cuối cùng trong âm mưu tái chiếm của địch đã thất bại.

        Trong chiến dịch tái chiếm, địch sử dụng Sư đoàn 23 cộng với hơn 10 tiểu đoàn biệt động quân, địa phương quân, quân số lúc cao nhất lên đến 20 Tiểu đoàn, có trận địa pháo ở Núi Lửa với hàng chục khẩu và hàng trăm phi vụ không kích chi viện đã bị thất bại.

        Vùng này mùa mưa đến sớm, địch lần lượt rút quân, các chốt của ta đỡ căng thẳng hơn. Những ngày Trung đoàn làm nhiệm vụ ở đây, ngoài việc chiến đấu cam go, ác liệt, bộ đội còn phải chịu đựng muôn vàn khó khăn thiếu thốn, nhất là lương thực, thực phẩm. Gạo không có mà ăn, thực phẩm chủ yếu là mắm tôm và cá khô.

        Vùng này không có rau, bộ đội chủ yếu ăn lá bép. Lá bép là một loại lá cây rừng nấu canh ngon ngọt không cần bỏ mì chính, nhưng nấu nhiều ăn sẽ bị say đau đầu nôn mửa. Bộ đội đói quá phải thay nhau người giữ chốt, người đi đào củ mài. Có Đại đội anh em đào mỗi ngày được vài ba yến, có hố sâu đến hai, ba mét. Tôi và Móng liên lạc đêm nào không có địch hay được thay chốt là 2 anh em bấm đèn pin xuống suối đi chém cá. Gặp con gì cũng lấy, cá, ốc, cua, chuột đều bắt hết.

        Vì thiếu đói quá nên con gì cũng thấy ngon. Ngoài ra bộ đội còn vào rừng tìm quả chôm chôm, quả bứa, quả gùi ăn cho đỡ đói. Cũng do đi tìm cái ăn mà đã xảy ra một sổ cái chết thương tâm.

        Đại đội thu dung có một chiến sỹ ban đêm dùng đèn pin đi săn thú, bắn trúng con hổ làm hổ bị thương bỏ chạy. Anh em không biết tưởng con nai, sáng ra rù nhau đi tìm. Con hổ bị thương nhảy ra tấn công làm một chiến sỹ tử vong.

        Đại đội 21 trinh sát, Đại đội trường và liên lạc đêm đội đèn pin đi săn. Mới ra bắn được một con cheo, liên lạc cầm xách theo, về khuya đi mãi không bắn được con gì, đến một đồi trọc Đại đội trường bảo liên lạc đứng đợi, mình đi một vòng quay lại đây rồi về.

        Đại đội trưởng đội đèn trên đầu đi vòng quả đồi mất phương hướng đến gần chỗ chiến sỹ liên lạc đứng vẫn không biết. Con cheo chiến sỹ liên lạc cầm tuy nó chết nhưng mắt nó vẫn bắt đèn. Đại đội trường tưởng con thú mới nên dương súng bắn làm chiến sỹ liên lạc gãy tay may mà không chết.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:12:00 pm

        CÁC TRẬN ĐÁNH TRÊN LỘ 8B

        Cuối tháng 6, các đơn vị của Trung đoàn thay nhau chốt vì địch ít hoạt động, riêng Tiểu đoàn 2 được điều về phía Đông Bù Bông để huấn luyện và làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu của Trung đoàn.

        Đầu tháng 8 năm 1974, Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 2 đi điều nghiên trận địa trên lộ 8B (đoạn từ Đạo Trung đi Gia Nghĩa); Tổ chức một số trận địa phục kích tiêu diệt một bộ phận quân địch hàng ngày triển khai bảo vệ hành lang này.

        Từ sau tháng 12 năm 1973, đoạn đường 14 từ Đức Song đến Kiến Đức ta làm chủ hoàn toàn, do vậy việc đi lại, địch chi dựa vào con đường 8B. Đường 8B trở thành huyết mạch sống còn của địch.

        Căn cứ Đạo Trung trở thành vị trí hết sức quan trọng. Vì nó nằm giữa cung đường, địch tăng cường một trận địa pháo 105 ly để có thể chi viện cho các đơn vị đi tuần tiễu các chốt bảo vệ hành lang của chúng.

        Từ Bù Bông cắt về đường 8B khá xa. Rừng núi điệp trùng, bộ đội phải đi một ngày mới tới. Tiểu đoàn cử nhiều đoàn cán bộ, trinh sát, điều nghiên bám nắm địch và tổ chức đặt đài quan sát để theo dõi cả ngày lẫn đêm, nắm cho được quy luật hoạt động của địch. Tuy vậy chỉ phát hiện được từng tốp lính khi đi bộ, khi có xe chở đi tuần tiễu. Thỉnh thoảng mới có một xe quân sự chờ hàng. Nói chung địch hoạt động không có quy luật.

        Địa hình phức tạp nên tổ chức trận địa mai phục cũng gặp nhiều khó khăn. Trong khi ta đang tìm chỗ phục, thì bất ngờ từ đài quan sát anh em phát hiện có một đại đội địch được mấy chiếc xe GMC chở đến. Sau đó, chúng hành quân lên một quả đồi trọc sát mép đường, đào hầm, xây dựng trận địa chốt để bảo vệ hành lang.

        Địch đóng quân trên một quả đồi lớn cách đường 8B khoảng hơn 50 mét. Đồi không có cây cao, chi có cỏ cao khoảng vài chục phân, lác đác vài bụi cỏ tranh cao quá đầu gối và tiếp giáp với một rẫy non, dân bỏ canh tác đã lâu. Cách đó vài trăm mét là tiếp giáp với rừng già.

        Anh em trinh sát báo về Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chỉ thị cho trinh sát phải theo dõi nắm địch thật chắc để Tiểu đoàn cử cán bộ vào điều nghiên ngay.

        Sau khi tổ chức đi điều nghiên về, chúng tôi thấy mục tiêu có nhiều thuận lợi. Từ Bù Bông đến mục tiêu toàn rừng già kín đáo. Hướng đánh cùa ta từ trên cao xuống. Địch mới tới, hầm hào, vật cản còn đơn giản. Nếu bị ta tấn công, địch chỉ có máy bay và pháo binh ở Đạo Trung mới có thể chi viện được. Cái khó là gần chỗ địch chốt, đồi trọc khó tiếp cận có thể địch cài nhiều mìn.

        Sau khi nắm chắc tình hình địch, Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 2 khẩn trương chuẩn bị tấn công tiêu diệt quân địch ở chốt này.

        Theo hiệp đồng, Trung đoàn sẽ cho lực lượng công binh chốt chặn đánh địch phản kích từ Đạo Trung lên và Đại đội cối 82 bắn kiềm chế trận địa pháo 105 của địch ở Đạo Trung để Tiểu đoàn 2 yên tâm đánh vào mục tiêu.

        Càn cứ vào chốt của địch, Tiểu đoàn giao nhiệm vụ cho các Đại đội như sau:

        Đại đội 3 đánh trên hướng chủ yếu từ trên đỉnh đồi xuống.

        Đại đội 1 đánh hướng bên trái, từ sườn đồi vào. Có Trung đội đánh cặp theo đường 8B từ dưới đánh lên.

        Đại đội 4 làm nhiệm vụ chốt chặn đánh địch phản kích từ Gia Nghĩa lên và đánh địch rút chạy khi bị tấn công.

        Đại đội 2 làm lực lượng dự bị. Sở Chi huy Tiểu đoàn đặt sau Đại đội 1 vài trăm mét. Mọi công tác chuẩn bị phải khẩn trương vì để lâu sợ lộ kế hoạch và địch xây dựng trận địa kiên cổ thì tấn công sẽ gặp khó khăn.

        Sáng ngày 17 tháng 9 năm 1974, Tiểu đoàn 2 và các đơn vị tham gia chiến đấu hành quân chiếm lĩnh trận địa.

        Chúng tôi đi từ lúc 6 giờ mà mãi 20 giờ mới tới vị tri tập kết. Từ đây tới chốt của địch khoảng hơn một ngàn mét.

        Địch ở phía bên kia dốc. Khoảng 23 giờ các đơn vị cho bộ đội vào vị trí tiền nhập và chiếm lĩnh trận địa. Cách đánh của ta là đánh mật tập, dùng hỏa lực đi cùng bộ binh mở cửa, rồi tiến công tiêu diệt. Để khắc phục mìn, mỗi đại đội chuẩn bị 2 giàn ĐH10. Mỗi giàn 3 quả làm thành giá, đặt giàn trước cách giàn sau khoảng 20 mét. Khi mìn định hướng nổ sẽ quét sạch toàn bộ mìn và dây thép gai để bộ đội tấn công. Khoảng hơn 1 giờ sáng ngày 18 tháng 9, đơn vị tôi đã vào đúng vị trí.

        Chúng tôi phân công, tôi và Dũng, Đại đội trưởng đi với 2 Trung đội tác chiến trên hướng chính. Chính trị viên phó Chính đi với Trung đội đồng chí Chủng đánh cặp đường 8B lên. Bộ đội tiền nhập hết đoạn rừng già tiếp giáp với đồi trọc, cách mục tiêu khoảng hơn trăm mét, bí mật dùng xẻng đào công sự để nằm. Bộ đội vừa nằm nghiêng, vừa đào công sự. Mỗi người cũng chi khoét được một cái hố vừa nằm lọt lưng chứ không dám đào vì sợ lộ.

        Bộ phận đặt ĐH10, bắt đầu bò lên tìm chỗ đặt mìn. Giá mìn 3 quả đặt lên sẽ quá cao so với cỏ dưới đồi. Nếu đặt sớm địch sẽ phát hiện, nếu đặt chậm có vấn đề gì thì xừ lý không kịp. Tôi và Dũng bàn nhau ở hướng chính diện không đặt được ĐH10, nên yêu cầu anh em chọn vị trí có lùm cây bụi cỏ nào cao hơn thì đặt.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:12:46 pm

        Tôi gọi Trung đội trưởng Thắng giao nhiệm vụ tìm vị trí thích hợp đặt ĐH10. Chấp hành mệnh lệnh, Thắng bò vào và đã tìm được chỗ. Thắng nói chếch về phía phải có một bãi cỏ tranh đặt mìn rất thích hợp. Tôi và Dũng mừng quá cho anh em vào đặt mìn ngay.

        Ở hướng Đại đội 3, khi bộ đội đến vị trí cuối cùng để triển khai đặt mìn thì chiến sỹ đi trước vướng mìn hi sinh tại chỗ. Anh em liền vác đồng chí này ra, đơn vị lùi ra khỏi khu vực mìn nổ. Sau đó địch bắn 3 quả đạn M79 vào khu vực mìn nổ. Bộ đội ai cũng tưởng đã bị lộ. Máy kỹ thuật của Tiểu đoàn nắm được tụi địch điện cho nhau ngày mai có thịt nai ăn rồi, thú đã vướng mìn và tụi tao còn bồi vào đó mấy quả M79.

        Nhận được tin này Tiểu đoàn lệnh cho đại đội 3 tiếp tục bò vào đặt ĐH10. Do chiến sỹ của ta bị mìn hi sinh ngay tại chỗ, không kêu được nên lực lượng không bị lộ.

        Vì trục trặc của Đại đội 3, phải chờ đợi khá lâu, Tiểu đoàn đã cho thông tin rài dây điện thoại xuống chỗ tôi để tiện chi huy, chi đạo. Đồng chí Huận, Tiểu đoàn trường liên tục cầm máy nhắc tôi, quán triệt bộ đội tuyệt đối giữ bí mật, chờ Đại đội 3 đặt mìn xong ta nổ súng ngay.

        Mờ sáng, tôi đã nhìn thấy chốt của địch bố trí trên đồi theo hình tròn. Nhà lán được làm bán âm bán dương, che bằng ni lông trắng lốm đốm như các lều chợ. Tôi báo về Tiểu đoàn, trời sắp sáng rồi đề nghị cho nổ súng. Đồng chí Huận trà lời để Đại đội 3 nổ súng trước. Khi Đại đội 3 nổ mìn, chúng tôi điểm hỏa ngay.

        Không gian thanh vắng, tiếng mìn nổ như tiếng bom. Tiếp đến súng ta, súng địch bắn nhau quyết liệt. Vì địa hình trống ưải, dốc thoải xuống nên chúng tôi không thể đứng dậy để vận động được. Mìn ĐH10 không phá được hàng rào gồ. Địch ở dưới chiến hào bắn như mưa. Trận đánh diễn ra rất ác liệt.

        Hướng Đại đội 3 cũng không vào được vì mìn của Đại đội 3 bị một cây gỗ đổ to cao chắn phía trước nên mìn quét mở đường không có tác dụng. Anh em Đại đội 3 còn có cây gỗ để mà tránh đạn còn chúng tôi thì trống trơn.

        Các xạ thủ Tuấn, Xuân, Hoà giữ B40, B41 của chúng tôi bắn đã gần hết đạn mà các mục tiêu chưa bị diệt hết. Đồng chí Huân, Tiểu đoàn trưởng điện động viên tôi: “Cố gắng lên Hợi ơi! Hai bên đều mỏi mệt cả rồi, ta cố lên nhất định sẽ thắng”. Đồng chí Huân điện tiếp: “Hiện nay Đại đội 3 báo cáo một khẩu đại liên địch ở hướng anh đang bắn tạt sườn sang chỗ họ, anh em không lên được. Anh cố gắng tiêu diệt mục tiêu trên”.

        Tôi điện về Tiểu đoàn: “Hiện nay đạn B40, B41của tôi sắp hết, đề nghị Tiểu đoàn bổ sung. Đạn thẳng bắn không ăn thua. Ở hướng chính diện của Đại đội tôi cũng có mấy hỏa điểm địch bắn ra dữ dội, bộ đội không thể lên được”.

        Đồng chí Huân trả lời: “Anh cho người ra đón. Tôi cho hai xạ thủ B40, B41 của Đại đội 2 tăng cường cho anh” Tôi cử Hùng liên lạc quay lại phía sau đón 2 xạ thủ của Đại đội 2 lên. Tôi và Dũng trao đổi nhanh. Dũng nói: “Anh điện về Tiểu đoàn báo cho Đại đội 3 khi nào khẩu đại liên của địch bị tiêu diệt thì Đại đội 3 nhanh chóng tấn công ngay. Hướng ta, khi hỏa lực bắn, anh cho bộ đội xung phong ngay nhé!”

        Dũng và Hùng liên lạc trực tiếp bò lên dẫn 2 xạ thủ B40, B41 đi cùng và chi mục tiêu cho 2 xạ thủ bắn. Hai xạ thủ của ta bắn liên tục mỗi khẩu 2 quả B40, B41 vào các mục tiêu. Hỏa lực của địch vừa bị dập tắt. Tôi lệnh Trung đội trưởng Thắng cho bộ đội xung phong. Bộ đội vừa chạy, vừa bắn và nhanh chóng nhảy được vào giữa trung tâm của địch. Lúc này Đại đội 3 cũng đã vào được phía trong hàng rào. Cả hai đơn vị chúng tôi nhanh chóng tiêu diệt hết mục tiêu này đến mục tiêu khác. Chỉ trong mấy phút, chúng tôi đã làm chủ trận địa.

        Một cái chốt nhỏ của địch có 8 tên nằm hơi lệch về phía mép đường bỏ chạy đã bị Trung đội anh Chủng chặn đánh tiêu diệt 6 tên, bắt sống 2 tên.

        Tiểu đoàn ra lệnh cho chủng tôi nhanh chóng tảo trừ thu vũ khí rồi rời ngay khỏi trận địa đề phòng địch dùng phi pháo bắn phá hủy diệt.

        Tôi và Dũng đi thị sát lại toàn trận địa thấy địch mới lên đây, hầm đào bán âm bán dương, sâu khoảng 50 phân, hệ thống chiến hào liên hoàn, sâu khoảng 60 phân không có nắp. Còn đạn dược, các loại hỏa lực như đạn cối 61, đạn M79 cũng chi vác vai đi cùng nên cơ bản đã hết đạn. Địch bị tiêu diệt và bắt sống không một tên nào chạy thoát. Số địch bị thương chúng tôi băng bó, đưa cho mỗi đứa một bó truyền đơn rồi thả. Chúng chắp tay vái lạy được tha chết.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:13:20 pm

        Trung đội trường Thắng, dẫn đầu đơn vị xung phong đã trúng đạn hi sinh ngay trước cửa mở. Chúng tôi đưa Thắng ra chỗ tập kết để mai táng.

        Lúc này trời đã sáng hẳn, đơn vị vận động ra được khoảng vài trăm mét thì pháo từ Đạo Trung bẳn lên chặn đường. Pháo địch bắn được mấy quả thì bị cối 82 của ta bắn kiềm chế nên đạn nổ vu vơ.

        Một quả pháo rơi đúng đội hình của Đại đội 4, chiến sỹ Nguyễn Văn Tư (sinh viên năm thứ 3 khoa Hoá trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) hi sinh. Tới chỗ tập kết khắc phục hậu quả, chôn cất xong số anh em từ sỹ, Tiểu đoàn thông báo từng đơn vị tổ chức cho bộ đội hành quân về hậu cứ. Nhanh chóng rời khỏi khu vực nguy hiểm, trong tầm pháo địch, tuyệt đối không để bộ đội rơi rớt dọc đường.

        Tuy bộ đội đã một đêm thức trắng và chiến đấu ác liệt nhưng với khí thế chiến thắng, lại mang vác nhẹ nên anh em đi như chạy. Hôm qua hành quân vào đi từ 6 giờ sáng tới 10 giờ tối mới tới, nay quay ra mới 5 giờ chiều đã thu hết quân.

        Về tới hậu cứ, các đơn vị sinh hoạt kiểm điểm, rút kinh nghiệm. Cả Tiểu đoàn và Trung đoàn khẳng định đây là một trận đánh có hiệu suất chiến đấu cao mở ra một khả năng mới về đánh địch trong công sự bằng mật tập.

        Theo thông tin tù binh khai báo, quân địch ở đây có 1 Đại đội quân số 91 tên, thuộc lính biệt động quân của tỉnh Tây Ninh mới điều lên đây được 10 ngày. Chúng có nhiệm vụ đóng chốt dã chiến, bảo vệ hành lang từ Đức Song đi về Gia Nghĩa và luồn sâu vào hậu phương ta để nắm tình hình. Không ngờ bị ta tiêu diệt gọn, bắt sống 6 tên thu toàn bộ vũ khí. Trong trận này, Tiểu đoàn hi sinh 4 đồng chí và 4 đồng chí bị thương.

        Trong một trận chiến đấu có nhiều nguyên nhân thắng lợi, có nhiều yếu tố cấu thành nhưng quan trọng nhất là tinh thần chủ động tấn công. Khi phát hiện được địch, chúng tôi vừa điều nghiên, vừa làm công tác chuẩn bị, chi có 4 ngày là chiến đấu được ngay. Nếu kéo dài thời gian, địch sẽ tăng cường lực lượng và trang bị thì khó khăn không thể lường được. Tôi khâm phục 2 chiến sỹ tăng cường của Đại đội 2 về việc chấp hành mệnh lệnh chiến đấu và các đồng chí ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Vào những ngày này, địch ít hoạt động, bộ đội ta ở các đơn vị tương đối thoải mái, ngay ở các chốt của Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 4 cũng rút ra thay nhau huấn luyện. Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ cơ động, sẵn sàng chiến đấu của Trung đoàn.

        Chốt Tiểu đoàn 3 ở gần Kiến Đức, anh em ta đã bắt liên lạc với lính địch ở chốt đối diện. Anh em đã rải truyền đơn, viết thư kêu gọi hai bên đối thoại hòa hợp dân tộc không bắn giết lẫn nhau.

        Bước đầu bọn địch phản ứng bắn pháo cối nhưng do ta kiên trì nên chúng đã viết thư trả lời và ra các điều kiện để bắt liên lạc với nhau. Sau đó 2 bên đã bắt liên lạc với nhau, chuyện trò, trao đổi. Bước đầu lính gặp lính, sau sỹ quan gặp sỹ quan.

        Khi tìm hiểu ra, bọn địch cũng rất chán ghét chiến tranh. Chúng đi lính là do bắt quân dịch phải đi. Ta đã tuyên truyền các chính sách nhân đạo, chính sách hòa hợp dân tộc của Mặt trận Giải phóng và các điều khoản ừong Hiệp định Pa ri. Nhờ làm tốt công tác binh vận, mấy tháng trời các chốt của Tiểu đoàn 3 không nổ súng, anh em có điều kiện nghi ngơi, huấn luyện.

        Đầu tháng 10 năm 1974, Đoàn 95 giải thể và Bộ Chi huy Miền quyết định thành lập Sư đoàn bộ binh 3 bao gồm các Trung đoàn bộ binh 201, 205, 271, Trung đoàn pháo 262 và một số Tiểu đoàn trực thuộc.

        Trung đoàn cho Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 9 lùi về phía Đồi Chè gần với Đồi Thông huấn luyện, học tập để chuẩn bị cho kế hoạch mùa khô 1974 - 1975. Các đơn vị được học tập, quán triệt nghị quyết 10 của Trung ương cục miền Nam, xác định nhiệm vụ Cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới đặc biệt là nhiệm vụ mùa khô 1974 - 1975.

        So sánh lực lượng trên các chiến trường, ta mạnh hơn địch kể cả thế là lực và xác định nhiệm vụ mùa khô 1974 - 1975, có ý nghĩa quyết định chuyển biến hẳn về tương quan lực lượng và sẵn sàng, có thời cơ là tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam trong năm 1975.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:13:58 pm
             
        CHIẾN DỊCH GIẢI PHÓNG BÙ ĐĂNG

        Để tạo thế và lực, Bộ Chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho Sư đoàn đánh mở màn cho chiến dịch là tiêu diệt và giải phóng chi khu Bù Đăng, Đồng Xoài, tiến tới đánh chiếm chi khu Bù Đốp cũ, chi khu Phước Bình và sẵn sàng tham gia chiến dịch giải phóng thị xã Phước Long.

        Trung đoàn 271 được Sư đoàn giao đánh tiêu diệt và giải phóng chi khu Bù Đăng. Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ đánh tiêu diệt chi khu Bù Đăng và là đơn vị đánh mờ màn cho chiến dịch. Để tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 2 hoàn thành nhiệm vụ, Tiểu đoàn 9 được giao nhiệm vụ đánh đồi Yên Ngựa bên trái chi khu Bù Đăng cách Bù Đăng khoảng 300 mét. Trung đoàn 201 đánh tiêu diệt trận địa pháo 105, sân bay và một số đồn bốt ở ấp Vĩnh Thiện, toàn bộ khu vực Trung đoàn 201 đảm nhiệm đều ở Đông đường 14.

        Theo phương án, Tiểu đoàn 2 được đặc công mở cửa bằng mìn ĐH10, sau đó dùng hỏa lực kiềm chế tiêu diệt các mục tiêu đầu cầu để bộ đội tấn công vào. Đại đội tôi được giao nhiệm vụ đánh trên hướng chủ yếu được đặc công mở cửa và được tăng cường 2 khẩu ĐKZ 82, 2 khẩu 12,7 ly bắn kiềm chế các hỏa điểm đầu cầu để bộ đội mở cửa vào.

        Phương án nếu đặc công không mở được cửa thì dùng pháo cối bắn vào. Sau đó dùng bộc phá, phá rào để bộ đội tấn công, có sự chi viện của hỏa lực ĐKZ và 12,7 ly đi cùng. Đại đội 3 đánh phía bên trái sát với đồi Yên Ngựa bên cạnh, sau đó tấn công sang trung tâm cùng với chúng tôi, còn Đại đội 2 làm lực lượng dự bị.

        Theo nhiệm vụ được giao, cán bộ các cấp từ đại đội trở lên và trinh sát đi điều nghiên trận địa. Tiểu đoàn 2 và các đơn vị phối thuộc phải tổ chức đi lại 3 lần, bò vào tận hàng rào mới xác định được hướng tấn công, điểm mở cửa, nơi đặt hỏa lực, khu vực tập kết, thống nhất các phương án tác chiến, dự kiến các tình huống, vẽ thành sơ đồ để bộ đội tập luyện.

        Chi khu Bù Đăng nằm trên 1 điểm cao, phía Đông giáp với đường 14. Phía Bắc giáp một con suối cạn chảy tư Tây sang Đông qua trung tâm dân cư sinh sống. Phía Xây và Bắc đều tiếp giáp với rẫy non rôi rừng già, phía Nam có đồi trọc hình Yên Ngựa, mõm Yên Ngựa địch đóng một Đại đội do Tiểu đoàn 9 đảm nhiệm tấn công. Địch ở chi khu có một Đại đội bộ binh, Ban Chi huy chi khu và một số đơn vị hỏa lực như súng cối 81, đại liên... quân số khoảng hơn 100 tên.

        Địch xây dựng căn cứ này đã từ lâu, hầm hào kiên cố, có 7 lớp hàng rào và có một số chốt nhỏ ở các cao điểm xung quanh bao bọc bảo vệ từ xa. Thuận lợi là đường hành quân tiếp cận của bộ đội toàn là rừng già, rồi đến rẫy non giáp tới chân dốc sát hàng rào thứ nhất.

        Sau khi đi điều nghiên về vẽ được sơ đồ, chúng tôi tìm một cao điểm gần đồi Thông, xây dựng trận địa giả, lên tận Bù Gia Mập lấy dây thép gai về làm giống như thật. Hàng ngày tổ chức huấn luyện, mời tất cả các đơn vị tham gia như đơn vị ĐKZ 82, đơn vị 12,7 ly, đặc công về tập, lần cuối cùng diễn tập có dùng chất nổ.

        Sư đoàn, Trung đoàn cử cản bộ xuống theo dõi đánh giá kết quả. Vì đây là trận mờ màn cho chiến dịch, đánh vào nơi hiểm yếu nhất của địch. Nếu trung tâm này bị tiêu diệt thì toàn bộ quân địch ở đây sẽ tan rã. Có 2 phương án tác chiến. Phương án 1 đặc công mở cửa. Phương án 2, đặc công không mở được cửa thì Sư đoàn dùng pháo 85 bắn thẳng vào, cùng với 2 khẩu cối 120, cối 82 và các loại hỏa lực bắn hủy diệt một số mục tiêu quan trọng. Sau đó dùng súng 12,7 ly, ĐKZ 82 bắn kiềm chế, để bộ binh nhảy lên đánh bộc phá, phá rào xông lên.

        Để đưa được pháo vào, Trung đoàn đã dùng Tiểu đoàn 3 và Đại đội công binh, kéo pháo bằng tay. Công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương. Đến ngày 2 tháng 12, phải cơ bản hoàn thành.

        Ngày 3 tháng 12 đoàn cán bộ, trinh sát của Trung đoàn và Tiểu đoàn 2 đi trinh sát đã gặp địch. Hai bên đã nổ súng, một chiến sĩ trinh sát bị mất tích, cấp trên sợ lộ, chi thị phải tìm bằng được chiến sĩ này. Đài kỹ thuật vẫn theo dõi không thấy thông tin gì về việc địch bắt được lính Việt cộng. Sáng ngày thứ 4, anh em mới tìm được đồng chí này. Đồng chí bị địch bắn trọng thương, khi chạy bị rơi từ ưên cao xuống suối và hi sinh tại đó. Khi thi thể đã bốc mùi, anh em mới tìm thấy. Sư đoàn ra lệnh tất cả các đơn vị hành quân chiến đấu và ngày nổ súng được xác định là ngày 13 tháng 12 năm 1974.

        Chiều 12 tháng 12, các đơn vị hành quân đến vị trí tập kết. Bộ đội tranh thủ nấu cơm ăn, nghi ngơi rồi hành quân chiếm lĩnh. Từ vị trí tập kết tới Bù Đăng, anh em trinh sát chi đi khoảng 5 giờ là tới. Nhưng cũng từ đây đường khó đi, đoạn thì rừng già, đoạn thì rẫy non, đoạn thì rừng mây, đoạn thì rừng tre, lồ ô.

        Khoảng 9 giờ tối, trời đổ cơn mưa khá to và dài. Đường dốc trơn như đổ mỡ, bộ đội mang vác nặng cứ ngã liên tục. Trời tối như mực, tôi cứ sợ anh em mang súng B40, B41 đạn tụt ra khỏi nòng nổ thì rất nguy hiểm vì tất cả các loại đạn đã được lắp liều nổ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:15:31 pm

        Cuộc hành quân chiếm lĩnh trận địa gặp muôn vàn khó khăn. Bộ đội mỗi giờ không đi nổi 1 cây số. Dự kiến khoảng 3 giờ sáng là tới mà gần sảng rồi bộ phận đi đầu vẫn chưa vào được vị trí.

        Chúng tôi thấy đặc công từ trong chốt ôm mìn ra, chửi om lên: "Làm ăn kiểu này chết mất. Chúng tôi đặt mìn xong chờ mãi không được, sợ trời sáng nên đành tháo mìn ra đây".

        Tôi báo về Tiểu đoàn, đặc công đã tháo mìn ra rồi, chúng tôi thì mới bám được chân dốc sát hàng rào thứ nhất. Tiểu đoàn lệnh: Bộ đội đào hầm bí mật nằm ngay tại chỗ. Chúng tôi được thông báo tất cả các đơn vị của Trung đoàn đều không thực hiện đúng hiệp đồng, các đơn vị đến chậm đều phải nằm ngay tại chỗ chờ lệnh của Trung đoàn.

        Như vậy chỉ có Đại đội tôi là vào được phía trong, các đơn vị còn ờ phía ngoài, cối 120 cũng chưa xác định được trận địa. Trung đoàn bộ chưa xác định được Sở Chi huy. Tiểu đoàn 3 kéo pháo do trời mưa, đường trơn nên không kéo được pháo vào còn cách cả chục cây số.

        Tôi cho bộ đội lợi dụng mép suối khoét hầm ếch trú ẩn. Con suối bờ vực cao nhưng nước suối chi sâu chưa tới đầu gối, dưới đáy suối toàn là sỏi, nước trong vắt, con suối này chảy từ Tây sang Đông, qua chi khu, qua đường 14, đi qua khu dân cư.

        Tôi đi kiểm tra bộ đội thấy địa hình thật bất lợi, nếu để đất cát rơi xuống suối làm nước đục chảy qua dân cư thì địch sẽ phát hiện. Nếu địch phát hiện được chỉ cần đi trên bờ suối thả lựu đạn xuống là bộ đội chết hết.

        Tôi nhắc bộ đội tuyệt đối giữ bí mật không để đất cát rơi xuống suối. Hiện nay ta đã lọt vào phía trong của địch, xung quanh ta có mấy chốt trên cao địch còn chốt giữ. Nếu để địch phát hiện thi mình bất lợi hoàn toàn rơi vào thế ngàn cân treo sợi tóc, chẳng có ai cứu mình.

        Tiểu đoàn điện xuống điều Đại đội trưởng Dũng về Tiểu đoàn bắt máy kỹ thuật vì Dũng rất giỏi bắt máy kỹ thuật.

        Địch nghi ngờ có quân ta chuẩn bị tấn công nên gọi máy bay lên trinh sát để ném bom. Một lát sau, một chiếc L19 lên quần lượn xung quanh trung tâm chi khu và trả lời không phát hiện được điều gì lạ cả. Có thể chi là mấy tên lính địa phương quấy rối, nghi binh để đánh Đồng Xoài. Căn cứ Đồng Xoài cần tăng cường phòng thủ.

        Bù Đăng nằm giữa một thung lũng, xung quanh núi rừng trùng điệp, qua nhiều khe suối, các loại hỏa lực khó triển khai, duy nhất chỉ có 1 con đường 14 thì địch đang làm chủ. Trung đoàn 201 đảm nhiệm các mục tiêu đều nằm ở Đông đường 14. Đưa cả Trung đoàn vượt đường sang đó không phải dễ.

        Sau khi nắm được tình hình địch như vậy, anh em chúng tôi đỡ lo lắng hơn nhưng tất cả lại càng phải giữ bí mật. Bộ đội phải ngồi co quắp trong những chiếc hầm ếch khoét vội bên bờ suối. Tôi cứ trông từng giờ, từng phút sao cho trời mau tối. Ban Chỉ huy chỉ còn tôi và Đại đội phó Minh.

        Gần tối, tôi cho liên lạc đi mời các đồng chí Trung đội trưởng đến hội ý. Tôi nói: “Tranh thủ trời nhá nhem ta bò vào kiểm tra lại các mục tiêu, điểm mở cửa, nơi đặt hỏa lực ĐKZ và 12,7 ly”. Rừng non xen kẽ lau lách khá kín đáo. Chúng tôi đã lần tới mép hàng rào xác định chỗ mở cửa sát với mép dốc vì chỗ này hỏa lực của địch bắn ra rất hạn chế và địch chủ quan, sẽ ít mìn. Ngay trước cửa mở có 1 lô cốt địch, do dốc nên nó chi có tác dụng bắn xa sang hai bên chứ chính diện không bắn được và lô cốt này lộ rất rõ. ĐKZ, 12,7 ly của ta ờ mép đồi bên kia có thể khống chế hủy diệt được.

        Trời tối Tiểu đoàn cho kéo đường dây điện thoại xuống Tiểu đoàn trưởng nói: “Cả ngày Tiểu đoàn an toàn. Trận địa cối 120 đã xác định được cự ly mục tiêu và trận địa chỉ cách chi khu có 2 km lại từ trên đồi cao bắn xuống. Trận địa cối này sẽ trực tiếp chi viện cho ta, pháo 85 chưa chắc đã kéo vào được”.

        Lại một đêm nữa chờ đợi căng thẳng, chúng tôi đã cho bộ đội dịch lên bám sát hàng rào và triển khai trận địa hỏa lực ĐKZ và 12,7 ly. Khi đi điều nghiên về xác định rõ địch bố trí 7 lớp hàng rào nhiều loại hỗn hợp.

        Khi tập luyện quân số Đại đội tôi không đủ, nên Tiểu đoàn đã điều 6 đồng chí chiến sỹ cối 82 của Đại đội 4 sang bổ sung. Các đồng chí này được tăng cường cho Trung đội mở cửa. Trong số chiến sỹ của Đại đội 4 có đồng chí Đoàn Đức Thái.

        Trong tập luyện cũng như trước lúc vào trận, chúng tôi đã phân công cụ thể. Đồng chí Lưu Đình Móng, Trung đội phó sẽ đánh quả bộc phá đầu tiên. Đồng chí Mười đánh quả cuối cùng. Trung đội trưởng Chủng là người đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Trung đội phó Thái sẽ là người cắm cờ. Đại đội phó Phạm Văn Minh trực tiếp chỉ huy bộ phận mở cửa. Tôi và thông tin đi sau bộ phận mở cửa.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:16:05 pm
   
        Trước giờ nổ súng, tôi bò đi gặp từng chiến sỹ đánh bộc phá. Tôi nhắc đi nhắc lại các đồng chí cứ bình tĩnh mà đánh, sẽ có hỏa lực bảo vệ cho các đồng chí. Trận này hỏa lực pháo cối của ta bắn trước. Lực lượng địch sẽ bị tiêu diệt 1 bộ phận, chúng sẽ rúc đầu xuống hầm tránh pháo.

        Tôi đến tận các đom vị phối thuộc ĐKZ và 12,7 ly vừa động viên, vừa giao nhiệm vụ: “Các đồng chí sẵn sàng khi nào hỏa điểm của địch bắn ra thì các đồng chí nhanh chóng bắn hủy diệt. Chú ý khi bộ đội đã nhảy được qua cửa mở không được bắn nữa vì sợ sẽ bắn nhầm quân ta. Chúc các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ”.

        Trời gần sáng rồi, tôi liên tục điện về hỏi Tiểu đoàn tình hình thế nào? Chúng tôi nằm gần địch quá nếu để trời sáng địch sẽ phát hiện được. Trận địa ĐKZ và 12,7 ly anh em đào công sự ngoài trống, đất cát tùm lum lộ hết. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng nói: “Yêu tâm chờ Tiểu đoàn 9 báo cáo Trung đoàn mới cho nổ sủng. Tiểu đoàn 3 kéo pháo 85 vẫn chưa vào kịp, khi nào ta nổ súng sẽ cho xe kéo chạy thẳng đến bắn trực tiếp”.

        Tôi nhìn thấy cửa hầm còn hé mở liền tọng ngay một quả thủ pháo vào,anh em tọng tiếp mấy quả nữa. Khỏi thuốc vừa tan hết, chúng tôi mở cửa, thấy tụi địch có 8 tên chết mềm như chuối chín nẫu và một máy thông tin PR25. Có lẽ bọn này đã gọi cho máy bay đánh bom.

        Minh bị tôi đạp rơi xuống hào bên kia, người thì rơi xuống trước còn một tay đang với trên miệng hào nên đã bị mảnh lựu đạn cắt đứt hẳn một ngón tay của bàn tay phải. Từ đó Minh được đặt cho biệt danh là Minh cụt.

        Trong khi tấn công và tảo trừ chưa xong thì Tiểu đoàn thông báo máy bay lên hủy diệt nên tìm chưa kỹ. Hơn nữa cái hầm này tụi địch đào hầm rất dài rồi chia ra từng khúc, mỗi khúc có cửa đóng mở. Khi anh em chủng tôi đánh tảo trừ từ hai hướng, ai ngờ còn khúc giữa nó đóng cửa 2 đầu lại nên cứ tưởng là đánh hết rồi.

        Chúng tôi kiểm tra mấy xác chết trong hầm, có 1 tên Đại úy và một số giấy tờ tài liệu nên xác định đây là tên chi huy trưởng.

        Ở giữa trung tâm có một cái hầm to, chúng tôi đánh mấy quả bộc phá vào nhưng không dám xuống. Tồi cho đặt quả mìn phá hầm ngầm để phá. Mìn nổ, hầm chi lún xuống, chúng tôi tin là tụi địch đã bị diệt. Nhưng khoảng 20 phút sau có 1 tên lính chui ra, nỏ khai hầm đào sâu có nhiều ngách và nhiều tầng nhưng tất cả đã chết hết chi còn mình nó sống sót.

        Sau khi khai thác, nó nói: “Khi các ông đánh bộc phá mở cửa chúng tôi cứ tưởng bị pháo kích nên lính tráng cứ chúi đầu vào hầm. Khi phát hiện các ông tấn công bằng bộ binh thì đã muộn. Có một số hầm đã bỏ chạy, còn lại chống cự không nổi vì các ông vào nhanh quá”. Tên tù binh là sỹ quan tâm lý chiến mới được điều về đây mấy ngày.

        Chi khu Bù Đăng bị tiêu diệt, xung quanh chi khu, hàng chục chốt của địch nằm trên các điểm cao, đã lần lượt tan rã bỏ chạy. Địch lần lượt cắt rừng chạy về Đồng Xoài, Bù Đốp cũ và thị xã Phước Long. Lính ở đây có nhiều tên người dân tộc nên rất giỏi cắt rừng. Mấy ngày ở đây chúng tôi tham gia đi lùng sục truy quét tuyên truyền, vận động nhân dân gọi con em đi lính còn trốn ngoài rừng về trình diện. Kết quả đã có hàng trăm tên ra trình diện. Chúng tôi giải thích các chủ trương chính sách của mặt trận rồi cho về nhà để địa phương quản lí.

        Mờ sáng, Tiểu đoàn ra lệnh: “Khi nào pháo ngừng bắn, cho bộ đội đánh bộc phá xông vào, chú ý bắt liên lạc với Đại đội 3 và Tiểu đoàn 9”.

        Đồng chí Huân vừa nói xong, pháo cối ta liên tục cấp tập vào trung tâm chi khu và đồi Yên Ngựa. Chúng tôi nằm ở dưới dốc, pháo nổ trên đỉnh đồi nghe inh tai. Tiếng đạn cối 120 rít và nổ to lắm. Tôi sợ đạn lạc vào đội hình thì nguy hiểm vì bộ đội triển khai đánh bộc phá, tấn công vào nên người nọ nằm kề người kia.

        Tiếng cối vừa dứt, tôi hô anh Minh cho đánh ngay. Đồng chí Lưu Đình Móng thân hình nhỏ bé nhảy lên ôm quả bộc phá đặt vào hàng rào giật nụ xòe. Bộc phá nổ to như tiếng bom, khói đen khét lẹt, đất đá, cây cỏ bay mù mịt. Lần lượt anh em nhảy lên đánh bay từ hàng rào này đến hàng rào khác.

        Đánh xong hàng rào thứ 4, địch phát hiện được ta đánh bộc phá mở cửa. Đạn, từ lô cốt đầu cầu của địch bắn ra như mưa, nhưng vì gần và dốc quá nên đạn đều vọt qua đầu chúng tôi. Hỏa lực ta đồng loạt nổ súng. Hỏa lực của địch bị câm ngay. Hoả lực của ta liên tục bắn vào hai bên cửa mở, nên các lô cốt của địch phía ngoài không dám bắn ra.

        Hỏa điểm của địch xuất hiện là anh em ĐKZ và 12,7 ly bắn tiêu diệt ngay. Bộ đội tiếp tục đánh bộc phá, đến hàng rào thứ 7. Vì địa hình dốc quá lại trơn, đồng chí Mười ghì bộc phá vào hàng rào thứ 7 bị tụt lên, tụt xuống hai, ba lần không đánh được. Đoàn Đức Thái nhảy lên giằng quả bộc phá từ tay Mười ghì vào hàng rào thứ 7 giật nụ xòe, khói thuốc đã phun ra đen ngòm. Tôi hô: “Thái! Chạy đi!” Thái vẫn không chạy, mà ghì chặt bộc phá vỉ thả ra thì sợ bộc phá roi xuống. Bộc phá nổ một tiếng đinh tai, đất cát mù mịt, hàng rào bung ra một miếng bằng cái nia, Trung đội trưởng Chùng nhảy vào đánh quả thủ pháo trúng lô cốt đầu cầu, rồi vẫy tay cho bộ đội tiến vào.

        Lúc này trời đã sáng bạch, anh em chúng tôi đánh từ hầm này sang hầm khác. Lựu đạn, thủ pháo quăng lia lịa vào các hầm. Chi trong mấy phút, chúng tôi đã đánh thẳng vào trung tâm. Minh đã thay Thái cắm lá cờ Giải phóng lên giữa trung tâm chi khu.

        Ở bên trái, anh em Đại đội 3 cũng đã mở được cửa và đánh thẳng lên trung tâm, bắt liên lạc được với chúng tôi, 2 đơn vị chúng tôi nhanh chóng lùng sục tảo trừ địch và phân công mỗi đơn vị đảm nhiệm một hướng để đánh địch phản kích.

        Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 3 cử một mũi đánh sang đồi Yên Ngựa bắt liên lạc với Tiểu đoàn 9. Lúc này anh em Tiểu đoàn 9 cũng đã làm chủ trận địa. Tôi báo nhanh về Tiểu đoàn: “Đại đội 3 và Đại đội 1 đã làm chủ hoàn toàn chi khu diệt hàng chục tên, thu nhiều loại vũ khí”.

        Đại đội 1 chi có đồng chí Đoàn Đức Thái hi sinh. Thái đã tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rồi anh dũng hi sinh. Bộc phá nổ phá toang hàng rào làm xác Thái bay bắn lên hàng rào. Chúng tôi đã chôn cất Thái chu tất và sau này Thái đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

        Tiểu đoàn thông báo địch cho máy bay lên đánh bom hủy diệt. Chỉ một lúc địch đã cho 2 chiếc phản lực đến bổ nhào đánh bom. Một quả bom rơi ngay gần trung tâm làm sập hầm, đồng chí Núi xạ thủ B40 hi sinh, súng bị cháy queo.

        Hết đợt bom, chúng tôi tiếp tục lùng sục. Tôi thấy anh em kêu lên trong hầm này còn địch. Minh định nhảy vào mờ cừa. Tôi thấy từ trong hầm, địch quăng ra một quả lựu đạn mỏ vịt đang xì khói. Tôi vội đạp Minh bay xuống hào phía bên kia và tôi cũng vội nằm ngay xuống hào. Lựu đạn nổ khói đen mù mịt.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:18:00 pm

        “VỂ PHƯỚC LONG XÂY CHIẾN THẮNG”

        Ngày 20 tháng 12 năm 1974, Trung đoàn 271 được lệnh hành quân về thị xã Phước Long để tham gia chiến dịch giải phóng thị xã Phước Long. Thời gian này chi khu Đồng Xoài cũng đã được giải phóng, ép địch xuống gần Phú Giáo. Tiểu đoàn 2 của chúng tôi được giao nhiệm vụ đánh căn cứ Bù Đốp cũ, nằm ở ngã ba đường 14, một đường đi về thị xã Phước Long, một đường chính đi về Phước Bình.

        Phước Bình có con đường nhựa đi về thị xã Phước Long. Núi Bà Rá kẹp giữa 2 con đường này, địch đóng ở Bù Đốp cũ khoảng 1 Đại đội hơn 100 tên, có hầm hào lô cốt, có mấy lớp hàng rào bảo vệ.

        Ngày 26 tháng 12, chúng tôi tấn công vào Bù Đốp, địch đã bỏ chạy hết. Tôi điện về Tiểu đoàn, địch đã bỏ chạy cả đêm để lại nhiều quân trang, quân dụng và đạn dược. Tiểu đoàn lệnh Đại đội 1 cho bộ đội dịch lên gần chân núi Bà Rá đào công sự chốt tại đó. Sở Chi huy tiểu đoàn sẽ tới Bù Đốp.

        Núi Bà Rá là một ngọn núi độc lập cao 733 mét so với mực nước biển, án ngữ phía Đông, Đông Nam, Đông Bắc thị xã Phước Long. Hai bên chân núi có 2 con đường chạy từ Bù Đốp cũ lên và Phước Bình lên gặp nhau tại đuôi của ấp Tư Hiền gọi là ngã ba Tư Hiền. Từ đây chỉ có 1 con đường đi lên thị xã Phước Long, phía phải đường vài trăm mét là Sông Bé, bên trái là rừng có nhiều dốc.

        Núi Bà Rá như một cái chòi canh cho thị xã, địch đóng trên núi có hơn 1 Đại đội bộ binh và nhiều loại hỏa lực. Địch đặt ra đa định hướng, các hệ thống thông tin liên lạc cả quân sự, dân sự và là đài quan sát cho các trận địa pháo binh.

        Dưới chân núi nhân dân làm nương rẫy. Núi chủ yếu là đá nên không có cây to toàn là cỏ với cây sim, cây mua, đất đai khô cằn. Địch có hệ thống phòng thủ kiên cố. Mặc dù những ngày này ta đã áp sát chân núi nhưng địch vẫn xem núi Bà Rá là bất khả xâm phạm. Địch tuyên truyền thách thức Việt cộng đánh núi Bà Rá.

        Muốn giải phóng thị xã Phước Long nhất thiết phải tiêu diệt và làm chủ cao điểm núi Bà Rá. Ở miền đông Nam Bộ có 2 ngọn núi cao nổi lên giữa vùng tương đối bàng phăng đó là núi Bà Rá và núi Bà Đen ở Tây Ninh. Cả hai ngọn núi cao này, địch đều đặt các đài quan sát, ra-đa định hướng để phát hiện hệ thống thông tin liên lạc của ta.

        Chúng tôi được thông báo ý định tác chiến đánh chiếm núi Bà Rá như sau:

        Pháo binh của ta liên tục bắn cầm canh nhiều ngày, nhiều đêm làm cho địch tưởng rằng ta không có ý định đánh Bà Rá bằng đặc công. Đại đội tôi được giao nhiệm vụ đêm 29 tháng 12 vào chiếm lĩnh ờ chân núi Bà Rá, tổ chức trận địa phục kích đánh chặn quân địch, từ ấp Tư Hiền 1 phản kích khi núi Bà Rá bị đặc công tấn công.

        Đêm 29, rạng 30 tháng 12, đặc công sẽ tấn công tiêu diệt quân địch ở núi Bà Rá. Không phải chỉ có đơn vị tôi mà xung quanh chân núi Bà Rá có nhiều đơn vị chốt chặn để hỗ trợ cho đơn vị đặc công tấn công ờ trên cao điểm. Đại đội tôi bố trí trận địa ở cách ấp Tư Hiền một khoảng hơn 1 km, địa hình hết sức phức tạp.

        Chúng tôi phải bố trí giữa mấy nương lúa, dân vừa mới thu hoạch. Hầm đào dựa vào mép bờ ruộng, chỉ đánh địch được 1 hướng từ Tư Hiền ra. Nếu như địch đi hướng khác thì hoàn toàn bất lợi. Trong khi đó có 1 đồn địch còn nằm phía sau chúng tôi. Chúng tôi tác chiến độc lập, không ai chi viện khi khó khăn. Nếu đặc công không dứt điểm được cao điểm Bà Rá thì không thể hình dung nổi những điều gì xảy ra với chúng tôi.

        Tôi và Đại đội trưởng Dũng hết sức lo lắng, hai anh em bàn bạc đặt ra nhiều tình huống để xử lý. Chúng tôi cho bộ đội chặt chuối của dân làm nắp hầm. Đất cứng quá, hầm chỉ đào sâu được khoảng 60 phân, được ngụy trang bằng rơm rạ. Sáng ra bộ đội tuyệt đối không được ai lên khỏi hầm, liên tục cả đêm pháo 85 nòng dài của ta bắn lên đỉnh núi, mỗi khi đạn nổ chúng tôi thấy sáng chói cả vùng.

        Chúng tôi lo lắng, chờ đợi. Trời sắp sáng rồi vẫn không thấy đặc công nổ súng. Nếu đặc công không đánh được, ngày mai trận địa chúng tôi sẽ gặp khó khăn vì không phán đoán được địch sẽ đi đường nào. Tôi điện về Tiểu đoàn hỏi tình hình thế nào. Tại sao gần sáng rồi mà chưa thấy đặc công nổ súng. Tiểu đoàn thông báo nhiệm vụ các đơn vị không thay đổi, khi nào pháo ngừng bắn là đặc công sẽ tấn công lên.

        Mờ sáng, tiếng pháo vừa dứt được mấy phút, bộc phá tiếng to, tiếng nhỏ liên tiếp nổ như ngô rang. Cả 1 khu đồi sáng rực lên, tia chớp liên hồi. Chúng tôi nhìn lên đinh núi qua ánh lừa thấy bộ đội ta vận động tấn công. Tôi mừng quá reo lên, đặc công nổ súng rồi, quân địch sẽ bị tiêu diệt. Trận địa chúng tôi hoàn toàn yên tâm.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:18:31 pm

        Sau mấy phút chúng tôi được thông báo đặc công đã tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn núi Bà Giá. Tôi và Dũng trao đổi, địch không có khả năng phản kích, ta cho bộ đội dịch lên dãy chuối của dân đào hầm chốt tại đó chứ ở đây chết nắng mất. Nếu địch có đi vào bãi trống này thì ta ở bãi chuối kia vẫn khống chế ngăn chặn được. Khi chúng tôi cho bộ đội di chuyển vào bãi chuối mới thấy đây thực sự là nơi đón lõng địch lợi hại nhất.

        5 giờ chiều, 30 tháng 12, Tiểu đoàn lệnh của cho chúng tôi vận động ra đường trục, cho bộ đội tấn công ấp Tư Hiền, sau đó tấn công lên ngã ba Tư Hiền, bắt liên lạc với một đơn vị của Sư đoàn 7 đang từ Tân Bình đánh lên thị xã.

        Chấp hành lệnh, chúng tôi đi ngay và cứ tưởng từ đây tới ngã ba Tư Hiền địch đã bỏ chạy hết nên bộ đội rất chủ quan. Ra tới đường chính, đồng chí Chúc, Tiểu đoàn phó dẫn 5 đồng chí trinh sát của Tiểu đoàn đã đón sẵn.

        Mấy cán bộ Trung đội và Đại đội trưởng Dũng đi trước cùng bộ phận của đồng chí Chúc. Bộ đội mang vác nặng nên đi chậm hơn. Đến đầu ấp Tư Hiền, một giọng hét to từ mé đường bên phải vọng ra: “Đơn vị nào đó! Đứng lại”. Bộ phận cùa Dũng và Chúc chỉ cách nơi phát ra tiếng thét khoảng 15 mét. Dũng đứng sững lại trả lời: “Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 271 đây”- Tiếng quát tiếp: “271 nào!” và một chuỗi câu văng tục. Dũng quát lại: “Các anh ăn nói từ tế nhé 271 chứ 271 nào nữa”.

        Tôi ở phía sau cách đó khoảng 30 mét, nhìn thấy lố nhố áo rằn ri nên biết chắc là địch rồi. Tôi vẫy tay ra hiệu bộ đội tiến lên ngang với tôi và rẽ ra hai bên sẵn sàng nổ súng. Lúc này bộ phận đi trước cũng biết là địch rồi nhưng chạy thì chúng sẽ bắn. Thế là các anh từ từ lui ra và rẽ về 2 bên đường. Tôi chờ cho số cán bộ rút an toàn, rồi mới cho bộ đội từ từ lui ra.

        Thật hú vía! Quân địch bị ta đánh chạy toán loạn. Nhiều đơn vị chạy từ Bù Đăng, Bù Đốp về đây, chúng vừa mất tinh thần, lại không phân biệt được phiên hiệu đơn vị nào. Nếu nó bình tĩnh thì chắc là nó xơi gọn tốp cán bộ của chúng tôi rồi. Chúng tôi đào hầm, chốt tại đó. Tiểu đoàn cũng dịch đội hình áp sát đơn vị tôi để chuẩn bị cho kế hoạch ngày mai.

        Đầu ấp Tư Hiền, địch xây dựng một chốt từ lâu, có hầm hào kiên cố, dây thép gai bao bọc. Buổi chiều chúng tôi đã nhìn rõ chốt địch nhưng không rõ quân số cụ thể, trang bị của chúng như thế nào. Khoảng nửa đêm, Tiểu đoàn giao nhiệm vụ:

        Năm giờ sáng mai, Đại đội 1 tấn công tiêu diệt địch ở đầu ấp Tư Hiền. Tiểu đoàn tăng cường cho một khẩu ĐKZ và một khẩu cối 82. Đại đội cho hỏa lực bắn trước, rồi bộ đội tấn công vào.

        Đại đội 2 đánh cặp bên sườn núi.

        Đại đội 3 đánh cặp theo bờ sông Bé.

        Tiểu đoàn quyết tâm tiêu diệt địch và làm chủ hoàn toàn ấp Tư Hiền.

        Cà đêm chúng tôi chỉ cách địch hơn 100 mét, nhưng cả 2 bên đều án binh bất động. Có lẽ tụi địch tưởng chúng tôi là quân của nó vì chiều hôm qua 2 bên gặp nhau nói qua nói lại đều do đồng chí Dũng nói tiếng miền Nam. Dũng quê ở Bình Dương, còn quần áo thì mấy ngày nay chúng tôi nằm hầm nhem nhuốc chẳng phân biệt được màu sắc gì, vì địch cũng nhiều sắc lính quần áo lung tung.

        Để đảm bảo chắc thắng, chủng tôi cho cán bộ bò lên xác định vật cản, hướng tấn công và xác định phần tử, mục tiêu cho hỏa lực bắn.

        Đúng kế hoạch, 5 giờ sáng Tiểu đoàn lệnh tấn công. Sau khi các loại hỏa lực dồn dập nã đạn vào. Địch bắn ra yếu ớt, chủ yếu là mấy quả cối và đạn M79. Chúng tôi cho bộ đội xung phong. Địch bỏ chạy để lại mấy tên lính bị thương.

        Tôi hỏi ngay mấy tên tù binh, địch chạy về hướng nào. Nó nói chủ yếu chạy về bên phải, cặp bờ sông Bẻ, sau đó chạy về thị xã vì sợ chạy đường chính các ông đón chặn. Tôi điện về Tiểu đoàn đề nghị cho Đại đội 3 tấn công nhanh bên phải địch đang chạy ra hướng bờ sông Bé. Đơn vị tôi tấn công theo trục đường chính ở giữa ấp, còn Đại đội 2 thì cặp theo rìa chân núi Bà Rá.

        Khi đơn vị tôi đến hết ấp Tư Hiền thì gặp một khoảng trổng và chúng tôi đã nhìn thấy ngã ba Tư Hiền có con đường nhựa chạy từ Phước Bình lên thị xã. Tôi điện về Tiểu đoàn, chúng tôi đã tấn công đến hết ấp Tư Hiền, nhìn thấy ngã ba Tư Hiền nhưng chẳng có đơn vị nào cả. Tiểu đoàn lệnh cho chúng tôi đánh cặp sang phải, tạt sườn hỗ trợ Đại đội 3.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:19:02 pm

        Lúc này Đại đội 3 đánh cặp bờ sông lên đã gặp địch. Khi lực lượng của chúng tôi đánh tạt sang thì địch chạy về hướng thị xã. Tiểu đoàn ra lệnh các đơn vị đào hầm chiến đấu tại chỗ.

        Được tin chúng tôi chiếm và làm chủ ấp Tư Hiền, Sư đoàn đã cho 2 chiếc xe tăng T54 chạy từ Bù Đốp cũ lên để hỗ trợ cho Tiểu đoàn, đề phòng địch phản kích chiếm lại, vì đây là cửa ngõ vào thị xã, chỉ cách thị xã hơn 2 km.

        Khi bộ đội đánh vào, dân bỏ chạy vào rừng sơ tán. Chúng tôi lợi dụng vườn của dân cho bộ đội đào hầm, chống địch phản kích.

        Khoảng hơn 7 giờ sáng, chúng tôi vào đây mà mãi tới quá trưa vẫn không thấy địch phản kích. Một số anh em đã đi lại trong ấp, một số tranh thủ ngủ. Tôi sợ bộ đội ta chủ quan nên liên tục cho cán bộ Đại đội đi xuống anh em kiểm tra, nhắc nhở bộ đội cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.

        Tôi và Dũng tranh thủ đi kiểm tra địa hình và vòng ra phía sau gặp Ban Chỉ huy Đại đội 4 để làm kế hoạch hiệp đồng tác chiến.

        5 giờ chiều ngày 2 tháng 1 năm 1975, Tiểu đoàn thông báo Trung đoàn sẽ tập trung 2 khẩu pháo 85 kết hợp với khẩu cối 82 của Tiểu đoàn bắn cấp tập vào chốt địch trước tiền duyên của Đại đội 1. Sau đó Đại đội 1 và Đại đội 3 được 2 xe tăng T54 tăng cường cùng tấn công vào chốt địch.

        Theo hiệp đồng pháo Trung đoàn và Tiểu đoàn bắn cấp tập mấy chục quả trước mặt chúng tôi khoảng 600 mét. Tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội tôi và Đại đội 3 kết hợp xe tăng tấn công.

        Từ bìa ấp chúng tôi và xe tăng vận động mới ra bãi cỏ tranh trước mặt thì địch tập trung hỏa lực phản kích quyết liệt đủ các loại đạn. Xe tăng nhả khói đen mù rồi hạ nòng pháo bắn được mấy quả chẳng ăn thua gì, rồi 2 chiếc xe tăng vòng chạy ra.

        Chúng tôi không có máy liên lạc với xe tăng. Tôi điện báo về Tiểu đoàn, xe tăng chạy ra rồi, địch phản kích quyết liệt quá. Tiểu đoàn lệnh cho bộ đội quay về vị trí xuất phát, rồi chốt tại đó.

        Sáng ngày 3 tháng 1 năm 1975, chúng tôi được thông báo hiện nay các cánh quân đã áp sát thị xã Phước Long, các đài quan sát pháo binh ta đã có mặt trên núi Bà Rá để chỉnh pháo bắn vào các mục tiêu trong thị xã. cấp trên sẽ tăng cường cho Trung đoàn 2 khẩu pháo 85 trực tiếp chi viện cho Tiểu đoàn 2, đánh tiêu diệt mục tiêu đầu cầu vào thị xã.

        Hai giờ chiều, bộ phận cảnh giới bắt được hai tên tù binh đưa lên Đại đội. Tôi hỏi: “ Tụi bay ở đâu đi ra đây?”. Lúc đầu chúng nói: “Tụi tôi ở bên bãi tranh kia kìa”. Tôi hỏi: “Tụi bay đi đâu?”, nó nói: “Tụi tôi đi lấy dù pháo sáng đang treo trên cây chứ có làm gì đâu mà các anh bắt”. Nó tưởng chúng tôi là quân của nó nên mặt hai thằng này tỉnh bơ. Tôi nói chúng tôi là quân giải phóng các anh đã bị bắt và hỏi: “Tụi bay ở cách đây có xa không?” - “Ngay trước mặt bên kia bãi tranh, đây ra đó có mấy chục mét ạ”. Tôi hỏi: “Tụi bay có đông không?” - “Đông lắm, có hầm hào kiên cố”.

        Tôi báo lên Tiểu đoàn. Tiểu đoàn điện đưa ngay chúng lên để khai thác. Như vậy từ hôm qua tới nay chúng tôi chi cách địch hơn 50 mét, cách nhau một bãi cỏ tranh. Chúng tôi ở rìa ấp, tụi địch ở trong đồn. Hôm qua pháo cối ta đều bắn vọt ra phía sau, chủ yếu lên mép đường.

        Hơn 5 giờ chiều, pháo của ta có hàng chục khẩu đủ loại, kể cả pháo 130 ly, từ nhiều hướng bắn vào trung tâm thị xã. 2 khẩu pháo 85 tăng cường của Trung đoàn chi viện cho Tiểu đoàn 2 cũng tiếp tục bắn. Mấy khẩu cối 82 của Trung đoàn, Tiểu đoàn bắn phá các mục tiêu trước mặt chúng tôi vài trăm mét.

        Khi pháo cối vừa dứt, Tiểu đoàn ra lệnh xung phong. Đại đội tôi đánh bên phải, Đại đội 3 đánh bên trái. Hướng Đại đội tôi khi vận động ra gần bãi cỏ tranh vấp phải hàng rào dây thép gai. Vì bộ đội mang vác nặng nên tôi cầm hộ anh em chiếc kéo cắt dây thép gai. Anh em vướng dây thép gai không lên được nàm bẹp xuống. Dũng bảo tôi: “Anh lên cắt dây thép gai đi, nhanh lên không thì chết hết”. Tôi vội vàng lên cắt lia lịa hai lớp hàng rào đơn. Bộ đội ào ào xông vào. Đại bộ phận nhảy được vào phía ứong bờ đắp thì bị địch phát hiện. Từ cánh phải địch dùng đại liên và 12,7 ly bắn ngăn chặn phía sau đơn vị tôi. Mấy đồng chí hi sinh chồng lên nhau. Trong đó có Hùng liên lạc bị một viên 12,7 ly bắn mất phần đầu phía trên trán.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Một, 2017, 09:19:29 pm

        Bộ phận chúng tôi vào trước đã bám vào bờ đắp bắn trả quyết liệt. Tôi nhìn sang bên trái, Đại đội 3 cũng chưa vào được và đang bị hỏa lực địch bắn chéo qua. Tôi gọi: “Chủng, cậu dùng B41 bắn vào hỏa điểm kia, chi viện cho Đại đội 3 không họ chết hết”. Chủng nhanh chóng bắn 2 quả B41 vào hỏa lực địch. Hỏa lực địch im bặt. Anh em Đại đội 3 đã nhảy được vào trong bờ đắp.

        Phía trong bờ đắp rộng khoảng 400m2, địch dùng làm bãi để xe hư hỏng ở các nơi kéo về sửa chữa. Bờ đắp cao khoảng 60 phân, phía dưới có các chiến hào, sâu khoảng 50 phân nhưng không có nắp. Phía phải có một con đường to đi sang tiểu khu cũ địch đóng chốt ở đây đã nhiều năm. Từ bãi xe sang chốt, địch rải toàn dây thép gai bùng nhùng có đến 5, 6 lớp, chiều dày đến chín, mười mét không thể sang được.

        Chúng tôi cho bộ đội bám vào bờ rào để bắn sang. Địch bắn trả M79 và cối 60 quyết liệt. Anh em chúng tôi phải rúc xuống gầm xe ô tô để tránh mảnh, có nhiều quả nổ ngay trên thùng xe. Tôi và Đại đội 3 đã bắt liên lạc được với nhau. Chúng tôi chia nhau mỗi đơn vị đảm nhiệm một hướng. Thuần, Đại đội trưởng đại đội 3 nói: “Tôi đã có mấy đồng chí hi sinh tại cửa mở, may có các anh bắn kiềm chế và tiêu diệt được hỏa lực đầu cầu không thì đơn vị tôi chết hết”.

        “Tôi cũng vào được gần hết đội hình thì địch mới phát hiện được và dùng hỏa lực bắn chặn, tôi có bốn đồng chí hi sinh đang nằm ngoài bờ đắp”. Tôi báo nhanh về Tiểu đoàn. Tiểu đoàn biểu dương tinh thần chiến đấu của bộ đội và nhắc nhờ hai đơn vị bàn bạc kế hoạch tác chiến cho tốt, cho bộ đội đào hầm, quyết chiến đấu đến cùng không cho địch phản kích lấy lại. Tiểu đoàn sẽ tăng cường Đại đội 2, các loại hỏa lực và đạn dược để ngày mai đánh địch phản kích, giữ vững trận địa.

        Khoảng nửa đêm, toàn mặt trận im tiếng súng. Tôi và mấy chiến sỹ tổ chức cắt hàng rào để đưa mấy đồng chí hi sinh vào trong bờ đắp. Tôi bê Hùng liên lạc vượt lên khỏi bờ đắp, thì mấy loạt đạn từ trong đồn bắn ra. Tôi ôm Hùng lăn xuống hào. Óc và máu của Hùng thấm trắng cả tay áo tôi. Mãi tới mấy ngày sau khi giải phóng tôi mới có áo thay. Sau đó, Đại đội 2 vào tăng cường, thêm 1 khẩu ĐKZ 82 và nhiều đạn dược, nhất là đạn B40, B41 bộc phá, thủ pháo. Anh em vận tải khiêng số tử sỹ và thương binh về phía sau.

        Đại đội 2, Đại đội 3 quân số khá đông. Đơn vị tôi tính cả cán bộ chi còn lại hơn chục tay súng, chủ yếu lính các đơn vị tăng cường. Tiểu đoàn thông báo quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch là phải giải phóng Phước Long trước ngày 7 tháng 1 năm 1975. Nếu kéo dài sẽ gặp khó khăn. Địch đã điều động 20 tiểu đoàn lính dù về sân bay Tân Sơn Nhất sẵn sàng đổ quân nhằm cứu vãn Phước Long.

        Để đảm bảo thắng lợi nhanh nhất, Bộ Chỉ huy Miền đã huy động Sư đoàn 3, Sư đoàn 7 và toàn bộ pháo của đoàn pháo Biên Hòa về đây. Nay điều thêm một Trung đoàn bộ binh của Sư 9, sẵn sàng đánh quân đổ bộ ở vùng Đức Hạnh.

        Từ sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, các đơn vị của Tiểu đoàn 2 bám bờ đắp, dùng hỏa lực bắn sang chốt địch. Giữa ta và địch chỉ cách nhau khoảng hơn 50 mét, nhưng có đến cả chục hàng rào dây thép gai nên không thể tấn công được. Chúng tôi dùng ĐKZ vác vai bắn sang các lô cốt đầu cầu. Từ chỗ chúng tôi sang phía địch chi có một con đường mà địch đã dùng hàng rào bùng nhùng, rải chín, mười lớp để lấp ngăn chặn.

        Chúng tôi phá được khá nhiều hàng rào và khống chế không cho địch ra khắc phục lại. Ở đoạn gần địch, chúng tôi cho bộ đội cột 2 quả thủ pháo với nhau giật nụ xòe quảng vào, chỉ còn lại vài lớp trong cùng không sao phá được.

        Đầu chiều, pháo của ta từ nhiều hướng cấp tập bắn vào trung tâm thị xã. Pháo bắn gần 2 tiếng đồng hồ mới dứt. Tiểu đoàn thông báo pháo của ta đã bắn cấp tập vào thị xã. Các đơn vị bộ binh từ nhiều hướng đang chuẩn bị tấn công. Sư đoàn đã điều Tiểu đoàn phòng không 37 lên sát Tiểu đoàn ta, quyết tâm kiềm chế máy bay địch đến oanh tạc, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn tấn công. Hiện nay Trung đoàn đã kéo hai khẩu pháo 85 bắn thẳng hỗ trợ chúng ta. Pháo sẽ bắn 50 quả, sau đó các đồng chí cho bộ đội lên phá hàng rào xông vào.

        Pháo 85, cối 82 của Tiểu đoàn và súng ĐKZ của chúng tôi cấp tập dội vào trung tâm chốt địch, khói đất mù mịt, ngồi dưới hào nghe pháo cối ta bắn qua, tiếng rít của đạn xé tai. Pháo vừa dứt, bộ đội lên đánh bộc phá vào mấy hàng rào còn lại thì bị địch phản kích quyết liệt, anh em đành quay lại.

        Tiểu đoàn điện, phía bên trái đường chính, bộ binh và xe tăng của ta đang tấn công từ Phước Bình lên, chú ý bắt liên lạc với họ. Đồng chí Thuần cử đồng chí Điền, Đại đội phó và 2 chiến sỹ ra đường chính bắt liên lạc với xe tăng. Điền nói 2 bên còn địch chưa đánh đâu, bên phải địch cố thủ mạnh lắm, các đồng chí cho xe tăng bắn vào đây mấy quả.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:17:17 am
             
        Xe tăng quay nòng pháo bắn liên tiếp mấy quả vào lô cốt đầu cầu. Chúng tôi thấy địch im tiếng súng liền hô bộ đội nhảy lên đánh liên tiếp 2 quả bộc phá. Hàng rào bị tung ra. Chúng tôi ào ào đánh thẳng vào trung tâm. Thủ pháo, lựu đạn, bộ đội quăng tới tấp xuống hầm, những hầm to anh em đã quẳng cả quả bộc phá sào vào. Nhiều hầm phía trước, địch chưa biết chúng tôi đã vào vùng trung tâm, nên vẫn quay súng bắn ra phía trước. Hầu hết tụi địch hai ngày nay bị pháo ta bắn nổ trên hầm nên điếc hết. Tiếng bộc phá, tiếng lựu đạn tụi nó cứ tưởng là pháo kích nên hầu hết chúi đầu trong hầm.

        Hầm hào của địch làm hết sức kiên cố, sâu hơn 1 mét, rộng khoảng hơn 2 mét, dài có cái 9 đến 10 mét. Chúng đưa gỗ từ rừng về, những cây gỗ có đường kính đến 70 phân, đậy lên lấp một lớp đất đá dày. Xung quanh sát mép đất nó kê lên cao khoảng vài chục phân thành lỗ châu mai, tụi địch kê ván ngủ nghỉ. Ở đây đã nhiều năm, địch chạy xung quanh dưới hầm chỗ nào cũng có thể bắn và ném lựu đạn ra được. Mỗi hầm địch ở khoảng 9 đến 10 tên.

        Chi trong mấy phút, Tiểu đoàn chúng tôi cơ bản làm chủ trận địa. Bọn tù binh khai ở giữa có một cái hầm dài 50 mét từ Đông sang Tây có nhiều cửa để lên, có các cửa đóng mở lên xuống. Hầm hào sâu khoảng 1,5 mét, rộng khoảng 2 mét, lấp đất dày, pháo bắn không sập, chúng tôi đi trên vẫn không biết. Khi tên tù binh khai ra, chúng tôi cho mấy tên chui xuống kêu gọi tụi lính dưới đó lên đầu hàng nếu không quân giải phóng sẽ đánh bộc phá chết hết.

        Tôi nói trong vòng mấy phút không lên thì đừng có trách chúng tôi. Anh em có người tức giận nói quăng thủ pháo vào cho nó chết quách đi cho xong, bắt làm gì. Tôi nói không được, để tí nữa xem sao. Chi một lát sau tụi địch chui ra, đầu hàng. Tất cả có hơn 60 tên, trong đỏ có tên Trung tá chỉ huy trưởng. Chúng tôi tiếp tục lùng sục. Tiểu đoàn điện các Đại đội phân chia ra từng khu vực đảm nhiệm chú ý địch đánh phản kích.

        Xe tăng và một số bộ binh đi cùng thấy thuận lợi đã tấn công thẳng vào trung tâm, trong khi các đơn vị bộ binh chưa vào kịp nên đã bị địch phản kích. Anh em phải tạt sang trái cạnh hồ nước để cố thủ, một chiếc xe tăng T54 bị địch bắn cháy đỏ như con cua luộc. Bộ phận này bị thiệt hại khá nặng, trong đó có đồng chí Điền đại đội phó đại đội 3 đã hi sinh.

        Anh em đi cùng kể lại, anh Điền nhảy lên xe tăng, chi mục tiêu cho xe tăng bắn. Xe chạy nhanh anh không xuống kịp mà ngồi trên xe tăng đi thẳng vào thị xã. Kết thúc trận đánh, chúng tôi tìm không thấy anh Điền và sau này cũng không tìm thấy xác anh.

        Làm chủ xong, chúng tôi mới có điều kiện đi thị sát lại toàn bộ trận địa. Đường hầm hào của địch quá kiên cố vì trước đây là Bộ Chỉ huy tiểu khu Phước Long, về sau mới chuyển lên trên thị xã. Những hầm ở phía trước, từ hôm qua đến nay nó đánh rất quyết liệt vỏ đạn đại liên đạn, 12,7 ly có lẽ phải mấy bao tải. Theo số hầm bố trí ở đây, địch cỏ khoảng trên 300 tên. Do bị đánh nhiều nơi, chúng dồn về đây quá đông, có lẽ phải trên 500 tên. Hầm đầu cầu, xe tăng bắn vào chúng tôi đếm được 20 cái xác, còn các hầm khác 14 đến 15 xác. Chúng tôi chỉ bắt sống được hơn 60 tên, còn toàn bộ bị tiêu diệt ngay dưới hầm.

        Sáng ngày 6 tháng 1, pháo binh của ta lại tiếp tục bắn hàng ngàn quả vào thị xã Phước Long. Sau đó các đơn vị bộ binh và xe tăng của Sư đoàn 7 đã đánh thẳng vào giữa trung tâm thị xã. Chúng tôi chốt lại tại đây. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 271 đánh chiếm khu vực cầu Đắc Lung.

        Khi chạy, địch đã lùa dân chạy theo. Tại cầu Đắc Lung 2 máy bay phản lực ném 2 quả bom trúng giữa đám dân sơ tán. Hàng trăm người dân vô tội bị chết và bị thương. Trưa ngày 6 tháng 1 năm 1975, thị xã Phước Long được giải phóng và tỉnh Phước Long là tỉnh đầu tiên của miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

        Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ chốt lại khu vực này, sẵn sàng đánh địch phản kích. Bộ đội phải kéo xác địch ra khỏi hầm để ở. Xác địch chất thành từng đống, từng dãy.

        Kết thúc chiến dịch, Thiếu tướng Hoàng cầm, Tư lệnh chiến dịch và một số tùy tùng xuống ngay để thị sát trận địa. Ông đi khắp trận địa xem từng hầm, hào, lô cốt cấu trúc của địch. Thấy xác địch chết nhiều quá xếp thành đống, ông đến hỏi tôi : “Khu vực này đơn vị nào đánh đây” Tôi trả lời: “Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 271 đánh ạ!” ông nói: “Nếu biết quân địch bố trí thế này và quân số trang bị như thế này thì một Trung đoàn chưa dám tấn công, thế mà một Tiểu đoàn đánh , các đồng chí đánh giỏi lắm! Tôi sẽ về đề nghị Bộ Chỉ huy Miền tặng thưởng Huân chương Quân công đơn vị đồng chí”. Ông nói với đồng chí tùy tùng: “Đồng chí ghi đầy đủ phiên hiệu của đơn vị”. Chúng tôi cứ tưởng ông nói động viên. Không ngờ, sau khi ông về làm việc với Sư đoàn và Trung đoàn đã đề nghị Bộ Chỉ huy miền tặng Huân chương Quân công hạng 3 cho Tiểu đoàn 2.

        Sáng ngày thứ 3, xác địch phình ra, một số xác bên ngoài thì bị xe tăng, xe pháo địch đằn nát kéo đi khắp nơi làm cả một vùng thối không chịu được. Chúng tôi phải đào hầm ra ngoài để ở, sẵn sàng đánh địch phản kích. Vì lúc này Đài phát thanh Sài Gòn vẫn liên tục phát đi phát lại lời kêu gọi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tái chiếm Phước Long và nhân dân để tang một tuần tường niệm các chiến sỹ Việt Nam cộng hòa tử trận.

        Đề phòng địch tái chiếm Bộ Chỉ huy Miền đã cho chở hàng chục tấn bộc phá xuống và cho anh em công binh đánh sập các công trình quốc phòng của địch trong thị xã Phước Long.

        Chúng tôi được ra ấp Tư Hiền ở, sẵn sàng đánh địch và phát động nhân dân đi gọi con em ngụy quân, ngụy quyền còn lẩn trốn ngoài rừng về và giúp đỡ nhân dân tu sửa lại nhà cửa, ổn định cuộc sống. Sau khi các đơn vị chốt ở đây biết được ý định địch không có khả năng tái chiếm Phước Long vì lực lượng của nó đang bị căng kéo đối phó trên toàn chiến trường. Các đơn vị lần lượt rút khỏi Phước Long.

        Đơn vị tôi được lệnh hành quân về Trại Bí, Tây Ninh để nhận nhiệm vụ mới. Chúng tôi hành quân gần tới Bù Đốp thì gặp một số anh em người cùng xã ở Trung đoàn pháo 262 ra chặn đường hỏi thăm tôi. Các anh Thịnh, Nhơn, Phúc, Tam gặp được tôi ai cũng mừng. Họ cứ tưởng tôi đã chết vì thấy đơn vị bộ binh đánh nhau ác liệt quá. Cách đây gần một tháng trước khi đánh Bù Đăng, lúc xuất phát, mấy anh em này cũng đã đến chỗ đơn vị tôi chơi. Nay gặp lại nhau tất cả đều an toàn. Chúng tôi gặp nhau giữa đường được mấy phút rồi cuộc hành quân lại tiếp tục.

        Đến tận Trại Bí, tinh Tây Ninh thì dừng lại, tại đây đơn vị được bổ sung quân số, huấn luyện, học tập chính trị và sẵn sàng đánh địch. Trong chiến dịch mở màn mùa khô từ trung tuần tháng 12 năm 1974 đến 6 tháng 1 năm 1975, Sư đoàn 3 và một số đơn vị bạn đã đánh tiêu diệt, bắt tù binh và làm tan rã hơn 1 vạn tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ Bù Đăng đến Phước Long lên tận Lộc Ninh. Vùng giải phóng áp sát tận Phú Giáo, Hớn Quản, Bình Long. Tỉnh Phước Long hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:19:20 am

        ĐÁNH ĐỒN AN THẠNH

        Thời gian này, Binh đoàn (Quân đoàn) 232 được thành lập bao gồm 3 Sư đoàn bộ binh đó là Sư 3, Sư 5, Sư 9 và đoàn pháo Biên Hòa, tác chiến ở phía Tây Nam Sài Gòn.

        Trung đoàn 271 được cấp trên giao nhiệm vụ đánh mở màn cho chiến dịch kết hợp với các đơn vị của Sư đoàn diệt địch, giải phóng tuyến hành lang từ Bến cầu đến Đức Huệ.

        Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ đánh và tiêu diệt địch đồn An Thạnh thuộc ấp An Thạnh, Gò Dầu, Tây Ninh, sau đó chốt lại. Tiểu đoàn 9 đánh tiêu diệt địch ở đồn Mộc Bài.

        Đồn An Thạnh ở đầu ấp An Thạnh sát đường 1 cách cầu Gò Dầu khoảng 4 km, cách đồn Mộc Bài khoảng 3 km về phía Tây. Cấp trên xác định trong chiến dịch này đồn An Thạnh là quan trọng nhất. Nếu ta đánh tiêu diệt được An Thạnh và làm chủ An Thạnh thì các đồn xung quanh như Bến Sỏi, Bến Cầu, Mộc Bài, Tà Cao và chi khu Đức Huệ địch sẽ hoang mang dao động và có thể sẽ rút chạy.

        Hơn nữa An Thạnh nằm trên tuyến đường 1 đi về Sài Gòn không đầy 100 km, trực tiếp uy hiếp địch ở Tây Ninh và Hậu Nghĩa, Long An.

        Địch ở An Thạnh có hơn một đại đội, có hầm hào, lô cốt và được trang bị hỏa lực mạnh. Đại bộ phận địch đóng ở bên phải đường từ Căm Pu Chia sang, một trung đội đóng chếch lên phía trước bên trái đường 1 từ Căm Pu Chia xuống.

        Đồn Mộc Bài thì hoàn toàn độc lập nằm sau An Thạnh khoảng 3 km. Mọi hoạt động về hậu cần và chi viện cho đồn Mộc Bài đều do quân đội Sài Gòn đảm nhiệm, mà trực tiếp là từ đồn An Thạnh lên.

        Đơn vị tôi đảm nhiệm, nhiệm vụ quan trọng của chiến dịch, nên được Bộ Tư lệnh Đoàn 232, Sư đoàn, Trung đoàn hết sức quan tâm, chỉ đạo động viên. Tiểu đoàn được Tư lệnh Năm Ngà và Chính uỷ Đoàn 232 Tám Trần đến nói chuyện động viên và giao nhiệm vụ. Tư lệnh Năm Ngà nói trận đánh của Tiểu đoàn vào An Thạnh, Quân đoàn sẽ chi huy trực tiếp, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để Tiểu đoàn 2 hoàn thành nhiệm vụ. Nếu Tiểu đoàn 2 gặp khó khăn, Quân đoàn sẽ cho 4 khẩu pháo 122 ly bắn chi viện và tăng cường cả B72 để đánh tàu, xe tăng, A72 để bắn máy bay. Như vậy, Tiểu đoàn 2 có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bộ Tư lệnh hoàn toàn tin tưởng ở các đồng chí.

        Thiếu tướng Năm Ngà nói tiếp: “Trận đánh giải phóng đồn An Thạnh là trận mở màn cho Quân đoàn. Nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ta tiêu diệt đồn An Thạnh, sau đó xây dựng trận địa chốt chặn tại đó, như một mũi dao nhọn chĩa vào bụng địch và sẽ thu hút lực lượng địch. Tạo điều kiện cho các đơn vị của Quân đoàn giải phóng Bến Cầu, Trà Cao, Đức Huệ mở tung hành lang xuống Tây Nam Bộ và cũng là hướng tấn công vào Sài Gòn gần nhất”.

        Vì thời gian gấp, cán bộ đi trước chuẩn bị chiến trường, đơn vị hành quân theo sau. Mấy đêm hành quân liên tục vất vả, cả Trung đoàn đã tới khu vực tập kết đó là Ba Vách, Căm Pu Chia, cách Mộc Bài khoảng 5 km thì dừng lại, làm công tác chuẩn bị. Đây cũng là vị trị tập kết của Tiểu đoàn 9 đánh vào Mộc Bài.

        Tiểu đoàn 2 phải hành quân thêm một đêm nữa mới tới vị trị tập kết vì phải vòng về phía trái đồn Mộc Bài. Tối ngày 12 tháng 3, các đơn vị Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 9 đều hành quân chiếm lĩnh trận địa.

        Đường hành quân chiếm lĩnh của Tiểu đoàn 2 quá xa, lại phải đi qua một cánh đồng, bưng biền trống trải, cỏ chi cao không quá đầu gối, có đoạn phải đi qua sình lầy. Tiểu đoàn mới được bổ sung, mỗi Đại đội có 40 đến 50 tay súng, cộng thêm nhiều đơn vị phối thuộc như một khẩu 12,7 ly, một khẩu DKZ75, trinh sát thông tin của Sư đoàn, của Trung đoàn, anh em công binh, một Trung đội B72 đánh tàu và đánh xe tăng, một Tiểu đội A72 bắn máy bay. Quân số khoảng hơn 500 người. Chỉ cần một sơ suất nhỏ làm lộ bí mật thì pháo của địch từ Gò Dầu, Đức Huệ nện vào tổn thất sẽ vô cùng lớn.

        Từ bãi trống sình lầy tới gần ấp, dải đất mới cao dần tạo thành nhiều ruộng bậc thang tới tận ấp, vào tới đường 1 thì bằng phăng có các hàng cây bạch đàn và các dãy cây thốt nốt Căm Pu Chia. Đây cũng là biên giới của hai Quốc gia.

        Chờ trời tối hẳn, chúng tôi mới cho bộ đội hành quân. Từ đây tới An Thạnh bộ đội phải đi tới 4 đến 5 giờ nếu thuận lợi. Mãi tới hơn 12 giờ đêm đơn vị mới bám được dải đất bậc thang của ấp An Thạnh. Đến đây bộ đội lợi dụng các bờ ruộng cao nghỉ ngơi, còn cán bộ và anh em trinh sát tiếp tục đi vào ấp để bám địch.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:20:04 am

        Bám địch về, theo nhiệm vụ phân công: Đại đội 1 được tăng cường một khẩu DKZ82 có nhiệm vụ tiêu diệt chốt nhỏ bên trái đường 1, sau đó xây dựng trận địa chốt chặn, đánh địch phản kích. Đồn An Thạnh nằm ở phía phải đường 1, cuối ấp An Thạnh do Đại đội 3, Đại đội 2 và một số đơn vị như DKZ, 12,7 ly đảm nhiệm. Đại đội 3 đánh địch trên hướng chủ yếu. Đại đội 2 đánh một mũi cặp theo đường 1 vào. Đơn vị công binh và B72 cắt vòng qua đường một đi về phía sông Vàm Cỏ Đông để chặn đánh tàu địch, đoạn thượng nguồn cầu Gò Dầu.

        Vì dân cư trong ấp đông để đảm bảo bí mật, chúng tôi cho các Đại đội bộ binh hành quân tiền nhập, còn các đơn vị như cối 82, A72, Tiểu đoàn bộ vẫn ở ngoài chờ bộ đội nổ súng mới vận động vào ấp. Hầm hào của bộ đội chủ yếu dựa vào bờ ruộng, bờ mương để ẩn tránh, vừa tác chiến, vừa đào hầm.

        Để trực tiếp chi huy Tiểu đoàn hành quân, thông tin của Quân đoàn, Sư đoàn, Trung đoàn rải dây đi theo nên đơn vị chúng tôi tới đâu là phải báo cáo về trên cả ba cấp.

        Khi đơn vị hành quân về Trại Bí, tôi được cấp trên bổ nhiệm giữ chức Chính trị viên phó Tiểu đoàn, đồng chí Dũng, Đại đội trường được bổ nhiệm lên Tiểu đoàn phó. Do vậy Ban Chi huy Đại đội 1 hoàn toàn mới, đồng chí Thọ, Trung đội trưởng trinh sát được bổ nhiệm Đại đội trưởng. Đồng chí Thành, Trung đội trưởng được bổ nhiệm làm chính trị viên vì đồng chí Minh, Đại đội phó và đồng chí Chính, Chính trị viên phó bị thương đi viện chưa về.

        Ban Chi huy Tiểu đoàn phân công tôi xuống trực tiếp chỉ huy Đại đội 1. Được sự chi đạo của cấp trên, theo hợp đồng, mờ sáng ngày 13 tháng 3, Tiểu đoàn 2 nổ súng tấn công. Chỉ khoảng 10 phút nổ súng, Đại đội 1 đã tiêu diệt và làm chủ chốt đầu cầu phía trái đường một. Đồng chí Mơ đại đội phó vướng mìn hi sinh tại chỗ. Hướng Đại đội 2 và 3, địch phản kích quyết liệt, đặc biệt là Đại đội 2 đánh cặp đường 1 trống trải không có vật che khuất, bộ đội không thể lên được. Đại đội 3 đã chiếm được 1 phần 3 đồn nhưng không sao dứt điểm được vì mũi của Đại đội 2 bị địch đánh quằn lại.

        Tiểu đoàn đã nhanh chóng điều khẩu DKZ75 và một khẩu 12,7 ly cùng với 2 khẩu cối 82 đến sát cạnh đồn, tổ chức tấn công. Pháo cối các loại của ta cấp tập bắn vào trung tâm đồn. Lợi dụng thời cơ địch đang chúi đầu xuống hầm tránh pháo, Đại đội 3 đã nhanh chóng đánh thẳng vào trung tâm. Đến hơn 7 giờ sáng, thì quân ta làm chủ trận địa. Một số địch bị tiêu diệt, một số bỏ chạy về phía Gò Dầu. Như vậy chi sau 2 giờ nổ súng tấn công, Tiểu đoàn 2 đã tiêu diệt và làm chủ đồn An Thạnh, ấp An Thạnh.

        Địch bị đánh bất ngờ trở tay không kịp. Chúng tôi nhanh chóng điều chỉnh lại lực lượng, xây dựng lại trận địa chốt liên hoàn.

        Địch cho máy bay lên quần lượn rồi gọi pháo Gò Dầu bắn vào trận địa. Bộ đội ta vừa cảnh giới, vừa đào hầm giữa ban ngày. Chúng tôi báo cáo kết quả về cấp trên, Quân đoàn, Sư đoàn và Trung đoàn đều biểu dương khen ngợi và Sư đoàn thông báo pháo 122 ly của ta sẵn sàng chi viện cho chúng tôi để đánh địch phản kích, quyết tâm giữ vững trận địa.

        Hướng tiểu đoàn 9 đánh đồn Mộc Bài không dứt điểm được, bị địch phản kích, bộ đội thương vong khá lớn, nhưng cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9 kiên quyết không lùi ra chờ hỏa lực cấp trên chi viện để nhổ bằng được đồn Mộc Bài. Lính Lon Non chống cự đến cùng vì không có con đường nào chạy nữa, duy nhất chỉ có con đường 1 chạy về An Thạnh, Gò Dầu để ngụy quân Sài Gòn cưu mang trở về Nông Pênh, nhưng hiện nay đường 1 đã bị chặn.

        Khoảng hơn 4 giờ chiều ngày 13 tháng 3, Tiểu đoàn 9 được cấp trên tăng viện, pháo binh xe tăng đã tổ chức tấn công. Địch chống cự không nổi đã bỏ chạy về hướng chúng tôi. Chúng tưởng chúng tôi chi chốt chặn trên đường 1 nên lợi dụng gò đất bậc thang sát mép sình chạy về Gò Dầu. Chúng không ngờ phía sau của Tiểu đoàn tôi lại đào hầm nằm sát bìa sình, bao gồm thông tin, trinh sát, vận tải, 12,7 ly, A72. Thực ra Tiểu đoàn 9 tấn công địch bỏ chạy về đây Trung đoàn cũng như Tiểu đoàn 9 không biết. Địch có hàng trăm thằng chạy thẳng vào trận địa 12,7 ly. Anh em 12,7 ly hoảng hốt, điện về báo Tiểu đoàn địch đông lắm đang chạy về hướng ta.

        Tôi và anh Chúc, Tiểu đoàn trưởng lên khỏi hầm nhìn thấy địch chạy đỏ đồng. Chúng tôi điện cho Đại đội 1 dùng một lực lượng bịt địch phía sau không cho nó quay lại, tôi gọi sang trận địa cối 82

        - Các anh có nhìn thấy địch không?

        - Có.

        - Chờ 12,7 ly nổ súng, mới được bắn. Chú ý Đại đội 1 vận động chặn phía sau, khéo bắn nhầm vào Đại đội 1 nhé.

        Chỉ trong nháy mắt, bộ đội đồng loạt nổ súng, cối 82 bắn vào giữa đội hình địch.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:20:37 am

        Địch lợi dụng bờ ruộng giơ tay hàng. Tiểu đoàn điện các đơn vị không bắn nữa, nhanh chóng ra bắt tù binh, thu hồi vũ khí.

        Chúng tôi bắt được 120 tên, thu toàn bộ vũ khí. Thật kỳ lạ, đánh nhau đơn vị phía sau bắt tù binh, thu vũ khí. Đồn Mộc Bài giải phóng tạo thành hành lang thuận tiện từ phía sau cho đơn vị chúng tôi.

        Tiểu đoàn 2 chốt ở đây liên tục 20 ngày. Trận địa chốt này vô cùng ác liệt. Địch tập trung lực lượng lớn bộ binh xe tăng, pháo binh để nhổ bằng được chốt của ta.

        Trong khi địch tập trung lực lượng tấn công ở đây thì các đơn vị của Quân đoàn đã tiêu diệt và giải phóng một mảng lớn như Bển Cầu, Trà Cao, Đức Huệ. Địch tập trung lực lượng để ngăn chặn hướng tấn công của ta theo tuyến đường 1 về Tây Ninh và Sài Gòn. Chúng điều về đây 3 trận địa pháo từ 105 đến 155 ly. Có ngày địch bắn hàng nghìn quả vào trận địa và liên tục cho máy bay các loại đến đánh bom bắn phá.

        Một tiểu đội A72 của cấp trên xuống tăng cường, chi mang theo 4 quả đạn đã bắn rơi 3 máy bay: Một Ll9, một chiếc 2 thân bắn đạn 20 ly ban đêm và một chiếc phản lực. B72 bắn 2 quả nhưng không cháy xe tăng nào.

        Ngày nào cũng vậy, cứ sau các đợt bom pháo địch lại cho bộ binh và xe tăng tấn công vào nhưng đều bị ta đánh bật ra. Mỗi lần địch tấn công vào chúng tôi lại gọi pháo 122 ly bắn chi viện nên bộ đội hoàn toàn yên tâm. Tiểu đoàn 2 chốt chịu đựng gian khổ ác liệt, nhưng các đơn vị trực thuộc của Trung đoàn làm công tác phục vụ cũng rất ác liệt và gian khổ.

        Đêm nào Trung đoàn cũng tổ chức các đơn vị vận tải mang lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược xuống cho chúng tôi rồi khiêng cáng thương binh về phía sau. Dọc đường anh em thường bị pháo địch bắn chặn gây thương vong. Các đồng chí hi sinh, anh em Tiểu đoàn tổ chức chôn cất tại chỗ.

        Hơn 20 ngày chốt chặn, Tiểu đoàn 2 có 36 đồng chí hi sinh, gần 100 đồng chí bị thương phải đưa ra tuyến sau. Trong khi ngày đầu đánh chiếm An Thạnh, cả Tiểu đoàn chỉ có 3 đồng chí hi sinh.

        Cuối tháng 3, đầu tháng 4 tình hình hoạt động của địch giảm dần. Trung đoàn đã cho Tiểu đoàn 3 xuống thay thế để Tiểu đoàn 2 đi nhận nhiệm vụ mới. Tôi và một số cán bộ Đại đội, thông tin, trinh sát lên Trung đoàn nhận nhiệm vụ.

        Tới Trung đoàn, chúng tôi được phổ biến kế hoạch nhiệm vụ như sau:

        Bộ Chi huy Đoàn 232 quyết định tập trung lực lượng của Đoàn đánh tiêu diệt và giải phóng thị xã Kiến Tường. Lực lượng của ta tham gia gồm có Sư đoàn 5, tăng cường Trung đoàn bộ binh 271 và toàn bộ pháo binh của Trung đoàn, trong đó có cả pháo 130 ly.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:21:22 am

        QUA KIẾN TƯỜNG VỀ MỸ THO TẤN CÔNG ĐỒN AN HIỆP VÀ CHỐNG CÀN Ở TÂN LÝ

        Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 2 làm nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đánh và tiêu diệt Bộ Chỉ huy tiểu khu, Bộ Chỉ huy Sư đoàn 7 ngụy ngay giữa trung tâm thị xã Kiến Tường. Tiểu đoàn do Sư đoàn chỉ huy trực tiếp.

        Quân địch ở đây rất mạnh, ngoài lực lượng địa phương còn có 1 Trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 7, một Lữ đoàn xe tăng thiết giáp và hàng chục khẩu pháo các loại.

        Đánh vào thị xã có nhiều mục tiêu và diện rộng, quân ta có nhiều đon vị tham gia nên các đon vị được giao nhiệm vụ tác chiến ở mục tiêu nào thì tổ chức đi điều nghiên mục tiêu đó. Đoàn điều nghiên của đon vị tôi gồm có 4 đồng chí cán bộ Đại đội, 5 trinh sát của Tiểu đoàn, 5 binh sát của Sư đoàn, thông tin liên lạc. Tham mưu trưởng Sư đoàn, Ba Tam trực tiếp chỉ huy.

        Được anh em du kích và bộ đội địa phương dẫn đường. Qua mấy đêm hành quân đến kênh Dương Văn Dương thì đồng chí tỉnh đội phó tỉnh Kiến Tường đón tiếp. Đồng chí thông báo về tình hình địch trong thị xã Kiến Tường và quy luật hoạt động của nó. Đồng chí nói:

        - Từ đây vào thị xã không xa nhưng phải đi 2 đêm mới vào trinh sát được. Đêm thứ nhất vượt kênh phải chờ tới khuya con nước xuống mới vượt được vì kênh sâu quá đầu người, ở đây không cỏ thuyền vì gần đồn địch quá, vượt bằng thuyền sẽ bị lộ. Vượt sông xong, đi thêm mấy tiếng đồng hồ thì cho bộ đội ém vào mấy rãnh cỏ, chờ cho trời tối sẽ vào thị xã. Khi đi ra, ta cố gắng vượt kênh luôn, sang bên này bờ kênh thì mới an toàn có cây cối rậm rạp dễ ẩn náu. Từ đây trở đi sẽ có du kích và cơ sở dẫn đường. Đường đi phải đi qua ấp chiến lược, qua khu dân cư nên yêu cầu các đồng chí vượt kênh xong là đi chân đất hoặc đi dép tông, không được đi giày hoặc dép râu.

        Một ngày nằm chờ đợi ở bờ kênh Dương Văn Dương hết sức căng thẳng. Địa hình mới lạ, xung quanh toàn kênh rạch. Hai bên bờ kênh chỉ có cây mua, móc, sậy, dưới mép kênh thì cây dừa nước. Phía bên kia bờ kênh có con đường đất rải đá chạy về Mộc Hóa. Đường lớn xe cơ giới chạy được. Trên kênh thỉnh thoảng có đôi chiếc thuyền của dân qua lại. Tối đến chúng tôi được du kích hướng dẫn vượt kênh, vượt đường và tiếp tục đi sâu vào gần thị xã. Từ đây bộ đồng chí Ba Tam không đi với chúng tôi nữa.

        Vượt đường xong, đoàn chúng tôi vừa đi, vừa bám địch nên đi rất chậm. Gần sáng, anh du kích địa phương nói: “Bây giờ bộ đội ém quân ở đây, tối mai đi tiếp”. Ở đây đã nhìn thấy ánh điện trong thị xã. Anh du kích tiếp: “Ngày mai, có điều kiện quan sát địa hình, nắm địch, tôi vào ấp để bắt liên lạc với cơ sở trong đó mới có thể đưa các đồng chí đến các mục tiêu”.

        Giữa trời đất mênh mông, chúng tôi dựa vào mấy bờ kênh lơ thơ đôi chùm cây tràm cao quá đầu người. Dưới bưng cỏ năn, cỏ lác mọc dày đặc, cao đến bụng, anh em ngụy trang nằm tại chỗ. Cán bộ cơ sở nói: “Các anh yên tâm, cố gắng giữ bí mật, địch ít đi càn vùng này vì đây là hậu phương, địa hình lại trống trải”.

        Sáng ra, chúng tôi có điều kiện quan sát địa hình, địa vật nhìn vào hướng thị xã, hình dung và dự kiến đường hành quân chiếm lĩnh của đơn vị. Tôi thấy nhiệm vụ trên giao quá nặng nề. Với địa hình này, nếu các đơn vị bạn hiệp đồng tác chiến không tốt, hoặc họ gặp khó khăn không vào được thì đơn vị tôi sẽ khó khăn khôn lường. Vì chúng tôi là đơn vị thọc sâu, vào tới đây coi như đã vào sâu trong lòng địch. Xung quanh có nhiều đồn bốt địch, địa hình bằng phẳng, trống trải. Song mình cũng tin các đơn vị tác chiến trong chiến dịch tổng hợp, hợp đồng binh chủng của Quân đoàn.

        Có lẽ Quân đoàn cũng đã dự kiến nhiều tình huống xảy ra kể cả thuận lợi và khó khăn. Vì thời gian quá gấp, Sư đoàn giao nhiệm vụ cho chúng tôi đi trước phải chuẩn bị và dự kiến các tình huống, các phương án tối ưu nhất để bộ đội hành quân vào chiếm lĩnh và chiến đấu ngay. Không có điều kiện họp hành gì nữa, đánh theo chiến dịch thời cơ.

        Ban Chỉ huy Tiểu đoàn chỉ có một mình tôi không có ai mà bàn bạc chia sẻ. Tôi cho mời các đồng chí cán bộ Đại đội lại bàn bạc, xác định quyết tâm, anh em cơ bản nhất trí với các phương án tôi đưa ra. Tôi là người chỉ huy cao nhất ở đây nên tôi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước đơn vị với những quyết định của mình.

        Khoảng gần 5 giờ chiều, tôi nhận điện của Sư đoàn thông báo nhiệm vụ thay đổi, ta không tập trung giải phóng thị xã Kiến Tường nữa. Ngay đêm nay, cho bộ đội hành quân về kênh Nguyễn Văn Tiếp nhận nhiệm vụ mới. Tôi thật sự nhẹ nhõm như trút được gánh nặng vì trận đánh này cấp trên giao nhiệm vụ cho đơn vị quá nặng. Tôi tin chắc đơn vị sẽ chiến thắng nhưng thương vong thì rất lớn.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:22:03 am

        Chúng tôi xuống đây, mọi hoạt động đều do cán bộ địa phương hướng dẫn. Kênh Nguyễn Văn Tiếp rộng và sâu, thượng nguồn giáp với kênh Dương Văn Dương, hạ lưu thông với sông Vàm Cỏ Tây, nước lên xuống theo thủy triều. Khi thủy triều lên nước lợ. Mặt kênh ở giữa rộng khoảng 30 mét. Hai bên bờ kênh cây dừa nước chen chúc, có nhiều đoạn chẳng thấy bờ kênh ở đâu cả. Trên bờ kênh cây cối rậm rạp, nhiều cây cao. Nhiều chỗ, dân trồng thành từng bãi tràm và bạch đàn để lấy gỗ.

        Dân làm ruộng, làm nương ra tận bờ kênh, dựng nhiều chòi lán tạm để trông coi vườn tược, nghỉ ngơi khi làm mùa. Quá trưa, tôi nhận điện của Sư đoàn là tối nay, đưa đoàn cán bộ về Thủ Thừa, Long An để nhận nhiệm vụ. Nhận điện xong tôi lo lắng vô cùng, vì từ đây về tới Thủ Thừa hơn 40 km toàn là bưng biền, kênh rạch lại còn giặc giã nữa, có ai nắm được gì đâu, làm sao mà đi được.

        Tôi điện về Sư đoàn báo cáo tình hình về địa hình, địa vật và đề nghị Sư đoàn có kế hoạch giúp đỡ. Một lát sau điện của Sư đoàn trả lời khoảng 1 giờ nữa đồng chí Ba Tam và đồng chí Tỉnh đội phó tỉnh Kiến Tường sẽ đến gặp tôi và các đồng chí ấy sẽ tạo điều kiện để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.

        Khoảng 3 giờ chiều, ông Ba Tam và ông Tỉnh đội phó đi một chiếc xuồng đến chỗ chúng tôi. Tôi mừng quá hỏi: “Từ đây tới Thủ Thừa hơn 40 km đi làm sao được?”.Tinh đội phó trả lời: “Từ đây tới đó hơn 40 km ta phải đi qua đất 3 tỉnh, đây là Kiến Tường, đi qua đất Mỹ Tho sau đó về Thủ Thừa, Long An. Nếu đi bộ phải mất hai đêm. Nhưng các anh yên tâm, chúng tôi sẽ giúp các anh đi bằng thuyền. Chờ trời tối địa phương sẽ cho hai chiếc thuyền chở đi. Tranh thủ trời chưa tối, các anh đi các chòi của dân mua lại ít xăng. Ở đây, nhà nào cũng có vài lít để bơm nước tưới rau, chứ trời tối rồi tìm không ra đâu”.

        Sau khi ông Tỉnh đội phó trao đổi và thống nhất kế hoạch đi đêm nay xong, ông Ba Tam đưa cho tôi mấy ngàn bạc nói: “Cậu cố gắng đi mua ít xăng”. Tôi và cậu liên lạc lần mò ra gặp mấy ông già đang bơm nước tưới đậu, tôi nói: “Chúng cháu cần ít xăng các bác cho chúng cháu mua lại ngày mai các bác tưới đậu tiếp chứ chúng cháu cần lắm” Nhà nào cũng ngần ngại một lúc rồi họ nói: “Các chú cứ lấy đi, tụi tôi ngày mai tưới tiếp cũng được, đậu có chết đâu mà sợ”. Chúng tôi đi mấy nhà mà cũng chi gom được 10 lít xăng.

        Gần tối, ông cán bộ xã đội dẫn 4 cô gái tới gặp chúng tôi, ông nói: “Bốn cô gái này với hai chiếc thuyền sẽ chở các anh tới Thủ Thừa. Từ đây tới đó, địch thường xuyên đi tuần, nhất là đoạn ngã ba đi vào chợ An Định, nó thường bắn pháo sáng. Ban đêm nhân dân đi lại trên kênh khá đông, họ đi chợ, đi buôn bán, đi thả câu, thả lưới. Các anh cho bộ đội ngụy trang giả làm dân mà đi. Nếu gặp địch thì cố gắng tránh né”. Qua trao đổi của cán bộ địa phương, tôi hoàn toàn yên tâm. Đoàn chúng tôi có 14 người chia làm hai thuyền. Tôi phân công mỗi thuyền đi cách nhau từ 30 đến 50 mét, vừa đi, vừa đi vừa nắm địch. Nếu gặp địch thì tránh né, tự tác chiến không thể chi viện cho nhau được vì mình thì thuyền nhỏ nó thì bo bo tốc độ lớn.

        Thuyền của tôi do hai chị em ruột một gia đình chở, hai chị em ngoài hai mươi tuổi, lầm lì ít nói. Tôi hỏi gì thì trả lời còn họ không hỏi lại chúng tôi một điều gì. Bộ đội chặt cây dừa nước ngụy trang không đội mũ tai bèo, mỗi người quấn lên đầu một chiếc khăn ràn, súng giấu dưới đáy thuyền.

        Tôi nghĩ chuyến đi này cũng cực kỳ nguy hiểm vì đi trên sông nước, đi trong lòng địch. Tôi hoàn toàn tin ở bốn cô gái là người địa phương. Họ làm gì không ai biết nhưng được giao nhiệm vụ đưa chúng tôi đi như vậy mà họ hoàn toàn không có ý kiến gì, cũng không hề sợ hãi. Họ và chúng tôi cùng trên một con thuyền, họ tay không, chúng tôi có súng sao mà họ tin tưởng và lạc quan đến thế. Chính thái độ của bốn cô gái đã làm cho chúng tôi yên tâm.

        Trời tối, bộ đội lên thuyền để bốn cô gái chở đi. Trên đường đi chúng tôi thấy rất vui có nhiều thuyền dân buôn bán chở hoa quả, rồi thuyền câu cá, thuyền thả lưới, họ chong đèn sáng trưng. Thuyền chúng tôi đi chẳng ai hỏi gì, họ cũng đâu có biết chúng tôi là quân giải phóng.

        Khoảng gần một giờ sáng, các cô gái đã đưa chúng tôi đến Thủ Thừa. Theo ám hiệu, đoàn chúng tôi được trinh sát Trung đoàn ra đón cho thuyền cập bến. Lúc này cô bé lái thuyền của tôi mới hỏi các anh ở đơn vị nào, tôi nói đùa và cũng để giữ bí mật: “Vài ngày nữa các em theo dõi trên Đài phát thanh giải phóng là sẽ biết đơn vị anh ngay”, tôi hỏi tên tuổi các cô nhưng họ chỉ cười không nói.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:22:37 am

        Thuyền cập bến an toàn, tôi mừng quá cảm ơn bốn cô gái và nói trời cũng sắp sáng rồi các cô tấp vào đâu đó nghỉ sáng mai đi tiếp. Đi vào lúc này gặp địch sẽ khó dễ cho các cô. Các cô cười và nói: “Các anh cứ yên tâm tụi em đi khi nào hết xăng thỉ nghỉ, không thì đi về nhà luôn”.

        Tôi đưa cho mỗi cô một miếng lương khô và nói: “Còn ít tiền đây các cô cầm lấy có hết xăng thì mua”. Cuộc chia tay cảm động và nhanh quá, vì tôi phải đi cho kịp vào Trung đoàn nhận nhiêm vụ. Bốn cô gái giúp đỡ chúng tôi như vậy mà chẳng biết tên tuổi, quê quán ở đâu cả.

        Sau giải phóng mấy ngày, tôi có quay lại vùng này làm công tác tử sĩ. Tôi kể lại với các đồng chí cán bộ địa phương về trường hợp bốn cô gái chèo thuyền và nhờ họ tìm giúp để đến tạ ơn. Một đồng chí nói: “Ở địa phương chúng tôi, những việc làm như bốn cô gái là chuyện thường. Giúp bộ đội, giúp cách mạng đó là nhiệm vụ của mỗi người dân. Các anh còn hi sinh nhiều hơn chúng tôi. Các anh không tìm được đâu”. Mãi tới bây giờ mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn thấy ân hận, vẫn mong muốn được gặp lại những người con gái ấy.

        Gần hai giờ sáng, tôi lên Trung đoàn nhận nhiêm vụ. Đến đây tôi gặp được anh Chúc, Tiểu đoàn trưởng và bộ phận cán bộ đi trước của Tiểu đoàn vừa mới tới. Đơn vị đang hành quân đêm mai mới tới.

        Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 2 tối mai (12/4/1975) vào điều nghiên đồn An Hiệp tại ấp An Hiệp, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, Mỹ Tho. Để phối hợp với các đơn vị bạn, ngày 14 tháng 4 năm 1975, tấn công tiêu diệt đồn An Hiệp và chốt chặn bám trụ tại đó. Cùng giờ, Tiểu đoàn 9 đánh chiếm đồn Tân Lý Đông, chốt chặn bám trụ tại chỗ.

        Ngày 12 tháng 4 năm 1975, các đồng chí cán bộ cơ sở cung cấp cho chúng tôi về địa hình xung quanh, tình hình hoạt động của địch ở khu vực này và đồn An Hiệp.

        Buổi tối, chúng tôi được du kích dẫn đường đột nhập vào ấp An Hiệp. Sau khi bố trí lực lượng cảnh giới xong, du kích dẫn tôi và Chúc vào gặp má Sáng.

        Má Sáng đã ngoài 60 tuổi, cao, gầy, nhưng rất nhanh nhẹn tiếp chúng tôi. Vì thời gian quá gấp, chúng tôi đặt vấn đề ngay nhờ má giúp đỡ, tìm hiểu về địch đóng ở đồn An Hiệp. Má cười: “Ừ! Cái gì tụi bay cứ nói, tao giúp được tới đâu, tao sẽ giúp, tụi bay về đây là tao mừng lắm rồi. Đồn An Hiệp ngày nào tao chẳng vào trong đó. Tao thường xuyên xin tụi lính vào cắt cỏ cho bò, nên tụi lính trong đồn tao quen mặt hết. Bây giờ tụi bay ở đây, để tao đến nhà chị Tư bán quán cạnh đồn hỏi xem lính nó có ra vô gì không”.

        Tồi và Chúc vui vẻ, chờ đợi. Khoảng vài chục phút sau má quay lại cho biết : “Chị Tư nói chiều nay, tụi lính ra chơi đầy sân nhậu nhẹt tại nhà chị, chập tối mới về nằm im trong đồn. Ban đêm tụi lính này ít ra ngoài phục, toàn lính địa phương nhát như thỏ đế. Thôi! Bây giờ tao dẫn tụi bay đi”. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới nhà chị Tư. Chị Tư đón chúng tôi trước cửa và dẫn chúng tôi đến một góc vườn. Ở đây có thể nhìn vào thấy rõ toàn bộ khu vực đóng quân của địch. Chị nói: “Tụi địch ở đây có khoảng 40 đến 50 tên. Chi có vài lớp hàng rào đơn ngăn cách với dân. Bên kia đồn là con đường đất chạy về Tam Hiệp”. Chị Tư còn chỉ cho chúng tôi các hướng có thể tiếp cận dễ dàng, giữ được bí mật.

        Chúng tôi giao nhiệm vụ trực tiếp cho Đại đội 2 và Đại đội 3 tấn công tiêu diệt mục tiêu này rồi triển khai lực lượng đánh địch phản kích của Tiểu đoàn. Giao nhiệm vụ xong, chúng tôi cảm ơn má Sáng, chị Tư rồi rút.

        Theo kế hoạch, Tiểu đoàn trưởng Chúc và một số cán bộ quay về để dẫn bộ đội. Tôi và một số cán bộ ở lại để bám địch, tối mai đón bộ đội vào vị trí chiếm lĩnh.

        Bộ phận ở lại, được cán bộ địa phương dẫn ra bưng ém quân. Đến đây chúng tôi mới biết đây là vùng Ấp Bắc - Nơi đã từng diễn ra trận đánh Ấp Bắc năm 1963, nay là hậu cứ của Tỉnh đội, Tỉnh ủy Mỹ Tho. Như vậy Tỉnh ủy, Tỉnh đội Mỹ Tho ở và làm việc chỉ cách trung tâm huyện lỵ Tam Hiệp khoảng 3 đến 4 km.

        Ở đây kênh rạch chằng chịt, bạch đàn, tràm, mua mọc dày kín như rừng. Trời tối, các đồng chí địa phương dẫn chúng tôi trở lại nhà má Sáng.

        Bố trí cho bộ đội mai phục ngoài vườn, ngoài bụi, tôi vào nhà thấy chỉ có má và một cô con gái khoảng ngoài 20 tuổi. Cô gái bẽn lẽn ra tiếp nước chúng tôi. Hai má con vui vẻ, cởi mở hỏi đủ chuyện.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:23:54 am

        Theo hiệp đồng, khoảng 10 giờ đêm là bộ đội có thể đến đây mà mãi tới hơn 11 giờ vẫn chưa thấy đâu. Tôi sốt ruột và lo lắng vô cùng. Thông tin không bắt được liên lạc. Gần 12 giờ đêm, tôi gặp má Sáng và nói: “Theo hiệp đồng, đáng lẽ đơn vị con đã tới từ lâu, không biết có vấn đề gì không mà vẫn chưa tới. Bây giờ con nhờ má đến nhà chị Tư xem sao, địch có ra phục không và có thấy anh em chúng con đến đó không”. Má Sáng ngần ngại một lúc rồi nói: “Bây giờ đã quá khuya rồi! Nhưng thôi, để tao đi cho”. Tôi thấy má gọi cô con gái lại nói: “Có mấy ngàn bạc đây con cầm lấy có gì mà lo liệu để má đến nhà chị Tư xem sao”. Tôi vội cầm lấy tay má nói: “Thôi má ạ! Má đừng đi nữa, để tụi con tự đi, má đi nếu có bề chi tụi con ân hận lắm”. Má nói: “Tụi bay yên tâm, tao đi gặp địch tao còn có cái nói”. Tôi hỏi lại: “Má đi gặp địch thì má nói sao?” - “Tao nói, tao đi mua thuốc đau bụng. Ở đây tụi địch nó quy định ban đêm đi đâu phải có đèn có đuốc tao đi có đèn”. Tôi xúc động cảm ơn má.

        Má xách đèn, khơi cho cái bấc thật cao để ngọn đèn sáng hơn và cầm đèn ra đi. Tôi theo dõi bóng má lòng dạ bồn chồn không yên. Tôi liên tưởng tới hồi cuối năm 1972 ở xã Tân Phú, Đức Hòa, Long An, má Sáu, Bí thư chi bộ cũng dẫn chúng tôi vào ấp lấy gạo bị dính mìn. Má, ông chủ nhà và hai chiến sỹ đơn vị tôi đã hi sinh. Tôi lo má có chuyện gì thì mình ân hận vô cùng. Thật mừng mọi chuyện đều tốt lành, má quay trở lại an toàn. Má bảo:

-           Không có chuyện gì cả địch vẫn như mọi ngày, bộ đội chưa ai đến.

        Gần hai giờ sáng, hai chiến sĩ trinh sát của Tiểu đoàn vào gặp tôi. Tôi mừng quá hỏi:

        - Tại sao bộ đội tới chậm thế?

        - Đơn vị đi giữa đường thì gặp địch phục ở đoạn mương nước. May mà anh em du kích đi trước phát hiện được, không thì lộ hết. Sau đó du kích phải dẫn đơn vị quay lại đi đường vòng, vừa đi vừa bám địch.

        - Thể là tốt rồi, ta đưa ngay bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa.

        Khoảng hơn 4 giờ sáng, bộ đội chiếm lĩnh trận địa xong. Hướng tấn công của Đại đội 3 từ vườn nhà chị Tư qua. Hướng tấn công của Đại đội 2 theo đường dân sinh.

        Chúng tôi cứ băn khoăn lo lắng. Khi ta tấn công, chắc chắn địch phản kích sẽ trúng nhà chị Tư, liệu chị Tư và mấy đứa nhỏ ra sao? Nếu báo trước cho chị Tư đi sơ tán thì dễ bị lộ. Tôi bàn với các đồng chí trong Ban Chỉ huy, khi bộ đội chuẩn bị nổ súng sẽ vào báo cho chị Tư biết để mấy mẹ con nhanh chóng sơ tán. Một việc làm bất đắc dĩ nhưng các anh trong Ban Chỉ huy đều nhất trí chứ để gia đình cơ sở thiệt mạng thì ân hận vô cùng.

        Mờ sáng, chúng tôi cho bộ đội nổ súng tấn công. Cả hai mũi đều đánh trên một hướng, tụi địch chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về Tam Hiệp. Chi trong mấy phút, các đơn vị đã làm chủ trận địa. Chúng tôi nhanh chóng vào kiểm tra trận địa và điều chỉnh đội hình Tiểu đoàn thành trận địa liên hoàn đánh địch phản kích.

        Quân địch có mấy tên chết tại chỗ và mấy tên bị thương đang nằm dúi trong hầm. Tôi lệnh các đơn vị phóng thích cho chúng đi, không bắt làm gì. Giục chúng chạy nhanh ra khỏi chốt không sẽ bị pháo bắn hủy diệt. Mấy tên địch được tha chết mừng quá. Tuy bị thương nặng, nhưng chúng cố dìu nhau nhanh chóng rời chốt để thoát thân.

        Khu vực này, mấy năm nay không có bộ đội chủ lực của ta hoạt động nên chúng tôi đã chiếm và làm chủ đồn An Hiệp từ 5 giờ sáng mà mãi hơn 8 giờ địch vẫn chưa có phản ứng gì ngoài mấy quả pháo bắn vu vơ. Vào thời điểm này, Tiểu đoàn 9 đã nổ súng tấn công đồn Tân Lý Đông, một số đơn vị của Sư 5 nổ súng tấn công các bốt địch gần đường số 4.

        Địch đang thăm dò và phán đoán chưa biết hướng tấn công nào của ta là hướng chính. Chúng tôi liên tục nhắc bộ đội cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và củng cố thêm công sự.

        Khoảng hơn 9 giờ, một Trung đội thám báo địch bám theo rìa ấp vừa đi vừa thăm dò. Chúng đi thẳng vào hướng Đại đội 3. Đội hình đi rất thưa, mỗi đứa cách nhau cả chục mét. Tên đi đầu chi cách hầm của ta khoảng 10 mét, bộ đội nổ súng tiêu diệt tên này. Bọn còn lại bỏ chạy về phía sau.

        Ta chỉ có 2 hầm nổ súng, nên địch vẫn chưa phát hiện được lực lượng của ta là bao nhiêu, bố trí thế nào. Sau khi địch rút chạy mấy phút, bốn khẩu pháo 105 ly của địch từ Tam Hiệp thay nhau bắn phá vào trận địa Tiểu đoàn, làm nhiều nhà dân bốc cháy, cây cối đổ ngổn ngang. Pháo bắn đã làm một hầm của Đại đội 3 bị sập, một chiến sỹ hi sinh và một bị thương nặng.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:24:39 am

        Chúng tôi nhận định, địch bị căng kéo, đối phó nhiều nơi. Nhưng khu vực tác chiến của Tiểu đoàn là điểm sâu nhất, gần trung tâm huyện lị nên địch sẽ tập trung lực lượng để đánh bật ta ra. Chúng ta phải sẵn sàng đánh địch trên tất cả các hướng không có trước có sau. Vì đây là vùng sâu, vùng kiểm soát của địch.

        Buổi chiều địch lại tiếp tục bắn 1 đợt pháo nữa. Lần này, có nhiều quả đạn pháo khoan để phá hầm. Nghe tiếng pháo nổ ục, ục rất ghê rợn. Pháo bắn diện rộng nên Đại đội nào cũng dính, nhiều nhất là khu vực Tiểu đoàn bộ.

        Chúng tôi nhận định hết đợt pháo, địch sẽ cho bộ binh tấn công, nên nhắc các đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Đúng như chúng tôi nhận định, địch đã tổ chức 2 mũi tấn công, quân số khá đông. Cả 2 mũi địch đều đi đúng hướng vào Đại đội 3 và Đại đội 2 nên Tiểu đoàn hoàn toàn yên tâm.

        Chờ địch vào thật gần, bộ đội đồng loạt nổ súng. Cối 82 bắn cấp tập vào giữa đội hình địch làm cho nhiều tên chết và bị thương, số còn lại tháo chạy về phía sau. Pháo địch lại tiếp tục bắn.

        Một lát sau, một chiếc LI9 lên quần lượn trinh sát nhưng chẳng phát hiện được gì vì cả trận địa đã bị pháo bắn tan hoang. Đâu đâu cũng chi thấy đất cát bị cày xới. Trời đã tối nên địch không cho máy bay lên đánh bom.

        Một ngày chiến đấu căng thẳng, bộ đội phải chịu 3 lần pháo kích nhưng thật may chỉ bị sập một hầm, một chiến sỹ hi sinh. Tối đến, chúng tôi cho bộ đội tiếp tục củng cố thêm công sự, sẵn sàng chiến đấu đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch, giữ vững trận địa chốt.

        Khoảng 10 giờ đêm, Trung đoàn cho chúng tôi lui quân ra kênh Nguyễn Văn Tiếp nhận nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ của chúng tôi là phối hợp với đơn vị đặc công nước đánh sập cầu Tân An, sau đó tổ chức chốt chặn không cho địch hành quân về ứng cứu Sài Gòn. Trước mắt, trong đêm Tiểu đoàn cho 1 Đại đội bộ binh được tăng cường hỏa lực chốt chặn tại Áp Phụng, xã Tân Lý Đông để tác chiến chia lửa với các đơn vị của Sư 5.

        Các đơn vị của Sư 5 sẽ tổ chức nhiều trận địa phục kích, đánh địch trên quốc lộ 4 để hỗ trợ cho chúng tôi và cắt đứt con đường lưu thông giữa Sài Gòn với miền Tây Nam Bộ.

        Tiểu đoàn quyết định đưa Đại đội 1 vào tác chiến ở Ấp Phụng. Đại đội được tăng cường 1 khẩu ĐKZ75 và một khẩu cối 82. Tôi được Ban Chì huy Tiểu đoàn phân công đi chỉ huy trực tiếp bộ phận này. Ẩp Phụng nằm sâu trong hậu phương của địch, xung quanh còn nhiều đồn bốt.

        Khoảng 2 giờ sáng, chúng tôi mới hành quân tới ấp Phụng, được một đồng chí du kích chi qua loa địa hình và tình hình địch.

        Ẩp Phụng dài đến cả cây số, rộng chi khoảng 100 mét, có 1 trục đường nhỏ giữa ấp, hai bên có hai dãy nhà dân. Do địa hình bằng và thấp nên nhà nào cũng đào ao, đào mương để lấy đất vượt nền nhà, làm vườn, làm đường đi lại. Vì vậy nhà dân ở rất thưa, nhà nọ cách nhà kia đến cà trăm mét. Hai bên bờ kênh được trồng dừa và nhiều loại cây dại mọc dày.

        Chúng tôi xác định hướng chính diện là hướng đường số 4 nên cho bộ đội lợi dụng bờ ruộng đào hầm để phục kích địch từ hướng đường số 4 vào. Khi chúng tôi vào đây, nhân dân đã sơ tán hết nên chẳng biết hỏi ai. Hầm bộ đội đào cách rìa ấp khoảng 100 mét, chỉ có Ban Chỉ huy và khẩu ĐKZ75, khẩu cối 82 ở đầu ấp.

        Mờ sáng, tôi và Đại đội trưởng Thọ đi dạo một vòng quanh trận địa. Vào sâu trong ấp mới thấy rằng lực lượng của mình ở đây quá mỏng. Ấp này quá dài, có nhiều cây cối kênh rạch liên kết với các ấp khác.

        Sau khi đi khảo sát về, chúng tôi xác định trận địa của chúng ta chưa thể biết đâu là hướng chính, hướng phụ, vì hướng nào cũng có đồn bốt địch. Hơn nữa mùa khô đồng ruộng nứt nẻ, đi đường nào cũng cỏ thể vào ấp được, nên tất cả đều phải sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng chi viện cho nhau để bảo vệ trận địa

        Vì trời sáng rồi, không thể điều chinh đội hình được và cũng chưa biết được địch vào hướng nào. Tôi điện về Tiểu đoàn báo cáo tình hình của đon vị như vậy, đề nghị Tiểu đoàn tạo điều kiện giúp đỡ. Đồng chí Tiểu đoàn trường Chúc điện lại. Vì trận địa các anh quá xa, địa hình trống trải, các anh hãy động viên bộ đội chiến đấu giữ vững trận địa.

        Tôi báo cáo để Tiểu đoàn biết thế thôi, chứ cái chiến trường đồng bằng này ban ngày thì ở đâu phải ở đấy chứ lộ ra là làm mồi cho pháo và máy bay địch.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 15 Tháng Mười Một, 2017, 06:25:12 am

        Quá trưa, chúng tôi phát hiện 1 lực lượng địch đi vào trận địa. Chúng đi thẳng đối diện vào Ban Chỉ huy và trước khẩu ĐKZ75. Tôi bàn với Thọ điều 2 chiến sỹ bộ binh trong đó có 1 khẩu B40 tăng cường lên chỗ pháo ĐKZ để chiến đấu bảo vệ pháo. Địch đến cách ấp khoảng 300 mét triển khai đội hình ngồi dọc theo bờ ruộng. Không hiểu chúng có biết chúng tôi không mà án binh bất động. Địch có khoảng 30 tên, có lẽ do bắt buộc nên chúng đi chiếu lệ. Trận địa vẫn tiếp tục im lìm.

        Khoảng gần 3 giờ chiều, tôi, Thọ và Phố liên lạc đi dọc ấp xem sao. Ba anh em chúng tôi bám theo bờ kênh đi dọc trong ấp đến sát cái hầm cuối cùng của đơn vị, tôi nghe tiếng chửi bới tục. Tôi nói với Thọ: “Có lẽ địch vào tới đây rồi”.

        Tôi ép mình vào gốc cây để quan sát thì thấy địch đứng đầy sân chi cách cái hầm của Hùng và Hòa khoảng hơn chục mét. Sao mà các cậu này không nổ súng? Hầm đào để đánh địch phía ngoài vào nay địch ở phía sau có lẽ anh em mình đã ngủ quên.

        Tôi nhìn ra phía ngoài đồng, thấy địch cũng có một mũi đang đi vào, đồng chí Vận đang giương khẩu B40 lên để ngắm. Trong khi đó địch ở trong ấp thì vẫn không biết. Tôi nói với Thọ:

        - Có thể bộ đội mệt quá, căng thẳng quá đã ngủ quên hết dưới hầm rồi. Thôi, ta chạy ngay về vị trí chỉ huy điều 1 khẩu B40 và đồng chí Phố liên lạc lên tại chỗ này lợi dụng bờ ao nổ súng chặn địch lại. Anh Thọ sang hầm cối 82, nói anh em sẵn sàng bắn chi viện cho bộ đội.

        Tôi thấy tình hình quá căng thẳng làm sao đánh thức được bộ đội dậy. Tôi vào nhà dân lấy một bộ quần áo trắng, một cái ô và 1 cái gậy. Đây là áo quần của một ông già theo đạo tin lành. Tôi mặc quần áo, đội ô, cầm gậy đi dọc đội hình đơn vị. Tới đâu tôi gõ cửa hầm và nói cho anh em biết địch cả phía trước và cả trong ấp. Hầm của Vận và Hòa quá gần địch, không thể tới được. Có một số hầm anh em còn thức thì cứ tưởng tôi là ông sư. Anh em ai cũng nói: “Sao anh liều thế, bọn em thấy địch rồi”.

        Tôi về tới hầm, đồng chí cán bộ ĐKZ chạy đến phàn nàn: “Tại sao anh điều khẩu B40 đi để địch nó vào lấy pháo à”. Tôi nói: “Địch tấn công ta nhiều hướng, anh sẵn sàng hạ nòng pháo xuống bẳn bộ binh, bắn cả trong ấp vì địch đã chiếm phía dưới ấp rồi”. Tôi nhảy sang hầm cối 82 và nói: “Các đồng chí chuẩn bị phần tử bắn phía trái trận địa và vào giữa ấp cự ly khoảng 300 mét. Chúng ta chiến đấu đến cùng. Trời cũng sắp tối rồi không sợ hết đạn đâu”.

        Đồng chí Thọ vừa bố trí xong lực lượng đánh chặn địch ở giữa ấp về thì địch nổ súng tấn công.

        Hòa và Hùng có lẽ ngủ quên nên bị địch ném lựu đạn xuống hầm. Lựu đạn nổ, cả hai đã hi sinh.

        Địch ở trong ấp nổ súng, đồng thời địch ở trước hầm đồng chí Vận cũng tấn công vào. Tôi thấy Vận bắn mấy quả B40 khiến địch dạt ra.

        Bọn địch ở trong ấp đã nhìn thấy Vận nên tập trung câu đạn M79 vào hầm. Vận và Nhội đã anh dũng hi sinh. Các chiến sỹ ngăn chặn địch tấn công ở phía dưới ấp lên, không có hầm đã lợi dụng bờ ao, mương nước nổ súng liên tục, không cho địch tấn công tới Ban Chi huy.

        Tôi hô cối 82: “Các đồng chí bắn cấp tập vào giữa ấp và tụi địch ở phía trước hầm đồng chí Vận”.

        Tụi địch nằm đối diện với chúng tôi và khẩu ĐKZ vẫn không nổ súng tấn công, mà cứ ngồi yên tại chỗ. Đồng chí cán bộ ĐKZ chạy đến hầm tôi: “Đề nghị anh cho lực lượng bảo vệ, tụi địch tấn công vào sẽ lấy mất pháo”. Tôi quát lớn: “ Anh hãy hạ nòng pháo để bắn bộ binh. Tụi địch ở trước đó không nổ súng kệ xác nó. Anh bẳn cho tôi 2 quả ra trước hầm đồng chí Vận để địch dạt ra và sẵn sàng đánh địch phía sau, phía dưới của ấp. Các anh hãy tự bảo vệ mình, bảo vệ vũ khí. Tất cả chúng ta ai cũng chiến đấu”.

        Địch có ý định đánh bọc từ phía sau lên đã bị ta tấn công và bị các loại hỏa lực cối 82, ĐKZ của ta bắn. Chúng đã phán đoán được lực lượng của ta ở đây là cấp Tiểu đoàn, chúng không dám tấn công tiếp mà gọi pháo bắn liên tục đến tối mới thôi. Địch đã bắn vào đây hàng trăm quả pháo các loại làm đất cát, cây cối đổ ngổn ngang, khói bụi mù mịt, có nhiều quả rơi xuống ao làm cá chết nổi trắng ao.

        Trời tối tiếng pháo im dần, tôi bàn với Chính trị viên Đại đội: “Đồng chí bò đi kiểm tra bộ đội xem có ai bị thương, đưa ngay về đây để băng bó cứu chữa”. Chính trị viên Thành và liên lạc đi một lúc thì quay về báo cáo: “Hầm Hòa và Hùng, hầm Vận và Nhội, cả 4 đồng chí đã hi sinh. Vài đồng chí bị thương nhẹ, còn chiến đấu được”.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Một, 2017, 06:18:03 am

        Đại đội trường Thọ báo cáo, địch ở phía trước mặt ta nay đã quay về đồn. Địch phía cuối ấp tổ chức chốt tại đó, đang nấu cơm ăn.

        Tôi báo cáo về Tiểu đoàn tình hình, kết quả chiến đấu và thương vong của đơn vị. Tôi đề nghị được biết kế hoạch ngày mai. Tiểu đoàn trưởng Chúc điện lại: “Các đồng chí cho bộ đội củng cố công sự, giải quyết tốt công tác thương binh, từ sĩ, sẵn sàng chờ lệnh của Trung đoàn”. Tôi mời các đồng chí trong Ban Chỉ huy Đại đội 1, Đại đội ĐKZ, Đại đội cối 82 đến hội ý.

        Tôi đánh giá trận chiến đấu trong ngày, nói rõ những nguyên nhân, tổn thất sau đó xác định nhiệm vụ cho ngày mai. Tôi nói: “Bộ đội ngày hôm nay chiến đấu rất tốt. Do quá mệt, có hầm anh em đã ngủ quên để địch vào ném lựu đạn xuống hầm. Nếu tôi và đồng chí Thọ không đi kiểm tra thì chắc địch nó đi thẳng tới Ban Chi huy mà chẳng ai biết. Ta ở đây, không phân biệt được hướng nào là hướng chính, chi lợi dụng địa hình, địa vật để bố trí đội hình tác chiến. Vậy bây giờ ta điều chỉnh lại đội hình cho phù hợp”. Tôi nói tiếp: “Không hiểu tại sao một đơn vị địch đêm nay không về đồn mà chốt lại trong ấp. Có thể chúng nghĩ tối nay ta rút quân. Chúng sẽ cho lực lượng phục kích con đường tối qua ta tới đây. Các đồng chí về triển khai cho bộ đội ngay. Đồng chí Thành tổ chức đưa tử sĩ về chôn cất chu đáo”.

        Thành tổ chức đi lấy từ sĩ, khi đến hầm của Hòa và Hùng thì thấy địch đã ngồi đầy sân không sao vào lấy được. Đại đội trường Thọ giục tôi báo cáo Tiểu đoàn cho đơn vị rút ra. Tôi không đồng ý: “Ta phải chờ lệnh của Trung đoàn. Nếu rút ra, Trung đoàn lệnh quay vào bám trụ thì làm sao? Hơn nữa hiện nay tình hình xung quanh địch như thế nào chưa nắm được. Phía sau chúng ta địch cũng đã bịt đường rồi”.

        Từ 10 giờ đêm, điện máy 2W không thể làm việc được. Địch đã gây nhiễu, nhấc ống nghe lên chi nghe tiếng ào ào như ô tô chạy. Đàm thoại, làm tín đều không được, chúng tôi vô cùng lo lắng. Đồng chí Thọ cuống cuồng lên: “Anh làm kiểu này cả đơn vị chết hết” - “Anh đừng có nói bậy! Tất cả vì nhiệm vụ. Phải bình tĩnh chờ ý kiến của cấp trên”.

        Khoảng 12 giờ đêm, Trung đoàn lệnh cho chúng tôi lui quân về đội hình Tiểu đoàn để nhận nhiệm vụ ngay. Tiểu đoàn điện cho tôi: “Đường cũ, tối qua các anh vào đã bị địch phục kích. Hãy cắt đường tránh, đi về phía phải khoảng 1.000 mét. Chúng tôi cho trinh sát đón ở bờ mương. Chú ý nhớ ám hiệu để bắt liên lạc với nhau”.

        Tôi nói với Thọ: “Bây giờ ta tổ chức hành quân ra. Anh cho bộ đội đi về hướng tụi địch chiều nay ngồi trước khẩu ĐKZ, sau đó vòng ra rồi mới cắt về phía sau”. Thọ hốt hoảng nói: “Anh định dẫn đơn vị vào đồn địch à?” - “Đó là con đường an toàn nhất vì địch đã phục chặn con đường tối qua ta vào rồi. Ta đi gần đồn địch nên tuyệt đối giữ bí mật, bám sát đội hình kẻo lạc, lưu ý ĐKZ và cối 82 mang vác nặng”.

        Chủng tôi tổ chức lui quân ra tới bờ mương thì trinh sát đón và dẫn về Tiểu đoàn an toàn. Tới bờ kênh Nguyễn Văn Tiếp, Tiểu đoàn trưởng Chúc bàn với tôi:

        - Bây giờ cho bộ đội hành quân luôn cùng đội hình Tiểu đoàn. Ban Chi huy Tiểu đoàn vừa hành quân, vừa trao đổi nhiệm vụ trên giao và phân công nhau xuống các đơn vị để chỉ đạo. Nhiệm vụ cùa Trung đoàn thay đổi, đơn vị không phối hợp với đặc công nước phá cầu Tân An và chốt tại đó nữa mà ngay đêm nay vào tổ chức trận địa chống càn ở ấp Tân Lý, xã Tân Hiệp, Mỹ Tho.

        Đêm 15 tháng 4, Tiểu đoàn vào chiếm lĩnh trận địa. Chúng tôi bố trí phục kích ngay giữa cánh đồng đất trắng, lúa đã thu hoạch từ lâu. Đồng ruộng khô nứt nẻ, kênh mương cũng không còn một giọt nước. Đại đội 2 và Đại đội 3 bố trí chếch lên phía trước. Đại đội 1 và Đại đội 4 bố trí bên phải sát với rừng tràm, rừng bạch đàn thông ra tận bờ kênh. Ban Chi huy Tiểu đoàn dựa vào một mương nước đã khô, hai bên bờ mương có nhiều cây dứa dại chi cách Đại đội 3 và Đại đội 2 khoảng hơn 100 mét về phía sau để bố trí Sở Chi huy. Hầm chỉ huy Tiểu đoàn đào cạnh một bụi dứa để anh em thông tin lợi dụng vào mà kéo cần ăng ten máy 2W.

        Ban Chi huy Tiểu đoàn chia ra hai hầm, tôi và Tiểu đoàn trưởng Chúc ngồi với nhau. Chính trị viên Thái ngồi cùng Tiểu đoàn phó Dũng. Bộ đội triển khai xong hầm hào thì trời cũng sáng.

        Ban ngày, quan sát xung quanh, chúng tồi thấy đơn vị bố trí phục kích ở đây hết sức lợi hại. Từ đây vào tới ấp Tân Lý và các ấp xung quanh đều ở cự ly rất xa nên địch đi vào hướng nào ta cũng đều nhìn thấy rất rõ và hỏa lực của đơn vị có thể chi viện cho nhau khá dễ dàng. Đáng tiếc là Đại đội 1, Đại đội 4 và Tiểu đoàn bộ bố trí gần rừng tràm quá sẽ làm mục tiêu cho phi pháo đánh phá.

        Khoảng 9 giờ sáng, một đơn vị địch triển khai đội hình hành quân về hướng chúng tôi để đánh vào Tiểu đoàn 9. Trận địa phục kích của chúng tôi ở đây địch còn chưa hề hay biết. Tuy vậy địch rất cẩn thận, vừa đi, vừa thăm dò.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Một, 2017, 06:18:43 am
         
        Một mũi địch đi đúng hướng Đại đội 3, anh em đã nổ súng diệt được mấy tên. Chúng lùi ra gọi pháo bắn hàng trăm quả vào đội hình Tiểu đoàn. Có một số hầm trúng pháo đã bị sập, một số anh em hi sinh.

        Hết đợt pháo, địch cho 3 mũi tấn công vào. Cả 3 mũi đều đi đúng vào hướng của 3 Đại đội bộ binh. Cả Tiểu đoàn đã nổ súng, địch không vào được đành lùi ra gọi pháo bắn tiếp.

        Pháo địch chủ yếu là pháo 155, nhiều quả pháo đào hố sâu và to như hố bom. Một số đầu đạn không nổ to như quả dưa hấu nằm lăn lóc ngay giữa ruộng. Đặc biệt khu rừng tràm và bạch đàn bị pháo bắn tan hoang. Anh em Đại đội 4 và cơ quan Tiểu đoàn bộ bị thương vong khá lớn do sập hầm.

        Hết đợt pháo, 2 chiếc phản lực lên quần lượn, cắt mấy loạt bom vào đội hình Đại đội 3.

        Ba giờ chiều, địch lại tiếp tục bắn hàng trăm quả pháo vào Tiểu đoàn. Chúng quyết tâm nhổ bằng được trận địa chốt của chúng tôi. Năm, sáu chiếc xe tăng, cùng đội hình bộ binh triển khai tấn công vào. Tôi và Chúc trao đổi với nhau, lần này địch sẽ tập trung lực lượng cả pháo binh, xe tăng và bộ binh tấn công vào để nhằm xóa sổ đơn vị ta.

        Chúng tôi điện xuống các đơn vị tập trung hỏa lực bắn cháy xe tăng địch. Trời sắp tối rồi, phải kiên quyết chiến đấu giữ vững trận địa. Tập trung hỏa lực 3 đến 4 khẩu B40 và B41 bắn vào từng chiếc xe tăng một, không đánh dàn trải.

        Xe tăng địch xuất hiện, đồng chí V - một cán bộ chi huy Đại đội 3, sợ quá liền lần theo đường dây chạy về Tiểu đoàn. Đồng chí Thu, Chính trị viên Đại đội 3 điện cho tôi: "Anh V đi đâu không biết?".

        Tôi và Chúc thấy V bỏ vị trí chiến đấu chạy về phía sau thì rất tức giận. Chúc quát: “Chúng tôi với anh, chi cách nhau vài trăm mét, Đại đội 3 bỏ trận địa thì địch sẽ chọc thẳng vào Tiểu đoàn. Sở Chỉ huy Tiểu đoàn mất, cả Tiểu đoàn sẽ như rắn mất đầu, hậu quả sẽ như thế nào anh có biết không?”. Tôi bình tĩnh hơn: “Anh quay trở lại đơn vị ngay! Xe tăng địch đang vào anh lại bỏ chạy, nếu bộ đội nhìn thấy anh thì sẽ thế nào?” V lầm lì không nói miệng cứ lắp bắp: “Tôi mệt quá! Tôi mệt quá!”. Tôi nhắc: “Mệt cũng phải về vị trí!”. Nhìn thấy V đã quá mất tinh thần tôi nói với Chúc: “Thôi anh à! Cho cậu ta ở lại đây.” Chúc quát: “ Sang hầm anh Thái mà ngồi”.

        Tôi biết V sang hầm anh Thái sẽ bị quát một trận nữa. Tôi điện động viên Lịch: “V đi đâu kệ anh ấy! Anh gọi anh Minh, Đại đội phó về cùng hầm để hai anh em chi huy đơn vị chiến đấu giữ vững trận địa. Địch chi có 5 đến 6 chiếc xe tăng thôi, hỏa lực của Tiểu đoàn rất mạnh, chi cần bắn cháy 1 đến 2 chiếc là nó chùn ngay”. Tiểu đoàn trưởng

        Chúc liên tục cầm máy để nghe các đơn vị báo cáo về cự ly, tốc độ, số lượng xe tăng địch đang tổ chức tấn công vào. Nhắc nhở các đơn vị bình tĩnh chiến đấu, diệt xe tăng địch ngay từ những loạt đạn đầu.

        Hơn 4 giờ chiều, bốn chiếc M41 dẫn đầu đi thẳng vào trận địa Tiểu đoàn, vừa đi vừa bắn đạn 12,7 ly, pháo l00ly vào trận địa Đại đội 2. Bộ binh có hàng trăm thằng lúc nhúc theo sau. Nghe tiếng nổ của các loại đạn mà rợn người, điếc tai. Khói thuốc pháo, khói đạn khét lẹt, đất cát mù mịt. Tôi và Chúc liên tục bám cửa hầm để theo dõi địch, đầu ngẩng lên cúi xuống để tránh đạn.

        Tuy khói thuốc, súng đạn, đất cát mù mịt nhưng chúng tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe tăng đi đầu đang tấn công thẳng vào trận địa Tiểu đoàn. Hầm của chúng tôi chỉ cách hầm của anh em Đại đội 2, Đại đội 3 hơn 100 mét. Với địa hình trống trải, bằng phăng thế này, mắt thường cũng có thể nhìn về phía trước được cả ngàn mét.

        Nếu bộ đội chúi đầu xuống hầm tránh đạn, chỉ cần thiếu theo dõi quan sát một tí thôi, là xe tăng của địch lao tới dằn sập hầm. Tuyến Đại đội 2, Đại đội 3 chỉ cần thủng một vài hầm, địch chọc thẳng vào Sở Chỉ huy Tiểu đoàn thì cực kì nguy hiểm. Lúc này cả ba Đại đội bộ binh đã dàn ra phía trước, Sở Chỉ huy Tiểu đoàn chi có mấy chiến sĩ trinh sát mà trong tay anh em chi có một khẩu B40.

        Chính trị viên Thái ngồi hầm sát cạnh cũng đã nhìn thấy xe tăng địch. Tưởng chúng tôi không biết nên anh hốt hoảng gọi sang: “Các anh điện xuống các đơn vị chú ý quan sát và cho nổ súng đi, chúng vào quá gần rồi”. Tôi nói vọng sang: “Anh yên tâm bộ đội biết cả rồi”.

        Thực ra lúc này tôi và Chúc rất lo, chỉ hy vọng ở phẩm chất của người lính chiến mà thôi. Bom đạn địch bắn như mưa, ai dám rời khỏi hầm vào lúc này. Chiến tranh, bom đạn đã dạy cho người lính bộ binh chúng tôi khi đã vào trận thì mọi hoạt động phải phản xạ giống như hoạt động theo bản năng để tồn tại, để sống. Vì cái chết, cái sống chi trong nháy mắt.

        Địch chỉ có 5 đến 6 chiếc xe tăng. Tiểu đoàn có tất cả 24 khẩu súng chống tăng, 3 Đại đội bộ binh đã có tới 20 khẩu B40, B41, ngoài ra C4 còn có 2 khẩu DKZ82, rồi cối 82, tuy ở cự li hoi xa nhưng đều có thể tham gia bắn xe tăng địch, nên chúng ta có thể hoàn toàn tin tường sẽ giành chiến thắng.

        Chiếc M41 đi đầu đang hung hăng tiến thẳng vào trận địa Đại đội 2. Khi cách Đại đội 2 khoảng 100 mét thì nó rẽ chếch phải đi thẳng vào trận địa Đại đội 3. Ba, bốn khẩu B40, B41 của cả hai Đại đội liên tiếp phóng vào chiếc xe đi đầu. Chiếc xe trúng đạn, đứng khựng lại rồi bốc cháy.

        Chiếc đi sau vòng phải để tránh đạn, liền bị đồng chí Thủy của đại đội 3 bắn 1 quả B41 làm nó trọng thương. Nó cố chạy chếch về bên phải để chuồn nhưng đã bị hỏa lực của Đại đội 1 bắn chặn, bốc cháy, khói đen ngòm. Hai chiếc xe tăng đi đầu bị bắn cháy, lũ bộ binh chạy toán loạn về phía sau.

        Hai chiếc xe còn lại vừa lùi, vừa bắn. Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 4 bắn cấp tập mấy chục quả đạn cối vào đội hình địch, buộc cả bộ binh và xe tăng chạy thẳng về ấp Tân Lý Đông.

        Địch lùi ra, tôi điện xuống các đơn vị biểu dương tinh thần chiến đấu của bộ đội và sự hiệp đồng chặt chẽ của các đơn vị đã đánh lùi đợt tấn công quy mô của địch. Ta bắn cháy 2 xe tăng và tiêu diệt được hàng chục tên địch đang nằm ngổn ngang trước trận địa của Tiểu đoàn.

        Một ngày chiến đấu ác liệt, hố pháo chồng lên hố pháo. Tuy hầm hào chu đáo nhưng mật độ pháo bắn dày đặc đã làm sập nhiều hầm, đơn vị thương vong lớn. Trong ngày cỏ 19 đồng chí hi sinh, hàng chục đồng chí bị thương. Trong số hi sinh có đồng chí Minh Đại đội phó Đại đội 3. Tuy đơn vị bị tổn thất lớn nhưng cũng có niềm vui. Lần đầu tiên, Tiểu đoàn bắn cháy hai chiếc xe tăng tại chỗ.

        Riêng đồng chí cán bộ chi huy Đại đội 3 rất ân hận với sai lầm, khuyết điểm của mình đã lên Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nhận lỗi và xin quay về đơn vị tiếp tục chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Một, 2017, 06:20:17 am
       
        VỀ LẠI ĐỨC HOÀ, CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH, NIỀM VUI TOÀN THẮNG

        Tối 23 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn cho Tiểu đoàn rút ra kênh Nguyễn Văn Tiếp để nhận nhiệm vụ mới. Trung đoàn được cấp trên giao nhiệm vụ hành quân quay về huyện Đức Hòa, Long An để cùng với lực lượng của Sư đoàn chiến đấu giải phóng huyện Đức Hòa, Hậu Nghĩa.

        Từ đầu tháng 4 đến nay bộ đội liên tục hành quân chiến đấu, quân số hao hụt chưa được bổ sung, sức khỏe giảm sút, ăn uống kham khổ, chủ yếu ăn lương khô, nước lã, chẳng mấy đêm được ngủ.

        Nước ở vùng này mùa khô hiếm lắm nên khó khăn vô cùng. Nước ở các kênh rạch nhỏ, ở các hố bom, hố pháo hầu hết bị khô kiệt. Nếu chỗ nào còn có nước, thì mặt nước cũng nổi một lớp váng màu vàng đỏ như gạch cua, ngậm vào thì vừa chát, vừa chua, vừa lợ tê cả miệng.

        Nước ở đoạn kênh Nguyễn Văn Tiếp đoạn chảy qua Thủ Thừa khi thủy triều lên thì nước lợ, khi thủy triều xuống thì nước ngọt.

        Mấy đêm hành quân vất vả Tiểu đoàn đã tới được kênh Sáng, đây thuộc địa phận Đức Hòa thì dừng lại để bổ sung trang bị súng đạn và được phổ biến tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

        Là những người lính chiến đấu nhiều năm trên chiến trường, đã từng tham gia chiến đấu nhiều chiến dịch lớn. Nhiều chiến thắng nhưng cũng nhiều khó khăn ác liệt. Được tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng tôi rất háo hức.

        Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ trong chiến dịch này là cùng với Tiểu đoàn 9 đánh chiếm và giải phóng chi khu Đức Hòa. Để động viên bộ đội tôi nói:

        - Các cánh quân của ta đã ém sát Sài Gòn, hướng tấn công của các đơn vị đó rất thuận lợi, còn hướng tấn công của đơn vị ta đặc biệt khó khăn. Vì vùng này là sào huyệt của địch nên chúng sẽ chống cự đến cùng.

        Vùng này năm 1972 đơn vị tôi đã hoạt động. Khi ấy, địch rất mạnh, chi một sơ suất nhỏ lộ bí mật là lập tức máy bay, phi pháo bắn phá, bộ binh đi càn ngay. Nhưng nay quay trở lại tôi thấy hoàn toàn khác. Dọc hai bên bờ kênh
hàng hóa của ta như lương thực, thực phẩm, súng đạn chất thành đống, đậy bạt rõ như ban ngày. Bộ đội địa phương, anh em hậu cần cho xuồng ghe chờ hàng đi nghênh ngang ban ngày giữa dòng kênh mà không thấy địch phản ứng gì.

        Lực lượng địch ở chi khu Đức Hòa có một Tiểu đoàn bộ binh, một trận địa pháo 105 ly bốn khẩu và có một hệ thống đồn bốt nhỏ xung quanh bao bọc từ xa để bảo vệ. Địch có hầm hào kiên cố, có nhiều lớp hàng rào dây thép gai để bảo vệ. Ba hướng của chi khu tiếp giáp với nhà dân và trục đường nhựa, chỉ có hướng Tây tiếp giáp với sân bay dã chiến rồi tiếp giáp với ruộng nương, bưng biền ra tận Vàm Cỏ Đông.

        Tiểu đoàn 2 được giao nhiệm vụ tấn công từ hướng ấp Giồng Cám vào, Tiểu đoàn 9 tấn công từ ấp Bình Điền lên, phải qua chợ, qua trung tâm rồi mới vào được chi khu.

        Khi nhận nhiệm vụ chúng tôi được thông báo hợp đồng tác chiến như sau:

        Đơn vị khi tấn công vào chi khu Đức Hòa, được trận địa pháo 130 ly của Đoàn 232 bắn chi viện từ Đức Huệ sang. Đơn vị pháo binh không tổ chức được đài quan sát nên Tiểu đoàn tự hiệu chỉnh cho pháo bắn. Cùng ngày, cùng giờ tấn công của Tiểu đoàn các đơn vị của Sư đoàn đều đồng loạt tấn công vào các mục tiêu như Trảng Bàng, Hậu Nghĩa, Lộc Giang, Hiệp Hòa.

        Đêm 28 tháng 4 năm 1975, các đơn vị của Trung đoàn hành quân chiếm lĩnh trận địa Sau khi vượt sông Vàm cỏ Đông, được bộ đội địa phương dẫn đường, Tiểu đoàn tổ chức tấn công đánh chiếm đồn Giồng Cám ngay trong đêm và sau đó đánh chiếm toàn bộ ấp Giồng Cám.

        Đồn địch đóng ở đầu ấp Giồng Cám, nằm kẹp giữa hai con đường. Một đường đá chạy từ Hòa Khánh về tới chi khu và một đường đất liên xã, liên thôn. Địch ở đây có gần 1 đại đội. Được bộ đội và du kích địa phương dẫn đường, Đại đội 2 và Đại đội 3 chịu trách nhiệm tấn công giải phóng ngay trước lúc tròi sáng. Vì thời gian quá gấp, cán bộ các cấp khẩn trương đi địa hình trước nhận vị trí, nhận hướng tấn công rồi quay trở lại dẫn bộ đội vào vị trí chiến đấu.

        Tảng sáng, hỏa lực cấp tập bắn vào đồn nhưng vẫn không thấy địch phản ứng gì. Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 3 dùng bộc phá, phá rào mà vào. Đại đội 2 vòng lên hướng cửa chính, đánh chặn không cho địch chạy về Đức Hòa. Thật bất ngờ, đoàn cán bộ đi địa hình trước đó vài giờ, địch vẫn còn trong đồn mà giờ đánh vào địch đã bỏ chạy hết. Anh em sướng quá điện về Tiểu đoàn, Đại đội 3 đã vào đồn làm chủ hoàn toàn trận địa.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Một, 2017, 06:21:32 am
           
        Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 3, củng cố công sự, đánh địch phản kích, đề phòng địch có những thủ đoạn xảo quyệt hơn. Không được chủ quan, mất cảnh giác vì đây là sào huyệt của địch. Từ đây tới chi khu không xa, địch sẽ không để ta yên đâu.

        Thật lạ, địch vẫn chưa phản ứng gì. Quá trưa, pháo 105 ly của địch từ Đức Hòa bắn ra mấy quả vu vơ. Một quả đã rơi đúng vào vị trí của đại đội 12,7 ly,làm 4 chiến sĩ hi sinh.

        Khoảng 4 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, chúng tôi nhận điện của Trung đoàn lệnh cho trinh sát dịch lên bám ở chi khu Đức Hòa, nối máy trực tiếp với đơn vị pháo 130 ly để hiệu chỉnh cho pháo 130 ly bắn thử. Pháo binh sẽ bắn mấy quả, lấy phần tử chính xác để sáng mai bắn chi viện cho chúng tôi.

        Chấp hành mệnh lệnh của Trung đoàn, chúng tôi cho một tổ trinh sát và một máy 2W, có địa phương dẫn đường dịch lên bám sát Đức Hòa để làm nhiệm vụ hiệu chỉnh pháo. Pháo binh của ta tuy ở xa nhưng bắn khá chính xác, chỉ bắn 3 quả thì quả thứ 3 đã rơi trúng trung tâm.

        Đêm 29 tháng 4 cực kì căng thẳng. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn mời cán bộ Đại đội lên hội ý, bàn bạc hai ba lần để bộ đội giành thắng lợi mà ít thương vong. Vì đánh theo chiến dịch thời cơ các đơn vị chưa được đi nghiên cứu cụ thể nên rất khó đánh.

        Chúng tôi giao nhiệm vụ cho Đại đội 2 và Đại đội 3 đánh từ hướng sân bay vào. Đại đội 1 dựa vào nhà dân đánh cặp theo trục đường chính, chiếm cửa chính của địch.

        Chi khu Đức Hòa là trung tâm của quận lị nên địch ở đây rất đông. Vừa là trung tâm quân sự, vừa là trung tâm hành chính của quận, lại cả khu gia binh, chỉ có hai cửa chính ra vào, địa hình rất rộng và phức tạp.

        Mấy ngày nay, tôi thường xuyên theo dõi tin tức qua các bàn tin thời sự của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Giải phóng và Đài BBC, Đài Sài Gòn. Qua các bản tin của ta và địch, chúng tôi thấy quân ta dồn dập chiến thắng.

        Chiếm được Xuân Lộc, các cánh quân của ta đã ém sát Sài Gòn. Pháo binh ta đã bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, không quân cũng đã ném bom vào Dinh Độc Lập. Đài Sài Gòn liên tục chửi rủa Mỹ đã bỏ rơi.

        Gần 5 giờ sáng, tôi nghe Sài Gòn thông báo cho quốc dân đồng bào, thường xuyên mở ra đi ô để theo dõi các thông tin đặc biệt của Chính phủ. Nghe được tin này chúng tôi trao đổi với nhau. Tôi nói: “Thông báo gì đặc biệt lúc này nữa, có lẽ thông báo đầu hàng”. Tiểu đoàn phó Dũng thì nói: “Hàng thế nào được, nó chống cự đến cùng đó”.

        Sáng 30 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn nổ súng tấn công vào chi khu Đức Hòa Tôi điện hỏi lại Trung đoàn:

-           Theo hiệp đồng, pháo binh của ta bắn trước 30 phút, chúng tôi mới cho bộ đội tấn công cơ mà.

-           Tình hình đã thay đổi, để phối hợp chung với các đơn vị của Sư đoàn, các đồng chí cho bộ đội nổ súng tấn công ngay.

        Ban Chỉ huy Tiểu đoàn trao đổi, xác định trận đánh này sẽ khó khăn ác liệt nhưng mệnh lệnh của cấp trên phải chấp hành.

        Ban Chỉ huy Tiểu đoàn phân công tôi đi với Đại đội 1, Tiểu đoàn phó Dũng đi với Đại đội 3. Theo nhiệm vụ đã được giao, chúng tôi triển khai cho đơn vị thực hiện ngay vì trời sắp sáng rồi.

        Theo hiệp đồng hướng Đại đội 2 và Đại đội 3, khi bộ đội tổ chức mở cửa sẽ có hỏa lực ĐKZ, 12,7 ly yểm trợ, kìm chế địch. Hướng Đại đội 1, lợi dụng nhà dân tiến vào, gặp địch đâu đánh luôn ở đó.

        Hơn 5 giờ sáng, hướng Đại đội 2 và Đại đội 3 anh em đã vượt qua sân bay, đánh liên tiếp hai đến ba quả bộc phá, phá hàng rào mà chẳng thấy địch phản ứng gì cả.

        Hướng đại đội 1, bộ đội đã tiến sát tới hàng rào, đã nhìn thấy con đường nhựa trước mặt. Chúng tôi đã nghe tiếng ồn ào, la hét, xô đẩy nhau cả người lớn, trẻ con, đàn ông, đàn bà. Họ cố chen nhau qua cổng chính rồi chạy toán loạn ra các hướng. Có một số người đã chạy sát tới chỗ chúng tôi. Tôi gọi một người phụ nữ đang bế đứa con vào hỏi. Chị hốt hoảng cho biết đã được lệnh sơ tán chạy khỏi chi khu.

        Tôi điện báo cáo địch hiện nay đang bỏ chạy khỏi chi khu, đề nghị Tiểu đoàn cho bộ đội vận động đến hướng Đại đội 1 chứ cả dân, cả địch đông lắm chả phân biệt được ai đâu.

        Tiểu đoàn cho Đại đội 3 tiếp tục mở cửa đánh thẳng vào trung tâm, Tiểu đoàn đã vận động đến hướng của Đại đội 1.

        Địch hoảng hốt, vứt bỏ súng đạn, quần áo lính trà trộn với vợ con và cán bộ dân sự để tháo chạy. Chúng tôi chẳng bắt ai cứ để cho chạy. Toàn Tiểu đoàn nhanh chóng chiếm các mục tiêu quan trọng, trung tâm hành chính, trung tâm chi huy, trận địa pháo.

        Khoảng 6 giờ sáng, Tiểu đoàn 2 làm chủ chi khu và điện báo cáo về Trung đoàn chi khu Đức Hòa hoàn toàn giải phóng.

        Nhân dân tay cầm cờ hoa chào đón đầy đường. Niềm vui sướng, hân hoan lộ rõ ưên từng khuôn mặt.

        Chúng tôi đi thị sát toàn bộ chi khu thấy cách bố trí của địch với các hệ thống hầm hào phòng thủ rất kiên cố. Nếu địch ngoan cố chống cự thì Tiểu đoàn sẽ không biết có bao nhiêu chiến sĩ phải hi sinh trước giờ chiến thắng.

        Bộ đội vui sướng, hô hét ầm lên. Riêng tôi, tôi vẫn tiếp tục theo dõi bản tin của Đài Sài Gòn. Khoảng hơn 11 giờ 30, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đài phát thanh Sài Gòn phát đi thông báo đặc biệt của Tổng thống Dương Văn Minh, ra lệnh cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí, đầu hàng Quân giải phóng vô diều kiện.

        Đài phát thanh Giải phóng cũng thông báo, Thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, miền Nam hoàn toàn giải phóng.

        Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là khát vọng của cả dân tộc, là niềm vui của cả dân tộc Việt Nam nay đã thành hiện thực. Vui sướng nhất là những người lính còn được sống sót sau chiến tranh. Chúng tôi bắt đầu tìm cách liên hệ về gia đình để báo tin mình vẫn còn sống.

        Sau khi làm chủ chi khu Đức Hoà, Trung đoàn 271 triển khai các đơn vị truy quét tàn quân địch, bố trí các đơn vị về đứng chân ở các ấp trong toàn huyện làm nhiệm vụ quân quản và tham gia xây dựng chính quyền.

        Sau thời gian làm nhiệm vụ quân quản và xây dựng chính quyền ở Đức Hoà, Long An, Trung đoàn được bổ sung, củng cố tổ chức biên chế để hành quân về đứng chân tại Đức Phong, Phước Long.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Mười Một, 2017, 06:33:54 am

        TRUNG ĐOÀN ĐƯỢC PHONG DANH HIỆU ANH HÙNG Lực LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LẦN THỨ NHẤT

        Kỷ niệm 31 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/1975), tôi và đồng chí Nguyễn Văn Chiểu, chiến sĩ Đại đội 2 vinh dự được thay mặt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 271 nhận lẵng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trao tặng.

        Với những chiến công và sự hi sinh to lớn của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 271 trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, tháng 2 năm 1976, Đảng và Nhà nước quyết định trao tặng;

-           Danh hiệu Anh hùng LLVTND cho Trung đoàn 271.

-           Danh hiệu Anh hùng LLVTND cho Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 271.

-           Truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sỹ Đoàn Đức Thái - Chiến sỹ Tiểu đoàn 2.

        Theo quyết định của Quân khu 7, tháng 10 năm 1977, Trung đoàn 271 được điều động về Sư đoàn 302 làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới khu vực Thiện ngôn Sa Mát. Sau đó chúng tôi tiếp tục tham gia nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Căm Pu Chia lật đổ chế độ Pôn Pốt cứu nhân dân Căm Pu Chia khỏi hoạ diệt chủng.

        Tháng 9 năm 1983, khi đang giữ cương vị Trung đoàn phó về Chính trị Trung đoàn 271, tôi được Sư đoàn cử đi học tại Học viện Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Kết thúc khoá học, tôi được chuyển về công tác tại Phòng Tổ chức Cục Chính trị Quân khu 4.

        Tháng 6 năm 1988, vì lý do sức khoẻ, tôi được đơn vị giải quyết chế độ nghỉ hưu.

        Trong suốt cuộc đời chinh chiến, tôi đã tham gia nhiều trận đánh trên nhiều mặt trận khắp các nẻo đường 3 nước Đông Dương. Ở bất kỳ cương vị công tác nào, tôi cũng luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Một, 2017, 11:27:21 pm
       
(https://scontent.fsgn4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/23559742_149406659122556_6823754049867384964_n.jpg?oh=876aa85ece1fe14df87c04b3a7c12a51&oe=5A65E662)
Mãi mãi là đồng đội.
(Tác giả: người đầu tiên bên phải)

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24131383_154547168608505_1627641747310844153_n.jpg?oh=583af0746cf871ada1f2ea013e399118&oe=5A9589DA)
Mãi mãi là đồng đội.
(Tác giả: người đầu tiên bên phải)

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24232468_154547551941800_8679729026085221166_n.jpg?oh=ace84ef31cb161cfec05ef63fa25901a&oe=5AD67E2E)
Gặp mặt CCB trung đoàn ở đền Trần Hưng Đạo.
(tác giả hàng trước, thứ 4, từ phải sang)

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24174360_154547955275093_8957101823291582280_n.jpg?oh=5f587e14563314aa0f9fd51a81f30a99&oe=5AD7234F)
Gặp mặt ccb trung đoàn ở đền Trần Hưng Đạo.


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Một, 2017, 11:33:33 pm
         
(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24296564_154548441941711_5826996869584626412_n.jpg?oh=d37b9e972ced79e92e2211d673967283&oe=5A99D75A)
Xây nhà tưởng niệm ở Long An.

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24131210_154549191941636_4290458721095624928_n.jpg?oh=969878ca2d8dbfba87c11bd4a949c3a4&oe=5A920926)
Kiếm tìm đồng đội ở Đăc Nông

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24131267_154549435274945_6721974138486644913_n.jpg?oh=a19316ca03a509eedaeca61c8f2b6557&oe=5A98C773)
Xây bia tưởng niệm đồng đội hy sinh ở Long An

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24176971_154550281941527_528497989332079603_n.jpg?oh=11e139bd3ed7f2c10fd31299bb9b1586&oe=5A9B8054)
Cùng các đồng chí lãnh đạo E 271


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Một, 2017, 11:42:33 pm
 
(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24176859_154550805274808_8266766269465295222_n.jpg?oh=bcd84bbed1af12a506d6fa2f8ee91512&oe=5AA15D41)
Thường xuyên giữ tình đoàn kết quân dân

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24068067_154551085274780_5051492474174754063_n.jpg?oh=6253a279b5272dc070160e64aa630c45&oe=5ACC4442)
Tiếp đoàn cán bộ lãnh đạo tình Long an và huyện Đức hòa tại Hà Nội

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24067954_154551471941408_8931365778304154627_n.jpg?oh=62e38df7534af75fdabfaa833f8c0330&oe=5A8CFDE8)
Đồng chí Dương Công Hợi kiểm tra bản thảo trước khi gửi đến nhà xuất bản


Tiêu đề: Re: Những nẻo đường chinh chiến
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Một, 2017, 11:43:40 pm
       
"CHÚNG TA MÃI MÃI LÀ ĐỒNG ĐỘI

        Sau khi hoàn thành việc xây dựng doanh trại, ổn định nơi đóng quân và bước vào huấn luyện. Tháng 10 năm 1975, Trung đoàn 271 có một đợt ra quân cho các sinh viên trở về tiêp tục học tại các trường Đại học. Đây là đợt ra quân lớn và quan trọng vì hầu hết lớp sinh viên sau 3 năm công tác và chiến đấu ở Trung đoàn đã trưởng thành. Hầu hết các anh đều giữ chức vụ từ Tiểu đội trưởng đến Trung đội trưởng, một số anh đã là Đại đội trưởng hoặc các vị trí quan trọng trong đơn vị.

        Tiếp đó là đợt giải quyết chế độ cho các cán bộ đã nhiều năm công tác trong quân đội được giải ngũ; Các cán bộ chiến sỹ từ các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp nhập ngũ được trở về cơ quan cũ. Vì vậy cán bộ, chỉ huy của các đơn vị trong Trung đoàn bị thiếu hụt nhiều.

        Những người tiếp tục ở lại Trung đoàn như chúng tôi phải tiếp tục xây dựng đơn vị đủ sức hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Cho đến hiện nay hầu hết những chiến binh thời “Nổi lửa lên em” với “ Chiếc gậy Trường Sơn” đều đã “Cây cao bóng cả”.

        Lớp sinh viên ra trận năm ấy đã trở về trường miệt mài đèn sách, nhiều người đã trờ thành tiến sỹ, giáo sư các nhà khoa học có các công trình, các đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội nước nhà.

        Nhiều người ừong các anh đã trước khi nghi hưu đã có những cống hiến được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Anh Trương Hứu Trí, Đại biểu Quốc hội khóa X, nguyên Viện trường, Viện Máy Công nghiệp Việt Nam. Anh Ngô Đức Thơ, nguyên Cục trường Cục Cơ yếu Chính phủ. Anh Chu Đức Tính, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh. Anh Lê Tất Vinh, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin và Du lịch Hải Phòng. Anh Nguyễn Chu Chân, nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Tư tưởng và Văn hóa...

        Những người tiếp tục phục vụ quân đội cũng đã phấn đấu, học tập và trưởng thành. Anh Nguyễn Văn Huân, nguyên Cục trường Cục Nhà trường Bộ Quốc phòng, nguyên Vụ trưởng Vụ 1 Bộ Giáo dục và Đào tạo. Anh Lê Cường, nguyên Cục phó Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Anh Hà Văn Thái, nguyên Phó Tham mưu trường Quân khu Thủ đô. Anh Lã Văn Nho, nguyên Chỉ huy trưởng Quận đội Hoàn Kiếm...

        Những người trở về với vị trí công tác cũ cũng đã trở thành những nhà quản lý giỏi, những nhà chuyên môn cao cấp và những doanh nhân thành đạt.

        Những người ra đi từ lũy tre làng lại trở về với công việc “Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” dù công việc nặng nhọc, đời sống bấp bênh vẫn nỗ lực vươn lên trong cuộc sống, vẫn không nguôi nhớ về đồng đội và những năm tháng chiến chinh.

        Tuổi thanh niên sôi nổi và những năm tháng cống hiến đã qua. Tuổi già gắn liền với bệnh tật và nỗi nhớ về quá khứ, nhớ về đồng đội. Mong muốn gặp lại những người một thời gắn bó, chia ngọt sẻ bùi đã thôi thúc mỗi chúng tôi.

        Ngay từ năm 1990, những người cựu chiến binh Trung đoàn 271 đã nhóm họp và thành lập Ban liên lạc Cựu chiến binh Trung đoàn 271(CCBe271) ở Nghệ An. Các tỉnh khác ở phía Bắc, Ban liên lạc CCBe271 cũng đã ra đời.

        Năm 1995, Ban liên lạc của các tỉnh nhóm họp và tổ chức buổi gặp mặt đầu tiên tại số 1 Mai Xuân Thưởng, Hà Nội (Ban Vật giá Chính phủ). Buổi gặp mặt đầu tiên này có hơn ba trăm CCBe271 từ các tỉnh miền Bắc tới dự. Tại buổi gặp mặt, các Cựu chiến binh đã bầu ra Ban liên lạc Hội CCBe271 các tỉnh phía Bắc.

        Từ đó tới nay cứ hai năm anh em tổ chức họp một lần do ban liên lạc các tinh đăng cai tổ chức tại Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... Tinh thần của các buổi gặp mặt là “Chúng ta mãi mãi là đồng đội”.

        Tiêu chí hoạt động của Hội CCBe271 phía Bắc là thắt chặt tình đồng đội, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Tưởng nhớ những đồng đội đã hi sinh trong chiến tranh, quan tâm giúp đỡ cuộc sống các gia đình liệt sĩ. Liên hệ chặt chẽ với Trung đoàn 271 và các địa phương mà các Cựu chiến binh từng gắn bó trong những năm tháng chiến tranh. Góp phần xây dựng truyền thống Trung đoàn 271 và các địa phương.

        Với tiêu chí ấy, trong những năm qua Hội CCBe271 đã giúp đỡ nhiều Cựu chiến binh có cuộc sống khó khăn, tham gia sửa chữa và xây mới hàng chục nhà tình nghĩa cho các gia đình liệt sĩ ở các địa phương. Sửa nhà cho mẹ Lê Thị Thẩm mẹ liệt sĩ Đào Công Khắc ở Thanh Hóa. Xây nhà tình nghĩa cho gia đình liệt sĩ Phong và liệt sĩ Định ở Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An...

        Chúng tôi đã tham gia tìm kiếm và hồi hương hàng chục hài cốt liệt sĩ. Liệt sĩ Lê Sỹ Thiềng về Bắc Giang; Liệt sĩ Bùi Khắc Tường và liệt sĩ Nguyễn Ngọc Thước về Thanh Hóa; Liệt sĩ Đoàn Đức Thái về Hải Phòng và liệt sĩ Lê Đức Hiền về Hà Tình...

        Hội Cựu chiến binh còn kết hợp ủy ban Nhân dân huyện Đức Hòa xây dựng hai khu tưởng niệm các liệt sĩ đã anh dũng hi sinh tại An Ninh Tây và An Ninh Đông.

        Góp phần xây dựng truyền thống Trung đoàn cũng như truyền thống vẻ vang của quân đội và các địa phương, nhiều hội viên đã viết hồi ký, những cuốn sách trong “Tủ sách Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi hai mươi” như; Ký ức chiến tranh - Vương Khả Sơn; Có Một thời như thế - Võ Minh; Chuyện kể về một gia đình liệt sĩ - Hoàng Liêm và “Bài thơ viết dở” - Tập hợp thơ của các liệt sĩ, các Cựu chiến binh Trung đoàn 271. Năm 2014, nhiều Cựu chiến binh Trung đoàn 271 đã tham gia viết cuốn sách “Anh hùng liệt sĩ Đoàn Đức Thái. Các cuốn sách trên đã được người đọc đón nhận và được tái bản nhiều lần.

        Trở về sau chiến tranh các Cựu chiến binh Trung đoàn 271 đã tự nguyện góp công sức và trí tuệ của mình xây dựng truyền thống tốt đẹp của Cựu chiến binh Việt Nam. Có được những thành quả đáng ghi nhận ấy không thể quên được sự đóng góp cùa các anh: Hoàng Văn Duệ, Vũ Kiệm, Nguyễn Lâm, Đặng Viết Cửu, Lữ Hồng Hiểu, Đinh Xuân Tục, Lăng Trung Dũng, Lã Văn Nho, Nguyễn Văn Thái (Hà Nội), Bùi Quốc Huấn, Bùi Xuân Lịch, Nguyễn Đăng Hà, Vũ Đức Tiến, Ngô Quang Thao (Nghệ An), Phạm Hữu Khỏa (Thái Bình), Nguyễn Văn Thái (Thanh Hóa) Nguyễn Văn Xưng (Hà Tình), Ngô Đức Thơ, Chu Đức Tính, Hoàng Đại Tuấn, Hoàng Liêm, Vũ Tất Chiến, Vũ An Ninh, Chu Văn Mần, Đặng Đình Phú,Tống Đức Tính và hàng ưăm Cựu chiến binh Trung đoàn 271 các tỉnh...

        Chiến tranh đã đi qua. Đất nước đã thống nhất 41 năm rồi. Cuộc sống đã có nhiều thay đổi. Chúng tôi muốn gửi lại tất cả những vinh quang, gian khó, những niềm vui nỗi buồn tới bạn đọc để từ đó mỗi chúng ta có được niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất của biết bao thế hệ cha ông ta. Mỗi chúng ta sẽ càng hiểu sâu sắc hơn cái giá của Độc lập-Tự do mà chúng ta giành được đã phải trả giá đắt như thế nào, để từ đó có động lực vươn lên phấn đấu cho một nền hoà bình bền vững, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và giàu đẹp trên đất nước Việt Nam thân yêu.

Nghệ An, tháng 6 năm 2016        
Dương Công Hợi                
HẾT