Lịch sử Quân sự Việt Nam

Máu và Hoa => Một thời máu và hoa => Tác giả chủ đề:: tranphu341 trong 18 Tháng Sáu, 2017, 02:40:54 pm



Tiêu đề: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 18 Tháng Sáu, 2017, 02:40:54 pm
          
                         Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6


           Tranphu341 kính chào ban quản trị cùng toàn thể thành viên diễn đàn cùng các bạn đọc Quân sử Việt Nam Dựng Nước Giữ Nước và chuyên Mục Một Thời Máu và Hoa của diễn đàn lời chào trân trọng nhất. Phần 5 tốp topic Tranphu341 đoàn bb Sông Lam trên chiến trường A của Tranphu341 đã tròn 60 trang.

           Theo quy định Tranphu341 mở phần 6 để tiếp nối những bài viết về phần 5, cùng giao lưu với các bạn, các thành viên diễn đàn. Phần 5 Tranphu341 đang còn mắc nợ chưa viết được nhiều những điều cần viết vì nhiều lý do. Mong rằng được sự lượng thứ của bạn quản trị diễn đàn cùng các thành viên và bạn đọc.

           Rất trân trọng cảm ơn ban quản trị cùng các bạn đã quan tâm tạo điều kiện tốt cho Tranphu341 trong những phần đã viết. Chúc ban quản trị các thành viên cùng các bạn luôn vui khỏe ngày càng phát triển tỏa sáng hơn nữa. Kính !!!


           Để tiện theo dõi hệ thống Tranphu341 xin đưa đường Linh của các phần trước về cho các bạn dễ truy cập:

Tranphu341- Đoàn bb Sông Lam - Biên giới Tây Nam - Phần 1.

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=21752.0

Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Biên giới Tây Nam - Phần 2.

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=22575.0

 Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Làm nhiệm vụ Quốc Tế - Phần 3.


http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=23927.0


Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Làm nhiệm vụ Quốc Tế - Phần 4.

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=25731.0


Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 5.

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=28704.0



                  Các thành viên Phi công tiêm kích, Giangtvx, phaiphai chủ nhà là Tranphu341 cô em gái Chích Bông xuanv338 với chủ đề rất đáng yêu: Có một cuộc đời và tình yêu như thế" Rất đang được các thành viên các bạn đọc quan tâm theo dõi topic hiếm hay và thật đặc sắc trong diễn đàn. Buổi tiếp còn có ccb sư đoàn 341 người Tranphu341 hay nhắc tới trong phần 3 của Topic. Nay anh là nhà thơ và là chủ tịch hội Thơ của Thái Bình.

                  Một vài hình ảnh của ngày vui gặp mặt.

(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3039_zpscqntpn3j.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3039_zpscqntpn3j.jpg.html)

Đại tá nhà văn nhà thơ Phi công tiêm kích tặng sách cho Tranphu341


(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3016_zpsl6zxd6z8.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3016_zpsl6zxd6z8.jpg.html)

Tranphu341 tặng sách:" Từ biên giới Tây Nam đến Đất Chùa Tháp" cho thành viên Giangtvx ( Sách biên soạn lại từ Tranphu341 đoàn bb Sông Lam Biên giới Tây Nam)


(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3048_zpsltk32sea.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3048_zpsltk32sea.jpg.html)


Hai nhà văn nhà thơ Đặng Thành Văn & Phi công Tiêm kích tặng sách nhau


(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3042_zpsm4bu2qud.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3042_zpsm4bu2qud.jpg.html)

Cái bắt tay thật nhiều ý nghĩa làm anh em cứ thắc mắc hi hi...

(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3050_zpsbtffaukn.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3050_zpsbtffaukn.jpg.html)

Bức hình lúc chia tay.

          


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 18 Tháng Sáu, 2017, 08:15:53 pm
xuanv338 (chích bông) xin chúc mừng ngôi nhà mới của anh CCB đoàn bộ binh sông Lam anh hùng. Chủ nhân của cuốn sách đang nổi cồn trên trang mạng. " Từ biên giới........." anh TranPhu341. Đầu trang ngôi nhà mới là những hình ảnh đẹp trong buổi giao lưu gần nhất. Đoàn khách ba người là ba cái đầu trí tuệ, còn có cả người trên trời nữa chứ. Hy vọng phần 6 của anh TranPhu341 sẽ khởi sắc hơn, nhanh cao hơn, phía trước đang là phần 7 và cuốn sách tiếp theo được xuất bản. Chúc anh chủ khỏe mạnh, dẻo dai sức chiến đấu thắng lợi trên thương trường, vinh quang trên diễn đàn Dựng nước.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Sáu, 2017, 08:16:58 pm

        Cuốn sách của bác Phú đang được số hóa tại: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=31217.new#top

        Mời các bác đón đọc!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phicôngtiêmkích trong 25 Tháng Sáu, 2017, 10:46:55 pm
Chúc mừng anh TranPhu đã bắt đầu xây "tầng sáu" cho ngôi nhà của mình. Hy vọng tầng này sớm khánh thành để nhiều người được tham quan. Khi anh tặng sách cho Giangtvx, anh băn khoăn việc không tặng được cho tôi và cho Phaphai vì không còn sách nữa. Tôi lại rất mừng vì hai việc : thứ nhất, anh trao sách cho đúng người như câu "chọn mặt gửi vàng" vì vào tay Giangtvx thì cuốn sách của anh sẽ nhiều người biết hơn. Thứ hai, khi Giangtvx có thì thế nào tôi và Phaphai cũng được đọc vì với tài năng của Giangtvx thì cuốn của anh được số hóa nhanh lắm. Và cũng chẳng cứ chỉ tôi cùng Phaphai mà rất rất nhiều người sẽ biết đến, anh TranPhu ạ !
Chúc anh luôn khỏe và viết đều, viết nhanh. Anh không chỉ cầm bút mà còn cầm máy rất chuẩn nữa. Ảnh anh chụp rất đẹp. Chuyến đi vừa rồi gặp được các đồng đội ở nhà hàng của anh, chúng tôi ấn tượng lắm và hẹn nhau thế nào cũng có dịp trở lại Thái Bình nữa đấy, anh ạ !


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 26 Tháng Sáu, 2017, 08:47:18 am
Tự ái quá! Hì...Anh phicongtiemkich chỉ khen anh TranPhu341 cầm máy chuẩn. Hai tấm ảnh trên. Anh TrầnPhu341 và anh Huy, ảnh bốn anh em là chích chụp đấy chứ. Anh phải khen cả chích nữa mới công bằng. Hì.. em nói vui vui chút thôi. Công nhận anh TranPhu341 không những cầm máy chuẩn mà còn chớp thời cơ rất nhanh nữa. Cuộc gặp mặt vui mãi. Hẹn gặp lại các anh.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 27 Tháng Sáu, 2017, 09:10:43 am
              Chào bác Phi công Tiêm Kích. chào xuanv338 chào các bạn!

              Đúng là dư âm ngày vui người Thái bình được đón tiếp phái đoàn 3 cây ĐẠI THỤ của VMH về thăm thật không gì vui và không gì tự hào bằng. Cô em tôi đã đẹp nay lại càng đẹp hơn bới lúc nào cũng ngời ngời sắc xuân khi được gặp được tiếp chuyện với các anh tài. Đúng là Trai Tài - Gái sắc. Tôi Tranphu341 cũng được thơm lây vui lây hi hi...

              Quả thực là được gặp được đón tiếp các anh. 3 chàng Ngự Lâm của VMH anh em tôi vui và quý vô cùng. Vẫn thường đàm đạo nói về buổi gặp nói về các anh và từng anh. Toàn những lời ong bay bướm lượn vui như bài hát con bướm xinh, con bướm xinh. hi hi... Hy vọng rằng được đón tiếp các anh thật nhiều thật nhiều nữa.

            Hôm nay Tranphu341 cũng rất vui khi được báo đoàn Thanh Loan Ytá cùng phu quân và các đồng đội khoảng 15 Thành viên xuống gặp mặt giao lưu với Tranphu341. Tiếc là em tôi lại đang chuyền càng không về dự được.

            Kính chúc các anh luôn vui thật nhiều niềm vui cuộc sống !!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phicôngtiêmkích trong 27 Tháng Sáu, 2017, 09:39:53 pm
Cám ơn anh TranPhu đã có lời khen anh em bọn tôi. Thực ra, anh em chúng tôi không được như thế đâu nếu không có sự đón tiếp niềm nở và không khí thật chan hòa tình cảm như trong gia đình. Một chút men của "Cổ Bình" lại càng thêm sự phấn chấn. Cả anh TranPhu, cả Xuanv338 cùng anh Đặng Thành Văn đều gây ấn tượng mạnh mẽ cho anh em chúng tôi. Chiều nay, Dongadoan - người chủ của trang VMH ngồi uống với tôi và Phaphai (vì Giangtvx đang đi công tác) có "ra lệnh" là lần sau đi, dứt khoát phải có Dongadoan đi cùng. Tôi và Phaphai đồng thanh : "Báo cáo ! Rõ !". Mà Dongadoan chụp nhiều ảnh hôm nay lắm, chẳng hiểu là sẽ "quăng" vào trang nào thì tôi chịu.
Chúc anh TranPhu dẻo tay viết và hẹn sớm gặp lại !


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 28 Tháng Sáu, 2017, 06:44:00 am
xuanv338 chào anh phicongtiemkich. Chào các anh chị em đang tham gia trang nhà. Anh TranPhu341 mấy hôm nay chắc còn bận mải và xả mệt vì vừa được tiếp đoàn khách phía nam là vợ chồng Thanh Loan Y tá cùng đồng đội đến hơn chục người. Tiếc là xuanv338 em có việc bận nên không tới nhà hàng để gặp được các anh chị đã rất thân quen. Thay mặt anh TranPhu341 em cảm ơn những lời nhận xét rất ưu ái về người Thái Bình. Và cũng rất vui và vinh dự dù mới chỉ được nghe anh Huy thông báo tin vui mới này mà đã mong rồi. Nếu các thành viên VMH Thái Bình được tái đón đoàn mà còn có cả thủ lĩnh của VMH thì còn gì bằng nữa ạ. Chắc rượu Cổ Bình lần sau anh TranPhu341 phải tăng nồng độ cho bốc lửa lính. Hì.. nói đến tăng nồng độ rượu lại nhớ bài học qua clip kinh nghiệm tự hạ nồng độ cồn ngay trong miệng. Kinh nghiệm này chắc chỉ có lính nhà trời mới biết.
Chuyện lính còn nhiều. xuanv338 lại có việc bận phải đi. Xin thay mặt anh chủ cảm ơn và kính chúc các anh em nhóm VMH mạnh khỏe và chờ xem những tấm hình trong tiệc rượu chiều 27/6/2017 của nhóm VMH và thủ lĩnh trang VMH.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Sáu, 2017, 02:01:03 pm
            
              Chào Hai thành viên Tài & Sắc của trang Máu & Hoa VMH. Chào các bạn!!!

              Thật là vui thật là quý khi được đọc những commem của Phi Công Tiêm Kích & Xuanv338 tại ngôi nhà Tầng 6 của Tranphu341 này. Không biết góp chuyện thế nào nữa khi mà chủ nhà đang đứng giữa hai cây đạị thụ. Hai người đã thật ngưỡng mộ nhau trên trang mạng ảo giờ đây gặp nhau ngoài đời. Được trực khẩu được ngắm nhìn dung nhan nhau và thật nhiều thật nhiều ý đẹp lời hay say đắm như người MỚI YÊU & ĐƯỢC YÊU hi hi... Rất cảm phục và hy vọng ngày nào đó Tranphu341 cùng Xuanv338 lại được đón tiếp các anh tại Thái Bình cho thỏa lòng mong ước. Nhất là được sự có mặt của Thủ lĩnh Đông A Đoàn cùng tùy tùng thì niềm vui được nhân lên gấp bội. Tranphu341 xin trân trọng mời Tư Lệnh VMH cùng các thành viên về thăm thái bình. Nói dùm anh Phi công nhé hi hi...

 Luôn mong chúc các anh cùng các thành viên bạn hưu mạnh khỏe.


Một vài hình ảnh đoàn Thanh Loan & Phu quân cùng các anh em Hà Nội Hải Phòng về thăm thái bình.

(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3095_zps37xz4pfw.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3095_zps37xz4pfw.jpg.html)


(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3087_zps7l44jtuv.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3087_zps7l44jtuv.jpg.html)


(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3098_zpsig1f0lfn.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3098_zpsig1f0lfn.jpg.html)


(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3137_zpsigtudh8u.jpg) (http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3137_zpsigtudh8u.jpg.html)



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 29 Tháng Sáu, 2017, 12:44:19 pm
xuanv338 chào anh chủ ngôi nhà tầng 6. Đang vui mà sao những hình ảnh đẹp mất hết rồi anh TranPhu341?


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 29 Tháng Sáu, 2017, 06:49:08 pm

        Chào xuanv338! Tranphu341 cũng không hiểu tại sao lại mất hết ảnh?

         Để hỏi lại các Sếp quản trị xem sao ???
 


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 29 Tháng Sáu, 2017, 08:41:25 pm
Em nghĩ có lẽ do lỗi từ phần mềm phtubuket thì đúng hơn. ANh viết tin nhắn hỏi Giangtvx. Hoặc hỏi trên trang mạng có nhiều thành viên biết. Em sợ anh chưa đăng ký thành viên phần mềm photubuket để ảnh không bị xóa theo thời gian.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Sáu, 2017, 09:05:58 pm
(http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3048_zpsltk32sea.jpg)

1/ Thông báo trên có nghĩa là tài khoản của bác Phú đã bị khóa. Có thể bác đã dùng vượt định mức cho phép của photobucket. Giải pháp: Đăng ký 1 tài khoản mới rồi tiếp tục

2/ Trích từ bài viết đầu tiên của bác Phú:

                  Một vài hình ảnh của ngày vui gặp mặt.

[URL=http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3039_zpscqntpn3j.jpg.html][IMG]http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3039_zpscqntpn3j.jpg[/img][/URL]

Đại tá nhà văn nhà thơ Phi công tiêm kích tặng sách cho Tranphu341


[URL=http://s1228.photobucket.com/user/tranphu341/media/IMG_3016_zpsl6zxd6z8.jpg.html][IMG]http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3016_zpsl6zxd6z8.jpg[/img][/URL]

=> điều này cho thấy cú pháp đưa ảnh lên là sai, vì vậy ảnh không hiển thị lên được.

Cú pháp đúng có dạng như sau:

[img]http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/moi/00%20Bia%20-%200001_zpshyl9htac.jpg[/img]

lúc đó ta sẽ được ảnh này:
(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/moi/00%20Bia%20-%200001_zpshyl9htac.jpg)

Giao diện của photobucket hiện không có gì thay đổi so với trước.

Việc đưa ảnh từ máy (tính/điện thoai) lên photobucket qua xem các bài trước em thấy bác Phú làm tốt rồi. Bây giờ em xin nói lại cách sửa lại cú pháp đưa anh lên cho đúng.

        - Sau khi upload ảnh lên photobucket ta được:

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/moi/P1_zpspfsqcejj.jpg)

        - Tiếp theo: kích kép (nút trái) vào ảnh cần đưa lên VMH :

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/moi/P2_zpskfzjncvu.jpg)

        - Sau đó copy đường dẫn của file ảnh trong photobucket như hình vẽ dưới:

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/moi/P3_zpslia6homu.jpg)

        - Mở bài nơi điịnh đăng ảnh gõ
[img] [/img]

        - Dán đường dẫn đã copy vào giữa
[img]Dán đường dẫn vào đây[/img]

-------------------
Khả năng bác Phú nhầm nên copy ô thứ 4 nên mới có đoạn "http://i1228.photobucket.com/albums/ee456/tranphu341/IMG_3039_zpscqntpn3j.jpg[/img]

 (http://" (phải copy ở ô thứ 2 mới đúng)



[img)


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 30 Tháng Sáu, 2017, 09:13:29 am
Anh Tranphu341 và chích cảm ơn thày Giangtvx.  xuanv338 cũng đoán có thể trục trặc tại phần mềm photubuket. Nhưng có vẻ phần mêm có thay đổi giao diện thì phải a G?
Vậy anh Tranphu341 đăng ký lại phần mềm photubuket đi là đơn giản nhất ạ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 30 Tháng Sáu, 2017, 09:46:15 am
            Cảm ơn anh Giangtvx! Cảm ơn xuanv338 đã góp ý sử đổi phần mền của Phôtbucket nhưng thực sự thì Tranphu341 cũng chẳng biết tại sao và chẳng biết sử đổi thế nào cả.

            Anh Giangtvx xem có sửa được cho không. Tên tài khoản là Tranphu341, Mật khẩu là 123456- Trước đây là binhyen1960 mở hộ mà. Mình vẫn làm như cũ nhưng không hiểu sao bây giờ lại như vậy. Anh Giangtvx xem gíp hộ nhé.

            Xin cảm ơn!!!


            


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 01 Tháng Bảy, 2017, 12:03:22 pm

           Chào các bạn! Tranphu341 xin đăng mẩu chuyện vui có thật của lính!

           Các đồng đội có nhớ thời "NẮNG CỰC".

           Những năm 1973-1974 khi mới vào Quảng Bình Vĩnh Linh Quảng Trị mùa nắng cộng gió Lào trời như đổ lửa. Bộ đội chưa quen nắng nóng lại phải đi tập rất vất vả khổ cực.

          Các O dân quân thường là hơn tuổi lính đã rất bạo dạn gặp bộ đội đi tập các O hỏi: Các chú bộ đội đi tập có NẮNG CỰC không? Cực là khổ tiếng địa phương. Bộ đội gặp các chị tưởng họ chân thành hỏi thăm chia sẻ liền tranh nhau nói: O ơi chúng tôi "NẮNG CỰC'' lắm. Đoàn các cô các chị phá lên cười. Bộ đội ta không biết ngạc nhiên nghĩ bụng" cười cái gì mà cười".
 
          Sau một thời gian mới biết là các cô các chị trêu lính trẻ nên nói " Lái" "NẮNG CỰC KHÔNG"??? Hiểu ngược lại là .... Các đồng đội các bạn nghĩ tiếp hi hi...


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 04 Tháng Bảy, 2017, 03:13:00 pm

         Chuyện vùng "Nắng cực":

         Bất khả xâm phạm !!! Bất khả xâm phạm !!!

         Mấy hôn nay biển Đông lại dậy sóng. Vùng đất, vùng biển và vùng trời của chúng ta đã từ bao đời là:" Bất khả xâm phạm".
Nhớ lại những năm chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Bắc lúc đó đâu đâu cũng có khẩu hiệu và câu nói:" Bất khả xâm phạm". Không biết phân tích ý nghĩ của cụm từ trên về tiếng Việt tiếng Hán là thế nào, nhưng thời đó mọi người rất hay dùng cụm từ này để nói nên ý chí quyết tâm của chúng ta bằng mọi giá bảo vệ vùng Đất vùng Trời vùng biển miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, không thế lực nào được xâm lấn. Câu nói đó nó trở thành câu khẩu hiệu" cửa miệng" của mọi người. Nhất là những người trong lực lượng vũ trang chính quy và dân quân du kích.

           Ngày 3 Tháng 8 Năm 1972 Trung đoàn 36B được thành lập. Hôm đó Trời Thủy Nguyên Hải Phòng mưa tầm tã. Tiếng máy bay Mỹ cùng những tiếng nổ của bom của Rocsket cùng tiếng súng phòng không rầm trời. Chúng tôi được nhận quân tư trang và vũ khí súng đạn. Sau lễ tuyên thệ rồi gấp rút hành quân bộ vào phía Nam. Nơi đó đang cần chi viện. Chúng tôi vào luyện quân tại Thanh Hóa rồi tiếp hành quân vào Nghệ An. Những ngày tháng cuối năm 1972 đỉnh điểm của chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ vào các thành phố lớn Hà Nội, Hải phòng bằng át chủ bài máy bay B52. Song chúng đã thất bại. Đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa Ri về chiến tranh ở Việt Nam. Chúng tôi lại hành quân gấp chi viện cho Miền Nam.

           Sau những ngày hành quân đường rừng, vượt đèo ngang chúng tôi được hành quân dọc đường 1 với khí thế chiến thắng. Đường ra trận vui như trẩy hội. Qua phà Gianh đội hình dừng nghỉ tại xã Trung Trạnh Huyện Quảng Trạch Quảng Bình. Còn nhớ mãi kỷ niệm dọc xã là những vỏ quả bom bi mẹ chôn dọc đường với những hàng chữ Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ Xâm lược. Không gì vui bằng cái vui của người lính khi hành quân được nghỉ tại nhà dân nhất là những nhà có " Bóng hồng". Hôm đó tiểu đội tôi được ở tại một gia đình chỉ có 1 Mạ ( Mẹ ) và hai O ( Cô em ) gái to cao lực lưỡng đều là dân quân của xã. Cô chị là pháo thủ cối 82 ly. Còn cô em cao to hơn là pháo thủ súng 12 ly7.

          Căn nhà tranh nhỏ bán âm bán dương chỉ vài người được mắc võng trong nhà còn mọi người tìm cách mắc võng ở ngoài những cây phi lao gầy guộc quanh nhà nhưng lại rất rễ cho việc mắc võng. Bộ đội đến nhà nhân dân rất vui. Buổi tối khi hai O gái đi trực về một O vào bếp đun nước cho bộ đội. Minh trong tiểu đội thấy vậy cũng vào bếp chuyện trò làm " Công tác dân vận". Chuyện trò thế nào được khoảng 15 phút thì thấy cô gái chạy vụt ra ngoài hô to: "Bất khả xâm phạm. Bất khả xâm phạm". Bất ngờ nghe tiếng hô, chúng tôi chạy xuống bếp. Qua ảnh lửa bập bùng thấy Minh mặt đỏ au ngồi nghệt ra ấp úng không nói lời nào. Đoán biết việc gì. Anh em tôi nói nước sôi rồi tắt bếp lên nhà đi ngủ.

          Năm giờ sáng hôm sau, đơn vị lại tiếp tục hành quân vào phía trong. Tiểu đội đã tập hợp mà vẫn còn thiếu Minh. Tiểu đội trưởng chạy ra sau nhà tìm thì thấy Minh cùng cô nữ pháo thủ 12 ly7 đang chia tay rất tình tứ bịn rịn. Thấy tiểu đội trưởng hắng giọng, hai người buông nhau ra rồi nói lời tạm biệt. Dọc đường hành quân mọi người mới xúm vào trêu và hỏi về việc tối qua tại sao cô gái đang đun nước mà lại chạy vụt ra vừa chạy vừa hô như có máy bay thù? Minh mới từ từ kể lại khi vào nấu nước, hai anh em chuyện trò rất tình cảm rồi bản chất con trai bên con gái bắt đầu lân la khám phá những điều bí mật khác giới.

          Mới đầu là cầm tay rồi lân la phát triển vùng "núi đôi hùng vĩ" thật hấp dẫn. Không chịu dừng ở đó Minh tiếp tục khám phá vùng đất mới. Vừa lân la xuống vùng cấm" Thánh địa" Thì O gái như bừng tỉnh hất tay Minh ra vùng lên chạy ra ngoài vừa chạy vừa hô:" Bất khả xâm phạm, bất khả xâm phạm" làm mình ngượng quá. Sáng hôm nay O pháo thủ chủ động gặp mình có ý xin lỗi rồi và hứa khi nào chiến thắng trở về O gái sẽ cho mình:"Thoải mái xâm phạm"!!!



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 05 Tháng Bảy, 2017, 05:41:39 am
Lính! Chuyện của lính rất lính. Cám ơn bác Tranphu341 vì một bài viết hay mà có lẽ anh lính nào cũng thấy ít nhiều bóng dáng mình trong đó!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: longtrec trong 06 Tháng Bảy, 2017, 01:57:36 pm
Chào anh Trần Phú cùng các anh, các bạn trang nhà.

Cách viết chuyện của anh Trần Phú rất dí dỏm, rất lính ;D

Có 1 câu chuyện thế này, các cô gái ê sắc ế họp nhau than phiền rằng, những đàn ông hay ho cỡ như anh Trần Phú thì đã yên bề gia thất rồi, còn lại toàn những thằng" dở hơi biết bơi". Các cô than phiền thì đúng, nhưng chỉ đúng 1 phần, các cô đâu biết rằng chính các cô là chất xúc tác làm nên TP ngày nay. Văn anh Phú chẳng phải càng viết càng hay sao. Và cái gì làm nên sự hay ho đó? Chẳng phải anh "Phú cò hương" trước đây rất rát gái và ăn nói không được tinh tế như ngày nay sao? Vâng sự từng chải , không ngừng chao dồi và đặc biệt là nguồn cảm hứng từ các cô....đã làm nên anh Phú rất hay ho ngày nay.

Cảm ơn anh vì câu chuyện rất hay, còn "nắng cực" em đoán chưa ra.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 07 Tháng Bảy, 2017, 09:46:58 am
           Chào Giangtvx, chào Longtrec, chào các bạn!

          Rất vui khi các bạn đến thăm nhà cùng lời khen làm cho chủ nhà vui càng thêm vui! Càng ngày càng thêm tuổi mình càng thấy cuộc đời này ngắn quá. Nhiều khi muốn viết nhiều hoặc làm thật nhiều điều mà không được. Thôi thì nhớ lại chuyện xưa viết kể lại vậy. Đó là những chuyện thực của đời lính rất lính như các bạn nói. Kể lại được các bạn hưởng ứng đọc, nhân xét làm Tranphu341 vui nhiều. Bạn Longtrec lại nhớ cái dáng " Cò hương" của mình vui và cảm động lắm!!!

          Mình biết là bạn Longtrec đùa với câu nói" Nắng cực" nó giống như vùng Củ Chi có câu: Hỏi" Củ Chi là "Chỉ cu" ấy mà !!! ;D ;D ;D ;D ;D

          Chúc các bạn luôn nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 07 Tháng Bảy, 2017, 09:51:24 am

                                                        NƯỚC MẮT ĐÀN ÔNG

                                                   HAY NGƯỜI ĐÀN ÔNG KHÓC.

   Thưa các bạn!

   Từ xưa, trong sách báo văn học cổ đến kim người ta thường hay nói đến giọt nước mắt đàn bà. Ít khi nào người ta nói về người đàn ông khóc. Phải chăng đàn bà ủy mỵ yếu đuối hay khóc, dễ khóc. Còn người đàn ông thì cứng cáp khô cằn ít thể hiện sự đau thương bằng nước mắt. Có câu tục ngữ: "Đàn ông con trai nước mắt chảy vào trong. Đàn bà con gái, nước mắt bong ra ngoài".

   Với tôi, trong đời quân ngũ được chứng kiến biết bao đau thương, bao khổ cực. Chứng kiến các đồng đội mình, nhất là các thế hệ đàn em của mình đổ máu hy sinh, chết không toàn thây do bom đạn thù mà ta thường nói" Thịt nát, xương tan". Có những trận chiến bi hùng không phải hàng chục, mà là hàng trăm người chết, máu đỏ thẫm đen trên màu xanh áo lính nhàu nát, thịt xương bét be hàng chục người cùng sỏi đất đựng chưa đầy cái mũ đội đầu. Đau thương vô tận, nhưng không hiểu sao chúng tôi không khóc. Không một ai khóc hay nói đúng ra không ai nhìn thấy giọt nước mắt nào của những đồng đội đang sống trong đau thương, đau thương đến tê dại ngỡ ngàng. Thưa các bạn thế mà có một lần trong đời tôi được gặp, được nhìn thấy người đàn ông khóc. Hình ảnh đó vẫn đọng mãi vẫn hiển hiện trong tôi đến tận bây giờ.

   Đó là một ngày của tháng 8 năm 1972. Chúng tôi hành quân chi viện cho Miền Nam. Đường hành quân từ Thủy Nguyên Hải Phòng, qua Nam Sách Hải Dương theo đường 1, vượt sông Hồng vào đêm mưa. Dừng chân tại ga Tía Thường Tín nghỉ 1 ngày rồi tối hôm sau được lên tàu hỏa, cái toa tàu thật " Sang trọng" gọi là " Toa đen" tới tận Ninh Bình. Sáng ra mặt ai cũng nhem nhuốc thật sự vì toa tầu chở than đen nhẻm. Nhưng với những người lính bộ binh thì được ngồi tầu mấy chục cây số cũng là oai, là giá trị lắm rồi.

   Tiếp tục từ Ninh Bình chúng tôi hành quân bộ rẽ vào con đường mang tên Nguyễn văn Trỗi qua khu vực đền đài Vua Đinh Bộ Lĩnh, chùa Bái Đính, qua rừng Cúc Phương. Qua nho Quan, Hậu Huyền, Bến Cát Kim Tân. Tại đây tôi được biết Kim Tân Thạch Thành là nơi tôi được ra đời. Nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Nơi mà bố tôi xưa làm việc tại công binh xưởng sản xuất vũ khí của quân đội thời chống Pháp. Mẹ tôi tản cư theo công binh xưởng của bố tôi. Đi tiếp, đi tiếp một buổi chiều khi hành quân qua một khu vực có thành quách chung quanh. Có 2 con Rồng đá dài bị cụt đầu rồi qua 1 cổng thành lớn. Chúng tôi được  biết đây là di tích thành nhà Hồ. Tuổi đời của nó cũng đã gần ngàn năm.

   Đang ngỡ ngàng trong niềm vui được biết nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Rồi lại được qua những đền đài thành quách mà chưa bao giờ chúng tôi được biết. Nhìn sang bên đường, bất chợt tôi thấy một người đàn ông đang đứng khóc, khóc nức nở nhưng không thành tiếng. Ông mặc áo nâu đã bạc có mấy miếng vá. Cái quần cộc cũng màu nâu nhưng thẫm hơn. Cái nón ông đôi cũng thật cũ rách tua. Một tay ông cầm cái đòn gánh chống xuống đất đầu trên tựa vào vai, còn tay phải ông liên tục gạt nước mắt. Tôi vừa đi ngang qua thì ông cũng đã xỏ quang gánh có 2 cái rổ sảo không, chắc ông vừa gánh gì đó và trên đường đi về. Thấy bộ đội hành quân, nhìn những người lính 17 -18 đôi mươi rập rập cúi rạp hành quân hướng đường ra trận. Có thể ông cũng có con là lính. Thương nhớ con hay ông thấy những người lính trẻ đẹp thơ dại kia đang hành quân chi viện cho chiến trường mà ngày đi thì có còn ngày về mấy ai được. Rất nhiều, rất nhiều người đã mãi mãi không về. Sinh Bắc tử Nam. Ông thương con ông khóc. Ông thương chúng tôi ông khóc. Hay ông khóc do cuộc sống quá đau khổ vì chiến tranh triền miên đói rét cơ cực và bao điều nữa chúng tôi lúc đó không thể hiểu hết. Đi qua ông rồi mà không hiểu sao tôi vẫn quay lại nhìn ông, nhìn mãi nhìn mãi. Ông vẫn đi theo đoàn quân vẫn 1 tay để trên đòn gánh 1 tay cứ đưa lên quyệt nước mắt. Quyệt ngang giữa trời.

    Chiều muộn, tháng tám mưa dầm thật ảm đạm. Tiếng máy bay thù vẫn ì ầm và những tiếng bom nổ rền xa nơi cầu Chuối. Hình dáng người đàn ông khóc bên thành quách rêu phong buổi chiều hôm ấy. Hình ảnh đó cứ hiển hiện mãi trong tôi qua bao năm rồi mà vẫn như bức tranh trước mặt mới mãi, mới mãi. Có lẽ hình bóng bức tranh người đàn ông khóc chiều đó mãi theo tôi đến tận cuối đời.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 08 Tháng Bảy, 2017, 08:07:59 am
xuanv338 chào anh chủ đoàn bộ binh sông Lam anh hùng. Câu chuyện anh viết vào tháng 7 càng thêm xúc động. Đọc bài viết của anh Tranphu341 hôm nay sau lần cho xuất bản cuốn sách đầu tay. Cốt chuyện hay, phù hợp tâm trạng của tháng 7 về,  nhưng khác lạ, đọc văn anh hôm nay đúng là thay da đổi thịt. Câu từ chuẩn, cách diễn đạt chuyện như một nhà văn đích thực chứ không phải ông CCB từng đánh trận, không phải ông GĐ một công ty đang chiến đấu cam go không kém trên lĩnh vực thương trường. xuanv338 chúc mừng anh và nhân bài viết chích em kính chúc anh mạnh khỏe và thắng lợi trên mọi lĩnh vực. Cảm ơn Giangtvx đã Số hóa cuốn sách của anh làm người đọc thoải mái không phải ngắt đoạn chờ đọc.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 11 Tháng Bảy, 2017, 01:31:33 pm

          Chào xuanv338 chào các bạn!

          Như vậy là cô em xuanv338 khen nhiều khen nhiều quá làm ông anh nguy hiểm mất rồi. Tránh xa tránh xa nhé để đảm bảo an toàn cho mọi người chứ cứ đà khen này thì mũi của ông anh có nguy cơ vỡ mất đấy hi hi...Rất trân trọng cảm ơn xuanv338 cùng các bạn luôn ủng hộ Tranphu341 để có thể tiếp tục những câu chuyện đời lính còn đang rất dài!!!!

          Kính chúc xuanv338 cùng các bạn luôn mạnh khỏe cùng thật nhiều niềm vui cuộc sống!!!


           Tranphu341 xin kể lại 1 câu chuyện mà Tranphu341 vẫn cứ vẩn vơ nghĩ ngợi đến tận bậy giờ.


                                                                    Chuyện của tôi.

                                                                NHÁT BÚA SÁT SINH !

               
                  Thưa các bạn !
                 
                  Nhân chuyện lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn xảy ra sự cố đáng tiếc! Người chủ Trâu bị chính Ông Trâu húc chết. Về lễ hội chọi Trâu truyền thống này không biết có từ thời nào. Có thế xuất xứ từ Đồ Sơn Hải Phòng nhưng cho đến bây giờ thì rất nhiều tỉnh đều mong muốn được mở trường đấu Chọi Trâu, chọi bò, chọi chó.

                  Khó có thể luận bình được đúng sai cái thiện cái ác của lễ hội. Những con Trâu được chọn, được vỗ béo từ đầu năm không phải đi cầy bừa lao động gì cả mà mục đích duy nhất là chỉ để phục vụ cho mấy ngày lễ hội đang rất cuốn hút người xem. Cuộc đời Trâu chọi đâu có dài, vì dù Trâu thắng hay Trâu thua thì sau lễ hội cũng bị" Xử trảm". Riêng thịt Ông Trâu thắng cuộc thì được giá bán rất cao. Rồi các chủ Trâu lại lục tục dong duổi đi tìm những con Trâu mới có đủ tố chất cho mùa chọi mới.

                 Tục ngữ Việt và phong tục Việt rất quý trọng con Trâu. Đã có câu ca lưu truyền là: "Con Trâu là đầu cơ nghiệp". Nhưng hiện nay khi mọi văn minh nhân loại phát triển máy móc thay thế thì con Trâu không còn thật quý thật quan trọng như xưa nữa. Có dịp về các vùng thôn quê bây giờ mà nhìn thấy con Trâu con Bò cũng khó. Các bờ ruộng thì cỏ xanh tốt ngút ngàn chẳng bù cho ngày xưa khi mà con Trâu con Bò vẫ đang được coi là"đầu cơ nghiệp". Nhưng dù như vậy thì cái bản chất lương thiện và sự quý trọng con Trân con Bò trong chúng ta mỗi người dân chúng ta vẫn rất quý rất trọng chúng. Chiều chiều ven đê, nhìn những đàn Trâu, đàn Bò thong dong nhàn rỗi gặm cỏ, trên lưng có mấy em nhỏ cưỡi và ngân nga sáo trúc, tiếng sáo diều âm vang thì thấy cảnh thanh bình thật sự của làng quê. Hay những con Trâu nằm dưới khóm tre nhai cỏ sau một ngày làm việc ve vẩy cái đuôi đuổi ruồi đuổi muỗi, thế hệ mình ai mà chẳng nhớ. Vì vậy việc sau lễ hội tất cả những Ông Trâu thi đấu dù là thắng, dù là thua đều bị giết thì cũng làm cho nhiều người và báo chí đã không ít lần đàm luận vấn đề này.

              Nhớ lại Tết năm 1972 sang 1973. Đơn vị tôi đang hành quân vào Nam. Lúc đó Hiệp định Pa Ri đã được ký. Trong niềm vui lớn những ngày đầu ngừng chiến. Nhất là Tết cổ truyền kề cận. Tối tối trên trời đạn đỏ vạch đường được bắn lên như pháo hoa. Dọc đường hành quân tiếng hát"Việt Nam trên đường chúng ta đi" vang vang như nâng nhịp bước hành quân. Ngày 30 tết năm đó Tiểu đoàn 1 tôi nghỉ tại xã Cẩm Duệ, Cẩm Xuyên Hà Tĩnh. Dân ở đây thật nghèo nhưng cũng thật tình cảm. Trên thông báo mỗi đại đội được cấp 1 con Trâu ăn Tết. Đại đội 3 như vậy cũng có 1 con Trâu do hậu cần cấp. Con Trâu không to lắm. Mỗi trung đội cử 2 người đi giết Trâu. Tiểu đội 10 thì tôi được nhận nhiệm vụ đó. Toàn lính mới chỉ quen giết gà, giết chó hay cải thiện lươn cua ốc ếch, chứ giết Trâu thì chẳng ai đã từng. Đã sang chiều mà mọi người cứ lúng túng trong việc hành quyết. Người thì nói cho nó mấy phát AK nhưng lại sợ nếu bắn không chết ngay thì nó lồng lên húc rất nguy hiểm. Cứ loay hoay loay hoay bàn đi tính lại mà vẫn chưa có cách hành quyết.

              Nhớ lại hồi nhỏ tôi có được xem nơi lò mổ người ta giết trâu rất đơn giản chuyên nghiệp là chỉ cầm dây mũi Trâu thật chắc, hơi nâng đầu con Trâu lên. Rồi chỉ cần con dao nhỏ bằng 2 ngón tay dài khoảng 1 gang, dí đúng vào cái khoáy giữa 2 sừng rồi ấn mạnh xuống là Trâu năn ra ngay. Sau đó cắt chân, chọc tiết vv… Nhưng ở đây thì chẳng ai làm được như vậy. Ai cũng chỉ có con dao găm Liên xô mài sắc không thể làm theo họ được. Nghĩ ngợi 1 lúc tôi nói mọi người mượn cho tôi cái búa tạ. Rồi nói một đồng đội cầm dây mũi Trâu cho chắc. Tôi nhằm đúng khoáy Trâu giữa hai sừng vung búa lên đập xuống 1 nhát. Tay búa của tôi, người thợ cơ khí chuyên nghiệp đã trúng chỗ khoáy hiểm. Con trâu nằm năn ngay ra trong tiếng hò reo của mọi người. Thế rồi 4 đồng đội lao vào cắt 4 chân trâu, rồi tiếp những việc khác cũng khoảng 30 phút sau thì đã thấy rộn dã tiếng các trung đội nhận được thịt Trâu chia. Riêng tiểu tôi thì được đồng đội quản lý tặng thêm cho cái lưỡi vì tôi đã có công hạ sát con Trâu.

               Ngược với niềm vui của mọi người, sau nhát búa thấy Trâu ngã ra tứ chi đập đạp giẫy giẫy, tôi lại thật bần thần như mình có lỗi gì đó. Điều này, sự việc và nhát búa đó cứ đọng mãi trong tôi với sự ân hận sát sinh cho đến tận bây giờ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 17 Tháng Bảy, 2017, 03:11:32 pm

             Nhân dịp ông Hun Sen thăm lại những vùng chiến địa xưa. Nhắc lại tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia và những giá trị của bộ đội tình nguyện. Phu TranPhu xin góp câu chuyện về những năm tháng sống chiến đấu tại đất Chùa Tháp.
Chuyện Tiểu ban Xăng xe Trung đoàn 273:

                                                            Mon sư hơi! - Mon sư hơi!

            Khoảng giữa năm 1980 khi mà tình hình chiến sự tại Campuchia dần tạm ổn. Đoàn văn công tổng cục chính trị sang tận nơi biểu diễn phục vụ cho bộ đội tình nguyện. Đoàn vào phục vụ tận những nơi đang còn là điểm nóng khó khăn gian khổ ác liệt như cua chữ V, Tà Sanh, Săm Lốp.

            Trung đoàn 273 đứng chân tại Huyện Muông Rư Xây Tỉnh Bát Tam Băng có nhiều thuận lợi hơn nên được đón tiếp đoàn lâu hơn. Trong đoàn văn công thời đó có đủ các nghệ sỹ ca sỹ có tên tuổi như Ca sỹ Lê Dung, Trung Đức, Bích Việt, Linh Nhâm, Đoàn Thọ vv… Ca Sỹ Lê Dung và Trung Đức lúc đó chưa được thành danh chưa có những thành công như sau này. Tiểu ban Xăng xe của Trung đoàn càng vui khi được các nghệ sỹ Trung Đức, Doãn Tần, Quang thọ trực tiếp cùng ở cùng ăn. Anh Vũ Thanh Giã là trưởng tiểu ban, anh Thắng kều, anh Hùng còi, Hùng béo, anh Rền toàn là những người vui nhộn cũng có khiếu về ca hát. Cũng hay bập bùng ghi ta theo bản nhạc nào đó. Từ khi anh em đoàn ca nhạc về ở cùng, Tiểu ban Xăng xe như là bị lây thêm cái chất điệu VĂN NGHỆ SỸ hay sao mà ai nói nói gì hay làm cái gì cũng phèng phèng dịp điệu đế vào như là nhạc đệm. Tiện cái gì thì vỗ vào cái ấy nào là thùng lương khô rỗng, nào là vung xoong cơm, nào là cờ lê mỏ lết va đập lung tung như dàn hợp xướng. Mọi người như đều thấy mình có khiếu âm nhạc, có khiếu sáng tác tiềm ẩn từ lâu đến bây giờ mới được bung ra thể hiện. Đến giờ ăn cơm, một ai đó xướng lên đi ăn cơm thôi là tất cả mọi người mọi âm thanh của dàn nhạc cụ Xăng xe được thúc lên hòa tấu. Vui vui, thật vui. Tiểu ban Xăng xe lúc nào cũng vui lúc nào cũng nhộn, lúc nào cũng đầy chất âm nhạc.

           Một chiều tôi cùng Sa Chơn trong đội công tác sang bên Tiểu bạn Xăng xe chơi. Thấy hai chị em cô gái. Cô chị khoảng 17-18 tuổi đứa em trai khoảng 10-12 tuổi gì đó. Cô chị đang cắp ở nách 1 con gà trống to. Hai chị em đang có ý trao đổi gì với anh em. Nhìn cách ăn mặc và dáng người gầy gò bẩn thỉu áo quần thì rách rưởi của 2 chị em tôi đoán là họ mới ở trong rừng ra họ có vẻ đang đói. Anh em Xăng xe thì cứ cao hứng gõ thùng lương khô và cái xong cơm phèng phèng, phèng phèng. Vừa gõ vừa hát chế theo bằng tiếng Cămpuchia: On ơi on ơi,( phènh phèng phèng) Mon sư hơi, mon sư hơi ( phèng phèng phèng) Hớp ót sa nganh, hớp ót sa nganh( Phèng phèng phèng)

          Nội dung là: (Em ơi em ơi, gà ốm rồi gà ốm rồi, ăn không ngon, ăn không ngon)Anh em đùa vui thật ngộ nghĩnh thái quá. Tôi để ý thì đúng là cái mào con gà đang bị tái. Không biết có phải vì mang đi xa hay gà bị bệnh thật. Hai chị em cô gái thì như sắp khóc. Anh em vẫn tiếp tục trêu đùa. Thấy vậy tôi đến hỏi han thì biết đúng là hai chị em mới ở trong rừng ra. Đang rất đói vì không có gạo. Mẹ ở cũng đang bị ốm đang tá túc tạm ở gần đơn vị chứ không có nhà. Tôi nói với anh em đừng trêu họ nữa. Có thể là họ nghèo thực nhưng cũng có thể là thủ đoạn trinh sát của bọn Pôn Pốt. Tôi hỏi họ đổi con gà lấy gì họ nói đổi lấy 5 non gạo.
Tôi nói anh em cho họ 10 non gạo và ít muối, ít bột ngọt rồi cho lại họ cả con gà. Rồi nói họ dẫn về chỗ mẹ xem xác minh xem có đúng không như họ nói không???

            Tôi xin cả một y tá đi cùng, đúng như lời họ nói. Được yta thăm bệnh cho thuốc, bà mẹ cô gái và mọi người rất cảm động biết ơn bộ đội và kể cho chúng tôi biết những tin tức về tình hình của bọn Pôn Pót trong rừng. Giúp cho đơn vị truy quyét rất hiệu quả. Góp phần xây dựng địa bạn huyện Muông Rư Xây nhanh chóng lớn mạnh được tặng thưởng huân chương và được ông Bí thư Đảng Căm Pu Chia Ben So Van về thăm.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 24 Tháng Bảy, 2017, 07:31:41 am
                                                       Chuyện của tôi:

                                             MỘT BUỔI HỌP KIỂM ĐIỂM

                                                     CÔNG HAY TỘI


            Đó là vào khoảng trung tuần tháng 10 Năm 1972. Khi chúng tôi trong đội hình trung đoàn 36B, Sư đoàn 308B đang gấp rút luyện quân. Toàn trung đoàn đóng quân tại nhà dân kề cận theo phía Tây Nam của núi Ngàn Nưa Thanh Hóa. Dãy núi Ngàn Nưa chạy dài mấy huyện Như Xuân, Triệu Sơn. Yên Định, Nông Cống. Theo sử sách, ngày xưa Bà Triệu Thị Trinh cũng đã từng cưỡi voi  luyện quân tại đây để đánh giặc Ngô phương Bắc. Tiểu đoàn 1 của tôi đóng quân tại xã Phú Nhuận. Đại đội 3 tại thôn Bồng Sơn. Đối diện bên kia núi là Mỏ Cromit Cổ Định. Dân ở đây chủ yếu là Người Dân Tộc Mường Sinh sống. Chỉ có mấy gia đình người Kinh lên khai hoang có nền nhà đất. Còn toàn bộ là nhà sàn đặc trưng của dân tộc Mường.

           Những ngày tháng này, miền Bắc đang là đỉnh cao của cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay của Đế quốc Mỹ. Chiến trường Miền Nam vẫn đang nóng bỏng sau cuộc chiến 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị. Chúng tôi là đơn vị cơ động của bộ nên gấp gáp huấn luyện để tăng cường cho chiến trường đó. Ở đây không xa biển không xa trục đường 1 mấy, là vùng bán sơn địa không là trọng điểm bắn phá của máy bay. Tối tối lên đồi nhìn về hướng cầu Chuối bom thù rền vang. Đạn phòng không bắn lên trời như pháo hoa. Những trái pháo hạm từ biển bắn vào vẽ lên trời đêm đường bay cầu vồng rồi bùng nổ rất rõ.

            Bất ngờ một buổi chiều máy bay của Mỹ bay rất nhiều. Chúng cứ bay qua bay lại từng tốp, từng tốp bắn phá vào những cụm nhà ven núi. Rồi sáng hôm sau chúng lại bay đến nhiều hơn. Cả 1 vùng núi rừng yên tĩnh đột nhiên bị những tốp máy bay đủ loại gào thét. Chúng bắn rocskét, chúng bắn đạn 20 ly vào bất kỳ chỗ nào. Chúng thả cả bom cháy. Bom lân tinh vào khu vực dân cư của đại đội 1. Chúng tôi là lính bộ binh đang huấn luyện nên không có lệnh đánh máy bay mà chỉ phải xuống hầm tránh bom tránh đạn. Mọi người ngó nghiêng xem máy bay, đếm từng tốp máy bay quần đảo gào thét như đang tìm kiếm điều gì? Đã có nhiều người dân bị chết bị thương. Có gia đình đang ăn cơm buổi trưa bị trúng 1 quả Rocsket cả 3 mẹ con đều chết rất thương tâm. Đại đội 1 phải hành quân sơ tán. Đến chiều ngày thứ 2 tiểu đoàn điều 1 khẩu đội súng 12,7ly của đại đội 4 lên đồi để bắn máy bay . Triển khai xong trận địa, vừa bắn được mấy loạt thì bị chúng dập Rocsket và bắn đạn 20 ly cầy nát quả đồi. Hai đồng chí hy sinh 3 đồng chí bị thương. Đồng chí Uy trung đội trưởng quê Thanh Hóa, đồng chí Tính xạ thủ quê Hưng Hà Thái Bình hy sinh. Trong số bị thương còn có 1 đồng chí chính trị viên đại đội 1. Trên đường đi họp đảng ủy tiểu đoàn về ghé thăm khẩu đội.


             Máy bay của chúng vẫn làm chủ bầu trời. Chúng gầm thét quần đảo quanh khu vực đóng quân của trung đoàn nhưng tập trung là khu vực tiểu đoàn 1 mà không bị lực lượng phòng không nào bắn trả. Sang sáng ngày thứ 3. Chúng tôi vẫn ở nguyên vị tri, sẵn sàng đợi lệnh đi sơ tán. Mọi người phải xuống hầm hết. Đại đội tôi điều 1 khẩu trung liên của trung đội 1 lên đồi trực tiếp do trung đội phó Nguyễn Phi Yến chỉ huy sẵn sàng bắn máy bay. Tiếng đạn, tiếng bom, tiếng máy bay vẫn ầm ầm gào thét. Tiểu đội 10 xuống 2 hầm kèo chữ A. Xuống hầm nhưng tôi cứ nhoi ra ngoài nhìn đếm máy bay. Chúng bay rất thấp vẫn 2 chiếc một ào qua như bay sát ngọn tre. Thấy chúng bay thấp quá tôi nói anh Tấn tiểu đội phó: Để em bắn mấy loạt. Anh Tấn nói: Liệu có trúng không. Tôi nói: Nó bay thấp lắm nhìn rõ cả phi công.

             Vừa lúc đó thì lại thấy 2 chiếc khác lao tới. Tôi dương súng làm 2 loạt tằng tăng- tằng tằng. Anh Tấn hỏi có trúng không? Có thấy cháy không? Tôi chưa kịp trả lời thì nghe tiếng quát chửi của đại đội trưởng Nghẹ rất to . Đ.. mẹ mày bắn cái gì? Ai cho mày bắn? Ai cho mày bắn, lộ mục tiêu chết hết bây giờ. Nhìn rõ mặt ông đỏ phừng phừng rất hốt hoảng. Ông vơ luôn mấy cục đất sỏi đáp huỵch huỵch về phía tôi.

( Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: anhtho trong 24 Tháng Bảy, 2017, 09:40:09 am
Thật lâu, hôm nay như (con dâu trốn mẹ chồng) viền thăm anh chị Phú Ngọc. Thật vui khi bộn bề công việc mà anh trai vẫn cập nhật đều đặn những thông điệp ghi nhớ một thời mãi nhớ. Thay mặt Vetran và con cháu em kính chúc anh chị và các con cháu mạnh giỏi thành đạt, cho em gửi lời chúc sức khỏe chị Xuanvui, anh chị Lập, anh chị Minh và các anh chị CCB f341 Thái Bình. Sang năm  Vetran vào tuổi "Lục thập hoa giáp" chúng em rảnh rang sẽ viền thăm các anh chị. Em xin chào.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 26 Tháng Bảy, 2017, 10:32:47 am

               Chào anhtho! Chào các bạn! Đúng là đã lâu mới lại thấy em trở lại trang nhà! Chắc mải mê lợn gà và rau sach đây mà!!! Chúc em cùng gia đình luôn nhiều niềm vui cuộc sống!

               Tranphu341 xin tiếp câu chuyện: Công hay tội.

           Tiếng bom đạn vẫn ầm ầm, ầm ầm. Rồi khói, khói trắng ở phía núi tràn về dầy đặc không ai nhìn thấy gì nữa. Khung cảnh thật ác liệt. Tiếng khẩu trung liên trên đồi tạch tạch, tạch tạch mấy loạt. Khoảng chục phút sau mới hết khói. Bom đạn ầm ầm nhưng có vẻ thưa dần, thưa dần không gắt như trước nữa. Tiếng máy bay xa dần xa dần, trời đất trở lại thanh bình như không có gì xẩy ra. Chúng tôi được lệnh ra khỏi hầm trở lại sinh hoạt bình thường. Các Trung đội trưởng và tiểu đội trưởng của tôi lên đại đội hội ý. Anh em tôi và mọi người thì vẫn sôi nổi bàn tán về sự việc máy bay mấy ngày qua. Anh Tấn thì nói bắn chán bỏ mẹ, nó bay thấp thế mà không trúng. Riêng tôi thì rất lo sẽ bị kỷ luật vì tự động bắn máy bay khi chưa được phép.

          Gần trưa anh Khoát mới đi họp về nói sơ bộ tình hình là mấy hôm nay máy bay bay ở khu vực này nhiều là vì chúng cứu phi công nhảy dù xuống vùng núi Nưa. Chúng tìm kiếm bắn phá suốt 3 ngày. Lúc sáng khi nghe tiếng nổ nhiều và khói là chúng đưa máy bay trực thăng từ biển vào. Tiếng nổ nhiều là đạn giấy chỉ có tiếng nổ lừa mọi người, khói để che mắt đối phương. Cùng lúc máy bay trực thăng thả thang dây cứu được tên phi công. Anh khoát nói thêm: Chiều nay chúng ta họp rút kinh nghiệm việc phòng tránh máy bay và kiểm điểm đồng chí Phú đã tự động bắn máy bay khi không có lệnh.

           Tiểu đội 10 là tiểu đội hỏa lực thuộc đại đội bộ binh. Quân số đủ là 12 người trang bị 2 súng B41, hai súng cối 61 ly. Về kỹ năng và kỹ thuật đòi hỏi sử dụng ống kính quang học để bắn súng B41 và ống kính quang học và phần tử liều bắn thước đo ly giác vv.. cũng giống như là pháo binh mặc dù đây là loại "Pháo tép" nên tiểu đội 10 được yêu tiên những đồng chí có trình độ văn hóa cao. Chất lượng văn hóa của tiểu đội tôi cụ thể như sau: Tiểu đội trưởng là đồng chí Nguyễn đăng Khoát sinh viên Lâm nghiệp, Tiểu đội phó 1 là anh Nguyễn Tấn giảng viên trường cao đẳng sư phạm 10+3. Tiểu đội phó 2 là anh Nguyễn Thỉnh giáo viên cấp 3 dạy Nga văn. Ngoài chiến sỹ còn có anh Lê Văn Thê là giáo viên văn cấp 3. Anh Ứơc anh Hoàn giáo viên cấp 2. Công nhân kỹ thuật có 3 người Tôi và anh Nguyễn Duy Đôi, anh Nguyễn văn Chính. Còn mấy anh em khác đều là có trình độ văn hóa cấp 3.

           Buổi chiều khi bắt đầu vào buổi họp, sau nhận xét nói chung sang phần kiểm điểm tôi về ý thức kỷ luật khi không có lệnh đã tự động nổ súng. Rất nguy hiểm khi làm lộ bí mật gây thương vong cho mọi người vv… Phê bình anh gắt nhất là anh Lê văn Thê. Anh là giáo viên văn gốc quê Quảng Trị nên rất nhiều lý luận để quy kết hành động vô kỷ luật của tôi. Nhất là sau này vào chiến đấu ở chiến trường anh nâng quan điểm như vậy.

              Anh Thỉnh và anh Tấn thì có ý bênh tôi vì cho là tôi có vi phạm bắn máy bay khi không có lệnh nhưng lại là hành động dũng cảm . Mọi người xuống hầm thì tôi lại đứng lên dương súng bắn máy bay. Hành động dũng cảm đáng khen ngợi. Cứ thế cứ thế, cứ 2 dòng lý luận của các anh đều là những người có trình độ, thành ra trong buổi họp hình thành 2 phe. Một phe thì yêu cầu kỷ luật tôi nặng là cảnh cáo. Một phe thì đề nghị có kỷ luật nhưng nên có khen thưởng. Chẳng phe nào thắng lý luận phe nào. Đến lúc tranh luận nhau căng quá đồng chí tiểu đội trưởng xin biểu quyết kỷ luật tôi, thì anh Tấn xin phát biểu câu cuối thế này:

             Nếu như hôm qua mà đồng chí Phú bắn máy bay mà rơi. Tiểu đội, đại đội ta được thưởng 1 con trâu hay 1 con bò. Liệu giết trâu, giết bò liên hoan tôi hỏi các đồng chí có ăn không??? Hồi đó mỗi đơn vị hay địa phương nào bắn rơi máy bay thì đều được thưởng huân chương và hiện vật là 1 con trâu hay 1 con bò. Nên có bài hát chế các Cụ dân quân Hàm Rồng là: "Huân chương không lấy đâu, các Cụ chỉ nhận con trâu dễ chia".

            Sau câu hỏi của anh Tấn mọi người ngẩn người im lặng cùng phá ra cười. Rồi cũng không thể kết luận được tôi là có công hay có tội nữa ???  Ba ngày hôm sau cấp trên có thông báo về việc Máy bay cứu phi công. Chúng đã cứu được phi công nhưng có 1 chiếc máy bị thương bay ra biển thì rơi. Chúng ta và huyện đội đã rất thiếu kinh nghiệm để chúng đưa máy bay trực thăng vào tận sâu trong đất liền cứu thành công viên phi công nhẩy dù xuống đó mấy ngày trước.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 29 Tháng Bảy, 2017, 05:40:40 pm
xuanv338 chào anh chủ topic đoàn Bộ bình sông Lam anh Hùng. Câu chuyện mà xuanv338 đã được nghe anh kể hôm tới Bến Sung. Đố là một dũng khí tuổi trẻ thời đánh giặc. Kỷ niệm núi Ngàn Nưa sẽ còn mãi đọng trong ký ức của người lính 308B quê lúa. Công, tội ngang nhau he..he...


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: longtrec trong 16 Tháng Tám, 2017, 01:34:58 pm
Chào anh Trần Phú, chào chị Xuân cùng các anh các chị, các bạn đồng niên. longtrec em vào mong tiếp tục được đọc những câu chuyện, những dòng ký ức của anh TP mà không thấy. Em nghĩ anh bận nhiều việc chứ ký ức của anh trong chiến trang chống Mỹ còn hầu như nguyên trạng. Anh mới chỉ đang viết vòng ngoài. Rất mong anh bớt chút thời gian giao lưu với anh em, cùng các độc giả.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 19 Tháng Tám, 2017, 10:11:13 am

          Chào xuanv338, chào Longtrec!Chào các bạn!!!

          Rất vui các bạn tôi vẫn theo dõi vẫn đến thăm nhà! Đúng ra dự định tôi đang còn nhiều. Đang muốn viết thật nhiều viết hết những gì cơ bản của đời lính đã trải qua 2 cuộc chiến mười mấy năm. Vữa rồi đúng là mình mới hoàn thành được phần kể của cuộc chiến biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Đang viết dở thời bắt đầu nhập ngũ Phần 5. Mãi mà chưa xong được cũng vì nhiều lý do. Song Tranphu341 cũng vẫn phải hoàn thành tuy bị chậm hi hi... Mấy dịp này lại hay viết các mẩu chuyện và lớp lính thế hệ Vàng 1978 Hà Nội Hải Phòng. Họ thật sự là những lớp người cần phải ca ngợi. Cần phải tôn vinh xứng đáng.

          Mấy hôm nay trang mạng: vvin vvin việt nam - Họ đang tổ chức đọc bài viết của Tranphu341 từ đầu. Nên mải nghe đọc lại và anh em gọi giao lưu nhiều. Nghe đọc lại cũng sống lại rất vui. Nếu có điều kiện các bạn nên nghe đọc. Trước khi đi ngủ cũng rất thích.

          Đường linh bài 1 đây:

          https://www.youtube.com/watch?v=fYgpaZBIPg8&list=PL4l9KtZCNZkvObthNDL9cGKJQFw64cisT

         Chúc xuanv338 , Longtrec cùng các bạn luôn nhiều niềm vui cuộc sống! Hen gặp nhé !!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 22 Tháng Tám, 2017, 07:50:29 am

          Lính năm 1978.

          Vâng thưa các bạn!

          Tôi vẫn thường nói lớp LÍNH 1978 của Hà Nội - Hải Phòng là thế hệ VÀNG trong cuộc chiến Biên giới Tây Nam.

          Khi các bạn bổ sung vào Quân Đoàn 4 về các Sư đoàn 7- 9- 341 tầm tháng 9- tháng 11/1978.  Lúc đó đang là đỉnh điểm cuộc chiến tranh. Bọn Pôn Pốt ngông cuồng và ngu xuẩn đã " dốc túi" điều động tới 19/21 sư đoàn bộ binh ra dọc biên giới Việt Nam - Campuchia với ý định điên rồ đánh chiếm Thị Xã Tây Ninh và nhiều tỉnh của ta dịp Tết 1978- 1979. Chính vì thế nên cuộc chiến dẻo biên giới Tây Nam đang thật sự khốc liệt.

          Thật ra những ngày tháng này chúng đã chiếm được mấy chục điểm dọc biên giới của ta, có nơi chúng chiếm sâu tới cả chục km. Mấy xã rừng Hòa Hội Tây Ninh đều bị chúng chiếm. Pháo binh của chúng đã ùng oàng vào thận Thị Xã Tây Ninh. Trinh sát chúng mò vào  tận Bến Sỏi và lập kỳ tích đốt cháy 2 xe tăng của ta hồi tháng 12/1978. Trong những ngày này chúng tôi những người lính già đã dần hy sinh, hy sinh rất nhiều. Có những trận chiến vì danh dự người lính thế hệ Hồ Chí Minh. Để quyết tử đã chúng tôi đã phải gồng mình chiến đấu, có những trận phải hy sinh cả trăm người toàn lính GIÀ của thế hệ trước năm 1975. Chúng tôi đã thật sự MỆT MỎI. Hàng ngày có khi phải triền miên chiến đấu vài chục trận. Sao không khỏi trúng đạn thù, không khỏi hy sinh??

          Các bạn trẻ trung, tươi sáng, hùng tráng tăng cường cho chúng tôi thật đúng lúc. Các bạn có tính ương bướng nghịch ngợm nhưng trong chiến đấu thì thật sự nhanh nhẹn dũng cảm nhanh chóng thích nghi chịu đựng và tỏa sáng. Đương nhiên cũng có bạn đã không trụ được và đã quay về trong nỗi ê trề của gia đình và của chính bản thân.

          Thưa các bạn tôi sẽ kể về một vài gương chiến đấu tiêu biểu lớp lính Hà Thành trong những ngày đó.


          Chuyện của
          Nguyễn Văn Tuấn
          Thế hệ Vàng 1978

          Bọn Pốt đông như kiến:

          Khoảng giữa tháng 9 năm 1978  thì Nguyễn Mạnh Tuấn được điều động về đại đội 1, tiểu đoàn 1, trung đoàn 1, Sư đoàn 1 và lại còn là trung đội 1 nữa. Đơn vị Ngũ quý 5 số 1. Lúc này đại đội 1 đang chốt giữ tại đỉnh đầu của Trung đoàn 273 khu vực Chóp giáp trận địa pháo 37 ly và giáp trận địa chốt của Sư đoàn 7.

          Đại đội 1 cùng toàn đội hình Sư đoàn 341 ra biên giới chống bọn Pôn Pốt  từ tháng 9 - Năm 1977.  Riêng trung đoàn 270 thì xuống Hà Tiên Kiên giang từ tháng 7.  Từ khi xuất quân các đơn vị đều chốt giữ chiến đấu liên tục chưa 1 ngày nghỉ ngơi. Suốt dẻo biên cương  từ Tây Ninh, Long An, Châu đốc An Giang, Hồng Ngự Đồng Tháp, Hà Tiên Kiên Giang. Chiến đấu nhiều đồng nghĩa với bị thương và hy sinh nhiều. Từ tháng 4/ 1978 đến tháng 7/1978 đại đội 1 đã 2 lần bị " Xóa sổ" trong 2 trận chiến ác liệt. Đó là trận ngày 8/4/1978 tại Hà Tiên Kiên Giang và trận 18/7/1978  tại đường 13 Bến Sỏi Tây Ninh. Rất nhiều anh em đồng đội đang nằm lại ở" Cánh đồng chết" phía trước đại đội mà chưa thể đưa anh em về Trong số đó có cả người chính trị viên đại đội Trung úy Nguyễn Tiến Công. Hiện tại đơn vị đang được điều động quân số từ khắp mọi nơi về, huấn luyện kết hợp với chốt giữ đánh địch. Những lớp lính 1977- 1978  được bổ sung trong đó có Tuấn. Quân số đại đội đã được gần 80 tay súng cộng với 1 khẩu đội 12ly7 của đại đội 4 tăng cường.

           Những phiên gác đầu tiên 1 mình với khẩu súng nơi hầm tiền tiêu ai cũng hồi hộp sợ. Sợ từng tiếng động, nhìn lùm cây gió thổi rung rinh và đom đóm lập lòe như là ma. Đêm cuối tháng 9 năm 1978. Lúc này khoảng 2 giờ 30 phút. Tuấn đang gác, bỗng ầm ầm tiếng nổ long trời rồi 1 quả mìn sáng vọt lên trời đêm. Có tiếng kêu la thất thanh nơi tiếng nổ. Tuấn nhìn ra trời ơi nhiều, nhiều lính Pốt quá đen xì cả cánh đồng trước chốt. Bị mìn chúng chạy tóe nước. Rồi khẩu 12 ly7 bên trái thùng thùng thùng xé tan màn đêm.  Qúa bàng hoàng rồi rất nhanh trấn tĩnh lại Tuấn gióng súng về phía trước nơi những tên lính Pốt vẫn đứng khom người dưới ánh sáng của pháo sáng tằng tằng tằng một loạt dài, rồi cứ thế cứ thế Tuấn xiết cò. Có nhiều tiếng súng của anh em ở các hướng. Ầm ầm ầm tiếng nổ tức ngực của đạn B bọn Pốt dập vào khẩu 12.7ly. Sau tiếng nổ không thấy tiếng súng 12ly7 nữa. Tuấn vẫn bắn, lúc này có thêm đồng đội ra trợ chiến cùng. Tiếng súng rền vang hỗn loạn, cái cảm giác run run lúc đầu bây giờ không còn nữa. Pháo sáng tắt nhưng những tiếng la hét của bọn Pốt ngày càng nhiều. Anh em thi nhau bắt găm xuống nước phía trước. Rồi cối 60ly của đại đội, cối 82ly của tiểu đoàn cấp tập chi viện điểm nổ sáng òa trước mặt. Anh em vẫn bắn, bắn "đỏ cả nòng" súng. Đến khi đại đội phó xuống động viên tinh thần nói anh em bắn cầm chừng phòng đợi sáng chúng sẽ tấn công vào chốt . Đến sáng không thấy bọn chúng tấn công mà chỉ thấy chúng đi thất thần, thằng thì chạy ngoài đồng cùng với rất nhiều xác chết phập phồng trên mặt nước quanh chốt. Trận chiến đầu tiên và cũng là trận chiến thắng nhớ đời của đời lính mới 1978.

          Khi sang đất Campuchia. Dịp Tết đầu tiên tình hình đang rất căng thẳng vì bọn Pôn Pốt tổng phản công. Trong 1 trận tiến công vào căn cứ của bọn chúng, Tuấn còn bị 1 quả B40 cuối tầm của bọn Pốt bắn, quả đạn đập xuống đất phía trước cách khoảng 3 mét. Qủa đạn trượt nhẩy lên húc vào mạng sườn đau điếng, đuôi đạn vật ngược  lên vào mồm làm chảy máu và lung lay mấy cái răng, rất may đạn không nổ. Tuấn kể sôi nổi vô tư như trò đùa, như trận chiến vừa xẩy ra ngày hôm qua hôm kia. Tuấn cười toe toét rồi vội vội xin phép chia tay, vì có khách quen cần vận chuyển hàng hóa bằng chiếc xe 3 bánh mà ta gọi là" Xe thương binh" phương tiện mưu sinh của rất nhiều " THẾ HỆ VÀNG" Hà Nội.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 24 Tháng Tám, 2017, 02:31:18 pm

         Tiếp chuyện của Lính Thế hệ Vàng 1978.
         Người đã được báo tử.
         Hay" Cái chết cúi gục đầu" !!!

         Nguyễn Mạnh Hưng quê Thường Tín ngoại thành Hà Nội. Cũng dịp tháng 9/1978 thì được bổ sung vào Trung đoàn 266 Sư đoàn 341. Trông" Cậu" lính mới dáng thư sinh hiền lành nhưng lại có đôi mắt tinh anh nhanh nhẹn, Quân lực Trung đoàn điều động Hưng về đại đội 20 Trinh sát. Cũng như những tân binh khác, những người lính Thủ đô phải nhanh chóng làm quen với cuộc sống nơi biên thùy. Đầu tiên là gác đêm và ăn ngủ theo kiểu lính chiến. Một hai tối đầu được gác cùng đàn anh lính già cho đỡ sợ "MA", cho quen với tiếng nổ, quen với địa hình và những kinh nghiệm súng đạn trận mạc.

         Những ngày tháng này là những ngày căng thẳng nhất của đời lính. Khi mà chỉ 1 -2 ngày sau đã có tin truyền tai thằng bạn này hy sinh, thằng bạn kia bị thương và thằng gì gì đó đồng hương đã về phía sau. Những điều đó tác động rất lớn với Hưng. Về phía sau hay ở lại??? Rồi sự lựa chọn là danh dự cuộc sống, danh dự tuổi trẻ của thế hệ và của gia đình. Hưng cũng như tất cả anh em phải nhanh chóng tập luyện các kỹ thuật của chiến trường nhất là các kỹ thuật của người lính trinh sát, dò gỡ mìn, các động tác võ thuật vv... Thời đó các đơn vị trinh sát rất vất vả. Ngoài yêu cầu nhiệm vụ đi trinh sát nắm địch hay dẫn đường cho các đơn vị. Còn lại chốt giữ chiến đấu như các đại đội bộ binh thực sự. Vì đang là đỉnh cao ác liệt của cuộc chiến tranh biên giới. Quân số của các đại đội, tiểu đoàn và cả trung đoàn, sư đoàn đang thiếu hụt trầm trọng. Ngày nào cũng có thương binh cũng có tử sỹ.

          Khi Trung đoàn 266 và 270 được các đơn vị của Sư 2 Quân khu 5 thay chốt lùi về phía sau củng cố. Chưa được mấy ngày thì hướng đường 1 Sư đoàn 9 bị lùi vì bọn Pốt vây ép quá. Súng đạn tư trang thiếu thốn. Hầm hào chốt giữ thì ngập nước nên anh em không giữ được. Sư đoàn 9 phải bỏ các vị trí chốt không tổ chức. Quân đoàn điều 2 Trung đoàn 266-270 lật cánh sang kết hợp với Sư đoàn 9 luồn sâu đánh Pốt lấy lại địa bàn. Những người lính 1978 đã rất nhanh thích nghi với gian khổ, rất dũng cảm chiến đấu tiến công bọn Pôn Pốt lì lợm. Hưng cùng đại đội luồn sâu đánh địch và lập chiến công. Sư đoàn 9 đã khen và rất ngưỡng mộ tinh thần chiến đấu của những người lính sư đoàn 341.

         Tháng 12 năm 1978, hướng đường 13 Bến Sỏi lại gặp khó khăn khi mà bọn Pốt đã đưa 3 sư đoàn tinh nhuệ chiếm rừng Hòa Hội, chiếm 5 xã thuộc huyện Châu Thành. Chúng ép ta về sát Búa Lớn và rất nhiều trinh sát của chúng đã vượt sông Vàm Cỏ. Chúng bắn pháo vào tận thị xã Tây Ninh. Trong rừng Hòa Hội chúng đã chuẩn bị kho tàng rất bài bản cho chiến dịch tiến công Tây Ninh. Hai trung đoàn 266-270 lại được lật cánh từ đường 1 về lại hướng đường 13. Để rồi ngày 23 tháng 12 Sư đoàn cùng các đơn vị tăng cường đã tiến công bọn Pốt tại khu vực rừng Hòa Hội. Trên đà thắng lợi cùng toàn quân tiến công truy đuổi bọn chúng sang tận Phnompenh.

          Trung đoàn 273 được hành quân tiến công bằng xe cơ giới. Còn lại hai trung đoàn 270-266 phải cơ động bằng đôi chân của mình rất vất vả nhưng cũng rất hào khí. Tiểu đoàn 7 của trung đoàn 266 được chọn tiến công mở cửa sáng ngày 1 tháng 1 năm 1979 nhưng không thành công. Bộ đội ta hy sinh và thương vong hàng trăm người. Song những người lính sư đoàn không hề nao lúng nhất là các chiến sỹ thế hệ vàng 1978 trong đó có Nguyễn Mạnh Hưng.

( Còn nữa)

Nguyễn Mạnh Hưng (Aó trắng) cùng Nguyễn Văn Tuấn.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 25 Tháng Tám, 2017, 10:00:36 am
xuanv338 chào anh chủ, chào các bác tham gia trang. Lâu lắm hôm nay xuanv338 mới lại về thăm nhà, thăm quê, thăm làng cũ. Thấy làng vẫn đông vui, anh Tranphu341 hồi này đã trở thành nhà văn thực thụ. Cách đẫn chuyện, hành văn kể chuyện. Các anh lính thế hệ vàng 1978 đọc được chắc tự hào lắm về thế hệ của mình và cũng sẽ phải nói lời cảm ơn người viết về họ. Chích em gái chúc mừng anh.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 03 Tháng Chín, 2017, 08:28:36 pm
 
          Tiếp chuyện của Lính Thế hệ Vàng 1978.
          Người đã được báo tử.
          Hay" Cái chết cúi gục đầu"

          ( Tiếp theo và hết)

          Ngày 7/1/1979 đại quân ta và bạn đã tiến công thắng lợi vào đầu não của tập đoàn phản động Pôn Pốt- Ieengxari tại Thủ đô Phnompenh. Cứ tưởng nhiệm vụ chiến đấu đã tạm dừng. Không ngờ những ngày sau đó chúng tổ chức tổng phản công chúng ta. Những trận chiến thật cam go khốc liệt lại tiếp diễn. Có những lúc tưởng chừng như chúng ta không thể chống đỡ nổi. Song với ý chí quyết tử chúng ta cùng với lực lượng quân sự non trẻ của bạn đã giữ vững thành quả thắng lợi, rồi truy kích vào tận các căn cứ của chúng dọc biên giới Thái Lan.

          Khoảng tháng 4 - 5 toàn Sư đoàn 341 hành quân lật cánh từ mặt trận đường số 4 sang mặt trận đường số 5. Hành quân gấp bằng tầu hải quân dọc sông Tông lê sáp. Các trung đoàn đổ bộ lên tỉnh CôngPông chonang. Trung đoàn 266 tiến công hẳn lên tỉnh Pua Sát. Lực lượng địch ở đây còn rất đông rất mạnh. Chúng bu bám chặn xe và bao vây chia cắt các đơn vị của ta. Có đơn vị bị chúng phục kích đánh cháy cả chục xe tăng, xe bọc thép. Anh em làm nhiệm vụ bám đường, thông đường rất vất vả. Vừa thông được đoạn này thì chúng lại luồn sang chiến giữ đánh phá chỗ khác. Ý địch tái chiếm thị xã Pua Sát. Các xe hậu cần liên tục bị chúng phục kính bắn cháy. Đại đội 20 cũng phải chia ra chốt giữ từng chặng đường. Nhưng cũng thật sự khó khăn thiếu người, thiếu gạo, thiếu cả đạn.

          Khoảng giữa tháng 5. Trong 1 trận chiến với chúng, anh em đại đội trinh sát trong đó có Nguyễn Mạnh Hưng vận động đánh đuổi tiêu diệt chúng ngoài công sự vào bìa rừng. Đang vận động bắn đuổi mấy thằng Pốt, Hưng khựng lại đổ gập xuống bờ đất. Anh em chạy lại băng bó vết thương, 1 viên đạn thẳng của Pốt đã xuyên từ bên hông đùi bên này sang hông đùi bên kia, xuyên qua cả bọng đái. Máu cùng nước tiểu tràn ra ướt đẫm. Anh em dìu Hưng về phía sau. Tiếng súng truy đuổi Pốt vẫn dồn đập. Nhưng Hưng thì sửu đi không biết gì nữa. Anh em băng bó qua loa rồi cõng đưa Hưng về trạm phẫu của Trung đoàn tại Thị xã Pua sát. Tại đây Hưng được sơ cứu nhưng do vết thương nặng Hưng mê man không biết gì. Hôm sau Hưng được chuyển về bệnh xá Sư đoàn tại Kraco. Nhưng đường tắc, bọn Pốt chặn đường xe không thể đi được. Lực lượng đánh địch mở đường đi trước, Xe cứu thương chở Hưng và mấy anh em nữa đi sau nhưng cả ngày cũng không thể đi được. Xe cứu thương lại quay về trạm phẫu ở thị xã.

           Trung đoàn phải điều thêm lực lượng của đơn vị khác chia làm 3 mũi đánh và mở đường. Mở đường đến đâu thì xe cứu thương đi theo đến đó. Mãi chiều tối mới đưa được anh em bị thương về phẫu bệnh xá của Sư đoàn. Ở đây điều kiện chăm sóc cứu chữa tốt hơn nhưng  Hưng thì vẫn bất tỉnh. Ai cũng nói Hưng không thể qua khỏi. Ở phẫu Sư đoàn được 7 -8 ngày thì Hưng được chuyển về trạm phẫu Quân đoàn tại Phnompenh. Được cứu chữa tích cực nhưng Hưng vẫn sống thực vật. Ngày hôm sau Hưng được đưa về viện 175 Sài Gòn bằng máy bay vận tải vẫn trong trạng thái hôn mê.

           Khoảng hơn chục ngày sau thì Hưng mới nhận biết được khi bác sỹ gọi tên 1 bệnh nhân nằm cạnh giường. Người thương binh này lại đúng cùng đại đội 20 trinh sát với Hưng. Hưng được nghe kể lại những gì đã xẩy ra trong những ngày qua. Tuy đã tỉnh, đã hiểu biết nhưng Hưng vẫn nằm bất động 2 tháng nữa. Cấp cứu điều trị khoảng 2 tháng tiếp Hưng mới tập đi và sức khỏe hồi phục dần. Chữa trị tại đây mấy chục ngày nữa, sức khỏe đã tốt. Một buổi sáng có đồng chí cán bộ quân lực đến hỏi. Có phải đồng chí là Nguyễn Mạnh Hưng. Hưng trả lời: Báo cáo thủ trưởng tôi đúng là Hưng. Người sỹ quan nói: Tôi là quân lực của Sư đoàn trực tiếp về đây nắm tình hình các thương binh của Sư đoàn. Trường hợp của đồng chí Trung đoàn đã" Báo tử" vì tưởng đồng chí không thể qua khỏi. Chúc mừng đồng chí đã hồi sinh. Đồng chí có đề nghị gì không? Hưng nói tôi không có giấy tờ gì cả. Người sỹ quan quân lực nói. Đồng chí cứ nghỉ ngơi 1 thời gian cho thật khỏe, rồi ít ngày nữa có đợt giám định sức khỏe, rồi căn cứ vào kết quả sẽ xử lý. Đừng lo giấy tờ vì tôi sẽ giải quyết đầy đủ cho đồng chí.

           Như vậy là Hưng điều trị tại viên 175 khoảng 6 tháng. Ra viện về cứ của đơn vị tại Biên Hòa gần cầu Săn Máu. Ít ngày sau có đợt giám định Nguyễn Mạnh Hưng được giám định với thương tật 51%. Hưng được đi ôn thi đại học rỗi đỗ. Hưng được nhận các loại giấy tờ ra quân trở về học đại học. Sau mấy năm đèn sách, Hưng về làm việc tại Bộ tài chính đến bây giờ. Qua các cương vị, ở đâu Hưng cũng làm việc rất có trách nhiệm thể hiện chuyên môn cao cùng bản lĩnh vững vàng. Được cấp trên và đồng nghiệp yêu mến.

          Mắt nhìn xa xăm Hưng nói: Thế mà chuyện chiến đấu, bị thương đã 39 năm rồi, nhanh thật đấy. Em nhớ hôm trước ngày bị thương tổ chốt chúng em đánh lui mấy đợt tập kích của chúng. Chúng em đã bắn tiêu diệt được mấy thằng. Bọn này lì lợm thật, ngày hôm sau vẫn tại vị trí đó chúng mò vào đang chiến đấu thì em trúng đạn, tiếc quá. Mà không hiểu sao, sức mạnh nào mà em vẫn sống được mới kỳ lạ chứ? Đúng như lời bài hát của nhạc sỹ nào có câu:" Cái chết cúi gục đầu". Riêng tôi thì lại nói: Chắc" Tại Hưng và các bạn là VÀNG - THẾ HỆ VÀNG đấy mà!!!



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tieutu trong 05 Tháng Chín, 2017, 12:16:10 pm
Kính chào bác Phú và các cô các chú!

- Qua trang của bác Phú  và mục "Máu và Hoa" cháu được hiểu rõ hơn về những gì đã xảy ra, những gì thế hệ cha anh đã phải trả để chúng cháu có được cuộc sống hòa bình hôm nay, càng hiểu sâu hơn về chiến tranh và sự khốc liệt của nó, để rồi thực sự biết ơn những gì mà các bác các chú đã làm cho đất nước, mong rằng đất nước ta hay rộng ra một chút là thế giới này đừng bao giờ phải chịu đựng chiến tranh nữa.

- Cảm ơn bác Phú và các chú, bác CCB đã cho chúng cháu nhiều thông tin lịch sử chân thực về chiến tranh để hiểu rằng chiến tranh không phải chỉ là những màn cháy nổ hoành tráng trên phim mà đằng sau nó là bao hy sinh gian khổ, bao máu và mồ hôi của cha anh, để các bạn trẻ biết kiềm chế bản thân đừng để bị lợi dụng kích động đụng một chút chuyện lại hô hào chiến tranh đánh giết.

- Bác Phú cháu lu bu quá nên hôm nay mới có thể ngồi viết vài dòng gửi bác được mong bác tha lỗi, vợ chồng cháu cảm ơn bác rất nhiều về buổi gặp gỡ và món quà kỉ niệm của bác, mong rằng lần sau có dịp về quê hoặc bác vào trong này bác cháu mình sẽ có nhiều thời gian tâm sự với nhau hơn!!!

Kính chúc bác và các cô chú trong trang luôn mạnh khỏe và có một cuộc sống vui bên gia đình con cháu!!!

Cháu gửi bác Phú tấm hình kỷ niệm bác cháu mình bữa hôm trước
(http://i1268.photobucket.com/albums/jj578/thanhnhon1172/DSC_6245_zpsectictop.jpg)

và cảm ơn món quà kỷ niệm của bác hi hi
(http://i1268.photobucket.com/albums/jj578/thanhnhon1172/DSC_6247-1_zps6p1dyzlt.jpg)
 


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 07 Tháng Chín, 2017, 08:33:39 am

           Chào bạn xuanv338, Bạn Tieutu cùng các bạn!

           Vui vui rất vui khi các bạn đến thăm nhà. Ngoài xuanv338 cô em quen thuộc còn có Tieutu mặc dù ít khi viết ít khi commen nhưng tôi chủ nhà vẫn biết bạn luôn vào xem vào đọc topic của mọi người. Thế hệ trẻ như bạn là quý hiếm lắm. Vừa rồi Tranphu341 rất vui khi vợi chồng cùng con nhả về thăm quê đã ghé thăm Tranphu341. Bạn đã để lại cho tôi tình cảm được đánh giá rất cao rất quý và thật ngưỡng mộ. Hy vọng là bạn thế hệ các bạn làm được nhiều thật nhiều điều tốt đẹp cho gia đình và cho Đất Nước mình. GÓP PHẦN DỰNG XÂY NƯỚC VIỆT NGÀY CÀNG TỎA SÁNG!!!

          Chào Tiêu tu chào xuân v338 chào các bạn!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: longtrec trong 08 Tháng Mười, 2017, 01:41:22 am
Chúc mừng anh Trần Phú ra cuốn sách : "Từ Biên giới Tây nam đến đất nước chùa tháp" tập 2


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Mười, 2017, 07:34:55 am
        Để tránh ảnh không hiện lên, mong các bác đừng dùng Photobucket nữa.

        Trước mắt có thể tạm dùng Facebook. Cách đưa ảnh ở đây : http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=31034.msg524160#msg524160



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 08 Tháng Mười, 2017, 08:47:00 am

Vâng!
 Rất cảm ơn vạn Giangtvx đã có hướng dẫn Tranphu341 sẽ làm theo!
 Kính!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười Hai, 2017, 01:58:58 pm

Từ biên giới tây nam đến đất chùa tháp Tập 2 có thể xem ở đây :
http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=31217.msg525005#msg525005


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Mười Hai, 2017, 08:08:02 am

        Chào bác Giantvx! Chào các bạn!

        Rất vui rất trân trọng Mox Giangtvx đã Pót bài và những hình ảnh của Tôi gia đình tôi cùng những đồng đội của tôi lên trang, Làm cho tác phẩm được nan tỏa hơn, thuận lợi hơn cho bạn đọc và tăng giá trị tác phẩm!

        Không thể nói được nhiều xin được trân trọng cảm ơn Mox Giangtvx cùng ban quản trịn mạng. Chúc trang nhà ngày càng phát triển tỏa sáng hơn !!!

        Kính!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 03 Tháng Mười Hai, 2017, 07:17:07 am
xuanv338 chào anh chủ nhà văn biên giới Tây Nam - Chùa Tháp. Là thanh viên CCB 341 thật tự hào về những trang viết đang nổi cồn trên các trang mạng xã hội của anh Tranphu 341  Đoàn sông Lam anh hùng. Lại phải có cuộc gặp mặt ăn khao của cả hai người. Người viết chuyện và người số hóa chuyện có thương hiệu trên trang đi thôi. Anh phicongtiemkich, phaiphai thêm xếp VNH, Mod của trang M&H lên lịch đi chứ ạ. Nhưng phải sau 10/12 ạ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phó cối trong 03 Tháng Mười Hai, 2017, 08:39:19 pm

   Úi trời các bác lại tổ chức tụ tập để khao tác phẩm tác giả chắc là vui lắm đây


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 07:29:21 am

         Chào các bác chào các bạn đã đến thăm nhà!!!

          Đã lâu lắm lâu lắm mới lại thấy Bác Phó Cối XUẤT HIỆN THẬT QUÝ THẬT QUÝ!!!

          Không biết co em tôi với bác Giangtvx với Giặc nhà trời Phi công Tiêm kích có những ý tứ gì mà xa xôi lắm ý nhị lắm hết hẹn nhau chiều thu tại hồ tây bánh tôm rồi hết thu sang đông hương cốm làng vòng rồi bao nhiêu bao nhiêu hẹn khác bác Phó à. Làm cho tôi người anh của CB CŨNG CỨ XỐN XANG TRONG LÒNG VÌ MUỐN CÓ CÁI HẸN NÀO THẬT CỤ THỂ ĐỂ CÒN ĐƯỢC ĐI KÉ hi hi...

          Thôi đành lại chờ lại đợi vậy ... Đúng là tình yêu tình cảm của đội lứa nó quý nó đẹp như vậy đấy!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phó cối trong 06 Tháng Mười Hai, 2017, 12:31:33 pm

                          Chào bác chủ nhà

  Em vẫn vào đọc bài của các bác nhưng em ít viết vì thấy buồn .trên trang M&H các thành viên dạt hết sang
 chợ fb hết nên vắng tanh , em sang fb hò hét gọi các bác ấy về được vài bác mấy hôm các bác ấy lại đi chợ
 bên trang hà giang thì bác chủ bị tai nạn giao thông từ tháng 4 nên không có ai đốc binh . Đến nay bác chủ
  đã bình phục nhưng chưa viết được còn bác thái 60 lâu lâu mới được một bài bác ạ.

       Vậy em chúc bác cùng toàn thể gia đình mạnh khỏe hạnh phúc làm ăn thành đạt


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Mười Hai, 2017, 08:04:55 am

        Chào Phó Cối!!! Chào các bạn!

         Đúng là bên chợ Facebook nó giốn như " Chợ Trời" rất thu hút mọi người vào ra. Gần như là nuốn đăng gì muốn nói gì cũng được. Người có trí tuệ ngược đăng những chuyện đơn giản vô thưởng vô phạt cũng được. Ai nghe thì nghe ai tin thì tin. Nhưng ban quản trị họ cũng rất giỏi khi có những tổng hợp hình ảnh ngày sinh hay bài viết cùng những lời chúc mừng từng thành viên. Còn trang ta thì giống như là "Siêu thị" cao cấp . Không thể nói không thể viết lung tung được vì có những cơ chế những nội quy chặt chẽ và nghiêm túc chính thống.

          Mặc dù cũng tham gia Facebook nhưng tôi vẫn luôn quý trọng trang nhà vẫn thường xuyên vào đọc hoặc có viết bài mặc dù Phần 6 đang còn dang dở. Còn nhiều việc phải làm. Rất quý trọng các thành viên cùng ban quản trị diễn đàn. Luôn cầu chúc cho trang nhà ngày càng phát triển cùng sự tỏa sáng hơn nữa.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Mười Hai, 2017, 10:45:46 am
Chào các bạn! Chào các bạn!

Tháng trước tôi cùng đoàn CCB Sư đoàn 341 Thái Bình vào Thanh Hóa dự lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Sư đoàn. Rất vui và vô cùng sôi động khi được gặp các CCB của Sư đoàn trên toàn Quốc về dự. Giao lưu liên hoan vui vẻ. Những ký ức, những hào khí oai hùng xưa ập về. Những người CCB về dự hầu như là những lớp người đầu tiên và tiếp nối khi Sư đoàn thành lập. Họ đã có rất nhiều công lao trong cuộc chiến tranh giải phóng Dân Tộc thống nhất Đất Nước và cuộc chiến tranh vệ quốc tại biên giới Tây Nam. Làm nhiệm vụ Quốc Tế trên Đất Chùa Tháp. Cứu giúp Dân tộc Khơme và Đất Nước Căm Pu Chia thoát khỏi họa diệt chủng hồi sinh.

 Rất nhiều đồng chí còn được tăng cường ra chiến đấu tại biên giới phía Bắc. Công lao của họ đã làm lên thành tích được Quốc hội, được Nhà Nước hai lần phong tặng danh hiệu cao quý nhất là Sư đoàn Anh hùng. Góp phần xây dựng Sư đoàn phát triển trưởng thành tỏa sáng như ngày hôm nay. Đã có nhiều đồng đội mang quân hàm Tướng lĩnh giữ những chức vụ quan trọng của Đảng của Nhà nước. Có nhiều đồng đội là doanh nhân hay làm đủ các ngành nghề trong xã hội sau khi dã từ súng đạn. Ở lĩnh vực nào những người CCB Sư đoàn cũng phát huy truyền thống Sư đoàn trong cuộc sống ngày càng thành đạt.

Tôi gặp lại người đồng đội Nguyễn Mạnh Tùng. Anh kể cho tôi câu chuyện về tình yêu của một người chiến sỹ y tá mà có liên quan đến anh. Khi biết tôi thường hay viết những chuyện về đồng đội, anh có ý nhờ tôi viết lại câu chuyện này.  

Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập quân đội. Tôi xin được kể câu chuyện tình yêu của người chiến sỹ giải phóng với người con gái Sài Gòn qua lời kể của đồng đội Tùng.

Chuyện như sau:

Chuyện tình của người yêu người tôi yêu!
Hay tình yêu của người chiến sỹ Quân y.


( Số 1)

Thưa các bạn!

Tôi xin mượn câu thơ:" Cho tôi gửi tới anh, người yêu của người yêu tôi mà tôi chưa hề biết mặt." của Nhà thơ Trần Việt Phương. Câu thơ này trong tập thơ "Cửa Mở" đã làm rung chuyển thơ đàn Việt khoảng thập niên 1960 - 1970. Để kể về tình yêu của người chiến sỹ, đúng ra là của người y tá một đơn vị quân giải phóng, sau ngày 30 Tháng 4 Năm 1975.

Đúng! Tôi chưa hề gặp mặt người chiến sỹ ấy. Giờ đây sau mấy chục năm người lính ấy đã là một bác sỹ giỏi chuyên khoa tim mạch tại một bệnh viện lớn của Quân đội với quân hàm cấp cao. Ông đã nghỉ hưu, ông đã là người" Có tuổi ". Nhưng chuyện tình yêu thì đâu có tuổi tác? Vâng! Thưa các bạn, tôi chưa gặp ông, nhưng qua người yêu tôi và qua bức thư điện tử ông gửi cho tôi mà tôi biết được câu chuyện dài này. Đúng ra là dài về thời gian. Một chuyện tình thật đẹp. Đẹp như đũa ngà, đẹp như tay tiên trong câu chuyện thần thoại cổ xưa. Đẹp như những chuyện tình trong tiểu thuyết mà chúng ta đã từng đọc, từng nghe, nhưng đây là người thật, chuyện thật. Chuyện là như thế này:

Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 ngày chiến thắng, ngày giải phóng, ngày thống nhất Đất Nước. Sài Gòn cũng như các tỉnh, đâu đâu cũng cờ hoa lộng lẫy và hào khí hực hực thật vui thật vui. Sài gòn có lẽ vẫn là nơi thể hiện cái khí thế náo nhiệt sôi động mạnh mẽ nhất bởi dân cư đông, lại là nơi tập trung đầy đủ nhất các khuôn mặt xã hội, các tầng lớp chính trị. Nên việc thể hiện vui mừng chiến thắng cũng náo nhiệt và rầm rộ hơn các nơi khác. Phố phường lúc nào cũng rầm rập người và xe cộ cùng cờ hoa đủ mọi sắc mầu. Nay lại được thêm vào màu xanh cùng những súng đạn đầy mình của các chú bộ đội giải phóng. Trông ai cũng trẻ thơ hiền lành, có lúc ngơ ngác trên đường phố, dưới con mắt của dân Sài gòn thì họ thật lạ lẫm. Họ đang là nhụy của hoa chiến thắng, đang là tâm điểm của mọi người. Tất cả các đường phố cờ hoa rực rỡ còn thường trực những đoàn người đoàn xe đi cổ động. Cùng những bài hát âm điệu và lời ca mới, thật mới đầy hào khí vang vang lần đầu như: Nối vòng tay lớn - Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi! Hay: Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn vv…

Mọi người nói: Năm nay mùa mưa đến sớm. Những cơn mưa rào thật to nước ngập đường phố, cũng không ngăn được, không làm giảm đi nhuệ khí của niềm vui lớn. Nhất là đối với các em nhỏ, các nữ xinh áo dài trắng của các trường tay cầm tay dầm mình thích thú trong mưa. Họ vẫn vừa đi vừa hát, vừa lội nước vừa hát. Nước mưa làm lớp vải áo dài mỏng nữ sinh dính đét vào người khoe hết những đường cong tuyệt mỹ thần tiên, cùng da thịt thiếu nữ trần tục, thật hấp dẫn thật gợi dục. Các chú bộ đội và mọi người được say sưa nhìn ngắm cái thiên tạo đó cùng những khát khao thầm kín không dễ nói thành lời. Chính quyền cùng đoàn thể các cấp nhanh chóng thành lập. Các tổ đội đoàn kết, tổ hợp kinh doanh cũng được hình thành theo sự hướng dẫn của các đơn vị Quân quản. Rồi các đội dân phòng, các đội văn nghệ văn công, các đội múa kỳ lân, võ thuật vv.. cũng được nhóm dựng góp thêm niềm vui, thêm hào khí của những ngày đầu tiên này.

Trong những ngày đó, đội văn nghệ thanh thiếu niên của Quận 11 cũng được thành lập. Ngoài những buổi tập và biểu diễn tại các phường trong quận còn có chương trình đi xa, xuống tận vùng Củ Chi biểu diễn phục vụ bà con đất thép Anh Hùng.

( Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Mười Hai, 2017, 08:25:04 am

Chuyện tình của người yêu người tôi yêu!
Hay tình yêu của người chiến sỹ Quân y.

" Tiếp theo số 2''

           Tôi nhận được bức thư từ một người không quen biết trong hộp thư điện tử. Nội dung thư như sau:

           Chào ông! Chào đồng đội! Tôi xin lỗi vì đã đường đột gửi bức thư này cho ông. Hiện tại tôi ở rất xa ông, xa tới cả nửa vòng trái đất. Vâng! Tôi không thể không viết cho ông dù biết rằng rất đường đột mà có khi ông lại nghĩ tôi thật vô lý, thật vô duyên. Nhưng trước khi đọc thư này tôi xin ông một điều kiện. Đấy là điều kiện: Ông chỉ đọc thư và đừng bao giờ hồi âm cho tôi.
Ông Tùng! Tôi thật ghen với ông, mặc dù tôi không thể có cái quyền đó. Với tôi giờ đây mọi việc gần như đã được giải tỏa. Tôi đã biết ông, biết ông để giải tỏa sự tò mò ích kỷ, đúng ra là được nhìn ông cùng người mà tôi đi tìm suốt mấy chục năm. Qua người ấy cũng có thể ông đã biết chuyện này. Từ xa tôi lặng lẽ ngắm nhìn và quan sát ông cùng người đó chuyện trò tôi thật thèm, thật thèm có lúc tôi ước rằng người ngồi đó không phải là ông mà là tôi mới đúng. Được thay vị trí của ông với tôi nó là ước mơ, là hạnh phúc của cả cuộc đời. Vì ông biết không suốt mấy chục năm qua, tôi ước ao tôi đau khổ tôi muốn lục tung, bới tung cái thành phố Sài Gòn mấy triệu dân này để tìm đôi mắt đó, tìm người đó với câu nói thơ ngây trong trẻo dành cho tôi, động viên tôi. Người đó, đôi mắt to đen láy đó và câu nói đó đã như nhát dao sắc khắc vào hồn tôi, khắc vào cuộc đời tôi người trai Hà thành đang còn trinh trắng tại cái thôn đất thép Củ Chi chiều đó.

           Sau ngay ngày ấy, tôi được cử ra Bắc học tại trường y. Sau 5 năm học tôi lại được trở vào công tác tại một bệnh viện lớn của quân đội. Tôi rất vui vì nghĩ rằng có cơ hội để tìm gặp lại người con gái đấy đúng ra là tìm lại cô bé đấy. Sau một hai ngày nhận công tác. Tôi mượn xe và đến ngay phòng văn hóa Quận 10 để hỏi về em. Hỏi về đoàn văn nghệ thanh thiếu niên xuống biểu diễn cho bà con Củ Chi đất thép thời đó. Họ trả lời là họ không thể biết được vì cũng đã 5 năm rồi mà 5 năm qua thành phố có biết bao biến đổi. Những đoàn văn công văn nghệ đó là những tổ chức tự nguyện. Không thể có tên tuổi hay danh sách của họ. Thành phố và Đất Nước lại đang có chiến tranh ở hai đầu biên giới. Vì nhiều lý do, dân thành phố đang vượt biên, đang di tản nhiều. Chính quyền đang phải bận rộn biết bao nhiêu việc nhất là việc ổn định đời sống và động viên thanh niên đi thanh niên xung phong, đi bộ đội để bảo vệ biên giới, đâu có ai để ý và giúp được tôi việc đó
.
        Thế rồi suốt cả thời trai trẻ của tôi, với cương vị một bác sỹ, tôi vừa làm việc vừa tìm kiếm tìm mãi mà không gặp. Có lúc tôi đã nghĩ người con gái đó đã di cư sang nước ngoài cùng gia đình. Hay sóng gió cuộc đời… đưa em về đâu? Hay em không còn nữa???

( Còn nữa)

Múa - Mừng ngày kỷ niệm thành lập Sư đoàn 341 lần thứ 45.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 16 Tháng Mười Hai, 2017, 09:30:50 am

Chuyện tình của người yêu người tôi yêu!
Hay tình yêu của người chiến sỹ Quân y.

( Tiếp theo số 3)

        Tôi đã nghỉ hưu theo tuổi tác sau bao năm cống hiến tức là tuổi tôi đã cao. Sài gòn sau 30 năm giải phóng ngày càng phát triển, ngày càng đông dân số. Tôi vẫn đi tìm em. Nhiều, rất nhiều lần có lẽ cả trăm lần tôi đạp xe hoặc đi bộ lang thang các đường phố cả trong các con hẻm quận 10 và những phường chung quanh với hy vọng gặp được em. Tìm em, tìm mãi có nhiều khi đã có suy nghĩ nản lòng. Đã định thôi không tìm em nữa. Tôi chỉ đợi một sự ngẫu nhiên hay tất nhiên, hay một phép màu nào đó được thấy em. Và rồi đúng như vậy phép màu đã đến, tôi đã gặp được em đúng ra là gặp lại em sau những ngày Sài Gòn kỷ niệm 30 năm giải phóng.

           Trong những ngày này, Sài gòn lại sôi động với những hào khí xưa. Kể cả lớp người mới được sinh ra lớn lên và trưởng thành. Những lớp người đã từng được chứng kiến hào khí oai hùng của ngày chiến thắng, ngày thống nhất đất nước 30 tháng 4 xưa thì ai cũng chộn rộn nhớ lại một quá khứ hào hùng sôi động cùng tuổi trẻ của mình. Tôi cũng là một trong những người đó. Ngoài niềm vui to lớn, trong tôi vẫn còn nỗi khát khao cháy bỏng được gặp em người thiếu nữ xưa mà bây giờ sau 30 năm thì cũng đã khoảng 45 - 47 tuổi rồi. Chắc chắn là em đã có có gia đình, có cuộc sống riêng và những đứa con. Có thể có những đứa trẻ gọi em là bà. Cuộc sống em đã yên vị đã an bài nhưng sao tôi cứ muốn gặp muốn gặp.

           Vâng! Tôi đã gặp lại em vào đúng lúc tôi không có hy vọng nhất! Sáng hôm đó tại phòng khám của một bệnh viện tư nơi tôi nghỉ hưu và cộng tác làm việc tại đây đã được ít ngày. Chiếc Taxi mầu xanh dừng lại trước cửa phòng khám. Một người phụ nữa bước xuống xe rồi đón một người từ trong xe ra. Đóng cửa xe nói gì với người thanh niên tài xế rồi dẫn người mẹ vào( Tôi đoán là mẹ). Hai người phụ nữ chênh tuổi nhau nhưng lại có hai dáng giống nhau, người thấp, da trắng và dáng điệu rất thư thái không có gì là vội vã. Từ ngoài cửa vào người phụ nữ trẻ thỉnh thoảng nhỏ nhẹ nói với người cao tuổi một vài lời, hai người vào phòng đợi. Sáng nay phòng mạch không đông lắm. Tôi hay có thói quen trước khi chính thức thăm khám bệnh, tôi thường vòng ra ngoài sảnh đợi, nhìn lướt cả phòng những bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.

           Vừa bước ra khỏi phòng không hiểu sao tôi lại cứ tập trung vào hai mẹ con người phụ nữa mới đến. Thấy tôi ra mọi người  hướng về tôi cùng những câu chào. Tôi như có dòng điện chạy khắp người khi người phụ nữ trẻ cũng hướng cặp mắt về tôi. Tim tôi đập mạnh và thấy ngay đôi mắt của cô bé ngày xưa hiện về. Tôi lắp bắp chào mọi người, giọng có vẻ không mạch lạc như trước.

           Tôi nhanh chóng trấn tĩnh lại rồi quay trở vào phòng. Ngồi vào ghế, cái ghế dành cho tôi cho người thầy thuốc già có uy tín mới từ một bệnh viện lớn của Quân đội về cộng tác. Đó là lời quảng cáo của bệnh viện với mọi người. Và hình như từ ngày tôi về đây thì số lượng người đến thăm khám đông hơn, theo như lời các các cháu cùng e kíp nói…

( Còn nữa)

Phu TranPhu cùng anh Mạc Quang và các CCB Tại trại của Trung đoàn 273 ngày kỷ niệm 45 năm thành lập Sư đoàn 341.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phó cối trong 16 Tháng Mười Hai, 2017, 09:31:41 pm

                           Em chào bác chủ nhà

 Câu chuyện của bác rất hay . nếu chuyện này viết vào thời kỳ phần 25 của trang hà giang thì thật quá tuyệt
 vì thời điểm đó tự nhiên mọi người lại viết những câu chuyện tình của người lính . Bác viết tiếp đi em lại đang
 đồ hộp theo dõi


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Mười Hai, 2017, 09:38:20 pm
           
(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/25445992_521632331547877_7088206635325688589_n.jpg?oh=1bf1dbb274fb2f5caddc3e126732cac6&oe=5AB59816)
Phu TranPhu cùng anh Mạc Quang và các CCB Tại trại của Trung đoàn 273 ngày kỷ niệm 45 năm thành lập Sư đoàn 341.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 18 Tháng Mười Hai, 2017, 07:53:58 am

Chào các nhà!!! Cảm ơn Phó Cối cùng các bạn luôn đến thăm nhà Tranphu341!

Cảm ơn bác Giangtvx đã Pots cho Tranphu341 tấm ảnh minh hoa cho bài viết. Bức ảnh ngày gặp mặt kỷ niệm của các chiến binh Sư đoàn 341 kỷ niệm ngày thành lập Sư đoàn 341 lần thứ 45!!!

Kính chúc các bạn luôn nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 18 Tháng Mười Hai, 2017, 03:44:18 pm

Chuyện tình của người yêu người tôi yêu!
Hay tình yêu của người chiến sỹ Quân y.

( Tiếp theo số 4)

         Tôi ngồi lặng định thần một lúc rồi bắt đầu thăm khám bệnh theo số tích ke thứ tự. Sáng nay không đông nhưng hình như tôi cũng có ý thăm khám nhanh hơn để mau đến lượt mẹ con người phụ nữ kia. Tôi đọc kỹ bệnh án và đọc kỹ những thông tin về người bệnh để tìn tòi, tìm hiểu những gì liên quan đến hai người. Rồi mới bắt đầu thăm khám. Với giọng nhỏ nhẹ người phụ nữ trẻ kể bệnh của người mẹ. ( Đúng là mẹ) bà bị bệnh tim đã lâu và đã nhiều lần đến đây khám. Là bệnh nhân quen của phòng khám. Nhưng với tôi thì tiếp xúc với bệnh nhân là lần đầu.

          Tôi hỏi chuyện như là quan tâm những liên quan đến người bệnh, nhưng trong những câu hỏi đó đều có ẩn ý tìm hiểu về cuộc sống, chỗ ở hiện tại và cuộc sống của hai mẹ con. Đến bây giờ thì tôi đã kết luận người phụ nữ trẻ đẹp trắng trẻo này đích thực là người con gái có đôi mắt đen, có làn da trắng đã đưa cho tôi quả khế cùng câu nói dành cho tôi, động viên tôi mà tôi đã đi tìm bao ngày qua. Thượng Đế! Cảm ơn Thượng Đế. Cảm ơn các đấng thần linh đã cho tôi gặp lại em, gặp lại người con gái ấy mà như là một định mệnh trong tôi.

          Kỳ lạ là hai mẹ con đều có căn bệnh giống nhau. Bệnh tim mạch là bệnh"Sạch" theo thuật ngữ của ngành y. Không có vi trùng vi khuẩn nhưng bệnh lại dễ dẫn đến cái chết, nó cướp đi sự sống của người bệnh rất nhanh, rất bất ngờ. Chỉ vì một niềm vui quá, một xúc động thái quá hay đơn giản chỉ vì một câu nói nào đó mà làm người bệnh bức xúc thì nguy cơ đột tử rất cao. Tôi nhắc nhở kê đơn thuốc dặn dò kỹ hai mẹ con rồi hẹn lịch tái khám lần sau. Ông Tùng! Tôi biết Thúy yêu ông quý ông vô cùng mặc dù Thúy và ông đều đang có gia đình riêng của mỗi người. Tôi xin ông và nhắc ông hãy trân trọng tình cảm tình yêu đó. Đừng bao giờ gây nên những buồn đau bức xúc cho Thúy, đừng bao giờ để dẫn đến tội lỗi vô tình. Vì Thúy ngoài bệnh tim mạch còn thêm nhiều bệnh khác nữa cũng rất nguy hiểm cho cuộc sống

           Đọc xong tôi thần người ngồi lặng vì những thông tin trong thư. Nghĩ ngợi một lúc tôi giọi điện cho Thúy: Tôi nói tôi mới nhận được thư của ông Bắc. Tôi hỏi sao ông Bắc có địa chỉ hòm thư anh và ông đã viết thư cho anh? Thúy không bất ngờ và nói đúng là em đã cho ông Bắc địa chỉ Email của anh. Ông năn nỉ xin em và nói có việc thật cần thiết trao đổi cùng anh. Thấy ông là người đức độ tư cách em nghĩ không có gì phiền nên cũng đồng ý. Tôi nói em kể hết cho anh nghe chuyện của ông Bắc là thế nào? Thúy nói: Bữa trước em có kể sơ qua nhưng anh nói việc riêng của em anh không quan tâm lắm nên em không nói kỹ.

( Còn nữa)

          Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Dấng- Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 273 Sư đoàn 341 xưa nay đã tuổi ngoài Tám chục ông vẫn phong độ khỏe đẹp với giọng hô to nhất Sư đoàn. Khi ông hô nghiêm thì nó vang vang khủng khiếp là lính mới ai cũng ấn tượng.
Liên lạc tiểu đoàn Lại Quang Miên. Nhà giáo ưu tú lại là Chủ tịch hội sinh vật cảnh Tỉnh Thái bình. Hai thầy trò gặp lại nhau nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Sư đoàn 341.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 22 Tháng Mười Hai, 2017, 07:03:22 pm

Chuyện tình của người yêu người tôi yêu!
Hay tình yêu của người chiến sỹ Quân y.

( Tiếp theo số 5)

          Cách đây khoảng mấy tháng. Buổi chiều thứ bẩy em đang làm những công việc thường nhật thì có người bấm chuông nhà em. Ra mở cửa, rất bất ngờ em nhận ra người bác sỹ thường thăm khám cho mẹ con em. Hôm nay ông đến nhà không trong bộ đồ bác sỹ. Ông bặc áo thum, quần ka ki trắng tự lái xe đến, trông ông phong độ khỏe đẹp nhanh nhẹn hơn lúc ở phòng mạch. Em mời ông vào nhà và mời ông uống cafe. Ông nhận lời rồi hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm bệnh của mẹ con em. Em thầm nghĩ ông bác sỹ thật ân cần và chu đáo với bệnh nhân. Chuyện qua lại em cảm phục, cảm mến ông bác sỹ.

          Chuyện về gia đình, ông nói hiện có mình ông sống tại Sài Gòn vợ và hai con ông đang định cư tại Mỹ. Con trai đầu của ông bị bệnh, mà bệnh đó tại Việt Nam không thể chữa trị mà phải nơi có nền y học hiện đại thì mới chữa trị kéo dài sự sống được. Vợ ông cứ hối thúc ông sang định cư hoặc ở bên đó nhưng ông vẫn cương quyết không sang. Nói đúng ra cho đến bây giờ ông vẫn ở một mình tại Sài Gòn khu vực khu đô thị cao cấp Phú Mỹ Hưng. Em hơi tò mò và càng thầm cảm phục ông. Không như một số người thường là được định cư Mỹ là đi ngay nhất là vợ con lại đang ở bên đó. Hình như ông vẫn còn có tư tưởng người "Cách mạng" nên mới vậy hay vì lý do nào đó?

          Chuyện trò một lúc rồi nhìn thẳng vào em ông hỏi: Có phải ngày xưa dịp sau giải phóng em tham gia đội văn nghệ hát múa của Quận 10? Em giật mình ngạc nhiên vì câu hỏi đó. Em nói sao ông biết? Ông không trả lời và hỏi thêm: Có phải một buổi chiều sau giải phóng em cùng đoàn xuống Củ Chi biểu diễn, lúc đó em khoảng 15-16 tuổi? Em càng ngạc nhiên hơn. Ông lại hỏi tiếp, câu hỏi có vẻ dồn dập hơn: Có phải trong đoàn em xuống vào một buổi chiều trời nắng, rất nhiều bạn bị say nắng còn em thì không. Em đã đưa quả khế cho người y tá Quân đội và nói: Chú ăn trái khế ngọt này đi, lấy sức khỏe và dáng chữa cho các bạn cháu để tối nay chúng cháu còn biểu diễn. Có phải tối đó khi đang biểu diễn em đóng vai cô gái Quan Họ. Trong lúc biểu diễn em bị mái tóc xổ ra. Em xấu hổ chạy vào sau cánh gà sân khấu cho mọi người quấn lại???

         Em tròn mắt ngạc nhiên hơn vì ngày đó đã xa lắm, xa lắm rồi. Những chuyện tôi đi biểu diễn thời sau giải phóng đó nhất là những chuyện như ông kể có ai còn biết, ai còn nhớ nữa đâu? Chỉ có em, chỉ có em là nhớ, rất nhớ cái ngày đó cái sự cố biểu diễn đó. Nhưng sao ông lại biết, ông lại kể như ông là người chứng kiến, như ông chính là người trong cuộc? Có thể ông là người lính ở đó hay người xem biểu diễn hôm đó hay là người trong cùng đoàn mới biết được như vậy?

        Ông dừng một lát, nghẹn lời hỏi tôi: Thúy không nhớ tôi phải không? Ông nói giọng thật buồn, em không nhớ cũng đúng thôi. Anh, chính anh là người y tá mà em đã đưa anh quả khế cùng ánh mắt và câu nói. Với anh những kỷ niệm đó thật ấn tượng, ấn tượng mãi mãi. Tối đó anh thầm lặng đứng xem đoàn em biểu diễn và thấy em có sự cố xổ tóc như vậy. Anh có ý gặp em hỏi chuyện mà không được. Biểu diễn xong đoàn em lại về Sài Gòn ngay trong đêm.

( Còn nữa)

        Hoàng Quốc Lập cùng Nguyễn Chiến những người ccb Trung đoàn 273 đã lập nhiều thật nhiều thành tích!!! Lập giờ là Doanh nhân thành đạt!!!Chủ tich hiệp hội nước sạch Thái Bình. Tại ngày lễ kỷ niệm!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 24 Tháng Mười Hai, 2017, 10:35:04 am

        Chuyện tình của người yêu người tôi yêu!
        Hay tình yêu của người chiến sỹ Quân y.

        ( Tiếp theo và hết)

         Ngày hôm sau anh có lệnh ra Bắc học đại học. Học tại Trường đại học y khoa Hà Nội nên không thể tìm gặp được em. Mãi năm 1980 sau khi học xong, tốt nghiệp ra trường, anh được trở vào thành phố nhận công tác tại viện quân y 175 khoa tim mạch. Sau một, hai ngày công việc chỗ ở đã ổn, anh đi tìm em ngay, tìm em mãi từ ngày ấy đã mấy chục năm rồi. Cho tới hôm em cùng mẹ đến khám bệnh thì anh đã gặp được em. Anh nhận ra em ngay khi bắt gặp ánh mắt em. Nhưng anh không muốn kể ngay nói ngay chuyện này với em vì sợ em quá bất ngờ em xốc.

           Em xốc. Em đúng là bị xốc thật sự bất ngờ khi nghe ông bác sỹ kể chuyện, người mà mấy tháng nay thường thăm khám bệnh cho mẹ con em. Em nhớ những chuyện đó vẫn nhớ như in chuyến đi và những sự cố như ông kể. Chỉ có điều em chỉ nhớ là đã đưa quả khế cho người y tá. Đúng ra là chú y tá bộ đội, khi đó thấy chú hơi bối rối và cau mày vì một mình chú phải lo đôn đáo cứu chữa cho hơn chục bạn em đang bị sửu do say xe say nắng. Em cũng không nhớ là em đã nói gì và càng không thể nhớ được khuôn mặt người y tá đó. Nhất là giờ đây người bác sỹ ngồi trước mặt em trông như một đại gia thành đạt.

        Chuyện trò một lúc rồi ông về! Những ngày tiếp, ông đến nhà em một vài lần nữa và thường xuyên gọi điện nói chuyện. Sau khi ông đã biết rõ về hoàn cảnh gia đình em. Ông nói từ giờ trở đi ông sẽ là người chăm lo sức khỏe em, chăm lo cuộc sống của gia đình em. Ông muốn ngoài tình cảm ông là bác sỹ thăm khám bệnh cho em ông muốn em là người cao hơn cả tình bạn thông thường. Em từ chối không thể đón nhận tình cảm đó. Ông cứ gặng hỏi là tại sao, tại sao em như vậy em lại từ chối tình cảm chân thành của ông. Gặng mãi gặng mãi em trả lời là em đã có bạn rồi người mà em rất yêu rất quý và ngược lại. Xưa kia người đó cũng là bộ đội như ông sau làm quân quản rồi lại tiếp tục đi chiến đấu tại biên giới, giờ đây đã phục viên về sống ngoài Hà Nội.

        Nghe em kể ông ngạc nhiên tò mò. Ông rất tò mò muốn được biết người mà em yêu là ai, là mẫu người thế nào mà em thật chung tình. Kể cả khi ông biết hoàn cảnh của em của gia đình em đang còn khó khăn. Ông đã gợi ý giúp đỡ kể cả việc khéo léo nhờ em đứng tên giúp một căn nhà vì ông nói ông có mấy cái. Ông nói một trong lý do ông ở lại Việt Nam là để tìm em. Nếu không đạt được nguyện vọng như ông mong muốn thì ông sẽ sang bên kia với vợ và con ông. Ông không muốn bán lấy tiền làm gì. Ông muốn tặng em. Em từ chối không thể nhận bất cứ điều gì mà ông gợi ý ngoài việc ông thăm khám định kỳ cho mẹ con em
 Không thuyết phục được em ông càng muốn gặp anh xem anh là người thế nào mà lại có được tình yêu của người mà ông bao năm tìm kiếm, bao năm khát khao được gặp như là một định mệnh của tạo hóa.

        Tháng trước khi ông biết em ra Hà Nội. Ông cũng ra và sao đó ông dò được ngày em bay vào. Hôm anh và chị tiễn em tại sân bay, đợi giờ bay tại sảnh, ông cũng có mặt ở đó bí mật nhìn mình nói chuyện mà mình không biết. Tới giờ bay, em vào phòng cách ly. Khi anh về, em thật bất ngờ thấy ông. ông nói dối như vô tình cùng bay. Ông mua rất nhiều quà có giá trị tại đó cho em như em rất khoát chỉ nhận có mấy phong bánh cốm cho ông vui lòng. Chuyện là như vậy đó. Không thể thuyết phục em ông tỏ ra rất buồn và ông nói như vậy ông phải đi xa. Vì mục tiêu ở lại Việt Nam tìm em, đã gặp em mà không thể thuyết phục được em chấp nhận tình cảm của ông nên ông sang bên đó. Trước khi đi ông đã xin địa chỉ Email của anh là như thế.

          Nghe xong Thúy kể tôi lặng người thật cảm phục người chiến sỹ giải phóng đó, người thầy thuốc đó. Một chuyện tình đẹp quá. Tôi đã mấy lần định hồi âm cho ông bất chấp điều kiện ông yêu cầu. Nhưng có nên không? Tôi sẽ viết thế nào? Tôi sẽ nói thế nào? Tôi nói gì để ông không bị tổn thương, ông không coi là bị xúc phạm và không để cho ông buồn. Vì tôi biết ông là người thật có bản lĩnh thật có ý chí. Tận trong tâm cam tôi vô cùng ngưỡng mộ ông, cảm phục ông đúng ra là vô cùng mến mộ ông. Tôi kể lại chuyện này cũng là một cách tôi thể hiện sự cảm phục và kính trọng ông. Kính trọng một tình yêu thật đẹp của ông, của tạo hóa của cuộc đời.
 
           Cơn gió cuối đông làm tôi se se lạnh, bụi mưa giao mùa bay bay. Mưa xuân năm nay đến sớm, những bút non sẽ rất nhanh đâm chồi nẩy lộc biếc xanh. Có tiếng chim gù gọi bạn cùng những đàn én đang dệt mùa xuân lưng trời. Phải chăng đó cũng là tình yêu của tạo hóa của muôn loài. Đẹp, thật đẹp phải không các bạn!!! Tình yêu của con người đẹp hơn tất cả. Tôi xin được kết thúc câu chuyện tình ở đây khi mà trong lòng vẫn còn muốn kể hoài kể mãi câu chuyện tình yêu của người bộ đội giải phóng, người bác sỹ quân y với người con gái Sài Gòn xinh đẹp này.

                                Thanh Hóa - Thái Bình cuối Đông 2017.

Những người ccb một thời gắn bó và làm lên những chiến công của Trung đoàn 273, Sư đoàn 341 Đoàn bộ binh Sông Lam 2 lần Anh Hùng.
Các ccb thăm quan và chụp hình lưu niệm tại trại của Trung đoàn 273 ngày kỷ niệm thành lập Sư đoàn!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phó cối trong 25 Tháng Mười Hai, 2017, 11:07:55 pm

                                          Chào bác phú.

 Bác cho hỏi một chút trong cuốn TỪ BIÊN GIỚI TÂY NAM ĐẾN ĐẤT
 CHÙA THÁP của bác có nhắc tới trung đoàn 266 của sư 341 có phải
 Trung đoàn đó năm 79 điều ra biên giới phía bắc không . Mà lên biên giới hà tuyên để thành lập F313 .  Và có F341 b không


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 26 Tháng Mười Hai, 2017, 07:30:59 am

       Chào bạn Phó Cối! Chào các bạn!!!

       Về việc bạn Hỏi thì Trung đoàn 266 của Sư đoàn 341 không điều ra Bắc. Nhưng tháng 3/79 thì có tỉa các cán bộ chung trong Sư đoàn 341 ra biên giới phía Bắc để thành lập các Sư đoàn ngoài đó.

       Có thể Trung đoàn 266 như bạn hỏi thuộc Sư đoàn 341B. VÌ KHI SƯ ĐOÀN 341A đi chiến đấu ở miền Nam thì MỘT SỐ " GIÀ YẾU"có thành lập Sư đoàn 341B. Sau giải phóng 75 mọi người nói họ đi làm đường tàu và các việc kinh tế khác. Có thể khi chiến tranh biên giới phía Bắc thì họ được điều ra.

         Cảm ơn và chúc bác cùng anh em vui khỏe!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phicôngtiêmkích trong 26 Tháng Giêng, 2018, 06:42:48 am
Chào bác TranPhu !
Chuyện tình bác kể thật lãng mạn và đáng trân trọng. Hai nửa cuộc đời khi không có duyên, hoặc có duyên nhưng không có phận, không có số lại không có nợ nữa thì khó ở được với nhau lắm. Dầu sao, những kỷ niệm về nhau vẫn đọng mãi trong tâm khảm thì mới thật trong sáng và quý giá ! Biết đâu một phần bị bệnh tim cũng chính tại cái sự chất nặng tình cảm trong tâm can không thoát ra được ?.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 30 Tháng Giêng, 2018, 05:05:59 am

         Chào các bạn chào Anh Hùng Đại tá nhà Văn nhà Thơ Phi công tiêm kích!!!

         Tranphu341 tôi rất vui rất trân trọng khi được người anh lớn trong tất cả mọi lĩnh vực đến thăm nhà thật tuyệt thật cảm động không thể nói hết tả hết bằng lời!!!

         Thưa các bạn đúng là trong cuộc sống muôn mầu muôn vẻ thì trong tình cảm giới khác giới nó thăng hoa gọi là tình yêu của tạo hóa nó đẹp lung linh diệu kỳ muôn hình vạn trạng mà không mấ khi cắt nghĩa hết được. Trong truyện tình trên cũng là như vậy. Một chuyện tình thật đẹp như Tranphu341 đã ví là đẹp như đũa ngà đẹp như tay tiên đẹp như những thần thoại cổ tích xưa.

         Đã lại cuối năm hy vọng lại được đón bác Phi Công đa tài cùng các anh về Thái Bình chơi cùng nhâm nhi những gì về cuộc đời nhất là cuộc đời của lính chiến chúng mình. Kính chúc bác!!!

         


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phicôngtiêmkích trong 30 Tháng Giêng, 2018, 10:51:13 am
Thật vui khi anh em mình dù xa nhưng vẫn thường xuyên gặp được nhau thế này. Đấy cũng là cơ duyên mà VMH tặng cho. Thật trân trọng những gì đã có và đang có. Tôi cùng Giangtvx và PhaPhai hay gặp nhau, có hẹn khi nào đó có dịp là lại về Thái Bình, nhưng chắc phải ra Giêng vì từ nay đến Tết Nguyên Đán cận ngày quá rồi, nhiều việc lắm. Một năm mới đang đến, chúc anh TranPhu cùng gia đình và bạn hữu, người thân của anh, các đồng đội đồng chí của anh luôn mạnh khỏe và nhiều may mắn trong năm tới !


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 01 Tháng Hai, 2018, 04:09:52 pm

        Chào bác Phi công Tiêm Kích! Chào các bác!!!

        Vâng rất vui rất trân trọng khi anh em mình có những trao đổi như bác đã nói đó là " Cái duyên cái lộc" Trời cho hi hi... Ở đây Duyên và Lộc do VMH tặng cho anh em mình!

          Rất vui khi sau Tết nhóm anh em mình được hiện diện và tiếp kiến cùng nhau!

          Kính bác!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 05 Tháng Hai, 2018, 03:50:40 am
xuanv338 xin chào anh chủ. Chích có bản năng chuyền cành . Vậy nên cứ thấy các anh có cuộc vui đâu là em mong được chầu đấy. Nếu có cuộc gặp gỡ những CCB VMH anh Tranphu341 nhã ý thông báo sớm cho em gái cùng dự tiệc vui nhé.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 10 Tháng Hai, 2018, 04:39:27 am

      Chào XuanV338 chào các bạn!!!

       Vâng với khả năng nhí nhảnh chuyền cành không biết mất ngày nay Xuân về không biết em tôi bé nhỏ đã chuyền cành đi những đâu rời??? Mải vui mải chơi cùng những lo toan cuộc đời câu chuyện tình yêu thật hay thật đẹp của em đang còn chưa tròn. Mọi người và bạn đọc vẫn đang đợi đang đợi/

        Chúc em luôn đẹp luôn vui như những gì em có và ngày càng tỏa sáng để chuẩn bị đón chim Sắt về chơi!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 19 Tháng Hai, 2018, 07:37:19 am

             Chào các ban!!!

             Nhân dịp năm mới xin trân trọng kính chúc ban quản trị kính chúc các lãnh đạo trang nhà lời chúc sức khỏe cùng lời chào chân trọng nhất.

             Xin chúc trang nhà trang mạng yêu quý của các cựu chiến binh của các cán bộ chiến sỹ đương nhiệm cùng thành viên và bạn đọc ngày càng phát triển tỏa sáng!!!

            Kính!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 20 Tháng Hai, 2018, 08:31:05 am
Năm mới xuanv338 xin chúc anh chủ Trầnphu341 cùng gia đình có một năm mới An khang - Thịnh vượng.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 01 Tháng Tư, 2018, 05:46:35 am
          Chào các bạn!

          Rất vui khi co em Chích Bông đến thăm nhà . Vì nhiều lý do, cho đến hôm nay Chủ nhà mới hồi âm được.

          Mong cô em cùng các bạn lượng thứ!

          Thưa các bạn! Bài viết của Tranphu341 về cuộc chiến biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ Quốc Tế đã được biên tập lại và phát hành sách do nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh Phát hành. Đến nay đã xuất bản được 2 tập. Tập 3 dự kiến tháng 6-7 này sẽ hoàn thành. Sách có tên gọi chung là:" Từ biên giới Tây Nam đến Đất Chùa Tháp". Kênh Win W in Việt Nam cũng đã chuyển tải và đọc thành 63 Video tại YOUTUBE đã được rất đông đảo bạn đọc bạn nghe hưởng ứng. Kênh thể theo yêu cầu của khán giả. Kênh cũng đã tổ chức buổi gặp giao lưu Khán giả với tác giả " Hồi ức chiến trường K DỊP 7/10/2017. Tranphu341 cũng đã giới thiệu cùng các bạn.

          Hôm nay Tranphu341 xin phép được đăng bài viết mang tính phê bình - Bình luẬn của Nhà Thơ Đặng Thành Văn để các bạn tham khảo!

ĐẶNG THÀNH VĂN

                                           ĐỌC:  TỪ BIÊN GIỚI TÂY NAM ĐẾN ĐẤT CHÙA THÁP CỦA
                                                                   
                                                                    TRẦN NGỌC PHÚ
1

            Tôi thực sự xúc động và bất ngờ khi được đọc Ba cuốn hồi ký tập 1, 2 và 3: “ Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp”, Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh của Trần Ngọc Phú:
Xúc động bởi cuốn sách viết về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến của quân tình nguyện Việt Nam trên đất Campuchia rất thật và chi tiết. Ở đó, tác giả Trần Ngọc Phú là người trong cuộc, đã mô tả, tường thuật những trận đánh, to, nhỏ, thắng lợi và đôi khi cả những trận “thua mà thắng” chưa được làm sáng tỏ. Những tâm lý người lính trong chiến tranh, tình yêu thương đồng đội, tình hậu phương: Ở đó người lính có cả hai hậu phương: Hậu phương gia đình người thân ở Miền Bắc, hậu phương Miền Nam, nơi mà những người lính từng quen biết khi làm quân quản ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Nơi những ngày, đôi khi chỉ một hai tuần, một hai tháng đánh giặc PônPốt trên tuyến biên giới Tây Nam mà người dân giàu lòng yêu thương đùm bọc họ như con ruột của mình, mà điển hình như má Mỹ ở Thường Thới Tiền, Hồng Ngự, Đồng Tháp, và các má khác, đã cùng nhau đi hàng 100km từ Đồng Tháp lên Thành Phố Hồ Chí Minh rồi đi Tây Ninh, đến cửa khẩu, ra chốt thăm hỏi, động viên và cũng để hiểu thêm những gian khổ hy sinh của bộ đội ta.

           Trước  khi viết bài này mấy hôm, trong một bữa tiệc vui với mấy người đồng đội sư đoàn 341, sư đoàn 7, sư đoàn 9 cùng trong quân đoàn 4, phu nhân của tác giả Trần Ngọc Phú, các phu nhân của các anh Hoàng Quốc Lập, Trần Văn Minh có hỏi tôi một câu mà các chị rất muốn biết: “ Hồi đó các anh ngủ ở đâu?” Tôi trả lời: Bọn anh ngủ ở công sự, ở hầm, ở bờ mương, ở gốc cây. Nghĩa là chỗ nào đặt lưng được là chỗ ngủ của mình, thậm chí ngủ đứng trên cánh đồng ngập nước. Y như câu thơ của nhà thơ Minh Huệ; “Rải lá cây làm chiếu/ Manh áo phủ làm chăn”. Các chị tròn xoe mắt ngạc nhiên như vùa phát hiện ra một điều bí mật. Tôi đọc thấy đôi mắt các chị rớm lệ thương chồng mình sao gian khổ đến vậy. 

          Ở đó, tình yêu lứa đôi của người lính chiến trường thoáng qua mà sâu nặng. Trong sáng, thánh thiện, với sự ngây thơ của cả hai phía “ người yêu”: Từ người con gái Tây Ninh tên là Cúc bán hàng nước giải khát, đến cô nữ sinh trẻ măng tên là Thanh ở Thành Phố Hồ Chí Minh, rồi sau này là Ngọc ở Thành Phố Thái Bình vợ của tác giả bây giờ. Họ đều là những nữ thanh trẻ đẹp, đáng yêu, được tác giả trân trọng và ghi nhớ.

2

            Ở đó, những trận đánh quyết liệt, những hy sinh mất mát to lớn của cán bộ và chiên sĩ, những tình đồng đội cao cả , những thiếu thốn về vật chất và tinh thần của người lính được khắc họa rõ ràng, chân thực và sống động.
Có trận chiến ta tổn thất thật lớn: đại đội 1 tiểu đoàn 1 trung đoàn 273, sư đoàn 341 bị thương và hy sinh chỉ còn hai ngườì: một anh nuôi, một quản lý đại đội. Hay: đại đội 2 tiểu đoàn 7 trung đoàn 64 sư đoàn 320 sau một trận đánh chỉ còn 3 người.( Trang 16, tập 2).
Do tính đặc thù của cuộc chiến tranh nên mức độ tuyên truyền, của ta cũng nằm trong giới hạn, nên không nhiều người dân trong nước biết rõ
ràng. Có cảm giác người lính Việt Nam phải gồng mình lên nhận điều thua thiệt này.
Ở đó, các vấn đề lớn như: Nghệ thuật chiến tranh: Chiến lược và chiến thuật, nghệ thuật nghi binh, thời cơ và chớp lấy thời cơ được trình bày, được mổ xẻ một cách khoa học:

           Về chiến lược: Sau khi đã xác định được chính quyền Pôn pốt không phải là bạn mà là kẻ thù của nhân dân Campuchia và của Việt Nam thì phương thức tác chiến không chỉ phòng thủ mà có cả tấn công. Rồi ta chủ động đưa chiến tranh sang đất Campuchia. Điều này cực kỳ quan trọng, có tính quyết định cho thắng lợi to lớn sau này.
Trận nghi binh dử địch vào khu rừng Hòa Hội, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam, bọn Pôn pốt đã trúng kế. Cả 3 sư đoàn tinh nhuệ của chúng bị tiêu diêt hơn 1000 tên bắt sống hơn 100 tên thu hàng 1000  vũ khí các loại. ( trang 25, Tập 2).Sau trận đánh này quân Pôn pốt rệu rã, hoang mang, hao hụt lực lượng, báo hiệu cho  sự thất bại của Khơ Me Đỏ trên toàn tuyến biên giới, dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Pôn pốt khi ta tổng tấn công giải phóng Pnompenh và hoàn thành thắng lợi chỉ trong một chiến dịch 7 ngày đêm.

           Ở đó, những vấn đề thực trạng nền kinh tế Việt Nam, nhất là sự biến động bất ngờ tình hình kinh tế Miền Nam sau giải phóng. Những khó khăn về vật chất, người dân vượt biên khá nhiều trong giai đoạn này, đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc chiến. Vấn đề tôn giáo cũng được tác giả quan tâm, chia sẻ.

           Vấn đề tâm lý, tình cảm của người lính: Hòa bình và chiến tranh, nếu nhìn ở góc độ địa giới thì chỉ cách nhau một mương nước, một con đường đất nhỏ, một bên là hòa bình, bên kia là chiến tranh. Đồng nghĩa với nó, bên là hưởng thụ, bên cái chết luôn thường trực họ. Rồi vấn đề công tác tư tưởng về sự có mặt của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia đối với bộ đội  Việt Nam và đối với nhân dân Campuchia như thế nào? Thật không đơn giản. Đây là vấn đề lớn trong công tác tư tưởng, công tác dân địch vận lúc đó và cả sự khéo léo từ chối những tình cảm của phụ nữ Campuchia dành cho mình. Cuốn sách cho ta thấy bản lĩnh chính trị của bộ đội ta vững vàng, tuyệt vời ra sao.

          Nói đến bản lĩnh chính trị của bộ đội ta, có một điều khá thú vị, tôi nhớ đến cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam gần giai đoạn kết thúc. Kkhi không quân ta ném bom Dinh Độc Lập, bộ binh giải phóng thị xã Xuân Lộc, rồi nhanh chóng giải phóng Trảng Bom, Hố Nai. Đối phương đề nghị đàm phán, lúc đó trong đoàn quân tiến đánh Biên Hòa xôn xao : “ Không có đàm phán gì hết, cứ tiến thẳng vào giải phóng sài Gòn.” Là một chính trị viên
phó đại đội lúc bấy giờ, tôi thật tự hào và phấn khích về điều này. Tiếp thu bản lĩnh ấy, khi có tin Khơ Me Đỏ ép cử Xihanuc đi gặp Liên Hợp Quôc, tôi nói với một số sĩ quan trong Ban Dân Địch Vận lúc đó : Ta sẽ giải phóng Phnom pênh trong nay mai thôi. Quả nhiên sự kiện lịch sử to lớn ấy đã diễn ra sau đó đúng như vậy. Trong tác phẩm này có nói về vấn đề chính trị cực kỳ quan trọng trong tình hình lúc đó gây tranh luận lớn;. Tác giả hiểu sâu sắc: “ Trên lý thuyết và thực tiễn, cách mạng nước nào phải do nhân dân nước ấy thực hiện” ( trang 139 tập 2 ) Đây chính là vấn đề “ Xuất khẩu cách mạng hay không xuất khẩu cách mạng? “

          Cuộc chiến tranh Bảo vệ biên giới Tây Nam là một bước ngoặt lớn, bất ngờ lớn, bất ngờ hơn là cuộc chiến của quân đội tình nguyện Việt Nam trên đất Campuchia. Giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chính quyền diệt chủng Pôn Pốt, mang lại cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân Campuchia. Lịch sử thường đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Có khi nó chỉ là ngẫu nhiên trong chớp mắt, khi như là một quá trình tích tụ lâu dài, một tất yếu lịch sử dẫn đến đột biến: Đột biến lịch sử.

            Tôi là một sĩ quan tham dự ngay ngày đầu của hai cuộc chiến tranh này. Khi quân và dân Campuchia tiến công và nổi dậy được sự hậu thuẫn của quân tình nguyện Việt Nam ( thực ra hầu hết đều do quân đội Việt Nam giải quyết trên chiến trường) giành thắng lợi vào ngày 7 tháng 01năm 1979.  Chúng tôi nhận được lệnh của cấp trên bắt bằng được cố vấn quân sự của Khơ Me Đỏ, nhưng không thành.
Sau đó cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra.
 
          Như vậy, ba cuộc chiến tranh trên chỉ do một kẻ thù gây nên. Kẻ thù  truyền đời ấy người Việt Nam đều biết và luôn nằm lòng trong họ. Người nước ngoài thì chẳng nói làm gì, nhưng đối với người Việt Nam, dù giầu trí tưởng tượng đến mấy cũng vẫn bị bất ngờ.

( Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: nguyenmanhhungf341 trong 01 Tháng Tư, 2018, 07:28:44 pm
    Anh phú ơi lâu quá không liên lạc. Anh có khỏe không. Đoc trang viết của anh thấy anh còn dẻo dai lắm. Anh luôn là người thay mặt những người trong cuộc chiến biên giới được nhớ  lại ký ức gian khổ khó khăn ác liệt hy sinh của người lính để bảo vệ tổ quốc nơi biên giới tây nam nhưng bị cuộc sống đầy hạnh phúc bây giờ lãng quên và quên ngay trong lịch sử giữ nước trong khi còn nhiều nhân chứng và thời gian chưa phải đã xa. Chúc anh luôn mạnh khỏe để kể nhiều hơn về cuộc chiến biên giới tây nam và mong rằng một ngày không xa cuộc chiên đó sẽ được ghi vào lịch sử cả hai dân tộc việt nam camquchia.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tư, 2018, 08:36:49 pm

Trận nghi binh dử địch vào khu rừng Hòa Hội, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam, bọn Pôn pốt đã trúng kế. Cả 3 sư đoàn tinh nhuệ của chúng bị tiêu diêt hơn 1000 tên bắt sống hơn 100 tên thu hàng 1000  vũ khí các loại. ( trang 25, Tập 2).Sau trận đánh này quân Pôn pốt rệu rã, hoang mang, hao hụt lực lượng, báo hiệu cho  sự thất bại của Khơ Me Đỏ trên toàn tuyến biên giới, dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Pôn pốt khi ta tổng tấn công giải phóng Pnompenh và hoàn thành thắng lợi chỉ trong một chiến dịch 7 ngày đêm.


Chỗ này thấy có sự gợn gợn thế nào ấy :

Quân số mỗi sư đoàn ít ra cũng cỡ 10.000, cá biệt có thể tới 15.000, 18.000 người.

3 sư đoàn tinh nhuệ của Pôn Pôt cũng cỡ phải 30.000 tên. Diệt hơn 1.000 tên (cỡ khoảng 3 %) sao gọi là thắng lớn được?


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Tư, 2018, 06:02:48 am

          Chào bạn Giangtvx, bạn Nguyenmanhhung341! Chào các bạn!

          Tranphu341 rất vui,rất trân trọng khi các bạn đến thăm nhà đọc bài và cũng có ý kiến chia sẻ thắc mắc hay mạn đàm cùng Tranphu341.

           Bạn Giangtvx! Về ý kiến của bạn về việc tiêu diệt bọn PonPót và chúng ta đã thắng lớn thì có thể nói như thế nay. Trong Tốp tic của Tranphu341 cuối phần 4. Đã in thành sách cuối tập 2" Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp". Tranphu341 cũng đã nói rõ đây là một trận thắng lớn. Có thể nói trong cuộc chiến biên giớ Tây Nam mà Tranphu341 trực tiếp tham chiến và toàn quân dân ta phải gồng mình chiến đấu tiêu diệt bọn Pốt xâm chiếm đất đai của Tổ Quốc. Giết hại dã man hàng ngàn người dân vô tôi dọc biên giới. Có nơi chúng giết chúng tàn sát cả mấy ngàn người như ở Ba Chúc An Giang.

          Trong cả cuộc chiến tranh này suốt từ tháng 7/ 2077 cho đến kết thúc cuộc chiến trên thì chúng ta chưa có được cuộc chiến nào thắng như vậy. Ở đây chúng đã chiếm cả 5 xã và gần như toàn bộ khu rừng Hòa Hội của ta với ý đồ là vượt sông Vàm Cỏ chiếm Thị Xã Tây Ninh cho nhân dân Tây Ninh ăn bánh Tét chấm máu dịp Tết 1978-1979. Đương nhiên là ý định ngu đốt và ngông cuồng. Chúng ta đã lập mưu bẫy lại chúng và khu rừng Hòa Hội đã là Tử huyệt để chôn xác thù. Đúng hơn là chôn cả ý định ngu dốt, chiến lược cùng những âm mưu đen tối của chúng.

          Đại tướng Võ Nguyên Giáp vị lãnh tụ quân sự thiên tài vô cùng kính yêu của chúng ta đã nói. Với chiến Thắng này chỉ trong 5 ngày đêm chúng ta đã tiêu diệt được rất nhiều địch. Đây không phải là một chiến thắng chiến công thuần túy mà chúng ta đã dập tắc được lò lử chiến tranh rất nguy hiểm phí Tây Nam Tổ Quốc. Có thể ví chiến thắng này như trận Rạch Gầm - Xoài mút của Cha ông ta xưa hay như chiến thắng Điện Biên Phủ với hai đế Quốc Pháp- Mỹ...

         Tranphu341 xin được trích dẫn lời Đại Tướng:"Chúng ta đã đập tan cuộc tiến công quy mô lớn của bọn xâm lược Pôn Pốt - Iêng Xa Ki Quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi, giành thắng lợi oanh liệt. Lập lại hòa bình trên biên giới phía Tây Nam Tổ quốc. Dập tắt lò lửa chiến tranh rất nguy hiểm ở phía Tây Nam nước ta.
         


         Về tổ chức quân số của bọ Pôn Pốt thì chúng không lấy đâu ra quân số tới 10 ngàn người/ Sư đoàn. Ngày chúng ta nếu biên chế đủ thì có thế như bạn nói nhưng khi vào tác chiến 1 thời gian thì quân số may ra đảm bảo được 30/% theo biên chế lúc đầu( đấy là tính trung bình)

          Chính vì thế sau chuộc chiến Rừng Hòa Hội chúng ta mới lật cách chuyển từ phòng thủ bảo vệ Tổ Quốc sang xuất chinh tiến công sâu vào đất thù để giúp bạn và cũng chỉ sau 7 ngày. Tức là từ ngày 1/1/1979 đến trưa ngày 7/1/1979 chúng ta đã giải phóng được Thủ đô Phnompenh. Cũng có thể nói thêm mặc dù chúng ta trong chiến dịch từ 1/1/1979 tới ngày 7/1/ 1979 tất cả các đơn vị mà Tranphu341 biết cũng không có trận nào mà ta tiêu diệt được nhiều sinh lực địch đến thế đâu bạn à.

          Trên đây là một số những giải đáp phân tích thêm của Tranphu341 về trận chiến và chiến thắng rừng Hòa Hội để các bạn hiểu rõ thêm!!! Mong nhận được thêm nhiều phản hồi của các bạn! Kính.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Tư, 2018, 06:12:39 am

ĐẶNG THÀNH VĂN

                                        ĐỌC:  TỪ BIÊN GIỚI TÂY NAM ĐẾN ĐẤT CHÙA THÁP CỦA
           
                                                                TRẦN NGỌC PHÚ
( Tiếp theo)

               Chẳng ai tin được, một Việt Nam bé nhỏ, vừa trải qua 30 năm chiến tranh khốc liệt, mới giành được hòa bình lại bị ngay một nước nhỏ hơn, yếu hơn là chính quyền phản động Khơ Me Đỏ gây chiến, tấn công. Cuộc chiến bảo vệ biên giới, rồi cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng dưới chế độ Pôn pốt của Việt Nam được người dân Campuchia coi như là Thánh sống, tái sinh ra họ lần thứ hai. Họ gọi bộ đội Việt Nam là : “bộ đội của phật”. Một việc làm đầy cao cả và nghĩa hiệp ấy lại trở thành nạn nhân của sự bị bao vây cấm vận tới 20 năm . Thật là oan trái.” Rồi người Việt Nam phải gồng lưng hứng chịu cuộc chiến tranh xâm lược của một nước lớn vào tháng 2 năm 1979.  Cuộc chiến này đối với họ là một vết nhơ lịch sử. Đối với ta là một nỗi đau lịch sử.

          Tôi lại thấy nhớ và thương yêu nhiều hơn những cán bộ chiến sĩ hy sinh nơi chiến trường. Một chiến trường khốc liệt. Những trận chiến dày đặc.  Những giờ G dày đặc có lũy thừa là N lần... Họ đã để lại xương máu của mình nơi đất khách quê người. Có người xương cốt đã về được đất mẹ Việt Nam, người  còn nằm lại. Tôi nhớ đến đại đội 2 Anh hùng của tôi. Nhớ những đồng đội thật gần gũi và đáng kính như hai người Anh hùng liệt sĩ  Nguyễn Sông Thao và Ngô Khắc Quyền, được nói đến nhiều trong cuốn sách này. Những năm chống  Mỹ, tôi cùng đại đội với cả hai anh. Đó là đại đội 2, tiểu đoàn 1, trung đoàn 273 sư đoàn 341, quân đoàn 4. Năm 1975 Nguyễn Sông Thao là đại đội trưởng, tôi là chính trị viên phó đại đội. Lúc anh hy sinh trên chiến trường Campuchia là tiểu đoàn trưởng . Năm 1975 Ngô khắc Quyền là chiến sĩ, sau này anh hy sinh ở Campuchia là trung đội trưởng.

           Đại đội 2 mà tôi nói đến là nơi tôi nhập ngũ và trưởng thành lên cán bộ đại đội. Một đại đội được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến tranh giải phóng. Tôi tự hào được chiến đấu trong một đại Anh hùng, có tới hai đồng đội được phong tặng danh hiệu Anh hùng.

          Như đầu trang viết, tôi thực sự xúc động và bất ngờ khi đọc tác phẩm này. Bởi tính chân thực tới từng sự kiện, những vấn đề rất lớn như tầm chiến lược, hay chi tiết tới từng tổ chốt râu tôm, thao tác và đặt trận địa cối 60 ra sao, luồn sâu bám địch, đánh đấm thế nào, từng tình huống xẩy ra, rồi sử lý tình huống. đều được mô tả chính xác mà không đơn điệu, tỷ mỉ mà không vụn vặt. Mỗi trận đánh, mỗi sự kiện diễn ra dưới ngòi bút của tác giả đều sống động. Không ngần ngại nói lên những mặt khuất lấp chưa được biết đến trong chiến đấu. Những khiếm khuyết của chỉ huy và chiến sĩ ta trên chiến trường. Văn phong giản dị, không màu mè. Cấu trúc của hồi ký nhiều lớp lang, không theo tuyến tính tình tự. Tác giả thường dùng thủ pháp đảo thời gian, tái hiện những sự kiện, những giai đoạn khác nhau cùng đồng hiện, để
người đọc được thay đổi món,  không rơi vào lối mòn, nhàm chán. .vv…

         Không là người trong cuộc, không có bầu nhiệt huyết với đơn vị với đồng đội, không say mê, không tài hoa, không vững vàng, không viết được như thế.

        Cuốn hồi ký Từ biên giới Tây Nam Đến đất Chùa Tháp là một pho lịch sử về chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến của quân đội tình nguyện Việt Nam trên đât Campuchia. Là nguồn tư liệu hiếm, quý và trung thực nhất về những năm tháng hào hùng và đầy bi tráng của dân tộc ta. Chắc chắn bây giờ và những thế hệ tiếp theo sẽ còn đón đọc và lưu tâm..

          Tôi là đồng đội của Trần Ngọc Phú, nhập ngũ cùng tháng năm, cùng tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn 341. Cùng nhau chiến đấu từ thời chống Mỹ giải phóng Miền Nam, đến hai cuộc chiến mà tác giả đã viết trong ba tập sách này, nên tôi biết về anh rất rõ: Cuối bài viết này, tôi muốn nói tới cái tôi –Trần Ngọc Phú, tác giả cuốn sách ba tập đã xuất bản: Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp. ( Tập 3 sắp xuất bản.)

          Trần ngọc Phú là một người tài hoa, thông minh, đẹp trai và dễ gần. Tác giả cũng giỏi về làm kinh tế. Một người mà chúng tôi – những người cựu chiến binh sư đoàn 341 rất nể phục. Hiện anh đang là ủy viên ban liên lạc cựu chiến binh sư đòan 341, trưởng ban liên lạc cựu chiến binh sư đoàn 341 tại Thái Bình.
Chúc tác giả Trần Ngọc Phú dồi dào, sung mãn trong sự nghiệp làm kinh tế và văn học nghệ thuật mà anh đang theo đuổi.
 

Thái Bình xuân Mậu Tuất 2018 

ĐẶNG THÀNH VĂN



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Đức Cường trong 30 Tháng Năm, 2018, 02:03:42 pm
Đọc cuốn " Từ biên giới Tây Nam đến đất nước chùa tháp " tôi rất ấn tượng về người tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 Nguyễn Sông Thao trong trận đánh ngày 18/7 tại bờ mương . Nếu như ý kiến đề nghị cho tấn công ngay khi bị lộ lúc 2 giờ sang thì trận đánh sẽ khác rất nhiều . Chỉ cần chiếm được bờ mương thì sẽ khống chế được hỏa lực của địch .
Sáng ra thì ta nằm ở thế bất lợi trong tầm hỏa lực của địch và thiệt hại vô cùng to lớn. Gương hy sinh chiến đấu dũng cảm của người tiểu đoàn trưởng này thật khâm phục.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 22 Tháng Sáu, 2018, 09:54:57 am

            Chào Đức Cường! Chào các bạn!

            Trước hết cho Tranphu341 xin lỗi vì đã chậm hồi âm khi mà bạn đến chơi nhà! Vừa rồi cá nhân có nhiều việc linh tinh quá!

           Cảm ơn bạn đã đọc đọc lại và nghe đọc chuyện Biên giới Tây Nam của Tranphu341. Bạn các bạn đều rất bức xúc khi trận đánh ngày 18/7/1978 quân ta bị kẹt trong tình thế bất lợi. Chúng ta hy sinh nhiều. Câu chuyện này tình huống này đã được các bạn đề cập và mạn đàm nhiều, rất nhiều trong thời gian trước khi Tranphu341 kể lại trong Topic.
 Sự hy sinh trong cuộc chiến có thể còn có yếu tố may rủi cùng thêm cả sự sáng suốt tài năng của người chỉ huy. Chuyện xẩy ra đã 40 năm rất nhiều cán bộ chiến sỹ những đồng đội thân yêu ngững người con Đất Việt đã hy sinh xương máu. Thân xác họ đến nay nhiều người vẫn tan lẫm vào đất của miền biên thùy. Đại đội 4 số 1 của Tranphu341 còn sốn 3 người. Chuyện chiến tranh khốc liệt vậy. Những người chỉ huy như Sư đoàn phó Mười Thứ ông cũng đã về với Tổ Tiên. Bây giờ những chuyện này ta nhắc lại là bài học lịch sử cho con cháu chúng ta.

        Tranphu341 cùng Đại tá Nhà văn Nguyễn Quốc Trung biên soạn lại thành bộ sách 3 tập với tên tác phẩm là: Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.  Đã hoàn thành tập 1- 2. Đang phát hành tập 3.

        Kênh Win Win Việt Nam cũng đã đọc cả 3 tập với tên gọi; Hồi ức chiến trường K. Tác giả Trần Văn Phú tức Trần Ngọc Phú. Được đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước hưởng ứng và ủng hộ. Và cũng đã tổ chức buổi giao lưu giữa Win Win Việt Nam cùng tác giả và khán thính giả rất thành công.

        Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn Đức Cường cùng tất cả các bạn!!!KÍnh !!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 10 Tháng Tám, 2018, 09:23:59 pm
 Biết tin anh Tranphu 341 phải phẫu thuật cắt tuyến giáp tại bệnh viện Nội tiết Trung ương. xuanv338 xin chúc anh nhanh lành bệnh về vui cùng đồng đội trong những ngày tháng 8 và viết tiếp hồi ức đang viết phần III. " Từ biên giới Tây Nam đến đất chùa Tháp"


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 13 Tháng Tám, 2018, 05:29:55 pm
xuanv338 xin đính chính. Anh Tranphu 341 phẫu thuật cắt khối u tuyến Giáp trạng.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phó cối trong 22 Tháng Mười Một, 2018, 10:31:33 pm

                           Em chào bác trần phú chủ nhà

  Đã lâu em vác cuốc đi khai hoang kiếm tý đất để trồng ít ngô khoai  nay lại về topics MỘT THỜI MÁU &HOA
  và thăm lại các bác hàng xóm . Quả thực ngôi nhà hà giang của chúng em các thành viên rạo này cũng đi mở
  cõi hết nên chả có ai bỏ hoang đã lâu  nên cũng chả có khách đến chơi mấy bữa nay em mới về quét dọn để
  nếu có khách khứa còn tiếp đón . Vậy em chúc bác cùng toàn thể gia đình luôn mạnh khỏe toại nguyện mọi
  ước muốn


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 24 Tháng Mười Một, 2018, 10:47:50 am

         Chào bác Phó Cối! Chào các bạn!

         Đúng là hồi này nhà cửa bản làng VMH ít khách qua lại. Cũng vì nhiều lẽ. Bên VMH mình là trang mạng Chính quy và rất nghiên túc nghiêm chỉnh trong viết lách phát ngôn. Các thành viên đều phải tuân thủ quy định nếu vi phạm thì bị nhắc nhở hay thậm chí là tẩy chay đóng cửa vv... Tiếp nữa những chuyện sôi đồng về bùng bình súng đạn cũng đã được các bác cựu khai thác và kể ra nhiều nên cũng đã bị cạn. Còn rất nhiều các ccb với nhiều câu chuyện thì lại không làm quen được với máy tính với hệ thống.
 
         Bên Facebook thì họ đa dạng hơn với những ưu thế vượt trội nên thu hút được nhiều thành viên hơn. Có những thành viên tốt và thành viên không chuẩn loạn xì ngầu như tầ phở ấy. Tùy mọi người lựa chon kết bạn hay nghe hay tin sự thật hay cả tin bị lừa đảo cũng nhiều. Tóm lại đó là một xã hội phức tạp thu gọn...

         Riêng Tranphu341 thì lúc nào cũng rất trân trọng VMH tuy bài viết giờ đây không nhiều thậm chí đang còn dang dở.

         Cảm ơn các bạn đã lại về với VMH. Chúc cho các bạn cùng trang nhà mãi mãi uy tín cùng sự tỏa sáng! Kính!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: longtrec trong 25 Tháng Mười Một, 2018, 08:53:00 pm
Chào anh Trần Phú cùng các bác CCB!

Anh vẫn mạnh khỏe và cv vẫn thuận lợi chứ ạ? Em gần đây buổi tối lại nghe lại chuyện của anh qua win-win. Hihi, có cái lạ là chuyện của anh em đọc thuộc từng khúc, từng trận đánh thậm trí cả nhân vật nữa vậy mà vẫn hồi hộp như lần đầu.


Hehe, FB em chưa bao giờ vào, cũng chẳng biết và không muốn biết vào kiểu mô nữa ;D


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 27 Tháng Mười Một, 2018, 08:18:03 am
           Chào Longtrec! Chào các bạn!

           Rất vui khi giờ đây lại có những commen những ghé thăm tư gia hi hi... Tranphu341 rất vui khi mỗi lần về Việt nam có cơ hội là anh em mình được gặp như Longtrec thường nói hình như anh em mình Longtrec- Binhyen1960- Tranphu341 luôn có những đồng cảm chia sẻ quý mến nhau đến mức "phải lòng" như những cặp tình yêu đời đầu!

           Yêu quý và trân trọng nhau Mình Tôi Bạn Ta nó đều đến từ hai phía.
           Chúc bạn luôn thật nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui hạnh phúc! Hẹn gặp !!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 30 Tháng Mười Một, 2018, 10:23:19 am
xuanv338 chào anh chủ nhà  Đoàn bộ binh sông Lam. Tiếc là mấy lần mod Bình Yên và Longtrec về Thái Bình mà xuanv338 không được tới gặp mặt vì công việc riêng bận bịu. Ngôi nhà của Đoàn bộ binh sông Lam lúc nào cũng vui. Ở đâu cũng vui và đầy ắp kỷ niệm chiến tranh. xuanv338 chúc mừng anh chủ Tranphu 341 thật nghĩa tình và nhiều anh em quan tâm đến vậy.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Mười Hai, 2018, 12:59:19 pm

Thưa các bạn!

            Sau rất nhiều cố gắng, sự nhiệt tình của đồng đội Đại Tá Nguyễn Quốc Trung nhà văn nhà báo quân đội. Sự giúp đỡ của ban biên tập nhà xuất bản tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Hôm nay tập 3 cuốn sách: Từ biên giới Tây Nam đến Đất Chùa Tháp" của tác giả Trần Ngọc Phú đã hoàn thành đúng dịp kỷ niệm ngày thành lập quân đội 22/12, ngày thành lập Sư đoàn 341 đoàn bộ binh Sông Lam anh hùng.

            Đặc biệt ngày kỷ niệm dấu ấn lịch sử trọng đại 40 năm chấm dứt chiến tranh Biên giới Tây Nam và nhiệm vụ Quốc Tế của Đảng Của Nhân dân của Quân đội ta làm nhiệm vụ Quốc Tế giúp bạn nước láng giềng tiêu diệt tận cùng tập đoàn phản động Pôn Pốt - Ieeng Xa Ri tay sai quan thầy bành trướng phương Bắc. Cứu giúp Dân Tộc Khơ me khỏi họa diệt chủng hồi sinh.
Tên Sách được chuyển thể từ topic:" Tranphu341 đoàn bộ binh Sông Lam biên giới Tây Nam" trong trang mạng Dựng Nước Giữ nước.

           Sách đã được kênh Win Win Việt Nam đọc phát trên YOUTUBE cùng những hình ảnh cùng những nhân chứng là đồng đội tác giả có tên hoặc không có tên trong sách những nhân chứng về những trận đánh những ngày tháng gian khổ cam go của cuộc chiến mà sách dù có cố gắng thế nào cũng khổ thể nói hết được, tả hết được sự hy sinh hào hùng và bi tráng của cuộc chiến dài.
Rất trân trọng cảm ơn Nhà báo Đại tá Nguyễn Quốc Trung cùng nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh. Kênh Win Win Việt Nam cùng các bạn đọc các bạn khán thính giả đã cổ vũ cho tôi tác giả bộ sách đã được hoàn thành!
 
          Kính !!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Mười Hai, 2018, 06:34:21 pm
Chúc mừng bác Phú !


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 16 Tháng Mười Hai, 2018, 08:02:21 am

        Chào bác Giangtvx! Chào các bạn!

        Tranphu341 và người em Xuân Trần đồng đội cô chích bông xinh đẹp vẫn đang đợi bác đợi mọi người xuống chơi để được trò chuyện để được tặng sách đây!!! Kính bác!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: xuanv338 trong 17 Tháng Giêng, 2019, 06:04:28 pm
 xuanv338 chào anh chủ, nhà văn của tạp chí Văn nghệ Thái Bình Trần Ngọc Phú. Tác giả của những câu chuyện vùng biên giới Tây - Nam tới đất chùa Tháp đầy lửa và máu được nhà văn lính, ông chủ doanh nghiệp đã chuyển sử thành văn đang làm nức lòng người đọc. Nhất là những cựu lính trận trong cuộc chiến được nhớ về một thời không thể quên ấy. Hôm nay thì xuanv338 được nhận hai cuốn chuyện của hai nhà văn không qua đào tạo. Người mặt đất, người tận trên trời. xuanv338 xin cảm ơn hai nhà văn, đã cho em một món ăn tinh thần trong những ngày giáp tết.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 27 Tháng Ba, 2019, 07:59:50 am

           Chào Xuanvui338 cô Chích Bông nhỏ bé xinh đẹp chào tất cả các bạn các thành viên VMH Đã thường xuyên đến thăm nhà Tranphu341. Những dịp này thường hay sang Facebook nên nhà cửa không thường túc trực đón khách cái NỢ của trang vẫn còn đầy và còn nhiều việc phải làm trong ngôi nhà chung yêu quý này.

           Tranphu341 xin kể lại chuyện ngày hôm qua có gì đó mà làm mình trăn trở thật sự trăn trở bới sự trùng lặp diệu kỳ như có sắp đặt trước chỉ cách nhau tròn 40 mươi năm. Lý người con gái bạn học người yêu của Vũ Ngọc Tiến nhân vật thực trong bài viết của Tranphu341. Tiến hy sinh lúc khoảng 8 giờ 30 ngày 25 tháng 3 năm 1979 tại tỉnh Congpongsupu đường 4. Tranphu341 năm 1979 được về phép và những ngày tháng sau nay cầm bức ảnh Lý đi tìm gặp Lý mà sao không thể gặp được.

           Sáng hôm qua Lý cùng người cháu của Tiến và ông Đại tá công an người họ hàng của Liệt sỹ Vũ Ngọc Tiến lên tìm Tranphu341 thật gai người khi biết sự gặp mặt này là tròn đúng 40 năm Tiến hy sinh trùng hợp cả giờ Tiến trúng đạn hy sinh . Chuyện thế này Tiếc là Tranphu341 không gửi ảnh lên đây được. Xin chia sẻ cùng các bạn.

Sự Trùng hợp hay còn gì đó mà ta chưa hiểu hết!
Thưa các bạn!
Sáng nay khoảng hơn 8 giờ. Chuông điện thoại của Phu TranPhu reo. Nhìn qua máy thấy người gọi cho mình là người Cháu ruột của đồng đội Vũ Ngọc Tiến. Cháu Đính hiện đang sống và làm việc tại Móng Cái Quảng Ninh.
Mấy tháng trước tình cờ cháu có gặp anh Phú(Trùng tên với Phu TranPhu)ccb Của Sư đoàn 341. Sau khi chuyện trò biết quê của cháu Đính. Anh Phú hỏi có biết anh Tiến Liệt sỹ Tiến quê xã Liên Giang Đông Hưng Thái Bình hy sinh tại Campuchia. Thật trùng hợp là cháu Đính lại là cháu ruột của Liệt sỹ Tiến. Cháu kể năm 2002 đã cùng gia đình vào Tây Ninh đưa hài cốt của Bác Tiến về nghĩa trang tại quê. Đồng đội Phú đưa cho cháu Đính tập 3 của cuốn sách:” Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp” Trong đó có đoạn kể về trường hợp chiến đấu và hy sinh của Liệt sỹ Tiến. Sau khi đọc sách và nghe qua kênh Win Win Việt Nam đọc cháu gọi cho tôi trong nghẹn ngào nước mắt và hẹn khi nào về quê sẽ chở cả Lý người yêu của Tiến thời học sinh và những người thân của Liệt sỹ Tiến lên gặp tôi để nghe kỹ hơn nữa về cuộc sống chiến đấu và tình tiết sự hy sinh của Bác Tiến.
Sáng nay cũng khoảng 8 giờ hơn, cháu Đính, bác Lý cùng bác Lực người họ hàng là Đại Tá công an đã nghỉ hưu vào gặp Phu Tranphu. Câu chuyện chiến đấu xưa được kể, được nhắc lại trong nhạt nhòa nước mắt của người nghe người kể. Sau hơn 1 tiếng chuyện trò mọi người ra về và nói sẽ ra nghĩa trang liệt sỹ Huyện Đông Hưng nơi phần mộ của Liệt sỹ Tiến được đưa về đó thắp hương dâng bộ sách lên phần mộ và ban thờ của gia đình vì lấy đây là nhân chứng là tấm gương cho truyền thống gia đình.
Sau khi mọi người ra về. Phu Tranphu mới thật nhớ là ngày hôm nay 25 Tháng 3 Năm 2019 là đúng ngày đúng giờ tròn 40 năm đồng đội Tiến hy sinh. Thật gai người khi sự việc trùng lặp về thời gian của 40 năm trước. Không biết nói và giải thích thế nào về sự trùng lặp đó. Tôi đã nhiều lần đi tìm cô Lý mà không gặp được. Hôm nay tôi đã gặp cô Lý người yêu của Tiến sau 40 năm anh hy sinh. Xin được chia sẻ tâm sự này cùng các bạn.
Đoạn viết về trận chiến đấu và hy sinh của Liệt sỹ Tiến.
https://www.youtube.com/watch…

Ảnh Chị Lý người yêu của Liệt sỹ Vũ Ngọc Tiến thời học sinh và cháu Đính cháu ruộc của Liệt sỹ . Đại tá Lực người cùng họ với Liệt sỹ.

Trong hình ảnh có thể có: 4 người, bao gồm Phu TranPhu, mọi người đang ngồi




Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Ba, 2019, 11:46:10 am
   
Chuyển giúp ảnh từ Fb của bác Phú sang:

(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/55480084_795459300831844_8722347218259935232_n.jpg?_nc_cat=105&_nc_oc=AQnLvWKkihSBtjaDWsq0VblqFFjZcADLxIzprRFnSCiAlsI8xoD5apsZWL9YgBKAICs&_nc_ht=scontent.fhan4-1.fna&oh=709e7fcca9ea5298f30fab6905caaa6f&oe=5D4216F9)
Cháu Đính và Lý người bạn học của Liệt Sỹ Tiến và xưa là người Phu TranPhu cầm ảnh Lý đi tìm Lý để trao lại bức ảnh mà nhiều lần không gặp.


(https://scontent.fhan3-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/54727713_795456880832086_7903892520847802368_n.jpg?_nc_cat=103&_nc_oc=AQk_vXy0D3yXeRJHhKo3-1EEsCHF0WEnpzDX2l_dJtx_GEMpCvH6FVt95nSLemsnv5s&_nc_ht=scontent.fhan3-2.fna&oh=7bb1563ab0fd8bf2488c48bf4205f2f9&oe=5D1881F6)
Ảnh Chị Lý người yêu của Liệt sỹ Vũ Ngọc Tiến thời học sinh và cháu Đính cháu ruột của Liệt sỹ . Đại tá Lực người cùng họ với Liệt sỹ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Ba, 2019, 08:35:18 am

          Chào các bạn! Thật tuyệt!

          Tranphu341 rất trân trọng ngưỡng mộ cùng lời cảm ơn tới đồng đội Giangvtx đã chuyển cho Tranphu341 hai bức ảnh hình của cháu Đính, Lý Người yêu của Liệt sỹ Vũ Ngọc Tiến lên trang làm cho bài viết thêm sinh động. Liệt sỹ Tiến anh đã hy sinh khoảng lúc 8 giờ 30 ngày 25 tháng 3 năm 1979 khi giữ chức chính trị viên phó Tiểu đoàn 1 trung đoàn 273 Sư đoàn 341. Chị Lý nay cũng đã là người "có tuổi" song vẫn có những nét mạnh mẽ cương nghị đẹp đôn hậu của người phụ nữ quê lúa đã qua nhiều gian nan vất vả. Nay chị sống ở quê gần nhà anh trai Liệt sỹ gia đình Liệt sỹ Tiến đã coi chị Lý như con từ sau khi Tiến hy sinh. Chính chị Tiến đã biết trước gia đình người yêu mình đã hy sinh và chị cũng đã chủ động đề nghị Xã Liên Giang nhanh làm lễ truy điệu và báo Tử cho gia đình( Lời chị Lý kể).

          Vâng kỳ lạ là lúc chị và người cháu lên với Tranphu341 lại trùng khít Giờ và ngày tháng hy sinh của liệt sỹ Vũ Ngọc Tiến. Câu trả lời giải đáp dành cho các bạn và mỗi người.

           Một lần nữa xin được cảm ơn đồng đội mox trang Văn học chiến tranh đã đăng trọn 3 tập sách của Tranphu341 lên trang góp phần làm cho bộ sách đến với quý đọc giả được nhiều hơn rộng hơn. Kính !!!

         


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Bảy, 2019, 03:24:14 pm

                         Thư ngỏ gửi các cựu chiến binh biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc Tế Tại Cămpuchia.

        Kính gửi các đồng đội cựu chiến bình Sư đoàn 341, đồng đội các đơn vị đã từng chiến đấu trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc vùng Biên Giới Tây Nam và làm nhiệm vụ Quốc Tế cứu giúp nhân dân đất nước CămPuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt - Ieng xa ri.

        Thưa các bạn! Thưa các đồng đội. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế vì nhiều lý do mà chúng ta không được tuyên truyền như cuộc chiến tranh giải phóng Dân Tộc chống Pháp chống Mỹ. Thế hệ chúng ta là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu hay phục vụ chiến đấu hiện nay tuổi cũng đã cao. Cuộc chiến vô cùng cam go ác liệt đó đã có biết bao đồng đội đã anh dũng chiến đấu hy sinh để bảo vệ Đất thiêng Tổ Quốc. Nhiều đồng đội được trở về quê hương khi sức khỏe đã yếu hay là thương binh bệnh binh với những di chứng chiến tranh. Nay chúng ta tuổi đã cao. Khoảng 15-20 năm nữa nếu ai còn sống thì cũng đã sang tuổi U 80. Vậy những gì về cuộc chiến nếu chúng ta không kể lại không viết lại sẽ bị phai mờ chỉ còn một hai dòng ngắn ngủi trong vở trong quyển sử học trò.

         Thưa các bạn! Cũng đã có nhiều đồng đội viết lại kể lại về cuộc chiến đó nhưng chưa nhiều so với tư liệu thực tế thì chẳng đáng là bao. Trong bộ sử của các đơn vị thì cũng chỉ ghi chép được rất ít thậm chí là hời hợt hoặc không đúng thực tế nhất là những đồng đội kế cận ghi chép lại sau này. Tôi cũng từ bức xúc đó mà đã viết được 3 tập sách đầu tiên là viết trên trang Dựng nước giữ nước mục Một thời máu và hoa. Sau đó cùng đồng đội Đại tá nhà văn Nguyễn Quốc Trung biên tập lại thành ba tập sách với tên là:“Từ biên giới Tây Nam đến Đất Chùà Tháp”. Sách và chuyện kể được đông đảo bạn đọc mến mộ và đánh giá cao về các tư liệu thật sống động của cuộc chiến. Nhất là từ sau khi được kênh truyền hình Win Win Việt Nam đọc trên Youtube với tựa đề: “Hồi ức chiến trường K” thì bộ sách được nan tỏa rộng hơn nhiều hơn.

         Thưa các bạn! Tôi viết bộ sách trên dựa chính vào trí nhớ của bản thân và dựa vào một số tư liệu của các đồng đội kể lại cùng những bộ sử của Sư đoàn và các trung đoàn trong đội hình Sư đoàn 341. Tuy cũng đã rất cố gắng nhưng cũng chỉ thu thập được một số tư liệu đi sâu vào những bước đường làm nhiệm vụ của Sư đoàn và trung đoàn 273. Sách cũng đã lược trình cơ bản về cuộc sống chiến đấu của chúng ta. Hồi đó sự kết nối đồng đội sự giao thoa giao lưu không rộng không nhiều nên rất nhiều đồng đội có ý kiến là sách nói ít về các trung đoàn 270- 266- Trung đoàn pháo binh 55 và các đơn vị trực thuộc.

         Chính vì vậy nên hôm nay tôi viết những lời này kêu gọi các đồng đội trong và ngoài sư đoàn đã trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại mặt trận trên hãy kể lại viết lại gương chiến đấu và cuộc sống chiến đấu của mình của đơn vị hay của đồng đội mình. Nếu đồng đội viết được chi tiết thì càng tốt nếu không thì chỉ cần viết cốt chuyện và có thời gian không gian tên tuổi hay quê quán đơn vị mình sau đó gửi cho tôi để tôi sẽ chắp bút lại thành 1- 2 tập sách trong đó có từng câu chuyện của các đồng đội. Đây là việc làm thiết thực nếu thành công Sách sẽ là tư liệu quý không chỉ cho chúng ta mà là tài liệu quý cho sử thi chiến đấu của Dân Tộc của đất nước giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ. Nếu kịp thì sách sẽ ra mắt vào dịp kỷ niệm 45 năm ngày Giải Phóng miềm nam và 48 năm ngày thành lập Sư đoàn 341 và 41 năm chiến thắng bè lũ Pôn Pốt – Iengxari bạo tàn.

           Kính mong các đồng đội và các bạn ủng hộ!
 Địa chỉ của Tôi: Trần Phú số 439 Trần Hưng Đạo TP Thái Bình (Nhà Hàng Châu Á).
 Điện thoại: 0913322850- 0914010850.
 Hộp thư: Phutronghai@gmail. Com. Facebook: Phu TranPhu

           Kính mong nhận được bài của các đồng đội sớm nhất!!!

 


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 20 Tháng Chín, 2019, 09:57:30 am

           Chào các bạn!

           Bạn Kỳ Chè là ccb sư đoàn 341 hiện cùng gia đình đang định cư Tạị Pháp. Sau khi đọc 3 tập sách " Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp" Tác giả Trần Ngoạc Phú - Tên của Tranphu341- Biên soạn lại từ topic Trần Phúa 341 biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ Quốc Tế
Phu nhân của Kỳ Chè đã đọc và đã cảm động rất cảm động thương chồng yêu chồng nhiều hơn. Chị đã làm bài thơ tặng chồng tặng tác giả với nội dung sau:

Kính tặng Đ/c: Trung uý Trần Ngọc Phú (Tác giã cuốn Hồi ký “ Từ Biên giới Tây nam đến Đất nước Chùa Tháp”) cùng đồng đội CCB sư đoàn 341 , QĐ4 thân yêu!

Em là vợ lính!
Vợ đọc Hồi ký bạn chồng
Mắt nàng cuốn hút những dòng trên trang
Viết về Biên giới Tây nam
Tác giã Trần Phú sư đoàn chúng tôi
Bổng dưng nàng gọi yêu ơi
Xem bạn anh kể chuyện nơi chiến trường
Những dòng hồi ký thân thương
Lần theo hào khí dọc đường tiến quân
Tây Ninh cho tới Hà Tiên
Anh Phú kể hết từng miền, từng nơi
Hành văn lưu loát tuyệt vời
Lồng trong dòng chữ bóng người hiện lên
Giữa làn đạn nổ, pháo rền
Hành quân chiến đấu thâu đêm quên mình
Có trận đại đội hy sinh
Duy còn sống sót một mình anh nuôi
Cộng thêm *quản lý: hai người
Cùng nhau bám trụ không rời tiền tiêu
Muỗi đêm như trấu bay nhiều
Vây quanh cắn đốt đành liều vậy thôi
Đội hình cũng cố xong rồi
Tiếp tục chiến đấu nhận lời chỉ huy
Dõi theo từng bước quân đi
Mắt nhoè ngấn lệ ướt mi em rồi
Thương chồng nếm trải một thời
Bị thương giãi ngũ về nơi quê mình
Cùng em xây dựng gia đình
Nuôi con khôn lớn vẹn tình đôi ta!
Cuộc đời lính!
Bản trường ca
Cảm ơn anh Phú giúp ta hiểu nhiều!
Những dòng hồi kí đáng yêu
Em là vợ lính!
Thương nhiều chồng ơi!
Chiến tranh tuy đã qua rồi
Dư âm lưu mãi, ngàn đời chẵng quên!
Paris,19/9/2019.
Ghi chú:
* Đ/c quản lí đại đội 1, D1,E273, F341, sống sót cùng một Đ/c anh nuôi sau trận quyết chiến với bè lū Khơ me đỏ.
 .


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: Phicôngtiêmkích trong 30 Tháng Mười Hai, 2020, 02:19:45 pm
Chúc mừng anh TranPhu  với "Hồi ức chiến trường K" đã  làm sống lại trong lòng đồng đội và bạn hữu một thời không thể nào quên. Chúc mừng anh với tác phẩm của anh đã được đưa vào danh sách với phần thưởng cao quý mà không phải nhà văn nào cũng có được. Hy vọng sang năm 2021, anh sẽ tiếp tục cho ra đời những tác phẩm tuyệt vời hơn nữa!.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Hai, 2021, 04:38:28 pm

         Chào các ban!
Nhân dịp năm mới xin được kính chúc Ban quản trị cùng tất cả các anh chị em thành viên trang nhà cùng các bạn đọc luôn thật nhiều sức khỏe thật nhiều niềm vui mừng xuân mới về!
Kính!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 29 Tháng Mười, 2021, 08:48:28 am

Chào Ban quản trị ! Chào các bạn!
Tranphu341 sau khi đã chỉnh sửa và viết tiếp Topic:Tranphu341 Chiến trường A. Đang xuát bản thành sách. Để cho bài đăng được hoàn thiện chỉn chu Tranphu341 xin phép được đăng lại từ đầu để bạn đọc dẽ theo dõi.

                                                                                        LỜI GIỚI THIỆU

   Đồng chí Trần Ngọc Phú, nguyên chiến sĩ, sĩ quan thuộc sư đoàn 341. Năm 2011, anh là thành viên của trang Quân sử Việt Nam, một trang mạng xã hội của những người yêu thích Lịch sử Quân sự Việt Nam. Anh bắt đầu viết những trang hồi ký về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ Quốc tế tại Campuchia, mà anh chính là người trực tiếp cầm súng chiến đấu trong đội hình sư đoàn 341 từ ngày đầu tiên. Những bài viết chân thực của anh đã được trang Quân sử Việt nam liên tục đăng tải, được rất nhiều bạn đọc yêu thích mến mộ.
   Sau đó, Trần Ngọc Phú đã hệ thống và biên tập thành bộ hồi ký Lịch sử “Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp” gồm 3 tập, gần 1000 trang in. Sau khi được Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh xuất bản trọn bộ vào cuối năm 2018, bộ sách đã được kênh truyền hình Win win Việt Nam đọc và giới thiệu toàn bộ tác phẩm với 58 chương trình, có hàng triệu lượt khán giả trong và ngoài nước theo dõi. Với thành công đó, năm 2020, bộ hồi ký này của Trần Ngọc Phú đã được Hội Nhà văn Việt Nam chọn dự Giải thưởng Quốc tế Sông Mekong và đã đoạt giải thưởng cao quý này.
   Thành công của bộ hồi ký Lịch sử đã là động lực để Trần Ngọc Phú bắt tay vào viết tiếp cuốn hồi ký thứ hai “Hồi ký chiến trường A” từ cuối năm 2020. Sau gần một năm, đến nay cuốn sách đã hoàn thành.
   Nếu “Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp”, Trần Ngọc Phú kể lại những năm tháng đầy hy sinh gian khổ của anh và đồng đội chiến đấu hy sinh chống lại bè lũ Pôn-pốt - Iêng-sa-ry xâm lược để bảo vệ nhân dân, bảo vệ từng tấc đất biên cương thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ Quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia giải phóng đất nước, cứu dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng, hồi sinh, thì, “Hồi ký chiến trường A” lại kể về những năm tháng anh và đồng đội từ lúc bước vào đời quân ngũ, qua những năm tháng hành quân, huấn luyện đầy gian khổ suốt chiều dài đất nước cho đến lúc nhận nhiệm vụ vào Nam chiến đấu, tham gia Chiến dịch Mùa xuân năm 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh Lịch sử, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
   Vẫn với văn phong giản dị, bằng lối kể chuyện tâm tình, đôi lúc xen vào chút hóm hỉnh rất lính, Trần Ngọc Phú đưa người đọc trải qua từng cung bậc cảm xúc vui, buồn, như một cuốn nhật ký ghi lại từng ngày, từng giờ hành quân, huấn luyện, xây dựng đơn vị, với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì Miền Nam ruột thịt, vì Tổ quốc; tình quân dân cá nước đầy cảm động, thân thương; tình đồng chí, đồng đội đồng cam cộng khổ, vui buồn gian nan có nhau, và đôi lúc cả những tình cảm riêng tư chớm nở ở những điểm dừng chân dọc đường ra trận... Anh cũng không “kiêng khem” khi “thật thà” nói về những phút xao lòng của chính mình, những chuyện buồn… khi có những đồng đội không chịu đựng được gian khổ, sợ hy sinh… đã quay gót bỏ về, với một thái độ khoan dung rất con người! Đồng thời anh không ngại ngần nói về bối cảnh lịch sử của đất nước, cuộc sống vất vả, thiếu thốn của nhân dân miền Bắc đương thời, trong đó có cả những cái chưa hợp lý về việc thực hiện chế độ, chính sách trong bối cảnh xã hội thời đó.
   Tôi là đồng đội Trần Ngọc Phú từ khi thành lập trung đoàn 36B, sư đoàn 308B tháng 8 năm 1972, cho đến khi sáp nhập vào sư đoàn 341. Tôi ở tiểu đoàn 3, còn anh ở tiểu đoàn 1, cùng huấn luyện, bảo vệ khu vực Vĩ tuyến 17, cùng vào Nam chiến đấu trong Chiến dịch Mùa xuân năm 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh, sau đó làm công tác quân quản Sài Gòn, rồi lại cùng sát cánh chiến đấu với anh trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam rồi giải phóng Campuchia, nên tôi chứng kiến toàn bộ những gì trong hai cuốn sách mà Trần Ngọc Phú đã viết. Tôi đã đọc cuốn “Từ biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp” và bản thảo cuốn sách này, thấy mình được sống lại những năm tháng đời lính chiến.
   “Hồi ký chiến trường A” ghi lại chi tiết của người lính trong một giai đoạn lịch sử, cùng quân dân cả nước ra trận “tất cả cho tiền tuyến. Để giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Đó là những mạch nguồn vô cùng quý giá cho các thế hệ hôm nay và mai sau, hiểu về người lính để luôn trân trọng và tự hào các thế hệ cha anh. Một thời vàng son oanh liệt đã làm lên lịch sử.
Xin được trân trọng giới thiệu cuốn sách này tới độc giả./.

       Quảng Ninh, tháng 10 năm 2021.
                                                                         Trung tướng Trần Anh Vinh
                                                                     Nguyên Cục trưởng cục tác chiến
                                                                      Bộ tổng Tham mưu - QĐNDVN




Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 30 Tháng Mười, 2021, 09:34:26 am

          Đúng bốn mươi tám năm trước, theo giấy báo nhập ngũ, 13 giờ ngày 25 tháng 05 năm1972 tôi phải có mặt tại thị đội Thái Bình. Đây là đợt lấy quân bổ sung. Đợt đã nhập ngũ trong toàn tỉnh là ngày 12 tháng 5. Xí nghiệp Cơ khí Ca-nô Xà-lan nơi tôi làm việc, mà mọi người hay gọi là Xí nghiệp đóng tàu Thái Bình, ngay cạnh dòng sông Trà Lý cách cửa biển khoảng 6 ki-lô-mét. Cũng đã có mấy người nhập ngũ vào ngày đó.
Tôi là người thợ trẻ nhất trong xí nghiệp, nhưng lại là người có tay nghề khá, giải quyết được nhiều việc khó hơn so với một số bạn thợ lớn tuổi cùng nghề, có thời gian làm việc nhiều hơn tôi, nên xí nghiệp ưu ái giữ lại, cộng thêm bố tôi cũng đang làm việc tại xí nghiệp. Ông nguyên là thợ Quân giới sản xuất súng đạn của Quân khu 3 trong những năm chống Pháp. Hồi đó ông là thợ tiện giỏi hàng đầu, không những của xí nghiệp, mà còn là hàng đầu của tỉnh. Xí nghiệp đóng tầu ngày ấy rất ít người phải điều động tham gia quân đội. Xí nghiệp sản xuất phương tiện giao thông phục vụ vận tải quốc phòng. Nhất là với Thái Bình, thì đây là ngành công nghiệp mới còn rất non trẻ. Phải chăng vì thế mà tôi vẫn chưa được, hay chưa “phải” tham gia quân đội. Mặc dù gia đình tôi rất đông người. Nhà tôi có 9 anh chị em, 5 trai 4 gái. Tôi là anh trai lớn sau 2 người chị gái. Năm 1972 tôi đã bước sang tuổi 20. Việc tôi chưa phải đi bộ đội là điều gây thắc mắc cho một số bà con dân phố. Khi mà cả nước có chiến tranh, đang vào giai đoạn ác liệt nhất.
 Những năm tháng đó, hầu như gia đình nào cũng phải có người đóng góp cho quân đội, hoặc đóng góp cho chiến trường: Như là đi bộ đội trực tiếp cầm súng chiến đấu hay Thanh niên xung phong, Dân công hỏa tuyến, để làm những công việc phục vụ chiến đấu. Mọi thanh niên đến tuổi mười tám hầu hết đều phải nhập ngũ làm nghĩa vụ quân sự, hoặc thanh niên chưa đủ tuổi mà có đơn tình nguyện cũng được nhập ngũ. Các tổ chức thanh niên vận động, ai cũng phải viết đơn! Có nhiều thanh niên còn cắn tay, lấy máu để ký vào lá đơn đó. Nếu thể lực tốt thì chỉ cần 16 tuổi đã có thể nhập ngũ, hoặc nhập ngũ rồi được ở tạm đơn vị “vỗ béo” một vài tháng cho đủ tuổi, đủ cân, mà huyện nào cũng có một đơn vị này.
Tháng 9 năm 1969 khi tôi còn đang học tại Trường Công nhân kỹ thuật Cơ khí Thái Bình cũng đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự, do nhẹ cân quá được vào đơn vị “vỗ béo” một tháng. Nhưng qua một tháng mà tôi vẫn không đủ 40 ki-lô-gam nên lại được trả về trường để tiếp tục học tập. Với lứa tuổi của tôi, nhiều bạn bè đã nhập ngũ từ những năm 1968 -1969. Có nhiều đợt tuyển quân, mà quân không đủ, trong khi khẩu hiệu lúc đó là: “Tất cả cho tiền tuyến. Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nên có nhiều bạn được nhà nước “vay” 1 tuổi cho đủ quân số, cho đủ chỉ tiêu tuyển quân.
          Tôi và bố tôi làm cùng một xí nghiệp nhưng không cùng nghề. Bố tôi là thợ tiện còn tôi là thợ hàn cắt hơi ô-xy. Với Thái Bình thì đây là một nghề mới. Nhưng một nghề rất cần phải có của ngành đóng mới và sửa tầu. Sau khi tốt nghiệp tại Trường cơ khí vào loại giỏi, tôi được tiếp tục đi đào tạo chuyên sâu nghề hàn cắt hơi ô-xy tại nhà máy đóng tàu số 3 - Hải Phòng, thời gian 8 tháng. Tôi được thầy dạy nghề đều là những người thợ giỏi của Tân Thế Giới là Việt kiều Pháp hồi hương. Trong đó có một người là võ sỹ quyền anh vô địch toàn miền Bắc tên là Nguyễn Bá Tỵ. Mọi người truyền dạy nghiệp vụ rất kỹ càng. Tôi lại rất có khiếu nghề, cùng với sự chăm chỉ con “nhà nòi” về cơ khí nên ai cũng quý. Họ chỉ bảo và cho tôi làm nhiều việc khó. Chẳng bao lâu tôi đã có thể làm được những việc mà lẽ ra những người thợ học nghề như tôi không được làm. Như hàn đắp chân vịt tàu, hàn phao cứu sinh, loại phao của tàu khách có 8 ngăn có thể cứu nạn 12 người. Sau khi học thành nghề, tôi được điều về xí nghiệp đóng tàu nơi bố tôi đang làm việc. Đến tháng 5 năm 1972, tôi làm việc tại đây được hơn 2 năm.
           Trong khoảng mấy tháng cuối, tôi cũng có tham gia làm những việc “động trời” theo cách nghĩ của Tổ chức ngày đó. Tôi sẽ kể với các bạn sau. Thời kỳ làm việc ở xí nghiệp, hai bố con tôi không ăn cơm ở bếp tập thể mà tự nấu cơm ăn với nhau. Cứ chiều thứ bảy là bố con tôi từ xí nghiệp về nghỉ chủ nhật. Những ngày chủ nhật gia đình tôi trừ người chị gái thứ 2 làm y sỹ ở tỉnh Hà Giang rất xa. Còn gia đình tập hợp đông đủ, thật vui. Sáng sớm ngày thứ hai bố con tôi lại cùng xuống xí nghiệp trên cái xe đạp Thống Nhất nam của ông. Chính cái việc giản đơn bình thường đều đặn hàng tuần về nhà ấy, có một vài người thì lại ganh ghét đố kỵ. Nhất là những gia đình có con em đang là bộ đội, đang chiến đấu ở các chiến trường. Khi mà thỉnh thoảng lại có tin xấu về, hay có giấy báo tử, có lễ truy điệu người này, người khác trong khu phố. Bạn bè cùng trang lứa cũng đã có tin bị thương hoặc hy sinh, thì họ cho rằng tôi, gia đình tôi được sự ưu ái thế nào đó.
            Dịp này trong miền Nam quân ta đang mở các đợt đánh lớn. Mà điểm nóng nhất là khu vực chiến trường Quảng Trị. Xí nghiệp tôi ở ngay cạnh một Trại an dưỡng thương, bệnh binh. Hàng ngày có những chuyến xe chở các thương binh từ các chiến trường về đây. Anh em thường hay sang xí nghiệp chơi và kể những chuyện bộ đội, chuyện chiến đấu. Trong số thương binh sang chơi có một số bạn học cùng trang lứa với tôi. Mọi người cứ nói là tôi may mắn không phải đi bộ đội. Miền Bắc sau một thời gian dài tạm ngừng, máy bay Mỹ trở lại đánh phá rất ác liệt. Đây là khu vực ven biển, nên ngày nào cũng có nhiều tốp máy bay bay qua. Tiếng máy bay phản lực gầm rú điên cuồng. Tiếng kẻng báo động phòng không keng keng, keng keng bất chợt thúc lên mỗi khi có máy bay. Chúng ném bom, bắn rocket xuống các mục tiêu mà chúng cho là mục tiêu quân sự. Đã có rất nhiều các cơ sở y tế, trường học, kho tàng hay nhà máy xí nghiệp đã bị trúng bom của chúng. Ngày nào cũng có những tin nơi này bị đánh bom, nơi kia bị đánh bom, người này chết, người kia chết. Có những gia đình bị trúng bom chết hết cả nhà trong lúc ăn cơm, hoặc đang ngủ đêm rất thương tâm.
           Xí nghiệp tôi cũng được thông báo là một trong những mục tiêu quan trọng của chúng. Vì vậy, xí nghiệp ngoài nhiệm vụ sản xuất, cũng phải xây dựng thêm những tổ tự vệ chiến đấu để bắn máy bay bay thấp, hay thành lập những tổ cứu thương. Tháng này là mùa hè oi bức, cộng thêm tình hình chiến sự của cả nước đang căng thẳng, làm cho cuộc sống của mọi người lúc nào cũng vội vã gấp gáp nóng bỏng như là ở bên lò lửa lớn. Lò lửa của cuộc chiến khốc liệt đang cận kề.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 03 Tháng Mười Một, 2021, 06:42:37 am
          Ngày 20 tháng 5 năm 1972, khoảng 8 giờ sáng đang làm việc bình thường. Thì ông Đảng - Trưởng phòng tổ chức của xí nghiệp đến tận nơi gặp tôi. Rồi gọi thêm cả anh Cương là tổ trưởng của tôi đến. Ông nói: Đồng chí Phú có lệnh về ngay phòng y tế thị xã để khám sức khỏe. Tôi và anh Cương đều bất ngờ, chưa kịp hỏi gì thì ông nói tiếp: Đợt tuyển quân vừa qua, xí nghiệp ta nhập ngũ 5 đồng chí. Hôm qua tỉnh đội báo về là có 2 đồng chí bỏ đơn vị. Vì vậy Ty Giao thông cần bổ sung thêm người nhập ngũ cho đủ chỉ tiêu. Riêng xí nghiệp ta thì đồng chí Phú đợt này có danh sách đi khám tuyển. Ông nói tiếp: Anh Cương cho người thay công việc anh Phú. Anh Phú về thay quần áo, rồi đi cùng với tôi lên thị xã khám sức khỏe.
         Tôi bàn giao công việc lại cho tổ. Rồi về phòng ở thay quần áo, trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Khoảng 30 phút sau tôi lên phòng hành chính cùng ông Đảng về thị xã bằng chiếc xe ô tô tải cũ kỹ của xí nghiệp kết hợp lấy vật tư. Có chưa đầy 30 cây số mà gần 10 giờ chúng tôi mới đến được phòng khám. Đây là đợt khám vét, khám bổ sung nên không đông người khám. Tôi nhanh chóng vào từng phòng theo hướng dẫn. Đầu tiên là cân nặng rồi đo chiều cao. Mấy cô y sỹ, bác sỹ cứ nhìn cân rồi lại nhìn tôi với ánh mắt thật thiện cảm pha thêm chút ái ngại. Rồi họ thì thầm với nhau gì đó. Cô nhóm trưởng nói: Anh cao 1 mét 70 rất đạt. Nhưng sao lại gầy quá, được có 40 kg. Cô bác sỹ ký vào giấy rồi chỉ tôi sang những phòng tiếp theo để kiểm tra thị lực, tai nghe, tim mạch, sức bật của đầu gối. Chắc có đến hơn chục phòng. Rồi cuối cùng là phòng khám ngoại hình, ngoài da. Tôi thật ngượng, thật xấu hổ khi họ yêu câu tôi cởi hết quần áo đang mặc. Trong phòng không chỉ có bác sỹ nam, mà còn có cả hai người bác sỹ nữ nữa chứ. Thấy tôi ngượng ngùng bà bác sỹ nói trêu: Thanh niên, công nhân gì mà nhát thế. Cởi hết ra đi xem thế nào nào. Tôi đỏ lựng mặt, vì do người quá gầy nên tôi thường rất ngại cởi trần. Huống hồ đây lại cởi bỏ hết cả quần áo trước mặt mọi người có cả nữ giới nữa. Mọi người thúc giục, rồi tôi cũng làm theo họ như cái máy, cởi hết đồ trên người. Họ bắt tôi quay trước, quay sau, xem có bị bệnh ngoài da hay không. Rồi giơ tay, giơ chân, xem gan bàn chân có bị rỗ không. Rồi lại khám, nắn nắn, vạch vòi cả bộ phận “nhạy cảm”, cả hậu môn nữa. Bà bác sỹ còn lấy hai ngón tay nâng hai hòn “cà” của tôi lên xem có cân đối không. Rồi bà mỉm cười nói trêu: Đẹp, giống tốt. Tôi nhanh chóng mặc quần áo, vẫn chưa hết ngượng. Mọi người lại chỉ tôi sang phòng bên, phòng kết luận đợi lấy kết quả.
           Ông Đảng tổ chức xí nghiệp, từ lúc đi đến giờ cứ kè kè theo sát tôi, chắc có ý canh coi sợ tôi trốn khám. Ông cùng vào phòng đợi lấy kết luận. Ông bác sỹ trước khi ký kết luận lại nhìn tôi chăm chăm lần nữa. Rồi ông đặt bút ký ngoáy vào tờ giấy ghi nhằng nhằng những chữ chuyên môn như giun, như dế. Ông nói với tôi và cũng là nói với ông cán bộ Tổ chức của tôi, giọng ông thật truyền cảm: Cậu này đẹp trai nhưng sức khỏe yếu lắm, kết luận B2, không đủ sức khỏe đi bộ đội. Với tôi thì việc đi khám tuyển sức khỏe và bây giờ là cái kết luận đó cũng không có gì gây bất ngờ. Vì tôi vốn được mọi người đặt cho cái tên là “ Phú cò hương” từ lâu rồi. Ông Đảng mắt bị cận thị, lại không đeo kính. Ông cứ gườm gườm nhìn vào từng dòng của tờ giấy. Có vẻ ông đang nghĩ điều gì đó, có trời mà biết. Xem xong ông nói: Bây giờ mình đợi xe rồi về xí nghiệp. Kết luận sức khỏe thế, có lẽ cậu không phải nhập ngũ đợt này. Ông đã chuyển từ cái từ đồng chí sang từ cậu. Tôi thoáng nghĩ như vậy rồi nói: Cháu thế nào cũng được. Đợi một lúc, xe đến hai bác cháu tôi lại cùng lên xe về xí nghiệp. Cái xe tải F 4000 cà tàng chạy dầu có từ thời Pháp lại đưa chúng tôi về. Lần về xe đỡ xóc hơn vì chở nặng. Nhưng đường xấu, khói xe và bụi đường mù mịt. Xe chạy chậm nên khói, bụi ùa cả vào ca bin. Trưa hè nắng to thật oi bức ai nấy mồ hôi nhễ nhại. Trên xe, cả lái xe 3 người suốt chặng đường dài có lẽ quá giờ cơm, đói, nên chắng ai nói với ai một câu. Tới xí nghiệp ông Đảng mới nói: “cậu” lên phòng “tớ” ăn cơm rồi “tớ” trao đổi công việc luôn.
          Xuống xe, tôi theo ông Đảng về phòng làm việc của ông. Xí nghiệp đông công nhân, bây giờ chưa đến giờ làm nên im ắng một cách lạ thường. Hai bác cháu vừa đi như là vừa chạy. Vì nắng nóng mà không ai có mũ nón gì cả lại đi trên bờ đê cao đến khu nhà hành chính xí nghiệp nên càng nóng hơn. Từ trên cao nhìn toàn bộ xí nghiệp với hàng chục con tàu lớn nhỏ đang phơi mình dưới nắng hè chói chang. Toàn cảnh xí nghiệp ngổn ngang, bộn bề sắt thép cùng các loại máy móc. Buổi trưa nước xuống, trơ ra những triền đà trông càng thấy rộng lớn hơn. Không hiểu sao tôi thoáng nghĩ: Sớm muộn thì đây cũng sẽ bị máy bay Mỹ ném bom. Vào phòng, đúng như là vào cái hầm lò. Ông Đảng nhanh tay bật cái quạt “con voi”  xua nhanh đi cái không khí ngột ngạt trong phòng. Trên bàn làm việc có lồng bàn úp. Chắc ông đã dặn nhà bếp hay khi nhà bếp thấy ông về muộn, nên đã mang cơm lên phòng ông. Cơm của ông cũng không khác gì cơm của công nhân. Ở vùng này, cạnh sông, gần biển, nên tôm cá nhiều. Bữa cơm thức ăn chủ lực là cá kho, hoặc tôm tép kho, hôm nay cũng vậy. Có đĩa rau muống luộc và bát nước mắm thêm mấy lát ớt đỏ. Bát nước rau để phần đã chuyển màu xanh lè, vì nó được luộc bằng chảo gang. Bát cơm to được úp đậy bằng cái bát khác cùng cỡ. Ông Đảng mở cái bát ra, tôi hoa mắt vì màu đỏ của ngô. Nhà bếp họ độn ngô theo đúng tiêu chuẩn thì có đến 30% là ngô đỏ. 30% ngô hạt xay nấu cùng gạo thì khi thành cơm người ăn có cảm giác là ngô nhiều hơn gạo. Vì màu đỏ của ngô nó nổi hơn màu trắng của gạo. Mà loại gạo được để ở kho dễ đến mấy năm đã ngả sang màu vàng đục. Hồi đó người ta hay gọi là gạo mậu, ăn khô nồng có vị hẩm mốc, còn có cả những con mọt gạo nữa. Dù nhà bếp đãi, nhặt thế nào cũng vẫn còn sót. Bố con tôi tự nấu ăn nên đã từ lâu không phải ăn cơm độn ngô như thế này.
            Tôi thấy ông Đảng móc ở trong túi ra mấy viên thuốc. Nhưng ông lại cho vào bát nước rau muống. Ông lấy cái thìa ngoáy cho tan viên thuốc. Bát nước rau nhanh chóng chuyển từ mầu xanh lục sang màu hồng hồng. Ông lấy thêm cái bát trong tủ và xới cho tôi bát cơm. Gắp cho tôi miếng cá rồi ông cùng ăn. Vừa ăn ông vừa nói: Cậu ăn xong về nghỉ ngơi một tý rồi đi làm việc bình thường. Cậu như thế là tốt, đã chấp hành đi khám sức khỏe nghiêm chỉnh. Nhưng bây giờ kết luận thế này thì chắc không phải đi. Tôi cũng nhanh chóng ăn nốt bát cơm thứ hai do ông xới. Ông sẻ cho tôi bát nước rau muống. Tôi uống bát nước rau. Chà! ngon tuyệt, nước rau có vị chua, vị ngọt. Nhưng cái cảm giác chính là vị chua rất lạ. Tôi hỏi: Vừa nãy bác cho viên thuốc gì vào mà nước rau ngon thế? Ông Đảng cười nói: Bí mật. Nếu cậu phải đi bộ đội thì tớ sẽ nói. Thôi bây giờ cậu về nghỉ một tý đi.
           Tôi lại đi như chạy nắng trên bờ đê. Vừa lúc đó thì tiếng kẻng báo giờ làm việc chiều cũng thúc lên. Từ các lán trại công nhân nam nữ đã nhanh chóng ùa ra. Rồi đã có những tiếng búa, tiếng máy phát điện nổ giòn ầm ầm. Quang cảnh xí nghiệp lại nhộn nhịp như thường nhật. Theo lời ông Đảng, tôi về phòng thay quần áo lao động. Rồi đi sang tổ Tiện nơi bố tôi làm việc. Để báo cho bố tôi biết kết quả khám sức khỏe, rồi ra tổ Hàn. Thấy tôi, anh Cương tổ trưởng và mọi người ùa lại hỏi thăm rối rít. Tôi kể lại việc đi khám tuyển và kết quả khám cùng lời của ông Đảng trưởng phòng Tổ chức xí nghiệp nói với tôi. Mọi người nói: Thế là may rồi. Nhưng cũng có người nói: Vậy thì sớm muộn thế nào thì ông cũng vẫn phải đi. Anh Tân hơn tôi một tuổi nhưng mới lấy vợ là chị Na. Hai vợ chồng cùng là thợ hàn điện, được đào tạo ở trường kỹ thuật cơ khí Phả Lại thì nói vui: Làm việc thì làm việc, nhưng cũng phải tranh thủ yêu đương, làm tý để biết “cái mùi đời” đi nhé! Nếu không yêu ai được thì nhờ mấy chị đây vào hầm tầu chỉ bảo cho. Anh Đào thì phụ họa: Ừ đúng đấy. Mọi người cười ré lên, mấy chị gái thì đấm vào lưng anh Tân, anh Đào thùm thụp nói: Cái ông khỉ gió này chỉ xui dại trẻ con. Trêu đùa nhau một lúc nữa rồi mọi người lại ai vào việc nấy. Tôi lại bắt đầu công việc của mình. Tôi chui vào hầm tầu làm việc được một lúc, thì nghe có mấy tiếng gọi í ới. Trèo lên boong tầu đã thấy bốn năm người anh em các tổ, người thì cầm những tấm thép dày, người thì cầm những ống thép đã được chuẩn bị từ trước. Tôi nói các anh làm gì mà nhiều thế? Mọi người nói: Thôi làm việc ít thôi ông à. Ông tranh thủ làm cho chúng tôi mấy cái bàn là và đèn đất. Chứ không mấy hôm nữa mà ông phải đi lính, thì không ai làm cho chúng tôi. Tôi nói là em chưa phải đi đâu. Mọi người nói cũng chẳng biết thế nào được đâu. Được ở nhà lúc nào biết lúc ấy ấy thôi. Tôi nói vậy nhưng rồi cũng vẫn nói: Nào, để cả đây em làm cho một thể. Nhưng phải có bác canh coi đấy nhé. Hồi này làm đồ tư, xí nghiệp bắt được là phạt nặng lắm.
        Tôi là người có tay nghề hàn cắt hơi vào loại tốt nhất xí nghiệp. Vì ngoài làm việc chính ra, tôi còn biết cách sửa chữa mỏ hàn cắt. Để khi cắt hơi tạo ra được luồng gió ô-xy thật nhỏ, thật gọn, tạo nên những vết cắt mịn màng sắc sảo. Chỉ có tôi là cắt được những tấm thép dày 20 - 25 mm làm bàn là quần áo. Cái khó của nó là làm sao lựa tay chỉnh mũi gió cắt theo hình cái bàn là nhưng vát, thuôn đều, cân đối hai bên như hình mũi tàu. Riêng về hàn hơi và làm đèn đốt bằng đất đèn thì tôi là số 1. Hồi học ngoài Hải Phòng, tôi đã học được cách làm đèn đất thật đẹp, thật tốt của các bác thợ già. Về đây tôi áp dụng làm cho anh em thì chỉ có là nhất. Thời bao cấp, điện đóm hiếm, đa phần anh em công nhân nhà ở quê. Nên có cái đèn đất về thắp thì quý lắm. Một cái đèn đất có độ ánh sáng bằng mấy chục ngọn đèn dầu. Mà đất đèn để tạo ra khí thì xí nghiệp nhiều lắm, tôi cứ phải cho anh em. Được cái là dù xí nghiệp có định mức tiêu hao thế nào cũng chẳng kiểm soát được. Tính tôi lại dễ, chính vì thế mà mọi người rất quý tôi. Tôi nhanh chóng làm hết cho mọi người theo yêu cầu. Người thì cảm ơn, người thì dúi vào cho bao thuốc lá Tam Đảo, coi như là trả công. Ngày hôm sau cũng vậy. Tôi phải làm hộ hơn chục người nữa. Thấy mọi người nhờ tôi làm nhiều quá, anh Cương tổ trưởng đến la hét toáng lên một lúc mọi người mới ra về. Nhưng mấy người chưa xong việc thì vẫn nói: Cố giúp chị, tối chị lấy đấy nhé. Tôi nói mọi người cứ về đi em sẽ làm hết cho. Tập trung đông thế này xí nghiệp biết thì chết.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Mười Một, 2021, 07:36:57 am

                    Mấy ngày tiếp theo tôi vẫn làm việc bình thường. Mọi người cũng không ồn ã về việc tôi phải đi bộ đội nữa. Sáng ngày 23 tháng 5 cũng khoảng 8 giờ, ông Đảng lại ra tận nơi tôi làm việc. Ông gặp tôi rồi gọi cả anh Cương tổ trưởng đến, ông nói: Đồng chí Cương cử người nhận bàn giao công việc cho đồng chí Phú. Mời đồng chí Phú lên phòng tôi trao đổi công việc. Tôi cùng mọi người thật bất ngờ, nhưng cũng chưa đoán ra việc gì. Vì tôi đi khám sức khỏe đã không đủ tiêu chuẩn đi bộ đội. Vậy thì ông Đảng, trưởng phòng Tổ chức mời tôi lên là có việc gì? Tôi một phần nghĩ về việc phải đi bộ đội, nhưng cũng thoáng nghĩ, hay là dịp vừa rồi tôi cùng mấy anh em làm một số đồ tư, cụ thể là hàn, gióng khung xe đạp cho một người ở ngoài phố Tiểu Hoàng. Tổng thể nhóm chúng tôi cũng đã làm được khoảng chục cái khung. Thời đó, làm đồ tư đã là bị cấm đoán. Thậm chí trong những ngày được nghỉ phép, cũng không ai được tranh thủ đi làm thêm để kiếm tiền. Nhất là làm khung xe đạp thì bị tội nặng lắm. Thời đó làm khung xe đạp chỉ là việc của nhà nước. Xe đạp được công an đăng ký như là xe máy bây giờ. Mỗi xe đạp đều có biển số đeo ở khung. Vì thế làm lậu xe đạp là tội “tầy đình”, công an biết được là tội tù chứ chẳng chơi.
         Tôi có một người bạn học lấy vợ ở thị trấn Cổ Rồng, cách xí nghiệp khoảng 10 ki-lô-mét, làm nghề sửa chữa xe đạp. Biết tôi làm nghề hàn hơi nên mấy lần nhờ tôi hàn hộ linh kiện xe đạp như khung xe gãy, cổ phốt gẫy v.v… Rồi qua mai mối, có một ông cũng là thợ sửa xe ở phố gợi ý cho tôi gióng khung xe đạp. Ông chuẩn bị cho tôi đủ linh kiện. Tôi chỉ việc lấy mẫu xe đạp đang sử dụng, dựa theo đó để gióng thành một cái khung. Tôi bàn với mấy anh em: Cứ chiều thứ bẩy lợi dụng mọi người chuẩn bị về nghỉ, thì nhóm của tôi ở trong hầm tầu ngoài bờ sông. Một người phụ cho tôi, còn một người coi bảo vệ. Với tay nghề của tôi, linh kiện đã đủ, mỏ hàn, ô-xy đất đèn của xí nghiệp. Tôi chỉ gióng đúng một giờ là xong một chiếc khung xe đạp nữ. Khung xe đạp nam thì nhanh hơn. Làm xong thì giấu ở ngay hầm tầu, hoặc vứt xuống nước cạnh tầu. Tối, ba anh em ra lấy mang trả hàng. Họ nhận hàng và trả tiền ngay rất sòng phẳng. Có hôm họ còn mời cả gà cả rượu nữa. Cứ khung nam là tiền công 45 đồng. Khung nữ là 55 đồng một chiếc. Như vậy chỉ hơn 1 tiếng đồng hồ mà chúng tôi đã làm được bằng cả tháng lương. Thợ bậc 2 lúc đó là 44 đồng, thợ bậc 3 là 51 đồng. Lợi như vậy ai mà không ham. Vừa lên phòng tổ chức, tôi vừa nghĩ mông lung, chưa rõ có chuyện gì. Cũng cảm thấy hơi ngại nếu như tổ chức, bảo vệ xí nghiệp biết tôi làm những việc như thế thì thật gay. Hay vì mấy ngày vừa rồi tôi làm đồ tư cho mọi người nhiều quá đã đến tai xí nghiệp?
           Tôi vào phòng, nhanh chóng nhìn nét mặt của ông Đảng. Ông như có ý đợi tôi. Thấy tôi vào, ông nói tôi ngồi xuống, rót cho tôi tách trà, rồi ông nói luôn: Hôm trước đồng chí Phú đã đi khám sức khỏe. Theo giấy kết luận thì đồng chí không đủ sức khỏe đi bộ đội. Xí nghiệp cũng rất mừng là đồng chí ở lại làm được nhiều việc khó cho xí nghiệp. Có những việc trước kia như là hàn đắp bạc trục láp tầu, phải mang ra Hải Phòng mới làm được rất tốn kém. Nhưng đồng chí đã làm thành công tại xí nghiệp. Ban Giám đốc và phòng Tổ chức đánh giá rất tốt về tay nghề cũng như ý thức của đồng chí. Đúng là con nhà “ nòi” cơ khí. Nhưng bây giờ có việc đột xuất, phải trao đổi với đồng chí. Ông cầm một tờ giấy như là một tờ đơn giơ cho tôi xem. Ông nói: Hồi này tuyển quân rất khó khăn. Rất nhiều kỹ sư, giáo viên, sinh viên đại học cũng phải điều động tham gia quân đội. Có thể nói đợt này gần như là đợt tổng động viên. Đồng chí thấy đấy, ở miền Nam, nhất là khu vực Thành Cổ Quảng Trị chiến sự vô cùng ác liệt. Ta đang thắng to ở khắp các chiến trường. Nên việc tuyển quân cũng rất căng. Xí nghiệp muốn giữ đồng chí ở lại, nhưng nhân dân khu phố nơi  đồng chí ở có đơn đề nghị lên tỉnh. Họ thắc mắc về việc gia đình đồng chí đông người nhưng chưa có ai đóng góp cho chiến trường. Em gái đồng chí lại mới được đi học lớp y sỹ. Tỉnh có chỉ đạo là phải để đồng chí nhập ngũ, tham gia quân đội, để động viên tinh thần tuyển quân trong tỉnh. Tôi mời đồng chí lên để thông báo: Mặc dù đồng chí không đủ sức khỏe nhưng vẫn phải đi bộ đội. Đợt này là đợt bổ sung. Lệnh gọi nhập ngũ của đồng chí có đây rồi. Đúng 13 giờ ngày 25 tháng 5 đồng chí phải có mặt ở thị đội. Tôi sẽ bàn giao đồng chí cho thị đội. Nghe ông nói xong, tôi thở phào nhẹ nhõm vì như vậy không phải là cái tôi đang lo. Ông Đảng nói tiếp: Tôi cũng đã đọc đơn tình nguyện đi bộ đội của đồng chí, thanh niên như thế là tốt. Nhập ngũ là có điều kiện phấn đấu tốt hơn. Vào quân đội, môi trường phấn đấu vào Đảng cũng dễ hơn. Có nhiều anh ở nhà rất nghịch, nhưng đi bộ đội 1 năm 2 năm cũng đã được kết nạp vào Đảng, thật là vinh dự và hạnh phúc. Đồng chí phát huy tinh thần truyền thống của gia đình và quê hương, cố gắng phấn đấu nhé! Tôi đã làm việc với bộ phận tài vụ để cậu lĩnh lương cùng các chế độ. Gặp cậu xong tôi sẽ mời ông nhà lên trao đổi. Cậu lĩnh xong chế độ, về tổ chia tay với mọi người. Xí nghiệp và tổ sẽ liên hoan cho cậu. Thời gian gấp như vậy nên cậu không được nghỉ nhiều. Đi đâu thì đi, làm gì thì làm, nhớ là 1 giờ chiều ngày 25 phải có mặt tại thị đội đấy nhé.
            Tôi không nói được gì, ngoài việc cảm ơn ông đã đánh giá tốt về tôi. Tôi hứa sẽ nhập ngũ và sẽ phấn đấu tốt. Cùng lúc đó đã có mấy người tài vụ, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, công đoàn đến phát chế độ lương, cùng các phụ cấp cho tôi. Nhận lương xong, ông cán bộ hành chính mang lên hai đĩa kẹo và hai bao thuốc lá Điện Biên bao bạc, một tút thuốc lá Tam Đảo. Ông Đảng đã mời bố tôi và anh Cương tổ trưởng tổ tôi nữa, mọi người làm bữa liên hoan “ngọt” rất vội vã. Vì chỉ ngày kia tôi đã phải có mặt ở thị đội nên không còn thời gian nữa.
          Cuộc liên hoan tiệc ngọt với tràn ngập lời chúc tụng rất quen thuộc. Ai cũng kết bằng câu: Cố gắng giữ gìn sức khỏe, cố gắng phấn đấu cho tốt để nhanh được kết nạp vào Đảng. Cái câu chúc này của mọi người nghe mãi như là câu nói cửa miệng thời bấy giờ, nó thành ra nhàm chán đến khó chịu. Tôi nghĩ sao lại cứ phải vào Đảng mới được tự hào? Vào Đảng mới thật sự là hạnh phúc? Vào Đảng mới thật sự là vinh quang? Chẳng lẽ là quần chúng, chẳng lẽ là người thường dân thì không có được vinh quang, không có được hạnh phúc, tự hào hay sao? Có gì đó, mà tôi chưa thể hiểu hết. Năm 1970 khi đang học tập tại xưởng đóng tầu 3 - Hải Phòng, lớp học toàn là công nhân của Ty Giao thông Thái Bình gửi ra đào tạo. Một lần, đoàn của ty ra thăm trường. Hôm đó, ông Âu, giám đốc xí nghiệp đi cùng với ông Trang Trưởng ty giao thông. Ông Trang nói mấy câu làm cho mọi người đều thấy có gì đó không thật thuyết phục. Đại ý ông nói là thanh niên phải phấn đấu cho tốt, để được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng. Chỉ có vào Đảng mới là hạnh phúc. Ông kể: Mấy ngày trước tôi có đi dự một đám cưới. Chú rể đứng lên phát biểu cảm ơn mọi người và nói: Hôm nay là ngày vui, là ngày hạnh phúc nhất của tôi. Ông phê phán chú rể đó nói như vậy là dốt, là không đúng với thanh niên thời nay. Vì lấy vợ, chẳng qua là một việc bình thường của tạo hóa. Ai lớn lên cũng phải có gia đình, phải có vợ, có chồng, có con. Vì thế, ngày cưới là một việc bình thường của tạo hóa, của kiếp luân hồi. Hạnh phúc chỉ có khi được vào Đảng, khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được cống hiến nhiều cho Đảng, cho nhân dân, thì mới có thể nói đó là vui nhất, hạnh phúc nhất.
             Lúc đó chúng tôi còn quá trẻ, nên không hiểu hết được những điều ông nói. Cũng có nhiều tiếng xì xèo, nhưng chẳng có ai phát biểu đúng sai hay tán thưởng thế nào. Vì chúng tôi đa phần là những chàng trai chưa vợ đang đi học nghề. Thậm chí chỉ có ước ao làm sao có được đôi dép nhựa Tiền Phong mầu trắng hay dép nhựa gia công màu nâu cũng được, hoặc thèm một cái kính đen của Trung Quốc bán ở mậu dịch 12 đồng, hay chen nhau mua được cốc cà phê đá 8 hào của khách sạn Hồng Bàng v v… thì việc vào Đảng như ông nói đâu phải là vấn đề số 1. Thoáng nghĩ vậy, tôi đã thấy mông lung, vì việc tôi đi bộ đội cũng bị bất ngờ. Nhất là lệnh nhập ngũ quá gấp. Tôi cầm cái túi xách đủ các thứ quà của các hội, các tổ chức tặng. Nào là khăn mặt, giấy viết, phong thư cùng tem bưu điện, bút bi. Có lẽ quan trọng nhất là tút thuốc lá Tam Đảo của ông trưởng phòng hành chính tặng. Tiền như vậy, cộng các khoản được thanh toán, cả lương, phụ cấp này khác gần hai trăm đồng. Thời đó số tiền này là khá lớn. Tôi cùng bố tôi về bên lán. Anh Cương chạy theo nói: Thời gian gấp thế này, thì tối nay tổ sẽ liên hoan tiệc mặn cho Phú tại nhà anh. Anh mời cả ông đến dự.
              Anh Cương tổ trưởng, nhà ở ngay phố Tiểu Hoàng. Ông bố anh Cương trước cũng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng nay có một cửa hàng sửa chữa xe đạp lớn nhất của phố huyện, khách lúc nào cũng đông. Thời đó như vậy là thuộc hàng gia đình giầu có. Nói với tôi xong, anh Cương gần như là chạy về tổ, thông báo với mọi người về kế hoạch liên hoan tối, rồi vội vã đạp xe về nhà, nhờ vợ mua sắm cơm nước cho bữa tiệc tối nay.
            Tôi về tổ, về chỗ bố tôi làm việc. Rồi gần như là đi khắp các tổ trong xí nghiệp chào mọi người. Ai cũng chúc tụng cho tôi gặp may. Mấy chị thợ lớn tuổi quý tôi, cầm tay tôi rồi mếu máo, cứ như là tôi đi bộ đội sẽ không thể trở về. Đến tổ kích kéo, anh Hùng gọi riêng tôi ra nói: Chú mày định đi thật đấy à? Sao không “tút” đi đâu để tránh. Mấy đứa đi đợt trước đã về quê cả rồi. Tôi nói: Chắc em không làm như họ. Anh bạn nói tiếp: Có mấy cách có thể tránh được đấy. Theo kinh nghiệm, thì sau nhập ngũ vài ngày, thế nào đơn vị cũng khám lại sức khỏe. Chú xem có sử dụng không anh bầy cách cho. Anh Hùng thì thầm cho tôi cách dùng thuốc gì để huyết áp tăng cao, làm nhịp tim không ổn định. Hay uống loại nhựa cây xương rồng làm người phù nề. Hoặc có loại mủ cây, bôi vào người sẽ tạo vết lở loét giống như bị bệnh ngoài da mãn tính. Tôi cảm ơn anh, rồi tiếp tục sang các tổ khác chào chia tay mọi người.
           Ngay buổi trưa, các chị trong tổ tiện của bố tôi đã làm bữa liên hoan cho tôi là thịt hẳn hai con gà giò của tổ. Các chị làm món luộc, một phần lòng xào với đỗ Hà Lan. Loại đỗ quả dẹp mọc trên giàn mà bố con tôi trồng, có hoa mầu tím. Còn quả thì từng chùm rất nhiều, gần như là có quanh năm. Một phần lòng gà cùng cổ cánh, được xào lên rồi nấu miến với nước gà luộc. Tôi ăn qua quéo. Mọi người tranh nhau gắp thức ăn cho tôi. Tôi thấy bề bộn thế nào ấy, nên ăn chẳng biết ngon. Ăn xong, tôi xin phép mọi người về lán nghỉ, chuẩn bị tư trang. Nhưng tôi không qua lán ở ngay, mà tạt qua chỗ anh Thịnh tổ Gò, cùng anh ra quán nước của bà Ba ở bờ sông.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Mười Một, 2021, 02:48:59 pm

          Cả khu vực này, chỉ có mấy cái quán nước nhỏ ở bến đò Trà Lý phục vụ khách qua sông và công nhân xí nghiệp. Quán xá hồi đó thật lèo tèo. Chủ yếu là thuốc lào, thuốc lá, vài gói kẹo vừng, kẹo lạc, hay mấy cái bánh chưng gù. Có nước chè xanh uống bằng bát, cái bát đã cũ kỹ, nước chè khô thì uống bằng cái chén hoa hồng. Bà Ba còn thậm thụt bán cả rượu trắng, mà hồi đó được coi là “rượu lậu”. Được cái là bà Ba rất khéo chiều khách. Nước chè của bà thường là ngon nhất so với các quán. Nên quán của bà lúc nào cũng đông. Chồng bà là cán bộ thuế vụ, dân miền Trung Nam bộ tập kết. Bà có 5 người con, người con gái lớn tên Bích hay thay bà bán hàng. Cô bé Bích rất xinh xắn, người bé nhỏ như là con chim chích có đôi mắt thật sắc năm nay cũng tầm 15 tuổi. Tôi với anh Thịnh cứ buổi trưa thường hay ra ngồi uống nước và hút thuốc lá. Không hiểu sao, gần 1 năm nay cô Bích không bao giờ lấy tiền của anh em tôi. Mặc dù số tiền không nhiều. Đặc biệt hơn là cứ ngày thứ bẩy ra uống nước, khi về thì cô Bích lại dúi cho tôi một bao thuốc lá nữa. Khi thì thuốc Tam Đảo mà chúng tôi hay hút, khi thì cao cấp hơn là bao Điện Biên. Mới đầu anh em tôi cũng ngạc nhiên, vẫn gặng trả tiền, nhưng Bính cứ dứt khoát không lấy. Đôi mắt sắc cứ nhìn tôi như muốn nói điều gì. Lâu dần rồi thành quen, chúng tôi không bao giờ nói đến chuyện trả tiền nữa. Trong lòng cũng thấy vui vui, anh Thịnh thơm lây vì được hưởng sái trà thuốc, anh nói với tôi: Cô bé Bích hay khoe với mọi người là nó yêu ông vì ông trẻ nhất, đẹp trai nhất xí nghiệp. Với tôi thì chưa bao giờ có suy nghĩ là yêu, vì thực sự Bích còn quá bé. Nhưng hàng ngày anh em tôi vẫn ra uống nước, hút thuốc miễn phí, có hôm cao hứng còn thêm mấy cái kẹo lạc hay kẹo vừng. Thấy anh em tôi đến, chưa kịp ngồi cô Bích hỏi: Anh Phú phải đi bộ đội à? Tôi ngạc nhiên hỏi lại: Sao em biết? Bích nói: Tất cả đều biết anh phải đi mà. Chúng tôi lại bài ca nước trà, thuốc lá, kẹo lạc như mọi khi. Buổi trưa trời nắng, quán cũng không có khách, Bích cũng không hỏi gì nữa, nhưng mắt cứ nhìn tôi đăm đăm, khuôn mặt em buồn. Không láu táu, tíu tít chuyện trò như mọi ngày. Anh em tôi ngồi thêm một lúc nữa, đang chuẩn bị đứng lên thì Bích mang ra một gói nhỏ nói: Đây là thuốc lá anh Phú cầm đi để hút. Rồi cô nói nhanh: Tối nay anh còn ở xí nghiệp, thì ra đây nhé, em nói cái này.
            Tôi cùng anh Thịnh về lán nghỉ, hai anh em nằm vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện. Tôi bóc gói quà của Bích ra xem, trong lớp giấy báo có 5 bao thuốc lá Tam Đảo, loại thuốc mà anh em tôi thường hút, cùng một mảnh giấy học trò, viết mấy chữ “cẩu thả” như của trẻ con: “Anh mang thuốc lá đi hút, nhớ viết thư cho em”. Anh Thịnh nói thêm về việc cô bé Bích người nhỏ, nhưng tính thì lớn trước tuổi. Anh hỏi tôi: Lúc Bích đưa quà có nói gì không? Tôi nói lại là Bích nói: Nếu tối còn ở đây thì ra chơi. Anh Thịnh cười nói: Như vậy là chắc cô bé Bích muốn đi chơi chia tay với ông rồi, nó yêu ông quá đấy. Tôi nói: Bích còn bé quá, chắc tối nay tôi không ra gặp đâu. Hai anh em chuyện phiếm một lúc nữa, anh Thịnh đến giờ đi làm, còn tôi nằm hút thuốc triền miên. Lúc sau tôi dậy chuẩn bị tư trang, để lại hai bộ quần áo, còn cho hết các thứ vào cái hòm tôn mạ, mà bất cứ người công nhân nào cũng có. Vừa xong, thì kẻng báo động máy bay thúc liên hồi, rồi tiếng máy bay phản lực gầm rú, bay xoẹt qua, để lại âm thanh ầm ào như sấm rền, làm tăng thêm cái nóng, cái nắng của những ngày hè oi bức. Sự ngột ngạt, báo hiệu hiện diện của chiến tranh. Có những loạt súng bộ binh bắn đuổi máy bay nghe lốp bốp, rời rạc. Lúc sau, kẻng báo yên, xí nghiệp lại ồn ào tiếng búa, tiếng máy. Tôi mang hòm đựng quần áo sang gửi chỗ bố tôi, rồi ở chơi một lúc với mọi người. Khoảng 4 giờ chiều tôi đạp xe ra nhà anh Cương, bố tôi từ chối không ra dự liên hoan của tổ tôi.
           Đến nhà anh Cương, cảm nhận không khí dao thớt thật tấp nập, tiếng dao băm, chặt nghe lốp cốp sôi động, mùi rau thơm, mùi hành tỏi thơm nức. Thời đó tổ chức một bữa ăn thật vất vả, vì thịt gà, thịt lợn là thứ không phải dễ mua. Ra chợ mua bán thịt lợn không được công khai. Người bán hàng thì giấu giấu, diếm diếm, thậm chí có người còn giấu cả thịt lợn trong người. Vì chế độ bao cấp, chế độ tem phiếu rất nặng nề, chặt chẽ, khắc nghiệt. Nhà nước chủ trương cấm thị trường buôn bán tự do, quản lý thị trường và các thuế vụ thấy bán thịt lợn là tịch thu ngay, gà, vịt, ngan, ngỗng cũng vậy.
           Chính tôi cũng đã có lần từng là nạn nhân của quản lý thị trường, thuế vụ thời đó. Năm 1968, trước khi đi học chuyên nghiệp, tôi ra Hải Phòng chơi thăm bà con họ hàng. Khi đi, mẹ tôi mua hai con gà mang ra làm quà, mỗi con nặng chừng cân rưỡi. Nhưng ra đến trạm thuế bến phà Qúy Cao, thì bị chặn lại, tịch thu. Tôi khóc lóc, trình bầy mãi, mới xin lại được 1 con, họ thu mất 1 con. Nghĩ lại thời đó thật khổ, cái gì cũng trưng thu, trưng nộp, hoặc bán cho Nhà nước. Tất cả đều với lý do, với mục đích là vì bộ đội, vì tiền tuyến, vì đồng bào miền Nam ruột thịt. Một số cán bộ lợi dụng vào chính sách đó của Nhà nước, để bóp chẹt nhân dân, làm những điều bất công vô đạo lý, làm giầu cá nhân cho chính bản thân họ. Nên cuộc sống sinh hoạt của dân chúng lúc bấy giờ thật vô cùng khó khăn, thật nhiều bức xúc. Đã có trường hợp người dân bị bắt rượu nhiều lần, bức xúc quá, lập mưu đội rượu đi bán bằng cái nồi hông mà thường hay đựng nước tiểu trong mỗi gia đình. Nhưng rồi cũng vẫn bị theo dõi và bị bắt. Họ bèn nghĩ ra kế để chơi khăm thuế vụ, là lấy nước tiểu, cũng đội đi như mọi ngày. Mấy anh thuế vụ tưởng bở, đòi bắt như mọi khi, bà bán rượu cao tay nói: Đây không phải là rượu, mà là nước tiểu đấy. Nhưng hai anh thuế vụ vẫn không tin, rồi co kéo, bà bán rượu lậu chỉ đợi có thế bèn vờ như mất đà, ụp cả nồi nước tiểu vào đầu anh thuế vụ.
             Tôi ghé vào gia đình anh Cương chào mọi người, rồi sang chơi với mấy anh em bạn ở phố. Trong thời gian làm việc tại đây, tôi có quen thân với một vài anh em ở thị trấn Tiểu Hoàng, phố Hùng Thắng, ngày nay hai địa danh này đều thuộc thị trấn Tiền Hải. Các gia đình này đều có cửa hàng buôn bán nên kinh tế rất khá. Có nhà còn có cả xe máy. Loại xe MZ của Liên Xô, hoặc Mô-kích của Đức. Những xe này hồi đó có giá tới 4000- 5000 đồng một chiếc. Đây là một khoản tiền rất lớn. Đặc biệt là tôi thân với anh Nghiêu, anh Nghiêu hơn tôi hai tuổi làm nghề chụp ảnh. Anh Nghiêu là cháu của nghệ sỹ nhiếp ảnh Đăng Quang. Thời đó, nghề ảnh là quý hiếm lắm, nên ai làm nghề này kinh tế rất khá hoặc giầu có. Cũng từ anh Nghiêu mà tôi quen với người em họ anh, con gái lớn của ông Đăng Quang, tên là Kim Chi. Kim Chi là cô gái xinh đẹp, mới học xong lớp 10 thi đại học bị thiếu điểm. Tôi với Kim Chi mới nhóm lên một sự cảm mến, chưa thật là yêu. Tháng trước tôi với Kim Chi cũng đã có một lần xuống biển Đồng Châu chơi, dự tính là đi xem trăng mọc. Nhưng có lẽ do xui xẻo, hay do không hiểu biết, nên chúng tôi đi ngắm trăng mọc, lại đi vào ngày 17 âm lịch. Trời hôm đó u ám đen sì, đầy mây giông. Những đám mây ùn ùn cuộn lên, tối sập xuống rất nhanh. Tôi cảm thấy rợn người, có gì đó như báo hiệu xui xẻo. Chuyện tình cảm có vẻ cũng không đến được đích cuối cùng. Tôi sẽ xin kể về chuyến đi chơi này với các bạn sau.
          Tôi nói với anh Nghiêu về thời gian và kế hoạch nhập ngũ. Anh Nghiêu nói: Ông cứ liên hoan ở đó khi nào xong thì sang đây chơi, chúng tôi liên hoan chia tay ông vào đêm nay. Đã hơn 5 giờ chiều, tôi trở về nhà anh Cương. Cả tổ đã đến đông đủ, đang  nói cười ầm ỹ. Chị vợ anh Cương năm nay khoảng ngoài 30 tuổi. Chị có ngoại hình thật “đồ sộ”, cân nhanh chắc cũng tới 65 kg, đối lập với thân hình gầy còm của anh Cương. Mặt chị đỏ lựng, mồ hôi ướt đẫm cái áo vải phin nõn nhuộm nâu. Thấy tôi về mọi người ồ lên, anh Cương giục vợ đi thay quần áo. Ba mâm cỗ được bầy giữa sân gạch đã được trải những cái chiếu cũ. Trời đã tối, một loạt đèn đất được thắp lên. Cỗ thật lớn, đủ cả các món, gà, lợn, tôm, cua. Mỗi mâm lại còn có cả đĩa giò thật dầy. Thời bấy giờ cơm cỗ, mà có giò, có chả, là cỗ lớn lắm. Nếu được đi ăn giỗ, hoặc ăn tiệc cưới hay bất cứ bữa tiệc nào đó, thì người ta thường nói đến cỗ to, cỗ nhỏ, là thể hiện ở đĩa giò, có giò hay không, hay giò có dầy không? Người ta còn nói: Cắn giò ngập chân răng, ý nói là cỗ to của nhà giầu thời bấy giờ. Thật khổ, chẳng bù cho bây giờ, mâm cơm, mâm cỗ mà có giò, có chả, nếu ở thành phố thì thường là thừa. Có mâm còn thừa nguyên cả cả đĩa. Anh Cương nhanh chóng tuyên bố lý do của bữa tiệc chia tay tôi. Có hai chai rượu chanh, còn lại là rượu “quốc lủi”. Rượu đã được rót ra đủ các loại cốc của gia đình. Sau lần chúc đầu, mọi người hối hả ăn uống trò chuyện sôi động. Cứ như là việc chia tay tôi chỉ là cái cớ để được liên hoan, để được ăn uống, nhất là sau khi đã có một hai cốc rượu mở màn. Bữa tiệc kéo dài gần hai tiếng, mấy bác ham rượu giọng nói đã méo. Khoảng tám rưỡi mọi người bắt tay tôi, lục tục ra về. Tôi cảm ơn mọi người, cảm ơn gia đình anh Cương đã tổ chức bữa tiệc vui chia tay tôi.
       Trà lá thêm lúc nữa tôi chào mọi người, rồi sang chỗ anh Nghiêu trò chuyện. Tại đây, lúc 11 giờ đêm, anh em bạn lại tổ chức liên hoan cho tôi, một bữa tiệc thật đặc biệt. Đó là bánh cuốn tráng, ăn với chả ngóe, chả chão chuộc. Từ tối anh em đã tập trung đi bắt được rất nhiều ngóe và chão chuộc. Mang về băm, giã thật mịn cùng với thịt lợn, trứng gà, các loại hành, rau thơm viên tròn, to hơn hòn bi. Rồi dàn mỏng ra thành những cái chả to như miệng cốc, rán vàng, thơm phức. Có cả rượu trắng, anh em chúng tôi thưởng thức, lai rai đến quá khuya mới kết thúc. Mọi người lăn ra ngủ tại chỗ. Sáng hôm sau, lại một chầu bánh cuốn nữa, rồi tôi chính thức chia tay anh em đạp xe về nhà. Tôi mời mọi người ngày mai lên nhà tôi liên hoan.
          Gần trưa tôi mới về đến nhà. Bà con khu phố biết tin tôi đi bộ đội đến chia tay rất đông. Mẹ tôi đã làm cơm để gia đình liên hoan, bà trách sao bây giờ mới về. Chú em út còn nhỏ thấy tôi về, chạy ra bắt tôi bế. Mẹ tôi không nói gì, chỉ thỉnh thoảng lau nước mắt. Tôi là con thứ ba sau hai chị gái, nhưng con trai thì lại là lớn nhất. Là đứa con ngoan, lúc nào tôi cũng lễ phép với người lớn. Năm nào cũng được giấy khen về thành tích học tập. Tôi không có tính nghịch ngợm, hay đánh nhau như bạn bè cùng trang lứa ở khu phố. Nên tôi được bà con, những người lớn tuổi rất quý. Từ khi đi làm có lương, tôi chỉ giữ lại một ít chi dùng còn lại đưa hết cho mẹ tôi để phụ giúp kinh tế cho gia đình đang rất khó khăn. Ở khu phố, mỗi lần ai có con cái nghịch ngợm, bị mắng chửi, bị đánh thì họ hay lấy tôi ra để so sánh. Đại loại như: Sao mày không sang học thằng Phú con bà Hiền kia kìa v.v… Bố mẹ nào mà chẳng quý con cái. Với anh chị em tôi thì hình như tôi là niềm hy vọng lớn của gia đình, nên việc tôi phải đi bộ đội sẽ là nỗi buồn lo rất lớn của mẹ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: RememberTheName trong 17 Tháng Mười Một, 2021, 02:36:28 pm
chú Phú viết hay quá . Con đọc đi đọc lại truyện của chú 3,4 lần rồi
Mong chú viết thêm về truyện thời chống Mĩ trước 1975




Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 21 Tháng Mười Một, 2021, 05:30:39 pm

          Chào bạn RememberTheName !!!
         
           Cảm ơn cháu đã quan tâm đến chuyện của mình chúc cháu luôn vui khỏe thành công!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 21 Tháng Mười Một, 2021, 05:33:27 pm

                   Buổi chiều anh em bạn bè ở cùng xí nghiệp nơi tôi làm việc đến chia tay rất đông. Hôm qua mẹ và chị tôi mua được một ít kẹo chanh, kẹo Hải Châu cùng những bánh quy xốp, bánh đũa cả, loại bánh gia công. Có cả kẹo lạc, kẹo dồi để mời khách đến chia tay gọi là liên hoan ngọt cho tôi. Đồ uống thì có chè xanh và chè khô Hồng Đào loại 2, bốn hào rưỡi một gói của mậu dịch. Chè xanh thì mua ở chợ bao nhiêu cũng được. Còn những gói chè khô loại 2 này cũng không phải là dễ mua. Rượu bia thì thời đó là hàng xa xỉ, “cao cấp” không thể có. Mấy anh em bạn cùng xí nghiệp, gợi ý xin tôi tặng lại những cái áo sơ mi cổ cứng kẻ xanh, cái quần vải ximili pha nilon mầu rêu tôi thường mặc. Cả cái kính đen mà tôi mua 12 đồng hồi đang học tại Hải Phòng. Các anh kiêng kỵ, ý tứ không nói là bán mua, mà là kỷ niệm nhau. Tôi cũng chiều mọi người, kỷ niệm lại những thứ mà các bạn thích. Mỗi anh lại cho tôi ít tiền với giá trị tương đương, nói là mang đi đường để tiêu. Thời đó mua sắm được những thứ “hàng độc” đó không phải là dễ. Mọi người nhận được đồ rất vui, chúc tôi may mắn rồi ra về.
         Chiều muộn, nhóm của anh Nghiêu ở thị trấn Tiền Hải cũng đến chia tay. Trong nhóm có cả Kim Chi. Mọi người có ý cho tôi và Kim Chi nói chuyện riêng một lúc. Kim Chi nói những lời động viên tôi và tự trách, vì giữa tôi và Kim Chi chưa có những kỷ niệm cao hơn… Có lẽ Kim Chi ý tứ nói về việc hôm hai đứa ra biển chơi. Giữa trời, trước biển bao la chỉ có tôi và Kim Chi. Hai anh em ngồi cạnh nhau ăn kẹo nói chuyện đợi trăng lên. Khi tôi ngỏ ý xin được hôn cô, mặt Kim Chi đỏ hồng lên rất nhanh, rồi cứ cúi mặt ấp vào hai đùi, dứt khoát không cho tôi hôn. Có thể lúc đó chúng tôi chưa có được những tình cảm sâu sắc của tình yêu. Có thể tôi còn nhút nhát, chưa hiểu hết được tâm lý của con gái. Cũng có thể thời đó quan hệ nam nữ khắt khe hơn bây giờ. Con gái thường có sự giữ gìn e ấp chứ không thoải mái như thời nay. Kim Chi tặng tôi quyển sổ bìa đỏ có ghi những lời chúc tốt đẹp và nhận tôi mãi là người anh tốt nhất của cô. Tôi nói chuyện chia tay trong tâm trạng thật thoải mái. Vì nghĩ Kim Chi còn phải học đại học, tôi phải đi bộ đội, phải ra trận không biết khi nào được trở về. Có thể rất lâu, hoặc không bao giờ trở về. Tôi lại là người động viên lại Kim Chi để giảm đi những bịn rịn, những nỗi buồn của sự chia tay. Hết đợt khách này đến đợt khách khác, phải tới mười giờ tối mới ngớt. Còn mấy bạn ở phố Tiền Hải có xe máy, tôi nói một bạn chở tôi bằng xe máy Mô-kích chạy quanh thị xã một vòng. Đây là lần đầu tiên tôi được ngồi sau xe máy, nên thấy thật ấn tượng. Đợi mọi người về hết bố mẹ giục tôi đi ngủ để mai chính thức tòng quân.
         Sáng hôm sau, vẫn còn lẻ tẻ họ hàng, bà con dân phố đến chơi. Buổi trưa là bữa cơm chính thức của gia đình chia tay tôi. Cả nhà tôi gồm bà nội, bố mẹ tôi và tám chị em, tổng số là mười một người. Thiếu chị gái thứ hai đang công tác mãi Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, có thêm cả ông chú họ nữa tề tựu đủ hai mâm. Bố mẹ tôi, chị gái và cô em gái giáp tôi thì rất buồn. Ngược lại năm em tôi thì rất vui, cái vui của trẻ con vì có nhiều thức ăn ngon, được ăn nhiều kẹo, được anh trai đi bộ đội sẽ có súng, sẽ có võ. Mà súng và võ thì đứa trẻ nào mà không thích. Thời gian trôi đi rất nhanh, đã một giờ chiều, đến giờ tôi phải lên đường sang thị đội. Tôi lần lượt ôm từng người trong gia đình. Tôi hứa với bố mẹ là tôi sẽ phấn đấu tốt, bố mẹ không phải lo con nhiều. Bố mẹ tôi ở nhà, còn chị gái và mấy người em đi cùng tôi sang nơi tập trung.


II

Thị đội Thái Bình ngay đằng sau nhà tôi ở phố Trưng Trắc. Hồi đó nhà tôi ở phố Lê Lợi, hai phố chạy song song nhau, nhà tôi và thị đội chỉ cách một cái ao to.
Tới nơi, vào đến cổng, tôi đã thấy ông Đảng đứng đợi. Ông tỏ ra rất mừng khi nhìn thấy tôi. Đây là đợt nhập ngũ bổ sung nên không đông lắm. Ông Đảng nhanh chóng bàn giao tôi với cơ quan thị đội. Ông thở phào, coi như công việc của ông đã xong. Ty Giao thông đợt này chỉ có một mình tôi nhập ngũ, ông bắt tay tôi chúc tôi đi may mắn và phấn đấu tốt. Ông móc trong cặp ra một túi thuốc viên mầu trắng nho nhỏ, nói: Đây là loại thuốc Vitamin C, có thể tra vào canh mà hôm nọ cậu ăn đấy, Phú mang đi mà dùng. Ông nói câu cuối như là có sự cảm động của tình cảm cha con. Tôi cảm ơn ông, bất giác cảm động trước tình cảm của ông dành cho tôi. Người cán bộ thị đội nhận giấy tờ, mắt nhìn lướt qua tôi, rồi chỉ tôi vào khu vực dành cho tân binh. Cũng khoảng mấy chục người, nhưng tôi không thấy ai quen. Bên ngoài những người tiễn đưa đứng chen chúc chỉ trỏ nói cười. Cũng có những người mẹ, những cô gái trẻ miệng gượng cười, nhưng mắt thì đỏ hoe.
     Tuýt...toe… tuýt…toe, tiếng còi lanh lảnh cất lên, không gian chợt yên tĩnh. Giọng một đồng chí cán bộ đeo xà cột đen hô to: Các đồng chí tân binh chú ý: Ba hàng ngang tập hợp! Chúng tôi còn đang ngơ ngác thì mấy anh bộ đội đến hướng dẫn xếp hàng. Tôi cùng mọi người lục tục đứng dậy, trông đội hình thật lôi thôi. Người thì túi vải, người thì ba lô cũ, quần áo mỗi người một màu, một kiểu, vì chưa được cấp phát tư trang. Tôi thì xách cái túi du lịch mầu xanh của Trung Quốc, mà dịp năm trước mua được trên Hà Giang. Hơn 30 tân binh đứng vào hàng theo sự chỉ dẫn của những cán bộ khác. Sau khi đội ngũ tương đối ổn định, người cán bộ thổi còi lúc nãy hô: Nghiêm! Giọng hô của anh thật đanh, thật vang, mọi tân binh và những người thân đưa tiễn thật sự im lặng. Người cán bộ hô nghiêm xong, chạy mấy bước đến trước mấy vị chỉ huy, giơ tay chào theo điều lệnh, rồi dõng dạc nói: Báo cáo đồng chí thượng úy chỉ huy phó thị đội: Các đồng chí tân binh đã tập hợp đầy đủ, mời đồng chí ra nói chuyện! Đồng chí thị đội phó đeo khẩu súng ngắn cùng cái xắc cốt đen giơ tay chào đáp lễ rồi nói: Đồng chí về chỗ! Rồi bước về phía chúng tôi, đứng trước hàng quân hô: Các đồng chí nghỉ! Thị đội phó nói tiếp: Thay mặt ban chỉ huy thị đội, tôi nhiệt liệt hoan nghênh các đồng chí đã nhập ngũ đúng giờ, đúng hẹn. Từ bây giờ các đồng chí đã là bộ đội. Đây là đợt tuyển quân bổ sung, nên các đồng chí về đơn vị sẽ được cấp phát quân tư trang. Chúng ta là quân đội cách mạng, sức mạnh của quân đội là kỷ luật. Vì vậy từ bây giờ các đồng chí làm gì, đi đứng, ăn nghỉ, tập tành, đều phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của chỉ huy trực tiếp của mình. Thay mặt ban chỉ huy thị đội, tôi chúc các đồng chí luôn khỏe, chân cứng đá mềm, hoàn thành tốt nhiệm vụ để phát huy truyền thống của gia đình, của quê hương, xin chào các đồng chí!
        Tiếp theo, đồng chí cán bộ lúc nãy ra trước hàng quân hô to: Nghi…ê ..m ... mệnh lệnh hành quân, hướng hành quân: Hướng Bắc! Quãng đường hành quân: ba ki-lô-mét, tốc độ hành quân: 4 ki-lô-mét/giờ. Hàng hai… bước! Chúng tôi lục tục di theo sự hướng dẫn của các cán bộ, một số cán bộ ra hiệu những người thân đưa tiễn dạt ra để mở đường cho chúng tôi. Tiếng nói, tiếng cười, cùng những cái bắt tay níu kéo lại rộ lên ồn ào. Một số người thân ở lại, một số người thì nhũng nhẵng đi theo, hoặc đi ngang người thân của mình. Tôi cũng nói chị tôi và các em tôi đi về, mọi người bịn rịn chia tay. Chị gái tôi là người luôn vất vả vì các em, lo toan cho các em. Phải chăng với ngoại hình gầy bé, cánh tay trái không duỗi thẳng được do di chứng chạy hậu của căn bệnh đậu mùa lúc chị mới sinh. Năm nay chị đã 25 tuổi vẫn chưa lấy chồng. Chị làm kế toán của một hợp tác xã thủ công rất có uy tín trong công việc. Mắt đỏ hoe, chị dắt chiếc xe đạp theo đoàn quân.
           Có thể nói, đây là ngày đầu tiên trong mấy nghìn ngày tại ngũ, là bước chân hành quân đầu tiên của đời quân ngũ. Cũng không thể ngờ, không thể tính được rằng từ hôm nay cho đến cuối đời binh nghiệp tôi đã đi được bao nhiêu ngàn vạn bước chân khắp mọi miền đất nước, dọc dãy Trường Sơn, đi khắp các chiến trường, trong cuộc chiến giải phóng dân tộc, cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, rồi làm nhiệm vụ Quốc tế, tiêu diệt bọn Pôn-pốt, cứu giúp dân tộc Khmer và đất nước Campuchia khỏi họa diệt chủng.
           Chúng tôi theo cán bộ thị đội đi dọc phố Trưng Trắc, rồi rẽ ra phố Lê Lợi để lên cầu Bo. Đúng ra tên cầu là cầu Độc Lập, qua sông Trà Lý trên quốc lộ 10. Quốc lộ 10 hồi đó chạy giữa thị xã Thái Bình. Không biết lúc người Pháp xây dựng cây cầu này thì đặt tên là gì? Nhưng nhân dân thường gọi là cầu Bo. Cái tên cầu Bo là do phía Bắc cầu có làng Bo. Làng Bo nổi tiếng vì có giống ôỉ Bo. Ôỉ Bo quả to, thơm, ngon, ngọt dịu, cùi dầy, ăn giòn nhưng không cứng, hạt ít lại mềm, không loại ổi nào sánh được. Giờ đây khi giống ổi Thái Lan tràn vào, người ta chuộng quả to, cùi dầy. Nhưng ổi Thái Lan không có vị thơm. Giống ổi Bo ngày nay gần như đã không còn vì năng suất ổi Bo thấp hơn ổi Thái Lan nhiều. Thật tiếc cho một giống ổi quý.
Ngay đầu cầu phía Nam bên thị xã có khách sạn Sông Trà. Khách sạn này được xây dựng từ khoảng đầu năm 1960, giai đoạn kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Thời đó xây được nhà ba tầng đã là “ác chiến” lắm rồi, tòa nhà cao nhất tỉnh. Đây là một nhà hàng, khách sạn quy mô lớn nhất miền Bắc thời bấy giờ. Dân Thái Bình theo sử sách thì bị chết nhiều nhất cả nước trong nạn đói Ất Dậu năm 1945, vì mất mùa, vì bị phát xít Nhật bắt nhổ lúa trồng đay. Người đói, người chết, người sống lay lắt, nhiều người đi tha phương cầu thực khắp mọi nơi. Ngày xưa thì làm gì có vali, cặp da, hay ba lô như bây giờ. Mọi người chỉ có cái bị cói để đựng đồ dùng cá nhân và những thứ xin được. Nên trong dân gian có câu chế nhạo người dân Thái Bình: “Thái Bình là đất ăn chơi, tay bị, tay gậy khắp nơi tung hoành”. Khi khách sạn Sông Trà xây xong, nghe đâu cũng bị Trung ương kiểm điểm. Vì xây dựng nhà hàng, khách sạn to cao quá, chưa hợp với tình hình phát triển kinh tế của cả nước lúc bấy giờ. Hồi đó, cứ ngày thứ bẩy, mấy chị em tôi hay được bố mẹ cho lên đó ăn cơm hoặc ăn phở. Cứ hai chị em một đĩa cơm xào, cơm rang có giá năm hào một suất rất nhiều thịt, nhiều trứng ăn không hết. Phở thì chỉ có hai hào rưỡi một bát. Đương nhiên là cửa hàng cũng bán cả cháo nữa. Cháo trắng thì có một hào một bát, cháo thịt thì 1 hào rưỡi một bát. Vì vậy trong dân gian thời đó lại có câu ca về Thái Bình: “Thái Bình có cái cầu Bo, có nhà máy cháo, có lò đúc muôi”.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 21 Tháng Mười Một, 2021, 05:35:08 pm

        Cái cầu Bo và nhà máy cháo thì như đã nói. Còn lò đúc muôi là nói về nhà máy Cơ khí 2 tháng 9, con chim đầu đàn ngành công nghiệp tỉnh. Nhưng lúc đó cũng chỉ đúc được cái lưỡi cầy, một số dụng cụ cơ khí, hoặc xoong, nồi v.v… Còn muôi không biết có đúc không, nhưng người đời vẫn cứ chế nhạo như vậy. Những câu vè này đã dẫn đến những hệ lụy, những tranh cãi không có hồi kết. Đôi khi còn xẩy ra những trận đánh nhau, vì các thành viên cãi vã xuất thân từ những vùng miền khác nhau. Tỉnh nào cũng có những đặc điểm riêng về tập tính “đất lề, quê thói”, nên anh em tỉnh nọ trêu chọc anh em tỉnh kia, bằng các câu vè đại loại như: Nam Hà thì là dân “cầu tõm”. Hà Tây là dân “gọi tép là tôm”. Hải Dương là dân “bánh gai đất”. Thanh Hóa thì “ăn rau má, phá đường tầu” v. v...
Cây cầu Bo cũng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử phát triển của Thái Bình, trong đó có một sự kiện rất đau lòng. Ấy là hồi Mỹ đánh phá bằng không quân năm 1965, cầu Bo bị trúng bom rớt mất hai nhịp. Bên phía Nam còn một nhịp mố cầu. Năm 1970 dịp lễ kỷ niệm ngày Quốc khánh 2 tháng 9, tỉnh tổ chức hội thi bơi chải dọc sông. Nhân dân đứng rất đông trên mố cầu phía Nam để xem. Trời nắng nóng, một số chui xuống dưới gầm cầu. Mố cầu bị ảnh hưởng của bom, lại rất đông người đứng bên trên hò reo cổ vũ, làm nhịp cầu xập xuống. Rất nhiều người ở dưới đã bị nhịp cầu đè chết. Có những người bị cầu đè lên một phần thân thể, còn một phần thân thể ở bên ngoài, kêu la thảm khốc mà không sao cứu được. Mãi đến đêm, mới có người nghĩ ra cách rất thông minh, là dùng hai cái xà lan loại 200 tấn, bơm nước vào cho xà lan chìm một phần. Rồi lùa vào gầm nhịp cầu đua ra sông rồi bơm hút nước ra. Xà lan nổi lên nâng được nhịp cầu, mới lấy được các thi hài bị đè. Đến năm 1971-1972, tận dụng nhịp cầu bờ Bắc kéo dây cáp sang bờ Nam làm cầu treo cho người đi bộ. Do kỹ thuật thời đó không cao, nên đi cầu treo mà cứ bị lắc lư như đưa võng đến chóng mặt. Đoàn tân binh chúng tôi qua sông bằng cây cầu “thương binh” nửa bê tông, nửa cầu treo này. Chúng tôi đi tiếp hơn một cây số nữa thì dừng ở khu vực đê vùng, giáp ranh hai xã Đông Hòa và Hoàng Diệu. Nơi đây có một bến xe tạm sơ tán. Tháng trước bến xe này mới bị máy bay Mỹ đánh bom chết một số dân, cây cối ven đường vẫn còn đổ gẫy.
       Chúng tôi dừng lại, đây là nơi tập kết tân binh của toàn tỉnh. Tân binh và người thân đưa tiễn rất đông. Đồng chí cán bộ thị đội lại bàn giao chúng tôi cho cán bộ Quân lực tỉnh đội. Chị gái tôi cũng đã đến trong lúc đợi cán bộ làm thủ tục bàn giao, chị em tôi ngồi cạnh một cây bạch đàn nói chuyện. Khoảng 30 phút sau, số tân binh được tập hợp phân chia về các đơn vị. Tôi cùng hơn chục người khác tập trung theo sự chỉ dẫn của một đồng chí nhận quân khác. Nghe phổ biến là sẽ hành quân về đơn vị huấn luyện thuộc tiểu đoàn 817, trung đoàn 8, Quân khu Tả Ngạn. Từ đây, chúng tôi hành quân về đơn vị, quãng đường dài khoảng 20 ki-lô-mét. Mỗi người được phát một cái bánh mỳ có nhân thịt. Đồng chí cán bộ nói: Đây là khẩu phần ăn chiều của các đồng chí. Như vậy là bữa cơm đầu tiên của đời lính được ăn đồ Tây, thật oách. Khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi theo cán bộ Quân lực trung đoàn 8 về đơn vị của mình. Mọi người chính thức chia tay người thân đưa tiễn. Có những tiếng cười vui, cũng có những tiếng khóc òa đến nghẹn lòng. Tôi giục chị tôi đi về, vì trong thâm tâm, tôi không muốn có chuyện bịn rịn lưu luyến kéo dài. Tôi quay lại nhìn chị, rồi bước nhanh theo đoàn quân.
         Đoàn tân binh chúng tôi bước nhanh như thể vừa đi vừa chạy gằn theo người cán bộ tuyển quân. Những người thân đưa tiễn, người thì đi bộ, người thì đi xe đạp chậm, hoặc dắt theo xe, vẫn lẽo đẽo bám theo sau. Tôi quay lại vẫn thấy chị tôi đang đứng đó. Một tay chị giữ ghi đông xe, một tay chị đưa lên lau nước mắt. Tôi giơ cao tay ra hiệu tạm biệt. Không biết chị có nhìn thấy tôi trong đoàn quân xa dần do bụi mù đã giảm tầm nhìn. Những người đưa tiễn rồi cũng vơi dần, vơi dần.
         Tôi bước dấn lên theo kịp mọi người, trong lòng, trong đầu nặng trĩu những nghĩ ngợi mông lung. Người cán bộ tuyển quân đi chốt sau đoàn, đeo cái xắc cốt màu đen trông già dặn nhất trong tốp cán bộ, bây giờ mới nói to: Các đồng chí tân binh chú ý, quãng đường còn dài đề nghị các đồng chí tăng tốc độ hành quân. Đây là buổi hành quân về đơn vị, nhưng cũng là buổi tập rèn luyện thể lực, các đồng chí “vận động”. Anh em chúng tôi không hiểu cái nghĩa “vận động” là gì. Mọi người đang tự thắc mắc thì thấy tốp anh em dẫn quân chạy theo kiểu chạy gằn. Đồng chí dẫn quân thấy anh em chúng tôi vẫn đi bình thường bèn nói to: Chạy lên, chạy nhanh lên các đồng chí ơi, chạy đi, vận động đi, nhanh, nhanh, nhanh! À ra thế! Đây có lẽ là từ quân sự đầu tiên mà  chúng tôi được học. Tiếng bước chân lộp bộp chạy dồn, đoàn quân tăng tốc độ làm bụi mù cuộn lên. Khổ nhất cho chúng tôi là những người đi cuối hàng nên hít bụi thật nhiều. Có lẽ chỉ vận động được vài trăm mét, ai nấy mặt đỏ tía tai, tim tôi đập thình thịch, rồi không còn tiếng bước chân chạy nữa. Mọi người trở lại đi bộ bình thường. Chúng tôi đi dọc theo quốc lộ 10. Qua cầu Đống Năm thì rẽ vào đường đất nhỏ liên xã, hai bên đường là cánh đồng lúa đã chín vàng. Trời nắng chiều oi nồng không gió, mùi lúa chín thơm lừng. Cái nóng nực do hành quân đi bộ chưa quen làm ai nấy mồ hôi ướt đẫm. Đoàn quân lại đi xuyên ra đường 39, con đường quốc lộ từ Thái Bình nối dài vượt qua sông Luộc, ra phố Nối Hưng Yên lên tới Hà Nội. Đây là phố Tăng, địa danh này có hơn chục nhà bám mặt đường. Nơi đây mấy năm nay trở nên sầm uất, đông vui, đang nổi danh vì có các chuyên gia Liên Xô cùng Đoàn địa chất 36 tổ chức khoan thăm dò dầu khí. Cái tháp khoan đồ sộ cao vút. Kho tàng, máy móc, vật dụng ngổn ngang. Nghe nói Thái Bình có mỏ dầu, trữ lượng lớn lắm. Nhưng vì chúng ta đang có chiến tranh nên chưa thể khai thác được. Đấy là nghe các cán bộ nói trong các buổi họp, học chính trị khi nói về đất nước ta giầu đẹp.
         Trời đã về chiều, như vậy là đã hành quân được khoảng 2 tiếng. Đoàn quân không bám được nhau như trước nữa mà kéo dài lê thê, trang phục lôi thôi mỗi người mỗi kiểu. Người thì đeo ba lô cũ, người thì xách túi vải, túi giả da, người đi dép cao su, người kéo lê dép nhựa, người đi giầy, những đôi giầy bảo hộ lao động màu xanh cũ kỹ. Vì số tân binh này chủ yếu là công nhân, các ngành nghề khác nhau. Đồng chí dẫn quân cho đội hình dừng lại nghỉ giải lao, thu đội hình. Lúc này ai cũng đã mệt và đói. Tôi sực nhớ ra ổ bánh mì kẹp thịt nguội được phát trước lúc hành quân. Mọi người lấy bánh ra ăn, bánh mì khô khốc. Không biết là do có sự báo trước hay sao mà có rất đông các mẹ, các chị, các em tay xách ấm, tay cầm bát, cầm chén ùa ra mời chúng tôi. Có mẹ còn mang cả chuối, cả khoai lang luộc mời mọi người. Ôi! Vui, thật vui vì mọi người đang mệt và khát nước. Tiếng các mẹ hỏi thăm, tiếng các cô gái cười vui với ánh mắt lúng liếng, các em nhỏ chạy đi chạy lại ríu rít mang nước, mang quà đến cho từng người. Thoáng nhìn các mẹ ai cũng nước mắt chảy dài ân cần chuyện trò mời chúng tôi ăn khoai, uống nước vối, nước chè xanh, chúc chúng tôi ra trận lập chiến công và gặp nhiều may mắn.
         Đây là lần đầu tiên trong đời quân ngũ tôi được đón nhận tình cảm "quân dân cá nước". Chúng tôi là lính, nhưng chưa được khoác áo lính, cái tình cảm đầu tiên này là dấu ấn mãi không thể quên trong suốt cuộc đời quân ngũ của tôi. Nghỉ ngơi chừng được khoảng 15 phút, thì tiếng người dẫn quân vang lên lanh lảnh: Giờ giải lao đã hết, các đồng chí tiếp tục hành quân! Mọi người lục tục đứng dậy nhanh chóng bắt tay các mẹ, các em, cái bắt tay câu chào lưu luyến. Những lời chúc xen lẫn lời nói, lời hứa vui vội vàng: Mẹ giữ em cho con mẹ nhé, hoặc: Đợi anh em nhé. Tiếng cười đùa của những chàng tân binh với các mẹ, các chị, các em gái cùng các cháu nhỏ làm cái mệt tan đi đâu hết. Mọi người lại lên đường, chuyện trò rộ lên râm ran. Đi. Đoàn quân lại tiếp tục đi. Đã qua khu Voi đá ngựa đá, nơi này không biết là nơi thờ vị tướng thời nào mà có cả voi, cả ngựa cùng những người lính hầu trước cửa miếu thờ. Tất cả đều được làm bằng đá tảng rất lớn. Đây là xã Chương Dương. Trời tối mờ rồi tối hẳn thì đến được thị trấn Tiên Hưng. Như vậy, chúng tôi đã đi được 20 ki-lô-mét. Đoàn tân binh rẽ qua cầu Đình Thượng, thì được chia đi mấy hướng, về các đơn vị khác nhau. Nhóm của chúng tôi có 5 người đi tiếp theo bờ đê có những cây nhãn già cỗi hai bên, rễ cây trồi cả lên mặt đê, đi không quen rất hay bị vấp. Địa danh này tôi biết, nếu cứ thẳng theo bờ đê thì tới các xã Lô Giang, Chi Lăng, Hòa Bình, Thống Nhất. Xã Hòa Bình đang có nhà máy đóng thuyền mà mấy năm trước bố tôi cũng làm việc tại đó. Tôi thường hay sang để mua những mùn cưa, phoi bào, củi vụn về làm đồ đun nấu cho gia đình, nên tôi rất rõ về khu vực này. Tôi bước nhanh theo kịp người dẫn quân và hỏi: Như vậy là mình về đơn vị nào? Xã nào hả thủ trưởng? Đồng chí dẫn quân còn trẻ, không biết hiện là chức vụ gì, quân hàm gì, anh quay sang hỏi tôi ở vùng này à? Tôi nói: Tôi không ở đây nhưng vùng này thì tôi biết. Người dẫn quân nói: Anh em mình về đại đội 5 của tiểu đoàn 817 hiện đang đóng quân tại xã Lô Giang. Như vậy là chúng tôi phải hành quân khoảng 2 ki-lô-mét nữa. Mệt, đã rất mệt và đói. Đi khoảng hơn 1 ki-lô-mét, chúng tôi rẽ vào làng. Vòng vèo ngõ xóm một lúc rồi tới một nhà dân. Ban chỉ huy đại đội 5 đang đóng tại đây.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 21 Tháng Mười Một, 2021, 05:37:12 pm

          Đang còn lần mò ngoài ngõ tối om, đã nghe thấy giọng đồng chí dẫn quân lanh lảnh: Báo cáo các thủ trưởng đại đội, tôi là Nguyễn Danh Lâu, tiểu đội trưởng tiểu đội 9 đã đi nhận tân binh về. Tiếng người cán bộ đại đội nghe vang vang, giọng nói thật chững chạc. Đồng chí Lâu hả? Thế anh em đâu cả rồi? Cùng lúc ấy chúng tôi bước vào sân, đồng chí Lâu nói: Báo cáo đại đội trưởng, tổng số có 5 đồng chí, toàn dân cơ quan, mọi người đã tập kết đầy đủ. Thế hả? đồng chí mời anh em vào đây! -  người đại đội trưởng nói. Chúng tôi uể oải bước vào sân. Trước sân kê chiếc bàn có ngọn đèn dầu, vầng sáng đã được che vợi đi nhưng tôi cũng thấy được mấy người đang chụm đầu hội ý gì đó, có cả một bộ đội nữ nữa. Mọi người đứng dậy nhường ghế cho chúng tôi. Cô bộ đội nữ người gầy, nhỏ thó trong bộ quân phục màu xanh lá cây nhìn chúng tôi tủm tỉm cười, rót cho chúng tôi mỗi người một cốc nước vối. Đồng chí đại đội trưởng dáng người nhanh nhẹn, chắc nịch giọng sang sảng vồn vã: Hoan nghênh các đồng chí đã về tới đơn vị, xin giới thiệu với các đồng chí, tôi là Nguyễn Hữu Nghẹ - thiếu úy đại đội trưởng. Rồi chỉ sang người ngồi bên cạnh có dáng người thấp gầy nhỏ bé trông già hơn có vẻ mặt khắc khổ: Đây là đồng chí Trần Văn Lẫm, trung úy chính trị viên trưởng đại đội. Còn đây là đồng chí Ngô Quang Sung, chuẩn úy đại đội phó phụ trách hậu cần. Đây là ba đồng chí cán bộ trung đội trưởng. Còn đây là đồng chí Nhì quản lý đại đội. Đại đội ta đang thiếu một đồng chí chính trị viên phó đại đội, đại đội ta là đại đội 5, tiểu đoàn 817, trung đoàn 8 của quân khu Tả Ngạn. Đây là trung đoàn huấn luyện quân tăng cường của quân khu. Hiện tại trung đoàn có đủ 3 tiểu đoàn. Tiểu đoàn 816 hiện đang huấn luyện tại các xã Đông Huy, Đông Phong, Đông Lĩnh khu vực phía Nam huyện Đông Quan. Tiểu toàn ta đóng quân tại mấy xã ở Bắc huyện Tiên Hưng. Còn Tiểu đoàn 815 đang đóng quân tại Đông Triều, Quảng Ninh. Sơ bộ như vậy để các đồng chí biết. Cả 5 đồng chí nữa như vậy quân số của đại đội là 115 người, rồi các đồng chí sẽ tìm hiểu kỹ sau. Mời anh Lẫm phát biểu với anh em.
          Đến lượt đồng chí Lẫm đứng lên phát biểu giới thiệu qua về truyền thống của đơn vị. Lại một tràng diễn văn về tình hình địch, tình hình ta, tình hình chiến sự ở miền Nam và miền Bắc dài dằng dặc. Tôi uể oải chỉ muốn được nằm nghỉ nên không tập trung nghe được gì nhiều. Tiếp đến là đồng chí đại đội phó làm thủ tục ghi chép lại tên tuổi quê quán, gọi là ghi “trích ngang” của từng người. Tôi được hỏi trước, đến mục hỏi: Khi cần báo tin cho ai? Tôi giật mình thấy lo lo, họ làm như là mình chuẩn bị hy sinh, có vấn đề quan trọng hay sao ấy. Tôi ngần ngừ không trả lời ngay. Đồng chí đại đội phó hỏi lại lần nữa, rồi tôi cũng đọc tên, tuổi, số nhà, địa chỉ của bố tôi. Tự nhiên tâm trạng không được thảnh thơi nữa, nó cứ lởn vởn bởi câu hỏi: Khi cần báo tin cho ai? Có lẽ không phải chỉ tôi mới có tâm trạng này, mà mọi người đều có cảm giác như vậy. Kết thúc phần ghi chép, đồng chí đại đội phó nói: Bây giờ cũng đã muộn rồi, các đồng chí đi xa chưa quen chắc đã mệt, các đồng chí về các trung đội của mình. Ngày mai, khi nào có lệnh, thì mời các đồng chí đi cùng đồng chí Nhì quản lý lên tiểu đoàn nhận quân tư trang. Tôi và một người nữa được giao về trung đội 3. Đồng chí trung đội trưởng dáng người thấp lùn khỏe mạnh, nhanh nhẹn tự giới thiệu: Tôi là Nguyễn Văn Đởn, thượng sỹ, quê ở Ân Thi, tỉnh Hải Hưng rồi nói: Báo cáo đại đội, tôi đưa anh em về nghỉ. Đúng là quân đội có khác, lúc nào cũng báo cáo, lúc nào cũng đồng chí, ai cũng là thủ trưởng, sao mà nhiều thủ trưởng thế. Tôi thoáng nghĩ như vậy rồi cũng xách túi, đứng lên theo trung đội trưởng. Chúng tôi lại đi ngoằn ngoèo trong ngõ rồi băng qua một cánh đồng. Đồng chí trung đội trưởng vừa đi vừa chủ động trò chuyện anh thủ thỉ nói: Trung đội ta hiện tại đóng quân ở thôn bên kia, trung đội đang được chọn là trung đội huấn luyện đột phá. Chết cha! Tôi chợt nghĩ ngay đến hình ảnh của các chiến sỹ trong các phim chiến đấu của ta hay của Trung Quốc. Những chiến sỹ cảm tử ôm các quả bộc phá to tròn như cái ống luồng, dài như cái đòn gánh, hoặc hình khối vuông lao lên các ụ súng, lô cốt hay các hàng rào dây thép gai, dưới những họng súng, hỏa lực của địch đang bắn xối xả. Có nhiều người trúng đạn ngã xuống, lại có đồng đội khác lên thay. Đôi khi phải mấy lần người bị trúng đạn, mấy lần người thay thế mới tới được ụ súng, hỏa điểm, hàng rào thép gai của địch. Giật nụ xòe rồi chạy ngược lại. Ầm! Tiếng nổ long trời, quầng lửa rực sáng. Rồi tiếng quân ta reo hò xông lên. Ôi! Như vậy là mình được chọn vào đơn vị bộ binh, mà lại là đơn vị cảm tử đây. Tôi thấy lo, rất lo không biết rồi sẽ thế nào?
          Nhiều ngày sau và bây giờ nghĩ lại tôi vẫn buồn cười, đôi khi thấy tự ngượng về cái suy nghĩ, cái không hiểu biết đấy. Vì cái từ “đơn vị huấn luyện đột phá” không phải là đơn vị cảm tử như tôi nghĩ, cũng không phải như hình ảnh trong các bộ phim tôi đã xem. Mà huấn luyện đột phá là đơn vị huấn luyện cũng là giáo trình thông thường, bài học thông thường theo chương trình. Có điều là được huấn luyện trước, để các trung đội khác học tập, rút kinh nghiệm thôi. Do sự không hiểu biết ấy, mà những ngày đầu tiên của đời lính đã làm cho tôi và không chỉ có tôi, mà nhiều người đã rất lo sợ. Thậm chí có vài người không thể tự đấu tranh được, nên bỏ trốn về nhà ngay từ ngày đầu tiên nhập ngũ.
          Băng qua cánh đồng vào rìa làng, vòng vèo một lúc rồi rẽ vào một nhà dân. Mọi người chắc đã đi ngủ nên không có đèn, tối om. Đồng chí trung đội trưởng gọi to: Đồng chí Thỉnh ơi. Tiếng ai đó nói vọng ra: Có tôi! Rồi thấy bóng người chạy ra. Đồng chí trung đội trưởng nói ngay: Đây là đồng chí Phú được bổ sung tăng cường cho tiểu đội 7 của đồng chí. Đồng chí làm quen sơ sơ rồi bố trí cho đồng chí Phú đi ngủ, vì anh em đã mệt rồi. Sáng mai cho anh em ăn sáng, nghỉ ngơi rồi lên tiểu đoàn nhận quân trang. Báo cáo: Rõ! Đồng chí Thỉnh dẫn tôi vào trong nhà. Anh chị chủ nhà cũng dậy, châm ngọn đèn dầu tỏa vầng sáng tù mù. Trên giường, một đồng chí bộ đội dáng cao gầy cũng ngồi dậy chào tôi. Tôi chào anh chị chủ nhà và quan sát xung quanh, ngôi nhà lợp rạ ba gian bé nhỏ có một buồng đầu nhà cho vợ chồng anh chị chủ. Gian giữa kê chiếc bàn gỗ mộc, trên tường treo ảnh Bác Hồ. Hai bên là ảnh mấy lãnh tụ cộng sản Quốc tế: Các-mác, Lê-nin. Cao nữa là lá cờ Tổ quốc. Cách trang trí thời ấy nhà nào cũng vậy. Tôi lấy bao thuốc lá Tam Đảo và gói kẹo sữa ra mời mọi người. Mọi người rối rít hỏi thăm tôi, tôi uể oải đón cốc nước từ tay anh chủ nhà rồi nghe mọi người hỏi là chính. Phần vì tôi thật sự mệt chỉ muốn nằm ngủ, phần vì vẫn phân vân bởi câu hỏi: Khi cần báo tin cho ai, cùng lời đồng chí trung đội trưởng giới thiệu: Trung đội ta là đơn vị huấn luyện đột phá. Những câu nói, câu hỏi đã làm tôi thật phân tâm, nên không hào hứng tiếp chuyện. Thấy tôi uể oải có vẻ không muốn nói chuyện, đồng chí Thỉnh tự giới thiệu, giọng nói nghe hiền hòa: Tôi là Đỗ Hữu Thỉnh đang là tiểu đội phó. Tôi là giáo viên dạy tiếng Nga ở trường cấp ba huyện Gia Lâm, Hà Nội. Tôi cũng mới nhập ngũ trước đồng chí được hơn chục ngày. Tiểu đội ta chưa có tiểu đội trưởng, nên tôi đang phụ trách tiểu đội. Còn đây là đồng chí Thắng quê Hưng Nhân, Thái Bình. Năm nay mới 18 tuổi chắc kém tuổi Phú, tiểu đội mình hiện có mười người. Như vậy anh em mình là tổ ba người. Chúng mình nghỉ tại nhà anh chị Thu đây, Phú mệt thì đi ra giếng rửa mặt mũi chân tay rồi đi nghỉ. Thắng nhanh nhẹn dẫn tôi ra giếng gạch xây trước nhà, kéo nước cho tôi rửa mặt. Ôi mát quá, dòng nước mát làm cho tôi tỉnh táo hơn. Tôi thực sự mệt, chân tay rã rời. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi bộ dài như thế này, vào nhà tôi xin phép mọi người đi nằm.
           Thắng vén màn cho tôi lên giường. Cái giường gỗ cũ kỹ, giát giường ken bằng tre nứa, khi tôi trèo lên phát ra tiếng kêu cót két, cót két chỉ sợ thụt gãy. Thắng ý tứ để cái túi xách tư trang của tôi phía cuối giường rồi nói: Anh Phú nằm trong nhé, em nằm giữa, còn anh Thỉnh nằm ngoài. Tôi nói: Thế nào cũng được. Vừa nằm xuống, tôi chun mũi, rùng mình vì mùi hôi hôi, ẩm mốc của cái chiếu cũ và chiếc gối mây chắc lâu không phơi, không giặt. Rồi tôi cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.


III


          Ùng ùng, ầm ầm, xoẹt đoành. Không phải bom, mà là sét đánh. Mưa, tiếng mưa rơi mỗi lúc một to, mọi người choàng thức tỉnh vì tiếng sét đánh gần. Chớp giật sáng lòe, tiếng nổ thật lớn rồi âm vang, giống như những tiếng bom nổ của máy bay Mỹ thả. Nhiều, rất nhiều gia đình ở miền Bắc bấy giờ đã chết, chết tan xác, chết mất xác vì những quả bom Mỹ rơi trúng trong lúc ngủ đêm. Một cái chết bất thần, chết cả nhà. Mưa, mưa ngày càng to, mái nhà lợp rạ cũ không ngăn nổi dòng nước chảy lớn, nước bắt đầu giột xuống lạch tạch rồi ngày càng nhiều. Anh em chúng tôi dậy ngồi thu mình vào một chỗ để trách nước giột. Anh Thỉnh đúng là dân nghiện nặng đã bật dậy châm thuốc hút. Mùi khói thuốc lá thơm thơm, anh rít thuốc thật dài, đầu điếu thuốc đỏ lâu thế kia là người hút thuốc thuộc loại nghiện nặng lắm. Tôi thức dậy đã thật tỉnh táo, cái mệt, cái buồn ngủ đã qua đi, bây giờ chắc khoảng hai giờ sáng. Tôi đã ngủ say khoảng mấy tiếng. Hôm qua, ngày nhập ngũ là thứ năm. Còn bây giờ đã sang sáng thứ sáu. Vậy là tôi đã đươc một ngày đời quân ngũ. Ngày đầu tiên, đêm đầu tiên của lính mà mưa to, mà gió lớn sấm sét ầm ĩ thế này, chắc đời lính của tôi báo hiệu những ác liệt, giông tố đây. Mưa gió, sấm sét đã gây một ấn tượng thật nhớ cho tôi cái ngày đầu tiên, cái đêm đầu tiên này. Không biết đời lính sẽ ra sao? Sao năm nay họ lấy quân nhiều thế? Cả các giáo viên, kỹ sư, sinh viên các trường cũng phải vào bộ đội. Anh Thỉnh là giáo viên Nga văn cấp ba thời đó là oai lắm, giá trị lắm mà cũng vẫn phải đi bộ đội. Tôi cứ trăn trở những câu hỏi về đời lính, về thời cuộc, về tình hình chiến sự mà không có lời giải đáp. Cuộc chiến tranh này không biết đến bao giờ.
           Tôi, thế hệ chúng tôi sinh ra trong chiến tranh, chúng tôi chỉ được sống trong hòa bình khoảng chục năm. Năm 1964 miền Bắc đã bị máy bay Mỹ  ném bom rồi. Không ngày nào trên bầu trời không có từng tốp, nhiều tốp máy bay bay qua. Những tiếng bom nổ xa rền vang. Những tiếng nổ lục bục trên bầu trời của đạn phòng không bắn máy bay. Đến đầu năm 1969 máy bay Mỹ mới tạm dừng không kích từ vĩ tuyến 20 trở ra. Mấy năm nay chúng lại tiếp tục ném bom khắp các tỉnh. Miền Nam chiến sự đang rất ác liệt. Quân ta và quân lực Việt Nam Cộng hòa đang giao tranh ác liệt. Quân lực Việt Nam Cộng hòa được sự hậu thuẫn của máy bay B52 và các loại máy bay khác ném bom rải thảm, cùng những pháo bầy, pháo hạm ngoài khơi hỗ trợ, quyết tâm cao độ chiếm giữ khu vực Thành Cổ Quảng Trị. Nghe nói cuộc chiến tại đây rất ảnh hưởng tới mặt trận ngoại giao. Cụ thể là bên bàn đàm phán Hội nghị Pa-ri bốn bên về vấn đề chiến tranh Việt Nam. Những ngày này, vùng Quảng Trị như là cái "cối xay thịt" của cả hai phía. Thương binh chuyển ra Trại an dưỡng Trà Lý cạnh xưởng đóng tàu chỗ tôi rất nhiều. Trại an dưỡng còn thiếu cả giường, thiếu cả phòng ở cho thương binh. Những người thương binh đã tương đối khỏe chưa đủ xếp loại thương tật, lại tiếp tục được điều động vào chiến trường. Nhiều người không được ở trong trại, mà phải vào ở trọ trong dân hoặc động viên lấy chế độ về quê nhường chỗ cho thương binh mới về. Thương binh mà nhiều như thế thì số hy sinh chắc phải nhiều lắm. Vẩn vơ triền miên với những suy nghĩ đó, trời vẫn mưa, nước vẫn giột. Anh chủ nhà đưa cho chúng tôi cái xô tôn để hứng nước, nói: Mai tôi mượn cái thang, chú nào biết dọi nhà, thì cùng phụ tôi dọi lại cho đỡ giột. Đúng là: "Cha già không bằng nhà giột" khổ lắm. Nhà này lợp lâu rồi mà chưa có điều kiện lợp lại.
           Tiếng nước rỏ xuống xô tôn nghe bong bong rồi chuyển sang tiếng tóp tóp thật nhanh vì nước trong xô đã nhiều. Nhìn anh Thỉnh hút thuốc lá, tôi rất thèm. Tôi đang phân vân định dậy hút thuốc thì anh Thỉnh nói: Còn mưa, dậy làm điếu thuốc đã ông Phú. Tôi nói: Vâng! Hay quá, em cũng đang thèm thuốc. Tôi quay sang bảo Thắng dậy hút thuốc. Thắng nói: Các anh hút đi, em còn bé chưa biết hút thuốc lá. Anh Thỉnh nói: Như thế là tốt, bọn anh nghiện thuốc lâu rồi, chú mày không biết hút thuốc lá càng tốt. Mấy tháng nữa vào Nam chiến đấu không có thuốc đâu mà hút. Ai nghiện thuốc lá, thuốc lào thì khổ lắm. Tôi châm điếu thuốc, rít một hơi thật sâu. Mùa hè ban chiều nóng thế nhưng trận mưa to đã làm trời mát lại. Giờ này đang đêm hơi lạnh, nên hút thuốc lá thật ngon. Anh Thỉnh tỉ tê hỏi chuyện tìm hiểu về tôi, tôi kể sơ qua về mình là chưa học hết cấp ba nhưng đã đi học trung cấp cơ khí và đang làm công nhân tại xưởng đóng tầu, nhà ở ngay thị xã Thái Bình. Anh Thỉnh nói: Lúc nãy trung đội trưởng Đởn cũng đã trao đổi qua với tôi rồi. Anh có dặn tôi là để ý giúp đỡ Phú, vì đại đội ta hiện giờ đủ các thành phần, giáo viên, sinh viên và cơ quan chiếm tới một nửa. Còn lại toàn anh em mới đủ tuổi nhập ngũ đều quê huyện Duyên Hà và Hưng Nhân. Có mấy trường hợp cả thầy giáo và học sinh cùng nhập ngũ đợt này, nhưng dân thị xã thì chỉ có mình Phú. Dân cơ quan các ông, mấy hôm trước không chịu được khổ, nhớ vợ, nhớ con, có vài ông bỏ về rồi. Tôi thoáng nghĩ: Chắc mấy ông này nghĩ tôi là dân thị xã, hay nghịch, hay đào ngũ đây, nên nhắc anh Thỉnh canh coi tôi cẩn thận. Tôi nói luôn: Em thì chỉ sợ mình yếu quá không học tập theo anh em được, chứ đã đi bộ đội thì dứt khoát không bao giờ đào ngũ. Bố em trước cũng là bộ đội chống Pháp mà. Tôi quay sang hỏi lại anh Thỉnh. Qua hỏi về anh, tôi được biết, anh Thỉnh hơn tôi 5 tuổi, quê ở Gia Lâm, Hà Nội. Anh học đại học Sư phạm Ngoại ngữ, ra trường đã làm thầy giáo được ba năm. Hiện tại anh chưa có vợ nhưng đã có người yêu cùng trường. Hai anh em tôi có vẻ hợp chuyện và nhanh chóng thân thiện. Hút hết hai điếu thuốc thì trời tạnh mưa. Nhà đã hết giột, chúng tôi lên giường ngủ tiếp. Đêm đầu tiên đời lính của tôi ấn tượng đáng nhớ như vậy đấy.
         


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Mười Một, 2021, 09:44:59 am

                      Tuýt…tuýt.. tuýt tuýt... tuýt tuýt. Dậy đi, dậy đi, gọi anh em dậy tập thể dục đi đồng chí Thỉnh ơi. Tuýt…tuýt tuýt. Tôi ngơ ngác không biết chuyện gì. Định thần một chút thấy anh Thỉnh bật dậy rồi lay gọi Thắng: Đến giờ báo thức tập thể dục rồi, dậy Thắng ơi. Nhanh, nhanh không lại muộn như hôm qua bị phê bình đấy. Tiếng Thắng ú ớ: Ề… Em đang ngủ, rồi quay trở mình vào phía tôi. Anh Thỉnh cầm tay Thắng kéo dậy giọng dứt khoát hơn: Dậy đi, nào dậy ngay cho quen đi, mai kia vào chiến trường phải thức cả đêm mà vẫn còn phải chiến đấu nữa ấy chứ. Dậy đi, dậy đi. Thắng ề à rồi cũng dậy theo tay kéo của anh Thỉnh. À, đã tới giờ báo thức. Tôi hé mắt nhìn mà sao trời vẫn chưa sáng lắm, tôi hỏi anh Thỉnh mấy giờ rồi mà sao dậy sớm thế. Anh Thỉnh nói: Báo thức lúc 5 giờ, trực ban trung đội đi thổi còi báo thức đấy, mọi người phải tập trung ra sân kho tập thể dục. Nhưng hôm nay Phú còn được nghỉ không phải dậy tập thể dục đâu, Phú cứ ngủ tiếp đi. Anh Thỉnh và Thắng đã dậy và chạy ra chỗ tập trung, tiếng bước chạy xa dần. Trời! Bộ đội phải dậy sớm thế, tôi là chúa ghét việc dậy sớm. Dậy sớm thế này thì khổ lắm, đây là một trong những điều mà tôi ngại nhất, sợ nhất.
          Nhớ lại khi ở nhà, những ngày về nghỉ lễ, tối thứ bẩy và chủ nhật, sáng thứ hai bố con tôi mới xuống xí nghiệp. Những ngày đó là phải dậy từ lúc bốn giờ sáng, bố tôi gọi mãi tôi mới dậy được. Tuổi trẻ về nghỉ lễ, đi chơi với bạn, thức khuya ít ngủ nên rất ngại dậy sớm. Trái ngược với bố tôi vẫn tác phong quân đội nên việc ông dậy sớm hay dậy muộn rất chủ động. Mặc dù tôi đang rất thèm ngủ nhưng giọng của ông gọi dậy rất đanh, rất dứt khoát làm cho tôi không thể nào nằm thêm được lúc nữa. Hôm nay mình được nghỉ không phải dậy sớm nhưng ngày mai lại cũng phải dậy như anh em chắc khổ lắm đây. Vẩn vơ nghĩ ngợi, tiếng hô chạy một hai, một hai xa xa vọng lại, tôi lại chìm vào giấc ngủ.
          Anh Phú ơi, dậy ăn cơm. Nghe tiếng Thắng gọi tôi choàng tỉnh dậy. Trời đã sáng hẳn định thần giây lát tôi hỏi anh em đi tập thể dục về rồi à? Thắng nói: Anh em em đã đánh răng rửa mặt và ăn sáng rồi. Em lấy cơm về cho anh đây này. Anh dậy làm vệ sinh rồi ăn sáng, em với anh Thỉnh lại chuẩn bị đi tập bây giờ. Tôi nói: Muộn thế rồi cơ à? Mấy giờ rồi Thắng? Anh ngủ say quá. Anh Thỉnh nói: Gần bẩy giờ rồi Phú dậy ăn sáng rồi nghỉ ở nhà, anh em tôi đi tập, khi nào có lệnh thì lên đại đội nhận tư trang súng đạn. Tôi choàng dậy, đúng là sau khi anh em đi tập thể dục, mình ngủ say quá. Tôi đi làm vệ sinh cá nhân rồi ra giếng nước kéo nước đánh răng rửa mặt. Giấc ngủ sâu và nước mát rửa mặt đã làm cho tôi lấy lại được sức khỏe và sự tỉnh táo. Nhưng chân tay còn mỏi nhừ do trận đi bộ ngày hôm qua. Anh chị chủ nhà cũng đã dậy từ khi nào. Chị Thu nói: Hôm qua đi bộ dài chắc mệt, thấy chú ngủ ngon quá, tôi cho cháu đi nhà trẻ, anh đi ra đồng rồi. Chú cứ ở nhà, có khoai luộc để phần đấy chú ăn thêm kẻo đói. Tôi nói: Em cảm ơn anh chị, em có cơm rồi, nhìn bát cơm đầy ắp tôi nói: Có mình anh mà sao nhiều cơm thế Thắng? Thắng nói: Sợ anh đói mệt nên em lấy nhiều cho anh đấy. Tôi nói: Anh cảm ơn, nhưng anh ăn sao hết Thắng ăn nữa đi. Tôi sẻ bát cơm làm đôi nhìn bát nước mắm trong veo tôi hỏi: Nước mắm đây à? Thắng nói: Đúng rồi, nước mắm nhưng là nước gạo rang cho muối vào chứ không có nước mắm như ở nhà mình đâu anh. Tôi thở dài ngao ngán, lấy thìa múc tí nước cho lên miệng nếm thử độ mặn nhạt của nó. Đúng là nước muối mặn mặn chứ chẳng có hương vị gì. Tôi chan loại “nước mắm” đặc biệt này vào cơm rồi uể oải xúc cơm ăn. Cố mãi, tôi cũng ăn hết bát cơm đặc biệt đầu tiên đó. Mọi người đã đi tập, anh chị chủ nhà đã đi làm, còn mình tôi ở nhà tự nhiên thấy trống trải buồn buồn.
            Tiếng gà kêu quang quác tranh ăn, ngôi nhà của anh chị chủ nhỏ bé có ba gian lợp rạ, mái lợp đã cũ. Trên trần nhà mạng nhện giăng đầy, đồ đạc chẳng có gì gọi là giá trị, sân vẫn chưa được lát gạch. Những đống giun đất đùn lên từng đám, từng đám. Hôm qua mưa to trên mặt sân có những con giun thật to đang bò lên khỏi tổ làm mồi cho lũ gà tranh ăn. Hai con gà nhép đang tranh nhau mỗi con ngậm một đầu con giun kéo qua, kéo lại như thợ xẻ cưa trông thật buồn cười. Mới mưa nên trời trong veo quang đãng. Trước nhà không có cây cối to mà trồng lạc, trồng đỗ, chắc gia chủ mới lập thổ ở đây. Đặc biệt sao ở quê mà lại không có chó, đúng là từ hôm qua đến giờ tôi không nghe tiếng chó sủa. Hình như vừa rồi toàn tỉnh đang có chủ trương diệt chó vì năm qua trời nóng, chó phát điên, phát dại cắn người nhiều. Thuốc phòng chó dại chưa có đã có nhiều trường hợp chết vì chó dại cắn. Nghe kể người bị chó dại cắn khi lên cơn điên chết rất thương tâm.
        Tôi vòng quanh nhà một lúc rồi lên giường nằm hút thuốc lá. Nằm ngửa trên giường, đã quen hơi nên không cảm thấy kinh kinh như hôm qua nữa. Tôi rít thuốc thật sâu, ngon quá, tôi nhả khói ra từ từ tận hưởng những khoái cảm của điếu thuốc. Thỉnh thoảng lại có những vòng tròn tạo ra từ khói bay lên cao to dần rồi tan biến. Thảnh thơi, đời lính ngày đầu tiên thế này thật thảnh thơi không biết cuộc sống những tháng ngày tới sẽ ra sao. Bỗng chốc tôi thấy nhớ nhà, nhớ tiếng máy, nhớ tiếng búa, nhớ tiếng gõ rỉ tầu như bản hòa ca của tổ sơn tổ gõ rỉ toàn công nhân nữ. Tôi nhớ công việc của mình, công việc của người thợ hàn cắt hơi ô-xy của tôi không phải là nhàn nhã như thợ tiện, thợ máy. Nhưng mọi người nói nếu so với đời bộ đội, thì đời công nhân vất vả mấy cũng còn sướng chán. Bây giờ tôi mới nếm trải đời bộ đội nên chưa biết cái khổ như thế nào nữa. Thôi thì kệ, muốn đến đâu thì đến, thời đó tuổi trẻ chúng tôi và mọi người không có nhiều sự lựa chọn. Hầu như tất cả mọi người đều làm việc theo sự phân công của tổ chức, của đoàn thể. Vào bộ đội thì sẽ nhất nhất theo mệnh lệnh của chỉ huy. Đang miên man với suy nghĩ vẩn vơ thì anh Thỉnh về báo tôi lên đại đội nhận vũ khí và quân tư trang.
           Tôi cùng anh Thỉnh trở lại con đường băng qua cánh đồng mà tối hôm qua đã đến để sang nhà Ban chỉ huy đại đội. Tôi đến sau cùng, bốn đồng chí kia đã đang nhận tư trang. Mọi người đang ướm, đang thử cỡ và đổi chọn bộ quần áo cho vừa ý. Không đông lắm mà nghe cũng rất ồn ào. Tiếng đại đội phó oang oang: Bộ nào cũng được, đổi làm gì, tập đấy mà, mai kia huấn luyện xong, phát quân tư trang đi B toàn đồ mới cứng thôi. Các đồng chí nhận khẩn trương để còn nhận vũ khí, trang thiết bị xẻng cuốc về lau chùi. Tiếng cô Nhì quản lý thì từ tốn: Chỉ có mấy bộ cho mấy anh, không anh này lấy thì anh kia nhận, các anh cứ đổi thoải mái. Đến lượt tôi, cô Nhì nhìn tôi hơi lâu mỉm cười nói: Cao như đồng chí này thì mặc bộ nào cũng đẹp. Mời anh nhận từng thứ, nhận ba lô trước để cho các thứ vào cho gọn. Như vậy là rất nhiều thứ, riêng quần áo dài thì được phát hai bộ loại vải mỏng, nhưng chỉ có một bộ mới còn lại một bộ cũ.
           Cụ thể các loại được nhận theo danh mục sau: Ba lô: 1 cái, loại ba lô vuông (đã qua sử dụng); quần áo dài loại vải phin mỏng màu xanh 2 bộ (một bộ đã qua sử dụng); áo lót ngắn tay màu xanh cổ vuông 2 cái; quần đùi màu xanh có chun 2 bên hông 2 cái; chăn đơn mỏng 1 cái (đã qua sử dụng); màn vải thường màu xanh 1 cái (đã qua sử dụng); chiếu cá nhân 1 cái; bát sắt ăn cơm màu xanh tráng men 1 cái (loại to mọi người hay gọi là bát B52); dép cao su đúc 1 đôi (đã qua sử dụng); xanh-tuya lưng màu đỏ 1 cái (đã qua sử dụng); giầy vải thấp cổ màu xanh 1 đôi; bít tất màu xanh 2 đôi; xà phòng bánh Liên xô 1 bánh loại 72%; khăn mặt màu xanh 2 cái; mũ cối gia công 1 cái (đã qua sử dụng); bông băng cá nhân 1 túi; đường vàng 1 gói 0,5 ki-lô-gam.
         Như vậy quân tư trang cá nhân là 17 thứ, có một số thứ đã qua sử dụng. Chắc quân nhu khi phát quân tư trang đi B đã thu lại đồ cũ để cho bộ đội tân binh tập luyện. Sau màn nhận quân tư trang, quản lý Nhì kỹ càng bắt mọi người ký nhận, tiếp đến cô phát tiền cho mỗi người 5 đồng, toàn tờ 1 đồng mới tinh, cô nói là tiền tháng đầu tiên cấp binh nhì của các anh và cũng bắt mọi người ký nhận. Cầm 5 đồng trong tay tôi tần ngần, mình đang là công nhân 51 đồng lương chính, nếu tính cả thâm niên, cả phụ cấp độc hại là gần 60 đồng, mà bây giờ vào môi trường khổ hơn, ác liệt hơn, nguy hiểm hơn, mà lương hay gọi là phụ cấp không bằng một phần mười lương công nhân. Có gì đó trào lên trong tôi sự mâu thuẫn bất công, không hợp lý tí nào. Thật buồn, nhưng cũng chẳng ai phản đối vì thời đó ai dám phản đối, tất cả là theo sự phân công của tổ chức.
           Sau khi nhận xong quân tư trang, phụ cấp, đồng chí Sung vẫn cái giọng oang oang: Nào, xong chưa? Các đồng chí sang đây nhận vũ khí trang thiết bị về lau chùi chứ không thì muộn rồi! Ngoài đầu hiên nhà xếp một số trang thiết bị, tôi được nhận một khẩu súng AK báng gấp còn mới nguyên trong túi ni-lon màu xanh. Toàn thể vũ khí trang bị tôi được nhận như sau: Súng AK báng gấp 1 khẩu cùng túi đeo 3 băng đạn (súng còn trong túi nilon); xẻng bộ binh 1 cái (có người được phát cuốc bộ binh); xanh- tuya rông to bản 1 cái (đã qua sử dụng); bi đông đựng nước (đã qua sử dụng), túi vải đeo lựu đạn 1 cái và một túi phụ tùng thông nòng súng, vịt dầu, vải phin trắng làm giẻ lau. Như vậy trang bị vũ khí gồm 5 thứ.
             Quản lý Nhì cũng sang xem chúng tôi nhận trang bị. Hai tay cô vuốt vuốt nghịch lọn tóc dài đen óng vắt vòng qua vai về phía trước ngực, nhìn tôi thân thiện cô nói: Đại đội phó Sung ưu tiên cho anh Phú là dân thị xã nên được phát súng AK báng gấp mới rất gọn nhẹ đấy nhé, anh phải cảm ơn đại đội phó đi. Đúng là như vậy, tôi để ý kỹ thì bốn đồng đội kia được nhận súng AK báng gỗ đã cũ. Có một người còn phải nhận khẩu súng trường K63 rất dài, trên đầu có gắn cái lưỡi lê 4 cạnh trắng toát, trông gầm ghì ghê ghê. Như vậy thì đúng là tôi may thật, tôi cảm ơn cô Nhì và cảm ơn đại đội phó Sung. Ông bắt tay tôi nói: Cô Nhì nói đúng đấy, cao kều như ông lẽ ra phải được trang bị súng trường K63 dài kia nhưng đây là ưu tiên cho ông đấy, về tháo ra, đun nước sôi lau chùi, rửa hết mỡ rồi bảo quản, tập luyện cho tốt nhé. Nói anh em cũ giúp tháo lắp lau chùi. Thôi bây giờ nhận các thứ xong rồi, các ông về đi.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Mười Một, 2021, 09:47:04 am

          Tôi khoác ba lô, cầm xẻng cùng một số thứ linh tinh, còn anh Thỉnh mang cho tôi bọc súng. Anh em tôi lại băng qua cánh đồng về nơi đóng quân. Về tới nhà chủ, đã thấy trung đội trưởng Đởn, Thắng cùng vài anh em nữa vừa đi tập về, đang chuyện trò như có ý đợi anh em tôi. Thấy tôi Thắng chạy ra đón, vừa chạy vừa nói: Mọi người đang đợi các anh, có cả trung đội trưởng nữa. Chúng tôi vào nhà, vừa nhìn thấy anh em tôi, trung đội trưởng Đởn nói ngay: Các ông nhận được những gì mà sao về muộn thế? Anh Thỉnh trả lời giọng hồ hởi: Báo cáo trung đội trưởng, đồng chí Phú đã nhận được đủ quân tư trang, thiết bị. Riêng vũ khí thì được nhận khẩu AK báng gấp mới cứng còn nguyên trong bọc đây. Trung đội trưởng Đởn nói: Ủa, AK báng gấp cơ à? Sao ông Phú may thế. Súng này với tân binh là hiếm lắm đấy nhé. Bây giờ ông Thỉnh cho anh em đi lấy cơm về ăn, rồi tổ chức lau chùi vũ khí cho tốt, phải mượn xoong nhà chủ đun một nồi nước sôi mới rửa sạch được mỡ bảo quản đấy. Tôi sẽ cử một tiểu đội trưởng sang hướng dẫn các ông tháo lắp. À, tôi hỏi đại đội có cấp đạn không? Anh Thỉnh nói: Báo cáo là không có đạn mà chỉ có súng thôi. Trung đội trưởng nói: Vậy à, phải giữ gìn bảo quản trang bị cho tốt đấy ông Phú nhé, chiều nay ông Thỉnh với ông Phú ở nhà lau chùi, tập tháo lắp súng. Hướng dẫn ông Phú làm dây đeo xẻng, xin tre về làm vòng ngụy trang rồi còn đẽo lựu đạn nữa, để mai đi tập có trang bị như anh em. Chỉ sang bên anh Đởn anh nói: Đây là đồng chí Văn, tăng cường cho tiểu đội đồng chí. Phân công cho ông Phú, ông Thắng, ông Văn là một tổ ba người để ông Phú lớn tuổi làm tổ trưởng. Anh Thỉnh nói: Rõ! Trung đội trưởng cùng mấy người đi về.
           Còn lại anh em chúng tôi, anh Thỉnh phân công hai người đi lấy cơm cho tiểu đội. Cùng lúc anh chị chủ nhà cũng đi làm đồng về, chị chủ nhà vồn vã: Tưởng chú Phú đã có quần áo bộ đội mới mà chưa thấy mặc à? Tôi nói: Em mới đi nhận về. Chị nói: Quần áo mới và chăn màn để trong kho lâu rồi hay bị ẩm mốc lắm, chú bỏ cả ra đây chị giặt cho, phơi ngay cho khô rồi hãy mặc. Tôi nói: Vâng, em cũng định thế. Tôi bỏ những thứ cần giặt ra ngâm vào chậu nước, chiếu thì không giặt, phơi ngay. Riêng gói đường bọc giấy đã thấm ướt ra gói, tôi đưa cho chị chủ và nói: Em biếu chị cho cháu, em không dùng đâu. Chị chủ nói: Chú cất đi để dùng, chứ mấy hôm nữa tập mệt lắm đấy để pha nước uống cho đỡ mệt. Tôi nói: Chị cứ cất đi để khi nào nấu cháo, nấu chè ăn. Chị chủ sôi nổi hẳn lên nói: À, vậy ít ngày nữa là mùng năm tháng năm Tết giết sâu bọ, để nấu chè đỗ mới cũng được. Tôi tần ngần nói: Vậy hả chị? Chúng em chẳng nhớ gì đến ngày Tết giết sâu bọ nữa. Tôi lấy bánh xà phòng mới được cấp ra để giặt quần áo. Anh chủ nói: Chú cứ để đấy chị nấu cơm xong giặt cho chú, ngâm chút nữa cho dễ giặt. Anh vừa nói vừa đi xuống bếp. Lúc này tôi mới để ý kỹ dáng đi của anh, anh có dị tật gì đó nên bước đi không bình thường như là chân cao, chân thấp. Tôi thoáng nghĩ à như vậy cho nên anh được ở nhà không phải đi bộ đội. Thời đó chiến tranh ai mà bị những dị tật bẩm sinh như thế này, hoặc sức khỏe không đảm bảo được ở nhà là may, là hiếm lắm. Những người đó gọi là: “đắt như tôm tươi”, hay thuộc loại “mỳ chính cánh” trong việc lấy vợ. Nhất là những ai lại có ngành nghề như thợ mộc, máy khâu, sửa xe đạp hay cắt tóc, chụp ảnh vv.. thì càng có giá cao hơn. Thời đó trong dân gian còn có câu ca: “mặt rỗ, chân khèo, bố có máy khâu, lấy đâu chẳng được vợ đẹp”. Vì trai tráng đi bộ đội ra trận gần hết, phụ nữ ở nông thôn phải làm những công việc nặng nhọc của đàn ông, con trai như đi cầy, đi bừa, vác đất đào mương, làm đường. Ngoài ra còn phải cầm súng, tham gia dân quân tự vệ bảo vệ an ninh xóm làng, trực chiến bắn máy bay Mỹ nữa. Hoặc rất nhiều chị em cũng đi Thanh niên xung phong, đi dân công hỏa tuyến vào “tuyến lửa” làm đường, cũng phải chịu vất vả, khổ cực, thiếu thốn như bộ đội. Địa phương nào cũng có phong trào phụ nữ ba đảm đang, còn có hẳn cả một bài hát về dân quân tự vệ nữ bắn máy bay Mỹ. Hay bài hát rất nổi tiếng “Đường cày đảm đang” nói về phụ nữ làm thay công việc của đàn ông ra trận.
            Những hình ảnh người phụ nữ vai khoác súng trường vừa đi bừa, đi cầy, đi cấy đã trở thành hình ảnh quen thuộc ở khắp các vùng quê. Các đấng “mày râu” mà được ở nhà không phải vào bộ đội, không phải ra trận thì tha hồ mà chọn vợ. Rất nhiều người có dị tật bẩm sinh mà lấy được những cô gái rất xinh đẹp nhất làng làm vợ, trông khập khiễng chẳng xứng đôi tý nào. Nhiều cô dâu khi được manh mối lấy chồng, ngày cưới khóc thút tha thút thít. Họ khóc, không phải khóc đơn thuần như việc con gái lấy chồng phải xa mẹ mà khóc cho số phận thời cuộc đen bạc phải lấy người chồng bị dị tật, xấu trai không ưng ý. Hoặc khóc vì thương nhớ người mình yêu đang ở chiến trường, người yêu lý tưởng của mình không được tận hưởng những ái ân hạnh phúc mà đáng lẽ ra họ phải được tận hưởng trong ngày cưới này, trong đêm tân hôn này.
          Thắng và Văn đã đi lấy cơm về cùng mấy anh em trong tiểu đội. Như vậy là đủ mâm sáu người, một nửa tiểu đội ăn ở nhà khác. Căn nhà bỗng chốc sôi động hẳn lên, mọi người chào hỏi làm quen tôi. Bữa cơm đầu tiên đời bộ đội có cá đồng loại nhỏ kho cùng với chuối xanh. Có cả thịt lợn kho, mỗi người được một miếng thái mỏng, trông toàn bì với mỡ trắng ởn. Có rau muống luộc chấm với loại nước chấm đặc biệt như buổi sáng. Tất cả được đựng vào cái vung xoong nhôm màu xanh xỉn, có ba đường gân chia cái vung làm ba phần thay đĩa đựng thức ăn. Canh thì có nước rau muống, bộ đội có mì chính nên nước rau cũng ngọt. Cơm thì không thiếu, không phải ăn độn. Nhưng gạo cũ để lâu năm đã có mùi mục, cùng những con mọt gạo đãi không hết. Thời đó khẩu phần ăn của bộ đội, của mọi người được như thế là cao cấp lắm rồi. Tôi sực nhớ ra cái gói thuốc mà ông Đảng đưa cho, lấy 5 viên cho vào nồi canh. Nước rau muống đang xanh đục trở lên trong veo, phớt hồng. Tạo lên vị chua chua, chan cơm ai ăn cũng thích. Tôi vốn kén ăn, lại ăn rất yếu. Nhưng các anh em khác, nhất là anh em ở vùng quê thì cứ gọi là ăn theo kiểu “thủng nồi, trôi rế”. Anh em nhập ngũ trước tôi hơn chục ngày nên nếp ăn, nếp ở đã quen, lại đi tập về đói mệt nên mọi người ăn rất nhanh. Thấy tôi cầm đũa gắp thức ăn vẫn bằng một đầu như ở nhà. Anh Thỉnh nói: Phú phải tập ăn đũa hai đầu như mọi người đi. Bộ đội quy định là phải ăn đũa hai đầu tức là tay cầm ở giữa, và cơm một đầu, khi muốn gắp vào thức ăn thì phải tráo đầu đũa mới gắp cho hợp vệ sinh. À! Lại còn thế nữa, tôi tập ăn như vậy thấy gượng gạo. Theo quan sát của tôi thì có thể lại không hợp vệ sinh theo thẩm mỹ nữa. Vì khi gắp thức ăn thế nào thức ăn cũng còn dính lên đầu đũa. Khi mình đổi đầu đũa và cơm thì như vậy đầu trên vẫn có thức ăn dính trông chẳng văn minh tý nào. Nhưng bộ đội là thế, quy định mọi người ăn thế. Vì tránh nhiều người ăn chung, rồi có người mút đũa rồi lại gắp vào thức ăn, gây phản cảm mất vệ sinh. Đũa của tôi ngắn, nên ăn kiểu đó hơi khó. Thắng thấy thế đứng dậy lấy tặng tôi đôi đũa mới vót bằng tre, dài hơn đôi đũa tôi đang dùng khoảng 5 cm. Đúng là đũa dài ăn theo kiểu ăn đũa hai đầu dễ hơn. Bữa cơm đầu tiên ầm ào rối rít rồi cũng xong. Anh em bàn tán sôi nổi em nọ em kia, chị nọ, chị kia, đẹp đẹp, xinh xinh, toàn chị em quê vùng mỏ Quảng Ninh rất bạo dạn. À, anh em đang bàn tán về các chị em nuôi quân. Như vậy ngoài bộ đội tập luyện ra còn lại là nuôi quân, tiếp phẩm, quản lý toàn là nữ, tôi chưa tiếp xúc với bộ đội nữ bao giờ trừ cô Nhì quản lý. Nhưng qua sự bàn tán của anh em tôi cũng cảm thấy vui vui, để khi nào phải đi lấy cơm xem mặt chị em thế nào.
         Mọi người vội vã về nghỉ trưa, anh Thỉnh cũng giục tôi và Thắng đi ngủ. Anh chị chủ nhà ăn cơm ngay tại bếp, chị chủ nhà rất nhanh nhẹn. Trong lúc chúng tôi đang ăn cơm thì chị nấu cơm xong. Trong khi đợi cơm chín, chị đã tranh thủ giặt cho tôi toàn bộ số quần áo tư trang, phơi giăng đầy trước sân. Tôi cảm ơn chị chủ rồi cũng lên giường nằm nghỉ. Trời nóng quá, trằn trọc mãi mà chẳng ngủ được. Đúng là chỉ có hai ngày mà cuộc sống đã thay đổi hẳn so với nếp sống của công nhân. Tôi dậy đi xuống bếp nói chuyện với anh chị chủ nhà. Anh chị còn trẻ, nhìn cuộc sống đạm bạc của anh chị chủ, cơm độn khoai, thức ăn thì có mấy con tép, rau thì hái ở vườn nhà. Bát đĩa thì toàn loại cũ mèm sứt sẹo. Vợ chồng chị chủ có vẻ tâm đầu ý hợp, vừa ăn vừa nói chuyện đồng áng, lúa má thật rôm rả. Thấy tôi xuống, cả anh chị đều tranh nhau hỏi thăm tôi về gia đình bố mẹ anh chị em. Anh chị nói: Biết tôi là dân thị xã lại là công nhân nên nếp sống tác phong khác hẳn những anh em khác. Các thầy giáo thì đạo mạo, anh em ở quê thì ngây thơ quê mùa, anh chị có vẻ rất quý và nể trọng tôi.
           Bỗng chốc tôi có cảm giác trào lên bâng khuâng thèm khát có được cuộc sống vợ chồng như anh chị chủ. Một cuộc sống lứa đôi thật mộc mạc mà thời ấy mọi người hay ca ngợi “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Thấy tôi nói là làm nghề thợ hàn hơi, chị chủ vồ vập hỏi: Thế chú làm thợ hàn, có hàn được nồi nhôm không? Anh chị có mấy cái nồi bị thủng. Có cái nồi nấu cám lợn to cũng thủng, bây giờ không biết lấy nồi nào nấu cám, mãi mà chưa thấy mấy ông hàn nồi đi qua. Tôi phì cười nghĩ chắc chị nghĩ tôi cũng giống như mấy ông thợ hàn nồi già gánh hai cái sọt lớn, toòng teng mấy cái nồi, cái ấm hỏng đi đổi, hàn, vá những xoong nhôm, nồi đồng bị thủng. Tôi nói: Em không phải thợ hàn nồi như các ông thợ đi rong mà là thợ hàn những con tàu, cano hay xà-lan rất lớn đi sông đi biển. Phải có điện, có khí, có máy hàn hiện đại mới làm được. Nghĩ một chút hình ảnh mấy ông hàn nồi mà tôi cũng đã có dịp xem ông làm, tôi nói: Nhưng em cũng đã xem người ta hàn vá nồi rồi, chị cứ bỏ xoong nồi thủng ra, để chiều lau chùi vũ khí xong, em xem có làm được không. Chị chủ nhà vui hẳn lên, nói chú giúp được chị thì tốt quá, còn lựu đạn gỗ thì chú không phải đẽo. Ở nhà anh chị còn cất đi mấy quả lựu đạn của mấy chú trước khi đi B được lĩnh lựu đạn thật, các chú cho anh chị làm củi nhưng chị không đun mà vẫn giữ cất đi. Có cả vòng ngụy trang nữa. Tôi nói: Ồ, thế thì tốt quá anh chị cho em, em đỡ phải đẽo. Cùng lúc còi báo thức vang lên. Đã nghe vẳng tiếng anh Thỉnh giục Thắng dậy chuẩn bị đi tập. Anh Thỉnh chắc không thấy tôi đâu, chạy ngay xuống bếp. Thấy tôi ngồi chuyện trò với anh chị chủ, anh Thỉnh hỏi: Ơ, thế Phú không ngủ trưa à? Tôi chưa kịp trả lời thì chị chủ đã nói vui: Chắc nhận được súng mới nên chú Phú thao thức không ngủ được. Cùng lúc liên lạc trung đội dẫn một anh bộ đội sang giới thiệu: Báo cáo anh Thỉnh đây là anh Loan tiểu đội trưởng, sang hướng dẫn các anh tháo lắp, lau chùi súng.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Mười Một, 2021, 09:48:35 am

                 Chúng tôi mượn của anh chị chủ cái mẹt, trải lên một lớp giấy xi măng rồi xé bọc súng ra. Trời! Bọc súng đắp rất nhiều mỡ bảo quản, loại mỡ bò công nghiệp vàng ươm. Chúng tôi gạt gom ngay bên ngoài đã được rất nhiều mỡ. Nòng súng cũng được nhét đặc mỡ. Tôi gom tất cả số mỡ bảo quản lại đưa cho anh chủ nói anh gói cất đi để dùng, cho vào các ổ bi xe đạp vào cả xích nữa cũng rất tốt, mỡ này là quý lắm, nhưng là mỡ công nghiệp không ăn được đâu. Chị chủ lấy thêm cho chúng tôi mấy cái áo rách để lau sơ qua. Lau đi lau lại mà súng vẫn nhớp mỡ, lúc này nồi nước sôi mới có tác dụng, anh Loan tháo từng bộ phận súng rồi lấy giẻ đã được nhúng nước sôi lau súng. Một hai lần như vậy khẩu súng mới cầm được, không bị dính nhớp mỡ nữa. Khẩu súng thật đẹp, màu gỗ ốp cánh gián vàng đanh, những phần kim loại được nhuộm đen kít, ai cũng trầm trồ khen đẹp. Bắt đầu anh Loan hướng dẫn chúng tôi cách tháo lắp súng, anh nói: Trước khi tháo súng, phải tháo băng tiếp đạn ra trước, ở đây súng mới chưa lắp băng tiếp đạn thì mình vẫn phải lên quy lát. Nếu súng có đạn thì đạn văng ra, sau đó chĩa lên trời bóp có súng. Vừa nói anh vừa làm lên quy lát xoạch roóp rồi chĩa súng lên trời bóp cò, búa đập “chát” đanh gọn.
           Anh nói tiếp: Khi tháo súng theo nguyên tắc: Bộ phận nào tháo ra trước thì để xuống trước như xếp hàng lần lượt thứ tự từ phải sang trái. Khi lắp súng thì ngược lại, bộ phận nào tháo ra sau thì lắp trước, không được để lẫn lộn lung tung. Anh Loan nói: Các ông tập tháo lắp cho thật quen, thật nhanh, quen đến mức độ bịt mắt vào vẫn có thể tháo lắp súng được. Đấy là tình huống trong chiến đấu ban đêm súng bị hóc đạn, phải nhanh chóng xử lý tháo súng lấy đạn hóc ra. Các ông cứ bình tĩnh từ từ rồi quen. Với tôi thì những việc này quá đơn giản, anh Loan chỉ hướng dẫn qua một lần là tôi làm tốt được ngay. Vì thực ra thời học cơ khí tháo lắp động cơ ô-tô có nhiều chi tiết phức tạp hơn tôi đã làm qua, cũng đã học tháo lắp ban đêm nữa. Nên khẩu súng hơn chục bộ phận này không có gì đáng ngại.
          Sau khi mọi người đã tháo lắp súng thành thạo, tôi mới sực nhớ ra chuyện cái nồi cám lợn của anh chị chủ, tôi nói chị cầm ra cho tôi xem. Đây là cái nồi nhôm gò quá cũ, đáy nồi lỗ thủng lớn bị cháy do nấu cám khê. Việc này không thật khó, chỉ sợ không có những vật liệu mình cần. Tôi đi quanh nhà ngó nghiêng tìm vật liệu, anh chủ hỏi tôi tìm gì? Tôi nói: Em có thể vá được cái nồi này nhưng anh xem nhà ta hay hàng xóm có mảnh nhôm hay mảnh đồng mỏng nào không. Nghĩ một lúc anh chủ chạy sang hàng xóm mang về một đoạn chắn bùn xe đạp bằng nhôm. Tôi xem và nói, miếng nhôm này hơi mỏng vá dùng tạm được. Nhưng anh chị kiếm cho em cái búa nhỏ và cái kéo, cái kìm. Vừa nói nhưng tôi vừa nghĩ, nhớ lại cái cách mà ông thợ hàn nồi đã vá nồi mà tôi được xem. Anh chủ vào nhà lấy kéo, búa, kìm ra cho tôi. Tôi nói chị chủ đánh rửa thật sạch cho tôi cái nồi. Rồi tôi lấy cái kéo gọt cho chỗ bị cháy thủng tròn to ra để mép cháy không bị nham nhở. Gọt xong chỗ thủng to bằng miệng chén, tôi tán cho miếng nhôm chắn bùn phẳng ra rồi ốp vào khoanh lấy dấu kích thước. Rồi tiếp tục cắt miếng nhôm to hẳn ra, dùng kéo cắt mép hình gập vào cho chờm khỏi lỗ thủng, ấp vào lỗ thủng rồi bẻ ngược các chân rết ra. Mọi người xem chăm chú tôi làm như một người thợ hàn nồi thực thụ. Tôi dùng búa tán nhẹ các chân rết ép chặt xuống. Như vậy cơ bản là nồi đã được hàn vá kín, anh chị chủ thì cứ trầm trồ khen tôi khéo tay. Chị chủ nói: Chú làm giỏi quá, cho chị xin để nấu cám lợn ngay. Tôi nói: Thế này mới tạm được chứ chưa kín nước đâu. Chị chủ cầm cái nồi giơ lên trời xem còn lỗ thủng không rồi nói: Hết thủng, tốt rồi, kín rồi chú à. Tôi nói chưa kín đâu, muốn kín không bị rò nước, anh đi kiếm cho em một ít vôi ăn trầu. Anh chủ lại chạy đi xin vôi, tôi thì ra sau vườn hái tàu lá khoai ngứa, vo viên cùng vôi cho vào cái bát giã nhuyễn. Rồi lấy thứ vôi lá khoai tổng hợp đó chà miết vào toàn bộ khe kẽ của chỗ vá cả trong lẫn ngoài. Xong! Tôi nói đây là bí mật nhà nghề, bây giờ thì nồi thật kín nước rồi. Anh chị dùng tạm, khi nào về nhà em lấy miếng nhôm dầy thay lại cho anh chị. Biết tin tôi vá được xoong nồi thủng, mấy người hàng xóm cũng mang nồi thủng sang nhờ tôi vá. Tiếp đến những ngày sau cũng vậy, cả xóm ai có xoong thủng, nồi thủng, ấm thủng là lại đến nhờ tôi. Từ đó tôi có biệt danh là: “Phú vá nồi”.
           Sau khi ăn xong cơm chiều. Mọi người nghỉ ngơi khoảng 15 phút thì các tổ ba người họp kiểm điểm những ưu khuyết điểm trong ngày. Tôi là tổ trưởng nhưng chưa biết cách họp tổ, nên anh Thỉnh trực tiếp duy trì cuộc họp. Đầu tiên anh Thỉnh cho từng người tự phát biểu những ưu khuyết điểm, những mạnh yếu của mình, rồi người này nhận xét về người kia. Sau đó anh Thỉnh nhận xét: Ngày hôm nay nói chung trong tổ có nhiều tiến bộ, Thắng, Văn đều rất nhanh nhẹn. Không bị chậm trễ khi dậy buổi sáng và tập ở thao trường, nói chung là tích cực. Riêng tôi thì được biểu dương đã lau chùi vũ khí tốt, lại làm tốt công tác dân vận. Cuộc họp tổ ba người kéo dài khoảng 20 phút. Anh Thỉnh đi nắm tình hình hai tổ khác và lên trung đội báo cáo kết quả họp tổ trong tiểu đội.
          Trời xẩm tối, mọi người đợi đến 7 giờ đi họp trung đội. Những lúc thư giãn như thế này với đời lính là quý lắm, tôi lấy thuốc lá mời anh chủ và mọi người cùng hút. Thắng thì đùa nghịch với con anh chị chủ. Chị chủ nhà rất vui, chị bê lên một nồi sắn hấp nghi ngút khói thơm lừng đon đả mời, nói là chiêu đãi chú Phú và mọi người. Chị quyết định nhổ cây sắn ở góc vườn, bóc vỏ, cắt thành khúc, đồ hấp cho anh em tôi ăn.
           Thái Bình khoai lang ba tháng, sáu tháng thì nhiều, nhưng sắn thì dân trồng không nhiều vì hiếm đất. Vì lẽ nữa là trồng sắn phải kéo dài một năm mới được thu hoạch, không hợp với việc cung cấp lương thực. Nên thời đó dân Thái Bình hay được ăn độn sắn là loại sắn dẻo từ mạn ngược đem về. Vì vậy sắn vẫn là loại lương thực khoái khẩu quý hơn khoai. Chị chủ sẻ gói đường ra cho chúng tôi chấm. Sắn nóng rất bở, chấm với đường ngon tuyệt. Tôi thích ăn sắn hơn ăn khoai, vừa ăn hết hai khoanh sắn, anh Thỉnh về cũng ăn vội vàng một khúc rồi báo mọi người đi họp trung đội. Địa điểm họp là tại sân kho hợp tác xã cách đó không xa. Trung đội huấn luyện lúc này đủ ba tiểu đội với quân số gần 40 người. Đồng chí Đởn là trung đội trưởng, chưa có trung đội phó. Tiểu đội trưởng thiếu một người, nên anh Thỉnh phụ trách tiểu đội tôi.
             Các tiểu đội đã đến đủ, trung đội trưởng nói: Đồng chí Loan bắt điệu cho anh em hát! Đầu tiên là bài: “Vì nhân dân quên mình”. Những giai điệu của bài hát cách mạng vang lên thật hào hùng, hấp dẫn và cuốn hút. “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, anh em ơi vì nhân dân quên mình”... Tiếp đến là bài: "Giải phóng miền Nam”. Bài hát cũng hào hùng không kém, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân, cùng lực lượng vũ trang chiến đấu để giải phóng Miền Nam. Cây đèn bão vặn cỡ to nhất cũng chỉ phát ra ánh sáng tù mù trên cái bàn để giữa sân nên không nhìn rõ mặt mọi người. Có nhiều em nhỏ đứng xem bộ đội họp cùng hát theo. Những bài ca cách mạng thời đó là động lực rất mạnh, rất lớn động viên thanh niên cùng toàn dân thi đua thực hiện các phong trào như đi bộ đội, phục vụ quốc phòng, tích tực tăng gia sản xuất. Nơi nào, chỗ nào cũng có câu khẩu hiệu: “Mỗi người làm việc bằng hai, tất cả vì miền Nam ruột thịt”
           Tôi chưa thuộc lời của những bài hát trên nên nhẩm nhẩm hát theo. Hết màn hát tập thể đến màn hát cá nhân, những đồng chí có khiếu hát dân ca, hát tân nhạc hay ngâm thơ đều được khuyến khích hát phục vụ mọi người. Tiếng hát, điệu chèo không đàn, không trống phách, nhưng lời các bài ca thì đều là “nhạc đỏ” cách mạng, động viên mọi người vì đất nước, vì nhiệm vụ. Sau những màn “văn nghệ nghiệp dư” nhưng không kém phần sôi động thì đến mục đọc báo. Một đồng chí lên điểm báo và đọc mấy bài báo Quân đội, báo Nhân dân. Xong màn văn nghệ, mục đọc báo, đồng chí trung đội trưởng Đởn nhận xét về tình hình của trung đội trong ngày. Những sai sót của từng cá nhân, của từng tiểu đội như là chậm trong giờ tập thể dục sáng, hoặc có đồng chí còn ngại nắng, chỉ mau chóng chạy vào chỗ râm chỗ mát vv… Hoặc có đồng chí còn để súng han, xẻng rỉ, ăn cơm còn nói chuyện riêng, không ăn đũa hai đầu, đêm đi ngủ không đúng giờ. Bao nhiêu là vấn đề, cuối cuộc họp trung đội trưởng tuyên dương mỗi tiểu đội hai người theo đề nghị của từng tiểu đội. Tôi cũng được biểu dương về làm công tác dân vận. Cuộc họp như vậy là đúng đến 9 giờ tối thì giải tán mọi người về nghỉ. Đây là buổi họp tổ ba người và họp trung đội đầu tiên đời lính của tôi.
            Anh em tôi đi về nhà, quần áo giặt đã khô, anh Thỉnh nói tôi mặc thử quần áo lính, rồi đeo xẻng, đeo túi lựu đạn, vòng ngụy trang đủ các thứ trang bị. Ngoài xanh-tuya quần phải thắt thêm cả xanh-tuya rông to bản để đeo túi băng đạn, túi lựu đạn, bi đông nước. Đeo các thứ vào thật ngượng nghịu và vướng víu, nhưng đây là trang bị tối thiểu của người lính bộ binh trong huấn luyện. Mọi người nhất là anh chị chủ nhà nói tôi mặc đồ bộ đội đẹp vì tôi gầy nhưng dáng cao. Ở đây chẳng có gương to để soi nên cũng chẳng biết dung nhan thực sự của mình trong sắc lính thế nào. Nhưng tôi biết là chị chủ khen động viên, chứ quần áo bộ đội theo số thì tôi mặc số một chiều cao thì được, nhưng độ rộng thì dúm dó như dúm mắm nhìn không thấy mông. Thôi thì cứ thắt dây lưng cho chặt vào chứ làm sao mà mang đi đâu sửa được. Đây là lần mặc quần áo lính chính thức đầu tiên. Tôi không ngờ màu xanh của lính, khẩu súng AK, trang thiết bị của người lính bộ binh gắn bó với tôi suốt hơn chục năm trời trên khắp các vùng miền chiến trận.
          Anh em tôi cùng gia đình chủ nhà ngồi chuyện trò một lúc. Anh Thỉnh nhắc: Đến giờ ngủ rồi đấy, anh em mình đi ngủ thôi, không trực ban trung đội lại ghi sổ khuyết điểm, hôm nay Thắng gác ca đầu từ 22 giờ đến 23 giờ. Tiếp đến là Văn tới 24 giờ, thì gọi anh Thịnh nhóm bên kia, chú ý súng đạn cho cẩn thận đấy. Nhắc lại là đạn không được lắp vào súng đâu, hôm nay Phú cứ đi ngủ chưa phải gác. Vừa nói, anh Thỉnh vừa tháo cái đồng hồ hiệu Poldot của Liên-Xô mạ vàng đeo ở tay đưa cho Thắng nói: Đồng hồ đây, giữ cho tốt nhé, cấm không được vặn chỉnh đấy bố ạ. Thắng nói: Hôm trước chắc chúng nó vặn chứ em không bao giờ vặn đồng hồ cả. Mà em có biết vặn thế nào đâu mà chỉnh. Tôi nghĩ: Chuyện gác sách của lính có nhiều phức tạp đây, chắc có bạn nào gian dối vặn chỉnh đồng hồ cho nhanh lên. Vấn đề này thật khó, vì ngoài anh Thỉnh ra thì có ai có đồng hồ đâu? Thời đó đồng hồ là hiếm lắm, ngay tôi đi làm đã mấy năm, ý định góp tiền để mua đồng hồ đeo tay mà cũng chưa mua được. Những người đi xe đạp, tay đeo đồng hồ, áo cài bút máy, vai đeo đài bán dẫn là thuộc tầng lớp cán bộ huyện trở lên, hoặc giầu có hơn người mới có những thứ cao sang đó. Hôm nay tôi vẫn chưa phải gác, nhưng ngày mai, mọi sinh hoạt cũng sẽ như mọi người. Nghĩ ngợi mông lung một lúc rồi tôi chìm vào giấc ngủ thật say, thậm chí Thắng, Văn đổi gác cho nhau thế nào tôi cũng không biết.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Mười Một, 2021, 09:52:16 am

                 Chúng tôi mượn của anh chị chủ cái mẹt, trải lên một lớp giấy xi măng rồi xé bọc súng ra. Trời! Bọc súng đắp rất nhiều mỡ bảo quản, loại mỡ bò công nghiệp vàng ươm. Chúng tôi gạt gom ngay bên ngoài đã được rất nhiều mỡ. Nòng súng cũng được nhét đặc mỡ. Tôi gom tất cả số mỡ bảo quản lại đưa cho anh chủ nói anh gói cất đi để dùng, cho vào các ổ bi xe đạp vào cả xích nữa cũng rất tốt, mỡ này là quý lắm, nhưng là mỡ công nghiệp không ăn được đâu. Chị chủ lấy thêm cho chúng tôi mấy cái áo rách để lau sơ qua. Lau đi lau lại mà súng vẫn nhớp mỡ, lúc này nồi nước sôi mới có tác dụng, anh Loan tháo từng bộ phận súng rồi lấy giẻ đã được nhúng nước sôi lau súng. Một hai lần như vậy khẩu súng mới cầm được, không bị dính nhớp mỡ nữa. Khẩu súng thật đẹp, màu gỗ ốp cánh gián vàng đanh, những phần kim loại được nhuộm đen kít, ai cũng trầm trồ khen đẹp. Bắt đầu anh Loan hướng dẫn chúng tôi cách tháo lắp súng, anh nói: Trước khi tháo súng, phải tháo băng tiếp đạn ra trước, ở đây súng mới chưa lắp băng tiếp đạn thì mình vẫn phải lên quy lát. Nếu súng có đạn thì đạn văng ra, sau đó chĩa lên trời bóp có súng. Vừa nói anh vừa làm lên quy lát xoạch roóp rồi chĩa súng lên trời bóp cò, búa đập “chát” đanh gọn.
           Anh nói tiếp: Khi tháo súng theo nguyên tắc: Bộ phận nào tháo ra trước thì để xuống trước như xếp hàng lần lượt thứ tự từ phải sang trái. Khi lắp súng thì ngược lại, bộ phận nào tháo ra sau thì lắp trước, không được để lẫn lộn lung tung. Anh Loan nói: Các ông tập tháo lắp cho thật quen, thật nhanh, quen đến mức độ bịt mắt vào vẫn có thể tháo lắp súng được. Đấy là tình huống trong chiến đấu ban đêm súng bị hóc đạn, phải nhanh chóng xử lý tháo súng lấy đạn hóc ra. Các ông cứ bình tĩnh từ từ rồi quen. Với tôi thì những việc này quá đơn giản, anh Loan chỉ hướng dẫn qua một lần là tôi làm tốt được ngay. Vì thực ra thời học cơ khí tháo lắp động cơ ô-tô có nhiều chi tiết phức tạp hơn tôi đã làm qua, cũng đã học tháo lắp ban đêm nữa. Nên khẩu súng hơn chục bộ phận này không có gì đáng ngại.
          Sau khi mọi người đã tháo lắp súng thành thạo, tôi mới sực nhớ ra chuyện cái nồi cám lợn của anh chị chủ, tôi nói chị cầm ra cho tôi xem. Đây là cái nồi nhôm gò quá cũ, đáy nồi lỗ thủng lớn bị cháy do nấu cám khê. Việc này không thật khó, chỉ sợ không có những vật liệu mình cần. Tôi đi quanh nhà ngó nghiêng tìm vật liệu, anh chủ hỏi tôi tìm gì? Tôi nói: Em có thể vá được cái nồi này nhưng anh xem nhà ta hay hàng xóm có mảnh nhôm hay mảnh đồng mỏng nào không. Nghĩ một lúc anh chủ chạy sang hàng xóm mang về một đoạn chắn bùn xe đạp bằng nhôm. Tôi xem và nói, miếng nhôm này hơi mỏng vá dùng tạm được. Nhưng anh chị kiếm cho em cái búa nhỏ và cái kéo, cái kìm. Vừa nói nhưng tôi vừa nghĩ, nhớ lại cái cách mà ông thợ hàn nồi đã vá nồi mà tôi được xem. Anh chủ vào nhà lấy kéo, búa, kìm ra cho tôi. Tôi nói chị chủ đánh rửa thật sạch cho tôi cái nồi. Rồi tôi lấy cái kéo gọt cho chỗ bị cháy thủng tròn to ra để mép cháy không bị nham nhở. Gọt xong chỗ thủng to bằng miệng chén, tôi tán cho miếng nhôm chắn bùn phẳng ra rồi ốp vào khoanh lấy dấu kích thước. Rồi tiếp tục cắt miếng nhôm to hẳn ra, dùng kéo cắt mép hình gập vào cho chờm khỏi lỗ thủng, ấp vào lỗ thủng rồi bẻ ngược các chân rết ra. Mọi người xem chăm chú tôi làm như một người thợ hàn nồi thực thụ. Tôi dùng búa tán nhẹ các chân rết ép chặt xuống. Như vậy cơ bản là nồi đã được hàn vá kín, anh chị chủ thì cứ trầm trồ khen tôi khéo tay. Chị chủ nói: Chú làm giỏi quá, cho chị xin để nấu cám lợn ngay. Tôi nói: Thế này mới tạm được chứ chưa kín nước đâu. Chị chủ cầm cái nồi giơ lên trời xem còn lỗ thủng không rồi nói: Hết thủng, tốt rồi, kín rồi chú à. Tôi nói chưa kín đâu, muốn kín không bị rò nước, anh đi kiếm cho em một ít vôi ăn trầu. Anh chủ lại chạy đi xin vôi, tôi thì ra sau vườn hái tàu lá khoai ngứa, vo viên cùng vôi cho vào cái bát giã nhuyễn. Rồi lấy thứ vôi lá khoai tổng hợp đó chà miết vào toàn bộ khe kẽ của chỗ vá cả trong lẫn ngoài. Xong! Tôi nói đây là bí mật nhà nghề, bây giờ thì nồi thật kín nước rồi. Anh chị dùng tạm, khi nào về nhà em lấy miếng nhôm dầy thay lại cho anh chị. Biết tin tôi vá được xoong nồi thủng, mấy người hàng xóm cũng mang nồi thủng sang nhờ tôi vá. Tiếp đến những ngày sau cũng vậy, cả xóm ai có xoong thủng, nồi thủng, ấm thủng là lại đến nhờ tôi. Từ đó tôi có biệt danh là: “Phú vá nồi”.
           Sau khi ăn xong cơm chiều. Mọi người nghỉ ngơi khoảng 15 phút thì các tổ ba người họp kiểm điểm những ưu khuyết điểm trong ngày. Tôi là tổ trưởng nhưng chưa biết cách họp tổ, nên anh Thỉnh trực tiếp duy trì cuộc họp. Đầu tiên anh Thỉnh cho từng người tự phát biểu những ưu khuyết điểm, những mạnh yếu của mình, rồi người này nhận xét về người kia. Sau đó anh Thỉnh nhận xét: Ngày hôm nay nói chung trong tổ có nhiều tiến bộ, Thắng, Văn đều rất nhanh nhẹn. Không bị chậm trễ khi dậy buổi sáng và tập ở thao trường, nói chung là tích cực. Riêng tôi thì được biểu dương đã lau chùi vũ khí tốt, lại làm tốt công tác dân vận. Cuộc họp tổ ba người kéo dài khoảng 20 phút. Anh Thỉnh đi nắm tình hình hai tổ khác và lên trung đội báo cáo kết quả họp tổ trong tiểu đội.
          Trời xẩm tối, mọi người đợi đến 7 giờ đi họp trung đội. Những lúc thư giãn như thế này với đời lính là quý lắm, tôi lấy thuốc lá mời anh chủ và mọi người cùng hút. Thắng thì đùa nghịch với con anh chị chủ. Chị chủ nhà rất vui, chị bê lên một nồi sắn hấp nghi ngút khói thơm lừng đon đả mời, nói là chiêu đãi chú Phú và mọi người. Chị quyết định nhổ cây sắn ở góc vườn, bóc vỏ, cắt thành khúc, đồ hấp cho anh em tôi ăn.
           Thái Bình khoai lang ba tháng, sáu tháng thì nhiều, nhưng sắn thì dân trồng không nhiều vì hiếm đất. Vì lẽ nữa là trồng sắn phải kéo dài một năm mới được thu hoạch, không hợp với việc cung cấp lương thực. Nên thời đó dân Thái Bình hay được ăn độn sắn là loại sắn dẻo từ mạn ngược đem về. Vì vậy sắn vẫn là loại lương thực khoái khẩu quý hơn khoai. Chị chủ sẻ gói đường ra cho chúng tôi chấm. Sắn nóng rất bở, chấm với đường ngon tuyệt. Tôi thích ăn sắn hơn ăn khoai, vừa ăn hết hai khoanh sắn, anh Thỉnh về cũng ăn vội vàng một khúc rồi báo mọi người đi họp trung đội. Địa điểm họp là tại sân kho hợp tác xã cách đó không xa. Trung đội huấn luyện lúc này đủ ba tiểu đội với quân số gần 40 người. Đồng chí Đởn là trung đội trưởng, chưa có trung đội phó. Tiểu đội trưởng thiếu một người, nên anh Thỉnh phụ trách tiểu đội tôi.
             Các tiểu đội đã đến đủ, trung đội trưởng nói: Đồng chí Loan bắt điệu cho anh em hát! Đầu tiên là bài: “Vì nhân dân quên mình”. Những giai điệu của bài hát cách mạng vang lên thật hào hùng, hấp dẫn và cuốn hút. “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, anh em ơi vì nhân dân quên mình”... Tiếp đến là bài: "Giải phóng miền Nam”. Bài hát cũng hào hùng không kém, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân, cùng lực lượng vũ trang chiến đấu để giải phóng Miền Nam. Cây đèn bão vặn cỡ to nhất cũng chỉ phát ra ánh sáng tù mù trên cái bàn để giữa sân nên không nhìn rõ mặt mọi người. Có nhiều em nhỏ đứng xem bộ đội họp cùng hát theo. Những bài ca cách mạng thời đó là động lực rất mạnh, rất lớn động viên thanh niên cùng toàn dân thi đua thực hiện các phong trào như đi bộ đội, phục vụ quốc phòng, tích tực tăng gia sản xuất. Nơi nào, chỗ nào cũng có câu khẩu hiệu: “Mỗi người làm việc bằng hai, tất cả vì miền Nam ruột thịt”
           Tôi chưa thuộc lời của những bài hát trên nên nhẩm nhẩm hát theo. Hết màn hát tập thể đến màn hát cá nhân, những đồng chí có khiếu hát dân ca, hát tân nhạc hay ngâm thơ đều được khuyến khích hát phục vụ mọi người. Tiếng hát, điệu chèo không đàn, không trống phách, nhưng lời các bài ca thì đều là “nhạc đỏ” cách mạng, động viên mọi người vì đất nước, vì nhiệm vụ. Sau những màn “văn nghệ nghiệp dư” nhưng không kém phần sôi động thì đến mục đọc báo. Một đồng chí lên điểm báo và đọc mấy bài báo Quân đội, báo Nhân dân. Xong màn văn nghệ, mục đọc báo, đồng chí trung đội trưởng Đởn nhận xét về tình hình của trung đội trong ngày. Những sai sót của từng cá nhân, của từng tiểu đội như là chậm trong giờ tập thể dục sáng, hoặc có đồng chí còn ngại nắng, chỉ mau chóng chạy vào chỗ râm chỗ mát vv… Hoặc có đồng chí còn để súng han, xẻng rỉ, ăn cơm còn nói chuyện riêng, không ăn đũa hai đầu, đêm đi ngủ không đúng giờ. Bao nhiêu là vấn đề, cuối cuộc họp trung đội trưởng tuyên dương mỗi tiểu đội hai người theo đề nghị của từng tiểu đội. Tôi cũng được biểu dương về làm công tác dân vận. Cuộc họp như vậy là đúng đến 9 giờ tối thì giải tán mọi người về nghỉ. Đây là buổi họp tổ ba người và họp trung đội đầu tiên đời lính của tôi.
            Anh em tôi đi về nhà, quần áo giặt đã khô, anh Thỉnh nói tôi mặc thử quần áo lính, rồi đeo xẻng, đeo túi lựu đạn, vòng ngụy trang đủ các thứ trang bị. Ngoài xanh-tuya quần phải thắt thêm cả xanh-tuya rông to bản để đeo túi băng đạn, túi lựu đạn, bi đông nước. Đeo các thứ vào thật ngượng nghịu và vướng víu, nhưng đây là trang bị tối thiểu của người lính bộ binh trong huấn luyện. Mọi người nhất là anh chị chủ nhà nói tôi mặc đồ bộ đội đẹp vì tôi gầy nhưng dáng cao. Ở đây chẳng có gương to để soi nên cũng chẳng biết dung nhan thực sự của mình trong sắc lính thế nào. Nhưng tôi biết là chị chủ khen động viên, chứ quần áo bộ đội theo số thì tôi mặc số một chiều cao thì được, nhưng độ rộng thì dúm dó như dúm mắm nhìn không thấy mông. Thôi thì cứ thắt dây lưng cho chặt vào chứ làm sao mà mang đi đâu sửa được. Đây là lần mặc quần áo lính chính thức đầu tiên. Tôi không ngờ màu xanh của lính, khẩu súng AK, trang thiết bị của người lính bộ binh gắn bó với tôi suốt hơn chục năm trời trên khắp các vùng miền chiến trận.
          Anh em tôi cùng gia đình chủ nhà ngồi chuyện trò một lúc. Anh Thỉnh nhắc: Đến giờ ngủ rồi đấy, anh em mình đi ngủ thôi, không trực ban trung đội lại ghi sổ khuyết điểm, hôm nay Thắng gác ca đầu từ 22 giờ đến 23 giờ. Tiếp đến là Văn tới 24 giờ, thì gọi anh Thịnh nhóm bên kia, chú ý súng đạn cho cẩn thận đấy. Nhắc lại là đạn không được lắp vào súng đâu, hôm nay Phú cứ đi ngủ chưa phải gác. Vừa nói, anh Thỉnh vừa tháo cái đồng hồ hiệu Poldot của Liên-Xô mạ vàng đeo ở tay đưa cho Thắng nói: Đồng hồ đây, giữ cho tốt nhé, cấm không được vặn chỉnh đấy bố ạ. Thắng nói: Hôm trước chắc chúng nó vặn chứ em không bao giờ vặn đồng hồ cả. Mà em có biết vặn thế nào đâu mà chỉnh. Tôi nghĩ: Chuyện gác sách của lính có nhiều phức tạp đây, chắc có bạn nào gian dối vặn chỉnh đồng hồ cho nhanh lên. Vấn đề này thật khó, vì ngoài anh Thỉnh ra thì có ai có đồng hồ đâu? Thời đó đồng hồ là hiếm lắm, ngay tôi đi làm đã mấy năm, ý định góp tiền để mua đồng hồ đeo tay mà cũng chưa mua được. Những người đi xe đạp, tay đeo đồng hồ, áo cài bút máy, vai đeo đài bán dẫn là thuộc tầng lớp cán bộ huyện trở lên, hoặc giầu có hơn người mới có những thứ cao sang đó. Hôm nay tôi vẫn chưa phải gác, nhưng ngày mai, mọi sinh hoạt cũng sẽ như mọi người. Nghĩ ngợi mông lung một lúc rồi tôi chìm vào giấc ngủ thật say, thậm chí Thắng, Văn đổi gác cho nhau thế nào tôi cũng không biết.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: RememberTheName trong 05 Tháng Giêng, 2022, 03:57:13 pm
bác Phú viết tiếp đi , cháu nghiện đọc truyện của bác lắm . Ba cháu cũng là cựu lính QTNVN sư 5


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Ba, 2022, 09:13:12 pm

      Chào cháu RememberTheName!
      Dịp vừa rồi tế nhất rồi nhiều việc bận quá! Dịp này bác sẽ gửi bài đều! Cảm ơn cháu đã quan tâm!
      Chúc cháu cùng gia đình luôn vui khỏe!!!


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Ba, 2022, 09:24:10 pm

       Tuýt tuýt tuýt…tuýt tuýt tuýt. Tiếng còi báo thức của trực ban lanh lảnh, anh Thỉnh lại khua mọi người dậy. Tôi cũng choàng dậy mặc quần áo, vệ sinh nhẹ rồi chạy theo mọi người ra sân kho hợp tác. Tiếng bước chân của mọi người, tiếng trung đội trưởng Đởn lanh lảnh: Toàn Trung đội chú ý, trung đội hàng dọc, tiểu đội hàng ngang t…ập h…ợp… Dứt khẩu lệnh, trung đội trưởng đứng nghiêm quay một góc 90 độ ngay tại vị trí hô. Mọi người đang đứng lộn xộn liền nhanh chóng chạy đứng vào đội hình các tiểu đội. Hàng dọc thứ tự là 3 tiểu đội trưởng 7- 8- 9, tiểu đội trưởng đứng trước đầu hàng, kế bên đến mọi người trong tiểu đội. Khi các tiểu đội đã đứng vào hàng, trung đội trung Đởn bước chéo lên mấy bước đứng đối diện với hàng quân, hô: Nghi…êm…, điểm số từng tiểu đội. Tiểu đội tôi là tiểu đội 7 anh Thỉnh đứng đầu hàng, anh Thỉnh đếm một… rồi đánh đầu sang người kế bên. Người kế bên đếm 2… rồi lại cũng đánh đầu sang người kế bên. Người kế bên đếm 3… rồi cũng đánh đầu sang người kế tiếp, cứ như vậy đến người cuối cùng hô 12 và kèm thêm tiếng: hết... Anh Thỉnh nói to: Báo cáo quân số của tiểu đội 7 là 12, đủ. Tiếp đến là tiểu đội 8, đồng chí tiểu đội trưởng báo cáo quân số tiểu đội là 12, có hai đồng chí ốm có mặt 10. Tiếp đến tiểu đội 9 cũng thiếu vắng ba đồng chí có lý do.
           Trung đội trưởng hô tiếp: Giãn cách cự ly, vận động tại chỗ. Mọi người tự điều chỉnh giãn cách nhau khoảng nửa mét, hàng trước cách hàng sau khoảng một mét. Đợi cho giãn cách xong, trung đội trưởng hô: Vận động tại chỗ, một hai, một hai, một h…ai…Tiếng bước chân của mọi người mới đầu nghe lộp bộp rời rạc rồi bước chạy theo tiếng hô của trung đội trưởng thật đều, nghe rầm rập âm vang. Chạy tại chỗ khoảng 3 phút, trung đội trưởng hô: Vận động…rồi trung đội trưởng chạy đầu hàng bước chạy chậm chậm. Tiếp sau là tiểu đội tôi, anh Thỉnh chạy sau trung đội trưởng. Hết đội hình tiểu đội 7, sang đội hình tiểu đội 8 rồi tiểu đội 9. Đội hình không chạy ra ngoài đường mà chỉ chạy vòng trong sân kho, chạy sát vào các mép sân nên vòng chạy cũng rộng. Tiếng hô, tiếng bước chân chạy rầm rập vang vang trong buổi sớm, làm những ai đang ngái ngủ, thèm ngủ cũng tỉnh táo lại hết. Chạy được khoảng mười vòng, trong hàng đã thấy nhiều tiếng thở dồn. Tôi cũng đã thấy khó thở, nghe rõ tiếng tim đập thình thịch, có lẽ bao nhiêu năm mình không chạy thế này nên nhanh thấm mệt. Đúng lúc khó có thể cố chạy được nữa, thì trung đội trưởng hô: Vận động chậm điều hòa. Mọi người không chạy nữa mà đi chậm, rồi đứng tại chỗ vươn vai làm động tác hít thở. Tiếng chuyện trò rộ lên râm ran, thư giãn vận động nhẹ khoảng 3 phút. Tiếng trung đội trưởng lại vang lên: Trung đội hàng dọc, tiểu đội hàng ngang, tập h…ơp… Mọi người nhanh chóng đứng vào hàng theo khẩu lệnh. Trung đội trưởng lại bước chéo lên mấy bước hô: Nghiêm!…Tiếng xì xầm chuyện trò im bặt, trung đội trưởng nói: Các tiểu đội cho các đồng chí tân binh ra một chỗ và phân công tiểu đội trưởng Loan ra hướng dẫn tập thể dục. Đợi số tân binh chúng tôi ra khỏi vị trí, trung đội trưởng hô: Giàn đội hình tập thể dục.
           Nhóm chúng tôi được tiểu đội trưởng Loan tập trung rồi hướng dẫn tập thể dục theo bài tập 24 động tác thể dục của quân đội Liên-Xô. Bên lính cũ, tập xong bài tập thể dục thì tiếp đến tập 16 động tác võ thể dục. Tiếng hô di…ệt, di…ệt… vang rền, khi đến động tác diệt đối phương thật mạnh mẽ, đanh thép và oai hùng. Nhóm chúng tôi hôm nay chỉ tập để thuộc bài thể dục buổi sáng. Sau khi tập xong bài thể dục và bài võ thể dục, trung đội trưởng cho tập hợp toàn trung đội nhận xét về ý thức tác phong nhanh chậm của từng tiểu đội. Tiểu đội tôi được biểu dương là đi tập đủ quân số. Tiếp đến là nhắc các tiểu đội về chuẩn bị cho anh em đi tập, tối nay thứ bẩy toàn đơn vị đi rèn thể lực hành quân. Sau màn nhận xét, trung đội trưởng hô: Nghi…êm!…Toàn trung đội đứng ở tư thế hô khẩu lệnh. Mọi người đứng theo tư thế chân mở rộng bằng vai, hai tay vòng ra đằng sau mông. Trung đội trưởng hô tiếp: Chiến sĩ… mọi người hô vang theo: Khỏe. Sau ba lần hô khỏe, trung đội trưởng cho anh em giải tán. Xong chương trình thể dục buổi sáng, đây là buổi sáng thể dục đầu tiên trong đời quân ngũ, đã để lại cho thôi thật nhiều ấn tượng đáng nhớ.
            Tôi cùng mọi người lững thững trở về nhà trọ. Trời đã sáng hẳn, buổi sớm mùa hè vùng nông thôn không khí trong trẻo, mát rượi, tiếng gà đã gáy vang vang, các loại chim cất tiếng hót lảnh lảnh. Lác đác đã có người vội vã quẩy quang gánh ra đồng. Đang mùa lúa chín nên đường quê ngào ngạt mùi lúa, mùi rơm thơm được nắng. Đúng là lúc báo thức còn đang ngái ngủ, buồn ngủ, nhưng sau khi tập xong thể dục tôi cảm thấy tỉnh táo, sảng khoái lạ thường. Tuy có vẻ hơi đau người, vì phải tập các động tác mới của bài thể dục, không giống bài thể dục của công nhân chúng tôi vẫn tập. Tôi cùng anh em nhanh chóng làm vệ sinh cá nhân, đánh răng rửa mặt. Anh Thỉnh nói Thắng đi lấy cơm về rồi giục mọi người nhanh chóng ăn cơm sáng còn đi tập. Tôi ăn vội được nửa bát cơm vẫn với loại nước chấm đặc biệt như hôm đầu. Cơm khô thật khó nuốt, anh chị chủ đã hãm tích nước chè. Ở đây không phải đất chè, chị chủ hôm qua mua được nón chè tươi của người bán rong. Chị chủ nói: Cô bán hàng thật xinh, cam đoan nói đây là chè Mét rất ngon đấy các chú ạ (Mét là một thôn của xã Việt Thuận, huyện Vũ Tiên. Ở đây nổi tiếng là có loại chè xanh, lá nhỏ, lại dày, nước chè Mét xanh và thơm hiếm đâu bằng. Đơn vị tính của chè không bằng cân ki-lô, mà là trực tiếp đong bằng cái nón đội đầu của cô bán chè). Chị chủ nói: Chị mới hãm, các chú uống xem có ngon không nhé! Vừa nói chị vừa rót nước từ cái ấm tích sứt vòi gáu vàng, được ủ nóng trong cái giành tre đã rách chiết ra mấy cái bát ăn cơm chuyên dùng để uống nước. Nước chè xanh nóng tỏa thơm nồng, tôi không quen uống nước chè tươi, nhưng thấy chị chủ nhiệt tình, nên cũng hít hà uống hết một bát. Vừa uống vừa khen nước chè ngon, tôi lấy thuốc lá mời mọi người. Anh Thỉnh nói: Hôm nay đi tập buổi đầu, chắc Phú tập đội ngũ là chính nhưng vẫn phải mang đủ súng, xẻng, vòng ngụy trang, túi lựu đạn đấy. Lá ngụy trang Thắng đã lấy về rồi, mọi người gài vào nhé.
          Đã gần 7 giờ, mọi người chuẩn bị đi tập. Tôi đứng dậy mặc quần áo chỉnh tề, chân đi giầy vải, đầu đội mũ, vai khoác súng, lưng đeo xẻng có hai dây đeo vào hai vai. Bên ngoài lại đeo thêm vòng ngụy trang cành lá xum xuê vướng víu, thắt lưng to bản, đeo bình tông nước, túi băng đạn, túi lựu đạn thật lỉnh kỉnh nếu chỉ cân riêng cái thắt lưng to bản và các trang bị phải mang đó cũng đã mấy ki-lô-gam rồi. Thời đó không có máy ảnh, nên không ghi được cái sắc phục, trang phục của người lính bộ binh cao kều có trọng lượng 40 kg của tôi. Chúng tôi lại đi ra sân kho để tập trung toàn trung đội. Rồi đi tiếp ra một bãi cỏ như là cái sân bóng cạnh rìa làng để tập. Đúng như anh Thỉnh nói, toàn trung đội tập xạ kích, tập ngắm bắn bia.
             Nhóm mới chúng tôi được tách ra học điều lệnh do tiểu đội trưởng Loan hướng dẫn. Tiểu đội trưởng Loan cho chúng tôi tháo bỏ hết trang bị ra như vòng ngụy trang, xẻng, thắt lưng to bản, súng chụm đầu để ra một chỗ. Tiếng tiểu đội trưởng hô to: Các đồng chí chú ý một hàng ngang tập hợp! Tiểu đội trưởng Loan quê Hà Bắc, dáng người thấp lùn, nhập ngũ năm 1971, được học lớp tiểu đội trưởng của Trường Hạ sỹ quan quân khu, nên về điều lệnh cùng các kỹ chiến thuật rất bài bản. Chà! Có năm người mà ông này hô như là quân số đông lắm không bằng. Tôi thoáng nghĩ như vậy rồi chúng tôi lúng túng đứng một hàng ngang theo khẩu lệnh. Đợi chúng tôi đứng vào thành hàng, tiểu đội trưởng Loan xoay người bước chéo lên mấy bước rồi lại xoay người lại đứng đối mặt với hàng quân hô: Nghi..êm!…thật to, thật dõng dạc. Chúng tôi làm động tác đứng nghiêm theo khẩu lệnh. Tiểu đội trưởng Loan hô: Nghỉ! Chúng tôi chùng chân đứng mỗi người mỗi kiểu. Tiểu đội trưởng Loan tự giới thiệu: Tôi là Nguyễn Ngọc Loan, hạ sĩ tiểu đội trưởng. Hôm nay được phân công hướng dẫn các đồng chí học điều lệnh, gồm có các mục, nghiêm, nghỉ, quay phải quay trái, đằng sau quay, đi đều có súng và không có súng. Tiểu đội trưởng Loan nói tiếp: Trong trường Hạ sỹ quan, riêng khoa mục này học rất lâu, tập hàng tháng và học thường xuyên. Nhưng hôm nay chúng ta chỉ tập một ngày, rồi các đồng chí phải học đuổi theo các khoa mục khác, nhất là bắn súng bộ binh, ném lựu đạn, học kỹ thuật lăn-lê-bò-toài-đi khom và còn rất nhiều khoa mục khác phục vụ chiến đấu. Thời gian học tập sáng 4 tiếng từ 7 giờ đến 11giờ, chiều từ 1giờ 30 đến 5 giờ 30. Học 50 phút thì nghỉ giải lao 10 phút. Trời hôm nay rất nắng, học khoa mục này rất mệt mỏi vì vậy yêu cầu các đồng chí phải nhiệt tình, cố gắng. Các đồng chí rõ chưa? Anh em tôi rời rạc đáp: Rõ!
            Nghi..êm!… tiểu đội trưởng hô thật to rồi cao giọng dõng dạc: Khoa mục đội ngũ, các đồng chí nghỉ. Điều lệnh đội ngũ, mục đích là để rèn luyện ý thức kỷ luật, lễ tiết tác phong quân nhân của từng cá nhân và tập thể. Để làm nền tảng học tập các khoa mục khác, nâng cao ý chí chiến đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, từng bước xây dựng quân đội ngày càng chính quy hiện đại. Tiểu đội trưởng Loan nói một thôi một hồi. Anh em tôi không quen đứng thế này, mới đầu còn đứng nghiêm chỉnh được một lúc ai nấy đã cảm thấy ngứa ngáy khó chịu vặn vẹo mỗi người mỗi tư thế khác nhau. Thấy vậy, tiểu đội trưởng Loan nhắc: Đề nghị các đồng chí đứng nghiêm túc theo tư thế nghỉ của điều lệnh. Hôm nay các đồng chí học buổi đầu tiên về đội ngũ, rất thông cảm với các đồng chí, nhưng các đồng chí cũng không được vặn vẹo người làm mất tập trung. Đây cũng là hình thức tập luyện, rèn luyện tính dẻo dai, tính kỷ luật của người lính. Các đồng chí xem tôi làm mẫu từng động tác, rồi các đồng chí  làm theo. Tôi hô: Nghi…êm! … thì động tác nghiêm là hai gót chân chụm vào nhau. Hai mũi chân mở xòe theo hình chữ V một góc khoảng 60 độ. Hai tay để dọc theo hai đường chỉ quần, ngón tay cái chạm vào ngón tay trỏ. Đứng trong tư thế nghiêm trang, mặt hướng về phía trước, mắt nhìn thẳng, không quá gò bó căng thẳng. Tổng hợp của tư thế đứng nghiêm là: Ngực nở, cằm thu, quân dung tươi tỉnh. Các đồng chí lưu ý dù bất cứ đang làm gì, ở đâu cả trong khu vực thao trường bãi tập. Khi nghe khẩu lệnh hô nghiêm của người chỉ huy, thì các đồng chí phải đứng nghiêm theo tư thế trên và sẵn sàng nghe khẩu lệnh tiếp theo. Khi được hô: Nghỉ, thì có hai tư thế nghỉ: Một là chân phải bước chéo lên một bước nhỏ, người thả lỏng. Khi mỏi chân thì được đổi tư thế rút chân phải về, bước chân trái lên, hoặc theo khẩu lệnh tiếp. Trước kia còn có tư thế nghỉ thứ hai là: Không bước chân lên mà chỉ chùng chân phải, hoặc chân trái xuống, người thả lỏng. Nhưng bây giờ toàn quân đang đứng nghỉ ở tư thế thứ nhất. Bây giờ các đồng chí xem tôi làm mẫu rồi các đồng chí làm theo. Chúng tôi xem và bắt đầu tập theo khẩu lệnh của tiểu đội trưởng Loan. Tiếp đến là giậm chân tại chỗ, quay phải, quay trái, đằng sau quay, đi đều, đứng lại, đi từng người rồi đi thành hàng.
          Tháng 5, trời nắng chói chang, thi thoảng lắm mới có một cơn gió nhẹ, anh em tôi ai cũng mồ hôi đầm đìa. Chỉ mong sao hết giờ để được chạy vào trong chỗ râm nghỉ giải lao, ai cũng uống nước liên tục. Đúng là tập tành ở thao trường có thể nói là “bị đầy đọa, bị đầy ải” mới đúng. Đến tiết học thứ ba, tiểu đội trưởng Loan cho anh em tự tập, người nọ hô cho người kia. Tiếng hô nghiêm, nghỉ, đứng lại, giậm chân tại chỗ, quay phải, quay trái, đằng sau quay, đi đều vang lên lanh lảnh. Trong 5 anh em tân binh chúng tôi, thì có hai người là thợ xây dựng, một người là thợ lái máy kéo, một người là cán bộ gì đó bên thủy nông. Họ đều xuất phát từ nhà nông, cộng với công việc của họ cũng trải mưa nắng nhiều hơn, sức vóc họ to khỏe hơn tôi nhiều, thế mà ai cũng kêu ầm kêu ĩ vì chưa thể thích nghi được kiểu tập này. Tiểu đội trưởng Loan thấy thế rất tâm lý, cuối giờ còn 30 phút thì cho anh em vào bóng râm chuyện trò hội ý để tránh cái nắng hè trong buổi tập đâu tiên của đời lính bộ binh gian lao vất vả này.
          Tôi cùng mọi người uể oải trở về nhà chủ, sau khi toàn trung đội tập trung và trung đội trưởng Đởn nhận xét về buổi tập. Tôi muốn chạy nhanh về để nằm kềnh ra giường mà không chạy được vì mọi người vẫn phải đi về theo hàng lối. Người tôi mệt mỏi, toàn thân đau ê ẩm, quần áo loang lổ mồ hôi. Anh Thỉnh đến gần tôi nói như chia sẻ: Buổi đầu tập đội ngũ chắc mệt lắm đúng không? Không đợi tôi trả lời, anh Thỉnh nói tiếp: Bọn tôi cũng thế. Nhưng rồi qua mấy ngày thì nó quen đi. Bây giờ về nghỉ một tí, Phú tắm qua đi cho nó khỏe, đợi anh em lấy cơm về, ăn xong, ông cứ ngủ một giấc là khỏe ngay thôi mà. Tôi dựng súng vào một góc cạnh gường tháo các loại trang bị, cởi quần áo ngoài rồi lấy khăn mặt ra giếng. Tôi kéo nước, gục cả mặt vào chậu nước. Nước giếng mát lạnh lấy lại sự tỉnh táo, những mệt nhọc như xua đi đâu hết. Tắm rửa qua loa rồi vào nhà nghỉ một chút, Thắng, Văn cùng hai anh em nữa ở nhà bên sang ăn cơm cho đủ mâm sáu người. Tập mệt mà cơm canh cũng chẳng có gì khác vẫn ngoài khúc cá đồng kho với chuối, vẫn mỗi người một miếng thịt lợn thái mỏng. Rau muống luộc vàng khè, còn nguyên hình cả mớ như là chị nuôi để cả bó, cắt vạt đi phần đầu già, chứ không nhặt từng cọng như ở nhà. Tôi lấy mấy viên vitamin C cho vào chậu canh, mọi người sôi nổi ăn uống trò chuyện, còn tôi vẫn uể oải nhai cơm. Cơm khô gạo xấu, tôi chan nước rau ăn cho nhanh. Chị chủ nhà nhìn tôi ăn ra chừng thương cảm nói: Cơm bộ đội khó ăn, chú Phú đợi tí nữa cơm chị chín, gạo mới thơm dẻo lắm chị đổi cho. Tôi nói: Em cảm ơn chị, em ăn thế này cũng được, rồi cũng phải quen đi. Ăn nốt bát cơm tôi đứng dậy trước, nhìn anh em ăn sôi nổi mà thấy thèm. Tôi chào mọi người, đi rửa mặt rồi vào uống nước. Đợi mọi người ăn xong, tôi lên giường ngủ trưa. Nằm mãi mà không sao ngủ được, nghĩ ngợi mông lung. Hôm nay đã là ngày thứ bẩy, mọi khi ở xí nghiệp thứ bẩy là vui lắm. Vì thường ngày thứ bẩy làm thông giờ đến ba giờ rưỡi chiều là nghỉ. Trừ những cán bộ hay bảo vệ phải trực cơ quan, còn nói chung mọi người đều về nhà. Ai nấy chuẩn bị xe đạp hoặc có các nhu yếu phẩm được xí nghiệp phân phối thì gói ghém mang về nhà. Mọi người như vui hẳn lên nhất là những người đã có vợ, có con thì háo hức mong ngóng đến hết giờ để về quê, để được bên vợ, bên con. Cùng bữa cơm ngon chắc chắn có thịt, có rượu của vợ đã chuẩn bị đón chồng, chiều chồng, rồi một đêm hú hý chồng chồng, vợ vợ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Ba, 2022, 09:26:32 pm

         Thời đó công nhân có câu vè rất vui tổng hợp về ngày thứ bẩy của mọi người là: “Thứ bẩy máu chảy về tim”. Hay tóm tắt công việc ai cũng phải làm ngày thứ bẩy là: “Cắt cơm-bơm xe-nghe thời tiết-liếc đồng hồ-đợi kẻng rửa tay-thay quần áo- vồ xe- đạp thẳng về với vợ”. Chính về thế cho nên chất lượng làm việc của ngày thứ bẩy là không cao, anh em chỉ làm việc cho có vì, ai cũng cứ ngong ngóng đến kẻng báo hết giờ để về. Số công nhân chưa vợ thì ngày thứ bẩy rất vui vì được nghỉ, được đi chơi tự do, về quê thăm bố mẹ, có người yêu hoặc anh em hẹn hò về nhà nhau chơi. Nghĩ đến những ngày đó thật thèm, hôm nay cũng đã là chiều thứ bẩy mà chúng tôi vẫn còn phải đi tập. Trung đội trưởng lại còn nói tối nay phải đi rèn hành quân mới ác chứ, không hiểu hành quân rèn luyện là thế nào nữa. Cũng là con người, song mỗi cuộc sống, mỗi môi trường một khác. Đời bộ đội, vào bộ đội là khổ thế, chưa nói đến cái sống, cái chết, sự hy sinh, máu chảy, đầu rơi ở chiến trường. Mà ngay trong những ngày huấn luyện cũng đã thấy khổ quá, vất vả quá, gò bó quá, chẳng được tự do. Mình giờ đây không phải là mình nữa, cái gì cũng phải theo lệnh, cái gì cũng phải báo cáo, phải xin phép, phải được phép. Chẳng thế mà cũng không ít thanh niên đã bỏ trốn không đi khám tuyển khi có giấy gọi, hoặc có một vài trường hợp đào ngũ, sống ẩn náu nơi rừng núi để trốn bộ đội vì không thể chịu được cái khổ, cái khắc nghiệt của đời lính.
            Trăn trở một lúc, đã đến giờ đi tập buổi chiều, anh em chúng tôi vẫn tập đội ngũ như buổi sáng. Trung đội trưởng cho mọi người tập đến ba giờ chiều thì để mọi người tự ôn, còn các tiểu đội trưởng hội ý trung đội ngay tại bóng râm của khóm tre ở thao trường. Sau 30 phút hội ý trung đội, các tiểu đội trưởng về cho họp từng tiểu đội kiểm điểm mạnh yếu trong tuần. Trung đội trưởng cho mỗi tiểu đội hai đồng chí về thăm nhà được về từ 4 giờ chiều nay thứ bẩy, tới 5 giờ chiều ngày chủ nhật phải có mặt, như vậy cả đi lẫn đến là 25 tiếng. Còn lại mọi người về nghỉ sớm để chuẩn bị 7 giờ tối hành quân rèn luyện. Ngày mai chủ nhật được nghỉ tập, nhưng phải làm công tác dân vận là đi gặt lúa cùng nhân dân. Việc này trung đội đã liên hệ với hợp tác xã rồi. Tiểu đội tôi, anh Hạ và anh Mai được về thăm nhà, mấy anh em bất ngờ được về mừng vui rối rít. Tôi hỏi thăm anh Hạ, và biết anh làm ở công ty Muối khu vực thị xã, vợ con đang ở đó. Tôi tranh thủ viết mấy chữ nhờ anh Hạ chuyển cho gia đình tôi. Nội dung chủ yếu nói về địa điểm đóng quân của tôi cho gia đình biết.
             Sau khi ăn cơm chiều, mọi người chuẩn bị trang bị, quan trọng nhất là mỗi người phải có đất hoặc gạch đá gì đó trọng lượng khoảng 20 - 25 ki-lô-gam cho vào ba lô, để tối hành quân rèn luyện. Đa số anh em lấy gạch hoặc lấy đất sét nặn thành những cục gạch khoảng 5 ki-lô-gam mỗi viên, xếp vào ba lô rất gọn. Quấn thêm cái chăn hoặc quần áo để tì vào lưng đỡ bị đau. Tôi cũng được mọi người giúp chuẩn bị những viên gạch như vậy, xách ba lô khoảng 20 ki-lô-gam tôi nói cũng không thấy nặng lắm. Thắng nói: Xách thử thì vậy anh ạ, nhưng đeo vào vai cả súng, cùng trang thiết bị, đi lâu là nặng và mệt lắm, hôm trước đi được nửa đường chúng em phải vứt đi một nửa đấy. Tôi nói: Anh chưa hành quân bao giờ nên không biết thế nào, tôi lấy thuốc lá và gói trà ra nói Thắng đun nước pha trà. Nhà anh chị chủ không có bộ ấm pha trà, Thắng hỏi: Pha trà thế nào anh? Tôi nói: Pha vào hai cái bát cũng được. Nhưng tốt nhất là pha vào bi đông, ủ kỹ trà ngấm sẽ ngon hơn. Thắng nghe tôi làm theo kiểu đó, đợi một lúc rồi rót trà ra bát cho mọi người uống. Nước trà đặc đỏ lòm đang nóng bốc hơi ngào ngạt. Anh chủ và Thắng, Văn thổi phù phù cho nguội, nhấp nhấp hớp trà rồi nhăn mặt. Thắng nói: Em tưởng nước trà thế nào chứ đắng chát thế này thì uống sao được! Thôi, em cứ chè tươi, nước vối là ngon, là quý rồi. Anh Thỉnh nhấp chè xong thì lại khen lấy khen để là trà ngon. Nói: Gần tháng nay không được ngụm trà nào, hôm nay uống ngon quá. Vừa nói anh vừa rít thuốc lá, anh nói tiếp: Hôm nay thứ bẩy ở trường những ngày này, anh em giáo viên chưa vợ chúng mình là hay tụ tập trà lá lắm, có hôm lại còn có cả cà-phê nữa. Anh Thỉnh nhắc tới ngày thứ bẩy làm tôi chợt nhớ, những ngày này ở nhà, mình được tự do muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm. Tôi thường cùng bố về nhà, vào những ngày thứ bẩy gia đình tập trung đông đủ. Tối thứ bẩy, tôi hay đi chơi với nhóm bạn trai  cùng lứa, mọi người đều làm việc trong các hợp tác xã cơ khí, lương của họ rất cao, gấp ba, gấp bốn lần lương tôi, thậm chí có những tháng làm tăng ca, lương họ gấp mười lần lương thợ bậc ba, 51 đồng của tôi. Nên cách tiêu pha của họ thoải mái hơn tôi nhiều. Mọi người hay chiêu đãi tôi vé xem phim, ăn thạch, ăn kem, hay ăn nộm thịt bò khô đu đủ của ông Thái chột đã nhiều năm bán loại nộm này. Nước giấm của ông chua thanh dịu ngọt thật thơm ngon. Nó quyện với mùi thơm của lạc, của vừng, đu đủ nạo thật nhỏ, bóp mềm nhưng vẫn giữ được độ giòn. Tay ông đánh cái kéo màu trắng chát chát xình, chát chát xình, cắt những miếng thịt bò khô đã được tẩm ướp chua cay cho vào nộm. Tiếng đánh kéo nghe như là tiếng đánh kéo của mấy ông thợ cắt tóc chuyên nghiệp. Nhiều lần tôi thèm nên ăn hẳn hai đĩa, húp đến tận cùng thứ nước giấm nộm thơm ngon cay cay của tương ớt đó. Ông không có quán cố định, mà có cái xe đẩy cà tàng, cũ kỹ cơ động. Nhưng ông dừng ở chỗ nào là chỗ ấy thành tụ điểm, các bạn trẻ cứ xúm xít quanh xe đẩy của ông, để thưởng thức thứ đồ ăn mà có lẽ bất kỳ bạn trẻ nào cũng thích. Nhất là những cô gái mới lớn hoặc cùng trang lứa như tôi. Nghĩ đến món nộm bò khô và vị chua của nó làm tôi thèm chảy nước miếng. Thấy tôi bần thần, anh Thỉnh nói: Nghĩ ngợi gì thế, uống đi ông Phú. Hôm nay, ông sẽ được thưởng thức buổi hành quân đâu tiên, đi từ 7 giờ tối đến khoảng 11giờ khuya mới về tới nhà đấy. Tôi chẳng biết hành quân là thế nào, nhưng thấy nói phải đi đến 11 giờ khuya thì thấy ớn. Nhưng biết làm sao bây giờ, thôi thì mặc kệ vậy. Cùng lúc, liên lạc trung đội xuống báo anh Thỉnh cho anh em ra sân kho. Anh Thỉnh nhắc chúng tôi chuẩn bị mang đủ súng, trang thiết bị, đeo ba lô hành quân, rồi anh chạy sang báo hai nhóm kia. Anh em tôi lục tục đeo trang thiết bị cùng ba lô gạch, xẻng thì buộc ngang nắp ba lô, vòng ngụy trang để trên cùng, chúng tôi đi dần ra ngõ đợi mọi người. Anh Thỉnh báo xong hai nhóm cũng vội chạy về lấy trang bị rồi dẫn cả tiểu đội ra sân kho tập trung, các tiểu đội khác cũng đang đến.
         Trung đội trưởng Đởn cũng đeo ba lô căng phồng. Đợi các tiểu đội đến đủ, trung đội trưởng hô trung đội tập hợp đội ngũ với đầy đủ trang bị cùng ba lô. Sau khi hô nghiêm, kiểm tra quân số, cho nghỉ rồi lớn giọng: Hôm nay trung đội hành quân rèn luyện, các đồng chí nhớ là hành quân rèn luyện cũng là một khoa mục học tập, để nâng cao sức khỏe dẻo dai trong hành quân mang vác. Hành quân cơ động, hành quân vào chiến trường, hành quân vượt Trường Sơn. Để các đồng chí làm quen với các tình huống như: Vượt qua các trọng điểm, vượt qua các tọa độ bãi bom, hay trên dọc đường hành quân bị bom, bị pháo, có đồng chí bị thương cần phải cứu chữa vv… Nghiêm!… Khoa mục hành quân! Mục đích như đã nói ở phần trên. Hướng hành quân: Theo hướng Đông Nam. Thời gian hành quân khoảng 4 tiếng tương đương với 12 ki-lô-mét vòng qua 4 xã. Cự ly hành quân: Mỗi người cách nhau từ hai đến ba mét, hành quân 50 phút thì nghỉ giải lao 10 phút. Chú ý trên đường hành quân có các giả định vượt qua tọa độ máy bay B52 đánh bom hay tọa độ pháo bầy pháo hạm của địch. Chúng ta phải vận động nhanh, nhưng phải giữ được đội hình, cự ly, nếu có giả định máy bay đánh vào đội hình, có thương vong thì phải tổ chức mang vác, cứu thương đồng đội. Nhưng hôm nay không có giả định này, vì chúng ta chỉ mang trang bị phổ thông súng đạn, chứ không mang đòn khiêng, đòn cáng. Thứ tự hành quân: Tiểu đội 9, tiểu đội 8, tiểu đội 7. Bây giờ vận động tại chỗ xem trang thiết bị ba lô, vòng ngụy trang đã gọn gàng chặt chẽ chưa. Các đồng chí chú ý: Nghiêm!… Vận động tại chỗ. Tiếng bước chân lộp bộp rồi rầm rập đều dần vang lên. Tiếng vũ khí va chạm vào trang bị xẻng cuốc nghe lạch cạch. Chạy khoảng hai, ba phút mọi người tự động dừng lại. Chà, vừa chạy một tí đã thấy cuồng chân và mệt, tôi cũng không thể chạy thêm được nữa. Mọi người hạ ba lô hít thở, rồi chỉnh lại những thứ trang bị lỏng lẻo, chỉnh lại dây đeo ba lô cho vừa.
           Nghiêm!…Các đồng chí nghỉ. Lên ba lô. Mọi người làm động tác đeo ba lô, trung đội trưởng hô tiếp: Theo thứ tự đã phổ biến, lên đường!... Nói xong, trung đội trưởng Đởn đi trước dẫn đường. Tiếp đến là tiểu đội trưởng tiểu đội 7, rồi anh em trong tiểu đội, đến các tiểu đội còn lại. Tôi đi gần cuối đội hình của tiểu đội và trung đội. Tiếng bước chân mạnh mẽ, hồ hởi rầm rập, tiếng chuyện trò trao đổi rộ lên râm ran. Đi được khoảng trăm mét, thấy trung đội trưởng Đởn đứng cạnh đường để kiểm tra, đôn đốc đội hình. Trung đội trưởng người đậm thấp, đeo cái ba lô căng phồng trông càng thấp. Đi trong làng, các em nhỏ túa ra đường xem bộ đội hành quân chỉ chỉ, trỏ trỏ, chú nọ chú kia. Chúng tôi bắt đầu rẽ ra con đường mương ở cánh đồng. Trời tối, không trăng nhưng nhiều sao, tạo lên một thứ ánh sáng mờ mờ, huyền ảo. Đi ngoài đồng, gió thổi mát hơn, mùi rơm rạ đặc trưng của ngày mùa ngào ngạt. Tiếng côn trùng ri rỉ, tiếng ếch nhái kêu ộp oạp râm ran. Trung đội trưởng đi vượt lên hàng quân nói với đồng chí Loan bắt điệu cho anh em hát. Tôi nói với anh Thỉnh: Hành quân mang vác ba lô súng đạn thế này lại còn hát nữa! Anh Thỉnh nói: Bộ đội là thế đấy ông ạ, lần trước cũng vậy. Cùng lúc tiếng tiểu đội trưởng Loan vang lên: Các đồng chí hát nhé: Vì nhân dân quên mình ha…ai… ba! Đội hình hành quân vang lên tiếng hát: “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, anh em ơi vì nhân dân quên mình”… Tiếng hát mới đầu còn thưa, nhưng sau đều dần, mạnh mẽ hơn, hòa quyện cùng bước chân vang vang giữa trời khuya gió lộng. Chỉ có trời, có đất, các vì sao nhấp nháy cùng bầy đom đóm bay lập lòe tìm bạn tình soi đường cho bộ đội hành quân. Tôi cũng lẩm nhẩm hát theo, mới đầu thấy lạ lẫm, sau cũng thấy vui vui. Tiếng hát có lẽ làm cho chúng tôi, những người đang tập hành quân mang vác quên đi cái mệt nhọc, cái nhớ nhung gia đình, quên đi những nỗi nhớ ngày thứ bẩy. Hết bài ca, tiểu đội trưởng Loan tiếp tục bắt điệu bài: “Giải phóng Miền Nam”. Đây là những bài hát “tủ” của bộ đội, nên thấy thường được hát trong những lúc họp hành, học tập. Đến bài thứ ba là bài: “Tiến bước dưới quân kỳ”. Lời ca, nốt nhạc viết theo nhịp 2/4 thật hùng tráng. Anh em hát say sưa hơn, mạnh mẽ hơn. Bài ca rất hợp với nhịp bước hành quân: “Vừng đông đã hửng sáng, núi non xanh ngàn trùng xa, Tổ quốc bao la hiền hòa. Tươi thắm bóng cờ vờn bay trên cao, muôn trái tim này hòa nhịp cùng ngàn lời ca trong sóng lúa lấp lánh sao bay trên quân kỳ”… sau này những buổi học tập tiếp theo, tôi mới biết những bài hát trên là những bài hát bắt buộc trong mười bài hát mà mọi chiến sĩ trong quân đội phải học thuộc.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Ba, 2022, 09:28:20 pm

          Đúng là vừa đi vừa hát thời gian như trôi nhanh hơn, mặc dù tôi đã thấy thấm mệt. Nhưng đây mới là chặng đầu, giờ đầu, trung đội trưởng cho toàn trung đội nghỉ giải lao. Tiếng chuyện trò lao xao sôi động hẳn lên. Không phải chỉ có tôi mệt mà chắc mọi người cũng vậy, tiếng mở bi đông uống nước ùng ục. Đã thấy lập lòe của một vài đốm thuốc lá, có cả tiếng rít thuốc lào sòng sọc. Tôi ngả người gối đầu vào ba lô, anh Thỉnh đến cạnh tôi hỏi: Đã thấy gì chưa ông Phú? Còn thuốc bỏ đây xem nào? Tôi nhỏm dậy móc bao thuốc nói: Thuốc đây anh hút đi, tôi cũng châm lửa làm một điếu, ngả người gối đầu lên ba lô nhìn lên trời. Gió mát, lại giữa cánh đồng làm cho cái nóng, cái mệt dịu đi. Tôi cứ nằm thế mà hút thuốc, chẳng muốn bắt chuyện với ai, mới có mấy ngày vào lính mà cuộc sống quá thay đổi. Tôi thấy tiếc cho cuộc sống khi chưa vào bộ đội. Giờ này ở nhà chắc tôi cùng lũ bạn lại quây quần quanh quán nộm bò khô của ông Thái thọt, xì xụp húp nước dấm chua chua, ngọt ngọt cay xè lưỡi. Ngắm nhìn những em gái tuổi dậy thì với hai gò má hồng hồng, có bộ ngực nhỏ nhỏ, xinh xinh thiếu nữ thật hấp dẫn, đang xuýt xoa hà hà do vị cay của tương ớt. Còn ở đây tôi phải mang vác hành quân thế này. Hút gần hết điếu thuốc, tiếng trung đội trưởng hô: Tiếp tục hành quân! Mọi người lục tục đứng dậy đeo trang bị, ba lô, vác súng hoặc có người đeo súng trước ngực.
         Tiếng bước chân lại rầm rập, rầm rập. Đi được khoảng mươi phút vẫn đang ở đường bờ mương, bỗng tiếng trung đội trưởng hét thật đanh: Tọa độ B52, máy bay B52 có thể đánh vào đội hình, tất cả vận động ra khỏi vùng tọa độ nguy hiểm. Dứt lời, trung đội trưởng vận động trước vừa chạy vừa hô: Nhanh nào, nhanh nào, nhanh nữa lên các đồng chí. Tiếng bước chân chạy của mọi người thình thịch, thình thịch. Tôi cũng cắm đầu cắm cổ lạch bạch chạy theo mọi người. Chạy được một quãng, ai nấy mệt đứt hơi không thở được, tim tôi đập như trống trận. Có tiếng ngã oạch và tiếng kêu “ối” của người đằng trước. Một ai đó còn nói đùa: Nằm lắp đạn, tháo đạn đứng dậy. Hai ba đồng chí xúm vào kéo đỡ người ngã đứng lên. Vẫn tiếng trung đội trưởng: Không được ngồi lại, máy bay ném bom bây giờ, chạy mau, chạy mau. Tôi không thở được nữa, thở hồng hộc mà vẫn thấy bị nghẹt hơi tức ngực. Cùng lúc tiếng trung đội trưởng vang lên: Đã qua tọa độ trọng điểm, ngừng vận động, hành quân bình thường! Tiếng bước chân rời rạc cùng những tiếng thở dồn, có người đã không đi được nữa, ngồi phịch xuống. Có tiếng người động viên: Cố lên, cố lên đồng chí, đưa súng đây mình mang giúp. Rồi những tiếng ồn lên, nghỉ thôi, nghỉ thôi trung đội trưởng ơi, anh em không thở, không đi được nữa rồi. Trung đội trưởng nói: Hành quân rèn luyện là vất vả, hôm nay các đồng chí mới mang có 20-25 ki-lô-gam, nhưng ít ngày nữa, hành quân vào chiến trường, vượt Trường Sơn còn phải mang nặng 30- 40 ki-lô-gam ấy chứ. Lại còn phải trèo đèo, lội suối, băng rừng, vượt núi, thiếu ăn, thiếu mặc nữa, cố lên, cố lên nào, đi lúc nữa rồi nghỉ. Vừa nói trung đội trưởng vừa đi băng băng. Có anh em nói: Trung đội trưởng trông không to lắm mà sao hành quân khỏe thế, chẳng thấy mệt gì cả. Có tiếng ai đó nói: Ông ấy đeo ba lô căng nhưng chỉ có quần áo, chăn màn nhẹ lắm, chứ có nặng như anh em mình đâu. Tiểu đội trưởng Lâu gần đó nói ngay: Các đồng chí hành quân đi, sao lại bì tị thế, trung đội trưởng có nhiều kinh nghiệm và hành quân vào Nam nhiều rồi. Mình là lính mới chưa quen mang vác nên phải tập, anh em cố lên, sắp đến giờ nghỉ rồi.
           Đội hình hành quân rẽ ra bờ sông, tôi cũng không biết là sông gì, nhưng anh em nói đây là thuộc địa phận xã Phú Lương. Chúng tôi đi dọc bờ sông, hướng đi đã về hướng Bắc dưới những tán cây nhãn già. Mặt đường gồ lên những rễ cây xù xì, đi rất hay bị vấp, anh em phải bước cao chân hơn. Tiếng tiểu đội trưởng Loan vang lên: Ở đây gần dân, anh em mình hát to cho khí thế anh em ơi! Lại hát, mệt bỏ xừ đi mà còn hát, tôi nghĩ vậy. Tiểu đội trưởng Loan bắt điệu: “Đoàn chúng ta đi”…ha…ai…ba! Mọi người đồng thanh hát theo: “Đoàn chúng ta đi làm nhiệm vụ mới, vững chí bền lòng đường xa mang nặng ta còn phải đi. Khi gặp gian khó ta ca hát rằng: Đường đấu tranh là đường gian khổ người cách mạng một lòng sắt son, càng tin tưởng ta càng vững bền. Vượt gian nguy là chiến thắng quân thù… chiến thắng quân thù… Đằng trước chúng ta đồng bào miền Nam bao lũ tham tàn còn gây bao uất hận ta còn phải đi…ta còn phải đi”… Tôi chưa nghe bài hát này bao giờ, lời bài hát thấy ngồ ngộ. Hình như do nhạc sĩ không chuyên nghiệp sáng tác ấy, nhưng từng lời, từng chữ thật ý nghĩa. Nhất là đoạn điệp khúc: “Khi gặp gian khó/ ta ca hát rằng/ đường đấu tranh/ là đường gian khổ/ người cách mạng một lòng sắt son/ càng tin tưởng ta càng vững bền/ vượt gian nguy là chiến thắng quân thù/ chiến thắng quân thù! Lời ca thật ấn tượng, động viên, khích lệ những người lính mới chúng tôi rất nhiều.
            Khoảng hơn 11giờ khuya, chúng tôi mới về tới nơi đóng quân, người tôi đau ê ẩm. Chặng đường cuối hành quân không còn có đội hình tổ chức gì nữa mạnh ai nấy đi. Trung đội trưởng cùng liên lạc đã tăng tốc về trước, sau khi giao nhiệm vụ cho từng tiểu đội duy trì anh em hành quân chặng về. Rất nhiều anh em đã vứt vợi số gạch, đất cho nhẹ bớt. Tôi cố gắng lắm mới “lê” được về tới nhà, với thành tích là còn nguyên trọng lượng lúc đầu. Tiểu đội trưởng Thỉnh nói mọi người làm vệ sinh xong thì đi ngủ. Mai dậy muộn, được nghỉ ngơi buổi sáng và cử hai người sáng xuống giúp chị nuôi nấu cơm. Buổi chiều làm công tác dân vận, thu hoạch lúa giúp dân. Mấy anh em tôi vứt uỵch cái ba lô xuống. Cũng vẫn trọng lượng như vậy, nhưng bây giờ ba lô như được thấm thêm mấy lít mồ hôi hay sao mà thấy nặng quá, tháo ba lô ở vai ra, muốn nhẹ nhàng mà cũng không được. Hạ ba lô xong cảm giác người như lao về trước. Anh Thỉnh nói: Anh em mình nhẹ nhàng để anh chị chủ nhà đang ngủ. Cùng lúc chị chủ nói vọng từ trong buồng ra: Các chú cứ tự nhiên, anh chị đợi các chú về, chưa ngủ đâu. Chị chủ vừa nói vừa bước ra, hai tay làm động tác vấn lại búi tóc. Chị đi một mạch xuống bếp, rồi bê lên nồi khoai luộc, nói: Biết các chú đi rèn về muộn, đi rèn là mệt, đói lắm, chị mời các chú ăn khoai cho đỡ đói.
             Nhìn nồi khoai bốc hơi thơm phức cùng với thái độ chân tình của chị chủ làm chúng tôi cảm động. Chị chủ thật tốt bụng, chúng tôi chỉ biết cảm ơn chị rồi tất cả sà ngay vào quanh nồi khoai. Ai cũng đói và mệt, cầm củ khoai thổi phù phù, ăn ngấu nghiến. Thắng, Văn cứ thế ăn chẳng bóc vỏ gì cả, tôi và anh Thỉnh thì bóc vỏ khoai đàng hoàng, ăn từ tốn. Chị chủ nhìn chúng tôi ăn mà lại trào nước mắt chị nhớ người em trai của chị, cũng độ tuổi chúng tôi nhưng đi bộ đội năm trước, nghe đâu đang chiến đấu trong Quảng Trị. Anh Thỉnh vừa ăn vừa hỏi chị chủ: Anh Đạt đã ngủ chưa? Chị gọi anh dậy ăn cùng chúng em cho vui. Chị chủ nói: Anh ngủ rồi, các chú cứ ăn đi cho khỏe, nhìn các chú chị nhớ và thương em trai chị quá. Cách đây mấy tháng, chú ấy viết thư về nói là đang ở Quảng Trị. Nghe nói Quảng Trị mấy tháng nay ác liệt lắm, thương binh chuyển ra rất nhiều, không biết em chị thế nào rồi. Ăn hết củ khoai, tôi đi làm vệ sinh, uống nước rồi đi ngủ trước. Mệt quá nên cũng chẳng nghĩ ngợi gì, tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ vùi.
          Tỉnh dậy đã gần 7 giờ sáng, ngủ mệt sâu quá chẳng biết trời, biết đất là thế nào nữa, giấc ngủ ngon đã làm tôi lấy lại được sức lực. Thắng, Văn vẫn đang ngủ Anh Thỉnh đã đi lấy cơm về ăn và để phần chúng tôi. Thấy tôi dậy anh Thỉnh nói: Các ông ngủ say quá, làm vệ sinh đi rồi ăn sáng, cơm tôi để phần các ông đấy, tôi ăn trước rồi. Tôi làm vệ sinh cá nhân rồi ăn sáng. Tôi nói anh Thỉnh là còn trà đấy, anh đun nước pha trà anh em mình uống. Anh Thỉnh nói: Ôi! Thế thì tuyệt quá, sáng chủ nhật được nghỉ nhưng chẳng biết làm gì, Phú ăn sáng đi rồi uống trà. Anh em mình chuyện trò tào lao vậy chứ ở đây có chỗ nào đi chơi đâu. Anh em tôi pha trà, thuốc lá thì tôi vẫn còn nhiều. Buổi sáng mùa hè thật yên tĩnh, Thắng, Văn vẫn đang ngủ say sưa. Anh Thỉnh nói: Cứ để cho chúng nó ngủ, tuổi này ở nhà đang còn rúc vú mẹ ấy chứ. Đúng là trong một trung đội cùng một lớp lính, mà trình độ, tuổi tác lại cách biệt nhau quá. Có người là thầy giáo, có người là học trò, có người là kỹ sư, là cán bộ, là công nhân. Anh Thỉnh vừa hút thuốc, vừa nhâm nhi trà, vừa hỏi tôi đủ chuyện về gia đình, về công việc. Gần tám giờ, anh gọi Thắng và Văn dậy. Giọng rất đàn anh: Dậy đi hai ông tướng ơi, muộn rồi, dậy ăn cơm đi, chứ không lại chuẩn bị cơm trưa rồi đấy.
          Giục Thắng và Văn dậy xong, anh Thỉnh rủ tôi đi lòng vòng thăm cảnh quan làng xóm. Tôi nói gần đây là bờ sông, trước em hay đi qua đây đến chỗ bố em chơi mua mùn cưa, củi vụn về cho nhà làm đồ đun nấu. Tôi kể: Hồi đang học tại trường Cơ khí Thái Bình, tôi chơi thân với anh Hữu gia đình sống tại thành phố Hải Phòng nhưng sơ tán về ở cùng người chị gái lấy chồng Thái Bình. Đã nhiều lần tôi ra nhà Hữu chơi, bố mẹ Hữu nhà ở đường Hồ Sen bây giờ. Những năm đó nhà Hữu có tới mấy mẫu ao đầm toàn sen, anh em tôi thường hay chèo thuyền ra hồ chơi hái sen. Chiều hè hoa sen tỏa hương thơm mát. Chúng tôi chọn những bông hoa lớn, cho trà khô, loại trà móc câu vào ướp từ buổi tối, đến sáng hôm sau ra lấy trà đã được ướp trong hoa cả đêm. Sáng dậy được thưởng ngoạn trà sen ướp trực tiếp như vậy có thể nói không có loại trà nào thơm ngon bằng. Hữu cũng học nghề như tôi, hai anh em rất thân nhau, Hữu thường đến nhà tôi chơi, ăn nghỉ tại nhà như con cái trong nhà.
Anh em tôi đi dạo chầm chậm lên đê rồi đi dọc đê, sông nhỏ nên con đê cũng gầy guộc. Được cái vùng này dân trồng nhãn nhiều, những cây nhãn già khẳng khiu, rễ cây vắt ngang, vắt dọc đường đê, đi không quen rất khó, đi xe đạp rất xóc do những rễ cây nhãn trồi lằn lên mặt đê. Cái xe đạp Phượng Hoàng xích hộp màu rêu của chị tôi đã cũ, xích chùng đi ở quãng đường này khi trèo qua các rễ cây, xích xe nẩy lên theo nhịp xóc đập vào hộp xích lạch cạch, lạch cạch tôi rất nhớ những âm thanh ấn tượng đó. Dưới bãi sông dân trồng đay bạt ngàn, thi thoảng có con thuyền nhỏ căng buồm qua lại. Dạo qua dọc đê đến gần xã Hoà Bình, những nơi này tôi đã qua lại nhiều lần nên thấy cảnh trí quen thuộc bình thường, nhưng anh Thỉnh lần đầu đi ở đây, nên cứ khen phong cảnh đẹp, có hồn, có tình, giầu chất thơ. Đúng là đầu óc của nhà giáo thi sĩ, tôi nghĩ vậy mà thêm phục anh hơn. Mỏi chân, anh em tôi quay trở về. Thời đó vùng quê hầu như không có hàng quán, cũng chẳng có chỗ nào ngồi nghỉ, hai anh em thũng thẵng đi bộ về nhà. Tới nhà đã gần trưa chuẩn bị tới giờ đi lấy cơm. Anh Thỉnh nói: Chiều nay anh em mình giúp anh chị chủ thu mùa, tối nay không họp, nhưng thường là đêm chủ nhật hay có báo động. Anh nói thêm: Có hai loại báo động, báo động hành quân di chuyển và báo động chiến đấu kiểm tra quân số, súng đạn. Báo động hành quân di chuyển là rất khổ, phải mang hết toàn bộ quân tư trang súng đạn. Quần áo ướt mới giặt cũng phải mang theo không để sót lại một thứ gì. Còn báo động chiến đấu thì chỉ mang vũ khí súng đạn ra chỗ tập trung điểm danh, kiểm tra quân số, vũ khí. Thời khắc báo động thường là từ 11 giờ khuya hoặc bất kể thời gian nào. Khổ nhất là vừa mới ngủ bị báo động tất cả phải thật nhanh không được chậm trễ. Đây là tiêu chí rất quan trọng xét thành tích, tiểu đội nào nhanh nhất sẽ được biểu dương. Tiểu đội nào chậm trễ bị phê bình rất gay gắt, đêm nay thế nào cũng có báo động. Nên anh em mình phải gọn gàng trang bị, ba lô quần áo, cả giầy dép nữa, để khi có báo động thì ra chỗ tập trung nhanh nhất.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 02:50:28 pm

         Hai anh em trở về nhà, Thắng vẫn đang nằm trên giường nghêu ngao hát: “Anh đi lính, bé mới vừa lên mười, anh về phép bé thường sang nhà chơi”… Câu hát trong bản nhạc của nhạc sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà mà ta gọi là nhạc vàng, hồi đó những bản nhạc này bị cấm, nhưng hầu như thanh niên mới lớn nào cũng thuộc vài ba bài hay vài ba câu, hát vu vơ nghe não nề. Văn đang hí hoáy viết thư, thấy hai anh em tôi về mừng rỡ hỏi: Hai anh đi được xa không? Ở quê có cái quái gì mà xem, em đang đợi hai anh về cho em xin cái phong bì và cái tem thư. Anh Thỉnh nói: Thế đi bộ đội gia đình không chuẩn bị tem thư, phong bì, giấy bút à? Còn Thắng, ông đừng nghêu ngao vàng vọt ỷ oi nữa ông ơi, cán bộ nghe thấy, họp lại kiểm điểm bây giờ. Dậy đi lấy cơm về ăn, chuẩn bị còn đi giúp dân gặt lúa đấy. Tôi nói với Văn: Anh có nhiều phong bì và tem lắm, em cứ lấy mà dùng. Văn thích quá nói: Ôi, thế thì thích quá cho em mấy cái, các anh giầu thật, công nhân có khác chứ chúng em chẳng lấy đâu ra.
         Thắng và Văn lục tục chuẩn bị xoong nồi đi lấy cơm, rồi gọi với sang nhà bên cạnh nói anh em cùng đi. Tôi và anh Thỉnh lấy thuốc lá hút, đợi cơm. Anh chị chủ nhà đi làm đồng vẫn chưa về, chỉ có hai cháu nhỏ ở nhà tung tăng chạy chơi ngoài ngõ. Anh Thỉnh nói: Hay là chiều nay Phú cứ nghỉ ở nhà, để anh báo cáo lý do hôm qua hành quân rèn luyện bị mệt, chứ đi làm đồng không quen khổ lắm đấy. Tôi nói: Để em đi với anh em cho vui, cũng xem gặt lúa làm mùa là thế nào chứ, anh đừng ngại, nhưng đợi anh chị chủ về mượn thêm dụng cụ mới được. Tôi nói thêm: Gặt lúa thì em không biết, nhưng hồi nhỏ em cũng đã cắt cỏ quen rồi. Hai anh em vừa hút thuốc vừa nói chuyện, hết điếu thứ hai thì Văn, Thắng, Thịnh đã lấy cơm về, vừa bưng cơm vào đến sân thấy chúng tôi Văn đã láu táu rối rít khoe: Hôm nay mấy thằng xã em xuống nấu cơm cho nhà bếp, cơm nhão nhưng được cái có cháy, chúng nó thêm cho em miếng to lắm. Anh Thỉnh nói Văn gọi anh em trong tiểu đội sang ăn cơm và tiện thể gọi luôn hai cháu con chị chủ vào ăn. Văn chạy ra đầu ngõ gọi vọng: Có cơm rồi! Sang ăn cơm đi các ông ơi. Hai đứa trẻ thì dứt khoát không vào ăn cơm, các cháu nói: Bố mẹ dặn là không được ăn cơm của bộ đội, để các chú ăn cho no có sức khoẻ còn đi vào Nam đánh giặc.
          Sau khi ăn cơm xong, anh Thỉnh hội ý nhắc là chiều nay ta đi làm giúp dân, anh nói: Đồng chí nào ở nhà ai thì cùng đi làm theo với gia đình ấy, các đồng chí phải làm nhiệt tình chịu khó, đừng để dân chê cười vì làm hời hợt. Cùng lúc đó thì anh chị chủ ào về nhà, người nào người ấy mồ hôi nhễ nhại nhưng thấy cả hai anh chị rất vui. Chưa vào tới nhà chị đã nói: Các chú ăn cơm rồi à? Hôm nay chủ nhật được ăn sớm à? Tôi nói: Chúng em gọi hai cháu vào ăn mà chúng không chịu vào. Chị cười nói: Các chú cứ tự nhiên, các cháu không được phép ăn cơm của các chú đâu. Vừa nói chị vừa để đôi quang gánh và cái liềm vào góc sân, chị lấy cái gầu múc nước vục nước rửa mặt rồi đôn đáo đi sắp bữa. Anh thì vào nhà lấy điếu cầy hút sòng sọc hai điếu liền, rồi ngồi uống nước đợi cơm. Anh em các nhà đã về hết, tôi và anh Thỉnh ngồi nói chuyện với anh chủ. Anh Thỉnh nói: Chiều nay chúng em được đi gặt lúa cùng các gia đình, anh xem công việc thế nào cho chúng em mượn dụng cụ nhé. Anh chủ nói: Đêm qua các chú hành quân rèn luyện mệt rồi, hôm nay cứ nghỉ ở nhà cho khỏe để mai còn đi tập vất vả lắm. Anh Thỉnh nói: Chúng em đã nghỉ buổi sáng khỏe rồi, đây là kế hoạch của cả trung đội anh à, anh cứ để chúng em đi.
           Chị chủ đã vùi xong nồi cơm, thấy thế cũng nói vọng lên: Các chú ở quê làm đồng ruộng cả rồi không sao, còn chú Phú ở thị xã có biết làm ruộng, biết đồng áng thế nào đâu? Chú biết hàn vá nồi là quý lắm rồi, chú cứ ở nhà đừng đi cho mệt. Tôi nói: Em phải cùng đi với mọi người chứ, xem công việc nhà nông gặt hái, mùa màng thế nào, chị không sợ em không làm được đâu. Chị chủ nói: Chỉ sợ chú mệt, vất vả chứ công việc ngày mùa thì bao giờ mới hết.
         Tôi lên giường nằm nghỉ, anh chị chủ nhà chuẩn bị ăn cơm, cả gia đình bốn người tíu tít bận rộn. Bữa cơm ngày mùa thật đạm bạc, cá đã kho sẵn trong cái niêu đất nhỏ thường thấy treo ở cái quang mây nhỏ dưới bếp, rau thì hái ngay tại vườn nhà gọi là rau tập tàng, một bát cà muối xổi đã thâm, giữa mâm là bát nước mắm cua tỏa mùi tanh ngái. Được cái ngày mùa nên không phải ăn cơm độn khoai, độn ngô. Nhìn gia đình quây quanh chiếc mâm gỗ cũ, mời nhau ăn cơm, chuyện trò tíu tít thật đầm ấm. Anh Thỉnh vẫn ngồi nói chuyện với họ về việc gặt hái làm mùa ngoài đồng chiều nay. Tôi thiếp đi một lúc đã thấy mọi người í ới gọi nhau ra đồng. Anh Thỉnh gọi tôi dậy, đang giấc ngủ ngon nhưng tôi cũng choàng tỉnh hỏi: Đã một rưỡi rồi hả anh Thỉnh? Chưa tới kẻng, mới gần 1 giờ chiều, ngày mùa mọi người đi làm sớm, mình cũng đi thôi, anh Thỉnh trả lời tôi. Tôi ra giếng rửa mặt, rồi mặc quần áo dài đi giầy chuẩn bị ra đồng. Chị chủ nói: Chú đi dép thì hơn, vì ngoài đồng nhiều chỗ có nước, có bùn, đi giầy ướt hết.
          Mới có hơn 1 giờ mà đường ra đồng đã rất đông. Ngày mùa thì chẳng cần phải có kẻng hiệu, người dân vẫn chủ động đi làm, dù ruộng vẫn là ruộng của hợp tác xã, nhưng ý thức lao động của ngày mùa, ngày thu hoạch, sau bao ngày vất vả thôi thúc, làm mọi người háo hức hơn, tất bật hơn. Con đường ra ruộng là con đường tôi đã đi từ đại đội về trung đội tối hôm nhập ngũ. Mới có mấy ngày mà lúa hôm nay đã chín vàng rực cánh đồng. Trời nắng chang chang, vòm trời xanh cao cùng những mảng mây trắng lững lờ trôi, báo hiệu một chiều nắng gắt. Thỉnh có cơn gió thoảng qua mặt, thơm mùi lúa chín và thêm cả hơi nóng của đồng lúa. Trên cánh đồng đã rất đông người lô nhô nón, những cái nón trắng đã được sơn màu, hay quàng những cái khăn màu xanh để tránh máy bay phát hiện. Điểm kỹ thì đàn ông, con trai rất ít, những trai tráng khỏe mạnh thì đang phải ra trận, đang xông pha mũi tên hòn đạn ngoài chiến trường, nên ở nhà toàn phụ nữ cùng những người đàn ông đã vào loại trung niên có tuổi. Cũng có những người là bộ đội đã qua chiến trận bị thương, được trở về hậu phương vẫn trong trang phục quân đội mầu xanh ra đồng. Hôm nay cánh đồng nhộn nhịp hơn, vui hơn vì có thêm lực lượng bộ đội đi thu mùa cùng bà con, nên mọi người càng thêm phấn chấn, nhất là những chị em phụ nữ thì không dấu, không kiềm chế được niềm vui.
            Như đã được phân công trước, mọi người ra tới đồng là ào xuống ruộng ngay, ai vào việc ấy, í ới gọi nhau. Người cắt lúa, người xếp bó lúa, người đợi gánh lúa về sân kho. Anh em bộ đội đa phần là nông dân hoặc có đi công tác cơ quan, làm thầy giáo hay sinh viên thì cũng đều xuất thân từ nông dân, mọi người hòa nhịp vào công việc rất nhanh. Riêng có tôi là hoàn toàn chưa biết gì về công việc đồng áng cả. Chị chủ nhà nói với anh Thỉnh là để chú Phú bê dồn gom lúa đã cắt từng đống, rồi bó lại cho mọi người gánh hoặc xe cải tiến chở về. Tôi làm theo sự chỉ dẫn của chị, làm được một lúc đã thấy mồ hôi vã ra đầm đìa. Cái nóng thật ngột ngạt, có cảm giác còn nóng hơn cả khi tôi vào hầm tầu làm việc. Tôi liên tục lấy khăn lau mồ hôi, mới thấy công việc đồng áng rất vất vả.
           Nhớ lại bài thơ “Hạt gạo làng ta” của cậu bé Trần Đăng Khoa, được gọi là “thần đồng” tả về hạt gạo, về công sức của những người nông dân rất hay: “Hạt gạo làng ta có vị phù sa của sông Kinh thầy… hạt ra tiền tuyến gửi người đi xa”… Cái vất vả của người mẹ để làm ra hạt gạo như: “Nước như ai nấu chết cả cá cờ, cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy”… Trong đầu tôi chợt liên tưởng, hiện lên mấy câu thơ đã nghe ở đâu đó :“Cong lưng bông lúa Thái Bình/ Hạt nào giành để nuôi mình tháng ba/ Hạt nào vào chiến trường xa/ Để nuôi bộ đội ở ba chiến trường”… Hay xưa có câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”, mới thấy mồ hôi, công sức một nắng hai sương của người nông dân làm ra hạt gạo. Nên các cụ xưa đã ví hạt thóc, hạt gạo là hạt ngọc hay ngọc thực thật đúng.
         Thái Bình là vựa lúa lớn của đồng bằng Bắc bộ. Duy nhất là tỉnh không có đồi núi, là tỉnh đầu tiên của Miền Bắc đạt 5 tấn thóc 1 héc-ta. Những năm này ở nơi đâu cũng có khẩu hiệu: “Thái Bình quyết tâm thực hiện:“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, và câu: “ Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Mật độ dân số của Thái Bình là cao nhất Miền Bắc, nên chỉ tiêu tuyển quân nghĩa vụ quân sự, chỉ tiêu đóng góp lương thực, thực phẩm cho nhà nước lúc nào cũng dẫn đầu cả nước. Ngày mùa thu hoạch lúa, nhưng dân đâu có được hưởng nhiều, vì chỉ tiêu giao nộp cho nhà nước rất cao. Ai cũng biết là chúng ta không chỉ chi viện lương thực cho miền Nam, cho các tỉnh, mà còn phải chi viện cho chiến trường C, chiến trường K, tức là nước Lào, Campuchia anh em, cả ba nước Đông Dương đang cùng đoàn kết đánh Mỹ.
         Đang vẩn vơ suy nghĩ về cuộc sống vất vả của người nông dân, thì đã nghe tiếng eo éo rồi một giọng ca vút lên từ chiếc loa phóng thanh của xã: “Từ ngày anh đi việc nhà em đảm đang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng”… Rồi tiếp đến bài hát: “Bài ca 5 tấn” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý: “Năm tấn thóc để góp phần đánh Mỹ, ruộng đất quê ta không muốn nghỉ lấy một ngày, đất với người cùng một lòng suy nghĩ, ấy phải làm gì cho cuộc sống hôm nay”… Tiếp đến mấy bài hát nữa của những ca sỹ, nghệ sỹ chuyên nghiệp. Tiếng hát thật hay đã động viên rất kịp thời mọi người đang lao động vất vả. Hết tiết mục ca hát là giọng nói của ông cán bộ thông tin xã, thông báo về tình hình gặt lúa, làm mùa của từng thôn trong xã. Rồi đến bản tin thời sự về cuộc chiến đấu vô cùng khốc liệt. Tin chiến thắng của bộ đội ta ở khắp các chiến trường, đặc biệt là tại chiến trường Quảng Trị.
          Mọi người ngồi nghỉ ngay trên bờ nghe hát, nghe bản tin xong lại tiếp tục công việc. Trên cánh đồng không chỉ có những người nông dân gặt lúa, mà lác đác còn có những người già đang lùa đàn vịt vào những chỗ lúa vừa gặt để chúng nhặt thóc rơi vãi. Trên tay các ông có hai cái roi, một cái dài như cái cần câu, đầu buộc túm giẻ tua rua để làm hiệu lùa vịt. Còn một cái roi nữa ngắn hơn để vụt những con nhái, nhặt con cua con ốc cho vào cái giỏ đeo bên hông. Nhiều phụ nữ đi gặt cũng có những cái giỏ như vậy. Có người mang cả lồng gà ra thả để gà nhặt thóc rơi. Trên đồng còn có các em nhỏ, bé trai, bé gái vai khoác cái bị cói đi sau những người gặt gọi là đi mót lúa. Có hiện tượng cố tình bỏ sót lúa để cho các em nhặt. Chim sẻ, chim chìa vôi rất nhiều, chúng chao qua, chao lại hay vụt đuổi theo những con cào cào, châu chấu. Quang cảnh nơi đây đúng là bức tranh ngày hội mùa thật đẹp, thật vui.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 02:52:15 pm

          Sau khi ăn cơm chiều, các tổ ba người lại họp để kiểm điểm công việc như hành quân rèn luyện, lao động giúp dân, bầu và đề nghị biểu dương cấp tiểu đội, cấp trung đội, cấp đại đội. Tôi được anh em đề nghị biểu dương cấp trung đội. Bẩy giờ tối, chuẩn bị đi họp trung đội thì anh Hạ đến thông báo với tôi là đã đến nhà gặp bố mẹ tôi và chuyển thư của tôi. Anh Hạ nói, bố mẹ tôi rất vui vì đã biết được nơi đóng quân của tôi và nói anh Hạ là khoảng một hai ngày nữa bố mẹ sẽ đi thăm tôi. Mọi người lục tục ra sân kho họp trung đội, lại vẫn thủ tục như mọi lần, là phải điểm danh kiểm tra quân số, nhất là kiểm tra các đồng chí được về thăm nhà có mặt đúng hẹn không. Rồi đồng chí Loan quản ca bắt điệu cho anh em hát bài: “Vì nhân dân quên mình” tiếp theo là bài hát: “Giải phóng miền Nam”, “Tiến bước dưới quân kỳ”. Sau ba bài hát, đồng chí Đởn trung đội trưởng lên chủ trì cuộc họp. Đầu tiên vẫn là bài “giáo huấn” về tình hình chiến sự ở miền Nam, khu vực Quảng Trị. Số máy bay địch bị bắn rơi, số phi công Mỹ bị bắt sống ở miền Bắc. Sơ qua về tình hình thế giới, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ ta. Đặc biệt ngay tại nước Mỹ cũng đã có những cuộc biểu tình chống chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tiếp đến là nhận xét về ý thức kỷ luật và những điểm mạnh, điểm yếu của trung đội, những cá nhân tích cực và những người chậm chạp thiếu ý thức v.v…
          Sau khoảng một giờ vòng vo diễn thuyết quá quen thuộc, trung đội trưởng đọc danh sách biểu dương các cá nhân mà các tiểu đội bình bầu đưa lên. Tiểu đội tôi được bình chọn là tiểu đội khá nhất, có đến hàng chục người được biểu dương là ý thức tốt, gương mẫu trong học tập và huấn luyện. Tiếp đến là trung đội trưởng phổ biến kế hoạch học tập huấn luyện của tuần tới. Đúng 21 giờ thì cuộc họp giải tán, mọi người ra về, anh Thỉnh phân công gác tối. Tôi rất vui vì biết tin bố mẹ sắp đến thăm. Chị chủ nhà nói: Chú Phú thích nhé, sắp được bố mẹ lên thăm! Tôi ngồi hút thuốc chuyện trò với anh chị chủ một lúc rồi đi ngủ. Trời thật nóng nực, ở đây đâu có điện mà có quạt máy. Ở nhà bố tôi sáng chế lấy cái điamo phát điện của xe đạp rồi làm cái cánh nhỏ bằng phim x-quang, hay bằng nhuôm mỏng lắp vào đầu, mỗi giường treo một cái giữa đình màn. Khi cắm điện xong là phải lấy tay búng búng khởi động, cái quạt mới quay. Có hôm búng khởi động mỏi cả tay mà quạt cũng chẳng chịu quay do điện yếu. Vì nó dùng điện một chiều có 6 von, phải quấn cái biến áp từ điện 220 von xuống, thời đó không phải ai cũng làm được. Nhưng những cái quạt như vậy ngủ đêm cũng rất là lý tưởng, là mát lắm rồi, không phải phành phạch quạt nan, quạt mo cau nữa. Về sau cái quạt bằng củ điện này được nhân rộng ra nhiều nhà dùng rất hữu ích.
          Thế rồi tôi cũng ngủ thiếp đi mặc dù trời rất nóng, đến hai giờ đêm thì Thắng gọi tôi dậy gác. Tôi bật dậy ra ngoài khoác khẩu AK báng gấp không đạn và cái đồng hồ Pôn-jốt của anh Thỉnh cho mượn để biết giờ. Tôi lấy nước rửa mặt, ngoài sân có gió, sương đêm xuống mát mẻ dễ chịu. Trời đầy sao, hôm nay không có trăng, xa xa phía Hải Phòng có tiếng bom nổ rền như sấm. Mấy hôm nay máy bay Mỹ ném bom nhiều lắm. Hình như chúng tăng cường kết hợp với chiến trường miền Nam hay sao ấy. Ngày nào cũng có bản tin nơi này bị đánh bom, nơi kia bị đánh bom và những thành tích của quân dân ta bắn hạ máy bay Mỹ, bắt sống phi công. Đến nay cả miền Bắc đã bắn rơi trên ba ngàn chiếc rồi, mà sao chúng nó nhiều máy bay, nhiều bom nhiều đạn thế không biết. Chúng vẫn say máu tăng cường tập trung đánh phá rất mạnh tại các thành phố lớn với mật độ và sự ác liệt cao hơn. Chúng dọa sẽ dùng cả pháo đài bay B52 ném bom san phẳng Hà Nội và các thành phố, bắt dân ta trở lại thời kỳ đồ đá. Nhân dân ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố thị xã phải triệt để đi sơ tán. Hồi này chúng dùng loại bom gì mà hiệu quả hơn đợt trước. Nhiều cây cầu, nhiều trọng điểm mấy năm trước chúng đánh phá mãi không trúng, mà đợt này đều bị trúng bom, trúng tên lửa. Tôi khoác súng đi lòng vòng trong các ngõ xóm, vai khoác súng, mồm thì hút thuốc lá liên tục cho đỡ buồn ngủ, làng xóm thật yên tĩnh, mọi người đang chìm vào giấc ngủ sâu. Tôi là thanh niên thị xã không đến nỗi quá vất vả, không thức khuya dậy sớm như nhà nông. Duy nhất có một lần mà cũng là lần đầu tiên trong đời tôi thức trọn một đêm, ấy là dịp xí nghiệp phát động tăng ca làm thêm giờ để kịp tiến độ hạ thủy tầu phục vụ quốc phòng. Làm đến giữa đêm được công đoàn mang cho một nắm xôi bồi dưỡng. Nhớ lại cái dấu ấn sâu sắc đầu đời thức đêm, còn bây giờ đời bộ đội không biết sẽ phải thức, phải gác bao đêm đây.
          Tôi vòng về đầu ngõ, xem đồng hồ thì đã hơn 3 giờ. Đã hết phiên gác, tôi vào nhà lay gọi Văn, Văn dậy, ú ớ giọng ngái ngủ hỏi: Đã tới lượt em rồi cơ à? Các anh có vặn đồng hồ nhanh lên không đấy? Tôi cười nói: Ơ, cái cậu này, các anh mà lại làm thế à? Anh gác quá cho chú 10 phút rồi đấy. Văn nói giọng tỉnh hẳn: Thế ạ! Em cảm ơn. Tôi chui vào màn ngủ tiếp, giấc ngủ thật ngon. Tiếng còi thúc dậy tập thể dục, ngày mới lại bắt đầu. Nhớ lời anh Hạ nói bố mẹ tôi mấy ngày nữa đến thăm làm tôi háo hức chờ đợi, thứ hai rồi thứ ba. Tôi đoán bố tôi phải đi làm, vậy có khi chủ nhật mới đến thăm tôi được. Buổi trưa ngày thứ tư, sau khi đi tập về thật bất ngờ tôi thấy bố mẹ tôi, chị Phương và cả anh Hải, người đang đặt vấn đề cưới chị Loan đang ngồi nói chuyện với chị chủ nhà.
           Chị Loan là chị thứ hai của tôi làm y tá trên huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang. Chị rất thiệt thòi vì anh chị em tôi đông, nên học hết lớp ba chị đã phải ở nhà để bế các em giúp gia đình. Một hai năm sau, chị theo học bổ túc văn hóa buổi tối tại xí nghiệp ô tô nơi bố tôi làm việc. Hết chương trình lớp bẩy, chị xin đi học lớp y tá 18 tháng, học xong thì chị cùng cả lớp được điều động lên công tác tận các tỉnh vùng cao. Chị được phân công về bệnh viện huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Anh Đào Quang Hải quê xã Vũ Đông, Kiến Xương, Thái Bình đang công tác tại phòng nông nghiệp huyện, là Đảng ủy viên huyện Hoàng Su Phì, anh chị gặp và yêu nhau. Năm 1971 chị được nghỉ phép, tôi cũng xin nghỉ phép lên Hà Giang cùng chị, nên tôi cũng đã gặp anh Hải.
           Bố mẹ tôi rất mừng khi thấy tôi đi tập về trong trang bị bộ đội súng đạn thật lạ mắt. Mẹ tôi cứ nhìn ngắm tôi chăm chăm. Mẹ cầm tay tôi không nói gì mà hai dòng nước mắt chảy trên má, mẹ khóc. Còn chị gái thì luôn cười, chị rất gầy yếu nhưng lại là người có nghị lực, chị làm kế toán hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Chị gần như là đứng sau mẹ tôi lo toan cho gia đình, cho các em, chị chỉ hơn tôi năm tuổi thế mà lúc tôi mười, mười một tuổi chị vẫn bắt tôi cởi truồng để chị tắm rửa. Trong khi tôi thì rất ngượng, còn chị thì kỳ cọ cho tôi thật chi li, vừa kỳ vừa chê tôi bẩn, chị còn nói vui là: Bẩn như thế này thì lớn lên con gái nó chê, đứa nào chịu lấy mày.
          Anh chị chủ nhà rất vui, chị kể về tôi nhiều, khen tôi đủ đường. Tôi tháo trang bị trên người rồi ngồi nói chuyện. Anh Thỉnh giục Thắng, Văn đi lấy cơm. Chị chủ thì nói: Tôi nấu cả cơm cho ông bà và anh chị chú rồi, các chú đi lấy cơm về rồi ngồi ăn chung cả cho vui. Chị tôi nói: Cảm ơn chị, chị không phải nấu thêm cơm đâu, nhà em có cơm nắm và thịt gà kho đây rồi. Bố tôi cũng rất vui vì ngày trước ông đã từng ở vùng này mấy năm khi xí nghiệp ông sơ tán về đây. Ông hỏi thăm gia đình người nọ người kia. Anh Hải thì cứ nhìn ngắm khẩu AK báng gấp anh nói: Cậu được trang bị khẩu súng đẹp thế, súng này chắc của Đức chế tạo? Tôi nói: Đây là loại súng của Liên-xô nhưng Trung Quốc sản xuất, báng súng gập được dùng cho bộ đội trinh sát nó gọn và tiện. Bố tôi cũng nhìn khẩu súng và nói: Được bắn mấy phát khẩu này thì thích lắm. Ông trước kia là bộ đội sản xuất về súng đạn của Quân khu Tả ngạn nên ông hiểu nhiều về kỹ thuật súng, chế tạo súng đạn. Khoảng chục năm trước, ông còn làm một khẩu súng nhỏ như súng ám sát, giống như cái bút máy cài ở ngực bắn bằng loại đạn Toz8. Ông kể ngày xưa ở công binh xưởng, ông sản xuất nhiều loại này cho bộ đội. Ông tham gia tự vệ xí nghiệp, lúc nào cũng đeo khẩu súng trường K44 để bắn máy bay. Những lần đi thi bắn đạn thật của tự vệ xí nghiệp, ông đều đạt thành tích cao nhất. Tôi còn nhớ một lần máy bay Mỹ vừa bay qua, ông cứ xuýt xoa là từ trong nhà chạy ra chậm không kịp bắn. Ông chửi: Mả cha nó bay nhanh thật, vừa nghe tiếng ào ào nó đã bay qua rồi. Ông chỉ một cành xoan xa xa nói: Để tao bắn thông nòng một phát. Ông nhằm và đoàng… cái cành xoan nhỏ vỡ toác.
         Anh em lấy cơm về, anh Thỉnh ý tứ chia lại phần cơm và phần thức ăn của tôi ở lại cùng ăn với gia đình, còn mọi người sang nhà bên cạnh ăn cơm. Chị tôi cũng lấy ra hai nắm cơm to, gói thịt gà kho rồi nói chị chủ cho mượn dao thái cơm nắm. Chị chủ nhanh nhẹn sắp cơm, vừa sắp cơm chị vừa nói: Hôm nay mời ông bà và anh chị ăn bữa cơm quê với nhà em, có cá vụn kho cùng tép và canh rau tập tàng nhé. Bữa cơm đạm bạc mà thật vui. Sau bữa cơm, tôi và mọi người ngồi uống nước chè xanh nói chuyện. Tôi hỏi thăm bố về tình hình xí nghiệp. Bố tôi nói: Mày đi bộ đội ai cũng tiếc, có mấy việc khó có đứa nào làm được đâu, lại phải mang ra tận Hải Phòng mới làm được, có người còn nói đề nghị xin mày về. Nhưng ông Đảng tổ chức nói Phú là trường hợp đặc biệt, nên tỉnh yêu cầu đồng chí Phú nhập ngũ, để không ảnh hưởng đến phong trào tuyển quân của tỉnh nên không sao được. Ông nói thêm, tình hình bây giờ căng lắm, tỉnh thông báo xí nghiệp đóng tầu là mục tiêu đánh phá của máy bay, nên bây giờ chỗ nào cũng phải đào tăng-xê. Máy bay bay qua, bay lại nhiều như là nó trinh sát ấy. Gần đấy, bộ đội đã kéo mấy khẩu pháo cao xạ 37 ly về để sẵn sàng bắn máy bay, còn có cả bóng khinh khí cầu rất to màu đỏ, có dây neo giữ như dây diều ấy, để đón máy bay bay thấp va vào sẽ bùng cháy, dân gần xí nghiệp cũng phải đi sơ tán cả.
       Bố tôi nói thêm, tôi đi được chục ngày là xí nghiệp bị máy bay đến ném bom rất ác liệt. Có quả bom rơi trúng ngay vào cái nhà tôi ở, làm chết và bị thương mấy người. Mọi người nói tôi đi bộ đội có khi lại may chứ ở lại thì không biết thế nào mà lần. Như vậy về việc bom đạn tôi đã hai lần gặp may. Năm 1965 lúc còn đang học lớp 5, bom Mỹ thả xuống khu vực trường Đảng trước cửa nhà tôi. Một quả bom không nổ gần ngay chỗ mẹ tôi nằm. Còn tôi và chị Tiệp hàng xóm chui nằm dưới gầm giường, bom nổ chấn động mạnh làm bức tường gạch xây giữa hai nhà đổ sập. Rất may nó lại đổ sang nhà bên cạnh chứ đổ sang nhà tôi thì hai chị em bị tường đè chết. Bố tôi kể thêm, cùng hôm nó đánh phá xí nghiệp, thị xã cũng bị đánh bom ác lắm, nhiều người chết lắm. Mẹ, chị Phương và em Lộc cũng suýt chết vì bom hôm đó. Ông Cúc trưởng ty Kiến trúc, chồng cô Cúc bạn mẹ cũng bị chết. Ông Vận là dân quân, bảo vệ khu phố An Tập bị bom phạt vào cổ mãi chiều tối mới tìm được đầu để mai táng.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 02:54:07 pm

         Anh Thỉnh cùng Văn, Thắng cũng về góp chuyện. Chuyện trò một lúc đã thấy còi báo đi tập chiều. Tôi nói: Bố mẹ, chị và anh Hải đi về thôi, tới giờ con phải đi tập rồi, con không nghỉ được. Chị tôi lấy mấy bao thuốc lá Tam Đảo cho tôi. Mẹ tôi cho tiền nhưng tôi cương quyết không nhận, tôi nói: Con lấy thuốc lá của chị, tiền con còn, ở đây có tiêu gì đâu, con cảm ơn mẹ. Tôi biết nhà tôi đông các em, nên kinh tế của gia đình còn khó khăn lắm. Mẹ cầm tay tôi, khóc và nói: Cẩn thận con nhé, giữ gìn sức khỏe cho tốt. Tôi nói: Mẹ yên tâm đi, đừng lo cho con mẹ ạ. Tôi chuẩn bị trang bị đi tập, trong khi mọi người cũng chuẩn bị về. Thương nhớ bố mẹ, nhớ chị vô cùng nhưng tôi cũng không muốn có sự bịn rịn chia tay lâu, nên giục mọi người về. Bố tôi nói: Mày còn ở đây, mấy ngày nữa bố lại lên. Tôi nói: Bố đừng lên nữa, hồi này nắng nôi, đường xa đi lại vất vả lắm. Tôi tiễn mọi người tới đầu ngõ rồi chạy theo anh em ra bãi tập. Trời vẫn nắng gắt, vào tập nhưng trong tôi thì bề bộn với bao suy nghĩ. Cũng không thể ngờ rằng đây là chuyến thăm tôi duy nhất của bố mẹ, vì mấy ngày sau chúng tôi di chuyển đóng quân ở nơi khác.
          Đúng là gần đến ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, ngày tết cổ truyền Đoan Ngọ. Dân gian hay gọi là “lễ giết sâu bọ” thì đại đội chúng tôi di chuyển về đóng quân tại xã An Châu cũng thuộc huyện Tiên Hưng cách đây khoảng ba ki-lô-mét. Lệnh di chuyển thật đột ngột. Anh chị chủ nhà rất buồn khi chúng tôi không ở đây nữa, anh chủ nhà không nói gì, các cháu thì òa khóc, chị chủ nhà nói: Sắp đến ngày “giết sâu bọ” rồi mà các chú phải đi, nếu đóng quân gần thì các chú nhớ về nhé anh chị nấu chè để phần các chú đấy.
        Chúng tôi hành quân băng qua mấy cánh đồng thì tới nơi ở mới. Mấy anh em tôi vẫn được ở cùng nhau, ở nhà một bà mẹ khoảng 50 tuổi sống độc thân. Không biết lý do gì mà bà chỉ sống có một mình, tôi chưa kịp tìm hiểu. Nhà có năm gian lợp ngói ta, sân gạch rộng, bể nước xây to, giếng nước, vườn tược nhà cửa gọn gàng sạch sẽ. Liên lạc trung đội xuống báo anh Thỉnh đi hội ý. Lúc sau anh Thỉnh về phổ biến kế hoạch học tập huấn luyện tại nơi ở mới. Sáng mai sau báo thức mọi người không tập thể dục mà dậy làm vệ sinh nhà, ngõ quanh nơi ở của mình. Bà mẹ hỏi chúng tôi có mấy người rồi chỉ và hướng dẫn nơi vệ sinh, nơi tắm rửa rồi vào buồng đi nghỉ. Bà như có tâm trạng gì đó không vui, không xởi lởi như chị chủ nơi ở cũ. Sau này tìm hiểu chúng tôi được biết hồi cải cách ruộng đất 1955 gia đình bà bị quy là thành phần trung nông lớp trên, bị thu một số tài sản. Chồng bà buồn bực bỏ nhà, bỏ làng ra đi biệt tích. Bà có hai người con nhưng ốm đau sao đó rồi mất cả. Sáng hôm sau chúng tôi dậy làm vệ sinh nhà cửa thôn xóm như kế hoạch, làm xong thì liên lạc xuống báo và dẫn đi lấy cơm sáng. Hôm nay tôi đi lấy cơm cho anh em. Bếp ăn của đại đội ở đầu sân kho hợp tác. Mọi việc như là có chuẩn bị từ trước không có vẻ gì là nơi mới. Giọng ông Sung đại đội phó oang oang chỉ huy việc chia cơm buổi sáng. Có mấy bộ đội nữ trông xinh đẹp trẻ măng cũng thấy vui vui. Tôi gặp cả cô Nhì quản lý nữa, vẫn trong bộ quân phục nữ, nhìn tôi cô nói: Sao từ ngày nhập ngũ, bây giờ mới thấy đồng chí đi lấy cơm? Tôi cười nói là không hiểu sao anh em toàn tranh nhau đi lấy cơm, họ không cho tôi đi, bây giờ tôi mới hiểu hóa ra tranh nhau đi lấy cơm để được ngắm các chị nuôi xinh đẹp. Cô Nhì nói: A, đồng chí bộ đội dân thị xã này khéo nói nhỉ! Rồi ngúng nguẩy nhìn tôi với ánh mắt rất thân thiện.
           Đến giờ đi tập, vẫn trang bị như vậy, anh Thỉnh dẫn ra nơi tập trung của trung đội. Sau khi điểm danh, cả trung đội di chuyển ra bãi tập. Nơi tập là dược mạ đã được nhổ hết ở ngay bên phải đầu làng. Phía bên trái có cây muỗm rất to, có sân kho rộng lát gạch và có cả một nhà mái ngói năm gian treo biển hợp tác xã mua bán xã An Châu. Tôi thấy cảnh trí nơi đây cũng đẹp, cái cửa hàng hợp tác xã mua bán cũng là điểm hấp dẫn tò mò của mọi người. Hôm nay theo kế hoạch, chúng tôi tập xạ kích buổi sáng, buổi chiều học khoa mục mới là lăn-lê-bò-toài-đi khom. Nơi tập mới, thao trường chưa có bệ bắn, trung đội cử người đi đắp bệ bắn và cắm bia số 4. Cánh đồng đã gặt hết lúa nên tìm thao trường xạ kích rất thuận lợi, chỉ mỗi cái là nắng to, không có bóng cây nào lợi dụng, nên anh em phải nằm tập bắn ngoài trời nắng.
        Đầu giờ chiều học khoa mục mới, các kỹ thuật lăn-lê-bò-toài-đi khom. Trung đội trưởng Đởn trực tiếp giảng khoa mục này. Sau khi đã hô khẩu lệnh cho trung đội đứng vào hàng lối. Đứng trước hàng quân, trung đội trưởng hô: Nghiêm! Khoa mục: Các kỹ thuật vận động di chuyển ở chiến trường. Cụ thể là kỹ thuật: Lăn-lê- bò-toài-đi khom-chạy khom, các đồng chí nghỉ. Sau đó anh giảng giải: Chúng ta học khoa mục này là để người chiến sỹ khi ở chiến trường ứng dụng trong chiến đấu, giảm sát thương khi vận động, chiếm lĩnh áp sát tiếp cận mục tiêu, tránh làn đạn của địch, giữ bí mật tạo thời cơ bất ngờ tiêu diệt địch. Sau khi giảng xong về phần lý thuyết khoa mục, trực tiếp trung đội trưởng làm động tác mẫu. Đầu tiên là động tác bò, có hai loại bò: Bò thấp, bò cao. Đi khom cũng có hai loại: Đi khom thấp, đi khom cao, chạy khom cũng vậy. Rồi sang động tác lăn, động tác lê. Trung đội trưởng chắc đã huấn luyện nhiều đợt lính nên các động tác thật thuần thục, không ngại gì nền đất ẩm bẩn, anh nằm ngay xuống làm các động tác mẫu. Xong các động tác mẫu anh đứng dậy, quần áo lấm lem bùn đất, làm lính mới chúng tôi thật sự e ngại khi phải tập các động tác này.
         Trời nắng gắt, học động tác cơ bản nên mới đầu các trang bị (trừ súng) tạm thời không đeo vào người. Chỗ đứng tập hợp và cũng là làm nơi xuất phát cách khoảng 40 mét có rặng tre thấp nơi bờ ao, lấy đó làm đích cho việc tập các động tác trên. Từng tiểu đội duy trì việc tập. Mới đầu mọi người còn e ngại bẩn quần áo, nhưng sau khi đã bẩn rồi thì không ai quan tâm đến sạch bẩn nữa, mà chỉ quan tâm đến cái đích là khóm tre để có bóng mát ngồi nghỉ. Đơn giản là bò mà mọi người tập theo cũng khó, nhiều anh em bò lổm ngổm không đúng động tác trông thật buồn cười. Trung đội trưởng liên tục hô thấp cái mông xuống, đạn địch bắn mất mông bây giờ. Nhiều anh em nói mãi cũng không nghe chỉ mau chóng bò nhanh đến đích, bị bắt quay lại bò từ đầu để thể hiện sự nghiêm túc của việc tập.
           Đến giờ giải lao, chúng tôi chạy ùa vào khu vực sân kho có bóng râm của cây muỗm cổ thụ nghỉ và vào cửa hàng hợp tác xã mua bán xem hàng hóa. Cửa hàng hàng hóa thật nghèo nàn, ngoài muối mắm và một số thứ tạp hóa vải màn, vải thô bán theo tem phiếu thì chẳng ai mua được gì. Đúng ra thì có tem thư, phong bì, thuốc lào được bán tự do. Cô mậu dịch viên trông xinh xắn hỏi chuyện chúng tôi, tôi cũng chào hỏi bắt chuyện làm quen, được biết cô tên là Mai cũng khoảng tuổi tôi, nhà ở thôn trên chưa có gia đình. Hết giờ giải lao mọi người lục tục chạy ra bãi tập. Tôi cố tình lùi lại sau mọi người và nói nhỏ với Mai: Anh là công nhân đi bộ đội nên nghiện thuốc lá, nếu có thuốc lá về thì dành cho anh mấy bao. Cô nhìn tôi tỏ ra thân thiện và nói: Lúc nào rỗi anh cứ ra đây chơi có thuốc em để dành cho. Tôi nói: Ôi, thế thì vui quá anh sẽ ra.
           Tôi bắt tay cô gái trước khi chạy ra thao trường, kịp phát hiện ra cô gái có đôi mắt rất đẹp, trong lòng tôi cảm thấy vui vui. Chúng tôi lại tiếp tục những bài tập cực nhọc lấm lem quần áo. Ai nấy người mệt nhừ, cái nóng, cái nắng làm tăng thêm cái mệt. Hết giờ tập, cả trung đội lại tập trung nghe trung đội trưởng nhận xét về buổi tập. Quần áo ai cũng rất bẩn, mệt nên trên đường về không ai chuyện trò, chỉ muốn đi nhanh về để nghỉ ngơi tắm giặt. Riêng tôi thì cứ vẩn vơ nghĩ về đôi mắt, dáng người mậu dịch viên và câu nói sau cùng như dành riêng cho tôi. Hy vọng là sẽ mua được thuốc lá, cái thứ của hiếm đó mà thanh niên chúng tôi ai cũng thèm, ai cũng thích.
         Những ngày tiếp theo chúng tôi đi sâu vào ôn luyện các khoa mục đã học và tập xạ kích. Xen kẽ có những buổi học về 10 lời thề danh dự và 12 điều kỷ luật dân vận của quân đội, yêu cầu tất cả chiến sỹ phải học thuộc lòng và có kiểm tra. Tôi tranh thủ những lúc rảnh rỗi hay nghỉ giải lao vào cửa hàng chơi chuyện trò cùng Mai. Không phải chỉ có tôi hay ghé vào chơi mà trung đội trưởng Đởn cũng thường xuyên ghé chơi. Có lần cả tôi và anh Đởn ở đó, cô Mai mang ra một cái mũ cối nói là của anh bộ đội nào để quên ở đây đã lâu, đơn vị đó chuyển đi nơi khác rồi, các anh lấy mà dùng. Anh Đởn nói: Đưa tôi dùng cho, cái mũ đang còn mới tốt thế này. Ba anh em cùng chuyện trò, anh Đởn nói: Ông có thích về thăm nhà không? Sáng chủ nhật này cho ông về, chín giờ tối có mặt điểm danh. Tôi nói: Ôi, thế thì thích quá, anh cho em về, em thấy nhớ nhà lắm rồi. Tôi trở ra thao trường tiếp buổi tập, anh Đởn thì vẫn ở lại đó.
          Hôm sau là ngày mùng 5 Tháng 5, ngày tết Đoan Ngọ, tôi nhớ thường thì mọi nhà hay làm rượu nếp từ mấy ngày hôm trước. Đúng sáng ngày mùng 5 ngủ dậy, mỗi người thường ăn một bát nhỏ rượu nếp hay gọi là rượu cái, ăn thêm quả chanh hoặc vài quả mận, quả vải, bọn trẻ rất thích những quả này. Còn có phong tục là con rể phải tết bố mẹ vợ đôi vịt và chai rượu. Nhiều người khi mang vịt đến nhà bố mẹ vợ, từ đầu ngõ đã bóp, hay búng cho con vịt đau để nó kêu vịt vịt ầm ỹ lấy khí thế cho việc lễ tết. Ấy là tục lệ xưa, chứ bây giờ chiến tranh dân chúng còn nghèo, tục lệ tết bố mẹ vợ đã dần mất đi, trừ những chú rể mới cưới năm đầu. Còn ở đây thì sáng nay bà chủ cũng cho anh em chúng tôi ăn mỗi người lưng bát nhỏ rượu nếp cái, bà đã làm từ mấy hôm trước. Anh Thỉnh nói: Anh em mình hứa là về nhà anh chị Đạt - Thu ăn chè. Ăn cơm chiều xong anh em mình về Lô Giang nhé. Tôi vui và đồng ý ngay. Còn Thắng và Văn thì nói: Xa bỏ xừ, các anh đi chứ chúng em không đi đâu. Y hẹn, sau khi ăn cơm chiều, anh Thỉnh nói Thắng, Văn thu dọn, còn hai anh em tôi về Lô Giang. Tới nơi anh chị cùng hai cháu rất mừng. Chị chủ nói: Đợi mong các chú mãi sợ các chú không đến được nên vừa ăn cơm xong, thế hai chú kia đâu? Tôi nói: Chúng nó ngại xa không đi. Chị chủ nói: Anh để phần các chú đĩa thịt vịt đây này, chỉ không có tiết canh. Chị chủ bê ra cái mâm gỗ có đĩa thịt vịt luộc, mấy bát chè đỗ đen, có cả một ít rượu trắng nữa. Chị nói: Anh để phần các chú đấy, hai chú kia không đến thì các chú phải ăn hết đi. Nhìn đĩa thịt vịt rất thích nhưng anh Thỉnh nói: Chúng em mới ăn cơm rồi, em ăn chè thôi còn chị cất thịt vịt đi. Anh chị không đồng ý và cứ bắt chúng tôi ăn, chị nói: Bố nó ngồi uống rượu tiếp các chú đi chứ. Thế rồi ba anh em tôi mỗi người cũng nhâm nhi hai chén rượu, mấy miếng thịt vịt rồi ăn chè đỗ. Chè đỗ mới, đỗ bở nấu đường vàng ngon quá. Bữa ăn đơn giản nhưng thật ấn tượng, thật nhớ và thật quý trọng tình cảm mà anh chị đã dành cho anh em tôi trong những ngày đầu quân ngũ này. Ngồi chơi một lúc nữa rồi anh em tôi ra về, hẹn dịp khác lại thăm anh chị. Hai anh em trở về trời tối khó đi, sợ muộn giờ điểm danh nên vừa đi vừa chạy gằn, đúng giờ điểm danh thì chúng tôi cũng về tới nơi.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 03:06:39 pm

        Đúng 8 giờ, tôi đã có mặt tại nhà trong tiếng reo vui vỡ òa của mọi người. Hôm nay chủ nhật, bố mẹ tôi được nghỉ ở nhà, cả chị Phương, cả cô em gái Lợi giáp tôi mới được đi học lớp y sỹ cũng nghỉ ở nhà. Các em Lộc, Quang, Vinh, Qúy, Vịnh đông đủ, nhìn các em như thấy lớn hẳn lên. Tôi nhấc bổng chú Vịnh, em út mới 3 tuổi lên cao, nó nhìn tôi đăm đăm lạ lẫm nhưng cứ để tôi bế. Anh Hải hôm nay cũng lên nhà tôi để chuẩn bị đi Hà Giang, anh cũng đã nói chuyện chính thức với bố mẹ xin cưới chị Loan tôi tại trên đó. Hôm nay quả là một ngày thật vui với gia đình tôi, nếu có chị gái Loan đang ở Hà Giang về nữa thì thật trọn vẹn.
         Về nghỉ thời gian ngắn quá nên tôi chỉ ở nhà với bố mẹ và chơi với các em. Mẹ tôi nói: Sao không đi đến nhà bạn chơi? Tôi nói: Con chơi với mọi người ở nhà thôi, con chẳng muốn đi đâu. Buổi chiều, tôi nói với mẹ cho tôi ăn cơm sớm để về  đơn vị. Bố tôi nói: Ăn xong, bố đưa con đi. Nhưng anh Hải nói: Bố để con đưa em sang cho, đi đường anh em trò chuyện với nhau cho vui. Sau khi ăn cơm chiều, anh Hải lấy xe đạp của bố tôi chở tôi, đúng 7 giờ rưỡi tối thì tôi có mặt tại gia đình nhà chủ trước sự ngạc nhiên của mọi người. Anh Hải quay về, tôi đi luôn ra chỗ Mai. Trước khi đi tôi đã chuẩn bị quà cho Mai là một chiếc khăn mùi-xoa Trung Quốc rất đẹp, lọ nước hoa nhỏ mà năm trước tôi mua trên Hà Giang khi lên chơi với chị gái. Khăn mùi-xoa Trung Quốc và nước hoa thời đó là loại hàng xa xỉ, của quý mà mọi người đều thích. Mai bất ngờ, rất mừng khi thấy tôi, Mai nói: Sao anh lên sớm thế? Tôi nói: Về thăm nhà thế là được rồi, ở thêm một hai tiếng nữa cũng không làm gì. Tôi đưa cho Mai gói quà, Mai mở ra xem, cái khăn mùi-xoa màu hồng in hình một cô gái và mấy bông hồng rất đẹp, cùng lọ nước hoa nhỏ rất thơm. Mai nói: Khăn đẹp quá, em ước ao mãi mà không đâu bán. Tôi nói: Khăn và nước hoa này là anh mua mãi tỉnh Hà Giang giáp Trung Quốc năm ngoái đấy. Mai cảm ơn tôi món quà và hỏi thăm về gia đình tôi. Tôi trả lời xong và nói đi về, Mai nói: Anh ở đây chơi một lúc đã, còn sớm mà. Mai mạnh bạo cầm tay tôi kéo vào trong quầy. Tôi nửa muốn bước theo Mai nhưng nửa lại e ngại, tôi nói: Anh xin lỗi em hôm khác anh ra chơi, hôm nay anh mới đi xa, anh về tắm rửa chuẩn bị còn điểm danh. Mai hụt hẫng buông tay tôi ra nói dỗi: Vậy anh Phú về đi! Tôi về nhà tắm giặt, nghỉ ngơi một lúc thì đến giờ điểm danh. Tôi được biểu dương là chấp hành kỷ luật nghiêm, đã trả phép đúng giờ, trong khi đó còn hai đồng đội đến giờ điểm danh mà vẫn chưa có mặt.
            Những ngày tiếp theo chúng tôi vẫn học tập và huấn luyện theo kế hoạch. Tôi vẫn ra cửa hàng Mai chơi, nhưng cảm thấy Mai có ý thế nào ấy không sởi lởi thân tình như trước nữa. Một buổi sáng đang tập thì anh Hải cùng chú em Lộc đến thăm. Anh Hải nói ngày mai anh lên Hà Giang, nên đi thăm tôi chú em Lộc theo cùng đi. Chú Lộc là em trai kém tôi 4 tuổi hiện đang học lớp 8. Chú cũng gầy nhỏ như tôi, vì đang ngoài thao trường nên anh Đởn cho tôi nghỉ sớm 1 tiếng để anh em chuyện trò đến 10 giờ thì tôi nói hai anh em đi về không trưa nắng. Chú Lộc nói anh tập võ nhiều vào nhé để dậy chúng em. Chứ lần trước anh dạy chúng em có mấy miếng. Chả là khi còn học cơ khí tôi ở cùng anh Thắng quê ở Vũ Thư đã đi bộ đội về. Nghe anh kể anh học võ từ bé, sau này vào bộ đội lại ở đơn vị trinh sát, tôi có học anh một vài miếng võ gia truyền và võ trinh sát, tôi dậy lại các em mấy miếng võ ấy. Chú Lộc năm 1974 thì cũng đi bộ đội ở đơn vị kỹ thuật điện tử thuộc Quân chủng Phòng Không - Không quân tới quân hàm trung tá thì chuyển qua Hải Quan. Trước khi nghỉ hưu giữ chức Vụ phó Vụ Pháp chế cục Hải quan. Hiện đang sống tại Hà Nội.

                                                        IV

            Khoảng cuối tháng sáu, vừa ăn sáng xong đang chuẩn bị đi tập thì liên lạc trung đội xuống báo tôi mang toàn bộ quân tư trang lên đại đội nhận nhiệm vụ. Mọi người rất bất ngờ không biết là nhiệm vụ gì, nhưng anh Thỉnh cũng giúp tôi chuẩn bị tư trang cá nhân. Thắng giúp tôi gấp quần áo, bộ quần áo mới giặt tối hôm qua còn ướt cũng lấy mảnh ni-lon đi mưa gói lại mang đi. Tôi chào bà mẹ và chia tay mọi người lên ban chỉ huy đại đội. Tại đây cũng đã có khoảng hơn chục anh em đang tập trung cũng đầy đủ trang bị như tôi. Có vẻ như là mỗi tiểu đội một người, vì trung đội tôi có ba người. Quân số có lẽ đã đủ, đại đội phó Sung nói anh em bỏ gọn ba lô vào một nơi, rồi hô anh em tập hợp hai hàng ngang. Sau khi tập hợp xong, đại đội phó chạy lên mấy bước giơ tay chào rồi báo cáo đại đội trưởng Nghẹ: Báo cáo đại đội trưởng, quân số đi tiền trạm của đại đội đã tập hợp xong, tổng số 15 đồng chí. Mời đồng chí làm việc. Đại đội trưởng nói: Được, đồng chí về vị trí, rồi đại đội trưởng bước đến trước hàng quân cao giọng nói: Xin giới thiệu với các đồng chí, đồng chí thượng sỹ Phạm Văn Mâu mới được điều động về làm trung đội phó trung đội 3, các đồng chí tìm hiểu sau. Hôm nay đại đội tập trung các đồng chí lên đây để làm nhiệm vụ đi tiền trạm chuẩn bị cho nơi đóng quân mới của đơn vị. Đoàn gồm 15 đồng chí đủ thành phần các trung đội, chị nuôi và y tá. Đoàn do thiếu úy Sung đại đội phó làm chỉ huy trưởng. Đồng chí thượng sỹ Phạm văn Mâu trung đội phó là chỉ huy phó. Quãng đường các đồng chí phải đến rất xa, dự kiến khoảng bốn ngày mới hành quân tới nơi. Trên đường hành quân có nhiều trọng điểm phức tạp, qua các bến phà, qua cả thành phố Hải Phòng là những nơi đang là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ. Vì vậy các đồng chí phải nhanh nhẹn khẩn trương, nhất nhất theo lệnh của chỉ huy. Các đồng chí là những cá nhân có tinh thần chấp hành kỷ luật cao, gương mẫu trong học tập huấn luyện nên được lựa chọn đi làm nhiệm vụ quan trọng này, chúc các đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ.
          Đại đội trưởng nói tiếp: Sau đây đại đội phó Sung cho anh em nhận gạo, xoong nồi, thực phẩm, phân công đội hình. Đúng 7 giờ 30 phút xuất phát hành quân. Đại đội phó Sung phân công chúng tôi làm hai tiểu đội: tiểu đội 1 gồm 8 người trong đó cả hai chị nuôi và một đồng chí y tá trực tiếp do đại đội phó chỉ huy. Tiểu đội thứ 2 còn 7 người do trung đội phó Mâu chỉ huy, tôi ở trong đội hình tiểu đội 2. Rất bất ngờ với nhiệm vụ và chưa biết sẽ hành quân về đâu? Có vài anh em thì thầm nói: Dứt khoát là ra Yên Tử, Quảng Ninh rồi. Vì hiện có tiểu đoàn 815 đang huấn luyện tại đó. Vả lại hầu như các đơn vị huấn luyện tăng cường bao giờ cũng phải hành quân rèn luyện dã ngoại tại vùng núi Yên Tử, Quảng Ninh trước khi lên đường vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Mọi người ồn lên một tí, rồi tiếng đại đội phó thúc giục mọi người khẩn trương nhận lương thực, thực phẩm. Mỗi người nhận mười ngày gạo đóng vào ruột tượng, các loại thực phẩm rau củ quả cùng xoong nồi.
           Tôi nhanh chóng nhận xong các tiêu chuẩn của mình, gửi ba lô cho anh em, chạy ra chỗ hợp tác xã mua bán chào Mai. Nhưng cửa hàng không mở, không gặp được Mai. Không thể chào chia tay Mai được, tôi lấy vỏ bao thuốc lá viết vội mấy chữ: “Anh ra chào mà không gặp được em, anh phải hành quân di chuyển, chưa biết về đâu. Anh cảm ơn em đã giúp đỡ anh trong những ngày qua, chào em”! Tôi nhét tờ giấy vào khe cửa rồi chạy về nơi tập trung. Cùng lúc lệnh tập hợp hành quân, mọi người lên ba lô tập hợp theo khẩu lệnh. Đại đội phó hô: Nghiêm! Mệnh lệnh hành quân: Hướng hành quân: Hướng Bắc, tốc độ hành quân ba ki-lô-mét 1 giờ, cứ hành quân 50 phút thì giải lao 10 phút. Dự kiến hôm nay chúng ta hành quân khoảng hai mươi ki-lô-mét. Dọc đường yêu cầu các đồng chí phải nhất nhất theo lệnh người chỉ huy, bám sát đội hình không đồng chí nào được tụt tạt, thứ tự tiểu đội 2 đi trước rồi đến tiểu đội 1, các đồng chí rõ chưa? Mọi người hô: Rõ! Đại đội phó hô: Lên đường!
          Trung đội phó Mâu dẫn đầu đồi hình rồi đến mọi người. Bà con trong xã và các em nhỏ đứng nhìn theo, vẫy vẫy tay tiễn chân chúng tôi. Có lẽ đây mới chính thức là những bước chân hành quân đầu tiên của đời lính. Súng không có đạn, nên trọng lượng của ba lô và trang bị chỉ khoảng hơn 25 ki-lô-gam. Mới hành quân chưa hết chặng đầu mà ai đấy đã thở gấp. Tôi cũng thấy mệt nhưng chưa tới giờ giải lao. Con đường chúng tôi hành quân là con đường đất xuyên qua các làng xã, nhưng hướng đi thì đúng là ra hướng Hải Phòng. Lần giải lao thứ nhất hỏi thăm vẫn thuộc huyện Tiên Hưng. Đến khoảng mười giờ thì tới địa phân đầu huyện Phụ Dực. Chúng tôi vào mấy nhà dân cạnh đường nghỉ giải lao và tổ chức nấu cơm. Mấy người được phân công giúp chị nuôi nấu cơm. Nhà chủ được chúng tôi nhờ làm điểm nấu cơm thì rất vui, hai ba người dân xúm vào giúp bộ đội nấu cơm, còn mọi người vào nghỉ nhờ trong nhà dân đợi cơm. Mới được khoảng chục ki-lô-mét mà mệt quá, tôi thấy chân và hai vai mỏi nhừ. Ăn cơm xong, nghỉ ngơi đến hai giờ chiều, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Đến khoảng 17 giờ tới xã An Bài huyện Phụ Dực ngay gần cầu Nghìn. Chiếc cầu bắc qua sông Luộc trên quốc lộ 10 đi Hải Phòng đã bị đánh bom, nên phải đi phà.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 03:08:14 pm

                   Khu vực này thì tôi biết, vì mấy năm trước mẹ tôi cùng đội vận tải xe bò kéo của hợp tác xã vận tải Tiến Bộ ra làm nhiệm vụ chuyên chở đá từ bến sông ngay tại chân cầu để chuyển đến các vị trí nâng cấp con đường 10. Thời gian đội vận tải ở đây khoảng 3 tháng. Lúc đó tôi đã học xong lớp 7, đang đợi xin đi học trường công nhân kỹ thuật cơ khí của tỉnh. Tôi cùng cô Lợi em gái ra đây ở và làm với mẹ, anh em tôi hàng ngày đi cắt cỏ về cho bò. Nơi cắt cỏ thường đi qua phà sang cánh đồng rộng bên kia sông có rất nhiều cỏ, thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, nên tôi biết rõ nơi này. Tại xã này tôi có kỷ niệm rất ấn tượng là được xem một đám ma. Tại sân nhà đám, xôi, cơm, thịt để vào một cái mẹt ở giữa sân, mọi người đến viếng, khóc người thân xong lại ra bốc xôi, bốc thịt ăn, không thấy có bát đũa gì cả.
          Chúng tôi vào trọ ở mấy nhà dân ven đường 10. Đại đội phó Sung thúc giục hai chị nuôi cùng mấy người nữa giúp nấu cơm. Tôi được ở cùng nhà với anh Mâu trung đội phó, cũng rất vui là có dịp để anh em nói chuyện. Qua tìm hiểu anh Mâu cho biết kế hoạch đơn vị ra đóng quân huấn luyện tại xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quãng đường như vậy là còn xa, dự kiến của đợt hành quân là bốn ngày. Hôm nay hoàn thành được ngày đầu, từ đây ra đấy phải qua mấy cái phà đang là trọng điểm của máy bay Mỹ đánh phá, nên sáng mai phải dậy ăn cơm sớm đúng 4 giờ để hành quân qua phà cầu Nghìn. Sau cuộc nói chuyện rất bổ ích với anh Mâu, tôi nghĩ còn ba ngày hành quân nữa rất vất vả. Tôi nói với anh Mâu: Như vậy là mình đi dọc đường 10 ra tới Hải Phòng, rồi mới rẽ về Thủy Nguyên? Anh Mâu nói: Đúng rồi! Nhưng mình tránh không đi qua thành phố mà tới Kiến An thì qua bến phà Kiến An, qua khu vực Quán Toan, qua phà Kiềng là sang địa phận Thủy Nguyên. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi nói: Như vậy là hành quân dọc quốc lộ 10, trên đường này nhiều ô tô qua lại lắm, nhiều xe đi không ra cảng Hải Phòng nhận hàng hóa. Sao mình không tổ chức vẫy xe đi nhờ? Đi nhờ được mấy chục ki-lô-mét ấy chứ. Anh Mâu nói: Nếu đi nhờ được xe thì tốt quá, vì mình đi tiền trạm để chuẩn bị cơ sở vật chất cho đại đội ra ở, nên ra nhanh được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Dự kiến đội hình đại đội sẽ ra sau mình năm ngày, mình ra trước có rất nhiều việc phải làm để đại đội ra là có chỗ ăn, ở, tập tành được ngay, sợ là đội hình mình đông, khó đi nhờ, mà phải đi một xe chứ đi lẻ thất tán đội hình là không được. Tôi nói: Em thấy rất dễ đi nhờ, vì trước em đã ở đây em biết, mọi xe qua phà xong đến chỗ đê quai bên kia phà là họ đi rất chậm. Mai mình cứ qua phà sớm, đi đến đê quai thì cho anh em tập trung gọn ở đấy, rồi vẫy xe đi nhờ là được. Anh Mâu nói: Phú nói có vẻ hợp lý, để tối anh bàn với đại đội phó Sung rồi sáng mai Phú ra vẫy xe nhé. Tôi nói: Vẫy xe hỏi đi nhờ anh cứ để em, em tin là được.
         Anh em tôi đi ăn cơm tối, ăn xong, tôi về chỗ nghỉ còn anh Mâu ở lại trao đổi công việc với đại đội phó Sung. Khoảng 8 giờ thì anh Mâu về gọi tôi, anh nói: Đại đội phó cũng đồng ý với kế hoạch đi nhờ xe của anh em mình, đồng ý cho Phú ra đón xe, nhưng phải đi nhờ xe nào chở được cả 15 người, không được xé lẻ đội hình. Tôi rất vui vì ý kiến đề nghị của mình được đại đội đồng ý. Hai anh em chuyện trò một lúc thì đi ngủ. Người đau mỏi vô cùng, nhưng trong đầu tôi thì cứ mong, cứ cầu khấn ngày mai đón xe đi nhờ được may mắn.
         Ba giờ sáng hôm sau, chúng tôi dậy làm vệ sinh cá nhân rồi ăn cơm chính, mỗi người thêm một nắm cơm phụ buổi trưa và gói muối vừng. Đúng 4 giờ 15 thì lên đường ra đường 10 tới bến phà. Không phải đợi lâu, chúng tôi kịp xuống phà ngay. Trên phà đã có tới bốn cái xe tải, loại xe I-fa của Đức, đoàn xe của Công ty Ngoại thương Thái Bình. Thật là may, tôi thấy một bác lái xe có tuổi trông quen quen, tôi đặt vấn đề cho chúng tôi đi nhờ. Bác lái xe sau khi hỏi tôi mấy câu rồi đồng ý cho chúng tôi đi. Vui quá! Tôi chạy đến gặp anh Mâu, nói với anh Mâu là đã hỏi được xe. Đoàn xe ra cảng Hải Phòng, họ cũng qua bến phà Kiến An vì cầu Niệm đã bị đánh bom, như vậy là mình đi nhờ được tới tận phà. Tôi nói thêm: Anh giục anh chị em khi phà cập bến thì nhanh chóng lên bờ đi khoảng 50 mét thì đứng cụm lại để lên xe cho gọn.
        Mọi người rất vui vì đi nhờ được ô tô. Đoàn xe đi khoảng hơn chục ki-lô-mét mọi người phải xuống để qua phà Quý Cao vượt qua sông Thái Bình. Nơi đây có trạm thu thuế mà mấy năm trước đã thu của tôi con gà như đã kể. Đi tiếp bốn ki-lô-mét nữa thì tới phà Tiên Cựu qua sông Văn Úc. Đi tiếp đến 10 giờ, cách bến phà Kiến An 5 ki-lô-mét thì dừng lại nghỉ, bác lái xe nói: Giờ này cao điểm phà không chạy vì sợ máy bay đánh bom, 15 giờ thì phà mới phục vụ. Chúng tôi xuống xe tấp vào các hàng cây ven đường có mấy nhà dân nghỉ. Thời gian còn dài, đại đội phó Sung cho thay đổi phương án là để cơm nắm cho bữa tối, rồi thúc giục chị nuôi và mọi người nấu cơm chính để ăn. Một quyết định thay đổi rất phù hợp, cơm chín chúng tôi mời cả đoàn xe cùng ăn cơm. Cả đoàn có bốn lái xe và một cán bộ nghiệp vụ đi nhận hàng, họ rất vui khi cùng ăn cơm với bộ đội và có lẽ họ vui còn vì được ngắm nhìn hai cô nuôi quân xinh đẹp phục vụ. Thấy chúng tôi ăn cơm đạm bạc quá, thức ăn chỉ có cá khô kho, nhưng con cá mối như đã gần mục, rau thì có bí đỏ nấu, cũng có cả canh nữa, nhưng canh là bí nấu khi chín xúc ra để lại một ít và đổ nước vào làm canh. Người cán bộ nghiệp vụ nhìn khắp mấy mâm cơm rồi đi lên một buồng lái lấy xuống ba lon thịt hộp loại nửa ki-lô-gam, vừa mở thịt hộp ông vừa nói: Chúng tôi góp ăn với bộ đội cho vui. Thế là chúng tôi được thưởng thức món thịt hộp quý giá mà nhiều người chưa được ăn, chưa được biết đến.
          Nghỉ ngơi đến 15 giờ thì lên đường. Đến bến phà, thấy xe xếp hàng đợi phà khá nhiều, chúng tôi xuống xe chia tay, cảm ơn bác tài đã cho chúng tôi đi nhờ đoạn đường dài. Chúng tôi đi bộ ra mép nước, cùng lúc đó có phà cập bến, đợi mấy cái ô tô lên phà xong là chúng tôi lên phà ngay. Ca-nô tăng tốc cuộn nước tung bọt trắng xóa, khói phả đen xì dắt kéo con phà quay đầu sang sông, 15 phút sau thì phà cập bến, chúng tôi nhanh chóng lên bờ, đi theo đường nhỏ chếch về hướng Bắc chứ không đi vào thành phố Hải Phòng. Hành quân khoảng chục ki-lô-mét thì tới khu vực ngã ba Quán Toan. Ở ngã ba này có nhiều đống lốp ô tô cũ xếp cao như núi. Trông ta-lông của lốp còn rất dầy, lốp không còn nguyên chiếc mà được cắt khúc làm ba, lốp to, lốp nhỏ lồng vào nhau.
            Tò mò về việc này, tới chỗ giải lao hỏi dân thì được biết đây là bên Nhật nó chơi khăm ta. Chả là bên Nhật lốp cũ nhưng còn tốt rất nhiều mà rẻ, chúng ta lấy lý do là mua lốp cũ về để làm dép cao su cho bộ đội. Nhưng thực tế chúng ta về vẫn dùng cho ô-tô vì lốp còn rất tốt. Chúng ta mua được hai chuyến, đến chuyến thứ ba tưởng cũng như mọi lần, thương mại lại đặt mua lốp số lượng lớn thì bên họ cắt khúc lốp ra. Khi hàng về Việt Nam thì mới vỡ lẽ ra là họ chơi khăm ta. Việc mua lốp về tái sử dụng bị lộ. Ta có chất vấn là sao lại cắt lốp ra vậy, thì họ nói là hợp đồng của các ông mua lốp cũ về làm dép cao su. Hợp đồng không nói là mua lốp nguyên chiếc. Làm dép thì đằng nào cũng phải cắt ra, để lồng vào nhau sẽ không bị cồng kềnh, chuyên chở được nhiều hơn. Thật có lý và ta thì đuối lý, biết họ chơi khăm mà không sao được. Đành chở về chất đống tại khu vực này. Qua người dân còn kể, hiện tại trong thành phố đang phát hiện tại một nhà thờ đạo Thiên chúa có chứa gián điệp, chúng ta bắt được một số ở dưới hầm ngầm bí mật trong nhà thờ.
         Chúng tôi đi qua ngã ba Quán Toan khoảng hai ki-lô-mét thì tới bến phà Kiềng vượt qua sông Cấm. Trời đã tối, lúc ở trên phà mọi người được lệnh tranh thủ ăn cơm nắm. Qua phà là tới đất huyện Thủy Nguyên đã khoảng 7 giờ, trời tối hẳn. Chúng tôi mò mẫm hành quân theo tỉnh lộ 351 rồi rẽ vào xã Chính Mỹ đi qua chùa Mỹ Cụ. Tương tuyền ngôi chùa này được xây dựng từ thế kỷ thứ 10. Song thân vua Lê Đại Hành đã cầu tự chùa này và sinh hạ được đức vua. Ấy là sau khi ở đây mấy ngày chúng tôi mới được biết như vậy. Còn bây giờ đã khoảng 21 giờ, chúng tôi mò mẫm vào một thôn cách chùa khoảng một ki-lô-mét cạnh đồi cao trồng toàn cây bạch đàn, con đường đất nhỏ ven đồi. Đường tối om, cây cối các loại rậm rạp càng cảm thấy tối hơn, nhà cửa thưa thớt.
            Nhóm chúng tôi ba người được phân công vào hỏi nghỉ nhờ ngôi nhà cuối làng. Không có tiếng chó sủa, nhưng vẫn còn ánh đèn le lói. Đứng ở đầu ngõ có cái cổng tre, anh Tấn nói thật to: Gia đình có ai ở nhà không ạ? Khoảng 1- 2 phút có một người phụ nữ từ trong nhà tay cầm cái đèn dầu nhỏ bước ra cửa hỏi: Ai đấy? Anh Tấn nói vọng vào: Chúng tôi là bộ đội xin vào nghỉ nhờ. Người phụ nữ trở lại trong nhà như có tiếng trao đổi với ai rồi trở ra gần cổng hỏi: Các anh là bộ đội à? Các anh có mấy người? Anh Tấn nói: Chúng tôi có ba người, chúng tôi mới hành quân ra đây xin gia đình cho chúng tôi nghỉ nhờ. Cô gái nói: Gia đình em đã được thông báo là có bộ đội đến đóng quân, nhưng sao các anh đến sớm thế. Anh Tấn trả lời: Đơn vị lớn thì tuần sau mới đến, nhưng chúng tôi đi trước tiền trạm để chuẩn bị nơi ăn ở cho đơn vị. Cô gái mở cái cổng tre rồi nói: Các anh vào trong nhà đi. Chúng tôi theo cô gái vào trong ngõ, qua cái sân gạch tới nhà. Nhà ngói, sân gạch, đặc biệt là có bể nước xây rất to. Cô gái nói: Các anh để ba lô rồi ra bể nước rửa mặt mũi chân tay. Cô nói thêm: Bể nước mưa đấy, nhưng mùa này mưa nhiều các anh cứ dùng đi.
            Trong nhà có tiếng ho của người nhiều tuổi, cơn ho rất dài. Cô gái nói: Mẹ em bị bệnh ho lâu rồi, đêm lạnh ho nhiều lắm sợ các anh mất ngủ. Anh Tấn hỏi xã giao: Nhà ta có đông người không ạ? Cô gái nói: Em là con dâu, hiện chồng em đi làm xa bên ngành xây dựng cầu đường, còn lại em và mẹ chồng em. Hai mẹ con em ngủ trong buồng, ba anh ngủ ở cái giường này. Cô chỉ vào cái giường kê giáp với đầu hồi tường đối diện với căn buồng của ngôi nhà năm gian. Ở giữa nhà có một cái sập gỗ kê trước ban thờ để ngồi uống nước. Tôi thoáng nghĩ đây là gia đình có nền nếp và có kinh tế khá lắm đây như câu ca thời ấy là: “Nhà ngói, sập gụ, giếng nước, bể xây, cây mít” là nhà giầu lắm. Chúng tôi thay nhau ra rửa chân tay, nước mát lạnh làm cho tôi tỉnh tảo hẳn lên. Song không hết được cái mệt, rất mệt vì chặng cuối hành quân cố đến đây, đi nhờ được ô-tô nên tiết kiệm được hai ngày hành quân. Không biết anh em mấy hôm nữa đi đội hình lớn thì phải mấy ngày mới đến nơi.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 03:10:01 pm
 
                Anh em tôi hỏi chuyện cô gái mấy câu rồi xin phép đi nghỉ. Cô gái cũng vào buồng ngủ. Thời ấy nhà dân ngủ tối không phải đóng cửa, nên cửa mở không khí ra vào gió lùa tận vào giường rất thoáng mát. Vừa nằm một tý, đã thấy anh Tấn, anh Kiên ngáy đều. Tôi chưa ngủ được ngay, chợt nghĩ đến Mai, không biết Mai có đọc được thư tôi viết vội không? Không hiểu Mai nghĩ về tôi như thế nào? Hôm Mai đưa tôi về tranh thủ, Mai hỏi tôi: Anh Phú giới thiệu em thế nào? Giá mà tôi nói khác đi thì có lẽ tình cảm của Mai với tôi phát triển tốt hơn chăng? Hôm đó mà Mai sang nhà, biết nhà tôi, nhờ cô báo cho gia đình tin của tôi thì tốt quá. Nhưng nghĩ lại mọi thứ như thế là hợp lý, là đúng. Mình với Mai cũng đã có quan hệ gì gọi là yêu đương đâu? Chỉ là cảm mến thôi và với tính cách tình cảm của Mai, bộ đội đóng quân ở đây nhiều, thì Mai cũng đã giúp được nhiều người như giúp tôi. Kể cả việc báo tin về cũng không thật quan trọng, nếu ở đây lâu mình sẽ viết thư về, bộ đội nay đây mai đó di chuyển liên tục sao nhờ mãi được.
         Tôi chìm vào giấc ngủ, giấc ngủ thật ngon, khi thức dậy thì đã 7 giờ sáng. Hai anh Tấn, Kiên đã dậy trước từ bao giờ. Anh Tấn đang là giáo viên dậy tại trường cao đẳng Thái Bình, trường ở Đông Minh, Tiền Hải. Anh Kiên là giáo viên cấp ba ở huyện Thái Ninh, dạy môn toán. Như vậy là các anh đã tốt nghiệp đại học, đã đi dạy học được mấy năm, thì các anh phải hơn tôi năm, sáu tuổi là cái chắc. Thảo nào thấy các anh đạo mạo chững chạc lắm. Hai anh đang trò chuyện gì đó ở sân, thấy tôi dậy rồi ra ngoài, anh Tấn hỏi: Ngủ ngon không ông Phú? Tôi trả lời anh bằng câu hỏi: Mệt! Mà sao các anh dậy sớm thế? Bà mẹ chắc cũng dậy lâu rồi đang cùng cô gái đun nấu gì đó trong bếp. Tôi nhanh chóng đi làm vệ sinh cá nhân. Chưa biết việc ăn sáng thế nào. Cô gái trong trang phục áo nâu quần đen, đầu quấn khăn đen mỏ quạ kín mít chừa có hai con mắt, tay cầm cái liềm, vai thì gánh đôi quang gánh có cái rổ sảo không, chào chúng tôi rồi ra ngoài cổng đi làm.
        Tôi nhớ lại mấy năm trước học nghề ở Hải Phòng, qua các câu chuyện mọi người ca ngợi con gái Thủy Nguyên rất đẹp, bạo dạn nhưng đanh đá lắm. Đặc biệt họ rất trắng vì khi đi ra ngoài đường, đi làm đồng, họ đều quấn khăn đen che hết mặt chừa mỗi hai mắt như cô gái vừa rồi. Nên nắng mấy da của họ cũng không bị bắt nắng. Hôm qua tới giờ giáp mặt cô gái hai lần, mà có nhìn được rõ mặt đâu.
         Anh Tấn nói: Liên lạc vừa sang báo tí nữa sang chỗ nhà bếp ăn sáng chị nuôi vẫn nấu cơm, nghỉ ngơi đến 9 giờ thì họp. Mấy anh em ra ngoài ngõ. Làng quê thật thanh bình. Bên trái con đường là đồi cao trồng rất nhiều bạch đàn. Con đường nhỏ ven chân đồi nhà cửa thưa thớt, nhưng hầu như nhà nào cũng xây, lợp ngói, có bể nước mưa. Cây cối xanh tốt. Ngoài những khóm tre to ven đường, còn trong vườn nhà nào cũng có những cây cau cao thấp, nhiều cây đang có bẹ hoa tỏa hương thơm ngát. Mít và chè xanh rất nhiều, mỗi cây mít có đến mấy chục quả to nhỏ chen chúc. Bên hàng rào, những khóm dứa ăn quả lọai dứa mật quả to. Mùa này là mùa mít chín, dứa chín tỏa hương thơm lừng làng xóm, chúng tôi rất thèm được thưởng thức, dứa và mít, hai thứ này là tôi thích nhất. Đặc biệt trong vườn có rất nhiều cây hồng ăn quả, cây không xanh tốt, đang là mùa quả, quả to bằng cái chén hoa hồng, lúc lỉu trên cây. Tôi nhớ là trong dân gian người ta ca ngợi hồng Thanh Lãng rất ngon. Như vậy là tôi đang được sống tại vùng có giống hồng quý, cùng những cô gái da trắng xinh đẹp. Đời bộ đội rất khổ nhưng cũng lại cho ta biết, cho ta du ngoạn được nhiều nơi, nhiều vùng miền của đất nước.
        Đi dọc làng, ngược trở lại con đường hôm qua khoảng trăm mét đã thấy tiếng đại đội phó oang oang: Chia cơm ra đi, anh em đến rồi, gần 7 rưỡi rồi. Chúng tôi vào sân nhà bếp, cả tốp tiền trạm đã đủ mặt. Chúng tôi ăn sáng, mọi người cười nói ầm ào vui vẻ hỏi thăm nơi ở của nhau có gì đặc biệt. Ăn xong đại đội phó Sung nói: Anh em ăn xong thì về nghỉ làm công tác dân vận tại nơi ở của mình. Quyét tước sạch sẽ nhà cửa, tắm giặt nghỉ ngời rồi hai giờ chiều ta tập trung về đây nghe phổ biến nhiệm vụ.
        Anh em tôi về pha trà uống nước chuyện trò rồi thay nhau tắm giặt. Gia đình ngoài bể to nước mưa, còn có một cái giếng nước. Giếng không to, không sâu lắm nhưng nước mạch từ đồi xuống trong vắt, mát lạnh. Tôi tắm giặt trước, phơi xong quần áo, rồi vào bếp nói chuyện với bà chủ nhà. Bà khoảng 50 tuổi, gầy yếu. Bà nói: Tôi bị bệnh xuyễn nên ho nhiều lắm, chữa mãi không khỏi, nhất là đêm lạnh càng ho nhiều, sợ các chú không ngủ được. Tôi nói: Không sao đâu ạ, chúng con còn trẻ đi tập mệt nên về đặt nình là ngủ được ngay, mẹ không phải nghĩ đâu ạ. Qua chuyện trò hỏi thăm được biết cô gái tên là Phin con dâu của bà. Chồng cô là kỹ sư cầu đường nên đi các công trường xa. Là con một, nên anh chưa phải đi bộ đội. Bà rất mong anh có con để có cháu bế nhưng hai năm rồi vợ chồng vẫn gặp nhau, mà sao khó thế.
           Chè xanh ở đây rất nhiều, cô Phin đã hãm tích nước ủ trong giành tích. Bà nói các chú uống nước chè xanh, em nó hãm rồi đấy. Tôi cảm ơn bà và mượn ấm đun nước sôi để pha trà. Hai anh cũng đã tắm giặt xong cùng ngồi hút thuốc nói chuyện. Qua chuyện trò được biết cả hai anh đều chưa có vợ, nhưng đang có người yêu. Anh Kiên thì yêu cô giáo cùng trường còn anh Tấn thì kể đang yêu một học sinh năm thứ ba của trường quê ở Diêm Điền, huyện Thụy Anh, anh Tấn  hơn anh Kiên hai tuổi. Tôi nói sao các anh không cưới vợ rồi hãy đi. Anh Tấn nói cũng định như vậy nhưng Chút (tên người yêu anh) nói, để học xong đã mới cưới chứ nhà trường không cho, cưới như vậy là vi phạm kỷ luật. Anh Kiên nói là không kịp cưới vợ, đợi khi nào về phép vậy. Như thế là hai anh cùng cảnh ngộ, cùng nghề, tuổi cũng đã cao, có nhiều chuyện tâm sự ý hợp tâm đầu nên hay thấy hai anh em chuyện trò nhỏ to với nhau. Tôi nghĩ mình như vậy là rất vô tư, có khi không có vợ, không có người yêu, vào bộ đội tình thần nhẹ nhõm hơn, ngoài nỗi nhớ gia đình bố mẹ, không bị ràng buộc nhớ nhung đôi lứa.
          Chúng tôi đi ăn cơm trưa về, hai mẹ con bà chủ cũng đang ăn cơm dưới bếp. đúng là nhà neo người, một mẹ một con quạnh hiu thật buồn, vì thế bà mẹ tâm sự đang thèm cháu nội là phải. Tôi xuống bếp chào và ngồi nói chuyên với hai mẹ con bà. Nhìn mâm cơm thật đạm bạc, bát canh rau muống luộc với đĩa tép rang và bát nước rau muống vắt chanh. Cô gái nói: Hôm nay ở đây vẫn còn đi cắt lúa, lúa ở đây chín muộn, việc đồng thu hoạch chưa xong nên em bận lắm, chẳng đi chợ mua gì được. Cô Phin có dáng người rất đẹp, đúng là da trắng, tóc dài. Cô rất vui, hỏi thăm tìm hiểu về chúng tôi rất nhiều, cô nói: Trước cũng có mấy anh bộ đội ở đây, nhưng còn trẻ lắm, sao các anh có vẻ nhiều tuổi? Tôi kể về đợt bộ đội này rất nhiều người như anh Tấn, anh Kiên, đều đã học xong đại học, là giáo viên mấy năm rồi, nhưng năm nay cũng được động viên nhập ngũ. Trong đại đội anh có cả các kỹ sư, đủ các ngành nghề, công nhân cũng đông. Có khoảng một nửa quân số là các thanh niên mới lớn, thậm chí có người mới 16 tuổi. Bà mẹ thở dài nói: Không biết giặc giã đến bao giờ. Mấy hôm nay máy bay đánh bom mạn Hải Phòng nhiều lắm. Hàng xóm nói đêm hôm qua bộ đội tên lửa cũng kéo cả về xã này, nghe chừng ác liệt căng thẳng lắm, sao hồi này lấy bộ đội nhiều thế không biết? Tôi nói qua về tình hình chiến sự Nam - Bắc cho bà nghe. Bà sụt sùi khóc nói: Thôn này, xã này hy sinh, báo tử nhiều lắm, có mấy trường hợp hy sinh lâu rồi mà chưa dám báo tử, chưa dám làm lễ truy điệu, vì sợ ảnh hưởng đến tuyến quân. Tôi nghĩ như vậy là nhân dân rất hiểu về cuộc chiến, về thời cuộc hiện tại. Mẹ không có con đi bộ đội, nhưng thường ngày các bà có con đi bộ đội ở ngoài chiến trường chuyện trò với nhau, nên thấu hiểu cái nhớ nhung, cái lo lắng của những người mẹ với con của mình đang ở ngoài chiến trường. Tôi nói với bà: Anh nhà là kỹ sư cầu đường cũng là may, không phải điều động vào bộ đội đâu. Bà nói: Nhưng mà nó là kỹ sư cầu đường dịp này cũng phải đi vào tận vùng khu Bốn làm cầu đường xa và nguy hiểm lắm. Tôi chỉ mong cho nó về phép ít ngày, cho tôi đứa cháu rồi muốn đi đâu thì đi, thế là tôi vui rồi.
       Trò chuyện với hai mẹ con bà một lúc nữa, tôi xin phép lên nhà nghỉ trưa. Hai giờ chiều anh em tôi sang nhà nơi ở của đại đội phó họp. Sang tới nơi vẫn thấy đại đội phó nằm trên giường, lưng đắp bó lá ngải. Thấy chúng tôi vào đại đội phó nói: Các ông đến sớm thế? Đã đủ chưa? Đợi tôi một tý! Cái lưng hành quân đau quá không đứng thẳng được. Tôi nghĩ thảo nào thấy đại đội phó cứ không đứng thẳng, đi lại cứ nghiêng người thì ra là bị đau lưng. Ông nói: Bên nhà các cậu xem hộ có cô nào đang có chửa con so nói tớ với. Nhờ cô ấy giậm lên mấy cái là khỏi đau ngay, vừa nói, đại đội phó vừa ngồi dậy mặc quần áo chuẩn bị họp. Mọi người đã đến đủ ngồi ngay tại nền nhà. Đại đội phó phổ biến nhiệm vụ: Theo kế hoạch thì ngày mai mình mới ra đến đây, nhưng do đi nhờ được xe nên mình đến sớm hai ngày, đơn vị hành quân đội hình đông thì bốn ngày mới tới. Chúng ta ra trước để tiền trạm, một là chuẩn bị khu vực bếp cho chị nuôi, nhà kho, nhà quản lý. Phải đào đắp bếp Hoàng Cầm. Tiếp nữa là nắm tình hình trong thôn, phân công nơi ở cho ban chỉ huy đại đội và các trung đội, tiểu đội cho phù hợp. Nếu xong thì tìm vị trí làm thao trường, để anh em ra là tập xạ kích được ngay, còn tổ chức bắn đạn thật. Công việc nhiều, tôi lại bị đau lưng, đồng chí Mâu phải thay tôi đi giao dịch và làm mọi việc. Các đồng chí đều là được lựa chọn, nên chúng ta phải thật tự giác làm việc, hàng ngày phải báo cáo tình hình cụ thể cho tôi biết. Chú ý ở đây gần thành phố, máy bay bay qua lại nhiều, các trận địa phòng không, pháo cao xạ và cả tên lửa quanh đây, không đồng chí nào được đi đâu xa. Phải cùng đào hầm với dân, nếu nhà dân nào chưa có hầm hoặc hầm không thuận tiện thì các đồng chí phải tranh thủ đào hầm ngay, đề phòng máy bay ném bom. Các đồng chí sau khi họp xong, về xem xét lại hầm hố, ngày mai chính thức vào công việc như đã nói, đồng chí Mâu ở lại cùng tôi đi chọn vị trí đặt bếp.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Ba, 2022, 03:11:44 pm

              Anh em tôi trở về nhà, xem xét kiểm tra thấy hầm hố đã tương đối đảm bảo không phải đào hầm mới, chỉ cần thu dọn lá rụng, sửa sang qua một chút cửa hầm để lên xuống cho thuận tiện, anh Tấn cẩn thận vơ lá đốt cả trong hầm nữa. Anh nói, để đuổi muỗi và cho nó đỡ hôi. Xong mọi việc, tôi lấy giấy bút viết thư báo tin cho nhà biết là mình đã chuyển ra Thủy Nguyên, Hải Phòng, để tối hay ngày mai nhờ cô Phin chuyển ra gửi hòm thư nơi đầu xã. Anh Tấn với anh Kiên cũng viết thư mà hình như các anh ấy còn ghi chép cả nhật ký nữa.
         Ngày hôm sau và mấy ngày tiếp theo chúng tôi làm việc theo kế hoạch. Tôi trong nhóm làm khu vực bếp ở ngay vị trí cạnh sườn đồi. Tận dụng nhờ một cái lán kho hợp tác xã bỏ hoang. Chúng tôi tổ chức xin rạ về dọi lại chỗ nghi thủng giột, xin tre về làm vách, làm các giá đựng xoong nồi chia cơm, để dụng cụ nhà bếp theo hướng dẫn. Xin rơm về nhào với bùn đất để trát làm vách, đào đường dẫn nước xung quanh lán. Bếp thì dựa vào sườn đồi, đẽo gọt khoét đất làm bếp Hoàng Cầm để nấu được chảo gang quân dụng to theo hướng dẫn của đại đội phó Sung. Đại đội phó Sung giải thích: Bếp Hoàng Cầm là sáng kiến của người chiến sỹ nuôi quân tên là Hoàng Cầm. Trong chiếc dịch Điện Biên Phủ năm 1954 để tránh máy bay phát hiện khói nên ông nghĩ ra loại bếp này ngoài chỗ đun nấu, bếp có thêm hầm chứa khói và mấy cái rãnh râu tôm từ hầm chứa khói tỏa ra mấy hướng, gác cành lá cây lên rãnh rồi rắc một lớp đất mỏng lên. Như vậy khi đun, bếp vẫn đủ ô xy cho lửa cháy và khói thì được chứa trong hầm rồi tỏa ra các râu tôm, lúc này khói không cuộn lên cao mà chỉ là là mặt đất, che mắt được máy bay trinh sát và biệt kích thám báo của đối phương giữ được bí mật nơi đóng quân. Sau này toàn quân gọi bếp này là kiểu bếp Hoàng Cầm.
        Mọi công việc đang trôi chảy theo kế hoạch, lao động thế này không mệt lắm vì không bị thúc giục, anh em làm việc rất tự giác. Đến tối ngày thứ năm thì xẩy ra sự cố. Cô Duyền chị nuôi bị ngộ độc thức ăn, y tá cho uống thuốc mà không khỏi, cứ vừa thổ, vừa tả từ ngày hôm qua, cô mất nước mệt lử không ăn, không ngồi được. Y tá bó tay, đề nghị chuyển lên viện huyện cấp cứu, mãi bốn giờ chiều đại đội phó mới quyết định cho đi bệnh viện. Cử người khiêng cáng cô Duyền đi viện gồm anh Thanh, anh Đại, tôi và đồng chí y tá. Anh Mâu đôn đáo mượn đòn khiêng buộc võng và hỏi đường đến viện, được biết bệnh viện huyện sơ tán cách chỗ chúng tôi khoảng 7 ki-lô-mét. Mọi người đỡ cho Duyền nằm vào võng. Anh Thanh và Đại khiêng trước, tôi đeo tư trang của Duyền, anh An y tá đeo túi thuốc đi sau cùng. Hướng đi về phía chùa Mỹ Cụ rồi đi theo con đường đất nhỏ qua các thôn xóm quanh các sườn đồi. Đi được chưa đầy 1 ki-lô-mét anh Đại đã kêu đau vai, mệt, nói tôi thay. Tôi hạ ba lô của Duyền xuống rồi ghé vai đón cái đầu đòn cáng thay anh Đại. Mới đầu đòn cáng tre tròn to cũng cảm thấy êm vai, nhưng đi được vài trăm mét thì vai đau cảm thấy đau không chịu được nữa.
             Duyền thuộc diện con gái đầy đặn xinh xắn 18 tuổi, nhưng đi bộ đội trước chúng tôi bốn tháng cùng lứa tiểu đội chị nuôi. Mọi người nói Duyền xinh nhất tiểu đội chị nuôi, Duyền dáng mập nên cũng phải trên 50 ki-lô-gam. Đường đi lại cứ phải lên dốc, xuống dốc, có những chỗ đường nhỏ khó đi nên đau rát vai càng nhanh mệt. Anh Thanh người thấp đậm rất khỏe, anh đi trước không thấy kêu ca gì, đi được chừng gần cây số tôi không thể chịu đựng được nữa cứ so vai rụt cổ, dùng cả hai tay đỡ đòn cáng  mà vẫn đau vai, tôi lại kêu anh Đại thay cho tôi. Anh Phát y tá thì cứ đi sau, ra chừng việc khiêng cáng là của chúng tôi chứ không phải việc của y tá. Duyền nằm im không mở mắt như là bị lịm đi không nói gì. Thỉnh thoảng anh Phát lại hỏi: Bây giờ đồng chí thấy thế nào rồi? Nhưng cô gái cũng chẳng trả lời, chẳng ra hiệu gì cả. Nhìn nét mặt Phát y tá thấy có vẻ bồn chồn lo lắng, anh nói chúng tôi dừng lại để cầm tay xem mạch cô gái. Hai anh em tôi như vậy là phải đứng nghỉ nhưng trên vai vẫn còn đòn khiêng cô gái. Cái mệt, cái đau do đòn cáng tỳ vào vai càng đau rát hơn. Xem mạch xong, anh giục chúng tôi cố gắng đi nhanh để vào bệnh viện tiếp nước, vì mạch của Duyền yếu lắm. Tôi cao, khiêng cáng phía sau nên quan sát cô gái được nhiều, cảm thấy rất thương, rất lo cho cô, cảm giác như cô là em gái mình.
          Trời đã xẩm tối, đường đi càng khó hơn. Ba anh em cứ khiêng đổi nhau liên tục. Khoảng 7 giờ tối, anh em chúng tôi tới được bệnh viện huyện, đưa Duyền vào phòng cấp cứu. Anh Phát y tá bàn giao bệnh nhân cho bệnh viện phải 15 phút sau thì việc giao nhận mới xong. Chúng tôi ra về, Duyền nằm trên giường bệnh ở phòng cấp cứu, tôi cầm tay Duyền nói: Em ở lại điều trị còn các anh phải về. Bàn tay Duyền không có phản ứng, đôi mắt lờ đờ nhìn anh em chúng tôi như là có ý nói lời cảm ơn. Tối trời nhưng vì đã quen đường, nên khoảng 9 giờ tối chúng tôi đã về tới đơn vị, vừa đói vừa mệt. Mọi người xúm lại hỏi thăm tíu tít, anh Phát y tá trả lời mọi người, còn ba anh em tôi thì đói quá nên ăn ngấu nghiến cơm canh để phần đã nguội ngắt.
         Sau này chúng tôi chuyển sang đơn vị mới, đi chiến đấu không gặp lại cô Duyền nữa, nhưng kỷ niệm về chuyến khiêng cáng nữ bệnh binh này thật nhớ. Rồi khoảng 35 năm sau số chị em nuôi quân cô Thái, cô Hòa liên hệ tìm gặp kết nối được chúng tôi. Qua chuyện trò hỏi thăm được biết Duyền nằm điều trị lâu, khi trở về đơn vị thì chúng tôi về phép rồi chuyển nhiệm vụ khác. Hết nghĩa vụ Duyền cùng nhiều người được đi học lớp y sỹ, ra trường làm việc tại Quảng Ninh, rồi lại đi xuất khẩu lao động bên Đức. Sự sụp đổ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, hai nước Đức sáp nhập, những người Việt Nam đi lao động xuất khẩu phải về nước. Hiện cô có khách sạn tại Bãi Cháy, Quảng Ninh. Tôi rất vui vì sau khi chia tay ngày ấy tôi vẫn luôn mong muốn gặp lại người nữ quân nhân xinh đẹp mà tôi cùng mấy người khiêng cáng đi viện. Cái kỷ niệm đó cứ theo tôi trên khắp mọi bước chân của người lính trận. Nhân có công việc ra ngoài Quảng Ninh, tôi nói mọi người dẫn đến nhà, trước mặt tôi là một phụ nữ đã luống tuổi xinh đẹp cao sang, nhưng tôi vẫn nhận được cái nét của Duyền. Bất giác những kỷ niệm xưa ập về tôi bồn chồn hỏi: Em có nhớ dịp ở Thủy Nguyên, em bị ngộ độc thức ăn mọi người khiêng em đi viện không? Duyền gật đầu nói: Đúng rồi, em nhớ là như vậy. Tôi hỏi tiếp: Em có nhớ những ai khiêng em không? Duyền nói: Em không nhớ. Tôi nói tiếp: Có ba người thay nhau khiêng em và anh Phát y tá. Anh là Phú, một trong ba người khiêng đó. Duyền nhìn nhanh tôi nhưng không nói gì, không cảm ơn, không vồ vập, biểu cảm hờ hững tẻ nhạt. Tôi như bị hụt hẫng, bị sốc thực sự, tôi cứ nghĩ là cuộc gặp này vui lắm, sôi động lắm nhưng sao lại vô cảm nhạt toẹt, lãng xẹt thế này. Tôi không muốn nói, muốn hỏi gì nữa, tôi nói mọi người ra về, trong lòng thật buồn.
         Những ngày sau chúng tôi vẫn tiếp tục công việc như vậy. Khoảng 21 giờ ngày 4 tháng 7 năm 1972, đại đội tôi cùng cả hai tiểu đoàn hành quân tới nơi. Tiểu đoàn 817 đóng quân dọc từ chùa Mỹ Cụ trở vào. Tiểu đoàn 816 đóng quân tại xã Phù Ninh, cách tôi chừng hai, ba ki-lô-mét. Đại đội tôi đóng quân tại thôn này. Nhà tôi thêm các anh Thỉnh, Văn, Thắng, là năm người, anh Kiên về bên tiểu đội ở nhà khác. Xóm làng sôi động đông vui hẳn lên. Toàn đơn vị nghỉ ngơi nửa ngày, buổi chiều làm nhiệm vụ quyét dọn nhà cửa thôn xóm và sửa sang hầm hố tránh bom.
          Mấy ngày nay đêm nào máy bay cũng bay qua, ném bom nhiều khu vực trung tâm thành phố và những mục tiêu quan trọng. Ngoài biển và các cửa sông địch phong tỏa thả các loại thủy lôi, bom từ trường, ngăn cản sự giao lưu xuất nhập hàng hóa, giữa ta và các nước. Trận địa tên lửa mấy ngày liền đều phóng đạn. Đạn tên lửa, pháo phòng không các loại lửa sáng đỏ rực trời. Tiếng reo hò khi máy bay Mỹ bùng cháy. Chúng tôi được lệnh gấp rút huấn luyện để bắn đạn thật bài 1. Mọi người, mọi tiểu đội, trung đội phải viết quyết tâm thư bắn đạn thật loại giỏi. Cán bộ trung đội thường xuyên kiểm tra đường ngắm của bộ đội bằng kính xạ kích để đánh giá sự trúng chụm đường ngắm.
            Một buổi chiều sau buổi tập xạ kích, trung đội tôi tổ chức tháo lắp lau chùi bảo quản vũ khí tại nơi tập. Anh em cũng đã thành thạo tháo lắp súng. Nhưng hôm đó xẩy ra sự cố là đồng chí Thực khi tháo súng K63, tháo con ốc hãm đầu lò xo sơ ý bị lò xo đẩy tung con ốc hãm bắn xuống mương nước. Rất sợ nhưng không biết làm sao, trung đội phó Mâu bắt cả tiểu đội mò tìm, cái ốc bé như cái cúc áo bằng sắt chìm xuống bùn. Tìm mãi không được trung đội phó bắt tiểu đội về dân mượn mấy cái sàng vét bùn nơi nghi cái ốc bắn xuống, cứ thế mà sàng mà lọc bùn, thế rồi đến tận tối cũng tìm được con ốc hãm. Đúng là một bài học nhớ đời cho Thực và cho cả mọi người.
           Ngoài tập xạ kích, chúng tôi bắt đầu học chiến thuật tổ 3 người và tiểu đội đánh chiếm mục tiêu. Khoa mục này học rất mệt vì những lô cốt, công sự giả quân địch và quân xanh trên đồi cao, chúng tôi phải bò, phải đi khom tiền nhập đến gần mục tiêu tiến công đánh chiếm. Đồi, lại là đồi đá gan gà những viên đá nhỏ, khi đi hay bò dễ bị trượt ngã. Được cái tập ở đồi dốc leo trèo vất vả nhưng không bị phơi nắng, vì có bóng râm cây bạch đàn che phủ nên cũng dễ chịu hơn.
        Được biết tiểu đoàn 816 hiện đang đóng quân tại xã bên cạnh, có nhiều anh em thị xã, có mấy người là em của bạn học tôi. Chủ nhật được nghỉ, tôi tìm sang chơi, anh em thị xã ở đây rất đông có đến mấy chục người, trong đó có Khánh, Báu, Cường là em của bạn học tôi. Qua chuyện trò được biết tiểu đoàn 816 anh em là người thị xã và hai huyện Đông Quan, Tiên Hưng. Tiểu đoàn 817 của tôi là khối các cơ quan xí nghiệp, sinh viên và giáo viên các trường cùng các thanh niên trẻ là hai huyện Duyên Hà, Hưng Nhân. Tiểu đoàn 815 hiện vẫn đóng quân tại Đông Triều, Quảng Ninh nghe nói toàn thanh niên Quảng Ninh. Tôi gặp một vài anh em quen người thị xã có gợi ý với tôi là nếu chuẩn bị đi vào Nam là sẽ đào ngũ, họ rủ tôi cùng về. Tôi nói: Tùy các bạn, mình thì không về được. Chơi với anh em đến chiều tôi về qua đại đội 7 đóng quân ngay tại chùa Mỹ Cụ gặp được anh Hòe, anh Hà Cao Phan thì cùng học cơ khí và cùng về xí nghiệp đóng tầu Trà Lý với tôi. Anh Phan là thợ tiện cùng tổ với bố tôi. Anh Hòe hơn tôi ba tuổi làm việc ở đoạn bảo dưỡng cùng ty giao thông. Anh Hòe đã có gia đình, anh mang theo cả xe đạp Con Én loại xe thể thao của Liên-Xô. Anh nói, anh nhập ngũ đợt ngày 12 tháng 5, toàn ty Giao thông có 5 người thì hai người bỏ ngũ nên tôi phải đi bổ sung thay. 
          Ở vùng này mít và dứa rất nhiều, mua một đồng thì được mấy quả dứa. Hai đồng thì mua được quả mít to hàng chục ki-lô-gam. Anh em chúng tôi mua dứa, mít về cải thiện liên tục. Tôi máu hàn không bị rôm sẩy mụn nhọt bao giờ, thế mà do ăn nhiều mít, dứa quá nên bị nóng, người tôi lên cái nhọt thật to ở má rất đau. Cái nhọt to chín mọng, anh Quang y tá đắp thuốc mấy ngày mà nó vẫn sưng, rất đau không vỡ. Anh Quang nói: Nó không vỡ phải nặn ra thôi, nhưng đau lắm đấy. Tôi nói anh cứ nặn, đau tôi chịu được. Rồi Quang nhờ thêm Thắng giữ đầu tôi để anh Quang nặn nhọt, đau, rất đau tôi nghiến răng chịu đựng, thế rồi anh Quang nặn ra bao nhiêu là mủ và lôi ra cái ngòi xanh lét thật to, hàng tuần sau cái má tôi mới lấp đầy trở lại.
        Toàn đơn vị đang gấp rút huấn luyện chuẩn bị bắn đạn thật thì khoảng 15 giờ ngày 19 tháng 7 chúng tôi có lệnh tập trung họp đại đội. Thật bất ngờ đại đội trưởng Nghẹ tuyên bố đơn vị có lệnh đi B vào Nam chiến đấu, trung đoàn cho chúng tôi về phép. Thời gian nghỉ phép cả đi về là 12 ngày, đúng ngày 31 tháng 7 phải có mặt tại đơn vị. Ôi thật bất ngờ, niềm vui ập đến mọi người reo hò ầm ỹ. Đợi cho mọi người trật tự, đại đội trưởng nói tiếp: Ngay sau cuộc họp, các trung đội cho anh em gấp rút lau chùi vũ khí súng đạn, bàn giao lên đại đội rồi làm thủ tục nhận tem lương thực, tiền ăn và tiền phụ cấp tháng, phụ cấp tàu xe. Để tránh ồn ào, thứ tự thanh toán từ trung đội 1 rồi đến các trung đội tiếp theo. Nhà bếp nấu cơm cho anh em chiều nay bình thường, đúng 17 giờ, đại đội phát giấy phép cho các đồng chí. Sau đây các đồng chí nghỉ ngơi, làm công tác chuẩn bị, thời gian nghỉ phép tính từ sáng mai, nên các đồng chí làm xong mọi thủ tục thì nghỉ ngơi, sáng mai các đồng chí hãy về. Mọi người lại ồ cả lên, cái vui bất ngờ ập đến không gì bằng. Chúng tôi nhanh chóng về lau chùi bảo quản vũ khí và tập trung lên gửi ở nhà ban chỉ huy. Không những chỉ có bộ đội là vui mừng ồn ã, mà người dân khi biết tin bộ đội nghỉ phép để đi B chiến đấu, nhiều gia đình đang làm đồng cũng bỏ về để chia tay với bộ đội. Có gia đình còn giết gà làm cơm, bắt bộ đội lấy cơm về cùng ăn. Thật không gì quý bằng tình cảm quân dân cá nước, tuy rằng chúng tôi mới đóng quân ở đây chưa đầy tháng, mà họ coi chúng tôi như con em mình.
         Biết tin chúng tôi về phép và không ở đến sáng mai, cô Phin chủ nhà luộc một nồi sắn mời chúng tôi ăn, nấu một xoong nước chè tươi thật to đóng bi đông cho từng người. Nhìn chúng tôi ăn sắn, vội vã háo hức chuẩn bị tư trang, cô buồn không nói gì, cảm thấy như muốn khóc. Sau khi giao súng và thanh toán xong các thứ, đa số anh em nói ăn cơm tối, nhận giấy phép xong là “phắn” ngay chứ không ở đến sáng mai. Tôi chợt nghĩ đến anh Hòe bên đại đội 7 có xe đạp, ý định nhờ anh về. Tôi chạy sang đại đội 7 và gặp được anh, anh cũng đang tâm trạng đợi giấy phép là về. Tôi ngỏ ý đi nhờ, anh đồng ý và nói: Nhận xong giấy phép ông phải sang ngay, tôi đợi ông đến 5 rưỡi hoặc 6 giờ thôi đấy. Tôi đồng ý và chạy về nơi ở. Mọi thủ tục ba lô quần áo thanh toán đã xong, tôi chủ động chào mẹ con Phin rồi mang luôn ba lô lên chỗ ban chỉ huy đại đội lấy cơm ăn và đợi giấy phép. Chị em nuôi hôm nay cũng chia cơm cho bộ đội sớm. Chúng tôi ăn nháo, ăn nhào chỉ mong nhanh nhận giấy phép còn “tút”.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Ba, 2022, 07:04:35 am

                  Đúng 17 giờ đại đội tập trung, chính trị viên Trần Lẫm phát biểu nội dung là đi phép cũng là nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm khuyến khích động viên tư tưởng cho các đồng chí và gia đình, hậu phương trước khi lên đường ra tiền tuyến. Đây là sự quan tâm to lớn của trung đoàn với các đồng chí. Vì vậy các đồng chí đi phép thăm gia đình và trả phép đúng quy định, không đồng chí nào vì bất kỳ lý do gì mà quá phép. Chúc các đồng chí có chuyến nghỉ phép thăm gia đình thật vui vẻ. Rồi chính trị viên đọc tên từng người lên nhận giấy phép. Rất nhiều anh em đã mang ba lô tư trang như tôi, cầm giấy phép là không trở lại nhà chủ mà thực hiện nước “mã hồi” ngay. Tới lượt tôi cũng vậy, có lẽ chẳng ai về nhà chủ nghỉ đến sáng mai, mà tất cả ào ra đường về quê. Không phải chỉ đại đội tôi mà toàn tiểu đoàn gần 600 bộ đội ùa ra đường, khi thế thật hào hứng.
          Tôi sang chỗ anh Hòe, anh cũng mới nhận giấy phép. Hai anh em buộc hai cái ba lô hai bên gác ba ga. Tôi nói anh để tôi đèo, anh Hòe nói: Anh quen xe để anh đi trước, hai anh em thay nhau, đường còn dài. Ra tới tỉnh lộ 351 mới thấy cảnh thật sôi động, bộ đội đi đầy đường. Tất cả các loại xe ô tô đi xuôi đều đông đặc bộ đội đi nhờ, kể cả xe đạp cũng vậy. Dân biết bộ đội về phép rồi vào Nam chiến đấu, nhiều người chạy về nhà lấy xe đạp chở giúp bộ đội một quãng, chủ yếu là chở tới bến phà Kiềng thì quay lại. Có người vòng đi vòng lại hai ba lượt để chở bộ đội, thật là cảm động, thật trân trọng tình cảm của nhân dân. Nhưng thời đó, xe cộ cũng đâu có nhiều. Rất nhiều anh em không may mắn vẫn phải cuốc bộ, vừa đi vừa chạy gằn, tốc độ hành quân chắc phải 6-7 ki-lô-mét một giờ chứ không ít. Anh em chúng tôi cũng guồng xe thật nhanh, qua phà Kiềng rồi qua phà Kiến An. Trời đã tối hẳn, hai anh em thay nhau đạp xe thật lực. Được cái xe thể thao vành lốp to rất tốt, nhưng đường  xấu, ổ gà nhiều nên xóc, không thể đi nhanh được. Mới đầu hai anh em quyết tâm đi một mạch về thị xã, nhưng phải qua mấy con phà nên không thể thực hiện được. Tới khoảng 12 giờ khuya thì tới thị trấn Vĩnh Bảo. Như vậy chúng tôi đã đi được khoảng 70 ki-lô-mét và vượt qua bốn con phà. Anh em tôi bàn nhau đành ghé vào vỉa hè của cửa hàng mậu dịch huyện nằm nghỉ. Anh Hòe nói: Cũng phải thay nhau gác đấy Phú nhé, kẻ cắp nó không thương anh em mình đâu! Tôi nói: Anh ngủ trước đi để em thức coi xe, coi đồ. Anh đi ngủ, còn tôi ngồi gác, bi đông nước chè xanh cô Phin đóng cho còn đến một nửa, bây giờ mới thật giá trị, làm cho tôi tỉnh ngủ. Tôi hút thuốc liên tục, nghĩ ngợi mông lung, nghĩ đến lúc tôi đột ngột xuất hiện, bố mẹ tôi, và mọi người bất ngờ vui lắm đây.
         Khoảng 3 giờ sáng, anh Hòe thức giấc bảo tôi đi ngủ. Tôi ngả lưng nằm xuống hè phố, cái lưng được giãn thật khoan khoái nhưng không sao ngủ được. Có lẽ tại nước chè xanh sánh đặc, hay tại thổn thức về phép làm tôi khó ngủ. Thấy tôi không ngủ, anh Hòe nói cũng đã 4 giờ rồi, nếu không ngủ được anh em mình về đi còn phải qua phà Cầu Nghìn nữa. Tôi đồng ý, rồi lấy nước chè trong bi đông vã nước rửa mặt, hai anh em tiếp tục lên đường. Anh Hòe chở tôi về đến nhà thì đã khoảng 7 giờ sáng. Tôi lấy ba lô, cảm ơn anh rồi chạy vào nhà. Mẹ và chị Phương tôi đang ở nhà, bố tôi đi làm ở xí nghiệp. Qua nói chuyện được biết là bà tôi cùng các em đã đi sơ tán về xã Tân Bình cách 5 ki-lô-mét, cô em Lợi thì sơ tán theo trường. Mẹ tôi nhìn thấy tôi, rất vui nhưng lại òa khóc. Cầm tay tôi, mẹ hỏi sao con lại được về, mọi người đang không biết con hiện giờ ở đâu? Tuần trước bố có lên chỗ cũ nhưng họ nói đơn vị đã chuyển đi rồi, nghe nói ra Quảng Ninh. Chuẩn bị vào Nam hả con? Hồi đó các đơn vị huấn luyện khi ra Quảng Ninh là chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Mẹ lo lắng hỏi nhỏ tôi: Con được về phép hay là bỏ về chơi? Tôi trả lời mẹ: Chúng con được về phép mẹ ạ, cả đi về là 12 ngày. Con có giấy phép từ chiều hôm qua, anh em về hết cả trong đêm, con may là đi nhờ được xe đạp của anh Hòe, đêm anh em con ngủ ở Vĩnh Bảo sáng nay về sớm. Mẹ tôi nói: Con được về là mừng, là may lắm rồi, máy bay dịp này đánh phá ác liệt lắm. Con ở chơi một lúc rồi đi lên chỗ sơ tán với bà, với các em đi. Tôi nói: Vâng, con nghỉ đến chiều con lên. Tôi lên Tân Bình nơi bà và các em tôi đang sơ tán, mấy em tôi vui ôm quấn lấy tôi, Lộc, Quang, Vinh, thì cứ hỏi là súng anh đâu sao không thấy súng? Cô em gái Qúy khoảng 10 tuổi thì lấy khoai và đường cho tôi ăn. Chú em út Vịnh 3 tuổi trước tôi hay bế thì cứ nhìn tôi đăm đăm rồi ôm tôi bắt tôi bế.
           Tôi ở chơi đến tối rồi lại về thị xã ngủ. Thị xã những ngày này thật vắng vẻ, nhà cửa đổ nát. Tiếng máy bay bay qua, bay lại và tiếng bom rền liên tục, chiến tranh đang thật khốc liệt. Song cũng còn một số người lớn, một số dân quân tự vệ và thanh niên vẫn bám trụ ở lại. Cũng chẳng có gì để chơi, để thăm, ngày chủ nhật tôi định xuống xí nghiệp dưới Tiền Hải chơi, nhưng bố tôi gàn, nói: Xí nghiệp bây giờ cũng vắng vẻ căng thẳng lắm, nhất là sau hai trận bom đánh vào xí nghiệp, người chết, người bị thương nên công nhân làm xong, hết giờ là chạy đi nơi trọ cách xa xí nghiệp, con không nên xuống, cứ ở nhà chơi với các em hết phép rồi đi. Tôi gặp được mấy người bạn gái cùng phố trò chuyện, biết tôi về nghỉ phép và tối cũng ở thị xã. Buổi tối hai bạn đến nhà tôi chơi. Tôi pha trà nước và kẹo mời mọi người, ngồi chơi nói chuyện phiếm. Khoảng 9 giờ thì có báo động máy bay, tiếng còi hú, tiếng súng phòng không các loại nổ rầm trời. Tôi và hai người bạn gái chạy vội xuống hầm, tiếng bom rung chuyển, hai cô gái hoảng sợ ôm chặt lấy tôi. Tôi cũng ôm chặt hai cô. Có lẽ lần đầu tiên trong đời tôi được gần, được ôm con gái. Trong tiếng bom, tiếng đạn, mùi ẩm mốc của hầm mà mùi da thịt con gái làm tôi bồn chồn phấn khích lạ thường. Tôi hít thật sâu cái hương vị trời đất đó. Hết loạt bom, hai cô gái vẫn ôm chặt tôi. Không thể kìm chế được, thật tự nhiên, tôi hôn vào má cả hai cô gái. Hai cô cứ để cho tôi hôn, tôi thấy người hai cô nóng rực. Trong hầm tối tôi trỗi dậy ý nghĩ lấn tới… Vừa lúc đó thì còi báo yên, không hiểu sao tôi lại nói: Báo yên rồi mình lên nhà đi, cả hai cô đều nói: Anh Phú lên trước đi! Tôi tần ngần rồi cũng lên khỏi hầm. Lúc sau hai cô gái cũng lên, vào nhà rồi chia tay tôi ra về. Tôi như bị hẫng hụt tiếc nuối cái cơ hội vừa rồi, bần thần một lúc rồi đi ngủ.
         Mấy ngày phép cũng qua nhanh, ngày mai tôi phải trả phép. Tôi lên thăm bà và các em rồi lại về thị xã. Mẹ tôi giết gà làm cơm. Bố tôi, chị tôi và cô em Lợi tôi cũng về, sáng hôm sau bố tôi đưa tôi sang bên xe bên cầu Sa Cát để ra Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng tôi sang đơn vị. Đúng 4 giờ chiều ngày 31 tôi có mặt tại nơi đóng quân. Cũng có một số anh em đã trả phép. Cô Phin chủ nhà rất vui hỏi tôi: Sao anh lên sớm thế? Tôi nói: Anh lên đúng phép mà. Cô nhìn tôi trìu mến nói: Anh đi tắm đi, rồi cứ để quần áo đấy em giặt cho. Trong những ngày trước khi đi phép, cô Phin rất quan tâm chúng tôi, hôm nào cũng hãm tích nước chè tươi cho chúng tôi uống, khi thì sắn, khi thì khoai luộc cho chúng tôi ăn. Quần áo thay ra chưa kịp giặt là cô giặt. Vì vậy nên sau này anh em tôi bảo nhau tắm xong là phải giặt quần áo ngay, không được ngâm ở chậu.


V


       Chiều muộn, tôi sang nhà ban chỉ huy đại đội báo cáo đã trả phép. Tôi thấy mọi người có vẻ rất bận rộn. Đại đội trưởng và chính trị viên Lẫm cùng mấy người đang hội ý gì đó. Khi thấy tôi vào thì ngừng lại. Chính trị viên Trần Lẫm biểu dương tôi là trả phép đúng hẹn và hỏi tôi anh em đã lên đủ chưa? Tôi nói sơ qua là không nắm được hết, tiểu đội mới thấy có được bốn, năm người. Đại đội trưởng nói: Đồng chí xuống bếp báo cơm nhé, rồi mọi người lại tập trung làm việc gì đó có vẻ rất vội. Tôi xuống nhà quản lý gặp ngay cô Nhì, cô Nhì hỏi tôi: Ô, đồng chí dân thị xã mà trả phép đúng hẹn nhỉ? Quà phép của em đâu? Tôi nói: Tối đi ăn cơm anh đưa cho, anh có kẹo Hải Châu đấy. Cô Nhì nói anh vào đây em nói, rót cho tôi ca nước, vừa đưa cho tôi cô vừa nói: Các anh may nhé được đi phép, chứ bên tiểu đoàn 816 để sáng hôm sau mới phát giấy phép. Đúng 7 giờ tối thì có lệnh trung đoàn là thu hồi giấy phép, dừng tất cả việc đi phép, đi tranh thủ, trung đoàn chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Nhưng tiểu đoàn mình thì các anh về ngay tối nên không sao được nữa. Chúng em sắp chia xa các anh rồi, toàn trung đoàn đang biên chế lại, đợi các anh lên đủ là nhận quân tư trang vũ khí đạn dược, thành lập trung đoàn mới luôn. Tôi nói: Thì trước khi đi phép đại đội cũng đã nói rồi còn gì, sau trả phép là lên đường vào Nam thôi. Cô Nhì nói: Nhưng đây là nhiệm vụ khác, như những đợt huấn luyện trước, thì các anh huấn luyện xong rồi bổ sung tăng cường cho các đơn vị. Còn lần này là thành lập hẳn một trung đoàn cơ động của Bộ. Từ hôm các anh đi phép mọi người ở lại bận rộn vất vả lắm. Tình hình gấp lắm, chỉ một hai ngày nữa là các anh nhận quân tư trang và vũ khí mới rồi. Tôi không hỏi thêm được gì và cũng chưa biết nhiệm vụ mới thế nào, chỉ thấy cán bộ ai cũng có vẻ căng thẳng bận rộn. Tôi hỏi thăm cô Duyền đi viện đã về chưa? Cô Nhì trêu: À! Lại nhớ em Duyền xinh gái rồi, sao nhiều người hỏi thăm em Duyền thế. Tôi nói: Hôm trước anh phải khiêng cô ấy đi viện, giờ vai vẫn còn đau đây này. Cô Nhì nói: Em đùa thế thôi, anh về nghỉ đi, tí nữa lên ăn cơm, nhớ mang quà cho em nhé, cô nói, mắt cô nguýt tôi rồi bẹo vào sườn tôi một cái thật đau.
        Tôi nói chuyện với mọi người về đại đội có nhiệm vụ gì gì đó. Anh Tấn nói: Mình cũng nghe phong thanh như vậy, nhưng bộ đội thì bao giờ mà chẳng phải đi, mà đi là đi chiến đấu chứ gì nữa, việc gì phải bận tâm. Chắc tại Quảng Trị đang đẫm máu, đang khốc liệt, hy sinh nhiều lắm nên tăng cường mình vào đấy. Tôi nói: Nhưng mình mới huấn luyện, đã biết bắn đạn thật, biết ném lựu đạn thế nào đâu mà chiến đấu. Anh Tấn nói: Cứ vào chiến đấu là biết hết, biết ngay mà. Tôi không nói gì nhưng qua chuyện cô Nhì quản lý nói thì thấy có việc gì đó quan trọng, chứ không phải bổ sung tăng cường chiến đấu như kế hoạch đã phổ biến.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Ba, 2022, 07:06:20 am

         Chiều muộn rồi tối hẳn. Ngày hôm sau quân số đi phép đã đến gần đủ. Trung đội trưởng Đởn và anh Mâu đến kiểm tra quân số liên tục. Theo anh nói, trung đội còn thiếu 5 người. Anh nói: Kiểm tra quân số xem thiếu ai còn điện khẩn về địa phương thúc trả phép đúng hạn. Nhiệm vụ của mình gấp lắm rồi, không huấn luyện ở đây nữa mà thành lập hẳn một trung đoàn cơ động, đủ vũ khí, súng đạn và chuẩn bị lên đường ngay. Anh nói tiếp: Từ giờ các ông không được đi đâu nữa nhé, nghỉ ngơi đợi lệnh thôi. Lệnh cấm trại, vệ binh của tiểu đoàn, trung đoàn gác khắp nơi đấy, ra ngoài không có giấy phép là bắt ngay đấy. Tôi nói: Sao căng thẳng vậy anh? Trung đoàn mới cho mình đi phép đấy thôi. Anh nói: Có mình được đi phép thôi chứ “thằng” 816, 815 nó có được đi phép đâu, giấy phép bị thu hồi, hủy hết, họ ở lại và đã bắn đạn thật rồi. Lính bên đó không được đi phép, nên tự động bỏ về nhiều lắm, vì vậy phải lập các trạm gác là như thế.
         Theo tinh thần đó chúng tôi được nghỉ ngơi tại chỗ hai ngày. Sáng ngày 1 tháng 8, toàn đại đội họp nghe phổ biến nhiệm vụ. Đại đội trưởng Nghẹ sau khi cho anh em hát bài: “Vì nhân dân quên mình”. Hát xong đại đội trưởng nói ngay: Xin thay mặt ban chỉ huy đại đội, tôi biểu dương các đồng chí đã trả phép đúng hẹn. Như vậy đại đội ta tới giờ phút này chỉ thiếu 4 đồng chỉ chưa có mặt, chưa biết rõ lý do, nhưng chúng tôi sẽ điện báo cho địa phương thúc giục hoặc cử người về địa phương triệu lên. Hôm nay tôi chính thức thông báo với các đồng chí về tình hình đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn. Chúng ta hiện tại là quân huấn luyện tăng cường của trung đoàn 8, Quân khu Tả ngạn. Theo quyết định của Bộ, do tình hình chiến sự ở Miền Nam, Bộ sẽ thành lập một trung đoàn phiên hiệu là trung đoàn 36B, trong đội hình sư đoàn 308B là sư đoàn cơ động của Bộ. Do đó chúng ta có nhiều thay đổi, có đồng chí về đơn vị mới, có đồng chí ở lại khung huấn luyện luân chuyển theo sắp xếp của ban cán bộ và quân lực. Do đó đại đội ta, tiểu đoàn ta đang mang phiên hiệu là đại đội 5 tiểu đoàn 817, thì bây giờ đổi là đại đội 3, tiểu đoàn 1, trung đoàn 36B, sư đoàn 308B. Tiều đoàn 1 gồm 4 đại đội: 1, 2, 3,4 và hai trung đội trực thuộc tiểu đoàn là trung đội thông tin, trung đội vận tải, một tiểu đội trinh sát trực thuộc tiểu đoàn bộ. Đại đội 4 là đại đội hỏa lực.
         Tiểu đoàn 816 đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 2 gồm đại đội 5, 6, 7, 8, đại đội 8 là đại đội hỏa lực như đại đội 4 và cơ quan tiểu đoàn bộ. Tiểu đoàn 815 cũng đã hành quân từ Đông Triều, Quảng Ninh về đóng quân tại xã Mỹ Đồng cùng huyện với chúng ta, mang phiên hiệu là tiểu đoàn 3 gồm đại đội 9,10, 11, 12, đại đội 12 cũng là đại đội hỏa lực. Trung đoàn còn có các đại đội trực thuộc là: Đại đội 14 cối 82 ly; đại đội 15 súng chống tăng DKZ82 ly; đại đội 16 súng 12,7 ly; đại đội 17 công binh; đại đội 18 thông tin gồm: thông tin hữu tuyến và thông tin vô tuyến; đại đội 20 trinh sát; đại đội 24 quân y; đại đội 25 vận tải. Trung đoàn bộ còn có 3 cơ quan là: Ban chính trị, ban tham mưu, ban hậu cần và 1 trung đội vệ binh. Sơ bộ như vậy, trong quá trình hành quân, huấn luyện các đồng chí sẽ tìm hiểu sau. Hiện tại các đồng chí cán bộ từ tiểu đội, trung đội, đại đội đã bổ sung về đầy đủ.
         Biên chế trong đại đội cũng thay đổi, bây giờ đại đội bộ binh chúng ta biên chế ba trung đội và một tiểu đội hỏa lực, gồm trung đội 1, trung đội 2, trung đội 3, mỗi trung đội gồm 3 tiểu đội từ tiểu đội 1 đến tiểu đội 9. Tiểu đội 10 là tiểu đội hỏa lực gồm cối 61 ly và súng chống tăng B41. Một tiểu đội anh nuôi quản lý, không có chị nuôi quân nữa. Ban chỉ huy đại đội đủ bốn người, có hai liên lạc và ba đồng chí y tá. Đại đội 1 và 2 cũng được biên chế như chúng ta. Đại đội 4 hỏa lực, biên chế 4 trung đội gồm: một trung đội12,7 ly, một trung đội DKZ 82 ly, một trung đội cối 82 ly, một trung đội đại liên, đây là đại đội hỏa lực trợ chiến. Trong chiến đấu tùy theo tình hình sẽ tăng cường xuống chiến đấu cùng các đơn vị.
         Trên tiểu đoàn gồm có chỉ huy tiểu đoàn đủ bốn người, Thượng úy Nguyễn Quang Tạo là tiểu đoàn trưởng. Thượng úy Lê Hàm là chính trị viên trưởng. Trung úy Hoàng Sỹ Liên là chính trị viên phó. Trung úy Nguyễn Báo là tiểu đoàn phó. Ngoài ra còn có các đồng chí trợ lý chính trị, quân lực, quân y, hậu cần. Đại đội ta cũng biên chế đủ bốn người trong ban chỉ huy gồm: Tôi - đại đội trưởng, đồng chí thiếu úy Phạm Văn Sáu là đại đội phó phụ trách hậu cần, đồng chí trung úy Trần Văn Lẫm là chính trị viên trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Từ là chính trị viên phó. Đại đội trưởng nói tiếp: Sau đây xin giới thiệu các đồng chí trung đội trưởng, trung đội phó chỉ huy ba trung đội: Trung đội 1, thượng sỹ Lã Quang Trung trung đội trưởng, Trung sỹ Nguyễn Phi Yến trung đội phó. Trung đội 2, thượng sỹ Nguyễn Khắc Đàm trung đội trưởng, hiện chưa có trung đội phó. Trung đội 3, thượng sỹ Nguyễn Văn Cán trung đội trưởng, chưa có trung đội phó. Tiểu đội 10 là tiểu đội hỏa lực cối 61 ly và súng chống tăng B41 do hạ sỹ Nguyễn Đăng Khoát làm tiểu đội trưởng, trực thuộc ban chỉ huy đại đội.
Đại đội trưởng nói tiếp: Như vậy hôm nay chúng ta sẽ biên chế đơn vị mới. Vì vậy trong đại đội có một số đồng chí ở lại khung của trung đoàn 8 gồm đại đội phó Sung, đồng chí Vinh và đồng chí Thu trung đội trưởng trung đội 1 và 2, đồng chí Mâu trung đội phó trung đội 3, tiểu đội chị nuôi và đồng chí Nhì quản lý. Đồng chí thượng sỹ Nguyễn Văn Đởn trung đội trưởng trung đội 3 được điều làm đại đội phó đại đội 14 hỏa lực cối 82 ly của trung đoàn. Mời đồng chí Đởn lên chia tay anh em. Đồng chí Đởn lên chào mọi người rồi nói ngắn gọn vài câu chúc mọi người vào Nam đánh giặc giải phóng miền Nam giành thắng lợi và gặp nhiều may mắn. Anh nói thêm, tôi được điều sang đại đội cối 82 ly của trung đoàn sẽ thường xuyên chi viện hỏa lực cho các đồng chí, chúc các đồng chí khỏe. Tiếp đến đại đội phó Sung cũng lên chào chia tay anh em.
         Sau những màn chào hỏi chia tay, đại đội trưởng Nghẹ nói tiếp: Nhiệm vụ của chúng ta rất khẩn trương và cấp bách, vì vậy chúng ta phải làm rất nhiều việc. Sáng nay chúng ta tổ chức biên chế quân số. Xong thì các đồng chí về vị trí của từng trung đội, tiểu đội, tổ chức họp tự giới thiệu để hiểu biết nhau. Đến mười giờ, chúng ta lau chùi vũ khí súng, đạn, xẻng, cuốc. Tư trang cá nhân trừ một bộ quần áo mặc trên người, còn lại toàn bộ trang bị phát cho các đồng chí ngày đầu nhập ngũ cho vào ba lô, để ngày mai chúng ta đổi tư trang mới, đổi cả ba lô. Chiều chúng ta mang súng, cả cuốc, xẻng nộp cho đại đội, trực tiếp bộ phận đồng chí Sung sẽ tiếp nhận. Chúng ta được cấp phát vũ khí súng đạn, cả lựu đạn, quân tư trang thật đầy đủ, mới 100%. Bây giờ tôi đọc danh sách từng đồng chí được biên chế về từng trung đội, tiểu đội như sau, yêu cầu các đồng chí tập trung lắng nghe. Đọc đến tên đồng chí nào thì mời đồng chí ấy nhanh chóng đứng lên về trung đội của mình. Trung đội 1: Trung đội trưởng là… Trung đội phó là:.. gồm 3 tiểu đội. Tiểu đội 1 đồng chí …tiểu đội phó đồng chí… tiểu đội 2 tiểu đội trưởng đồng chí… tiểu đội phó đồng chí … tiểu đội 3: tiểu đội trưởng đồng chí… tiểu đội phó là đồng chí… Trung đội 2 tiểu đội 4 đồng chí… Trung đội 3 đồng chí…
         Tôi đợi mãi mà chưa thấy đọc đến tên mình cảm thấy sốt ruột nhưng đại đội trưởng nói tiếp, sau đây là danh sách tiểu đội 10 - tiểu đội hỏa lực gồm… Như vậy là tôi được biên chế về tiểu đội hỏa lực. Tiếp đến tiểu đội nuôi quân gồm đồng chí… Đại đội trưởng nói tiếp: Như vậy là chúng ta đã biên chế xong đội hình quân số của từng tiểu đội, trung đội trong đại đội. Sau đây đồng chí trung úy Trần Văn Lẫm chính trị viên trưởng đại đội phát biểu. Quay sang bên, đại đội trưởng Nghẹ nói: Xin mời anh Lẫm. Chính trị viên Lẫm đứng dậy phát biểu: Thưa các đồng chí! Vừa rồi đại đội trưởng Nghẹ đã đọc biên chế mới của đại đội. Bây giờ chúng ta mang phiên hiệu mới là đại đội 3, tiểu đoàn 1, trung đoàn 36B, thuộc sư đoàn 308B là sư đoàn bộ binh cơ động chiến đấu trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đúng 8 giờ sáng ngày kia, tức ngày mùng 3 tháng 8 năm 1972, trung đoàn sẽ chính thức làm lễ thành lập và lễ xuất quân. Nhiệm vụ của chúng ta trong tình hình mới rất nặng nề, những ngày vừa rồi các đồng chí được đi phép. Riêng hai tiểu đoàn 816 - 815 thì không được đi phép, trong lúc chúng ta nghỉ phép thì hai tiểu đoàn phải gấp rút huấn luyện và đã tổ chức bắn đạn thật, phải làm rất nhiều việc cho việc thành lập trung đoàn mới. Các tiểu đoàn đã nhận xong quân tư trang vũ khí đạn dược. Còn theo chương trình ngày hôm nay chúng ta tổ chức biên chế đại đội, tiểu đoàn, chiều chúng ta tổ chức giao nộp vũ khí. Sáng ngày mai nhận quân tư trang mới và các nhu yếu phẩm, buổi chiều nhận vũ khí đạn dược về lau chùi bảo quản. Các đồng chí phải thật lưu ý, lần này chúng ta nhận vũ khí mới, cả đạn và lựu đạn thật. Gồm các loại súng, các loại đạn, như AK, súng cối, trung liên, B40-B41. Chúng ta chưa được học cách sử dụng súng và chưa được bắn đạn thật kể cả bắn súng AK. Nhưng trước tình hình nhiệm vụ cấp bách của chiến trường, sau ngày làm lễ xuất quân lên đường ngay, hành quân vào Nam chiến đấu. Chúng ta sẽ vừa hành quân vừa tìm hiểu, vừa huấn luyện để có thể sử dụng tốt các loại vũ khí, sẵn sàng chiến đấu được ngay. Nhưng sau khi nhận vũ khí, các đồng chí phải tuyệt đối tuân theo sự hướng dẫn của trung đội, tiểu đội tránh xẩy ra những điều đáng tiếc.
        Chính trị viên nói tiếp: Thay mặt đại đội, tôi kêu gọi các đồng chí nâng cao ý thức kỷ luật, ý chí, quyết tâm, phát huy truyền thống của quân đội, của quê hương, của địa phương và gia đình mình trong nhiệm vụ mới. Góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thực hiện theo Di chúc của Bác Hồ muôn vàn kính yêu: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Xin chúc các đồng chí khỏe, hoàn thành nhiệm vụ của Đảng, của dân tộc, của quân đội giao cho. Sau đây, theo kế hoạch các trung đội, tiểu đội về từng vị trí nơi ở của mình tổ chức họp, hoán đổi vị trí ở theo trung đội, tiểu đội mới và thực hiện các công việc như đại đội trưởng Nghẹ đã phổ biến. Chúc các đồng chí khỏe, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Tiếng vỗ tay cổ vũ của toàn đại đội rầm vang.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Ba, 2022, 07:08:00 am

         Tiếp đến đồng chí Lẫm giới thiệu: Xin giới thiệu với các đồng chí, đồng chí chuẩn úy Nguyễn Xuân Từ là chính trị viên phó đại đội chịu trách nhiệm về công tác đoàn sẽ là bí thư liên chi đoàn của đại đội ta, mời anh Từ phát biểu. Đồng chí Từ đứng lên phát biểu: Kính thưa các đồng chí, tôi là Nguyễn Xuân Từ chuẩn úy, chính trị viên phó đại đội ta. Tôi quê tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, do vùng miền thổ ngữ nên nói các đồng chí hơi khó nghe, khó hiểu nhưng rồi chúng ta sẽ quen, chúng ta sẽ được hành quân, hoặc sống tại quê tôi, quê hương của Bác Hồ kính yêu. Chính trị viên phó Từ có thân hình cao to, miệng rộng, môi dày trông rất khắc khổ. Cả đại đội im phăng phắc, cố gắng nghe anh nói, anh nói cả tiếng địa phương như: “Mai mốt các đồng chí vô trong nớ” thì chúng tôi chẳng hiểu gì cả, chỉ nghe, chỉ hiểu câu được câu chăng. Anh nói tiếp: tôi là chính trị viên phó đại đội nên đi sâu vào công tác đoàn thanh niên. Về tổ chức đoàn thanh niên của đại đội ta, mỗi trung đội là một chi đoàn. Tiểu đội 10 và anh nuôi quản lý liên lạc, y tá là một chi đoàn. Toàn đại đội là một liên chi đoàn do tôi trực tiếp làm bí thư. Phó bí thư liên chi đoàn các đồng chí sẽ bầu sau. Hôm nay các đồng chí về họp trung đội, ngoài các nhiệm vụ được giao, từng trung đội sẽ bầu ra ban chấp hành chi đoàn, bí thư, phó bí thư chi đoàn của mình, rồi chúng ta sẽ bầu ra ban chấp hành liên chi đoàn. Nhiệm vụ của từng đồng chí đoàn viên thanh niên trong lúc này rất nặng nề, các đồng chí phải phát huy tinh thần xung kích của người đoàn viên trong nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng, của dân tộc giao phó. Sau đây các đồng chí về thực hiện theo kế hoạch, chúc các đồng chí khỏe.
          Tiếp theo đại đội trưởng giới thiệu đồng chí thiếu úy Phạm Văn Sáu, đại đội phó đại đội phụ trách hậu cần lên phát biểu. Trái ngược với dáng hình chính trị viên phó Từ, đại đội phó rất đẹp trai, người vừa phải, tầm thước trung bình, da trắng, môi đỏ, miệng luôn cười rất tươi. Anh mặc áo bu-dông, đeo xắc-cốt màu đỏ thắt lưng to bản, đeo con dao găm và khẩu súng ngắn bao da thật đẹp. Anh chào xã giao rồi nói: Tôi quê Bắc Ninh, vùng dân ca quan họ, rồi anh hát luôn hai câu: Quê tôi là đất Bắc Ninh, xin chào các bạn lần đầu gặp nhau, người đi trước, người đi sau, miền Nam kêu gọi ta mau diệt thù í i í ì i !!! Cả đại đội vỗ tay ầm ầm. Tôi nghĩ, lẽ ra anh Sáu và anh Từ đổi vị trí cho nhau thì phải. Đại đội phó nói tiếp: Chúng ta đang còn rất nhiều việc phải làm, chúng ta sẽ tìm hiểu về nhau sau, bây giờ mời các đồng chí về từng trung đội, tiểu đội của mình theo kế hoạch. Xin chào và chúc các đồng chí khỏe. Anh giơ tay chào theo điều lệnh trông thật điệu đà. Sự ra mắt và mấy câu phát biểu của đại đội phó làm chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm đỡ căng thẳng. Rồi các trung đội giục anh em về trung đội của mình.
         Rất may tiểu đội hỏa lực của tôi vẫn ở nhà cô Phin và một nhà bên cạnh. Tiểu đội trưởng Khoát sau khi để mọi người giải lao vệ sinh mấy phút thì tổ chức cuộc họp. Tiểu đội trưởng nói: Đây là buổi họp đầu tiên của tiểu đội ta, để hiểu biết về nhau, từng đồng chí sẽ tự giới thiệu về mình. Tiểu đội trưởng giới thiệu: Tôi là Nguyễn Đăng Khoát, hạ sỹ mới học tại trường hạ sỹ quan về, được cử làm tiểu đội trưởng tiểu đội ta. Qua giới thiệu được biết tiểu đội trưởng là sinh viên trung cấp lâm nghiệp, đang học năm thứ hai của trường. Tháng 8 năm 1971 thì nhập ngũ, quê anh gốc ở xã Xuân Hồng, huyện Giao Thủy, Nam Định, anh giới thiệu thêm là làng Hành Thiện, đấy là quê hương của đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh. Tiểu đội trưởng có cái miệng hơi rộng, nốt ruồi bên khóe miệng, khi nói rất có duyên, mạch lạc rõ ràng. Tôi nghĩ ông bạn này cũng có nghị lực, có bản lĩnh đây (sau này, năm 1977 anh cùng cả đơn vị tham chiến với bọn Pôn-pốt bảo vệ biên giới Tây Nam mấy trận rồi anh được về học tại trường Đại đọc Mỹ thuật Sài Gòn. Hiện anh là họa sỹ nổi danh với tranh lụa, tranh sơn mài. Anh đã có mấy cuộc triển lãm tranh lớn tại Sài Gòn, Hà Nội, được bảo tàng tranh Việt Nam trưng mua mấy bức tranh quý). Rồi anh giới thiệu anh Phạm Văn Ước là tiểu đội phó, được phân công phụ trách khẩu đội 1 cối 61 ly, mời đồng chí Ước tự giới thiệu về mình. Sau câu chào mọi người, anh  Ước nói: Tôi là Phạm Văn Ước, năm nay 27 tuổi, đã có vợ và 1 con trai. Tôi là Đảng viên, là giáo viên dạy toán của trường cấp II huyện Duyên Hà, quê ở thôn Sắn, xã Phúc Khánh. Tiếp đến tiểu đội trưởng giới thiệu anh Nguyễn Văn Tấn là tiểu đội phó phụ trách súng hỏa lực chống tăng B41. Anh Tấn nói: Tôi là Nguyễn Văn Tấn năm nay bằng tuổi đồng chí Ước, tôi chưa có gia đình nhưng đã có người yêu, tôi quê xã Đông Các, huyện Đông Quan. Tôi là giáo viên dạy môn sinh vật tại trường Sư phạm 10+3 Thái Bình tại Đông Minh, Tiền Hải. Rất vui được sống với các đồng chí, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm sau. Tiếp đến tiểu đội trưởng giới thiệu anh Phạm Văn Thỉnh. Anh Thỉnh nói: Tôi thì các đồng chí biết rồi, tôi kém anh Tấn một tuổi, quê ở Gia Lâm ngoại thành Hà Nội. Tôi là giáo viên dạy môn Nga văn của trường cấp III Gia Lâm. Tôi cũng chưa có vợ nhưng đã có người yêu, rất vui được ở cùng với các đồng chí từ ngày đầu nhập ngũ. Tiếp đến tiểu đội trưởng giới thiệu anh Thê. Anh Thê nói giọng miền Trung lơ lớ nhưng dễ nghe hơn giọng nói của chính trị viên phó Từ, anh nói: Tôi là Lê Văn Thê, giáo viên dạy Văn tại trường học sinh miền Nam, quê tôi ở bên kia vĩ tuyến 17 thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị mà các đồng chí nghe hát bài Bình Trị Thiên khói lửa là quê tôi đó. Ở đây có đồng chí Trạch (anh chỉ tay sang một người ngồi cạnh) học sinh miền Nam, là học sinh của tôi. Rất vui được sống cùng đội ngũ với các đồng chí và cả với học trò của mình. Như vậy thầy trò tôi cùng trường, bây giờ lại được cùng đơn vị, cùng tiểu đội, và sẽ được cùng huấn luyện, cùng chiến đấu bên nhau, trước là tình thầy trò giờ là tình đồng chí thật trân quý. Tiếp đến tiểu đội trưởng giới thiệu thêm: Đồng chí Trạch là học sinh miền Nam, con em cán bộ cốt cán được ra miền Bắc học tập đợt này cũng được huy động nhập ngũ, mời đồng chí Trạch phát biểu. Đồng chí Trạch dáng người thấp, hơi gù, có đôi mắt thật tinh nhanh đứng dậy nói: Tôi thì chẳng biết nói cái chi mô, tôi chỉ biết đánh nhau và hay đánh nhau, các đồng chí phải tập võ thật nhiều, thật giỏi để chúng ta chiến đấu tiêu diệt chúng nó. Quê tôi ở Phò Trạch, cách Huế 30 ki-lô-mét. Hiện tại ba, má tôi và các em tôi đang ở trong nớ, tôi chỉ muốn huấn luyện nhanh nhanh để vô Nam chiến đấu hầy, ai có thích học võ thì tôi dạy võ cho.
         Tiếp đến tiểu đội trưởng nói, mọi người lần lượt phát biểu tự giới thiệu về mình. Vừa xong màn giới thiệu thì đại đội phó Sáu xuống dự họp. Sau màn giới thiệu giống như lúc sáng, đại đội phó nói sâu hơn về nhiệm vụ quan trọng trong chiến đấu của tiểu đội hỏa lực. Theo như đại đội phó nói, thì tiểu đội 10 là tiểu đội hỏa lực, vì thế nên được lựa chọn các đồng chí có trình độ biết tính toán nhanh li giác, lượng giác và những đồng chí là đoàn viên, là đảng viên ưu tú về tiểu đội, rồi đại đội phó nói anh Khoát phân công vị trí các xạ thủ… Đại đội phó chào mọi người (cách chào rất điệu) để sang dự họp trung đội khác. Tôi nghĩ biên chế, tính chất nhiệm vụ như vậy, nhưng chúng tôi từ tiểu đội trưởng cho đến mọi người có ai đã biết khẩu súng cối, súng chống tăng B41 là thế nào đâu. Nhưng với lời phát biểu và phong cách đĩnh đạc của đại đội phó, mọi người cũng dành cho anh một tình cảm nể phục, gần gũi yêu mến.
          Tiểu đội trưởng phát biểu tiếp: Thưa các đồng chí: Nghe phổ biến là tiểu đội ta được trang bị 2 khẩu cối 61ly và 2 khẩu súng chống tăng B41. Ngoài ra còn được trang bị 5 khẩu AK. Các đồng chí lưu ý, về súng và đạn của hai loại vũ khí này thì chính tôi cũng chưa được biết, nhưng ngày mai chúng ta sẽ được nhận. Theo gợi ý của đại đội, hôm nay tôi sơ bộ phân công như sau, nếu trong quá trình học tập và chiến đấu có gì chưa hợp lý, ta sẽ điều chỉnh lại cho phù hợp. Khẩu đội 1 gồm: Đồng chí Thỉnh là khẩu đội trưởng, đồng chí Trần Văn Phú là pháo thủ số 1, đồng chí Nguyễn Duy Đôi là pháo thủ số 2, đồng chí Nguyễn Quang Hà là pháo thủ số 3. Như vậy khẩu đội 1 gồm 4 đồng chí là một tổ 3 người. Khẩu đội số 2 gồm: Đồng chí Phạm Văn Ước khẩu đội trưởng, đồng chí Lê Văn Thê pháo thủ số 1, đồng chí Nguyễn Anh Tuấn pháo thủ số 2, đồng chí Phạm Văn Hoàn pháo thủ số 3. Khẩu đội 2 biên chế 4 đồng chí cũng là một tổ 3 người. Tiểu đội trưởng nói tiếp: Hỏa lực súng chống tăng B41 cũng có 2 khẩu, mỗi khẩu biên chế 2 người, một người là xạ thủ chính, người thứ hai là xạ thủ tiếp đạn. Gồm khẩu số 1 là đồng chí Nguyễn Văn Tấn tiểu đội phó và đồng chí Nguyễn Văn Chính. Khẩu số 2 là đồng chí Nguyễn Văn Trạch và đồng chí Phạm Văn Nhiên. Như vậy toàn tiểu đội biên chế 13 người, có tôi là tiểu đội trưởng và hai tiểu đội phó. Súng AK thì tôi một khẩu, anh Ước 1 khẩu, anh Thỉnh 1 khẩu, mỗi đồng chí xạ thủ tiếp đạn súng B41 một khẩu để yểm trợ cho xạ thủ chính trong chiến đấu.
           Sau cuộc họp mọi người đi lau chùi vũ khí, gói buộc quân tư trang để nộp đổi. Tôi nghĩ, tiểu đội có 13 người thì có tới 5 người giáo viên, 3 người trình độ đại học, 5 người  trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật, còn 5 người là học sinh. Như vậy là chất lượng, trình độ của bộ đội rất cao. Có lẽ không có đất nước nào có chất lượng người lính cao như vậy, năm nay nhà nước đã huy động gần như tổng lực vào quân đội rồi, tình hình chiến tranh chắc cam go ác liệt lắm đây.
           Đầu giờ chiều chúng tôi tổ chức giao nộp vũ khí, sáng hôm sau lên tiểu đoàn bộ nhận quân tư trang. Tiểu đoàn đã chuẩn bị tương đối tỉ mỷ làm 5 cụm, mỗi cụm cấp phát mấy thứ. Cụm đầu tiên là cấp ba lô con cóc, mũ cối, cả ngôi sao lắp vào mũ đỏ mới cứng rất đẹp. Tiếp đến là cụm cấp phát quần áo, mỗi người được cấp phát hai bộ quần áo vải Tô Châu Trung Quốc mới tinh, 2 bộ quần áo lót cổ vuông cũng màu xanh, tiếp đến là giầy vải cao cổ 1 đôi, dép cao su đúc 1 đôi, hai cuộn dây cao su quai dép dự bị, có cả 1 cái rút dép nữa và 2 đôi bít tất. Tiếp đến là thắt lưng quần, thắt lưng to bản rồi tất cả các thứ trang bị thật đầy đủ cho người chiến sỹ đi B: tăng, võng, màn, khăn mặt, kem đánh răng, xà phòng bình tông, ăng gô, lương khô 701, cán bộ sỹ quan thì lương khô 702. Máy lửa thì mỗi tổ 3 người 1 chiếc. Rồi đường kính trắng, thịt hộp, ruột tượng đựng gạo, túi đựng cơm nắm bằng vải trắng. Các loại thuốc quân y, thuốc lọc nước, kể cả kim chỉ khâu, tất cả mọi thứ xếp căng phồng ba lô. Có lệnh là thay ngay quần áo mới, nộp bộ quần áo cũ đang mặc. Bỗng chốc toàn đại đội rực lên màu xanh của quần áo Tô Châu, mũ cứng màu xanh mới, giầy dép mới, xanh tuya đỏ trông như điểm nhấn sáng rực thật khí thế. Đến gần trưa thì việc nhận quân trang mới xong, mọi người tập hợp ra về, đoàn quân với ba lô con cóc, mũ cối sao vàng trông thật mới, thật đẹp. Nhân dân địa phương, nhất là các em nhỏ ùa ra  đường xem bộ đội, nói cười thật vui.
         Chúng tôi về nơi ở của từng tiểu đội, trung đội, ai cũng vui, hồ hởi nói cười và lúng túng sắp xếp lại toàn bộ quân tư trang, vật dụng cho thật gọn. Xong việc chúng tôi đi lấy cơm. Được biết ngày hôm nay là ngày cuối cùng, các chị nuôi nấu cơm phục vụ bộ đội vì đã có tiểu đội nuôi quân mới, nhưng cũng như mọi người họ phải đi nhận cấp phát trang bị nên chưa làm nhiệm vụ chính được. Cơm trưa xong nghỉ ngơi một tý, đã có lệnh ra đường làng tập trung để đi nhận vũ khí trang bị. Đại đội phó Phạm Văn Sáu dẫn đội hình lên bộ phận quân khí tiểu đoàn nhận vũ khí. Nhìn kho vũ khí các loại trông thật đồ sộ lạ lẫm. Chúng tôi được hướng dẫn nhận súng của mình, súng cối 61 ly còn trong bọc riêng từng phần nòng súng, chân súng và đế súng, cùng những phụ kiện như kính ngắm quang học, hộp dụng cụ tháo lắp thông nòng súng, cọc tiêu mỗi khẩu 2 cái dài một mét rưỡi sơn hai màu trắng đỏ. Anh Khoát còn được trang bị một cái ống nhòm, một cái địa bàn. Dao găm Liên-Xô có bao da mỗi người một cái, dao tông để phát chặt cây 2 con. Xẻng bộ binh mỗi người 1 cái (trừ người được phát cuốc). Mỗi khẩu đội còn có 1 cái cuốc chim có đầu dẹt và một đầu nhọn để có thể đào phá đất đá cứng.
      Súng chống tăng B41 cũng còn trong bọc ni-lon đầy mỡ bảo quản, các trang bị khác như giá đeo đạn và kính ngắm quang học. Tiểu đội được trang bị 5 khẩu AK báng gấp cùng túi đeo băng đạn. Mỗi người được cấp một túi đeo lựu đạn và một mặt nạ phòng độc. Đạn thì được cấp một cơ số tức là đạn súng AK mỗi khẩu 150 viên, đạn súng cối mỗi khẩu 18 quả, được đựng riêng từng quả trong hộp nhựa màu trắng. Đạn B41 mỗi khẩu 6 quả cũng được đựng trong vỏ nhựa màu xanh. Lựu đạn thật cán gỗ mỗi người hai quả.
         Các trung đội bộ binh thì ngoài súng AK, mỗi tiểu đội còn được trang bị thêm một khẩu súng chống tăng B40 cùng 6 quả đạn. Một khẩu trung liên RPK, một khẩu AK đặc biệt có đầu nòng vát để lắp thêm đoạn nòng phụ bắn được đạn AT. Dao găm, lựu đạn, các trang bị khác cũng như chúng tôi. Xong màn nhận vũ khí chúng tôi hành quân về vị trí của mình. Cũng chưa ai biết tháo lắp bảo quản vũ khí thế nào, mọi người đều có ý sờ sợ lựu đạn và cái số đạn B41 hỏa lực kia, nên động tác ai cũng rụt rè, nhẹ nhàng khi phải động, phải di chuyển xếp đặt chúng. Tất cả xếp đầy vỉa hè nhà cô Phin. Vừa lúc đó thì đại đội phó Sáu cùng cậu liên lạc đại đội dáng nhỏ bé nhưng rất đẹp trai xuống, sau được biết đồng chí liên lạc tên là Lâm Hồng Tiêu quê xã Hoà Bình, huyện Duyên Hà là con của liệt sỹ. Đại đội phó Sáu tập hợp mọi người rồi giới thiệu sơ qua từng loại vũ khí, cách tháo lắp, cách bảo quản. Rồi nói chúng tôi mượn nồi đun nước sôi để lau rửa vũ khí lần đầu. Đạn thì phân công xếp gọn gàng cho vào ba lô đeo, hay xin tre làm nẹp buộc để gánh khi hành quân. Đại đội phó dặn kỹ: Đây là đạn hỏa lực B41 bắn cháy được cả xe tăng. Đạn đã được lắp sẵn cả ngòi nổ nên di chuyển, mang vác phải nhẹ nhàng, nghiêm cấm không để rơi, không để va đập mạnh, đề phòng đạn nổ bất thường gây sát thương cao rất nguy hiểm. Đạn súng cối cũng vậy, ngòi nổ cũng được lắp sẵn, nếu để rơi mạnh, đạn có thể nổ tức thì. Mỗi quả đạn nặng gần 2 ki-lô-gam, sức công phá, sức sát thương rất lớn có thể gấp mười, mười lăm lần quả lựu đạn. Hoặc các đồng chí va đập đạn với nhau, vỏ đạn bằng gang nên có thể bị nứt gọi là đạn rò rỉ, khi bắn đạn dễ bị nổ ngay trong nòng súng gây sát thương pháo thủ. Thực tế đã có nhiều trường hợp đáng tiếc như vậy. Lựu đạn cũng thế, chúng ta phải tránh va chạm, không được để gần lửa nóng rất dễ gây nổ. Đại đội phó ra về, tôi và mọi người đều cảm thấy rờn rợn về số đạn được cấp phát, nhưng rồi cũng nhẹ nhàng xếp gọn các loại đạn và tổ chức lau chùi vũ khi, rửa nước nóng cho sạch mỡ bảo quản như hướng dẫn.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Ba, 2022, 07:09:32 am

                Theo phân công, tôi là pháo thủ số 1, chịu trách nhiệm quản lý mang vác nòng và chân súng cùng một kính ngắm quang học của súng có túi vải bạt đeo vai. Chân súng sau khi lau chùi thì lúc nào cũng lắp sẵn vào nòng súng và có dây khuy buộc chặt chân và nòng súng. Trọng lượng của chân và nòng súng là 13 ki-lô-gam. Xạ thủ số 2 mang đế cối cùng 4 quả đạn và hai cọc tiêu. Xạ thủ số 3 mang 12 quả đạn mỗi quả đạn cối 61 ly đủ cả liều phóng hạt nổ nặng gần 2 ki-lô-gam. Khẩu đội trưởng ngoài mang súng, đạn AK còn phải mang thêm 2 quả đạn cối. Súng chống tăng B41 thì được phân công xạ thủ chính mang súng và phụ tùng súng cùng hai quả đạn. Xạ thủ số 2 ngoài súng đạn AK, mang thêm giá đeo 4 quả đạn B41, mỗi quả đạn B41 có trọng lượng là 3 ki-lô-gam.
Vấn đề tư trang vũ khí đạn dược đã xong, liên lạc đại đội xuống báo tiểu đội cử người lên quản lý nhận lương thực, thực phẩm, xoong nồi nấu cơm. Tôi được phân công trong nhóm đi nhận các thứ. Quản lý mới bây giờ không phải là cô Nhì nữa mà là một đồng chí người dong dỏng, trán cao được giới thiệu là hạ sỹ Nguyễn Văn Rĩnh quê xã An Bài, huyện Phụ Dực cũng ngang tuổi tôi nhưng nhập ngũ năm 1971, cũng mới học xong lớp quản lý của quân khu về, đang cúi gằm vào quyển sổ ghi chép và cấp phát các loại lương thực, thực phẩm dưới sự nhắc nhở đôn đốc của đại đội phó Sáu và có sự hỗ trợ của tiểu đội anh nuôi. Gạo thì đã được đóng sẵn trong các ruột tượng xếp cả đống như đống lòng dồi voi to tướng. Mỗi ngày khẩu phần ăn là 0,71 ki-lô-gam nhân với 7 ngày như vậy là mỗi ruột tượng gạo nặng khoảng 5 ki-lô-gam. Các loại rau xanh gồm rau muống, bầu và bí xanh, bí ngô đỏ, quản lý tiếp phẩm đã mua gom đủ dùng 7 ngày. Mì chính, muối, xoong nồi hai bộ để các trung đội, tiểu đội tự nấu ăn từ ngày mai và dọc đường hành quân.
Chúng tôi mang các thứ đã lĩnh về tiểu đội. Tiểu đội trưởng và anh Tấn nhanh chóng phân công từng người mang vác xoong nồi, rau xanh cho phù hợp. Ruột tượng gạo thì đương nhiên mỗi người một cái khẩu phần như nhau. Lúc này chúng tôi mới thấy vũ khí tư trang, lương thực thực phẩm mới nhiều, mới nặng. Cộng tỉ mỉ tất cả thì mồi người phải mang vác từ 32 đến 35 ki-lô-gam. Ai cũng kêu nặng quá vì với trọng lượng mang vác ấy so với trọng lượng cơ thể chúng tôi, nhiều đồng chí gầy gò nhỏ bé chỉ có 44-45 ki-lô-gam.
          Chính trị viên phó Từ xuống kiểm tra việc chuẩn bị và chỉ định anh Tấn làm bí thư chi đoàn. Anh Từ nói: Chi đoàn ta có đặc thù là gồm tiểu đội ta, tiểu đội nuôi quân, y tá, quản lý và liên lạc. Trong lúc này họp với nhau hơi khó, nên tôi thay mặt bí thư Liên chi đoàn tạm thời chỉ định đồng chí Tấn làm bí thư chi đoàn. Khi nào có điều kiện ta sẽ họp chính thức bầu bí thư và ban chấp hành chi đoàn sau. Anh em tôi có nêu vấn đề về việc mang vác nặng quá, nhiều quá. Chính trị viên Từ nói: Tất cả các thứ từ trang bị vũ khí đến lương thực thực phẩm, kể cả xoong nồi nữa đều là các thứ phục vụ thiết thực của người lính bộ binh. Các đồng chí xem liệu có thể bỏ đi được thứ gì? Thứ gì không dùng đến? Các đồng chí phải khắc phục rèn luyện rồi nó quen dần đi. Đấy là các đồng chí mới lĩnh có 7 ngày gạo. Nếu có chặng mà lĩnh mười ngày gạo đi đường thì còn nặng thêm mấy ki-lô-gam nữa. Như vậy là các đồng chí mang vác còn nhẹ hơn các đồng chí bên đại đội hỏa lực, bên đó có những chi tiết súng 12ly7 nặng trên 40 ki-lô-gam, hay nòng súng cối, đế súng cối, súng DKZ cũng vậy phải hai người khiêng. Mỗi đồng chí bên nớ mang vác nặng từ 38 đến 42 ki-lô-gam. Vì vậy chọn vào đại đội hỏa lực yêu cầu là phải khỏe, phải có thể hình cao to mới chịu đựng được. Chúng tôi chẳng ai nói được gì nữa, cũng chẳng biết thế nào mà nói, thôi thì đến đâu hay đến đó chứ biết sao bây giờ?


VI


          Ngày mùng 3 tháng 8 năm 1972, trong lúc đang tập trung chuẩn bị quân tư trang thì 8 giờ sáng tại một căn nhà của hợp tác xã nông nghiệp xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, đã diễn ra Lễ thành lập trung đoàn 36B. Buổi lễ không có cờ hoa lộng lẫy, song có ảnh Bác Hồ, Quốc kỳ và Quân kỳ, cùng dòng chữ: “Lễ thành lập trung đoàn 36B”. Đại diện Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, đại diện thành phố Hải Phòng và các huyện Thủy Nguyên, Quảng Yên… cùng một số khách mời đặc biệt cũng có mặt. Đại diện Bộ Tổng Tham mưu đọc quyết định thành lập Trung đoàn 36B nằm trong đội hình sư đoàn 308B. Chỉ huy trung đoàn gồm các đồng chí: Trung tá Mạch Quang Kiếm giữ cương vị trung đoàn trưởng, trung tá Vũ Trường Long giữ chức vụ chính ủy; thiếu tá Lê Nguyễn giữ chức vụ phó chính ủy. (Lúc thành lập chưa có trung đoàn phó, sau ít ngày thì được bổ sung thiếu tá Qúy giữ chức vụ này). Đồng chí đại úy Nguyễn Văn Đạt giữ cương vị tham mưu trưởng. Đại úy Nguyễn Côn là tham mưu phó. “Để kịp thời tổ chức lãnh đạo xây dựng trung đoàn thực hiện thẳng lợi nhiệm vụ chính trị. Đảng ủy lâm thời trung đoàn được cấp trên chỉ định do đồng chí Vũ Trường Long làm bí thư. Đảng bộ được tổ chức theo hệ thống tổ chức Đảng ba cấp. Các đại đội đều có chi bộ đảng” (Trích lịch sử trung đoàn bộ binh 273).
Ban chỉ huy các tiểu đoàn gồm các đồng chí sau: Tiểu đoàn 1 (đã giới thiệu ở phần trên). Tiểu đoàn 2 do thượng úy Nguyễn Rấng làm tiểu đoàn trưởng; thượng úy Nguyễn Xuân Phong chính trị viên trưởng. Tiểu đoàn 3 do trung úy Lê Hằng tiểu đoàn trưởng; thượng úy Nguyễn Sinh Viên chính trị viên trưởng. Các cơ quan trung đoàn gồm … Các đại đội trực thuộc gồm…
Sau buổi lễ thành lập là lễ xuất quân của Trung đoàn 36B.
“Thay mặt cán bộ chiến sỹ, trung tá trung đoàn trưởng Mạch Quang Kiếm nhận lá cờ lưu niệm của Bộ tư lệnh Quân khu Tả Ngạn do đồng chí phó chính ủy Lương Tuấn Khang trao tặng với dòng chữ “Đoàn kết - Hy sinh - Chiến thắng” và hứa sẽ cùng trung đoàn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên chặng đường mới, một cuộc chia tay nhẹ nhàng nhưng thấm đậm tình nghĩa người ở người đi”(Trích lịch sử trung đoàn bộ binh 273).
Lên đường!
          Trong khi trung đoàn đón nhận cờ Quyết thắng tại lễ thành lập trung đoàn và lễ xuất quân, thì dưới cơ sở các tiểu đoàn đã cử mỗi đại đội 10 người đi làm công tác tiền trạm. Đại đội 3 của tôi phụ trách nhóm tiền trạm là trung sỹ Nguyễn Phi Yến, trung đội phó trung đội 1. Đồng chí Yến là con trai của đồng chí Bí thư huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng yên, anh đi bộ đội khi mới 17 tuổi. Nghe nói anh là cán bộ trung đội trẻ nhất trong trung đoàn, anh có dáng người thấp đậm, nhanh nhẹn thông minh, đôi mắt thật sáng, rất tinh anh (sau này qua các chức vụ trước khi nghỉ hưu với quân hàm đại tá, chính ủy tỉnh đội Hưng Yên. Anh là bạn thân cùng ban chính trị sư đoàn 341 những năm 1980 với đại tướng Bộ trưởng bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch. Hiện anh nghỉ hưu đang sống tại Hà Nội).
          Cũng sáng ngày mùng 3 tháng 8 các đại đội trong trung đoàn họp phát động thi đua hành quân rèn luyện đường dài vào chiến trường. Đại đội 3 của tôi cũng tổ chức họp. Đồng chí Trần Lẫm chính trị viên lên phổ biến nhiệm vụ, phát động thi đua, anh nói: Thưa các đồng chí! Hiện nay tình hình chiến sự ở cả hai miền Nam Bắc đang diễn ra vô cùng ác liệt. Miền Nam ta đang thắng lớn ở khắp mọi nơi, đặc biệt là chiến trường Quảng Trị. Các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của ta cùng với các lực lượng quân sự địa phương đang anh dũng chiến đấu để giữ vững Thành Cổ và thị xã Đông Hà, tiêu diệt được rất nhiều sinh lực địch. Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu trong cơn giãy chết, đã dùng đủ các loại vũ khí tối tân, hàng ngày có hàng trăm lượt máy bay, kể cả máy bay chiến lược B52 dội các loại bom đạn. Ngoài khơi, pháo binh hạm đội 7 của Mỹ, kết hợp với các trận địa pháo mặt đất ngày đêm bắn pháo giàn, pháo bầy vào khu vực này hòng đẩy lui chúng ta, cố tái chiếm Thành Cổ, để gây tiếng vang trong Hội đàm Pa-ri. Ở miền Bắc, Mỹ đưa hàng ngàn lượt máy bay đánh phá khắp nơi, hòng tiêu diệt các mục tiêu quân sự, kinh tế của ta, làm chúng ta suy yếu, giảm chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Chúng ta đã bắn rơi hơn ba ngàn máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái mà chúng vẫn như con thiêu thân lao đầu vào lửa. Về tình hình quốc tế đang rất có lợi cho ta. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, ủng hộ Việt Nam lên rất cao. Ngay tại nước Mỹ, các cuộc biểu tình chống quân dịch, chống chiến tranh tại Việt Nam cũng đang rất mạnh mẽ. Thậm chí có thanh niên Mỹ còn tự thiêu ngay trước cửa Nhà Trắng để phản đối chiến tranh tại Việt Nam, Tổng thống Mỹ Ních-xơn đang có nhiều bất lợi trong việc tranh cử vào Nhà trắng. Trong bối cảnh đó chúng càng điên cuồng giẫy giụa dốc túi vào cuộc chiến. Chúng điên cuồng đánh phá, phong tỏa các cửa sông, cửa biển của ta bằng thủy lôi, ngư lôi, bom từ trường, bom nổ chậm các loại, hòng ngăn cản tàu của các nước đến với ta. Hàng ngày, ta có rất nhiều đội quân cảm tử, cùng các nhà khoa học phát minh những máy phóng từ trường để phá vỡ bom mìn phong tỏa của chúng.
        Thưa các đồng chí! Để đáp ứng nhu cầu quân sự tại chiến trường. Miền Nam kêu gọi, hậu phương trả lời. Hôm nay, trung đoàn làm lễ thành lập, lễ xuất quân, chi viện cho miền Nam. Đây là nhiệm vụ rất to lớn, trọng đại của chúng ta. Trung đoàn ta được thành lập ngay bên dòng sông Bạch Đằng, nơi cha ông ta đã ba lần đánh bại mọi thế lực xâm lược của phương Bắc. Đây là chiến công chói lọi, là truyền thống hào hùng, oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Phát huy truyền thống đó, tôi thay mặt ban chỉ huy đại đội phát động đợt thi đua: Hành quân rèn luyện đường dài tới đích 100% quân số, an toàn tuyệt đối người và trang bị vũ khí, lập thành tích cho truyền thống của trung đoàn, của quân đội, của quê hương và kỷ niệm ngày Quốc khánh của đất nước. Xin chúc các đồng chí khỏe, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vinh quang nhưng rất nặng nề này.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Ba, 2022, 07:11:05 am

                    Mọi người vỗ tay ầm vang. Tiếp đến đồng chí Từ lên thông báo về công tác đoàn, đã bầu hay chỉ định bí thư và ban chấp hành chi đoàn của các trung đội, rồi thay mặt đoàn thanh niên hứa với chính trị viên là đoàn viên thanh niên sẽ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. 
          Tiếp đến đại đội trưởng Nghẹ lên phổ biến kế hoạch cụ thể, anh nói: Báo cáo các đồng chí, hôm nay chúng ta ngồi đây nghe phổ biến nhiệm vụ cụ thể. Trung đoàn đã được lệnh hành quân vào Nam chiến đấu. Tình hình chiến trường Nam - Bắc đang có nhiều chuyển biến. Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Nguyễn Văn Thiệu đang rất cay cú, vì chúng đang thua trên khắp mặt trận, kể cả mặt trận ngoại giao như các đồng chí đã được nghe chính trị viên Trần Lẫm phổ biến, như vậy là chúng ta phải hành quân nhiều ngày. Sau đây tôi phổ biến kế hoạch cụ thể: Đội hình trung đoàn 36B của ta bắt đầu lên đường từ ngày N+1, giờ G là 12 giờ +3. Từ bây giờ chúng ta trong tình trạng hành quân di chuyển, lực lượng tiền trạm đã được cử đi từ ngày hôm nay. Tiểu đoàn ta là tiểu đoàn tiên phong của trung đoàn, tiếp đến tiểu đoàn 2 và 3, trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc xuất quân những ngày tiếp theo để đảm bảo sự giãn cách. Ngày mai, buổi sáng các đồng chí nấu cơm ăn chính, buổi trưa cũng ăn cơm chính và mỗi đồng chí có 1 xuất cơm nắm ăn phụ, vì chúng ta hành quân đêm không có điều kiện thổi nấu. Quãng đường hành quân trung bình từ 15 đến 20 ki-lô-mét một ngày. Có thể hành quân một mạch, hoặc hành quân bằng hai buổi, buổi sớm và buổi tối đề phòng máy bay Mỹ đánh bom. Dự kiến trên đường hành quân phải vượt qua nhiều cầu phà và thành phố, thị trấn đều đang là trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Yêu cầu hôm nay các đồng chí phải chuẩn bị cành lá ngụy trang, còn thời gian tập cách sử dụng vải ni-lon đi mưa, cách mắc buộc võng, cách sử dụng tấm tăng che võng (tăng là tấm ni-lon, dài khoảng 2 mét rưỡi, rộng khoảng 1,4 mét, dầy hơn ni-lon đi mưa, có quai khuy ở các góc và bốn khuy ở hai cạnh, có thể căng phủ lên võng, tránh nước mưa vào võng), vì chúng ta có thể ngủ trong nhà dân và có thể phải ngủ trong rừng, mà ngay nhà dân cũng không đủ giường cho ta nằm. Đường xa mang vác nặng, chúng ta lại chưa quen, chưa rèn luyện được nhiều sẽ rất mệt nhọc, sẽ có nhiều khó khăn và nhiều tình huống xẩy ra dọc đường, các đồng chí phải nhất nhất theo lệnh của chỉ huy, phải giúp đỡ nhau trong hành quân, trong mang vác. Chúng ta phải cố gắng, thật sự cố gắng. Tôi tin rằng chúng ta sẽ tới đích thắng lợi an toàn tuyệt đối người và trang bị vũ khí như chính trị viên đã phát động. Sau đây các đồng chí về từng trung đội, tiểu đội họp hạ quyết tâm thi đua và xem xét lại vũ khí trang thiết bị của mình, làm tốt công tác dân vận để “đi dân nhớ, ở dân thương”. Chúng ta sẵn sàng đợi lệnh hành quân, chúc các đồng chí khỏe! Các đồng chí có quyết tâm không? Lời phát biểu phổ biến của đại đội trưởng với chất giọng vang vang hào sảng làm mọi người thật xúc động, đều thấy được trọng trách thiêng liêng của mình với dân tộc, với vận mệnh đất nước. Tất cả đại đội cùng hô vang quyết tâm rồi vỗ tay ầm vang.
       Chúng tôi về nơi ở của mình làm mọi công việc như kế hoạch. Gia đình chủ nhà rất lưu luyến, mẹ con cô Phin rất buồn khi chúng tôi chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Bà mẹ thì không nói gì, chỉ thở dài theo dõi chúng tôi chuẩn bị, thỉnh thoảng lại thấy bà lau nước mắt. Cô Phin ở nhà không đi làm đồng nữa mà hình như tất cả dân tình địa phương đều như vậy. Nhiều nhà tổ chức liên hoan chia tay bộ đội. Cô Phin luôn bận rộn với việc hái chè xanh để đun nước, hãm nước cho chúng tôi, cô giúp chúng tôi nấu cơm, hái rau ở vườn nhà thêm cho bữa ăn, cô nói: bầu bí các anh dành để đi đường. Cô đào sắn, bới khoai luộc cho chúng tôi. Cô chỉ lẳng lặng làm mà không chuyện trò gì nhiều. Sáng ngày mùng 4, chúng tôi được lệnh nấu cơm như kế hoạch. Sau khi ăn cơm trưa thì có lệnh nghỉ ngơi, đúng 15 giờ mang toàn bộ quân tư trang vũ khí ra tập trung. Biết là chuẩn bị lên đường nên chẳng có ai nghỉ trưa được. Mọi người đều tập trung viết thư về nhà, có người viết hẳn mấy cái để gửi cho gia đình, bạn bè và người yêu. Tôi cũng viết thư về nhà báo là hôm nay sẽ hành quân vào Nam.
Đúng 15 giờ kém 10, liên lạc đại đội xuống báo, tiểu đội trưởng Khoát cho bộ đội tập trung ra sân kho hợp tác xã nơi ban chỉ huy đại đội ở. Chúng tôi chính thức lên đường. Bà mẹ cô Phin thì khóc nấc không thành tiếng. Cô Phin cũng khóc, cô đi theo anh em tôi ra ngoài ngõ, bắt tay chia xa từng người, tới lượt tôi, cô đưa cho tôi một gói nhỏ bọc bằng cái khăn mùi xoa trắng, cô nói quà của em tặng anh. Tôi cầm gói quà bắt tay cô, hẹn ngày gặp lại. Tôi cầm gói quà nhỏ cảm ơn cô rồi bước nhanh theo đội hình.
         Thế rồi cuộc đời lính đã đưa bước chân tôi đi mọi nơi theo nhiệm vụ chiến đấu khắp mọi vùng miền đất nước. Cuộc hành quân đường dài vất vả và những cuộc chiến thật cam go khốc liệt, những chiến công, những hy sinh gian khổ, người còn người mất, người bị thương, người hy sinh và có cả những người đã đầu hàng trước những vất vả cam go ấy. Ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975 chúng tôi đã có mặt đầu tiên tại Sài Gòn trong đoàn quân chiến thắng. Đơn vị tôi được làm công tác quân quản xây dựng chính quyền. Rồi chiến tranh biên giới Tây-Nam xảy ra, chúng tôi lại ra trận tiêu diệt bọn xâm lấn Pôn-pốt, bảo vệ đất trời thiêng liêng của Tổ quốc. Tiếp đến là làm nhiệm vụ Quốc tế tiêu diệt tận gốc tập đoàn phản động Pôn-pốt - Iêng-xa-ri, cứu giúp dân tộc Khmer và nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, hồi sinh.
             Sau cuộc chiến, cuộc sống chật vật mưu sinh, lời hứa trở lại thăm Phin mãi tới 41 năm sau mới thực hiện được. Làng xóm đã thật sự thay đổi và phát triển. Chùa Mỹ Cụ được xây dựng rất to. Đường vào làng xưa đã đổ bê tông, hai bên đường toàn nhà cao tầng thành đô thị sầm uất. Nhà cô Phin cũng được xây dựng to đẹp, căn nhà cũ không còn, duy nhất còn cái bể xây chứa nước mưa mà chúng tôi vẫn dùng. Cây cau, cây mít, cây chè, cây hồng vẫn tốt tươi như xưa. Tôi ngồi ăn cơm cùng chồng cô và các con cô. Cô Phin năm xưa, nay đã là bà của những đứa cháu, cùng ôn lại chuyện cũ thật vui và cảm động.
        Chúng tôi ra nơi tập trung, đợi đủ quân số đại đội trưởng hô: Toàn đại đội chú ý: Trung đội hàng dọc, đại đội hàng ngang, mỗi trung đội thành ba hàng dọc thứ tự từ trung đội 1 đến tiểu đội 10, tiểu đội hậu cần tậ..p… hợp! Đang đứng chuyện trò lộn xộn, sau khẩu lệnh mọi người nhanh chóng về vị trí hàng lối của mình. Ai cũng cồng kềnh, ba lô súng đạn, các trang bị và vòng là ngụy trang lòe xòe. Sau khi mọi người đã vào vị trí, đại đội phó hô: Nghiêm! Anh xoay người chạy đến trước đại đội trưởng Nghẹ và chính trị viên Trần Lẫm: Báo cáo đồng chí trung úy - chính trị viên đại đội và đồng chí thiếu úy đại đội trưởng đại đội, hàng ngũ đã chỉnh tề, mời đại đội trưởng lên đọc lệnh. Đồng chí Nghẹ nói: Được, mời đồng chí về vị trí! Rồi anh bước lên trước hàng quân anh hô: Nghiêm! Các trung đội báo cáo quân số thứ tự từ trung đội 1-2-3 đến tiểu đội 10 - tiểu đội hậu cần. Thượng sỹ Lã Quang Trung, trung đội trưởng báo cáo: Báo cáo đại đội trưởng quân số trang bị của trung đội 1 đủ. Tiếp đến trung đội 2…Đủ, Trung đội 3… Đủ…Tiểu đội Hỏa lực… Đủ. Tiểu đội nuôi quân … Đủ. Đại đội trưởng hô các đồng chí hạ ba lô. Mọi người lục tục hạ súng, trang bị và ba lô tại chỗ của mình. Xong đại đội trưởng hô tiếp: Nghiêm! Mệnh lệnh hành quân: Đại đội hành quân chiến đấu trong đội hình tiểu đoàn. Hướng hành quân: Tây Bắc. Tốc độ hành quân: 3 ki-lô-mét một giờ, cứ 50 phút thì giải lao 10 phút. Đội hình hành quân: Hàng một, mỗi đồng chí cách nhau một mét rưỡi đến hai mét, thứ tự hành quân trung đội 1, tiếp đến tiểu đội 10, tiểu đội anh nuôi, tiếp đến trung đội 2, trung đội 3 khóa đuôi. Ba đồng chí y tá thì một đồng chí đi theo ban chỉ huy đại đội, một đồng chí đi cùng trung đội hai, một đồng chí đi cùng trung đội 3. Chúng ta hành quân trong đội hình tiểu đoàn gồm đại đội 1 đi tiên phong, tiếp đến đại đội 4 hỏa lực, tiếp theo là tiểu đoàn bộ, rồi đến đại đội hai. Chúng ta là đại đội đi sau khóa đuôi, những ngày sau tùy theo tình hình sẽ thay đổi lại thứ tự hành quân, cả đại đội ta cũng vậy. Các đồng chí rõ chưa? Tất cả đồng thanh hô: Rõ ! Lên ba lô! Đoàn quân bỗng xao động, mọi người lên ba lô, khoác các loại trang bị lên người, cứ cái nọ đè chồng cái kia lên người lính chiến, cái bao tượng gạo vắt lên vai, đằng trước thì thòng xuống ngực, phía sau thì vắt lên ba lô, vòng ngụy trang, có người còn úp lên cái xoong nữa, cuối cùng là vũ khí của từng người. Giờ đây nhìn mọi người thật cồng kềnh, có những câu hỏi nhau, nhắc nhau nho nhỏ về vấn đền gì đó. Đợi mọi người lên ba lô và trang bị vũ khí xong, đại đội trưởng hô tiếp: Hành quân! Rồi anh xoay người bước tới, trung đội trưởng trung đội 1 xuất phát liền sau đại đội trưởng rồi đến các trung đội, tiểu đội đã phân công. Đoàn quân rùng rùng chuyển động, cành lá ngụy trang đung đưa, đung đưa theo nhịp bước như bàn tay vẫy của người ra trận chia xa những người dân, những ông bố, những bà mẹ, những nam nữ thanh niên cùng các em nhỏ đang đứng xem bộ đội xuất quân.
          Toàn đại đội đã ra dọc đường làng, đại đội phó Sáu tách ra đứng cạnh hàng quân nói to: Các đồng chí ơi! Chúng ta đi chiến đấu là vì Tổ quốc thân yêu, vì nhân dân, gian khổ hy sinh không sờn lòng. Chúng ta hát, hát chia tay nhân dân nhé: Vì nhân dân quên mình hai…ba. “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, anh em ơi vì nhân dân quên mình”… Tiếng hát đầu tiên còn nhỏ rời rạc, đại đội phó nói: To lên, hát to lên các đồng chí ơi! Mọi người như được thúc giục tinh thần và câu hát chia xa với nhân dân để ra trận bỗng chốc như được nhập hồn mọi người, ai nấy cùng hát thật to, thật vang, thật hùng tráng. “Đoàn vệ quốc chúng ta từ nhân dân mà ra được dân tin, được dân mến vô cùng”… Tôi nhìn sang bên, có nhiều mẹ, nhiều em gái òa khóc. Những bàn tay thiếu nữ nềm mại ngập ngừng giơ lên vẫy. Các em nhỏ thì thật vui, cứ tung tăng chạy theo bộ đội, thoáng thấy cô Phin cũng đứng trong đám phụ nữ đó, tôi một tay giữ súng, một tay giơ vẫy về phía họ, tiếng hát vẫn vang vang, vang vang, bước chân của chúng tôi xa dần, xa dần xóm làng, xa dần những người dân thân yêu đã đùm bọc chúng tôi trong những ngày qua.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Ba, 2022, 07:12:46 am

                   Đoàn quân ra tới bãi đất trống gần chùa Mỹ Cụ thì dừng lại, có lệnh dừng nghỉ tại chỗ đợi các đơn vị đi qua rồi đại đội 3 nối tiếp khóa đuôi đội hình. Mọi người hạ ba lô vũ khí đứng nhìn đơn vị bạn hành quân. Những người lính bộ binh thì trang bị giống như chúng tôi. Riêng đại đội 4 hỏa lực thì súng đạn khác hẳn, những khẩu súng đại liên to đùng, súng cối 82 ly, súng DKZ 82 ly, súng 12ly7 đã được tháo rời, có bộ phận phải hai người khiêng. Đúng là đơn vị hỏa lực, ai cũng cao to, sức khỏe tốt, nhìn họ khiêng vũ khí, khí tài mới khiếp, họ mang vác nặng hơn chúng tôi nhiều. Tôi thấy anh Nguyễn Chính Hương, cùng anh Trần Qúy Sùng khiêng nòng súng DKZ, anh Nguyễn Văn Tuyết khiêng cái nòng súng 12,7ly cả hai anh đều là công nhân của nhà máy cơ khi 2-9 mà tôi quen, còn anh Sùng là giáo viên, các anh nhìn tôi cười nhưng lại lè lưỡi lắc lắc đầu ý nói là nặng lắm.
         Đã khoảng bốn giờ chiều, bầu trời ảm đạm, mưa lắc rắc rơi, mọi người lục tục lấy áo mưa để khoác. Có người để áo mưa ngay túi cóc dễ lấy, nhưng nhiều người chưa có kinh nghiệm phải mở ba lô moi tìm mãi mới lấy được. Tôi chợt nghĩ đến bài hát “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” có câu: “Anh lên xe trời đổ cơn mưa, cái gạt nước xua đi nỗi nhớ.” Còn chúng tôi lên đường trời cũng đổ mưa nhưng đâu có xe mà lên, cái xe của chúng tôi lúc này là xe “căng hải” (tiếng lóng chỉ đôi chân của người lính), hôm nay là ngày đầu tiên, không biết là hành quân tới đâu, quãng đường bao nhiêu ki-lô-mét, đại đội chưa nói cụ thể. Tới lượt đại đội tôi lên đường, không còn cành lá ngụy trang lòe xòe nữa, có người đã vứt đi, có người trùm cả ni-lon lên trông gọn hơn, nhưng ai cũng như con lạc đà đầu đưa về phía trước gù lưng tải hàng. Toàn đại đội rầm rập hành quân khí thế thật hào hùng. Đây chính thức là những bước chân hành quân đầu tiên ra trận.
        Chúng tôi đi theo tỉnh lộ 351 về hướng Tây Bắc ngược với hướng ra phà Kiềng. Hết đường lớn, đi vào những con đường liên xã, nhân dân hai bên đường ra đứng xem bộ đội hành quân rất đông, vẫy tay chào đón với những câu chúc ồn ã. Qua vùng dân cư, bước chân đã thấy chậm dần, bắt đầu cảm nhận thấy cái nặng, khi hành quân ai cũng phải cúi gò người, lồng ngực bị chèn ép thiếu ô-xy nên cứ thở gấp, cũng là lúc được lệnh giải lao xốc lại đội hình. Mọi người hạ ba lô, cởi dây lưng to giải tỏa cái nặng, vươn người hít thật sâu không khí vào phổi. Vươn thở xong rồi mở bi đông ngửa cổ tu nước, nước trôi vào đâu biết tới đó. Nước, không khí lúc này làm cho chúng tôi tỉnh táo hồi phục sức lực ngay. Tiếng nói cười, tiếng chuyện trò hỏi thăm nhau rộ lên. Đã thấy lóe sáng của diêm lửa hút thuốc lào, châm thuốc lá dọc đội hình. Mưa đã tạnh, mọi người gấp áo mưa, người ngồi, người đứng chuyện trò râm ran. Ai cũng thắc mắc, đoán mò về quãng đường đi dài ngắn và tối nay nghỉ tại đâu? Đại đội trưởng Nghẹ đi ngược hàng quân, vừa đi vừa hỏi quân số, nhắc nhở bộ đội để gọn gàng tư trang súng đạn. Có tiếng hỏi: Hôm nay hành quân bao nhiêu ki-lô-mét thủ trưởng ơi? Đại đội trưởng nói: Hôm nay ngày đầu chúng ta có 4 lần giải lao. Dự kiến là khoảng 12-13 ki-lô-mét, ngày mai sẽ hành quân dài hơn. Ai cũng lè lười lắc đầu khi nghĩ tới chặng đường dài hơn của ngày mai. Chính trị viên phó Từ cùng đồng chí liên lạc cũng đi tới, anh nói: Xa rứa có chi mô, các đồng chí hành quân rồi nó quen đi, phải bám đội hình hành quân và phải giúp nhau. Mọi người đi được thì miềng cũng đi được. Ít ngày nữa là còn phải trèo đèo, phải lội suối nữa đấy.
          Tôi nghĩ chẳng biết thế nào mà nói trước, thôi thì mọi người đi được thì mình cũng đi được. Hết giờ giải lao, lệnh lên đường. Lần này mọi người lên bao lô đã nhanh gọn hơn, không bị lúng túng như trước. Đội hình lại rầm rập hành quân. Đi, cứ đi, cứ tiếp tục đi, mỗi bước đi thấy sức nặng của ba lô vũ khí cùng các trang bị như nặng hơn lúc đầu. Lần giải lao thứ hai được lệnh nghỉ ba mươi phút ăn cơm nắm. Chặng đường thứ ba đội hình tương đối gọn nhưng đến chặng cuối thì cái nặng, cái mệt đã thật thấm, bước chân nặng nề, bước đi không mạnh nữa mà ai cũng cứ phải dướn lên từng bước, từng bước. Chân mỏi, vai đau, mồ hôi đầm đìa mặc dù trời rất mát. Ai cũng thở dồn, thở gấp chỉ mong sao chóng tới đích. Đã có những tiếng kêu, tiếng than rồi có cả những tiếng nói to: “Mệt lắm rồi nghỉ thôi, nghỉ thôi, nặng lắm rồi đi làm sao được nữa”. Song, kêu vẫn kêu nhưng đoàn quân vẫn đi, mặc dù bước đi ngày càng chậm hơn. Tôi thấy mệt quá, cuộc đời lính khổ quá. Cái nòng súng tôi vác đè lên vai, đè lên quai đeo ba lô, cộng với sức nặng của các thứ cùng bao gạo vắt qua làm quai ba lô xiết vào vai đau rát, hình như nó xiết chặt quá làm máu không lưu thông được, nên thấy tê cả vai. Tôi hết đổi súng sang vai phải rồi lại đổi sang vai trái, có lúc lại lấy hai tay bế ôm đằng trước như bế đứa trẻ. Cái bao gạo cũng vậy, lúc vắt sang phải, lúc vắt sang trái, có lúc nhờ người vắt ngang cái khúc dồi voi ấy sang hai bên ba lô, mà nó cũng chẳng nhẹ đi được tý nào, lại còn như nặng thêm lên. Đã có một vài tiếng văng tục, rồi có những câu nhắc nhở động viên nhau cố lên như: Sao lại nói bậy thế em? Đưa khẩu súng đây mình mang đỡ cho. Chính trị viên Trần Lẫm đi ngược đoàn quân, anh vừa đi vừa nói: Cố lên, gắng lên, cố gắng lên các đồng chí, gần tới nơi nghỉ rồi, các đồng chí giúp nhau để cùng bám đội hình.
        Khoảng 20 giờ 30 thì thấy các đồng chỉ tiền trạm ra đón. Đại đội trưởng lệnh cho đội hình dừng lại giải lao. Anh trao đổi gì với trung đội phó Yến rồi cho liên lạc báo các trung đội trưởng lên hội ý. Chúng tôi được nghỉ, hạ ba lô là vươn vai thở, có nhiều người nằm kềnh luôn ra đường đầu gối lên ba lô mà thở. Anh Khoát lên hội ý về nói: Chúng ta đã tới nơi tập kết đêm nay. Anh nói tiếp, đây là xã An Thiện, An Hải, Hải Phòng. Một chút nữa tiền trạm sẽ đưa chúng ta vào nhà nghỉ, chúng ta nghỉ ở 3 nhà, khẩu đội 1 ở một nhà, khẩu đội hai ở một nhà, các đồng chí súng B41 ở một nhà. Tôi sẽ ở cùng khẩu đội 2. Các đồng chí vào nhà nghỉ ngơi, vệ sinh rồi đi ngủ ngay, ngày mai nhóm của anh Tấn dậy nấu cơm đảm bảo 6 giờ 30 có cơm bữa chính cho tiểu đội. Buổi trưa 11 giờ 30 chúng ta ăn cơm chính và mỗi đồng chí có một nắm cơm ăn phụ. Ăn cơm trưa xong chúng ta nghỉ ngơi đúng 15 giờ các đồng chí tập trung về chỗ tôi để họp, 16 giờ tiếp tục hành quân. Một lúc sau thì có tiếng gọi hỏi: Tiểu đội 10 đâu? Tiểu đội 10 đâu? Anh em chưa kịp phản ứng thì tiếng đồng chí tiền trạm đã giục: “Đi theo tôi nhé!”. Rồi anh quay người đi ngay. Anh Khoát gọi giật lại: Này, này đồng chí tiền trạm, đợi anh em lên ba lô đã chứ! Mọi người lồm cồm đứng lên, các thứ trang bị lại được chất chồng lên vai, nhưng bây giờ người đã khỏe lại, không ai còn biết mệt nữa. Anh Khoát, anh Tấn cùng nhắc các đồng chí kiểm tra lại chỗ nghỉ xem còn quên, còn sót thứ gì không nhé, chứ vội vào chỗ nghỉ lại quên cả súng, cả gạo đấy!
Chúng tôi theo người chiến sỹ tiền trạm vào từng nhà như đã phân công. Gia đình khẩu đội tôi nghỉ, ông bà chủ nhà chắc ngang tuổi bố mẹ tôi. Ông bố cùng hai em nhỏ cầm đèn ra đón từ đầu ngõ, dẫn chúng tôi vào nhà, hướng dẫn nơi nghỉ, nơi giếng nước. Ông nói: Các con hạ ba lô nghỉ ngơi một tý rồi ra giếng tắm rửa. Được biết các con hành quân nghỉ lại, dân làng vui lắm. Bà nhà và các em đã nấu nước chè xanh hãm trong giành tích ấy, bà luộc cả khoai lang cho các con nữa. Các con tắm rửa xong rồi vào ăn khoai. Các con cứ tự nhiên nhé. Bố cũng có hai em đi bộ đội hiện đang ở mãi trong Nam cơ, lâu rồi không biết tin tức thế nào nữa. Ở nhà hiện giờ chỉ còn có ba em còn nhỏ đang đi học. Thằng em thì cứ ao ước là lớn nhanh để được đi bộ đội vào Nam chiến đấu cùng với các anh. Thấy bộ đội hành quân qua có súng là chúng nó thích lắm. Nhưng các con cứ yên tâm để súng đạn gọn vào góc kia, nó chỉ xem chứ không dám sờ, dám nghịch đâu. Anh Thỉnh nói: Vâng bố nhắc các em hộ chúng con, toàn súng đạn thật cả, nguy hiểm lắm đấy ạ. Anh em tôi cảm ơn ông và đi vệ sinh. Xong mọi việc lên nhà đã thấy trên bàn đĩa khoai lang luộc đang bốc hơi  và bát đường cát đen đã chảy nước. Ông giục chúng tôi ăn khoai và rót cho mỗi người một bát nước chè xanh cũng đang bốc hơi nóng. Rất mệt, muốn đi nằm quá, nhưng vì sự nhiệt tình của ông chủ, chúng tôi ăn mỗi người một củ khoai. Ôi! Khoai bở ngon tuyệt, chúng tôi ý tứ không chấm đường vì biết đường là thứ quý lắm, chắc ông bà đã để dành từ lâu rồi. Thoáng nghĩ dân mình khổ mà tốt quá. Không thấy bà chủ đâu, tôi nói với ông mời bà ra ăn khoai cùng. Ông nói: Bà nhà tôi nhớ các con nên vào nhà nằm nghỉ rồi, các con cứ tự nhiên, các em thì chúng ăn khoai suốt ngày nên không ăn đâu. Chuyện trò với ông một lúc, chúng tôi xin phép đi nghỉ. Tôi và anh Thỉnh được nằm giường, còn anh Đôi và Hà thì nằm võng. Ngả người xuống giường mới thấy nó thoải mái làm sao. Cái lưng hành quân đeo ba lô rạp người, giờ sống lưng được duỗi thẳng thật khoan khoái, mặc dù cái giát giường không phẳng phiu mà sao êm ái thế.
 Tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Tiếng gà gáy sáng làm tôi thức giấc nhưng mở mắt thấy trời còn tối, tôi lại ngủ tiếp. Đến 6 giờ anh Khoát sang đánh thức mọi người dậy làm vệ sinh chuẩn bị ăn sáng! Tôi dậy đã thấy anh Thỉnh đang trò chuyện và uống nước chè xanh với ông chủ ở bàn. Anh Thỉnh nói: Các ông ngủ kỹ thế, mau đi làm vệ sinh đi, còn tập trung ăn sáng rồi về ngủ tiếp. Chúng tôi sang nhà của khẩu đội 2 ăn cơm. Trước khi ăn tiểu đội trưởng Khoát nói: Sau khi ăn cơm xong các đồng chí về nghỉ ngơi tại nơi ở của mình, kiểm tra lại vũ khí trang bị tư trang gọn gàng, làm tốt công tác dân vận, chú ý hầm hố tránh máy bay, 9 giờ thì các tổ 3 người họp rút kinh nghiệm về ngày đầu hành quân và bầu mỗi tổ 1 đồng chí khen thưởng ở tiểu đội, 1 đồng chí khen thưởng cấp đại đội, 10 giờ tập trung về đây họp rút kinh nghiệm tiểu đội. Khẩu đội 2 chủ động nấu cơm trưa ăn chính và nắm cơm phụ để ăn tối, đúng 14 giờ 30 phút tất cả tập trung tiếp tục hành quân.
        Đúng 14 giờ 30 phút, liên lạc đại đội xuống báo tiểu đội ra sân kho tập trung. Chúng tôi chào chia tay gia đình. Chỉ có ông bà chủ ở nhà, còn các em đi học hết. Bà mẹ nhìn chúng tôi khoác ba lô ra ngõ bật khóc nức nở, còn ông bố thì nói: Các con đi, khi nào thắng giặc, giải phóng Miền Nam thì về đây thăm ông bà. Ông nói thêm: hòm thư của hai anh là … Nếu vào đó mà gặp các anh thì nhớ nói hai anh phải chăm viết thư về nhé! Tôi nghẹn lời trước tình cảm của ông bà chủ, ghi vội tên và hòm thư của con trai ông vào quyển sổ và hứa sẽ về thăm ông khi chiến thắng. Cả đại đội đã tập trung đầy đủ ở sân kho hợp tác cạnh đường đất liên xã. Mọi người hạ ba lô tập hợp, đại đội trưởng cho từng trung đội báo cáo quân số rồi ông mời chính trị viên Trần Lẫm phát biểu. Chính trị viên Trần Lẫm lên nhận xét rút kinh nghiệm ngày hành quân thứ nhất, nói chung là tốt, đảm bảo đến đích 100% quân số, không đồng chí nào tụt tạt. Ông đọc tên những đồng chí được biểu dương là có thành tích, gương mẫu trong hành quân như các trung đội, tiểu đội đề nghị. Ông nói thêm: Hôm nay chúng ta tiếp tục hành quân, quãng đường dài hơn hôm qua, phải qua phà Phả Lại vượt sông Thái Bình sang huyện Nam Sách, tỉnh Hải Hưng. Đây là vị trí nguy hiểm, là trọng điểm đánh phá ném bom của máy bay địch, vì vậy tất cả các trung đội, tiểu đội phải bám sát đội hình không được đi lẫn lộn, không ùn ứ, khi được lệnh xuống phà phải nhanh chóng, tránh trượt ngã. Đặc biệt khi có máy bay phải nhất nhất theo mệnh lệnh của đại đội để tránh thương vong. Sau khi phà cập bến phải nhanh chóng lên bờ ngay, nếu cần vận động cách xa bến phà càng nhanh càng tốt. Dọc đường hành quân chúng ta đi theo trục quốc lộ nên rất nguy hiểm. Sau đây các đồng chí bổ sung thêm ngụy trang và kiểm tra lại các trang bị vũ khí của mình xem có gì thiếu hay quên tại nhà chủ không. Đúng 15 giờ có lệnh là lên đường!
 Trong khi chúng tôi xem xét, kiểm tra lại tư trang súng đạn thì đại đội phó Sáu đến từng trung đội nhắc nhở, nụ cười rất tươi và luôn mồm với câu như là câu vè rất vần: Các đồng chí chú ý kiểm tra tư trang, ca, bát, bạt, giầy, bi đông, bình tông, bao gạo, cuốc xẻng, súng đạn xem có thiếu gì không nhé!
Đúng 15 giờ đội hình lên đường. Trời mưa nhỏ, nhiều người lấy nilon đi mưa. Nhưng khoác áo mưa đi được một lúc thì lại phải bỏ ra vì lượng mưa không đủ lớn nên khoác áo mưa rất nóng. Hôm nay ngày thứ hai cuộc hành quân mọi người đã có kinh nghiệm hơn. Chiều tối thì chúng tôi tới bến phà, cả đại đội được qua phà cùng một chuyến. Có tiếng máy bay ầm ì nhưng ở xa, lúc này ở đây chắc không phải là mục tiêu đánh phá của của tốp máy bay này, nhưng chúng cũng gây cho mọi người chút căng thẳng. Sông rộng, phà vượt sông lại chậm nhưng rồi phà cũng cập bến, mọi người nhanh chóng lên bờ. Đại đội trưởng yêu cầu lên bờ xong là phải vận động xa bến phà ngay. Chúng tôi lên dốc rồi chạy chạy gằn được khoảng vài trăm mét thì mũi miệng tranh nhau thở không ai có thể chạy được nữa. Mọi người nhũng nhẵng đi, đội hình rời rạc mệt, rất mệt. Cái nặng của trọng lượng mang vác và việc lấy dốc sức chạy gằn làm mệt quá. Đội hình giải lao cách bến phà khoảng 1 ki-lô-mét. Đây đã là huyện Nam Sách. Sau giải lao chúng tôi hành quân hai chặng nữa thì tới nơi dừng chân nghỉ qua đêm thuộc xã Cộng Hòa, huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Hưng.
Mọi việc nghỉ ngơi và làm công tác chuẩn bị cũng giống như ngày đầu. Hôm sau đúng 15 giờ chúng tôi tiếp tục lên đường. Hôm nay là ngày thứ 3 hành quân nên sức khỏe của mọi người bị tiêu hao đi nhiều, đội hình hành quân không còn khí thế như hai ngày đầu. Bộ đội chưa thật quen với hành quân đường dài, đội hình đi rải rác, các cấp chỉ huy phải đôn đáo thúc giục động viên anh em. Vẳng lên trong hàng quân đã có những câu kêu ca, những câu văng tục, rồi những tiếng động viên nhẹ nhàng của cán bộ: Cố lên, cố lên em đưa anh mang hộ bao gạo hay đưa anh mang hộ khẩu súng. Rồi cái đích của điểm nghỉ cũng đến. Nhưng không gọn đội hình như hai ngày đầu. Người về đích cuối cùng chậm hơn so với người đi đầu gần một tiếng đồng hồ. Hôm nay đội hình vẫn nghỉ tại khu vực đình làng cũng thuộc huyện Nam Sách. Được thông báo ngày mai được nghỉ một ngày. Tôi nghe phổ biến sơ bộ vậy chỉ chăm chăm vào người tiền trạm dẫn vào nhà nghỉ của khẩu đội. Mệt quá, anh em tôi chào hỏi gia đình chủ nhà xong, nhanh chóng làm vệ sinh rồi đi nghỉ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:41:53 am

 Hôm sau, sau khi điểm tâm sáng, tiểu đội lại tổ chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm ba ngày hành quân với những nội dung quen thuộc là cố gắng phấn dấu rèn luyện hành quân ý thức tự giác, bám sát đội hình không tụt tạt, tương trợ giúp đỡ nhau trong mang vác, rồi lại bình chọn, biểu dương gương người tốt việc tốt. Kết thúc họp tiểu đội anh Khoát lên đại đội họp tiếp còn chúng tôi được nghỉ ngơi. Hôm nay khẩu đội tôi được phân công làm công tác hậu cần cho tiểu đội nấu cơm chính và nắm cho mỗi người một suất cơm chính ăn chiều. Gia đình nhà chủ cho chúng tôi rất nhiều rau xanh. Anh Khoát đi họp về phổ biến kế hoạch hành quân, theo đó, 15 giờ lên đường. Được phổ biến chặng đường hôm nay phải vượt qua nhiều trọng điểm quan trọng như cầu Lai Vu, cầu Phú Lương và qua thị xã Hải Dương. Đây là những mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ, nên ý thức phải nâng cao hơn. Dự kiến qua mấy trọng điểm trời sẽ tối, đường hành quân sẽ khó khăn hơn.
Đúng 15 giờ chúng tôi lên đường. Được nghỉ một ngày, sức khỏe của bộ đội khôi phục. Sau ba ngày hành quân, số lương thực trên mỗi người giảm bớt nên khí thế hành quân lại như ngày đầu. Đội hình hành quân trải dài dọc lộ, cành lá ngụy trang rung rinh thật đẹp. Khu vực này là đường lớn, dân cư nhiều, mọi người ra bên đường xem bộ đội. Có rất nhiều phụ nữ đứng vẫy tay cùng những lời đùa vui . Ai nấy đều thấy trách nhiệm và ý nghĩa của mình được tôn vinh, ý thức được nâng cao hơn.
 Đang đi, tôi chợt nhận ra người chị họ ở Hải Phòng. Chị Hòa là con bà chị của bố tôi nhà ở Hải Phòng, sơ tán về đây. Nghe bố tôi kể gia đình tôi trước năm 1946 cũng ở Hải Phòng. Bố tôi và anh trai bố đều là thợ cơ khí được vận động tham gia kháng chiến nhập ngũ vào đơn vị sản xuất chế tạo vũ khí của Quân Khu Tả Ngạn. Chiến tranh lan rộng xưởng quân giới phải di chuyển vào các vùng tự do tận Ninh Bình, Thanh Hóa. Năm 1955 hòa bình hai anh em bố tôi được phụ viên cùng gia đình trên đường trở về Hải Phòng thì vô tình đi chung vào đoàn dân Công giáo đang lũ lượt ra Hải Phòng di cư vào Nam. Chính quyền ở Thái Bình ngăn cản lại. Qua kiểm tra giấy tờ biết anh em bố tôi là bộ đội xuất ngũ nên họ vận động tạm dừng lại không đi cùng đoàn người vào Nam. Rồi họ vận động anh em bố tôi định cư tại thị xã Thái Bình, họ cấp cho mỗi gia đình 1 nhà, vì đang có nhiều nhà bỏ không chủ nhà di cư. Nên hai anh em bố tôi và cả người em trai bố thành cư dân Thái Bình từ đấy.
 Hồi tôi học nghề tại xưởng đóng tầu, ngày nghỉ thường ra nhà chị Hòa chơi. Tôi đứng lại chuyện trò một lúc, dặn chị báo giúp cho gia đình tôi là tôi đang hành quân vào Nam. Chị lấy tiền cho, nhưng tôi kiên quyết không nhận. Đội hình đã đi qua, chia tay chị, tôi chạy đuổi theo để bám đội hình. Sau nghỉ giải lao lần một rồi lần hai, mọi người được lệnh nghỉ ngơi ăn cơm 30 phút rồi vượt qua các trọng điểm. Gần 18 giờ đội hình tiếp tục lên đường. Trời đã tối, tiếng máy bay Mỹ ầm ào nơi xa, rồi chúng bay vụt qua thị xã, ném bom các mục tiêu. Chớp lửa sáng lòa, tiếng bom ầm ầm, đạn phòng không quanh thị xã nổ đoành đoành những vệt lửa đạn đan nhau trên trời, rồi các loại súng phòng không cỡ nhỏ cũng nổ liên tiếp rền như sấm. Chúng tôi nằm tản xuống mép đường. Sau 30 phút có báo yên, đội hình lại lên đường. Đại đội trưởng hô khẩu lệnh đanh hơn mọi khi: Tất cả hành quân bám sát đội hình, giãn cách nhau 5 mét. Tất cả lên ba lô! Không còn tiếng trò chuyện hay đùa vui, những câu hỏi nhỏ nhau kiểm tra tư trang vũ khí. Ai cũng cảm thấy như đã thật sự vào tuyến lửa. Lệnh tăng tốc hành quân vượt trọng điểm, chúng tôi chạy gằn qua trọng điểm thứ nhất rồi lại hành quân bình thường để lấy sức vựợt trọng điểm thứ hai là cầu Phú Lương, rồi qua thị xã Hải Dương. Máy bay Mỹ ào tới, bom lại nổ và các loại súng phòng không lại nhả đạn bắn đuổi. Chúng tôi nhìn thấy 2 quả tên lửa vút lên. Một quầng lửa bùng lên trên bầu trời. Mọi người reo vang: Máy bay cháy rồi! Cháy rồi! Nằm ven đường trống, nên chúng tôi quan sát rất kỹ trận chiến phòng không và lần đầu được thấy máy bay địch bốc cháy. Báo yên, chúng tôi tiếp tục hành quân, bước chân của những chiến sỹ bộ binh ra trận.
Cứ chiến đấu đi các bạn nhé. Đánh máy bay đang là nhiệm vụ của các bạn, còn mặt trận của chúng tôi còn cách xa cả ngàn cây số. Đều là chiến đấu, nhưng trận chiến của chúng tôi sẽ gian lao vất vả, cam go hơn các bạn nhiều. Tự nhiên tôi thầm nghĩ trong lòng như vậy. Suy nghĩ đó làm cho tôi khỏe lên. Không có tiếng chuyện trò, ai ai cũng khẩn trương lầm lũi vượt qua trọng điểm. Đến 21 giờ thì đơn vị tới trạm nghỉ tại xã Thanh Lãm, Cẩm Giàng. Ở vùng này là đất trồng đay. Trong làng, những đống cây đay đã thu hoạch xếp thành từng dãy bên những cái bàn kéo bóc vỏ đay, những đống lõi cây đay đã được bóc vỏ trắng toát, đây là nguồn chất đốt rất có giá trị. Vỏ đay xếp đống hoặc ngâm trong các ao, mưa nhiều, lá đay, vỏ đay ngâm bốc mùi thối hoăng cả làng. Chúng tôi nhanh chóng nhận nhà để nghỉ. Kế hoạch 7 giờ sáng mai lại hành quân.
Đúng 7 giờ sáng chúng tôi tiếp tục hành quân. Vừa ra đầu làng thì chứng kiến một vụ đánh nhau do ghen tuông, mấy người đang dìm nhau dưới nước. Được biết là có ông thợ may khoèo chân nhưng lại rất có duyên với phụ nữ. Nhiều cô gái phải lòng anh chàng thợ may khoèo dẫn tới vợ người thợ may và các cô gái ghen rồi đánh nhau ầm ỹ, dân làng đứng xem. Kỳ lạ là không thấy ai can ngăn mà chỉ đứng kháo chuyện. Chúng tôi cũng được lệnh không can thiệp vào chuyện ấy, đại đội phó Sáu và mấy cán bộ trung đội đứng ngay đó thúc giục bộ đội đi nhanh không đứng lại tò mò. Sau ba lần giải lao chúng tôi dừng lại một làng ven đường nghỉ ngơi ăn trưa, được phổ biến 7 giờ tối hành quân tiếp. Đến tối toàn đơn vị tiếp tục hành quân. Đường hành quân dọc quốc lộ 5, có đường sắt chạy song song với đường bộ. Qua giải lao lần thứ nhất, tôi thấy ồn ào phía trước. Tiếng chửi tục và những tiếng đấm đá uỳnh uỵch. Mấy chục lính đại đội hỏa lực đang vây đánh hai người thanh niên. Hỏi ra thì được biết có mấy thanh niên thấy bộ đội mệt nghỉ ngơi, thậm chí ngủ cạnh đường, nên đã lợi dụng trà trộn vào đội hình lấy cắp ba lô, bị anh em phát hiện, bộ đội quây lại đánh, bắt hai người và thêm chiến lợi phẩm là một chiếc xe đạp. Thế là sau một hồi đấm đá cùng những tiếng van xin của hai thanh niên, một người nói to: Thôi đừng đánh nó nữa, cho nó làm vận tải ba lô! Thế là hai kẻ cắp và chiếc xe chiến lợi phẩm được trưng dụng làm phương tiện vận tải bất đắc dĩ cho bộ đội. Anh em khoác lên người mỗi đứa hai, ba cái ba lô. Cái xe đạp thì còn phải nói, bốn, năm cái ba lô được treo lên xe, anh em hả hê vì tự nhiên lại có kẻ nộp mình thành kẻ vận tải ba lô cho trong lúc mệt nhọc. Sau này anh em đại đội 4 kể lại, tới điểm dừng chân mỗi thằng được nhận thêm chục cú đấm đánh nữa rồi mới được tha bổng, còn chiếc xe đạp bị tịch thu làm phương tiện vận tải. Khoảng gần mười giờ thì chúng tôi vào trạm nghỉ. Đây là xã Thống Nhất, Mỹ Hào, Hải Dương.
Hôm sau, tiếp tục hành quân và nghỉ lại xã Cấp Tiến, huyện Khoái Châu. Ngày hôm sau được phổ biến là sẽ vượt sông Hồng bằng phà. Đây cũng là trọng điểm bắn phá của máy bay. Đường hành quân lại rất khó đi, nên mọi người phải chuẩn bị chu đáo hơn. Chúng tôi hành quân rồi nghỉ trưa, 19 giờ lên đường. Đến đoạn hành quân thứ hai thì đội hình rời quốc lộ đi theo đường liên xã về hướng Tây. Hôm nay trời mưa rải rác cả ngày. Khoảng tám giờ tối thì xuống đến đường bãi cánh đồng ven sông Hồng để ra bến phà dã chiến vượt sông. Chúng tôi đi trên bờ mương đất lầy, rất khó đi, trơn trượt, bộ đội ngã oành oạch liên tục, lăn cả xuống mương nước. Trơn quá giầy lại để mãi trong ba lô không thể hạ ba lô mà lấy được, vì đâu cũng bùn nhão nhoét, dép cao su do bùn đất thịt nên quai dép, đế dép không bám được vào chân. Nhiều khi bị trượt dép lộn ngược cả đế lên mu chân, hoặc chân chọc về đằng trước, dép tụt tận ra sau gót. Tiếng kêu ca, tiếng chửi thề ồn lên, vẫn nhiều tiếng ngã oạch oạch và có cả những câu đùa “tháo đạn đứng dậy”. Tiếng nói như mếu: “Dậy thế đ.. nào được”!!! Tôi vừa buồn cười vì câu đùa thì cũng “oạch”! Tôi lồm cồm bò dậy. Vừa bước được một bước thì lại “oạch” thêm lần nữa, lăn xuống mương. Lần này thì tôi không tự đứng dậy được nữa. Anh Tấn phải cầm tay kéo tôi lên tôi mới đứng dậy được.
 Khổ nhất là đại đội 4 hỏa lực phải khiêng vũ khí mới khó đi, hai người đang khiêng nhưng người trước hay người sau bị trượt bị ngã là kéo theo cả người kia ngã theo, hay khí tài bị rơi xuống đường, lồm cồm bò dậy rồi lại tiếp tục khiêng vác cùng những tiếng chửi thề tục tĩu. Rồi có cả tiếng hu hu khóc của mấy lính trẻ, cứ mẹ ơi, mẹ ơi! Các cán bộ trung đội, tiểu đội đứng rải theo đội hình để nâng đỡ bộ đội ngã và động viên hành quân. Tôi cũng như mọi người, ngã thì hai lần, còn trơn trượt thì liên tục, song cắn răng chịu trận, không kêu ca mà chỉ nghĩ đời mình khổ quá, cực quá, mà có lẽ tất cả đơn vị chưa ai bị khổ thế này. Sao cái mương nước này dài thế, đi mãi mà chưa thấy tới bến sông, chắc nó phải dài tới 3 - 4 ki-lô-mét chứ không ít. Rồi quãng đường sình lầy gian khó cũng vượt qua, chúng tôi đã ra đến sông Hồng. Đây là bến phà Khuyến Lương vượt sông Hồng của quốc phòng, do công binh đảm trách có hai con phà đang chạy. Nghỉ ngơi một lúc rồi có phà cập bến. Phà nhỏ nên đại đội phải đi làm hai chuyến. Tiểu đội tôi được đi chuyến thứ nhất với trung đội 1 và ban chỉ huy đại đội. Sau 30 phút thì phà cập bến. Lên bờ là có lệnh chạy vận động cách xa bến. Được cái bên này đất khô có đường nên không trơn như bên bờ Bắc. Chúng tôi hành quân khoảng 3 ki-lô-mét thì vào được nơi nghỉ. Trời vẫn mưa rải rác, anh em ngồi dựa lưng vào khắp mọi nơi. Mệt quá, hạ ba lô là ngả người ra nằm, mặc cho đất ẩm ướt và mùi hôi thối của cứt trâu cứt chó nơi đầu làng. Hôm nay là ngày hành quân gian khổ nhất trong những ngày qua. Còn những ngày tới thì chưa biết thế nào? Tôi miên man nghĩ ngợi rồi thiếp đi, khi có tiếng đập gọi của anh Tấn: Dậy đi, vào nhà nghỉ! Tôi mới lồm cồm dậy, khoác ba lô theo anh em.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:43:44 am

 Làng xóm ở đây kinh tế có vẻ khá giả, nhà xây rất nhiều, cạnh đường 1 và đường tầu, gần ga Tía. Đây là xã Tô Hiệu, Thường Tín, Hà Tây. Chúng tôi được phổ biến là sẽ nghỉ ở đây một ngày, sau đó được hành quân bằng tầu hỏa. Mọi người reo lên thích thú, được đi tầu thì thích quá còn gì. Ngày nghỉ hôm sau, ngoài thực phẩm tiêu chuẩn, chúng tôi còn góp tiền ra chợ mua đồ cải thiện. Dân ở đây ngoài đồng ruộng còn có những nghề phụ, nên kinh tế rất khá. Chúng tôi ở trong một ngôi nhà xây cổ, chủ nhà pha trà mạn mời chúng tôi. Thời đó mà có chè “móc câu” thế này là quý hiếm lắm. Anh em tôi được thoải mái cái khoản trà thuốc, khoai lang, sức lực lại hồi phục rất nhanh.
Khoảng 19 giờ ngày 14 chúng tôi hành quân ra ga tầu. Quãng đường ra ga hơn 2 ki-lô-mét. Tám giờ thì đến ga. Đây là ga xép cách ga Hàng Cỏ Hà Nội hơn 20 ki-lô-mét. Nhà ga đơn sơ hoang tàn, mùi hôi, mùi khai thật kinh tởm, nhưng vì là cạnh đường 1 nên vẫn có dáng dấp phố xá, có hàng quán, có nhiều người bán bánh trái rong. Điện đóm thì lù mù, chúng tôi dồn cả vào trong sân ga. Đúng 21 giờ thì tầu đến. Tiếng còi hơi thét lên lanh lảnh tu tu, rồi cái đầu máy hơi nước đen xì xả hơi phì phò liên tục rồi dừng hẳn. Các đại đội đã được phân công nên cán bộ nhanh chóng tìm số toa rồi đốc thúc bộ đội lên tầu. Mỗi đại đội hai toa, như vậy cả tiểu đoàn đi vừa một chuyến. Tôi cũng trèo lên tầu. Trong toa tầu tối om không có ghế chỉ có sàn tầu. Mùi than thật khó chịu. Đây là toa tầu chở hàng chứ không phải toa tầu khách. Tiếng cười nói ầm ào kêu bẩn, nhiều than đen quá, bẩn hết cả ba lô quần áo. Tiếng ai đó nói lớn: Bẩn cũng tốt. Các đồng chí dồn sát vào! Lính bộ binh được cơ động bằng tầu lửa là quý lắm rồi còn kêu ca nỗi gì? Xô đẩy chen chúc một lúc rồi mọi việc cũng ổn định. Nhiều người đã châm lửa hút thuốc, 15 phút sau thì tầu chuyển bánh. Con tầu hộc hộc lên mấy tiếng như thể lấy đà rồi sình sịch, sìch sịch chuyển bánh. Tiếng bánh sắt nghiến xuống đường ray ken két, thưa rồi mau dần. Tiếng kình kịch của bánh xe qua khớp nối đường ray đã dày. Con tầu lấy tốc độ lao vào  đêm hướng phía Nam. Càng đi Hà Nội càng xa dần… Toa đen chở hàng nhưng lại là toa kín. Tiểu đội tôi ngồi tận góc trong cùng nên chẳng nhìn thấy cái gì, ngoài cái âm thanh kình kịch đều đặn và thỉnh thoảng tiếng hú tu tu của còi hơi và tiếng xì xì xả hơi phì phò khi tầu vào các ga xép.
Khoảng 11 giờ đêm thì chúng tôi tới ga Ninh Bình. Lệnh xuống tầu. Thị xã Ninh Bình vắng hoe nhưng những ngọn đèn lù mù cũng soi rõ các khuôn mặt nhọ nhem. Không có nước rửa, quần áo ba lô của mọi người đều đen nhẻm vì than. Như vậy là chúng tôi được đi tầu khoảng 50 ki-lô-mét. Thôi thế là quý lắm rồi, nếu hành quân bộ có đến 3 ngày, đi tầu mất có 2 tiếng thật quá tốt. Các đơn vị tập hợp nhanh chóng rồi hành quân, nhưng ở đây có nhiều nhà dân có hàng quán nên anh em tranh thủ mua thứ nọ thứ kia. Việc thu quân không nhanh gọn được. Có rất nhiều tốp bộ đội đeo băng kiểm sát quân sự chặn ở các đầu đường không cho bộ đội đi quá xa hoặc đề phòng ai đó tụt tạt. Cả tiểu đoàn tiếp tục hành quân. Lúc này đã rất khuya. Sau hai đợt giải lao thì đại đội tôi vào nghỉ tại xã Thanh Thuỷ, Thanh Liêm, Nam Hà. Chiều hôm sau đơn vị tiếp tục hành quân và dừng lại nghỉ tại xã Thanh Hải, Thanh Liêm. Đơn vị được nghỉ tại đây một ngày. Lại tiếp tục họp tiểu đội rồi đại đội. Được biết toàn trung đoàn đã tập hợp về khu vực này. Cả đơn vị thu dung của trung đoàn cũng đã về đây và được trả về các đơn vị. Đa số lực lượng thu dung là anh em tiểu đoàn 2 vì số anh em này không được đi phép, rất nhiều anh em đã tranh thủ đi phép ba ngày hoặc năm ngày. Khi đến, đơn vị cơ bản của trung đoàn đã hành quân còn lực lượng thu dung hành quân sau 5 ngày nhưng không đi vòng theo trung đoàn mà hành quân theo trục quốc lộ 10 nên quãng đường ngắn hơn, tới đây thì đuổi kịp đội hình.
Cũng qua cuộc họp của đại đội được thông báo bộ đội các đơn vị trực thuộc và tiểu đoàn 3, anh em vi phạm chính sách dân vận nhiều, cao nhất là đã có vụ va chạm đánh nhau với thương binh miền Nam tại khu vực ga Ninh Bình. Thậm chí đã đốt cả xe máy của một thương binh người miền Nam, gây tình hình căng thẳng mất đoàn kết. Các đồng chí về phép lên muộn nữa thì được biên chế sang Sư đoàn 304.
Chúng tôi được nghỉ ngơi một ngày. Nơi đây thuộc đất Ninh Bình, toàn núi đá vôi dãy núi Tam Điệp rất đẹp. Dân cư ở đây theo đạo Thiên chúa nhiều, họ rất hiền lành chất phác có phần lạnh lùng, không thể hiện sự đón tiếp vồn vã bộ đội như những người bên Lương. Hôm sau chúng tôi hành quân theo con đường đá có tên Nguyễn Văn Trỗi. Đường lượn quanh các trái núi đi hướng vào Nam qua khu vực giáp rừng Cúc Phương và những đền đài Đinh Bộ Lĩnh xưa, (nơi này hiện nay là khu vực chùa Bái Đính). Đơn vị nghỉ đêm tại xã Ninh Giang, Gia Khánh, Ninh Bình. Hôm sau tiếp tục hành quân qua Nho Quan, rừng Cúc Phương và dừng nghỉ tại xã Phú Long, Nho Quan, Phố Cát, Thạch Thành.
   Tới khu vực này là đất Thanh Hóa. Đúng là xứ Thanh xa thật, khi đi qua Phố Cát rồi qua ngã ba Kim Tân tôi mới sực nhớ là bố tôi vẫn hay kể chuyện ngày xưa đơn vị ông, xưởng công binh sản xuất vũ khí của Quân khu 3 đã ở đây. Gia đình tôi vào theo ở ngay ngã ba Kim Tân, huyện Thạch Thành, Thanhh Hóa này, trong giấy khai sinh của tôi là địa danh này. Thật bộn chộn không ngờ mình lại được đến, được qua nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tôi nghĩ đến nơi nghỉ sẽ viết ngay thư về cho gia đình vừa đi vừa lẩm nhẩm nội dung: Con đã đến những nơi bố mẹ xưa đã sống và đã sinh ra con! Những nơi này bố mẹ chắc rất nhiều kỷ niệm. Giờ đây lại đến thế hệ con qua đây. Tuy nhiên không được ở đây vì nhiệm vụ con còn phải đi xa hơn nữa… Tôi cứ nghĩ mông lung như vậy, đầu nghĩ còn chân cứ bước theo đoàn quân không cảm thấy mệt nữa, mặc dù gan bàn chân phải của tôi đã bị phồng nước, đi rất đau mà thấy cái giá trị thiêng liêng của hai thế hệ. Xưa bố đánh Pháp, còn nay chúng con đánh Mỹ, toàn những kẻ xâm lược có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn mạnh.
Đơn vị nghỉ lại xã Thành Kim, Thạch Thành. Hôm nay chúng tôi đi xuyên qua một cổng thành rồi đi vào giữa khu vực thành quách có hai con rồng đá rất dài nhưng bị chặt đầu. Hỏi một vài người dân mới biết đây là thành Nhà Hồ. Nhà Hồ mà trong lịch sử của chúng ta đã nhắc đến không nhiều nhưng đã có dấu ấn rất lớn của một đế chế: Vua Hồ Quý Ly, nhà cải cách lên ngôi, nhưng vì không được lòng dân nên triều đại lụi tàn sau khi xưng đế 7 năm. Nhưng kỳ tích xây thành lũy của nhà Hồ vẫn còn nhiều việc phải tranh luận, chẳng hạn như: Với tốc độ xây thành và kỹ thuật, kiến trúc xây thành cùng nhiều vấn đề liên quan đến giai đoạn lịch sử dựng nước, giữ nước này của ông cha ta.
Đang ngỡ ngàng trong niềm vui vì được biết nơi chôn rau cắt rốn của mình. Rồi lại được qua những đền đài thành quách mà chưa bao giờ được biết. Nhìn sang bên đường, bất chợt tôi thấy một người đàn ông đang đứng khóc, khóc nức nở nhưng không thành tiếng. Ông mặc áo nâu đã bạc có mấy miếng vá. Cái quần cộc cũng màu nâu nhưng thẫm hơn. Cái nón ông đội cũng quá cũ, rách tua. Một tay ông cầm cái đòn gánh chống xuống đất, đầu trên tựa vào vai, còn tay phải ông liên tục gạt nước mắt. Tôi vừa đi ngang qua thì ông cũng đã xỏ quang gánh có 2 cái rổ sảo không, chắc ông vừa gánh gì đó và trên đường đi về. Thấy bộ đội hành quân, nhìn những người lính 17 -18 đôi mươi rập rập cúi rạp hành quân hướng đường ra trận. Có thể ông cũng có con là bộ đội. Thương nhớ con, hay ông thấy những người lính trẻ măng kia đang hành quân chi viện cho chiến trường mà ngày đi thì có còn ngày về liệu được mấy ai! Rất nhiều, rất nhiều người đã mãi mãi không về. Sinh Bắc tử Nam. Ông thương con ông khóc. Ông thương chúng tôi ông khóc! Hay ông khóc do cuộc sống quá đau khổ vì chiến tranh triền miên, đói rét cơ cực và bao điều nữa chúng tôi lúc đó không thể hiểu hết. Đi qua rồi mà không hiểu sao tôi vẫn quay lại nhìn ông, nhìn mãi nhìn mãi… Ông vẫn đi theo đoàn quân, vẫn một tay để trên đòn gánh, một tay cứ đưa lên quệt nước mắt. Quệt ngang giữa trời…

      Chiều muộn, tháng tám mưa dầm thật ảm đạm. Tiếng máy bay thù vẫn ì ầm và những tiếng bom nổ rền xa nơi cầu Chuối. Hình ảnh người đàn ông khóc bên thành quách rêu phong buổi chiều hôm ấy cứ hiển hiện mãi trong tôi như bức tranh trước mặt. Có lẽ hình ảnh này sẽ mãi theo tôi đến tận cuối đời.
Qua cổng thành chúng tôi đi tiếp khoảng 2 ki-lô-mét nữa thì dừng chân tại xã Vĩnh Long, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Toàn đơn vị được nghỉ tại đây ba ngày. Như vậy sau khoảng 20 ngày hành quân đơn vị đã tới khu vực huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồi còn ở nhà nghe mọi người nói đến Xứ Thanh là nói về sự xa xôi ngàn trùng cách trở. Những năm gần đây khi nói đến Thanh Hóa là mọi người cũng như đài, báo đều  ca ngợi về mảnh đất địa linh nhân kiệt, với nền văn hóa văn minh Đông Sơn, nơi có dòng họ Lê, họ Hồ và những chiến công hiển hách đánh trả máy bay Mỹ. Chiến thắng Hàm Rồng hai ngày mà quân dân Thanh Hóa bắn rơi 47 máy bay Mỹ, bảo vệ an toàn cho cây cầu chiến lược huyết mạch giao thông bên Núi Ngọc. Những bài hát ca ngợi quân dân tỉnh Thanh thật hào hùng, đất và người xứ Thanh thật đáng ngưỡng mộ. Những gương chiến đấu như anh hùng Nguyễn Viết Xuân, với câu nói bất hủ: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Anh hùng Lê Mã Lương với câu nói nói nổi tiếng mà mọi người phải học tập: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Hay chị dân quân Ngô Thị Tuyển vác hai hòm đạn nặng hơn cả trọng lượng cơ thể mình tiếp đạn cho trận địa pháo. Rồi gương anh hùng nhỏ tuổi Nguyễn Bá Ngọc quên mình lấy thân mình che mảnh bom cứu các em nhỏ. Rồi những gương chiến đấu của nữ dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng. Rất nhiều những bài hát rất hay ca ngợi mảnh đất này như bài: Hò Sông Mã, Hoan hô các cụ dân quân... Nhiều, còn rất nhiều câu chuyện ngợi ca về xứ sở này mà hôm nay chúng tôi đã được đến. Với tôi thì luôn chộn rộn vì mình đã được vào tận nơi chôn rau cắt rốn của mình và nơi xưa bố mẹ tôi cũng đã từng sống, từng chiến đấu. Bước chân tôi đi qua hôm nay có bước chân nào in vào dấu chân xưa của bố mẹ tôi?


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:45:45 am

       Tiểu đội tôi được ở trong một gia đình có vẻ khá về kinh tế, cũng nhà tranh ba gian nhỏ, có bể nước mưa và giếng xây trước cửa. Dịp này mưa nhiều nên bể nước đầy ắp. Ông bà chủ nhà nói chúng tôi dùng nước ở bể. Ông nói thêm, giếng nước trong nhưng có cái đài mới rơi xuống chưa lấy lên được. Chúng tôi tròn mắt ngạc nhiên sao ông giầu thế mà vô ý thế, cái đài giá trị vậy mà lại để rơi xuống giếng? Chúng tôi cứ nghĩ cái đài là đài bán dẫn để nghe hát, nghe thời sự. Thời đó gia đình nào có cái đài là giầu là quý lắm. Anh em chúng tôi hỏi ông: Đài rơi lâu chưa bố? Ông nói nó rơi từ sáng mà chưa ai xuống lấy lên được. Anh Thỉnh nói để chúng con xuống lấy cho chứ không thì đài hỏng mất. Ông chủ lại nói không sao đâu xuống nước lạnh và sâu lắm nếu cần thì để mai mua cái khác. Chúng tôi lại tròn mắt ngạc nhiên. Anh Thỉnh cương quyết bảo Tuấn xuống lấy đài. Anh bảo ông: Bố lấy đoạn dây thừng dài buộc vào người Tuấn. Rồi Tuấn tụt xuống giếng mò lặn. Tuấn ngoi lên nói không có, không thấy. Ông bố nói nó rơi khi sáng mà, chú xem lại lần nữa đi. Tuấn lại ngụp lặn xuống giếng rồi ngoi lên cầm theo cái gầu múc bằng lốp cao su đen, một tay gạt nước ở mặt, một tay giơ cái gầu lên nói: Chí có cái gầu này thôi. Ông chủ nói đúng rồi cái đài rơi buổi sáng đấy. Chúng tôi ngớ người ngạc nhiên hỏi đây là cái đài ạ. Ông chủ nói đúng rồi đây là cái đài múc nác. Trời ạ, thế mà chúng tôi cứ nghĩ là cái đài radio bán dẫn cơ chứ. Dân đây gọi cái gầu là cái đài, sau được biết thêm cái bát ăn cơm gọi là cái đọi. Thật là chuyện cười vỡ cả bụng vì ngôn ngữ địa phương. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết thêm về một số từ địa phương mô, tê, răng, rứa. Mô là đâu, đi mô tức là đi đâu, ở tê tề tức là ở kia kìa, mần răng tức là làm sao. Rứa tức là thế. Chú bộ đội mần chi rứa tức là chú bộ đội làm gì đó, con trâu gọi là con chu vv…
Ở đây làng xóm trù phú cạnh dòng sông Chu, sông Mã, dừa và lạc rất nhiều và đặc biệt là đất trồng thuốc lá. Cây thuốc lá cũng giống như cây thuốc lào nhưng để làm thuốc lá hiện tại có thuốc lá Hòn Mê lấy nguyên liệu tại đây, hút rất ngon. Nhưng dân thường hút thuốc tự chế thái nhỏ vấn điếu hút gọi là thuốc rê. Bộ đội ta được hút thuốc thoải mái, những ai là đệ tử của con nghiện thì vô cùng thích vì mua được thuốc rẻ và dân cho hoặc mời chứ không lấy tiền. Gia đình chủ nhà có một cô con gái là giáo viên cấp 1. Tối muộn cô mới đi dạy về chào hỏi chúng tôi xong rồi cô đi tắm. Trời vẫn mưa lâm râm. Cô tắm ngay tại bể nước mưa, như vậy chỉ cách giường ngủ của chúng tôi khoảng hơn chục mét qua cái sân gạch. Khoảng tám giờ từ bên giường bên này tôi thấy Tuấn và Hà cứ cười rúc rích, để ý kỹ thì hóa ra hai ông tướng đang từ trong màn trên giường nhưng nhìn trộm cô giáo tắm. Nếu nhìn ra chỗ cô giáo tắm thì cũng đen ngòm chẳng thấy gì, nhưng hai ông bạn đã phát huy tác dụng của kính ngắm cối nó như cái ống nhòm thu hẹp khoảng cách, vả lại mắt thanh niên trai trẻ thì lại quá tinh tường nên các ông kễnh cứ rúc ríc cười là như vậy. Anh Thỉnh sau khi biết thế sang gằn giọng mắng hai cậu và thu lại cái kính ngắm giá trị đó.
Được nghỉ tại đây ba ngày. Trong ba ngày này, ngoài các buổi họp tiểu đội, đại đội và lau chùi bảo dưỡng súng đạn, nhận nhu yếu phẩm lương thực, chúng tôi đi tham quan khám phá kỹ hơn về khu vực thành Nhà Hồ và đi sang các đơn vị khác giao lưu gặp đồng hương trò chuyện. Tôi sang đại đội 4 hỏa lực chơi với anh Hương, anh Hòe, anh Thụ, anh Sùng. Anh Nguyễn Chính Hương ở trung đội súng ĐKZ. Anh Hương là công nhân nhà máy cơ khí 2/9 của tỉnh mà trong những câu chế nhạo Thái Bình: “Có nhà máy cháo, có lò đúc muôi” là nhà máy nơi anh làm việc. Đồng hương cùng nghề nên anh rất quý tôi, đãi tôi cà phê, trà thuốc còn cho thêm nhiều thứ mang về. Anh hơn tôi 3 tuổi, con của một cán bộ công an tỉnh nhưng cũng nhập ngũ đợt này. Sau này về nơi đóng quân tôi vẫn thường sang chơi với anh. Hơn nhau 2- 3 tuổi nhưng tôi có cảm giác anh hiểu biết hơn tôi rất nhiều, phong thái cao sang lịch lãm làm tôi rất thán phục.
Ngày 23 tháng 8 chúng tôi tiếp tục hành quân. Hướng đi ngược lên vùng huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Được nghỉ 3 ngày anh em lấy lại sức lực hành quân nhanh nhẹ hơn, chân tôi và nhiều người cũng đã bình phục. Đường hành quân bắt đầu theo các con đường đất nhỏ, rừng núi điệp trùng, lúc lên đèo khi xuống dốc, có khi phải lội qua cả những con suối nhỏ nước trong veo, cảnh trí xứ Thanh thật đẹp những ngôi nhà sàn thấp thoáng trong những tán cây rừng. Phía dưới quốc lộ 1 và khu vực Cầu Chuối máy bay địch quần đảo đánh bom nhiều. Còn ở đây là vùng rừng núi, nên máy bay chỉ bay qua chứ không phải là trọng điểm đánh bom của chúng, nên chúng tôi hành quân ban ngày chứ không phải đi đêm, có điều dốc cao nhiều nên leo dốc rất mệt. Tối chúng tôi nghỉ lại xã Xuân Minh, Thọ Xuân. Ngày hôm sau tiếp tục hành quân và dừng nghỉ tại xã Hợp Thành, Triệu Sơn. Sáng ngày 28 tháng 8 toàn đơn vị tiếp tục hành quân. Hôm nay đường hành quân phải leo vượt qua một con dốc cao của dãy núi Nưa để sang sang huyện Như Xuân. Dốc đất đỏ rất dài có rừng cây nguyên sinh. Những cây cổ thụ thật to, nhiều dây leo to hơn cả bắp chân loằng ngoằng xoắn xít vào nhau vắt dọc ven đường. Con dốc thật dài, chúng tôi phải nghỉ lại một chặng mới lên được đỉnh đốc. Lên tới đỉnh dốc như lên tới cổng trời, gió thổi ào ào. Khi xuống dốc dễ đi hơn, bên này dãy núi đã thuộc về huyện Như Xuân. Nghỉ tiếp ba chặng nữa đến chiều tối thì đại đội tôi về địa điểm đóng quân của đại đội thuộc xã Phú Nhuận, huyện Như Xuân, ngay chân dãy núi Nưa. Đây là xã cuối của huyện Như Xuân giáp với huyện Nông Cống. Được biết cả trung đoàn sẽ dừng chân huấn luyện tại đây. Tiểu đoàn 1 của tôi đóng quân tại thôn Bồng Sơn, xã Phú Nhuận. Tiểu đoàn 2 đóng quân ngay tại thị trấn Bến Sung, Tiểu đoàn 3 ở khu vực xã Mậu Lâm. Các đại đội trực thuộc cũng đóng quân quanh trung đoàn bộ.


                                                      VII

Như vậy sau hơn hai mươi ngày, toàn đội hình trung đoàn 36B đã hành quân từ Thủy Nguyên, Hải Phòng vào tới huyện Như Xuân, Thanh Hóa. Tiểu đoàn tôi đảm bảo hành quân tới đích 100% quân số. Tiểu đoàn 2 và 3 có một số tụt tạt theo đội hình thu dung và trong đó có một số không quay trở lại đơn vị nữa. Đại đội 3 của tôi đóng quân tại thôn Bồng Sơn cuối xã Phú Nhuận qua cánh đồng là thuộc huyện Nông Cống. Ở đây là bản dân tộc Mường họ ở nhà sàn, bên dưới làm chuồng trâu bò và các loại gia cầm. Nhân dân rất vui khi chúng tôi đến ở và luyện quân tại đây . Bà con dân tộc khi nói chuyện với chúng tôi thì nói bằng tiếng Kinh nhưng khi họ nói với nhau thì bằng tiếng dân tộc, chúng tôi không thể hiểu nổi. Những ngày đầu tiểu đội 10 được ở cùng với bộ phân nuôi quân tại một gia đình làm nghề thuốc có căn nhà sàn to nhất thôn. Nhưng sau đại đội bố trí lại tiểu đội ở tại gia đình ông bí thư chi bộ cũng là dân tộc Mường ven đồi sắn. Nhà của gia đình không lớn lắm, sàn nhà ghép bằng những cây tre bổ ra nhìn được dưới đất, đi lại thật nhẹ cũng vẫn gây tiếng động. Dưới gầm sàn nhà có gần chục con trâu, mùi phân và nước đái trâu, cứt và nước đái lợn cùng các loại gia cầm rất khai rất bẩn, mãi một thời gian dài chúng tôi mới quen được mùi xú uế tổng hợp đó. Gia đình ông chủ có hai cô con gái khoảng tuổi 18- 20, da trắng rất xinh, qua tìm hiểu thì cả hai cô đều đã có người yêu đang ở bộ đội.
 Hôm sau anh em tôi nhanh chóng làm công tác dân vận quét dọn nhà cửa làm vệ sinh ngõ xóm. Rồi chiều tổ chức lau chùi vũ khí, họp tiểu đội, đại đội rút kinh nghiệm hành quân, biểu dương khen thưởng những tập thể cá nhân có thành tích gương mẫu. Chính trị viên Lẫm và đại đội trưởng Nghẹ thay nhau phổ biến nhiệm vụ của đơn vị. Qua đó nhiệm vụ của đơn vị và của toàn trung đoàn là dừng chân tại đây tổ chức huấn luyện kỹ thuật sử dụng vũ khí khí tài của từng đơn vị, kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu. Tổ chức bắn đạn thật tất cả các loại vũ khí được trang bị. Sẵn sàng cơ động chi viện cho chiến trường.
Hôm sau toàn đơn vị vẫn được nghỉ ngơi nhưng phải làm các nhiệm vụ như đi lấy gạo, lấy củi, giúp tiểu đội nuôi quân làm nhà kho, nhà bếp và đào bếp Hoàng Cầm. Đào hầm tránh máy bay tại nơi ở của mình.
Theo đó chúng tôi được tổ chức huấn luyện lại từ đầu như tân binh mới nhập ngũ, từ đội ngũ xen kẽ là các kỹ thật xạ kích súng AK, tiểu đội tôi được tập trung học kỹ thuật bắn súng cối, súng B41 do cán bộ tác chiến trung đoàn về tổ chức học tập. Toàn trung đoàn nhanh chóng học tập về tính năng tác dụng của súng cối 61 ly, súng cối 82 ly, súng B40, B41 và các loại vũ khí trang bị khác như súng DKZ, súng 12,7 ly, đại liên, trung liên. Các đơn vị trợ chiến thì học sâu về thông tin, công binh hay kỹ thuật nghiệp vụ trinh sát.
Ở vùng này rừng núi rậm rạp, trung đoàn đóng quân dọc theo chân dãy núi Nưa nên thao trường tập luyện rất thuận lợi. Không biết ngày xưa nơi đây bà Triệu cưỡi voi luyện quân đánh giặc như thế nào. Còn chúng tôi nay cũng hàng ngày vào ven chân núi luyện quân nhưng bằng các loại vũ khí hiện đại. Chúng tôi nhanh chóng làm quen với các kỹ thuật thao tác sử dụng như tháo lắp cối, đặt pháo, thao tác kiểm tra đạn, kỹ thuật thả đạn vào nòng. Học thuộc bảng bắn, làm quen những thuật ngữ thước tầm, ly giác, liều bắn, vật chuẩn, ước lượng cự li cả cách bắn súng cối ứng dụng khi cần thiết. Như đã nói ở trên, tiểu đội hỏa lực phải lựa chọn những người có trình độ văn hóa cao nên mặc dù các kỹ thuật khó nhưng anh em tôi nắm bắt cũng nhanh. Hai khẩu đội luôn cùng tập và thi nhau đạt thao tác nhanh nhất chuẩn nhất. Súng B40, nhất là súng B41 đòi hỏi khó hơn phải đoán ước lượng độ gió, tốc độ đạn bay ảnh hưởng tới đường đạn.
Toàn đại đội, toàn tiểu đoàn, trung đoàn dấy lên phong trào thi đua học nhanh, học giỏi sẵn sàng chi việc cho Miền Nam. Các phong trào do đoàn thanh niên phát động như báo tường. Mỗi người phải viết, phải làm từ 1 đến 2 bài thơ hay bài văn ca ngợi về việc học tập huấn luyện và ca ngợi những gương người tốt việc tốt để động viên tinh thần thi đua rèn luyện. Nhiều người không làm được thơ vì vậy mấy thầy giáo phải làm giúp để có thành tích mọi người đều có bài, có thơ báo tường, bào liếp.
  Chúng tôi lao vào học tập không biết mệt mỏi. Được cái ở vùng này lương thực, thực phẩm tương đối dồi dào. Cơm không phải ăn độn khoai, độn sắn. Mặc dù sắn ở đây rất nhiều, sắn đồi rất thơm ngon, nhà dân thường xuyên bới sắn về luộc hoặc nướng cho bộ đội ăn. Đặc điểm nhà dân tộc là bếp ở cùng sàn nhà luôn đỏ lửa suốt ngày. Chỉ cần dựng sắn gần bếp 30 phút là mùi sắn nướng đã thơm lừng. Hàng ngày vẫn 5 giờ dậy tập thể dục theo đội hình trung đội, đại đội, xong làm vệ sinh cá nhân rồi xuống bếp lấy cơm. Ngày vẫn ba bữa cơm nóng. Sáng ăn phụ và trưa chiều hai bữa cơm chính, hầu như không ai bị đói. Riêng tôi thì ăn rất yếu, đi tập về mệt nên chỉ ăn được hơn một bát cơm là không sao ăn được nữa. Anh Trạch, súng B41 thấy tôi ăn yếu quá nên bữa nào cũng kèm ép tôi ăn bằng được thêm một bát nữa. Giọng miền Trung - Huế rất khô và cương quyết cùng với thái độ cứng rắn của Trạch sẵn sàng đè tôi ra để nhồi nhét cơm nên rồi tôi cũng phải theo cái khẩu lệnh của Trạch, nhai cơm mà cứ muốn nôn ra. Nhưng cũng nhờ như vậy mà sức khỏe tôi khá hơn, huấn luyện nghỉ ngơi theo được anh em. ( Anh Trạch sau giải phóng Miền nam thống nhất đất nước về làm chủ tịch thị trấn Phò Trạch tỉnh Thừa Thiên Huế)
Có ngày nghỉ thấy mấy cô gái con nhà chủ đeo gùi, cầm mỗi người hai con dao, một con dao quắm một con dao thẳng không có mỏ. Con dao quắm thì cầm ở tay, con dao thẳng thì có vỏ bao đeo bên hông như đeo kiếm. Chúng tôi hỏi đi đâu thì cô nói các anh có đi lấy măng với chúng em không? Thấy nói vào rừng lấy măng thích quá tôi với anh Thỉnh xin đi cùng. Tôi nghĩ là vào rừng măng nhiều, bẻ măng về cải thiện là đơn giản lắm. Hai anh em mang theo hai con dao găm Liên Xô đã được mài sắc. Đi mãi lên đồi rồi lại xuống suối chẳng thấy rừng tre rừng măng đâu, chỉ có những bụi tre gai với những cành tre vươn ra đầy gai nhọn. Chị em cô gái nói măng ở trong bụi tê tề. Nói thế nhưng chúng tôi có thấy cây măng nào đâu, hai cô gái cười nói: Dao của hai anh không lấy được măng đâu, vì măng ở mãi trong bụi lấy làm sao được! Chúng tôi hỏi: Thế em lấy thế nào? Hai cô gái nói, anh em mình cứ ngồi nghỉ tí đã rồi em lấy cho các anh xem. Nghỉ ngơi chuyện trò một lúc cũng thấy vui nhưng tôi cứ tò mò giục hai cô lấy măng. Hai cô gái lấy con dao dài đeo ở bên hông ra. Cô tiến lại bụi tre gai, cầm dao khua khua các cành tre. Dao sắc, cô khua dao nhẹ mà các cành tre đứt rụng xuống tạo thàng một lối để cúi khom đi vào sát gốc bụi tre, ở đó có những cây măng mới nhú hoặc măng đã mọc cao, có những cây măng thì víu bẻ ngay được nhưng cũng có những cây măng ở sâu trong khe kẽ phải dùng dao quắm móc, khều mãi mới lấy ra được. Chúng tôi thè lưỡi thán phục. Như vậy đi lấy măng ở đây không dễ như chúng tôi tưởng mà quá vất vả. Lấy được măng, chân tay bị gai tre cào xước chảy cả máu. Nếu không có những con dao chuyên dụng kia thì hai con dao găm Liên Xô của chúng tôi chẳng thể làm được gì. Hết bụi tre này đến bụi tre khác vẫn với thao tác như vậy, đến gần trưa hai cô gái có sự giúp đỡ của chúng tôi cũng lấy được hai gùi măng.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:47:23 am

          Việc học tập huấn luyện của chúng tôi ngày càng bận rộn. Hết học về kỹ thuật súng cối lại học tập xạ kích. Theo thông báo sau 45 ngày huấn luyện, tất cả cán bộ chiến sỹ đều phải kiểm tra bắn đạn thật bài 1, bài 2 và ném lựu đạn thật. Kể cả bắn B40, B41 và bắn đạn thật tất cả các loại vũ khí trang bị. Như vậy tiểu đội chúng tôi có hai loại vũ khí hỏa lực là B41 và súng cối 61 ly đều phải bắn đạn thật. Các kỹ thuật gói buộc thuốc nổ, lắp ráp thủ pháo cũng được học tập rất cơ bản. Có hai loại thuốc nổ phải gói buộc, một là để đánh hàng rào dây thép gai thì gói xếp các loại thuốc nổ nối tiếp thành ống dài như cái đòn gánh, nụ xòe điểm hỏa ở dưới. Loại thứ hai để đánh các hầm ngầm lô cốt thì gói buộc vuông to bằng 5 cái bánh chưng, có chân chống để tựa vào lô cốt cho dễ. Các kỹ thuật tra kíp mìn cũng được học tập rất kỹ. Ngoài ra còn tăng cường học chính trị để nâng cao trình độ giác ngộ chính trị và ý chí của người chiến sỹ. Những bài học chính trị khô cứng về đường lối cách mạng Việt Nam và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng Miền Nam. Học tập và có kiểm tra về hiểu biết và nhận thức của từng người. Song song với học tập kỹ thuật vũ khí súng đạn, chúng tôi tiếp tục học về các chiến thuật chiến đấu tổ ba người, tiểu đội, trung đội và đại đội tiến công tiêu diệt các cứ điểm của địch. Các trung đội thông tin, trinh sát ngoài học các kỹ chiến thuật cơ bản của bộ đội còn phải học sâu các nghiệp vụ riêng của mình.
Trong một lần được cử đi tiền trạm lấy gạo tại kho ở khu vực Bến Sung cách đơn vị khoảng 15 ki-lô-mét. Tôi và anh Ước tiểu đội trưởng tiểu đội nuôi quân (Anh Ước mới được điều từ tiểu đội tôi lên). Hai anh em đến Bến Sung ở nhờ một gia đình gần kho gạo, đại đội 5 tiểu đoàn 2 cũng đóng quân tại đây. Anh em đón tiếp chúng tôi rất vui vì có Thạch Quốc Cường liên lạc đại đội 5 là em của bạn học tôi hồi nhỏ. Cường kể là tuần trước có bố ở Thái Bình vào chơi. Các gia đình ở thị xã sau khi biết chúng tôi chưa phải vào Nam mà đang dừng chân huấn luyện tại Thanh Hóa bèn rủ nhau vào thăm con. Mới đầu khoảng 7 người muốn đi nhưng rồi sau đó vì nhiều lý do chỉ có ba người quyết tâm đi vào gồm ông Khả, bố của Cường, Ông Khải bố của Khoan ở đại đội 7 và cả mẹ tôi, nhưng hai ông nói mẹ tôi cứ ở nhà để hai người vào rồi có gì về kể sau, vì thời đó xứ Thanh Hóa là xa xôi cách trở lắm. Phải đi bằng xe đạp mà vùng này máy bay thường xuyên đánh phá rất ác liệt. Hai ông đã đạp xe ba ngày mới vào tới chỗ các con, các ông ở chơi ba ngày rồi mới ra.
    Mọi người ai cũng thán phục ý chí của hai ông bố. Nhưng có điều là không hiểu sao cả đợt bộ đội của thị xã Thái Bình tháng 5 năm 1972 qua cuộc chiến tranh khốc liệt giải phóng Miền Nam, đơn vị đi chiến đấu mùa xuân năm 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng thì chỉ duy nhất có hai người hy sinh là anh Thạch Quốc Cường và anh Nguyễn khắc Khoan. Cả hai anh đều được bố vào thăm. Anh Khoan hy sinh ngày 27 tháng 3 năm 1975. Còn Thạch Quốc Cường thì hy sinh đúng sáng 30 tháng Tư năm 1975 ngay tại cửa ngõ Sài Gòn. Chuyện tâm linh khó giải thích. Nếu dịp đó mẹ tôi cùng vào thăm tôi thì không biết tôi có giống như hai đồng đội kia không?
Thấy tôi cũng là dân thị xã ở tiểu đoàn 1 đến, anh em thị xã ở các đại đội đến chơi rất đông toàn những người quen nhưng thường kém tôi hai tuổi như anh Hùng, Anh Bình, anh Chức, anh Khoan, anh Hải. Có cả Khánh và Báu là em của bạn học phổ thông với tôi. Họ kể rất nhiều chuyện về lính thị xã, khi vào đây đã có 4-5 anh em đào ngũ. Có anh em đào ngũ vì lý do không phải sợ đi B chiến đấu mà chỉ là vì con lợn to. Đấy là trường hợp của Tá và Minh ở trung đội thông tin tiểu đoàn 3. Chả là chúng tôi đóng quân thường được cung cấp thịt lợn nhưng phải về các xã thuộc huyện Nông Cống để bắt lợn. Hôm được phân công đi bắt lợn, Minh và Tá được phân công bắt và khiêng con lợn gần 80 kg. Lợn to, trong khi cả hai đồng đội thì nhỏ bé lại không quen khiêng vác. Quãng đường từ chỗ bắt lợn đến đơn vị khoảng hơn 20 ki-lô-mét, hai đồng đội khiêng được một đoạn, lợn giẫy đạp càng nặng thêm đòn khiêng tỳ vào vai đau không chịu được, hai anh bàn nhau để lợn lại nhà dân và trốn về nhà. Tối dò dẫm hỏi đường, vào các nhà dân ở trọ, hỏi đường, lần mò cũng ra được ga Thanh Hóa rồi nhảy tầu về quê. Các đơn vị khác thì mọi người khiêng lợn về còn đại đội 18 không thấy Minh và Tá đâu, dò mãi rồi mới biết là hai đồng đội đã đào ngũ, lợn thì để lại nhà dân khu vực cầu Chuối. Đơn vị phải cử người khác khiêng lợn về và cử người về địa phương bắt lính đào ngũ. Lên tới đơn vị hỏi lý do đào ngũ, hai anh nói lý do là tại con lợn to quá không khiêng được nên đã đào ngũ. Chuyện thật như đùa, cười vỡ bụng vì lý do đào ngũ của dân thị xã.
Anh em ở đây cho chúng tôi rất nhiều chè khô, hỏi chè ở đâu anh em nói ở đây có nông trường chè Bãi Chành. Anh em đi tập thông tin cứ lẩn vào bãi chè mà hái, bảo về đuổi nhưng cũng chỉ dọa chứ chẳng biết làm sao với mấy ông lính chuẩn bị đi B này.
Buổi tối anh em tôi ngủ cùng với anh em đại đội 5. Đêm đó máy bay Mỹ bay qua rất nhiều và đánh bom gần khu vực Bến Sung. Chị chủ nhà khoảng hơn 30 tuổi đã có hai con nhỏ, chồng đi công tác xa. Có anh đội trưởng đơn vị lái xe gần đó chắc là bạn thân, cứ mỗi lần máy bay bay qua là lại thấy chị chủ chạy lên gọi anh đội trưởng xuống hầm lúc sau mới thấy lên. Máy bay đến, chị chủ lại lên gọi vẫn câu quen thuộc: Máy bay nó bay rứa mà anh chẳng biết cái chi. Xuống hầm đi anh. Thế là anh đội trưởng lại theo chị chủ xuống hầm. Đêm đó có tới 4 lần chị chủ lên gọi anh xuống hầm. Sáng hôm sau 7 giờ mà anh vẫn còn ngủ, chắc đêm qua tránh máy bay dưới hầm với chị chủ mệt quá. Anh em tôi thì cứ buồn cười mãi. Cái câu: “Máy bay nó bay rứa mà anh chẳng biết cái chi” cứ là câu chuyện vui mãi những năm sau này.
Qua học tập được biết tình hình chiến sự ở Miền Nam đang rất sôi động, nhất là khu vực Quảng trị. Chiến dịch Quảng Trị và khu vực Thành Cổ vẫn đang vô cùng ác liệt. Cả ta và địch đều quyết tâm gây tiếng vang chiến thắng tại đây để làm áp lực cho hội đàm Pari. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tung hết các đơn vị thiện chiến vào khu vực này, không lực Mỹ đã tập trung hầu hết máy bay B52 và pháo hạm ngoài khơi bắn phá hỗ trợ cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa quyết tái chiếm Thành Cổ. Với diện tích nơi đây chưa đầy 4 ki-lô-mét vuông đã phải hứng chịu hàng vạn tấn bom đạn của chúng. Các lực lượng quân sự của ta cũng quyết tâm giữ vững bằng được khu vực này, nên Thành Cổ đã trở thành chỗ đọ vũ khí quân sự hiện đại, và cao nhất là đọ tinh thần chiến đấu của những người chỉ huy, những người lính chiến của cả hai bên. Qua đó chúng tôi phải tăng cường huấn luyện sẵn sàng cơ động cho chiến trường. Cả trung đoàn tổ chức bắn đạn thật bài 1 và bài 2 súng AK và ném lựu đạn thật. Các loại súng hỏa lực cũng được thực hành.
 Thao trường bắn cối 61 ly và cối 82 ly ngay chân núi Nưa chỗ đại đội tôi. Lần đầu tiên bắn cối thật hồi hộp vì chỉ sợ đạn nổ ngay tại nòng. Nhưng xạ thủ thả đến quả đạn thứ hai thì mọi người cũng quen tiếng nổ, không sợ như lúc đầu nữa. Từ nơi đặt cối đến mục tiêu ước lượng khoảng 800 mét, khẩu đội chúng tôi vào vị trí xạ kích. Anh Khoát hô khẩu lệnh rất bài bản. Tôi hô theo và chỉnh cự ly thước tầm kính ngắm theo khẩu lệnh, mọi người kiểm tra thật kỹ, anh Khoát hô: Bắn! Tuấn thả đạn vào nòng vuốt tay theo nòng súng đúng thao tác. Toong! Quả đạn bay vút lên trời cao rồi lúc lắc rơi xuống, cột khói bùng lên. Ầm! điểm nổ chưa trúng mục tiêu. Anh em tôi hội ý và quyết định bắn theo phương pháp sửa bao bọc, tức là khi thấy đạn đã trúng hướng nhưng cách xa qua mục tiêu thì sẽ ước lượng bắn quả thứ hai sao cho điểm nổ lùi hẳn lại dưới mục tiêu. Quả thứ ba sẽ là quả đạn chỉnh tăng thước tầm vào mục tiêu. Đúng như vậy, sau khi bắn quả đạn thứ hai, đạn dưới mục tiêu chúng tôi nhanh chóng hội ý tăng tầm bắn khoảng 70 mét. Lần này đạn nổ khói bốc lên gần cột hiệu mục tiêu. Tôi quan sát nhanh và nói: Đạn trúng mục tiêu đề nghị cho bắn cấp tập! Chúng tôi nhanh chóng chỉnh lại pháo và liên tiếp thả nốt hai quả đạn còn lại. Bài bắn được sử dụng 5 quả đạn. Đạn cối trúng mục tiêu không như đạn AK trúng vòng 9 vòng 10 mà chỉ cần đạn rơi nổ trong đường kính vòng tròn 30 mét là được, gọi là đạn trúng mục tiêu, hay mục tiêu bị tiêu diệt.
Xin nói thêm với các bạn về cách sửa chỉnh đạn cối thứ hai là cách chỉnh độ dung sai như sau: Khi thấy đạn nổ quả thứ nhất, ta ước lượng đạn vượt tầm hoặc hụt tầm hay sang phải sang trái bao nhiêu mét thì chỉnh tăng lên hạ xuống cho phù hợp. Chỉnh đạn theo cách này là người chỉ huy phải thật giỏi, vì ước lượng cự ly ở xa là rất khó, địa hình đồng bằng và địa hình đồi núi nhìn cũng có cảm giác khác nhau. Nên pháo binh thường hay chỉnh là sửa theo cách bắn bao bọc.
Hôm thực hành ném lựu đạn là hồi hộp nhất. Tôi cũng thấy hơi ngại mặc dù đã học kỹ về cách sử dụng lựu đạn chày và có người dẫn an toàn kèm ngay bên, nhưng khi tới vị trí có anh em run không dám rút chốt, “ tè ” cả ra quần. Có trường hợp anh em rút chốt lựu đạn, nghe nụ xòe nổ bép… một tiếng, thấy xì khói ở tay sợ quá không thao tác tiếp được nữa vứt ngay lựu đạn tại chỗ. Anh em dẫn an toàn phải nhặt ném đi và kéo nằm xuống. Qua kiểm tra tất cả các khoa mục đại đội tôi cũng như toàn tiểu đoàn, trung đoàn đều đạt thành tích theo yêu cầu. Có mấy trường hợp được thưởng phép vì bắn súng AK đạt 30 điểm.
Trung đoàn đã hoàn thành việc tổ chức bắn đạn thật. Hoàn thành kiểm tra các kỹ thuật chuyên môn thông tin, trinh sát, công binh. Như vậy sau gần hai tháng huấn luyện chúng tôi đã làm chủ được các loại vũ khí, khí tài, sẵn sàng tham chiến được ngay. Các đơn vị đi sâu vào học tập kỹ chiến thuật, chuẩn bị kế hoạch diễn tập hành quân tiến công các cứ điểm của địch, các kỹ thuật chốt phòng ngự và trận địa phòng ngự liên hoàn. Trung đoàn tổ chức diễn tập tiến công các cứ điểm của địch có sự giám sát của các sỹ quan tác chiến Quân khu và Bộ. Nơi tổ chức diễn tập là khu vực Rừng Thông, Quán Giắt thuộc huyện Triệu Sơn bên phía Bắc dãy núi Nưa gần khu vực mỏ Crommit. Lần diễn tập này có dùng cả đạn hơi và thuốc nổ lượng nhỏ. Đơn vị phải hành quân di chuyển vượt qua núi Nưa sang khu vực diễn tập thực binh cấp trung đoàn. Tình huống là trung đoàn có nhiệm vụ tiến công vào khu vực chi khu quân sự của địch, có hầm hào kiên cố được bảo vệ bằng nhiều hàng rào dây thép gai. Tình huống hàng rào dây thép gai đã được công binh phá bằng các giàn mìn định hướng còn sót lại hai lớp. Bộ đội phải phá hai lớp rào dây thép gai bằng bộc phá ống. Quân xanh do đại đội vận tải đảm nhiệm, đã làm giả các hầm hào ụ súng và lô cốt cùng các mô hình xe tăng, xe bọc thép phòng thủ.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:49:26 am

         Chúng tôi nhanh chóng nhận trang bị vũ khí, lương thực hành quân một ngày tới khu vực tập kết. Trong lúc bộ đội nghỉ ngơi giấu quân thì các cán bộ được trinh sát dẫn đường đi trinh sát thực địa. Hôm sau về tổ chức đắp sa bàn và tổ chức họp quân chính để hạ quyết tâm chiến đấu. Chiều tối chúng tôi gửi lại ba lô ở nhà dân (hậu cứ giả định) chỉ mang súng đạn bắt đầu hành quân đến khu vực tác chiến. Chín giờ tối mọi đơn vị đã áp sát mục tiêu và tiềm nhập sát cứ điểm địch. Sau khi pháo bắn và mìn định hướng đã nổ (giả định) còn hai lớp hàng rào đơn. Anh em ôm bộc phá lên đánh tiếp để mở cửa mở, rồi đồng loạt xông lên tiến công các mục tiêu như kế hoạch. Đạn AK là đạn hơi và thủ pháo lượng thuốc nổ nhỏ nhưng trận diễn tập có cảm giác như là  trận chiến thật. Tiếng mõ quay giả tiếng súng của quân xanh chống cự rất ác liệt, nhưng với sức mạnh tiến công như vũ bão, anh em nhanh chóng tiêu diệt và làm chủ các mục tiêu như dự kiến.
 Là diễn tập nhưng lại có hai trường hợp bị thương thật. Trường hợp thứ nhất là khi anh em lao lên, định bắt sống tù binh, thì một quân xanh không giơ tay hàng mà cầm đầu súng AK hất ra, lẽ ra thì không được bắn nhưng đồng chí Dự, trung đội một lại bóp cò, đạn nổ, không có đầu đạn nhưng hơi nổ của đạn cũng làm toét tay của quân xanh. Trường hợp thứ hai bị thương do sự cố một đồng chí bên đại đội 2 đánh bộc phá thế nào đó mà bộc phá vừa tung ra khỏi tay đã nổ ngay, lượng thuốc nổ tuy nhỏ, nhưng cũng làm bị thương đồng đội này.
Sau khi làm chủ các mục tiêu được lệnh nhanh chóng rời khỏi trận địa đề phòng máy bay và pháo binh địch đánh phá vào cứ điểm. Về tình huống này thì chúng tôi thêm một kinh nghiệm, khi liên lạc trung đội 3 truyền lệnh xuống cho anh em rời khỏi trận địa thì liên lạc lại truyền lệnh rút lui. Anh Cán trung đội trưởng nghe thấy chạy lên túm ngực liên lạc Thu, anh vừa chửi vừa nói: Đ… mẹ mày tao nói rời khỏi trận địa chứ tao nói rút lui đâu mà mày nói như vậy! Rút lui là thua chạy, còn rời khỏi trận địa là ta đã đánh thắng, rời về chỗ an toàn hiểu chưa?
Hai giờ đêm chúng tôi về tới nơi đóng quân, một đêm tập thật mệt. Sáng hôm sau được nghỉ ngay cạnh nơi đóng quân có dòng mương, nước chảy trong vắt anh em chúng tôi ra tắm giặt. Đang tắm, đang nô đùa thì thấy có một ông to béo khoảng độ 40 tuổi vận quần áo lính, khoác chiếc đài Orionton cùng hai lính trẻ đến và cũng cởi quần áo xuống tắm. Ông xoa xà phòng lên người rồi ngụp lặn xuống nước cho sạch xà phòng, nhìn chúng tôi ông hỏi: Các cậu ở đơn vị nào? Tôi nói tên phiên hiệu đơn vị, ông lại nói: Sao các cậu gầy bé thế? Ông nói tiếp: Thanh niên là phải chịu khó tập cho đùi nó to ra như tớ đây này mới khỏe, mới có sức mà chiến đấu chứ. Vừa nói ông vừa lấy tay vỗ đen đét vào cái đùi chắc nịch của ông. Ông không phải là người cao nhưng thân hình thì thật rắn chắc. Bắp chân, bắp tay nổi cuồn cuộn như lão nông dân. Tuấn xạ thủ số 2 khẩu đội tôi vốn tính hay nghịch ngợm, cũng hay nói về võ vẽ đánh nhau liền nói: Bé, nhưng bé hạt tiêu, khỏe là được nhưng to mà béo phệ như ông thì cũng chẳng làm được gì ai! Cứ vật nhau cái là biết. Hai cậu bộ đội trẻ nhìn chúng tôi như ý nói gì đó, còn người lớn tuổi thì cười nói: Các cậu biết vật nhau à? Tuấn lại nói: Vật thì ai chẳng biết, ông có thử tí không? Ông lớn tuổi cười nói: Ừ! cũng hay đấy mình thử tí nhé. Tuấn đồng ý nói: Ừ, thì vật thử tí nhưng ngã đau ông đừng bắt đền tôi đấy nhé! Ông lớn tuổi nói: Được rồi, có mọi người ở đây chứng kiến, tớ có đau cũng không bắt đền cậu đâu! Tuấn lên bờ và ông lớn tuổi cũng ra vị trí bãi trống ngay cạnh mương. Mọi người xúm lại xem, ông từ từ đi ra động tác có vẻ chậm chạp. Tuấn hỏi: Xong chưa? Ông lớn tuổi nói: Xong rồi! Nói rồi ông hơi thấp người xuống. Tuấn rất nhanh nhẹn lao vào bắt cổ chân ông kéo mạnh. Nhưng nắm được cổ chân rồi mà kéo mãi ông vẫn đứng trơ ra. Rồi ông bất ngờ vặn người sang phải, nhanh như cắt vặn người sang trái, vươn tay nắm chặt cổ chân của Tuấn xách ngược lên. Tuấn như con ngóe bị xách, kêu ối ối ầm ỹ. Ông nhẹ nhàng thả Tuấn xuống rồi nói: Sao, có thử tí nữa không? Tuấn chưa bình thường trở lại, nói: Thôi em thua! Lúc này ông mới nói: Tớ vui với các cậu thôi, tớ là trung tá Vũ Trường Long, chính ủy trung đoàn về đây xem các cậu diễn tập. Mọi người ngỡ ngàng lo sợ, tất cả nói lời xin lỗi chính ủy.
Đúng là lần đầu tiên được gặp, được biết chính ủy trung đoàn lại trong tình cảnh này. Ông là người mà trong trung đoàn mọi người hay nói, hay kể, ca ngợi về trình độ võ nghệ của ông. Có những giai thoại như: Ông là dân Hà Bắc trong một gia đình có truyền thống võ thuật. Cụ thân sinh ra ông là thầy dạy võ nổi tiếng của khu vực. Ông có hai anh em trai. Hồi ông mười lăm hay mười sáu tuổi gì đó, một buổi tối sau khi tập võ xong ông bố hướng dẫn cho hai người con thực chiến, người anh hơn ông hai tuổi. Sau một hồi đấm đá với những miếng võ gia truyền, ông bị ngã ngửa ra sau, người anh theo đà nhảy lên đè người em. Mặc dù đang ngã ngửa, theo phản xạ ông co chân và đạp ngược lên, cú đạp mạnh không may trúng luôn bộ hạ người anh, hất người anh bay lên và cắm đầu xuống đất kêu hự một cái rồi bất động. Miếng đánh phản đòn quá mạnh, quá hiểm không thể cứu được người anh. Ông rất sợ, bà cụ thì chạy ra kêu khóc ầm ỹ, nhưng ông cụ thì rất bình thản nói: Anh nó chết rồi không thể cứu được. Nó là anh không thắng được em thì phải chấp nhận, nó không chết trận đấu này với em thì ra đời cũng sẽ bị chết dưới tay người khác. Con nhà võ thì phải chấp nhận như vậy.
Chuyện thứ hai mọi người hay kể là khoảng năm 1968 khi ông đã là tiểu đoàn trưởng tiều đoàn súng cao xạ đóng quân tại huyện Thụy Anh, Thái Bình. Giai đoạn này máy bay Mỹ tạm ngừng bắn phá các tỉnh phía Bắc. Huyện có tố chức đấu vật. Rất nhiều đô vật tham gia khi đến vòng chung kết, một đô vật đã thắng, nhưng theo thể lệ thì đô thắng vẫn khoác áo, thắt đai đỏ ngồi ghế chính để đón chờ thách đấu. Sang tới ngày thứ ba, ngày cuối cùng của hội, biết tin có hội vật, ông đến và xin với ban tổ chức cho tham dự thách đấu. Theo thủ tục, người xin đấu phải đấu vật với người giải nhì trước đã nhưng ông cứ xin đấu với người thắng cao nhất. Sau khi biết ông là bộ đội đóng quân tại huyện thì mọi người cũng đồng ý cho ông thi đấu với ngươi số một, người đã thắng tất cả các đô vật khác. Ông mặc cái quần đùi xanh bộ đội. Ban tổ chức đưa cho ông thắt lưng màu xanh. Đai bụng màu đỏ dành cho người đang vô địch. Vào sân ông mặc chiếc áo xanh cổ vuông của bộ đội. Mọi người yêu cầu ông cởi áo ra, theo luật vật nhau không được mặc áo. Lưỡng lự một lúc rồi ông cũng cởi áo lót xanh của bộ đội ra thì mọi người ồ lên vì sau lần áo xanh của ông là một áo thun trắng bó chặt lấy thân hình vạm vỡ cồn lên từng múi bắp có hàng chữ vàng thêu trên áo: “Vô địch Miền Bắc”. Cả khán trường sôi động hẳn lên, hóa ra đây là đô vật đã là nhà vô địch miền Bắc năm 1967. Mãi một lúc sau ban tổ chức mới lập lại được trật tự. Tiếp đến là người vô địch sới thách đấu từ chối không giám đấu với ông. Nhưng ông nói với ban tổ chức và mọi người là ông xin đấu vật không phải để lấy giải mà chỉ là cùng nhau biểu diễn võ, cùng học tập võ vật phục vụ hội vật thôi. Sau khi mọi thành viên trong ban tổ chức động viên cả hai cũng có trận vật biểu diễn. Vào xới hai đô vật làm động tác se đài truyền thống, mỗi đô có cách se đài riêng thể hiện đẳng cấp của mình. Ông cũng làm động tác se đài chào mọi người nhưng động tác se đài thật hiếm có. Hai tay ông múa những động tác rất đẹp. Chân trái ông nhảy cò cò tiến về phía trước vòng quanh sân. Chân phải ông duỗi thẳng ra sau, mũi bàn chân như chiếc lưỡi cầy cắm xuống nền sới vật. Đất sới vật được cày lên thành rãnh theo nhịp tiến của chân trái, mọi người ồ hết cả lên thán phục cách se đài có một không hai của ông. Sau ba keo vật ông là người chiến thắng và dân Thụy Anh được xem màn biểu diễn có một không hai của hội vật năm ấy.
Ngồi chơi với chúng tôi một lúc ông nói: Các cậu còn trẻ thể lực còn phát triển nhiều nhưng phải tập. Đơn giản nhất là mỗi buổi tối trước khi đi ngủ các cậu nằm ngửa và đạp hai chân vào không khí, cứ đạp đến khi nào mỏi thì thôi, nhưng vừa đạp vừa đếm để biết số lần đạt được, để lấy mốc hôm nhau đạp được nhiều hơn, chỉ một thời gian là bắp chân của các cậu cũng sẽ to như chân tớ, thế là vừa nói ông vừa vỗ vỗ đen đét vào đùi ông, cái đùi to, chắc như cột gỗ lim. Đến bây giờ cậu công vụ của ông mới nói, em định giới thiệu với các anh nhưng chỉnh ủy không cho nói. Chính ủy sáng nào cũng dậy từ bốn giờ tập võ, đi quyền. Cái đế cối 82 ly nặng gần hai chục ký úp xuống đất mà chính ủy chỉ dùng 3 ngón tay kẹp vào núm đế rồi nâng lên hạ xuống như mình cầm quả trứng. Có lần đi qua suối, chính ủy ngồi xuống ngửa hai tai ngang vai nói hai chúng em đứng lên bàn tay và ông từ từ đứng dậy mang cả hai chúng em qua suối.
         Lúc này đã là cuối tháng 10 năm 1972, trời về thu tiết trời se lạnh. Ở vùng rừng núi cái lạnh như đến sớm. Dịp này máy bay Mỹ đánh phá ác liệt hơn. Tối chúng tôi lên đồi nhìn về phía biển thấy những vệt đạn pháo từ hạm đội của Mỹ bắn vào đất liền. Máy bay Mỹ quần đảo liên tục, khu vực cầu Chuối đường 1 và đường số 15 là những mục tiêu vô cùng quan trọng. Tối nào cũng thấy máy bay ném bom và thấy đạn phòng không của ta bắn máy bay đỏ rực trời. Khu vực chúng tôi đóng quân thì không có mục tiêu quan trọng để chúng quan tâm. Nhưng một sáng, tự nhiên thấy máy bay bay rất nhiều, chúng bay qua khu vực của tiểu đoàn tôi và khu vực trung đoàn đóng quân. Chúng quần đảo liên tục, đánh bom, bắn đạn 20 ly vào những khu vực dân cư quanh chân núi Nưa. Tình hình có vẻ vô cùng căng thẳng. Chúng tôi phải ngừng học tập và tăng cường đào hầm ẩn nấp tránh bom. Một ngày rồi hai ngày máy bay chúng quần đảo càng nhiều. Chúng bay từng tốp hai cái, bay rất thấp gầm thét như làm rách toang cả bầu trời, có những lúc chúng bay thấp nghiêng ngó đến độ nhìn được cả thằng lái. Chiều ngày thứ hai tình hình còn căng thẳng hơn khi chúng dùng cả bom lân tinh đánh phá vào khu vực dân cư nơi có đại đội 1 đang đóng quân. Một số người dân đã bị chết và bị thương. Dân nơi đó và cả đại đội 1 cũng phải hành quân sơ tán khỏi khu vực.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:51:18 am

           Là đơn vị bộ binh đang huấn luyện để đi chiến trường, chúng tôi không có nhiệm vụ đánh máy bay. Nhưng trước tình hình đó, đại đội 4 súng 12 ly7 được lệnh lên đồi đón đánh máy bay bay thấp. Anh em khẩn trương đào công sự nghênh chiến. Khoảng một giờ chiều khi máy bay bay qua, khẩu 12 ly7 vừa kéo bắn được hai loạt thì rầm rầm những chiếc máy bay khác đã phát hiện mục tiêu, chúng bắn tên lửa và đạn 20 ly trúng khẩu đội. Hai đồng chí hy sinh. Đồng chí Uy trung đội trưởng và đồng chí Tính lính mới quê Hưng Hà, Thái Bình. Ba đồng chí khác bị thương trong số bị tương có cả chính trị viên đại đội 1, khi họp đảng ủy tiểu đoàn về thấy anh em đánh máy bay tiện đường lên động viên anh em và bị thương. Trong số bị thương hôm đó có đồng chí Hướng hiện sống tại xã Tự Tân, Vũ Thư, Thái Bình.
          Đại đội tôi cũng triển khai một khẩu trung liên lên đồi để sẵn sàng đánh máy bay. Khẩu đội trung liên của trung đội 1 trực tiếp do thượng sỹ Nguyễn Phi Yến trung đội phó chỉ huy với mệnh lệnh khi nào có lệnh thì mới được bắn, nên hòm đạn súng trung liên mang lên trực chiến chưa được lệnh mở. Khi lên trận địa máy bay bay thấp nhiều, đồng chí Yến lệnh cho anh em phá hòm đạn, lấy đạn bắn máy bay bay thấp. Khẩu đội bắn được mấy loạt thì liên lạc chạy lên báo không được bắn để giữ bí mật nơi đóng quân. Cũng do sự việc mở hòm đạn niêm cất khi chưa có lệnh mà sau sự việc trên đồng chí Yến bị kiểm điểm mãi với lý do trên.
             Đồng chí Nguyễn Phi Yến sau trưởng thành là trợ lý tổ chức cùng kỳ với đồng chí Ngô Xuân Lịch, Đại tướng bộ trưởng bộ quốc phòng. Qua nhiều chức vụ, đồng chí là đại tá chính ủy tỉnh đội Hưng Yên. Hiện anh đang nghỉ hưu sống tại Mỹ Đình, Hà Nội.
Tình hình vẫn rất căng thẳng, chiều tối ngày thứ hai, cường độ hoạt động của máy bay vẫn không ngớt. Tất cả phải xuống hầm tránh máy bay. Có lệnh chuẩn bị đi sơ tán khỏi khu vực. Đến chiều tối trung đoàn và huyện đội, tỉnh đội Thanh Hóa phán đoán là có khả năng hoạt động của máy bay không phải là nhằm vào các đơn vị bộ đội đang huấn luyện, mà có thể là tình huống có phi công nhẩy dù xuống khu vực này. Tối, tỉnh Thanh Hóa điều đến gần đơn vị tôi bốn khẩu pháo phòng không 37 ly gấp rút làm công sự để phục kích đánh máy bay. Trung đoàn cử mấy tổ trinh sát lên núi tìm phi công. Sang sáng ngày thứ ba, ngay từ sớm máy bay các loại của chúng ào ào xuất hiện tìm diệt các mục tiêu phòng không của ta. Các loại bom và đạn 20 ly bắn rải quanh chân núi. Lúc này thì tỉnh đội và trung đoàn khẳng định là có phi công trên núi và chúng đang tìm cách cứu phi công.
 Khoảng tám giờ sáng chúng tôi vẫn ẩn nấp dưới hầm, tôi ở phía ngoài cửa hầm quan sát máy bay thấy chúng bay thấp quá như là bay sạt xuống ngọn cây. Cầm khẩu AK báng gấp tôi nói với anh Tấn tiểu đội phó cũng đang ngấp nghé quan sát: Để em bắn cho nó mấy loạt, nó bay thấp quá! Anh Tấn ngập ngừng rồi nói: Phải bắn trúng đấy nhé! Tôi nói: Anh yên tâm! Vừa dứt lời thì một tốp 2 chiếc máy bay ào qua, tôi nhằm một chiếc và điểm xạ mấy loạt. Vừa đến loạt thứ ba thì uỵch một hòn đá đồi rơi ngay cửa hầm kèm theo là câu chửi: Đ… mẹ mày, ai cho mày bắn, lộ mục tiêu chết hết bấy giờ. Quay về hướng chửi, thôi chết cha, đại đội trưởng Nghẹ với khuôn mặt hốt hoảng, tay còn cầm hòn đá nữa đang định ném tôi. Lúc này tôi sợ ông thực sự. Tôi nói, thôi chết rồi, đại đội trưởng. Anh Tấn thì nói: Có thấy máy bay rơi không? Đại đội trưởng chạy đến quát: Ai cho mày bắn máy bay. Tiểu đội trưởng Khoát đâu? Anh Khoát ở hầm bên ló đầu lên nói: Có tôi! Đại đội trưởng nói: Ai cho chúng mày bắn máy bay, lộ mục tiêu nó ném bom chết hết bây giờ! Họp ngay! Tối họp kiểm điểm ngay! Rồi đại đội trưởng bỏ đi sang nơi khác. Trước thái độ giận dữ của đại đội trưởng, tôi rất lo lắng. Cũng không nghĩ là việc bắn máy bay mà lại làm ông hốt hoảng và cáu gắt như vậy.
Chúng tôi vẫn ở dưới hầm. Bom đạn trút xuống nhiều hơn, các loại bom nổ ầm ầm hòa cùng tiếng máy bay ào thét điên cuồng làm cho không gian thật nóng bỏng. Rồi tự nhiên thấy khói, khói nhiều quá dầy đặc tạo thàng bức tường trắng lan đến chỗ hầm, làm chúng tôi chẳng nhìn thấy gì. Khoảng mười phút sau khi khói tan đi hết thì tiếng máy bay cũng im ắng hẳn, không gian trở lại tĩnh lặng như thường. Lệnh báo yên chúng tôi lên hầm, về nhà ở, nhưng ai cũng bàn tán về trận bom đạn vừa qua và khói ở đâu mà nhiều thế?
Sau đó chúng tôi được biết là có một máy bay bị bắn rơi, tên phi công Mỹ nhảy dù xuống bãi mía phía bắc dãy núi Nưa bị gãy chân, nhưng được một người dân ở đó theo đạo Thiên Chúa đã giúp đỡ cất giấu dù, đưa tên phi công lên đỉnh núi. Tên phi công liên lạc với hạm đội 7 và chúng tổ chức tìm kiếm ở khu vực này. Trận bom đạn ác liệt lúc 9 giờ ngày thứ ba của cuộc tìm kiếm thực chất là bom và đạn giấy chỉ gây tiếng nổ hòng uy hiếp mọi người. Lúc khói nhiều là do chúng bắn đạn khói quanh khu vực đó che mắt mọi người để chúng đưa trực thăng đến thả thang dây cứu được tên phi công. Các trinh sát trung đoàn đã tiếp cận gần đến khu vực có tên phi công ẩn náu nhưng bị chúng phát hiện, chúng bắn đạn 20 ly làm đồng chí Phạm Minh Hồng hy sinh, hai đồng chí bị thương. Trận địa phòng không 37 ly của tỉnh do chủ quan thế nào đó mà trước sự manh động hung hăng của máy bay cũng không bắn được loạt đạn nào.
Không bắt được phi công mà lại để chúng cứu thoát là một thất bại của các lực lượng quân sự và phòng không của ta. Việc này các cấp phải kiểm điểm rất nặng. Sau này được biết với chiến thắng cứu được phi công trong đất Thanh Hóa, quân lực Việt Nam Cộng hòa có sáng tác bài ca chiến thắng núi Nưa.
Mọi hoạt động đã trở lại bình thường. Chúng tôi chưa phải học tập mà tập trung củng cố hầm hào. Các tiểu đội, trung đội họp, tiểu đội tôi cũng họp rút kinh nghiệm, ngoài ra còn có nội dung thứ hai là tổ chức kiểm điểm về việc tôi đã tự ý bắn máy bay. Cuộc họp diễn ra từ sáng, rất nhiều người phát biểu phê bình và nâng quan điểm về hành động vô kỷ luật đó. Sau khi đồng chí Khoát tiểu đội trưởng nói về việc chỉ đạo của đại đội việc tôi vi phạm kỷ luật tự động bắn máy bay. Anh Lê Văn Thê nguyên là thầy giáo dạy văn tại trường thiếu niên miền Nam, quê anh ở Quảng Trị phê bình tôi gay gắt nhất. Anh nâng quan điểm nào là hành động vô kỷ luật của tôi nếu làm lộ mục tiêu thì máy bay nó ném bom, có thể dẫn đến hy sinh nhiều người gây tổn thất nặng nề. Sau này vào chiến đấu cũng vậy, nếu không giữ nghiêm kỷ luật thì sẽ gây tổn thất lớn, thậm chí dẫn đến thật bại của cả trận đánh v.v… Và anh đề nghị kỷ luật tôi thật nặng.
Anh Tấn, anh Thỉnh có ý bênh tôi thì lại nói: Đúng là đồng chí Phú bắn máy bay khi chưa có lệnh là vô kỷ luật. Nhưng phải nói đồng chí Phú là người vô cùng dũng cảm, khi mọi người xuống hầm ẩn nấp thì đồng chí ấy vẫn hiên ngang “nhằm thẳng quân thù mà bắn”, như câu khẩu hiệu và tấm gương dũng cảm chiến đấu của anh hùng Nguyễn Viết Xuân. Hành động của đồng chí Phú cần phải tuyên dương cho mọi người học tập về ý chí chiến đấu dũng cảm, thể hiện căm thù bọn đế quốc Mỹ xâm lược. Cứ như vậy cuộc họp được chia làm hai phe, một phe đòi kỷ luật tôi thật nặng, còn một phe là đòi đề nghị khen thưởng tôi. Anh em trẻ thì không ai phát biểu gì mà chỉ có mấy đồng đội  có trình độ đại học, ba ông thầy giáo tranh cãi nhau. Đến khi anh Thê nâng quan điểm thêm lần nữa và nói rất gay gắt về ý thức tự do vô kỷ luật sẽ gây bao tổn hại khó lường, ý thức của người lính là nhất nhất phải chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy, nên phải đề nghị cảnh cáo tôi. Đến lúc này anh Tấn nói thêm: Tôi hỏi các đồng chí một câu: Nếu hôm qua mà chiếc máy bay đồng chí Phú bắn trúng bị cháy, bị rơi, phần thưởng máy bay rơi là một con bò. Nếu giết bò thưởng thì các đồng chí có ăn không? Câu hỏi rất khôi hài và thực tế, làm mọi người ồ lên cười và không ai nói gì nữa.
 Hồi đó trong những câu chuyện về chiến công bắn máy bay của Thanh Hóa, chiến thắng Nam Ngạn Hàm Rồng của các cụ phụ lão dùng súng trường bắn rơi máy bay Mỹ. Chiến công này được nhạc sỹ sáng tác bài hát nổi tiếng: “Hoan hô các cụ dân quân” có câu: “Tin vui bay khắp nơi, các cụ vừa hạ thêm chiếc nữa rơi” mọi người chế vui câu hát thành: “Huân chương không lấy đâu, các cụ bảo nhận con trâu dễ chia”. Thế là cuộc họp chẳng đi đến đâu. Anh Khoát tiểu đội trưởng kết luận sẽ báo cáo nội dung cuộc họp lên đại đội và tùy đại đội quyết định.
Sau sự kiện phi công Mỹ nhảy dù và được giải thoát tại khu vực núi Nưa ngay cạnh một trung đoàn đóng quân. Mặc dù nhiệm vụ của trung đoàn là huấn luyện để đi chiến trường không có nhiệm vụ đánh máy bay, song đây cũng vẫn là bài học về mất cảnh giác, sự cứng nhắc của chi huy trung đoàn. Súng 12 ly7 là súng phòng không cùng các súng đại liên vẫn có thể bắn máy bay bay thấp, đặc biệt là súng ĐKZ có thể bắn máy bay trực thăng khi nó xuống thấp khi thả thang dây cứu phi công. Thấy việc bố trí quân không hợp lý, phía Bắc dãy núi Nưa không có đơn vị nào đóng quân. Trung đoàn sắp xếp lại đội hình, điều một tiểu đoàn sang đóng quân tại phía Bắc dãy núi Nưa. Theo kế hoạch, tiểu đoàn 1 có lệnh chuyển sang đóng quân phía Bắc núi. Các đại đội trong tiểu đoàn cử tiểu đội 10, trực tiếp có đại đội phó đi tiền trạm xây dựng cơ sở vật chất để cho đơn vị sang đó. Tiểu đội tôi được lệnh hành quân di chuyển. Theo lệnh, sau khi ăn cơm sáng, 10 giờ xuất phát hành quân và có cơm nắm cho bữa trưa. Lệnh chuyển quân cũng bất ngờ. Anh Khoát sau khi nhận kế hoạch về họp thông báo việc hành quân di chuyển. Anh Tấn bàn là tới 10 giờ mới hành quân có ý muốn liên hoan chia tay với gia đình chủ. Mấy đồng đội nghĩ ngay đến việc sẽ làm bữa thịt chó. Mọi người góp tiền và cử luôn Nhiên và Đảng biết nơi có chó bán để mua. Số quân ở lại ngoài việc chuẩn bị quân tư trang cá nhân và lên quản lý nhận lương thực, thực phẩm cho di chuyển còn cử người lên đồi đào giềng, xin mẻ, mua mắm tôm hái lá mơ. Giềng thì trên đồi rất sẵn, mẻ và mắm tôm cũng dễ kiếm. Bếp được gầy luôn ở cạnh nhà, đặt nồi nước sôi và chuẩn bị dao thớt cho việc hành quyết chó để liên hoan như kế hoạch.
Mãi 9 giờ hai đồng đội mới mang được chó về. Thời gian có vẻ gấp nhưng với tay nghề của Đảng và Nhiên là những người vùng quê có truyền thống giết lợn trộm thì thao tác rất nhanh. Giềng mẻ mắm tôm đã đủ, lá mơ làm dồi cũng đã được thái sẵn. Mọi người nhất trí là chỉ làm món lòng luộc và thịt chó pha ra luộc hết cho kịp thời gian. Nhưng cũng rất vội, đến 10 giờ kém 15 mà dồi luộc sau khi châm kiểm tra vẫn còn nước đỏ. Đun tiếp 5 phút nữa anh Khoát quyết định vớt tất cả ra dội nước lạnh cho nguội. Thịt để lại cho nhà chủ một phần còn thái to mang đi. Dồi chó cũng được cắt ra mỗi người một khúc khoảng 20 cm cùng phần tim gan, ai nấy nhét vội vào ăng gô, vừa xong chưa kịp thưởng thức thì liên lạc đại đội xuống báo hành quân di chuyển.
Sau khi đại đội trưởng Nghẹ giao nhiệm vụ tiền trạm cho tiểu đội xong. Đồng chí đại đội phó Sáu hứa với đại đội sẽ cùng tiểu đội 10 làm tốt nhiệm vụ hành quân, đến vị trí mới chuẩn bị cơ sở vật chất cho toàn đại đội di chuyển đến là có bếp, có kho, có giếng nước để dùng. Trời lất phất mưa, chúng tôi lên đường đi về hướng Mậu Lâm cắt vào đường 15B qua cổng Trời sang bên kia dãy núi. Mấy tháng trước từ ngoài vào chúng tôi cũng vượt dốc này. Hôm nay chúng tôi vượt dốc để ra phía Bắc. Dốc núi đất thật cao. Hôm nay như vậy là ngoài quân, tư trang, súng đạn, gạo và các thực phẩm lĩnh ở quản lý, trong hành trang mỗi người còn có tảng thịt chó và phần lòng chó còn nóng hổi tỏa hương ra thơm phức. Mặc dù mang vác rất nặng, đường trơn khó đi nhưng không ai thấy mệt. Ai cũng háo hức đi cho nhanh, mong đến trạm nghỉ ăn trưa để thưởng thức bữa thịt chó có một không hai này. Đại đội phó Sáu phát hiện mùi lạ, anh hỏi: Sao có gì thơm thơm như mùi thịt chó vậy các cậu? Anh Khoát kể về việc thịt chó, ý định liên hoan với gia đình chủ nhưng vội quá nên để phần lại cho nhà chủ và mang đi theo. Đại đội phó nói vui: Vậy tý nữa nghỉ là tớ cũng được thưởng thức rồi.
Khoảng gần 1 giờ trưa thì chúng tôi lên được đến đỉnh dốc. Lệnh dừng lại giải lao và ăn cơm trưa. Mọi người háo hức hạ ba lô, ai cũng lôi cái ăng gô có món lòng dồi ra ăn cùng cơm nắm. Anh Khoát nói nhỏ với mọi người, san sẻ lòng dồi cho nhóm đại đội phó, liên lạc và y tá. Đỉnh đốc cao gió lồng lộng thổi, trời vẫn mưa. Tuy rằng mưa không to nhưng vẫn phải khoác áo mưa ngồi lên thân dây leo to bò dưới đất mà thưởng thức bữa tiệc lính đặc biệt này. Gia đình tôi không có truyền thống ăn thịt chó nhưng vào bộ đội thì kiêng sao được. Tôi cầm khúc dồi cắn, dồi chưa chín hẳn, nên dai lằng nhằng, vẫn còn màu hồng hồng của tiết. Tôi rùng mình không dám ăn nữa đưa cho Sắc. ( Đinh Hồng Sắc mới được điều về thay anh Trạch được điều lên trinh sát tiểu đoàn). Sắc thì ăn ngấu nghiến khen ngon và nói: Đúng là dân thị xã, dồi chó ngon thế này mà không ăn. Tôi nói: Ở nhà tớ cũng không ăn bao giờ, vả lại lòng luộc chưa chín nên thấy kinh. Cơm xong, được nạp năng lượng, khí thế hẳn lên, ai nấy sôi nổi chuyện trò ầm ỹ. Mọi người lấy thuốc lá ra mời đại đội phó. Chính bật lửa cho đại đội phó châm thuốc sau đó châm cho Sắc. Anh tắt máy lửa đi và nói kiêng không châm 3 người. Đại đội phó nghe vậy anh cười hỏi: Các cậu có biết sao lại kiêng châm 3 người không? Mọi người đều nói vì 3 người là số lẻ kiêng hay xui xẻo, chụp ảnh 3 người cũng thế thường hay có người chết. Đại đội phó nói có vẻ cũng đúng một phần thôi. Lý do kiêng châm thuốc 3 người thực chất nó có tính khoa học thực tế là như thế này. Khi người lính ở trận địa hay ở chốt tiền tiêu mà châm thuốc lá, trinh sát địch thấy lóe lửa lên nhìn thấy, nhưng với thời gian của người châm thứ nhất là rất ngắn , đến người châm thứ 2 cũng vậy. Nếu cứ để ngọn lửa đấy mà châm cho người thứ 3 thì đối phương kịp lấy đường ngắm chuẩn và bắn gây thương vong. Chính vì vậy nên mọi người hay nói châm thuốc cho 3 người là xui xẻo. Sau này, từ hiện tượng đó nên mọi người hay kiêng chụp ảnh 3 người và nhiều việc khác kiêng nữa, thậm chí có câu: “Tam nhân bất đồng hành” là như vậy. Chúng tôi reo lên thích thú, câu chuyện tại nơi nghỉ giải lao giữa đỉnh dốc của đại đội phó mà cho chúng tôi hiểu biết thêm vấn đề kiêng cữ có tính khoa học này.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Ba, 2022, 10:52:58 am

         Đội hình tiếp tục lên đường, đến 16 giờ thì tới nơi quy định. Cả nhóm tiền trạm ở hai nhà, ban chỉ huy ở một nhà còn cả tiểu đội tôi ở một nhà. Đây là khu vực phía Bắc chân núi Nưa. Dân ở đây là người gốc quê Nam Hà di cư vào khai hoang lập làng năm Ất Dậu 1945. Ở đây đã lâu nên nhà cửa làng mạc rất trù phú, nếp sống nếp nhà cũng giống như tập tục ngoài Bắc. Nhà xây 4 gian lợp lá gồi sạch sẽ ngăn nắp. Đằng trước có sân gạch, vườn rau cải, su hào tốt xanh, phía trước cửa bếp cũng có một giếng nước xây. Chúng tôi ở tại nhà ông bà chủ khoảng 50 tuổi. Đặc biệt là nhà toàn con gái với những tên gọi vần T. Con gái lớn tên là Thịnh đã lấy chồng, người con gái tiếp là Thảo, Thược, Thung, Thinh. Mấy chị em sàn sàn nhau. Thinh là út năm nay khoảng 13 tuổi. Ông kể có người con trai đi bộ đội và đã hy sinh năm 1970. Gia đình chủ và mọi người thấy chúng tôi đến đóng quân và biết đơn vị cũng sẽ đến nên dân rất vui. Họ nói ở vùng này rất hiếm bộ đội đóng quân, nhất là bộ đội toàn người Thái Bình gần gũi với quê hương của họ. Thinh thì nhanh chóng đun nước hãm chè xanh cho bộ đội. Nhiên và Hà tranh nhau vào bếp đun nước, chuyện trò dân vận với hai cô gái. Thịt chó được tập trung và chế biến lại, một phần vẫn là luộc, một phần xin thêm nguyên liệu nấu rưạ mận. Sau khi chia phần cho ban chỉ huy đại đội chúng tôi có bữa tiệc thịt chó thịnh soạn liên hoan cùng gia đình nhà chủ mới, ông bố bảo con gái đi mua hai chai rượu trắng về thết đãi anh em chúng tôi, bữa cơm thật vui.
Tối đến, anh Khoát đi nhận nhiệm vụ về họp tiểu đội. Như vậy là chúng tôi không được nghỉ ngơi và sáng hôm sau mọi người bắt tay ngay vào việc đào giếng nước, đi rừng lấy tre hóp và cây làm khung nhà, cắt tranh lợp nhà kho, nhà bếp, đào bếp Hoàng Cầm. Như vậy là công việc rất nhiều và gấp gáp. Theo kế hoạch 5 ngày nữa là đại đội hành quân đến phải có mọi thứ sử dụng được ngay. Tôi được phân công vào nhóm đi vào rừng lấy tre hóp. Trên sườn đồi các bụi tre hóp rất nhiều, tre hóp không to, mọc thành từng bụi, mỗi cây như những chiếc cần câu, thân tre hóp mỏng như nứa, rất tiện cho việc làm dứng trát vách nhà, vách bếp. Đi lấy cây lấy tre thì không khó nhưng núi đồi ở đây là núi đất đỏ rất trơn. Trong khi giầy của tôi và mọi người đều đã rách không sử dụng được. Chúng tôi phải đi dép cao su vào rừng và như vậy là rất trơn, rất khó đi. Buổi sáng chúng tôi cũng lấy được mỗi người một bó hóp mang về, chân tôi bị trượt dép và bị gốc cây hóp chọc vào bật cả máu. Tôi kể về việc đi dép bị trơn với ông bố, phàn nàn là giầy không có. Ông bố không nói gì lẳng lặng vào trong buồng mang ra đôi giầy vải bộ đội đã cũ, ông nói: Con lấy đôi giày này mà dùng tạm chắc vừa chân. Tôi nói: Ô! Sao bố có giầy mà bố không đi? Ông nói: Bố cất lâu rồi con cứ dùng đi chứ để lâu rồi nó cũng tự mục mất. Tôi vui mừng cảm ơn và đi thử, giầy thật vừa, như vậy là chiều nay đi rừng không sợ trơn trượt nữa. Trong lòng thầm cảm ơn ông bố thật tốt bụng.
Công việc rất nhiều, rất bận rộn, để đảm bảo thời gian theo kế hoạch, chúng tôi không được nghỉ trưa mà tối muộn mới được nghỉ. Thấy chúng tôi lao động vất vả, gia đình chủ nhà và bà con hàng xóm rất thương. Có ông bố và mấy người dân trong xóm đến cùng làm giúp chúng tôi. Ngoài phục vụ nước uống nhà chủ và dân cho chúng tôi thêm khoai sắn và các thức ăn như cá và cua nấu canh rau cải. Tối vui vui ông còn sai con gái rang lạc, mua rượu cùng chúng tôi nhâm nhi. Sang ngày thứ tư, mọi việc tiến hành hết sức tốt đẹp, công việc có vẻ hòm hòm. Giếng đã có nước, nhà kho nhà bếp gần hoàn tất thì có lệnh dừng lại không tiếp tục triển khai nữa, mà ngày mai quay trở về nơi đóng quân cũ. Mọi người hẫng hụt. Ông bố, bà mẹ cùng nhân dân rất buồn, đặc biệt là mấy cô con gái nhà chủ thì buồn ra mặt. Hai cô gái út khi biết tin chúng tôi không ở đây nữa thì òa khóc.
Chiều tôi giặt đôi giầy hong khô để trả lại ông. Anh Tấn nói sao Phú không hỏi mua lại đôi giầy mà đi cho đỡ đau chân. Tôi nghe có lý và cũng nói với ông về việc đó. Trầm ngâm một lúc rồi ông nói: Lẽ ra thì bố cho con cũng được. Nhưng đây là di vật của anh con hy sinh, khi làm lễ truy điệu, đơn vị giao lại di vật cho gia đình, đôi giầy là một trong những di vật đó nên bố cũng không dùng chỉ cất giữ làm kỷ niệm. Tôi thật bất ngờ và vô cùng cảm động khi biết chuyện đó. Đôi giầy tôi sử dụng mấy hôm nay không phải là đôi giầy bình thường mà là vật thiêng liêng của gia đình, là di vật của liệt sỹ. Nghẹn ngùng không nói thêm được gì, tôi cảm ơn ông bố cùng gia đình đã giúp chúng tôi rất nhiệt tình trong mấy ngày qua. Đặc biệt là chuyện đôi giầy vải này làm tôi rất nặng lòng cảm phục và cảm động. Chuyện đôi giầy vải kỷ niệm tình quân dân cá nước sâu nặng nghĩa tình này, là hành trang tinh thần thật quý theo tôi trong suốt đời quân ngũ và theo mãi trong ký ức đến tận bây giờ.
Sáng hôm sau chúng tôi chia tay gia đình nhà chủ, chia tay những người dân hiền lành tốt bụng cùng những tình cảm lưu luyến sâu nặng, ngược đường về phía Tây của dãy núi Nưa.
Trở lại vị trí đóng quân cũ hơn chục ngày, đại đội lại di chuyển đóng quân tại Xã Thăng Bình, huyện Nông Cống. Không biết là những di chuyển đóng quân các địa bàn ý nghĩa thế nào của các chỉ huy. Thăng Bình thuộc huyện Nông Cống là đồng bằng nhưng cũng có những núi đá và rừng cây. Dân ở đây rất nghèo, có câu ca: “Được mùa Nông Cống thì sống mọi nơi”, ý nói ở vùng này cấy hái làm nông nghiệp rất khó. Khẩu đội tôi ở nhà một anh chị anh làm nghề cắt tóc. Chị thì mới sinh cháu được ít ngày. Gái đẻ mà đến cơm ăn cũng không đủ, mỗi bữa chỉ có lưng bát cơm độn khoai. Thức ăn thì chỉ có muối trắng giã với giềng. Muối thì phải mua, còn giềng thì trên đồi rất nhiều. Theo người dân kể thì anh chị lấy nhau có vấn đề về sức khỏe, chị có bệnh động kinh kinh niên, nên chị rất đẹp mà muộn chồng. Thương hoàn cảnh của anh chị cứ đến bữa là anh em tôi bớt ra một bát cơm đầy cùng chút thức ăn của lính đưa cho chị. Mới đầu chị cương quyết không nhận, chị nói các chú ăn để có sức còn vào Nam chiến đấu, chị ăn thế này được rồi. Anh Thỉnh, anh Tấn phải thuyết phục mãi, nói là đây là biếu chị để chị ăn có sữa cho cháu nhỏ, vì cháu nhỏ chị phải ăn chúng em cơm nhiều mà. Chị chảy nước mắt và đồng ý nhận bát cơm biếu của chúng tôi.
    Về đóng quân ở đây việc tập tành không thật gấp rút, hầu như các khoa mục, các kỹ thuật sử dụng vũ khí súng đạn và diễn tập thực binh cũng đã hoàn thiện. Hàng ngày chúng tôi lại lên núi lấy cây về làm thêm lán trại. Ở gần nơi đóng quân có một trái núi đá lớn, trên đỉnh núi có trạm ra-đa và trạm thông tin của Bộ, nghe nói trạm trung chuyển thông tin này vô cùng quan trọng vì nó làm nhiệm vụ phát sóng truyền tin từ Bắc vào Nam. Được biết trên trạm đó lại đa số là bộ đội thông tin nữ. Được cử đi lấy cây, địa điểm lấy cây lại ở khu rừng đó. Tò mò chúng tôi lên để xem trạm phát sóng nhưng lên tới nơi thì bị ngăn lại vì lý do bí mật quân sự không thể vào chơi giao lưu được. Ở đây là núi đá, cây nhiều không to nhưng rất cứng. Sau khi chặt xong một bó cây ưng ý, tôi và anh em xuống núi theo đường dốc ở khe nước chảy. Cứ bó chặt cây và thả bó cây lao xuống theo dốc. Khe nước chảy nên có nhiều tảng đá to nhỏ xếp gá vào nhau do nước chảy. Cây lao xuống làm lay động những tảng đá có tảng to cả khối cũng lao theo. Đang đứng ở giữa khe nghe tiếng đá lăn ục ục. Nhìn lên thấy hàng chục tảng đá lớn nhỏ đang lăn xuống đúng chỗ mấy anh em đang đứng đón cây. Hốt hoảng nhưng cũng rất nhanh nhẹn anh em tôi nhẩy đu lên cây. Dòng đá to, đá nhỏ ục ục lăn bên dưới có những tảng đá khi lăn xuống tốc độ cao va đập vào những tảng đá khác nhẩy chồm lên, hú hồn vía không ai việc gì. Nếu sơ xuất không để ý thì ba anh em tôi đã thịt nát xương tan do đá va đập rồi.
Đóng quân ở đây được hơn chục ngày thì đại đội lại di chuyển về địa bàn cũ. Việc tập tành cũng không căng thẳng mà chủ yếu là học chính trị và nghe cán bộ trung đoàn và quân khu nói chuyện thời sự. Qua học tập được biết về tình hình Hội nghị Pa-ri về Việt Nam vẫn đang bế tắc. Chúng ta mới chỉ đạt 75 % theo yêu cầu. Cả hai phía đều gia tăng hoạt động quân sự làm áp lực lợi thế cho việc đàm phán. Tại khu vực Quảng Trị, do mùa mưa đến có những bất lợi cho ta, hầm hào bị ngập nước rất khó cho việc phòng thủ chốt giữ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa và hỏa lực Mỹ dồn tất cả bom đạn vào đây, chúng quyết tâm dốc túi quân sự vào canh bạc này. Thấy việc giữ Thành Cổ đã đạt mục tiêu nên quân ta rút về phía Bắc sông Thạnh Hãn. Sau khi tái chiếm được Thành Cổ, Quân lực Việt Nam Cộng hòa hung hăng tuyên bố sẽ Bắc tiến. Ở miền Bắc thì máy bay của chúng tăng cường đánh phá mạnh hơn, chúng đã dùng cả máy bay B52 ném bom đánh phá nhiều nơi và đe doạ sẽ dùng máy bay B52 đánh phá Hà Nội với tuyên bố rất ngông cuồng là: “Cho Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”. Trước tình hình đó trung đoàn 36B sẵn sàng cơ động hành quân bổ sung cho mặt trận Quảng Trị.
Chiều ngày 21 tháng 12 năm 1972, toàn trung đoàn được lệnh hành quân vào Nam. Chúng tôi chia tay bà con Thanh Hóa, những người dân Mường thật tốt bụng đã che chở, nuôi dưỡng chúng tôi sau gần ba tháng luyện quân. Theo đường 15B chúng tôi lại tiếp bước “Bài ca ra trận”. Lần này hành quân vào Nam không như lần hành quân từ Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tất cả các kỹ chiến thuật đều đã được huấn luyện tinh thông. Việc hành quân đường dài cũng đã quen thuộc. Đã sang mùa đông trời lạnh nên hành quân đỡ mệt hơn. Có điều là vùng này máy bay hoạt động mạnh, lúc nào trên trời cũng có máy bay, chúng bay qua bay lại tìm đánh các mục tiêu cố định và cả các mục tiêu di động. Đã có nhiều đoàn ô tô chở vũ khí lương thực cho tiền tuyến bị trúng bom. Vì vậy chúng tôi đều phải hành quân đêm. Đường hành quân lần này chủ yếu là đường rừng đèo dốc rất vất vả khó đi. Khổ nhất, vất vả nhất là đêm ngày thứ ba của cuộc hành quân phải vượt qua dốc “Bò Lăn”, con đèo giáp ranh hai tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An. Nghe kể đèo này rất dài, rất hiểm trở đến con bò leo qua dốc này nhiều con cũng còn bị ngã bị lăn xuống vực. Vì thế cái tên Bò Lăn là điển tích của con dốc. Khoảng hai giờ đêm, tiểu đoàn tôi vượt dốc, đúng là dốc cao thật. Anh em mang nặng nên leo dốc càng mệt, đội hình không gọn được như trước mà lẫn lộn cả các đơn vị trong tiểu đoàn. Mạnh ai người ấy đi, mệt thì tự động nghỉ rồi la cà nhập nhóm cùng đồng hương đồng khói. Cán bộ các đơn vị đi tìm, thúc giục xốc lại đội hình, nhưng có vẻ cũng không cải thiện được nhiều. Đã có những  tiếng chửi đổng: Tao đ…é…o đi nữa đâu, đằng nào rồi cũng chết, chết mẹ nó ở đây cho sướng chứ hành quân khổ thế này ai mà chịu được!”. Rồi lại có tiếng động viên: “Cố lên, cố lên các đồng chí. Sao lại nói bậy thế? Dốc này cũng cao, anh em mệt đấy nhưng ít nữa vượt Trường Sơn dốc đèo còn cao nữa, cao hơn đây nhiều. Đưa bao gạo đây mình khoác cho”.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:08:13 pm

         Đúng là tuổi trẻ, trừ số cán bộ, số anh em lớn tuổi còn lại toàn là học sinh mới lớn mười bẩy mười tám tuổi. Cái tuổi mà nếu ở nhà bố mẹ còn giục ăn giục uống, đi ngủ có khi còn phải mắc màn đuổi muỗi cho ấy chứ. Thế mà ở đây trong cương vị chiến sỹ, với vũ khí súng đạn nặng trên vai, đường dài hành quân thiếu ăn thiếu ngủ, leo dốc thâu đêm thế này hỏi sao không kêu, không than thân trách phận! Vì thế nên trong học tập rèn luyện, ngoài kỹ năng chiến đấu, người lính phải rèn luyện về ý chí, về tinh thần chịu đựng khổ cực, sẵn sàng xả thân hy sinh vì Tổ quốc, mấu chốt là ở tư tưởng. Các cán bộ thường có câu cửa miệng: “Tư tưởng không thông đeo bình tông không nổi”. Cho nên việc lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị trong quân đội lúc nào cũng được đặt lên hàng đầu.
Sang qua dốc Bò Lăn là đã thuộc đất Nghệ An. Nghệ An là nơi sinh ra Bác Hồ. Xứ Nghệ thật xa, ngày xưa nói đến xứ Nghệ là nói về sự xa xôi và bao điều kỳ bí về xứ sở này. Xứ sở của những ông đồ, xứ sở của những câu chuyện về con cá gỗ của cậu học trò nghèo, nhưng cũng là xứ sở có cảnh trí đẹp như mơ mà ai cũng thuộc câu ca dao: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Vùng này, do thổ ngữ nên trao đổi nghe rất khó. Cách xưng hô cũng khác miền Bắc, như bố thì gọi là bọ, mẹ thì gọi là mạ. Anh em chúng tôi cứ buồn cười về những từ ngữ địa phương đó. Một đêm sau khi được tiền trạm chỉ vào ở, đêm tối đen như mực mắt lính trẻ mà cũng chẳng nhìn thấy gì. Con ngõ vào nhà dân cây phủ kín nên càng tối. Nhiên với Sắc đi vào thấy lạch cạch, lạch cạch trong căn nhà nhỏ có buông mành. Nhanh mồm miệng lại có chút pha trò Nhiên nói to: Con chào bọ, con chào bọ! Lại cứ có tiếng lạch cạch, lạch cạch, Nhiên lại nghĩ chủ nhà đang mở then cửa, nhưng vẫn lạch cạch, lạch cạch. Nhiên lại nói: Con chào bọ, bọ mở cửa lâu thế. Cũng vẫn chỉ có tiếng lạch cạch. Nhiên tiến sát vào bật máy lửa soi, rồi hốt hoảng kêu: Ôí giời ơi! Chuồng trâu! Hóa ra cái tiếng lạch cạch, lạch cạch là tiếng trâu vung vẩy cặp sừng đuổi muỗi. Chuyện thật hi hữu mà cũng thật buồn cười. Câu chuyện này sau là câu chuyện vui mãi của đời lính! Chúng tôi hành quân qua đất huyện Quỳnh Lưu, đến tối ngày thứ tư toàn trung đoàn dừng chân tại huyện Yên Thành. Có lệnh trung đoàn tạm dừng chân huấn luyện tại đây. Tiểu đoàn 1 đóng quân tại xã Hậu Thành, tiểu đoàn 2 đóng quân tại xã Phú Thành, trung đoàn bộ và tiểu đoàn 3 cùng các đơn vị trực thuộc đóng quân tại các xã Lăng Thành, Mã Thành, Long Thành, Hợp Thành.
Đại đội tôi đóng quân ngay xã Hậu Thành gần trung tâm xã. Cảnh trí vùng này rất đẹp có đồi, có rừng. Đồi không cao lắm và có cả cánh đồng bằng phẳng cùng con kênh dẫn nước thẳng tắp. Mấy xã hiện có trường Đại học sư phạm Vinh cũng đang sơ tán ở đây. Sinh viên rất đông, chủ yếu là sinh viên nữ. Họ cũng có ký túc, lán trại, nhưng chủ yếu vẫn ở cùng dân, và bộ đội về lại cũng ở nhà dân. Như vậy nhiều nhà dân có cả bộ đội và sinh viên cùng ở. Thật là vui! Lính ta rất thích. Còn gì bằng khi lính thì chuẩn bị ra trận, còn sinh viên thì sống lãng mạn cũng đang thiếu thốn tình cảm. Bộ đội ập về, được ăn ở cùng nhà, tuổi đời sàn sàn như nhau nên tình cảm quân dân nẩy sinh tình yêu thật nhanh. Đây là vấn đề làm cán bộ rất đau đầu vì rất khó cho việc quản lý bộ đội. Đơn vị tạm dừng chân chờ nhiệm vụ nên việc tập tành không nhiều, đa phần được nghỉ ngơi lau chùi bảo quản vũ khí, ôn luyện lại những thao tác kỹ thuật sử dụng vũ khí và học tập một số bài chính trị theo giáo án. Anh em tôi thường cùng dân vào rừng lấy củi, đây là việc nhiều người thích được đi, vì đi vào rừng có cả nữ sinh viên đi cùng. Cánh đồng rất rộng, mùa này chưa phải là mùa cầy cấy, anh em tôi tổ chức đi bắt cua. Cua ở đây rất nhiều, những con cua kềnh rất to, bờ ruộng thì nhiều, móc tay vào các lỗ, lỗ nào cũng có cua. Chỉ hai giờ đi bắt mà đã đầy hai cái nồi đồng của gia đình nhà chủ. Dân ở đây không hiểu sao lại không ăn cua đồng, cái thứ thực phẩm rất quý của dân Bắc. Họ gọi cua là con ram. Mỗi lần bắt về họ nói: Bộ đội bắt ram giỏi hầy! Gia đình chủ nhà có vườn rau cải rất tốt, rau cải nấu canh cua thì thật là tuyệt. Ở đại đội 2 còn có một đồng đội tên là Vâm, là xạ thủ súng cối có tài bắt ếch, bắt lươn. Vâm đi dọc bờ mương, vạch cỏ ra là biết lỗ nào có ếch, lỗ nào không. Rồi cứ lấy cái móc sắt móc vào lỗ là được chú ếch bự, hai người đi sau chỉ chuyên buộc ếch mà buộc không kịp. Có mấy trận đấu bóng giữa bộ đội và sinh viên trường Sư phạm thật vui.
Chuyện tắm giặt cũng rất hấp dẫn. Đi khiêng nước về tắm thì khá xa. Ngay gần sân bóng có một giếng nước to, là nơi tắm giặt của mọi người. Giờ đây thêm bộ đội nữa, nên giếng nước lúc nào cũng đông. Bộ đội thì tắm trần còn sinh viên nữ thì tắm trong mấy cái nhà tắm quây hờ hững, được che bằng những mảnh vải hoặc tấm nilon rất tạm bợ, làm cho lính ta càng tò mò bổ mắt. Sinh viên nữ rất bạo dạn, hình như họ còn cố ý muốn lộ “hàng” cho bộ đội thưởng thức nữa hay sao ấy! Ở đây còn một cái khoái nữa, đấy là cam. Cam Vinh ngon ngọt có tiếng. Các nông trường cam rất nhiều lại đang chiến tranh ác liệt nên việc vận chuyển, tiêu thụ, xuất khẩu rất khó. Hợp tác xã bán có sáu hào một ki-lô-gam. Tôi gặp anh Hương đại đội 4, mấy anh em cùng ăn cam, anh còn mua cho tôi hai ki-lô-gam mang về cho anh em và cho tôi 5 đồng nữa, nói là để dành mua cam.
Ở đây khoảng hơn chục ngày, tôi được cử đi tập huấn nâng cao kỹ thuật sử dụng súng cối 61 ly của trung đoàn. Vị trí tập huấn bên xã Phú Thành, nơi tiểu đoàn 2 đóng quân. Ở đây được gặp, được tiếp xúc với anh em thị xã nhiều. Họ đến chơi với tôi, lần nào cũng thì thầm rủ tôi đào ngũ. Thấy tôi không đồng tình, họ không gạ tôi nữa và xin tôi tiền, hôm sau có 5 người đảo ngũ về quê.
Dịp này máy bay Mỹ bay qua, đánh phá, rải bom gần khu vực trung đoàn đóng quân. Việc canh gác rất được đề cao, dân chúng hầu như phải ở, phải ngủ dưới hầm, sinh viên cũng vậy. Những cái hầm kèo được đào đắp rất kỹ lưỡng. Một hôm đến phiên tôi gác từ 1 giờ đến 3 giờ đêm. Hôm đó máy bay, có cả máy bay B52 ném bom gần khu vực trung đoàn. Tất cả phải ở trong hầm, riêng người gác thì vẫn phải đi tuần trên mặt đất. Bom đánh liên tục, khi đi qua khu hầm của sinh viên có sinh viên nữ thấy tôi liền lên khỏi hầm, cứ lôi tôi xuống và nói: Máy bay đánh bom nhiều lắm, anh xuống hầm ẩn đi! Hầm rộng hôm nay chỉ có em thôi! Lời mời chào thật hấp dẫn, không hiểu là cô gái lo cho tôi hay còn có mục đích gì khác nữa? Nửa muốn theo cô xuống hầm, nửa lại thấy không được phép vì đang làm nhiệm vụ. Tôi theo cô gái đến cửa hầm rồi cương quyết dừng lại nói: Anh còn phải làm nhiệm vụ mà em! Rồi tôi đi như chạy khỏi cô sinh viên trẻ đẹp.
 Sau này qua chuyện trò tôi mới biết, không phải chỉ có tôi được các nữ sinh viên mời vào hầm, mà có nhiều anh em khác cũng được mời, cũng có người chối từ như tôi, nhưng cũng có mấy đồng đội thì cùng xuống hầm trú ẩn và họ được các cô chiều chuộng dâng tặng những hương thơm da thịt con gái, những thăng hoa thần tiên của cuộc đời.
Trong thời gian đóng quân ở đây, hai đồng chí y tá Nguyễn Văn Quang và Trần Tuấn Phát đã làm được một việc rất tốt là chữa khỏi bệnh thấp khớp cho bốn cô sinh viên và mấy người dân địa phương. Chả là dịp đóng quân tại Thanh Hóa, tổ y tá đại đội được ở cùng gia đình người Mường làm nghề chữa bệnh. Ông chủ có nhiều bài thuốc quý chuyên chữa bệnh cho dân, rất uy tín. Những bài thuốc chữa bệnh họ rất bí truyền, các vị thuốc đều là lá cây rừng hay lấy ở đồng ruộng hoặc ven đồi. Ông chữa giỏi nhất là bệnh thấp khớp. Hai đồng đội xin ông truyền dạy cho bài thuốc ấy nhưng ông không đồng ý. Ông có người con gái lớn đang học Đại học Sư phạm Vinh. Thỉnh thoảng cô về chơi, gặp và yêu quý anh em bộ đội cùng nhà. Thuyết phục thế nào đó mà cô gái hứa sẽ lấy cho công thức chữa bệnh thấp khớp. Cô nói, cô biết chỗ ông giấu quyển sách ghi chép các bài thuốc gia truyền. Nhân hôm ông đi lấy lá thuốc trong rừng, cô gái ở nhà có chìa khóa, mở được cái rương, trong đó có hộp đựng quyển sách các bài thuốc. Hai anh em vui sướng ghi chép được công thức mấy bài thuốc rất giá trị, nhất là công thức bài thuốc chữa bệnh thấp khớp bằng 12 loại lá cây. Thời đó ai mà mắc bệnh này, nhất là con gái là khó lấy chồng lắm. Vì trong dân gian vẫn có câu: “Thấp khớp nó đớp vào tim”. Ý nói tuổi thọ của người bệnh không cao, đau khớp không đi lại được dẫn tới phù tim.
Đến xã Hậu Thành đóng quân, có cô sinh viên bị bệnh thấp khớp chân sưng to cứ ngồi khóc. Đúng là bệnh gặp thầy gặp thuốc. Hai anh em đi kiếm các vị thuốc về cân đong đúng hàm lượng pha chế thuốc. Thật kỳ lạ là chỉ sau ba ngày uống ba thang thuốc trực tiếp do hai anh em sắc, chân cô gái hết sưng, đi lại bình thường. Thế là tiếng đồn lan nhanh, người nọ giới thiệu người kia. Ở đây gần một tháng mà hai anh em đã chữa được cho gần chục người khỏi căn bệnh hiểm ác này, trong đó có bốn cô sinh viên. Anh em chữa bệnh không lấy tiền, nên mọi người trả công bằng quà cáp rất nhiều. Anh em tôi ở gần sát đấy, nên cũng thường xuyên được hưởng “sái” thơm. (Anh y tá Nguyễn Văn Quang sau khi giải ngũ về lại trường Đại học Lâm nghiệp. Còn anh Trần Tuấn Phát hiện là giáo viên chính trị trường đại học Thủ Đức, Sài Gòn).
Trung đoàn được lệnh đi chiến trường. Mọi người được cấp phát quân tư trang đi B, lần này cấp mới 100%, mà toàn loại đặc biệt như võng dù, màn tuyn, có cả mặt nạ phòng độc, thuốc lọc nước cùng các loại trang bị gọn nhẹ. Ngay khi có lệnh nhận quân tư trang đi Nam thì cũng có lệnh tất cả các giáo viên, kỹ sư đã tốt nghiệp đại học được ở lại. Sau này mới biết các đồng chí này được điều động về các trường đào tạo của quân đội. Như vậy là trung đoàn có biến động lớn. Toàn đại đội tôi có tới gần 20 đồng chí trong diện như vậy, tiểu đội tôi có anh Tấn, anh Thê, anh Thỉnh. Chúng tôi nhanh chóng nhận đổi quân tư trang và tổ chức chia tay các anh. Những ngày này biết tin chuẩn bị đi chiến đấu, những tình cảm quân dân mới bộc lộ, nhất là tình cảm của bộ đội và sinh viên, đặc biệt là sinh viên nữ. Tình yêu thầm kín giờ mới có dịp công khai. Tối thì đơn vị cấm trại nhưng vẫn thường xuyên phải báo động tìm người, vì một số đồng đội vượt rào đi gặp người yêu ở những nơi kín chỉ có trời có đất mới biết được. Gần đơn vị có khu rừng Cấm, nhưng rừng đâu có cấm tình yêu, và họ đã trốn vào đó để tình tự.
Như vậy tiểu đội tôi từ ngày thành lập đến nay có 5 đồng chí chuyển đi. Anh Ước lên làm tiểu đội trưởng anh nuôi. Anh Trạch lên tiểu đội trinh sát tiểu đoàn và hôm nay là anh Tấn, anh Thỉnh, Anh Thê nữa. Tiểu đội được bổ sung thay thế ngay. Anh Sắc giữ súng B41 thay anh Trạch. Anh Thúy về thay anh Tấn súng B41. Anh Đảng, Anh Muộn, anh Hà về súng cối. Tôi và anh Thúy được cử giữ chức tiểu đội phó.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:09:56 pm

        Những ngày này tình hình Hội đàm tại Pari bế tắc. Mỹ dốc túi vào canh bạc cuối cùng. Chúng dùng máy bay chiến lược B52 liên tục đánh bom vào Hà Nội. Hàng ngày, hàng đêm máy bay B52 và các loại máy bay hộ tống từ đảo Guyam, từ căn cứ quân sự sân bay Cò Rạt, Thái Lan bay qua nơi chúng tôi đóng quân để ra đánh bom Hà Nội cùng các mục tiêu quân sự khác. Các cửa sông cửa biển và cảng Hải Phòng chúng thả rất nhiều ngư lôi. Ngoài khơi thì hạm đội 7, các tầu khu trục quần đảo đe dọa, ngăn cản các tầu của các nước giao thương, tiếp tế cho ta. Chúng không từ thủ đoạn độc ác nào, đánh bom cả vào các bệnh viện, trường học, nhà thờ và các khu dân cư rất dã man. Đã có nhiều người dân, nhiều em nhỏ chết rất thương tâm vì bom đạn của chúng. Song với ý chí sắt đá, với sự chuẩn bị từ trước, quân dân Hà Nội, Hải Phòng cùng cả nước đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng. Rất nhiều máy bay bị bắn rơi tại chỗ, trong đó có cả B52. Rất nhiều giặc lái bị bắt. Chiến dịch dùng máy bay B52 đánh vào Hà Nội của Mỹ bị thất bại thảm hại. Trong 12 ngày đêm, quân và dân Hà Nội cùng cả nước đã bắn rơi rất nhiều máy bay, trong đó có 34 chiếc B52, bắt sống nhiều phi công. Chúng ta đã chiến thắng, lập một Điện Biên Phủ trên không ngay tại bầu trời Hà Nội. Trước thất bại ê chề không thể cứu vãn được, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Chúng phải ngừng ném bom và các hoạt động quân sự tại miền Bắc, cam kết rút hết quân đội ra khỏi lãnh thổ miền Nam. Hiệp định được ký tắt ngày 22 tháng 1 năm 1973 và ký chính thức vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.


VIII


Như vậy là hòa bình ở miền Bắc đã được thiết lập, nhưng tại miền Nam, trước khi rút quân, đế quốc Mỹ đã dàn dựng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Chúng ồ ạt viện trợ cho chính quyền Sài Gòn và quân lực Việt Nam Cộng hòa các loại vũ khí đủ sức mạnh để chống lại quân Giải phóng. Quân lực Việt Nam Cộng hòa thì vẫn hô hào Bắc tiến. Chúng điên cuồng tiến công lấn chiếm các vùng giải phóng. Đúng ngày 25 tháng 1 năm 1972, chúng tôi được lệnh hành quân. Lần này hành quân trong không khí hòa bình ở miền Bắc, trong sự hân hoan trào dâng của mọi người, niềm vui hòa bình, niềm vui của người chiến thắng trong lòng ai ai cũng náo nức. Nhân dân ùa ra đường tiễn chân chúng tôi cùng lời chúc: “Đánh cho Ngụy nhào”. Cờ bay phấp phơi khắp mọi nơi. Sau bao năm, giờ đây bầu trời miền Bắc đã thật sự thanh bình. Tiếng loa phát thanh vang vang khắp nơi những bài hát “Bài ca hy vọng”, “Bài ca chiến thắng”, nhất là bài hát “Việt Nam trên đường chúng ta đi” là được hát nhiều nhất. Chiếc đài bán dẫn Orioton của chính trị viên Lẫm được mở to hết cỡ động viên và thúc giục chúng tôi lên đường vào Nam chiến đấu thực hiện lời Bác Hồ kính yêu: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Hôm nay chúng tôi không phải hành quân đêm nữa mà được hành quân ban ngày, nhưng vẫn phải đi theo đường ra trận xuyên rừng, xuyên núi. Dốc đèo rất khó đi, mang nặng trên vai, nên việc hành quân rất mệt nhọc nhưng trong lòng mọi người niềm vui vẫn trào dâng.
 Ngày 26 chúng tôi nghỉ lại xã Diễn Thắng, Diễn Châu, Nghệ An. Ngày 27 chúng tôi nghỉ tại xã Nghi Công, Nghi Lộc. Ngày 28 chúng tôi nghỉ tại xã Hưng Đạo, Hưng Nguyên. Ngày 29 tháng 1 chúng tôi nghỉ tại xã Nam Phúc, Nam Đàn, Nghệ An. Ai ai cũng náo nức niềm vui khi biết đây là huyện Nam Đàn nơi sinh ra Bác Hồ kính yêu - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng, của cách mạng và dân tộc Việt Nam, xã chúng tôi đang dừng chân cách xã Kim Liên quê Bác không xa. Niềm vui lồng trong niềm vui. Nhân dân đủ mọi tầng lớp, lứa tuổi, nhất là các em nhỏ ùa ra đường chào đón chúng tôi, trong không khí chiến thắng, trong mùa xuân đang về, ngày Tết cổ truyền đang đến! Vì thế, niềm vui của những người lính ra trận hòa cùng niềm vui của nhân dân được sống trong  hòa bình càng được nhân lên gấp bội. Chúng tôi hành quân không biết mệt mỏi, mặc dù quãng đường hành quân của từng chặng dài hơn trước, việc mang vác cũng nhiều và nặng hơn trước. Trời mưa dầm dề, rất nhiều đồng chí chân đau, bàn chân sưng mọng nước nhưng không ai kêu ca, phàn nàn, tụt tạt. Đội hình hành quân của đại đội, của toàn tiểu đoàn, toàn trung đoàn rất gọn. Bộ phận thu dung hành quân rất nhàn, bám ngay sau đội hình chính.
Ngày 30 tháng 1 năm 1973 chúng tôi vượt sông La thật ấn tượng. Bến vượt không lớn, thuyền không to, những người lái thuyền là những cô du kích xinh đẹp, trẻ trung đưa chúng tôi qua sông. Sông La nước rất trong, các em gái nơi đây sao mà đẹp đến thế! Rung động trước cảnh và người trữ tình, chợt có tiếng hát trong đoàn quân vút lên: “À…ơi!... Trời mô xanh bằng trời Cam Lộc, chứ nước mô xanh bằng dòng nước sông La… Ai về Hà Tĩnh mà quê ta. Chứ nhớ chăng…à… đôi mắt người con gái sông La kiên cường…”. Ôi, nghe câu hát trữ tình, hợp cảnh trí, lòng tôi chợt thấy rạo rực, xốn xang khó tả… Lên bờ ai cũng cố tranh thủ bắt tay cô dân quân lái đò bằng được. Đúng là lính trẻ, háo hức tình yêu, háo hức của giới tính, các chàng lính ta ai cũng muốn giữ tay các em lâu hơn một chút, với ánh mắt và câu nói vui chia tay, hẹn ngày về gặp lại. Hơi ấm bàn tay con gái sẽ theo những người lính chúng tôi ra trận cho tới mãi sau này.
Lên bờ, bãi mía bạt ngàn, đất phù sa nơi đây thật mầu mỡ. Chúng tôi nghỉ tại xã Đức Trung, Đức Thọ. Như vậy là đã đến đất Hà Tĩnh. Với Hà Tĩnh, tôi chưa hiểu biết nhiều. Xứ Thanh, xứ Nghệ đã thấy xa lắm rồi. Mà đây là Hà Tĩnh còn xa hơn. Đúng ra, tôi chỉ hiểu Hà Tĩnh là nơi có phong trào cách mạng Đỏ, quê hương đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Hà Tĩnh cũng là quê hương của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, là quê hương của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng mà chúng tôi đã được học. Hà Tĩnh còn có núi Hồng Lĩnh, ngọn núi đẹp nổi tiếng đã đi vào câu hát như: “Hồng Lĩnh ơi! Đỉnh cao muôn trùng, đã cùng em ngày đêm thức trọn, nối tiếp những con đường quê nhà…”. Nơi có ngã ba Đồng Lộc, nơi mười cô gái thanh niên xung phong đã chiến đấu và hy sinh anh dũng để đảm bảo mạch máu giao thông cho tiền tuyến. Cũng như ở Nghệ An, Hà Tĩnh có phong trào đấu tranh cách mạng rất cao. Những năm 30, ngoài đồng chí Trần Phú còn rất nhiều những nhà hoạt động cách mạng khác như Lê Hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai.
Chúng tôi đừng nghỉ ở xã này, làng xóm trù phú, mặc dù kinh tế còn nghèo, cái nghèo chung của đất nước thời chiến tranh. Tôi ở gia đình có một nhà khoa học mới đi tu nghiệp tại Đức về với học vị Tiến sỹ. Ông nói xã Đức Trung có tất cả 22 kỹ sư, có gần mười người là Phó tiến sỹ và Tiến sỹ. Chúng tôi lè lưỡi thán phục sự hiếu học, trình độ học vấn, tài năng phát tích của dân trong xã. Ông có khẩu súng săn, bắn đạn hơi của Đức. Chúng tôi thì súng AK, súng cối súng B41, nhưng khi được nhìn khẩu súng bắn đạn chì ông đi bắn chim ở các vườn cây mà sao thèm thế. Ông mang về một xâu chim, vặt lông, nướng, rồi băm ra nấu bánh đa mời chúng tôi ăn bữa cơm thật vui, thật nhớ.
Đơn vị được nghỉ lại một ngày, hôm sau tiếp tục lên đường, nghỉ tại xã Xuân Lộc, Can Lộc. Ngày 2 tháng 2 năm 1973 thì tới xã Thạch Hà, huyện Thạch Hà, được nghỉ hai ngày ăn tết. Nhân dân ở đây rất vui khi tết đến, xuân về. Cái tết đầu tiên bình yên trong hòa bình, không phải lo bom đạn, máy bay thù bắn phá. Bộ đội ùa về. Những người lính trẻ gọn gàng, hùng tráng trong quân phục xanh mới tinh. Ai cũng đẹp, cũng khôi ngô, tuấn tú, súng đạn trang thiết bị ra trận đầy mình đến ở nhà dân, nên niềm tin, niềm vui đất nước hòa bình trong mỗi người được tăng lên gấp bội. Những ngày này, cứ tối đến là đạn lửa vạch đường của các loại súng bắn lên trời như pháo hoa, pháo nổ ngày tết. Chúng tôi thì không có đạn mà bắn, mà không được phép bắn. Nhưng ở vùng này có nhiều đơn vị bộ đội, là đơn vị phục vụ kho tàng bến bãi hay thanh niên xung phong, thanh niên hỏa tuyến, nên họ rất nhiều đạn. Cả các đoàn xe đang chạy, anh em lính xế cũng ngẫu hứng dừng lại bắn mấy loạt AK lên trời để lấy khí thế hòa bình và niềm vui xuân về tết đến. Niềm vui tinh thần thì to lớn nhưng về vật chất, nơi đây vẫn còn rất nghèo. Bao năm chiến tranh, bom đạn tàn phá, tất cả chỉ lo cho việc phục vụ chiến đấu và phòng tránh bom đạn máy bay. Nhà nào cũng có một hoặc nhiều người ra trận, vào bộ đội hay phục vụ hỏa tuyến. Thanh niên ở quê làm gì còn mấy người. Những người già thì cấy trồng chẳng được bao nhiêu, con lợn con gà có nuôi phải nộp nghĩa vụ cho nhà nước, nên thiếu đói triền miên.
Theo kế hoạch chúng tôi dừng nghỉ hai ngày. Hậu cần ngoài lương thực, thực phẩm mang theo người trên đường hành quân, mỗi đại đội còn được một con trâu để ăn tết. Trâu ở đây không to nhưng thế cũng đã là quý lắm rồi. Tôi được phân công lên tiểu đoàn nhận trâu về giết. Có đại đội anh em nhận trâu, trâu sợ vùng chay đuổi mãi không bắt được. Tôi cùng quản lý Rĩnh và ba anh em các trung đội dắt trâu về và làm nhiệm vụ đao phủ. Nhưng mấy anh em chúng tôi đã có ai giết trâu bao giờ. Tôi thì chỉ có biết giết con gà, con vịt thôi. Mấy đồng đội kia thì “cao tay” hơn là giết được chó, được lợn chứ cũng đã giết trâu, giết bò bao giờ. Loay hoay mãi không biết làm thế nào. Người thì bàn lấy súng bắn, người thì bàn gọi thêm người rồi xô vào buộc chân đẩy ngã, trói lại rồi chọc tiết. Nhưng bàn đi bàn lại, bắn súng rất nguy hiểm mà mấy khi bắn chết được ngay. Trâu bị thương thì rất hung dữ, nó mà lồng lên lao vào húc thì rất nguy hiểm. Gọi thêm người để trói trâu, vật trâu ra có vẻ cũng không ổn. Tôi có nhớ hồi ở nhà có đi xem người ta giết trâu, giết bò ở lò mổ chuyên nghiệp. Họ chỉ cần một người tay trái cầm dây mũi sát mũi trâu. Tay phải cầm một con dao dài khoảng một gang đầu sắc nhọn rất mỏng, họ dí dao vào đúng khoáy trâu bò trên đỉnh đầu và ấn mạnh tay xuống. Dao đâm vào sâu khoảng năm, mười phân là trâu bò lăn quay ra, giãy chết, không kêu được một tiếng, thế là họ cắt chân, chọc tiết rất đơn giản. Nhưng ở đây làm gì có con dao ấy. Chúng tôi chỉ có dao găm Liên Xô rất sắc nhưng không phù hợp với việc này, mà có con dao kia thì cũng có ai giám làm việc ấy.
 Nghĩ ngợi một chút tôi bèn nói mọi người đi mượn cái búa to. Mượn búa thì không khó, có ngay, vì những dụng cụ ấy phục vụ cho việc mở đường rất nhiều. Anh Rĩnh mang về cho tôi cái búa. Tôi thử búa thấy búa chắc, hợp tay. Tôi nói với mọi người cầm dây mũi để trâu đứng im, tôi sẽ quai búa đúng vào chỗ xoáy trên đỉnh đầu trâu, chắc chắn trâu sẽ chết ngay, vì đây là chỗ huyệt hiểm của trâu. Bàn là vậy nhưng cũng có người còn lo ngại liệu quai một nhát có trúng ngay không, nếu trâu bị thương mà lồng lên thì nguy. Tôi nói mọi người yên tâm về tay nghề quai búa của tôi. Tôi nói thêm, anh em chuẩn bị dao, trâu ngã ra thì cắt bốn chân ngay rồi hãy chọc lấy tiết. Hai đồng đội im lặng cầm dây mũi trâu không để trâu sợ. Ba đồng đội khác tay lăm lăm dao chuẩn bị xông vào cắt chân trâu như đã bàn. Tôi lựa thế đứng và khoảng cách để có thể quai một phát là trúng chỗ hiểm ngay. Tôi hỏi nhỏ mọi người xong chưa, mọi người nói xong rồi, anh quai đi. Tôi vung búa quai mạnh một nhát. Nhát búa của người thợ cơ khí chuyên nghiệp trúng chỗ khoáy trâu. Con trâu không kêu được tiếng nào nằm đổ vật ra, mấy cái chân đạp đạp nhẹ vào không khí, đúng như dự định. Anh em reo lên: Ngã rồi! và lao vào cắt chân trâu, rồi rạch ngực trâu chọc tiết và các công việc tiếp theo. Sau khoảng một tiếng thì các trung đội, tiểu đội đều có thịt trâu chia. Riêng tôi sau khi quai nhát búa xong, thấy trâu đổ kềnh ngay ra, tôi lại bối rối sững sờ như là mình vừa lỡ tay làm cái việc sát sinh có phần “dã man” này. Nhát búa sát sinh đó làm tôi ân hận đến mãi. Tiểu đội tôi ngoài tiêu chuẩn còn được anh Rĩnh chia thêm cho cái lưỡi trâu vì tôi có công đập chết trâu.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:11:23 pm

         Ngày 4 tháng 2 tức ngày mùng hai tết chúng tôi lại lên đường. Được nghỉ hai ngày vui xuân, vui tết, bộ đội khỏe hẳn lên, ai cũng chuyện trò râm ran. Nhất là các đồng đội được đóng quân ở các gia đình có các cô gái lớn hoặc con em họ đi thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến hay học ở các trường về nghỉ thì chuyện không ai bằng. Họ vui cười kể về những thầm kín giữa họ và những cô gái nhà chủ. Men say của tình cảm khác giới, men say của niềm vui những chuyện “thần tiên”… làm cho mọi người vui và cảm thấy mình thiệt thòi khi không được ở cùng nhà có các cô gái như họ. Niềm vui chuyện trò háo hức làm cho quãng được như ngắn lại, tư trang súng đạn trên lưng như nhẹ đi, không ai thấy mệt mỏi. Vả lại được nghỉ hai ngày thức ăn được thêm phần cải thiện, nên lính trẻ sức trẻ hồi phục rất nhanh. Vui khỏe cao hứng, Đinh Hồng Sắc xạ thủ súng B41 vừa đi vừa đọc mấy câu thơ rất khôi hài:
Quý Sửu năm nay nghĩ đến phờ (Phở)
Thịt Chu tẩm ớt đài nác lạnh
Táo đuổi quân Tào mất Chu toi…
Chẳng là lâu không được ăn chất tươi, nhiều chất đạm, nên một vài anh em trong đó có Sắc bị “Tào Tháo đuổi”, phải uống thuốc và ăn cả nắm búp sim mới cầm được.
Chúng tôi băng qua một sân bay cũ với những cây mua hoa tím buồn mênh mông như thảo nguyên. Những cây sim đang vào mùa nở hoa, hoa trắng, hoa đỏ đẹp như hoa đào, hoa mận của núi. Đơn vị dừng chân nghỉ lại xã Cẩm Duệ, Cẩm Xuyên. Ngày mùng 6 tháng 2 đơn vị tới xã Cẩm Lạc. Hôm sau chúng tôi dừng nghỉ tại xã Kỳ Văn, Kỳ Anh. Ngày 8 tháng 2 năm 1973 dừng nghỉ tại xã Kỳ Lạc. Trong mấy ngày này, đường hành quân vẫn đi trong rừng, nhiều đèo, dốc. Chúng tôi đi men theo dãy Trường Sơn và được thông báo ngày mai đường hành quân vượt dốc khu vực gần đèo Ngang dốc rất cao. 7 giờ sáng hôm sau chúng tôi chia tay nhân dân tiếp tục hành quân. Lên đường là leo dốc ngay. Dốc đứng, cây cổ thụ rất nhiều, nhất là những cây móc cổ thụ. Cây móc là cây để lấy sợi tơ ở bẹ khâu nón. Những cây móc thân thẳng đứng như cây cau nhưng to như cột đình. Cây lá nón thì bạt ngàn hoặc làm nón hoặc người dân tết lại thành cái áo khoác để che mưa, cả che nắng, mùa đông thì khoác cho ấm. Sau này có nhạc sỹ đã sáng tác bài hát “Ca dao em và tôi” có câu: “Anh cùng em khoác áo tơi ra đồng, dù trời đổ nắng chang chang vẫn quàng”… 
Đúng là khu rừng nguyên sinh cổ thụ. Đi dưới những bóng cây này thì không có hạt nắng nào xuyên xuống đất, trời lại lất phất mưa nên thấy hơi lạnh, mặc dù đang phải mang vác nặng leo đèo, leo dốc. Khoảng 9 giờ sáng thì đại đội tôi tới đỉnh cao nhất của dãy núi có thể nói là “cổng Trời”. Gió ào ào thổi. Trên đỉnh cao thì cây thưa thớt, phóng tầm mắt ra xa có những dãy đồi cát trắng, và sau những dãy cát trắng ấy có những vệt trắng dài lăn tăn trên bức thảm lớn màu xanh lơ. Trời quang mây trắng. Một vài đồng chí reo lên: Biển, biển đấy! Mọi người dừng lại giải lao nhưng không ai ngồi nghỉ. Hạ ba lô là chạy lăng xăng ngắm trời ngắm đất, ngắm biển rồi ao ước khi nào đó được ra biển, được ngắm, được tắm biển thì thích biết bao.
Tiếp tục hành quân. Bây giờ là xuống dốc. Con dốc thật dài. Đại đội phó sáu đi dọc hàng quân nói: Đây là đất Quảng Bình rồi đấy! Ôi Quảng Bình, mảnh đất đầy nắng gió và xa lạ như trong thần thoại. Báo chí tuyên tuyền về đất Quảng Bình rất nhiều, mọi người đều gọi là “Đất lửa Quảng Bình”. Nơi này giáp ranh hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình. Về địa hình trên bản đồ là nơi hẹp nhất. Từ biển cắt ngang đường chim bay sang đất Lào chưa đầy 50 kilômét, chỉ có dốc đèo của dãy Trường Sơn trùng trùng điệp điệp. Cũng do địa lý nên khí hậu được chia ra hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa nắng. Những bài hát về vùng đất địa linh nhân kiệt này rất nhiều như bài: Ai vô đất lửa Quảng Bình,  Quảng Bình quê ta ơi… . Bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu ca ngợi mẹ Suốt chèo đò trên sông Nhật Lệ tiếp tế cho bộ đội trong lúc bom bạn máy bay Mỹ đánh phá vô cùng ác liệt, ca ngợi em bé Bảo Ninh cũng rất dũng cảm không sợ bom đạn thù. Nơi này là quê hương của vị Đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng thời cũng là quê hương gia đình họ Ngô - Ngô Đình Diệm một thời là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Mọi người hay kể là nhà ông Giáp và nhà ông Diệm, người bên kia sông người bên này sông quay mặt vào nhau như là tạo hóa tự nhiên sắp đặt, nên hai ông ở hai chế độ đối kháng nhau. Chúng tôi vẫn tiếp tục hành quân… Hỏi đại đội phó Sáu, ông nói kỹ hơn đây là xã Quảng Hợp, huyện Quảng Trạch. Tối nay ta nghỉ tại xã này nhưng xã rất dài, dài tới 12 kilômét. Ai nấy lè lưỡi sợ cái độ dài của xã ở đây. Ở Thái Bình thì thường chiều dài chiều rộng mỗi xã chỉ khoảng 1 ki-lô-mét, còn ở đây sao dài thế. Được cái đường đi hầu như toàn xuống dốc nên không mệt nhọc lắm. Cái háo hức được thấy biển cùng với câu chuyện đại đội phó nói, mấy hôm nữa sẽ hành quân dọc quốc lộ 1, không phải hành quân đèo dốc, đường rừng nữa nên ai ai cũng vui, cũng phấn khích thăng hoa gấp bội.
Toàn tiểu đoàn dừng chân tại xã Quảng Hợp và được nghỉ ở đây 1 ngày. Như vậy là chúng tôi không phải luồn rừng đèo dốc nữa, mà được hành quân dọc theo quốc lộ 1. Xa xa bên phải là dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, còn bên trái là những đồi cát trắng phau, với biển xanh mênh mông. Được nhìn ngàn vạn con sóng chập trùng tiếp nối… Đúng như trong bài ca có câu: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Những đồi thấp trồng phi lao, bạch đàn mà ở đây gọi là cây dương. Nhà dân nơi đây rất nhỏ và thấp. Gần như là chỉ có mái nhà tranh, úp lên căn hầm nửa nổi nửa chìm, dưới hầm nối với cửa hầm kèo để tránh bom. Hai bên đường, trên đồi, khắp mọi nơi đều có hố bom to nhỏ chi chít. Đất đồi sỏi gan gà đỏ loét, đúng là vết thương của chiến tranh như vết thương trên da thịt con người lở loét, nham nhở. Không có thống kê nào chuẩn cho lượng bom đạn mà máy bay Mỹ và không lực Việt Nam Cộng hòa đổ xuống nơi đây. Vùng đất hẹp này mà chúng gọi là “cán gáo”. Chúng quyết tâm chặn đường tiếp tế của chúng ta cho tiền tuyến Miền Nam. Dọc đường hành quân, hai bên đường 1, những xác xe tải cháy trơ khung, lỗ chỗ các vết thủng do nhảnh bom, mảnh đạn.
Giờ đây phía Bắc đã hòa bình, quốc lộ nườm nượp ô tô chở hàng hóa vì không còn lo sợ máy bay săn đuổi nữa. Chúng tôi hành quân ra trận trong khí thế hừng hực niềm vui đó. Mọi người vừa đi vừa hát những bài hát với giai điệu hùng hồn mà những người lính nào cũng thuộc. Lúc thì cùng nhau hát, lúc thì vừa hành quân vừa nghe chiếc đài Orionton của chính trị viên Lẫm mở hết cỡ giai điệu bài  hát: “Việt Nam trên đường chúng ta đi” và nhiều bài hát nữa của Đài tiếng nói Việt Nam. Nơi nào cũng rực màu đỏ cờ Tổ quốc, cờ Đảng, cờ giải phóng hai mầu xanh đỏ phần phật bay trong nắng, gió. Các đơn vị, mỗi đại đội cũng có một ngọn cờ đi trước do liên lạc vác dẫn đầu hàng quân, và trên vành mũ mới cứng của mỗi người lính đều có dán một khẩu hiệu: Quyết tâm hành quân, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ! Vui nữa là thỉnh thoảng lại được anh em lái xe vẫy, tung xuống những bao thuốc lá, những phong lương khô. Có khi gặp đồng hương còn cho cả thịt hộp và những thứ đặc sản khác như ruốc bông thịt lợn hay đường sữa v.v…Tôi thầm ghen với họ cũng là lính mà sao lính lái xe giầu, sướng thế. Những chiếc xe ô tô đỏ quạch bụi đường vẫn còn những khung gỗ che ca bin xe để cài cắm ngụy trang, nhưng không còn cành lá ngụy trang nữa. Ngay cả chúng tôi cũng không còn: rung rinh lá ngụy trang trên đường ra trận nữa!
Đường hành quân giờ đây thật đẹp, thật lý tưởng. Nhưng nhìn ngắm, nghe mãi rồi cũng quen mắt, quen tai. Cái nặng trên vai vẫn đè lên thân hình, lên bước chân người lính. Mọi người đã bắt đầu thấy mỏi chân, đau chân, vì đôi chân bao ngày đã quen trèo đèo vượt dốc. Giờ đây hành quân đường bằng bước đi một tư thế thì lại rất đau mới lạ chứ. Nhiều người gan bàn chân đã phồng rộp mọng nước. Tôi cũng bị như vậy nên mỗi bước đi là một cái nghiến răng vì đau.
Hôm sau đơn vị tới sông Gianh đợi phà qua sông. Sông rộng nước trong vắt. Ở đây sông gần ngay cửa biển, cửa sông rộng nên càng thấy mênh mông. Đây là sông Gianh - con sông mà hồi thế kỷ XVII - XVIII là ranh giới phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài. Suốt gần 200 năm cuộc nội chiến gọi là Trịnh - Nguyễn phân tranh (sau này tôi tìm hiểu, từ “gianh” là từ cổ, nghĩa là “tranh giành nhau”, nên con sông này mới được gọi là sông Gianh). Cuộc chiến trong lịch sử Việt Nam có chép lại mà chúng tôi đã được học trong trường phổ thông. Biết bao người lính cả hai bên đã đổ máu nơi đây trong những cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”.
Dọc bên bờ sông, hàng đống hàng hóa các loại khí tài quân sự xếp từng dãy, từng dãy tập kết để xuống tàu chuyển “vô trong”. Đạn dược vũ khí rất nhiều, nhất là các loại thuốc nổ. Nhiều anh em đã xin thuốc nổ TNT và kíp nổ cất giấu để sử dụng khi có cơ hội đánh cá. Ngay tại đây, thỉnh thoảng có những tiếng nổ của thuốc nổ cùng những cột nước dựng nên của một số anh em bến bãi đánh cá.
    Phà quân sự đưa chúng tôi vượt sông. Lên bờ qua xã Bắc Trạch, tới xã Trung Trạch thuộc huyện Bố Trạch. Ấn tượng nhất ở đây là hàng khẩu hiệu chữ rất to: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Mỗi chữ được viết trên một vỏ quả bom bi mẹ cắm liền nhau dọc theo đường quốc lộ. Hành quân tiếp, chiều muộn đại đội nghỉ lại cuối xã Trung Trạch. Tiểu đội tôi được phân công ở ngay một nhà dân cạnh đường phía bên biển. Nhà làm cạnh ngay đồi cát có những cây phi lao cằn cối thấp tè tè, nhưng có lẽ cây rất nhiều tuổi. Chỉ có loại cây này mới sống được trên đồi cát nóng vì chúng chịu được nắng nóng, hạn và gió mặn của biển cùng “bão cát”mỗi khi có gió lớn. Gió thổi, cát bay chúng tôi cứ phải nhắm mắt thật nhanh còn da mặt đầu tóc thì rát rạt vì cát.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:12:48 pm

       Căn nhà chúng tôi ở rất thấp bé lấy làm nhà trung tâm, còn lại mọi người thì mắc võng ngoài sân, đồi, nhưng cũng rất khó vì cây không cao to. Căn nhà đúng ra là căn nhà hầm bán âm bán dương. Nhà chỉ có một mạ (mẹ) và hai o (cô) gái tuổi khoảng mười tám, đôi mươi. Hai chị em cao to lực lưỡng. Cô em cao to hơn. Hai chị em đều tham gia dân quân. Cô chị là xạ thủ súng cối 82 ly, còn cô em là xạ thủ súng phòng không 12 ly7. Mạ và hai o rất vui, rất quý chúng tôi. Tiếng Quảng Bình chưa quen thật khó nghe, họ gọi chúng tôi là các eeng (các anh) có những câu, những từ hỏi đi hỏi lại mấy lần mới hiểu được. Hai o gái và mạ nhanh chóng giúp chúng tôi nấu cơm. Chúng tôi mời mọi người cùng ăn. Mạ và hai o gái cũng rất tự nhiên cùng ngồi ăn cơm với chúng tôi. Cơm nước xong đã tối, mọi người đi tìm chỗ nghỉ của mình cho phù hợp. Chiến sĩ Sắc được phân công nấu nước đóng bi đông cho tiểu đội. Cô em cũng vào đun nước cùng, hai người rì rầm nói chuyện vui cười. Lúc sau không hiểu sao tự nhiên thấy cô gái chạy vụt ra ngoài và nói to: Bất khả xâm phạm, bất khả xâm phạm! Mọi người gần đấy chạy vào bếp xem có việc gì, qua ánh lửa bập bùng thấy Sắc ngồi nghệt ra. Hiểu ý, anh Khoát nói: Thôi đóng nước nhanh nhanh lên rồi đi ngủ. Mọi người lại lên võng của mình.
Sáng hôm sau tiếp tục lên đường. Cả tiểu đội đã tập trung ra đường mà vẫn chưa thấy Sắc ra. Tôi đi về phía sau nhà thì thấy Sắc và cô em gái đang nắm tay nhau chia tay rất bịn rịn. Thấy tôi vào, hai người buông tay nhau ra, cô gái đi nhanh vào nhà, còn Sắc lên ba lô, mặt chưa hết bần thần. Trên đường hành quân, mọi người tò mò hỏi về việc tối qua. Gạ gẫm mãi Sắc mới kể: Khi vào bếp đun nước, hai anh em chuyện trò một lúc thì Sắc lân la khám phá thân hình vùng núi đôi. Cô gải để im cho sắc tìm hiểu. Không dừng lại đó Sắc lấn tới muốn khám phá vùng cấm địa, nhưng vừa tới cửa ngõ thì bất ngờ cô gái đứng vụt lên và chạy ra ngoài vừa chạy vừa hô như thế. Sáng nay cô gái lại chủ động gặp Sắc nói lời chia tay xin lỗi vì việc tối qua và nói thêm là: Khi nào anh chiến thắng trở về thì em sẽ cho anh: “Thoải mái xâm phạm”.
Chúng tôi vừa đi vừa vui vừa mường tượng thèm cái chỗ “bất khả xâm phạm” của Sắc. Chuyện vui râm ran mãi dọc đường hành quân. Tối thì đến xã Đại Trạch, chúng tôi được nghỉ lại đây một ngày.
Trong đơn vị có tin đồn là toàn bộ trung đoàn 36B sẽ tách khỏi đội hình sư đoàn 308B và sáp nhập vào sư đoàn 341 của quân khu 4. Đây là sư đoàn mới được thành lập. Sau này chúng tôi mới hiểu tỷ mỉ hơn là sau khi quân lực Việt Nam Cộng hòa tái chiếm được Thành Cổ Quảng Trị. Chúng hung hăng tuyên bố sẽ đánh chiếm khu giải phóng là thị xã Đông Hà và vượt sông Bến Hải “Bắc tiến”, tức là sẽ đánh chiếm khu vực Vĩnh Linh - Quảng Bình. Sau khi đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari ngừng ném bom tại các tỉnh miền Bắc và rút hết quân đội ra khỏi miền Nam. Nhưng trước đó chúng đã dàn dựng chiến lược: “Việt Nam hóa chiến tranh”. Tức là quân đội Việt Nam Cộng hòa cộng vũ khí, súng đạn của Mỹ. Trước khi ký Hiệp định Pari, Mỹ đã tranh thủ viện trợ cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu rất nhiều vũ khí, khí tài quân sự. Điều này đã làm cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và Quân lực Việt Nam Cộng hòa càng hung hăng hơn. Trước tình hình đó, để đối trọng lực lượng tại khu vực vĩ tuyến 17, đủ sức mạnh răn đe quân sự, Bộ quốc phòng và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Sư đoàn 341. Sư đoàn lấy nòng cốt là hai trung đoàn 270, 266 cùng các tiểu đoàn pháo binh, các tiểu đoàn trợ chiến hiện trên địa bàn Quân khu 4 hội tụ về sư đoàn 341. Lễ thành lập Sư đoàn 341 ngày 23 tháng 11 năm 1972 tại chân núi Đại Huệ gần Bộ tư lệnh Quân khu 4 ở Nghệ An. Hiện tại sư đoàn 341 đang thiếu một trung đoàn bộ binh, nên quân khu đã xin Bộ quốc phòng điều trung đoàn 36B về đội hình sư đoàn 341, Quân khu 4. Đó là việc của tổ chức, còn anh em chúng tôi, những người lính đang miệt mài hành quân ra trận trong khí thế của ngày hòa bình, của người chiến thắng thì việc chuyển sang đơn vị nọ kia, chúng tôi coi đó là việc của cấp trên, anh em không mấy bận tâm.
Ngày 16 tháng 2, toàn tiểu đoàn nghỉ lại xã Lệ Ninh huyện Quảng Ninh.
Ngày 17 tháng 2 nghỉ lại xã Võ Ninh huyện Quảng Ninh đến hết ngày 18.
Ngày 19 tháng 2 nghỉ lại xã Thanh Thủy, Lệ Thủy. Được biết đây là huyện cuối cùng của tỉnh Quảng Bình giáp với khu vực Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Ngày 20 tháng 2 toàn đội hình nghỉ lại xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy.
Ngày 21 tháng 2 tiểu đoàn hành quân đến xã Vĩnh Chấp lúc 11 giờ trưa. Đại đội tôi đóng quân tại đội 7, Tân Định xã Vĩnh Chấp khu vực Vĩnh Linh, Quảng Trị.


                                                   IX

Như vậy là sau 28 ngày hành quân, toàn bộ đội hình trung đoàn 36B đã tập kết tại khu vực Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã lấy con sông Bến Hải làm giới tuyến tạm thời. Theo tinh thần Hiệp định thì sau 2 năm cả nước sẽ tiến hành tổng tuyển cử, hòa hợp dân tộc, thống nhất đất nước. Thế nhưng đến nay đã gần 20 năm rồi mà cái mục tiêu đó không thực hiện được. Các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam âm mưu thâm độc đã can thiệp, phá hoại, chúng không muốn cho việc này diễn ra. Chúng dựng nên chính quyền Sài Gòn và tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền ấy chống phá việc thực hiện Hiệp định. Trước sự đấu tranh và sức mạnh yêu nước của dân tộc, quân và dân Miền Nam dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, sau là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã từng bước đập tan chế độ bù nhìn tay sai của đế quốc Mỹ. Trước nguy cơ thất bại chiến lược, Mỹ và các nước đồng minh đã can thiệp sâu hơn vào Việt Nam. Chúng đã trực tiếp đưa quân đội và tăng cường các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh, tăng cường viện trợ kinh tế để xây dựng, duy trì chế độ tay sai của chúng. Thời điểm cao nhất, chúng đã đưa tới nửa triệu quân Mỹ và chư hầu vào tham chiến tại chiến trường miền Nam. Chúng còn gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ để lấy cớ đánh phá miền Bắc. Khu vực Vĩnh Linh là tuyến đầu miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối đầu với các thế lực quân sự phản động của chính quyền Sài Gòn. Chính vì thế ở khu vực này trong những năm qua đã phải chịu đựng biết bao bom đạn từ các loại máy bay, kể cả máy bay chiến lược B52 thường xuyên đánh phá.
Bên kia sông Bến Hải là khu vực Cồn Tiên - Dốc Miếu, chúng xây dựng các cứ điểm quân sự mạnh với hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra để ngăn chặn sự tiếp viện của chúng ta cho Miền Nam. Chúng thường xuyên dùng các cứ điểm này bắn pháo ra miền Bắc. Ngoài khơi, các loại pháo bầy, pháo hạm của Hạm đội 7 hải quân Mỹ cũng suốt ngày bắn phá vào đất liền. Nơi đây khu vực Vĩnh Linh đã chịu đựng hàng vạn tấn bom đạn của địch. Vùng này đất đồi là chính, những hố bom, hố đạn chi chít khắp mọi nơi, hố nọ chồng lên hố kia không phải một lần mà có khi nhiều lần. Vơ trong đất chỗ nào cũng có mảnh bom, mảnh đạn hay bom bi các loại. Chúng tôi đến đây buổi trưa thật ngỡ ngàng vì thấy chỗ nào cũng bị bom đạn cày xới. Những trận địa pháo phòng không và giao thông hào cùng những hầm hố chiến đấu và tránh bom dày đặc. Nhà dân là những túp lều bé lợp lá tranh úp lên hầm nửa nổi nửa chìm. Từ trong nhà thông sang các cửa hầm kèo và thông ra các giao thông hào tỏa đi các khu vực trong xã. Sau chúng tôi còn được biết là khu vực Vĩnh Linh có xã còn đào cả địa đạo nữa. Địa đạo là hầm sâu dưới mặt đất xuyên từ nơi nọ sang nơi kia, có cả trường học, trạm y tế, hầm cứu thương v.v… tất tật ở trong hệ thống địa đạo. Sau này đã có những thống kê về chiều dài trục chính của địa đạo Vĩnh Mốc dài tới mấy ngàn mét.
 Chắc có lẽ chưa ai thống kê được tổng chiều dài của các giao thông hào trong khu vực Vĩnh Linh mà lúc bấy giờ gọi là Đặc khu Vĩnh Linh trực thuộc Trung ương. Huyện Vĩnh Linh là một huyện phía Bắc của tỉnh Quảng Trị, có dòng sông Bến Hải và cây cầu Hiền Lương giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc. Địa danh này trong những năm qua đã rất nổi tiếng vì sự kiện đó là huyện đối đầu với phía “bên kia” không phải chỉ là vấn đề nội bộ của Việt Nam mà còn là sự đối đầu của hai phe, phe Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu. Phía bên kia do đế quốc Mỹ đứng đầu, như trong các bài học chính trị mà chúng tôi vẫn thường được nghe giảng là: “Ai thắng ai”. Sau khi dùng đủ mọi thủ đoạn, mọi sức mạnh quân sự với nửa triệu quân Mỹ và chư hầu cùng với hơn triệu quân Việt Nam Cộng hòa tham chiến, kết hợp với cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân kéo dài suốt từ năm 1964, cuối cùng chúng phải thất bại thảm hại. Với chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, chúng ta đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết hiệp định Pari, ngừng ném bom ở miền Bắc, rút hết quân đội ra khỏi miền Nam lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Nói đến Vĩnh Linh người dân Miền Bắc không ai là không biết tới những bài hát “Câu hò bến bờ Hiền Lương” và những bộ phim nói về vùng giới tuyến này như: “Chung một dòng sông”, “Con chim vành khuyên”, “Nổi Gió”, “Vĩ tuyệt 17 ngày và đêm’’. Còn hôm nay chúng tôi đã đến đây, đã được sống, được ở ngay tại nơi đây. Mới đến nên chưa có thời gian thăm thú được nhiều, chưa được ra thăm cầu Hiền Lương hay địa đạo Vĩnh Mốc. Mà chúng tôi mới chỉ thấy những đồi cát trắng phau, bên kia đồi cát điệp trùng đó là biển, xa xa là đảo Cồn Cỏ, hòn đảo tiền tiêu Anh hùng mà ai cũng biết. Quốc lộ 1 trục Bắc - Nam chạy dọc ven biển. Nơi chúng tôi dứng chân là đồi thấp với hoa sim, hoa mua cùng các loại cây thấp bạt ngàn. Có những vạt sắn, vạt khoai xen lẫn. Đường tàu Bắc - Nam chạy song song với trục đường số 1 nhưng quãng này cách nhau khoảng 3 ki-lô-mét. Hiện đường tầu bị hỏng, chưa có tàu chạy, còn đường bộ số 1 thì xe ô tô chở hàng hóa chi viện cho miền Nam rất sôi động. Các xe ô tô chạy đến gần Hồ Xá đầu dốc 6 độ thì rẽ phải vào đường 15 qua Bãi Hà, xuyên lên đường Trường Sơn. Xa xa khoảng 15- 20 ki-lô-mét là dãy Trường Sơn xanh thẫm, bên kia dãy núi thuộc nước Lào anh em. Rất nhiều điều sẽ được chúng tôi khám phá sau này. Xã Vĩnh Chấp, nơi chúng tôi đóng quân và rất nhiều xã khu vực này được phong tặng danh hiệu cao quý là xã: Anh hùng lực lượng vũ trang.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:14:22 pm

         Chúng tôi nhanh chóng được phân chia ở trong các nhà dân. Nhưng dân thưa, bộ đội lại đông, nên thường lấy nhà hầm làm trung tâm, còn mọi người mắc võng xung quanh nhà để ngủ. Nhân dân ở đây rất cách mạng hay gọi là vô cùng Bônsêvích, mỗi người dân là một chiến sỹ không kể trai hay gái. Những người già yếu hoặc các em nhỏ thì đã được đi sơ tán ra các tỉnh Nam Định, Thái Bình gọi là K8 - K10, còn toàn người lớn, thanh niên và trung niên ở lại. Ai cũng có súng, trang bị và biên chế như quân đội. Ngoài nuôi trồng mà chủ yếu là trồng khoai, trồng sắn, ruộng thì rất ít. Những năm chiến tranh, ngoài chiến đấu bắn máy bay đề phòng biệt kích thám báo, giúp đỡ bộ đội và cùng bộ đội chiến đấu bắn máy bay, họ còn thường xuyên cử các trung đội, tiểu đội vượt sông Bến Hải sang bên kia ẩn náu trong rừng, trong đồi, tổ chức bắn tỉa lính Việt Nam Cộng hòa trong các đồn bốt. Họ đặt ra chỉ tiêu cứ mỗi người bắn tỉa tiêu diệt được 2 đến 3 lính Việt Nam Cộng hòa thì cả đội mới lại về bên này, và lại cử tổ khác sang. Chính vì thế nên qua nói chuyện, họ có vẻ kiêu kiêu, cộng với tính cách thật thà, hơi cộc cằn khô cứng của vùng miền và thổ ngữ nên qua giao tiếp, chúng tôi cảm thấy họ khô khan, ít tình cảm, không như dân khu Ba. Nhất là sau khi đóng quân ở đây được một thời gian, một vài bộ đội có những tinh nghịch láu cá, nên những xích mích, những câu chuyện chê bai vùng miền đã trở thành chuyện cười chế nhạo nhau, luôn xảy ra giữa dân với bộ đội. Ví dụ: có gia đình bộ đội ở, anh em ăn một nửa hộp thịt, còn để dành nửa, đến hôm sau không thấy hộp thịt ấy đâu nữa. Mọi người nháo lên hỏi nhau là hộp thịt đâu có ý tìm kiếm. Lúc này ông bọ chủ nhà mới giơ tay nói: Bọ có ý kiến! Bọ thấy các chú nỏ ăn ( nỏ là không ), thì bọ ăn giúp, kẻo kiến nó bu! Mọi người nhìn nhau, cố bấm bụng cười. Lần khác, có bọ chủ nhà, khi anh em chào bọ, chia tay để  lên đường, bỗng bọ giơ tay nói: “Bọ xin có ý kiến: Trong ba chú đi, thế nào cũng có chú “chệt” ( chết ). Các chú để lại cho bọ một cái mão (mũ), không nó phí đi!
Chúng tôi được nghỉ ngơi hai ngày, được lĩnh nhu yếu phẩm mỗi người được thêm 3 điếu thuốc lá và 2 cái kẹo gọi là quà tết và cũng là quà của sư đoàn mới - Sư đoàn 341. Sau khi nghỉ ngơi ăn tết bù chúng tôi được tập hợp học chính trị, trước hết được thông báo là toàn bộ trung đoàn 36B, sư đoàn 308B lực lượng cơ động của Bộ nay được điều chuyển sang Sư đoàn 341. Phiên hiệu các đại đội, tiểu đoàn không thay đổi nhưng phiên hiệu trung đoàn nay đổi là trung đoàn 273. Tên 273 là lấy cái mốc thời gian khi chúng tôi hành quân tới đây là tháng 2 năm 1973. Việc thay đổi phiên hiệu sang đơn vị mới, sư đoàn mới với chúng tôi thì cũng chẳng có gì quan trọng cả, là vì xác định bộ đội thì đi đâu ở đâu làm việc gì học tập huấn luyện hay đi chiến đấu đều là nhiệm vụ của cấp trên giao phó, mà mình chỉ là người lính. Song về nhiệm vụ thì có thay đổi lớn. Qua đó nhiệm vụ của đơn vị có thay đổi là trung đoàn không vào Nam chiến đấu nữa, mà đóng quân tại đây làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực Vĩ tuyết 17, Vĩnh Linh, Quảng Bình. Trước mắt là phải sẵn sàng chiến đấu, một số đồng chí cản bộ được đi học tập, tập huấn chuyên môn kỹ thuật tại các lớp do Sư đoàn và Quân khu tổ chức, số còn lại nhanh chóng tổ chức đi rừng lấy củi cho bếp, lấy gỗ, lấy cây về làm bếp, làm nhà ăn, làm nhà Ban chỉ huy đại đội, hội trường để sinh hoạt. Sau đó tiến tới làm doanh trại của các đơn vị. Mục tiêu phấn đấu là sau 60 ngày, toàn bộ trung đoàn phải có doanh trại cho bộ đội ở để tiện việc huấn luyện và làm nhiệm vụ. Vì nhà dân ở đây không đủ cho bộ đội ở, hơn nữa mục tiêu muốn xây dựng đơn vị chính quy hiện đại thì phải có doanh trại riêng, gần dân nhưng không phụ thuộc vào dân. Thế là chúng tôi lại chuyển sang giai đoạn mới, đó là chiến dịch làm nhà.
Có tin vui là trung đoàn được Bác Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước tặng Lẵng hoa vì trung đoàn có thành tích hành quân đến đích nhanh, đảm bảo quân số và an toàn tuyệt đối. Mỗi đại đội chọn lựa 10 đồng chí tiêu biểu có thành tích trong hành quân để lên trung đoàn đón lẵng hoa của Bác Tôn. Tôi cũng là người được cử đi.
Ngay từ tám giờ sáng, ai nấy quần áo trang phục gọn gàng, trực tiếp cùng đại đội trưởng và chính trị viên trưởng đại đội lên trung đoàn đón hoa. Hồi đó sự kiện đón Lẵng hoa của Chủ tịch nước tặng là vinh dự lắm. Chúng tôi hành quân bộ lên trung đoàn, từ đội 7 Vĩnh Chấp lên trung đoàn bộ tại xã Vĩnh Long, cách đó 6 -7 ki-lô-mét. Đường đến đó toàn đường mòn băng qua các đồi không cao lắm. Đồi đá sỏi gan gà, chỉ toàn cây sim cây mua, cây trạc trừu. Đang mùa hoa sim, hoa sim có hai màu trắng, đỏ rất đẹp xen lẫn với hoa mua tím đậm, hoa trạc trừu nhỏ li ti như hoa ngâu thơm ngát. Cảnh trí đồi núi thật đẹp, ngát mùi hương.
 Vừa tết xong, ngoài Bắc thì trời vẫn còn đang mát, còn ở đây thì như không có mùa đông. Nắng gay gắt, anh em đi được một lúc thì mồ hôi, mồ kê vã hết ra, ướt đầm trong bộ đồ quân phục ga ba đin dài tay nên càng nóng, “nóng chi mà nóng rứa”, cái nóng thật ấn tượng như chưa bao giờ thấy. Ở đây đang là mùa khô nên cái nóng khô như sắp bùng cháy. Chúng tôi lội qua một con suối, không ai bảo ai, mọi người đều đứng lại ngâm chân và vục đầu xuống gội. Nước mát làm cho cơ thể hạ nhiệt. Giải lao một chút rồi lên đường. Đúng 9 giờ 30 thì tới nơi tập trung. Theo hẹn thì khoảng 10 giờ lẵng hoa của Bác Tôn về tới nơi. Toàn trung đoàn, những thành viên ưu tú được cử đón lẵng hoa hàng lối chỉnh tề giữa bãi trống, được chính ủy Nguyễn Trường Long phát biểu căn dặn, tiếp theo, phó chính ủy Lê Nguyễn phát biểu động viên. Đã tới 10 giờ, rồi hơn mười giờ, rồi mười một giờ cũng chưa thấy hoa về. Đoàn quân đón hoa đứng giữa trời nắng gần hai tiếng đồng hồ. Cái nóng, cái đói, cái mỏi vì phải đứng, hết đứng rồi lại ngồi, mọi người đã thực sự uể oải mà vẫn không thấy hoa. Chẳng ai mang nước, cái khát ập đến, anh em xin phép vào nơi trung đoàn xin nước uống. Mới đầu còn ý tứ lẻ tẻ vì đây toàn là ngững người ưu tú được lựa chọn nên ý thức cao. Nhưng cao mấy thì sự sốt ruột, mệt mỏi cũng đã bộc lộ. Cứ thông báo là hoa sắp về nhưng mấy lần cái 15 phút mà cũng chẳng thấy hoa đâu. Cái nắng nóng miền Trung gió Lào, anh em đâu đã quen. Hôm nay vinh dự đón lẵng hoa tưởng là tự hào và đơn giản có ngờ đâu lại cực nhọc thế này.
Đúng lúc uể oải nhất vì đã gần 12 giờ trưa thì hoa đến. Đoàn xe chở hoa gồm 3 chiếc com-măng-ca mui trần cùng một số sỹ quan của quân khu ra Vinh tiếp nhận hoa từ Hà Nội vào. Chắc đoàn xe phải đi từ hôm qua hay từ đêm, nên khi hoa vào tới đây thì đã héo rũ, chỉ có dòng chữ đề tặng nét chữ còn đẹp, còn mới. Nhưng hoa dù héo cũng vẫn là vinh dự lớn. Lễ tổ chức đón nhận lẵng hoa cũng thật chóng vánh. Chính ủy Nguyễn Trường Long phát biểu về vinh dự, tự hào và hứa hẹn trung đoàn hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào khi Đảng và Tổ quốc phân công. Mọi người hô quyết tâm rồi vỗ tay vang cả vùng đồi núi. Các cán bộ trịnh trọng đón lẵng hoa vào trung đoàn bộ, còn anh em các đơn vị được lệnh về đơn vị mình trong cái đói cái mệt. Mọi người lần đầu trong đời được hiểu thế nào là phần thưởng cao quý, được trực tiếp Chủ tịch nước tặng. Gần hai giờ chiều đoàn chúng tôi mới về tới nơi đóng quân. Ôi chao là đói, là mệt, cơm canh nguội ngắt. Một kỷ niệm thật nhớ đời ở nơi đóng quân mới, đơn vị mới tại vùng đất thiêng này.
Sau sự kiện đón lẵng hoa Bác Tôn, toàn trung đoàn bắt đầu chiến dịch làm doanh trại để ra ở độc lập. Thể là từng đại đội tìm vị trí làm doanh trại của đơn vị mình và cử người lên giúp trung đoàn bộ làm nhà, còn lại tất cả tập trung cao nhất cho việc làm lán trại. Nói là lán trại thì đơn giản, nhưng thực tế rất vất vả, phức tạp vì dụng cụ làm nhà không có. Bộ đội thì mỗi người có con dao găm, mỗi tiểu đội có một con dao dựa to. Nhưng những loại dao này thì không thể vào rừng chặt cây, cắt cỏ được, nên phải dựa vào dân mượn dụng cụ như dao quắm, liềm cắt cỏ tranh v.v… Trung đoàn cử người đi mua thêm các dụng cụ như cưa, tràng, đục về phát cho các đơn vị. Vật liệu thì không thiếu. Cỏ tranh lợp nhà thì cắt ở xung quanh. Gỗ các loại thì có rừng Trường Sơn cách đây khoảng 15 - 20 ki-lô-mét. Đại đội chọn cử các đồng chí có khiếu về làm nhà hay ở nhà đã làm thợ mộc để bàn tính dự trù lấy vật liệu. Căn cứ vào dự trù vật liệu đó mà phân công cụ thể cho từng người hàng ngày đi lấy cây, lấy gỗ làm cột, làm kèo, làm dứng vách và những nguyên liệu cần thiết. Từ đây vào đến rừng tìm vật liệu xa, nên sau khi mượn dụng cụ của dân thì từng tiểu đội, trung đội hay từng nhóm xuống quản lý lĩnh gạo và thực phầm để đi rừng tổ chức ăn bữa trưa trong rừng.
 Đi rừng thật là vui vì chúng tôi chủ yếu là dân đồng bằng, rừng núi chưa quen, nên nói đi rừng ai cũng háo hức sẽ có nhiều điều khám phá, mà đúng là thế thật. Có nhiều chuyện buồn cười về sự ngây thơ thiếu hiểu biết về cây, về gỗ và cũng có nhiều đồng chí rất vui khi khám phá ra được điều mới lạ. Như len lỏi trong rừng bắt gặp những cái dù pháo sáng hay bắt gặp những kho hàng quân sự bí mật, thậm chí gặp cả kho muối dự trữ lớn như quả đồi. Những lán trại che nắng mưa đã mục nát hết. Muối phơi mưa nắng hao hụt và lớp bên ngoài cứng lại phải lấy dao chém hay đục phá lớp ngoài như bê tông thì lớp muối ngon bên trong mới lộ ra. Anh em tiểu đoàn 3 chịu lùng sục nhất, họ đã bắt gặp các kho, các hầm chứa thực phẩm và cả súng đạn dự trữ chiến lược, nhưng cây gỗ làm hầm đã mục, lộ ra các hầm trên cũng không có người coi hoặc cả vùng rộng mà chỉ có 1- 2 người coi, nhưng họ cũng không mấy quan tâm. Bộ đội ta lấy về được rất nhiều thứ như thịt hộp, đỗ đen của Trung Quốc được chế biến gọi là tầu xị mà hồi bé tôi vẫn ăn. Có nhiều đồng đội lấy được cả súng ngắn K54- K59 để bắn nghịch chơi. Phía sâu trong Bãi Hà còn có cả một nông trường cao su tên là nông trường Quyết Thắng, họ nuôi bò, trồng hồ tiêu, cao su, cà phê. Nhưng những cây trồng này có vẻ đã bỏ hoang từ lâu mà họ chủ yếu là nuôi bò và phục vụ chiến đấu là chính. Nông trường này thành lập từ những năm 1955 đoàn cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc làm kinh tế vẫn tổ chức như là quân đội. Nhưng rồi chiến tranh ác liệt, nhiệm vụ chính là phát triển kinh tế thành nhiệm vụ thứ yếu, mà chủ yếu phục vụ quốc phòng. Cán bộ và công nhân nông trường sau lần lượt được cử trở về miền Nam tham gia chiến đấu.
Đi rừng thật vui, thật lạ, nhưng ở vùng này bom đạn Mỹ chưa nổ còn rất nhiều, nhất là các loại bom bi quả ổi, quả dứa thì chỗ nào cũng có. Có đồng chí Trường ở đại đội đội 18 thấy quả bom bi quả ổi cầm nghịch ném chơi, bom phát nổ đồng chí bị mấy viên bi cắm vào mặt, bị thương đi viện, may mà không chết người. Trung đoàn phải thông báo khẩn về việc này. Mùa khô, những vạt tranh và cỏ cây trên đồi cứ như là sắp bùng cháy. Nhiều anh em sơ ý đun nấu hay hút thuốc thậm chí là đốt nghịch gây ra những đám cháy lớn không dập được. Trong đám cháy, thỉnh thoảng lại có tiếng nổ ầm, do những loại bom đạn trên bị đốt nóng phát nổ, gây nguy hiếm. Việc này đã làm cho chính quyền và dân địa phương có ý kiến gay gắt.
Việc đi lấy gỗ thật lạ lẫm, có nhiều anh em được phân công lấy cột nhà theo kích thước đã định. Vào rìa rừng thấy rất nhiều cây gỗ thẳng đứng trông rất đẹp đúng kích thước được giao, cây xốp chặt rất dễ phấn khởi vác về, nghĩ là lấy gỗ thật dễ, nhưng khi về đến nhà gặp dân họ mới phì cười và nói đây là gỗ chân chim không thể làm nhà được, vì chỉ mấy ngày là cây bị mọt mục gãy ngay. Thế là mất công toi cả ngày rừng. Có đồng chí không biết còn chặt cả cây sơn mang về, bị sơn ăn mặt sưng vù phồng như cái bánh đa nướng. Tôi thì lại không bị sơn ăn nên có mấy lần cũng chặt phải cây sơn nhưng không việc gì. Đúng như các cụ xưa có câu: “Sơn ăn từng mặt, ma bắt từng người”.
 Đi rừng lấy gỗ công việc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vất vả vô cùng. Rừng Trường Sơn phía Tây Quảng Bình là nơi giáp ranh giữa Vĩnh Linh và Quảng Bình đang còn là rừng nguyên sinh. Chỉ có một vài điểm là bị bom phá, nhưng bom nhiều mấy cũng không hề hấn gì so với cái bạt ngàn của rừng. Cây to cây nhỏ và dây leo chằng chịt rất nhiều, chưa có sự tàn phá nhiều. Cùng với bộ đội, dân vùng này cũng lục tục vào rừng lấy gỗ về làm nhà. Nhưng họ chọn các loại cây gỗ gụ, gỗ lim to đốn hạ, đẽo sơ qua rồi tập trung lại, dùng trâu kéo hay xe trâu kéo về nhà. Còn chúng tôi chủ yếu là tìm chặt những cây nhỏ để dựng nhà, dựng lán trại theo kiểu cấp tốc. Cây cột thì đường kính 15 cm là quý rồi, còn kèo, xà thì cứ bé dần đi theo tỷ lệ. Nhỏ nhất phải lấy là những cây làm dứng để buộc vách trát tường, chúng chỉ nhỏ bằng ngón tay nhưng độ dài tới hai, ba mét, ở rừng rất nhiều. Nhưng nhiều chăng nữa thì cũng phải vào rừng, rừng đâu có bằng phẳng mà phải leo trèo lên các ngọn núi hay các khe rãnh mới có nhiều loại vật liệu mình cần tìm. Lấy được cây gỗ hay bó dứng rồi, lúc mang ra khỏi rừng cũng không đơn giản. Có nhiều cây sau khi chặt xong rút mãi không được, vì bị dây leo quấn chặt trên ngọn. Hai ba người tập trung kéo mà cây cứ như lò xo không kéo xuống được đành phải bỏ, mất công tìm cây khác. Đôi lúc, đã mệt thì chớ, lại thấy những chú sóc nhảy nhót thoăn thoắt chuyền cành, thỉnh thoảng lại ngó nghiêng, như giễu cợt chúng tôi. Hoặc lấy được bó dứng, bó đòn tay rồi bó lại nhưng mang ra khỏi rừng rất khó, phải lên dốc xuống dốc, cây vướng vào các loại dây leo hay các cây khác, hì hục, hì hục mệt đứt hơi mới qua được những chỗ vướng víu đó. Thi thoảng có anh em cũng gặp được những cây bứa có trái, họ thường đốn hạ cả cây rồi cứ thế hái ăn hay mang về nấu canh. Có anh em gặp được cây gắm quả sai chíu chít lấy về luộc ăn. Có anh em gặp được tổ ong mật lấy mật húp xì xụp, thậm chí bị ong đốt sưng môi sưng miệng vẫn toe toét cười.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:16:00 pm

        Vì quãng đường từ nơi ở đến rừng xa, vào rừng tìm chọn gỗ, chọn cây xong  đã 11-12 giờ trưa, mới ra chỗ tập trung ăn cơm, trước khi tản ra vào rừng thì mỗi nhóm đã cử 1 người chọn khe suối ven rừng nấu cơm cho nhóm. Ăn cơm xong đã 1-2 giờ chiều mới lục tục vác gỗ về. Đấy là giai đoạn đầu ồ ạt đi lấy gỗ mới tổ chức được như vậy, còn sau này đôi khi đi lấy lẻ thì phức tạp hơn. Có lần tôi cũng bị như thế sẽ kể với các bạn sau. Quãng đường về bây giờ mới thấy xa vì phải vác gỗ, tuy không nặng lắm nhưng nó lại không êm ái như cái dây ba lô, mà nó là những cây gỗ cứng tì đè vào vai, cái đôi vai gầy giơ xương của tôi đâu đã quen những việc này. Cởi áo ra để lót vào vai mà cũng chỉ đỡ đi một tí. Nghiến răng nghiến lợi mà vác, mà bước leo các quả đồi, lội qua các con suối về nơi ở. Nắng quá trưa càng gay gắt hơn, gió Lào thổi ào ào khô rát càng tăng thêm cái nóng.
Lúc này đang là đầu mùa xuân nên các loại cây đồi như sim, thanh mai đều mới đang ra hoa chưa có quả, nên lính chưa tận hưởng được những hương vị lạ của đồi núi miền Trung này. Lên đến các đỉnh dốc nhìn về phía đơn vị đóng quân trong tầm mắt thấy có vẻ là gần thế mà đi mãi cũng vẫn thấy con xa. Khoảng 4 - 5 giờ chiều cũng về đến đơn vị, ghé cái vai cho cây gỗ rời khỏi vai và thở dốc mới thấy nhẹ người. Cán bộ đại đội xem xét thấy ưng ý, đúng quy cách là xong nhiệm vụ của ngày. Tắm rửa nghỉ một chút, ăn cơm rồi lại họp, lại kiểm điểm mạnh yếu, bình bầu gương tiêu biểu, nghe phân công nhiệm vụ ngày mai. Các đại đội ngoài lán trại, phải làm đủ bếp ăn, nhà ăn và hội trường họp cho đại đội mình. Xong lán trại, sạp ngủ, giường ngủ cho mọi người, phấn đấu sau thời gian ấy không ai phải ngủ võng. Rất nhiều việc phải làm. Mấy ngày đầu thì tập trung đi lấy gỗ, cắt tranh về đánh tranh để lợp mái. Có bộ phận sau khi được đại đội quy hoạch vị trí thì phạt cây san đắp nền nhà. Một việc trước mắt phải làm ngay không thể thiếu là mỗi trung đội, mỗi bộ phận phải chọn vị trí trên đồi, đào và quây làm nhà vệ sinh, đào thêm giếng nước để dùng, tránh phiền hà dân.
Việc đi lấy gỗ và cắt tranh mới đầu còn dễ nhưng chỉ mấy ngày sau những việc trên đã rất khó vì cây gỗ cây cỏ đâu có sinh sản nhanh được. Bao nhiêu đơn vị cùng làm nhà một lúc nên cây tìm kiếm khó dần, phải đi xa hơn, leo cao hơn, tìm kiếm mãi mới thấy được loại cây gỗ vừa ý mình. Cỏ tranh cũng vậy, anh em được phân công đi tìm những vạt cỏ phải đi rất xa cũng cứ đến chiều hoặc tối mịt mới về đến đơn vị. Vì vậy đại đội phát động nếu đi rừng mà ai gặp cây cọ thì có thể chủ động lấy lá cọ về luôn cũng được, vì lúc này cây khó nhưng có vẻ còn dễ kiếm, chứ cỏ tranh về mùa khô lại bị cháy nhiều nên cỏ tranh lợp nhà kiếm rất khó. Chính vì cái chỉ thị đó mà một lần trong rừng tôi có một kỷ niệm nhớ đời. Ấy là sau khi được phân công đi tìm lấy cái quá giang nhà. Quá giang còn gọi là xà ngang, là thứ khó lấy nhất trong xây dựng một căn nhà gỗ kiểu này. Vì cây quá giang phải dài đảm báo từ 4 mét rưỡi thẳng và thuôn đều. Tìm mãi, tìm mãi, leo trèo qua mấy khu rừng mà không thấy cây nào ưng ý. Chợt nhìn thấy dưới khe có hai cây cọ lá xum xuê, tôi bỏ ý định tìm xà ngang mà phấn khích lần xuống khe, trèo lên cây cọ. Cây không cao lắm nên việc trèo lên phạt hết cành lá không có gì là khó. Mặc dù tôi là người không biết trèo cây vì hồi nhỏ bố mẹ tôi cấm tuyệt đối không được trèo cây. Các cụ luôn có câu phương ngôn: “Có phúc đẻ con biệt lội, có tội đẻ con biết trèo”, ý nói hai việc đó rất nguy hiểm hay bị tai nạn chết người. Chặt gần xong còn vài ba tầu cọ nữa thì thấy người ngứa kinh khủng, cảm giác nhôn nhốt buồn ngứa như có gì châm đốt khắp người. Mới đầu tưởng mồ hôi của tôi gây ngứa ngáy, bèn lấy tay vuốt cổ cho đỡ ngứa thì mới biết kiến rất nhiều. Kiến đen bu vào khắp người. Hoảng sợ, nhưng tôi cố phạt nốt mấy cành cọ, rồi tụt nhanh xuống đất, nhìn kỹ mới thấy sợ, có hàng ngàn con kiến đang bu khắp người tôi. May là loại kiến nhỏ, chúng đốt chỉ ngứa một tí chứ không phải loại kiến có nọc độc cao. Không thể đuổi hết được lũ kiến, tôi bèn cởi và tụt hết quần áo trần truồng giữa rừng đập cho hết kiến và lau đuổi kiến bám khắp người, vò cả đầu tóc mãi mới hết được kiến bám. Xong, tôi mặc nhanh quần áo ngồi thở dốc. Lúc này tôi mới thấy sợ vì may mà gặp tổ kiến đen, chứ nếu gặp lũ kiến bống, kiến càng, kiến lửa mà bị chúng đốt thì không biết thế nào. Vì mải tìm gỗ, tôi đã đi quá xa đồng đội, khó ai có thể đến cứu được, thật hú hồn.


 Về tới nơi đóng quân, tôi kể chuyện lấy lá cọ bị kiến bu cho mọi người và bọ chủ nhà nghe. Bọ chủ nhà nói: Các chú bộ đội phải rút kinh nghiệm khi đi rừng. Đi rừng có mấy điều như rứa: Một là không nên vào rừng khi trời mưa to gió lớn thường hay bị sét đánh và cây gãy, đổ. Hai là không nên đi lẻ một người vào rừng. Thứ ba là vào rừng không được đùa nghịch, kêu hét ầm ỹ. Ông giải thích thêm về điều thứ ba là thấy các chú cứ vô rừng là đùa nghịch la hét, có chú vào rừng sảng khoái quá hú hét ầm ĩ, chúng tôi vô rừng chỉ chuyện trò đủ nghe. Khi có vấn đề nguy hiểm cần sự cứu giúp khẩn cấp thì mới hú hét kêu cứu. Nếu mà cứ hú hét gây thói quen, đến khi gặp nạn cần trợ giúp thì những người khác trong rừng không hiểu, cho là chuyện bình thường, nên không ai đến trợ giúp. Tôi cảm ơn bọ chủ nhà vì đã cho chúng tôi biết thêm về kinh nghiệm đi rừng.
Lúc này những người dân đi sơ tán diện K8- K10 từ các tỉnh đã lục tục trở về. Chỗ ở của từng nhà thêm chật chội, việc làm doanh trại càng trở lên gấp rút. Cây gỗ và tranh làm vật liệu thì dễ kiếm nhưng những thứ đơn giản như tre chẻ lạt buộc thì lại rất hiếm, thi thoáng mới có gia đình có khóm tre. Mới đầu một vài đơn vị đi xin tre thì còn được, nhưng nhiều đơn vị đi xin quá nên rất khó. Nhiều người dân không cho bộ đội nữa mà mua họ cũng không bán. Nhiệm vụ được phân công đi xin tre, không xin được là không hoàn thành niệm vụ. Nhiều nhóm bộ đội nghĩ ra trò láu lỉnh để có tre bằng được. Một tốp khoảng mấy người đến nhà nào còn tre, anh em vào nói chuyện, không đả động gì đến việc xin tre mà giả vờ mời thuốc hay vờ mua khoai, mua sắn luộc ăn. Trong lúc chủ nhà đi luộc khoai, luộc sắn thì một đồng đội bí mật ở bên ngoài, dao đã mài thật sắc, không được chặt vì sợ tiếng động, chọn cây ưng ý mọc ở bên ngoài cứa gốc, rồi cứa hết cành tay tre đủ số lượng mang về trước. Khi bữa tiệc khoai sắn đã xong mọi người chào bọ ra về và khen khoai ngon, khen bọ tốt bụng. Tiễn chân bộ đội ra ngoài thì bọ mới biết là mất tre, rất bực mình nhưng không làm sao được vì không biết được ai. Lính ta bấm bụng cười và như thế là đã hoàn thành nhiệm vụ. Một vài lần trót lọt, những tốp khác đến cũng định giở bài cũ ra, nhưng tốp nghi binh vừa vào hỏi chuyện xã giao mấy câu thì bọ đã hỏi luôn: Các chú đi có mấy người ni hay còn ai núp ngoài kia chặt trộm tre của bọ? Rồi sai người hoặc chạy ra ngoài kiểm tra.
Việc dân K8-K10 trở về làm cho nếp sống và nhịp sống tại khu vực Vĩnh Linh nơi mưa bom bão đạn xưa sôi động hẳn lên. Trong số người trở về có nhiều lứa tuổi, người cao tuổi thì không nói vì họ không thay đổi tập tục nhiều, nhưng thanh thiếu niên thì mang phong cách sinh hoạt từ ngoài khu Ba vào. Nhiều sinh hoạt khác với tập tục lâu đời của địa phương, nên từng gia đình có mâu thuẫn. Đầu tiên là tiếng nói, giọng nói, cách xưng hô như ngoài Bắc gọi là bà thì trong này gọi là mụ. Ông chú trong này gọi là dượng, hay ngoài Bắc gọi là bố, mẹ thì trong này gọi là bọ, mạ. Hay luôn phải nói mô, tê, răng, rứa v.v… Tiếp đến là thổ ngữ, ở ngoài Bắc mấy năm có cháu ở từ bé và lớn lên, học văn hóa ngoài đó nên thổ ngữ cũng theo ngoài đó. Dân trong này cấm không được phát âm như vậy và họ nói: Chém cha không bằng pha tiếng. Một việc đơn giản nhất như là đôi dép, các cháu thường đi dép nhựa, dép Tiền phong hay dép gia công. Hồi đó có đôi dép nhựa là quý lắm. Nhưng khi về quê thì bị cấm không cho đi mà chỉ được đi dép lốp cao su. Đoàn thanh niên khu vực cũng có chỉ thị cấm thanh niên đi dép nhựa hẳn hoi. Họ nói chỉ được đi dép Bình-Trị- Thiên (là dép cao su trong những năm chống Pháp mọi người gọi là dép Bình - Trị -Thiên chắc dép lốp ấy xuất xứ từ vùng này?). Họ nói đi dép nhựa là tiểu tư sản. Thanh niên đất lửa không được mang theo tư tưởng tư sản về quê. Điều này đã gây những làn sóng rất bức xúc cho thanh niên K8- K10. Có những mâu thuẫn tranh luận trong từng gia đình, từng cuộc họp xẩy ra về những cấm đoán quái gở ấy. Nhưng phong tục trong này rất nghiêm. Nhiều ông bọ khi có chỉ thị thì thu luôn dép nhựa của con cháu mang chặt làm đôi, làm ba. Các cháu tiếc khóc đòi lại nhưng bọ nói: Mi mà còn nói nữa ta chém đôi cả mi như đôi dép này. Thậm chí có nhiều bọ còn cấm cả con gái không được chơi, không được quan hệ với bộ đội. Trong dân lan truyền câu vè: Mấy chú bộ đội khu Ba, tóc mọc ngang, đầu không rãnh c… to như ống thổi lả, đ… chu, chu chửa nữa là đ… con gái bọ. Vì bộ đội mình thường nói ngọt ngào, anh em thường không để tóc có ngôi, mà thường cứ lấy tay vuốt xoay tròn đi trông cứ như là tóc mọc ngang.
Trái ngược với thái độ của các bọ luôn có ác cảm với bộ đội, thì các con cháu của họ, nhất là con gái vùng ngoài về và phụ nữ thì lại rất thích, rất quý bộ đội. Có những người sơ tán ra Thái Bình cùng quê với bộ đội, họ biết nhau từ quê đã đành, còn cả những phụ nữ, những người tuổi chị cũng rất quý bộ đội, họ hay cho bộ đội các thức ăn như khoai lang, khoai sọ, sắn. Cá biệt còn có người lấy trộm cả thuốc rê của bọ mang ra cho lính, thứ này là lính ta thích nhất mặc dù thuốc lá gọi là thuốc rê ở đây họ để nguyên cả tàu lá quấn vê lại như quấn xì gà, họ gọi là lăn- lê- vê- cuốn. Động tác rất thành thục, điệu nghệ như là các cao bồi Mỹ hút xì gà trong phim, gọi là vũ khúc miệng- môi- răng- lưỡi. Nhưng thuốc ở đây họ trồng nên rất nặng, mùi thuốc rất ghê, khét lẹt, hoặc có mùi khắm. Tôi đã có ý định khi nào về phép mang ít thuốc này về hút trong rạp phim hay chỗ đông người thì chắc mọi người bỏ chạy hết. Các chị lớn tuổi nhiều khi còn trêu chọc cả bộ đội, lợi dụng tiếng địa phương, thấy bộ đội đi ngoài nắng các chị hỏi: Các chú bộ đội đi rừng gặp các chị bức bổi thấy có nắng cực không? Bộ đội ta không biết trả lời luôn: Bộ đội gặp các chị thấy nắng cực lắm. Các o phá lên cười đấm nhau thùm thụp. Quái! Các o này cười cái chi mà cười dữ vậy? Nắng cực thì nói nắng cực có chi mà cười? Sau này mới biết là các o, các chị nói lái trêu bộ đội. Miền Bắc thì gọi là khổ ở đây thì gọi là cực nhưng các chị ghép chữ nắng cực lại, hiểu theo nghĩa ngược lại là: Lứng c… Tức là đi rừng gặp các chị thấy lứng c…. Thật hết chỗ nói!
Thế rồi những ngày vất vả đi rừng, làm nhà, các đơn vị cũng đã có nhà ở cho bộ đội theo đúng kế hoạch. Nhà không to lắm nhưng cũng là nhà. Nội thất cũng đầy đủ, có sạp nằm, không phải giường riêng mà là lấy cây gỗ nhỏ về ken cả dãy. Có cả giá ba lô, giá để giầy dép, rồi giá mũ giá bát v.v… Quân nhu cũng đã ra ngoài Bắc mua chiếu về cấp phát cho bộ đội. Từng đại đội đã có đủ bếp ăn, nhà hội trường để họp và những nhà vệ sinh đào tạm, gác gỗ ngang làm cầu tiêu cũng đã được làm thành nhà vệ sinh có mái đang hoàng. Lúc này các đại đội trong trung đoàn thường xuyên học chính trị, các bài chính trị cơ bản và học nghiên cứu cả học thuyết thâm độc của Nich-xơn là: “Dùng người Việt, đánh người Việt” hay gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Ngoài giờ học tập, phát động phong trào tăng gia tự túc. Vì ở đây rất hiếm rau xanh, tiếp phẩm đi rất xa đến mãi chợ Chéo, Lệ Thủy mới mua được chuối xanh, bí đỏ hay rau muống. Còn loại rau nữa thường xuyên có mặt trong bữa cơm là sắn củ được nấu sền sệt gọi là canh sắn, súp sắn, rau tầu bay, rau bầu đất Bộ đội ở vùng này rất đông nên quả thật dân có trồng mấy cũng không đủ cho bộ đội. Dân ở đây lại rất ít ăn rau. Quả mít ở ngoài quê thì để chín ăn, mùa mưa bão rụng, những quả xanh thì thường băm ra vứt vào chuồng lợn. Còn ở đây thì không để mít chín mà ngay lúc còn xanh non họ đã hái xuống, thái luộc ăn như rau hoặc bóp các thứ làm gỏi như món nộm rau ngoài Bắc. Dưa hấu cũng vậy, họ không để già chín đỏ, mà hái lúc còn xanh non làm canh, làm rau hay xào nấu. Như vậy là chúng tôi ở đây học họ hai cái: Một là mít xanh bóp gỏi, hai là dưa hấu xào hoặc nấu canh.
Từ khi sáp nhập với sư đoàn 341 Quân khu 4, một hai tháng đầu sư đoàn 308B thỉnh thoảng cũng gửi tặng cán bộ chiến sỹ trung đoàn nhu yếu phẩm, gạo thì vẫn cấp đầy đủ có phần dồi dào nữa. Nhưng giờ đây tách sư đoàn cũ hai tháng rồi, những ưu đãi không còn, mà ngay cả lương thực bắt đầu cũng đã phải ăn độn. Tiêu chuẩn gạo không đủ 7 lạng mốt như trước nữa. Cái đói, cái khổ, cái thiếu của lính bắt đầu được nếm mùi, nên việc phát động và thực hiện tăng gia tự túc được đưa lên hàng đầu. Đồi đất thì nhiều, các đơn vị thi nhau phát cây để tăng gia trồng rau, trồng khoai sắn. Khí thế tăng gia sản xuất rất cao, nhiều quả đồi được các đơn vị phát cây để tăng gia theo kế hoạch. Anh em đã tỏa đi xin giống khoai, hom sắn. Đơn vị đã cử người đi mua các loại giống rau về gieo trồng. Trời nắng chang chang nhưng bộ đội vẫn cứ đầu đội mũ cối, khăn mặt vắt cổ, phát cây, đốt rẫy, cuốc xới như những người dân thực thụ. Đã hai tháng ở đây được nếm trải cái nắng gió miền Trung khá quen, có vẻ đã hòa nhập được cuộc sống. Những đặc sản vùng đồi như quả chà là, quả sim, quả thanh mai, quả hồng leo là đặc sản của thiên nhiên rừng núi trao tặng bộ đội miễn phí. Còn có những loại quý hiếm nữa như củ hà thủ ô, dây kim ngân, dây bàng bạc, quả lạc tiên, quả hồng leo rất nhiều. Những cây củ đó là những vị thuốc quý, đun lên làm nước uống rất tốt. Cây hà thủ ô ở đây sao nhiều thế. Anh em không cần đào, mà chỉ cần đi vào những hệ thống giao thông hào là đã thấy củ hà thủ ô lòng thòng theo mép đất. Có củ dài cả mét, mang về sao vàng sắc đặc làm nước giải khát rất tốt cho sức khỏe. Anh em hái quả thanh mai cho vào ăng gô, rắc đường vào tạo lên sirô làm nước giải khát rất tuyệt.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:17:17 pm

       

                                                         X


 Khi những vạt rau muống trắng được gieo bằng hạt đã mơn mởn xanh cao 5 -7 cm thì có lệnh toàn trung đoàn cấp tốc đi làm nhiệm vụ mở đường tại phía Tây Quảng Bình. Những cuộc họp liên tiếp phổ biến về nhiệm vụ mới và làm công tác chuẩn bị để hai ngày nữa lên đường. Anh em tôi quyến luyến chia tay địa phương, chia tay những ngôi nhà mới và chia tay vườn rau, vạt sắn mới nhú, lên đường làm nhiệm vụ. Mới đầu anh em kháo nhau là đơn vị sẽ đi làm đường, tôi lại nghĩ làm đường là làm đường mật, đường mía. Tôi nói làm đường thì càng tốt chứ sao, thế nào cũng có đường để ăn. Anh em giải thích là đi mở đường Trường Sơn vất vả lắm. Ấy là mấy ngày trước nghe phong thanh, còn bây giờ sau khi đại đội đã họp phổ biến thì nhiệm vụ đã rõ ràng. Như vậy là mỗi đại đội để lại từ hai đến ba người diện ốm yếu coi cứ và chăm sóc những cây trồng của đơn vị. Đúng sáng ngày 5 tháng 5 chúng tôi hành quân. Được phổ biến là hành quân 1 ngày nhưng quãng đường rất xa khoảng gần 30 ki-lô-mét, nên sau khi ăn cơm lúc 4 giờ sáng, trong hành trang mọi người lại có phần cơm nắm ăn trưa và tối.
Chúng tôi đi băng qua đường tàu, qua Thát Cóc, rồi bắt vào đường 15 đến cầu Long Đại rồi đi dọc tiếp sâu vào đất rừng Tây Quảng Bình. Long Đại có nghĩa là con rồng lớn. Cây cầu Long Đại là lấy tên con sông. Sông rộng, nước trong vắt, uốn lượn luồn lách chảy qua qua các khe núi đá dựng đứng của núi rừng Trường Sơn, khi về đây thì phình rộng ra rồi xuôi xuống biển. Chính vì thế mà cầu Long Đại là cây cầu sắt dài tới gần 200 mét lập nhiều kỳ tích thời bấy giờ. Nơi đây đã ghi nhiều chiến công hiển hách của quân và dân Quảng Bình thời chống Pháp. Thời Mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc, thì cây cầu là mục tiêu đầu tiên của máy bay Mỹ. Hàng vạn tấn bom đạn các loại đã trút xuống đây, hòng cắt đứt mạch máu giao thông tuyến đường 15 chi viện cho tiền tuyến.
Nếu nói Quảng Bình - Vĩnh Linh là túi bom đạn của không quân Mỹ thì khu vực này là rốn của túi bom ấy. Máy bay đã đánh sập cầu, nhưng những chuyến phà của công binh vượt qua bom đạn vẫn đêm ngày đưa những đoàn xe, những đoàn quân ra trận. Báo chí những năm qua lúc nào cũng ca ngợi tinh thần dũng cảm chiến đấu, không sợ hy sinh của quân và dân nơi đây. Cũng như cầu Hàm Rồng Thanh Hóa, khu vực này là biểu tượng của ý chí dũng cảm kiên cường của dân tộc Việt Nam, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Hôm nay chúng tôi đến đây, bom đạn Mỹ không còn, dòng sông không phải mùa lũ nên nước chảy hiền hòa trong xanh thanh bình, nhưng xung quanh là những hố bom, hố đạn nham nhở, hố nọ chồng lên hố kia đỏ quạch màu đất đồi. Có những dấu tích của trận địa pháo phòng không, những đoàn xe vận tải quân sự tranh thủ những ngày hòa bình hối hả vận chuyển hàng hóa. Núi rừng Trường Sơn bạt ngàn, phong cảnh thật đẹp, đẹp đến nao lòng. Đứng ở bờ sông, ngẩn ngơ ngắm nhìn, thưởng thức cái đẹp, hơi mát từ dòng nước trong xanh phả lên, lòng thấy thật nhẹ.
Chúng tôi tiếp tục hành quân, qua mấy lần nghỉ thì tới địa điểm dừng chân để làm nhiệm vụ. Được biết nơi đây thuộc xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình, là phía Tây Quảng Bình hay phía Đông Trường Sơn. Chúng tôi dừng quân, mắc võng hạ trại ven suối, bên kia suối là vách đá dựng đứng. Đêm đầu tiên ngủ tại Trường Sơn. Suối nước chảy róc rách, muỗi thì nhiều vô kể. Tìm được cây mắc xong võng và thưởng thức cơm nắm, tắm rửa qua rồi lên võng đi ngủ. Hành quân cả ngày mệt nên ai cũng ngủ được ngay, giấc ngủ thật ngon thật sâu. Sáng sớm đã bị khua dậy bởi những tiếng gà rừng gáy, tiếng chim hót và cả tiếng hoẵng toang toác gọi bầy, rồi tiếng khỉ hú lanh lảnh trên vánh đá cao vọng xuống. Anh em lục tục dậy, tiếng cười tiếng nói vang vọng cả rừng. Anh Khoát cũng đã dậy từ sớm phân công thúc giục mọi người nấu ăn sáng. Sau khi ăn sáng, mọi người nghỉ ngơi, anh Khoát lên đại đội hội ý nhận nhiệm vụ. Sau khi về anh phổ biến kế hoạch. Theo kế hoạch, chúng tôi được nghỉ ngơi buổi sáng. Trong lúc mọi người được nghỉ thì cán bộ các trung đội và anh Khoát cùng đại đội đi tìm vị trí để làm lán trại. Mục tiêu là trong 5 ngày các đại đội phải làm xong lán trại cho bộ đội ở. Xác định trung đoàn sẽ làm nhiệm vụ mở đường chiến lược ở đây theo dự kiến là bốn tháng.
Rất nhiều việc phải làm, chúng tôi lại đi tìm cây, đi cắt tranh và chặt những cây đót ken làm vách, làm sạp giường, lán trại tạm thời. Dân cư ở đây thưa thớt, chỉ có một vài hộ dân tộc Vân Kiều sinh sống. Họ không trồng cấy lúa mà chỉ trồng khoai, sắn, sống dựa vào sản vật của rừng núi như săn bắn, hái lượm củ quả. Việc dựa vào dân là không có được như những nơi đơn vị đã ở, đã qua. Trong lúc anh em tôi say sưa làm lán trại thì có những bộ phận đi nhận cuốc, xẻng, búa chim, búa tạ, xà beng, choòng đục đá. Đây là dụng cụ, cũng là những loại trang bị mới mà chúng tôi được trang bị để phục vụ công việc mở đường. Các cán bộ đại đội thì đi nhận bản đồ, bản vẽ mở tuyến. Trong tiểu đoàn đại đội 1, 2 và 4 cùng tiểu đoàn bộ trực tiếp làm đường, nhiệm vụ của đại đội tôi là khai thác đá phục vụ cho việc lát đường. Được phổ biến cả sư đoàn tức là các trung đoàn 270, 266, trung đoàn pháo binh 55 cùng các đơn vị trực thuộc cùng làm nhiệm vụ mở đường. Mỗi đơn vị đơn phân công làm một đoạn, vì vậy sư đoàn đóng quân dọc theo chiều dài con đường.
Mưa, mấy hôm nay mưa nhiều, đây là những trận mưa đầu mùa của mùa mưa. Nước suối đã dâng cao. Hôm mới đến thì suối nước chảy róc rách, anh em mắc võng sát cạnh suối, còn hôm nay, sau mấy ngày mưa, nước đã dềnh lên, cuồn cuộn chảy, mọi người phải mắc võng lên cao, xa suối đề phòng lũ ngập. Việc làm lán trại gấp rút hơn. Mưa như vậy việc tiếp tế vào đây gặp khó khăn. Số gạo mang đi đã hết. Ngày thứ hai bộ đội phải ăn lương khô. Cái đói ập đến mà không thể đi lấy lương thực được. Sang ngày thứ 3, đại đội đi tìm kiếm nhà dân Vân Kiều nhờ giúp đỡ, vay được một số bắp của bà con. Mỗi người được hai bắp ngô luộc. Ngô đỏ già khô ninh mãi mới chín, nhưng như thế cũng đã là may, là quý lắm rồi. Ngồi trên võng gặm ngô luộc ngửa mặt nhìn những bầy khỉ, bầy vượn đùa nghịch. Ngô ngon quá hay do đói quá mà trào nước mắt. Nước dềnh lên rất nhanh mà khi rút cũng rất nhanh. Ngày hôm sau nước đã rút, buổi tối nước còn đầy khe, ngập bờ mà sáng hôm sau như có phép thần, nước đã rút hết trở lại như cũ, suối lại róc rách hiền hòa, rừng Trường Sơn lại đẹp đẽ thơ mộng như ngày mới đến.
Việc làm lán trại bếp núc đã xong. Anh em tôi không còn phải ngủ võng nữa, mà đã được ngủ, nghỉ ở lán trại dã chiến thơm hăng mùi cây rừng. Những cái sạp giường tuy gồ ghề nhưng cũng thấy thật êm ái, mọi sinh hoạt tươm tất hơn. Theo nhiệm vụ, chúng tôi là đơn vị chuyên khai thác đá. Công việc mới mẻ với tất tả mọi người. Đại đội họp giao nhiệm vụ cho từng trung đội. Tiểu đội tôi cũng được phân công như một trung đội. Sau khi được các đồng chí công binh trung đoàn xuống tập huấn sơ sơ cho nghiệp vụ choòng đá và kỹ thuật lắp ghép mìn, kíp mìn vào dây cháy chậm, cách nhồi mìn, đốt mìn sao cho an toàn hiệu quả. Mỗi trung đội chọn lựa một bãi đánh đá riêng. Các trung đội thì các đồng chí trung đội trưởng như anh Cán, anh Đàm, anh Trung nhập ngũ những năm 1967-1968, có đồng chí đã kinh qua chiến đấu, tuổi cao có bản lĩnh già dặn công việc hàng ngày. Trung đội 1 còn có cả trung đội phó Yến nữa. Còn tiểu đội tôi thì anh Khoát tiểu đội trưởng mới là hạ sỹ lớp lính tháng 12 năm 1971 chỉ hơn chúng tôi có mấy tháng tuổi quân nên so với chúng tôi sàn sàn như nhau. Vì vậy ngày đầu tiên đại đội trưởng Nghẹ trực tiếp xuống chỉ đạo chúng tôi. Công việc thật bỡ ngỡ, cụ thể là cứ một nhóm hai người sau khi đã chọn được những tảng đá thuận lợi cho việc đứng choòng. Một người cầm choòng một người quai búa. Với tôi thì việc quai búa đã rất quen thuộc, còn các anh em khác thì rất bỡ ngỡ. Anh em chỉ sợ người quai búa đập búa không trúng choòng mà trượt búa vào tay, mà thực tế cũng đã có mấy trường hợp như vậy. Nhát búa đầu tiên đập xuống choòng vang vọng đánh thức rừng núi. Mới đầu thấy rất ngại không biết đến bao giờ mới choòng được một lỗ sâu vào lòng đá. Vì mỗi nhát búa đập xuống thì mũi choòng chỉ làm vỡ ra được ít đá. Người cầm choòng phải xoay choòng một góc khoảng 30 độ, búa lại đập tiếp và cứ xoay cứ đập như vậy sẽ tạo ra được một lỗ sâu trong lòng đá.
 Mới đầu chưa quen nên búa đập nhát gừng rất chậm, nhưng chỉ sau 1 - 2 giờ thao tác thì tay búa của mọi người đã bạo, đã nhanh, đã mạnh hẳn lên. Thỉnh thoảng tay búa lại nghỉ để rút choòng ra và múc mững mạt đá trong lỗ. Lỗ càng sâu thì việc lấy mạt đá ra càng khó. Nhưng rồi đến 4 giờ chiều thì chúng tôi cũng đã choòng được 6 lỗ, có những lỗ đã sâu tới cả mét. Đến lúc này thì công việc mới quan trọng là dùng thuốc nổ thỏi, loại thuốc nổ thường, bóc vỏ thuốc bóp ra dồi vào các lỗ. Khi thuốc nổ cách mặt đá khoảng 20-30 cm thì dùng 1 cái cây tròn nhỏ bằng ngón tay cắm vào lỗ để tra kíp mìn. Việc tra kíp mìn vào dây cháy chậm cũng là việc nguy hiểm, đây là lần đầu tiên của mọi người nên ai cũng có ý sợ vì nghe phổ biến nếu cắm dây cháy chậm vào kíp mà mạnh quá sẽ làm dây chọc vào “mắt ngỗng” của kíp, gây phát nổ ngay dẫn đến cụt tay, mù mắt hay thậm chí chết người, đã có nhiều trường hợp như thế. Công binh chỉ hướng dẫn qua. Trực tiếp đại đội trưởng Nghẹ ngày đầu làm việc này. Đại đội trưởng vừa làm vừa hướng dẫn tôi và anh Khoát học theo. Sau khi dây cháy chậm được cắt dài, ngắn theo ước tính thời gian, anh nhẹ nhẹ vừa xoay vừa ấn dây vào kíp. Khi đã cảm thấy đầu dây sát nhẹ vào kíp nổ thì lấy kìm bóp xung quanh miệng kíp cố định cho bám chặt vào dây, thế là xong một thao tác ghép dây cháy chậm vào kíp. Tất cả những thao tác phải chính xác nhưng phải thật nhẹ. Cái kíp nổ số 8, số 10 nhỏ như ngón tay út bằng đồng đỏ au rất đẹp nhưng chỉ cần va đập nhẹ hay đánh rơi, hoặc giẵm chân lên là có thể nổ ngay, rất nguy hiểm. Đến công đoạn tra lắp kíp nổ vào lỗ choòng đã dồi thuốc cũng thật hồi hộp vì nếu kíp mìn nổ thì gây tác hại không lớn lắm, nhưng khi nó đã được kích khối thuốc nổ thì sức công phá thật ghê gớm. Khi cắm vào lỗ tròn nhỏ trong đó lại phải lấy tiếp thuốc nổ nhét vào cho chặt nhưng cũng không được làm mạnh. Chỉ dùng tay ấn nhè nhẹ thuốc vào rồi dùng ít đất sét đã chuẩn bị trước đắp lên trên để cố định dây cháy chậm. Đúng là rất nguy hiểm.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:18:40 pm

         Chỉ ít ngày sau, những công đoạn này do anh em thao tác bất cẩn được thông báo: Đại đội 1 trong khi chôn thuốc nổ, có đồng chí khi lèn đất xung quanh, lèn mạnh quá gây nổ tức thì làm chết và bị thương mấy người. Đại đội 8 tiểu đoàn 2 trực tiếp chính trị viên trưởng Liễu đốt mìn. Trời nắng to không nhìn rõ là dây cháy chậm đã bắt lửa nên cứ châm đi châm lại, không ngờ mìn nổ làm bị thương hỏng hai mắt.
Hôm nay ngày đầu tiên ra quân, tiểu đội tôi dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đại đội trưởng dự kiến sẽ đánh 9 quả mìn. Có 6 quả đánh mìn tại lỗ choòng, còn 3 quả thì ốp mìn vào dưới gầm đá. Khi đánh mìn thì phải hợp đồng giữa các trung đội trong đại đội cùng đánh một lúc. Phải cử người ra ngăn đường không cho ai vào khu vực, anh em phải đi rất xa hoặc trốn núp vào các hốc đá cách mấy chục mét, đề phòng đá tung cao rơi vào người. Tôi được phân công cùng anh Khoát và đại đội trưởng mỗi người đốt dây cháy chậm 3 quả mìn. Trước khi đốt phải tìm nơi chạy, ẩn nấp trước.
 Lần đầu đốt kíp mìn mới hồi hộp làm sao. Mỗi người cầm một thanh củi bằng cổ tay có than đỏ dí vào đầu dây cháy chậm, dây xì xì khói tức là dây đã bắt lửa phải chạy nhanh và đốt tiếp những quả khác theo phân công. Có những quả mìn ngay dưới mặt đất nhưng có những quả mìn phải leo lên cao, nên việc leo xuống phải rất nhanh, rất cẩn thận đề phòng trượt ngã gây thương tích, thương vong khi mìn nổ. Dây giầy, dây dép, quai mũ cối phải buộc thật kỹ. Ống quần cũng phải cài cúc cẩn thận đề phòng vướng víu vấp ngã. Khi đốt mìn, phải đốt những quả trên cao khó đốt trước rồi đốt tiếp những quả dễ đốt bên dưới. Trước khi đốt mìn thì đại đội bắn 3 phát súng làm hiệu lệnh nguy hiểm cho tất cả khu vực. Sau khi đốt xong mỗi người 3 quả mìn, ba anh em tôi chạy nhanh về một hốc đá đã chọn và đợi mìn nổ. Vì độ dài dây cháy chậm không đều nhau mặc dù đã tính toán để sao cho mìn nổ không cách nhau xa quá nhưng việc tính toán cũng chỉ tương đối, nên có quả nổ trước quả nổ sau, phải tập trung lắng nghe và đếm tiếng mìn nổ cho đủ. Đề phòng mìn nổ chưa hết mà đã ra xem kết quả, có quả vì sao đó mà bị nổ chậm, sẽ gây bị thương, do đá rơi xuống người. Trú ở trong hốc đá, tai thì cứ căng ra để đợi tiếng nổ, 3 phút, 5 phút cũng vẫn chưa thấy quả mìn nào nổ. Những phút giây chờ đợi này thấy dài làm sao, chẳng lẽ mìn không nổ. Đến phút thứ 8 thì ầm, ầm liên tục những tảng đá rơi bịch bịch… cá biệt có những hòn đá nhỏ bằng nửa nắm tay văng thật xa rơi xuống gần chỗ chúng tôi. Có tiếng nổ ục khác hẳn. Sau này khi có kinh nghiệm mới biết những quả mìn nghe nổ đanh to thì hiệu quả không cao mà những quả nghe nổ ục thì chất lượng của mìn phá rất tốt. Sau khi mọi người đếm và đều ghi nhận có 9 tiếng nổ, đợi vài phút nữa chúng tôi mới ra ngoài xem mìn nổ thế nào. Thật là kinh khủng bãi đá toang hoang không như lúc sáng nữa. Những tảng đá to, nhỏ bị mìn phá nằm rải rác. Các quả mìn đánh từ lỗ choòng hiệu quả tốt hơn. Ba quả mìn đánh ốp bên dưới chỉ làm tảng đá mồ côi bị rạn nứt. Chúng tôi trở về với tâm trạng vui vui trong tiếng mìn của các trung đội cũng ầm ầm vọng lại.
Sang ngày hôm sau, mọi người lại ra công trường. Hôm nay được phân công tiểu đội chia làm hai bộ phận, một bộ phận tiếp tục chọn vị trí choòng đá, một bộ phận dùng búa đập những tảng đá to và thu gom đá nhỏ xếp vào đống vuông vức để đo khối lượng. Theo định mức trung bình mỗi người phải làm được 0,3 mét khối đá hộc. Đại đội đã cử đồng chí Tú ở trung đội 1 làm thư ký để đo đếm, ghi chép kết quả khối lượng của các bộ phận. (Đồng chí Tú là sinh viên đại học Lâm nghiệp năm thứ 3. Sau này về học tiếp đại học rồi  đi công tác, rồi làm giám đốc một công ty tại ngành lâm nghiệp. Hiện nay đồng chí Tú đang sống tại thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định).
Qua đo đếm, kết quả ngày hôm qua chúng tôi vượt chỉ tiêu là trung bình 0,35 mét khối một người. Sang hôm nay và những ngày tiếp theo công việc vẫn như vậy. Việc choòng đá bắn mìn, các thao tác khác đã quen. Anh em quai búa đã thuần thục, thậm chí có lúc một người cầm choòng, hai người rồi ba người quai búa. Chúng tôi đã như người thợ quai búa chuyên nghiệp. Ấy là lúc đầu đá còn dễ phá vì rất nhiều đá ở dưới thấp sau này đá khó phá hơn, vì phải choòng ở trên cao, người quai búa phải buộc dây an toàn đề phòng trượt ngã. Thường khi giao ban buổi tối đại đội thông báo khối lượng và thành tích của từng trung đội và tiểu đội 10 trong ngày, số liệu do đồng chí Tú tổng hợp. Tiểu đội tôi thành tích luôn nổi trội hơn các trung đội khác.
Có một việc khó khăn là những xà beng choòng đá sau một, hai ngày làm việc thì mũi xà beng bị mòn, phải mài, nhưng sau mấy lần mài, mũi không còn độ cứng nữa. Chỉ choòng một lúc mũi choòng đã thành hình vòng cung, gây năng xuất rất thấp, không như mấy ngày đầu nữa. Không phải chỉ có tiểu đội tôi bị vậy, mà tất cả các trung đội cũng trong tình trạng ấy. Lúc này tay nghề cơ khí của tôi mới được phát huy. Buổi trưa sau khi ăn cơm tôi nói với anh Khoát cử hai người giúp tôi lấy củi, loại củi khô chắc, đốt bếp rèn lại choòng. Sau khi bếp lửa đã cháy đỏ, tôi cho choòng vào bếp nung đỏ và rèn rồi mang ra mài rất chuẩn đẹp. Búa thì đã có, còn đe thì cũng chỉ là tảng đá cuội lấy ở suối. Rèn, mài được mấy cái choòng thật ưng ý nhưng đến công đoạn tôi cứng thì không thể nào tôi cứng được. Choòng là loại thép CT45 cách tôi, cách ram lấy mầu tôi đã được học ở trường rất kỹ. Tôi cũng áp dụng như vậy, nhưng khi mang ra thử phóng vào đá thì thì mũi choòng chùn quăn, như vậy là bị tôi non.
 Tôi thử đi thử lại tăng nhiệt độ lấy mầu thí nghiệm mấy lần mà vẫn không được, thật bất lực không biết là tại sao. Với độ cứng này, chỉ dùng tạm được chứ mũi choòng không bền. Lúc này mới nghĩ đến giá như có ông thầy dạy cơ khí của mình ở đây thì tốt biết mấy. Nhưng kỳ lạ, tôi là học sinh cơ khí vào loại xuất sắc, các kỹ thuật tôi, ram của tôi rất vững, những mũi đục, mũi chạm bằng thép, nhiều bạn học phải nhờ tôi tôi hộ, các thầy giáo cũng đánh giá cao tay nghề của tôi. Vậy mà sao ở đây mình lại không làm được theo yêu cầu. Thử đi thử lại mấy lần nữa cũng không đạt. Đến giờ đi làm tôi nói anh em cứ lấy đi làm tạm đã rồi tôi cũng theo anh em ra bãi đá làm công việc của mình. Làm, nhưng trong đầu cứ quẩn quanh nghĩ về kỹ thuật tôi choòng, tại sao mình đã học như thế ở trường, ở nhà máy đã làm như vậy mà ở đây thì không sao làm được. Hay tại chất thép của choòng không phải là CT45. Nhưng tôi cũng đã thử mấy lần về tôi chất thép thấp hơn rồi mà sao vẫn không được? Tối về ăn cơm, đi ngủ cũng vẫn nặng nề nghĩ ngợi về kỹ thuật tôi choòng không thành công ấy. Anh em tập trung vào hỏi và bàn cách tôi, nhưng họ đâu có biết nghề cơ khí mà góp ý cho đúng.
Buổi trưa hôm sau tôi lại tiếp tục đốt bếp rồi rèn, mài choòng. Số lượng choòng hỏng nhiều mà chưa khắc phục được. Bất lực, tôi lội xuống suối gội đầu rồi lên kéo điếu thuốc lá mà lúc sáng quản lý mới mua hộ một bao. Tôi chợt nghĩ đến qua học lý thuyết thép, thành phần làm cứng thép là cacbon, chợt nghĩ ngay đến lượng cacbon trong than đá. Tôi lóe lên hy vọng là đã tìm ra thủ phạm gây nên việc tôi ram không được. Rất vui và sôi nổi hẳn lên, tôi nói anh em đốt lại bếp và đi như chạy về nhà quản lý, bốc một nắm muối. Mượn thêm cái xô đựng nước tôi, ra lấy nước suối và cho muối vào ngoáy tan. Hồi hộp đốt cho mũi choòng đỏ theo màu vàng cam, cắm mũi choòng vào xô nước muối, rồi lại rút nhanh lên đợi màu chuyển sang tím thì nhúng nhanh xuống xô nước. Đợi nguội, tôi nói, anh em lấy choòng phóng vào đá thử độ cứng. Mũi choòng va đập vào đá lần này âm thanh khác hẳn, nghe khô đanh chát chúa. Anh em nói, anh Phú ơi tốt lắm rồi anh ạ, nhưng lại bị mẻ một miếng. Như vậy là tôi bị cứng quá. Tôi rất vui vì biết sẽ thành công, mũi choòng đã vượt qua độ cứng yêu cầu, giờ thì chỉ cần làm cho giảm độ cứng, tức là phải ram cho kỹ. Những công việc này thì tôi học rất bài bản. Đến giờ làm việc, tôi cũng đã sửa, làm mới được 6 cái choòng như ý.
 Có bạn sẽ hỏi thế là tại sao ? Xin trả lời là, ở trường, ở nhà mình đốt lò bằng than đá, lượng cacbon trong than đá rất cao, nó bổ sung cho thép khi nung đỏ. Còn ở đây mình đốt lò bằng than củi mà than củi thì lượng cacbon hầu như không có, dẫn tới tôi thông thường như đã học thép bị non. Vì vậy phải bổ sung các thứ thiếu, mà muối là một thứ như vậy, cộng thêm một số kỹ thuật khác nữa.
Việc rèn được choòng sắc cứng làm cho năng suất choòng đục đá cao hẳn lên, năng suất của tiểu đội tôi lúc nào cũng vượt trội các trung đội khác. Các trung đội sang xem tôi làm, có ý học tập cách rèn choòng, nhưng họ không làm được như thế. Trong đại đội có ba trung đội trưởng, anh Trung, anh Đàm, anh Cán. Anh Cán trung đội 3 quê Hải Phòng lúc nào cũng là người hiếu thắng. Anh luôn muốn cái gì trung đội mình cũng phải đạt thành tích cao, phải dẫn đầu đại đội. Nên trong việc này anh rất bức bối khi mà thành tích của tiểu đội tôi trong khai thác đá luôn cao nhất. Lần mò mãi mà vẫn không rèn được choòng như ý, anh có ý muốn tôi chỉ giúp cách làm. Anh em trong tiểu đội biết việc này, nói với tôi là đừng có bảo bí quyết ấy. Mới đầu tôi cũng nghe theo anh em, nhưng sau thấy không nên thế, tôi hướng dẫn cho anh và các trung đội khác sửa choòng. Việc này làm mọi người rất vui và đại đội biểu dương tôi.
 Việc sửa choòng như vậy làm cho tôi vất vả thêm vì phải tranh thủ làm buổi trưa không được nghỉ. Anh em phụ thì có thể thay nhau, còn tôi liên tục ngày nào cũng phải như vậy. Ít bữa sau, ngày chủ nhật, một số anh em quê thị xã trong trung đoàn đến chơi với tôi, biết chuyện, nói tôi dại thế, phải làm giờ hành chính chứ! Minh, đại đội 18 thông tin nói thêm, nếu phải làm ngoài giờ như vậy thì đại đội cứ phải cấp cho em một bao thuốc lá loại đặc biệt thì em mới làm. Minh còn kể chuyện thách đố giữa Minh và chính trị viên đại đội khi gặp một tảng đá mồ côi rất lớn, vị thế rất khó choòng. Minh nói với chính trị viên đại đội là: Tôi và 2 người nữa trong ngày hôm nay sẽ phá tan được tảng đá lớn này, và cược với chính trị viên 5 bao thuốc Đ’rao, loại thuốc lá này lúc ấy là ngon và quý lắm. Sau khi thỏa thuận và sau khi nghiên cứu tảng đá, thấy rằng không thể trèo lên trên tảng đá mà choòng được, vì tảng đá hình chóp không có thế đứng, mà làm giàn giáo thì mất rất nhiều công. Minh bèn nghĩ ra cách choòng ngược xiên từ dưới lên. Nếu choòng được thì khi đánh mìn hiệu suất rất cao. Việc cầm choòng ngược, quai búa ngược là rất khó, nhưng vì động cơ thách đấu, ba người lính thị xã nghịch ngợm có nghề cơ khí đã thành công, chiều hôm ấy với tiếng ổ ục thật lớn, tảng đã đã bị đánh tan.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:20:04 pm

          Về công tác đoàn, sau cuộc họp của ban chấp hành Liên chi, tôi được anh em bầu là phó bí thư Liên chi đoàn đại đội. Anh Nguyễn Văn Từ, thiếu úy chính trị viên phó đại đội là bí thư Liên chi. Tôi còn được bầu thêm chức vụ trưởng ban thông tin tuyên tuyền của đại đội. Nói là trưởng ban cho oai chứ thực sự là trưởng một nhóm 4 người, tôi và mỗi trung đội một người, gồm anh Phức, anh Hưởng, anh Tú. Hàng ngày mỗi buổi chiều phải nắm bắt được các hoạt động của đại đội, trung đội, chủ yếu là năng suất lao động để tổng hợp viết bài. Sau cuộc họp tối khoảng 21giờ 15 thì dùng cái loa Lido của chính trị viên đọc tin tức như điểm các loại báo, đọc bản tổng hợp tin của đại đội cho mọi người nghe. Ngày nào cũng vậy kể cả ngày mưa. Việc này cũng làm cho tôi bận rộn lên nhiều. Nhiều hôm thấy trời mưa, nhóm tôi lười không phát tin, anh em đến giờ không thấy tiếng loa quen thuộc đã réo ầm ỹ cả lên.
Ở vùng này là rừng núi nguyên sinh, những chỗ bằng phẳng rất ít. Chủ yếu là những trái núi đá có vách thẳng đứng, đầy cây nhỏ và dây leo chằng chịt, rất nhiều khỉ, vượn đu qua đu lại đùa giỡn hái trái cây. Nhiều chùm phong lan các loại thêm vẻ đẹp của núi rừng Trường Sơn. Âm thanh núi rừng cũng thật sôi động. Tiếng nước suối chảy róc rách làm nền cho tiếng chim kêu, vượn hú, tiếng gáy của gà rừng, tiếng chim “bắt cô trói cột” lúc nào cũng vang động. Ban đêm, tiếng hoẵng “toát, toát” tìm bạn ầm vang như kêu ngay tại đầu giường mình. Những sản phẩm rừng suối ở đây cũng nhiều thứ quý, như ven suối thì cây sâm đất rất nhiều. Anh em đào về, sao vàng sắc đặc làm nước uống rất thơm, rất bổ, chỉ khổ cái là đi đào cây này thì muỗi rất nhiều. Lội suối lần mò vào khe đá nhỏ, mang thêm cái xà beng để cậy các hốc đá ra là bắt được những chú cua đá rất to về nấu canh với lá lốt, thứ rau tự nhiên này ở đây thì bạt ngàn, nấu canh chán thì làm món cua nướng thơm ngon. Bên các đại đội khác còn có những vũng nước suối lưu cữu có bùn. Anh Phô, bạn tôi bên đại đội 1 sang khoe là cứ dùng cây tiêu súng cối hay các cành cây dàn hàng ngang đi xâm xuống những chỗ suối đó thấy động kịch một tiếng, móc lên được ba ba, có những con rất to, nặng cả chục ki-lô-gam. Có buổi sáng tôi dậy sớm ra suối rửa mặt thì quãng suối  mọi ngày đầy nước không hiểu sao nước suối rút đi đâu hết, trơ ra toàn đá nhìn kỹ có rất nhiều tôm, cá bống và những cá nhỏ đang quẫy nhảy. Tôi chạy về gọi anh em ra lấy xô ra, chỉ việc nhặt một lúc sau được gần đầy xô. Thi thoảng anh em bắt gặp những con trăn đất to dài mấy mét.
Sau khi nổ mìn được mấy ngày, tôi và anh Khoát leo lên bãi đá thì phát hiện trên đó có một cái hang không sâu lắm nhưng có nhiều phân dê còn mới. Đây là nơi trú ngụ của dê rừng. Không biết sau đánh mìn dê còn sống tại đây không. Tối lên ban chỉ huy mượn loa để phát thanh, tôi kể với chính trị viên Lẫm và xin phép tối cho tôi đi săn dê cùng với một người dân tộc Vân Kiều hiện là bí thư chi bộ ở đó. Chẳng là, qua mấy ngày ở đây, tôi lân la vào nhà một người Vân Kiều chơi và biết ông hiện là bí thư chi bộ của thôn Rào Trù này. Điều đặc biệt là ông có ông bố đẻ rất thọ, năm đó theo ông nói, ông cụ đã 126 tuổi, thuộc người có tuổi thọ cao nhất miền Bắc, nhưng cụ vẫn vẫn minh mẫn, trò chuyện bình thường. Ông kể, năm nào cụ cũng được các cấp chính quyền tặng quà, cả quà của Chủ tịch nước nữa. Tôi nói với ông về chuyện hang dê trên chỗ đánh đá. Được chính trị viên đồng ý lại còn cho tôi mượn cái đèn pin Trung Quốc, dặn dò đảm bảo an toàn. Tôi về báo với tiểu đội trưởng Khoát việc đi bắn dê. Tối hôm đó khoảng 20 giờ tôi mượn khẩu AK báng gỗ trong tiểu đội và lắp đầy 30 viên đạn, nai nịt gọn gàng, đi giầy, đeo thắt lưng to bản, mang theo cả con dao găm nữa. Đúng hẹn, tôi ra nhà ông bí thư, ông cũng đã chuẩn bị xong, có cả đèn săn buộc đeo trên trán rất chuyên nghiệp. Ông không có súng AK mà có súng K63. Ông hướng dẫn qua cho tôi về cách thức bắn dê rừng. Ông nói, bắn dê rừng rất nguy hiểm, vì khi bắn mà nó không bị trúng đạn hoặc bị thương là nó lao ngay vào húc mình. Ông kể thêm, con dê rừng có 5 cái mật chứ không như các loại thú chỉ có một túi mật, chỗ buồng gan 1 cái lớn còn dưới 4 chân có 4 túi mật nhỏ vì thế khi dê nhảy từ rất cao xuống đất, mà chân không bị đau. Ông nói thêm thực tế mật dê rừng rất quý, tốt hơn cả mật gấu. Nhưng đi săn gấu thì còn dễ chứ đi săn dê khó hơn nhiều. Ông nói tháng trước ông mới bắn được con gấu ngựa nặng 150 ki-lô-gam hiện cái mật đang còn treo ở bếp. Hai anh em tôi lần mò leo lên núi, tôi cảm thấy hồi hộp, song rất tin tưởng vào tay súng của mình cùng cái háo hức việc đi săn bắn. Tôi cũng tự đặt ra mấy tình huống cần xử lý, nhưng tốt nhất là cứ chắc tay súng mà găm được mấy viên đạn vào nó thì con thú nào cũng phải gục ngay.
Ông lần mò đi trước theo hướng dẫn của tôi. Khoảng 30 phút thì leo lên được chỗ cửa hang mà tôi đã phát hiện, ông ra hiệu cho tôi im lặng và căng tai ra lắng nghe tiếng động, lúc này cũng chưa ai được soi đèn. Nghe ngóng một lúc, ông bật đèn sáng rồi nói: dê nó thấy đánh mìn động nên không ở đây nữa rồi, tiếc quá hang dê lớn thế ngay gần mình mà không biết. Hai anh em lần mò đi về trong sự tiếc nuối. Ông rủ tôi ngày mai chủ nhật đi săn gà rừng, tôi thích quá nhưng nói để em về xin phép đã.
Tôi về trả đèn pin cho chính trị viên Lẫm và kể chuyện đi bắn dê mà không gặp, rồi xin phép ngày mai đi săn gà rừng với ông bí thư. Rất vui là anh Lẫm đồng ý cho tôi đi săn gà. Hôm sau, như hẹn tôi lại theo ông bí thư vào rừng. Ông dẫn tôi đi vào sâu trong rừng khoảng 2 ki-lô-mét. Rừng ở đây hoang dã như chưa có ai đặt chân tới, rất nhiều cây to cùng những dây leo lớn nhưng lại không dốc lắm. Rất nhiều sóc, những con sóc rất to nhảy nhót chuyền cành, cái đuôi của chúng cong ngược lên rất đẹp. Đặc biệt là sóc cứ chạy nhảy trên cành cây hoặc dây leo nhưng chỉ hai ba mét là chúng lại dừng lại nhìn ngó. Tôi thấy tận dụng lúc nó dừng lại có thể bắn được. Tôi nói ông để cho tôi bắn, ông nói khó bắn đấy vì thời gian nó dừng lại rất ngắn. Tôi nói ông yên tâm, tôi đứng bắn nên thao tác rất nhanh. Và rồi cứ tư thế đứng bắn đó, trong buổi sáng tôi bắn được 3 con sóc. Ông khen tôi là bắn tốt. Sau lần bắn con thứ 3 thì sóc sợ chạy đi hết. Ông nói để tôi làm rào bắn gà. Ông nhanh nhẹn bẻ một số cành lá, cắm thành rào có khe cửa hở khoảng một gang tay ở giữa. Sau đó ông ra hiệu  lùi lại khoảng mười mét và bẻ lá cây ngụy trang. Xong việc, ông lấy cái còi nhỏ bằng ống nứa ra thổi, âm thanh phát ra như tiếng gà trống gọi nhau thách đấu. Ông nói, đợi tí nữa gà đến bây giờ, rồi gióng súng vào cái khe trống đó. Mấy phút sau đã thấy tiếng mấy con gà trống quanh đó đáp trả. Một chú gà tiên phong đã hướng về phía chúng tôi. Nó chẳng nghi ngờ gì hết, mà hùng dũng dựng lông cổ đi qua cái khe để sẵn. Đoàng! Chú gà nằm quay lơ, chân đạp đạp không kêu được tiếng nào. Ông bảo tôi đi nhẹ ra thu chiến lợi phẩm và ông lại rúc còi. Cứ như thế, sáng đó ông bắn được 4 chú gà trống. Thu xong “chiến lợi phẩm”, chúng tôi nằm ngửa hút thuốc, nhìn ngắm phong lan, cây rừng một lúc rồi ông bảo: Về thôi! Ông nói thêm: Còn nhiều gà lắm, bắn thế là được rồi, để dành hôm khác, nếu tôi đi một mình thì chỉ bắn hai con thôi, có chú nên tôi bắn bốn con. Tôi cảm thấy vui và khâm phục ông, người dân tộc Vân Kiều mà rất khoa học. Rừng vàng biển bạc nhưng đâu phải là vô tận, ông biết để dành các sản vật của rừng để nó còn phát triển và dự trữ lâu dài.
Cầm sản phẩm về rất vui, tôi được ông chia cho hai con gà, hai con sóc. Tôi biếu đại đội một con gà, một con sóc, còn mang về tiểu đội. Hôm đó được bữa thịt rừng thật vui, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu vì tiểu đội hơn chục người cơ mà.
Việc mở đường vẫn là nhiệm vụ chính, rất vất vả vì đã là đầu mùa mưa. Ngày mưa ngày nắng rất khó chịu cho sức khỏe. Tiểu đội tôi vẫn luôn là tiểu đội dẫn đầu về khối lượng khai thác. Các trung đội cứ ấm ức vì không sao vượt nổi thành tích của chúng tôi. Nhưng cũng có ngày gặp khó về choòng, năng xuất không đảm bảo, nhưng anh em lại láu lỉnh trong việc đo khối lượng. Biết là năng suất hôm đó thấp. Tuấn với Nhiên nói với tiểu đội trưởng là anh cứ để chúng em đo. Hai đồng đội bí mật tìm chỗ dự định đo chiều cao, lấy cái cây nhỏ cắm xuống một lỗ sâu khoảng 10 cm trước và phủ mấy lá cây lên ngụy trang lỗ. Lúc anh Tú mang thước đến đo, Nhiên nhanh nhẹn nói: Anh đưa thước em đo cho! Cắm thước vào cái lỗ làm sẵn rồi chỉ anh Tú chiều cao so với mép đá trên. Anh Tú đọc số mà không biết là anh em đã ăn gian 10 cm chiều cao. Mà ăn gian chiều cao là khối lượng tăng lên nhiều lắm. Chúng tôi buồn cười vì sự ma mãnh của anh em. Đợi anh Tú đi khuất anh Khoát nói: Chỉ được làm lần này thôi nhé, mình không muốn ăn gian thành tích như vậy.
Việc mở đường đã vào guồng, mọi công việc thành thục thì đơn vị bắt đầu bị dịch sốt rét. Không phải chỉ có đại đội tôi, mà toàn tiểu đoàn, toàn trung đoàn đều bị dịch sốt. Ở đây muỗi nhiều vô kể, rừng thì cây lim rất nhiều, nghe nói lá cây lim rất độc, khi lá rụng xuống ngâm trong nước, uống nước suối ấy bị ngã nước. Chúng tôi được phổ biến là muỗi alophen ở vùng này là loại muỗi truyền ký sinh trùng sốt rét cho mọi người, chỉ cần bị muỗi đốt một lần là bị sốt ngay. Qua các đồng chí đi viện về nói, sốt rét thường có hai loại vi rút loại phansivarom và loại vivăt. Ở đây chủ yếu là thể một. Bị sốt rét thể một là gây sốt rất nhanh, sốt rất cao, có khi lên tới 40,5 độ. Nghe nói loại sốt này tuy sốt cao nhưng không hay dẫn đến chết người. Trong đơn vị anh em bị sốt nhiều quá, cứ hết người này khiêng cáng người kia đi viện, thường ở bệnh viện trung đoàn, sư đoàn, điều trị 15-20 ngày mới khỏi. Có đồng đội khiêng cáng anh em đi viện vừa tới nơi thì lên cơn sốt, và trở thành bệnh nhân. Có lần một tốp khiêng cáng anh em đi viện, đêm trên đường về gặp một chú hoẵng đi ngược đường. Hoẵng quáng đèn pin đứng nhìn ngơ ngác. Mọi người bất ngờ. Một đồng đội hô: “Hươu, anh em ơi!”, vì nhầm hoẵng là hươu. Mấy anh em định lao lên bắt, chú hoẵng tội nghiệp thay vì quay lại chạy thì lại chạy về phía đèn và như vậy là lao vào chỗ anh em đang đứng. Đường núi nhỏ, một bên là vách đá dựng, một bên là vực sâu. Trong tốp lính hôm đó của trung đội 1 có anh Tấn, tiểu đội trưởng người dân tộc Sán Rìu lao vào vồ, ôm được chú hoẵng. Hoẵng giãy đạp, định vùng ra thì tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Ngọc là người cao to nhất đại đội đấm mạnh một phát vào sống mũi. Chú hoẵng tội nghiệp trúng đòn, anh em tháo thắt lưng trói khiêng về. Đêm hôm đó toàn đại đội không ngủ để thưởng thức món đặc sản thịt rừng.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:21:24 pm

         Tôi người gầy bé không tới 50 ki-lô-gam, nhưng không hiểu sao lại không bị sốt do may mắn thế nào đó. Sau nghĩ lại là có lần buổi chiều tôi ra suối tắm, vừa ngồi xuống bờ suối đã thấy một chú alophen sà xuống cánh tay tôi, chổng ngược lên cắm vòi vào đốt. Phát hiện được ngay, tôi lấy tay đập chết con muỗi. Không hiểu có phải là do muỗi đốt, nhưng mới truyền cho tôi một ít vi trùng, nên tôi như người được tiêm phòng, tạo ra kháng thể miễn sốt rét chăng?
Tôi không bị sốt rét, nhưng lại bị một bệnh rất kinh khủng đó là mụn cơm, có nơi gọi là mụn cóc. Không phải bị một, hai ba cái mà có đến cả trăm cái mụn chạy dọc từ hai cổ chân lên, cả hai cánh tay nữa, cứ y như là bị hủi. Anh em bày cho đủ cách: Nào là tìm mụn cơm cái đốt hoặc bôi các thứ linh tinh, kể cả tìm xác rắn lột tán ra bôi nữa mà cũng chẳng khỏi. Tôi rất sợ, nghĩ cứ như thế này thì được về phép cũng không dám về vì trông kinh quá. Điều này làm tôi rất khổ sở, dù nó không ảnh hưởng gì đến sức khỏe. Tôi vẫn đi làm cả ngày, cả trưa, và tối viết bài phát thanh nữa. Như vậy thời gian tôi làm việc rất nhiều, không hiểu sao tôi vẫn khỏe, vẫn trụ được, vẫn luôn được biểu dương khen thưởng và được đưa vào diện “cảm tình Đảng” nữa. Thế mà gần cuối đợt lao động ở đây tôi lại chữa được cái bệnh này mới hay chứ. Ấy là một buổi trưa sau khi rèn choòng xong, ra suối tắm, tôi thấy một búi giẻ lưới xúc cá của người Vân Kiều vứt cạnh bờ. Cái búi lưới mục rách vứt ở đây đã lâu, rất bẩn. Tôi nghe nói là lấy các thứ bẩn bôi vào có khi khỏi. Nghĩ vậy tôi bèn lấy cái búi lưới ấy chà đi xát lại 7 lần (theo dân gian đàn ông 7 vía). Xong việc, tôi ngả lưng xuống bờ suối nghỉ ngơi một lúc, xuống tắm rồi về tiếp tục công việc chiều. Rồi tôi cũng quên hẳn việc chữa mụn cơm đó. Khoảng 4 đến 5 ngày sau, tình cờ nhìn những chỗ mụn cơm, tôi sửng sốt vì không còn cái mụn nào. Chúng đã bay đi hết chỉ để lại nốt sẹo nhỏ trên da thịt. Tôi rất mừng, không ngờ cách mà dân gian gọi là chữa mẹo này lại có tác dụng như vậy. Tôi kể cho một vài anh em, họ làm theo và cũng chữa khỏi.
Như đã nói ở trên, vùng Trường Sơn này, rừng núi rậm rạp chỉ có người dân tộc Vân Kiều sinh sống. Nhưng dân số chẳng đáng bao nhiêu, họ ở thưa thớt. Chủ yếu sống bằng nghề trỉa ngô, trồng sắn và săn bắt sản vật của rừng. Dân trí còn rất lạc hậu. Những năm chiến tranh chống Pháp, vùng này là chiến khu cách mạng của tỉnh Quảng Bình. Đã nhiều lần quân Pháp càn lên để phá chiến khu nhưng không những không phá được mà còn bị thất bại thảm hại. Những năm chống Mỹ họ tiếp lương, tải đạn và mở đường theo yêu cầu của các đơn vị. Một vài người đi bộ đội.  Ốm đau thì họ vẫn cúng ma rừng. Có lần chúng tôi ra suối thấy một đám cúng trừ ma. Một đống lửa ven suối được đốt lên, thầy mo tóc dài đóng khố cùng gia đình dân bản cũng chỉ đóng khố nhảy múa xung quanh đống lửa, thỉnh thoảng hú hét rất rùng rợn để đuổi con ma. Sau đó chúng tôi tìm hiểu thì được biết một gia đình trong bản có người sản phụ sinh nhưng cứ ốm đau, chữa thuốc lá không khỏi, cho là ma hành nên phải cúng đuổi ma. Hôm sau đại đội hỏi địa chỉ, cho y tá đến xem bệnh và thuyết phục mãi họ mới đồng ý cho chữa. Chị phụ nữ bị bệnh hậu sản nên phải tiêm, uống thuốc bổ ít ngày sau thì bình phục. Qua tìm hiểu sâu biết thêm Dân tộc Vân Kiều có tục lệ là nếu trong gia đình có mấy anh em mà không may chồng của người em hoặc người anh chết, thì người anh hay người em phải tiếp nối thay. Có gia đình người anh phải lấy hai, ba vợ của các em. Vì theo phong tục của họ, phụ nữ đi lấy chồng là đã làm con ma của nhà chồng rồi, chỉ ở nhà chồng đó không được đi lấy ai khác.
Ở đây cũng có chuyện vui nữa, ấy là có buổi trưa trời nóng quá, xong việc tôi ra suối tắm. Tới gần vũng nước vẫn tắm, thấy có tiếng con gái chuyện trò đùa nghịch rất lạ. Đi tiếp thì bất ngờ, vũng nước mà chúng tôi thường tắm có gần chục cô gái đang tắm. Họ đùa nghịch, té nước nhau rất sôi động. Họ tắm truồng, sự kỳ thú giữa  vùng sơn cước. Tôi mon men đi lại, ý định nấp vào bụi xem cảnh thần tiên trời cho thì phát hiện hai, ba đồng đội đã đang núp trong đó. Thấy động, họ quay lại ra hiệu cho tôi im lặng. Nhìn người nào mặt cũng nghệt ra vì phấn khích quá độ. Đẹp, đẹp như tiên. Tiên nữ ở đâu mà lại xuống đây như trong phim thần thoại. Những “tòa thiên nhiên” mà tôi và mấy anh em lần đầu được thưởng thức, làm tôi rạo rực đê mê khắp người. Mấy tiên nữ vẫn đùa vui, rồi bất ngờ đứng vụt cả dậy, có người nói to: Các em không phải núp nữa, cứ tự nhiên ra đây các chị cho xem! Hóa ra họ đã biết chúng tôi núp xem họ tắm, nhưng giá họ đừng nói, đừng làm vậy thì lại hay hơn, chứ đã bị lộ thế này thì mình lại ngượng. Anh em lục tục đứng dậy ra về. Câu chuyện được xem con gái tắm truồng cứ sôi động cả đơn vị. Qua tìm hiểu mới biết họ là đơn vị Dân công hỏa tuyến quê Hà Nam mới được điều về gần đây để bốc vác trang bị công binh. Họ vào tuyến lửa đã được mấy năm, đều đã cứng tuổi, sống ở rừng, ở tuyến lửa lâu rồi nên rất bạo. Hôm nay con suối nơi họ ở bị cạn nước nên đến tìm đến đây tắm. Vì vậy mà mấy anh em tôi mới được thưởng thức bữa tiệc mắt đó.
Việc mở đường ngày càng cấp bách, khối lượng toàn thể theo kế hoạch còn rất nhiều, tiến độ thi công chậm vì lý do anh em bị ốm bị đi viện nhiều. Dụng cụ mở đường cũng hạn chế, nhất là thuốc nổ. Muốn mở đường nhanh thì phải có nhiều thuốc nổ để phá núi, mà lượng thuốc nổ được cấp thì rất ít. Một buổi sáng đang làm việc, thấy một người đã trung tuổi, bước đi không bình thường cùng hai chiến sĩ trẻ đi dọc con đường mà trung đoàn đang mở. Ông dừng lại chỗ chúng tôi hỏi thăm công việc, chúng tôi không biết ông là ai nhưng đoán là cán bộ gì đó. Anh em kể lể về cái khổ, cái khó, sự cố gắng trong công việc. Ông hỏi chúng tôi: Thế bây giờ muốn nhanh hơn thì các cậu cần cái gì? Anh em tôi nói đủ các thứ cần và cuối cùng là muốn có nhiều thuốc nổ để đánh mìn và dụng cụ phải đủ. Ông nói, tưởng gì chứ những thứ ấy thì thiếu gì! Anh em tôi nói, thiếu nhiều lắm thủ trưởng ạ! Ông bỏ đi và cười nói thêm: Tất cả ngay tầm tay mà các cậu không biết. Thế mà nói lính khu Ba tinh khôn lắm! Ông cùng hai chiến sỹ trẻ đi tiếp. Chuyện chỉ có vậy, hôm sau anh em tôi kể chuyện này với đại đội trưởng Nghẹ. Đại đội trưởng ngạc nhiên nói: Sao các cậu không báo ngay cho đại đội. Tôi ngạc nhiên nói, thì chúng em thấy ông ấy tưởng là cán bộ địa phương đi ngang qua. Đại đội trưởng nói: Chết cha rồi, đấy là trung tá, trung đoàn trưởng Mạch Quang Kiếm, trung đoàn trưởng trung đoàn 273 của mình đấy. Ông đi kiểm tra mà không nói với ai, không vào ban chỉ huy đại đội. Đúng là ông đi tập tễnh vì ông bị thương. Hồi ở bên Lào bọn địch gọi ông là “hổ thọt” vùng Trung Lào và đã trao giải thưởng rất cao để bắt sống hoặc tiêu diệt ông đấy.
Do gợi ý của trung đoàn trưởng, hay là do anh em ngày nghỉ đi giao lưu với chị em dân công hỏa tuyến, mà phát hiện ra khu hang động chứa rất nhiều dụng cụ công binh. Đơn vị nữ dân công đang bốc xếp các loại hàng hóa đó. Thuốc nổ rất nhiều, cứ xếp hàng dãy dài đủ các loại. Toàn những thứ quý hiếm mà đơn vị tôi đang cần, trong khi người coi kho thì ít, họ ở đây lâu lắm rồi. Hình như công cụ, mìn đều xuất nhập theo tinh thần tự giác. Người nọ truyền người kia, đơn vị nọ truyền đơn vị kia, chúng tôi rủ nhau vào khu vực hang động khám phá các kho hàng. Mới đầu là xin dụng cụ như cuốc, xẻng, xà beng, cưa, đục, khoan, toàn hàng mới tinh của Trung Quốc, rồi xin cả thuốc nổ nữa. Nhưng vì xin nhiều quá, anh em coi kho và đơn vị dân công nữ rất thiện cảm với bộ đội cũng không dám cho nữa. Nhu cầu cần các thứ vẫn nhiều, không cho thì anh em đột nhập “đặc công” vậy. Kho ngay trong các hang động lớn. Có những hang ô tô chạy và quay đầu trong đó được, mà chỉ có một hai người coi kho thì coi làm sao xuể. Anh em các đại đội còn nghĩ ra mẹo, cứ hai người khiêng một người trên võng đi qua khu vực kho, nói là anh em bị ốm khiêng đi viện. Khi đến giữa kho thì người bệnh trên võng tụt xuống, thay vào đó là các loại dụng cụ hoặc thuốc nổ. Thế là, với nhưng công cụ và thuốc nổ được dùng mỹ mãn, năng suất phá đá mở đường tăng lên đáng kể. Khu vực kho công binh này sau khi chúng tôi đã hoàn thành con đường trở về Vĩnh Linh, các loại dụng cụ đó đã góp phần giúp chúng tôi rất nhiều trong việc xây dựng mới lại doanh trại.



                                                      XI

Sau gần 4 tháng lao động, con đường mới đã được hoàn thành theo đúng kế hoạch. Đại đội tôi và toàn sư đoàn lên đường trở về nơi đóng quân của mình. Đại đội tôi về lại khu vực doanh trại đội 7, thôn Tân Định, Vĩnh Chấp, Vĩnh Linh.
Lúc này khoảng cuối tháng 8 năm 1973. Sau hai ngày được nghỉ ngơi, đại đội tiếp tục tập trung vào học chính trị, quán triệt tình hình mới của cách mạng và nhiệm vụ cụ thể của đơn vị. Qua đó nhiệm vụ của chúng tôi vẫn là sẵn sàng chiến đấu, học tập huấn luyện nâng cao trình độ kỹ chiến thuật, làm quen tất cả mọi địa hình trong khu vực, nâng cao ý thức chính trị xây dựng đơn vị ngày càng chính quy hiện đại. Tăng gia tự túc một phần lương thực, rau xanh và các loại gia cầm, gia súc. Chúng tôi lại lao vào học tập quân sự từ điều lệnh đội ngũ, đến các loại ¬¬¬¬kỹ thuật xạ kích, những bài bắn ngày, bắn đêm và các chiến thuật từ tổ ba người đến cấp tiểu đoàn. Mùa thu nhưng ở vùng này vẫn nóng như đổ lửa. Mồ hôi của các chiến sĩ ngày nào cũng tuôn trào. Thao trường là nơi rèn luyện của người lính, người lính ở thao trường không thể thiếu được mũ cứng đội đầu, bi đông nước đeo hông và khăn mặt quàng cổ để tránh nóng, lau mồ hôi. Tiêu chuẩn lương thực không còn được như trước, nhu yếu phẩm lính quân khu cũng rất nghèo nàn. Cái đói đến với bộ đội thường xuyên. Bữa cơm nào cũng độn ngô độn sắn, mà cũng đâu có được ăn no. Vì thế việc tăng gia tự túc theo tiêu chuẩn để cải thiện cuộc sống luôn được đưa lên hàng đầu, luôn là câu chuyện trong các cuộc họp, là tiêu chí quan trọng trong bình bầu thi đua.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2022, 03:23:07 pm

        Cũng chính vì đói mà trong bữa ăn có đồng đội sử dụng mẹo vặt để ăn được nhiều hơn: Ví dụ: thường là bát ăn cơm của mọi người là bát sắt tráng men của Trung Quốc cũng đã là to, gọi là bát B52, có đồng đội lại thay bát bát đó bằng cái ca bình tông hai quai của Trung Quốc, loại này đựng được nhiều cơm hơn bát B52. Việc này sớm được phát hiện. Cứ khi xếp hàng vào hội trường ăn cơm thường là xếp hàng 6 cho vừa một mâm. Hễ thấy ai cầm cái ca bi đông ấy là mọi người lảng tránh không đứng cùng hàng nữa, đó là hình thức tẩy chay cho việc ăn không đẹp, gây xấu hổ cho người sử dụng loại “vũ khí” khủng đó. Có đồng đội trong lúc ăn cơm lại dùng chiến thuật “đầy, vơi đầy”. Tức là bát thứ nhất xới cơm đầy, bát thứ hai xới vơi, ăn hết nhanh để được xới bát thứ ba đầy. Chiến thuật này cũng chỉ được áp dụng một, hai lần rồi cũng bị mọi người tẩy chay ngay và còn bị đưa ra cuộc họp để mổ xẻ nữa.
  Trong những lần đi lấy gạo cũng có đồng đội láu lỉnh mang thêm cái bít tất cho gạo vào. Khi về gần đại đội thì vứt vào bụi cây tối ra lấy. Quản lý cân nhận gạo rất khắt khe nhưng cái láu lỉnh của lính vẫn qua được quản lý. Hoặc có đồng đội còn ma giáo, khi cân lại gạo thì cân cả ba lô, nhưng đến lúc đổ gạo vào bồ, hai tay nắm đít ba lô dốc ngược lên, nhưng trong hai nắm tay cầm ba lô đó là hai túm gạo, cũng được khoảng nửa ký. Tiểu đội tôi đã có lần mấy đồng đội làm như vậy. Tối hôm đi lấy gạo về, tôi thấy anh em nói là anh Phú đi ăn cơm không? Tôi hỏi cơm ở đâu, thì mọi người dẫn ra đồi, đã có nồi cơm thơm phức, là “chiến lợi phẩm” của buổi đi lấy gạo. Tôi cùng ăn nhưng trong lòng thấy áy náy vô cùng. Rồi tôi và anh Khoát dứt khoát không cho anh em làm việc này nữa.
Cũng vì đói mà thường lúc nghỉ ngơi ai cũng hay bàn về việc ăn, rủ nhau vào dân mua khoai, sắn về cải thiện. Anh Đằng ở trung đội 1 sau khi ăn cơm xong nói, bây giờ tao vẫn có thể ăn được hai phong lương khô. Hôm đó anh em mới được cấp hai người một phong lương khô, liền thách đố nhau. Mấy anh em góp lại cho Đằng. Đằng ăn ngon lành, nhưng được hơn 1 phong thì bắt đầu ngắc ngứ khó nuốt, cố mãi mới đầu thì đứng ăn sau ngồi ăn, rồi ngồi duỗi chân ăn mà mãi vẫn không hết, răng Đằng lại bị rụng một chiếc nên thở phì phì phun cả lương khô ra. Lúc còn độ 2 thanh nữa thì Đằng nằm thẳng cẳng mắt trợn trừng vì bị bội thực, y tá phải xuống cấp cứu mãi. Thật nguy hiểm, đúng là tí nữa thì chết vì ăn. Đó là bài học nhớ đời cho Đằng và cho mọi người.
Việc tăng gia sản xuất như đã nói, luôn là tiêu chí thi đua thành tích và mọi bình bầu khen thưởng, còn là tiêu chí cho việc phấn đấu trở thành đoàn viên ưu tú, phấn đấu vào Đảng của mọi người. Nhưng muốn tăng gia đạt chỉ tiêu rau xanh thì  phải có nhiều phân cây mới nhanh tốt. Thế là việc lấy phân, ủ phân cũng là chuyện hài của lính. Các trung đội tranh nhau lấy phân, mà phân “ bắc” (tức phân người) là loại tốt nhất. Trung đội nọ sang lấy trộm phân tại nhà xí của trung đội kia. Thậm chí có người đang ngồi đại tiện, phía sau bên dưới đã có đồng đội đứng chờ sẵn lấy phân. Dân ở đây họ bắt đầu phát triển nuôi bò lấy phân và lấy thực phẩm. Hàng ngày họ đi ra đồi bứt lá cây, tiếng địa phương gọi là “bứt bổi”. Thường cả buổi mới lấy được một gánh, mang về vứt vào chuồng lợn hoặc chuồng bò cho bò, lợn giẫm, nát lá cây quyện với nước đái và phân, thành loại phân rất tốt cho việc trồng trọt.
 Có một chuyện vừa buồn cười vừa phiền lòng, ấy là nhiều anh em tối ra chuồng bò lấy trộm phân về bón rau. Nhưng sau vài lần thì dân cũng biết và họ rình. Rồi có hôm họ bắt được lính của tiểu đoàn 2 làm cái việc đó. Hai chiến sĩ vừa xúc được hai bao phân thì bị dân quân ập tới súng ống chỉnh tề, họ hò hét ầm ĩ như là việc gì quan trọng lắm. Vì họ đã quá bức xúc về việc mất phân, họ lấy tờ bìa ghi: Tôi Nguyễn Văn … người ăn cắp phân” đeo ở ngực và dẫn giải giao cho tiểu đoàn.
Bên đại đội 8 tiểu đoàn 2 còn có chuyện đại đội trưởng Hào đêm đi bắn hoẵng. Chả là theo dõi ở khu đồi cạnh đại đội đêm nào cũng có tiếng hoẵng kêu. Là người đã sống nhiều ở rừng nên anh biết nơi hoẵng thường tới và tiếng kêu đêm của hoẵng là tìm bầy tìm bạn. Đêm anh bí mật ra đồi phục bắn hoẵng. Đeo đèn trước trán, một con thú lông vàng đi theo đường mòn thấy ánh đèn bị bắt sáng thì ngơ ngác cứ đứng “ăn đèn” chứ không chạy. Đúng là chú hoẵng mà anh tìm kiếm rồi. Giương khẩu K63 ngắm và bóp cò. Đoàng... con thú tội nghiệp gục ngay xuống không kêu được một tiếng, bốn cái chân đạp đạp vào không khí. Tiến lại xem thì… thôi chết rồi không phải là con hoẵng anh theo đuổi mà là một con bê của dân. Sợ quá anh bèn kéo con bê giấu vào bụi cây, về đơn vị không giám kể với ai. Liên lạc hỏi anh có bắn được gì không mà em thấy tiếng súng. Đại đội trưởng nói có bắn nhưng không trúng, rồi sáng dậy sớm tháo súng lau, thông nòng rất kỹ. Khoảng 8 giờ sáng có ba bọ trong thôn đi ngang qua, vào đại đội xin nước uống và hút thuốc rê. Rồi họ chuyện trò với nhau rất vô tư. Một bọ nói: Đêm qua có ai đi săn, bắn được con hoẵng rất to, nó bị thương chạy chết trong bụi. Mấy người đang hò nhau đi khiêng hoẵng về. Liên lạc đại đội mang nước ra cho mọi người, nghe thấy vậy vui quá liền nói: Ô! đại đội trưởng của cháu đêm qua đi bắn hoẵng đấy, lúc khuya về nói bắn mà không trúng, rồi rối rít chạy vào hớn hở báo với đại đội trưởng mà không biết là đã mắc mưu mấy bọ. Bê của mấy bọ đi lạc, sáng đi tìm thấy bị bắn chết, mấy bọ đã mở cuộc điều tra. Biết được người bắn, mấy bọ liền vào nhà đại đội làm việc, rồi lên tiểu đoàn báo cáo và bắt đền con bê.
Giai đoạn này trong đơn vị nhiều đồng chí được cử đi học các lớp tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hay các lớp tập huấn khác. Anh Yến, trung đội phó trung đội 1 thì được ra quân khu học lớp cán bộ chính trị đại đội, hàng chục anh em đi học lớp tiểu đội trưởng cũng ở Quân khu. Một số đồng chí được điều động lên làm chuyên môn ở trung đoàn như anh Ước lên tài vụ. Riêng tôi thì không được trong diện đó mặc dù có nhiều cơ hội, nhưng đại đội vẫn cứ giữ lại. Một lần lên trung đoàn tập huấn súng cối, vào chơi với anh em đại đội thông tin 18. Rất ngạc nhiên vì thấy anh em đang tập báo vụ tức là tập gõ ma-líp tạch tè, tạch tè. Anh em mới học nên thu phát rất chậm. Tôi liền nói với anh Mùi chính trị viên phó đại đội 18 là tôi có khả năng thu phát rất tốt đạt hàng trăm chữ trên phút. Anh Mùi và mọi người tròn mắt ngạc nhiên vẻ không tin. Tôi nói cứ cho tôi thử, mọi người cho tôi thử và quả đúng như vậy, tôi đã thu phát, đạt hơn 90 chữ trên một phút. Anh Mùi và mọi người hỏi tôi học ở đâu? Tôi nói tôi được học môn này từ hồi lớp 5, học mấy năm hồi đó gọi là học vô tuyến điện hay lớp nghiệp dư vô tuyến điện.
Năm 1964 khi đang học lớp 5 thì Ty thể dục thể thao mở một số lớp năng khiếu như cầu lông, bóng bàn, bóng đá, cờ tướng, cờ vua v.v… Khi nghe có lớp vô tuyến điện tôi thích quá, xin đăng ký học. Sau hai năm học, khi thì học tối hoặc ngày chủ nhật. Tôi yêu thích môn này nên rất say sưa, luôn dẫn đầu lớp. Khi kiểm tra trình độ chuyên môn, tôi được phát bằng công nhận là vận động viên cấp ba môn Vô tuyến điện. Sau khi kiểm tra thử, biết đúng như vậy, anh Mùi nói, để tôi báo cáo cấp trên rồi sẽ điều động tôi về đại đội 18. Nhưng mãi chẳng thấy gì. Mãi sau tôi mới biết là anh Mùi đã xin quân lực, quân lực đã đồng ý nhưng dưới đại đội và tiểu đoàn cương quyết không cho tôi đi vì nói để tôi ở dưới cơ sở còn phấn đấu phát triển.
 Lại một lần nữa cũng giống như vậy, khi mà anh Nguyễn Chính Hương, bạn tôi bên đại đội 4, nguyên là công nhân cơ khí xí nghiệp của tỉnh được điều lên ban quân khí của sư đoàn sửa chữa súng đạn. Trên đó đang cần thêm người biết nghề cơ khí. Anh nói với ban là có Phú ở đại đội 3, tiểu đoàn 1 giỏi nghề thợ. Ban quân khí xin tôi lên đó nhưng tiểu đoàn và đại đội cũng dứt khoát không cho đi, cũng vì lý do tôi là nòng cốt, giữ lại để xây dựng đơn vị và tạo điều kiện để tôi phấn đấu. Quân lực cương quyết điều đi vì thiếu người. Tiểu đoàn liền điều động anh Hà Cao Phan ở đại đội 1 đi thay tôi. Thế là tôi có hai cơ hội được điều động đến nơi nhàn nhã đỡ vất vả hơn ở đơn vị cơ sở mà đều không được. Đúng là tốt quá thường hay thiệt thòi.
Sau khi toàn đơn vị đã cơ bản hoàn thành khóa huấn luyện, mọi vấn đề về kỹ chiến thuật, xạ kích và chuyên môn theo yêu cầu của từng đơn vị đã tinh thông. Khoảng giữa tháng 11 năm 1973 thì Bộ tư lệnh sư đoàn có thay đổi về chỉ huy. Khi mới thành lập thì chỉ huy trưởng là đại tá Bảo Cường. Đại tá Trần Văn Trân được điều động về thay làm sư đoàn trưởng. Đại tá Trần Nguyên Độ về làm Chính ủy Sư đoàn. Hai vị chỉ huy mới là những người có nhiều kinh ngiệm trong chiến đấu, là những người tài giỏi nổi tiếng. Có những giai thoại không chỉ trong sư đoàn biết mà toàn quân và cả nước biết hai ông, kể nhiều chuyện về hai ông. Đại tá Trần Nguyên Độ vừa tham gia phó trưởng phái đoàn quân sự bốn bên của Hiệp định Pari. Sau khi hết thời hạn của phái đoàn quân sự, ông được điều về đây. Tôi chưa gặp ông lần nào thấy mọi người nói, ông rất giỏi nhưng lại rất bình dân. Đi đâu ông cũng cầm cái điếu cầy theo để hút thuốc lào. Chính vì nghiện thuốc lào mà răng ông đen xỉn.
 Còn Tư lệnh sư đoàn thì có nhiều chuyện đặc biệt ly kì hơn. Ông mới được phía bên kia trao trả theo tinh thần của Hiệp định Pari về trao trả tù binh. Mọi người kể, khi ông là sư đoàn trưởng sư đoàn 1, một hôm ông cùng đoàn tùy tùng của sư đoàn đang đi xuồng tại kênh Vĩnh Tế, tỉnh An Giang thì bị lính Việt Nam Cộng hòa phục kích. Một số sỹ quan tùy tùng hy sinh. Trong số hy sinh có cả một y sỹ. Ông bèn lấy luôn cái túi cứu thương của người y sỹ đeo vào người. Khi bị bắt, qua rất nhiều trại giam với sự thẩm vấn của các cơ quan phản gián, sỹ quan nghiệp vụ của quân lực Việt Nam Cộng hòa ông vẫn chỉ nhận là thượng sỹ y tá. Chúng thử thách nhiều lần nhưng ông vẫn thành công trong cái vỏ bọc đó. Năm 1973, ông được trao trả. Song nghe kể lại là phía ta có sơ xuất, khi ông vừa được trao trả thì có xe ô tô con đón đi ngay, nên Quân lực Việt Nam Cộng hòa biết là đã để sổng một nhân vật quan trọng. Sau khi được đi an dưỡng và làm những thủ tục của tổ chức, tháng 11 năm 1973 ông được điều động về làm sư đoàn trưởng sư đoàn 341.
Sau khi về thay sư đoàn trưởng Bảo Cường, sư đoàn trưởng Trần Văn Trân đi thăm hết lượt các trung đoàn, thấy nơi ăn chốn ở của bộ đội chưa đạt yêu cầu. Có nhiều đơn vị vẫn còn ở trong nhà dân. Những điều này không thể là tiêu chí để xây dựng đơn vị chính quy hiện đại được. Sau khi bàn với chính ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn, ông quyết định: Toàn bộ sư đoàn tập trung làm nhà mới to cao khang trang sạch đẹp. Mỗi đại đội ngoài bếp ăn còn phải có hội trường để hội họp và bộ đội phải được nằm giường riêng chứ không ăn nghỉ như hiện tại. Mỗi đại đội còn phải có sân tập, sân bóng đá bóng chuyền v.v…Nghị quyết của sư đoàn đề ra trong vòng 60 ngày toàn sư đoàn phải làm xong doanh trại theo tiêu chí quy định. Ngoài ra vẫn phải đảm bảo các tiêu chí sẵn sàng chiến đấu, cơ động chiến đấu và tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm. Thực tế là những lán trại mà các đơn vị đang ở do lúc đầu chưa có kinh nghiệm về làm nhà cửa, nên các loại vật liệu làm nhà là những cây gỗ non, nhỏ, sau mấy tháng đã bị mọt hết. Trưa, tối nằm nghỉ cứ phải dùng những tấm tăng ni-lon căng để bụi mọt không rơi xuống người. Âm thanh của mọt gặm gỗ cứ kẹt kẹt, kẹt kẹt như bản hợp tấu cùng giai điệu suốt đêm gây cảm giác khó chịu, nhiều đồng đội đã không thể ngủ được vì cái bản đồng ca đó.
Thế là một chiến dịch làm nhà, xây dựng doanh trại theo hướng chính quy hiện đại bắt đầu. Lần này làm nhà không như lần trước mà xác định làm nhà to cao đẹp theo tiêu chí chung, nên từng đại đội phải chọn cử các đồng chí có kinh nghiệm về nghề mộc phác thảo nhà, kích thước từng loại cây, loại gỗ, kèo cột quá giang đẽo gọt đục mộng đàng hoàng. Nguồn vật liệu nói chung tất cả là trong rừng Tây Trường Sơn. Ngoài lấy gỗ làm nhà, các đại đội còn cử những đội cưa xẻ vào rừng đốn gỗ để xẻ làm ván đóng giường cá nhân cho từng người. Gỗ rừng thì rất nhiều, chỉ mất nhiều công đi rừng chặt gỗ mang về. Cây gỗ to, nên từ cái cột, cái xà phải hai người khiêng. Được cái các loại dụng cụ như cưa cắt, cưa xẻ, khoan đục, kể cả đinh, dao chặt rất nhiều trong kho công binh ở khu vực Rào Trù mà mấy tháng trước đi mở đường các đơn vị đã phát hiện, lấy dùng. Dịp này cũng vậy, đơn vị cử hẳn một bộ phận vào trong đó lấy các dụng cụ theo yêu cầu về phục vụ cho việc làm danh trại.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:25:46 am

         Những ngày đầu tôi được cử đi theo nhóm lên sư đoàn làm doanh trại cho các cơ quan sư đoàn. Chỉ có trung đoàn 273 là đóng quân ở khu vực Vĩnh Linh. Còn sư đoàn bộ, các cơ quan, các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc và ba trung đoàn đều đóng quân tại khu vực huyện Quảng Ninh, Quảng Bình. Chuyến đi làm nhà cho sư đoàn này, tôi hiểu thêm về con người và vùng đất Quảng Bình rất nhiều, như: Biết được quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm. Biết thêm về bến đò Xuân Bồ, Bến Tiến mà trong bài hát của nhạc sỹ tài hoa Hoàng Vân đã nhắc đến. Trong câu hát thì Bến Tiến là vùng kinh tế sầm uất lắm, nhưng khi biết địa danh thì không khỏi buồn cười, Bến Tiến chỉ là lạch nước nhỏ mà mùa này thì không có nước, cũng chẳng có cái nhà nào gọi là vùng kinh tế. Đúng là nhạc sỹ khéo ca ngợi, khéo cường điệu lên, chứ thực tế chẳng có thực như vậy mà sao câu hát nghe hay thế. Chúng tôi trọ tại khu vực xã Thái Thủy, dân ở đây rất tốt, đặc biệt phụ nữ rất xinh đẹp. Nhìn những người phụ nữ dáng cân đối, khuôn mặt xinh xắn phúc hậu nhìn ngắm mãi mà không chán mắt. Tò mò tôi hỏi gia đình chủ nhà, khen phụ nữ ở đây đẹp. Bọ, mạ chủ nhà hỏi: Các chú có biết răng mà phụ nữ ở đây xinh đẹp không? Rồi bọ mạ giải thích: Thời Vua Hàm Nghi khi ly khai, trốn chạy thực dân Pháp, đã đưa triều đình từ Huế, chạy về nương náu tại vùng này. Cả vương triều di dời, bầu đoàn thê tử rất đông. Ngoài các quan trọng trách của các bộ cùng gia đình vợ con, còn có cả những người hầu nam và nhiều cung tần mỹ nữ . Khi chạy về đến đây thì mọi người đã mệt mỏi, trong khi lại bị quân Pháp truy đuổi. Một số người hầu và một số cung tần mỹ nữ đã trốn ở lại đây, hoặc vua cho phép lấy vợ lấy chồng định cư lại đây, những người phụ nữ bây giờ là hậu duệ của những người ấy.
Cũng chính vì sự truy đuổi của Pháp và sự mệt mỏi của quan, lính nên vua đã cho chôn giấu vàng bạc châu báu tại đây. Năm 1955 do mưa lũ xói mòn dòng chảy của suối mà nơi cất giấu vàng được mọi người phát hiện, rất nhiều người đã nhặt được vàng. Có những thỏi vàng lớn trọng lượng một vài ki-lô-gam. Chính quyền biết việc này, nên có các đoàn của Chính phủ về đây phát động mọi người giao nộp lại vàng và các báu vật quý cho nhà nước. Nghe nói còn nhiều điểm chôn giấu khác nữa nên vẫn có những nhóm người đi săn lùng kho báu.
 Ở vùng này còn có một loại cây quả trong các gia đình mà không đâu có, đấy là cây bồ quân. Cây to, rất nhiều gai như gai cây bồ kết. Quả cây bồ quân như quả mận, khi chín thì màu hồng mà nhà thơ Tố Hữu có câu “má đỏ bồ quân”. Cây rất nhiều quả, trong mỗi quả có ba hạt chứ không phải một hạt như quả mận. Đây là một loại cây hoang dã trong rừng. Những năm đó, cùng với cây lá trung quân đã giúp cho đoàn hộ giá nhà vua rất nhiều. Để nhớ về loại cây đó và những năm tháng ấy mà dân đã mang về trồng trong vườn các gia đình.
Trong những ngày này, bọ,mạ cũng kể cho chúng tôi biết chuyện năm vừa qua đã bắt tên Tư Thoan, gián điệp của Mỹ cài cắm, đã leo được lên tận chức bí thư tỉnh ủy. Tên này với mục tiêu trèo cao chui sâu. Chính nó đã chỉ điểm cho máy bay Mỹ đánh trúng những đoàn xe của ta cùng những kho tàng bí mật, gây cho ta những thiệt hại lớn về người và của.
Bọ, mạ cũng kể thêm một chuyện đau lòng nữa mới xẩy ra tại địa phương. Đấy là chuyện đoàn văn công Quảng Bình hay còn gọi là đoàn văn công Bình Trị Thiên. Sau đợt đi biểu diễn khắp nơi, vào chiến trường phục vụ bộ đội. Trong đoàn có một nhạc công đã có vợ nhưng lại yêu một nữ diễn viên. Hai người yêu nhau say đắm, nhưng như thế là vi phạm kỷ luật. Thời đó quan hệ nam nữ rất nghiêm khắc. Ban lãnh đạo đoàn văn công cùng đoàn thanh niên họp kiểm điểm nhiều lần để ngăn cấm. Một buổi tối đoàn văn công cũng tổ chức kiểm điểm, người nhạc công này bức xúc quá chạy ra lấy khẩu AK của người phụ trách máy nổ, thêm hai quả lựu đạn ném vào cuộc họp rồi dùng súng AK bắn chết hơn chục người, sau đó cố thủ trong phòng, tự kết liễu mình bằng chính khẩu súng đó.
Dịp đó chúng tôi hay qua lại nơi bến đò Xuân Bồ. Ngay bên bờ phía Nam, một gia đình có cháu gái khoảng hơn bốn tuổi nhưng đã có khả năng xuất chúng là biết đọc, biết viết, biết làm toán lớp 3. Đặc biệt là cháu lại vẽ giỏi. Khi tôi và nhóm anh Trần Qúy Sùng vào chơi vào chơi bảo cháu vẽ, cháu vẽ ngay một cành đào, có một con chim đậu, một con bay và ghi luôn vào đó câu: “Nó đang tung cánh giữa trời”. (Bức họa cháu bé tặng này đến nay anh Trần Qúy Sùng vẫn còn lưu giữ.)
 Hỏi cháu là thấy con chim ở đâu mà cháu vẽ? Cháu nói con chim đậu ở tầu lá chuối, thế mà cháu lại vẽ thành chim đậu ở cành hoa đào mới giỏi chứ! Không biết sau này lớn lên tài năng của cháu có phát triển tỏa sáng không?
Sau khi công việc tăng cường làm nhà cho các cơ quan sư đoàn hoàn thành, chúng tôi về lại đơn vị, cùng đơn vị làm tiếp các công trình doanh trại của đại đội. Việc đi lấy gỗ bây giờ đã vô cùng khó khăn vất vả vì càng ngày càng phải đi vào rừng sâu hơn tìm kiếm gỗ khó hơn. Nhiều lần khiêng gỗ về, dọc đường quá trưa đói mệt nhưng không phải lúc nào cũng được nghỉ. Vừa đi vừa lấy tay sục vào bụi sim để lấy những quả sim chưa chín bỏ vào miệng ăn cho đỡ đói. Ở hướng tiểu đoàn 1 của tôi không có đường ô tô nên không thể nhờ vả được. Nhưng hướng tiểu đoàn 3 thì gần trục đường 15 đi vào Bãi Hà, xe ô tô đi lại nhiều. Anh em tiểu đoàn 3 tận dụng lợi thế này nên việc đi lấy gỗ nhàn nhã hơn. Cứ ra đường là đã có ô tô đi vào hướng rừng và về cũng vậy. Nhưng khi về thì có gỗ dài to, rất cồng kềnh, lái xe rất ngại, nhiều người không cho đi nhờ. Nhưng anh em tiểu đoàn 3 đa phần là dân Quảng Ninh đất mỏ họ rất khỏe và cũng rất nghịch ngợm. Đã có mấy lần anh em xô xát va chạm với các đơn vị khác ở gần đó. Còn nói tiếp việc lấy gỗ, nhiều lái xe không cho anh em đi nhờ thì anh em cũng cứ chạy theo, nhảy lên xe và việc nhảy lên xe với những người lính bộ binh tiểu đoàn 3 là việc nhỏ. Lái xe thấy anh em nhảy lên xe có ý chơi khăm không dừng xe lại. Anh em đập mạnh vào ca bin xe mà xe vẫn không dừng. Không dừng thì anh em cởi áo ra trùm vào kính phía trước, làm lái xe không nhìn được, đành chịu thua phải dừng xe lại. Có lái xe cự nự thì anh em tiểu đoàn 3 có tiếng là “gấu” họ có sợ gì ai. Bên hông ngoài dao to, mỗi người còn có dao găm Liên Xô hay dao găm tự chế. Nắm dao được đúc bằng đuya ra máy bay màu trắng trông rất ngầu làm cho lính lái cũng ngán. Từ đó dân lái xe và mọi người gọi anh em tiểu đoàn 3 là cơn lốc đường 15 hay đội quân dao găm trắng.
Sau này khi vào chiến đấu tại miền Đông Nam bộ thì tiểu đoàn 3 luôn là tiểu đoàn chủ công của trung đoàn, sư đoàn. Họ chiến đấu rất mưu trí, dũng cảm. Kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, tiểu đoàn 3 được phong tặng là tiểu đoàn Anh hùng Lực lượng vũ trang. Cũng tiểu đoàn này có rất nhiều đồng chí đã trưởng thành với quân hàm và địa vị cao là cấp tá, cấp tướng như trung tướng Trần Anh Vinh, trung tướng Nguyễn Đình Giang, thiếu tướng Nguyễn Công Sơn. Những đồng chí kế nhiệm tiểu đoàn cũng luôn phát huy và tỏa sáng như tiểu đoàn trưởng Anh hùng Nguyễn Song Thao, Đại tá Phan Sỹ Thống.
Sau khoảng hơn hai tháng dốc sức làm doanh trại, các đơn vị trong toàn sư đoàn đã có nhà ở, có hội trường, có các nhà phục vụ hoàn thiện khang trang đẹp đẽ. Đại đội 3 của tôi cũng vậy, doanh trại được làm trên một bãi rộng, theo hình chữ U, có hai dãy dọc, dãy bên phải nhìn từ nhà hội trường xuống là trung đội 1, trung đội 2, dãy bên trái là nhà tiểu đội 10, tiểu đội 11, tiếp đến là nhà của trung đội 3. Mỗi trung đội gồm ba nhà, mỗi nhà của một tiểu đội. Đầu chữ U là hội trường lớn, rộng, đủ chỗ họp cho cả đại đội. Giữa chữ U là sân bóng đá không to rộng theo sân tiêu chuẩn nhưng cũng đủ cho lính chạy nhảy đá bóng thoải mái. Phía dưới cùng, gần suối là bãi tập xà đơn xà kép, cầu độc mộc, nhảy cao, nhảy xa. Phía trên hội trường là nhà chỉ huy đại đội. Đầu hồi ban chỉ huy là nhà ăn, nhà bếp, nhà của quản lý anh nuôi và kho lương thực, thực phẩm. Trong từng nhà, bộ đội đã được ngủ nghỉ bằng giường cá nhân có giát giường gỗ xẻ hay tre luồng ken, nằm khá êm ái, có đủ các loại giá súng, giá ba lô, giá để giầy dép, giá để bát, đũa và mũ nữa. Ở dưới nền nhà, đầu giường còn có các thanh tre ghép chìm hình chữ T để dép hay để giầy đúng vị trí.
Toàn sư đoàn bắt đầu đợt cao điểm quyết tâm xây dựng nền nếp chính quy hiện đại. Chính thức bắt đầu đợt huấn luyện mới, huấn luyện bài bản, kỹ càng như huấn luyện tân binh lúc đầu. Từ động tác nghiêm, nghỉ, chào, đi đều, quay phải, quay trái, ngồi xuống, đứng lên đều phải học lại, tập lại. Đến đại đội nào cũng hừng hực khí thế thi đua. Những khẩu hiệu thể hiện quyết tâm của Sư đoàn là huấn luyện xây đựng sư đoàn 341 trở thành sư đoàn: “Cơ động, tinh nhệ, thiện chiến, chính quy hiện đại”. Cũng chính vì mục tiêu lớn đó mà chúng tôi, những người lính sư đoàn đã ngày đêm dốc rức rèn luyện, mồ hôi luôn ướt áo, ướt đẫm khăn mặt do mưa, nắng thao trường. Những khẩu hiệu lớn trong từng đơn vị như: “Kỷ luật là sức mạnh của quân đội”, hay “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường đỡ rơi máu đào”. Trong từng lán trại có những khẩu hiệu thi đua học tập rèn luyện sát với thực tế của từng đợt học tập. Nội vụ gọn gàng ngăn nắp. Sáng dậy gấp chăn màn vuông vắn trên đầu giường, có đồng chí đứng ngắm, chỉnh sửa sao cho thẳng đẹp. Chăn gấp phải có góc vuông, đẹp. Giá mũ, giá dép, giá súng, giá bát đũa, giá khăn mặt đều thẳng tắp. Buổi tối, sau 21 giờ là có ban thi đua của đại đội đi kiểm tra nội vụ, chấm điểm thi đua. Sáng cũng vậy, sau khi kẻng báo thức dậy tập thể dục, ăn sáng rồi đi tập thì có ban thi đua kết hợp với trực ban đại đội đi kiểm tra nội vụ và chấm điểm. Bàn chải đánh răng cũng được kiểm tra xem có sạch, có bị cặn bám vào không. Hàng tuần còn chi ly kiểm tra móng tay, móng chân của từng người. Tóc luôn phải cắt đạt chỗ dài nhất là 3 cm gọi là tóc 3 phân.
Các phong trào thi đua được phát động liên tục. Tất cả đều có sơ kết, tổng kết, động viên kịp thời. Hàng tối, tôi cùng hai anh Phức và Hưởng vẫn tập hợp tin tức trong ngày sau 21 giờ đọc báo, đọc tin cho đại đội. Việc đọc tin đã trở thành món ăn tinh thần của lính, biểu dương gương người tốt, việc tốt và công bố xếp hạng thành tích của từng trung đội. Hết bản tin chính là trích đọc, giới thiệu báo. Hồi đó chủ yếu là báo Quân đội và báo Quân khu Bốn. Cuối chương trình là công bố kết quả thi đấu bóng đá hay bóng chuyền trong ngày. Những công bố thành tích và nêu gương này nhiều khi cũng gay cấn trong việc cạnh tranh thi đua. Làm cho hôm sau những trận bóng đá sôi động hơn. Thường kết thúc buổi thông tin, anh Phức hát, đọc những bài thơ trong báo tường của đại đội.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:27:44 am

       Mọi việc đã đi vào nền nếp, những ngày nghỉ, anh em thường rủ nhau đi chơi Hồ Xá, ra cầu Hiền Lương, thăm vùng địa đạo Vĩnh Mốc và hay tổ chức cải thiện. Chủ yếu là cải thiện bằng các loại rau nấu canh vì ngoài tiêu chuẩn nộp cho đơn vị thì lượng rau xanh, bầu bí đã có phần dư thừa. Có trung đội anh em còn trồng được cả dưa hấu nữa. Ở vùng này nắng nhiều lại rất thích hợp với trồng dưa. Anh em thường có câu: “Nắng tốt dưa, mưa tốt lính”. Các trung đội hoặc các nhóm rất tích cực nuôi gà. Rủ nhau đi bắt kỳ nhông. Kỳ nhông rất nhiều, nó giống như con thằn lằn nhưng to hơn, thân xù xì như con tắc kè. Ở những đồi cát trắng ven biển rất nhiều, đi lên đồi cát thấy bóng người là nó chạy trốn vào các lỗ sâu trong lòng cát. Muốn đi bắt chúng phải mang theo xẻng to, loại xẻng công binh. Thấy kỳ nhông chạy vào lỗ nào là đến đó đào thật nhanh. Kỳ nhông chui rất sâu bắt được nó cái hố đào thường to rộng bằng hai cái hố cá nhân. Một buổi hai người đi đào bắt được khoảng hơn chục con. Những chú kỳ nhông sau khi lột da, thịt trắng phau mang nướng hay băm làm chả thơm ngon tuyệt đỉnh. Hiện nay nó là một loại đặc sản quý hiếm của vùng nắng gió miền trung này.
Dịp này trong trung đoàn lại có phong trào đúc cán dao găm và làm dao găm bằng loại thép trắng và cán cũng được đúc bằng đuya ra của máy bay. Đại đội tôi anh em cũng hì hục làm khuôn, làm bếp nấu đuya ra để đúc cán dao. Nhưng anh em đúc mãi cán dao cứ bị rỗ, bị khuyết. Sau khi xem xét, tôi nói để tôi làm khuôn cho, vì tôi đã biết lý do hỏng nên khi anh em đúc được ngay. Mọi người thắc mắc hỏi tại sao tôi làm được mà họ làm mãi không được. Tôi cười nói đấy là bí mật nhà nghề, thực ra nó có tính vật lý. Nói vậy nhưng tôi giảng giải, phân tích kỹ cho anh em là khuôn đúc của anh em không có lỗ thoát khí. Khi nhôm đổ vào muốn đầy lấp tất cả thì phải có lỗ thông khí. Sản phẩm nhỏ thì cần một lỗ, những sản phẩm lớn lượng nhôm nhiều thì cần tới 2 hoặc 3 lỗ thoát khí mới được. Từ đó toàn đại đội, toàn trung đoàn ai cũng có một con dao găm cán trắng tự chế. Hết phong trào làm dao găm lại đến phong trào khắc chữ lên các loại ca bát, ăng gô, bình tông, vẽ thêm con cá, cành hoa ngày tháng địa danh và tên tuổi của mình. Anh Khoát là người có hoa tay vẽ những cảnh như cây tre, con cò, đàn cá vàng bơi lượn v.v… Vẽ xong thì dùng mũi dao nhọn dũi đẩy theo hình vẽ tạo nên bức tranh rất đẹp.
Ở vùng này có nhiều ống pháo sáng, tôi lấy cắt từng khúc rồi làm đáy, làm quai thành những ca uống nước. Những mảnh máy bay to, tôi nghĩ cách làm những cái đĩa đựng ấm chén hình bầu dục có thành đứng gấp sóng và chạm khắc công phu. Dịp anh Lê Tiến Hạt về làm tiểu đoàn trưởng thay tiểu đoàn trưởng Tạo, xuống thăm đơn vị thấy tôi làm đĩa đẹp quá, anh nói làm cho anh một cái. Tôi cũng kiếm đuya-ra làm cho anh một cái đĩa to có chạm khắc hoa văn và đàn cá vàng bơi lội ở giữa, anh rất thích, mang về quê làm kỷ niệm. Anh Lê Tiến Hạt sau làm trung đoàn trưởng trung đoàn 266. Hiện anh nghỉ hưu với quân hàm đại tá tại Hà Nội.
Huấn luyện được khoảng hơn một tháng thì đến tết. Toàn đơn vị náo nức đón xuân, chuẩn bị tết, mùa xuân và tết đầu tiên của chúng tôi tại vùng đất lửa miền Trung. Các tiêu chuẩn lương thực, thực thực phẩm tương đối dồi dào. Trung đội nào, người nào cũng viết hàng tập thư về cho gia đình. Rồi những công việc như gói bánh chưng, giết gà mổ lợn rất sôi động. Cũng trong ngày chuẩn bị tết này mà tôi có một kỷ niệm đi rừng lấy cây giang về chẻ lạt gói bánh chưng thật nhớ. Ấy là khi tiểu đội 10 của tôi được giao nhiệm vụ lấy một gánh giang cho đại đội. Khi anh Khoát hỏi có ai biết chỗ có giang thì đi lấy. Cả tiểu đội không ai biết, riêng tôi thì một lần vào rừng đi lạc vào khu rừng có rất nhiều giang và song mây. Tôi xung phong đi. Nhưng với nhiệm vụ đó chỉ đi một mình. Sáng 27 tết, một mình tôi vào khu rừng cách đơn vị khoảng 15 - 20 ki-lô-mét, đang lần mò đi đến chỗ rừng giang theo con đường nhỏ lên dốc. Đang đi, tôi phát hiện một con rắn thật to, dài chừng hai mét, đen trũi, thân có nống như là rắn cạp nong. Con rắn bò ngược xuống, đối diện với tôi, thỉnh thoảng nó dừng lại ngóc đầu lên, lè lưỡi dài đánh hơi hay định hướng. Tôi rất sợ nhưng vì đường mòn nhỏ độc đạo hai bên là rừng cây, với những dây leo chằng chịt. Sau phút giật mình hoảng sợ, lấy lại bình tĩnh tôi lách người sang bên phải đứng im sau một gốc cây tay cầm dao giơ lên thế thủ. Nghĩ nhanh nếu rắn phát hiện mà lao vào tôi thì phải chém phạt đầu nó ngay mới được. Nhưng rồi mọi việc qua đi khi con rắn bò trườn qua mà không phát hiện tôi nấp ở đó. Thật hú hồn, lúc này tôi mới thấy sợ, mới thấy cái sai khi vào rừng sâu một mình, nếu không may xẩy ra việc gì thì ai cứu, đơn vị tìm sao được. Tu hớp nước, lấy lại bình tĩnh, tôi đi tiếp tới khu vực có giang. Những cây giang mọc bò dài hàng chục mét, có những đoạn bánh tẻ ưng ý. Tôi chặt những khúc bánh tẻ hai gióng một, chặt xong không cần rút tiếp mà giang tự động tụt xuống, cứ thế chặt chưa hết hai cây đã được một gánh. Nhưng trong rừng gánh sao được đành vác, kéo từng bó, từng đoạn ra khỏi rừng rồi mới cắm đòn gánh vào gánh, gần 3 giờ chiều tôi mới về đến đơn vị.
Toàn đơn vị cờ hoa cùng những khẩu hiệu mừng xuân đón tết rất sôi động. Trong mỗi nhà đều có bàn thờ Tổ quốc, có ảnh Bác Hồ, có câu đối xuân cùng bánh chưng, kẹo các loại. Đặc biệt, vùng này những ngày tết, ngày vui, dân thường làm bánh sắn. Bánh làm bằng bột sắn lọc, nặn dẹt ra thành hình tròn, cho nhân là thịt băm hoặc tôm, tép vào giữa rồi gấp lại thành hình bán nguyệt đem hấp. Bánh ăn rất dẻo và ngon. Nhiều nhà anh em còn lấy cây về cắt hoa giấy nhuộm đỏ, vàng làm giả hoa đào, hoa mai. Tôi cùng mấy anh em đi lấy dây trạc trừu về hái vợi lá, giả làm cây nho leo ở tường trông rất hấp dẫn. Có những buổi liên hoan văn nghệ cùng chi đoàn địa phương. Vui nhất là màn tổ chức hái hoa dân chủ. Một cành đào giả to, được cài vào đó những bông hoa đào giấy, cùng những mảnh giấy gấp có câu hỏi yêu cầu người hái hoa hát, kể chuyện hay diễn trò, ngâm thơ v.v… Sau khi người này thực hiện xong, được quyền chỉ định người khác lên hái hoa. Buổi vui văn nghệ có nam có nữ, có thanh niên của địa phương, có kẹo, trà, bánh trái các loại rất vui. Cuộc vui phá lệ kéo dài tới 11 giờ khuya mới giải tán.
Cũng trong không khí ngày xuân, ngày tết, tiểu đoàn còn tổ chức đá bóng giao lưu, rồi đến các tiểu đoàn trong trung đoàn cũng thi đấu bóng chuyền, bóng đá. Tiểu đoàn 2 lính thị xã nhiều nên tài năng thể thao nổi trội hơn. Hôm tiểu đoàn 2 và các liên quân trung đoàn bộ thi đấu chung kết bóng đá về ngang qua đại đội tôi, Bình kể, riêng em hôm nay ghi được 2 bàn, tiểu đoàn em được giải nhất nhưng tiểu đoàn trưởng Dấng thì bị rụng hai răng cửa vì ông trực tiếp làm thủ môn. Trong một pha lao ra bắt bóng thì va chạm mạnh với tiền vệ đối phương (tiểu đoàn trưởng Nguyễn Dấng sau lên chức trung đoàn phó trung đoàn 273. Ông luôn là người xông xáo có bản lĩnh trong huấn luyện và chỉ huy chiến đấu giải phóng Miền Nam, bảo vệ biên giới Tây Nam sau này. Còn Trần Trọng Bình trong trận chiến bảo vệ biên giới Tây Nam tháng 12 năm 1977, bị thương hiện là thương binh loại 1/4, đang sinh sống tại thành phố Thái Bình).
 Ngoài thể thao, các phong trào văn hóa văn nghệ, sáng tác thơ ca cũng rất sôi động. Những cuộc thi báo, thi thơ trong các đại đội, tiểu đoàn và toàn trung đoàn có nhiều bài thơ hay được đăng tải trên báo của quân khu 4 và báo Vĩnh Linh. Tôi nhớ hồi đó có hai bài thơ đoạt giải A rất nhiều anh em đã thuộc, một là của anh Phùng Tấn Nhật ở tiểu đoàn 3. Bài thơ với tiêu đề: “Đất Vĩnh Linh, đất của hồ tiêu” có câu:“Dốc 6 độ, Bãi Hà, cầu Điện, Bến Quan/ Những địa danh đã đi vào huyền thoại/ Em gái Vĩnh Linh bị thương vai còn vác đạn/ Ngực căng tròn đẹp mãi tuổi hai mươi”… Hai là bài thơ của anh Đặng Thành Văn đại đội 2 ca ngợi về tình yêu và cảnh đẹp của Vĩnh Linh có các câu rất như: “Em ơi em có biết?/ Tim hồng anh đang sôi/ Những chiều hè mây trôi/ Dải Trường Sơn hùng vĩ/ Anh lên đường chống Mỹ/ Em ở lại hậu phương/ Càng xa càng nhớ thương/ Càng yêu em da diết”… (Anh Phùng Tấn Nhật sau khi xuất ngũ làm việc trong ngành điện lực, hiện đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Anh Đặng Thành Văn sau mấy chục năm quân ngũ, hết tham gia chiến dịch giải phóng Miền Nam, làm quân quản rồi chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ Quốc tế tại Campuchia rồi được điều ra Hà Giang tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Hiện anh đang sống tại thành phố Thái Bình, là chi hội trưởng Chi hội Văn học, Hội Văn học nghệ thuất Thái Bình).
Việc chuẩn bị đón xuân, ăn tết cầu kỳ như vậy, nhưng đúng sáng mùng ba tết tất cả các bàn thờ Tổ quốc trong từng nhà phải thu đi để đơn vị trở lại công việc học tập, huấn luyện bình thường. Có tiểu đội lưu luyến không muốn dọn, nhưng đại đội cương quyết lệnh phải thu dọn, mục đích để anh em không lưu luyến gì tết nữa mà tập trung vào học tập, huấn luyện.
Thế là những ngày vui xuân, ăn tết qua đi rất nhanh, vả lại ở đây khí hậu thời tiết không có cái lạnh, không mưa xuân như ở ngoài Bắc, nên cảm giác ngày tết thật sự không còn, thay vào đó là gió, là nắng, cái nắng gió Lào thật kinh khủng. Mồ hôi chúng tôi lại tuôn đổ trên thao trường hàng ngày luyện binh cùng với những bài học chính trị khô khốc. Song tuổi trẻ và kỷ luật quân đội làm chúng tôi luôn tập trung rèn luyện và tăng gia sản xuất đạt các chỉ tiêu thi đua được giao. Qua quá trình rèn luyện, thử thách, cùng ba lần làm đơn, làm lý lịch, vinh dự cho tôi đã được Đảng ủy tiểu đoàn chuẩn y kết nạp Đảng. Ngày 1 tháng 5 năm 1974, chi bộ đại đội 3 tổ chức kết nạp Đảng cho tôi cùng đồng chí Ngô Duy Phơn trung đội 2 được. (Đồng chí Ngô Duy Phơn sau chiến đấu và hy sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1977). Thời gian đảng viên dự bị của tôi là 9 tháng còn của đồng chí Phơn là 12 tháng, vì tôi là thành phần công nhân. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là vinh dự lớn lao của tất cả mọi người. Thời đó đi thoát ly, đi học hay đi bộ đội hầu như tất cả mọi người đều dặn dò, đều chúc là phải phấn đấu để trở thành Đảng viên. Trong lời thề hôm kết nạp, tôi và anh Phơn đều hứa sẽ trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh cho mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vâng tôi đã hứa với mọi người, với bố, với mẹ là con sẽ phấn đấu, và hôm nay con đã được kết nạp vào Đảng, thật vinh dự, tự hào, trong lòng tôi trào lên một niềm vui khó tả. Tôi viết thư về báo với gia đình biết niềm vui to lớn này.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:29:39 am

          Như vậy sau 2 năm nhập ngũ, tôi đã được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng cũng là thuộc diện phấn đấu trở thành Đảng viên sớm. Song hôm trước, đọc bản tin của trung đoàn có bài viết ca ngợi mấy đồng đội bên tiểu đoàn 2 cùng xã Đông Huy, Đông Hưng, cùng họ Hoàng có nhiều thành tích phấn đấu và đã được kết nạp Đảng từ năm 1973 đó là các anh Hoàng Thế Tuấn, Hoàng Quốc Lập, Hoàng Ngọc Phong. Cả 3 anh em đều có nhiều thành tích trong hành quân, trong học tập và huấn luyện. Anh Tuấn và anh Phong được điều lên làm bảo mật trung đoàn. Còn anh Hoàng Quốc lập khi đi chiến đấu được giữ chức trung đội trưởng khi mới có 19 tuổi. Sau ngày giải phóng anh Tuấn được đi học lớp sỹ quan chính trị rồi về quân chủng Hải quân. Qua nhiều chức vụ anh nghỉ hưu với quân hàm đại tá tại Hải Phòng. Anh Hoàng Trọng Phong sau ngày đất nước thống nhất được đi du học tại Liên Xô ngành kinh tế , với thành tích là bằng đỏ học vị tiến sỹ, học hàm là phó giáo sư. Anh về làm vụ trưởng một vụ quan trọng tại Bộ kế hoạch, rồi làm phó Viện trưởng Viện quy hoạch chiến lược của Bộ kế hoạch đầu tư. Hiện nghỉ hưu sống tại Hà Nội.
 Anh Hoàng Quốc Lập vào bộ đội mới 17 tuổi, khi đi chiến dịch Hồ Chí Minh là là lớp cán bộ trung đội trưởng trẻ nhất. Năm 1977 tiếp tục tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nghĩa vụ Quốc tế. Sau bị thương mấy lần được xuất ngũ theo chế độ bệnh binh, thương binh. Về địa phương anh thành lập công ty xây dựng 27 tháng 7 trong lĩnh vực xậy dựng rất thành công. Hiện anh có nhà máy nước cung cấp nước sạch cho các xã và làm Hội trưởng Hội nước sạch tỉnh Thái Bình. Vì nhiều thành tích trong xây dựng phát triển kinh tế. Năm 2012 và 2017, hai lần anh được vinh dự đi Hội nghị biểu dương người có công với Cánh mạng tiêu biểu toàn quốc. Được gặp các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà Nước .
Việc học tập huấn luyện ngày một căng. Thi thoảng cũng có ngày chủ nhật được nghỉ nhưng phải kết hợp khi thì đi lấy gạo, khi thì đi lấy củi cho nhà bếp, tiêu chuẩn phải nộp là 30 ki-lô-gam. Mà lấy được lượng củi ấy phải vào mãi trong rừng xa 15 - 20 ki-lô-mét qua trưa mới về đến đơn vị. Song do phẩn đấu thành tích nên tôi và nhiều người thường lấy tới 40-50 ki-lô-gam. Chiều vẫn phải tập trung tưới cây, tăng gia đảm bảo chỉ tiêu rau xanh. Nên mang tiếng là ngày chủ nhật nghỉ, nhưng thực tế là chỉ được nghỉ khoảng 3 tiếng. Tối vẫn họp tổ ba người, họp tiểu đội, kiểm điểm và chuẩn bị tổng hợp tin phát vào lúc 21 giờ.
Là sư đoàn đứng đầu giới tuyến, với quyết tâm xây dựng đơn vị chính quy hiện đại. Ý định của Bộ, của Quân khu là xây dựng sư đoàn 341 là sư đoàn cơ động thiện chiến, nên Quân khu và Bộ đã cử rất nhiều đoàn công tác, trợ lý của sư đoàn, của Quân khu, cả các đoàn nhà báo quân đội về theo dõi giúp đỡ xây dựng đơn vị kiểu mẫu làm gương cho toàn quân học tập. Qua những cuộc thi, những lần kiểm tra, đại đội 2 tiểu đoàn 1 luôn là đơn vị có thành tích cao nhất. Các cán bộ đại đội 2 như đồng chí Đặng Văn Lợi quê Thái Bình, đã đeo quân hàm chuẩn úy được 7 năm. Đôi quân hiệu trên ve áo chuẩn úy màu đỏ thắm, theo thời gian không còn thẫm nữa mà trở nên đen xỉn, cái gạch bạc chuẩn úy cũng vậy. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Tiến, thiếu úy, quê thị xã Hà Tĩnh cũng đã có nhiều thâm niên làm cán bộ đại đội, rất nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức huấn luyện. Sư đoàn, trung đoàn đã chọn đại đội 2 để xây dựng điển hình về mọi mặt. Các sỹ quan phái viên của Bộ vào giám sát cũng nhất trí như vậy. Sau khi đại đội 2 được chọn để xây dựng đại đội kiểu mẫu thì khí thế của đại đội, của tiểu đoàn, trung đoàn sôi động hẳn lên. Các đoàn phóng viên, các trợ lý của Bộ, của Quân khu, của sư đoàn kéo về ăn nghỉ tại đại đội để giúp đỡ chỉ đạo về mọi mặt. Qua bình chọn, đại đội 2 Sông Lam đạt danh hiệu Đại đội Quyết Thắng. Hàng ngày trong các báo của Quân đội, của Quân khu và cả báo Nhân dân cùng rất nhiều báo chí địa phương đều đưa tin về đại đội 2 Sông Lam là tấm gương xây dựng đại đội cho toàn quân. (Sau này khi vào miền Nam chiến đấu trong Chiến dịch mùa xuân năm 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Với nhiều thành tích xuất sắc, đại đội 2 đã được Đảng, Nhà nước và Quốc hội phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tại biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ Quốc tế tại Campuchia, đại đội 2 cũng lập được nhiều chiến công và đã có hai đồng chí Nguyễn Sông Thao, Ngô Khắc Quyền đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang).
Khoảng tháng 10 năm 1973, mùa mưa đến. Mưa, mưa thật nhiều, việc luyện tập vất vả thêm rất nhiều. Khổ nhất là những ngày học tập về chiến thuật: “Bao vây tiến công liên tục đánh quân địch đổ bộ đường không”. Tình huống là quân Việt Nam Cộng hòa liều lĩnh đổ bộ bằng đường biển và đường không chiếm lĩnh những cao điểm quan trọng tại khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình. Đơn vị phải hành quân chiến đấu dã ngoại. Trời mưa dầm dề nên việc đào hầm rất khổ, vì chỉ cần đào xuống sâu khoảng gang tay là nước đã ứa ra ngập chỗ đào. Nhiệm vụ thực binh phải như trong chiến đấu, hầm hố phải sâu đạt từ 70 cm đến 1 mét. Thế là cứ phải vừa đào vừa múc nước ra. Tối cũng ngủ dưới hầm, cũng phải thay nhau múc nước. Có lần đến phiên tôi ngủ, sáng mở mắt ra ngước nhìn lên tán lá, eo ơi rắn. Không phải một con mà là hai con rắn lục đang cuộn bám đu trong vòm lá thấp ngay trên đầu tôi. Nghe nói loại rắn này rất độc nhưng ban ngày thì mắt nó kém. Rắn lục nên thân của nó màu xanh lẫn vào lá cây rất khó phát hiện. Như vậy là cả chiều và đêm qua hai anh em tôi nằm dưới tổ rắn lục mà không biết, thật hú hồn.
Quần áo đi diễn tập chỉ có hai bộ, không có chỗ giặt giũ phơi phong. Anh em phải mặc quần áo ướt cả ngày. Thế là các bệnh hắc lào, ghẻ ngứa được dịp lây lan phát triển. Hầu như không người nào là không mắc phải. Thứ bệnh ngoài da ấy nó không đau đớn, không làm chết người nhưng lại gây khó chịu vô cùng. Sau đợt diễn tập về doanh trại lại phát hiện thêm một loại ký sinh đáng ghét nữa đó là rệp. Những con rệp bình thường thì mỏng dính như cái vẩy ốc nhỏ, nhưng khi nó đã hút no máu thì bụng phình tròn ra. Khi nó cắm vòi vào da hút máu thì không đau nhưng khi no máu nó rút vòi ra thấy đau nhói một cái mà không thể phát hiện được nó, vì nó đã chạy biệt đi rất nhanh, chui vào ép mình trong các lạch giường. Có nhiều con khi đốt xong lại leo lên giấu mình ở các góc màn. Có sáng dậy kiểm tra các góc màn đã có hàng chục con với cái bụng to kềnh đầy máu. Các vết châm chích của nó làm da thịt bị lở, bị sẹo rất khó chịu. Việc tiêu diệt loại ký sinh này lại rất phức tạp. Anh em dùng nước sôi dội, bôi dầu luyn hoặc mang phơi nắng cũng không tiêu diệt hết được chúng nó. Đúng như dân gian có câu: “Khôn như rệp, sống dai như rệp” thật chẳng sai tý nào.
Cũng mùa mưa năm ấy, đại đội 18 thông tin, đại đội 20 trinh sát tại xã Vĩnh Long còn bị nước lũ dâng cao ngập nhà, đêm anh em phải leo lên tận nóc nhà tránh lũ. Một bài học là không tường địa lý không hiểu lòng dân là như vậy. Vì khi chọn được bãi đất đẹp bằng phẳng cạnh con suối nhỏ, dân địa phương thấy vậy đến chơi và cảnh báo là: Các chú làm nhà ở đây nếu có lũ là ngập hết đấy. Anh em nghe thấy vô lý vì con suối bé tẹo lội qua được, lấy đâu ra nước mà ngập nhà. Thế rồi sự việc xẩy ra đúng như dân nói. Bộ đội thì chạy kịp nhưng kho gạo và lợn gà thì đâu có chạy được. Hết lũ, các đại đội khác trong trung đoàn phải chia sẻ gạo ngâm nước về ăn chua như mẻ và đổi gạo tốt cho anh em.
Mưa thì dầm dề như vậy, ở rừng ở đồi thì khổ sở vô cùng. Nhưng những ngày nắng mà học chiến thuật phải leo lên đánh địch trên những đồi cát trắng ven biển thì lại là cái khổ khác. Đồi tiếp đồi, cát ở đâu mà nhiều thế. Đi trên đồi cát ở đây cảm giác như đi trên sa mạc rộng lớn trong truyện, trong các bộ phim. Mỗi bước đi phải bước cố vì cát lún làm chân nặng như đeo chì. Cát trắng phau phản chiếu ánh mặt trời làm cho bị lóa mắt, tạo thành ảo giác có khi không xác định được phương hướng. Có một vài đồng đội choáng ngã, thế là những người khỏe lại phải tập trung khiêng, hay dìu anh em đi, mang súng đạn giúp. Tất cả những đồi cát ven biển ở đây đều đã in dấu chân chúng tôi, những người lính sư đoàn 341 luyện quân đánh giặc.
Sau đợt diễn tập thực binh: “bao vậy tiến công liên tục, đánh quân đổ bộ đường không đường biển”. Các đơn vị về lại doanh trại, bước vào đợt học tập chính trị sâu rộng. Lần học này, giảng viên không phải là cán bộ chính trị đại đội mà là các trợ lý chính trị của trung đoàn, sư đoàn về giảng. Ngoài các nội dung về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới và nhiệm vụ của cán bộ chiến sỹ sư đoàn. Các cán bộ chiến sỹ còn được học sâu về chủ nghĩa Mác-Lênin cùng một số bài về triết học. Theo như các đồng chí giảng viên nói thì chưa có đơn vị nào được học về chính trị sâu như vậy. Cái thuật ngữ “xem xét” của bài học luôn được lính ta dùng mọi lúc mọi nơi, nó trở thành câu cửa miệng của mỗi người. Hễ ai nói, ai hỏi nhau cái gì, hoặc mượn nhau xin nhau cái gì, thì đầu tiên vẫn nhận được câu trả lời là: Để xem xét cái đã. Những buổi thảo luận chính trị của từng tiểu đội, từng trung đội cũng rất sôi nổi. Môn triết học như: vật chất - ý thức, mệnh đề: “Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất sinh ra và quyết định ý thức”, hay “thời thế tạo ra anh hùng hay anh hùng tạo ra thời thế” và nhiều vấn đề khác nữa như chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội “ai thắng ai” v.v… đều được thảo luận tranh cãi, đôi khi khi không có hồi kết.
Hết đợt học tập chính trị nâng cao nhận thức của bộ đội, chúng tôi còn được học một khóa võ thuật do các giáo viên của Quân khu về huấn luyện. Học chính trị thì nhàn nhã vì được học, được thảo luận trong nhà, nhưng mọi người lại không thích mà khi học võ thuật rất vất vả thậm chí là ngã, là bị đấm, bị đánh rất đau nhưng bộ đội lại rất thích. Hóa ra học võ trước tiên là tập ngã, hay nói đúng hơn là ngã phải đúng kỹ thuật, cho dù là bị ngã bất ngờ cũng không thể để bị đập đầu xuống đất, mà sẵn sàng phản đòn lại đối phương. Có bốn tư thế ngã là ngã sấp, ngã ngửa và ngã nghiêng sang phải, nghiêng sang trái. Với những động tác ngã này thì được tập ở khắp mọi nơi. Sau khi được giáo viên giảng và hướng dẫn cách ngã, mọi người đứng một hàng ngang tập ngã sấp trước. Tiểu đội trưởng đi đằng sau bất ngờ nắm chặt hai cổ chân giật mạnh, ai mà không được rèn luyện thì khi bị đối phương giật như thế sẽ bị ngã sấp, đập mặt xuống đất. Nhưng theo kỹ thuật thì phản xạ phải nhanh, dùng hai tay lên gân và chém mạnh xuống, đỡ cho thân và đầu không bị đập, gây chấn thương. Với bài tập ngã này mà mấy lần trong đơn vị anh em đùa quá chớn dẫn đến va chạm,  vì đang đứng chơi thì bị giật chân. Cũng có anh kịp đỡ đúng kỹ thuật, nhưng cũng có người ngã không đúng bị đau, thế là ầm ĩ cãi vã, thậm chí nhảy xổ vào đấm nhau. Sau những bài tập ngã là những miếng đánh, miếng đỡ trong thực chiến. Mới đầu tập đánh, tập đỡ, tập ngã người ngợm tay chân đau nhừ. Nhưng sau gần một tháng học tập, tự rèn luyện thể lực, nên tính nhanh nhậy phản xạ, sức khỏe của bộ đội nâng lên. Nhiều anh em say mê tập, bất cứ ở đâu cũng thấy đập cánh tay vào thân cây hay thân cột cho tay chắc khỏe, chịu va đập, chân tay chỗ nào cũng bị thâm bầm. Sau một thời gian luyện tập, khi va chạm không còn bị đau nữa, công lực tăng lên đáng kể.


                                                      XII

Khoảng cuối năm 1974, Quân Khu Bốn có kế hoạch tổ chức hội thao toàn quân. Được thông báo đây là lần hội thao Quân khu lớn nhất từ trước đến giờ. Hội thao, tức là thi kiểm tra tất cả các môn từ đội ngũ đến trật tự nội vụ và thi bắn đạn thật các loại vũ khí. Sư đoàn 341 có kế hoạch chọn và cử đại đội 2 đi dự thi. Từ quyết định này, toàn sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn có nhiệm vụ giúp đỡ đại đội 2, xây dựng đại đội 2 giỏi toàn diện, quyết tâm giành cờ đầu hội thi. Trước hết là quân số được lựa chọn tăng cường một số chiến sỹ từ các đại đội khác sang với tiêu chí không chỉ giỏi về chuyên môn xạ kích và ý thức kỷ luật tổ chức, mà còn phải chọn người có chiều cao để xếp đội ngũ cho cân đối, đẹp đội hình. Tôi cũng thuộc diện được cử biên chế vào tiểu đội súng cối 61 ly, trực tiếp làm xạ thủ số 1. Nếu thi bắn đạn thật thì đồng chí Vân, tiểu đội trưởng trực tiếp làm khẩu đội trưởng.
Xạ thủ số 2, số 3 cũng là những đồng chí được chọn lựa kỹ càng. Ngoài việc học tập về xạ kích súng cối, vất vả nhất vẫn là tập về điều lệnh đội ngũ. Tập diễu hành vừa đi vừa hát theo nhạc bài hát Tiến quân ca rồi đi nghiêm chào chỉ huy trên lễ đài. Vất vả, mệt mỏi vô cùng, nên đại đội trong giai đoạn này được ưu tiên không phải ăn độn, không bị cắt lương thực tiết kiệm như các đơn vị khác. Các loại nhu yếu phẩm cũng được ưu tiên cao hơn. Việc tập luyện thật hăng say, luôn hừng hực khí thế của đơn vị chính quy hiện đại đứng đầu nơi chiến tuyến.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:33:08 am

           Khoảng đầu tháng 12 năm 1974, đại đội được lệnh lên đường tham dự hội thi. Địa điểm hội thi là Trường hạ sỹ quan Quân khu Đồng Nông thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An. Trước khi lên đường, sư đoàn cấp phát cho mỗi chiến sỹ một bộ quân phục dài tay, một đôi giầy và mũ cối mới. Trên ngực trái quân phục, 100% cán bộ chiến sỹ phải thêu phiên hiệu bằng chỉ trắng là SL 2/1. SL là chữ viết tắt của sư đoàn 341 mật danh là Sông Lam, số 2/1 là ký hiệu đại đội 2, trung đoàn 273 hay gọi là trung đoàn 1. Trên vành mũ bên ngoài được dán một khẩu hiệu “bướm” với nội dung: “Đại đội 2 Sông Lam quyết tâm giành lá cờ đầu trong hội thao Quân khu”.
Đầu tháng 12 năm 1974, toàn đại đội được bốn xe ô tô Hồng Hà của sư đoàn đưa về Quân khu. Các cán bộ của tiểu đoàn, trung đoàn và các đồng chí trợ lý sư đoàn tập trung động viên, tiễn chân đại đội 2 với những lời dặn dò, cùng câu chúc giành giải cao nhất. Đúng 8 giờ đoàn quân lên đường trong khí thế hừng hực của những người lính đơn vị Quyết thắng. Bụi đất đỏ cuộn bay sau bánh xe. Ai cũng háo hức vui trong trang phục quần áo, mũ giầy mới tinh thật hào hùng, trong mỗi người lính còn thêm niềm vui nữa là hy vọng dịp này ra Quân khu dự thi đạt thành tích cao sẽ được thưởng phép về thăm gia đình, vì thời gian này là cuối năm 1974, đã hơn hai năm nhập ngũ chưa được về thăm nhà, nên niềm vui trong mỗi người tăng lên gấp bội.
 Xe chạy ra đường 1 rồi rẽ trái ra Bắc. Đường tốt, xe băng băng ngược với hướng đường của các đoàn xe chở đầy hàng hóa chi viện cho chiến trường. Càng đi, cảm giác cuộc sống của dân mình sau một năm hòa bình sôi động hẳn lên. Những ngôi nhà mới mọc lên nhiều, những hàng quán, biển hiệu hấp dẫn cho thấy cuộc sống sau chiến tranh đang được hồi sinh. Bên trái xa xa là dãy Trường Sơn đen sẫm, còn bên phải là những đồi cát trắng, là biển xanh vô tận với những con sóng tung bọt trắng xóa. Những chiếc thuyền đánh cá buồm căng gió lộng, cảm giác tâm hồn bay bổng. Quê hương tôi, đất nước tôi thanh bình, đẹp đến nao lòng.
 Qua đèo Lý Hòa, tới đèo Ngang thì mưa, đang là cuối mùa mưa nên mưa ập xuống đột ngột. Chúng tôi mở ba lô lấy áo mưa ra quàng, im lặng trong suy tư, cái háo hức giảm đi khi mưa to hơn không còn nhìn ngắm được cảnh vật bên đường nữa. Ngồi trong thùng xe không có mui hàng tiếng đồng hồ, gió lớn, xe chạy ngược gió làm ai cũng bị lạnh. Tôi bị lạnh, nhâm nhẩm đau bụng rồi cứ thế tăng lên, tôi lấy dầu cao xoa vào rốn, bôi vào bên trong miệng mà cũng không đỡ. Tôi nói với anh Thảo là tôi đau bụng quá (anh Thảo cũng ở tiểu đội cối của đại đội 1 được điều động sang như tôi. Anh là lớp học sinh miền Nam được ra Bắc học, nhập ngũ cùng đợt với tôi. Anh người to cao quê Quảng Trị, gia đình có truyền thống cách mạng, rất giỏi võ). Anh Thảo nói: Có lẽ đau do ngấm nước, cảm lạnh rồi, Phú đưa tay đây tôi điểm huyệt cho đỡ đau. Anh cầm bàn tay tôi và dùng ngón tay cái bấm mạnh vào khe giữa ngón cái, ngón trỏ của tôi. Anh nói đây là huyệt phong cốc, bấm, day vào đây sẽ cắt cơn đau. Đúng như vậy, cơn đau của tôi dịu xuống ngay, trời mưa lạnh mà tôi có cảm giác nóng bừng, vã mồ hôi ra. (Anh Nguyễn Ngọc Thảo sau này về làm giám đốc bến xe Nam thành phố Huế. Hiện anh đã nghỉ hưu sống tại Huế. Bố đẻ anh Thảo là phó chủ tịch tỉnh Thừa Thiên Huế, gần ngày giải phóng miền Nam thì ông hy sinh. Bà nội anh Thảo được công nhận là Bà mẹ Việt Nam anh hùng).
Buổi trưa, xe tới thị xã Hà Tĩnh, tạt vào nhà dân ở trung tâm thị xã nghỉ ngơi nấu ăn trưa. Xe chở đại đội trưởng Nguyễn Văn Tiến thì chạy thẳng về nhà của gia đình ông ở cuối thị xã. Tiểu đội tôi vào một gia đình nghỉ nhờ, ngôi nhà tranh nhỏ có mấy luống rau cải đằng trước. Anh em dìu tôi vào nhà nói với mạ chủ nhà là tôi bị đau bụng cho nằm nhờ, bà mạ hỏi con đau sao? Tôi nói có lẽ con đau bụng do cảm lạnh. Bà mạ lấy cho tôi cốc nước ấm, cho chút dầu gió vào rồi bảo tôi uống xong nằm trên giường mà nghỉ. Ngôi nhà hai gian nhỏ bên trong có mỗi cái giường. Tôi nằm. Ôi, ngả lưng xuống giường mới êm ái làm sao. Bà mạ kéo chiếc chăn bông vỏ hoa chéo màu đỏ đắp cho tôi cùng cái gối trắng tinh có thêu diềm đăng ten chung quanh, làm tôi cảm giác đầm ấm gần gũi, rạo rực lâng lâng khó tả. Điều thật đơn sơ mà với tôi lúc này thấy cao sang đến thế! Tôi cảm thấy như đang ở quê nhà, mạ đây như mẹ tôi với tình cảm của người mẹ chăm sóc đứa con. Thật cảm động, trong chăn ấm, nước mắt tôi chảy dài, tôi cảm ơn mạ và lơ mơ thiếp đi trong lúc anh em tập trung lo bữa cơm trưa có sự giúp đỡ của mạ. Mạ cắt rau cải ở luống rau trước cửa cho chúng tôi nấu canh với thịt hộp. Mạ nấu cơm và cùng làm đồ ăn với anh em.
Tôi ngủ lơ mơ ngủ nhưng vẫn nghe vọng tiếng trao đổi của mạ với anh em. Rồi tôi thấy có tiếng bước chân nhẹ cùng tiếng con gái hỏi: Ai nằm ở trong ni đấy mạ? Mạ trả lời: Có chú bộ đội bị đau bụng nằm nghỉ trong nớ. Tôi hé mắt nhìn thấy lưng cô gái mặc áo trắng, tóc dài, quần sa tanh đen óng rất đẹp. Chắc đây là giường nằm của cô gái, nên mùi con gải thoang thoảng thơm. Cái mùi thơm đó, cái lưng eo cô gái làm tôi bồn chồn rạo rực khắp người. Tiếng cô gái nhỏ nhẹ nói với mạ: Con đi mua chè xanh nấu nước cho các anh. Tiếng xe đạp lách cách xa dần, lúc sau cô mang về một bó chè xanh, nói mạ nấu nước. Cơm canh đã xong, anh Vân, anh Thảo vào lật chăn lên hỏi: Đã khỏi đau chưa? Dậy ăn cơm thôi, còn lên đường. Tôi nói: Tôi khỏi rồi. Tôi dậy gấp lại chăn, ra rửa mặt. Cô gái múc cho tôi chậu nước, cái chậu sắt tráng men thật quen thuộc, cô nói: Anh rửa mặt đi, khăn mặt của em đó. Một câu nói nhẹ nhàng mà sao ấm áp gần gũi vậy. Tôi cầm cái khăn mặt trắng cô gái đưa cho và nói: Anh cảm ơn em, anh có khăn rồi. Lúc nãy  được nhìn phía sau lưng cô, còn bây giờ được nhìn cô phía trước, một khuôn mặt xinh đẹp dễ thương làm sao! Tôi đưa khăn ấp lên mặt, cái hương thơm là lạ của khăn làm tôi lâng lâng xao xuyến, rạo rực trong lòng. Tôi vắt khăn lên dây và lấy cái khăn xanh của lính ra rửa mặt.
Chúng tôi mời mẹ con cô cùng ăn cơm. Được biết nhà chỉ có hai mạ con, ông bố cũng đang là bộ đội ở chiến trường nhiều năm chưa về, cô là con gái đầu, hiện là giáo viên cấp 1. Nhìn cuộc sống và nếp sinh hoạt của hai mẹ con, ngôi nhà nho nhỏ đơn sơ nghèo nàn nhưng gọn gàng ngăn nắp, chắc lâu rồi không có hơi đàn ông. Bỗng trong tôi bừng lên cảm giác thèm, rất thèm có được cuộc sống trong căn nhà này. Nghỉ ngơi một lúc rồi đến giờ lên đường, bà mạ và cô gái chia tay chúng tôi thật lưu luyến, có phần bịn rịn. Trong lòng tôi tự hứa thế nào cũng có dịp quay lại đây thăm mẹ con cô.
Chúng tôi lên đường, đi tiếp mấy chục ki-lô-mét nữa thì tới phà Vinh. Đợi phà hơi lâu, nhưng xe chở bộ đội nên được ưu tiên qua trước. Thành phố Vinh đây ư? Thành phố Đỏ mà trong bài giảng chính trị thường hay nhắc tới các phong trào đấu tranh cách mạng những năm ba mươi. Từ thành phố này rẽ tay trái mấy chục ki-lô-mét nữa là tới Kim Liên, huyện Nam Đàn, nơi sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta. Nơi ấy, tại chân núi Đại Huệ là nơi thành lập sư đoàn 341. Thành phố ngày cuối năm người xe đi lại tấp nập, mặc dù nhà cửa vẫn đơn sơ nghèo nàn. Những đống đổ nát do máy bay Mỹ đánh phá vẫn còn nguyên đó. Nhưng với chúng tôi cảm nghĩ lúc đó thành phố vẫn là nơi đông đúc dân cư và  rất tuyệt vời.
Chiều tối đoàn chúng tôi đến nơi tập kết. Trường Hạ sỹ quan Đồng Nông thuộc xã Đức Thành, Huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Trường có quy mô rộng lớn, đầy đủ lán trại chính quy. Chúng tôi được nhanh chóng hướng dẫn vào một dãy nhà của học viên. Các học viên đã đi sơ tán trong dân nhường nơi ở cho các đoàn khách Quân khu đến tham dự hội thao. Cơm tối đã được ban tổ chức nhà trường chuẩn bị. Ngày hôm sau mọi người được nghỉ ngơi, làm quen với thao trường, tập đi đều tại khu vực sân vận động đã có khán đài chính. Chúng tôi được nhắc bộ quần áo mới phải giặt ngay, phơi khô để mặc cho ngày hội chính.
Sang ngày thứ ba thì lễ hội chính thức khai mạc. Tất cả các lực lượng quân đội của Quân khu Bốn và các tỉnh đứng xếp hàng ngang trước lễ đài. Trên khán đài có mấy thủ trưởng đeo quân hàm cấp tướng, chắc là phái viên của Bộ vào. Còn tư lệnh trưởng Quân khu Bốn lúc đó là đại tá Giáp Văn Cương. Sau khi tham mưu trưởng Quân khu hô nghiêm rồi chạy lên báo cáo Tư lệnh quân khu và Đoàn chủ tịch, lễ duyệt binh biểu dương lực lượng bắt đầu. Dẫn đầu đoàn diễu hành là các học viên trường Hạ sỹ quan sau đó đến đội hình của đại đội 2 sư đoàn 341, rồi đến lực lượng quân sự của các trung đoàn, sư đoàn và bộ đội địa phương các tỉnh. Khi đội hình của đại đội 2 Sông Lam diễu hành, cả khu vực quảng trường nhộn hẳn lên, tiếng vỗ tay không ngớt vì đội hình những người lính đại đội 2 đi rất đẹp, trong trang phục mới, những bước chân đều tăm tắp, oai phong và hùng dũng.
 Hết một vòng, mỗi đơn vị về vị trí của mình và chính thức vào cuộc thi, bài thi đội ngũ. Tiếng nhạc nền bài ca: “Tiến bước dưới quân kỳ” do đoàn quân nhạc quân khu cử hành vang lên, đại đội trưởng Nguyễn Văn Tiến hô bộ đội bước đều bước vào nhịp bài hát. Bước chân đầu tiên và câu hát đầu tiên vang trong ngực mọi người, ai cũng đi thật đều, vừa đi vừa hát theo thật to: “Vừng đông đã hửng sáng, núi non xanh ngàn trùng xa, Tổ quốc bao la hiền hòa…”. Tổ ba người dẫn đầu đội hình, anh Ngọc cầm quân kỳ giương cao ngả về phía trước đi tiên phong. Tiếp sau là đội hình đại đội đi theo hàng sáu người. Đoàn quân bước rầm rập, rầm rập, thật hùng dũng và uy nghiêm, thể hiện sức mạnh quân đội, sức mạnh của tập thể, đoàn kết gắn bó, kỷ cương chính quy, hiện đại. Đoàn quân đi ngang qua khu vực lễ đài, các tướng lĩnh trên Đoàn chủ tịch đã đứng hết cả lên đáp lễ đoàn quân. Đại đội trưởng Tiến hô to: Đi nghiêm! Toàn bộ hàng quân chuyển sang động tác đi nghiêm, mặt đánh sang lễ đài làm động tác chào Đoàn chủ tịch, tất cả các động tác đều thành thục, chuẩn đẹp. Hết vòng sân, đại đội về vị trí đứng và lần lượt đến các đơn vị khác. Hết buổi sáng cũng là kết thúc môn hội thao đội ngũ, đại đội 2 Sông Lam được đánh giá là đơn vị có số điểm cao nhất dẫn đầu Quân khu.


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:34:37 am

        Những ngày tiếp theo là hội thi tất cả các khoa mục như bắn xạ kích súng AK bài 1, bắn các loại B40, B41, DKZ, súng cối 82 ly và súng cối 61 ly cùng hội thi các môn thể thao bóng bàn, chạy, nhảy cao, nhẩy xa, xà đơn, xà kép cùng các kỹ thuật, thông tin, trinh sát v.v… Sau 5 ngày hội thi, đại đội 2 và sư đoàn 341 đều lập thành tích cao, được ban tổ chức hội thi đánh giá là đơn vị dẫn đầu toàn Quân khu. Với thành tích xuất sắc, ai cũng vui, cũng náo nức tin rằng toàn đại đội sẽ được thưởng phép.
Buổi chiều hôm bế mạc hội thi, đại đội tổ chức họp, chính trị viên Đặng Văn Lợi biểu dương tinh thần và thành tích của toàn đại đội. Ông nói tiếp: Lẽ ra với thành tích đó chúng ta được cấp trên thưởng phép như đã gợi ý trước lúc đi hội thao. Nhưng hiện nay tình hình chiến sự có nhiều biến động. Tại chiến trường miền Nam và cả ba nước Đông Dương, thế lực quân sự đang có lợi cho chúng ta. Khi các đồng chí đang dự thi ở đây thì tại trung đoàn và cả sư đoàn được bổ sung quân số. Mùa xuân là mùa của chiến dịch. Hy vọng mùa xuân năm nay sẽ có nhiều diễn biến quan trọng tại chiến trường, thời cơ lớn đã đến. Vì vậy chúng ta không được đi phép và phải trở về vị trí đứng chân của trung đoàn gấp, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Cả hội trường im lặng, câu nói của chính trị viên vừa rồi như bếp lửa rực cháy bị dội thùng nước lạnh. Mọi người tiu nghỉu cảm thấy hụt hẫng trước sự tiền hậu bất nhất của cấp trên. Quân đội, quân sự thì bao giờ chẳng căng thẳng, chỗ nào, lúc nào mà chẳng có địch. Sau một vài phút im lặng, mọi người ồn hẳn lên có ý phản đối. Nhưng phản đối ai, phản đối sao được khi mà lời chính trị viên đã nói là mệnh lệnh. Mà đại đội 2 là đại đội kiểu mẫu, là đơn vị Quyết thắng. Những chiến sỹ của đại đội, cùng với các đồng chí tăng cường đều là những người ưu tú, kỷ luật rất nghiêm. Buồn, bực nhưng rồi tất cả cũng phải răm rắp thực hiện mệnh lệnh cụ thể của đại đội trưởng. Theo nhiệm vụ, sáng ngày mai, sau khi ăn sáng, đúng 8 giờ sẽ có xe đưa mọi người trở về Vĩnh Linh. Chiều tối hôm sau chúng tôi về tới khu vực đóng quân của đại đội. Hôm tiếp sau được nghỉ buổi sáng, chiều họp kiểm điểm, tổng kết mừng công rồi tối thì những đồng chí tăng cường trở về đơn vị của mình. Tôi, anh Ngọc cùng mấy anh em về lại đại đội 3 của tôi tiếp tục công việc học tập huấn luyện.


                                                    XIII

Hai ngày sau có lệnh toàn trung đoàn đi làm nhiệm vụ mở đường tại phía Tây tỉnh Quảng Bình. Sau một ngày chuẩn bị, chúng tôi hành quân dọc theo đường tầu rồi rẽ lên phía Tây nơi cần mở gấp con đường chiến lược. Tối muộn, chúng tôi hành quân tới nơi và lại được phổ biến trong hai ngày phải làm xong lán trại tạm, vì thời gian mở đường làm nhiệm vụ ở đây không dài như lần trước. Lúc này đã là những ngày cuối năm 1974. Mùa đông, cũng là cuối mùa mưa, mưa không lớn nhưng dai dẳng cả ngày. Mùa đông ở vùng rừng núi nên tối và đêm rất lạnh. Lần này chúng tôi không làm nhiệm vụ phá đá như lần trước, mà phát cây san đồi mở tuyến mới. Mưa ẩm ướt suốt ngày, phải khoác áo mưa để san đường, đào bới đồi đất, làm những cái gạt để một người giữ gạt hai người kéo đất giống như người đi bừa, chỉ không có trâu bò mà là sức lính kéo. Quần áo ẩm ướt cả ngày rất khó chịu. Ai cũng chỉ có hai bộ, mà dầm mưa liên tục nên có lúc nào được mặc quần áo khô đâu. Rau xanh thì rất hiếm. Có hôm anh Đôi nhìn thấy dưới khe núi có mấy bắp hoa chuối nhỏ bèn lần mò xuống lấy. Nhìn khóm chuối thì gần, nhưng lần mò mãi mới xuống tới nơi người nọ kéo người kia gần cả tiếng đồng hồ mới lấy được ba cái bắp hoa chuối rừng nhỏ như hai tay úp lại. Cây gai kéo toạc da, rách cả quần áo, sau khi cởi quần áo ra thì mới thấy hàng chục con vắt bám vào người, con nào con ấy đã căng mọng máu.
Lao động vất vả nhưng được cái cơm ăn thì không bị đói, vì hồi này bộ đội được ăn loại gạo gọi là gạo “đồ”. Hình như gạo này được nhập từ Ấn Độ. Họ đã qua chế biến thế nào đó mà thổi nấu xong hột gạo nở to, khô không khốc, rất dôi cơm. Làm nhiệm vụ được khoảng 15 ngày con đường mới hình thành chưa xong hẳn, thì chúng tôi lại được lệnh trở về ngay đơn vị nhận nhiệm vụ mới. Thế là mọi công cụ, lán trại vứt bỏ lại, chúng tôi hành quân về Vĩnh Linh. Mọi người rất vui vì thoát cảnh mưa gió ẩm ướt khổ cực của công việc mở đường, háo hức trở về đơn vị cùng với những đồn đoán tò mò của nhiệm vụ mới.
Về tới Vinh Linh được nghỉ ngơi một ngày thì biết chuyện đau lòng xẩy ra tại đại đội 4 là việc đồng chí chuẩn úy Giang Văn Long người dân tộc Thái đại đội phó cùng mấy đồng chí coi cứ ở nhà. Anh sang chơi với bạn là đơn vị xe của đường dây 559 bên cạnh, chuyện trò mâu thuẫn sao đó với đơn vị bạn. Anh về vào kho súng, hút hết cả bao thuốc lá rồi tự sát.
Sang ngày thứ 2 thì toàn đơn vị sôi động hẳn lên khi tân binh từ Nghệ An, Hà Tĩnh ùn ùn bổ sung về. Lớp tân binh trực tiếp do sư đoàn tuyển quân tại Quảng Bình cũng huấn luyện xong, biên chế về các đơn vị. Đợt tân binh này chất lượng rất cao, đa phần là các em đã tốt nghiệp cấp 3, trông ai cũng đẹp đẽ, tươi trẻ. Mỗi đại đội bộ binh được tăng cường đủ biên chế đại đội bộ binh có quân số từ 110 đến 115 người. Đại đội hỏa lực trợ chiến là 120 người. Tiểu đội tôi được bổ sung 3 tân binh là Sơn, Biểu, Điếng. Điếng và Sơn là học sinh mới tốt nghiệp cấp 3 quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, còn Biểu lớn tuổi hơn quê Nghi Xuân. Một số anh em là lớp lính 1972 trên các đại đội trực thuộc, một số anh em là các đơn vị của khu đội Vĩnh Linh cũng được bổ súng về các đại đội bộ binh. Lớp lính mới nhanh chóng được trang bị súng đạn cùng các trang thiết bị. Lớp lính cũ được lệnh nhanh chóng trau dồi nghiệp vụ, kiến thức về quân sự cho anh em tân binh. Tân binh phải nhanh chóng làm quen và học tập để có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu. Một đợt thi đua rèn luyện, học tập đạt chất lượng cao diễn ra sôi động. Chiến sỹ cũ kèm cặp chiến sỹ mới, người biết hướng dẫn người chưa biết. Cán bộ đại đội, trung đội cũng có những thay đổi. Trung úy Hồng về thay cho đại đội trưởng Nghẹ. Thiếu úy Sáu được điều lên làm trợ lý tác chiến trung đoàn. Thiếu úy Nguyễn Văn Nhung mới học ở trường sỹ quan Lục quân về làm đại đội phó. Anh Nguyễn Văn Va học tại trường sỹ quan Lục quân về làm trung đội trưởng. Anh Nguyễn Văn Tuyển được điều về thay anh Lẫm làm chính trị viên trưởng đại đội. Các cán bộ trung đội cũng được điều động thay mới hết.
 Lúc này lại sắp đến tết âm lịch, khí thế đón xuân, huấn luyện cùng với tin phong thanh sư đoàn sẽ đi B, vào Nam chiến đấu. Được thông báo ở miền Nam, ta đã tiến công và giải phóng tỉnh lỵ Phước Long. Tỉnh đầu tiên tại miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Tin chiến thắng từ miền Nam càng làm cho khí thế trong đơn vị hừng hực sôi động. Rồi cao trào hơn nữa là đơn vị được thông báo: Sư đoàn được nâng cấp chế độ sinh hoạt từ sáu hào tám một ngày sang chế độ bồi dưỡng đi B, chế độ cao gấp ba lần chế độ đang được hưởng. Lương thực cũng được tăng tiêu chuẩn, không phải tiết kiệm, không phải ăn độn khoai, sắn nữa. Doanh trại nào cũng song hành những khẩu hiệu mừng đón xuân mới và khẩu hiệu thể hiện ý chí quyết tâm học tập huấn luyện sẵn sàng vào Nam chiến đấu như: “Quyết tâm xây dựng đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến, chính quy hiện đại”, hay: “Quyết tâm học tập và bắn đạn thật đạt thành tích 100% khá giỏi”. Sau khoảng 20 ngày gấp rút huấn luyện, toàn sư đoàn lại tổ chức bắn đạn thật bài 1 và bài 2. Các loại vũ khí hỏa lực cũng được bắn đạn thật cho 100% người sử dụng súng. Trường bắn đạn thật tại dãy núi Thụy Ve của huyện Lệ Thủy. Còn trận địa bắn đạn thật súng cối tại cao điểm 74 thuộc xã Vĩnh Thủy, Vĩnh Linh. Đây là trái núi độc lập, cao điểm này rất lợi về mặt quân sự cho ta. Giữa vùng đất phẳng cấy lúa lại trồi lên trái núi cao ngay sát quốc lộ 1. Trong những năm chiến tranh, nơi đây như là vọng gác tiền tiêu của quân ta. Leo lên đỉnh núi là có thể nhìn thẳng sang bên bờ Nam của cầu Hiền Lương và sâu hơn là cứ điểm quân sự Cồn Tiên, Dốc Miếu, nơi mà Mỹ và quân Việt Nam Cộng hòa xây dựng hàng rào điện tử Macnamara. Chính vì địa thế quan trọng, lợi hại này cùng với các đài quan sát của ta mà những năm qua nơi đây chịu đựng không biết bao nhiêu bom đạn từ máy bay, từ pháo địch ở Cồn Tiên, Dốc Miếu bắn sang, cả các loại pháo giàn từ hạm đội 7 của Hải quân Mỹ từ biển bắn vào. Nhưng các trạm thông tin, các đài quan sát của ta vẫn đứng vững, đã góp phần quan trọng cho pháo binh ta tiêu diệt căn cứ quân sự và hàng rào điện tử Cồn Tiên, Dốc Miếu, khiến cho quân đội Việt Nam Cộng hòa thất bại thảm hại, phải rút khỏi các căn cứ này.
 Tiểu đội tôi tách khỏi đại đội, hành quân đến xã Vĩnh Thủy để kiểm tra bắn đạn thật súng cối. Đây là thao trường để bắn các loại cối 61 ly và 82 ly của toàn trung đoàn. Trên đường hành quân tới Vĩnh Thủy tôi có dịp nói chuyện nhiều với anh em tân binh. Như đã nói, học vấn của anh em nói chung là cao, ý thức vững vàng, vì các em đều sinh ra, lớn lên ở các địa phương có truyền thống cách mạng, truyền thống ham học. Đặc biệt trong nhóm tân binh có Đậu Thanh Sơn, trình độ hiểu biết rộng hơn. Ngoài khả năng kẻ vẽ, Sơn còn có khiếu làm thơ, viết chữ đẹp và say mê văn học. Những tác phẩm văn học trong nước, văn học nước ngoài tôi đã từng đọc thì Sơn cũng đều biết và có thể đọc lại một đoạn văn trong những tác phẩm đó. Hai anh em nhanh chóng thân tình và quý mến nhau bởi hợp gu về tính cách, về văn chương. Qua kiểm tra bắn đạn thật, tiểu đội tôi đạt loại giỏi.
Ngày tết đến thật vui, cái vui của ngày xuân, ngày tết cùng cái vui đơn vị được bổ sung quân số đông đủ. Thêm cái vui nữa là đơn vị đang được hưởng chế độ an dưỡng đi B, thực phẩm rất dồi dào. Hàng ngày đều có hội đồng quân nhân kết hợp với quản lý bàn bạc thực đơn bữa ăn. Ngày nào cũng có tiếng lợn kêu. Các trung đội, tiểu đội lại thường xuyên tăng gia cải thiện. Đàn gà, đàn ngan đã lớn và được lính ta “hóa kiếp” liên tục, thậm chí cứ hai người giết hẳn một con. Tôi và anh Đôi cũng nuôi được mấy con gà, hai anh em quyết định giết một con thưởng thức. Còn nhớ, mỗi người cầm cả cái đùi gà gặm ăn. Anh Đôi còn tinh nghịch cởi dây màn buộc treo cái đùi gà lên rồi nằm ngửa trên giường gặm đùi gà, anh nói: Phải ăn đúng như Trần Sùng (nhân vật sỹ quan Việt Nam Cộng hòa trong bộ phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” mà chúng tôi mới được xem). Anh nói thêm: Ăn thế này, vào Nam chiến đấu có chết cũng thỏa mãn. Các đoàn văn công Tổng cục chính trị, văn công Quân khu và đoàn phim cũng liên tục về chiếu động viên tinh thần bộ đội. Buổi tối, các chi đoàn và liên chi đoàn tổ chức vui liên hoan văn nghệ, mời chi đoàn địa phương cùng dự. Vẫn vui và sôi động nhất là màn văn nghệ “hái hoa dân chủ” cùng những phát biểu cảm tưởng quyết tâm đi chiến đấu của mọi người. Trong đại đội có đồng chí Nguyễn Duy Phúc quê ở Can Lộc,  Hà Tĩnh cũng là lớp lính 1872 ở Khu đội Vĩnh Lĩn chuyển về anh rất có khẩu khiểu. Anh hát hay và giả giọng của các loại con thú như gà kêu, chó sủa, hổ gầm, giả tiếng xe ô tô, tiếng còi tầu cùng hát được hai giọng gái-trai rất hấp dẫn làm cho buổi vui văn nghệ sôi động hẳn lên. (Sau này đi chiến đấu anh hy sinh ngày 27 tháng 4 năm 1975 trong trận đơn vị tiến công yếu khu Trảng Bom mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh)


Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:36:25 am

         Trong lúc toàn sư đoàn đang vui tết thì Bộ tư lệnh sư đoàn ra Bộ quốc phòng nhận nhiệm vụ. Qua đó, sư đoàn 341, Quân khu 4 chính thức đi B với tinh thần của nhiệm vụ là: “Đi sâu, đi lâu, đi xa, đi đến ngày toàn thắng”.
Mùa xuân năm 1975, trước diễn biến có lợi cho chúng ta tại chiến trường miền Nam, Quân ủy Trung ương và Bộ quốc phòng đã quyết định tung sư đoàn 341 vào tham chiến tại chiến trường miền Đông Nam bộ. Sau khi Bộ tư lệnh sư đoàn nhận nhiệm vụ trở về, những cuộc họp của các cấp liên tiếp diễn ra để lĩnh hội tinh thần đi chiến đấu. Trước hết là các tổ chức chỉ huy được kiện toàn lại, từ cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn, cho đến cán bộ đại đội, trung đội, tiểu đội.
 Bộ khung cán bộ chỉ huy trung đoàn mới gồm Chính ủy trung đoàn là thiếu tá Nguyễn Ngọc Mậu, trung đoàn trưởng là đại úy Nguyễn Trung Trực được điều từ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 lên. Trung đoàn phó là đại úy Nguyễn Văn Giáp được điều từ nơi khác về. Ba đồng chí: thượng úy Chu Đức Hùng, Nguyễn Văn Phú, Kiều Hữu Lương, ở học viện quân sự được điều về làm tiểu đoàn trưởng ba tiểu đoàn bộ binh. Anh Chu Đức Hùng làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1. Trung úy Nguyễn Minh Tân trợ lý tác chiến trung đoàn làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1. Chuẩn úy Đặng Văn Lợi chính trị viên đại đội 2 được điều lên làm chính trị viên trưởng tiểu đoàn 1. Anh Nguyễn Kim Mận chính trị viên đại đội 20 trinh sát được điều về làm chính trị viên phó tiểu đoàn. Tiểu đoàn 2 gồm thượng úy Nguyễn Văn Phú làm tiểu đoàn trưởng, trung úy Đặng Văn Tố làm chính trị viên trưởng tiểu đoàn. Tiểu đoàn 3 gồm thượng úy Kiều Hữu Lương làm tiểu đoàn trưởng, thượng úy Nguyễn Kim Tiến làm chính trị viên trưởng. Cán bộ đại đội 3 của tôi gồm thiếu úy Quách Thanh Tiễn chính trị viên trưởng. Thượng sỹ Nguyễn Văn Viện lớp lính 1972 bên đại đội 1 được điều làm chính trị viên phó. Trung úy Nguyễn Văn Hồng vẫn làm đại đội trưởng, đại đội phó là thiếu úy Nguyễn Tiến Trụ được điều từ nơi khác về. Ba đồng chí Tuyển, Nhung, Va được điều sang tiểu đoàn 2. Một số anh em lớp lính 1971, 1972 cũng được điều động lên làm cán bộ đại đội, trung đội trong trung đoàn.
Như vậy, theo yêu cầu của chiến trường miền Nam. Đầu năm 1975, Bộ Quốc phòng đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 341 vào chiến đấu tại chiến trường B2 (Miền Đông Nam Bộ). Ngày 3 tháng 2 năm 1975 tại sở chỉ huy sư đoàn long trọng tổ chức kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Đảng, đồng thời làm Lễ xuất quân. Buổi lễ có các tướng lĩnh Quân ủy trung ương, Bộ quốc phòng, tướng lĩnh và sỹ quan bộ Tổng Tham mưu, Quân khu 4. Thượng úy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 Chu Đức Hùng thay mặt toàn thể cán bộ chiến sỹ sư đoàn 341 đọc quyết tâm thư và hứa với cấp trên sẽ hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.( Đồng chí Chu Đức Hùng nghỉ hưu với quân hàm đại tá hiện sống tại Hà Nội)
 Toàn trung đoàn, toàn sư đoàn đang rùng rùng chuyển động, một trong những chuyển động đó là mọi người từ cán bộ, chiến sỹ đều viết thư, đều gói ghém quần áo, quân tư trang để gửi về nhà. Vì nghe nói toàn sư đoàn được trang bị mới hết, nên nhiều đồng đội chỉ để lại mỗi bộ quần áo đang mặc. Tôi cũng soạn và gói ghém các thứ để gửi về. Việc cùng lúc toàn trung đoàn gửi đồ về gia đình làm bưu điện Hồ Xá đông cứng người gây ùn ứ, nhân viên bưu điện tiếp nhận không xuể. Tôi cũng đã gói xong hai gói đồ to như hai quả bộc phá đánh lô cốt, bèn nghĩ cách nhờ người gửi hộ. Tôi nghĩ ngay là nhờ Thảo bí thư chi đoàn của đội 7 thanh niên địa phương kết nghĩa với đoàn thanh niên đại đội 3.
O Thảo là lớp thanh niên K10 sơ tán ra Thái Bình. Tôi sang nhà Thảo. Gia đình Thảo đang tập trung dựng nhà bằng những cây gỗ lớn. Thấy tôi đến, Thảo rất vui, tôi chuyện trò rồi nói là tình hình bưu điện như vậy và có ý nhờ Thảo gửi hộ tôi hai gói đồ về quê. Thảo đồng ý ngay và nói thêm: Anh nói còn anh em nào trong đại đội chưa gửi được thì cứ chuyển hết ra đây, mấy ngày nữa em gửi cho. Thật vui, như vậy là việc gửi đồ về quê đã xong, tôi chào ra về. Thảo tiễn chân tôi, tới vườn sắn khi bắt tay tạm biệt, Thảo nhìn tôi khẽ nói: Sao những ngày ở đây anh Phú không đến nhà em chơi? Tôi nói: Trong đại đội, anh và mọi người rất quý mến em, nhưng em biết đấy, anh là phó bí thư liên chi đoàn, họp hành vẫn hay nói việc cấm đoán mọi người quan hệ yêu đương với thanh niên địa phương. Anh phải làm gương, vậy là không đúng với lòng mình, nhưng biết sao được. Tôi nói thêm, anh tạm biệt em và rất nhớ em.
 Tôi trở về đơn vị với cảm giác man mác buồn. Sống ở đây đã hai năm, lần đầu tiên tôi mới được bắt tay, chia tay tình cảm với một cô gái. Hôm sau tôi mang hai gói bưu phẩm đến nhà Thảo, nhưng Thảo không có nhà, tôi gửi lại gia đình rồi về đại đội với bao công việc đang chờ. Buổi tổi, cuộc họp liên chi đoàn, chính thức đoàn thanh niên phát động quyết tâm đi chiến đấu 100% quân số. Mọi người đều phải viết quyết tâm thư. Tối hôm đó có chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Kim Mận cùng mấy cán bộ xuống dự. Tôi chủ trì cuộc họp quan trọng này sau khi đã giới thiệu đồng chí Mận về dự và phát biểu động viên. Đồng chí Mận nói: Tôi rất vui vì thấy khí thế và quyết tâm đi chiến đấu của đoàn thanh niên đại đội 3 rất cao. Tôi thay mặt Đảng ủy tiểu đoàn và cán bộ tiểu đoàn biểu dương các đồng chí. Anh nói thêm: Riêng bản thân tôi cũng đã chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị, bị thương, là thương binh rồi tôi mới được cử đi học. Giờ đây rất vui cùng các đồng chí đi chiến trường, ta lại cùng nhau chiến đấu. Chúng ta đã đánh cho “Mỹ cút”, quyết tâm mùa xuân này đánh cho “Ngụy nhào” để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện mơ ước của toàn Đảng, toàn dân, của Bác Hồ muôn vàn kính yêu: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Xin chúc các đồng chí khỏe và luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ. Cả hội trường vỗ tay nhiệt liệt trước bài phát biểu tâm huyết của chính trị viên phó tiểu đoàn. Tôi đứng lên thay mặt đoàn thanh niên đại đội cảm ơn và hứa: Toàn thể cán bộ đoàn viên đại đội 3 học tập gương chiến đấu và ý chí của chính trị viên tiểu đoàn, quyết tâm đi chiến đấu 100% quân số. Chính trị viên phó Nguyễn Kim Mận bắt tay tôi thật chặt, anh nói nhỏ: Cậu khá đấy! Rồi anh chào mọi người để sang đại đội khác.


                                                    XIV

Khoảng 10 giờ sáng hôm sau tôi được liên lạc báo lên gặp đại đội. Tôi lên đại đội thấy anh Tiễn cùng ban chỉ huy đại đội vẻ mặt mọi người không bình thường. Tôi nói: Báo cáo tôi có mặt! Anh Tiễn nói : Ông Phú ngồi xuống đây! Rồi anh nói thêm: Tiểu đoàn điều ông lên. Chúng tôi giữ lại mãi mà không được. Ông lên đó làm trợ lý chính trị tiểu đoàn. Tôi rất buồn khi đơn vị đi chiến đấu lại điều ông, điều các nòng cốt đi. Nhưng thôi, anh em chúng tôi đã bàn kỹ, là để ông đi để ông phát triển tốt hơn. Ông về làm mọi thủ tục thanh toán ở quản lý và chia tay anh em, đúng 15 giờ ông có mặt tại ban chỉ huy tiểu đoàn. Nói xong anh đưa cho tôi tờ quyết định điều động của ban chỉ huy tiểu đoàn. Ôi! Thật bất ngờ! tôi cũng không biết nói gì nữa, đành cảm ơn anh rồi cầm quyết định, chào mọi người rồi về tiểu đội.
 Biết tin tôi được điều động lên tiểu đoàn, mọi người rất ngỡ ngàng, ai cũng buồn. Có lẽ buồn nhất là anh Khoát tiểu đội trưởng và Đậu Thanh Sơn, mặt hai người ỉu xìu. Riêng anh Nguyễn Duy Đôi thì lại rất sôi nổi, anh nói: Ông được điều đi là may rồi đấy, lên tiểu đoàn đỡ vất vả hơn, thôi anh em mình liên hoan chia tay cho ông Phú đi. Rồi anh xăm xăm ra chuồng bắt hai con gà, phân công người đi tìm mua rượu. Bữa cơm chia tay nửa vui, nửa buồn. Như vậy tôi phải chia tay tiểu đội, chia tay đại đội đi nhận nhiệm vụ mới, nơi đã gần 2 năm tôi gắn bó từ ngày đầu thành lập.
 Đúng 15 giờ tôi lên gặp tiểu đoàn. Chính trị viên phó Nguyễn Kim Mận vồn vã đón tiếp và giao nhiệm vụ cho tôi. Như vậy là tôi được thay anh Khúc Thái Học làm trợ lý chính trị tiểu đoàn. Cùng ngày hôm đó anh Cao Văn Biều ở đại đội 1 cũng được điều lên làm Quân lực thay anh Trần Quang Trung. Anh Biều quê Quảng Bình hơn tôi mấy tuổi, là sinh viên đại học Lâm Nghiệp năm thứ ba. Anh người thấp nhỏ nhanh nhẹn, có trí nhớ tốt, chữ viết rất đẹp. Hai anh em nhanh chóng thân thiện nhau. (Sau này ở với anh, tôi học được chữ viết của anh. Sau giải phóng miền Nam anh được trở về trường học tiếp và làm giám đốc một công ty chế biến gỗ và xuất nhập khẩu lâm sản tại Đắc Lắc, hiện anh đã nghỉ hưu và sống ở đó).
Sau khi được anh Học bàn giao sổ sách và hướng dẫn qua công việc, tôi nhanh chóng bắt nhịp nhiệm vụ mới, với những bỡ ngỡ ban đầu về chuyên môn trong lúc công việc hết sức bộn bề chuẩn bị đi chiến trường. Hàng ngày tôi thực hiện nhiệm vụ của mình theo yêu cầu của Chính trị viên tiểu đoàn, trực tiếp là chính trị viên phó Nguyễn Kim Mận. Xuống các đại đội gặp gỡ cán bộ chính trị để nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ chiến sỹ. Phân loại tư tưởng rồi tổng hợp tình hình của cán bộ chiến sỹ trong toàn tiểu đoàn. Đồng thời, nắm bắt các điển hình, gương tiêu biểu cùng những cán bộ chiến sỹ có tư tưởng loại C qua các báo cáo của cán bộ chính trị đại đội. Anh Biều cùng các trợ lý quân khí, quân nhu, hậu cần thì củng cố lại danh sách trích ngang toàn tiểu đoàn, nắm bắt vũ khí, trang bị của đơn vị. Riêng tôi thì được bổ sung luôn vào ban chấp hành liên chi đoàn tiểu đoàn bộ và trực tiếp làm bí thư liên chi đoàn. Công việc khác hẳn những công việc dưới đại đội, có nhiều việc phải làm cả trưa, có khi cả đêm, kịp hoàn thành các báo cáo để tiểu đoàn báo lên cấp trên.
Ngày 14 tháng 2 năm 1975 toàn tiểu đoàn và cả trung đoàn 273 tạm biệt nhân dân Vĩnh Linh lên đường vào Nam chiến đấu. Chúng tôi hành quân gần 30 ki-lô-mét đến khu vực Bến Tiến, Quảng Bình nhận cấp phát mới toàn bộ quân tư trang đi B. Nhận thêm trang bị súng với 3 cơ số đạn. Cả một vùng đồi bừng bừng sắc lính với trang bị, quân tư trang mới tinh đầy hào khí, ai ai cũng vui, cũng đẹp như đi hội. Mà đúng là đi hội thật, hội của những người lính chuẩn bị vượt Trường Sơn ra chiến trường khi ngày tết vừa qua và mùa xuân đang về, với hoa sim, hoa mua cùng các loại hoa rừng nở rộ. Trời đầu xuân se lạnh, đàn én chao lượn vẽ bức tranh mùa xuân trên trời. Ngày 16 tháng 2 năm 1975 cả khu đồi rộng lớn sôi động hẳn lên khi đoàn xe của sư đoàn vận tải 571 với hơn 500 xe ùn ùn đến. Chúng tôi nhanh chóng lên xe và cuộc hành quân thần tốc bằng cơ giới đã đưa tiểu đoàn tôi, trung đoàn tôi và cả sư đoàn vào chiến trường chi viện cho Miền Nam trong chiến dịch Mùa xuân năm 1975 đại thắng. Bụi đỏ Trường Sơn cuộn bay theo đoàn xe tạo thành hình rồng đỏ khổng lồ. Rồng bay, bay cao, cao mãi như linh khí đất trời, như rồng thiêng Thăng Long, nâng bánh đoàn xe chở những người lính sư đoàn 341 - Đoàn bộ binh Sông Lam ra trận.
Trên đường hành quân, sư đoàn được đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính Trị - Trưởng Ban Tổ chức Trung ương gửi một lá thư tay thăm hỏi, động viên cán bộ chiến sĩ. Lá thư viết:
“Không đến thăm và tiễn các anh em được, lòng băn khoăn và nghĩ đến anh em rất nhiều, nên tôi viết mấy câu thơ gửi tình cảm của mình trong đó đến anh em trên con đường ra tiền tuyến:
 Rất nhớ anh bộ đội,
Và thương anh rất nhiều,
 Anh đi vượt suối băng đèo,
 Gian nan không sợ, hiểm nghèo coi khinh;
Con đường cứu nước quang vinh.
Hiến dâng tất cả tuổi xanh cho đời.
Chiến công mừng đón khắp nơi,
 Như muôn hoa nở giữa trời xuân sang.
Hôm nay tiễn bạn lên đường
 Vượt Trường Sơn đến chiến trường phía Nam.
 Đánh tan quân giặc hung tàn,
Ngày về thống nhất Bắc - Nam một nhà."



VĨ THANH


           Đoàn xe chở chúng tôi vượt qua những cung đường, những binh trạm của đường Trường Sơn huyền thoại. Qua Lào, Campuchia, qua ngã ba Đông Dương, cao nguyên Trung phần, núi rừng sông nước thật hùng vĩ với đêm trăng sáng, cảnh trí đẹp mê hồn. Sau 15 ngày hành quân hơn 1000 ki-lô-mét chúng tôi dừng chân tại Lộc Ninh, tỉnh Tây Ninh - vùng đất đỏ ba-zan với những rừng cao su xen lẫn rừng nguyên sinh bạt ngàn. Nơi nào cũng loang lổ hố bom và những vết đạn của cuộc chiến dài. Đã có tiếng è è của máy bay trinh sát địch. Nhanh chóng rời xe, các đơn vị được chia về các hướng của mặt trận yêu cầu, theo ý định của chỉ huy. Được thông báo: Sư đoàn chính thức gia nhập đội hình Quân đoàn 4. Trung đoàn 270, 266, 55 hành quân về hướng tỉnh Long Khánh chuẩn bị cho những trận đánh lớn trên hướng đường 1. Trung đoàn 273 của tôi hành quân bộ tiếp 2 ngày. Những người lính sư đoàn 341 bụi đỏ Trường Sơn còn bám đầy người cùng vũ khí, trang bị, không có thời gian tắm rửa nghỉ ngơi vào ngay chiến tuyến đánh thù. Tiểu đoàn 1 chúng tôi về vị trí thay chốt cho sư đoàn 9 tại trục lộ 13. Tiểu đoàn 2 kết hợp với sư đoàn 9 tiến công giải phóng thị xã Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một. Sau đó về kết hợp với tiểu đoàn 3, tiến công xóm Dớt và chi khu Chơn Thành, tỉnh Bình Long.



Tiêu đề: Re: Tranphu341 - Đoàn bb Sông Lam - Trên chiến trường A - Phần 6
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Năm, 2022, 07:37:44 am

             Trung đoàn 270, 266, trung đoàn pháo binh 55 cùng các đơn vị trực thuộc sau khi đánh chiếm căn cứ Đồi Tràn kết hợp với sư đoàn 7 tiến công giải phóng thị xã Xuân Lộc, Long Khánh, đập tan cánh cửa thép bảo vệ Sài Gòn. Ngày 26 tháng 4 năm 1975, toàn sư đoàn tập trung tiến công giải phóng yếu khu Trảng Bom tỉnh Đồng nai, mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông Bắc. Tiếp đó, sư đoàn cùng đại quân tiến công các căn cứ như Biên Hòa, cùng lực lượng xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập, cơ quan đầu não của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Chiến dịch Mùa xuân năm 1975 được kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng. Sư đoàn 341 được chọn làm nhiệm vụ quân quản xây dựng chính quyền, thanh lọc các phần tử phản cách mạng ẩn náu trong dân.
            Với những thành tích chiến đấu và làm quân quản, ngày 02 tháng 9 năm 1976, sư đoàn được Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm và tặng 5 chữ vàng: “Vào thành vững như thành”. Ngày 20 tháng 10 năm 1976 sư đoàn và một số đơn vị, một chiến sỹ vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
           Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quân quản, năm 1977 sư đoàn được giao nhiệm vụ làm kinh tế xây dựng đất nước. Đang dừng chân tại Long Bình thì tập đoàn phản động Pôn-pốt - Iêng-xa-ri xua quân tàn sát đồng bào ta, xâm chiếm một số vùng biên giới của ta. Trước tình hình đó, toàn thể cán bộ chiến sỹ lại nhận lại vũ khí hành quân ra bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, tiêu diệt bọn Pôn-pốt hiếu chiến ngông cuồng. Thế là bước chân và những trận chiến đấu cùng chiến công của cán bộ, chiến sỹ sư đoàn lại in dấu trên khắp nẻo biên cương từ Tây Ninh, Long An, Châu Đốc, Đồng Tháp, Hà Tiên, Kiên Giang để bảo vệ nhân dân, giữ gìn mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc, mà đỉnh điểm của cuộc chiến là Sư đoàn cùng các lực lượng tăng cường tiến công địch tại khu vực Năm Căn, Hòa Hội, tỉnh Tây Ninh cuối tháng 12 năm 1978, đã đánh tan 3 sư đoàn tinh nhuệ của bọn Pôn-pốt hòng tiến công vào Tây Ninh, giải phóng 5 xã biên giới bị chúng lấn chiếm, tạo ra cục diện mới, thế chiến lược mới giúp cho Mặt trận Dân tộc giải phóng Campuchia ra lời kêu gọi nhân dân cả nước nổi dậy và kêu gọi sự giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam.
             Đáp lời kêu gọi đó, sư đoàn 341 trong đội hình Quân đoàn 4 và toàn quân nhanh chóng cùng lực lượng cách mạng non trẻ của bạn tiến công giải phóng thủ đô Phnompenh, cơ quan đầu não của tập đoàn phản động diệt chủng Pôn-pốt - Iêng xa ri. Cờ chiến thắng tung bay khắp thành phố vào lúc 11 giờ ngày 7 tháng 1 năm 1979. Tiếp quản thủ đô một tuần, sau đó bàn giao cho chính phủ Campuchia. Sư đoàn 341 tiếp tục cuộc chiến đấu truy quyét địch, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi hoàn toàn thảm họa diệt chủng của chế độ Khmer Đỏ tại các căn cứ trong rừng sâu núi thẳm. Chúng ta đã được nhân dân Capuchia gọi là Đội quân nhà Phật. Một ghi nhận sáng ngời qua thư của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia và Chính phủ Campuchia gửi sư đoàn 341 ngày 10 tháng 11 năm 1980, khi sư đoàn chia tay đất nước Chùa Tháp như sau: “Tổ quốc Campuchia sẽ mãi mãi ghi vào sổ vàng lịch sử đấu tranh cách mạng của mình những chiến công và hình ảnh Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và sư đoàn 341 nói riêng…Tên tuổi của sư đoàn Sông Lam đã ăn sâu vào trái tim người dân Chùa Tháp. Năm tháng sẽ qua đi nhưng lịch sử của dân tộc Campuchia và nhân dân Campuchia đời đời ghi mãi tên tuổi của sư đoàn 341”.
         Với những chiến công và thành tích to lớn trong bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, ngày 20 tháng 12 năm 1979 một lần nữa sư đoàn được phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ hai. Như vậy chỉ trong vòng 7 năm từ ngày thành lập, sư đoàn 341 đã hai lần được Đảng, Nhà nước, Quốc hội phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Một kỳ tích mà chưa có sư đoàn bộ binh nào có được. Bốn trung đoàn, 4 tiểu đoàn, 2 đại đội, 4 cá nhân được phong tặng danh hiệu cao quý đó. Ngoài ra sư đoàn 341 còn được tặng thưởng 2 huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương bảo vệ Tổ quốc, Cờ Quyết chiến quyết thắng của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng tặng. Một huân chương Ap-sa-ra, Huân chương cao quý của nhà nước Campuchia tặng.
         Chiến thắng nhiều song biết bao lớp cán bộ chiến sỹ đã anh dũng hy sinh và mang thương tật suốt đời khi trở về quê hương. Rất nhiều cản bộ chiến sỹ trong sư đoàn đã trưởng thành là tướng lĩnh cao cấp trong quân đội, trong chính quyền hay trở thành những nhà khoa học, những doanh nhân thành đạt. Đa phần họ được trở về quê hương theo chính sách khi đã làm trọn nghĩa vụ. Dù ở đâu, dù giữ chức vụ gì hoặc là người dân bình thường, họ - những người lính sư đoàn 341 vẫn luôn phát huy và tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, truyền thống Sư đoàn. Nền tảng để tỏa sáng đó chính là những năm tháng rèn luyện, huấn luyện rất cơ bản, rất bài bản tại đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh mà trong mật danh quân sự là: Chiến trường A.

                                                                Thái Bình, ngày 01  tháng 9  năm 2021.
                                                                                 Trần Ngọc Phú.