Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 07 Tháng Ba, 2017, 05:37:36 pm



Tiêu đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Ba, 2017, 05:37:36 pm

Tên sách: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2008
Số hoá: ptlinh, chuongxedap

Ban biên soạn:
      - Thượng tá ĐẶNG VIỆT THỦY (Chủ biên)
      - Đại tá ĐỒNG KIM HẢI
      - Thượng tá ĐẬU XUÂN LUẬN
      - Thượng úy PHAN NGỌC DOÃN
      - Trung úy NGUYỄN MINH THỦY

Hoàn chỉnh bản thảo:
      Thượng tá ĐẶNG VIỆT THỦY



LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam là một đất nước nằm ở ven biển Thái Bình Dương - cửa ngõ quan trọng của lục địa Đông Nam châu Á. Trải qua bao thế kỷ, bọn phong kiến, thực dân và đế quốc nhòm ngó và xâm lăng nhưng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục. Ngay từ ngày dựng nước đến nay, dân tộc ta đã phải bao phen đứng lên chiến đấu bảo vệ non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, lập nên những chiến công oanh liệt: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975...

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một kho tàng kiến thức vô cùng quý giá, xây đắp nên truyền thống quật cường, bất khuất, lòng yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. Việc tìm hiểu lịch sử dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là trách nhiệm trước lịch sử để tỏ lòng biết ơn đối với công lao to lớn của tổ tiên, vừa là đòi hỏi của thời cuộc để mỗi người dân Việt Nam tự tin hội nhập cùng bạn bè quốc tế với một bản sắc dân tộc mạnh mẽ.

Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức biên soạn và xuất bản "Tủ sách lịch sử Việt Nam". Tủ sách lịch sử Việt Nam gồm nhiều cuốn, mỗi cuốn sách trình bày một cuộc khởi nghĩa cụ thể, theo dạng hỏi đáp, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và đảm bảo tính chính xác, khoa học.

Hy vọng "Tủ sách lịch sử Việt Nam” nói chung và cuốn sách "Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái" nói riêng sẽ là người bạn đồng hành thân thiết của mỗi bạn đọc trong cuộc hành trình tìm về lịch sử dân tộc.

Mặc dù những người biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng bộ sách khó tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong được bạn đọc lượng thứ và đóng góp ý kiến.

Trân trọng giới thiệu!


NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Ba, 2017, 10:07:38 pm

Câu hỏi 1: Hãy trình bày quá trình xuất hiện và hoạt động của ba tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội), Tân Việt cách mạng đảng và Việt Nam quốc dân đảng trong giai đoạn từ 1925 đến 1930 ở Việt Nam?
Trả lời:


Do chịu tác động của các trào lưu tư tưởng mới, nhất là tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào dân tộc ở Việt Nam đã dâng lên sôi nổi và phát triển đến đỉnh cao vào những năm 1925-1926. Từ trong cao trào đấu tranh yêu nước ấy đã dần dần xuất hiện các tổ chức tiến bộ và cách mạng, tiêu biểu nhất là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội), Tân Việt cách mạng đảng và Việt Nam quốc dân đảng. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng này đánh dấu bước tiến mới của phong trào dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy công cuộc giải phóng đất nước tiếp tục tiến lên.

1. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

Sự xuất hiện của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên gắn liền với các hoạt động và công lao vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Ngay từ giữa năm 1923, trước khi rời nước Pháp đi Liên Xô, trong một bức thư gửi các bạn cùng hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ ý định của mình là: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"1. Chính vì vậy, sau một năm rưỡi hoạt động và học tập ở Liên Xô, tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi đang có rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc chuẩn bị cho sự ra đời của chính đảng mácxít ở Việt Nam.

Sau khi đến Quảng Châu, với tư cách là đặc phái viên của Quốc tế cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu quan tâm tìm hiểu tình hình hoạt động của những người Việt Nam đang sinh sống tại đây. Đặc biệt, Người đã được gặp nhóm thanh niên yêu nước trong tổ chức Tâm tâm xã. Trong thư gửi đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc báo cáo: "Tôi đến Quảng Châu vào giữa tháng 12. Tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số đó có một người đã xa rời xứ sở từ ba mươi năm nay...

Mục đích duy nhất của ông này là trả thù cho nước, cho nhà đã bị Pháp tàn sát. Ông không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng. Trong cuộc thảo luận, tôi đã giải thích cho ông hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không có cơ sở...

Ông đã đưa cho tôi một bản danh sách 10 người An Nam đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu"2. Trong số 14 người mà Phan Bội Châu giới thiệu, có một số người đã trở thành hội viên của Tâm tâm xã - một tổ chức yêu nước cấp tiến vừa được thành lập năm 1923 tại Quảng Châu.
_________________________________
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr.192.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 8, 141.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Ba, 2017, 10:08:58 pm

Sau khi tìm hiểu tình hình thực tế, Nguyễn Ái Quốc đã chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, tổ chức tuyên truyền giác ngộ họ, để trên cơ sở đó lập ra nhóm Cộng sản đoàn vào tháng 2 năm 1925. Trong báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản, đề ngày 19 tháng 2 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày khá cụ thể các công việc đã làm được: "Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm 9 hội viên, trong đó có 2 người đã được phái về nước.

3 người ở tiền tuyến (trong quân đội của Tôn Dật Tiên).

1 người đang đi công cán quân sự (cho Quốc dân đảng).

Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản" .

Nhóm bí mật đó chính là Cộng sản đoàn gồm có Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ.

Dựa trên nhóm cộng sản này, tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quần chúng rộng rãi hơn là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Tháng 7 năm đó, cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia..., Nguyễn Ái Quốc còn sáng lập ra tổ chức Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sau khi ra đời, Hội đã công bố Chương trình và Điều lệ thể hiện rõ lập trường chính trị cùng nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Hội. Bản Chương trình ghi rõ:

I. Tên Hội:

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

II. Mục đích:

Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản).

III. Chương trình:

a) Lựa chọn người giác ngộ, huấn luyện họ, tổ chức họ vào Hội.

b) Cử những hội viên đã được đào tạo vào trong nhân dân để tuyên truyền điều phải và tổ chức các đoàn thể như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ, v.v...

c) Gặp dịp tốt nào thì huy động lực lượng của những đoàn thể quốc gia để đập tan bọn Pháp và lấy lại chính quyền.

d) Thành lập chính phủ nhân dân gồm đại biểu của các đoàn thể công nhân, nông dân và binh sĩ.

e) Áp dụng những nguyên tắc tân kinh tế chính sách để thúc đẩy sự phát triển các cơ quan sản xuất trong nước, bãi bỏ tư bản tư nhân và sự giao lưu những tài nguyên quốc gia.

g) Đoàn kết với những giai cấp vô sản của tất cả các nước và thành lập xã hội cộng sản.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Ba, 2017, 10:09:43 pm

Điều kiện gia nhập Hội đã được ghi rõ trong bản Điều lệ là: "Người Việt Nam nào từ 17 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, tán thành mục đích, chương trình và kỷ luật của Hội và được hai hội viên giới thiệu, thì được gia nhập Hội sau khi được chi bộ đồng ý".

Về tổ chức gồm có 5 cấp: tổng bộ, xứ (kỳ) bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Mỗi chi bộ gồm khoảng 10 hội viên; nếu quá số lượng đó thì lập ra chi bộ khác.

Tóm lại, đường lối chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thể hiện những nội dung chính sau đây:

1) Thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc rồi sau đó tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2) Thành lập chính phủ công nông binh, thực hiện chính sách phát triển sản xuất, xóa bỏ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản ở Việt Nam và trên thế giới. Trước mắt, sau khi thành lập, chính phủ công nông binh sẽ thực hiện nhiệm vụ chia ruộng cho dân cày, hủy bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác; thực hiện ngày làm 8 giờ cho công nhân; thực hiện quyền tự do dân chủ, quyền nam nữ bình đẳng...

3) Đoàn kết với giai cấp vô sản và phong trào cách mạng thế giới.

Như vậy, mặc dù Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chưa phải là một đảng cộng sản, nhưng đường lối chính trị, chương trình hành động và điều lệ của Hội đã in đậm và thể hiện rõ quan điểm, lập trường cách mạng của giai cấp công nhân.

Về thành phần xã hội, lúc đầu các hội viên Thanh niên bao gồm 90% là trí thức tiểu tư sản, chỉ có 10% là công nông, sau này tuy các thành phần công, nông có tăng lên, nhưng lực lượng trí thức vẫn chiếm tới 40%.

Sau khi thành lập, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Trong khoảng từ 1924 đến 1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện, đào tạo được 75 hội viên. Mỗi lớp đào tạo huấn luyện được tiến hành trong thời gian từ 2 - 3 tháng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Ba, 2017, 10:10:15 pm

Nội dung chương trình học tập ở các lớp huấn luyện khá rộng, bao gồm cả kiến thức lý luận và thực tiễn cách mạng. Học viên được nghiên cứu về tình hình quốc tế, lịch sử tiến hóa nhân loại, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, về phong trào giải phóng dân tộc ở các nước, các phương pháp cách mạng của Tôn Dật Tiên, về Cách mạng tháng Mười Nga. Tại các khóa học, học viên còn được nghe giới thiệu về lịch sử các tổ chức Quốc tế I, II và III, cũng như về các tổ chức quần chúng như Thanh niên quốc tế, Nông dân quốc tế, Công hội đỏ quốc tế. Phần cuối cùng của chương trình huấn luyện là các phương pháp và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong việc vận động và tổ chức xây dựng nông hội, công hội, hợp tác xã...

Ngoài việc mở các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, dưới sự tổ chức chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học Trường đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và Trường Quân chính Hoàng Phố (của Quốc dân đảng Trung Quốc). Trong số những người được giới thiệu đi học các trường đào tạo nước ngoài có Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn...

Kết thúc các lớp đào tạo, phần lớn cán bộ đều được đưa về nước hoạt động trong các tầng lớp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị... để tuyên truyền vận động và xây dựng các cơ sở của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ mácxít đầu tiên cho cách mạng Việt Nam, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên còn cho xuất bản tờ báo Thanh niên làm công cụ truyền bá tư tưởng Mác - Lênin và là cơ quan phát ngôn của Hội. Báo Thanh niên in bằng chữ Quốc ngữ, trên giấy sáp, riêng tên tờ báo được in bằng cả chữ Hán và chữ Việt. Ban biên tập ngoài Nguyễn Ái Quốc là chủ bút, còn có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu... Số báo đầu tiên xuất bản vào ngày 21 tháng 6 năm 1925. Từ đó cho đến tháng 2 năm 1930, báo Thanh niên ra được 208 số. Trong 88 số đầu, tờ báo tập trung giáo dục lòng yêu nước, khơi sâu chí căm thù của nhân dân ta đối với bọn đế quốc và phong kiến tay sai, đồng thời giới thiệu Cách mạng tháng Mười và nước Nga Xôviết. Từ số 89 trở đi, báo Thanh niên bắt đầu nêu lên những nguyên lý cơ bản về xây dựng đảng kiểu mới, về nhu cầu phải thành lập chính đảng cộng sản ở nước ta, về phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam.

Bằng nhiều con đường, báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về trong nước và đã được các tầng lớp nhân dân yêu nước hăng hái tìm đọc, có bài báo còn được chuyền nhau chép đi chép lại nhiều lần.

Nhờ đó, các tư tưởng cách mạng được truyền bá mạnh mẽ vào trong nhân dân, góp phần quan trọng chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở nước ta.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Ba, 2017, 08:06:06 am

Để đẩy mạnh công cuộc truyền bá tư tưởng Mác - Lênin, tiến tới thành lập Đảng, đầu năm 1927 Bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông đã cho xuất bản cuốn sách Đường kách mệnh, rồi chuyển về trong nước. Cuốn sách chủ yếu tập hợp các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu. Nếu trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bóc trần và tố cáo những hành động xấu xa, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ở thuộc địa thì trong cuốn sách này, Người lại tập trung phác họa và chỉ ra phương hướng đấu tranh để giải phóng dân tộc và nhân dân thoát khỏi ách nô lệ. Trên cơ sở phân tích tình hình và mâu thuẫn của xã hội Việt Nam, Đường kách mệnh chỉ rõ cách mạng Việt Nam trước hết phải làm "dân tộc cách mệnh” nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do, đồng thời tiến lên làm "giai cấp cách mệnh" đánh đuổi tư bản nhằm giải phóng quần chúng lao động.

Cách mạng muốn giành được thắng lợi phải coi "công nông là gốc" của cách mạng, học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Đường kách mệnh còn chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo của đảng mácxít. Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin bởi vì: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"1. Đồng thời, tác phẩm Đường kách mệnh còn nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiệm vụ đoàn kết quốc tế giữa cách mạng Việt Nam với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.

Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước. Nhờ có sự hoạt động tích cực của các hội viên nên đầu năm 1927 ở nhiều địa phương đã xây dựng được các cơ sở của Hội. Trên cơ sở đó, các kỳ bộ rồi tỉnh bộ lần lượt được thành lập.

Kỳ bộ Trung Kỳ được thành lập tại Vinh (tháng 2-1927) gồm Vương Thúc Oánh, Lê Hữu Lập, Nguyễn Sĩ Sách (làm bí thư).

Tháng 3 năm 1927, tại Hà Nội, Kỳ bộ Bắc Kỳ được thành lập gồm Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Công Thu, Mai Lập Đôn, do Trần Văn Cung làm bí thư.

Tại Sài Gòn, Kỳ bộ Nam Kỳ được thành lập với sự tham gia của Ngô Thiêm, Nguyễn Văn Lợi, do Phan Trọng Bình làm bí thư.

Cùng với việc phát triển hệ thống tổ chức ở trong nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan) để hình thành đường dây liên lạc với trong nước. Năm 1926, chi bộ Thanh niên đầu tiên đã được thành lập tại Bạn Thầm (tỉnh Phì Chịt, miền Trung Thái Lan). Tiếp đó, Hội còn lập thêm các chi bộ khác ở tỉnh U Đon, Na Khon... Để mở rộng các hoạt động tuyên truyền vận động trong Việt kiều ở Thái Lan, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã cho xuất bản báo Đồng thanh (sau đổi thành báo Thân ái).

Do đại bộ phận hội viên Thanh niên đều xuất thân từ thành phần trí thức tiểu tư sản, nên từ cuối năm 1928 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương tổ chức phong trào "vô sản hóa", tích cực đưa các hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn để rèn luyện học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời trực tiếp tuyên truyền giác ngộ và tổ chức quần chúng đấu tranh. Nhờ vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển rầm rộ, sôi nổi.

Đến năm 1929, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Số hội viên đã lên tới khoảng 1.500 người. Thông qua việc tăng cường phát triển tổ chức, mở rộng địa bàn hoạt động của các hội viên, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác - Lênin, phổ biến chủ trương, đường lối của Hội trong nhân dân, tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam chuyển nhanh theo xu hướng cách mạng vô sản. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã đóng vai trò tích cực chuẩn bị tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính ở Việt Nam.
________________________________
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 268.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Ba, 2017, 08:07:20 am

2. Tân Việt cách mạng đảng

Khác với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng là một tổ chức yêu nước đã trải qua nhiều thay đổi, cải tổ. Tiền thân của Tân Việt cách mạng đảng là Hội Phục Việt, được thành lập ngày 14 tháng 7 năm 1925 tại Vinh (Nghệ An) gồm hai nhóm chính trị phạm ở Trung Kỳ tiêu biểu như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên..., và các sinh viên sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... Chương trình hành động của Hội Phục Việt có ba điểm:

1. Nghiên cứu tình hình chính trị trong nước để quyết định nên bạo động hay hòa bình.

2. Tìm cách liên lạc với các nhà cách mạng ở Tàu và Xiêm xem chủ trương của họ thế nào.

3. Mộ thêm đồng chí mới.

Sau khi ra đời, Hội Phục Việt tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Chi hội Phục Việt ở Bắc Kỳ do Tôn Quang Phiệt phụ trách đã in và rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân đấu tranh ủng hộ nhà chí sĩ họ Phan. Hoạt động yêu nước của Hội Phục Việt đã làm cho thực dân Pháp theo dõi và tìm cách phá hoại. Trước tình hình đó, Hội Phục Việt đã đổi tên thành Hưng Nam năm 1926. Đến năm 1927, Hội lại đổi tên thành Việt Nam cách mạng đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Cuối cùng tại Đại hội lần thứ nhất tổ chức ở Huế tháng 7 năm 1928, Hội chính thức mang tên Tân Việt cách mạng đảng.

Thời kỳ đầu mới thành lập, Tân Việt cách mạng đảng còn là một tổ chức yêu nước, chưa có lập trường giai cấp rõ rệt, cho rằng chủ nghĩa cộng sản quá cao và chủ nghĩa "Tam dân" của Quốc dân đảng quá thấp. Trong quá trình tồn tại, Tân Việt đã nhiều lần cử người sang Quảng Châu liên lạc và bàn kế hoạch hợp nhất với tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, và ngược lại Tổng bộ Thanh niên cũng đã có lần phái người về nước thảo luận việc hợp nhất với Tân Việt, nhưng không đạt được kết quả. Nguyên nhân là do hai tổ chức có ý kiến khác nhau trong việc đánh giá vai trò của mỗi bên, cũng như xác định quyền lãnh đạo của tổ chức sẽ hợp nhất. Mặc dù vậy, qua những lần tiếp xúc, đặc biệt là nhờ các hoạt động của các hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, lập trường chính trị của Tân Việt dần dần thay đổi và chuyển mạnh sang khuynh hướng cách mạng vô sản. Từ sau Đại hội I (1928), Tân Việt thực sự trở thành một tổ chức cách mạng mang tính chất xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Ba, 2017, 08:08:25 am

Về tư tưởng chính trị, Tân Việt cách mạng đảng xác định: "Liên hợp cả các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng bác ái mới". Tân Việt còn đề ra Chương trình hành động và các quy định chặt chẽ về tổ chức, đảng viên. Theo Chương trình hoạt động được soạn thảo năm 1928 thì Tân Việt sẽ phải trải qua hai thời kỳ. Đó là thời kỳ phá hoại tức là dùng vũ lực đánh đổ ách thống trị thực dân phong kiến, giành lấy chính quyền; sau đó chuyển qua thời kỳ quá độ thực hiện chuyên chính vô sản, quốc hữu hóa các ngành kinh tế, thực thi quyền bình đẳng cho mọi giai tầng xã hội, mọi lớp tuổi khác nhau.

Về thành phần xã hội, Tân Việt chủ yếu gồm các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương. Sau này, Đảng có chú ý phát triển đến các thành phần công nông, nhưng số hội viên phần lớn vẫn là trí thức tiểu tư sản. Ngay trong Điều lệ năm 1928 cũng quy định rõ đảng viên phải là người có học, "phải biết đọc, biết viết hoặc Quốc ngữ, hoặc chữ Pháp, chữ Hán và quyết tâm phấn đấu trong hàng ngũ của Đảng"1.

Nắm quyển lãnh đạo các cơ quan Tổng bộ chủ yếu thuộc giới giáo viên, sinh viên, trí thức như Trần Mộng Bạch, Đào Duy Anh, Phan Kiêm Huy, Tôn Quang Phiệt, Ngô Đức Diễn.

Hệ thống tổ chức của Tân Việt bao gồm 6 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, liên tỉnh bộ, tỉnh bộ, đại tổ và tiểu tổ ở cơ sở. Tổ chức cơ sở của Tân Việt xây dựng theo nguyên tắc "tam tam chế", tức là mỗi tiểu tổ chỉ có 3 người, và 3 tiểu tổ hợp thành một đại tổ. Tân Việt có 3 kỳ bộ và 10 liên tỉnh bộ đều được gọi theo bí danh riêng. Bắc Kỳ gọi là "Nhân Kỳ", Trung Kỳ gọi là "Trí Kỳ", Nam Kỳ gọi là "Dũng Kỳ".

Trên tất cả các khu vực Bắc, Trung, Nam, Tân Việt cách mạng đảng đều có cơ sở của mình, nhưng địa bàn hoạt động chính là ở các tỉnh miền Trung, chủ yếu thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
_______________________________
1. Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, tập V, Nxb Văn - Sử - Địa, H. 1958, tr. 15-16.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Ba, 2017, 08:09:12 am

Tại địa bàn trung tâm Nghệ - Tĩnh, từ cuối năm 1928 các tiểu tổ, đại tổ Tân Việt đã phát triển rộng khắp trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố và cả các vùng nông thôn. Số lượng đảng viên lên tới 612 người. Bên cạnh việc bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới, Tân Việt còn chú ý xây dựng các tổ chức quần chúng, các cơ sở cảm tình của đảng. Ở khu vực Vinh - Bến Thủy, Tân Việt đã lập ra các nhóm may quần áo của công nhân nhà máy Tràng Thi, Hưng nghiệp hội xã, hiệu sách "Tam kỳ thư quán". Các cơ sở này vừa làm nơi gặp gỡ, tuyên truyền giác ngộ đảng viên, đồng thời góp phần cung cấp nguồn tài chính cho Đảng. Ở trường quốc học Vinh, Phan Kiêm Huy đã vận động và cùng một số đảng viên khác thành lập Hội sinh đoàn để tập hợp các giáo viên và học sinh yêu nước. Tại các huyện Hưng Nguyên, Anh Sơn, Nghi Lộc, Yên Thành, Thanh Chương, Can Lộc... đều xây dựng được các tiểu tổ, đại tổ và các tổ chức quần chúng của đảng.

Trong quá trình tồn tại, ngoài công tác giáo dục, huấn luyện đảng viên, Tân Việt cách mạng đảng còn tiến hành nhiều hoạt động như lập các lớp học ban đêm, phổ biến các sách báo mácxít..., góp phần quan trọng vào việc khơi dậy lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng cách mạng trong các tầng lớp nhân dân. Một số cuộc đấu tranh của học sinh, tiểu thương và công nhân do Tân Việt tổ chức và lãnh đạo đã diễn ra trong thời gian này. Tiêu biểu là các cuộc đình công của công nhân nhà máy Diêm (Bến Thủy) ngày 11 tháng 4 năm 1928; bãi công của công nhân đường sắt ở Biên Hòa - Sài Gòn tháng 9 năm 1929; đấu tranh của nông dân làng Yên Dũng (Vinh) chống bọn Pháp lấy 300 mẫu đất ở gần Bến Thủy để xây dựng sân bay. Trong nhiều trường học ở Vinh, tổ chức Tân Việt đã vận động học sinh đấu tranh với các yêu sách cụ thể như:

- Bỏ phạt.

- Học sinh được ra ngoài ký túc xá vào chiều thứ bảy và ngày chủ nhật.

- Bỏ thói đánh đập, miệt thị học sinh và giáo viên người Việt.

- Cải thiện điều kiện sinh hoạt và ăn uống trong ký túc xá.

Từ cuối năm 1928 đầu năm 1929, học tập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng cũng phát động phong trào "vô sản hóa", đưa các đảng viên vào hoạt động trong các nhà máy, xí nghiệp, trường học để nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân, xây dựng cơ sở của Đảng...


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Ba, 2017, 08:11:21 am

Do tác động của tư tưởng Mác - Lênin, nhiều đảng viên Tân Việt đã chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Nội bộ Đảng Tân Việt ngày càng phân hóa sâu sắc thành hai khuynh hướng rõ rệt. Một khuynh hướng nằm trong những người lãnh đạo Tổng bộ chủ trương đứng trên lập trường quốc gia tư sản. Còn số đông đảng viên Tân Việt, nhất là những thanh niên trẻ tuổi giàu nhiệt huyết thì ngả hẳn sang khuynh hướng cộng sản.

Vào giữa năm 1929, để chống lại khuynh hướng cộng sản trong số đông đảng viên, ban lãnh đạo Tổng bộ đã công bố đề án thành lập "Khối quốc gia" và gửi cho các cấp bộ Đảng Tân Việt. Theo bản đề án, ở Việt Nam lúc này chưa có giai cấp công nhân, do đó không có cơ sở để chủ nghĩa cộng sản tồn tại và phát triển. Trước tình hình đó, những đảng viên tích cực nhất của đảng đã họp lại và đi tới quyết định li khai khỏi Tổng bộ Tân Việt, chuẩn bị thành lập một đảng cộng sản lấy tên là Đông Dương cộng sản liên đoàn. Tiếp đó, tháng 9 năm 1929, một cuộc hội nghị của những đảng viên tích cực của đảng đã được tổ chức ở Nam Kỳ nhằm bàn bạc và chuẩn bị các điều kiện cần thiết tiến tới tổ chức đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị đã thông qua tờ Tuyên đạt nói rõ lý do thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn là: Hiện thời trào lưu cộng sản đang dâng cao khắp toàn cầu... ở Đông Dương xu hướng cộng sản đang đâm chồi nảy lộc, nhất là từ ba bốn năm nay, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng ra đời thì ảnh hưởng trong đám lao khổ xứ Đông Dương càng hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng họ khỏi cảnh lầm than, nô lệ, mới đem lại độc lập hoàn toàn cho xứ Đông Dương, xóa bỏ chế độ người bóc lột người...

Cho nên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã tách ra lập nên hai bộ phận cộng sản là Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản chi bộ, cùng tiến hành vận động cộng sản theo chương trình của Đệ tam quốc tế...

Do tình hình trên, những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mạng đảng trịnh trọng tuyên bố cùng toàn thể đảng viên Tân Việt cách mạng đảng, toàn thể thợ thuyền, dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chính thức lập ra "Đông Dương cộng sản liên đoàn".

Sự chuyển biến của số đông đảng viên Tân Việt theo chủ nghĩa cộng sản là phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của phong trào yêu nước lúc đó. Nó góp phần làm suy yếu và đánh bại chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đồng thời tăng cường thêm sức mạnh cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 09:05:26 am

3. Việt Nam quốc dân đảng

Nếu Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tổ chức đại diện cho khuynh hướng cách mạng vô sản thì Việt Nam quốc dân đảng là tổ chức tiêu biểu nhất của khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong những năm 20.

Bộ phận hạt nhân đầu tiên của Việt Nam quốc dân đảng là nhóm Nam Đồng thư xã1 do hai anh em nhà giáo Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm thành lập cuối năm 1926 tại Hà Nội. Với tư cách là một cơ sở xuất bản tiến bộ, Nam Đồng thư xã chuyên in ấn những sách báo yêu nước, như: Gương phục quốc, Gương thành bại, Gương thiếu niên, Trưng Nữ vương,... nhằm khích lệ tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc trong nhân dân. Vì vậy, Nam Đồng thư xã mau chóng trở thành nơi thu hút và tụ họp của một số trí thức, thanh niên, sinh viên hồi đó, trong đó có Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Hồ Văn Mịch, Hoàng Phạm Trân (Nhượng Tống)... Khác với Nhượng Tống chủ trương "hòa bình cách mạng", Nguyễn Thái Học và một số người khác như Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm kiên quyết ủng hộ tư tưởng bạo lực cách mạng, dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc". Sau nhiều lần thuyết phục, trao đổi, nhóm tán thành bạo lực đã chiếm đa số trong Nam Đồng thư xã. Trên cơ sở đó, ngày 25 tháng 12 năm 1927, một tổ chức cách mạng đã được thành lập ở Hà Nội, lấy tên là Việt Nam quốc dân đảng. Sau này, Việt Nam quốc dân đảng còn tập hợp thêm được một số nhóm khác có cùng quan điểm ở các địa phương, như nhóm Hoàng Văn Tùng ở Thanh Hóa, nhóm Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Ninh, Bắc Giang.

Bị chi phối bởi các điều kiện giai cấp và xã hội, Việt Nam quốc dân đảng không đề ra được một đường lối chính trị độc lập, rõ ràng. Trong mấy năm tồn tại, tổ chức này đã nhiều lần thay đổi chính cương và điều lệ. Khi mới thành lập, trong bản Điều lệ được thông qua tại hội nghị thành lập, Việt Nam quốc dân đảng ghi rõ mục đích: "Trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới"2 (tức là trước tiên đánh đổ đế quốc chủ nghĩa trong nước, sau giúp các nước khác đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc). Đến bản Điều lệ soạn thảo tháng 7 năm 1928 lại xác định tôn chỉ của đảng là "chủ nghĩa xã hội dân chủ"3, đảng có mục đích đoàn kết cả nam lẫn nữ để: "Đẩy mạnh cách mạng dân tộc; xây dựng nền dân chủ trực tiếp và giúp đỡ các dân tộc bị áp bức” 4. Tiếp đó, trong bản Điều lệ sửa đổi công bố tháng 2 năm 1929, Việt Nam quốc dân đảng lại thay bằng ba nguyên tắc tư tưởng của Cách mạng tư sản Pháp 1789: "Tự do - Bình đẳng - Bác ái"5. Mục đích của Đảng là tiến hành "cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị và cách mạng xã hội"6. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra qua bốn thời kỳ: Thời kỳ bí mật (tập hợp lực lượng); thời kỳ dự bị (chuẩn bị các điều kiện vật chất như lương thực, vũ khí đạn dược cho cuộc khởi nghĩa vũ trang); thời kỳ công khai (đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua); thời kỳ kiến thiết (thành lập chính phủ cộng hòa, thực hiện các quyền tự do dân chủ) 7. Cho tới thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đêm trước của bạo động Yên Bái, Việt Nam quốc dân đảng lại mô phỏng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (một nhà dân chủ tư sản tiêu biểu của Trung Quốc đầu thế kỷ XX), nhưng những nguyên tắc và chính sách có tính cách mạng lại bị loại bỏ. Cụ thể, Việt Nam quốc dân đảng chỉ ủng hộ chủ trương “cách mạng dân tộc" và "thiết lập dân quyền", còn khẩu hiệu "bình quân địa quyền" và các chính sách "liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông" (tức đoàn kết với nước Nga Xô viết, liên minh với Đảng Cộng sản và ủng hộ giúp đỡ công nông) lại không được nhắc tới.
__________________________________
1. Trụ sở Nam Đồng thư xã nay là số nhà 129 phố Trúc Bạch, Hà Nội.
2-4. Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, tập V, Nxb Văn - Sử - Địa, H. 1958, tr. 18, 81, 105.
5-7. Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, tập V, tr. 18, 81, 105.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 09:06:40 am

Rõ ràng, cho đến tận cuối năm 1929, Việt Nam quốc dân đảng vẫn không có một cương lĩnh thể hiện rõ mục đích và lập trường chính trị của mình. Đúng như Trần Dân Tiên nhận xét: "Nó muốn một nước cộng hòa, nhưng là thứ cộng hòa nào? Sẽ cai trị quốc gia như thế nào? Với phương pháp gì người ta sẽ xây dựng lại kinh tế quốc gia? Làm thế nào để nâng cao mức sống của những tầng lớp lao động, thợ thuyền, nông dân và trí thức? Về những điều này, Việt Nam quốc dân đảng chưa có chương trình rõ rệt"1.

Thành phần xã hội của Việt Nam quốc dân đảng chủ yếu gồm trí thức, học sinh, giáo viên, công chức, những người làm nghề tự do, một số thân hào thân sĩ ở nông thôn. Đảng còn có nhiều đảng viên là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp. Bản cáo trạng của Hội đồng đề hình xét xử vụ án Ba-danh (Bazin) năm 1929 đã thừa nhận: "Các giáo viên, các binh sĩ là hai cái cột chống đỡ mái nhà Đông Dương, Quốc dân đảng đã làm lay chuyển hai cây cột ấy".

Về mặt tổ chức, Việt Nam quốc dân đảng có bốn cấp: tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ và chi bộ. Mỗi chi bộ không quá 19 người, Điều lệ của đảng quy định các đảng viên trong một xóm, một làng, một tổng, một huyện, một khu phố hay một thành phố đều có thể hợp thành một chi bộ. Các hoạt động của chi bộ do cơ quan tỉnh bộ trực tiếp chỉ đạo và điều hành.

Lãnh đạo tổng bộ là một số nhân vật có uy tín như Nguyễn Thái Học (Chủ tịch đảng), Nguyễn Thế Nghiệp (Phó Chủ tịch đảng). Ngoài ra còn có các ủy viên khác như Nhượng Tống, Trương Dân Bảo, Nguyễn Hữu Đạt. Cơ quan Tổng bộ gồm có các ban Tuyên huấn, Ngoại giao, Trinh sát, Kinh tài, Tổ chức, Ám sát.

Trong hơn hai năm tồn tại, Việt Nam quốc dân đảng đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và phát triển cơ sở, nhưng địa bàn hoạt động chính của đảng là ở Bắc Kỳ. Ngoài ra còn có một số chi bộ ở Nam Kỳ và ở Lào. Tại Trung Kỳ, từ Vinh trở vào, Việt Nam quốc dân đảng không phát triển được vì thế lực của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt rất mạnh.

Ngoài các chi bộ, Việt Nam quốc dân đảng còn chủ trương thành lập các tổ chức quần chúng bao gồm Đoàn phụ nữ, Đoàn công nhân, Đoàn nông dân, Đoàn học sinh và các binh đoàn quân sự. Các hội đoàn này là lực lượng cảm tình của đảng, có nhiệm vụ hỗ trợ, phối hợp với các đảng viên trong đấu tranh giành chính quyền khi có thời cơ.
_________________________________
1. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, H. 1975, tr. 73.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 09:07:08 am

Hoạt động chủ yếu của Việt Nam quốc dân đảng là xây dựng lực lượng và phát triển cơ sở của đảng ở các địa phương. Đầu năm 1928, Việt Nam quốc dân đảng bắt đầu thực hiện việc hợp nhất với các nhóm "Việt Nam dân quốc" của Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Ninh, Bắc Giang; nhóm Hoàng Văn Tùng ở Thanh Hóa. Cũng từ thời gian này, nhờ hoạt động của những người lãnh đạo Tổng bộ như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu mà một số chi bộ Việt Nam quốc dân đảng đã lần lượt được thành lập ở Vĩnh Yên, Phú Thọ, Sơn Tây (Hà Tây). Tiếp đó, cuối năm 1928 đầu năm 1929, nhiều cơ sở của Việt Nam quốc dân đảng đã được xây dựng ở các tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng... Tính đến đầu năm 1929, riêng ở Bắc Kỳ đã có 120 chi bộ với khoảng 1.500 đảng viên, trong đó có 120 người là cai, đội và lính khố đỏ.

Trong mấy năm tồn tại, Việt Nam quốc dân đảng có chủ trương liên kết, phối hợp hành động với các tổ chức yêu nước và cách mạng trong nước. Ngay từ giữa năm 1928, Đảng đã cử người đi liên lạc và bàn việc hợp nhất với Tân Việt cách mạng đảng và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nhưng đều không đạt kết quả. Rút cục trong thực tế, Việt Nam quốc dân đảng vẫn bị cô lập với tất cả các nhóm cách mạng khác ở Đông Dương và cho đến năm 1930 - như chánh mật thám Đông Dương Mác-ty (Louis Marty) nhận xét - không quan hệ với những phần tử An Nam có xu hướng quốc gia đặt ở xứ ngoài.

Khác với các tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng, Việt Nam quốc dân đảng ít chú trọng tới công tác tuyên truyền và huấn luyện đảng viên. Năm 1928, Việt Nam quốc dân đảng quyết định ra báo Hồn cách mạng làm cơ quan ngôn luận. Nhưng mãi đến tháng 2 năm 1929, tờ báo mới phát hành được một số thì bị lộ nên phải đóng cửa. Nói chung, đảng không có một cơ quan ngôn luận, hoặc tài liệu, văn kiện chính thức nào để giải thích tôn chỉ, mục đích của đảng và để tuyên truyền huấn luyện đảng viên. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho công tác phát triển đảng tiến hành tùy tiện, thiếu cơ sở và chuẩn mực, đồng thời gây nên tình trạng mơ hồ về lập trường chính trị của đảng.

Do không có lý luận cách mạng làm cơ sở cho đường lối và phương pháp đấu tranh nên Việt Nam quốc dân đảng thiên về các hoạt động ám sát, khủng bố cá nhân. Một số vụ tống tiền các nhà giàu ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định vào đầu năm 1929 đều do Việt Nam quốc dân đảng thực hiện. Điển hình nhất là vụ ám sát Ba-danh - tên trùm mộ phu ở Bắc Trung Kỳ tại Hà Nội.

Vào dịp đầu tháng 2 năm 1929, chủ sở mộ phu Ba-danh tiến hành một đợt mộ phu mới ở Bắc Kỳ làm cho đông đảo quần chúng bất bình, căm phẫn. Để khích lệ tinh thần đấu tranh chống chính sách mộ phu của Pháp, Thành bộ Việt Nam quốc dân đảng Hà Nội đã cử Nguyễn Văn Viên thực hiện kế hoạch ám sát tên Ba-danh (ngày 9-2-1929), sau khi ám sát xong Nguyễn Văn Viên đã trốn thoát. Vụ ám sát Ba-danh đã làm nức lòng các tầng lớp nhân dân, còn bọn thực dân vô cùng hoảng sợ và tức tối. Chúng tăng cường lực lượng truy tìm thủ phạm vụ án, đồng thời nhân đà đó thẳng tay bắt bớ và khủng bố những người yêu nước, phá vỡ các tổ chức cách mạng. Hàng loạt đảng viên và quần chúng có cảm tình với đảng bị bắt. Sau 5 tháng mở chiến dịch khủng bố, đến giữa tháng 7 năm 1929, chính quyền thực dân đã bắt được 225 đảng viên đưa ra xử án. Đồng thời, tại Hà Nội và nhiều tỉnh khác như Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh..., hệ thống tổ chức cơ sở của đảng hầu như bị phá vỡ. Nguy cơ tan rã hoàn toàn của Việt Nam quốc dân đảng đang đến gần.

Nói tóm lại, Việt Nam quốc dân đảng về căn bản là một tổ chức "phỏng theo mô hình cách mạng của Quốc dân đảng Trung Quốc". Nó đại diện cho quyền lợi và tư tưởng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên. Vì thiếu một cơ sở kinh tế và giai cấp đủ mạnh làm chỗ dựa nên trong suốt mấy năm tồn tại của mình, Việt Nam quốc dân đảng không thể đưa ra được một đường lối chính trị độc lập. Thêm vào đó, công tác tổ chức và phát triển đảng rất sơ hở, lỏng lẻo; công tác tuyên truyền, huấn luyện thì sơ sài... Những nhược điểm và hạn chế đó làm cho Việt Nam quốc dân đảng không đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 09:09:30 am

Câu hỏi 2: Hãy cho biết nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc thành lập Việt Nam quốc dân đảng?
Trả lời:


a) Nguyên nhân và điều kiện khách quan: Do ảnh hưởng của cách mạng tư sản Trung Quốc.

Ngoài những tác động lớn lao sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất, một ảnh hưởng trực tiếp từ nước láng giềng đưa lại là phong trào cách mạng ở Trung Quốc do Quốc dân đảng lãnh đạo đã dội mạnh vào nước ta. Trước và sau cuộc Cách mạng tư sản năm 1911 (được gọi là cuộc Cách mạng Tân Hợi), trên các sách báo trong nước cũng như tin tức từ ngoài truyền vào, cách mạng Trung Quốc đã trở thành một đề tài bàn luận và chiếm được cảm tình của các nhà trí thức Việt Nam. Những lãnh tụ của đảng cách mạng Trung Quốc như Tôn Văn, Hoàng Hưng, Hồ Hán Dân, Trần Anh Sĩ, Sái Ngạc... đã được nhiều người Nam viết sách ca tụng và treo hình ảnh ở nhà. Cái chết oanh liệt của 72 nghĩa sĩ ở Hoàng Hoa Cương đã gieo sự căm phẫn quân thù vào tâm khảm của một số thanh niên cách mạng Việt Nam bấy giờ. Cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công, rồi cuộc Cách mạng Tân Hợi thất bại. Những biến thiên đó gây tác động lớn với cách mạng Việt Nam. Phong trào Ngũ tứ (4-5-1917), phong trào Tân văn hóa, nhất là cuộc đại cách mạng 1923-1925 đã như một cơn gió lốc thổi vào Việt Nam trong lúc giai cấp tư sản vừa thức dậy. Học thuyết Tôn Văn và chủ nghĩa Tam dân đã mở cho các nhà cách mạng cấp tiến Việt Nam một phương trời mới. Có người đã thay chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc thành chủ nghĩa dân tộc Việt Nam bằng cách đem vào một nội dung Việt Nam. Cho đến năm 1927, cuộc Bắc phạt của Quốc dân đảng do sức ủng hộ của công nông, đẩy tới một cao trào thắng lợi thì cũng là lúc mà chính đảng của giai cấp tư sản Việt Nam bắt đầu thành lập.

b) Điều kiện chủ quan

Trước khi Việt Nam quốc dân đảng ra đời, hai đảng Thanh niên và Tân Việt đã chiếm một địa vị trên trường cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, với thành phần của nó, hai đảng này cũng chỉ mới thu hút được một số đông thanh niên tiểu tư sản, công nhân, nhân sĩ cách mạng. Còn các tầng lớp khác như phú nông, kỳ hào và địa chủ vẫn còn vắng mặt nhiều trong các tổ chức bí mật bấy giờ.

Từ năm 1925, trong khi phong trào chính trị diễn ra sôi nổi như biểu tình đòi thả cụ Phan Bội Châu, truy điệu cụ Phan Chu Trinh, đưa đám cụ Lương Văn Can, v.v... thì Nam Đồng thư xã do Phạm Tuấn Tài làm chủ nhiệm thành lập ở Hà Nội. Thư xã này chuyên xuất bản những sách ái quốc hòa nhịp với những bài cổ súy phong trào trên tờ Thực nghiệp dân báo bấy giờ đã gây được một tiếng vang không nhỏ và lôi cuốn được một số đông những người cảm tình xung quanh.

Tiếp đó, từ tuyên truyền cổ động đi đến tổ chức, Nam Đồng thư xã chính là phôi thai của Việt Nam quốc dân đảng sau này. Như trên đã nói, ở nước ta hồi ấy, trước Việt Nam quốc dân đảng đã có hai đảng Thanh niên cách mạng và Tân Việt cách mạng. Vậy vì cớ gì mà lại mọc ra một đảng thứ ba? Nhìn vào thành phần của ba đảng này, chúng ta thấy cũng có chỗ giống nhau và cũng có chỗ khác nhau. Và những thành phần xã hội còn có những bất đồng về chính kiến đối với một vài vấn đề lớn.

Về tư tưởng và hành động, phái Nam Đồng thư xã hầu hết là tín đồ của Tôn Trung Sơn. Họ nặng về chủ nghĩa dân tộc và không chủ trương đấu tranh giai cấp. Họ chú trọng vào công việc bạo động và sao nhãng những hình thức tuyên truyền và tranh đấu hàng ngày. Đối với những đảng viên đảng Thanh niên bấy giờ, mặc dầu thành phần giai cấp và đường lối chính trị còn khác xa với Đảng Cộng sản, nhưng những tiếng "cách mạng thế giới" và "cộng sản” trở nên quen thuộc của nhiều người. Mà những cái đó cố nhiên không thể có được những đồng cảm và đồng điệu của phái Nam Đồng thư xã. Thêm vào đấy cơ quan chỉ huy trung ương của đảng Thanh niên bấy giờ đặt ở Quảng Châu, không được sự đồng tình của phái Nam Đồng trong khi họ chủ trương tổng bộ phải đặt ở trong nước. Chính cũng vì những kiến giải khác nhau ấy đã đưa một số thanh niên tiểu tư sản Hà thành vây quanh Nam Đồng thư xã bấy giờ trù định một tổ chức cách mạng khác.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 09:10:35 am

Câu hỏi 3: Cho biết chương trình hoạt động và tổ chức của Việt Nam quốc dân đảng?
Trả lời:


Cuộc vận động thành lập tổ chức Việt Nam quốc dân đảng bắt đầu từ nửa cuối năm 1927. Qua mấy kỳ hội nghị sơ bộ và vạch ra những tổ chức sơ sài, ngày chính thức thành lập đảng vào ngày 25 tháng 12 năm 1927. Hôm ấy có một số đại biểu các chi bộ ở Bắc Kỳ đến dự đại hội và thông qua bản đề án tổ chức cùng chương trình và điều lệ của đảng.

Những sáng lập viên của đảng hầu hết là những người trong Nam Đồng thư xã và một số cảm tình ở xung quanh. Trong đó có những người viết báo, làm sách, làm các nghề tự do hay công chức, sinh viên. Có cả những người trước kia đã vào đảng "Việt Nam độc lập” ở bên Pháp hay có dính líu với đảng Thanh niên trong việc đưa học sinh sang học ở Quảng Châu rồi bị bắt ở biên giới Trung - Việt. Có cả mấy đại biểu nông dân ở các tỉnh lân cận.

Đại hội đã bầu ra ban lãnh đạo gồm:

      - Nguyễn Thái Học: Chủ tịch tổng bộ.
      - Nguyễn Thế Nghiệp: Phó Chủ tịch.
      - Phó Đức Chính: Trưởng ban Tổ chức.
      - Nhượng Tống: Trưởng ban Tuyên truyền.
      - Nguyễn Ngọc Sơn: Trưởng ban Ngoại giao.
      - Đặng Đình Điển: Trưởng ban Tài chính.
      - Nguyễn Hữu Đạt: Trưởng ban Giám sát.
      - Trương Dân Bảo: Trưởng ban Trinh sát.
      - Hoàng Văn Tùng: Trưởng ban Ám sát.

Riêng Ban Binh vụ khuyết.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 02:44:06 pm

a) Chương trình hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng:

Việt Nam quốc dân đảng không phải là một đảng quốc gia thuần túy, không đề cập gì đến vấn đề thế giới. Những người sáng lập ra nó hầu hết là tín đồ của Tôn Trung Sơn thấm nhuần chủ nghĩa Tam dân, nên tinh thần và tuyên bố của nó trong những ngày đầu cũng không bó hẹp ở trong phạm vi quốc gia. Có điều là quan niệm thế giới của những người quốc dân đảng bấy giờ không được rõ ràng lắm. Trong bản chương trình điều lệ thảo ra lúc đầu, không nói gì đến những chữ "chủ nghĩa", "chính cương" hay "đảng cương” mà chỉ nêu ra một câu coi như kim chỉ nam của nó là: "Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng". Nhưng làm thế giới cách mạng theo cung cách nào? Những dòng cuối cùng của bản chương trình điều lệ cũng chỉ nhắc đến bằng một câu: "Sau khi làm xong cuộc cách mạng quốc gia rồi, sẽ cùng các dân tộc nhược tiểu cùng làm cách mạng thế giới".

Về mục đích và tôn chỉ, đảng nêu rõ ràng là đánh đổ nền quân chủ chuyên chế, lập Việt Nam dân quốc cộng hòa. Nhân dân được hưởng những quyền tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, v.v...

Trên bước tiến hành cuộc cách mạng quốc gia, đảng chia ra ba thời kỳ:

1) Thời kỳ phôi thai tức thời kỳ bí mật.

Công tác chính trong thời kỳ này là kết nạp đảng viên, tổ chức các chi bộ để gây cơ sở cho đảng.

2) Thời kỳ dự bị tức thời kỳ bán công khai.

Sau khi cơ sở đã rộng và vững rồi, đảng chú ý đến việc tổ chức các đoàn thể quần chúng ở xung quanh đảng như công đoàn, binh đoàn, nông đoàn, học sinh đoàn, v.v... Đồng thời đảng lập ra những cơ quan tuyên truyền như ra báo, viết sách để chấn hưng dân khí và cổ động gián tiếp cho đảng. Trong khi ấy đảng cũng phái người ra ngoài học tập, vào các trường võ bị, các xưởng chế tạo khí giới để sang thời kỳ thứ ba về nước đánh giặc.

3) Thời kỳ khởi nghĩa tức thời kỳ công khai.

Qua hai thời kỳ chuẩn bị ở trên, đến đây đảng đã có thể tiến tới một cuộc tổng khởi nghĩa. Những cơ quan tuyên truyền sẽ tung ra những sách báo công khai cổ động khởi nghĩa. Những đoàn quân cảm tử được tổ chức hợp với những đồng chí trong quân đội Pháp nổi dậy tại các thành thị. Những cán bộ quân sự từ ngoại quốc về chỉ huy cuộc khởi nghĩa.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 02:49:24 pm

b) Tổ chức của Việt Nam quốc dân đảng

Tổ chức của đảng lấy chi bộ làm đơn vị căn bản. Bất kỳ ở đâu hễ có một số đảng viên, mặc dầu chức nghiệp khác nhau, là có thể họp thành một chi bộ. Mỗi chi bộ hạn định từ 19 người trở xuống1, sở dĩ có sự hạn định theo con số ấy là vì theo luật lệ lưu hành của chính phủ Pháp bấy giờ, những cuộc hội họp nào từ 19 người trở lên đều phải xin phép. Như vậy nếu cuộc hội họp nào của chi bộ có bị khám phá thì với số người ấy, cũng không bị rơi vào lưới pháp luật của giặc2. Trên cấp chi bộ là huyện bộ, rồi đến tỉnh bộ. Tại thành phố là thành bộ, trên những tỉnh bộ và thành bộ là kỳ bộ. Cao hơn hết là tổng bộ toàn quốc.

Nguyên tắc tổ chức là dân chủ tập trung. Mọi người trong chi bộ bầu ra một chi bộ trưởng và một đại biểu của chi bộ. Những đại biểu của chi bộ họp thành huyện bộ. Huyện bộ bầu một huyện bộ trưởng và một đại biểu lên tỉnh bộ. Cứ như thế lên tới kỳ bộ và tổng bộ. Những đại biểu trong huyện bộ, tỉnh bộ, thành bộ, kỳ bộ và tổng bộ cũng không quá số 19 người.

Mỗi chi bộ có 4 ban: tuyên truyền, tổ chức, tài chính và trinh thám. Ban Tuyên truyền giữ việc tuyên truyền cho đảng để kết nạp đảng viên. Ban Tổ chức giữ việc tổ chức các cuộc hội họp, các cơ quan sinh lời. Ban Tài chính thu tiền nguyệt liễm, tiền lạc quyên của các đảng viên và giữ quỹ của chi bộ. Ban Trinh thám chuyên việc dò xét tình hình trong ngoài và theo dõi hành tung của các đảng viên nếu có điều gì đáng ngờ. Mỗi ban đều có một trưởng ban chịu trách nhiệm với chi bộ trưởng.

Từ chi bộ đến tỉnh bộ, mỗi cấp đều có 4 ban kể trên. Nhưng ở kỳ bộ và tổng bộ thì đã mở rộng thành 8 ban với những công tác trọng yếu của nó:

1) Ban Tuyên truyền huấn luyện chuyên việc tuyên truyền và huấn luyện đảng viên, tổ chức nhà in và biên tập các sách báo bí mật. Nếu có điều kiện đặt thêm cơ quan tuyên truyền ở nước ngoài.

2) Ban Tổ chức giữ việc tổ chức các cơ quan, các cuộc hội họp lớn.

3) Ban Kinh tế tài chính giữ quỹ của đảng, làm ra tiền cho đảng bằng đủ mọi cách sinh lợi, mạo hiểm, v.v...

4) Ban Trinh thám chuyên việc dò xét tình hình bên địch và hành động của các đảng viên. Nếu gặp những kẻ phản đảng, phản cách mạng, Ban Trinh thám theo dõi cho có đủ bằng chứng để đưa lên Ban Tư pháp.

5) Ban Tư pháp giữ việc xét xử những kẻ phản đảng.

6) Ban Ám sát thi hành kỷ luật của đảng do Ban Tư pháp giao cho. Chẳng những trừng trị những kẻ phản đảng mà cả những kẻ phản cách mạng ở ngoài đảng cho đến những quan lại Pháp nổi tiếng tham ác.

7) Ban Quân sự tổ chức những đội quân cảm tử của đảng, chế tạo vũ khí và điều khiển cuộc vũ trang bạo động.

8 ) Ban Giám sát chuyên việc kiểm tra các công việc của đảng thuộc mọi cấp, mọi ngành.
______________________________
1. Trong chi bộ không phân ra những tiểu tổ như tổ chức của các đảng mà chúng ta thường thấy.
2. Thực ra bọn thống trị Pháp lúc bấy giờ cũng không căn cứ vào luật hiện hành này. Nếu chúng bắt gặp một cuộc hội họp chính trị nào, có khi chỉ 5, 3 người cũng bị bắt và bị tù.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 02:51:16 pm

Về việc tổ chức binh lính trong hàng ngũ quân đội Pháp, trước kia những chi bộ địa phương thường gồm cả binh lính ở trong và dân chúng ở ngoài. Nhưng sau vì những điều bất tiện và dễ lộ bí mật, đảng tổ chức một ngành riêng cho những đảng viên nhà binh. Ngành này được cử đại biểu trực tiếp với tổng bộ. Tuy vậy nếu gặp nơi nào chỉ mới có một số binh lính lẻ tẻ vào đảng thì hãy tạm sinh hoạt chung với những chi bộ ở ngoài.

Trong việc tổ chức của Việt Nam quốc dân đảng còn có một điều phiền phức nữa là vấn đề phụ nữ. Lúc mới đầu theo điều lệ đã định những chị em phụ nữ được tự do vào đảng, nhưng phải sinh hoạt riêng từng chi bộ. Sau vì một vài việc xảy ra ở trong các tổ chức cách mạng khác, Việt Nam quốc dân đảng đã đi đến chỗ không cho phụ nữ vào đảng, mà chỉ tổ chức ra những đoàn riêng. Tuy vậy một chi bộ phụ nữ đã tổ chức từ trước, trong đó có hai chị Bắc và Giang thì vẫn để nguyên không giải tán. Còn những chị gia nhập sau này thì đều là đoàn viên. Cho đến khi chuẩn bị khởi nghĩa thì giới hạn nam nữ trong đảng mới xóa bỏ.

Về kỷ luật của Việt Nam quốc dân đảng có khác với nhiều đảng cách mạng khác là: bên cạnh những hình phạt phê bình, cảnh cáo, khai trừ, còn có cả tử hình. Những đảng viên được kết nạp vào đảng, trong khi làm lễ tuyên thệ, sau những lời hứa "hy sinh tính mạng", "hy sinh tài sản" còn có cả lời hứa không được ra khỏi đảng. Nếu thoát ly đảng sẽ bị tử hình1.

Việt Nam quốc dân đảng vừa thành lập đã phát triển khá nhanh. Hồi ấy tại vùng Bắc Ninh và Bắc Giang có cuộc âm mưu bạo động. Người chủ mưu là ông Nguyễn Khắc Nhu tức Xứ Nhu - một nhà nho có danh vọng ở trong vùng và một số đồng chí vừa ở trong quân đội Pháp vừa ở ngoài dân. Thế lực của nó không ra ngoài hai tỉnh kể trên. Nó không có một tổ chức như một chính đảng. Theo tiếng gọi của người đương thời nó được gọi là phái "Việt Nam dân quốc" vì chủ trương của nó là đánh đuổi giặc Pháp để lập nền dân quốc Việt Nam. Cuộc âm mưu bạo động đương tiến hành thì cơ quan chế bom bị phát giác2 vì trong lúc vô ý đã làm bom nổ chết người. Hai người phụ trách cơ quan chế vũ khí này là hai ông Đồ Cương và Quản Trác đều trốn thoát. Một số binh lính ở Bắc Ninh có dính líu đến vụ âm mưu bạo động bị khám phá. Giặc Pháp bắt nhiều người và cuộc bạo động bị vỡ ngay từ trong trứng. Cũng là lúc mấy đại biểu của Việt Nam quốc dân đảng mới thành lập tìm đến ông Xứ Nhu và mấy lãnh tụ khác khuyên chưa nên bạo động vội và mời vào tổ chức của đảng. Do đó phái "Việt Nam dân quốc" bỏ kế hoạch bạo động đương theo đuổi và hầu hết gia nhập Việt Nam quốc dân đảng. Tức thì quốc dân đảng có thế lực mạnh ngay ở vùng Bắc Ninh và Bắc Giang.
_______________________________
1. Lời thề này vì phản khoa học nên thực tế đã không áp dụng được, không nói gì những kẻ phản đảng, phản cách mạng đã chui vào trong đảng, mà đảng cũng không thể giữ được đảng viên. Những ngày sau này trào lưu cách mạng tiến nhanh và ý thức giai cấp rõ rệt, một số đông những phần tử cấp tiến đều thoát ly Việt Nam quốc dân đảng để gia nhập Đảng Cộng sản.
2. Cơ quan chế bom ở núi Chè thuộc làng Cao Kỵ (Bắc Ninh).


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Ba, 2017, 02:51:33 pm

Ngoài hai tỉnh kể trên đảng còn có cơ sở ở các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An và rải rác ở nhiều tỉnh Bắc Kỳ. Thành phần của nó ở thành thị là một số tư sản, tiểu tư sản trí thức, công chức và học sinh; ở thôn quê hầu hết là những thân hào, phú nông, trung nông và địa chủ. Tại Thái Bình, một nhà đại địa chủ làm nghị viện dân biểu trong thời Pháp thuộc có chân trong tổng bộ của đảng và là một "Mạnh Thường Quân" của đảng. Trong số đảng viên còn có cả một tuần phủ là lang Mường có tiếng ở Hòa Bình. Đảng cũng có một số ít công nhân ở thành thị, hoặc ở trong công xưởng, hoặc làm nghề thủ công.

Đồng thời đảng phát triển mau ở Nam Kỳ mà Cường học thư xã làm trung tâm điểm. Ngoài thành phố Sài Gòn, thế lực đảng lan đến các miền Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Trà Vinh, Bến Tre, Biên Hòa và Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu).

Tại Trung Kỳ, tổ chức của đảng chen vào những tổ chức của Thanh niên và Tân Việt nên không lan rộng được nhiều. Ngoài một chi bộ ở Thanh Hóa ra, đảng chỉ có những phần tử rải rác tại mấy tỉnh như Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết.

Một địa hạt hầu như độc quyền của Việt Nam quốc dân đảng hồi ấy là những binh lính trong hàng ngũ quân đội Pháp. Đối với hai đảng Thanh niên và Tân Việt, binh lính chỉ mới được tuyên truyền ít nhiều, chưa có tổ chức. Trái lại Việt Nam quốc dân đảng vừa thành lập đã bắt tay ngay vào việc tổ chức các chi bộ ở trong quân đội Pháp. Do đó không bao lâu, đảng có một số trung kiên trong hàng ngũ lính khố đỏ và pháo binh của Pháp, nhất là ở Hải Phòng và Kiến An.

Tóm lại, cơ sở của Việt Nam quốc dân đảng là ở Bắc Kỳ. Lực lượng chính của nó là binh lính người Việt trong quân đội Pháp, tiểu thương tiểu chủ, thân hào địa chủ, nông dân dưới quyền lãnh đạo của một số tư sản, tiểu tư sản thành thị.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Ba, 2017, 06:33:23 pm

Câu hỏi 4: Hãy trình bày hoạt động chính của Việt Nam quốc dân đảng giai đoạn 1928-1929, trong đó có vụ ám sát Ba-danh - tên trùm mộ phu ở Bắc - Trung Kỳ tại Hà Nội?
Trả lời:


Công tác tuyên truyền huấn luyện của Việt Nam quốc dân đảng rất bị hạn chế, mặc dù từ chi bộ cho đến trung ương đều có Ban Tuyên truyền. Tại Trung ương có tờ báo "Hồn cách mạng" là tờ báo duy nhất. Nhưng cho đến tháng 2 năm 1929, trước ngày bị lộ mới xuất bản được số đầu, in bằng thạch. Vì quá lệ thuộc vào nguyên tắc bí mật, từ tổ chức đến cả danh nghĩa, đảng không hề tuyên truyền ra đến ngoài. Còn việc huấn luyện đảng viên thì hầu như không có. Người mới vào đảng chỉ được giải thích qua loa về chương trình, điều lệ của đảng. Ngoài một vài bài văn thơ cảm khái để cổ động lòng yêu nước thương nòi, đảng không có một chương trình huấn luyện để đào tạo hay giác ngộ cán bộ, đảng viên. Nếu có một vài tài liệu tuyên truyền hay giải thích về đường lối chính trị của đảng thì cũng là do sự tự động của một vài đảng bộ địa phương chứ không phải bài học chung của đảng. Nguyên nhân là do thành phần của đảng đã phức tạp, quy định lại thiếu thống nhất đối với các đảng viên, do đó đảng không có một tinh thần và một ý chí chung. Ngay đến việc nhận định tôn chỉ của đảng cũng có chỗ không giống nhau. Ví dụ đối với một câu quan trọng nhất trong đường lối chính trị của đảng: "Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng" thì cũng theo xu hướng từng người mà giải thích khác nhau. Người nặng nề về quốc tế thì cắt nghĩa thế giới cách mạng là cứu cánh, còn dân tộc cách mạng là con đường trải qua. Trái lại người nặng nề về quốc gia thì hiểu nghĩa thế giới cách mạng, theo quan niệm của Tôn Trung Sơn, là giúp cho các dân tộc nhỏ yếu làm cách mạng chứ không liên hiệp với giai cấp vô sản toàn thế giới. Tại đảng bộ Nam Kỳ việc kết nạp đảng viên chú trọng vào những người có tinh thần quốc tế và bài xích chủ nghĩa quốc gia thuần túy. Trong quyển "Câu chuyện chung"1 do Ban Tuyên truyền đảng bộ viết ra và xuất bản công khai dưới danh nghĩa của Cường học thư xã, có câu: Trong lúc này nếu ai chỉ nói đến dân tộc cách mạng mà không đặt nó vào phạm vi thế giới cách mạng là chật hẹp, cũng như ai chỉ nói đến thế giới cách mạng mà quên dân tộc cách mạng là "vu khoát"2. Cũng tại đảng bộ này, người ta kết nạp cả những người từ Matxcơva về và trong số tài liệu huấn luyện đảng viên có cả những bản "Chủ nghĩa cộng sản sơ giải" (A.B.C. du communisme) và "Công xã Pari"3.

Chẳng những thế, trong bản chương trình đầu tiên của Việt Nam quốc dân đảng không nói gì đến kiến thiết quốc gia sau khi độc lập thế nào, ngoài một câu vắn tắt: "Lập Việt Nam dân quốc cộng hòa". Chính chỗ này cũng là mối tranh luận giữa những đảng viên khác nhau về chính kiến.
________________________________
1. Người ký tên viết sách này là Hậu Nhân. Sách vừa ra được 4 ngày thì bọn mật thám Pháp ỏ Sài Gòn đến tịch thu sách còn lại ỏ Cường học thư xã và bắt người quản lý bỏ tù.
2. Vu khoát: Vu vơ.
3. Việc huấn luyện chủ nghĩa và nhận định đường lối chính trị không thống nhất ở trong đảng đã gây nên phân liệt sau này giữa các đảng viên bị bắt giam ở trong nhà tù của đế quốc Pháp. Năm 1931 tại đảo Hòn Cau, một số đông những đảng viên cao cấp Việt Nam quốc dân đảng, trong đó có cả những ủy viên Tổng bộ và Kỳ bộ Nam Kỳ đã đem bản chương trình điều lệ của đảng thảo ra từ lúc mới đầu để kiểm thảo lại, và giải thích câu "trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng", một câu then chốt đã gây nên những cuộc tranh luận kịch liệt đến phân liệt giữa hai dòng tư tưởng của đảng viên, bằng một đoạn ý nghĩa rộng rãi sau này: "Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng có nghĩa là trừ bỏ những bất bình về kinh tế, về chính trị và xã hội để mưu hạnh phúc cho người Việt Nam và thế giới". Câu giải thích rộng rãi và thiếu chuẩn xác này đã được đa số đảng viên có mặt ở đấy thông qua. Nhưng vì quan điểm và tinh thần khác nhau về căn bản giữa các đảng viên nên nạn phân liệt vẫn không tránh được.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Ba, 2017, 06:35:30 pm

Về quan hệ với các đảng phái khác, giữa năm 1928, Việt Nam quốc dân đảng phái đại biểu là Hồ Văn Mịch, Nguyễn Ngọc Sơn và Nguyễn Văn Tiềm tìm đến mấy đảng phái để đề nghị thống nhất. Đoàn đại biểu đã vào Nam Kỳ tiếp xúc với nhóm Nguyễn An Ninh1, với ông Nguyễn Đình Kiên - lãnh tụ Đảng Tân Việt ở đây và sang Xiêm định gặp các lãnh tụ trung ương Đảng Việt Nam Thanh niên cách mạng. Chuyến đi này không có kết quả cụ thể, vì những người phụ trách các đảng phái kể trên mới hứa hẹn chuyển lời đề nghị lên thượng cấp quyết định. Sau đó, đề nghị này cũng không thấy được chính thức đem thảo luận giữa các đảng phái bấy giờ.

Đối với những nhóm hay những nhà cách mạng Việt Nam còn sót lại ở Trung Quốc sau khi cụ Phan Bội Châu bị bắt về nước, Việt Nam quốc dân đảng cũng không có liên lạc gì. Có chăng, đại biểu Việt Nam quốc dân đảng chỉ giao thiệp được với mấy thổ phỉ Phi Long, Phi Hổ ở biên giới, họ cũng hứa hẹn giúp cho cách mạng Việt Nam.

Đến cuối năm 1928, vì thấy bản chương trình điều lệ đầu tiên còn sơ sài quá và theo đề nghị "chính đảng cương, minh đảng nghĩa"2 của ông Nguyễn Khắc Nhu, Tổng bộ Việt Nam quốc dân đảng đã dự thảo một bản chương trình điều lệ thứ hai. Bản này dài và kỹ hơn trước nhiều, trong đó có vạch ra chương trình kiến thiết quốc gia sau khi độc lập, nói rõ là theo chế độ "dân chủ trực tiếp" như nước Thụy Sĩ. Và chủ nghĩa của đảng gọi là chủ nghĩa xã hội dân chủ3.

Bản chương trình điều lệ này mới được trung ương thông qua còn phải gửi đi thảo luận tại các chi bộ để có một quyết định cuối cùng thì cuộc khủng bố lần thứ nhất xảy ra, nó phải xếp lại và không được đả động tới nữa.
_________________________________
1. Nhóm này không thành một chính đảng rõ rệt, lãnh tụ của nó là Nguyễn An Ninh. Sau khi ở tù ra, năm 1927, ông có ý làm một bản thỉnh nguyện gửi cho chính phủ Pháp quốc, trong đó có lấy nhiều chữ ký của nhân dân, đòi chính phủ Pháp thi hành những tự do dân chủ ở Việt Nam. Bản thỉnh nguyện này mới ở trong khuôn khổ cải lương và việc lấy chữ ký còn đang tiến hành. Giữa lúc ấy phong trào tổ chức bí mật tràn đến Nam Kỳ, ông liền tìm cách đưa dẫn những người ký tên trong bản thỉnh nguyện kia vào một tổ chức bí mật. Phạm vi tổ chức mới ở trong địa hạt Gia Định nhất là mấy làng Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa, Bà Quẹo, Quán Tre, Trung Chánh, v.v... là quê hương của ông. Những người gia nhập cũng phần nhiều là hội viên Thiên địa hội từ trước. Nhóm Nguyễn An Ninh không giống với tác phong những chính đảng cùng thời như Tân Việt, Thanh niên cách mạng hay Việt Nam quốc dân đảng. Có người gọi nó là đảng "Cao vọng", nhưng không đúng, vì "Thanh niên cao vọng" là tên một quyển sách của Nguyễn An Ninh xuất bản hồi ấy, chứ không phải tên đảng. Vì muốn giữ được bí mật tuyệt đối, Nguyễn An Ninh không muốn có một tên gọi cụ thể, sợ dễ bị tiết lộ, nên người ngoài chỉ quen gọi là "đảng ông Ninh". Trong khi tổ chức này đương thành lập thì Nguyễn An Ninh bị bắt rồi nhóm này cũng tan.
2. Theo nguyên văn: Nghĩa là làm chính đảng cương lại và làm rõ đảng nghĩa ra.
3. Sau mấy chữ "chủ nghĩa xã hội dân chủ" còn chứa thêm chữ Pháp "sociale démocratie" và nói rõ là không phải chủ nghĩa xã hội dân chủ của Đảng Xã hội Đức.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Ba, 2017, 06:37:37 pm

Một cái "đinh" của Việt Nam quốc dân đảng đã làm cho nhiều người phải chú ý bấy giờ là nhà hàng Việt Nam tại phố Hàng Bông, Hà Nội. Nhà hàng này vừa là cơ quan sinh lời, vừa là cơ quan liên lạc và hội họp của đảng. Hàng ngày, một lá cờ vàng1 được treo ở cửa. Trong nhà hàng lúc nào cũng tấp nập những khách bốn phương cùng những thanh niên, sinh viên, nhà văn, nhà báo mà bọn chó săn Pháp đã quen mặt. Như vậy từ bề ngoài nhìn vào, nó đã tự quảng cáo là một cơ quan công khai của một đảng cách mạng mặc dầu bí mật. Và người ta không lấy làm lạ là bọn mật thám Pháp đã dò biết một cách tường tận để chờ ngày hạ thủ.

Vì thành phần phức tạp, hành động tùy tiện, Việt Nam quốc dân đảng đã để cho bọn gián điệp Pháp chui vào đảng không ít. Một trong những tên tay sai đắc lực của chúng là Bùi Tiến Mai, một đảng viên ở Thái Bình. Mai trước kia làm thừa lại, sau gia nhập Quốc dân đảng. Do thủ đoạn gian xảo Mai đã mua được lòng tín nhiệm của các "đồng chí" địa phương để đi sâu vào đảng. Có lần Mai đã thay mặt vị đại biểu Thái Bình là Đặng Đình Điển, đi dự cuộc hội nghị quan trọng của tổng bộ, do đó càng biết được nhiều điều bí mật của đảng để báo cáo với giặc Pháp. Thực ra, những thám tử của Pháp ở trong Quốc dân đảng lúc bấy giờ chẳng riêng gì Bùi Tiến Mai mà còn nhiều kẻ khác ở nhiều cơ quan. Có đứa nguyên là mật thám từ trước rồi tìm cách chui vào đảng. Có đứa sau khi vào đảng rồi mới bị mua chuộc để làm mật thám. Bằng những báo cáo thường xuyên và chi tiết, bọn chức trách Pháp chẳng những theo dõi được từng hành động của Quốc dân đảng, mà còn biết được cả những địa chỉ bí mật, biên bản các cuộc hội nghị, cho đến cả nội tình của đảng2. Tuy vậy, theo thủ đoạn "nuôi cho béo" của mật thám Pháp, chúng cứ để cho cái tổ chức cách mạng đã nắm chắc ở trong tay chúng được tự do phát triển để tìm cho ra nguồn gốc, để thu hút được những người ái quốc vào cạm bẫy rồi cho đến giờ cuối cùng chúng sẽ làm một mẻ "lưới quét" trên trường cách mạng Việt Nam.

Trong lúc Việt Nam quốc dân đảng đã bị lộn sòng vào những kẻ phản động, phản cách mạng, mật thám tay sai cho giặc thì nội bộ của đảng cũng chia rẽ.

Trước đó lãnh tụ đảng đã chia ra hai phái. Một phái mà hai ông Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học là tiêu biểu gồm có những người đứng tuổi, trung thành, nhưng tư tưởng và hành động đều theo nền nếp cũ. Một phái mà Nguyễn Thế Nghiệp làm tiêu biểu gồm một số thanh niên trí thức tiểu tư sản, làm việc có thủ đoạn, nhưng không được đa số tín nhiệm. Phái dưới thường cho phái trên là già nua bất tài. Trái lại phái trên thường bảo phái dưới là bất trắc. Hố chia rẽ giữa đôi bên càng ngày càng sâu rộng. Cuối năm 1928, nhiệm kỳ những ủy viên tổng bộ khóa thứ nhất đã hết, đảng có cuộc bầu cử lại những đại biểu lên các cấp bộ. Lần này bọn Nguyễn Thế Nghiệp liền bị truất ra khỏi tổng bộ. Họ liền đề nghị cải tổ lại bộ máy trung ương. Theo đề nghị của họ từ nay trung ương không chỉ là một cơ quan duy nhất như trước mà chia làm hai ban: Lập pháp và Hành chính. Ban Tư pháp gồm có những đại biểu từ dưới bầu lên. Ban Hành chính có thể lựa những người có tài năng bổ nhiệm. Kết quả là ông Nguyễn Khắc Nhu làm Trưởng ban Tư pháp còn Nguyễn Thế Nghiệp và bè lũ tự ứng nhiệm vào Ban Hành chính. Từ đó sự mâu thuẫn giữa hai phe lập pháp và hành chính càng ngày càng gắt gao, đã đến lúc phải đối phó với nhau một cách quyết liệt. Bọn Nguyễn Thế Nghiệp một mặt bí mật tổ chức ra một đảng khác ở trong Việt Nam quốc dân đảng, một mặt thông đồng với mật thám Pháp định mượn tay chúng để trừ tiệt phái đối lập3. Dò biết mưu gian, phái ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu cũng bí mật tìm cách trừ mau bọn phản bội và giao cho Ban Ám sát thi hành.
__________________________________
1. Cho đến lúc ấy Việt Nam quốc dân đảng vẫn chưa có đảng kỳ. Và trước ngày bạo động Yên Bái, đảng mới chọn lá cờ nửa đỏ, nửa vàng làm đảng kỳ.
2. Những điều này người ta biết được sau khi đảng đã bị vỡ lở và một số đông đảng viên đã bị bắt.
3. Sau cuộc Cách mạng tháng Tám, người ta tìm thấy trong tập tài liệu bí mật của sở mật thám Pháp tại Hà Nội có những bằng chứng chứng tỏ tên Nguyễn Thế Nghiệp đã làm gián điệp cho Pháp từ lâu.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Ba, 2017, 06:38:21 pm

Giữa làn không khí nghiêm trọng, người ta đương chờ một cuộc sát phạt xảy ra ở trong nội bộ thì vừa lúc vụ ám sát Ba-danh xảy ra, thực dân liền hạ lệnh bắt cho nhanh những đảng viên Quốc dân đảng và do đó cơ sự lại xoay ra một chiều khác.

Trong cuộc khai thác nguyên liệu của thực dân Pháp ở Đông Dương, việc trồng cây cao su là một nguồn lợi lớn của chúng. Tại miền đất đỏ Nam Kỳ như Long Thành, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh sang đến Kông-pông-thơm, Kông-pông-chàm trên địa hạt Cao Miên (Campuchia) đều đầy rẫy những vườn cao su của chúng. Những nhân công làm tại các đồn điền cao su hầu hết đều do chúng mộ ở Trung - Bắc Kỳ đem vào. Chúng lập ra những sở mộ phu và phái người về các thôn quê chiêu mộ những bần cố nông đi làm cho chúng. Những phu mộ đều phải ký giấy hợp đồng trong một kỳ hạn là 3 năm với những lời hứa phỉnh phờ. Nhưng sau khi đã xuống tàu rồi, những người phu ấy chỉ còn là những con vật không hơn không kém. Chế độ lao động tại các đồn điền cao su là một hình thức dã man nhất trong việc bóc lột nhân công ở thuộc địa. Hàng ngày, người phu phải làm việc 11, 12 giờ với giá tiền công chết đói. Ốm đau không bảo đảm. Hình phạt rất tàn khốc. Chủ sở và bọn tay sai của chúng là bọn cai, sếp có quyền đánh chết người vô tội vạ trong địa hạt của chúng. Vì vậy số người được thoát chết trở về so với số phu mộ hàng năm đem đi không quá ba, bốn phần trăm. Những đồn điền lớn như Phú Riềng, Giồng Tiếng, Phước Hòa, Hớn Quản, Bến Súc, Chúp, v.v... tại Nam Kỳ và Cao Miên đều đã được bón tưới bằng xác và mồ hôi của đám phu mộ để bọn tư bản đất đai Pháp ở Đông Dương hàng năm cung cấp cao su cho mấy hãng Rơ-nôn, Xi-tơ-rôn (Renault, Citroen) ở bên chính quốc thu được một mối lời rất lớn.

Mặc dầu thực dân Pháp hết sức bưng bít nhưng chế độ giết người tại vườn cao su của chúng đã được tố cáo trên một vài tờ báo đối lập (Journal d'opposition) bằng chữ Pháp xuất bản tại Sài Gòn và bên Pháp. Hơn nữa cái thực trạng của những lớp người phu mộ đi không trở về đã gây một dư luận khủng khiếp trong dân gian. Trước hiện tượng ấy, những đảng cách mạng trong nước nhất định phải can thiệp vào bằng cách này hay bằng cách khác.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Ba, 2017, 06:38:40 pm

Cuối năm 1928, những truyền đơn phản đối việc mộ phu cao su do Đảng Việt Nam thanh niên cách mạng phát ra rất nhiều, về phần Việt Nam quốc dân đảng, với tính chất và phương pháp hành động của nó, người ta không thỏa mãn những hình thức tranh đấu kể trên, mà cần có một cái gì kịch liệt hơn. Thế rồi vào khoảng 7 giờ tối hôm 30 Tết năm Kỷ Tỵ (9-2-1929) tên chủ chuyên việc mộ phu cao su ở Trung, Bắc Kỳ là Ba-danh đi xe hơi vừa đến cổng nhà riêng của nó ở số 110 phố Huế, Hà Nội thì trong hai người thanh niên chờ sẵn ở ngõ, một người cầm mảnh giấy đưa cho Ba-danh còn một người cầm súng lục bắn chết nó ngay tại chỗ. Hai người thanh niên này chính là đảng viên Việt Nam quốc dân đảng. Mảnh giấy kia chính là bản tuyên án tử hình tên lái buôn người đó.

Như trên chúng ta đã biết, trong vòng phong tỏa và lung lạc của bọn mật thám Pháp, Việt Nam quốc dân đảng chỉ còn chờ ngày hạ thủ cuối cùng của chúng. Việc giết tên chủ mộ phu Ba-danh đã làm kinh động giới thực dân trong việc bóc lột nhân công thuộc địa, nhất là bọn mật thám Pháp thấy không thể kéo dài cái chính sách "nuôi" được nữa mà phải mau tay đàn áp ngay.

Đầu tháng 2 năm 1929, một cuộc khám xét bắt người diễn ra khắp mấy đô thị lớn và các tỉnh Bắc Kỳ cùng phía Bắc Trung Kỳ. Những ủy viên trong đảng bộ trung ương, trừ hai ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, cho đến những cán bộ phụ trách tại các cơ quan, các địa phương đều sa vào lưới giặc. Có cấp bộ bị bắt không còn sót một người nào. Nhiều nhất là những binh lính trong hàng ngũ Pháp ở Hải Phòng và Hà Nội. Cuộc càn quét ác liệt này đã làm cho hệ thống Việt Nam quốc dân đảng bị đứt đoạn rất mau. Ấy là chưa kể những tài liệu bí mật đều nằm trong những tập hồ sơ dày của sở mật thám. Toàn quyền Pháp là Pát-ki-ê ra nghị định lập một hội đồng đề hình do tên Bờ-rít làm chủ tịch để xét xử những đảng viên Việt Nam quốc dân đảng. Ngày 3 tháng 7 năm 1929, hội đồng đề hình xử 80 án tù, từ 2 năm đến 20 năm, trong đó có Nguyễn Thái Học và 6 người nữa bị xử vắng mặt.

Tháng 8 năm ấy, đảng bộ Việt Nam quốc dân đảng tại Nam Kỳ bị khám phá cùng với chi bộ lính khố đỏ ở Biên Hòa.

Đến đây cơ sở Việt Nam quốc dân đảng từ Nam chí Bắc bị "trốc gốc" hầu hết và cũng do đó đảng chuyển sang một giai đoạn khác.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 01:06:03 pm

Câu hỏi 5: Hãy cho biết động cơ nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái?
Trả lời:


Theo chương trình hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng thảo ra lúc đầu là phải trải qua hai thời kỳ phôi thai tức thời kỳ bí mật, dự bị tức thời kỳ bán công khai, rồi mới tiến tới thời kỳ khởi nghĩa. Cuối năm 1928, sau khi đảng mới thành lập được hơn một năm, cơ sở của đảng còn chưa vững chắc, tổng bộ chính thức do Hội nghị đại biểu toàn quốc cử ra chưa có. Kỳ bộ Bắc Kỳ vẫn phải quyền tổng bộ và làm nhiệm vụ của tổng bộ. Các đoàn thể quần chúng ở xung quanh đảng như công đoàn, học sinh đoàn, phụ nữ đoàn, thanh niên đoàn mới lác đác thành lập ở một vài nơi. Như vậy, đảng chưa qua thời kỳ thứ nhất là thời kỳ phôi thai thì làm sao đã có thể đốt cháy giai đoạn để mưu đồ một cuộc khởi nghĩa.

Vậy động cơ nào đã dẫn đến việc nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái?

Từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ ám sát Ba-danh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận của Việt Nam quốc dân đảng đang mấp mé bên bờ vực thẳm.

Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo tổng bộ cho rằng không thể ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Tiêu biểu cho ý chí này là hai lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu.

Sau cuộc vây ráp của thực dân Pháp ở các đô thị lớn, các tỉnh Bắc Kỳ và phía Bắc Trung Kỳ, những ủy viên trong đảng bộ trung ương, trừ hai ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, cho đến những cán bộ ở các cơ quan, các địa phương đều bị bắt. Việc thoát lưới của hai nhà lãnh đạo Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu càng củng cố thêm động cơ bạo động của các ông.

Đối với Nguyễn Khắc Nhu, ông là một nhà yêu nước có xu hướng vũ trang, giàu tính bạo động. Ông là chủ mưu trong cuộc âm mưu bạo động ở Bắc Ninh năm 1927. Còn Nguyễn Thái Học, đối với chương trình ba thời kỳ của Việt Nam quốc dân đảng, ông vẫn ngỏ ý với một số đồng chí là quá dài, quá lâu, ra ngoài sự "chịu đựng" của ông.

Do bối cảnh như trên đã nói, hai ông quan niệm rằng: Nếu cứ ngồi yên để cho quân giặc bắt được rồi cho vào nhà tù hay lên máy chém kết liễu một đời hoạt động thì chi bằng nhân lúc còn được tự do ở ngoài, dốc hết lực lượng còn lại để đánh một trận cuối cùng, may thì thành công; nếu không cũng thành nhân với khẩu hiệu là "không thành công cũng thành nhân".

Ý chí đã quyết, hai nhà lãnh đạo quyết tâm tổ chức khởi nghĩa.

Bên cạnh đó, Việt Nam quốc dân đảng từ trước đã tổ chức được nhiều chi bộ trong hàng ngũ binh lính Pháp, nhất là lính khố đỏ và pháo binh. Đối với những người này, chế độ binh lính bản xứ dưới thời Pháp thuộc đã áp bức họ đến cực điểm. Vì vậy, nỗi uất ức và tinh thần vùng dậy của họ rất mạnh chỉ chờ dịp là bùng nổ. Khi Quốc dân đảng vỡ lở, một số đông binh lính đã bị bắt, nhưng vẫn còn lại một số khá nhiều. Có người đã trốn đi. Có người vẫn tại ngũ. Trước những cuộc bắt bớ dồn dập của giặc Pháp, ai cũng như chờ đợi sắp đến lượt mình. Giống như hai vị lãnh tụ nói trên, họ nhận thấy cần phải khởi nghĩa ngay nếu không chịu đợi chết. Làn sóng sôi sục của họ đã kích thích tinh thần những người còn lại, nhất là hai ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu.

Đối với họ lúc này chỉ có một con đường là lăn xả vào cuộc bạo động, khởi nghĩa.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 01:08:07 pm

Câu hỏi 6: Trình bày đôi nét về Hội nghị đại biểu toàn quốc của Việt Nam quốc dân đảng ngày 17 tháng 9 năm 1929 tại Lạc Đạo để bàn bạc kế hoạch khởi sự với việc xuất hiện hai phái: Phái cải tổ và phái khởi nghĩa?
Trả lời:


Trong điều kiện quân Pháp ra tay khủng bố và truy lùng gắt gao, các lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng đứng đầu là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu lúc này càng xúc tiến việc thống nhất ý kiến để cùng có một hành động dứt khoát, phù hợp với tình thế. Chính vì vậy, họ đã quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc của Việt Nam quốc dân đảng ngày 17 tháng 9 năm 1929 tại Lạc Đạo1.

Trong hội nghị này, xuất hiện hai phái: Phái cải tổ và phái khởi nghĩa. Phái cải tổ do Lê Hữu Cảnh và Trần Văn Huân đứng đầu, phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu làm đại biểu chiếm ưu thế trong hội nghị.

Phái thứ nhất cho rằng lúc này phải cải tổ lại đảng để bảo toàn cán bộ. Người ta cũng nói phải kéo dài thời kỳ dự bị để chờ điều kiện thuận lợi mới chuyển sang thời kỳ chuẩn bị kế hoạch, rồi sau đó mới tới thời kỳ khởi nghĩa vũ trang như chương trình của đảng đã để ra lúc ban đầu. Phái thứ hai, trái lại, cho rằng cần phải nhân dịp thực dân Pháp chưa phá vỡ được hẳn tổ chức cách mạng cần kịp tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền. Nếu kéo dài thời kỳ dự bị thì với bộ máy đàn áp ghê gớm giăng ra khắp nơi, các đảng viên rồi sẽ lần lượt rơi vào nanh vuốt của quân thù và sẽ không còn mong gì khởi nghĩa được nữa. Hội nghị không tranh luận nhiều về hai chủ trương trên vì tối đại đa số đều theo chủ trương thứ hai, nhất là chủ trương đó lại được hai lãnh tụ có uy tín nhất của đảng nhiệt liệt ủng hộ. Mọi người đều vui lòng chấp nhận khẩu hiệu "Không thành công thì thành nhân” của hai lãnh tụ nêu lên. Liên hệ với việc Kinh Kha vào Tần giết Tần Thủy Hoàng không thành công nhưng hy sinh vì việc nghĩa rồi vẫn được thiên hạ thán phục, người ta đều khẳng khái sẵn sàng theo tấm gương anh dũng đó.

Trong khi thảo ra kế hoạch khởi nghĩa, ban lãnh đạo đều tính đến hai lực lượng: trong nước và ngoài nước.
__________________________________
1. Hội nghị được họp ở một làng gần ga Lạc Đạo, trên con đường từ Gia Lâm đi Hải Phòng. Sau đó người ta quen gọi là Hội nghị Lạc Đạo.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 01:09:26 pm

Đối với lực lượng trong nước, các lãnh tụ đã cho xúc tiến việc chế bom (đúng ra là lựu đạn), mua sắm và chế tạo các loại vũ khí và phương tiện chiến đấu khác như dao, gươm, mã tấu, dầu hỏa... Thí dụ: ngay từ trước Hội nghị Lạc Đạo, Nguyễn Khắc Nhu đã xúc tiến thành lập các xưởng chế bom ở làng My Điền và ở các địa điểm khác như Võng La, Xuân Lũng, Sơn Dương thuộc tỉnh Phú Thọ, v.v... Ngoài ra, việc tuyên truyền cho bính lính người Việt trong quân đội Pháp lại càng được đẩy mạnh. Vì theo quan niệm của các nhà lãnh đạo Việt Nam quốc dân đảng lúc này là phải biến lực lượng binh lính thành chủ lực quân của cách mạng. Họ sẽ là những người trực tiếp chiến đấu chống Pháp, sẽ là những người hạ các đồn lũy của Pháp và lôi kéo toàn bộ binh lính Việt Nam theo cách mạng. Các đảng viên ngoài quân đội chỉ cần phần nào hỗ trợ cho binh lính về mặt chính trị và quân sự mà cách mạng vẫn có thể thành công. Cũng phải nói rằng về mặt này, Nguyễn Khắc Nhu đã đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vì với kinh nghiệm binh vận từ thời kỳ Hội Việt Nam dân quốc, những người thân tín của Nguyễn Khắc Nhu như cô Giang, cô Bắc, Nguyễn Văn Toại (tức đồ Thúy) đều là những chiến sĩ binh vận xuất sắc, đặc biệt là đối với đồn binh Yên Bái.

Có điều là việc tiếp xúc với các lực lượng khác trong nước như nhóm Nguyễn An Ninh hoặc Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt qua nhiều lần gặp gỡ từ trước đó đều không đem lại được kết quả.

Đối với lực lượng ngoài nước, công việc cũng không có gì suôn sẻ. Trước kia sau nhiều cuộc liên hệ với các nhóm cách mạng Việt Nam ở Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc, các lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng vẫn chưa nắm được điều gì cụ thể. Đến giai đoạn này Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu lại cử một đặc phái viên sang Quảng Tây nhưng cũng chẳng đem lại được kết quả gì. Và trong khi cử đặc phái viên đi với tâm trạng nóng lòng sốt ruột chờ đợi tin tức, Nguyễn Khắc Nhu đã thốt ra hai câu đối chữ Hán:

      Tinh thần sậu phó thiên sơn cận
      Tiêu tức trì lai phiến khắc trường.


Tạm dịch là:
      Tinh thần chớp nhoáng muôn non ngắn
      Tin tức chậm ghê khoảnh khắc dài.

Cũng trong thời gian này, các nhà lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng đã tính tới việc yêu cầu viện trợ của nước ngoài.

Những việc đối ngoại nêu trên được triển khai sau Hội nghị Lạc Đạo. Còn trong hội nghị, "mặc dầu lúc đó có hai chủ trương khác nhau nhưng cuối cùng vẫn không có một biểu quyết rõ ràng. Và có thể nói là không thảo luận nữa. Vì uy thế của hai nhà lãnh đạo Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu đã lấn át cả hội nghị. Một đại biểu của phái cải tổ vừa lên tiếng đã suýt bị bắn ngay. Kết quả là chủ trương bạo động được quyết định. Phái cải tổ chỉ có thể phản đối một cách tiêu cực là nằm yên không tham dự"1.
_______________________________
1. Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, tập V, Nxb Văn, Sử, Địa, H. 1958.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 05:49:28 pm

Câu hỏi 7: Hãy trình bày quá trình chuẩn bị khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng?
Trả lời:


Để chuẩn bị cho việc khởi nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam quốc dân đảng đã tiến hành một số hoạt động sau:

1. Đề ra kế hoạch tổng công kích (Tổng công kích kế hoạch)

Sau Hội nghị Lạc Đạo các lãnh tụ bạo động liền đề ra một bản Tổng công kích kế hoạch với mấy điểm chính sau đây:

Một là, đảng chỉ huy một cuộc tổng bạo động, cùng một lúc đánh vào những đô thị lớn và những nơi yếu điểm quân sự của giặc Pháp.

Hai là, vũ khí giết giặc phần chính nhằm vào những vũ khí cướp được của địch và bom, dao do mình chế tạo lấy.

Ba là, lực lượng chính trong cuộc bạo động là những binh lính trong hàng ngũ Pháp, lực lượng phụ là những đảng viên ở ngoài.

Bốn là, quân kỳ dùng trong cuộc khởi nghĩa có hai sắc: nửa đỏ, nửa vàng1.

Năm là, quân trang: nghĩa quân mặc quần áo dạ vàng, đội mũ có hình lưỡi trai, đi giầy cao su, đeo băng vàng ở cánh tay phải đề chữ "Việt Nam cách mạng quân".

Sáu là, công tác cấp thiết phải làm ngay là mở cuộc tuyên truyền rộng rãi những người nằm trong hàng ngũ binh lính Pháp và lập những cơ quan chế bom.

Mặc dầu kế hoạch tổng công kích thảo ra, đến lúc tìm cách thực hiện, nó rất xa với điều kiện thực tế. Cuộc tổng khởi nghĩa không thể thi hành được trong toàn quốc vì đảng đã không có một căn bản suốt dải Trung Kỳ. Còn đảng bộ Nam Kỳ chưa đến nỗi tan vỡ, nhưng một số yếu nhân như Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình, Võ Công Tồn,... đã bị bắt và mấy chi bộ nhà binh cũng vỡ theo. Như vậy nếu cuộc bạo động nổ ra cũng chỉ có thể hạn chế trong phạm vi Bắc Kỳ. Điểm lại thế lực của đảng ở Bắc Kỳ thì hệ thống tổ chức đã bị đứt đoạn lung tung. Có chi bộ vì đại biểu bị bắt nên dây liên lạc bị cắt, chỉ còn như một "cô đảo" giữa đại dương. Việc dự định đánh mấy đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, v.v... và mấy yếu điểm quân sự của giặc như Sơn Tây, Phả Lại,... cũng khó lòng thực hiện được. Kết quả là chương trình tổng bạo động chỉ còn lại một phần: tùy theo thực lực của mình ở từng nơi mà phát động.
______________________________
1. Trong bản Tổng công kích kế hoạch không thấy giải thích gì về ý nghĩa màu sắc của lá cờ. Sau đó người thì cắt nghĩa là tượng trưng của màu đỏ da vàng, người thì cắt nghĩa xa hơn bảo nó là tượng trưng của cách mạng dân tộc màu vàng và cuộc cách mạng thế giới màu đỏ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 05:49:53 pm

2. Những cuộc ám sát và tống tiền

Song song với những cuộc vây bắt liên tiếp của thực dân Pháp, cuộc tiến hành bạo động của một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng cũng khá rầm rộ. Hai hình thức thường xảy ra nhiều nhất là ám sát và tống tiền. Để bắt cho được hai nhà lãnh đạo Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, bọn mật thám đã lợi dụng và uy hiếp một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng bị bắt rồi thả ra làm tay sai cho chúng. Vì vậy Ban Ám sát của quốc dân đảng đã phải hoạt động luôn, mà người nổi tiếng nhất hồi đó là Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con. Việc ám sát tên phản đảng Nguyễn Văn Kính tại vườn bách thú Hà Nội bấy giờ đã gây một dư luận sôi nổi trên các báo và tạp chí.

Về vấn đề tài chính, trước kia Việt Nam quốc dân đảng ít chú ý tới việc làm ra tiền theo lối mạo hiểm. Một khi cần đến người ta chỉ lấy tư cách cá nhân. Nhưng trong khi chuẩn bị khởi nghĩa, người ta cần phải tiêu rất nhiều tiền, nên trên báo chí hồi ấy luôn luôn thấy đăng những tin tống tiền tại thành phố hay đánh chặn ô tô ngang đường. Nhiều phú ông nhận được thư của Việt Nam quốc dân đảng gửi tới "quyên" tiền. Một vài đám cướp lớn ở thôn quê đã xảy ra có dính líu tới Việt Nam quốc dân đảng. Cố nhiên là bên những việc lấy tiền làm việc nghĩa, cũng không thiếu những kẻ mượn danh cách mạng để làm bậy.

Thời kỳ này một vài cơ quan chế bom của Việt Nam quốc dân đảng tại My Điền (Bắc Giang), Phao Tân và Nội Viện (Bắc Ninh) bị phát giác vì vô ý để bom nổ chết người. Thỉnh thoảng đế quốc Pháp lại khám phá ra những nơi chôn bom. Hàng nghìn trái bom ném đã bị chúng bắt được trong những tháng cuối năm 1929, đầu năm 1930 tại các vùng Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Kiến An, ngoại thành Hà Nội (vùng xung quanh sân bay Bạch Mai, Thái Hà ấp...).


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 05:50:20 pm

3. Hội nghị Võng La với việc phản bội của Nguyễn Thành Dương

Ngày 25 tháng 12 năm 1929, những ủy viên quân sự của Việt Nam quốc dân đảng định tổ chức một cuộc hội nghị tại làng Võng La để xúc tiến việc khởi nghĩa. Trong cuộc hội nghị này, đã xảy ra việc phản bội ghê gớm của Nguyễn Thành Dương tức Đội Dương.

Dương là một thanh niên học thức, đi lính cho Pháp làm đội trưởng, đóng tại trường bay Bạch Mai và gia nhập Việt Nam quốc dân đảng. Được cử làm ủy viên quân sự trong cuộc chuẩn bị khởi nghĩa, Dương còn được chỉ định đốt trường bay Bạch Mai một khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Có người nói Dương là gián điệp của Pháp phái vào từ trước. Cũng có người nói Dương mới manh tâm phản bội trong những ngày sau này, nghĩa là sau khi thấy rõ thực lực của đảng cách mạng không có gì đáng kể, cuộc bạo động đi vào cõi phiêu lưu nên Dương sinh lòng tráo trở, từ chỗ cách mạng xoay ra phản cách mạng, mong thừa cơ lập công với giặc để kiếm phú quý. Có một điều là khác với những tên phản bội khác ở trong xó tối, Dương đã làm việc phản bội rất ngang ngược và công nhiên. Sau khi nhận được giấy triệu tập đi dự hội nghị quân sự ở Võng La, Dương được lệnh của mật thám Pháp là phải tìm cách giết cho được những lãnh tụ bạo động ngay tại chỗ. Rồi sau đó, một mặt Dương sắp đặt với bọn mật thám bố trí bao vây, một mặt báo cho hội đồng quân sự biết Dương sẽ đem hai "đồng chí" trong chi bộ Bạch Mai đến dự hội nghị để lĩnh kế hoạch làm việc. Hai "đồng chí" mà Dương nói đây chính là hai tên mật thám được phái đến giúp sức Dương.

Làng Võng La ở ven sông Đà thuộc tỉnh Phú Thọ là một sào huyệt của Việt Nam quốc dân đảng bấy giờ. Những người làng hầu hết là đảng viên hay đoàn viên. Vì vậy đảng thường chọn chỗ này để tổ chức những hội nghị quan trọng. Hôm ấy Dương cùng những ủy viên quân sự khác như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Nguyễn Văn Khôi, Nguyễn Văn Liên... đến dự hội nghị. Trong lúc hội nghị sắp bắt đầu thì bọn mật thám Pháp đã bố trí cách đầu làng không xa, chỉ chờ một tín hiệu là xông vào. Thế rồi cơ sự đã diễn ra. Hội nghị do ông Nguyễn Khắc Nhu làm Chủ tịch vừa bắt đầu thì Dương cùng hai tên mật thám vụt đứng dậy rút súng lục nhằm bắn vào Chủ tịch và những ủy viên trong hội nghị. Một cuộc hỗn loạn xảy ra. Những ủy viên, người thì bỏ chạy, người thì bắn trả lại. Ông Nguyễn Khắc Nhu nằm lăn ra giả chết. Ông Phó Đức Chính bị thương ở chân. Những vệ sĩ của Việt Nam quốc dân đảng canh gác ở ngoài nghe tiếng động chạy vào tiếp cứu. Đồng bọn tên Dương thấy thế cũng không dám sục sạo đuổi theo, chỉ thủ thế chờ bọn mật thám ở ngoài kéo đến. Trong khi ấy bọn mật thám nghe tiếng súng nổ ập vào, vừa đến đầu làng bắt gặp người làng vác cày, vác cuốc ra đồng làm như không có việc gì xảy ra. Chúng chia nhau một mặt vào sục sạo trong làng, một mặt ra lệnh cho người làng phải tập hợp lại để điểm tên và điểm mặt. Tuy vậy kết quả chúng vẫn không bắt được một đảng viên cách mạng nào. Thì ra trong lúc lộn xộn họ đã cải trang lẫn vào đám dân làng, được dân làng ủng hộ, ra ngoài đồng trốn thoát. Duy có Phó Đức Chính bị thương không ra kịp, được một người đàn bà mới đẻ ở trong làng giấu vào một ổ rơm. Cũng may mà bọn mật thám không phát hiện được.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 05:55:26 pm

Ít ngày sau tên phản bội Nguyễn Thành Dương tức Đội Dương bị Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con bắn thủng bụng đứt ruột trong khi nó từ sở mật thám Hà Nội đi ra1. Và trước đó bố Đội Dương là Giáo Du cũng bị Nguyễn Văn Nho2 trong Ban Ám sát của Việt Nam quốc dân đảng bắn chết tại ngõ Hồng Phúc, Hà Nội.

Làng Võng La, một làng đã ủng hộ cách mạng cũng bị đế quốc Pháp khủng bố dữ dội. Nhiều người bị bắt. Làng bị triệt hạ3.

Về sự kiện này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm (con trai thứ ba của ông Nguyễn Khắc Nhu) đã viết ở phần "kể chuyện Nguyễn Khắc Nhu" trong cuốn sách "Nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu", Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, xuất bản năm 1993 như sau:

"Võng La làm địa điểm hội nghị vì làng này có nhiều đảng viên và người cảm tình với đảng, đồng thời lại ở xa trung tâm Hà Nội và có đường thủy, bộ đi các nơi rất thuận tiện. Hội nghị bố trí cho người canh gác để có thể phát hiện địch từ xa. Hội nghị mới bắt đầu chưa được bao lâu thì trạm gác báo tin có mấy xe ô tô địch qua phà Trung Hà hướng về phía Võng La. Cha tôi chưa kịp xử trí thì một sự kiện không ai ngờ tới được là Đội Dương, ủy viên quân sự của đảng đứng lên rút súng lục bắn vào chủ tịch hội nghị. Nhanh mắt, lại đang cảnh giác vì mới được tin có địch, cha tôi đã ngồi thụp ngay xuống lăn ra ngoài. Nghe tiếng súng các vệ sĩ của đảng cũng bắn trả và trong cuộc hỗn chiến này chỉ có Phó Đức Chính bị trúng đạn còn các yếu nhân khác thì nhờ có nhân dân ủng hộ, đều kịp thời chạy thoát. Hai ô tô mật thám cũng vừa tới nơi nổ súng, bọn mật thám ùa ra truy bắt các yếu nhân Việt Nam quốc dân đảng. Nhưng chúng chẳng bắt được yếu nhân nào kể cả Phó Đức Chính bị trúng đạn, mà kết cục chỉ bắt được mấy người dân làng đã bị chúng ghi sổ đen từ trước. Sau đó trong hai ngày 25 và 26 tháng 12 năm 1929 chúng nổi lửa đốt nhà và bắt dân phải chặt hết tre ngoài lũy rồi đuổi dân đi. Sau đó nhân dân phải kiên trì đấu tranh hết đợt nọ đến đợt kia mới được trở về làng cũ.

Riêng về cha tôi, sau khi thoát hiểm đã được bà con cho mượn ngay một chiếc cuốc với chiếc nón lá giả làm một lão nông đi thăm đồng. Một tên mật thám bắt gặp không những không nhận ra ông mà còn xuýt xoa khen ông có bộ râu đẹp nên ông vẫn đàng hoàng đi tiếp.

Không bắt được yếu nhân Việt Nam quốc dân đảng nào trong dịp chúng bố trí hết sức công phu này, thực dân Pháp càng ra tay lùng sục. Các cuộc kiểm soát dọc đường trở nên vô cùng gắt gao và để thích ứng với hoàn cảnh, người ta kể rằng, một hôm cha tôi và Nguyễn Thái Học, một người đóng vai lý trưởng, một người đóng vai đầy tớ theo hầu đến nhà một cô đầu dự một chầu hát. Lý trưởng là cha tôi thì ở trên nhà nghe hát còn Nguyễn Thái Học đóng vai đầy tớ thì vác khăn gói xuống nhà bếp ngủ. Sáng hôm sau cha tôi dậy sớm nhờ cô đầu hát cạo cho bộ râu lấy lý do là bà lý ở nhà không thích ông đeo râu. Sau đó ông và Nguyễn Thái Học ra đi cùng nhau cười nói về chuyện cạo râu và Nguyễn Thái Học đã tỏ ra vô cùng thích thú nghe ông ứng tác bốn câu "Tiễn râu" như sau:

      Mấy chục năm trường bạn sắt son
      Đến nay tống biệt dạ bồn chồn
      Trăm đường cũng tại thằng Tây cả,
      Râu hết, đường đi dễ lọt trơn.


Việc bọn phản đảng vẫn ở trong đảng để làm hại đảng như Đội Dương không phải đến bây giờ mới xảy ra. Trước đó đoàn ám sát của đảng đã phải ra tay trừng trị mấy tên rồi. Như tháng 8 năm 1929 với cương vị Trưởng ban Lập pháp, Giám sát kiêm Chủ tịch Tòa án cách mạng và trực tiếp chỉ đạo đoàn ám sát, cha tôi đã cử hai người đi ám sát Bùi Tiến Mai làm thừa phái vì hắn đã khai ra nội tình đảng khiến cho rất nhiều đảng viên ở Thái Bình bị sa vào tay giặc. Nhưng vì một người dùng súng không thạo, khi thử súng đã vô ý để tự mình bị thương nên bị lộ và tên Mai đã thoát chết4; 7 giờ tối ngày 5 tháng 10 năm 1929 đoàn ám sát đứng đầu là Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con cũng đã giết chết tên Nguyễn Văn Kính can tội phản đảng ở vườn Bách Thảo, Hà Nội. Kính vốn được Nguyễn Thái Học trao cho một lá thư trong đó Nguyễn Thái Học coi như ở ngoài nước viết về cho các đồng chí để đánh lừa thực dân Pháp. Kính nhận được nhiệm vụ là cố ý để cho thực dân Pháp bắt. Nhưng khi bị bắt, không chịu nổi đòn tra tấn của chúng, Kính không những đã khai hết sự thật mà còn khai ra nhiều người khiến họ lần lượt bị bắt giam. Cũng vì thế mà hắn đã bị đền tội.

Việc Đội Dương vỡ lở đã khiến cho cha tôi càng quan tâm đến việc diệt trừ nội phản. Do đó đêm mồng 9 rạng ngày 10 tháng 1 năm 1930, hai tên phản đảng là Vương Trọng Phước và Nguyễn Văn Ke đã phải đền tội ở Xuân Dương (Phú Thọ). Ngày 12 tháng 1 năm 1930, hai tên phản phúc khác cũng bị trừ khử. Người ta lại còn điều tra ra tên Giáo Du, bố Đội Dương là tên phản đảng đã lâu và chính hắn, trước sự khủng bố của thực dân sau vụ Ba-danh đã khuyên Dương nên thực tâm theo Pháp. Vì thế, ngày 22 tháng 1 năm 1930 Giáo Du đã bị em Nguyễn Thái Học là Nguyễn Văn Nho hạ sát tại ngõ Hồng Phúc, cạnh chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Còn Đội Dương thì sau khi lộ mặt ở Võng La đã được cử làm thanh tra mật thám nên đã hết sức đề phòng và được thực dân Pháp quan tâm bảo vệ. Cũng vì thế phải rình rập mãi đến tận ngày 22 tháng 4 năm 1930 hắn mới bị bắn trọng thương lòi ruột tại phố Cửa Đông, Hà Nội. Sau đó Dương được đưa sang Pháp, một Việt kiều yêu nước đã ám sát hắn tại Pa-ri nhưng hắn vẫn may mắn được thoát chết.

Đồng thời với việc diệt nội phản, công việc chuẩn bị khởi nghĩa vẫn được tích cực tiến hành. Lúc này đảng rất cần tiền để có được vũ khí bù cho số đã bị thực dân Pháp phát hiện lấy đi. Vì thế, ngoài việc quyên tiền, ngày 24 tháng 1 năm 1930, Ký Con đã được cha tôi giao cho nhiệm vụ tổ chức cướp ô tô Mỹ Lâm trên có mấy đại thương Hoa kiều tại cây số 6+700 trên đường Hà Nội - Sơn Tây".
___________________________________
1. Tên phản bội vẫn chưa chết. Nó được thực dân Pháp cứu chữa và gửi sang Pháp điều trị. Sau đó Dương làm thanh tra mật thám. Đời sống của tên chó săn này bị kết liễu trước cuộc Cách mạng tháng Tám.
2. Em Nguyễn Thái Học.
3. Chúng triệt hạ làng này bằng cách đem mìn và chất nổ đến phá những nhà lớn và những lũy tre xung quanh làng.
4. Bùi Tiến Mai sau được Pháp thăng chức cho làm tri phủ. Ngày 17-6-1945 sau khi Nhật lật đổ Pháp, nhân kỷ niệm lần thứ 15 ngày mất của Nguyễn Thái Học và của các liệt sĩ Việt Nam quốc dân đảng tại nhà Thông tin, Đoàn Thanh niên Thái Bình đã bắt Mai đến nghe kể tội và lạy ba lạy trước di tượng Nguyễn Thái Học.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Ba, 2017, 05:56:49 pm

Sau sự việc xảy ra ở Võng La, thực dân Pháp càng ráo riết lùng bắt các đảng viên quốc dân đảng. Với các lãnh tụ bạo động như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã như cái "đinh" trước mắt chúng. Một ngày nào mấy người này chưa bị bắt thì chúng còn chưa được yên ổn và cuộc bạo động vẫn không tránh được. Dân chúng bên ngoài cũng theo dõi những biến thiên một cách hồi hộp, vì cuộc khởi nghĩa sẽ nổ ra hay không tùy theo vận mạng của mấy vị lãnh tụ kia.

Về phần các lãnh tụ bạo động bấy giờ, sở dĩ không sa vào lưới giặc và vẫn hoạt động được là vì họ đã bám vào một số dân chúng ở thôn quê, nhất là những kỳ hào đương làm việc cho Pháp nhưng vẫn ủng hộ cách mạng. Nhờ có đám người này, những nhà cách mạng đã có được thẻ thuế thân, những giấy chứng chỉ đi đường và dò biết những chỉ thị của giặc qua các công văn bí mật của chúng. Tuy vậy nếu cuộc bạo động càng chậm lại thì lực lượng bạo động có thể càng bị giảm đi vì những đảng viên cách mạng vẫn lác đác bị bắt, những cơ quan cách mạng thỉnh thoảng lại bị khám phá. Một điều mà chúng ta cũng không quên là: mấy vai chủ động như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu bấy giờ đã lấy bạo động làm một "lối thoát" hơn là tin tưởng ở kết quả thành công của nó.

Dẫu sao cuộc bạo động vẫn cứ xảy ra. Theo phân công phụ trách bấy giờ, ông Nguyễn Thái Học lĩnh trách nhiệm chỉ huy những cuộc khởi nghĩa tại mấy tỉnh miền xuôi như Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương, Phả Lại, v.v... Còn ông Nguyễn Khắc Nhu lĩnh trách nhiệm chỉ huy những cuộc khởi nghĩa tại mấy tỉnh miền trên như Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây, Bắc Giang,... Riêng ông Phó Đức Chính phụ trách đánh vào đồn Thông, một đại bản doanh quân sự của Pháp ở Sơn Tây.

Cả hai đạo quân sau khi chiến thắng sẽ tập trung đánh Hà Nội.

Ngày 26 tháng 1 năm 1930, Nguyễn Thái Học lại triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phân tích tình hình của đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét: "Đảng của chúng ta (tức Việt Nam quốc dân đảng) có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam. Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân” 1.
_____________________________
1. GS Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, H. 2007, tr. 287.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Ba, 2017, 08:50:38 am

Câu hỏi 8: Hãy cho biết đôi nét về địa lý, lịch sử, văn hóa của thị xã và tỉnh Yên Bái, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa do Việt Nam quốc dân đảng lãnh đạo?
Trả lời:


Yên Bái ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía Đông Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Tây Nam giáp tỉnh Sơn La, phía Tây Bắc giáp hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai.

Yên Bái là một điểm sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hóa nhân bản, thể hiện ở những di vật, di chỉ khảo cổ học được phát hiện như công cụ bằng đá, thạp đồng, trống đồng, đền, tháp, khu di tích lịch sử. Thời các vua Hùng Yên Bái thuộc bộ Tân Hưng, thời Lý thuộc châu Đăng, thời Trần trong lộ Quy Hóa, thời Lê đến Nguyễn nằm trong phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa.

Thời kỳ Pháp xâm lược nước ta, thời gian "bình định" chúng đặt Yên Bái thuộc các Đạo quan binh (1891-1900), Ngày 11 tháng 4 năm 1900, Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, 2 châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Năm 1910 và 1920, Pháp chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái.

Địa hình Yên Bái phức tạp, có độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh bởi núi cao, sông, ngòi, khe, suối. Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, còn có khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ và hồ, đầm. Hướng cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình so với mặt biển là 600 mét. Vùng cao có hai dãy núi lớn: Pú Luông ở phía tây và Con Voi ở phía đông bắc, trong đó có đỉnh Pú Luông cao 2.985 mét. Vùng thấp tập trung ở ven sông Hồng, sông Chảy và cánh đồng Mường Lò, có nơi chỉ cao hơn mặt biển 26 mét (xã Minh Quân, huyện Trấn Yên). Do địa hình như vậy, giao lưu mọi mặt giữa các vùng gặp nhiều trở ngại, việc xây dựng hệ thống giao thông vận tải gặp rất nhiều khó khăn.

Yên Bái có truyền thống văn hóa lâu đời: Các phát hiện di cốt người có niên đại 8-14 vạn năm ở hang Hùm (Lục Yên), thạp đồng Đào Thịnh1, thạp đồng Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Phù Nham (Văn Chấn), Mông Sơn (Yên Bình), Khai Xuân (Lục Yên) và nhiều công cụ bằng đá, bằng đồng khẳng định mảnh đất Yên Bái là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hóa phát triển liên tục và khá rực rỡ.
_______________________________
1. Thạp đồng Đào Thịnh cùng thời với trống đồng Ngọc Lũ, là chiếc thạp còn nguyên vẹn và lớn nhất còn tìm thấy ở Việt Nam (cao 97,7cm, đường kính miệng 64cm, nặng 76kg) được chế tạo vào thời đại đồng thau. Nắp thạp trang trí 4 đôi nam, nữ đang giao hoan, biểu hiện sự sinh sôi, nảy nở của con người, là tác phẩm nghệ thuật quý giá.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Ba, 2017, 08:56:32 am

Yên Bái cũng là vùng có nhiều dân tộc sinh sống lâu đời (đến nay có 30 dân tộc anh em cùng chung sống), hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1258 nhân dân các vùng Văn Chấn, Trấn Yên đã tham gia đội quân của tù trưởng Hà Bổng, trại chủ Quy Hóa chiến đấu chống giặc Nguyên - Mông khi chúng sang xâm lược nước ta lần thứ nhất. Năm 1285 nhân dân châu Thu Vật (Yên Bình) và các vùng xung quanh đã ủng hộ, giúp đỡ đạo quân của tướng Trần Nhật Duật chặn đánh quân Nguyên - Mông quyết liệt, làm chậm bước tiến của chúng về kinh thành Thăng Long.

Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX nhân dân các dân tộc Yên Bái đã góp phần không nhỏ bảo vệ triều Lê, chống họ Mạc cát cứ và sự cướp bóc của "giặc giã"1.

Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, đầu hàng. Đầu năm 1886 quân Pháp đánh chiếm Yên Bái2. Tổng đốc Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích3, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp phối hợp cùng các lãnh bị địa phương như Vương Văn Doãn, Đặng Đình Tế, Phạm Thọ, Đặng Tiến Lộc, Đổng Phúc Thịnh tổ chức đánh chặn địch quyết liệt; xây dựng căn cứ chiến đấu ở Tú Lệ (Văn Chấn), làng Vân (Trấn Yên)4, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 19 tháng 10 năm 1889 nghĩa quân đánh tan cả đoàn thuyền địch gồm 13 chiếc trên sông Hồng, đoạn giữa Trái Hút và Bảo Hà.

Từ năm 1886 đến năm 1893 các hoạt động bất hợp tác với giặc, nhiều cuộc khởi nghĩa nhỏ liên tục nổ ra khắp các vùng Trấn Yên, Văn Chấn, Lục Yên, Yên Bình. Nó gây cho thực dân Pháp nhiều khó khăn trong việc thiết lập bộ máy thống trị và kiểm soát các tổng, xã.

Hai năm 1913-1914 cuộc khởi nghĩa do Triệu Tài Lộc, Triệu Kiến Tiên và một số thủ lĩnh khác tổ chức được đông đảo người Dao, Tày, Kinh tham gia, ủng hộ. Từ cơ sở đầu tiên ở tổng Trúc Lâu, phong trào lan rộng khắp châu Lục Yên, phủ Trấn Yên, phủ Yên Bình với quân số tới 1.414 người. Nghĩa quân đã tiến công đồn Trái Hút (19-10-1914), đồn Bảo Hà (21-10-1914), đồn Lục Yên (22-10-1914)5. Nhưng do tổ chức, phối hợp thiếu chặt chẽ, trang bị vũ khí lạc hậu, thiếu thốn, cho nên các cuộc tiến công không giành được thắng lợi. Thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa, bắt hàng trăm người, trong đó có rất nhiều phụ nữ, xử tử 67 người (39 người ở nghĩa địa Tây Yên Bái, 28 người ở Phú Thọ). Đây là sự kiện tiêu biểu khẳng định lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quật khởi của nhân dân các dân tộc Yên Bái6.
_____________________________
1. Vũ Văn Mật - trấn thủ Tuyên Quang và Hưng Hóa (đóng ở Đại Đồng, Yên Bình) có công bảo vệ nhà Lê, diệt Mạc, được vua Lê Trang Tông (tên thật Lê Duy Ninh, hiệu Nguyên Hòa) phong làm "Gia quốc công". Sau này nhân dân lập đền thờ ông để ghi nhớ công ơn ông đã cứu nước, giúp dân. (Theo Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Sử học, số 5-1983, số 1-1985).
2. Thực dân Pháp huy động khoảng 1.000 quân, chia làm 4 toán từ Việt Trì, Phú Thọ đánh Yên Bái. Mục tiêu và nơi hội quân là Tuần Quán. Toán do đại úy Gô-đanh chỉ huy tiến theo hữu ngạn sông Hồng đến Đức Quân (Trấn Yên) ngày 5-5-1886; toán do đại úy Mi-bi-en chỉ huy đánh phủ Yên Bình rồi tiến đến Tuần Quán ngày 4-2-1886; toán do đại tá Mốt-si-ông chỉ huy theo tả ngạn sông Hồng đến Tuần Quán ngày 5-2-1886; toán cuối cùng do đại úy Bê-răng-giê chỉ huy đi giữa toán của Gô-đanh và Môt-si-ông đến Tuần Quán ngày 11-2-1886.
    Về quân ta:
    - Đề Kiều trấn giữ khu vực Hiền Lương.
    - Trần Đình Thành trấn giữ khu vực Vân Hội.
    - Hiệp Triệu trấn giữ khu vực Tuần Quán.
Các cánh quân này do Nguyễn Quang Bích chỉ huy chung.
3. Ông Nguyễn Quang Bích là Tổng đốc tỉnh Hưng Hóa. Hưng Hóa thời ấy bao gồm địa dư 5 tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu.
4. Lãnh binh Đổng Phúc Thịnh, người Dao xây dựng căn cứ từ Văn Chấn, chạy theo phía hữu ngạn sông Hồng đến Trái Hút; lãnh binh Đặng Tiến Lộc xây dựng căn cứ ở Tú Lệ.
5. Triệu Kiến Tiên chỉ huy tiến công đồn Lục Yên do lính khố đỏ đóng giữ, dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp.
    - Lý Anh Chu chỉ huy đánh đồn Bảo Hà.
    - Lý Văn Minh chỉ huy đánh đồn Trái Hút và ga Ngòi Hóp.
6. Tên sĩ quan Pháp Mu-ranh, sau khi đi thị sát châu Lục Yên đã nói với công sứ Lào Cai Tua-rét: "Những người nhà quê ở địa phương vùng này đã không ngừng che chở cho nghĩa quân bằng sự im lặng của họ hay họ cung cấp cho ta những thông tin dối trá”. (Tài liệu lưu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo tỉnh Yên Bái).


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Ba, 2017, 08:59:43 am

Khi thực dân Pháp tiến hành khai thác, cướp bóc thuộc địa, đặc biệt là việc chúng cướp ruộng đất, lập đồn điền, nông dân các xã Mông Sơn, Ẩm Phước (phủ Yên Bình), Nga Quán, Cổ Phúc (phủ Trấn Yên) và ở nhiều nơi khác đã liên tiếp đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, cướp ruộng đất, làm cho thực dân Pháp rất lúng túng, lo sợ và bất ổn định.

Để thấy rõ hơn sự thống trị, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai đối với nhân dân các dân tộc Yên Bái, chúng ta nghiên cứu một số sự kiện sau đây:

Năm 1886, thực dân Pháp đánh chiếm Yên Bái, đến năm 1888, thành lập quân khu Yên Bái. Ngày 20 tháng 8 năm 1891, chúng thành lập các Đạo quan binh ở Bắc Kỳ. Đạo quan binh 3 Yên Bái gồm có ba tiểu quân khu: tiểu quân khu Yên Bái, tiểu quân khu Lào Cai và tiểu quân khu Tuyên Quang. Dưới tiểu quân khu có các đồn binh kiểm soát các khu vực trọng yếu. Năm 1896 Đạo quan binh 3 Yên Bái chuyển thành Đạo quan binh 4 Lào Cai, chỉ còn hai tiểu quân khu: tiểu quân khu Lào Cai và tiểu quân khu Yên Bái. Tư lệnh Đạo quan binh là sĩ quan quân sự nắm cả quân sự và dân sự; về quân sự chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương; về dân sự quyền ngang thống sứ Bắc Kỳ1, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của toàn quyền Đông Dương (từ năm 1897 quyền của tư lệnh Đạo quan binh chỉ còn ngang quyền của công sứ, chịu sự chỉ đạo của thống sứ Bắc Kỳ).

Đứng đầu tỉnh Yên Bái là viên tuần phủ, nhưng thực quyền định đoạt mọi việc là tên công sứ Pháp. Công sứ nắm, kiểm soát bên dưới thông qua bọn quan lại tay sai, tầng lớp trên của xã hội là thổ hào phong kiến, phìa tạo, bằng cách nhả cho bọn này một số quyền lợi và dựa vào bọn mật thám, bọn đội lốt tôn giáo cùng với bọn võ quan Pháp là chủ các đồn điền. Hệ thống kiểm soát này rất phức tạp, thiên về đàn áp, những kẻ trong hệ thống có đặc quyền, đặc lợi rất lớn. Còn đối tượng của hệ thống là nhân dân không có chút quyền dân chủ nào.
___________________________________
1. Ngày 9-5-1889 thực dân Pháp lập ra chức thống sứ Bắc Kỳ, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của toàn quyền Đông Dương, có các quyền cai trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, lập pháp, tư pháp và thông qua công sứ nắm các tỉnh.
    Cơ quan cai trị cấp tỉnh là Tòa sứ, do viên công sứ người Pháp đứng đầu. Về quan lại người Việt thì tỉnh lớn do tổng đốc đứng đầu, tỉnh nhỏ do tuần phủ đứng đầu, quan án sát coi việc hình (tư pháp), quan bố chính coi việc thuế, quan lãnh binh (tỉnh nhỏ) hoặc đề đốc (tỉnh lớn) coi việc binh.
    - Các phủ, huyện, châu do tri phủ (huyện, châu) đúng đầu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công sứ.
    Bộ máy hành chính cơ sở là xã; chánh, phó tổng là những viên chức trung gian trông coi, đôn đốc một vài xã; xã có hội đồng kỳ hào với một số chức dịch thừa hành, đứng đầu là lý trưởng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Ba, 2017, 09:01:15 am

Chính sách cai trị của thực dân Pháp là chia để trị, giữa lương và giáo, nội bộ từng dân tộc với nhau, giữa người Kinh với các dân tộc anh em khác. Sau khởi nghĩa Giáp Dần (1913-1914) bọn chúng bắt người Tày đi đàn áp người Dao và xuyên tạc rằng người Dao nổi dậy giết người Tày lấy lúa, giết người Kinh lấy muối. Âm mưu của giặc là chia rẽ lực lượng, phá vỡ khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc để chúng dễ bề đàn áp, thống trị.

"Bình định" xong, thực dân Pháp chuyển sang khai thác thuộc địa theo chương trình của Pôn Đu-me và An-be Xa-rô. Ở Yên Bái, chúng thực hiện chính sách phản động, một mặt duy trì kinh tế phong kiến (sở hữu phong kiến, bóc lột địa tô, "cuông", "nguột"); mặt khác chúng vơ vét tài nguyên, sản phẩm, bóc lột nhân công rẻ mạt để phục vụ cho công nghiệp chính quốc và biến Yên Bái thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho Pháp. Năm 1928, Tòa sứ Yên Bái nhận 193 đơn xin khai thác mỏ, 285 đơn xin khai thác lâm sản, gần 100 nhà tư sản, võ quan, địa chủ Pháp xin mở đồn điền.

Để phục vụ chương trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp thực hiện chính sách thuế khóa hết sức nặng nề, dã man. Thuế đinh (hay thuế thân), trước khi Pháp xâm lược, nhà Nguyễn thu mỗi suất đinh 1,4 hào, thì ngay khi Pháp chiếm Yên Bái đã nâng lên 5 hào. Ở vùng dân tộc ít người, chúng dùng cách đánh thuế "kiếm ốc" tính theo số nóc nhà, mỗi nhà phải nộp từ 2 - 3,5 đồng (mức thuế năm 1943-1944). Dã man hơn, chúng còn bắt cả người tàn tật, mất trí cũng phải nộp mỗi suất 1,3 đồng (2,5 đồng bằng một tạ gạo ngon). Ngoài ra, còn hàng trăm khoản phụ thu, lạm bổ đánh vào người lao động.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Ba, 2017, 09:02:34 am

Kinh tế Yên Bái vốn lạc hậu, tự cấp, tự túc, vùng cao hoàn toàn du canh du cư. Từ khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, chúng hướng vào vơ vét, bóc lột cho chính quốc, về công nghiệp, thực dân Pháp chỉ chú trọng khai thác những khoáng sản (than, chì) và lâm sản (gỗ, chè, quế). Một số mỏ lớn mà thực dân Pháp khai thác như các mỏ than Minh Tiên, Quy Mông, mỏ phân Minh Bảo, mỏ bạc Tú Lệ, kỹ thuật khai thác rất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu dựa vào sức người. Ở thị xã Yên Bái chúng làm trạm phát điện vào năm 1925, phục vụ bọn Pháp và chính quyền tay sai. Về nông nghiệp, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), thực dân Pháp bắt đầu thi hành chính sách di dân doanh điền. Chủ đồn điền ngoài bọn Pháp, còn có bọn mật thám, một số quan lại, tư sản người Việt và địa chủ Nhà Chung. Tình cảnh người nông dân Yên Bái bị mất đất, một số phải đi làm thuê rất cực khổ. Mấy chục năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nông nghiệp Yên Bái không có thay đổi gì đáng kể, phương pháp canh tác rất lạc hậu, năng suất thấp, độc canh cây lúa. Về thương nghiệp, Pháp nắm độc quyền ngoại thương và một phần nội thương, thu mua nông, lâm sản với giá rẻ mạt, độc quyền phân phối muối, bán ép rượu. Ở các trung tâm buôn bán như thị xã Yên Bái, chợ Ngọc (phủ Yên Bình), chợ Vân Hội hình thành tầng lớp tiểu thương khá đông đảo, nhưng chủ yếu chuyển sang làm trung gian mua bán cho các chủ Pháp. Về văn hóa, xã hội, thực dân Pháp ra sức thực hiện chính sách ngu dân; duy trì, khuyến khích các phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan, nhất là ở vùng các dân tộc thiểu số. Cả tỉnh chỉ có vài trường tiểu học (cao nhất là lớp 3). Các trường này không phải dành cho con em nhân dân lao động mà nhằm đào tạo đội ngũ tay sai Pháp, vì thế đa số học sinh là con em quan lại, địa chủ, thổ hào. Chúng ra sức đầu độc thanh thiếu niên bằng sách báo phản động, lãng mạn, bằng các tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu) hòng làm cho tuổi trẻ trụy lạc quên Tổ quốc. Thực dân Pháp không hề chú ý đến tình hình sức khỏe nhân dân. Cả tỉnh chỉ có một nhà thương ở thị xã với vài y sĩ, hộ lý, trang bị và thuốc nghèo nàn. Bệnh sốt rét, nạn dịch tả, bệnh đậu mùa diễn ra thường xuyên; nạn hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến, tuổi thọ người dân thấp, một số dân tộc ít người không phát triển được. Trưởng động Dao Sơn Tử viết cho chánh tổng Lương Sơn (châu Lục Yên): "Dân Mán chúng con bẩm thầy chánh là dân chúng con chết đậu gần hết rồi. Nhà nào còn người sống bỏ chạy đi nơi khác cả... Thuế năm nay thầy chánh đừng bổ nữa"1.

*
*   *

Về thị xã Yên Bái (hiện nay là thành phố Yên Bái thuộc tỉnh Yên Bái), cùng với việc thành lập tỉnh Yên Bái, thị xã Yên Bái cũng được hình thành vào năm 1900 tại chân đồn cao (khu vực quân sự của bọn thực dân Pháp) với diện tích chưa đầy 2 kilômét vuông. Thị xã lúc đầu chỉ là một phố của phủ Trấn Yên, rồi dần dần lập thành 4 khu phố nhỏ: Hội Bình, Yên Lạc, Yên Thái, Yên Hòa (thuộc phường Hồng Hà ngày nay).

Cuối thời kỳ nhà Nguyễn, thị xã Yên Bái là một làng, thường gọi là làng Yên Bái, thuộc tổng Bách Lẫm, phủ Quy Hóa (về sau là phủ Trấn Yên) tỉnh Hưng Hóa.

Sau khi chiếm được Yên Bái, quân Pháp đã tiến hành xây dựng khu vực quân sự đồn Cao (còn gọi là đồn Gióp: do tên quan ba công binh Gióp-phơ chỉ huy xây dựng) rồi mới chuyển quân tới đồn Cao khi đã hoàn thành. Những năm chiếm đóng, giặc Pháp phải liên tiếp đối phó với các cuộc chiến tranh yêu nước của quân dân ta trên dải đất nóng bỏng này và các vùng lân cận. Đó là các cuộc khởi nghĩa của Tổng đốc Nguyễn Quang Bích và Bố chánh Nguyễn Văn Giáp (1885-1888), cuộc chiến đấu của đồng bào Dao, Tày ở các châu phủ trong phong trào năm Giáp Dần (1913-1914) dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh Triệu Tài Lộc, Triệu Kiến Tiên. Tiếp sau đó là một sự kiện chấn động cả nước và làm cho bọn thống trị Pháp phải hoảng hốt, lo sợ là sự bùng nổ cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam quốc dân đảng năm 1930.
______________________________
1. Tài liệu lưu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Ba, 2017, 04:12:58 pm

Câu hỏi 9: Hãy trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa tại Yên Bái vào đêm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 2 năm 1930?
Trả lời:


Để nắm được diễn biến cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng tại Yên Bái, trước hết chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về vị trí quân sự của Pháp tại đây và lực lượng của quân khởi nghĩa.

Vào thời kỳ này, Yên Bái là một trong những vị trí quân sự quan trọng của quân Pháp, tuy lực lượng của chúng ở đây không được hùng hậu như ở Sơn Tây và Phả Lại. Ngoài lính khố xanh ra, Pháp có hai cơ lính khố đỏ thứ 5 và thứ 6 đóng ở đồn dưới và hai cơ thứ 7, thứ 8 đóng ở đồn Cao1. Tất cả có khoảng gần 600 lính và một số sĩ quan Pháp do tên trung tá Pháp là Ta-công chỉ huy.

Sau cuộc thao diễn của quân Pháp tại Sơn Tây, một số binh lính người Việt tại Yên Bái dự cuộc thao diễn này đã chịu ảnh hưởng tuyên truyền của những đảng viên Việt Nam quốc dân đảng trong quân đội Pháp ở Sơn Tây. Sau đó quốc dân đảng đã đặc phái một cán bộ phụ nữ là chị Nguyễn Thị Bắc2 đến công tác và lập được một chi bộ do ông Quản Cầm làm đại biểu và mấy người hăng hái trong quân đội như các ông Đội Trinh, Cai Hoàng, Cai Thuyết... tham gia. Chị Nguyễn Thị Bắc đóng giả làm vợ hai của Cai Thuyết đến thăm chồng ở trại con gái (khu nhà ở của vợ con lính khố đỏ), lọt được vào đồn binh, bắt liên lạc với cơ sở đảng ở cơ thứ 5 và 6, thống nhất kế hoạch khởi nghĩa. Tuy vậy số người trong chi bộ cũng không có bao nhiêu. Ngoài một số người trong lính khố đỏ ra, đảng cách mạng không phát triển được sang đám lính khố xanh trong tỉnh. Có chăng chỉ được một lời hứa hẹn không đảm bảo là: bao giờ bên khố đỏ nổi dậy, khố xanh sẽ hưởng ứng theo.

Tại miền lân cận tỉnh lỵ Yên Bái bấy giờ, Việt Nam quốc dân đảng cũng không có một tổ chức nào trong dân chúng. Vì vậy theo dự định khi nào khởi sự, chi bộ làng Xuân Lũng (Phú Thọ) sẽ phải hợp sức với chi bộ nhà binh tại Yên Bái.
______________________________
1. Đồn đóng trên đồi cao, mé sông Hồng.
2. Nguyễn Thị Bắc là chị gái Nguyễn Thị Giang, vợ chưa cưới (có tài liệu nói là vừa đính hôn) của ông Nguyễn Thái Học, hai chị em Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang đến hoạt động trong tổ chức Việt Nam quốc dân đảng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Ba, 2017, 04:14:02 pm

1. Nhật kỳ khởi nghĩa:

Như kế hoạch tổng công kích đã định, nhật kỳ khởi nghĩa tại các nơi phải được nhất trí. Tuy vậy hai khu vực do ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu phụ trách, công cuộc chuẩn bị không đều nhau, lại thêm những trở ngại xảy đến bất thường, vì vậy nhật kỳ khởi nghĩa phải hoãn đi hoãn lại mấy lần, mà mỗi ngày hoãn lại thì những khó khăn mới lại xảy ra. Sau cùng, ngày ước hẹn là ngày 9 tháng 2 năm 1930. Nhưng gần tới ngày khởi nghĩa đã định, ông Nguyễn Thái Học lại đưa giấy lên ông Nguyễn Khắc Nhu để xin hoãn lại một lần nữa là ngày 15 tháng 2 năm 1930. Nhưng người cầm giấy bị bắt nửa đường nên nhật kỳ khởi nghĩa đôi bên đã sai khác. Về phần ông Nguyễn Khắc Nhu, vì không nhận được tin hoãn của ông Nguyễn Thái Học cứ theo ước cũ, hạ lệnh cho mấy tỉnh miền trên khởi sự vào ngày 9 tháng 2 năm 1930.


2. Hội đền Tuần Quán với phương tiện khởi nghĩa

Trước ngày khởi nghĩa, tại Yên Bái xảy ra một việc bất thường: ông Quản Cầm, người lĩnh trách nhiệm đánh Yên Bái bị thổ huyết phải đem về điều trị tại bệnh viện Hà Nội1. Liền đó ông Nguyễn Khắc Nhu cử hai người không ở trong hàng ngũ nhà binh là ông Trần Văn Liên và Nguyễn Văn Khôi tức Thanh Giang phụ trách chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hai người này không hiểu gì về quân sự cũng không phải cán bộ binh vận, nên không có hiệu quả.

Tết Nguyên đán năm ấy, sắp đến ngày khởi nghĩa, đền Tuần Quán gần tỉnh lỵ Yên Bái đã mở hội linh đình. Những người ở các miền lân cận đến lễ bái, xem hội khá đông. Chiều hôm ngày 9 tháng 2, nghĩa là trước giờ khởi sự, trên các chuyến xe lửa Phú Thọ - Yên Bái người ta thấy đổ xuống sân ga Yên Bái tấp nập những người trẩy hội. Trong đó một số đông là những đảng viên Việt Nam quốc dân đảng từ Xuân Lũng tới do Bùi Tư Toàn lãnh đạo. Họ mang theo những khí giới giấu trong hành lý và những gánh bom trên phủ những quà bánh. Do đó họ đã "bịt" được những con mắt rình mò của bọn mật thám Pháp. Tại đền Tuần Quán, những binh lính trong giờ nghỉ ra coi hội cũng đông và do đó tiếp họp dễ dàng với những đảng viên bí mật để mưu tính công việc.

Về phần thực dân Pháp ở đây cũng như ở các nơi khác, đã nhận được chỉ thị là phải đề phòng rất ngặt một cuộc bạo động có thể xảy ra, nhất là sau khi nhật kỳ khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng bị tiết lộ, chúng càng đề phòng một cuộc bạo động sẽ nổ ra trong dịp Tết âm lịch. Những trại lính Yên Bái bao phủ một bầu không khí nghiêm trọng. Tên trung tá Ta-công luôn luôn đi tuần. Chiều hôm ấy, y thấy mấy người nói chuyện với nhau đã sinh nghi và bắn súng thị oai. Tuy vậy việc phải xảy đến cứ đến.
_______________________________
1. Có người nói ông Quản Cầm ốm thực. Có người nói ông giả ốm đế trốn trách nhiệm. Chỉ biết rằng: sau khi nghe tin cuộc khởi nghĩa thất bại, ông Cầm đã uất ức thổ huyết mà chết tại nhà thương.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Ba, 2017, 04:16:02 pm

3. Hội nghị đồi Sơn với kế hoạch khởi nghĩa

Chiều tối ngày 9 tháng 2, trước giờ khởi sự có một cuộc hội nghị tại đồi Sơn1 bên tỉnh lỵ Yên Bái. Người đến dự hội nghị khoảng 40 người gồm có binh lính và thường dân. Một người có mặt trong cuộc hội nghị này thuật chuyện lại rằng: không khí hội nghị lúc đó cũng không có gì phấn khởi lắm. Có người đã đề ra việc hoãn ngày khởi nghĩa. Tức thì một người khác rút súng lục ra bắn chỉ thiên và cảnh cáo: ai giật lùi sẽ bị giết ngay. Sau một hồi thảo luận, hội nghị đã đi đến chỗ đồng ý về kế hoạch khởi sự.

Điều cần phải làm rất nhanh chóng và gấp rút bấy giờ là lập kế hoạch giết cho được bọn sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp ở mỗi nhà riêng rồi sẽ chiếm trại lính, tuyên bố khởi nghĩa.

Đêm hôm đó một số nghĩa quân đã lọt vào trại lính từ khi có hiệu kèn tắt đèn, anh em lính khố đỏ tham gia nghĩa quân bảo vệ chu đáo.

Giờ khởi sự vào khoảng một giờ đêm, nghĩa quân chia làm ba toán. Toán thứ nhất phối hợp với số lính khố đỏ chiếm trại lính lớn ở đồn dưới có hai cơ lính thứ 5 và thứ 6 đóng. Toán này có nhiệm vụ giết bọn sĩ quan tại buồng riêng của chúng và chiếm kho vũ khí.

Toán thứ hai cũng gồm nghĩa quân và một số lính khố đỏ đánh lên đồn cao có hai cơ lính thứ 7 và thứ 8 đóng. Toán này cũng tiến hành giết sĩ quan Pháp trước rồi sau chiếm trại.

Toán thứ ba đánh thẳng vào một số nhà của bọn sĩ quan ở giữa hai trại lính.

Những nghĩa quân có trách nhiệm đi giết bọn sĩ quan mang theo dao găm, súng lục và bom tìm đến nhà mỗi sĩ quan và hạ sĩ quan. Trong khi chúng đang ngủ, nghĩa quân đến gõ cửa nói là có mật lệnh của trung tá Ta-công, rồi thừa lúc bất ngờ hạ thủ liền tại chỗ. Sau vài phút vật lộn ở khu nhà sĩ quan giữa hai trại lính, tên quan ba Gióc-đan, tên quan một Rô-bớt chết ngay tại chỗ. Tên quan ba Gai-ra và quan một Rơn bị thương nặng.

Ở đồn cao, nghĩa quân giết ngay tên quản Quy-nê-ô và bóp cổ chết tên đội Sơ-va-li-ê.

Ở đồn dưới, tên sĩ quan Đa-mua bị giết, tên Bu-hi-ê bị 14 nhát dao đâm và 4 phát đạn chết ngay. Còn hai tên Rơ-nô-dê và Rô-lăng bị thương nặng. Đồng thời 6 lính khố đỏ chống cự lại cũng bị giết. Duy có một hạ sĩ quan da đen, trong cuộc vật lộn dữ dội đã lần lượt giết chết cả hai nghĩa quân và thoát chết.

Nhưng thất vọng lớn là quân khởi nghĩa chưa giết được tên trung tá Ta-công. Người được ủy thác giết tên này là một người lính hàng ngày vẫn làm bồi cho nó. Hôm ấy Ta-công ở trên đồn cao thấy tiếng súng nổ liền nạp đạn vào súng rồi thủ thế trong một chiếc hầm trú ẩn để nghe ngóng tình hình. Người nghĩa quân phụ trách trở về đồn mấy lần kiếm cớ để lại gần tên này đều không được. Sau cùng phải rút lui.

Ở đồn dưới, sau khi giết hết bọn sĩ quan Pháp, đại biểu Việt Nam quốc dân đảng đọc bài hịch khởi nghĩa, tận cùng bằng mấy khẩu hiệu:

      "Đuổi giặc Pháp về nước Pháp!
      Đem nước Nam trả người Nam!
      Cho trăm họ khỏi lầm than
      Được thêm phần hạnh phúc!".


Đồng thời nghĩa quân đi chiếm đóng nhà ga, các cơ quan trong tỉnh và diễn thuyết cho nhân dân hàng phố hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Lá cờ nửa đỏ, nửa vàng đã được treo cao trên một vài dinh thự ở Yên Bái.
_________________________________
1. Đồi trồng cây sơn.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Ba, 2017, 04:16:29 pm

4. Ngọn lửa khởi nghĩa vừa bùng dậy đã lại dập tắt

Cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nhưng nghĩa quân vẫn không làm chủ được tình thế toàn tỉnh lỵ Yên Bái. Trong khi nghĩa quân chiếm đồn dưới, một số nhỏ lính khố đỏ ở cơ thứ 5 và thứ 6 không theo nghĩa quân, chạy lên hợp lực với đồn cao. Trên đồn cao, cơ thứ 7 cũng chỉ có một số theo nghĩa quân, còn toàn cơ thứ 8 và một số lính ở cơ thứ 7 chạy sang, nhất định giữ đồn dưới sự chỉ huy của tên trung tá Ta-công. Bọn này có vài lần định đánh xuống đồn dưới nhưng đều bị nghĩa quân đánh bật lại.

Nghĩa quân cũng bắn lên dữ dội và nhiều lần đánh lên đồn cao nhưng không có hiệu quả.

Trong trại lính khố xanh do tên giám binh La-phay trông coi, có một số đã hứa hưởng ứng với nghĩa quân. Nhưng vì không có người chủ động, không tổ chức, lại nghe tin không hạ thủ được Ta-công, không đánh chiếm được đồn trên, nên đám lính khố xanh không tin vào lực lượng cách mạng, không chịu ngả theo cách mạng. Thế rồi từ chỗ lừng chừng đến chỗ phản động, không những không hưởng ứng, mà còn trả lời bằng súng.

Đến đây thế công của quân khởi nghĩa vừa nổi lên đã bị ngừng lại. Do đó tinh thần yếu đuối của những nghĩa quân tan vỡ một cách không ngờ. Vì không giết được tên chủ tướng Ta-công nên không lôi kéo được bọn lính khố đỏ trên đồn cao và bọn lính khố xanh. Số người điều khiển cuộc khởi nghĩa đâm hoang mang và nghĩa quân ngày càng bị cô độc. Một số thường dân ngoài quân đội, trong đó có cả những người phụ trách chỉ huy như Nguyễn Văn Khôi, Trần Văn Liên, v.v... đều lần lượt rút lui. Những người còn lại trong quân đội khởi nghĩa thiếu người điều khiển; một vài người hăng hái tự động, chỉ còn biết bắn lung tung về phía đồn trên. Những người có mặt trong thời điểm khủng hoảng ấy thuật lại rằng: nghĩa quân không còn ai bảo được ai và không còn biết phải làm gì. Nhiều người lên tiếng kêu gọi ai là người có nhiệm vụ của đảng cách mạng phái đến chỉ huy thì cho mệnh lệnh để thi hành mà cũng không một tiếng trả lời... Ngoài mấy người thoát ra tìm đường trốn đi không kể, ngay những người vừa chiến đấu mãnh liệt như Ngô Hải Hoằng, Nguyễn Văn Thuyết... sau khi làm xong nhiệm vụ rồi, cũng chỉ còn biết nằm đến sáng để chờ giặc đến bắt đi.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Ba, 2017, 04:17:51 pm

Về phần tên chỉ huy Pháp là Ta-công ở trên đồn cao, trước chưa rõ tình hình về lực lượng nghĩa quân ở đồn dưới thế nào, nên chỉ giữ thế thủ, tới khi thấy thế công của nghĩa quân không tiến nữa, nhất là về gần sáng chỉ còn thỉnh thoảng nghe thấy một vài tiếng súng bắn vu vơ thì đoán biết là nghĩa quân đã tự tan vỡ, y liền bố trí phản công.

Sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930, một máy bay trinh sát của bọn chỉ huy Pháp từ Hà Nội lên, lượn nhiều vòng xem xét tình hình. Tiếp đó đồn cao được lệnh phản công.

Bảy giờ sáng, Ta-công tập hợp cơ lính thứ 8 và một phần cơ thứ 7 chạy sang, võ trang lại và chia làm ba đội. Một do quan ba Rốc-cát chỉ huy, một do quan một Va-ren chỉ huy và đội thứ ba do đội trưởng Ô-li-vi-ê chỉ huy. Cả ba đội phản công đồn dưới, bao vây bốn mặt, nhưng không gặp một sức chống cự nào. Chỉ sau 15 phút, giặc chiếm lại được trại lính. Tuy vậy cờ của nghĩa quân vẫn bay trên nóc nhà quản đạo, nhà tri huyện và một vài công sở khác mãi tới mấy giờ sau, khi chúng tin là nghĩa quân đã bỏ thị xã Yên Bái mới dám hạ cờ. Cuộc khởi nghĩa bị dập tắt trong buổi sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930.

Kết quả1 nghĩa quân đã giết:

2 sĩ quan, 3 hạ sĩ quan, 6 cai và lính khố đỏ .

Làm bị thương: 2 sĩ quan, 4 hạ sĩ quan, 4 cai và lính khố đỏ.

Thu được: 2 súng liên thanh, 12 súng trường và mang 8 lính khố đỏ trốn theo.

Địch bắt 4 cai và 22 lính khố đỏ tình nghi là cùng nghĩa quân nổi dậy và bắt 25 thường dân hầu hết là người bị thương. Còn một số cai và lính chúng biết rõ là tham gia khởi nghĩa đều bị xử bắn tại chỗ2.
_______________________________________
1. Theo báo cáo của Ta-công.
2. Theo báo cáo của tên trung tá Ta-công thì trong số gần 600 cai và lính khố đỏ có độ 50 người tham gia cuộc khởi nghĩa. Nhưng như ta đã thấy ở trên, gần hết cơ thứ 5 và thứ 6, một phần cơ thứ 7 tham gia, vì vậy quân số tham gia nghĩa quân có thể nhiều hơn.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:05:17 am

Câu hỏi  10: Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã gây nên chấn động, làm cho chính phủ bảo hộ của Pháp ở Hà Nội vô cùng hoảng hốt và choáng váng. Hãy cho biết một số hành động của họ? Một số sĩ quan Pháp là "người trong cuộc" đã nói gì về diễn biến của cuộc khởi nghĩa?
Trả lời:


Ngày 10 tháng 2 năm 1930 (tức 12-1 năm Canh Ngọ), thành phố Hà Nội có vẻ náo động, nhiều người không hiểu rõ là việc gì; tại các vùng quê có lệnh canh phòng rất cẩn mật. Tối hôm ấy có lệnh giới nghiêm, cấm đi lại từ 8 giờ tối. Đến 9 giờ đêm bỗng có 10 phát súng đại bác nổ ran, một bản thông cáo của chính phủ bảo hộ đưa đăng các báo sau:

Việc biến động mới xảy ra ở Yên Bái và Hưng Hóa.

Hai cơ lính khố đỏ đóng ở Yên Bái gồm có một đội lính vừa mới khởi nghịch hồi 2 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930. Hai viên quan võ bị giết chết. Còn về phần các lính khố đỏ thì số tổn thương bao nhiêu chưa rõ. Nhân dân đều được bình yên. Lính khố xanh vẫn trung thành. Hồi 9 giờ rưỡi sáng hôm nay, quan công sứ Yên Bái có đánh điện tín về nói rằng đã gần dẹp yên được việc khởi nghịch này. Có phái binh lính đi tuần trong tỉnh lỵ, khi mới nhận được tin này thì có mấy chiếc phi cơ từ Hà Nội bay lên ngay. Hiện đã trù liệu mọi cách đề phòng về binh sự. Một toán lính Tây đã lên ngay Yên Bái.

Ở Hưng Hóa thì có một bọn đến đánh đồn khố xanh. Những người chống giữ không thiệt hại gì; bọn đánh đồn ấy chừng 20 người đã qua sông Nhị Hà chạy trốn1.

Bản thông cáo ấy chỉ là tin tức vắn tắt của một phương diện, chúng ta cần phải biết thêm nhiều phương diện nữa mới biết rõ được sự thực về cuộc khởi nghĩa ấy.
_____________________________________
1. Bạch Diện, Nguyễn Thái Học và Việt Nam quốc dân đảng, Nxb Ngày mai, H. 1950, tr. 56 - 57.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:05:40 am

Dưới đây là một đoạn văn của một võ quan Pháp thuật lại những việc xảy ra tại Yên Bái chiều ngày 9 tháng 2 năm 1930.

Một buổi chiều tháng 2 năm 1930.

Bọn sĩ quan và hạ sĩ quan trong đồn Yên Bái mang một nỗi lo lắng trầm trọng. Họ đã nhận thấy những sự khác thường trong tỉnh lỵ. Sự hoạt động trội lên, chuyến xe lửa nào cũng đưa vào tỉnh rất nhiều hành khách. Từng tốp người tụ họp chung quanh nhà ga. Trong những giờ nhất định được phép ra ngoài, lính khố đỏ quây quần đông chung quanh những bàn rượu trong các tửu quán. Và người kiểm vé trong rạp chớp bóng chiều hôm đó không bị bọn lính Tây quen thói trả tiền chỗ ngồi bằng những dọa nạt, bằng những nắm tay, quấy rầy.

Chiều đó khác thường lắm.

Bọn chức trách Pháp cũng nhận thấy thế. Nhưng tại họ có được nghe gì đâu. Họ băn khoăn tự hỏi: "Tại sao lại có sự rộn ràng thế kia?".

Nhưng rồi tự họ, họ đã tìm thấy câu trả lời như thế này: "Hôm nay là ngày đầu tháng âm lịch, có lẽ người Việt Nam đi lễ chùa".

8 giờ. Viên quan ba Gai-ra ở trại về. Đội Vinh chờ sẵn, nói:

- Đại úy không nên ăn bữa chiều nay.

- Tại sao thế?

- Có thuốc độc.

Rồi, Đội Vinh run run nói để viên quan thầy biết: chiều nay, tất cả người Pháp sẽ bị giết, kho súng đạn sẽ bị phá và lá cờ cách mạng sẽ treo lên thành.

Đại úy cho là Đội Vinh say rượu nói nhảm. Nhưng Đội Vinh nhất định cãi không và hắn nói:

- Có một cuộc hội họp quan trọng trong khu rừng sơn dưới chân đồi pháo đài. Mỗi người lính khố đỏ đã nhận được một công tác của quân cách mạng.

Người Pháp liền cho đi do thám khu rừng sơn, nhưng vắng ngắt bóng người. Viên quan ba Gai-ra gắt lên:

- Nói láo! Thôi chúng ta đi ngủ.

Họ về nhà riêng, kẻ vào trại.

Cái đêm nguy hiểm đó bắt đầu bằng sự im lặng nặng nề. Nhưng im lặng để rồi khi quá nửa đêm, náo động lên ở khắp các buồng người Pháp trong trại.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:06:32 am

Đây là một trong những khung cảnh khủng khiếp đã xẩy ra do viên chánh đội Bô-li-ê thuật lại:

"Tôi yên dạ đi nằm, mà lại đi nằm rất sớm. Giường tôi kê ngoài hiên. Không có cửa. Đặt mình nằm là tôi ngủ liền, tôi bỗng thức giấc vì có một vật to và nặng rơi lên mình tôi. Lúc ấy có lẽ vào khoảng quá nửa đêm. Tôi ngồi dậy và kêu ầm lên. Những kẻ công kích vô hình đứng ngoài màn đêm tối. Tôi giẫy giụa như một con cá bị mắc lưới không có một ánh sáng, một tiếng nói. Bọn lính khố đỏ đi chân không đến hại tôi không nói lên nửa lời. Tay và mặt tôi đẫm những máu. Tôi biết kẻ địch không mang gậy mà mang gươm hay mang kiếm. Cái cột màn rơi xuống. Tôi nắm lấy nó và đánh trả lại trong đêm tối. Đánh hú họa như thế cho đến lúc tôi ngất đi. Khi tôi mở mắt thì trời đã sáng. Tôi nhận thấy tôi nằm sõng soài trên đất, ngay dưới chân giường. Một cái mặt quen thuộc ghé xuống với tôi. Tôi nhìn rõ đó là người thư ký của tôi. Tôi đã tưởng được hắn đến cứu nên cố ngồi dậy và gọi hắn: "Nam! Nam!".

Hắn đứng lên, lùi lại hai bước rồi chĩa một khẩu súng lục vào tôi. Hắn bắn ba phát liền. Nhưng đều không trúng tôi. Tôi không dám cựa, bụng vẫn tỉnh và tôi không dám mở mắt xem tôi đã được thoát nạn ở lại một mình chưa.

Tôi nghe tiếng súng mãi đến 7 giờ 30 mới dứt. Đến 9 giờ, mấy người bạn mà tôi tưởng đã chết rồi, đến tìm tôi và khiêng vào bệnh viện".


Một võ quan Pháp khác thuật lại đêm khởi nghĩa của Việt quân ở Yên Bái như sau:

Một giờ đêm có hai tốp người Việt Nam mặc thường phục hiện ra, một tốp ở trong đồn và một tốp ở trong trại. Tại hai nơi đó có hai đội lính khố đỏ.

Cùng một lúc các cửa đồn và cửa trại bỗng nhiên cùng mở toang.

Theo sự xếp đặt của những đảng viên cách mạng, một hiệu kèn báo động nổi lên. Viên đội người Pháp coi kho tưởng có động thật, đã làm theo phận sự. Hắn phát súng trường, súng lục, đạn dược cho những kẻ lát nữa sẽ giết hắn.

Nhận được khí giới đủ rồi, mọi người bắt đầu hành động. Trung úy Rô-bớt bị ám sát ngay trên giường. Viên quản Quy-nê-ô chết không kịp kháng cự. Đội Sơ-va-li-ê và Đa-mua cũng bị chết ngay tại nơi họ ngủ.

Viên quản Tô-tua, viên chánh đội Đét-chan-pa, đội Hu-ru-gen và Rây-nắc cùng vợ hắn bị chặn mất lối ra, phải ở trong buồng cầm cự với khẩu súng liên thanh cho tới sáng. Viên quan ba Gióc-đan đứng trong đồn hô quân đội sắp thành hàng ngũ. Một loạt súng nổ trả lời, viên quan Gióc-đan ngã gục xuống. Bên cạnh, viên quan ba Gai-ra bị thương quằn quại.

Thế là đêm ấy lính khố đỏ Yên Bái đã làm chủ tình thế.

Nhưng trời vừa sáng, họ thất vọng khi nhận thấy có nhiều võ quan còn sống và quân tiếp viện tới nơi.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:07:49 am

Dưới đây là sự thuật lại vụ Yên Bái của các đảng viên Việt Nam quốc dân đảng:

Hai chị em cô Nguyễn Thị Giang và Nguyễn Thị Bắc là người có công trong việc tuyên truyền lập ra chi bộ ở Yên Bái, chú trọng nhất đến anh em binh sĩ. Người chỉ huy việc đánh Yên Bái là anh cai Ngô Hải Hoàng người Nghệ An, nguyên ở chi bộ Tuyên Quang, khi đổi sang Yên Bái, anh lập một chi bộ nhà binh ở Yên Bái.

Sáng sớm ngày 9 tháng 2 năm 1930, các đồng chí ở các nơi kéo về Yên Bái rất đông, người thì đi bộ, người thì đi xe lửa. Tất cả các đồng chí ấy đều thuộc quyền chỉ huy của anh Đặng Văn Hợp và Bùi Tư Toàn. Các nữ đồng chí giả làm người buôn bán rau cỏ, gà vịt gánh bom vào Yên Bái giấu kín dưới các gánh hàng và đem đến để chung quanh trại con gái (nơi ở riêng của vợ con binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp), các nữ đồng chí ấy còn may sẵn cả cờ và băng cho anh em đeo.

Khi vào đến Yên Bái mỗi người tìm nơi trọ riêng, tối đến mới họp nhau ở trong rừng sơn dưới chân đồi ngoài tỉnh lỵ. Trong cuộc họp ấy, anh Phó Đức Chính mặc binh phục đứng đọc diễn thuyết rất hùng hồn, khuyến khích mọi người phải nỗ lực; đoạn rồi anh phân phát khí giới cho các đội tiện y. Khí giới ấy phần nhiều là bom xi măng và dao găm.

Không ngờ cuộc hội họp ấy bị một anh lính không rõ có phải là Đội Vinh không đã biết rõ và đi báo với Quy-nê-ô. Viên tư lệnh thân hành đi dò xét lấy, nhòm vào trại con gái thấy vắng tanh không có bóng người nào. Viên này yên trí là binh lính Việt Nam đã họp nhau đánh bạc tại nơi nào đó, vì họ vẫn biết rằng người Việt Nam thường hay có thói đánh bạc vào dịp Tết (hôm ấy là ngày 11 tháng Giêng năm Canh Ngọ).

Một giờ sáng, quân cách mạng và dân quân hiệp lực nhau chiếm trại. Hai cơ binh thứ 5 và thứ 6 hạ thủ các sĩ quan Pháp coi hai đạo quân ấy. Viên đội Đa-mua, thiếu úy Rô-bớt, đại úy Gióc-đan bị đâm chết hoặc bị bắn chết. Các viên đội Sa-va-li-ê, Rơ-nô-dê, Rô-len, Quy-nê-ô, đại úy Gai-ra đều bị thương nặng.

Lập tức lá đảng kỳ nửa vàng nửa đỏ phấp phới trên trại. Lúc này quân cách mạng mới dùng súng tiểu thanh bắn lên trại lính trên đồi. Ở trên, quân Pháp cũng xả súng bắn lại. Năm giờ sáng quân Pháp phản công kịch liệt, quân cách mạng núng thế phải rút lui vào rừng, nhưng vẫn còn cầm cự trong mấy ngày nữa.

Người ta còn nhớ rằng ngày 11 tháng 2 năm 1930, sau khi máy bay đi thám thính vùng Yên Bái tưởng là yên hẳn rồi, về báo cáo với phủ toàn quyền. Ông toàn quyền Pát-ki-ê liền đáp xe lửa riêng lên thăm tỉnh, giữa đường có bom liệng vào xe lửa nhưng không trúng toa xe ông toàn quyền ngồi1.
______________________________
1. Bạch Diện, Nguyễn Thái Học và Việt Nam quốc dân đảng, Nxb Ngày mai, H. 1950, tr. 65.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:28:59 pm

Câu hỏi 11: Hãy trình bày cuộc đánh đồn Hưng Hóa và chiếm phủ Lâm Thao (Phú Thọ) ngày 10 tháng 2 năm 1930 của quân khởi nghĩa?
Trả lời:


Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề, không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15 tháng 2 năm 1930. Tuy nhiên, liên lạc viên bị địch bắt giữa đường nên cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930. Tuy xảy ra nhiều nơi khác nhau, nhưng sau này các sách lịch sử thường gọi chung là cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Tại Hưng Hóa và Lâm Thao (Phú Thọ) diễn biến của cuộc khởi nghĩa ngày 10 tháng 2 năm 1930 như sau:

1. Kế hoạch quân sự

Dưới quyền điều khiển của tổng chỉ huy Nguyễn Khắc Nhu, đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930, cùng với cuộc khởi nghĩa Yên Bái, nghĩa quân sẽ đồng thời nổi dậy ở Hưng Hóa và Lâm Thao (Phú Thọ). Theo dự định ba toán nghĩa quân này sau khi đắc thắng sẽ cùng hội quân ở Hưng Hóa, theo lối Trung Hà vượt qua sông đánh vào đồn Thông (Sơn Tây), hợp với toán quân của Phó Đức Chính ở đây.

Toán quân đánh đồn Hưng Hóa sẽ do ông Nguyễn Khắc Nhu trực tiếp chỉ huy, mang theo những nghĩa quân từ các phủ huyện Thanh Ba, Cẩm Khê, Lâm Thao, Tam Nông... đến đánh.

Toán quân đánh phủ Lâm Thao do ông Phạm Nhận tức Đồ Đúc chỉ huy đem theo một số đảng viên tại mấy làng phụ cận đến đánh.

Khí giới của nghĩa quân không có gì khác hơn là giáo, mác và bom.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:30:10 pm

2. Chiếm phủ Lâm Thao và đánh đồn Hưng Hóa

Theo kế hoạch đã định, nửa đêm về sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930, Phạm Nhận chỉ huy nghĩa quân đánh phủ Lâm Thao (Phú Thọ). Tên tri phủ thấy nghĩa quân đến bèn bỏ chạy, còn bọn lính lệ thì rút lên lô cốt cố thủ. Phạm Nhận cho quân chiếm phủ lỵ, đốt các giấy tờ của tri phủ để lại và đốt lửa làm hiệu cho Nguyễn Khắc Nhu ở phía Hưng Hóa biết đã chiếm được phủ Lâm Thao.

Tại Hưng Hóa, như đã định trước, đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930, hai toán quân từ mấy phủ huyện kéo đến đánh đồn Hưng Hóa. Trước giờ khởi sự, họ phải tập trung tại một địa điểm gần đồn. Nhưng trong cuộc hành quân một trở ngại xảy ra ngoài dự định. Một trong hai toán quân kể trên muốn đến được địa điểm hội quân và đánh đồn, họ phải qua sông Hồng. Vì không chuẩn bị từ trước, toán quân này đến nơi mới tìm đò qua sông. Không ngờ kẻ được cử đi tìm thuyền lại là một tên hèn nhát, thừa cơ trốn mất. Đến gần sáng, toán quân này vẫn không qua sông được, phải giải tán.

Một toán khác do đích thân ông Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy chờ đến gần sáng vẫn không thấy toán quân kia, liền phát động đánh đồn vào hồi tảng sáng. Số lượng quân đánh đồn chỉ có khoảng một trăm người, người thì mặc quần áo ka ki vàng, người thì áo ka ki quần trắng, người thì vẫn quần áo nâu. Ai nấy đều đeo băng tay màu vàng viết chữ “Việt Nam cách mạng quân". Vũ khí thông thường là bom, mỗi người ba, bốn quả. Ngoài ra một số người còn có thêm súng trường, súng lục, mã tấu. Hai chiếc thuyền đã chờ sẵn ở một địa điểm bờ sông Hồng đối diện với đồn Hưng Hóa để chở quân cách mạng sang sông.

Đồn Hưng Hóa bấy giờ ngoài một tên đồn trưởng người Pháp còn toàn là lính khố xanh. Tại đồn lính khố xanh này vốn từ trước vẫn có một số binh lính theo cách mạng và hẹn sẽ làm nội ứng cho quân khởi nghĩa. Nhưng do sự đề phòng của thực dân, đơn vị lính cũ đã bị đổi đi từ ngày hôm trước nên khi Nguyễn Khắc Nhu dẫn quân đến sát đồn ra mật hiệu thì không thấy động tĩnh gì. Lúc đó vào khoảng 3 giờ sáng và khi thấy hiệu lửa ở Lâm Thao, Nguyễn Khắc Nhu đã được vững tâm và cứ ra lệnh tấn công đồn mặc dù quân số còn thiếu nhiều. Các chiến sĩ nhanh chóng tản ra bao vây đồn và đổ dầu hỏa đốt hàng rào lấy đường vào đồn. Bom ném tới tấp vào đồn nhưng vì chỉ là những bom vỏ xi măng, chỉ có một ít bằng vỏ gang, thuốc nổ lại không tốt nên chẳng gây được tác hại gì cho đồn binh1. Tiếp theo, Đồ Thúy, chỉ huy phó của đoàn quân, đọc bài hịch kêu gọi binh lính ủng hộ cách mạng. Nguyễn Khắc Nhu cũng nhảy lên một bức tường cất tiếng sang sảng kêu gọi binh lính trong đồn quay súng bắn vào thực dân và ra ngoài hợp lực cùng quân cách mạng đánh Pháp. Nhưng trước những lời hô hào thống thiết, binh lính vì không được chuẩn bị trước nên chẳng dám quyết định theo quân khởi nghĩa. Hơn nữa tên giám binh chỉ huy đồn chạy thoát được vào lô cốt cố thủ đã liên tục hô bắn trả. Và trước sự xung phong của quân khởi nghĩa vào đồn không gây được thiệt hại gì, binh lính lúc đầu còn bắn chỉ thiên sau đó bị chỉ huy thúc ép, đã thẳng cánh bắn trả mà bắn lại rất trúng đích. Cuộc tấn công đồn Hưng Hóa của quân cách mạng diễn ra được khoảng 40 phút mà vẫn không giết được một tên địch nào, mà đồn thì vẫn được nguyên vẹn trong khi đó thì số thương vong phía ta mỗi lúc lại tăng lên. Do đó Nguyễn Khắc Nhu đành phải hô quân rút lui bỏ lại chiến trường 17 quả bom, mấy thùng dầu hỏa và lá cờ vàng đỏ để sang sông nhập với cánh quân đã làm chủ được phủ lỵ Lâm Thao.
____________________________________
1. Hồi mới đầu người ta còn chế bom bằng cách nhồi thuốc vào quả bóng đèn. Nhưng sau đó người ta chỉ còn bọc ngoài bằng một lớp vỏ xi măng. Đã thế bom lại bị chôn dưới đất lâu ngày ẩm ướt nên mất cả hiệu lực. Hồi đó, đã có một giai thoại về chuyện bom là: trước hội đồng đề hình của đế quốc Pháp, bọn quan tòa buộc tội những người dự cuộc vũ trang khởi nghĩa là đã dùng bom giết người. Một người trong đám bị cáo đã dõng dạc đáp lại: bom của chúng tôi là "bom nhân đạo". Nó không có mục đích giết người như bom của đế quốc, mà chỉ dùng để uy hiếp tinh thần bên địch. Từ đó cái tên "bom nhân đạo" được dùng quen trong những câu chuyện hài hước.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Ba, 2017, 09:30:51 pm

Khoảng 8 giờ sáng Nguyễn Khắc Nhu cùng đám tàn quân đánh đồn Hưng Hóa cuốc bộ tới Lâm Thao. Ở đây Phạm Nhận đã làm chủ được phủ lỵ, tầng dưới của lô cốt và đã bắt đầu tuyên truyền dân chúng trong vùng. Thấy quân mới đến tưởng là viện binh, lại nghe thấy quân cách mạng khoe là đã hạ được Yên Bái và Hưng Hóa, bọn lính cơ cố thủ trên gác lô cốt đã hạ súng đầu hàng và một số xin theo quân khởi nghĩa. Tuy có thắng lợi mới này và tuy được dân chúng nhiệt liệt ủng hộ, nhưng thấy địa thế phủ lỵ Lâm Thao trống trải, Nguyễn Khắc Nhu đã có ý định cho quân rút ra ngoài. Phạm Nhận, trái lại muốn cứ ở lại rồi tính sau. Hai người còn đang dùng dằng thì khoảng 10 giờ sáng, tên Sô-vê, phó sứ Phú Thọ, đem mấy ô tô lính khố xanh đến đánh phủ. Hai bên cùng nổ súng bắn nhau. Tên Sô-vê bị một nghĩa quân trước đã từng đi lính khố đỏ nhằm bắn trúng vành mũ suýt chết. Cuộc chiến đấu diễn ra không được bao lâu thì trước uy thế vũ khí áp đảo của địch, quân cách mạng bị thương vong nhiều không còn đánh trả được mạnh nữa nên phải rút lui. Trong cuộc chiến đấu này, một nghĩa quân bị chết, ông Phạm Nhận và 4 chiến sĩ bị bắt. Nguyễn Khắc Nhu bị thương ở đùi không chạy được. Anh em định dìu đi nhưng ông đã từ chối sợ làm chậm trễ cuộc rút chạy và đã đặt hai quả bom xuống đất rút chốt an toàn rồi nằm lên trên cho bom nổ để tự tử. Nhưng uy lực của bom quá yếu nên ông chỉ bị thủng ngực và bụng rồi bị giặc bắt. Chúng băng bó cho ông rồi giải ông sang Hưng Hóa. Qua sông, ông đã từ trên thuyền lao xuống sông tự vẫn lần thứ hai nhưng lại bị giặc vớt lên đem giam trong đồn Hưng Hóa.

Tại đây, khi bị hỏi cung, ông đã liên tục chửi mắng quân Pháp cướp nước và khi bị viên cẩm chính trị Ri-nơ sừng sộ gọi ông là kẻ cướp giết người, ông đã trợn mắt thét lớn:

- Đồ khốn nạn! Giữa tao và chúng bay thì chúng bay là kẻ cướp giết người, chứ còn nói ai?

Đến khi tên phó sứ Phú Thọ Sô-vê hỏi:

- Tại sao ông lại làm loạn?

Ông đã đĩnh đạc trả lời không chút do dự:

- Tôi là người Việt Nam, có bổn phận bảo vệ đất nước, giành lại độc lập, như thế là hợp với lẽ phải và nhân đạo, sao có thể gọi là làm loạn được?

Tên Sô-vê cứng họng không nói được câu nào nữa.

Rồi trong nửa đêm về sáng ngày 11 tháng 2 năm 1930 tức 13 tháng Giêng năm Canh Ngọ, nghĩ rằng trước sau thì mình cũng bị Pháp chém đầu nên tuy chân tay bị xích, Nguyễn Khắc Nhu đã dồn toàn bộ tàn lực đập đầu xuống sàn lim để tự vẫn cho được toàn danh tiết. Như vậy là theo âm lịch ông đã hy sinh vào năm 49 tuổi.



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Ba, 2017, 08:16:22 am

Câu hỏi 12: Theo kế hoạch đã định, trong ngày 10 tháng 2 năm 1930 cùng với Yên Bái và Phú Thọ, Việt Nam quốc dân đảng còn âm mưu đánh đồn Thông (Sơn Tây), tổ chức đánh bom tại Hà Nội. Hãy trình bày những sự kiện này?
Trả lời:


1. Việc mưu đánh đồn Thông (Sơn Tây)

Kế hoạch quân sự của Việt Nam quốc dân đảng bấy giờ là mong dồn những lực lượng chiến thắng từ các ngả Yên Bái, Hưng Hóa và Lâm Thao để hạ đồn Thông ở Sơn Tây, một căn cứ quân sự yếu điểm của Pháp. Nhưng tại Yên Bái, Hưng Hóa và Lâm Thao, nghĩa quân đều hoàn toàn thất bại. Còn tại Sơn Tây, Quốc dân đảng tuy có một số đồng chí ở trong quân đội Pháp, nhưng lực lượng yếu quá, không đủ sức nổi dậy một mình. Kết quả là kế hoạch đánh Sơn Tây không thực hiện được.

Ít ngày sau, ông Phó Đức Chính, người lĩnh trách nhiệm đánh Sơn Tây, bị giặc Pháp bắt được tại nhà một đồng chí là ông Quản Trang.


2. Đánh bom tại Hà Nội (10-2-1930)

Theo kế hoạch định ra từ trước, một khi nghĩa quân nổi lên ở các nơi thì tại Hà Nội mặc dầu không đủ sức nổi dậy cũng phải tỏ ra hoạt động để kìm chế quân Pháp ở đây không dám phái đi cứu viện những nơi khác. Sau việc phản bội của Nguyễn Thành Dương, chi bộ nhà binh của Việt Nam quốc dân đảng tại Bạch Mai cũng tan vỡ. Dự định đốt phá trường bay không thực hiện được. Do đó các nhà chỉ huy của Việt Nam quốc dân đảng đổi kế hoạch bằng việc ném bom tại thành phố để hư trương thanh thế của mình và uy hiếp tinh thần bên địch.

Sau đêm khởi nghĩa Yên Bái, tối hôm 10 tháng 2 một số đoàn viên của Việt Nam quốc dân đảng, trong đó phần nhiều là học sinh trường kỹ nghệ Hà Nội, được huy động mang bom ném vào nhiều nơi trong thành phố như sở mật thám, bóp cảnh sát Hàng Trống, nhà chánh mật thám Ac-nu, nhà pha Hỏa Lò... Một lính gác ở cầu Long Biên bị một phát đạn xuyên qua đùi. Cuộc ném bom này không gây một thiệt hại thực tế gì cho đế quốc Pháp, nhưng đã có một tiếng vang mạnh mẽ trong tinh thần dân chúng khiến giặc Pháp phải đề phòng ráo riết.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Ba, 2017, 08:17:04 am

Câu hỏi 13: Hãy trình bày diễn biến của cuộc đánh chiếm huyện Vĩnh Bảo ngày 15 tháng 2 năm 1930?
Trả lời:


1. Kế hoạch chung

Cuộc đánh chiếm huyện Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương) chỉ là một bộ phận nhỏ nằm trong kế hoạch quân sự chung của chương trình khởi nghĩa tại đồng bằng Bắc Kỳ do ông Nguyễn Thái Học chỉ huy. Nhưng vì kế hoạch chung bị thất bại, nên việc khởi nghĩa Vĩnh Bảo bề ngoài nhìn vào có vẻ riêng lẻ và không có triển vọng lớn.

Theo chương trình tấn công của Việt Nam quốc dân đảng lúc đó, trọng tâm của nó là ở Hải Phòng - một trung tâm đô thị và hải cảng lớn tại Bắc Kỳ. Nhưng nếu muốn đánh chiếm Hải Phòng, nghĩạ quân phải tập trung nhiều lực lượng ở các nơi khác từ tỉnh lỵ đến các phủ, huyện. Thực ra lực lượng của Quốc dân đảng lúc ấy mong manh, lại không đều, nên chương trình đặt ra cũng chỉ có thể nhằm theo khả năng của từng nơi. Ví dụ tại phủ huyện nào có chi bộ mạnh thì việc đánh chiếm phủ hay huyện mới được đề ra. Cũng như từ một chỗ không thể nổi dậy được phải trông vào sức tiếp viện ở nhiều nơi khác dồn lại. Vì vậy mà sợi dây liên lạc mỏng manh ấy một khi bị đứt đoạn ở quãng nào thì không những mục đích cuối cùng không đạt được mà toàn bộ kế hoạch cũng tan vỡ.

Những địa điểm được ghi trên bản đồ khởi nghĩa bấy giờ là Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Ninh Giang, Hải Dương, Phả Lại, Kiến An và Hải Phòng. Quân khởi nghĩa ở hai địa phương Phụ Dực và Vĩnh Bảo sẽ nổi lên chiếm huyện, cướp súng rồi cùng kéo xuống đánh đồn Ninh Giang. Một mặt khác nghĩa quân trong vùng Hải Dương kéo đến đánh tỉnh lỵ Hải Dương và đồn Phả Lại. Sau khi đã thắng lợi rồi, những toán quân kể trên sẽ tập trung lại, hợp với những toán quân đánh Kiến An cùng đánh vào Hải Phòng. Nói tóm lại, chương trình khởi nghĩa tại mấy tỉnh miền dưới của ông Nguyễn Thái Học cũng không khác chương trình khởi nghĩa tại các tỉnh miền trên của ông Nguyễn Khắc Nhu để đi tới một kết quả đau đớn như nhau.

Còn nhật kỳ khởi nghĩa thì như trên đã nói, những toán quân dưới quyền chỉ huy của ông Nguyễn Khắc Nhu đã nổi dậy vào ngày 9 tháng 2. Trái lại dưới quyền chỉ huy của ông Nguyễn Thái Học, ngày nổi dậy của mấy tỉnh miền dưới là ngày 15 tháng 2 năm 1930.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Ba, 2017, 08:19:36 am

2. Hoàn cảnh riêng

Riêng về huyện Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương) bấy giờ, Việt Nam quốc dân đảng có một chi bộ khá mạnh tại làng Cổ Am do ông Trần Quang Diệu cầm đầu. về cuộc vận động tổng khởi nghĩa, dân cư ở đấy còn đương sôi sục căm hờn vì một số lớn ruộng bãi bị thực dân chiếm mất. Từ lâu nông dân vẫn tranh đấu chống lại quân cướp nước, cướp ruộng. Mấy lần phái đoàn của chúng về đo ruộng, cắm mốc đều bị nhân dân đuổi đánh tán loạn, Hoàng Gia Mô - tri huyện Vĩnh Bảo bấy giờ vừa là một tên tham quan nổi tiếng về ăn hối lộ, vừa là tay sai đắc lực của giặc trong việc cướp ruộng của dân. Vì vậy sau khi lệnh tổng khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng truyền ra, nhân dân trong vùng hưởng ứng hăng hái. Họ quyết giữ lấy nước cũng như giữ lấy ruộng. Họ trút cả thù ghét vào Hoàng Gia Mô, kẻ đang trực tiếp áp bức họ. Đã đến lúc nông dân vùng dậy. Nông dân trả thù.


3. Chiếm huyện Vĩnh Bảo, giết Hoàng Gia Mô

Nhật kỳ khởi nghĩa đã thống nhất. Những hội nghị bí mật và công cuộc chuẩn bị đánh huyện Vĩnh Bảo đều được tổ chức tại làng Cổ Am. Lúc ấy, những tiếng súng, tiếng bom khởi nghĩa ở Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao và Hà Nội đã làm rung động cả nước. Cuộc khởi nghĩa tại mấy nơi trên tuy đã thất bại, nhưng dân quê phần nhiều chưa hiểu rõ tin tức ra sao? Đế quốc Pháp ra lệnh giới nghiêm tại mấy thành phố và hết sức đề phòng cuộc bạo động có thể tiếp tục xảy ra. Tại Vĩnh Bảo cũng như những nơi khác bao phủ một làn không khí nghiêm trọng. Tri huyện Hoàng Gia Mô luôn luôn chạy lên đồn Ninh Giang để báo cáo tình hình và bố trí phòng quân khởi nghĩa.

Mới đầu quân khởi nghĩa định tìm cách dụ Hoàng Gia Mô ra ngoài để giết rồi sẽ chiếm huyện sau. Sáng ngày 15 tháng 2, ông Trần Quang Diệu1 lấy tư cách là người đương làm việc với Mô đến mật báo là bọn cách mạng đang khai hội ở làng Cổ Am, yêu cầu đem quân đến bắt. Lúc ấy nghĩa quân đã bố trí tại một địa điểm trên quãng đường Vĩnh Bảo - Cổ Am, đợi Hoàng Gia Mô đi qua thì đánh bắt. Nhưng được tin báo Hoàng Gia Mô không dám tự mình dẫn lính đến Cổ Am vây bắt quân khởi nghĩa mà lại vội vàng đi xe hơi lên báo với tên đồn Pháp ở Ninh Giang để xin phái thêm quân về giữ huyện. Thế là kế hoạch đầu tiên của nghĩa quân không đạt được, phải dùng cách khác để bắt cho được tên Việt gian này.

Chiều hôm ấy, Hoàng Gia Mô đi xe hơi từ Ninh Giang về huyện Vĩnh Bảo vẫn không thấy đem thêm lính tiếp viện. Gần tới huyện lỵ, Mô bỏ xe hơi đi bộ để nghe ngóng tình hình. Được tin quân khởi nghĩa đang lùng bắt mình Mô hoảng sợ trốn chui vào một đống rơm của một nhà trong phố huyện nhưng bị dân chúng lôi ra.

Tin bắt được Hoàng Gia Mô truyền ra, nhân dân trong vùng lũ lượt kéo đến xem rất đông. Quân khởi nghĩa bắt Mô quỳ xuống và đọc bản án kết tội Mô là tay sai của giặc, hại nước, hại dân, đáng phải tử hình. Bản án đọc xong thì được thi hành ngay2 tại huyện.

Giết xong Hoàng Gia Mô, quân khởi nghĩa do ông Trần Quang Diệu chỉ huy, chiếm đóng huyện lỵ, đốt hết những sổ sách, giấy tờ của bọn thông trị cũ.

Từng đoàn dân chúng đến chào mừng chính quyền mới.
_________________________________
1. Ông Trần Quang Diệu bấy giờ làm chưởng bạ.
2. Người ta ném bom vào người Mô, nhưng Mô vẫn không chết. Cuối cùng, phải dùng súng bắn chết.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Ba, 2017, 08:24:02 am

4. Giặc Pháp khủng bố

Chiếm huyện Vĩnh Bảo rồi, quân khởi nghĩa còn chờ lệnh để hợp cùng những toán quân ở các nơi khác, tiến đánh Ninh Giang thì máy bay giặc đã đến.

Nghĩa quân phần thì rút ra ngoài huyện lỵ, phần thì tán loạn đi các nơi. Máy bay giặc ném bom xuống làng Cổ Am giết hại một số thường dân. Sau đó một cuộc lùng bắt diễn ra dữ dội. Ông Trần Quang Diệu và một số đông đảng viên Việt Nam quốc dân đảng bị bắt1. Làng Cổ Am bị triệt hạ (thực dân Pháp đã cho năm máy bay đến ném bom triệt hạ cả làng Cổ Am).

Với lòng căm thù giặc Pháp cao độ và thương tiếc dân làng Cổ Am bị chúng sát hại, nhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm bài văn tế như sau:


VĂN TẾ DÂN LÀNG CỔ AM BỊ NẠN HỎA THIÊU NGOÀI BẮC KỲ VÌ LIÊN CAN VIỆC CHỨA CHẤP CÁC ĐẢNG VIÊN VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG2

      Than ôi!
      Dân mất nước nghĩ càng đau quá! Dế trùn3, kiến, mối nhẽ còn hơn!
      Giặc có quyền thương tới ai đâu? Súng, đạn, gươm, dao, thôi mặc ý.
      Sóng Âu Á hai mươi thế kỷ.
      Cuộc bể dâu trải mấy phen nầy.
      Trói tay chân, pháp luật là đây,
      Bừng tai mắt, văn minh rành vỏ.
      Đau nông nỗi mấy năm gần đó, tư bản cường quyền Pháp quá sức hoành hành.
      Nên anh em sáu triệu4 xứ mình, Đảng Việt Nam quốc dân là đường tự vệ.
      Lòng yêu nước gốc lòng trời đẻ, ai có xui ai ?
      Tình thương nòi vẫn tính loài người, tội gì mà tội?
      Nào hay chọc gan hùm sói, diễn thêm một cuộc oán thù.
      Làng Cổ Am há phải giặc đâu, rặt những người cày bẫm cuốc sâu, đóng sưu nạp thuế.
      Xã Xuân Lũng cũng là dân thảy, đâu có kẻ tranh thành cướp đất, đắp lũy xây đồn?
      Huống gì đoàn chiu chít bé con; với những lũ gầy gò già yếu.
      Đáng thương thiệt đầu mun mặt trú (trấu), gánh vác nặng nề, dưới nhà nước tha hồ đè nén.
      Xứ cày cấy há phải trường chinh chiến, tưởng ngỡ gà kêu chó sủa đất há hẹp gì.
      Chúng làm ăn nào biết việc đua tranh, chắc là thuế ráo sưu xong, trời cùng thương đến.
      Họa ao cá vì ai xui khiến; đạn tàu bay vô cố xán (ném) nhào.
      Đoàn già lũ bé, xương chất nhôn nhao, thảm họa ấy vì sao? Ơn khai hóa vài trăm khẩu súng!
      Mẹ góa con côi, máu sôi tản mạn, sự tình thôi quá ngán, quyền tự do mấy chục quả bom!
      Đã đành than lấp bùn chôn, giữa nước lửa chỉ là mồ dân Việt.
      E nữa trời cùng đất kiệt, ngoài non sông đâu tá cảnh nguồn đào.
      Thương ôi! Gương cũ treo cao. Cuộc sau gấp tính!
      Hai lăm triệu may ai còn tính mệnh, thịt đầu dao há phải điềm vui?
      Toàn ba kỳ nếu sẵn đủ nhân tài, chim ngoài lưới phải lo đường sống.
      Hát vô dụng mà khóc càng vô dụng, duy mong mỏi dòng Hồng giống Lạc, bà con anh chị rập một lòng gìn giữ máu tiên vương.
      Họa phi thường thời phúc cũng phi thường, những ước ao núi Tản sông Lô, hồn phách tính linh hô cả nước mở mang nền Tân Việt.
      Mấy lời tâm huyết, chín suối hồn nghe!
      Thượng hưởng!

(1930)
____________________________________________
1. Trong vụ này ông Trần Quang Diệu và 4 người nữa bị chúng xử tử.
2. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 8, Nxb Thuận Hóa, 2001, tr. 493 - 494.
3. Trùn: con giun.
4. Dân số Bắc Kỳ lúc này (1930) có khoảng 6 triệu người.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:07:24 am

Câu hỏi 14: Hãy trình bày vắn tắt cuộc đánh chiếm huyện Phụ Dực (15-2-1930) và việc mưu đánh Hải Dương, Phả Lại và Kiến An của quân khởi nghĩa?
Trả lời:


1. Cuộc chiếm đánh huyện Phụ Dực (15-2-1930)

Cùng một ngày với Vĩnh Bảo, một toán nghĩa quân do ông Đào Văn Thê tức Giáo Thê chỉ huy kéo đến chiếm huyện Phụ Dực (Thái Bình), không gặp một sức chống cự gì, nghĩa quân tước khí giới của lính cơ, đốt hết những sổ sách giấy tờ của Pháp rồi kéo ra ngoài đóng, chờ lệnh phối hợp với nghĩa quân Vĩnh Bảo, kéo đến đánh Ninh Giang. Được tin Vĩnh Bảo bị đàn áp, nghĩa quân tự giải tán.


2. Việc mưu đánh Hải Dương và Phả Lại

Việc mưu đánh Hải Dương và Phả Lại của Việt Nam quốc dân đảng đã được chuẩn bị từ lâu. Vì không có một tổ chức cách mạng trong hàng ngũ binh lính Pháp tại hai nơi này, nên lực lượng chính vẫn trông vào những dân quân địa phương; từ 15 tháng 2 cho đến mấy đêm sau này, từng đoàn nghĩa quân được điều động theo đường sông đi thuyền kéo đến phía hai địa điểm kể trên. Nhưng vì tình báo chậm, tổ chức kém, chỉ huy không thống nhất, nghĩa quân đi lại mấy lần vẫn không nên công trạng gì. Sau việc xảy ra ở Vĩnh Bảo, giặc Pháp giăng lưới lùng bắt dữ dội những đảng viên Việt Nam quốc dân đảng ở Hải Dương và đem thêm lính lê dương về phòng thủ Phả Lại. Kết quả ngọn lửa khởi nghĩa tại vùng này chưa bùng lên đã bị dập tắt1.


3. Việc mưu đánh Kiến An

Tại Kiến An, Việt Nam quốc dân đảng hồi đó có một lực lượng tương đối hùng hậu hơn nhiều nơi khác. Ngoài một chi bộ pháo binh ở tỉnh lỵ, đảng còn thu hút được một số kỳ hào và phú nông tham gia cuộc khởi nghĩa. Cũng vì mệnh lệnh không nhất trí, nhật kỳ khởi nghĩa nay lần mai lữa. Cho tới khi những cuộc chuẩn bị đánh Hải Dương, Phả Lại bị thất bại, ý định tập trung binh lực các nơi đánh vào Hải Phòng tan thành mây khói thì việc mưu đánh Kiến An cũng tan vỡ sau khi một số người phụ trách chỉ huy và binh lính đã bị bắt.

Điểm lại dự định khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng tại mấy tỉnh miền xuôi chỉ còn là một bản chương trình không thực hiện ngoài mấy tiếng nổ rời rạc ở Vĩnh Bảo và Phụ Dực. Ít ngày sau, tổng chỉ huy Nguyễn Thái Học cùng một người tùy tùng là ông Sư Trạch bị bọn tuần phiến làng Cổ Vịt thuộc huyện Đông Triều (Hải Dương) bắt đem nộp cho Pháp.
___________________________________
1. Đêm cuối cùng quân khởi nghĩa vừa rút lui bằng thuyền vừa liệng bom xuống sông. Sau đó mật thám Pháp khám phá ra những bom ở địa phận làng nào là làng đó bị khủng bố.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:08:29 am

Câu hỏi 15: Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Hãy trình bày chính sách khủng bố của thực dân Pháp và những cố gắng cuối cùng của "phái cải tổ" trong Việt Nam quốc dân đảng?
Trả lời:


Chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do Việt Nam quốc dân đảng phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả (do công tác tổ chức thiếu chu đáo, kế hoạch rất chủ quan, còn Pháp thì đang mạnh), nhưng đã có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại Thủ đô Pa-ri (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng.

Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân Việt Nam quốc dân đảng đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gắt.

Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, Việt Nam quốc dân đảng hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, "trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo".

Chính sách khủng bố của thực dân Pháp và những cố gắng cuối cùng của "phái cải tổ" trong Việt Nam quốc dân đảng:

Để trả thù hành động yêu nước của các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng - mặc dù cuộc khởi nghĩa đã thất bại - chính quyền thực dân đã thực hiện một chiến dịch khủng bố tàn khốc đối với các tầng lớp nhân dân ta. Các đảng viên và những người có liên quan tới Việt Nam quốc dân đảng bị truy lùng gắt gao, trong đó có hàng ngàn người bị bắt. Ngày 14 tháng 2 năm 1930, toàn quyền Đông Dương Pát-ki-ê đã ra nghị định thành lập hội đồng đề hình và cử thanh tra hành chính Bắc Kỳ Ô-đi-ê phụ trách. Qua nhiều phiên họp, hội đồng đề hình đã kết án 1.086 người, trong đó 80 người bị xử tử hình, 594 người bị phạt tù nặng...


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:08:59 am

Tàn bạo hơn nữa là vào trưa 16 tháng 2, thực dân Pháp đã cho 5 máy bay tới Vĩnh Bảo, ném bom và xả đạn súng máy xuống làng Cổ Am làm cháy trụi hết nhà cửa và giết hại 21 người dân. Tiếp đó, thực dân Pháp còn đưa lính đi khủng bố và tàn sát dã man nhân dân ở những làng đã từng có phong trào Việt Nam quốc dân đảng phát triển mạnh như: Đồng Tải, Phong Cầu (Kiến An), Võng La, Sơn Dương (Phú Thọ)... Ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (xã Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương) và bị đưa về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội. Ngày 23 tháng 3, ông bị đưa ra xét xử và bị khép án tử hình. Gần 3 tháng sau, vào ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học cùng 12 chiến sĩ trung kiên của Việt Nam quốc dân đảng đã bị xử chém tại thị xã Yên Bái.

Trong những ngày chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa Yên Bái, "phái cải tổ" của Việt Nam quốc dân đảng nằm "án binh bất động". Họ chủ trương kéo dài thời gian xây dựng lực lượng, tiến tới cải tổ lại đảng cho thật vững chắc rồi mới tiến hành khởi nghĩa.

Vì vậy, ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, "phái cải tổ" do Lê Hữu Cảnh đứng đầu đã nhanh chóng bắt liên lạc với các đảng viên còn lại, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để cải tổ lại đảng. Tại một cuộc họp do Lê Hữu Cảnh triệu tập với sự tham gia của Nguyễn Xuân Huân, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đức Lâm, Phạm Văn Hể, "phái cải tổ" đã quyết định bầu lại Tổng bộ mới và xây dựng kế hoạch phát triển cơ sở đảng ở các địa phương. Do đó, các cơ sở Việt Nam quốc dân đảng được phục hồi khá nhanh ở các tỉnh Vĩnh Yên, Hải Dương.

Tuy nhiên, phương thức hoạt động của phái này vẫn không có gì thay đổi so với trước. Họ chủ yếu tổ chức các vụ ám sát, tống tiền, gây hoang mang, kinh sợ trong bọn thực dân, chứ không coi trọng công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân. Điển hình là các vụ ám sát hụt toàn quyền Pát-ki-ê, tổng đốc Vi Văn Định, vụ xử tội phản bội của Phạm Thành Dương, v.v...


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:09:18 am

Để tiêu diệt nốt những cố gắng cuối cùng của Việt Nam quốc dân đảng, thực dân Pháp càng ra tay đàn áp. Cuối tháng 6 năm 1930, cơ quan tổng bộ bị phá vỡ, Lê Hữu Cảnh bị bắt. Đầu năm 1931, một thành viên khác của "phái cải tổ" là Vũ Tiến Lữ đã liên lạc với một số đảng viên của đảng ở Hà Nội, Hải Phòng, dự định sẽ tiến hành tổ chức lại Việt Nam quốc dân đảng. Nhưng trước sự truy lùng gắt gao của thực dân Pháp, kế hoạch này cũng không thực hiện được. Sau này, hoạt động của "phái cải tổ" vẫn còn được duy trì ở một vài vùng thuộc tỉnh Hải Dương. Tại những nơi này, các đảng viên tiếp tục chế bom và tiến hành các vụ ám sát, tống tiền để tạo nguồn tài chính cho công cuộc phục hồi lại đảng. Mãi đến cuối năm 1932, những cố gắng cuối cùng của "phái cải tổ" trong Việt Nam quốc dân đảng mới hoàn toàn bị dập tắt.

Có thể nói vai trò của Việt Nam quốc dân đảng trong phong trào cách mạng dân tộc trên thực tế đã chấm dứt từ sau khởi nghĩa Yên Bái. Còn những hoạt động sau đó của các đảng viên thuộc "phái cải tổ" trong Việt Nam quốc dân đảng chỉ là những âm hưởng cuối cùng của một tiếng chuông đã tắt. Sau này, một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng chạy sang Trung Quốc đã biến chất, trở thành tay sai của nước ngoài, rồi được đưa về nước để chống phá phong trào cách mạng của nhân dân ta.

Khi quân Nhật rồi đến quân Tưởng, quân Pháp, quân Mỹ tiến vào Việt Nam người ta lại thấy một số người tự xưng là Việt Nam quốc dân đảng xuất hiện lôi kéo quần chúng để phá hoại công cuộc cách mạng đánh giặc cứu nước của toàn dân. Nhưng những người này chỉ là những người đội lốt Việt Nam quốc dân đảng. Đúng thế! Đảng này vốn là một tổ chức của những người yêu nước chống ngoại xâm. Thế mà những người từ khoảng 1940 đến 1975 tự xưng là Việt Nam quốc dân đảng lại hết làm tay sai cho Nhật rồi đến Tàu Tưởng, Pháp, Mỹ thì sao có thể là những đồng chí của Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp được? Không những thế, những kẻ tự xưng là Việt Nam quốc dân đảng này đã phản bội những nhà cách mạng đã hy sinh vì nước. Phải phân biệt rành rọt những người Việt Nam quốc dân đảng thời kỳ 1927-1930 với những người đội lốt Việt Nam quốc dân đảng từ 1940 trở đi để khỏi có sự nhận định đánh giá hoặc đối xử không đúng, đáng tiếc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:10:22 am

Câu hỏi 16: Nguyễn Thái Học - vị lãnh tụ của Việt Nam quốc dân đảng, một trí thức yêu nước bất khuất. Hãy cho biết đôi nét về thân thế và quá trình hoạt động của ông?
Trả lời:


Nguyễn Thái Học (1904-1930) là con cả của một gia đình trung nông thuộc làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Thổ Tang vốn là một làng trù phú, dân làng vừa làm ruộng, vừa buôn bán nên nhìn chung đời sống kinh tế khá hơn các làng lân cận.

Thuở nhỏ, Nguyễn Thái Học được gia đình cho học chữ Hán. Sau đó ông theo học trường phổ thông Pháp - Việt tại tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Ngay từ lúc mới 15, 16 tuổi Nguyễn Thái Học thường được thế hệ cha anh kể cho nghe chuyện về Đội Cấn và một số phong trào chống Pháp nên đã sớm giác ngộ lòng yêu nước. Ông ngầm nuôi ý chí đánh đổ chế độ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc và trả thù, rửa hận cho các chiến sĩ yêu nước đã bị thực dân Pháp giết hại.

Sau khi tốt nghiệp Trường cao đẳng Tiểu học, năm 1921, Nguyễn Thái Học thi đỗ vào Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Trong thời gian gần 3 năm học ở trường này, Nguyễn Thái Học đã nhiều lần công khai phản đối thái độ và hành vi phân biệt, miệt thị người bản xứ của một số giám thị và giáo viên người Pháp. Trùm mật thám Mác-ty từng nhận xét: Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh, hay cãi lại thầy giáo.

Sau khi tốt nghiệp Trường cao đẳng Sư phạm (1924), Nguyễn Thái Học có tham dự kỳ thi tuyển công chức của chính quyền thực dân, nhưng sau khi thi đỗ ông lại không nhậm chức mà nộp đơn xin học Trường cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương. Trong thời gian Nguyễn Thái Học học tập tại Đại Học Đông Dương (1925-1927) đã diễn ra nhiều chuyển biến rất quan trọng trong phong trào yêu nước Việt Nam. Trước đó, từ cuối năm 1923 những bài diễn thuyết sục sôi của Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, rồi tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rè) của ông đã góp phần mạnh mẽ thức tỉnh tinh thần yêu nước của thanh niên, sinh viên cả nước. Năm sau, ngày 19 tháng 6 năm 1924, tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái trong cuộc mưu sát hụt toàn quyền Đông Dương Mac-ty Méc-lanh và tấm gương hy sinh dũng cảm của người thanh niên yêu nước này đã làm chấn động toàn cõi Việt Nam, thúc giục các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên hăng hái dấn thân vào con đường cứu nước.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:10:31 am

Tháng 11 năm 1925, mật thám Pháp bí mật bắt cóc Phan Bội Châu tại Thượng Hải. Chúng đưa cụ về giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), định bí mật thủ tiêu. Khi tin tức về sự kiện này lọt ra ngoài, lập tức một phong trào đấu tranh sục sôi của nhân dân cả nước đã bùng nổ, đòi thực dân Pháp phải đưa cụ Phan ra xét xử công khai và cuối cùng phải tuyên bố ân xá nhà yêu nước lão thành này. Đầu năm sau, Phan Chu Trinh, một lãnh tụ lớn khác của phong trào yêu nước từ đầu thế kỷ XX, đã trở về Sài Gòn sau nhiều năm lưu trú ở nước ngoài. Ngày 24 tháng 3 năm 1926, Phan Chu Trinh tạ thế ở Sài Gòn. Ngay sau đó, phong trào để tang cụ được nhân dân toàn quốc hưởng ứng mạnh mẽ.

Cũng trong những năm này do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng Trung Quốc, đặc biệt là học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn dội mạnh vào Việt Nam và được nhiều thanh niên, trí thức nhiệt liệt đón chào. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về tới Quảng Châu (Trung Quốc) liên lạc với nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước trong tổ chức Tâm tâm xã và lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925), ra tờ báo Thanh niên kêu gọi thanh niên trí thức yêu nước hăng hái đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đập tan gông xiềng nô lệ thực dân, giải phóng dân tộc.

Trong bối cảnh đó, hàng nghìn thanh niên, trí thức đã hăng hái dấn thân, tham gia tích cực vào các hoạt động yêu nước. Nguyễn Thái Học là một trong những người sớm tham gia tích cực và đi đầu trong làn sóng đấu tranh đó. Ngay khi còn đang là sinh viên Đại học Đông Dương, cuối năm 1926, cùng với một số thanh niên trí thức yêu nước khác như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch, v.v... ông đã lập ra Nam Đồng thư xã ở Hà Nội. Cũng giống như Cường học thư xã của nhóm thanh niên yêu nước do Trần Huy Liệu đứng đầu lập ra ở Sài Gòn, Nam Đồng thư xã vừa giống như một nhà xuất bản, một hiệu sách, đồng thời như một nhóm biên soạn, tập trung vào việc biên soạn, dịch thuật, phát hành sách báo phổ biến các tư tưởng cách mạng, đặc biệt là tư tưởng Tôn Trung Sơn, ca ngợi các tấm gương nghĩa liệt, những anh hùng cứu quốc là người Việt Nam và nước ngoài. Thông qua đó, Nam Đồng thư xã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp và trên thực tế Nam Đồng thư xã đã trở thành một trong những nơi quy tụ thanh niên, trí thức yêu nước ở Bắc Kỳ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:11:09 am

Cũng trong thời gian là sinh viên của Đại học Đông Dương, từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Thái Học đã gửi cho toàn quyền Đông Dương Va-ren một số bức thư kêu gọi chính quyền thực dân Pháp tiến hành một loạt cải cách tiến bộ ở Việt Nam. Sở dĩ Nguyễn Thái Học gửi những đề xuất cải cách của mình cho Va-ren vì ông ta vốn là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, vừa mới tới nhậm chức toàn quyền đã quyết định ân xá Phan Bội Châu và hứa hẹn nhiều cải cách rộng lớn ở xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời hứa suông và ông ta không bao giờ quan tâm, trả lời những bức thư đầy tâm huyết của Nguyễn Thái Học.

Hoàn toàn thất vọng về con đường cải cách, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp, sau đó tự mình tiến hành công cuộc kiến thiết đất nước. Từ năm 1926, ông bỏ học, hoạt động chính trị. Năm 1927, ông cùng Phạm Tuấn Tài (Mộng Tiên), Phạm Tuấn Lâm (Dật Công), Hoàng Phạm Trân (Nhượng Tống) lập ra Nam Đồng thư xã tại một địa điểm gần hồ Trúc Bạch (Hà Nội). Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng thư xã khẩn trương chuẩn bị để lập ra một tổ chức yêu nước bí mật. Ông dành toàn bộ thời gian cho việc chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho công cuộc cứu nước mới.

Sau một thời gian chuẩn bị, đêm ngày 24 tháng 12 năm 1927, một hội nghị đã được tổ chức tại Hà Nội với nòng cốt là nhóm Nam Đồng thư xã, đã quyết định lập ra Việt Nam quốc dân đảng. Nguyễn Thái Học được hội nghị bầu làm Chủ tịch đảng.

Sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Việt Nam quốc dân đảng đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển cơ sở trong các tầng lớp dân chúng trên cả nước, nhất là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Đảng đã liên lạc và sáp nhập thêm tổ chức Việt Nam quốc dân đảng ở Bắc Giang do Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu. Gia nhập Việt Nam quốc dân đảng còn có thêm các nhóm nhân sĩ và trí thức yêu nước ở Bắc Ninh do Nguyễn Thế Nghiệp tổ chức, nhóm khác ở Thanh Hóa do Hoàng Văn Đào đứng đầu, một nhóm ở Sài Gòn do Trần Huy Liệu đứng đầu. Cơ sở tổ chức của Việt Nam quốc dân đảng phát triển tương đối nhanh trong năm 1928 và đầu năm 1929, thu hút hàng nghìn thanh niên trí thức, công chức và binh lính Việt Nam yêu nước trong quân đội Pháp. Việt Nam quốc dân đảng cũng cử người bắt liên lạc với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng để bàn thảo việc thống nhất về tổ chức và phối hợp hoạt động vì mục đích giải phóng dân tộc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:11:22 am

Trong quá trình hoạt động, nhiều đảng viên của Việt Nam quốc dân đảng đã bị ảnh hưởng của tư tưởng anh hùng cá nhân, phiêu lưu, mạo hiểm. Ngày 9 tháng 2 năm 1930, nhóm đảng viên Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội đã tổ chức ám sát trùm mộ phu điền Ba-danh làm chấn động dư luận Pháp, khiến cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương hoang mang. Để đối phó, thực dân Pháp đã mở một chiến dịch đàn áp, truy quét gắt gao các chiến sĩ yêu nước và cách mạng. Do tổ chức khá lỏng lẻo, cơ sở tổ chức của Việt Nam quốc dân đảng bị đánh phá nghiêm trọng, hàng trăm đảng viên bị bắt hoặc bị giết. Riêng đối với Nguyễn Thái Học, linh hồn của Việt Nam quốc dân đảng, thực dân Pháp treo giải thưởng 5.000 đồng bạc Đông Dương cho ai bắt hoặc giết được ông.

Trong tình hình khẩn trương như vậy, tại Hội nghị lãnh đạo Việt Nam quốc dân đảng ngày 1 tháng 7 năm 1929, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã quyết định không thể ngồi chờ thực dân Pháp lùng bắt, giết hại, phá tan đảng, mà phải gấp rút chuẩn bị và tiến hành một cuộc "tổng khởi nghĩa vũ trang" để một mặt đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước trong dân chúng, củng cố uy tín của đảng và nếu có thất bại thì "Không thành công cũng thành nhân".

Với tinh thần quyết tử, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí, trong đó có bà Nguyễn Thị Giang, người vợ vừa đính hôn của ông, dồn tâm sức chuẩn bị cho một cuộc vùng lên quyết liệt. Các cơ sở Việt Nam quốc dân đảng ra sức chuẩn bị vũ khí, đúc bom tự tạo, mua súng, tiến hành binh vận. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng tung hết lực lượng mật thám ra truy lùng, cài gián điệp vào các cơ sở của đảng, quyết tâm bắt hoặc giết bằng được Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và bộ chỉ huy đầu não của Việt Nam quốc dân đảng, hòng dập tắt cuộc bạo động từ trong trứng nước.

Được tin Việt Nam quốc dân đảng đang nỗ lực chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang trong điều kiện khách quan chưa chín muồi, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khi đó đang hoạt động ở Bắc Xiêm (Thái Lan) lập tức lên đường đi về Nam Trung Quốc để tìm cách bắt liên lạc, bàn với Nguyễn Thái Học và các lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng hoãn cuộc bạo động lại, nhưng không kịp.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Ba, 2017, 09:11:55 am

Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở ở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề nên không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15 tháng 2. Tuy nhiên, liên lạc viên lại bị địch bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930. Quyết liệt nhất là cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, quân nổi dậy đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái trong gần hai ngày.

Do không có sự phối hợp với các cuộc nổi dậy ở địa phương khác, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng đã nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt.

Tuy vậy, ngày 15 tháng 2 năm 1930, mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi đã thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở Việt Nam quốc dân đảng vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Cuộc vùng lên quyết liệt nhất là ở Phụ Dực (Thái Bình) và Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương).

Thực dân Pháp quyết định dùng vũ lực tối đa để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng và khủng bố tinh thần yêu nước của dân chúng. Chúng tung toàn bộ lực lượng mật thám, quân đội, bảo an ra lùng sục, càn quét, hòng bắt giam và giết hại các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng. Chúng còn cho 5 chiếc máy bay đến ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chính quyền thực dân của một cường quốc phương Tây phải sử dụng tới máy bay chiến đấu để đàn áp một cuộc nổi dậy của dân chúng bản xứ.

Được sự che chở của quần chúng yêu nước, Nguyễn Thái Học vẫn thoát khỏi sự truy lùng ráo riết của thực dân Pháp. Cùng với một số yếu nhân còn lại của Việt Nam quốc dân đảng, ông bàn bạc và dự định cải tổ lại đảng và thay đổi phương hướng chiến lược của đảng. Chính vào lúc công việc này mới được khởi động thì ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Ông bị hội đồng đề hình thực dân kết án tử hình ngày 23 tháng 3 năm 1930. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, thực dân Pháp đã hành quyết Nguyễn Thái Học và 12 chiến sĩ khác của Việt Nam quốc dân đảng tại Yên Bái bằng máy chém. Trước khi hy sinh, Nguyễn Thái Học còn cố hô to "Việt Nam vạn tuế!".

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam quốc dân đảng tuy thất bại nhưng thực sự là một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Với tư cách là người sáng lập và lãnh đạo Việt Nam quốc dân đảng, Nguyễn Thái Học thực sự là một trong những người tiêu biểu nhất thuộc lớp trí thức Tây học sớm dấn thân, xả thân cứu nước trong nửa đầu thế kỷ XX. Tấm gương hy sinh dũng cảm của ông trở thành nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ các thế hệ thanh niên trí thức yêu nước sau này trong cuộc đấu tranh gian khổ, ác liệt lâu dài vì độc lập và tự do của Tổ quốc. Nguyễn Thái Học "không thành công" nhưng đã thực sự "thành nhân". Ông được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận là liệt sĩ (24-2- 1976) và tên của ông được đặt cho một trong những con phố lớn tại Hà Nội và tại thành phố Yên Bái. Nhiều địa danh, nhiều công trình văn hóa trong cả nước được mang tên ông.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 12:20:58 pm

Câu hỏi 17: Khi còn đi học ở Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Thái Học đã nhiều lần công khai phản đối thái độ và hành vi phân biệt và miệt thị người bản xứ của một số giám thị, giáo viên người Pháp. Hãy cho biết những chuyển kể về ông trong thời gian này?
Trả lời:


Theo lời các đồng chí cũ của ông Nguyễn Thái Học thì đảng trưởng "Việt Nam quốc dân đảng" lúc còn là một cậu học trò, có để lại một vài câu chuyện lý thú.

Trong cuộc đời học sinh, Nguyễn Thái Học đã tỏ rõ tinh thần cách mạng, chống thực dân Pháp từ khi ông học ở Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội.

Nguyễn Thái Học không khá về Pháp văn. Ông không có khiếu về môn này mà cũng không thích học chữ nước người. Ác thay, theo chương trình thì phải học tất cả các môn bằng tiếng Pháp, từ Sử, Địa đến Toán, Lý, Hóa; Việt sử cũng phải học trong cuốn "Histoire d'Annam" của May-bơn.

Mỗi tuần được học một, hai giờ học Việt văn là cả một sự thích thú, hân hoan đối với cậu học trò bướng bỉnh của năm thứ nhất Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội.

Khi cậu phải làm luận Pháp văn thì là cả một cực hình. Cậu gãi đầu, bứt tóc, miệng càu nhàu: "Càng giỏi tiếng Pháp cho lắm, càng phải nghe Tây nó chửi nhiều. Dốt lại ít hiểu, nó chửi nó nghe".

Muốn luyện cho học trò Việt nghe quen giọng Pháp, mỗi lớp được học một hai giờ với giáo sư Pháp mỗi tuần; giờ chính là giờ chính tả và có khi được học thêm một giờ thứ nhì nữa là giờ luận Pháp văn. Ở năm thứ nhất Trường cao đẳng Sư phạm, Nguyễn Thái Học gặp phải một cô giáo Pháp rất khó tính, mà giọng nói lại khó nghe. Cô mà đọc chính tả cho học sinh Việt Nam viết, thì câu nào cũng đầy lỗi; giỏi nhất lớp cũng phải đến 4 hay 5 lỗi.

Học trò gọi giễu cợt cô là "Sâu Róm". Một hôm cô vừa ăn bánh mì nhồm nhoàm, vừa đọc chính tả. Học trò lắng tai lắm mới nghe câu được câu không.

Nguyễn Thái Học không viết bỏ bút xuống, nhìn lên trần nhà mỉm cười. Cô "Sâu Róm" kêu Học đứng lên, hỏi:

- Thằng "nhà quê"! Tại sao mày cười?

- Ta cười vì ta không khóc.

- A thằng hỗn xược! Mày là người tỉnh nào?

- Người Việt Nam.

Câu trả lời đượm màu tư tưởng quốc gia này làm cho cô "Sâu Róm" khó chịu, bực tức. Cô hỏi tiếp:

- Ba má mày tên gì?

- Song thân ta tên "Việt Nam".

Cô giáo nắm cánh tay Học toan kéo lên ông Đốc để trình về ngôn ngữ của Học, song cô bị Học hất mạnh tay ra. Cô biết cô gặp phải một học sinh không phải tay vừa, rồi không hiểu nghĩ sao, cô không lôi cậu học trò ngỗ nghịch ấy lên văn phòng hiệu trưởng nữa mà chỉ dọa một câu:

- Rồi mày sẽ biết.

Sau giờ chính tả ấy, các bạn đều lo Học sẽ bị đuổi. Nhưng chờ ngày này qua ngày khác, cậu học trò bướng bỉnh vẫn còn ngồi trong lớp. Có lẽ cô giáo Pháp kia không muốn gây ác cảm, nên bỏ qua những tư tưởng quốc gia mà cô nhận thấy ở Nguyễn Thái Học.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 12:21:23 pm

Khi lên năm thứ nhì, thầy giáo Pháp luyện giọng Tây cho học trò là giáo sư Thô-mát đã có xung đột với học trò trường Chasseloup - Laubat ở Sài Gòn, vì khó tính và hay phạt. Bị mất mặt vì cuộc xung đột ấy, ông phải đổi ra Hà Nội dạy tại Trường cao đẳng Sư phạm.

Cha cậu học trò đã cầm đầu cuộc xung đột với ông ở Sài Gòn là một người Việt "có thế lực lắm" cậu mới được học trường Pháp. Vì thế khi ra Hà Nội, ông Thô-mát ghét học sinh Việt Nam lắm. Trời run rủi sao ông lại phải dạy ở trường học sinh Việt Nam.

Đến kỳ thi lên lớp, ông đọc chính tả cho học trò viết, và cố ý "trát" học trò, chỉ đọc mỗi câu có một lần. Nhiều cậu không nghe kịp phải để từng đoạn trống trong bài thi. Cố nhiên Nguyễn Thái Học bực tức nhất vì cậu không giỏi Pháp ngữ.

Cậu không viết nữa và nửa chừng đứng lên xé giấy thi, bỏ ra ngoài. Nhưng cậu mới bước tới cửa lớp, đã bị thầy giáo ngăn lại:

- Mày đi đâu? Mày không thấy xấu hổ với anh em sao? Trong khi ai cũng viết kịp thì mày bỏ dở bài thi.

- Còn ông, ông không xấu hổ với các thầy giáo khác sao, các thầy ấy đều được học trò mến phục, còn ông thì trái lại...

- Tại sao vậy? Mày cắt nghĩa tao nghe.

Nguyễn Thái Học tuy dở tiếng Pháp nhưng cũng có thể nói chuyện với giáo sư bằng thứ tiếng Tây "ba rọi" trật lất văn phạm và từ ngữ. Tuy nhiên giáo sư Thô-mát cũng hiểu rằng Học nói cho ông biết: ông oán ghét học trò Việt Nam vì ông không được dạy trường Albert Saraut (Trường trung học Pháp ở Hà Nội) chớ gì? Ông suy nghĩ một phút rồi dịu giọng:

- Chắc các trò oán ghét tôi vì tôi đọc chính tả có một lần, nghe không kịp. Có vậy, đi thi mới chắc đậu.

Rồi giáo sư còn nói thêm cho cả lớp hiểu rằng ông không có ác ý đâu. Kế đó ông đọc lại bài chính tả từ đầu mà mỗi câu đều đọc 2 lần chậm rãi.

Từ hôm ấy ông bớt gắt gao. Có lẽ ông thấy Nguyễn Thái Học bướng bỉnh, ông lo ngại sẽ xảy ra cuộc xung đột như ở Sài Gòn, thì ông không còn đất sống ở Việt Nam nữa, đến phải sang Phi châu mà dạy học hay phải về Pháp không chừng. Chống với vị giáo sư khó tính mà Nguyễn Thái Học giúp cho cả lớp không còn bị ông làm khó dễ nữa.

Khi đi thi bằng Thành chung có bài luận Pháp văn mà đề bài như sau:

"Các trò hãy nói về sự nghiệp của Ru-lơ Phơ-ry.

Nguyễn Thái Học viết có đúng một câu:

"Người Việt Nam không hề biết tên người này".

Ai cũng cho là Học để ý phản đối Ru-lơ Phơ-ry, một tay thực dân hạng nặng đã chủ trương chính sách đi chiếm thuộc địa.

Cố nhiên bài luận ấy đem cho Học một "trứng ngỗng" và sau đó một cái "vỏ chuối".

Hồi đó người Pháp muốn bưng bít dư luận bên nước họ, lúc nào cũng cho chính phủ Pa-ri có cảm nghĩ là dân "A na mít" trung thành với "mẫu quốc" lắm; có lẽ vì thế mà họ không muốn làm to chuyện về khối óc bướng bỉnh, chống thực dân của một cậu học trò.

Họ có ngờ đâu cậu học trò mà họ không thèm lưu ý ấy sau này thành đảng trưởng Việt Nam quốc dân đảng, làm cho thực dân "con cháu Ru-lơ Phơ-ry" phải toát mồ hôi.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 12:22:33 pm

Câu hỏi 18: Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học cùng một số đồng chí của ông bị bắt. Có người định tổ chức cho ông vượt ngục, nhưng ông đã từ chối. Chuyện này xảy ra như thế nào?
Trả lời:


Ngày 28 tháng 3 năm 1930, tại phòng giam tử tội của khám đường Yên Bái, nhà cách mạng Nguyễn Thái Học trải qua một cơn bão tố trong lòng.

Trong bốn bức tường của "xà lim", đảng trưởng Việt Nam quốc dân đảng một mình đối bóng phải cân nhắc để giải quyết một vấn đề lương tâm: nên vượt ngục để tránh cái án tử hình mà hội đồng đề hình vừa tuyên xử buổi sáng hôm ấy hay là cúi đầu trước số phận, chịu đem máu đào tưới nơi pháp trường dưới lưỡi dao sáng quắc của cái máy chém, để kết liễu bổn phận thiêng liêng của một đấng tu mi ái quốc.

- Sống hay chết? Và muốn sống liệu có sống được không?

Nguyễn Thái Học phân vân, bóp đầu bóp trán với những câu hỏi ấy.

Một thượng sĩ gốc gác người xứ An-giê-ri, có trách nhiệm canh gác khu giam tử tội, đã đề nghị với Nguyễn Thái Học một cuộc vượt ngục; anh ta vui lòng giúp cho nhà lãnh tụ cùng 12 đồng chí của ông hoàn thành việc ấy nếu ông ưng thuận. Tên của 12 bạn đồng chí cách mạng vơ vẩn trong óc nhà thủ lĩnh như tên của 12 anh em cùng chung một bà mẹ "Việt Nam" sinh ra:

- Phó Đức Chính,
- Bùi Tư Toàn,
- Bùi Văn Chuẩn,
- Nguyễn Văn An,
- Đào Văn Nhít,
- Ngô Văn Du,
- Nguyễn Văn Tiềm,
- Nguyễn Như Liên tức Ngọc Tỉnh,
- Bùi Văn Cửu,
- Đỗ Văn Tư,
- Nguyễn Văn Thịnh,
- Hà Văn Lao.

Nguyễn Thái Học nhớ cả từng nét mặt, thói hay tật xấu của vài người đã vào sinh ra tử cùng ông trong khi còn bay nhảy bên ngoài, đánh phá thực dân bằng những đòn chớp nhoáng.

Ông không thể quên được nét mặt non nớt, hồn nhiên của Ngọc Tỉnh ngây thơ với cái tuổi 20 song lòng yêu nước thì sôi sùng sục ít người sánh được.

Với tất cả 12 sinh mạng treo trên sợi chỉ mành ấy, chỉ một cái gật đầu của Nguyễn Thái Học là họ được tháo cũi xổ lồng, rồi chỉ một sớm một chiều là tất cả hay một trong số 12 nhà cách mạng Việt Nam sẽ có mặt trên đất Trung Hoa, theo đuổi ước vọng ôm ấp bấy lâu nay.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 12:22:55 pm

Anh gác khám tử tội đã tiếp xúc với Nguyễn Thái Học từ sáng hôm 27 khi tất cả 87 nhà cách mạng sắp bị đưa ra xử tại hội đồng đề hình. Đây là đợt thứ nhì sau đợt thứ nhất đã bị xử tại Hà Nội. Đợt thứ nhì bị bắt sau, gồm những người có dính líu trực tiếp hay gián tiếp vào vụ khởi nghĩa Yên Bái, bị chuyển từ Hà Nội lên Yên Bái để xử án.

Lúc chưa ra tòa, viên thượng sĩ Bắc Phi đã lân la đến cửa "xà lim" Nguyễn Thái Học mà trò chuyện. Anh ta là một thanh niên mặt mày sáng sủa, chắc là có văn hóa ít nhiều, anh nói chuyện với đảng trưởng Việt Nam quốc dân đảng bằng tiếng Tây lưu loát.

Anh cho ông Học biết rằng anh đọc báo, rất phục hành động của Việt Nam quốc dân đảng và các nhà cách mạng Việt Nam đã mưu toan giải phóng quốc gia; còn xứ An-giê-ri của anh không biết bao giờ ngóc lên được, anh lo sẽ bị đồng hóa với Pháp mất.

Vì cảm tình với dân tộc Việt Nam mà anh thượng sĩ da đen ấy muốn tổ chức cho Nguyễn Thái Học một cuộc vượt ngục theo kế hoạch như sau:

Anh sẽ chờ đúng giờ chuyến xe lửa Hà Nội - Lào Cai ghé ga Yên Bái là mở cửa khám tử tội ra, cho Nguyễn Thái Học kéo hết đồng chí ra ga, uy hiếp viên sếp ga rồi nhảy hết lên xe lửa, bắt người tài xế phải mở máy cho xe chạy tới Lào Cai, không còn xa mấy. Tới đây là giáp biên giới Trung Hoa, họ sẽ vượt biên giới và thoát sang lãnh thổ nước láng giềng.

Dù người Pháp ở Hà Nội có hay tin mà can thiệp cũng trễ rồi. Huống chi, kế hoạch còn dự bị cho một số đồng chí ở lại chiếm nhà Bưu điện, không cho đánh dây thép về Hà Nội. Chờ xe lửa đi xa rồi, những đồng chí còn ở lại mới băng rừng mà thoát thân sau. Anh thượng sĩ xứ An-giê-ri sẽ cùng trốn một lượt với Nguyễn Thái Học.

Kế hoạch trên đây, Nguyễn Thái Học nghe ra hợp lý và có thể thi hành được. Thời gian và không gian không phải là trở lực đáng kể. Lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng suy nghĩ và chưa tiện trả lời chấp thuận đề nghị hay không. Ông bảo người bạn da đen để cho ông suy nghĩ kỹ đã. Ông cũng khêu gợi ba điều bốn chuyện để dò xét thâm tâm người đối thoại, nhận thấy anh ta không có điều gì khả nghi, gian xảo hết. Anh cũng có vẻ là một thanh niên nhiệt huyết, cùng một tâm trạng với những người có tư tưởng quốc gia sống dưới ách thực dân da trắng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 12:23:27 pm

Nhưng Nguyễn Thái Học còn thận trọng vì ông đã rút được một bài học kinh nghiệm lần trước, khi ông bị bắt hồi tháng 2 và bị giam ở Hỏa Lò, Hà Nội. Hồi ấy có lần một viên đội lê dương (người Đức) gác khám cũng lân la nói chuyện với ông. Anh này cũng tỏ lời khâm phục và hỏi Nguyễn Thái Học có muốn viết thơ hay nhắn tin ra ngoài anh sẵn lòng giúp.

Muốn thử thách lòng anh, ông Học bằng lòng nhờ anh giúp. Bắt đầu ông đưa cho anh này hai bức thư bỏ phong bì, một gửi cho thủ tướng Pháp, một gửi cho toàn quyền Đông Dương, kể hết tệ đoạn trong giới quan lại Việt - Pháp. Không biết số phận hai bức thư này ra sao?

Lần thứ hai, Nguyễn Thái Học gởi hai bài báo để đăng báo Hồng Kông: một bài gửi cho tờ báo Hoa ngữ, một cho tờ báo Anh ngữ (Sau này những nhân vật Việt Nam quốc dân đảng ở ngoài kiểm soát lại thì thấy không tờ báo nào trong hai tờ ấy nhận được bài của Nguyễn Thái Học cả).

Lần thứ ba, viên đội lê dương nhận một sứ mạng quan trọng hơn, một sấp thư bốn cái gửi cho bốn đồng chí của ông khuyên họ kiên tâm vì cơ hội sắp đến. Chỉ vài hôm sau, cả bốn người đều vô khám hết. Nhưng Nguyễn Thái Học đâu có khờ khạo đến làm hại cho đồng chí: thật ra bốn "đồng chí" ấy là bốn tên phản đảng lợi hại trong những giờ đầu. Bốn tên ấy đã phải làm vật hy sinh cho cuộc thử lòng dạ viên đội lê dương.

Thấy bốn "đồng chí" trong khám ông biết chắc là viên đội kia đã đưa bốn bức thư của ông cho sở mật thám.

Đến lúc bị giam ở Yên Bái, gặp được viên gác khám người An-giê-ri tỏ ý muốn giúp ông thì ông hết sức phân vân.

Không biết anh chàng này có giống anh đội lê dương ở Hà Nội không? Chẳng khác nào con chim một lần bị bắn, cứ thấy cành cây cong là sợ, nên Nguyễn Thái Học hết sức thận trọng, đề phòng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 12:23:45 pm

Sáng hôm hội đồng đề hình xử vụ đảng viên cách mạng Việt Nam quốc dân đảng tức ngày 27 tháng 3 năm 1930 - và chiều hôm sau nữa, chàng thanh niên da đen gác khám lại đến hỏi quyết định của Nguyễn Thái Học nhưng ông Học vẫn còn hẹn sẽ trả lời sau.

Viên gác khám thở dài nói:

- Còn suy nghĩ đến bao giờ nữa. Hiện giờ đề lao Yên Bái không được canh gác cẩn mật, chỉ nay mai xử xong các ông, họ sẽ đưa các ông về Hà Nội là lỡ cơ hội.

Thật thế, nhóm 13 tử tội sau khi bị tuyên án đã bị đưa về Hà Nội, chờ bộ tư pháp ở Pa-ri xét lại hồ sơ rồi sẽ thi hành án lệnh.

Nguyễn Thái Học cũng hiểu rõ thủ tục và biết rằng thì giờ không còn chờ đợi ai. Nhưng ông phân vân không quyết định. Biết đâu đây chẳng phải là một mưu kế của thực dân bày ra để có cơ hội thanh toán cả 13 tử tội mà thực dân e ngại chính phủ Pa-ri bị áp lực của dư luận báo chí sẽ cho giảm án. Nguyễn Thái Học không thể nào thoát án tử hình, điều ấy dĩ nhiên rồi. Dầu ông chết dưới máy chém của Cai Công hay dưới những viên đạn súng của lính thực dân đuổi theo khi ông vượt ngục thì cũng chỉ là một cái chết. Nhưng còn 12 đồng chí của ông cùng án tử hình, nhưng có người tội nhẹ hơn, có thể giảm án xuống chung thân khổ sai. Nếu mà họ đều chết hết dưới viên đạn súng của thực dân thì ông Học sẽ mang trách nhiệm với lương tâm.

Nguyễn Thái Học suy luận như vậy nên đã không chấp nhận đề nghị của viên gác khám Yên Bái.

Suy đi thì như thế song nghĩ lại thì sao? Nếu như người gác khám thực tâm muốn cứu mà mình từ chối thì có khác nào mình tự giết mình và giết luôn cả 12 người nữa; mình bỏ lỡ cơ hội thoát chết. Sinh mạng 12 người phó thác vào một cái gật đầu của Nguyễn Thái Học.

Sau này về Hà Nội bị giam ở Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học lặng thinh cả tuần lễ không nói chuyện với các đồng chí bị giam cùng một dãy "xà lim". Ông bị lương tâm cắn rứt vì thái độ của ông ở Yên Bái chăng? Và một hôm ông kể lại câu chuyện bỏ lỡ dịp vượt ngục cho vài bạn nghe như muốn chờ anh em xét xử. Ai cũng tiếc rằng ông quá nặng về đạo đức và không phải là người giàu thủ đoạn, có thể nói là thiếu thủ đoạn của con người cách mạng.

Nếu như hôm ấy Nguyễn Thái Học gật đầu một cái, mà cuộc vượt ngục được thành công một phần nào thì các yếu nhân Việt Nam quốc dân đảng cùng đảng trưởng đã hoạt động trên đất Trung Hoa, biết đâu cục diện Việt Nam hồi ấy cũng có phần thay đổi, không thì ít ra ngọn lửa chống Pháp cũng còn duy trì được lâu hơn nữa và gây cho thực dân những trận điên đầu.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:34:35 pm

Câu hỏi 19: Nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu, một lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng chân chính. Hãy cho biết đôi nét về thân thế và quá trình hoạt động của ông?
Trả lời:


Nguyễn Khắc Nhu sinh năm Nhâm Ngọ (1882) trong một gia đình Nho học ở làng Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, mồ côi cha từ năm 12 tuổi. Nguyễn Khắc Nhu ham học, nhưng nhà nghèo nên phải đi ở, chăn trâu cắt cỏ cho cụ tú trong làng để tự nuôi sống, lại vừa có thầy dạy thêm chữ Nho. Nguyễn Khắc Nhu cũng từng theo một phường chèo, đóng vai hề đồng và các vai nữ, lang bạt đó đây, mấy lần được nghĩa quân Đề Thám đón lên biểu diễn ở đồn Phồn Xương. Sau khoảng 2 năm, lại về ở với sư cụ chùa Lạc Gián, vừa làm vừa học. Năm 18 tuổi thi đỗ khóa sinh, sư cụ cho Nhu đi học tiếp ở trường cụ Cử Đường - một nhà Nho yêu nước, không chịu ra làm quan, ở nhà dạy học thường liên hệ với Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu. Năm 1903, Nhu được thầy học giao việc đưa cụ Phan Bội Châu đi gặp Hoàng Hoa Thám. Cũng năm 1903, Nguyễn Khắc Nhu thi khảo hạch, đỗ đầu xứ, vì thế người ta thường gọi ông là Xứ Nhu. Nhưng khi xuống Nam Định thi hương, cả 2 khóa 1903 và 1906 đều trượt, ông bèn cùng 17 người bạn sang Trung Quốc với ý định liên lạc với Phan Bội Châu để làm cách mạng. Nhưng mới sang tới nơi đã bị tổng đốc Quảng Tây bắt giữ, đuổi về.

Sau đấy, ông theo học một lớp sư phạm, được bổ làm tổng sư ở trường làng Thịnh Liệt thuộc huyện Yên Thế. Năm 1922, bất đồng ý kiến với viên thanh tra học chính người Pháp, ông xin từ chức, về dạy trường tư và nối nghề cha bốc thuốc chữa bệnh. Ông quan tâm đến việc cải cách xã hội, vận động nhân dân đào giếng gia đình, dệt khăn mặt cho từng người dùng riêng, giảm bớt hủ tục trong ma chay, cưới xin... Ông còn viết bài về vấn đề này đăng trên các báo: Thực nghiệp, An Nam tạp chí với bút danh Song Khê.

Năm 1926, Xứ Nhu liên lạc được với Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế. Theo lời khuyên của Phan, ông định tổ chức một hội công khai lấy tên là "Quốc dân dục tài" nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài như kiểu Đông Kinh nghĩa thục. Không được Pháp chấp nhận, ông thay đổi kế hoạch hành động, lập hội kín "Việt Nam dân quốc" gồm những người tích cực nhất của hội "Quốc dân dục tài", một số học trò cũ, bạn nhà nho thân thiết và một số tay chân cũ của Đề Thám. Ông chủ trương đẩy mạnh việc tuyên truyền giác ngộ binh sĩ người Việt Nam trong quân đội Pháp, thậm chí kết nạp cả đối tượng này vào hội. Nhiều cơ sở chế bom, rèn vũ khí được thành lập. Mục tiêu đánh chiếm đầu tiên của phái ''Việt Nam dân quốc" là Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại, việc tiếp xúc với các nhóm cách mạng khác như nhóm Nam Đồng thư xã để phối hợp hành động cũng được xúc tiến. Nhưng công việc đang được tiến hành thì cơ sở chế bom ở làng Chè (chợ Keo) thuộc huyện Gia Lâm bị lộ. Pháp khủng bố, một số binh lính yêu nước ở Bắc Ninh bị bắt.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:34:58 pm

Khi chính đảng cách mạng Việt Nam quốc dân đảng thành lập (25-12-1927), Nguyễn Khắc Nhu đem toàn bộ tổ chức của mình gia nhập. Sự gia nhập của phái Nguyễn Khắc Nhu vào Việt Nam quốc dân đảng đã làm cho tổ chức này mạnh hẳn lên về số lượng và chất lượng. Ông đã nhanh chóng được đa số tín nhiệm. Trong kỳ họp bầu tổng bộ lần thứ ba vào ngày 9 tháng 12 năm 1928, Nguyễn Khắc Nhu được bầu làm Trưởng ban Lập pháp và Giám sát, tức Chủ tịch đảng (Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính làm Phó Chủ tịch).

Với cương vị trên, ông cùng với Nguyễn Thái Học tích cực khôi phục lại đảng vì sau vụ ám sát tên trùm mộ phu Ba-danh hầu hết những yếu nhân của đảng bị bắt vào tù, nhiều cơ sở bị vỡ. Đồng thời việc vũ trang khởi nghĩa cũng được ráo riết chuẩn bị, xuất phát từ quan điểm cho rằng: cứ ngồi yên để cho giặc bắt đưa vào tù hoặc lên máy chém kết liễu một đời hoạt động, thì chi bằng thừa lúc còn được tự do ở ngoài, dốc lực lượng đánh một đòn cuối cùng: "Không thành công thì thành nhân".

Cuối tháng 9 năm 1929, Nguyễn Khắc Nhu chủ trì cuộc họp các ủy viên quân sự của Việt Nam quốc dân đảng ở làng Võng La (Phú Thọ) để xúc tiến gấp việc khởi nghĩa. Lúc đầu ngày khởi nghĩa định vào dịp Tết Canh Ngọ (đầu tháng 2-1930), Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm chỉ huy khởi nghĩa ở các tỉnh miền trên là Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây.

Đêm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 2 năm 1930, quân khởi nghĩa tấn công thị xã Yên Bái, đánh chiếm được đồn dưới, giết và làm bị thương trên mười binh sĩ địch, làm chủ được một số khu vực trong thị xã, treo cờ trên các công sở và phát truyền đơn hô hào quần chúng nổi dậy. Sáng hôm sau, quân Pháp tấn công, quân khởi nghĩa bị thất bại. Cùng đêm, Nguyễn Khắc Nhu trực tiếp chỉ huy cánh đông Hưng Hóa, nhưng không đạt kết quả, phải rút lui. Một toán nghĩa quân khác đánh chiếm được phủ lỵ Lâm Thao, rồi hợp với quân của Nguyễn Khắc Nhu từ Hưng Hóa đến, tước vũ khí của lính giữ phủ, đốt phá doanh trại, treo cờ cách mạng trên cổng phủ. Quân Pháp từ thị xã Phú Thọ kéo tới phản công. Nguyễn Khắc Nhu cầm quân chống cự quyết liệt, xông lên phía trước nhằm bắn vào tên phó sứ Phú Thọ đang chỉ huy toán lính Pháp đánh nhau với nghĩa quân. Nguyễn Khắc Nhu bị thương, lệnh cho anh em rút lui, còn ông thì ôm bom tự sát, nhưng chỉ bị thủng bụng. Bị địch bắt, dọc đường khi qua sông, ông nhảy xuống sông tự tử, nhưng lại bị vớt lên. Ở nhà giam Hưng Hóa, ông đập đầu vào tường chết trong đêm 11 tháng 2 năm 1930 để khỏi phải đội trời chung với giặc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:35:39 pm

Cái chết oanh liệt của ông đã gây xúc động mạnh trong nhân dân và những sĩ phu yêu nước. Một nhà nho ở Hưng Hóa đã lập bàn thờ riêng thờ ông với đôi câu đối chữ Hán:

- Vị dân quyên sinh, vị quốc quyên sinh, vị đảng quyên sinh, thệ bất câu sinh đi thù tặc;

- Kỳ tâm bất tử, kỳ danh bất tử, kỳ tinh thần bất tử; quyết tương nhất tử khích đồng bào.


Tạm dịch như sau:

- Vì dân quyên sinh, vì nước quyên sinh, vì đảng nghĩa quyên sinh, thề chẳng tham sinh nhìn giặc nước;

- Lòng ông không chết, danh ông không chết, tinh thần ông không chết, quyết đem cái chết giục đồng bào.

Về sau ông đồ vì câu đối này đã bị kẻ hai lòng tố giác với giặc. Ông bị chúng bắt tù đày, nhưng ông đã noi gương liệt sĩ, coi thường tù tội. Câu đối này đã lan rộng trong nhân dân và ít lâu sau, các chiến sĩ cách mạng theo hướng chủ nghĩa quốc tế ở Thái Lan đã dùng câu đối này để khích lệ đồng bào trong một dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Phạm Hữu Chỉnh, tự Hiệu Nhiên, một nhà nho ở Yên Mô (Ninh Bình) cũng viếng một câu đối chữ Hán như sau:

- Thanh gia? Bại gia? Thiên cổ sử thư truyền bất tử;
- Lý dã! Thế dã! Nhất trường oanh liệt khởi hư sinh.


Tạm dịch là:

- Thành ư? Bại ư? Nghìn thuở sử thư truyền chẳng chết;
- Lý đó! Thế đó! Một trường oanh liệt sống đâu thừa.

Sau Cách mạng tháng Tám, trong một thời gian khá dài, huyện Hưng Hóa, làng Kinh Kệ ở vùng Lâm Thao đều lấy tên huyện và xã là Xứ Nhu.

Hiện nay, ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thị xã Bắc Giang và một số địa phương khác đều có đường phố mang tên Nguyễn Khắc Nhu, một nhà yêu nước bất khuất với ý chí quật cường, dũng cảm.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:37:09 pm

Câu hỏi 20: Hãy cho biết vai trò của Nguyễn Khắc Nhu với việc xác định đường lối hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng?
Trả lời:


Do bị chi phối bởi các điều kiện giai cấp và xã hội, Việt Nam quốc dân đảng không đề ra được một đường lối chính trị độc lập, rõ ràng. Trong mấy năm tồn tại, tổ chức này đã nhiều lần thay đổi chính cương và điều lệ. Đường lối hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng không phải là định hình ngay từ đầu, mà đã trải qua một quá trình chuyển biến và Nguyễn Khắc Nhu đã có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển biến tiến tới định hình đường lối chính trị đó.

Nghiên cứu về bối cảnh ra đời của Việt Nam quốc dân đảng, ta biết rằng sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, từ năm 1919, thực hiện chính sách tăng cường khai thác thuộc địa phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc gia bị kiệt quệ điêu tàn, tư bản Pháp ra sức thi hành chính sách khai thác lần thứ hai ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó cơ cấu kinh tế của Việt Nam biến chuyển sâu sắc hơn, kéo theo luôn sự biến chuyển thuần thục hơn trong cơ cấu xã hội. Đáng chú ý là hai giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản thành thị nối tiếp nhau ra đời sau chiến tranh là cơ sở xã hội quan trọng cho khuynh hướng cách mạng dân tộc dân chủ tư sản tồn tại và phát triển trong phong trào dân tộc sau chiến tranh. Tuy nhiên, giai cấp tư sản dân tộc ra đời trong hoàn cảnh một xã hội thuộc địa nên không có điều kiện tự do phát triển, ngay từ đầu nó đã bị tư bản tài chính Pháp chèn ép, ra sức hạn chế trên bước đường mở mang kinh doanh. Vì vậy nó vừa nhỏ bé về kinh tế, lại non yếu về chính trị. Trong khi đó thì giai cấp tiểu tư sản lại đông hơn về số lượng và được tập hợp sớm hơn, nhưng họ cũng bị tư bản tài chính Pháp ra sức chèn ép ngay từ đầu, bị giới hạn ngặt nghèo trong phạm vi tiểu thương tiểu chủ nếu họ đứng ra buôn bán làm ăn, hay bị khinh rẻ, bạc đãi, kìm hãm phát triển tài năng, tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ nếu họ là những trí thức, công chức. Chiều hướng chung của họ vì vậy là dễ bị phá sản, rồi rơi vào hàng ngũ những người thất nghiệp và giai cấp vô sản. Chính vào đúng lúc Việt Nam đang có những biến chuyển sâu sắc về cả hai mặt kinh tế và xã hội như vậy thì nhiều luồng tư tưởng cách mạng mới của thế giới cũng dồn dập tràn vào và đã có tác dụng thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới, mang nhiều màu sắc và nội dung khác trước, và ngày càng thể hiện rõ tính chất dân tộc và dân chủ. Cùng với việc chủ nghĩa Mác - Lênin du nhập vào Việt Nam sau chiến tranh thúc đẩy phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ và đi dần vào đấu tranh tự giác, phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản và tư sản lớp dưới cũng ngày một lan rộng và dâng cao. Mở đầu là phong trào văn hóa tiến bộ tuyên truyền tư tưởng dân tộc dân chủ đã góp phần kích thích tinh thần yêu nước đang sôi sục trong cả nước. Tại Hà Nội và một số thành phố như Huế, Sài Gòn nối tiếp nhau ra đời các nhà xuất bản tiến bộ chuyên xuất bản một số sách biên soạn hay dịch thuật giới thiệu những tấm gương ái quốc trong nước và trên thế giới, góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng chủ nghĩa dân tộc, đào tạo người quốc dân mới. Báo chí quốc văn xuất bản trong Nam ngoài Bắc - trong số đó đáng chú ý nhất có tờ Thực nghiệp - là những cơ quan tuyên truyền dân chủ tự do, tố cáo chính sách bóc lột áp bức của thực dân Pháp và bè lũ tay sai đã có tiếng vang lớn hồi đó. Trong bối cảnh đặc biệt đó, phong trào đấu tranh chính trị cũng trên đà phát triển mạnh mẽ, mang tính chất một phong trào quần chúng được nhiều tầng lớp tham gia. Sôi nổi nhất và lôi cuốn được đông đảo quần chúng là phong trào đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Phan Bội Châu (11-1925), lễ tang và sau đó là lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh ở nhiều nơi trong cả nước (3-1926), cuộc đón tiếp Bùi Quang Chiêu đi Pháp về cùng với vụ đấu tranh đòi thả Nguyễn An Ninh đều xảy ra trong tháng 3, và lễ tang và truy điệu cụ Lương Văn Can (6-1927).


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:37:47 pm

Trong cao trào ái quốc dân chủ công khai của những năm 1925-1928 đã bắt đầu xuất hiện các nhóm chính trị của tiểu tư sản trí thức và tư sản lớp dưới. Để đối phó lại, chính phủ Pháp cũng như bọn thực dân Pháp ở Đông Dương chủ trương áp dụng một đường lối cai trị xảo trá hơn, bề ngoài tỏ vẻ mềm dẻo khôn khéo hơn. Chúng đưa toàn quyền Méc-lanh vừa thoát chết ở vụ ném bom tại tô giới Sa Diện, Quảng Châu (Trung Quốc) ngày 19 tháng 6 năm 1924 về và đưa Va-ren sang thay (11-1925) nhằm lợi dụng cái danh nghĩa Đảng viên đảng Xã hội Pháp của y mà lừa bịp và xoa dịu quần chúng.

Phải thừa nhận rằng thủ đoạn xảo trá của thực dân Pháp không phải không có kết quả. Sự thật thì có một số thanh niên lúc bấy giờ đã hy vọng vào những lời tuyên bố, những điều hứa hẹn của tên toàn quyền mới Va-ren nên có ý chờ đợi hắn giải quyết các yêu cầu đưa ra. Trong số đó phải kể đến nhóm thanh niên tập hợp xung quanh Nguyễn Thái Học, thường lấy Nam Đồng thư xã là một nhà xuất bản tiến bộ ở Hà Nội làm nơi lui tới.

Những người thanh niên trí thức tiểu tư sản này sống trong bối cảnh phong trào yêu nước đang diễn ra sôi động của những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX rất nhiệt tình cách mạng. Họ rung động vì lòng ái quốc của Phan Bội Châu, tin tưởng vào thuyết dân quyền của Phan Chu Trinh. Nhưng họ cũng có phần nông nổi, ngây thơ nên bị mắc lừa và có lòng mong đợi chính sách cải cách của nhà "xã hội" Va-ren! Bản thân Nguyễn Thái Học năm 1925 đã viết bức thư gửi cho Va-ren bày tỏ nỗi bất bình của mình đối với chế độ thực dân, đồng thời đề nghị một chương trình cải cách xã hội. Những lời đề nghị của ông không được giải quyết, năm 1926 ông lại viết bức thư thứ hai gửi cho toàn quyền đề nghị chính phủ bảo hộ che chở bênh vực cho nền công thương nghiệp bản xứ, cũng như ban bố các quyền tự do dân chủ, các quyền tự do mở trường dạy học không lấy tiền cho dân nghèo, quyền mở các thư xã bình dân tại các làng xã và các trung tâm công nghiệp. Bức thư này cũng không được trả lời. Không nản lòng, ông lại gửi tiếp cho Va-ren một dự án giúp cho dân nghèo có điều kiện sống dễ dàng hơn. Năm 1927, Nguyễn Thái Học lại gửi cho thống sứ Bắc Kỳ một bức thư xin phép ra một tờ tuần báo lấy tên là Nam Thanh với mục đích bênh vực và khuyến khích nền công thương nghiệp của người trong nước, nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân. Thống sứ Bắc Kỳ đã từ chối lời đề nghị đó. Cũng trong thời kỳ này, Nguyễn Thái Học đã viết một số bài đề cập tới các vấn đề trên và gửi đi định đăng trên một số tờ báo với hy vọng đem các ước vọng của mình ra để trình bày với "Đồng bào quốc dân", nhưng tất cả các bài báo của ông đều bị sở kiểm duyệt không cho đăng. Như vậy là bọn thực dân đã sớm tự gỡ mặt nạ đạo đức giả, trước sau ngoan cố gạt bỏ tất cả những yêu cầu sửa đổi, cải lương dù là ôn hòa nhất. Ngay cả sách báo của Nam Đồng thư xã cũng luôn luôn bị cấm đoán, tịch thu. Nghị định của toàn quyền bắt phải đưa sách ra kiểm duyệt như báo và cuối cùng Nam Đồng thư xã buộc phải đóng cửa. Mặt khác, thực dân Pháp không ngừng thẳng tay đàn áp những người tham gia phong trào đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh, đưa lính đàn áp những người tổ chức đám tang Lương Văn Can, v.v...


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:38:12 pm

Thực tế đó đã làm cho nhóm thanh niên yêu nước Nguyễn Thái Học thấy phải từ bỏ con đường ngây thơ mong muốn hợp tác với Pháp để hoạt động công khai hợp pháp. Từ đó họ quyết tâm đi vào con đường bạo động, nhận rằng chỉ có dùng vũ lực đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước mới mong giúp ích được cho đồng bào. Vì vậy, vào giữa năm 1927, mặc dù sắp thi tốt nghiệp ra trường, Nguyễn Thái Học vẫn cùng một số đồng chí bỏ học lên ở hẳn tại trụ sở Nam Đồng thư xã (số nhà 6 đường 96, phố Trúc Bạch) để cùng nhau mưu tính việc lớn.

Lúc này đã xảy ra một cuộc tranh luận căng thẳng giữa chủ trương "hòa bình cách mạng" của Nhượng Tống (Hoàng Phạm Trân) và Trúc Khê (Ngô Văn Triện) với chủ trương bạo động của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài. Trong khi tranh luận, có lần Nguyễn Thái Học đã khẳng định: "Thực dân đem sắt và máu đô hộ Việt Nam, chúng ta không thể nào dùng đường lối khoanh tay đối phó với súng đạn được. Xem các gương Đông Kinh nghĩa thục ngày trước thì biết. Một nhóm nhà nho tay không có một tấc sắt mà có vô số những người bị chết chém, bị đầy ra Côn Đảo.

Ngày nay còn chủ trương hòa bình cách mạng là đi vào vết xe cũ rất uổng công vô ích mà thôi".

Để khỏi đi vào "vết xe cũ", Nguyễn Thái Học chủ trương "phải sắt và máu", tức là phải tiến hành cách mạng theo phương thức bạo động khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc. Sau nhiều cuộc họp bàn của Nam Đồng thư xã, cuối cùng nhóm Nguyễn Thái Học - Phạm Tuấn Tài đã đi tới kết quả thuyết phục được nhóm đối lập, và ngay sau đó công việc tổ chức bí mật được bắt đầu xúc tiến. Nói về vai trò của Nam Đồng thư xã trong việc ra đời của Việt Nam quốc dân đảng, nhà sử học Trần Văn Giàu nhận định: "Nam Đồng thư xã tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc cách mạng, chủ nghĩa Tam dân và nó là hạt nhân đầu tiên của Việt Nam quốc dân đảng".

Thực hiện chủ trương xúc tiến công việc tổ chức bí mật, Nguyễn Thái Học đã cùng các đồng chí của ông tích cực hoạt động, một mặt đi vận động bạn bè quen biết ở Hà Nội, mặt khác liên hệ với các nhóm và cá nhân yêu nước ở các địa phương để đoàn kết thêm lực lượng và tiến tới hội nghị thành lập đảng. Công việc tuyên truyền vận động phát triển lực lượng được tiến hành khá thuận lợi, nên chỉ sau mấy tháng vận động trù bị, Việt Nam quốc dân đảng chính thức ra đời trong cuộc hội nghị vào đêm lễ Chúa giáng sinh (Nô-en) ngày 25 tháng 12 năm 1927, và Nguyễn Thái Học được bầu làm Chủ tịch đảng. Trong công tác bắt mối liên lạc với các nhóm yêu nước ở các địa phương, có thể kể tới các nhóm Nguyễn Thế Nghiệp ở Bắc Ninh, nhóm Hoàng Văn Tùng ở Thanh Hóa, và đặc biệt là nhóm Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khắc Nhu ở Phủ Lạng Thương (Bắc Giang).


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:38:56 pm

Nói về nhóm Việt Nam dân quốc, cần thấy rằng lãnh tụ của nhóm là Nguyễn Khắc Nhu từ những năm 1925-1926 đã có mối liên hệ với tòa soạn báo Thực nghiệp và nhóm Nam Đồng thư xã ở Hà Nội. Vốn giàu lòng yêu nước và có quyết tâm cách mạng, ông đã từng hăng hái tham gia phong trào đòi thực dân Pháp thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh và cũng đã từng vận động cải cách hương thôn (phong trào đào giếng, tự dệt khăn mặt cho mỗi người, bỏ các hủ tục đốt vàng mã, giảm chi phí trong ma chay, cưới xin, bỏ lễ tế tơ hồng, v.v...). Ông cũng đã chính thức phát biểu những ý kiến và cải cách xã hội trên các báo Thực nghiệp dân báo, An Nam tạp chí. Cũng trong năm 1926, Nguyễn Khắc Nhu đã bắt liên lạc được với Phan Bội Châu đang bị thực dân Pháp giam lỏng trên bờ sông Hương (Huế) và theo lời khuyên của nhà yêu nước họ Phan, ông đã lập ra hội "Quốc dân dục tài" nhằm giáo dục đào tạo nhân tài cho hòa bình phát triển cách mạng. Nhưng thực dân Pháp đã nhanh tay bóp chết hội "Quốc dân dục tài" ngay từ khi tổ chức đó còn phôi thai. Thực tế quyết liệt đó đã buộc Xứ Nhu phải thay đổi ngay phương thức hoạt động cách mạng, nhanh chóng chuyển từ chủ trương hòa bình cách mạng sang bạo động cách mạng. Việt Nam dân quốc ngay sau khi ra đời vào cuối năm 1927 đã tích cực chuẩn bị một cuộc bạo động được dự định vào ngày 11 tháng 11 năm 1927, nhằm đánh vào các đồn binh Pháp ở Đáp Cầu, Bắc Ninh và Phả Lại. Nhưng cuối cùng cuộc bạo động dự định không thực hiện được vì trong lúc chuẩn bị vũ khí đã sơ suất để bom nổ tại cơ quan chế bom ở làng Chè (Bắc Ninh) làm cho công việc vỡ lở, kéo theo luôn việc đàn áp ác liệt của kẻ thù.

Sau khi việc chuẩn bị bạo động bị lộ, mặc dù việc truy lùng, đàn áp của thực dân Pháp được tăng cường, phái Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khắc Nhu vẫn cố gắng duy trì mối liên hệ với nhóm Nam Đồng thư xã ở Hà Nội, tạo cơ sở thuận lợi cho việc thống nhất ít lâu sau đó hai tổ chức Việt Nam dân quốc với Việt Nam quốc dân đảng vào tháng 2 năm 1928. Trong hội nghị thành Việt Nam quốc dân đảng vào cuối năm 1927, chưa có sự tham gia của Nguyễn Khắc Nhu, nhưng rõ ràng là việc chuẩn bị bạo động đánh Pháp của phái Việt Nam dân quốc đã kích thích thêm tinh thần quyết liệt cách mạng của nhóm Nam Đồng thư xã, củng cố thêm một bước quyết tâm của nhóm đó đứng ra thành lập Việt Nam quốc dân đảng - một chính đảng cách mạng đại diện cho quyền lợi tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên, chủ trương đánh đuổi đế quốc và đứng hẳn trên lập trường dân chủ tư sản. Với uy tín lớn của mình, Nguyễn Khắc Nhu sau khi gia nhập Việt Nam quốc dân đảng đã nhanh chóng trở thành một người có vai trò chủ chốt trong Đảng. Tại hội nghị bầu tổng bộ lần thứ 3 vào cuối tháng 12 năm 1928, ông đã được bầu làm Chủ tịch ủy ban Lập pháp và Giám sát. Và sau đó khi nổ ra vụ ám sát tên thực dân mộ phu đồn điền Ba-danh, ông đã là người cùng với chủ tịch đảng Nguyễn Thái Học bàn bạc và quyết định khởi nghĩa.

Rõ ràng là do những điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của đế quốc Pháp mà tư tưởng tư sản cách mạng từ bên ngoài đưa vào lại thông qua bộ phận tiểu tư sản trí thức, ngọn cờ cách mạng tư sản được giương lên trong những năm cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX ở Việt Nam lại do những người tiểu tư sản trí thức tập hợp trong Việt Nam quốc dân đảng đảm trách. Vị trí xứng đáng của giai cấp tiểu tư sản trong cách mạng dân chủ tư sản, đó là một đặc điểm của phong trào cách mạng ở một nước thuộc địa như ở Việt Nam ta dưới thời thuộc Pháp. Với lòng yêu nước nhiệt tình, với chí khí hăng hái cách mạng, các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng mặc dù thất bại nhanh chóng đã viết thêm vào pho sử vàng của dân tộc những dòng rực sáng chính nghĩa dân tộc và mãi mãi xứng đáng với lòng cảm mến của nhân dân cả nước.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:39:43 pm

Câu hỏi 21: Hãy trình bày quá trình gia nhập Việt Nam quốc dân đảng của nhóm "Việt Nam dân quốc" do Nguyễn Khắc Nhu lãnh đạo? Nguyễn Khắc Nhu đã có những chủ trương, biện pháp và hành động gì để cùng với Nguyễn Thái Học củng cố và thúc đẩy hoạt động vũ trang khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng?
Trả lời:


Với nội dung trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm, con trai thứ ba của ông Nguyễn Khắc Nhu đã viết trong cuốn "Nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu" do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1993 như sau:

Kế hoạch hòa bình cách mạng đào tạo nhân tài rộng rãi của cha tôi bị thực dân Pháp đập tan từ trong trứng. Không nản trước thất bại đầu tiên này, cha tôi đã cùng bộ phận tích cực nhất trong hội "Quốc dân dục tài", cụ thể là cùng với một số đồng chí từ thời Đông Du, một số dư đảng Hoàng Hoa Thám, một số học trò cũ có tâm huyết cũng như cùng với những bạn bè mới, đặc biệt là binh lính có tinh thần quyết liệt chống Pháp lập ra hội "Việt Nam dân quốc" với mục đích đánh Pháp, đem lại độc lập cho nước nhà. Mục tiêu trước mắt của Hội là tổ chức một cuộc vũ trang khởi nghĩa với nội dung cụ thể là một cuộc binh biến do các binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp đóng tại Đáp Cầu, Bắc Ninh, Phả Lại tiến hành với sự hỗ trợ của lực lượng cách mạng bên ngoài.

Nếu cuộc binh biến được thực hiện thành công thì binh lính từ ba nơi đó theo kế hoạch của Hội, sẽ tỏa đi đánh chiếm các mục tiêu quân sự khác cho đến khi giành lại được toàn bộ đất nước. Nhưng lực lượng bên ngoài cũng cần phải có vũ trang thì mới có thể phối hợp hành động có hiệu quả với binh lính được. Do đó hội "Việt Nam dân quốc" đã cho lập nên một số xưởng làm lựu đạn (thời đó gọi là bom) mà những người chế tạo chỉ là một số học sinh yêu nước trường kỹ nghệ thực hành, tức những người chỉ mới có trình độ kỹ thuật công nghiệp trung cấp. Mới chỉ là học sinh thì làm gì đã nắm được đầy đủ kinh nghiệm sản xuất, làm gì đã tuân thủ được trọn vẹn chế độ bảo hiểm trong khi thao tác. Cũng vì thế mà công việc chuẩn bị khởi nghĩa của Hội đang được tiến hành gấp rút thì cơ quan chế bom ở làng Chè hay Do Tự ở huyện Gia Lâm vì vô ý để cho bom nổ, kéo theo sự đàn áp của thực dân. Cũng may người phụ trách chế bom là Đồ Cương và Quản Trạc đều trốn thoát, các yếu nhân trong hội Việt Nam dân quốc vì không lộ mặt nên cũng không ai việc gì và chỉ có một vài binh lính và nhân vật thứ yếu là bị sa lưới mà thôi.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:43:05 pm

Với tổ chức hội Việt Nam dân quốc nói chung còn nguyên vẹn, cha tôi bèn vận động các hội viên cùng tham gia Việt Nam quốc dân đảng được thành lập ngày 25 tháng 12 năm 1927 tại Hà Nội. Tiền thân đảng này là nhóm Nam Đồng thư xã, chuyên biên soạn và dịch thuật những tài liệu và truyện ký danh nhân có nội dung đề cao lòng yêu nước, giành độc lập. Thấy rõ ý đồ sâu xa của nhóm, thực dân Pháp đã ra tay khủng bố, thu hồi các sách đã xuất bản và bắt đóng cửa thư xã. Do mối giao du sẵn có, trong khi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa ở đất Bắc1 cha tôi đã có liên hệ mật thiết với Nam Đồng thư xã và yêu cầu nhóm này phối hợp hành động. Theo sự kể lại của Nhượng Tống, một trong những sáng lập viên và cây bút sáng tác của thư xã, thì khi nhận được yêu cầu trên, thư xã đã lập tức bị phân hóa thành hai phe theo hai hướng khác nhau. Phe thứ nhất với Nguyễn Thái Học đứng đầu đã cương quyết ủng hộ và tìm cách giúp đỡ hội Việt Nam dân quốc. Phe thứ hai thì cố ý lảng tránh và tỏ vẻ thờ ơ với chủ trương bạo động, một chủ trương có thể ảnh hưởng trực tiếp tới mạng sống của họ. Nhượng Tống thuộc phe thứ hai. Nhưng trước sự thôi thúc của Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống đã miễn cưỡng viết một bài hịch gửi đi. Viết xong, theo lời tự thuật, ông ta đã buông bút nằm chờ chết. Nhưng cuộc bạo động đó cha tôi chủ trương đã không nổ ra.

Việc gia nhập của hội Việt Nam dân quốc vào Việt Nam quốc dân đảng xét ra cũng là tất yếu. Vì trước đó năm 1926 hai phái viên của Phan Bội Châu ra Bắc gặp cha tôi thì ngoài lời khuyên là trước mắt hãy nên chú trọng đào tạo nhân tài còn có lời khuyên trong tương lai nên thành lập một đảng theo kiểu Trung Hoa quốc dân đảng. Vả chăng tôn chỉ của Việt Nam quốc dân đảng với người đứng đầu là Nguyễn Thái Học cũng tương tự như Trung Hoa quốc dân đảng. Hơn nữa trước đó Nguyễn Thái Học cũng là người đã nhiệt liệt ủng hộ chủ trương bạo động của hội Việt Nam dân quốc. Thế thì cần gì phải lập một Việt Nam quốc dân đảng mới mà chỉ cần sáp nhập toàn bộ tổ chức vào Việt Nam quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học là xong.

Dễ hiểu là việc gia nhập toàn bộ hội Việt Nam dân quốc vào Việt Nam quốc dân đảng đầu năm 1928 ngoài việc làm cho đảng đột nhiên được mạnh hẳn lên đã đem đến những thay đổi lớn trong đảng này.
_________________________________________
1. Bắc Giang, Bắc Ninh.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:48:49 pm

Trước hết chủ trương vũ trang khởi nghĩa đột nhiên chiếm được đa số, hầu như tuyệt đối. Nên lưu ý là Việt Nam quốc dân đảng với tiền thân là nhóm Nam Đồng thư xã chỉ chủ yếu gồm những nhà trí thức (nhà văn, nhà báo, sinh viên, giáo viên, công chức, tư sản thành thị, v.v...) có khuynh hướng chủ yếu là đấu tranh công khai trên báo chí và trên nghị trường. Như vậy thì cuộc sống của họ sẽ không bị đảo lộn gì mà uy tín của họ lại được dần dần lớn lên trong quốc dân đồng bào. Nay toàn bộ hội Việt Nam dân quốc, mà số lượng họ lại rất đông đảo, đặc biệt là ở hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, đồng thời chủ trương của họ vốn là chủ trương bạo động thì tất nhiên họ phải làm cho cán cân Việt Nam quốc dân đảng lệch hẳn về phía vũ trang khởi nghĩa. Toàn bộ những người đảng viên mới này đều được mọi người trong đảng cũ coi như những bậc anh hùng dám sẵn sàng hy sinh tính mạng để giành lấy độc lập cho nước nhà. Tiếng nói của họ, đặc biệt của người cầm đầu là cha tôi - người đã từng tham gia phong trào Đông Du và chủ trương nổi dậy đánh Pháp ở xứ Bắc, rất có trọng lượng, có tác dụng đánh tan sự lưỡng lự của một số trí thức thành thị trước hai khuynh hướng hòa bình cách mạng và vũ trang cách mạng.

Sau nữa, thành phần Việt Nam quốc dân đảng vốn trước kia chỉ chủ yếu bao gồm những người ở thành thị nay lại có một bộ phận lớn, nếu không nói áp đảo là những người xuất thân từ nông thôn. Đó là các chức dịch tổng lý, các địa chủ yêu nước1, các ông lang, ông đồ, giáo viên, thợ may, thanh niên nông thôn và đặc biệt các binh lính đang đóng tại nhiều đồn binh của Pháp. Số lượng các đảng viên thuộc các thành phần trên lại tăng lên nhanh chóng vì những người thuộc hội Việt Nam dân quốc cũ vì muốn sớm khởi nghĩa nên đã đem hết sức mình ra phát triển tổ chức để sớm đủ lực lượng nổi dậy.

Sau hết, Việt Nam quốc dân đảng vốn trước kia không kết nạp đảng viên là phụ nữ thì nay đột nhiên có nhiều phụ nữ tham gia. Điều này không lấy gì làm lạ vì Hội Việt Nam dân quốc của cha tôi từ lâu đã kết nạp phụ nữ rồi. Những cô Bắc, cô Giang, những cô gái tiết liệt dũng cảm còn để lại được tên mình trên các đường phố hiện nay chính là những người phụ nữ sinh ra ở Bắc Giang và ở trong tổ chức của cha tôi. Còn các cô Nhu, cô Uyển cũng là người Bắc Giang đầu tiên tham gia Việt Nam quốc dân đảng trong đảng bộ của cha tôi và sau đó đã theo anh ruột tham gia Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.
_____________________________________
1. Nên chú ý là trong Việt Nam quốc dân đảng còn có một đại quan lang là Quách Vy, tuần phủ Hòa Bình; một đại địa chủ ở Thái Bình là Đặng Đình Điền cũng tham gia.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:51:15 pm

Từ khi tham gia Việt Nam quốc dân đảng, phạm vi hoạt động của cha tôi được mở rộng hơn trước nhiều. Thôn Song Khê trong năm 1928 đầu năm 1929 trở thành nơi lui tới thường xuyên đông đảo của khách bốn phương. Đó cũng là quê hương của một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng và của nhiều người có cảm tình với đảng gồm những nhà nho bạn thân hay có họ hàng với cha tôi như ông Khóa Khanh, ông Phó Quảng hoặc những học trò cũ của cha tôi như ông Khóa Lượng, ông Lý Tào, ông Nguyễn Khắc Khỏa.

Đặc biệt là ông Đào Hữu Tào, học trò cũ của cha tôi, lại đang là lý trưởng Song Khê thời bấy giờ. Những cuộc kết nạp đảng viên và hội họp khác cũng luôn được tổ chức tại nhà tôi hoặc ở nhà các đảng viên khác dưới sự bao che của Lý Tào đương nhiệm. Để tránh con mắt tò mò của người làng, nhiều cuộc họp bàn đã được ngụy trang bằng các cuộc đánh tổ tôm. Bài được chia sẵn nhưng để nguyên sáu phần, trong khi đó một người nhà được bố trí ở trước cửa để khi có người lạ mặt đến thì báo hiệu và tới lúc đó các phần bài chia mới được cầm lên. Bản thân tôi có mấy lần được ông cụ cho làm chân gác báo động này. Tuy nhiên, công tác bảo mật của cha tôi thực ra còn rất nhiều sơ hở. Thí dụ những buổi kết nạp đảng viên đã được kết nạp công khai trước bàn thờ của gia đình chẳng cần giấu giếm người nhà gì cả. Người được kết nạp đứng trên chiếc chiếu trải trước bàn thờ khói hương nghi ngút sau khi nghiêng mình thì giơ tay đọc to lời tuyên thệ. Tuy tôi còn nhỏ tuổi nhưng còn nhớ đã rùng mình khi nghe đến đoạn nếu phản đảng thì xin chịu tội tử hình. Một sự kiện cho thấy rõ sự sơ hở của cha tôi trong công tác bảo mật nữa là trong đám cưới người anh thứ hai của tôi cũng là đảng viên Việt Nam quốc dân đảng lấy một cô gái có cảm tình với đảng, cha tôi đã cho trưng công khai đôi câu đối chữ Hán như sau trước mắt mọi người hai họ:

      "Chủng tộc giang sơn ngô đảng sự
      Thánh hiền hào kiệt thế gian sư".


Xin tạm dịch là:
      Chủng tộc giang sơn đảng ta toan tính
      Thánh hiền hào kiệt chỉ đường thế gian.

Tuy những người dự đám cưới hôm đó đều là họ hàng bạn bè hay bà con thân thiết của cha tôi nhưng rõ ràng công khai cho mọi người biết cha tôi thuộc một đảng cách mạng chống Pháp là điều tối kỵ. Hẳn liền sau hiểu ra như vậy nên cha tôi đã bóc và đốt đôi câu đối ấy đi để phi tang.

Nhưng nhiều người vẫn còn nhớ đôi câu đối và mấy chục năm sau đọc lại cho tôi nghe.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:53:14 pm

Một việc tôi cũng thấy cha tôi mất cảnh giác là trên tường nhà, bên cạnh ảnh Khổng Tử có cả ảnh Tôn Dật Tiên phóng to. Như thế thì có khác gì cho mọi người biết là mình ở trong Việt Nam quốc dân đảng và tấm ảnh Tôn Dật Tiên này cho đến tận khi ông quyết định đi trốn không về nhà nữa mới được cất đi.

Hơn nữa, một bài hát theo điệu Bình bán không biết có phải do cha tôi sáng tác hay không đã được đem phổ biến rộng rãi trong thanh niên Bắc Giang và nhiều tỉnh khác thời bấy giờ. Bài hát như sau:

      Ta là dân nước Nam
      Giống Lạc Hồng phải bước lầm than
      Làm sao giết lũ tham tàn
      Thì mười năm sau rồi sẽ được an1
      Nghĩ câu nước mất nhà tan
      Sáu mươi năm trong vòng nô lệ
      Cái lũ tham tàn rất tệ
      Bắt dân mình cực khổ xiết bao
      Nào anh em đứng lên đi nào
      Ta đồng lòng nhau giành lại giang sơn.


Bài hát nội dung chống Pháp rõ rệt đến như vậy mà lũ trẻ con chúng tôi cứ ông ổng hát. Cũng may mà thời đó mật thám ở tỉnh lẻ không có nhiều nếu không thì chắc chắn bọn chúng tôi đã bị bắt rồi bị tra khảo đến phải khai ra người dạy hát.

Về mặt hoạt động kinh tế, thời kỳ này cha tôi đã rất chú ý đặt nền móng cho một nền kinh tế tự chủ của Việt Nam mai sau. Ông muốn người Việt Nam sẽ tự dệt lấy vải và tự làm ra các vật dụng khác để dùng. Tư tưởng này hẳn không tránh khỏi ảnh hưởng chủ trương tự cấp, tự túc của "Găng-đi" đề xướng tại Ấn Độ. Có điều là, đảng cách mạng làm gì có nhiều người và nhiều tiền để thực hiện chủ trương này. Đứng trước khó khăn đó, ông không nản lòng và đã căn cứ vào điều kiện cụ thể để hành động. Song Khê quê ông vốn có nghề dệt vải khổ hẹp. Ông bèn cử một số bà con thân thích tin cẩn và thông minh đi Hà Đông học dệt vải tuýt xo và các thứ vải khác bằng khung dệt giật tay khổ to. Năng suất của loại khung dệt này cao hơn khung khổ nhỏ rất nhiều. Sau khi những người được cử đi học đã thành tài, ông bèn lập một xưởng dệt gồm vài chục khung cửi khổ to trên bờ sông Thương phía Bắc thị xã Bắc Giang. Xưởng dệt đã cho ra đời một số sản phẩm tuy chưa thể cạnh tranh được với hàng nước ngoài nhưng cũng khá tốt, được khách hàng trong nước chấp nhận và cũng bắt đầu đóng góp được tiền lời cho quỹ đảng. Chính tôi năm 1928 đã được cha tôi cho may một bộ quần áo theo kiểu Âu bằng vải tuýt xo của xưởng dệt này để đi học và tôi cũng đã tỏ ra rất tự hào.
________________________________
1. Câu này ở Nam Định và Thái Bình hát là "Thế thì rồi đây đời sẽ mới an".


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:56:57 pm

Ngày 26 tháng 8 năm 1928, một đại hội đảng được quyết định cử hành tại chùa làng Song Khê. Tối hôm đó thấy cha tôi sau khi cắt cử một số người phân đi các ngả đón khách đã tự mình hết đi chỗ nọ đến chỗ kia để lo cho đại hội được tiến hành tốt đẹp. Có hơn một trăm đại biểu đến họp ngồi kín cả mấy gian đại sảnh nhà chùa và cả ở ngoài hành lang. Đèn nến sáng trưng, người phát biểu oang oang không cần phải giảm âm thanh vì chùa được lập trên đất bãi xa, lánh hẳn dân làng. Nhà sư nữ trụ trì vốn là người yêu nước nên sẵn sàng dành chùa cho cha tôi tổ chức đại hội nhưng lại sơ ý không dặn bảo các ni cô nên một người trong số này khi thấy đông người đến họp sợ liên lụy đến bản thân nên đã lén lút về làng báo với lý trưởng và nói với dân làng là ông Xứ không biết định làm gì mà kéo rất đông người về chùa hội họp. Lý trưởng vốn là học trò cũ của cha tôi, đồng thời cũng là đảng viên Việt Nam quốc dân đảng đã một mặt làm lơ như không biết gì, mặt khác cho người tới ngay nhà tôi báo tin cho dì tôi biết, đồng thời lập kế hoãn binh chờ đủ lệ bộ trương tuần và tuần phiên được vũ trang đầy đủ mới kéo nhau ra chùa làm biên bản. Được tin lý trưởng báo, dì tôi chạy ngay ra chùa nói với cha tôi. Thế là chỉ trong chốc lát mọi người đã tẩu tán đi mỗi người một phương, còn cha tôi và mấy đồng chí người làng vội vàng dọn sạch dấu vết cuộc họp và đóng lại các cửa chùa như cũ. Do đó, đến khi lý trưởng và đội tuần phiên vũ trang gậy gộc giáo mác đến chùa thì đã không còn ai nữa. Trong khi làm biên bản, nhà sư được cha tôi dặn bảo trước đã khai là vì nhà ông Xứ có giỗ, đông khách quá nên có nhờ cho tiếp khách ở chùa. Xong việc, khách khứa đã về cả rồi. Y lời ông Xứ có mặt cũng nói như vậy. Thế là biên bản không ghi được điểm gì bất lợi. Tuy nhiên trong làng vốn có người làm đội lính lệ của tuần phủ đã đem việc này cáo giác với luận điệu nghi cho ông Xứ họp đảng làm loạn. Cũng vì thế, lý trưởng Song Khê bị mấy lần gọi lên quan xét hỏi nhưng vì không ai đưa được chứng cứ gì khác nên rốt cuộc lý trưởng được vô can. Tuy nhiên năm sau (1929) khi cha tôi bỏ nhà ra đi, vì Lý Tào bị thực dân bắt phải tìm kỳ được ông nhưng đã không đạt được kết quả gì nên cuối cùng bị cách chức.

Việc thoát hiểm nói trên có làm cho cha tôi thêm cảnh giác nên từ đó trừ việc tiếp khách lẻ tẻ không kể còn các cuộc họp đông người thì đều được bố trí ở nơi khác.

Ngày 9 tháng 12 năm 1928, trong kỳ họp tổng bộ mới, tức tổng bộ thứ ba của Việt Nam quốc dân đảng, bộ phận lãnh đạo đảng được quy định chia làm hai ban: Ban Lập pháp, Giám sát và Ban Chấp hành. Trong hai ban trên thì Ban Lập pháp, Giám sát quan trọng hơn vì nó có quyền kiểm tra và quyết định mọi công việc quan trọng của đảng, còn Ban Chấp hành thì thi hành các công việc đó. Điều đặc biệt đáng lưu ý là trong hai kỳ họp tổng bộ trước, Nguyễn Thái Học đều được bầu làm Chủ tịch đảng. Nhưng đến kỳ họp này vì cha tôi được bầu làm Trưởng Ban Lập pháp, Giám sát nên nghiễm nhiên trở thành Chủ tịch đảng, còn Nguyễn Thái Học được bầu làm phó ban nên cũng trở thành Phó Chủ tịch đảng1 và chính trên cương vị Chủ tịch đảng, cha tôi đã đề ra việc chỉnh đốn chương trình và điều lệ đảng, đồng thời hạ quyết tâm thực hiện cho kỳ được chủ trương vũ trang khởi nghĩa được ôm ấp từ khi còn nhỏ tuổi.
_____________________________________
1. Xem "Lam Sơn hiệp sĩ, Yên Bái khởi nghĩa" 4-1946, tr. 2, 3; Đào Trịnh Nhất, "Trung Bắc chủ nhật" số 245, 1945, tr. 14; Cố Nhi Tân, "Tiểu truyện danh nhân", Sài Gòn 1969, tr. 96.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 09:58:37 pm

Cũng thời kỳ này, một sự kiện quan trọng xảy ra, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của Việt Nam quốc dân đảng:

Nguyên là tối ngày 9 tháng 2 năm 1929 tên Ba-danh chủ mộ phu cho các đồn điên cao su ở Nam Bộ và Tân Thế giới bị các đảng viên Việt Nam quốc dân đảng ám sát. Việc này làm kinh động giới thực dân và nhiều người trong bọn chúng lớn tiếng đòi chính quyền Đông Pháp phải ra tay trừng trị bọn chống đối. Thực ra, từ lâu nhờ có sự bố trí cho mật thám chui vào hàng ngũ đảng, hoặc nhờ có một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng vì sợ sệt muốn bảo toàn tính mạng nên đã khai báo nội tình đảng với thực dân, nên chúng đã biết rõ sự tồn tại và các hoạt động cụ thể của Việt Nam quốc dân đảng. Với chính sách "nuôi cho béo", chúng còn muốn theo dõi một thời gian nữa mới ra tay quét một mẻ cho sạch. Nhưng việc tên Ba-danh, đại diện cho những nhà tư bản lớn ở vùng Đông Nam Á bị bỏ mạng, đã không cho phép chính quyền thực dân trì hoãn được nữa. Không những thế, việc tống tiền bọn nổi tiếng giàu có, có nợ máu với nhân dân do các đảng viên Việt Nam quốc dân đảng tiến hành để gây quỹ đảng càng làm sôi nổi dư luận. Ví dụ: Theo lệnh cha tôi, Đặng Đình Tống, học trò cũ của ông đã cùng với Đoàn Trần Nghiệp, Phó Đức Chính, Nguyễn Mậu Ngọ... đến tống tiền tên Thừa Chương ở phố Tân Ninh, thị xã Bắc Giang ngày mồng 2 Tết Kỷ Tỵ (11-2-1929), hiệu Phúc Hưng ở phố Tiền An, thị xã Bắc Ninh ngày mồng 4 Tết (13-2-1929), Hàn Tắc ở Nam Định ngày mồng 6 Tết (15-2-1929), v.v...

Trước những sự việc được coi như kinh thiên động địa và được báo chí hàng ngày đăng tải nói trên, thực dân Pháp ra tay khủng bố. Nhà tôi ở Song Khê bị tri phủ Lạng Giang (thời kỳ này làng tôi thuộc phủ Lạng Giang chứ không phải thuộc huyện Yên Dũng như bây giờ) đem lính đến khám xét từ 4 giờ sáng ngày mồng 8 Tết (17-2-1929). Có lẽ đoán trước việc này nên sau khi ăn Tết lần cuối cùng với gia đình, cha tôi đã cao chạy xa bay. Còn nhớ hôm đó tôi cũng ở nhà nên đã tỏ ra rất căm tức và có thái độ dứt khoát không sợ sệt, khúm núm. Trước câu hỏi: "Bố mày đi đâu?" của một tên đội, tôi đã vênh váo, thách thức trả lời: "Tôi biết đâu được, đi mà bắt". Hẳn vì tên đội lệ thấy tôi còn bé nên chỉ lừ mắt bỏ đi sục sạo trong nhà. Mẹ tôi tưởng lính đến bắt rượu lậu nên vội giấu một chai rượu còn dở trong buồng cho vào trong chăn ủ kín với em gái tôi và cứ thế thản nhiên ngồi trên giường lễ phép trả lời không biết cha tôi đi đâu. Cuộc lục soát nhà cửa và tra hỏi người trong gia đình kéo dài đến hai tiếng đồng hồ nhưng không đem lại kết quả gì vì trước khi ra đi cha tôi đã sai người cháu họ là Nguyễn Khắc Khỏa, đảng viên đem các tài liệu đi cất giấu cả rồi. Bọn khám xét rút cục chỉ đem đi được một số ảnh chụp cũng như một số tân thư1 của cha tôi.
________________________________
1. Tân thư: Danh từ để chỉ những sách do các nhà có tư tưởng tiến bộ và cách mạng Trung Quốc, đem in công khai như "Trung Quốc hồn", "Ẩm băng thất" của Lương Khải Siêu.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Ba, 2017, 10:02:04 pm

Đồng thời với việc tìm bắt cha tôi, thực dân đã chăng lưới bắt được hầu hết các yếu nhân trong đảng, đặc biệt là bộ phận trí thức sáng lập ra đảng tại Hà Nội. Bao nhiêu người bị tình nghi đều bị chúng bắt giam tra khảo và chỉ được tự do khi biết chắc người đó sẽ không làm hại gì cho chúng nữa. Các phòng giam của sở mật thám và nhà pha Hỏa Lò đều đầy kín người. Mặt khác, những cơ sở kinh tế của đảng như khách sạn Việt Nam ở phố Hàng Bông, Hà Nội, xưởng dệt của cha tôi thành lập ở thị xã Bắc Giang đều bị đóng cửa, của cải bị tịch thu và những người có liên can bị bắt giữ. Cũng may mà bộ phận kỹ thuật của xưởng, tức nhũng người làng tôi phụ trách dệt trực tiếp ra vải đều không việc gì vì được coi như người làm thuê.

Cha tôi bỏ nhà ra đi, trốn tránh nanh vuốt của thực dân, phải sống một đời nay đây mai đó, không ở lâu tại đâu. Cha tôi cũng luôn luôn thay đổi hình dạng, khi mặc quần áo đồ nho, tổng lý, khăn đóng, áo dài, khi cải trang thành thầu khoán với bộ ka ki vàng, khi thành viên chức nhà nước áo cổ cồn, thắt ca vát, khi thì trang phục như ông lão nông quần nâu áo dài. Và chính việc lưu động liên tục và bất thần ra đi, cũng như việc luôn luôn cải trang nói trên đã làm cho cha tôi nhiều phen thoát hiểm. Nếu mật thám Pháp mấy lần bắt hụt cha tôi tại khách sạn Việt Nam hoặc tại một trạm liên lạc của Việt Nam quốc dân đảng tại phố Quốc Tử Giám thì nhiều phen khác chúng cũng đành bó tay không nhận ra cha tôi trong vai một lão nông vác cuốc thăm đồng tại Võng La hay trong vai một thầu khoán tại phố Gia Lâm...

Có điều là việc khủng bố của thực dân Pháp đã làm cho tổ chức Việt Nam quốc dân đảng bị đứt đoạn lung tung. Nếu việc một bộ phận quan trọng của ban lãnh đạo bị bắt không làm cho cha tôi bối rối lắm vì phần lớn những người này đều có tư tưởng ôn hòa không dám chủ trương bạo động nên ông càng có điều kiện hướng đảng theo đường lối vũ trang khởi nghĩa. Trái lại, việc nhiều đảng viên chủ chốt ở các địa phương bị cầm tù đã làm cho ông phải dốc sức ra nối lại các khâu liên lạc để có thể huy động được tổng lực của đảng trong khi nổi dậy. Tuy ông biết thực dân Pháp đã kết án ông 20 năm cầm cố vắng mặt nhưng ông vẫn quyết tâm củng cố lại đảng để có thể thực hiện kỳ được kế hoạch của mình. Với tâm trạng đó ông đã làm một bài thơ nói rõ tâm sự mình sau vụ Ba-danh:

      Nặng lòng ưu ái khó làm thinh
      Dội máu nam nhi rửa bất bình
      Cướp nước, chẻm cha quân Phú Lãng1
      Cháy thành chết mẹ chú Ba-danh
      Gian nan những xót người trong hội
      Tâm sự nào ai kể với mình
      Hỡi hỡi anh em cùng gắng sức,
      Phen này quét sạch lũ hôi tanh.


Hai câu cuối của bài thơ trên lại một lần nữa cho thấy cha tôi rất tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc vũ trang khởi nghĩa tương lai.

Mặt khác, trong lúc đi trốn tránh tại một khu rừng ở Hòa Bình, ông cũng cảm khái đọc hai câu thơ chữ Hán:

      Giang sơn vô lệ khấp anh hùng
      Đãn hoạn anh hùng vô lệ khấp giang sơn.


Tôi xin tạm dịch là:
      Giang sơn không có nước mắt khóc anh hùng
      Chỉ sợ anh hùng không có nước mắt khóc giang sơn.

Ý của hai câu thơ trên cho thấy cha tôi cũng là người rất đa cảm, đã từng nhiều lần nhỏ lệ khi nghĩ đến đất nước bị quân thù giày xéo, nhất là khi nghĩ đến cái khó nổi dậy của dân tộc trong lúc Việt Nam quốc dân đảng gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn này.

Mặc dù thực dân Pháp ra tay khủng bố, nhưng cha tôi và các yếu nhân khác trong đảng, đặc biệt là những người quyết tâm chủ trương vũ trang khởi nghĩa như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Thị Giang, Đoàn Trần Nghiệp, v.v... đều vẫn được thoát lưới. Chúng đã đem tấm ảnh bắt được của cha tôi hôm đến khám xét nhà tôi và những tấm ảnh của những yếu nhân khác in ra nhiều bản phân phát về tận các xã và treo giải thưởng 5.000 đồng2 nếu ai bắt được họ với hy vọng các cấp chính quyền thực dân, đặc biệt là cấp xã sẽ nhanh chóng truy tìm và nộp họ cho Pháp. Có điều chúng không ngờ tới là chính nhiều người trong bộ máy hương lý này đã báo tin cũng như cung cấp những thẻ căn cước giả để họ kịp thời tẩu thoát, hoặc đi lại được dễ dàng hơn. Một điều lý thú đáng nói là chính nhờ có tấm ảnh cha tôi mà một lý trưởng về sau trao lại cho gia đình chúng tôi mới có điều kiện phóng to để treo trong nhà hiện nay.
______________________________________
1. Đầy đủ ra là Phú Lãng xa: phiên âm Hán Việt chữ France (Pháp).
2. 5.000 đồng lúc bấy giờ bằng giá trị khoảng trên dưới 1.000 tạ gạo ngon.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 02:06:26 pm

Câu hỏi 22: Nguyễn Thị Giang (tục gọi là cô Giang), người đồng chí, người vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học đã kề vai sát cánh cùng ông trong cuộc đấu tranh chống quân thù. Đây là một mối tình đẹp và vô cùng xúc động. Hãy trình bày đôi nét về Nguyễn Thị Giang và mối tình của họ?
Trả lời:


Nguyễn Thị Giang - mọi người quen gọi là cô Giang - em ruột cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc), là con một nhà Nho yêu nước Nghệ Tĩnh ra sinh sống ở Bắc Giang, đảng viên Việt Nam quốc dân đảng, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học.

Nguyễn Thị Giang sinh năm 1906. Sau khi học xong lớp nhất, cô cùng chị là Nguyễn Thị Bắc được Nguyễn Khắc Nhu dìu dắt, đưa vào tổ chức Việt Nam dân quốc. Sau đó tổ chức này sáp nhập vào Việt Nam quốc dân đảng. Tại đây cô Giang có dịp làm quen và cùng cộng tác với Nguyễn Thái Học. Cô Giang là người ăn nói có duyên, đoan trang và lịch thiệp. Ngay buổi gặp gỡ đầu tiên giữa hai người đã nổ ra tiếng sét ái tình. Phàm trai tài gái sắc phải lòng nhau cũng là chuyện thường tình trên đường đời. Vào một buổi chiều từ Phú Thọ về xuôi, Nguyễn Thái Học cùng cô Giang ghé vào đền Hùng để hội đàm cùng Phó Đức Chính, Nguyễn Thế Nghiệp... Sau khi họp xong, hai người đã vào đền thờ Tổ để chiêm bái. Trước nhang khói trang nghiêm, họ cùng thề non hẹn biển, sẽ cưới nhau thành vợ chồng sau khi cách mạng thành công. Đứng trước bàn thờ Tổ vì không muốn người xung quanh nghe được những lời tâm tình riêng với cô Giang, Nguyễn Thái Học nói bằng tiếng Pháp:

- Phải làm cách mạng! Phải làm cách mạng! Để người An Nam hết làm nô lệ, để người Pháp không còn áp chế nữa. Phải làm cách mạng!

Cô Giang như uống lấy từng lời của người chồng tương lai lại là cấp trên của mình, cô cúi đầu nói nhỏ:

- Vâng, chỉ có một con đường duy nhất là làm cách mạng. Nếu anh có vì Tổ quốc mà hy sinh thì em cũng quyết dùng khẩu súng lục của anh trao mà chết theo...


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 02:07:20 pm

Từ giây phút đó, hai trái tim đầy nhiệt tình cách mạng đã đập chung một nhịp. Khẩu súng Nguyễn Thái Học trao cho cô Giang được xem như vật đính hôn giữa hai người. Có thể nói, cô Giang đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp cứu nước của Nguyễn Thái Học. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, ngày 17 tháng 6 năm 1930 Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của mình lên đoạn đầu đài. Lúc 5 giờ sáng tại pháp trường Yên Bái sương mù còn dày đặc, dân chúng kéo đến xem mặt những người anh hùng. Cô Giang cũng bí mật đến tận nơi để gặp mặt người chồng chưa cưới lần cuối. Cô cải trang thành người đàn ông, trùm chiếc khăn che mặt màu đen, đứng núp bên gốc cây. Nước mắt cô chảy dài trên khuôn mặt xinh đẹp. Môi cô tái mét vì lạnh. Cô nhắm mắt đứng yên như pho tượng. Người cuối cùng lên máy chém là Nguyễn Thái Học. Tất cả đám dông như nín thở. Im lặng đến rùng mình. Nguyễn Thái Học vừa đi vừa đọc những câu thơ bằng tiếng Pháp:

      Mourir pour sa patrie
      C’est le sort le plus beau
      Le plus digne... d’envie...


Dịch nghĩa:
      Chết vì Tổ quốc
      Cái chết vinh quang
      Lòng ta sung sướng trí ta nhẹ nhàng

Không thể đứng nhìn giây phút cuối cùng của người chồng chưa cưới, cô Giang rời khỏi đám đông. Trở về phòng trọ, cô nằm vật vã khóc. Chiều hôm đó, cô ngồi dậy viết hai lá thư tuyệt mệnh trên trang giấy khổ hẹp bằng bút chì xanh. Nước mắt ướt đẫm trang giấy. Thư thứ nhất viết cho bố mẹ chồng. Thư thứ hai viết cho chồng: "Anh đã là người yêu nước. Không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước, anh đã giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về chiêu binh, rèn kiếm dưới suối vàng”. Ngoài ra, cô còn làm bài thơ để nói lên nguyện vọng của mình - trong đó có những câu thống thiết:

      Thân không giúp ích cho đời
      Thù không trả được cho người tình chung,
      Dẫu rằng đương độ trẻ trung
      Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh...


Viết xong hai lá thư, cô Giang giấu kín trong người, rồi cô ra chợ mua mấy vuông vải trắng để làm khăn tang chồng. Ngay tối hôm đó, cô đón xe lửa sang Vĩnh Yên. Tờ mờ sáng hôm sau cô trở về làng Thổ Tang để báo tin cho bố mẹ chồng. Cúi lạy bố mẹ chồng xong, cô tất tả đi đến ngã ba Bồ Đề - chỗ cây đa rẽ vào làng Thổ Tang. Cô rút súng ra bắn vào thái dương, rồi ngã vật xuống đất, súng văng ra một bên. Đó là buổi chiều 18 tháng 6 năm 1930. Cái chết của cô Giang chấn động dư luận lúc bấy giờ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 02:12:13 pm

Trước tấm gương của liệt sĩ Nguyễn Thị Giang trong năm 1930, cụ Phan Bội Châu đã làm bài văn tế cô Giang như sau:

                  VĂN TẾ CÔ GIANG1

      Sóng nhân đạo ở hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai.
      Gương nữ hùng treo một khóe trời Nam, lũ da trắng phải ghê dòng nước Việt.
      Trên Quốc sử mực chàm giấy phấn, "ông" cả đoàn nhan nhản bầy nô.
      Dưới Long Thành màu biếc cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ "liệt".
      Trăng thu mờ mịt, trông những buồn tênh, người ngọc xa xôi, nghĩ càng đau tuyệt.
      Nhớ bạn ta xưa:
      Đất nhả tinh hoa, trời trao băng tuyết.
      Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi.
      Thân khuê các mà can trường khí tiết.
      Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông,
      Tuổi xanh vào học Quốc trường, Pháp văn cũng biết.
      Tang hải gặp hồi xoay cuộc, ngó giang sơn riêng một lòng đau.
      Trần ai tức tối không nguôi: thấy nô lệ dốc đôi tròng nguýt.
      Xót bốn ngàn năm Tổ quốc chôn nhau cắt rốn, nặng nề trăm đoạn tình ly.
      Thương hai lăm triệu đồng bào, nát thịt tan xương, chứa chất một bầu tâm huyết.
      Xem sách Pháp từng nghĩ Lân Đá, La Lan thuở nọ, chị em mình há để ai hơn!
      Giở sử nhà thoạt vỗ tay reo, Bà Trưng, Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu hồn chết?
      Triều Cách mạng đang cơn sùng sục, cát Tinh Vệ ngậm đầy trước miệng, mong thấy bể vùi.
      Vai quốc dân nặng gánh trìu trìu, đá Oa Hoàng rèn sẵn trong tay, nỡ xem trời khuyết.
      Sá chi gia mắt cường quyền, nên phải thi gan trác tuyệt.
      Khi nhập Đảng tuổi vừa đôi tám, cờ nữ binh đóng đội tiên phong.
      Khi tuyên truyền phách động ba quân, lưỡi biện sĩ trổ tài du thuyết.
      Thổi gió phun mưa tầng mây trận, nào Lâm Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu điều khiển đội hùng binh.
      Ra sinh vào tử biết bao phen, kìa thành huyện, kìa đồn binh, quân nương tử xông pha vùng rắn rết.
      Thầy Học2 vẫn tài hùng phách tráng, nhờ có cô mà lông cánh rợp tứ phương.
      Chị Bắc3 đành dạ sắt lòng son, cậy có em mới trong ngoài xưng lưỡng kiệt.
      Tiếc thay! Vận nước đương truân, tai trời chưa hết.
      Việc sắp thành bỗng một phút tan hoang, mưu trung bại bởi mấy thằng gian quyệt.
      Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh thư gặp bước gian truân.
      Ngại ngùng nước biếc non xanh, tay chức nữ uổng công thêu dệt.
      Nhưng cô còn: thiết thạch nhất tâm, chu toàn bách chuyết.
      Thời như thế, việc đành như thế, đài cắt đầu mừng được thấy anh linh.
      Sống là không, mà thác cũng là không, đạn kề cổ4 chẳng nhường cho giặc giết.
      Súng lục liên chốc nhát vang lừng một tiếng, núi đổ sông nhào.
      Hồn cửu tử chưa tan chắc chắn trùng lai, thần reo quỷ thét.
      Em Châu nay: Tình nghĩa cảm sâu, duyên xưa tấc thiệt.
      Tầng mấy lúc hồng đi cá lại, ước ao chung gánh ruổi trường đồ.
      Giận bao phen én Bắc nhạn Nam, đau đớn chia tay thành vĩnh biệt.
      Nợ hồ thỉ em chưa trắng sổ, mài nanh giũa vuốt, ước ba sinh chắc có ngày đền.
      Thù nước nhà chị hãy tím gan, nuốt muối ngậm gừng, hồn chín suối chờ xem trời xét.
      Than ôi! Khóc chẳng gì hay. Nói không kể xiết.
      Một nén tâm hương. Mấy lời thống thiết.
      Chị em mình chi thiếu bạn khôn ngoan.
      Đoàn thể lớn xin từ nay cố kết!
      Xúm bạn gái sẽ theo gót chị, thác đã linh mà sống lại càng linh.
      Xoay cuộc đời sẽ xóa bàn cờ, quốc chưa diệt thì chủng không thể diệt!
      Tiếng hạc kêu chắc thấu trời nghe.
      Bức giấy máu xin ghi lời viết.
      Ai tai! Thượng hưởng!

                                                               (1930)

Chị ruột cô Giang là cô Bắc cũng là đảng viên Việt Nam quốc dân đảng, đảm nhiệm công tác tuyên truyền cho đảng, nhất là trong thời gian chuẩn bị cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Bị bắt và đưa ra xét xử trước hội đồng đề hình họp ngày 28 tháng 3 năm 1930 tại Yên Bái, cô Bắc đã tỏ rõ khí phách hiên ngang.

Ngày nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh có các đường phố mang tên cô Bắc, cô Giang.
________________________________________
1. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 8, Nxb Thuận Hóa, 2001, tr. 494 - 495 - 496.
2. Nguyễn Thái Học.
3. Nguyễn Thị Bắc, chị ruột cô Giang.
4. Cô Giang dùng súng lục tự sát.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 11:11:29 pm

Câu hỏi 23: Phó Đức Chính là một trong những nhà lãnh đạo Việt Nam quốc dân đảng ngay từ ngày đầu thành lập. Hãy cho biết đôi nét về cuộc đời hoạt động của ông?
Trả lời:


Phó Đức Chính sinh năm 1907, quê ở làng Đa Ngưu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, tốt nghiệp Trường cao đẳng Công chính, sang làm việc ở Lào. Ông là một trong số những nhân vật quan trọng của Việt Nam quốc dân đảng. Trong đại hội thành lập đảng ngày 25 tháng 12 năm 1927 tại Hà Nội, ông được bầu vào Tổng bộ lâm thời, làm Trưởng ban Tổ chức của Việt Nam quốc dân đảng.

Là một người hoạt động rất hăng hái và nhiệt tình cho Quốc dân đảng, ông đã mấy lần bị địch bắt, nhưng đều được miễn nghị vì lý do còn ít tuổi.

Trong cuộc khởi nghĩa tháng 2 năm 1930, theo kế hoạch hành động ông được phân công chỉ huy đánh đồn Thông, một đại bản doanh quân sự của Pháp ở Sơn Tây để phối hợp với các lực lượng từ Yên Bái, Hưng Hóa và Lâm Thao kéo về. Nhưng cuộc khởi nghĩa đêm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 2 năm 1930 tại ba nơi trên không thành công nên kế hoạch đánh đồn Thông không thực hiện được. Ít ngày sau, Phó Đức Chính bị giặc Pháp bắt, đưa ra hội đồng đề hình kết án tử hình.

Ngày 17 tháng 6 năm 1930, vào lúc 5 giờ sáng, ông bị đưa lên máy chém tại thị xã Yên Bái cùng Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí khác. Cho đến phút cuối cùng, ông vẫn tỏ ra một tinh thần gan dạ, không chịu khuất phục và một thái độ rất bình tĩnh trước cái chết, khiến quân địch phải kính phục. Tương truyền khi bị bắt hành hình, Phó Đức Chính đòi đặt nằm ngửa để xem lưỡi máy chém xuống như thế nào. Ông đã hô đủ bốn tiếng "Việt Nam vạn tuế!" trước khi đầu lìa khỏi xác.

Ngày nay, tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác có đường phố mang tên Phó Đức Chính.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 11:12:18 pm

Câu hỏi 24: Đoàn Trần Nghiệp (tức Ký Con), một trong những nhân vât quan trọng của Việt Nam quốc dân đảng. Hãy cho biết đôi nét về cuộc đời hoạt động của ông?
Trả lời:


Đoàn Trần Nghiệp sinh năm 1908, người làng Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Thủ đô Hà Nội). Ông làm thư ký coi kho "Việt Nam khách sạn", và còn nhỏ tuổi nên có tên gọi là Ký Con.

Ông là một nhân vật quan trọng của Việt Nam quốc dân đảng. Ông đã từng giữ chức Trưởng ban Ám sát, chính ông đã trừng trị một số tên mật thám Pháp và bọn phản bội. Có thời gian ông còn được phân công phụ trách việc in nội san "Hồn cách mạng" của đảng.

Trong quá trình hoạt động của Đoàn Trần Nghiệp (Ký Con), điển hình là vụ ông tổ chức ám sát tên phản bội Nguyễn Văn Kính. Sự việc như sau:

Sau vụ ám sát tên trùm mộ phu Ba-danh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh.

Chủ tịch Việt Nam quốc dân đảng Nguyễn Thái Học vẫn đi lại khắp các nơi ở Bắc Kỳ để cùng các đồng chí hoạt động xúc tiến công việc khởi nghĩa là thời kỳ thứ hai đã ấn định trong chương trình hành động.

Sở mật thám biết rõ Nguyễn Thái Học là một nhân vật cực kỳ quan trọng, cần phải lùng bắt kỳ được nên đã in hàng chục vạn tấm ảnh Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu phát khắp mọi nơi cốt để lùng bắt hai ông. Ngoài ra nhà đương cục còn treo giải thưởng và hứa tặng phẩm hàm cho những người nào bắt được hai nhà lãnh tụ ấy.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 11:13:02 pm

Để đánh lừa sở mật thám, Nguyễn Thái Học cho người phao tin lên rằng ông đã trốn sang Tàu. Ông liền làm một bức thư giả dùng chữ quốc ngữ mới mà Việt kiều ở Vân Nam thường dùng, đưa đánh máy cẩn thận, rồi ông trao cho Nguyễn Văn Kính đem từ mạn biên giới về. Ông dặn Kính phải làm một việc gì mạo hiểm ở giữa đường để sở mật thám bắt Kính và lục lấy thư ấy. Bức thư ấy đề địa chỉ tại Quảng Châu ngày 25 tháng 4 năm 1929 và toàn là giọng của anh Học ở hải ngoại gửi về cho các đồng chí trong nước.

Mục đích của Nguyễn Thái Học cốt làm ra thế để cho việc theo dõi và lùng bắt mình bớt đi mà dễ bề hành động. Nhưng không ngờ việc xảy ra lại trái với ý định của ông. Quả nhiên khi Kính giắt lá thư ấy trong người đi từ mạn biên giới về, sở mật thám bắt được Kính, khám người thấy bức thư ấy, họ giải Kính về Hà Nội.

Viên cai trị Bờ-rít, chủ tịch hội đồng đề hình dùng mọi cách dọa nạt, rồi lại dỗ dành làm cho Kính không thể giấu hết sự thực, đem nói rõ cả mọi việc ra. Kính còn muốn tâng công thêm, tố giác tất cả những chỗ ông Học thường hay đi lại thành ra làm liên lụy cho bao nhiêu người. Do đó ông Học nhiều lần bị bắt hụt. Ngoài ra các cơ quan bí mật của đảng cũng bị Nguyễn Văn Kính tố giác.

Xét tội trạng của Kính đã mưu phản đảng, nên tòa án cách mạng do ông Nguyễn Khắc Nhu tức Xứ Nhu chủ tọa tuyên án xử tử hình Kính. Việc thi hành bản án ấy trao cho Ký Con tức Đoàn Trần Nghiệp, Trưởng ban Ám sát của đảng.

Tháng 10 năm 1929, Ký Con giao cho Trần Đức Chính dụ dỗ Kính đến một nơi để hạ sát, vì Kính vẫn không ngờ Chính có dự vào Ban Ám sát. Chính giả vờ rủ Kính đi hát rồi đưa nhau vào vườn hoa Bách Thảo ngồi trên chiếc ghế xi măng nói chuyện như để chờ các bạn khác. Ký Con đi tới chĩa súng bắn trúng thái dương Kính, Kính ngã vật xuống đất. Chính cầm dao găm chuôi có lót giấy đâm tiếp một nhát vào ngực tên Kính, con dao vẫn để cắm ngập trong tim, nên không có vết máu bắn ra ngoài.

Khi xảy ra vụ ám sát này, sở mật thám chính trị lùng bắt rất nhiều người. Người bị bắt đầu tiên là Nguyễn Đức Lung trước cũng có làm việc trong Việt Nam khách sạn với Kính. Rồi căn nhà riêng của ông Trúc Khê ở làng Thị Cầm, tổng Canh Diễn, phủ Hoài Đức cũng bị khám xét mấy lần và ông cũng bị đòi hỏi đối chất với Lung. Mãi đến sau này người ta mới biết rõ Ký Con là Trưởng ban Ám sát đã giết Kính. Nhưng hình như sở mật thám không biết rõ mặt Ký Con và có lẽ cũng không có hình ảnh nên việc lùng bắt Ký Con đã làm náo động khắp mọi nơi và để xảy ra nhiều chuyện tức cười.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Ba, 2017, 11:13:19 pm

Hồi 5 giờ sáng ngày 23 tháng 10 năm 1929, chánh tổng, lý trưởng, lính cơ phủ Hoài Đức cùng tuần phiên vác dao quắm, gậy gộc vào vây nhà ông Trúc Khê ở làng Canh để vây bắt Ký Con. Kỳ thực họ chẳng biết mặt Ký Con thế nào. Chỉ một cách mượn cớ quấy nhiễu.

Tại Hà Nội có một người chủ một hiệu ảnh ở Bờ Hồ ngày nào ai qua hiệu ấy cũng thấy rõ ông ta thế mà ông ấy cũng bị bắt vì tình nghi là Ký Con. Thì ra có kẻ tả hình dáng và khổ mặt Ký Con rồi người ta cứ chiếu theo đó mà bắt. May mắn cho ông chủ hiệu ấy có khổ mặt vuông vắn hơi giống Ký Con nhưng chỉ khác ở chỗ không có cái sẹo cổ, nên sau khi nhận diện được tha về. Nhưng tai hại nhất là một người làm việc tại Viêng Chăn - Lào bị bắt, bị trói, bị đánh rồi bị giải từ Lào về Hà Nội khi đối chất không phải là Ký Con nên được thả ra, nhưng không được đưa về nơi làm việc mà ông ta lại không có bà con thân thích gì ở Hà Nội nên phải đi "quyên giáo" lấy tiền trở về Viêng Chăn. Đến nơi ông ta lại bị mất việc vì chủ Tây cho ông ta là một người cách mạng.

Trong kế hoạch khởi nghĩa tháng 2 năm 1930, Đoàn Trần Nghiệp được phân công phụ trách việc điều động đội quân cảm tử tấn công vào một số vị trí quan trọng trong thành phố Hà Nội như: sở mật thám, nhà tù Hỏa Lò, cục cảnh sát, sở hiến binh để gây rối loạn cho địch, khiến quân đội Pháp không thể tập trung lực lượng, không gửi được viện binh đi các nơi để đàn áp.

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Đoàn Trần Nghiệp sa vào tay giặc ngày 8 tháng 5 năm 1930 tại Nam Định. Ông bị hội đồng đề hình của Pháp kết án tử hình cùng với 11 chiến sĩ khác của Việt Nam quốc dân đảng. Ngày 9 tháng 3 năm 1931 Đoàn Trần Nghiệp đã bị hành hình tại phố Hỏa Lò, trước cửa đề lao Hà Nội cùng với ba đồng chí khác.

Ngày nay tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác có đường phố mang tên Đoàn Trần Nghiệp (Ký Con).


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:26:16 pm

Câu hỏi 25: Hãy nêu tên các nhà lãnh đạo và nghĩa quân Việt Nam quốc dân đảng tham gia cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp bắt và sát hại tại Yên Bái, những hành động anh dũng bất khuất của họ?
Trả lời:


Sau khi bắt được một số nhà lãnh đạo và nghĩa quân Việt Nam quốc dân đảng tham gia cuộc khởi nghĩa, thực dân Pháp đã lập một hội đồng đề hình để xét xử. Rất nhiều đảng viên Việt Nam quốc dân đảng bị tù chung thân khổ sai, số còn lại bị hành hình tại Yên Bái như sau:

Ngày 8 tháng 5 năm 1930, Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiếp, Nguyễn Thanh Thuyết, Ngô Hải Hoằng bị xử chém.

Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị xử chém tại Yên Bái là: Phó Đức Chính, Bùi Tư Toàn, Bùi Vân Chuẩn, Nguyễn Văn An, Hà Văn Lao, Đào Văn Nhít, Ngô Văn Du, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Đỗ Văn Tư, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên.

Với cách hành hình như thời trung cổ, máy chém được người Pháp mang từ nhà ngục Hỏa Lò lên Yên Bái. Cai Công - một tên có thâm niên trong nghề đao phủ sẽ bấm lẫy cho dao rơi xuống tự do. Cái máy chém tựa như bẫy thú, lưỡi dao giương lên người nằm ngang bị khóa gông vào cổ, chỉ một nhát thôi là đầu văng khỏi thân mình. Cả hai lần hành hình tại Yên Bái (ngày 8-5 và ngày 17-6-1930), thời gian các chiến sĩ bước lên đoạn đầu đài đều vào lúc 5 giờ 30 phút sáng. Cảm phục trước khí phách hiên ngang, coi thường cái chết của các tử tù, đao phủ Cai Công đến bên Nguyễn Thái Học nói:

- Tôi xin được vái sống ông! Các ông chết trẻ xá tội cho những kẻ lầm đường.

Nguyễn Thái Học trả lời:

- Chúng tôi chỉ mong ông sau về giải nghệ sống làm người lương thiện, có thế thôi!


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:28:27 pm

Nhà thơ Ngọc Bái, trong trường ca "Lời cất lên từ đất” (Nxb Quân đội nhân dân, H. 2000), có đoạn viết về thời khắc này như sau:

      "Năm giờ ba mươi
      lần lượt các anh bước ra pháp trường
      người chiến bại dáng đi điềm tĩnh lạ
      Có bài thơ Chiêu hồn nước khóc các anh
      Có bài ca Gương thành bại khóc các anh
      kìa, các anh đấy
      Nguyễn Như Liên thoáng như cười
      Hà Văn Lao gật đầu vĩnh biệt
      Bùi Văn Cửu lặng lẽ nhìn trời
      Đỗ Văn Tư mắt trừng sáng quắc
      Nguyễn Văn Tiềm dằn lên tiếng xích
      Nguyễn Văn Thịnh thẳng bước ung dung
      Ngô Văn Du ngẩng cao đầu thách thức
      Bùi Văn Chuẩn bật lên tiếng thét
      Đào Văn Nhít ngoái dặn các con
      Nguyễn Văn An giơ bàn tay vẫy
      Bùi Tư Toàn thản nhiên hút thuốc
      Phó Đức Chính vang ngân khúc hát
      Nguyễn Thái Học sang sảng đọc thơ
      tên các anh đất đá khắc ghi
      tiếng các anh hô "Việt Nam vạn tuế!"
      vọng theo sông
      vọng theo núi
      vang rền
      máu các anh vọt lên đỏ thắm dưới mặt trời
      lặn vào đất nuôi lời ca trong đất
      sinh ở mọi miền quê
      chết ở một quê
      chung một hố cùng chung ấm lạnh
      hồn lẫn với cỏ cây mây gió đi về



            LỜI CỦA NƯỚC

      Tinh khôi cây cỏ đất này
      xanh non mà đã dạn dày nắng mưa
      phù sa mát tự ngàn xưa
      trẻ trung bồi đắp như vừa dâng lên
      người đi gửi lại tuổi tên
      bền lâu xương máu lâu bền đất đai".


Sau khi hành quyết các nghĩa quân tại Yên Bái, Pháp cho chôn chung một mộ tại thị xã Yên Bái, cách ga xe lửa khoảng một cây số và cho lính canh giữ đến cuối năm 1930.

Năm 1945 khu mộ phần được trùng tu cho cả 17 liệt sĩ bị chém tại đây và lập đền thờ kỷ niệm.

Ngày nay, để tỏ lòng biết ơn, tưởng niệm các nghĩa sĩ đã hy sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ trẻ, chính quyền tỉnh Yên Bái đã tôn tạo xây dựng khu di tích Nguyễn Thái Học và khởi nghĩa Yên Bái với các hạng mục chính như: Khu Lăng mộ, Tượng đài, Nhà bia... trong khuôn viên của công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Khu di tích Nguyễn Thái Học và khởi nghĩa Yên Bái đã được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:30:09 pm

Câu hỏi 26: Hãy cho biết nội dung bài văn tế các liệt sĩ Việt Nam quốc dân đảng do cụ Phan Bội Châu viết, học sinh Huế đọc trong buổi lễ truy điệu năm 1930?
Trả lời:


Cụ Phan Bội Châu (1867-1940) tên cũ là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà Nho nghèo.

Ngay từ nhỏ, Phan Bội Châu đã nổi tiếng thông minh, 8 tuổi đã thông thạo các loại văn cử tử, 13 tuổi đi thi ở huyện, đỗ đầu, 16 tuổi đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là Đầu Xứ San.

Điểm nổi bật, đặc sắc nhất của Phan Bội Châu là sớm có tinh thần yêu nước. Năm 1904, cùng bạn bè đồng chí, Phan Bội Châu lập hội Duy Tân chủ trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, lập ra chính phủ độc lập.

Đầu năm 1905, Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào Đông Du, từ năm 1905-1908 ông đã tổ chức cho gần 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập để về cứu nước sau này.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:33:31 pm

Tháng 3 năm 1909, tổ chức Đông Du bị giải tán. Phan Bội Châu bị chính phủ Nhật trục xuất phải về ẩn náu ở Trung Quốc, rồi sang Thái Lan để tính kế lâu dài. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công, Phan Bội Châu trở lại Trung Quốc tập hợp số anh em còn lại, tuyên bố giải tán Duy Tân hội, thành lập Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ duy nhất: "Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam". Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, cụ Phan Bội Châu đã viết bài văn tế các liệt sĩ Việt Nam quốc dân đảng trong lễ truy điệu do học sinh Huế tổ chức như sau:


            VĂN TẾ CÁC TIÊN LIỆT VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG1

      Gươm ba thước chọc trời kinh, chớp cháy; này Lâm Thao, này Yên Bái, này Vĩnh Bảo, khí phục thù hơi thở một tầng mây!

      Súng liên thanh vang đất thụt, non reo; nào chủ đồn, nào sếp cẩm, nào quan binh, ma hút máu người bay theo ngọn gió!

      Trách nông nỗi trời còn xoay tít, trước cờ binh sao quay gió cản ngăn.
      Tiếc sự cơ ai quá lờ mờ, dưới trướng giặc bấy nhiêu tay len lỏi.
      Ma cường quyền đắc thế sinh hùng uy,
      Thần công lý bó tay nghe tử tội.
      Ôi thôi! Mù thảm mây sầu,
      Gió cuồng mưa vội,
      Cửa quỷ thênh thang!
      Đường trời vòi vọi!
      Nhân nhân chí sĩ, sát thân vào luật dã man,
      Nữ kiệt anh hùng, thất thế đang hồi đen rủi.

      Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất ư vị tiệp, non gánh nặng hãy trìu trìu,

      Đoạn đầu đài sau sau trước trước bước thung dung, gớm gan thị tử như quy, mặc cây cỏ máu tươi thêm chói chói.

      Tuy kim cổ hữu hình thì hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuồn cuộn, bóng rồng thiêng đành ông Học xa xôi.

      Nhưng sơn hà còn phách ắt còn linh, voi nàng Triệu, ngựa nàng Trưng, khí mạnh nhơn nhơn, hình hạc gió hãy cô Giang theo đuổi.

      Đoàn trẻ chúng tôi nay:
      Tiếc nước còn đau,
      Nghĩ mình càng tủi,
      Nghĩa lớn khôn quên,
      Đường xa dặm mỏi.

      Dây nô lệ quyết rày mai cắt đứt, anh linh thời ủng hộ, mở rộng đường công nhảy, bằng bay.

      Bể lao lung đua thế giới vẫy vùng, nhân đạo muốn hoàn toàn, phải ráng sức rồng giành, cọp chọi.

      Đông đủ người năm bộ lớn, đốt hương nồng, pha máu nóng,

      Ước ao trong mấy nhiêu niên, rung chuông bạc, múa cờ hồng, tiếng vạn tuế càng hô càng trỗi.

      Tình khôn xiết nói,
      Hồn xin chứng cho.
      Thượng hưởng!

                                                         Phan Bội Châu trước tác,
                                                               Học sinh Huế truy điệu
                                                                                 (1930)

_______________________________________
1. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 8, Nxb Thuận Hóa, 2001, tr. 497,498.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:34:27 pm

Câu hỏi 27: Nêu tóm tắt nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Yên Bái?
Trả lời:


Từ ngày 9 tháng 2 đến ngày 15 tháng 2 năm 1930, Việt Nam quốc dân đảng đã lần lượt tiến hành khởi nghĩa vũ trang tại một số tỉnh ở Bắc Kỳ, lịch sử vẫn quen gọi chung là khởi nghĩa Yên Bái. Cuộc tổng khởi nghĩa không thể nổ ra đồng loạt, có nhiều nơi không tiến hành được hoặc có nổ ra nhưng đều bị đàn áp nhanh chóng. Sau khởi nghĩa Yên Bái, kẻ thù đã tiến hành chiến dịch khủng bố rất dã man, truy sát các đảng viên và triệt phá cơ sở đảng.

Khởi nghĩa Yên Bái thất bại kéo theo sự tan rã của Việt Nam quốc dân đảng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.

Về nguyên nhân khách quan, lúc bấy giờ kẻ thù vẫn còn mạnh mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng chưa nghiêm trọng, chưa đủ sức làm suy yếu hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Thực dân Pháp vẫn còn đủ sức đàn áp một cuộc đấu tranh vũ trang vừa cô độc vừa non kém như khởi nghĩa Yên Bái.

Về chủ quan, Việt Nam quốc dân đảng không có chủ trương thống nhất, phù hợp với tình hình lực lượng của mình, nội bộ còn bị chia rẽ, không được quần chúng hưởng ứng tham gia. Nói cách khác, sự thất bại của Việt Nam quốc dân đảng là do cương lĩnh chính trị quá nghèo nàn, không đủ sức lôi cuốn quần chúng để xốc lên một phong trào dân chủ rộng lớn, do tổ chức của đảng còn lỏng lẻo, do sự nôn nóng của những người lãnh đạo, v.v... Phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng tư sản dưới ngọn cờ của Việt Nam quốc dân đảng đã không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, không đủ sức vượt qua sự đàn áp khủng bố của kẻ thù để tồn tại. Vai trò lịch sử của Việt Nam quốc dân đảng trong phong trào dân tộc vừa mới xuất hiện đã tan rã và chấm dứt với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.

Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:36:06 pm

Mặc dù thất bại, nhưng hoạt động yêu nước và tấm gương hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái là sự nối tiếp truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nó thể hiện tinh thần phản kháng dân tộc quyết liệt của một bộ phận tiên tiến trong giai cấp tư sản dân tộc và tầng lớp tiểu tư sản chống lại ách áp bức của đế quốc Pháp. Nhiều chiến sĩ yêu nước chân chính của tổ chức này sau đó đã gia nhập vào sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã góp phần cổ vũ nhân dân trong phong trào kháng Pháp, đã hâm nóng được lòng yêu nước của các tầng lớp thanh niên Việt Nam để họ có thể tiếp tục bước lên con đường tranh đấu. Cũng chính trong thời kỳ đó, các du học sinh và Việt kiều ở Pháp đã bừng tỉnh và đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình ủng hộ cuộc khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng. Đặc biệt là nhiều nhà báo, nhà văn Pháp đã ca tụng các chiến sĩ cách mạng thời kỳ này. Nhà thơ cộng sản Pháp Lu-it A-ra-gông đã cất lên những lời da diết, rằng: "Yên Bái, đây là cái từ nhắc nhở ta rằng không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm cong của đao phủ...", "Yên Bái, gửi tới các bạn da vàng lời nguyền này để mỗi giọt cuộc sống các bạn sẽ tràn máu của một tên Va-ren"1. Chính vì cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra mà về sau này thực dân Pháp đã từng bước phải đề ra việc cải cách chính trị ở Đông Dương. Chủ trương binh vận mà Việt Nam quốc dân đảng đề ra ở thời kỳ này thực tế là một bài học cho các phong trào cách mạng tiếp theo. Những khuyết, nhược điểm của phong trào, sự sơ hở trong việc huấn luyện và kết nạp đảng viên, sự thiếu cảnh giác để những tên phản đảng làm hại đảng, những manh động có liên quan đến việc ám sát, tống tiền, đặc biệt là sự phát động vũ trang khởi nghĩa trong điều kiện chủ quan và khách quan chưa được chín muồi... đều là những bài học để các phong trào cách mạng tiếp theo nghiên cứu, rút kinh nghiệm.

Sau này, cũng có người lên tiếng chỉ trích khẩu hiệu "Không thành công cũng thành nhân" của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu đề ra (Thực ra khẩu hiệu này bắt nguồn từ câu “Sát thân thành nhân” trong kinh điển Nho giáo). Người ta cho rằng khẩu hiệu này có tính chất không đúng đắn vì nặng về chủ nghĩa cá nhân. Thực ra chữ "nhân” trong chữ Nho "Sát thân thành nhân" có nghĩa là điều nhân nghĩa, điều có ích. Vậy thì không thành công nhưng vẫn làm được điều nhân, điều có ích thì có gì là sai. Rõ ràng đây là cái chết cho độc lập, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp từ thời Cần Vương cho tới các phong trào khởi nghĩa khác thuộc nhiều xu hướng trước Cách mạng tháng Tám đều không thành công, nhưng đều có ích vì đem lại nhiều bài học thiết thực cho các cuộc khởi nghĩa nối tiếp.

Tất cả các cuộc khởi nghĩa đó nói lên ý chí bất khuất của cả một dân tộc, và các cuộc khởi nghĩa sau đều không ít thì nhiều rút được kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa trước. Và người ta có thể nói cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 chính vì rút được đầy đủ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa không thành công trước đó nên giành được thắng lợi vang dội và toàn diện.

Để tưởng nhớ hương hồn các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm 1930, nhà thơ Ngọc Bái đã viết trong Trường ca "Lời cất lên từ đất:

"Lòng yêu nước không bao giờ cũ
là hành trang nặng gánh của thời gian...
lịch sử đã qua
như dấu mực nằm khô trên trang giấy
không phải để khắc mối hận thù
mà để đừng bao giờ lặp lại nỗi đau quá khứ
và, lòng yêu nước không bao giờ cũ
xin chép lại đây để nhớ một thời..."

"Và, trên đất nước mình nhớ về một thuở, đã đặt tên cho những con đường, những con đường mang linh hồn bất tử, những con đường đi vào lịch sử, nhắn nhủ người không quên...".

_________________________________
1. Báo Front, Rouge 6-1930, dẫn theo "Lời cất lên từ đất", Nxb Quân đội nhân dân, H. 2000, tr. 81.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Ba, 2017, 01:36:57 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, tập V, Nxb Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1958.
- GS Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, tái bản lần thứ mười, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
- Bạch Diện, Nguyễn Thái Học và Việt Nam quốc dân đảng, Nxb Ngày mai, Hà Nội, 1950.
- "Nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu”, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1993.
- "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái - Tập I", Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái, 1996.
- "Lịch sử Đảng bộ thị xã Yên Bái, Tập I”, Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Yên Bái, 1988.
- Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 8, Nxb Thuận Hóa - Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001.
- Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Việt Nam - các nhân vật lịch sử - văn hóa, Cục bảo vệ an ninh nội bộ và văn hóa tư tưởng - Bộ Công an, Hà Nội, 2008.
- Ngọc Bái, Lời cất lên từ đất, Trường ca, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.

Hết