Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:49:08 pm



Tiêu đề: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:49:08 pm
     
        - Tên sách: Trung tướng Nguyễn Bình
        - Tác giả : Nguyễn Thế Trường
        - NXB: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2001
        - Số hóa : hoi_ls

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/Bia%20trung-tuong-nguyen-binh_zpsh1pxvznz.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/VN_NguyenBinh_05_TrungTuong_zpso9twgtuj.jpg)
Trung tướng Nguyễn Bình (1906 - 1951)

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

        Nguyễn Bình, một trong những người lãnh đạo Chiến khu Trần Hưng Đạo, Khu trưởng chiến khu miền duyên hải Bắc Bộ, Tư lệnh Nam Bộ, được phong Trung tướng năm 1948, lúc đồng chí 40 tuổi. Nguyễn Bình là người chỉ huy quân sự có tài, dũng cảm, quyết đoán.

        Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là một tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội và thanh niên ta học tập noi theo.

        Do những công lao to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đồng chí là người đầu tiên của quân đội ta được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất. Và đặc biệt năm 2000, đồng chí đã được Đảng, Nhà nước quyết định truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

        Trong những năm trước đây nhiều sách báo của ta cũng như của phương Tây đã viết về Nguyễn Bình. Nhìn chung các bài viết ấy, bài thì nói rõ thời kỳ ông hoạt động ở miền Bắc, sơ lược phần Nam Bộ; bài thì viết rõ thời kỳ ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, sơ lược phần miền Bắc. Những sách, báo ấy đã viết đúng những công lao, thành tích của Nguyễn Bình, đã ca ngợi đồng chí là một vị tướng tài, dũng cảm. Riêng phần tiểu sử thì các sách, báo đều chưa nêu được đầy đủ.

        Thể theo yêu cầu của nhiều người, nhất là các bạn chiến đâu ở Chiến khu Trần Hưng Đạo, biệt động Sài Gòn, cần có một công trình viết tương đối đầy đủ và đúng đắn về thân thế và sự nghiệp của đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình, ông Nguyễn Thế Trường là cháu ruột của đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình đã cố gắng sưu tầm, tập hợp những tư liệu lịch sử về “chú Ba Thảo” - tức Ba Bình, thành tập sách "Trung tướng Nguyễn Bình".

        Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng vì điều kiện và trình độ có hạn nên dẫu có nhiều tư liệu mới, thì tập sách này vẫn còn có nhiều điều cần bổ sung.

        Trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập sách nhỏ này và mong nhận được ý kiến phê bình, góp thêm tư liệu lịch sử về Nguyễn Bình.

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN        


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:51:46 pm

LỜI NÓI ĐẦU

        Tháng 5 năm 1987, lần đầu tiên vào thăm Thành phố  Hồ Chí Minh với mục đích viếng mộ và sưu tầm kỷ vật của chú tôi : ông Ba Thảo - tức Nguyễn Bình. Hồi ấy mộ ông còn là nấm đất, mới có hàng gạch chỉ xây viền quanh, trên có tấm bia ghi sai địa chỉ quê quán ở nghĩa trang Thủ Đức.

        Viếng mộ xong, tôi ghé thăm bà Hoàng Thị Thanh (vợ Trung tướng Nguyễn Bình) ở phố Lý Tự Trọng. May mắn làm sao tôi được gặp nhà văn Nguyên Hùng (tác giả tập sách Người Bình Xuyên ở đó. Gặp tôi, nhà văn mừng lắm vì biết tôi là cháu ruột “anh Ba Bình”, và tôi cũng rất mừng vì cuộc gặp nhà văn tôi hằng ngưỡng mộ. Hai chúng tôi chuyện trò rất tâm đắc vì tôi thì muốn biết nhiều chuyện về chú Ba Thảo ở miền Nam còn nhà văn thì muốn biết tiểu sử "anh Ba Bình" và những chuyện về ông ở ngoài Bắc. Lúc chia tay, nhà văn bảo tôi : “Anh cố gắng viết tiểu sử “anh Ba” để đáp ứng nguyện vọng của nhiều người ngưỡng mộ và nhất là những người đồng chí, đồng đội của anh “Ba Bình”.

        Biết rằng viết về thân thế, sự nghiệp của Trung tướng Nguyễn Bình là rất khó. Vì ông luôn sống một cuộc đời trôi nổi từ lúc còn ít tuổi, những người đương thời với ông thì đến nay trong họ, ngoài làng chẳng còn ai. Vả lại khả năng viết lách của tôi cũng rất hạn chế.

        Biết vậy, nhưng được sự động viên, thúc giục của nhiều người, đặc biệt là nhà văn Nguyên Hùng, và ý thức về người chú của mình - một con người của lịch sử, tôi quyết tâm sưu tầm tư liệu để hy vọng hoàn chỉnh một tập sách nhỏ về ông.

        Tôi đem chuyện này về bàn với ông Nguyễn Hoàn Long (tức Hùng Phong) bạn chiến đấu của chú tôi từ hồi còn ở Chiến khu Trần Hưng Đạo, vì ông trước đây đã làm nghề dạy học, ông đã vui vẻ góp ý và cung cấp thêm tư liệu, góp phần tạo nên tập sách này.

        Nhiều năm gần đây (1991-1998) sách báo đã có nhiều bài giới thiệu ghi nhận công lao của Trung tướng Nguyễn Bình. Năm 1999, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam đã đúc tượng đồng Trung tướng Nguyễn Bình. Nhờ có sự ưu ái giúp đỡ của những bạn chiến đấu của chú tôi trên cả hai miền đất nước, tôi đã thu thập được nhiều lư liệu nói và viết về ông.

        Đặc biệt trong bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Bộ Chỉ huy quân sự Hải Phòng ngày 28 tháng 5 năm 1998, nhờ chuyển đến cuộc họp mặt kỷ niệm 53 năm ngày thành lập Đệ tứ chiến khu Trần Hưng Đạo và 90 năm ngày sinh cố Trung tướng Nguyễn Bình, có đoạn viết : “Tôi cũng mong các đồng chí tập hợp được những tư liệu lịch sử về Trung tướng Nguyễn Bình - người đã có cống hiến xứng đáng không những với Chiến khu mà về sau này với cuộc kháng chiến Nam Bộ trên cương vị Tư lệnh chiến trường Nam Bộ...”, đã thúc giục tôi phải cố gắng nghiên cứu nhũng tư liệu đã có, rồi sao chép, trích dẫn tổng hợp lại cho có hệ thống, tạo nên cuốn sách nhỏ này để người đọc hiểu rõ hơn, chính xác hơn về thân thế và sự nghiệp của liệt sĩ - Anh hùng Nguyễn Phương Thảo tức Trung tướng Nguyễn Bình.

        Dù chỉ là người sao chép, trích dẫn nhưng vì trình độ hạn chế nên chắc chắn không sao tránh khỏi thiếu sót. Kính mong được người đọc lượng thứ và góp ý kiến phê bình. Nhân đây, xin cám ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Duy Tường đã giúp tôi hoàn chỉnh tập sách này.

Tác giả       


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Hai, 2017, 10:53:32 pm
       
PHẦN I

QUÊ HƯƠNG, GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG THÁNG NGÀY XÂY DỰNG ĐỆ TỨ CHIẾN KHU, CHIẾN ĐẤU TRÊN CHIẾN TRƯỜNG DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC

        Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1908 (Mậu Thân) tại làng Bần An Phú, tổng An Phú, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn An Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) trong một gia đình nông dân. Cụ tổ tám - chín đời của ông là một vị khoa bảng. Cha là Nguyễn Thế Pho, hồi còn trẻ làm công nhân Nhà máy Xi măng Hải Phòng rồi chuyển sang làm cai thầu cho Sở Vệ sinh thành phố. Mẹ là Ngô Thị Long, người làng Hà Nhuận, huyện An Dương, tỉnh Kiến An. Hai người kết hôn rồi về quê làm ruộng, sinh được năm người con (bốn trai, một gái). Nguyễn Phương Thảo là con trai thứ ba, nên người làng gọi là Ba Thảo.

        Theo những tư liệu biết được khoảng thế kỷ 10 - 13, vùng đất Giai Phạm, Yên Mỹ, Hưng Yên ngày nay còn giáp sông, giáp biển. Dân tứ xứ về đây lập ấp khẩn hoang, thường gọi là dân trại, dân nghịch. Cụm dân cư này gồm bảy làng Bần : nên gọi là Tổng Bần. Về sau triều đình phong kiến đặt tên các làng đều bắt đầu bằng chữ "An" - với ý ngụ là "yên" - yên dân nghịch. Bởi vậy, dân chúng quen gọi là "yên". Bần An phú gọi là Bần Yên Phú. Nơi đây đã sinh ra một số nhân vật. danh nhân lịch sử tiêu biểu, như : Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật - thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, chống thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19. Bần Yên phú cũng là quê hương của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm - nổi danh tài sắc một thời - tác giả dịch cuốn thơ "Chinh phụ ngâm khúc" của Đặng Trần Côn từ chữ Hán sang chữ Nôm.

        Quê hương với hết thảy những nét đẹp của văn hóa và truyền thống chống ngoại xâm đã thổi vào tâm hồn thơ trẻ của Nguyễn Phương Thảo những tình cảm tốt.

*

*        *

        Năm 1919 mới 11 tuổi, Ba Thảo đã theo anh ruột là Nguyễn Thế Nức về ở phố Cát Cụt thành phố Hải Phòng. Ông Nức là viên chức nhà Dây thép (Bưu điện) và là một trí thức yêu nước. Ông đã tham gia sáng lập “Hội Dục Anh" và "Hội Trí Tri" nhằm vận động và giúp đỡ những người có tài năng đi học trong nước và nước ngoài để đào tạo nhân tài cho đất nước thời kỳ đó. Ông tham gia Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu.

        Hồi nhỏ, Ba Thảo thông minh, ham học, thích luyện tập võ nghệ. Bản tính trung thực, thẳng thắn. Bà Nguyễn Thị Kỷ (nay đã 80 tuổi) con gái ông Nức cho biết : Khi gia đình chuyển về Hải Phòng, cả hai chú cháu đều được đi học. Và chú đã học hết Thành chung năm thứ hai (2ème année). Chú Ba rất ham mê đá bóng, nhất là sau buổi học chiều thường đi đá bóng nên về nhà rất muộn. Có lần trong một trận đá bóng, không kìm nén nổi sự gây gổ của một học sinh người Pháp, chú Ba đã cùng bè bạn đánh trọng thương học sinh này, nên bị đuổi học.

        Do ảnh hưởng của người anh ruột, Ba Thảo sớm tham gia phong trào yêu nước. Do có quan hệ bạn bè rộng rãi, ông thường hoạt động trong giới thanh niên và học sinh. Năm 1925, ông đã từng tham gia tổ chức học sinh Trường kỹ nghệ Hải Phòng bãi khóa để phản đối chế độ hà khắc của thực dân Pháp. Năm 1926, ông tham gia lãnh đạo học sinh làm lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh tại Dư Hàng Kênh (Báo Hải phòng chủ nhật số 39 ngày 24-9-1995). Sau khi bị đuổi học, ông ở nhà làm thợ giặt rồi làm công nhân tàu biển D'Artagnan của hãng Métsagiơri Maritim (Messageries Maritimes) còn gọi là hãng Đầu Ngựa.

        Năm 1922, theo tục lệ cổ, các cụ gọi ông về quê cưới vợ. Vợ ông là bà Ngô Thị Cậy, sinh năm 1909, người làng An Lạc (nay là xã Lạc Hồng, huyện Yên Mỹ) và là cháu nội cụ Ngô Quang Huy - đồng lãnh đạo nghĩa quân Bãi Sậy với cụ Tán Thuật. Bà là người con gái nết na, xinh đẹp.

        Sau khi cưới vợ, Ba Thảo vẫn tiếp tục sống cuộc đời lênh đênh nay đây mai đó trên tàu biển. Nhiều lần tàu Đáctanhăng (D'Artagnan) cặp cảng Sài Gòn ăn hàng hoặc sửa chửa phải đậu lại nhiều ngày, Ba Thảo lại có dịp lên bờ chơi bời kết bạn. Do đó đã làm quen với nhà văn giang hồ kỳ hiệp Sơn Vương (tên thật là Trương Văn Thoại) và nhiều tay giang hồ hảo hán Bình Xuyên. Ông thích đi ngao du tìm hiểu tình hình thành phố, tìm hiểu phong tục tập quán và đời sống của nhân dân trên mảnh đất phương Nam. Do đó tầm nhìn ngày càng mở rộng. Năm 1928, Ba Thảo tham gia Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Lúc này Quốc dân đảng còn là một Đảng tiến bộ hoạt động chống Pháp xâm lược.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 06:07:50 am
      
        Năm 1929, ông bị dịch bắt. Bà Cậy cho biết : Ba Thảo bị bắt ở Mác-xây. Thực dân Pháp đưa ông về Sài Gòn, bị Tòa đề hình Sài gòn kết án 5 năm tù đày ra Côn Đảo.

        Trong thời gian bị đi đày, ông đã nhiều lần viết thư về khuyên bà đi lấy chồng khác, vì đời ông trôi nổi vất vả chưa biết sau ra sao. Bố mẹ chồng cũng bảo : "Mẹ Ba ! Chồng mày viết thư về bảo không biết sống chết thế nào, mà mày còn trẻ, nó cho mày về đi chồng khác, mày nghĩ sao?”. Bà Cậy đáp : "Con đi lấy chồng, chỉ biết thờ cha mẹ chồng, cha mẹ thương con phần nào, con được nhờ phần ấy, con không đi đâu cả". Bà vẫn tiếp tục làm ruộng, phụng dưỡng cha mẹ chồng. Lúc thời vụ nông nhàn, bà còn chạy chợ buôn bán thêm rau quả.

        Hết hạn tù, từ năm 1935 đến 1937 ông bị quản thúc ở quê nhà. Ông vẫn khuyên bà như vậy, nhưng bà không nghe. Cực chẳng đã, ông phải vờ dùng hình thức nặng nề hơn : đuổi bà trở về nhà cha mẹ đẻ. Bà Cậy đã tái giá nhưng không có con và ít lâu sau người chồng này qua đời, bà ở vậy nuôi đứa con chồng. Từ ấy, bà vẫn đi lại thăm viếng gia đình Ba Thảo và thắp hương những ngày giỗ tết.

        Cụ Cậy càng già càng đẹp, đẹp như một bà tiên, tóc cụ bạc trắng dài tới khoeo chân, gương mặt rất thánh thiện.

        Trong những ngày cuối đời, khi nằm trên giường bệnh, cháu ruột Ba Thảo là Nguyễn Thế Cửu coi bà như mẹ, chăm chút từng ly cho đến khi bà quy tiên năm 1984.

        Sau khi lãnh án tù đi đày Côn Đảo, từ năm 1930  đến năm 1933, Ba Thảo bị đày ở đảo Hòn Cau - một đảo hoang nhỏ gần Côn Đảo. Ở đây tù nhân được tự do sinh sống, lao động sản xuất, có tàu định kỳ tiếp tế lương thực, nước uống từ Côn Đảo.

        Ông Dương Chính (tên thật là Phan Dương Chuyên) đảng viên Cộng sản năm 1930 bị Tòa đề hình Hải phòng kết án 15 năm tù cầm cố cũng bị đày ra đảo Hòn Cau, cho biết : "Cuối năm 1932 hoặc đầu năm 1933 có bảy tù Quốc dân đảng gồm : Nguyễn Phương Thảo, Phạm Tuấn Tài, Trần Huy Liệu, một đội khố đỏ và vài người nữa đã chặt cây đóng bè vượt biển nhưng gặp gió ngược, bè lại trôi về đảo Hòn Cau. Nguyễn Phương Thảo, Trần Huy Liệu... bị chuyển về Côn Đảo, bị phạt giảm ba tháng trong hầm xay lúa, rồi giam tại banh II...

        Ở đây Ba Thảo được tiếp xúc với những tù Cộng sản như: Nguyễn Văn Cừ, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt... Dần dần ông nhận thấy chỉ có những người Cộng sản mới có thể thành công trong việc lãnh đạo quần chúng lao động đánh đuổi thực dân, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Từ đó ý thức hệ quốc tế vô sản đã hình thành thay thế ý thức hệ quốc gia "Tam dân chủ nghĩa" ở trong ông. Cũng từ đó Ba Thảo tích cực tham gia đấu tranh và học tập theo tinh thẩn của những người Cộng sản. Ba Thảo có sáng kiến khoét tường, tạo thành những chỗ cất giấu tài liệu, sách báo..."1.

        Cũng do được tiếp xúc với những người tù Cộng sản mà dần dần đội ngũ tù nhân Quốc dân đảng có sự phân hóa sâu sắc : "Phái cực đoan đứng đầu là Đội Sơn, Nhượng Tống ra sức bảo vệ chủ nghĩa quốc gia thuần túy. Phái tả đại diện là Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo đã nghiêng hẳn về chủ nghĩa Cộng sản. Phái giữa mà đại diện là Phạm Tuấn Tài, Trần Huy Liệu thì say mê lý tưởng Cộng sản nhưng lại không nỡ để Quốc dân đảng chết”2. Nhiều người đã nghiêng hẳn về lập trường vô sản như các anh Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Đức Chính. Trần Huy Liệu... đứng hẳn vào hàng ngũ những người Cộng sản và tích cực tham gia hoạt động đấu tranh"3.

        Được giác ngộ chủ nghĩa Cộng sản, Nguyễn Phương Thảo quay lại chống trả khá quyết liệt những người tù Việt Nam Quốc dân đảng cực đoan. Có lần Trần Huy Liệu tranh luận với những người bảo thủ này về quốc gia và Cộng sản, đuối lý họ quay ra "luận chiến bằng gậy” xông vào đánh ông. Lập tức bóng đèn bị ném vỡ và một người lực lưỡng nhảy ra ôm anh Liệu đưa về phía sau. Người đó là Nguyễn Phương Thảo - một thanh niên cao to, khỏe mạnh và dũng cảm, thường lấy thân mình che chở cho anh em tù Cộng sản chống những đòn tiểu nhân của tù Quốc dân đảng xấu4.

        Do có sự phân hóa mâu thuẫn nội bộ ngày càng tăng dẫn đến các phe phái thanh trừng lẫn nhau. Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Trần Huy Liệu... đứng hàng đầu trong danh sách phải bị thanh trừng về tội phản đảng. Nhóm Quốc dân đảng cực đoan đã dùng dao cắt cổ Tưởng Dân Bảo và Trần Huy Liệu, may là được các bạn tù cứu thoát nên chỉ bị thương. Còn Nguyễn Phương Thảo chỉ bị đâm hỏng một mắt trái.

        Tuy hỏng một mắt, nhưng Ba Thảo lại thấy mình được sáng hơn trước, sáng hơn ở thuật đối nhân xử thế, sáng hơn ở thuật gạn đục khơi trong. Ba Thảo đã có ánh sáng của chính Đảng vô sản như ngọn đèn pha soi sáng con dường cứu nước mà ông lựa chọn.

--------------------
        1. Bài viết về Nguyễn Bình của Phùng Đức Thắng - Tạp chí Cộng sản số tháng 6-1991.

        2. Nhà tù Côn Đảo - Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.96.

        3. Nhà tù Côn Đảo - Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.112.

        4. Tư liệu của đồng chí Ngọc An.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 06:13:41 am

        Năm 1935, Ba Thảo được ra tù. Địch đưa ông về quản thúc tại quê nhà. Bất chấp sự quản thúc của chính quyền địa phương, Ba Thảo lại hăng hái hòa mình vào phong trào đấu tranh với một mềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Là một con người có khí phách bất khuất và ngang tàng, Ba Thảo không chịu đến huyện trình diện hàng tháng, viện lẽ đã bị quản thúc thì không đi đâu cả, nếu tri huyện muốn biết thì đến nhà. Thế là tri huyện đã phải nhiều lần đến nhà để gặp Ba Thảo. Vốn là người hào hiệp, tính tình cởi mở, chuyện trò có duyên và đầy tính thuyết phục, Ba Thảo đã quy tụ được nhiều thanh niên có chí khí đánh đuổi thực dân. Hàng ngày số thanh niên này đến nhà ông luyện tập võ nghệ, hò hát, bình phẩm thơ văn. Ba Thảo rất thích thơ và cũng có làm thơ. Trong cuốn sổ tay cũ còn ghi lại một bài thơ do ông sáng tác với tiêu đề ghi bằng tiếng Pháp: “Dans la paillotte - Trong lều tranh”. Toàn văn bài thơ như sau :

                                           Trong lều tranh
                                           Trong lều tranh một người thiếu phụ
                                           Ngồi bên đèn ru ngủ con thơ
                                           Đêm khuya đã quá ba giờ
                                           Mắt nàng đăm đắm như chờ đợi ai
                                           Gió giận dữ thét ngoài khung cửa
                                           Tiếng nhát gừng chó sủa xa xa
                                           Kêu đêm tiếng cú bay qua
                                           Dường như tiếng quỷ, tiếng ma gọi người
                                           Đám mây đen đầy trời u ám
                                           Kéo cơn mưa ảm đạm nặng nề
                                           Âm thầm trời đất ủ ê
                                           Sấm ran tứ phía càng ghê sởn lòng
                                           Nàng mong ngóng tin chồng đi mãi
                                           Nay chưa về hay lại làm sao?
                                           Trong lòng càng nghĩ càng nao
                                           Bên ngoài tiếng gió vẫn gào gọi mưa
                                           Nhà đổ nát, rào thưa trống trải
                                           Gió bão này lo ngại thâu canh
                                           Mưa rào trút nước mái tranh
                                           Ôm con bên ngọn đèn xanh hãi hùng
                                           Tiếng sét nổ đùng đùng dữ dội
                                           Như tiếng gầm muôn đội thiên binh
                                           Ôm con cho khỏi giật mình
                                           Trong lòng trăm mối tơ tình vấn vương
                                           Nàng nghĩ đến chồng đương đánh cá
                                           Ở ngoài khơi vất vả dãi dầu
                                           Bây giờ chàng ở nơi đâu ?
                                           Hay theo ngọn sóng bạc đầu cuốn đi?
                                           Mưa sầm sập áo thì tơi tả
                                           Tiếng sét trời hay đã ra tro
                                           Trong lòng muôn mối tơ vò
                                           Lòng đau quặn một nỗi lo cho chồng
                                           Còn bao kẻ chăn bông đệm gấm
                                           Đang giờ này nằm ấm lầu cao
                                           Mặc cho gió thét mưa gào
                                           Trong lòng trăm giấc chiêm bao êm đềm
                                           Họ đâu biết tiếng rên khóc đói
                                           Cảnh dân chài chìm nổi ngoài khơi
                                           Trong cơn bão tố tơi bời
                                           Đuối tay bị lớp sóng vùi mất tăm
                                           Nàng nghĩ đến khôn cầm lệ nhỏ
                                           Lặng cúi nhìn con nhỏ đang mơ
                                           Đầy trời sấm chớp gió mưa!


NGUYỄN PHƯƠNG THẢO 1940       

        Có lẽ Ba Thảo là người đầu tiên hướng dẫn thanh niên trong làng hát bài "Cùng nhau đi Hồng binh" của nhạc sĩ Đinh Nhu. Lời của bài ca ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hát, nhịp điệu thật hùng dung, dễ thuyết phục lòng người. Vì vậy thanh niên rất thích. Cứ tối đến lời ca hùng tráng của bài hát từ sân nhà Ba Thảo vang vọng khắp xóm làng, khiến cha con viên lý trưởng khiếp sợ. Có lần cả hai cha con lý trưởng khăn áo chỉnh tề đến nhà lạy van Ba Thảo xin tha tội. Ông bảo: Nếu không cản trở việc ông làm, không sách nhiễu hại dân thì sẽ được an toàn.

        Các chức sắc trong làng rất mực kính nể Ba Thảo. Từ đó, ông thường lên Hà Nội, xuống Hải Phòng gặp Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu, Trần Huy Liệu, Lê Phùng1... rồi lại trở về làng tập hợp một số đông thanh niên trong làng và các vùng lân cận hoạt động cách mạng. Trong thời kỳ này, vì sức khỏe chưa hoàn toàn bình phục, ông đã tự bồi dưỡng sức khỏe bằng cách dùng nhau thai ép tươi lấy nước hòa rượu uống (những nhau thai này do Nhà thương Bần Yên Nhân chọn cung cấp). Có lần Lê Phùng đến nhà giữa lúc bí không có người đi chợ mua thức ăn, ông đã bảo bạn ngồi chơi rồi xuống bếp tự chế biến thử thực phẩm này để mời bạn dùng cơm.

-------------------
        1. Bí danh của đồng chí Hạ Bá Cang - tức Hoàng Quốc Việt.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 06:17:30 am
         
        Với gia đình, Ba Thảo là người con có chí hiếu. Về điều này trong bài “Độc Nhãn tướng quân", đăng ở báo Tiền phong, tác giả Mạnh Việt có viết : "Nhiều lần ông đã tâm sự với bạn bè rằng : Ông nhớ thương mẹ tha thiết vì mẹ ông chỉ có mong ước duy nhất là ông được học hành đến nơi đến chốn. Nhưng từ khi còn rất nhỏ, 11 tuổi, ông đã phải đi biền biệt như vậy. Rất nhiều lần bọn địch về lục soát tìm tài liệu, tra khảo hạch sách mẹ, mẹ ông vẫn âm thầm chịu đựng vì thương con. Hồi còn bị giam cầm ở Côn Lôn, bỗng một đêm ông nằm mơ thấy mẹ mình ra đi vĩnh viễn. Tỉnh dậy, ông than khóc mãi như một đứa trẻ. Người bạn tù thân thiết bên cạnh lúc đó là Trần Huy Liệu đã ra sức khuyên ông rằng đó chẳng qua chỉ là một giấc mơ. Có ai ngờ đâu rằng đúng đêm hôm đó mẹ ông đã vĩnh biệt cõi đời, trước lúc phân ly mẹ còn khắc khoải lần cuối trông ngóng nhìn thấy mặt con trai. Điều đó khiến ông day dứt không nguôi trong tâm thức của đứa con có lỗi...".

        Có lẽ từ nỗi day dứt trong tâm thức này nên sau khi ra tù, ông hết lòng phụng dưỡng cha già như để bù lại những gì ông chưa làm được đối với mẹ. Những lúc ở nhà, ông phục vụ cụ ông chu đáo từng bát cơm, chén nước. Những lúc cụ ông đau yếu, ông chăm sóc cụ từng viên thuốc, mũi tiêm, xoa bóp cho cụ thâu đêm. Nhiều lần ông giành phần tự tay tắm rửa và giặt giũ áo quần cho cụ. Đôi khi có điều gì làm cụ phật ý, ông quỳ lạy tự nhận mình là đứa con bất hiếu. Thực tình thì cụ biết rất rõ việc ông làm, cụ không bao giờ trách mắng mà chỉ thương ông vất vả. Họ hàng còn nhớ mãi vào đêm cụ hấp hối (tháng 3 năm 1940), mọi người trong nhà còn đang quy tụ bên giường chăm sóc cụ, thì có một người ăn mặc nhếch nhác, đạp cổng chạy vào đúng lúc cụ nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng. Người đó là Ba Thảo. Ông lăn vào ôm lấy xác cha gào khóc thảm thiết, ông vật vã khóc than tự trách mình không về kịp để cha nhìn thấy mặt.

        Với họ hàng, làng xóm ông luôn tỏ ra là người biết kính trên nhường dưới, kính già yêu trẻ, luôn giúp đỡ và bênh vực người nghèo. Không biết ông học được nghề y tá từ bao giờ mà ông tiêm rất giỏi. Ông thường tiêm thuốc chữa bệnh giúp bà con làng xóm. Cũng có khi ông tự tiêm thuốc cho chính bản thân mình. Do vậy, mọi người trong họ, ngoài làng đều rất yêu quý, mến phục đức độ của ông.

*

*      *

        Năm 1937, Ba Thảo với người em ruột là Nguyễn Công Cẩn cùng với Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu, Trần Huy Liệu, Lê Phùng... lên Thái Nguyên mua một khu đồn điền của bà Lan - người Hải Phòng, nay là khu Độc Lập, xóm Yên Bình, huyện Đại Từ, làm kinh tế trang trại và dùng làm căn cứ hoạt động cách mạng. Người em ruột được phân công mở cửa hiệu thuốc Bắc (hiệu Hưng Tường) để làm trạm liên lạc, Tô Quang Đẩu làm thư ký. Ba Thảo nhận một thanh niên nghèo, khỏe mạnh, tháo vát tên là Trần Xuân Giao làm con nuôi, đổi tên là Nguyễn Thế Giao để trông nom trang trại và làm liên lạc. Năm 1938, Ba Thảo bị sở mật thám Thái Nguyên bắt giam rồi chuyển giao cho sở mật thám Hưng Yên quản lý. Cơ sở này bị bọn cường hào dòm ngó, đe đoạ nên không hoạt động được nữa. Người em ruột và người con nuôi ở lại Đại Từ làm ăn, không kinh doanh thuốc Bắc nữa và rút vào hoạt động bí mật.

        Trong thời gian bị sở mật thám Hưng Yên quản lý gắt gao, để che mắt kẻ thù, năm 1940-1941 Ba Thảo cùng Nguyễn Xuân Phúc (tức Lý Trung Kiên) người cùng làng Yên Phú nấu dầu thảo mộc, chế biến từ nhựa thông để thắp đèn thay dầu hỏa lấy tên là dầu PHÚC THẢO. Trụ sở kinh doanh của hãng dầu đặt tại ngôi nhà số 32 (nhà ông Hai Gián) thị trấn Bần Yên Nhân và giao cho một thanh niên trí thức tên là Phạm Khổng Giai phụ trách. Ngoài ra còn có nhiều cửa hàng đại lý bán dầu ở bến ô tô và ga xe lửa Hải Phòng. Những nơi này đều là những điểm hoạt động bí mật. Không được bao lâu, hãng dầu PHÚC THẢO tự giải tán. Sau này Phạm Khổng Giai là cháu rể của ông Ba Thảo (hiện nay ông Giai là cán bộ quân đội, cấp đại tá, đã nghỉ hưu).

        Giữa năm 1941, Mặt trận Việt Minh ra đời. Cách mạng Việt Nam đã chuyển hướng đấu tranh. Ba Thảo thấy thời cơ sắp tới của cách mạng là phải nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang. Trong hoạt động, ông thường gắn bó với Tô Quang Đẩu, Trần Huy Liệu, Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) nên sớm móc nối liên lạc được với Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 08:21:08 pm
  
        Năm 1942, ông dược đồng chí Hạ Bá Cang phái lên Lai Châu hoạt động sưu tầm nhiên liệu để chế lựu đạn. Năm 1943, Ba Thảo được Trung ương giao nhiệm vụ phụ trách việc mua sắm vũ khí cho cách mạng ở Hà Nội và Hải Phòng. Đây là nhiệm vụ xuyên suốt hoạt động của Ba Thảo cho đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Lúc này, Ba Thảo đã lấy tên NGUYỄN BÌNH. Ông đã thực thi nhiệm vụ Trung ương giao cho một cách tích cực, mưu trí, sáng tạo, độc đáo là kết hợp giữa vận động thuyết phục binh lính địch với đánh địch để lấy vũ khí, biến lực lượng quân sự của địch thành lực lượng quân sự của ta. Với nhiệm vụ này Ba Thảo thường đi lại vùng Hải Phòng, Quảng Yên để móc nối liên lạc với các bạn tù chính trị, tù Côn Đảo để gây cơ sở hoạt động cách mạng.

        Mùa hè năm 1944, Ba Thảo về Hải Phòng tìm gặp Dương Chính (bạn tù Côn Đảo), bộc bạch chính kiến của mình : "Cách mạng đã chín muồi. Trung ương cho phép chuẩn bị vũ trang bạo động cướp chính quyền. Tao được giao nhiệm vụ mua chất nổ Chlorate de Potasse, Salpêtre, mìn, dây mìn, kíp mìn và súng đạn các loại". Ông động viên Dương Chính : "Hoàng Quốc Việt bảo tao xuống bảo chúng mày ra tiếp tục hoạt động, nằm im mãi!". Từ đó, Dương Chính trở lại tiếp tục hoạt động và dẫn Nguyễn Bình đi gặp số anh em tù chính trị, tù Côn Đảo ở Hải Phòng như Lê Quốc Trọng, Lê Phê, Tư Thành, Tỉnh, Nghiễm; ở Kiến An có Trần Đình Quý, cùng một người bạn tốt trong phong trào dân chủ (1936-1939) là Phạm Khang - chủ tiệm may Robert Taylor và Tùng Lĩnh ở phố Chợ Con.

        Gặp lại anh em bạn tù, lúc đầu Nguyễn Bình chỉ giao một việc tìm mua chất nổ và súng đạn các loại. Bản thân Nguyễn Bình cũng tự gây được nhiều cơ sở. Dưới ngã năm Lạc Viên có ông Trần Doãn Tắc (bố đồng chí Trần Doãn Tòng) là bạn thân cùng làm tàu biển đã cùng Nguyễn Bình gây dựng cơ sở hoạt động cách mạng ở đây.

        Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Hàng ngũ binh lính khố xanh, khố đỏ hoang mang dao động đến cực độ. Binh lính ở đồn Bần Yên Nhân lúc này có một trung đội lính khố xanh, do một viên sĩ quan Pháp chỉ huy. Nguyễn Bình đã cùng một giáo viên tiểu học ở Mỹ Hào, là thầy dạy con tên đồn trưởng, có điều kiện ra vào thuận lợi để tiếp xúc với binh lính làm công tác binh vận và đã gây được nhân mối là anh Nguyễn Văn Việt - một binh lính ở trong đồn. Bằng nhiều cách, anh Việt đã cung cấp tình hình cho ta và cũng đã lôi kéo dược một vài anh em binh lính khác.

        Nhật đảo chính Pháp là một thời cơ thuận lợi để ta có thể đóng giả quân Nhật tranh thủ tước vũ khí của binh lính ở đồn này. Nguyễn Bình báo cáo kế hoạch này với Xứ ủy và được Xứ ủy đồng ý. Ngày 10 tháng 3 năm 1945, Nguyễn Bình tổ chức một cuộc họp tại nhà đồng chí Xuân ở Mỹ Hào gồm các đồng chí Nguyễn Ngọc Vân (tức Vân Ngạnh) và đồng chí Lê Huỳnh (tức Lê Trần Trừ - Tỉnh ủy viên Hưng Yên) để thông báo quyết định của cấp trên. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Nguyễn Bình tổ chức một cuộc họp khác tại nhà cụ Hai ở làng Buộm (thuộc xã Giai Phạm) gồm các đồng chí Nguyễn Văn Học (tức Kỷ), Nguyễn Trọng Côn (tức Luật - sau Cách mạng tháng Tám 1945 lấy tên là Trần Sâm –  Phó bí thư Thành ủy Hà Nội), đồng chí Dũng, đồng chí Vân và đồng chí Lê Huỳnh để bàn kế hoạch cụ thể và phân công các mũi. Bộ phận chủ chốt xung phong vào đồn do Nguyễn Bình phụ trách, đồng chí Côn và đồng chí Học giám sát tên lý trưởng Phách ở Bần Yên Nhân, đồng chí Lê Trung Hiệu và đồng chí Đoàn Mậu Bách (tức Đoàn Thế Hùng) khống chế cầu Giai Phạm, không để người tràn ra đường số 5, tránh thương vong. Đồng chí Thắng, đồng chí Chân (tức Nguyễn Quang Phụng) và đồng chí Lê Thành Công (tức Công Sạch) có nhiệm vụ cắt dây điện thoại, không cho địch liên lạc với tỉnh lỵ Hưng Yên và Hà Nội. Đêm 12 tháng 3 năm 1945, các bộ phận đến địa điểm tập trung ở ngã ba Quán Chuột, cách đường 5 khoảng 200 mét. Khi đã đông đủ, mọi người im lặng nghe đồng chí Phúc (tức Nguyễn Khang, lúc đó là Xứ ủy viên) thay mặt cho Tổng bộ Việt Minh nói về mục đích ý nghĩa của trận đánh, căn dặn và giao nhiệm vụ. Tới giờ xuất quân, đi đầu đội quân đóng giả Nhật này là Nguyễn Bình, Nguyễn Ngọc Vân và Sơn Chè (tức Trần Phong), với quân phục sĩ quan Nhật có đầy đủ trang bị, có cả lon và băng đeo tay. Riêng Nguyễn Bình có cả thanh trường kiếm giống hệt sĩ quan Nhật. Đồng chí Bang (tức Lê Liêm) ăn mặc dân sự sang trọng đóng vai người đại diện cho đảng Đại Việt giả làm người thông ngôn đi theo. Trận đánh đã diễn ra chớp nhoáng, nhanh gọn nhờ có nhân mối bên trong làm đúng quy ước ám hiệu. Sau một tiếng pháo nổ thay tiếng súng, cổng đồn được mở toang, quân ta ào ạt xông vào làm cho quân địch không kịp trở tay. Kết quả, ta thu được 24 súng trường và 6 hòm đạn, lựu đạn.

        Trận đánh này về sau được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá là : "Một trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ"1.

-------------------
        2. Theo Vũ Xuân Hoa - bài đăng trên nguyệt san báo Hưng Yên (báo Hưng Yên hàng tháng), số 32.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 08:27:23 pm
  
        Thắng lợi trận đánh đồn Bần Yên Nhân thổi một luồng sinh khí phấn khởi, dạt dào tin tưởng vào các làng xóm. Nhân dân như bừng tỉnh trước sức mạnh của cách mạng, hết lời ca ngợi Việt Minh có tài "xuất quỷ nhập thần" đã phỗng súng tay trên quân Nhật.

        Thời gian này cao trào kháng Nhật dã bùng nổ. Hầu hết các làng xã vùng bắc Hưng Yên đều có cơ sở Việt Minh. Sau đêm 12 tháng 3 năm 1945, lực lượng cách mạng chuyển sang trấn áp bộ máy tổng lý ở các làng, xã, khiến nó ngày càng rệu rã bất lực; phần lớn họ tỏ thái độ lừng chừng, hoài nghi hoặc co vòi nằm im nghe ngóng. Có một số ít tên vì "tay đã nhúng chàm", có nhiều tội ác cố tình hung hăng chống lại cách mạng. Những tên này đều bị tổ chức và Nguyễn Bình trừng trị theo một phong cách riêng là lập Tòa án cách mạng xử công khai. Điển hình như tên Lý Phách ở làng Bần Yên Nhân nổi tiếng gian ác, hà hiếp nhân dân, làm chỉ điểm cho Nhật. Nguyễn Bình đã chỉ huy anh em tự vệ chặn xe hắn lại ở Phố Nối giữa ban ngày, ngăn cả xe ô tô chở khách dừng lại để công khai xử án.

        Những việc làm nói trên đã tạo thêm uy thế của cách mạng, thanh danh Việt Minh càng vang dội. Xứ ủy quyết định thành lập các khu an toàn trực thuộc Xứ ủy để bảo đảm sự đi lại, ăn ở, hội họp của Xứ ủy và của Trung ương. Hai huyện Yên Mỹ - Mỹ Hào và một số làng của huyện Văn Lâm (Hưng Yên) thành Khu An toàn Bãi Sậy. Sau khi đánh hạ đồn Bần, tước vũ khí của binh lính trao cho địa phương, Nguyễn Bình về ở hẳn Hải Phòng để củng cố và phát triển phong trào cách mạng.

        Lúc này ở Hải Phòng, Đảng bộ bị địch đánh phá dữ dội; Thành ủy chưa kịp lập lại, nhưng chính sách đúng đắn, phù hợp của Mặt trận Việt Minh đã thổi bùng lên cao trào cách mạng trong nhân dân. Về phong trào cách mạng ở thời điểm này, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng đã viết : "Cả Đông Dương như một cánh đồng cỏ khô, tàn lửa cách mạng động đụng vào đâu là có thể bốc cháy". Hải Phòng là một vùng đất trong "cánh đồng cỏ khô" ấy, đã "bốc cháy" khi tiếp nhận ngọn lửa cách mạng từ ngôi nhà 88, đại lộ Đô đốc Cuốc bê (Boulevard Amiral Courbet), còn gọi là phố La Côm (La Combe), nay là nhà số 162 phố Hoàng Văn Thụ.

        Ngôi nhà này là của ông Thái Văn Cốc - chủ hiệu sản xuất kinh doanh hàng thêu. Bà Phan Thị Chợ (chị họ của Dương Chính) là vợ kế của ông Thái Văn Cốc. Do đó, Nguyễn Bình và Dương Chính đã biến ngôi nhà này thành cơ quan của Mặt trận Việt Minh trong sự che chở, nuôi dưỡng của gia đình ông Thái Văn Cốc thời kỳ tiền khởi nghĩa ở Hải Phòng. Việc chọn ngôi nhà này làm cơ quan của Mặt trận Việt Minh là cả một sự tính toán kỹ càng : Một phố "Tây", đông người Hoa, ít người Việt, có nhiều cửa hàng lớn, buôn bán sầm uất, ông chủ Thái Văn Cốc rất mực tin cậy. Đúng là "hở mà kín".

        Khi về đây, Nguyên Bình đã mang theo nhiều tài liệu, trong đó có tập Cương lĩnh Việt Minh, giao thêm nhiệm vụ cho Dương Chính và các bạn tù chính trị có trách nhiệm tuyên truyền, vận động, tổ chức các đoàn thể cứu quốc, nhất là các binh sĩ yêu nước. Ông nhấn mạnh cần vận động binh lính địch đào ngũ mang theo vũ khí về với cách mạng. Từ đó, ngôi nhà 88 phố La Côm đã thực sự là cơ quan đầu não và lực lượng Việt Minh do Nguyễn Bình - Dương Chính tổ chức mang mật danh CQ88. Chỉ trong thời gian ngắn CQ88 đã tập hợp được các nhóm Việt Minh thuộc nhiều đường dây khác nhau và mở rộng địa bàn hoạt động ở thành phố Hải Phòng, Đồ Sơn, tỉnh lỵ Kiến An và Quảng Yên. Các tổ chức phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng hội viên. CQ88 không những tập hợp được quần chúng nông dân, ngư dân, lao động tự đo, dân nghèo... mà còn tập hợp được cả các tầng lớp viên chức, thanh niên, học sinh, trí thức, những người theo Thiên chúa giáo, phật giáo, quan lại và những binh lính yêu nước. CQ88 vừa xây dựng lực lượng chính trị, vừa xây dựng lực lượng vũ trang. đồng thời trừng trị những tên Việt gian phản động, để đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.

        CQ88 đã nghiên cứu, quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (năm 1941) : Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết; trên cơ sở đoàn kết toàn dân, xây dựng một mặt trận thật rộng rãi là Mặt trận Việt Minh, giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng, trong đó có việc xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng, khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

        Trước yêu cầu vũ trang cách mạng, ở thời điểm này, có vũ khí là một vấn đề tối ư quan trọng, là một yếu tố trung tâm của xây dựng lực lượng vũ trang, của xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đảng đã giao trọng trách này cho Nguyễn Bình, thật hợp với bản lĩnh và phong cách của ông.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Hai, 2017, 08:30:38 pm
  
        Trong điều kiện Đảng không có nhiều tiền để mua vũ khí, hơn nữa mua vũ khí đâu có phải là chuyện dễ vì nó là hàng quốc cấm, Nguyễn Bình đã dùng công tác binh vận, giác ngộ vận động binh sĩ trong hàng ngũ địch để họ ủng hộ vũ khí cho ta và hơn nữa nếu họ rời hàng ngũ địch theo ta, ta sẽ có nhiều cán bộ quân sự. Nguyễn Bình chọn Hải Phòng vả vùng lân cận để tiến hành nhiệm vụ vì đây là hải cảng có nhiều đồn binh quan trọng của Pháp, Nhật. Ông cũng chọn Quảng Yên - Hòn Gai là nơi có truyền thống đấu tranh của giai cấp công nhân, nơi có sẵn các loại thuốc nổ, dây mìn, kíp mìn. Phải chăng ở những nơi này ông có nhiều đồng chí, nhiều bạn tù Côn Đảo, có họ hàng làm nơi đứng chân?

        Ngay từ mùa hè năm 1944, Nguyễn Bình đã phái người ra Quảng Yên, Hòn Gai gây cơ sở Việt Minh và tìm mua thuốc nổ, dây mìn, kíp mìn. Ở Hải Phòng, ông và các đồng chí của ông đã gây cơ sở và đặt nhân mối trong các trại lính khố xanh, khố đỏ, các trại bảo an binh Kiến An, Đồ Sơn, sở sen đầm Đồ Sơn, đồn muối Tiểu Bàng (Đồ Sơn)... Có nơi, ông vận động binh lính lấy, vũ khí ra ngay, mỗi ngày một vài thứ; có nơi ông tạm gửi lại để khi có thời cơ làm binh biến - lấy cả người lẫn súng.

        Đặc biệt sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật làm đảo chính, tịch thu được rất nhiều vũ khí của Pháp tập kết ở Sáu Kho chờ tàu biển chuyển đi. Ông Trần Doãn Tắc đã cùng con trai là Trần Doãn Tòng tổ chức anh em "bấu xấu" (giang hồ hảo hán) chui vào các kho trong cảng để "đánh" hàng, nhằm vào các kho vũ khí này lấy ra đưa về các thôn xóm khu vực Lạc Viên, chia đi các ngả trang bị cho dân quân, tự vệ. Và chính tại nơi này Trần Doãn Tòng đã tổ chức được một lực lượng tự vệ khá mạnh.

        Trong việc tìm kiếm vũ khí, tư tưởng của Nguyễn Bình còn đi xa hơn : tìm đến công cụ để làm ra vũ khí. Ông đã giao nhiệm vụ cho Nguyễn Hoàn Long (tức Hùng Phong)1 lên Phú Thọ điều tra nhà máy đúc đạn Cartoucherie Phú Thọ, để nếu có điều kiện thì bê cả máy móc về chiến khu. Tiếc rằng ngày Nhật đảo chính Pháp, chủ Pháp dã tháo gỡ một số bộ phận quan trọng, nên cỗ máy đồ sộ ấy không còn vận hành được nữa. Cùng với tư tưởng này Nguyễn Bình đã tiếp nhận một máy tiện cũ của Tài Khánh (một bạn tù Quốc dân đảng đã "xích hóa") ủng hộ. Ông đã giao cho Nguyễn Ngọc Xuân sửa chữa và chuyển máy đi Bắc Ninh giao công binh xưởng.

        Phương pháp tìm mua vũ khí của Nguyễn Bình thật là độc đáo : dùng phương pháp binh vận để có cả người lẫn súng, dùng biện pháp đánh đồn diệt địch để vừa có súng vừa mở rộng địa bàn hoạt động, vừa đạt hiệu quả cao mà lại đỡ tốn ngân quỹ.

        Sau khi đảo chính Pháp, giặc Nhật độc chiếm Đông Dương, chúng đã sử dụng luôn bộ máy ngụy quân ngụy quyền cũ của Pháp rồi đưa bọn tay sai vào nắm các chức vụ, thay đổi tên gọi như tuần phủ thành tỉnh trưởng, tri phủ - tri huyện thành phủ trưởng - huyện trưởng... để tô vẽ cho chiếc áo độc lập giả hiệu mà chúng khoác cho bọn ngụy quân, ngụy quyền. Mặt khác chúng lập ra các tổ chức phản động thân Nhật như Đại Việt quốc gia liên minh, Đại Việt xã hội, Quốc dân đảng, Thanh niên Đại Việt... chúng ra sức tuyên truyền cho thuyết "Đại Đông Á", "Khối thịnh vượng chung". Về kinh tế chúng nắm độc quyền ngoại thương, kiểm soát hoạt động của các cơ sở công nghiệp, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu. Chúng ra sức vơ vét thóc gạo gây nên nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử nước ta : Hơn hai triệu người chết đói bên cạnh những kho lúa gạo đầy ắp của giặc Nhật. Một bầu không khí ngột ngạt bức bối bao trùm khắp thành thị, nông thôn.

        Cũng như nhân dân cả nước, nhân dân Hải Phòng, khu mỏ Quảng Yên - Gòn Gai và các tỉnh miền Đông Bắc ngày càng cùng cực. Thảm cảnh chết đói diễn ra hàng ngày ở khắp mọi nơi. Quần chúng sôi sục căm thù quân cướp nước và bè lũ bán nước, sẵn sàng theo tiếng gọi của Đảng, của Mặt trận Việt Minh vùng lên đấu tranh để cứu nước, cứu nhà. Chính vì vậy Nguyễn Bình quyết định về ở hẳn Hải Phòng để chuyển hướng mở rộng đường dây hoạt động ra các huyện ngoại thành, vùng sâu, vùng xa để lập căn cứ địa cách mạng.

----------------------
        1. Nguyễn Hoàn Long là giáo viên trường tư thục Hùng Vương (Phú Thọ) sau về làm giáo viên trường tư thục Nguyễn Trường Tộ (Hải Phòng).


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:28:23 am
  
        Ở Kiến An lúc này đã có cơ sở Việt Minh do Trần Đình Quý (Quý đen) và Bùi Đình Cầu - thông phán Ty Địa chính, cùng vợ là Nguyễn Thị Yên (hai cựu chính trị phạm ở Hỏa Lò - Hà Nội) phụ trách. Đã có nhân mối tổ chức được cơ sở trong trại lính. Song còn có một đường dây Việt Minh khác do đồng chí Mai Côn (tức Phạm Văn Thuyên) tổ chức, đã xây dựng được lực lượng tự vệ ở hai huyện Kiến Thụy và Tiên Lãng. Ngày 11  tháng 7 năm 1945, lực lượng tự vệ Kiến Thụy tập kích tước vũ khí địch ở đồn Tiểu Bàng (giáp Đồ Sơn) rồi cùng lực lượng tự vệ huyện Tiên Lãng huy động lực lượng quần chúng nhiều làng, xã kéo về xóa bỏ chính quyền địch, thiết lập chính quyền cách mạng ở xã Kim Sơn. Trong lực lượng này có dư luận cho rằng các tổ chức Việt Minh của Nguyễn Bình là Việt Minh giả nên không chịu hợp tác. Để xua tan mọi nghi ngờ, Nguyễn Bình cử Tùng Lĩnh đi Kim Sơn, nhưng anh đã bị kẻ địch thủ tiêu1. Nguyễn Bình cử tiếp Tư Thành đi Kim Sơn thì Tư Thành lại bị bắt trói, bị giam giữ. Đúng lúc ấy giặc Nhật càn quét vào Kim Sơn, thấy người bị trói, chúng thả cho Tư Thành về.

        Phía Thủy Nguyên có sư Lương (tức Hoàng Ngọc Lương, tên thật là Hoàng Thiếu Minh) tu ở chùa Phương Mỹ (xã Mỹ Đồng) để hoạt động cách mạng và là bạn hàng xóm với Dương Chính (Dương Chính ở nhà số 6, sư Lương ở nhà số 4 phố Avenue Belgique, nay là phố Lê Lợi) và cũng là bạn thân hoạt động cách mạng với Hoàng Sĩ Lễ, Hải Thanh, Nguyễn Kiên Tranh (sư Tuệ) và Lê Tâm từ năm 1937. Cho đến lúc này, sư Lương đã tổ chức được nhiều cơ sở Việt Minh, nhưng chưa bắt được liên lạc với Xứ ủy.

        Ngày 10 tháng 3 năm 1945 (sau Nhật đảo chính Pháp một ngày) sư Lương được Dương Chính đưa đến 88 phố La Côm giới thiệu với Nguyễn Bình và sư Lương hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Nguyễn Bình từ đó.

        Qua hồi ức của Hoàng Ngọc Lương, cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Bình với sư Tuệ và những vấn đề của hai ông có liên quan đến việc thành lập Chiến khu Trần Hưng Đạo - Đệ tứ Chiến khu, diễn ra như sau :

        Sư Tuệ sinh trưởng ở Nam Định đã từng tham gia phong trào chống Pháp ở quê nhà, sau đi tu ở chùa Nứa - Đông Phan và chùa Vạn Tuế ở Thanh Hà (Hải Dương). Cuối năm 1938, Tuệ rủ một số bạn thân vào đồn điền Trảng Bảng (Đông Triều) thuê đất trồng dâu nuôi tằm, lập nghiệp ở đó để tính chuyện lâu dài sau này.

        Công việc đang tiến hành tốt thì xảy ra vụ xô xát ở Vạn Tuế. Tuệ bị bắt, bị đày đi Căng Bá Vân (Thái Nguyên) rồi chuyển về nhà tù Nghĩa Lộ (Yên Bái) nên bỏ dở việc trồng dâu nuôi tằm. Vào tù, Tuệ và Hải Thanh (tức Nguyễn Văn Roanh) gặp lại nhau. Tháng 2 năm 1945, Tuệ được đưa từ ngục Nghĩa Lộ về quản thúc ở quê nhà. Mới về tới Nam Định, còn nằm ở sở mật thám chờ làm thủ tục giao về địa phương, thì nổ ra cuộc Nhật đảo chính Pháp, anh đã cùng một số bạn tù trốn về cơ sở cũ, tìm cách hoạt động. Đến Hải Dương, được tin Hải Thanh vừa trốn từ ngục Nghĩa Lộ về, Tuệ đến gặp Hải Thanh bàn bạc rủ nhau vào Đông Triều hoạt động. Hai người phân công : Tuệ đi trước gây cơ sở, Hải Thanh đi bắt liên lạc với Đảng, sẽ vào sau.

        Chia tay Hải Thanh, sư Tuệ định đến Bác Mã (Đông Triều) ở nhà Võ Giác Thuyên ít ngày tìm hiểu tình hình rồi đặt kế hoạch hoạt động. Nhưng mới đi đến phố huyện Đông Triều, sư Tuệ hay tin Giác Thuyên đã từng đi Hà Nội học tiếng Nhật, đã từng đón thầy Tàu về chùa dạy võ, nay là người cầm dầu đảng Bạch Xỉ... Nghe vậy, anh không dám tìm gặp Giác Thuyên ngay, vì không hiểu trong 6 năm xa cách, Giác Thuyên đã thay đổi thế nào! Tuệ liền đi Thủy Nguyên tìm Hoàng Ngọc Lương để hỏi về Giác Thuyên, đồng thời rủ Lương vào Đông Triều cùng hoạt động.

        Gặp nhau, Hoàng Ngọc Lương cho sư Tuệ biết thêm về sư Võ Giác Thuyên, đồng thời cho hay rằng chính bản thân ông đã liên lạc được với một cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ là Nguyễn Bình; hiện đang hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Bình, không thể vào Đông Triều được.

        Sư Tuệ cũng bộc bạch để Hoàng Ngọc Lương hay rằng, nhóm của họ đã phân công Hải Thanh tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng, nhưng chưa có kết quả. Bây giờ đã có cán bộ Xứ ủy, nên tạo điều kiện để ông sớm gặp Nguyễn Bình và Dương Chính. Nếu được gặp, ông sẽ đề nghị với Nguyễn Bình và Dương Chính hợp nhất lực lượng, cùng vào Đông Triều xây dựng phong trào kháng Nhật, tiễu phỉ, lập chiến khu. Điều cơ bản là Đông Triều có địa thế đẹp, rất tốt cho hoạt động vũ trang đánh địch; hiện thời thổ phỉ đang hoành hành, dân chúng đang nóng lòng chờ Việt Minh.

----------------------
        1. Tùng Lĩnh đã được công nhận là liệt sĩ.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:31:11 am
  
        Trước yêu cầu tha thiết của sư Tuệ. Hoàng Ngọc Lương đã đưa "nhà sư" tới gặp Dương Chính và Nguyễn Bình tại nhà số 88 phố La Côm. Nhưng Nguyễn Bình đi vắng. Thời gian quá gấp gáp, sư Tuệ không thể chờ đợi, phải về ngay Đông Triều và nhờ Hoàng Ngọc Lương chuyển đạt những điều anh muốn bàn với Nguyễn Bình. Ngay sau đó tại nhà số 88 phố La Côm, Hoàng Ngọc Lương dã truyền đạt lại những điều sư Tuệ dặn. Nguyễn Bình chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng hỏi thêm những điều cần thiết. Cuối cùng ông dặn Hoàng Ngọc Lương gắng "nhập tâm" một số điểm (không được ghi chép) về truyền đạt lại với sư Tuệ, rằng : Nguyễn Bình rất cảm ơn sư Tuệ đã tin cậy, tìm gặp tranh thủ ý kiến và có ý định cộng tác. Vì điều kiện không gặp trực tiếp để bàn bạc, nên chỉ góp ý hai vấn đề :

        1. Lập chiến khu là một việc lớn, sau khi hỏi ý kiến các anh phụ trách binh vụ của Tổng bộ Việt Minh, sẽ trả lời cụ thể. Riêng Nguyễn Bình rất hoan nghênh và tán thành.

        2. Việc sư Tuệ có ý định dựa vào Giác Thuyên làm cơ sở hoạt động, nhưng lại ngại bị chê cười là không biết làm cách mạng. Cách mạng là phải dựa vào giai cấp cần lao (thợ thuyền, dân cày), nay mình lại dựa vào tu sĩ, những người không làm ra của cải, thì ngại là điều dễ hiểu. Nhưng, theo tôi về mặt kinh tế, chùa nào cũng quản lý một số ruộng, ít là vài ba mẫu, nhiều là vài chục mẫu, thóc gạo đủ ăn quanh năm. Bác Mã là một chùa lớn, ruộng có hàng chục mẫu, trong chùa lúc nào cũng có mấy cây thóc, chưa kể bổng lộc của khách thập phương lễ bái...

        Nếu ta định lập chiến khu thì phải tính đến nhiều mặt. Chẳng hạn, chiến khu là phải có người, có quân lính, phải ăn. Trong lúc này ta lấy đâu ra lương thực nuôi quân? Quân đội phải có vũ khí, dù là vũ khí thô sơ như : dao, kiếm, giáo, mác cũng phải mua sắm. Muốn chiến đấu tốt thì phải có vũ khí tốt; không thể dao, kiếm mãi được, chưa kể các khoản chi tiêu khác đều cần đến tiền. Vậy chùa Bác Mã là chỗ dựa tốt, nhất là lúc này.

        Còn về con người, tôi chưa gặp, chưa nghe nói đến Giác Thuyên bao giờ. Nhưng cũng theo các anh kể lại, thì ông ta là người khảng khái, hào hiệp, có nghĩa khí, lại có bản lĩnh, đã dám làm đơn thương độc mã đứng ra chống bọn Nguyễn Văn Tái - đương kim tri huyện Đông Triều và Ngô Quốc Lâm bố đẻ của Ngô Quốc Côn - tri phủ Kiến An; kết quả ông đã thắng cuộc. Thế thì ông ta là người có bản lĩnh, có tinh thần dân tộc, mặc dù trình độ còn hạn chế, chưa thấy rõ đường lối cách mạng. Nhưng ông vẫn là người yêu nước, người đồng chí của ta, nếu không là người cùng ta cầm súng ra trận, thì ít nhất cũng là một mạnh thường quân tin cậy. Vậy chẳng có gì phải ngại. Vả lại, đường lối của Việt Minh công bố rõ ràng : Kể cả quan lại, những người đã có tội với nhân dân, với cách mạng, nay biết hối cải đi theo Việt Minh cứu nước, thì Việt Minh cũng sẵn sàng đón tiếp.

        Mặt khác ta dựa vào Giác Thuyên, không phải chỉ dựa vào cá nhân một ông thầy tu, mà là dựa vào đằng sau thầy tu ấy; đó là ngôi chùa và đông đảo phật tử. Sư nói một câu tín đồ nghe theo răm rắp. Họ vận động quần chúng hữu hiệu và nhanh chóng. Những tín đồ ấy lại đều là cha mẹ nam nữ thanh niên nông thôn. Ta nắm được một vị thầy tu có uy tín là đã nắm được số lượng đông đảo nông dân...

        Theo Nguyễn Bình, thì chùa Bác Mã là một cơ sở quý hiếm, không dễ dàng tìm được. Vì vậy Nguyễn Bình đã bảo với Hoàng Ngọc Lương nói với sư Tuệ cứ mạnh dạn tiến hành theo ý định.

        Hoàng Ngọc Lương vừa từ chỗ gặp Nguyễn Bình về đến nhà, đã thấy Nguyễn Bình đạp xe theo, bảo ông quay lại CQ88 bàn lại công việc. Tại CQ88, Nguyễn Bình hỏi Hoàng Ngọc Lương rằng : đã đọc Báo Cứu quốc số xuân chưa. Hoàng Ngọc Lương gật đầu. Nguyễn Bình nói tiếp : Bài thơ "Tiễn bạn lên chiến khu", của Chu Lang1, trong số báo đó có câu:

                                         "Giờ khởi nghĩa hẹn hò năm Ất Dậu
                                          Trận đầu tiên ai thắng, đấy là anh...".


        Theo Nguyễn Bình, lời thơ ấy chính là lời "hịch" của Tổng bộ Việt Minh. Giờ khởi nghĩa vào ngày tháng nào chưa rõ, nhưng nhất định chỉ là trong năm Ất Dậu này.

        Hôm đó chỉ là ngày 23 tháng 2 năm Ất Dậu, Nguyễn Bình khẳng định : thời gian không còn nhiều, mọi việc phải khẩn trương. Vì vậy, việc lập Chiến khu Đông Triều nếu chờ hỏi ý kiến Tổng bộ Việt Minh, e rằng quá muộn. Và ông muốn trực tiếp bàn bạc với sư Tuệ triển khai ngay, sau đó sẽ báo cáo lên Xứ ủy.

------------------
        1. Chu Lang tức Nguyễn Trọng Nhâm - tức Xuân Thuỷ.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 12:32:58 am
  
        Liền đó, Nguyễn Bình bảo Hoàng Ngọc Lương về Phương Mỹ mời sư Tuệ qua lại gặp ông. Nếu sư Tuệ đi rồi, thì đuổi theo gặp bằng được, hẹn ngày giờ, vị trí họp, để Nguyễn Bình sẽ tới gặp, bàn việc. Nguyễn Bình rút ví đưa cho Hoàng Ngọc Lương hai đồng bạc Đông Dương, để thuê xe đạp đi cho nhanh.

        Hoàng Ngọc Lương về đến Phương Mỹ (Thủy Nguyên, Kiến An, Hải Phòng) thì sư Tuệ đã vào Đông Triều. Hoàng Ngọc Lương đạp xe thẳng vào chùa Bác Mã, tìm gặp sư Tuệ thống nhất địa điểm để làm việc với Nguyễn Bình là chùa Phương Mỹ; thời gian họp là 8 giờ sáng ngày 8 tháng 4 năm 1945.

        Đúng ngày giờ quy định, Nguyễn Bình trong trang phục khách hành hương, tay xách giỏ hương hoa vào chùa Phương Mỹ. Sư Tuệ về đó từ đêm trước. Nguyễn Bình và Nguyễn Văn Tuệ bàn công việc với nhau trong diện Tam Bảo. Hoàng Ngọc Lương và sư cụ Lương Ngọc Trụ canh gác.

        Tại cuộc họp, Nguyễn Bình và Nguyễn Văn Tuệ đã nhất trí cho các vấn đề :

        1. Sáp nhập hai tổ chức của hai đường dây Việt Minh làm một, tập trung mọi khả năng, khẩn trương xây dựng chiến khu.

        2. Hoạch định kế hoạch xây dựng chiến khu, tuy chỉ mới là bước đầu và đơn giản, nhưng đã tương đối cụ thể. Ví dụ : hình thức tổ chức của chiến khu như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của ta lúc ấy, công việc của chiến khu có những gì cần làm ngay trước mắt...

        3. Nhiệm vụ chung là cả hai bên cùng tích cực, khẩn trương phát triển tổ chức, chọn người thích hợp đưa vào chiến khu. Giữa hai anh có sự phân công : Nguyễn Bình đặc trách việc tìm kiếm vũ khí. Sư Tuệ đặc trách vấn đề lương thực cả trước mắt và lâu dài.

        Cơm trưa xong, Nguyễn Bình chia tay sư Tuệ ra về và bắt tay ngay vào công việc.

        Bác Mã là một ngôi chùa cổ nằm cách quốc lộ 18 hơn một kilômét về phía bắc, cách huyện lỵ Đông Triều sáu kilômét về phía tây bắc. Trước chùa là cánh đồng rộng sát quốc lộ phía sau là cụm đồi rừng. Xa nữa về phía bắc bốn kilômét là núi Hổ Lao, rồi đến khu rừng già nối liền với dãy núi Yên Tử hiểm trở. Trụ trì chùa này là sư cụ Võ Giác Thuyên (còn gọi là sư Nguyệt), một người có học vấn khá và giàu lòng yêu nước, tính tình khí khái theo kiểu anh hùng hảo hán. Ông là thủ lĩnh đảng Bạch Xỉ. Đảng này chiêu tập một số thanh niên trong vùng, sắm sửa vũ khí, thỉnh thoảng đi cướp của nhà giàu quanh vùng đem chia cho nhà nghèo. Ông có uy tín trong giới tăng ni và các hào mục khu vực này.

        Theo lời khuyên của Nguyễn Bình, sư Tuệ trở lại chùa Bác Mã xúc tiến việc thành lập Chiến khu Đông Triều. Tại đây, sư Tuệ đã hợp sức với sư Võ Giác Thuyên, gây dựng cơ sở, thành lập tiểu đội "Du kích cách mạng quân", đội nghĩa quân đầu tiên của chiến khu do anh em dòng họ Mạc ở Hổ Lao làm nòng cốt. Cùng với sư Tuệ, các đồng chí Trần Cung, Hải Thanh... cũng ráo riết gây dựng cơ sở, tập hợp lực lượng tiến tới thành lập Chiến khu Đông Triều.

*

*       *

        Đầu tháng 4 năm 1945, Xứ ủy viên Trần Đức Thịnh, được Xứ ủy Bắc Kỳ phân công trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng các tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương. Trung tuần tháng 4, Trần Đức Thịnh về Hải Dương triệu tập cuộc họp các cán bộ Đảng của tỉnh tại Đông Thôn, huyện Thanh Miện. Tham dự cuộc họp có Nguyễn Văn Kha, Trần Cung, Nguyễn Công Hòa, Vũ Duy Hiệu và Hải Thanh. Trần Đức Thịnh phổ biến chỉ thị : "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" và nhận định các đồng chí phụ trách phong trào cách mạng Hải Dương hoạt động quá thận trọng, dè dặt, nên tình hình trong tỉnh còn trầm lặng. Hiện nay thời cơ đã đến rồi, phải xốc phong trào lên. Đồng chí nhắc chủ trương của Xứ ủy về việc xây dựng một chiến khu kháng Nhật ở vùng Duyên hải Đông Bắc, mà Hải Dương có vùng núi tiếp giáp với Bắc Giang là nơi để lập chiến khu. Qua thảo luận, các đại biểu nhất trí phải đẩy phong trào cách mạng Hải Dương lên cao cho kịp với các tỉnh bạn. Các đồng chí Trần Cung, Hải Thanh cho rằng Chí Linh, Đông Triều có tầm quan trọng về kinh tế và quân sự, là nơi có địa thế dụng võ nên đề nghị chọn hai huyện này để thành lập chiến khu. Đồng chí Trần Đức Thịnh cho biết : Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã quyết định tổ chức bốn chiến khu:

        - Chiến khu I gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn (đến tháng 4 năm 1945 đổi gọi là Chiến khu Lê Lợi).

        - Chiến khu II gồm các tỉnh : Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và một phần Lạng Sơn, Phú Thọ, Vĩnh Yên (sau gọi là Chiến khu Hoàng Hoa Thám).

        - Chiến khu III gồm các tỉnh : Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, một phần Sơn Tây (sau gọi là Chiến khu Quang Trung).

        - Chiến khu IV gồm : Móng Cái, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương (sau gọi là Chiến khu Trần Hưng Đạo).


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 10:56:37 pm
        
        Cuộc họp này còn công bố quyết định của Xứ ủy lập lại Ban Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Hải Dương gồm 5 người là : Nguyễn Văn Kha, Trần Cung, Nguyễn Công Hòa, Vũ Duy Hiệu và Hải Thanh. Hội nghị phân công Nguyễn Văn Kha làm Bí thư. Trần Cung phụ trách ba huyện Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà. Hải Thanh phụ trách ba huyện Đông Triều, Kinh Môn, Kim Thành. Sau hội nghị, có sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy mà đại diện là hai Tỉnh ủy viên phụ trách phong trào các phủ, huyện phía bắc, việc gây dựng cơ sở Việt Minh cũng được đẩy mạnh ở Chí Linh, Đông Triều, Nam Sách, Thanh Hà và phát triển sang cả đông bắc Kinh Môn, một phần Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An.

        Tại khu vực Mạo Khê, huyện Đông Triều và khu vực Nhị Chiểu, phủ Kinh Môn. Nguyễn Văn Đài1 sau khi ở tù về, tuy vẫn bị quản thúc, nhưng theo lời dặn của đồng chí Lê Thanh Nghị, vẫn đứng ra tổ chức các cơ sở Việt Minh ở khu mỏ này. Ông đã thành lập chi bộ Đảng ở đây và tổ chức được hai tổ Việt Minh. Tổ 1 do Nguyễn Đức Quất phụ trách hoạt động trong nhà máy. Tổ 2 do Tạ Quang Ngân phụ trách hoạt động ở mỏ Văn Lôi, Nhị Chiểu, phố Mạo Khê.

        Sau khi bắt liên lạc được với Nguyễn Bình, các cơ sở Việt Minh được mở rộng nhanh chóng trong các nhà máy, hầm lò, các làng có công nhân mỏ, mà còn được mở rộng sang cả khu gia đình công chức mỏ và phố Mạo Khê. Trước tình hình nạn đói nghiêm trọng hàng ngày cướp đi bao sinh mạng, thanh niên cứu quốc trong khu mỏ đứng ra quyên góp những gia đình khá giả, những nhà thầu khoán và lấy gạo trong kho của chủ mỏ để nấu cháo cứu đói cho dân. Thanh niên cứu quốc ở phố, các làng xung quanh tổ chức phá kho thóc của Nhật và thóc của các nhà kỳ hào đem chia cho dân nghèo. Lợi dụng danh nghĩa phòng chống phỉ, cơ sở Việt Minh nhà máy cơ khí tiến hành rèn giáo, mác để trang bị cho lực lượng tự vệ.

        Với những hoạt động tuyên truyền gây cơ sở của Nguyễn Văn Đài, các tổng Vạn Chánh, Kim Lôi, Đường Nham, Đích Sơn và thị trấn An Lưu cũng đã hình thành các tổ Việt Minh.

        Tại đồn bảo an binh Đông Triều, Nguyễn Bình và Nguyễn Văn Đài đã giác ngộ được Nguyễn Hiền đồn trưởng. Viên đồn trưởng này đã lợi dụng cương vị chỉ huy của mình để dò xét tư tưởng binh lính dưới quyền, phân loại đối tượng, tích cực tuyên truyền giác ngộ những ngụy binh có tinh thần yêu nước để họ sẵn sàng quay sang đi theo cách mạng.

*

*       *

        Cho tới trung tuần tháng 4 năm 1945, chiến tranh thế giới đã ở vào giai đoạn bại vong của phát xít Đức và ngày càng nguy ngập của phát xít Nhật. Hồng quân Liên Xô sau khi giải phóng đất nước mình, giải phóng một số nước Đông Âu, đã mở cuộc tổng tiến công vào thủ đô nước Đức phát xít. Trên chiến trường Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng bị lực lượng Đồng minh tiến công ráo riết. Ở nước ta, cao trào kháng Nhật cứu nước được dâng lên mạnh mẽ trên hàng loạt tỉnh ở Bắc Kỳ và nhiều tỉnh ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Trong đó rộ lên phong trào vũ trang phá kho thóc ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ, phong trào du kích ở vùng nông thôn Việt Bắc và các tỉnh phụ cận.

        Trước sự chuyển biến của cục diện chiến tranh thế giới và của phong trào cách mạng nước ta, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) từ ngày 15 đến 20 tháng 4 năm 1945 đã xác định : "Tình thế đã dặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ". Tiếp đó, bản nghị quyết của Hội nghị đề ra nhiệm vụ thứ nhất là cần phải vạch rõ và phân định nhiệm vụ của các chiến khu. trong đó có vấn để thành lập chiến khu thứ tư ở vùng Duyên hải Bắc Kỳ "Chiến khu Trần Hưng Đạo".

        Có lẽ tinh thần Nghị quyết này cùng bài thơ của Chu Lang (Xuân Thủy) là động lực mạnh mẽ thúc đẩy quyết tâm thành lập chiến khu của Nguyễn Bình. Sau khi thống nhất kế hoạch thành lập chiến khu ở Đông Triều với sư Tuệ, Nguyễn Bình về Hải Phòng sắp xếp chuyển toàn bộ hoạt động của CQ88 vào việc xây dựng chiến khu. Ông chia lực lượng thành hai bộ phận : Một bộ phận vào Đông Triều với sư Tuệ, một bộ phận ở Hải Phòng tiếp tục hoạt động.

        Hai cán bộ đầu tiên được cử sang Đông Triều để phối hợp với sư Tuệ là Đỗ Duy Phúc (tức Phúc Lộc) và Nguyễn Hoàn Long (tức Hùng Phong). Sau vụ ám sát tên Hồ Sĩ Trù - một tên tay say đắc lực của giặc Nhật ở bến dò Khuể do hai anh Phúc và Long thực hiện không thành công; sợ bị lộ, Nguyễn Bình điều hai anh sang Đông Triều gặp sư Tuệ ở chùa Bác Mã. Sau hai ngày tìm hiểu nắm tình hình, Đỗ Duy Phúc ở lại cùng sư Tuệ, Hải Thanh, còn Nguyễn Hoàn Long trở về Hải Phòng nhận nhiệm vụ tìm mua vũ khí ở Tiên Yên - Móng Cái. Mặc dù tình thế cấp bách phải xây dựng khu căn cứ, nhưng Nguyễn Bình vẫn không quên nhiệm vụ tìm mua vũ khí của Trung ương giao.

----------------------
        1. Trước là đảng viên Quốc dân đảng bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, là bạn tù của Nguyễn Bình, được đồng chí Lê Thanh Nghị kết nạp vào Đảng cộng sản năm 1937, sau đó bị địch bắt và được ra tù tháng 10-1944.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 11:13:59 pm

        Việc tìm mua vũ khí cũng lắm nỗi gian nan vất vả. Ngoài biện pháp chủ yếu là binh vận và đánh đồn trại của địch. Nguyễn Bình còn nắm được một nguồn vũ khí quan trọng ở Tiên Yên. Ở đây, Pháp đã xây ba đồn binh lớn trên ba quả đồi làm thế ỷ dốc cho biên giới hai tỉnh Móng Cái và Lạng Sơn. Ngày quân Nhật làm đảo chính, quân Pháp đã ném nhiều súng, đạn xuống sông, để tẩu thoát sang Trung Quốc. Hơn nữa, được Lê Bảy cho biết Tiên Yên còn là một chợ trời mua bán vũ khí từ Trung Quốc sang, cứ có tiền là mua được, Nguyễn Bình đã giao cho Hùng Phong phụ trách công việc quan trọng này.

        Lúc đầu, Hùng Phong phải dùng tiền mua; sau Hùng Phong cùng các đồng chí của ông vận động nhân dân ủng hộ. Từ đó, nhiều chuyến thuyền từ Đông Triều và Hải Phòng ra chuyển tải vũ khí về chiến khu. Việc chuyển tải bằng thuyền gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm vì bọn Nhật và bảo an ninh đóng ở Point Pagode (Mũi Chùa) cấm thuyền bè qua lại từ xẩm tối tới sáng. Có lần thuyền từ Tiên Yên ra phải đi thẳng sang Tài Xá cất giấu vũ khí rồi cho thuyền trở lại đậu qua đêm và trình giấy tờ để sáng hôm sau trở lại Tài Xá lấy vũ khí. Có lần đến Mũi Chùa, Lê Bảy và Hùng Phong bị lính Nhật và bảo an binh bắt giam, phải hối lộ tiền cho bảo an binh và bốn thúng muối cho quân Nhật mới thoát thân.

        Ở Hải Phòng, Nguyễn Bình và Dương Chính đã hai lần sang Mỹ Đức (An Lão) nhận 7 khẩu súng trường Mousqueton tháo rời, bó chiếu, do Quý đen giao cho. Hai người buộc súng vào xe đạp chuyển thẳng đến chùa Bác Mã.

        Để có vũ khí mạnh, Nguyễn Bình gặp Lê Phú1 bàn kế hoạch đánh chiếm pháo thuyền Com măng đăng Buốc đe (Canonnière Commandant Buordais) của Hải quân Pháp bị lọt vào tay Nhật. Phát xít Nhật đưa tàu này về đậu ở bờ sông Tam Bạc để tránh máy bay Mỹ ném bom. Kế hoạch đánh chiếm là dùng thuốc độc đầu độc lính Nhật rồi chiếm cả tàu và vũ khí. Nhưng kế hoạch này không thực hiện được. Nguyễn Bình quyết định phải tháo lấy hai khẩu đại liên để mang về chiến khu. Lê Phú đã cùng Hoàng Vinh và Hà Phượng Tiên2 tháo lấy được hai khẩu đại liên, một hộp băng đạn, một cuốn bản đồ đi biển, một viễn vọng kính đưa xuống một chiếc xuồng chèo vào bờ, rồi vác bộ qua sở dầu chừng 2 kilômét rẽ xuống sông Cấm. Nguyễn Bình đã cùng chiếc thuyền chờ sẵn ở đó, và tất cả xuống thuyền về chùa Ngọc Thanh làng Đạm Thủy.

        Nguyễn Bình còn lo tổ chức cho chiến khu một nhà máy in để in tài liệu và báo "Sóng Bạch Đằng". Biết sư Lương vốn là thợ in nên Nguyễn Bình giao cho sư Lương nhiệm vụ này. Sư Lương và Ngô Thế Ân đã vận động Lưu Văn Di - con cả ông Hàn Điềm ở Khinh Giao (huyện An Dương) ủng hộ 2 hòm chữ và 6 hòm ét-pát, một số súng và đạn bắn chim. Nguyễn Bình chỉ huy, Phạm Khang dẫn đường, Tư Thành kéo xe ba gác để nhận hàng, Dương Chính cầm súng ngắn quanh quẩn đầu ngõ Hàn Điềm để bảo vệ. Nhận hàng xong, Tư Thành kéo xe về nhà Nghiễm ở chợ Cột Đèn. Đồng chí Nghiễm cũng là bạn tù Côn Đảo được Nguyễn Bình giao việc in truyền đơn, áp phích.

        Cuối tháng 4 năm 1945, tại nhà Nguyễn Văn Đài ở phố Mạo Khê, Nguyễn Bình đã gặp Hải Thanh để bàn việc phối hợp hoạt động xây dựng lực lượng chuẩn bị cho việc thành lập chiến khu. Tiếp đó, Nguyễn Bình gặp cả Trần Cung, Hải Thanh ở chùa Bác Mã để thống nhất lực lượng cách mạng: Chí Linh - Đông Triều - Mạo Khê - Thủy Nguyên - Hải Phòng - Kiến An... nhằm chiếm lĩnh một địa bàn dài và rộng nối liền với chiến khu Bắc Giang để làm căn cứ.

        Được biết Nguyễn Bình và Dương Chính chuẩn bị vũ trang, xây dựng căn cứ du kích Đông Triều, đồng chí Đặng Văn Tỉnh cùng các đồng chí Vỹ, Khiêm, Tư Thành dùng thuyền của tổ Việt Minh do Tư Hàm phụ trách ra Cửa Ông đón tiểu đội Cai Hà3 vào Đông Triều.

        Tư Hàm (Nguyễn Quang Hàm) là cán bộ Việt Minh đã giác ngộ và tổ chức được một số ngư dân Đồ Sơn dùng thuyền thành lập tổ vận tải thủy. Chính tổ vận tải thủy này đảm nhiệm việc vận chuyển vũ khí từ Tiên Yên về Đông Triều. Sau ngày thành lập chiến khu, tổ vận tải đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyển quân trong những trận đánh Uông Bí, Bí Chợ và Quảng Yên. Họ cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp lương thực, thực phẩm tiếp tế cho chiến khu.

        Hạ tuần tháng 5 năm 1945, Nguyễn Bình bảo Dương Chính đưa Lê Hai và một số thanh niên cứu quốc ở Đồ Sơn, Kiến Thụy gồm có : Ngô Biền, Nguyễn Mục, Lưu Văn Cao, Đoàn Văn Thiềm cùng vào ở hẳn Đông Triều. Ở CQ88 lúc này có các đồng chí : Lê Phê, Lê Quốc Trọng, Bùi Ngọc Tiễu, Trần Ngọc Tràng, Trần Doãn Tắc và Trần Doãn Tòng cùng đồng chí Khoát là bảo vệ CQ88.

----------------------------
        1. Trước là đảng viên Quốc dân đảng bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, là bạn tù cua Nguyễn Bình, được đồng chí Lê Thanh Nghị kết nạp vào Đảng cộng sản năm 1937, sau đó bị địch bắt và được ra tù tháng 10-1944.

        2. Một nhân viên thủy quân lục chiến của Pháp đã giác ngộ cách mạng, là một nội ứng trên tàu.

        3. Sau Tổng khởi nghĩa, Hà Phượng Tiên là cán bộ đại đội trên đồn Cao, huyện Đông Triều.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Hai, 2017, 11:16:08 pm

        Chùa Bác Mã lúc này đã trở thành đại bản doanh của Ban cán sự Việt Minh khu căn cứ cách mạng Đông Triều. Tại đây đã mở lớp đào tạo cán bộ Việt Minh đầu tiên để đáp ứng nhu cầu mở rộng phong trào cho các phủ, huyện. Dương Chính được giao nhiệm vụ làm giảng viên. Sư Võ Giác Thuyên lo liệu hậu cần. Chương trình khóa đào tạo là 10 ngày, nhưng mới được ba ngày thì một sự kiện quan trọng diễn ra khiến lớp học phải dừng lại.

        Biết được lực lượng vũ trang cách mạng đang hoạt động mạnh ở Đông Triều, Chí Linh, phó tướng phỉ ở Đông Triều là Lương Đại Bân gửi thư cho mời Hải Thanh (tại lớp học chính trị ở chùa Bác Mã) sang trại Cổ Mạnh để bàn bạc công việc.

        Vừa để giữ quan hệ bình thường với cánh phỉ Lương Đại Bân, vừa để nắm tình hình của chúng, Hải Thanh và Trần Cung trực tiếp sang Cổ Mạnh gặp Lương Đại Bân. Điều quan trọng nhất mà Hải Thanh và Trần Cung biết được trong quá trình tiếp xúc với phó tướng phỉ là ngày 8 tháng 6 năm 1945 quân phỉ sẽ đánh huyện lỵ Chí Linh. Khi Hải Thanh cho biết lực lượng vũ trang cách mạng cũng có kế hoạch đánh Chí Linh và một số đồn Nhật dọc đường 18, thì Lương Đại Bân đề nghị ông đưa lực lượng đến để tướng phỉ thống nhất chỉ huy - với lý do trình độ tổ chức tác chiến của lực lượng vũ trang cách mạng ở Chí Linh, Đông Triều còn non. Điều này thì Hải Thanh và Trần Cung không đồng ý, với lý do phải xin ý kiến cấp trên.

        Trở về chùa Bác Mã, đang tính chuyện tìm một giải pháp tối ưu, triệt để chớp thời cơ, khi chưa có ý kiến của xứ ủy, thì may mắn Nguyễn Bình xuất hiện. Đêm hôm đó, ngay trước điện Phật chùa Bác Mã, một cuộc họp khẩn cấp diễn ra giữa Nguyễn Bình, Hải Thanh và Trần Cung. Khi bàn đến vấn đề phỉ, cả ba đều nhận định lực lượng phỉ dọc đường 18 hầu hết mang màu sắc chính trị : ăn cướp, làm tướng, nếu quân Trung Hoa vào thì làm quan; do đó chúng mới gạ gẫm hợp tác với lực lượng vũ trang cách mạng. Khách quan mà nói, lực lượng ta ở Chí Linh - Đông Triều lúc đó còn yếu, chưa thể cùng lúc tiêu diệt nhiều kẻ thù. Biết rõ ý đồ của chúng, ta phải triệt để tranh thủ sử dụng, nhưng hạn chế không cho phỉ cướp của, giết dân; cảm hóa chúng theo chính nghĩa. Nếu chúng vẫn giữ bản chất lưu manh; khi có thực lực, ta sẽ quét hết phỉ, thu toàn bộ vũ khí.

        Muốn tranh thủ, sử dụng phỉ, lúc này ta cần nhường cho chúng lấy Chí Linh; còn ta tập trung lực lượng đánh Đông Triều, Mạo Khê, Tràng Bạch.

        Hội nghị quyết định : ngày 8 tháng 6, Chiến khu Trần Hưng Đạo khởi nghĩa. Mặc dù đã thống nhất quyết định ngày khởi nghĩa, nhưng Nguyễn Bình, Hải Thanh và Trần Cung, với ý thức tổ chức kỷ luật đều thấy việc khởi nghĩa, thành lập chiến khu là một việc lớn, hệ trọng, cần phải được sự phê chuẩn của Xứ ủy. Nhưng trong lúc này, chờ quyết định của trên mà không quyết đoán, cũng chẳng khác nào để quả chín trên cây tự rụng xuống đất, vỡ tan tành. Bởi vậy, ba ông quyết định khởi nghĩa, và dám chịu kỷ luật trước Đảng, nếu như có gì sai sót.

        Hôm sau Nguyễn Bình đi Hải Phòng ngay để chuẩn bị thêm vũ khí, băng, cờ cho lực lượng khởi nghĩa. Trần Cung và Hải Thanh gặp các nhóm học viên lớp huấn luyện chính trị để phổ biến nghị quyết khởi nghĩa và phân công anh chị em về địa phương chuẩn bị hưởng ứng. Cả khu căn cứ sôi động hẳn lên. Chùa Bác Mã những ngày này được canh phòng, bảo vệ chu đáo và trở thành đại bản doanh của Ban lãnh đạo khu căn cứ.

        Đến ngày 7 tháng 6 năm 1945, phần lớn những công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa đã được hoàn tất. Sân chùa Bác Mã đầy những gạo, bò, lợn do nhân dân địa phương đem đến cung cấp cho nghĩa quân.

        Buổi tối Ban lãnh đạo khu căn cứ họp kiểm điểm việc chuẩn bị và bàn phương án đánh chiếm các vị trí địch và phân công :

        - Hải Thanh và Lê Hai mang theo các chỉ thị, truyền đơn cách mạng đến huy động các lực lượng vũ trang của địa phương phối hợp với quân phỉ của Lương Sâm đánh đồn Chí Linh.

        - Nguyễn Bình, Dương Chính và Hùng Phong phối hợp với đồn trưởng bảo an binh Nguyễn Hiền hạ đồn Đông Triều và giải phóng huyện lỵ Đông Triều.

        - Trần Cung, Lê Phú và Phan Mạnh Hà tổ chức đánh đồn Tràng Bạch và Nguyễn Văn Đài chỉ huy giải phóng khu mỏ Mạo Khê, thu súng của sở mỏ.

        Cuộc họp còn nhận thấy cơ sở Việt Minh, ở phủ Kinh Môn đã phát triển khá mạnh, quyết định tịch thu vũ khí địch ở phủ lỵ Kinh Môn và giao cho sư Tuệ thực hiện.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:37:14 am

        Rạng sáng ngày 8 tháng 6 năm 1945, tất cả các mũi đều nhất loạt tiến công theo kế hoạch tác chiến đã định sẵn. Giải phóng đến đâu lật đổ chính quyền cũ và thành lập chính quyền cách mạng đến đó.

        Riêng lực lượng nghĩa quân lấy đồn Đông Triều tập trung ở chùa Bác Mã, khi xuất phát trên cánh tay trái mỗi người đều đeo một băng vải đỏ có ba chữ "Việt Minh quân" thêu bằng chỉ vàng. Nguyễn Bình cài ở ngực một phù hiệu vải đỏ hình chữ nhật thêu ba chữ "TCH" (Tổng chỉ huy) cũng bằng chỉ vàng. Khi đoàn quân đến ngã tư huyện lỵ, Nguyễn Bình cho bắn bốn phát súng vừa nhằm thị uy vừa làm hiệu lệnh cho nghĩa quân xông lên chiếm đồn bảo an binh. Đồn trưởng Nguyễn Hiền ra đón và lệnh cho hai lính gác mở to cổng đồn để nghĩa quân tiến vào. Chỉ trong chốc lát nghĩa quân đã chiếm xong đồn, cắm cờ đỏ sao vàng trên nóc lô cốt, tịch thu toàn bộ hơn 50 khẩu súng trường cùng đạn dược; 40 binh sĩ được tập trung tại sân nghe Nguyễn Bình giải thích về đường lối cứu nước của Mặt trận Việt Minh, tuyên bố từ nay chính quyền tay sai của Nhật đã bị giải tán, kêu gọi mọi người hãy đi theo Việt Minh chống Nhật cứu nước. Một số cai và lính tình nguyện di theo cách mạng sung vào hàng ngũ nghĩa quân. Số binh sĩ còn lại vì hoàn cảnh gia đình khó khăn xin được về quê và được cấp lộ phí.

        Trong khi chủ lực chiếm đồn trên sườn đồi đông nam thì một tiểu đội nghĩa quân do Dương Chính và Hùng Phong chỉ huy tiến lên sườn đồi phía tây bắc chiếm huyện đường, tước súng đạn của lính cơ; một tiểu đội khác do Lê Tâm (Ngô Xuân Lựu) chỉ huy tiến lên ngọn đồi phía bắc chiếm nhà Dây thép và tỏa ra các ngả đường cắt dây điện thoại.

        Lấy đồn xong, nghĩa quân liền mở kho thóc ở huyện lỵ để cứu đói cho dân. Tiếp đó, Nguyễn Bình giao nhiệm vụ cho một tổ nghĩa quân do Vũ Đình Thiệp chỉ huy, được trang bị đầy đủ súng ống vừa mới tịch thu trong kho của đồn, tiến nhanh về phía bến đò Triều bắt giữ ba thuyền thóc mà hôm qua huyện trưởng Đỗ Văn Cang nộp cho Nhật, nhưng bọn lính áp tải chưa kịp chở đi. Sau đó một cuộc mít tinh, quần chúng được tổ chức ngay tại ngã tư cổng huyện. Thay mặt Ban chỉ huy khởi nghĩa. Nguyễn Bình tuyên bố giải tán chính quyền tay sai Nhật, thành lập "Đệ tứ chiến khu" và kêu gọi đồng bào hăng hái tham gia Mặt trận Việt Minh, gia nhập hàng ngũ "Du kích cách mạng quân". Cũng tại cuộc mít tinh này huyện trưởng Đỗ Văn Cang và viên nghị Tuệ bị đưa ra xét xử công khai trước quần chúng nhân dân. Do tội lỗi của chúng chưa nhiều. Ban chỉ huy khởi nghĩa thể theo ý kiến của nhân dân, đã tha thứ cho hai tên tay sai này.

        Trong khi cánh quân do Nguyễn Bình chỉ huy đánh đồn Đông Triều giành thắng lợi thì lực lượng do các đồng chí Hải Thanh, Lê Hai chỉ huy phối hợp với quân phỉ tiến công huyện lỵ Chí Linh và cánh quân của Trần Cung, Lê Phú đánh đồn Tràng Bạch, tuy có gặp khó khăn nhưng cũng giành thắng lợi.

        Chiều ngày 8 tháng 6 năm 1945, các đoàn quân khởi nghĩa cùng những binh sĩ mới tình nguyện quay súng về với cách mạng đều tập trung đông đủ tại làng Hổ Lao trong không khí tưng bừng của ngày hội chiến thắng. Ông bá Niết cùng đồng bào địa phương đóng góp gạo, bò, lợn, tổ chức khao mừng thắng lợi.

        Buổi chiều tại đình Hổ Lao, Ban lãnh đạo khởi nghĩa họp kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch khởi nghĩa và đề ra những nhiệm vụ trước mắt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chiến khu. Cuộc họp quyết định thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng gồm 4 người để lãnh đạo mọi mặt công tác. Ủy ban phân công :

        - Hải Thanh : Bí thư thường trực ủy ban Quân sự cách mạng, phụ trách công tác chính trị.

        - Nguyễn Hiền : ủy viên quân sự.

        - Nguyễn Bình: ủy viên kinh tế (tài chính, quân nhu, vũ khí).

        - Trần Cung : ủy viên phụ trách công tác dân vận, xây dựng chính quyền và liên lạc với cấp trên.

        Nhân đà thắng lợi, Ban lãnh đạo chiến khu quyết định tiến hành tước vũ khí địch ở phủ lỵ Kinh Môn mà sư Tuệ chưa làm được và giao cho Lê Tâm tổ chức lực lượng Việt Minh tại chỗ thực hiện nhiệm vụ này vào sáng ngày 10 tháng 6.

        Thành tích đánh thắng cùng một lúc bốn đồn binh địch ở Đông Triều, Chí Linh, Mạo Khê, Tràng Bạch là chiến công vang dội, đánh dấu ngày chính thức ra đời của "Đệ tứ chiến khu Trần Hưng Đạo" (gọi tắt là Chiến khu Trần Hưng Đạo) một căn cứ địa có ý nghĩa và tầm quan trọng về nhiều mặt trong giai đoạn tiền khởi nghĩa và trong Cách mạng tháng Tám ở vùng Duyên hải Đông Bắc Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:39:24 am

        Việc thành lập chiến khu là một việc ngoài dự kiến của Xứ ủy, vì cuối tháng 4 Tỉnh ủy lâm thời Hải Dương tuy chấp nhận đề nghị của Trần Cung và Hải Thanh về việc thành lập Chiến khu Đông Triều, nhưng Xứ ủy viên Trần Đức Thịnh cho cho rằng đây là một vấn đề rất lớn, cần phải xem xét tình hình cụ thể tại chỗ và báo cáo lên Thường vụ Xứ ủy, chờ được sự chuẩn y mới tiến hành. Xứ ủy viên Trần Đức Thịnh đã cùng Trần Cung và Hải Thanh vào Chí Linh - Đông Triều - Mạo Khê thị sát tình hình phong trào tại chỗ. Đại diện Xứ ủy đã thấy rõ sự cần thiết phải thành lập chiến khu trên địa bàn này. Đồng chí chỉ thị cho hai Tỉnh ủy viên phụ trách phong trào trong khi chờ đợi quyết định chính thức của Thường vụ Xứ ủy cần phải xúc tiến việc xây dựng cơ sở rộng hơn nữa và bắt đầu tập hợp các đội tự vệ và cơ sở vũ trang lại. Đồng chí còn nói sẽ đề nghị cấp trên cử một cán bộ có kinh nghiệm lập chiến khu về giúp đỡ. Nhưng tình hình phong trào chuyển biến quá mau lẹ, ban lãnh đạo căn cứ đã nhạy bén nắm chắc thời cơ và đã lãnh đạo khởi nghĩa thắng lợi trước khi có quyết định của Thường vụ Xứ ủy. Cho mãi tới chiều ngày 18 tháng 6, Xứ ủy viên Trần Đức Thịnh, có một tự vệ đi cùng từ Bắc Ninh tới chùa Bác Mã để gặp Ban lãnh đạo khu căn cứ để truyền đạt ý kiến của Thường vụ Xứ ủy về việc xúc tiến thành lập "Đệ tứ chiến khu" lấy Đông Triều - Chí Linh làm trung tâm.

        Sau khi gặp Ban lãnh đạo Chiến khu, Xứ ủy viên Trần Đức Thịnh dã góp ý với Ban lãnh đạo chiến khu trên mấy vấn đề quan trọng :

        + Đã lập chiến khu thì phải giành lấy thắng lợi liên tục, nếu thoái thủ là dễ đi đến thất bại.

        + Phải tăng cường giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự cho du kích. Du kích quân phải làm cho nhân dân thương yêu, quý trọng và giúp đỡ về mọi mặt.

        + Phải khẩn trương củng cố tổ chức, phiên chế du kích quân từng tiểu đội, trung đội theo lối tam tam chế, phải nắm vững danh sách từng dội viên và cán bộ chỉ huy từ tiểu đội trở lên. Dùng khả năng của anh em binh lính cũ để hướng dẫn cho anh em tự vệ và thanh niên mới ngập ngũ.

        + Đối với bọn phỉ, cần tiếp tục liên lạc và kiềm chế chúng, tiến tới phán hóa chúng bằng thuyết phục. Ráo riết trừng trị bọn Việt gian.

        Thường xuyên có mặt tại Ủy ban quân sự cách mạng là Hải Thanh và Ủy viên quân sự Nguyễn Hiền. Còn Ủy viên kinh tế Nguyễn Bình thường đi lại Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên để liên hệ, phối hợp với các tổ chức Việt Minh, thúc đẩy phong trào hoạt động cách mạng các địa phương, mở rộng địa bàn và tổ chức các trận đánh đồn, diệt địch để tước vũ khí trang bị cho quân du kích.

        Từ sau ngày đánh đồn Chí Linh, bọn trùm phỉ đã đổi vị trí đóng quân của chúng từ rừng sâu ra gần đường cái hơn. Bản doanh của chánh tướng Lương Sâm rời Hố Sếu xuống đồn điền Bắc Nội, một thung lũng trù phú cách Hố Sếu sáu kilômét. Bản doanh của phó tướng Lương Đại Bân cũng từ Cổ Mệnh ra đóng ở Lộc Đa cách đường 18 chừng bốn kilômét. Mặc dù bọn tướng phỉ từng cam kết là cùng nhau hợp tác chống Nhật và không quấy nhiễu, cướp bóc nhân dân nữa, nhưng ngay sau khi tới vị trí đóng quân mới, bọn phỉ lại liên tục gây các vụ cướp bóc mới. Ban lãnh đạo chiến khu đã kịp thời ngăn chặn và kiên quyết trừng trị chúng.

        Đêm 18 tháng 6, khi cơ quan chiến khu cùng trung đội của Nguyễn Quý Đôn đang hành quân lưu động thì được báo tin đêm qua bọn phỉ đã đến cướp bóc ở làng Vẻn (làng An Biên), Nguyễn Quý Đôn liền chỉ huy đơn vị canh gác, chặn đường và bắt sống 9 tên phỉ vai đeo súng, gồng gánh các thứ cướp của đồng bào. Ban lãnh đạo chiến khu lập Tòa án nhân dân xét xử và đem 5 tên ra chợ Ngái (Chí Linh), 4 tên ra chợ Cột (Đông Triều) tuyên đọc tội trạng của chúng trước đồng bào rồi xử bắn...

        Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Đông Triều - Chí LInh - Kinh Môn làm cho bọn chỉ huy Nhật và nguy quyền tỉnh Hải Dương lo sợ. Chúng điều động lực lượng mở nhiều cuộc càn quét vào sâu chiến khu.

        Ngày 10 tháng 6, trinh sát ta báo quân Nhật đến phố huyện Đông Triều. Tại xã Hổ Lao, do chưa kịp củng cố sắp xếp lại lực lượng, ta phải rút lên chùa Ngọa Vân, chân núi Yên Tử. Tại đây, Trần Cung và Hải Thanh chủ trương giải tán quân du kích về địa phương. Nguyễn Bình thì khác, chủ trương giữ lại một bộ phận nòng cốt để phát triển. Đem ra trưng cầu ý kiến anh chị em, mọi người tán thành chủ trương của Nguyễn Bình. Chẳng phải anh chị em có kiến thức quân sự, mà họ là thanh niên, vốn hăng hái thôi.

        Có vậy về sau mới có những chuỗi chiến thắng : Uông Bí, Bí Chợ, Quảng Yên...


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 10:43:21 am

        Ngày 16 tháng 6, ba xe ô tô chở quân Nhật tiến công vào Bắc Nội vì chúng tưởng lầm là nơi đóng quân sở chỉ huy chiến khu. Mấy tay súng máy giặc Nhật chỉ trong chốc lát bắn gục tại chỗ hàng chục tên phỉ cùng chánh tướng Lương Sâm.

        Nghe tiếng súng nổ trong Bắc Nội, biết là quân Nhật đánh vào sào huyệt phỉ, một trung đội du kích nhanh chóng tổ chức trận địa phục kích. Khi quân Nhật từ Bắc Nội kéo ra bãi để xe, các tổ du kích đồng loạt nhả đạn vào đội hình giặc, một tên quan hai bị bắn chết và năm tên lính bị thương. Bị đánh bất ngờ, bọn Nhật phải co cụm lại chống trả, vừa bắn vừa tìm đường rút lui.

        Lúc này ở phía Thủy Nguyên, lực lượng Việt Minh vùng Thượng Huyện, dưới sự chỉ huy của Bùi Tống Thủy và có một tiểu đội du kích Kinh Môn sang trợ lực, gấp rút triển khai kế hoạch tước vũ khí địch trong phủ lỵ. Viên phủ trưởng Nguyễn Quang Tạo1 lấy cớ về tỉnh lỵ Kiến An gặp tỉnh trưởng coi như không biết sự việc xảy ra tại huyện mình. Chiều 17 tháng 6, lực lượng nghĩa quân khởi sự. Một tổ được lệnh đi gài mìn và chuẩn bị vật cản ở hai đầu cầu Trịnh Xá phòng khi quân Nhật từ núi Đèo đánh tới. Gần hai tiểu đội áp sát cổng phủ đường sẵn sàng chờ hiệu lệnh. Sư Lương đóng vai sĩ quan Nhật và Nguyễn Thế Dĩnh đóng vai thông ngôn cùng tiến vào phủ đường. Qua cổng gác, viên "thông ngôn" cho biết "quan Nhật" về huyện kiểm tra súng đạn, đòi viên cai - vốn là hội viên cứu quốc ra lệnh cho binh lính đem hết súng đạn ra sân để kiểm tra. Khi tiểu đội lính cơ đã tập trung đầy đủ súng đạn, viên "quan Nhật" liền rút súng ngắn và thổi còi hiệu. Nghĩa quân từ ngoài cổng nhanh chóng ập vào tước hết súng đạn. Bấy giờ Hoàng Ngọc Lương mới tuyên bố đây là đại diện quân du kích Đệ tứ chiến khu đến tước vũ khí của đồn, ai chống cự sẽ bị trừng trị. Đa số binh lính là hội viên cứu quốc hoặc có cảm tình với cách mạng nên vui mừng, số còn lại không dám hành động gì. Đoàn quân khởi nghĩa ra tới phố huyện; Bùi Tống Thủy tuyên bố đây là du kích cách mạng quân tới đánh Nhật, cứu nước, đề nghị đồng bào yên tâm làm ăn, có quân cách mạng gần gũi bảo vệ.

        Ngày 18 tháng 6, lực lượng khởi nghĩa bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng huyện Thủy Nguyên do Hoàng Ngọc Lương làm Chủ tịch. Hoàng Ngọc Lương cùng phần lớn lực lượng nghĩa quân đem theo súng sang Đông Triều. Dọc đường gặp sáu thuyền chở thóc thuế của Nhật trên sông Kinh Thầy, nghĩa quân tịch thu đưa cả vào bến Triều, bàn giao cả lương thực và chiến lợi phẩm cho đại diện Ủy ban Quân sự cách mạng của chiến khu là Hải Thanh tại chùa Bác Mã. Xong việc, sư Lương quay trở lại Thủy Nguyên để lãnh đạo phong trào.

        Mấy ngày sau, phủ trưởng Nguyễn Quang Tạo lại tìm cách xin tỉnh trưởng Kiến An và bọn chỉ huy Nhật ở núi Đèo cấp thêm 15 khẩu súng trường và cho ô tô chở tới đồn trong phủ lỵ. Nguyễn Quang Tạo lập tức báo tin cho Hoàng Ngọc Lương cử người đón đưa số binh lính cùng vũ khí vào chiến khu theo du kích.

        Thắng lợi trong trận chống quân Nhật càn quét lần thứ hai vào chiến khu của quân du kích, cùng với việc giành chính quyền bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng huyện Thủy Nguyên càng làm cho thanh thế của Chiến khu Trần Hưng Đạo lan xa hơn, không chỉ ở vùng Duyên hải Đông Bắc mà ngay cả các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Nhiều cơ sở Việt Minh cử cán bộ về bắt liên lạc, phối hợp cùng chiến khu thống nhất hành động. Nhiều thanh niên ở Hải Phòng, Hà Nội, Hưng Yên tìm về chiến khu xin gia nhập hàng ngũ du kích. Ủy ban Quân sự cách mạng Chiến khu Trần Hưng Đạo quyết định mở rộng phạm vi hoạt động tới các vùng ven biển Quảng Yên, Hải Phòng, Kiến An. Mục tiêu được chọn đánh trước là đồn bảo an binh Uông Bí và Trại huấn luyện sĩ quan của bọn Đại Việt ở Bí Chợ. Uông Bí nằm về phía tây bắc tỉnh Quảng Yên. Các mỏ than ở đây do Pháp quản lý. Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật duy trì sản xuất than qua bộ máy điều hành sản xuất của Pháp. Giữa năm 1930 đã có chi bộ Đảng Cộng sản hoạt động trong công nhân lò, cơ khí, sàng tuyển than. Lúc này số hội viên cứu quốc Uông Bí đã có hơn 50 người. Thời gian này, Việt Minh ở Uông Bí đã có ý thức chuẩn bị vũ trang như huấn luyện quân sự, sắm vũ khí và vận động binh lính. Từ thượng tuần tháng 6 năm 1945, Nguyễn Bình thường xuyên qua lại Uông Bí để nắm cơ sở cách mạng và nắm tình hình hoạt động của trại thanh niên Đại Việt Bí Chợ và đồn binh Uông Bí.
       
        Trại thanh niên Đại Việt ở Bí Chợ do viên quan hai Nhật chỉ huy huấn luyện, đây cũng là trường đào tạo sĩ quan của đảng Đại Việt do xếp Sâm phụ trách. Trại này thường xuyên có 70 học viên và án ngữ trên trục đường 18, chếch về phía bắc phố Uông Bí. Trong trại có Bùi Sinh là người của Việt Minh do Nguyễn Bình và Dương Chính cài vào để làm công tác binh vận. Sau một thời gian, Bùi Sinh đã làm quen với Nguyễn Văn Mộc - một trong số ba trung đội trưởng của trại và là một nhân mối đáng tin cậy của ta. Sau khi nắm tình hình trại, Bùi Sinh viết báo cáo và đề nghị phương án đánh trại gửi về chiến khu cho Nguyễn Bình.

-------------------------
        1. Nguyễn Quang Tạo đã được Hoàng Ngọc Lương giác ngộ là người của Việt Minh.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:40:50 pm

        Nhận được báo cáo, Nguyễn Bình phái nữ đồng chí Lê Thị Bích đến Bí Chợ và đưa Bùi Sinh về Đông Triều để bàn cách đánh trại.

        Từ trại thanh niên Đại Việt xuôi về phía đông nam theo trục đường 18 là đồn Uông Bí. Đồn đóng trên một đồi cao, cây cối xanh tốt. Dưới chân đồi ở hướng đông nam là ngã ba sông. Ở điểm cao khống chế này, địch có thể kiểm soát toàn bộ hoạt động trên sông và trung tâm thị trấn Uông Bí. Đồn Uông Bí có 4 viên sĩ quan và một lính Nhật chỉ huy 80 lính bảo an binh và lính khố đỏ. Trong đồn có cai Dung là nhân mối của chiến khu và đội xếp Cẩn, đội nhì Kinh là những người có cảm tình với cách mạng.

        Ngày 28 tháng 6 năm 1945, Ban lãnh đạo chiến khu quyết định cùng một lúc đánh trại thanh niên Đại Việt ở Bí Chợ và đồn Uông Bí. Lực lượng đánh trại Bí Chợ là một tiểu đội du kích của chiến khu do Nguyễn Bình trực tiếp chỉ huy. Theo kế hoạch, khi tiểu đội du kích đến điểm tập kết cách đồn Trại chừng ba kilômét thì có Bùi Sinh từ đồn ra đón đưa đội du kích vào khu vườn của đồn. Ở đây Bùi Sinh và Nguyễn Văn Mộc vào đồn lấy súng ra trang bị đủ cho lực lượng du kích vào đánh chiếm đồn.

        Ngày 29 tháng 6, Bùi Sinh trở về đồn để đêm 30 tháng 6 đón đội du kích của Nguyễn Bình, thì nhận được tin có kẻ nghi ngờ Bùi Sinh, chờ tên quan hai Nhật để báo cáo với nó về mối nghi ngờ này. Lập tức, Bùi Sinh tìm Nguyễn Văn Mộc bàn cách đối phó. Buổi chiều, khi tên quan hai Nhật về, Nguyễn Văn Mộc gặp nói với y phải đi ngay Hòn Gai theo lệnh quan tư Nhật. Viên quan hai tất tưởi chuẩn bị đi ngay. Khoảng 11 giờ đêm, theo hiệp đồng, Bùi Sinh ra cách đồn khoảng 3 kilômét đón du kích. Đêm tối, trời mưa to nên gần một nửa đội du kích bị lạc. Bùi Sinh bổ đi tìm gần một giờ nhưng không thấy đành quay lại. Nguyễn Bình ra lệnh đưa lực lượng còn lại vào đồn. Không có cách nào khác, còn sáu người cũng đánh. Theo đồng chí Bùi Sinh kể lại : "Tới hàng rào, tôi chui vào vườn tìm Mộc. Mộc vẫn ngồi đợi tôi trong miếu con ở giữa vườn. Thấy tôi về, Mộc mừng lắm hỏi : "Anh em tới chưa ?". Tôi đáp : "Tới rồi, việc cậu đã làm xong chưa ?". Mộc nói : "Đã cho cát vào hai khẩu trung liên. Đợi mãi không thấy cậu về, tớ lo quá". Tôi trao đổi nhanh với Mộc : "Đội du kích lạc mất một nửa rồi. Mình đi tìm mãi không thấy. Còn có sáu người. Bây giờ chia nhau mỗi người chịt một buồng. Mình với cậu và hai du kích chịt bốn buồng trên gác, còn anh em khác chịt bốn buồng dưới nhà. Cậu vào lấy hai khẩu tiểu liên ra đi. Mình dẫn anh em vào đây rồi sẽ lấy bốn súng trường ra sau".

        Tôi ra ngoài, dẫn du kích chui vào trong miếu. Sau đó chạy vào lấy bốn khẩu súng trường và một bao đạn ra. Lê Phú giữ một tiểu liên, tôi giữ một tiểu liên. Đồng chí Bình và Mộc, mỗi người một khẩu súng ngắn. Bốn khẩu súng trường chia cho bốn đồng chí khác. Bao đạn lấy ra chia cho bốn khẩu súng trường, mỗi khẩu được có hai, ba viên. Phân phối vũ khí xong thì trời mờ sáng, tôi chỉ kịp cho Nguyễn Bình và Lê Phú dẫn hai du kích đánh vào bốn gian ở tầng dưới, thì kẻng báo thức vang lên. Đã đến giờ dậy rồi. Đánh hay rút ? Chúng tôi không ai bảo ai đều nhìn vào đồng chí Nguyễn Bình.

        - Đánh! - đồng chí Nguyễn Bình khoát tay ra lệnh. Chúng tôi từ vườn chạy ập vào tòa nhà hai tầng. Tên gác cổng thấy động quay vào trong đồn, nhìn thấy chúng tôi nhưng nó chưa kịp hiểu là chuyện gì, thì chúng tôi đã người lên gác, người dưới nhà, vừa bắn chỉ thiên vừa hét :

        - Việt Minh đã đến! Muốn sống nằm yên!

        Một số tên nghe kẻng báo thức đã lóp ngóp bò dậy, một số tên đang nằm nán, nghe tiếng súng, tiếng hét, liền nằm im không nhúc nhích. Mùi thuốc súng khét lẹt trong tòa nhà hai tầng. Tiếng súng nổ trong nhà nghe âm như tiếng đại bác. Một tên huấn luyện viên người Việt vùng dậy định lấy súng đối phó thì Mộc đã kịp thời nhảy tới, giằng lại súng quật ngã nó...

        Cuộc chiến đấu kết thúc rất nhanh chóng. Chỉ độ năm phút sau, tất cả hai trung đội địch bị tám người của ta dồn gọn vào một căn buồng dưới nhà. Bọn chúng vẫn còn run sợ, mặt cắt không còn hột máu. Đồng chí Nguyễn Bình lệnh cho chúng ra sân tập hợp. Trời đã sáng rõ. Lúc này tôi mới để ý đến cách ăn mặc của đồng chí Nguyễn Bình : quần áo nâu, quần xắn móng lợn ống cao ống thấp, đầu trần, chân đi đất, mắt đeo kính đen, trông thật là một con người bình thường nhưng lại rất oai phong, đang đứng trước đám tù binh. Đồng chí rút ở thắt lưng ra một lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ chỉ to bằng một vuông vải, nhưng nó có sức truyền cảm làm tôi xúc động vô cùng, toàn thân như có một luồng điện chạy qua, mắt đăm đăm nhìn lá cờ không chớp. Đó là lần đầu tiên tôi trông thấy lá cờ đỏ sao vàng.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:44:06 pm

        Đồng chí Nguyễn Bình, tay giơ cao lá cờ, ôn tồn giải thích cho đám tù binh :

        - Nhật đảo chính Pháp, chỉ là chuyện hai con chó cắn nhau. Nước ta nô lệ vẫn hoàn toàn nô lệ. Bọn Đại Việt và Quốc dân đảng phản động ôm chân phát xít Nhật, lợi dụng tiếng "Việt Nam độc lập" lừa dối anh em đi lính làm bia đỡ đạn cho Nhật. Chúng tôi, những người Việt Minh, chủ trương đánh Nhật, cứu nước. Các anh em đều là người Việt Nam, chỉ vì bị lừa dối đi lính cho chúng. Chúng tôi không giết hại anh em. Ai muốn theo chúng tôi thì đi, ai muốn về chúng tôi phát tiền lộ phí cho về, chỉ khuyên anh em một điều là từ nay về sau đừng đi lính cho giặc nữa.

        Ánh hào quang của lá cờ đỏ sao vàng và lời lẽ ôn tồn của đồng chí Nguyễn Bình đã chiếu rọi vào lòng những con người bị lừa gạt này. Nét mặt họ dần dần tươi tỉnh lại.

        Trước sau chỉ có ba lần gặp anh mà với trọng trách người chỉ huy một chiến khu, đã dám đưa năm du kích với hai súng ngắn, cùng tôi xông vào diệt đồn Bí Chợ có một đại đội địch thì quả thật anh như người tay không xông vào hang hùm, diệt bầy cọp dữ. Chỉ cần qua một trận đánh đó cũng đủ nói lên cái đức, cái tài, cái dũng, cái nhân của anh Nguyễn Bình..."1.

        Trận này ta thu trên 100 súng, trong đó có hai trung liên, hai tiểu liên Tomxơn cùng toàn bộ quân trang, quân dụng, đạn dược. Có bốn người xin theo du kích cách mạng quân.

        Lực lượng đánh đồn Uông Bí có năm người trang bị năm súng ngắn, ăn mặc kiểu lính bảo an, do Nguyễn Quý Đôn chỉ huy. Chiều 29 tháng 6, đội du kích xuống thuyền, xuôi dòng Đá Bạc, qua Mạo Khê, bến đò Đụn, rồi qua cầu Đá Bạc. Trời sáng, thuyền đi lẫn vào các thuyền đánh cá của dân. Tối 30 tháng 6, thuyền tiếp tục xuôi dòng, đến cửa sông Uông Bí thì gặp thuyền Nguyễn Bình. Nguyễn Bình bổ sung và nói rõ thêm nhiệm vụ đánh đồn Uông Bí cho Nguyễn Quý Đôn. Đến Uông Bí, anh em lên hết bờ thì đã có nhân mối ra đón. Khi thuyền cập bến, Nguyễn Bình lên bờ và giới thiệu cai Dung, cơ sở cách mạng với Nguyễn Quý Đôn.

        Được đội Cẩn, đội Kinh và cai Dung làm nội ứng, lực lượng đánh Uông Bí chỉ 5 người, do Nguyễn Quý Đôn chỉ huy đã lập công xuất sắc. Toàn bộ quân Nhật bị diệt gọn, ta thu hơn 60 súng trường, 3 súng máy cùng nhiều đạn dược, thuốc men. Lính khố đỏ không ai chống cự, cả 9 người đều tình nguyện xin gia nhập du kích. Riêng đội Cẩn, đội Kinh cùng 60 lính bảo an ở lại Uông Bí. Đoàn quân chiến thắng nhanh chóng rời khỏi đồn, hành quân về chiến khu nhờ một xe ô tô chở chiến lợi phẩm.

        Chiến thắng Uông Bí và Bí Chợ tiếp tục tạo thế và lực mới cho lực lượng chiến khu mở hướng phát triển về phía Quảng Yên, Hòn Gai, Hải Phòng và Kiến An.

        Nhờ thu được số lượng lớn vũ khí, lực lượng vũ trang có diều kiện phát triển. Lúc này số quân của chiến khu đã lên tới hơn 400 người được biên chế thành các trung đội tương đối hoàn chỉnh. Trung đội Hoàng Văn Thụ do Nguyễn Quý Đôn làm trung đội trưởng, trung đội Hoàng Hoa Thám do Phan Mạnh Hà làm trung đội trưởng. Tiểu đội Ký Con do Lê Phú làm tiểu đội trưởng, tiểu đội nữ vũ trang tuyên truyền nòng cốt là các chị Lê Thị Bích, Nguyễn Thị Ngọc Khanh, Nguyệt, Thông, Hạnh... Khi thành lập trung đội Ký Con thì tiểu đội nữ này được phiên chế vào trung đội Ký Con. Ngoài ra còn có một trung đội thường trực bảo vệ cơ quan, một tiểu đội nữ du kích, một tiểu đội nữ cứu thương. Sau đó tổ chức thêm đơn vị thủy binh gồm một tàu do công nhân mỏ Mạo Khê chiếm được trên sông Kinh Thầy cùng với một số thuyền.

        Quân phỉ sau lần tổn thất nặng nề ở Bắc Nội không những yếu đi do nội bộ chia rẽ mà chủ yếu vì phong trào cách mạng ngày càng cao, đã cô lập chúng. Quần chúng ở những vùng bị phỉ khống chế dần dần thoát ly ảnh hưởng của chúng, buộc chúng phải chuyển hướng về Hải Ninh. Do vậy Ủy ban Quân sự cách mạng của chiến khu càng rảnh tay tập trung lực lượng chống Nhật và mở rộng địa bàn.

        Những chiến thắng vang dội của chiến khu đã ảnh hưởng tích cực đến phong trào cách mạng tỉnh Quảng Yên : quần chúng nhân dân phấn khởi, không khí chuẩn bị khởi nghĩa hừng hực, khiến bọn Nhật và những tên tay sai lo lắng, run sợ.

--------------------------
        1. Bùi Sinh: "Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình" , Nxb Quân dội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.31-35.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Hai, 2017, 11:46:32 pm

        Trước khí thế đang lên của cách mạng, tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thanh từ lâu vẫn có cảm tình với cách mạng nhắn tin muốn gặp đại diện Chiến khu Trần Hưng Đạo. Nguyễn Bình giao cho Nguyễn Văn Đài tổ chức cuộc họp. Trong buổi gặp gỡ, tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thanh ngỏ ý muốn giao chính quyền cho Chiến khu cách mạng.

        Với điều kiện hết sức thuận lợi đó, ngày 16 tháng 7 năm 1945, Nguyễn Bình thay mặt Ban lãnh đạo chiến khu triệu tập chỉ huy các đơn vị Hoàng Văn Thụ, Đề Thám, Ký Con về trại Sấu nhận nhiệm vụ chiến đấu. Nguyễn Bình đã khái quát diễn biến tình hình địch ở Quảng Yên và nêu rõ quyết tâm, kế hoạch đánh chiếm tỉnh lỵ này.

        Quảng Yên cách Hải Phòng và núi Đèo không xa lắm, hai nơi này đều có quân Nhật chốt giữ. Để sang được Quảng Yên địch phải đi bằng ca nô đổ quân lên bến, hai bên bờ đều là những bãi sú vẹt, trong khi nước sông đang lên cao. Quân Nhật muốn đến từ núi Đèo bằng ô tô phải qua phà Rừng, mất nhiều thời gian vì phải qua đoạn sông lớn này. Còn quân Nhật muốn từ Hòn Gai tới dù đi đường thủy hay đường bộ đều mất nhiều thời gian, đường rậm rạp, nhiều dốc. Ta phải có lực lượng chặn địch cả đường thủy và đường bộ, không cho chúng chi viện cho Quảng Yên. Cần lưu ý đánh chiếm một tỉnh lỵ khác với đánh một đồn. Ngoài việc tước vũ khí bảo an binh, còn phải kiểm soát các công sở, kho tàng và dinh tỉnh trưởng. Cách đánh phải bảo đảm nhanh gọn, không cho địch kịp trở tay, không để phải nổ súng.

        Các đơn vị tham gia chiến đấu gồm trung đội Đề Thám, trung đội Hoàng Văn Thụ và trung đội Ký Con, một tiểu đội của Lê Phú và một tiểu đội của Bùi Sinh. Mọi kế hoạch xuất phát, hành quân và đánh chiếm sẽ phổ biến sau cho các đơn vị để giữ bí mật.

        Ngày 17 tháng 7, các đơn vị tham gia đánh chiếm tỉnh lỵ Quảng Yên đã triển khai xong mọi mặt công tác chuẩn bị chiến đấu trong không khí háo hức lập công.

        15 giờ ngày 19 tháng 7, các đơn vị được lệnh bí mật hành quân theo đường mòn ra bến sông làng Đạm Thủy, lần lượt xuống các thuyền mui kín đã chờ sẵn dưới bến rồi lặng lẽ xuôi dòng xuống Quảng Yên.

        Sáng ngày 20 tháng 7, thuyền chở lực lượng chiến đấu ém quân ở bãi sú bên Phong Cốc (Hà Nam). Cán bộ, chiến sĩ không ai được lên bờ, đợi lệnh sẵn sàng đổ bộ.

        Chiều ngày 20 tháng 7, trong khi Nguyễn Bình cùng Quách Lĩnh, Hùng Phong, Sơn Vĩ đang gấp rút chuẩn bị cho trận đánh bỗng nghe có vài phát súng nổ trong thị xã Quảng Yên. Thì ra có mấy thanh niên Đại Việt từ Hải Phòng sang, vào dinh tỉnh trưởng lấy súng xả đạn lên trời rồi ép tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thanh bàn giao chính quyền và vũ khí cho chúng. Nguyễn Bình bèn cử Hùng Phong, Quách Lĩnh đem theo hai đội viên du kích đến dinh tỉnh trưởng để bắt bọn Đại Việt. Khi mọi người đến thấy trong sân dinh tỉnh trưởng có bốn thanh niên Đại Việt cầm súng đang ngắm nghía, ngoài đường dân chúng xúm lại rất đông. Hùng Phong, Quách Lĩnh chưa biết xử lý ra sao thì Nguyễn Bình xuất hiện. Nguyễn Bình gặp đám thanh niên Đại Việt nói với chúng ngày mai quân cách mạng sẽ đánh chiếm tỉnh Quảng Yên

        Nguyễn Bình và anh em cùng vào ô tô, đi ra đến sân vận động đỗ lại. Tất cả xuống xe. Nguyễn Bình bảo bốn thanh niên Đại Việt xuống thuyền chờ mai cùng đánh Quảng Yên. Hùng Phong can ngay :

        - Các anh ấy đã nổ súng, nếu để mai, thì rất có thể trong tỉnh có Việt gian, chúng đi báo Nhật, mai ta phải đổ máu nhiều hơn. Tôi đề nghị nên đánh ngay đêm nay. Ta bố trí cảnh giới ở bến Rừng, ở cuối phố Chanh, không cho người trong tỉnh ra. Anh cho điều quân dưới huyện lên. Tôi và Quách Lĩnh đi cắt dây điện thoại rồi vào kho bạc tịch thu tiền.

        Tin Việt Minh đang ở trong thị xã Quảng Yên được nhân dân truyền đi rất nhanh. Tình thế buộc phải hành động khẩn trương, đo đó Nguyễn Bình quyết định định chiếm tỉnh lỵ Quảng Yên ngay trong đêm 20 tháng 7.

        16 giờ ngày 20 tháng 7, tại khu xuất phát tiến công, trong một chiếc thuyền, Nguyễn Bình triệu tập chỉ huy các đơn vị để giao nhiệm vụ cụ thể. Một tiểu đội Ký Con án ngữ, khống chế phà Rừng không cho bất cứ người nào và thuyền rời bến, chặn bọn Nhật ở đồn núi Đèo, Thủy Nguyên tiếp viện. Nhiệm vụ tiếp theo là vào tước vũ khí tiểu đội lính cơ huyện Yên Hưng. Tiểu đội Ký Con khác do Bùi Sinh chỉ huy chiếm dinh tỉnh trưởng. Trung đội của Nguyễn Quý Đôn vận động nhanh về phía đồn bảo an vào đồn tước vũ khí. Trung dội do Phan Mạnh Hà chỉ huy bố trí chặn đánh dịch từ hướng Yên Lập, Hòn Gai vào, án ngữ ngã ba phố Chanh, còn thì vào trại bảo an binh thu vũ khí đưa xuống thuyền.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:43:07 am

        Trong đồn, có nội ứng. Ta đến thì anh em mở cổng. Nguyễn Bình và Sơn Vĩ vào đồn gặp viên quan một Tiếp, yêu cầu Tiếp ra lệnh cho binh lính không chống lại Việt Minh. Tiếp chấp nhận. Quân ta vào đồn, binh lính không có phản ứng gì; ta thu toàn bộ vũ khí đạn dược.

        Như vậy lực lượng vũ trang Đệ tứ chiến khu đã hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ Quảng Yên và huyện Yên Hưng. Trận đánh diễn ra đúng kế hoạch, nhanh, gọn. Ta thu toàn bộ vũ khí đạn dược với 500 khẩu súng, nhiều quân trang, quân dụng, lương thực, thuốc men. Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thanh đã giao nộp ấn tín cho quân cách mạng.

        Suốt đêm ấy, Nguyễn Quý Đôn cùng anh em gom số chiến lợi phẩm thu dược chuyển hết ra bến Ngự đưa xuống thuyền chở về chiến khu.

        Chừng 8 giờ sáng 21 tháng 7, một ca nô thuế quan đi tuần ghé vào bến Ngự. Ta lên ca nô, tiếp cận chỉ huy Nguyễn Hữu Lợi, đề nghị cho ca nô kéo giúp mấy thuyền chiến lợi phẩm và quân du kích ngược về Đông Triều.

        Ngày 22 tháng 7 năm 1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động tỉnh lỵ Quảng Yên. Hàng nghìn nhân dân trong tỉnh lỵ và các làng lân cận giương cao cờ đỏ sao vàng trong niềm hân hoan chào mừng thắng lợi của cách mạng.

        Trận tiến công tỉnh lỵ Quảng Yên đã thể hiện nghệ thuật nắm thời cơ, chọn mục tiêu chính xác, táo bạo, đánh trúng, đánh hiểm, quyết đoán và linh hoạt. Đây là tỉnh lỵ đầu tiên mà quân cách mạng đã chiếm được trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, là thành tích quân sự nổi bật của Chiến khu Trần Hưng Đạo.

        Lúc này tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới có bước ngoặt quan trọng, tạo diều kiện khách quan vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

        Sau khi tiêu diệt phát xít Đức tại sào huyệt của chúng, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Chỉ trong mấy ngày, Hồng quân Liên Xô đã tiến công tiêu diệt đội quân Quan Đông gồm hơn một triệu tên, buộc Mỹ phải vội vàng ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima và Nagazaki trên đất Nhật Bản. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng chính thức công bố đầu hàng Đồng Minh. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đã chín muồi. Ngày 13 tháng 8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và phát lệnh khởi nghĩa.

        Tiếp đó ngày 16 tháng 8 năm 1945, Quốc dân Đại hội được triệu tập tại Tân Trào để động viên đồng bào và chiến sĩ cách mạng cả nước đồng lòng nổi dậy giành chính quyền và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa và quyết định chọn Quốc kỳ, Quốc ca. Đại hội đã bầu cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

        Trong khi Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào thì tại làng Vạn Phúc (Hà Đông). Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định gấp rút phát động khởi nghĩa trong toàn xứ. Ngày 15 tháng 8, Kỳ bộ Việt Minh ra thông báo khẩn cấp cho các địa phương kịp thời nổi dậy giành chính quyền.

        Những ngày này ở Chiến khu Trần Hưng Đạo không khí sôi động hẳn lên. Để hỗ trợ cho các địa phương khởi nghĩa, theo lệnh của Ban lãnh đạo chiến khu, các đơn vị chiến đấu được tăng cường quân số, vũ khí và tổ chức thêm một số phân đội. Các trung đội được nâng lên thành đại đội. Các đơn vị vừa khẩn trương tổ chức biên chế, trang bị, vừa tổ chức huấn luyện cho số thanh niên mới nhập ngũ biết sử dụng các loại vũ khí để sẵn sàng lên đường cùng nhân dân các địa phương khởi nghĩa giành chính quyền.

        Ở tỉnh lỵ Quảng Yên, sau khi trừng trị tên huyện trưởng Phan và một số tên phản động ở huyện Yên Hưng. ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nguyễn Bình đi ca nô sang Thủy Nguyên gặp thị trưởng Hải Phòng - luật sư Vũ Trọng Khánh, do phủ trưởng Tạo và Hoàng Ngọc Lương bắt mối. Địa điểm gặp là một ngôi chùa gần bến Kiền. Tại buổi gặp, Vũ Trọng Khánh tha thiết đề nghị ban lãnh đạo chiến khu tìm mọi cách hỗ trợ ngăn cản không cho quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng. Nguyễn Bình hứa sẽ bằng mọi biện pháp, kể cả điều một bộ phận quân du kích chiến khu về bố trí ở Thủy Nguyên và đánh quân Pháp nếu chúng đổ bộ lên.

        Sau cuộc tiếp xúc với Vũ Trọng Khánh, Nguyễn Bình thấy thời cơ giành chính quyền ở Thủy Nguyên rất thuận lợi nên bàn với Ban lãnh đạo Việt Minh khẩn trương phát động quần chúng vùng dậy khởi nghĩa.

        Ngày 16 tháng 8, khoảng 100 tự vệ và gần một nghìn quần chúng, có lực lượng vũ trang của chiến khu hỗ trợ rầm rập tiến về chiếm huyện lỵ Trịnh Xá. Quân Nhật đóng ở đồn núi Đèo không dám động binh. Sáng 17 tháng 8, hàng nghìn quần chúng quanh vùng giương cao cờ và biểu ngữ cùng lực lượng du kích tiến vào huyện đường thu ấn triện và toàn bộ sổ sách, giấy tờ, chào mừng Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện ra mắt.

        Sau Thủy Nguyên, ngày 19 tháng 8 nhân dân thị xã Hải Dương khởi nghĩa giành chính quyển thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:44:51 am

        Ngày 19 tháng 8, tin Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi lan nhanh khắp nơi làm nức lòng mọi người.

        Đến lúc này, Thành ủy Hải Phòng vẫn chưa được khôi phục, Ban lãnh đạo khởi nghĩa chưa được thành lập. Thời cơ ngàn năm có một không thể chậm trễ. Xứ ủy cử một số cán bộ do đồng chí Vũ Quốc Uy và đồng chí Quách Duy Yên phụ trách về Hải Phòng để cùng lực lượng tại chỗ tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền.

        Đêm 21 tháng 8, cuộc họp Ban lãnh đạo Việt Minh thành phố được triệu tập khẩn cấp, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập và quyết định khởi nghĩa vào ngày 23 tháng 8 năm 1945, mặt khác phải liên hệ ngay với thị trưởng Vũ Trọng Khánh vì lúc này ông đang sẵn sàng đợi lệnh khởi nghĩa của Việt Minh.

        Cùng ngày 21 tháng 8, tại Chiến khu Trần Hưng Đạo, Hải Thanh gặp một nhóm sáu người thuộc đường dây Việt Minh của Nguyễn Bình vừa từ Hải Phòng ra Đông Triều đề nghị Hải Thanh cho lực lượng vũ trang hỗ trợ Hải Phòng cướp chính quyền. Sáng ngày 22 tháng 8, Hải Thanh cử Hùng Phong và Trần Sinh xuống Hải Phòng gặp thị trưởng Vũ Trọng Khánh thuyết phục ông tạo điều kiện thuận lợi cho khởi nghĩa. Tới nhà Vũ Trọng Khánh và được Khánh cho biết : Hiện trong nhà tôi có hai đại biểu của Trung ương các anh có gặp không ? Hùng Phong đáp : Có. Hai người gặp ngay hai phái viên của Xứ ủy là Vũ Quốc Uy và Quách Duy Yên cũng ở đấy. Hai bên đã bàn bạc và thống nhất quyết định đưa lực lượng chiến khu về tham gia khởi nghĩa ở Hải Phòng.

        3 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, lực lượng vũ trang chiến khu chia làm hai cánh tiến về Hải Phòng. Cánh thứ nhất do Hải Thanh và Nguyễn Hiền chỉ huy gồm trung đội Đề Thám do Phan Mạnh Hà chỉ huy, hai trung đội khác do Bùi Tống Thủy chỉ huy, cùng trung đội (thiếu) Ký Con do Lê Phú chỉ huy theo đường thủy qua sông Kinh Thầy vào sông Cấm đến sở dầu đổ bộ lên đường số 5 vào thành phố. Cánh thứ hai do Nguyễn Bình chỉ huy gồm trung đội Phạm Hồng Thái và một tiểu đội của trung đội Ký Con từ Quảng Yên dùng thuyền đưa toàn bộ lực lượng về Hải Phòng. Giữa đường thì gặp ca nô của Trần Ngọc Tràng đến đón đổ bộ vào bến Bính.

        Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, hàng vạn quần chúng từ các ngả đường giương cao cờ đỏ sao vàng, ầm ầm như thác đổ kéo về quảng trường Nhà Hát lớn. Cánh quân của Hải Thanh với đầy đủ vũ khí, trang bị, hòa vào dòng người có băng, cờ, biểu ngữ, gậy gộc, giáo mác cuốn vào nội thành. Đoàn quân đến ngã ba bến Bính thì gặp cánh quân của Nguyễn Bình từ bến sông đi lên. Hai cánh quân hòa vào nhau tiến vào quảng trường Nhà Hát thành phố. Đoàn quân nhường bước cho Nguyễn Bình đi trước. Lúc này ở quảng trường Nhà hát thành phố đã có hàng chục vạn đồng bào các giới chỉnh tề đội ngũ để chứng kiến giờ phút lịch sử. Qua sở hiến binh Nhật có lính gác. Người lính này bồng súng chào đoàn quân đúng theo nghi thức nhà binh.

        Cũng trong thời gian này, nhóm Việt Minh của Phạm Khang, Trần Doãn Tòng, Nguyễn Chính (đường dây của Nguyên Bình) hoạt động gây cơ sở nội thành đã chỉ huy lực lượng tự vệ khu Lạc Viên tràn vào trại lính khố đỏ. Trại lính này do viên thiếu úy Hóa và thiếu úy Núi chỉ huy, dưới sự kiểm soát của hai viên sĩ quan Nhật. Trần Doãn Tòng đã thuyết phục thiếu úy Hóa và 30 lính khố đỏ từ trước, nên với khí thế áp đảo của lực lượng cách mạng, lực lượng tự vệ vào trại không phải nổ phát súng nào. Ta thu toàn bộ vũ khí gồm 2 trung liên, 72 súng trường mới và hơn 200 khẩu súng trường cũ bị hỏng nhưng có thể sửa chữa, sử dụng được.

        10 giờ ngày 23 tháng 8, một cuộc mít tinh khổng lồ được tổ chức trọng thể tại quảng trường Nhà Hát lớn. Đồng chí Vũ Quốc Uy thay mặt ủy ban Khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai Nhật. thành lập Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời Hải Phòng trong tiếng reo hò vang dậy của nhân dân. Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời Hải Phòng gồm có : Vũ Quốc Uy - Chủ tịch, Đoàn Văn Nhạc - ủy viên, Quách Duy Yên - ủy viên quân sự, Vũ Trọng Khánh - ủy viên hành chính, Vũ Văn Miên - ủy viên tuyên truyền và bà Nguyễn Thị Ngọc Mùi (vợ nhà tư sản yêu nước Nguyễn Sơn Hà) - ủy viên xã hội.

        Sau cuộc mít tinh là cuộc tuần hành thị uy của hơn mười nghìn quần chúng. Đi đầu đoàn biểu dương lực lượng là các đơn vị vũ trang. Lần đầu tiên người dân Hải Phòng được nhìn thấy Giải phóng quân trên đường phố Hải Phòng, những chiến sĩ từ chiến khu cách mạng trở về. Đại đội Hoàng Văn Thụ và đại đội Đề Thám mặc áo nâu; trung đội Ký Con trang phục thống nhất, đeo ba lô, đội mũ sắt Nhật, lưỡi lê tuốt trần, oai nghiêm hùng dũng. Nguyễn Bình dẫn đầu đoàn diễu hành, tay giơ cao thanh kiếm Nhật để đáp lại sự hoan hô nhiệt liệt của nhân dân.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 09:48:06 am

        "Con người vốn giản dị, quần nâu áo vải, hôm nay được anh em trang bị cho bộ gabađin, ủng da, mũ kêpi, tuy "chắp vá" song vẫn toát lên cốt cách "vị tướng" dẫn đầu đoàn quân cách mạng. Trong suốt cuộc diễu hành kéo đài hàng mấy giờ liền. Nguyễn Bình luôn luôn nâng cao thanh kiếm tuốt trần, đốc kiếm ngang tầm mắt, mũi kiếm chọc thẳng lên trời để chào nhân dân Thành phố Cảng. Không biết sức mạnh nào đã giúp anh nâng kiếm nghiêm trang như vậy trong suốt cuộc diễu hành. Có lẽ đó là sức mạnh của tấm lòng anh hòa cùng niềm vui chung lớn lao của nhân dân thành phố vừa mới được độc lập tự do sau nhiều năm dài sống trong vòng nô lệ tủi nhục của người dân mất nước"1. Đi sau Nguyễn Bình là trung đội Ký Con, tiếp đến là các đại dội tập trung của chiến khu và các lực lượng tự vệ, du kích các huyện, sau cùng là các đoàn thể nhân dân.

        "Ở Chiến khu Đông Triều, về danh nghĩa Nguyễn Bình chỉ là ủy viên kinh tế, không phải là ủy viên quân sự. Song với những hoạt động thực tế, anh em nghĩa quân đều coi Nguyên Bình là người chỉ huy quân sự cao nhất. Quần chúng nhân dân đều coi Nguyễn Bình là Tư lệnh của Chiến khu Đông Triều, sắc phong vô tư của quần chúng nhân dân không có gì là quá đáng"2.

        Buổi chiều ngày 23 tháng 8, do có sự hiểu nhầm vì thiếu hiệp đồng trước nên đã xảy ra cuộc chạm súng giữa lực lượng du kích hai huyện Kiến Thụy và An Lão tại ngã năm thị xã Kiến An.

        Tối 23 tháng 8, đồng chí Nguyễn Dương Lâm từ Hải Phòng sang dàn xếp hai lực lượng, phân công phụ trách các khu vực mới đánh chiếm. Để hỗ trợ cho đồng chí Lâm, Nguyễn Bình cử trung đội Ký Con của Lê Phú đến Kiến An rồi đi tuần hành ngay tối đó cùng nhóm các nữ đồng chí Bích, Nga, Ngọc Khanh phát thanh tuyên truyền đường lối của Việt Minh và hát vang các bài ca cách mạng để gây khí thế. Chiều ngày 24 tháng 8 năm 1945, tại trung tâm thị xã Kiến An, hàng nghìn quần chúng nhân dân được chứng kiến lễ ra mắt của Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Kiến An do đồng chí Nguyễn Dương Lâm làm Chủ tịch.

        Hôm sau, Nguyễn Bình đề nghị Nguyễn Hiền trở lại Đông Triều củng cố hậu cứ, khống chế bọn thổ phỉ và mở lớp huấn luyện tân binh.

        Lúc này ở Hòn Gai, quân Việt Cách (Việt Nam cách mạng đồng minh hội) có mặt trong thị xã, chúng được sự hỗ trợ của bọn phỉ ở Hoành Bồ. Bốn tàu chiến Pháp trốn ở đảo Cô Tô đang có âm mưu trở lại Hòn Gai. Quân Tưởng Giới Thạch đã tiến sát đến biên giới. Nếu xảy ra xung đột vũ trang sẽ bất lợi cho ta, do đó ta chủ trương dùng sách lược mềm dẻo, tránh đụng độ nhưng kiên quyết dứt khoát về nguyên tắc. Ngày 25 tháng 8, Nguyễn Bình giao nhiệm vụ cho Phan Mạnh Hà chỉ huy một trung đội thuộc đại đội Đề Thám đi đường thủy ra Hòn Gai, cùng đi có Đoàn Phụng, Nguyễn Chất và các nữ đồng chí Nga, Bích và Ngọc Khanh.

        Ngày 26 tháng 8, dựa vào sự ủng hộ mạnh mẽ của các cơ sở cách mạng và quần chúng nhân dân, đơn vị Phan Mạnh Hà tiến vào trại bảo an binh thu vũ khí, kêu gọi anh em binh sĩ tình nguyện gia nhập quân cách mạng. Một bộ phận khác tiến vào sở mật thám, khống chế lực lượng ở đây. Bên ngoài, ta tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng, có lực lượng vũ trang bảo vệ. Bọn Việt Cách cho quân án ngữ các ngả đường nổ súng thị uy, hòng phá cuộc mít tinh. Nhưng chúng không cản nổi sức mạnh của hàng nghìn công nhân mỏ và nhân dân lao động Hòn Gai xuống đường với băng, cờ, biểu ngữ và tiếng hô dậy đất "Ủng hộ Việt Minh". Trước khí thế cách mạng của quần chúng, bọn Việt Cách phải lùi bước. Sau cuộc tuần hành biểu đương lực lượng quần chúng tiến về sân vận động Hòn Gai chào mừng Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời ra mắt, do đồng chí Thăng làm Chủ tịch.

        Do địa hình hiểm trở, tình hình chính trị lại đặc biệt phức tạp, các loại kẻ thù điên cuồng chống phá cách mạng giành giật quyền lực với ta, nên còn một số địa bàn vùng sâu ở tỉnh Quảng Yên và cả tỉnh Hải Ninh ta chưa giành được quyền làm chủ, nhân dân còn phải chịu sự kìm kẹp của các loại phản động các toán thổ phỉ người Hoa.

        Những ngày đầu tháng 9 năm 1945, do quy mô phát triển của chiến khu ngày càng rộng lởn, theo chỉ thị của Trung ương, Chiến khu Trần Hưng Đạo đổi thành Ủy ban Quân sự liên tỉnh miền duyên hải Đông Bắc, bao gồm các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Hòn Gai và Hải Ninh. Tư lệnh là Nguyễn Bình, đặc phái viên chính trị là Lê Quang Hòa - một đảng viên Cộng sản được Trung ương phái xuống.

----------------------
        1. Bùi Sinh: "Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình" , Sđd.

        2. Trích hồi ký của Thiếu tướng Bùi Sinh - báo Quân đội nhân dân, số 11871, ngày 8-6-1994.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:22:11 pm

        Đây là bước phát triển mới về mặt tổ chức và trưởng thành của lực lượng vũ trang chiến khu cả về số lượng và chất lượng. Từ chỗ trong ngày đầu Cách mạng tháng Tám chỉ có ba đại đội Đề Thám, Hoàng Văn Thụ, Phạm Hồng Thái và trung đội Ký Con, đến trung tuần tháng 9 năm 1945 đã có thêm hai đại đội được thành lập là đại đội Lam Sơn và đại đội Ký Con. Các đơn vị đã cơ động làm nhiệm vụ khắp các địa bàn từ Hải Phòng, Quảng Yên đến tận Hải Ninh.

        Sau đó ít lâu, lực lượng vũ trang chiến khu cùng với Giải phóng quân cả nước thống nhất đổi tên thành Vệ quốc đoàn và đã nhanh chóng tổ chức thành ba chi đội (trung đoàn) một số tiểu đoàn và đại đội độc lập.

        Ở Hải Phòng, sau những ngày sôi động của Cách mạng tháng Tám, nhân dân đã phải đương đầu với những thử thách mới. Phải tập trung lực lượng đối phó với thù trong, giặc ngoài. Lực lượng gián điệp, phản động tay sai đủ loại của Pháp, Nhật và Tưởng Giới Thạch sau một thời gian tạm thời nằm im, nay ngóc đầu dậy móc nối với các quan thầy của chúng, mưu toan tập hợp lực lượng, cấu kết với nhau chống phá cách mạng.

        Hạ tuần tháng 9 năm 1945, hai mươi vạn quân Tưởng Giới Thạch do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy, với danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật ở miền Bắc Việt Nam, đóng hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. Dưới danh nghĩa tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là tiêu diệt cộng sản, lật đổ chính quyền cách mạng. Núp sau quân đội Tưởng là các đảng phái phản động : Việt Nam quốc dân đảng (gọi tắt là Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (gọi tắt là Việt Cách) do Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần cầm đầu. Ở Hải Phòng, số quân Tưởng chiếm đóng khoảng 20.000 tên.

        Vừa đặt chân tới Hải Phòng, quân Tưởng rải ra chiếm đóng các vị trí then chốt như trại bảo an binh, khách sạn Đại Á...; chúng sách nhiễu đủ điều và chẳng từ một hành động nào từ ăn quỵt, mua quỵt lương thực, thực phẩm, cướp của, bắt người vô cớ đến việc tước vũ khí của vệ quốc quân đi lẻ. Nhân dân hết sức bất bình.

        Bọn tàn quân Pháp được sự che chở của chính quyền Tưởng Giới Thạch từ vùng biển nam Trung Quốc quay trở về Hải Ninh. Lực lượng của chúng gồm một tiểu đoàn hỗn hợp cả lính người Âu và người Việt cùng bốn chiếc tàu, trong đó có hai chiếc vừa chạy máy vừa chạy buồm được trang bị vũ khí hiện đại của hải quân Pháp. Chúng ngang nhiên chiếm các đảo Cô Tô, Vạn Hoa, xây dựng những nơi này thành các căn cứ nhằm phục vụ âm mưu lâu dài. Hàng ngày từ căn cứ Vạn Hoa, chúng tỏa ra khống chế cả một vùng biển và bán đảo rộng lớn từ Hòn Gai đến Hải Phòng.

        Tình hình mỗi ngày một phức tạp, nguy cơ về một cuộc xung đột với quân Tưởng có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Lãnh đạo các địa phương kịp thời động viên nhân dân kiên trì chấp hành chủ trương sách lược của Trung ương, đồng thời tổ chức và hướng dẫn nhân dân nếu bọn Tưởng xâm phạm chủ quyền dân tộc thì biểu tình phản đối để hạn chế những hành động khiêu khích của chúng.

        Ngày 25 tháng 9, quân Tưởng tiến công đồn thuế quan Hạ Lý vời cớ chúng dựng lên là ta lấy vũ khí của chúng, giấu trong đồn. Ta phản đối hành động ngang nhiên của chúng thì quân Tưởng nổ súng. Hai bên đụng độ hồi lâu. Nguyễn Bình ra lệnh qua điện thoại cho quân ta ngừng bắn và Ủy ban Nhân dân thương lượng với đại diện quân Tưởng.

        Lấn tới, quân Tưởng đòi Vệ quốc đoàn rút khỏi trại bảo an binh và đòi lấy nốt Nhà băng Năm sao - nơi đóng bản doanh của Bộ Tư lệnh miền Duyên hải. Bộ Tư lệnh ta không chịu. Thành ủy và Ủy ban Nhân dân thành phố báo cáo xin chỉ thị Trung ương. Trung ương điện về : "Trước mắt cho nó chiếm Nhà băng Năm sao nhưng lâu dài ta có thời gian chuẩn bị lực lượng để bảo vệ toàn cõi đất nước". Phẫn uất trước hành động ngang ngược của kẻ thù, mà không được trừng trị chúng, Nguyễn Bình mặt đỏ bừng,rút kiếm chém vỡ tan tấm gương lớn trong nhà băng rồi ra lệnh rút.

        Vốn là người cương trực, không chịu khuất phục và nóng tính; đêm đó, Nguyễn Bình không tài nào ngủ được. Sau bao suy tính, trăn trở, Nguyễn Bình buộc phải chấp nhận sách lược mềm dẻo, tạm lùi một bước trong quan hệ với kẻ thù để bước vào cuộc chiến đấu mới đầy thử thách.

        Trở lại với Hòn Gai, lúc này bọn Việt Cách đang có mưu đồ chờ quân Tưởng kéo vào thị xã là chúng vùng dậy bóp chết chính quyền cách mạng. Nguyễn Bình quyết định điều đại đội Ký Con tăng cường lực lượng cho Hòn Gai. Ngày 6 tháng 9, đại đội vừa tới Hòn Gai thì được tin tàu Pháp trú ẩn ở đảo Vạn Hoa đang đi vào biển Hòn Gai. Đây là tàu tuần tiễu Cray-sắc, một trong số bốn tàu của hải quân Pháp quanh quẩn ở vịnh Bắc Bộ từ sau ngày phát xít Nhật đầu hàng đồng minh.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:26:09 pm
  
        Không kịp nghỉ ngơi, sau một ngày hành quân trên biển, đại đội trưởng Lê Phú lệnh cho bộ đội nhanh chóng vận động trở lại bến tàu và vạch kế hoạch chiến đấu rất nhanh. Dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Lê Phú và trung đội trưởng Bùi Sinh, được các tàu của ta hỗ trợ bao vây tàu địch, một tiểu đội của đại động Ký Con dùng ca nô chở khách áp mạn, xông lên, bắt gọn tàu Cray-sắc. Thuyền trưởng và hơn 10 thủy binh Pháp đầu hàng. Vũ khí, trang bị trên tàu ta thu được gồm một đại bác 37 ly, hai trọng liên 12,7 ly, ba đại liên Hốtkít, hai đại liên Brôninh Mỹ, nhiều trung liên, súng trường và hai điện đài. Đồng thời, ta đã giải thoát cho đoàn thủy binh người Việt bị nhốt dưới hầm tàu, vì chúng đề phòng người Việt nổi loạn.

        Được tin ta bắt sống tàu chiến địch, Nguyễn Bình ra tận nơi thăm hỏi động viên và lệnh cho xưởng cơ khí mỏ than gỡ tên tàu Cray-sắc và thay vào đó tên Ký Con bằng đồng thau bóng loáng ở hai bên mũi tàu và đuôi tàu. Bùi Sinh được giao nhiệm vụ chỉ huy tàu Ký Con cùng tiểu đội xung phong đánh chiếm tàu, tiểu đội các thủy binh người Việt vừa được giải phóng đảm nhiệm vận hành tàu.

        Vài ngày sau, ta phát hiện tàu Ô-đa-xi-ơ đang lảng vảng ngoài khơi vịnh Hạ Long. Bùi Sinh lệnh cho tàu Ký Con nổ máy đuổi đánh và bắt được con tàu này. Tất cả trên tàu chỉ có tám người gồm : năm người Pháp, hai người Việt và một người Hoa.

        Thế là chỉ trong bốn ngày, đại đội Ký Con đã đánh bắt được một nửa hải đội của tàn quân Pháp, hai chiếc tàu còn lại không đám bén mảng tới vịnh Hạ Long nữa. Nguyễn Bình ra lệnh gỡ bỏ tên tàu Ô-đa-xi-ơ và thay vào đó tên Bùi Văn Sinh1 cũng bằng đồng thau sáng loáng. Đông đảo đồng bào Hòn Gai đã được chứng kiến hai lần chiến sĩ ta bắt sống tàu giặc, ai nấy đều hả lòng, hả dạ, hết lời ca ngợi các chiến sĩ tiền thân của Hải quân Việt Nam.

        Lúc này, mấy sĩ quan Việt Cách có mặt ở Hòn Gai : Nguyễn Ái, quản Lưu, giáo Vui. Chúng đã đặt trụ sở đảng Việt Nam cách mệnh đồng minh và treo cờ ba que tại một nhà trong phố. Chúng gặp Đoàn Phụng, Nguyễn Chất và Thăng (Chủ tịch ủy ban nhân dân) đề nghị :

        - Chúng tổ chức mít tinh, treo cờ của chúng.

        - Để chúng đóng quân từ Móng Cái đến Quảng Yên.

        - Cho chúng được gặp Nguyễn Bình.

        Đoàn Phụng trả lời : Cách mạng tháng Tám đã thành công trong cả nước, đã có Chính phủ lâm thời. Việt Cách muốn giành độc lập cho Tổ quốc thì nên hợp tác với Việt Minh vì lợi ích của Tổ quốc. Đồng ý tổ chức mít tinh, treo cả hai cờ, và không đưa quân về Hòn Gai vội.

        Được tin, Nguyễn Bình điều thêm quân ra Hòn Gai; đồng thời chỉ thị cho Phan Mạnh Hà tích cực xây dựng lực lượng tự vệ. Nguyễn Ái cứ điều một tiểu đoàn được trang bị vũ khí tốt do Tưởng Giới Thạch trang bị, chúng mặc đồng phục; Phan Mạnh Hà nghi binh, cho mượn dụng cụ nhà bếp đủ phục vụ cho một tiểu đoàn.

        Trong mít tinh, nhân dân nhiệt liệt hoan hô khi Đoàn Phụng dứt lời. Đến lượt đại diện Việt Cách phát biểu, chúng nêu công của chúng đã ra hải ngoại xây dựng lực lượng về giải phóng dân tộc. Chỉ lèo tèo vài người ủng hộ, là những viên chức đã lầm nghe chúng tuyên truyền. Nhân được nhân dân đã biểu thị thái độ, ta giới thiệu ngay thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời do đồng chí Thăng làm Chủ tịch.

        Nguyễn Bình đã có mặt theo yêu cầu của chúng và đặt kế hoạch cho ta tổ chức bữa cơm mời các sĩ quan Việt Cách (chúng có 22 người), và nhân dân cung cấp bữa ăn tại chỗ cho tiểu đoàn Việt Cách.

        Khi quân Việt Cách ăn uống vui vẻ, no say, Nguyễn Bình lệnh cho Lê Phú chỉ huy một tốp có Bùi Sinh, Nguyễn Thụy Ứng và Phạm Văn Xứng (hai cán bộ tiểu đội đơn vị Hoàng Hoa Thám) ập vào tước vũ khí 22 sĩ quan Việt Cách. Tiếp đó, Đoàn Phụng ép Việt Cách viết thư cho quân họ là đã hợp tác với Việt Minh, buộc phải nghe theo lệnh của địa phương.

---------------------
        (18) Trần Ngọc Tràng và Trần Đình Thành cho biết đó là tên một thủy thủ thuế quan đã hy sinh trong chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Hai, 2017, 05:28:23 pm

        Ta đã chuẩn bị sẵn tàu chuyển tiểu đoàn Việt Cách về Hải Phòng, tập trung tại trại khố đỏ cũ, còn các sĩ quan đưa xuống ca nô về Đồ Sơn chờ đại biểu Trung ương về giải quyết. Những binh sĩ Việt Cách tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn được biên chế vào các đơn vị, ai muốn về quê được cấp lộ phí.

        Các sĩ quan Việt Cách đểu xin về quê hương.

        Nhờ mưu lược của Nguyễn Bình, ta đã thu phục được toàn bộ quân Việt Cách đầy đủ vũ khí tốt, không phải nổ súng, tránh đổ xương máu cho cả hai bên.

        Cũng trong thời gian này, tàu Ký Con do Bùi Sinh chỉ huy được lệnh đón đánh tiểu đoàn quân Việt Cách theo đường biển từ Móng Cái về. Khi tàu Ký Con ra đến Cọc Năm thì gặp ba thuyền lớn kéo cờ Việt Cách. Từ xa nom thấy tàu Ký Con, ba thuyền buồm chở đầy bọn Việt Cách đổi hướng men theo vùng nước cạn, vì thế tàu Ký Con không áp sát được. Trước tình thế đó, tàu Ký Con dùng pháo 37 ly và trọng liên 12,7 ly bắn uy hiếp, buộc bọn chúng đầu hàng. Lực lượng Việt Cách phất cờ trắng xin hàng để đánh lừa ta, rồi cho thuyền vòng lẫn vào các dãy núi đá chạy mất hút.

        Kế hoạch hội quân của lực lượng Việt Cách bị phá vỡ, số còn lại trở nên hoang mang dao động.

        Dẹp xong lực lượng Việt Cách, tình hình Hòn Gai vừa ổn định thì thổ phỉ Đường Thế Dân tràn vào thị xã cướp phá. Chúng có khoảng 400 tay súng, vào các phố gặp thứ gì cướp thứ đó. Nhân dân lo sợ, mọi nhà đóng kín cửa. Đại đội Hoàng Hoa Thám và đại đội Ký Con được giao nhiệm vụ phải tiêu diệt đám phỉ này. Sau khi nhận lệnh, được lực lượng vũ trang thị xã phối hợp, quân ta khẩn trương tổ chức bao vây, chốt chặn các phố chính, các công sở và cổng chợ Hòn Gai. Một lực lượng khác truy đuổi bọn phỉ quyết liệt trong thị xã, đẩy dần chúng vào các góc phố phía Cọc Năm rồi nổ súng tiêu diệt. Bị đánh mạnh, bọn phỉ không chịu nổi phải tháo chạy lên núi. Đại đội Hoàng Hoa Thám và Đại đội Ký Con bắt được chín tên cầm đầu bọn phỉ, cả chín tên đều bị ta trừng trị tại sân vận động Hòn Gai. Sau trận này, bọn phỉ không dám bén mảng đến quay nhiễu, cướp bóc trong thị xã nữa.

        Lúc này ở Bộ Tư lệnh, Nguyễn Bình ngày đêm trăn trở suy tính các biện pháp củng cố và phát triển lực lượng để đối phó với tình hình mới, tiễu phỉ trừ gian; khẩn trương và phát triển lực lượng thủy quân thiện chiến để canh giữ bảo vệ lãnh hải, chăm lo củng cố và nâng cấp hai đội thủy binh Ký Con mới ngày đầu ra quân đã hai lần bắt sống tàu chiến giặc. Nguyễn Bình còn nghĩ phải làm sao có ngay một cơ sở sửa chữa và sản xuất các loại vũ khí để cung cấp cho lực lượng vũ trang. Một công binh xưởng đầu tiên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đã được thành lập ở chân đài khí tượng Phù Liễn (Kiến An),các loại mìn và lựu đạn được sản xuất tại đây đã nổ vang rền khắp tuyến đường 5, kìm hãm rất hiệu quả những cuộc hành quân của lính Pháp tiến về tăng cường cho Hà Nội.

        Trong khi nhân dân cả nước cũng như nhân dân vùng Duyên hải Đông Bắc đang tập trung sức người, sức của bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng vừa thành lập thì ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp núp sau bóng quân đội Anh nổ súng gây hấn ở Nam Bộ. Nguy cơ một cuộc chiến tranh lan rộng khắp cả nước đang đến gần.

        Trước tình hình đó, một số chiến khu và tổ chức lực lượng quân sự nhanh chóng được củng cố, sẵn sàng đối phó với hành động xâm lược mới của kẻ thù. Giữa lúc này Tư lệnh Nguyễn Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cử vào công tác ở Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:45:15 am
         
Phần II

TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NAM BỘ (1945 - 1951)

        Nhận được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi gấp về Hà Nội, Nguyễn Bình thay bộ quần áo nâu bạc bằng bộ đồ chiến lợi phẩm, quần áo ka ki, đầu đội mũ cát két, chân đi giày da, mang súng và đeo cả kiếm Nhật đến gặp Bác. Với "bộ cánh" này, ông đinh ninh Bác Hồ sẽ hài lòng vì theo ông đó cũng là một cách gián tiếp báo cáo với Chủ tịch nước về thành tích diệt giặc, thu chiến lợi phẩm của Chiến khu Trần Hưng Đạo.

        Đến Bắc Bộ Phủ, khác hẳn với những gì Nguyễn Bình nghĩ. Tiếp Nguyễn Bình là một ông già chân đi dép cao su, giản dị trong chiếc áo kiểu Tôn Trung Sơn. Nguyễn Bình tự thấy ngượng về "bộ cánh" của mình. Nhưng Bác Hồ không quan tâm đến bề ngoài của Nguyễn Bình. Người đi thẳng vào công việc :

        - Chú là Nguyễn Bình, Tư lệnh Đệ tứ chiến khu đó ư ?

        Nghe Bác hỏi, Nguyễn Bình vô cùng xúc động bàng hoàng.

        - Thưa Bác, cháu là Nguyễn Bình, cháu về đây theo thư Bác gọi.

        Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Nguyễn Bình hút thuốc và Người bắt đầu câu chuyện một cách thân tình :

        - Bác đã nghe báo cáo về những hoạt động của các chú ở Chiến khu Đông Triều. Bác có lời khen. Mấy ngày qua chú có nghe tin về tình hình Nam Bộ không?

        - Thưa Bác, cháu nghe tin ngày 23 tháng 9 vừa qua Pháp đã gây hấn. Đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn đã nhất tề đứng lên kháng chiến.

        Bác nói tiếp :

        - Giống như gần trăm năm trước đây, giặc lại nhằm vào miền Nam đánh trước. Nhưng ngày nay khác hẳn ngày xưa, chúng ta nhất định không để mất một tấc đất Nam Bộ là máu của chúng ta, là xương của chúng ta. Nam - Trung - Bắc là một nhà không ai có thể chia ly được.

        Nguyễn Bình lắng nghe như uống từng lời của Bác :

        - Máu chảy ruột mềm. Biết bao đồng chí, đồng bào đã tình nguyện xin được vào Nam để chiến đấu. Các đoàn quân Nam tiến đang chuẩn bị lên đường. Đồng chí Trần Huy Liệu cho biết trước chú hoạt động ở trong Nam. Bác nghĩ các lực lượng vũ trang trong đó đang cần một vị chỉ huy tài năng, có thể tập hợp các đơn vị vũ trang lại. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng "Thập nhị sứ quân" rất bất lợi cho cách mạng. Người chỉ huy đó, theo Bác phải biết rõ miền Nam, lại phải là người có bản lĩnh thu phục được cả những tay giang hồ kiểu Bình Xuyên. Chú Bình có thể đảm nhiệm trọng trách đó không ?

        Nguyễn Bình đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.

        Quả thực từ lâu ông đã mơ ước trở lại Nam Bộ thăm lại người xưa, chốn cũ. Nay Bác chọn ông, chính thức giao nhiệm vụ vào Nam, tổ chức lực lượng kháng chiến, đó là một vinh dự bất ngờ.

        Nghĩ vậy, Nguyễn Bình trả lời rất nhanh như sợ bỏ lỡ một cơ hội may mắn hiếm có :

        - Thưa Bác! Bác tín nhiệm cháu, cháu xin nhận. Nhưng...

        Bác ân cần hỏi :

        - Chú nhận nhiệm vụ rồi, sao còn "nhưng".

        Nguyễn Bình thành thật trình bày :

        - Thưa Bác, một Nguyễn Bình giang hồ ngang dọc để làm việc nghĩa. Một Nguyễn Bình - Quốc dân đảng để cứu nước đã thất bại, lãnh tụ Nguyễn Thái Học và các yếu nhân của Đảng đều bị giết, những người còn lại đã bạc nhược. Nguyễn Bình ly khai Quốc dân đảng, bị kết tội phản Đảng, họ trị tội bằng cách móc một mắt của Nguyễn Bình, Nguyễn Bình không chết. Nguyễn Bình tìm đến con đường của ông "Nguyễn Yêu Nước" để cứu nước. Giờ đây, Nguyễn Bình được Bác tin cậy giao việc lớn cho cháu (ông nói tiếng cháu rất rõ), nhưng cháu chưa phải là đảng viên Cộng sản.

        Bác Hồ cười hiền từ và nhấn mạnh :

        - Đảng viên Cộng sản ư ? Tổ quốc trên hết ! Tôi giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Bình ái quốc, ái dân và bình thiên hạ cho an sinh hòa mục. Bác giao việc chỉ huy bộ đội Nam Bộ cho chú đó. Chú hãy tỏ ra xứng đáng với lòng tin yêu của Bác và của đồng bào. Hãy về thu xếp vào Nam ngay ! Tình hình Nam Bộ đang như nước sôi, lửa bỏng. Chú nhớ ghé qua chú Giáp lấy giấy tờ. Bác đã dặn chú Giáp làm giấy giới thiệu phái viên của Bộ Tổng cho chú rồi !

        Bác xiết chặt tay Nguyễn Bình :

        - Chúc chú thượng lộ bình an !

        Bất ngờ Bác ôm choàng hôn lên hai má Nguyễn Bình khiến ông xúc động nghẹn lời. Phút giây cảm động ấy theo chân Nguyễn Bình suốt cả cuộc đời. Vòng tay yêu thương của Bác đã chở che, tiếp thêm sức mạnh giúp Nguyễn Bình vượt qua gian khổ, hy sinh, hoàn thành trọng trách mà Đảng và Bác giao cho1.

--------------------------------
        1. Dẫn theo Đinh Thu Xuân : "Bác Hồ giao nhiệm vụ cho Trung tướng Nguyễn Bình" - Đặc san Sự kiện và nhân chứng - Báo Quân đội nhân dân.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:49:25 am

        Rời Bắc Bộ phủ, Nguyễn Bình về Hải Phòng thu xếp hành lý, bàn giao công việc cho Thành ủy và phái viên chính trị Lê Quang Hòa ở Bộ Tư lệnh Chiến khu miền Duyên Hải. Dù chuyến đi được quyết định một cách đột ngột, Thành ủy Hải Phòng cũng cấp tốc làm tiệc tiễn đưa vị Tư lệnh của mình. Đại diện thành phố Cảng trao tặng Khu trưởng khẩu súng lục Wicker để làm kỷ niệm. Rất xúc động, Nguyễn Bình đưa cao khẩu súng nói lớn :

        - Bác đã giao Nam Bộ cho Nguyễn Bình. Thành phố Tô Hiệu tặng Nguyễn Bình khẩu súng này để hoàn thành nhiệm vụ Bác giao. Nguyễn Bình thề với khẩu súng này : Nếu để Nam Bộ mất, Nguyễn Bình sẽ chết theo khẩu súng này.

        Cả hội trường xúc động cao độ với lời thề son sắt, trang nghiêm đó. Sau khi hoàn thành nhanh, gọn việc bàn giao, Nguyễn Bình lên Hà Nội, vào Bộ Tổng tư lệnh lấy giấy tờ rồi ra ngay ga Hàng Cỏ lên xe lửa vào Nam. Trước khi lên tàu, Bộ Tổng tư lệnh cho Nguyễn Như Hiền chạy theo trao tận tay khóa mật mã để khi vào Nam Bộ, Nguyễn Bình sử dụng liên lạc với Trung ương.

*

*        *

        Lúc này tình hình Nam Bộ rất căng thẳng. Lực lượng quân Pháp núp dưới bóng quân Anh vào Sài gòn lên tới 10.000 tên cộng với 20.000 quân Anh và 40.000 quân Nhật, đang bị nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổng bãi công, tổng bãi thị và bao vây chặt không cho chúng bung ra lấn chiếm các nơi ngoại thành. Quân Anh - Pháp đã chiếm các mục tiêu trọng yếu trong thành phố, nhưng chỉ kiểm soát được từng khu vực. Ban đêm lực lượng vũ trang cách mạng vẫn làm chủ thành phố. Sài Gòn lúc này đã trở nên một "thành phố chết" : không điện, nước, lương thực, thực phẩm; không chợ búa, trường học... Buộc quân địch phải dùng máy bay chở các thứ nhu yếu phẩm từ Nam Vang (Nông Pênh) sang tiếp tế cho Sài Gòn. Ban ngày, quân Anh, Pháp lùng sục từng căn hộ, ngõ hẻm, nhưng đêm đến phải lập tức co về các vị trí đồn trú. Ban đêm quân ta vẫn tiếp tục tổ chức nhiều đợt tiến công quân địch trong nội thành.

        Tuy nhiên, cuộc chiến suốt một tháng trời trong lòng thành phố đã diễn ra trong thế tương quan lực lượng bất lợi cho ta. Lúc này quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang chưa được giải quyết thỏa đáng. Các đơn vị vũ trang của các phe phái chính trị như: Phục quốc của Trần Văn An, Quốc gia độc lập của Hồ Văn Ngà, Quốc gia đảng của Nguyễn Hòa Hiệp... Lực lượng Cao Đài của Trần Quang Vinh, lực lượng Hòa Hảo, lực lượng Đại Việt thân Nhật,... Những lực lượng này liên kết thành mặt trận Quốc gia Liên hiệp và thành lập được ba cái gọi là "Sư đoàn dân quân"; đệ nhị, đệ tam, đệ tứ sư đoàn lúc này đã rút ra ngoại thành. Trong nội thành còn có một số người tự tổ chức lực lượng đánh Pháp như Đảng Dao găm ở chợ Thiếc, nhóm Hùng Vương, nhóm Cảm tử, Ban trinh sát, Ban ám sát, Ban hành động...; mỗi đơn vị có vài chục người hoạt động theo cách tự phát, không có sự chỉ huy thống nhất.

        Tuy vậy, với tinh thần "Thà chết chứ không chịu làm nô lệ", lực lượng kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn đã tự động chặn đánh quân địch ở khắp mọi nơi; đốt phá hàng trăm nhà kho, xí nghiệp, tàu xuồng, xe hơi, đầu máy xe lửa... Sài Gòn triệt để thực hiện bao vây triệt mọi phương tiện sinh hoạt, mọi nguồn lương thực, thực phẩm, triệt để bất hợp tác với kẻ thù.

        Bị quân dân Sài Gòn vây hãm, viện binh Pháp lại chưa tới, Tổng chỉ huy quân đội Pháp Xê-đin lúng túng, phải nhờ Đu-glat Gra-xi lấy danh nghĩa Đồng minh đứng ra làm trung gian xin điều đình với ta. Qua ba lần tiếp xúc đều không đem lại kết quả gì, Pháp cố tìm cách trì hoãn để chờ viện binh, đề nghị kéo dài thời gian ngừng bắn.

        Ngày 5 tháng 10, tướng Lơ-cléc tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đến sân bay Tân Sơn Nhất cùng với một lữ đoàn quân đội Hoàng gia Anh, một đơn vị không quân cùng các loại máy bay Spitfire, King cobra... làm cho tương quan lực lượng thay đổi theo chiều có lợi cho địch.

        Tranh thủ thời gian ngừng bắn, Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn tiếp tục tổ chức đồng bào tản cư, dời cơ quan, kho tàng, máy móc, thiết bị, vật liệu ra ngoài, nhanh chóng bổ sung củng cố lực lượng vũ trang. Đồng bào các giới tiếp tục đình công, bãi chợ, bao vây kinh tế đối với địch.

        Nhớ lại những ngày này, đại tá Nguyễn Xuân Diệu đã viết : "Sài Gòn nổ súng ngày 23 tháng 9 năm 1945, Bác Hồ kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào ngày 19 tháng 12 năm 1946. Nghĩa là miền Nam đánh giặc trước toàn quốc gần 1 năm 3 tháng (cụ thể 452 ngày) Sài Gòn sau Tổng khởi nghĩa chỉ có 29 ngày chuẩn bị để đánh giặc.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 02:52:31 am

        Phải thực thà nhìn nhận là hồi đó chưa ai được huấn luyện quân sự, trừ một số cai, đội của Pháp và lính Hai Hô của Nhật sang hàng cách mạng. Không có thì giờ huấn luyện quân sự, mà có học quân sự cũng chỉ biết đội ngũ với động tác một - hai, hoặc học bắn súng, học dùng lựu đạn, nói gì đến chiến lược, chiến thuật. Những đảng viên Cộng sản ở tù ra, nếu có học quân sự trong tù cũng chỉ biết học đi đều mà thôi...". Như Thượng tướng Trần Văn Trà cho biết : "Từ đầu không một ai hiểu biết về quân sự. Cả cán bộ và nhân dân, không một người nào có kinh nghiệm chiến đấu vũ trang. Nhưng tất cả đã ra đi, đứng lên từ thành thị, trụ lại khắp bưng biền, tất cả chỉ có một tấm lòng yêu nước thương dân, thề không đội trời chung với giặc... Bác Hồ đã hiệu triệu : "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ... ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc". Đó là tư tưởng, là cách thức của nhân dân Nam Bộ đã khởi đầu cuộc chiến tranh thần kỳ chống lại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Sự thực là như vậy"1.

        Đêm 10 tháng 10, thời gian ngừng bắn đã hết, quân dân Sài Gòn mở đợt tiến công mới ở phía tây bắc thành phố, đánh bốt cảnh sát ở đường Boresse (nay là đường Yersin), tiến công các điểm đồn trú của Pháp ở khu vực Đa Kao. Lúc 11 giờ đêm chiếc tàu Alerte của Pháp bị đốt cháy ở cảng Sài Gòn.

        Quân Anh - Pháp có xe tăng yểm trợ cố phá vòng vây bao quanh Sài Gòn. Được hai lữ đoàn của quân đội Anh tiếp sức, quân Pháp bắt đầu đánh nống ra hướng bắc và đông bắc Sài Gòn.

        Ngày 17 tháng 10, quân Anh có 8 xe thiết giáp yểm trợ, theo đường Gò Vấp định đánh lên Hóc Môn; bị ta chặn đánh quân Anh buộc phải tháo chạy, bỏ lại 5 xe cùng nhiều xác chết.

        Đúng một tháng sau khi Pháp gây hấn, ngày 23 tháng 10 năm 1945 binh đoàn thiết giáp Massu của Pháp đến Sài Gòn. Tướng Lơ-cléc đưa ra chương trình "đánh nhanh, thắng nhanh" gồm ba giai đoạn : đánh chiếm vùng trọng yếu trước (trước hết là Sài Gòn - Chợ Lớn), mở rộng chiếm đóng toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ và triển khai bình định.

        Với lực lượng mới được tăng cường, lại được quân đội Anh hỗ trợ tối đa, quân Pháp một mặt tăng cường hoạt động càn quét, vây ráp bắt bớ, khủng bố trong nội thành rất khốc liệt; mặt khác ra sức phá vỡ vòng vây nống ra ngoại thành để tiến công chiếm đóng các tỉnh miền Đông Nam Bộ.

        Cũng đúng ngày này - 23 tháng 10 năm 1945, Nguyễn Bình được Trung ương phái vào lãnh đạo quân sự đến Thủ Dầu Một. Nguyễn Bình đến Tổng hành dinh cơ quan lãnh đạo quân sự Nam Bộ lúc này do Dương Bạch Mai (Ủy viên Ủy ban hành chính Lâm thời Nam Bộ - phụ trách quốc gia tự vệ cuộc) và Kiều Đắc Thắng phụ trách, để nhận công tác.

        Lúc này, các cơ quan lãnh đạo Nam Bộ và Sài Gòn - Chợ Lớn hầu như đã bị tan rã trước sức tiến công ác liệt mới của quân đội Pháp, nên không còn hiệu lực lãnh đạo phong trào. Nguyễn Bình phải ở tá túc nhà ông giáo Chương - một người có tinh thần yêu nước tại thị trấn Bưng Cầu, quận Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một. Bước đầu, Nguyễn Bình quy tụ được một số người là cựu binh sĩ, viên chức có tinh thần yêu nước như Võ Bá Nhạc, Sơn Xuyên, Huỳnh Kim Trương (cò Trương, sau là Chi đội trưởng Chi đội 1), Chín Thời (bố Trịnh Kim Ảnh) là sĩ quan cảnh sát ở Thủ Dầu Một... Qua những người này, lại được các tổ chức và cán bộ địa phương giúp đỡ, Nguyễn Bình đã liên lạc tiếp xúc với nhiều người có uy tín lớn. Mặt khác, thông qua số đồng bào Sài Gòn tản cư để tránh sự khủng bố của kẻ thù, Nguyễn Bình đã thấy phần nào tình hình của Sài Gòn - Chợ Lớn. Điều ông thấy rõ nhất là trước sức mạnh tàn bạo của kẻ thù, nhiều cán bộ và chiến sĩ đã chạy dài hoặc nằm im không hoạt động; quần chúng nhân dân thì hoang mang dao động, mất phương hướng đấu tranh.

------------------
        1. Dẫn theo Trần Văn Trà : Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau, tr.15-73.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 10:57:45 pm
            
        Điều cần làm cấp thiết trước mắt là phải làm sao lấy lại và củng cố lòng tin của đồng bào vào sự nghiệp kháng chiến, cứu nước. Vì vậy, Nguyên Bình đã tự viết bản Thông cáo số 1 gửi nhân dân Nam Bộ. Toàn văn bản Thông cáo như sau :

        Hỡi đồng bào!

        Pháp đã đầu hàng phát xít, nhân dân ta giành lại chính quyền từ tay quân Nhật.

        Nay Pháp núp sau quân Anh đồng minh trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa.

        Hồ Chủ tịch đã thay đồng bào phát lời nguyền : "Thà chết chứ không chịu làm nô lệ lần nào nữa!"

        Như vậy là ta quyết chiến đấu đến cùng để gìn giữ chính quyền của ta. Lịch sử từ ngàn xưa của ta : chiến là tất thắng, hòa là đầu hàng, là nô dịch. Hòa thì một Tô Định, một Liễu Thăng, một Sầm Nghi Đông cũng đè đầu cưỡi cổ. Đánh thì Thoát Hoan dòng dõi Thành Cát Tư Hãn, Đông Điều, Hitler, ta cũng thắng.

        Truyền thống của dân tộc ta được thể hiện qua cánh tay Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.

        Một dân tộc kiêu hùng, một đánh hai mươi mà dám đánh và biết đánh thắng.

        Một người con gái Việt Nam cũng mang trong mình cái hào khí đó ngang qua miếu thờ Sầm Nghi Đống trề môi cười khinh thị : "Ví thử tôi được làm nam tử thì sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!".

        Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, thời nào cũng có người đánh thắng giặc, giữ được nước.

        Bây giờ đến lượt chúng ta phải đảm đương cái sứ mạng cao cả đó. Chúng ta quyết đánh và quyết thắng.

        Tôi được lịnh vào Nam cùng đồng bào đánh giặc, giữ nước. Với nhiệm vụ này tôi thề trước Tổ quốc, trước đồng bào rằng : Sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, chưa thành công tôi không chạy trốn, chưa thành công tôi quyết không lui về. Nếu Nam Bộ mất, tôi cùng chết với Nam Bộ. Khẩu súng Wicker tôi mang theo người là vật kỷ niệm của đồng bào, đồng chí thành Tô Hiệu (Hải Phòng) tặng tôi trong giờ đưa tiễn với ý thức dặn dò và gửi gắm niềm tin. Tôi đã lặng lẽ và xúc động nhận nó với lời tâm nguyện : "Vì dân, vì nhà tận diệt quân thù và sẽ dùng nó tự sát khi phải cái nhục mất nước".

        Đây là cuộc toàn dân kháng chiến cứu nước, không phân biệt già, trẻ, gái, trai. Đồng bào hãy đồng tâm quyết đánh và quyết thắng.

        Chống giặc tại nhà, tại làng, thôn, ấp, suối, rừng. Không cộng tác với giặc, không buôn bán, làm công cho giặc. Thực hiện triệt để vườn không nhà trống.

        Đối với địch thực hiện ba không : không nghe, không thấy, không biết.

        Đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, không có súng thì dùng dao, bai, cuốc, xẻng, gậy gộc...

        Chúng ta quyết đánh và quyết thắng.


Ngày 22 tháng 10 năm 1945
NGUYỄN BÌNH1       

        Bản Thông cáo này không những chỉ phân phát ở Thủ Dầu Một mà còn được in và phân phát ở cả Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh khác ở Nam Bộ. Bản Thông cáo này không những chỉ có tác dụng "như một lời hịch cứu nước" khích lệ ý chí chống giặc ngoại xâm, củng cố thêm lòng tin vào sự nghiệp đánh giặc, cứu nước của đồng bào, mà còn có tác dụng như một ngọn roi quất vào mặt giặc. Báo chí Sài Gòn đều đăng tin "Tướng Nguyễn Bình đã vào Nam Bộ" và coi bản Thông cáo này như một chiến thư làm quân giặc và bè lũ tay sai run sợ.

        Lúc này quân địch mới chỉ chọc thủng chứ chưa hoàn toàn phá vỡ vòng vây nên phải rải quân rất mỏng để trấn giữ các nơi mới chiếm. Kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của Lơ-cléc bước đầu đã bị chặn lại. Ta vẫn tiếp tục thực hiện chủ trương "trong đánh, ngoài vây", cầm chân địch, tạo nên khoảng thời gian cần thiết để tổ chức, xây dựng và củng cố lực lượng kháng chiến về các mặt cho Sài Gòn, cũng như toàn Nam Bộ.

        Ngày 25 tháng 10 năm 1945, Xứ ủy Nam Bộ tổ chức hội nghị tại Thiên Hộ (thuộc xã Hậu Mỹ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho) với sự có mặt các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn cùng nhiều đồng chí khác mới ở nhà tù Côn Đảo về.

        Hội nghị biểu dương tinh thần chiến dấu anh dũng của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đồng thời chỉ rõ những non yếu trong việc xây dựng lực lượng vũ trang. Hội nghị quyết định gấp rút xây dựng lực lượng, lấy du kích là chính, thực hiện vườn không nhà trống, đẩy mạnh trừ gian, xây dựng cơ sở bí mật trong thành phố, khôi phục chính quyền cách mạng ở những nơi bị tan rã...

----------------------
        1. Người sưu tầm bản Thông cáo số 1 do Trung tướng Nguyễn Binh soạn thảo là Đại tá Nguyễn Xuân Diệu.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 11:00:55 pm

        Điểm non yếu nhất của lực lượng vũ trang Nam Bộ lúc này là thiếu sự chỉ huy thống nhất, nhiều đơn vị hoạt động lẻ tẻ không những hiệu suất chiến đấu không cao mà còn rất dễ bị địch tiêu diệt, như nhưng cái gọi là "Đệ nhị, Đệ tam và Đệ tứ sư đoàn", bộ đội Nguyễn Văn Sổ, bộ đội HT.29... đã từng tuyên thệ trung thành với Chính phủ Hồ Chí Minh, nhưng qua vài lần "thử lửa" khi địch nống ra, coi như đã "tiêu tan nhuệ khí chống Pháp" và sau đó thì tan rã; không những thế mà còn trở thành tai họa cho nhân dân, gây cản trở cho kháng chiến. Cụ thể là :

        - Đệ nhất sư đoàn : Gồm toàn lính cộng hòa vệ binh (garde indigène) của Pháp do Kiều Công Cung - nguyên thiếu úy quân đội Pháp, làm sư đoàn trưởng. Sau "thử lửa" còn lại hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất do Nguyễn Văn Quạn - sư đoàn phó chỉ huy, kéo về Khu 8. Bộ phận thứ hai do Trương Văn Giàu - sư đoàn phó chỉ huy, kéo về Khu 9.

        - Đệ nhị sư đoàn : Nguyên là tổ chức Đại Việt - tay sai cũ của Nhật, do Lương Văn Tương và Vũ Tam Anh cầm đầu.

        - Đệ tam sư đoàn : Vốn là "Thanh niên phòng vệ đoàn" của Nhật, lúc đầu khoảng 600 người, sau lôi kéo thêm thanh niên lên 5.000 người, do Nguyễn Hòa Hiệp chỉ huy. Nguyễn Hòa Hiệp là một nhân sĩ Nam Bộ có trình độ nặng đầu óc kỳ thị Bắc - Nam, không chịu sự chỉ huy của Tư lệnh Nguyễn Bình.

        - Đệ tứ sư đoàn : Gồm bọn thân Nhật và tập hợp lính cũ cùng những tên trốt-kít, những phần tử đội lốt tôn giáo, khoảng 2.000 người.

        Lực lượng trung thành với kháng chiến trong nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ còn lại một số thanh niên xung phong và Quốc gia tự vệ cuộc được trang bị 120 súng các loại, 3.000 lựu đạn. Ngoài ra còn có một số tổ chức khác như Đảng Dao găm ở chợ Thiếc, nhóm Hùng Vương, nhóm Cảm tử và nghiệp đoàn Lê Phụng Hiểu (thuộc Tổng công đoàn Nam Bộ) vùng cầu chữ Y và Nhà đèn Chợ Quán, Ban ám sát, Ban trinh sát. Ban hành động... đều cố gắng bám trụ hoạt động. Ở vòng ngoài, Tỉnh ủy Gia Định đã gấp rút thành lập lực lượng vũ trang chiến đấu ngay tại chỗ. Đơn vị có tên gọi lúc đầu là Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, do các đồng chí Cao Đức Luốc, Tô Ký, Trần Văn Trà, Huỳnh Tấn Chùa... chỉ huy. Cũng cần kể thêm một số đơn vị mang tên người đứng đầu như bộ đội Huỳnh Văn Một (Đức Hòa), bộ đội Nguyễn Văn Thước (Tân Bình), bộ đội Trương Văn Bang (Cần Giuộc) và các đơn vị bộ đội thuộc lực lượng Bình Xuyên như : bộ đội Tám Mạnh, bộ đội Dương Văn Dương, Dương Văn Hà, bộ đội Bảy Viễn...

        Một đặc điểm nổi bật của thời kỳ thoái trào này là các sư đoàn Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ tan rã. Riêng Bình Xuyên không tan, vì họ có cơ sở quần chúng ở các địa phương như Cần Giuộc, Cần Đước, Long Thành, Bà Rịa, Bà Quẹo, Hóc Môn... "Họ là một lớp người dưới mức trung lưu, không ít người là nhân dân lao động, trong cuộc sống luôn luôn vật lộn với đói nghèo, áp bức, và thiên nhiên khắc nghiệt, đã phải chung lưng đấu cật, kéo bè kết cánh, lấy thủy chung và nghĩa khí đối xử với nhau để cùng được sống và làm người. Họ mang nhiều nét đẹp và nét xấu của các nhà hảo hán xa xưa, của các vị "anh hùng Lương Sơn Bạc" đã được "thời đại hóa" trên mảnh đất Nam Bộ dưới vai những tay anh chị xưng hùng nhất khoảnh, tác oai tác quái ở vùng Rừng Sác, vùng đồng lầy hiểm trở khép chặt các đầu mối giao thông nối liền Sài Gòn với biển cả ở phía đông và với vựa thóc gạo ở các tỉnh miền Tây. Họ làm không ít việc nghĩa - cướp của nhà giàu bớt cho nhà nghèo, giết cò bót Tây, trừng trị cường hào, lính kín - cũng tự nhiên như cho đi "mò tôm" một người khác cánh hay đi cướp (đi hát) ghe thuyền của nông dân lương thiện chở lúa và hột vịt (trứng) về bán ở thành phố. Bình Xuyên là một nét đặc thù vừa đậm đà tính địa phương vừa mang đặc điểm dân tộc rõ nét. Chưa nơi nào trên thế giới lại có một hiện tượng xã hội đa dạng như hiện tượng Bình Xuyên. Không hoàn toàn là đảng chính trị, là phe phái tôn giáo; không là cướp, là phỉ, là giang hồ chọc trời khuấy nước... mà vẫn hao hao gợi lên tất cả những hiện tượng ấy"1.

---------------------------
        1. Lời giới thiệu Người Bình Xuyên.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Hai, 2017, 11:04:26 pm

        Nguyễn Bình biết rất rõ đặc điểm này. Vì vậy, ngay từ ngày đầu tới Nam Bộ, ông đã đặc biệt lưu ý đến Bình Xuyên, không hề có ý định tiêu diệt Bình Xuyên mà có kế hoạch sử dụng, cải tạo Bình Xuyên thành một lực lượng có ích cho kháng chiến, cứu nước. Cách mạng tháng Tám thành công, Bình Xuyên đã tự nguyện quy phục cách mạng. Dương Văn Dương, Dương Văn Hà, Tám Mạnh là lãnh tụ của Bình Xuyên đều là Đảng viên Cộng sản từ trước Cách mạng tháng Tám. Hai Vĩnh và nhiều anh em khác của Bình Xuyên đều là những người yêu nước. Chính vì vậy mà Nguyễn Bình chủ trương tranh thủ Bình Xuyên. Không phải chỉ tranh thủ trước mắt mà là tranh thủ lâu dài với hy vọng họ tìm thấy trong hoạt động cách mạng một lối thoát cho những điều tích cực của người lao động bị áp bức, của người dân mất nước và người trọng nghĩa khinh tài vốn tiềm tàng trong họ.

        "Nguyễn Bình đã chú ý lôi kéo con cái của những người lãnh đạo Bình xuyên đưa họ vào học ở trường quân chính để bồi dưỡng đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng sau này. Như hai người con của anh Mười Trí, một người con của anh Hai Vĩnh (tên là Mai Chương, sau này là Thiếu tướng), một người con của anh Năm Triệu... tất cả đều trưởng thành trở nên cán bộ tốt, phục vụ đắc lực cho cách mạng. Điều này nói lên tầm nhìn xa rộng của Nguyễn Bình"1.

        Thời gian này Thủ Dầu Một chưa bị quân Pháp chiếm. Do được sự giúp đỡ của chính quyền và tổ chức Việt Minh tỉnh Thủ Dầu Một, Nguyễn Bình phái những người có uy tín đi mời tất cả chỉ huy các đơn vị vũ trang về họp tại An Phú Xã - một địa điểm ở hữu ngạn sông Sài Gòn, nay thuộc huyện Củ Chi, một vị trí ở ngang với thị xã Thủ Dầu Một.

        Ngày 22 tháng 11 năm 1945, hội nghị An Phú Xã đã được triệu tập có mặt đầy đủ đại diện các đơn vị vũ trang. Có thể coi đây là một hội nghị quân sự lớn nhất của Nam Bộ từ trước tới lúc đó, vì trước Nguyễn Bình, Trung ương đã cử một số người vào nhưng không làm nổi.

        Về dự hội nghị, đồng chí Trần Văn Trà đã nêu ý kiến với Nguyễn Bình: "Dựa vào uy thế của Trung ương, mong đồng chí làm được nhiệm vụ lịch sử lúc đầu kháng chiến này là thống nhất chỉ huy tất cả các lực lượng, đưa vào trật tự và kỷ luật thì kháng chiến mới thành công. Giải phóng quân xin vì nhiệm vụ ấy mà chấp hành nghiêm chỉnh mọi mệnh lệnh của đồng chí".

        Các đại biểu rất nhớ lời thề trịnh trọng của Nguyễn Bình tại hội nghị : "Chưa thành công ta quyết chưa lui về Nam Bộ mất, ta sẽ vì Nam Bộ chết. Đây là khẩu súng mà trong giờ tiễn biệt Tô Hiệu thành đã kỷ niệm cho ta để vì dân, tận diệt kẻ thù, để vì nước hủy mình không sống nhục". Nguyễn Bình rút khẩu súng đeo bên người, trang trọng giơ cao để mọi người nhìn rõ. Lời thề của Nguyễn Bình đã có sức mạnh xoáy vào lòng người, đã hoàn toàn chinh phục được mọi người trong hội nghị.

        Với tư cách là phái viên của Chính phủ Trung ương, của Bác Hồ, Nguyễn Bình kết luận : "Đừng bao giờ để bọn địch xé lẻ chúng ta ra mà diệt gọn từng đơn vị. Bài học bẻ đũa từng chiếc lẽ nào ta không biết. Muốn đánh thắng thằng Tây, chúng ta phải tập hợp thành một khối. Tôi đề nghị từ nay không gọi bộ đội ông A, ông B, mà ta gọi bộ đội chúng ta bằng cái tên chung là Giải phóng quân. Phiên hiệu thứ tự từ nay như sau :

        Bộ đội tỉnh Thủ Dầu Một do anh Huỳnh Kim Trương chỉ huy là Chi đội 1. Bộ đội Bình Xuyên do anh Lương Văn Trọng đại diện là Chi đội 2 và 3. Bộ đội anh Huỳnh Văn Trí (Bà Quẹo) là Chi đội 4. Bộ đội anh Phạm Hữu Đức (Tân An) là Chi đội 5. Bộ đội anh Nguyễn Văn Dung (Gia định) là Chi đội 6. Bộ đội anh Nguyễn Thanh Bạch và anh Nguyễn Hoài Thanh (Tây Ninh) là Chi đội 7 và 8. Bộ đội anh Lê Văn Viễn (Bảy Viễn - Phú Thọ) là Chi đội 9. Bộ đội anh Huỳnh Văn Nghệ (Biên Hòa) là Chi đội 10. Bộ đội anh Trịnh Khánh Vàng (Tây Ninh) là Chi đội 11. Bộ đội anh Tô Ký (Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa) là Chi đội 12. Bộ đội anh Mười Thìn (Tổng công đoàn) là Chi đội đội 13. Bộ đội anh Trần Văn Trà (Tân An) là Chi đội 14. Bộ đội anh Huỳnh Văn Một (Đức Hòa) là Chi đội 15"2.

---------------------------
        1. Tư liệu do Đại tá Nguyễn Xuân Diệu - nguyên Giám đốc Trường quân chính Quân khu 7, cung cấp.

        2. Bùi Sinh: Kể chuyện về Trung tướng Nguyễn Bình, Nxb Quân đội nhân dân, sđd. tr.71-72.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:26:27 am

        Hội nghị nhất trí tán thành và bầu Nguyễn Bình làm Tổng Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ. Ngày hôm sau (23-11-1945), Nguyễn Bình tự viết bản Thông cáo số 2 như sau :

        Hịch chống xâm lăng có 3 điều chống:

        1. Chống hợp tác với giặc.

        2. Chống tổ chức và hoạt động vô chính phủ.

        3. Chống khủng bố và ức hiếp nhân dân.

        Từ ngày 22 tháng 11 năm 1945 các lực lượng vũ trang sẽ thống nhất quân hiệu GIẢI PHÓNG QUÂN NAM BỘ.

        Ngoài lực lượng chánh quy, các tỉnh còn tổ chức các đơn vị trợ chiến gồm địa phương quân và dân quân du kích gọi tắt là dân quân.

        Các tổ chức vũ trang nhiều hay ít, tập thể hay cá nhân không nằm trong hệ thống Quân Giải phóng kể trên coi như hoạt động bất hợp pháp, phải giải tán để tránh tình trạng manh động, vô chính phủ.

        NGUYỄN BÌNH

        Từ đây tên tuổi Nguyễn Bình nhanh chóng gắn liền với các hoạt động quân sự toàn Nam Bộ. Với Hội nghị An Phú Xã, về danh nghĩa lực lượng vũ trang đã thống nhất quy về một mối, nhưng thực chất Đảng chưa hoàn toàn nắm được tổ chức, quyền chỉ huy, nhất là với các Chi đội "quân Bình Xuyên". Những đơn vị này đều hoạt động độc lập, tự lo lấy việc đảm bảo hậu cần. Tình hình khá lộn xộn, các đơn vị muốn đánh thế nào, đánh ở đâu tùy ý, không đánh thì rút đi nơi khác, khi cao hứng rủ nhau đánh một trận cho ra trò, có khi thách nhau ai hơn ai kém, đơn vị mạnh hiếp đáp lấn át đơn vị yếu,... Hiện tượng bắt cóc, cướp của vẫn thường xảy ra nơi này nơi khác.

        Đầu năm 1946, bộ đội Bình Xuyên lần lượt rút khỏi Sài Gòn theo sông Lòng Tàu hoặc Soài Rạp vào Rừng Sác. Nhóm Ba Dương, Năm Hà đóng ở vùng Phước An, Phước Thọ, Vũng Gấm thuộc huyện Long Thành. Còn Hai Vĩnh và gia đình bên vợ (Tám Mạnh) đóng đô ở núi Nứa, Bà Trau - một cù lao nằm giữa Bà Rịa và Vũng Tàu. Công việc đầu tiên của Hai Vĩnh là đắp nền cất trại chuyển máy từ dưới thuyền lên lập công binh xưởng sản xuất lựu đạn.

        Nguyên Hùng - tác giả "Người Bình Xuyên"  thuật lại : "Một hôm, Hai Vĩnh nhận được thư của Nguyễn Bình mời tới Bà Rịa có việc cần. Đến nơi thì biết đây là vụ bắt Ba Nhỏ. Ba Nhỏ là dân anh chị lưu lạc giang hồ đầu tiên ở Xóm Củi, sau qua vùng Thị Nghè - Bà Chiểu. Sau khi mặt trận Thị Nghè - Bà Chiểu bị vỡ, Ba Nhỏ rút quân ra Bà Rịa. Đi tới đâu Ba Nhỏ nhũng nhiễu tới đó, bắt chánh quyền phải nạp tiền nuôi quân, đóng quân ở nhà nào có gái đẹp, hắn cưỡng hiếp thô bạo. Lúc này ta vẫn còn phong tỏa thành phố Sài Gòn, một hôm Ba Nhỏ cưỡi ngựa, mang gươm tuần tiễu dọc sông Cầu Bông, hắn thấy dân quân ở bến đò bắt một người dàn bà giấu một ký thịt trong giỏ xách, toan qua Tân Định. Người đàn bà này thú nhận có con gái và hai đứa cháu ngoại kẹt trong thành phố. Bà sợ cháu ngoại đói. Đúng vào lúc đó, Ba Nhỏ cưỡi ngựa đi ngang qua, chưa nghe hết đầu đuôi, Ba Nhỏ cho là một vụ vi phạm lệnh phong tỏa thành phố nên đã nhảy xuống ngựa, rút gươm xô người đàn bà kia quỳ xuống chặt đầu. Cảnh tượng thương tâm ấy làm cho dân chúng vô cùng oán hận. Thư gửi thưa kiện Ba Nhỏ rất nhiều, trong đó có cả đơn của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa. Tư lệnh Nguyễn Bình quyết xử Ba Nhỏ để làm gương. Trong công văn quyết định bắt xử Ba Nhỏ, Nguyễn Bình viết : "Tôi được Trung ương cử vào Nam để thống nhất các lực lượng vũ trang và nêu cao kỷ luật quân đội cách mạng. Cha mẹ hay anh em tôi mà phạm tội, nếu là tội đáng tử hình, chính tôi đây là đao phủ".

        Dương Bạch Mai ra lệnh cho Huỳnh Công Vinh - Trưởng ty Công an Bà Rịa bắt, nhưng Vinh không bắt được vì Ba Nhỏ có lực lượng võ trang mạnh. Được biết Ba Nhỏ là dân giang hồ, chỉ nể các tay anh chị, Nguyễn Bình giao công tác này cho Hai Vĩnh.

        Lúc Hai Vĩnh tới Bà Rịa thì Ba Nhỏ đang tìm bắn Dương Bạch Mai là người ký giấy bắt Ba Nhỏ. Hai Vĩnh cùng một bảo vệ đến thánh thất Cao Đài gặp Ba Nhỏ. Thấy Hai Vĩnh, Ba Nhỏ trao cây súng máy cho tên vệ sĩ, bước tới chào :

        - Anh Hai đi đâu đấy? Đi bắt tôi phải không?

        Hai Vĩnh ôn tồn :

        - Bắt Ba Nhỏ đâu phải chuyện dễ. Tôi đến đây để làm nhịp cầu thông cảm giữa Tư lệnh Nguyễn Bình và Ba Nhỏ.

        - Nhịp cầu thông cảm? Anh nói gì vậy?

        - Anh hùng tử chứ khí hùng nào tử ! Tôi nghĩ rằng anh Ba nên theo tôi đi gặp Tư lệnh Nguyễn Bình để trình bày mọi việc hơn là tránh né thế này. Thái độ ngang bướng của anh Ba càng làm người ta ngộ nhận là anh Ba tính đi theo con đường của Phan Tấn Đạt (một tên phản bội)...

        Ba Nhỏ ngẫm nghĩ im lặng. Hai Vĩnh nói tiếp :

        - Đi với tôi anh Ba! Trắng đen thế nào tôi không biết, nhưng tôi hứa danh dự với anh Ba là không ai đụng tới anh Ba khi có tôi bên cạnh.

        Ba Nhỏ nghe theo đi với Hai Vĩnh gặp Huỳnh Công Vinh. Vinh trình giấy bắt cho Ba Nhỏ xem. Ba Nhỏ cau mày nhìn Hai Vĩnh. Hai Vĩnh khuyên :

        - Anh Ba nên tôn trọng kỷ luật. Anh nên giao súng. Chuyện đâu còn có đó. Tôi đã đề nghị với anh Vinh là phải đối xử với anh Ba khác thiên hạ. Đây là một tay giang hồ có cỡ.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:30:30 am

        Nghe lời Hai Vĩnh, Ba Nhỏ trao súng cho Huỳnh Công Vinh, bó mình chịu tội.

        Phiên tòa xử Ba Nhỏ được tổ chức tại chùa Phước Lai, gần Chợ Mới, Long Thành. Hai Vĩnh bận công tác không dự được. Nhưng ông Tám Mạnh có mặt kể lại cho Hai Vĩnh nghe giờ cuối cùng của Ba Nhỏ :

        - Thật xứng đáng là một tay "anh chị".

        Thành phần tòa án gồm có Tư lệnh Nguyễn Bình, Ba Dương, Tám Mạnh. Trước phiên tòa xử, ba đồng chí này đã nhất trí với bản án tử hình để làm gương trong ba quân...

        Ba phát súng báo hiệu phiên tòa bắt đầu. Ba Nhỏ được đưa ra trước vành móng ngựa. Hắn rất bình tĩnh nhìn thẳng những người ngồi xử mình. Thừa phái đọc bản tội trạng dài sọc. Công tố viên buộc tội rồi biện hộ sư xin tòa giảm án. Sau mười lăm phút nghị án. Tư lệnh Nguyễn Bình nhân danh Chánh án tuyên án "Ba Nhỏ đáng tội tử hình và bản án được thi hành ngay tại chỗ".

        Ba Nhỏ không một chút xúc động :

        - Cám ơn anh Ba đã chỉ rõ những sai lầm của tôi. Tội tôi làm tôi chịu. Xin Tòa cho một ân huệ cuối cùng : để tôi tự xử lấy. Anh Ba, cho mượn cây súng của anh.

        Nguyễn Bình tháo súng, đưa cho Ba Nhỏ. Tay mặt cầm súng, tay trái chỉ ngực, Ba Nhỏ hỏi như đùa :

        - Chỗ này chết không? - Ngón trỏ hắn dịch xuống bụng : - chỗ này chết không? - Rồi hắn bóp cò "cạch".

        Tiếng cò súng vang lên trong không khí im lặng như tờ.

        Không một ai dám thở mạnh. Ba Nhỏ cười vang :

        - Đến giờ phút này mà anh Ba vẫn chưa tin tôi. Anh Ba, cho xin gắp đạn khác !

        Lần này thì đạn nổ thật và Ba Nhỏ đã đền tội.

        Vụ xử án này là một sự kiện lớn lúc bấy giờ vì trong vụ án xử này có hai nhân vật nổi bật : Chánh án Ba Bình và tử tội Ba Nhỏ. Cả hai đều nêu gương dũng cảm hơn người. Nếu không phải là Ba Bình chánh án thì không đời nào cho Ba Nhỏ tự xử bằng chính cây súng của Chánh án. Và nếu không phải là Ba Nhỏ thì khẩu súng kia đã chĩa vào mục tiêu khác hơn là bắn vô đầu mình. Đúng là anh hùng lại gặp anh hùng"1.

        Vụ xử án này đã có tác dụng đề cao kỷ luật của quân đội cách mạng, làm tăng thêm lòng tin yêu của nhân dân đối với bộ đội con em của mình.

-----------------------
        1. Nguyên Hùng - Người Bình Xuyên tr.143-145.

        Lúc này quân Pháp đã chọc thủng vòng vây, chiếm đóng Thủ Dầu Một. Nguyễn Bình chuyển sang đứng chân An Phú Xã đối diện với thị xã Thủ Dầu Một trên bờ sông Sài Gòn. Rồi từ An Phú Xã chuyển về lập Tổng hành dinh ở Tân Uyên trên bờ sông Đồng Nai. Quân Pháp biết đây là một căn cứ kháng chiến của ta nên tập trung lực lượng hải - lục - không quân đánh vào Tân Uyên. Nguyễn Bình đã tập hợp các chi đội đánh trả quyết liệt. Nhưng, để bảo toàn lực lượng, Nguyễn Bình tổ chức chuyển lực lượng về Lạc An phía thượng nguồn sông Đồng Nai, cách Tân Uyên khoảng 5 - 6 kilômét.

        Nguyễn Bình đóng Tổng hành dinh ở đây khá lâu, đã mở rộng địa bàn và xây dựng quy mô, biến nơi đây thành một chiến khu, trung tâm chỉ đạo kháng chiến ở Miền Đông nổi tiếng.

        Trong khi quân Pháp tiến công vào Tân Uyên, thì trong nội thành, quân ta tiến công trụ sở Tổng hành dinh Cao ủy Pháp (phòng thương mại cũ ở Quai de Belgique, nay là Bến Chương Dương, góc Mac Mahon - Nam Kỳ Khởi Nghĩa) khiến quân Anh; quân Nhật đóng ở các tỉnh lân cận phải cấp tốc về Sài Gòn cứu nguy cho quân Pháp.

        Sau đó, đêm 8 tháng 12 năm 1945, lực lượng vũ trang Sài Gòn lại bất ngờ tiến công trại lính Pháp ở đường Frédéric - Drouhet (Hùng Vương), phóng lửa đất trại lính; giặc chết hàng trăm, số bị thương nằm chật nhiều bệnh viện Sài Gòn (Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ ra thông báo ghi nhận trận đánh này là "trận đánh lớn nhất chưa từng xảy ra ở Nam Bộ).

        *

        *    *

        Sau Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, Trung ương chỉ thị cho Nam Bộ, nhân thời cơ này nhanh chóng phục hồi và phát triển các cơ sở tại vùng bị chiếm. Hội nghị Xứ ủy cuối tháng 3 năm 1946 quyết định chia Nam Bộ thành ba khu cho phù hợp với tình hình mới : Khu 7, Khu 8 và Khu 9. Nguyễn Bình được Xứ ủy chỉ định làm Khu trưởng Khu 7 - một chiến trường trọng điểm, gay go ác liệt nhất. Ông đã sống gian khổ, lăn lộn mạo hiểm ở khắp các mặt trận. Với phong cách bình dị, anh hùng, hào hiệp, gan dạ, táo bạo; sống có nghĩa có tình nên không những đã thực sự cảm hóa được những người Bình Xuyên mà còn tranh thủ được nhiều thân sĩ và trí thức Nam Bộ; nhiều người đã hết lòng hết sức giúp đỡ ông, một lòng một dạ đi theo kháng chiến, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 09:34:08 am

        Theo "Người Bình Xuyên" của Nguyên Hùng : Sau Hội nghị An Phú Xã, Nguyễn Bình điểm qua các bộ đội ở miền Đông Nam Bộ. Đúng như ông nhận định từ trước, bộ đội Bình Xuyên của Ba Dương tương đối hùng hậu hơn cả, Nguyễn Bình nhất định sẽ liên kết với Ba Dương để nắm Bình Xuyên. Cách liên kết hữu hiệu là nâng Ba Dương lên chức Khu bộ phó. Nghĩ sao làm vậy, Nguyễn Bình xuống Phước An là nơi Ba Dương đóng quân, lấy giấy trong xắc cốt ra viết liền một mạch :

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

GIẤY BỔ NHẬM


        Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng Khu thứ 7 nước Việt Nam bổ nhậm đồng chí Dương Văn Dương là Khu bộ phó.

Ký tên: Bình           
NGUYỄN BÌNH       

        Chỉ vẻn vẹn có một câu, cũng chẳng có đóng dấu, nhưng đây là một quyết định quan trọng đối với Ba Dương và bộ đội Bình Xuyên. Nó động viên tinh thần tất cả mọi người. Nhưng nhiệm vụ Nguyễn Bình giao cho Ba Dương còn quan trọng hơn. Ông nói :

        - Tình hình ở đây tương đối ổn. Nhưng còn Khu 8 và Khu 9. Tôi đóng ở Thủ Dầu Một, còn anh đi xuống dưới, vừa đi vừa đánh, thu nhận các nhóm lẻ tẻ. Anh đi một vòng rồi về đây. Chắc chắn là tình hình sẽ dễ chịu hơn. Ngay từ bây giờ, anh hãy chuẩn bị sẵn sàng chuyến viễn chinh này.

        Ba Dương liền triệu tập hội nghị cán bộ tại Rạch Su trình bày việc đưa quân xuống tăng cường chiến khu Bến Tre, tiếp cứu mặt trận An Hóa - Giao Hòa bị Tây uy hiếp nặng.

        Theo lệnh Khu trưởng Nguyễn Bình, Ba Dương chỉ thị cho các đơn vị bộ đội Bình Xuyên chọn đơn vị nào có thành tích lập liên quân đi Bến Tre.

        Năm Hà (Dương Văn Hà - em trai của Dương Văn Dương) được giao trọng trách giữ trại. Còn Ba Dương đích thân chỉ huy bộ đội trong chuyến đi này. Bấy giờ cuối tháng chạp, Tết đã gần kề, Ba Dương tổ chức cho bộ đội ăn Tết trước đồng bào ba ngày. Đây là một cái Tết khó quên giữa sông Cái mênh mông và rừng xanh chằng chịt. Khung cảnh giống hệt vùng Lương Sơn Bạc.

        Tám giờ tối 30 Tết, Ba Dương ra lệnh xuất quân. Tất cả vượt sông Soài Rạp, ngược lên xã Tân Dân. Vừa đi vừa đánh để tạo khí thế, đánh đâu thắng đó. Khi tới Bình Phục Nhứt, quận Chợ Gạo, dù mệt nhoài, anh em vẫn đào công sự phục kích địch, trước khi hành quân vô tỉnh Bến Tre. Đến bờ nam Cửa Tiểu thì được tin mặt trận An Hóa - Giao Hòa đã mất. Ba Dương quyết định kéo quân qua xã Châu Bình đánh đoàn tàu chở thực phẩm của địch tại ngã ba Giồng Trôm, sau đó về xã Bình Khương; xuống tới Gò Công thống nhất với lực lượng bộ đội của Hai Lung giải giáp Đệ tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp đã có hành động quân phiệt,làm nhân dân ca thán. Tới Giao Hòa, Ba Dương đang tổ chức hội nghị bàn cách tiến quân vào Bến Tre thì được tin Tây sắp tiến công. Hai Lung dàn quân nghênh chiến, còn Ba Dương rút qua sông Ba Lại đóng quân tại Châu Phú. Hai chiếc Spitfire lên bắn phá dọn đường cho bộ binh, vì chưa đào được phòng tuyến, Ba Dương chạy ra đống rơm sau nhà, vừa xoay quanh cây rơm để tránh đạn vừa ra lệnh cho bộ đội tản ra. Không may ông trúng đạn, tử thương. Cái chết bất ngờ của Ba Dương khiến lực lượng Bình Xuyên trên đường hành quân xa phải quay trở lại. Năm Hà nhớ mãi lời dặn của Ba Dương lúc chia tay : "Chú phải giữ kỹ anh em, đừng để chúng xách súng đi lung tung. Bây giờ mình là bộ đội cách mạng rồi". Càng ngẫm, càng thương anh Ba Dương. Ngày Ba Dương tử trận là ngày 16 tháng 1 năm 1946. Vài tuần sau, Liên chi đội 2 - 3 tổ chức lễ truy điệu cố Khu bộ phó Dương Văn Dương và phấn khởi dược nghe Nguyễn Bình đọc quyết định của Chính phủ Trung ương phong đồng chí Dương Văn Dương quân hàm phiếu tướng, đồng thời đổi tên con kinh Lagrange chạy từ Vàm Cỏ Tây tới dãy Cờ Đen là kinh Dương Văn Dương. Anh em Bình Xuyên cũng được củng cố tinh thần khi Năm Hà đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh chia buồn cùng gia đình đồng chí Dương Văn Dương đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Nam Bộ.

        Ba Dương tử trận đánh thức tham vọng trong lòng Bảy Viễn. Giấc mơ chủ sơn trại mà hắn đã tiết lộ với Mười Trí trong chuyến vượt ngục Côn Đảo, có cơ thực hiện. Bảy Viễn cho rằng Ba Dương chết rồi, Năm Hà lên thay là không xứng đáng vì Năm Hà không phải là tay anh chị có vai vế. Cho nên người nắm Bình Xuyên phải là Bảy Viễn. Để chuẩn bị cho kế hoạch thay thế Ba Dương, Bảy Viễn gửi thư mời các Chi đội trưởng Bình Xuyên về hội nghị bầu ban chỉ huy thống nhất, Bảy Viễn cũng đề nghị chia vùng đóng quân : Hai Vĩnh ở Phước thọ, Trương Văn Giàu ở Cầu Lò Rèn - Phước Long, Bảy Viễn ở Phước An.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:36:50 pm

        Bảy Viễn tin tưởng sẽ được bộ hạ bầu mình làm tham mưu trưởng liên quân Bình Xuyên. Nhưng Bảy Viễn không biết đa số Bình Xuyên xem hắn là kẻ tiếm quyền. Hai Vĩnh một mặt đề nghị chỉ cấp đại đội mới được dự hội nghị, một mặt vạch cho anh em thấy rõ Bảy Viễn không có công trận gì trong bộ đội Bình Xuyên vì trong những ngày đầu kháng chiến, bộ đội Bảy Viễn đã đụng đầu nhiều trận càn của Pháp ở Phú Thọ, Gò Cát, Hiệp Hòa và Bàu Cò, Láng Le, trận nào cũng rút chạy. Nhất là trận Cầu Xáng - Hiệp Hòa, Chi đội 9 thiệt hại nặng, phải chôn súng mà chạy xuống bưng "chém vè".

        Bộ tham mưu Bình Xuyên lập tức họp bầu Năm Hà lên thay chủ tướng Ba Dương trước tham vọng của Bảy Viễn. Một bức thư gửi Khu trưởng Nguyên Bình báo cáo về việc bầu cử đó, đồng thời hỏi ý kiến về việc mượn tiền của dân để nuôi quân. Ngày 12 tháng 4 năm 1946, Nguyễn Bình viết thư trả lời, nguyên văn như sau:
       
       
          VỆ QUỐC ĐOÀN                                   VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
        TỔNG HÀNH DINH                                 ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

             Số 713/HB   
         Ngày 12-4-1946

                                         Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng Khu thứ 7 nước Việt Nam.

        Kính gửi đồng chí Dương Văn Hà - Tư lệnh Vệ quốc đoàn Bình Xuyên. Về việc đồng chí được cử thay đồng chí Dương, tôi rất tán thành. Mong đồng chí đừng phụ lòng mong mỏi ký thác của anh em chiến sĩ Bình Xuyên, của tôi, của đồng chí Dương Văn Dương đã quá cố, nhất là giữ tiếng tăm cho đồng chí Dương là người lỗi lạc khác hẳn với Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn phản động và chỉ lôi kéo bè phái. Có được như vậy mới thật là xứng đáng với anh linh đồng chí Dương Văn Dương, người đã hy sinh oanh liệt cho Tổ quốc. Ngoài ra, tôi không đồng ý việc mượn tiền dân. Bộ đội nên tăng gia sản xuất để dân được nhẹ phần đóng góp.

        Mặt khác, tôi không cho phép vợ con theo bộ đội, tránh tình trạng ô hợp như Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn, H.T 29...

NGUYỄN BÌNH       

        Được biết Năm Hà đã được Nguyễn Bình công nhận là người thay Ba Dương nắm Bình Xuyên, Bảy Viễn vẫn không bỏ mộng tiếm quyền từ lâu hằng mơ ước.

        Lúc này quân Pháp quyết tâm chiếm lại con đường 15 để dân Sài Gòn có thể đi Vũng Tàu vào cuối tuần, nhằm mục đích tuyên truyền với những chính khách từ Pháp qua, cho rằng cuộc sống đã trở lại bình thường, nhưng chúng vấp phải một trở ngại lớn là lực lượng của Liên khu quân sự Bình Xuyên đóng căn cứ ở Rừng Sác. Lực lượng Bình Xuyên chống Pháp quyết liệt, có tổ chức, có lý tưởng, có bộ đội và nhiều vị chỉ huy yêu nước giác ngộ cách mạng.

        Mặt khác, Bình Xuyên là một hiện tượng đặc biệt mà Pháp hiểu rõ từ lâu, nó bao gồm nhiều con người chọc trời khuấy nước rất khác nhau về cá tính, nhưng vẫn ràng buộc với nhau bằng mối quan hệ vô hình của một tập quán và tâm lý lâu năm hình thành như một thứ luật giang hồ... Một số đông đã đi theo cách mạng, mà đã theo là theo tới cùng. Nhưng còn một số ít thì khó tiếp nhận những "liều thuốc đắng" của cách mạng. Trong số ấy, Bảy Viễn là một nhân vật điển hình được quân Pháp đặc biệt chú ý, dùng mọi cách mua chuộc, lôi kéo để làm yếu lực lượng Bình Xuyên, chúng đã cài được hai tên Việt gian Lại Văn Sang và Lại Hữu Tài vào nằm trong Ban chỉ huy của Bảy Viễn. Vì vậy, vấn đề Bảy Viễn lúc này đã trở thành chuyện đối phó với âm mưu của giặc Pháp đối với Bình Xuyên nói riêng, hay là vấn đề chiến lược chiến thuật giữa ta và Pháp chung quanh mặt trận Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ nói chung.

        Ngành Công an báo tin : Quân Pháp đang dùng vũ khí và vật chất để biến dần khu Rừng Sác từ một căn cứ kháng chiến thành một vùng đệm nằm im rồi nâng nó lên thành một chiến khu của chúng cắm sâu vào vùng kháng chiến của ta. Bọn 2B (do Lâm Ngọc Đường đại diện) với Bảy Viễn đã có một sự thỏa thuận : "Bình Xuyên sẽ giữ thái độ án binh bất động trong khu Rừng Sác để đổi lấy sự tiếp tế vũ khí và quân nhu của Pháp".

        Trước tình hình này, Nguyễn Bình chủ trương phải giữ Bảy Viễn và kéo Bảy Viễn ra khỏi căn cứ Rừng Sác và đã đề nghị Trung ương phong cho Bảy Viễn chức Khu bộ phó Khu 7.

        Được Quân khu ủy phân công, Nguyễn Bình cùng Hai Vĩnh đã lập kế hoạch tước vũ khí và giải giới Quốc vệ đội của Huỳnh Công Vinh (Trưởng ty Công an Bà Rịa đã phản bội) và bắt sống Lê Văn Huề (Chủ tịch tỉnh Bà Rịa đã phản bội). Hai tên phản bội này đã khai hết mối quan hệ của Bảy Viễn với 2B và âm mưu của Pháp đối với Rừng Sác. Được tin này, Bảy Viễn hoảng hốt triệu tập các Chi đội trưởng trong Rừng Sác họp lên án Hai Vĩnh đã ngả theo cộng sản và ra lệnh cho hai chi đội trưởng Năm Chảng và Mười Lực chỉ huy Liên chi 2 và 3 đi bắt Hai Vĩnh - nếu chống cự thì được phép bắn chết. Đồng thời ra lệnh bắt ba chính trị viên Lê Hiền (Chi đội 21), Lưu Quý Thoái (Chi đội 4), Thiết Sơn (Chi đội 25).


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:39:59 pm

        Năm Chảng là cậu vợ Hai Vĩnh rất băn khoăn. Trên đường đi bàn với Mười Lực và được Mười Lực đồng ý : Một mặt báo tin cho Hai Vĩnh, một mặt về nói với Bảy Viễn "ông ta là Khu bộ phó, chỉ có ông mới có quyền bắt Hai Vĩnh".

        Việc bắt ba chính trị viên cũng gặp phản ứng dữ dội. Hai anh Nghiệp và Dư là đại đội trưởng và đại đội phó một đại đội trong Chi đội 21 của Tư Hoạnh liền kéo đại đội bỏ đi để phản đối hành động độc tài của Bảy Viễn. Hai anh Nghiệp và Dư đưa đại đội về Biên Hòa gặp Quân khu phó Huỳnh Văn Nghệ báo cáo sự bê bối của Bảy Viễn. Huỳnh Văn Nghệ giữ đại đội này lại Chi đội 10 và báo cáo về Nguyễn Bình và Chính ủy Hai Trí ở Giồng Dinh.

        Tại Giồng Dinh, Quân khu ủy có một cuộc họp cực kỳ quan trọng bàn về vấn đề Bảy Viễn. Đã có bằng chứng cụ thể cho thấy Bảy Viễn liên lạc với Chính phủ Nam phần Việt Nam của tướng Nguyễn Văn Xuân mà Lê Văn Huề và Huỳnh Công Vinh là hai nhân chứng quan trọng. Hai cán bộ đại đội Nghiệp và Dư cũng là hai nhân chứng quan trọng. Trong tổng hành dinh của Bảy Viễn luôn có hai tên 2B là Tư Sang và Năm Tài. Chúng đang mưu toan ám hại những người có cảm tình với cộng sản, thủ tiêu những người Bắc và công khai bắt các chính trị viên.

        Quan điểm của hai nhóm chính trị và quân sự hoàn toàn trái ngược nhau. Phái chính trị do Hai Trí lãnh đạo chủ trương tiêu diệt Bảy Viễn và tiến hành thanh trừng Bình Xuyên, loại bỏ hết các phần tử theo Bảy Viễn hoặc còn lừng chừng. Phái quân sự do Nguyễn Bình lãnh đạo không đồng ý thanh trừng, cố gắng giữ nguyên các Chi đội để củng cố và phát triển chỉ nên thay đổi những cán bộ yếu kém không có khả năng chỉ huy. Trước mắt là phải kéo Bảy Viễn ra khỏi Khu Liên quân Bình Xuyên Rừng Sác, đồng thời bắt hai tên 2B Tư Sang và Năm Tài để đưa ra Tòa án quân sự xét xử trị tội cùng với Lê Văn Huề và Cò Vinh.

        Sau cùng, hội nghị tìm một giải pháp dung hòa - Huỳnh Văn Nghệ với tư cách Khu bộ phó đề nghị :

        - Anh Nguyễn Bình sắp lãnh chức Ủy viên quân sự Nam Bộ. Tôi đề nghị đưa Bảy Viễn lên giữ chức Khu bộ trưởng của anh Nguyễn Bình. Nếu Bảy Viễn chấp nhận thì phải rời bỏ Rừng Sác về đóng ở Quân khu. Bảy Viễn sẽ không còn thao túng và ta cũng dễ kiểm soát hoạt động của bọn Phòng nhì "cấy" bên cạnh Bảy Viễn.

        Sáng kiến của Tám Nghệ được mọi người tán thưởng và cử ngay Tám Nghệ lãnh sứ mạng vào hang hùm để thuyết phục Bảy Viễn bỏ sào huyệt đi lãnh chức Khu bộ trưởng. Trong trường hợp này, kẻ đi sứ phải có cái dũng cảm của một Kinh Kha và cái trí của một Tô Tần. Không ai lãnh sứ mạng đó xứng đáng hơn Tám Nghệ. Tám Nghệ còn đang phân vân, Hai Vĩnh góp ý :

        - Anh Tám xuống Rừng Sác thuyết phục Bảy Viễn là phải. Trước đây anh Tám cũng đã xuống dự lễ nhận chức Khu bộ phó của Bảy Viễn.

        Tám Nghệ lắc đầu :

        - Trước khác, nay khác. Trước không có vấn để gì. Còn nay thì nó biết là ta đã nắm bằng chứng nó bí mật "đi đêm" với thằng Tây. Vô đó không khéo sẽ bị nó thủ tiêu chứ chẳng chơi.

        Hai Vĩnh nhận định :

        - Tôi nghĩ là Bảy Viễn không dám động đến anh, bởi Chi đội 10 của anh công trận bằng mấy Chi đội 9 của y. Anh lại là Khu bộ phó có tài hơn y. Huống chi anh đang giữ đại đội chủ lực của Chi đội 21. Nếu y chịu thì anh sẽ trả đại đội ấy cho Tư Hoạnh, nếu y cả gan chống anh thì y đã lòi mặt phản động, nếu cần thì đem theo vài đơn vị.

        Tám Nghệ lắc đầu :

        - Đi rầm rộ như vậy Bảy Viễn sinh nghi. Không, tôi sẽ đi một mình...

        Khi nhất định đi Rừng Sác, Tám Nghệ bàn kế hoạch cụ thể với Nguyễn Bình : Quân khu sẽ điện cho Bảy Viễn biết quyết định của Trung ương phong Bảy Viễn lên Khu bộ trưởng Khu 7 và mời Bảy Viễn về Quân khu nhận chức. Sau vài ngày Tám Nghệ mới đi Rừng Sác. Trong khi đó Hai Vĩnh chuẩn bị tách các chi đội khỏi ảnh hưởng của Bảy Viễn. Đó là cách "chia lửa" hữu hiệu nhất mà Hai Vĩnh dành cho Tám Nghệ, vì khi mất các chi đội mạnh, Bảy Viễn như cua gãy càng sẽ không còn hung hăng như trước...

        Tám Nghệ "đơn thương độc mã" xuống Rừng Sác, đến Tổng hành dinh Bảy Viễn như một người bạn, thái độ rất tự nhiên thoải mái, nói cười rổn rản, vờ như không thấy tâm trạng bồn chồn của gia chủ :

        - Tôi đinh ninh lần này sẽ được dự một tiệc liên hoan còn linh đình hơn lần anh Bảy nhận chức Khu bộ phó. Nhưng sao êm ru thế này ? Anh Bảy đã nhận được điện của Quân khu chưa ?


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:41:50 pm

        Bảy Viễn gật :

        - Được điện ba ngày nay, nhưng...

        - Nhưng sao ?

        - Tôi định điện lên Quân khu nhường chức Khu bộ trưởng cho anh. Anh xứng đáng hơn tôi. Chi đội 10 của anh nay là Trung đoàn 210 tập nhiều thành tích, có nhiều chiến công hơn cả Liên khu Bình Xuyên chúng tôi.

        Tám Nghệ khoát tay, cười nói :

        - Thôi đừng "gắp bỏ qua bỏ lại". Chính tôi là người gợi ý Quân khu ủy đề nghị Trung ương phong chức Khu bộ trưởng cho anh đó. Dù anh có nhường lại, tôi cũng không nhận. Bởi tôi đã suy tính kỹ rồi : Chúng ta cần đưa ra các nhân sĩ tên tuổi để mở rộng đoàn kết toàn dân. Mà anh là người khét tiếng trong giới giang hồ, còn tôi thì chỉ là một chiến sĩ vô danh...

        Bảy Viễn cười :

        - Anh Tám chớ khiêm nhường quá mức như vậy. Tôi tự thấy không xứng đáng với chức đó. Nhưng anh Tám tới dây chắc là có mục đích...

        - Đúng, tôi làm gì cũng có mục đích. Tôi đến để cùng anh Bảy đi Nam Bộ. Nguyễn Bình đã lập Văn phòng Ủy viên quân sự Nam Bộ của ông tại xã Nhơn Hòa Lập trên kinh Dương Văn Dương. Lễ bàn giao chức Khu bộ trưởng sẽ tổ chức tại đó. Làm long trọng lắm. Sẽ có đầy đủ các cấp lãnh đạo quân - dân - chính Nam Bộ tham dự. Tôi đến bàn với anh để ta cùng đi cho có bạn...

        Tiệc rượu đã dọn lên, Bảy Viễn mời Tám Nghệ cụng ly :

        - Tôi còn đang phân vân... Nguyễn Bình có ý gì mà đề nghị Trung ương phong tôi làm Khu bộ trưởng. Có phải hắn muốn "điệu hổ ly sơn" không ? Nguyễn Bình là người Bắc, còn tụi mình là người Nam. Ai cho nó cái quyền chỉ huy tụi mình ?

        Tám Nghệ kêu lên :

        - Anh Bảy, nói gì kỳ vậy. Tới giờ này anh Bảy còn phân biệt Nam - Bắc sao ? Không nên ! Nước Việt Nam là một, dân ba kỳ có khác nhau về phong tục tập quán, nhưng đều chung một đất Tổ, một tiếng nói, một nguyện vọng là độc lập. Không kể Nam hay Bắc, hễ có tài là cách mạng trọng dụng.

        - Nhưng Nguyễn Bình tài ở chỗ nào? Anh chỉ tôi coi?

        Tám Nghệ ôn tồn, giọng chậm rãi :

        - Nguyễn Bình có tài chớ ! Bằng chứng là ông ta đã dám nhận công tác thống nhất các lực lượng võ trang thuộc các phe phái... nói xin lỗi... vô tổ chức, vô chính phủ. Một người đơn độc từ Bắc vào Nam để đương đầu với bao nhiêu thử thách, bao nhiêu hiểm nguy. Đến nay chưa có vụ chống đối nào đáng kể. Như vậy ta phải khách quan nhìn nhận Nguyễn Bình có tài...

        Tiệc rượu kết thúc trong khi câu chuyện chưa đi tới đâu. Trời nóng bức, Tám Nghệ cởi quần áo xuống bến tắm.

        Năm Tài ở phòng bên rình nghe liền nói với Bảy Viễn :

        - Tám Nghệ là thằng Cộng sản, ngài Khu bộ phó chớ nghe nó. Nó xuống dây là vâng lịnh Nguyễn Bình thi hành độc kế "điệu hổ ly sơn". Nó là cánh tay mặt của Nguyễn Bình. Nhân dịp nó xuống đây, ta thủ tiêu nó cho rồi. Đội commăngđô đã sẵn sàng, chỉ cần ngài Khu bộ phó ra lệnh.

        Bảy Viễn trợn trừng :

        - Không được! Tao không cho phép! Tám Nghệ là thượng khách của tao. Giới giang hồ không hèn mạt như vậy.

        Năm Tài sượng sùng lui ra.

        Tám Nghệ bình tĩnh xuống bến, ông lao xuống sông bơi sải một hơi, bàn chân ông đập nước đều đều làm nước bắn lên loang loáng ánh mặt trời.

        Cùng trong lúc đó, trên một chiếc ghe bầu, ba tên commăngđô nâng súng nhắm vào Tám Nghệ đang đùa giỡn với làn nước mát. Ba họng súng tựa trên thành cửa sổ chiếc ghe bầu nhích qua nhích lại trong khi Tư Sang nóng lòng chờ đợi ám hiệu của Năm Tài. Nhưng Năm Tài đã thất bại trong cuộc thuyết phục Bảy Viễn. Hắn lật đật thông báo để Tư Sang hủy bỏ kế hoạch. Với giọng tiếc rẻ, Tư Sang bảo ba tên lính :

        - Vụ này "xù" rồi. Đừng nhắm nữa... bỏ súng xuống !

        Ba tên commăngđô tiếc ngẩn tiếc ngơ "con mồi" đang ở trong tầm tay.

        Tắm xong, Tám Nghệ nai nịt gọn gàng, cáo từ Bảy Viễn :

        - Lễ tấn phong Khu bộ trưởng dự định vào ngày sinh nhật Hồ Chủ tịch. Đây tới đó còn một tuần. Anh Bảy nên suy nghĩ kỹ. Nguyễn Bình không có ý đồ gì đâu. Nếu nghi ngại thì đem theo vài đại đội "cưng". Theo tôi nghĩ thì đây cũng là một dịp tốt để hai bên giải quyết những thắc mắc và những hiểu lầm... Tôi cũng có mặt tại đó. Hy vọng sẽ gặp anh Bảy và chúng ta sẽ cụng ly say mèm một bữa...

        - Về sao anh Tám? Tôi muốn mời anh ở lại chơi vài ngày nói chuyện cho thỏa tâm tình. Mình rất hợp "giơ" với nhau. Anh không phải là giới giang hồ như chúng tôi, nhưng anh rất là hảo hớn. Nội việc một mình anh đơn thương độc mã tới đây đủ chứng tỏ điều đó rồi. Lúc anh lội dưới sông...


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Hai, 2017, 08:44:38 pm

        Tám Nghệ cười :

        - Những chuyện ấy tôi đã dự kiến trước rồi. Nhưng tôi tin giới giang hồ quý trọng nhất là danh dự. Tôi tin chắc rằng không đời nào anh Bảy để thủ hạ ám sát tôi ngay trong tổng hành dinh của mình, nếu làm thì Bảy Viễn đã không còn là Bảy Viễn... Thôi xin chào tạm biệt...

        Tám Nghệ đi rồi, Bảy Viễn vẫn còn đăm chiêu suy nghĩ. Hắn giật mình khi nghĩ lại thần chết đã rình rập Tám Nghệ trong khi ông ta ung dung lặn hụp trên sông.

        Bảy Viễn họp tùy tướng lại bàn chuyện đi Nam Bộ. Cuộc họp này có cả Lâm Ngọc Đường và Môrít Thiên. Lâm Ngọc Đường nắm quyền chủ động, quyết định :

        - Tôi đã suy tính kỹ rồi. Đi dự lễ tấn phong có nhiều cái lợi. Thứ nhất chứng tỏ cho chúng thấy ta đường đường chính chính, quang minh chính đại, không việc gì phải sợ. Thứ hai, ta biểu dương lực lượng cho chúng ngán, nếu có muốn trở mặt cũng không dám.

        Bảy Viễn gật gù :

        - Ta sẽ đưa một liên quân chủ lực mạnh hơn liên quân đã hộ tống Hai Vĩnh lên Quân khu trước đây.

        Bảy Viễn chọn trong mỗi chi đội thân tín của mình một trung đội chủ lực để lập liên quân đi Quân khu. Chuyến đi này được xem như một vụ "hồng môn hội yến" cho nên ai nấy đều nôn nao muốn dự. Bộ tham mưu gồm có hai anh em Tư Sang, Năm Tài, Năm Bé và Bảy Cao. Bảy Viễn rất hãnh diện trước một lực lượng hùng mạnh như vậy.

        Qua ba ngày ròng rã, hai đại đội chủ lực hộ tống Bảy Viễn tới xã Nhơn Hòa Lập. Tất cả "dồn binh hạ trại" tại xóm Nhà Thờ và bắt đầu vào phô trương lực lượng. Các khẩu trung liên và đại liên được đặt trước sân, nòng súng chĩa lên trời, đạn cả băng dài, đỏ au chạy từ ổ đạn đến thùng đạn đặt dưới chân súng...

        Lễ tấn phong vẫn tiến hành như đã dự định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ - Phạm Văn Bạch đọc quyết định phong chức Khu trưởng Khu 7 cho "đồng chí" Lê Văn Viễn. Nguyễn Bình làm lễ bàn giao. Một bữa tiệc liên hoan kết thúc lễ tấn phong.

        Sau bữa tiệc, Bảy Viễn nhận được giấy mời của Ban tổ chức mời dự lễ khai mạc triển lãm hội họa mừng sinh nhật Hồ Chủ tịch. Bảy Viễn đang xem tranh, bỗng có người chạm nhẹ vào cánh tay, Nguyễn Bình ra hiệu mời Bảy Viễn đến một góc vắng người :

        - Tôi muốn nói chuyện riêng với anh về vài vấn đề. Nói tại đây có tiện không?

        - Tiện chớ ! Vấn đề gì đó?

        Nguyễn Bình đứng thẳng người, khoanh tay trước ngực, nhìn thẳng vào mặt Bảy Viễn :

        - Chúng tôi được tin bọn Phòng nhì đã chui vào hàng ngũ của anh. Chúng lại được anh trọng dụng nữa...

        - Chúng là ai vậy ?

        Nguyễn Bình cau mày :

        - Anh thật tình không biết? Chúng là hai anh em Lại Văn Sang và Lại Hữu Tài. Hai tên này vô cùng lợi hại. Nhất là Tài. Tôi muốn anh giao chúng nó cho chúng tôi...

        Bảy Viễn cười nhạt :

        - Anh có bằng chứng? Tình báo của anh có chính xác?

        Nguyễn Bình gật đầu :

        - Trước khi quyết định làm chuyện gì, chúng tôi phải nắm đủ bằng chứng. Tình báo của chúng tôi ít khi nào sai lầm. Thằng Tài đã nhiều lần tiếp xúc với các tổ chức phản động trên thành. Nếu tôi trưng đầy đủ bằng cớ, anh có giao nó cho tôi không?

        Bảy Viễn nghiêm nghị :

        - Tôi phải xem các bằng cớ đã... Còn vấn đề gì nữa?

        Nguyễn Bình khoát tay :

        - Vấn đề thứ hai không cấp bách như việc giao nạp thằng Tài. Đó là việc thu thuế trong bộ đội Bình Xuyên. Các trung đoàn các tỉnh đều tự túc để dân trong tỉnh được nhẹ gánh nuôi quân. Đó là con đường nên noi theo. Mình là bộ đội cách mạng mà dựa vào thuế sòng bạc, nhà chứa thì mất hết ý nghĩa. Nhưng vấn đề này tính sau. Cần giải quyết tên Tài sớm. Bao giờ anh có thể giao nó cho tôi ?

        Bảy Viễn lạnh lùng :

        - Tôi vừa trả lời câu hỏi đó rồi. Tôi phải xem các bằng cớ trước đã.

        Nguyễn Bình cố ghìm cơn nóng :

        - Ta tiếp tục đi xem tranh...

        Trở về nơi đóng quân, Bảy Viễn họp các gia tướng lại và nói:

        - Nguyễn Bình đòi tao giao hai anh em Tư Sang, Năm Tài cho nó. Nhất là Năm Tài. Nó quả quyết hai đứa bây là "Đơ dem Buya Rô" (Phòng nhì).

        Tài và Sang xám mặt :

        - Ngài trả lời thế nào ?

        - Làm sao tao chịu giao hai đứa bay cho nó ? Tao ậm ờ bảo hắn trưng bằng cớ đã.

        Tư Sang góp ý :

        - Đừng để nó đánh trước.

        - Dĩ nhiên là như vậy. Giao hai đứa bay thì dứt khoát là tao không giao. Mà không giao thì rắc rối lớn - Hắn vỗ trán thở dài - Đấu trí với nó mệt óc quá.

        Năm Tài nói :

        - Tình thế này mình phải tính trước mới được. Ông Lâm Ngọc Đường có dặn tôi thế này : "Nếu ta thấy Nguyễn Bình quyết tiêu diệt giáo phái thì tốt hơn hết là ta nên rút về Thành. Người Pháp và Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân luôn giang hai cánh tay đón các phần tử quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến trở về với Chính phủ Bảo Đại".

        Bảy Viễn thở dài :

        - Đầu Tây là điều tao tối kỵ. Theo kháng chiến, tao mới mở mặt mở mày : Ủy viên quân sự, Tư lịnh Bình Xuyên, Khu bộ phó, Khu bộ trưởng... vinh quang hết cỡ rồi. Với thằng Tây, tao chỉ là thằng ăn cướp, là tên tù vượt ngục...


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:54:45 am

        Năm Tài trổ tài thuyết khách :

        - Ăn cướp cũng năm bảy đường ăn cướp. Ăn cướp lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo là ăn cướp đáng tôn thờ. Chống thực dân cũng là hảo hớn. Còn bây giờ thời thế đã thay đổi rồi. Nước nhà đã được độc lập do tài đấu tranh ngoại giao của Cựu hoàng Bảo Đại. Những người có tài như ngài sẽ được trọng dụng... Bây giờ tôi nói thật với Ngài : Hai anh em tôi đây là người của Phòng nhì. Tình báo của Nguyễn Bình rất chính xác. Chỉ huy trực tiếp của tôi là ông Lâm Ngọc Đường. Chúng tôi đã làm việc với đại úy Savani giám đốc Phòng nhì. Savani tuyên bố sẵn sàng đón tiếp bộ đội Bình Xuyên bất cứ lúc nào. Sẽ dành riêng một khu vực cho Bình Xuyên đóng, lính Pháp không có quyền xen vào.

        Bảy Viễn vẫn tay chống cằm suy nghĩ, thở dài thườn thượt. Cùng đường y khoát tay bảo Năm Tài :

        - Mày nói nghe cũng hấp dẫn. Đành vậy ! Thôi đi đi ! Ba ngày nữa tao sẽ rút quân theo mày.

        Đêm ấy Bảy Viễn trằn trọc, thao thức không chợp mắt.

        Bảy Viễn cho Năm Tài bí mật về Thành để liên hệ trước với Lâm Ngọc Đường, có một tiểu đội hộ tống. Bảy Viễn vẫn đóng quân ở Nhà Thờ như không có chuyện gì quan trọng xảy ra. Nguyễn Bình cứ thúc giục Bảy Viễn giao nạp Năm Tài. Bảy Viễn trả lời : Tôi để Năm Tài ở Rừng Sác làm chủ trại. Nếu Trung tướng không gấp lắm thì khi về Rừng Sác, tôi sẽ bắt nó giao nạp. Nếu không tin mời Trung tướng đến chỗ tôi, nếu thấy nó thì xin Trung tướng cứ tự nhiên bắt giữ.

        Biết Bảy Viễn đã đánh xổng con mồi của mình, Nguyễn Bình vô cùng tức giận ra lệnh cho Chi đội 15 và Chi đội 5 bám sát hai đại đội hộ tống của Bảy Viễn. Nếu thấy Bảy Viễn trở về Rừng Sác thì thôi, nếu thấy hắn trốn vào Thành phải nổ súng tiêu diệt.

*

*       *

        Cũng trong lúc này ở Quân khu ủy, mặc dầu chưa có sự nhất trí, Chính ủy Hai Trí đã tự ý thành lập Ban thanh trừng bộ đội Bình Xuyên gồm Nguyễn Đức Huy, Việt Hồng, Lê Hiển và chính trị viên các chi đội có vấn đề như Tám Tâm ở Chi đội 9, Vũ Văn Hiệp ở Chi đội 21, Lưu Quý Thoái ở Chi đội 25. Hai Trí đã ra lệnh cho ba đơn vị này có nhiệm vụ bắt chỉ huy của mình rồi thành lập ban chỉ huy mới, gây nên sóng gió dữ dội trong Rừng Sác.

        Tin hỏa tốc từ Rừng Sác cho biết tổng hành dinh Chi đội 9 đã bị tảo thanh làm cho Bảy Viễn thấy mình đã trúng kế "điệu hổ ly sơn" nên yêu cầu Nguyễn Bình phải ngừng ngay việc tảo thanh, rồi hầm hầm ra lệnh rút quân. Được tin này đồng chí Lê Duẩn cũng điện cho Hai Trí và Nguyễn Đức Huy ra lệnh ngừng ngay cuộc thanh trừng, nhưng đã muộn.

        Nguyễn Bình rất bực mình với việc làm của Hai Trí và biết rằng sự việc này sẽ làm cho Bảy Viễn dứt khoát sẽ về Thành đầu Tây nên ra lệnh cho Chi đội 15 và Chi đội 5 phải bám sát ngày đêm. Lúc đầu các đơn vị có nhiệm vụ bám sát còn e dè, nhưng dần dần việc theo đuổi trở nên công khai. Bộ đội bên này kênh thấy rõ bộ đội ở bên kia bờ kênh. Lúc này thì thuyền tam bản liên lạc của Văn phòng Trung tướng Nguyễn Bình và Văn phòng Xứ ủy phóng như bay đuổi theo Chi đội 5 và Chi đội 15. Đồng chí Lê Duẩn ra lệnh rút quân, không truy kích Bảy Viễn. Lệnh của Trung tướng Nguyễn Bình nhấn mạnh phải truy kích tận ổ. Tình hình căng thẳng đó kéo dài cho tới lúc bộ đội Bảy Viễn tới tổng hành dinh Chi đội 4 của Mười Trí. Sau khi nghe Bảy Viễn cho biết tình hình, Mười Trí nói với chỉ huy Chi đội 15 : Mười Trí đảm trách dùng tình cảm kéo Bảy Viễn trở lại và chịu trách nhiệm trước Trung tướng Nguyễn Bình và Ủy ban nhân dân Nam Bộ.

        Lời cam kết của Mười Trí làm tình hình bớt căng và Chi đội 15, Chi đội 5 được lệnh của Nguyên Bình rút về vị trí cũ.

        Đêm ấy Bảy Viễn tâm tình cùng Mười Trí. Nghỉ ngơi một ngày, Bảy Viễn lại tiếp tục lên đường. Mười Trí cũng nai nịt đi theo :

        - Để tao tiễn mày một khúc đường.

        Bảy Viễn áy náy :

        - Mày tiễn tao hay là mày bám sát tao theo chỉ thị của Nguyễn Bình.

        Mười Trí trợn mắt :

        - Dẹp Nguyễn Bình qua một bên ! Tao làm theo ý tao, không phải làm theo chỉ thị hay mệnh lệnh nào. Đây là tình đồng sinh đồng tử giữa tao với mày. Mày còn nhớ chuyện uống nước đái giữa biển Đông thề nguyền sống chết có nhau ?...

        Bảy Viễn hỏi lại Mười Trí :

        - Mày bị Cộng sản nhuộm rồi phải không?

        - Mười Trí mà dễ gì nhuộm mày. Buồn cười quá! Nói thật tình tao có cảm tình với Cộng sản. Tại sao hả? Nếu không có mấy cha Cộng sản làm Cách mạng tháng Tám, cướp chính quyền thì tới giờ này tụi mình cũng chỉ là lục lâm thảo khấu. Cách mạng dã nâng chúng ta lên thành con người có lý tưởng, có đủ nhân cách, nhân phẩm. Tao mến Cộng sản ở chỗ đó.

        Bảy Viễn không nói gì, im lặng, thở dài.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:57:48 am

        Đêm ấy đóng quân giữa đồng trống, gần cầu Bà Lát, giữa cầu Xáng và Bà Hom, Mười Trí và Bảy Viễn lại thức thâu đêm nữa để tâm tình. Nửa đêm Mười Trí hỏi :

        - Người xưa có nói : "Dù theo nhau trăm dặm cũng đến lúc phải chia tay". Tao đưa mày tới đây cũng đã khá xa rồi. Ta đang ở sát quốc lộ 4 và đứng ở ngưỡng cửa Sài Gòn. Tao hỏi : Mày nhất định đầu Tây ?

        Bảy Viễn thở ra :

        - Mọi việc đã lỡ rồi. Năm Tài đã về Thành trước chuẩn bị mọi thứ. Giờ này có lẽ tụi nó đang chờ đón rước tao...

        Mười Trí cùng tiểu đội hộ tống đi rồi. Bảy Viễn vẫn còn bùi ngùi. Trong giới giang hồ, Bảy Viễn mến và phục Mười Trí hơn cả. Mười Trí được cái thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, không rào đón, không vẽ vời. Và khi cần thì hành động chứ không chỉ nói suông.

        Bảy Viễn đang còn đắm hồn trong hồi tưởng thì Bảy Cao tới :

        - Tư Sang ra lịnh cho tôi đi thám báo vùng này mà giao cho có một tiểu đội thì làm sao đủ ?

        Bảy Viễn nhìn đăm đăm Tham mưu trưởng Chi đội 25 :

        - Anh muốn bao nhiêu?

        - Ít nhất cũng phải hai tiểu...

        Bảy Viễn khoát tay :

        - Thì hai tiểu. Nói với Tư Sang là có sự đồng ý của tôi. Chuyện không đáng gì mà cứ làm rộn mãi !...

        Bảy Cao đòi cho được hai tiểu đội cứng vì vùng này là vùng ngoại vi thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Bảy Cao dẫn hai tiểu đội tiến về cầu Bà Lát, cách nơi Tư Sang đóng quân vài trăm thước. Anh ra hiệu cho anh em ngồi xuống thành hình vòng tròn :

        - Mấy ngày nay chắc anh em biết những biến động dữ dội trong bộ đội Bình Xuyên chúng ta. Ngay trong hai đại đội hộ tống này cũng đi hết một đại đội đêm trước. Nguyên nhân nào mà sẻ đàn tan nghé ? Chuyện rõ như ban ngày : Bảy Viễn quyết định đầu Tây. Mấy ngày trước đây, Năm Tài đã bí mật về Thành liên lạc với Pháp chuẩn bị đón rước Bảy Viễn...

        Hai tiểu đội xì xào sôi nổi. Bảy Cao nói tiếp :

        - Kháng chiến hay đầu Tây là quyền cá nhân của Bảy Viễn. Đó cũng là quyền cá nhân của từng anh em chúng ta. Không ai có quyền nhân danh bất cứ cái gì để bán rẻ xương máu và danh dự của chúng ta. Ai muốn đầu Tây thì theo Bảy Viễn, còn ai muốn tiếp tục kháng chiến giành độc lập thì đứng qua một bên.

        Tất cả đều đứng qua một bên. Bảy Cao nói :

        - Hoan hô tinh thần sáng suốt của anh em. Bây giờ trước khi quay trở lại Đồng Tháp Mười, chúng ta hãy nổ một loạt súng gọi là "đưa linh" những chiến sĩ lầm đường lạc lối... Hai tiểu đội nổ một loạt súng giòn giã rồi biến mất trong đêm.

        Tư Sang vốn đã nghi ngờ Bảy Cao, nghe tiếng súng nổ giòn, vội cho trinh sát ra dò tình hình. Một lúc sau tin Bảy Cao dẫn hai tiểu đội trở về Đồng Tháp thấu tai Bảy Viễn.

        Như võ sĩ đã thấm đòn bị một cú dấm trúng quai hàm vào hiệp chót, Bảy Viễn xiểng liểng đứng ngồi không yên.

        - Trời ơi! Với thằng Bảy Cao mà cũng bỏ tao nữa thì tao còn biết tin ai ? Chỉ còn một đại đội mà nó cướp mất hai tiểu đội thì còn đánh gì mà ra mắt Tây tà. Nhục ơi là nhục !

        Bảy Cao đưa hai tiểu đội đi ròng rã một đêm một ngày mới về đến Nhơn Hòa Lập. Việc trở về đột ngột của hai tiểu đội Bảy Cao giữa lúc Quân khu được điện của Mười Trí báo tin Bảy Viễn đã chạy vào Thành làm mọi người bất ngờ nhưng thích thú.

        Tám Nghệ thấy Bảy Cao đằng xa đã reo lên :

        - Bảy Cao, mình tưởng...

        Bảy Cao bắt tay Tám Nghệ hăm hở đề nghị :

        - Anh Tám cho tôi gặp ngay Trung tướng, có được không?

        - Sao lại không ? Theo mình ! - Tám Nghệ giới thiệu với Nguyễn Bình :

        - Anh Bảy Cao, Tham mưu trưởng Chi đội 25 của Tư Tỵ...

        Nguyễn Bình bắt tay :

        - Câu chuyện trở về Thành của Bảy Viễn như thế nào, anh hãy kể cho chúng tôi nghe. Anh là người am hiểu tường tận nội bộ Bình Xuyên vào những ngày này...

        Bảy Cao nói một hơi : Kể từ lúc Bảy Viễn tính toán đi hay không đi xuống Đồng Tháp Mười nhận chức Khu trưởng khi tổ chức lực lượng hộ tống đi ba ngày ròng theo lộ trình sông Soài Rạp, Cần Giuộc, Phú Lâm, Hộ 17, Cây Da xà, ấp 4 Bình Hòa. Ghé lại Chi đội 4 thăm anh Mười Trí một ngày rồi thẳng tới Nhơn Hòa Lập. Những ngày họp ở đây thì Trung tướng biết rồi. Ba ngày sau có liên lạc đặc biệt từ Rừng Sác báo tin hỏa tốc tổng hành dinh Chi đội 9 bị thanh trừng. Bảy Viễn hoang mang chửi cách mạng không ghe tàu nào chở hết. Dù được Trung tướng và đồng chí Lê Duẩn hứa, Bảy Viễn vẫn không tin. Ngay đêm đó Bảy Viễn quyết định quay về Rừng Sác nhưng bị Tư Sang lôi kéo, Bảy Viễn đã phái Năm Tài bí mật về Thành trước để liên hệ với Tây. Vì Rừng Sác đã bị tảo thanh thì Bảy Viễn không còn đất dung thân ngoài vùng Chánh Hưng mà Năm Tài vận động Pháp cho Bảy Viễn mượn. Chín giờ đêm, Tư Sang quyết định kéo quân đi. Tôi tranh thủ bảo Bảy Viễn : "Vùng này Tư Sang không rành bằng tôi. Phải để tôi đi trước dò đường, cho tôi một trung đội". Bảy Viễn đồng ý nhưng Tư Sang chỉ giao có hai tiểu đội. Tôi đưa anh em đi vài trăm thước, giải thích cặn kẽ cho anh em chọn đường, và tất cả anh em đã theo tôi trở về đây.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:44:49 pm

        Nghe xong, Nguyễn Bình vỗ vai Bảy Cao :

        - Trước đây không biết, nay thì anh Bảy cứ an tâm ở lại đây. Tôi rất tin anh.

        Hôm ấy, Nguyễn Bình làm tiệc đãi Bảy Cao. Cùng dự tiệc có Tám Nghệ, Huỳnh Văn Một và Truyện - Chính ủy Trung đoàn 308.

        Trong tiệc, Bảy Cao đề nghị :

        - Trung tướng cho tôi bồi một cú nữa là Bảy Viễn xụm luôn. Tôi đi rồi nhưng còn "cài" lại một thằng bạn chí thân, nó là Cử - đại đội trưởng. Tôi hú một tiếng là nó hưởng ứng ngay.

        Nguyễn Bình cười :

        - Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi. Kéo quân đi đầu Tây là cuộc đời giang hồ của Bảy Viễn đã chấm dứt rồi. Đối với những người kháng chiến thì hắn đã lộ nguyên hình "cốt khỉ hoàn cốt khỉ". Mình đánh bồi thêm sẽ mang tiếng là tiểu nhân...

        Từ bỏ kháng chiến về Sài Gòn, Bảy Viễn được Pháp mua chuộc, phong hàm Thiếu tướng. Nhưng Bảy Viễn không cầm quân nữa mà mở công trường khai thác gỗ (sơn tràng) cho đến năm 1955.

        Có lần, một đàn em hỏi Bảy Viễn : Ông Bảy được người Pháp trao cho lon tướng, sao không xung trận tung hoành để còn lên lon tới cho đàn em được nhờ. Hay ông Bảy sợ gì mà lại đi làm ông quản một nghề thổ mộc vậy". Bảy Viễn cười, nói : "Bảy Viễn giang hồ tướng cướp còn biết sợ cái gì trên đời này. Tao có nể thì nể tướng Nguyễn Bình và tao phục thì chỉ kính phục Cụ Hồ. Tao đã được Cụ Hồ điện thoại hỏi thăm, tuyên dương công trạng. Vậy mà... tao lại lỡ bước; lỡ bước lần này là phụ tình với Cụ Hồ thì Bảy Viễn chỉ có im lặng".

        Năm 1956, Bảy Viễn cầm đầu một phái chống Ngô Đình Diệm và Diệm quyết diệt Bảy Viễn bằng được. Vì ở thế yếu nên Bảy Viễn buộc phải trốn sang Pháp.

*

*      *

        Nguyễn Bình đã thành công trong việc tranh thủ và sử dụng lực lượng Bình Xuyên - một vấn đề mấu chốt, quan trọng nhất để giải quyết tình trạng "Thập nhị sứ quân" ở Nam Bộ. Trong chiến đấu, kẻ nào không đủ sức chịu đựng thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, kẻ đó sẽ bị đào thải, đó là lẽ đương nhiên. Trừ những phần tử thoái hóa, biến chất, các lực lượng còn lại của bộ đội Bình Xuyên đều trưởng thành nhanh chóng, hòa nhập vào lực lượng quân đội quốc gia Việt Nam, góp phần tích cực vào sự nghiệp kháng chiến.

        Theo tư liệu của Nguyên Hùng, tháng 10 năm 1948, một phái đoàn quân - dân - chính Nam Bộ ra Trung ương báo cáo tình hình với Bác Hồ, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh. Trưởng đoàn là Khu trưởng Khu 8 - Trần Văn Trà; thành viên có các ông Trần Bửu Kiếm - Tổng thư ký Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, Nguyễn Đức Thuận, linh mục Nguyễn Bá Kích, Phạm Văn Khung, Trần Văn Nguyên, Kiều Công Quế Lâm và thư ký riêng của Trung tướng Nguyễn Bình là Lương Văn Trọng (Hai Trọng - đại diện Bình Xuyên tại hội nghị An Phú Xã).

        Riêng nhiệm vụ của Hai Trọng trong chuyến đi này là báo cáo công việc thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Đông Nam Bộ. Do Nguyễn Bình gợi ý trước, nên Hai Trọng đã có thời gian thu thập tài liệu để làm báo cáo và cũng đã được Nguyễn Bình duyệt. Bởi vậy, ông rất yên tâm khi lên đường ra Bắc.

        Sau mấy tháng leo đèo lội suối, băng rừng, phái đoàn cán bộ Nam Bộ đã ra tới Việt Bắc. Hai Trọng may mắn được sống bên Bác Hồ ba ngày. Các thành viên trong đoàn lần lượt báo cáo tình hình các mặt ở Nam Bộ cho Bác Hồ và các đồng chí Trung ương nghe. Riêng về tình hình quân sự ở Quân khu 7, nhất là về lực lượng Bình Xuyên, báo cáo của Hai Trọng thay mặt Trung tướng Nguyễn Bình được đặc biệt chú ý.

        Trong lúc đoàn đại biểu quân - dân - chính Nam Bộ ở Việt Bắc thì ở Nam Bộ đang chiến đấu ác liệt đánh trả quân Pháp tấn công càn quét khu căn cứ Tân Uyên. Chúng huy động thủy - lục - không quân tấn công với quy mô lớn hòng triệt phá cơ quan chỉ huy đầu não của Quân khu 7.

        Bằng đường lối chiến tranh nhân dân, quân Pháp đi đến đâu cũng bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt. Bằng nghệ thuật chỉ huy chiến tranh du kích điêu luyện, Nguyễn Bình đã chỉ huy các đơn vị vừa đánh địch vừa tăng cường bổ sung thêm lực lượng và di chuyển khu căn cứ về Lạc An, một địa điểm nằm trên sông Đồng Nai cách Tân Uyên chưa đầy 10 kilômét. Mặt khác, Nguyễn Bình chỉ huy các Ban công tác Thành đánh mạnh trong nội thành và tấn công thẳng vào Tổng hành dinh cao ủy Pháp (Phòng thương mại cũ ở Quai de Belgique, nay là bến Chương Dương). Đồng thời tấn công bất ngờ vào trại lính Pháp ở đường Frédéric Drouhet (nay là đường Hùng Vương) phóng lửa đốt trại lính, giặc chết hàng trăm, số bị thương nằm chật nhiều bệnh viện ở Sài Gòn. ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ đã ra thông báo ghi nhận trận đánh này là trận đánh lớn nhất chưa từng xảy ra ở Nam Bộ làm thất bại hoàn toàn kế hoạch của địch hòng triệt phá cơ quan chỉ huy đầu não của ta.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:47:28 pm
           
        Ngay sau khi vào tới Nam Bộ, Nguyễn Bình đã có ý định vào Sài Gòn để tìm hiểu địch tình. Cũng theo Nguyên Hùng, vào cuối tháng 11 năm 1945, luật gia Lê Đình Chi (một trí thức yêu nước) đưa Nguyễn Bình từ Chiến khu An Phú Đông về Thị Nghè, nhờ luật sư Nguyễn Thành Vĩnh giúp đỡ. Qua sự hướng dẫn nhiệt tình và cặn kẽ của luật sư Vĩnh, Nguyễn Bình đã đột nhập an toàn vào giữa Sài Gòn, ăn ở tại biệt thự cũ của luật sư Vĩnh ở 35 đường Pièrre (nay là đường Phạm Đăng Hưng) khu Đa Kao, có xe ô tô và tài xế của luật sư Vĩnh đưa đi những nơi mà Nguyễn Bình yêu cầu. Có lần ông đi ngang qua bót Catina, xuôi đường Catina (nay là Đồng Khởi) ra bờ sông để tìm hiểu về hoạt động của cơ quan đầu não kẻ thù và suy nghĩ cách đánh thẳng vào những mục tiêu này. Cùng đi có Nguyễn Đình Chính là liên lạc nội thành dẫn đường.

        Chuyến đi này kéo dài ba ngày và trong ba ngày ấy, luật sư Vĩnh lo lắng, hồi hộp. Nếu Nguyễn Bình có bề gì thì ông lãnh đủ. Cho tới khi ông khách quý đã về An Phú Đông an toàn, lúc đó ông mới thở phào nhẹ nhõm. Nghe người lái xe kể chuyện anh Ba vô hiệu cắt tóc trên đường Catina, ông kêu trời. Chưa thấy ai gan lì như vậy. Ngồi cắt tóc trên đường Catina, chỉ cách bót thằng Bazin có mấy trăm thước. Đó là ấn tượng nổi bật nhất mà Nguyễn Bình để lại cho ông hồi ấy"1.

        Sau nhiều lần khảo sát nội thành, một bài toán đặt ra làm Nguyên Bình suy nghĩ là : Làm sao đối đầu với một đạo quân xâm lược có lực lượng hùng mạnh hơn ta nhiều lần về vũ khí và kỹ thuật hiện đại. Đánh du kích ở vùng đồi núi, vùng đồng bằng thì có thể từ một căn cứ ở chiến khu, tiến công bất ngờ rồi rút lui theo kế hoạch đã định. Còn ở vùng bị chiếm đóng, ngay giữa sào huyệt địch, với một mạng lưới mật thám dày đặc, cùng các cuộc tuần tra, canh gác ngày đêm... làm sao đánh rồi rút, đánh như thế nào? làm sao chắc thắng? Rồi rút đi đâu để bảo toàn lực lượng?

        Kết quả của các cuộc khảo sát ấy khiến Nguyễn Bình nảy ra ý định táo bạo là có thể đưa chiến tranh du kích vào nội thành, không thể chỉ bao vây, càng không thể chỉ có đấu tranh chính trị.

        Trở về chiến khu, Nguyễn Bình bàn ngay với Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Xuân Diệu và Phan Định Công :

        - Tôi thấy địch ở trong đó là ở nơi hiểm yếu, song lại là nơi có nhiều sơ hở. Hoàn toàn có thể đưa chiến tranh du kích vào nội thành. Như vậy, với đồng bào trong đó, ta luôn luôn đem lại cho bà con cô bác niềm tự hào về những chiến sĩ giải phóng quân, con em bất khuất của mình. Còn đối với kẻ thù, ta gieo sự khủng khiếp xuống đầu chúng, không cho nó được ăn ngon, ngủ yên. Trước mắt, cần chấn chỉnh các tổ chức hoạt động trong nội thành, và thống nhất chỉ huy vào một đầu mối.

        Đầu năm 1946, Nguyễn Bình giao cho Nguyễn Xuân Diệu có trách nhiệm đào tạo đưa thêm một số cán bộ và chiến sĩ có chọn lọc, theo dòng người hồi cư quay ngược trở lại Sài Gòn để tăng cường cho các đơn vị nội thành.

        Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Nguyễn Bình triệu tập tất cả các Chi đội trưởng và chỉ huy các phân đội vũ trang tự lập như : Ban trinh sát Hùng Vương, Ban trừ gian, Ban ám sát, Ban trinh sát quân chính, Ban vô hình, Đội dao găm, Đội cảm tử Nguyễn Bình,... họp tại ấp 4 xã Vĩnh Lộc, huyện Hóc Môn (Chợ Lớn) để bàn về việc thống nhất chỉ huy và lấy một tên chung là BAN CÔNG TÁC THÀNH. Tại Hội nghị này, Nguyễn Bình có một kết luận quan trọng mang tính chất quyết định : "Có thể đánh du kích ngay giữa lòng địch, xuất phát từ căn cứ nằm giữa lòng dân". Khi ra về, ông còn căn dặn các đại biểu với lời động viên thấm thía : "Các đồng chí vô Thành, rừng người bảo vệ các đồng chí còn tốt hơn rừng cây". Và ngay trong ngày 6 tháng 1 năm 1946, Ban công tác Thành số 1 được chính thức công nhận do anh Nguyễn Ngọc Sớm chỉ huy2. Tháng 4 năm 1946, anh Sớm bị giặc bắt, anh Nguyễn Đình Chính được chỉ định thay thế. Thành phần của Ban công tác Thành số 1 gồm Ban trinh sát quân chính, các nhóm Hùng Vương, Ban vô hình, Đội cảm tử Nguyễn Bình. Thành viên chủ yếu đều xuất thân từ học sinh, sinh viên, thợ thủ công và tiểu thương; hoạt động trong nội thành Sài Gòn, tập trung ở địa bàn quận 1, chợ Bến Thành, Tân Định, khu vực Đa Kao, Phú Nhuận.

-------------------------
        1. Nguyên Hùng : Nguyễn Bình - huyền thoại và sự thật. tr. 187.

        2. Nguyễn Ngọc Sớm sau này là Giám đốc đầu tiên của liên doanh dầu khí Việt - Xô.



Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Hai, 2017, 08:52:54 pm

        - Ban Công tác Thành số 2 thành lập vào cuối tháng 3 năm 1946 do anh Nguyễn Văn Tôn chỉ huy. Thành phần chủ yếu là thanh niên khu vực Chợ Thiếc, nhóm "Dao găm" cùng một số thanh niên ở ngoại ô Sài Gòn. Địa bàn hoạt động của Ban là ven vùng Chợ Thiếc, Phú Thọ, Cầu Tre, xã Bình Trị Đông.

        - Ban Công tác Thành số 3 thành lập vào cuối tháng 4 năm 1946 do Nguyễn Văn Hâm (Sáu Hâm) chỉ huy, Nguyễn Văn Hiến làm chính trị viên. Thành phần chủ yết là du kích hai xã Tân Sơn Nhì, Bà Quẹo, hoạt động trên phạm vi hai xã, sau phát triển ra Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Tân Bình.

        - Ban Công tác Thành số 4 thành lập tháng 5 năm 1946 do Triệu Cải chỉ huy. Đa số đội viên xuất thân từ Liên hiệp Công đoàn thành, giữ mặt trận tiền tuyến phía bắc Sài Gòn (gồm Gò Vấp, An Phú Đông). Thành phần chủ yếu là công nhân các nghiệp đoàn, thợ thủ công, lao động tự do; hoạt động ở khu vực Gò Vấp, Bà Chiểu, phú Nhuận, Phú Thọ, Chợ Thiếc, với quân số khoảng 700 người, kể cả chính thức và dự bị.

        - Ban Công tác Thành số 5 thành lập tháng 6 năm 1946 do Nguyễn Văn Phân chỉ huy. Tiền thân của Ban công tác số 5 là Ban trinh sát của Chi đội 4 do Mười Trí (tức sư thúc Hòa Hảo sau này) chỉ huy, tách khỏi Chi đội 4 nhập vào một bộ phận của Quốc gia tự vệ (một nhóm Bình Xuyên). Thành phần chủ yếu là thanh niên nông dân vùng Hóc Môn, Bà Điểm và một số công nhân các nhà máy xay lúa ở Quai des fonques (nay là bến Hàm Tử và Lê Quang Liêm - Chợ Lớn) và một số anh em lao động tự do ở Hộ 17 và Hộ 18.

        - Ban Công tác Thành số 6 thành lập khoảng cuối tháng 6 năm 1946 do anh Nguyễn Văn Nam (Bảy Nam) chỉ huy. Sau Nam bị giặc bắt thì Võ Tâm Thành thay thế. Tiền thân của Ban công tác này là một bộ phận của Ban 2 và Ban 5 tách ra khỏi ban cũ. Lực lượng của Ban 6 đóng rải rác hoạt động ở các vùng Trường đua Phú thọ, Bình Thời, đường Frédéric Drouhet (Hùng Vương), đường Bd de la Ceinture giáp ranh giữa hai quận 10 và quận 11 (nay là đường 3-2), cầu ông Lãnh, Vĩnh Hội...

        Ban Công tác Thành số 6 gồm khoảng 500 người, có tờ báo riêng tên gọi "Chính nghĩa", có trạm xá cho các chiến sĩ, cán bộ bị thương và đau ốm.

        Dưới Ban Công tác Thành có các liên tổ, là những đơn vị trực tiếp chiến đấu ngăn cách với nhau. Mỗi tổ gồm nhiều tổ nhỏ. Quân số của một liên tổ khoảng từ 20 đến 30 người. Nhưng cũng có liên tổ có quân số lên tới 40 hoặc 50 người. Mỗi Ban công tác thường có 4 hoặc 5 liên tổ. Riêng Ban 6 có tới 13 liên tổ.

        Ngoài các liên tổ chiến đấu nội thành, các Ban công tác còn có một bộ phận vũ trang du kích ở ngoại thành phối hợp tác chiến lấy tên là LIÊN TÁC CHIẾN ĐẤU QUÂN. Liên tác chiến đấu quân được trang bị các loại Vũ khí : Trung liên FM, MAS..., tiểu liên Sten, Carbine, Thompson; súng trường đủ loại Pháp, Mỹ, Nhật cùng lựu đạn và vũ khí trắng (arme blanche) như dao găm, kiếm...

        Các loại vũ khí trang bị cho ban liên tác chiến đấu quân hầu hết đều đo các Ban công tác đoạt được của giặc cung cấp. Ban chỉ huy Liên tác chiến đấu quân do hội nghị liên tịch bầu ra đề nghị lên Bộ Tư lệnh Khu xét chuẩn y.

        Liên tác chiến đấu quân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh khu vực đóng quân ngoại thành của các Ban công tác, chống các cuộc càn quét khủng bố của địch, yểm trợ những vụ phá hoại lớn của các liên tổ, có khi đánh đồn diệt bốt ở vùng "meo" (nơi giáp ranh giữa vùng du kích và vùng tạm chiếm).

        Thành phần Liên tác chiến đấu quân gồm số cán bộ và chiến sĩ của các Ban công tác bị lộ mặt không có điều kiện về hoạt động nội thành và số thanh niên địa phương nơi Liên tác chiến đấu quân đóng đại bản doanh.

        Lúc này, cùng với lực lượng Liên tác chiến đấu quân, còn có hai trung đội tự vệ tập trung do đồng chí Trần Bá Hào chỉ huy, thường xuyên phối hợp với lực lượng nội thành đánh địch.

        Song song với việc củng cố, chấn chỉnh các Ban công tác Thành (một tổ chức chiến đấu đặc thù của Việt Nam). Nguyễn Bình đã tổ chức lực lượng tự vệ. Khác với 6 Ban Công tác Thành được tổ chức và hoạt động theo kiểu vũ trang cơ động, đánh đặc công. Tự vệ thành được tổ chức theo địa bàn dân cư, lấy 18 Hộ làm đơn vị phân chia địa bàn hoạt động (Hộ tương đương đơn vị quận ngày nay). Lực lượng nòng cốt của tự vệ thành là một số cán bộ và học sinh Trường Quân chính Khu 7 - khóa Hồ Chí Minh cuối 1945 và khóa Võ Nguyên Giáp cuối tháng 3 năm 1946, cùng học viên các khóa tiếp theo được điều về Sài Gòn xây dựng cơ sở vũ trang. Đối tượng phần đông là thanh niên, học sinh, tiểu thương, dân nghèo thành thị và công nhân lao động.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:45:40 am

        Theo quyết định của Nguyễn Bình, Tự vệ thành được thành lập đầu tháng 3 năm 1946 và được tổ chức thành 15 khu và đội tự vệ. Mỗi khu phụ trách một vùng nhất định. Còn đội thì có thể phụ trách một số vùng quan trọng, trong đó có các xí nghiệp lớn.

        Địa bàn hoạt động của các khu hay đội, chủ yếu ở những nơi có quần chúng đông đảo như :

        - Đội Bắc Sơn hoạt động nhiều ở vùng cầu Kho, cầu ông Lãnh, do đồng chí Huỳnh Văn Khai là tự vệ trưởng.

        - Đội Bạch Đằng : Vùng chợ Phú Nhuận, do Đặng Đức Hào là tự vệ trưởng.

        - Đội Ký Con : Hoạt động có nhiều kết quả tại nhiều nơi trong thành phố, do Đào Văn Thục là tự vệ trưởng.

        - Đội Tô Hiệu : Chuyên hoạt động ở những khu vực như cầu Chữ Y, khu Nhà đèn Chợ Quán, Khánh Hội, Vĩnh Hội, cầu Tân Thuận..., do Nguyễn Văn Nam (tức Nguyễn Danh Khôi) là tự vệ trưởng.

        - Đội Quang Trung: do anh Chín Đố, Như Thơ (tức Ba Thêu) và Lý Kỳ Nam phụ trách.

        - Khu Tây Hồ hoạt động vùng Chợ Cũ.

        - Đội Phạm Ngũ Lão : hoạt động vùng Đa Kao, Sở Thú, do Ba Đen là tự vệ trưởng (Ba Đen sau này là người chỉ huy trận đánh vào tòa Đại sứ Mỹ Tết Mậu thân 1968).

        - Đội Trần Quốc Tuấn do Đoàn Cát là tự vệ trưởng.

        Ngoài ra còn có một số khu và đội tự vệ khác...

        Về quân số của một khu hay đội tự vệ tương đương với một trung đội bán vũ trang ở vùng tranh chấp lúc bấy giờ. Mỗi khu hay đội đều chia ra các "phân đội" có 9 đội viên. Nhiều "phân đội" họp thành "liên đội".

        Ban chỉ huy Tự vệ thành có tên gọi Thành bộ Tự vệ. Ban Chỉ huy được Nguyễn Bình chỉ định gồm : Nguyễn Xuân Diệu (tức Nguyễn Thanh Chương - Giám đốc Trường Quân chính Quân khu 7) làm Chỉ huy trưởng. Thời gian này Nguyễn Xuân Diệu còn được Nguyễn Bình ủy nhiệm đại diện cho Khu trưởng chỉ huy cả các Ban Công tác Thành. Nguyễn Mạnh Liên (tức Vũ Kiên Trinh, cán bộ Nam tiến, huấn luyện viên quân sự Trường Quân chính Quân khu 7) làm Chỉ huy phó cùng Nguyễn Văn Tư (tức Trịnh Văn Hà hay Tư Hà - kỹ sư canh nông tham gia kháng chiến ngay từ đầu làm công tác vận động trí thức của Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn) làm Chỉ huy phó.

        Đầu tháng 4 năm 1946, hai đồng chí Chỉ huy phó Tự vệ thành là Nguyễn Mạnh Liên và Trịnh Văn Hà bị địch bắt, thì đồng chí Hà Ngọc Tiếu (tên thật là Nguyễn Văn Hoàn) bị địch bắt vừa được trả tự do, được cử thay là Chỉ huy phó.

        Các Ban Công tác Thành và khu - đội tự vệ thành sau khi được củng cố, thống nhất chỉ huy đã đánh địch rất mạnh. Chiến công của các chiến sĩ ở tự vệ thành Sài Gòn bắt đầu vang dội bằng các trận đánh diệt ác, trừ gian táo bạo với trận trừng trị tên Việt gian Hiền Sĩ do Nguyễn Thị Lan (tức Lan Mê Linh) 16 tuổi - chiến sĩ Ban Công tác Thành số 1 - thực hiện ngày 12 tháng 3 năm 1946 ngay đường Bonard, gần nhà thuốc Nguyễn Văn Cao Ở góc đường Vrénot Bonard (Phan Bội Châu - Lê Lợi) ngang hông chợ Bến Thành.

        Tiếp theo, các chiến sĩ Ban Công tác Thành số 1 đã trừng trị tên hội đồng tư vấn bác sĩ Trần Tấn Phát ngay trên xe hơi ở trước nhà riêng của hắn số 114 đường Duranton (nay là Bùi Thị Xuân). Hạ sát tên Hội đồng tư vấn Nguyễn Văn Trạch. Phá nổ kho bom đạn ở đường Docteur Angier trên tả ngạn kênh Avalanche (Thị Nghè) làm bom đạn trong kho nổ cả ngày trời, làm sụp đổ nhiều nhà cửa, biệt thự...

        Tháng 6 năm 1946, để cảnh cáo những tên Việt gian tham gia nội các Nam Kỳ tự trị do Nguyễn Văn Thinh làm thủ tướng. Trưởng ban Công tác Thành số 1 Nguyễn Đình Chính trực tiếp thi hành bản án xử tử hình tên phản bội họa sĩ Hiền ngay tại nhà y ở 218 đường Lagrandière (nay là Lý Tự Trọng).

        Hàng chục, hàng trăm trận đánh với nhiều cách đánh khác nhau đã làm bọn giặc và bè lũ tay sai hoảng sợ. Nguyễn Bình đã khắc họa đậm nét bức tranh toàn dân đánh giặc; lớn bé, già trẻ, gái trai... đều đánh giặc. Không chỉ đấu tranh quân sự, mà nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn còn hăng hái xuống đường biểu tình phản dối cái gọi là "nước Nam Kỳ tự trị" làm cho nội các Nguyễn Văn Thinh mới thành lập ngày 7 tháng 5 năm 1946, chưa làm được trò trống gì thì thủ tướng Nguyên Văn Thinh đã treo cổ tự sát.

        Trong số các chiến sĩ nội thành, Khu trưởng Nguyễn Bình "cưng" nhất Ban Công tác Thành số 1, vì không những là đơn vị được thành lập đầu tiên mà còn vì người chỉ huy của đơn vị rất anh hùng, dũng cảm. Nguyễn Đình Chính, trưởng ban Công tác Thành số 1, quê ở làng Nguyên Xá - Tiên Hưng - Thái Bình, đã chỉ huy đơn vị đánh nhiều trận xuất sắc, đánh sâu, đánh hiểm. Anh đã bị giặc bắt, hai lần bị địch kết án tử hình với hơn 50 tội ghi trong cáo trạng, trong đó có tội đưa Khu trưởng Nguyễn Bình thâm nhập nội thành.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:49:05 am

        Trong phiên tòa cuối cùng, anh không cần trạng sư biện hộ, Nguyễn Đình Chính tự đọc bản điều trần bằng tiếng Pháp vạch rõ tội ác của thực dân Pháp và chỉ rõ đó là nguyên nhân khiến anh phải làm cách mạng. Cuối bản điều trần được kết thúc bằng hai khẩu hiệu, anh hô lớn : Việt Nam dân chủ cộng hòa muôn năm ! Hồ Chí Minh muôn năm!

        Những người biết tiếng Pháp dự phiên tòa theo dõi bị cuốn hút vào bản tự bào chữa của anh mà không sao hiểu nổi một chiến sĩ mới 24 tuổi đời đã lãnh án tử hình hai lần lại có thể đọc trước tòa một bản điều trần đầy sức thuyết phục đến thế.

        Trong khi bị giam ở khám tử tù, Nguyễn Đình Chính (Chính Heo) nảy ra một ý định táo bạo là chụp ảnh tại khám tử tù để gửi lên Bác Hồ. Anh đã nhờ người y tá của trại là "thầy Chín Minh" kiếm máy ảnh giao cho Thuận (một y tá - tù nhân) lấy cớ vào khám bệnh "Chính Heo" và anh Thuận đã bấm máy chụp được vài kiểu ảnh. Anh Lê Quang Trọng - con trai má nuôi của "Chính Heo" tráng phim rồi chọn tấm ảnh đẹp rõ nhất gửi vào khám để "Chính Heo" nắn nót viết những dòng chữ sau tấm ảnh :

        Kính tặng Hồ Chủ tịch.
        Thưa Cha,

        Đây là một cảnh âm cung trên dương thế con chụp được gởi kính tặng Cha công bố cho thế giới thấy bằng cớ xâm lăng của nước Pháp mới.

        Lần thứ nhất chúng kết án tử hình con vào ngày 10-10-1947. Con sống trong cảnh này đến 19-5-1948, chúng đưa con ra trước công lý xâm lăng lần thứ hai, tặng thêm cho một án tử hình nữa. Con vẫn cười đọc bản điều trần "Mémoire de défense", giải rõ ý niệm tranh thủ độc lập của Việt Nam và đưa cái công lý xâm lăng của chúng ra ánh sáng. Kết luận con tuyên bố trước mặt chúng : Tôi rất sung sướng và lấy làm vinh dự được chết cho nước tôi. Chúng tôi tin tới lúc chết, nước Việt Nam sẽ độc lập.

        Việt Nam độc lập và thông nhất muôn năm!

Một đứa con yêu của Cha                 
Nguyễn Đình Chính, tự Chính Heo         
Hầm tử hình 18a-khám lớn Sài Gòn.       

*

*      *

        Sau Hiệp định ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hội nghị trù bị Việt - Pháp ở Đà Lạt từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 11 tháng 5 không có kết quả gì, vì hai bên có quan điểm bất đồng về tất cả các vấn đề: chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế và ngoại giao.

        Với thời gian, và với thực tiễn chiến đấu của các đơn vị vũ trang nội thành, được phong trào đô thị Sài Gòn tiếp sức, những ý kiến khác biệt nhau dần dần quy tụ về một mục đích chung là lòng yêu nước : "Cứu nước lúc này là nhiệm vụ cao cả trên hết".

        Tại chiến trường Nam Bộ, để trả lời đích đáng điều kiện về ngừng bắn do Đácgiăngliơ đưa ra là "Quân kháng chiến phải hạ vũ khí", Khu trưởng Nguyễn Bình đẩy mạnh các hoạt động quân sự trên khắp các vùng.

        Trong nội thành, ngày 14 tháng 7 năm 1946, chiến sĩ thành Sài Gòn treo cờ đỏ sao vàng và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh ở phủ Toàn quyền. Nhiều khẩu hiệu và truyền đơn chống Pháp xuất hiện khắp nơi, khiến Pháp phải ra lệnh giới nghiêm.

        Nhiều nơi, đồng bào Sài Gòn bãi chợ, bãi công để phản đối Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ triệu tập hội nghị Liên bang Đông Dương tại Đà Lạt, tháng 7 năm 1946. Khẩu hiệu "Thống nhất Tổ quốc", "Phản đối chính phủ tự trị" xuất hiện công khai trên nhiều tờ báo ở Sài Gòn.

        Rạng sáng 19 tháng 8 năm 1946, nhân kỷ niệm một năm ngày Tổng khởi nghĩa, theo chủ trương của thành bộ Việt Minh, công nhân Sài Gòn đình công để tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với giặc Pháp; các đoàn thể khác như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... cũng có nhiều hình thức hưởng ứng. Các chiến sĩ tự vệ Sài Gòn tiến công nhiều điểm của quân Pháp, hỗ trợ cho cuộc đình công của công nhân. Trên đường từ Chợ Lớn đến cầu ông Lãnh, đồng bào các giới chen chúc nghe các chiến sĩ xung phong của Ban Công tác Thành và Tự vệ thành diễn thuyết dưới cờ đỏ sao vàng. Khí thế sôi sục áp đảo của đồng bào Sài Gòn khiến giặc Pháp lúng túng.

        Trong khi ấy, Hội nghị giữa hai phái đoàn Pháp và Việt Nam dân chủ cộng hòa không diễn ra tại Paris như dự kiến, mà ở lâu đài Phôngtennơblô, cách Paris 50 kilômét. Quan hệ giữa hai nước Việt - Pháp ngày càng xấu đi, thậm chí có thể dẫn đến đôi bên cắt đứt mọi quan hệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Tạm ước với Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Manus Moutet ngày 14-9-1946.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 11:54:14 am

        Để biểu thị thái độ nghiêm chỉnh chấp hành mọi chỉ thị của Trung ương và chủ trương đường lối của Chính phủ Trung ương, Nguyễn Bình ra mệnh lệnh công khai bằng văn bản "Thông sức". Toàn văn như sau :

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

        Để tỏ rõ sự thống nhất chỉ huy và tinh thần trọng kỷ luật của Quân đội Việt Nam.

        Để tỏ rõ lúc nào chúng ta cũng mến chuộng hòa bình.

        Để tỏ rằng quân đội ta lúc nào cũng tôn trọng những hiệp ước của Chính phủ Việt Nam đã ký với chính phủ Pháp.
       

THÔNG SỨC

        Cho tất cả Vệ quốc quân Việt Nam ở Nam Bộ.

        Cho các Chi đội, các bộ đội lưu động, các đội du kích, các tổ chức Tự vệ chiến đấu, các tổ chức dân quân.

        Phải tuyệt đối thi hành đúng bản thỏa hiệp án ngày 14 tháng 9 năm 1946 về những khoản có liên can đến vấn đề quân sự.

        Phải ngừng sự bắn phá trước hồi 24 giờ ngày 24 tháng 10 năm 1946.

        Phải tránh hết sức mọi sự khiêu khích với quân đội Pháp.

        Phải giữ vững và củng cố vị trí đóng quân của ta; nhưng cũng phải, khi bị đặt vào tình thế tự vệ, nghĩa là khi quân đội Pháp vô cớ tấn công, chống trả lại để giữ vững căn cứ đóng quân cũng như để bảo toàn thực lực quân mình.

        Thông sức này, Vệ quốc quân cũng như bộ đội khác phải triệt để thi hành.

        Tổng hành dinh, ngày 10 tháng 10 năm 1946

NGUYỄN BÌNH             
Ủy viên quân sự Nam Bộ1       

        Mặc dầu hai nước Việt - pháp đã ký Tạm ước Phôngtennơblô nhưng thực dân phản động Pháp ở Đông Dương vẫn ngoan cố mưu toan mở rộng chiến tranh thôn tính Việt Nam bằng vũ lực.

        Sau khi đã ký với Trung Hoa Hiệp ước thân thiện, quân Pháp sẽ thay thế quân Tưởng Giới Thạch để giải giáp quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra. Pháp sẽ trả lại Trung Hoa các tô giới, bán rẻ đường xe lửa Lào Cai - Vân Nam, miễn thuế quan cho hàng Trung Quốc chuyển khẩu, dành mọi sự dễ dàng cho Hoa kiều ở Đông Dương,... Pháp đã đưa quân đội viễn chinh ra Bắc, đổ bộ lên thành phố Hải Phòng, rồi đưa quân vào thủ đô Hà Nội. Chúng ra sức khiêu khích, quấy phá và gây hấn ở giữa lòng Thủ đô; máu của đồng bào và chiến sĩ ta đã đổ trên đường phố...

        20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, quân dân thủ đô Hà Nội đồng loạt nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.

        Trước tình hình này, ở Nam Bộ, Khu trưởng Nguyễn Bình chủ trương chấn chỉnh lần nữa lực lượng vũ trang nội thành và phân chia lại địa bàn hoạt động cho các đơn vị. Đồng thời triển khai chỉ thị của Trung ương, tổ chức cho các địa phương xây dựng ba thứ quân: Bộ đội chủ lực toàn miền đổi tên GIẢI PHÓNG QUÂN thành VỆ QUỐC QUÂN.

        Đầu năm 1947, Ủy ban Kháng chiến hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định thành lập một trung đoàn chủ lực đầu tiên mang tên Trung đoàn Phạm Hồng Thái, gồm ba tiểu đoàn :

        1. Tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ do Trần Bá Hào làm Tiểu đoàn trưởng, Lê Lăng (tức Châu Văn Hô) Tiểu đoàn phó, Phạm Thái Chu - Chính trị viên.

        Tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ gồm một phần của Tự vệ thành, tiểu đoàn Ngô Gia Tự của Liên hiệp Nghiệp đoàn Sài Gòn và tiểu đoàn Ký Con của các Ban Công tác Thành.

        2. Tiểu đoàn Ngô Gia Tự do Nguyễn Minh Đức làm tiểu đoàn trưởng, Phùng Minh Ký (Bảy Rể) làm tiểu đoàn phó, Lê Tấn Ích làm chính trị viên.

        Tiểu đoàn Ngô Gia Tự gồm lực lượng vũ trang của Liên hiệp Nghiệp đoàn thành phố với hai cánh quân : một của anh Triệu Cải ở Gò Vấp và một của anh Nguyễn Văn Quờn (Tám Quờn) ở Chợ Thiếc, kết hợp với lực lượng vũ trang của Ban Công tác số 4.

        3. Tiểu đoàn Ký Con do Nguyễn Văn Thuận làm tiểu đoàn trưởng, Hoàng Giai Nhi làm Tiểu đoàn phó và Khưu Tấn Lợi làm Chính trị viên.

        Tiểu đoàn Ký Con gồm lực lượng của bơn Ban Công tác số 1, 2, 3, 5 và một đơn vị tiếp phòng quân từ Quảng Ngãi vào gồm ba trung đội được trang bị đầy đủ.

        Ngoài việc thành lập Trung đoàn chủ lực Phạm Hồng Thái, Ủy ban Kháng chiến hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định đổi tên các Ban Công tác Thành và sắp xếp lại lực lượng thành các đại đội du kích trực thuộc Thành đội bộ dân quân; mang phiên hiệu từ Đại đội 1 đến Đại đội 7. Lực lượng Tự vệ Thành còn lại tập trung thành ba đại đội du kích quân mang phiên hiệu 8 - 9 - 10. Ngoài các Ban Công tác Thành và Tự vệ thành còn có Ban công tác Đặc biệt và Ban công tác 145.

        Để đáp ứng yêu cầu xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang Khu 7, Khu trưởng Nguyễn Bình quyết định đưa Nguyễn Xuân Diệu trở về đảm nhiệm Giám đốc Trường Quân chính Khu 7 và chỉ định đồng chí Hà Ngọc Tiếu làm Chỉ huy trưởng Tự vệ thành.

---------------------
        1. Văn bản này đăng trong Việt bút tân văn, số ra ngày 27-10-1946 do Đại tá Nguyễn Xuân Diệu sưu tầm.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 12:14:03 pm

        Sau khi các tổ chức lực lượng vũ trang được củng cố chỉnh đốn lại, được sự chỉ huy thống nhất và trực tiếp của Khu trưởng Nguyễn Bình, chiến sĩ của Ban Công tác Thành, Tự vệ thành, Công an xung phong, của Trung đội nữ biệt động Minh Khai, của đội quân Thiếu niên "Tiểu quỷ"... đã phối hợp chặt chẽ, chiến đấu qua hàng nghìn trận đánh đau, đánh hiểm; phá các đồn bốt, trụ sở, kho tàng, kho bom đạn, xăng dầu, sân bay, bến cảng... Diệt trừ những tên Việt gian phản động như Hiền Sĩ, Trần Tấn Phát, Nguyên Văn Sâm...; trừng trị những tên thực dân dầu sỏ như Bazin, Boncivim, De Lachevrotière, Hans Imflet...

        Nhân dịp thực dân Pháp cử Emile Bolaert sang thay đô đốc Đácgiăngliơ, đồng chí Hà Ngọc Tiếu đã chỉ huy Tự vệ thành dùng chất nổ đánh phá sòng bạc Grand Monde (Đại thế giới) và phá Kermesse (Hội chợ triển lãm) ở vườn hoa Ông Thượng (nay là Công viên Tao Đàn) đốt cháy 20 gian hàng mỹ phẩm và một sòng Tài Xíu.

        Có điều các chiến sĩ nội thành luôn ghi nhớ lời căn dặn của Nguyễn Bình : "Đánh giặc để bảo vệ dân không được để dân phải hy sinh vô ích". Vì vậy, mỗi trận đánh, các chiến sĩ đều phải chọn loại vũ khí thích hợp để tránh cho dân khỏi bị thương vong. Đồng chí Hà Ngọc Tiếu giao các loại vũ khí này cho đốc công Quý, Minh Chánh và kỹ sư Lê Tâm chế tạo.

        Bằng cách đánh muôn màu, muôn vẻ, "xuất quỷ nhập thần", các chiến sĩ ta đã làm thất bại âm mưu "dùng người Việt, đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của Pháp.

        Có một điều thú vị là chiến tranh du kích không chỉ đưa vào Sài Gòn - Chợ Lớn để đánh địch, mà nó còn vươn tới tận Paris trong trường hợp Công an xung phong quyết định trừng trị một tên Việt gian đã trốn sang Pháp nhưng vẫn tiếp tục làm nghề thầu quân nhu để cung cấp cho quân đội Pháp. Đồng chí Võ Gia Phục Quốc đã tình nguyện sang Pháp tìm đến tận giường ngủ của hắn ở đường Đờ Gôn, vùng ngoại ô Paris, đọc bản án rồi mới hạ sát. Tiếng súng diệt ác, trừ gian của chiến sĩ ta ở Paris đã góp phần đánh thức lương tri người Pháp đòi Chính phủ của họ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược nhơ bẩn ở Việt Nam.

        Với những cống hiến xuất sắc của mình, Nguyễn Bình đã được Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phê chuẩn kết nạp ông vào Đảng và chỉ định ông tham gia Xứ ủy, đồng thời là Xứ quân ủy và Ủy viên quân sự trong Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ. Giờ đây tình thế cách mạng đã thay đổi. Vận mạng của dân tộc đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc; đòi hỏi những người cách mạng không thể có thái độ lừng chừng mà phải đứng hẳn vào vị trí mũi nhọn của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Bởi vậy, Trung ương quyết định kết nạp Nguyễn Bình vào Đảng và đã đặt ông vào đúng chỗ. Đồng chí Nguyễn Xuân Diệu kể lại ngày Nguyễn Bình được kết nạp vào Đảng : "Trước khi Nguyễn Bình vào Đảng, có lần anh Tô Ký hỏi anh Ba Duẩn : "Sao hồi ở Côn Đảo không kết nạp anh Bình vào Đảng?". Anh Duẩn trả lời : "Tuy Nguyễn Phương Thảo đã được "xích hóa", đã thực sự đứng hẳn về lập trường vô sản và đã có những hành động tích cực đấu tranh với phái bảo thủ của Quốc dân đảng. Nhưng cỡ Nguyễn Phương Thảo, Đảng bộ Côn Đảo không đủ thẩm quyền kết nạp, mà phải do Trung ương".

        Ngày anh Bình vào Đảng, có một sự việc làm tôi nhớ mãi : Hôm đó tôi có việc đi qua Tân Mỹ ghé vào Văn phòng Bộ Tư lệnh rồi về Vĩnh Lộc. Gặp anh Bình ở Tân Mỹ, anh bảo tôi ở lại để cùng anh đi về Trung Chánh (Hóc Môn). Đoàn đi chỉ có ba người : Anh Bình, anh Tô Ký và tôi, không có liên lạc cận vệ. Anh Tô Ký thuộc đường nên trực tiếp dẫn đường. Đường đi qua nhiều ruộng nước còn lấp xấp vì đang mùa mưa. Đến Trung Chánh ở nhà anh Râu Giò - Trưởng Công an Hóc Môn, anh Râu Giò bố trí tôi và anh Bình cùng nghỉ một nhà. Sáng hôm sau, anh sang nhà bên họp. Cuộc họp có mặt các anh Hà Huy Giáp, Nguyễn Đức Thuận, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Minh Định, Phạm Thiều. Tôi không dự họp nhưng lúc ăn cơm tôi gặp các anh trên. Sau cuộc họp, anh Bình cho tôi biết : Hôm nay các anh tổ chức lễ kết nạp anh Bình và anh Phạm Thiều vào Đảng. Sau đó Công an báo có tin địch vào ruồng. Anh Râu Giò dắt anh Bình và tôi xuống một căn hầm bí mật giữa vườn cao su Bà Đầm và giao cho chúng tôi một khẩu tiểu liên để đề phòng khi có bất trắc. Đang ở trong hầm thì nghe tiếng rắc rắc ở nắp hầm. Chúng tôi phán đoán có địch trên nắp hầm, nắp hầm không chịu được nguy cơ bị sập. Anh Bình lấy tiểu liên kê ở miệng hầm, còn tôi thì còng lưng đỡ nắp hầm. Anh Bình bảo tôi : Nếu địch tìm thấy hầm thì anh sẽ bắn và cùng thoát lên mặt đất tháo thân. Chờ mãi không thấy động tĩnh gì. Lúc địch rút, anh Râu Giò đến báo hiệu rồi mở nắp cho chúng tôi lên. Thì ra các cành cao su làm nắp hầm lâu ngày bị mục, gặp mưa nên nắp hầm không chịu được nên mới sập. Tối hôm đó anh Tô Ký lại dẫn chúng tôi đi Vĩnh Lộc".

        Qua tìm hiểu của anh Nguyên Xuân Diệu, lý lịch của đồng chí Phạm Thiều có ghi anh vào Đảng tháng 6 năm 1946, như vậy Nguyễn Bình cũng vào Đảng tháng 6 năm 1946.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 12:15:16 pm
         
*

*      *
    
        Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 làm thất bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của quân đội viễn chinh Pháp, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới. Trung ương nhận định giai đoạn phòng ngự đã qua và đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn cầm cự. Giai đoạn này đòi hỏi cả nước phải nỗ lực xây dựng ba thứ quân và chính quy hóa lực lượng quân sự.

        Ngày 12 tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 115/SL quyết định phong hàm cấp tướng đầu tiên cho Quân đội quốc gia Việt Nam, gồm :

        1 Đại tướng : Võ Nguyên Giáp.

        1 Trung tướng : Nguyễn Bình.

        9 Thiếu tướng : Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng, Trần Tử Bình, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Đại Nghĩa và Lê Hiến Mai (tức Dương Quốc Chính).

        Nhận được Sắc lệnh này, nhân dân Nam Bộ vui mừng coi đây là một phần thưởng không chỉ dành riêng cho Nguyễn Bình mà là sự ghi nhận thành tích chiến đấu của phong trào kháng chiến Nam Bộ. Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ đã tổ chức trọng thể lễ tấn phong quân hàm Trung tướng cho Khu trưởng Nguyễn Bình.

        Lúc này Quân khu 7 và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn do chưa chuyển biến kịp về tổ chức, tư tưởng, quan hệ lãnh đạo và chỉ huy, hình thức đấu tranh chưa thật thích hợp... nên hoạt động của các đại đội du kích và Tự vệ thành có phần lúng túng bị động. Một hiện tượng tâm lý nảy sinh phổ biến ở khắp các đơn vị, là đơn vị nào cũng muốn được sự chỉ huy trực tiếp của Trung tướng Nguyễn Bình.

        Nhằm giải quyết tình trạng này, tháng 3 năm 1948, Trung tướng Nguyễn Bình triệu tập tất cả cán bộ chỉ huy các đơn vị về họp ở ấp B, kinh Tây thuộc quận Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn. Tại Hội nghị này, Trung tướng Nguyễn Bình quyết định chuyển các đại đội về trực thuộc Khu 7 và đổi tên gọi các đại đội du kích trở lại tên gọi cũ là các BAN CÔNG TÁC THÀNH lấy phiên hiệu từ số 1 đến số 10. Và thành lập Ban TV200CT gồm các đồng chí Nguyễn Tứ Phương - Tổng thư ký, Phạm Ngọc Thảo và Phạm Tuân - ủy viên, làm đầu mối quản lý các Ban công tác, chuyển thể Ban chỉ huy liên đội 8, 9, 10 thành cơ quan giúp việc1.

        Ba tháng sau đó, tháng 6 năm 1948, Trung tướng Nguyễn Bình lại triệu tập một hội nghị cũng tại địa điểm trên gồm cán bộ chỉ huy các Ban Công tác Thành và đồng chí Nguyễn Tứ Phương. Hội nghị quyết định giải thể Ban TV200CT vì Phòng Mật vụ của đồng chí Phạm Ngọc Thảo phải dời về thượng nguồn Vàm Cỏ Tây, nên không còn điều kiện cùng bám chỉ đạo Ban TV200CT nữa. Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn đã chỉ định đồng chí Hà Ngọc Tiếu làm Trưởng khoa Mật vụ Quân khu 7 sau đổi thành Khoa Quân báo Quân khu 7. Hội nghị thành lập Ban chỉ huy các Ban Công tác Thành (gồm 10 Ban Công tác Thành và Ban công tác 145) thay mặt Bộ lư lệnh Khu 7 gồm : Nguyễn Văn Công - Trung đoàn trưởng Liên quân 306 - 312, kiêm nhiệm vụ chỉ huy trưởng các Ban Công tác Thành và Nguyễn Tứ Phương làm Chính trị viên.

        Ngoài ra, Trung tướng Nguyễn Bình còn chỉ đạo 10 Ban Công tác Thành kết nghĩa với 10 trung đoàn Vệ quốc đoàn nhằm tăng cường mối quan hệ phối hợp chiến đấu khi cần thiết, hỗ trợ nhau về vật chất và tinh thần. Chiến công của trung đoàn “đỡ đầu” Ban công tác nào được xem là thành tích của Ban công tác ấy, và ngược lại. Số người nào trong Ban Công tác Thành bị lộ, không thể tiếp tục hoạt động ở nội thành được nữa, thì bổ sung cho trung đoàn “đỡ đầu”.

        Trong suốt thời gian này, Nguyễn Bình vẫn gan góc ra vào Sài Gòn như con thoi; không chỉ vào để chỉ đạo công tác quân sự mà còn để giải quyết nhiều công tác khác như gặp gỡ các nhà trí thức có tên tuổi hoặc các nhân sĩ yêu nước, để vận động họ đi theo kháng chiến và phục vụ kháng chiến. Theo ông thì nếu chỉ ngồi ở chiến khu mời họ ra sẽ ít hiệu quả, biện pháp tốt nhất là nên trực tiếp gặp họ ở Sài Gòn thì việc vận động sẽ có hiệu quả nhiều hơn. Chính vì vậy, Nguyễn Bình đã quy tụ được nhiều trí thức có uy tín lớn như : đốc công (kỹ sư) Lanh, đốc công Quý, đốc công Hợi (thân phụ bà Nguyễn Thị Bình), đốc công Kỳ, bác sĩ Hồ Văn Huê, bác sĩ Võ Cương, bác sĩ Trần Nam Hưng (lúc này đang làm sĩ quan trong quân đội Pháp), giáo sư Phạm Thiều, luật sư Lê Đình Chi, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nhà bác học Lưu Văn Lang... Đặc biệt, khi biết kỹ sư Lê Tâm (tên thật là Nguyễn Hy Hiên) vừa tốt nghiệp ở Pháp về, Nguyễn Bình cử người ra tận tàu biển đón và đưa về Tổng hành dinh. Nguyễn Bình đã thuyết phục ông tình nguyện theo kháng chiến và giao cho ông tổ chức binh công xưởng chế tạo vũ khí.

-----------------------
        1. Tên gọi BAN CÔNG TÁC THÀNH là do Nguyễn Bình đặt. Trong Từ điển Bách khoa Quân sự không có cụm từ này, mà chỉ có tên gọi các đơn vị Tiểu đội, trung đội, đại đội... Đại tá Nguyễn Xuân Diệu sưu tầm.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 12:24:49 pm

        Cũng có nhiều lần ông vào Sài Gòn chỉ vì muốn quyên góp ít tiền để giải quyết khó khăn về tài chính cho Quân khu bộ. Phải công nhận rằng ở cương vị ông vào Sài Gòn để giải quyết những công việc này có hiệu quả hơn người khác rất nhiều. Cũng chính vì vậy mà báo chí và dư luận trong nhân dân có nhiều huyền thoại về sự xuất hiện của Nguyễn Bình trong thành phố Sài Gòn. Chẳng hạn, có tờ báo đăng tin : Nguyễn Bình đã vào công cán tại Sài Gòn. Khi về đã gửi thư cho chánh mật thám Bazin qua tay một em bé đánh giày chuyển cho tên lính gác cổng bót Catina. Bức thư viết : "Gửi ngài Chánh mật thám Bazin ! Tôi đã vào đây ít ngày, có khuyết điểm là chưa đến "chào" ngài, mong ngài thứ lỗi. Sẽ gặp lại! Ký tên : NGUYỄN BÌNH".

        Hoặc có lần ông vào ở tại một nhà người Hoa có con gái là cơ sở, với tư cách là một nhà văn cần nơi yên tĩnh để viết văn. Mật thám đánh hơi thấy, điều lính đến bao vây. Ngôi nhà này có cửa sau thông ra một cái hồ. Thấy động, Nguyễn Bình không ra theo lối cửa sau, chỉ mấy phút sau Nguyễn Bình đã khoác tay cô con gái chủ nhà trong bộ đồ xá xẩu, đàng hoàng đi ra cửa trước, vừa đi vừa rút thuốc lá. Đến cửa, ông mượn tên lính bật lửa, châm thuốc rồi chìa bao thuốc lá mời mỗi tên một điếu. Hai người xuống phố vẫy xe tắc xi đi ngay...

        Những mẩu truyện như trên, không rõ chính xác đến bao nhiêu phần trăm, hay vì quá yêu mến mà người đời thêu dệu cho Nguyễn Bình, nhưng thực sự đã làm cho kẻ thù thêm phần tức tối, hoang mang và lo sợ. Chúng đã treo giải thưởng rất cao để thưởng cho ai bắt sống hay bắn chết được Nguyễn Bình. Còn nhân dân Sài Gòn qua những tin này đều yên tâm, phấn khởi và tin là có thật. Họ cảm thấy phái viên của Cụ Hồ bao giờ cũng ở bên cạnh họ, động viên họ hăng hái tham gia góp phần vào sự nghiệp kháng chiến. Kẻ thù đâu có biết, trong nội thành Sài Gòn lúc này, Nguyễn Bình đã có một trận địa vô cùng vững chắc, bất khả xâm phạm và những chiến sĩ cực kỳ dũng cảm thiện chiến, nhưng vô hình. Đó là trận địa lòng dân và những chiến sĩ các Ban Công tác Thành.

        Có một sự thật hiển nhiên qua các chuyến đột nhập Sài gòn, Nguyễn Bình thường được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 bố trí phân công một cô gái người miền Bắc làm liên lạc hướng dẫn ông đi lại trên khắp các phố ở Sài Gòn bằng nhiều hình thức khác nhau. Có lúc hai người đóng giả một cặp vợ chồng tư sản, ăn mặc sang trọng, khoác tay nhau tản bộ công viên. Có lúc đóng giả một cặp vợ chồng người Hoa, trong hộ đồ xá xẩu, bươn bả “chạy hàng” từ phố này qua phố nọ. Có lúc cô là một tiểu thư đài các ngồi trên xe xích lô còn ông thì trong bộ đồ cũ nát làm phu xe, đạp xe đưa "tiểu thư" đi chơi hay đi công chuyện. Sau nhiều lần như vậy, khi ra cứ, cô liên lạc trở thành "phu nhân Trung tướng".

        Cô liên lạc tên thật là Hoàng Thị Thanh, quê ở xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Không hiểu vì lý do gì, cô đã từng làm nghề cô đầu ở khu Đa Kao nên rất thông thạo đường phố Sài Gòn và cũng rất thông thạo các kiểu mốt ăn diện của thành phố Sài Gòn. Nam Bộ kháng chiến, cô bỏ nghề cô đầu, theo học một lớp cứu thương của Quân khu 7, tham gia kháng chiến.

        Sau khi Trung tướng Nguyễn Bình hy sinh, bà Thanh không có con; bà được đưa ra Bắc, có mang theo một cháu bé trai 3 tuổi. Cháu bé này là con một ông bác sĩ ly dị vợ, vợ đi lấy chồng khác bỏ cháu bơ vơ. Trước tình cảnh thương tâm ấy, Nguyễn Bình đem cháu bé về nuôi đặt tên Nguyễn Phương Chiến. Bà Thanh ra Bắc được sắp xếp làm việc ở Tổng cục Chính trị một thời gian rồi chuyển sang làm công tác Công đoàn trong một nhà máy quốc phòng. Cháu Chiến được Nhà nước nuôi dưỡng, học tập và đã trưởng thành làm việc trong cơ quan Nhà nước.

        Sau năm 1954, bà Thanh mang bằng Tổ quốc ghi công về xã Giai Phạm (Hưng Yên) để báo cho địa phương và họ hàng biết Trung tướng Nguyễn Bình đã được Nhà nước công nhận là liệt sĩ.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 12:32:17 pm
     
*

*      *

        Theo tác giả Mạnh Việt : "Cũng trong thời gian này ở Bộ Tư lệnh Quân khu 7, còn có một người đàn bà khác, hình như suốt cuộc đời bà ôm trọn bóng dáng. hình ảnh anh "Ba Bình" kể từ ngày đầu gặp "anh Ba" ở Quân khu 7. Bà đẹp lắm, có học vấn, rất giỏi tiếng Pháp. Bà tên là Vương Thị Trinh, con gái ông Vương Quang Ngưu - một nhà trí thức và là điền chủ. Ông Ngưu mở phòng cố vấn pháp luật ở Sài Gòn, ông thường bênh vực dân nghèo mỗi khi bị cường hào ác bá cướp giật ruộng vườn... Ông là anh em cột chèo với ông Ung Văn Khiêm, bà Ngưu là chị, bà Khiêm là em.

        Đầu năm 1946, bà Trinh thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến. Bà là Trưởng phòng mật mã của Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và là người đầu tiên sử dụng khóa mật mã của Trung ương do ông Nguyễn Như Hiền trao tận tay cho Nguyễn Bình trước lúc lên đường vào Nam Bộ. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt mà Khu trưởng giao cho bà Trinh. Do công tác có sự liên hệ mật thiết giữa cơ quan mật mã với Văn phòng Khu trưởng nên bà Trinh biết rất rõ anh "Ba Bình". Bà rất kính phục và yêu quý anh "Ba Bình". Bà yêu quý anh "Ba Bình" đến mức, sau khi "anh Ba" kết hôn với Hoàng Thị Thanh, bà đã âm thầm đau khổ một thời gian dài vì một lý do tế nhị; theo yêu cầu của tổ chức bà đã vì lợi ích của sự nghiệp chung, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết mà hy sinh mối tình đầu trong trắng của đời người con gái cho đến khi sắp lấy chồng, bà đã nói thẳng lòng mình với vị hôn phu : "có đồng ý cho bà tôn thờ hình ảnh "anh Ba Bình" trong trái tim mình thì mới làm đám cưới". Bà đã lấy chồng và sinh được một con trai đặt tên là Nguyễn Phương Nam và cháu nội bà đặt tên là Nguyễn Thị Phương Thảo"1.

        Sau ngày thống nhất đất nước, đã nhiều lần bà Trinh lặn lội từ Nam ra Bắc, tìm về gia đình Trung tướng Nguyễn Bình ở thôn Yên Phú, xã Giai Phạm (Hưng Yên) thăm viếng và thắp hương tưởng nhớ "anh Ba Bình". Bà đã rất nhiệt tình giúp đỡ các cháu của "Ba Bình" sưu tầm các tư liệu, những kỷ vật, hình ảnh, bút tích... của "anh Ba Bình". Những tấm ảnh in trong cuốn sách này phần lớn do bà cung cấp. Các cháu của "anh Ba Bình" rất xúc động trước tình cảm trong sáng của bà, kính phục bà và gọi bà là thím.

        Ngày 21 tháng 3 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 18/SL cử Trung tướng Nguyễn Bình làm Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Nam Bộ, và ông được Xứ ủy cử làm Ủy viên quân sự trong Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ.

        Trên cương vị mới, Trung tướng Nguyễn Bình bàn giao Quân khu 7 cho Khu trưởng Huỳnh Văn Nghệ, chuyển Tổng hành dinh Bộ Tư lệnh Nam Bộ về xã Nhơn Hòa Lập trên bờ kênh Dương Văn Dương. Với tình cảm lưu luyến lúc chia tay, Huỳnh Văn Nghệ đã viết bài thơ tặng Trung tướng Nguyễn Bình như sau :

RỪNG NHỚ NGƯỜI ĐI

                                         Từ độ chàng đi vung kiếm thép
                                         Mịt mù khói lửa khuất binh nhung
                                         Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
                                         Hồi hộp nghe từng tin chiến công.
                                         Chòi cũ còn đây mái xác xơ
                                         Tro tàn bếp lạnh, nhớ người xưa
                                         Còn đâu những sáng tưng bừng nắng
                                         Thử súng rền vang dưới bóng cờ.
                                         Còn đây mái suối chiếc cầu con
                                         Bến đá chân Anh bước đã mòn
                                         Chim lắng, nước ngừng không hát nữa
                                         Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong.
                                         Ngày đi có bướm, chim đưa tiễn
                                         Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương
                                         Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp
                                         Đâu biết rừng xanh cũng đoạn trường
                                         Từ đó Lạc An mang nhớ thương
                                         Ba thu sầu rụng lá muôn vàn
                                         Bốn phương lửa khói tung mù mịt
                                         Rừng ngại ngùng cho cánh phượng hoàng
2.

        Với cương vị là Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Nam Bộ và Ủy viên quân sự trong Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Trung tướng Nguyễn Bình đã cùng Xứ ủy và Bộ Tư lệnh Nam Bộ tăng cường chỉ đạo việc xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang. Lúc này cấp Quân khu đã có nhiều trung đoàn chủ lực, cấp tỉnh đã thành lập tỉnh đội và có trung đoàn bộ đội địa phương; cấp huyện có huyện đội và đại đội hoặc trung đội vũ trang cơ động, cấp xã có xã đội và dân quân du kích. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Lực lượng vũ trang của ta đủ sức đánh lớn, đánh công đồn, bao vây chốt chặn từng cụm cứ điểm để phối hợp với chiến trường cả nước.

        Đầu năm 1951, cục diện chiến trường đã thay đổi, thế thua của giặc Pháp đã lộ rõ và đế quốc Mỹ đã có biểu hiện nhòm ngó, vừa sẵn sàng tiếp tay cho Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương vừa chuẩn bị nhảy vào Việt Nam thế chân quân Pháp.

------------------------
        1. Mạnh Việt : Nguyễn Bình - Độc nhãn tướng quân - bài đăng trên báo Tiền Phong.

        2. Bài thơ do Đại tá Nguyễn Xuân Diệu sưu tầm, cung cấp.
 


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 09:10:11 pm

        Trung ương quyết định bố trí lại chiến trường, sắp xếp lại lực lượng, đồng thời tích cực chuẩn bị Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ II nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn cuối cùng : Giai đoạn Tổng phản công. Trung tướng Nguyễn Bình được lệnh ra Bắc để báo cáo tình hình Nam Bộ.

        Ngày 5 tháng 7 năm 1951, Trung tướng lên đường, được Bộ Tư lệnh Nam Bộ bố trí một đoàn hộ tống do Nguyễn Văn Sĩ (Sĩ Kiếng), một cán bộ trung đoàn phụ trách đội trưởng. Xứ ủy phân công Phạm Huy Châu - một cán bộ chính trị tỉnh đội, phụ trách đoàn phó chính trị viên kiêm bí thư chi bộ của đoàn hộ tống, trực tiếp làm thư ký riêng cho Trung tướng Nguyễn Bình.

        Theo ông Phạm Huy Châu (hiện là đại tá, đã nghỉ hưu ở thôn Phúc Tự Đông, xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng bình) thì : “Hình như bọn địch đã được biết chuyến đi này. Hàng ngày chúng bố trí lực lượng theo dõi, có ngày chúng cho cả máy bay do thám dò xét từ trên cao. Cuộc hành trình vô cùng gian khổ, mọi người ngày đi đêm nghỉ, leo đèo lội suối, thiếu lương ăn, thiếu thuốc chữa bệnh. Hành quân hàng tháng trời ở trong rừng, khí hậu khắc nghiệt đã làm nhiều chiến sĩ bị bệnh. Có những ngày Trung tướng Nguyễn Bình cùng nhịn ăn để dành gạo cho bệnh binh. Trong suốt cuộc hành trình, Trung tướng làm việc rất căng thẳng, có nhiều đêm thức trắng để đắn đo suy nghĩ về vấn đề gì quan trọng, cứ viết, vẽ rồi lại xé bỏ. Có những ngày Trung tướng quyết định đột ngột thay đổi lộ trình để làm lạc hướng theo dõi của địch.

        Ngày 29 tháng 9 năm 1951, đoàn đến bản Seng Klong, huyện Long Phát, tỉnh Stung Treng (nay thuộc tỉnh Ratanakiri - Campuchia) vượt qua sông Srê Pốc. Trung tướng cho đoàn nghỉ lại để cử người vào bản mua bổ sung lương thực, thực phẩm... chuẩn bị cho ngày mai vượt đường 19 sang Lào. Địa điểm này ở gần dân, có đủ núi non, sông, suối.

        Khi đến đây, Trung tướng Nguyễn Bình đứng trên bờ con suối nhỏ bảo : "Nơi đây phong cảnh đẹp quá, có sông, có núi. Sau này yên bình, có điều kiện về đây làm nhà sinh sống thì cũng thích". Và 15 giờ 30 ngày hôm ấy, trong lúc Trung tướng đang nghỉ trong một túp lều trông nương của đồng bào thì bất ngờ bị địch bao vây và nổ súng tấn công. Thấy động, Trung tướng đã cùng anh em bảo vệ chiến đấu rất dũng cảm, khi đã rút đến bìa rừng thì ông bị cả băng liên thanh hạ gục. Tối hôm đó, đơn vị đã mai táng Trung tướng bên dòng suối nhỏ, rồi rút quân quay lại trở về Nam Bộ. Ông Châu đã bảo vệ trọn vẹn mọi tài liệu của Trung tướng, trở về căn cứ giao nộp cho Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn".

        Về phía địch, cái chết của Trung tướng Nguyễn Bình đã được Lucien Bodard viết trong cuốn La guerre d’ Indochme - L’ Humiliation (Tập II, in xong ngày 27-1-1963) : "Một ngày thu ở Vương quốc Căm Pốt dịu hiền, một đơn vị biệt kích Căm Pốt tuần tiễu bắt gặp một đơn vị nhỏ Việt Minh giữa rừng hoang. Đây là một sự đụng độ, Việt Minh rút lui để lại một xác chết. Trưởng đơn vị Căm Pốt, một viên quản (thượng sĩ) viết trong báo cáo : “Đây là xác một người tầm thước, mặc may ô và quần gabađin xanh, chân đi đất, cổ tay đeo đồng hồ Môvađô, đeo kính râm to kiểu Mỹ; trên báng súng lục có khắc chữ BÌNH”. Một tháng sau, toán người này lại rơi vào một ổ phục kích. Một viên sĩ quan bị thương và bị bắt; đã tiết lộ tên và tư cách người mặc quần gabađin : Nguyễn Bình, Trung tướng, Tư lệnh các lực lượng Việt Minh ở phía Nam".

        Huỳnh Văn Nghệ là người tâm phúc và là bạn thơ của Nguyễn Bình.

        Cái chết của Nguyễn Bình là một tổn thất to lớn không gì bù đắp nổi của gia đình và đất nước. Đặc biệt là đối với lực lượng vũ trang và đồng bào Nam Bộ đã mất đi một vị Tướng tài được Bác Hồ phái vào sát cánh cùng đồng bào đánh giặc. Nguyễn Bình đã làm kẻ thù kinh hồn, bạt vía, ăn không ngon, ngủ không yên ngay trong hang ổ của chúng. Như René L'Hermitte - đặc phái viên của báo Nhân đạo Pháp đến Sài Gòn viết về cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam, có nhận xét : “Việt Minh không chỉ ở cửa ngõ Sài Gòn, Việt Minh còn ở trong lòng Sài Gòn". Và kẻ thù tuy bị đánh hiểm, đánh đau nhưng vẫn phải khâm phục tài chỉ huy quân sự của Trung tướng Nguyễn Bình. Fredéric Chemit viết trong bài “Nguyễn Bình - dit le Borgne” : Nguyễn Bình - ông Tướng một mắt đã được các sử gia Pháp tặng biệt danh "Lưu Bá Thừa của Việt Nam" - Lưu Bá Thừa là tướng độc nhãn chuyên về chiến tranh du kích của Giải phóng quân Trung Hoa - Nguyễn Bình nhờ sức kiên trì đã thống nhất được các lực lượng du kích và có những lối đánh táo bạo làm đối thủ kinh hoàng".


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 09:12:07 pm

        Nữ tiến sĩ Mỹ Ellen Hammer viết trong cuốn sách của bà nhan đề "The struggle for Indochina 1940 - 1955 (Cuộc chiến đấu giành Đông Dương 1940 - 1955) : Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Bình, các bộ đội kém tổ chức, thiếu súng đạn gặp nhiều khó khăn trở ngại, dần dần trưởng thành trở nên hữu hiệu và đáng sợ. Những ý đồ chia rẽ Việt Nam với sự ra đời của "Nước Nam Kỳ tự trị" vào mùa thu năm 1946 của Pháp đã hoàn toàn thất bại trước sức tấn công của quân du kích dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Bình. Ý đồ thành lập một liên bang Đông Dương của Pháp hoàn toàn thất bại"1.

        Sau khi Nguyễn Bình mất, cả miền Nam hãy còn sống trong vòng kìm chế của địch, nhưng nhân dân nhiều nơi và nhiều đơn vị vũ trang đã làm lễ truy điệu trọng thể tưởng nhớ tới ông. Bạn bè, đồng chí cùng đồng bào nguyện noi gương ông tiếp tục chiến đấu đến hoàn thành sự nghiệp của ông đang còn dang dở.

        Chính phủ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu ông ở Chiến khu Việt Bắc. Để tưởng nhớ công lao của ông, ngày 29 tháng 2 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 84/SL truy tặng Trung tướng Nguyễn Bình Huân chương Quân công hạng nhất. Đặc biệt trong bản sắc lệnh này, Hồ Chủ tịch ghi rõ công trạng của ông như sau :

        Thành tích, công trạng:

        - Hoạt động cách mạng từ năm 16 tuổi.

        - Suốt thời gian trước Tổng khởi nghĩa, tham gia đánh Nhật đuổi Pháp đã có công nhiều trong phong trào tranh đấu và khởi nghĩa ở các tỉnh miền Duyên hải Bắc Bộ.

        - Tổ chức đánh tàu Commandant Bourdais, thu vũ khí, xây dựng bộ đội Chiến khu tư.

        - Tháng 8 năm 1945, được lệnh tổng khởi nghĩa, dẫn bộ đội chiếm Hải Phòng, Kiến An, Đồ Sơn, chống quân Pháp đổ bộ, đánh chiếc tàu chiến và tàu vận tải của địch.

        - Được lệnh vào Nam Bộ, trong khi bộ đội ở đó chỉ còn một số ít đang bị hàng vạn quân giặc bao vây chặt chẽ, đã kiên quyết sáng suốt xây dựng bộ đội lớn mạnh và chỉ huy chiến đấu đánh thắng quân địch nhiều trận lớn trên các chiến trường Nam Bộ.

        - Đã góp phần lớn vào việc chỉnh đốn, xây dựng Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ và củng cố mặt trận dân tộc thống nhất Nam Bộ....

        Hiếm có trường hợp nào mà Bác Hồ ghi rõ công trạng vào quyết định khen thưởng như vậy. Có lẽ vì Nguyễn Bình là người lính đầu tiên được tặng phần thưởng cao quý này.

        Cuộc chiến đấu bảo vệ non sông đất nước của nhân dân ta vẫn đang tiếp diễn. Sau Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, một khí thế mới lan truyền từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới trung du, miền núi, từ miền Bắc tới miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ đã chuyển sang giai đoạn mới, càng ngày càng thu nhiều thắng lợi to lớn, khiến giặc Pháp đã phải nhiều lần thay đổi Tổng chỉ huy vẫn không cứu vãn nổi tình thế bị động, lúng túng trên các chiến trường cả nước. Cuối cùng, gần như toàn bộ sinh lực của chúng bị nhốt chặt trong thung lũng Điện Biên và bị tiêu diệt toàn bộ. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc.

        Còn miền Nam, từ phía bên kia cầu Hiền Lương, nhân dân ta không được một ngày ngơi nghỉ. Thực dân Pháp thua trận thì đế quốc Mỹ nhảy vào, làm cho cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam ngày càng thêm gay go, ác liệt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ở miền Nam quyết vùng lên, sống mái với kẻ thù.

        Máu chảy ruột mềm, nhân dân miền Bắc lại phải tiếp tục thắt lưng buộc bụng "một ngày làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt" và "Tất cả để giải phóng miền Nam".

        Cho mãi đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả nước dồn sức Tổng tiến công, miền Nam mới được hoàn toàn giải phóng, đất nước Việt Nam mới được hoàn toàn thống nhất.

        Từ đó, nhân dân cả nước bắt đầu sự nghiệp hàn gắn vết thương chiến tranh để "xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" theo Di chúc của Bác Hồ. Chính sách hậu phương quân đội cũng từ đó được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm sóc chu đáo hơn.

        Độ lùi thời gian cùng với những tư liệu lịch sử được phát hiện, kiểm định với nhãn quan khoa học, cho phép chúng ta nhìn nhận đầy đủ hơn vai trò, vị trí, công lao của những nhân vật lịch sử - những người đã cùng cả dân tộc ta làm nên lịch sử hào hùng chống ngoại xâm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong những nhân vật lịch sử đó có Trung tướng Nguyễn Bình.

--------------------------
        1. Nguyên Hùng : Trung tướng Nguyễn Bình - nhìn từ  phía địch.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Hai, 2017, 09:13:56 pm

        Mặc dù vào giữa thập kỷ 80 - thế kỷ trước (thế kỷ 20) có một số tài liệu đã viết chưa đúng thân thế, sự nghiệp của Trung tướng Nguyễn Bình, đặc biệt là công lao của ông thời gian hoạt động ở Nam Bộ - cũng như hoạt động của Tự vệ thành Sài Gòn - Chợ Lớn những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhưng sự thật lịch sử vẫn luôn là sự thật. Với Nguyễn Bình, bản tuyên dương công trạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với tấm Huân chương Quân công hạng nhất mà Người dành cho ông năm 1952; đặc biệt tấm Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu cao quý "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" mà Đảng, Nhà nước ta đã phong tặng Trung tướng Nguyễn Bình (Quyết định do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký ngày 18-11-2000) đã nói lên tất cả! Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bình vẫn sống mãi trong tình cảm của đồng chí, đồng bào ta cả trong Nam, ngoài Bắc.

        Các cựu "Nghĩa quân Chiến khu Trần Hưng Đạo" ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... cứ đến ngày 8 tháng 6 hàng năm kỷ niệm ngày thành lập Chiến khu Trần Hưng Đạo vẫn họp mặt và tưởng nhớ tới ông.

        Tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 1 hàng năm được lấy là ngày truyền thống của lực lượng biệt động và chiến sĩ quyết tử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Hội "Chiến sĩ quyết tử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định" đã được thành lập. Hội đã bầu Trung tướng Nguyễn Bình là hội viên danh dự và cử hai ông Hà Ngọc Tiếu (nguyên Trung tướng công an - Thứ trưởng Bộ Nội vụ) và Trịnh Văn Hà (tức Tư Hà - kỹ sư canh nông) thay mặt Hội về xã Giai Phạm,thắp hương tưởng niệm và truy tặng Trung tướng Nguyễn Bình huy chương danh dự của Hội.

        Những người bạn chiến đấu của ông ở Chiến khu Trần Hưng Đạo và các chiến sĩ Ban Công tác Thành Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, hàng năm cứ đến ngày 29 tháng 9 vẫn thường họp mặt làm giỗ tưởng niệm ông.

        Từ năm 1991 đến nay, nhiều nhà văn, nhà báo viết bài ghi nhận những công lao, thành tích của ông, và khẳng định ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bác Hồ tin cậy giao phó. Nhà văn Nguyên Hùng (tác giả Người Bình Xuyên) đã viết thêm cuốn "Nguyễn Bình - Huyền thoại và sự thật" - do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1995. Cụ Hoàng Ngọc Lương (sư Lương - cựu nghĩa quân Chiến khu Trần Hưng Đạo) đã sáng tác một đôi câu đối tặng Trung tướng Nguyễn Bình :

        - Bắc địa khởi nghĩa binh, báo Quốc tận trung, bách chiến dĩ kinh hồn lỗ phách.

        - Nam thiên thu giáo phái, sự Dân chí hiểu, thiên thu do cảm thế nhân tâm.

        Tạm dịch :

        - Đất Bắc lập nghĩa quân, báo Quốc tận trung, trăm trận đánh làm kinh hồn giặc.

        - Trời Nam thu giáo phái, thờ Dân chí hiếu, ngàn năm còn cảm động lòng người.

        Bác Lê Cảnh Toàn - một nhạc sĩ cựu chiến binh đã sáng tác bài hát "Hát về Anh" ca ngợi Trung tướng Nguyễn Bình. Lời của bài hát như sau : "Tôi hát về Anh, người chỉ huy Đệ tứ chiến khu Đông Triều. Vị tướng quân anh minh sống mãi trong lòng dân... Anh Nguyễn Bình ơi ! Còn nhớ mãi năm xưa, tiếng quân reo vang rừng Bác Mã. Chiến công oai hùng đường 18, Uông Bí, Quảng Yên... chiến thuyền cách mạng tiến công Hải Phòng...".

        Và : "Thập nhị sứ quân" xưng hùng khắp nơi. Vâng theo lệnh Bác, Anh vô Nam, một cánh chim bay khắp vùng hảo hán giang hồ. Mặt trời nhân nghĩa xua tan bóng đêm hận thù ly gián. Quân dân một lòng chiến đấu chống quân thù. Anh là niềm tin sắt đá. Anh là bài ca chiến thắng. Anh là dáng đứng Việt Nam!".

        Thị trấn Đông Triều, cái nôi của Chiến khu Trần Hưng Đạo, Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân đã xây dựng nhà bia kỷ niệm chiến khu, xây nhà truyền thống tại khu di tích lịch sử Bác Mã và đặt tượng đồng bán thân ông. Con đường lớn chạy suốt dọc thị trấn được mang tên Nguyễn Bình.

        Thành phố Hải Phòng cũng có một phố mới mang tên Nguyễn Bình. Lấy một đường phố mới đặt tên Nguyễn Bình, Đảng bộ và chính quyền Thành phố Cảng bày tỏ lòng biết ơn và ngưỡng mộ người đã một thời có nhiều đóng góp vào việc giành chính quyền và bảo vệ chính quyền cách mạng trong những ngày đầu trứng nước thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

        Năm 1998, trong dịp Hải Phòng tổ chức cuộc họp mặt kỷ niệm 53 năm ngày thành lập Đệ tứ Chiến khu Trần Hưng Đạo và 90 năm ngày sinh cố Trung tướng Nguyễn Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã điện cho Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng nhờ chuyển một bức điện tới cuộc họp. Bức điện có đoạn viết : "Tôi cũng mong các đồng chí tập hợp được những tư liệu lịch sử về Trung tướng Nguyễn Bình - người đã có cống hiến xứng đáng không những với chiến khu mà về sau này với cuộc kháng chiến Nam Bộ trên cương vị Tư lệnh chiến trường Nam Bộ".

        Tại quê hương ông, Hội Cựu chiến binh đã bầu ông là Hội viên danh dự và đã cùng Đảng bộ và nhân dân xây bia tưởng niệm ông ở một vị trí trang trọng trong nghĩa trang liệt sĩ của xã Giai Phạm. Trung tướng Nguyễn Bình cùng 108 người con ưu tú của địa phương đã ngã xuống vì nền độc lập - tự do của Tổ quốc mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân xã Giai Phạm. Các cụ trong hội người cao tuổi thôn Yên Phú, xã Giai Phạm có hai câu đối tưởng nhớ ông như sau :

        - Hận nô lệ, gươm Phương Thảo vì dân cứu nước.

        - Thù ngoại  xâm, súng Nguyễn Bình diệt giặc trừ gian.

        Và :

        - Khí thiêng Bần Yên Phú hun đúc Anh hùng

        - Chủ tịch Hồ Chí Minh sắc phong Trung tướng.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:26:50 am

*

*       *

        Những ghi chép có được từ những tư liệu tản mạn của cuốn sách này, ngoài việc tiếp cận đầy đủ hơn thân thế, sự nghiệp của Trung tướng Nguyễn Bình, còn là sự bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với Đảng và Nhà nước, Bác Hồ dành cho Trung tướng Nguyễn Bình danh hiệu, phần thưởng cao quý, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, bày tỏ lòng biết ơn các bạn chiến đấu, đồng chí, đồng đội của Trung tướng Nguyễn Bình ở cả hai miền Nam - Bắc, nhiều năm qua đã thường an ủi, động viên người thân và cùng chia sẻ nỗi băn khoăn chưa tìm được hài cốt của Trung tướng Nguyễn Bình để đón ông về an nghỉ nơi đất mẹ cho được trọn nghĩa vẹn tình. Nỗi băn khoăn đó đầu năm 2000 đã được giải quyết.

        Ngày 24 tháng 2 năm 2000, theo quyết định số 53/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có sự đồng ý của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Quân đội vương quốc Campuchia, một đoàn công tác đặc biệt gồm 14 người đã sang Campuchia tìm phần mộ Trung tướng Nguyễn Bình. Được sự giúp đỡ tận tình của bộ đội và nhân dân bạn, đặc biệt là nhân dân phum Kpal Rô Mia, nơi đã chôn cất và gìn giữ ngôi mộ suốt 49 năm trời, đoàn công tác đặc biệt đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp và đã rước hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình về nước.

        Ngày 11 tháng 3 năm 2000, tại thành phố mang tên Bác, trong bầu không khí trang nghiêm, trọng thể, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 7 cùng gia đình đã tổ chức lễ truy điệu và an táng hài cốt liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình - người chiến sĩ cách mạng ưu tú, vị tướng tài ba của quân đội ta. Lời điếu Trung tướng Nguyên Bình do Thượng tướng Phạm Văn Trà - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đọc tại buổi lễ truy điệu đã một lần nữa khẳng định : "Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là một tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam học tập noi theo. Công lao và tên tuổi của đồng chí mãi mãi sáng ngời trên Đài Tổ quốc ghi công...", "Toàn thể tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên trong toàn quân xin kính cẩn nghiêng mình, dâng hương với lòng thành kính, biết ơn vô hạn tiễn đưa đồng chí liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình về cõi vĩnh hằng yên nghỉ ngàn thu trên đất mẹ. Đất nước mà cả cuộc đời đồng chí đã nguyện chiến đấu hy sinh".


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:31:01 am
       
PHỤ LỤC

BÚT TÍCH CUỐI CÙNG CỦA TRUNG TƯỚNG NGUYỄN BÌNH TRONG BỨC THƯ GỬI ÔNG LÂM THÁI HÒA1

        (Bài của Hồ Sơn Đài đăng trên báo Quân đội nhân dân ngày 22-12-1996).

        Theo lời chỉ dẫn nhiệt tình của ông Sáu Nghĩa biết khá kỹ ông Lâm Thái Hòa, tới đến được địa chỉ cần tìm, một ngôi nhà cấp bốn nhỏ, ẩn mình trong khu vườn hẹp, cây cối xanh tốt.

        Ông Lâm Thái Hòa đã rất yếu, nằm liệt trên giường, người gầy đét, chỉ có gương mặt là còn lưu giữ những nét thư sinh hào hoa pha chút cương nghị của một cán bộ quân sự thời trai trẻ. Giọng ông nhỏ, run và phập phều rất khó nghe. Phải qua sự phiên dịch bổ sung, giải thích thêm của người bạn đời của ông, cụ bà Nguyễn Thị Trung, tôi mới ghi chép được đôi nét về tiểu sử của ông và hoàn cảnh ông nhận được bức thư của Trung tướng Nguyễn Bình :

        - Tôi sinh năm 1918 tại Sài Gòn, quê ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, Tây Ninh. Ba tôi là bác sĩ, quốc tịch Tây. Tôi cũng do đó tự nhiên thành dân Tây, tên đầy đủ là Victor Lâm Thái Hòa. Nói rõ điều này có liên quan đến bức thư của Trung tướng. Tháng 8 năm 1945, tham gia cướp chính quyền ở Tây Ninh. Ngày 23 tháng 9 vào bộ đội, làm chỉ huy trưởng Cộng hòa vệ binh tỉnh Tây Ninh, rồi tìm về Chiến khu Thuận Lợi làm Ủy viên quân sự, cùng với các ông Võ Bá Nhạc, Phan Khôi. Tại đây tôi gặp ông Nguyễn Bình rồi theo ông về Chiến khu Lạc An, làm chỉ huy trưởng căn cứ. Cũng tại đây tôi cùng với các ông Đặng Ngọc Tốt, Phạm Thiều, Huỳnh Văn Nghệ, Lê Đình Chi trong phái đoàn của ta đàm phán với Pháp bàn việc thực hiện Hiệp ước Sơ bộ 6-3 tại miếu Bà Cô Thiện Tân - một địa điểm nằm bên bờ sông Đồng Nai. Cuộc đàm phán không có kết quả. Tây ruồng bố Chiến khu Lạc An, Tổng hành dinh Khu 7 chuyển về An Phú Xã, Vườn Thơm, Cần Dè, rồi Đồng Tháp Mười. Từ đó tôi liên tục giữ các chức vụ Thanh tra mặt trận Ba Ranh, Buôn Mê Thuột, Trưởng phòng Tác chiến Khu 7, Trưởng phòng quân huấn Khu 7, Giám đốc Trường Võ bị Khu 7, Trưởng ban tham mưu Trung đoàn 397, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Phó hiệu trưởng Trường Pháo binh Nam Bộ, chỉ huy trưởng pháo binh Nam Bộ.

        - Chú nhận được thư của Trung tướng Nguyễn Bình trong hoàn cảnh nào?

        - Như trên đã nói, tôi là dân Tây. Dường như vì thế chăng mà một số người ở cấp trên thiếu tin tưởng tôi. Lại do tình hình Bà Rịa trong thời gian tôi ở Trung đoàn 397 rất phức tạp. Nội bộ thiếu đoàn kết. Các Chi đội Bình Xuyên do Bảy Viễn chi phối bắn giết người không gớm tay. Tôi buồn chán mà viết thư gửi Trung tướng Nguyễn Bình tỏ ý muốn ra khỏi quân đội. Và tôi nhận được bức thư trả lời của Trung tướng vào khoảng giữa năm 1951, khi đang ở Trường Pháo binh tại An Khánh, Chiến khu U Minh. Có lẽ đó là một trong những bức thư cuối cùng Trung tướng Nguyễn Bình viết trước khi ra Việt Bắc.

        - Lời lẽ trong bức thư cho thấy Trung tướng Nguyễn Bình là một vị chỉ huy giàu tình cảm, nhân hậu. Chú nhận xét về ông Nguyễn Bình thế nào?

        - Thư của Trung tướng Nguyễn Bình làm cho tôi rất cảm động và yên tâm ở lại tiếp tục phục vụ quân đội. Đến năm 1961 tôi mới chuyển ngành. Ông rất tốt với tôi, sống chân tình.

        Bà Trung tiếp lời :

        - Ông Bình là người trung thực, tình cảm, chăm lo rất chu tất đến gia đình chúng tôi, tôi và các cháu nhỏ.

        Ông bà Lâm Thái Hòa cho tôi mượn bức thư, bản chính được bảo quản hết sức cẩn thận từ năm 1950 đến nay như một thứ gia bảo, và đồng ý cho tôi được công bố bức thư lên báo. Tôi không muốn nói gì thêm về bức thư, chỉ xin được gửi nguyên văn đến bạn đọc, để bạn đọc và cả tôi cùng hiểu thêm một khía cạnh về nhân vật lịch sử này.

-----------------------
        1. Ông Lâm Thái Hòa là cán bộ quân đội nghỉ hưu, hiện ở nhà số 32/1 khu phố 4, phường 3, thị xã Tây Ninh.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:33:30 am

        Nguyên văn bức thư :

        Đồng chí Lâm Thái Hoà !

        Gửi đến một tập hình bữa trước chụp trong khi đi thăm bộ đội pháo binh để tặng đồng chí làm kỷ niệm.

        Về đến nhà, đã đọc thơ của đồng chí, tôi cũng nhận rằng lần thứ nhất trong 5 năm kháng chiến tôi mới đọc bức thư dài như vậy của đồng chí, một cán bộ quân sự. Bởi sự cảm động trước mọi biến cố xảy ra, bở nhìn lại dĩ vãng và lo ngại cho tương lai. Ngoảnh lại những bạn kháng chiến buổi đầu tiên, ngày long đong nhất không còn ai. Kẻ đền xong nợ nước, kẻ vì quá lao lực đã nằm trên giường bệnh, hay thụt về hậu phương. Và biết bao nhiêu anh hùng vô danh không tên tuổi là những thành đồng cốt sắt đã giữ vững và gây dựng quân đội ngày nay và củng cố bàn tay cứng rắn và đức hy sinh vô bờ bến của những chiến sĩ vô danh đó, nên đã quay trở cuộc kháng chiến ở Nam Bộ cơ hồ tan rã hoang mang trở thành hùng hậu, vững chắc với tầm vông vót nhọn, chống cự với súng đồng. Từ một nông dân nghèo, thanh niên vô học, một tên phu cao su bị bóc lột trở thành những chiến sĩ ngang nhiên đánh lại quân đội viễn chinh do Đại tướng có danh tiếng nhất nước Pháp chỉ huy Lơ-cléc, thêm quân đội Anh, Nhật, Đức, Mỹ phù trợ. Từ những nhóm công nhân, nông dân lẻ tẻ ở mỗi địa phương miền Đông Khu 7, từ một góc rừng Lạc An, Tân Uyên đã là rường cột trụ sở của Nam Bộ kháng chiến, của chiến trường Nam Bộ, nơi mà toàn dân Nam Bộ có lòng ái quốc. Trong khu độc lập cũng như vùng tạm chiếm, già trẻ gái trai ngưỡng vào góc rừng Lạc An bất hủ đó, giữ vững được tinh thần của toàn dân, nuôi được hoài bão kháng chiến nhất định thắng lợi của nhân dân, của cán bộ, của chiến sĩ lúc bấy giờ. Cũng vẫn là Chiến khu Lạc An, làm cho giặc Pháp hoang mang, Việt gian lo sợ. Và làm cho đồng bào Nam Bộ tín nhiệm Chính phủ Trung ương, trong lúc giặc Pháp chia rẽ Bắc - Nam. Cũng vẫn là góc rừng Lạc An bất hủ, rút tỉa kinh nghiệm chiến đấu của chiến trường Nam Bộ một năm trước toàn quốc kháng chiến, để đối phó với chiến lược chiến thuật của Pháp. Trung ương đã chuẩn bị đầy đủ và kịp thời cũng vẫn có thể nói nhờ cuộc dẻo dai, bền bỉ gan góc của chiến sĩ Nam Bộ nói trên, dù họ có nhiều sai lầm sơ hở và kỹ thuật chiến đấu non nớt đi nữa.

        Những trận tấn công Biên Hòa, bố trí rút lui được an toàn của Chiến khu Thuận Lợi, chống lại cuộc tấn công cả thủy lục không quân trên Tân Uyên, Lạc An, thành lập đội cảm tử chiến đấu lưu động miền Đông, trả tất cả bộ đội súng ống chia về các địa phương trừ gian diệt tề lúc bấy giờ cũng vẫn là chủ trương của chúng ta ở Chiến khu Lạc An không bị nhãn quan hẹp hòi và thiếu cương quyết.

        Đem một phần lực lượng xuống Khu 8, bộ đội Ba Dương chốt tại Bến Tre và Chi đội 16 đồng chí Trần Văn Trà chịu trách nhiệm đem phái cán bộ lên Cao Miên để bật lại phong trào cách mạng trên đó, mục đích phá cơ sở dự trữ nhân lực, vật lực của Pháp, cũng đều là sáng kiến và chủ trương của Lạc An. Như vậy đâu phải là thiển cận, đâu phải chỉ máy móc, chỉ biết chấp hành những huấn lịnh, chỉ thị cấp trên thôi? Vì hệ thống đã đứt từ lâu với Trung ương, nhưng ngày nay vạch ra là sai, thì cái sai đó chỉ vì sự kém cỏi của chúng ta. Nhưng có thể tự hào ta sai ít hơn, mà chúng ta đã đi đúng đường lối của Trung ương do tự động chúng ta rất nhiều. Nói rằng chúng ta thi hành thuần túy quân sự thì thật không đúng, không đến nỗi vô chính trị hay thiếu chính trị :

        a) Làm cho toàn dân căm hờn giặc Pháp.

        b) Làm cho dân phân biệt bộ đội nào là bộ đội của Chính phủ, bộ đội nào là thổ phỉ phá hoại như Đệ tam, Đệ tứ và HT.29.

        c) Đã làm cho dân chúng từ lúc sợ hãi bộ đội đến ủng hộ thân thiết với bộ đội, từ chỗ phá hết bụi cây ở lề đường cho bộ đội không có chỗ núp ngủ đêm hay quét sạch vết chân khi bộ đội đi qua, và ném hết nồi niêu bát đĩa xuống giếng để khỏi phải cho quân đội mượn,... đến chỗ triệt để ủng hộ bộ đội mỗi khi đi qua hay đóng quân lại.

        d) Từ chỗ lôi kéo được nhân sĩ trí thức ở khu độc lập cũng như vùng tạm chiếm sau thời gian bị hoang mang vì bị khủng bố. Từ chỗ lôi kéo được anh em Bình Xuyên và phần lớn Đệ tam sư đoàn tham gia kháng chiến.

        đ) Khi cần thiết thì chủ trương cho thành lập Mặt trận quốc gia, đến khi thấy có hại cho cách mạng kháng chiến thì thẳng tay trừng trị và giải tán. Như vậy không thể nói là vô chính trị, là đơn thuần quân sự.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Hai, 2017, 12:34:58 am

        Ai đã chỉ huy Mặt trận Tân Uyên, mặt trận bao quanh Thuận Lợi và mặt trận bao vây Lạc An, thành trì của kháng chiến Nam Bộ năm 1945 và 1946 ? Tôi thiết tưởng đồng chí khỏi phải ân hận. Lịch sử sẽ biết cho bạn, quân thù kẻ địch của chúng ta cũng phải thừa nhận trên báo chí và sách vở hiện nay cũng như sau này.

        Vui lên, hăng hái lên, dù ai muốn vượt mặt bạn cũng vậy. Biết bao nhiêu người đã vượt qua và còn vượt, họ hơn ta, họ tiến bộ, họ vượt hơn ta là điều rất nên mừng cho tiền đồ quốc gia và xã hội. Ta chỉ mong những cán bộ, những thanh niên vượt bực đó. Nhưng bạn cũng đừng phiền, đừng tủi đối với những kẻ tài không hơn, đức không hơn mà họ vẫn vượt, vượt với một cách ngạo nghễ, có như vậy chúng ta, bạn cũng đừng nên phiền vì họ là bọn xu thời, không nhìn trước ngó sau, không tìm hiểu mỗi vấn đề gì nó cũng có căn nguyên cội rễ của nó. Chiến trường Nam Bộ có được như ngày nay là do bởi đâu mà có, để họ kiêu ngạo khi vượt qua mặt bạn? Tìm khuyết điểm để sửa chữa, nêu ưu điểm kinh nghiệm để bổ sung, đó là trọng tâm của cán bộ, đó là tiến bộ cần thiết. Còn những người tài hèn đức kém, kinh nghiệm không nhiều, chiến công không có, nhại được mớ lý luận suông rồi bất cứ chỗ nào cũng lên mặt dạy đời, cũng như thơ đồng chí nói họ qua mặt, họ có cấp bậc cao thì đồng chí cũng nên mỉm cười và đừng phiền hà oán trách gì họ.

        ...Tôi không đồng ý và chấp thuận cho đồng chí xin ra khỏi bộ đội, xin ra hoạt động ở hậu phương đâu, khi nhìn thấy năng lực của đồng chí vẫn còn cần thiết và giúp đỡ cho quân đội.

        Còn nói về cần được học hành được tiến bộ thì ai ai cũng được đi học tất cả thì cuộc kháng chiến không lẽ ngừng lại để sau thời gian đồng chí được học về sẽ tiếp tục sao? Không đúng, có người thì có thể cho đi học nhưng có người thì phải có mặt trong đơn vị, trong chức vụ nhưng vẫn cố gắng học, học trong công tác tại thực tiễn hàng ngày, để công cuộc kháng chiến không ngừng. Cán bộ được đi học rồi họ sẽ về thay thế chúng ta, tre già măng mọc, không có gì là lạ. Chỉ đáng trách những người không chịu học hỏi tự cho thế là là đủ, tự mãn với cấp bậc, với chức vụ của mình rồi.

        Tôi cũng như đồng chí, chúng ta sẽ nhất định không làm ông tổng tư lệnh trong cuốn kịch tiền tuyến, và sẵn sàng rút lui để khỏi là viên gạch cản ngăn sự tiến bộ của cán bộ. Nhưng khi kháng chiến còn cần đến ta, ta còn hữu ích cho kháng chiến, cho cách mạng đến chừng mực nào, đến giai đoạn nào thì ta không được phép từ chối và trốn nhiệm vụ đó. Đồng chí không được định cấp bậc rõ ràng đi chăng nữa, nhưng những công tác đã qua, những trận đồng chí chỉ huy, cũng như đồng chí đã huấn luyện đã đào tạo không ít những cán bộ cấp đại đội tiểu đoàn ở các lớp quân chính và chuyên môn như pháo binh để sử dụng thì có nhiều cán bộ cao hơn vẫn cần phải học hỏi đồng chí. Như vậy đồng chí cũng thấy là cần thiết và cũng nên tự hào vui vẻ. Còn như cả gia đình đã hy sinh, cả gia đình đã tham gia kháng chiến, đó là một danh dự rất lớn của gia đình đồng chí và là một kho tàng quý giá của lũ trẻ con. Con cháu đồng chí được hưởng sau này.

        Những bản tánh thiên nhiên của mình miễn là không có hại cho kháng chiến cho cách mạng tại sao ta phải vất bỏ đi, phải giả dối, phải đối phó?

        Cũng như tôi, người ta phiền hà tôi sống trên tình cảm. Tôi không chối cãi và không bỏ, vì tình cảm mà tôi giữ nó vẫn thấy có lợi cho cách mạng, lợi cho kháng chiến chớ không thấy có hại. Bao nhiêu cán bộ bất mãn trở thành cán bộ trung kiên nhờ có sự tình cảm và nâng đỡ thì tại sao lại vất bỏ nó đi. Đó là một ví dụ để đồng chí thấy đức tính hồn nhiên của mình vô hại thì đừng nên miễn cưỡng bỏ nó. Rồi lại phàn nàn hối tiếc việc mình đã làm.

        Thôi thơ thế cũng đã quá dài, hơn nữa máy bay đang quần trên đầu nên tôi bắt buộc phải dừng bút. Hẹn khi về đến địa điểm mới có điều gì hay và cần thiết sẽ biên thơ cho đồng chí rõ.

        Chúc đồng chí ở lại vui vẻ và tiến bộ, gởi lời kính thăm hai bác và hôn các cháu bé.


Thân ái             
NGUYỄN BÌNH       
15-12-1950           


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:57:16 pm
     
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN BÌNH TRONG SUY NGHĨ TÌNH CẢM CỦA LUẬT SƯ NGUYỄN THÀNH VĨNH

        Trích "Thư gửi Nguyên Hùng" của Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh

        "...Tiếp xúc với anh Nguyễn Bình trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, lúc Nam Bộ còn phải đương đầu với nhiều thử thách gay go, ác liệt, lại thiếu kinh nghiệm, nhiều phen Anh đã thổ lộ tâm tình với tôi. Từ giọng nói, từ gương mặt đăm chiêu lo âu, tôi khẳng định anh Nguyễn Bình là một nhà yêu nước, yêu dân tộc chân chính. Qua hoạt động của Anh, tôi đi đến nhận định anh Nguyễn Bình là nhà quân sự có năng lực, có nhãn quan thấy xa trông rộng.

        Anh không ngần ngại bộc lộ với tôi là có giai đoạn Anh ở trong đội ngũ của Việt Nam Quốc dân đảng khi đi tìm con đường cứu nước. Tiếp xúc được với một số đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam tại Côn Đảo, anh đã được giác ngộ nên đã khước từ lập trường của Việt Nam Quốc dân đảng. Anh đã phải trả giá khá đắt bằng việc mất đi con mắt phía trái. Đó là một chứng lý khách quan.

        Qua thành tích xây dựng khu quân sự Đông Triều, anh được Bác Hồ giao trọng trách củng cố lực lượng vũ trang Nam Bộ. Anh nghiêm túc chấp hành chỉ thị của Bác và của Trung ương.

        Anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1947. Đó là một chứng cứ khách quan khác.

        Kết thúc bức thư này với niềm tin vào lòng trung thành của anh Nguyễn Bình đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi muốn cung cấp thêm một chứng cứ. Trong bức thư gửi cho tôi khi anh Nguyễn Bình rời Nam Bộ về Bắc (thư mà tôi còn giữ làm kỷ niệm) anh viết câu : "Chúc bạn đầy sức khỏe và mạnh tiến trên con đường giải phóng dân tộc và nhân loại khỏi ách tham tàn bóc lột của tư bản đế quốc...".

        Bức thư từ biệt cũng là bức thư vĩnh biệt nói rõ với tôi lập trường tư tưởng của Anh là lập trường của Đảng Cộng sản Việt Nam.

        Tiếng gọi của anh Nguyễn Bình sắp đi vào cuộc vĩnh hằng đáng được ghi nhớ.

       Ngày 6 tháng 4 năm 1991
Luật sư NGUYỄN THÀNH VĨNH        


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:58:26 pm

NHỚ VỀ ANH NGUYỄN BÌNH

        Đến Nam Bộ Trong lúc phong trào đang tan rã, tình trạng "Thập nhị sứ quân", nhiều cán bộ lãnh đạo, chỉ huy bỏ vị trí, thì Nguyễn Bình xuất hiện như một vị tướng của tình thế với cương vị là phái viên của Trung ương và Bác Hồ. Và với bản lĩnh riêng của mình Nguyễn Bình đã thề trong Hội nghị An Phú Xã rằng sẽ chết sống với nhân dân Nam Bộ; quyết không chạy. Nếu không hoàn thành nhiệm vụ thì với khẩu súng mà nhân dân Thành phố Tô Hiệu (Hải Phòng) đã tặng mình, Anh sẽ tự xử. Lời thề đó có sức thuyết phục ghê gớm những người dự cuộc họp và lan truyền ra xa. Các đơn vị xin đổi thành GIẢI PHÓNG QUÂN ngay ngày hôm sau.

        Còn với nhân dân, trong tình hình đen tối hồi đó, Anh là người có công lớn, có thể như một vị cứu tinh. Các bà mẹ Nam Bộ gọi Anh bằng "Thằng Khu trưởng", "Thằng Trung tướng" coi Anh như là người thân, vừa kính trọng vừa thương yêu. Có thể nói Anh là vị Tướng của nhân dân, được dân thương, dân tin. Phong cách của Anh rất gần gũi dân.

        Ở Nam Bộ, uy danh của Anh lớn lắm, đặc biệt ở miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhân dân Nam Bộ vân luôn nhớ đến Anh; người ta vẫn nhắc đến Anh, làm giỗ Anh hằng năm với lòng tôn trọng đặc biệt. Cách đây khoảng sáu - bảy năm, Tướng Tô Ký đứng ra tổ chức đám giỗ cố Trung tướng Nguyễn Bình tại nhà anh Hai Nhã (Thiếu tướng Lương Văn Nho - Phó Tư lệnh Khu 7). Bạn cùng thời với Nguyễn Bình đến rất đông, chật cả hội trường, nhiều người phải đứng ở hàng hiên. Hôm đó, anh Tô Ký ra tận cổng đón từng người một. Gặp tôi, anh Tô Ký nói : Hôm nay chúng ta làm giỗ anh Ba Bình để đưa Anh vào quân sử. Mọi người đều đến trước bàn thờ bày biện trang trọng đốt hương viếng hương hồn cố Trung tướng Nguyễn Bình - Tư lệnh đầu tiên của Khu 7.

        Thành phần mời rộng rãi, nhiều người được tin làm giỗ anh Ba Bình, tuy không nhận được giấy mời cũng tự động đến. Phát biểu tại lễ giỗ hôm đó có anh Tô Ký khai mạc, anh Trần Văn Trà, bác sĩ Trần Nam Hưng, bác sĩ Võ Cương và tôi. Về phần mình, tôi có phân tích đại ý : Cái anh hùng của Nam Bộ gặp cái dũng cảm của Nguyễn Bình nên nó quyện vào nhau một cách tự nhiên ngay từ ngày đầu anh Bình vào Nam.

        Anh Trần Văn Trà nói đại ý : "Mỗi giai đoạn lịch sử có con người của nó. Thời kỳ đầu, thời kỳ "Thập nhị sứ quân" nếu không có Nguyễn Bình, khó có người làm nổi. Với tư cách là phái viên Trung ương và phái viên của Bác Hồ, cộng với bản lĩnh riêng của mình, Nguyễn Bình đã giải quyết được nhiều vấn đề lớn đặt ra hồi đầu kháng chiến".

        Hai tháng trước khi đồng chí Nguyễn Văn Linh qua đời (độ tháng 2-1998) tôi có gặp để trao đổi với đồng chí ý kiến của tôi nghiên cứu về Sài Gòn những năm đầu chống Pháp (1946 - 1947). Tôi tổng quát lại là Sài Gòn trong những năm đó : "Nội thành thì lỏng lẻo, ngoại thành thì tự do. Căn cứ địa Sài Gòn là huyện Bình Chánh". Anh có ý kiến ngay : "Đúng, đúng quá. Anh nên viết lại, anh em bây giờ họ không hiểu được...".

        Viết về Sài Gòn 300 năm, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng đã nêu : "Hộ 17 là lãnh địa của Cụ Hồ hồi đó".

        Kết thúc buổi làm việc, đồng chí dặn tôi : "Anh biết nhiều về anh Bình, anh nên viết về anh Bình, đừng để lịch sử bị xuyên tạc".

        Ý kiến của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp cuối cùng với tôi trước khi đồng chí qua đời là một lời khuyên trang trọng. Và theo yêu cầu của anh Nguyễn Thế Trường - cháu gọi anh Bình là chú ruột, tôi ghi lại những điều mà tôi đã biết về anh Bình như trên để đông đảo bạn đọc và con cháu anh Bình biết thêm về Anh những ngày Anh hoạt động ở Nam Bộ với tư cách là phái viên của Bác Hồ và Trung ương.

        Tôi cũng mong muốn góp một phần hiểu biết của tôi với những người có trách nhiệm viết sử về nhân vật lịch sử Nguyễn Bình những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

Đại tá NGUYỄN XUÂN DIỆU       

        Nguyên Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn những năm 1946 - 1947, Chỉ huy trưởng các Ban công tác Thành - Tự vệ Thành và Ban Thông tin (Quân báo) Sài Gòn - Chợ Lớn.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 01:59:42 pm
         
ĐI TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ TRUNG TƯỚNG NGUYỄN BÌNH

        (Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 8-2-2000)

        Ngày 29 tháng 9 năm 1951 trên đường hành quân từ Nam Bộ về Trung ương, Trung tướng Nguyễn Bình, người chỉ huy thân yêu của các lực lượng vũ trang Khu 7 và Nam Bộ đã hy sinh tại một làng nhỏ bên bờ sông Srê Pốc thuộc tỉnh Stung Treng của đất nước Campuchia anh em. Trong một bài báo với nhan đề "Mấy suy nghĩ nhân 45 năm ngày hy sinh của Trung tướng Nguyễn Bình" của Phùng Đình Cung đăng trên báo Sài Gòn giải phóng, số ra ngày thứ bảy 28 tháng 9 năm 1996, có đoạn viết :

        "Sự hy sinh của Trung tướng Nguyễn Bình là một tổn thất lớn đối với Đảng, Quân đội và nhân dân ta nói chung, với lực lượng vũ trang và nhân dân Sài Gòn - Gia Định, nhân dân Nam Bộ nói riêng1 và là nỗi đau thương lớn đối với gia đình, đồng chí, đồng đội. Đồng chí Nguyễn Bình vĩnh biệt chúng ta nhưng tên tuổi và sự cống hiến vì sự nghiệp cách mạng và nền độc lập của đất nước của đồng chí vẫn sống mãi trong lòng chúng ta... Bốn mươi lăm năm trôi qua, việc tìm kiếm hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình chưa thực hiện được. Cán bộ, chiến sĩ trong đoàn bảo vệ đồng chí trên đường hành quân là những nhân chứng sống đối với trường hợp địa điểm, và ngày giờ vị tướng của mình hy sinh, hiện còn sống ở Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có Thiếu tướng Nguyễn Văn Sĩ - Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh thành phố. Nếu có sự tổ chức của Bộ Quốc phòng với biện pháp tích cực nhất, chúng ta hy vọng có thể thực hiện trọn nghĩa vẹn tình đối với người đã khuất...".

        Sau bốn năm, đến nay tình hình và điều kiện cho phép, việc tổ chức đoàn công tác đặc biệt đi tìm hài cốt cố Trung tướng Nguyễn Bình được tiến hành, khẩn trương thực hiện theo Quyết định số 53/QĐ-QP đề ngày 21  tháng 1 năm 2000 của Bộ Quốc phòng ta. Qua con đường đối ngoại, được Bộ Quốc phòng và Tổng Tư lệnh quân đội Vương quốc Campuchia thỏa thuận, chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho đoàn công tác đặc biệt của ta vào Vương quốc Campuchia để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng đối với người liệt sĩ, theo đúng thủ tục, nguyên tắc quan hệ giữa hai nước.

        Đoàn công tác đặc biệt gồm 14 ngươi do đại tá Đỗ Minh Nguyệt làm trưởng đoàn, thượng tá Hồ Ngọc Vận, cán bộ của Cục Chính sách làm trợ lý và 8 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị không quân và Phòng Chính sách Quân khu 7. Giúp cho đoàn còn có 3 cán bộ đã nghỉ hưu nhưng rất nhiệt tình đó là đại tá Trần Bá Hào - nguyên Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu, người đã từng chiến đấu bên cạnh Trung tướng Nguyễn Bình, có công đi tìm gặp nhân chứng, thu thập cứ liệu từ nhiều nguồn tin cậy, tác nghiệp lên bản đồ để xác định phạm vi và địa bàn đoàn sẽ triển khai việc tìm kiếm. Đồng chí Lư Ngọc Quế - cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam tại đông bắc Campuchia, đã từng có lần tiếp cận với ngôi mộ cách đây 49 năm về trước. Thiếu tướng Phùng Đình Ấm (Ba Cung), người tháng 9 năm 1951 nhận nhiệm vụ cấp trên giao từ căn cứ Ban cán sự đông bắc Campuchia đi đón đoàn của cố Trung tướng Nguyễn Bình từ Nam Bộ ra để về Trung ương, tuy không gặp được nhưng đã nghe và hiểu tường tận sự việc dẫn đến sự hy sinh của vị Trung tướng mình hằng mến mộ, và biết tiếng nói, phong tục giúp đoàn trong việc tiếp xúc với địa phương và người cuối cùng là ông Nguyễn Thế Trường - cháu ruột của Trung tướng Nguyễn Bình.

        Lúc 17 giờ 30 ngày 24 tháng 2 năm 2000, đoàn công tác đặc biệt đến sân bay Pô Chen Tông, Vương quốc Campuchia theo giấy phép số 036LD.GOF8/00. Ở đây đoàn được ngài Thiếu tướng Mắt Chia La - Phó Tham mưu trưởng Lục quân Hoàng gia Campuchia đón tiếp nồng hậu. Ngài Thiếu tướng cho biết vì lòng mến mộ cố Trung tướng Nguyễn Bình, vị chỉ huy tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia đã cử ngài trực tiếp cùng đi với đoàn suốt cuộc tìm kiếm đặc biệt này và đã ra lệnh cho Quân khu 1 hết lòng giúp đỡ đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Một nghĩa cử tốt đẹp đầy cảm động của Quân đội Hoàng gia dành cho đoàn ngay từ giờ phút đầu tiên bước chân đến đất nước Chùa Tháp đã động viên đoàn rất nhiều.

-------------------------
        1. Trung tướng Nguyễn Bình là Tư lệnh đầu tiên của Quân khu 7 và Tư lệnh đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ từ tháng 10 năm 1948.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 02:05:04 pm

        Lúc 10 giờ 30 ngày 25 tháng 2 năm 2000 tại sân bay Stung Treng, Thiếu tướng Khăm Chanh - Phó Tư lệnh Quân khu 1 trực tiếp đón đoàn. Qua câu chuyện trao đổi trên đường từ sân bay về Sở chỉ huy Quân khu, ngài Thiếu tướng cho đoàn biết là phạm vi địa bàn đoàn chấm tọa độ sẽ tìm mộ đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình hiện nay thuộc xã Srê Pốc, huyện Sê San cách Stung Treng khoảng 60km đường chim bay. Từ Stung Treng đến đó đi đường thủy bằng ca nô hoặc đi đường bộ bằng xe hơi đều được. Nhưng đường thủy mùa khô phải qua nhiều lèn đá khó khăn, đường bộ dễ đi hơn nhưng đường xấu, nhiều ổ gà, ổ voi, thậm chí có chỗ còn lầy khá vất vả. Ở đó có 3 phum (thôn) : Kpal Rô Mia (tức là thôn đầu con tê giác), thôn Pré Phơ Ết (tức thôn Phật dựa) và thôn Rom Pé thường gọi là thôn Lếch (tức thôn phía Tây), nhân dân hầu hết là người Mơ Nông, có vài gia đình người Khơ Me gốc Lào. Trong những năm Pôn Pốt cầm quyền, nhân dân ở đây đấu tranh quyết liệt nên chúng không lùa đi nơi khác được, chúng chỉ gom ba thôn lại làm một. Đến nay Kpal Rô Mia vẫn là trung tâm của xã, nhưng rải rác một số gia đình lần lượt trở về thôn làng cũ. Xã Srê Pốc là chỗ dựa của Tiểu đoàn 421, Trung đoàn 42 Quân đội Hoàng gia trực thuộc quân khu, ta có thể dựa vào dân làng để hoàn thành nhiệm vụ. Được nghe ý kiến của ngài Thiếu tướng Phó Tư lệnh Quân khu 1, cả đoàn đều vui mừng và cảm thấy dường như ánh sáng đã lấp lánh phía sau con đường hầm của cuộc tìm kiếm. Dựa vào dân nhất định tìm được, lòng tin ấy được khẳng định trong mỗi thành viên của đoàn.

        Ở Quân khu 1, đoàn được Trung tướng Thao Cung - Tư lệnh Quân khu cùng các cơ quan đón tiếp, chăm sóc rất nhiệt tình. Từ chỗ ăn ở, phương tiện đi lại rất chu đáo như những người thân trong gia đình. Buổi làm việc đầu tiên tại Sở chỉ huy Quân khu đó Trung tướng Tư lệnh chủ trì, có ngài Thiếu tướng Phó tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Lục quân Hoàng gia, ngài Thiếu tướng Phó Tư lệnh và các vị đại tá chủ chốt các cơ quan xung quanh Quân khu, ngài Trung tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 cùng tham dự. Sau khi nghe ý kiến của đoàn đề nghị và thảo luận qua lại. Trung tướng Tư lệnh Thao Cung kết luận :

        - Cố Trung tướng Nguyễn Bình hy sinh đến nay đã 49 năm cô đơn giữa núi rừng. Quân khu 1 sẽ không từ một khó khăn nào để giúp đỡ đoàn tìm kiếm và đón cố Trung tướng trở về với Tổ quốc, với gia đình. Nhưng 49 năm là một thời gian dài, ngót nửa thế kỷ trôi qua, địa hình biết bao thay đổi. Tọa độ bản đồ giúp ta cái hướng, nhưng rừng núi mênh mông ta khó độc lập tìm kiếm được. Do đó Quân khu rất đồng ý kế hoạch "một chậm" của đoàn Việt Nam, ta phải dựa vào dân địa phương, tìm cho được các vị bô lão tại chỗ, chúng ta có nhiều hy vọng thành công.

        Vị Trung tướng 46 tuổi nói với lòng đầy tin tưởng và vẻ mặt mãn nguyện. Thay mặt Bộ Tư lệnh Quân khu, ngài phân công Thiếu tướng Phó Tư lệnh Khăm Chanh chịu trách nhiệm tổ chức và cùng đi giúp đoàn Việt Nam cho đến lúc hoàn thành nhiệm vụ. Lệnh cho các cơ quan xung quanh Quân khu tùy theo chức năng bảo đảm mọi mặt cho đoàn Việt Nam, từ dụng cụ nhà bếp, bát đũa, võng mùng cho đến lương thực, thực phẩm xe cộ phục vụ đủ chuyến hành quân dã chiến của đoàn. Lệnh cho Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Tiểu đoàn 421 bảo đảm tuyệt đối an toàn và giúp đoàn mời các vị bô lão trong vùng đóng quân ngay trong buổi chiều hôm sau khi đoàn đến Srê Pốc.

        Đồng chí Đại tá Trưởng đoàn thay mặt đoàn cảm ơn sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của Quân khu 1 và tỏ lòng tin tưởng thành công ở chuyến đi đặc biệt này. Bất ngờ, ngài Thiếu tướng Phó Tham mưu trưởng Lục quân Hoàng gia đứng dậy, chắp hai tay giơ lên trời nói với đoàn Việt Nam : "Tối nay, tôi sẽ vái thần Tê Vê Đa của đất nước Campuchia phù hộ cho đoàn Việt Nam tìm thấy mộ của ngài Trung tướng Nguyễn Bình, tôi tin nhất định thắng lợi !". Lòng tin của các vị tướng lĩnh Campuchia tăng thêm lòng tin tưởng của đoàn chúng ta. Nhưng cái đêm 25 tháng 2 năm 2000 ấy quả là một đêm khó ngủ, ai nấy đều rạo rực, bồn chồn như thời chiến đấu sắp vào trận đánh.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:18:06 pm

        Sáng ngày 26 tháng 2 năm 2000, mọi việc chuẩn bị đã chu tất. Hai xe vận tải đưa đoàn, cả Việt Nam, Campuchia từ Sở chỉ huy Quân khu 1 vượt đoạn đường gần 3 tiếng đồng hồ đến sở chỉ huy dã chiến của Tiểu đoàn 421 tại bắc đầu cầu Srê Pốc. Xe vừa dừng bánh, Thiếu tướng Phó Tư lệnh Quân khu Khăm Chanh giao nhiệm vụ cho vị đại úy Tiểu đoàn trưởng 421 cấp tốc đến làng Kpal Rô Mia, mời chủ tịch xã, chủ tịch thôn và các vị bô lão đến họp mặt tại sở chỉ huy dã chiến của tiểu đoàn. Xe đi rồi, cả bạn và ta ai nấy đều nóng lòng chờ đợi. Đoạn đường từ đây đến làng Kpal Rô Mia chỉ 13 km mà xe đi đã ngót 5 tiếng đồng hồ chưa thấy về. Thiếu tướng Phó Tham mưu trưởng Lục quân nói : "Mình trông họ như trẻ trông mẹ về chợ", không riêng gì Thiếu tướng mà tâm trạng tất cả mọi người đều vậy cả. Rồi việc phải đến đã đến. Có tiếng xe hơi từ đầu cầu chạy về đậu trước Chỉ huy sở Tiểu đoàn 421. Từ trên xe vị tiểu đoàn trưởng chạy ùa xuống, vẻ mặt hớn hở, vừa chạy vừa la : "OK ! Tốt lắm, đã gặp được người mà vừa khiêng, vừa chôn Trung tướng!". Cả đoàn ồ lên và nhảy cẫng sung sướng vô ngần. Ông Nguyễn Thế Trường cháu ruột đồng chí Nguyễn Bình không cầm được nước mắt.

        Lúc bấy giờ, người Tiểu đoàn trưởng như sực nhớ ra, chạy đến chiếc xe dắt hai vị bô lão vào gặp hai vị Thiếu tướng và đoàn Việt Nam. Một vị bô lão, mái tóc quăn đã ngả màu bàng bạc và hai vành tai căng rộng của người Mơ Nông, chắp hai tay chào các vị khách và tự giới thiệu :

        - Tôi tên là Nhoi Sarô, chủ tịch làng Kpal Rô Mia, còn người này là Rom Chưm, phó chủ tịch thứ 3 của xã Srê Pốc, nhưng cũng là người cùng làng.

        Qua sự gợi ý của đoàn, ông già lần lượt kể câu chuyện dài của 49 năm về trước, cái năm Trung tướng Nguyễn Bình đến đầu làng, ông mới vừa 24 tuổi và là đội trưởng dân quân. Ông bảo: "Bộ đội Việt Nam đến ở trong làng tôi hai đêm. Không biết người chỉ huy tên gì, cấp gì, theo thói quen đồng bào chúng tôi gọi là. "Lục Thum" (tức Ông Lớn). Tôi cho "Lục" biết ở đây bọn "Commando" gác cầu thỉnh thoảng vào làng bắt heo, gà, "Lục" ở phải đề phòng. Không ngờ tai họa đến với "Lục", bất thình lình bọn chúng đến làng, phát hiện "Lục" ở ngoài chòi ruộng, chúng đã nổ súng và "Lục" đã bị đạn hy sinh. Hôm đó tôi đưa đường cho ông Vàng và 15 bộ đội Việt Nam đi liên lạc ở làng Sray Cô, đón anh em Việt Nam ở sông Sê Kông đến, khi trở về thì sự việc đã xảy ra, tôi vô cùng đau đớn, tiếc thương "Lục". Lập tức tôi, Rom Chưm và một người làng nữa cùng với bộ đội Việt Nam khiêng vác "Lục" đi khoảng 6km, dùng thuyền độc mộc vượt sang bờ nam Srê Pốc. Tội nghiệp "Lục Thum" người cao to như Tây, hỏng con mắt trái, có 3 - 4 cái răng vàng, đã chết lúc còn trẻ lắm. Để chôn cất tôi phải đốt đuốc bằng tre nứa để soi sáng cho bộ đội Việt Nam đào hố thật rộng, sâu đến ngực, khi chôn xong thì trời đã một giờ sáng. Lúc đó còn mùa mưa, nước sông dâng cao, nghe bộ đội Việt Nam nói là tháng 9 của năm 1951. Sau đó bộ đội Việt Nam rút về phía nam. Chừng ba ngày, ông Vàng cùng anh em trở lại đắp nấm mộ thật cao; không biết đã lấy xác đi chưa? Nếu chưa thì xác còn đấy. Ngôi mộ nằm gần con đường lên xuống bến, nên hàng ngày bà con đi qua, đi lại thấy ngôi mộ vẫn còn nguyên, năm nào đồng bào cũng phát dọn cây cối xung quanh không cho chúng mọc lấp thành rừng".

        Ông cụ nói một thôi dài, mọi việc đều sáng tỏ. Cả bầu trời, cây cối, sông núi như cùng vui với đoàn. Thiếu tướng Phó Tư lệnh điện báo về đại bản doanh Quân khu 1 là theo kế hoạch đã đạt yêu cầu 80 phần trăm. Cả Sở chỉ huy và Trung tướng Tư lệnh Quân khu reo mừng.

        Đêm 26 tháng 2 năm 2000, hai vị bô lão cùng ăn và ngủ lại với đoàn. Trừ hai ông lão, các thành viên trong đoàn không ai chợp mắt được. Không phải vì ở ngoài trời dã chiến, gió núi từng cơn ào ào thổi và sương rừng khuya giá lạnh mà vì quá vui, công việc tìm kiếm sắp hoàn thành. Cả đoàn không ngờ rằng kết quả quá tốt đẹp như vậy, càng thấm thía "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Nếu không có dân, ba ngày luồn rừng mà tìm thấy được mộ theo tọa độ bản đồ thì... không ai dám nghĩ kết quả sẽ ra sao?

        Sáng 27 tháng 2 năm 2000, đoàn đi ngang qua làng Kpal Rô Mia, nhân dân chạy ùa ra đón như đón người thân. Ai cũng bảo "Tìm cái mộ ông "Lục" đó dễ lắm!".

        Ngôi mộ của Trung tướng Nguyễn Bình tọa lạc trên mảnh đất cách nam bờ sông Srê Pốc chừng 70 - 80 mét. Nấm mồ hãy còn cao, đúng như lời ông cụ nói, xung quanh mộ không có cây cối nào xâm lấn, chỉ lơ thơ vài cây nhỏ độ ngón tay.

        Khi đào sâu cách mặt đất độ hơn một mét thì hài cốt đồng chí Trung tướng bộc lộ. Mặc dù đã 49 năm qua nhưng hài cốt vẫn còn nguyên vẹn, kể cả con mắt giả phía bên trái và bốn chiếc răng vàng. Tay nâng hài cốt đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình, các thành viên trong đoàn công tác đặc biệt xúc động, vui mừng cực độ, nhiệm vụ đã hoàn thành trước thời gian hạn định. Đoàn đã rước hài cốt đồng chí Nguyễn Bình về đến sân bay Tân Sơn Nhất lúc 15 giờ 30 ngày 29 tháng 2 năm 2000 trước sự đón tiếp trang nghiêm của Bộ Tư lệnh Quân khu 7, có thể nói là sự thành công tuyệt vời.

        Thắng lợi này trước hết là nhờ có sự quan tâm của Bộ Quốc phòng hai nước, sự giúp đỡ tận tình của Tổng Tư lệnh và Bộ Tư lệnh Lục quân, Bộ Tư lệnh Quân khu 1, Quân đội Hoàng gia Campuchia và đặc biệt nhân dân phum Kpal Rô Mia đã chôn cất và giữ gìn ngôi mộ suốt 49 năm trời. Nhờ đó,Trung tướng Nguyễn Bình đã về với Tổ quốc, với gia đình và ấm tình đồng đội. Và qua chuyến đi tìm hài cốt Trung tướng liệt sĩ Nguyễn Bình đã góp phần vun đắp thêm tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam - Campuchia.

TP. Hồ Chí Minh ngày 29-2-2000                           
Thiếu tướng PHÙNG ĐÌNH ẤM                             
(Thành viên của đoàn công tác tìm hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình)


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:20:41 pm

LỜI ĐIẾU TRUNG TƯỚNG NGUYỄN BÌNH

        (Thượng tướng Phạm Văn Trà - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đọc tại lễ truy điệu Trung tướng Nguyễn Bình ngày 11-3-2000)

        Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng - Nhà nước - Quân đội !

        Thưa toàn thể các đồng chí, các bạn và gia đình đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình!

        Hôm nay trong bầu không khí trang nghiêm, trọng thể, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 7 cùng gia đình tổ chức lễ truy điệu và an táng hài cốt liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình, người chiến sĩ cách mạng ưu tú, vị tướng tài ba của Quân đội.

        Thưa các đồng chí và các bạn !

        Thưa gia đình đồng chí Nguyễn Bình!

        Đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình, tức Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1908 tại xã Tịnh Tiến (nay là xã Giai Phạm) huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nguyên Chỉ huy Chiến khu Đông Triều, nguyên Khu trưởng Khu 7, Tư lệnh Nam Bộ, Ủy viên Xứ Quân ủy, Ủy viên Quân sự trong Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ.

        Sống dưới ách thống trị hà khắc của thực dân Pháp, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, từ năm 16 tuổi, người thanh niên Nguyễn Phương Thảo đã tham gia các phong trào cách mạng, cứu nước. Năm 1925, đấu tranh bãi khóa ở Trường kỹ nghệ Hải Phòng. Năm 1926, lãnh đạo học sinh làm lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh để phản đối chế độ thực dân Pháp tại Dư Hàng Kênh - Hải Phòng. Năm 1927, bị bọn thực dân truy lùng đồng chí đã trốn vào Sài Gòn. Năm 1928, vừa tròn 20 tuổi, Nguyễn Phương Thảo gia nhập Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, khi Quốc dân đảng còn là một Đảng tiến bộ hoạt động chống Pháp xâm lược. Năm 1929, bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Trong lao tù đế quốc, được những người Cộng sản giác ngộ, đồng chí đã kiên quyết từ bỏ đường lối Quốc dân đảng. Chính sự kiện này - sự thay đổi về quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị - đồng chí đã bị những người tù Quốc dân đảng trả thù móc mất một con mắt. Mặc dù chưa là đảng viên nhưng đồng chí luôn đấu tranh kiên cường, bất khuất chống mọi sự đàn áp dã man của nhà tù, tự nguyện đi theo đường lối của Đảng Cộng sản. Năm 1935 ra tù, đồng chí hoạt động trong Phong trào Bình dân và bị bắt ở Thái Nguyên. Năm 1938, hoạt động ở Hưng Yên, đồng chí lại bị địch bắt. Năm 1942 ra tù, được đồng chí Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) phái lên Lai Châu hoạt động sưu tầm nhiên liệu để chế lựu đạn. Từ năm 1943, đồng chí được Trung ương giao phụ trách binh vận và mua sắm vũ khí cho cách mạng ở Hà Nội, Hải Phòng.

        Trong điều kiện chồng chất khó khăn, từ những ngày đầu khởi nghĩa vũ trang, đồng chí Nguyễn Bình với trí thông minh và lòng quả cảm đã chủ động trực tiếp chỉ huy chiến dấu lập công xuất sắc : Tháng 3 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí đã chỉ huy đánh chiếm đồn Bần Yên Nhân ngay trên đường số 5, thuộc tỉnh Hưng Yên. Tháng 5 năm 1945, đồng chí đã binh vận thành công, lấy được trọng liên trên tàu chiến địch ở Thượng Lý - Hải Phòng. Tháng 6 năm 1945, trong cuộc khởi nghĩa vũ trang thành lập Đệ tứ chiến khu, đồng chí đã chỉ huy hạ đồn Đông Triều, diệt đồn Bí Chợ, đánh chiếm Uông Bí. Tháng 7 năm 1945, đồng chí đã tổ chức tiến công giải phóng thị xã Quảng Yên, là tỉnh lỵ duy nhất ở miền Bắc được giải phóng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ Chiến khu Đông Triều, đồng chí đã chỉ huy các lực lượng vũ trang cách mạng phối hợp với nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức giành chính quyền ở thành phố Hải Phòng, Kiến An và Hải Dương. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí được Trung ương giao làm Khu trưởng Khu Duyên hải Bắc Bộ (nay thuộc Quân khu 3). Đồng chí đã có công lao to lớn trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ ở vùng duyên hải Bắc Bộ.

        Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, gây hấn Ở Nam Bộ, tình hình ở Nam Bộ hết sức phức tạp. Trước một tình thế bất lợi, một bên là quân xâm lược thiện chiến được trang bị vũ khí đầy đủ, một bên là các lực lượng kháng chiến còn trứng nước lại bị xé nhỏ, phân tán, tháng 10 năm 1945, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp động viên, giao nhiệm vụ vào Nam Bộ, ban đầu với trọng trách là phái viên của Trung ương, của Cụ Hồ và sau đó giữ chức Khu trưởng Khu 7. Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1946. Năm 1947, đồng chí là Ủy viên Quân khu ủy Quân khu 7. Năm 1948 được Trung ương bổ nhiệm làm Tư lệnh Nam Bộ. Đồng chí là Ủy viên Xứ Quân ủy. Tháng 1 năm 1948 đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong hàm cấp Trung tướng. Đồng chí là một trong những tướng lĩnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:21:12 pm

        Trên cương vị Khu trưởng Khu 7 rồi Tư lệnh Nam Bộ, với uy tín và tài trí của mình, đồng chí đã cùng Khu ủy và Xứ ủy Nam Bộ có những quyết định đúng đắn, giải quyết được những vấn để rất cơ bản. Ngày 22 tháng 11 năm 1945, đồng chí đã triệu tập Hội nghị Quân sự Nam Bộ tại An Phú Xã nhằm thống nhất các lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với chủ trương tập trung xây dựng lực lượng chủ lực làm nòng cốt, đồng chí đã chú trọng lãnh đạo, phát động chiến tranh du kích ở Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Nam Bộ. Sau khi Sài Gòn bị địch chiếm đóng, một mặt vừa chỉ đạo tác chiến đánh địch ở vòng ngoài, mặt khác đồng chí đã chỉ đạo đưa chiến tranh du kích vào lòng địch. Các Ban công tác Thành được thành lập và đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Nhiều lần đồng chí đã dũng cảm táo bạo một mình vào tận hang ổ sào huyệt địch để thị sát nắm địch, chỉ đạo tác chiến. Đồng chí là một trong những cán bộ có công lao to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của quân, dân miền Đông Nam Bộ và Nam Bộ từ những ngày đầu tiên đầy gian nan, thử thách. Đồng chí đã có những đóng góp lớn vào việc chỉnh đốn xây dựng chính quyền và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất Nam Bộ.

        Năm 1951, trên đường ra Bắc báo cáo Trung ương, đồng chí đã bị địch phục kích và đã hy sinh ngày 29 tháng 9 năm 1951 tại phum Kpal Rô Mia, xã Srê Pốc, huyện Sê San, tỉnh Stung Treng, Campuchia. Gần nửa thế kỷ qua, phần mộ của đồng chí đã được nhân dân và lực lượng cách mạng ở Campuchia gìn giữ.

        Từ những buổi đầu tham gia cách mạng đến lúc hy sinh, trước sự tra tấn giam cầm trong lao tù thực dân đế quốc hay trên các chiến trường nóng bỏng quyết liệt, đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình luôn luôn giữ trọn danh hiệu cao quý của người Cộng sản, trung thành với sự nghiệp cách mạng, một lòng một dạ chiến đấu vì Tổ quốc vì nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Với đồng bào và đồng đội, đồng chí là người sống có nghĩa có tình, trung thực, thẳng thắn, luôn luôn nghiêm khắc, quyết đoán trọng xử lý mọi tình huống. Đồng chí luôn luôn tôn trọng nhân tài, đã cảm hóa, động viên các nhân sĩ, trí thức yêu nước phát huy tài năng phục vụ cách mạng.

        Đồng chí Nguyễn Bình là một người Cộng sản kiên trung, một tướng lĩnh quả cảm, nghĩa hiệp, giàu đức hy sinh, lòng dũng cảm và tài thao lược. Đồng chí đã có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp giải phóng Dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tên tuổi Nguyễn Bình luôn luôn gắn liền với Chiến khu Đông Triều, Chiến khu Duyên hải Bắc Bộ, với Sài Gòn - Chợ Lớn, Đông Nam Bộ và Nam Bộ. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là một tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam học tập noi theo. Công lao và tên tuổi của đồng chí mãi mãi sáng ngời trên Đài Tổ quốc ghi công.

        Do những công lao đối với sự nghiệp giải phóng Dân tộc, đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đồng chí là người đầu tiên của Quân đội ta được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất. Và đặc biệt là, ngày 6 tháng 3 năm 2000, Nhà nước đã có quyết định truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh - Huân chương cao quý của Nhà nước ta cho liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình. Một lần nữa, Đảng và Nhà nước đánh giá xứng đáng công lao to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng...

        Sau gần nửa thế kỷ yên nghỉ trên đất bạn, do hoàn cảnh lịch sử, cho đến hôm nay và được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng sự giúp đỡ của Chính phủ Vương quốc Campuchia, chúng ta đã tìm, đưa được hài cốt đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình về nước. Nhân đây, thay mặt cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và thay mặt gia đình Trung tướng Nguyễn Bình, chúng ta xin chân thành cảm ơn nhân dân Campuchia anh em đã gìn giữ phần mộ trong suốt mấy chục năm qua, cám ơn Chính phủ và Bộ Quốc phòng Vương quốc Campuchia đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho đoàn công tác Việt Nam tìm kiếm và cất bốc hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình về nước.

        Toàn thể tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên trong toàn quân xin kính cẩn nghiêng mình dâng hương với lòng thành kính, biết ơn vô hạn tiễn đưa đồng chí liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình về cõi vĩnh hằng, yên nghỉ ngàn thu trên đất Mẹ. Đất nước mà cả cuộc đời đồng chí đã nguyện chiến đấu hy sinh.

        Trong giờ phút thiêng liêng này, chúng ta xin nguyện trước hương hồn đồng chí :

        Ra sức xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng. Cùng toàn Đảng, toàn dân đưa sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đến thắng lợi, thực hiện bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

        Thưa gia quyến Trung tướng Nguyễn Bình !

        Trong buổi lễ trang nghiêm này, chúng tôi mong chị và gia đình đoàn kết một lòng, tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, sống xứng đáng với lý tưởng, hoài bão cao quý của Trung tướng Nguyễn Bình để tiếp tục góp phần vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

        Thưa các đồng chí và các bạn!

        Để tỏ lòng thương tiếc và tưởng nhớ đồng chí liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, tôi đề nghị các đồng chí và các bạn để một phút mặc niệm...!


Tiêu đề: Re: Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:21:58 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO

        1. Bộ Tư lệnh Quân khu 3: Chiến khu Trần Hưng Đạo - Nxb Quân dội nhân dân, 1993.

        2. Câu lạc bộ truyền thống vũ trang TP. Hồ Chí Minh : Lược sử chiến sĩ quyết tử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

        3. Câu lạc bộ truyền thống vũ trang TP. Hồ Chí Minh : Tự vệ thành Sài Gòn - Chợ Lớn.

        4. Sống mãi với Đô thành.

        5. Mùa thu rồi... ngày 23 - Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia.

        6. Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 6-1991.

        7. Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2- 1998.

        8. Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5-2001.

        9. Ngọc An : Trung tướng Nguyễn Bình.

        10. Dương Chính : Hoạt động của cơ quan Việt Minh CQ88.

        11. Nguyễn Xuân Diệu : Trung tướng Nguyễn Bình những năm đầu kháng chiến chống thực dân Phápở Nam Bộ.

        12. Nguyên Hùng : Người Bình xuyên.

        13. Nguyên Hùng : Nguyễn Bình - Huyền thoại và sự thật.

        14. Hoàng Thiếu Minh : Từ CQ88 đến Chiến khu Trần Hưng Đạo.

        15. Hùng Phong : Cơ quan mặt trận Việt Minh ở Hải Phòng.

        16. Hùng Phong : Nguyễn Bình với nhiệm vụ tìm vũ khí cho Xứ ủy.

        17. Lê Phú : Trận đánh diệt trại huấn luyện Thanh niên Bí Chợ.

        18. Bùi Sinh : Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình. Nxb Quân đội nhân dân, 1998.

        19. Trung Thu : Trung tướng đầu tiên vào Nam Bộ.

        20. Mạnh Việt : Nguyễn Bình - Độc nhãn tướng quân.

        21. Đinh Thu Xuân : Bác Hồ giao nhiệm vụ cho Trung tướng Nguyễn Bình.

HẾT