Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 04:44:34 am



Tiêu đề: Tướng lĩnh QĐND Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 04:44:34 am
        - Tên sách: Tướng lĩnh QĐND Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh
        - Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân.
        - Năm xuất bản: 2007
        - Số hoá: linhdo

        Chỉ đạo nội dung:

        - Đại tá Phạm Quang Định;
        - Đại tá Phạm Bá Toàn;
        - Đại tá Nguyễn Đức Hùng.

        Tổ chức thực hiện:

        - Đại tá Kiều Bách Tuấn;
        - Trung uý Bùi Thu Hương.


(https://scontent.fhan4-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/95135834_644355239627693_4127398562831007744_n.jpg?_nc_cat=105&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=zfjyWM9GWecAX-tkrgO&_nc_ht=scontent.fhan4-1.fna&oh=8c9a99731cce6b517f06c7d5b93cff8b&oe=5ED1D8AD)



LỜI NÓI ĐẦU

        Dân tộc Việt Nam trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng ác liệt và hào hùng, bao thế hệ " lớp cha trước, lớp con sau" đã tiếp bước nahu lên đường đánh giặc. Và trong những cuộc đối đầu không cân sức đó, hàng triệu triệu người con đất Việt đã hiến dâng xương máu, sức lực, của cải cho một Việt nam độc lập - tự do hôm nay. Thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là kết quả tất yếu của những nhân tố đã tạo thành sức mạnh thần kỳ của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới, đó là sự kết tinh sức mạnh truyền thống yêu nước, bất khuất của cha ông để lại trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, là sự lãnh đạo tài giỏi của Đảng và Bác Hồ với đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quân sự tiên tiến trên thế giới.

        Từ thực tiễn chiến trường đã tôi luyện nên nhiều tướng lĩnh Quân đội tài ba thao lược, thông minh, sáng suốt, biết đánh bằng mưu kế-thắng thế thời, tài năng và đức độ của họ có sức quy tụ sức mạnh vĩ đại của quân và dân ta. Đó là những vị tướng dù là đảm nhận nhiệm vụ nơi trận tiền mà tên tuổi đã gắn với những chiến trường nóng bỏng như Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ rồi Khe Sanh, Trị Thiên, Tây Nguyên, Đường 9 Nam Lào, miền Đông Nam Bộ...hay những vị tướng tham mưu, chính trị, hậu cần- kỹ thuật lão luyện... tất cả họ, với vai trò cá nhân trong lịch sử đã đóng góp trí tuệ, công sức cùng bao đồng chí, đồng bào viết nên những khúc khải hoà ca vang dội non sông, tô thắm thêm bao trang sử vàng oanh liệt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:01:29 am
         
1. ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN QUYẾT (NGUYỄN TIẾN VĂN)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/Nguyen%20Quyet_zpsxrhgfg76.jpg)


        - Đại tướng Nguyễn Quyết sinh năm 1922, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1987-1991), năm 1992 là Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước.

        Quê quán: xã Chính Nghĩa, huyện Kim Đông, tỉnh Hưng Yên. Đồng chí tham gia cách mạng từ năm 1939, nhập ngũ tháng 8 năm 1945, được phong hàm Đại tướng năm 1990, là đảng viên Đảng CSVN từ năm 1940. Năm 1942 là uỷ viên Ban cán sự Đảng tỉnh Hưng Yên. Năm 1943 đến 1945 là uỷ viên Ban cán sự Đảng, uỷ viên chính trị Uỷ ban quân sự Hà Nội, chính trị viên Chi đội 2  Vệ quốc quân.

        Trong kháng chiến chống Pháp:

        Năm 1946 là Chính trị viên Chi đội 1 (chi đội chủ lực của Uỷ ban kháng chiến miền Nam); Trưởng phòng chính trị, Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Đại đoàn 31.

        Năm 1947 đến 1952 là Chính uỷ Mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, uỷ viên quân sự trong Uỷ ban kháng chiến liên tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng; Chính uỷ các trung đoàn: 108 và 803.

        Năm 1953 đến 1955 là chủ nhiệm chính trị liên khu 5; Phó chhính uỷ, Chính uỷ Đại đoàn 305.

        Trong kháng chiến chống Mỹ:

        Năm 1955 đến 1963 là quyền chính uỷ, Chính uỷ Quân khu Tả Ngạn.

        Năm 1964 đến 1968 là Phó chính uỷ, Chính uỷ Quân khu 3; Chính uỷ Quân khu Tả Ngạn; Phó chính uỷ Quân khu Trị-Thiên, kiêm Chính uỷ Mặt trận B8 (Quân khu Trị-Thiên).

        Năm 1969 đến 1976 là Chính uỷ: Quân khu Tả Ngạn, Học viện Quân sự, Quân khu 3.

        Năm 1977 đến 1980 là chính uỷ, kiêm Tư lệnh Quân khu 3.

        Năm 1981 đến 1986 là Tư lệnh, Bí thư Đảng uỷ Quân khu 3.

        Tháng 4 năm 1986 đến 1987 là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

        Năm 1987 đến 1991 là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Uỷ viên Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương.

        Năm 1992 là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Đồng chí là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN từ khoá IV đến khoá VI ( Uỷ viên Ban Bí thư khoá VI). Là Đại biểu Quốc hôi các khoá IV, VII, VIII; được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Quân Công hạng nhất, Huân chương chiến công hạng nhất, Huân chương chiến thắng hạng nhất.

        Trong gần trọn cuộc đời hoạt động cách mạng, trải qua nhiều cương vị, nhiều nhiệm vụ, nhiều địa phương, dù phải trải qua nhiều gian khổ hy sinh, đồng chí Nguyễn Quyết luân phấn đầu cùng đơn vị, địa phương làm tròn nhiệm vụ Đảng giao cho. Cũng trải qua 55 năm hoạt động, qua khởi nghĩa, chiến tranh cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Quyết luôn đúc rút được những bài họ quý báu và phong phú từ thực tiễn, trong đó có những năm tháng trên chiến trường Liên khu 5.

        Khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù ta đã có chính quyền, có quân đội nhưng tất cả đều còn non trẻ, gặp muôn vàn khó khăn. Đảng ta chủ trương xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng ba thứ quân, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tự lực cánh sinh kháng chiến lâu dài để giành thắng lợi quyết định.

        Kiên định và sáng tạo trên nguyên tắc đường lối chủ trương của Đảng, đồng chí đã cùng Đảng bộ, chính quyền và quân dân Liên khu 5 tập trung xây dựng lực lượng chủ lực, lực lượng vũ trang mạnh ngay từ đầu, quyết tâm thắng địch, giữ vững vùng tự do rộng lớn làm căn cứ và hậu phương vững chắc không những cho bản thân chiến trường Liên khu 5 mà cả các chiến trường Nam Đông Dương; thực hiện lấy súng địch đánh địch, sản xuất để tự túc, giải quyết hậu cần tại chỗ đảm bảo chiến đấu lâu dài; tập trung vào trọng điểm, bước đầu thực hiện ba chức năng của quân đôi, xây dựng chủ lực mạnh để tự giải quyết chiến trường góp phần quan trọng với chiến trường toàn quốc.

        Riêng ở Quảng Nam-Đà Nẵng, chiến trường chính của Liên khu 5, nơi đồng chí Nguyễn Quyết trực tiếp phụ trách từ 1964-1950, mặc dù địch có ưu thế hơn ta về lực lượng và binh khí kỹ thuật nhưng ta đã thắng ngay từ thời kỳ địch tiến công ồ ạt, giữ vững vùng tự do, phá tan âm mưu đánh chiếm đến vĩ tuyến 16, chia cắt chiến trường Nam Đông Dương với chiến trường chính Bắc Bộ. Suốt chín năm kháng chiến, Quảng Nam-Đà Nẵng là nơi có phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích mạnh. Điều đó đã tạo điều kiện cho chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng vừa tác chiến, vừa trưởng thành, vừa tác chiến vừa xây dựng lực lượng góp phần xứng đáng cả về lực lượng, kinh nghiệm xây dựng, chiến đấu với chiến trường Liên khu 5.

        Những điều tâm đắc nhất, sâu sắc nhất của đồng chí Nguyễn Quyết trong những ngày tháng ở chiến trường Liên khu 5 là cơ sở vững chắc xuyên suốt con đường cách mạng mà đồng chí đã chọn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:04:58 am

NHỮNG NĂM THÁNG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP Ở "KHU NĂM DẰNG DẶC KHÚC RUỘT MIỀN TRUNG" TỪ 11/1945 ĐẾN 1/1955

        Cách mạng tháng Tám thành công, nước ta trở thành một nước độc lập. Đó là thắng lợi rất vĩ đại, một kỳ tịch trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam, đồng thời mở ra cho cao trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa của thế kỷ XX. Chính quyền cách mạng non trẻ của nhân dân đứng ra đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Nhưng Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định " đây chỉ là thắng lợi buốc đầu". Với âm mưu và tham vọng của bè lũ đế quốc, trực tiếp là đế quốc Pháp, Đảng và nhân dân ta còn phải tiếp tục chiến đấu gay go và phức tạp để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

        Đúng như Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, ngày 23 tháng 9 năm 1945, được quân Anh và tàn quân Nhật tiếp sức, thực dân Pháp mở cuộc tiến công Sài Gòn, tiến hành cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau chưa đầy một tháng giành được chính quyền từ tay phát xít Nhật, nhân dân Sài Gòn lại buộc phải cầm súng chống kẻ thù xâm lược.

        Khác với thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần này, tuy giữa muôn vàn khó khăn, chính quyền cách mạng còn non trẻ, nền kinh tế kiệt quệ, lực lượng vũ trang còn quá nhỏ bé, nhưng chúng ta có thuận lợi rất cơ bản là đã có chính quyền, có lực lượng toàn dân đoàn kết, làm chủ đất nước, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được. Đảng ta đã có kinh nghiệm trong lãnh đạo Cách mạng tháng Tam, từ tay không giành lấy chính quyền, thấy được âm mưu, thủ đoạn của địch, dự kiến đường lối và những điều kiện cơ bản cho cuộc kháng chiến để páht huy thế mạnh tuyệt đối về tinh thần, kiên quyết bảo vệ nên độc lập, tự do của đất nươc vừa giành được.

        Thường vụ Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh hạ quyết tâm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, kêu gọi nhân dân cả nước chi viện sức người, sức của, đưa những đội quân tinh nhuệ, cử nhiều cán bộ ưu tú tăng cường cho miền Nam, đồng thời tranh thủ xây dựng, củng cố lực lượng về mọi mặt để chuẩn bị kháng chiến.

        Mặc dù đời sống nhân dân miền Bắc gặp vô vàn khó khăn trong những ngày đầu mới giành được độc lập, song hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng về Nam Bộ, đồng bào miền Bắc đã dấy lên một phong trào chi viện sức người, sức của hết sức sôi nổi, mạnh mẽ.

        Phát huy khí thế hừng hực của những ngày khởi nghĩa, lớp lớp thanh niên miền Bắc trong đó có thành niên Hà Nội hăm hở tình nguyện lên đường vào Nam sát cánh cùng đồng bào Nam Bộ chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

        Những ngày đó ở Hà Nội cũng như các địa phương khác, sục sôi một không khí hào hùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Những đoàn quân Nam tiến rầm rập lên đường vào Nam chiến đấu trở thành hình ảnh của " cả nước ra trận", " Nam-Bắc một nhà". Danh sách những người tình nguyện vào lực lượng vũ trang và đội quân Nam tiến vượt xa yêu cầu của trên đề ra, gồm đủ thành phần, tấng lớp, tồn giáo, dân tộc. Rất nhiều thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, bao gồm các tầng lớp công nhân, nông dân, thợ thủ công, sinh viên, học sinh, trí thức, công chức, kiều bào vừa về nước và cả một số nhà tu hành cũng ghi tên tình nguyện. Tất cả đều quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

        Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ kinh nghiệm trong xây dựng và tổ chức chỉ huy lực lượng vũ trang trước và trong khởi nghĩa, Thường vụ Trung ương và Xứ uỷ phân công tôi tiếp tục phụ trách quân sự ở Hà Nội, đồng thời về các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, hà Nam, Nam Định, Ninh Bình tổ chức xây dựng lực lượng chủ lực ở các địa phương ấy. Lúc đầu, tôi phụ trách cả quân sự và chính trị, đến cuối tháng 9 năm 1945, anh Vương Thừa Vũ được Trung ương điều về phụ trách quân sự, tôi làm chính trị viên.

        Cuối tháng 11 năm 1945, sau khỉ tổ chức chấn chỉnh lực lượng tự vệ và củng cố năm tiểu đoàn chủ lực ở Hà Nội và hai chi đội ở các tỉnh nói trên, với nhiệt tình tuổi trẻ, tôi đề nghị Trung ương được vào Nam chiến đấu. Nguyện vọng đó được cấp trên chấp nhận và giao cho tôi nhiệm vụ về Ninh Bình tổ chức một Chi đội mới chuẩn bị Nam tiến. Chi đội mang tên Chi đội 1, gồm một tiểu đoàn giải phóng quân từ Chiến khu Việt Bắc về, một bộ phận của Chi đội Hà Nam Ninh và một bộ phận của Chi đội Hải Phòng-Quảng Yên được Bộ Quốc Phòng điều lên.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:06:31 am

        Không khí nô nức lên đường vào Nam chiến đấu tràn ngập khắp nông thôn, thành phố. Đầu tháng 12 năm 1945, Chi đội đã lên đường (Chi đội do anh Thịnh làm Chi đội trưởng, tôi làm Chính trị viên). Khác với Chi đội đi trước, chỉ đi người không, còn vũ khí phải chuyên chở bằng đường biển, lần này, do Chính phủ ta khéo léo thương thượng với bọn Tưởng nên Chi đội 1 được mang theo một số lượng đáng kể vũ khí.

        Chi đội xuất phát từ ga Ghềnh (Ninh Bình). Qua các ga đều có nhân dân đứng vẫy cháo tiễn đưa với băng cờ, khẩu hiệu hoan nghênh nhiệt liệt. Ở các ga lớn, tàu dừng lâu hơn, có đại diện quân-dân-chính-đảng địa phương ra đón tiếp. Đặc biệt rất đông các mẹ, chị em phụ nữ, các chấu thiếu nhi đến thăm hỏi, tặng quà, tiễn đưa lưu luyến. Anh em ai nấy đều rất xúc động.

        Đơn vị vào đến Quảng Ngãi thì được lệnh dừng lại gặp Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam do đồng chí Nguyễn Sơn làm Chủ tịch để nhận nhiệm vụ. Lúc bấy giờ, quân Pháp đã phá được vòng vây Nha Trang, mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các vùng xung quanh và tiến công lên Tây Nguyên.

        Sau một thời gian được huấn luyện cấp tốc về chính trị, quân sự, Chi đội được chia làm hai bộ phận: Một bộ phận tham gia chiến đấu ở Vạn Giã (bắc Khánh Hoà), một bộ phận lên chiến đấu ở An Khê (Gia Lai).

        Chi đội 1 cũng như các đơn vị Nam tiến khác, tuy lực lượng không lớn, nhưng rất quan trọng, là đội quân chủ lực đi đầu trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến đấu dũng cảm, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, góp sức cùng nhân dân miền Nam chiến đấu làm chậm bước tiến của quân xâm lược Pháp và đã chiến thắng địch ngay từ đầu, thể hiện tinh thầnh cả nước đồng lòng cùng nhau chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, tạo sức mạnh to lớn của đại đoàn kết dân tộc, của sự đoàn kết Bắc-Nam. Nhân dân hết sức tin tưởng, yêu quý và khâm phục bộ đội Nam tiến. Điều đó cũng chứng tỏ Đảng ta đã có chủ trương sáng suốt, quyết tâm cao, huy động lực lượng toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, kịp thời điều động quân chủ lực (các đơn vị Nam tiến) đánh tan cuộc "dạo mát quân sự", làm đảo lộn chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" đến vĩ tuyến 16 của Pháp, giữ vững vùng tự do làm hậu phương lớn, tạo điều kiến cho cacs tỉnh phía sau có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

        Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm theo dõi cuộc chiến đấu của quân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành những tình cảm thắm thiết nhất, luôn để miền Nam trong trái tim mình. Tháng 12 năm 1945, đồng chí Lê Văn Hiến được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm đặc phái viên của Chính phủ vào Nam Trung Bộ để chuyển thư thăm hỏi của Người tới quân dân Man Bộ và Nam Trung Bộ. Trong thư Bác viết:

        " Từ ba tháng nay, các anh chị em đã đem xương máu ra để giữ từng tấc đất của Tổ quốc.

        Tôi và tất cả đồng bào ở Bắc Bộ và phía Bắc Trung Bộ, đã bao nhiêu lần tức giận khi nghe bọn thực dân Pháp đạp lên mảnh đất của ông cha ta, giết hại nòi giống ta...đã bao nhiêu lần hồi hộp, cảm động trước những gương hy sinh vô cùng anh dũng của những người con yêu của Tổ quốc. Do đó, tôi càng tin chắc rằng: với một nước đã có những người con như thế, anh hùng như thế, đã có một khối đoàn kết toàn dân như thế, nước ta nhất định không bị mất một lần nữa.

        Để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta còn phải chiến đấu nhiều. Chỉ có chiến đấu mới vượt qua được trở lực, khó khăn, chỉ có chiến đấu mới đưa lại vẻ vang cho Tổ quốc. Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối toàn dân đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi nhất định thuộc về ta".

        Sự quan tâm, khích lệ, cổ vũ đó của lãnh tụ tối cao của dân tộc là một nguồn lực để quân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ có thêm sức mạnh kiên quyết chiến đáu bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám.

        Ở Nam Trung Bộ, từ giữa năm 1946, sau khi chiếm được một số thị xã, đường giao thông ở các tỉnh cực Nam và Tây Nguyên, địch không thể lấn chiếm được nữa, tuyệt đại đa số vùng nông thôn các tỉnh đồng bằng ven biển và Tây Nguyên vẫn do ta kiểm soát.

        Trong thời gian này, Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam chủ tương tranh thủ củng cố, sắp xếp lại lực lượng, mở trường lớp bồi dưỡng về chính trị, quân sự cho cán bộ, chiến sỹ. Số cán bộ Nam tiến một phần trở về miền Bắc, còn phần lớn ở lại tiếp tục chiến đấu ở các mắt trận Nam Trung Bộ. Tôi là một trong những cán bộ được giữ lại ở Liên khu 5.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:08:16 am

        Theo chủ trương của Trung ương, Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam cải tổ các Chi đội vệ quốc quân và phiên chế lại thành 11 trung đoàn và một tiểu đoàn độc lập; giải thể các chiến khu 5, 6 (đã được thành lập từ tháng 10 năm 1945) và tổ chức thành ba Đại đoàn: Đại đoàn 23, Đại đoàn 27 và Đại đoàn 31.

        Tôi đươc phân công làm chính trị viên Đại đoàn 31 gồm các trung đoàn 68, 69, 93, 96, cơ quan Đại đoàn đóng ở Tam Kỳ (Quảng Nam). Đại đoàn có nhiệm vụ tác chiến ở tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi.

        Nắm được âm mưu địch, để tăng cường sự lãnh đạo của DẢng ở một hướng chiến lược quan trọng, tháng 11 năm 1946, Trung ương Đảng và Chính phủ cử đồng chí Phạm Văn Đồng làm đại diện vào trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Trung Bộ, với nhiệm vụ chính trị hàng đầu là phải kiên cường chặn đánh các cuộc tiến công lớn của địch, giữ vững vùng tự do, góp phần cùng cả nước đánh bại kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh: của thực dân Pháp. Thro chủ trương của Trung ương, giải thể Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và các Đại đoàn, tái lập Khu 5, Khu 6; thành lập Uỷ an Quân sự để chỉ đạo trực tiếp cuộc chiến đấu ở các tỉnh Nam Trung Bộ.

        Tôi được điều về Bộ Tư lệnh Khu 5, tham gia Đảng uỷ quân sự khu. Bộ Tư lệnh Khu 5 phân công tôi làm phái viên ở mắt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, tham gia phân quân khu uỷ. Phân quân khu uỷ có ba người do anh Huỳnh Ngọc Huệ làm bí thu, tôi và anh Đàm Quang Trung là uỷ viên. Vài tháng sau, tôi được cử làm bí thư thay anh Huỳnh Ngọc Huệ đi nhận công tác khác. Từ đó, tôi liên tục gắn bó với chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng cho tới cuối năm 1950.

        Với tham vọng trở lại thống trị nhân dân ta một lần nữa, thực dân Pháp bất chấp thái độ thiện chí của Đảng, Chnhs phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ta càng nhân nhượng, chúng càng lấn tới.

        Không còn con đường nào khác, với tinh thần: " Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", ngày 19 tháng 12 năm 1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

        Mục tiêu trước mắt của quân Pháp vẫn là các thành phố, trọng điểm là thủ đô Hà Nội ở miền Bắc và thành phố Đà Nẵng ở miền Trung.

        Đà Nẵng là hải cảng lơn, là cửa ngõ của miền Trung Tổ quốc. Theo Hiệp định sơ bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946, quân Pháp được đưa vào Đà Nẵng 225 tên thay cho quân Tưởng Giới Thạch. Sau nhiều lần tăng quân trái phép, đến tháng 12 năm 1946, quân Pháp ở Đà Nẵng đã lên tới gần bảy ngàn tên, với những vũ khí và trang bị chiến tranh hiện đại như xe tăng, xe bọc thép, pháo bình và nhiều vũ khí bộ binh tối tân.

        Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Phạm Văn Đồng và Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu 5, lực lượng chiến đấu ở Quảng Nam-Đà Nẵng gồm có Trung đoàn 93 chịu trách nhiệm ở vòng ngoài và Trung đoàn 96- Trung đoàn chủ lực của Khu (do cán bộ và chiến sỹ Nam tiến làm nòng cốt)- chịu trách nhiệm chiến đấu ở nội thành.

        Mục đích của ta là giam chân địch trong thành phố, còn địch thì muốn mở rộng chiếm đóng ra các vùng nông thôn rộng lớn. Sự đối chọi mục đích ấy dẫn đến cuộc chiến đấu ở đây đã diễn ra quyết liệt ngay từ ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Lực lượng vũ trang của ta tuy còn non trẻ, nhưng bộ đội chủ lực đến dân quân tự vệ, từ nội thành đến ngoại thành, đều chiến đấu với tinh thầnh rất dũng cảm, dám xả thân để bảo vệ từng căn nhà, đoạn đường, góc phố của thành phố. Sau nhiều ngày đêm chiến đấu liên tục, đạn, lựu đạn đã hết, nhiều đơn vị phải dùng lưỡi lê, báng súng đánh giáp lá cà để đánh bật địch ra khỏi chiến hào, có tiểu đội anh em dũng cảm chiến đấu đến người cuối cùng. Nhân dân Quảng Nam-Đà Nẵng đã sát cánh với lực lượng vũ trang thực hiện " vườn không nhà trống", bất hợp tác với địch, đào hào, đắp ụ, xây dựng công sự, phá hoại cầu, đường, vận chuyển chăm sóc thương binh, phục vụ chiến đấu.

        Sau hơn một tháng chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ huy của Uỷ ban Quân sự, quân dân Quảng Nam-Đà Nẵng đã thực hiện đúng đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Trên địa bàn thành phố, lực lượng vũ trang ta do vệ quốc quân làm nòng cốt, đã anh dũng chiến đấu ngăn chặn, bao vây, ghìm chân, tiêu hao nhiều sinh lực địch và bảo toàn lực lượng ta để kháng chiến lâu dài. Cuộc vây hãm địch ở Đà Nẵng đã góp phần tạo điều kiện cho quân, dân cả nước mà trực tiếp là các tỉnh đồng bằng Khu 5 có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu dài, làm thất bại bước đầu kế hoạch lần thứ hai " đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:11:16 am

        Trong lễ Tuyên dương thành tích chiến đấu của quân dân Quảng Nam-Đà Nẵng, đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: "So sánh với toàn quốc, mặt trận Thái Phiên(tên gọi của thành phố Đà Nẵng sau khởi nghĩa tháng 8/1945) liệt vào hạng đánh mạnh nhất và dẻo dai nhất". Đồng chí tặng quân dân Đà Nẵng lá cờ " Giữ vững". Trung đoàn 96 là đơn vị lập công xuất sắc nhất được vinh dự thay mặt quân, dân Quảng Nam-Đà Nẵng nhận phần thưởng cao quý này.

        Chấp hành chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của Thường vụ Trung ương Đảng và qua kinh nghiệm chiến đấu tháng đầu, Tỉnh uỷ và Uỷ ban Quân sự chủ trương:

        - Kiên quyết năng chặn không cho địch nhanh chóng mở rộng vùng kiểm soát về phía Nam.

        -Bán đánh địch nhất là trên đường huyết mạch đèo Hải Vân.

        - Phát động chiến tranh du kích tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, khi chúng mở rộng phạm vi kiểm soát.

        - Triệt để thực hiện "vườn không nhà trống".

        Thực hiện chủ trương trên, các đơn vị chủ lực nhanh chóng bố trí lại đội hình, phối hợp với dân quân du kích, tự vệ liên tục hoạt động quấy rối, tiêu hao, tiêu diệt ở cả nội thành và vùng xung quanh, gây cho địch nhiều tổn thất; trong đó tiêu biểu là trận đánh phục kích giao thông đầu tiên trên đường đèo Hải Vân ngày 28 tháng 2 năm 1947, tiêu diệt một Đội địch, thu 2 trung liên, 4 tiểu liên, 10 súng trường, diệt một tên trung uý. Cùng với việc vây hãm địch hơn một tháng trong thành phố, các hoạt động trên đây đã nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của lực lượng vũ trang, củng cố và nâng cao lòng tin tưởng của cán bộ và nhân dân vào đường lối quân sự- chính trị của Đảng.

        Thực hiện âm mưu mở rộng vành đai an toàn cho căn cứ quân sự và hậu cần của chúng ở miền Trung Đông Dương, khai thông đường 14 từ Đà Nẵng lên Kon Tum, nối liền các tỉnh ven biển với Tây Nguyên, qua Hạ Lào, cắt đứt hành lang Bắc-Nam và đường qua Hạ Lào, chia cắt chiến lược chiến trường Đông Dương ngang vĩ tuyến 16, vơ vét nhân tài, vật lực ở miền Nam làm bàn đạp tiến công ra miền Bắc-chiến trường chính, ngày 15 tháng 3 năm 1947, sau khi củng cố lực lượng và được tăng viện từ chính quốc sang, quân Pháp mở cuộc tiến công đánh ra phía nam sông Cẩm Lệ.

        Trong đợt tiến công này, mặc dù lực lượng vũ trang và nhân dân ta chống trả quyết liệt, gây cho địch nhiều thiệt hại, nhưng vì lực lương tương quan giữa ta và địch lúc đầu còn quá chênh lệc nên địch đã chiếm được vùng đồng bằng phía bắc sông Thu Bồn từ Hội An đến Ái Nghĩa.

        Ngày 5 tháng 3 năm 1947, Chủ tich Hồ Chí Minh gửi thư động viên đồng bào cả nước: " Trong cuộc kháng chiến lâu dài, tạm thời thắng hay bại là việc thường, cốt là " thắng lợi cuối cùng". Chúng ta không hoang mang, chúng ta phải nhẫn nại, cương quyết. Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay ta".

        Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở quán triệt các quan điểm kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa tìm cách tiêu diệt địch vừa bảo vệ dân, phát triển sản xuất, quan tâm đến đời sống của nhân dân, cuối tháng 3 năm 1947, Tỉnh uỷ và Uỷ ban Quân sự chủ trương:

        - Vận động đồng bào hồi cư, các huyện, thị tổ chức đội công tác bám dân trở về vùng bị chiếm hoạt động, tổ chức sản xuất, ổn định đời sống, phát triển du kích đánh địch đi càn, bảo vệ dân.

        - Đánh phá kế hoạch tập trung dân để lập tề, bình định vùng tạm chiếm của Pháp; tổ chức cơ sở mật, chuẩn bị hoạt động trong vùng địch.

        - Xây dựng bố phòng vùng tự do, củng cố tuyến phòng thủ nam sông Thu Bồn.

        - Củng cố bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể gây uy tín cách mạng trong nhân dân vùng bị chiếm.

        Đây là những quyết định rất quan trong có ý nghĩa lịch sử đối với việc lãnh đạo chiến tranh ở Quảng Nam-Đà Nẵng, sự phối hợp rất nhịp nhàng giữa chiến đầu và xây dựng cơ sở, giữa kháng chiến và kiến quốc, giữa đấu trnah chính trị và đấu tranh vũ trang, giữa việc chiến đấu ở vùng bị chiếm với việc bảo vệ và xây dựng vùng tự do.

        Từ đó đến cuối năm 1947, cơ sở chính trị vùng tạm bị địch chiếm được khôi phục và phát triển; dân quân tự vệ được tổ chức, nhiều nơi đã đánh địch đi càn, diệt tề trừ gian, đánh địa lôi đường giao thông, quấy rối đồn bốt.... Các huyện, thị bắt đầu tổ chức trung đội biệt động để phối hợp với chủ lực hoặc độc lập tác chiến, thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh ở địa phương.

        Sau nhiều lần thất bại, địch vẫn không từ bỏ tham vọng điên cuồng, mở rộng phạm vi chiếm đóng về phía Nam. Rút kinh nghiệm lần trước, các cơ quan, chính quyền, đoàn thể, du kích bám theo dân tản cư, một bộ phận ở lại bám xóm làng, bảo vệ tài sản nhân dân. Sau khi địch rút, đồng bào hồi cư. Cán bộ, du kích lại bám đồng bào về tổ chức cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, thúc đẩy cac hoạt động trong vùng tạm chiếm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:14:07 am

        Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93 đã cùng du kích vừa chặn đánh địch quyết liệt ở phía trước, vừa thọc sâu và sau lưng địch đành vào căn cứ, đường giao thông của chúng, nổi bật là trận đánh đèo Hải Vân lần thứ hai, ngày 25 tháng 5 năm 1947, tiêu diệt hoàn toàn hai đoàn xe từ Đà Nẵng ra và từ Huế vào, bắn cháy và phá huỷ bảy xe địch, diệt tên Đại tá Roger chỉ huy phân khu Đà Nẵng và toàn ban tham mưu của hắn cùng với trên 100 lính Âu-Phi tinh nhuệ. Trận đánh gây chấn động mạnh trong binh lính địch ở Đà Nẵng. Nhiều lính Âu-Phi hoảng sợ phải chiến đấu với quân ta đã có hành động tự thương để trốn tránh đi càn.

        Chiến thắng Hải Vân lần thứ hai là chiến công lớn nhất của Liên khu 5 trong năm 1947, cũng là chiến công vẻ vang của cả nước trong thời gian đó, được nhân dân Quảng Nam-Đà Nẵng và Liên khu 5 hồ hởi, ca ngợi, vui mừng; Bộ Quốc phòng và Tổng Tư lệnh đánh giá cao, một lần nữa phản ảnh chiến tranh nhân dân tiếp tục phát triển trong nửa năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc.

        Có thể nói, sau hơn sáu tháng ngoan cường chiến đấu, ta vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, vừa đánh vừa trưởng thành về mọi mặt. Giặc Pháp nhiều lần tập trung lực lượng tiến công nhằm phá vỡ vòng vây tiến về phía Nam, nhưng trước sức chiến đấu quyết liệt của quân và dân ta ở phía trước kết hợp với quấy rối, tiêu hao, tiêu diệt ở phía sau, cho đến cuối tháng 6 năm 1947, mặc dù quân số ở Đà Nẵng, đã tăng hơn hai lần xấp xỉ 15.000tên) với đầy đủ hải, lục, không quân hiện đại, thiện chiến, nhưng quân Pháp buộc phải dừng lại ở hai bờ nam, bắc sông Thu Bồn, chấm dứt thời kỳ tiến công ồ ạt để lấn chiếm vùng tự do, quay về đối phó với chiến tranh du kích để bình định vùng tạm chiếm. Từ đó, mãi cho đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên địa bàn Quảng Nam-Đà Nẵng chia làm hai vùng rõ rệt: vùng bị chiếm từ nam sông Thu Bồn trở ra đến đèo Hải Vân, vùng tự do từ nam sông Thu Bồn trở vào nối liền với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và gần hết tỉnh Phú Yên, hình thành một vùng căn cứ rộng lớn quan trọng quyết định cho cuộc kháng chiến không những ở Liên khu 5 mà cả miền Nam Đông Dương. Đây là thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược thể hiện quyết tâm cao ngay từ đầu cuộc kháng chiến của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên khu 5 mà trực tiếp là của Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Nam-Đà Nẵng, phá tan âm mưu của địch đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5 đến vĩ tuyến 16. Tròng cuộc chiến đấu không cân sức này, Đảng bộ địa phương đã phối hợp chặt chẽ cùng với Đảng bộ trong quân đội lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân lấy tinh thần chọi với sắt thep, lấy vũ khí thô sơ chống lại vũ khí hiện đại và kết quả là đã giành được chiến thắng vẻ vang ngày từ ngày tháng đầu của cuộc kháng chiến. Trong lúc địch dựa vào thế mạnh tuyệt đối về quân sự, tiến công ồ ạt nhằm nhanh chóng thôn tính nước ta nói chung va Quảng Nam-Đà Nẵng nói riêng, công tác chính trị, tư tưởng đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần sẵn sàng xả thân hy sinh để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc là điều kiện tiên quyết để chiến thắng quân thù, xua tan những tư tưởng cầu an, dao động, sợ địch, củng cố và nâng cao lòng tin vào đường lối của Đảng, vào sức mạnh vô địch của nhân dân.

        Từ cuối mùa hè năm 1947, hoạt động của quân Pháp trên chiến trường Khu 5 nói chung và Quảng Nam-Đà Nẵng nói riêng tạm thời lắng xuống. Tranh thủ cơ hội đó, ta vừa đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích trong vùng bị tạm chiếm, đặc biệt là trong nội thành Đà Nẵng và thị xã Hội An, vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa xây dựng lực lượng các mặt, vừa bố phòng bảo vệ và xây dựng vùng tự do làm hậu phương vững chắc và trực tiếp cho cuộc kháng chiến của tỉnh.

        Nếu trong giai đoạn đầu từ tháng 12 năm 1946 đến cuối tháng 6 năm 1947 ta dùng lực lượng vũ trang do bộ đội chủ lực làm nòng cốt được sự hỗ trợ đắc lực của nhân dân để chiến đấu; thì trong giai đoạn này, ta phải kết hợp cả hai phương thức đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang và đấu tranh chính trị của quần chúng để chống lại âm mưu bình định của kẻ thù.

        Trung đoàn 96,sau hơn tám tháng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc được Bộ Tư lệnh khu rút về củng cố và điều Trung đoàn 68 ở Quảng Ngãi ra thay.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:14:52 am

        Uỷ ban Quân sự phối hợp với địa phương đưa bộ đội cùng cán bộ, đảng viên du kích về những nơi phong trào còn yếu để xây dựng cơ sở rồi từng bước phát động quân chúng đấu tranh. Ở những nơi phòng trào đấu tranh mạnh như Điện Tiến, Điện Nam, Hoà Tiến, Đại Hoà, Duy Phương…nhân dân cùng dân quân du kích tổ chức bố phòng, năm tình hình địch, đào hầm bí mật, bước đầu xây dựng làng chiến đấu; dân quân du kích dùng nhiều hình thức quấy rối, bắn tỉa, tiêu hao sinh lực địch, chống địch đi lùng sục…

        Ngay trong thành phố Đà Nẵng, các hoạt động nội thành được duy trì. Đêm 13 tháng 7 năm 1947, tự vệ thành ném lựu đạn, tung truyền đơn vào sỹ quan, binh lính Pháp trong lúc chúng đang tập hợp làm lễ kỷ niệm quốc khánh cộng hoà Pháp. Tự vệ còn treo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh tháp cao nhất thành phố Đà Nẵng nhân kỷ niệm hai năm Cách mạng tháng Tám của ta. Ở thị xã Hội An, biệt động phối hợp với du kích đột nhập vào thị xã đánh địch, diệt và làm bị thương hơn ba chục tên.

        Ở các huyện Điện Bàn, Hoà Vang, Đại Lộc, bộ đội và du kích phối hợp chống càn, chống địch cướp lúa, bảo vệ mùa màng, tài sản của nhân dân, trừng trị bọn tề gian ác, bắt và đưa đi giáo dục cải tạo một số làm cho kế hoạch lập tề của địch bị gián đoạn. Bộ đội và du kích còn đột nhập vào thị trấn Vĩnh Điện diệt và làm bị thương nhiều tên.

        Rõ ràng, tuy chiếm được đất, lập được một số đồn bốt, nhưng giặc Pháp không thể nào dập tắt được ngọn lửa chiến tranh nhân dân trong vùng tạm bị chiếm đang bùng lên mạnh mẽ.

        Trong năm 1947, việc xây dựng lực lượng vũ trang trong tỉnh được các cấp uỷ Đảng coi trong. Các cơ quan quân sự từ tỉnh đến xã, phường được củng cố và tăng cường. Các xã, phường đều có đội du kích tập trung; huyện, thị có trung đội biệt động, riêng thành phố Đà Nẵng có ba trung đội. Công an, công an xung phong cũng được thành lập phối hợp với bộ đội và dân quân du kích diệt tề trừ gian có hiệu quả.

        Phát huy kinh nghiệm trong Cách mạng tháng Tám, từ tay không giành chính quyền, Đảng ta luôn luôn đặt công tác chính trị tư tưởng lên hàng đầu. Với tinh thần đó, trong điều kiện tương quan lực lượng về binh khí, kỹ thuật quá chênh lệch và phải chiến đấu độc lập, phân tán, từ tháng 3 năm 1947, sau hội nghị chính trị viên trung đoàn toàn quốc (lúc này đơn vị chủ lực lớn nhất của quân đội ta mới đến cấp trung đoàn), các trung đoàn chủ lực của Liên khu 5 đã thành lập được chi bộ đảng ở cấp đại đội, hệ thống cán bộ chính trị và chiến sỹ chính trị ở trung đội và tiểu đội. Cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương, Đảng bộ được chú ý kiện toàn, mỗi xã đều có chi bộ; chính quyền và các đoàn thể được củng cố, uy tín cách mạng được nâng cao cả ở vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm. Với tinh thần nhiệm vụ quân sự là trên hết, ở các chi bộ xã đều có từ một đến hai người phụ trách quân sự, đông chí bí thư chi bộ làm chính trị viên dân quân du kích xã.

        Qua năm đầu kháng chiến, hoà cùng chiến thắng của quân và dân ta trên khắp chiến trường, nhất là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược làm thất bại cuộc tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp trong Thu Đông năm 1947. Kết thúc một thời kỳ đầy thử thách và vô cùng khó khăn của cuộc kháng chiến. Lực lượng chủ lực của Khu 5 trên chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, tuy ban đầu còn nhiều khó khăn thiếu thốn về hoả lực và kinh nghiệm chiến đấu, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Khu uỷ, Quân khu uỷ, đã sát cánh cùng quân dân Quảng Nam-Đà Nẵng kiên cường chiến đấu, phát triển phong trào toàn dân đánh giặc, ngăn chặn, bao vây, tiêu hao, tiêu diệt địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo toàn lực lượng, cùng quân và dân Quảng Nam-Đà Nẵng đứng vững và phát triển, giữ vững vùng tự do rộng lớn, góp phần cùng cả nước đánh bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, nhanh chóng chuyển hướng vào nhiệm vụ chống âm mưu bình định vùng chiếm đóng của địch.

        Bị thất lớn trong chiến dịch tiến công lên Việt Bắc hàng tiêu diệt bộ não kháng chiến của ta, thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược, từ “đánh nhanh thắng nhanh” mở rộng vùng chiếm đóng sang đánh kéo dài, từ dùng quân sự là chủ yếu sang dùng chiến tranh tổng lực, thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Trên chiến trường miền Nam nói chung và Liên khu 5 nói riêng, chúng thay thế những cuộc hành quân lớn bằng những cuộc hành quân nhỏ, không nhằm trực tiếp tiêu diệt chủ lực ta mà nhằm phá hoại cơ sở chính trị, kinh tế.  Chúng coi miền Nam là nơi cung cấp lực lượng dự trữ chủ yếu cho cuộc chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:15:47 am

        Hội nghị Trung ương Đảng ngày 15 tháng 1 năm 1948 nhận định: “ So sánh lực lượng giữa ta và địch đã chuyển biến. Địch không thể tung quân đi chiếm đất như thời kỳ dầu toàn quốc kháng chiến,, nhưng địch có thể cố gắng vơ vét sức người, sức của và cầu cứu viện trợ quốc tế, dồn sức bình định ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, sau đó tập trung lực lượng ra Bắc, đưa Bảo Đại lên lập chính quyền trung ương, củng cố chính quyền địa phương…chia rẽ dân tộc, tôn giáo, kết hợp triệt phá về kinh tế… Về phía ta, chiến thắng lớn ở Việt Bắc và sự phát triển của cuộc chiến đấu ở miềm Nam tạo đà phấn khởi tin tưởng trong nhân dân ở tiền đồ kháng chiến. Tuy nhiên, lực lượng vũ trang ta còn non yếu, sức chiến đấu chưa cao, trang bị vũ khí còn rất thiếu thốn, kinh tế kém phát triển, ta còn ở thế bị bao vây, chưa tranh thủ được sự giúp đỡ bên ngoài”.

        Hội nghị đề ra nhiệm vụ: “Động viên toàn dân, toàn quân đẩy mạnh kháng chiến trên tất cả các chiến trương, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta. Hướng về mục tiêu chiến lược trong thời kỳ này là làm cho ta mạnh lên, làm cho địch yếu đi… từ chỗ ngăn chặn địch tiến lên đẩy lùi và thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng”.

        Dưới sự lãnh đạo của Khu uỷ, lực lượng vũ trang khu cùng các tỉnh thộc Khu 5 một mặt phát triển  chiến tranh nhân dân ở mọi nơi, nhất là vùng địch kiểm soát, đồng thời diệt những đồn lẻ, thu hẹp địa bàn chiếm đóng của địch, tổ chức tập kích, quấy rối trong các đô thị, xúc tiến luyện quân lập công, khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân.

        Quán triệt Nghị quyết Trung ương Đảng và Khu uỷ Khu 5, đầu năm 1948, hội nghị đại biểu Đảng bộ Quảng Nam-Đà Nẵng đánh giá tình hình và xác định Quảng Nam-Đà Nẵng phải cùng một lúc làm hai nhiệm vụ lớn trong suốt thời gian dài của cuộc kháng chiến: Một là, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng bị chiếm, đánh bại kế hoạch bình định, dồn dân, lập tề của địch. Hai là giữ vừng vùng tự do, củng cố xây dựng thành hậu phương trực tiếp của cuộc kháng chiến.

        Để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy tác chiến, thực hiện chủ trương của Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Khu 5, tôi được chỉ định tham gia vào Tỉnh uỷ và Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.

        Thi hành chỉ thị “Chấn chỉnh tổ chức, tăng cường chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang”, từ tháng 4 năm 1948, các đơn vị vệ quốc đoàn trong Khu 5 lần lượt biên chế lại thành bảy trung đoàn và một tiểu đoàn độc lập. Mỗi trung đoàn có nhiệm vụ dìu dắt dân quân du kích, phối hợp cùng dân quân du kích gây cơ sở, phát động chiến tranh du kích, tác chiến tiêu hao tiêu diệt địch trên một địa bàn. Ở Quảng Nam-Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Khu 5 quyết định sáp nhập Trung đoàn 93 và Trung đoàn 68 thành Trung đoàn 108 do đồng chí Đàm Quang Trung làm Trung đoàn trưởng, tôi làm Chính uỷ. Tháng 10 năm 1948, Trung ương sáp nhập ba khu 5,6,15 thành Liên khu 5.

        Để thực hiện chiến lược mới, địch thực hiện từ mở rộng sang bình định, củng cố vùng chiếm đóng, xây dựng hệ thống cứ điểm nhỏ và đội ứng chiến nhỏ là biện pháp cơ bản để thực hiện kế hoạch bình định trong thời kỳ này.

        Ở Quảng Nam-Đà Nẵng, quân Pháp phân tán một phần lực lượng rải ra đóng đồn bốt các trục giao thông xung quanh thành phố Đà Nẵng và các địa bàn chiến lược quan trọng. Hệ thống đồn bốt này vừa để bảo vệ các vùng trọng yếu ngăn chặn lực lượng ta từ xa, vừa là chỗ dựa cho bọn tề, điệp hoạt động lùng sục, đánh phá cơ sở kháng chiến, cướp bóc tài sản nhân dân, đồng thời chúng tổ chức các đội ứng chiến nhỏ và vừa để càn quét thực hiện chính sách “ tam quang” nhằm làm nhụt ý chí của đồng bào ta, tạo điều kiện thành lập nguỵ quyền, bắt thanh niên đi lính để bổ sung quân số hao hụt của chúng. Mặt khác, chúng dùng chiến tranh gián điệp và phi pháo đánh phá vùng tự do, vùng căn cứ kháng chiến nhất là ở huyện Hoà Vang và huyện Điện Bàn, nơi chúng chọn làm thí điểm. đi đôi với tàn sát khủng bố, chúng còn dùng thủ đoạn mị dân, lừa bịp. Do địch có ưu thế về quân sự và thủ đoạn đánh phá nham hiểm, đầu năm 1948, chúng gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất nhất định, nhưng chúng vẫn không thể nào xoay chuyển được tình thế.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:16:24 am

        Để đối phó với âm mưu mới của địch, theo chủ trương của Bộ Quốc phòng, Liên khu 5 thành lập một số đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh phát triển. Thực hiện phương châm “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ”, ở chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 tăng cường bốn đại đội độc lập (7,8,9 và 10) và hai tiểu đoàn tập trung (39 và 41). Các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung hoạt động theo phương châm vừa tác chiến vừa xây dựng, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, phân tán, tập trung linh hoạt nhằm dìu dắt dân quân du kích tiến tới thành lập bộ đội địa phương,. Sau thời gian vừa củng cố tổ chức, vừa đẩy mạnh công tác chính trị, tư tưởng, học tập phương châm, phương thức hoạt động vùng sau lưng địch, hưởng ứng phong trào thi đua ái quốc do Trung ương   phát động, ngày 15 tháng 2 năm 1948, Trung đoàn 108 và Tỉnh đội Quảng Nam-Đà Nẵng phát động phong trào “ luyện quân lập công”. Từ giữa năm 1948, các đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung cùng hàng trăm cán bộ địa phương tiến vào vùng địch, vừa tác chiến vừa xây dựng phát động chiến tranh du kích, xây dựng cơ sở chính trị, vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng trong vùng tạm bị chiếm, kể cả thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng làng chiến đấu, triệt phá giao thông đưa du kích vùng địch hậu, vừa rèn luyện trong thực tế chiến đấu.

        Lực lượng dân quân du kích  được các đại đội hỗ trợ, tuy mới xây dựng lại, nhiều mặt còn yếu kém và gặp muôn vàn khó khăn nhưng vẫn cố gắng vươn lên, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của phong trào toàn dân đánh giặc ở địa phương.

        Đội Biệt động Điện Bàn được xây dựng sớm, trưởng thành nhanh đã phối hợp với Đại đội 8 độc lập trụ bám chống càn quét, đột nhập đồn Hương Vũ, hỗ trợ cho các xã xây dựng làng chiến đấu. Đặc biệt nhân dân và du kích xã Chương Dương và xã Hoàng Diệu (Gò Nổi) đã chủ động đào giao thông hào, đắp công sự, làm hầm bí mật, rào lang, thường xuyên bao vây, bắn tỉa địch trong các đồn bốt, tổ chức tuần tra, cảnh giới các con đường địch có thể đi qua. Địch thường xuyên dùng lực lượng từ một đến hai tiểu đoàn càn quét, đánh phá nhiều lần. Tháng 11 năm 1948, chúng dùng 1.000 quân đánh phá suốt ngày vẫn không khuất phục được nhân dân ở đây. Chúng phải dùng không quân ném bom xuống chợ Chương Dương làm chết 300 đồng bào ta, nhưng địch cũng không thực hiện được chủ trương dồn dân lập tề, bình định.

        Được đội biệt động huyện hỗ trợ, du kích hai xã tổ chức bao vây các đồn Vân Ly, Bến Đền, Phong Thử, Bình Long và phục kích bẻ gãy các cuộc càn quét của địch. Có lúc, địch đã hoang mang, bị động buộc phải rút chạy khỏi đồn Vân Ly, Bến Đền.

        Chương Dương, Hoàng Diệu trở thành ngọn cờ đầu của phong trào xây dựng làng chiến đấu, thể hiện đặc sắc phong trào chiến tranh nhân dân của Quảng Nam-Đà Nẵng trong năm 1948. Từ Chương Dương, Hoàng Diệu dần dần phát triển nhềiu làng xã khác như: Điện Nam, Điện Tiến, Điện Ngọc (Điện Bàn), Hoà Tiến (Hoà Vang), Đại Hoà (Đại Lộc), Duy Phương (Duy Xuyên), Quế Xuân (Quế Sơn) cũng có phong trào làng chiến đấu.

        Xã Điện Tiến (huyện Điện Bàn) gồm 7 thôn, giữa xã có núi Đất Sơn (Bồ Bồ), tây nam có núi Chư Bái (Sùng Công) nằm cách Đà Nẵng 16 ki-lô-mét về phía tây nam. Sau khi buộc phải dừng lại ở nam, bắc sông Thu Bồn, quân Pháp tăng cường củng cố vùng chiếm đóng, xây dựng nhiều căn cứ chốt điểm trong đó có đồn Chư Bái ở tây nam và đồn Lệ Sơn ở phía bắc của xã.

        Thực hiện chủ trương hồi cư của Tỉnh uỷ, chi bộ xã Điện Tiến quyết định đưa cán bộ, đảng viên về bám dân, bám đất, vận động nhân dân trở về làng cũ làm ăn, tổ chức xây dựng lại các đoàn thể cứu quốc, củng cố lực lượng dân quân du kích, xây dựng làng, xã chiến đấu, phát động phong trào toàn dân đánh giăc. Trong 6.000 dân trở về trụ bám có 200 tham gia dân quân, du kích trong đó có 50 được biên chế vào đội du kích tập trung. Các đoàn thể cứu quốc được củng cố, sinh hoạt đều đặn, tích cực tham gia công tác, sản xuất để tự túc và đóng góp cho kháng chiến. Ban chỉ huy xã đội được kiện toàn.

        Trong quá trình vừa xây dựng, vừa chiến đấu, quân dân xã Điện Tiến đã bao vây và thường xuyên bắn tỉa địch ở đồn Chư Bái, kết hợp đấu tranh các mặt của quần chúng với xây dựng làng chiến đấu, buộc địch phải rút bỏ đồn Chư Bái vào cuói năm 1948.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:18:58 am

        Sau thắng lợi này, dân quân du kích cùng nhân dân xã càng ra ssức củng ccố làng chiến đấu, thực hiện rào làng để chủ động đánh địch tiến công vào xã. Các hàng rào bằng cọc tre vót nhọn cắm dày ba lớp kết hợp với rào tre đã có ven làng tạo thành vật chướng ngại ngăn chặn địch. Bên trong hàng rào có giao thông hào và nhiều ổ chiến đấu. Hầm chông được bố trí ở trên đường làng, nơi địch có thể đi qua. Dân quân du kích và nhân dân đều đào hầm bí mật để che giấu lực lương, bất ngờ chiến đấu tiến công địch và bảo vệ cán bộ trụ bám phong trào.

        Tháng 12 năm 1948, Quân dân du kích và nhân dân xã Điện Tiến phối hợp với biệt động huyện Điện Bàn chống địch càn ở Tứ Sơn thắng lợi. Sau đó, Điện Tiến đánh độc lập giành thắng lợi nhiều trận, diệt 64 tên địch. Ngoài đánh giắc giữ làng, xã còn thi đua đẩy mạnh các mặt công tác khác, đẩy mạnh sản xuất đóng góp cho kháng chiến.

        Điện Tiến đã trở thành một căn cứ du kích mạnh ngay giữa vùng bị địch chiếm, được Liên khu 5 tuyên dương là xã xuất sắc toàn diện trong năm 1948-1949.

        Noi gương Điện Tiến, các căn cứ du kích ở Quảng Nam-Đà Nẵng xuất hiện ngày càng nhiều vào những năm 1950-1952, hình thành vùng du kích rộng lớn, biến hậu phương địch không chỉ từ nam sông Thu Bồn trở vào mà còn bao gồm các vùng căn cứ du kích rộng lớn ngày trong vùng địch kiểm soát.

        Ở Hoà Văng, nhờ hoạt động của Đại đội 10 phối hợp với biệt động và du kích phá kế hoạch lập tề của địch, bảo về được chỗ đứng chân của cơ quan lánh đạo huyện Hoà Vang và Đà Nẵng để tiến vào thành phố. Không những ở Điện Bàn, Hoà Vang mà cả ở Đại Lôc, thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An đều có những hoạt động tập kích, treo cờ, rải truyền đơn, gọi loa vào đồn địch kêu gọi binh lính; đánh mìn, bao vây, quấy rối nơi địch đóng quân.

        Không chỉ bội đội, dân quân, du kích đánh giặc mà nhân dân từ cụ già đến thiếu niên, chị em phụ nữ cũng đều tham gia đánh giặc rất mưu trí, dũng cảm.

        Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Quảng Nam-Đà Nẵng đã chống phá kế hoạch bình định vùng chiếm đóng, lấn chiếm vùng tự do của địch. Tháng 4 và tháng 6 năm 1948, bộ đối phối hợp với dân quân du kích và nhân dân liên tiếp đánh bại hai cuộc hành quân quy mô tiểu đoàn của địch ở Hương An (Quế Sơn), diệt 200 tên. Đây là đợt tiến công cuối cùng của địch lấn chiếm vùng tự do nhưng đã bị thất bại.

        Vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực địch, vừa thực hiện chủ trương tổng phá tề của Trung ương, các đại đội độc lập đã phối hợp chặt chẽ với biệt động, công an, dân quân, du kích bám dân, bám đất quét sạch tề trên nhiều vùng nhắm lập lại chính quyền cách mạng. Đặc biệt ở Hội An, lực lượng của ta, đêm 4 tháng 1 năm  1949, đã tiến công vào cơ quan nguỵ quyền tỉnh, đột nhập vào nhà tên tỉnh trưởng Hồ Ngận, đọc lệnh của chính quyền cách mạng bắt hắn và một tên tay chân của hắn. Trước hành động “xuất quỷ, nhập thần” này của ta, bọn nguỵ quyền Quảng Nam-Đà Nẵng vô cùng hoang mang lo sợ.

        Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tháng 10 năm 1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết lập chế độ chính trị uỷ viên đại diện Đảng phụ trách quân đội.

        Tháng 2 năm 1949, hội nghị chính trị viên của lực lượng vũ trang Liên khu 5 nhận định: “ Tình hình Nam Trung Bộ lúc này tuy vẫn còn một số khó khăn hạn chế nhưng cũng đã đạt được thành tích khả quan, đánh bại một bước âm mưu “bình định” vùng địch tạm chiếm; chiến tranh du kích vùng sau lưng địch được phát động, vùng tự do được xây dựng và củng cố về mọi mặt, bước đầu đáp ứng những nhu cầu kháng chiến của chiến trường”. Hội nghị cũng tập trung phân tích những khuyết nhược điểm tồn tại trong đó có chiến tranh du kích chưa chú trọng đúng mức nên phát triển chưa sâu rộng, đều khắp, chất lượng một số đơn vị chưa cao, công tác đảng, công tác chính trị ở những đơn vị phân tán chưa đi vào nề nếp.

        Nói chuyện với hội nghị, sau khi phân tích sâu sắc tình hình chung cả nước và tình hình liên khu, đồng chí Phạm Văn Đồng nêu rõ nhiệm vụ quân sự của Liên khu 5 trong năm 1949 là: “ Phát động chiến tranh du kích rộng rãi, đánh sâu vào vùng địch tạm chiếm…dồn hẹp phạm vi an toàn và chiếm đóng của địch, ra sức phá hoại kinh tế, chính trị của chúng, đẩy mạnh công tác vận động nguỵ binh; giữ vững vùng tự do, xây dựng lực lượng mạnh. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, cần phải giải thích sâu rộng nhiệm vụ, phương châm chiến lược, chiến thuật cho cán bộ, chiến sỹ, thúc đẩy cán bộ tiến về chiến thuật, chiến sỹ tiến về kỹ thuật, phải xây dựng công tác đảng, công tác chính trị…”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:20:38 am

        Sau hội nghị, các cơ quan phụ trách công tác chính trị, công tác đảng (tuyên huấn, tổ chức) được kiện toàn, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác phát triển Đảng đi vào nề nếp. Các tư tưởng như quân sự đơn thuần, bản vị, cục bộ, không bám dân, bám đất, hoang mang, dao động, không giữ nghiêm kỷ luật….đều được đấu tranh phê bình để khắc phục. Các đại đội đều có chi bộ, trung đội có tổ đảng, đa số tiểu đội có đảng viên. Việc xây dựng chi bộ tự động công tác được tiến hành đều đặn, có sự giám sát chặt chẽ của cấp trên. Thực hiện chế độ Đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện trong lực lượng vũ trang, mỗi xã cử hai đồng chí trực tiếp tham gia ban chỉ huy xã đội, đồng chí bí thư chi bộ làm chính trị viên, đồng chí chi uỷ phụ trách xã đội trưởng hay xã đội phó, phân công một số đảng viên tham gia du kích, sinh hoạt trong dân quân. Tuy thực hiện chế độ Chính uỷ tối hậu quyết định nhưng mọi việc quan trọng đều có sự bàn bạc trong tập thể Đảng uỷ, chi uỷ và chỉ huy các cấp.

        Qua một năm thực hiện phương châm “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ, nhưng cần đẩy vận động chiến tiến tới”, các đơn vị chủ lực đã phối hợp với dân quân du kích Quảng Nam-Đà Nẵng thực hiện việc chấn chỉnh lực lượng, kết hợp luyện quân với lập công, bám đất bám dân tiến sâu vào vùng bị địch tạm chiếm phát động chiến tranh du kích đạt kết quả.

        Vào Đông Xuân năm 1948-1949, Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 chủ trương mở đợt hoạt động mạnh trên toàn chiến trường liên khu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh hơn nữa phong trào chiến tranh du kích.

        Ở Quảng Nam-Đà Nẵng, Trung đoàn 108 được tăng cường Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 79 của quân khu, phối hợp cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích Quảng Nam-Đà Nẵng mở một đợt hoạt động trên toàn tỉnh. Đồng chí Nguyễn Bá Phát-Trung đoàn trưởng và tôi-Chính uỷ trung đoàn phụ trách đợt hoạt động này.

        Hướng đánh địch đầu tiên là đường đèo Hải Vân. dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Huyện uỷ Hoà Vang, đồng bào tây bắc Hoà Vang đã vượt qua khó khăn chuẩn bị chiến trường rất công phu đầy cảm động, đảm bảo đủ 15 tấn gạo, trong đó có 7 tấn đưa đến đèo Hải Vân. Du kích và bộ đội địa phương huyện đã bám đánh địch suốt một tháng để đẩy lùi hai tiểu đoàn địch ra khỏi địa bàn dự bị tập kết của bộ đội đánh địch ở đèo Hải Vân. Du kích các huyện, thị, thành phố: Đại Lộc, Điện Bàn, Suy Xuyên, Hội An, Đà Nẵng liên tục quấy rối tiêu hao để đánh lạc hướng địch.

        Sáng ngày 24 tháng 1 năm 1949, quân ta phục kích cả đường ôtô và đường xe lửa, diệt một đoàn tàu quân sự và một đoàn xe 18 chiếc của địch từ Đà Nẵng chạy ra Huế, phá huỷ một đầu máy, 12 toa xe lửa, 15 xe cơ giới, giết và làm bị thương trên 300 tên địch. Tiếp đó, một đoàn xe 12 chiếc chạy từ Huế vào tiếp viện, đến cầu Roger (cầu này ta đặt tên để ghi chiến công ngày 25/5/1947,ngày ta diệt tên đại tá Roger), 200 tên Pháp nhảy xuống, 40 tên đã bị quân ta tiêu diệt tại chỗ. Đến xế chiều, ta rút quân, trên đèo chỉ còn lại hàng trăm xác giặc.

        Đây là trận thắng lớn thứ ba của quân ta trên đèo Hải Vân kể từ đầu năm 1947.

        Cay cú vì trận thất bại quá lớn, tên chỉ huy Pháp ở Đà nẵng cho rằng với địa hình hiểm trở này, quân ta chưa rút được. Chúng liền huy động tám tiểu đoàn cơ động đổ quân chặn kín các ngả đường núi và suốt hữu ngạn sông Trường Định, tịch thu phá huỷ hết ghe thuyền, ra lệnh thiết quân luật, hòng bao vây tiêu diệt lực lượng ta. Đêm 27 tháng 1 năm 1949, giữa lúc du kích và biệt động huyện bí mật bơi qua sông tập kích cứ điểm Nam Ô để nghi binh thu hút địch, hàng vạn nhân dân huyện Hoà Vang huy động thuyền từ xa đến, bí mất đưa 1.800 cán bộ, chiến sỹ, thương binh và hàng chục tù binh qua sông Trường Định an toàn. Dân quân, du kích canh gác cảnh giới, nhân dân trong vùng đứng dọc suốt theo hành lang lui quân vừa làm hoa tiêu chỉ đường, vừa tiếp tế cơm nước cho bộ đội. Nhân dân toàn huyện nổi thanh la, trống mõ, vừa phô trương thanh thế vừa đánh lạc hướng địch. Vậy là, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân đã chuẩn bị cho bộ đội đánh thắng, giờ đây nhân dân lại giúp bộ đội lui quân an toàn.

        Chiến thắng Hải Vân lần thứ ba là thắng lợi của sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương Quảng Nam-Đà Nẵng, là một điển hình tiêu biểu của chiến tranh nhân dân vùng sau lưng địch, thể hiện sinh động phong trào toàn dân đánh giặc trong các quá trình chuẩn bị chiến trường, thực hành chiến đấu và bảo tồn lực lượng lúc lui quân.

        Sau trận đèo Hải Vân, theo lệnh của Bộ Quốc phòng, Tiểu đoàn 19 ra phối hợp chiến đấu với lực lượng của Khu 4 ở nam Thừa Thiên. Tiểu đoàn đã đánh thắng một trận vận động phục kích lớn tiêu diệt hoàn toàn đại đội Ta-bo (Âu-Phi) phá huỷ và đốt cháy 14 xe cơ giới của địch tại Gò Cà, trên đường từ Ái Nghĩa đi Tuý Loan (Hoà Vang).

        Trận đèo Hải Vân và trận Gò Cà là hai hoạt động tập trung có những yếu tố của một chiến dịch lần đầu xuất hiện ở chiến trường Nam Trung Bộ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:21:52 am

        Sau hai trận thắng lớn Hải Vân và trân Gò Cà , nguỵ quân, nguỵ quyền cơ sở hoang mang, ta liền phát động một đợt hoạt động du kích: diệt tề trừ gian, đánh mìn, phục kích đường giao thông, tổng phá hoại đường sá cầu cống, đào hầm bí mật, rào làng chiến đấu, đếm đêm dùng trống mõ, thanh la uy hiếp địch, gọi loa, rải truyền đơn vào đồn kêu gọi binh lính địch trở về với kháng chiến, không tàn sát cướp bóc đồng bào.

        Đợt hoạt động quân sự trên chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng đã góp phần thực hiện mục đích của liên khu đề ra vừa tiêu diệt một phần sinh lực địch, vừa thúc đẩy phong trào nhân dân du kích chiến tranh vùng sau lưng địch phát triển một bước. Lực lượng bộ đội địa phương huyện tuy mới được thành lập nhưng đã trưởng thành vượt bậc, tiêu biểu là trận đánh độc lập phục kích độn thổ giữa ban ngày, ngày 6 tháng 3 năm 1949, của đại đội bộ đội địa phương Điện Bàn, diệt hai tiểu đội địch và trận tiêu diệt đồn Núi Lở, san bằng một lô cốt, diệt gọn một trung đội địch của bộ đội và đội du kích huyện Đại Lộc. Đây là trận đánh có cơ sở nội ứng của binh vận và giành thắng lợi đầu tiên ở chiến trường Quảng Nam-Đà nẵng.

        Tháng 3 năm 1949, Đại hội Đảng bộ Liên khu 5 kiểm điểm các mặt hoạt động toàn liên khu từ tiền khởi nghĩa đến đầu năm 1949, đi sâu đánh giá phong trào và từng vùng chiến lược, từng tỉnh trong Liên khu. Đại hội đã quyết định tặng cờ "Vững tiến" cho tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.

        Từ kinh nghiệm của đợt hoạt động mạnh trong Đông Xuân năm 1948-1949, sau đại hội, Liên khu uỷ quyết định mở chiến dịch Hè Thu năm 1949 tại chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng mang tên chiến dịch Phạm Văn Đồng.

        Lực lượng tham gia gồm có Trung đoàn 108 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích trong tỉnh.

        Chiến dịch nhằm mục đích phối hợp với chiến trường toàn quốc, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, phá âm mưu chiếm vùng tự do phía tây huyện Đại Lộc nối liền từ Đà Nẵng đi Kon Tum của địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá giao thông trên đường Đà Nẵng-Huế, tạo thế chiến trường cho hoạt động Đông Xuân năm 1949-1950.

        Trung đoàn 108 cùng lực lượng địa phương vừa đẩy mạnh đánh phá giao thông, bao vây đồn bốt, phục kích các toán quân tuần tiễu, vừa tập trung lực lượng đánh tiêu diệt từng đơn vị địch trong đó hướng tiến công chính là tuyến phòng thủ phía nam sông Thu Bồn. Mục tiêu chủ yếu trước mắt là cứ điểm Thu Bồn.

        Thu Bồn là cứ điểm then chốt của địch trên tuyến phòng thủ phía nam. Địch bố phòng ở cứ điểm này một đại đội, có nhiệm vụ chiếm giữ, ngăn chặn ta tiến công, đồng thời làm chỗ dựa cho nguỵ quân, nguỵ quyền kìm kẹp, đàn áp nhân dân vùng xung quanh. Vì vậy công tác chuẩn bị chiến trường phải làm rất tỉ mỉ, công phu.

        Đúng 16 giờ ngày 18 tháng 8 năm 1949, được sự giúp đỡ của cơ sở trong bộ máy chính quyền xã và nhân dân địa phương, một đại đội của Tiểu đoàn 39 phối hợp với Đại đội 7 Duy Xuyên và một trung đội trinh sát cải trang thường dân nổ súng tiêu diệt cứ điểm Thu Bồn giữa ban ngày, đồng thời uy hiếp cả hệ thống cứ điểm địch ở Kiểm Lâm, La Tháp, Giao Thuỷ, Phú Thuận, Phú Mỹ, An Khương...

        Đây là trận đánh đồn đầu tiên giành thắng lợi do kết hợp được chặt chẽ giữa nội ứng bên trong với lực lượng tiến công từ ngoài vào, giữa quân sự và binh vận. Trận đánh diễn ra nhanh đến nỗi bọn địch còn sống sót bàng hoàng trước mọi diễn biến. Kết quả, ta tiêu diệt và bắt sống một đại đội Âu-Phi, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó ta phối hợp với cơ sở binh vận tiêu diệt các đồn Cẩm Lệ, Núi Lở.

        Để đối phó lại sự tiến công của ta, địch tập trung lực lượng càn quét liên tục ở vùng nam bắn sông Thu Bồn. Đảng uỷ, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng lực lượng đánh vào cơ quan đầu não của địch ở thành phố Đà Nẵng để buộc chúng phải rút quân về bảo vệ thành phố.

        Đêm 14 tháng 3 năm 1949, quân ta mở một đợt hoạt động trong toàn tỉnh. Riêng tại thành phố Đà Nẵng, Tiểu đoàn 39 và Tiểu đoàn 49 của Trung đoàn 108 đã cùng biệt động, công an xung phong...được dân quân du kích và nhân dân hỗ trợ, đột nhập đánh địch suốt ba giờ; giết, làm bị thương và bắt sống gần 150 lính địch và gần 200 tay sai; tổ chức nhiều cuộc mít tinh nhân dân tuyên truyền chiến thắng, chính sách của mặt trận dân tộc thống nhất. Bộ máy nguỵ quyền cơ sở của địch trong toàn tỉnh cơ bản bị phá rã, gây ảnh hưởng rộng lớn. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào sức mạnh của kháng chiến. Còn kẻ địch thì hoang mang, lo sợ. Tiếp đó, du kích mật Đà Nẵng lại đột nhập đốt cháy 1,5 triệu lít xăng ở kho Liên Chiêu. Bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện, thị xã Hội An Liên tục quấy rối, nghi binh, đánh giao thông, tập kích, phục kích, chống càn quét làm cho địch lúng túng đối phó khắp nơi.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:23:32 am

        Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.200 tên địch, đánh phá 34 cơ quan nguỵ quyền, giải tán 17 ban tề, bắt cải tạo 487 tên tay sai. Địch bị diệt và buộc phải rút bỏ 18 đồn bốt. Ta giải phóng các xã ở tây nam Đại Lộc và tây Duy Xuyên, vùng tự do được mở rộng.

        Tuy chiến dịch hoạt động trong thời gian ngắn, quân số ít, nhưng đạt hiệu quả chiến đấu cao, giành thế chủ động chiến trường. Thắng lợi của chiến dịch đã ảnh hưởng đáng kể đến phong trào du kích chiến tranh ở Liên khu 5. Nó thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích , công an và nhân dân trên địa bàn toàn tỉnh; bước đầu kết hợp quân sự, chính trị, binh vận, tạo thành sức mạnh của chiến tranh nhân dân vùng sau lưng địch, đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang địa phương.

        Trước sự trưởng thành nhanh chóng của lực lượng vũ trang ta trên cả nước, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ rất lo ngại, tập trung mọi nỗ lực để củng cố lực lượng và thực hiện chính sách “bình định” vùng tạm kiểm soát, đồng thời mở rông ra vùng du kích và vùng tự do của ta.

        Tháng 8 năm 1949, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị xây dựng bộ đội địa phương làm nòng cốt cho việc phát triển dân quân du kích, sẵn sàng thay thế bộ đội chủ lực để bộ đội chủ lực cơ đông trên địa bàn rộng, thực hiện quả đám mạnh, tiêu diệt lớn quân địch.

        Căn cứ vào thực tiễn và yêu cầu của chiến trường, thánh 5 năm 1949, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 thành lập Trung đoàn 210 gồm ba tiểu đoàn: 19, 50, 79 là những tiểu đoàn cơ động của liên khu.

        Tại Quảng Nam-Đà Nẵng, địch rút bỏ các cứ điểm vòng ngoài để tăng cường bảo vệ thành phố Đà Nẵng, đường giao thông chiến lược, đồng thời có lực lượng cơ động để mở những cuộc càn quét đánh phá vùng bàn đạp của ta tại Hoà Vang, tây Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc nhằm phá kế hoạch Đông Xuân của ta.

        Mặc dù có sự phản ứng của địch sau Hè Thu, Liên khu uỷ 5 vẫn nhận định Quảng Nam-Đà Nẵng có nhiều thuận lợi vì phong trào chiến tranh nhân dân phát triển cao có thể phối hợp với chủ lực tiến hành chiến dịch. Liên khu uỷ quyết định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1949-1950 tại Quảng Nam-Đà Nẵng và Khánh Hoà, trong đó chiến trường bắc Quảng Nam-Đà Nẵng là chiến trường chính nhằm chủ động chống phá âm mưu đánh chiếm miền tây Quảng Ngãi của địch; tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, củng cố và phát triển phong tào du kích chiến tranh. Chiến dịch lấy tên là chiến dịch Võ Nguyên Giáp. Lực lượng tham gia chiến dịch có Trung đoàn 210, Trung đoàn 108 của quân khu và lực lượng vũ trang của tỉnh.

        Ngày 19 tháng 1 năm 1950, được cơ sở binh vận làm nội ứng, Đại đội 3, Tiểu đoàn 39 chủ lực cùng dân quân du kích địa phương được nhân dân hỗ trợ đắc lực, đã tổ chức tiến công đồn Ngũ Giáp giữa ban ngày, diệt và bắt gọn hai trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí chỉ trong vòng 15 phút. Tiếp đó, ta đánh trận phcụ kích trên quốc lộ 1 (đoạn Đà Nẵng-Vĩnh Điện) diệt và bắt sống hai trung đội. Địch phải điều quân cơ động ứng chiến đến đối phó.

        Tối ngày 2 tháng 2 năm 1950, Trung đoàn 210, từ chiến khu Phú Túc bí mật hành quân xuống xã Điện Hoà (Điện Bàn) để đánh vận động phục kích trên đường số 1. Cả Trung đoàn được bố trí trong nhà dân với sự che chở tận tình của nhân dân địa phương. Mọi nhu cầu về ăn, ở, vận chuyển, đảm bảo tuyệt đối ví mật đều được các gia đình thực hiện chu đáo, mặc dù đây là “làng tề” bị địch chiếm sâu, gần quốc lộ 1, có đồn Ngũ Giáp, gần căn cứ lớn của địch ở Vĩnh Điện, cách sân bat Đà Nẵng khoảng 10 ki-lô-met.

        Đúng 16 giờ 30 phút ngày 6 tháng 2 năm 1950, môt6j đoàn xe 10 chiếc có một đại đội lính Âu-Phi hộ tống từ Đà Nẵng chạy vào đến Thanh Quýt thì lọt vào trận phục kích của quân ta, một đại đội lê dương bị diệt gọn,50 tên bị  bắt sống, ta thu hơn 100 súng, phá huỷ 14 xe. Nhân dân xông ra thu chiến lợi phẩm, thu dọn chiến trường, chèo đò chở bộ đội qua sông đồng thời dùng rơm rạ hun khói mù mịt che mắt địch, tạo điều kiện cho bộ đội lui quân an toàn.

        Sau trận Thanh Quýt, ban chỉ huy chiến dịch chủ trương đẩy mạnh các hoạt đông trong toàn tỉnh, bộ đội địa phương, dân quân, du kích cùng nhân dân phá hoại đường giao thông, phục kích diệt bọn đi lùng, quấy rối đồn bốt, diệt tề trừ gian, đốt chợ địch, nổi trống, mõ, thanh la… uy hiếp tinh thần địch; bộ đội đột nhập vào trung tâm thành phố Đà Nẵng vũ trang tuyên truyền, binh vận gây náo động trong thành phố, tiến công đồn Hòn Bằng (Duy Xuyên), tập kích, phục kích vào Nam Ô, gò Ông Tự, Liên Chiểu, Tùng Sơn, Hướng Phước, kỳ tập diệt đồn Cẩm Lệ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:25:48 am

        Trong chiến dịch này, vai trò của quân-dân-chính-đảng ở địa phương phối hợp với chủ lực để chuẩn bị chiến trường cũng như giải quyết hậu quả sau chiến đấu là rất to lớn, đầy xúc động. Thắng lợi của phong trào chiến tranh nhân dân phát triển ngày càng mạnh mẽ, buộc địch phải thu hẹp phạm vi chiếm đóng.

        Kết quả của chiến dịch, ta triệt hạ được ba cứ điểm, bức rút sáu cứ điểm, giải phóng 600 ki-lô-mét vuông với hơn hai vạn dân, diệt 450 tên trong đó có tên quan tư Lô-tu-lec, bốn tên quan ba, thu 203 súng các loại, phá huỷ 30 xe cơ giới.

        Tuy nhiên, do ta có khuyết điểm về chuẩn bị chiến trường trên đèo Hải Vân, về tinh thần cảnh giác cách mạng và kỷ luật bảo đảm bí mật quân sự, nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả của chiến dịch.

        Tháng 6 năm 1950, quân khu lại thành lập trung đoàn chủ lực thứ hai, Trung đoàn 803 gồm Tiểu đoàn 39, Tiểu đoàn 49 và cơ quan trung đoàn bộ phụ trách tác chiến trên địa bàn tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cùng Tiểu đoàn 365 của Khánh Hoà; đổi tên Trung đoàn 210 thành Trung đoàn 108, củng cố các trung đoàn địa phương, điều một số cán bộ có kinh nghiệm chiến đấu và một số vũ khí trang bị về cho các tỉnh nhằm thúc đẩy mạnh việc xây dựng bộ đội địa phương để làm nhiệm vụ chiến đấu ở địa phương và sẵn sàng thay thế, bổ sung cho bộ chủ lực.

        Khó khăn nhất ở chiến trường là khi bộ đôi chủ lực rút đi, bộ đội địa phương không trụ bám được, phong trào bị tổn thất nặng. Để giải quyết mâu thuẫn đó, Trung đoàn 108 đã hết sức giúp đỡ địa phương xây dựng lực lượng đủ sức đảm đương nhiệm vụ.

        Qua gần bốn năm chiến đấu, trên chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, dân quân du kích được tổ chức rộng khắp, chất lượng hoạt động ngày càng tiến bộ, đã phối hợp với bộ đội chủ lực trong xây dựng và chiến đấu, có kinh nghiệm và trưởng thành rõ rệt. Các đại đội bộ đội địa phương huyện được thành lập sớm từ năm 1949 đã kết hợp luyện quân với lập công, tác chiến với xây dựng, phối hợp tác chiến với chủ lực qua ba chiến dịch, có nhiều đại đội tác chiến độc lập tiêu diệt từng trung đội địch ngoài công sự, bắt tù binh, thu vũ khí, đã thực sự làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích trên địa bàn huyện.

        Tháng 4 năm 1950, thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam-Đà Nẵng quyết định thành lập Tiểu đoàn 29, tiểu đoàn cơ động tập trung đầu tiên của tỉnh đồng thời cũng là tiểu đoàn bộ đội địa phương đầu tiên của Liên khu . Tiểu đoàn gồm 500 cán bộ, chiến sỹ của bốn đại đội của các huyện Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại Lộc và thị xã Hội An; thành lập ba đội đội độc lập (23,24,26) trực thuộc ban chỉ huy tỉnh đội, đồng thời rút du kích tập trung về thành lập lại bộ đội địa phương ở các huyện mà không ảnh hưởng gì đến phong trào du kích chiến tranh ở cơ sở. Khoảng giữa năm 1950, theo chỉ thị của Liên khu uỷ, Tỉnh đội Quảng Nam-Đà Nẵng tổ chức như một trung đoàn bộ đội địa phương lấy phiên hiệu Trung đoàn 93. Các cán bộ, các ban và tiểu ban của tỉnh đội đồng thời cũng là cán bộ, ban và tiểu ban của trung đoàn. Tình hình trên đây đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng và vững chắc của lực lượng vũ trang Quảng Nam-Đà Nẵng.

        Sau hai năm, kể từ khi thành lập (4/1948) với trách nhiệm chiến đấu tại địa bàn Quảng Nam-Đà Nẵng, chiến trường chính của Liên khu, Trung đoàn 108 đã làm tròn nhiệm vụ được giao, dìu dắt bộ đội địa phương và dân quân, du kích; góp phần quan trọng phát phong trào chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, bảo vệ vững chắc vùng tự do, đưa chiến tranh vào vùng sau lưng địch, không chỉ biến hậu phương địch thành tiền phương ta mà còn biến hậu phương địch thành hậu phương của ta, làm thất bại âm mưu lấn chiếm, bình định của địch. Cũng qua hai năm đó, trung đoàn đã trưởng thành lên một bước, rút được nhiều kinh nghiệm trong tác chiến, lập được nhiều chiến công vang dội được nhân dân tin yêu mến phục, kẻ thù khiếp sợ. Trong nhân dân lưu truyền huyền thoại “tướng Quang Trung có bốn mắt nên đánh đâu thắng đó”.

        Tháng 5 năm 1950, Trung đoàn được lệnh rút về làm nhiệm vụ cơ động của Bộ Tư lệnh Liên khu.

        Đây là thời kỳ địch chuyển sang phòng ngự, đánh kéo dài hòng vơ vét nhân tài, vật lực của ta, chứng tỏ địch đã thất bại về chiến lược. Lực lượng vũ trang của ta vừa đánh, vừa xây dựng vừa trưởng thành. Bộ đội chủ lực rút đi, bộ đội địa phương vẫn độc lập tác chiến được.

        Sau một thời gian ngắn học tập chính trị, quân sự trong phong trào “rèn cán, chỉnh quân”, Trung đoàn 108 được quân khu điều đi tham gia giải quyết tiệp vụ bạo loạn ở Sơn Hà ( miền tây Quảng Ngãi).

        Từ khi trở lại xâm lược nước ta, thực dân Pháp không bao giờ từ bỏ âm mưu đánh chiếm vùng tự do Liên khu . Từ năm 1949, lợi dụng một số sai lầm, khuyết điểm của cán bộ ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc và một số cuộc vận động không phù hợp với trình độ, tập quán phong tục của nhân dân miền núi, bọn Pháp ở Kon Tum đã móc nối với bọn tù trưởng phản động kích động quần chúng nổi lên chống lại cán bộ, gây hận thù dân tộc, tổ chức và trang bị cho lực lượng phiến loạn gồm hàng ngàn tên hòng chiếm miền tây Quảng Ngãi làm bàn đạp chiếm đống bằng vùng tự do.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:28:07 am

        Tháng 4 năm 1950, ta đã đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của quân Pháp xuống Sơn Hà, buộc chúng phải rút về Kon Tum, nhưng bọn phiến loạn và vấn đề ổn định chính trị miền tây Quảng Ngãi ( chủ yếu là Sơn Hà và Ba Tơ) vẫn chưa giải quyết được. Bọn phản động địa phương vẫn ngấm ngầm hoạt động, bí mật nhận súng cảu Pháp đưa về phát cho dân, đánh bật cán bộ ta ra phần lớn huyện Sơn Hà và gây mất ổn định nhiều vùng thuộc miền tây Quảng Ngãi. Đồng bào Rhe, một mặt vẫn thành kiến với những sai lầm của cán bộ ta trong thực hiện chính sách trước đây, cộng thêm những sai lầm mới trong thái độ và hành động của cán bộ và bộ đội ta trong thời kỳ đầu xử lý cuộc nổi loạn, nên vẫn chưa tin vào cách mạng, vào cán bộ và bộ đội. Mặt khác, trong nhân dân, nhiều gia đình có con em tham gia lực lượng phiến loạn, cộng thêm sự chi phối của tù trưởng phản động nên vẫn lén lút tiếp tế, phục vụ và khi bọn này bị tan rã vẫn tiếp tục che giấu.

        Sau khi kiểm điểm lại những sai lầm, thiếu sót, Liên khu uỷ quyết định lấy công tác vận động nhân dân làm căn bản, cán bộ và bộ đội phân tán làm công tác tuyên truyền giải thích chính sách trong cả đồng bào dân tộc và Kinh, chăm lo giải quyết đời sống nhân dân, vận động lớp trên, cô lập bọn cầm đầu phản động ngoan cố nhất.

        Đối với Trung đoàn 108, đây là đợt hoạt động hoàn toàn mới. Do chưa được học tập đầy đủ về quan điểm chiến tranh nhân dân, về bản chất và chức năng của quân đội nhân dân, lại lần đầu tiên làm nhiệm vụ vận động đồng bào có nhiều phong tục tập quán lạc hậu, có mối quan hệ phức tập nên bước đầu không tránh khỏi những thiếu sót, thậm chí sai lầm như nặng về quân sự, mệnh lệnh…, sau khi được uốn nắn đã dần dần sửa chữa, khắc phục. Được cán bộ cơ sở và một số người Rhe tiến bộ cộng tác, giúp đỡ, công tác vận động nhân dân đi đôi với truy lùng và gọi hàng “chí xẻng” “tên gọi bọn chống đối ta chạy theo giặc Pháp) đã bắt đầu thu được kết quả. Sau ba tháng, ta đã tranh thủ được phần lớn nhân dân và một số tù trưởng tiến bộ. Các toán “chí xẻng” bị truy lùng ráo riết, mất dần sự tiếp tế của dân, không còn chỗ đứng an toàn nữa. Một số được người thân thuyết phục trở về đầu thú, số còn lại chạy lên Công Plông (một căn cứ bàn đạp ở Kon Tum để địch tung về đánh vùng tự do Quảng Ngãi) nhập với bọn đã chạy lên trước.

        Công việc xây dựng cơ sở chống bọn phiến loạn đang bắt đầu tiến triển tốt thì giữa tháng 10 năm 1950. Trung đoàn 108 được Bộ Tư lệnh khu điều ra tham gia đợt hai của chiến dịch Hoàng Diệu, Thu Đông 1950, ở Quảng Nam-Đà Nẵng với mục đích bảo vệ mùa lúa đang chín (trọng điểm là Điện Bàn); phá âm mưu bình định, dồn dân, bắt lính của địch, diệt một số cứ điểm, hỗ trợ nhân dân chống địch chiêu an, đưa phong trào du kích chiến tranh vượt qua khó khăn, giữ vững phong trào kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm. Từ cán bộ đến chiến sỹ đều nô nức phấn khởi trở lại chiến trường cũ rất đỗi thân yêu.

        Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt một do Tiểu đoàn 29 và lực lượng vũ trang các huyện đảm nhiệm, đánh thắng trận đầu ngày 5 tháng 8 ở đình Bảo An (Điện Quang) và trận phục kích ỉơ tuyến đườn Giao Thuỷ-Tuý La và Ái Nghĩa-Điện Hồng, cùng dân quân, du kích bám sát, bắn tỉa các đơn vị địch, đặt mìn chống địch càn quét cướp lúa; tiến vào vùng xung yếu, khu tập trung diệt tề, trừ gian xây dựng cơ sở, chuẩn bị phá chiêu an, dồn dân trong toàn tỉnh của địch.

        Bước vào đợt hai chiến dịch, Trung đoàn 108 tham gia chiến dịch Hoàng Diệu chỉ có Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 79, còn Tiểu đoàn 50 di dẹp loạn ở Ba Tơ (Quảng Ngãi). Tiểu đoàn 19 đã hoạt động phân tán, tiêu hao, kiềm chế địch có kết quả ở La Nghi, Gò Nổi, đánh địch đi tuần tiễu trên đường La Nghi diệt gọn một trung đội địch.

        Sau các đợt hoạt động liên tiếp ở Tứ Hải, ta chuẩn bị sẵn sàng đánh địch vào giữa xã Điện Hoà với ý định chống các cuộc càn quét nhỏ, nhưng tình hình không diễn ra như ta dự kiến.

        Ngày 4 tháng 11 năm 1950, với lực lượng 1.500 quân cơ động ứng chiến, cộng thêm quân các cứ điểm Bình Long, Phong Thử, Ngũ Giáp, Quá Giáng, có 10 máy bay yểm trợ, địch chia làm ba mũi tiến công chính diện và hai bên sườn đội hình ta, bao vây xã Điện Hoà. Lực lượng ta chỉ bằng một phần năm lực lượng địch và đang ở thế bị kẹp giữa đường sắt và quốc lộ 1. Anh Phan Hoan- huyện đội trưởng Điện Bàn (Sau này là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 5) đã lo lắng và liên tưởng: “Chiến dịch Biên giới ta vây đánh tan hai binh đoàn cơ động mạnh và bắt sống hai viên chỉ huy binh đoàn sừng sỏ của Pháp là Sác-tông và Lơ Pa-giơ, chẳng lẽ ở đây Trung đoàn 108 và ban chỉ huy trung đoàn lại để cho địch đánh bại và bắt sống ban chỉ huy thì coi bằng hoà”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:29:28 am

        Tiểu đoàn 79, Tiểu đoàn 19 phân tán thành từng tiểu đội, trung đội phối hợp cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích bám từng bờ tre, mương nước, gò mả chiến đấu ngăn chặn địch. Trước sự tiến công dồn dập của địch, nhiều cán bộ, chiến sỹ ta đã nêu gương tuyệt vời của lòng dũng cảm hy sinh, tiêu biểu là chiến sỹ Trần Đức còn lưu truyền mãi trong lòng nhân dân huyện Điện Bàn cũng như trong toàn tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (ngày 7 tháng 5 năm 1956, đồng chí Trần Đức được Quốc hội và Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng nhì). Trong suốt trận chống càn ở Điện Hoà, nhân dân đã hết lòng ủng hộ, giúp đỡ bộ đội và dân quân du kích, không ngại gian khổ hy sinh dẫn đường cho bộ đội, tiếp tế cơm nước, di chuyển và chăm sóc thương binh, liệt sỹ, tổ chức đốt khói nghi binh, đánh lạc hướng cho bộ đội chiến đấu và rút lui an toàn. Nhớ lại trận đánh ở đèo Hải Vân lần thứ ba, ngày 24 tháng 1 năm 1949, tôi không khỏi bồi hồi xúc động, càng thấy rõ lòng dân mạnh hơn máy bay, đại bác của địch, chiến tranh nhân dân thực sự là vô địch.

        Cuộc càn quét của địch, tuy có gây khó khăn cho ta, nhưng chúng không tiêu diệt được chủ lực, không cướp được lúa và bình định vùng du kích của ta. Chính địch cũng phải thú nhận thất bại: “Cuộc hành quân với 1.500 bình lính, có đủ máy bay, đại bác, cơ giới vào Điện Hoà đã đưa đến kết quả…không đi đến đâu cả”.

        Chiến dịch Hoàng Diệu kết thúc thắng lợi, bộ đội và nhân dân bảo về được mùa lúa ở Điện Bàn, vựa thóc của tỉnh và của Liên khu 5, phối hợp chặt chẽ với chiến dịch Biên Giới, buộc địch phải rút năm tiểu đoàn Âu-Phi ở Bắc Bộ vào tăng cường cho mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, thực hiện ý định của cấp trên về phân tán lực lượng địch trên chiến trường Bắc Bộ.

        Sau Chiến dịch Hoàng Diệu, Trung đoàn 108 lại trở về Quảng Ngãi tiếp tục vận động quần chúng dẹp loạn ở Sơn Hà, đồng thời chuẩn bị đánh phân tán tiểu khu Công Plông- căn cứ chỉ huy, tiếp tế, nuôi dưỡng bọn phiến loạn, một trong những cứ điểm kiên cố trong tiểu khu Kon Tum của địch cùng các cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, Công Rãy hình thành tuyến cứ điểm vững chắc bảo vệ Kon Tum, uy hiếp miền tây Quảng Ngãi. Đây là trận đánh công kiên đầu tiên do Trung đoàn 108 đảm nhận, sau khi tiếp thu được kinh nghiệm trong chiến dịch Biên Giới, đánh dấu một sự chuyển biến mới về chiến lược, chiến thuật của chiến trường toàn quốc nói chung cũng như của Liên khu 5 nói riêng.

        Có thể nói, chiến trường Quảng Nam-Đà nẵng là nơi tôi gắn bó lâu nhất (1946-1950) trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu 5, để lại cho tôi nhiều kỷ niệm và nhiều bài học sâu sắc.

        Phát huy những kinh nghiệm cơ bản, vô giá của cuộc vận động cách mạng tháng Tam, nhất là những kinh nghiệm hoạt động trong lòng Hà Nội trước tháng tám năm 1945, từ lúc làm Chính trị viên Đại đoàn 31, Chính trị viên Uỷ ban Quân sự đến Chính uỷ Trung đoàn chủ lực 108, có khi là người tối hậu quyết định của mặt trận, tôi dã vượt qua mọi khó khăn thử thách vươn lên làm tròn nhiệm vụ trong thời kỳ mới của cách mạng. Cũng chính từ mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, thực hiện đường lối, phương châm, phương thức chiến tranh của Trung ương Đảng, Tổng Chính uỷ và Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Phạm Văn Đồng, của Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 5, tôi rút được nhiều bài học mới về chiến lược, chiến thuật, về chỉ huy chiến đấu, nhất là nâng cao trình độ công tác đảng, công tác chính trị, công tác xây dựng cơ sở phát động nhân dân chiến tranh, xây dựng lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương… Những bài học đó có giá trị rất lớn khi tôi về làm chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh Liên khu 5 cũng như cả thời gian sau này trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

        Quảng Nam-Đà Nẵng là cửa ngõ của miền Trung Đông Dương, là chiến trường chính của Liên khu 5, có địa hình địa thế tiêu biểu của cả nước: vừa có đồng bằng, rừng núi; vừa có đô thị, hải cảng lớn, nhiều tuyến giao thông huyết mạch quan trọng cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường không; vừa có vùng bị địch tạm chiếm vừa có vùng tự do; là nơi có truyền thống yêu nước chống thực dân Pháp từ ngày chúng nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta (1858) và trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chín năm, là nơi  trung đoàn trưởng thành vượt bậc, vừa có những chiến công vang dội, vừa có phong trào nhân dân, du kích chiến tranh mạnh nhất của Liên khu 5 đã từng làm cho quân thù hoảng sợ. Tên Đờ-bát-tít-ty, chỉ huy mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng của quân Pháp đã phải thú nhận một sự thật cay đắng với chúng trên chiến trường này, một chiến trường không chỉ có bộ đội đánh giặc mà toàn dân đều đánh giặc và phát triển đến mức độ cao: “Ở đây, mỗi người dân là một bức tường, thậm chí đến đứa trẻ cũng là cái mắt lưới đáng sợ”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:31:14 am

        Chiến tháng Biên Giới (10/1950) có ý nghĩa chiến lược quan trọng đánh dấu bước trưởng thành của quân đội ta, buộc thực dân Pháp đứng trước tình thế “ tiến thoái lưỡng nan. Nhưng với bản chất ngoan cố và tham vọng điên cuồng, dựa vào viện trợ của Mỹ, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” đưa Đờ lat Đờ Tát-xi-nhi, Tư lệnh lục quân khối Tây âu sang làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm cao uỷ Pháp tại Đông Dương hòng xoay chuyển tình thế.

        Để phá kế hoạch của Đờ Tát-xi-nhi, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi, sau Đại hội Đngr toàn quốc lần thứ II (2/1951), Ban Chấp hành Trung ương Đảng (mở liên tiếp bốn cuộc họp) chủ trương:

        1. Ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

        2. Phá tan kế hoạch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch.

        3. Bồi dưỡng sức kháng chiến của nhân dân, xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương, thực hiện cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến.

        Về quân sự, Trung ương Đảng vạch ra phương châm tác chiến chung là tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; ở Bắc Bộ nâng vận động chiến lên vị trí chủ yếu đồng thời phát triển công kiên chiến; các chiến trường khác đẩy mạnh du kích chiến, kiềm chế địch và phối hợp với chiến trường chính có hiệu quả hơn, học tapạ đánh vận động trong những điều kiện thuận lơi; phương châm xây dựng là nâng cao chất lượng của bộ đội chủ lực bằng cách tiến hành chỉnh huấn chính trị, thực hiện biên chế, giải quyết tốt vấn đề cung cấp, đẩy mạnh việc xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích, đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội.

        Trung ương Đảng đặt công tác chỉnh Đảng và chỉnh quana là công tác trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang. Yêu cầu chỉnh quân là nâng cáo giác ngộ giai cấp và giác ngộ dân tộc cho cán bộ chiến sỹ, quán triệt quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh kết hợp với nâng cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật, chăm lo đời sống, bồi dưỡng và mạnh dạn cất nhắc cán bộ công nông, nâng cao hơn nữa chất lượng chiến đấu của bộ đội ta. Yêu cầu của chỉnh Đảng là củng cố lập trường vô sản cho cán bộ, đảng viên, thống nhất tư tưởng hành động trên cơ sở quán triệt quan điểm bồi dưỡng sức dân, chống tư tưởng tiểu tư sản và ảnh hưởng của các tư tưởng phi vô sản khác; chống các biểu hiện “tả khuynh”, “hữu khuynh”, không phân biệt rõ bạn, thù, ỷ lại, ngại đánh lâu dài, kém ý thức tổ chức và kỷ luật, quan liêu, mệnh lệnh, hủ hoá; làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ của giai đoạn mới.

        Để chuẩn bị triển khai chủ trương trên đây trong toàn Đảng, toàn quân, Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng Chính uỷ tổ chức các lớp thí điểm và bồi dưỡng phương pháp tổ chức thực hiện cho một số cán bộ chủ chốt của cơ quan Trung ương, địa phương, các quân khu, đại đoàn.

        Tháng 6 năm 1951, tôi được Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu cử ra Việt Bắc dự lớp chỉnh huấn và tham gia chiến dịch Hoà Bình để rút kinh nghiệm đánh lớn ở chiến trường chính. Tháng 4 năm 1952, tôi trở về liên khu 5 và được Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Liên khu  giao phụ trách côgn tác chỉnh huấn cho cán bộ tiểu đoàn và đại đội; số cán bộ chủ chốt của Bộ Tư lệnh Liên khu và các trung đoàn thì dự các lớp chỉnh Đảng do liên khu uỷ mở. Đợt chỉnh huấn kéo dài từ giữa năm 1952 đến giữa năm 1953 cho toàn thể cán bộ và chiến sỹ trong lực lượng vũ trang liên khu.

        Cùng với kết quả của chỉnh huấn quân sự, việc chỉnh huấn chính trị đối với cán bộ, chiến sỹ trong các đơn vị của Liên khu lần này thực sự đã đem lại kết quả rất tốt cả về quan điể, nhận thức và phương pháp tư tưởng đối với cách mạng dân tộc dân chủ, nhất là đối với vai trò của nông dana và cách mạng ruộng đất, nhận thức rõ hơn về đường lối kháng chiến của Đảng ta nhất là quan điểm trường kỳ kháng chiến, về tư tưởng tự lực cánh sinh... đồng thời cũng được nâng cao một bước về trình độ chiến lược, chiến thuật, về kỹ thuật đánh công kiên, đánh vận động quy mô lớn, đánh trong điều kiện chuẩn bị gấp hoặc không có chuẩn bị và một số vấn đề cơ bản về nghệ thuật chiến dịch cho cán bộ trung cấp... trong điều kiện cụ thể của chiến trường Liên khu 5.

        Qua học tập, tinh thần yêu nước, lòng yêu nhân dân lao động, chí căm thù địch được nâng cao, càng thắt chặt mối quan hệ đoàn kết giữa cán bộ và chiến sỹ, đoàn kết giữa bộ đội với nhân dân, biến thành quyết tâm trong học tập cũng như rèn luyện trên thao trường. Cán bộ, chiến sỹ đều ra sức suy nghĩ, tìm tòi học tập để đảnh chắc thắng trong những điều kiện khó khăn phức tạp và ác liệt hơn trước.

        Với phương châm nghiêm túc, thận trong, lấy giáo dục làm chính, không truy bức tư tưởng kết hợp với kiểm tra điều chỉnh có trọng điểm, các đơn vị lần lượt tiến hành chỉnh đốn về tổ chức. Các cấp uỷ Đảng cũng như bộ máy quân sự các cấp được kiện toàn. Hàng ngàn cán bộ và chiến sỹ xuất thân từ thành phận công, nông trải qua rèn luyện thử thách được kết nạp vào Đảng, được giao những nhiệm vụ quan trọng hơn. Những cán bộ, chiến sỹ xuất thân từ tầng lớp trí thức, tiểu tư sản có thành tích trong chiến đấu cũng được chú ý cất nhắc, không thành phần chủ nghĩa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:32:11 am

        Kết quả đó cùng với việc thi hành Nghị Quyết 4 của Trung ương Đảng (1/1953) về thực hiện chính sách ruộng đất ở vùng tự do đã có tác dụng to lớn về chính trị, tư tưởng, về đẩy mạnh các mặt công tác đặc biệt trong nghệ thuật, kỹ thuật chỉ huy chiến đấu trong Đông Xuân 1953-1954. Sau bảy tháng chiến đấu liên tục, quyết liệt, quân ta đã chiến thắng vang dội trên chiến trường Bắc Tây Nguyên, đập tan tham vọng lấn chiếm vùng tự do Liên khu 5 trong chiến dịch Át-lăng mà không phải dừng lại để chỉnh huấn thêm.

        Cuối năm 1952, sau thời gian về phục trách công tác chỉnh huấn của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, tôi được Bộ Chính trị quyết định bổ sung vào Liên khu uỷ và được phân công làm trưởng phòng chính trị (nay là chủ nhiệm chính trị) Liên khu 5, tiếp tục tham gia Đảng uỷ quân sự Liên khu. Những kinh nghiệm rút ra từ việc trực tiếp lãnh đạo chỉ huy cuộc chiến đấu ở mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng trong những năm 1946-1950 và qua chỉ đạo công tác chỉnh huấn chính trị trong năm 1952 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang Liên khu 5 thời gian sau đó.

        Sau tám năm liên tiếp bị thất bại, tháng 5 năm 1953, thực dân Pháp cử Na-va sang thay Đờ Lát Tát-xi-nhi làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Na-va vạch kế hoạch lớn hòng xoay chuyển tình thế, giành thắng lợi có tính chất quyết định, kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng. Kế hoạch êu rõ là trong Thu đông 1953 và Xuân 1954, giữ vững thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hành tiến công chiến lược để bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, xoá bỏ vùng tự do gồm các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên của Nam Trung Bộ.

        Tháng 9 năm 1953, sau khi phân tích cụ thể cục diện chiến tranh ở đông Dương và âm mưu mới của Pháp-Mỹ, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta nhận định: Kế hoạch Na-va tuy có gây cho chúng ta những khó khăn mới, nhưng bản thân nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn và có nhiều nhược điểm lớn. Bộ Chính trị chủ trưởng mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bắng ba đòn tiến công lớn:

        1. Tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, phốihợp vơi quân giải phóng Lào giải phóng Phong-xa-lỳ.

        2. Phối hợp với quân giải phóng Lào và quân giải phóng Cam-pu-chia, mở rộng vùng giải phóng tới sau lưng Sài Gòn, đánh thông đường chiến lược Nam Bắc Đông Dương.

        3. Giành địa bàn chiến lược Tây Nguyên, phá tan âm mưu bình định miền Nam của địch.

        Trong lúc đó, trên các mặt trận phía sau lưng địch, trước mắt đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố và phát triển các căn cứ du kích và khu du kích, phá tan kế hoạch xây dựng nguỵ quân và dồn dân của địch. Tiếp theo, tuỳ diễn biến của tình hình mà sử dụng một bộ phận chủ lực tiến sâu vào sau lưng địch phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh đấu tranh phá kế hoạch “bình định” của địch, thu hẹp vùng tạm chiếm, phối hợp với cuộc tiến công trên mặt trận chính diện.

        Ở Nam Trung Bộ, từ mùa Hè 1953, Na-va ráo riết tăng cường lực lượng đánh phá các khu du kích của ta hòng ổn định phía sau trước khi tập trung lực lượng đánh ra vùng tự do; ráo riết tiến hành chiến tranh tâm lý gây hoang mang, tung gián điệp, biệt kích xâm nhập, móc nối nhen nhóm lại các tổ chức phản động, xây dựng các tổ chức vũ trang phản động chuẩn bị bạo loạn trong vùng tự do.

        Cuối năm 1953, để chuẩn bị chiến dịch Át-lăng đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5, quân Pháp gấp rút đưa các binh đoàn cơ động từ Pháp sang, từ Nam Triều Tiên về, từ Bình-Trị-Thiên vào, từ Nam Bộ ra cùng với các binh đoàn và tiểu đoàn tại chỗ hợp thành một lực lượng tập trung lên tới 40 tiểu đoàn, một lực lượng lớn chưa từng có ở chiến trường Đông Dương vào thời điểm đó.

        Sau khi phân tích toàn bộ tình hình địch, ta, mối quan hệ giữa chiến trường đồng bằng và Tây Nguyên, mối quan hệ giữa tiến công lên Tây Nguyên và bảo vệ vùng tự do Liên khu 5, Bộ Chính trị đồng ý kế hoạch của Tổng Quân uỷ trong kế hoạch tác chiến đông Xuân 1953-1954 ở chiến trường Liên khu 5 là: “Trong Đông Xuân này, Liên khu 5 cần tập trung lực lượng tiến công lên Tây Nguyên, phát triển lên Tây Nguyên phải coi là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, nhiệm vụ củng cố vùng tự do là nhiệm vụ quan trọng thứ hai”.

        Do chưa nhận thức được hết ý nghĩa chiến lược của việc tiến công lên Tay Nguyên và trước âm mưu đánh chiếm vùng tự do của địch, trong cán bộ, nhân dân, kể cả một bộ phận cán bộ lãnh đạo phân vân, lo ngại: “Nếu đánh lên Tây Nguyên mà không phá vỡ được thế trận của địch, không giành được một khu vực có giá trị chiến lược, mà lại để mất vùng tự do; hoặc ta chưa kịp đánh lên Tây Nguyên mà địch đã tiến công ra vùng tự do thì tình hình sẽ trở nên phức tạp”. Từ đó có ý kiến cho rằng: cần phải tập trung lực lượng củng cố căn cứ địa, bảo vệ vùng tự do, xem nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do Nam-Ngãi-Bình-Phú là quan trọng hơn cả.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:32:49 am

        Thấm nhuần và nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Trung ương, Hội nghị Liên kh uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 5, đầu tháng 12 năm 1953, quyết định:

        - Tập trung toàn bộ chủ lực cho nhiệm vụ tiến công lên Tây Nguyên. Phải nắm chắc địch, ta, dự kiến mọi tình huống có thể xảy ra, đánh chắc thắng và thắng ngay từ trận đầu, kiên quyết đạt cho được mục tiêu đã đề ra.

        - Giao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do cho lực lượng địa phương, địch đánh đến địa phương nào địa phương đó tự đối phó, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, kìm chân không cho chúng nhanh chóng mở rộng phạm vi kiểm soát, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do địch gây ra. địa phương nào địch chưa đến, phải tích cực động viên nhân dân phục vụ tiền tuyến.

        - Các chiến trường sau lưng địch tích cực đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh giao thông, bao vây đồn bốt; tổ chức đánh mạnh không cho địch rút lực lượng đi nơi khác, đồng thời ra sức tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng du kích, vùng giải phóng.

        Liên khu uỷ phân công anh Nguyễn Chánh-Bí thư Liên khu uỷ, Chính uỷ kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Liên khu 5 làm Bí thư Đảng uỷ kiếm Chính uỷ và Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ huy mặt trân Tây Nguyên. Tôi và anh Nguyễn Đôn-Tham mưu trưởng quân khu lo thường trực chỉ huy ở Bộ Tư lệnh Liên khu và phụ trách chống chiến dịch Át-lăng của địch ở vùng tự do. Với nhận thức tiến công lên Tây Nguyên và bảo vệ vùng tự do là hai nhiệm vụ song song mật thiết của chiến dịch, tuy điều kiện khẩn trương, phân tán nhưng Bộ Chỉ huy chiến dịch vẫn cố gắng làm việc tập thể. Một thời gian sau, anh Nguyễn Đôn cũng lên Tây Nguyên cùng với anh Nguyễn Chánh.

        Liên khu uỷ điều động 200 cán bộ tỉnh, huyện tăng cường cho bộ máy lãnh đạo dân công phục vụ mặt trận, đồng thời cũng điều động gần 200 cán bộ của Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu về các tỉnh tự do cùng cấp uỷ, chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng lực lượng, xây dựng làng chiến đấu, bố phòng sẵn sàng đánh trả các cuộc tiến công của địch.

        Trước khi đi vào cuộc chiến đấu, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong quân đội cũng như các địa phương, các đơn vị chủ lực đã xác định được vai trò, vị trí của bộ đội chủ lực trong chiến dịch; lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương cũng đã sẵn sàng; các tiểu đoàn của tỉnh và đại đội của các huyện vùng tự do được tăng cường và củng cố, lực lượng dân quân du kích được chuẩn bị thêm cả về tinh thần tư tưởng, kỹ-chiến thuật và kế hoạch đối phó với bộ đội địa phương xây dựng thế trận chiến đấu; nam nữ thanh niên và trung niên tham gia dân công hoả tuyến; số còn lại, kể cả các cụ phụ lão, nông dân lớn tuổi, các mẹ, các chị mỗi người một việc nô nức hối hả chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho chiến trường và dự trữ lực lượng cho cuộc chiến đấu ở địa phương. Ai nấy đều hồ hởi, quyết tâm.

        Trong khi thế chiến thắng của quân và dân cả nước trên khắp các chiến trường, để mở màn chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, ngày 1 tháng 1 năm 1954, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 phát động phong trào thi đua giết giặc lập công, giành cờ thưởng luân lưu “Quyết chiến, quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn lực lượng vũ trang liên khu.

        Theo đúng kế hoạch, từ đầu tháng 1 năm 1954, trên các chiến trường sau lưng địch, quân ta lần lượt nổ súng, hoạt động đều, đánh trúng một số mục tiêu chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn của địch, nhưng vẫn chưa đủ sức buộc địch phải tập trung quân đối phó.

        Ngày 20 tháng 1, quân Pháp đưa 22 tiểu đoàn  trong đó có bốn binh đoàn cơ động: số 10, 100, 41, 42 và hai tiểu đoàn dù nguỵ đánh ra Phú Yên.

        Từ đầu tháng 1 năm 1954, Tỉnh uỷ Phú Yên đã chủ động lãnh đạo các ngành, các cấp khẩn trương chuẩn bị, nêu cao quyết tâm chiến đấu đồng thời phát động phong trào thanh niên đi bộ đội, tham gia dân quân du kích, nhân dân thi đua hoàn thành nộp thuế nông nghiệp, góp quỹ nuối du kích, tham gia phá hoại cầu đường, nhà kiên cố trên trục đường lớn, xây dựng làng chiến đấu, dời kho lúa, gạo, muối xa quốc lộ 1, lên miền tây hoặc ra phía bắc của tỉnh.

        Dựa vào làng chiến đấu và thế trận đã chuẩn bị sẵn, quân và dân Phú Yên chủ động đánh địch ngay từ lúc chúng mới đến, liên tục chặn đánh quyết liệt các cuộc tiến công, các đoàn xe vận tải tiếp tế của địch, đánh vào sân bay Tuy Hoà, gây cho chúng nhiều thiệt hại; loại khỏi vòng chiến đấu gần 800 tên địch sau 10 ngày vào trận.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:07:40 pm

        Chia lửa với Phú Yên, quân và dân Khánh Hoà, Đắc Lắc liên tục tập kích, quấy rối đồn bốt, đánh phá các đường giao thông tiếp vận và các đưon vị phía sau cánh quân địch trên đường đến Tuy Hoà, diệt và bắt hàng trăm tên.

        Mặc dù phải chuẩn bị chiến đấu, trong mấy tháng cuối năm 1953, tỉnh Phú Yên vẫn huy động được 5 nghìn dân công và hàng trăm ngựa vận tải phục vụ chiến trường Đắc Lắc, Khánh Hoà.

        Sự phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu nhịp nhàng, chặt chẽ giữa quân và dân các tỉnh Phú Yên, Đắc Lắc, Khánh Hoà đã tạo thế trận liên hoàn, vừa chặn đánh địch ở phía trước, vừa tiến công địch ở phía sau, khiến cho quân Pháp gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Chúng phải mất đúng 26 ngày mới tạm thời kiểm soát được thị xã Tuy Hoà và một số điểm trên đường số 1 thuộc tỉnh Phú Yên.

        Địch vừa tiến công ra Phú Yên được một ngày, thì hôm sau (21/1) Bộ Chỉ huy chiến dịch họp, nhận thấy phận lớn lực lượng cơ động của địch đã tập trung ở đồng bằng Phú Yên, nếu đòn tiến công của ta ở phía tây không đủ mạnh, không có sức uy hiếp lớn dẫn đến sự sụp đổ thế trận của chúng thì không thể buộc chúng phải đưa lực lượng về chống đỡ. Bộ Chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm phải tiêu diệt cả ba cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, Công Rãy trong một đêm, đập tan toàn bộ cụm phòng ngự hướng đông bắc Kon Tum của địch trong đó Măng Đen là cứ điểm kiên cố nhất. Đêm 27 tháng 1, chủ lực ta bắt đầu nổ súng đập tan cụm phòng ngự của địch ở Bắc Kon Tum, trong đó trận chiến đấu ở Măng Đen là gay go quyết liệt nhất đến 7 giờ sáng ngày 28 mới kết thúc.

        Đòn tiến công sấm sét mở đầu chiến dịch của ta đã gây chấn động mạnh đối với binh lính địch trong các đồn còn lại. Tiểu khu Kon Tum hối hả xin quân tiếp viện.

        Tranh thủ thời gian địch chưa có viện binh, ta đẩy nhanh tốc độ tiến công. Sau bảy ngày, vừa đánh vừa đuổi sát gót địch, ta đã phá vỡ toàn  bộ thế trận của địch, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng bắc Kon Tum.

        Cũng trong thời gian này, lực lượng vũ trang của Lào và quân tình nguyện Việt Nam đã giải phóng toàn bộ cao nguyên Bô-lô-ven nối liền với bắc Kon Tum và vùng tự do Nam-Ngãi. Thế trận phòng thủ Bắc Tây Nguyên và Hạ Lào của địch bị phá vỡ, chiến trường ở Đông Dương có nguy cơ bị chia cắt. địch buộc phải bỏ thị xã Kon Tum đưa quân về phòng thủ Plây Cu, đồng thời tạm dừng cuộc hành quân Át-lăng để đưa phần lớn lực lượng ở Phú Yên lên tăng cường phòng thủ tuyến đường 19 và nam Tây Nguyên.

        Ngày 7 tháng 2 năm 1954, thị xã Kon Tum và tòn tỉnh Kon Tum hoàn toàn được giải phóng.

        Với thắng lợi này, ta đã dồn địch từ thế tranh thủ tiến công để giành chủ động sang thế phải quay về phòng ngự bị động chống đỡ.

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh gửi thư nêu rõ: “Thắng lợi Kon Tum là một thắng lợi lớn của ta trên chiến trường miền Nam, nó cũng là một trong những thắng lợi to lớn của ta trong mùa Xuân này trên chiến trường toàn quốc”.

        Giữa tháng 2 năm 1954, Thường vụ Liên khu uỷ và Đảng uỷ chiến dịch họp kiểm điểm tình hình bước đầu của chiến dịch, đã nhận định: Về địch, sau khi buộc phải rút khỏi Kon Tum đã đưa một bộ phận lực lượng ở đồng bằng lên để củng cố và tổ chức lại hệ thống phòng thủ ở Tây Nguyên, hình thành hai thế bố trí vừa tạo cho địch khả năng phòng thủ vững chắc đồng thời có thể nhanh chóng chuyển sang tiến công một khi đã ngăn chặn được cuộc tiến công của ta. Rõ ràng, quân địch vẫn chưa từ bỏ “Kế hoạch Át-lăng”.

        Về ta, tuy đã giành được thắng lợi lớn, nhưng do không tiêu diệt được cánh quân địch tháo chạy từ Kon Tum về Plây Cu, nên vẫn chưa tạo được sự thay đổi só ý nghĩa quan trọng về so sánh lực lượng giữa ta và địch, ta vẫn chưa giành được thế chủ động hoàn toàn về chiến dịch.

        Từ tình hình đó, hội nghị quyết định khẩn trương thực hiện mấy công việc cấp bách:

        - Tổ chức một đợt tiến công ngắn nhưng thật mạnh vào cụm phòng thủ củaquân Pháp ở thị xã Plây Cu và đường 19, kìm không cho địch rút lực lượng ra để tiến công nơi khác.

        - Bổ sung và tổ chức thêm lực lượng mới, tăng lực lượng cơ động tiến công địch.

        - Nhanh chóng ổn định vùng mới giải phòng, sẵn sàng đánh địch lấn chiếm lại. Tăng cường chỉ đạo chiến đấu và chuẩn bị chiến đấu ở vùng tự do.

        Theo kế hoạch đã vạch ra, đêm 16 rạng 17 tháng 2, cùng một lúc, quân ta dồn dập tiến công vào tuyến phòng thủ vòng ngoài đồng thời đánh sâu vào trung tâm thị xã Plây Cu. Đắc Đoa là một cứ điểm kiên cố do hai đại đội của Binh đoàn 100 đóng giữ, chúng có tam khẩu pháo 105 ly yểm trợ, là mục tiêu chủ yếu của đợt tiến công này. Sau tám giờ chiến đấu quyết liệt, đến khoảng 5 giờ sang 17 tháng 2, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm, xóa sổ hai đại đội địch, bắt sống 150 tên lính Âu-Phi. Trong thị xã, bộ đội ta đánh phá kho tàng, cơ quan chỉ huy, diệt hàng trăm tên địch ở nam đồn điền Biển Hồ, đánh chặn các đoàn xe trên đường 19.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:11:19 pm

        Vừa chiến đấu, ta vừa bổ sung lực lượng và xây dựng thêm đơn vị mới. Trong vòng một tháng, Bộ Tư lệnh Liên khu đã tổ chức xây dựng Trung đoàn 96 và Tiểu đoàn chủ lực 375 (độc lập). Đến tháng 3 năm 1954, Bộ Tư lệnh Lieê khu 5 lại được Bộ Quốc phòng tăng cường một tiểu đoàn ĐKZ-57mm. Như vậy là sau hơn một tháng chiến đấu, lực lượng chủ lực ta mạnh hơn khi bắt đầu tiến công lên Tây Nguyên. Các tỉnh vùng tự do (kể cả Phú Yên) mặc dù phải đối phó với chiến dịch Át-lăng, vẫn sẵn sàng đóng góp cho chiến trường chính những đại đội nòng cốt của mình (riêng Quảng Nam-Đà Nẵng đóng góp Tiểu đoàn 29), đồng thời tiếp tục củng cố và xây dựng thêm lực lượng để chiến thắng âm mưu lấn chiếm của địch.

        Vừa chiến đấu, ta vừa tranh thủ làm công tác binh-địch vận; bắt, gọi hàng bọn tề điệp, giải tán các tổ chức vũ trang địa phương của địch, thu vũ khí, thiết lập chính quyền cách mạng từ tỉnh đến cơ sở, tổ chức tiếp tế cho nhân dân, ổn định tình hình vùng giải phóng. Trong khi các đơn vị chủ lực dồn dập tiến công địch trên Tây Nguyên, thì ở dưới đồng bằng, quân và dân Phú Yên vẫn tiếp tục chặn đánh tiêu hao, kìm chân địch. Bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân các huyện Đồng Xuân, Tuy An làm thêm hàng ngàn hầm chông, cạm bẫy, đặt mìn ở khắp thôn xóm và trên mọi ngả đường làm hàng trăm lính địch bị chết, bị thương khi đánh vào thị trấn La Hai. Binh đoàn cơ động số 10 của địch bị bộ đội địa phương và nhân dân diệt trên 300 tên trên đoạn đường từ Tuy Hoà đi Chí Thạnh. Vừa đánh địch tràn đến địa phương, nhân dân Phú Yên còn đưa hàng trăm con em đi bộ đội, thay thế Đại đội 392 được Bộ Tư lệnh Liên khu điều đi thành lập tiểu đoàn 375, đóng góp hàng trăm tấn lương thực và cử hàng ngàn dân công phục vụ cho bộ đội chủ lực đang chiến đấu ở chiến trường Đắc Lắc.

        Tỉnh Quảng Nam, vừa đánh địch ở vùng tạm bị chiếm, vừa bao vệ vùng tự do, xây dựng một tiểu đoàn tập trung khác thay thế cho Tiểu đoàn 29 bổ sung cho Trung đoàn 108 và huy động hàng vạn dân công phục vụ chiến trường Bắc Kon Tm và Hạ Lào.

        Tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Bình Định xây dựng thêm mười đại đội độc lập và hai tiểu đoàn tập trung (ngaòi hai đại đội đã bổ sung cho đơn vị khác của Bộ Tư lệnh Liên khu), huy động được 470.000 lượt dân công phục vụ chiến trường Bắc Tây Nguyên.

        Phong trào ủng hộ tiền tuyến và giúp đỡ gia đình bộ đội, gia đình có người đi dân công được phát động rộng rãi và thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Ngoài thuế nông nghiệp, nông dân còn tự nguyện đóng góp hàng ngàn tấn lương thực phụ vụ tiền tuyến và nuôi lực lượng vũ trang địa phương.

        Để phối hợp giữa kế hoạch tiến công lên Tây Nguyên và bảo vệ vùng tự do, Bộ chỉ huy chiến dịch điều Trung đoàn 803 tiến vào khu tam giác Plây-Cu-Cheo Reo-An Khê, đánh mạnh vào sau lưng cụm quân địch trên đường 19, tiêu diệt hệ thống đồn bốt địch vừa mới thiết lập, uy hiếp mạnh cánh quân địch đánh ra Bình Định theo trục đường 1; Trung đoàn 108 và Trung đoàn 96 cùng lực lượng quân đổ bộ Quy Nhơn, không cho hai cánh quân này liên thông với nhau. Trong lúc đó, địch lại chủ quan cho rằng chủ lực của ta trên chiến trường chính Bắc Bộ không có khả năng đánh lớn, cuộc tiến công Đông Xuân 1953-1954 của ta đã kết thúc, nên cuối tháng 2 năm 1954 Na-va ra lệnh đưa binh đoàn cơ động dù, đơn vị dự bị chiến lược tinh nhuệ của chúng từ Hà Nội vào tham gia bước hai của chiến dịch Át-lăng nhằm giành lại thế chủ động chiến trường.

        Ngày 12 tháng 3, tám tiểu đoàn quân Pháp, nòng cốt là binh đoàn cơ động số 10 bắt đầu đổ bộ lên Quy Nhơn, đồng thời binh đoàn cơ động số 41 và bình đoàn cơ động số 42 từ Phú Yên vượt đèo Cù Mông và đường số 6 đánh ra Diêu Trì, các binh đoàn: 11, 21, 100 và binh đoàn dù từ An Khê kéo ra chiếm đầu cầu Thượng An, chuẩn bị đánh xuống Phú Phong (Bình Định).

        Với 18 tàu thuỷ, 13 máy bay, 230 xe cơ giới, 8 tiểu đoàn Pháp vừa mới đổ bộ lên Quy Nhơn, thì ngày hôm sau (13/3) chủ lực ta trên chiến trường chính Bắc Bộ tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau năm ngày chiến đấu quyết liệt, quân ta tiêu diệt hoàn toàn phân khu Bắc. Ngày 16 tháng 3, binh đoàn cơ động dù đang ở An Khê được lệnh hối hả ra Hà Nội.

        Cuộc chiến đấu ở nam Bình Định diễn ra gay go quyết liệt. Ở đây, quân Pháp tập trung những đơn vị tinh nhuệ nhất với sự chi viện hoả lực của không quân, hải quân, pháo binh và cơ giới mạnh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:13:30 pm

        Dưới sự lãnh đạo kiên quyết của Tỉnh uỷ Bình Định, lại có thêm kinh nghiệm đánh địch ở Phú Yên, quân dân dọc đường số 1 lợi dụng rừng núi hiểm trở, bí mật bám sát đường, đào hầm “độn thổ” liên tục đánh vào sườn và sau lưng địch; quân và dân Quy Nhơn triệt để phá hoại nhà cửa, tổ chức các tổ chiến đấu bí mật, bố trí hầm chông, bãi mìn ở những nơi dự kiến địch sẽ đi qua hoắc dừng lại. Một bộ phận bộ đội đặc công của Bộ Tư lệnh Liên khu đào hầm bí mật, lót sẵn vũ khí, lương thực, chuẩn bị nằm lại trong lòng địch khi chúng đánh tràn qua. Chỉ trong vòng ba ngày (12 đến 14 tháng 3) bộ đội địa phương và dân quân du kích đã chặn đánh quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu trên 550 tên địch, trong đó có gần 300 tên chết và bị thương vì chông, mìn.

        Bộ chỉ huy chiến dịch điều Tiểu đoàn 30 của Trung đoàn 96 chuyển về chiến đấu ở Quy Nhơn; thành lập bộ chỉ huy mặt trận để thống nhất chỉ huy các lực lượng.

        Chiến sự mỗi ngày một quyết liệt. Dựa vào uy thế của binh lực và hoả lực quân Pháp ào ạt đánh chiếm một loạt vị trí ngoại vi thị xã và tiến công ra đến Phú Tài, Phước Hải... Quân và dân Quy Nhơn, Tuy Phước ngày đên liên tiếp chặn đánh, đập tan các cuộc càn quét của địch vào cầu Sông Ngang, Trường Úc, tập kích tiêu diệt các đơn vị địch ở Lương Nông, Xóm Bảy. Đêm 3 tháng 4, lực lượng đặc công lót sẵn ở Quy Nhơn tập kích vào “Trung Hoa hý viện” diệt hơn 200 tên địch.

        Bị đánh mạnh và bị rút bớt lực lượng quay về đối phó với các chiến trường khác, ngày 4 tháng 4, quân Pháp buộc phải rút bỏ các đồn bốt mới đóng ở phía đông Tuy Phước để quay về cố thủ thị xã Quy Nhơn. Trong lúc đó, cánh quân địch trên đường 19, sau khi chiếm được Thượng An cũng buộc phải dừng lại vì binh đoàn dù đã phải trả về Hà Nội, binh đoàn 100 mất sức chiến đấu, đang lo củng cố. Khả năng nối thông đường 19 của địch không còn nữa. Bộ chỉ huy chiến dịch ta liền ra lệnh cho hai Trung đoàn 108 và 96 đẩy mạnh tiến công, tiêu diệt cứ điểm đầu cầu Thượng An, tiến tới đập nát cánh quân phía tây của địch.

        Ngày 29 tháng 3 vừa đánh tan cánh quân tuần tiễu của địch, tiến công và bắt sống gần hết một đại đội tiếp viện của địch thì đêm 30 tháng 3, Tiểu đoàn 19 tiêu diệt căn cứ địch ở Thượng An trước khi trời sáng. Giữa lúc quânđịch còn lúng túng đối phó, thì hai Trung đoàn 108 và 96 tung hết lực lượng bám sát mặt đường, dồn dập tiến công, đánh tê liệt hoàn toàn con đường vận chuyển huyết mạch của đich. Tuyến phòng thủ đường 19 bị đứt tung, địch buộc phải đưa binh đoàn cơ động 100 vừa mới được củng cố ra tăng cường. Từ giữa tháng 5 năm 1954, ta hoàn toàn làm chủ đường 19, quân Pháp buộc phải dùng máy bay tiếp tế cho An Khê và các đồn lẻ khác.

        Kìm chân cánh quân Quy Nhơn, đập nát cánh quân trên đường 19 của địch, thắng lợi to lớn đó của quân và dân Liên khu 5 đã đẩy quân Pháp trên chiến trường Nam Trung Bộ lùi vào thế phòng ngự bị động. Quyền chủ động trên chiến trường thuộc về ta.

        Ở phía nam đường 19, từ đầu chiến dịch, bộ đội địa phương và dân quân du kích cùng nhân dân liên tục diệt tề, trừ gian, phá vỡ các khu dồn dân và một số vị trí địch đang cắm sâu trong khu du kích, diệt đồn Đắc Pớt, đột nhập thị trấn Cheo Reo, diệt một số địch, phá một số xe cơ giới, phá vỡ một phần lứon bộ máy kìm kẹp của địch, mở rộng vùng du kích đến ven đường số 7. Trung đoàn 803, sau khi vượt qua đường 19, nhanh chóng tiêu diệt cứ điểm Plây Tàu-tiền đồn bảo vệ ngã ba đường số 7 và đường 14, đồng thời bố trí một đại đội cấưm sâu ven đường 1. Biết bộ đội chủ lực của ta đã vào Nam Tây Nguyên, địa bàn xung yếu nhưng đang sơ hở nhất của địch, bộ chỉ huy chiến dịch Át-lăng của địch phải gấp rút điều động binh đoàn 100 về đối phó giữ cứ điểm Plây Ring và đánh vào khu du kích Đắc Pớt, bảo vệ ngã ba đường 7 và 14. Trong vòng 12 ngày, Trung đoàn 803 liên tiếp đánh bốn trận lớnL: Trà Khê (10/4), Buôn Ma Nếp(12/4), Ai Nu (19/4), Cà Ting (21/4), phá vỡ hệ thống phòng ngự từ Cheo Reo đi Bà lá, cắt đứt đường 7, côlập chi khu Cheo Reo. Bộ chỉ huy quân khu Tây Nguyên của địch buộc phải rút binh đoàn 100 về Plây Cu để củng cố và đưa ba tiểu đoàn khác ra tăng cường bảo vệ ngã ba đường 7 và đường 14.

        Phối hợp với chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương bao vây Bà Lá và hoạt động mạnh ở Chư Đrăng, Đlây Ia. Chiến tranh du kích phát triển dọc đường 14 và đường 21. Cơ sở chính trị được mở rộng ở các đồn điền và ngoại vi thị xã Buôn Ma Thuột, phong trào ở Đắc Lắc bắt đầu phát triển.

        Thấy địa bàn chiến lược Nam Tây Nguyên bị ta uy hiếp mạnh, bộ chỉ huy chiến dịch Át-lăng buộc phải rút binh đoàn cơ động số 42 từ Bình định quay về ứng cứu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:20:11 pm

        Ở Phú Yên, từ ngày địch đánh ra đến lứuc đó vẫn chưa thấy chủ lực ta xuất hiện nên chúng rất sơ hở. Phối hợp với Trung đoàn 803 đang hoạt động ở Nam Tây Nguyên, được sự giúp đỡ tích cực của du kích và nhân dân, sau khi bí mật luồn vào sau cụm quân địch ở La Hai, ngày 6 tháng 3, Tiểu đoàn 375 táo bạo phục kích ngay tến đường 1, diệt gọn một đoàn xe 26 chiếc tại Phong Niên. Tiếp đến ngày 21 tháng 3, Tiểu đoàn 365 trong trận giáp địch trên đường hành quân Suối Cối đã mưu trí linh hoạt đánh phủ đầu lúc chúng chưa kịp triển khai, tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn ngự lâm quân số 1, sau 45 phút chiến đấu.

        Mất hai tiểu đoàn trong vòng nửa tháng, bộ chỉ huy chiến dịch Át-lăng của địch lại hốt hoảng báo động: “Chủ lực Việt Minh đã vào Phú Yên”.

        Thừa thắng xông lên, ngày 10 tháng 4, Tiểu đoàn 365 cùng lực lượng địa phương tập kích cụm quân nguỵ ở đèo Quán Cau (Tuy An) diệt hàng trăm tên. Ngày 21 tháng 4, vẫn là Tiểu đoàn 365 vượt sông Đà Rằng phối hợp với du kích tập kích diệt gọn một tiểu đoàn địch ngay tai Bàn Nham (Tuy Hoà), phát triển tiến công đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn thứ hai của địch tại cầu Bàn Thạch.

        Trước tình thế bị tiến công dồn dập, bộ chỉ huy quana Pháp rút binh đoàn cơ động số 41 từ Diêu Trì (Bình Định) quay về phòng thủ Tuy Hoà, thu hẹp phạm vị đóng quân. Đến đầu tháng 5 năm 1954, quân Pháp ở Phú Yên chỉ còn đóng tại bốn cụm: thị xã Tuy Hoà, La Hai, Chí Thạnh và Sông Cầu.

        Từ ngày địch đánh ra, quân và dân Phú Yên đã tự lực tự cường anh dũng bám đất, bám địch, kiên cường chặn đánh giam chân một phần tư lực lượng cơ động của địch, góp phần thuận lợi cho hướng Tây Nguyên tiến công tiêu diệt địch, giành thắng lợi lớn. Đến đây,  được sự hỗ trợ của chủ lực, chiến tranh du kích ngày càng phát triển mạnh. Bộ đội địa phương, du kích và nhân dân ngày đêm liên tục chặn đánh các toán quân tuần tiễu, các đoàn xe tiếp tế trên các đường 1, đường 6, đường 7. Mảnh đất mà quaâ Pháp đã phải trả giá bằng 3.000 sinh mạng binh sỹ và bị giam chân 10 tiểu đoàn mới tạm kiểm soát được, nay đang sụp đổ.

        Cuối tháng 3 năm 1954, Tỉnh uỷ Phú Yên mở hội nghị rút kinh nghiệm hơn hai tháng chiến đấu và bàn chủ trương đẩy mạnh cuộc chiến đấu ở địa phương, động viên sức người, sức của phục vụ cho chiến trường toàn Liên khu. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh uỷ, chỉ riêng tháng 4 năm 1954, Phú Yên đã huy động 50752 dân công, 751 ngựa và nhiều lương thực, thực phẩm phục vụ cho mắt trận Nam Tây Nguyên. Báo cáo sáu tháng đầu năm 1954 của Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh đã ghi: Vụ lúa tháng 3 đạt 11.842 mẫu, bằng vụ tháng 3 năm 1953, lúa tứ quý giao 2.866 mẫu; đến cuối tháng 5 năm 1954, thu 5.595 tấn lúa thuế nông nghiệp vaf 30,7 triệu đồng thuế công thương nghiệp. Từ cuối tháng 3 năm 1954, tình hình mọi mặt ổn định: chợ ta phục hồi, các luồng mậu dịch điều hoà, giá cả ổn định, các đường bưu điện liên tỉnh và các huyện hoạt động đều.

        Giữa lúc 40 tiểu đoàn cơ động của quân Pháp đang bị đánh tơi tả trên đường 19, Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nam Tây Nguyên thì quân và dân các tỉnh trong vùng sau lưng địch tranh thủ thời cơ thuận lợi vùng lên tiến công địch quyết liệt, liên tục và đều khắp.

        Ở Quảng Nam, Tỉnh uỷ chủ trương động viên sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến đồng thời tập trung lực lượng mở các đợt hoạt động sâu vào lòng địch, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, mở rộng căn cứ du kích, đưa phong trào vùng tạm bị chiếm và thành phố lên một bước mới. Trong ba tháng đầu năm, kết hợp tiến công quân sự và công tác binh vận, ta đã tiêu diệt và bức rút 48 cứ điểm và tháp canh, san bằng cứ điểm Non Nước, diệt đồng Tân Thái, Cổ Mân, Mỹ Thị, đánh hỏng cầu Đờ Lát ở Đà Nẵng, đánh mình lật nhào ba đoàn xe lửa quân sự, làm tê liệt đường sắt Đà Nẵng- Huế nhiều ngày trong tháng 4. Phong trào đấu tranh chống bắt lính lên mạnh đặc biệt là ở thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An đã giải thoát được hơn 1.000 thanh niên bị địch bắt lính, đồng thời kêu gọi được 1.400 nguỵ binh mang súng chạy sang hàng ngũ ta.

        Ở Khánh Hoà, chỉ trong hai tháng đầu năm 1954, du kích và bộ đội địa phương tiến công dồn dập quét sạch một mảng 44 cứ điểm và tháp canh, diệt 1.800 lính địch. Tháng 4 năm 1954, liên tiếp trong vòng nửa tháng, ta đã tiêu diệt chi khu Cầu Đúc, Lạc Ninh trên đường số 1,. tập kích trại huấn luyện Suối Dầu, tiêu diệt và bức rút bảy đồn ở Diên Khánh. Lính nguỵ ở các đồn Đại Điền tay, Thanh Minh, Ngũ Lũng đào ngũ tập thể. Cuối tháng 5 năm 1954, đặc công ta đột nhập thị trấn Ninh Hoà, phá nhà lao giải thoát 600 cán bộ, chiến sỹ và nhiều người yêu nước bị địch giam giữ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:21:21 pm

        Thực hiện nghị quyết của Ban cán sự Cực Nam, các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng và Trung đoàn 812 tập trung lực lượng mở chiến dịch tiến công trên khu vực giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận-Lâm Đồng và Đông Nam Bộ, tiêu diệt chi khu Tánh Linh, cứ điểm Suối Kiết, giải phóng hoàn toàn huyện Tánh Linh nối liền tây bắc Bình Thuận, Lâm Đồng và miền Đông Nam Bộ với 15.000 dân. Quân và dân Lâm Đồng diệt cứ điểm Lút Xa, Tà Xi mở rộng địa bàn hoạt động ra toàn huyện Di Linh và vùng Tà In, Tà Hoan. Lực lượng địa phương Bình Thuận tiêu diệt chi khu Lương Sơn, cứ điểm Duồng, đánh thiệt hại nặng chi khu Long Hương, phá tan hệ thống cứ điểm án ngữ phía bắc khu căn cứ Lê Hồng Phong.

        Ở Ninh Thuận, bộ đội địa phương và du kích tiêu diệt nhiều cứ điểm, phá vỡ từng mảng hệ thống tháp canh ở Hoài Trung, Hâu Sanh, Hữu Đức, Ninh Chử... đánh tê liệt đường đi Đà Lạt; nhân dân vây bắt tề điệp, mở rộng vùng giải phóng.

        Bộ chỉ huy chiến dịch Át-lăng của Pháp chẳng nhưng không rút được lực lượng ở phía sau đưa đi tiến công vùng tự do mà nhiều lúc phải đưa các đơn vị cơ động đang chiến đấu ở phía trước quay về đối phó với các hoạt động của du kích. Mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung ngày càng thêm gay gắt.

        Bị tiến công mạnh ở chiến trường chính Điện Biên Phủ và khắp nơi, bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp không những không còn quân đưa đến chiến trường nam Trung Bộ mà vuối tháng 4 năm 1954 còn phải rút Binh đoàn 11, Binh đoàn 21 và một số tiểu đoàn khinh quân nguỵ ở Nam Trung Bộ đi cứu nguy các nơi khác, rút bớt đồn bốt, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, co về phòng giữ thị xã, thị trấn và các đường giao thông, ở Phú Yên và Bình Định, quân Pháp co về cố thủ ở thị xã Tuy Hoà và Quy Nhơn. Cuộc tiến công chiến lược đầy tham vọng của Na-va trên chiến trường Nam Đông Dương mà điểm trung tâm là cuộc hành quân Át-lăng đến đây đã thất bại.

        Thắng lợi cơ bản của quân và dân Liên khu 5 không chỉ là đánh bại một cuộc hành quân lớn của địch, giữ vững khu căn cứ kháng chiến quan trọng, mà chủ yếu là đã làm phá sản một âm mưu thâm độc của đich, tạo ra sự biến đổi trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, dẫn đến biến đổi cụ diện chiến trường hoàn toàn có lợi cho ta. Thế và lực của ta mạnh hẳn lên. Tuy nhiên, ta cũng gặp một số khó khăn.

        Sau ba tháng chiến đấu liên tục, tất cả các đơn vị đều bị tiêu hao, một vài đơn vị quân số thiếu hụt nghiêm trọng. Cán bộ từ trung đội đến tiểu đoàn phần lớn mới được đề bạt, có quyết tâm cao nhưng trình độ tổ chức chỉ huy còn có những mặt chưa theo kịp yêu cầu. Tư tưởng bộ đội phấn khởi trước chiến thắng nhưng đã xuất hiện một số biểu hiện chủ quan coi thường địch, thiếu cảnh giác nên bị thương vong. Hội nghị Giơ-ne-vơ sắp họp, tư tưởng hoà bình, ảo tưởng bắt đầu chớm nở. Chiến trường cho các hướng tác chiến mới của các đơn vị chủ lực chưa được chuẩn bị.

        Cuối tháng 4 năm 1954, Thường vụ Liên khu uỷ và Đảng uỷ chiến dịch họp quyết định:

        - Các đơn vị chủ lực dừng lại củng cố một thời gian ngắn.

        - Tiếp tục động viên sức người, sức của của nhân dân với tinh thần”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

        Hội nghị quyết định thực hiện đúng phương châm: “ Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh chắc thắng”, khoét sâu mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán của địch, tiếp tục tập trung lực lượng đánh mạnh vào sau lưng địch đồng thời bao vây, kìm chế các cụm quân địch ở đường 19, Quy Nhơn, Tuy Hoà, sẵn sàng đánh tiêu diệt khi chúng rút chạy.

        Được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân, nhất là sau khi bước đầu thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất, trong vòng một tháng, các đơn vị chủ lực được bổ sung đầy đủ, ngoài ra còn hàng ngàn tân binh khác được tập trung huấn luyện, chuẩn bị cho các đợt bổ sung tiếp. Bộ đội địa phương, du kích được củng có và phát triển, được trang bị thêm vũ khí lấy được của địch. Mọi công việc sinh hoạt tư tưởng, rút kinh nghiệm chiến đấu, tập huấn chiến thuật, huán luyện bổ sung... đều đạt kết quả tốt.

        Tuy chiến tranh lan rộng và quyết liệt nhưng vụ lúa tháng 3 vẫn được mùa. Nhân dân vùng tự do hăng hái đóng góp hàng chục ngàn tấn lương thực, các đoàn dân công lại nườm nượp lên đường tiếp tế cho các chiến trường.

        Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ hoàn toàn bị tiêu diệt. Chiến thắng vĩ đại này đã đẩy nhanh cao trào tiến công trên cả nước. Lúc này trên đường 19 An Khê, quân Pháp chỉ còn Binh đoàn cơ động 100 và một số tiểu đoàn khinh quân chốt giữ. Binh đoàn cơ động 42 phòng thủ ở Plây Cu.

        Trước hiện tượng quân Pháp rút chạy khỏi nhiều địa bàn rộng lớn trên chiến trường toàn quốc cũng như ở Nam Trung Bộ, theo lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, ngày 24 tháng 6 năm 1954, Trung đoàn 96 đã kịp thời đón đánh và tiêu diệt gọn binh đoàn cơ động Âu-Phi và một số tiểu đoàn nguỵ rút chạy khỏi An Khê tại Đắc Pơ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:22:59 pm

        Mặc dù lực lượng ta ít hơn địch (địch 2, ta 1), sau hơn một giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa trên một đoạn đường dài 3 ki-lô-mét, 700 lính Âu-Phi chết và bị thương, gần 1.200 tên khác trong đó có tên đại tá Ba-ru cùng toàn ban tham mưu binh đoàn 100 bị bắt, 229 xe cơ giới, 20 đại bác à trên 1.000 súng các loại lọt vào tay các chiến sỹ ta. Trận Đắc Pơ tiêu diệt binh đoàn 100 là một trong những trận đánh tiêu diệt gọn quân địch, là một trong những chiến công oanh liệt của quân và dân Liên khu 5 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau chiến thắng Đắc Pơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen quân dân Liên khu 5.

        Thừa thắng, các lực lượng vũ trang liên khu được nhân dân hết lòng ủng hộ, nhanh chóng phát triển tiến công tiêu diệt một bộ phận của binh đoàn cơ động 42, quét sạch địch trên đường 19, giải phóng toàn huyện An Khê và phần lớn tỉnh Gia Lai, bao vây thị xã Plây Cu. Ở mặt trận sau lưng địch, ngày 1 tháng 6, Trung đoàn 803 tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Tuy Bình, buôn Ai Riêng, buôn Thô trên tuyến giáp ranh giữa tỉnh Phú Yên và tỉnh Đắc Lắc, diệt một tiểu đoàn, ba đại đội, bắt sống trên 600 tù binh.

        Ở Phú Yên, thừa lúc quân Pháp đang vội vã tháo chạy khỏi Sông Cầu và Chí Thạnh, đêm 21 tháng 6, Trung đoàn 803 được tăng cường Tiểu đoàn 375 và một bộ phận đặc công quân khu cùng lực lượng địa phương đồng loạt tiến công cụm cứ điểm Màng Màng, các cứ điểm Núi Sầm, Núi Hùng, đồng thời thọc sâu tiến công bãi đỗ xe cơ giới, kho đạn, khu chứa xăng dầu và tiểu đoàn khinh quân nguỵ tại trung tâm thị xã Tuy Hoà.

        Chiến sự diễn ra quyết liệt trong một khu vực dài 10 ki-lô-mét, rộng 5 ki-lô-mét. Sau một đêm chiến đấu quyết liệt, các đơn vị tham chiến của ta đã tiêu diệt gần hết tiểu đoàn khinh quân nguỵ 717, đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn khác, phá huỷ trên 200 xe cơ giới, đốt cháy và phá tung các kho xăng dầu, kho đạn dự trữ của địch tại trung tâm thị xã.

        Bốn ngày sau (25/6) ta lại chặn đánh diệt một đoàn xe 79 chiếc trên đèo Cả, cắt đứt mọi đường tiếp tế trên bộ của địch. Thị xã Tuy Hoà, mảnh đất cuối cùng của quân Pháp còn giữ được ở Phú Yên đã bị bao vây.

        Cuộc tiến công trên các chiến trường khác cũng diễn ra dồn dập, quyết liệt. Từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 5 năm 1954, các lực lượng vũ trang Quảng Nam được nhân dân giúp đỡ đã tiến công liên tục bốn lần vào thị xã Hội An, diệt và làm bị thương hơn 1.00 quân địch. Đêm 30 tháng 4, ta đã phá nhà lao giải thoát 1.000 cán bộ, chiến sỹ và đồng bào đang bị địch giam giữ tại đây, diệt và bắt trên 500 tên địch, thu 7 xe GMC. Bộ đội địa phương và du kích các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Hoà Vang, Đại Lộc phá vỡ từng mảng đồn bốt và tháp canh, giải phóng khu Gò Nổi và một vùng rộng lớn gồm 16 xã giữa sông Thu Bồn và sông Cẩm Lệ; nổi bật là trận đánh đêm 19 tháng 7 trên cao điểm Bồ Bồ diệt 400 tên, bắt 200 lính Âu-Phi, phá huỷ gần hết các khẩu pháo địch ở đây.

        Ở Khánh Hoà, bộ đội địa phương và du kích đánh phá hàng loạt cứ điểm đich, giải phóng khu vực Hòn Khói, mở rộng vùng giải phóng phía bắc suốt từ ven rừng núi đến sát biển, bao vây uy hiếp thị trấn Ninh Hoà, Vạn Giã; 500 công nhân viên chức nguỵ ở Nha Trang tổ chức mít tinh ký kiến nghị ủng hộ Hội nghị Giơ-ne-vơ phản đối đế quốc Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, phản đối lệnh tổng động viên của nguỵ quyền.

        Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, quân và dân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm Bầu Gia, Lòng Sông, đánh tê liệt giao thông địch trên đường 1, đường 11, đường xe lửa Sài Gòn – Nha Trang. Nhân dân khu căn cứ Lê Hồng Phong nổi dậy cùng lực lượng vũ trang tiếp tục phá vỡ từng mảng hệ thống cứ điểm của địch ở phía Bắc nối liền với khu căn cứ Bình An. Vùng giải phóng mở rộng và nối liền từ khu căn cứ Bác Ái đến đông nam thị xã Phan Rang.

        Vùng du kích phái nam tỉnh Lâm Đồng được mở rộng bao gồm khu căn cứ Mang Yêu-Chi Lai và toàn bộ tổng Kdon, tổng Châu Trung và Bảo Thuận thuộc Di Linh.

        Ở Đắc Lắc, ngày 17 tháng 7, Trung đoàn 96 bắn pháo vào đồn bốt địch trong thị trấn Cheo Reo, Trung đoàn 803 cắt đường 12 tại M’đrắc và mở đường tiến công vè phía nam thị xã Buôn Ma Thuột.

        Ngày 17 tháng 7, quân Pháp bị vây ở thị xã Plây Cu bắt đầu tháo chạy, bị Trung đoàn 108 của ta chặn đánh ở Chư Đrek phá 62 xe, giết 300, bắt 200 tên.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:24:07 pm

        Chiến dịch Xuân Hè 1954 của quân và dân Liên khu 5, một trong những hướng quan trọng của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của toàn quốc, đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ trên giao, là một đòn đánh mạnh góp phần làm thất bại âm mưu địch muốn bình định miền Nam để rảnh tay, tạo thêm và tập trung lực lượng tiêu diệt chủ lực ta ở chiến trường chính Điện Biên Phủ. Đây là chiến thắng lớn nhất trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Nam Trung Bộ, đã diệt 18.000 quân địch, thu trên 7.500 súng, nhiều đại bác và hàng trăm xe, diệt gọn một binh đoàn lính Âu-Phi tinh nhuệ vào bậc nhất của quân viễn chinh Pháp, giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum, phần lớn tỉnh Gia Lai, nhiều vùng đông dân khác ở Nam Tây Nguyên và các trung tâm bị địch chiếm ở đồng bằng ven biển; đánh bại hoàn toàn chiến dịch Át-lăng, một bộ phận quan trọng trong bước một kế hoạch Na-va, giữ vững vùng tự do Nam-Ngãi-Bình-Phú, tạo ra thế bao vây, chia cắt từng cụm quân địch, hình thành thế trận tiến công rất thuận lợi ở chiến trường phía nam Liên khu và Đông Bắc Cam-pu-chia.

        Chiến thắng Xuân Hè 1953-1954 của Liên khu 5 phối hợp có hiệu quả với chiến trường chnsh Điện Biên Phủ đánh bại kế hoạch Na-va, cố gắng cao nhất và cuối cùng trong cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, lập lại hoà bình ở Đông Dương.

        Đánh giá về chiến trường Liên khu 5, đồng chí Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã nói: “Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng bộ, đồng bào và chiến sỹ ta ở Liên khu 5 đã làm được một kỳ tích là giữa vòng vây bốn mặt của quân thù vẫn giữ được vùng tự do gồm trọn  bốn tỉnh đồng bằng ven biển liên hoàn, không những đứng vững trước mọi o ép của địch mà còn xây dựng được cả một hệ thống chính quyền cách mạng hoàn chỉnh, có kinh tế tự túc ổn định, văn hoá giáo dục phát triển, trong nhiều năm giữ vững giao thông với cực Nam Trung Bộ, với Nam Bộ, thực sự trở thành một vùng hậu phương vững chắc cho kháng chiến lâu dài.

        Trong vùng tạm bị chiếm thì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng và chiến tranh du kích phát triển khá và đều khắp.

        Ba thứ quân phát triển nhịp nhàng. Đặc biệt là từ năm 1952, đi đôi phát triển lực lượng du kích và chiến tranh nhân dân, với chủ trương và sự chi viện của Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Liên khu 5 đã chú trọng đúng mức, kiên định và liên tục xây dựng lực lượng chủ lực, biết sử dụng quả đấm chủ lực để thúc đẩy phát triển, vừa tác chiến vừa xây dựng, trưởng thành khá vững và nhanh.

        Chính đây là một trong những nhân tố rất quan trọng khiến Liên khu 5 là một trong những chiến trường giành được thắng lợi rực rỡ nhất trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính Điện Biên Phủ. Và với kết quả thật rực rỡ là phá vỡ một mảng phòng ngự lớn của địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng tỉnh Kon Tum và cả vùng Bắc Tây Nguyên, nhanh chóng phát triển chiến dịch, tiếp tục tiến công xuống phía Nam, đánh địch ở đường 19, tiêu diệt hoàn toàn binh đoàn cơ động số 100-một trong những binh đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của quân viễn chinh Pháp vừa rút ở Triều Tiên về, bao vây Plây Cu, thọc sâu và cao nguyên Đắc Lắc, áp sát Buôn Ma Thuột, tạo điều kiện nối liền với chiến trường Nam Bộ, đồng thời tiến xuống cùng quân dân địa phương đánh mạnh quân địch ở Phú Yên và uy hiếp cả Nha Trang. Ở các chiến trường địch hậu trong liên khu, thừa thắng, quân ta đã tiêu diệt, bức hàng chục đồn bốt, giải phóng những khu vực rộng lớn với hàng chục vạn dân; phối hơp với quân và dân Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia giải phóng một vùng rộng lớn. Chiến dịch Át-lăng của địch bị thất bại hoàn toàn, vùng tự do đồng bằng Liên khu 5 được giữ vững và mở rộng, thế trận ở Tây nguyên cũng như trên toàn liên khu lúc này thật đẹp, tạo triển vòng giành thắng lợi to lớn hơn nữa”.

        Gắn bó với chiến trường Liên khu 5 trong suốt chín năm kháng chiến chông thực dân Pháp, tôi thấy phấn khởi tự hào đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của khúc ruột miền Trung gian lao mà anh dũng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:24:48 pm

        Đúng như lời đồng chí Đại tướng, Tổng tư lệnh nhận định, cái nổi bật, cái độc đáo và là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho Liên khu 5 một vùng đất nghèo khổ, xa sự chi viện trực tiếp của Trung ương, suốt trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp- đứng vững trong vòng vây bốn mặt của quân thù. Địch quyết tâm bằng mọi giá, bằng cố gắng cao nhất để chiếm đóng và bình định cho được, nhưng Liên khu 5 vẫn hoàn thành vượt mức nhiệm vụ tác chiến của Trung ương giao. Đó là vì quân và dân Liên khu 5, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã xác định rõ vị trí, kiên quyết bảo vệ vững chắc, xây dựng vùng tự do về mọi mặt thành hậu phương chiến lược không những cho miền Nam Trung Bộ mà cả cho miền Nam Đông Dương. Vùng tự do Liên khu 5 hình thành và đứng vững trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp như một “quốc gia” khá hoàn chỉnh. Ở đây, Đảng bộ trong sạch vững mạnh, chính quyền được nhân dân tin tưởng, chế độ mới được xây dựng khá rõ nét, con ngừoi mới được hình thành, quan hệ giữa người với người tốt đẹp, kinh tế phát triển, cuộc sống của nhân dân mặc dù phải đảm bảo cho nhu cầu chiến tranh ngày càng cao nhưng vẫn ngày được cải thiện, xã hội yên vui, lành mạnh. Cuộc kháng chiến ở đây mang tính chất chung của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong toàn quốc, nhưng đồng thời lại mang những đặc điểm của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc – Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ vùng tự do. Quana và dân Liên khu 5 đã ba lần đánh bại các cuộc hành quân lớn gồm hải, lục, không quân của Pháp hòng chiếm vùng tự do vào cuối năm 1945 đầu năm 1946, cuối năm 1946 đầu năm 1947 và điển hình là chiến dịch Át-lăng  1953-1954. Đó là chưa kể các cuộc đánh phá thường xuyên từ đường bộ, đường biển và đường không.

        Từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh, chưa bao giờ thực dân Pháp chịu từ bỏ âm mưu thôn tính vùng tự do Liên khu 5. Mỗi lần đánh là một lần chúng tập trung lực lượng lớn hơn nhằm tạo thế chiến lược tiến công, tìm cách diệt cách mạng miền Nam để tiến công ra miền Bắc. Nhưng chính từ tham vọng đó, địch cũng tự tạo ra tình thế thất bại đi đến thất bại hoàn toàn. Rõ ràng, Liên khu 5 đã góp phần tạo ra những bước ngoặt lịch sử của cả nước.

        Thành công này, trước hết là do sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh.

        Ngoài đường lối chủ trương chung, Trung ương Đảng còn điều động kịp thời hơn chục chi đội từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam ngay từ khi quân Pháp bắt đầu gây hấn ở Nam Bộ (các chi đội này hầu hết đều tham chiến ở các mặt trận Nam Trung Bộ đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp), chỉ đạo chặt chẽ, sát sao ngay từ khi cuộc kháng chiến nổ ra ở Nha Trang (22/10/1945). Khi nhận thấy tình hình địch có âm mưu chia cắt đất nước, Trung ương đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng làm đại diện trực tiếp chỉ đạo Nam Trung Bộ ngay từ khi chuẩn bị toàn quốc kháng chiến, đồng thời luôn luôn theo dõi chỉ đạo suốt quá trình cuộc kháng chiến và đặc biệt có những quyết định đúng đắn, sáng suốt trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 ở Liên khu 5, góp phần cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

        Thắng lợi của Liên khu 5 trong kháng chiến chống thực dân Pháp còn là do Liên khu uỷ và Đảng uỷ, Bộ tư lệnh Liên khu 5 - Bộ tham mưu lãnh đạo trực tiếp ở địa phương, với một đội ngũ án bộ chính trị, quân sự vững vàng, kiên định có quyết tâm cao, tự lực tự cường, đã nắm vững và nghiêm chỉnh chấp hành đường lói chủ trương của Đảng, quy luật của chiến tranh cách mạng; vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào điều kiện cụ thể của địa phương, xác định đúng nhiệm vụ chiến lược của từng giai đoạn, có chủ trương và biện pháp thích hợp, kiên quyết tập trung lực lượng với tinh thần cách mạng tiến công vào những nhiệm vụ quyết định, vào thời điểm quyết định để giành thắng lợi.

        Để làm được những việc trên, Liên khu uỷ và Đảng uỷ, Bộ tư lệnh Liên khu 5 đã xây dựng được Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, biết dựa vào dân, tổ chức phát động phong trào toàn dân đánh giặc, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế; giữa chiến đấu và xây dựng vùng tự do làm căn cứ hậu phương lâu dài cho cuộc kháng chiến; xây dựng lực lượng vũ trang với ba thứ quân, từng bước xây dựng lực lượng chủ lực, giữ mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ giữa tiền tuyến với hậu phương, giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, vừa đánh vừa nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, tiến tời làm thất bại hoàn toàn âm mưu và kế hoạch xâm lược của địch, giành thắng lợi quyết định ở chiến trường Liên khu 5.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:25:34 pm

        Thắng lợi này bắt nguồn từ truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Liên khu 5, là những người đầu tiên dám đứng lên đánh đuổi đội quân nhà nghề của thực dân Pháp khi chúng bắt đầu xâm lược nước ta lần thứ nhất (1858) và dưới sự lãnh đạo của Đảng, họ đã nhanh chóng, đồng loạt đứng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, giành chính quyền. Sau khởi nghĩa, mặc dù có nơi chỉ được hưởng thành quả cách mạng có vài tháng, nhưng vì tin tưởng sắt đá vào thắng lựi cuối cùng, thiết tha với độc lập tự do, tin Đảng, kính phục Bác Hồ, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Bất chấp bom đạn và lực lượng hùng hổ dã man của kẻ thù, làn sóng cách mạng của các tấng lớp nhân dân Liên khu 5 từ miền xuôi đến miền ngược, vùng tự do cũng như vùng bị tạm chiếm, nông thôn cũng như đô thị là một trong những nhân tố cơ bản, thường xuyên có tính chất quyết định làm nên những hiến công vang dội giữ vững vùng tự do, thu hẹp phạm vi kiểm soát của địch ở vùng bị chiếm, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước.

        Thắng lợi này cũng là do tinh thần tự nguyện “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của đội ngũ cán bộ, chiến sỹ trong bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; trong đó có lực lượng rất quan trọng của đội quân Nam tiến được Trung ương chi viện trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Có thể nói, từ tay không, chưa biết đánh giặc, họ đã trở thành đội quân trưởng thành và chiến thắng. Với lòng trung thành vô hạn với dana, với Đảng, với ý chí quyết chiến, quyết thắng, lực lượng vũ trang Liên khu 5 đã tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, luôn luôn bám đất, bám dân, sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ ở vùng tự do cũng như vùng bị tạm chiếm, vừa chiến đấu vừa bảo vệ dân, có quan hệ máu thịt với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng cơ sở chính trị, vũ trang, phát động và phối hợp với nhân dân đánh giặc; vừa tác chiến vừa xây dựng lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân, vừa tác chiến vừa nâng cao trình độ từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa bồi dưỡng lực lượng ta, tiến lên tập trung lực lượng tổng hợp giành thắng lợi quyết định mà đỉnh cao là chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Với lòng tin sắt đá vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân, với tinh thần “tất cả để chiến thắng”; lấy bộ đội địa phương và dân quân du kích chống chọi với sự tiến công ồ ạt của các binh đoàn chủ lực tinh nhuệ của kẻ thù; bằng trí thông minh và lòng dũng ảm tuyệt vời đã tiến công tiêu diệt đồn địch bằng bộc phá, địa lôi. Chính đây là những nhân tố rất quan trọng khiến Liên khu 5 là một trong những chiến trường giành thắng lợi rực rỡ nhất, phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ đánh bại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trên chiến trường Đông Dương.

        Là người được giao nhiệm vụ làm công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. lúc đầu là ở mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng và sau này là ở toàn liên khu cho đến kết thúc chiến tranh chống thực dân Pháp, trên cơ sở nắm vững và vận dụng đường lối chủ trương của Đảng, tôi luôn luôn quan tâm đến hai vấn đề mấu chốt: đó là công tác đảng, công tác cán bộ trong quân đội và vấn đề xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang ở địa phương.

        Từ kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám, tôi chăm lo xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh nhưng chủ yếu là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt từ trung đoàn đến đại đội, kiên định vững vàng, có ý chí và nhiệt tình cách mạng, dám hy sinh trong chiến đấu, gương mẫu trong công tác để làm tròn nhiệm vụ của quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Quân đội phải dựa vào dân, bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất, vận động giúp đỡ nhân dân, cùng nhân dân chiến đấu và chiến thắng; chống tư tưởng quân sự đơn thuần, cầu an, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật.

        Để làm tròn nhiệm vụ đó, trước hết, tổ chức Đảng trong quân đội phải đặt vấn đề kết hợp chặt chẽ với tổ chức Đảng địa phương, coi Đảng bộ địa phương với Đảng bộ trong quân đội là một, coi công việc của địa phương cũng chính là công việc của quân đội và ngược lại. Đây là điều kiện tiên quyết đồng thời cũng là bài học xương máu để cùng nhau thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của địa phương và cả quân đội.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:26:18 pm

        Ở mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, lúc đầu khi địch dùng lực lượng ồ ạt tiến công nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát, tuy bộ đội chủ lực là lực lượng chiến đấu chính để kìm chân địch, nhưng phải có dân quân tự vệ phục vụ và phối hợp chiến đấu, có nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”. Khi địch không còn đủ sức nống ra, buộc phải quay về củng cố, bình định vùng chiếm đóng thì bộ đội phải phân tán cùng với cán bộ địa phương thaâ nhập vào vùng sau lưng địch bám dân, xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, phát động nhân dân đấu tranh chính trị, kinh tế, xây dựng làng chiến đâu, xây dựng lực lượng vũ trang từ thấp đến cao, đẩy mạnh chiến tranh du kích kết hợp với các trận đánh lớn của chủ lực, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, phá âm mưu ‘bình định’ của địch ở vùng tạm chiếm, kiên quyết giữ cho được và xây dựng vùng tự do thành hậu phương trực tiếp, lâu dài cho cuộc kháng chiến.

        Năm vững vai trò quyết định của chủ lực ở chiến trương, tổ chức đảng trong quân đội đã tích cực giúp đỡ, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành đủ sức làm nhiệm vụ độc lập tác chiến ở địa phương, đồng thời ra sức xây dựng lực lượng chủ lực để có thể tập trung làm nhiệm vụ cơ động đánh lớn. Vì vậy, theo đánh giá của Bộ tư lệnh Liên khu, Quảng Nam-Đà Nẵng là nơi có phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích mạnh , đồng thời cũng là nơi đóng góp bổ sung cho lực lượng chủ lực của Liên khu sớm và nhiều nhất.

        Những kinh nghiệm trong những năm đầu ở chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng - chiến trường chính, chiến trường tiêu biểu của Liên khu 5 trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa có vùng tạm bị chiếm, vừa có vùng tự do – đã giúp tôi có thực tế để làm tốt hơn công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang liên khu, nhất là trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, với trách nhiệm vừa tham gia chỉ huy chung của chiến dịch, vừa trực tiếp phụ trách cuộc chiến đấu chống chiến dịch Át-lăng của đich, bảo vệ vùng tự do.

        Cùng với cuộc chỉnh quân, kết quả to lớn của cuộc chỉnh Đảng do Trung ương Đảng đề xướng và lãnh đạo, riêng ở Liên khu 5 đã có tác dụng nâng cao nhận thức và tư tưởng của cán bộ, chiến sỹ trong quân đội cũng như trong cán bộ và nhân dân các địa phương trước khi bước vào trận quyết chiến chiến lược. Vấn đề lớn nhất là phải xây dựng cho được lòng tin sắt đá và tình thần nghiêm chỉnh chấp hành quyết định của Trung ương Đảng, nhất là đối với cán bộ và nhân dân bốn tỉnh vùng tự do; trong lúc toàn bộ lực lượng chủ lực tập trung tiến công lên Tây Nguyên, còn vùng tự do giao cho lực lượng địa phương tự giải quyết, khi mà địch sử dụng một lực lướng lớn chưa từng có nhằm giải quyết dứt điểm vùng tự do. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Liên khu uỷ, sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư lệnh Liên khu, Bộ chỉ huy chiến dịch với các tỉnh, những tư tưởng, nhận thức trên đây đã được giải quyết. Mọi việc chuẩn bị chiến đấu, chiến đâu cũng như các việc chi viện chiến trường, bổ sung, xây dựng lực lượng đều diễn ra nhịp nhàng, ăn khớp tạo nên sức mạnh tổng hợp đem lại kết quả rực rỡ trên toàn bộ chiến trường Liên khu 5 trong Đông Xuân 1953-1954.

        Được rèn luyện trong chiến đấu gian khổ của cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù ở một chiến trường đầy khó khăn phức tạp, lại xa sự chi viện trực tiếp của Trung ương, nhưng với tinh thần vô tư trong sáng, luôn luôn tâm niệm quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp xâm lươc, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, tôi đã cố gắng hết sức mình góp phần xứng đáng vào cuộc chiến đấu hào hùng của quân và dân Liên khu 5. Đồng thời, sự từng trải qua cuộc chiến đấu chín năm đó cũng giúp tôi thêm kinh nghiệm và những bài học bổ ích, trước khi bước vào cuộc chiến đấu mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thống nhất đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

        Trích: Đại tướng Nguyễn Quyết, con đường đã chọn, Hồi ức- Đại tá Nguyễn Hữu Đức thể hiện.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:33:51 pm
         
2. ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN (CHU VĂN ĐIỀU)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/Chi%20Huy%20Man_zpsdh5ijfuh.jpg)

        Đồng chí Chu Huy Mân sinh năm 1913, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân Đội nhân dân Việt Nam (1977-1986), Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước (1981-1986).

        Quê quán: Xã Hưng Hoà, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Đồng chí tham gai cách mạng năm 1929 (đôi phó Tự vệ đỏ xã), nhập ngũ năm 1945, Đại tướng năm 1980, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Đồng chí nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam; năm 1940 bị đưa đi an trí ở Đắc Lay, Đắc Tô, Kon Tum. Năm 1943 vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong Cách mạng tháng Tám, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Quảng Nam, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chính trị viên Chi đội Quảng Nam. Trong kháng chiến chống Pháp.

        Năm 1945 đến 1951 là Chủ tịch Ban quân chính Khu C (gồm 4 tỉnh Trung Bộ), Chính trị viên Mặt trận Đường 9, Tham mưu chủ nhiệm Liên khu 4, Trung đoàn trưởng, Chính uỷ Trung đoàn.

        Năm 1951 đến 1954 là Phó chính uỷ rồi Chính uỷ Đại đoàn 316.

        Trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 đến 1963 là Đoàn trưởng Đoàn 100 (đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào); Chính uỷ; Quân khu 4, Quân khu Tây Bắc; Tổng cố vấn Việt Nam cho Chính phủ liên hiệp Lào của Thủ tướng Xu-va-na Phu-ma.

        Năm 1964 đến 1965 là Chính uỷ Quân khu 5.

        Năm 1965 đến 1967 là Tư lệnh kiêm Chính uỷ Mặt trận Tây Nguyên, chỉ huy các chiến dịch: Plây Me (1965), Sa Thầy (1966).

        Cuối năm 1967 đến 1976 là Tư lệnh, Kiêm Chính uỷ (1975) Quân khu 5; Chính uỷ chiến dịch Đà Nẵng (28-29/3/1975).

        Năm 1977 đến 1986 là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương; Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhà nước (1981-1986).

        Đồng chí là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III-V; Uỷ viên Bộ Chính trị khoá IV, V; Đại biểu Quốc hội khoá II, VI, VII. Đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng nhất, 2 hạng nhì), Huân chương Chiến công (hạng nhất, hạng nhì), Huân chương Chiến thắng hạng nhất...

        Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Chu Huy Mân đã trực tiếp gắn bó với địa bàn Khu 5-Tây Nguyên, trực tiếp cùng quân dân nơi đây đương đầu với những  khó khăn gian khổ, khắc phục những thiếu thốn đủ bề, xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, xây dựng mối đoàn kết quân dân gắn bó, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng giao cho. Đặc biệt, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng con người, tổ chức vững mạnh, chiến đấu giỏi, dám đánh, biết đánh và quyết thắng. Điều đó thể hiện rõ trong nghiên cứu sâu về đối tượng tác chiến, sáng tạo trong cách đánh, truyền thụ được tư tưởng quân sự của Đảng tới từng người chiến sỹ, được thể hiện qua hành động cụ thể với phương châm : “Nắm lấy thắt lưng địch mà đánh” được phổ biến trên chiến trường.

        Chính vì vậy, vượt qua mọi cam go khổ cực, đồng chí đã cùng quân dân Khu 5 – Tây Nguyên quyết thắng từ trận đầu khi đối mặt với đối tượng tác chiến mới, với phương tiện chiến tranh hiện đại, từng bước đánh tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch từ nhỏ đến lơn, tạo được bước trưởng thành vững chắc trong từng trận chiến đâu, từng chiến dịch, thực hiện thắng lợi tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng.

        Thực tiễn chiến trường đã khẳng định, đồng chí Chu Huy Mân với bí danh Hai Mạnh đã làm tròn nhiệm vụ được Bác Hồ giao là mạnh về chính trị, mạnh về quân sự. Đồng thời qua thực tiễn chiến trường, đồng chí Chu Huy Mân vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa tự học tự rèn, luôn sáng suốt, dũng cảm, quyết đoán, hoàn thành tốt nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng, Quân đội và nhân dân tin cậy giao phó.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:55:32 pm

TRỞ LẠI KHU 5 – TÂY NGUYÊN ĐÁNH MỸ

        Sau hơn một năm làm Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Quân khu 4, trên quyết định tôi đi học công tác tham mưu ở Liên Xô. Sau mấy chục năm làm cách mạng không có điều kiện học tập thì đây là dịp tốt nhất để tôi nâng cao trình độ.

        Thời gian này, để giải quyết tốt các vấn đề chiến dịch, chiến thuật của Quân đội ta, nắm được phần nào khoa học và nghệ thuật quân sự của Liên Xô, Trung Quốc, Bộ Tổng tham mưu đề nghị cấp trên đặt vấn đề với các nước bạn giúp bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ lãnh đạo Quân đội ta. Ở Liên Xô, ta đề nghị mở lớp bồi dưỡng riêng cho cán bộ lãnh đạo Quân đội Việt Nam. Tôi đi đợt 2, được phân công làm đoàn trưởng, bí thư chi bộ. Đoàn chúng tôi gồm có anh Lê Trọng Tấn (học nửa năm sau), anh Quang Trung, anh Lê Ngọc Hiền, anh Vũ Xuân Chiêm, anh Nguyễn Văn Bảo, anh Nguyễn Đường, anh Nam Thắng, anh Nguyễn Thanh, anh Phan Hàm, anh Hoàng Kiện, anh Phạm Hoàng.

        Nội dung đại thể phân bố thời gian như sau: Khoảng 2 tháng học binh khí kỹ thuật, đến từng binh chủng, quân chủng nghe giới thiệu và xem các binh khí kỹ thuật. Riêng Hải quân có đến Hạm đội Ban-tích, đi xem các loại tàu tuần dương hạm, tàu ngầm, tàu phóng lôi, tàu đổ bộ, tàu quét lôi, tên lửa bờ biển, pháo bờ biển, máy bay của hải quân, xem biểu diễn thả thuỷ lôi, quét lôi; xuống tàu tuần dương hạm dự cuộc thao diễn của Hải quan Liên Xô...

        Khoảng bốn tháng học về các hình thức tác chiến cấp sư đoàn trong điều kiện tác chiến thông thường và trong điều kiện sử dụng vũ khí hạt nhân. Học viên phải nghiên cứu bài vở thật nghiệm túc, tham dự thảo luận do giáo viên chủ trì, làm bài tập chu đáo, luyện tập vẽ bản đồ, đọc bản đồ, thảo mệnh lệnh và đóng vai sư đoàn trưởng ra mệnh lệnh cho cấp dưới. Bạn cho rằng sư đoàn là đơn vị chiến thuật cơ bản nên các đồng chí chỉ huy chiến dịch và lãnh đạo quân đội đều phải học thật kỹ để có thể sử dụng tốt các sư đoàn. Đối với nhiều đồng chí của ta, nhất là các đồng chí có trình độ văn hoá thấp thì cách học của Liên Xô đòi hỏi phải chuẩn bị bài vở mất nhiều thời gian, phải động não nhiều, nhớ nhiều và phải biết cách ghi các số liệu kỹ thuật để thường xuyên ôn luyện nên trong những ngày đầu anh em học khá vất vả.

        Sáu tháng còn lại học về chiến dịch, chiến lược, học chỉ huy tập đoàn quân chuẩn bị đất nước cho chiến tranh, đề phòng đòn đột kích đầu tiên, chống quân đổ bộ đường biển, đường không... Môn lịch sử chiến tranh là môn học chính khoá, nội dung giới thiệu một cách có hệ thống lịch sử chiến tranh qua các thời đại, ý nghĩa thành công hay thất bại trong các cuộc chiến tranh lớn trên thế giới. Bạn cũng rất chú ý giữ gìn di tích các chiến trường lịch sử.

        Chúng tôi đi thăm thành phố Xe-va-xtô-pôn, được giới thiệu về tổ chức phòng ngự một thành phố bờ biển. Chúng tôi còn được xem chiến trường Bô-rô-đi-nô, nơi diễn ra trận chiến quyết định giữa quân đội Nga do tướng Cu-tu-dốp chỉ huy và quân đội Pháp do Na-pô-lê-ông chỉ huy (1812).

        Kết thúc lớp học, trao đổi các đồng chí lãnh đạo Quân đội ta, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô đã cử một tổ giáo viên sang nghiên cứu chiến trường Việt nam để có thể ra tưởng định làm bãi tập trên chiến trường của ta.

        Sau đợt đi nghiên cứu địa hình Việt Nam, tổ giáo viên Liên Xô có phát biểu với lãnh đạo Quân đội ta: Các đồng chí Việt Nam nhất thiết phải xây dựng và huấn luyện bộ đội tác chiến hiệp đồng binh chủng. Chiến trường Việt Nam hoàn toàn có thể sử dụng xe tăng.

        Vào trung tuần tháng 9 năm 1963, đoàn chúng tôi về đến Hà Nội. Ở lại Hà Nội vài ngày, tôi được điều vào làm Tư lệnh, Chính uỷ-Bí thư Quân khu uỷ Quân khu 4.

        Vào đến Quân khu 4, với nhiệm vụ được giao tôi nắm lại tình hình chung rồi xuống đơn vị tìm hiểu thêm và kết hợp thăm lãnh đạo các tỉnh thuộc địa bàn quân khu.

        Tháng 12 năm 1963, Trung ương triệu tập Hội nghị lần thứ 9. Hội nghị đã nhận định tình hình, dự kiến các khả năng, vạch ra phương hướng cho cách mạng miền Nam trong tình hình mới và nhấn mạnh phải kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều đóng vai trò rất cơ bản và quyết định nhưng đấu tranh quân sự giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh tan lực lượng quân sự - chỗ dựa của nền thống trị của địch, làm cho cách mạng thắng lợi. Để thực hiện yêu cầu đó, điều quan trọng nhất, quyết định nhất là trong bất cứ trường hợp nào vẫn phải nỗ lực tăng cường lực lượng ta về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng quân sự.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:55:52 pm

        Về nhiệm vụ trước mắt, Hội nghị xác định hai nội dung chủ yếu và cũng là hai mục tiêu chủ yếu phải quyết tâm đạt cho bằng được. Thứ nhất, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, tạo điều kiện làm tan rã hoàn toàn lực lượng quân sự - chỗ dựa của Mỹ và tay sai ở miền Nam... Thứ hai, làm thất bại kế hoạch gom dân lập “ấp chiến lược” của địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, giành nhân tài vật lực cho cách mạng, làm chủ vùng rừng núi và phần lớn đồng bằng.

        Tháng 1 năm 1964, Bộ Tổng tham mưu triệu tập Hội nghị Phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất. Các cuộc diễn tập báo động phòng không, cứu thương, cứu hoả, tổ chức việc xây dựng hầm trú ẩn, dự kiến các địa điểm sơ tán, di chuyển, bố trí phân tán kho tàng, bến bãi được thực hiện. Bộ đội phòng không nâng cấp trực chiến, tăng cường huấn luyện. Một mạng lưới bắn máy bay tầm thấp được hình thành trên toàn miền Bắc.

        Ngày 27 tháng 3 năm 1964, tại Hà Nội, Bác Hồ triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Tại Hội nghị, sau khi điểm lại những sự kiện lớn trong 10 năm qua ở nước ta và trên thế giới, Bác Hồ đã tỏ rõ thái độ của nhân dân ta đối với âm mưu xâm phạm miền Bắc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Bác nói: ‘Tình hình miền Nam hiện nay chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” này. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà chúng đang thí nghiệm ở miền Nam Việt Nam đã thất bại, thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất cứ nơi nào khác. Đó là ý nghĩa quốc tế của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam ta đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới”.

        Bác kêu gọi toàn dân, toàn quân nâng cao ý chí chiến đấu, sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ, mỗi người làm việc bằng hai, hết lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Đó là lệnh động viên của Bác trước tình hình mới, là lời cảnh cáo nghiệm khắc đối với những âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

        Hôi nghị chính trị đặc biệt do Bác triệu tập đã biểu thị ý chí sắt đá đoàn kết và chiến đấu của nhân dân ta ở miền Bắc, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết cả nước một lòng để bảo vệ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bảo vệ thành quả cách mạng lao động hoà bình, ra sức chi viện cho đồng bào miền Nam ruột thịt đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

        Đang triển khai công việc ở Quân khu 4 thì trên gọi tôi ra Hà Nội chuẩn bị đi Nam. Lúc đầu tôi được lệnh đi vào B2 ( R ), tức là vào Nam Bộ làm phó cho anh Nguyễn Chí Thanh. Công tác chuẩn bị theo hướng ấy. Nhưng mấy hôm sau lại đổi hướng tôi đi vào Khu 5. Chiến trường nào cũng thế, miễn là được vào với đồng bào, đồng chí và đồng đội đánh Mỹ-Nguỵ, vì độc lập, tự do và thống nhất nước nhà. Mấy ngày liền, cứ mối buổi sáng tôi lại đeo ba lô trong có 8 viên gạch đi bộ lên Hồ Tây để rèn luyện gân bắp. Buổi chiều lại tìm cách nghe tình hình miền Nam và Khu 5, trong đó chú ý lắng nghe lãnh đạo đánh giá chiến trường.

        Lúc ra đi tôi được chỉ định làm đoàn trưởng Đoàn kiểm tra của Quân uỷ Trung ương vào làm việc với Khu uỷ và Quân khu uỷ Khu 5. Đoàn có các anh Võ Bẩm, Trần Thọ, Đỗ Đức Kiên và một số cán bộ khác.

        Xe vào đến Vinh, hôm sau có đến làng Ho (Quảng Bình) thì bắt đầu đi bộ. Trước lúc ra đi, gạo, muối, lương khô cho từng người được quy định chặt chẽ. Trên đường đi chúng tôi quy định trong ngày hành quân nếu gắp rau rừng, rau tàu bay toàn đoàn dừng lại hái, bỏ túi bổ sung cho bữa ăn tối.

        Qua Mường Nòng - đất bạn Lào – thì đoàn chúng tôi đi theo hướng đông. Anh Lương Khải Địch - Trưởng phòng Đặc công Quân khu 5 ra biên giới đón.

        Chiều tối đoàn vượt đường 14, nơi đây rất gần quân địch ở Đắc Nhé. Khi qua đường mỗi người bước qua miếng ni-lông trải trên mặt đường để giữ bí mật, người cuối cùng đi đi qua thì cuốn miếng ni-lông đem theo. Đến chiều, đoàn đến cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu 5. Sáng hôm sau bắt đầu làm việc, trước hết là dự giao ban. Anh Ngưu – cán bộ tham mưu quân khu báo cáo kết quả đánh địch, anh nói: “Bộ đội địa phương đánh “tan rã gọn” mấy trung đội dân vệ”. Mọi người trong cuộc họp đều cười.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:56:21 pm

        Sau hai ngày làm việc ở quân khu, ngày thứ ba đoàn chúng tôi sang chào Khu uỷ. Lúc này anh Võ Chí Công vừa về Khu 5 làm Bí thư Khu uỷ. Đoàn chúng tôi đi xuống tây Quảng Ngãi nghiên cứu hai “ấp chiến lược” Phú Khương và Phú Thọ mà quần chúng mới nổi dậy giành quyền làm chủ. Làm việc với mấy đại đội địa phương Quảng Ngãi, khi báo cáo anh em cán bộ đại đội cho rằng họ đã đánh “tám trận công kiên”, diệt 8 trung đội dân vệ trong ấp chiến lược. Tôi nói với anh Đỗ Đức Kiên khoan bình luận. Gặp anh Hường – Chính trị viên Tỉnh đội được biết cán bộ, chiến sỹ ở đây phần đông đã ra Bắc tập kết trở về, tinh thần tốt nhưng cách đánh chưa được bồi dưỡng đúng mức. Trong lúc chúng tôi công tác ở đây thì quân cơ động nguỵ mở cuộc càn quét lớn lên vùng căn cứ khu và quân khu, địch gọi là Độ Xá.

        Địch huy động vào cuộc càn này 12 tiểu đoàn (5.000), 80 máy bay, có cố vấn Mỹ chỉ huy. Chúng đặt tên cuộc càn là “Quyết thắng 202” vào vùng Mang Xin (tây Quảng Ngãi).

        Sau 30 ngày chiến đấu liên tục, quân và dân miền tây Quảng Ngãi có các đơn vị chủ lực tham gia (Tiểu đoàn 40 Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 97 Trung đoàn 2) và lực lượng đặc công của quân khu đã dũng cảm mưu trí phối hợp với các tuyến bố phòng dày đặc của quân dân địa phương, bẻ gãy cuộc càn của địch, diệt 500 tên, bắn rơi 17 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác.

        Đoàn Kiểm tra của Quân uỷ Trung ương sau khi nắm tình hình trong khu đều nhất trí với Khu uỷ và Quân khu uỷ về năm vấn đế quan trọng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang:

        Một là, Bộ đội chủ lực không thể đánh theo lối phân tán, đánh nhỏ, đánh tiêu hao địch, mà phải tác chiến tập trung với quy mô thích hợp để tiêu diệt từng đơn vị địch, đáp ứng yêu cầu phát triển của chiến tranh.

        Hai là, tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng nhằm bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội nhân dân, nâng cao khí thế cách mạng sôi nổi, phát huy tinh thần dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu, bồi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trên cơ sở đó mà quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công địch, thấm nhuần nguyên tắc đánh tiêu diệt.

        Ba là, củng cố và tăng cường ý thức tổ chức kỷ luật của bộ đội trong việc chấp hành mệnh lệnh, chấp hành chính sách và kỷ luật chiến trường. Phải nghiêm khắc với hiện tượng đánh xua, đánh đuổi, không thu được vũ khí, trang bị của địch mà còn để mất vũ khí, đạn dược.

        Bốn là, nâng cao khả năng cơ động chiến đấu của bộ đội chủ lực. Tổ chức gọn nhẹ, từng bước nâng dần thành phần chiến đấu, tăng đơn vị chiến đấu giảm bớt đơn vị phục vụ.

        Năm là, Nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, nhất là các đơn vị chủ lực. Nghiên cứu đánh bại các thủ đoạn chiến thuật của địch, trước mắt đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của Mỹ-Nguỵ.

        Sau khi hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra, Bộ Chính trị quyết định tôi ở lại Khu 5 đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thu Quân khu uỷ, Chính uỷ Quân khu 5; anh Nguyễn Đôn – Tư lệnh Quân khu. Mấy tuần sau thì Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương gọi anh Nguyễn Đôn ra Bắc để ổn định sức khoẻ. Anh Đoàn Khuê – Phó Chính uỷ, anh Nguyễn Chánh – Phó Tư lệnh lên Tây Nguyên Phụ trách tiền phương của Quân khu.

        Tháng 6 năm 1964, Khu uỷ ra Nghị quyết về nhiệm vụ và những công tác lớn trước mắt của Khu 5. Nghị quyết nhận định tình hình hiện nay trong khu: Về địch, lực lượng ở Khu 5 vẫn còn tương đối đông (60-65 nghìn quân chủ lực, 22-23 nghìn quân bảo an, 6.000-8.000 biệt kích, 14-16 nghìn dân vệ), chúng thành lập năm chiến đoàn ở Quân đoàn 1, chín chiến đoàn ở Quân đoàn 2. Quân số địch tương đối đông, phong trào đấu tranh, diện làm chủ của nhân dân ta chưa mở rộng, đấu tranh chính trị và vũ trang của của ta chưa căng kéo địch trên khắp chiến trường nên địch có điều kiện tập trung quân tương đối lớn để càn quét, điều quân phản ứng ta tương đối nhanh. Xe bọc thép M113 còn phát huy tác dụng. Ngoài các căn cứ lớn, địch có 500 đồn, bốt, ấp chiến lược còn nhiều (gần 2.700 ấp), cả đồng bằng và miền núi, nên địch còn kìm kẹp được đại bộ phận nhân dân đồng bằng.

        Về ta, khó khăn: Lực lượng của địch ở Khu 5 tương đối đông. Phạm vi giành dân của ta, nhất là ở đồng bằng còn quá ít. Kinh tế còn khó khăn lâu dài, cụ thể là lương thực, tài chính, nhân vật lực ho cách mạng. Trong thực hiện phương châm, về tư tưởng và tác phong còn nhiều nhược điểm và khuyết điểm.

        Thuận lợi: Có căn cứ miền núi được giữ vững và củng cố. Phong trào quần chúng nói chung đã chuyển lên một thế mới. Phong trào đồng bằng đã mở ra và giành dân được một mức độ. Lực lượng vũ trang của ta tương đối đông, cán bộ cần cù chịu đựng gian khổ, có trình độ. Công tác chỉ đạo đã có kinh nghiệm hơn trước. Ngoài ra còn có sự chỉ đạo đúng đắn của trên, có sự hỗ trợ chung của phong trào miền Nam.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:57:06 pm

        Về nhiệm vụ chung và những công tác lớn trước mắt, nghị quyết chỉ rõ: Căn cứ vào tình hình thực tế trong khu, để thực hiện nghị quyết của Trung ương Cục, nhiệm vụ của khu từ nay đến giữa năm 1965 là động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên chiến trường tranh thủ thời cơ liên tục tiến công tiêu diệt địch, ra sức phá “ấp chiến lược”, phá kìm kẹp, giành lại nông thôn đồng bằng và rừng núi (nhất là nông thôn đồng bằng), ra sức chống càn quét, chống lấn chiếm, xây dựng căn cứ rừng núi và vùng nông thôn - giải phóng, mở rộng diện tích tiêu hao, nâng cao mức tiêu diệt địch, đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận, phát triển công tác thành phố, xây dựng thực lực chính trị, vũ trang của ta mạnh mẽ, tăng cường công tác kinh tế tài chính, đưa phong trào trong khu chuyển mạnh lên một bước phát triển mới, tạo điều kiện giành thắng lợi ngày càng to lớn. Sẵn sàng tư tưởng, tổ chức, đánh bại những bước leo thang mới của địch.

        Trong những nhiệm vụ trên, có ba mục tiêu chính mà ta phải giải quyết cho được. Một là, phá ấp chiến lược, phá kìm kẹp, giành và làm chủ phần lớn nông thôn đồng bằng, làm chủ rừng núi, xây dựng căn cứ và vùng giải phóng vững mạnh, đảm bảo giành nguồn nhân lực lớn lao cho cách mạng. Hai là, tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã từng bộ phận quân đội địch, tiến lên thực hiện tốt nhiệm vụ của trên, tiêu diệt lớn sinh lực địch. Ba là, củng cố và phát triển mạnh mẽ lực lượng chính trị, vũ trang, tăng cường thực lực kinh tế của ta.

        Ba nhiệm vụ trên có liên quan chặt chẽ với nhau, đảm bảo thắng lợi và hỗ trợ nhau.

        Tháng 7 năm 1964, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu 5 phát động phong trào đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt, tiêu hao thật nhiều sinh lực địch, bồi dưỡng ta. Xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh đi đôi với phong trào phá ấp giành dân. Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương mở chiến dịch Thu – Đông năm 1964.

        Tôi xin phép Khu uỷ xuống Tam Kỳ tìm hiểu tình hình phong trào quần chúng và các đơn vị bộ đội, Cùng đi với tôi có một số cán bộ tham mưu, chính trị. đến Dốc Bộng thì chúng tôi được biết anh Nguyễn Duy Minh – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 vừa trúng pháo địch hy sinh trong một một trận phục kích quân địch trên đường Tiên Phước đi Tam Kỳ. Anh Lê Hữu Trữ - Trưởng phòng Tác chiến Quân khu được giao nhiệm vụ làm Trung đoàn trưởng. Đến vùng Dương Yên, tôi gặp anh Mười Chấp - Tỉnh uỷ viên Quảng Nam, Bí thư Huyện uỷ Tam Kỳ, một đồng chí không ra Bắc tập kết ở lại bám trụ kiên cường. Sau khi nắm lại tình hình, tôi bàn với anh Mười Chấp huy động được mấy tấn gạo. Tôi đề nghị với anh Võ Chí Công và anh Nguyễn Đôn cho nốt đại đội đang bảo vệ khu về tiểu đoàn để chuẩn bị cho đợt hoạt động mùa Thu.

        Thực hiện kế hoạch tác chiến Thu – Đông 1964, Tiểu đoàn 90 Trung đoàn 1 được tăng cường, nhận nhiệm vụ đánh địch ở Kỳ Sanh.

        Kỳ Sanh là một xã giải phóng của ta ở tây Tam Kỳ (Quảng Nam). Trong tháng 3 năm 1964, Mỹ - Nguỵ mở chiến dịch lấn chiếm chiếm lại. Sau một thời gian đánh phá, địch đã gom dân vào trong sáu ấp chiến lược. Lực lượng địch ở đây có tiểu đoàn quân cộng hoà bố trí thành 3 cụm ở đối 76 và hai thôn, thôn 7 và thông 8.

        Đánh Kỳ Sanh, bộ đội ta phải vận động trên địa hình trống trải, giữa hệ thống cứ điểm dày đặc, địch có thể phát huy được máy bay, pháo binh, cơ giới.

        Trung đoàn 1 chuẩn bị cho trậnu Kỳ Sanh khá tốt, tinh thần chiến đấu tốt, sức khoẻ bộ đội được cải thiện. Trước khi bộ đội xuất quân, tôi về trung đoàn để động viên anh em:

        - Các đồng chí đánh trận này theo hình thức “đánh điểm, diệt viện”, nhắm kiên quyết tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân cộng hoà cơ động, bắn cháy và bắt sống M113, đánh bại bước đầu chiến thuật “thiết xa vận” của địch, bắn rơi máy bay địch bằng súng trường và trung liên, đánh cả ban đêm và ban ngày, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của trung đoàn chủ lực.

        Nói xong tôi hỏi anh em:

        - Các đồng chí có gì khó khăn?

        Anh em giơ tay nói:

        - Báo cáo thủ trưởng, trên 600 người đi vào trận đánh mà chỉ có không đầy hai chục xẻng, cuốc, khó đào công sự xong trong đêm.

        Trước giờ xuất quân, đòi hỏi của anh em rất thực tế. Thời gian chỉ còn mấy tiếng đồng hồ. làm thế nào giải bài toán hóc búa này? Tôi nói với anh Thạch và anh Huyền cho anh em tạm nghỉ, các đồng chí cùng suy nghĩ cách giải quyết.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:57:34 pm

        Suy nghĩ một lúc, tôi mượn dao và cùng mấy đồng chí bảo vệ ra rừng tìm một cây gỗ thật cứng, chặt một đoạn vót nhọn.

        Bộ đội được tập hợp trở lại, tôi cầm cây cọc gỗ vót nhọn cắm trước hàng quân và nói:

        - Các đồng chí! Xưa kia Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng bằng những cây cọc gỗ như thế này, tất nhiên là lớn hơn, dài hơn. Ngày nay, các đồng chí hãy noi gương cha ông, dùng những cọc gỗ để đánh Mỹ - Nguỵ. Gỗ có thể đâm thủng thuyến giặc, thì gỗ cũng có thể để đào công sự chiến đấu.

        Hiểu được ý của tôi, Tiểu đoàn 90 toả vào rừng, mỗi người chặt một đoạn cây vót nhọn để thay cuốc, xẻng. Đêm hôm ấy bộ đội đào công sự cá nhân khá tốt.

        Theo đúng kế hoạch, đếm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 8 năm 1964, một bộ phận của Tiểu đoàn 90 tiến công diệt 1 đại đội quân nguỵ ở thôn 8.

        Sáng ngày 10 tháng 8, Chỉ huy tiểu khu Quảng Tín sử dụng 2 đại đội bộ binh có 9 xe bọc thép M113 dẫn đầu từ Hố Giang kéo lên Kỳ Sanh. Để yể trợ cho lực lượng cứu viện, địch cho máy bay và pháo binh bắn phá ác liệt dọn đường. Những công sự đào vội bằng những cọc gỗ vót nhọn chỉ sâu đến thắt lưng, cũng đủ để chiến sỹ ta vững tâm chờ địch.

        9 giờ 35 phút ngày 10 tháng 8, đại bộ phận quân địch đã lọt vào trận địa phục kích của ta. Ngay từ những loạt đạn đầu, các chiến sỹ ta đã bắn cháy 2 xe M113 đi trước. Bảy chiếc đi sau vội vàng dừng lại. Máy bay, pháo binh thi nhau nã đạn vào trận địa Tiểu đoàn 90.

        Bất chấp bom đạn, chiến sỹ ta vừa anh dũng đánh chia cắt bộ binh địch bám theo xe bọc thép, vừa bình tĩnh đón đánh những chiếc xe M113 đang hung hăng ào tới. Sau hơn 30 phút, ta bắn cháy thêm 4 chiếc nữa. Vậy là ta đã diệt 6 trong số 9 chiếc M113. Tấm lá chắn bằng thép đã bị phá vỡ, bộ binh địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Quân ta lập tức xông lên truy diệt gần 100 tên địch nữa. ta thương vong 41. Tuy chưa diệt gọn được toàn bộ quân địch nhưng đây là trận đầu tiên Tiểu đoàn bộ binh 90 đã trụ vững ở địa bàn đồng bằng. Chiến thuật “thiết xa vận” - thủ đoạn chủ yếu để thực hiện kế hoạch càn quét gom dân lập ấp chiến lược của địch lần đầu bị đánh bại trên chiến trường Khu 5.

        Giữa năm 1964, trước những thất bại ngày càng nặng nề ở miền Nam Việt Nam, âm mưu của đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc đã trắng trợn hơn, các hoạt động trinh sát trên không, tung biệt kích vào phá hoại nhiều hơn.

        Tháng 3 năm 1964, Giôn-xơn phê chuẩn kế hoạch Đê-sô-tô, dùng tàu khu trục Mỹ tuần tiễu ở vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn tiếp tế vào Nam bằng đường biển của ta; đồng thời quấy rối trinh sát vùng ven biển, yểm hộ cho hoạt động của tàu biệt kích nguỵ vây bắt nhân dân ta đánh cá ngoài biển để khai thác tin tức. Trung tuần tháng 4 năm 1964, hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã vạch kế hoạch ném bom miền Bắc, thông qua danh sách 94 mục tiêu sẽ bị đánh phá.

        Ngày 12 tháng 6, biệt kích nguỵ phá cầu Hang (Thanh Hoá). Ngày 30 tháng 6, chúng lại phá nhà máy nước Đồng Hới. Từ ngày 30 tháng 7, tầu chiến Mỹ đã xâm phạm ven biển của ta, bắn phá các đảo Hòn Ngư (Nghệ An) và Hòn Mê (Thanh Hoá). Ngày 31 tháng 7, tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ vào khu vực phía nam đảo Cồn Cỏ, bắt đầu do thám và uy hiếp dọc bờ biển của ta. Các ngày 31 tháng 7 và 1 tháng 8, máy bay Mỹ bắn phá đồng biên phòng Nậm Cắn.

        Trước tình hình đó, hải quân ta được lệnh đánh trả và trừng trị bọn cướp biển xâm phạm vùng biển và an ninh của nước ta.

        Trưa chủ nhật ngày 02 tháng 8 năm 1964, chính quyền Giôn-xơn lại dựng lên câu chuyện tàu chiến Mỹ bị hải quân ta tiến công ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ thuộc hải phận quốc tế, lấy cớ ném bom miền Bắc trong ngày 5 tháng 8 năm 1964.

        Với sự kiện vịnh Bắc Bộ, đế quốc Mỹ mong gỡ thế bí, thế sa lầy của chúng ở miềm Nam Việt Nam, nhưng thực tiễn những năm sau đã chứng tỏ cuộc phiêu lưu mới đó đã không cứu vãn được những thất bại ngày càng nặng nề của chúng.

        Đêm 5 tháng 8 năm 1964, tôi, anh Mười Chấp và mấy anh em đi cùng, mắc võng giữa vườn chè Kỳ Thạnh nhưng không sao ngủ được, thỉnh thoảng lại hỏi nhau không biết đêm nay Bác Hồ có ngủ được không? Đêm đã khuya, gió biển thổi vào làm cho những tàu lá dừa lay động xào xạc. Có đồng chí mỗi lần nhắc đến Bác thức hay ngủ lại nức nở khóc. Chúng tôi nói với nhau: điều quan trọng nhất là quân dân cả nước một lòng kháng chiến chống Mỹ - Nguỵ, quân dân miềm Nam và Khu 5 đánh thắng địch để Bác vui lòng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:58:00 pm

        Ngày 19 tháng 8 năm 1964, báo Quân giải phóng - tờ báo của lực lượng vũ trang Trung Trung Bộ chính thức phát hành phục vụ cán bộ, chiến sỹ và nhân dân. Toà soạn bảo Quân giải phóng được tổ chức do anh Lê Văn Ba là thư ký toà soạn (phụ trách chung), ban biên tập có các nhà văn, nhà thơ, gồm các anh Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Phan Đình Công, Hà Giao... Chỉ sáu đồng chí, vừa làm phóng viên, biên tập, làm ma-két, chữa mo-rát... Trong điều kiện chiến trường đi lại rất khó khăn, để có tin bài kịp thời cổ vũ động viên bộ đội, cán bộ, phóng viên báo Quân giải phóng đã phải thường xuyên bám chiến trường, bám đơn vị. Nhiều phóng viên đã cùng với chiến sỹ chiến đấu trong các trận đánh đồn, phục kích, đánh giao thông, diệt cơ giới, chống càn quét, phá ấp chiến lược.

        Giữa lúc phong trào đang phát triển thì Khu 5 bị một trận lụt khủng khiếp. Tháng 10 năm 1964, những cơn mưa như trút nước liên tục ròng rã nửa tháng trời biến đồng bằng Khu 5 thành biển nước. Hàng nghìn thông ấp bị ngập trong nước. Lũ cuốn trôi nhiều nhà cửa, trâu bò, công cụ sản xuất. Núi sạt lở từng mảng kéo theo một số buôn của đồng bào và một số bệnh xá, cơ quan, đơn vị. Riêng bộ đội đã có 70 cán bộ, chiến sỹ bị đất vùi. Theo các cụ già địa phương cho biết thì đây là trận lụt chưa từng có trong vòng 100 năm ở đây. Trận lụt đã gây ra nạn đói nghiêm trọng, đe doạ khắp vùng ven biển miền Trung, tác động sâu sắc đến nhiều mặt của cuộc kháng chiến.

        Kẻ thù tàn ác, chúng cho rằng trận lụt có giá trị như cuộc phản công của mấy sư đoàn. Giữa lúc nhân dân đang ngập chìm trong nước, hàng vạn người già, trẻ em đang chới với trên những mái nhà tranh, những ngọn cây thì cũng chính là lúc chúng tính kế xúc dân, lập ấp, đánh phá phong trào cách mạng. Từng đàn máy bay địch liên tục ném bom bắn phá các thôn xóm, các gồ đất cao đang chen chúc những người chạy lụt. Xe bọc thép lội nước, xuống máy của chúng lồng lộn rẽ nước chở quân đi càn quét hòng tiêu diệt các đơn vị chủ lực và du kích ta đang bị nước bao vây và xúc dân về các trại tập trung.

        Khó khăn tưởng chừng không khắc phục nổi. Nhưng càng khó khăn gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Khu 5 càng bền gan, vững chí, gan góc kiên trì chịu đựng và anh dũng vượt qua. Bộ đội và du kích vừa đánh địch càn quét vừa dùng thuyền, bè chuối lao đi dưới làn bom đạn địch để cứu dân. Bát cơm xẻ nửa, củ sắn chia đôi, mọi người chia nhau từng hạt lúa, củ khoai còn sót lại.

        Trong những ngày khốn khó, Bác Hồ và nhân dân miền Bắc liên tiếp động viên thăm hỏi. Các chiến sỹ Đoàn 559 ngày đêm khẩn trương vận chuyển thuốc chữa bệnh của Bác Hồ và nhân dân Miền Bắc gửi cho đồng bào, chiến sỹ Khu 5. Kẻ thù hy vọng trận lụt sẽ làm giảm sút sức chiến đấu của quân và dân Khu 5 trong một thời gian dài. Nhưng chúng đã lầm. Với truyền thống tự lực, tự cường, quân dân Khu 5 đã nhanh chóng vượt qua mọi khó khăn, đồng thời tạo ra sức mạnh chiến đấu mới.

        Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương sử dụng Trung đoàn bộ binh 2, phối hợp với bộ đội địa phương huyện và dân quân, du kích mở đợt tiến công vào chi khu An Lão.

        An Lão là một huyện của Bình Định, cách tỉnh lỵ Bình Định 96 ki-lô-mét về phía tây bắc, là một huyện trung du chạy dài trong một thung lũng rộng 4 ki-lô-mét dài 22 ki-lô-mét. Địch cho đây là vùng an toàn của chúng nên chỉ có lực lượng bảo an, dân vệ bố trí ở quận lỵ, với công sự khá kiên cố, có một điểm cao, hai đồn cùng với 13 trung đội dân vệ trong 18 ấp chiến lược dọc địa bàn của huyện.

        Trong đêm ngày 6 tháng 12, ta diệt gọn địch đóng ở trên điểm cao 193 và hai đồn dân vệ. Nhân dân các ấp nổi dậy bắt ác ôn, phá tan 18 ấp chiến lược, giải tán 13 trung đội dân vệ, nhưng ở quận lỵ ta chỉ tiêu hao được một phần quân địch. Đến sáng ngày 7 tháng 12 ta chuyển sang bao vây sẵn sàng đánh quân tiếp viện.

        Trong hai ngày 7 và 8 tháng 12, ta tiếp tục đánh viện, diệt 6 xe M113 và một số tên địch, giữ vững các nơi đã chiếm được, tuyên truyền chính sách trong nhân dân, gây cơ sở du kích trong vùng giải phóng. Bị thất bại nặng nề, đến ngày 15 tháng 12, địch rút khỏi vùng này.

        Kết quả, ta diệt và bắt 581 tên địch, thu 310 súng các loại (trong đó có 2 khẩu cối 106,7 ly), diệt và phá hỏng 6 xe M113, phá 18 ấp chiến lược, bắn rơi 1 máy bay, thu 12 tấn đạn, giải tán 13 trung đội dân vệ, giải phóng cả một vùng 11.000 dân.

        Qua chiến thắng An Lão, lần đầu tiên ở Khu 5 xuất hiện phương thức tác chiến mới của chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích dưới hình thức chiến dịch với quy mô trung đoàn. Chiến thắng An Lão đã làm cho quân và dân ta càng thêm phấn khởi và tin tưởng, ra sức khắc phục những khó khăn to lớn do nạn lụt cuối năm 1964 gây ra và tạo nên một khí thế cách mạng mới.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:58:24 pm

        Đợt hoạt động Xuân 1965, trên toàn bộ chiến trường Khu 5 được chuẩn bị khá hơn. Trong đợt này toàn khu có ba trọng điểm có chủ lực hỗ trợ cho phong trào diệt kẹp giành dân. Để căng kéo, chia cắt, tạo ra sức uy hiếp lớn, buộc địch phải lúng túng đối phó, ta đã tập trung 4 trong số 5 trung đoàn chủ lực của đồng bằng và Tây Nguyên, phối hợp với lực lượng địa phương ba tỉnh, tiến công địch trên toàn tuyến. Trong đó, chủ lực tập trung vào 4 khu chính: Trung đoàn 2 ở Phù Mỹ (Bình Định); Trung đoàn 10 ở đông tây đèo Măng Giang trên đường 19; Trung đoàn 320 ở Thanh An – Thanh Bình trên đường 19 kéo dài; Trung đoàn 1 ở Quảng Nam. Trong đợt này quân khu còn sử dụng tất cả lực lượng đặc công, pháo cối đánh vào các sân bay. Trước Tết Nguyên đán, cơ quan tham mưu quân khu tính toán và đề nghị nên nổ súng vào đêm 30 Tết. Sau khi cân nhắc, anh Năm Công và tôi đồng ý cho nổ súng đồng loạt vào tối 30 rạng ngày 1 Tết Nguyên đán.

        Theo đúng kế hoạch, đêm 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 1965 (đêm 0 rạng ngày 1 Tết), chủ lực trên hướng trọng điểm cùng một lúc nổ súng tiến công sân bay Cù Hanh, trại Hô-lô-uê ở Plây Cu và cứ điểm Dương Liễu ở Bình định. Sân bay Cù Hanh là sân bay lớn, quan trọng nhất của Mỹ - Nguỵ ở Tây Nguyên. Trị Hô-lô-uê nằm ở quãng giữa sân bay và sở chỉ huy Quân đoàn 2 của Nguỵ. Trong trại có khoảng 1.000 cố vấn Mỹ.

        2 giờ ngày 7 tháng 2, sau khi đã vượt qua tất cả hệ thống bố phòng, các chiến sỹ đặc công Tiểu đoàn 40 đã nằm sẵn dưới cánh máy bay địch. Được lệnh, hầu như cùng một lúc, hàng chục tiếng bộc phá nổ vang rền. Từng cột khói, lửa bốc lên. Cùng lúc đó, các chiến sỹ đại đội súng cối 60 ly Trung đoàn 320 tới tấp dội đạn xuống trại Hô-lô-uê.

        Sau 30 phút chiến đấu, các chiến sỹ ta đã phá huỷ và phá hỏng 42 máy bay các loại, diệt và làm bị thương 350 tên (Trong hồi ký, Giôn-xơn thú nhận 20 máy bay lên thẳng bị phá huỷ và phá hỏng, 8 tên Mỹ chết và hơn 100 tên khác bị thương).

        Cùng lúc với trận tiến công sân bay Cù Hanh và trại Hô-lô-uê, Trung đoàn bộ binh 2 do Trung đoàn trưởng Đỗ Phú Đáp và Chính uỷ Nguyễn Văn Ngật chỉ huy cũng nổ súng tiến công cứ điểm Dương Liễu, diệt gọn 1 đại đội cộng hoà và 3 trung đội dân vệ, cắt đứt đường số 1 từ Phù Mỹ đi Bồng Sơn (Bình Định). Tiểu đoàn đặc công 499 (thiếu) tiêu diệt cứ điểm Gia Hựu (Hoài Nhơn), diệt gọn 1 đại đội cộng hoà và 1 trung đội pháo 105 ly.

        Ngày 8 tháng 2, địch cho 2 tiểu đoàn bộ binh và 1 chi đoàn bọc thép của Sư đoàn 22 Nguỵ theo đường số 1 tiến ra Dương Liễu. Theo kế hoạch đã vạch sẵn, các đơn vị của ta bố trí ở những khu vực địch đã lục soát và bí mật vận động tiếp cận. 13 giờ 30 phút, khi quân địch phát hiện đường dây điện thoại của trận địa chặn đầu cũng là lúc toàn bộ đội hình của chúng đã lọt vào trận địa của ta. Hàng loạt đạn súng cối trùm lên các điểm cao, trên đó có hàng chục tên địch. Các mũi xung kích bất ngờ từ các sườn núi lao ra. Bị đánh mạnh và bị bao vây cả bốn phía, bọn chỉ huy quân Nguỵ liên tiếp kêu cứu. Hàng ngũ địch bắt đầu rối loạn tan rã. Một số tên lái xe bọc thép M113 cũng hốt hoảng bỏ xe chạy thoát thân.

        “Bắt sống xe bọc thép” – Trung đội trưởng Bùi Xuân Bình vừa ra lệnh cho đơn vị vừa nhảy lên chiếc xe bọc thép còn đang nổ máy, quay nòng trọng liên bắn yểm hộ cho đồng đội.

        15 giờ 30 phát, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Trong trận này ta diệt, bắn bị thương và bắt sống 50 tên bắn cháy 8 chiếc và bắt sống 2 xe bọc thép M113.

        Trong lúc đó phía tây bắc thị xã Quảng Tín, Trung đoàn 1 tiêu diệt địch trong cụm cứ điểm Việt An, đồng thời đón đánh diệt quân cơ động Nguỵ. Sau khi Việt an được giải phóng, ngay hôm ấy địch cho 1 tiểu đoàn biệt động lên cứu viện. Tiểu đoàn này đi qua chợ Vinh Huy thì lọt vào trận địa phục kích của ta. Bộ đội đồng loạt xung phong, quân địch bị bất ngờ, nhốn nháo, một đồng chí tiểu đội trưởng hô vang khẩu lệnh: “Bám lấy thắt lưng địch mà đánh”. Cán bộ, chiến sỹ ta xung phong tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiêu đoàn biệt động Nguỵ.

        Ngày 7 tháng 2 năm 1965, lấy cớ đánh trả đũa ta tiến công vào doanh trại quân Mỹ ở Plây Cu, Giôn-xơn ra lệnh cho không quân Mỹ mở chiến dịch “Mũi lao lửa” ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới. Tiếp đó, ngày 8 tháng 2, chúng ném bom bắn phá khu vực Chấp Lễ ở phía bắc Đồng Hới. Ngày 11 tháng 2 năm 1965, lại lấy cớ đánh trả đũa vụ ta tiến công vào khu nhà lính Mỹ ở Quy Nhơn, Mỹ tiếp tục ném bom các doanh trại Quân đội ta ở Chánh Hoà, Chấp Lễ. ngày 13 tháng 2, Giôn-xơn quyết định mở rộng các hoạt động đánh phá miền Bắc thành cuộc chiến tranh phá hoại.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:58:53 pm

        Để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Bắc đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên sức mạnh toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Nhiều đơn vị phòng không được xây dựng gấp. Các loại pháo cao xạ và không quân, tên lửa phòng không hiện đại, các tổ, đội bắn máy bay tầm thấp của dân quân tự vệ triển khai rộng khắp, với quyết tâm địch đến là diệt, đánh thật mưu trí và đánh thắng ngay từ trận đầu.

        Đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt’ của đế quốc Mỹ phát triển đến đỉnh cao nhất với nửa triệu quân nguỵ và hơn 23 nghìn cố vấn Mỹ, được trang bị vũ khí và phương tiện hiện đại, nhưng chiến lược chiến tranh đó đã bị quân và dân ta đánh bại.

        Để cứu chế độ Nguỵ quyền khỏi sụp đổ, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, hai tiểu đoàn thuộc Lữ 4 Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 của Mỹ từ Ô-ki-na-oa (Nhật) đổ bộ lên Đà Nẵng. Sau đó chúng lần lượt đưa quân Mỹ và chư hầu với vũ khí, trang bị hiện đại nhất vào miền Nam Việt Nam, chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” với cuồng vọng là bằng sức mạnh siêu cường tập trung đánh bật lực lượng kháng chiến của nhân dân miền Nam lên núi và về bên kia giới tuyến 17.

        Trước tình hình đó, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3 năm 1965, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Hội nghị nhận định, với những âm mưu và hoạt động mới của đế quốc Mỹ, tình hình một nửa nước có chiến tranh một nửa nước có hoà bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước, nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miến Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

        Nghị quyết xác định: “ Nhiệm vụ cơ bản của ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” ở mức độ cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nếu địch gây ra, tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đem toàn lực tiến công địch ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc trong cả nước”.

        Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương đảng có những quyết định rất quan trọng: Vừa quyết tâm kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt vừa chuẩn bị cho đất nước bước vào một cuộc chiến tranh quy mô lớn với quân đội viễn chinh Mỹ, vạch ra nhiệm vụ cơ bản và nhiệm vụ cụ thể của cả nước và riêng từng miền, giữ vững thế chủ động cho quân và dân cả nước ta, sẵn sàng đánh và thắng địch khi chúng chuyển cuộc chiến tranh xâm lược thành chiến tranh cục bộ ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại trên miền Bắc.

        Cuối tháng 3 năm 1965, Thường vụ Khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu 5 mở hội nghị cán bộ trung cao cấp trong toàn quân khu đề ra chủ trương: Tranh thủ thời cơ tiến công tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực cơ động nguỵ, tiếp tục diệt kẹp giành dân và làm tan rã đại bộ phận quân nguỵ, dẫn chúng lún sâu hơn nữa vào thế phòng ngự bị động làm cho quân Mỹ lâm vào thế lúng túng, hạn chế khả năng bình định của Mỹ - Nguỵ. Ra sức xây dựng củng cố thế trận chiến tranh nhân dân địa phương, xây dựng “vành đai diệt Mỹ” bao quanh các căn cứ quân sự Mỹ, khẩn trương chuẩn bị tổ chức đánh những trận phủ đầu quân Mỹ. Nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng ba thứ quân. Phát huy phong trào thi đua thực hiện “ba bám” (bám đât, bám dân, bám địch) quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược trong toàn quân khu.

        Tiếp đến, Quân khu uỷ tổ chức hội nghị “du kích chiến tranh” bàn kế hoạch xây dựng củng cố dân quân du kích, xây dựng làng xã chiến đấu và kế hoạch xây dựng “cành đại diệt Mỹ”, phát động phong trào thi đua giành danh hiệu “Thiện xạ diệt Mỹ” (Tháng 5 năm 1965 đổi tên là “Dũng sỹ diệt Mỹ”).


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 08:59:10 pm

        Sau các hội nghị trên đây, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu chỉ đạo mở đợt sinh hoạt cính trị trong toàn quân khu nhằm xác định tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ, phát động tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc Mỹ xâm lược và tay sai bán nước, biến nhận thức tư tưởng thành hành động cách mạng.

        Cơ quan lãnh đạo chỉ đạo của quân khu cử nhiều cán bộ xuống các tỉnh và các huyện chung quanh các vành đai, trước hết là Đà Nẵng giúp các địa phương tổ chức lực lượng xây dựng thế trận vành đai diệt Mỹ. Khu uỷ và Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu khẩn trương củng cố các tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng từ khu đến cơ sở ở cả thành thị và nông thôn, đặc biệt là xây dựng các chi bộ trên các vành đai vững mạnh đủ sức lãnh đạo quân, dân vành đai tiến hành các hoạt động tác chiến và đấu tranh chống địch càn quét, bắn phá vào làng xóm, tàn phá ruộng nương. Các chi bộ vành đai, hầu hết đảng viên đều trực tiếp đánh giặc, nhiều đồng chí đã bám trụ ngay từ đầu để vận động quần chúng đánh Mỹ. Ở đây, chi bộ đảng thực sự là bộ tham mưu trực tiếp tổ chức, động viê, chỉ đạo chiến tranh nhân dân ở xã thuộc tuyến vành đai.

        Việc xây dựng thế trận vành đai liên hoàn, vững chắc, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang đánh thắng giặc Mỹ, bảo vệ được nhân dân là nhân tố trực tiếp quyế định sự tồn tại và chiến thắng của vành đai diệt Mỹ. Quân và dân Khu 5 triệt để tận dụng nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” vào việc xây dựng thế trận vành đai diệt Mỹ. Các lực lượng vũ trang và nhâ dân đã đóng góp nhân tài vật lực để xây dựng làng xã, trận địa chiến đấu, hình thành từng tuyến vững chắc. Thế trận xen kẽ, có các căn cứ lõm bên trong, các tuyến chiến đấu ngăn chặn giam chân địch, phía sau có các trận địa hoả lực chi viện cho phía trước. Các căn cứ lõm, các bàn đạp trận địa làng xã chiến đấu đều liên hoàn với nhau bằng mạng lưới đường dây liên lạc từ trong ra ngoài và ngược lại, cả hợp pháp, bất hợp pháp. Hệ thống công sự và địa đạo được xây dựng thành nhiều tuyến nối liền từ thôn này sang thôn khác, xã này sang xã khác, có nơi nối từ huyện này sang huyện khác. Xã chiến đấu Điện Hoà (điện Bàn, Quảng Nam) đã xây dựng được 29 ki-lô-mét rào, 33 ki-lô-mét giao thông hào, 5.200 hầm trú ẩn, trên 2.000 hầm bí mật, hầm cất giấu tài sản, trâu bò, 3.000 cọc chống xe M113, hàng nghìn hầm chông, hố chông, cạm bẫy và 16 ki-lô-met địa đạo... Hệ thống địa đạo trên vành đai diệt Mỹ phía nam Chu Lai của các huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) dài 70 ki-lô-mét. Hệ thống công sự hầm bí mật ở vùng ven Đà Nẵng phát triển nhiều và bảo đảm an toàn có thể giấu từ một đại đội đến một tiểu đoàn. Thế trận vành đai như vậy đã hạn chế được ưu thế về vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại của quân Mỹ. Quân Mỹ và chư hầu bị vây hãm trong thế trận vành đai - thế trận chiến tranh nhân dân. Hầu hết các cuộc càn nống lấn, thăm dò, các cuộc tiến công để nới rộng phạm vi an toàn của địch đều bị các lực lượng vũ trang trên vành đai đánh bại.

        Mặc dù được chuẩn bị tinh thần, tư tưởng, tổ chức quyết tâm đánh Mỹ sớm, nhưng quân và dân Khu 5 chưa hình dung được cách đánh cụ thể. Khi bàn cách tổ chức đánh phủ đầu quân chiến đấu Mỹ, Khu uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu xác định dân quân và du kích là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tại chỗ của phong trào toàn dân đánh giặc trên vành đai, nên lúc đầu đặt tên là”vành đai du kích diệt Mỹ”, lực lượng gồm du kích xã vành đai, bộ đội huyện, bộ đội tỉnh và các đại đội đặc công, pháo cối của quân khu tăng cường. Nhưng chúng tôi cho rằng như thế là hẹp nên đổi thành “vành đai diệt Mỹ”. Bộ đội địa phương tác chiến trên vành đai có quy mô tổ chức biên chế gọn nhẹ, cơ động nhanh, thực hiện phương châm lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ đánh lớn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của vành đai diệt Mỹ. Bộ đội địa phương và dân quân du kích xây dựng nhiều đơn vị mũi nhọn sẵn sàng cơ động tác chiến trên vành đai và chiến đấu trên khắp địa bàn, khiến quân Mỹ - Nguỵ đi đến đâu cũng sa vào mạng lưới thiên la địa võng của du kích. Những tiên lính Mỹ và chư hầu được huấn luyện cho một cuộc chiến tranh quy ước, hoàn toàn bị bất ngờ, bị động trước cuộc chiến tranh du kích. Riêng du kích trên vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai trong hai tháng ( tháng 5 và tháng 6 năm 1965) đã diệt và làm bị thương 685 tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Mười Hai, 2016, 11:04:14 pm

        Từ kết quả diệt Mỹ trên các mặt trận vành đai, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh Quân khu 5 đi đến khẳng định: Du kích đã diệt được Mỹ thì bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực càng có khả năng đánh Mỹ, thắng Mỹ. Thực tế đã chứng minh: Trận Núi Thành (26/5/1965), Đại đội 2 Tiểu đoàn 70 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam được tăng cường một trung đội đặc công, sau 30 phút chiến đấu các chiến sỹ ta đã tiêu diệt gần hết 1 đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Trận Vạn Tường, Trung đoàn 1, Đại đội 21 bộ địa phương tỉnh Quảng Ngãi và du kích địa phương sau một ngày chiến đấu đã loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên Mỹ, phá huỷ 22 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay.

        Chiến thắng oanh liệt của các trận đánh trên góp phần quan trọng vào ciệc xác định được cách đánh, xây dựng được lòng tin, quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ của quân và dân ta, cổ vũ khí thế thi đua diệt Mỹ trên toàn chiến trường.

        Hội nghị Khu uỷ diễn ra vào đầu tháng 5 năm 1965, chủ trương đẩy mạnh đấu tranh chính trị, vũ trang và vận động binh sỹ địch đầu hàng nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân chủ lực nguỵ, làm cho chúng rối loạn cao độ về chiến lươc, suy sụp hoàn toàn về chính trị...; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng địch trong “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Về tác chiến, hội nghị chủ trương tập trung chủ lực mở hoạt động Hè trên ba hướng: Nam Tây Nguyên, tây Gia Lai - bắc Kon Tum, bắc Quảng Ngãi.

        Bắc Quảng Ngãi - hướng trọng điểm của hoạt động ở đồng bằng bao gồm ba huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và thị xã Quảng Ngãi. Địa bàn tác chiến chủ yếu của chủ lực là tây Sơn Tịnh. Vùng đất nằm kẹp giữa 4 chi khu quân sự Sơn Tịnh 4 ki-lô-mét là thị xã Quảng Ngãi. Xa hơn 20 ki-lô-mét về phía bắc là căn cứ Chu Lai, nơi quân Mỹ vừa mới đổ vào ngày 7 tháng 5 năm 1965. Lực lượng địch, ngoài bảo an, dân vệ vòn có Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 51 độc lập đóng tại cứ điểm Gò Cao (còn có tên gọi là Ba Gia). Sở chỉ huy Trung đoàn 51 và các Tiểu đoàn 2, 3 ở thị xã Quảng Ngãi. Địa bàn hẹp, lực lượng động, cứ điểm dày đặc. Kể từ mùa Thu năm 1964, chủ lực ta chưa hoạt động ở đây. Do đó địch khá chủ quan sơ hở.

        Lực lượng ta trong chiến dịch này có Trung đoàn 1 bộ binh, do anh Lê Hữu Trữ làm Trung đoàn trưởng và anh Nguyễn Đình Trọng – Chính uỷ chỉ huy được tăng cường Tiểu đoàn 45 từ miền Bắc vào, cùng với lực lượng vũ trang địa phương. Tôi trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ chiến dịch.

        Cách đánh chiến dịch được xác định là: đánh điểm, diệt viện, đánh địch ngoài công sự là chính. Vùng tây Sơn Tịnh được xác định là địa bàn chiến dịch.

        Ngày 20 tháng 5 năm 1965, Trung đoàn 1 được lệnh hành quân rời Quảng Nam vào Quảng Ngãi. Trong buổi lễ xuất quân, toàn trung đoàn tỏ chức lễ phát động thi đua”Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”, đã làm bừng lên khí thế sôi nổi, hào hùng trong cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 1. Khi thảo luận phương án, anh Lê Hữu Trữ nói: “Trung đoàn 1 chúng tôi đang sung sức, nên mở đầu chiến dịch bằng tiêu diệt Ba Gia trước”.

        Nhưng qua thảo luận, phân tích, thấy phương án diệt Ba Gia là không phù hợp, phải có cách đánh chắc chắn hơn, tìm cách khơi ngòi, lôi địch ra ngoài công sự để tiều diệt. Quyết tâm chiến đấu của Trung đoàn 1 được quyết định như sau: Sử dụng một lực lượng nhỏ đánh vào một đơn vị dân vệ, kéo quân viện của địch ra tiêu diệt từ nhỏ đến lớn, tạo ra sự bùng nổ dây chuyền, buộc quân địch ngày càng lao sâu vào chỗ chết.

        4 giờ 25 phút ngày 29 tháng 5 năm 1965, một trung đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh, cùng một trung đội trinh sát đặc công của Trung đoàn 1 đánh vào vị trí đóng quân của trung đội dân vệ ở thôn Lộc Thọ.

        Đúng như ta dự đoán, sau khi bộ đội địa phương Sơn Tịnh nổ súng, bọn dân vệ liền kêu cứu. Địch cho pháo binh ở Ba Gia bắn vào Lộc Thọ và ra lệnh cho đại đội đóng quân dã ngoại ở Núi Tròn kéo xuống ứng cứu.

        Thực hiện ý định chiến đấu, các chiến sỹ ta không dùng súng trung liên và súng cối, mà chỉ dùng súng trường diệt địch. Chiến sỹ ta dựa vào công sự địch lên gần tỉa từng tên khiến cả đại đội nguỵ phải dừng lại. Bọn chỉ huy địch điều ngay 2 đại đội còn lại đi trên 8 xe GMC và 1 xe Jeep do hai cố vấn Mỹ chỉ huy kéo xuống giải toả.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Mười Hai, 2016, 11:06:54 pm

        Như vậy, ta đã kéo 1 đại đội nguỵ vào khu chiến, rồi tiếp tục giữ đại đội này trong thế tiến thoái lưỡng nan, để kéo cả Tiểu đoàn 1 ( Trung đoàn 51) nguỵ ra khỏi đồn để tổ chức tiêu diệt. Đội hình của Tiểu đoàn 1 địch đến gần cầu Gãy thì dừng lại. Lúc này, Tiểu đoàn 90 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chơn từ xóm An Thanh, thôn Minh Thành đang bí mật vận động hình thành thế bao vây. 9 giờ 30 phút ngày 29 tháng 5, đội hình tiến công chủ yếu của Tiểu đoàn 90 đã ở ngay sát bên sườn và phía sau quân địch. Được lệnh nổ súng, các mũi xung phong đánh chia cắt quân địch ra từng cụm nhỏ để tiêu diệt. Hai có vấn Mỹ bị tiêu diệt ngày từ đầu. Cả ba mặt đều có lực lượng ta tiến công, đôi hình chúng rối loạn không kịp chống cự. Số còn sống sót liều chết chạy ra cánh đồng hòng vượt sông Trà Khúc thoát thân. Tiểu đoàn 90 được lệnh truy kích. Các chiến sỹ nuôi quân, thông tin, vận tải, quân y tham gia bắt tù binh. Cả tiểu đoàn Nguỵ hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta bắt 217 tên, có cả tên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1.

        Bị thua đau và hết sức bất ngờ, ngay chiều 29 tháng 5, địch điều động Tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3 đang càn quét ở Đức Phổ và Tiểu đoàn Biệt động quân 39 đang ở bắc Đà Nẵng tập trung về thị xã Quảng Ngãi. Một chiến đoàn hỗn hợp gồm Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 51, Tiểu đoàn Biệt động quân 39 và Tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3 được gấp rút tổ chức.

        Về phía ta, sau chiến thắng oanh liệt vừa qua, Trung đoàn khẩn trương cho củng cố để chuẩn bị đánh những trận sau lớn hơn.

        Đúng như dự kiến, mờ sáng ngày 30 tháng 5, từng tốp máy bay phản lực ào tới dội bom xuống khắp các xóm làng và dãy điểm cao hai bên đường số 5 từ Sơn Tịnh đi Hà Thành. Pháo binh địch từ thị xã Quảng Ngãi bắn liên tiếp. Tưng tốp trực thăng phóng rốc-két, bắn đạn 20 ly xuống các điểm cao Mã Tô, Núi Khỉ, Chóp Nón mơ đường cho chiến đoàn địch tiến lên.

        9 giờ 30 phút ngày 30 tháng 5, cả chiến đoàn địch được chở trên 20 xe GMC và 12 xe bọc thép M113 từ thị xã Quảng Ngãi tiến đến ngã ba Lâm Lộc chia làm hai cánh. Tiểu đoàn Biệt động quân số 39 rẽ về phía bắc và băng qua cánh đồng Vĩnh Khánh, tiến lên chiếm điểm cao núi Chóp Nón. Cánh quân chủ yếu gồm các đơn vị còn lại tiếp tục theo đường số 5 đánh lên Phước Lộc, điểm cao Mã Tô, Nhí Khỉ rồi phát triển lên Ba Gia.

        Từ đài quan sát chỉ huy trên đỉnh Núi Khỉ, Trung đoàn liên tục theo dõi, nắm chắc mọi hành động của địch báo cáo và nhận định: So sánh lực lượng tiểu đoàn ta 1 - địch 1, nhưng địch có quân số đông hơn, hoả lực phi pháo binh khí nhiều hơn. Ta không đủ khả năng tập trung tiêu diệt ngày một lúc toàn bộ quân địch. Do đó cách đánh của ta là tìm mọi cách tách quân địch ra từng tiểu đoàn, không cho chúng liên kết, chi viện lẫn nhau để ta có thể diệt chắc từng bộ phận địch.

        Từ nhận định về địch và xác nhận cách đánh, Trung đoàn trưởng Lê Hữu Trữ chỉ thị từng mục tiêu cụ thể cho các tiểu đoàn. Trên các hướng, được sự hỗ trợ của du kích, quân ta nhanh chóng vận động, bí mật hình thành thế bao vây quân địch.

        13 giờ 30 phút ngày 30 tháng 5, Tiểu đoàn 39 đến núi Chóp Nón, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 51 và Tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3 đang tiến vào làng Phước Lộc.

        Theo tình huống dự kiến Tiểu đoàn 45 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 60 nổ súng đánh vào sau lưng Tiểu đoàn 39 của địch. Nghe tiếng súng nổ, cánh quân chủ yếu của địch ở Phước Lộc triển khai đội hình chiếm đồi Mã Tô và điểm cao 47.

        Lúc này toàn trung đoàn được lệnh xuất kích.

        Tiểu đoàn 40 từ chân Núi Khỉ, hình thành hai mũi đánh chiếm phía tây làng Phước Lộc, phát triển dọc theo bờ bắc sông Trà Khúc, hình thành thế bao vây chặt phía nam quân địch. Tiểu đoàn 60 (thiếu) từ Vĩnh Lộc chia thành hai mũi đánh bật địch ra khỏi điểm cao 47, tiến thẳng vào làng Phước Lộc, cắt đôi đội hình địch, rồi vòng về phía đông, chiếm cầu Bà Mẹo cắt đường rút lui của địch, phối hợp với Tiểu đoàn 40.

        Trận đánh diễn ra mỗi lúc một ác liệt, ta và địch giành giật nhau từng mô đất, từng đoạn chiến hào. Sau 2 giờ chiến đấu quyết liệt, chiến sỹ ta đã diệt phần lớn Tiểu đoàn 39, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 51), đánh thiệt hại Tiểu đoàn lính thuỷ đanh bộ 3. Trời tối, quân số còn lại của Tiểu đoàn 39 cố thủ ở đồi Chóp Nón,Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 51) co cụm trong một đoạn chiến hào ở rìa làng Phước Lộc, Tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 co cụm ở điểm cao 47.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:20:59 pm

        Như vậy, bằng nhiều trận đánh liên tiếp, ta đã gom địch lại thành ba cụm cách biệt nhau, buộc chúng phải trú quân lại trong đêm.

        Về phí ta, sau một ngày chiến đấu căng thẳng, nhưng để diệt gọn cả chiến đoàn địch, cán bộ trung đoàn phân công nhau xuống từng đơn vị để động viên bộ đội, tổ chức lại đội hình, nắm địch và quyết định tập kích tiêu diệt cả ba cụm quân địch ngay đêm 30 tháng 5.

        4 giờ 30 phút ngày 31 tháng 5, trận tập kích bắt đầu từ đồi Chóp Nón. Chỉ sau 7 phút chiến đấu, Tiểu đoàn 45 đã tiêu diệt gọn quân địch, làm chủ trận địa. Ở hướng Mã Tô và điểm cao 47, Tiểu đoàn 60 nổ súng, bọn địch không kịp chống cự mà lợi dụng đêm tối tháo chạy. Tiểu đoàn 60 truy kích, diệt gọn tiểu đoàn này.

        Ở làng Phước Lộc, Tiểu đoàn 40 gặp khó khăn hơn, chưa nắm được địch. Cán bộ tiểu đoàn và đại đội đi trước nắm địch, khi nắm được địch nhanh chóng hình thành phương án, tổ chức chiến đấu và thực hành tiến công ngay. 4 giờ ngày 31 tháng 5, Tiểu đoàn 40 nổ súng. Sau 30 phút chiến đấu, toàn bộ lực lượng còn lại của Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 51) Ngụy bị tiêu diệt.

        Như vậy, sau 16 giờ chiến đấu liên tục, Trung đoàn 1 đã tiêu diệt hoàn toàn 1 chiến đoàn quân Ngụy, diệt 916 tên, có 4 cố vấn Mỹ, bắt 65 tên, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng.

        Chiến thắng Ba Gia là một trận tiêu diệt chiến xuất sắc của chủ lực ta. Lần đầu tiên ta diệt gọn một chiến đoàn quân Ngụy (Tiểu đoàn Biệt động 39, Tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ 3, Các Tiểu đoàn 1 và 2 (Trung đoàn 51) Ngụy) và cũng là lần đầu tiện trong một thời gian ngắn của chiến dịch (trong vòng 42 tiếng đồng hồ) ta diệt gọn 4 tiểu đoàn Ngụy, với lực lượng một chọi một, chứng tỏ địch không còn đủ sức tiến công mà cũng không đủ sức phòng ngự nữa. Qua trận Ba Gia, bộ đội ta đã thể hiện xuất sắc chủ nghĩa anh hùng tập thể, đánh mạnh, xung phong mạnh.

        Về mặt đấu tranh vũ trang thì chiến thắng Ba Gia đánh dấu sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam với lực lượng chiến lược là quân Ngụy do Mỹ tổ chức, trang bị, huấn luyện, chỉ huy và sự phá sản đó lại đánh dấu sự thất bại bước đầu của chính sách thực dân mới và âm mưu ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á của chúng.

        Thắng lợi to lớn về quân sự, sức ép mạnh mẽ về chính trị và binh vận của nhân dân càng làm cho ngụy quân, ngụy quyền nhiều nơi trong tỉnh Quảng Ngãi hoang mang, dao động. Nhân dân toàn tỉnh nổi dậy kết hợp với bộ đội địa phương và du kích tiến công giải phóng nhiều vùng nông thôn ở đông và tây Tư Nghĩa, bắc Nghĩa Hành, đông Mộ Đức, đông Sơn Tịnh, tây Bình Sơn. Nông thôn đồng bằng cơ bản được giải phóng.

        Thị xã Quảng Ngãi lúc này chỉ có lực lượng bảo an. Trong cán bộ lãnh đạo có người cho rằng có thời cơ dùng Trung đoàn 1 tiến nhanh vào diệt địch, giải phóng thị xã. Nhưng Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu thấy: Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã sẵn sàng ở Chu Lai, ta giải phóng được thị xã Quảng Ngãi nhưng thi xã sẽ bị địch oanh kích nát, Trung đoàn 1 có thể bị thương vong nhiều, nên quyết định cho bộ đội dừng lại nghỉ ít ngày chuẩn bị cho trận đánh thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Vạn Tường.

        Sau khi thành lập Mặt trận Tây Nguyên (B3) (01/5/1964), Bộ Tổng tham mưu dự kiến tập trung vào Tây Nguyên mấy sư đoàn mở chiến dịch tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Ngụy, giải phóng bắc Tây Nguyên, trước hết là Kon Tum, cắt đường 19. Vì yêu cầu đó phải tăng cường cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên trở thành Bộ chỉ huy chiến dịch.

        Theo thông báo của Bộ Chính trị thì anh Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, tôi làm Chính uỷ Mặt trận Tây Nguyên. Cùng lên Tây Nguyên với tôi có anh Bùi Nam Hà - Tham mưu phó Quân khu, anh Đặng Vũ Hiệp – Phó chủ nhiệm chính trị Quân khu và một số cán bộ khác.

        Tôi lên Tây Nguyên thì Sư đoàn kỵ binh số 1 Mỹ đã đổ bộ vào quân cảng Quy Nhơn, chiếm đóng An Khê - một vị trí then chốt trên đường 19, án ngữ cửa ngõ Tây Nguyên. Theo tin chúng tôi nắm được về Sư đoàn không vận số 1 (kỵ binh bay) như sau: quân số 15.984 người, 450 máy bay hầu hết là máy bay trực thăng, trong đó có 39 trực thăng vũ trang, 54 pháo 105 ly, khoảng 1.600 xe (trong đó có 20 xe vận tải bọc thép, hơn 2.000 máy vô tuyến điện các loại (trong đó có loại 2W PRC5 hiện đại nhất của Mỹ lúc đó); biên chế 8 tiểu đoàn chiến đấu gồm 3 tiểu đoàn dù và 5 tiểu đoàn bộ binh, mỗi tiểu đoàn 830 người; bán kính hoạt động tối đa của Sư đoàn không vận là 300 ki-lô-mét, trung bình từ 100 đến 200 ki-lô-mét.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:21:37 pm

        Sau khi đoàn cán bộ Quân khu 5 lên Tây Nguyên, trong Bộ tư lệnh Mặt trận phân công như sau: tôi (Chu Huy Mân) – Tư lệnh kiêm Chính uỷ (anh Lê Trọng Tấn không vào Tây Nguyên), anh Huỳnh Đắc Hương – Phó Chính uỷ, anh Nguyễn Chánh và anh Nguyễn Hữu An – Phó Tư lệnh, anh Bùi Nam Hà – Tham mưu trưởng, anh Đặng Vũ Hiệp - Chủ nhiệm chính trị.

        Hoạt động chiến đấu ở đồng bằng Khu 5 một thời gian lại lên Tây Nguyên, trong khi nghiên cứu đánh trận phủ đầu lực lượng sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ, chúng tôi có dịp nghiên cứu trên bản đồ Trung Đông Dương càng dễ dàng nhất trí với Bộ Tổng tham mưu: Chiến trường Khu 5 và Tây Nguyên là một phương hướng có vị trí chiến lược quân sự và chính trị rất quan trọng. đồng bằng ven biển có căn cứ liên hiệp quân sự Đà Nẵng, Chu Lai và Cam Ranh. Đà Nẵng và địa bàn Quân đoàn 1 địch là điểm tựa sau lưng Huế, Quảng Trị, đối mặt với tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tây Nguyên hay nói Cao Nguyên Trung phần cũng được coi là nóc nhà Trung Đông Dương. Lầu Năm góc cho Sư đoàn kỵ binh bay số 1 chiếm đóng An Khê với mưu tính kiểm soát cả địa bàn Tây Nguyê, mấy tỉnh đồng bằng Liên khu 5, đông bắc Cam-pu-chia và Hạ Lào, uy hiếp con đường vận chuyển chiến lược từ Bắc vào Nam. Cho nên đánh trận phủ đầu sư đoàn này của Mỹ là cực kỳ quan trọng. Đánh thắng trận đầu là cơ sở để hiểu địch, để thắng địch trong những trận tiếp sau. Đánh thắng trận đầu giúp cho đồng bào, chiến sỹ các dân tộc Tây Nguyên, cho đồng bào và lực lượng vũ trang Khu 5 tự kết luận: đánh được Mỹ và hoàn toàn có khả năng đánh thắng Mỹ. Do đó, chiến trường Khu 5 với Tây Nguyên là một. Lãnh đạo và chỉ huy có phân công và có thống nhất.

        Trước tình hình quân chiến đấu Mỹ vào Tây Nguyên, Bộ chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho chiến trường tranh thủ thời cơ đánh đau quân Ngụy, làm suy yếu chỗ dựa về bình định, không để quân Mỹ rảnh tay tìm diệt; đồng thời khẩn trương chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng quân Mỹ ngay từ trận đầu, nỗ lực cao nhất đánh bại chiến lược ‘đánh nhanh giải quyết nhanh” tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

        Thực hiện chủ trương chiến lược trên, Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên mở chiến dịch mùa khô 1965 nhằm tiêu diệt một bộ phận quân Ngụy và tạo thời cơ buộc quân Mỹ phải tham chiến để tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, củng cố và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ địa vững chắc, rèn luyện bộ đội và cơ quan chỉ đạo chiến dịch, nâng cao trình độ tác chiến; đồng thời qua tác chiến tìm hiểu thêm quân Mỹ.

        Vấn đề đặt ra với Mặt trận Tây Nguyên là chọn hướng mở chiến dịch nên ở Cánh Bắc, Cánh Trung hay Cánh Nam Tây Nguyên. Cánh Bắc là tỉnh Kon Tum có rừng rậm, núi cao hiểm trở, với ta thuận lợi cho việc giấu quân, lập kho tàng, hạn chế đến mức cao nhất hiệu lực của máy bay, pháo binh địch. Còn Cánh Trung và Cánh Nam Tây Nguyên thời tiết tháng 10 trở đi bước vào mùa khô, địa hình rừng bằng, đồi núi thấp, xen kẽ nương rẫy. Về cơ bản sông suối không ảnh hưởng đến cơ động của bộ đội. Địa hình thời tiết thời gian này cho phép ta tập trung binh lực tương đối lớn, cơ động được rộng rãi, nhưng với địch chúng cũng phát huy được uy lực không quân trong tác chiến, nhất là việc vận dụng chiến thuật “trực thăng vận”, chúng có thể cơ động nhanh đổ bộ được nhiều nơi. Với những đặc điểm thời tiết như vậy, thì vấn đề tổ chức “đối không” rộng rãi không những làm giảm bớt uy lực không quân địch mà còn là thời cơ để bộ đội bắn rơi máy bay Mỹ, nhất là trực thăng. Mặt khác, nếu ta tổ chức rộng rãi mạng đường quân sự làm gấp không những bảo đảm được sự cơ động nhanh bí mật mà còn tạo điều kiện cho ta tiếp cận phản kích địch trên nhiều hướng. Từ phân tích trên, Đảng uỷ nhất trí chọn Cánh Trung Tây Nguyên mở chiến dịch mùa khô 1965.

        Cuộc họp Đảng uy Mặt trận mở rộng do bí thư chủ trì nghiên cứu, quán triệt nhiệm vụ và xây dựng kế hoạch chiến dịch. Sau khi phân tích trên bình diện toàn chiến trường, tôi nói:

        - Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã thất bại, Ngụy quân, Ngụy quyền Sài Gòn tuy chưa tan rã về tổ chức, nhưng đã suy yếu toàn diện. Về phía ta, lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và cách mạng miền Nam đang ở thế tiến công. Như vậy, về chiến lược, Mỹ nhảy vào miền Nam nước ta trong thế bị động.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:24:11 pm

        - Do vị trí chiến lược đặc biệt của Tây Nguyên nên bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn đã tung đơn vị sừng sỏ bậc nhất của chúng lên chiếm đóng ở đây, với tham vọng tiêu diệt chủ lực của ta trong một thời gian ngắn, vực quân Ngụy dậy và từ đó chiếm đóng lâu dài Tây Nguyên, khống chế cả chiến trường Trung Đông Dương. Mặc dù chúng ta đã tập trung nghiên cứu nhưng cũng chỉ hiểu Mỹ trên lĩnh vực tư tưởng, tâm lý và chiến thuật “nhảy cóc” còn cách đánh với Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 ở chiến trường rừng núi ra sao thì chưa có tiền đề. So sánh lực lượng ta ít hơn địch cả về quân số và trang bị. Quân Mỹ có nhiều máy bay và pháo binh, còn chúng ta không có. Khi Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 bước vào tham chiến thì cường độ ác liệt do pháo binh và hoả lực từ máy bay sẽ gia tăng gấp bội. Do vậy, để bảo đảm chắc thắng, Đảng uỷ cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu, đặc biệt coi trọng việc xây dựng tư tưởng quyết đánh và quyết thắng quân Mỹ cho bộ đội.

        Quân uỷ  Trung  ương đặt niềm tin rất lớn vào quân và dân Tây Nguyên. Ta thắng Mỹ trong chiến dịch này sẽ có ý nghĩa lớn, không những về mặt quân sự mà cả về chính trị, tâm lý, sẽ tạo ra thế mới, lực mới đối với lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên nói riêng và toàn miền Nam nói chung. Chính vì lẽ đó chúng ta phải làm cho cán bộ, chiến sỹ tham gia chiến dịch có ý chí quyết tâm đánh, trước hết phải dám đánh Mỹ, cứ đánh thắng khắc tìm ra cách đánh. Với phương châm: vừa học, vừa làm, vừa chiến đấu và rèn luyện.

        Cuộc họp Đảng uỷ Mặt trận Tây Nguyên biểu thị quyết tâm “trước hết phải dám đánh Mỹ, cứ đánh thắng khắc tìm ra cách đánh” và quyết tâm này được thấu triệt đến cán bộ chiến sỹ toàn mặt trận.

        Một buổi tối cuối tháng 9, tôi mời anh Đặng Vũ Hiệp đến chỗ tôi. Anh Hiệp còn rất trẻ (36, 37 tuổi gì đó), thông minh, có trí nhớ tốt, nhạy bén sắc sảo trong nhận định đánh giá tình hình, có quan điểm tốt, là người coi trọng giữ gìn sự nhất trí đoàn kết nội bộ. Mời anh Hiệp uống nước, tôi nói:

        - Mấy hôm nay, Đảng uỷ đã bàn nhiều về nhiệm vụ chiến dịch tới. Với lực lượng của ta hiện có, lại tác chiến với đối tượng sừng sỏ bậc nhất của quân đội Mỹ, yêu cầu nhiệm vụ của Quân uỷ Trung ương giao cho rất cao, theo anh vấn đề quan trong để giành thắng lợi ở chiến dịch này là gì?

        Suy nghĩ một lát, anh Đặng Vũ Hiệp nói:

        - Thưa anh, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc mình luôn phải đương đầu với những kẻ thù hung bạo và lớn mạnh hơn mình nhiều lần. Tuy vậy, dân tộc ta chưa bao giờ chịu khuất phục trước một kể thù nào, kể cả chúng là quốc gia mạnh nhất thời đó, một khi ta khơi dậy được lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc và chí căm thù giác cho quân và dân cả nước.

        - Nhưng đây là đối tượng tác chiến mới, có nhiều máy bay, đại bác, xe tăng.

        - Đối tượng tác chiến của quân và dân Tây Nguyên là Sư đoàn kỵ binh không vận số 1. Cái mạnh của nó là sức cơ động, là hoả lực phi pháo, nhưng nó cũng có hạn chế nhất định ở ngay trong cái mạnh đó. Do được trang bị mạnh nên quân Mỹ thường ỷ vào hoả lực, một khi ta hạn chế hoặc vô hiệu hoá chỗ dựa đó thì tinh thần và ý chí của chúng chắc chắn sẽ bị suy giảm. Với ta, ưu thế đồng thời cũng là sức mạnh ở chính trị tinh thần và sở trường đánh vận động trên địa bàn rừng núi bằng vũ khí mang vác. Nếu ta phát huy được ưu thế này thì nhất định ta sẽ đánh thắng chúng.

        - Đúng! Đúng! Vấn đề là chỗ đó – Tôi xác nhận.

        Anh Đặng Vũ Hiệp mở cuốn sổ công tác, nói tiếp:

        - Hiện nay cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 33, Trung đoàn 320 và cả Trung đoàn 66 đang trên đường hành quân vào chiến trường. Theo chúng tôi nắm được, các trung đoàn này quân số trực tiếp chiến đấu trên 2.600 người, đảng viên 420, đoàn viên 1.720 người. Cán bộ trung đội đã qua chiến đấu 32%, cán bộ đại đội đã qua chiến đấu 80%, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn 100% đã qua chiến đấu. điều quan trọng nhất là sau ngày hoà bình lập lại trên miền Bắc, theo yêu cầu mới, những người vào quân đội phải có tiêu chuẩn nhất định về chính trị, tư tưởng, có sức khoẻ có văn hóa và tự nguyện, thời gian huấn luyện cơ bản của những chiến sỹ này dài hơn. Nội dung huấn luyện bao gồm cả kỹ thuật, chiến thuật đều đạt trình độ thuần thục, các yếu lĩnh động tác cơ bản, sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị, đặc biệt khả năng bắn súng bộ binh đạt tỷ lệ khá giỏi rất cao. Việc rèn luyện thể lực để nâng cao sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai được tiến hành thường xuyên thông qua các cuộc hành quân xa, mang vác nặng, ăn ở dã ngoại dài ngày trước khi vào chiến trường.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:25:27 pm

        - Ưu thế chính trị, tinh thần như anh vừa nói đã sẵn có trong mỗi cán bộ, chiến sỹ ta. Vấn đề còn lại là làm thế nào phát huy được ưu thế ấy. Chính vì lẽ đó tôi mời anh qua để chúng ta cùng bàn.

        Chợt nhớ ra, tôi hỏi anh Hiệp:

        - Anh Hiệp này, anh còn nhớ trận Vinh Huy gần thị xã Tam Kỳ tháng 4 năm 1964 không?

        - Tôi còn nhớ.

        - Trong trận ấy có tiểu đội trưởng của Trung đoàn 1 quân khu, khi truy kích địch có một khẩu lệnh rất hay: “Nắm lấy thắt lưng địch mà đánh”. Khi nghe việc trên, tôi điện báo cáo với anh Nguyễn Chí Thanh. Nghe xong, anh Thanh reo lên: “Hay quá anh Mân ơi! Đây không còn là phương châm của một trung đoàn, một quân khu, nó là của toàn miền, toàn quân rồi”. Tôi được biết sau đó, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã chỉ thị các chiến trường toàn miền lấy câu: “Bám lấy thắt lưng địch mà đánh” làm phương châm khi giao chiến với quân Mỹ.

        Tối hôm đó, tôi với anh Hiệp làm việc với nhau đến gần 1 giờ sáng. Tôi đã trao đổi với cơ quan chính trị mặt trận nhiều vấn đề về xây dựng quyết tâm cho bộ đội, vai trò tiền phong của cán bộ, đảng viên trong chiến đấu, xây dựng lòng tin vào quần chúng, phải thực hành quân sự dân chủ để phát huy trí tuệ, tinh thần và tính sáng tạo của tập thể.

        Những ngày sau đó, Bộ tư lệnh Mặt trận dành nhiều thời gian bàn tính xây dựng kế hoạch chiến dịch, nhiều lần phải thức thâu đêm để giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ chiến dịch đặt ra. Trong đó mọi người thống nhất khá cao về kế hoạch tác chiến do Bô tư lệnh Mặt trận đề ra là: Thực hành vây điểm diệt viện, lấy đánh ngoài công sự là chủ yếu, sử dụng bộ đội địa phương và dân quân du kích hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum đánh phá căn cứ hậu phương và hệ thống cầu đường của địch. Khi thảo luận chọn điểm vây, mọi người thống nhất về nguyên tắc: điểm vây là nơi có tác dụng buộc địch phải viện, không viện không được, viện chậm cũng không được; đồng thời, điểm vây phải thuận lợi cho ta tổ chức trận địa đánh viện đường bộ và đánh đổ bộ đường không.

        Từ vấn đề trên, chúng tôi đưa ba vị trí để chọn điểm vây, đó là Tân Lạc, Đức Cơ và Plây Me. Cả ba vị trí này đều quan trọng đối với địch, do đó nếu vị trí nào bị đánh thì sớm hay muộn địch cũng phải ứng cứu. Song Tân Lạc nằm gần hậu cứ địch, địa hình trống trải, ta khó triển khai lực lượng lớn. Vì vậy, đánh vị trí này không lợi. Đức Cơ nằm sát biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia, đường vận chuyển chiến lược Bắc – Nam đi gần, nếu đánh ở đay trong thời gian này sẽ ảnh hưởng lớn cho việc bảo vệ hậu phương tại chỗ của ta. Còn Plây Me là tiền đồn phía tây nam Plây Cu, quân số lúc cao nhất lên tới 500 tên, là lực lượng đặc biệt do Mỹ chỉ huy và đa số là người Thượng. Do vậy, nếu Plây Me bị mất thì các căn cứ địch nằm trong dải phòng ngự phía tây nam Plây Cu bị uy hiếp, vùng đất ấy sẽ bị cắt rời và trở thành bàn đạp tiến công của quân ta. Như vậy, về cơ bản mọi người thống nhất cách đánh chiến dịch là “vây điểm, diệt viện”, đánh Ngụy trước, diệt Mỹ sau, kéo quân Mỹ ra xa căn cứ vào sâu trong rừng núi hiểm trở để diệt chúng.

        Tôi còn nhớ, khi thảo luận về chỉ tiêu diệt địch, có nhiều ý kiến khác nhau,. Có người nói rằng, trước đây trong cuộc “kháng Mỹ viện Triều”, quân chí nguyện Trung Quốc đã có tổng kết chưa có trận nào tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn quân Mỹ. Có người lại cho rằng trận Núi Thành ta chỉ có một tiểu đoàn thiếu mà diệt gần hết đại đội Mỹ thì sao? Xem ra cuộc tranh luận khó đi vào hồi kết, tôi đứng dậy nói:

        - Thôi xếp lại tranh luận, chỉ tiêu trong chiến dịch này diệt chiến đoàn quân ngụy và diệt gọn hai đại đội đến tiểu đoàn Mỹ, nếu có thời cơ thì chủ động giành thắng lơi cao hơn nữa. Chỉ tiêu đặt ra là vậy, nhưng các đồng chí cần suy nghĩ việc xây dựng quyết tâm đánh Mỹ cho bộ đội. Việc quán triệt nhiệm vụ chiến dịch phải được tiến hành khẩn trương, cụ thể đến từng chi bộ, từng cán bộ chiến sỹ. Đồng thời các đồng chí suy nghĩ về bố trí thế trận đánh Mỹ, đặc biệt là đối phó với chiến thuật “nhảy cóc” của địch. Cơ quan tham mưu mặt trận trong chỉ đạo phải làm cho bộ đội có ý thức xây dựng công sự chắc chắn, giấu quân kín đáo, xuất kích nhanh, khi xung phong giữ vững đội hình, tiếp cận đánh gần, thọc sâu kết hợp đánh bộ binh, đánh cơ giới và bắn máy bay địch.

        Tôi điện báo lên Bộ về kế hoạch và quyết tâm chiến đấu của bộ đội Tây Nguyên.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:27:46 pm

        Đầu tháng 10 năm 1965, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên nhận được điện của Bộ Tổng tư lệnh như sau: “Về nhiệm vụ của đợt hoạt động sắp tới, chúng tôi đồng ý những nhiệm vụ mà các đồng chí đã đề ra. Nhưng cần nắm vững hai nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn hiện nay là tiêu diệt một bộ phận lực lượng cơ động Mỹ: tiếp tục làm tan rã một bộ phận chủ lực Ngụy, đánh bại kế hoạch tiến công mùa khô của chúng; đồng thời mở rộng vùng đứng chân của ta, làm chủ đại bộ phận rừng núi và nông thôn, nhất là vùng rừng núi có ý nghĩa chiến lược... Chiến trường tiêu diệt quân Mỹ tốt nhất là ở Tây Nguyên, đường 19 và đường số 7. Phải đặt ra cả hai trường hợp: Chủ động tiến công quân Ngụy trước, câu viện quân Mỹ và trường hợp quân Mỹ chủ động tiến công ta”.

        Đảng uỷ Mặt trận họp nghiên cứu những ý kiến của trên chỉ đạo, bổ sung kế hoạch chiến dịch. Cuộc họp kết thúc, tôi dẫn đầu một đoàn cán bộ đi quan sát địa hình chiến trường tại khu vực đồn Plây Me và thế bố phòng của địch để quyết định phương thức tiến hành vây điểm; đồng thời quan sát khu vực dự kiến đánh viện binh địch giải toả đồn Plây Me khi bị ta vây ép.

        Sau khi đi trinh sát chiến trường về, Bộ tư lệnh Mặt trận đã quyết định bổ sung phương án tác chiến chiến dịch. Với lực lượng hiện có phải giải quyết được hai vấn đề cơ bản nhất là đánh thiệt hại nặng lực lượng cơ động quân Ngụy làm suy yếu chỗ dựa bình định của Mỹ; đồng thời khẩn trương chuẩn bị đánh phủ đầu quân Mỹ, góp phần đánh bại biện pháp chiến lược đánh nhanh thắng nhanh giải quyết nhanh tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

        Về sử dụng lực lượng: dùng Trung đoàn 33 tiêu diệt căn cứ Chư Ho và thực hành vây ép đồn Plây Me. Dùng Trung đoàn 320 bố trí sẵn ven đường 21 – con đường bộ duy nhất nối Plây Cu với Plây Me. Trung đoàn này phải xây dựng trận địa phục kích trên quãng đường 3 ki-lô-mét, đoạn đường 21 chạy trên các điểm cao 600, 607, Pơ Lu, đồi Độc Lập. Để phối hợp với hai trung đoàn chủ lực trên hướng chủ yếu của chiến dịch, Tiểu đoàn pháo binh 200, Tiểu đoàn đặc công 952 và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Gia Lai tổ chức đánh địch vào những mục tiêu và thời điểm cần thiết để phân tán lực lượng của địch.

        Một vấn đề mất nhiều công sức đối với Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tây Nguyên là xác định khu quyết chiến và thời cơ diễn ra trận then chốt tiêu diệt quân Mỹ. Suy đi tính lại, Bộ tư lệnh quyết định chọn thung lũng Ia Đrăng dưới chân núi Chư Prông là nơi diễn ra trận quyết chiến với quân Mỹ. Ở đây ta sẽ bố trí Trung đoàn 66, lực lượng chủ yếu tiêu diệt quân Mỹ.

        Bộ tư lệnh Mặt trận Tây nguyên cử anh Nguyễn Chánh, anh Huỳnh Đắc Hương, anh Bùi Nam Hà và một số cán bộ của ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần lập sở chỉ huy tiền phương mặt trận chỉ huy vây ép đồn Plây Me và đánh viện binh Ngụy trên đường 21.

        Đêm 19 tháng 10 năm 1965, Trung đoàn 33 nổ súng bao vây đồn Plây Me. Bị đánh bất ngờ, một số lô cốt và nhà lính bị sập. Địch dùng máy bay đánh trả lại ta mỗi ngày từ 120 đến 140 lần chiếc. Bộ binh trong đồn mở các đợt phản kích đánh vào các mũi bao vây. Tuy mới tham gia trận đầu, nhưng chiến sỹ vẫn kiên quyết siết chặt vòng vây. Có mũi đứt liên lạc không tiếp tế được cơm nước vẫn bám trụ kiên cường không rời trận địa.

        Ngày 23 tháng 10 năm 1965, sau nhiều lần tổ chức nghi binh và thăm dò vẫn không phát hiện gì đáng nghi ngờ, biệt khu 24 quyết định tổ chức giải vây cho Plây Me. lực lượng hành quân gồm thiết đoàn thiết giáp hỗn hợp (3 chi đoàn), 2 Tiểu đoàn biệt động quân số 21. số 22 và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 42. Đến 16 giờ 30 phút ngày 23 tháng 10 năm 1965, toàn bộ cánh quân trên lọt vào trận địa phục kích của Trung đoàn 320. Quân ta dồn dập nổ súng tiến công. Trận chiến đấu giữa bộ binh ta với xe tăng và thiết giáp địch diễn ra quyết liệt. Tinh thần chiến đấu của bộ đội ta đã cắt nát đội hình hành quân cơ giới kéo dài 3 ki-lô-mét của địch. Đến 18 giờ, ta làm chủ trận địa, tiêu diệt gần hết chiến đoàn địch. Kết quả trận này ta tiêu diệt 1 thiết đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội bộ binh địch.

        Đến đây, xét thấy đã gây cho địch phản ứng dây chuyền, ngày 20 tháng 10, ta quyết định “mở vây” căn cứ Plây Me, chuyển toàn bộ hai Trung đoàn 33 và 320 về bố trí ở Quynh Kla, Ba Bỉ phía đông Ia Đrăng, Plây Bon Ga, là nơi tiện cơ động trên hai hướng Plây Me và Tân Lực để sẵn sàng đánh quân Mỹ đổ bộ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:28:51 pm

        Ngày 26 tháng 10, Oét-mo-len – Tư lệnh lực lượng quân Mỹ ở miền nam bay lên sở chỉ huy tiền phương Lữ 1 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 ở Plây Đê Mốt xem xét tình hình. Tại đây, ông ta đã quyết định đình chỉ cuộc càn quét của Lữ đoàn 3 quân Mỹ ở Bồng Sơn (Bình Định) để tập trung lực lượng của sư đoàn này lên Tây Nguyên. Tiếp đó, chúng đưa 1 Trung đoàn Nam Hàn, 2 chiến đoàn quân dù Ngụy, 2 trung đoàn trực thăng vận tải Mỹ lên Plây Cu tham chiến. bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài gòn định mở cuộc hành quân đánh sâu vào hậu phương ta, hòng gỡ thế thất bại cho quân Ngụy.

        Sau khi kết thúc giai đoạn một, hoạt động cơ bản của ta là di chuyển quân, bố trí theo kế hoạch mới. Trong khi đó địch sử dụng Lữ đoàn 1 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 tăng cường đổ bộ và tập kích nhiều nơi trên trục đường hành quân của Trung đoàn 33 làm cho việc chỉ huy của trung đoàn bị gián đoạn. Tình hình trên dẫn đến một thực tế là địch đang từ thế bị động chuyển sang thế chủ động về chiến thuật trong thế bị động về chiến dịch.

        Điều dễ nhận thấy là trong suốt quá trình đổ bộ trực thăng theo kiểu “cóc nhảy” của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 như nói ở trên, chúng sử dụng máy bay phản lực, trực thăng vũ trang với mật độ rất cao hoạt động suốt ngày khống chế khu vực đổ quân. Thủ đoạn chủ yếu của địch là tập kích vào trục đường vận động các đoàn vận tải của ta, bắt cóc các phân đôi đi lẻ, trạm quân y, phát hiện vị trí trú quân của ta để dùng máy bay oanh tạc.

        Hành động của Mỹ và những trận đánh của bộ đội ta vừa qua cho thấy những dự đoán về địch và quyết tâm chiến dịch của ta là chính xác.

        Ngày 8 tháng 11 năm 1965, Đảng uỷ Mặt trận Tây Nguyên mở rộng. Hội nghị đánh giá kết quả giai đoạn một của chiến dịch thống nhất cho rằng: Nhiệm vụ cơ bản đặt cho đợt một là làm thất bại ý định giải toả nhanh bằng không quân buộc địch phải điều quân Ngụy viện binh đường bộ để ta tiêu diệt đã hoàn thành.

        Quân Ngụy bị đánh đau, quân Mỹ phải nhảy vào cứu quân Ngụy. Như vậy, ta đã thu hút được lực lượng tổng dự bị quân Ngụy và quân Mỹ ở chiến trường khác về hướng Plây Me. Đảng ủy đánh giá cáo tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu của các đơn vị và cơ quan. Đặc biệt là các phân đội nhỏ thực hành bao vây Plây Me đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bao vây chặt, đánh tiêu hao tiêu diệt từng bộ phận quân địch, cắt nguồn nước, đánh chiếm và khống chế Chư Ho, khống chế và cắt đứt sự hoạt động của sân bay dã chiến, đẩy địch ở Plây Me lâm vào tình trạng cùng quẫn.

        Một lần nữa Đảng uỷ khẳng định cách đánh chiến dịch “vây điểm, diệt viện” trong hoàn cảnh cụ thể của Plây Me là đúng. Với cách đánh này ta đã tiết kiệm được sinh lực. Chỉ cần dùng một lực lượng nhỏ bao vây vẫn dụ được viện binh địch theo ý muốn, vẫn giữ được binh lực cơ động mạnh bảo đảm thế tiến công liên tục dài ngày trong điều kiện lực lượng ta chỉ có hai trung đoàn và tránh được sự tiêu hao lớn bằng công kiên ngay từ đầu chiến dịch. Cần nói thêm rằng, nếu ta công kiên được đồn Plây Me, địch chưa viện ngay thì ta vẫn phải tổ chức lực lượng chiếm giữ. Như vậy địch có thể dùng phi pháo gây cho ta tổn thất lớn. Hơn thế nữa, trong điều kiện lực này ta lấy việc tiêu diệt sinh lực địch làm chính, chưa đặt vấn đề giải phóng đất đai khu vực Plây Me.

        Khi bàn về âm mưu và thủ đoạn sắp tới của địch, Đảng uỷ cho rằng lực lượng của chúng trên chiến trường Tây Nguyên lúc đó gồm có Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, một Trung đoàn quân Nam Hàn, 1 Trung đoàn trực thăng vận tải, 2 Tiểu đoàn pháo binh quân đội Mỹ. Ngoài ra, chúng thường xuyên có 2 Trung đoàn không vận của Mỹ và Ngụy sẵn sàng cất cánh chi viện khi chúng mở những cuộc tiến công. Theo tin chúng ta nắm được, Mỹ còn có ý định sử dụng cả máy bay chiến lược B52 ở chiến trường này. Do phát hiện được khu tây, trạm phẫu thuật nên địch sẽ mở cuộc tiến công lớn vào hậu phương ta hòng vớt vát một thắng lợi về quân sự lấy lại tinh thần cho quân Ngụy sau thất bại nặng nề ở Plây Me - đường 21.

        Về phía ta, tính đến thời điểm này, bộ đội chủ lực Tây Nguyên ngoài hai Trung đoàn 33 và 320, có thêm Trung đoàn 66, một đơn vị có truyền thống chiến đấu vẻ vang của Quân đội ta.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:30:09 pm

        Từ tình hình trên, đảng uỷ cũng xác định mục đích đợt chiến đấu tới như sau: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực, diệt chiến đoàn Ngụy (cả bộ binh, thiết giáp), 1 tiểu đoàn Mỹ hoặc hơn nữa, bắn rơi 20 đến 25 máy bay các loại, phá huỷ 40 đến 50 xe cơ giới các loại, đánh bại một bước chiến thuật “trực thăng vận” và “nhảy cóc” của Mỹ, thu hút một bộ phận lực lượng quân Mỹ và lực lượng tổng dự bị quân Ngụy về Tây Nguyên nhằm mục căng địch ra mà đánh, tạo điều kiện cho sự phát triển thuận lợi của các chiến trường, đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của địch.

        Về tư tưởng chỉ đạo, Đảng uỷ xác định quyết tâm diệt cả đơn vị nhỏ, đơn vị vừa và đơn vị lớn quân Mỹ, tiêu diệt bọn đổ bộ xuống trước, tiêu diệt tiếp bọn xuống lấy xác, lấy thương binh và tăng viện, đánh cả bọn nhảy vào sau lưng ta, đánh cả vào căn cứ pháo binh và căn cứ hành quân của chúng; tích cực bắn rơi máy bay địch, đặc biệt là máy bay trực thăng để tiêu hao phương tiện cơ động chủ yếu của sư đoàn không vận. Chúng hành quân bộ cũng đánh, chúng đổ bộ trực thăng cũng đánh, có Mỹ và Ngụy cùng tham chiến thì nhằm vào Mỹ đánh trước, dùng lối đánh phục kích và tập kích đánh quân đổ bộ trực thăng, đánh nhảy có là chủ yếu. Ngoài ra cần phải tổ chức các phân đội pháo độc lập và các đội đặc công đột nhập vào hậu phương địch pháo kích, tập kích sân bay, sát thương phi công, phá huỷ máy bay, kho tàng dã ngoại của chúng.

        Đảng uỷ lưu ý cơ quan tham mưu mặt trận bố trí lực lượng phải có chiều sâu theo hình bậc thang. Địch nhảy có, ta bậc thang, mật độ trú quân không quá dày để tránh phi pháo, song phải đảm bảo đội hình chiến đấu trong thế hiệp đồng chặt chẽ, có chỗ dựa vào nhau vững chắc, dễ cơ động có thể đánh địch trong trường hợp chúng đổ bộ trực tiếp vào khu vực trú quân. Với khả năng cơ động nhanh, tập kích nhanh và rút nhanh của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ, nên đội hình các trung đoàn và mặt trận đều nằm trong phạm vi bị địch uy hiếp và có thể bị chúng tập kích bất ngờ. Do vậy, việc bảo đảm hậu cần phải nằm ngay trong đội hình các trung đoàn và tiểu đoàn, thực hiện kho di động tức là tất cả trên vai người chiến sỹ vận tải và người lính chiến đấu. Phải quy định lượng, liều đạn cho từng loại súng trong từng trận đánh; đồng thời tích cực lấy vũ khí địch để đánh địch.

        Một vấn đề được Đảng uỷ hết sức coi trọng, đó là việc quán triệt cho bộ đội khi giao chiến với Sư đoàn không vận số 1 Mỹ phải đánh mạnh vào chỗ dựa hoả lực phi pháo của chúng, nhất là hoả lực từ trên máy bay trực thăng vũ trang. Trong điều kiện súng phòng không của ta chỉ có súng 12,7 ly với số lượng không nhiều, do vậy phải phát huy toàn bộ các loại súng bộ binh bắn máy bay địch, tổ chức nhiều tổ bắn máy bay bằng súng trường, súng tiểu liên khắp mọi nơi trong cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích.

        Hội nghị Đảng uỷ kết thúc trong không khí đoàn kết thống nhất cao. Quan sát mọi người, tôi thấy ai cũng náo nức lạc quan, dù biết rằng cuộc chiến đấu tới sẽ vô cùng ác liệt. Tất cả chúng tôi đều vui vẻ, sẵn sàng chấp hành nhiệm vụ dù có phải hy sinh đến tính mạng của mình để giành thắng lợi.

        Để chỉ huy trận đánh Mỹ tới, chúng tôi quyết định lập sở chỉ huy tiền phương mặt trận do anh Nguyễn Hữu An – Phó Tư lệnh làm Tư lệnh, anh Đặng Vũ Hiệp - Chủ nhiệm chính trị làm Chính uỷ. Trước khi anh An và anh Hiệp ra trận , tôi mời đến, nói:

        - Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 là đơn vị mạnh nhất của quân Mỹ. Nếu ta đánh thắng nó trong trận này không những chỉ là vấn đề tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch mà nó còn có ý nghĩa to lớn trên nhiều mặt. điều quan trọng nhất là cổ vũ và lòng tin đánh thắng Mỹ của quân và dân Tây Nguyên nói riêng, quân và dân cả nước nói chung. Và như vậy, vấn đề về chỉ đạo chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, kỹ thuật cũng sẽ được giải quyết và kết luận một bước cơ bản sau trận này. Cuộc chiến đấu tới sẽ diễn ra hết sức ác liệt, đó là cuộc đụng đầu giữa lực lượng không lớn quân chính quy của ta với quân viễn chinh nhà nghề của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:31:42 pm

        Ngừng một lát, tôi nói tiếp:

        - Tôi vừa nhận được chỉ thị của Quân uỷ Trung ương giao cho lực lượng vũ trang Tây Nguyên chúng ta phải tạo mọi cơ hội tiêu diệt bằng được một hoặc hai tiểu đoàn Mỹ trong chiến dịch này. Như vậy, nhiệm vụ tiêu diệt gọn đơn vị cỡ tiểu đoàn quân Mỹ là nhiệm vụ lịch sử mà Đảng ta, Quân đội ta, nhân dân ta giao cho quân và dân Tây Nguyên. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, các anh phải bắt tay vào việc triển khai ngay nghị quyết Đảng uỷ Mặt trận, làm cho cán bộ, chiến sỹ tham gia trận chiến đấu tới thấy rõ tính quyết liệt của nhiệm vụ lịch sử, để họ nâng cao tinh thần cách mạng, dũng cảm ngoan cường tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt. Phải kiên quyết chống tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, biểu hiện chủ yếu là ngại ác liệt, khó khăn, sợ hy sinh, chần chừ thoái thác nhiệm vụ. Đặc biệt, tác phong chỉ huy và lãnh đạo của cán bộ, nhất là cán bộ chính trị phải sâu sát bộ đội, làm chỗ dựa tinh thần cho bộ đội trong những tình huống ác liệt khó khăn.

        Khi chia tay anh An và anh Hiệp, tôi nắm chặt tay các anh, nói:

        - Máu và sinh mạng của chiến sỹ là vô giá nhưng khi cần thiết vẫn phải hy sinh để giành thắng lợi. Trong trận này dù phải một đổi một cũng kiên quyết đánh thắng. Phải diệt gọn tiểu đoàn Mỹ, các anh hiểu ý tôi chứ? Tôi nhắc lại, dù phải một đổi một cũng phải đánh thắng, nhưng chỉ được phép trong trận này thôi nhé.

        Anh Đặng Vũ Hiệp trả lời:

        - Thưa anh, chúng tôi hiểu, chúng tôi hứa sẽ thực hiện tốt nhất nhiệm vụ anh giao.

        Ngày 10 tháng 11, Lữ đoàn 3 Sư đoàn không vận số 1 trở lại tập kết ở Bầu Cạn. Ngay trong đêm, các chiến sỹ Tiểu đoàn 952 và bộ phận trinh sát mặt trận bí mật tiếp cận và bất ngờ nổ súng tiến công sở chỉ huy hành quân Lữ đoàn 3 và sân bay lên thẳng ở Bầu Cạn, diệt và làm bị thương hàng chục tên địch, phá huỷ phá hỏng một số máy bay trực thăng.

        Bằng chiến thuật “trực thăng vận”, ngày 4 tháng 11 năm 1965, Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn kỵ binh không vận số 3 nhảy xuống khu vực bắc Chư Prông 3 ki-lô-mét. Đồng thời, chúng đổ xuống tây nam Quynh Kla và đông nam Ia Đrăng  trận địa pháo để chi viện cho Tiểu đoàn 1. Quân Mỹ đổ xuống Chư Prông vừa đúng lúc Trung đoàn 6 đến chiến trường. Tiều đoàn bộ Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 66 đang củng cố nơi đóng quân thì quân Mỹ tập kích bất ngờ vào đơn vị. Các chiến sỹ trinh sát, thông tin, anh nuôi, y tá liền tổ chức đánh trả quân Mỹ. Đại đội 13 nghe súng nổ, vận động đến phối hợp chiến đấu. Trận chạm súng đầu tiên diễn ra khá ác liệt. Cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 9 chiến đấu ngoan cường, tiêu diệt 1 đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội khác, buộc chúng phải rút chạy.

        Ngày 15, sở chỉ huy tiền phương mặt trận ra lệnh cho Trung đoàn 66 nhân đà quân Mỹ rối loạn dùng Tiểu đoàn 7 vận dụng tốt chiến thuật đánh vận động, liên tục công kích tiêu diệt gọn 1 đại đội Mỹ thuộc Tiểu đoàn 1. Bọn còn lại hốt hoảng phải chạy vòng quanh trên bãi cỏ rậm rạp dưới chân núi Chư Prông.

        Trước tình thế đó, chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn phải ra lệnh cho không quân dùng 100 lần chiếc máy bay chiến lược B52 ném bom xuống thung lũng Ia Đrăng. Đây là lần đầu tiên Mỹ dùng máy bay chiến lược yểm trợ chiến thuật cho bộ binh ở Tây Nguyên. Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 tổ chức tiến công vào tiểu đoàn Mỹ không cho chúng hoàn hồn phản kích lại. Khẩu hiệu “gặp Mỹ là đánh, tìm Mỹ là diệt” được cán bộ chiến sỹ ta triệt để chấp hành. Bộ đội ta tìm đánh trúng vào sở chỉ huy tiểu đoàn địch, diệt điện đài và sở chỉ huy. Quá trình phát triển tiến công, mọi người đều nhằm hướng súng nổ lao tới. Bị đánh tả tơi và bị truy kích sát nút, quân Mỹ đang đêm phải bỏ chạy khỏi thung lũng Ia Đrăng không đợi trực thăng đến bốc.

        Sáng ngày 17 tháng 11 năm 1965, Tiểu đoàn 8 từ hướng Ba Bỉ được lệnh cấp tốc hành quân về đội hình Trung đoàn 66. Trên đường hành quân đến đông bắc Chư Prông thì Tiểu đoàn 8 gặp Mỹ. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Lê Xuân Phôi bình tĩnh chỉ huy đơn vị tiến công vào giữa đội hình Mỹ làm chúng rối loạn và bị cắt rời. Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33 đang lùng sục ở một hướng khác nghe súng nổ liền đến phối hợp. Quân Mỹ bị Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33 vây chặt giữa thung lũng Ia Đrăng. Lần đầu tiên chiến sỹ ta giáp mặt với quân Mỹ, những trận chiến đấu giáp lá cà đã diễn ra quyết liệt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:33:38 pm

        Cuộc chiến đấu của hai tiểu đoàn ta với lính Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 kéo dài đến 20 giờ ngày 17 tháng thì kết thúc. Ta đã diệt 400 tên của Tiểu đoàn 1 và 1 đại đội hành quân của Tiểu đoàn 2. Trong trận chiến đấu này, các chiến sỹ của chúng ta đã nêu lên những tấm gương dũng cảm vô song, khí phách anh hùng và lòng quả cảm. Kết thúc trận đánh, ta đã đánh thiệt hại nặng Lữ dù 3, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 1.

        Ngày 19 tháng 11 năm 1965, Lữ dù 3 rút chạy khỏi khu chiến. Lần đầu tiên quân Mỹ bước vào chiến đấu ở Tây Nguyên và cũng là lần đầu tiên chúng phải rút chạy về chiến dịch.

        Sau khi ta làm chủ chiến trường, chúng tôi đi kiểm tra trận địa. Địa hình hàng chục ki-lô-mét vuông bị đảo lộn, cây gãy đổ ngổn ngang không còn đường lối. Địch chết thành đống, có chỗ năm ba tên, xen lẫn vào đó là thi thể chiến sỹ ta. Nhiều đồng chí nằm đè lên xác lính Mỹ, lưỡi lê còn cắm vào ngực tên Mỹ. Có đồng chí hy sinh tay vẫn nắm chặt quả lựu đạn bên sườn. Có tổ ba người hy sinh phía trước và phía sau anh em có hàng chục xác quân Mỹ.

        Chiến thắng Plây Me là trận đánh phủ đầu quân Mỹ ở Tây Nguyên. Lần đầu tiên trên chiến trường ta tiêu diệt 1 chiến đoàn quân Ngụy và Tiểu đoàn quân Mỹ. Thắng lợi tiêu diệt tiểu đoàn quân Mỹ là cái mốc lịch sử của quân và dân Tây Nguyên. Trong chiến dịch này ta đã buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta. Bài học lớn nhất của Plây Me – Ia Đrăng là bài học dám đánh và quyết tâm thắng Mỹ.

        Với chiến công xuất sắc đó, chiến dịch Plây Me được Quân uy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng 2 Huân chương Quân công hạng nhất. Trong bức điện Quân uỷ Miền gửi Bộ tư lệnh Tây Nguyên, anh Nguyễn Chí Thanh giải thích: Quân đội ta không có huân chương nào cao hơn Huân chương Quân Công hạng nhất, nhưng để xứng đáng với chiến thắng Plây Me, nên tặng chiến thắng này hai Huân chương Quân công hạng nhất.

        Sau chiến thắng Plây Me, lãnh đạo và chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên đứng trước những khó khăn lớn buộc phải tìm cách giải quyết một các kiên trì và chủ động. Các đơn vị từ miền Bắc chuyển vào cùng với lực lượng tại chỗ đưa tổng quân số lên đến 32 nghìn người, lương thực (gạo) chỉ có 40 tấn. Chúng tôi phải xuống Đắc Lắc bàn với Tỉnh uỷ huy động được gần 20 tấn gạo để đưa Trung đoàn 320 xuống đó hoạt động. Có chuyện thế này: Chủ nhiệm Uỷ ban Thống nhất Trung ương khi nhận báo cáo của Bộ chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên, đồng chí báo cáo lên Bộ Chính trị: “Gạo đã chở vào đầy đủ nhưng Bộ tư lệnh không chịu cấp phát cho bộ đội”. điều dễ hiểu, 40 tấn gạo chia cho 32 nghìn quân, phải chăng đó là đầy đủ? Sự việc này làm tôi suy nghĩ mãi. Nhận được điện của đồng chí ấy, tôi phải trả lời chi tiết. Qua báo cáo xác thực của Bộ Tư lệnh Tây Nguyên, Tư lệnh Quân khu 5 có chỉ thị: Giải thể Mặt trận Tây Nguyên, 3 trung đoàn bộ binh chuyển cho các tỉnh Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, cán bộ cơ quan của mặt trận điều về quân khu một số, bộ phận còn lại vào Trung ương Cục, hoặc ra Hà Nội, cán bộ chỉ huy mặt trận do Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương điều động.

        Sau khi nghiên cứu điện của quân khu, Thường vụ Đảng uỷ Mặt trận họp thảo luận và báo cáo lên Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu 5: Chiến trường Tây Nguyên có khả năng đánh tiêu diệt lớn quân địch, nhưng phải qua một thời gian chủ động đánh địch sáng tạo chiến trường. Trước khó khăn tạm thời, nếu giải thể Mặt trận Tây Nguyên, quân Mỹ có thể thực hiện được ý định giữ vững Cao Nguyên Trung Phần, uy hiếp và ngăn chặn con đường vận chuyển chiến lược Bắc – Nam, chia cắt Đông Dương. Giải pháp tích cực nhất chúng tôi đề nghị; Trong khoảng 6 tháng trước mắt cho phép bộ đội Tây Nguyên vừa chiến đấu, vừa sản xuất, xây dựng căn cứ hậu phương trực tiếp, sau đó chuyển sang chiến đấu là chủ yếu; đồng thời tiếp tục sản xuất. Đề xuất này được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Quân khu đồng ý. Sau 6 tháng bộ đội đã trồng trên 30 triệu gốc sắn, vườn rau, chăn nuôi phát triển ở hầu hết đơn vị và cơ quan mặt trận.

        Vào mùa đông năm 1966, các đơn vị tại chỗ cũng như lực lượng hành quân từ ngoài Bắc qua căn cứ Tây Nguyên, tuy gạo còn thiều nhưng sắn thì đủ no. Các đơn vị hành quân nghiêm chỉnh thực hiện yêu cầu nhổ một gốc sắn phải trồng vào đó một gốc.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:34:47 pm

        Sau khi có căn cứ hậu phương vững trực tiếp, bộ đội cùng nhân dân bắt đầu mở những con đường hành lang C01 chuyển hàng chi viện cho căn cứ kháng chiến các tỉnh Bình Định, Phú Yên. Với sự hình thành đường hành lang bắc – nam, đông – tây các xã huyện vùng giải phóng ba tỉnh Tây Nguyên được nối liền thành căn cứ hậu phương tại chỗ, bảo đảm chỗ đứng chân xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân.

        Nhưng cũng sau chiến thắng Plây Me - Ia Đrăng, do hành quân dài ngày đến nơi là chiến đấu ngay, liên tục và ác liệt, thương vong của ta tương đối cao, mỗi đại đội chỉ còn hơn nửa quân số. Ăn uống kham khổ thiếu thốn. Muỗi rừng hành hạ gây bệnh sốt rét, có cả sốt rét ác tính. Trong các bệnh xá trung đoàn, bệnh binh nhiều gấp mấy lần thương binh. Hầu hết các đơn vị đều nảy sinh hiện tượng sinh hoạt rời rạc, kỷ luật nội bộ không nghiêm, kỷ luật dân vận sút kém, thậm chí có những hành động xấu. Có một số ít cán bộ cho tình hình này là nghiêm trọng.

        Quân viễn chinh Mỹ biết chừng nào đó tình hình đối phương, chúng tưởng đây là cơ hội làm giảm sút sức chiến đấu của bộ đội Tây Nguyên. Chúng ra sức dùng thủ đoạn chiêu hồi bằng máy bay L19, OV10, thả truyền đơn, chúng tuyên truyền kêu gọi ra rả suốt ngày. Qua việc này chứng tỏ chính quyền và quân viễn chinh Mỹ không hiểu dân tộc Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam. Tính chủ quan kiêu căng sẵn có của họ sẽ khiến họ nhận lấy hậu quả khó lường.

        Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng nói trên là do một số cán bộ dù đã qua chiến đấu ác liệt, chiến thắng vẻ vang nhưng đây mới là bước thử thách cao độ lần đầu. Lập trường chính trị, ý chí chiến đấu chưa được rèn luyện vững chắc, buông lỏng lãnh đạo tư tưởng, quản lý sinh hoạt cán bộ cấp dưới và chiến sỹ. Trong lúc khó khăn, thái độ của cán bộ đối với chiến sỹ thiếu ân cần chăm sóc mà lại quát mắng làm cho cấp dưới và chiến sỹ càng chây lười, nên mệnh lệnh không có hiệu lực. Nội bộ một số đơn vị mất đoàn kết dẫn đến quan hệ quân dân có những biểu hiện xấu. Những thiếu sót này nếu không kịp thời chấn chỉnh sẽ dẫn đến mất sức chiến đấu nghiêm trọng.

        Tôi còn nhớ 7 tháng 12 năm 1965, cơ quan chính trị mặt trận tổ chức buổi gặp mặt một số dũng sỹ diệt Mỹ xuất sắc của Trung đoàn 66. Anh em về nơi tập trung thì trời tối, cán bộ tuyên huấn cho anh em tắm giặt, ăn cơm rồi nghỉ để hôm sau làm việc. Sáng hôm sau các dũng sỹ kể lại tinh thần và  kinh nghiệm đánh Mỹ. Tôi và anh Đặng Vũ Hiệp cùng ngồi nghe, thấy chiến sỹ ta rất vui vẻ. Bữa cơm chiều “chiêu đãi” anh em có gạo nương do đồng bào địa phương tặng, có sắn, thịt gà và canh rau. Sáng hôm sau, anh Đặng Vũ Hiệp cho biết: Dũng sỹ C đã không về đơn vị. Ít ngày sau cán bộ đi tìm, thấy C bên bờ sông Nậm Bạc. Được cán bộ động viên, chiến sỹ C vui vẻ về đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ. Qua việc này nhiều người nhận thấy: một chiến sỹ cách mạng kiên cường, bền bỉ vẫn phải được giáo dục thường xuyên để sẵn sàng đón nhận nhiều thử thách, nhiều gian nan ác liệt.

        Trước tình hình trên, Đảng uỷ Mặt trận chủ trương tiến hành củng cố bộ đội toàn diện. Trước hết tập trung nâng cao ý chí chiến đấu, phẩm chất đạo đức cách mạng, chủ yếu cho đội ngũ cán bộ. Trên cơ sở đó nâng cao trách nhiệm chính trị, xây dựng quyết tâm bền bỉ, đánh quân xâm lược Mỹ đến toàn thắng.

        Tiếp sau là học tập chính trị, xây dựng tư tưởng cho đơn vị chiến đấu và cơ quan. Sau đợt chỉnh huấn chính trị đến tập huấn quân sự bằng tổng kết về địch và về ta.

        Thực hiện chủ trương trên, từ ngày 25 tháng 12 năm 1965 đến ngày 5 tháng 1 năm 1966, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức lớp chỉnh huấn chính trị đầu tiên cho 166 cán bộ trung cao cấp trong toàn mặt trận, trong đó có 13 cán bộ trung đoàn 29 cán bộ tiểu đoàn, 124 cán bộ thuộc các cơ quan trung đoàn và mặt trận.

        Nội dung đợt chỉnh huấn chính trị lần này chúng tôi tập trung quán triệt tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam nói chung và tình hình chiến trường Tây Nguyên nói riêng. Nội dung thứ hai, học tập truyền thống và bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Qua đó, mỗi người tự liên hệ kiểm điểm. Trong quá trình học tập, cán bộ còn được nghe bài viết của đồng chí Trường Sơn (bút danh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh). Ngoài ra, cán bộ còn được nghe bác sỹ phòng dịch nói về cách phòng và chống bệnh sốt rét....


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:35:31 pm

        Chúng tôi chủ trương phát động tư tưởng cho cán bộ nói hết tâm tư vướng mắc của mình, qua đó trao đổi cùng nhau giải quyết. Đối với cán bộ trung cao cấp phải tự giác đề cao tự phê bình và phê bình, mỗi người làm hai bản kiểm điểm một bản nêu rõ ưu điểm và một bản nêu rõ những suy nghĩ và hành động trái với truyền thống và bản chất cách mạng của Đảng và Quân đội ta.

        Đây là đợt học tập tập trung đầu tiên đối với cán bộ trung cao cấp toàn mặt trận. Một cuộc sinh hoạt chính trị nghiêm túc và sâu sắc, một cuộc đấu tranh không khoan nhượng trên lĩnh vực tư tưởng giữa một bên là tư tưởng cách mạng tiến công, quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi cuối cùng với một bên là tư tưởng ngại gian khổ hy sinh, dao động, giảm sút ý chí chiến đấu. Những cuộc trao đổi thảo luận, cả những cuộc tranh luận gay gắt trong cán bộ, lãnh đạo chỉ huy các đơn vị để phân biệt đúng sai và có tác dụng thiết thực, làm chuyển biến nhận thức theo chiều hướng tích cực. Từ đó dần dần thống nhất được nhận thức về mối quan hệ giữa đánh lâu dài và tranh thủ thời cơ, thống nhất được nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trên chiến trường. Càng về cuối đợt học tập tinh thần phấn khởi, lạc quan càng được nâng lên.

        Hôm kết thúc chỉnh huấn chính trị, tôi cầm hai tập giấy khá dày nói:

        - Đây là bản kiểm điểm của các đồng chí. Phần ưu điểm các đồng chí giữ lấy, để phát huy trong hoạt động chiến đấu lâu dài, còn đây là những bản trình bày khuyết điểm, tôi đọc và thấy các đồng chí đã tự phê bình một cách nghiêm túc trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng và nhận rõ mỗi người đều có phương hướng phấn đấu cụ thể, thiết thực nên không cần phải giữ lại nó nữa. Tôi tuyên bố đốt tất cả những bản về khuyết điểm.

        Đợi cho những tờ giấy cuối cùng cháy thành tro, tôi mời chính uỷ các trung đoàn 66, 33, 320 lên rồi trao cho mỗi đồng chí một sợi dây thừng để trói tù binh Mỹ trong tiếng vỗ tay vang dậy cả một cánh rừng.

        Suốt cuộc chỉnh huấn, ngành hậu cần của mặt trận đã cố gắng lớn. Gạo không đủ, thêm sắn, khoai, thịt trâu hầm chuối xanh, có bữa thêm  thịt lợn và các loại rau rừng. Bữa ăn của cán bộ đủ no, có chút cải thiện. Trong bữa cơm chiều, trước khi về đơn vị mỗi cán bộ với lòng tin và niềm vui ai cũng háo hức về củng cố và nâng cao sức chiến đấu của đơn vị mình, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới, thực hiện tốt kế hoạch của trên.

        Thường vụ Đảng uỷ Mặt trận họp và đánh giá kết quả chỉnh huấn: Qua chiến đấu ác liệt với chiến công có ý nghĩa lớn lại nảy sinh hiện tượng tư tưởng hữu khuynh tiêu cực khá nghiêm trọng. Trong cuộc chỉnh huấn cán bộ đã tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc. Ý chí chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược và nghị lực được nâng cao. Thực tế đã rèn luyện anh em có bước trưởng thành vững chắc. Bộ đội chủ lực không những trụ vững ở chiến trường mà còn đủ khả năng phát triển. Khả năng chiến trường Tây Nguyên đánh lớn sẽ đến trong tương lai không xa...

        Trích: Đại tướng Chu Huy Mân, Thời sôi động, đại tá Lê Hải Triều thể hiện.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:45:10 pm

3. ĐẠI TƯỚNG HOÀNG VĂN THÁI: (HOÀNG VĂN XIÊM)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/Hoang%20Van%20Thai_zpsdmuqy0yn.jpg)

       
        Đồng chí Đại tướng Hoàng Văn Thái, sinh năm 1915 trong một gia đình nông dân yêu nước, tại xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng.

        Năm 18 tuổi, đồng chí rời quê hương đi làm công nhân ở mỏ than Hòn Gai và sau đó là mỏ thiếc Tĩnh Túc, Cao Bằng. Sớm giác ngộ cách mạng, năm 1936, đồng chí trở về Tiền Hải hoạt động trong phong trào Mặt trận bình dân, tổ chức các hội Tương tế, Ái hữu, tham gia chống thuế, chống bắt phu, bắt lính,  tuyên truyền và tổ chức xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân.

        Tháng 5 năm 1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí tích cực góp phần xây dựng tổ chức Đảng ở các xã Tiền Hoàn, Đại Hữu, An Khang thuộc huyện Tiền Hải, Thái Bình. Tháng 9 năm 1940, đồng chí bị địch bắt; không tìm được chứng cứ, địch buộc phải thả.

        Tháng 10 năm 1940, đồng chí được Đảng đưa về hoạt động bí mật ở căn cứ Lạng Giang, Hiệp Hoà tỉnh Hà Bắc, tham gia xây dựng và làm Đội trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.

        Tháng 9 năm 1941, đồng chí được Đảng cử đi học quân sự ở nước ngoài. Tháng 10 năm 1944 về nước, đồng chí được giao nhiệm vụ quan trọng là tham gia tổ chức Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, phụ trách công tác tình báo và tác chiến.

        Tháng 4 năm 1945 phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật.

        Tháng 9 năm 1945, đồng chí được cử giữ chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Uỷ viên Quân uỷ hội, Uỷ viên Ban quân sự Trung ương.

        Năm 1948 được phong hàm Thiếu tướng.

        Tháng 9 năm 1958 là Trung tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ương.

        Tháng 2 năm 1966, đồng chí nhận nhiệm vụ vào truyền đạt Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng cho các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy miền Nam.

        Tháng 7 năm 1966 nhận nhiệm vụ ở lại làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu 5, quyền Bí thư Khu uỷ Khu 5.

        Tháng 10 năm 1967, làm Tư lệnh Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục kiêm Phó Bí thư Quân uỷ Miền.

        Năm 1974, đồng chí được phong quân hàm Thượng tướng.

        Năm 1980, được thăng quân hàm Đại tướng.

        Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, đồng chí giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Uỷ viên thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương; được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khoá III, IV, V và đại biểu Quốc hội khoá VII.

        Với những cống hiến xuất sắc và phẩm chất trong sáng, đồng chí Hoàng Văn Thái đã được Đảng, Quốc hội, Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng nhì). Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất; ba Huân chương Chiến sỹ vẻ vang (hạng nhất, hạng nhì, hạng ba), Huy chương Quân kỳ quyết thắng, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.

        Là vị tướng trận mạc đã trải qua thực tiễn hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; với kiến thức và tài năng quân sự hiếm có, Hoàng Văn Thái đã trở thành một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc. Đồng chí là người tổ chức và chỉ huy đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu – cơ quan chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam; là “người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Đồng chí Hoàng Văn Thái được các tướng lĩnh cáo cấp trong Quân đội ta đánh giá: “Là một nhà chỉ đạo, chỉ huy toàn diện, rất coi trọng nhân tố chính trị, yếu tố nhân dân và là một nhà tham mưu lão luyện”, “ là một vị tướng có đức độ và tài năng”, “không những có kinh nghiệm về công tác tham mưu mà còn là một vị tướng chỉ huy có tài năng”.

        Cũng từ những năm tháng bám sát thực tiễn, hết sức gắn bó với các chiến trường, gần gũi chiến sỹ, kết hợp nhuần nhuyễn quân sự và chính trị, tác chiến của bộ đội chủ lực và chiến tranh du kích, lại được đào tạo qua trường quân sự, đồng chí Hoàng Văn Thái đã trở thành một trong những người giỏi về lý luận, khoa học quân sự của Quân đội ta.

        Từ những trải nghiệm trên chiến trường và trên nhiều cương vị công tác, trong suốt cuộc đời mình, Đại tướng Hoàng Văn Thái có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học quân sự, tổng kết chiến tranh và xây dựng ngành lịch sử quân sự Việt Nam. đồng chí đã viết hơn mười tác phẩm hồi ký và luận văn quân sự cùng hàng trăm bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Khối lượng lớn các tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học mà Đại tướng Hoàng Văn Thái để lại mãi mãi là tài sản tinh thần vô giá cho Đảng, Quân đội và nhân dân ta.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:52:18 pm

TẤT CẢ CHO CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM

        (Giới thiệu về những kỷ niệm sâu sắc về chỉ đạo công tác tham mưu trong chiến dịch mang tên Bác Hồ của Đại tướng Hoàn Văn Thái).

        Sau cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 31 tháng 3, cơ quan Tổng hành dinh bước vào những ngày đầu tháng Tư với một không khí sôi động và nhịp độ khẩn trương lạ thường, hơn cả những ngày tháng Ba lịch sử. Tất cả cho chiến trường trọng điểm, quyết góp phần xứng đáng nhất giành toàn thắng trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn vào những ngày tháng Tư này, thực hiện trọn vẹn quyết tâm chiến lược của Bộ Thống soái.

        Chúng tôi xác định nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu lúc này là phải tập trung cao độ vào mấy việc quan trọng có quan hệ trực tiếp tới trận quyết chiến chiến lược cuối cùng:

        Một là, theo dõi và giúp trên chỉ đạo các chiến trường tác chiến, tạo thế cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn, nhất là chỉ đạo cánh quân ven biển đang đánh địch trong hành tiến đến khu vực tập kết đúng thời gian quy định.

        Hai là, đôn đốc và theo dõi việc điều động những lực lượng chiến lược và trang bị kỹ thuật lớn vào mặt trận trọng điểm Sài Gòn càng nhanh càng tốt.

        Ba là, nghiên cứu để đề đạt cách đánh chiến lược, chiến dịch trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

        Trong hai nhiệm vụ thứ nhất và thứ hai, Bộ Tổng tham mưu phải đồng thời đáp ứng hai yêu cầu chiến lược dường như mâu thuẫn nhau đối với cánh quân đang tiến trên ven biển miền Trung.

        Một mặt, địch đang trong quá trình co cụm chiến lược, ta phải nhanh chóng tiêu diệt, làm suy yếu chúng, làm thất bại ý đồ chiến lược của chúng ngay trong quá trình co cụm, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến trường trọng điểm Sài Gòn. Làm như vậy cũng tức là tranh thủ mở rộng vùng giải phóng, nhanh chóng làm chủ các địa bàn chiến lược quan trọng ven biển miền Trung từ Nha Trang trở vào, trong đó có quân cảng quan trọng bậc nhất là Cam Ranh, không để cho địch kịp phá hoại các trang bị kỹ thuật của cảng, không để chúng kịp bốc dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ theo chúng. Đó là nhiệm vụ trước mắt của cánh quân ven biển, ra đời từ đầu tháng 4 năm 1975.

        Nhưng mặt khác, yêu cầu rất gay gắt đối với cánh quân này là phải nâng tốc độ hành quân hơn nữa, để đến khu vực tập kết kịp thời gian tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Quá trình hành quân của cánh này không chỉ là đánh địch mà đi, mở rộng đường mà tiến, mà còn là quá trình bổ sung và sáp nhập các đơn vị lớn ngay trên dọc đường, hình thành ngay đội hình chiến đấu; tiếp tục giải quyết hậu cần, trang bị phương tiện vận chuyển để bảo đảm tốc độ hành quân. Đó cũng là một nhiệm vụ cấp bách của cánh quân rất quan trọng này trên đường tiến quân vào chiến trường trọng điểm.

        Trong việc điều động và sử dụng lực lượng một cách linh hoạt để các đơn vị hoàn thành cả hai nhiệm vụ tranh thủ tiêu diệt địch, giải phóng đất đai và đến nhanh vị trí tập kết kịp tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn, có một trong trường hợp nổi lên cần nói đến là trường hợp sử dụng Sư đoàn 10 (thuộc Quân đoàn 3, Tây Nguyên. Quân đoàn 3 thành lập ngày 27 tháng 3 năm 1975, do đồng chí Vũ Lăng làm Tư lệnh và đồng chí Đặng Vũ Hiệp làm Chính uỷ). Cuối tháng 3, sư đoàn này ở gần Nha Trang nhất và có điều kiện phát triển theo ven đường biển nhanh nhất.

        Trước khi hình thành cánh quân ven biển, sư đoàn đang làm nhiệm vụ đánh địch trên đường 21. Theo chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị (nhanh chóng đưa lực lượng B3 vào chiến trường trọng điểm) hồi cuối tháng , anh Dũng và Bộ tư lệnh Tây Nguyên đã cho Sư đoàn 10 ( cũng như các đơn vị phía trước, sau khi bàn giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 25 đánh trên đường 21, sẽ rút theo, để hành quân cấp tốc vào B2).

        Trên đường vào Nam, ngày 1 tháng 4, anh Sáu Thọ (Sau cuộc họp ngày 25 tháng 3, theo sự phân công của Bộ Chính trị, ngày 28 anh Lê Đức Thọ vào chiến trường B2, cùng các anh Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng thay mặt cho Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng Sài Gòn) cũng điện ra cho anh Ba và anh Văn đề nghị không nên cho Sư đoàn 10 tiếp tục phát triển xuống Cam Ranh rồi sau đó tiến theo dọc đường biển vào B2, mà nên từ Tây Nguyên vào gấp chiến trường trọng điểm. Anh Thọ cho rằng lực lượng Khu 5 cộng với một bộ phận lực lượng Tây Nguyên cũng đủ sức giải phóng Quy Nhơn – Bình Định, rồi phát triển xuống Phú Yên, Khánh Hoà, Cam Ranh và cả Phan Rang, Phan Thiết. Các đồng chí lãnh đạo Khu 5 có kinh nghiệm vận dụng kết hợp ba thứ quân, kết hợp tiến công và nổi dậy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:52:39 pm

        Nhưng hai ngày trước đó, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã căn cứ vào tình hình thực tế mà thay đổi chủ trương sử dụng sư đoàn này. Ngày 30 tháng 3, khi nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo tình hình, Quân uỷ nhận thấy sau khi địch thất bại ở Đà Nẵng, đang diễn ra tình hình mới ở Cực Nam Trung Bộ, nhất là sau khi ta giải phóng Quy Nhơn, địch đang rút chạy khỏi Tuy Hoà, bắt đầu chuyển các cơ quan lãnh sự Mỹ và bộ máy Ngụy ở Nha Trang và Cam Ranh về Sài Gòn, dự kiến địch có thể bỏ cả Cam Ranh. Trước tình hình đó, sau buổi giao ban, Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ nhất trí cho rằng, ta cần có chủ trương thật linh hoạt để lợi dụng thời cơ cụ thể này, nên đã quyết định sử dụng Sư đoàn 10 nhanh chóng tiêu diệt quân dù và quân địch còn lại trên đường 21, tiến xuống đánh chiếm Nha Trang và Cam Ranh, rồi theo hướng ven biển mà tiến về phía nam. Như vậy vừa tiêu diệt được địch trong lúc chúng đang rút chạy, kịp giải phóng mà không để địch phá một quân cảng quan trọng bậc nhất, đồng thời phát triển thế liên tục tiến công thắng lợi, mở thêm một con đường để tiến về phía đông Sài Gòn mà không ảnh hưởng lớn đến thời gian.

        Quyết định trên được chuyển ngay vào chiến trường Tây Nguyên ngày 30 tháng 3 (điện số 940).

        Chủ trương đó hoàn toàn phù hợp với suy nghĩ của anh Dũng và Bộ tư lệnh Tây Nguyên.

        Đêm ngày 30 tháng 3 (khi còn chưa nhận được điện số 940 của Quân uỷ), anh Dũng cùng Bộ tư lệnh Tây Nguyên cũng ban việc sử dụng Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25 phát triển xuống đánh chiếm Nha Trang, Cam Ranh, sau đó sư đoàn này theo đường 11 lên đường 20 vào miền Đông Nam Bộ. Như vậy, tranh thủ diệt nốt được lực lượng còn lại của Quân đoàn 2 Ngụy, giải phóng thêm một vùng chiến lược quan trọng mà sư đoàn vẫn đủ thời gian hành quân vào chiến trường trọng điểm. Quyết định rồi nhưng các anh còn băn khoăn vì sử dụng sư đoàn này như vậy có trái với chủ trương trước ngày 30 tháng 3 của Bộ Chính trị và Quân uỷ là nhanh chóng đưa lực lượng B3 vào miền Đông không?

        Giữa lúc anh Dũng và các anh ở B3 đang triển khai quyết tâm đã thống nhất đêm 30 tháng 3 với ý định là “chịu trách nhiệm rồi báo vế Quân uỷ Trung ương và Bộ Chính trị”, thì nhận được điện 940. Anh Dũng vội điện ra. Điện có đoạn viết:

        “Tôi mừng quá vì thật là tâm đầu ý hợp giữa lãnh đạo và người ở chiến trường”.

        Hôm sau, ngày 31 tháng 3, trả lời điện của anh Thọ, anh Vă cho biết Sư đoàn 10 đang đánh quân dù, sẽ tiến đánh Nha Trang, Cam Ranh và tiếp tục phát triển tiến công theo hướng ven biển, vừa tiêu diệt được địch, giải phóng cảng lớn, vừa đánh lạc hướng địch.

        Sau khi Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã quyết định hướng phát triển của Sư đoàn 10, ngày 1 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu thông báo tình hình địch cho sư đoàn và đôn đốc tranh thủ từng giờ, từng phút phát triển thật nhanh vào hướng Nha Trang, Cam Ranh. Điện nói rõ: Nếu cần thì cho đơn vị nhỏ thâm nhập trước để không cho địch có thời gian phá hoại cơ sở kỹ thuật và bốc dân. Cùng lúc, chúng tôi lại nhận được tin Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 và Lữ dù 3 Ngụy đang hoảng loạn chạy theo đường bộ về hướng Sài Gòn và đêm ngày 1 tháng 4, dừng lại ở Phan Rang. Cùng với điện gửi sư đoàn, Bộ Tổng tham mưu thông báo ngay cho Khu 5 để kịp thời huy động lực lượng, kể cả Trung đoàn 25 ở đường 1, Trung đoàn 95B ở đường 7 cùng với lực lượng tại chỗ phối hợp đánh địch rút chạy trên hướng Tuy Hoà, Nha Trang, Cam Ranh; đồng thời điện cho Khu 6 dùng các lực lượng tại chỗ dọc đường 1 phối hợp với sư đoàn này ngăn chặn và tiêu diệt địch. Ngày hôm sau, qua tin kỹ thuật, chúng tôi được biết cụ thể thêm: Địch đang dùng chừng 3 nghìn xe chở quân rút chạy từ Cam Ranh vào Sài Gòn. Sáng ngày 2 tháng 4 đoàn xe đã đến địa phận Bình Thuận. Chúng cho rằng đường 1 bị cắt ở gần Xuân Lộc nên chỉ có thể rút chạy theo đường ven biển qua Hàm Tân, Bà Rịa ra Vũng Tàu. Bộ Tổng tham mưu điện cho Quân khu 6 và Quân khu 7 sử dụng ngay lực lượng vũ trang ở Bình Tuy, Phước Tuy, tìm mọi cách ngăn chặn địch, kể cả phá đường, đánh nhỏ, làm chậm bước rút chạy của chúng. Hai quân khu cũng được thông báo: Sư đoàn 10 của Tây Nguyên đang tiến công giải phóng Nha Trang, Cam Ranh và sẽ phối hợp với địa phương truy kích tiêu diệt địch chạy qua Phan Rang, Phan Thiết vào phía Nam. Quân khu 6 và Quân khu 7 cần phối hợp ngay với Sư đoàn 10 đánh địch; giải phóng đến đâu, dùng bộ đội địa phương tiếp quản đến đấy để sư đoàn có thể tiếp tục tiến nhanh vào miền Đông Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:55:40 pm

        Riêng với anh Thọ, vẫn đang trên đường vào Bộ tư lệnh Miền, anh Văn điện tiếp để anh biết tình hình các binh đoàn đang trên đường vào B2, trong đó có Sư đoàn 10 đã tiêu diệt Lữ đoàn dù địch và đang tiến về phía nam. Để anh yên tâm, bức điện nói rõ: “Về thời gian, theo anh Dũng cho biết thì cúng không muộn hơn là quay trở lại đi theo hướng đường cũ. Chúng tôi thấy như thế có lợi, anh Ba cũng đồng ý”.

        Hôm sau, ngày 3 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu nhận được điện anh Thọ gửi anh Ba, anh Văn, đồng thời gửi anh Dũng, nhất trí với cách xử trí của Bộ Chính trị và Quân uỷ. Điện viết: “...Nếu Sư đoàn 10 đã tiến sâu như vậy thì có thể giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 10 và thêm một sư đoàn của Khu 5, phát triển giải phóng Phan Rang, Phan Thiết và tiến xuống giải phóng Bà Rịa, Ô Cấp. Hiện nay nhiệm vụ Khu 5 đã xong, có thể rút đi một sư đoàn để thêm sức với Sư đoàn 10 mà đánh. Tiến như vậy rất bất ngờ, có thể nhanh chóng tiến sát, bao vây Sài Gòn về hướng đông. Đường tiếp tế tuy có kéo dài ra, nhưng ta lợi dụng được đường  và phương tiện vận chuyển trong dân vùng mới giải phóng thì có thể vận chuyển tiếp tế tương đối nhanh và thuận lợi hơn là hướng từ miền Đông xuống...”.

        Như vậy là từ ngày 31 tháng 3, trong lúc sư đoàn khẩn trương phát triển từ đường 21 xuống phía Nha Trang, Cam Ranh thì các bức điện trao đổi đã dẫn đến sự nhất trí về việc sử dụng sư đoàn này cũng như toàn cánh quân ven biển – cánh quân hướng Đông.

        Tình hình phát triển khẩn trương và những mục tiêu còn lại ở ven biển Cực Nam Trung Bộ đặt ra yêu cầu cấp bách về mặt chỉ đạo chiến lược là tăng thêm lực lượng cho cánh quân này, cũng tức là tăng thêm lực lượng cho hướng đông và đông nam của chiến trường trọng điểm. Qua các bức điện trao đổi, anh Thọ, các anh ở B2 và Khu 5 đều nhất trí như vậy. Ngày 4 tháng 4 anh Ba cùng Thường trực Quân uỷ đã quyết định tăng thêm  sư đoàn: Sư đoàn 3 (đang ở Bình Định), Sư đoàn 325 và Sư đoàn 304 (đang ở Đà Nẵng), cùng các đơn vị pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh vào đội hình cánh quân hướng Đông. Nhiệm vụ của cánh quân này là tiêu diệt quân địch trong hành tiến, nhanh chóng đánh chiếm Bà Rịa, Ô Cấp, khoá chặt sông Lòng Tàu và phát triển về hướng Sài Gòn từ phía đông nam.

        Để tăng cường chỉ đạo chỉ huy cánh quân hướng Đông (gồm Quân đoàn 2 do anh Nguyễn Hữu An, Tư lệnh; anh Lê Linh, Chính uỷ; Sư đoàn 3 và các đơn vị phối thuộc), ngày 5 tháng 4 các anh Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hoà và Nam Long đã vào đến Đà Nẵng. Anh Tấn được giao nhiệm vụ Tư lệnh cánh quân hướng Đông. Đồng thời Thường trực Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Ban cán sự lâm thời của cánh quân này do anh Lê Quang Hoà làm Bí thư. Khi vào đến miền Đông Nam Bộ, cánh quân này sẽ thuộc quyền lãnh đạo và chỉ huy của Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Sài Gòn.

        Trở lại “sự kiện” sử dụng Sư đoàn 10. Sau khi giải phóng Nha Trang và Cam Ranh, được sự giúp đỡ của quân và dân Khu 6, Sư đoàn 10 đã từ Ba Ngòi xuyên qua căn cứ Bác Ái đến Tân Mỹ (đường 11) để lên Tuyên Đức rồi theo đường 20 hành quân về vị trí tập kết của Quân đoàn 3 trên hướng tây bắc Sài Gòn. Hàng ngàn quân dân huyện Bá Ái, quê hương của Anh hùng Bi Năng Tắc, đã hăng hái lao động suốt ngày đêm, sửa lại con đường Ba Ngòi – Tân Mỹ để bộ đội hành quân nhanh chóng.

        Trong những ngày này, Bộ Tổng tham mưu nhận được tin địch đã điều sở chỉ huy tiền phương của Quân đoàn 3 ra Xuân Lộc, đưa Lữ dù 2 ra Phan Rang và tăng cường phòng thủ thị xã này, thực hiện chủ trương phòng thủ từ xa; đồng thời nhận được tin anh Tấn và anh Hoà sáng 10 tháng 4 đã từ Quy Nhơn đi Nha Trang, có thể đến nơi trong ngày và tin Sư đoàn 325 xuất phát từ Đà Nẵng ngày 9, Sư đoàn 304 sẽ đi tiếp theo.

        Ngày 13 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu nhận được điện anh Tấn cho biết tình hình hậu cần cho Quân đoàn 2 chưa gặp khó khăn gì lắm. Đơn vị đã được cấp một tháng lương thực và thực phẩm. Dọc đường hành quân của quân đoàn, ở Cam Ranh có hơn 2.000 tấn gạo, ở Quy Nhơn có 245 tấn xăng, 175 tấn ma dút, ở Nha Trang có 4.000 tấn xăng và 1.000 tấn ma dút, v.v... Nghe báo cáo, Thường trực Quân uỷ yên tâm về khả năng bảo đảm vật chất kỹ thuật cho cánh quân hướng Đông, nhưng phải làm sao đưa lực lượng này vào chiến trường trọng điểm nhanh hơn. Nhiệm vụ và hướng phát triển của Quân đoàn 2 và Sư đoàn 3 đã được Thường trực Quân uỷ Trung ương nhất trí. Cụ thể là: Sau khi giải quyết xong Phan Rang, sẽ phát triển đánh chiếm thị xã Bà Rịa và căn cứ Vũng Tàu, cắt đứt đường bộ từ Biên Hoà đi Vũng Tàu, khống chế hoàn toàn sông Lòng Tàu. Nếu địch co về phòng thủ Biên Hoà thì sẽ căn cứ vào tình hình cụ thể lúc đó mà cho lực lượng tiến về phía đông và đông nam Sài Gòn, vượt sông đột phá vào trọng điểm khu vực này.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:56:55 pm

        Đến ngày 11 tháng 4, có tin địch có thể tăng cường củng cố thêm Phan Rang để ngăn chặn đường tiến của quân ta. Sư đoàn 968 của ta chưa quen đánh cứ điểm lớn có tổ chức phòng thủ vững chắc. Chúng tôi điện để anh Tấn nghiên cứu xem, nếu đánh Phan Rang mất thời gian và để kịp tiến nhanh về miền Đông thì có thể nghiên cứu cách nào vòng qua, còn ở Phan Rang chỉ để một đơn vị bao vây buộc địch phải phân tán đối phó. Nếu đi đường vòng, cố nhiên phải khắc phục khó khăn về hậu cần và đường cơ động cho binh khí kỹ thuật.

        Mấy ngày sau, Bộ Tổng tham mưu nhận được báo cáo: một bộ phận của cánh quân ven biển do anh Tấn chỉ huy, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương Quân khu 6 (Gồm các tỉnh Cực Nam Trung Bộ), đã đánh chiếm sân bay Thành Sơn và thị xã Phan Rang. Du kích Bác Ái Đông từ lâu đã bám sát vành đai sân bay Thành Sơn, tạo thế rất thuận lợi cho bộ đội chủ lực tiến công địch. Đêm ngày 7 tháng 4, bộ đội đặc công cùng với bộ đội địa phương Ninh Thuận thọc sâu đánh chiếm thị trấn Tháp Chàm, sau đó bám trụ trong thị xã Phan Rang. Bộ phận này đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, sau đó góp phần quan trọng cùng với bộ đội chủ lực giải phóng thị xã Phan Rang, mở đường cho cánh quân hướng Đông phát triển thuận lợi. Ở Bình Thuận, cũng từ ngày 7 tháng 4, Trung đoàn 812 (chủ lực của Quân khu 6) từ Tuyên Đức xuống Bình Thuận, ngày hôm sau tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ Thiện Giáo (Ma Lâm), tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang địa phương diệt các vị trí địch còn lại.

        Trung đoàn 812 bám trụ Phú Long (cửa ngõ vào thị xã Phan Thiết) trong suốt năm ngày, từ 14 đến 18 tháng 4, dưới hoả lực phi pháo ác liệt của địch, đánh lui nhiều đợt phản kích của chúng cùng với đơn vị của Quân đoàn 2 tiến vào giải phóng Phan Thiết.

        Thế là, tiếp theo việc giải phóng hoàn toàn các tỉnh Lâm Đông (ngày 30 tháng 3), Tuyên Đức (ngày 3 tháng 4), gần như toàn bộ địa bàn Khu 6 đã được giải phóng, ý đồ phòng ngự từ xa của địch hoàn toàn bị phá sản. Nhìn vào bản đồ chiến sự, đến hạ tuần tháng 4, dễ dàng nhận thấy một thế chiến lược vô cùng thuận lợi của ta đã được tạo ra trước khi mở màn chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Một vùng giải phóng rộng lớn kéo dài suốt từ Cực Nam Trung Bộ, qua Khu 5, Tây nguyên đến Trị - Thiên, nối liền với hậu phương miền Bắc. Như vậy là cả nước đã tiến quân trên mảnh đất Thành Đồng, đã tiếp cận thành phố Sài Gòn – Gia Định và đang hướng mọi hành động vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng trên chiến trường trọng điểm: Sài Gòn.

        Trong những tin chiến thắng dồn dập bay về Tổng hành dinh mấy tuần đầu tháng 4, chúng tôi đặc biệt chú ý tin ngày 8 tháng 4, phi công Nguyễn Thành Trung lái một máy bay F5E của không quân Ngụy ném bom “dinh Độc Lập” rồi bay ra vùng giải phóng hạ cánh xuống sân bay Phước Long và tin bộ đội hải quân phối hợp với lực lượng vũ trang Khu 5 bắt đầu giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, đầu tiên là đảo Song Tử Tây.

        Riêng trên hướng đông bắc Sài Gòn, theo chủ trương trước đó của Trung ương Cục, Quân đoàn 4 đã bắt đầu trận Xuân Lộc từ đêm ngày 9 tháng 4.

        Chúng tôi được tin địch đưa thêm quân tăng cường ra hướng đó và vì ta chuẩn bị chưa thật đầy đủ nên đã gặp khó khăn, chưa thực hiện được trận thối động mạnh. Từ ngày 12, cùng với việc chuẩn bị thêm, ta đã chuyển sang bao vây và diệt viện ở bên ngoài, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 18 và Lữ dù Ngụy, đánh chiếm Dầu Giây, làm chủ ngã ba đường 1 và đường 20, chia cắt Xuân Lộc về phía tây, uy hiếp tuyến phòng thủ Biên Hoà – Hố Nai. Trước tình hình đó và sau trận Phan Rang, sức ép của ta trên hướng đông ngày càng mạnh, buộc địch phải rút chạy khỏi Xuân Lộc (đêm ngày 20 tháng 4). Tuyến phòng thủ phía đông Sài Gòn của địch bị chọc thủng, bàn đạp tiến công của ta trên hướng này được mở rộng. Ta có thêm điều kiện thuận lợi mới trước khi bước vào chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

        Cùng với việc theo sát và giúp trên chỉ đạo tác chiến của cánh quân ven biển Cực Nam Trung Bộ, Bộ Tổng tham mưu quan tâm theo dõi tình hình chuẩn bị lực lượng chính trị của ta ở Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long, nhằm chuẩn bị phối hợp với đòn tiến công của chủ lực trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

        Trong các buổi giao ban, tuy tin tức nhận được về công tác chuẩn bị cho quần chúng nổi dậy không nhiều, chúng tôi vẫn đặt thành nhiệm vụ cho Cục tác chiến và nhất là Cục Dân quân thường xuyên báo cáo những bước chuẩn bị nổi dậy của quần chúng trên chiến trường trọng điểm,nhất là sau khi phát hiện những nhân tố mới về phương thức này trong chiến dịch giải phóng Đà Nẵng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:59:15 pm

        Ngày 17 tháng 4, Bộ Tổng Tham mưu điện hỏi cơ quan tham mưu B2 về tình hình chuẩn bị lực lượng quần chúng ở nội đô và vùng xung quanh Sài Gòn, ở đồng bằng sông Cửu Long. Được biết ngày 12 tháng 4, Thường vụ Thành uỷ Sài Gòn ra nghị quyết về các tổ chức chính trị và vũ trang nội thành và vùng ven để chuẩn bị khẩn trương cho quần chúng nổi dậy phối hợp với chủ lực khi chiến dịch giải phóng Sài Gòn mở màn. Khoảng 700 cán bộ nội thành và 1.000 cán bộ vùng ven đã được chuẩn bị sẵn sàng đón thời cơ phát động quần chúng nổi dậy. Gần 40 tổ chức “biến tướng” được củng cố và trở thành cơ sở của ta ở vùng ven và nội thành. Ta đã làm chủ với mức độ khác nhau 40 lõm chính trị, đã xây dựng được 233 tự vệ mật trong thành phố và hơn 3.000 du kích vùng ven. Đây là một lực lượng chưa phải lớn, nhưng rất quan trọng để thực hiện kết hợp tiến công và nổi dậy trong trận quyết chiến cuối cùng sắp tới. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Cục (tức là nghị quyết ngày 29 tháng 3 năm 1975 về địa phương chuẩn bị tự giải phóng bằng lực lượng của chính mình khi có thời cơ), các địa phương trong Khu 9 đã tuyển hàng nghìn chiến sỹ mới, bổ sung cho lực lượng vũ trang tỉnh và huyện. Các tỉnh đã nâng số tiểu đoàn địa phương từ 15 lên 24, đưa số đại đội ở huyện lên thành tiểu đoàn và tổ chức thêm được 60 đại đội khác. Dân quân du kích toàn Khu 9 đã nhanh chóng nâng từ 32.900 (tháng 3 năm 1975) lên 54.900 (tháng 4 năm 1975). Ở Khu 8, do kết quả tuyển quân và đưa 2.440 du kích lên, cộng với việc rút 1.200 du kích trong vùng sâu ra, toàn khu đã thành lập thêm được 7 tiểu đoàn, 36 đại đội và 150 trung đội bộ đội địa phương. Riêng tỉnh Bến Tre đã phát triển bộ đội địa phương từ 3 lên 5 tiểu đoàn đủ; mỗi huyện có từ 1 đến 2 đại đội, mỗi xã có từ 1 đến 2 trung đội du kích và dự kiến số quần chúng đưa vào thị xã (khi có lệnh khởi nghĩa) lên tới khoảng một vạn người được tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn, có chỉ huy chặt chẽ; cùng với hàng ngàn gia đình binh sỹ Ngụy tham gia công tác binh vận. Tỉnh Mỹ Tho tuyển gần 1.000 chiễn sỹ mới, đưa hàng nghìn du kích lên bộ đội địa phương, nên đã bổ sung cho tỉnh 3 tiểu đoàn, xây dựng thêm 28 đại đội huyện và phát triển thêm 1.500 du kích xã ấp, trong đó có khoảng 100 du kích mật của thi xã; đã huy động chừng 40 nghìn lượt người đi vận chuyển vũ khí cho bộ đội và 4.000 lượt người đêm đêm ra phá lộ 4, đắp vật chướng ngại trên kênh Chợ Gạo. Các tỉnh Long An, Kiến Tường, Sa Đéc... cũng rất cố gắng phát triển lực lượng vũ trang – chính trị nên đã có lực lượng cần thiết để sẵn sàng thực hành nổi dậy kết hợp với tiến công khi có thời cơ.

        Vào khoảng trung tuần tháng 4, khi Bộ Tổng tham mưu báo cáo tổng hợp tình hình phát triển lực lượng chính trị và vũ trang vùng ven Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đều rất vui khi nhận thấy khả năng quần chúng nổi dậy trên chiến trường B2 có thể phát triển sâu rộng hơn so với những gì đã diễn ra trong trận tiến công Đà Nẵng. Mô hình tiến công và nổi dậy mà Bộ Chính trị nhấn mạnh trong cuộc họp ngày 25 tháng 3 đã có cơ sở để biến thành hiện thực.

        Cùng với việc theo dõi và chỉ đạo hoạt động tác chiến tạo thế cho cuộc đọ sức cuối cùng trên chiến trường trọng điểm, Bộ Tổng tham mưu tập trung vào việc chỉ đạo điều động binh lực và vật chất kỹ thuật vào chiến trường B2 với tinh thần “thần tốc, thần tốc hơn nữa” mà Bộ Chính trị đã đề ra trong các cuộc họp cuối tháng 3.

        Vấn đề chuẩn bị và điều động lực lượng cho Mặt trận Sài Gòn được đề ra khá sớm, từ những ngày chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng đang diễn biến khẩn trương. Cuối tháng 3, đặc biệt là sau cuộc họp ngày 31 của Bộ Chính trị, vấn đề lo lắng của cơ quan Tổng hành dinh cũng như của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy trên đường 559 và các chiến trường phía Nam là bất luận trong tình hình nào cũng không được vì điều động lực lượng mà để lỡ thời cơ chiến lược.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:59:41 pm

        Một đoàn cán bộ tham mưu và hậu cần được cử đi giúp đồng chí Phùng Thế Tài, Phó Tổng tham mưu trưởng, chuyên trách việc đôn đốc hành quân trên trục đường 559. Quán triệt phương châm “thần tốc, thần tốc hơn nữa”, hoạt động của guồng máy chi viện chiến lược được đẩy lên với tốc độ ngày càng cao. Ở cơ  quan tham mưu hậu cần, trên đường 559 cũng như ở B2, các cán bộ lãnh đạo đều tập trung theo dõi hành trình của Quân đoàn 1 xuất phát từ phía nam đồng bằng Bắc Bộ; của các lực lượng B, xuất phát từ nhiều hướng trên chiến trường Tây Nguyên; của Sư đoàn 320b xuất phát từ Trị - Thiên; của Sư đoàn  từ Bình Định, các Sư đoàn 325 và 304 từ Đà Nẵng, v.v... Hai cơ quan tham mưu và hậu cần chiến lược đặc biệt quan tâm theo dõi việc vận chuyển đạn lớn, nhất là đạn cho xe tăng. Điện hỏi và điện trả lời liên tục. Động viên, đôn đốc, thúc giục để cùng nhau chạy đua với thời gian, với thời tiết, với quân thù. Làm sao giành được thắng lợi trọn vẹn trước khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống. Từ tháng 3 Bộ Chính trị đã từng khẳng định: Lỡ thời cơ chiến lược là có tội. Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là mệnh lệnh chiến đấu, là khẩu hiệu hành động để biến quyết tâm đó thành thắng lợi. Mà bất ngờ và chắc thắng lúc này chủ yếu là khâu thời gian. Phải làm sao cho thời gian, vốn đã ủng hộ chúng ta, sẽ ngày càng ủng hộ chúng ta nhiều hơn nữa.

        Việc gấp rút tập trung lực lượng để hình thành thế bao vây và chia cắt quân địch trên chiến trường trọng điểm đã được Bộ Chính trị đề ra từ các cuộc họp cuối tháng 3. Chủ trương đó đã được phổ biến tới các cấp lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ.

        Quân đoàn 1. do anh Nguyễn Hoà làm Tư lệnh, anh Hoàng Minh Thi làm Chính uỷ, từ cuối tháng 3 đã được lệnh hành quân cấp tốc với hai sư đoàn và các đơn vị binh khí kỹ thuật. Riêng Sư đoàn 308 được chọn ở lại bảo vệ hậu phương lớn. Yêu cầu đặt ra với quân đoàn là phải hết sức khẩn trương để khoảng ngày 10 tháng 4, đơn vị đầu tiên đã đến khu vực Đồng Xoài. Bộ Tổng tham mưu đã phải gấp rút bổ sung quân trước ngày quân đoàn lên đường vì trong những tháng cuối năm 1974, đầu năm 1975, một số khá đông lực lượng của quân đoàn đã được rút đi để tăng cường theo yêu cầu khẩn trương của chiến trường lúc đó. Chúng tôi chuyển điện của anh Văn cho anh Thọ biết tin về hành trình của Quân đoàn 1 vì dọc đường vào B2, anh Thọ điện ra cho anh Ba và anh Văn yêu cầu cho Quân đoàn 1 lên đường sớm.

        Riêng cánh quân ven biển do anh Tấn chỉ huy, mặc dù phải nâng tốc độ tiến công trong hành tiến vào những ngày giữa tháng 4, sau chiến thắng Phan Rang, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cũng như các anh ở B2 luôn điện hỏi bao giờ những đơn vị đầu tiên của đơn vị này đến Bà Rịa. Các anh chờ đợi việc áp sát tuyến phòng thủ Biên Hoà - Hố Nai, cắt đường 15 và sông Lòng Tàu, để cùng với việc giải phóng Xuân Lộc, hình thành thế bao vây Sài Gòn trên hướng đông và đông nam. Những ngày từ 16 đến 20 tháng 4 luôn có những bức điện đôn đốc cánh quân ven biển nâng tốc độ hành quân hơn nữa và những bức điện hỏi nhu cầu vật chất cần giải quyết để bảo đảm hành quân thần tốc.

        Không những Đoàn 559 (Sở chỉ huy của đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Đoàn 559, lúc này đã vào Quy Nhơn) mà bộ tư lệnh Khu 5 cũng được chỉ thị giúp đỡ về mọi mặt, nhất là về lương thực, phương tiện vận chuyển và xăng dầu để cánh quân hướng Đông sớm tới chiến trường trọng điểm.

        Tháng Tư, toàn quân hướng về chiến trường trọng điểm mà xốc tới. Những binh đoàn từ miền Bắc, Trị - Thiên đến Tây Nguyên và Khu 5 nườm nượp lên đường. Từng binh đoàn, xuất phát từ nhiều địa bàn khác nhau và những thời điểm không giống nhau, đi trên nhiều trục đường khác nhau và bằng những phương tiện cũng không giống nhau, nhưng đều hành quân với tinh thần “thần tốc, thần tốc hơn nữa”. Có đơn vị vừa đi vừa đánh địch để mở đường, có đơn vị vượt cung, tăng trạm. Theo sát và nắm vững hành trình của các binh đoàn đang thi đua lao nhanh về phía chiến trường trọng điểm, đối với cơ quan tham mưu lúc này là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Hai trục đường vận chuyển chiến lược Đông và Tây Trường Sơn đã mở rộng, vươn dài. Lại có thêm tuyến đường 14 và đường 1. Rõ ràng so với trước, ta có thêm rất nhiều thuận lợi trong việc cơ động bộ đội từ các hướng đổ cả về hướng trọng điểm. Nhưng một khó khăn không nhỏ là xe cơ giới không đủ để đáp ứng yêu cầu, mặc dù Bộ Quốc phòng đã được phép huy động mọi phương tiện có thể huy động được ở hậu phương, đã tận thu xe địch, huy động cả xe của dân trong những vùng mới giải phóng. Ngoài lực lượng bộ đội quá lớn cần hành quan gấp, còn có hàng ngàn, hàng vạn cán bộ Đảng và chính quyền, mặt trận được cử vào cũng với tinh thần “thần tốc”, để nhanh chóng tham gia củng cố vùng mới giải phóng vừa mới mở ra quá rộng, vượt mọi dự kiến của các ngành, các cấp.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:00:38 am

        Trong các buổi giao ban vào những ngày giữa tháng Tư này, điều mà Bộ Tổng tham mưu quan tâm hàng đầu là từng chặng đường đến vị trí tập kết xung quanh chiến trường trọng điểm của từng đơn vị. Các đồng chí trực ban tác chiến luôn sẵn sàng trả lời: Vì sao Đơn vị A đi chậm? Đơn vị B đã đến đâu? Đơn vị C đến X bao giờ? v.v...

        Trong những ngày cực kỳ sôi động của chiến tranh cách mạng và dồn dập tin chiến thắng này, không chỉ trong cơ quan Tổng hành dinh mà trong từng làng bản phố phường, từng nhà, từng người ở hậu phương lớn miền Bắc, hầu như ai ai cũng theo dõi bước chân người chiến sỹ trên đường vào Nam, tiến về Sài Gòn. Cả nước ra trận và cả nước cùng hướng theo bước chân của các đoàn quân ra trận, đoàn quân chiến thắng, đoàn quân giải phóng. Nhiều chiến sỹ trước khi lên đường, đã từng hứa với gia đình, với người thân là sẽ biên thư về nhà ngay sau khi đặt chân vào thành phố Sài Gòn giải phóng. Ước mơ của người chiến sỹ rất chính đáng và cũng giản dị vậy thôi. Thế nhưng, tôi xin phép dừng một chút ở đây để nói về một chi tiết cần nói.

        Trong số hàng chục vạn bộ đội đang hối hả hành quân lao lên phía trước, lại có những người đã được dừng lại dọc đường. Vùng giải phóng đã mở ra quá rộng, mà mở đến đâu phải củng cố vững chắc đến đó. Thế là có những chiến sỹ, những cán bộ không được cùng đồng đội tiếp tục chặng đường vào Nam, tiến về Sài Gòn. Có những chiến sỹ dừng chân trên dải đất mặn ven biển miền Trung, với cồn cát và sóng biển; lại có những chiến sỹ ở lại vùng Nam, Bắc Tây Nguyên với núi cao và rừng sâu.

        Cảnh vật, khí hậu, tiếng nói... từng vùng có khác nhau, nhưng tình nghĩa quân dân đâu đâu cũng là tình cá nước. Sống trong tình thương yêu đùm bọc của đồng bào trên mảnh đất vừa giành lại từ tay quân thù, các chiến sỹ của chúng ta làm quen dần với nhiệm vụ vận động, tổ chức quấn chúng, củng cố thành quả cách mạng, một nhiệm vụ rất mới mẻ đối với người chiến sỹ trẻ. Phải quen phong tục tập quán, phải học tiếng nói của nhân dân địa phương để cùng cán bộ các ngành, cùng đồng bào xây dựng và ổn định cuộc sống mới: dựng lại trường học, bệnh xá, mở mang đường giao thông, phát triển sản xuất, củng cố các đoàn thể quần chúng, v.v... công việc thật đa dạng và phức tạp, lại phải tiến hành rất tích cực khẩn trương để nhanh chóng củng cố vững chắc vùng giải phóng thành hậu phương trực tiếp của chiến trường trọng điểm.

        Dựa vào dân, được sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân sớm gắn bó thiết tha với cách mạng, với chế độ mới, anh “Bộ đội Cụ Hồ” đã vượt qua tất cả và đã làm được tất cả, trước hết là việc vận động nhân dân lùng quét bọn tàn quân Phun-rô. Những nhóm tàn quân này bị bọn cầm đầu lừa gạt và khống chế, chưa chịu hạ súng trở về mà vẫn lén lút phá hoại cuộc sống mới của chính quê hương, buôn làng mình vừa mới giải phóng.

        Cuộc chiến đấu truy quét bọn tàn quân Phun-rô khác hẳn với những trận đánh mặt đối mặt với quân Mỹ - Ngụy mà người chiến sỹ trẻ đã từng trải qua. Có trận chiến đấu đòi hỏi đấu trí nhiều hơn đấu súng. Vận động nhân dân, cùng nhân dân tiêu diệt, làm tan rã gọi hàng bọn Phun-rô, đối với anh em chiến sỹ quả là một nhiệm vụ đòi hỏi lòng kiên nhẫn, trí thông minh, tinh thần dũng cảm. Anh cũng hiểu rằng nhiệm vụ này không thể hoàn thành một sớm, một chiều, và anh đã tự nguyện gắn mình với nhiệm vụ ấy với bản chất cao quý của người chiến sỹ cách mạng mà Bác Hồ đã dạy “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

        Sau mỗi chiến công, dù không vang dội nhưng lại rất quan trọng đối với việc bảo vệ và củng cố vùng mới giải phóng, kịp thời huy động sức người, sức của cho trận quyết chiến cuối cùng, anh lại thấy như chính mình đang cùng những bước chân rầm rập của những binh đoàn hùng mạnh tiến nhanh về phía nam, tiến về Sài Gòn.

        Cùng với việc theo dõi hành trình của các binh đoàn đang dồn dập tiến về Nam, một vấn đề khác mà Bộ Tổng tham mưu quan tâm trong những ngày giữa tháng Tư này là vấn đề đạn cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn, nhất là đạn pháo xe tăng.

        Ngày 22, từ chiến trường miền Đông Nam Bộ, anh Dũng điện ra cho biết: Mấy ngày nay, đạn ở Đoàn 559 bắt đầu đến nơi. Anh cho kiểm tra lại thì thấy đạn xe tăng quá ít, mới chỉ được một cơ số, còn các loại đạn pháo khác tuy không nhiều nhưng đã có khoảng 3 cơ số, tạm đủ. Anh yêu cầu dùng máy bay đưa gấp vào Buôn Ma Thuột chừng một vạn viên đạn 100 ly cho xe tăng. Hậu cần Miền sẽ tổ chức đón nhận đưa tiếp cho B2.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:01:18 am

        Hôm sau, trong điện báo cáo Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương về dự kiến kế hoạch nổ súng trên các hướng, anh Dũng lại cho biết đang tập trung giải quyết khó khăn về đạn pháo, đạn cho xe tăng và xe cơ động cho các mũi đột kích để kịp thời gian mở màn chiến dịch.

        Thực ra ngoài này chúng tôi chưa nắm được thật chắc hành trình của từng đoàn xe chở từng loại hàng đưa vào chiến trường, nhất là xe đang phải đi với yêu cầu nhanh nhất, đến sớm nhất.

        Ngày 19 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu điện vào chiến trường báo đề các anh trong đó biết: đã cho 240 xe của Đoàn 559 chở 1,3 vạn viên đạn pháo 130 ly xuất phát ngày 17 tháng 4, cùng với 40 xe chở phụ tùng xe tăng và 150 xe khác của Tổng cục Hậu cần. Đạn cối 160 ly đã được huy động từ tất cả các kho ở miền Bắc để đưa vào và cũng đang trên đường đi.

        Trong điện đó, chúng tôi cũng đề nghị anh Dũng cho biết nhu cầu cụ thể theo thứ tự ưu tiên cần đưa vào, vì hiện nay phương tiện vận chuyển rất thiếu, trong khi khối lượng bộ đội hành quân và binh khí kỹ thuật rất lớn. Nếu thứ tự ưu tiên không xác định cụ thể để kịp thời điều chỉnh phương tiện vận chuyển, sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tác chiến.

        Ngày 22 tháng 4, sau khi nhận được điện của anh Dũng nói về đạn cho xe tăng, Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Hậu cần cho kiểm tra lại và trả lời ngay để các anh yên tâm: 8.300 viên được chở bằng ô tô, 2.300 viên sẽ tới Đồng Xoài ngày 26 tháng 4, số 6.000 viên còn lại tới ngày 28 tháng 4; 2.944 viên đưa bằng đường biển đến Quy Nhơn và Nha Trang trong hai ngày 23 và 24. Đoàn 559 đã chỉ thị chở tiếp vào B2. Dự kiến sẽ có thêm 2 vạn viên đến Nha Trang vào ngày 1 tháng 5. Các đoàn tàu và xe chở đạn cho xe tăng đã nhận chỉ thị đi gấp vào chiến trường càng sớm càng tốt.

        Hai cơ quan tham mưu và hậu cần đã cùng tính toán lại, thấy dùng máy bay chở được rất ít, trên thực tế cũng không nhanh hơn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cho máy bay chở trước một số đạn xe tăng vào Buôn Ma Thuột, vì cơ quan hậu cần Miền đã cho xe ra đón.

        Riêng ở hướng đông, được biết anh Tấn còn thiếu cả đạn 130 ly, đạn 100 ly cho xe tăng, đạn Đ74 và đạn 85 ly, mỗi loại chừng 4.000 viên. Bộ Tổng tham mưu báo cho anh Tấn biết: Số đạn đó ngày 24 tháng 4 đã có ở Quy Nhơn và Nha Trang. Anh Đồng Sĩ Nguyên đã được chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh cho chuyển ngay vào giao cho cánh quân hướng Đông.

        Trên hướng tiến công của cánh quân này, Thành Tuy Hạ là một kho đạn lớn của địch. Chúng để ở đó nhiều đạn pháo 105 và 155 ly. Đặc công và pháo binh đã nhận được chỉ thị: Chỉ phá những kho thật cần thiết theo yêu cầu tác chiến, để khi đánh chiếm, quân ta có thể tận dụng đạn chiến lợi phẩm sử dụng ngay trong quá trình chiến đấu. Bộ Tổng tham mưu đã thông báo tình hình trên đây để anh Tấn nghiên cứu khi tổ chức trận địa pháo ở Nhơn Trạch khống chế sân bay Tân Sơn Nhất, cũng như trong quá trình phát triển, bắn vào các mục tiêu đã định trong nội thành.

        Càng về cuối tháng Tư, việc theo dõi và đôn đốc các chuyến hàng vào mặt trận Sài gòn càng sát sao, khẩn trương. Anh Đồng sĩ Nguyên, anh Phùng Thế Tài luôn luôn kiểm tra và nhắc nhở để các trạm điều chỉnh giao thông trên đường vận chuyển chiến lược nắm được nhu cầu của chiến trường. Hàng vận chuyển được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên: Đạn lớn 130, 100, Đ74, ĐKZ75, ĐKZ82, đạn cối 120, đạn pháo 85, 122, xăng dầu - trước hết là dầu mỡ phụ.

        Số vũ khí ở Tây Nguyên (kể cả số chiến lợi phẩm) đã được đưa vào hơn 1,5 vạn tấn. Các đồng chí lãnh đạo các quân khu từ Trị - Thiên đến Khu 5, Khu 6 đều quan tâm đôn đốc việc đưa gấp đạn lớn vào chiến trường trọng điểm. Các phương tiện vận chuyển có thể huy động được đều tập trung để chuyển nhanh số đạn ở Cam Lộ (Trị - Thiên) vào. Các trục đường chính, đường 1, 19, 14 và đường biển đều được tiện dụng để nhanh chóng đưa hàng vào Quy Nhơn, Nha Trang.

        Tất cả guồng máy vận tải chuyển động liên tiếp, dồn dập, từ Bắc đến Nam, trên các trục đường, đi về một hướng: chiến trường trọng điểm Sài Gòn.

        Lọt thỏm trong đội hình khổng lồ của hàng vạn chiếc xe rải ra trên hàng ngàn ki-lô-mét là hai chiếc xe chở bản đồ, xuất phát từ Hà Nội ngày 10 tháng 4. Một sự kiện từ hồi Điện Biên Phủ lại tái diễn: Bản đồ “hành quân” cấp tốc ra chiến trường cho kịp ngày mở màn chiến dịch. Bộ Tổng tham mưu điện báo để cơ quan tham mưu mặt trận theo dõi hành trình của hai chiếc xe đặc biệt này. Thực ra ngày 14 tháng 4, khi điện cho anh Lê Ngọc Hiền, chúng tôi cũng chưa nắm vững hai chiếc xe đó đã đi đến đâu. Khi ra đi, chỉ dặn anh em đến đâu, nhờ đài tại chỗ báo vào để các anh trong đó nắm được. Ngày 20 tháng 4, xe chở bản đồ phải đến Đồng Xoài.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:02:51 am

        Một vấn đề quan trọng khác mà Bộ Tổng tham mưu đang tập trung nghiên cứu để đề đạt với Quân uỷ Trung ương là cách đánh trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

        Ngày 12 tháng 4, sau khi được bổ sung một số cán bộ, Tổ trung tâm ( Tổ được thành lập từ tháng 3 năm 1974 để giúp Quân uỷ Trung ương nghiên cứu kế hoạch tác chiến chiến lược. Nay bổ sung một số cán bộ thuộc các cục Tác chiến Tình báo, Quân lực, Tham mưu Hậu cần, Viện Khoa học quân sự, một số binh chủng, quân chủng... để giúp nghiên cứu và đề đạt về cách đánh trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Tổ do anh Cao Văn Khánh, Phó Tổng tham mưu trưởng phụ trách) họp để triển khai công tác. Hai anh Nguyễn Văn Xuyến, Phó Tư lệnh B2, Trần Hải Phụng, Tư lệnh Mặt trận Sài Gòn trước đây, hiện đang nghỉ ở ngoài Bắc đã góp phần tích cực vào việc nghiên cứu của tổ. Là những người hoạt động lâu trong đó, các anh đã giúp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng.

        Lúc này trận Xuân Lộc đang tiếp diễn. Nhiệm vụ đề ra cho tổ là căn cứ tình hình cụ thể về địch, về ta, nghiên cứu và đề đạt phương án tác chiến theo hai tình huống: 1) Chiến dịch giải phóng Sài Gòn diễn ra nhanh. 2) Chiến dịch phải kéo dài sang cả mùa mưa.

        Ngày 13 tháng 4, tổ nghe báo cáo về tình hình địch ở Sài gòn và vùng ven, do anh Phụng trình bày. Anh biết khá tường tận về cái sào huyệt cuối cùng này của Ngụy. Bản báo cáo này giúp cho tổ và cho cả chúng tôi những hiểu biết cụ thể về địch, từ lực lượng, cách bố phòng đến cấu trúc của những công sự quan trọng sẽ là mục tiêu tiến công chủ yếu của ta trên từng hướng.

        Tiếp đó Tổ trung tâm trao đổi cụ thể kế hoạch tác chiến và thảo luận sôi nổi xung quanh mấy ý kiến đã được gợi ra, về các vấn đề:

        - Quyết tâm nhanh chóng hình thành thế bao vây, chia cắt địch cả về chiến lược và chiến dịch.

        - Khả năng tiêu diệt địch ở vòng ngoài, không cho chúng co cụm vào nội đô.

        - Trận then chốt, tiêu diệt lực lượng cơ động của địch.

        - Khống chế sông Lòng Tàu và kênh Chợ Gạo, các sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất.

        - Sử dụng máy bay địch đánh các mục tiêu trong đất liền và chặn đường rút chạy của chúng hướng ra biển, ra đảo.

        Ngày 16 tháng 4, sau khi tổng hợp ý kiến thảo luận, anh Khánh báo cáo với Thường trực Quân uỷ Trung ương một số ý kiến được đặt ra để anh em nghiên cứu tiếp:

        - Khả năng tan rã của địch; Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này có diễn ra như từ Tây Nguyên đến Đà Nắng không?

        - Biện pháp đối phó của địch khi phát hiện lực lượng ta xung quanh Sài gòn, nhất là trên hướng đông? Và khả năng hoạt động cảu không quân địch khi Biên Hoà và Tân Sơn Nhất bị khống chế mạnh?

        - Chớp thời cơ thế nào khi Mỹ bỏ cuộc hoặc thay Thiệu?

        - Cách giải quyết tuyến phòng thủ vòng ngoài, áp sát nội đô, dồn địch vào thế rã nhanh, hàng nhanh?

        - Phương án tác chiến trong mùa mưa, nếu không dứt điểm được nhanh?

        Thêm nhiều tin tức giúp cho việc nghiên cứu và rút ra kết luận thuận lợi hơn: lời tuyên bố của Pho cho thấy Mỹ sẽ phải bỏ cuộc; lực lượng dự bị chiến lược của Thiệu đã tung ra hết. Không quân địch còn 3 sư đoàn, nhưng khả năng hoạt động sẽ rất hạn chế nếu các sân bay Biên Hoà và Tân Sơn Nhất bị khống chế mạnh, v.v... Ngày 17 tháng 4, tôi cùng anh Khánh dự thảo luận luận với các anh em. Đây là buổi thảo luận cuối cùng của tổ. Tấm bản đồ Nam Bộ treo trên tường đã được ghi những tin tức mới nhất. Nhìn trên bản đồ, anh em trong tổ nhanh chóng nhất trí đi đến kết luận về thế bố trí của địch trên từng hướng. Hướng đông và tây – tây bắc là những hướng địch mạnh. Hướng tây và tây nam yếu hơn. Vòng ngoài địch mạnh, trong nội đô yếu hơn. Vùng 4 địch sơ hở, vì chủ lực đã bị điều về giữ Cần Thơ và rải ra giữ các thị xã lớn và đường 4; vùng nông thôn chỉ còn bảo an, đây là thời cơ quần chúng bung ra, tự lực giải phóng bằng kết hợp tiến công và nổi dậy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:04:08 am

        Cuối buổi thảo luận, chúng tôi đi đến nhất trí rút ra mấy kết luận về kết quả nghiên cứu của tổ, để báo cáo và đề đạt lên Thường trực Quân uỷ Trung ương:

        1. Về thế bố trí của địch: Đặc điểm nổi lên trong cách phòng thủ của quân Ngụy là ngoài mạnh, trong rỗng. Chúng dồn cả chủ lực ra vành ngoài, hòng đối phó với các binh đoàn chủ lực của ta. Song, bên ngoài, địch đã bị áp sát và bao vây trên các hướng. Bên trong, cách phòng thủ của địch là gắn ven đô với nội đô. Nhưng nội đô đã nằm trong tầm pháo của ta, ta lại đã có lực lượng ngầm sẵn sàng hành động. Địch ở vào thế bị ta có thể phối hợp trong ngoài cùng đánh. Nếu bên ngoài, chủ lực địch bị diệt và tan ra, bên trong bị quần chúng nổi dậy ở cơ sở thì địch sẽ hoảng loạn như đã từng diễn ra ở Đà Năng. Mỹ sẽ rút chạy, bỏ rơi Ngụy. Ta có khả năng nhanh chóng làm chủ thành phố.

        2. Về xác định hướng tiến công: Hướng đông bắc là hướng chủ yếu; hướng bắc (Bình Dương) và hướng tây là các hướng rất quan trọng; hướng đông nam là hướng thọc sâu bất ngờ; hướng nam là hướng rất hiểm yếu.

        3. Về cách đánh: Kết hợp tiến công và nổi dậy, đánh từ ngoài bằng lực lượng đột kích mạnh, phối hợp với lực lượng bên trong; kết hợp nhiều mũi, có trọng điểm; trước hết phải bao vây, chia cắt, tiêu diệt và làm tan rã các cụm phòng thủ bên ngoài của địch, không cho chúng co cụm về ven đô và nội đô. Nếu tuyến ngoài đánh không tốt, tác chiến ở ven đô và nội đô sẽ khó khăn, kéo dài.

        4. Một số vấn đề cụ thể cần giải quyết để thực hiện cách đánh trên đây:

        - Đôn đốc các cánh quân vào vị trí tập kết (cố gắng trong khoảng từ ngày 20 đến 23 tháng 4 đến đủ), để kịp mở màn chiến dịch nhất là ở hướng bắc, tây bắc và tây nam.

        - Cánh quân hướng đông đánh chiếm Bà Rịa phát triển xuống Vũng Tàu, chiếm Long Thành phát triển xuống Nhơn Trạch, đặt trận địa pháo ở đây bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất.

        - Quân đoàn 4 sẵn sàng đánh địch rút khỏi Xuân Lộc, tiêu diệt và làm tan rã Sư đoàn 18 Ngụy.

        - Đoàn 232 tiếp tục cắt đường 4 trên các đoạn trọng điểm theo kế hoạch.

        - Các hướng nhanh chóng áp sát các mục tiêu, dùng pháo bắn vào sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu Ngụy; hướng Khu 9 phối hợp khống chế sân bay Cần thơ, không cho địch dùng để chi viện cho Sài Gòn.

        - Chuẩn bị chu đáo, hình thành thế bao vây chia cắt, tạo điều kiện thuận lợi tiêu diệt và làm tan rã chủ lực địch ở tuyến ngoài và tuyến trung gian, làm cho địch không kịp co cụm. Trong vùng trung tuyến (Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát, Lái Thiêu) khi bộ đội chủ lực tiến công, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy không quá sớm.

        - Trong quá trình tiến công của bộ đội chủ lực, lực lượng đặc công phải chiếm cầu và giữ cầu, tạo điều kiện cho các hướng thọc nhanh vào nội đô. Đặc biệt chú trọng đánh chiếm và chốt giữ cầu Mới, cầu Ghềnh, cầu xa lộ sông Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu xa lộ sông Sài Gòn, cầu Bình Phước, Bình Lợi, Bình Triệu ở hướng đông bắc và bắc, cầu Bông, cầu Xáng trên hướng bắc và tây bắc.

        - Các mũi đột kích tên các hướng có bộ binh cơ giới, tận dụng sơ hở của đich, nhanh chóng thọc sâu vào nội đô. Các đơn vị vũ trang ngầm bên trong dùng các tổ nhỏ đẩy mạnh hoạt động phá rối phía sau địch, kết hợp với hoạt động binh vận của các gia đình binh sỹ, gây tâm lý hoang mang, làm tan rã lớn hàng ngũ địch.

        5. Nếu chiến dịch kéo dài sang mùa mưa, ta vẫn duy trì đà tiếp tục tiến công; cần chuẩn bị tốt mấy mặt công tác sau đây:

        - Đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng, động viên giữ vững quyết tâm chiến đấu liên tục.

        - Chuẩn bị lực lượng bổ sung, thay thế trong đó chú trọng phương tiện tác chiến mùa mưa trong điều kiện địa hình vùng Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ.

        - Bảo vệ các tuyến đường vận chuyển chiến lược, chiến dịch, phòng chống địch phá hoại và khắc phục thời tiết mùa mưa.

        - Tăng cường lực lượng đẩy mạnh tiến công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long, phối hợp thường xuyên và có hiệu quả với hướng chính Sài Gòn.

        - Nghiên cứu những vấn đề cụ thể về cách đánh trong mùa mưa, về quy mô lực lượng trên từng hướng v.v...

        Sau khi anh em bổ sung, chỉnh lý, đến ngày 18 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng xong bản đề án để bảo cáo đồng chí Tổng tư lệnh. Được anh Văn đồng ý, anh Khánh cử người vào trao đổi với cơ quan tham mưu tác chiến của mặt trận. Tôi nhắc anh em: Đây chỉ là những ý kiến bước đầu để các anh trong đó tham khảo vận dụng; có thể điều này phù hợp, điều khác không phù hợp; có gì cần thiết, cơ quan tham mưu trong đó đề xuất thêm để cùng nhau nghiên cứu tiếp.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:06:14 am

        Ngoài việc nghiên cứu thêm về khả năng và phương thức nổi dậy, chúng tôi lưu ý anh em trong tổ theo dõi chặt chẽ các biện pháp đối phó của ngụy và động tĩnh của bọn Mỹ để kịp thời thông báo cho chiến trường. Chiến tranh là một hiện tượng quân sự - chính trị - xã hội cực kỳ phức tạp, không ngừng biến động và luôn luôn đứng trước nhiều khả năng, từ lúc khởi đầu đến khi kết thúc.

        Cơ quan tham mưu chiến lược bao giờ cũng phải tính toán mọi mặt, dự phòng mọi tình huống kể cả tình huống thuận lợi nhất cũng như tình huống khó khăn nhất, để bất luận trong tỉnh hình nào cũng luôn luôn chủ động.

        Sau khi ta chuyển hướng về cách đánh ở Xuân Lộc, Bộ Tổng tham mưu nhận được tin địch điều chỉnh bố trí đội hình, co cụm để đối phó với ta. Chúng cố giữ đường 4 của ta tiến về Bà Rịa – Vũng Tàu thì chúng sẽ phải tăng thêm lực lượng để bảo vệ đường rút quân của chúng trên hướng này. Vì vậy cánh Đông càng cần đẩy nhanh tốc độ hơn nữa.

        Mới hai lần ta dùng pháo 130 ly đánh vào sân bay Biên Hoà đã khiến cho địch rất lúng túng. Rõ ràng, nếu sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất và Cần thơ đều bị khống chế mạnh và tê liệt hoàn toàn thì địch sẽ lâm vào tình thế rất khó khăn, tình hình sẽ diễn biến rất nhanh, tinh thần và khả năng chiến đấu của địch càng giảm sút nhanh hơn nữa.

        Tin tức nhận được cho thấy khả năng Mỹ và các sứ quán nước ngoài chuẩn bị chạy khỏi Sài Gòn vào khoảng từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 4 năm 1975. Chúng tôi dự kiến lúc đó Sài Gòn sẽ rất lộn xộn, thậm chí hỗn loạn. song cần theo dõi ý đồ của Mỹ, Pho và Kit-xinh-giơ có khả năng mượn cớ di tản để đề nghị quốc hội Mỹ viện trợ quân sự cho ngụy núp dưới danh nghĩa “viện trợ nhân đạo” không?

        Nhưng tình cảnh của Ngụy đã rất nguy kịch. Ngay ở Sài Gòn, lực lượng cơ động của chúng không còn đáng kể, chỉ còn 2 lữ dù xộc xệch. Nhiều máy bay đã phải đưa từ Biên Hoà về Tân Sơn Nhất và Cần Thơ. Sự điều động binh lực của ngụy rất lúng túng. Trong khi đó, từ ngày 15, Mỹ rục rịch di tản khỏi Phnôm Pênh sau khi quyết định bỏ rơi bọn ngụy Lon Non, Cam-pu-chia.

        Thực tế đó cho phép suy nghĩ đến những biến động chính trị có thể xảy ra ngay trong trung tâm Sài Gòn. Thực tế đó cũng đòi hỏi ta phải hoàn chỉnh công tác chuẩn bị với nhịp độ khẩn trương hơn, sẵn sàng hành động ngay khi thời cơ mới xuất hiện.

        Ngày 20 tháng 4, tin người Mỹ bắt đầu di tản khỏi Sài Gòn đã được xác minh. Đêm đó, địch rút chạy khỏi Xuân Lộc. Hôm sau, ngày 21 tháng 4, Thiệu từ chức; dân Biên Hoà bắt đầu sơ tán.

        Thêm những bức điện đôn đốc các hướng đẩy nhanh hơn nữ tốc độ tiến quân, nhất là hướng đông. Chúng tôi chờ đợi tin cánh quân hướng Đông đánh chiếm Bà Rịa – Vũng Tàu, cắt đường rút của địch, dùng pháo khống chế sông Lòng Tàu và chuẩn bị đánh Biên Hoà theo kế hoạch chung. Sau cuộc hội ý của Bộ Chính trị sáng ngày 22 tháng 4, một bức điện của Bộ Chính trị do anh Ba ký được chuyển gấp vào cho các anh trong chiến trường. Bức điện nhắc lại việc địch bỏ Xuân Lộc, việc Thiệu từ chức, rồi khẳng định: Tình hình nói trên đang gây rối loạn lớn trong nội bộ ngụy. Phong trào nhân dân có thể có bước phát triển mới: Mỹ - Ngụy đang tìm cách trì hoãn cuộc tiến công của ta vào Sài gòn, lập ra chính phủ mới và đưa ra đề nghị với ta (qua Chính phủ Lào) về ngừng bắn với hy vọng đi đến một giải pháp chính trị hòng cứu vớt tình thế nguy khốn, tránh bị thất bại hoàn toàn. Thời cơ quân sự và chính trị để mở màn cuộc tổng tiến công vào Sài gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, từng giờ kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không để chậm. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn.

        Bộ Chính trị nhấn mạnh:

        “Các anh ra chỉ thị ngay cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng. Sự hiệp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động, v.v..”.

        Cùng ngày 22 tháng 4, tiếp theo điện của Bộ Chính trị là điện của Quân uỷ Trung ương, nói rõ thêm mấy điểm đã bàn trong Thường trực Quân uỷ và trong cuộc họp vừa qua của Bộ Chính trị.

        Sau khi nêu lên những phán đoán về âm mưu địch phòng thủ trên hai địa bàn chiến lược còn lại là Sài Gòn – Gia Định và đồng bằng sông Cửu Long, bức điện khẳng định thời cơ chiến lược đã đến, phải kịp thời thực hiện chủ trương tổng tiến công và nổi dậy, tranh thủ từng ngày, từng giờ giành thắng lợi liên tiếp.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:08:17 am

        Quân uỷ Trung ương cũng nêu một số ý kiến về đặc điểm tình hình địch, ta, nhiệm vụ và yêu cầu hành động của từng hướng. Tinh thần chung là hết sức phát huy tính chủ động, tranh thủ thời gian tiêu diệt địch, áp sát mục tiêu và sẵn sàng phát triển tiến công vào nội đô trên hướng sơ hở nhất của địch, có lợi nhất cho ta. Các lực lượng đặc công và biệt động của ta ở nội đô phải kịp thời tiêu diệt các mục tiêu quan trọng và hiểm yếu đã được xác định. Phải nắm chắc tình hình chính trị và quân sự, kịp thời chỉ đạo quần chúng nổi dậy đúng lúc. Riêng ở hướng tây nam và đường 4, cần có kế hoạch chỉ đạo cụ thể giúp các đơn vị khắc phục khó khăn thực hiện cho được mấy nhiệm vụ cụ thể:

        - Các đơn vị có nhiệm vụ tiến công vào nội đô phải nắm chắc tình hình, tích cực tạo mọi điều kiện, sẵn sàng tiến công vào nội đô.

        - Tập trung lực lượng, chọn một đoạn tương đối thuận lợi trên đường từ phía Tân An đến Cai Lậy để bộ đội ta tiêu diệt một số vị trí của đich, thực hiện cho được chia cắt chiến lược, khống chế vững chắc, buộc địch phải đối phó; đồng thời sẵn sàng ngăn chặn, tiêu diệt địch khi chúng rút quân từ Sài Gòn về Cần Thơ.

        Bộ Tổng tham mưu tiếp tục theo dõi và nghiên cứu các biện pháp đối phó của địch để đề đạt ý kiến bổ sung về cách đánh.

        Lời khai của viên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị bắt ngày 16 tháng 4 ở Phan Rang, đáng cho chúng ta chú ý. Cục Tình báo đã khai thác được những tin tức khá quan trọng. Chúng tôi điện những nội dung chủ yếu lời khai của Nguyễn Vĩnh Nghi có liên quan đến cách đánh sắp tới của ta, đồng thời cho người mang gấp băng ghi âm lời khai vào chiến trường để các anh trong đó tham khảo.

        Nguyễn Vĩnh Nghi không rõ toàn bộ lực lượng trên các hướng của ta mà chỉ biết lực lượng B2. Theo y thì Bộ Tổng tham mưu Ngụy phán đoán  ta có thể đánh vào Sài Gòn trên hai hướng: Theo đường 1 từ phía bắc xuống, từ phía đông sang và theo đường 13 từ phía bắc, đông bắc xuống.

        Địch giữ Sài Gòn bằng cách phòng thủ từ xa, theo vòng cung từ Gò Dầu Hạ, Lai Khê, Biên Hoà, Xuân Lộc. Mỗi hướng một sư đoàn. Trường hợp Sài Gòn bị tiến công địch sẽ rút 3 sư đoàn của Vùng 4 chiến thuật về Cần Thơ: 1 sư đoàn lấy việc giữ sân bay làm trọng điểm, trong vòng bán kính 12 ki-lô-mét, 1 sư đoàn án ngữ dọc đường 4 từ Vĩnh Long đến Cai Lậy; 1 sư đoàn từ Cai Lậy đến Tân An. Địch cho rằng có giữ được đoạn đường này mới bảo đảm giữ được Sài Gòn và ngược lại, có giữ được Sài Gòn mới giữ được Vùng 4.

        Theo Nguyễn Vĩnh Nghi thì chưa bao giờ địch có ý định bỏ Sài Gòn rút về Vùng 4, vì vùng này chưa được chuẩn bị cơ sở tiếp tế và hậu cần.

        Nghi khai rằng trong nội đô Sài Gòn, lực lượng chủ yếu của địch là cảnh sát và phòng vệ dân sự. Trừ các trọng điểm, trong thành phố không có tổ chức phòng thủ. Hắn cho rằng ta không nên trực tiếp đánh vào Sài Gòn mà chỉ cần chiếm các sân bay và tiêu diệt các lực lượng phòng thủ vòng ngoài thì địch trong thành phố sẽ rã. Nếu có đánh vào trong thì chủ yếu là đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu và quân dù ở trại Hoàng Hoa Thám.

        Hướng hiểm yếu nhất, theo Nguyễn Vĩnh Nghi, là tiến công từ phía Gò Dầu Hạ - Trảng Bàng. Trên hướng đông, địch có khả năng phá các cầu quan trọng để ngăn chặn ta.

        Về kho tàng, Nghi cho rằng các kho chủ yếu là Nhà Bè và Cát Lái. Cát Lái là kho đạn chính của địch hiện nay. Long Bình chỉ là kho tiếp liệu, có đánh cũng ít tác dụng.

        Hiện nay địch chủ yếu vào lực lượng không quân, vì lực lượng phòng thủ bị căng mỏng, lực lượng dự bị còn ít. Do đó, sự tồn tại của 3 sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ là hết sức quan trọng đối với chúng, trong đó sân bay Biên Hoà đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Đay là nơi sửa chữa các loại máy bay F 5 và A3. Các sân bay Tân Sơn Nhất và Cần Thơ không có thiết bị kỹ thuật để sửa chữ hai loại máy bay này. Vừa qua, địch phải sơ tán một số, song về cơ bản địch vẫn phải để F5 và A37 trong các hầm ở sân bay Biên Hoà.

        Nguyễn Vĩnh Nghi đã nói lên những hiểu biết và suy nghĩ của y. Nhưng do y không thể nào hiểu nổi bản chất và nghệ thuật quân sự của quân đội cách mạng chúng ta, cho nên rõ ràng những ý kiến của y không thể phù hợp với cách đánh của ta.

        Mấy ngày cuối tháng Tư, cơ quan tham mưu đang tổng hợp tình hinh, chuẩn bị cho cuộc họp ngày 26 của Bộ Chính trị thì nhận được điện đề ngày 25 tháng 4 của anh Thọ gửi anh Ba. Bức điện dài 10 trang đánh máy mang đầy đủ tình hình mọi mặt của chiến trường B2 trong cả mấy tuần qua. Bức điện cho chúng tôi hiểu rõ hơn, đúng tình hình cả về ta và về địch từ những ngày đầu đánh Xuân Lộc đến lúc bấy giờ, trước ngày mở màn trận quyết chiến cuối cùng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:09:41 am

        Anh Thọ nhất trí với nhận định của Bộ Chính trị trong cuộc họp ngày 22 tháng 4 nói rằng thời cơ đã chín muồi, ta phải tranh thủ từng giờ để mở cuộc tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch. Để lâu, không những tình hình chính trị ngoại giao càng thêm phức tạp mà những trận mưa đầu mùa đã sắp đến. Nhưng anh cho biết tình hình tại chỗ có những khó khăn cụ thể, khiến ta có muốn làm ngay cũng không thể được.

        Trước hết là tình hình hành quân tập kết của các binh đoàn: đến khoảng 24 tháng 4 hầu hết 10 sư đoàn đưa vào chiến trường mới vừa đến nơi, đang ổn định tổ chức, nơi ăn ở và nghiên cứu chiến trường, một chiến trường (nhất là nội đô) chưa quen thuộc với nhiều cán bộ chỉ huy. Đơn vị nào cũng thấy rất thiếu thời gian.

        Các binh đoàn cơ động chiến lược, với gần 10 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng kỹ thuật, đã từ miền Bắc vào miền Trung chạy đua với thời gian, hành quân “thần tốc” vào chiến trường. Cánh quân hướng Đông đã vượt qua mọi khó khăn, đánh địch mà đi, mở đường mà tiến và đã cùng các binh đoàn trên các hướng khác kịp thời vào vị trí tập kết đúng thời gian quy định, hình thành những quả đấm với sức mạnh áp đảo từng hướng trước ngày mở màn chiến dịch.

        Hậu cần chiến lược và hậu cần Miền, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh Đinh Đức Thiện và anh Bùi Phùng, đã sắp xếp tổ chức, điều chỉnh lực lượng, hình thành 5 đoàn đảm nhiệm phục vụ chiến đấu trên 5 hướng. Các tuyến đường vận chuyển chiến dịch với chiều dài gần 1.800 ki-lô-mét đã được củng cố và mở rộng, hướng về vị trí tập kết của các cánh quân. Mọi phương tiện vận tải đã được huy động, cùng với trên 6,3 vạn dân công hoả tuyến trực tiếp vận chuyển vật chất hậu cần và phục vụ việc cơ động lực lượng chiến đấu. Đến ngày quy định (ngày 25 tháng 4 năm 1975) mọi công tác chuẩn bị bảo đảm vật chất kỹ thuật cho chiến dịch đã hoàn thành. Với 10 vạn tấn hàng các loại mới đưa từ hậu phương lớn vào, và trên 6 vạn tấn dự trữ từ trước, khối lượng vật chất chất chuẩn bị đã vượt yêu cầu của kế hoạch chiến dịch, kể cả một phần chuẩn bị cho trường hợp kéo dài sang mùa mưa.

        Thế là đến lúc này, sáng ngày 26 tháng 4, mọi công tác chuẩn bị trên chiến trường trọng điểm đã hoàn thành. Cánh quân hướng Đông được bắt đầu nổ súng trước. Các binh đoàn trên tất cả các hướng đều đã sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, của cả  30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, với sức mạnh lớn nhất và khí thế hào hùng nhất.

        Về hậu cần, vì số đơn vị tăng vọt, chiến trường lại xa, đường dài, phương tiện vận chuyển thiếu, nên dù đã cố gắng rất lớn, hậu cần của Trung ương cũng như của chiến trường vẫn đứng trước nhiều khó khăn, nhất là về đạn dược.

        Mặc dù đã cùng nhau xác định không được cầu toàn, vừa đánh vừa bổ sung, nhưng cũng phải bảo đảm những điều kiện tối thiểu để mở màn chiến dịch, đánh thắng giòn giã.

        Hiện nay địch chưa phán đoán được cách đánh của ta, ta sẽ dùng lối vây ép, tiêu diệt chúng ở vòng ngoài, lấn dần rồi mới đột kích hay dùng lối đánh thẳng ngay vào bên trong?

        Cách bố trí hiện nay của địch là nhằm ngăn chặn ta từ xa, nhất là ở hướng bắc và tây bắc. Địch đã có kế hoạch phá cầu nếu chúng thấy không giữ nổi. Môt trong những nỗi lo ngại nhất của bộ đội ta bây giờ là nếu địch phá được cầu thì trở ngại lớn cho việc tiến quân của các binh chủng kỹ thuật. Ta đã có kế hoạch đánh chiếm cầu, giữ cầu và có cả kế hoạch làm cầu khác hoặc đánh trong điều kiện không có xe tăng và pháo binh vì không vượt được sông.

        Anh Lê Đức Thọ cũng nói về kế hoạch kết hợp tiến công và nổi dậy và đã chuẩn bị những gì để thực hiện được sự kết hợp đó. Các anh đã kiểm tra và góp ý vào kế hoạch của các khu và tỉnh. Anh Võ Văn Kiệt đã xuống vùng đồng bằng để đôn đốc việc này. Các anh trong đó cũng tin rằng khi ta tiến công vào trọng điểm Sài Gòn, địch bị thất bại thì lực lượng của chúng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ tan rã và các địa phương sẽ có điều kiện nổi dậy. Ở mặt trận trọng điểm Sài gòn, các anh trong đó dự kiến có thể địch co cụm về hướng bắc và tây bắc, về sát Sài Gòn hơn nữa và đã thảo luận với các quân đoàn đánh địch như thế nào khi chúng co cụm.

        Bức điện của anh Thọ còn cho biết vì sao vừa qua bộ đội Miền không thực hiện được tốt chủ trương của Trung ương Cục là tranh thủ thời cơ thuận lợi cuối tháng 3, không đợi chủ lực ở ngoài vào, chủ động mở ra ba hướng hoạt động ở Xuân Lộc, đường 4 và ở hướng tây nam sát Sài Gòn. Nguyên nhân hoặc là do tổ chức đánh và cách đánh chưa tốt, hoặc do lực lượng không đủ, hậu cần khó khăn vì quá xa, v.v...

        Trở lại tình hình chuẩn bị diễn ra hết sức khẩn trương cho chiến trường trọng điểm Sài Gòn, điện của anh Thọ khẳng định:

        “Các anh yên tâm, chúng tôi hết sức tranh thủ từng ngày, từng giờ và chỉ trong vài hôm nữa, một số nhược điểm trên cơ bản được khắc phục, thì bắt đầu tiến hành (mở màn chiến dịch) ngay như đã định”.

        Bức điện đã được đọc trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 26 tháng 4. Hội nghị nhất trí với nhận định và chủ trương của các đồng chí lãnh đạo ở chiến trường. Phân tích tình hình chính trị hiện nay  ở Sài Gòn, Bộ Chính trị dự kiến Mỹ có thể đưa Dương Văn Minh lên, nên đã quyết định ra lời tuyên bố của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam để giành chủ động về chính trị. Sau cuộc họp, Bộ Chính trị điện ngay vào chiến trường, nhấn mạnh: “Bộ Chính trị nhận thấy chúng ta cần hành động hết sức mạnh bạo, hết sức khẩn trương và kịp thời, nhất là trong tình hình hiện nay”.

        Dựa vào tin tức mới nhất nhận được sau bức điện của anh Thọ, Bộ Tổng tham mưu soát xét lại toàn bộ công tác chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước đã dốc sức chuẩn bị cho chiến trường trọng điểm với tinh thần “thần tốc, thần tốc hơn nữa”.

        Trên chiến trường, trong tác chiến tạo thế cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta đã đánh thiệt hại nặng một bộ phận lực lượng chủ chốt địch, đã mở ra địa bàn Xuân Lộc và Long Khánh, kéo thêm lực lượng Quân đoàn 3 Ngụy về hướng đông, tạo thêm sơ hở ở hướng bắc và tây bắc. Ở hướng tây nam, ta đã áp sát đường 4 và đưa lực lượng xuống đứng vững ở nam Long An, hình thành một hướng lợi hại từ phía Nam thọc lên Sài gòn. Các lực lượng vùng ven đã bám trụ vững chắc trên địa bàn. Chiến trường đồng bằng sông Cửu Long đã chuyển lên thế mới, kìm giữ lực lượng địch, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho hướng chính – Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:12:45 am

TRẬN QUYẾT CHIẾN CUỐI CÙNG

        Sau buổi họp giao ban sàng ngày 27 tháng , chúng tôi tổ chức cuộc hội nghị cán bộ trong phòng họp của Cục Tác chiến. Ngoài số cán bộ tham mưu có trách nhiệm giúp Quân uỷ Trung ương theo dõi chiến dịch, chúng tôi nghĩ rằng hôm đó là ngày chủ nhật. Nét mặt hân hoan của mọi người cho thấy nỗi lo lắng trong những ngày chuẩn bị chiến dịch đã qua. Bộ đội trên các hướng đã sẵn sàng. Chiều hôm trước, cánh quân hướng Đông đã nổ súng. Đương tiếp cận nội đô từ hướng xa hơn các hướng khác, Quân uỷ đã chấp nhận đề nghị của anh Tấn và Bộ tư lệnh chiến dịch, cho bộ đội hướng này nổ súng trước.

        Sau khi bàn, anh Khánh và tôi thấy cần có cuộc họp chung hôm nay để phổ biến những vấn đề liên quan đến chiến dịch mà anh em cần nắm vững để theo dõi và giúp trên chỉ đạo.

        Mở đầu cuộc họp, anh Khánh chính thức thông báo: Ngày 13 tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch thể theo nguyện vọng của cán bộ, chiến sỹ trên chiến trường nhất trí gửi điện đề nghị Bộ Chính trị cho được đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hôm sau, đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã thay mặt Bộ Chính trị điện trả lời, chấp nhận đề nghị của chiến trường. Anh Khánh vừa dứt lời, anh em vỗ tay hoan hô. Nét mặt mọi người rạng rỡ hẳn lên.

        Hơn 60 năm trước, Sài gòn là nơi Bác Hồ tạm biệt quê hương, bôn ba đi tìm đường cứu dân, cứu nước. Sài Gòn cũng đã từng được vinh dự mang tên thành phố Hồ Chí Minh từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Sài Gòn và cả miền Nam đã đi trước, về sau, trong suốt 30 năm kháng chiến lâu dài. Giờ đây, tên Bác gắn với một sự kiện lịch sử trọng đại sắp diễn ra, cho thấy tầm vóc to lớn của chiến dịch, tính triệt để và tất thắng của nó. Các chiến sỹ cháu con của Bác, vinh dự có mặt trong chiến dịch lịch sử mang tên Người, sẽ dũng mãnh xốc tới, đập tan sào huyệt cuối cùng của địch, giành thắng lợi lớn nhất, nhanh nhất. Tiếng vỗ tay vừa biểu thị lòng tin tất thắng, vừa chia sẻ vinh dự với các chiến sỹ ở phía trước.

        Cục Tình báo báo cáo những tin mới nhất về địch.

        Thái độ phải ngậm đắng nuốt cay ra đi của Mỹ đã rõ rệt. Nếu tuần trước, cả Tổng thống Pho và Ngoại trưởng Kit-xinh-giơ còn gây sức ép, đòi Quốc hội viện trợ bổ sung gấp cho Thiệu thì vừa qua, trước nguy cơ sụp đổ của Ngụy quyền Sài Gòn, họ đều buộc phải “lảng ra”. Sau lệnh di tản của Pho (ngày 18 tháng 4) là lời tuyên bố của Kit-xinh-giơ trong cuộc họp báo hôm sau, nói rằng: “Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam phát triển như thế nào là tuỳ thuộc vào bản thân người Nam Việt Nam; Mỹ sẵn sàng chấp nhận bất kỳ giải pháp nào do họ thông qua”. Cùng ngày, trong bức thư gửi cho Thiệu, Đại sứ Ma-tin nói: Không thể làm gì hơn là kéo dài sự tồn tại của Sài Gòn trong 1 – 2 tuần. Thành phố có thể rơi vào tay Bắc Việt và Việt cộng trong vòng mấy tuần nữa.

        Cùng với việc ra lệnh rút chạy khỏi Xuân Lộc là việc Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch di tản. Ba tàu sân bay Mỹ đến vùng biển Nam Việt Nam để thực hiện kế hoạch này.

        Được Mỹ bật đèn xanh, các tướng lĩnh Ngụy và các nhóm đối lập tăng sức ép, buộc Thiệu từ chức, trao quyền cho Trần Văn Hương. Nhưng chỉ hai ngày sau, nội các Nguyễn Bá Cần đệ đơn từ chức, khi lời tuyên bố của Tổng thống Pho bay tới Sài Gòn. Ngày 23, đọc diễn văn tại trường đại học ở Ô-li-ân, Pho nói: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc đối với Mỹ. Không thể giúp người Việt Nam (Ngụy Sài Gòn) được nữa. Họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang chờ đợi họ...”.

        Từ ngày 24, nhiều sứ quán phương Tây ở Sài Gòn đóng cửa. Các công ty hàng không quốc tế ở Tân Sơn Nhất ngừng hoạt động. Ngày 26, Trần Văn Hương yêu cầu “Quốc hội” trao quyền cho tướng Dương Văn Minh, gọi là để “thương lượng với Mặt trận”(!). Cùng ngày, Thiệu chuồn ra nước ngoài.

        Cuộc di tản người Mỹ và bọn tay sai “có chọn lọc” đang diễn ra khẩn trương.

        Có nhiều triệu chứng cho thấy Pháp muốn đứng ra “dàn xếp”, nhằm đạt tới một cuộc ngừng bắn và thương thuyết để chấm dứt chiến tranh. Pa-ri đã cử người đến Nam Việt Nam tìm cách liên lạc với Chính phủ cách mạng lâm thời ...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:14:48 am

        Sau khi nghe báo cáo của Cục Tình báo và dựa vào những nhận định cơ bản của Bộ Chính trị, tôi tóm tắt, rút ra mấy kết luận:

        1. Tiếp theo sự kiện ngày 17 tháng 4 ở Phnôm Pênh, thái độ Mỹ bỏ rơi bọn ngụy Sài Gòn là điều khẳng định.

        2. Cuộc khủng hoảng chính trị ở Sài Gòn đã sâu sắc đến cực độ, đây là tình hình mà Bộ Chính trị đã từng dự kiến.

        3. Cần theo dõi sát ý đồ của Pháp và nhất là của Trung Quốc trong những ngày chiến dịch diễn biến.

        Dựa vào hình thái địch, ta đã được ghi trên tấm bản đồ chiến sự treo trên tường, anh Cao Văn Khánh trình bày tình hình mọi mặt của Mặt trận Sài Gòn trước khi chiến dịch mở màn.

        Sau khi buộc phải rút khỏi Xuân Lộc, địch củng cố lực lượng, hình thành ba tuyến phòng thủ Sài Gòn.

        1. Ở tuyến ngoài, 5 sư đoàn ngụy giữ từ Long An đến Tây Ninh xuống Biên Hoà, Long Bình.

        2. Ở ngoại vi Sài Gòn, 2 Lữ dù và  liên đoàn biệt động quân bố trí trên bốn khu vực: Khu bắc, từ Hóc Môn, Cầu Bông vào đến Tân Sơn Nhất; khu tây, từ Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào; khu đông, từ Gò Vấp đến Quận 9; khu nam, từ Nhà Bè trở vào.

        3. Nội đô được tổ chức thành 5 liên khu, lực lượng chủ yếu là cảnh sát và phòng vệ dân sự.

        Đặc điểm bố trí phòng thủ của địch ở Sài Gòn và vùng chung quanh là ngoài mạnh, trong yếu. Chúng dồn các sư đoàn mạnh và binh khí kỹ thuật ra vòng ngoài hòng ngăn chặn và đẩy lui các mũi tiến công của ta. Lực lượng dù và biệt động quân ở tuyến ngoại vi Sài Gòn còn yếu vì đã bị tổn thất nặng, tổ chức xộc xệch, binh lực phân tán để đối phó trên nhiều hướng, dễ bị cô lập, bao vây, chia cắt. Nhìn vào thế chung, địch đang trong quá trình bị thiệt hại nặng, tan rã lớn, tinh thần và sức chiến đấu đã bị sa sút nghiêm trọng. Nhưng trên chiến trường Nam Bộ và riêng trên Mặt trận Sài Gòn – Gia Định, hai Quân đoàn 3 và 4 Ngụy chưa bị đánh đau nên chưa bị hỗn loạn, tan rã. Cần dự kiến chúng còn có khả năng ngoan cố chống cự hòng kéo dài đến mùa mưa.

        Về phía ta, trước hết anh Khánh giới thiệu tóm tắt đội hình các binh đoàn chủ lực đã triển khai trên các hướng.

        Trên hướng tây bắc, hướng tiến công chủ yếu, từ ngày 25, Quân đoàn 3 đã chuyển các sư đoàn và binh khí kỹ thuật sang phía tây sông Sài Gòn. Trên hướng bắc, Quân đoàn 1 đã triển khai xong lực lượng ở nam Sông Bé. Trên hướng đông từ trưa ngày 26, Quân đoàn 2 đã hoàn thành chiếm lĩnh trận địa. Quân đoàn 4, sau khi giải phóng Xuân Lộc, đã khẩn trương triển khai đội hình chiến đấu ở nam, bắc đường số 1. Ở hướng tây và tây nam, mặc dù gặp khó khăn trong việc đưa lực lượng vào vị trí tập kết, Đoàn 232 (được tăng cường Sư đoàn 9, Trung đoàn độc lập 16 của Miền và được Sư đoàn  của Quân khu 7 phối thuộc), đã đưa các đơn vị vào khu vực tập kết.

        Tiếp đó, anh Khánh đi sâu giới thiệu các đơn vị chủ lực tại chỗ tham gia chiến dịch.

        Trong thế chung của cuộc tiến công chiến lược, từ đầu tháng 4, Bộ tư lệnh B2 đã điều chỉnh, bố trí theo yêu cầu tác chiến tạo thế trước mắt và theo phương án tiến công vào Sài Gòn. Về tác chiến tạo thế ở phía nam và tây nam, chủ lực của Miền và của Quân khu 8 đã áp sát đường  và các huyện ven đô; ở phía bắc và tây bắc, ta đã áp sát Tân Uyên, Gò Dầu, Củ Chi; ở phía đông, áp sát Trảng Bom, Hố Nai và căn cứ Nước Trong.

        Các lực lượng đặc công, biệt động và lực lượng thành đội Sài Gòn đã đứng sẵn ở ven đô, áp sát các mục tiêu được phân công. Đó là 6 đoàn đặc công (tương đương 6 trung đoàn), từ trước vẫn bám vững địa bàn vùng ven và liên tục hoạt động trong vùng sau lưng địch là 4 tiểu đoàn và nhiều đội biệt động ở ngoại thành, 60 tổ hoạt động ở nội thành: ngoài ra còn khoảng 330 quần chúng vũ trang và lực lượng quần chúng đông đảo do các biệt động tổ chức và chỉ huy; là các đại đội, tiểu đoàn tập trung của Thành đội và hai Trung đoàn 1 và 2 Gia Định, bố trí ở tây và tây bắc thành phố, là các đơn vị lực lượng vũ trang các tỉnh miền Đông Nam Bộ đang bám sát và tiến công, bao vây địch trên các địa bàn chung quanh Sài Gòn, sẵn sàng phối hợp với chủ lực để giải phóng địa phương mình.

        Hàng trăm cán bộ, kể cả cán bộ quận, thành và hàng trăm đội viên vũ trang đã vào đứng chân ở các lõm chính trị để cùng với các tổ chức Đảng chỉ đạo hướng dẫn đoàn thành niên và các đoàn thể khác, chuẩn bị cho quần chúng vùng ven và nội đô nổi dậy phối hợp khi chủ lực tiến công.

        Thế đứng của lực lượng vũ trang tại chỗ của ta ở Sài Gòn vùng chung quanh là thế bao vây, cô lập Sài Gòn, chia cắt lực lượng địch ở bên trong với bên ngoài, sẵn sàng cùng với các binh đoàn cơ động thọc vào nội đô. Thế đứng đó có được là do thế chung của cuộc tổng tiến công chiến lược tạo nên. Thế đứng đó của lực lượng vũ trang cũng chính là chỗ dựa cho quần chúng sẵn sàng nổi dậy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:15:39 am

        Tóm lại, lực lượng ta ở vào thế áp đảo địch. Ta vừa có các quân đoàn chủ lực mạnh, sung sức (so sánh: địch 1, ta 3), vừa có lực lượng tại chỗ dồi dào, đều khắp, bố trí áp sát địch từ nội đô ra tuyến ngoài. Lực lượng lãnh đạo ở cơ sở và lực lượng chính trị quần chúng đều đã sẵn sàng.

        Bộ tư lệnh chiến dịch đã cân nhắc và chọn 5 mục tiêu quan trọng nhất mà ta phải nhanh chóng đánh chiếm bằng được: sân bay Tân Sơn Nhất là căn cứ không quân lớn nhất cuối cùng của Ngụy, là đầu mối giao thông đường không cuối cùng giữa Sài Gòn với bên ngoài; bốn mục tiêu khác trong thành phố (Bộ Tổng tham mưu Ngụy, dinh Tổng thống, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát) đều là những cơ quan đầu não quan trọng nhất của bộ máy chiến tranh, là những cái “huyệt” hiểm yếu nhất trong cơ thể đã suy nhược cao độ của chế độ tay sai ở Sài Gòn. mất 5 vị trí đó quân Ngụy sẽ như rắn mất đầu, toàn bộ hệ thống phòng ngự và bộ máy kìm kẹp của chúng sẽ tan rã. Quần chúng sẽ nổi dậy phối hợp với chủ lực. Chiến dịch sẽ kết thúc nhanh chóng với thắng lợi trọn vẹn.

        Về cách đánh, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương: Trước hết hình thành thế bao vây, cô lập triệt để bọn địch trong thành phố Sài Gòn và vùng chung quanh, cả về đường bộ, đường không và đường thuỷ. Sau đó, trên từng hướng, sử dụng lực lượng thích hợp, đủ sức bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch bên ngoài, đồng thời sử dụng một bộ phận quan trọng lực lượng hình thành những mũi đột kích mạnh của binh chủng hợp thành, thọc sâu, đánh thẳng vào trung tâm thành phố, đánh chiếm ngay mục tiêu đã được xác định. Từ đó toả ra phối hợp với các đơn vị đặc công, biệt động, các lực lượng an ninh chính trị, tự vệ thành phố và quần chúng nổi dậy, đánh chiếm tất cả các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế trong thành phố. Phối hợp với các mũi đột kích của chủ lực, bộ đội đặc công, biệt động và vũ trang tại chỗ sẽ đánh chiếm và làm chủ các cầu, tham gia khống chế sân bay và các trận địa pháo địch, cùng quần chúng nổi dậy đánh chiếm các mục tiêu đã được phân công, giữ vững các lõm chính trị trên đường tiến quân của chủ lực.

        Bị ta phối hợp trong ngoài cùng đánh, cả bằng tiến công và nổi dậy, địch sẽ không thể ngăn chặn và làm chậm bước tiến cảu ta ở vòng ngoài, không kịp phá các cầu lớn trên sông Đồng Nai và sông Sài Gòn trên hướng đông và các hướng khác. Chúng cũng không thể co cụm về giữ các mục tiêu, các nhà cao tầng và các khu phố đông dân để cùng lực lượng của chúng trong thành phố kéo dài chống cự với ta. Chiến dịch sẽ kết thúc nhanh và ta sẽ hạn chế đến mực thấp nhất những tổn thất về tính mạng và tài sản của nhân dân trong thành phố.

        Buổi chiều, hội nghị nghe đồng chí đại biểu Tổng cục Chính trị trình bày kế hoạch công tác chính trị trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này, công tác chính trị có vai trò quan trọng đặc biệt. Lân đầu tiên, nửa triệu quân ta tham gia chiến dịch, tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiến công vào một thành phố lớn nhất ở miền Nam, sào huyệt cuối cùng của địch. Công tác chính trị phải làm cho toàn quân quán triệt sau sắc quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị là tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, trên cơ sở đó mà xây dựng cho toàn quân một ý chí quyết chiến quyết thắng, một tinh thần đoàn kết nhất trí cao độ.

        Bộ tư lệnh chiến dịch đã ra bản chỉ thị về công tác chính trị. Bản chỉ thị đã được phổ biến xuống từng cánh quân, nói rõ ý nghĩa chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng, những nhân tố thắng lợi của chiến dịch mang tên Bác, nhằm động viên trách nhiệm và lòng tin tưởng của cán bộ và bộ đội, xây dựng quyết tâm thi đua giành thắng lợi lớn nhất, nhanh nhất, giáo dục tinh thần đoàn kết hiệp đồng giữa các đơn vị, các quân chủng, binh chủng, giữa chủ lực và địa phương, giữa các lực lượng vũ trang với Đảng bộ và chính quyền địa phương, giữa bộ đôi và nhân dân. Bản chỉ thị nêu rõ yêu cầu khắc phục mọi biểu hiện do dự, chần chừ, ỷ lại hoả lực, ỷ lại vào đơn vị ban cũng như biểu hiện cục bộ địa phương, thiếu khiêm tốn, tranh công đổ lỗi. Chỉ thị cũng nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm chấp hành tốt kỷ luật chiến trường và các chính sách, nhất là chính sách chiến lợi phẩm, chính sách thương binh, tử sỹ, chính sách tù hàng binh.

        Cuối cùng, đồng chí đại biểu Tổng cục Chính trị đọc lời động viên của Quân uỷ Miền đối với bộ đội, ghi ở cuối bản chỉ thị công tác chính trị:

        “Chúng ta phải mang lá cờ quyết chiến quyết thắng của Bác cắm lên thành phố quang vinh mang tên Bác, lấy thành tích chào mừng kỷ niệm lần thứ 85 ngày sinh của Người”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:16:38 am

        Được biết, kèm theo bản chỉ thị công tác chính trị, cơ quan tuyên huấn mặt trận còn cho phát hành rộng rãi “7 lời dạy của Bác Hồ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968” (Ý chí phải kiên quyết; Kế hoạch phải thật tỉ mỉ; Kiểm tra phải thật kỹ càng; Phối hợp phải thật ăn khớp; Chấp hành phải thật chu đáo; Cán bộ phải thật gương mẫu; Bí mật phải giữ triệt để) và lời dạy của Người năm 1954 khi bộ đôi vào tiếp quản các thành phố ở miền Bắc.

        Tiếp đến là báo cáo về công tác chuẩn bị bảo đảm vật chất kỹ thuật cho chiến dịch. Các đồng chí đại biểu Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Kỹ thuật cho biết: điểm nổi lên là ngay trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, ta đã phát huy sức mạnh của cả ba nguồn bảo đảm: chi viện của hậu phương lớn miền Bắc, hậu cần tại chỗ và tận dụng chiến lợi phẩm.

        Với hai trục đường vận chuyển chiến lược Đông và Tây Trường Sơn được củng cố và mở rộng, bảo đảm vận chuyển bằng xe cơ giới với tốc độ nhanh, với đường ống dẫn dầu đã kéo dài thêm về phía nam, việc khôi phục và sử dụng các đường 14 và đường 1, với lực lượng và phương tiện vận tải tăng cường cho các binh đoàn xe thuộc Bộ tư lệnh 559, với việc tận dụng đường biển và đường không... chỉ trong một thời gian ngắn, 10 vạn tấn hàng đã từ hậu phương lớn được đưa cấp tốc vào chiến trường.

        Hậu cần Miền, sau khi được tăng cường về lực lượng, tổ chức và phương tiện, đã mở thêm hành lang về các hướng (hướng đông: Long Khánh, Bà Rịa; hướng tây: Bến Cầu, Kiến Tường, bắc lộ 4). Quá trình tiếp nhận chi viện của hậu phương lớn và huy động lực lượng tại chỗ cũng là quá trình hình thành hệ thống kho tàng trên các hướng cơ động. Cán bộ và chiến sỹ hậu cần Miền đã mưu trí “lót ổ hàng ngàn tấn lương thực, đạn dược, rải ra trong các lõm du kích trên các địa bàn cơ động theo hướng tiến vào Sài Gòn. Thuốc nổ, súng đạn đã được cất giấu ở các vùng ven đô, sát các sân bay, bến cảng, kho tàng của địch và cả ở ngay nội thành, gần các mục tiêu quan trọng, sẵn sàng bảo đảm cho các lực lượng biệt động, đặc công hoạt động.

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, ở miền Đông Nam Bộ và cả vùng chung quanh Sài Gòn, từ vùng giải phóng đến vùng còn do địch kiểm soát, nhân dân đã góp sức người, sức của chi viện cho bộ đội. Gần 10 ngàn tấn lương thực, thực phẩm được huy động tại chỗ đã bảo đảm nửa nhu cầu của các cánh quân tham gia chiến dịch. Trên những địa hình ruộng lầy hoặc có nhiều sông rạch bao quanh, từ phía tây đến phía nam và đông nam Sài Gòn, hàng vạn dân công và hàng trăm ghe, thuyền, ca nô đã được huy động phục vụ chiến dịch.

        Số chiến lợi phẩm thu được của địch trên chiến trường Nam Bộ trong mùa mưa cũng như các trang bị kỹ thuật thu được ở Tây Nguyên à các tỉnh ven biển miền Trung được khẩn trương đưa vào làm tăng thêm sức mạnh về trang bị của các binh đoàn chủ lực và các quân chủng, binh chủng kỹ thuật tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

        Kết thúc báo cáo, đồng chí đại biểu Tổng cục Hậu cần vui vẻ nói:

        - Xin báo cáo thêm với các anh, nỗi băn khoăn của chúng ta về đạn lớn đến nay được giải quyết. Đạn thu được trong tháng qua rất nhiều, trước mắt đã đủ cho trận quyết chiến. Đó là chưa kể số đạn ta sẽ thu được trong quá trình diễn biến chiến dịch, cũng chưa kể số đang được tiếp tục đưa vào bằng cả đường biển và đường bộ để bảo đảm liên tục chiến đấu nếu chiến dịch kéo dài.

        Hội nghị trao đổi ý kiến về cách hiệp đồng giữa Bộ Tổng tham mưu và các tổng cục để cùng nhau theo dõi và giúp trên chỉ đạo trong quá trình diễn biến chiến dịch.

        Do có ý kiến hỏi và tôi thấy cũng nhân cuộc họp đông đủ này mà thông báo để anh em nắm vững được tình hình Đoàn cán bộ của Bộ Tổng tư lệnh cử vào chiến trường và về việc sử dụng không quân trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

        Ngoài số cán bộ đi với Đoàn A.75 đã cùng anh Dũng từ Tây Nguyên vào B2 từ đầu tháng 1, mới đây, để giúp Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến đấu, thêm một đoàn cán bộ được Bộ cử vào chiến trường. Ngoài số cán bộ đầu ngành hoặc có kinh nghiệm công tác của Bộ Tổng tham mưu và các tổng cục, trong đoàn còn có nhiều cán bộ chỉ huy các quân chủng, binh chủng. Đó là các anh Doãn Tuế, Tư lệnh Pháo binh,; Lê Xuân Kiện, Phó Tư lệnh Thiết giáp; Nguyễn Chí Điềm, Tư lệnh Đặc công; Trần Quang Hùng, Phó Tư lệnh Phòng không – Không quân; Hoàng Niệm. Phó Tư lệnh Thông tin; Phan Khắc Hy, Phó Tư lệnh Đoàn 559.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:18:06 am

        Nhớ lại hôm gặp và trao nhiệm vụ cho đoàn, anh Văn đã thay mặt Quân uỷ Trung ương nói rõ quy mô to lớn của chiến dịch và những nội dung cần nghiên cứu để thiết thực giúp đỡ Bộ tư lệnh chiến dịch trên các mặt tổ chức chỉ huy, công tác chính trị, hậu cần kỹ thuật. Chiến dịch quy mô 4 – 5 quân đoàn với nhiều binh khí kỹ thuật, tiến công địch trong một thành phố lớn, yêu cầu hiệp đồng rất cao, trên một không gian rất rộng, rất nhiều vấn đề mới được đặt ra và phải được giải quyết trong một thời gian ngắn để không lỡ thời cơ chiến lược, chiến dịch. Từ việc cơ động binh khí, khí tài, cơ động bộ đội trên địa hình nhiều sông ngòi, kênh rạch, việc chi viện hoả lực của pháo binh trên nhiều hướng, đến việc tiếp quản một thành phố mấy triệu dân đã trải qua nhiều năm dưới chế độ Mỹ - Ngụy..., tất cả những vấn đề đó yêu cầu phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, nắm vững khoa học kỹ thuật quân sự và vận dụng trong từng tình huống cụ thể của từng binh chủng, quân chủng để giúp Bộ tư lệnh chiến dịch trong chỉ đạo chuẩn bị và thực hành chiến dịch.

        Đến nay, trước khi mở màn chiến dịch, qua tin tức chúng tôi nhận được, đoàn cán bộ của Bộ đã “miệng nói tay làm” cùng các đồng chí cán bộ các ngành của B2 vượt lên mọi khó khăn, góp phần vào công tác chuẩn bị để bộ đội sẵn sàng nổ súng.

        Việc dùng máy bay chiến đấu trước và trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn là vấn đề được chúng tôi ở cơ quan Bộ trao đổi ý kiến nhiều lần với các anh ở B2 để cùng nhau thực hiện. Vừa qua, Hải quân đã cùng bộ đội Khu 5 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng một số đảo trên quần đảo Trường Sa. Còn không quân nên sử dụng thế nào, đó là vấn đề được đặt ra để suy nghĩ.

        Với một lực lượng không quân không lớn, những năm vừa qua, máy bay chiến đấu của ta tập trung chủ yếu vào việc đánh trả máy bay địch để bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc. Nhưng đến nay, tình hình đã khác.

        Ngày 7 tháng 4, anh Lê Ngọc Hiền điện ra cho biết: Ở Nha Trang, Cam Ranh, ta thu được một số máy bay chiến đấu. Anh đề nghị cho người vào tiếp thu và nghiên cứu sử dụng. Hôm sau, có tin trung uý phi công Nguyễn Thành Trung, một đảng viên của ta hoạt động bí mật trong không quân Ngụy, lái máy bay F5E của địch, ném bom dinh tổng thống Ngụy rồi hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long.

        Chúng tôi trong Bộ Tổng tham mưu trao đổi ý kiến và nhất trí đề đạt với Quân uỷ: Ta đã giải phóng được nhiều sân bay, thu được nhiều máy bay địch, đã có những sỹ quan không quân ra hàng ta, như trường hợp viên trung tá ở Đà Nẵng. Cần nghiên cứu sử dụng số phi công này vào việc huấn luyện các sỹ quan lái của ta cũng như việc bảo quản máy bay, quản lý sân bay và dùng máy bay địch tham gia chiến dịch sắp tới. Chúng tôi nghĩ nhân lúc địch đang rối loạn này mà ta dùng máy bay của chúng đánh vào một số mục tiêu ở Sài Gòn, nhất là đánh căn cứ Tân Sơn Nhất sẽ tác động lớn đến tinh thần quân địch.

        Anh Thọ và anh Dũng cũng đề cập vấn đề này. Các anh đề nghị giao cho Nguyễn Thành Trung chỉ huy số phi công Ngụy đã sang hàng ngũ ta hướng dẫn các chiến sỹ lái của ta dùng máy bay A37 và F5E của địch đánh địch.

        Sau khi báo cáo và được sự đồng ý của Quân uỷ, anh Khánh chỉ thị cho Bộ tư lệnh Phòng không – Không quân cho chiến sỹ lái và kiểm tra kỹ thuật vào Đà Nẵng. Chỉ trong mấy ngày, ta đã huấn luyện được 8 chiến sỹ lái và kiểm tra kỹ thuật được 4 máy bay A37. ngày 26 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu cho một tổ chỉ huy do anh Lê Văn Tri, Tư lệnh Phòng không – Không quân dẫn đầu vào sân bay Thành Sơn để chuẩn bị cho một phi đội A37 xuất kích trong vài ngày tới.

        Trong khi đó, ở Đà Nẵng, ta tiếp tục huấn luyện các phi đội cường kích A37 và tiêm kích F5E, tiếp tục kiểm tra kỹ thuật số máy bay còn lại để sớm đưa vào sử dụng.

        Việc chọn thời có và chọn mục tiêu cho máy bay sẽ do anh Dũng và các anh trong đó chỉ thị trực tiếp cho anh Tri và bộ phận tiền phương của Phòng không – Không quân ở Thành Sơn. Bộ Tổng tham mưu đã cho đưa đài vô tuyến điện và một tổ cơ yếu để anh Tri liên lạc với Bộ tư lệnh chiến dịch.

        Thế là đến hôm nay, ngày 27 tháng 4, một chủ trương mới, khá táo bạo đã được hình thành, với sự nhất trí giữa các anh trong Bộ tư lệnh chiến dịch và Bộ Tổng tham mưu. Với trí thông minh và trình độ kỹ thuật vốn có, các chiến sỹ lái của ta đã nhanh chóng nắm được ký thuật máy bay địch và chắc chắn sẽ tạo nên một bất ngờ đối với quân ngụy, cũng như đã từng làm cho giặc lái Mỹ bị bất ngờ khi chúng lao ra miền Bắc mấy năm trước.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:18:52 am

        Trong cuộc họp hôm nay, khi nói về chủ trương dùng máy bay địch đánh địch, tôi nhắc Cục Tác chiến thông báo cho bộ đội ở phía trước, nhất là những đơn vị phòng không ven biển và cánh quân hướng Đông, chú ý phân biệt máy bay của ta bay từ Phan Rang vào; nhắc Cục Cơ yếu và Thông tin bảo đảm việc liên lạc với đài của cơ quan chỉ huy tiền phương Phòng không – Không quân.

        Cuộc họp bế mạc, tôi mời anh Nguyễn Duy Phê, Cục trưởng Cơ yếu ở lại báo cáo tóm tắt công việc của cục và riêng tổ cơ yếu thường trực trong Khu A. Cục mới họp kiểm điểm đợt hoạt động trong hai tháng. Tôi muốn gặp anh chị em hai tổ cơ yếu và thông tin thường trực trước khi chiến dịch mở màn.

        Từ tháng 3, Văn phòng bố trí cho tổ làm việc ngay trong phòng của đồng chí Tổng tham mưu trưởng, gần phòng họp của Quân uỷ Trung ương. Anh Dũng đang ở trong chiến trường. Phòng làm việc của anh vẫn bài trí như trước đây. Vấn chiếc bàn to, trên có tấm bản đồ Đông Dương trải rộng. Vẫn mấy hàng ghế và hai tấm bản đồ thế giới và Đông Nam Á treo trên tường.

        Trời đã về chiều, một buổi chiều chủ nhật. Trừ các phòng trực ban còn mở cửa, trong khu “nhà con rồng” đã vắng bóng người.

        Khi tôi và anh Phê đến, một số cán bộ và chiến sỹ cơ yếu, thông tin đã có mặt đông đủ. Tổ cơ yếu thường trực có năm người thì hai là nữ, Đặng Thị Muôn và Vũ Thị Trọng. Cô Trọng đã có một cháu nhỏ.

        Anh chị em cho biết: Công việc hết sức khẩn trương, từ khi chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu. Những bức điện luôn kèm theo những chữ “dịch ngay”, “hoả tốc”, “ưu tiên 1”... Cái ký hiệu “Tk” (thượng khẩn) (Có lẽ tác giả nhầm vì điện "Thượng khẩn" ký hiệu là TgK, còn TK là "Tối khẩn" mức độ khẩn cao hơn thượng khẩn) đã bị đẩy lùi. Không còn ngày nào làm việc 10 giờ mà 14 giờ, 18 giờ và trực 24/24. Tổ mang cơm về ăn tại chỗ để tranh thủ thời gian làm việc. Trả lời câu hỏi của tôi, các đồng chí nói chân thật:

        - Báo cáo thủ trưởng, mệt thì mệt thật, nhưng rất vui. Tin chiến thắng dồn dập, càng dịch điện càng phấn khởi, quên cả mệt.

        Tôi thầm nghĩ: đối với người lính, chiến đấu cho mục đích cao cả - vì độc lập tự do của Tổ quốc – thì tin chiến thắng luôn là một nguồn động viên vô giá.

        Phòng làm việc của tổ ở cùng dãy với phòng họp của Quân uỷ. Trong những ngày qua, như đã thành lệ, cứ buổi sáng anh chị em lại thấy những chiếc xe qua cổng A, thấy các đồng chí lãnh đạo của Đảng, của quân đội đi vào căn phòng giữa. Và cũng đã thành lệ, cứ sau cuộc họp thường có những bức điện gửi vào chiến trường, bức điện chứa đựng trí tuệ tập thể Bộ Thống soái tối cao - Bộ Chính trị. Đã có sự phân công chuẩn bị sẵn trong tổ cơ yếu, có sự phối hợp giữa hai tổ thông tin và cơ yếu thường trực, làm sao có điện là dịch được ngay và thông tin chuyển được ngay. Phân đoạn thế nào, xử lý kỹ thuật thế nào để đảm bảo bí mật, nhất là khi gặp những bức điện đài, có khi 15-20 trang.

        Có lúc đang dịch, anh chị em nghe tiếng bước chậm rãi, đi đi lại lại ngoài hành lang. Rồi đồng chí Tổng tư lệnh bước vào. đồng chí chữ một chữ, thêm một đoạn vào bức điện đang dịch. Tôi ngồi nghe anh chị em nói về tâm tư và công việc của minh một cách rất tự nhiên, thoải mái. Một đồng chí kể lại câu chuyện mới xảy ra cách đây ít ngày mà tổ cơ yếu ở cánh quân hướng Đông vừa biên thư về cho biết.

        Bữa đó, một bức điện của đài “VF73” (đài chỗ anh Dũng) vừa chuyển đến. Cơ yếu dịch xong mang sang anh Tấn mà không biết rằng đó chính là bức điện mà Bộ chỉ huy cánh Đông đang chờ đợi. Đọc xong bức điện, anh Tấn reo lên: “Hay lắm, rất tốt, rất kịp thời”. Rồi anh bảo đồng chí Vũ Văn Cảnh, người vừa trao bức điện:

        - Cậu đưa sổ đây tớ ghi mấy chữ.

        Cảnh giở trang cuối cuốn sổ chuyển điện. Anh Tấn viết: “Hoan nghênh các đồng chí cơ yếu, thông tin. Rất kịp thời. – Ký tên: Tấn”

        Tôi hỏi:

        - Thế sắp tới, các đồng chí mong được dịch bức điện mang nội dung gì?

        Hầu như mọi người đều trả lời thống nhất:

        - Báo cáo, điện nói quân ta cắm cờ trên “dinh Độc lập” ở Sài Gòn.

        Một sự mong đợi như sự mong đợi của tất cả mọi người, thật là chính đáng, tôi thầm nghĩ.

        Tôi nói tóm tắt về hoạt động của Bộ Tổng tham mưu đã góp phần vào thắng lợi chung của cả nước, về thành tích của các tổ cơ yếu hoạt động độc lập phục vụ phái đoàn quân sự bốn bên và các đoàn của anh Dũng, anh Thọ, anh Tấn và của các tổ cơ yếu và thông tin thường trực trong Khu A, về yêu cầu phục vụ chỉ đạo chỉ huy trong chiến dịch sắp tới. Phải làm sao để Bộ Chính trị và Quân uỷ kịp thời nắm từng bước phát triển của các cánh quân, của từng mũi tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:24:28 am

        Cuộc gặp gỡ thân mật, ngắn gọn kết thúc. Bắt tay anh chị em, tôi vui vẻ nhắc lại:

        - Bức điện mà tất cả chúng ta đang chờ, nhất định sẽ đến. Nhất đinh chúng ta sẽ toàn thắng.

        Đèn điện trong Khu A bật sáng. Tôi đi qua phòng trực ban tác chiến. Anh em đã tổng hợp xong tình hình nhận được trong ngày. Anh Khánh đang dùng điện thoại báo cáo tóm tắt tình hình với các anh trong Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ. Từ 17 giờ ngày 26, cánh quân anh Tấn bắt đầu nổ súng tiến công khu căn cứ Nước Trong, các chi khu Long Thạnh và thị xã Bà Rịa.

        Hướng tây bắc, anh Vũ Lăng đang cho dùng pháo cối diệt các trận địa pháo địch và cho Sư đoàn 316 chốt chặn ở Phú Mỹ, ở đông Trảng Bàng và cắt một số đoạn trên đường 22. Hướng tây nam, anh Lê Đức Anh đã cho quân áp sát đường 10, chuẩn bị tiến công địch trên đường 4, chia cắt Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long và mở đầu cầu qua sông Vàm Cỏ Đông, đưa các lực lượng đột kích thọc sâu vào chiếm lĩnh vùng ven. Trên hướng bắc, Sư đoàn 312 Quân đoàn 1 đang chuẩn bị tiến công địch ở Bình Cơ, Bình Mỹ, tạo thế cho toàn quân đoàn đánh chiếm Lai Khê - Bến Cát và đưa lực lượng đột kích vào triển khai ở vùng ven. Dự kiến sáng ngày 29, tất cả các hướng sẽ tiến công đồng loạt vào nội thành Sài Gòn.

        Anh Khánh chuyển điện của đồng chí Bí thư Quân uỷ Trung ương cho cánh quân hướng Đông:

        1. Thường xuyên báo cáo diễn biến tình hình hàng ngày để báo cáo với Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.

        2. Trước mắt, cho biết mấy vấn đề sau: đánh giá thắng lợi bước đầu; dự kiến thời cơ phát triển vào nội đô, cả trường hợp hiệp đồng chung với các hướng và trường hợp đến mục tiêu trước mắt sớm hơn thời gian quy định và khi có thời cơ cụ thể thuận lợi, bảo đảm chắc thắng thì tranh thủ phát triển vào, không nên chờ các cánh khác.

        3. Nếu trận địa pháo 130 đặt ở Nhơn Trạch và bắn được vào Tân Sơn Nhất thì Sài Gòn sẽ rung động lớn.
         
        Tình hình ngày 27 cho thấy hướng đông có nhiều thuận lợi. Hướng bắc và tây bắc có thể chậm hơn một chút, nhưng hướng tây nam có thể phát triển kịp với các hướng khác. Mấy hôm nay, quân ta hoạt động trên đường 4 (Tân An) có kết quả. Nếu hướng tây nam phát triển nhanh và mạnh sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho hướng bắc và tây bắc.

        Trong buổi họp giao ban sáng hôm sau, ngày 8 tháng 4, anh Khánh và trực ban tác chiến cho biết chưa nắm được tình hình các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Chiến sự vùng chung quanh Sài Gòn đã được thể hiện trên bản đồ.

        - Trên hướng đông, ta đã đột phá được tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, làm chủ được đường 22 và phần lớn đường 15, áp sát Bà Rịa, chia cắt Bà Rịa với Vũng Tàu, giải phóng gần hết tỉnh PhướcTuy và phần lớn tỉnh Biên Hoà, nhưng chưa chiếm được Biên Hoà, Nhơn Trạch theo kế hoạch, do đó cũng chưa đặt được pháo tầm xa ở Nhơn Trạch để bắn vào Tân Sơn Nhất và khoá sông Lòng Tàu.

        - Trên hướng bắc, Sư đoàn 312 đã chiếm lĩnh xong trận địa; một bộ phận của Sư đoàn 320b, đã vượt sông sang phía tây đường 16, chuẩn bị bàn đạp cho sư đoàn thọc sâu. lực lượng vũ trang và quần chúng tỉnh Bình Dương đã nổi dậy phối hợp với chủ lực. Công tác binh vận được đẩy mạnh.

        - Trên hướng tây bắc, Sư đoàn 316 cùng lực lượng vũ trang Tây Ninh đã tổ chức chốt chặn ở Phú Mỹ và đông Trảng Bàng, cắt nhiều đoạn trên đường 22. Quaâ ta đã liên tục đánh địch phản kích, giữ vững thế bao vây chia cắt từng cụm quân địch trên đường 22 và đường 1. Phối hợp với Quân khu 8, lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân Trảng Bàng, Hiếu Thiện, Kiêm Hạnh, Phước Ninh đã bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt, giải phóng nhiều xã ấp vùng nông thôn Tây Ninh. Lực lượng vũ trang vùng ven đã giải phóng một số ấp trên đường 7 (bắc Củ Chi). Lực lượng đặc công bám sát cầu Bình Phước trên sông Sài Gòn và các mục tiêu từ cầu Bình Phước đến Quán Tre, đồng thời đã có lực lượng chuẩn bị thọc sâu vào bắc sân bay Tân Sơn Nhất.

        - Trên hướng tây và tây nam, quân ta đang khắc phục khó khăn để đưa binh khí kỹ thuật vượt sông  Vàm Cỏ Đông vào chiếm lĩnh tuyến xuất phát tiến công. Hai trung đoàn thuộc Quân khu 8, trên hướng nam, đã đứng chân ở bắc Cần Giuộc, chiếm lĩnh tỉnh đường 5, sẵn sàng thọc sâu vào Quận 8 và Nhà Bè.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:25:15 am

        Buổi chiều, qua đài phương Tây, chúng tôi nhận được tin: Hồi 16 giờ 40 phút, 5 chiếc A37 của ta đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Tin cho biết nhiều máy bay bị phá huỷ, kể cả máy bay Mỹ túc trực để thực hiện kế hoạch “di tản”. Sài gòn náo động vì bị đòn bất ngờ này.

        Bộ Tổng tham mưu nhận được tin này gần như đồng thời với tin Trần Văn Hương trao ghế Tổng thống cho Dương Văn Minh, một việc mà Bộ Chính trị đã từng dự kiến. Viên tổng thống mới kêu gọi quân đội Ngụy “bảo vệ những vùng đất còn lại và muốn hoàn thành nhiệm vụ đó, mọi người phải giữ vững vị trí”(!).

        Buổi tối, Bộ Tổng tham mưu tổng hợp tình hình, báo cáo Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương sau hai ngày chiến dịch mở màn.

        Bộ đội trên các hướng đã cơ bản thực hiện được kế hoach bao vây cô lập Sài Gòn, chia cắt địch giữa tuyến ngoài và nội đô. Quân ta cắt đường 15 từ Sài Gòn đi Vũng Tàu và đường 4 từ Sài Gòn về đồng bằng sông Cửu Long. Trên hướng đông, mặc dù địch ra sức chống đỡ, Quân đoàn 4 (anh Hoàng Cầm, Tư lệnh; anh Hoàng Thế Thiện, Chính uỷ) và Quân đoàn 2 (anh Nguyễn Hữu An, Tư lệnh; anh Lê Linh, Chính uỷ) đã chiếm được một số mục tiêu quan trọng như Trảng Bom, Long Thành, Đức Thạnh, thị xã  Bà Rịa và về cơ bản đã làm chủ căn cứ Nước Trong. Lực lượng của ta trên hướng bắc và tây bắc đã triển khai, hình thành thế bao vây, chia cắt địch ở vòng ngoài, đã làm các sân bay Biên Hoà và Tân Sơn Nhất bị tê liệt. Sài Gòn bị bao vây và hoàn toàn bị cô lập cả về đường bộ, đường không và đường thủy. Phối hợp với chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương và nhân vòng ngoài và vùng ven đô đã kịp thời tiến công và nổi dậy, giải phóng được nhiều vùng nông thôn rộng lớn bao quanh các chi khu quận lỵ, các tiểu khu và các căn cứ lớn chung quanh Sài Gòn.

        Điều đáng quan tâm lúc này là chỉ đạo các đơn vị đặc công đánh chiếm và giữ các cầu, nhất là trên hướng đông, dể đảm bảo tốc độ tiến quân của các quân đoàn và việc đưa binh khí kỹ thuật của Đoàn 232 sang sông để kịp phối hợp với các hướng khác tiến công vào nội đô.

        Trên hướng đồng bằng sông Cửu Long, tin tức đầu tiên cho biết lực lượng vũ trang của hai Quân khu 8 và 9 đã áp sát các thị xã Cần Thơ, Mỹ Tho, kìm chân các sư đoàn của Quân đoàn 4 Ngụy, khống chế sân bay Bình Thuỷ. Lực lượng chính trị và vũ trang các tỉnh, huyện đã áp sát các chi khu quận lỵ, thị xã, thị trấn. Việc đánh và cắt đường 4 được xúc tiến khẩn trương.

        Chỉ mới sau hai ngày tiến công của ta, hệ thống chỉ huy của địch từ Bộ Tổng tham mưu đến bộ chỉ huy Quân đoàn 3, đều đã rối loạn. Nhiều tên cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền tiếp tục di tản theo Mỹ. Việc Dương Văn Minh thay Trần Văn Hương nói lên thế chính trị của Ngụy đã sắp sụp đổ, nhưng chúng vẫn hy vọng con bài cuối cùng có thể đứng ra dàn xếp với ta nhằm đạt tới “ngừng bắn”.

        Sau khi nghe báo cáo, đồng chí Tổng tư lệnh đã thay mặt Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương gửi điện động viên toàn thể cán bộ và chiến sỹ, đảng viên và đoàn viên anh dũng tiến lên giành toàn thắng cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại”.

        Tiếp đó, bức điện viết:

        1. Chiến dịch đã bắt đầu với những thắng lợi giòn giã. Chúng tôi tất cả đều rất phấn khởi, gửi lời chúc các anh khoẻ và giành được toàn thắng.

        2. Các anh nhắc cơ quan tham mưu và chính trị:

        a) Đi đôi với mệnh lệnh tác chiến cần có chỉ thị cụ thể về nhiệm vụ, phạm vị quản lý thành phố của từng đơn vị.

        b) Xúc tiến kế hoạch phát triển thắng lợi, tiêu diệt và làm tan rã quân địch ở đồng bằng sông Cửu Long.

        c) Có dự kiến về việc điều chỉnh lực lượng sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nhất là những việc điều chỉnh cần làm trước mùa mưa.

        3. Nhận được điện, các anh trả lời để chúng tôi hướng dẫn cơ quan nghiên cứu.

        Từ sáng sớm ngày 29, những chiếc xe con lần lượt vào Khu A. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp bàn những việc lớn cần phải làm ngay sau ngày toàn thắng.

        Trong phòng trực ban tác chiến, anh Khánh và một số cán bộ Cục Tác chiến, Cục Tình báo danh hầu hết thời gian bám sát diễn biến từng giờ của Mặt trận Sài Gòn. Mỗi khi nhận được tin mới, anh Khánh lại sang phòng họp của Quân uỷ để báo cáo. Một cán bộ tác chiến thường đi theo để tác nghiệp những bước tiến của từng cánh quân trên tấm bản đồ Sài Gòn trải rộng trên chiếc bàn lớn trong phòng họp.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:26:11 am

        Khoảng 9 giờ, anh Ba cho gọi một cán bộ Cục Tình báo sang. Anh muốn nghe những tin tức mới nhất về địch.

        Qua đài phương Tây, được biết có thêm nhiều tên tay sai ở Sài Gòn bỏ chạy ra nước ngoài, trong đó có 60 nghị sỹ, Tổng Tham mưu trưởng Sài Gòn Cao Văn Viên, Thủ tướng Nguyễn Bá Cần mới từ chức... Tại trung tâm Sài Gòn, cuộc di tản đang diễn ra trong cảnh hỗn loạn, hốt hoảng. Sau khi sân bay Tân Sơn Nhất bị ném bom, một số máy bay Mỹ đang làm nhiệm vụ di tản bị phá huỷ, Mỹ phải tổ chức chiến dịch di tản bằng máy bay trực thăng trên sân thượng một số nhà cao tầng ngay tại trung tâm thành phố, làm cho quang cảnh nội đô càng thêm hỗn loạn. Các đài Anh, đài Úc, đài Nhật đều nói nhiều đến không khí náo động trong thành phố Sài Gòn, nhất là từ chiều ngày 28. Dương Văn Minh gặp một số sỹ quan cao cấp còn ở lại Sài Gòn. Quá nửa số tướng Ngụy được mời đến chủ trương ngừng bắn. Viên Tổng thống mới cố vớt vát bằng cách cử “đại diện chính phủ” đến Tân Sơn Nhất xin gặp phái đoàn ta, hòng “thương lượng cho một cuộc ngừng bắn”. Hắn rất hy vọng cuộc gặp gỡ sẽ đạt kết quả mong muốn vì “Hà Nội chưa chắc đã có một bộ máy hành chính đủ để quản lý toàn quốc, vì vậy rất có thể họ sẽ sẵn sàng chấp nhận một chế độ quá độ....” Có tin lệnh ngừng bắn đã được Ngụy ban ra.

        Sau khi trao đổi ý kiến với các anh có mặt trong phòng họp, anh Ba đọc một bức điện để chuyển gấp vào chiến trường: “Gửi các anh Sáu, anh Bảy, anh Tuấn, anh Tư, đồng điện anh Tấn (tức các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn).

        Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị:

        1. Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch: tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng.

        2. Công bố đặt thành phố Sài Gòn – Gia Định dưới quyền của Uỷ ban quân quản do tướng Trần Văn Trà làm Chủ tịch.

        3. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”.

        Điện viết lúc 10 giờ sáng ngày 29 tháng Tư.

        Tối hôm ấy, trong buổi giao ban của tham mưu, có anh Văn dự, chúng tôi nghe anh Lê Hữu Đức, Cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo tình hình tổng hợp sau ba ngày đêm liên tục chiến đấu. Riêng trong ngày 29, tình hình diễn ra đúng như kế hoạch. Các sư đoàn, quân đoàn đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chiến đấu và kế hoạch hiệp đồng. Mọi khó khăn, trở ngại đã được khắc phục với tinh thần nỗ lực, khẩn trương, linh hoạt và sáng tạo. Mặc dù tốc độ phát triển khác nhau, nhưng các mũi, các hướng đều đã đánh chiếm được các mục tiêu quy định. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân địch ở vòng ngoài, mở được cửa thọc sâu trên các hướng. Trên hướng tây bắc, tây và tây nam, lực lượng thọc sâu đã vào tới địa bàn quy định. Trên hướng đông, địch ngoan cố chống cự, Quân đoàn 4 phát triển chậm, nhưng Quân đoàn 2 phát triển thuận lợi hơn, lực lượng thọc sâu đã vòng qua căn cứ Long  Bình và đang phát triển trên xa lộ. Các lực lượng ven đô đã phối hợp đắc lực với các cánh quân, kịp thời đánh chiếm và giữ các cầu quan trọng và các mục tiêu được phân công, chuẩn bị tốt các địa bàn vùng ven trên hướng tiến của các binh đoàn, đồng thời chặn đánh, diệt và bắt tàn quân địch từ ngoài chạy vào Sài Gòn. Lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nổi dậy trên các hướng tiến công của chủ lực đã kịp thời phối hợp chặt chẽ, tích cực tiến công địch. Lực lượng ba mũi trong vùng sâu đã chủ động nổi dậy tự giải phóng địa phương mình, tạo nên một thế chung là chủ lực phát triển đến đâu thì diện giải phóng đều mở rộng đến đó.

        Trong ba ngày qua, nhất là ngày 29, sự đối phó của địch chỉ có mức độ. Hiện tượng chung là mau chóng tan rã, rút chạy hoặc đầu hàng. Thực tế cho thấy hệ thống chỉ huy của địch đã bị rối loạn, không còn phát huy được tác dụng. Bộ máy Ngụy quyền, nhất là ở cơ sở đã sụp đổ. Cuộc di tản của Mỹ và bọn tay sai đang xúc tiến với tốc độ khẩn trương nhất và sắp đến lúc kết thúc.

        Các cánh quân trên các hướng đã nhận lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch chuyển sang tổng công kích vào nội đô, hiệp đồng đánh thẳng vào trung tâm thành phố, chiếm các mục tiêu đã định.

        Chúng tôi đang nghe báo cáo thì một nhân viên cơ yếu gõ cửa xin vào mang theo bức điện mới nhận.

        Anh Tấn báo cáo: Đã ra lệnh cho quân đoàn đánh vào nội đô 16 giờ hôm nay. Nếu có khó khăn sẽ đánh vào 4 giờ sáng mai, ngày 30 tháng 4.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:27:07 am

        Anh Văn cầm điện thoại trao đổi với anh Ba. Sau đó, anh đọc bức điện gửi ngay cho anh Dũng:

        “ Anh Ba và chúng tôi thấy tình hình các hướng đang phát triển thuận lợi. Hướng anh và anh Tấn hành động càng nhanh càng tốt...”.

        Và một bức điện gửi anh Tấn:

        “Anh căn cứ chỉ thị về thời gian của anh Tuấn mà hành động. Nếu anh Tuấn không có chỉ thị thì hành động với thời gian nhanh nhất. Giờ cụ thể, anh căn cứ vào tình hình mà quyết định”.

        Những bức điện ra khỏi phòng trực ban tác chiến lúc 22 giờ 15 phút ngày 29 tháng 4.

        Đêm hôm đó, anh Cáo Văn Khánh nghỉ lại trong phòng trực ban tác chiến. Chừng quá nửa đêm, nghe Cục Tình báo báo cáo xong, anh gọi điện thoại cho tôi. Sau khi trao đổi ý kiến, anh điện thông báo cho các anh trong chiến trường: Có tin lúc 01  giờ ngày 30 tháng 4, địch ra lệnh cho các tàu hải quân ở Cần Thơ, Đồng Tâm và Phú Quốc tập trung ở một địa điểm (chưa rõ ở đâu) và một số tàu (tin đầu tiên có 8 chiếc) chuẩn bị chuyển qua đảo Guy-am. Trước đó có tin 78 máy bay của Ngụy đã chuyển qua U-ta-pao. Chưa rõ đây là tổng số máy bay địch chuyển đi hay mới là đợt đầu tiên... “Báo cáo các anh rõ và ra lệnh cho đơn vị theo dõi xem tàu hải quân có chở bộ binh theo không và có kế hoạch đánh cho kịp”.

        Sáng ngày 30 tháng 4, anh Ba, anh Trường Chinh và anh Đồng vào khu “Nhà con rồng” từ sớm. Anh Văn cũng đã có mặt. Các anh khác trong Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương tiếp tục đến sau.

        Sau khi nghe anh Khánh báo cáo, các anh trao đổi ý kiến đánh giá tình hình. Khoảng 8 giờ, một bức điện của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương viết xong và cho dịch (tác giả có thể nhầm là cho mã hoá) gửi đi:

        “Nhiệt liệt khen ngợi toàn thể các đơn vị đã lập được chiến công lớn trong những ngày qua, đập tan tập đoàn phòng ngự và các cứ điểm phòng ngự phía đông, bắc, tây bắc và tây nam, cắt đứt đường 4, tiến công các sân bay lớn của địch, hoạt động tốt ở ven Sài Gòn và nội thành Sài Gòn.

        Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sỹ, đảng viên và đoàn viên, với quyết tâm lớn nhất, hãy nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch với khí thế hùng mạnh nhất của một quân đội trăm trận trăm thắng, đập tan mọi sự đề kháng của địch, kết hợp tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn – Gia Định. Phải giữ kỷ luật thật nghiêm, triệt để chấp hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh; bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; nêu cao truyền thống và bản chất cách mạng của Quân đội ta, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại...”.

        Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhắc Quân uỷ và Bộ tư lệnh miền về việc quản lý thành phố; tiếp tục phát triển thắng lợi, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn các lực lượng địch còn lai ở các khu vực khác, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, các đảo Côn Sơn và Phú Quốc; động viên tinh thần cách mạng triệt để và chiến đấu liên tục cho đến thắng lợi hoàn toàn, khắc phục mọi hiện tượng thoả mãn dừng lại. Để tiếp tục phát triển thắng lợi ngay sau khi giải phóng Sài Gòn, Quân uỷ Trung ương nhắc việc chuẩn bị sân bay Tân Sơn Nhất để sử dụng không quân vào kế hoạch mới. Bộ tư lệnh Phòng không – Không quân đã được lệnh chuẩn bị hai đại đội chiến sỹ lái A37 ở Phan Rang. Các phi đội Mích cũng được lệnh chuẩn bị sẵn sàng cất cánh khi có lệnh.

        Cuộc họp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương vẫn tiếp tục.

        10 giờ, đồng chí Nguyễn Thanh, Trưởng phòng 70 (thuộc Cục Tình báo, chuyên theo dõi tin địch bằng phương tiện kỹ thuật) chạy vào báo cáo: Đài phát thanh của Nhật loan tin quân giải phóng, có xe tăng dẫn đầu, đang tiến vào Sài Gòn.

        Tôi đề nghị hội nghị tạm dừng ít phút để nghe tình hình. Anh Khánh được mời lên báo cáo. Cả đêm qua, hầu như anh không ngủ.

        Anh trình bày: Các anh trong Bộ tư lệnh chiến dịch đã trao thêm nhiệm vụ cho Quân đoàn 3: Khi đánh vào Tân Sơn Nhất thì cho một cánh phát triển vào hướng Bổ Tổng tham mưu ngụy, phối hợp với Quân đoàn 1. Từ nửa đêm, các binh đoàn thọc sâu đã khẩn trương thi hành lệnh tiến gấp, chọc thẳng vào mục tiêu được giao, bỏ qua những mục tiêu khác trên dọc đường để nâng tốc độ tiến quân.

        Cuộc di tản của người Mỹ diễn ra dồn dập từ chiều ngày 29, đã kết thúc mờ sáng nay với chuyến bay của Đại sứ Mỹ Ma-tin, rời Sài Gòn lúc 4 giờ 45 phút.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:28:00 am

        Theo tin mới nhận được sáng nay, Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) đang tiến vào ngã tư Bảy Hiền; các cánh quân của Quân đoàn 1 đánh vào căn cứ Lai Khê, Phú Lợi, Lái Thiêu, đang phát triển về Gò Vấp. Một cánh khác đang đánh địch từ cầu Bình Phước đến cầu Bình Triệu. Sau khi đánh tan quân địch chống cự ở Hố Nai, Tam Hiệp, Quân đoàn 4 đang tiến công Sở chỉ huy Quân đoàn 3 Ngụy, chuẩn bị thọc sâu vào Sài Gòn. Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 đang vượt cầu xa lộ trên sông Đồng Nai. Đã diệt ổ đề kháng của địch ở Thủ Đức, phía bắc cầu Rạch Chiếc. Trên hướng nam và tây nam, các đơn vị phía trước, cả Đoàn 232 đang tiến về hướng Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát Ngụy. Trên đường, ta đã đánh chiếm Chi khu Thủ Thừa, giải phóng thị xã Tân An.

        Để chuẩn bị cho các mũi thọc sâu của chủ lực tiến quân vào nội đô từ 27 đến ngày 29 tháng 4, các đơn vị đặc công và biệt động đã kịp thời đánh chiếm các cầu lớn, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch và giữ vững cầu. Có những cầu ta phải giành giật với địch 2 - 3 lần như cầu Rạch Chiếc, cầu Bình Phước. 

        Trước đó, từ cuối trung tuần tháng , các Trung đoàn 1 và 2 Gia Định đã đẩy mạnh hoạt động: tiến công trạm ra đa Phú Lâm; đưa lực lượng vào áp sát phía bắc sân bay Tân Sơn Nhất; mở hành lang tiến công cho chủ lực vào ngã tư Bảy Hiền; phối hợp với đặc công đánh chiếm và giữ cầu Rạch Chiếc, cầu xa lộ Biên Hoà; đưa quân vào tiếp cận các mục tiêu theo kế hoạch hiệp đồng trên các cánh, các hướng. Lực lượng vũ trang Biên Hoà, sau khi phối hợp với chủ lực giải phóng các đường 25, 19, các khu Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, đã tiến xuống giải phóng  và tiếp quản các mục tiêu ở huyện Duyên Hải, một huyện hẻo lánh sát biển.

        Khi các đơn vị đầu tiên của cánh quân hướng Đông tiến từ cầu Tân Cảng vào Sài Gòn, đông đảo nhân dân đổ ra hai bên đường tiến quân, hoan hô bộ đội. Nhiều nhà báo trong và ngoài nước đón đường quay phim, chụp ảnh bộ đội tiến vào nội đô. Trên hướng bắc, lực lượng vũ trang địa phương đã giải phóng các chi khu quận lỵ Châu Thành, Dĩ An, bức hàng bọn địch trong căn cứ Sóng Thần. Nhân dân các xã ấp được lực lượng vũ trang hỗ trợ đã nổi dậy, xóa chính quyền địch, xây dựng chính quyền tự quản.

        Trong vùng ven đô và nội đô, khi quân ta sắp tiến quân vào, nhân dân nhiều nơi, được sự chỉ đạo của cơ sở cách mạng và lực lượng biệt động đã kịp thời nổi dậy phối hợp. Ngay trong đêm ngày 29, ở nhiều phường, quận, quần chúng đã chiếm bốt địch, chiếm trụ sở cướp chính quyền ở phường, xóm. Có nơi như ở phường Tây Nhì (nay là phường 12) quận Phú Nhuận, ở sát Bộ Tổng tham mưu Ngụy, cờ cách mạng được treo ở trụ sở phường từ trưa ngày 29, tự vệ và quần chúng phường Bình Thới, quận 11, đã chiếm trụ sở khóm 5 và 6 từ đêm hôm đó, trong khi quần chúng ở phường Khánh Hội nổi dậy chiếm chi khu cảnh sát và làm chủ phường....

        Trên hướng đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Tổng tham mưu vừa nhận được tin tức mới nhất của một số tỉnh.

        Từ chiều ngày 29, các lực lượng vũ trang Trà Vinh đã tập kết chung quanh thị xã 1 ki-lô -mét và ém sẵn quân gần các mục tiêu sâu như sân bay, trận địa pháo địch. Ở Bạc Liêu, ta đã vận động và cuối cùng đưa tối hậu thư buộc tỉnh trưởng đầu hàng. Hắn vẫn chần chừ do dự, viện cớ chờ lệnh trên.

        Các ban khởi nghĩa của các huyện đã bí mật đưa lực lượng vào thị xã và đang hoạt động tích cực chuẩn bị cho quần chúng nổi dậy. Ở Sóc Trăng, lực lượng vũ trang đã tiến vào thị xã và sân bay, bức hàng Chi khu Khánh Hưng.

        Sau khi bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nghe báo cáo và trao đổi ý kiến về tình hình và những công việc cấp thiết trước mắt, anh Văn đã thay mặt Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương gửi điện vào chiến trường, nói về “một số ý kiến đã nhất trí để các anh thi hành”:

        1. Uỷ ban quân quản công bố ngay trên đài phát thanh mệnh lệnh đầu tiên. Nôi dung đại thể : a) Quân giải phóng tiến vào giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định, hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam; b) Quân đội Ngụy quyền Sài Gòn phải lập tức hạ vũ khí đầu hàng; c) Tuyên bố giải tán chính quyền các cấp; d) Kêu gọi đồng bào  đứng dậy cùng Quân giải phóng đập tan mọi sự chống cự của địch, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, hoàn thành công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam thân yêu.

        2. Đã kiểm tra lại công tác chuẩn bị của không quân. Các đơn vị Mích 17, Mích 21 đã sẵn sàng. Sẽ tuỳ tình hình, nếu thật cần thiết thì sẽ quyết định sử dụng kế hoạch dự kiến...

        Bức điện vừa gửi đi được nửa giờ thì Cục Tình báo báo cáo: Đài phương Tây đưa tin quân ta đã vào dinh Tổng thống Ngụy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:29:25 am

        Thêm một bức điện gửi gấp vào Nam nói rõ ý kiến của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương: “Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí nhưng không phải với tư cách tổng thống mà chỉ với tư cách một người đã sang hàng ngũ nhân dân”.

        Bức điện nhắc lại tin quân ta đã cắm cờ trên “dinh Độc Lập” và kết thúc bằng câu: “Các anh Bộ Chính trị rất vui, rất vui...”

        Cầm bức điện, chưa kịp dịch để gửi đi, mấy anh chị em trong tổ cơ yếu thường trực hỏi nhau:

        - Các “cụ” nhận được tin ở đâu mà nhanh thế nhỉ?

        Thắc mắc là đúng, vì tin này do đài anh Tấn ở hướng đông trực tiếp báo về, cơ yếu của cục dịch và anh Phê đích thân mang lên báo cáo gần như đồng thời với Cục Tình báo thu được của đài phương Tây.

        Gặp tôi ở sân “Nhà con rồng”, anh Phê phấn khởi ôm lấy tôi, xúc động nói:

        - Toàn thắng rồi, toàn thắng rồi, anh ạ! Quân ta cắm cờ trên “dinh Độc lập” rồi!

        Tôi bảo anh vào báo cáo với các anh trong phòng họp. Ngay sau đó, hành lang phòng họp của Quân uỷ bỗng trở nên chật hẹp hẳn lại. Không biết từ lúc nào, các anh trong Bộ Chính trị và chúng tôi đã từ phòng họp ra cả hành lang. Anh Khánh, một số cán bộ các cục và Văn phòng, trực ban tác chiến, tổ cơ yếu thường trực, mấy chiến sỹ công vụ, vệ binh... tất cả chỉ trong chốc lát bỗng nhiên hình thành một cuộc mít tinh. Già, trẻ, thường phục, quân phục, cấp trên, cấp dưới..., mọi người đều hân hoan xúc động. Các anh trong Bộ Chính trị cười nói rất vui.

        Đồng chí trực ban tác chiến được phép thông báo tin chiến thắng đến các tổng cục, các cục. Trước đó, ít nhiều cán bộ, chiến sỹ trong cơ quan Bổ Tổng tham mưu đã biết. Vậy mà khi tiếng loa chính thức báo tin vừa dứt, nơi nơi vang lên tiếng vỗ tay reo hò. Đâu đó có tiếng pháo nổ vang. Một không khí phấn khởi, náo nhiệt bao trùm cơ quan Tổng hành dinh.

        Tin chiến thắng cũng được thông báo cho Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và cho cơ quan thông tin Hà Nội.

        Một đồng chí cán bộ vừa đi từ Bờ Hồ qua ngã tư Cửa Nam về, kể lại: Tiếng loa trên các đường phố vang lên báo “tin đặc biệt”. Dòng người, dòng xe đạp đang chuyển động trên các ngả đường bỗng chậm hẳn lại. Người người lắng nghe và cuối cùng, tiếng hò vang lên. Một sự kiện bao năm chờ đợi, nay đã đến. Từ các nhà, các dãy phố, người ta đổ ra đường. Quanh Bờ Hồ, dưới các loa phóng thanh, người chật ních. Ai cũng muốn nghe tiếng phát thanh viên đọc đi, đọc lại tin chiến thắng mới nhận được. Nét mặt mọi người hân hoan, rạng rỡ. Chặng đường dài chiến đấu liên tục 30 – 40 năm đã đến đích cuối cùng. Lời tiên tri của Bác năm 1960 đã thành hiện thực: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”.

        Mặt trời đã đứng bóng. Nhiều anh trong Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lên xe ra về. Niềm vui còn thể hiện rõ trên nét mặt các anh. Hơn hai mươi năm qua, các anh đã bao lần trải qua những giây phút tâm tư, với trách nhiệm nặng nề, nhiệm vụ to lớn đè trĩu lên vai. Thắng lợi không đột ngột nhưng quá nhanh, khiến tâm tư, tình cảm tràn ngập một niềm xúc động mạnh.

        Anh Văn chưa về, dù đã 12 giờ trưa. Anh cho gọi tổ cơ yếu thường trực sang phòng họp. Trên bàn đã bày sẵn mấy chai bia Trúc Bạch, kẹo Hà Nội, thuốc lá Điện Biên. Anh muốn chia vui và thưởng riêng cho anh chị em cơ yếu thường trực sau những ngày làm việc hết sức khẩn trương, căng thẳng, phục vụ đắc lực cho việc chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.

        Mới hơn 13 giờ, đã thấy những chiếc xe con trở lại Khu A. Buổi trưa nay, ngày 30 tháng 4, hình như nhiều anh trong bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương không nghỉ. Các anh vào phòng họp, vẫn vẻ mặt hân hoan, xúc động. Buổi họp chiều chưa bắt đầu thì đồng chí Trưởng phòng 70 đã chạy và phòng họp, mang theo bản tin mới thu được của đài Sài Gòn.

        Bản tin nói về lời chấp nhận đầu hàng của viên Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn. “Tôi là Dương Văn Minh, Tổng thống Chính quyền Sài Gòn. Tôi kêu gọi bỏ vũ khí đầu hàng vô điều kiện Quân giải phóng, giải tán cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương và giao quyền cho Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam”.

        Tiếp đến là lời đại biểu Quân giải phóng:

        “Tôi đại diện Quân giải phóng, chấp nhận sự đầu hàng của ...” Anh không ghi tiếp nữa. Anh xúc động quá, bỏ máy chạy ngay lên phòng họp của Quân uỷ.

        Trong phòng mới có anh Ba, anh Đồng, anh Văn, một số anh trong Thường trực Quân uỷ và tôi. Nghe xong, anh Ba hỏi lại:

        - Có đúng nó tuyên bố đầu hàng vô điều kiện không? Phải bắt nó tuyên bố như vậy.

        Đồng chí Trưởng phòng 70 đọc lại. Đúng là nó đầu hàng vô điều kiện.

        Các anh cùng cười, vui, rất vui.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:30:19 am

        Nửa giờ sau, anh Trân Lâm ở Đài phát thanh vào và cũng mang theo tin nói trên. Các anh dặn anh Lâm về phương hướng tuyên truyền trong những ngày sắp tới. Cần nói nhiều hơn, rõ hơn về chiến dịch Hồ Chí Minh, về các trận chiến đấu,  về phong trào nổi dậy và tin đồng bào nhiệt liệt hoan nghênh Quân giải phóng, nhất là ở Sài Gòn, về việc đầu hàng vô điều kiện của tổng thống Ngụy. Cần đưa nhiều tin về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và công việc của Uỷ ban quân quản. Chú trọng động viên nhân dân giúp đỡ lực lượng vũ trang truy quét tàn binh địch và góp sức vào việc xây dựng chính quyền mới, kêu gọi quân đội và cảnh sát địch còn lại nhanh chóng đầu hàng...

        Cuộc họp buổi chiều bắt đầu muộn. Các anh vừa trao đổi ý kiến về những công việc lớn trước mắt, nừa có ý đợi báo cáo chính thức của chiến trường.

        Khoảng 16 giờ, hai bức điện đến cùng một lúc, một của anh Lê Đức Thọ, một của anh Phạm Hùng và anh Văn Tiến Dũng, được viết hồi 13 giờ 30 ngày 30 tháng 4. Các anh nói về lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh, về lệnh cho các cánh quân tiếp tục phát triển tiến công thật nhanh vào các khu vực và mục tiêu đã quy định; về lời kêu gọi quân địch còn lại đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí; về chỉ thị bắt giữ và tập trung các sỹ quan địch từ cấp tá trở lên, nếu nơi nào địch chống cự thì lập tức tiến công tiêu diệt ngay. Các anh cũng đã chỉ thị cho đồng bằng sông Cửu Long chớp thời cơ nổi dậy, đánh đổ toàn bộ chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng, lập uỷ ban quân quản ở địa phương...

        Sau khi nghe điện báo cáo của các anh trong chiến trường, anh Ba tóm tắt những vấn đề đã được trao đổi ý kiến hôm nay và nhắc lại một số việc dự kiến bàn trong cuộc họp chính thức của Bộ Chính trị vào ngày 3 tháng 5, để chuẩn bị Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sắp tới. Anh chỉ thị Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị báo cáo tổng hợp diễn biến của chiến trường từ trưa ngày 30 tháng 4, cả ở Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long, để báo cáo trong cuộc họp của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cần họp trước, bàn về một số công tác trước mắt mà đồng chí Bí thư Quân uỷ đã nêu lên: Vấn đề chỉ đạo tác chiến, hoàn thành giải phóng toàn bộ lãnh thổ (kể cả các đảo); vấn đề quản lý vùng giải phóng; kế hoạch (sơ bộ) bố phòng đất nước, làm cơ sở để kiện toàn và điều chỉnh lực lượng, vấn đề thu hồi toàn bộ vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh, cơ sở vật chất và kỹ thuật của một đội quân trên một triệu tên địch vừa bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Đây là một nhiệm vụ rất lớn, ta đã làm một bước, nay phải có kế hoạch toàn diện, trong phạm vi toàn chiến trường miền Nam và cả nước. Cần bàn cả công thức ra tuyên bố về giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa,  các đảo Côn Sơn, Phú Quốc, Cù Lao Thu... Một vấn đề cụ thể cần làm sớm là tổ chức lễ mừng chiến thắng, vào khoảng từ 10 đến 12 tháng 5, không nên để chậm. Ngoài công tác ngoại giao, Hội nghị Bộ chính trị sắp tới sẽ tập trung bàn phương hướng tiến lên của cách mạng nước ta sau ngày toàn thắng. Đảng là một, dân tộc là một, quân đội là một. Đương nhiên phải có chuẩn bị nhưng tình hình đã chín muồi để thực hiện thống nhất đất nước. Chúng ta sẽ có nhiều điều kiện cơ bản để đưa cách mạng tiến lên mạnh mẽ, xây dựng đất nước giàu mạnh. Phải làm sớm vấn đề cơ bản này mới có cơ sở để giải quyết các vấn đề cụ thể khác.

        Trước khi ra về, anh Ba còn nhắc tôi:

        - Dặn anh em chú ý tin tức về tiến công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long. Thông tin chỉ huy của tham mưu nặng về tiến công của chủ lực, nhẹ về nổi dậy của quần chúng đấy!

        Có tiếng cười vui.

        Thật ra thì vừa qua, Bộ Tổng tham mưu nhận được tin tức phong trào nổi dậy. Đã có lần báo cáo chúng tôi xin phải “khất”.

        Chúng tôi trong Thường trực Quân uỷ ngồi nán lại. Đồng chí Bí thư nhắc chúng tôi những nôi dung cần chuẩn bị cho cuộc họp của Thường trực Quân uỷ, dự định vào ngày 2 tháng 5. Ngoài những việc anh Ba vừa gợi ý, anh Văn nhắc thêm một số công tác quân sự trước mắt.

        Một là, trong việc quản lý các vùng mới giải phóng nhất là các thành phố lớn, phải chỉ đạo các uỷ ban quân quản phối hợp với các ngành, các đoàn thể, vừa xây dựng chính quyền cách mạng, vừa thực hiện các nhiệm vụ cấp thiết như truy quét bọn tàn binh, bắt giữ bọn đầu sỏ phản động, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân và tài sản công cộng, ổn định đời sống của nhân dân. Phải làm cho mỗi cán bộ và chiến sỹ của các đơn vị có nhiệm vụ quản lý thành phố trở thành một cán bộ biết vận động nhân dân, phát động quần chúng làm chủ địa bàn mới giải phóng.

        Hai là, nghiên cứu kế hoạch giải quyết bọn địch còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long và các đảo Côn Sơn, Phú Quốc. Trong việc giải quyết các đảo, anh nhắc lại chủ trương trước đây của Bộ Chính trị về việc giải phóng và đưa các anh chị em tù chính trị của ta ở ngoài đó trở về.

        Ba là, nghiên cứ kế hoạch xây dựng và điều chỉnh lực lượng trong điều kiện đất nước thống nhất và ta mới thu hồi được một số lớn trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:31:27 am

        Tôi xuống phòng trực ban tác chiến. Đã khá muộn, nhưng cả anh Khánh và anh Đức còn ở đó. Các anh đang nắm lại tình hình. Tôi nói lại ý định của Bộ Chính trị và Quân uỷ về nội dung các hội nghị sắp tới và những việc Bộ Tổng tham mưu cần làm. Riêng về báo cáo chiến sự, chúng tôi trao đổi ý kiến và nhất trí rằng trong những ngày này, các anh trong kia còn rất bận, mọi công việc sau chiến trắng rất bề bộn, chờ điện báo cáo tổng hợp thì chậm, nhất là tình hình diễn biến ở đồng bằng sông Cửu Long. Phải dùng cả điện thoại và vô tuyến điện và dựa vào sự giúp đỡ của các phái viên của Bộ Tổng tham mưu ở trong đó, nắm lại diễn biến chiến sự từ ngày 30 tháng 4, trong đó chú ý phong trào tiến công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long. Cơ quan tham mưu nắm vấn đề này chưa vững, chưa kịp thời, vì vừa qua chúng ta tập trung nhiều vào việc theo dõi Mặt trận Sài Gòn. Cần có báo cáo kịp thời để Bộ Cính trị và Quân uỷ chỉ đạo giải phóng tiếp các địa bàn còn lại.

        Đường Hoàng Diệu đã sáng đèn. Có tiếng loa phóng thanh từ xa vẳng đến. Phát thanh viên đang đọc tin chiến thắng trong bản tin buổi tối. Một ngày đã trôi qua, ngày 30 tháng 4, với những sự kiện liên tiếp diễn ra. Nhưng sự kiện lịch sử của ngày 30 tháng 4 sẽ được ghi đậm nét trên chặng đường 30 năm giải phóng dân tộc.

        Hôm sau, ngày 1 tháng 5. Những người lao động bốn biển, năm châu chia vui với dân tộc Việt Nam đúng vào một ngày lịch sử quốc tế. Tự hào biết bao đối với Đảng ta, dân tộc, ta, Quân đội ta, đã giành thắng lợi trọn vẹn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc đúng vào ngày kỷ niệm trọng đại của giai cấp cần lao thế giới.

        Tại cơ quan Bộ Tổng tham mưu chiều hôm đó, tất cả cán bộ cao cấp, trung cấp đều có mặt ở hội trường để mừng ngày lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân và mừng chiến thắng mà quân và dân cả nước mới giành được.

        Thay mặt Thủ trưởng Bộ, phát biểu ý kiến trong cuộc mít tinh trọng thể này, tôi trình bày vắn tắt một số vấn đề về quá trình hình thành và phát triển quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị từ sau Hiệp định Pa-ri đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vừa qua; khái quát quá trình diễn biến của ba chiến dịch - chiến lược trong hai tháng 3 và 4 năm 1975; ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi trong đó đi sâu phân tích sự lãnh đạo của Trung ương, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.

        Trong ngày lịch sử huy hoàng này, tôi đặc biệt nhấn mạnh đến sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong 20 năm chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong 3 năm cuối của cuộc chiến tranh. Từ những dự kiến đầu sau hiệp định, đến từng bước phát triển của cục diện chiến trường, Đảng ta đã kiên trì tạo thế mới, lực mới và trong hai tháng qua đã nhạy bén chớp thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm liên tiếp đánh những đòn quyết định, giành thắng lợi trọn vẹn. Trong thắng lợi chung đó, mỗi người, mỗi bộ phận trong cơ quan tham mưu chiến lược, từ các đồng chí phái viên ở phía trước, các cán bộ trực tiếp giúp việc chỉ đạo, chỉ huy ở phía sau, đến các chiến sỹ công vụ, vệ binh, lái xe, nấu ăn... tất cả đều làm tròn nhiệm vụ của mình, góp phần cùng toàn quân, toàn dân hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu.

        Sau khi nêu lên yêu cầu nhận thức đúng về tình hình mới và nhiệm vụ mới của cơ quan tham mưu chiến lược, thay mặt Thủ trưởng Bộ; tôi kêu gọi anh em tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm và bản chất của người cán bộ cách mạng, người sỹ quan tham mưu trong điều kiện mới. Với thắng lợi vĩ đại và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa. Trong giờ phút đáng ghi nhớ của mùa Xuân đại thắng này, để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu trong giai đoạn mới, chúng ta càng ghi sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chủ động trước...”

        Cuộc mít tinh kết thúc, sau khi bài hát Giải phóng miền Nam và bài Quốc tế ca vang lên, trang nghiêm hùng tráng. Niềm vui dạt dào thể hiện trên nét mặt hân hoan của mọi người.

        Ngay sau buổi lễ chào mừng chiến thắng, chúng tôi thông qua bản báo cáo diễn biến chiến sự trong ngày chót của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thực ra, đến lúc này, Cục Tác chiến chỉ mới nắm được những điểm chính, nhất là trên các hướng tiến quân của các binh đoàn chủ lực. Sau ngày Sài Gòn giải phóng các phái viên được cử vào làm việc với cơ quan tham mưu chiến dịch và thành đội Sài Gòn. Bộ Tổng tham mưu mới xây dựng được bản báo cáo đầy đủ hơn về diễn biến của Mặt trận Sài Gòn cũng như cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long, đệ trình lên Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương. Kèm theo bản báo cáo lần này là tấm bản đồ thành phố Sài Gòn khổ rộng, trên đã ghi diễn biến ngày 30 tháng 4 của cuộc tiến công và nổi dậy từ vùng ven vào nội đô.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:32:15 am

        Chúng tôi nhất trí nên báo cáo diễn biến của các cánh quân trên từng hướng, đánh vào các mục tiêu chủ yếu ở nội đô; vấn đề nổi dậy nói riêng ở Mặt trận Sài Gòn rồi đến đồng bằng sông Cửu Long; tập trung vào diễn biến ngày 30 tháng 4 như Bộ Chính trị đã chỉ thị, vì tình hình những ngày trước đó, các anh đã nắm được.

        Tại mặt trận Sài Gòn, ngày 30 tháng 4, trên cả 5 hướng các cánh quân đồng loạt tiến vào đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố:

        Trên hướng đông:

        Từ 5 giờ sáng, binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2, được một phân đội đặc công phối hợp và dẫn đường, bắt đầu vượt cầu xa lộ sông Đồng Nai, tiến về Sài Gòn. Sau khi tiêu diệt địch ở Trường huấn luyện Thủ Đức, bộ phận đi đầu liên lạc được với Tiểu đoàn Biệt động 81 (đang giữ cầu Rạch Chiếc) rồi tiến về cầu xa lộ Sài Gòn (cầu Tân Cảng do biệt động đánh chiếm và giữ từ ngày 29 tháng 4). Sau khi tiêu diệt địch ở cầu Thị Nghè, binh đoàn thọc sâu đã mở được đường tiến về hướng “dinh Độc Lập”. Tổ đặc công đã dẫn đường cho xe tăng tiến vào cơ quan đầu não của chính quyền địch. Dương Văn Minh đầu hàng, cờ cách mạng được treo lên lúc 11 giờ 30 phút. Trong khi đó, các cánh quân khác của binh đoàn thọc sâu nhanh chóng toả ra chiếm đài phát thanh, nhà ngân hàng, trụ sở Bộ quốc phòng, Bộ tư lệnh Hải quân và Quận 4.

        Lực lượng còn lại của Quân đoàn 2 ở bên ngoài tiếp tục truy quét địch ở khu Long Bình, chiếm và làm chủ thị xã Vũng Tàu, sau đó phát triển ra giải phóng đảo Cần Giờ.

        8 giờ sáng, sau khi tiêu diệt địch ở tuyến phòng thủ tây Hố Nai, Sư đoàn 7, đơn vị thọc sâu của Quân đoàn 4, theo đường 1 phát triển vào Biên Hoà. Cầu Mới qua sông Đồng Nai bị địch phá sập, cầu Ghềnh quá yếu, xe tăng không qua được, quân ta phải quay lại cầu xa lộ sông Đồng Nai để tiến vào thành phố Sài Gòn. 13 giờ, bộ phận đi đầu tới “dinh Độc Lập” của Quân đoàn 2. Lữ đoàn 52 tiến sau đội hình Sư đoàn 7, cũng đánh chiếm Bộ tư lệnh Biệt động quân.

        Các đơn vị còn lại của Quân đoàn 4 tiếp tục phát triển tiến công khu quân sự Biên Hoà; Sư đoàn 6 đánh chiếm sở chỉ huy Quân khu 3, Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 ngụy và sân bay Biên Hoà, Sư đoàn 341 đánh chiếm căn cứ Hóc Bà Thức và các thị xã Biên Hoà, Thủ Đức, sau đó phát triển vào nội đô.

        Trên hướng bắc:

        Sáng 30 tháng 4, Sư đoàn 320b thuộc Quân đoàn 1 được lệnh tăng tốc độ tiến quân. đến Lái Thiêu, sư đoàn theo đường 13 tiến thẳng về cầu Bình Triệu, bắt cả Lữ đoàn kỵ binh 3 và thiết đoàn 6 Ngụy đầu hàng (bọn này đang rút chạy về Sài Gòn), thu 140 xe tăng, thiết giáp. Trung đoàn 48 dùng 8 xe địch, bắt tù binh lái dẫn đường qua cầu Bình Triệu, theo đường Bạch Đằng – Chi Lăng tiến thẳng về Bộ Tổng tham mưu ngụy, bắt liên lạc với Đội biệt động Z.28. Anh em biệt động cho biết: Từ sáng, nhiều tướng tá ngụy đã bỏ chạy nhưng biệt kích dù vẫn ngoan cố giữ các cổng và chống cự quyết liệt. Từ 9 giờ sáng, một tổ biệt động 17 người cải trang làm lính ngụy bất ngờ đánh chiếm cổng số 3 rồi thọc thẳng vào khu làm việc trong Bộ Tổng tham mưu. Một tổ khác của Z.28 diệt khu trung tâm điện toán, bắt viên đại tá phụ trách trung tâm này cùng 30 sỹ quan, hạ sỹ quan và giao nhiệm vụ cho họ phải bảo vệ phương tiện khí tài để bàn giao cho quân đội giải phóng. Một tổ thứ ba của Z.28 , sau khi tiến công vào cổng số 2 không thành công, chuyển sang cổng số 3 thì gặp Trung đoàn 48 Trung đoàn trưởng cho tổ biệt động lên xe dẫn các mũi đánh thẳng vào bên trong Bộ Tổng tham mưu. 11 giờ 30, Trung đoàn 48 và biệt động đã làm chủ các cơ quan thuộc bộ Tổng tham mưu ngụy (trừ khu vực do Trung đoàn 28 Sư đoàn 10 đã chiếm giữ), với đầy đủ hồ sơ tài liệu, máy móc và phương tiện làm việc.

        Ở bên ngoài, Trung đoàn 27, Sư đoàn 320b, phối hợp với lực lượng vũ trang Bình Dương, đánh chiếm trung tâm huấn luyện Sư đoàn  ngụy và Chi khu quận lỵ Lái Thiêu; đánh quân địch từ Thủ Dầu Một chạy về, bắt tù binh dẫn đường tiến về cầu Bình Phước (do đặc công chiếm lại lần thứ hai lúc 7 giờ 30 phút). Sau khi qua cầu, quân ta đánh chiếm khu Bộ tư lệnh các quân chủng ngụy và Chi khu quận lỵ Gò Vấp, đồng thời cho một bộ phận tiến về “dinh Độc Lập”.

        Trong khi đó, Sư đoàn 312 tiến công tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận Sư đoàn 5 ngụy, tiến công căn cứ Phú Lợi, diệt lực lượng chính của địch ở Tiểu khu Bình Dương và lực lượng còn lại của Sư đoàn 5 ngụy. Bọn này gồm 1.200 tên cùng 36 xe đang rút từ Lại Khê, Bến Cát về An Lợi. Sau đó, Sư đoàn 312 phát triển lên đánh chiếm Chi khu quận lỵ Bến Cát, bắt toàn bộ hệ thống kìm kẹp của địch.

        Từ sáng, nhất là sau khi Dương Văn Minh kêu gọi ngừng bắn, cán bộ chính trị địa phương và lực lượng biệt động đã kịp thời phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp với lực lượng vũ trang từ ngoài tiến công vào, nhanh chóng làm chủ thi xã Thủ Dầu Một.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:33:26 am

        Trên hướng tây bắc:

        Từ 6 giờ sáng, một phân đội thuộc Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 tiến công tiểu đoàn dù 8 của địch và làm chủ ngã tư Bảy Hiền. Pháo binh cấp tập vào sân bay Tân Sơn Nhất khi phân đội này phát triển vào lăng Cha Cả rồi đánh chiếm cổng số 5 của sân bay. Nhưng cả ba lần tiến công, xe tăng đều bị hoả lực địch chặn lại. Quân ta phải tổ chức lại đội hình tiến công và đưa pháo 85 lên ngắm bắn trực tiếp, diệt hoả điểm chống tăng của địch. Vượt quan cửa số 5, phân đội đánh thẳng vào chiếm Bộ tư lệnh Sư đoàn 5 không quân và khu truyền tin trong sân bay. Trong khi đó, một phân đội khác của Sư đoàn 10 đánh chiếm Bộ tư lệnh quân dù và liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở “Trại Đa-vít”. đến 11 giờ, phân đội thứ ba tiến công Bộ tư lệnh không quân. đến 14 giờ, các Tiểu đoàn 4, 5, 6 Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 đã hoàn toàn làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất.

        Trong khi Trung đoàn 24 tiến công sân bay, Trung đoàn 28 Sư đoàn 10 được lệnh đánh thẳng vào Bộ tổng tham mưu ngụy, phối hợp với Trung đoàn 48 Sư đoàn 20b. Dọc đường tiến quân, Trung đoàn 28 liên tiếp diệt quân dù ngoan cố chống cự,11giờ, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn đến cổng số 1 của Bộ Tổng tham mưu diệt một lô cốt và bắn cháy hai xe thiết giáp. Bọn Biệt kích dù giữ cổng bỏ chạy. Quân ta nhanh chóng đánh thẳng vào trong và cùng Trung đoàn 48 và lực lượng biệt động làm chủ cơ quan Bộ Tổng tham mưu ngụy.

        Cũng trong thời gian trên, theo lệnh của quân đoàn, Trung đoàn 64 cho một tiểu đoàn bộ binh, có xe tăng dẫn đầu, tiến về “dinh Độc Lập”.

        Trên hướng tây:

        Từ 4 giờ 30 sáng, Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 Đoàn 232 đánh chiếm ngã ba Bà Quẹo rồi phát triển về ngã tư Bảy Hiên, ngay sau đội hình thọc sâu của Quân đoàn 3. Mặc dù máy bay địch ném bom dọc đường tiến quân, trung đoàn vẫn khẩn trương vượt lên theo đường Lê Văn Duyệt tiến về Bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô. Nhân dân đổ ra đường hoan hô bộ đội. Đến cổng biệt khu, thấy địch bỏ chạy, trung đoàn chỉ dùng một tiểu đoàn đánh vào mục tiêu, bắt tướng ngụy Lâm Văn Phát, Tư lệnh Biệt khu, hai tiểu đoàn còn lại được lệnh tiến về “dinh Độc Lập”.

        Trong khi đó, Trung đoàn 2 của Sư đoàn 9 nhanh chóng vượt qua ngã tư Bảy Hiền rồi theo đường Phan Thanh Giản tiến về “dinh Độc Lập”. Thấy đơn vị bạn đã đánh chiếm và làm chủ mục tiêu, trung đoàn này quay về Biệt khu thủ đô và toả ra chiếm các khu vực thuộc hai quận 2 và 10.

        Trung đoàn 3, sau khi giải phóng toàn bộ khu Bà Hom, Tân Tạo, diệt bọn địch từ Đức Hoà chạy về Sài Gòn, sau đó phát triển về hướng trường đua Phú Thọ, bức địch hàng, thu 18 khẩu pháo và hai kho súng trên 2.000 khẩu.

        Trên hướng nam:

        Từ 5 giờ sáng, Trung đoàn 24 (Quân khu 8) và Trung đoàn đặc công 429 phối hợp tiến công tiêu diệt địch ở ngã ba Bình Hưng Đông, đánh chiếm bốt cảnh sát quận 8 và cầu Nhị Thiên Đường rồi phát triển lên cầu chữ Y. 10 giờ 30 phút quân ta tiến vào chiếm Tổng nha cảnh sát, thu toàn bộ hồ sơ, tài liệu của địch. Sau đó, một bộ phận của Trung đoàn 24 tiến về “dinh Độc Lập”.

        Cùng lúc đó, sau khi vượt qua cầu Ông Thìn và ngã ba An Phú chiếm lĩnh tuyến đường 5, Trung đoàn 88 (Quân khu 8) chia thành hai mũi đánh chiếm Bộ tư lệnh Hải quân, Cảng Bạch Đằng và Chi khu quận lỵ Nhà Bè.

        Trên hướng đường 4, Sư đoàn 5 Đoàn 232 diệt và bức hàng toàn bộ Sư đoàn 22 ngụy, Liên đoàn Biệt động quân 6 và một liên đoàn bảo an, đánh chiếm các thị xã Tân An, Thủ Thừa. Quân địch ở Tân An chống trả quyết liệt. Trận đánh kéo dài từ 10 giờ đến 12 giờ kết thúc. Quân ta thu 9 khẩu pháo và 3 xe M113. Sau đó, Sư đoàn 5 nhanh chóng tiến công tiêu diệt Sư đoàn 22 ngụy trên đường 22, thu 10 xe M113.

        Như vậy là ngay trong buổi sáng ngày 30 tháng 4, các binh đoàn đột kích thọc sâu đã từ các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô và đến trưa đã chiếm xong 5 mục tiêu chủ yếu đã được xác định là “dinh Độc Lập”, Bộ Tổng tham mưu, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất, sau đó đã nhanh chóng toả ra đánh chiếm các mục tiêu và khu vực khác trong thành phố. Một số điểm nổi lên trong sự hiệp đồng giữa các hướng là sau khi đánh chiếm mục tiêu chủ yếu được giao, các mũi đột kích đều cho một bộ phận tiến về “dinh Độc Lập” để hỗ trợ cho đơn vị bạn có trách nhiệm đánh chiếm mục tiêu quan trọng hàng đầu này.

        Đến buổi chiều, ta đã hoàn toàn làm chủ thành phố Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:33:48 am

        Về phong trào nổi dậy của quần chúng vùng ven đô và nhất là nội đô, qua báo cáo của thành đội, sau này Bộ Tổng tham mưu mới nắm được tình hình cụ thể hơn,. Dưới sự chỉ đạo của các cơ sở cách mạng, của cán bộ chính trị do Thành uỷ phái vào và của các lực lượng biệt động thành, nhân dân ở nhiều nơi đã kịp thời nổi dậy phối hợp với cuộc tiến công của bộ đội trên các hướng, tạo nên một khí thế cách mạng rầm rộ, sôi nổi, áp đảo quân địch ngay từ đêm ngày 29 tháng 4.

        Hoạt động phối hợp và hỗ trợ của quần chúng trong quá trình bộ đội tiến công vào nội đô, diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú: tổ chức đón và dẫn đường cho bộ đội; sử dụng các loại xe chở bộ đội nhanh chóng tiếp cận và đánh chiếm các mục tiêu; dùng loa kêu gọi, giải thích, hù doạ, buộc địch đầu hàng; hướng dẫn bộ đội bắt bọn cảnh sát ác ôn và sỹ quan ngụy ngoan cố chạy trốn; cao hơn cả là xoá bỏ chính quyền địch, lập chính quyền tự quản ở phường, khóm. đường phố được giải phóng đến đâu, rừng cờ cách mạng lan nhanh đến đó, nhiều nhất là ở Hạnh Thông, Bình Hoà, Phú Nhuận, Bàn Cờ, Vườn Chuối, đường Trần Quốc Toản, cư xá Lữ Gia, ngã tư Bảy Hiền, Tân Phú, Phú Lâm....

        Hoạt động nổi bật của quần chúng nội thành đêm ngày 29 và sáng ngày 30 tháng 4 là có nơi như ở nhà máy sợi Khánh Hội, nhân dân nổi dậy phá kho lấy súng của địch trang bị cho tự vệ phường; bao vây trụ sở phường, kêu gọi địch đầu hàng, tuyên bố xóa bỏ chính quyền địch, như ở phường Bình Tây, Quận 6 (Chợ Lớn), phường Trần Quang Khải, Quận 1, phường Bến Thành, Quận 2, phường Trương Minh Giảng, Bàn Cờ, Quận 3... Anh chị em tù chính trị ở nhà lao Chí Hoà, Quận 10, nổi dậy phá ngục tự giải phóng, bung ra phát động nhân dân phường Chí Hoà đứng lên giành chính quyền. Khi Sư đoàn 9 tiến vào, lực lượng tự vệ Chí Hoà đã cùng anh em tù chính trị và quần chúng phối hợp đánh chiếm trại quân cụ, viện Quân y 115, trại Trần Nguyên Hãn. Ở nhiều phường khác, khi bộ tiến vào thành phố, hoạt động phổ biến của nhân dân là nổi dậy chiếm trụ sở phường, khóm, thu vũ khí của cảnh sát và phòng vệ dân sự, tiêu diệt bọn tề điệp, giải tán chính quyền địch.

        Công nhân, viên chức đã chấp hành chỉ thị của Thành uỷ và Uỷ ban khởi nghĩa nhanh chóng chiếm và làm chủ nhà máy, xí nghiệp, công sở của ngụy quyền trung ương và thành phố, không cho địch và những phần tử xấu phá hoại, lấy cắp hoặc tẩu tán máy móc, vật liệu sản xuất, kho tàng, hồ sơ tài liệu. Đặc biệt là các nhà máy điện và nhà máy nước Thủ Đức, ngay trong ngày 30 tháng 4 vẫn cung cấp đầy đủ điện nước cho thành phố (nguồn điện chỉ bị gián đoạn từ hai giờ). Tại hầu hết các nhà máy dệt, thực phẩm, cơ khí, công nhân đã bảo vệ an toàn máy móc, nguyên vật liệu, kho tàng. Hồ sơ, tài liệu và phương tiện làm việc của các công sở ngụy quyền đều được bảo vệ để bàn giao uỷ ban quân quản.

        Nhìn chung lại, trong hai ngày 29 và 30 tháng 4, trong tổng số 160 phường, đã có khoảng 60 phường nội thành nổi dậy giành chính quyền trước và trong khi chủ lực từ các hướng tiến công vào. Sau khi bộ đội đã vào thành phố, chính quyền địch trong 100 phường, khóm còn lại đều tan rã hết. Kết quả của các đòn tiến công quân sự trong quá trình của cuộc tổng tiến công đã tạo nên một thế hết sức thuận lợi cho phong trào quần chúng nổi dậy. Sự phối hợp kịp thời của lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và quần chúng từ vùng ven vào nội đô, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cánh quân chủ lực tiến công nhanh chóng, đã tiêu diệt lớn lực lượng địch, thúc đẩy nhanh đà tan rã, sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền, thực hiện được việc đánh chiếm và làm chủ thành phố còn nguyên vẹn nhanh, gọn, tạo điều kiện để đời sống nhân dân trong thành phố sớm trở lại bình thường.

        Về tình hình đồng bằng sông Cửu Long, báo cáo của các Quân khu 8 và 9 cho thấy: trong những ngày chiến dịch Hồ Chí Minh đang diễn biến thuận lợ thì phong trào chuẩn bị tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và nhân dân hết sức khẩn trương. Quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã phối hợp kịp thời và đắc lực với chiến trường trọng điểm Sài Gòn, thực hiện xuất sắc chủ trương đón thời cơ của Trung ương Cục là từng địa phương tự giải phóng với lực lượng chính mình.

        Từ sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Cục đến khi mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh, ở đồng bằng sông Cửu Long, ta đã phát triển được 36 ngàn dân quân tự vệ, du kích, đã tuyển thêm được gần 14 ngàn tân binh, đã đưa du kích lên phát triển được thêm 30 tiểu đoàn bộ đôi địa phương. Lực lượng chính trị cũng phát triển mạnh. Quần chúng được động viên, tổ chức thành đội ngũ mạnh mẽ. Tất cả đã sẵn sàng chuyển lên cao trào tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng địa phương.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:34:23 am

        Đường 4, con đường huyết mạch cuối cùng của địch nối liền Sài Gòn với miền Tây đã bị cắt đứt hoàn toàn. Bọn địch ở đồng bằng sông Cửu Long không những không chi viện được cho đồng bọn ở Sài Gòn mà còn bất lực trước khi hình thức nổi dậy tự giải phóng của nhân dân trên toàn địa bàn chiến lược quan trọng đông người, nhiều của này.

        Khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, trong lúc chủ lực Quân khu 8 cắt đường 4 và có một bộ phận phối thuộc cho Đoàn 232 tiến vào Sài Gòn từ hướng nam, chủ lực Quân khu 9 vừa tham gia cắt đường 4 vừa tiến công địch ở Cần Thơ, thì lực lượng vũ trang các tỉnh, huyện, xã cùng quần chúng thực hành tổng tiến công và nổi dậy đều khắp.

        Quân khu 4 Ngụy bị cô lập với Sài gòn, tiếp đến là việc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, bọn địch ở đồng bằng sông Cửu Long hoang mang, dao động cao độ, không còn ý chí đề kháng. Các cấp lãnh đạo địa phương đã nhạy bén chớp thời cơ, phát động quần chúng nổi dậy, xoá bỏ chính quyền địch, giành quyền làm chủ ở từng địa phương. Với kinh nghiệm sẵn có về vận dụng chiến lược tổng hợp, kết hợp chặt chẽ hai chân, ba mũi, cấp uỷ các khu, tỉnh, huyện, xã đã động viên hàng chục vạn quần chúng xuống đường biểu dương khí thế cách mạng, bao vây đồn bốt, quận lỵ, chi khu để làm áp lực, đẩy mạnh hoạt động binh vận của hàng ngàn, hàng vạn gia đình binh sỹ, kêu gọi con em trong hàng ngũ địch hạ vũ khí đầu hàng cách mạng. Cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Bước đầu, do tài liệu chưa thật đầy đủ, chúng tôi tạm thời khái quát thành ba hình thức dưới đây:

        Trước hết là hình thức tiến công của lực lượng quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng tại chỗ như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Vị Thanh... Lực lượng vũ trang đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã thì quần chúng nổi dậy bao vây bức hàng, bức rút hàng loạt đồn bốt. Gia đình quân ngụy xuống đường kêu gọi con em, tranh thủ cô lập bọn sỹ quan, tạo thế cho tiến công quân sự. Khi bọn địch ở Sài Gòn đầu hàng thì quần chúng tràn vào toà hành chính, buộc tỉnh trưởng đầu hàng. Ba mũi giáp công áp đảo buộc các đơn vị bảo an địch phải hạ vũ khí. Khi bọn địch ở sân bay Sóc Trăng phản kích, lực lượng vũ trang đánh lui địch, bao vây bức hàng thì quần chúng nổi dậy chiếm thị xã. Cũng có nơi như ở Vị Thanh, khi địch ở Sài Gòn đã đầu hàng nhưng quân địch ở đây vẫn chống cự quyết liệt, lực lượng vũ trang bắn pháo vào hậu cứ địch, đoạt xe M113 tiến công vào dinh tỉnh trưởng, cuối cùng làm chủ thị xã.

        Một hình thức khác là khi lực lượng vũ trang tiến công áp sát các mục tiêu ở ngoại vi, quần chúng nắm thời cơ nổi dậy giành chính quyền như Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch Giá, Vĩnh Long, Bến Tre, Gò Công. Ở Cần Thơ khi nghe tin địch ở Sài Gòn đã đầu hàng, Thành uỷ lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở các phường, mở khám giải phóng tù chính trị và thanh niên bị bắt. Quần chúng xuống đường chiếm đài phát thanh gây áp lực, làm tan rã bọn địch ở sân bay Trà Nóc, trong khi đó bộ đội từ các hướng tiến công vào thị xã. Ở Vĩnh Long, sau khi đã cắt đường 4, ta gọi địch đầu hàng, chúng ngoan cố chống cự, lực lượng vũ trang tiến công các vị trí trong thị xã, quần chúng nổi dậy bao vây dinh tỉnh trưởng buộc phải đầu hàng. Nhân dân làm chủ thị xã sáng ngày 1 tháng 5. Ở Gò Công, ta không có lực lượng tiến công địch từ ngoài vào mà huy động quần chúng tập trung các loại xe nhanh chóng tiến vào thị xã bằng nhiều hướng, cùng nhân dân tại chỗ bức địch đầu hàng. Ta làm chủ thị xã đồng thời với các huyện.

        Hình thức thứ ba là công tác binh vận đi trước một bước, kết hợp với quần chúng nổi dậy buộc địch hàng trước khi lực lượng vũ trang tiến công địch như ở Bác Liêu, Châu Đốc. Do ta cử người gặp trước, buộc tỉnh trưởng (hoặc phó tỉnh trưởng) phải đầu hàng, ta lấy xe cắm cờ Mặt trận đưa quần chúng kéo vào dinh tỉnh trưởng, nơi đã có hàng vạn quần chúng tại chỗ tập trung từ trước. Tỉnh trưởng tuyên bố đầu hàng cách mạng. Ta tiếp nhận bàn giao chính quyền, 6 tiểu đoàn của ta ở Bạc Liêu không phải ra quân chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:34:49 am

        Như vậy là, trừ một số nơi địch ngoan cố chống lại, còn nhìn cùng, chỉ trong hai ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5, cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân các tỉnh, huyện, xã ở khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long đã giành thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn và ít tổn thất. Bằng tiến công đồng loạt, nổi dậy đồng loạt, ta đã làm chủ toàn bộ các thành phố, thị xã, thị trấn, đã chiếm các căn cứ quân sự lớn, các chi khu quận lỵ, các sân bay, đã tiêu diệt, bức hàng và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 4 ngụy, đánh đổ toàn bộ chính quyền địch từ tỉnh, huyện đến cơ sở, giải phóng hoàn toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long và các đảo Công Sơn, Phú Quốc, kết thúc thắng lợi trọn vẹn sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau khi được bổ sung và chỉnh lý bước đầu, bản báo cáo được trình bày trong cuộc họp ngày 2 tháng 5 của Thường trực Quân uỷ. Các anh góp nhiều ý kiến quan trọng, nhất là những kết luận rút ra về chỉ đạo vận dụng các phương châm, phương thức trong quá trình chuẩn bị và thực hành đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng.

        Trong hội nghị lần này, Thường trực Quân uỷ tập trung thảo luận một số vấn đề quân sự trước mắt đã được Bộ Chính trị nêu lên trong cuộc họp ngày 30 tháng 4.

        Trong việc củng cố vùng mới giải phóng, nhất là quân quản các thành phố lớn, phải phát động nhân dân giúp quân đội và các lực lượng an ninh kiên quyết truy quét bọn tàn quân còn lẩn trốn, nhất là bọn chỉ huy, bọn cầm đầu ác ôn ngoan cố không chịu ra trình diện, trốn tránh cải tạo. Phải nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, trật tự xã hội, để nhân dân sớm trở lại cuộc sống bình thường. Riêng đối với bọn Phun-rô đang lén lút hoạt động phá hoại vùng Tây Nguyên, phải chỉ đạo địa phương tiếp tục giúp đỡ bộ đội tiêu diệt bọn cầm đầu và kêu gọi những người còn lầm đường theo chúng mau tỉnh ngộ trở lại với gia đình, với buôn làng đã giải phóng. Đây là một công việc khó khăn, phức tạp, phải có kế hoạch phối hợp giữa các ngành, các cấp, để cùng nhân dân địa phương tiến hành kiên trì, vì nó có quan hệ đến các mặt quân sự, chính trị, xã hội và đoàn kết dân tộc.

        Việc thu hồi các phương tiện chiến tranh của địch là một công tác lớn. Bộ Tổng tham mưu và các tổng cục cần có kế hoạch kiểm tra lại các kho tàng và khối lượng rất lớn chiến lợi phẩm còn rải rác khắp nơi, để thống kê, bàn giao, bảo quản chu đáo và có kế hoạch điều chỉnh sử dụng đối với từng loại ở từng địa phương, đơn vị.

        Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu kế hoạch điều chỉnh bước đầu các đơn vị chủ lực của Bộ. Không nên để nhiều lực lượng trong thành phố, mà nên lui ra ngoài theo một kế hoạch sơ bộ về bố phòng trên cả hai miền, cả ở đô thị và nông thôn, biên giới và hải đảo. Cần điều chỉnh một bước, sau sẽ căn cứ vào kế hoạch phòng thủ chung mà bố trí lại cho phù hợp. Dù ở nông thôn hay thành phố, cần chỉ đạo các đơn vị tăng cường giáo dục bộ đôi chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật và chính sách vùng mới giải phóng, giữ gìn bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng.

        Đối với những nhân viên Ngụy quân, Ngụy quyền, nhất là các sỹ quan và viên chức cao cấp, phải tổ chức tốt việc giáo dục, cải tạo, để họ có thể trở thành những công dân tốt của chế độ xã hội mới.

        Ngoài ra, Thường trực Quân uỷ cũng đề cập đến một số công việc cụ thể như tổ chức lễ mừng chiến thắng trên cả hai miền, việc chuẩn bị tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trước mắt là kinh nghiệm chỉ đạo chuẩn bị và thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy vừa qua. Thắng lợi to lớn của 20 năm chống Mỹ, cứu nước và riêng hơn hai mươi năm cuối chiến tranh, đã cho chúng ta những bài học vô cùng quý báu về lãnh đạo chiến tranh, về chỉ đạo, chỉ huy các chiến dịch, về công tác tham mưu chiến lược. Cần nhanh chóng tổng kết, rút ra những kết luận chính xác, để vận dụng trong chỉ đao chiến lược trong giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế cuộc sống và chiến đấu mấy chục năm qua cho thấy âm mưu và thủ đoạn của bọn đế quốc và các thế lực phản động vòn vô cùng thâm độc: Mặc dù phải chịu những thất bại cay đắng, nhưng bản chất phản động không cho chúng có khả năng tiếp thu những bài học của lịch sử. Chủ động đi trước một bước trong việc tổng kết kinh nghiệm, làm cơ sở để nghiên cứu phương hướng xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong điều kiện mới là một yêu cầu vừa rất cơ bản vừa rất cấp bách, để trong bất kỳ tình huống nào, quân và dân ta cũng luôn chủ động trước âm mưu của mọi kẻ thù xâm lược”...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:44:36 am

4. THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN HỮU AN

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/TT_Nguyn_Hu_An_zps1chglq8u.jpg)


       
        Thượng tướng Nguyễn Hữu An sinh tháng 10 năm 1926 trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Trường Yên huyện Gia Viễn (nay là Hoa Lư) tỉnh Ninh Bình. Đồng chí tham gia quân đội tháng Tám năm 1945 và từ đó liên tục chiến đấu trên các chiến trường, góp phần vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

        Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Nguyễn Hữu An trưởng thành từ chiến sỹ đến Trung đoàn trưởng. Tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Trung đoàn 174 Đại đoàn 316 do Nguyễn Hữu An chỉ huy được giao đảm nhiệm đánh chiếm đồi A1 – lá chắn phía Đông tập đoàn cứ điểm và là một vị trí trọng yếu bảo vệ chỉ huy sở của tướng Đờ Cát. Trận đánh kéo dài, đòi hỏi ở người chỉ huy bản lĩnh vững vàng, ý chí và trí tuệ kiên cường, sắc sảo: tập trung được sức mạnh ý chí của toàn đơn vị quyết giành thắng lợi. Sau gần 2 tháng giằng co quyết liệt giữa ta và địch, sáng ngày 7 tháng 5 Trung đoàn 174 đã đập tan hoàn toàn sức kháng cự cuối cùng của địch, làm chủ A1, mở toang cánh cửa sắt cho quân ta tiến vào hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

        Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Nguyễn Hữu An được giao đảm nhiệm:

        - Năm 1955 – 1964: Tham mưu phó Sư đoàn 16, Tham mưu phó Quân khu Tây Bắc.

        - 1964 – 1967: Phó Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Sư trưởng các Sư đoàn 6 và 1.

        - Từ 1968 – 1974 là Tham mưu trưởng Quân Khu Hữu Ngạn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 308, Phó Tư lệnh các Mặt trận: 31, Đường 9 và Quân khu Trị - Thiên.

        Năm 1975 là Tư lệnh Quân đoàn 2 tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Trải qua nhiều cương vị công tác, sống gắn bó với cán bộ, chiến sỹ trên nhiều chiến trường gian khổ và ác liệt, đồng chí Nguyễn Hữu An đã tỏ rõ bản lĩnh của “nhà chỉ huy quân sự quyết đoán và mưu lược”. Đồng chí đã cùng bao đồng đội và nhân dân viết nên những bản anh hùng ca tuyệt đẹp - những chiến thắng còn vang vọng trong lịch sử như: Plây Me, Tu Mơ Rông, Ia Đrăng (Tây Nguyên), Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Chiến dịch Cánh Đồng Chum.

        Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh xuân 1975, lực lượng Quân đoàn 2 do Nguyễn Hữu An chỉ huy nằm trong cánh quân phía Đông thần tốc hành tiến dọc miền Duyên Hải, giải phóng Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết... và cắm lá cờ giải phóng trên nóc dinh Độc lập trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

        Đất nước thống nhất, đồng chí Nguyễn Hữu An tiếp tục đảm nhiệm: Phó Tổng thanh tra quân đội (1981-1984); Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng, Quyền Tư lệnh Quân khu 2 (1984-1987). Từ năm 1988 đến 1991 là Giám đốc Học viện Lục Quân, sau đó là Giám đốc Học viện Quốc Phòng (1991-1995).

        Thượng tướng Nguyến Hữu An vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng nhất, ba Huân chương Quân công (hai hạng nhất, một hạng ba), ba Huân chương Chiến công (hạng nhất, nhì, ba).


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:45:59 am

CHỚP LẤY THỜI CƠ MỚI

        “ Tháng 5 năm 1974 tôi nhận lệnh rời chiến trường Trị - Thiên ra Hà Nội chuẩn bị đi học ở Liên Xô. Các bạn tôi, gia đình tôi và nhất là tôi rất vui mừng với chuyến du học ngoại quốc có một không hai này.Từ trước tới giờ tôi chưa được đi học trường lớp hẳn hoi, nên chuyến đi học này đối với tôi đáng giá biết bao. Tôi tin rằng, lần này chắc chắn sẽ không có chuyện hụt hẫng như lần trước.

        Nghỉ vài ngày, thân thể chưa sạch bụi chiến trường đã có người của Cục Cán bộ tới báo: “Thôi không đi học ở Liên Xô, anh cứ nghỉ chờ nhận nhiệm vụ mới”.

        Hôm ấy tôi nhận được vài giấy mới xem trận đấu bóng ở sân Hàng Đẫy.

        Trung tướng Lê Trọng Tấn thấy tôi đang bước vào khán đài A, anh ra vui mừng vời tôi vào ngồi bên. Anh Tấn hỏi tôi:

        - Nghe tin anh ra để đi Liên Xô học phải không?

        - Vâng, nhưng lại có lệnh thôi rồi.

        Anh Tấn đỏ tai lên, nói gằn giọng:

        - Quái lạ thật ... thằng nào chiến đấu thì cứ chiến đấu miết. Tôi phải nói việc này mới được.

        Có lẽ nhờ anh Tấn nói với ai đó, tôi vẫn được sang Liên Xô học. Những năm tháng chiến đấu hiệp đồng tương đối hiện đại, với đối phương là quân đội Mỹ đã giúp tôi dễ dàng tiếp thu nguyên tắc, lý luận  quân sự học ở trường. Trong thời gian học, các thầy đã giúp tôi hiểu ra nhiều điều mới mẻ, có tính nguyên lý ngay trong những trận đánh tôi đã trải qua. Tôi biết ơn Đại tướng - Viện trưởng Sa-vơ- rốp, Thượng tướng Ma-za-ép đã tận tình giúp đỡ và nhiều cán bộ của học viện đã tỏ sự ưu ái đặc biệt đối với những học viên Việt Nam chúng tôi.

        Trở về nước (1-1975) vào dịp giáp Tết, tới sân ga Hàng Cỏ đã có người của Cục Cán bộ ra đón, tôi rất xúc động trước cử chỉ ấy của tổ chức. Bước lên xe, một trợ lý của Cục Cán bộ nói nhỏ với tôi: “Sáng ngày mai anh vào ngay Văn Phòng Bộ Tổng tư lệnh họp”.

        Tôi ăn mặc chỉnh tề vào cuộc họp. Các cử toạ trong cuộc họp đông đủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Trung tướng Tổng tham mưu phó Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Lê Tự Đồng, Thiếu tướng Lê Linh, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, và vài cán bộ của Cục Tác chiến.

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp công bố quyết định tôi về thay Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Quân đoàn trưởng Quân đoàn 2. Tiếp đó là cuộc thảo luận về chọn hướng chiến dịch. Nghe đâu trước đó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu đã quyết định chọn hướng chiến dịch hướng đường 12 và khu vực bắc đường 12 (tây bắc Huế).

        Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 nghiên cứu trao đổi thấy rằng: hướng đường 12 địch hết sức đề phòng, và tăng cường lực lượng phòng thủ. Nếu ta đánh ở hướng này phải đột phá nhiều, đường sá chưa thông, cơ động khó khăn, và nếu có thời cơ thì không phát triển nhanh được.

        Cuộc họp (đầu tháng 2-1975) này đã tập trung thảo luận vào ý kiến đề đạt của Quân đoàn 2: chọn hướng tập trung chủ yếu của chiến dịch vào khu vực tây nam Thừa Thiên (khu vực đường số 14) tiến công dọc tả hữu sông Truồi ra đường số 1. Qua hai ngày thảo luận, mọi người đã nhất trí với ý kiến trên của Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên. Chọn hướng này là hướng có lợi thế để triển khai binh hoả lực của quân đoàn, tập trung vào đối tượng chủ yếu là Trung đoàn 54 của địch bố trí trên khu vực điểm cao Núi Bông, Núi Nghệ, 224, 273, 308, vùng mỏ Tàu... là hướng hiểm yếu và bất ngờ với địch, khi thời cơ lớn xuất hiện ta có thể nhanh chóng chiếm đường số 1 chia cắt Huế, Đà Nẵng, hình thành thế bao vây cô lập địch ở Trị - Thiên - Huế.

        Cuối cuộc họp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc nhở Quân khu và Quân đoàn phải chuẩn bị hai kế hoạch, kế hoạch thường lệ và kế hoạch đón thời cơ. Thời cơ đó có thể ở chiến trường khác tác động, hoặc có thể ngay ở Trị - Thiên tạo nên.

        Từ hôm đó tôi không còn thời giờ để chuyện trò tâm sự với vợ con. Một chồng tài liệu mật của Cục Tác chiến cho mượn, buộc tôi ngốn ngấu đọc để nắm được tình hình chung và tình hình chiến trường Trị - Thiên, qua đó tôi thấy nhiều sự phát triển mới mẻ và to lớn trong thời gian tôi xa đất nước.

        Tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị đã dự kiến thời cơ chiến lược cụ thể có thể xuất hiện sớm. Do đó, ngoài kế hoạch cơ bản hai năm 1975 -1976, còn chuẩn bị một kế hoạch để sẵn sàng đón thời cơ, giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

        Chiến thắng Phước Long (6/1/1975) là chiến thắng đầu tiên trên chiến trường miền Nam, và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh ở gần Sài Gòn. Đây là một thắng lợi rất có ý nghĩa trong việc thăm dò khả năng chiến tranh của đế quốc Mỹ, góp phần củng cố vững chắc thêm quyết tâm chiến lược, đã được Bộ Chính trị xác định.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:46:31 am

        Từ tình hình chung về chiến lược như vây, tôi thấy ý kiến của anh Lê Trọng Tấn nhắc “Phải thật nhanh, thật nhanh lên không thì không kịp thời gian” là rất xác đáng.

        Nghiên cứu tài liệu và chuẩn bị cá nhân hai  ba ngày, tôi lại tạm biệt vợ con để ra trận. Thế là cái Tết sum họp gia đình mà tôi chắc mẩm từ khi rời Liên Xô về đành gác lại. Xe lăn bánh theo quốc lộ 1, tới đường 9 không gặp trắc trở gì. Quang cảnh đường 9 độ này đã xóa đi nhiều dáng dấp chiến trận ác liệt trước đây. Đông Hà đã có vẻ một thị trấn, trên bến dưới thuyền tấp nập, quán cà phê, quán ăn, quán bán tạp phẩm... đã có nhiều khách dừng lại mua bán. Từng đoạn dọc đường 9 nếu giạt về phía bắc khoảng trên dưới một cây số ta sẽ gặp những cụm nhà lợp tôn, hoặc lợp tranh còn mới, gọn ghẽ xinh xắn. Đây là khu vực thủ phủ của Chính phủ cộng hoà miền Nam Việt Nam; là bản doanh của Sư đoàn 325 Quân đoàn 2; đây là doanh trại của một binh trạm lập chân hàng...

        Nếu ta đi ngược về phía tây giáp chân đường Trường Sơn, sẽ thấy có một con đường đất đỏ ngoằn ngoèo chạy về phía nam, những đoạn nối đuôi nhau và những làn bụi đỏ cũng nối đuôi nhau bay lơ lửng trên sườn núi. Đó là con đường chiến lược đông Trường Sơn. Hơn ba vạn người gồm bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân kỹ thuật được điều động tới đây mở đường...

        Không khí của khu vực này có cái gì đó sôi sục khẩn trương thôi thúc lòng người. Tôi có cảm giác mình đang đến với một công việc lớn lao, trang nghiêm hơi muộn màng, phải gấp lên mới kịp.

        Đến nơi chúng tôi tổ chức ngay cuộc họp Đảng uỷ bất thường. Anh Bùi Công Ái – Tham mưu trưởng Quân đoàn truyền đạt lại quyết tâm, đã được Bộ thông qua và những chỉ thị của Quân uỷ Trung ương. Trên cơ sở đó Bộ tư lệnh sơ bộ hạ quyết tâm và có kế hoạch triển khai phân công nhau xuống truyền đạt và đôn đốc các đơn vị.

        Bộ tư lệnh Quân đoàn lúc này gồm: Tôi là Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Linh – Chính uỷ, Đại tá Hoàng Đan – Phó tư lệnh, Đại tá Công Trang – Phó Chính uỷ, Thượng tá Bùi Công Ái – Tham mưu trưởng, Thượng tá Lê Khả Phiêu - Chủ nhiệm chính trị, thượng tá Nguyễn Ngọc Thực - Chủ nhiệm hậu cần. Chúng tôi đã từng quan hệ công tác với nhau, hiểu biết nhau nên khi lắp ghép vào một cơ quan, không phải mất thời gian rà trơn mà guồng máy vẫn chạy đều.

        Đại tá, Phó tư lệnh Hoàng Đan đang ở A Lưới với Sư đoàn 324. Tham mưu trưởng Ái truyền đạt lại quyết tâm của Đảng uỷ và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, đồng thời các anh Đan và Ái giúp sư đoàn xây dựng phương án tác chiến.

        Kế hoạch chuẩn bị chiến trường chuyển động rất gấp gáp, trinh sát chiến trường, mở đường, vận chuyển lương thực đạn dược vào “lót ổ”, và chuyển quân vào khu vực tập kết hầu như cùng làm một lúc.

        Chỉ còn mươi ngày nữa là Tết Nguyên đán. Chúng tôi tổ chức cho anh em ăn tết sớm để vào trận, tuy vậy có nhiều anh em cán bộ chiến sỹ không có thời gian để vui một bữa tết. Đoàn cán bộ cơ quan quân đoàn và cán bộ Sư đoàn 324, 325 đi chuẩn bị chiến trường đã đón giao thừa trên đỉnh động Truồi.

        Ba ngày trinh sát thực địa xong, Đại tá Hoàng Đan và Thượng tá Bùi Công Ái đã hướng dẫn và thống nhất với các đơn vị triển khai phương án tác chiến ngay tại thực địa, đồng thời ra lệnh tiến hành việc làm đường (102) từ Vũng Tròn vào khe Truồi, bảo đảm đường cơ động pháo của Sư đoàn 325.

        Trung tuần tháng 2 Sư đoàn 324 rời khỏi hậu cứ A Lưới, hành quân vào vị trí tập kết chiến dịch ở khu vực Vũng Tròn. Cùng thời gian đó Sư đoàn 325 bàn giao khu vực phòng ngự, vùng giải phóng Quảng Trị cho các lực lượng Quân khu Trị - Thiên, khẩn trương kéo quân về phía tây nam Thừa Thiên. Theo lệnh của Bộ: lực lượng xe tăng, pháo tầm xa chưa tham gia đợt đầu, nhưng chúng tôi cũng cho di chuyển vào A Lưới để kịp thời cơ chiến đấu. Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) đứng ở vùng giải phóng Quảng Trị, được lệnh sẵn sàng cơ động ra phía trước.

        Vẫn là chuyện đường sá. Tôi không bao giờ quên đợt 3 của chiến dịch Cánh Đồng Chum – Loong Chẹng. Bộ binh yêu cầu pháo bắn chi viện nhưng pháo bắn hụt tầm, bởi vì không có đường vận chuyển. Các đơn vị phía trước không đủ gạo, đạn tiếp tục chiến đấu, cũng vì không có đường vận chuyển. Kết thúc chiến dịch không gọn cũng vì không có đường vận chuyển. Bài học nhớ đời đó, hồi còn là Phó Tư lệnh B5 tôi đã bàn với các anh Cao Văn Khánh, Lê Tự Đồng, Hoàng Văn Thái, Thanh Quảng, được các anh thống nhất dùng một trung đoàn công binh mở con đường Nam Đông- Khe Tre. Đang làm dở dang, tỉnh đội Trị - Thiên gặp khó khăn về hậu cần, xin chuyển sang làm đường xe thồ. Đến chiến dịch này lại khai thác tuyến đường ấy. Quân khu Trị - Thiên đã huy động tối đa lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong thay nhau ngày đêm lao động mở đường. Đến đầu tháng 3 năm 1975 đã hoàn thành con đường đất cho cơ giới qua lại nối với đường 14, làm mới 10 ki-lô-mét đường nhánh chạy qua các ngọn đồi xung quanh động Truồi, mở đường cái hai bên tả, hữu ngạn sông Truồi dọc theo dãy núi Kim Sắc, bảo đảm cho Sư đoàn 325 vào tập kết, chiến đấu và sẵn sàng cơ động ra đường 1 khi có thời cơ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:47:20 am

        Đầu tháng 3 năm 1975 Sư đoàn 324 đã vào chiếm lĩnh trận địa, sẵn sàng nổ súng mở màn chiến dịch, cũng là lúc hậu cần quân đoàn đưa cơ bản đủ cơ số dự trữ lượng thực đạn dược... vào Nam Đông, Khe Tre, động Truồi bảo đảm giai đoạn đầu chiến dịch cho Sư đoàn 324.

        Các bạn thử tưởng tượng xem đường đất mới, mưa cuối mùa dầm dề; trên đường lúc nào cũng có người đi, xe đi nườm nượp sẽ xảy ra chuyện gì? Vâng! Lội và lội bì bõm trong sình lầy, lúc nào người đi bùn đất cũng ngập quá mắt cá chân; xe đi như rùa bò đôi lúc quay bánh tại chỗ, phải xúm nhau lại “hò dô” đùn đẩy. Pháo 105 đưa vào trận địa Lưỡi  Cái ở độ cao 847 mét phải vượt dốc 20 đến 40 độ dưới trời mưa, Lữ 164 pháo được bộ binh, công binh giúp sức mới kéo được pháo vào trận địa. Gian khổ khó khăn chắng kém gì kéo pháo vào Điện Biên Phủ. Pháo cao xạ đưa vào đèo Mụ Khâm cũng vất vả tương tự. Các đơn vị hậu cần, các binh chủng tiềm nhập trận địa, nhiều việc tưởng như bó tay, nhưng cuối cùng đã vượt qua.

        Khoảng trung tuần tháng 2 năm 1975, ở giữa những ngày chót của công tác chuẩn bị, Đảng uỷ Quân đoàn họp mở rộng để thông qua quyết tâm và phương án tác chiến lần cuối. Vấn đề được tập trung thảo luận là: làm thế nào kịp thời gian nổ súng, để phối hợp với các chiến trường bạn, chủ yếu phối hợp với Buôn Ma Thuột (trên quy định Trị - Thiên nổ súng ngày 5 tháng 3). Thứ hai là: sử dụng lực lượng và cách đánh như thế nào (lúc này chỉ có 5 trung đoàn _ Sư 304 (thiếu Trung đoàn 9) và 1 trung đoàn của Sư đoàn 324 đang ở Thượng Đức.

        Khác các chiến dịch trước đây, quân chủ lực cùng với địa phương lập ra bộ chỉ huy chiến dịch, lần này quân đoàn do Bộ trực tiếp. Nhưng để phối hợp chặt chẽ, ngày 21 tháng 2 tôi và anh Lê Linh đã tới dự cuộc họp của Đảng uỷ Mặt trận Trị - Thiên để bàn kế hoạch hiệp đồng.

        Theo ý chỉ đạo của Bộ, Trị - Thiên - Huế trong năm 1975 sẽ mở liên tiếp hai chiến dịch tổng hợp (ngoài ra phải dự kiến kế hoạch thời cơ). Chiến dịch Xuân Hè (mật danh 175) từ tháng 3 đến tháng 5.

        Chiến dịch Thu dự kiến khoảng tháng 7, tháng 8.

        Quyết tâm chung của mặt trận; Tập trung toàn bộ lực lượng của Quân đoàn và Quân khu Trị - Thiên đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đánh bại về cơ bản “kế hoạch bình định” của chúng ở Trị - Thiên, giành 350.000 dân ở nông thôn đồng bằng, phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh mạnh vào kho tàng, hậu cứ, triệt phá giao thông; tích cực tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn (kể cả giải phóng Huế).

        Riêng chiến dịch “K175” thực hiện các yêu cầu:

        - Ở đồng bằng từ phá lỏng đến làm tan rã hệ thống kìm kẹp của địch, giành từ 7 tới 10 vạn dân, phát triển lực lượng vũ trang và chính trị địa phương, đưa cơ quan chỉ huy xuống vùng sâu.

        - Ở giáp ranh, tiêu diệt từ năm đến bảy tiểu đoàn địch ( trong đó có 1 trung đoàn bị tiêu diệt gọn), phá vỡ thế phân tuyến, mở rộng hành lang xuống đồng bằng, chiếm lĩnh một số địa bàn có lợi nhất, nhất là khu vực đường 14, làm chủ khu vực điểm cao 303 - Mỏ Tàu, cắt đứt từng phần, tiến tới cắt đứt hoàn toàn giao thông vận chuyển chiến lược của địch giữa hai thành phố Huế và Đà Nẵng; đồng thời tích cực thu hút, kiềm chế lực lượng cơ động chiến lược địch, phối hợp với mặt trận chính Tây Nguyên và các chiến trường khác trên toàn Miền.

        - Khi có thời cơ, tung hết lực lượng ra tiến công giải phóng toàn bộ nông thôn, thực hiện chia cắt chiến lược, bao vây uy hiếp thành phố Huế. Nếu có điều kiện, kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế trong chiến dịch “K175” hoặc chiến dịch tiếp sau.

        Quân đoàn 2 tập trung lực lượng đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch từ đường 14 (Điểm cao 303 -  Mỏ Tàu) vào tới tây nam Phú Lộc.

        Quân khu Trị - Thiên đảm nhiệm hướng phối hợp quan trọng ở đường 12 (khu vực Chúc Mao, Sơn Na, Bình Điền, Hòn Vượn) và các hướng khác ở đồng bằng. Hướng Quảng Trị vừa là hướng phối hợp, vừa là hướng nghi binh chiến dịch.

        Căn cứ vào kế hoạch chiến dịch, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 quyết định sử dụng lực lượng:

        Sư đoàn 324 (thiếu 1 trung đoàn) đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu của quân đoàn ở khu vực Mỏ Tàu - điểm cao 303.

        Sư đoàn 325 (thiếu 1 trung đoàn) đảm nhiệm cánh phải của quân đoàn tiến công địch chiếm các điểm cao 560, 520, 494, dãy Kim Sắc, là bàn đạp cắt đứt đường 1 từ nam Lương Điền vào đến bắc Phú Lộc.

        Trung đoàn 9 (thuộc Sư đoàn 304) và Trung đoàn 3 (thuộc Sư đoàn 324) là lực lượng dự bị của quân đoàn trong chiến dịch (Trung đoàn 3 (324) đang ở Thượng Đức, Quân đoàn đã đề nghị với Bộ điều ra tây nam Huế trong giai đoạn 1 của chiến dịch).


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:47:57 am

        Tư tưởng chỉ đạo của chiến dịch là : “Bí mật, bất ngờ, táo bạo, chắc thắng, cơ động, linh hoạt: lấy tiêu diệt sinh lực địch làm chính, kết hợp giữa tiêu diệt gọn từng đơn vị địch với làm tan rã lực lượng địch, vừa đánh vừa tích cực chuẩn bị thêm, vừa chuẩn bị thêm vừa đánh; đánh từ nhỏ đến lớn, đánh dài hơi, càng đánh càng mạnh; khi có thời cơ thì mạnh bạo phát triển tiến công cùng các lực lượng của Quân khu giành thắng lợi lớn”.

        Chiến dịch này chúng tôi có nhiều thuận lợi: từ tư lệnh quân đoàn đến các phân đội đều quen thuộc địa hình, biết rõ đối tượng tác chiến mình sắp gặp là kẻ nào. Địa hình vùng giáp ranh phía tây bắc Thừa Thiên đồi núi thoai thoải trống trải có thể sử dụng cơ giới, nhưng khó giữ gìn bí mật, vào sâu một chút có nhiều điểm cao khống chế, nếu chiếm được những điểm cao đó ta sẽ có bàn đạp vững để tiến về đồng bằng. Hôm đi trinh sát tôi đứng trên đỉnh động Truồi, ở đây tầm mắt có thể bao quát cả một vùng rộng lớn. Đường số 1 đen thẫm sóng đôi với đường sắt cùng uốn lượn về phía nam, nằm giữa cánh đồng lúa xanh trỉa rộng tới ven biển. Điểm vào bức tranh đó là vịnh Cầu Hai, phá Tam Giang, đầm Thuỷ Tú loáng bạc trong nắng. Xa hơn nữa là biển Đông tím ngắt. Tôi nghĩ: vào một thời điểm nào đó chúng tôi sẽ tiến tới vùng đồng bằng ven biển và vào thành phố Huế. Chúng tôi sẽ phải đối mặt và phải loại trừ những sắc lính sừng sỏ như: Lữ dù 2, Lữ thuỷ quân lục chiến, Lữ biệt động quân 915, hai Liên đoàn bảo an 913, 914, Sư đoàn 1 bộ binh (Anh cả đỏ), 9 tiểu đoàn bảo an, 180 pháo, 40 xe tăng thiết giáp trên đường tiến quân của mình, và phải đối phó với lực lượng của toàn Quân khu 1 của chúng.

        Cái khó khăn buộc chúng tôi lưu tâm nhiều là thời gian gấp, từ lúc nhận lệnh đến giờ nổ súng gói gọn trong ba mươi ngày. Với chừng ấy thời gian mà công tác chuẩn bị chiến dịch gần như từ đầu. Tất cả công tác hậu cần trước đây dồn vào hướng đường 12, bây giờ lại bốc dỡ từ đường 12 lên vai người lính vận tải trèo qua hàng chục con dốc ngập ngụa bùn lầy để đưa tới đường 14. Các cán bộ trên quân đoàn được tung xuống để giúp đỡ cấp dưới chuẩn bị. Tôi lo lắng theo dõi chặt chẽ hàng ngày, hàng giờ từng công việc, từng bước đi của từng đơn vị cấp dưới mình. Cuối cùng, đúng ngày N các đơn vị đã chiếm lĩnh trận địa xong.

        Thời gian là một thử thách khắc nghiệt đối với người chỉ huy; thời gian là lực lượng vô hình thật lớn lao, chỉ có ai ý thức rõ về nó mới nắm bắt được. Các cấp chỉ huy cho tới người lính của quân đoàn đã đồng tâm hiệp lực và hết sức cố gắng để chạy tới địch trong công tác chuẩn bị đúng thời gian. Người tiêu biểu cho tinh thần ấy là Nguyễn Ngọc Thực - Chủ nhiệm hậu cần quân đoàn. Qua việc này và cả trong chiến dịch, với anh Thực không thể có cách đánh giá khác, đó là một tài năng tổ chức chỉ huy về công tác hậu cần, đó là tinh thần trách nhiệm rất cao, đã đáp ứng kịp thời cho nhiệm vụ chiến đấu trong hoàn cảnh nhiều biến động lớn.

        Đúng 5 giờ 45 phút ngày 8 tháng 3 năm 1975, Quân đoàn phát lệnh nổ súng. Trung đoàn pháo binh 78 đã bắn hai mươi phút cấp tập dữ dội vào các điểm cao 303, 5, 76, 223, Mỏ Tàu... rồi chuyển làn bắn vào các trận địa pháo địch ở Mũi Né, La Sơn, ấp 5.

        Sau khi pháo chuyển làn, các hướng của Sư đoàn 324 đã lợi dụng sương mù còn dày đặc thực hành tiến công.

        Trên hướng chủ yếu Trung đoàn bộ binh do Thiếu tá Nguyễn Văn Mai chỉ huy, tổ chức chuẩn bị chưa tốt, hiệp đồng thiếu chặt chẽ, khi chiếm lĩnh trận địa có bộ phận đi lạc, có bộ phận tới chậm nên gặp khó khăn ngay từ đầu. Buổi sáng ngày 8 tháng  3 Trung đoàn 2 xung phong nhiều đợt đều bị hoả lực địch chặn lại. Tiểu đoàn 6 bị thương vong nặng.

        Trên hướng thứ yếu của Sư đoàn 324, đại uý Trương Văn Núp – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 chỉ huy trực tiếp Tiểu đoàn 1 và 3 đánh vào các điểm cao 75, 76. Trung đoàn trưởng và các tiểu đoàn trưởng đã sử dụng rất tốt hoả lực của mình. Lần lượt tiêu diệt các hoả điểm địch ở ngoại vi xong. Đại đội 16 đã hạ góc bắn 12 ly 7 để bắn chế áp bộ binh địch tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 1 xung phong, tiến công thẳng vào tung thâm căn cứ 75. Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 3 tiến công căn cứ 76. Không đầy 30 phút Tiểu đoàn 1 và 2 đã đánh chiếm được hai căn cứ 75, 76 và một số điểm cao ven đường 14. Đến 10 giờ địch cho 10 xe GMC chở Tiểu đoàn 61 bảo an từ La Sơn lên phản kích. Đoàn xe địch đến Đồ Tăng vấp mình của công binh, ùn lại. Bốn khẩu 12 ly 7 của Đại đội 16 phục kích sẵn đã bắn mãnh liệt vào sườn bọn địch đang chạy tới, chạy lui hoảng hốt. Ngay sau đó, Đại đội 10 bộ binh đã xung phong tiêu diệt nốt những tên còn lại.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:48:29 am

        Tôi vẫn ở sở chỉ huy của Sư đoàn 324, theo dõi rất chặt diễn biến chiến đấu tới từng đại đội của Trung đoàn 2 và Trung đoàn 1. Tôi trao đổi với anh Duy Sơn, Sư đoàn trưởng; tại sao đợt đầu Trung đoàn 2 đánh không thắng? Bởi vì tham mục tiêu. Việc này khi thông qua phương án đã phát hiện, nhưng thiếu thái độ dứt khoát. Điểm nữa, do thiếu nhạy cảm, khi thấy địch đã thay đổi chiến thuật thì người chỉ huy lúng túng vẫn giữ cách đánh cũ. Thứ nữa, đơn vị này chưa thạo lối đánh tấn công bóc vỏ cứng, đã dùng lối tập kích nhỏ giọt... Chúng tôi quyết định tạm dừng lại củng cố tổ chức chỉ huy và lệnh cho Sư đoàn 325 triển khai ngay trận địa pháo bắn kiềm chế pháo địch ở các cứ điểm Lương Điền, Mũi Né, La Khê.

        Địch dùng lực lượng ở căn cứ 224 ra phản kích, ngày 9 tháng 3 chúng chiếm lại mỏm 6.

        Sư đoàn 324 chỉ thị cho Trung đoàn 2 bố trí lại lực lượng, điều Tiểu đoàn 4 vào cùng với Tiểu đoàn 5 đánh chiếm lại mỏm  và chuẩn bị một lần nữa đánh chiếm căn cứ 224. Tiểu đoàn 3 được tăng cường một đại đội đánh chiếm Đồi Cối; Đại đội 7 (Tiểu đoàn 8 ) mới từ Thượng Đức ra có nhiệm vụ đánh chiếm điểm cao 273. Sau khi củng cố bố trí lực lượng xong, ngày 10 tháng 3 các đơn vị được phân công, đã nổ súng tấn công đúng vào giờ địch ăn cơm tối. Cuộc tiến công dũng mãnh khiến bọn địch không chống đỡ nổi. Trung đoàn 2 đã chiếm được căn cứ 224 loại Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 1 ) ngụy ra khỏi vòng chiến. Đại đội 7 (Tiểu đoàn 8 ) trận đầu đánh thắng giòn giã, chiếm được điểm cao 273.

        Cùng thời điểm trên, sư đoàn dùng bộ phận nhỏ do Đại đội phó trinh sát Nguyễn Văn Lộc chỉ huy luồn sâu tập kích diệt cụm xe tăng địch ở Núi Nghệ. Triệu Tiến Din người dân tộc Tày (Lạng Sơn), chiến sỹ Đại đội 19 tên lửa chống tăng, trong trận này đã bắn 4 phát diệt 4 mục tiêu, trong đó có 3 xe tăng M48.

        Bị mất điểm cao 223 và khu vực đường 14, địch thấy rõ nguy cơ bị chia cắt giữa Huế và Đà Nẵng, sân bay Phú Bài sẽ bị uy hiếp và tiến tới rất nhanh Trị-Thiên-Huế sẽ bị cô lập. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 địch vội vã điều động lực lượng tăng cường phòng thủ khu vực này. Tiểu đoàn 61 biệt động ra Núi Bông. Tiểu đoàn 96 biệt động, Tiểu đoàn 94 và Chi đoàn thiết giáp 27 ra chiếm giữ điểm cao 31 và vùng xung quanh. Chi đoàn thiết giáp 37 cùng một đại đội bộ binh Trung đoàn 154 giữ khu vực điểm cao 52. Tiểu đoàn 2 bộ binh của Sư đoàn 1 ra chuẩn bị phản kích chiếm lại điểm cao 244 (224?).

        Cuộc chiến ở khu vực Sư đoàn 324 ngày thêm căng thẳng quyết liệt. Bộ binh địch liên tục phản kích. Lượng đạn pháo địch dội về phía ta trung bình mỗi ngày 4.600 quả. Mỗi ngày 60 lần chiếc máy bay tới ném bom. Điểm cao 224, trong vòng bảy ngày ta, địch giành đi giật lại, cuối cùng mỗi bên chiếm một phần.

        Cán bộ, chiến sỹ của Sư đoàn 324 đã thể hiện tinh thần chiến đấu rất ngoan cường dũng cảm, nảy nở nhiều tấm gương về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiêu biểu là Thượng uý Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thới. Đợt tấn công giành giật điểm cao 224 lần thứ năm, chiến sỹ giữ súng máy hy sinh, Thới lao tới xách trung lên kẹp vào nách vừa chỉ huy vừa bắn, dẫn đầu đội hình xung phong. Đúng vào lúc cùng đồng đội chiếm được đỉnh đồi, anh bị trúng đạn. Thới hy sinh, nhưng tấm gương chói lọi của anh vẫn dẫn dắt đồng đội tiếp tục tiến lên phía trước.

        Nhìn chung toàn bộ chiến trường Trị - Thiên qua tám ngày chiến đấu: Tại khu vực trọng điểm chiến dịch, Sư đoàn 324 đã phá vỡ một mảng lớn hệ thống phòng ngự của địch ở khu vực đường số 14, tiêu diệt và bắt sống gần 1.000 tên, diệt gọn một tiểu đoàn và đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn khác. Tuy kết quả cụ thể chưa lớn, nhưng Sư đoàn 324 đã đánh một đòn vào chỗ hiểm của địch, làm cho quân địch lo sợ phải vội vã điều động lực lượng. Chủ lực của địch bị thu hút vào đây. Chúng bâu lấy Sư đoàn 324. Sư đoàn 324 gặp rất nhiều khó khăn ở khu vực Núi Bông, Núi Nghệ, nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên hoạt động có hiệu quả.

        Suốt dải đồng bằng từ nam sông Thạch Hãn (Quảng Trị) vào tới vịnh Lăng Cô – nam Thừa Thiên, các lực lượng địa phương liên tục tiêu hao tiêu diệt địch và làm công tác vũ trang tuyên truyền, gây niềm tin trong quần chúng, khiến cho hậu phương địch ăn không ngon ngủ không yên.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:49:27 am

        Lực lượng địa phương hoạt động trên hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng đã tiêu diệt Chi khu Mai Lĩnh, đánh vào 12 phân chi khu, diệt gọn ba Phân chi khu Hải Lâm, Hải Vĩnh, Hải Nhi.

        Ở ba huyện phía bắc tỉnh Thừa Thiên, lực lượng địa phương đánh vào 9 phân chi khu, đã diệt gọn các Phân chi khu Phong Chương, Phong Bình, Phong Hoà, Phong Nhiêu, Quảng Phú.

        Ở vùng đồng bằng nam Thừa Thiên, lực lượng địa phương đánh vào 9 phân chi khu đã tiêu diệt gọn Phân chi khu Vĩnh Thái, Vĩnh Hoàn, Phú Hồ và tập kích bằng hoả lực vào quận lỵ Vĩnh Lộc, Cầu Hai.

        Ở khu vực đường số 12 trong ba ngày (từ 13 đến 15/3) các Trung đoàn 3, 6, 271 của Quân khu đã mở cuộc tiến công thắng lợi, tiêu diệt cứ điểm Chúc Mao và cao điểm 300, dùng hoả lực đánh vào Sơn Na tạo thêm một áp lực uy hiếp địch từ hướng tây bắc Huế.

        Kết quả lớn nhất đạt được của đợt này là: Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên đã nổ súng đúng thời gian, phối hợp được với Buôn Ma Thuột và các chiến trường toàn miền. Quân đoàn và Quân khu phối hợp chặt chẽ gây cho địch bối rối sơ hở và đã chiếm được những địa bàn quan trọng có giá tri chiến thuật để bước vào đợt 2.

        Vào thời điểm này (15-3-1975) chúng tôi đã mở cuộc họp Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh tại Sở chỉ huy cơ bản ở động Truồi. Cuộc họp đã đánh giá đúng thắng lợi vừa thu được và cũng thật nghiêm khắc chỉ ra những thiếu sót cần khắc phục kịp thời như: chuẩn bị và tổ chức chỉ huy chiến đấu chưa tốt; sử dụng lực lượng đánh vào các điểm cao 303 và 224 chưa thích hợp; chỉ huy các cấp nắm bộ đội không chắc, một số cán bộ chấp hành mệnh lệnh không nghiêm, tổ chức hiệp đồng giữa bộ binh với phái binh chưa chặt chẽ: pháo bắn chưa chính xác, chưa kịp thời; hiệu suất chiến đấu của quân đoàn đợt này còn thấp; tốc độ tiến công chậm; tư tưởng của một số cán bộ, chiến sỹ Sư đoàn 324 từ chủ quan khinh thường địch, khi gặp khó khăn đã tỏ ra bị quan giảm lòng tin ở thắng lợi.

        Khi bàn tới chủ trương tác chiến tiếp theo, cũng có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian Quân đoàn bước vào đợt 2 chiến dịch và thời cơ sử dụng Sư đoàn 325. Có ý kiến: Sư đoàn 324 đang gặp khó khăn nên tung Sư đoàn 325 vào ngay để chia lửa. Ý kiến khác: nên cho Sư đoàn 325 tiếp tục chuẩn bị theo đúng kế hoạch để tạo thế bất ngờ, bảo đảm chắc thắng cho đợt này.

        Bàn đi tính lại cái lợi, cái hại của từng cách giải quyết, chúng tôi đã đi tới quyết định tăng cường chi viện hoả lực để giảm bớt khó khăn cho Sư đoàn 324, đồng thời phổ biến kinh nghiệm và chuẩn bị tốt cho Sư đoàn 325. Thời gian bước vào đợt 2 chiến dịch vào ngày 20 tháng  năm 1975, sớm hơn kế hoạch cũ một ngày.

        Đối với Sư đoàn 325, thời gian chuẩn bị chiến đấu tuy có rút ngắn nhưng chất lượng chuẩn bị phải đạt ở mức cao nhất...(sau cuộc họp xét đề nghị của 325 chúng tôi đã đồng ý cho lùi thời gian nổ súng một ngày).

        Sau cuộc họp Thường vụ Đảng uỷ, chúng tôi chia nhau xuống các đơn vị để triển khai nghị quyết. Các anh Bùi Cộng Ái và Lê Khả Phiêu dẫn đầu đoàn cán bộ cơ quan xuống Sư đoàn 324. Tôi và các anh Hoàng Đan, Công Trang cùng một số cán bộ cơ quan xuống Sư đoàn 325. Ngoài việc phổ biến nhận định đánh giá tình hình tác chiến đợt 1, kế hoạch tác chiến đợt 2, chúng tôi sẽ cùng các đơn vị bàn bạc dân chủ biện pháp tiến hành công tác chuẩn bị và xây dựng kế hoạch tác chiến.

        Khoảng thời gian này cúng tôi vẫn nhận được nhiều tin của mấy đơn vị đang ở xa quân đoàn và các mặt trận khác.

        Sư đoàn 304 phối thuộc với Quân khu 5, hơn bốn tháng chiến đấu liên tục ác liệt đã giải phóng quận lỵ Thượng Đức, đánh bại Sư đoàn dù - dự bị chiến lược của ngụy và kìm chân chúng ở đây; tiếp đó sư đoàn cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến công giải phóng toàn bộ vùng B Đại Lộc.

        Ở mặt trận Tây Nguyên nổ súng ngày 10 tháng 3 tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột vào hồi 11 giờ ngày 11 tháng 3, tiêu diệt toàn bộ địch ở đây, chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ Tây Nguyên của địch. Sau đó bộ đội ta đã liên tiếp đập tan nhiều đợt phản kích của địch, tiêu diệt hai trung đoàn, đánh quỵ Sư đoàn 23 Ngụy.

        Địch từ chỗ chủ quan, sau khi thất bại ở Buôn Ma Thuột trở nên hoảng hốt rối loạn. Địch vội vã bỏ Plây Cu, Kon Tum rút chạy. Quân ta nắm vững thời cơ nhanh chóng chuyển sang truy kích địch và đang liên tục bao vây chặn đánh làm tan rã và tiêu diệt các cánh quân địch rút chạy.

        Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 tham gia trận đánh Buôn Ma Thuột do Trung đoàn trưởng Đăng Tụ và Chính uỷ Vũ Quang Thọ chỉ huy lập công xuất sắc, đã được Bộ tư lệnh chiến dịch gửi điện khen: Trung đoàn 95 tiến công vào Buôn Ma Thuột đã anh dũng, ngoan cường, mau lẹ thọc sâu vào tuyến phòng thủ của thị xã, làm rối loạn hệ thống bố phòng của địch, cùng đơn vị bạn tiêu diệt quân địch, chiếm mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:51:27 am

        Thắng lợi lớn ở Tây nguyên đã dẫn tới bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược có lợi cho ta. Ngày 17 tháng 3 Quân uỷ Trung ương họp, chuẩn bị cho một phương hướng hành động mới nhằm triệt để phát huy thời cơ thuận lợi đã giành được. Ngày 18 và ngày 25 tháng 3, bộ Chính trị họp hạ quyết tâm: hoàn thành giải phóng Sài gòn và miền Nam trước mùa mưa (tháng 5 năm 1975).

        Phương hướng chiến lược chủ yếu là tập trung lực lượng của cả nước giải phóng Sài Gòn – Gia Định.. Nhiệm vụ chiến lược trước mắt là tiến hành trận quyết chiến chiến lược đánh chiếm Huế - Đà Nẵng, tiêu diệt Quân đoàn 1 của địch, không cho chúng co về giữ Sài Gòn, nhanh chóng giải phóng các tỉnh miền Trung và Nam Trung Bộ, đồng thời đẩy mạnh công tác chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn...

        Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên chớp thời cơ lúc địch đang thay quân và tỏ ra hoang mang, đã chỉ thị cho các lực lượng ở hướng bắc chuyển sang tiến công địch trên toàn tuyến.

        Chiều 19 tháng 3, được tin địch đang rút khỏi Quảng Trị, Đại đội 7 xe tăng Lữ đoàn 203 phối thuộc cho Bộ tư lệnh Trị - Thiên đang chốt ở Cửa Việt đã chủ động xin nhận nhiệm vụ. Được trên chuẩn y, đêm 19 tháng 3 Đại đội 7 xe tăng đã bí mật men theo ven biển, luồn qua tuyến phòng thủ, bãi mìn của địch tiến vào tập kết ở Phương Lang Đông. Ngày 23 tháng 3 Đại đội 7 xe tăng đã cùng Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị nổ súng đánh vào Tường Vân, Tài Lương, Đạc Dầu, Thanh Hội, Gia Đẳng tiến vào giải phóng quận lỵ Mai Lĩnh.

        Cùng thời gian trên, Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 8 Quảng Trị và Đại đội Lê Hồng Phong chia làm thành nhiều mũi tiến đánh điểm cao 15, Bến Đá, Phước Môn, Long Hưng, La Vang, Thành Cổ...

        Tiểu đoàn 812, Tiểu đoàn 10 đánh Dốc Đầu, điểm cao 367 rồi phát triển xuống đường 1.

        Liên đoàn biệt động quân 14 và Liên đoàn bảo an 913 của địch bị đánh bất ngờ, bỏ trận địa hoảng hốt tháo chạy về nam sông Mỹ Chánh.

        Tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng vào ngày 19 tháng 3 năm 1975.

        Ngày 18 tháng 3 chúng tôi nhận được bức điện do Trung tướng – Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn ký: “ ... Địch rút khỏi Kon Tum, Plây Cu. Yêu cầu phải táo bạo khẩn trương...”.

        ... “Quân đoàn 2 phải nhanh chóng tiêu diệt quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt đường số 1. Tập trung sử dụng cả hai Sư đoàn (324, 325). Phải gấp rút chuẩn bị hoả lực đánh Đà Nẵng...”.

        Ngày 20 tháng 3, Bộ Quốc phòng gửi tiếp một bức điện nhắc Trị - Thiên không được dừng ở sông Mỹ Chánh và cho biết tin địch dự định rút khỏi Thừa Thiên – Huế. Bộ nhắc: phải theo dõi chặt chẽ tình hình chung, hành động táo bạo, kịp thời.

        Thực hiện chỉ thị của Bộ, kế hoạch tác chiến (đại cương) của Mặt trận Trị - Thiên sẽ phát triển như sau: Trên hướng bắc tổ chức làm hai mũi, mũi tiến công thứ nhất gồm hai tiểu đoàn địa phương Quảng Trị đánh chiếm quận Hướng Điền rồi phát triển vào cửa Thuận An và ngã ba Sình. Mũi thứ hai gồm Trung đoàn 4 bộ binh được tăng cường một tiểu đoàn địa phương Quảng Trị, Trung đoàn 46 làm dự bị; tiến đánh trận địa phòng ngự của Lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ rồi phát triển vào cửa An Hoà, ngã ba Sình.

        Trên hướng đường 12, các Trung đoàn 6 và 271 bộ binh của Quân khu có nhiệm vụ đánh chiếm khu vực Đình Môn, Kim Ngọc, vượt sông Hương rồi chia thành hai mũi, một mũi đánh vào thành phố Hế, một mũi đánh vào nam Huế để chia cắt Huế với Phú Bài.

        Trên hướng Quân đoàn 2; Tập trung lực lượng Sư đoàn 325 (thiếu Trung đoàn 95) nhanh chóng phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch ở dãy điểm cao 560, 520, 494, dãy Kim Sắc, tiến xuống đánh cắt đường giao thông huyết mạch giữa Hướng Điền và Phú Lộc, Tiếp đó, triển khai ngay lực lượng sẵn sàng đánh bại mọi cuộc phản kích của địch trên cả hai hướng Huế và Đà Nẵng, giữ vững khu vực đã chiếm. Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) đang từ Quảng Trị vào sẽ là lực lượng dự bị của Quân đoàn.

        Sư đoàn 324 (đủ) nhanh chóng diệt điểm cao 303 - Mỏ Tàu. Tiếp đó, hình thành hai mũi, một mũi đánh La Sơn, Phú Bài và theo đường số 1 đánh thẳng vào thành phố Huế; một mũi bí mật vu hồi xuống đồng bằng, đánh chiếm cảng Tân Mỹ, bịt chặt cửa Thuận An.

        Bộ tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 còn quyết định: Khẩn trương tổ chức các trận địa pháo binh tầm xa bắn phá mãnh liệt, khống chế cửa biển Thuận An, Tư Hiền, Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 1 của địch ở Mang Cá (Huế)...

        Kế hoạch đó đã được Đại tướng Tổng tư lênh Võ Nguyên Giáp phê chuẩn, và chỉ thị thêm: “Ngày 21 tháng  năm 1975 phải cắt bằng được đường số 1 giữa Huế và Đà Nẵng”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:51:56 am

        Mấy hôm nay cá buổi tối, vào giờ đài phát thanh của ta và của địch đưa tin chiến sự tôi không rời khỏi cái đài thu thanh bán dẫn, dù chỉ là một phút. Cái đài bán dẫn nhỏ xíu ấy trở thành phương tiện “trinh sát kỹ thuật” khá bổ ích đối với tôi: có đôi khi tình hình ta, tình hình địch ở các chiến trường bạn trên chưa kịp thông báo hoặc thông báo chưa đầy đủ, tôi đã được nghe hoặc được bổ sung thông qua nó. Các bản tin quân sự độ này luôn luôn đầy ắp những tin mới, những tin làm cho cả thế giới phải sửng sốt.

        ... Đến 17 giờ 30 ngày 10 tháng 3 bộ đội ta đã chiếm được hầu hết các mục tiêu trong thị xã Buôn Ma Thuột...

        Từ ngày 11 tháng 3 các lực lượng của ta có pháo binh, xe tăng yểm trợ đã thực hiện truy quét, tiêu diệt các vị trí còn sót lại trong thị xã Buôn Ma Thuột.

        Ngày 12 tháng 3, sau khi cho hơn 100 lần máy bay ném bom dọn bãi, địch huy động 145 máy bay lên thẳng đổ Trung đoàn 45 bộ binh và Pháo đội 232 xuống đông bắc Buôn Ma Thuột. Trong ngày (12-2) ta đang bao vây đánh chiếm căn cứ của Trung đoàn 53 ngụy, địch lại đổ thêm Trung đoàn 44 (thiếu) và Sư đoàn bộ  Sư đoàn 23 xuống khu vực Nông Trại, An Phước.

        Địch vừa đổ quân xuống với ý đồ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng chưa kịp hành động gì đã bị ta đánh liên tục, cho tới sáng ngày 16 tháng 3 Trung đoàn 45 ngụy bị tiêu diệt. Quân địch ở Quận lỵ Phước An bỏ cả vũ khí chạy trốn, ta làm chủ ngã ba Nông Trại.

        Ngày 14 tháng  Ngụy quyền Sài Gòn quyết định bỏ Tây Nguyên rút quân nhanh và bất ngờ theo đường số 7 về miền duyên hải Trung Bộ để bảo toàn lực lượng. Tổng thống bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: “Bỏ Kon Tum, Plây Cu để bảo toàn lực lượng, còn Đà Nẵng, các Quân khu 3, 4 giữ đến cùng”.

        Ngày 19 tháng 3,  tỉnh Quảng Trị hoàn toàn giải phóng, Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn 1 vội vã bay ra Hướng Điền cùng với các sỹ quan thuộc hạ bàn kế hoạch lập phòng tuyến Mỹ Chánh – Sông Bồ bảo vệ Huế. Ngay sau đó y tuyên bố: “Tôi sẽ chết trên đường phố Huế. Việt cộng phải bước qua xác tôi mới vào được cố đô này”.

        Tình hình phát triển nhanh tới chóng mặt. Thời gian lúc này như lửa đốt sau lưng, thôi thúc chúng tôi chuẩn bị thật gấp cho Sư đoàn 325 bước vào chiến đấu đợt 2. Trung đoàn 101 vẫn còn đang trên đường từ Quản Trị vào, không có cách gì nhanh hơn được, làm sao thực hiện được lệnh của Tổng tư lệnh “ngày 21 tháng 3 phải cắt bằng được đường số 1 giữa Huế và Đà Nẵng

        Việc cắt đường số 1, bộ binh không đủ thời gian tới đó được, tôi đốc anh Phạm Minh Tâm – Tư lệnh Sư đoàn 325 đưa thật gấp một số đơn vị pháo tới sườn dãy núi Lưỡi Cái, làm trận địa ngắm bắn trực tiếp xuống đường số 1. Kết quả ngày 20 tháng 3 Trung đoàn 84 đã đưa tới đó được 12 khẩu pháo lớn và hàng chục dàn hoả tiễn ĐKB. Trận địa pháo của ta trên dãy núi Lưỡi Cái rất lợi hại, đã ngăn chặn có hiệu quả các loại xe cơ giới qua lại trên đường số 1.

        Để Sư đoàn 325 chuẩn bị tiến công tốt hơn, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 đã quyết định lui thời gian tiến công lại một ngày (so với kế hoạch).

        Đúng 5 giờ 40 phút ngày 21 tháng 3 năm 1975 toàn Quân đoàn 2 đã nổ súng tiến công đợt 2. Sau 40 phút chiến đấu, Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 đã chiếm được điểm cao 224, thừa thắng phát triển sang điểm cao 303. Địch dựa vào hệ thống công sự ngoan cố chống cự, làm cho trận đánh giành giật quyết liệt, mãi tới chiều ta mới làm chủ được một nửa căn cứ 303.

        Phía Trung đoàn 1 Sư đoàn 324 đánh Núi Bông, sáng ngày 21 tháng 3 đã chiếm được, đến trưa địch phản kích chiếm lại. Cuộc giành giật lại Núi Bông giữa ta và địch diễn ra hơn mười lần. Hồi 15 giờ địch điều thêm Lữ đoàn 258 thuỷ quân lục chiến và Liên đoàn 15 biệt động quân từ Hướng Điền lên chi viện, cùng bọn địch ở Núi Nghệ có xe tăng yểm hộ phản kích sang Núi Bông. Trung đoàn 1 bị thương vong nhiều những vẫn kiên cường trụ vững và liên tục phá tan nhiều đợt phản kích của địch.

        Tôi và anh Công Trang, Phó Chính uỷ quân đoàn đi xuống Sở chỉ huy Sư đoàn 325. Tới giờ nổ súng rồi mà sương mù vẫn xám xịt. Nhìn xung quanh như đang đêm. Kế hoạch tác chiến: dùng pháo ngắm bắn trực tiếp để chi viện cho bộ binh xung phong. Chỉ huy pháo báo cáo sương mù, không nhìn rõ mục tiêu. Lúc này Trung đoàn 18 và 101 đã bí mật áp sát hàng rào của đồn địch. Các anh Phạm Minh Tâm – Tư lệnh sư đoàn, Lê Văn Dương – Chính uỷ 325 đề nghị cho lui giờ tấn công lại mười phút. Tôi đồng ý. Nếu chờ mười phút nữa sương mù vẫn thế, đành phải đánh theo phương án hai, nghĩa là tấn công không có pháo chi viện. Mọi người trong sở chỉ huy căng thẳng chờ đợi, không ai nói với ai nửa lời. Ở đây thật tĩnh lặng, chỉ có tiếng nổ lờ mờ từ Núi Bông, Núi Nghệ vọng tới. Mắt mọi người mở to nhìn xoáy vào màn sương, nhu cầu mong nó tan nhanh.

        Chưa đầy mười phút; đài quan sát báo cáo đã nhìn rõ mục tiêu. Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm lập tức nhấc tổ hợp máy điện thoại hạ lệnh: “Pháo...bắn”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:52:33 am

        Từng loạt, từng loạt... đạn pháo nổ. Tiếng đầu nòng và tiếng đạn chạm nổ gần như trùng nhau, thi nhau nổ đinh tai nhức óc. Bị hoả lực tấn công mãnh liệt bất ngờ, địch chỉ còn cách chui vào công sự chịu trận. Đến 6 giờ 40 phút pháo chuyển làn xuống Lương Điền, Mũi Né, Phú lộc, Phước Tượng và săn xe diệt địch ở đường số 1, săn tàu địch ở vụng (vịnh?) Cầu Hai.

        Trung đoàn 18 ở hướng chủ yếu dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Phạm Hồng Lẫm và Chính uỷ Hồ Sĩ Khuyên sau giờ đầu nổ súng đã chiếm được điểm cao 494, 520 và đồi Yên Ngựa. Riêng Tiểu đoàn 9 đánh chiếm điểm cao 560, nơi có Sở chỉ huy Tiểu đoàn 61 biệt động quân ngụy mới chiếm được mỏm 1. Địch dựa vào công sự và những mỏm còn lại ngăn chặn quyết liệt. Tiểu đoàn 9 xung phong nhiều đợt , thương vong nhiều nhưng buổi sáng 21 vẫn chưa dứt điểm.

        Cùng thời gian, ở hướng thứ yếu Trung đoàn 101 dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Giang và Chính uỷ Lê Văn Đam đánh chiếm các điểm cao 310 và 312. Phát triển tuy chậm vì có vài thiếu sót về bố trí hướng xung phong bị lệch và kỷ luật hiệp đồng không chặt ở vài phân đội, nhưng tới trưa ngày 21 Trung đoàn 101 đã đánh chiếm được dãy Kim Sắc.

        Hướng chủ yếu vẫn chưa dứt điểm điểm cao 560. Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 cử các anh An Gang – Phó Chính uỷ và Hoá – Tham mưu phó Trung đoàn 18 chỉ huy lực lượng dự bị của sư đoàn (Tiểu đoàn 8 ) cùng một bộ phận của Tiểu đoàn 7 chi viện cho Tiểu đoàn 9 đánh chiếm nốt những mỏm còn lại.

        Để phối hợp với hướng chủ yếu, tôi nhắc Sư đoàn 325 lệnh cho Trung đoàn 101 giao cho Tiểu đoàn 2 đánh điểm cao 329 để hỗ trợ cho Trung đoàn 18 dứt điểm điểm cao 560.

        Các đơn vị tiến đánh 560 đang vận động, bị bom pháo địch ngăn chặn, ta thương vong khoảng gần hai chục người nhưng đội hình tiến công vẫn giữ vững. Trong quá trình phát triển đã nảy nở nhiều tấm gương mưu trí dũng cảm như Đại đội trưởng Thiều Chí Đinh và Chính trị viên Đậu Văn Bạch, đã khôn khéo chỉ huy Đại đội 7 bí mật vu hồi thọc trúng Sở chỉ huy căn cứ địch rồi cùng các đơn vị bạn phát triển. Đúng 15 giờ ngày 21 tháng 3 ta đã tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn biệt động quân và làm chủ căn cứ 560.

        Cùng khoảng thời gian trên, hướng Trung đoàn 101 đã tiêu diệt và buộc địch rút khỏi các điểm cao 329, 310 và 312. Hệ thống phòng thủ cứng nhất án ngữ phía tây đường số 1 của địch đã hoàn toàn bị vỡ.

        Vừa lúc đó tôi nhận được chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua Trung tướng Lê Trọng Tấn chuyển bằng điện thoại, đại ý: Địch bắt đầu rút khỏi Thừa Thiên - Huế, Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên phải khẩn trương chặn đường không cho địch rút; chia cắt, tiêu diệt cho được toàn bộ Sư đoàn 1 của địch và các lực lượng khác, thu hồi toàn bộ trang bị của chúng, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và chiếm lĩnh toàn bộ đèo Hải Vân. Phải cắt đứt ngay giao thông đường số 1 của địch từ Huế vào Đà Nẵng. Dùng Tiểu đoàn 5 hải quân rải mìn và đưa lực lượng xuống bịt cửa Thuận An. Phải bao vây đánh mạnh trên tất cả các hướng không để cho địch kịp rút chạy. Về lực lượng, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 và Bộ tư lệnh Quân khu Trị - Thiên được phép sử dụng lực lượng của mình để tiêu diệt địch, kể cả pháo và tăng. Trong hai, ba ngày tới Bộ sẽ tăng thêm lực lượng phía sau cho mặt trận.

        Sở chỉ huy tiền phương quân đoàn có tôi và các anh Công Trang, Hoàng Đan trao đổi ngắn để thực hiện chỉ thị của Tổng tư lệnh. Tiếp đó tôi thông báo cho anh Lê Linh đang thường trực ở sở chỉ huy cơ bản của quân đoàn biết, tình hình đang khẩn trương diễn ra ở phía trước. Chiều và đêm nay mưa lớn. Những giọt mưa rừng thi nhau gõ lên mái tăng bằng ni-lông, lộp bộp.. lộp bộp thôi thúc như trống ngũ liên. Trong đầu tôi lúc này lớp lớp công việc đòi hỏi được giải quyết ngay. Tôi nhắc lại lệnh sáng ngày 21 đã phát: trận địa pháo trên dãy núi Lưỡi Cái phải khống chế không cho xe địch lọt qua. Sư đoàn 325 tiến nhanh xuống đường số 1, lấy đường số 1 làm điểm hiệp đồng, một mặt cho Trung đoàn 101 thọc xuống La Sơn để giảm áp lực của địch với Sư đoàn 324 ở Núi Bông, Núi Nghệ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:58:01 am

        Sư đoàn 325 với khẩu hiệu “Vị trí chỉ huy của sư đoàn, các trung đoàn và toàn đơn vị là ở đường số 1”, “Hãy tiến ngay xuống đường số 1, lấy mặt đường làm điểm hiệp đồng”. Các anh Phạm Minh Tâm, Lê Văn Dương, Bùi Đức Ngoan.. trong Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 tỏ ra hết sức năng động linh hoạt, tổ chức chỉ huy hợp lý. Ngay buổi chiều và tối hôm ấy những đơn vị trong sư đoàn nhận nhiệm vụ đánh xuống đường số 1 đã xuất phát ngay vừa đi vừa tổ chức trinh sát, né tránh giao chiến dọc đường., Mặc dù đêm tối, mưa trơn, mang nặng, anh em phải xé rừng, băng suối suốt đêm không nghỉ. Tảng sáng ngày 22 tôi nhận được báo cáo của Sư đoàn 325 cho biết, Tiểu đoàn 7 và 8 tới sát đường số 1; gặp địch án ngữ ở Bạch Thạch, điểm cao 200 và Dàn Bò chỉ tác chiến với bộ phận địch gây cản trở nhất rồi nhanh chóng chiếm mặt đường. Đến 10 giờ 30 phút sáng 22 tháng 3 bộ đội ta đã làm chủ đoạn đường 1 từ Bạch Thạch đến Dàn Bò. Hàng nghìn xe từ Huế rút chạy về Đà Nẵng bị ùn tắc phải quay trở lại Huế.

        Hệ thống phòng thủ Tây Nguyên hoàn toàn tan vỡ, như tiếng sét kinh hoàng, cộng với sự tiến công mãnh liệt của quân và dân Trị - Thiên trong chiến dịch “K175” làm cho toàn bộ hệ thống phòng thủ của Quân khu 1 ngụy rạn nứt, vỡ từng mảng và đang trên đà tan vỡ hoàn toàn. Thời cơ đến, Quân đoàn  chúng tôi đã “nhảy vọt”, vượt qua các bước, các mục tiêu cơ bản của kế hoạch tác chiến chiến dịch, mà vẫn cảm thấy mình còn chậm trễ. Giá như trên Bộ đồng ý với đề nghị của Bộ tư lệnh Quân đoàn, ngay từ đầu chiến dịch, cho một tiểu đoàn xe tăng và một tiểu đoàn pháo tầm xa vào sát đội hình của quân đoàn, bây giờ chúng trở thành thứ bảo bối vô giá. Mãi về sau tôi vẫn suy nghĩ vấn đề này: ở thời điểm ấy, Bộ nên giao quyền rộng rãi sử dụng lực lượng cho quân đoàn, khi thời cơ đến chúng tôi dễ bề xoay sở, và chắc chắn tốc độ tiến công sẽ nhanh hơn.

        Dù sao chúng tôi cũng đã đánh chiếm được đoạn đường số 1 dài 4 ki-lô-mét, cắt đứt tuyệt đối giao thông của địch trên tuyến đường này, đúng như yêu cầu của Tổng tư lệnh. Hàng nghìn xe cơ giới các loại của địch và người di tản từ Huế vào Đà Nẵng bị ùn lại. Phần đông người di tản là gia đình sỹ quan, binh sỹ ngụy; họ khiếp sợ tột độ.

        Người di tản như dòng nước quẩn lại chen chúc nhau trở lại Huế. Họ đã trở thành chất xúc tác mạnh làm cho quân ngụy vốn đã hoảng hốt, đến lúc này trở thành sợ hãi không có gì kiềm chế nổi. tinh thần “tử thủ thành Huế” của Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng đang tan như bèo bọt.

        Ở Sở chỉ huy của Quân đoàn 2 đóng tại Bàn Môn Hạ, chúng tôi đang hội ý, một chị cán bộ địa phương vào báo cáo xen ngang:

        - Địch tan rã chạy về làng bên nhiều quá, các anh cho em lực lượng để thu gom.

        Tôi nói:

        - Cho một tiểu đội đi với chị ấy thu vũ khí, giải thích chính sách rồi phóng thích.

        Tình hình chiến sự phát triển rất nhanh. Qua đài quan sát và các đơn vị báo cáo về, tôi thấy đội hình địch có hiện tượng rối loạn, mất chỉ huy, trên sóng vô tuyến chúng không còn dùng mật ngữ, chúng kêu cứu, chửi bới tục tĩu...

        Ở Sở chỉ huy tiền phương quân đoàn, chúng tôi thấy khả năng tiêu diệt Sư đoàn 1 và một số liên đoàn biệt động quân nằm trong tầm tay của quân đoàn; giải phóng thành phố Huế chỉ còn là ngày một, ngày hai; phải chuyển tốc độ tiến công nhanh hơn nữa.

        Trong ngày 2 địch tung Lữ đoàn 258 lính thuỷ đánh bộ, Liên đoàn biệt động 15 mở hàng chục đợt phản kích, cố đẩy ta ra khỏi đoạn đường Dàn Bò - Bạch Thạch. Các Tiểu đoàn 7 và 8 của Trung đoàn 101 (325) ngoan cường chiến đấu, liên tiếp bẻ gãy các đợt phản kích của địch: không những thế anh em còn mở rộng khu vực đã chiếm ra hai hướng Mũi Né và Lương Điền kéo dài gần mười ki-lô-mét. Bọn địch thấy không làm gì nổi, chúng quay đầu trở về Huế.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:58:41 am

        Nếu quân ta giữ vững đoạn đường số 1 này? Nếu địch thấy không còn khả năng giữ nổi Huế mà muốn co cụm về Đã Nẵng chỉ còn lối thoát ra biển qua cửa Thuận An và cửa Tư Hiền? Từ sự phán đoán đó chúng tôi xác định quyết tâm phối hợp với Quân khu Trị - Thiên giải phóng thành phố Huế và giao nhiệm vụ tác chiến tiếp theo cho các đơn vị:

        Sư đoàn 325 dùng một trung đoàn nhanh chóng phát triển tiến công tiêu diệt căn cứ Lương Điền, hợp cùng Sư đoàn 324 theo đường số 1 đánh lên Phú Bài và Huế. Một trung đoàn đánh vào phía nam diệt Chi khu Phú Lộc, chiếm đèo Mũi Né, Phước Tượng, đưa lực lượng bịt cửa Tư Hiền và sẵn sàng bẻ gãy các lực lượng địch từ Đà Nẵng tiến ra giải toả đường số 1.

        Sư đoàn 324 bỏ Núi Bông, Núi Nghệ, 303 - Mỏ Tàu, nhanh chóng cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 tìm đường vòng cơ động thọc sâu xuống đồng bằng ven biển,  hình thành thế bảo vây chiến dịch từ phía đông và phía đông nam, không cho địch chạy ra cửa Thuận An và cửa Tư Hiên. Trung đoàn 3 được tăng cường một đại đội xe tăng của Lữ 203 nhanh chóng tiến xuống diệt căn cứ La Sơn và phát triển về phía bắc phối hợp với các đơn vị bạn tiêu diệt địch giải phóng Huế.

        Sư đoàn pháo binh 164 nhanh chóng di chuyển ít nhất được hai khẩu pháo 130 ly về chiếm lĩnh điểm cao 75 – 76 bắn xuống cửa biển Thuận An, Tư Hiền.

        Trung đoàn cao xạ 284 thuộc Sư đoàn phòng không 673 khẩn trương di chuyển trận địa lên phía trước bảo vệ đội hình chiến đấu của quân đoàn tiến công giải phóng Huế.

        Lữ đoàn công binh 219 đưa một tiểu đoàn lên phía trước bảo đảm cơ động cho xe tăng và chuẩn bị cầu phà vượt sông Truồi, An Nông, Phú Bài.

        Đến lúc này Bộ mới cho phép Quân đoàn 2 sử dụng binh khí kỹ thuật, nhưng các đơn vị pháo tầm xa và xe tăng mới vào tới A Lưới, A Sầu, còn cách xa đơn vị phía trước vài ngày đường. Nhưng cũng rất may là chúng tôi đã bàn nhau chuyển một tiểu đoàn 130 ly và một tiểu đoàn xe tăng vào cách mặt trận có một ngày đường, nên điều động nhanh không mất thời cơ.

        Những trận mưa rào kéo dài cả ngày đêm, làm cho con đường đất của ta mới làm ở miền rừng núi phía tây Thừa Thiên thành vũng lầy nhão nhoét. Nhiều đoạn đường xe cơ giới không qua nổi. Công tác hậu cần trở thành vấn đề nhức nhối. Lấy quân đâu để gùi thồ gạo, đạn từ trên rừng xuống đồng bằng?

        Một vài phân đội đã báo động nguy cơ thiếu gạo, đạn, nhưng các cánh quân vẫn như mũi lao lao thẳng xuống đồng bằng ven biển. Tài năng trí tuệ và tinh thần trách nhiệm cao của Cục Hậu cần đứng đầu là Chủ nhiệm Nguyễn Ngọc Thực đã tìm ra lời giải đáp thích đáng: súng đạn thì lấy của địch, còn cái ăn dựa vào dân và các kho tàng địch bỏ lại. Khi Sở chỉ huy tiền phương quân đoàn tới đóng ở thôn Bàn Môn Hạ, chủ nhiệm hậu cần quân đoàn đã đưa tới một lực lượng hậu cần cơ động gồm một đại đội kho, một đội điều trị, một trạm sửa chữa xe, pháo do anh Phan Ba – Phó phòng tham mưu Hậu cần quân đoàn phụ trách. Bộ phận “hậu cần cơ động; này hoạt động rất có hiệu quả, lấp được lỗ hổng của vấn đề nhức nhối nói trên.

        Cuộc chiến đấu hành tiến thần tốc. Sau một đêm Sư đoàn 324 rời ra vùng núi (23-3), mũi thọc sâu của quân đoàn là Trung đoàn 1 và 2 đã có mặt ở đồng bằng Phú Lộc và tiếp tục tiến về phía cửa Thuận An. Số quân còn lại của Sư đoàn 324 (Trung đoàn 3) bao vây Núi Bông, Núi Nghệ, 303; chiều ngày 23 tháng 3 được Đại đội xe tăng từ A Lưới vào chi viện cho Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) tiến công chiếm Núi Bông, Núi Nghệ và căn cứ 303. Tiếp đó Trung đoàn 3 Đại đội 4 xe tăng lao thẳng xuống đường số 1.

        Trong đêm 22 tháng 3, theo nhiệm vụ của quân đoàn giao cho Sư đoàn 325 quyết định sử dụng Trung đoàn 101 diệt căn cứ Lương Điền, sau đó phát triển về Huế theo trục đường số 1, Trung đoàn 18 đánh vào phía sau diệt Chi khu Phú Lộc, chiếm Mũi Né, Phước Tượng, đưa lực lượng tới bịt cửa Tư Hiền và sẵn sàng đánh địch giải toả đường số 1.

        Rạng ngày 23 Trung đoàn 101 đã phá vỡ căn cứ Lượng Điền, mở được cửa phía nam về Huế, đồng thời hỗ trợ cho Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 ở 303, Núi Bông, Núi Nghệ, Mỏ Tàu. Sau khi dứt tiếng súng ở Lương Điền, Trung đoàn 101 và Tiểu đoàn 7 bộ binh tiếp tục đánh thẳng ra Phú Bài - Huế.

        Trung đoàn 18 tiến công vào căn cứ Mũi Né, sau sáu giờ chiến đấu quyết liệt đã tiêu diệt và bắt phần lớn số địch đóng trong căn cứ, số còn lại chạy thục mạng về Chi khu Phú Lộc.

        Nắm thời cơ địch đang hoảng hốt, Trung đoàn trưởng Phạm Hồng Lẫm cho Tiểu đoàn 3 truy theo và đánh thẳng vào Chi khu Phú Lộc. Tới 19 giờ ngày 23, Trung đoàn 18 diệt xong chi khu và đánh tan Tiểu đoàn 128 bảo an, rồi đưa tiếp Đại đội 7 phối hợp với Tiểu đoàn 21 bộ đội địa phương chiếm cửa Tư Hiền.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 12:59:03 am

        Địch thấy không còn khả năng rút chạy vào Đà Nẵng bằng đường số 1, chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy quyết định chạy bằng đường biển. Một bộ phận qua cửa Thuận An, một bộ phận qua cửa Tư Hiền. Nhưng chúng chưa kịp thực hiện, chiều ngày 23 tháng 3 Trung đoàn 1 và 2 (Sư đoàn 324) đã chiếm cửa Thuận An, Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) cùng bộ đội địa phương đã áp sát cửa Tư Hiền. Thành phố Huế nằm trong gọng kìm lớn của Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên.

        Phía bắc Huế, từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 3 bộ đội địa phương Quảng Trị có Đại đội 7 xe tăng (Lữ đoàn 203) yểm hộ đã quét một loạt căn cứ, quận lỵ như Thanh Hương, Đại Lộc, Hướng Điền rồi vượt qua sông Mỹ Chánh tiến công Phò Trạch, Lương Mai; tiếp đó hình thành hai mũi, một mũi đánh chiếm Bao Vinh, một mũi chiếm bờ bắc cửa Thuận An.

        Trung đoàn 4 chủ lực của Quân khu Trị - Thiên ở hướng tây chọc thẳng xuống Lai Bằng, phá vỡ phòng tuyến Bắc Bình và truy kích diệt địch ở bắc sông Hương, tiếp đó trung đoàn chia thành ba mũi cùng lực lượng địa phương Quảng Trị chặn địch ở bắc cửa Thuận An và áp sát vào bắc Huế.

        Phía nam Huế, đêm 24 rạng ngày 25 tháng 3, các Tiểu đoàn 1 và 4 Trung đoàn 164 pháo binh đã khắc phục khó khăn đưa pháo 130 ly vào chiếm lĩnh trận địa, cùng pháo của các sư đoàn nã đạn vào Sở chỉ huy tiền phương Vùng 1 của địch ở Mang Cá và các cửa biển Thuận An, Tư Hiền.

        Tiểu đoàn 5 hải quân đã rải mìn phong toả các cửa biển nói trên.

        Trên đường về Huế và ra cửa Thuận An luôn đông nghịt dân, lính chen chúc hỗn loạn; binh lính sỹ quan mất hết sức chỉ huy, mạnh ai nấy chạy.

        Thời cơ giải phóng Huế đã xuất hiện. Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 quyết định sử dụng Trung đoàn 101 (Sư đoàn 325) nhanh chóng đánh chiếm Phú Bài mở đường cho quân đoàn tiến vào giải phóng Huế.

        Trung đoàn trưởng Hồ Hữu Lạn đã thực hiện đúng phương án chúng tôi vạch ra: dùng một tiểu đoàn đánh vu hồi đánh chiếm quận lỵ Hương Thuỷ, đại bộ phận trung đoàn dưới sự yểm trợ hoả lực của Đại đội 4 xe tăng theo đường số 1 tiến công chính diện căn cứ Phú Bài.

        Tảng sáng ngày 25 tháng 3 Tiểu đoàn 3 nổ súng đánh chiếm quận lỵ Hương Thuỷ, cùng lúc Trung đoàn 101 đánh vào Phú Bài. Địch bị bất ngờ tháo chạy hỗn độn, bỏ lại toàn bộ vũ khí trang bị kỹ thuật, trong đó có một đoàn xe cơ giới đang nổ máy. Đại đội 4 xe tăng của ta đã thu dụng ba chiếc xe tăng M48, hai xe bọc thép M113 để tăng cường lực lượng của mình.

        Sau khi giải phóng Phú Bài và Hương Thuỷ, Trung đoàn 101, tiếp theo là Trung đoàn 3 bộ binh có xe tăng đi cùng, được nhân dân địa phương giúp phương tiện (xe lam, xe tải và cả xe hon đa) vận chuyển tiến rất nhanh vào nội đô Huế. Đúng 13 giờ ngày 25 tháng 3 Tiểu đội phó Tiểu đội trinh sát Nguyễn Văn Phương đã cắm cờ chiến thắng trên Phú Văn Lâu.

        Một bộ phận của Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324) cùng xe tăng, chiều ngày 25 tháng 3 đã tiến vào Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy ở Mang Cá và tới giải phóng cho hơn 2.000 tù chính trị ở nhà lao Thừa Phủ...

        Cùng thời gian đó các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên từ hướng bắc cũng tràn vào đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố.

        Chiều 25 tháng 3 Sở chỉ huy tiền phương chúng tôi vào Mang Cá. Các cán bộ của Sư đoàn 325 và Trung đoàn 6 Trị - Thiên cũng có mặt ở đây. Một lát sau tôi gặp Tổng tham mưu phó Giáp Văn Cương và Tư lệnh phó Trị - Thiên Dương Bá Nuôi. Chúng tôi vui mừng chào nhau bằng cái bắt tay siết chặt. Ai ai cũng tỏ ra vui mừng hồ hởi. Mới xa cách nhau một vài tháng, một vài tháng chiến trận căng thẳng, mà cứ tưởng xa cách ngàn trùng. Anh Cương, anh Nuôi cùng chúng tôi trao đổi tình hình và cách xử trí tiếp theo khoảng một giờ. Chúng tôi dễ dàng thống nhất nhận định tình hình và cách giải quyết. Địch ở Trị - Thiên - Huế đã bị tiêu diệt và tan rã không còn khả năng cứu vãn (binh sỹ địch bị bắt và ra trình diện: 58.772, trong đó có 3.781 sỹ quan. Theo tin của địch hồi đó: Sư đoàn bộ binh 1 ngụy chạy về Vũng Tàu còn 200 tên). Ở đây Quân đoàn 2 chỉ cần để một bộ phận cùng địa phương Trị - Thiên làm nhiệm vụ truy quét.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:47:25 pm

        Giao nhiệm vụ xong chúng tôi đi ra ngay cảng Thuận An kiểm tra tình hình. Địch đã đốt nhiều xe tăng, bọc thép và ô tô rồi tháo chạy.

        Tôi và anh Cương trở lại Huế ngủ lại ở Sở chỉ huy của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, đến sớm hôm sau mới về sở chỉ huy cơ bản.

        Địch ở Đà Nẵng đang hoang mang nhộn nhạo chuẩn bị rút chạy. Đại bộ phận Quân đoàn 2 phải khẩn trương phát triển vào Đà Nẵng. Tôi phân công trong Bộ tư lệnh: anh Bùi Công Ái tới trực tiếp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 18 phát triển thẳng xuống dãy núi Vĩnh Phong tiêu diệt lữ thuỷ quân lục chiến không cho chúng rút. Nhiệm vụ tiếp sau sẽ tham gia giải phóng Đà Nẵng. Anh Hoàng Đan cùng sở chỉ huy nhẹ quân đoàn tới giao nhiệm vụ và trực tiếp đi với Sư đoàn 325 xuống chiếm Lăng Cô. Tôi xuống trực tiếp tổ chức hướng dẫn phương án tác chiến tổ chức hiệp đồng cho Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) và một tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép ta thu được, tôi giao cho Đại uý Nghìn cán bộ kỹ thuật xe tăng tập hợp số lính lái xe tăng, thiết giáp. Đại uý Nghìn tổ chức được 50 tay lái và qua họ đã thu được 80 chiếc xe tăng , thiết giáp còn tốt.

        Ngày 26 tôi nhận được điện do Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh ký, phần đầu của bức điện nhắc lùng sục tù binh và thu vũ khí phương tiện kỹ thuật, phần sau chỉ thị: “Lực lượng B5 (Quân đoàn 2) sau khi đã tiêu diệt hết các bộ phận địch còn chống cự lại, phải nhanh chóng thu quân chuẩn bị sẵn sàng chuyển vào đánh hướng Đà Nẵng. Kế hoạch tiến công sẽ có chỉ thị của anh Lê Trọng Tấn. B5 cần tăng cường thêm pháo ở khu vực Mũi Trâu cho đủ một tiểu đoàn với đầy đủ đạn, để khi có lệnh, đánh được ngay vào sân bay Đà Nẵng. Cần khắc phục địa hình làm sao đưa được pháo lên phía trước để bắn tới cảng Đà Nẵng.

        Cho chiếm ngay điểm cao Thuỷ Tú để bảo vệ pháo và làm bàn đạp đánh Đà Nẵng...

        Sáng hôm sau, trên chiếc xe Com-măng-ca, tôi và Thiếu tướng Giáp Văn Cương về sở chỉ huy cơ bản của quân đoàn (ở Truồi). Đến La Sơn chúng tôi tạm dừng lại. Gặp sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm, anh than phiền:

        - Hàng vạn tên tù binh tập trung ở đây, không có gì để nuôi chúng. Ý của tôi là phóng thích. Đề nghị anh cho ý kiến.

        - Thế đã thả chúng chưa?

        - Thả rồi.

        - Thả rồi còn nói làm gì – Tôi mỉm cười nói tiếp – Tôi thấy chỉ còn một cách giao lại cho địa phương giáo dục chúng rồi đến phải thả chúng thôi.

        Sau vài câu chuyện vụn vặt tôi nhắc lại nhiệm vụ Sư đoàn 325 phải nhanh chóng chiếm đèo Hải Vân làm bàn đạp vào Đà Nẵng. Việc này anh Đan – Quân đoàn phó đã tới trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn 101 và nhắc Tâm việc thu xe, pháo để sử dụng nhiệm vụ chiến đấu sắp tới.

        Đến Sử chỉ huy Quân đoàn, sau cái bắt tay, Thiếu tướng Lê Linh nói ngay vào công việc:

        - Ngoài Bộ vừa điện vào về việc thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch để giải phóng Đà Nẵng. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các anh Lê Trọng Tấn, Chu Huy Mân, Lê Quang Hoà. Bộ dự kiến hai khả năng: nếu địch co lại “tử thủ” Đà Nẵng tương đối vững chắc thì ta sẽ hiệp đồng lớn có chuẩn bị, lực lượng gồm Quân đoàn 2, Quân khu 5 và Quân đoàn 1 sẽ vào tiếp. Nếu địch bị tan vỡ, bị tiêu diệt nặng và Đà Nẵng bị cô lập thì lực lượng tại chỗ nắm thời cơ nhanh chóng đánh chiếm.

        - Qua kẻ địch bị tiêu diệt, tan vỡ ở Trị - Thiên - Huế và những tin tức các chiến trường khác chúng tôi thu lượm được, thấy khả năng thứ hai đã rõ. Và những gì chúng tôi đã làm là đúng hướng, chỉ cần tổ chức đôn đốc khẩn trương hơn.

        Bộ tư lệnh Quân đoàn hội ý khoảng một giờ, mục đích phân công và bàn giao lại một số việc cho địa phương. Tôi cùng Công Trang – Phó Chính uỷ và Tham mưu trưởng quân đoàn Bùi Công Ái trực tiếp chỉ huy cánh quân đường 14, gồm Sư đoàn 324, Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) và tiểu đoàn xe tăng, đánh vào Phước Tượng, nơi có Sở chỉ huy Sư đoàn 3 ngụy rồi phát triển xuống Đà Nẵng.   

        Phó tư lệnh Hoàng Đan trực tiếp chỉ huy cánh quân theo đường số 1 gồm Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) và lực lượng tại chỗ của Quân khu 5 đánh chiếm đèo Hải Vân và Đà Nẵng.

        Tôi điện cho Sư đoàn 304 từ Thượng Đức đánh xuống tây nam Đà Nẵng; giao cho cơ quan tham mưu làm kế hoạch hiệp đồng nội bộ quân đoàn và hiệp đồng với Quân khu 5; giao cho hậu cần nhanh chóng thu hồi các cơ sở hậu cần của địch để kịp phục vụ cho các hướng tiến công của quân đoàn.

        Cách đánh chung cho các hướng: tiến công trong hành tiến.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:52:05 pm

        Tôi rất tự hào về đội ngũ cán bộ quân đoàn. Mỗi khi quyết tâm chung được xác định, hoặc một mệnh lệnh của tư lệnh phát ra là guồng máy cơ quan đồng cấp, trên dưới ăn ý nhau chuyển động nhịp nhàng.

        Khi có lệnh chuyển hướng tiến công về phía Đà Nẵng là ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của quân đoàn hướng ngay công việc vào  phục vụ cho các cánh quân. Mấy hôm trước hậu cần còn vận chuyển gạo, đạn... về phía bắc để giải phóng Huế, thì hôm nay chuyển vào phía nam. Chủ nhiệm hậu cần Nguyễn Ngọc Thực đã điều hành rất tốt cơ quan dưới quyền mình. Khi lực lượng hậu cần từ hậu phương vị tắc nghẽn ở đường 14, đường 10 và 74... hậu cần linh hoạt tập trung vào khai thác triệt để chiến lợi phẩm để kịp thời phục vụ cho nhiệm vụ mới.

        Lữ đoàn công binh 219 khẩn trương sửa đường, bắc lại cầu Truồi để lực lượng cơ giới cơ động.

        Trung đoàn thông tin 463 nhanh chóng xây dựng mạng thông tin vô tuyến kịp thời cho tổ chức thông tin chỉ huy...

        Ở hướng đường số 1, Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Hồng Lẫm và Quân đoàn phó Hoàng Đan hết sức chủ động linh hoạt. Ngày 3 tiêu diệt Chi khu Phú Lộc xong lập tức phát triển, ngày 24 tháng 3 đã chiếm căn cứ Lữ đoàn 258 lính thuỷ ở đèo Tượng, và ngày 26 trung đoàn tiếp tục diệt cứ điểm Thổ Sơn...

        Thấy nguy cơ Đà Nẵng bị uy hiếp, Bộ chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy vội vã lệnh cho Lữ đoàn 258 lính thuỷ đánh bộ và Liên đoàn 914 bảo an phá cầu Thừa Lưu, rút về đèo Phú Gia, Lăng Cô, Hải Vân xây dựng trận địa lâm thời phòng ngự.

        Ngày 27 tháng 3 Trung đoàn 18 tiến đánh đèo Phú Gia.

        Trung đoàn pháo binh 84 vừa mới xuống núi đã linh hoạt sử dụng ngay pháo của địch ở Phú Lộc, Phước Tượng chi viện cho Trung đoàn 18. Đến lúc này mọi người mới thấy tác dụng của việc huấn luyện cho bộ đội biết sử dụng xe pháo và vũ khí của địch là cực kỳ quan trọng.

        Địch ở Phú Gia chống cự quyết liệt. Máy bay, pháo binh của chúng bắn phá dữ dội để chi viện cho bọn lính thuỷ đánh bộ bảo vệ vòng ngoài của Đà Nẵng, nhưng cuối cùng chúng vẫn phải rút chạy. Thừa thắng quân ta tiến lên giải phóng luôn Sơn Hải, An Hải và Loan Lý. Chiều ngày 28, bộ phận đi đầu của trung đoàn đã tới chân đèo Hải Vân.

        Trận đánh ở khu vực Lăng Cô, chân đèo Hải Vân diễn ra căng thẳng giằng co (nhất là khu vực cầu Lăng Cô) gần hết một ngày, mãi tới 20 giờ ta mới hoàn toàn làm chủ. Và cũng từ giờ phút đó cửa vào Đà Nẵng đã mở xong.

        Trên hướng đường 14, khoảng cách từ điểm xuất phát tới vị trí tập kết khoảng 70 cây số, vừa đi vừa phải gỡ mìn, vừa phải xua bọn địch ở ven đường, nên mãi tới tối 28 Trung đoàn 9 và các đơn vị phối thuộc mới tới khu tập kết. Các đơn vị đang chuẩn bị đánh Đá Đen, chưa kịp đánh địch đã rút chạy.

        Cùng ngày 28 có nhiều sự kiện quan trọng. Theo chỉ thị của Bộ, tôi hạ lệnh cho

        Lữ đoàn pháo 164 cho trận địa pháo tầm xa đặt ở Mũi Trâu, cùng các trận địa pháo của toàn mặt trận bắn vào Quân cảng, Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy và sân bay Đà Nẵng.

        Sau vài giờ pháo binh của ta phát hoả, tôi nhận được nhiều tin. Tình hình thành phố Đà Nẵng trở nên rối loạn. Từng toán binh lính ngụy xông vào nhà dân cướp bóc, hãm hiếp. Sân bay bị tê liệt. Từng đoàn xe, đoàn người chầu trực chuẩn bị di tản, lại rồng rắn trở về thành phố. Khu trung tâm thông tin ở Đà Nẵng bị phá huỷ; liên lạc Đà Nẵng – Sài Gòn bị cắt đứt. Trên các làn sóng vô tuyến luôn chen chúc tiếng kêu cứu, tiếng chửi rủa của bọn lính ngụy...

        7 giờ sáng 25 tháng 3 Quảng Ngãi đã hoàn toàn giải phóng. Chúng tôi thấy thời cơ tổng công kích vào Đà Nẵng đã tới, tôi hạ lệnh cho các đơn vị ở các hướng khẩn cấp tiến lên. Đơn vị nào có điều kiện tiến nhanh hơn thì vào sớm không phải chờ đợi.

        Ở hướng đường số 1, ngay trong đêm 28 anh Hoàng Đan đã điều động Đại đội xe tăng PT85 tăng cường cho Sư đoàn 325. Trung đoàn 84 pháo binh vừa hành quân tới đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa pháo 105 và 155 ly của địch ở Lăng Cô và Phú Gia; chuẩn bị ngay phần tử bắn sẵn sàng chi viện cho bộ binh chiếm đèo Hải Vân.

        5 giờ ngày 29, Phó tư lệnh Quân đoàn Hoàng Đan phát lệnh tiến công. Đạn pháo của Trung đoàn 84 đồng loạt nổ liên hồi trong khu vực phòng ngự của Lữ đoàn 258 lính thuỷ đánh bộ. Sư đoàn 325 cùng các đơn vị binh chủng phối thuộc ào ào chuyển động theo đường số 1. Pháo binh vừa chuyển làn, bộ binh, xe tăng của sư đoàn đã có mặt ngay trước trận địa địch. Địch bị bất ngờ, hoảng hốt chạy tan tác vào rừng. Khi ta tới đỉnh đèo, từng toán địch lẻ tẻ ra ngăn chặn. Được pháo binh và xe tăng yểm trợ đắc lực, các đơn vị đi đầu của sư đoàn vẫn giữ nguyên cách đánh trong hành tiến. Đại đội 6 dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Nguyễn Tiến Lai, liên tiếp tiêu diệt các toán địch chốt chặn, mở đường cho sư đoàn tiến quân. Tới 8 giờ, khi quân ta xuống gần chân đèo phía nam, gặp một cánh quân địch hành quân bằng cơ giới có xe tăng đi cùng. Một trận đụng độ quyết liệt diễn ra trong vài chục phút, cánh quân địch hoàn toàn bị tiêu diệt và tan rã.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:56:09 pm

        9 giờ 30 phút, Sư đoàn 325 cùng các đơn vị binh chủng phối thuộc vào tới cầu Nam Ô. Đồng bào ào ra chào đón, đứng chật hai bên đường.

        10 giờ 30 Sư đoàn 325 đã vào trung tâm thành phố chiếm cảng Đà Nẵng và tiến đánh bán đảo Sơn Trà, cắt đứt hoàn toàn đường rút chạy của địch.

        Trên hướng đường số 14, tối 28 tháng 3 nhận lệnh cấp tốc hành quân tiến công vào Sở chỉ huy Sư đoàn 3 của địch ở Phước Tượng. Đến 2 giờ 30 phút ngày 29 tháng 3 Trung đoàn 9 cùng các đơn vị phối thuộc đã đánh chiếm Phước Tượng, Hoà Khánh, Sở chỉ huy Sư đoàn 3. Tiếp sau đó tiến xuống phối thuộc Trung đoàn 1 (Sư đoàn 325) đánh chiếm Đà Nẵng. Tôi đi theo Tiểu đoàn xe tăng ra chiếm bán đảo Sơn Trà. Tới đây tôi gặp Quân đoàn phó Hoàng Đan, anh đang tổ chức cho pháo bắn theo tàu chiến của địch. Có tin Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng đã không chờ “Việt cộng bước qua xác” mà đang ở trong một con tàu nào đó chạy ra khơi.

        Trên hướng tây nam, Sư đoàn 304 (trừ Trung đoàn 9) đã đánh tan lực lượng địch ngăn chặn ở Ái Nghĩa và truy theo bọn tàn quân của Lữ đoàn 369 lính thuỷ đánh bộ suốt dọc đường dài hơn 30 ki-lô-mét, rồi cúng các lực lượng của Quân khu 5 đánh chiếm sân bay, khu hành chính thành phố và nhiều mục tiêu quan trọng khác.

        Trải qua 26 ngày đêm, Quân đoàn 2 phối hợp chặt chẽ cùng với Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5 chiến đấu liên tục, đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 1, Quân khu 1 và Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ của địch, thu toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và Quảng Nam – Đà Nẵng.

        Trải qua chiến dịch này, chúng tôi rút ra được nhiều bài học quý giá, Quân đoàn đã hiểu đúng tình hình địch, ta và nhiệm vụ được trên giao, qua đó chọn đúng hướng tiến công chủ yếu, chọn đúng đối tượng và mục tiêu chủ yếu. Khi thời cơ xuất hiện đã kịp thời nắm bắt tận dụng thời cơ; kiên quyết liên tục, nâng cao tốc độ tiến công tạo thêm thời cơ mới. Chủ động linh hoạt sử dụng cách đánh thích hợp, từ cách đánh tiến công có chuẩn bị chuyển sang tiến công trong hành tiến đã làm cho quân địch không kịp trở tay...

        Ngay sau khi quân ta quét sạch sự chống đối của địch ở Đà Nẵng, Quân đoàn 2 nhanh chóng bố trí lại đội hình, củng cố tổ chức, thu hồi triệt để chiến lợi phẩm, chuẩn bị nhân nhiệm vụ mới.

        Sư đoàn 324 đứng chân ở Huế. Sư đoàn 325, 304 cùng với Sư đoàn 2 (Quân khu 5) đứng ở Đà Nẵng.

        Chúng tôi chủ trương thay một số xe pháo. Lấy pháo 105, 155 ly của địch thay cho pháo 122 ly và Đ74 của ta, bởi các loại đạn pháo đó ta thu được rất nhiều; lấy GMC thay xe xích ATS của ta, vì GMC bánh lốp có tốc độ cơ động nhanh hơn. Các sư đoàn thu toàn bộ xe tải của địch và xếp lên xe lương thực, đồ hộp, đạn dược... chuẩn bị cơ sở vật chất sẵn sàng cho một tháng chiến đấu liên tục.

        Ngày 4 tháng 4 cả Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 tập trung ở Phước Tượng Sở chỉ huy Sư đoàn 3 ngụy. Các anh Lê Trọng Tấn và Lê Quang Hoà cũng vừa mới tới đây. Chúng tôi nhận được thông báo cuộc họp Bộ Chính trị (31/3 – 1/4/1975) đã hạ quyết tâm: “... nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo bất ngờ, chắc thắng thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không thể để chậm”.

        Mệnh lệnh của Bộ ngày 1 tháng 4 năm 1975: Quân đoàn 2 chuẩn bị cho Sư đoàn 325 và Lữ đoàn 203 thiết giáp, một trung đoàn phòng không sẵn sàng cơ động vào Nam Bộ tăng cường cho Quân đoàn 1, làm cho cán bộ chiến sỹ trong quân đoàn xôn xao kém phấn khởi. Ngay trong Bộ tư lệnh chúng tôi cũng có nhiều thắc mắc. Địch củng cố tuyến phòng thủ mạnh từ Phan Rang, Phan Thiết trở vào, Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn chưa dứt điểm được Xuân Lộc, Quân đoàn 2 có khả năng cơ động cao, tại sao không đưa toàn bộ Quân đoàn 2 tiến theo đường 1 đánh phá sự phòng thủ của địch ở miền duyên hải “chia lửa” cho Quân đoàn 4 và nếu phá vỡ sự phòng thủ của địch ở phía duyên hải, địch sẽ cơ bản mất khả năng “tử thủ” Sài Gòn”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 09:58:54 pm

        Tối hôm ấy tôi và các anh Lê Linh, Công Trang, Hoàng Đan, Lê Khả Phiêu, Bùi Công Ái trao đổi với nhau về vấn đề đó, rồi kéo nhau đến gặp anh Lê Trọng Tấn.

        Anh Tấn đang ngồi trầm tư, tay điếu thuốc cháy dở, mắt đăm đăm nhìn ra cửa. Thấy chúng tôi lục tục kéo đến, anh mỉm cười:

        - Có chuyện gì thế... mời ngồi.

        Tôi thay mặt anh em trong Bộ tư lệnh Quân đoàn phát biểu:

        - Về việc trên điều động Sư đoàn 325, Lữ đoàn 203 xe tăng, trung đoàn phòng không của quân đoàn tôi cho Quân đoàn 1. Nếu chúng tôi đề đạt phương án khác sợ làm đảo lộn ý định của cấp trên. Tôi nghĩ chiến tranh khó tránh khỏi có sự đảo lộn...

        - Cứ mạnh dạn trình bày đi.

        Được anh Tấn khuyến khích, tôi nói một mạch những suy nghĩ chúng tôi đã chuẩn bị và nhấn mạnh vào sức cơ động của quân đoàn, có cơ giới, có tàu thuỷ, đường giao thông thuận lợi, có khả năng chiến đấu trong hành tiến.

        Anh Tấn tươi cười đáp:

        - Ý kiến của các cậu rất đúng. Mình cũng nghĩ thế. Được, tớ sẽ ra Hà Nội báo cáo với anh Văn. Nếu anh Văn đồng ý mình sẽ điện ngay.

        Một mặt chờ điện của anh Tấn, một mặt chúng tôi vẫn tích cực xúc tiến việc chấp hành lệnh tách một số đơn vị tăng cường cho Quân đoàn 1 và tính toán công việc khi ở lại.

        Chiều ngày 5 tháng 4 tôi nhận được một bức điện ngắn:

        “Quân uỷ Trung ương đồng ý.

        Ký tên

        Tấn”

        Bức điện nhanh chóng trở thành luồng gió ấm truyền khắp cơ thể của quân đoàn. Toàn quân đoàn phấn khởi sôi nổi chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng, trận đánh hoàn toàn giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bộ tham mưu quân đoàn quên ăn quên ngủ nghiên cứu tình hình ta, tình hình địch, địa hình, đường sá, kế hoạch hành quân, phương án tác chiến... Cục Chính trị lo động viên bộ đội, chuẩn bị nội dung hướng dẫn công tác chính trị trong hành quân chiến đấu đường dài, công tác chính trị trong vùng mới giải phóng... Cục Hậu cần lo việc bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho quá trình chiến đấu dài ngày.

        Tuy chúng tôi đã ý thức được việc di chuyển đội hình lớn đi xa sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vẫn chưa lường hết khó khăn cụ thể như thế nào. Tới khi chính thức chuẩn bị lên đường vẫn còn gần nửa số xe, pháo của Sư đoàn phóng không 673 và Tiểu đoàn 2 Lữ đoàn xe tăng 203 bị tắc nghẽn trên các đường số 14, 73, 74. Phần lớn lực lượng của Trung đoàn cao xạ 245 và Tiểu đoàn 3 Lữ đoàn pháo binh 164 còn nằm ở Khe Sanh, Quảng Trị. Các đơn vị pháo vào chi viện cho Sư đoàn 304 chiến đấu ở Thượng Đức, phải hành quân ngược ra phía bắc, để đi theo đường 72 ra Huế. Phải tốn khá nhiều công sức và thời gian mới chuyển được những đơn vị ấy ra tới đường số 1.

        Khi xốc lại số phương tiện vận chuyển, kể cả số xe ô tô của Sư đoàn 511 vừa được tăng cường mới chỉ đủ chở được hơn hai phần ba quân số. Trên đường quân đoàn phải qua 569 cầu, trong đó có 14 cầu bắc qua sông lớn; ta mới biết địch đánh sập các cầu Câu Lâu, Kế Xuyên, Bà Bầu, An Tân, nhưng lực lượng công binh cầu phà của quân đoàn quá nhỏ nhoi, chỉ đủ ghép bốn phà 50 tấn...

        Những khó khăn bề bộn tưởng chừng khó lòng khắc phục nổi đã được toàn quân từ tư lệnh tới người lính cùng ghé vai góp sức tích cực, và được cấp trên quan tâm, được nhân dân giúp đỡ nên đã lần lượt vượt qua.

        Chỉ trong vài ngày Lữ đoàn 203 đã thu hồi của địch bổ sung vào biên chế của mình hàng chục xe M113 và M48. Bộ đội pháo binh thu nhiều xe, pháo, đạn đồng bộ của địch để thay thế trang bị của mình. Tỷ lệ số pháo lên tới hơn một phần ba số pháo biên chế của đơn vị. Trung đoàn 68 pháo binh (Sư đoàn 304), Trung đoàn 48 pháo binh (Sư đoàn 325) đã tổ chức thêm bốn đại đội pháo 105 ly. Lữ đoàn 164 pháo binh tổ chức thêm một tiểu đoàn pháo 155 ly. Các đơn vị còn thu và sử dụng hệ thống thông tin gắn trên xe địch, có công suất lớn rất thuận tiện cho tổ chức chỉ huy.

        Các đơn vị bộ binh cũng chuyển đổi sử dụng nhiều loại vũ khí, kỹ thuật của địch. Hầu hết các đại đội, tiểu đoàn dùng máy vô tuyến PRC25 của Mỹ. Riêng Sư đoàn 325 mỗi tiểu đội được trang bị thêm một hai khẩu phóng lựu M79.

        Thời gian này Cục Hậu cần làm được nhiều việc có ý nghĩa lớn lao trong việc bảo đảm cơ sở vật chất của quân đoàn. Căn cứ vào bản đồ kho tàng của địch để lại, Cục Hậu cần đã tổ chức thu hàng nghìn tấn lương thực, đạn dược, xăng dầu, quân trang quân dụng, kết hợp gấp rút điều động hàng của ta từ Quảng Trị vào bảo đảm cho quân đoàn đủ dùng một tháng; vận động dân cho mượn xe. Cho tới trước ngày xuất quân, dân đã cho mượn hơn 100 ô tô vận tải cùng người lái. Các anh em lái và thợ sửa chữa tích cực thu hồi xe địch, tìm kiếm phụ tùng thay thế và tranh thủ sửa chữa để tăng thêm đầu xe, số xe thu của địch sử dụng được lên tới 487 chiếc. Quân đoàn đã mạnh dạn sử dụng số lính ngụy biết lái xe tăng, xe bọc thép, ô tô và thợ sửa chữa phục vụ cho cuộc hành quân.

        Cục Hậu cần được sự giúp đỡ của Quân khu 5 phái một tổ đi trước tới thị xã Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang và Cam Ranh tìm nguồn xăng, xét nghiệm xăng dầu và thu hồi.

        Tại Đà Nẵng, mỗi xe đã được cấp phát hai cơ số xăng mang theo xe. đối với xe tăng, có 14 xe chở dầu đi theo, bảo đảm đủ cơ số thứ hai. Mỗi đoàn xe còn bố trí một số xe téc đi theo.

        Về phương tiện vận chuyển, trên Bộ đã tăng cường cho quân đoàn và Sư đoàn 571 ô tô vận tải, Trung đoàn 83 công binh cầu phà, và tàu biển của hải quân chở Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn.

        Sau khi kiểm tra công tác chuẩn bị của toàn quân đoàn, tôi thở một hơi dài nhẹ nhõm: thế là cơ sở vật chất đã tạm đủ để tiến về Sài Gòn”...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:48:51 pm

5. THƯỢNG TƯỚNG HOÀNG CẦM (ĐỖ VĂN CẨM)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/Hoang%20Cam-%20tuong_zps04sceamq.jpg)


        Thượng tướng Hoàng Cầm, sinh năm 1920, quê ở xã Sơn Công huyện Ứng Hoà tỉnh Hà Tây. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đồng chí gia nhập quân đội. Tham gia kháng chiến chống Pháp, đồng chí Hoàng Cầm trưởng thành từ chiến sỹ đến trung đoàn trưởng.

        Từ tháng 9 năm 1953 đến năm 1963, đồng chí làm Tham mưu trưởng , Sư đoàn phó rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312.

        Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí được cử vào chiến trường miền Nam công tác. Gắn bó với chiến trường miền Đông “gian lao mà anh dũng”.

        Từ năm 1964 đến năm 1970, đồng chí Hoàng Cầm được giao đảm nhiệm các chức vụ: Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, Tham mưu phó Quân Giải phóng miền Nam, làm Phó tư lệnh và Tư lệnh một số chiến dịch ở miền Đông Nam Bộ.

        Năm 1970 – 1974 đồng chí làm Tham mưu trưởng Quân Quân Giải phóng miền Nam kiêm Tư lệnh Đoàn 301.

        Năm 1975 là Tư lệnh Quân đoàn 4 nằm trong cánh quân phía Đông tiến vào trung tâm sào huyệt địch ở Sài Gòn, giành toàn thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

        Năm 1981, đồng chí Hoàng Cầm là Phó tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu- chia.

        Từ tháng 4-1982 đến 1986 là Tư lệnh Quân khu 4; được phong hàm Thượng tướng năm 1984. Năm 1987-1992 là Tổng Thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam.

        Đồng chí Hoàng Cầm là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá IV đến khoá VI. Đại biểu Quốc hội khoá VII. Đồng chí được Đảng, Nhà nước trao tặng những phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, hạng ba, Huân chương Chiến công hạng nhì.

        Những năm đầu ở miền Đông Nam Vộ, đồng chí Hoàng Cầm đã cùng quân dân trên chiến trường này đánh bại các chiến dịch “mùa khô” của đối tượng tác chiến mới trong lúc chúng đang ở thế ra quân “tiêu diệt”. Đây là những lực lượng được đánh giá là tinh nhuệ nhất của các Sư đoàn bộ binh Mỹ. Song quân và dân ta đã xác định quyết tâm, tập trung lực lượng đánh những trận then chốt, những trậ tập kích táo bạo tạo được thế chủ động ngay từ đầu, giành thắng lợi nhanh gọn, giòn giã.

        Đặc biệt, trên chiến trường này, ta đã đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty là cuộc hành quân lớn nhất của quân chiến đấu Mỹ nhằm “tiêu diệt” cơ quan đầu não kháng chiến và Sư đoàn 9 bộ đội chủ lực Miền, trong điều kiện địch có lực lượng gấp ba lần ta, có hoả lực pháo binh hơn hẳn, lại có thiết giáp và không quân yểm trợ. Để phản công đánh trả cuộc hành quân quy mô lớn này, ta đã khéo vận dụng nghệ thuật chiến tranh nhân dân rộng khắp để phân tán căng kéo địch, đồng thời sử dụng chủ lực tác chiến ở vòng ngoài tạo những quả đấm mạnh, tập trung bên sườn và phía sau lưng địch, tiêu diệt và làm thiệt hại nặng cho quân chiến đấu Mỹ. Chiến thắng này là nét đặc sắc về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng chiến dịch phản công của ta, là dấu ấn sâu sắc đối với đồng chí Hoàng Cầm trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:49:59 pm

TẦM NHÌN QUA CÁC MÙA KHÔ

        “...Đầu tháng 12 năm 1965 khi chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng kết thúc, Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 9: Phát huy chiến thắng đợt một, cần gấp rút chuẩn bị củng cố đơn vị theo hướng đánh lớn, buộc địch co lại giảm bớt sục sạo vùng sâu của ta.

        Thay mặt Bộ tư lệnh Sư đoàn, tôi đề nghị Miền xin được chuyển địa bàn để có điều kiện đánh địch góp phần giữ vững vùng sâu, bảo vệ thế trận có lợi cho ta.

        - Ở đâu?- Bộ chỉ huy Miền hỏi.

        - Đông đường 13 – Tôi trả lời.

        - Đồng ý - Bộ chỉ huy Miền chuẩn y và nhấn mạnh - Trước mắt sư đoàn về đứng chân ở khu vực suối Nhung để tranh thủ củng cố đơn vị, sẵn sàng đánh địch trên đường 13, 16 nếu địch nống ra khu vực này.

        Trong khoảnh khắc yên tĩnh ngắn ngủi, gần như chưa có trận đụng độ nào giữa các đơn vị chủ lực Miền với quân viễn chinh Mỹ, nhưng bầu trời và mặt đất Đông Nam Bộ đặc quánh những âm thanh nặng nề của chiến tranh. Thường xuyên chúng tôi được cơ quan tham mưu Miền thông báo máy bay B52, cường kích, pháo bầy đánh phá liên tục, ác liệt các căn cứ Dương Văn Minh, Bời Lời, Long Nguyên, Củ Chi, Chiến khu Đ, Xuyên Môc, Hát Dịch... và những nơi chúng nghi có chủ lực ta trú quân. Tình hình đang thực sự trở nên khẩn trương. Đối mặt với Sư đoàn 5, Sư đoàn 9 chúng tôi là các đơn vị sừng sỏ của Mỹ vừa đặt chân đến chiến trường miền Đông  đang hối hả chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn. Cuộc “chiến tranh cục bộ” trên quy mô lớn đã và đang trở thành hiện thực (Sư đoàn bộ binh số 1 mang tên “Anh cả đỏ” thành lập năm 1917, quân số 17.530 tên, biên chế ba lữ đoàn, năm tiểu đoàn pháo binh 105 và 155 ly, một tiểu đoàn và hai đại đội không quân (cơ động đường không) đến Biên Hoà ngày 2 tháng 10 năm 1965. Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 mang “Tia chớp nhiệt đới” thành lập năm 1941, tham gia chiến tranh thế giới lần hai ở chiến trường Châu Á – Thái Bình Dương và chiến tranh Triều Tiên. Đây là sư đoàn được biên chế mạnh, gồm 12 tiểu đoàn bộ binh cơ giới, ba tiểu đoàn thiết giáp, sáu tiểu đoàn pháo 105 và 155 ly, một tiểu đoàn không quân và nhiều đơn vị bảo đảm khác. Quân số 17.666 người. Lữ đoàn 173 không vận (cơ động bằng máy bay lên thẳng) biên chế 4 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo 105 ly, Quân số 4.313 người, đến Biên Hoà ngày 5 tháng 5 năm 1965).

        Ba ngày sau, khi sư đoàn đã tạo dựng được cơ ngơi ăn ở ổn định, bắt tay vào việc chấn chỉnh tổ chức, củng cố đơn vị, tôi được điện của Bộ chỉ huy Miền gọi về báo cáo kết quả chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng và nhận nhiệm vụ mới.

        Cuộc họp có mặt đầy đủ các anh trong Bộ chỉ huy Miền, diễn ra trong không khí phấn khởi vì chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng kết thúc thắng lợi.

        Theo gợi ý các anh trong Bộ chỉ huy Miền, tôi báo cáo ngắn gọn, tổng hợp diễn biến, kết quả và chủ yếu là rút ra những bài học về chỉ đạo chiến dịch, chỉ huy chiến đấu...

        Nghe xong, các anh trong Bộ chỉ huy Miền đều nhất trí với đánh giá thắng lợi của sư đoàn và chỉ thị sư đoàn cần tổng hợp gấp nhưng đầy đủ những kinh nghiệm đánh Mỹ trong chiến dịch này, phối hợp với tác huấn Miền biên soạn thành tài liệu bài bản hoàn chỉnh để phổ biến nhanh xuống các lực lượng vũ trang ba thứ quân trước khi bước vào đợt hoạt động mới.

        Tiếp theo anh Trà thay mặt Bộ chỉ huy Miền phổ biến nhiệm vụ.

        Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 11, 12, Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết Quân uỷ Trung ương và kế hoạch  tác chiến của Bộ Tổng tham mưu, được Trung ương Cục, Quân uỷ Miền phê chuẩn, Bộ chỉ huy Miền thông qua kế hoạch hoạt động quân sự đợt II cho toàn chiến trường B2, trọng tâm là chiến trường Đông Nam Bộ, nhàm phát huy thế chủ động, tiếp tục tấn công các cuộc phản công của quân Mỹ trong âm mưu “bẻ gãy xương sống Việt Cộng” của tướng Oét-mo-len trong mùa khô này.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:50:32 pm

        Để thực hiện yêu cầu trên, Bộ chỉ huy Miền quyết định:

        - Ở hướng bắc, tây bắc sẽ do các đơn vị chủ lực tại chỗ, bộ đội địa phương và dân quân du kích đảm nhiệm, đặc biệt chú ý các trọng điểm Củ Chi, Hố Bò, Bến Cát...

        Ở hướng bắc, đông bắc sẽ do Sư đoàn 9 đảm nhiệm gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Bình Dương, Chiến khu Đ; Sư đoàn 5 làm nhiệm vụ đánh địch từ đông bắc đến đông nam Sài Gòn gồm các tỉnh Long Khánh, Biên Hoà, Bà Rịa. Dồn chủ lực về hướng này vì ở đây có khả năng đánh lớn khi quân Mỹ mở các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực ta, đánh phá các căn cứ trong đó có các mục tiêu chủ yếu là Chiến khu Đ và mở rộng vùng kiểm soát trên hai trục đường 13 và 15, uy hiếp hành lang Phước Long – nơi đoạn cuối của đường mòn Hồ Chí Minh đã được nối thông, đang phát huy tác dụng; ở đó chúng ta đã tiếp nhận hàng vạn cán bộ, chiến sỹ, hàng nghìn tấn vũ khí đạn dược từ miền Bắc chi viện cho chiến trường Đông Nam Bộ. Với đặc điểm rừng núi ở hướng này hiểm trở, liên hoàn có chiều sâu, một thế tự nhiên thuận tiện để thực hiện buộc địch phải theo cách đánh của ta.

        - Ở hướng Trung và Tây Nam Bộ, theo kế hoạch của Bô chỉ huy Miền, các trung đoàn chủ lực Quân khu 8 và 9 dồn về đứng chân ở U Minh, Đồng Tháp vừa làm nhiệm vụ giữ căn cứ giải phóng, phối hợp với cá lực lượng vũ trang địa phương đánh phá bình định ở đồng bằng, vừa thọc sâu tiến công địch trên đường số 4, buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện cho Đông Nam Bộ là chiến trường chính chiến đấu có hiệu quả các cuộc phản công mùa khô của địch. Quanh các căn cứ của Mỹ như Bắc Hà (Củ Chi), Lái Thiêu, Bến Cát, chúng ta đang có kế hoạch củng cố các tổ đội du kích bám căn cứ, đánh tiêu hao, quấy rối địch và từng bước hình thành nên những vành đai diệt Mỹ.

        Với cách bố trí trên đây, chúng ta hình thành thế trận đánh địch tại chỗ, đánh chính diện bên sườn và cả sau lưng địch, buộc Mỹ phải bị động, phân tán, không phát huy được thế mạnh quân đông, vũ khí nhiều và hiện đại.

        Với vẻ lạc quan, tự tin, giọng nói sôi nổi quen thuộc mà tôi bắt gặp lần đầu ở chiến dịch Biên giới (Thu Đông 1950), anh Thanh thay mặt Quân uỷ Miền nói tiếp: Mặc dầu vừa bị thua đau ở Đất Cuốc, Bàu Bàng, Căm Se nhưng Mỹ đang còn rất sung sức, chúng đang còn rất chủ quan ngạo mạn về sức mạnh trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại, nhất là mục tiêu “tìm diệt” Sư 9 chưa thực hiện được nên quân Mỹ còn hung hăng. Các trận phản công sắp tới của chúng chắc chắn có quy mô lớn cả về không gian và thời gian, với nhiều thủ đoạn chiến thuật, biện pháp kỹ thuật hiểm hóc, tinh vi. Vì vây, chúng ta phải có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào (Nghị quyết Trung ương 12).

        Cuối cùng anh chỉ thị: Để thực hiện tốt đợt hoạt động này, ngoài quyết tâm cao, Sư đoàn 9 cần gấp rút xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể, nhưng không nên tham, mà phải tuỳ theo sức mình, “bảo đảm sao cho tiến công địch mạnh và tự vệ mình tốt” (thư Bộ Chính trị). Anh vừa nghiêm túc giao nhiệm vụ vừa thân mật động viên Sư 9 kiên trì ở hướng đó, vừa khẩn trương triển khai lực lượng sẵn sàng đánh địch, vừa chuẩn bị cho đơn vị ăn Tết ở đấy.

        Cuộc họp tuy nhiều nội dung nhưng chỉ làm gọn trong vòng hai giờ.

        Tôi trở lại sư đoàn ngay sau đó, vào lúc mặt trời lặn, chỉ còn hắt lên chân trời phía tây một ráng đỏ đậm rồi tắt nhanh, báo hiệu ngày mai nắng càng gắt, như đổ lửa xuống mảnh đất nơi chúng tôi đang trú quân dã ngoại.

        Các anh trong Bộ tư lệnh Sư đoàn phấp phỏng chờ tin. Vì vậy, khi tôi về đến nơi là cuộc họp được bắt đầu. Tôi báo cáo toàn bộ kế hoạch của Bô chỉ huy Miền về đợt hoạt động quân sự mới, trong đó có nhiệm vụ cụ thể của Sư; nói cả tinh thần thư của Bộ Chính trị đề ngày 6 tháng 4 năm 1965 gửi Trung ương Cục và Khu uỷ 5 mà tôi được phổ biến trong cuộc họp: Khi Mỹ thêm nhiều lực lượng và phương tiện vận chuyển cơ động, chắc chắn chúng sẽ mở nhiều cuộc tiến công vào chiến trường rừng núi, với quân Mỹ là chính, có kèm theo quân ngụy và quân chư hầu để cố giành chủ động, cố đạt một số thắng lợi để gây ảnh hưởng về chính trị, hòng đẩy ta vào thế bị động... Do đó nếu ta không dùng hình thức phản công chiến lược, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân ngụy , thì ta sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội và có thể lầm vào bị động...

        Chủ động và khẩn trương phải đi liền với nhau, từ nhận thức đó chúng tôi đã thống nhất một số việc cần làm ngay trong đêm: điều đơn vị trinh sát rời suối Nhung đi về phía tây nam đến tả ngạn sông Bé thuộc địa phận huyện Tân Uyên, nơi đang có một số đơn vị Mỹ thuộc Sư 1 nống ra cách đây bốn ngày để nắm ý đồ và hình thái đóng quân của chúng; đồng thời toàn sư đoàn cũng chuẩn bị chuyển dịch đội hình ở hướng này.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:52:05 pm

        Đúng như nhận định của trên, từ đầu tháng 2 năm 1966, địch chuyển trọng tâm hoạt động sang mũi tên thứ hai - bắc, đông bắc Sài Gòn, thuộc địa bàn đứng chân của Sư đoàn 9.

        Từ đây chúng tôi mới thực sự bước vào thực hiện kế hoạch quân sự của Bộ chỉ huy Miền chống lại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất với mục đích “tìm diệt” mà tướng Oét-mo-len, tư lệnh quân đội viễn chính Mỹ ở Nam Việt Nam cho rằng bây giờ là thời điểm thực hiện ( các biện pháp chiến lược của Mỹ đã thực hiện trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam: Biện pháp chiến lược “tìm diệt” áp dụng từ khởi đầu chiến lược “chiến tranh cục bộ” đến hết mùa khô lần thứ nhất, biện pháp chiến lược “hai gọng kìm” được áp dụng từ cuộc phản công chiến lược “quét và giữ” được Abram thay Oét-mo-len đề xướng áp dụng từ Xuân 1968. Các biện pháp chiến lược quân sự của Mỹ nhằm hai mục tiêu cơ bản: tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và giành dân, chiếm đất).

        Mở đầu mũi tên thứ hai bắn sang hướng bắc, đông bắc là cuộc hành quân mang tên “Đá lăn” vào giữa tháng 2 năm 1966.

        Đây là cuộc hành quân nằm trong kế hoạch chung của cuộc phản công chiến lược, là mũi trọng yếu trong hai mũi tên ở miền Đông Nam Bộ, nhằm mở rộng kiểm soát đường 7, chia cắt Khu Đ, “bình định” khu vực Bông Trang – Nhà Đỏ, Bình Mỹ, giải toả áp lực của ta ở bắc Sài Gòn. Từ mục đích có ý nghĩa chiến dịch này, tướng Oét-mo-len phải điều Lữ 1 (Sư đoàn bộ binh số 1), hai chi đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn Úc vào cuộc hành quân. Ngoài ra địch còn đưa một tiểu đoàn công binh đi trước làm đường tỉnh lộ 2 Bình Dương - Phước Vĩnh, nhàm mở rộng vùng kiểm soát, uy hiếp các vùng giải phóng của ta. Ngày 22 tháng 2, địch bắt đầu đổ quân xuống khu vực Bình Cơ, Bà Đá, Ván Hương đánh vào Chiến khu Đ.

        Bộ tư lệnh Sư đoàn 9 không bất ngờ trước hành động của địch. Chúng tôi càng thấy tính nghiêm túc của nhiệm vụ được giao.

        Chiến khu Đ với trung tâm lúc đầu là vùng Đất Cuốc ngày càng được mở rộng bao gồm phần đất ở đông quốc lộ 13, bắc quốc lộ 20 (sau đó được gọi là Khu A), có độ cao trung bình 100 mét. Chiến khu Đ ở vào vị trí lưng dựa vào cuối cùng của tất cả các chiến khu miền Đông và là chiếc cầu nối B2 với đường mòn Hồ Chí Minh, rất thuận lợi cho ta mở hành lang chiến lược, bố trí kho tàng, tập trung cơ động lực lượng. Nơi đây vừa có thể đứng tự nhiêm vững chắc, vừa có thể đánh thẳng vào đầu não địch. “Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”, đó là điều kẻ thù lo sợ nhưng không sao tránh nổi.

        Phải đánh bại âm mưu địch! Đó là điều khẳng định. Cái khó nêu ra chỉ để suy nghĩ, tìm biện pháp khắc phục. Đó là điều chúng tôi thống nhất trong buổi họp ban đầu, khi cuộc hành quân của địch bắt đầu trở thành hiện thực.

        Kẻ địch đang còn sung sức, kèm theo cả cay cú khi bị thua trong đợt phóng mũi tên thứ nhất vào hướng tây, tây bắc Sài Gòn, nên càng hung hăng. Chúng có đầu óc thực tế, chịu rút kinh nghiệm sau thất bại trận Bàu Bàng, sau cuộc hành quân “Cái bẫy” (Ngày 8 tháng 1 năm 1966, tướng Oét-mo-len huy động trên một vạn quân thuộc Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ”, Sư đoàn bộ binh số 25 “Tia chớp nhiệt đới” cùng với 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 khẩu pháo yểm trợ mở cuộc hành quân “Cái bẫy” đánh vào bắc huyện Củ Chi, Hố Bò (Bến Cát) nằm trong khuôn khổ mũi tên thứ hai đánh ra hướng tây, tây bắc Sài Gòn). Lực lượng dồn vào cuộc hành quân “Đá lăn” gồm 13 tiểu đoàn (ít hơn 5 tiểu đoàn so với cuộc hành quân “Cái bẫy) nhưng thủ đoạn thì xảo quyệt hơn nhiều. điều này thấy rõ trong quá trình chuẩn bị, hình thành thế bố trí.

        Ngày 15 tháng 2 lực lượng địch nống ra đóng quân dã ngoại ở sở cao su Nhà Đỏ trong khu tam giác Lai Khê - Phước Vĩnh – Tân Uyên kẹp đầu mút đường 16 nối với tỉnh lộ số 2 (Thủ Dầu Một - Đồng Xoài).

        Địch ra xa căn cứ đóng dã ngoại dễ đánh! Nhưng đánh vào đâu và kế hoạch cụ thể thì chưa có câu trả lời dù chỉ là chung chung, vì địch ngày hoạt động nống ra càn quét, đêm co về không cố định ở đâu.

        Để trả lời câu hỏi trên, sau khi thống nhất công việc trong Bộ tư lệnh Sư đoàn, tôi và anh Thế Bôn đến tận nơi khảo sát, mất hàng tuần vẫn chưa phát hiện được địa điểm cố định đóng quân của địch là đâu. Phải chăng sự kiện Bàu Bàng được lặp lại tại đây. Nhưng ngày ấy – như trên đã trình bày cùng bạn đọc - chỉ qua một đêm là chúng tôi phát hiện ra chúng. Còn ở đây cũng thế, ngày địch càn quét đánh phá khu vực xung quanh như Cống Xanh, Bình Mỹ, đồng thời yểm trợ cho hai tiểu đoàn công binh làm đường, đêm rút về đóng dã ngoại bên dòng suối Bông Trang, cụ thể điểm nào thì chưa rõ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:52:46 pm

        Không có phép thuật nào, nhưng quả là địch xảo quyệt. Chúng tôi không nản, bằng nhiều cách tổ chức bám sát theo dõi, cũng phải mất 15 ngày mới tìm được mục tiêu. Đêm địch co cụm vẫn trong khu vực Nhà Đỏ - Bông Trang, nằm ở đầu đường 16 nối với tỉnh lộ số 2. điểm đóng quân dã ngoại của địch được chia thành cụm hình vòng, liên kết với nhau được sự chi viện hoả lực của pháo binh và không quân nếu bị đối phương tiến công. Mỗi cụm lấy cơ giới làm nòng cốt, tuyến ngoài có bộ binh làm nhiệm vụ cảnh giới, tuyến trong là các cụm nhỏ kết hợp với bộ binh và cơ giới. Nếu tuyến bộ binh bên ngoài bị chọc thủng, bộ binh tuyến trong sẽ dựa vào cơ giới và phát huy hoả lực của cơ giới chống lại đối phương. Ban ngày chúng phòng ngự tương đối rộng, đêm đến thu hẹp đội hình để giữ bí mật, bất ngờ, bảo vệ cho nhau khi bị ta tiến công.

        Khác với Bàu Bàng, ở Nhà Đỏ - Bông Trang địch đóng dã ngoại có thời gian chuẩn bị (trên dưới một tuần), địa hình nơi đây bằng phẳng nhưng phức tạp, có nhiều bụi tre gai dày. địch dựa vào đó đặt tăng, thiết giáp, kèm theo rào kẽm gai tạo thành vật cản chống lực lượng xung kích của ta. Tuy không thật kiên cố, vững chắc nhưng không thể coi thường, mà cần phải có biện pháp khắc phục, vì đó chính là thủ đoạn chiến thuật cụm dã ngoại của địch được áp dụng trong điều kiện địa hình cụ thể.

        Ngày hôm sau Bộ tư lệnh Sư đoàn họp thông qua quyết tâm chiến đấu, và trước khi thực hiện phải báo cáo Bộ chỉ huy Miền xin được tiến công.

        - Biện pháp đánh địch đóng quân dã ngoại có chuẩn bị như thế nào? - Bộ chỉ huy Miền hỏi.

        - Đánh phục kích – Tôi trả lời.

        - Tại sao? – Bộ chỉ huy Miền hỏi tiếp.

        - Điều địch ra ngoài công sự để đánh... Tôi trình bày Bộ chỉ huy Miền chuẩn y nhưng nhấn mạnh - Phải khẩn trương, tổ chức tiến công sớm, không cho địch có thời gian chuẩn bị tăng viện cho Lữ 173 ở Phước Vĩnh đánh vào Chiến khu Đ.

        Giống như trận Bàu Bàng, dùng đội hình toàn sư đoàn tiến công, nhưng phương châm có khác. - Tập kích kết hợp với phục kích. Trước hết phải dụ địch ra ngoài công sự theo kế hoạch của bộ phận tác chiến sư đoàn chuẩn bị được chúng tôi nhất trí thông qua. Cử một đồng chí trung đội trưởng trinh sát thâm nhập sát hàng rào kẽm gai, có mang theo sơ đồ dựng sẵn vị trí các cụm quân, vị trí tăng, pháo, các mũi tiến công của ta... khi trở ra bỏ lại túi đựng tài liệu (trong đó có bản đồ) quai bị đứt để địch tin là ta vào trinh sát trận địa chuẩn bị tiến công, sẽ phải thay đổi vị trí đóng quân dã ngoại.

        Song song với việc làm trên, chúng tôi cho di chuyển đội hình sư đoàn nhích gần về hướng địch. Các đơn vị triển khai theo nhiệm vụ cơ bản được phân công: Trung đoàn 1 làm nhiệm vụ chủ yếu từ đông bắc đánh lên; Trung đoàn 2 làm lực lượng dự bị chặn đường Phước Vĩnh, đề phòng Lữ 173 phản kích. Sẽ được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình khi địch buộc phải xê dịch đội hình khi kế hoạch nghi binh – “điệu hổ ly sơn” của ta đạt kết quả tốt.

        Chúng tôi đang hồi hộp theo dõi, thì được tin đồng chí trung đội trưởng trinh sát của ta khi trở ra chẳng may bị vướng mìn hy sinh! Vừa thương tiếc vừa lo lắng. Rất có thể trận đánh không thành, cuộc hành quân “Đá lăn” của địch được thực hiện.

        Trong lúc chúng tôi đã nghĩ tới “thua keo này bày keo khác”, thì được tin: túi đựng bản đồ “sơ đồ trận đánh” vẫn còn. Địch viết thư kèm theo thi thể đồng chí trung đội trưởng được chúng đưa ra đường 16 trao trả ta. Như vậy là thế nào? Chắc chắn kế hoạch nghi binh không bị lộ, nhưng sao địch lại trao trả cho ta. Theo phép “lịch sự” hay có ý gì đây! Dù thế nào ta cũng cần có phương án đối phó với tình thế bất trắc này. Tôi nhắc anh em trong cơ quan sư đoàn phải bình tĩnh. Giưa lúc ấy tin trinh sát báo về: có triệu chứng địch bí mật giãn quân ra phía tây sở cao su Nhà Đỏ, đề phòng tiến công, nhưng lại gần nơi ta lót ổ sẵn, một thuận lợi ngoài dự kiến - Kế hoạch nghi binh “điệu hổ ly sơn” của ta có hiệu quả.

        Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh đội hình, kịp đêm 23 rạng 24 tháng 2 năm 1966 đồng loạt tiến công. Mở đầu là đạn cối, ĐKZ 75 bắn dồn dập vào các cụm quân địch, tiếp sau là các mũi bộ binh xung phong. Địch dựa vào hoả lực cơ giới chống trả quyết liệt. Trung đoàn 1 đánh phủ đầu, địch co cụm lại ở các bụi tre gai, ta tiếp tục tiến công dùng hình thức tập kích đêm, vận động truy kích địch ban ngày. Các Trung đoàn 3, Trung đoàn 1 phải tổ chức lại đội hình, tiếp tục tiến công, chia cắt đội hình địch thành từng cụm nhỏ để diệt chúng. đạn ta trúng cả Sở chỉ huy nhẹ Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 1), đội hình địch bị rối loạn, lúng túng trước cảnh đánh gần không phân tuyến của ta, sự chi viện phi pháo của địch bị hạn chế.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:53:38 pm

        Trận đánh ác liệt kéo dài từ 22 giờ cho đến 5 giờ sáng không dứt điểm được, địch bị thiệt hại nặng. Số còn lại chúng dồn thành hai cụm chống trả quyết liệt khi được phi pháo yểm trợ.

        Thời điểm kết thúc đã đến, chúng tôi lệnh cho các đơn vị nhanh chóng rút ra, về tập kết ở địa điểm đã có kế hoạch trước (bên bờ suối Bông Trang).

        Như vậy là thủ đoạn chiến thuật cụm trú quân “vành đai thép” của Mỹ được hoàn chỉnh sau thất bại ở Bàu Bàng tháng 12 năm 1965 đã chứng tỏ kém hiệu lực.

        Về phía ta, sau những tháng này thấp thỏm chờ đợi, sau thời gian chuẩn bị căng thẳng, công phu và sau nhiều buổi dân chủ bàn bạc sôi nổi mà xây dựng cuối cùng chúng tôi tìm được hướng đi, bằng trận đánh then chốt ở Nhà Đỏ - Bông Trang, Sư đoàn 9 đã góp phần trực tiếp đánh bại cuộc hành quân “Đá lăn” trên hướng phản công mà Oét-mo-len cho là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn. Âm mưu đánh phá Chiến khu Đ của Mỹ bị một đòn đau phủ đầu quan trọng, ảnh hưởng xấu đến các cuộc hành quân tiếp theo sau trong khuôn khổ mũi tên thứ hai phóng ra phía bắc Sài Gòn.

        Ngày 7 tháng 3 năm 1966, tướng Oét-mo-len – Tư lệnh quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam lại huy động Lữ đoàn 2 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1, Tiểu đoàn Úc ném vào cuộc hành quân “Thành phố bạc” tiếp tục âm mưu đánh phá Chiến Khu Đ.

        Cuộc hành quân đầy tham vọng của địch được tiến hành sau khi chúng ta đã thành lập Bộ chỉ huy tiền phương thống nhất (Theo chỉ thị của Trung ương Cục, tháng 2 năm 1966, Bộ chỉ huy tiền phương thống nhất được thành lập: Hoàng Cầm - Chỉ huy trưởng, Lê Văn Tưởng – Chính uỷ, Hoàn Thế Thiện – Phó Chính uỷ, Hồng Lâm (Quân khu 7) - Chỉ huy phó; chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang (Sư đoàn 9, lực lượng vũ trang tập trung và du kích cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu miền Đông, Tiểu đoàn Phú Lợi) chiến đấu ở hướng bắc Sài Gòn, bảo vệ Chiến khu Đ), đã có kế hoạch chiến đấu phối hợp cơ bản ba thứ quân bảo vệ Chiến khu Đ nếu địch đánh vào vùng đất thánh này.

        Cuộc hành quân diễn ra đúng như phán đoán của ta, và ta đã có phương án chủ động phối hợp chiến đấu bảo vệ căn cứ. Sư đoàn 9 cơ động đánh địch ở vòng ngoài theo phương án phân công. Nhưng đánh địch vào đâu để diệt được địch, gây rung động chung đến cuộc hành quân, đó là những vấn đề chúng tôi suy nghĩ tìm biện pháp cụ thể. Từ những dự kiến đã có, từ nguồn thực hành trinh sát thực địa, Bộ tư lệnh Sư đoàn quyết định tập kích quân địch ở sở cao su Phú Lương, ở dốc Bà Thức trên đường 16, và ở khu vực Bầu Sắn nơi địch cụm lại ngày 16 tháng 3. Các trận tập kích vào những vị trí trong điểm ở vòng ngoài đã đánh thiệt hại một tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn quân Úc, bắn rơi năm máy bay lên thẳng; đồng thời hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương đánh địch từ vòng trong đánh ra, đạt hiệu quả, như tại căn cứ quân y, các lực lượng bảo vệ khu loại khỏi vòng chiến đấu 60 tên Mỹ...

        Cuộc hành quân “Thành phố bạc” của Mỹ không đạt được mục tiêu. Đây là một trong những thử nghiệm lớn đầu tiên về khả năng bảo vệ căn cứ của ta trước cuộc hành quân lớn của quân viễn chính Mỹ.

        Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, trên chiến trường Đông Nam Bộ, Mỹ phóng ra hai mũi tên “tìm diệt” thực hiện không đồng thời. Sau khi mũi tên một đánh ra tây bắc Sài Gòn bị thất bại, Mỹ dồn lực lượng chuyển sang mũi tên hai đánh ra bắc Sài Gòn, nơi đây có các chiến khu lâu đời của Đông Nam Bộ, nơi có Sư đoàn 9, Sư đoàn 5 đang đứng chân theo ý đồ dàn thế, cài thế của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, sẵn sàng đánh địch khi chúng liều lĩnh phản công.

        Quán triệt tư tưởng chỉ đạo có tính toán chiều sâu và có tầm nhìn đi trước của các cấp trên, Sư đoàn 9 đã chuyển quân theo trù tính trước, dừng lại ở những điểm chắc chắn sẽ xảy ra những trận đụng độ lớn, không rải mành mành, không chạy theo các đơn vị của địch, mà tập trung vào những nơi có giá trị chiến lược, chiến dịch, nhằm vào những đơn vị mạnh nhưng lại ở thế yếu, có sơ hở để thực hành tiến công.

        Suốt tháng 1 đến hết tháng 3 năm 1966, chúng tối triển khai đánh năm trận tiến công, trong đó biết tập trung vào đánh thắng trận then chốt Nhà Đỏ - Bông Trang, phá thủ đoạn chiến thuật nham hiểm của địch, cụm trú quân “vành đai thép”, góp phần đánh bại một bước quan trọng cuộc hành quân trên khu vực mà Mỹ gọi là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn; đồng thời tham gia thử khu vực mà Mỹ gọi là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn; đồng thời tham gia thử nghiệm có hiệu quả về khả năng bảo vệ căn cứ của ta trước cuộc hành quân “Thành phố bạc” của địch với tham vọng diệt cơ quan đầu não miền Đông (Cơ quan Khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu 7 đóng ở khu vực Cù Đình thuộc địa bàn Chiến khu Đ), phá nát vùng trung tâm Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:54:08 pm

        Trước hết do chúng tôi quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, có những tìm tòi trong vận dụng. Trong chiến đấu đã phát huy được tinh thần dũng cảm và mưu trí, biết phối hợp với các  lực lượng vũ trang địa phương, nhờ đó mà tập trung được lực lượng, thực hiện đánh lớn. Việc Sư đoàn 5 đứng chân ở hướng đông và đông nam Sài Gòn với những hoạt động xuất sắc gây nhiều thiệt hại cho địch, làm phá sản kế hoạch giải toả đường 15, sông Lòng Tàu, hút một số lực lượng quan trọng của địch vào hướng này, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 9 đứng ở hướng bắc hoàn thành nhiệm vụ, được “Trung ương Cục, quân uỷ Miền  đánh giá cao thành tích đóng góp của công trường 9 (tức Sư đoàn –NG). Cán bộ và chiến sỹ của công trường phải thấy hết giá trị của sự thành công này để quyết tâm, tin tưởng cao hơn trong nhiệm vụ sắp tới” (Đánh giá của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền về hoạt động của Sư đoàn 9 trong mùa khô 1965 – 1966- Tài liệu lưu trữ tại Sư đoàn 9).

        Thời tiết và những cuộc hành quân có mối quan hệ mật thiết.

        Trong kháng chiến chín năm (1945 – 1954), các cuộc hành quân càn quét lớn của quân đội thực dân Pháp và những mùa hoạt động quân sự lớn của quân đội ta đều chủ yếu diễn ra trong thời gian từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau; chẳng hạn các binh đoàn chủ lực của ta trên chiến trường Bắc Bộ hồi đó đã liên tục mở các chiến dịch lớn như chiến dịch Thu Đông (1947), chiến dịch Sông Thao, Sông Lô (1949), chiến dịch Biên Giới (1950), chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hoà Bình Lý Thường Kiệt (1951), chiến dịch Tây Bắc (1952), chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)... Các cụm từ: Hoạt động quân sự Thu Đông, chiến dịch Thu Đông đã trở thành thuật ngữ quân sự quen thuộc để chỉ các chiến dịch quân sự lớn diễn ra vào lúc mùa mưa kết thúc, mùa khô bắt đầu, thời tiết khô hanh, các sông suối nước cạn dần, dễ qua lại.

        Ở chiến trường đông Nam Bộ, vào giai đoạn đánh Mỹ cũng diễn ra như thế. Quân đội viễn chinh Mỹ càng được trang bị phương tiện chiến tranh hiện đại càng rất coi trọng yếu tố thời tiết – cụm từ: “phản công chiến lược mùa khô” xuất hiện cũng bởi lẽ phải tận dụng tối đa yếu tố thiên thời, không có mưa bão, đường sá khô ráo, sông suối cạn kiệt, bầu trời quang mây.

        Với ta cũng thế, tuy trang bị không nhiều, không hiện đại bằng quân độ Mỹ, sức cơ động và phương tiện vận chuyển vẫn chủ yếu dựa vào đôi chân và đôi vai của con người, nhưng vẫn rất cần đến mùa khô, mùa lý tưởng cho các hoạt động quân sự.

        Tháng 5 đã đến, những cơn mưa đầu mùa ập đến, cảnh sắc Đông Nam Bộ thay đổi theo chu kỳ. Không phải con người thấy dễ chịu, mà cả mặt đất, cây cối cũng thay đổi, vụt sống lại, vươn nhanh. Nhưng đối với hoạt động quân sự thì mưa lại là những trở ngại. Mưa làm sập hầm hào, mưa cản kế hoạch vượt sông, gây khó khăn cho vận chuyển, tiếp tế, mưa gây ẩm ướt, phát sinh bệnh tật, sức khoẻ giảm sút, quân số thiếu hụt và biết bao nhiêu khó khăn khác nảy sinh.

        Sau thời gian lui về khu vực suối Bông Trang nghỉ ngơi củng cố, rút kinh nghiệm, sư đoàn được lệnh của Bộ chỉ huy Miền: chuẩn bị nhận kế hoạch hoạt động quân sự mùa mưa! Chúng tôi không ngạc nhiên khi nhận điện của Miền, bởi sư đoàn nhiều lần tự nhủ - Không thể có chiến tranh theo mùa.

        Cũng vào một ngày mưa, chúng tôi đón anh Trần Văn Trà thay mặt Bộ chỉ huy Miền xuống làm việc với sư đoàn.

        Sau ít phút thăm hỏi, anh Trà vào việc ngay. Tất cả chúng tôi đều như hăm hở đón chờ. Còn anh - mở đầu không phải là truyền đạt mệnh lệnh, kế hoạch tác chiến chính thức, mà là ý kiến trao đổi thăm dò, khiến chúng tôi ngỡ ngàng, khó hiểu?

        Anh nói – “Dự kiến của Bộ chỉ huy Miền định tranh thủ thời cơ, tiếp tục mở đợt hoạt động ngắn tiến công vào mục tiêu gọn – Căn cứ Phước Vĩnh...”.

        Mới chỉ đến đây mà mọi người thở phào xua đi cái chờ đợi nhường chỗ cho niềm vui đến nhanh. Vì sự trùng hợp giữa ý định của trên với nguyện vọng của dưới. Bởi Phước Vĩnh là căn cứ nằm trên địa bàn hoạt động của Sư đoàn 9, chính nó đã gây cho chúng tôi nhiều khó khăn, có lúc tưởng như nhiệm vụ phải bỏ dở.

        Như tháng 6 năm 1965, khi căn cứ Đồng Xoài bị Sư đoàn 9 tiến công, thì từ Phước Vĩnh, Lữ đoàn 173 đã mò lên chi viện, nhưng bị ta chặn đánh, chúng phải rút trở lại; như trong trận tiến công cụm dã ngoại quân Mỹ ở Nhà Đỏ - Bông Trang vừa rồi, cũng phải dành lực lượng chặn viện từ căn cứ Phước Vĩnh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:54:33 pm

        Nhưng địch vẫn chưa từ bỏ ý định, chúng tiếp tục củng cố Phước Vĩnh từ một căn cứ dã chiến lúc đầu thành một căn cứ thuộc loại lớn, có công sự vững chắc để uy hiếp Chiến khu Đ, bảo vệ sườn phía đông đường 13 đoạn từ Hớn Quảng đi Lộc Ninh, làm bàn đạp mở rộng vùng kiểm soát lên tận Đồng Xoài, Phước Long, lấn chiếm vùng sâu của ta.

        Vì vậy chủ trương tiến công căn cứ Phước Vĩnh của Bộ chỉ huy Miền là rất phù hợp với yêu cầu thực tế. Chúng tôi muốn biết thời gian thực hiện càng sớm càng tốt?

        Như có gì khó nói, vừa hoà vào cái không khí vui vẻ, sôi nổi của buổi trao đổi, vừa như đắn đo, thăm dò, phút im lặng trôi nhanh, anh Trà mới chậm rãi nói - Hiềm một nỗi là lương thực ở đây đã cạn, vì địch chặn ta ở biên giới phía bắc không chuyển xuống được.

        Mối quan hệ giữa chiến đấu và bảo đảm hậu cần lại được thể hiện rõ nét, bằng xương bằng thịt. Không thể nói hậu cần là phía sau, là yếu tố bảo đảm sau các yếu tố khác. Ông cha ta nói: “thực túc binh cường”, là rút từ thực tiễn của nhiệm vụ giữ nước trải qua mấy nghìn năm.

        Để giải toả không khí im lặng, anh Trà nói:

        - Tình hình như vậy, anh Năm muốn mang bộ đội đi đâu mà đánh được giặc thì cứ đi.

        - Ra Bắc có được không? – Tôi hỏi vui.

        - Được chứ sao – Anh Trà cười, lại tiếp – Nhưng ngoài đó cần lực lượng phòng không, cần máy bay, tên lửa, đâu có cần bộ binh – Coi chừng ra đó bị ế đấy!

        Không khí bỗng vui hẳn lên, cái yên lặng tan nhanh, cuộc trao đổi lại trở về tinh thần nghiêm túc và thực tế. Lại anh Trà nói trước - Chuyện vui như vậy đủ rồi, bây giờ ta vào việc. Như vậy là kế hoạch tiến công Phước Vĩnh với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, phá thế phản công, thu hút và phân tán không cho chúng tập trung lực lượng đánh lên Lộc Ninh, phá cơ sở kho tàng của ta trên đó phải chuyển hướng:

        - Lực lượng vũ trang địa phương vẫn tổ chức bám trụ quanh căn cứ Phước Vĩnh, tiến công địch bằng nhiều hình thức thích hợp nhằm tiêu hao, gây cho chúng bất ổn định, chỉ lo việc phòng giữ nhà.

        - Sư đoàn 5 trụ đánh địch ở phía đông, đông nam Sài Gòn, chủ yếu trên địa bàn Long Khánh – Bà Rịa.

        Sư đoàn 9 có thêm Trung đoàn 16 (vừa từ miền Bắc vào tăng cường) ngược lên phía bắc làm nhiệm vụ chủ yếu trên hướng Lộc Ninh, phá thế bao vây của địch, bảo vệ kho tàng. Để thực hiện nhiệm vụ, cần áp dụng biện pháp tiến công bằng sức mạnh (có cả cối 120 ly) diệt trại biệt kích Lộc Ninh, cầu viện đường

        bộ, đường không, diệt sinh lực địch, tạo khu quyết chiến Lộc Ninh – Bình Long.

        Quán triệt ý định của Bộ chỉ huy Miền qua anh Trà truyền đạt, Sư đoàn 9 khẩn trương lên đường. Cuôc hành quân khá vất vả. Đất đỏ miền Đông chẳng có mùa nào ưu ái đối với người lính. Nắng thì bụi lầm, mưa có cái khó của mưa. Đường trơn, bết dính tưởng như mặt đất có gì vừa đẩy vừa níu giữ con người lại, đói mệt vì thế đến nhanh với mọi người.

        Chúng tôi đến khu vực Lộc Ninh vào một buổi chiều đẹp trời, đợt mưa tầm tã chấm dứt. Ngay đêm đó Bộ tư lệnh Sư đoàn đã họp bàn kế hoạch chuẩn bị chiến đấu. Trên cơ sở tình hình nắm được, quán triệt nhiệm vụ của Bộ chỉ huy Miền, sư đoàn đã có một kế hoạch tổng thể bước đầu, làm định hướng cho các đơn vị triển khai chuẩn bị cụ thể. Dùng sức mạnh của cả xung lực và hoả lực tiến công vào mục tiêu chủ yếu là trại biệt kích bắc Lộc Ninh; đồng thời bố trí một lực lượng mạnh khác sẵn sàng đánh viện đường bộ và đường không, chủ yếu là đường bộ.

        Kế hoạch nêu ra được các đồng chí trong Bộ tư lệnh sư đoàn thảo luận, nhất trí thông qua. Chưa triển khai cụ thể nhưng trong chúng tôi đều thấy có cái gì suôn sẻ, đánh điểm, diệt viện nhất định sẽ diễn ra. Các kho tàng của ta sẽ được bảo vệ cả trước và sau chiến dịch. Cho dù có diễn biến phức tạp, chiến dịch có thể phải kéo dài thì với điều kiện cụ thể ở Lộc Ninh lúc đó, chúng tôi vẫn có khả năng đánh dài hơi, vì thế của ta vững, có một vùng rừng núi liên hoàn, kéo dài đến Phước Long, đều là cơ sở của ta, địch khó thực hiện thủ đoạn chiến thuật bao vây, vu hồi chia cắt. Khả năng tạo ra khu quyết chiến điểm Lộc Ninh – Bình Long sẽ trở thành hiện thực, góp phần phá thế phòng ngự của địch ở khu vực Lộc Ninh - Hớn Quản.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:54:59 pm

        Cái ngày N đang xích gần thì tình hình lại có dấu hiệu rẽ ngoặt. địch phát hiện Sư đoàn 9 hiện đứng chân ở Lộc Ninh sau khi đã đụng đầu với chúng ở trận Nhà Đỏ - Bông Trang, Cù Đinh, Dốc Bà Nghĩa. Tướng hai sao Đơ-puy, Tư lệnh Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ” đã triển khai cuộc hành quân “En Pa-xô” đưa Lữ 3 lên Lộc Ninh mang theo cả công sự làm sẵn để lập tuyến phòng thủ, thực hiện chiến thuật “dự phòng” phá cuộc tiến công Lộc Ninh của ta.

        Bầu trời, mặt đất vùng Lộc Ninh bỗng sôi lên trong không khí ác liệt của chiến tranh. Đủ loại máy bay, pháo bầy oanh tạc, bắn phá huỷ diệt các cánh rừng nghi ta trú quân, các ngả đường, kể cả đường mòn nghi ta lợi dụng tiến quân.

        Lúc này không phải lúc để tâm tìm nguyên nhân vì sao lộ mà là lo sao đối phó tức thì trước tình huống gây cấn này. Tiếp tục thực hiện như kế hoạch đã vạch? Không được, vì địch đã tăng cường lực lượng bố trí lại thế phòng ngự, tổ chức thành cụm hành quân lớ, sẵn sàng phản kích, phá cuộc tiến công của ta.

        Một cuộc họp Bộ tư lệnh sư đoàn được triệu tập ngay sau khi Bộ chỉ huy Miền thông báo chính thức là ta bị lộ, địch đã tăng cường lực lượng lên Bình Long, Lộc Ninh đề phòng. Thỉnh thoảng nơi chúng tôi ngồi họp lại rung lên như động đất, báo hiệu máy bay B52 đang trải thảm rất gần. Rồi trời lại đổ mưa, những trận mưa thoắt đến thoắt tan ào ào trút nước, không tăng bạt, lán trại nào chịu nổi, quần áo mọi người mọi người lúc nào cũng sũng nước.

        Theo sự phân công, tôi trình bày những suy nghĩ của mình. Như vậy là kế hoạch chiến dịch ta đang triển khai phải huỷ bỏ, vì nếu tiếp tục chẳng khác nào ta húc vào đá! Theo tôi, mục đích chiến dịch không thay đổi nhưng phải thay đổi toàn bộ biện pháp, coi như làm lại từ đầu, từ khu vực tác chiến, hình thức chiến thuật, tổ chức chỉ huy, bảo đảm chiến đấu. Từ tập kích đánh địch trong công sự, chúng ta chuyển sang phục kích đánh địch trên đường giao thông, đánh địch ngoài công sự.

        - Rút khỏi Lộc Ninh? – Có ý kiến chen vào.

        - Đúng, chúng ta sẽ rút khỏi Lộc Ninh, chuyển đội hình sư đoàn về đứng chân ở khu vực quốc lộ 13. Vì muốn phá ý định tiến công của ta, địch phải tăng viện đưa pháo lớn và tăng thiết giáp lên Lộc Ninh, kèm theo là khối lượng lớn đạn dược và lương thực. Tốn kém mấy chúng cũng làm, vì quân công tử Mỹ không thể đánh trận theo kiểu con nhà nghèo. Tất nhiên địch phải dựa vào trục đường giao thông để thực hiện yêu cầu này, đó là quốc lộ 13. Theo tin mới nhận, địch đã ra lệnh báo động đối với trung đoàn thiết giáp, có phương án sẵn sàng đưa trung đoàn này lên tăng cường khi Lộc Ninh, Hớn Quản bị tiến công.

        Vì vậy, giải pháp thích hợp với chúng ta lúc này là chuyển sang đánh giao thông, là chuyển từ bị động sang chủ động trên hướng khác. Về mặt chủ quan ta đã được trang bị B40 từ miền Bắc chuyển vào. Tuy còn ít nhưng biết cách tổ chức vẫn phát huy được hiệu quả tối đa của loại vũ khí chống tăng gọn nhẹ mà lợi hại này.

        Các anh trong Bộ tư lệnh sư đoàn đều nhất trí với những vấn đề tôi trình bày trên và thống nhất một số việc cần làm ngay.

        - Khu vực trận địa đánh giao thông địch là đoạn quốc lộ 13 từ nam ngã ba Đồng Tâm đến bắc Chơn Thành.

        Nghiên cứu trên bản đồ để quyết định những điểm có khả năng xảy ra trận đánh; đồng thời tổ chức đi trinh sát thực địa để xác định trận địa phục kích cụ thể và dự kiến các nơi địch dừng lại đóng quân dã ngoại để có kế hoạch chủ động tập kích khi tình huống xuất hiện.

        - Biện pháp chiến thuật là phục kích đánh giao thông, tập kích khi địch đóng dã ngoại, pháo kích tiêu hao nhàm làm tê liệt giao thông, phá âm mưu địch lấy Lộc Ninh làm bàn đạp đánh phá căn cứ, kho tàng của ta ở đông bắc thị trấn biên giới Cam-pu-chia.

        - Để thực hiện lừa địch, ta vừa tung tin vừa tiếp tục một số động tác giả để địch tin rằng ta vẫn tiếp tục triển khai lực lượng đánh Lộc Ninh, buộc địch phải đưa cơ giới lên tăng viện, ta có điều kiện diệt chúng ở những trận địa bày sẵn; đồng thời tổ chức tiến công địch ở mức độ vừa phải, tiêu hao địch, gây áp lực về tâm lý, buộc chúng phải tăng cường phòng thủ, từ bỏ ý định đánh nống ra ngoại vi.

        - Phân chia lực lượng: Trung đoàn 1 vừa nghi binh vừa chuẩn bị sẵn sàng khi có thời cơ tiến công, chủ yếu là trại biệt kích; Trung đoàn 2 làm nhiệm vụ chủ yếu đánh phục kích trên đường 13, vì trung đoàn này qua trận phục kích đánh thắng đoàn xe cơ giới Mỹ ở Căm Se (20-1-1965) đã kịp thời rút kinh nghiệm, trình độ tổ chức chỉ huy, trình độ chiến thuật vận động phục kích đánh xe cơ giới của cán bộ, chiến sỹ đã được nâng lên cả về nhận thức và thực hành; Trung đoàn 3 làm lực lượng dự bị.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:58:34 pm

        Tôi muốn dừng lại kể cùng bạn đọc về nỗi vất vả và tinh thần vượt khó của Trung đoàn 2. Trong giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, với nhiều thay đổi, trung đoàn vẫn có mặt ở địa điểm quy định trước thời gian. Ngày 17 tháng 5 từ Sóc Con Trăng chuyển sang phía bắc thực hiện phương án đánh Lộc Ninh, thì trung đoàn được lệnh chống càn. Ngày 21 tháng 5 kế hoạch chống càn vừa xây dựng xong thì ngày 22 tháng 5 được lệnh chuyển hướng hoạt động sang đường 13 làm nhiệm vụ đánh giao thông địch. Ngày 23 tháng 5  toàn trung đoàn hành quân đến địa điểm tập kết ở suối Bông Xôm cách đường 13 năm ki-lô-mét, liền bắt tay vào xây dựng trận địa phục kích theo phương án tác chiến mới của sư đoàn.

        Giữa tháng 5 sau khi đi trinh sát thực địa trên hai đoạn đường Lộc Ninh - Hớn Quản, Hớn Quản - Lộc Ninh, bộ tư lệnh sư đoàn họp trao đổi, quyết định chọn trận địa phục kích là đoạn đường từ ngã ba Cây Đa đến bắc cầu Cần Đâm (dài 3,5 ki-lô-mét) thuộc xã Tân Khai.

        Như vậy là điểm tác chiến nằm kẹp giữa hai căn cứ quân sự mạnh của địch là Tiểu khu Hớn Quản và Chi khu quân sự Chơn Thành. Nếu trận đánh xảy ra thì khả năng chi viện bằng không quân, nhất là bằng bộ binh và pháo binh, xe tăng thiết giáp của địch sẽ xảy ra với lực lượng mạnh và nhanh. Nhưng chúng tôi vẫn chọn vì mặt đường ở đây hẹp, giữa đoạn phục kích có hai đầu cầu bị hư hại, địch có sửa nhưng không bảo đảm, lại có hai suối Tàu Ô, Cần Đâm cắt ngang đầy nước vì đang là mùa mưa, khi qua đó tốc độ xe phải giảm, dễ bị ta chặn đầu, khoá đuôi, đội hình bị ùn tắc. Đây là điểm yếu cơ bản địch không thể khắc phục được, còn ta thì có điều kiện lợi dụng để lập trận địa hiểm thực hành tiến công tiêu diệt sinh lực.

        Để hạn chế sức đột kích mạnh, sức cơ động cao, khả năng chi viện nhiều và nhanh của địch, chúng tôi nhấn mạnh với Trung đoàn 2 là, cần cơ động nhanh, đánh quân viện và quân thoát ly ngoài công sự là chính.

        Nếu các trận Bàu Bàng, Nhà Đỏ - Bông Trang tổ chức tiến công theo đội hình sư đoàn, nhằm tạo ưu thế lực lượng vào một trận then chốt để dứt điểm nhanh, thì trong đợt hoạt động này chúng tôi lại chủ trương lấy cấp trung đoàn làm đơn vị tiến công theo kế hoạch chung của sư đoàn, nhằm cùng một thời gian tạo thế đánh địch trên nhiều hướng, nhiều mục tiêu, nhiều yêu cầu cụ thể phục vụ nhiệm vụ chung của chiến dịch.Từ kinh nghiệm trận đánh xe cơ giới Mỹ ở Căm Se, trên khu vực phục kích dài gần  ki-lô-mét, sư đoàn chỉ đạo Trung đoàn 2 đưa toàn bộ lực lượng ra phía trước, hình thành thế chặn đầu, khoá đuôi, đột phá khúc giữa, chỉ để một đại đội làm lực lượng dự bị. Sở dĩ phải dàn mỏng lực lượng, nhưng có trọng điểm như vậy còn do cường độ phản kích của Mỹ mạnh hơn nhiều lần cường độ phản kích của Pháp trong thời kỳ kháng chiến chín năm. Ngay trên đoạn đường này đã có tiền lệ mỗi khi muốn tăng viện cho Hớn Quản, Lộc Ninh, Mỹ phải tổ chức từng đoàn xe lớn, trước khi xuất phát, chúng dùng không quân, pháo binh bắn phá như đổ đạn hai bên đường (từ mép đường ra 200 – 300 mét) sau đó lực lượng tuần đường triển khai bố trí chốt sẵn ở các khu vực hộ tống cho xe qua.

        Ngày 25 tháng 5, Trung đoàn 2 hoàn tất toàn bộ công việc chuẩn bị chiến đấu, kể cả làm đường xuất kích ra vị trí xuất phát xung phong cách đường từ 200 – 500 mét, nhưng phải chờ 15 ngày sau mới có “việc làm”. Thật ra thì không riêng cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 2 bồn chồn, mong đợi, đã xuất hiện cả nôn nóng, thiếu tin tưởng, mà cả Bộ tư lệnh sư đoàn chúng tôi cũng có chung tâm trạng nao nao, lo lắng: hay là lại bị lộ, địch đề phòng? Nếu vậy thì xử lý thế nào? Sư đoàn cho kiểm tra chưa thấy có hiện tượng lộ từ phía chủ quan trung đoàn.

        Hai mười mốt ngày ém quân chờ giặc, phải chịu đựng gian khổ, chỉ có cơm vắt với nhúm muối trắng, anh em vẫn kiên trì. Mặt khác, anh em vẫn tha thiết đề nghị trên chuyển hướng khác, sợ nằm mãi đây lỡ “thất nghiệp”; ngay trong cán bộ chỉ huy cũng có người tính chuyện như vậy. Trận đánh chưa xảy ra mà việc theo dõi, lãnh đạo tư tưởng cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn  không kém phần vất vả, căng thẳng! Ngay cả trong lãnh đạo, chỉ huy sư đoàn đã xuất hiện sự nản chí, muốn xoay hướng như sợ mình chọn điểm lầm, tính toán, phán đoán địch có cái gì chưa sát?


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:58:54 pm

        Kẻ địch thật xảo quyệt. Trước khi khởi sự chúng thăm dò nhằm đánh lạc hướng phán đoán của ta về thời điểm hành quân cụ thể tạo bất ngờ đến phút chót, khi ta biết thì đã muộn. Tám giờ ngày 8 tháng 6, địch xuất hiện ở cầu Tân Khai để sửa cầu. 12 giờ 40 phút, theo tin kỹ thuật, có đoàn xe địch từ Hớn Quản xuống, ta vận động ra chỉ có ba xe Jeep nên không nổ súng. Sau đó, lúc 15 giờ nhận được tin kỹ thuật báo có đoàn xe địch xuất phát từ Chơn Thành đi Hớn Quản, toàn bộ đội hình trung đoàn nhanh chóng vận động ra vị trí xuất phát tiến công công, tất cả đều sẵn sàng. Nhưng mãi xế chiều, “quân của Đại đội A, Tiểu đoàn , Trung đoàn kỵ binh số 4 cùng xe tăng và xe bọc thép di chuyển ồ ạt trên đường 13. Khi đoàn xe di chuyển qua Tàu Ô tiến về Hớn Quản thì bị Trung đoàn 272 (tức Trung đoàn 2) phục kích. Xe tăng dẫn đầu Đại đội A bị súng không giật bắn trúng. Còn đoàn quân phía sau bị tê liệt... Việt cộng (tức Quân giải phóng) tiến công các xe mắc kẹt ở giữa. Trận ác chiến diễn ra trong 4 giờ. Đại đội A bị loại khỏi vòng chiến...” (Từ đây những đoạn trong ngoặc kép đều rút từ cuốn sách: Sự thăng trầm của đạo quân đánh bô Hoa Kỳ ở Việt Nam của Xten-tơn do Minh Đạo lược dịch đăng trong Tạp chí Lịch sử quân sự số 19, 20, 21 năm 1987).

        Trên đây là một đoạn tường thuật tóm tắt của tác giả Mỹ Xten-tơn về trận Cần Đâm. Còn thực tế thì gay go hơn nhiều. Những ngày chờ địch đã căng, khi địch đến, bên cạnh cái mừng địch đã trúng kế, cái lo lại ập đến! Trước hết làm sao kéo căng đội hình hành quân của địch lọt vào trận địa phục kích của ta, không cho chúng “xổng chuồng” khi ta nổ súng. Sau này khi chiến dịch kết thúc, về tổng kết rút kinh nghiệm, nghe các đồng chí chỉ huy Trung đoàn 2 báo cáo diễn biến mới thấy hết được tính phức tạp của trận đụng độ... Khi sư đoàn thông báo – lúc ấy là 15 giờ 20 phút đoàn xe địch xuất phát từ Chơn Thành lên Hớn Quản, Mười phút sau đó nghe rõ tiếng động cơ, cán bộ, chiến sỹ của trung đoàn mới thực sự phấn khởi. Mợi người thở phào nhẹ nhõm. Đi đầu là chiếc M41 đen trũi như con bọ hung, tiếp đến là M113, cách nhau mỗi xe 50 mét, tốc độ chậm, tỏ ra thận trọng.

        Theo đúng kế hoạch, ki đoàn xe đến cầu Tàu ô, công binh cho nổ mìn ĐH10, xe địch tăng tốc, như để tránh nguy hiểm. Khi chiếc xe thứ 17 lọt vào trận địa, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 4) nổ súng, phút đầu diệt một M41, 20 phút sau diệt thêm 4 chiếc nữa, cả đoàn xe phải dừng lại. Nhiệm vụ chặn đầu của Tiểu đoàn 4 đã hoàn thành. Hơn một giờ sau trên hướng Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 đều hoàn thành nhiệm vụ. Cũng tại đây một tiểu đội của ta phục đánh bất ngờ, bắt được một xe M113, địch bỏ chạy, nhưng máy vẫn nổ. Biết xe còn tốt, mọi người nhìn nhau thất vọng vì không ai làm nghề lái xe (sau chiến chiến dịch đánh giao thông này, Bộ chỉ huy Miền điện ra Bộ Tổng tham mưu xin bổ sung lực lượng biết lái xe vận tải quân sự và cả xe tăng, thiết giáp để có người xử lý khi có chiến lợi phẩm thuộc loại cao cấp này).

        Nhưng tình hình bỗng chốc trở nên phức tạp. Địch từ phía sau (Chơn Thành) tổ chức thành hai cụm lên phản kích ở khu vực Tàu Ô. Trung đoàn phải đưa lực lượng dự bị (Tiểu đoàn 6) vào chiến đấu ở nam, bắc Tàu Ô. 17 giờ, bảy xe M41, M113 từ Chơn Thành lên, thọc thẳng vào trận địa ta ở khu vực ngã ba Cây Đa, ta diệt 4 xe, còn 3 xe quần nhau với bộ binh ta, chúng chạy thẳng về Tàu Ô hợp điểm với đồng bọn từ Tân Khai đánh xuống. Trận ác chiến diễn ra trong 4 giờ liền, như địch thừa nhận (từ 15 giờ đến 18 giờ mới kết thúc).

        Thắng nhưng không trọn vẹn, lực lượng khoá đuôi mỏng, lại thiếu lực lượng dự bị mạnh, khi địch tăng viện ta xử lý lúng túng, không kịp thời, nổ súng không đồng loạt, một số xe địch có điều kiện quay lại cụm thành hình vòng đối phó. Phi pháo địch bắn dữ dội, ta tổ chức rút chưa nhanh nên bị thương vong.

        Nhưng trận thắng trong chiến dịch đánh giao thông địch trên đường 13 gây cho Mỹ nhiều lúng túng trong âm mưu mở cuộc hành quân “dự phòng” nhằm phá cuộc tiến công của ta, tạo đà cho những trận thắng tiếp sau của sư đoàn trong đợt hoạt động mùa mưa, lại xảy ra ở địa điểm khác.

        Đó là trận phục kích địch trên khu vực cầu Cần Lê mà địch gọi là “trận Srok Dong – là một trận đánh cổ điển trong chiến tranh Việt Nam”.

        Cần Lê cũng là khu vực nằm trong kế hoạch tổng thể đánh giao thông địch trong đợt hoạt động mùa mưa của sư đoàn. Nhưng khi xảy ra lại là trận phục kích hai chiều, không phải chỉ đánh địch từ Hớn Quản lên mà còn từ Lộc Ninh rút về.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 11:59:45 pm

        Chiều ngày 27 tháng 6, sư đoàn được tin trinh sát kỹ thuật của Miền: một đoàn xe cơ giới địch đang chuẩn bị xuất phát từ Hớn Quản lên đón quân Mỹ rút từ Lộc Ninh về theo đường 13. Như vậy theo phán đoán của sư đoàn, cuộc hành quân dự phòng “En Pa-xô” của địch đã bị phá sản, âm mưu phá cuộc tiến công của ta đã thất bại, chúng thấy không thể trụ lại vì đường 13 đang tắc nghẽn ở đoạn vừa xảy ra trận đánh của Trung đoàn 2 - cầu Cần Đâm. Việc vận chuyển vũ khí, đạn dược, nhu cầu hậu cần cho lính Mỹ gặp nhiều trở ngại.

        Bộ tư lệnh Sư đoàn hội ý quyết định: Đây là trận đánh do sư đoàn trực tiếp chỉ huy, sở chỉ huy đặt ở điểm cao 124; lực lượng sử dụng:

        - Lệnh cho Trung đoàn 1 tạm ngừng kế hoạch tiến công Lộc Ninh, chuyển sang đánh phục kích đoàn xe cơ giới địch từ Hớn Quản lên.

        - Trung đoàn 2 đánh địch phản kích phía sau.

        - Trung đoàn 3 đánh địch đổ bộ đường không (rút kinh nghiệm trận Cần Đầm, sư đoàn nhận định - Thế nào địch cũng sử dụng sở trường của đội quân công tử - sẽ đổ bộ đường không khi bị đánh để cứu nguy cho bộ binh).

        - Phương châm tác chiến, đánh nhỏ đồng thời chuẩn bị đánh lớn, chặn diệt bộ binh, cơ giới đồng thời đánh địch đổ bộ trực thăng.

        Trong quá trình trao đổi kế hoạch tác chiến, một vấn đề nổi lên là bố trí thế nào? Ở đây chỉ cách Chi khu quân sự Lộc Ninh có 7 ki-lô-mét, không có địa hình trung bình như Cần Đâm, rừng thưa, đồng trống, phần lớn là cây dừa nước mọc xen với cỏ le. Từ vị trí tập kết đến khu chiếm lĩnh phải vượt qua ba con suối, khó khăn trong cả cơ động và giấu quân. Vì vậy phải bố trí thế trận vận động phục kích.

        Ý kiến khác (chủ yếu của phái quân sự) thì ngược lại. Làm như vậy khi tiếp cận địch bị trống trải, không an toàn, rất phiêu lưu.

        Đây là vấn đề tư tưởng chiến thuật, có ảnh hưởng trực tiếp đến trận đánh nếu không được giải quyết.

        Sau khi trao đổi thống nhất ý kiến, Bộ tư lệnh sư đoàn phân công tôi thực hiện. Trước hết cần gặp các đồng chí cán bộ chủ chốt cấp trung đoàn để trao đổi thông suốt, kết hợp với bàn công việc chuẩn bị cụ thể vừa tranh thủ được thời gian vừa giải quyết vấn đề có chiều sâu, gắn với thực tế.

        Trận phục kích gần hay xa không theo ý muốn chủ quan, càng không thể cứng nhắc với điều đã học. Nó phụ thuộc trước hết vào nhiệm vụ chiến dịch, vào yếu tố địa hình, vào đối tượng địch cụ thể mà ta có nhiệm vụ xóa sổ. Chúng ta chọn Cần Lê làm trận địa phục kích đánh quân địch từ Hớn Quản lên đón quân từ Lộc Ninh về, nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ cơ bản của chiến dịch đánh giao thông địch. Nếu thừa nhận chỉ có Cần Lê mới là trận phục kích thứ hai thì phải chấp nhận biện pháp chiến thuật vận động phục kích, vì đặc điểm địa hình nơi đây quyết định. Tiến công hay phòng ngự, tập kích hay phục kích đều có chung một yêu cầu là tạo thế bất ngờ. Ở Cần Lê, tạo yếu tố bất ngờ chính là phải bố trí trận địa phục kích từ xa, thực hiện biện pháp chiến thuật vận động phục kích (đây không phải là điều mới, nó đã được áp dụng trong thời kỳ kháng chiến chín năm trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ). Tất nhiên là việc cơ động và giấu quân khó, nhưng nếu chúng ta có biện pháp ngụy trang khéo, xây dựng công sự tốt, xuất kích đúng lúc, ta sẽ ở vào thế bất ngờ, trên tầm cao tiến công địch ở tầm thấp, phơi lưng trên trảng trống dài hơn 3 ki-lô-mét để ta tiêu diệt...

        Lúc nêu vấn đề tranh luận thì găng, tưởng như không có lối thoát. Nhưng khi trao đổi có lý có tình, kết hợp cả thực tiễn những trận đánh trước đó, thì tư tưởng thông suốt, công việc chạy đều.

        Xin trở lại trận Cần Lê. Sau khi bàn bạc nhất trí, các đồng chí Trung đoàn 1 đã khẩn trương bắt tay vào thiết bị chiến trường, xây dựng hầm hào công sự, theo yêu cầu vận động phục kích; làm đến đâu tiến hành ngụy trang đến đó, thực hiện nghiêm kỷ luật giữ bí mật. Nhận lệnh chiều 27 tháng 6, Trung đoàn 1 vừa hành quân, vừa làm công tác chuẩn bị; đến đêm 29 tháng 6 hoàn thành vào chiếm lĩnh trận địa, tất cả đều sẵn sàng chiến đấu và sáng hôm sau 30 tháng 6 đã bước vào chiến đấu, khi một đoàn xe địch từ Hớn Quản tiến lên hướng Lộc Ninh; khác với Trung đoàn 2, thời gian chờ đợi quá lâu.

        Phải dùng hình thức vận động phục kích, nhưng do có biện pháp bảo đảm tốt, Trung đoàn 1 ngay từ đầu đã đánh địch trên thế bố trí thích hợp, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Khi trận chiến đấu xảy ra, đội hình bị địch (chỗ này viết là “địch bị” thì đúng hơn?) chặn đầu khoá đuôi như rắn bị quằn, khúc oằn ra, đoạn co lại, là lúc từ vị trí xuất phát xung phong các đơn vị Trung đoàn 1 vận động ra, B40 cách 50 mét, ĐKZ cách 100 mét là cự ly thích hợp diệt địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:00:06 am

        Việc chặn đầu khoá đuôi, chặn địch từ Hớn Quản lên diễn ra ăn khớp, đội hình hành quân của địch bị ùn, tạo thuận lợi cho ta tiến công tiêu diệt chúng. Sự chống trả có nhưng khác với Cần Đâm, chỉ là lực lượng tại chỗ, số còn sống sót cụm lại, dự vào vỏ thép hoả lực chống trả yếu ớt, tuyệt vọng, chỉ có thể trông chờ vào quân đổ bộ đường không.

        Chỉ huy sư đoàn chúng tôi vừa trao đổi nhận định như thế, thì sự thật đã xảy ra đúng như dự định. Gần giữa trưa bầu trời trong, quang mây, từ phía Hớn Quản có tiến ầm ì vọng đến mỗi lúc mỗi gần, liền đó nhiều máy bay lên thẳng xuất hiện. Chúng đổ quân xuống tây nam trảng Bà Nghi, thực hành phản kích nhằm đẩy lùi áp lực của ta ra xa. Cuộc chiến đấu trở nên gay go, phức tạp. Mãi 19 giờ khi mặt trời gần tắt, trận đánh mới kết thúc. Trung đoàn 1 vừa đánh địch tại chỗ vừa phải chống đỡ với quân tăng viện đổ bộ đường không, tuy thắng lợi nhưng cũng bị thiệt hại.

        Mặc dầu rất thông cảm với cấp dưới, nhưng tôi vẫn gọi điện xuống nghiêm khắc: Trung đoàn 3 xuất kích chậm vì sở chỉ huy không ra sát mặt đường, mất thời cơ đánh địch, nên trận đánh không kết thúc nhanh gọn, kéo dài, gây thêm khó khăn cho các trung đoàn bạn...

        Các  đồng chí trong Ban chỉ huy Trung đoàn 3 chẳng những không phản ứng, trái lại thấy rõ khuyết điểm của mình gây ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung nên đã nghiêm khắc kiểm điểm rút kinh nghiệm, tích cực sửa chữa, không để cho khuyết điểm này tái diễn. Có đồng chí khóc vì ân hận.

        Mặc dù địch bị đòn đau, với gần 80 xe tăng, bọc thép, hơn 600 lính Mỹ thuộc Sư đoàn 1 bị chết và bị thương sau hai trận đụng độ với ta ở Cần Đâm, Cần Lê, nhưng chúng chưa chịu từ bỏ con đường 13, vì đây là đường tiếp tế chính cho Bình Long, Lộc Ninh. Chúng vẫn phải đưa thêm lực lượng và phương tiện chiến tranh lên để củng cố các căn cứ Hớn Quản – Chơn Thành, Minh Hoà nhằm bảo vệ tuyến phòng thủ bắc Sài Gòn.

        Để tránh bị ta phục kích, địch tăng cường tuần tra, nghi binh đánh lạc hướng; dùng bom pháo dọn đường, đồng thời chúng còn tìm thêm đường khác, thường xuyên thay đổi quy luật hành quân. Ngoài đường 13, địch còn sử dụng đường đá đỏ nối liền Hớn Quản - Minh Hoà. Đây là con đường độc đạo nằm giữa đường 13 và sông Sài Gòn nên việc che giấu lực lượng và vận động phục kích của ta gặp nhiều khó khăn.

        Thấy những triệu chứng chúng đang chuyển đội hình hành quân sang đường này, Bộ tư lệnh sư đoàn trao đổi và đi tới thống nhất quyết định khắc phục mọi khó khăn, khẩn trương hình thành thế trận phục kích, sẵn sàng đánh địch khi chúng mở cuộc hành quân, với lực lượng phân công như sau:

        - Trung đoàn 2 được tăng cường một tiểu đoàn của Trung đoàn 16 làm nhiệm vụ chủ yếu.

        - Trung đoàn 1, Trung đoàn 3 làm nhiệm vụ chặn viện phía sau.

        Ngày 28 tháng 6 Trung đoàn 2 hoàn thành công tác chuẩn bị, bộ đội tiến vào vị trí xuất phát tiến công. Nhưng mãi mười ngày sau (8 tháng 7) trận đánh mới xảy ra. Phải chờ lâu nhưng Trung đoàn 2 đã có kinh nghiệm chờ dài ngày trong trận Cần Đâm, anh em nhanh chóng thông suốt, không xuất hiện tư tưởng nôn nóng.

        Mặc dầu đã có nhiều việc làm đánh lạc hướng đối phương, mặt khác rút kinh nghiệm thất bại ở Cần Đâm, Cần Lê mới đây, nên khi khởi sự địch vẫn rất thận trọng đưa bộ binh chốt giữ, dùng tối đa hoả lực pháo binh, không quân dọn đường. ngày 9 tháng 7, sau ba tiếng bắn phá huỷ diệt các vạt rừng hai bên đường, đoàn xe mới vượt qua cầu Xa Cát.

        Đây là trận địch chuẩn bị hoả lực kéo dài chưa từng có trước đó. Ngồi ở sở chỉ huy chúng tôi thấy như có lửa đốt trong lòng, nghe âm thanh bom đạn liên tục từ phía Trung đoàn 2 dội về mà đứng ngồi không yên! Mặc dầu tin tức từ trung đoàn vẫn đều đặn báo cáo về sư đoàn qua mạng lưới thông tin. Kiên trì đã được đền đáp vì địch bắt đầu dẫn xác đến. Điều chủ yếu mà chúng tôi nhắc Trung đoàn 2 lúc này - Cần theo dõi đội hình hành quân của địch để thực hiện chặn đầu, khoá đuôi đúng lúc. Từ kinh nghiệm Cần Đâm, tôi nhấn mạnh - quyết chia cắt không cho địch co cụm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:00:38 am

        Trận chiến đấu lúc đầu diễn ra thật gay go. Nhưng ta ở thế chủ động nên thắng lợi thu được nhanh gọn. Đội hình hành quân của địch lọt vào trận địa phục kích của ta cơ bản bị tiêu diệt. Chúng phải đưa viện binh từ Minh Hoà ra cùng với máy bay lên thẳng đổ quân xuống nam cầu Xa Cát, bị Trung đoàn 3 chặn đánh. Tiểu đoàn thuộcTrung đoàn 16 mới từ miền Bắc vào, tất cả đều mới lạ, nhưng trong trận đánh lần đầu đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, diệt hai phần ba lực lượng địch ở Xa Cát. Tiểu đội do Tiểu đội trưởng Thắng phụ trách bắn cháy 9 xe, được giao báo cáo thành tích trực tiếp qua điện thoại về Tư lệnh sư đoàn:

        - Báo cáo có 9 xe “chạy”!

        - Mới nghe mừng, sau thắc mắc – Cháy hay chạy? Nếu để địch chạy thì thắng lợi cái gì?

        - Báo cáo lại – Nói chậm mới nghe rõ.

        - Báo cáo có 9 xe “chạy”.

        - Sao lại chạy – đánh vần chữ chạy.

        - Báo cáo ch...áy.

        - Cháy phải không?

        - Dạ đúng.

        Tôi reo lên, thế chứ, cả tiểu đội Thắng bắn cháy 9 xe.

        Một trục trặc thật vui. Sau hỏi ra mới biết Thắng quê ở Nghi Lộc, nới có nổi tiếng phát âm khó nghe nhất tỉnh Nghệ An, vì Trung đoàn 16 từ Khu 4 mới bổ sung vào.

        Trận đánh trở nên phức tạp không phải do lực lượng cơ giới đi trên đường mà là viện binh từ phía Minh Hoà tiến ra và máy bay lên thẳng địch đổ quân xuống phía nam cầu Xa Cát. Trung đoàn 3 lần này tích cực sửa chữa khuyết điểm mắc trong trận Cần Lê, cùng các chiến sỹ thông tin, hậu cần sư đoàn, kể cả các chiến sỹ của Trung đoàn 2 bị thương nhẹ đều tình nguyện tham gia chiến đấu. Trận đánh vì thế phải kéo dài đến ngày 11 tháng 7 mới kết thúc.

        Những trận mưa xối xả đã bớt dần, tiết trời bước vào trung tuần tháng 7. Sau trận Xa Cát – Minh Hoà cũng là thời điểm kết thúc cuộc hành quân không theo quy luật thời tiết.

        Nhưng chặng đường hành quân ấy đã ghi thêm nét đậm trong sổ vàng của Sư đoàn 9 trên những chiến công mới. Sự việc bắt đầu từ chủ trương mở cuộc tiến công vào căn cứ Phước Vĩnh, nhưng không có lương thực phải chuyển hướng lên Lộc Ninh. Rồi bị lộ, địch mở cuộc hành quân “dự phòng” tăng cường lực lượng bảo vệ Lộc Ninh, buộc chúng tôi phải chuyển hướng từ phía bắc, đội hình sư đoàn quay ngược xuống nam, đánh viện binh địch trên đường 13.

        Từ chủ động đến bị động rồi lại chủ động, nhưng chủ động sau hay hơn, thông minh hơn. Chúng tôi phải chủ trương mặt trận mới – đánh địch trên đường giao thông, kéo địch ra khỏi công sự mà đánh.

        Kế hoạch tạo thế của chúng tôi thành công, buộc quân Mỹ phải lên chi viện cho Lộc Ninh và phải đi qua những trận địa bày sẵn ở Cần Đâm – Tàu Ô, ở Cần Lê – Ba Nghi, ở Xa Cát – Minh Hoà để chuộc lấy thất bại. Kết quả là viện binh địch phải bỏ Lộc Ninh co về Hớn Quản, Lộc Ninh, bị vô hiệu hoá. Các kho tàng ở bắc Lộc Ninh của ta vẫn được an toàn.

        Thắng lợi của chiến dịch đánh phá giao thông địch trên đường 13 đã rõ ràng, nhưng đâu phải suôn sẻ. Vẫn còn có ý kiến cho rằng hoạt động quân sự của ta vừa qua đánh vào chỗ mạnh của địch là không đúng với nguyên tắc tránh mạnh đánh yếu. Tuy có diệt được cơ giới, diệt được tăng, thiết giáp của địch nhưng ta cũng bị tiêu hao.

        Anh Thanh lại đến với chúng tôi trong những ngày tổng kết đợt hoạt động. Anh nghe chúng tôi trao đổi và hỏi cặn kẽ diễn biến các trận “điệu hổ ly sơn”.

        - Mình có duyên nợ với Sư đoàn 9 các cậu – Anh hồ hởi nói ngay giây phút đầu tới sư đoàn.

        - Chúng tôi mong hoài, lo anh không đến! – Tôi vẫn bị động khi anh nắm tay tôi – nói tiếp - nếu anh dù bận không đến thì chúng tôi vẫn buồn, vẫn tiếc!

        Anh lắng nghe, anh hỏi đặc điểm khác nhau giữa tổ chức chiến đấu phục kích đánh quân Mỹ có khác gì với đánh quân đội thực dân Pháp... Mỗi người một ý, tuỳ theo cảm thụ của mình mà trả lời những câu hỏi trên đây của anh.

        Cuối cùng anh phát biểu tuy ngắn nhưng với tinh thần khen chê thẳng thắn, giúp chúng tôi nhận thức ra nhiều điều bổ ích. Anh nói Sư đoàn 9 một lần nữa chứng tỏ là một đơn vị chủ lực tin cậy của Miền. Phát huy tinh thần trách nhiệm chính trị cao, chủ động tổ chức đợt hoạt động quân sự đánh giao thông địch trên đường 13 đạt hiệu quả rõ rệt, góp phần trực tiếp là thất bại âm mưu “bẻ gãy xương sống Việt cộng” của Mỹ, diệt lực lượng chi viện cho Lộc Ninh trong khuôn khổ hành quân truy quét tuyến biên giới, đánh phá căn cứ, hậu cần của ta...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:01:16 am

        Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến dịch - chiến lược, cần được biểu dương khen thưởng, cần đươc rút kinh nghiệm phổ biến kịp thời đến các đơn vị bạn nghiên cứu vận dụng. Vây điểm đánh viện mà Sư đoàn 9 áp dụng trong đợt hoạt động này được xem như một thuật ngữ mới (thuật ngữ thường dùng là đánh điểm diệt viện). Viện đây là các đoàn cơ giới. Ở đây không đánh tăng, thiết giáp thì sẽ không có chỗ đứng chân, không ở yên với địch. Không diệt tăng thiết giáp thì không thể gọi là đánh Mỹ. có thể nói thời điểm cáo chung của chiến thuật “thiết xa vận” được bắt đầu từ đây, buộc địch phải chuyển sang chiến thuật “trực thăng vận”. Đường 13 bị chúng ta bước đầu vô hiệu hoá.

        Cuối cùng anh kết luận: Như vậy là trúng rồi đấy! Các đồng chí rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh biện pháp tổ chức thực hiện, vì kẻ địch rất thực tế và ngoan cố, không cam chịu bó tay. Nhiệm vụ sắp tới đang còn rất nặng nề nhưng cũng nhiều triển vọng đang mở ra trước mắt chúng ta. Đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vươn lên. Chúc các đồng chí khoẻ và thu nhiều thắng lợi trong nhiệm vụ mới.

        Chúng tôi tiễn anh đầy lưu luyến, biết ơn trong tình đồng chí, tình anh em và riêng tôi còn có cả tình cảm thầy trò. Bởi mỗi lần anh có mặt lại mang đến cho chúng tôi những nhận thức mới, giải toả cho chúng tôi những băn khoăn vướng mắc, tiếp sức cho chúng tôi lòng tự hào, tự tin mới để tiến về phía trước.

        Kết thúc đợt hoạt động quân sự mùa mưa năm 1966, Sư đoàn 9 được lệnh của Bộ chỉ huy Miền chuyển đội hình sang mặt trận phía tây.

        Thế là chúng tôi tạm biệt một chiến trường gắn bó, trở nên thân quen kể từ tháng 4 năm 1965 qua các trận Phước Bình, Phước Long, Đồng Xoài, Đất Cuốc, Bàu Bàng, Căm Se, Dầu Tiếng, Nhà Đỏ - Bông Trang, Cù Đinh, Cần Đâm, Cần Lê, v.v. Lại lật cánh sang hướng tây Sài Gòn, vì đây là lần thứ hai chuyển hướng hoạt động. Lần thứ nhất đầu tháng 5 năm 1966, chúng tôi đã phối hợp ăn ý với lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức tập kích đánh thiệt hại nặng chiến đoàn Mỹ ở Bầu Sắn (Tây Ninh), buộc chúng phải chấm dứt cuộc hành quân Bớc-minh-ham được xem là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ vào chiến khu Dương Minh Châu trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất.

        Lần này trở lại - với định hướng là để củng cố lực lượng, chuẩn bị đón nhận nhiệm vụ mùa khô lần thứ hai.

        Thời gian yên tĩnh giữa hai trận đánh sao mà hiếm đến thế. Một mặt lo tổ chức học tập nâng cao nhận thức tình hình nhiệm vụ mới, củng cố quyết tâm đánh Mỹ; tiếp nhận và bổ sung quân số, trang bị vũ khí được đưa từ miền Bắc vào (Trung ương tăng cường cho B2 gồm 3 trung đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn súng máy cao xạ, 1 trung đoàn ĐKB, 1 tiểu đoàn súng cối 120 ly; lên đường đầu năm 1966, tháng 5 đến chiến trường trong đó Sư đoàn 9 được bổ sung Trung đoàn 16,  một tiểu đoàn súng máy cao xạ 12,8 ly, mỗi đại đội bộ binh của sư đoàn được trang bị 9 B40, mỗi trung đoàn được trang bị 18 khẩu B41); tổ chức rút kinh nghiệm một năm đánh Mỹ; mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kỹ thuật, chiến thuật, nhất là các kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, đánh bộc phá... Mặt khác chỉ huy sư đoàn chúng tôi phân công theo chức trách được giao đi tiếp nhận các chủ trương chỉ đạo của cấp trên.

        Vấn đề có ý nghĩa bao trùm xuyên suốt trong thời gian này là lo tổ chức học tập nâng cao nhận thức tình hình, nhiệm vụ, củng cố quyết tâm đánh Mỹ. Sư đoàn  đã cùng với các lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân Đông Nam Bộ đánh thắng hiệp đầu chiến lược chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Đây là một thắng lợi có tầm quan trọng rất lớn về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu.

        Nhiều kinh nghiệm được đúc kết kịp thời đưa vào ứng dụng nhằm vượt qua những khó khăn ác liệt mới mà kẻ thù đã gây ra.

        Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 – 1966, để giành lại thế chủ động trên chiến trường, “tìm diệt” chủ lực ta, Mỹ đã huy động lực lượng lớn, phát huy đến mức cao nhất thế mạnh về kỹ thuật, chiến thuật và sức cơ động của chúng. Trong nhiều cuộc hành quân, địch tổ chức mũi thọc sâu trên hướng chính bằng bộ binh cơ giới đánh thẳng vào căn cứ của ta, đồng thời tổ chức mũi vu hồi bằng cơ giới hoặc đổ quân bằng máy bay lên thẳng xuống phía sau làm cho ta gặp khó khăn khi di chuyển hoặc khi cần phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Pháo diện địa của địch thường 48 – 60 nòng pháo 105 đến 155 ly, 175 “vua chiến trường” được sử dụng trong một cuộc hành quân) bắn phá ác liệt các khu vực chúng nghi ta tập kết lực lượng. Hoả lực không quân, đặc biệt là máy bay B52 liên tục đánh phá các căn và chi viện cho các cuộc hành quân.

        Trong các trận đánh, địch nhanh chóng tăng cường lực lượng chi viện và dùng hoả lực chặn phía sau đội hình ta; dịch còn dùng phi pháo huỷ diệt cả căn cứ trận địa khi bị ta đánh chiếm để vừa sát thương vừa không cho thu vũ khí.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:01:50 am

        Với sự thay đổi thủ đoạn tác chiến khi trong tay có đầy đủ vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, Mỹ đã làm cho nhiều trận đánh của ta không gọn, không bắt được tù binh, không thu được vũ khí. Tổn thất về người và vũ khí của một số đơn vị khá cao. Các bước của một trận đánh không triển khai được. Bộ đội phải cơ động liên tục để tránh thưong vong vì bom pháo. Mỗi khi trú quân đều phải đào hầm, công sự chiến đấu... sinh hoạt vật chất tinh thần của bộ đội thiếu lớn và không ổn định. Những biểu hiện ngại bom pháo địch, ngại ác liệt đã xuất hiện trong một số cán bộ, chiến sỹ ảnh hưởng đến ý chí và quyết tâm chiến đấu, đòi hỏi giải quyết nó không thể một chiều áp đặt, mà phải tiến hành từ nhiều chiều, bằng nhiều biện pháp.

        Qua các cuộc họp nghe phổ biến tình hình nhiệm vụ và các lần giao ban định kỳ do Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền triệu tập, chúng tôi tiếp nhận được nhiều thông tin có tầm nhìn xa rộng từ Hà Nội truyền vào...

        Ngay từ đầu năm 1966, trong khi Sư đoàn 9 đang căng thẳng dàn thế trận đánh bại cuộc hành quân “Đá lăn” của Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ ở Nhà Đỏ - Bông Trang, thì Trung ương, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã liên tục họp bàn, nhận định: “Mặc dầu bị thất bại liên tiếp, đế quốc Mỹ đang ra sức tăng quân và phương tiện chiến tranh, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược hòng giải quyết vấn đề Việt Nam trong những năm 1967 – 1968” (Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10 năm 1966) với một lực lượng trên một triệu quân, trong đó quân Mỹ có thể lên tới trên dưới 40 vạn (Mùa khô lần thứ nhất (1965 – 1966) lực lượng Mỹ gồm khoảng 20 vạn quân, 2.200 máy bay, 1.400 xe tăng - thiết giáp, 1.200 khẩu pháo, 500 tàu chiến. Mùa khô lần thứ hai (1966- 1967) lực lượng Mỹ trên 44 vạn, 4.300 máy bay, 3.300 xe tăng - thiết giáp, 2.300 tàu chiến các loại).

        Trong thế trận toàn miền Nam, Đông Nam Bộ gồm cả Sài Gòn – Gia Định có ý nghĩa chiến lược quan trong đặc biệt cả về quân sự và chính trị. Một yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định của chiến trường Đông Nam Bộ, là tầm vóc, vị trí của thành phố Sài Gòn (tức thành phố Hồ Chí Minh) nơi Ngụy quyền đặt “thủ đô” và Mỹ đặt “Lầu Năm góc phương Đông” để điều khiển cuộc chiến tranh xâm lược ba nước Đông Dương.

        Oét-mo-len đặt cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong khuôn khổ kế hoạch tác chiến toàn miền Nam. Ông ta bố trí lực lượng khá chu đáo, ít ra là trên văn bản, trên sơ đồ nhằm chặn các cửa ngõ của quân ta tiến xuống các vùng đồng bằng và phụ cận thành phố, thi xã quan trọng, trong khi Mỹ tập trung lực lượng đánh Đông Nam Bộ.

        Trong khi phân tích, đoán định sự phát triển phức tạp và đa dạng của tình hình, bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu đã đề ra chủ trương tổng thể trên phạm vi toàn quốc, giao nhiệm vụ cho các chiến trường khác phải có kế hoạch hướng sự nỗ lực của mình vào chiến trường chính, “ra sức đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của bọn xâm lược Mỹ, làm thất bại các mục tiêu lớn của chúng, giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, tạo điều kiện và thời cơ các hoạt động lớn tiếp theo...” (Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10 năm 1966); đồng thời đẩy mạnh chiến tranh nhân dân đất đối không ở miền Bắc, kiên quyết “đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tăng cường lực lượng kinh tế và quốc phòng, ra sức giữ vững và mở rộng các con đường hành lang, bảo đảm tăng cường chi viện cho miền Nam” (Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10 năm 1966).

        Rõ ràng do vị trí đặc biệt, ở Đông Nam Bộ sẽ diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong mùa khô 1966 – 1967. Tháng 4 năm 1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Khu uỷ và Quân khu Trị - Thiên - Huế, tách khỏi Khu 5. Tháng 6, Quân uỷ Trung ương quyết định lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, mở ra một hướng tiến công mới, buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo thuận lợi cho các chiến trường khác trong đó có Đông Nam Bộ hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cảu mình, trước mắt là mùa khô này.

        Tiếp đó Bộ Chính trị chính thức thông qua sáu phương thức tác chiến (Nội dung tóm tắt sáu phương thức tác chiến:

        - Đẩy mạnh tác chiến của bộ đội tập trung, mở những chiến dịch tiến công hoặc phản công vừa và lớn, tiến tới đánh những trận có tác động chiến lược nhằm tranh thủ ưu thế quân sự trên một hướng...

        - Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình độ cao, tiêu hao rộng rãi quân địch.

        - đánh các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, hải cảng, cơ quan đầu não của địch.

        - Triệt phá đường giao thông thuỷ, bộ quan trọng, tạo thế chia cắt, bao vây địch, làm giảm khả năng chi viện của chúng.

        - Đẩy mạnh hoạt động quân sự ở các đô thị, từ hình thức tác chiến nhỏ kết hợp với đấu tranh chính trị đến tác chiến lớn kết hợp với tiến công và khởi nghĩa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:02:29 am

        - Tác chiến kết hợp với binh biến, đẩy mạnh công tác binh vận, ngụy vận, tạo điều kiện làm tan ra, ly khai, gây binh biến.) do Quân uỷ Trung ương trình bày sau nhiều lần thử nghiệm trong thực tiễn. Những phương thức tác chiến được phổ biến vào chiến trường miền Nam ngay sau đó, đã cung cấp cho chúng tôi, những cán bộ chỉ huy quân sự cao cấp một khối lượng kiến thức quân sự được đúc kết thành những nguyên tắc có sức khái quát cao, dễ nhớ, vừa chứa đựng chiều sâu lý luận sáng tạo mang tính đặc thù Việt Nam vừa mang tính tổ chỉ đạo thực tiễn, mở ra nhiều định hướng giải quyết các vấn đề chỉ đạo chiến dịch, chỉ huy chiến đấu. Trước mắt, chúng tôi xác định đưa vào nội dung chủ yếu tập huấn cán bộ, nhằm nâng cao kiến thức, đồng thời lấy đó làm căn cứ tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm các đợt chiến đấu vừa qua, phục vụ thiết thực cuộc chiến đấu sắp tới.

        Thượng tuần tháng 7 năm 1966, Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền họp thảo luận thông qua quyết tâm và kế hoạch hoạt động quân sự mùa khô lần thứ hai. Các anh Nguyễn Văn Linh, Phan Văn Đáng, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh đều có mặt.

        Cuộc họp này tập trung bàn kế hoạch đối phó với cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của Mỹ vào chiến trường Đông Nam Bộ, mà chủ yếu là khu vực căn cứ Dương Minh Châu. Về các vấn đề chung, từ tháng 6, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đã có chủ trương chỉ đạo các tỉnh thuộc B2 và Quân khu 6, gấp rút có kế hoạch đẩy mạnh hoạt động quân sự và chính trị, tiêu hao tiêu diệt sinh lực tại chỗ kết hợp chống phá bình định, nhằm thực hiện chủ trương mở chiến dịch Hè Thu phối hợp với Đường  đánh bại kế hoạch mùa mưa của địch; đồng thời có kế hoạch sẵn sàng phối hợp tác chiến quân sự đánh địch ở vòng ngoài, nếu địch mở cuộc phản công vào vùng căn cứ của ta.

        Cũng từ tháng 6 năm 1966, được các thông tin về chỉ đạo từ Hà Nội gửi vào, từ nguồn thông tin tình báo chiến lược cung cấp, các tin kỹ thuật thu qua sóng điện, lãnh đạo và chỉ huy Miền đã đoán được chính xác âm mưu thủ đoạn của địch trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai, đã có phương hướng chỉ đạo ban đầu gấp rút củng cố lại việc phòng thủ căn cứ, xây dựng mạng lưới chiến tranh nhân dân trong vùng căn cứ ít dân. Vì vậy cuộc họp này các anh bàn những vấn đề cụ thế.

        Các anh Nguyễn Văn Linh, Phan Văn Đáng phát biểu ngắn gọn, nhấn mạnh những điểm có tính định hướng nhưng sát sườn cho việc xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể:

        - Đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ - Ngụy, là hướng chủ yếu của gọng kìm thứ nhất của địch nhằm đánh phá căn cứ, tìm diệt cơ quan lãnh đạo Miền và Sư đoàn 9, giành thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định cho cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai, tạo ra bước ngoặt chuyển biến cục diện có lợi cho Mỹ trên bàn đàm phán.

        - Đánh bại cuộc hành quân này có ý nghĩa lớn làm thất bại gọng kìm thứ nhất của địch trên chiến trường Đông Nam Bộ, sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến gọng kìm “bình định” của địch, tạo điều kiện giành thắng lợi cả năm 1967; bảo vệ được căn cứ, bảo vệ được cơ quan, kho tàng sẽ ảnh hưởng lớn về mặt quân sự, chính trị.

        - Quyết tâm của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền là động viên mọi lực lượng, lập thế trận chiến tranh nhân dân hợp lý thực hiện phòng thủ căn cứ theo phương châm bám trụ chiến đấu tại chỗ, kiên quyết đánh bại cuộc phản công của địch, khó mấy cũng phải làm.

        Lúc này tôi được Trung ương Cục, Quân uỷ Miền quyết định giữ chức Phó Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền, đồng thời giao luôn cả công việc dự thảo kế hoạch tác chiến trình ra hội nghị để các anh xem xét.

        Tôi rất lo, nhưng là mệnh lệnh, là chỉ thị phải chấp hành, tự nhủ cứ làm hết khả năng của mình, mạnh dạn nêu ra những suy nghĩ của mình để các anh lãnh đạo cho ý kiến.

        Đúng là lúc này chỉ có hai cách lựa chọn. Hoặc đối mặt với kẻ thù đánh bại ý đồ thâm độc của địch, giữ vững căn cứ, hoặc rút lên tận biên giới Cam-pu-chia, tạo cơ hội khác tiến công chúng!?

        Nhưng chúng ta đã chọn cách thứ nhất, vì vai trò vị trí của chiến trường Đông Nam Bộ trong thời điểm đó, đặc biệt là khu vực Chiến khu C.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:03:04 am

        Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của các anh lãnh đạo Miền, mà trực tiếp là anh Trần Văn Trà Tư lệnh trưởng, thay mặt  bộ phận được phân công chuẩn bị kế hoạch tác chiến, tôi trình bày những vấn đề cụ thể, tập trung vào một số nội dung chủ yếu.

        - Một là, thực hiện vũ trang hoá cơ quan thành lực lượng chiến đấu, tiến hành xây dựng công sự hầm hào để thực hiện bám trụ đánh địch tại chỗ; tiến công địch trên các hướng trước mặt, bên sườn, luồn sâu vu hồi phía sau lưng địch, không để địch phân tuyến, bắt chúng phải đánh theo cách đánh của ta.

        - Hai là, khẩn trương hình thành thế trận phòng thủ bằng lưới mìn, bằng lực lượng dân quân tự vệ, bằng lực lượng chủ lực phối hợp hỗ trợ tiến công địch ngay từ trận đầu và đánh liên tục.

        - Ba là, ta bí mật bao vây chia cắt, thực hành tập kích, phục kích và vận động phục kích, quấy rối, đánh nhỏ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ bệnh viện, kho tàng, đồng thời sẵn sàng đánh những trận then chốt, diệt từng bộ phận quân địch, ...

        Bằng phẩm chất kiên nghị, bằng sự lịch lãm được tích luỹ qua năm tháng chiến đấu ở một chiến trường đầy sôi động các anh lãnh đạo Miền sau khi nhận xét, trao đổi những vấn đề của bộ phận chuẩn bị trình ra, đã chính thức thông qua kế hoạch tổ chức và chiến đấu đánh địch, bảo vệ căn cứ như sau:

        1. Nhằm thực hiện thống nhất chỉ huy các lực lượng tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân, lãnh đạo Miền quyết định các ngành dân – chính - đảng đóng ở đông, tây đường 22 đến giáp sông Vàm Cỏ được tổ chức thành sáu huyện căn cứ (Huyện Rùm Đuôn – Sóc Mới: Cơ quan bảo vệ Trung ương Cục đảm nhiệm; Huyện Suối Mây: Cơ quan văn phòng Trung ương Cục; Huyện Bảy Dài: Cơ quan tổ chức Trung ương Cục; Huyện Xa Mát – Tà Xia: Cơ quan an ninh Trung ương Cục; Huyện Xóm Giữa - Đồi Thị: Cơ quan dân y Trung ương Cục). Số 2.000 cán bộ, công nhân viên cơ quan này tổ chức sáu đại đội cơ động của huyện làm nhiệm vụ bộ đội địa phương; 1.200 du kích cơ quan làm nhiệm vụ chiến đấu tại chỗ. Các cơ quan, bệnh viện công xưởng, kho tàng trực thuộc Bộ chỉ huy Miền đóng từ đông đường số 4  đến giáp sông Sài Gòn chia thành bảy khu vực được tổ chức thành bảy huyện căn cứ (Huyện Lò Gò - Bến Ba: Cơ quan tuyên huấn Trung ương Cục; Huyện Châu Thành: Trung đoàn bộ binh 170 đảm nhiệm; Huyện Tà Keng: Cục Tham mưu Miền; Huyện Cà Tum: Cục Chính trị Miền; Huyện Sóc Kỳ: Phòng công binh Miền; Huyện Bà Chiêm: Đoàn pháo binh 69; Huyện Bà Hảo: Cục Hậu cần Miền; Huyện Tà Đạt: Phòng Thông tin Miền). Số 3.000 cán bộ, chiến sỹ, nhân viên thuộc Bộ chỉ huy Miền được tổ chức thành bảy đại đội cơ động làm nhiệm vụ bộ đội địa phương huyện; số 2.000 cán bộ, chiến sỹ còn lại tổ chức thành lực lượng du kích cơ quan chiến đấu tại chỗ.

        Trong mỗi “huyện” phân chia thành nhiều “xã”. Thủ trưởng cơ quan giữ chức “Huyện đội trưởng”, “Xã đội trưởng”. Nhân viên các cơ quan, chiến sỹ các đơn vị tập hợp thành các đơn vị du kích, được trang bị vũ khí, kể cả súng chống tăng B40, mỗi cơ quan đơn vị được dự trữ ba tháng lương thực.

        2. Nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não Miền và Sư đoàn 9, đánh phá căn cứ, kho tàng, địch sẽ tổ chức phản công ồ ạt, trước hết chúng đổ quân chặn biên giới, đóng chốt các điểm Mi Mốt, Cà Tum, Trảng Ba Vũng; đồng thời đổ bộ trực thăng kết hợp với bộ binh cơ giới từ phía nam thọc sâu theo hai đường số 22 và đường số 4, từ đó phân thành nhiều mũi thực hành bao vây chia cắt, vu hồi phía sau, đánh xuyên qua từng khu vực nhằm chụp tắt cơ quan lãnh đạo, bao vây tiêu diệt các đơn vị chủ lực, triệt phá kho tàng.

        3. Hướng tác chiến chủ yếu của ta nhằm vào  các khu vực:

        - Thực hành phản công trong căn cứ là các điểm: trên lộ 4, đoạn từ Bàu Cỏ - Cà Tum; trên lộ Kiểm, đoạn từ Chà Dơ - Bổ Túc; trên lộ Đá Đỏ, đoạn từ Sóc Con Trăng - Suối Ngô.

        - Các khu vực chọn sẵn để đánh các trận then chốt: trên lộ 4 gồm các điểm Bàu Cỏ - Đồng Pan, Cà Tum; trên lộ Kiểm gồm các điểm Chà Dơ, Đồng Rùm, Bổ Túc; trên lộ Đá Đỏ gồm các điểm Sóc Con Trăng, Bà Chiêm, Suối Ngô.

        4. Hướng phòng thủ chủ yếu trong căn cứ; Khu vực Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền.

        5. Hướng tác chiến bên ngoài căn cứ: đường 13 đoạn từ Chơn Thành – Bàu Bàng; khu vực Sài Gòn – Gia Định, Tây Ninh và Bình Dương.

        6. Hướng nghi binh thu hút địch: huyện Tà Đạt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:03:39 am

        7. Nhiệm vụ chiến đấu của các đơn vị:

        - Lực lượng du kích cơ quan, phân đội bảo vệ kiên quyết bám trụ căn cứ, bám sát kìm chế tiêu hao địch, thực hành tiêu diệt nhỏ, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực tập trung tiêu diệt từng bộ phận quân địch. Lực lượng bộ đội địa phương trong căn cứ bám sát, liên tục tiêu hao và tiêu diệt nhỏ, phối hợp với chủ lực trong các trận đánh then chốt trên địa bàn phụ trách.

        - Lực lượng chủ lực hỗ trợ các hoạt động của các đơn vị du kích cơ quan, sẵn sàng đánh một số trận thối động, đồng thời tích cực kìm chế cầm chân địch, tiêu hao rộng rãi và tiêu diệt nhỏ nhằm bảo vệ cơ quan. Cụ thể Sư đoàn 9 vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Cục vừa tổ chức đánh địch bảo vệ căn cứ; Sư đoàn 5 vẫn đứng chân ở khu vực Bà Rịa – Long Khánh, đánh phối hợp vòng ngoài, phân tán lực lượng địch, hỗ trợ chính diện khu vực căn cứ.

        - Lực lượng các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Bình Dương đẩy mạnh hoạt động phối hợp chiến trường, nhằm lúc địch tập trung lực lượng đi càn quét để lộ nhiều sơ hở, tiêu diệt bọn bình định và đánh phá hậu cứ, thị xã trong vùng chúng kiểm soát.

        Ý đồ của các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền là trong thời gian đầu của cuộc hành quân, tìm mọi cách bao vây, chia cắt, tiêu hao tiêu diệt quân địch, cầm chân chúng; vừa đánh vừa chuẩn bị tốt hơn nữa thế trận, vừa củng cố lực lượng để đánh lâu dài với chúng, không cho chúng vô hiệu hoá căn cứ, tiêu diệt chủ lực ta, làm cho địch nản chí, cuối cùng buộc phải rút trong khi quân còn đông, vũ khí phương tiện chiến tranh còn nhiều nhưng vì không chịu nổi các đánh của ta mà phải bỏ cuộc.

        Sau cuộc họp, thể theo nguyện vọng cá nhân, các anh lãnh đạo Miền cho tôi được tạm hoãn thực thi chức trách Phó tham mưu trưởng Miền, về lại Sư đoàn 9 tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ.

        Vừa thấy tôi, anh Lê Văn Tưởng, Chính uỷ thân mật nắm tay tôi nhưng cũng dứt khoát như để lãnh đạo tư tưởng tôi.

        - Vậy là Năm Thạch lại về! – Anh quay ra nói với mọi người như khẳng định – Không tăng cường, không đốc chiến gì hết mà trở về với sư đoàn, thuộc quân số sư đoàn...

        Tôi nắm chặt tay anh, lắc mạnh đáp lại tình cảm gắn bó giữa hai người và chia vui với anh:

        - Báo cáo Chính uỷ! Tôi được lệnh cấp trên điều về đây giữ chức Sư trưởng, xin chính uỷ phân công.

        Các anh trong Bộ tư lệnh Sư đoàn và các cán bộ, chiến sỹ trong cơ quan sư đoàn ùa đến bắt tay, chúc sức khoẻ tôi. Nhiều câu hỏi chờ đợi được dịp bung ra.

        - Nhiệm vụ cụ thể của sư đoàn ở hướng nào?

        - Có thêm lực lượng ngoài Bắc vào không

        - Sư đoàn ta có được bổ sung quân số, vũ khí?

        - Chỉ có Sư đoàn 9 chúng ta – Tôi trả lời.

        Không khí hồ hởi như chùng xuống. Tôi đưa mắt lướt nhanh một lượt. Những người xung quanh như có gì khó hiểu, kèm theo cả thất vọng.

        Vẫn biết thời gian đang rất khẩn trương, cũng không nên để anh em chứa đựng kéo dài cái khó hiểu nơi tâm tư mình. Tôi nói tiếp: Các đồng chí ạ! Trận chiến cũng như cờ tướng. Bên thắng không phải lúc nào cũng nhiều quân, nhiều lúc chỉ một tốt vượt hà là làm nên chuyện. Bên thua không phải hết quân mà là nhiều quân, tượng xe còn cả. Vấn đề là thế trận. Nếu có thế tốt, lực ít hoá nhiều. Ngược lại lực nhiều mà thế bất lợi, lực khó phát huy được sức mạnh.

        Đúng như Bác Hồ đã dạy:

                                  Lạc nước, hai xe đành bỏ phí
                                   Gặp thời một tốt cũng thành công.


        Một cuộc họp Bộ tư lệnh mở rộng được triệu tập để nghe tôi thông báo sơ bộ về chủ trương, kế hoạch chiến đấu bảo vệ căn cứ đã được lãnh đạo Miền thông qua, làm cơ sở để chỉ đạo các đơn vị triển khai công tác chuẩn bị, sẵn sàng thích ứng với tình huống phức tạp và khẩn trương đang diễn ra.

        Sau khi trình bày quyết tâm chung của Miền, tôi nói tiếp nhiệm vụ của Sư đoàn 9 là vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Cục, vừa tổ chức chiến đấu tiêu diệt địch. Hai yêu cầu này có quan hệ nhân quả với nhau cần được quán triệt từ nhận thức thông suốt đến các biện pháp thực hiện cụ thể.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:04:05 am

        Không có câu hỏi nào nêu ra trao đổi. Tôi trình bày tiếp về tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo Miền.

        Đúng là lực lượng chủ yếu làm nhiệm vụ đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ ở Đông Nam Bộ mà chủ yếu tập trung vào mục tiêu chiến khu Dương Minh Châu chỉ có Sư đoàn 9 chúng ta. Lúc đầu chính tôi cũng phân vân về lực lượng đảm nhiệm quá ít, e có khó khăn. Cũng định nêu vấn đề này với anh Trần Văn Trà. Nhưng chưa kịp đặt ra thì quá trình dự họp được trao đổi cùng các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền, vấn đề đã được sáng tỏ, tự mình tiêu luôn cái phân vân một cách êm ả, nhưng (như?)chẳng có nó trong đầu. Chỉ một Sư đoàn 9 được tăng cường Trung đoàn 16 nhưng chúng ta chiến đấu trong thế trận chiến tranh nhân dân, một thế trận vừa huyền thoại vừa hiện thực, có đủ thành phần ba thứ quân.

        - Lấy đâu ra ba thứ quân? – Có ý kiến hỏi.

        Đúng là căn cứ Dương Minh châu hiện chỉ còn 800 dân theo đúng nghĩa đen của nó, nhưng lại sống phân tán. Trước tình hình đó, lãnh đạo Miền đã quyết định tất cả gần 5.000 cán bộ, chiến sỹ, nhân viên thuộc các cơ quan Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền sẽ được trang bị vũ khí, phân chia thành các lực lượng bộ đôi địa phương và du kích cơ quan “huyện”, ‘xã” là những khu vực cơ quan, đơn vị bộ đội đóng trụ sở.

        Với gần 5.000 bộ đội địa phương, du kích cơ quan đều là những cán bộ, nhân viên, chiến sỹ có nhận thức cao về trách nhiệm chiến đấu vì sự nghiệp độc lập, thống nhất Tổ quốc, được thử thách thực sự trong khói lửa chiến đấu, thạo địa hình, lại được trang bị vũ khí, được phân công phân nhiệm rõ ràng, được chuẩn bị sữa trận địa, thiết bị chiến đấu, đó là một lực mạnh và tinh. Tất cả đều được bố trí vừa rộng về diện, vừa hiểm về thế cài răng lược, không cho địch phân tuyến, sẽ đủ sức bám trụ chiến đấu tại chỗ có hiệu quả; đồng thời sẽ phối hợp và hỗ trợ tốt cho Sư đoàn  chúng ta có điều kiện rảnh tay, tập trung lực lượng vào những trận đánh then chốt khi có thời có.

        Tất nhiên còn phải chờ thực tế trả lời. Nhưng ngay từ lúc này, trên bình diện chủ trương và biện pháp tổ chức thực hiện, tôi thấy đây là một sáng tạo của chúng ta trong việc vận dụng quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của tình hình cũng rất cụ thể. Không thể có cách nào hơn để tạo lực, tạo thế đánh địch trong lúc thật hiểm nghèo này, nếu chúng ta chấp nhận sự đối mặt với chúng...

        Tiếp theo, các anh trong Bộ tư lệnh tham gia ý kiến. Sau đó anh Lê Văn Tưởng, Chính uỷ Sư đoàn kết luận:

        - Về biện pháp thực hiện cụ thể thì phong phú, có thể còn nhiều hiến kế bổ sung, nhưng về tư tưởng chỉ có một yêu cầu tất cả chúng ta đồng tâm nhất trí, xác định đầy đủ tinh thần trách nhiệm, dũng cảm, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến đấu của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền.

        - Trước mắt chúng ta cần hoàn thành tốt chương trình rút kinh nghiệm và tập huấn các yêu cầu về chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu cá nhân.

        - Đồng thời chúng ta cần hoàn thành tốt chương trình rút kinh nghiệm và tập huấn các yêu cầu về chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu cá nhân.

        - Đồng thời triển khai công tác chuẩn bị chiến đấu. Tổ chức trao đổi và quán triệt nhiệm vụ của sư đoàn trong tiến công đánh bại cuộc phản công, cần làm rõ mối quan hệ vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Cục, vừa tổ chức đánh địch bảo vệ căn cứ.

        Mùa mưa vừa chấm dứt, lợi dụng yếu tố bất ngờ về thời tiết ở Nam Bộ đang chuyển sang mùa khô, tướng Oét-mo-len, Tư lệnh quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam nay từ trung tuần tháng 10 năm 1966, đã ráo riết chuẩn bị cho cuộc phản công mùa khô lần thứ hai. Mở đầu Mỹ tổ chức một số cuộc càn quét nhằm củng cố  tuyến phòng thủ xung quanh Sài Gòn, chuẩn bị bàn đạp nhằm đánh đòn bất ngờ vào lực lượng ta ở bắc Tây Ninh.

        Nhưng như trên đã trình bày, chúng ta hoàn toàn chủ động trên mọi bình diện chỉ đạo chiến lược, chiến dịch và chỉ huy chiến đấu được hình thành từ rất sớm, ngay từ mùa khô lần thứ nhất chưa kết thúc. Sự hiện diện của Sư đoàn  đang còn dở dang nhiệm vụ ở hướng bắc Sài Gòn đã nhanh chóng lật cánh sang hướng tây, tây bắc Sài gòn theo lệnh của Bộ chỉ huy Miền là một minh chứng là chúng ta đã đi trước kẻ địch trong việc tranh thủ yếu tố thời tiết.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:04:28 am

        Ngày 2 tháng 11 năm 1966, khi ta hoàn thành xong bước chuẩn bị, các đơn vị đã vào vị trí tập kết và ngày N của trận đánh mở đầu đang tới gần, thì ngày 3 tháng 11 một bộ phận lực lượng của Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 của Mỹ đổ quân bằng máy bay lên thẳng xuống trảng trống Bầu Gòn, cách Sở chỉ huy Sư đoàn 9 khoảng 500 mét. Cán bộ, chiến sỹ cơ quan sư đoàn bộ, nòng cốt là trung đội vệ binh và trinh sát triển khai chiếm lĩnh ngay bìa trảng, đánh lui đợt tiến công của mũi đi đầu, bắn rơi một máy bay lên thẳng, kèm theo “vài chục lính Mỹ bị thương nặng, mất hẳn liên lạc và cây cối gây trở ngại không ai đến cứu được”.

        Ngay sau đó ít phút, Thường vụ Bộ tư lệnh sự đoàn hội ý nhận định: Mỹ đổ quân xuống khu vực ta đã chuẩn bị, là cơ hội để tiếp cận địch, thực hành tiêu diệt chúng, và thống nhất xử lý.

        - Thông báo ngay tin đánh thắng trận đầu của trung đội bảo vệ, trinh sát sư đoàn đến các đơn vị trong sư đoàn để động viên khí thế.

        - Nhắc các đơn vị giữ vững quyết tâm, không được chủ quan, sẵn sàng đánh địch theo kế hoạch chung.

        - Lệnh bổ sung: Trung đoàn 16 chuyển sang đánh địch bảo vệ căn cứ, cụ thể Tiểu đoàn 9 hành quân gấp về khu vực Bầu Gòn, tăng thêm lực lượng đánh địch đổ bộ đường không; hai Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 hình thành thế trận đánh địch tiến quân theo đường bộ trên đoạn đường từ Lộc Ninh – Võ Tùng (tỉnh lộ 13 thuộc địa phận tỉnh Tây Ninh).

        Trên thế chủ động, do phán đoán chính xác diễn biến và kịp thời điều chỉnh lực lượng, phân công nhiệm vụ, trong hai ngày 4 và 5 tháng 11, Lữ đoàn 196 liên tiếp đổ quân xuống Bầu Gòn, lọt vào trận địa bày sẵn của Tiểu đoàn 9, bị tiểu đoàn này đồng loạt tiến công, đánh lui 9 đợt tiến công của địch. “Thiếu tá Me-loi, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 27 bị thương...Trung tá Ba-rốt chỉ huy Tiểu đoàn 2 bị chết khi đi cứu viện. Cả một tiểu đoàn của ông ta bị Việt cộng ( tức Quân giải phóng) loại khỏi vòng chiến đấu. Khi máy bay đáp tới phòng tuyến thì trời tối, đã bật đèn soi bãi đáp nên bị súng cối Việt cộng nã vào. Qua nửa đêm, quân địa phương Suối Cao bị Trung đoàn 272 (tức Trung đoàn 2) Việt cộng tiến công Sở chỉ huy của Lữ đoàn 196 cũng bị nã súng cối...”

        Chiều ngày 5 tháng 11, quân Mỹ rút lực lượng còn lại về hậu cứ để củng cố lực lượng, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, có tính chất chuẩn bị chiến trường, chưa có đụng độ lớn. Nhưng Lữ đoàn 196 đã bị thiệt hại đáng kể, buộc Mỹ phải chuyển hướng mở rộng quy mô cuộc hành quân.

        Trên hướng đông nam Sài Gòn, Bộ tư lệnh quân độ Mỹ ra lệnh ngừng các cuộc hành quân càn quét đánh vào Nhơn Trạch (Biên Hoà), Võ Đắc, Tánh Linh (Long Khánh), Nha Mát – Long Nguyên (Thủ Dầu Một), đưa toàn bộ Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ”, Lữ đoàn bộ bình 196, Lữ dù 173, Trung đoàn thiết giáp số 11 và một số đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh cơ giới 25 “Tia chớp nhiệt đới”, Sư đoàn bộ binh số 4 nâng tổng số quân tham chiến lên tới 30.000 tên, 300 xe tăng thiết giáp, 100 khẩu pháo và nhiều lần chiếc máy bay lên đối phó với ta.

        Đây là cuộc hành quân lớn đầu tiên của Mỹ ở Đông Nam Bộ và cả chiến trường miền Nam nói chung trên một diện rộng từ Trảng Bàng đến Gò Dầu trên đường số 1 và Trại Đèn bên quốc lộ 13 với mục đích cao hơn giai đoạn đầu, không phải chỉ nhằm chuẩn bị chiến trường, mà là thăm dò, tạo bàn đạp tiến sâu vào tung thâm căn cứ, “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo đầu não và chủ lực của ta.

        Mặc dầu có khí thế của đánh thắng trận đầu, nhưng chúng tôi vẫn chưa thật yên tâm trước diễn biến mới thật mau lẹ trong giai đoạn hai của cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ đánh vào căn cứ Dương Minh Châu. Quán triệt mệnh chiến đấu bổ sung của Bộ chỉ huy Miền điện xuống, chúng tôi chuyển toàn bộ đội hình sư đoàn sang phối hợp với quân dân căn cứ Dương Minh Châu và du kích cơ quan Khu B, chiến đấu bẻ gãy cuộc hành quân. Một thế trận chiến đấu phối hợp ba thứ quân đã diễn ra liên tục có hiệu quả trên toàn mặt trận. Sư đoàn 9 đã hỗ trợ tạo điều kiện cho các đơn vị du kích cơ quan Trung ương Cục, hậu cần Miền, cơ quan B5, cơ quan thông tin huyện Tà Đạt, Tiểu đoàn 70 bảo vệ mở những trận tiến công nhỏ lẻ, tiêu diệt gần 300 Mỹ, bắn rơi 5 máy bay, bắn cháy 19 xe tăng, thiết giáp. Ngược lại từ những trận tiến công nhỏ lẻ tiêu hao đều khắp của du kích cơ quan kể trên, Sư đoàn 9 có điều kiện bứt ra tổ chức lực lượng bám trụ đánh địch trên đường liên tỉnh 4; cử một bộ phận đánh vào phía sau, phối hợp với quân dân Tây Ninh đánh địch ở vòng ngoài. Trong những ngày đầu chống cuộc hành quân At-tơn-bo-rơ mở rộng, Trung đoàn 1 với tinh thần chủ động, phát huy cách đánh bằng lực lượng nhỏ tổ chức được nhiều trận phục kích, đánh địch càn quét, phá huỷ 8 xe M113... Ngày 18 tháng 11, quân Mỹ buộc phải co lại, điều chỉnh kế hoạch hành quân.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:04:58 am

        Ngay lúc đó Bộ chỉ huy Miền điện xuống cho sư đoàn cần có kế hoạch bám đánh địch trên đường chúng rút. Chúng tôi triển khai thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy Miền không mấy khó khăn, vì ngay từ đầu sư đoàn đã xác định phải bám đường 4 vì địch tiến quân hay lui quân thường phải dựa vào con đường này.

        Liên tiếp trong ba ngày 21, 22 và 25 tháng 11 các Trung đoàn 1, 16 và Trung đoàn 2 tổ chức tiến công Mỹ ở Tà Đạt, Suối Đá, Dầu Tiếng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá huỷ khẩu pháo 105 ly, 5 máy bay lên thẳng.

        Ngày 26 tháng 11, tướng Oét-mo-len buộc phải kết thúc cuộc hành quân, “Bắt đầu chỉ là Lữ 196 nống ra có tính chất thăm dò, chuẩn bị chiến trường, sau đó hút cả Sư đoàn bộ số 1, ba lữ đoàn không vận, kỵ binh thiết giáp khác với yêu cầu cao hơn đánh thẳng vào căn cứ Dương Minh Châu nhưng đã thất bại. Vào những ngày kết thúc hành quân, MACV buộc phải kết luận, Lữ đoàn 196 đã sứt mẻ nặng, buộc tướng một sao Đờ-xớt-xuya chuyển sang lực lượng pháo binh dã chiến, giao cho tướng một sao Nâu chỉ huy lữ đoàn này. Lục quân Mỹ phải đẩy thêm nhiều quân Mỹ vào Việt Nam, cho thấy dấu hiệu ở chiến trường ngày thêm căng thẳng”

        Rút kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, Bộ chỉ huy Miền khẳng định mạnh mẽ hơn nữa phương châm chỉ đạo bám trụ đánh địch tại chỗ là hoàn toàn có cơ sở và họ quyết tâm: động viên mọi lực lượng cơ quan, đơn vị trong căn cứ bám trụ chiến đấu tại chỗ, phối hợp với một bộ phận chủ lực mở chiến dịch phản công kiên quyết đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ căn cứ, bẻ gãy gọng kìm “tìm diệt” để hỗ trợ phá vỡ gọng kìm “bình định”, tạo điều kiện giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong năm 1967.

        Sư đoàn 9 sau đợt chiến đấu góp phần đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ của Mỹ, được bổ sung quân số, vũ khí từ miền Bắc vào theo đường Trường Sơn. Toàn sư đoàn được đổi mới trang bị, bằng hệ vũ khí CKC, AK, B40... được tăng cường một tiểu đoàn súng cối 120 mang vác, một tiểu đoàn súng trọng liên 12,7 ly (Quân số tăng: mỗi tiểu đoàn có từ 350 – 400 quân, mỗi trung đoàn có từ 1.800 – 2.000 quân, toàn sư đoàn có 9.368 quân) và triển khai thế trận mới: Trung đoàn 1 đứng chân tây đường 22, Trung đoàn 2 đứng chân tại Chà Dơ, Trung đoàn 16 ở Suối Dây, Trung đoàn 3 sang Phước Sang đường 13.

        Tuy nhiên Mỹ vẫn chưa từ bỏ ý định mở các cuộc hành quân thăm dò, nghi binh thu hút làm lạc hướng phán đoán của ta, nhằm đảm bảo chắc ăn cho một cuộc triển khai lực lượng lớn đánh vào Chiến khu C. Đó là cuộc hành quân tiếp theo mang mật danh Xê-đa-phôn tiến hành từ ngày 8 tháng 1 đến 26 tháng 1 năm 1967 với lực lượng cỡ quân đoàn (lực lượng địch huy động: Sư đoàn 1, Sư đoàn 25, Lữ đoàn 196, Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 và một số đơn vị quân ngụy Sài Gòn) đánh vào vùng tam giác sắt (Là khu vực An Điềm – An Tây, sau này Mỹ khoanh thành một vùng gọi là “tam giác sắt” rộng chừng 170 ki-lô-mét vuông. Trên bản đồ đó là một hình tam giác mà các đỉnh của nó là thị trấn Bến Súc, thị trấn Bến Cát và giao điểm của sông Sài Gòn với sông Thị Tính. Trong nhiều tài liệu “Tam giác sắt” thường được hiểu bao gồm phần đất Trảng Bàng, Củ Chi, Bến Cát - Dầu Tiếng. Gọi là “tam giác sắt” vì nơi đây đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ, địch đổ xuống đây hàng chục ngàn tấn bom đạn nhưng vẫn không đè bẹp được ý chí gang thép của quân và dân ta, không xoá được một vùng vững vàng là căn cứ cách mạng) với mục đích củng cố và nới rộng vành đai an ninh phía bắc Sài Gòn, diệt, đẩy chủ lực ta ra xa, “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo kháng chiến của thành phố Sài Gòn – Gia Định, chuẩn bị bàn đạp đánh vào căn cứ Dương Minh Châu.

        Cũng cần nói thêm, bản thân cuộc hành quân cấp quân đoàn này đã không có sự nhất trí của những người cầm đầu quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam lúc đó. Trước hết, Bộ tư lệnh dã chiến Mỹ đóng ở Biên Hoà không chấp nhận mở cuộc hành quân, để tập trung lực lượng xâm nhập vào chiến khu Dương Minh Châu. Nhưng tướng Oét-mo-len là Tư lệnh chỉ huy chung có tham vọng lớn hơn, muốn cùng một khoảng thời gian mở cuộc hành quân Xê-đa-phôn nhằm bứng “Việt cộng” ra khỏi nơi đây với kế hoạch dùng Sư đoàn 25 và Lữ đoàn 196 ngược sông Sài Gòn làm cái đe. Sau đó dùng Sư đoàn 1, Lữ đoàn 173 và Trung đoàn 11 thiết giáp từ phía đông đánh thẳng vào khu “tam giác sắt”, cắt nó ra làm đôi rồi đặt đối phương lên đe mà nện. Như vậy, sẽ có một bàn đạp đánh vào Dương Minh Châu. Nhưng ta, bằng phương thức phối hợp tiến công rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của một bộ phận đơn vị chủ lực đánh vào các mục tiêu chủ yếu, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, buộc tướng Oét-mo-len phải kết thúc cuộc hành quân, sau khi chỉ dồn được 15.000 dân về thị xã Thủ Dầu Một.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:05:36 am

        Đặc biệt từ ngày 2 tháng  đến 21 tháng 2 năm 1967 (trước cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty 20 ngày) địch liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét cấp sư đoàn. Không kể cuộc hành quân Bíp-sprinh của Sư đoàn 1 và Lữ đoàn 173 ngày 1 tháng 2 đến 16 tháng 2 vào khu vực Sình Bà Đá thuộc Chiến khu Đ, riêng ở khu vực Dương Minh Châu đã có hai cuộc hành quân nhằm tiêu hao lực lượng ta, tạo thế cho các bước hoạt động quân sự sau đó.

        Đó là cuộc hành quân Gat-xđen từ ngày 2 tháng 2 đến ngày 21 tháng 2 của Sư đoàn 25 đánh vào tây đường 22 đến sát biên giới Cam-pu-chia, chốt lại các điểm Lò Gò, Cần Đăng, Tà Xia; cuộc hành quân Túc Sơn từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 18 tháng 2 do Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1, một bộ phận Lữ đoàn 3, Sư đoàn 4 thực hiện đánh vào Ván Tám, Thị Tính – đông sông Sài Gòn thuộc khu vực Long Nguyên, nhằm tạo địa bàn cho lực lượng hành quân từ quốc lộ 13 đánh vào khu vực căn cứ.

        Ngay sau khi cuộc hành quân Xê-đa-phôn kết thúc, lãnh đạo và chỉ huy Miền nhận định: Địch sẽ dốc toàn lực mở cuộc tiến công lớn đánh sau vào căn cứ của ta, nhằm diệt cơ quan đầu não và lực lượng chủ lực của ta, cố giành thắng lợi có tính quyết định. Các anh cần có chủ trương động viên mọi lực lượng cơ quan, đơn vị có mặt trong chiến khu bám trụ, chiến đấu phối hợp với bộ đội chủ lực kiên quyết phản công và tiến công, quyết đánh bại cuộc hành quân đầy tham vọng của địch, giữ vững căn cứ. Đến đây, công tác chuẩn bị có được định hướng rõ ràng, đã triển khai với nhịp độ tích cực, khẩn trương hơn.

        Cùng với các lực lượng dân, chính, đảng, Sư đoàn 9 đã hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ không chỉ bằng mồ hôi, công sức mà cả bằng máu xương đổ xuống qua đụng độ với kẻ thù trong cuộc hành quân chuẩn bị nhằm nghi binh, thăm dò, tạo thế của địch (Trận thắng Bầu Gòn ngày 4 và 5 tháng 11 năm 1966, quân Mỹ loại khỏi vòng chiến đấu 600 tên, Sư đoàn 9 có 21 cán bộ, chiến sỹ hy sinh, 46 đồng chí bị thương). Nhưng lúc này đây sau khi nghe ý kiến nhắc nhở động viên của cấp trên qua điện thoại - Quyết đánh và quyết thắng cuộc hành quân lớn của địch, giữ vững căn cứ kháng chiến sao mà thiêng liêng đến thế!

        Mảnh đất mà chúng tôi đang đứng, có nhiệm vụ xả thân để bảo vệ là mảnh đất mang cái tên thân thương trìu mến vô cùng! – Căn cứ Khu B (địch gọi là Chiến khu C) thuộc địa phận bắc huyện Dương Minh Châu (sau này tách ra lập huyện Tân Biên) tỉnh Tây Ninh, nằm giữa hai sông Vàm Cỏ ở phía tây và sông Sài Gòn ở phía đông. Trong kháng chiến chín năm, nơi đây là một trong những căn cứ địa của miền Đông và là chỗ đứng chân của Xứ uỷ Nam Bộ, của Phân khu uỷ và Bộ tư lệnh miền Đông cho đến ngày lực lượng vũ trang ta tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1958 Xứ uỷ Nam Bộ đã có chủ trương xây dựng nơi đây thành căn cứ tây bắc làm chỗ dựa cho Xứ uỷ và là nơi thành lập lực lượng vũ trang đầu tiên của miền Đông. Ở đây cũng đã diễn ra các trận Minh Thạnh (10-1958), Tua Hai (1-1960), mở đầu cho phong trào đồng khởi của Đông Nam Bộ. Sau đồng khởi, Khu B trở thành căn cứ chủ yếu của Xứ uỷ nam Bộ, sau đó là Trung ương Cục, Uỷ ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy quân sự Miền, đài phát thanh giải phóng...

        Trong giai đoạn “chiến tranh đặc biệt”, quân đội ngụy Sài Gòn đã mở nhiều cuộc hành quân đánh vào căn cứ, nhưng cũng chỉ đến vùng ven. Từ năm 1965, khi quân Mỹ nhảy vào trực tiếp tham chiến, trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, trên hướng bắc, tây bắc địch đã mở liên tiếp 13 cuộc hành quân cấp lữ đoàn, sư đoàn tăng cường, cũng chỉ đánh vào các khu căn cứ lõm của ta nhằm đẩy chủ lực ta ra xa vành đai bảo vệ thành phố Sài Gòn và các đô thị vùng ven.

        Giờ đây căn cứ Khu B nổi lên như một khu căn cứ đầu não lãnh đạo cách mạng toàn Miền, được coi như là vùng bất khả xâm phạm, đã được tướng bốn sao Oét-mo-len, Tư lệnh quân đội viễn chính Mỹ ở miền Nam Việt Nam đưa vào mục tiêu chủ yếu phải đánh phá của cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong khuôn khổ của chiến lược “tìm diệt”.

        Hầu như mỗi chúng tôi, những cán bộ chỉ huy quân sự và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các tỉnh, thành phố thuộc chiến trường B2 đều ít nhất có một lần đặt chân lên mảnh đất có diện tích khoảng 1.500 ki-lô-mét vuông này. Ấy là những ngày báo cáo, nhận chỉ thị của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền về tổ chức các hoạt động quân sự, về các chủ trương xây dựng cơ sở, phát động quân chúng đấu tranh thực hiện phương châm hai chân, ba mũi (Hai chân là đấu tranh chính trị, quân sự song song; ba mũi giáp công là tiến công quân sự, chính trị, binh vận) đánh bại âm mưu xâm lược của kẻ thù, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc... Những ngày như thế chúng tôi cảm thấy như mình được sống trên mảnh đất của chính mình, mảnh đất có chủ quyền, được hít thở không khí tự do, được sưởi ấm tình cảm đồng đội, đồng chí, được hàn huyên, tâm sự, được tĩnh tâm và thư giãn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:06:07 am

        Quá khứ sáng chói, tự hào, lại giữ vị trí then chốt trong hiện tại, mảnh đất đang thực sự là nguồn, là gốc của một điểm tựa, một thế trận vững chắc về chính trị, tinh thần và cả vật chất; nó là nơi để ta tạo lực, tạo thế, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc chiến đấu.

        Rõ ràng để kẻ thù đánh phá, vô hiệu hoá mảnh “đất thánh” này là một xúc phạm không thể chấp nhận!

        Tuy biểu hiện có khác nhau, nhưng các cán bộ chỉ huy sư đoàn chúng tôi đều có một suy nghĩ, một tâm tư chung như vậy trước khi vào trận.

        Trong tháng 1 năm 1967, sau khi được bổ sung quân số, vũ khí, tiến hành học tập Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết 4, Trung ương Cục củng cố quyết tâm chiến đấu, rút kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ, phân công cán bộ sư đoàn, trung đoàn đi nghiên cứu thực địa, chuẩn bị phương án chiến đấu trên các điểm chọn sẵn theo quyết tâm chiến dịch của Bộ tư lệnh Miền. Thực hiện hướng dẫn bổ sung của cơ quan tác chiến cấp trên, hình thành thế đánh của bộ đội chủ lực, chúng tôi điều chỉnh cho các đơn vị vào các trọng điểm dự kiến địch sẽ đổ quân cụm lại hoặc hành quân qua.

        Trung đoàn 1 đang tham gia chống cuộc hành quân Gát-xđen ở tây đường 12 chuyển về đứng chân tại khu vực đường 4 phối hợp với du kích cơ quan, bộ đội địa phương đánh nhỏ lẻ ở tây đường 4 phối hợp với Trung đoàn 2, Trung đoàn 16 đánh một số trận tập kích tiêu diệt các cụm quân địch dọc đường 4 trên các khu vực Bàu Cỏ, Đồng Pan, Bổ Túc. Sau về làm lực lượng dự bị sư đoàn, đứng ở bắc Bổ Túc.

        Trung đoàn 2 đứng chân ở khu vực Chà Dơ, phối hợp với du kích cơ quan, bộ đội địa phương đánh nhỏ lẻ trên các khu vực Võ Tùng, Bà Chiêm, Chà Dơ; sẵn sàng phối hợp với Trung đoàn 16 đánh các trận tập kích tiêu diệt các cụm địch ở Chà Dơ, Đồng Rùm trên lộ Kiểm – Chà Dơ - Bổ Túc, trên đường Đá Đỏ - Bổ Túc – Sóc Con Trăng.

        Trung đoàn 16 về đứng chân đông đường 4, khu vực Suối Mây, bến Ông Ngọt phối hợp với du kích cơ quan, bộ đội địa phương đánh nhỏ lẻ trên khu vực đông đường 4, sẵn sàng phối hợp với Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 đánh các trận tiêu diệt địch trên đường 4, lộ Kiểm, Chà Dơ đi Bổ Túc.

        Trung đoàn 3 lật cánh sang Phước San – An Tịnh (đông quốc lộ 13) thực hiện nghi binh, kéo dãn đội hình địch, đồng thời tổ chức đánh địch trên đoạn nam, bắc Chơn Thành, sẵn sàng thọc xuống hoạt động sau lưng địch ở khu vực Bàu Bàng, Bến Cát.

        Ở đây cũng cần nói thêm, trong quá trình họp bàn kế hoạch tác chiến, có hai loại ý kiến nêu lên: tình hình thay đổi, không như Bàu Bàng trước đây, lần này địch tập trung ưu thế tuyệt đối cả binh lực và hoả lực, ra quân ồ ạt, ta chỉ có thể phân tán đánh nhỏ; ý kiến khác cho rằng không nên cứng nhắc mà phải có nhiều cách đánh, nhỏ, vừa và lớn.

        Đây là một tồn tại thuộc tư tưởng, chứ không đơn thuần là nhận thức, cần được giải quyết thông suốt trước khi bước vào chiến đấu. Nhưng giải quyết nó lại không đơn giản, nếu chỉ đơn thuần áp đặt hoặc phê phán một cách võ đoán. Bởi loại ý kiến thứ nhất xuất phát từ thực tế, vì trước đó Trung đoàn 2 đã chạm trán với Lữ 196 trong cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ bị địch chống trả quyết liệt bằng phi pháo, gây thương vong cho ta, một số ít nảy sinh bi quan, dao động.

        Sau khi thống nhất trong Bộ tư lệnh sư đoàn, tôi trao đổi lại với các đồng chí chỉ huy trung đoàn và các đơn vị trực thuộc, làm cơ sở tiến hành giải thích cho mọi người thông suốt. Nguyên nhân gây thương vong phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không phải chỉ do kẻ địch có nhiều phi pháo, không phải do tập trung đánh lớn... Trong thực tế chiến đấu không phải phân tán đánh nhỏ là ít thương vong hoặc không có thương vong. Ngược lại không phải bao giờ cũng tập trung đánh lớn cũng đồng nghĩa với thương vong nhiều. Vấn đề ở nghệ thuật chỉ huy, ở trình độ chiến thuật và kỹ thuật chiến đấu cá nhân của mỗi người có thuần thục hay không. Chính vì chúng ta kịp thời rút kinh nghiệm sau chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng, sau đợt hoạt động mùa mưa 1966 đánh địch trên quốc lộ 13; chínH vì chúng ta đánh giá địch đúng trong cuộc hành quân này, nên Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ tư lệnh Miền đã đề ra trong bước mở đầu của đợt hoạt động sẽ đánh nhỏ, đánh vừa với quy mô tiểu đoàn, trung đoàn là chính, chỉ đánh lớn khi chắc thắng...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:08:03 am

        Về cuộc hành quân Gian-xơ Xi-ty.

        Đây là cuộc hành quân trên bộ lớn nhất trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ cả về quy mô lực lượng lẫn mục tiêu nêu ra.

        Như bạn đọc đã biết, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam cho rằng sở dĩ họ thất bại trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất là do diện phản công rộng, hướng tiến công nhiều (Cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất (1965 – 1966) của Mỹ với kế hoạch ra quân ồ ạt, đánh cùng một thời gian trên hai chiến trường Khu 5 và Đông Nam Bộ với 5 hướng (còn gọi là 5 mũi tên):

        + Tây bắc Sài Gòn gồm Củ Chi, Bến Cát, Chiến khu Đ.

        + Đông Sài Gòn gồm từ sông Đồng Nai đến Bà Rịa.

        + Nam tỉnh Phú Yên (Tuy Hoà).

        + Bắc Bình Định.

        + Nam Quảng Ngãi.), dẫn tới lực lượng phân tán, nên cuộc phản công mùa khô lần thứ hai này chúng tập trung ưu thế binh hoả lực vào một chiến trường trọng điểm là Đông Nam Bộ, vào một mục tiêu chủ yếu là chiến khu Dương Minh Châu.

        Để giành thắng lợi chắc chắn, ngoài 5 cuộc hành quân thăm dò, nghi binh tạo thế ( Năm cuộc hành quân, nghi binh, tạo thế:

        + Cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ từ 3/11 – 26/11/1966 vào khu vực Bầu Gòn – Chà Dơ.

        + Cuộc hành quân Xê-đa-phôn từ 18/1 – 1/1967 vào vùng “tam giác sắt” Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát ( phần này do lỗi của sách, nếu đúng thì cuộc hành quân này từ ngày 8/1 đến 26/1/1967).

        + Cuộc hành quân Bip-spring từ 01/2 – 16/2/1967 vào khu vực Sình Bà Đá.

        + Cuộc hành quân Túc Sơn từ 14/2 – 18/2/1967 vào khu vực Ván Tám, Thị Tính, Long Nguyên.

        + Cuộc hành quân Gát-xđen từ 02/2 – 21/2 vào tây đường 22.), địch còn có cả một kế hoạch chuẩn bị với nhiều nội dung rất công phu.

        Từ ngày 25 tháng 9 năm 1966 đến 20 tháng 2 năm 1967, địch tiến hành một chiến dịch khai quang dồn dập với trên 60 phu vụ máy bay C47, C123 thả chất độc hoá học dọc theo đường biên giới từ Cà Tum đến Tà Nôi. Chú trọng các trục giao thông và những nơi có cơ quan, nơi đóng quân của đối phương; tiến hành mở rộng sân bay Trảng Lớn, Suối Đá, Dầu Tiếng, Minh Thạnh, Quản Lợi, sửa gấp các đường 19, 22, 26, xây dựng các kho tàng dự trữ ở Trảng Lớn, Dầu Tiếng, Hớn Quản, tăng cường công sự cho các khu dự kiến triển khai chỉ huy sở hành quân.

        Cũng từ tháng 12 năm 1966, địch vận chuyển 3.000 chuyến đưa 10.000 tấn hàng các loại gồm xi-măng, bao cát, kẽm gai, gỗ đá, ống cống, cốt sắt, máy phát điện, tủ ướp lạnh, xe ủi đất, cầu dã chiến... từ Sài Gòn lên Tây Ninh. Ngoài ra mỗi ngày địch còn dùng từ 10 – 15 lần/chiếc máy bay C123, C130 chuyển hàng từ hậu cứ Biên Hoà lên Dầu Tiếng, Trảng Lớn, Suối Đá, Minh Thạnh, Quản Lợi.

        Từ 1 tháng 2 đến 21 tháng 2 địch dùng trên 30 phi vụ L19, RB57, C47 bay quan sát, chụp ảnh địa hình, thả máy thu tiếng động, dò hướng VTĐ theo các tuyến đường sông, ven biên giới, trong khu vực căn cứ; tung thám báo, biệt kích vào khu căn cứ để nghe trộm điện thoại, phát hiện mục tiêu, điều tra theo dõi dấu vết ta dọc theo các lộ Kiểm, lộ Ửi.

        Càng gần đến ngày N, địch tăng cường chuẩn bị hoả lực sát thương ta trước khi bộ binh nhảy vào. Từ ngày 1 tháng 2 đến ngày 21 tháng 2 (một ngày trước khi mở cuộc tiến công) địch dùng 16 phi vụ B52 (45-50 lần/chiếc) và 30 phi vụ phản lực (90 lần/chiếc) oanh tạc các mục tiêu Bàu Cỏ, Trảng Chiến, Chà Dơ, Đất Đỏ, Sóc Mới, suối Nước Đục; dùng 60 phi vụ C123, C47 rải chất độc hoá học xuống các khu rừng còn sót trên sông Sài Gòn, Tha La, thảm bom cháy đốt các trảng trống dự định đổ quân đóng chốt.

        Đêm 21 tháng 2 năm 1967, máy bay B52 oanh tạc 9 lần, mỗi lần từ 3 – 9 lần/chiếc ném bom rải thảm xuống khu vực Dương Minh Châu. Xen kẽ giữa các đợt hoạt động của máy bay B52 và cả ngày 22 là 234 lần xuất kích của máy bay cường kích chiến thuật.

        Có thể nói trong suốt thời gian chuẩn bị, chờ đợi, tuy chưa trực tiếp đối mặt với quân thù, nhưng âm vang của chiến tranh làm rung chuyển mặt đất nơi chúng tôi đứng, khói bụi của chiến tranh bay khắp không gian, nhiều lúc không sao chợp mắt vì những tiến nổ chát chúa rất gần dội vào tai, vào óc, nghe nhức nhối khó chịu.

        Sau nhiều tháng hối hả chuẩn bị, bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ đã tung vào cuộc phản công chủ yếu này 45.000 quân, gồm 26 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn tăng - thiết giáp (2.300 xe), 17 tiểu đoàn pháo binh (250 khẩu) (Số đầu đơn vị tham gia cuộc hành quân: hai Sư đoàn bộ binh số 1 “anh cả đỏ”, Sư đoàn bộ binh cơ giới số 25 “tia chớp nhiệt đới”, bốn lữ đoàn: Lữ đoàn không vận 173, Lữ bộ binh nhẹ , 15 phi đoàn máy bay 96, Lữ 3 Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ 1 Sư đoàn bộ binh số 9, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11) phản lực, máy bay vận tải, hàng trăm lần/chiếc máy bay chiến lược B52. Quân ngụy tham gia cuộc hành quân này có một chiến đoàn thuỷ quân lục chiến (2 tiểu đoàn), một tiểu đoàn biệt động quân va 12 đại đội biệt kích.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:08:41 am

        Bằng lực lượng gần gấp hai lần cuộc hành quân Xê-đa-phôn, địch mở cuộc hành quân quy mô lớn với thủ đoạn bao vây kết hợp dùng lực lượng đột kích mạnh thọc sâu chia cắt; dùng đổ bộ đường không thẳng đứng, nhảy dù, bất ngờ tạo thế bao vây chặt bằng một “vành móng ngựa khổng lồ” (chữ U lộn ngược) khoá chặt biên giới Cam-pu-chia và hai bên sườn; đồng thời dùng lực lượng hỗn hợp bộ binh và cơ giới làm mũi tên tiến công chủ yếu thọc vào trung tâm căn cứ nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng chủ lực của ta.

        Trung tuần tháng 2, các Sư đoàn bộ binh số 1, Bộ binh cơ giới số 25 đã chuyển vào vị trí hai phía đông và tây dọc biên giới Cam-pu-chia.

        Ngày 22 tháng 2 năm 1967 khi cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty chính thức bắt đầu thì cả vùng phía bắc đã bị địch đóng chốt vít chặt.

        Cuộc hành quân do tướng ba sao Xi-mân, Tư lệnh lực lượng dã chiến II của Mỹ đóng nhiệm sở ở Biên Hoà chỉ huy dự định tiếp theo ngay sau cuộc hành quân Xe-đa-phôn, đã bị chậm lại một tháng để có thời gian sửa chữ sai lầm của các cuộc hành quân trước đó.

        Về diễn biến chung nhiều tài liệu đã phản ánh đầy đủ ở đây xin kể thêm một số chi tiết quan sách báo địch mà chúng tôi thu thập sau này càng nổi rõ thủ đoạn lắt léo và phức tạp mà địch đã thực thi.

        Ngày N (tức ngày 22 tháng 2), mở đầu cuộc hành quân đã diễn ra một trong những cuộc cất cánh trực thăng đông đảo nhất (trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Nam Việt Nam), đổ 9 tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn bộ binh số 1, Lữ 196, 173 xuống Sóc Mới, Rùm Đuôn, Ang Khắc. Một tiểu đoàn còn lại của Lữ đoàn 173 gồm 845 quân do 16 máy bay C130 từ Biên Hoà chở đến nhảy dù xuống Cà Tam để hoàn thành cánh quân phía bắc của chiếc móng ngựa và do Lữ 1 của Sư đoàn 25 từ đường 22 đánh sang hướng đông bắc.

        Ngày N+1 (tức ngày 23/2), Lữ 2 của Sư đoàn 25 cùng với Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 (thiếu một tiểu đoàn) từ phía năm theo đường 4 đánh lên đóng chốt ở Bàu Cỏ, Đồng Pan, Sóc Kỳ nối liền với Cà Tum, lấy huyện Tà Đạt làm hợp điểm hiệp đồng bao vây bốn mặt toàn bộ khu vực căn cứ.

        Như vậy là bằng phương tiện cơ động nhiều và hiện đại cao, ngay ngày đầu của cuộc hành quân, tướng Oét-mo-len đã đưa toàn bộ đội hình chiến dịch cùng hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, pháo cối vào các mục tiêu tiến công, bao vây, án ngữ toàn bộ khu căn cứ trên các hướng, bằng nhiều lớp bộ binh và hoả lực...

        Đúng là nếu nhìn trên bản đồ hình thái chiến dịch, ta thấy thế trận hành quân của địch vừa kín lại vừa hiểm, tưởng chừng đối phương khó có thể lọt qua vòng phong toả bằng bộ binh, xe tăng, thiết giáp và hệ thống hoả lực ken dày của địch.

        Nhân đây tôi xin được kể một chi tiết ngoài lề:

        Tháng 7 năm 1967, tôi được phép của Bộ tư lệnh Miền đi trong đoàn anh Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục ra Hà Nội nhận kế hoạch tiến công nổi dậy Xuân 1968.

        Được tin này bạn bè chiến đấu cũ đến thăm, hỏi đủ mọi chuyện đi đường, chuyện cảnh vật, nhân tình ở trong đó và rôm rả nhất vẫn là chuyện chiến đấu, chuyện về cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty. Chả là trong số bạn bè, có một số muốn hỏi sâu những kinh nghiệm vì các anh đã nhận lệnh chuẩn bị đi B.

        Mặc dầu người vẫn đang mệt, nhưng đụng đến một vấn đề tâm đắc còn nóng hổi, tôi say sưa kể lại những điều mình chứng kiến quá trình đối mặt với kẻ thù trong một tình thế cực kỳ hiểm nghèo. Không khí buổi gặp mặt thân mật mà trầm lắng, tất cả đều chăm chú dõi theo tôi kể, với gương mặt rạng rỡ như để chia vui với người trong cuộc.

        Bỗng có một anh bạn cắt ngang, chậm rãi xen vào một ý kiến thật lòng:

        - Theo dõi những ngày đầu của cuộc hành quân, mình nghĩ chỉ cần quân ta ra khỏi vòng vây của địch một cách an toàn đã là thắng lợi rồi.

        - Thoát đấy chứ! – Ra đến tận Hà Nội – Tôi nói vui.

        - Ra hẳn chứ - Bạn hỏi tiếp.

        - Ra nhận nhiệm vụ mới, để lại vào – Tôi trả lời...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:09:14 am

        Xin được trở lại câu chuyện đang kể.

        Như trên đã trình bày, chúng ta đánh địch không bằng kiểu dàn trận, phân tuyến, mà bằng thế trận chiến tranh nhân dân với ba thứ quân rất đặc biệt, nếu không nói là độc đáo. Khi 45.000 quân địch với hàng ngàn xe, pháo hình thành vòng vây tiến vào căn cứ, có các mũi đổ bộ bất ngờ bằng máy bay lên thẳng, thọc sâu bằng bộ binh kết hợp với xe tăng, xe bọc thép vu hồi vào phía sau, đánh qua các khu vực, đến tận toạ độ đặt cơ quan Trung ương Cục mà các phương tiện trinh sát của chúng đã ghi sẵn.

        Nhưng trước mắt quân Mỹ chỉ là những căn lán nhỏ không người, quanh đó là hầm hào và những bãi mìn, là những đơn vị du kích cơ quan bí mật ém sẵn, nếu quân Mỹ vượt quá giới hạn cho phép là nhận lĩnh nguy hiểm.

        Ngay từ phút đầu đặt chân đến các mục tiêu được giao, quân Mỹ vốn chủ quan ngạo mạn đã hoang mang sợ hãi, bởi đâu cũng có trận địa của đối phương đánh chặn.

        Quân ta tác chiến không theo đội hình sư đoàn mà thực hiện chủ động, linh hoạt chiến đấu theo đơn vị tiểu đoàn, trung đoàn trên các hướng được phân công.

        Thực hiện nguyên tắc này, ngày 23 tháng 2, khi Lữ đoàn 2 Sư đoàn 25 và Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 tiến lên phía bắc thực hiện hợp vây, thì Trung đoàn 16 luồn xuống phía nam tiến vào đội hình quân địch đang di chuyển. Trung đội đi đầu bị cắt đứt, Đại đội 13 thuộc Trung đoàn 1, Trung đoàn 16 địch đã lọt vào trận phục sẵn của ta, hàng chục lính Mỹ chết. Vào khoảng nửa đêm, sau 54 đợt ném bom yểm trợ chúng mới cứu thoát số tàn quân rút về phía sau. Ngay đêm đó, trung đoàn còn tổ chức pháo kích căn cứ hậu cần của địch ở Suối Đá gây nhiều thiệt hại.

        Trong khi du kích Cà Tum nổ súng bắn rơi 12 máy bay lên thẳng; du kích cơ quan Trung ương Cục ở Rùm Đuôn, Ang Khắc, bộ đội địa phương Tà Đạt chiến đấu bắn rơi thêm 9 máy bay lên thẳng, thì chúng tôi lệnh cho các đơn vị thực hiện đánh nhỏ hai bên sườn và sau lưng đội hình hành quân của chúng: ngày 6 tháng 2, Trung đoàn 2 vận động tập kích Mỹ ở Trảng A Lầu, một bộ phận khác phối hợp với du kích cơ quan đánh địch ở Tà Xia, ngày và đêm 28 tháng 2, Trung đoàn 16 triển khai phục kích địch ở đông nam Giếng Thí, tập kích cụm cơ giới Mỹ ở gần cầu suối Ông Hùng, bắn rơi ba máy bay lên thẳng. Các phân đội pháo của sư đoàn, trung đoàn liên tục pháo kích chỉ huy sở quân địch ở Dầu Tiếng, căn cứ hậu cần địch ở Suối Đá...

        Hành quân và chiến đấu trong điều kiện thời tiết nóng nực, ban ngày bị chặn đánh, ban đêm bị du kích cơ quan quấy rối, sức khỏe và tinh thần chiến đấu của lính Mỹ giảm sút rõ rệt, số quân ốm đau lên tới 16%. Từ ngày 1 đến ngày 13 tháng 3, địch buộc phải co lực lượng về giữ chốt và bảo vệ hành lang tiếp viện theo các trục đường 22, đường 4, tìm cách đánh mới.

        Sở chỉ huy sư đoàn liên tục nhận được điện của các đơn vị gọi về, đều có chung một nhận xét: tình hình bớt căng, cường độ nống lấn của địch có giảm, không rõ vì nguyên nhân gì?

        Tôi điện trả lời: Trước hết sư đoàn biểu dương ý thức báo cáo thỉnh thị kịp thời của các đơn vị. Đúng là địch có triệu chứng co lại, là do ta tích cực chống trả. Các đơn vị cần tổ chức theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến, tuyệt đối không được chủ quan, khẩn trương xốc lại đội hình, sẵn sàng đánh trả, có khả năng địch thay đổi thủ đoạn hành quân.

        Cùng lúc sư đoàn cũng nhận được điện của Bộ Tư lệnh Miền: Địch tiến vào khu căn cứ rộng mà không nắm được mục tiêu đánh chiếm cụ thể, lại bị ta liên tiếp đánh đòn phủ đầu, chúng bắt đầu dao động.

        Từ nhận định trên, Bộ tư lệnh Miền quyết định cần tập trung chủ lực đánh những đòn tiêu diệt lớn, đánh mạnh vào tinh thần quân Mỹ, làm thất bại cuôc hành quân của chúng.

        Quyết định trên có tính định hướng, chúng tôi coi đây là mệnh lệnh phải chấp hành. Trên giao quyền cho dưới chủ động sáng tạo trong biện pháp, miễn sao tiêu diệt được sinh lực địch. Dễ mà khó, vì yêu cầu của thế trận chung lúc này chưa cho phép tập trung lực lượng bằng cách kéo các đơn vị về tổ chức chiến đấu theo đội hình sư đoàn, vì các trung đoàn vẫn phải đứng chân ở địa bàn quy định, tác chiến phối hợp theo thế ba thứ quân.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:10:00 am

        Trong khi đó, từ ngày 1 đến 5 tháng 3, lợi dụng địch co cụm, du kích cơ quan các “xã”, bộ đội địa phương các “huyện” được dịp bung ra tiến công vào các cụm quân địch ở Bàu Bàng, Ang Khắc, Lùng Tùng, Cà Tum, ... đánh địch vận chuyển trên các đường giao thông, phá huỷ, đánh hỏng 85 xe tăng, xe bọc thép. Tin vui mà chúng tôi đứng ngồi không yên, vì lo sao phải kịp thời phối hợp chiến đấu, chậm là lỡ thời cơ.

        Suy nghĩ và trao đổi, nhưng không được kéo dài, vì diễn biến tình hình đang rất mau lẹ. Chúng tôi quyết định đưa toàn bộ lực lượng Trung đoàn 2 vận động tập kích diệt cụm quân Mỹ ở Đồng Pan, ngày N tiến công là ngày 10 tháng 3, vì trước đó trung đoàn này tuy có đụng độ với địch một vài trận nhưng thường nhỏ, lẻ, lực lượng cỡ tiểu đoàn, đang còn sung sức, lại đứng chân ở vị trí thuận tiện cơ động tiếp cận mục tiêu.

        Chúng tôi coi đây là trận đánh then chốt, nhưng không thành, do chuẩn bị triển khai chiến đấu chậm (một phần có khó khăn khách quan), quyết tâm của cán bộ chưa cao, đồng chí Trần Xoa trung đoàn trưởng phụ trách hướng chủ yếu hy sinh trong khi đi chuẩn bị chiến trường.

        Đành rằng đây là khuyết điểm của cấp dưới, nhưng là người chỉ huy chung, tôi thấy mình có phần trách nhiệm. Bài học rút ra là tình thế càng khẩn trương càng đòi hỏi người chỉ huy phải sâu sát hơn nữa; sau mệnh lệnh chiến đấu, cần phải quan tâm đúng mức khâu hướng dẫn và kiểm tra đôn đốc cấp dưới triển khai, thực hiện, được coi như một quy trình của người chỉ huy trong chỉ huy chiến đấu.

        Với tôi đây thực sự là một kỷ niệm không vui!

        Nhưng nhiệm vụ trước mắt đòi hỏi phải vươn lên, xốc tới. Tôi lại cùng các anh trong Bộ tư lệnh Sư đoàn lao vào công việc. Hỏng việc này bày việc khác mà làm. Lúc này không trách móc, phê phán. Theo kế hoạch vừa được bổ sung, ngay đêm 10 tháng 3 (chỉ sau vài giờ trận đánh Đồng Pan không thành), một tiểu đoàn của Trung đoàn 2, sau một đợt pháo kích kéo dài 30 phút bằng súng cối và ĐKZ đã tiến công tiểu đoàn cơ giới địch. Trời đêm đỏ rực vì pháo sáng liên tục và bom nổ, trực thăng lao vào tiếp tế đạn dược và đưa thương binh ra. Vào năm giờ sáng hôm sau trận đánh mới kết thúc. Đặc biệt, Trung đoàn 16 do tổ chức chiến đấu tốt, đã liên tiếp pháo kích, tập kích cụm quân địch ở Bầu Cỏ (10/3), Trảng Bầu, Trảng A Lầu (11/3), ở Tà Xia, Bến Ra... phá huỷ, phá hỏng 72 xe tăng, xe bọc thép.

        Những trận tiến công trên của Sư đoàn 9 cùng với các trận đánh có hiệu quả trong cùng thời gian của lực lượng du kích cơ quan binh vận Trung ương Cục ở Suối Mây, du kích công binh “huyện” Sóc Kỳ, du kích xưởng thông tin S3 “huyện Tà Đạt... đã góp phần làm cho tinh thần chiến đấu của quân Mỹ càng thêm sa sút.

        Ngày 13 tháng 3 năm 196, Mỹ cho máy bay lên thẳng bốc quân rút khỏi Cà Tum, Bổ Túc và một số cụm ở tây bắc tỉnh Tây Ninh, địch chỉ còn chốt lại ở Đồng Pan, Bầu Cỏ trên trục đường 4, kết thúc đợt 1 cuộc hành quân. Ngày 15 tháng 3, Lữ đoàn 173 và Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 chấm dứt hoạt động, coi như đã kết thúc cuôc hành quân nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của ta. Thực tế là Mỹ đang ráo riết chuẩn bị cho giai đoạn hai của cuộc phản công.

        Cùng thời gian, Trung đoàn 3 từ quốc lộ 13 báo cáo về sư đoàn: có nhiều dấu hiệu địch tăng quân ngược lên phía Hớn Quản. Đồng thời Bộ chỉ huy Miền cũng điện gấp xuống sư đoàn: Địch đã thua đau nhưng chưa từ bỏ tham vong, chúng tiếp tục cuộc hành quân nhưng lật cánh sang hướng đông, và giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang nói chung, Sư đoàn 9 nói riêng cần phải làm để đối phó thắng lợi với âm mưu mới của địch.

        Công việc chuẩn bị thật bộn bề, mà thời gian chỉ có năm ngày! Không đợi đến lúc cấp trên nhắc nhở, uốn nắn, chúng tôi tự thấy phải làm gì. Trong đợt một, Sư đoàn 9 tuy có mở được một số trận tiến công nhưng do chưa quán triệt quyết tâm và phương châm chỉ đạo tác chiến của Miền, đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, chưa thực hiện dược trận đánh thối động nào. Đây là vấn đề mấu chốt, nổi cộm cần phải giải quyết trong giai đoạn chuẩn bị trước khi bước vào chiến đấu chống lại bước hai cuộc phản công của địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:10:24 am

        Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Sư đoàn hội ý trao đổi để rút kinh nghiệm việc đã qua, bàn công việc cần làm ngay. Một thách thức, nhưng phải đặt ra tức khắc là đánh hay không đánh!? Nếu còn lưỡng lự trong nhận thức tư tưởng thì không thể bàn các vấn đề khác. Một lần nữa tôi càng hiểu câu nói sâu sắc của anh Thanh: “Dám đánh Mỹ sẽ tìm ra cách đánh Mỹ”. Nó như một nguyên lý của công tác chính trị tư tưởng lúc này. Với tinh thần thực sự cầu thị, không vòng vo lý sự, không né tránh, từ nhận thức ấy chúng tôi tìm được nguyên nhân dẫn đến khuyết điểm chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao trong đợt một của chiến dịch là do tư tưởng ngại hoả lực phi pháo, xe tăng địch, muốn phân tán đánh nhỏ như hoạt động của các lực lượng du kích cơ quan. Từ đó sư đoàn nêu ra yêu cầu lãnh đạo tư tưởng lúc này cần phải thể hiện tính chiến đấu cao. Nói cho hết những khí phách anh hùng, những thành tích có giá trị trong đợt chiến đấu vừa qua. Đồng thời phê phán có lý có tình những biểu hiện bi quan đánh giá địch quá cao, không thấy hết mặt mạnh của ta, củng cố và xây dựng tư tưởng đánh lớn là chức năng của các đơn vị bộ đội chủ lực. Từ đó các đơn vị tiến hành sinh hoạt chính trị nhẹ nhàng mà nghiêm túc, nhằm thống nhất nhận thức tư tưởng “dám đánh”, động viên cổ vũ mọi người phát huy truyền thống đoàn kết, dũng cảm, mưu trí, vượt khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ.

        Rõ ràng tư tưởng dẫn đầu nếu được hiểu đúng, có biện pháp lãnh đạo đồng bộ, phù hợp với thực tế, đấu phải là duy ý chí, mà trái lại, nó là một nguyên nhân tạo nên các kết quả khác.

        Nắm chắc quả đấm chủ lực, đánh cho được một đến hai trận lớn, diệt tiểu đoàn, chiến đoàn địch, đó là phương hướng lãnh đạo tư tưởng của sư đoàn, đồng thời cũng là mệnh lệnh chiến đấu đối với toàn sư đoàn. Trong đợt hai này lãnh đạo Miền vẫn kiên trì chủ trương đánh địch bằng thế trận chiến tranh nhân dân, bằng sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân, mà quả đấm chủ lực vẫn là Sư đoàn 9. Không tăng thêm và không thể tăng thêm, vì đưa nhiều lực lượng chủ lực vào chiến dịch lúc này là không có, vì Sư đoàn 5 vẫn cần thiết đứng chân ở hướng Bà Rịa đánh địch ở vòng ngoài. Nếu có cũng không cần thiết phải đưa vào, như vậy sẽ gây ùn, dễ bị địch sát thương.

        Để tạo điều kiện cho Sư đoàn 9 có cơ hội đánh tập trung, lãnh đạo Miền có kế hoạch tăng thêm trang bị vũ khí cho du kích cơ quan và bộ đội địa phương “huyện”, tổ chức thêm nhiều đội săn cơ giới, triển khai thêm nhiều bãi mìn ở các trảng, các đường... tiếp tục tiêu hao tiêu diệt nhỏ, đặc biệt tăng cường diệt xe tăng, máy bay lên thẳng vừa giữ gìn căn cứ vừa chặn giao thông địch.

        Một số cán bộ cơ sở từ phân vân lúc đầu, nay khi nhận ra vấn đề lại thấy tự tin, tự hào, mặc dầu phía trước còn gặp không ít thử thách. Số anh em này tự nhận biết, tự thông suốt, tất cả như các nhà tham mưu cỡ nhỏ mà biết tính toán cỡ chiến dịch, đều thấy bối cảnh lúc này địch dồn ưu thế binh hoả lực sang hướng  đông trên diện tích hẹp (Đợt một địch đánh vào toàn bộ khu căn cứ có diện tích 1.500 ki-lô-mét vuông, đợt hai địch đánh sang khu đông căn cứ có diện tích 60 ki-lô-mét vuông), nếu ta đưa thêm lực lượng đội hình dễ ùn, mật độ bố trí day, dẫn đến thương vong cao.

        Tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng tạo và đầy bản lĩnh của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, Sư đoàn 9 đón nhận quả đấm chủ lực trong một tương quan không cân sức với tinh thần tự tin và nghiêm túc. Nhưng đánh lớn là thế nào, vào đâu là then chốt có sức thối động trong khi do yêu cầu dàn thế, lực lượng bố trí lại phân tán hơn trong đợt một. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo Miền, sư đoàn điều Trung đoàn 1 từ tây đường 22 ngược lên phía bắc, đứng chân ở bắc Bổ Túc làm lực lượng dự bị, sẵn sàng đón thời cơ, đánh địch tập trung, diệt các cụm hành quân của địch trên lộ Đá Đỏ ở khu vực Bổ Túc, Sóc Con Trăng hoặc Trảng Ba Vũng; Trung đoàn 3 tiếp tục bám quốc lộ 13 đánh địch vòng ngoài. Lực lượng đánh lớn chỉ còn Trung đoàn 2 và Trung đoàn 6, trong khi về nguyên tắc đòi hỏi phải có ưu thế binh lực, đánh đội hình sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:10:44 am

        Trên đây là những vấn đề đặt ra cho chúng tôi phải giải quyết trong cuộc hội ý bàn biện pháp thực hiện. Đã qua một đợt chiến đấu đầy ác liệt, căng thẳng, sự mệt mỏi hiện rõ trên khuôn mặt hốc hác của mọi người. Luồng suy nghĩ có khác nhau, nhưng khi trao đổi đều hội tụ ở bàn vào: quyết đánh; có đồng chí còn cao giọng: quyết rửa hận! Khẩu khí không được chỉnh lắm nhưng không ai tham gia, góp ý, cứ thả sức cho tinh thần hăng say được thể hiện. Cuối cùng sư đoàn quyết định: lấy trục tỉnh lộ 4 là nới tổ chức trận đánh tiêu diệt lớn, vì tiến hay rút bộ binh địch nhất thiết phải dựa vào trục đường này để thực hành thọc sâu, chia cắt, tìm diệt đối phương. Lấy Đồng Pan, Đồng Rùm, Chà Dơ  là nơi tổ chức các trận đánh then chốt, vì đây đều là các trảng địch sẽ chọn làm điểm tạm dừng hoặc đóng chốt. Trung đoàn 2 và Trung đoàn 16 đảm nhận nhiệm vụ phản công trên tỉnh lộ 4, cụ thể: Trung đoàn 2 đứng chân ở Chà Dơ, Trung đoàn 16 lùi về Suối Dây, ngã ba Sóc Xoài tạo thế đánh trận phủ đầu, đón thời cơ đánh trận then chốt, tiêu diệt lớn sinh lực địch. Sự điều chỉnh thế bố trí chỉ là xê dịch, không có khó khăn gì đáng kể, vì cả hai trung đoàn đều có mặt ở khu vực này cho đến lúc địch kết thúc đợt một cuộc hành quân. Đây là thế đứng thích hợp, có thể sẵn sàng đánh địch ở Đồng Pan, Đồng Rùm, Bầu Cỏ. Khi giao nhiệm vụ, sư đoàn nhấn mạnh, các trung đoàn vẫn phải giấu quân ở địa điểm thích hợp, không được gần đường quá, dễ bị địch phát hiện sát thương trước khi hai bên trực tiếp đụng độ. Cần tổ chức khảo sát các điểm chờ sẵn, để thiết bị chiến trường, có phương án trên thực địa trước, làm kỹ, nhưng khẩn trương, tuyệt đối giữ bí mật. Sẵn sàng có hai phương án phục kích nếu địch hành quân và tập kích nếu địch tạm dừng đóng cụm dã ngoại.

        Ngày 18 tháng 3 năm 1967, địch triển khai đợt hai cuộc hành quân với lực lượng 8 lữ đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn quân đội ngụy Sài Gòn trên một khu vực chủ yếu từ đông tỉnh lộ 4 đến tây sông Sài Gòn, từ biên giới đến bắc đường 13. Trọng điểm là vùng Đồng Rùm - Đồng Kền, Bầu Châm - Bầu Cột, Sóc Con Trăng - Suối Ngô.

        Ý đồ của tướng Oét-mo-len trong đợt hai là triển khai kế hoạch bao vây khu vực đông bắc căn cứ khu B bằng hai cánh quân từ Hớn Quản đánh sang phối hợp với lực lượng cơ giới từ phía nam phát triển lên, hình thành thế bao vây, kết hợp máy bay lên thẳng đổ quân chốt chặn và cơ giới đột phá cất vó cơ quan lãnh đạo, chỉ huy Miền, các lực lượng và cơ sở của Quân giải phóng. Để giữ yếu tố bất ngờ, địch không cho chuẩn bị hoả lực trước, mà chỉ dựa vào máy bay trinh sát dẫn đường, dùng bộ binh cơ giới thọc sâu tiến chắc từng bước.

        Lực lượng bộ binh cơ giới do Sư đoàn 25 từ hai hướng tây nam theo lộ 4, lộ Kiểm, lộ Trắng đánh lên, từ hướng đông Sư đoàn 1 theo lộ Đá Đỏ đánh sang hướng tây, kết hợp với lực lượng đổ bộ đường không hình thành thế bao vây căn cứ đông bắc khu B. Rút kinh nghiệm đợt một, quân Mỹ tập trung thành cụm lớn có cả  bộ binh, xe tăng, pháo binh từ đó đánh toả ra xung quanh; vừa thăm dò vừa phá, vừa thọc sâu vào căn cứ của ta, vừa chú trọng giữ vị trí bàn đạp nhưng dè dặt, thận trọng. Ngoài ra địch tìm mọi cách nghi binh, đánh lạc hướng cùng với việc hối hả chuẩn bị, chỉ trong năm ngày sau khi kết thúc đợt một, địch đã triển khai cuộc hành quân. Với nhiều thủ đoạn xảo quyệt, lại rút kinh nghiệm thất bại đợt một, tướng Oét-mo-len tin trước là sẽ “tìm diệt” được đối phương.

        Những phán đoán của Bộ chỉ huy Miên, những bố trí lực lượng và dự kiến các trận đánh của Sư đoàn 9 gần như trùng hợp với những gì xảy ra ngay những giờ đầu, ngày đầu của cuộc hành quân của Mỹ đánh vào Chiến khu C từ hướng đông. Chúng ta đúng vì chúng ta biết mình biết người, có bề dầy thực tiễn chiến đấu ngay trên đất nước mình, lại nắm vững quy luật chiến tranh, nghệ thuật quân sự cũng được tổng kết rút ra từ chính cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc diễn ra trong nhiều thập kỷ. Còn tướng tá Mỹ không phải nghèo về trình độ học vấn, về nghiệp vụ tham mưu, mà cơ bản, hình như đội quân xâm lược nào cũng không tránh khỏi, đó là đầu óc chứa đầy những suy tính chủ quan ngạo mạn, chỉ biết mình mà không biết người.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:11:13 am

        Ngay từ lúc địch mới ra quân, chỉ huy sư đoàn chúng tôi theo dõi chặt chẽ diễn biến để kịp thời xử lý, nhất là trên hướng dự kiến có đánh lớn, không thể lặp lại khuyết điểm chuẩn bị triển khai chiến đấu chậm như trận Đồng Pan. Trước ngày 187 tháng 3, địch tung các đại đội biệt kích thám báo hoạt động thăm dò theo tỉnh lộ 13, phía đông sông Tha La và khu vực Đồng Rùm. Đến ngày 18, ở khu vực phía bắc, địch ra quân ồ ạt, nhưng riêng Đồng Rùm vẫn tương đối yên tĩnh, chỉ có phi pháo địch thay nhau oanh tạc bắn phá mang tính chất dọn bãi, dấu hiệu địch sắp đổ quân...

        Tôi điện gấp xuống hai trung đoàn nhắc nhở: có khả năng ngày mai 19 tháng 3 địch đổ quân xuống Đồng Rùm, các đơn vị phải sẵn sàng, tổ chức theo dõi chặt diễn biến 24/24 giờ nhưng vẫn tuyệt đối giữ bí mật và động viên: gắng lên, đừng để hổ phá cũi nhé!

        Cả đêm 18 rạng ngày 19, ở sở chỉ huy tiền phương sư đoàn, chúng tôi thật sự hồi hộp, chờ đợi đến căng óc về những khả năng và diễn biến khi trời sáng!?   

        Ngày 19 tháng 3, sau khi nhận điện thông báo của Bộ chỉ huy Miền, cả khu vực Đồng Rùm rung lên vì bom đạn Mỹ trút xuống, từng đụn khói bốc cao, toả rộng như một đám mây màu chì che phủ cả một vùng trời. Rồi từng tốp máy bay lên thẳng ập đến thi nhau đổ quân. Mọi việc diễn ra khẩn trương, bài bản, ăn khớp. 17 giờ cùng ngày trận địa pháo địch bắt đầu hoạt động; 20 giờ bộ binh địch căng bạt, đào công sự rào kẽm gai, gài mìn.

        Tự tin được củng cố, phấn khởi được nhân lên. Tin từ Trung đoàn 3 báo về: cùng ngày trung đoàn đã tập kích cụm cơ giới Lữ đoàn 1 Sư đoàn 9 Mỹ ở Bàu Bàng, phá huỷ 92 xe (có 65 xe tăng), 9 khẩu pháo. Niềm vui đến nhanh, không có điều kiện để ngấm vì trước mắt chúng tôi là sự kiện Đồng Rùm.

        Chúng tôi nhận định, đây là thời cơ để sư đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Thực ra Đồng Rùm không phải là địa danh xa lạ đối với Sư đoàn 9, mà trái lại. Trong giai đoạn chuẩn bị theo kế hoạch chung của Miền, chúng tôi đã tổ chức đi khảo sát cơ bản trên thực địa, biết nơi đây là một trảng lớn (Trảng Đồng Rùm dài 1.200 mét, rộng 500 mét, xung quanh là những vạt rừng le và rừng dầu thưa xen kẽ, có nhiều trảng nhỏ bao quanh như: Trảng Dài, Tri Giết, Sóc Xoài, Chà Dơ... Phía tây trảng là Suối Dây và sông Tha La, phía nam là đường liên tỉnh 13; phía đông là lộ Kiểm Chà Dơ - Bổ Túc; phía bắc có lộ kiểm từ trảng Sóc Xoài đến bờ sông Tha La. Tuy bị chất độc hoá học làm rụng lá cây, nhưng rừng còn trú ém được quân, bìa trảng vào sâu 500 mét có nhiều hầm hào, căn cứ trú quân tốt), giữ một vị trí quan trọng phía nam đánh vào căn cứ. Tin từ quân báo cấp trên và từ Hà Nội thông báo vào, lực lượng địch đổ xuống Đồng Rùm gồm Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh số 4, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn không vận 173, một tiểu đoàn pháo hỗn hợp 105 và 156,7 ly, một tiểu đoàn xe tăng, xe bọc thép, lực lượng khoảng 3.000 tên. Sau khi đổ quân cùng với lô cốt đúc sẵn thả xuống, địch hối hả tổ chức thành hai tuyến phòng thủ phía bắc trảng và phía năm trảng, giữ là sở chỉ huy, trận địa pháo và khu thông tin. Trước giờ nổ súng, sư đoàn còn tổ chức đợt trinh sát cuối cùng, trong và sau chiến đấu được biết thâm: khu vực địch đóng thành cụm nằm gọn giữa trảng theo hình bầu dục dài 700 mét theo chiều bắc nam, rộng hơn 400 mét theo chiều đông tây; hình thành hai khu vực: khu bắc có bộ binh, tăng, thiết giáp xen kẽ; khu nam chia thành hai tuyến gồm sở chỉ huy nhẹ Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 4, khu thông tin và trận địa pháo có bộ binh cơ giới bố trí vòng ngoài. Gần sở chỉ huy có lực lượng bộ binh cơ giới làm nhiệm vụ dự bị. Cách tuyến một từ 15 đến 20 mét chúng thả kẽm gai bùng nhùng, đoạn có, đoạn không. Xung quanh đều có mìn chiếu sáng, lựu đạn gài và mìn định hướng...

        Từ thực tế trên cho thấy phạm vi tiến công rộng, lực lượng địch đông, hệ thống bố phòng tuy dã chiến nhưng đã hình thành lớp lang phòng thủ, hoả lực ken dày. Tình hình địch luôn biến động, thủ đoạn địch luôn luôn thay đổi. Trong khu vực giữa trảng rất khó nắm (có những điều ta chỉ biết được trong và sau trận đánh), nên khó tránh khỏi lúng túng trong xử lý khi bước vào chiến đấu.

        Một khó khăn nữa, cũng phải tính đến. Mặc dầu sư đoàn đã được bố trí thế đánh mục tiêu chọn sẵn, đã đưa lực lượng vào trước ém sẵn, song không thể tiến công khi địch chưa kịp tổ chức đổ quân hoặc chúng vừa chạm đất, mà phải bố trí từ xa, thực hành vận động tập kích. Vì trước khi đổ quân, địch tung biệt kích thám báo thăm dò; dùng các phương tiện trinh sát hiện đại phát hiện đối phương; dùng phi pháo bắn phá, thả bom trải thảm dọn bãi, sát thương đối phương, sau đó mới đổ quân. Đây là một đặc điểm khác với đánh quân Pháp đóng quân dã ngoại hồi kháng chiến chín năm. Ở đây, trong trận Đồng Rùm, khi Mỹ đổ quân, Trung đoàn 2 đang ở Chà Dơ, cách Đồng Rùm 5 ki-lô-met về phía đông nam, Trung đoàn 16 đứng cách Đồng Rùm 7 ki-lô-mét về phía bắc, một khoảng cách hoàn toàn bất lợi cho bên tiến công, song không còn cách nào khác vẫn phải chấp nhận vì những lý do như đã kể trên.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:11:33 am

        Do yêu cầu phối hợp tác chiến đồng bộ của chiến dịch, nếu kế hoạch triển khai chiến đấu chậm, sẽ lại như trận đánh Đồng Pan! Hơn thế nữa, ở đây vào thời điểm này còn lặp lại sai lầm như thế, thì tình hình càng trở nên phức tạp. Địch có điều kiện củng cố khu vực chiếm đóng vững chắc, biến nơi đây thành căn cứ trung tâm hành quân dã chiến, đánh toả ra các khu vực tây đường 4, đông lộ Trắng, phối hợp với cánh quân phía bắc từ Hớn Quản đánh qua, tiến vào trung tâm căn cứ B.

        Vì vậy, ngày 19 tháng 3, khi địch chưa chấm dứt đợt đổ quân, tôi và các anh Nguyễn Văn Quảng, Phó Chính uỷ Sư đoàn, Bùi Thanh Vân, Phó Tham mưu trưởng có mặt tại sở chỉ huy tiền phương sư đoàn đã có dự kiến về kế hoạch tác chiến. Đến sáng 20 tháng 3, khi mặt trời vừa rạng, một cuộc hội ý Thường vụ Đảng uỷ Sư đoàn diễn ra nhanh gọn, có một quyết tâm chiến đấu chính thức: Dùng lực lượng sư đoàn thiếu tập kích cụm quân Mỹ ở Đồng Rùm trong đêm 20 rạng sáng 21 tháng 3. Trung đoàn 2 đột phá hướng chủ yếu từ phía nam lên; Trung đoàn 16 đột phá hướng thứ yếu từ bắc xuống; tổ chức một tiểu đoàn phục kích chặn không cho địch từ Đồng Rùm tháo chạy ra bến Tha La qua cầu Bầu Cỏ để lực lượng lớn vận động đến tiêu diệt.

        Riêng hướng chủ yếu chúng tôi có trao đi đổi lại, cuối cùng mới thống nhất chọn phía nam vì ở đây có sở chỉ huy, khu thông tin nhưng địch chủ quan, bố phòng ít cẩn mật vì chúng coi như hậu phương phía sau của toàn cụm, trong khi ở phía bắc địch tăng cường đề phòng, hình thành phòng ngự ba tuyến.

        Sau cuộc hội ý, tôi lệnh cho các đơn vị khẩn trương chuẩn bị, triển khai thực hiện theo nhiệm vụ được giao. Đồng thời cơ quan chỉ huy tiền phương của sư đoàn từ Suối Dây rời về nam Đồng Rùm, cạnh Trung đoàn 2, tiện theo dõi, chỉ huy xử lý kịp thời các phát sinh trên hướng chủ yếu.

        10 giờ, trinh sát Trung đoàn 2 báo cáo: địch vẫn ở khu Đồng Rùm.

        Thế là chắc ăn rồi! Tôi tự nhủ mình như vậy và nhẹ nhõm thở phào, như trút được gánh nặng của lo âu. Vì đã có nhiều bài học ở Bàu Bàng, Dầu Tiếng, kẻ địch xảo quyệt, luôn luôn di chuyển đội hình, làm động tác giả để lừa ta.

        Mọi việc đã dự tính từ trước, vậy mà khi vào cuộc vẫn cứ bộn bề, tất cả đều thiếu thời gian. Mới chỉ là vận động đến vị trí xuất phát tiến công mà như đi vào trận chiến đấu thật, một cuộc chiến đấu đơn phương sôi động mà âm thầm đối phó với những hành động dự phòng của đội quân con nhà giàu – đánh trận kiểu nhiều tiền, nhiều súng đạn hiện đại. Đến giờ phút này mọi việc hình thành trận địa phòng thủ của địch coi như tạm ổn, thì cũng là thời gian hoạt động của các loại hoả lực dự phòng. Các trận địa pháo cối của địch bắn liên tục, không tiếc đạn, cùng lúc trên bầu trời là  các loại máy bay thay nhau quần đảo, bom trút xuống, thả đèn dù chiếu sáng cả khu vực rộng lớn nhằm sát thương, phá mọi ý định tiến công của ta từ xa. Đây là một nguyên tắc chiến thuật chung nhất, bất cứ bên phòng ngự nào cũng phải làm. Khác chăng với quân đội Mỹ được trang bị đến tận răng đủ loại vũ khí, phương tiện chiến tranh tối tân, hiện đại, thì cái nguyên tắc dự phòng từ xa lại được thả sức, thực hiện một cách triệt để, ác liệt. Đó là lý do, là nguyên nhân làm cho công việc của chúng tôi ngày càng thêm chồng chất, dồn thời gian vào cuộc chuyển quân, dồn tâm trí vào xử lý tình huống bất trắc trên đường vận động tiếp cận mục tiêu. Trung đoàn 16 do Võ Văn Dần làm Trung đoàn trưởng trên đường vận động từ vị trí tập kết vào vị trí xuất phát tiến công, dài 7 ki-lô-mét phải mất ba giờ, là tốc độ con rùa. Nhưng không có cách nào khác nhanh hơn, vì bị cối 120 ly, 106,7 ly địch bắn xối xả, liên tục, không còn thì giờ họp thường vụ đảng uỷ trung đoàn để xác định quyết tâm lần cuối, sau khi đi trinh sát thực địa trở về. Sau này khi chiến tranh, trở lại rút kinh nghiệm trận đánh, Võ Văn Dần (sau này là thiếu tướng, Tư lệnh trưởng Quân đoàn 4) đã kể lại với tâm trạng của mình trong tình huống thật khó xử: Anh tâm sự: lúc đó rối như tơ vò! Tình hình địch còn lơ mơ, bộ đội đang hành quân vào vị trí chiến đấu với quyết tâm trường hợp nào cũng đánh, không có bước chuẩn bị, không họp được thường vụ. Biết là sai nguyên tắc, mà họp thì mất thời cơ. Tôi nghĩ, họp thì không đánh, mà đánh thì không họp. Tôi quyết định lựa chọn cách hai – đánh đã, khuyết điểm phải chịu! Cách chức cũng đành, biết làm sao? Vấn đề lúc này là đánh Mỹ và phải thắng chúng, đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty. Tôi tự nhủ - chỉ huy phải dũng cảm sống chết cùng chiến sỹ. Nhưng dũng cảm của người chỉ huy còn thể hiện ở tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm trong những tình huống gay cấn. Nhưng trinh sát nắm địch thì vội mấy cũng phải thực hiện. Thế là tôi và một số cán bộ bứt khỏi đội hình trung đoàn, vượt lên trước để nắm địch, đơn vị đi sau sẽ gặp ở điểm hẹn có quy ước tín hiệu để vào vị trí chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:12:15 am

        Nhưng thật là kỳ diệu, mọi việc đều diễn ra suôn sẻ. Thường vụ Đảng uỷ vẫn họp trước giờ nổ súng, không mất thời gian mà nhất trí nhanh.

        - Tại sao? – Có cử toạ hỏi.

        Nét mặt tự tin, Võ Văn Dần chậm rãi trả lời ngay, nhưng không khẳng định - Mọi việc đã diễn ra rồi. Sự đúng đắn của nó là đơn vị đã đến được vị trí xuất phát tiến công trước giờ G quy định.

        Bỗng Võ Văn Dần quay mặt về phía tôi, hỏi:

        - Tại sao anh Năm ra lệnh đánh Đồng Rùm trong khu (khi) Trung đoàn 16 chưa được chuẩn bị.

        Tôi trả lời: chuẩn bị là một nguyên tắc của công tác tổ chức chiến đấu. Nhưng không phải bao giờ cũng có đầy đủ thời gian, điều này phụ thuộc vào các yếu tố khách quan. Ở điều kiện cụ thể của Đồng Rùm, nếu chờ có thời gian chuẩn bị thì không thể có trận Đồng Rùm lịch sử. Là cán bộ chỉ huy, trong chiến đấu luôn luôn phải đặt ra, luôn luôn phải suy nghĩ về các tình huống khó khăn để thích ứng, đánh địch trong mọi điều kiện, trong đó có cả tình huống rất ít thời gian chuẩn bị.

        Xin được trở lại chuyện kể.

        Bốn giờ 15 phút ngày 21 tháng 3, thời gian đang chuyển về ban ngày, sao mà hồi hộp đến thế! Chỉ còn 10 phút nữa là đến giờ G mà Trung đoàn 2 vẫn đang còn chiếm lĩnh trận địa, Trung đoàn 16 chưa qua bước trinh sát thực địa, vẫn còn cách vị trí xuất phát tiến công 2 ki-lô-mét.

        Thấy không còn cách nào khác, tôi lệnh kéo dài giờ nổ súng thêm 40 phút, tức 5 giờ 40 phút. Như vậy trận đánh chuyển sang ngày với bao vấn đề phức tạp phải đương đầu, pháo binh, không quân và cả viện binh đổ xuống bằng máy bay lên thẳng.

        Giờ G đã đến! Cả sở chỉ huy tiền phương sư đoàn nhộn nhịp và tất bật hẳn lên. Chuông điện thoại và cả máy bộ đàm (lúc này mới được lệnh) làm việc liên tục.

        Súng nổ dữ dội ở trong trảng. Trung đoàn 2 báo cáo đã đột phá xong tiền duyên đang phát triển vào tung thâm thuận lợi. Nhưng tôi lại lo, vì chưa nhận được tin từ phía bắc, nơi Trung đoàn 16 đang phải đương đầu với vỏ phòng thủ cứng của địch! Song tôi lại tự nhủ, Trung đoàn 16 phần lớn cán bộ, chiến sỹ là con em của nhân dân Khu 4, một trong những cái nôi của cách mạng Việt Nam. Trung đoàn được huấn luyện quân sự có bài bản chính quy, được giáo dục tốt về chính trị, đã qua chiến đấu ở Tây Nguyên trước khi được bổ sung vào Đông Nam Bộ, lập thành tích cụ thể trong đợt một cuộc phản công của địch. Với bề dày chiến đấu ấy tôi tin rằng trung đoàn có đủ bản lĩnh, đủ trình độ xử lý các tình huống chiến đấu gay go, phức tạp; việc mất liên lạc với sư đoàn và sư đoàn với trung đoàn kéo dài gần như suốt cả quá trình xảy ra trận đánh là do khó khăn cụ thế, chứ không thể có lý do về phía bản thân trung đoàn.

        Mãi sau khi chiến dịch kết thúc chúng tôi mới thấy rõ nguyên nhân. Sau giờ G ít phút, Trung đoàn 16 đang vào vị trí chiếm lĩnh. Nghe thấy tiếng súng nổ từ hướng nam vọng lại, lập tức chỉ huy trung đoàn cho đơn vị vận động hướng về phía có tiếng súng, cùng Trung đoàn 2 tiến công theo kế hoạch hiệp đồng, tạo thuận lợi cho trung đoàn bạn phát triển vào sâu đánh chiếm sở chỉ huy, gần hết cụm quân Mỹ ở phía nam trảng. Mãi sáu giờ, trời sáng rõ Trung đoàn 16 mới chiếm xong tuyến một, đang phát triển sang tuyến hai thì gặp địch phản kích. Máy bay trinh sát L19 bay thấp chỉnh cho pháo địch từ Lộc Ninh, Bầu Cỏ bắn vào đội hình, nhiều tốp máy bay phản lực, máy bay lên thẳng vũ trang rà thấp các vạt rừng quanh trảng, ném bom ngăn quân ta phát triển.Cùng lúc cụm địch ở phía tây kết hợp với bọn còn lại ở cụm phía bắc chống trả ta quyết liệt. Cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 16 chiến đấu như đã học (Đánh như là học. Đó là lời khen của đồng chí chỉ huy đơn vị bạn đi qua sau khi kết thúc chiến trận đánh.

        Như đã nói, Trung đoàn 16 nguyên là Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 thuộc Quân khu 4, đã qua chương trình huấn luyện chính quy trước khi vào Nam chiến đấu), thắng to, anh em phấn khởi tự tin khi tận mắt chứng kiến cảnh Mỹ tháo chạy.

        Nhưng có một số cán bộ đơn vị bạn đi ngang hỏi:

        - Đánh trận này để làm gì, sao thiệt hại nhiều thế?

        - Khi cần thiết dù phải hy sinh lớn cũng sẵn sàng chấp nhận - Một đồng chí cán bộ của Trung đoàn 16 trả lời.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 10:42:06 pm

        Là người chịu trách nhiệm chính trong trận đánh, sau khi nghe những người trong cuộc tường thuật lại mẩu đối thoại trên, tôi thấy cả hai câu hỏi và trả lời đều có lý. Đứng trước sự thiệt hại lớn, có đơn vị quá lớn (Đại đội 1 Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 chỉ còn chín cán bộ, chiến sỹ) thì sự đau thương, ân hận và cả sự tra xét là một phản ứng tất nhiên của tình cảm chúng ta. Nó nhắc nhở chúng ta, những cán bộ chỉ huy mỗi khi suy nghĩ hạ quyết tâm chiến đấu, cần phải cân nhắc, phải tính toán; trận đánh phải thắng; thắng to nhưng lại ít tổn thất. Đó là một yêu cầu có tính nguyên tắc cũng là thể hiện tinh thần trách nhiệm, lòng yêu thương, quý trọng của người cán bộ chỉ huy đối với đồng đội, đồng chí.

        Nhưng sứ mệnh chiến đấu vì độc lập, tự do, vì thống nhất Tổ quốc là cao cả. Nếu cần thiết thì phải vui vẻ, sẵn sàng nhận lệnh xả thân, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” như Bác Hồ dạy.

        Sự quyết tử của chúng ta cho trận thắng Đồng Rùm là đúng. Vì đây là trận phủ đầu bẻ gãy cánh quân ở phía nam trảng đánh lên trong đợt hai cuộc phản công đánh phá căn cứ ta, với mục đích “tìm diệt” cơ quan đầu não Miền, “tìm diệt” chủ lực Sư đoàn 9. Đây là trận đánh tiêu diệt lớn nhất của Sư đoàn 9, có sức thối động lớn, góp phần chuyển biến có lợi cho ta trong những ngày sau đó. Trước hết là ý định địch dàn thế bao vây, chia cắt ta ở hướng đông đã trở nên rối, có chiều hướng buộc chúng phải phản kích bộ phận để bảo vệ vị trí đóng quân. Ngay tối 27 tháng 3, tôi mở đài BBC đưa tin nhận xét của hãng thông tấn Pháp AFP: “Mỹ đánh vào Chiến khu C như người ta đám vào một quả bóng”.

        Ngày 1 tháng 4 quân địch còn lại ở Đồng Rùm rút sau khi bị Trung đoàn 16 bồi thêm trận tập kích tiêu diệt một bộ phận của chúng ở bầu Tri Giếc. Vai trò của căn cứ dã chiến Đồng Rùm trong đợt hai cuộc hành quân đến đây coi như chấm dứt, mặt trận bắt đầu chuyển về bắc, đông bắc.

        Dựa vào định hướng chỉ đạo chung của Bộ chỉ huy Miền, căn cứ vào sự thay đổi hình thái sau trận Đồng Rùm, chúng tôi, những người được phân công ở sở chỉ huy tiền phương sư đoàn trao đổi, thấy cần thiết phải đổi thế bố trí, đưa Trung đoàn 16 từ phía nam (khu vực Đồng Rùm) lên phía bắc hợp cùng với Trung đoàn 1 đã đứng chân ở đây vừa tạo ưu thế tương đối về lực lượng vừa tạo thời cơ và đón thời cơ, sẵn sàng đánh tập trung theo quy mô sư đoàn thiếu, tiêu diệt vừa và lớn quân địch. Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 vẫn bố trí phân tán, tác chiến theo đội hình trung đoàn sẵn sàng đánh địch rút lui.

        Khi sở chỉ huy tiền phương sư đoàn cùng với Trung đoàn 16 hành quân ngược lên phía đông bắc tối khu vực Sóc Con Trăng, thì gặp một tiểu đoàn Mỹ đóng chốt ở Sóc Trâu đang bị du kích cơ quan bao vây, kìm chế.

        Nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi, tôi quyết định dùng cả hai Trung đoàn 16 và Trung đoàn 2 tiến hành tập kích tiêu diệt. Nhưng chưa kịp triển khai thì địch dùng máy bay lên thẳng bốc tiểu đoàn này và đổ thêm hai tiểu đoàn nữa xuống trảng Ba Vũng (tây bắc cầu Suối Ngô).

        Theo kế hoạch của sư đoàn, ngày 31 tháng 3, Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 16 vận động tập kích cụm quân địch ở nam trảng, đánh thiệt hại nặng hai đại đội địch, đánh lùi ba đợt phản kích của chúng; đồng thời pháo kích cụm quân địch ở Sóc Con Trăng. Đây là một trong những căn cứ chi viện hoả lực lớn nhất của cuộc hành quân đã bị ta tiến công, càng có tác dụng thối động đến tinh thần chiến đấu của quân Mỹ trên khu vực.

        Cùng với các trận đánh phục kích, tập kích, tiêu hao, tiêu diệt nhỏ quân địch của các lực lượng du kích cơ quan, các trận đánh tập trung của Sư đoàn 9 vào các cụm quân Mỹ ở Bàu Bàng, Đồng Rùm, trảng Ba Vũng là những đòn đánh mạnh vào tinh thần quân đội Mỹ. Chúng không còn đủ sức co cụm, buộc phải rút tiếp Đồng Kèn (6/4), trảng Ba Vũng (10/4), Bầu Cật, làm nao núng các cánh quân địch khác trên toàn khu vực chiến dịch. đến ngày 13 tháng 4, bộ phận cuối cùng của quân Mỹ rút khỏi Sóc Con Trăng, cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty coi như kết thúc trên thực tế. Nhưng phải hai ngày sau, 15 tháng , tướng Oét-mo-len mới chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc hành quân này.

        Thất bại của cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty là một thực tế hiển nhiên, bắt đầu sự cáo chung của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, nói như những quan chức Mỹ - giai đoạn “Mỹ hoá cuộc chiến tranh” đã thất bại, từ đây bắt đầu một chiến lược khác được thực thi – “Việt Nam hoá chiến tranh”.....

        Trích: Thượng tướng Hoàng Cầm, Chặng đường mười nghìn ngày, (Hồi ức - Nhật Tiến ghi)


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 10:56:12 pm

6. TRUNG TƯỚNG NGUYỄN ĐỆ (BA TRUNG)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Album2/0%20trung%20tng%20nguyn_zps7sieai2p.jpg)

       
        Trung tướng Nguyễn Đệ sinh năm 1928, quê ở xã Bàn Thạch, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng chí Nguyễn Đệ đã trưởng thành từ Đội trưởng cảm tử Bà Rịa đến Chỉ huy trưởng Mặt trận Trà Vinh, trực tiếp chỉ huy hơn 600 chiến dịch và trận đánh trên cương vị từ Đại đội trưởng đến Tư lệnh tiền phương quân khu. Với tinh thần mưu trí, dũng cảm, đồng chí Nguyễn Đệ luôn bám sát chiến trường, nắm chắc đơn vị, chỉ huy đánh địch có hiệu quả.

        Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306, Phó chỉ huy Mặt trận Trà Vinh, đồng chí Nguyễn Đệ đã chỉ huy lực lượng đánh chiếm và làm chủ thị xã Vĩnh Long.

        Những năm 1970 – 1975, trên chiến trường Trà Vinh, địch tập trung đánh phá ác liệt, Nguyễn Đệ chỉ huy Trung đoàn 3 phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng, mở rộng vùng giải phóng, tạo đà cho lực lượng quân khu tiến công địch.

        Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đồng chí Nguyễn Đệ làm Sư đoàn trưởng rồi Tư lệnh Mặt trận 797, chỉ huy các lực lượng chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp bạn Cam-pu-chia xây dựng lực lượng.

        Đồng chí Nguyễn Đệ được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, bốn Huân chương Quân công (hai hạng nhất, một hạng nhì, một hạng ba), chín Huân chương Chiến công (sáu hạng nhất, một hạng nhì, hai hạng ba), hai Huân chương Kháng chiến (hạng nhất) cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.

        Để giúp bạn đọc có thể hình dung phân nào cuộc đời binh nghiệp của một vị tướng gắn liền với cuộc chiến đấu hào hùng của quân dân Nam Bộ thành đồng, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã xuất bản tập hồi ức “Niềm tin và lẽ sống” của Trung tướng Nguyễn Đệ (xuất bản lần thứ nhất năm 1994, tái bản năm 2005).

        “Chọn “Niềm tin và lẽ sống” đặt tên cho tập hồi ức, Trung tướng Nguyễn Đệ gói gọn hết thảy những gì máu thịt nhất của mình trong suốt chặng đường theo Đảng và cách mạng. Chính Niềm tin vào Đảng anh minh, vào một sự đổi đời đã tăng lực cho tác giả vượt phá những chuỗi ngày tôi đòi, nô lệ, tìm ra Lẽ sống chiến đấu và chiến thắng.

        Những hồi niệm của tác giả “Niềm tin và lẽ sống” còn đưa chúng ta đến với những con người chân chất, hiền hoà mà quả cảm, những miệt vườn cây trái, những dòng kênh, chuyến đò... của Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau - Đất Mũi... một thời đánh giặc rất đỗi hào hùng nhưng cũng lắm cam go”. (Trích Lời nhà xuất bản viết cho lần in thứ hai).


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 10:58:07 pm

VĨNH TRÀ - CHIẾN TRƯỜNG SÔI  ĐỘNG

        “... Khu uỷ miền Tây đánh giá cao kết quả chiến thắng Ba Quân – Ngã Cạy. Bởi vậy ngay lúc đó Khu uỷ chủ trương đưa Tiểu đoàn 306 lên hoạt động tại tỉnh Vĩnh – Trà, một vùng phía sau trọng yếu của địch để hỗ trợ địa phương phá ấp chiến lược, mở lõm, giải phóng vùng. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Bộ tư lệnh quân khu chỉ định tôi làm Trung đoàn phó Trung đoàn 1 trực tiếp làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306, một tiểu đoàn chủ lực của Khu hồi này đang mạnh nhất vùng. Nhận nhiệm vụ trên giao, tôi chủ động nghiên cứu lại chiến trường mới này. Thực ra hồi còn đảm đương nhiệm vụ Tham mưu trưởng Quân khu (1961) tôi đã biết địa bàn này rất khó khăn đối với ta, song cũng mới biết chung chung qua các báo cáo, qua các lần tiếp xúc với các anh ở Thường vụ Tỉnh uỷ lên Khu họp. Muốn chỉ huy một đơn vị, tôi phải tìm hiểu thật kỹ tình hình mọi mặt nơi đây.

        Về phía cách mạng, Vĩnh – Trà là tên đầu của hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh hợp nhất lại từ những năm 1951 – 1954 mà thành. Nhìn vào bản đồ, Vĩnh – Trà là một cù lao dài trên 150 cây số, rộng 40 cây số với bờ biển Trà Vinh dài tới 65 cây số. Vĩnh – Trà nằm lọt vào giữa sông Tiền và sông Hậu, hai con sông lớn của đồng bằng sông Cửu Long chẳng khác nào hai cánh tay khổng lồ ôm gọn vào lòng cả vùng đất rộng lớn này. Vĩnh – Trà có ba thị xã: Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh và 18 huyện. Về đường bộ, Vĩnh – Trà có lộ 4 chạy qua (nay là quốc lộ 1) nối thành phố Cần Thơ với Sài gòn. Cùng với đường bộ, Vình – Trà có con sông Măng Thít nối liền với sông Tiền và sông Hậu chảy qua phần giữa của hai tỉnh là tuyến đường sông ngắn nhất vô cùng quan trọng nối miền Tây với Sài Gòn khiến thuyền bè không phải chạy vòng ra biển rất xa. Với vị trí xung yếu như vậy, bằng tầm nhìn chiến lược, bọn Mỹ đã đầu tư rất tích cực cho Vĩnh – Trà. Chúng bố trí ở Sư đoàn 9 ngụy với ba Trung đoàn: 14, 15 và 16; thiết đoàn 2 thiết giáp, 50 xe M113 và M118, ba giang đoàn tàu. Trung đoàn không quân đóng ở sân bay Vĩnh Long với trên 70 máy bay trực thăng và trinh sát L19. Sở chỉ huy pháo binh chỉ huy hai tiểu đoàn pháo gồm 30 khẩu 105 và 155 ly, trên 10 tiểu đoàn bảo an và Tiểu đoàn 43 biệt động quân bảo vệ ở vòng ngoài. Thêm vào đó là hệ thống đồn bốt với trên 1.000 đồn chi chít, cứ cách một đến hai cây số có một đòn cùng bộ máy tề ngụy và ấp chiến lược kìm kẹp nhân dân vô cùng ác liệt. Để bảo vệ đầu não Cần Thơ và Sài Gòn, coi Vĩnh – Trà là hậu phương an toàn của chúng, Mỹ - ngụy ra sức thí nghiệm chính sách bình định, phát quang cây cối, triệt phá địa hình, không cho lực lượng cách mạng trú ẩn; đồng thời chúng tiến hành cai trị bằng đạo giáo phản động và tổ chức Phượng Hoàng - Thiên Nga gồm những tên gián điệp ngầm tung vào nội bộ ta để dò la tin tức và mua chuộc cán bộ nhằm ‘tát nước bắt cá”. Qua đó địa bàn Vĩnh – Trà nổi lên hai đặc điểm lớn:

        Bộ máy kìm kẹp quần chúng và đồn bốt địch rất dày đặc.

        Địa hình rất trống trải. Tuy Vĩnh – Trà là đồng bằng song không có những rừng tràm, rừng đước và những vườn cây ăn trái dày, rộng, um tùm che khuất như U Minh.

        Hai đặc điểm lớn trên chi phối hoạt động của ta. Bộ đội chủ lực muốn hoạt động được phải có hai yếu tố quan trọng; cơ sở quần chúng che chở và phải có thế địa hình. Về địa hình Vĩnh – Trà rất hạn chế, tuy có vườn cây, nhưng địch ráo riết phát quang, triệt phá. Chúng bắt dân phải đốn hết các gốc cây to, nhỏ, chỉ cho chừa lại vài gốc dừa con, lưa thưa nhưng lại phải quét vôi trắng ở dưới để chúng dễ phát hiện ta di chuyển.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 10:58:44 pm

        Bởi thế một tiểu đoàn chủ lực hoạt động được ở Vĩnh – trà gặp rất nhiều khó khăn, không thể giống như các tỉnh Sóc Trăng, Rạch Giá hoặc Cà Mau được. Từ trước đến lúc này tại Vĩnh – Trà chỉ có hoạt động lẻ tẻ của bộ đội địa phương tỉnh, huyện và các đội du kích nhỏ song vẫn bị hạn chế nhiều. Muốn đưa phong trào cách mạng của địa phương lên, trước hết Tiểu đoàn 306 phải cùng Vĩnh – Trà xây dựng được cơ sở chính trị quần chúng và thế địa hình. Cấp trên tin tưởng giao cho tôi lãnh trách nhiệm đó. Rất may là vừa dịp quân khu cử anh Ba Quang về làm chính trị viên Tiểu đoàn 306 để cùng với tôi chỉ huy đơn vị. Gặp gỡ anh Ba Quang tôi rất mừng. Qua trao đổi với anh, tôi biết anh Ba được Phòng Chính trị quân khu cử về nằm vùng ở Vĩnh – Trà từ mấy năm trước để giúp tỉnh xây dựng phong trào cách mạng ở địa phương. Anh Ba Quang là cán bộ tập kết từ miền Bắc trở về. Quê anh ở Mỹ Tho song quen hoạt động ở Vĩnh – Trà từ những năm kháng chiến chống Pháp. Càng về sau, cùng chiến đấu với nhau nhiều trận tôi càng thêm mến phục anh Ba Quang bởi ý chí kiên cường, bất khuất, lòng dũng cảm và tính tình cương trực thẳng thắn của anh. Tuy là một cán bộ chính trị nhưng tác phong của anh mang đậm nét cán bộ quân sự, đối với anh đã bàn đánh là chỉ có đánh mà thôi, không hề nghe anh bàn lùi lời nào vì những khó khăn. Nắm vững từng địa hình rất mỏng, rất hẹp, đưa tấm bản đồ Vĩnh – Trà, trong đó anh đánh dấu các đòn bốt địch đóng dày đặc như bát úp, thoạt trong tưởng một tiểu đội chủ lực cũng không thể đứng chân được. Anh Ba Quang cười hiền hoà nói lại với tôi:

        - Coi địa hình đối với bộ đội chủ lực thì gian nan vậy đó, thực ra lòng dân Vĩnh – Trà lại rất tốt, có truyền thống cách mạng lâu đời, một lòng theo Đảng từ những năm 1940. Mấy năm vừa qua tối dựa vào dân mà sống. Cơ quan của Tỉnh uỷ ở cách địch chỉ trên dưới một cây số, hai đầu là hai đồn địch, mình đóng giữa vẫn tồn tại được. Nhờ nhân dân bảo vệ thôi. Rồi nay mai anh sẽ thấy điều tôi nói đúng có không?

        Rất hứng khởi nắm chặt tay anh Ba Quang tôi vui vẻ đáp:

        - Được! Anh cùng các anh trong ban chỉ huy tiểu đoàn ở nhà, làm tốt công tác chuẩn bị, quán triệt cho đơn vị thông suốt nhiệm vụ chiến trường mới, tôi sang Vĩnh – Trà trước nắm tình hình. Các anh tổ chức bộ đội xong sẽ sang sau.

        Trung tuần tháng 12 năm 1965, cùng một bộ phận cán bộ tiểu đoàn, tôi dẫn sáu đại đội trưởng và phân đôi trinh sát đi trước; bộ phận cán bộ tiểu đoàn, tôi dẫn tới 40 – 50 cán bộ, chiến sỹ, hơn một trung đội. Sở dĩ nhiều như vậy là do anh em trinh sát đông. Quân số Tiểu đoàn 306 hồi này lên tới trên 800, tương đương một trung đoàn. Trong chiến đấu, tôi thường điều theo bộ phận trinh sát kỹ thuật được trang bị nhiều máy vô tuyến điện, vừa nắm địch vừa nắm chắc ta, nên tuy xa đơn vị nhưng tôi vẫn liên lạc nắm tình hình ở nhà rất chặt.

        Từ Sóc Trăng chúng tôi lên đến huyện Cái Sách (Cần Thơ) rồi nhờ đường giao liên tổ chức đưa qua sông Hậu, con sông mà anh em thường lắc đầu gọi là “sông bạc đầu”, “sông giảm kỷ”, vì mỗi lần vượt qua đó, cán bộ, giao liên đều lo lắng, cảm thấy như giảm thọ mất chục tuổi. Quả vậy, chính lúc trông thấy cảnh tàu thuyền, bo bo địch phong toả sông Hậu rộng lớn, tôi càng cảm nhận thấy nỗi lo hiểm nguy bất chợt ập đến với mình giữa lúc đang qua sông. Tàu chiến, tàu tuần tiễu đêm ngày san sát bịt kín và bịt chặt lối ta sẽ vượt qua. Đêm đến đèn pha rọi khắp nơi sáng như ban ngày, một cụm lục bình nhỏ cũng sớm bị phát hiện. Cứ năm phút một, từng tốp bo bo (loại thuyền bay tuần tiễu) chạy lướt trên mặt nước đuổi từng chiếc ghe đánh cá của dân, tốc độ của chúng lên tới 30 – 40 hải lý. Dưới sông tàu thuyền tuần tiễu giăng đầy. Trên bờ cơ man nào là phòng vệ dân sự, tề, điệp ngầm cùng hệ thống ấp chiến lược dày đặc mà địch bắt dân sắm mõ báo động mỗi khi phát hiện có người lạ đến. Thu mình lại bên bờ nam sông Hậu chúng tôi quan sát bố phòng của địch ngăn chặn ta. Quả vượt qua sông thật khó khăn, đầy gian nan, nguy hiểm. Cùng với việc Mỹ - ngụy “bịt” sông khá kín thì lòng sông Hậu lúc nước lớn nhiều chỗ rộng từ hai đến ba cây số trông hun hút, xa lơ xa lắc. Khi trời nổi gió từng đợt sóng dâng cao cùng những con xoáy sâu và rộng như muốn lôi tuột những chiếc ghe nhỏ xuống tận đáy sông. Đứng trước dòng sông bao la, hung hãn lúc này tôi càng cảm thấy đối với sức mạnh của thiên nhiên, thì con người mới nhỏ bé làm sao. Cộng với súng đạn của địch đang rình rập quanh mình thì những sợi tóc trên đầu sao chẳng chớm bạc. Muốn đặt chân lên đất liền của Vĩnh – Trà chúng tôi không chỉ qua sông Hậu mà còn phải vượt qua sông Tân Quy và nhánh của nó nữa, tức là qua liền ba dòng sông đầy nguy hiểm như nhau.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 10:59:40 pm

        Nhờ sự giúp đỡ tận tình của giao liên và du kích các thôn ấp, chúng tôi liên lạc được với cơ sở cách mạng ở cù lao Tân Quy nằm trên bờ bắc sông Hậu, do đó nắm được chỗ yếu của địch. Thực tế bề ngoài dân tuy bị địch gom hết vô ấp chiến lược nhưng lòng dân luôn hướng về cách mạng, hướng về Đảng, ngày đêm ngóng chờ bộ đội đến giải thoát cho mình; phòng vệ dân sự, một tổ chức bán vũ trang địa phương của địch “bảo vệ” xóm ấp, được trang bị súng đạn; về đêm đa số anh em này lại trở thành đội viên du kích của ta.

        Thức ba đêm liền căng thẳng theo dõi địch, nửa đêm thứ tư chúng tôi nhận thấy phía bờ bên kia chợt có ánh đèn pin tắt rồi loé lên mấy lần. Đó là ám hiệu. Lập tức chúng tôi xuống xuồng; đèn pha của địch vừa tăt, cán bộ, chiến sỹ mỗi người cầm một bơi chèo hối hả quật nước cho xuồng vun vút vượt sông. Lúc lên đến bờ, du kích và cơ sở ùa ra đón mừng vui, nghẹn ngào nói: “Các anh đã về!”.

        Ngày hôm ấy tôi được gặp gỡ, trò chuyện thân mật với nhiều bà con vốn khao khát độc lập, tự do, mấy năm liền nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ, du kích nằm hầm bí mật đào dưới nền nhà hoặc ngoài vườn cây của minh. Hai đêm sau đoàn tiền trạm vượt hai con sông và hai cù lao nữa, thay đổi ba lần xuồng. Sáng sớm ngày thứ ba chúng tôi an toàn đặt chân lên đất liền huyện Cầu Kè địa bàn của Trà Vinh. Tại đây anh Nguyễn Văn Đáng (Năm Trung, Bí Thư Tỉnh uỷ) và anh Sáu Hoàng (Tỉnh đội trưởng Vĩnh – Trà) nhận được điện của quân khu đã chờ đón chúng tôi ở nhà má Sáu, một cơ sở trung kiên cách đồn địch chưa đầy hai cây số. Chúng tôi ôm lấy nhau tay bắt mặt mừng như anh em ruột thịt trải qua thời kỳ gian lao, biền biệt xa nhau lâu mới có dịp gặp lại. Hai anh vồn vã dẫn tôi về căn cứ Tỉnh uỷ đầu Giồng Cát ấp Bà Mi cách đồn địch khoảng hai cây số và cách chi khu Cầu Kè khoảng bốn cây số, giới thiệu hoạt động của địch, phong trào chiến đấu của quân và dân Trà Vinh giúp tôi sƠ bộ hiểu được tình hình.

        Càng tiếp xúc với bà con, với du kích Vĩnh – Trà, kể cả bà con bị địch nhốt chặt trong các ấp chiến lược như nhốt trong các nhà tù, tôi càng thấy những điều anh Ba Quang, Chính trị viên tiểu đoàn khẳng định với tôi rằng bà con rất tốt, rất gắn bó, tha thiết với cách mạng là hoàn toàn chính xác.

        Năm 1930, Vĩnh – Trà sớm có chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, lãnh đạo hàng nghìn quần chúng mít tinh, biểu tình đòi thực dân Pháp thực hiện dân sinh, dân chủ. Bước sang năm 1940, nhiệt liệt hưởng ứng Nam Kỳ khởi nghĩa, nhân dân các huyện Vũng Liêm, Càng Long, Tam Bình, Cái Ngang, Cầu Kè, Trà Ôn... đã anh dũng nổi dậy tiến công quân thù, đặc biệt nhân dân Vũng Liêm giành đựoc chính quyền ở quận lỵ và tất cả các xã; trong kháng chiến chống Pháp, quân và dân Vĩnh – Trà liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch như Cầu Kè, Cầu Ngang, Trà Vinh; năm 1949 – 1950, đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Có những trận đánh nổi tiếng như trận La Bang, Phong Phú (Cầu Kè), Long Hồ, Ba Càng, bắt hàng trăm tên Âu – Phi, đánh hỏng nhiều tàu.

        Với truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa Đảng với dân, giữa quân với dân, lịch sử đã để lại cho Vĩnh – Trà một đội ngũ nhân dân được cách mạng triệt để, thiết tha với độc lập, tự do, có kinh nghiệm đấu tranh với quân thù và một đội ngũ đảng viên được thử thách trong đấu tranh chính trị và vũ trang với địch. Truyền thống vẻ vang và thành tích chiến đấu đó rất xứng đáng với tám chữ vàng: “Vĩnh – Trà anh dũng, đoàn kết lập công” được Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khen tặng.

        Suốt nửa tháng hăm hở chuẩn bị chiến trường, trực tiếp sống với bà con, cô bác, những em bé rải khắp các xã, các huyện của Vĩnh – Trà lòng tôi cảm thấy tràn ngập niềm tin, niềm cảm phục những con người bình thường, chân chất, hiền như củ khoai, hạt lúa song sục sôi lòng yêu nước. Nếu không được nhân dân tận tình nuôi dưỡng và bảo vệ thì căn cứ của Tỉnh uỷ ở sát nách địch và các tổ du kích Vĩnh – Trà đã không thể tồn tại được, mặc dù đã có hầm bí mật. Chiến tranh nhân dân thần thánh, kỳ diệu làm sao!

        Sau khi đã chuẩn bị xong chiến trường, tôi quyết tâm cho tiểu đoàn vượt sông sang Vĩnh – Trà và quyết đánh thắng trận đầu. Toàn tiểu đoàn trên 800 đồng chí với trên 200 chiếc xuồng và mượn thêm của dân 100 chiếc nữa, mỗi xuồng ba đến bốn người lướt sóng qua sông dưới ánh đèn pha tàu địch tuần tiễu, chỉ trong một đêm toàn Tiểu đoàn 306 với sáu đại đội đã vượt qua ba cù lao và ba con sông rộng an toàn, hoàn toàn bí mật. Đây là thắng lợi lớn ban đầu đối với đơn vị. Lòng nhẹ nhõm, tràn đầy tin tưởng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:01:17 pm

        Giữ được thế bất ngờ đối với địch, tôi quyết tâm đánh thắng trận đầu để bộ đội và nhân dân tin tưởng, còn địch thì buộc phải thua đau. Kế hoạch diệt đồn đánh sập cầu Mai Tức kéo địch giải toả, ta diệt viện được Đảng uỷ, ban chỉ huy Tiểu đoàn 306 và Tỉnh đội Vĩnh – Trà đều nhất trí.

        Đêm 18 tháng 1 năm 1967, tôi sử dụng Đại đội 57 và bộ phận đặc công của tiểu đoàn diệt đồn Đập Ấu và đánh sập cầu Mai Tức dài 50 mét nằm trên lộ 7 từ Trà Vinh chạy về thị xã Vĩnh Long, mặt lộ rộng tráng nhựa. Giao thông nối liền hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh bị cắt. Bao nhiêu xe đò, xe quân sự bị ùn tắc, hai thị xã náo động. Ngay sáng hôm sau, địch đưa Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 14 cùng với lực lượng bảo an từ Trà Vinh lên vừa để chiếm lại đồn vừa bảo vệ cho công binh bắc lại cầu, đúng như dự kiến của ta.

        Tối ngày 20 tháng 1 năm 1967, tiểu đoàn bí mật hình thành thế bao vây nổ súng tập kích địch. Sau hai giờ chiến đấu, đơn vị tiêu diệt trên 300 tên địch, thu trên 100 súng. Cùng lúc, tiểu đoàn tập kích bằng hoả lực vào chi khu Càng Long làm cháy hai khẩu pháo 105 ly và làm sập nhà trại của lính, giết chết hàng chục tên. Về phía ta chỉ bị thương nhẹ vài đồng chí. Trận đánh mở màn giành được thắng lợi, quân và dân Vĩnh – Trà vô cùng phấn khởi. Lần đầu tiên một tiểu đoàn chủ lực địch bị thiệt hại nặng trên đất Vĩnh – Trà mà hơn 10 năm nay Mỹ - ngụy cho là vùng hậu cứ an toàn, nơi mà chúng thường huênh hoang với bà con rằng đã quét sạch “Việt cộng”. sau trận đánh thắng này, Tiểu đoàn 306 lại được Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba.

        Phối hợp với hoạt động của chủ lực Khu, hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh đẩy mạnh ba mũi giáp công nổi dậy phá ấp chiến lược, diệt và bức hàng trên 10 đồn bốt địch, tuyến An Trương – Tân An được giải phóng. Trông thấy bộ đội chủ lực sau một thời gian dài vắng bóng nay về đông, súng đạn nhiều, trận đầu đã đánh địch thua đau, bà con Vĩnh – Trà rất hể hả. Lúc này đã vào Tết âm lịch, nhà nhà náo nức chuẩn bị đón Tết, lớp tiếp tế nấu cơm, mang quà bánh tiếp tế bộ đội, lớp vây đồn, phá ấp chiến lược, tiếng cười, tiếng nói râm ran, không khí xóm ấp sôi động hẳn lên.

        Bất ngờ bị thất bại nặng, địch lồng lộn điên cuồng. Chúng điều động Trung đoàn 14 Sư đoàn 9 trả đũa, mở cuộc phản kích vào An Trương hòng tiêu diệt lực lượng ta đang cùng nhân dân mừng xuân. Nhằm phá kế hoạch càn quét của địch, tôi bàn với Đảng uỷ Tiểu đoàn 306 và Tỉnh đội Trà Vinh chỉ nên để lại một trung đội để hỗ trợ địa phương và du kích đánh địch, bảo vệ tính mạng và tài sản của dân. Địa hình ở vùng này trống trải, lực lượng địch đông gấp ba, gấp bốn lần, ta đánh vỗ mặt chúng có thể thắng nhưng không gọn, chỉ tiêu hao thôi. Bởi vậy lực lượng lớn của tiểu đoàn nên chuyển về phía sau đánh thẳng vào căn cứ Bãi Sang, giành thế chủ động đối với địch. Tập thể nhất trí kế hoạch đó. Căn cứ Bãi Sang là một hệ thống đồn bốt và ấp chiến lược bảo vệ khu công giáo nằm sát sông Tiền và bảo vệ thị xã Trà Vinh về phía tây. Từ hồi nào tới giờ chưa có lần nào ta vào được. Cho nên địch dương dương tự đắc tin rằng Bãi Sang là vùng bất khả xâm phạm, là sân sau an toàn nhất của chúng.

        Tôi đề nghị cùng lúc Tiểu đoàn 306 đánh vào căn cứ Bãi Sang thì bộ đội tỉnh và đặc công tiểu đoàn tập kích vào thị xã Trà Vinh.

        Ba ngày sau, đêm 30 tháng 1 năm 1967, tiểu đoàn tiến công diệt hai đồn và năm lô cốt của căn cứ Bãi Sang, diệt hai đại đội bảo an, hàng trăm dân vệ, phá banh hệ thống ấp chiến lược. Cùng lúc hoả lực tiểu đoàn tập kích chi khu Càng Long phá bốn khẩu pháo 105, sở chỉ huy hành quân địch bị thiệt hại nặng, trên 40 tên thiệt mạng. bị thua đau, Trung đoàn 14 phải bỏ cuộc càn hốt hoảng rút về bảo vệ thị xã Trà Vinh và tái chiếm Bãi Sang. Vô cùng phẩn khởi, nhân dân Trà Vinh nhiệt liệt hoan hô, chúc mừng bộ đội đã đánh bại cuộc càn của địch, hỗ trợ đắc lực cho đồng bào đẩy mạnh ba mũi đấu tranh phá ấp chiến lược trở về ruộng vườn cũ, nhân đó Trà Vinh gỡ trên 50 đồn bốt. Thời gian ấy phía Vĩnh Long cũng hoạt động mạnh. Trong vòng một tháng vừa bước chân lên đất Vĩnh – Trà, Tiểu đoàn 306 đã đánh thắng hai trận lớn. Từ khi vượt sông Hậu, Sông Tiền, tiểu đoàn đã hoàn toàn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ nên địch tuy bị giáng trả đau song vẫn chưa biết có chủ lực Khu đã đứng vững chân tại hậu cứ an toàn của chúng. Còn bà con Trà Vinh thì biết rất rõ sức mạnh của Tiểu đoàn 306, song để giữ bí mật đơn vị vẫn giấu phiên hiệu không gọi Tiểu đoàn 306, mà là Tiểu đoàn 501 của tỉnh, nhưng đồng bào thì biết rõ và thân thương gọi tiểu đoàn bằng tên riêng do mình đặt ra. “Bác Sáu”. “Bác Sáu đã về”. Mỗi khi gặp cán bộ tiểu đoàn, bà con tươi cười chào: “Chú Sáu ơi, mừng quá, vui quá hà!”. Còn gặp binh sỹ ngụy đi lẻ thì các cụ, các má lại hù doạ: “Đừng có làm ác nghe. Làm ác, bà con kêu bác Sáu về bỏ mạng đó!”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:02:13 pm

        Đánh thắng địch một số trận mở đầu ở Trà Vinh, xong chúng tôi vẫn xác định mục tiêu chính của Tiểu đoàn 306 mà quân khu giao cho là hoạt động ở Vĩnh Long.

        Vĩnh Long so với Trà Vinh có nhiều khó khăn, địa hình vừa trống vừa mỏng, có quốc lộ 4 và sông Măng Thít nối liền sông Tiền, sông Hậu. Địch bình định đánh phá ác liệt, đóng đồn dày đặc. Ta không có căn cứ, lực lượng vũ trang và cán bộ tỉnh, huyện phải hoạt động bán hợp pháp, ban ngày bám cơ sở sống trong vách đôi hoặc dưới hầm bí mật, ban đêm ngoi lên hoạt động gây dựng cơ sở, gần sáng lại phải xuống hầm bí mật; mọi sinh hoạt đều ở dưới hầm được cơ sở bảo vệ, cứ như thế sống hết ngày nọ đến tháng kia. Có đồng chí hàng năm mới có kịp vô căn cứ báo cáo tình hình cho Tỉnh uỷ năm, mười ngày rồi lại phải trở lại cơ sở, ghẻ lác đầy minh, mặt mày xanh xao, người ốm yếu tong teo trông rất thương hại. Mặc dầu vậy, Đảng bộ Vĩnh Long từ Tỉnh uỷ đến cơ sở luôn lạc quan, tin tưởng dựa vào dân bám trụ địa bàn tồn tại và chiến đấu, một tấc không đi một ly không rời. Được tin Tiểu đoàn 306 sẽ lên Vĩnh Long hoạt động, từ tỉnh đến huyện đều vui mừng, tin tưởng, nhất là đồng chí Nguyễn Ký Ức (Sáu Ức) – Bí thư Tỉnh uỷ và đồng chí Hai Thành Công - Tỉnh đội trưởng, gặp tôi đều nói lên tình cảm và sự tin tưởng của Thường vụ Tỉnh uỷ, Tỉnh đội trước sự quan tâm của Khu uỷ, quân khu cho bộ phận chủ lực Khu qua Vĩnh – Trà lên hỗ trợ Vĩnh Long. Hai đồng chí cho biệt tình hình Vĩnh Long tạm thời có khó khăn nhưng nhân dân rất tốt, một lòng tin cách mạng, hướng về Bác Hồ. Được nhân dân đùm bọc, che chở, lực lượng vũ trang và cán bộ Vĩnh Long vẫn tồn tại trong lòng địch. Toàn Đảng bộ sẽ làm hết sức mình, tạo mọi điều kiện để tiểu đoàn đứng vững và hoạt động tốt. Càng tai nghe mắt thấy tôi càng thấu hiểu những mất mát, hy sinh chịu đựng của Đảng bộ Vĩnh Long. Tôi phổ biến, truyền đạt lại cho đơn vị, hầu hết cán bộ, chiến sỹ tiểu đoàn đồng lòng, nhất trí, quyết tâm khắc phục khó khăn cùng Vĩnh Long diệt địch, bảo vệ đồng bào.

        Địch đã đánh hơi có chủ lực ta sang hoạt động ở Vĩnh – Trà; để ngăn chặn bảo vệ Vĩnh Long, giữa tháng 3 năm 1967, Sư đoàn 9 ngụy đưa quân lên cắm chốt bình định tuyến sông Măng Thít.

        Cuối tháng 3 năm 1967, tôi và đồng chí Ba Quang – Chính trị viên, chuẩn bị đưa tiểu đoàn lên hoạt động ở Vĩnh Long, vừa đến xã Hoà Bình, đông nam Tam Bình tám cây số thì phát hiện địch vào chốt đầu vàm Mương Khai để bình định tuyến sông Măng Thít. Tình huống ngoài dự kiến. Tôi hội ý với đồng chí Ba Quang: “Đây là thời cơ, nếu để êm, địch đóng đồn bình định, chúng sẽ ngăn sông ta khó tiến lên Vĩnh Long. Ta khắc phục khó khăn, tập trung tiểu đoàn tập kích địch, vừa diệt được sinh lực địch vừa đánh bại kế hoạch bình định, ý đồng chí thế nào?”. Đồng chí Ba Quang lạc quan đáp: “Tôi hoàn toàn nhất trí với anh Ba, đây là cơ hội có lẽ trời khiến số phận địch đến nộp mạng cho tiểu đoàn lập công bước lên địa bàn Vĩnh Long, đề nghị anh hạ quyết tâm, tôi ủng hộ và đông viên bộ đội sẽ sẵn sang”. Tôi báo cáo xin ý kiến đồng chí Hoài Pho (Ba Mai) – Tư lệnh tiền phương quân khu được anh chấp thuận. Hôm ấy là 20 tháng 3, tôi vừa ra lệnh, đồng chí Năm Còi và đồng chí Ba Thu - Tiểu đoàn phó điều động tiểu đoàn còn đóng quân ở xã Nhĩ Long, bắc Càng Long nhanh chóng về Hoà Bình. Địch vào chốt Mương Khai là Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 và Giang đoàn tàu gồm 10 chiếc PCF. Chúng đóng quân về phía nam sông Măng Thít hai bên vàm Mương Khai công sự mới đổ đất. Mới cắm quân được một tuần, nhưng địch rất hung hăng, hàng ngày lớp tàu, lớp bộ binh bung ra càn quét đánh phá cơ sở, hãm hiếp phụ nữ, cướp giật tài sản nhân dân. Xuồng ghe của dân đi lại bị chúng chặn xét giật đồ đạc gây khó dễ.

        Nắm được quy luật bố phòng, ngày 23 tháng 3, tiểu đoàn vừa bắc Càng Long về đến Hoà Bình, tôi khẩn trương làm công tác tổ chức, động viên bộ đội. Đây là thời cơ chúng ta quyết đánh thắng, tiêu diệt gọn cả bộ binh và tàu địch như đã giành thắng lợi trận đầu Mai Tức (20 tháng 1) để lập thành tích mở màn đưa tiểu đoàn lên hoạt động ở Vĩnh Long. Tuy chuẩn bị rất khẩn trương, mệt nhọc, nhưng cán bộ, chiến sỹ tin tưởng phấn khởi nhất trí cao, hứa quyết tâm lập công đầu bắn chìm tàu sắt địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:02:47 pm

        Đêm 24 tháng 3, tiểu đoàn với trên 200 chiếc xuồng ngụy trang kín đáo đã áp sát địch; từng chiến sỹ rời khỏi xuồng theo kế hoạch tiềm nhập trận địa, đội hình đã hình thành bao vây sẵn sàng nổ súng. Dưới sông, tàu sắt địch vẫn nổ máy; từ vọng gác địch rọi đền pin quét ngang dọc, dò từng bụi cây, nhưng chúng không ngờ quanh chúng gần 1.000 chiến sỹ ta đang xiết chặt vòng vây. Tôi kiểm tra Đại đội 59 nhiệm vụ thọc sâu chia cắt địch, đồng chí Chín Tròn - Đại đội trưởng báo cáo: “ngon lắm anh Ba ơi, anh em đã áp sát tiến duyên địch, hoả khí đã phát hiện cụm tàu dưới mé sông rất rõ, đề nghị anh cho nổ súng”.

        Đúng 1 giờ 30 sáng, tự tin và bình tĩnh, tôi ra lệnh nổ súng. Nhất loạt mìn định hướng, súng cối ĐKZ và các loại hoả lực cấp tập bắn vào đội hình địch ầm ầm rền vang toàn trận địa. Địch tán loạn không kịp đối phó. Đồng chí Chính Tròn báo cáo ba tàu PCF bốc cháy và chìm. Đại đội 59 đã áp sát mé sông, đội hình địch đã bị chia cắt, đại đội phát triển thuận lợi. Tôi biểu dương Đại đội 59 và ra lệnh tiểu đoàn theo kế hoạch dũng mãnh tiến công nhanh chóng bao vây chia cắt địch. Anh em chiến đấu rất dũng cảm, lớp diệt bộ binh, lớp bắn chìm tàu địch. Sau ba giờ nổ súng ta làm chủ trận địa, diệt trên 250 tên, bắn chìm tám tàu, thu trên 100 súng, cơ bản tiêu diệt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 16 và giang đoàn tàu địch. Gần sáng đơn vị lui về xã Hoà Bình phòng ngự đánh địch phản kích.

        Bị thua đau, địch như con thú dữ bị trọng thương. Tiểu đoàn vừa đến xã Hoà Bình, dựa vào trận địa và công sức cũ, cán bộ, chiến sỹ khẩn trương bổ sung công sự, tăng cường ngụy trang, bộ đội chưa kịp ăn sáng thì 7 giờ sáng ngày 26 tháng 3 đoàn trực thăng vũ trang và L19 hung hăng bay tới bắn phá. Cùng lúc bốn trận địa pháo địch: Cầu Mới, Ba Kè, Tam Bình, Mai Phốp cấp tập bắn vào trận địa ta mãnh liệt, tiếp theo là hàng chục phi vụ phản lực, khu trục luân phiên ném bom phá và bom na-pan nhằm huỷ diệt trận địa ta để yểm trợ cho bộ binh đổ quân bao vây tiêu diệt. Cuộc chiến đấu ngay từ sáng sớm diễn ra vô cùng ác liệt. Sau hai giờ pháo binh, phi cơ điên cuồng oanh tạc, địch cho 30 trực thăng cùng phi cơ yểm trợ liên tục đổ Trung đoàn 15 và Trung đoàn 16 còn lại xuống trận địa hòng bao vây tiêu diệt tiểu đoàn.

        Tôi vừa chỉ huy tiểu đoàn lợi dụng công sự cũ tăng cường củng cố ngụy trang xây dựng trận địa nhiều tầng vững chắc, vừa tổ chức hoả lực bắn trực thăng địch; vừa sẵn sàng đánh bại địch đổ quân, vừa tranh thủ họp Đảng uỷ chớp nhoáng để nhất trí nhận định tình hình, giữ vững quyết tâm và lãnh đạo động viên bộ đội thề quyết tử giữ vững trận địa, đánh bại phản kích địch. Bom đạn ác liệt, nhưng cán bộ, chiến sỹ ta chiến đấu vô cùng dũng cảm. Từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tiểu đoàn đã đánh bại sáu đợt đổ quân, đánh lui tám đợt xung phong của địch, giữ vững trận địa, ba lần xuất kích diệt địch giữa đồng, bắn rơi tại chỗ 12 trực thăng, bắn bị thương một số chiếc khác, diệt trên 600 tên địch, đánh thiệt hại ba tiểu đoàn. Đây là trận đánh vô cùng ác liệt từ khi bước sang Vĩnh – Trà. Ta đã giành được thắng lợi to lớn, địch bị bất ngờ thiệt hại nặng nề. Từ phản kích chúng phải chuyển sang thu dọn hậu quả, huy động hàng chục trực thăng cần cẩu đến trận địa tải xác chết, trục tàu chìm và móc trực thăng về Vĩnh Long, kết thúc cuộc càn, huỷ bỏ kế hoạch bình định sông Măng Thít. Nhân dân vô cùng phẩn khởi, công khai đưa tin quốc gia thua, Việt cộng thắng, hàng trăm gia đình binh sỹ địch để tang kêu khóc đòi đền mạng chồng, con, em bị chết, lớp kêu chồng con em đi lính trở về. Thị xã Vĩnh Long và vùng địch tạm chiếm lâu nay bị kìm kẹp sôi động hẳn lên. Hàng nghìn người xuống đường đấu tranh chống khủng bố, chống bom đạn làm cho Mỹ - ngụy vô cùng hoang mang.

        Được sự giúp đỡ của nhân dân và Đảng bộ địa phương, Tiểu đoàn 306 chôn cất các đồng chí hy sinh và chăm sóc anh em thương binh, tập trung bổ sung quân số, củng cố đơn vị và bàn nhiệm vụ, kế hoạch, phương thức hoạt động mới để chuyển tiểu đoàn lên hoạt động ở Vĩnh Long, phát huy thắng lợi, hỗ trợ địa phương diệt địch, trừ gian, phá ấp chiến lược, chuyển vùng, hoàn thành nhiệm vụ quân khu giao.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:03:15 pm

        Ban chỉ huy Tiểu đoàn 306 chúng tôi nhất trí đánh giá sau ba tháng bước chân lên địa bàn Vĩnh – Trà, đơn vị đã giành thắng lợi bước đầu, được nhân dân và Đảng bộ địa phương tin tưởng, hết lòng quý mến, giúp đỡ. Tuy đứng chân ở Trà Vinh, so với Vĩnh Long có nhiều thuận lợi hơn; từ kinh nghiệm hoạt động ban đầu ở Trà Vinh thì tiểu đoàn có thể đứng chân trên đất Vĩnh Long được. Song vì Vĩnh Long không có căn cứ nên không cho phép tiểu đoàn tập trung mà phải hoạt động bí mật, phân tán dựa vào dân, gắn với địa phương, trước mắt lấy đánh nhỏ diệt ác, phá kìm gây dựng cơ sở mở lõm chuyển vùng là chủ yếu, phải tạo cơ sở khi có điều kiện mới nâng dần đánh tập trung thích hợp. Được Đảng uỷ tiểu đoàn nhất trí, tôi tập trung cán bộ và chiến sỹ toàn tiểu đoàn phổ biến tình hình nhiệm vụ và phương châm, phương thức hoạt động cho anh em thảo luận góp ý kiến. Cuối cùng anh em nhất trí và hạ quyết tâm: trước đây tiểu đoàn ở Cà Mau, Cần Thơ nghe nói Vĩnh – Trà khó, ai cũng lo lắng, nhưng nay qua Trà Vinh mấy tháng cũng quen, lên Vĩnh Long cũng thế, miễn là cán bộ, chiến sỹ quyết tâm đoàn kết thì khó mấy cũng vượt qua.

        Cuối tháng 4 năm 1967, tiểu đoàn phân tán từng đại đội trên ba hướng: Đại đội 58 do đồng chí Danh - Đại đội trưởng lên hoạt động ở các huyện Bình Minh, Châu Thành bắc lộ 4; Đại đội 59 do đồng chí Chín Tròn - Đại đội trưởng hoạt động hướng Cái Nhum, đông thị xã Vĩnh Long đến sông Tiền; tiểu đoàn còn lại tập trung hoạt động ở Tam Bình, sông Măng Thít đến lộ 4.

        Được nhân dân đùm bọc nuôi dưỡng, được địa phương giúp đỡ hiệp đồng gắn bó trên từng hướng, lúc đầu bộ đội hoạt động có khó khăn, dần dần với tinh thần trách nhiệm và thực tế chiến trường, tiểu đoàn đã hoạt động tốt, nhất là hướng Cái Nhum. Ở hướng này, Đại đội 59 và địa phương qua 14 tháng hoạt động đã diệt ác phá kìm diệt trên 500 tên địch, diệt bức hàng 45 đồn, phá hàng chục ấp chiến lược, mở lõm chuyển vùng được năm xã. Từ đại độ phân tán, tổ, tiểu đội ém quân hầm bí mật, dân nuôi đánh địch, tiến lên ở Cái Nhum có căn cứ lõm sát thị xã Vĩnh Long, bảo đảm đại đội có chỗ trú quân hoạt động tập trung diệt gọn từng trung đội, đại đội địch và địa phương tiến lên làm chủ địa bàn.

        Hướng Bình Minh, bắc lộ 4, Đại đội 58 và lực lượng tỉnh hiệp đồng tốt gỡ 30 đồn, diệt 7 đại đội, diệt và làm tan rã gần 1.000 tên địch, gây dựng cơ sở tốt, phá 20 ấp chiến lược, chuyển được vùng chữ V làm bàn đạp tiến lên tiến công sân bay Vĩnh Long, Bình Minh, Lấp Vò và Sa Đéc.

        Hướng Tam Bình, Tiểu đoàn 306 (thiếu) tập trung, phân tán đều, linh hoạt đã đánh trên 50 trận, diệt 1 tiểu đoàn, 15 đại đội, diệt 1.500 tên, gỡ 50 đồn, phá ấp chiến lược sát thị xã Vĩnh Long mở thông hành lang nam - bắc sông Măng Thít đến lộ 4, bảo vệ hỗ trợ tỉnh mở vùng xây dựng tuyến sông Cái Ngang – Ngã Tư thành căn cứ vững chắc của tỉnh.

        Sau bốn tháng hoạt động, Đại đội 8 và Đại đội 9 được tặng thưởng hai Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, Tiểu đoàn 306 được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng hai. Năm 1967, sau gần một năm hoạt động ở Vĩnh – Trà, tiểu đoàn gắn bó với địa phương đã diệt gần 10.000 tên địch, tiêu diệt, đánh thiệt hại bảy tiểu đoàn, một giang đoàn, 20 đại đội, gỡ trên 100 đồn bốt, bắn rơi 25 trực thăng, bắn chìm 15 tàu, phá 15 pháo 105, thu hàng nghìn súng, hiệp đồng hỗ trợ hai tỉnh đẩy mạnh ba mũi tiến công, chuyển thế mở vùng, từ bị kìm sang làm chủ ra sát vùng ven thị xã, đánh bại kế hoạch bình định sông Măng Thít của địch, xây dựng làm chủ bước đầu địa bàn then chốt vùng trung tâm Vĩnh – Trà gồm sáu huyện nam - bắc sông Măng Thít, nối thông hành lang hai tỉnh. Thời kỳ khó khăn, gian khổ nhất của Vĩnh Long và Trà Vinh đã qua. Quân ngụy không còn làm mưa, làm gió trên dãy đất đầy đau thương này. Vĩnh – Trà đối với chúng đã trở thành “bất trị”, “đi dễ khó về”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:06:45 pm

THỊ XÃ VĨNH LONG XUÂN MẬU THÂN 1968

        Đến cuối năm 1967, tình hình Vĩnh – Trà khác trước nhiều. vùng nông thôn, nhiều nơi được giải phóng. Địch thủ thế co vào các thị xã, thị trấn và các trục giao thông quan trọng. Từ im lặng đã nhiều năm, sân sau an toàn của Mỹ - ngụy đột nhiên trở thành chiến trường sôi động hẳn lên. Song lực lượng của địch còn khá đông. Trên thế đó, các tiểu đoàn chủ lực Khu 9 được lệnh tích cực hoạt động hơn nhằm tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh hiện đại nhiều hơn nữa, chuẩn bị đón thời cơ mới xuất hiện. Hưởng ứng phong trào thi đua giết giặc lập công do quân khu phát động, Tiểu đoàn 306 và các lực lượng tỉnh Vĩnh – Trà càng tích cực tiến công địch, diệt đồn, đánh viện.

        Đêm 16 tháng 1 năm 1968, một bộ phận tiêu đoàn kết hợp vùng địa phương bao vây, tiến công căn cứ Nhà Đài thuộc chi khu Vũng Liêm (Trà Vinh), kéo địch ở Vĩnh Long ra chi viện. Chắc mẩm phen này sẽ hốt gọn lực lượng chủ lực của ta, địch vội vã điều động Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 16, Sư đoàn 9 ngụy ứng cứu cho Nhà Đài. Giải toả xong, ngày 18 tháng 1 năm 1968, đoàn xe 30 chiếc lủi thủi chở hàng chục xác chết và những tên bị thương do du kích Vũng Liêm trừng trị trở về Vĩnh Long. Địch đi đúng kế hoạch ta. Cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 306 có kinh nghiệm đánh vận động phục kích bình tĩnh ẩn mình trong các ấp chiến lược, được bà con hết lòng che chở, bảo vệ nên hoàn toàn giữ được bí mật. Địch thấy mọi hoạt động của người dân từ chợ búa, làm đồng, đi lại đều bình thường như các ngày khác nên không đề phòng. Đoàn xe 30 chiếc lọt vào trận địa ta. Lúc này là 5 giờ chiều, các mũi của tiểu đoàn bí mật vận động khép địch vào giữa đội hình, tôi ra lệnh nổ súng. Mìn, ĐKZ, đại liên, B40, súng cối của ta nổ rền vang, chia cắt đoàn xe địch. Đồng thời đồng bào trong vùng cũng đồng loạt nổi trống, mõ, thùng thiếc. Tiếng súng, tiếng trống mõ, xoong nồi, tiếng reo hò cổ vũ náo động cả khu vực rộng lớn chưa lần nào chúng nghe thấy làm binh lính địch kinh hoàng, khiếp đảm.

        Sau hai giờ chiến đấu, ta diệt gọn đoàn xe địch, diệt và bắt 300 tên, trong đó có ban chỉ huy Trung đoàn 16, thu trên 100 súng, đốt cháy 30 xe quân sự. Bà con trong ấp chiến lược Long Hồ và Vĩnh Long ca ngợi Quân giải phóng tài giỏi, giữa ban ngày, ngay trong vùng địch sát thị xã thế mà đoàn xe dài hàng mấy chục chiếc chở đầy quân chủ lực, có cả cố vấn Mỹ ngồi bên còn bị diệt gọn, địch không làm gì được. Càng tin tưởng lực lượng cách mạng, đồng bào càng ra sức kêu chồng, con em đi lính cho quốc gia bỏ về với gia đình làm cho địch càng hoang mang.

        Phát huy thắng lợi, tôi liền cho Tiểu đoàn 306 chuyển qua lộ 4, tiếp tục phục kích đoạn từ thành phố Cần Thơ đi Vĩnh Long, nơi mà trinh sát của ta nắm được là hàng ngày thường có một đoàn xe quân sự chở hàng (quân tiếp vụ) chạy qua. Đến tận nơi kiểm tra, tôi thấy trên đoạn đường này từ Ba Càng đi Lạc Hoà dài gần cây số rất trống trải, vườn cây và nhà dân không có, chỉ là một cánh đồng rộng, lúa tốt đang trổ, ruộng nào ruộng nấy còn ngập nước. Muốn giấu quân chỉ còn có cách ngụy trang bằng thân cây lúa và ngồi trên mặt nước mà thôi. Tiểu đoàn đã từng chiến đấu giữa mùa nước nổi của đồng bằng sông Cửu Long nên khó khăn đã có cách khắc phục. Sau khi nhận lệnh chuẩn bị, mỗi cán bộ, chiến sỹ đều sắm cho mình ba chiếc cọc, mỗi chiếc to gần bằng cổ tay và một đoạn dây. Hành quân đến địa điểm, anh em lấy dây cột chặt ba chiếc cọc đó làm thành chiếc nạng, ba chân chìa ra ba phía cắm xuống ruộng rồi ngồi trên mặt nước. Cũng khá chắc. Ai có võng thì lấy kê cho khỏi đau không có thì chịu đau, miễn đánh được địch. Bộ đội ngụy trang kín người bằng cây lúa rồi ngồi trên nạng, thòng hai chân xuống nước. Song cánh đồng này đỉa nhiều vô kể. Biết trước, mỗi người đem theo một gói thuốc lào, ít vôi bột và xà phòng rải xuống nước quanh chỗ mình ngồi. Những thứ đó hoà với nước lúc đầu làm đỉa dạt đi. Nhưng vài giờ sau, vôi, thuốc hết mùi thì từng đàn đỉa to, nhỏ đủ loại nhung nhúc bâu đen bám đầy chân. Thời tiết mùa đông sáng sớm trời rét, chân ngâm nước lâu cóng buốt, ai nấy miệng run lập cập. đến trưa trời lại nắng nóng, đỉa cắn bắt không xuể, máu chảy hoà với nước. Thế nhưng bộ đội vẫn cắn răng chịu đựng, nhắc nhủ nhau kiên trì chờ địch. Mãi đến 15 giờ, đoàn xe mới từ Cần Thơ chạy về Vĩnh Long. Mũi chặn đầu và mũi khoá đuôi bí mật vận động ra sát lộ 4 chặn địch. Bị đánh bất ngờ, đoàn xe bị động ngay từ lúc đầu. Tiểu đoàn nhanh chóng làm chủ trận địa, diệt 250 tên địch, đốt cháy 25 xe quân sự chở đầy quân dụng và thuốc lá. Ta thu trên 100 súng và hàng quân nhu đem về tiếp tế cho bộ đôi và du kích vừa đúng dịp Tết. Đánh thắng, chúng tôi rút về trú quân ở Cái Ngang – Long Công cách trận địa phục kích khoảng tám cây số theo đường chim bay. Chỉ trong vòng một tuần lễ hai tiểu đoàn chủ lực địch liên tiếp bị tiêu diệt, Trung đoàn 16 mất sức chiến đấu. Chỉ huy Sư đoàn 9 nổi khùng, tung ngay Trung đoàn 15 và Thiết đoàn 2 thiết giáp được phi pháo yểm trợ phản kích vào Cái Ngang.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:07:22 pm

        Về ta, hưởng ứng lời kêu gọi của mặt trận, tiểu đoàn cho bộ đôi nghỉ ăn Tết Âm lịch, nhưng địch ngoan cố, ta phải chuyển sang đánh địch phản kích quyết liệt từ 26 đến 28 tháng 1. Kết quả Tiểu đoàn 306 diệt trên 100 tên, bắn cháy năm xe M113 và bắn rơi ba trực thăng.

        Từ trên máy bay chiến đấu, chiều ngày 28 tháng 1 năm 1968, địch phát hiện dưới cây dừa có công sự đắp nổi của ta. Lập tức bốn trực thăng vũ trang bâu lại thay phiên nhau bắn phá vô cùng dữ dội. Miệng hầm của tôi đã bị sập. Hầm vừa đào xong chỉ đủ chứa một đến hai người là cùng, mà chúng tôi có những ba: hải - bảo vệ, đồng chí Thu - Tiểu đoàn phó và tôi nên rất chật, không thể tránh địch được nữa. Đồng chí Hải chỉ kịp nói: “Chú Ba, địch đã phát hiện hầm ta. Cháu ra ngoài hút máy bay”.

        Chúng tôi chưa kịp ngăn lại thì Hải đã nhảy phốc ra khỏi hầm, thoắt ẩn thoắt hiện sau gốc dừa dùng súng AK bắn mãnh liệt vào bầy trực thăng bay rất thấp. Phía trước, tổ bộ binh trong liếp dừa trông thấy cũng bắn chi viện. Một chiếc “bù nóc” trúng đạn loạng choạng bay tiếp được một quãng rồi rơi sầm xuống đất bốc cháy. Ba chiếc trực thăng còn lại đổ xô đến phóng rốc-két liên tiếp xuống chỗ Hải nấp. Đồng chí Thu và tôi cùng nhảy lên khỏi hầm. Đồng chí Thu cầm súng bắn đuổi trực thăng, còn tôi chạy đến gốc dừa nơi mà Hải vừa trúng đạn ngã xuống, tay vẫn cầm chắc khẩu AK bắn đã hết đạn. Hải nhìn tôi đôi mắt dại đi, môi mấp máy như muốn trăng trối điều gì song không nói được thành lời. Vết thương quá nặng, tôi vội cõng Hải vào liếp dừa cạnh mé sông. Lát sau Nguyễn Văn Hải hy sinh đúng vào lúc mới 18 tuổi, tuổi đẹp nhất của cuộc đời.

        Tôi đau đớn đặt Hải lên trên chiếc ván mỏng, tháo chiếc võng của tôi mang theo tiếc thương vô hạn. Kẻ thù tàn bạo đã giết chết một trong những đồng chí thân thiết trong đời tôi. Những kỷ niệm gần năm năm hai chú cháu cùng sống và cùng chiến đấu, đạn bom vui khổ bên nhau, dồn dập hiện lên trong trí tôi.

        Nguyễn Văn Hải quê ở Quảng Ngãi, hoàn cảnh gia đình rất giống tôi, mồ côi cha từ hồi còn nhỏ, nhà lai nghèo, hai mẹ con bỏ quê lần vào tận đất mũi Cà Mau kiếm sống. Lúc mới về nhận nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng, thấy Hải lanh lẹ, tôi lấy em lên làm liên lạc của tiểu đoàn bộ. Trải qua một số trận chiến đấu, Hải luôn biểu hiện dũng cảm, tháo vát và trung thực. Ban chỉ huy tiểu đoàn U Minh chọn Hải làm chiến sỹ bảo vệ cho tôi. Từ đấy hai chú cháu chúng tôi coi nhau như ruột thịt, cùng chịu đựng biết bao gian khó, ngọt bùi, no đói có nhau. Trận đánh nào Hải cũng luôn ở bên cạnh tôi. Hễ nghe tiểu đoàn trưởng hạ lệnh xuất kích lập tức Nguyễn Văn Hải thay mặt chỉ huy, cầm lá cờ xéo màu đỏ tươi vừa phất vừa tiến lên phía trước. Chỉ huy các mũi thấy màu cờ quen thuộc biết là lệnh của tôi liền cho bộ đội xung phong giết giặc. Vừa chiến đấu, Nguyễn Văn Hải vừa đào công sự cho tôi tránh bom, đạn, có trận phải đào ba, bốn hầm cả cho tôi và cho đồng chí như trận ở xã Hoà Bình (Trà Vinh) bốn lần công sự của tôi bị sập, Hải đào lại cho tôi bốn công sự khác và còn đào cho mình mấy chiếc hầm cá nhân nữa.

        Điển hình là trận Ba Quân – Ngã Cạy. Cuộc chiến đấu ác liệt quá, nhiều công sự bị bom đạn phá sập, địch đã chiếm được một khúc của sở chỉ huy tiểu đoàn. Tình hình đơn vị như ngàn cân treo sợi tóc. Thấy tôi vừa ra lệnh: “Tất cả tiến lên đánh bật địch” thì Nguyễn Văn Hải đã cầm cờ đỏ chỉ huy lao vút ra đầu tiên bất chấp đạn địch đang xối xả. Hình ảnh Nguyễn Văn Hải hiên ngang, kiên cường, quên mọi hiểm nguy cứu đơn vị đã thôi thúc, cổ vũ mọi người học tập. Sau những lần đáng ghi nhớ đó, anh em đơn vị thân mến gọi Hải là “Dũng sỹ cầm cờ”. Riêng tôi tỏ lời khen ngợi thì Hải khiêm tốn trả lời: “Trong chiến đấu chú đi tới đâu, chỗ nào khó khăn con theo chú, bảo vệ chú tới đó”.

        Tôi đang đau đớn, tiếc thương, thay quần áo và tắm rửa cho Hải, thì được lệnh tiền phương quân khu mời lên họp khẩn cấp, nhận nhiệm vụ đặc biệt. Tôi giao tiểu đoàn lại cho hai đồng chí Năm Còi và Ba Thu – hai tiểu đoàn phó chấn chỉnh đơn vị sẵn sàng đánh trả địch và mai táng Nguyễn Văn Hải nếu tôi không về kịp.

        Ba giờ sáng ngày 29 tháng 1 năm 1968, cùng tổ trinh sát, tôi bơi xuồng đến ngã tư Bình Minh, căn cứ của Ban chỉ đạo Khu uỷ và tiền phương Quân khu 9. Đêm đã khuya, anh Hoài Pho – Tư lệnh tiền phương Quân khu thân mật tiếp tôi, nghe qua tình hình Tiểu đoàn 306 đánh địch nhưng ngày qua, rồi anh thân mật: “Cậu hãy tranh thủ nghỉ vài giờ cho lại sức để sáng tiếp tục làm việc sớm”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:07:45 pm

        Sáng 29 tháng 1, toàn thể phân ban chỉ đạo Khu uỷ và tiền phương quân khu họp, có cả đồng chí Thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Long và tôi cùng dự. Các anh phổ biến mệnh lệnh tối mật của Bộ chỉ huy Miền: “ Mệnh lệnh của Đảng thời cơ lịch sử Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam, giành thắng lợi quyết định; lực lượng Khu và Vĩnh Long đánh chiếm thị xã Vĩnh Long. Tiểu đoàn 306 đảm nhiệm tiến công hướng chủ yếu từ phía nam, đêm 30 Tết bí mật thọc vào đánh chiếm thị xã, lực lượng tỉnh đánh chiếm sân bay Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận. Tiểu đoàn 308 (mới thành lập) bao vây phía bắc, vượt sông, hợp đồng với Tiểu đoàn 306 đánh chiếm dinh tỉnh trưởng làm chủ thị xã. Hướng Trà Vinh do lực lượng tỉnh Trà Vinh đảm nhiệm là chính, đánh chiếm thị xã Trà Vinh. Mọi công tác chuẩn bị phải hết sức bí mật, khẩn trương, đêm 31 tháng 1 năm 1968 tức 30 Tết Mậu Thân nổ súng hiệp đồng toàn Miền. Sài Gòn, các thành phố và thị xã khắp miền Nam cùng tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”.

        Được phổ biến và giao nhiệm vụ, không khí cuộc họp bỗng phấn khởi, tưng bừng hẳn lên. Các đồng chí xung quanh và bản thân tôi vui mừng, tin tưởng, rạo rực lạ thường. Chao, lịch sử nghìn năm có một, phải nắm bắt ngay lấy. Tin ở Đảng, ai nấy đều nhấp nhổm, muốn hành động ngay.

        Lúc này Tiểu đoàn 306 đảm trách hướng chủ yếu đánh chiếm thị xã Vĩnh Long, tuy chưa nắm được đầy đủ tình hình địch trong thị xã, song khi được Khu uỷ, tiền phương quân khu phổ biến, giao nhiệm vụ thì tôi tuyệt đối tin tưởng, sẵn sàng thực hiện. Bởi tiếng nói của cấp trên đại diện cho Đảng nhìn xa trông rộng. Đảng đã bảo đánh là đánh, mà đã đánh là thắng, chắc như dao chém đá, dứt khoát thế. Với niềm tin ấy, đại diện cho đơn vị tôi xin hứa trước Khu uỷ và quân khu: Quyết tâm lãnh đạo Tiểu đoàn 306 cùng các đơn vị bạn đánh chiếm thị xã Vĩnh Long, hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao”.

        Hội nghị quyết định thành lập Ban chỉ huy trọng điểm Vĩnh Long. Đồng chí Hoài Pho – Khu uỷ viên, Phó Tư lệnh quân khu làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Bảy Máy - Thường vụ Khu uỷ làm Chính uỷ. Tôi (Ba Trung) làm Chỉ huy Phó – Tham mưu trưởng kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306, đồng chí Tám Xuân – Phó Chính uỷ, đồng chí Nguyễn Ký Ức – Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Long, đồng chí Năm Trung – Bí thư Tỉnh uỷ Trà Vinh là Uỷ viên. Do tình hình khẩn trương, các đơn vị không kịp cử người về dự được, nên sau cuộc họp, Ban chỉ huy phân công đồng chí Bảy Máy – Chính uỷ trọng điểm trực tiếp xuống Trà Vinh truyền đạt, giao nhiệm vụ cho tỉnh Trà Vinh, đồng chí Sáu Ức – Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Long về phổ biến cho lực lượng tỉnh mình, đồng chí Tám Xuân qua phổ biến và giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 308 phụ trách hướng Cái Nhum về phía bắc.

        Sau cuộc họp tôi vội vã về đơn vị triệu tập Đảng uỷ và ban chỉ huy tiểu đoàn phổ biến, quán triệt nhiệm vụ, hạ quyết tâm và tổ chức ngay trong đêm, tập trung lãnh đạo cán bộ từ trung đội trở lên nhận rõ thời cơ xây dựng niềm tin tất thắng. Trước tập thể, tôi khẳng định: “Đây là thời cơ lịch sử, chúng ta thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

        Suốt ngày 30 và đêm 31 tháng 1, cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 306 hối hả, phấn khởi, tin tưởng chuẩn bị, không ai chợp mắt được. Súng đạn lau chùi sạch bóng, ngụy trang tươi xanh chỉ chờ giờ xuất quân hoàn thành nhiệm vụ trọng đại. Thương nhớ Nguyễn Văn Hải vô ngần, trước giờ lên đường tôi tranh thủ ra nghĩa trang thăm mộ Hải. Trong khi tôi đi vắng các anh trong ban chỉ huy tiểu đoàn cùng đơn vị đã tổ chức mai táng chu đáo liệt sỹ Nguyễn Văn Hải. Cầm nén nhang cắm lên mộ, tôi gạt nước mắt chào vĩnh biệt Hải và thầm hứa sẽ cùng đơn vị trả thù cho Hải để thực hiện lời mà cháu thường tâm sự với tôi: “Chú đi tới đâu cháu theo chú tới đó”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:08:25 pm

        Chiều 31 tháng 1 năm 1968, tức 30 Tết âm lịch, trên 400 ghe xuồng ngụy trang kín đáo theo kênh rạch tiến vào thị xã Vĩnh Long. Trên trời , hai máy bay trinh sát đầm già (L19) quần đảo liên tục song không phát hiện được quân ta. Đêm 30 Tết trời tối như mực. Đó đây tiếng pháo giao thừa nổ râm ran. Tiểu đoàn 306 được tăng cường hai đại đội địa phương Trà Ôn và Tam Bình trên 1.000 quân đã bí mật đột nhập vào phía nam thị xã Vĩnh Long, địch vẫn không biết. Dùng bộ đàm, tôi liên lạc được với tiểu đoàn tỉnh ở phía tây đã lọt được vào sân bay Vĩnh Long, phía bắc Tiểu đoàn 308 cũng đã tiến quân đến mé sông, áp sát thị xã. Thế là từ cả ba hướng, quân ta đã hình thành thế bao vây thị xã Vĩnh Long. Nằm trên trục đường 4, nối sông Tiền và sông Hậu đi Sài Gòn và thành phố Cần Thơ, thị xã Vĩnh Long là một trong hai trọng điểm tổng tiến công của Quân khu 9 (thành phố Cần Thơ là trọng điểm thứ nhất). Để bảo vệ thị xã trung tâm đồng bằng sông Cửu Long này, địch bố trí ở đây một lực lượng chủ lực đông tới 10.000 tên, 100 cố vấn Mỹ, không kể 5.000 cảnh sát, phòng vệ dân sự và tề ngụy. Về phía ta, lực lượng chủ lực Khu lúc tiến công vào Vĩnh Long chỉ có hai tiểu đoàn chủ lực và hai tiểu đoàn địa phương mới xây dựng, quân số tất cả vào khoảng trên dưới 2.000. So sánh đơn thuần theo tỷ lệ số quân thì địch 5, ta 1, tương quan lực lượng quá chênh lệch. Hơn nữa nông thôn chưa từng tiếp xúc với đường phố. Tất cả những khó khăn, phức tạp đó chúng tôi đâu có tính đến. Mỗi cán bộ, chiến sỹ chỉ tâm niệm: Đảng đã bảo đánh là đánh tới cùng. Riêng tôi lại nghĩ: Lòng tin quyết định thắng lợi. Trong các trận chiến đấu đã qua, khó khăn, ác liệt đều xuất hiện bất thần. Song có lòng tin sắt đá, bộ đội đều biết cách khắc phục để giành thắng lợi. Sẵn có niềm tin thì lực yếu chuyển thành mạnh, mạnh gấp chục lần làm tương quan lực lượng thay đổi hẳn có lợi cho ta. Thêm vào đó ta lại triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ, nhiều thành phố, thị xã trong toàn miền Nam cùng đồng loạt tấn công, chủ động tiến công, trói chặt chân tay kẻ địch lại. Suy ngẫm về những điều đó chúng tôi đi vào nội ô thị xã Vĩnh Long lòng vui  phơi phới. Nhiều gia đình sáng đèn thức đón xuân mới Mậu Thân. đến Phước Hậu vùng ven thị xã chúng tôi gặp anh Ba Thu, Tiểu đoàn phó đi trước chuẩn bị chiến trường ra đón. Có cả một số cơ sở cùng ra như chị Hai Thanh – Phó Bí thư thành uỷ Vĩnh Long mới sanh được bảy ngày đã gởi con để đi dẫn đường cho bộ đội. Chị Sáu Xây, anh Hai Thân và cô Mười Xương - Thường vụ Thành uỷ, mấy năm nay sống hợp pháp trong lòng địch, anh Bảy Nguyễn, Thành đội trưởng cũng cùng có mặt và nhiều cơ sở cách mạng khác. Trong đêm tối chúng tôi hể hả, vui mừng nắm chặt tay nhau thì thào chào hỏi: “Đồng chí!”. Như vậy cơ sở chính trị của cách mạng trong lòng thị xã Vĩnh Long xây dựng bấy lâu nay khá tốt. Các anh, các chị đều cho biết trong số hàng nghìn học sinh có mấy chục cơ sở trung kiên, sẵn sàng đi đầu trong cuộc nổi dậy tới. Khoảng ba bốn tháng trước, ta đã đưa được mấy chục đảng viên vào sống hợp pháp trong thị xã, làm đủ nghề để che mắt địch như buôn bán, chạy xe lôi, hớt tóc, thợ nề, thợ mộc, sửa chữa đồng hồ, sửa xe gắn máy... Để nắm tình hình bố trí của địch cụ thể hơn, cấp trên đã cử anh Quốc Trung, Phó phòng quân báo quân khu vào thị xã Vĩnh Long vẽ bản đồ. Anh Quốc Trung quê miền Bắc, to khoẻ vào Nam Bộ lâu nên giọng gần giống Nam Bộ. Nhờ cơ sở trong thị xã nuôi giấu, anh Quốc Trung vẽ được bản đồ quân sự thị xã khá tỉ mỉ và chính xác gởi ra ngoài. Bởi thế, về mặt quân sự, tuy mắt chưa trông thấy, tay chưa sờ được vị trí địch – yêu cầu cần thiết đối với người chỉ huy trước trận đánh, bản thân tôi chưa làm được, song anh Quốc Trung đã làm thay. Nhờ bản đồ này, chúng tôi nắm được địch, dẫn tiểu đoàn lọt qua hệ thống đồn bốt dày đặc và qua hàng rào ấp chiến lược chi chít bao quanh vùng ven mà đi thẳng vào trung tâm thị xã khá thuận lợi.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:10:40 pm

        Đúng 1 giờ sáng mồng 1 Tết Mậu Thân, từ hướng nam Tiểu đoàn 306 tiến vào nội ô thị xã, qua khỏi miếu Bảy Bà chợt gặp một đại đội bộ binh địch tuần tiễu có cả xe M113 đi kèm. Ta nổ súng, bị đánh bất ngờ, địch tháo chạy tán loạn. Ta đánh chiếm căn cứ bảo an, ty cảnh sát, khu Hoa Lư, Trung tâm thông tin ngụy. Cùng lúc Tiểu đoàn 1 của tỉnh đột nhập vào sân bay Vĩnh Long, dùng bộc phá phá huỷ trên 60 trực thăng, chiếm đại bộ phận sân bay. Tiểu đoàn 308 vượt sông gặp khó khăn, chỉ bộ phận đi đầu gồm 50 đồng chí đột nhập vào thị xã, bị địch bao vây, cô lập nên thương vong  lớn. Đến 5 giờ sáng mùng 1 Tết Tiểu đoàn 306 đã chiếm được một phần ba thị xã Vĩnh Long và địch cũng củng cố được đội hình, tổ chức đánh lại. Trung đoàn 16 bộ binh và Trung đoàn 2 thiết giáp địch phản kích từ phía tây, Tiểu đoàn 43 biệt động quân từ phía đông phản kích vào sở chỉ huy Tiểu đoàn 306 và tiền phương quân khu. Cùng lúc pháo ở quận Mới, căn cứ Long Hồ bắn cấp tập vào đội hình ta. Trên trời, từng tốp trực thăng vũ trang bắn phá mãnh liệt. Thấy tình hình xoay chuyển theo chiều hướng khác hẳn với dự kiến ban đầu tôi mở đài bán dẫn theo dõi tin tức các địa phương khác. Đài Hà Nội và đài Giải phóng đều đưa tin ta tiến công thành phố Huế, mấy tỉnh Tây Nguyên, các nơi khác chưa nghe nói đến. Như vậy ta vẫn chưa làm chủ được Sài Gòn, thị xã Mỹ Tho, kể cả thành phố Cần Thơ kế cận.

        Tình hình phức tạp rồi! Anh Hoài Pho - Chỉ huy trưởng trọng điểm trực tiếp đến Sở chỉ huy Tiểu đoàn 306 hỏi ý kiến, tôi thiết tha đề nghị anh lui ra Phước Hậu, xã vùng ven cách trung tâm thị xã Vĩnh Long khoảng năm cây số, nơi đặt Sở chỉ huy tiền phương quân khu, nắm tình hình chỉ đạo chung và huy động lực lượng phía sau chi viện cho các tiểu đoàn. Việc đánh chiếm thị xã ở trong này tôi chịu trách nhiệm chung, hiệp đồng với lực lượng tỉnh và Tiểu đoàn 308 đánh tiếp. Gặp khó khăn tôi sẽ xin ý kiến quân khu. Anh Hoài Pho đồng ý, uỷ quyền cho tôi chỉ huy chung các lực lượng đánh vào thị xã. Sở chỉ huy tiền phương quân khu dời ra Phước Hậu.

        Bảy giờ sáng mùng 1 Tết, địch tăng cường phản kích. Để có thêm sức mạnh và niềm tin thuyết phục, là Bí thư Đảng uỷ Tiểu đoàn, tôi triệu tập họp Đảng uỷ chớp nhoáng, nhận định tình hình: - Địch đang tổ chức phản kích, khó khăn xuất hiện nhưng tiểu đoàn đã đánh chiếm được một phần ba thị xã, các đơn vị bạn như tiểu đoàn tỉnh và Tiểu đoàn 308 tuy cũng gặp khó khăn nhưng vẫn hiệp đồng chặt với ta. Quyết tâm của Tiểu đoàn 306 là vẫn kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ.

        Tiếp đó tôi đề xuất phương án đánh địch và nêu khẩu hiệu: “Thời cơ lịch sử! Đảng uỷ tiểu đoàn kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sỹ, thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Chưa đánh chiếm được thị xã Vĩnh Long, Tiểu đoàn 306 quyết không về!”. Được tập thể nhất trí, tôi phân công các đồng chí Đảng uỷ viên xuống từng đại đội phổ biến, động viên bộ đội tăng cường công sự, lợi dụng địa hình, phòng ngự vững chắc, đánh bại địch phản kích. Đồng thời, tôi tổ chức tiểu đoàn bộ và hoả lực của tiểu đoàn đánh bại mũi phản kích từ phía sau rất hiểm của Tiểu đoàn 43 biệt động quân. Anh em chiến đấu dũng cảm diệt trên 100 tên, truy kích bọn bỏ chạy, giữ vững trận địa, bảo vệ được sở chỉ huy. Tiếp đó, tôi tổ chức tiểu đoàn tập trung đánh bại mũi phản kích của Trung đoàn 16 ngụy, diệt 300 tên, phá huỷ 12 xe M113. Đêm và ngày mùng 1 Tết, Tiểu đoàn 306 tiếp tục đánh bại hàng chục đợt phản kích của địch, diệt hàng trăm tên, bắn cháy 32 xe M113, bắn rơi 10 trực thăng, Tiểu đoàn 306 làm chủ hai phần ba thị xã. Hầu hết ty, sở, toà hành chính tỉnh và ngã ba Cần Thơ (ngã ba lớn nhất) đã lọt vào tay Quân giải phóng. Tên tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Điệp chạy xuống tàu, lủi ra sông cầu cứu viện binh. Vừa đánh địch, bộ đội vừa cứu chữa hàng trăm bà con bị bom đạn sát hại, phát động quần chúng nổi dậy sát cánh cùng bộ đội đào đắp công sự, tải thương, nấu nước tiếp tế.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:12:29 pm

        Sang ngày thứ tư, tức mùng 4 Tết, địch đưa nhiều xe thiết giáp M113, M118 và trực thăng phun lửa vừa phản kích vừa đốt phá và huỷ diệt các khu phố đã  bị ta chiếm hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã. Lửa và khói ngùn ngụt buốc cao, bao trùm cả thị xã. Tôi vẫn bình tĩnh cùng ban chỉ huy tiểu đoàn động viên bộ đội, chỉ huy tiểu đoàn bám công sự đánh bại các đợt phản kích dữ dội của địch, tổ chức hoả lực bắn trực thăng và thiết giáp, vừa dập tắt lửa vừa bảo vệ tài sản và cứu chữa bà con. Con số thương vong của các tiểu đoàn và đồng bào trong thị xã báo cáo về làm tôi ngậm ngùi đau xót vô cùng. Riêng Tiểu đoàn 306 đã có trên 100 cán bộ, chiến sỹ hy sinh. Theo dõi tình hình qua đài bán dẫn cùng những tin truyền miệng, chúng tôi được biết Sài Gòn, thành phố Cần Thơ, thị xã Mỹ Tho đêm 30 Tết ta có đột nhập song chỉ có làm chủ được một phần trong đêm, sang ngày mùng 1 Tết đều lui ra vùng ven bao vây đánh địch phản kích, chỉ có thành phố Huế ta đánh và làm chủ dài ngày. Lúc này tôi chợt nghĩ: Sở dĩ ta chưa dứt điểm đồng loạt các thành phố, thị xã trong toàn miền Nam như kế hoạch ban đầu, một phần do âm lịch giữa miền Bắc và miền Nam không thống nhất, chênh lệch nhau một ngày. Bởi vì chiều 30 Tiểu đoàn 306 đang hành quân thì miền Trung đã là mồng 1 Tết và đã nổ súng đánh chiếm thành phố Huế và các nơi, Nam Bộ thì chưa. Địch cảnh giác ra lệnh cấm trại, chúng đề phòng rồi, ngay sau đó tổ chức đánh phản kích lại những nơi đã bị Quân giải phóng đánh chiếm. Hơn nữa ở vòng ngoài đã có quân Mỹ chi viện. Ta mất yếu tố bất ngờ. Dẫu sao Vĩnh Long đã đứng vững được sáu ngày đêm.

        Trước nguy cơ thị xã Vĩnh Long thất thủ, chiều ngày thứ sáu, tức ngày mùng 6 Tết âm lịch (6/2/1968), Mỹ ào ạt giải toả cho quân ngụy đang hấp hối trong một phần ba thị xã còn lại. Dinh tỉnh trưởng và khám lớn chưa bị Quân giải phóng làm chủ. 15 giờ, Mỹ dùng pháo, lớp từ hạm đội đậu ở giữa sông Tiền, lớp pháo bầy mặt đất trút hàng nghìn hàng vạn quả ầm ầm như B52. Tai tôi ù đặc. Khói bụi ngất trời. Nhà cửa thay nhau đổ sập, cây cối bị tiện đứt. Cơn bão lửa khủng khiếp đang xảy ra. Cả thị xã Vĩnh Long rung chuyển dữ dội. Tiếng pháo vừa tạm ngớt lại đến tiếng bom nổ. Khoảng trên nửa giờ sau, địch đổ quân ở phía sau Tiểu đoàn 306. Đứng trên lầu cao của Sở chỉ huy đặt ở miếu Bảy Bà, tôi quan sát khá rõ. Khoảng 40 trực thăng như bầy chuồn chuồn bằng sắt thay nhau hạ cánh. Chúng đổ quân làm bốn đợt, mỗi chiếc chở 10 – 12 tên. Tất cả mấy tiểu đoàn Mỹ. Bọn này chắc chắn là quân của Sư đoàn 9 Mỹ đóng tại căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) đến. Lính Mỹ đầu đội mũ sắt, quần áo rằn ri màu xanh lá cây, dây lưng giắt đầy đạn M79 (cối cá nhân) chẳng khác nào trái ổi. Đã mấy lần chống càn đụng với bọn Mỹ, tôi thấy Mỹ đổ quân cũng y hệt bọn ngụy. Chỉ có khác hơn là trước mỗi đợt đổ quân Mỹ dùng bom, pháo dọn bãi ác liệt ghê gớm gấp nhiều lần. Hoả lực thay cho người. Song động tác chiến đấu của lính Mỹ lại không linh hoạt và tinh khôn bằng bọn ngụy. Xuống đất rồi lính Mỹ đứa nào cũng quỳ một gối, tay lăm lăm dúng chĩa về  hướng nội ô hình thành hai mũi bao vây chúng tôi. Còn bọn ngụy ư, chúng không khéo lợi dụng địa hình che khuất ngay để giấu mình như những con báo rình mồi. Quan sát thấy thế tôi chợt nghĩ: “Về bộ binh thì Mỹ không hơn gì ngụy. Nếu công sự của bộ đôi ta chắc, anh em bám thắt lưng Mỹ, không cho chúng kịp phân tán thành tuyến thì sẽ hạn chế được thương vong do bom đạn Mỹ gây ra”.

        Cân nhắc tình hình, tôi hội ý ban chỉ huy tiểu đoàn nên chuyển đơn vị sang đánh bại bọn Mỹ phản kích, động viên toàn bộ cán bộ, chiến sỹ: “Các đồng chí giữ vững tinh thần chiến đấu, củng cố công sự, giữ vững trận địa, sẵn sàng nhận lệnh mới”. Đồng thời, tôi báo cáo xin ý kiến tiền phương quân khu. Trước tình hình tiểu đoàn đã sáu ngày đêm chiến đấu, thương vong khá cao, nay Mỹ trực tiếp can thiệp đổ quân phía sau giải toả cho ngụy. Thấy tiếp tục chiếm giữ thị xã không lợi nữa, đồng chí Hoài Pho – Tư lệnh tiền phương quân khu đồng ý cho tiểu đoàn chuyển sang đánh bại quân Mỹ phản kích và đến tối lui ra vùng ven làm chủ, bao vây thị xã, gài thế diệt viện, giải phóng nông thôn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:14:33 pm

        Được quân khu chấp thuận kế hoạch trên, tôi chuyển tiểu đoàn sang tập trung đánh Mỹ phản kích. Võn mang truyền thống đấu tranh kiên cường, tin tưởng cấp chỉ huy, bộ đội răm rắp thi hành. Mười bảy giờ ngày 16 (06) tháng 2 năm 1968, đội hình tiểu đoàn đã chuyển sang phản kích đánh chặn hai cánh quân Mỹ ở lộ Mậu Thân, anh em chiến đấu anh dũng bám công sự diệt Mỹ và xuất kích, liên tiếp chặn đứng hai mũi tiến quân của Mỹ tiến vào nội ô, diệt hơn 100 tên, buộc chúng phải cụm lại ở ngã ba và nam cầu Cá Trê. đến khuya, tiểu đoàn chấn chỉnh đội hình. Một giờ sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968, tôi tổ chức hai đại đội tập kích cụm quân Mỹ ở nam cầu Cá Trê diệt một đại đội gồm hơn 100 tên, mở đường đưa hết thương binh và toàn tiểu đoàn cơ động ra Phước Hậu, cách thị xã Vĩnh Long năm cây số về phía nam. Từ đấy Tiểu đoàn 306 làm chủ vùng ven, bao vây uy hiếp thị xã Vĩnh Long, cắt đứt lộ 4 và lộ 7 dài ngày, thu hút địch tạo điều kiện cho hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh đẩy mạnh ba mũi tiến công và nổi dậy diệt đồn, giải phóng nông thôn.

        Trong sáu ngày đêm đầu của Tết Mậu Thân đánh chiếm và làm chủ thị xã Vĩnh Long, Tiểu đoàn 306 cùng hai tiểu đoàn tỉnh và Tiểu đoàn 308 loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 địch, trong đó có hàng trăm tên Mỹ, diệt và đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 16, Trung đoàn 2 thiết giáp, 4 tiểu đoàn bảo an và biệt động quân, phá huỷ 60 trực thăng tại sân bay, bắn rơi 12 trực thăng khác, bắn cháy 35 xe M113, bắn chìm 12 tàu, phá huỷ trên 50 xe quân sự, thu hàng ngàn súng các loại. Ngoài ra ta còn phá rã trên 3.000 cảnh sát, phòng vệ dân sự và hàng trăm tề ngụy ác ôn.

        Ở đồng bằng sông Cửu Long, trong Tết Mậu Thân, lực lượng ta tiến công và làm chủ dài ngày tại thị xã Vĩnh Long, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh đã có tiếng vang lớn, gây tác động mạnh mẽ đối với địch và cổ vũ quân dân Vĩnh – Trà tin tưởng, tiến lên giành thắng lợi. Sau cuộc tiến công vào thị xã, lực lượng ta rút ra làm chủ vùng ven, tiếp tục bao vây, uy hiếp thị xã Vĩnh Long, cắt đứt giao thông quốc lộ 4, tỉnh lộ 7, làm cho Viĩn Long, Cần Thơ, Trà Vinh bị cô lập hàng tháng. Từ đấy cuộc chiến tranh giữa ta và địch diễn ra ngày càng thêm khốc liệt. Địch phải dùng trực thăng tiếp tế và sử dụng hàng chục phi vụ B52 ném bom rải thảm ở vùng ven Phước Hậu – Cái Nhum sát thị xã.

        Cuộc tiến công và nổi dậy đợt một Mậu Thân 1968 trên toàn miền Nam của quân và dân ta trong đêm 30 và ngày mùng 1 Tết đã bất ngờ tập kích chiến lược vào các thị xã, thành phố, nhưng chỉ có thành phố Huế là đánh chiếm và giữ được dài ngày, kế đến thị xã Vĩnh Long làm chủ sáu ngày đêm. Còn hầu hết các thành phố và thị xã khác, kể cả Sài Gòn, Mỹ Tho và Cần Thơ ta chỉ đánh chiếm được một số mục tiêu trong đêm, qua ngày sau phải rút ra bám trụ vùng ven và chuyển sang đánh địch phản kích. Do đó Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đợt 1 ta giành thắng lợi lớn, nhưng so với yêu cầu dứt điểm thì chưa đạt.

        Sau mười ngày tiến công cao điểm đợt 1, tình hình chung và căn cứ vào diễn biến cụ thể giữa ta và địch ở Vĩnh – Trà như sau: Ngày 10 tháng 2 năm 1968, Ban chỉ huy trọng điểm Vĩnh Trà (Đồng chí Hoài Pho - Chỉ huy trưởng; đồng chí Bảy Máy - Thường vụ Khu uỷ, Chính uỷ; Nguyễn Đệ (Ba Trung) - Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng; đồng chí Tám Xuân – Phó Chính uỷ; đồng chí Ký Ức, Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Long; đồng chí Năm Trung – Bí thư Tỉnh uỷ Trà Vinh) họp, đánh giá tình hình và nhất trí chủ trương “Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh cuộc Tổng tiến công và nổi dậy quyết giành thắng lợi lớn nhất”. Ban chỉ huy thống nhất những chủ trương cụ thể:

        - Tiếp tục duy trì lực lượng chủ lực làm nòng cốt cùng địa phương vận dụng ba mũi bao vây tiến công thị xã, làm chủ vùng ven, gài thế đánh viện diệt nhiều sinh lực địch, gỡ đồn bốt, phá ấp chiến lược, giải phóng nông thôn.

        - Tỉnh, huyện, xã phát huy sức mạnh tổng hợp, đẩy mạnh Tổng tiến công và nổi dậy, hiệp đồng với thị xã bằng ba mũi bao vây, tiến công dứt điểm đồn bốt, phá ấp chiến lược, giải phóng nông thôn.

        - Vừa tiến công quân sự, vừa đẩy mạnh tiến công chính trị, binh vận làm tan rã đich, vừa tích cực phá lộ, đánh sập cầu, cắt đứt giao thông, trọng điểm là quốc lộ 4 từ phà Mỹ Thuận đến Cần Thơ, lộ 7 từ Vĩnh Long đi Trà Vinh và bịt chặt sông Măng Thít... Thực hiện tiến công địch với phương châm: “Cột đầu, chặt chân, lột da, móc ruột, giải phóng nông thôn” (cột đầu là bao vây tiến công kìm địch ở thị xã, chặt chân là cắt giao thông, lột da là gỡ đồn bốt, móc ruột là phá ấp chiến lược, giải phóng nông thôn).


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:15:31 pm

        - Vừa tiến công địch, vừa tích cực xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận các cấp vững mạnh, chủ lực Khu phát triển đến trung đoàn, mỗi tỉnh có từ hai đến ba tiểu đoàn; huyện, thị xã có hai đến ba đại đội, xã có một trung đội đến một đại đội du kích, ấp có trung đội du kích và phát triển dân quân rộng rãi, khả năng trang bị và nuôi dưỡng được tới đâu phát triển tới đó, không hạn chế.

        - Tích cực chuẩn bị mở đợt tiến công cao điểm 2, trọng điểm là hướng thị xã Sa Đéc, sử dụng Tiểu đoàn 312, Tiểu đoàn 396 (thiếu), Tiểu đoàn 1 tỉnh Vĩnh Long và các huyện, tập trung đánh thị xã Sa Đéc, diệt Trung đoàn 15 và hậu cứ Sư đoàn 9 ngụy, chiếm các huyện thuộc hệ thống tiểu khu Sa Đéc, căng kìm địch, tạo thế thuận lợi cho Vĩnh Long và Trà Vinh tiếp tục bằng ba mũi diệt đồn, giải phóng nông thôn.

        Chủ trương và phương châm tiến công địch trên được nhất trí rất cao. Từ cán bộ, chiến sỹ đến các địa phương đều phấn khởi, tin tưởng, quyết tâm xốc tới.

        Ngày 20 tháng 2 năm 1968, vào cao điểm, các đơn vị ở hướng Sa Đéc hiệp đồng tốt, đánh chiếm được một phần ba thị xã, làm chủ hai ngày đêm, đánh viện, diệt trên 50 tên địch, diệt hai tiểu đoàn bảo an và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 15. Tiếp đó, ta rút ra làm chủ vùng ven bao vây pháo kích thị xã, diệt đồn, phá ấp chiến lược, đánh viện. Mười lăm ngày đêm tiến công hướng Sa Đéc, ta diệt 1.500 tên địch, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 15, diệt bức hàng trên 100 đồn bốt, mở rộng vùng ven thị xã Sa Đéc nối liền với ba huyện Châu Thành, Lấp Vò, Bình Minh thành vùng giải phóng liên hoàn với vùng chữ V bắc lộ 4. Đây là thắng lợi lớn đối với hướng này, từ trước tới giờ chưa bao giờ có.

        Hướng thị xã Vĩnh Long, Tiểu đoàn 306 còn lại, Tiểu đoàn 2 của tỉnh và Tiểu đoàn 308 phối hợp với lực lượng thị xã làm chủ vùng ven, liên tục bao vây, tiến công, pháo kích thị xã, cắt lộ 4 và lộ 7 gần một tháng, gài thế đánh viện, tiêu hao, tiêu diệt trên 1.000 tên ngụy và Mỹ. Trong lúc đó ở các huyện bằng ba mũi giáp công đã bao vây, dứt điểm trên 200 đồn bốt, cơ bản giải phóng nông thôn tỉnh Vĩnh Long đến sát thị xã và các Chi khu.

        Hướng Trà Vinh, lực lượng tỉnh hiệp đồng tốt. Hai tiểu đoàn của tỉnh cùng lực lượng thị xã liên tục bao vây tiến công thị xã Trà Vinh gây cho địch nhiều thiệt hại nặng, nhất là Trung đoàn 14. Tỉnh huy động hàng vạn đồng bào, trong đó có hàng trăm sư sãi người Khơ Me xuống đường tham gia cùng bộ đội bao vây đồn bốt, kêu gọi chồng, con, em đi lính trở về với gia đình, có hàng nghìn người vác súng trở về quê. Các huyện đẩy mạnh cao trao nổi dậy, bao vây gọi hàng, dứt điểm trên 300 đồn bốt, giải phóng 356 xã với hàng trăm ấp. Như vậy vùng nông thôn tỉnh Vĩnh Trà cơ bản được giải phóng.

        Đợt 1 Mậu Thân, Vĩnh – Trà Tổng tiến công và nổi dậy sôi nổi đã giành được thắng lợi to lớn chưa từng có nên tích cực chuẩn bị cho đợt 2 tổng tiến công theo chỉ thị của Bộ chỉ huy Miền. tháng 3 năm 1968, Vĩnh – Trà đưa về Miền Tiểu đoàn 308 trên 400 quân, xây dựng lại Tiểu đoàn 308 mới và thành lập Trung đoàn 3 gồm bốn tiểu đoàn (d306, d312 và d316). Ban chỉ huy  Trung đoàn 3, tôi - Nguyễn Đệ là Trung đoàn trưởng, đồng chí Sáu Hoài – Chính uỷ và đồng chí Tư Thiện – Trung đoàn phó. Để tạo khí thế ngay khi trung đoàn mới thành lập, giữa tháng 4 năm 1968, chúng tôi bàn đánh địch càn quét, bình định căn cứ hậu phương của ta. Chúng hành quân bằng tàu dọc theo sông Măng Thít. Đoàn tàu 12 chiếc chở đầy lính thuỷ quân lục chiến. Bọn này rất ác ôn, càn quét tới đâu chúng đốt sạch, phá sạch tới đó. Dựa vào trận địa pháo Trà Ôn và Tam Bình, trên tàu địch bắn vào nhà dân nằm hai  bên bờ sông. Tôi quyết tâm đưa trung đoàn phục kích trên sông Măng Thít để đánh bại kế hoạch của địch. Được nhân dân bảo vệ, trung đoàn giữ được bí mật để đoàn tàu lọt vào trận địa, bắn chìm cả 12 chiếc PCF, tiêu diệt gọn tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến. Trung đoàn lui về phía sau trú quân thì được lệnh của Bộ chỉ huy Miền và Quân khu cùng lực lượng Vĩnh Long hiệp đồng với Miền đánh chiếm thị xã Vĩnh Long đợt 2.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 11:16:07 pm

        Thấy rằng lúc này địch đã tăng cường phòng ngự thị xã Vĩnh Long, yếu tố bất ngờ không còn nữa; đánh chiếm thị xã Vĩnh Long như đợt 1 sẽ khó khăn hơn nhiều, tôi đề nghị Miền và Quân khu cho Vĩnh Long và Trung đoàn 3 sử dụng đặc công và hoả lực đánh thiệt hại nặng thị xã Vĩnh Long rồi chuyển sang bao vây, làm chủ vùng ven, gài thế đánh viện, tiêu diệt sinh lực địch, gỡ đồn, tiếp tục giải phóng nông thôn. Đề nghị của tôi được quân khu chấp thuận.

        Đêm “N” đầu tháng 4 năm 1968, đợt 2, phối hợp với Miền và quân khu, đặc công, pháo binh của Trung đoàn 3 kết hợp với biệt động thị xã Vĩnh Long bất ngờ đánh huỷ diệt căn cứ thiết giáp, sân bay, trận địa pháo binh, khu phố Mới, dinh tỉnh trưởng, Trung tâm thông tin Hoa Lư, căn cứ bảo an, căn cứ Trung đoàn 43 biệt động quân, diệt trên 200 tên địch, phá, đốt cháy 15 xe M113 và 15 trực thăng, năm khẩu pháo 105 ly và hàng chục tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh. Sau đó bộ phận Trung đoàn 3 và lực lượng thị xã chuyển sang bao vây pháo kích liên tục vào thị xã làm cho binh lính địch hoang mang, mất ăn mất ngủ. Chủ lực trung đoàn cùng địa phương phát động quần chúng gỡ đồn bốt, phá ấp chiến lược và gài thế đánh viện.

        Cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1968, trung đoàn bám trụ Phước Hậu ven thị xã Vĩnh Long gài thế đánh viện liên tục trên 10 trận, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng năm tiểu đoàn, diệt trên 1.500 tên địch, bắn cháy 25 xe M113, bắn rơi tám trực thăng, căng kèm địch tạo điều kiện thuận lợi cho hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh tiếp tục đẩy mạnh ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận) tiến công và nổi dậy, giải phóng nông thôn.

        Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, thị xã Vĩnh Long và chiến trường Vĩnh – Trà qua đợt 1 và đợt 2 (tháng 2 đến tháng 5 năm 1968) đã giành được thắng lợi to lớn. Đợt 1, ta đã tiến công vào ba thị xã: Vĩnh Long, Trà Vinh và Sa Đéc, làm chủ thị xã Vĩnh Long nửa ngày đêm, địch chết, bị thương và bị bắt trên 15.000 tên, đánh tan rã hàng chục nghìn tên khác, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng bốn Trung đoàn ( Trung đoàn 16, 15, 16 Sư đoàn 9 ngụy và Trung đoàn 2 thiết giáp, tiêu diệt bảy tiểu đoàn bảo an và biệt động quân, hai tiểu đoàn pháo binh, hai giang đoàn, phá huỷ và bắn rơi 82 máy bay trực thăng và L19, bắn cháy 55 xe M113, bắn chìm 25 tàu PCF, phá huỷ 35 pháo 105 – 155 ly, chiếm và phá huỷ gần 100 xe quân sự khác, diệt, bức hàng trên 600 đồn bốt, giải phóng 45 xã, trên 100 ấp, cơ bản giải phóng vùng nông thôn Vĩnh – Trà, chỉ còn thị xã và các chi khu, thu trên 5.000 khẩu súng và hàng trăm tấn đạn dược, phương tiện chiến tranh làm cho địch bị thiệt hại nặng.

        Sau đợt 1 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, vĩnh – Trà đã kịp thời đánh giá tình hình, chuyển phương châm, phương thức tiến công một cách thích hợp nên vừa diệt được nhiều địch, giải phóng nông thôn rộng lớn, vừa bảo tồn và xây dựng lực lượng ta lớn mạnh gấp hai – ba lần so với trước Tổng tiến công. Giành được thắng lợi trên,  quân và dân Vĩnh – Trà vinh dự được mặt trận giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam tặng thưởng Huân chương Thành đồng hạng nhất, Tiểu đoàn 306 được vinh dự tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng nhất.

        Thời gian qua nhanh, từ Tết Mậu Thân đến nay đã ngót 30 năm, bao nhiêu sự kiện đã diễn ra trong quãng thời gian ấy, tôi vẫn khắc sâu hình ảnh biết bao đồng chí, đồng đội Tiểu đoàn 306 và nhân dân tỉnh Vĩnh – Trà đã chiến đấu quả cảm và anh dũng ngã xuống, góp phần xứng đáng cùng quân và dân cả nước làm nên “ Tết” gây kinh hoàng Mỹ - ngụy, chấn động mạnh mẽ đến nội tình nước Mỹ. Đặc biệt tôi không quên hình ảnh của Nguyễn Văn Hải, chiến sỹ bảo vệ rất kiên cường, rất tận tuỵ đã quên mình cứu tôi sống. Mãi tận bây giờ tôi vẫn day dứt, ân hận là chưa tìm gặp được bà mẹ già kính yêu của Hải ở Cà Mau. Bởi vì trước đó tôi đã sơ ý không ghi địa chỉ cụ thể của bà để đến tận nơi thăm hỏi và báo cáo cho bà mẹ anh hùng nơi yên nghỉ của Nguyễn Văn Hải để đền đáp công ơn bà đã sinh dưỡng đứa con anh hùng, dũng cảm hy sinh vì Tổ quốc, nghĩa nặng đối với tôi”...

        Trích: Trung tướng Nguyễn Đệ, Niềm tin và lẽ sống, (hồi ức – Phan Huỳnh thể hiện), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội – 2005, tr. 276 – 316.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:28:14 pm
       
7. THIẾU TƯỚNG HUỲNH CÔNG THÂN (HUỲNH CÔNG MẾN).

        Thiếu tướng Huỳnh Công Thân sinh năm 1923, quê ở xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An. Tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, gắn bó với chiến trường Long An nói riêng và Nam Bộ nói chung, đồng chí được giao đảm nhiệm các chức vụ:

        - Năm 1946 là Uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ Cần Giuộc.

        - Năm 1948 là Bí thư, Chính trị viên đại đội căn cứ Vườn Thơm.

        - Năm 1954 là cán bộ quân sự cốt cán, Thường vụ Huyện uỷ Đức Hoà.

        - Những năm 1955 – 1957, đồng chí tham gia tổ chức và chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh trong phong trào Đồng Khởi (1960). Đồng chí Huỳnh Công Thân là người chỉ huy trận đánh vào căn cứ biệt kích Mỹ ở Hiệp Hoà (23/11/1963), diệt và làm bị thương 500 tên địch, thu trên 500 súng các loại. Trận đánh giành thắng lợi có ý nghĩa quan trọng trong nhiệm vụ phá quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy.

        Trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, đồng chí là Tư lệnh Phân khu 3, chỉ huy 9 tiểu đoàn đánh vào các căn cứ địch ở Quận 6, 7 và 8, mở đường đánh vào Tổng nha cảnh sát chính quyền Sài Gòn. Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử Xuân 1975, cánh quân phía Tây Nam do đồng chí Huỳnh Công Thân chỉ huy đã chiến đấu dũng cảm, đập tan các ổ đề kháng cuối cùng của địch.

        Sau khi đất nước thống nhất, đồng chí Huỳnh Công Thân được phong quân hàm Thiếu tướng, đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Long An, tiếp tục chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh chiến đấu bảo vệ tuyến biên giới trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1978 – 1979).

        Là một cán bộ lãnh đạo và chỉ huy trên chiến trường Long An - một vùng đất “Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc” trong suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Huỳnh Công Thân đã “xứng đáng là người con của nhân dân Long An anh hùng... với tư tưởng cách mạng tiến công, quyết chiến và quyết thắng, đồng chí đã có những suy nghĩ và hành động khá táo bạo nhưng chín chắn và vững chắc. Cùng với quân dân trong tỉnh, đồng chí đã lập được nhiều chiến công oanh liệt trên chiến trường Long An”. (Trích lời giới thiệu của Thượng tướng Trần Văn Trà in trong tập sách “Ở chiến trường Long An” của Thiếu tướng Huỳnh Chông Thân). Chúng tôi xin giới thiệu những kỷ niệm sâu sắc của Thiếu tướng Huỳnh Công Thân viết về những năm tháng đồng chí tham gia chỉ huy chiến đấu trên chiến trường Long An.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:29:56 pm

XOAY CHUYỂN TÌNH THẾ

        "... Từ giữa năm 1961, Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Quân ngụy được xây dựng nhanh với nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại: xe lội nước bọc thép M113, máy bay lên thẳng, pháo binh và tàu thuyền. Quân ngụy còn được Mỹ huấn luyện chiến thuật mới như trực thăng vận, thiết xa vận...

        Chúng tôi được thông báo: ở nhiều nơi chúng đã dùng trực thăng đánh úp vào các căn cứ của ta, gây thiệt hại lớn như trường hợp ở Kiến Tường, Mỹ Tho... Ở chiến trường Long An lúc đó, chúng chưa dùng các loại chiến thuật tân kỳ này.

        Khi nghe Mỹ vạch kế hoạch “bình định” miền Nam Việt Nam trong 18 tháng, chúng tôi chưa hình dung chúng sẽ làm như thế nào và mức độ ác liệt đến đâu? Chúng tôi đoán là chúng cũng đóng đồn bốt và xây dựng thêm các khu trù mật như Ngô Đình Diệm đã làm từ năm 1954.

        Đầu năm 1962, tôi rời khỏi đại đội cơ động và được chỉ định vào Tỉnh uỷ Long An với nhiệm vụ chủ yếu là chuyên trách chỉ đạo lực lượng vũ trang. Tôi bàn với anh Chín Cần, lúc đó là Bí thư Tỉnh uỷ về việc xây dựng thêm lực lượng của tỉnh. Địch đã tăng cường quân số vũ khí và các hoạt động quân sự, ta chỉ có một đại đội sẽ không đủ để làm nhiệm vụ. Chúng tôi nhất trí xây dựng thêm Đại đội 2, nhưng lúc đầu mới chỉ tổ chức một trung đội.

        Lúc ấy cán bộ cấp đại đội của đơn vị cơ động rất dồi dào nhưng chúng tôi không muốn tách ra. Tôi xin đồng chí Danh về phụ trách Đại đội 2. đồng chí Danh là người Bến Tre, thuộc loại “lính chiến” đi tập kết ra Bắc mới trở về. Đồng chí Danh đã được đào tạo quân sự căn bản và có tinh thần chiến đấu rất dũng cảm. Chúng tôi không muốn tách số cán bộ của Đại đội 1 ra vì đó là đội ngũ cán bộ rất đều tay, rất ăn ý và có khả năng hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì, dù khó khăn đến mấy. Các anh ấy đều là những người dạn dày kinh nghiệm và được tôi luyện, thử thách qua thời kỳ khó khăn ác liệt nhất. Anh Mười Xưởng và Tư Ấp đều là những người tự lập các nhóm vũ trang rất sớm. Đến khi có khu bộ Tân An - Chợ Lớn, hai bộ phận lực lượng ấy ghép lại gọi là Trung đội 10 do anh Mười Xưởng làm Trung đội trưởng, anh Tư Ấp làm Chính trị viên. Từ đó hai anh gắn bó với nhau như hình với bóng. Trung đội 10 sau này đổi phiên hiệu thành Trung đội 29, nằm trong Tiểu đoàn 506 và vẫn giữ nguyên tổ chức trong đơn vị cơ động.

        Anh Tư Chiểu và anh Bảy Triệu là những người đã chỉ huy các nhóm vũ trang ngay từ đầu cũng như trong suốt quá trình từ vũ trang tuyên truyền đến đồng khởi. Các anh có uy tín rất cao đối với đơn vị. Anh em bộ đội luôn yêu mến và tin tưởng các anh trong chỉ huy chiến đấu.

        Trong năm 1962, với lực lượng đó, Long An vẫn tiếp tục tiến công các đồn bốt trên diện rộng của toàn tỉnh, làm cho địch không thực hiện được các chỉ tiêu ‘bình định” chúng đã vạch ra. Lúc đó Long An là một trong tám tỉnh trọng điểm “bình định” của địch ở Nam Bộ. Có lẽ vì thế mà địch phải rải mỏng lực lượng ra, chưa đủ khả năng tiến hành “bình định” ào ạt.

        Gần cuối năm 1962, tôi được triệu tập đi học trường Nguyễn Ái Quốc ở Miền. Từ ngày tham gia cách mạng, đây là lần đầu tiên tôi được đi học một khoá quan trọng như vậy. điều ấy làm tôi phấn khởi và tự hào, nhưng vẫn nghĩ giá mà được đi học một khóa quân sự thì hay hơn.

        Tôi lên Miền vào tháng 10 năm 1962. Lúc ấy tình hình Long An chưa khó khăn lắm. Các vùng giải phóng Bình Hoà, Hoà Khánh, An Ninh, Lộc Giang của ta vẫn tương đối yên tĩnh.

        Lần đầu tiên nghe giảng về chủ nghĩa Mác-Lênin, về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tôi thấy nhiều danh từ mới quá. Tuy hiểu được, nhưng tôi thấy sao nó không gắn gì đến tình hình cách mạng ở miền Nam! Các anh khác chắc cũng như tôi, ngồi ở lớp học mà tâm trí vẫn để ở tỉnh nhà: không biết bọn địch đang làm gì, anh em mình đang chiến đấu ra sao?

        Đầu năm 1963, tôi nhận được thư của anh em ở Long An cho biết bọn địch đang ráo riết gom dân lập “ấp chiến lược”. thư không nói rõ thế nào là “ấp chiến lược”, cũng không nói hết các thủ đoạn gom dân của chúng, nên tôi cứ nghĩ chắc là không có gì ghê gớm lắm, cũng như “khu trù mật” hồi đó thôi. Những lá thư sau, anh em cho biết thêm là địch không hành quân cấp chiến đoàn để gom dân, lập ấp chứ không phải chỉ đưa bọn bảo an về đóng đồn như trước. Kiên cường như dân Mỹ hạnh - Đức Hoà mà cũng bị chúng đưa vào “ấp chiến lược” gần hết.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:31:24 pm

        Ngồi học mà nghe những tin như thế thật nóng ruột, chẳng còn tâm trí đầu mà nghĩ đến mấy danh từ chính trị, triết học. Ở các nơi khác, sau chiến thắng Ấp Bắc, tình hình có khá hơn trước. Riêng ở Long An, từ năm 1963 tình hình khó khăn hơn trước rất nhiều. Sau này tôi mới hiểu rõ hơn nguyên nhân của sự trái ngược ấy. Sau thất bại ở Ấp Bắc, Mỹ - Diệm thấy rõ sự bế tắc của chương trình “bình định’ lập “ấp chiến lược”, chúng thu hẹp trọng điểm “bình định” từ tám tỉnh ở Nam Bộ xuống còn bốn tỉnh quanh Sài Gòn, trong đó có Long An. Chúng tập trung lực lượng ở các nơi về nhằm bình định bằng được vành đai bảo vệ thủ đô của chúng.

        Trong những tháng học cuối cùng, thực ra tôi chỉ suy nghĩ khi về sẽ đánh bằng cách nào? Tôi rất mong sớm kết thúc lớp học để về thực hiện những suy nghĩ của mình.

        Tháng 7 năm 1963, lớp học kết thúc. Tôi lên đường về Long An ngay. Trời đã mưa nhiều, thế mà trên con đường từ An Ninh, Lộc Giang về Hoà Khánh, Bình Hoà cảnh tượng xơ xác, nhiều nơi tôi không nhận ra. Mới gần một năm trời mà chúng làm tan hoang cả xóm làng thế này, chứng tỏ chúng thực hiện với quyết tâm cao và lực lượng lớn. Về phía ta, chắc đang gặp nhiều khó khăn.

        Về đến nơi, gặp lại đồng chí, bạn bè, tôi mừng lắm. Các anh ở nhà cũng vậy. Anh Chín Cần nói với tôi: “Ông về phụ với chúng tôi thì đỡ quá, chúng nó đang làm dữ lắm...”. Tôi nóng lòng muốn biết ngay tình hình cụ thể ở nhà thế nào? Lúc ấy anh Tư Vũ đang là Tỉnh đội trưởng, tôi làm Chính trị viên. Anh Tư Vũ là cán bộ của Long An đi tập kết mới về.

        Tình hình Long An lúc này thật khó khăn. Đại đội 1 và 2 hoạt động dưới nam lộ số 4, phải chống càn liên tục, bị thiệt hại nhiều đã rút về phía bắc lộ, nhưng chưa có điều kiện củng cố, bổ sung. Có lúc bộ đôi phải cải trang làm dân đi vác mía kiếm tiền nuôi đơn vị. Trong tình trạng đó, tất nhiên không đánh được trận nào lớn. Trong khi đó quân địch ráo riết dồn dân xây dựng “ấp chiến lược”. Đồn bốt địch mọc lên như nấm. Theo các nơi báo cáo lên, có tới gần 300 “ấp chiến lược” đã làm xong. Nghe anh em lên tỉnh đôi báo cáo lại tỉ mỉ các cuộc hành quân cấp chiến đoàn của địch đến lập “ấp chiến lược” như ở Mỹ Hạnh, thì thấy thiệt khó đối phó. Lực lượng ta chưa đủ sức đánh bại các cuộc càn. Đã vậy, phải xuống phía nam lộ là nơi nhiều khó khăn về mọi mặt nên sức chiến đấu giảm nhanh.

        Thực tế tình hình thời kỳ này càng cho thấy rõ: nếu lực lượng vũ trang không đánh tốt thì phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng không thể lên mạnh được. Tôi nghe anh em kể lại, thời kỳ đầu bọn địch lập “ấp chiến lược”, nhân dân chống lại mạnh lắm. Có người vác dao chém tên lính nào dám dỡ nhà. Có người bị đốt nhà liền cất chòi ngay trên nền nhà cháy để ở, chứ không chịu vào ấp. Thế nhưng khi địch hành quân chiến đoàn, dùng cả máy bay trực thăng, xe tăng, xe ủi đất để lùa dân vào ấp thì nhân dân không đủ sức chống lại. Dân Đức Hoà, Mỹ Hạnh có truyền thống đấu tranh kiên cường thế mà cũng bị chúng gom gần hết vào “ấp chiến lược”.

        Qua một thời gian nắm lại và tìm hiểu tình hình, những suy nghĩ dần sáng tỏ. đúng là tình hình khó khăn thật, nhưng không phải không có lối thoát. Vấn đề chủ yếu là lực lượng chưa tăng cường kịp với yêu cầu nhiệm vụ và đối tượng tác chiến mới. Từ đồng khởi nay chuyển sang chiến tranh thực sự, địch lại tăng cường lực lượng lớn, ta phải tính toán thế nào cho phù hợp. Trong thời gian hoạt động ở nam lộ số 4, Đại đội 1 phải chống càn liên tục, trong đó có hai trận bị thiệt hại nhiều. Qua các buổi họp kiểm điểm, cán bộ và chiến sỹ đều cho rằng cứ nằm tại chỗ mà chống càn thì không có công sự nào chịu nổi bom pháo của địch bắn phá suốt ngày, mà rút lui ban ngày lại càng nguy hiểm vì pháo và trực thăng của địch. Lúc ấy ở Mỹ Tho, vào Khu 8 đang phổ biến chiến thuật chống càn bằng cách đào công sự vòng tròn khép kín để có thể đánh địch ở bất cứ hướng nào. Cách đó có thể giữ vững được trận địa cho đến tối hoặc giữ vững nhiều ngày, nhưng tác dụng tiêu diệt sinh lực địch bị hạn chế. Tôi nghĩ phải tiêu diệt địch mới bẻ gãy được cuộc càn của chúng, chứ không phải giữ một đoạn kênh hay một xóm ấp. Ta chưa thể giữ được địa hình vì tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép, vả lại giữ được địa hình mà không có dân cũng chẳng có tác dụng gì. Trong mỗi trận càn, quân địch bắn phá rất ác liệt, dân bám lại xóm làng sao được! Nhất định phải thay đổi các chống càn bằng vận động đánh càn. Nhưng muốn vận động được, phải có địa hình và công sự để tránh bom pháo. Như thế phải chủ động đánh càn chứ không phải đợi chúng đến mới đánh. Qua trao đổi ý kiến, nhiều người cũng nghĩ như vậy, nên khi chúng tôi đề xuất phát động trong toàn tỉnh phong trào đào công sự trên tuyến địa hình có thế quân sự để đánh càn, liền được sự nhất trí và ủng hộ rộng rãi. Thời đó bộ đội Long An, chưa quen làm công sự có nắp nên tôi cùng anh Tư Vũ, Tư Chiểu phải trực tiếp làm mẫu để hướng dẫn bộ đội. Công sự chúng tôi làm cũng giản đơn, có chiều sâu khoảng một mét, chiều dài hơn một mét, chiều rộng chừng 80 phân, ở giữa có nắp để tránh pháo, tránh bom hoặc đạn từ trực thăng bắn xuống, hai đầu để để hở làm nơi quỳ bắn. Hai chiến sỹ đào một công sự như thế, chỉ mất hơn 30 phút. Vấn đề đánh càn được giải quyết tạm ổn. Vấn đề khó khăn hơn là làm sao đánh được đồn bốt?


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:32:19 pm

        Đồn bốt địch thời đó chưa kiên cố và có nhiều sơ hở về canh phòng, bố trí, nhưng lực lượng ta còn thiếu thốn về trang bị vũ khí, đặc biệt loại hoả lực mạnh có sức công phá như ĐKZ chưa có nhiều. Thời kỳ đồng khởi, bộ đội đánh đồn chủ yếu bằng cách cải trang kết hợp với nội ứng. đánh như thế, thời gian chuẩn bị phải lâu. Muốn móc nối được cơ sở tốt ở bên trong hay đưa được người của ta từ bên ngoài vào không phải dễ và tốn nhiều hời gian. Với yêu cầu nhiệm vụ mới, ta phải chủ động hơn trong tiến công nên cũng phải có cách đánh khác. Nếu đánh đơn thuần bằng bộ binh theo kiểu phá hàng rào bằng bộ phá và dùng thang ván thì không được; vì ta không đủ hoả lực cần thiết và không có đủ phương tiện, khí tài để phá hàng rào, chướng ngại vật. Mặt khác, cách đánh ấy bị thương vong nhiều, mà tình hình lúc đó không thể chấp nhận được. Tốt nhất là đánh bằng chiến thuật đặc công, nhưng ta lấy đâu đủ số chiến sỹ đặc công để đánh hàng mấy trăm đồn bốt trên toàn tỉnh? huấn luyện được một chiến sỹ, xây dựng một đơn vị đặc công giải phải tốn bao nhiêu thời gian và công sức. Từ đó tôi suy nghĩ xem có kết hợp đặc công với bộ binh và cả pháo binh vào một trận đánh không? Đối với bộ binh thì khó khăn nhất là giai đoạn phá hàng rào, tạo cửa mở và đánh chiếm đầu cầu. Đối với đặc công thì giai đoạn cắt hàng rào không khó lắm mà giai đoạn đánh vào bên trong khó hơn vì ít người và vũ khí (đặc công chỉ có thủ pháo và lựu đạn, rất ít súng bộ binh và hoả lực). Như vậy đặc công có thể bí mật mở cửa, sau đó đánh chiếm đầu cầu cho bộ binh đánh vào bên trong.Cách đánh này phát huy và kết hợp được hai cái mạnh của hai binh chủng. Cái mạnh của lực lượng này bù cho cái yếu của lực lượng kia. Về hoả lực, có thể kết hợp được nếu hướng bắn và thời điểm bắn không ảnh hưởng đến các lực lượng trên, có thể diệt lô cốt ở một góc xa cửa mở đồng thời với lúc đặc công đánh chiếm đầu cầu.

        Tôi đem những suy nghĩ của mình trao đổi với một số anh. Nhiều người thấy có lý, nhưng có người bảo tôi: Kỳ tập là kỳ tập; cường tập là cường tập, làm sao kết hợp hai nguyên tắc như thế được. Đúng là chưa có thực tế chứng minh cũng khó tranh luận được với mấy ông ấy! Nhưng tôi vẫn kiên trì những suy nghĩ và tính toán về chiến thuật đánh đồn theo kiểu kết hợp nhiều binh chủng, nhiều lực lượng.

        Chiến thuật là một mặt nhưng con người để thực hiện chiến thuật ấy mới là vấn đề quyết định, mà con người thì chúng tôi đã có. Lực lượng bộ binh mà các anh Mười Xưởng, Tư Ấp, Tư Chiểu, Bảy Triệu, Sáu Hoàng... chỉ huy trực tiếp thì hoàn toàn có thể yên tâm. Trinh sát đặc công do các đồng chí Vũ Điệp, Hiểu, Phước, Dầy, trực tiếp nắm thì cũng hoàn toàn có tin tưởng. Đồng chí Hiểu trước là chiến sỹ liên lạc, nhưng giao đi đến bất cứ đâu, trong điều kiện khó khăn đến mấy cũng đến được, làm được. Thấy vậy chúng tôi rút lên cho đi huấn luyện thành người chỉ huy trinh sát giỏi nhất của tỉnh. Có thể nói, không đồn bốt nào ở Long An, Hiểu không vào được hết các lớp rào. Hiểu tiếp cận giỏi đến mức nhiều lần chính đặc công cũng phải nhờ anh dẫn đường, chỉ lối. đồng chí Phước trước là chiến sỹ bộ binh, chiến đấu dũng cảm nên chúng tôi rút về huấn luyện đặc công. Còn đồng chí Dầy vốn là đặc công từ trong kháng chiến chống Pháp nên có kinh nghiệm và có kỹ thuật cao. Lúc chưa đi học trên Miền, có lần tôi cùng đồng chí Dầy đi nghiên cứu, tìm cách đánh một cái tua để rút kinh nghiệm. Dầy đi nghiên cứu mấy đêm liền nhưng vẫn chưa tìm được cách nào để đưa bộc phá vào mục tiêu vì còn mắc hàng rào cuối cùng nằm sát tua. Tôi gợi ý có thể buộc bộc phá vào đầu cây rồi đẩy vào, sau đó lui ra ngoài châm điện. Đêm đó, Dầy làm theo cách đó và đánh được một tua. Đó là những trận đánh đầu tiên của đặc công. Trận đánh tuy nhỏ và đơn giản, nhưng nó chứng tỏ lòng dũng cảm và kỹ thuật tiếp cận khá tốt của Dầy. Lúc ấy chúng tôi đã có súng ĐKZ, có đồng chí Thành là người chỉ huy, bắn giỏi. Tôi hỏi Thành có thể bảo đảm tiêu diệt một lô cốt bằng một đến hai quả đạn không? Thành quả quyết là có thể đưa súng vào trong mấy lớp rào rồi ngắm trực tiếp bằng nòng súng chứ không cần kính ngắm, và chỉ cần một quả đạn thôi...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:32:55 pm

        Ở ban tham mưu tỉnh đội, có các đồng chí như Sáu Châu, Vũ Điệp, đặc biệt là các anh Sáu Châu rất giỏi về công tác tham mưu. Anh chỉ đạo cho các huyện, các xã và cho trinh sát điều tra nghiên cứu trước các mục tiêu quan trọng ở từng vùng và lập hồ sơ rất tỉ mỉ. Khi nào tỉnh mở đợt hoạt động ở đâu, anh lên kế hoạch nhanh chóng và chính xác. Công tác tham mưu đã giúp rất nhiều cho chỉ đạo, chỉ huy khi hạ quyết tâm và định ra chủ trương hoạt động. Với đội ngũ cán bộ giỏi như vậy, chúng tôi có cơ sở để xoay chuyển tình thế.

        Tỉnh uỷ nhất trí phải nhanh chóng xây dựng và tăng cường lực lượng. Lúc ấy cấp tỉnh vẫn chưa được phép thành lập tiểu đoàn nên chúng tôi chủ trương tăng cường biên chế quân số cho Đại đội 1 và Đại đội 2 theo yêu cầu chiến đấu chứ không phụ thuộc vào biên chế quy định. Đại đội 1 có bốn trung đội, mỗi trung đội có bốn tiểu đội với quân số trên 500 người. Đại đội 2 tổ chức ba trung đội, với quân số khoảng 300 người. Ngoài ra sẽ thành lập hai phân đội đặc công, mỗi phân đội từ 70 đến 80 chiến sỹ, một phân đội trinh sát và phân đội hoả lực gồm ĐKZ, cối 60, 82 và súng phòng không 12,7.

        Tỉnh uỷ chỉ đạo cho các huyện tăng cường quân số, không hạn chế số lượng mà tuỳ theo khả năng của từng huyện. Thời kỳ này mỗi huyện có khoảng từ 70 đến 100 quân, các xã đều có tối thiểu một tiểu đội du kích.

        Tháng 9 năm 1963, Tỉnh uỷ triệu tập hội nghị trong thời gian gần mười ngày. Trong hội nghị, tất cả các vấn đề đều được đem ra thảo luận một cách thẳng thắn và đạt được sự thống nhất về đánh giá tình hình. Tất cả đều đồng ý nguyên nhân tình hình khó khăn hiện nay của ta là do xây dựng lực lượng chưa kịp với yêu cầu nhiệm vụ, chưa mạnh dạn đổi mới về chiến thuật nên bộ đội chưa đủ sức đánh vào đối tượng chủ yếu, chỗ dựa chủ yếu của ‘ấp chiến lược” là bọn địch càn quét và bọn chiếm đóng đồn bốt. Do đó, chưa hỗ trợ được cho nhân dân đứng lên phá ấp trở về vườn cũ làm ăn. Thực tế việc phá “ấp chiến lược” không thành công trong năm 1963 cho thấy: nếu ta chỉ nhằm vào thanh niên chiến đấu của địch và phá bờ tường, hàng rào “ấp chiến lược” thì nhân dân chưa dám bung về vườn cũ. Phân tích vấn đề này, anh Chín Cần nói: ta mới phá về hình thức chứ chưa phá nội dung của “ấp chiến lược”. Hội nghị đánh giá cao việc phá ‘ấp chiến lược” ở các địa phương điển hình như Mỹ Hạnh, Đức Hoà...

        Chúng tôi cho rằng phá lỏng sẽ làm cơ sở cho phá banh và phá tan “ấp chiến lược” sau này. Cuối cùng, hội nghị đề ra quyết tâm phá tan toàn bộ hệ thống “ấp chiến lược” của địch trên phạm vi toàn tỉnh với lực lượng ba thứ quân, đánh bại bọn địch đi càn và đóng đồn bốt hỗ trợ cho nhân dân tự đứng lên phá “ấp chiến lược”, hoạt động vũ trang kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng.

        Hội nghị là cái mốc rất quan trọng, đã nhìn thẳng vào sự thật, nhìn thẳng vào những thiếu sót, từ đó tìm được các biện pháp mới làm cơ sở cho một quyết tâm cao. Đây cũng là một kinh nghiệm về lãnh đạo mà tôi rất thấm thía. Nếu tổ chức hội nghị để nghe ý kiến của Bí thư và Thường vụ mà không có sự trao đổi thẳng thắn, rộng rãi thì làm sao khai thác được trí tuệ của tập thể, làm sau thấy hết được mọi khía cạnh của vấn đề. Hội nghị tháng 9 năm 1963 của Long An là một hội nghị rất thẳng thắn. Hội nghị tìm được những biện pháp đúng đắn. Đó là kết quả của phát huy trí tuệ tập thể.

        Sau hội nghị Tỉnh uỷ, tất cả các mặt công tác, nhất là xây dựng lực lượng được tiến hành khẩn trương. Quân số các đơn vị gần đạt mức dự tính, chúng tôi bắt đầu cho bộ đội hoạt động có tính chất thí điểm để rút kinh nghiệm. Trong đợt này có hai trận đánh chú ý:

        Trận thứ nhất ở Giồng Lớn, bộ đội địa phương Đức Hoà đã phục kích diệt gần hết một đại đội bảo an địch ở ngay sát “ấp chiến lược”. Khi thấy bọn bảo an lớp chết, lớp chạy tan tác, bọn dân vệ và thành niên chiến đấu sợ hãi tự tan rã. Thừa thắng, bà con trong “ấp chiến lược” Giồng Lớn nổi lên phá ấp, trở về vườn cũ của mình. Bọn địch không gom lại được. Kết quả của trận này đã chứng minh phương châm phá ‘ấp chiến lược” mà hội nghị Tỉnh uỷ đề ra là có cơ sở đúng đắn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:33:45 pm

        Trận thứ hai xảy ra ở Hoà Khánh. Đêm hôm đó, lực lượng ta diệt một đồn bảo an cấp trung đội ở ngay sát “ấp chiến lược”. Đánh xong bộ đội rút đi. Sáng hôm sau, bà con trong “ấp chiến lược” chưa kịp hành động thì bị hai tên lính còn sống sót lại trong đồn vác súng vào khống chế, bắt nhân dân phải ra giải quyết hậu quả trận đánh cho chúng. Sau đó bọn lính cứu viện kéo đến, bà con lại phải trở về ấp, không bung ra được.

        Sau kinh nghiệm ở Hoà Khánh, Tỉnh uỷ chỉ đạo ngay cho các huyện và lực lượng vũ trang khi đánh phải có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với nhân dân và đứng lại hỗ trợ cho quần chúng phá “ấp chiến lược” xong mới được rút đi.

        Trong thời gian từ cuối tháng 9 đến hết tháng 10 năm 1963, quân dân Long An đã đánh được 10 đồn và phá được gần 20 “ấp chiến lược”. Sự chuyển biến ấy tuy nhỏ nhưng là dấu hiệu đáng mừng vì quân dân Long An đã tìm ra cách đánh, cách giành thắng lợi.

        Cũng vào thời điểm đó, Mỹ - Diệm cho thành lập thêm tỉnh Hậu Nghĩa ở phía tây Sài Gòn. Chúng cắt Đức Hoà, Đức Huệ của Long An ghép với Củ Chi, Trảng Bàng của Tây Ninh để lập tỉnh mới. Cơ quan đầu não của chúng đặt tại Bàu Trại thuộc Đức Hoà. Tỉnh này chỉ có bốn huyện, nhưng vô cùng quan trọng đối với Sài Gòn, vì nó chắn hướng tây bắc, hướng tiếp giáp với vùng rừng núi Tây Ninh và biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia. Cũng chính vì có vị trí quan trọng nên Diệm đã bổ nhiệm tên Mã Sinh Nhơn - một tên tay sai gian ác, xảo quyết, khét tiếng chống cộng làm Tỉnh trưởng. Đây là một khó khăn mới cho Long An, đặc biệt là Đức Hoà. Từ đây quân dân Long An phải thường xuyên đối phó với hai bộ máy chiến tranh cấp tỉnh của địch với lực lượng đông gấp bội.

        Vào cuối năm 1963, tình hình ngụy quyền Sài Gòn có biến động. Mỹ - Diệm lục đục nhau. Cấp trên chỉ đạo cho Long An phải đưa ngay lực lượng xuống hoạt động ở nam lộ số 4. Trong khi đó chúng tôi muốn giữ lực lượng phía bắc để vừa xây dựng củng cố lại cho mạnh, vừa tìm cách mở lại vùng Đức Hoà – Vàm Cỏ Đông làm bàn đạp để mở các vùng khác.

        Mặc dù Long An đã bắt đầu phá được “ấp chiến lược”, nhưng tốc độ còn chậm. Muốn phá nhanh phải có một trận đánh thật lớn, thối động mạnh làm vỡ từng mảng lớn đồn bốt và “ấp chiến lược. Điều ấy là rõ ràng, nhưng vấn đề là làm sao tạo được trận lớn, đánh bằng hình thức chiến thuật gì, ở đâu?

        Tôi đang mải suy nghĩ về điều này thì anh Chín Cần hỏi: Ông thấy Hiệp Hoà thế nào? Long An mình đánh được không? Tôi cũng đã nghe các anh nói đến Hiệp Hoà nhưng vì mới về chưa nắm được tình hình cụ thể, nên chưa dám nói chắc là đánh được hay không! Anh Chín Cần cho biết lúc tôi đi học, Quân khu có cử cán bộ xuống tỉnh nghiên cứu mục tiêu Hiệp Hoà, nhưng do Tiểu đoàn 261 về sát thị xã Mỹ Tho để đón thời cơ, nên chưa nói đến có đánh hay không. Về phía Long An có thuận lợi là cánh binh vận của anh Bảy Thành đã nắm được hai cơ sở bên trong Hiệp Hoà.

        Tôi đề nghị anh Chín Cần cho tôi một tuần lễ đi nghiên cứu tình hình cụ thể rồi trả lời. tôi gặp anh Ba Sơn, Tham mưu phó Khu 8, là người đi nghiên cứu Hiệp Hoà. Anh Sơn nói địa hình Hiệp Hoà phức tạp mà đơn vị 261 lại chưa quen chiến trường này nên chưa quyết định được. Sau đó tôi đi Hiệp Hoà, triệu tập tất cả các bộ phận của tham mưu, trinh sát, đặc công đã nghiên cứu mục tiêu để nắm tình hình cụ thể. Tất cả các anh như Mười Xưởng, Tư Ấp, Vũ Điệp, Phước, Dầy, Hiểu đều nói là nghiên cứu rất kỹ đường ra lối vào của căn cứ, có thể đánh được. Anh Bảy Thành cũng cho biết là nội ứng của ta nắm chắc, rất đáng tin tưởng.

        Nhìn trên sơ đồ, tôi thấy mục tiêu khá lớn và rất phức tạp. Mỗi chiều từ 100 đến 150 mét, ngoài bốn lô cốt chính ở bốn góc, còn có thêm bốn lô cốt phụ ở giữa bốn bức tường. Tất cả đều có đại liên, tổng cộng là 8 khẩu, bên ngoài lại có rất nhiều hào sâu và nhiều hàng rào kẽm gai. Tôi hỏi các anh nếu ta đánh thì đánh bằng cách nào? Các anh trình bày: Nội ứng gác cho đặc công trinh sát cắt rào đưa bộ binh vào chiếm lô cốt đầu cầu rồi phát triển vào bên trong. Tôi thấy cách đó chưa ổn lắm, vì kinh nghiệm cho thấy nếu không diệt được bộ phận chỉ huy và thông tin ngày từ đầu thì rất khó dứt điểm. Tôi đề nghị bộ phận đặc công trinh sát nghiên cứu lại thật chắc chắn xem khả năng có vào được khu vực nhà cố vấn Mỹ và thông tin trước khi bộ binh nổ súng hay không....? Tức là tiếng súng mở đầu phải là ở nhà cố vấn Mỹ và khu thông tin thì mới chắc thắng được. Cánh đặc công trinh sát sau khi đi nghiên cứu lại cả quyết sẽ làm được như yêu cầu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:35:57 pm

        Tôi trở về gặp anh Chín Cần, nói chắc chắn sẽ đánh được căn cứ này. Nghe vậy anh rất mừng, vì biết tính tôi không phải là người nói nhiều. Nhưng anh cũng rất lo. Tôi cũng vậy. Trận đánh quá lớn mà hoả lực ta quá ít. Kinh nghiệm đánh đồn lớn theo kiểu này cũng chưa có. Chúng tôi cho người đi liên hệ mượn thêm ĐKZ của Kiến Tường và súng 12,7 của cánh Y4 (Sài Gòn).

        Từ hạ quyết tâm, đánh Hiệp Hoà, tôi luôn nghĩ về nó. Tôi tưởng tượng ra trận đánh một cách rõ ràng như là nó đã xảy ra. Tôi hình dung rất rõ Phước và Dầy chỉ huy các mũi đặc công cắt rào và ôm bộc phá lao vào khu nhà cố vấn Mỹ như thế nào? Mười Xưởng, Tư Ấp chỉ huy các cánh bộ binh đánh chiếm mục tiêu ra sao? Thành đưa ĐKZ vào hàng rào bắn lô cốt thế nào? Càng tưởng tượng, càng hình dung tôi càng thấy thêm cái khó của trận đánh. Nhưng tôi rất tin tưởng ở những con người, những cán bộ chiến sỹ của đơn vị. Nhất định họ sẽ có cách vượt qua khó khăn để giành thắng lợi.

        Chúng tôi đã ấn định ngày nổ súng và tiến hành huy động hàng nghìn dân công của Đức Hoà, Đức Huệ đến các nơi tập kết. Tuy vậy, tôi vẫn có cảm giác như có cái gì chưa thật ổn. Suy đi tính lại các công việc, cho kiểm tra lại các đơn vị, cũng không có gì thiếu sót, chỉ còn chờ anh Bảy Thành và nội ứng kiểm tra lại xem sao? Cái đêm ta định đánh thì nội ứng lại không đúng phiên gác, nhưng các anh có hứa là sẽ có mặt và tìm cách gác thay tên khác để đón quân ta vào. Nghe vậy tôi thấy hiệp đồng có phần phiêu liêu quá, dễ hỏng việc. tôi đặt giải thiết chiều hôm đó bọn địch điều cơ sở của ta làm công việc nào đó? Vả lại không có phiên gác mà lại xin gác thay có khi bị nghi ngờ và lộ hết. Tôi buộc phải quyết định lùi ngày đánh lại để chờ anh Bảy Thành hiệp đồng lại với nội ứng.

        Quyết định ấy thật không đơn giản chút nào, bởi vì lúc đó chúng tôi đã báo cáo với Khu xin để lực lượng lại, đánh xong trận Hiệp Hoà sẽ đưa xuống nam lộ số 4. Đáng lẽ chúng tôi phải đưa tất cả xuống vào dịp đầu tháng 11, lúc đó đảo chính Diệm ở Sài Gòn. Nhưng cuộc đảo chính ấy không đem lại thời cơ nào cho ta nên việc áp sát Sài Gòn cũng chưa thật cần thiết. Nhưng khi nghe tin đình trận đánh lại, có người đề nghị đưa ngay lực lượng xuống phía Nam, bỏ hẳn trận Hiệp Hoà đi. Thậm chí còn có người cho là tôi sợ không dám đánh nữa. Bên cạnh đó còn một vấn đề hóc búa phải giải quyết là: làm thế nào giữ được bí mật vì hàng nghìn dân công không thể cho về, cũng không thể tập trung một chỗ quá lâu.

        Quyết tâm thực hiện trận đánh, tôi đứng ra chịu trách nhiệm trước Tỉnh uỷ và Quân khu về mọi quyết định của mình, nhất là quyết định hoãn trận đánh. Về bản thân, tôi không lo bị kỷ luật hay mất chức. Cái lo lớn nhất của tôi là sự thành bại của trận đánh liên quan đến sinh mạng của hàng trăm cán bộ, chiến sỹ, vốn quý nhất của sự nghiệp cách mạng và của nhân dân Long An. Vì thế, tôi không cho phép mình sai lầm trong quyết định này.

        Mọi vấn đề rồi cũng được giải quyết tốt đẹp. Anh Bảy Thành đã nắm lại và hiệp đồng rất chắc giờ gác đêm của nội ứng. Ba Tô và Nguyễn Văn Ghe. Việc giữ bí mật cho dân công cũng được giải quyết tốt bằng cách giao cho khối dân vận tổ chức vài cuộc đấu tranh, vài vụ phá lộ, đắp mô trên đường làm cho quân địch không nghi ngờ về sự tập trung của nhân dân.

        Đêm 22 tháng 11 năm 1963, chúng tôi đưa bộ đội vào trận đánh. Tham gia đánh trực tiếp vào căn cứ gồm Đại đội 1 và đơn vị đặc công. Tổng quân số tương đương quân số địch, tức khoảng 500 quân. Ở vòng ngoài có Đại đội 2; lực lượng pháo binh, phòng không cũng khoảng 300 quân nữa. Ngoài ra còn có mấy trăm dân công phục vụ.

        Sở chỉ huy của tỉnh đội đóng ở Rạch Thiêm, cách mục tiêu khoảng hơn một ki-lô-mét. Ở đây có anh Tư Vũ, Tỉnh đội trưởng, tôi – Chính trị viên và anh Tư Chiểu, Sáu Châu là cán bộ tham mưu.

        Bộ đội ta tiếp cận khá tốt nên tình hình xung quanh Hiệp Hoà khá yên tĩnh, nhưng đó là những giờ phút theo dõi, chờ đợi rất căng thẳng ở sở chỉ huy. Tin tức từ bên trong báo ra đều đặn và thuận lợi, nhưng tôi vẫn lo không biết có tình huống gì bất trắc xảy ra không. Đến 12 giờ đêm, bên trong báo ra là bộ đội đã đến con mương cuối cùng, đang bắc thang để chuẩn bị leo lên tường. Tình hình như thế là tiến triển tốt. Nhưng khoảng 10 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từng loạt tiểu liên nổ bên trong căn cứ, tiếp theo đó là tiếng súng đại liên trên lô cốt. Tôi lo quá, không lẽ đã bị lộ, phải đánh ngay từ bờ tường thì trận đánh khó khăn thêm. Vừa lúc đó tiếng nổ lớn của bộc phá và ánh lửa rực bốc lên từ giữa căn cứ. Tiếp đó là tiếng nổ liên hồi của đủ loại súng không còn phân biệt được của ta hay của địch. Nhưng chúng tôi biết là đặc công đã hoàn thành nhiệm vụ và bộ binh đang phát triển chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:36:35 pm

        Pháo binh địch ở các nơi không thấy bắn về Hiệp Hoà, máy bay cũng chưa thấy lên, như vậy có nghĩa là bọn sỹ quan Mỹ - ngụy và trung tâm thông tin đã bị ta tiêu diệt ngay từ phút đầu.

        Trận đánh kéo dài khoảng 40 phút và diễn ra đúng như phương án. Ta làm chủ hoàn toàn trận địa, dân công vào tận bên trong căn cứ để thu súng đạn. Sau đó chúng tôi mới biết những loạt súng đầu tiên là của đặc công và nội ứng kết hợp nhau xử lý tình huống tiêu diệt một tiểu đội biệt kích đi tuần về để các chiến sỹ bộc phá lao vào đánh mục tiêu chính. Tình huống ấy nằm ngoài dự kiến của chúng tôi, nhưng bộ đội đã xử lý hết sức đúng đắn và sáng suốt. Điều đó có tầm quan trọng rất lớn đối với cả quá trình diễn biến của trận đánh.

        Ta bắt được hàng trăm tù binh, thu hơn 500 súng, hàng tấn đạn dược. Ta hy sinh sáu đồng chí, bị thương mười. Trận đánh đạt thắng lợi, hiệu suất chiến đấu rất cao. Sáng hôm sau, địch càn lớn từ hai hướng đến, nhưng các cánh quân của ta đã rút lui an toàn.

        Tin chiến thắng Hiệp Hoà được truyền đi rất nhanh trong toàn tỉnh. Ai cũng vui mừng phấn khởi, nhưng vui mừng nhất có lẽ là tôi, vì trận đánh này đã thu hút toàn bộ tâm trí của tôi từ bấy lâu nay.

        Theo kế hoạch đã định sẵn để kết hợp và hưởng ứng với Hiệp Hoà, tất cả các nơi của Long An đồng loạt tiến công vào các đồn bốt. Ở phía nam lộ số 4, lực lượng của anh Chín Tài và Sáu Nam ở Cần Đước, Cần Giuộc đã tiến công vào các “ấp chiến lược” và đứng lại luôn tại đó hỗ trợ cho nhân dân vùng lên phá ấp trở về làng cũ. Ở Đức Hoà, bộ đội địa phương và dân quân du kích tiến công bức hàng, bức rút hàng chục đồn bốt. Thừa thắng ở Hiệp Hoà, chúng tôi tổ chức ngay đợt hoạt động trên phạm vi toàn tỉnh, lấy Đức Hoà làm trọng điểm, thời gian từ đầu tháng 12 đến cuối tháng 12 năm 1963.

        Từ đó “ấp chiến lược” của địch vỡ từng mảng lớn. Đến tháng 4 năm 1964, tỉnh đội lại tổ chức đánh một trận lớn tiêu diệt căn cứ huấn luyện dân vệ ở Gò Đen làm địch phải rút bỏ hàng loạt đồn bốt vì thiếu quân bổ sung. Đồn bốt bỏ chạy thì “ấp chiến lược” cũng tan rã theo. Đến đây, Long An đã phá tan hầu hết số “ấp chiến lược” mà Mỹ - Diệm lập trong hai năm 1962 và 1963. Chỉ trong vòng năm tháng (từ tháng 11/1963 đến tháng 4/1964), quân dân Long An đã đạt được một tốc độ rất cao về chống phá “bình định” phá “ấp chiến lược”.

        Đối với Long An, chiến thắng Hiệp Hoà có ý nghĩa rất quan trọng trong nhiệm vụ phá “ấp chiến lược”. Ta đã khôi phục lại vùng giải phóng quan trọng nhất của Long An. Vì Hiệp Hoà là một căn cứ biệt kích nằm ngay trung tâm của tỉnh. Hành lang Đức Hoà, Đức Hệ (Huệ) không chỉ quan trọng đối với Long An mà còn là hành lang của toàn miền, vì Vàm Cỏ Đông là nơi tiếp giáp giữa miền Đông Nam Bộ với miền Tây Nam Bộ và đông nam Cam-pu-chia.

        Với số súng lấy được ở Hiệp Hoà, chúng tôi có thể tăng cường lực lượng lên rất nhiều, và cách đánh ở Hiệp Hoà có thể vận dụng để tiêu diệt các đồn bốt khác. Bộ đội rất tin tưởng ở cách đánh kết hợp này.

        Với chiến thắng Hiệp Hoà, chúng tôi vô cùng phấn khởi nhưng lúc đó chưa đánh giá được hết ý nghĩa và tầm ảnh hưởng của nó. Càng về sau, càng thấy trận Hiệp Hoà thực sự là một trận đánh có tác dụng xoay chuyển tình thế cho Long An. Trước khi đánh Hiệp Hoà, chúng tôi ở thế bị động khó khăn, thậm chí bế tắc về phương thức hoạt động phá “ấp chiến lược”. Nhưng sau Hiêp Hoà, chỉ cần năm tháng liên tục tiến công, chúng tôi đã phá toàn bộ hệ thống “ấp chiến lược” của địch gồm gần 300 ấp.

        Ở Long An, tôi cho là biện pháp đánh tiêu diệt đồn bốt địch giữ vai trò quan trọng nhất trong cao trào phá “ấp chiến lược”. Thường là trong đêm bộ đội tiêu diệt đồn bốt, sáng đứng lại đánh càn hỗ trợ cho nhân dân phá ấp, bung về làng cũ. Có khi ta đánh một đồn quan trọng là vỡ mấy “ấp chiến lược”. Có nơi ta chưa đánh “ấp chiến lược” cũng tự tan vỡ.

        Nói vậy không có nghĩa là Hiệp Hoà làm nên được cao trào phá “ấp chiến lược” nhanh và mạnh ở Long An, mà còn có những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác. Hình thức phá lỏng “ấp chiến lược” trước đó cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm cho “ấp chiến lược” tan vỡ nhanh sau này. Về phía địch, lúc đầu chúng tập trung cấp chiến đoàn vào môt khu vực, ta không đủ sức đánh, nhưng khi chúng lập xong hàng trăm “ấp chiến lược” ở khắp nơi thì chính chúng cũng phải phân tán, trải mỏng lực lượng để chiếm giữ nên yếu đi và bộc lộ nhiều sơ hở. Đến lúc đó lực lượng ta lại mạnh hơn nên mới đánh được.

        Nhân dân ai cũng căm ghét “ấp chiến lược”, mà thực chất là môt trại tập trung. Nếp sống gò bó, trái với người dân Nam Bộ quen sống phóng khoáng thoải mái, gắn liền với ruộng vườn của mình. Chính đó là những yếu tố căn bản đưa đến sự thất bại của quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ - Diệm.

        Tình hình phá “ấp chiến lược” ở toàn Nam Bộ cũng tương tự như vậy. Từ đầu năm 1963, mặc dù đã có phong trào “Thi đua Ấp Bắc”, nhưng ta mới làm chậm được tốc độ xây dựng “ấp chiến lược” của chúng, chưa phá được những ấp chúng đã xây. Phải đến cuối năm 1963 đầu 1964, khi địch đã dàn mỏng ta mới có điều kiện và thời cơ để phá vỡ từng mảng lớn đồn bốt và “ấp chiến lược” trên phạm vi toàn Miền.

        Đối với riêng tôi, trận Hiệp Hoà có một vị trí vô cùng quan trọng trong suốt cuộc đời hoạt động quân sự. Vấn đề không phải chiến thắng Hiệp Hoà đem lại thành tích và tiếng tăm cho cá nhân tôi mà vì trận này đã cho tôi nhiều kinh nghiệm căn bản của môt người chỉ huy là: tính kiên quyết, cụ thể, tỉ mỉ và phải có tinh thần dám chịu trách nhiệm cao. Vấn đề tâm đắc nhất ở Hiệp Hoà là chiến thuật phải gắn chặt với con người cụ thể. Cán bộ thế nào, chiến sỹ thế nào mới dám chọn cách đánh như vậy, chứ không phải cứ có quân là muốn đánh thế nào cũng được.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:38:33 pm
           
LÀM CHỦ CHIẾN TRƯỜNG

        Sau khi phá tan về cơ bản hệ thống “ấp chiến lược” của địch, vùng giải phóng của Long An được mở rộng, có thể cơ động và đứng chân ở hầu hết các huyện: từ vùng ruột Vàm Cỏ Đông thuộc Đức Hoà - Đức Huệ xuống Bến Lức, Thủ Thừa vượt sang phía nam lộ số 4 đến Long Cang, Long Định, hạ Cần Giuộc, Châu Thành. Cái thế cơ động liên hoàn ấy là điều kiện rất quan trọng để lực lượng vũ trang có thể làm chủ chiến trường. Nói các vùng giải phóng của ta có thế liên hoàn, không phải là nối liền với nhau mà cách nhau không xa lắm để bộ đội có thể đi trong một đêm từ căn cứ này sang căn cứ khác.

        Sau chiến thắng Hiệp Hoà một thời gian ngắn, lực lượng của Long An đã lấy lại được phong độ chiến đấu và trưởng thành nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trang bị của bộ đội hồi đó đã khá hơn trước rất nhiều. Ngoài số vũ khí Mỹ lấy được trong trận Hiệp Hoà, lực lượng vũ trang Long An còn có thêm số vũ khí từ miền Bắc đưa vào như K44, ĐKZ, súng cối, súng 12,7. Lúc đó cấp trung đội của đơn vị cơ động cũng trang bị đại liên. Căn cứ địa và lực lượng là hai yếu tố thuận lợi rất căn bản của Long An lúc đó, nhưng khó khăn cũng không nhỏ. Đó là sự tập trung lực lượng của địch về chiến trường Long An - Hậu Nghĩa.

        Từ đầu tháng 4 năm 1964, Sư đoàn 25 ngụy được điều từ Quảng Ngãi về Hậu Nghĩa. Chúng đóng dài từ Trảng Bàng, Củ Chi xuống đến Đức Hoà - Đức Huệ và ra tới lộ số 4 thuộc Bến Lức – Thủ Thừa. Ở phía nam lộ số 4 có liên đoàn thuỷ quân lục chiến từ Sài Gòn triển khai suốt từ Nhà Bè xuống Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành. Ở vùng biên giới Đức Huệ có liên đoàn biệt động quân biên phòng. Phía giáp với Mỹ Tho có một trung đoàn của Sư đoàn 7 đứng trên lộ số 4. thế là cả bốn phía đều có quân chủ lực ngụy, trong đó đối tượng chính của Long An là Sư đoàn 25 ngụy Sài Gòn.

        Tính riêng về lực lượng, địch hơn hẳn, nhưng trong quân sự, đông quân chưa hẳn là mạnh mà còn phải xem cái thế của hai bên. Bộ đội ta đang làm chủ nhiều vùng nông thôn quan trọng, chúng thì làm chủ thị trấn, thị xã và trục giao thông; tất nhiên cả ta và địch đều muốn giành quyền làm chủ chiến trường.

        Quân địch kéo về Long An đông nhằm phản kích, chiếm lại các vùng vừa bị mất trong cao trào phá “ấp chiến lược. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang và nhân dân lúc này là phải giữ vững và mở rộng hơn nữa vùng giải phóng. Trong tình thế ấy, chúng tôi phải xác định rõ đối tượng tác chiến của bộ đội tỉnh là quân chủ lực ngụy, là cả Sư đoàn 25, cùng với bọn thuỷ quân lục chiến, biệt động quân và một bộ phận của Sư đoàn 7 ngụy. Còn bộ đội địa phương huyện, du kích xã, ấp phải đánh được từ lực lượng bảo an trở xuống. Chúng tôi xác định phải tự lực đối phó với địch chứ không trông chờ, ỷ lại vào lực lượng cấp trên, vì không phải chỉ có Long An khó, mà nhiều nơi khác cũng khó khăn không kém.

        Cuối tháng 4 năm 1964, Tỉnh uỷ Long An họp đánh giá tình hình và tìm phương hướng đối phó với địch. Lúc đó anh Chín Cần đã về Mỹ Tho làm Bí thư, anh Võ Trần Trí làm Bí thư Long An. Hội nghị bàn xoay quanh vấn đề làm sao đánh bại được quân chủ lực ngụy. Chúng tôi phân tích: dù quân chủ lực địch càn quét cấp trung đoàn hay sư đoàn thì đơn vị cơ sở của nó vẫn là tiểu đoàn, đánh từng mũi hoặc từng cánh. Như vậy, phải xây dựng cho bộ đội tỉnh có khả năng diệt được cấp tiểu đoàn địch mới có thể làm thất bại các cuộc hành quân “bình định” của chúng. Bộ đội phải được tăng cường quân số, trang bị và phải huấn luyện các hình thức chiến thuật như đánh đồn, đánh vận động và hết sức chú ý hình thức chiến thuật tập kích dã ngoại. Chúng tôi chú ý hìn thức tập kích dã ngoại trên cơ sở phân tích: tiểu đoàn chủ lực địch thường không đóng trong đồn, lúc nghỉ ngơi chúng ở trong căn cứ lớn rất khó đánh. Khi đi càn ban ngày, đi từng tiểu đoàn nhưng vẫn nằm trong đội hình chung, có sự hỗ trợ của các cánh khác. Chỉ khi chúng đóng dã ngoại thì dù có gần mấy, trong điều kiện đêm tối cũng không chi viện cho nhau được. Tuy vậy, quân địch đi càn ban ngày không phải chỗ nào ta cũng có thể phục kích vận động được do địa hình và quân địch luôn cảnh giác đề phòng. Còn ban đêm khi chúng đóng dã ngoại, nếu ta nắm chắc thì chỗ nào cũng có thể đánh được.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:39:24 pm

        Hội nghị Tỉnh uỷ vừa xong, chúng tôi nhận được tin địch chuẩn bị mở cuộc càn lớn vào Đức Hoà, lực lượng gồm hai trung đoàn của Sư đoàn 25 (Trung đoàn 46 và trung đoàn 50) cùng với ba tiểu đoàn biệt động quân đang dàn đội hình trên lộ số 10, với chính diện tiến công hàng chục ki-lô-mét, hướng về phía Vàm Cỏ Đông. Có lẽ Sư đoàn 25 muốn mở cuộc hành quân lớn cấp sư đoàn đầu tiên này để lấy thế. Chúng tưởng với lực lượng đông, có thể đánh thẳng vào căn cứ để tiêu diệt lực lượng và cơ quan lãnh đạo ta.

        Trước tình hình rất khẩn trương, chúng tôi tập trung bàn ngay kế hoạch đối phó. Nếu ta đem lực lượng chủ yếu ra đánh với chúng ngay từ những ngày đầu cuộc càn sẽ không có lợi, vì bọn này mới đến Long An nên còn hung hăng. Cần phải có thời gian đánh tiêu hao, làm chúng mệt mỏi và chủ quan, lúc đó mới tạo điều kiện đánh những đòn tiêu diệt từng tiểu đoàn, bẻ gãy cuộc càn của chúng.

        Trên cơ sở phân tích đó, kế hoạch cụ thể được xác định: sử dụng một bộ phận của Đại đội 2 cùng bộ đội địa phương Đức Hoà và du kích các xã quần nhau với địch bằng bắn tỉa, lựu đạn gài, chông mìn, làm chúng mệt mỏi. Lợi dụng lúc địch tập trung ở phía bắc, ta đưa Đại đội 1 xuống phía nam lộ, tranh thủ mở một số vùng, khi nào có thời cơ, quay về phía bắc đánh đòn quyết định.

        Phương án đề ra là phải hành động trước để nắm quyền chủ động nên ngày 2 tháng 5 năm 1964, Đại đội 2 và bộ đội địa phương Đức Hoà thực hiện trận vận động phục kích ở Bình Tiền, diệt một đại đội biệt động quân. Trận đánh diễn ra ngay trước mặt đội hình lớn của Sư đoàn 25 ngụy nên có sức hút rất mạnh. Trung đoàn 46 Sư đoàn 25 và hai tiểu đoàn biệt động quân từ trên lộ số 10 kéo ngay vào Bình Tiền lùng sục. Chúng đã vào đúng ý đồ gài thế kìm chân của ta.

        Ngay tối hôm sau (3 tháng 5), Đại đội 1 được lệnh hành quân xuống phía nam thực hiện kế hoạch tiến công ở Cần Giuộc. Đêm 5 tháng , Đại đội 1 kết hợp với bộ đội địa phương Cần Giuộc tiến công tiêu diệt liền hai đồn Long Phụng và Chợ Núi; đêm sau lại tập kích một đại đội bảo an đóng ở xã Long An. Thế là trong mấy ngày, ta giải phóng thêm ba xã là Phước Vĩnh Tây, Long Phụng và Long An. Lực lượng ta tiến công trên khu vực này không gặp chủ lực địch. Có lẽ chúng bị bất ngờ nên không điều động kịp. Mặt khác, do ta tiến công nhanh nên chúng không kịp ứng phó. Đại đội 1 tiến công ở Cần Giuộc nhằm hai mục đích: một là, mở rộng vùng giải phóng; hai là, cho địch biết lực lượng chủ yếu của Long An đã xuống phía nam lộ, cách rất xa khu vực Đức Hoà.

        Điều ấy làm cho các đơn vị chủ lực địch đang càn lớn chủ quan, cho rằng không có đối thủ chính.

        Ở Đức Hoà, chúng tôi theo dõi chặt chẽ diễn biến của cuộc càn, nhận thấy những dấu hiệu mệt mỏi và chủ quan của binh lính Sư đoàn 25. Chiều 6 tháng 5, bộ phận trinh sát của tỉnh về báo cáo Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 46 bắt đầu ra khỏi khu vực chúng đang lùng sục để đi về phía đông. Có thể chúng đi tìm một chỗ nghỉ chân nào đó. Nhận định thời cơ để tập kích bọn này đã đến, chúng tôi chỉ đạo trinh sát bám thật chắc bọn địch và báo cáo thường xuyên, đồng thời lệnh cho Đại đội 1 về ngay Tân Phú trong đêm 6 tháng 5. Tình huống này đã có trong kế hoạch dự kiến, nên Đại đội 1 trở về đến Hoà Khánh vào rạng sáng 7 tháng 5.

        Bộ đội vừa về đến nơi, anh Tư Chiểu lội ngay sang chỗ chúng tôi để nắm tình hình. Khi nghe tôi nói sẽ tập kích ngay đêm nay, anh Tư Chiểu cũng tỏ ra băn khoăn. Anh nói bộ đội liên tục cơ động và chiến đấu cả tuần lễ liền, sức đã mệt, gạo dự trữ cũng hết, làm sao đánh ngay được?

        Chúng tôi cùng nhau bàn bạc, cân nhắc kỹ từng vấn đề và cuối cùng thống nhất nhận định: bộ đôi ta đã mệt nhưng quân địch còn mệt mỏi hơn, chúng lại chủ quan nên đây là thời cơ rất hiếm. Nếu ta gắng sức sẽ đỡ tốn xương máu rất nhiều. Vấn đề sức khoẻ và lương thực của bộ đội, chúng tôi đã có cách giải quyết, trước hết để cho bộ đội được ngủ vài tiếng đồng hồ, anh em trẻ sẽ lại sức ngay. Trong khi đó cán bộ lo bổ sung lương thực, đạn dược, đến tối có thể đánh được. Chiều hôm ấy chúng tôi xuống động viên bộ đội, nói rõ cho anh em biết đấy là thời cơ không nên bỏ qua. Cán bộ, chiến sỹ đại đội đúng là những con người tuyệt vời. Tất cả đều vui vẻ chuẩn bị đi chiến đấu. Điều làm anh em tin tưởng, yên tâm nhất là trinh sát hứa sẽ dẫn từng mũi vào, khi nào nhìn thấy địch mới giao lại cho bộ binh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:40:33 pm

        Chiều tối địch dừng chân ở cầu Láng Ven, trinh sát ta nắm chắc từng cụm quân. Trời vừa tối Đại đội 1 hành quân, nhưng đi đến nửa đường bỗng nhiên máy bay địch đến đánh bom vào một đoạn kênh ngay trước mặt. Đầu tiên chúng tôi tưởng lộ bí mật. Có người đề nghị cho bộ đội quay về. Chúng tôi bình tĩnh ngồi lại phân tích tình hình, chờ xem địch có hành động gì tiếp theo. Cuối cùng chúng tôi cho rằng địch đánh bom ngăn chặn có tính chất đề phòng chứ không phải chúng phát hiện ra lực lượng ta. Bọn địch ở cầu Láng Ven vẫn không có triệu chứng gì đề phòng hoặc di chuyển. Tôi cho rằng chính trận đánh bom ấy làm chúng chủ quan hơn, vì tin rằng không có đối phương nào đến gần chúng được.

        Chúng tôi tiếp tục cho bộ đội hành quân. Đêm hôm đó, trận tập kích đã diễn ra gần đúng như phương án, giành thắng lợi giòn giã. Đó là trận đầu tiêu bộ đội Long An tiêu diệt tiểu đoàn chủ lực địch. Hai ngày sau, Đại đội 1 lại tập kích thành công một trận nữa ở Hựu Thạnh, tiêu diệt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 46 của Sư đoàn 25. Sau hai trận đánh lớn đó, Sư đoàn 25 ngụy rút quân ra lộ số 4, bỏ dở cuộc càn vào Đức Hoà. Như vậy, khả năng tiêu diệt tiểu đoàn chủ lực và bẻ gãy cuộc càn cấp sư đoàn của địch đã trở thành hiện thực.

        Khi tiến hành đợt hoạt động nhằm bẻ gãy cuộc càn vào Đức Hoà của Sư đoàn 25 ngụy, chúng tôi không hề nghĩ là mình mở chiến dịch mà chỉ sắp xếp kế hoạch một cách tự nhiên theo những kinh nghiệm ở chiến trường. Sau này nghiên cứu lại, có người gọi đó là chiến dịch của bộ đội địa phương. Tôi nghĩ tên gọi không quan trọng, vấn đề chính là rút kinh nghiệm: dù có quân nhiều hay ít, người chỉ huy cũng phải khéo sắp xếp kế hoạch và điều hành chặt chẽ mới có thể tạo và nắm thời cơ để thực hiện những trận đánh lớn. Chỉ có đánh tiêu diệt mới bẻ gãy các cuộc càn quy mô lớn của địch.

        Đợt hoạt động đầu tháng 5 năm 1964 chẳng những đã đánh bại được cuộc càn quy mô cấp sư đoàn của địch, bảo vệ được vùng căn cứ mà còn để lại những kinh nghiệm quý báu về nhiều mặt. Đó là kinh nghiệm về điều hành đợt hoạt động dài ngày, kinh nghiệm phối hợp chiến trường, kinh  nghiệm giữ quyền chủ động bằng cách phối hợp và cơ động lực lượng...

        Có thể nói qua đợt hoạt động này, lực lượng vũ trang Long An đã có bước trưởng thành vượt bậc cả về khả năng chiến đấu và năng lực chỉ đạo, chỉ huy. Mặc dù chiến trường luôn sôi động và ác liệt, nhưng bộ đội chiến đấu rất vững vàng và tự tin.

        Sau khi đánh bại cuộc càn Đức Hoà của Sư đoàn 25 ngụy, Tỉnh uỷ Long An triệu tập hội nghị để vạch ra chủ trương hoạt động mới. Trên cơ sở nhưng thắng lợi và kinh nghiệm của đợt hoạt động, đồng chí Võ Trần Chí nêu vấn đề thảo luận quyết tâm đánh quỵ Sư đoàn 25 ngụy và mở rộng vùng giải phóng của Long An. Đồng chí phân tích: trên cơ sở ta đã diệt được từng tiểu đoàn chủ lực địch, nếu mỗi trung đoàn của địch bị đánh thiệt hại nặng hoặc bị tiêu diệt hai tiểu đoàn thì coi như trung đoàn ấy mất sức chiến đấu. Nếu ta làm mất sức chiến đấu được hai trung đoàn thì coi như đã đánh quỵ được Sư đoàn 25 ngụy. Vấn đề giải phóng nông thôn luôn gắn liền với việc ta có thể đánh quỵ được sư đoàn chủ lực của địch hay không. Nếu bọn chủ lực thất bại, sẽ kéo theo sự tan rã của bảo an, dân vệ. Đồn bốt không có chỗ dựa sẽ không đứng vững được. Ngược lại, vùng giải phóng càng rộng thì càng có điều kiện để lực lượng ta cơ động và tạo điều kiện đánh quỵ sư đoàn địch.

        Chúng tôi thảo luận kỹ từng vấn đề và nhất trí với cách phân tích của anh Võ Trần Chí. Quyết tâm ấy được chính thức ghi vào nghị quyết của Tỉnh uỷ.

        Để thực hiện quyết tâm đó, chúng tôi phải giải quyết hàng loạt vấn đề. Trước hết vẫn là vấn đề lực lượng. Nếu chỉ có hai đại đội tỉnh và các trung đội của huyện thì không thực tế. Nhưng may là thời kỳ này cấp tỉnh đã được phép thành lập tiểu đoàn. Thực tế Long An đã có tiểu đoàn, vì quân số Đại đội 1 đã lên tới 500 và đã thành lập đảng bộ chứ không phải chi bộ. Nhưng ngay cả quân số ấy cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đánh quỵ sư đoàn chủ lực địch. Vì vậy, chúng tôi chủ trương tăng cường quân số, trang bị hơn nữa. Tiểu đoàn 1 làm lễ ra mắt ở Hội Đồng Sầm, số quân gần 800. Tiểu đoàn 2 có số quân gần 400. Các đơn vị trực thuộc cũng được tăng cường quân số, trang bị.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:41:03 pm

        Như vậy, tính riêng lực lượng tập trung của tỉnh có khoảng 1.500 quân, tương đương số quân một trung đoàn. Lực lượng huyện cũng được tăng cường quân số và giao thêm trách nhiệm phải cơ động theo yêu cầu chiến đấu của tỉnh chứ không phải chỉ hoạt động trong phạm vi huyện mình. đối với lực lượng du kích xã, chúng tôi cũng chủ trương phải cơ động được trong phạm vi nhỏ nên đã tổ chức hình thức mới, gọi là du kích liên xã. Ba đến bốn xã góp quân lại thành lập một trung đội. Du kích liên xã có nhiệm vụ cơ động trong phạm vi ba, bốn xã ấy hoặc trong huyện. Lúc đó có người gọi du kích liên xã là “bộ đội huyện em” và cho rằng ở Long An lúc đó có tới bốn thứ quân, chưa kể du kích mật ở các xã còn do địch kiểm soát. Đây là thời kỳ lực lượng vũ trang Long An phát triển toàn diện và mạnh mẽ nhất.

        Về mặt chỉ đạo, chỉ huy, ban chỉ huy tỉnh đội cũng rút được kinh nghiệm: mỗi khi mở đợt hoạt động ở đâu đều thành lập ban chỉ huy tổng hợp gồm cả quân sự, chính trị, binh vận, dân vận. Cán bộ quân sự cáo nhất của tỉnh ở khu vực đó giữ vị trí chủ trì, có quyền điều động tất cả các lực lượng. Tổ chức chỉ huy theo phương thức này bảo đảm được sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp thống nhất toàn diện, không có cấp trung gian.

        Vấn đề được đặt ra là phải kết hợp được hau nhiệm vụ đánh quỵ Sư đoàn 25 ngụy và giải phóng nông thôn. Trong các đợt hoạt động phải cố gắng tạo được các trận đánh then chốt, tiêu diệt từng tiểu đoàn chủ lực địch. Điều đó có nghĩa thúc đẩy, tạo nên tác động tương hỗ mạnh giữa hai nhiệm vụ.

        Muốn đánh quỵ Sư đoàn 25 ngụy, tất nhiên phải nhắm vào hai Trung đoàn 46 và 50 đang đóng trên đất Long An. Ngoài các trận đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn, việc làm tan rã, đào ngũ trong binh lính địch cũng rất quan trọng. Do đó, mũi binh vận phải có kế hoạch cụ thể và tăng cường hoạt động.

        Sau thất bại ở Đức Hoà, Sư đoàn 25 ngụy giữ thế cố thủ trong các căn cứ ở phía bắc lộ số 4. Lợi dụng tình hình ấy, chúng tôi quyết định đưa lực lượng xuống phía nam mở đợt hoạt động thực hiện giải phóng vùng và kéo Sư đoàn 25 xuống, tạo điều kiện tiêu diệt chúng.

        Trong đợt hoạt động tháng 8 năm 1964, Tiểu đoàn 1 mở vùng giải phóng ở hạ Cần Giuộc, thượng Cần Đước. Tiểu đoàn 2 mở vùng ở Châu Thành. Nhưng Sư đoàn 25 địch vẫn án binh bất động, không đưa quân xuống giải toả. Có lẽ chúng sợ ta cài thế như hồi tháng 5. Do vậy, gần cuối đợt chúng tôi phải để Tiểu đoàn 1 về phía bắc tạo điều kiện đánh vào Sư đoàn 25. Lúc này Tiểu đoàn 263 của Quân khu 8 do anh Ba Đào làm Tiểu đoàn trưởng đang ở Long An (Tiểu đoàn này đang trên đường về Miền). Chúng tôi đề nghị anh Ba Đào cho tiểu đoàn tham gia cùng bộ đội tỉnh trong trận vây đồn diệt viện ở Lương Hoà. Kết quả, các đơn vị hiệp đồng chặt chẽ, đánh trận vận động phục kích trên lộ số 9, diệt được một tiểu đoàn của Sư đoàn 25, bắn chết tên Tiểu đoàn trưởng, bắt sống Tiểu đoàn phó. Sau đó lại tiêu diệt một tiểu đoàn khác trong đồn Lương Hoà.

        Đợt hoạt động tháng 8 năm 1964 của Long An đạt được cả hai mục đích: giải phóng một số vùng ở nam lộ số 4 và diệt hai tiểu đoàn chủ lực của Sư đoàn 25 ngụy.

        Tháng 10 năm 1964, bọn chỉ huy Sư đoàn 25 buộc phải đưa Trung đoàn 46 xuống phía nam lộ số 4 đánh chiếm lại vùng thượng Cần Đước và hạ Cần Giuộc ta mới mở ra. Trung đoàn này không làm thay đổi được tình hình mà còn rơi vào tình trạng đào ngũ, rã ngũ trầm trọng. Ngay tháng đầu tiên, đã có 600 tên lính trốn khỏi đơn vị.

        Trung đoàn 46 xuống phía nam lộ làm cho Sư đoàn 25 bị dàn mỏng, buộc phải bỏ dở cuộc càn vùng Đức Huệ. Nắm thời cơ đó, chúng tôi quyết định mở đợt hoạt động nhằm giải phóng khu vực này. Tiểu đoàn 263 của anh Ba Đào được điều lên Đức Huệ vây đánh Quéo Ba, Tiểu đoàn 1 về Đức Hoà chuẩn bị đánh Sò Đo và Đức Lập để giữ chân Sư đoàn 25 không cho chúng đưa quân sang Đức Huệ. Diễn biến chiến đấu đúng như dự tính của tỉnh đội, bọn chi khu Đức Huệ đóng ở Quéo Ba bị đánh phải rút chạy, ta giải phóng hoàn toàn một huyện.

        Quá trình đánh quỵ Sư đoàn 25 và mở rộng vùng giải phóng ở Long An diễn ra dưới dạng các đợt hoạt động mà hồi đó chúng tôi quen gọi là các đợt “mở mảng mở dề”. Mục đích của mỗi đợt hoạt động là phải đánh để mở ra một khu vực tương đối lớn nên gọi là mảng và phải đánh tiêu diệt hàng loạt đồn bốt và “ấp chiến lược” tức là phá hẳn một dề chứ không chỉ đánh lẻ tẻ từng cái môt như trước.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:41:35 pm

        Thực tiễn của các đợt “mở mảng mở dề” đã xuất hiện nhiều cách phong phú như “đánh bồi”, “đánh nhồi”. Thực chất của đánh bồi, đánh nhồi là đánh nhiều lần, liên tiếp vào một mục tiêu cho đến khi quân địch phải bỏ. Vấn đề này lúc đầu không ai nghĩ ra được mà do rút tỉa dần trong thực tế chiến đấu. Có những vị trí quan trọng đối với địch, nhưng nếu bị đánh nhiều lần, lần nào địch cũng bị thất bại thì chúng phải bỏ. Từ đó, muốn giải phóng một khu vực nào, cần nhắm vào mục tiêu quan trọng nhất và kiên quyết đánh nhiều lần (tất nhiên phải đánh thắng, còn đánh không thắng dù đánh bao nhiêu lần cũng không có tác dụng), buộc địch phải bỏ vị trí quan trọng ấy, kéo theo sự tan rã của các vị trí kém quan trọng hơn. Thế là cả một “dề” đồn bốt bị phá vỡ. Điển hình của hình thức đánh bồi đánh nhồi là ở Đức Lập, Đức Hoà. Đức Lập nằm trên đường từ Hậu Nghĩa đi Củ Chi, do một tiểu đoàn biệt động quân đóng chốt dã ngoại để giữ.

        Trong thời gian gần hai tháng, chúng tôi tổ chức tập kích Đức Lập ba lần, lần nào địch cũng bị đánh thiệt hại nặng. Đến cuối năm 1964, địch buộc phải bỏ vị trí Đức Lập, co về Hậu Nghĩa.

        Sang năm 1965, Quân khu 8 đưa về Long An hai tiểu đoàn bộ binh là 267 và 269 do anh Sáu Lượng chỉ huy. Lực lượng này tăng cường luôn cho Long An nên tỉnh đội lập ban chỉ huy chung do tôi làm chỉ huy trưởng, anh Sáu Lượng làm chỉ huy phó. Lực lượng tập trung của tỉnh được tăng cường gấp đôi. Long An càng có điều kiện để mở các đợt hoạt động lớn.

        Long An có nhiều sông và lộ lớn có ý nghĩa về quân sự. Sở dĩ lực lượng vũ trang Long An giữ được quyền chủ động trên chiến trường là do đã phá được thế chia cắt đường sông và đường bộ của địch. Do tính chất của chiến trường và yêu cầu chiến đấu, các phân đội công binh thuỷ và công binh bộ được thành lập. Các đơn vị này được phân công từng đoạn lộ hoặc đoạn sông quan trọng, với nhiệm vụ đánh địch thường xuyên và phối hợp với các đợt hoạt động của tỉnh hoặc huyện. Lực lượng công binh thuỷ của Long An hồi đó tương đối mạnh và có các cán bộ chỉ huy tài giỏi như Huỳnh Văn Um, Võ Tất Đạt, Nguyễn Tấn Thành... Các đội săn tàu của Long An đã “chặt đứt” sông Soài Rạp và Vàm Cỏ ra thành nhiều đoạn. Một trong những trận đánh lớn nhất và điển hình nhất của công binh thuỷ là trận tiêu diệt tổng hạm Ngọc Hồi của địch. Điều độc đáo của trận đánh là ta đã sử dụng quả thuỷ lôi nặng 300 ki-lô-gam, do quân giới Long An tự chế tạo đánh chìm một tầu lớn và 12 tàu chiến nhỏ của địch.

        Như vậy, một đại đội công binh thuỷ giỏi có sức mạnh tương đương với một hạm đội nhỏ trên sông và có khả năng phá được thế chia cắt đường sông của địch.

        Ở chiến trường Long An, quốc lộ số 4 (nay là quốc lộ số 1) là con đường chiến lược giữ vị trí quan trọng về quân sự. Nó cùng với hệ thống lộ nhỏ hơn như lộ số 21, 8, 9 ở phía bắc; lộ số 5A, lộ số 18 ở phía nam hình thành một mạng lưới cơ động quân sự rất lợi hại. Nếu địch làm chủ được tất cả các con lộ này, chúng có thể chia cắt chiến trường của ta ra từng mảng nhỏ. Vì thế, công binh đường bộ của Long An cũng có vị trí quan trọng như công binh thuỷ. Đối với quân địch, nhiều đoạn đường chỉ còn tồn tại trên bản đồ, còn trên thực tế đã bị công binh băm nát, không còn sử dụng được.

        Đến cuối năm 1965, Long An đã giải phóng được 57 xã, trong đó có một huyện giải phóng hoàn toàn là Đức Huệ. Thực chất quân địch chỉ còn kiểm soát được các khu vực ven thị trấn, thị xã và ven các trục lộ giao thông quan trọng, phần lớn vùng nông thôn đều do ta kiểm soát.

        Sư đoàn 25 ngụy từ khi về Long An, không những không chiếm lại được những vùng đã mất trong cao trào phá “ấp chiến lược” mà còn bị đánh tơi tả, với hàng chục lượt tiểu đoàn bị tiêu diệt hoặc bị thiệt hại nặng. Có đơn vị như Trung đoàn 46, chỉ còn đủ sức nằm trong căn cứ, đối phó với tình trạng đào ngũ ngày càng gia tăng. Sư đoàn 25 thực sự đã quỵ gối trước sức mạnh tiến công liên tục của quân và dân Long An.

        Có thể nói đây là một trong những thời kỳ phát triển toàn diện và mạnh mẽ nhất của chiến tranh nhân dân ở Long An và cũng trong thời kỳ này. Long An được tặng danh hiệu “Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”.

        Tám chữ vàng đó đã nói lên đầy đủ về cuộc chiến đấu của quân dân Long An. Toàn dân Long An đều đánh giặc. Không phân biệt già trẻ gái trai, mỗi người đều có cách đánh riêng của mình. Có lòng dân là có tất cả.

        Trong suốt cuộc đời chiến đấu, có thể nói đây là thời kỳ chúng tôi có nhưng điều kiện thuận lợi cơ bản để thực hiện những chủ trương vạch ra nhằm hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:42:09 pm

        Long An, luôn giữ chủ động trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trên cơ sở đánh giá và dự kiến đúng đắn tình hình, Tỉnh uỷ tự đặt ra chỉ tiêu, tự tìm phương pháp tiến hành và xác định quyết tâm nhằm đánh bại các thủ đoạn của địch trên phạm vi tỉnh mình. Nói như vậy, không có nghĩa là Long An tách khỏi sự chỉ đạo của Khu. Ngược lại, nhờ chủ động mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ lớn mà trên giao cho tỉnh. Đó là một kinh nghiệm quý mà chúng tôi thu hoạch được trong thời kỳ này.

        Về mặt quân sự, tôi tâm đắc nhất vấn đề cơ động và phối hợp hoạt động giữa các vùng, giữa các lực lượng. Ở chiến trường Long An mà không cơ động lực lượng, lập tức rơi ngay vào thế chia cắt của địch. Nhưng cơ động không chỉ ở chỗ nhanh hay chậm mà quan trọng là cơ động đến nơi có đánh ngay được không. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi phải có sự phối hợp hết sức chặt chẽ giữa các cấp tỉnh, huyện, xã trong mối quan hệ chỉ đạo, chỉ huy và trong cả công tác tham mưu. Khi lực lượng tỉnh xuống đến mục tiêu cần đánh là huyện đã chuẩn bị trước và sẵn sàng phục vụ lực lượng tỉnh, kể cả vấn đề hậu cần. Như vậy lực lượng tỉnh mới có thể cơ động nhanh và liên tục.

        Chiến thuật là vấn đề then chốt làm nên những chiến công. Bộ đội Long An thời kỳ đó không những cơ động giỏi mà còn thực hiện được tất cả các hình thức chiến thuật với trình độ tương đối đồng đều. Đặc biệt là chiến thuật đánh đồn, gần như đã nổ súng là tiêu diệt. Sau đó là chiến thuật tập kích. Bộ đội đã có trình độ hiệp đồng đánh những trận có quy mô lớn khi đội hình địch đóng quân kéo dài hàng ki-lô-mét. Còn hình thức đánh phục kích, vận động đã là sở trường của bộ đội Long An.

        Những vấn đề trên đều rất quan trọng, không thể thiếu được trong chiến đấu. Nhưng vấn đề quyết định vẫn là đội ngũ cán bộ của Long An lúc đó, vừa có năng lực, dũng cảm, vừa có tinh thần đoàn kết như anh em một nhà. Tất cả tập trung cho nhiệm vụ chiến đấu, không phân biệt là cán bộ quân sự hay chính trị. Đặc biệt là vai trò của bí thư đảng các cấp huyện, xã luôn là người trực tiếp cầm súng chiến đấu cùng với bộ đôi. Các bí thư huyện thường là Tỉnh uỷ viên, nhưng trong hoạt động quân sự đều theo sự chỉ huy của cán bộ quân sự không phải là Tỉnh uỷ viên. Điều đó không tự nhiên có được, mà là cả quá trình phấn đấu, thử thách khắc nghiệt từ những ngày đầu phôi thai, và quan trọng hơn là được nhân dân ủng hộ, những người dân trung dũng kiên cường, hết lòng vì sự nghiệp giải phóng đất nước.

        Thời ấy, chúng tôi có cả thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Anh em thường gọi đó là thời vàng son, thời oanh liệt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:44:31 pm

ĐỐI THỦ MỚI

        Từ giữa năm 1965, khi nghe tin Mỹ đưa quân vào Đà Nẵng, sau đó là Sài Gòn, chúng tôi đã nghĩ là trước sau chúng cũng đến Long An. Nhưng lúc đó chưa ai biết quân Mỹ như thế nào, cách đánh chúng ra sao? Cấp trên cũng chưa chỉ đạo gì cụ thể. Tư lệnh Khu 8 lúc đó là đồng chí Lê Quốc Sản (Tám Phương) khi đến Long An cũng có nói vấn đề quân Mỹ nhưng cũng chỉ mới nói về vũ khí, trang bị, kỹ thuật của chúng, chưa đề cập đến cách đánh cụ thể thế nào. Tôi nghĩ đó là tình trạng chung. Quyết tâm đánh Mỹ rất cao nhưng cách đánh cụ thể thì chưa rõ. Tôi còn nhớ lúc đó các anh hay nhắc câu nói của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là “cứ đánh Mỹ đi, rồi sẽ tìm ra cách đánh”.

        Khi đề cập đến việc Mỹ vào và vấn đề đánh Mỹ, Tỉnh uỷ Long An phân tích: Mỹ vào thì phải dựa vào ngụy. Nếu quân ngụy yếu thì Mỹ cũng sẽ không làm gì được nhiều. Do đó ta không ngồi chờ nó vào, mà phải nhanh chóng đánh tan chỗ dựa của nó trước. Quyết tâm của chúng tôi lúc đó cũng chỉ có thể xác định được như vậy. Nhưng tôi nghĩ ở Núi Thành, Vạn Tường (Khu 5) đánh được Mỹ thì rồi Nam Bộ, Long An cũng sẽ đánh được.

        Về mặt tinh thần, chúng tôi đã sẵn sàng để đón đối thủ mới. Tinh thần ấy được chuẩn bị kỹ đến từng đơn vị, từng chiến sỹ.

        Chúng tôi được biết kế hoạch phản công mùa khô lần thứ nhất của Mỹ sẽ đánh hai hướng chính là Khu 5 và miền Đông Nam Bộ. Long An nằm một phận trong hướng tiến công của địch ở Nam Bộ.

        Trận đánh đầu tiên của quân Mỹ trên đất Long An đúng vào ngày đầu tiên của năm dương lịch 1966. Hôm ấy, chúng đánh vào Vàm Cỏ Đông bằng hai cánh: cánh thứ nhất đổ quân bằng trực thăng xuống Mỹ Quý Tây thuộc Đức Huệ, cánh thứ hai dùng xe bọc thép M113 đánh từ lộ số 1 Trảng Bàng, Củ Chi xuống Đức Hoà qua đường An Ninh - Lộc Giang. Lúc ấy ở phía Đức Huệ lực lượng ta có Tiểu đoàn 267 (còn ở bờ phía đông Vàm Cỏ). Ở Đức Hoà có Tiểu đoàn 1. Tỉnh uỷ và tỉnh đội vẫn ở khu vực Hoà Khánh – Bình Hoà.

        Cuộc hành quân này mang tên Ma-rô-đơ, do Lữ đoàn dù 173 Mỹ tiến hành. Chúng tôi rất muốn theo dõi sát diễn biến của cuộc càn đầu tiên này để tìm ra chỗ mạnh, chỗ yếu của quân Mỹ. Sau khi cuộc càn chấm dứt, chúng tôi xuống từng đơn vị trực tiếp nghe cán bộ, chiến sỹ kể lại mới biết cụ thể trận đánh. Ở cánh tây Vàm Cỏ, anh em Đức Huệ và đơn vị 267 kể là:  lần đầu tiên chứng kiến Mỹ đổ quân bằng trực thăng, đúng là ghê gớm thật. Máy bay đông như ruồi, bay kín cả bầu trời và chỉ một lúc sau lính Mỹ đã đứng đầy cả cánh đồng Mỹ Quý Tây. Trước khi đổ quân xuống, chúng ném bom bắn pháo và dùng máy bay trực thăng vũ trang bắn nát tất cả các khóm cây bờ chuối xung quanh.

        Nếu không có công sự vững chắc, sẽ không thể chịu nổi cường độ bom đạn ác liệt đó. Quân Mỹ đánh vào địa hình không giống như cách đánh của quân ngụy. Chúng đi theo từng hàng dọc, súng lăm lăm trong tay. Khi đụng phải lựu đạn gài chúng kêu máy bay trực thăng xuống chở bọn bị thương hoặc chết đi, tiếp tục tiến quân mà không phản ứng gì bằng hoả lực. Nhưng chỉ cần một phát súng từ trong vườn bắn ra là chúng kêu pháo, kêu bom bắn nát cả một vùng. Bọn này xài bom đạn không tiếc tay.

        Nhìn chung, anh em nhận xét lính Mỹ rất chậm chạp, nhưng vũ khí, hoả lực của chúng nhiều vô kể. Nếu không bình tĩnh dễ tróc công sự mà chạy, mà đã chạy thì khó tránh được pháo và trực thăng vũ trang.

        Ở cánh phía đông Vàm Cỏ, anh em Tiểu đoàn 1 và Đức Hoà kể: xe tăng, xe bọc thép của Mỹ bò như cua ngoài đồng. Chúng đi thành những đường thẳng băng như kẻ chỉ, bất kể ruộng lúa, hoa màu của nhân dân. Còn chuyện lính Mỹ đánh vào địa hình giống như anh em ở 267 đã kể.

        Khi nghe anh em kể lại trận đánh, chúng tôi chú ý theo dõi thái độ và nét mặt của từng chiến sỹ. Điều làm chúng tôi yên tâm là không ai tỏ ra sợ hãi hay mất tinh thần. Có anh em còn nói đánh Mỹ dễ hơn đánh ngụy vì lính Mỹ to con bắn dễ trúng, lại chậm chạp và khờ, không ranh ma bằng lính ngụy. Qua anh em, chúng tôi cũng nhận thấy có tâm lý ngán ngại hoả lực mạnh của Mỹ. Đây là vấn đề cần nghiên cứu giải quyết.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:47:06 pm

        Trong những trận càn sau, anh em còn phát hiện thêm những chỗ yếu là lính Mỹ không tinh mắt, có khi chỉ cách chúng vài chục mét mà chúng không nhìn thấy. Lính Mỹ rất sợ mìn và lựu đạn gài. Những tên bị thương thường khóc như trẻ con. Lính Mỹ cũng rất sợ các bảng tử địa có vẽ đầu lâu xương chéo. Lính Mỹ hành quân càn quét và nghỉ ngơi theo giờ giấc nhất định, nên đánh chúng vào giờ nghỉ là tốt nhất. Anh em cũng phát hiện Mỹ sử dụng hoả lực rất chính xác, chúng có thể ném bom, bắn pháo rất sát đội hình hành quân Mỹ mà không sợ lạc đạn. Nếu chúng phát hiện đường di chuyển của quân ta mà kêu pháo bắn thì khó tránh.

        Đối với quân Mỹ, chúng tôi chưa hình dung công tác binh vận sẽ làm như thế nào, mũi đấu tranh chính trị của nhân dân sẽ ra sao? Nhưng câu chuyện bà con Đức Hoà ngăn xe tăng Mỹ, không cho chúng chạy qua ruộng đã cho chúng tôi suy nghĩ nhiều về công tác binh vận và đấu tranh chính trị đối với quân Mỹ.

        Anh em ở Đức Hoà kể lại, ngay trong cuộc càn đầu tiên, khi thấy xe Mỹ chạy đại qua đồng ruộng, một số bà con xót quá, kéo nhau ra tìm cách làm cho chúng đừng chạy trong ruộng. Bọn lính Mỹ dừng lại xem bà con làm gì. Hai bên ra dấu cho nhau, có bà con còn mang dừa và thơm ra cho lính Mỹ ăn. Cuối cùng chúng hiểu ra và không chạy vào các ruộng có hoa màu nữa. Như vậy mũi binh vận và chính trị cũng không phải hoàn toàn bế tắc.

        Khi quân Mỹ đến, chúng tôi rất muốn tổ chức một số trận đánh tiêu diệt một vài tiểu đoàn, đại đội để đánh phủ đầu chúng. Nhưng sau khi nghiên cứu kỹ đối tượng, chưa thể đánh chúng như đánh bọn Sư đoàn 25 ngụy được.

        Đối với quân Mỹ đi càn, ta cũng có thể bố trí trận địa phục kích vận động tiêu diệt từng đại đội, tiểu đoàn. Nhưng sau khi đánh, không thể rút lui an toàn vì chúng phản ứng rất nhanh và chính xác cả bằng bộ binh và hoả lực phi pháo.

        Quân Mỹ đóng dã ngoại cũng khác với quân ngụy nhiều. Chúng dùng máy bay trực thăng chở lô cốt đúc sẵn, hàng rào kẽm cùng với hệ thống mìn tự động dày đặc, ta không dễ gì tiếp cận. Không biết bộ đội chủ lực đánh Mỹ như thế nào, nhưng trước mắt với trình độ, vũ khí trang bị và quân số như bộ đội địa phương thì đánh Mỹ theo cách du kích bằng chông mìn cạm bẫy là thích hợp với sở trường và hạn chế được thương vong do bom đạn Mỹ gây ra.

        Là cán bộ chỉ huy ai cũng muốn đánh lớn, diệt nhiều địch nhưng không thể đơn giản mà phải nghiên cứu kỹ đối tượng, tìm ra cách đánh thích hợp vừa diệt được nhiều địch, vừa bảo vệ được lực lượng ta.

        Trong mùa khô năm 1966, ở Long An, quân Mỹ mới đánh ở phía bắc lộ số 4. Các cuộc càn của chúng thường là cấp lữ đoàn hoặc tiểu đoàn. Đặc biệt chúng không bao giờ hành quân chung với quân ngụy. Đây là một hiện tượng cần khai thác để đối phó với các cuộc càn của Mỹ. Các cuộc càn của Mỹ thường tập trung vào khu vực giáp Đức Hoà, Đức Huệ gồm bảy xã Bình Hoà Nam, Bình Hoà Bắc, Tân Phú, Hoà Khanh, Hựu Thạnh, Lương Hoà và Thạnh Lợi. Đây là vùng căn cứ quan trọng nhất của Long An ở phía bắc lộ số 4. Trong cuộc càn ấy, lính Mỹ bắt đầu nếm mùi của chiến tranh nhân dân. Chúng bị sa vào các bãi mìn dày đặc ở Gò Sao, Rạch Nhum. Chúng bị du kích gài lựu đạn ngay trên đường đi, bắn tỉa lúc nghỉ trưa, nghỉ tối. Nhưng điều mà quân Mỹ không thể ngờ được chính những người dân cũng tự gài lựu đạn hoặc chôn mìn để đánh chúng. Không phải tự nhiên mà người dân đánh Mỹ, cũng không phải ai thúc đẩy. Những gì lính Mỹ đã làm đối với người nông dân đã quyết định thái độ của họ. Lính Mỹ đến Long An lúc đầu phát kẹo  bánh, áo thun cho trẻ em, trang trí trường học, khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho nhân dân. Nhưng sau đó không lâu, chính những đơn vị lính Mỹ ấy đã bắn phá các làng mạc, cho xe bọc thép chạy trên ruộng lúa, hoa màu, đã dùng súng bắn chết những người dân vô tội. Xe quân sự Mỹ chèn xe đò chở khách lật xuống mương. Tất cả những hành động đó diễn ra trước mắt người dân, vì thế họ tự động cắm chông gài mìn giết lính Mỹ. Cuộc chiến tranh nhân dân và phong trào toàn dân đánh giặc đã diễn ra một cách tự nhiên như thế.

        Đồng bào đang làm việc hay ở trong nhà, khi thấy những cánh quân Mỹ đi đằng xa đến, họ lấy mìn, lựu đạn ra gài vào những con đường họ đoán lính Mỹ sẽ đi qua. Sau đó, họ bình tĩnh tiếp tục làm việc và quan sát kết quả trận đánh. Bọn lính Mỹ biết chính những người dân ấy gài mìn giết chúng, nhưng không thể biết cụ thể là ai. Chúng rất sợ bị đánh theo kiểu này.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:48:22 pm

        Với cách đánh đó, nhu cầu về lựu đạn gài và mìn rất lớn. Thứ vũ khí này quân dân Long An có thể tự sản xuất được và có nguồn nguyên liệu khá dồi dào từ chính bom đạn lép của Mỹ. tỉnh đội chủ trương phát động một phong tào toàn tỉnh thu gom đạn lép. Hồi đó có chỉ tiêu, số lượng và mức khen thưởng thích đáng. Kết quả thu gom thật khả quan. Công binh xưởng các cấp hoạt động hết công suất, sản xuất được rất nhiều mìn và lựu đạn gài các loại, phổ biến nhất là lựu đạn làm bằng vỏ hộp cá mòi. Lúc đó vỏ hộp cá mòi rất nhiều, ở đâu cũng có. Cách chế tạo lựu đạn bằng vỏ đồ hộp này rất giản đơn, chỉ cần nhồi thuốc nổ vào đầy hộp rồi gắn kíp là xong.

        Trong mùa khô năm 1966, phong trào đánh Mỹ của nhân dân Long An phát triển khá cao nhưng chủ yếu ở các huyện phía Bắc, vì lúc đó quân Mỹ đánh xuống phía Nam chưa nhiều. Phong trào đánh Mỹ thu hút cả phụ nữ, người già và trẻ em. Trong nhân dân đã xuất hiện các hiện tượng vay mượn thành tích để được cấp danh hiệu dũng sỹ. Lúc đó tỉnh cấp rất nhiều danh hiệu dũng sỹ cho nhân dân và bộ đội.

        Cách đánh Mỹ của nhân dân tuy không tiêu diệt được từng đơn vị, không bẻ gãy được từng cuộc càn; nhưng khi nó đã trở thành phong trào, phát triển trên một diện rộng thì số lượng diệt địch rất đáng kể: và điều quan trọng hơn là làm cho lính Mỹ mệt mỏi về tinh thần, dần dần nhận ra tính chất phi nghĩa của chiến tranh, từ đó dẫn đến các hành động phản chiến, không đi hành quân...

        Mùa khô năm 1966, lực lượng vũ trang Long An không đánh quân Mỹ được trận nào lớn, mà chủ yếu cùng nhân dân đánh chông mìn, cạm bẫy, đưa chiến tranh du kích phát triển rộng khắp. Về phía Mỹ, chúng cũng không làm thay đổi được tình thế thất bại trước đây của Sư đoàn 25 ngụy. Vùng giải phóng được giữ vững, quân ngụy vẫn không ngóc đầu dậy được.

        Cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của Mỹ đã chấm dứt mà không mang lại kết quả cụ thể gì. Chúng tiếp tục chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Quân dân Long An chuẩn bị đối phó với cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ với chủ trương đánh quân ngụy vào mùa mưa, đánh vào chỗ dựa của quân Mỹ.

        Mùa khô năm 1966 – 1967, quân Mỹ phải thực hiện cuộc phản công với “hai gọng kìm” là “tìm diệt” và “bình định”, nhưng phạm vi tiến công hẹp hơn lần trước. Chúng tập trung vào các cụm căn cứ của ta ở Dương Minh Châu (Tây Ninh), Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa. Đó là mũi “tìm diệt”. Mũi “bình định” là các cuộc hành quân hỗ trợ quân ngụy và triển khai đóng thêm các căn cứ.

        Từ giữa tháng 12 năm 1966, Mỹ triển khai hàng loạt các cuộc càn lớn trên khu vực phía bắc Sài Gòn. Lớn nhất là cuộc hành quân Gian-Xơn Xi-ty, có tới 21 tiểu đoàn Mỹ tham gia. Đồng thời với các cuộc hành quân đó, Mỹ triển khai đóng căn cứ ở phía nam Sài Gòn. Sư đoàn 9 Mỹ đổ quân đóng ở Rạch Kiến thuộc Cần Đước, Long An, sau đó đóng căn cứ ở Bình Đức, Mỹ Tho.

        Vào mùa khô năm 1966 – 1967, trên cả hai vùng nam bắc lộ số 4 của Long An đều có quân Mỹ hoạt động. Ở phía bắc lộ tuy không có căn cứ Mỹ nhưng thường xuyên có một lữ đoàn của Sư đoàn 25 Mỹ ở Đồng Dù kéo xuống càn quét yểm trợ “bình định”. Ở phía nam, chúng xây dựng Rạch Kiến thành một căn cứ lớn đóng được từ một tiểu đoàn đến một lữ đoàn. Mỹ chọn Rạch Kiến có lẽ vì đó là vị trí trung gian giữa Cát Lái – Nhà Bè với Bình Đức, Mỹ Tho, để hình thành tuyến phòng thủ từ xa cho phía nam Sài Gòn. Mỹ đóng ở Rạch Kiến còn nhằm phá khu giải phóng quan trọng nhất của ta ở phía nam lộ số 4. Nếu để chúng bung ra hoạt động thường xuyên ở khu vực này, ta sẽ không còn một lõm căn cứ nào ở địa bàn nam lộ số 4 nữa.

        Quân Mỹ vừa đổ xuống Rạch Kiến, chúng tôi đã nghĩ ngay đến việc hình thành “vành đai diệt Mỹ”. Hình thức “vành đai” diệt Mỹ đã xuất hiện sớm ở Khu 5, sau đó là miền Đông Nam Bộ, như ở Trảng Lớn (Tây Ninh), Củ Chi, Hậu Nghĩa. Những kinh nghiệm về tổ chức vành đai chúng tôi đã tham khảo và chuẩn bị trước khi Mỹ đóng căn cứ trên đất Long An. Tuy nhiên, những nơi đó đều có những điều kiện và tính chất riêng, nơi dựa vào núi, nơi dựa vào rừng, nới dựa vào địa đạo. Tất cả những điều đó ở Rạch Kiến không có. Nhưng Rạch Kiến lại là địa bàn tương đối đông dân, đó là đặc điểm mà các vành đai khác không có. Vấn đề chúng tôi nghiên cứu là làm sao hình thành một vành đai diệt Mỹ bằng chiến tranh nhân dân, với sự tham gia trực tiếp và rộng rãi của nhân dân.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:51:24 pm

        Quá trình quân Mỹ xây dựng căn cứ Rạch Kiến, tôi cùng anh Tư Chiểu, anh Sáu Châu xuống Cần Đước trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức vành đai diệt Mỹ; đồng thời điều Tiểu đoàn 2, một trung đội đặc công tỉnh và ba khẩu cối 82 của nữ pháo binh Long An xuống hoạt động ở nam lộ 4. Lúc này, lực lượng tại chỗ có một đại đội bộ đội địa phương Cần Giuộc (của anh Chín Tài), một đại đội ở Cần Đước (của anh Sáu Nam), mỗi xã có hàng chục du kích và dân quân.

        Căn cứ Rạch Kiến nằm lọt giữa một vùng giải phóng khá rộng ở thượng Cần Đước và hạ Cần Giuộc (gồm mười xã giải phóng của Cần Đước và hai xã của Cần Giuộc). Địa hình ở đây rất trống trải, thế đất lại thấp, không thể xây dựng được địa đạo như ở Củ Chi. Địa hình ấy cũng không cho phép ta đánh đối mặt với quân Mỹ vì chúng có hoả lực mạnh, có thể huỷ diệt trận địa và đủ phương tiện cơ giới, máy bay để bao vây trận địa ta. Thực tế đã diễn ra là một trung đội của Cần Đước đánh quân Mỹ càn quét đã bị hy sinh hết; bọn Mỹ còn cắt đầu anh em ta đem về cắm ở hàng rào căn cứ Rạch Kiến.

        Căn cứ vào lực lượng và địa hình, ban chỉ huy vành đai tổ chức theo kiểu ban chỉ huy tổng hợp trong các đợt hoạt động trước, gồm cả ba cấp tỉnh, huyện, xã, có đủ các thành phần quân sự, chính trị, binh vận. Lấy Rạch Kiến làm trung tâm, khu vực vành đai được chia thành ba vòng hoạt động với tính chất, nhiệm vụ khác nhau. Vòng trong cùng là các xã, ấp giáp hàng rào căn cứ. Lực lượng ở đây chỉ có du kích và du kích mật; nhiệm vụ chủ yếu là gài mìn, lựu đạn xung quanh căn cứ và quan sát các hoạt động của địch để báo cáo cho ban chỉ huy. Vòng thứ hai, do bộ đội địa phương Cần Đước và lực lượng tỉnh đảm nhiệm, có nhiệm vụ phân tán nhỏ lẻ đánh quân Mỹ khi chúng đi càn quét. Vòng thứ ba, giao cho du kích địa phương vận động nhân dân tham gia đánh Mỹ bằng mọi hình thức, mọi vũ khí có trong tay.

        Vấn đề cốt lõi của Rạch Kiến là phải hình thành và duy trì được hình thức vành đai chiến tranh nhân dân. Vành đai phải có dân, được đông đảo nhân dân tham gia bằng nhiều hình thức, không quân sự đơn thuần.

        Tổ chức và phân công nhiệm vụ như vậy, nhưng để hoạt động có hiệu quả là cả một quá trình tìm tòi đầy hy sinh gian khổ. Khi Mỹ vừa đóng xong căn cứ Rạch Kiến, chúng tôi tổ chức đánh phủ đầu chúng bằng một trận tập kích hoả lực. Đặc công của ta đã tiếp cận sát căn cứ, dùng hơn 30 quả đạn H12 (bắn ứng dụng bằng cọc nạng - gọi là bắn lủi) và một số đạn B41 đánh căn cứ, diệt một số địch. Cách đánh này đạt hiệu quả cao, ta ít bị thương vong nhưng không có nhiều đạn H12 và B41 để đánh liên tục được. Khi bọn Mỹ ở Rạch Kiến bung ra đóng chốt tiền tiêu ở Long Khê (Xoài Đôi), chúng tôi quyết định tập kích. Anh Tư Chiểu trực tiếp chỉ huy trận đánh. Khi bàn phương án, tôi đề nghị anh Tư Chiểu tập kích xong cho bộ đội rút về sát hàng rào Rạch Kiến. Đó là hướng bất ngờ bọn Mỹ sẽ không bắn pháo chặn. Đúng là rút hướng đó đỡ bị pháo nhưng lại chịu hoả lực bắn thẳng khá dữ đội, bộ đội ta phải bò và lết đến rách hết quần áo – anh Tư Chiểu cũng vậy. Đó là cách đánh của bộ đội tập  trung tỉnh, nhưng hình thức thường xuyên của các tuyến thế nào thì lại phải tiếp tục tìm tòi từ thực tế.

        Thời kỳ đầu, chúng tôi tổ chức cho anh em thảo luận để xác định quyết tâm và tìm cách đánh. Anh em đều cho rằng lính Mỹ rất chậm chạp không tinh mắt, nhưng hoả lực của chúng rất mạnh và trình độ hiệp đồng tác chiến giữa các binh chủng rất cao, không nên đánh dàn mặt với chúng. Sau nhiều cuộc thảo luận, cuối cùng một chiến sỹ của Tiểu đoàn 2 xung phong đi đánh trước để rút kinh nghiệm. đồng chí ấy chọn vị trí phục kích ngay sát con đường lính Mỹ thường đi từ căn cứ ra. Vị trí ấy có đường chạy vào một cụm địa hình có công sự cách đó khoảng 200 mét. Đồng chí bắn chết tên lính Mỹ đi đầu rồi rút về công sự phía sau an toàn, mà quân Mỹ hoàn toàn không phản ứng kịp bằng súng bộ binh. Sau đó chúng mới gọi pháo binh bắn chặn ở một số nơi.

        Trận đánh tuy đơn giản nhưng giải quyết được vấn đề tư tưởng và chiến thuật cho hình thức đánh nhỏ lẻ. Để quân Mỹ đến thật gần, đánh nhanh và rút nhanh sẽ tránh được hoả lực của chúng. Từ kinh nghiệm đó, nhiều tổ, nhiều cá nhân xung phong đi đánh Mỹ. Và rất nhiều chiến sỹ vành đai đạt danh hiệu “dũng sỹ diệt Mỹ”.

        Ở vòng ngoài cùng, nhân dân và du kích đánh Mỹ bằng nhiều hình thức rất phong phú như gài lựu đạn, chôn mìn, đào hầm chông, có người nuôi cả ong bò vẽ và rắn độc để đánh Mỹ.

        Một vấn đề rất khó khăn xuất hiện ở vành đai là quân Mỹ thường bắn pháo rất dữ dội vào các làng xóm làm bà con phải chạy giạt đi nhiều nơi. Nếu dân đi hết thì vành đai không tồn tại được. Vì vậy, bộ đội phải hết sức tránh các trận đánh trực diện với Mỹ ở những khu đông dân, vừa để bảo vệ tính mạng nhân dân, vừa để bảo vệ địa hình và làm cho dân không phải chạy giạt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:52:15 pm

        Ở vành đai bắt đầu xuất hiện các hình thức đấu tranh chính trị do nhân dân sáng tạo ra. Khi bọn Mỹ bắt dân khiêng  tên lính bị thương vì chông vào căn cứ, thay vì đi tắt cho gần, bà con đã khiêng tên này đi vòng qua nhiều làng mạc để mọi người thấy tác dụng của vũ khí thô sơ. Một trường hợp đấu tranh chính trị thành công nữa là khi ta tìm được một xác tên lính Mỹ trong một trận đánh, ban chỉ huy vành đai quyết định giao cho chị em phụ nữ đưa xác tên này vào căn cứ trao cho phía Mỹ và đưa yêu sách đòi Mỹ không được bắn pháo, ném bom bừa bãi vào làng xóm. Bọn Mỹ đã chấp nhận yêu cầu này. Điều đó rất có lợi vì nhân dân đỡ phải chạy giạt. Các hoạt động của vành đai phát triển ngày càng sôi nổi, phong phú và sáng tạo.

        Sau một thời gian, bọn Mỹ ở Rạch Kiến đóng thêm hai đồn ở chợ Tảo và Bình Tịnh. Chúng tôi lập tức cho bộ đội tỉnh nghiên cứu và tập kích vào hai đồn này. Tuy không diệt gọn được từng đại đội Mỹ, nhưng gây cho chúng nhiều thiệt hại, cuối cùng chúng phải rút bỏ.

        Nhìn lại hai mùa khô đánh Mỹ, mặc dù quân dân Long An vẫn giữ được các vùng giải phóng quan trọng và giữ được thế chủ động trên chiến trường, nhưng rõ ràng hiệu suất chiến đấu không cao như thời kỳ 1964 – 1965. Lực lượng vũ trang chưa tạo được trận đánh nào lớn, chưa tiêu diệt được nhiều đơn vị cấp đại đội của Mỹ. Về hình thức chiến thuật, chủ yếu là đánh nhỏ, lẻ bằng chông mìn, lựu đạn và thực hiện một số trận tập kích nhỏ, diệt từng trung đội Mỹ như ở Bàu Sen, Long Khê, Bình Tịnh và Nhật Tảo. Trong khi đó, quân Mỹ đánh phá ngày càng ác liệt hơn, địa hình bị tàn phá nhiều, dân phải chạy giạt ở một số nơi. Trong lực lượng vũ trang, một số anh em tỏ ra ngán ngại hoả lực Mỹ. Đó là thực tế do tương quan lực lượng ở chiến trường tạo ra. Đó cũng là những khó khăn mới mà tỉnh đội đang tìm cách khắc phục.

        Lúc Mỹ chưa vào Long An, trong các cuộc thảo luận để xác định quyết tâm và tìm cách đánh Mỹ, có ý kiến cho rằng Mỹ vào thì không thể đánh du kích được. Vì chúng đi càn theo đơn vị lớn, có xe tăng, xe bọc thép, máy bay yểm trợ. Nhưng thực tế hai mùa khô đánh Mỹ ở Long An tình hình diễn ra ngược lại. Lực lượng ta chưa thể đánh lớn với Mỹ, mà chỉ đánh du kích mới phát huy được tác dụng. Ngay cả lực lượng tập trung của tỉnh, có lúc phải phân tán nhỏ để đánh theo kiểu du kích. Cách đánh phong phú, đa dạng của du kích và nhân dân tuy không tiêu diệt gọn từng đơn vị, không bẻ gãy được từng cuộc càn của quân Mỹ, nhưng đã đánh vào chỗ yếu nhất của đội quân xâm lược là tinh thần. Sau này khi đọc lại những cuốn sách do chính người Mỹ viết, càng thấy rõ người lính Mỹ trên chiến trường Long An mệt mỏi và sợ hãi như thế nào khi rơi vào cách đánh du kích và nhân dân. Do vậy, phần đông lính Mỹ có tâm lý cầu an bảo mạng, chờ đợi hết thời hạn phục vụ ở Việt Nam để được về Mỹ. Qua đó càng thấy rõ vai trò to lớn của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân.

        Trong chiến tranh giải phóng cũng như chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất định phải có tác chiến lớn mới giành được thắng lợi cuối cùng. Nhưng rõ ràng muốn đánh lớn phải trên cơ sở chiến tranh du kích phát triển cao. Phải kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến du kích với tác chiến tập trung lớn mới tạo được sức mạnh tổng hợp quyết định thắng lợi của chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:53:07 pm

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ở PHÍA NAM SÀI GÒN

        Cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ đã thất bại trên phạm vi toàn miền. Ở Long An, lực lượng vũ trang và nhân dân vẫn giữ được những vùng giải phóng rộng lớn. Vành đai diệt Mỹ ở Rạch Kiến tiếp tục phát huy tác dụng, trở thành hạt nhân của chiến tranh nhân dân trên chiến trường toàn tỉnh.

        Gần cuối mùa mưa năm 1967, Long An nhận được sự chỉ thị chuẩn bị cho nhiệm vụ mới cùng với sự thay đổi lớn về tổ chức chiến trường. Long An không còn nằm trong đội hình Quân khu 8 mà chia thành hai phân khu trực thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chỉ huy Miền, đồng thời chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, cùng các phân khu bạn tiến công vào thành phố Sài Gòn khi có lệnh.

        Lúc ấy, về nhiệm vụ, chúng tôi không được biết gì hơn ngoài những điều đã nói trên. Chúng tôi cho đây là một chủ trương mang tính chiến lược của Đảng, phải bảo đảm bí mật tuyệt đối nên không thắc mắc gì, chỉ lo chấp hành cho tốt. Mọi công việc được xúc tiến khẩn trương. Chúng tôi bắt tay ngay vào công tác tổ chức theo sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy Miền về cả địa bàn, lực lượng và cán bộ.

        Phân khu 2 gồm các huyện phía Bắc của Long An và các quận, huyện phía tây Sài Gòn như Bình Tân, Quận 10, Quận 11. Lực lượng gồm có hai Tiểu đoàn 267, 269 và một số đơn vị do Miền đưa về, tổng cộng sáu tiểu đoàn vừa bộ binh, đặc công và pháo. Về cán bộ, anh Võ Trần Chí làm Bí thư Phân khu uỷ cùng với các anh Tư Chiểu, Ba Mỹ, Hai Phải (cán bộ Long An). Anh Hai Lâm được điều từ Khu 8 về làm chỉ huy trưởng, anh Hai Hoàn, chỉ huy phó phân khu.

        Phân khu 3 gồm các huyện nam lộ số 4 của Long An cộng thêm các Quận Nhà Bè, Quận 4, 6, 7, 8. Lực lượng có bảy tiểu đoàn, trong đó có Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 của Long An. Anh Chín Cần được điều từ Mỹ Tho về làm Bí thư Phân khu uỷ 3, tôi làm chỉ huy trưởng quân sự cùng với các anh Mười Xưởng, Tư Ấp, Hai Lơn... phần lớn là cán bộ của Long An. Lộ số 4 trở thành ranh giới giữa hai phân khu. Mỗi phân khu đều có đủ ba vùng là đô thị, vùng ven và nông thôn. Mặc dù đã chia đôi, đã có tên mới nhưng mọi người vẫn quen gọi Phân khu 2 Long An, Phân khu 3 Long An. Trong tình cảm của cán bộ chiến sỹ, không có sự phân chia, nhất là trong nhân dân, vấn đề phân chia coi như không có.

        Công tác chuẩn bị được tiến hành hết sức khẩn trương vì trên cho biết là thời gian còn rất ít mà công việc thì nhiều, vừa mới lạ, vừa khó khăn. Địa bàn vùng ven và thành phố là nơi chúng tôi chưa nắm được tình hình, nên phải cử cán bộ bắt liên lạc với bên trong. Vấn đề quan trọng nhất là làm sao điều tra nắm được các mục tiêu quân sự nằm sâu trong thành phố và các đường tiến quân. Khối lượng công tác hậu cần cũng rất lớn và khó khăn. Làm sao đưa được hàng chục tấn vũ khí, đạn dược từ biên giới xuống vùng sát Sài Gòn trong điều kiện địch càn bố liên tục. Bộ đội phải lo đánh giặc và dựa vào dân. Rất nhiều đoàn dân công được huy động, có người đã đi liên tục hàng tháng trời. Nếu nhân dân Long An không tham gia tích cực, không thể hoàn thành được công tác hậu cần quan trọng này.

        Về tổ chức và chuẩn bị lực lượng, một số đơn vị trên bổ sung cho phân khu vẫn chưa về đến, các đơn vị khác chưa đủ quân số, vũ khí. Hầu hết bộ đội huyện và du kích xã được điều lên bổ sung khẩn trương cho các tiểu đoàn.

        Ngoài ra, còn phải huy động thêm hàng trăm thanh niên tòng quân. Do vậy, ở các địa bàn nông thôn, thời gian này gần như không còn lực lượng. Song song với công tác tổ chức, biên chế, vấn đề huấn luyện đánh tập trung, nhất là đánh thành phố được đặt ra khẩn trương.

        Hàng núi công việc chồng chất, nhưng khí thế rất phẩn khởi, sôi nổi nên mọi người vượt qua được sự mệt nhọc và căng thẳng để lao vào công việc. Sự phấn khởi , hào hứng của chúng tôi bắt nguồn tự nhận thức: lần này nhất định “dứt điểm”. Mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn, có những vấn đề còn chưa tìm ra cách giải quyết nhưng ai cũng nghĩ rằng, đó là cái khó riêng của đơn vị mình, địa phương mình thôi. Trung ương, cấp trên đã tính toán kỹ cả rồi, chắc phải có cách nào chắc ăn mới làm, vì đây là chuyện lớn, đâu phải là một trận đánh của một địa phương. Đến lúc được phổ biến nhiệm vụ và hiệp đồng chiến đấu, mọi người phấn chấn hẳn lên. Như vậy, đây là “tổng công kích - tổng khởi nghĩa” lấy tổng khởi nghĩa làm trung tâm kết thúc thắng lợi. Mũi tổng công kích đóng vai trò hỗ trợ cho tổng khởi nghĩa. Các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu có nhiệm vụ tiến vào các mục tiêu chiến lược trong thành phố để hỗ trợ cho biệt động và hàng nghìn quần chúng, thành niên, sinh viên, học sinh nổi lên giành chính quyền. Chúng tôi có nhiệm vụ đưa quân vào hỗ trợ, còn công việc chủ yếu là cướp chính quyền thì do các anh trong thành phố tổ chức nhân dân đứng lên thực hiện. Thế thì chắc ăn rồi!


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:53:30 pm

        Công tác chuẩn bị được tiến hành rất khẩn trương, nhưng chưa ai biết thời điểm tiến công chính xác ngày nào. Thời gian qua thật nhanh, thấm thoát đã đến mùa khô 1967 – 1968, Tết âm lịch MậuThân gần kề. Đài phát thanh Giải phóng và đài Sài Gòn đều tuyên bố lệnh ngừng bắn trong mấy ngày Tết để nhân dân đón xuân mới theo phong tục cổ truyền. Như vậy có đánh cũng phải sau Tết, ai cũng nghĩ như vậy.

        Để chuẩn bị phương án tác chiến cho Tiểu đoàn 1 là cải trang thành lính Sài Gòn, dùng xe hơi chạy thẳng vào mục tiêu trong thành phố, tôi và anh Mười Xưởng (lúc đó anh Mười Xưởng là Tiểu đoàn trưởng) đã đi nghiên cứu lộ số 4 vào ban ngày được một lần. Đến dịp Tết, chúng tôi định cải trang để đi nghiên cứu một lần nữa cho kỹ hơn. Thực ra chúng tôi cũng chưa vào sâu được trong thành phố. Vấn đề người dẫn đường làm chúng tôi lo lắng, nhưng trên nói là cứ yên tâm, có lực lượng tự vệ thành đảm nhiệm. Do yêu cầu bí mật, bao giờ có lệnh tiến công người dẫn đường mới được đến.

        Do nhận thức về nhiệm vụ như vậy nên trong dịp Tết, chúng tôi vẫn chỉ đạo các đơn vị tổ chức ăn Tết. Như những Tết trước, đơn vị vẫn tổ chức sẵn sàng chiến đấu, một số cán bộ, chiến sỹ được về thăm gia đình hoặc mời gia đình ở xa đến thăm. Riêng cán bộ lại càng bận rộn vì phải tranh thủ những ngày ngừng bắn để đi nghiên cứu, chuẩn bị các mục tiêu. Bộ phận vận chuyển của hậu cần cũng phải tận dụng mấy ngày này. Tối 30 Tết âm lịch, tôi định tranh thủ nghỉ ngơi một chút để sáng mai đi nghiên cứu lộ số 4 với anh Mười Xưởng. Nhưng gần đến giao thừa, chúng tôi ngạc nhiên khi nghe Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn huỷ bỏ lệnh ngừng bắn vì Việt Cộng đã tiến công vào các thành phố miền Trung, nhất là Huế. Lúc đó không ai hiểu vì sao lai có tình trạng này. Không lẽ chúng tôi chỉ chuẩn bị có tính chất nghi binh cho ngoài kia làm thiệt? Nếu không phải vậy thì tại sao chúng tôi không nhận được lệnh tiến công. Ngay cả những bức điện có tính chất nhắc nhở, gợi ý cũng không có? Không lẽ Sài Gòn và miền Nam phải tiến công sau Huế và miền Trung? Làm như thế có lợi gì về mặt quân sự? Tôi không biết điều đó sẽ như thế nào trên phạm vi toàn chiến trường miền Nam, riêng đối với Sài Gòn, như vậy đã mất đi một phần yếu tố bất ngờ khi ta tiến công.

        Mọi người bàn tán xôn xao, nhưng không ai tìm được các giải thích hợp lý. Chúng tôi đón giao thừa trong tâm trạng băn khoăn. Suốt đêm đó chúng tôi chờ đợi xem có bức điện nào trên gửi xuống không, nhưng tất cả đều im lặng.

        Khoảng bốn giờ sáng, tất cả chúng tôi bừng dậy vì nghe tin các anh trong Bộ chỉ huy tiền phương cánh Nam Sài Gòn vừa đến. Nhìn thấy các anh, chúng tôi biết là đang có cái gì vô cùng hệ trọng đầy! Gần như không kịp chào hỏi chúc tụng nhau, các anh nói ngay: Tình hình khẩn trương lắm, lệnh đêm nay phải tiến công Sài Gòn. Phương án cũ của Phân khu 3 không thực hiện, các tiểu đoàn phải tìm cách tiến công bằng được vào Sài Gòn. Nghe xong mệnh lệnh, tôi chỉ biết kêu trời, anh Chín Cần thì điềm tĩnh hơn. Anh nói với tôi: “Ông có kêu trời thì cũng chẳng ai làm thay, mình phải cùng nhau gắng sức làm thôi!”. Anh ấy nói đúng! Lúc đó chẳng có phép tiên nào giải quyết nổi những khó khăn của chúng tôi. Chỉ còn 20 tiếng đồng hồ, mà một nửa là ban ngày không đi lại được qua các cánh đồng, làm sao kịp tổ chức chiến đấu? Triển khai giao nhiệm vụ cho gần 10 tiểu đoàn đang đóng quân rải rác và phân tán, một số cán bộ, chiến sỹ đang đi ăn Tết, lại còn bổ sung lương thực, đạn dược, và phải thay đổi một số trang bị cho Tiểu đoàn 1 mới có thể đánh được. Trước đó Tiểu đoàn  trang bị rất nhẹ theo kiểu biệt động cải trang. Lại còn đường hành quân và phương tiện qua sông? Đến giờ này vẫn chưa có người dẫn đường thì làm sao chọn được đoạn nào để vào thành phố và đi cách nào đến mục tiêu? Toàn là những câu hỏi hóc búa, không có cách trả lời, nhưng không thể không làm.

        Có lẽ các anh trong Bộ chỉ huy tiền phương cánh Nam cũng ở vào tình thế khó khăn như chúng tôi. Anh Trần Hải Phụng và anh Tư Chu chỉ huy các lực lượng biệt động thành mà giờ này còn ở đây, chắc là trong lòng như lửa đốt. Còn anh Trần Bạch Đằng sôi nổi giơ hai bàn tay lao về phía trước nói: “tiến công, tiến công vô!”. Có lẽ anh nóng lòng muốn tiến công ngay vì cho rằng lực lượng quần chúng và sinh viên, học sinh trong nội thành đang sục sôi khí thế tổng khởi nghĩa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:54:03 pm

        Chiều mồng một Tết Mậu Thân, chúng tôi buộc phải cho bộ đội hành quân từ 16 giờ, mặc dù biết như thế rất nguy hiểm. Có thể các đồn bốt địch quan sát thấy sẽ kêu pháo bắn. Nhưng không còn cách nào khác, vì nếu đi muộn hơn, có thể bộ đội chưa đến thành phố trời đã sáng. Chúng tôi đến đơn vị nào thì giao nhiệm vụ cho đơn vị ấy và ra lệnh lập tức hành quân chiến đấu. Các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn cũng kêu trời như chúng tôi vì không biết làm sao gom được số cán bộ, chiến sỹ đang về nhà ăn Tết và làm sao bảo đảm đưa đơn vị đến vị trí đúng giờ quy định. Đúng là vừa chạy vừa xếp hàng cũng không kịp! Có lẽ mỗi người chúng tôi sau khi nghe lệnh phải tiến công Sài Gòn đều đã biến thành người khác nên mới có đủ sức làm việc với một cường độ căng thẳng như thế.

        Tiểu đoàn 1 vượt sông Cần Giuộc trong tình trạng không xuồng, bè, qua hết sông thì đã quá nửa đêm. Đến được sông Quán Cơm thì trời đã hửng sáng.

        Ngay trước mặt là bốt cảnh sát Kiều Công Mười. Tình thế ấy buộc phải đánh để mở đường mà đi, nhưng súng bộ binh và B40 không tiêu diệt được mục tiêu này. Lúc ấy các hoả lực như ĐKZ, 12,7... còn nằm ở phía sau do anh Chín Cần nắm nên chiều hôm đó tôi phải lội ngược lại để điều hoả lực lên. Sau khi diệt được bốt cảnh sát Kiều Công Mười. Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn Phú Lợi mới tiếp tục tiến vào Quận 8 rồi phát triển về phía cầu Nhị Thiên Đường.

        Cánh Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn Đồng Nai vào Quận 6; cánh của Tiểu đoàn 5 Nhà Bè chỉ vào được đến Tân Quy, giáp Quận 4. Ngày đầu tiến vào Sài Gòn diễn ra khác hẳn so với dự kiến của ta. Các tiểu đoàn mũi nhọn không thể tiến nhanh được,vì vũ khí của ta nhỏ, nhẹ, đạn dược lại ít, còn quân địch thì rất đông, dựa vào nhà cửa kiên cố và đường phố chằng chịt đánh chặn quyết liệt. Nhân dân đón tiếp bộ đội với thái độ rất tốt, nhưng không thấy ở đâu hình thành các cuộc biểu tình lớn. Thanh niên, sinh viên cũng chỉ có số ít tiếp xúc với bộ đội, không thấy lực lượng này đấu tranh bằng các đội ngũ đông đảo như đã từng làm trước đó.

        Thế là chúng tôi phải tiến hành một cuộc chiến đấu bằng các trận đánh quân sự đơn thuần. Không phải đóng vai trò hỗ trợ cho tổng khởi nghĩa của quần chúng. Các trận đánh ấy lại tiến hành trong những điều kiện vô cùng khó khăn, phải đột phá mới tiến quân được, nhưng lại không có các loại vũ khí đột phá.

        Ngày thứ hai của cuộc tiến công, tình hình chung toàn mặt trận không có gì chuyển biến lớn cả về quân sự và chính trị. Ở các mũi, tốc độ tiến quân của các tiểu đoàn bắt đầu giảm. Địch phản kích mạnh ở một số nơi. Đến lúc đó chúng tôi nhận ra việc giữ phía sau là hết sức cần thiết để duy trì sức mạnh chiến đấu lâu dài cho các tiểu đoàn đã vào thành phố. Do đó, tôi quyết định điều Tiểu đoàn Phú Lợi lui ra đứng ở Hưng Long – Đa Phước để giữ phía sau cho Tiểu đoàn 1 và cho cả phân khu.

        Lúc ấy các anh trong Bộ chỉ huy cánh Nam Sài Gòn vẫn ở cùng chỗ với Bộ chỉ huy Phân khu 3. Đến ngày thứ hai, các anh cũng không nhận được tin tức gì bên trong thành phố. Không biết ta có chiếm được các mục tiêu chiến lược chưa? Các phân khu khác thuận lợi hay khó khăn? Chúng tôi đánh theo dõi tin tức qua đài phát thanh Sài Gòn và hỏi những người dân từ trong thành chạy ra... Theo các nguồn tin ấy, có vẻ như các phân khu khác cũng giống như Phân khu 3. Trước tình hình ấy, Bộ chỉ huy cánh Nam chỉ thị cho chúng tôi tổ chức một bộ phận thọc sâu để bắt liên lạc với các cánh và nắm tình hình báo cáo. Chúng tôi chọn một số anh em của Tiểu đoàn 2 và trinh sát tổ chức vượt sông ở bến Lê Quang Liêm. Bộ phận này ra đi nhưng không thấy trở lại. Sau này chúng tôi được biết là anh em đã hoàn thành nhiệm vụ bắt được liên lạc với Phân khu 2 tại chợ Thiếc gần đường Trần Quốc Toản nhưng không thể trở về đường cũ vì bị địch ngăn chặn hết.

        Súng vẫn nổ dữ dội trong thành phố. Quân địch dần dần hồi phục qua cơn bất ngờ choáng váng. Phía ta, đạn dược ngày một ít, phải giải quyết thương binh, tử sỹ, lại ở vị trí không lợi về chiến thuật nên sức chiến đấu giảm dân. Trong khi đó mũi đấu tranh chính trị của quần chúng và sinh vên học sinh vẫn chưa thấy nổi lên. Cuộc tiến công của ta vào Sài Gòn lệch hẳn về mặt quân sự đơn thuần, nhưng ta ở thế bất lợi về tương quan lực lượng và vũ khí trang bị.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:55:35 pm

        Sau mấy ngày chiến đấu, các đơn vị phải lui dần ra vùng ven. Vừa ra khỏi thành phố, chúng tôi nhận được lệnh để lực lượng bám vùng ven chờ lệnh tiến công vào Sài Gòn đợt sau. Chúng tôi chấp hành mệnh lệnh, nhưng trong lòng không khỏi băn khoăn: không biết sẽ tiếp tục đánh vào thành phố bằng cách nào, liệu đợt sau này ở trên có tung ra “bửu bối” gì mới không? Nhưng dù thế nào, chúng tôi cũng phải tranh thủ trang bị lại cho các tiểu đoàn bằng các loại hoả lực mà phân khu hiện có, để khi có lệnh đánh vào thành phố các tiểu đoàn không lúng túng như lần trước.

        Sự chờ đợi ở vùng ven thật căng thẳng. Hầu như ngày nào cũng chống càn mà đội hình các tiểu đoàn không có quyền thay đổi nếu không được sự đồng ý của Bộ chỉ huy Miền. Vì vậy bộ đội không có điều kiện nghỉ ngơi, củng cố, số mới bổ sung chỉ xấp xỉ bằng số tiêu hao trong các trận chống càn.

        Thời gian này, chính tôi cũng mất đi đứa con trai chưa đầy 20 tuổi trong một trận càn của chúng ở vùng ven. Con trai tôi tên là Kháng. Năm 14 tuổi đi theo chú Mười Xưởng. Cháu rất nhanh nhẹn, hoạt bát và hay giúp đỡ mọi người nên được các chú rất thương. Thấy cháu còn nhỏ quá chưa dám cho ở đơn vị chiến đấu, các anh ấy đưa về làm bảo vệ cho Tỉnh uỷ để tôi có điều kiến chăm sóc và rèn luyện cháu thêm. Sáng sớm hôm ấy, bộ phận tôi và anh Chín Cần vừa từ Long Cang về đến Mỹ Lộc, Cần Giuộc thì gặp quân Mỹ càn. Chúng bắn hết đến mấy nghìn quả pháo vào địa hình nơi chúng tôi đang ở. Cháu Kháng lo tìm hầm cho tôi và anh Chín Cần rồi ra công sự tiền duyên quan sát địch. Cháu hy sinh trong loạt pháo bọn Mỹ bắn khi chúng đổ quân ngoài cánh đồng trống. Tôi ngồi bên xác đứa con trai 17 tuổi lòng đau tê tái. Tôi nói với cháu như nói với người còn sống: “Con đã tham gia bộ đội sớm, con hy sinh trong một trận chống càn lớn với bọn Mỹ như thế này là con đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng”. Rồi tôi phải đi ngay vì công việc. Chiều hôm đó anh em về báo tin cho má cháu lên để lo chôn cất. Mỹ Lộc, Cần Giuộc là quê vợ tôi, nhà chỉ cách đó khoảng hai, ba ki-lô-mét. Có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của người mẹ mất con... Sau khi cháu Kháng hy sinh, những năm sau, vợ tôi lại lần lượt đưa các con là Chiến và Thắng đi tòng quân. Vợ tôi bảo nếu giữ con ở nhà, cũng bị bọn ngụy bắt lính. Lúc ấy thành ra cha con, anh em bắn nhau, chết cũng khổ mà sống cũng khổ. Có thể nói, hầu hết phụ nữ Long An thời đó đều có nỗi đau mất con. Tôi thấy trong chiến tranh, phụ nữ quê tôi vất vả hơn cả đàn ông. Hoạt động bí mật, phụ nữ là người nuôi giấu cán bộ rất chí cốt. Nhiều chị, nhiều má bị ta tấn tàn khốc nhưng dù chết vẫn không khai hầm bí mật. Đến lúc có chiến tranh phụ nữ cũng tham gia tất cả các công việc nặng nhọc của đàn ông như làm du kích, đào hầm chông, gài mìn, thậm chí còn lập đội nữ pháo binh. Các chị cũng vác đạn, vác những khẩu súng cối mà ngay cả thanh niên không phải ai cũng vác được. Đặc biệt, phụ nữ tham gia dân công rất nhiều. Anh em thương binh và quân y thường nói: phụ nữ mà càng thương thì khỏi phải lo, các chị dù chết cũng không bao giờ bỏ chiến thương. Việc chăm sóc thương binh và chôn cất tử sỹ hầu như do phụ nữ đảm nhiệm. Trong chiến tranh, phụ nữ còn phải lo việc nhà, vừa phải nuôi chồng nuôi con chiến đấu.

        Công lao của phụ nữ lớn lắm. trong chiến tranh nhân dân, không có các chị, các má kiên cường, dũng cảm, hy sinh như thế sẽ không có chiến công, không có anh hùng dũng sỹ! Ở Long An có biết bao bà mẹ có đến ba, bốn, thậm chí bảy, tám con trai, con gái liệt sỹ. Những bà má đó xứng đáng hưởng những phần thưởng cao quý nhất.

        Thời kỳ này Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay ném bom chiến lược B52 ở Long An và vùng ven. Đầu tiên chúng ném bom xuống các vùng căn cứ ven Vàm Cỏ Đông của Đức Hoà. Sau đó chúng trải thảm liên miên suốt từ biên giới Ba Thu xuống đến các địa hình vùng ven giáp Sài Gòn. Ở Phân khu , chúng tập trung oanh tạc vào vùng giải phóng thượng Cần Đước, hạ Cần Giuộc và các địa hình ven sông Vàm Cỏ Đông của Tân Trụ.

        Cùng với nhiệm vụ bám vùng ven để chuẩn bị tiến công vào thành phố, chúng tôi còn được quán triệt tư tưởng chỉ đạo là: Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa là một quá trình. Chúng tôi hiểu câu đó là sẽ tiến công vào thành phố nhiều lần nữa.

        Sau ba tháng chờ đợi, chúng tôi đã nhận được lệnh tiến công đợt hai, nghe phổ biến lệnh tiến công lần này, chúng tôi không bất ngờ đến mức kêu trời như lần trước, nhưng lại băn khoăn về tổ chức, trang bị và cách đánh không có gì thay đổi so với đợt một, thậm chí có mặt còn giảm sút hơn, như không có lực lượng đánh trong nội thành như đợt một mà chỉ có pháo kích từ ngoài vào. Thế nhưng nhiệm vụ của chúng tôi là phải đưa lực lượng vào càng sâu càng tốt, lúc đó gọi là đưa lửa chiến tranh vào sào huyệt địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Giêng, 2017, 11:56:40 pm

        Nếu ai có chút hiểu biết về quân sự và đã từng chỉ huy bộ đội tiến công vào Sài Gòn trong đợt một, sẽ thấy ngay tính chất khó khăn của nhiệm vụ này.

        Trước hết, ta không còn yếu tố bất ngờ về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, quân địch đã tổ chức và chuẩn bị phòng thủ Sài gòn rất chặt chẽ. Chúng chia chiến trường này thành 6 khu vực (ABCDEF) tương ứng với từng hướng tiến công của ta và bố trí lực lượng thành ba tuyến: ở nội thành, mỗi khu vực có từ bốn đến năm tiểu đoàn chủ lực Mỹ - ngụy, cùng với cảnh sát, chiêu hồi, chỉ điểm liên tục đánh phá hầu hết cơ sở của ta. Ở vùng ven, các tiểu đoàn của Mỹ và quân chủ lực ngụy luôn bám sát các tiểu đoàn mũi nhọn của ta và tìm cách đẩy ta ra xa đô thị. Ở vòng ngoài, các đơn vị lớn của Mỹ - ngụy tổ chức các cuộc càn quy mô lớn nhằm ngăn chặn, giữ chân các sư đoàn chủ lực của ta. Trong điều kiện như thế, đưa lực lượng qua hai tuyến ngoài của địch để đến được mép tiền duyên của thành phố đã là chuyện khó, chưa nói đến chuyện đưa lực lượng vào sâu trong nội thành.

        Thực tế chiến đấu ở đợt một cho thấy, với đặc điểm địa hình ở thành phố, ta không thể luồn lách để tiến quân, nhất là các đơn vị lớn, mà buộc phải đột phá để tiến quân. Về mặt quân sự, ở thành phố, bên phòng ngự có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, bên tiến công phải có vũ khí mạnh vượt trội mới có thể đánh bật được bên phòng ngự ra khỏi các khu nhà có kiến trúc kiên cố. Nhưng chúng tôi chỉ có vũ khí nhẹ của bộ binh, phải đối đầu với cả xe tăng, xe bọc thép đang chiếm giữ các mục tiêu kiên cố. Bên tiến công còn phải đưa lực lượng của mình vào thật sâu. Điều ấy thật khó giải thích về mặt quân sự, người chỉ huy sẽ làm phương án tác chiến như thế nào, xác định cách đánh ra sao?

        Những vấn đề ấy chúng tôi đều nêu ra và thảo luận rất kỹ trong Bộ chỉ huy Phân khu và Phân khu uỷ. Cuối cùng chỉ thống nhất với nhau được một vấn đề là phải chấp hành thật nghiêm mệnh lệnh chiến đấu, dù phải hy sinh cục bộ để phục vụ cho ý đồ chiến lược toàn cục... Đúng là chúng tôi vào đợt hai với tinh thần của những đội quân cảm tử.

        Chúng tôi chọn cầu Chữ Y làm hướng đột phá chủ yếu. Ngoài ra còn một mũi ở Quận 4. Chọn cầu Chữ Y là hướng tiến công chủ yếu vì đây là cây cầu rất quan trọng ở phía nam Sài Gòn. Chiếm được nó sẽ tạo được bàn đạp để tiến vào trung tâm thành phố mà mục tiêu gần nhất là nhà máy điện Chợ Quán và Tổng nha cảnh sát ngụy trên đường Trần Hưng Đạo. Hai tiểu đoàn chủ yếu của phân khu là Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 cùng lực lượng đặc công được sử dụng vào hướng đột phá chủ yếu, nhưng Tiểu đoàn 2 làm nhiệm vụ giữ sườn và phía sau cho Tiểu đoàn 1 và đặc công đánh chiếm cầu Chữ Y.

        Đêm 5 tháng 5 năm 1968 là đêm N của đợt hai. Tiếng súng tiến công chỉ nổ được ở một nửa mặt trận Sài Gòn, đó là hướng tây và hướng nam; hướng bắc và hướng đông chưa tiến công được vì lực lượng ta bị địch ngăn chặn ở tuyến trung gian, chưa tiếp cận được thành phố.

        Trong đợt này, Phân khu 2 tổ chức lực lượng thành trung đoàn, tiến công vào hướng Phú Lâm; một trung đoàn của Sư đoàn 9 tiến công hướng Bà Quẹo – ngã tư Bảy Hiền. Các trận đánh ở hai khu vực này rất ác liệt. Tuy nhiên, bộ đội cũng chỉ vào sâu như đợt một, có những mũi không bằng. Chiến sự diễn ra trên các đường phố, chưa tiến công được vào mục tiêu quân sự hay chính trị nào của địch. Các trận đánh trên hướng này kéo dài lâu nhất là được năm ngày.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:02:39 am

        Ở Phân khu 3, tình hình cũng diễn ra tương tự. Tiểu đoàn 5 Nhà Bè chỉ vào được đến Tân Quy, không đủ sức đánh sang Quận 4. Riêng cánh Tiểu đoàn 1 cũng chỉ đánh chiếm được một đoạn đường Phạm Thế Hiển sát phía nam đầu cầu Chữ Y, rồi bám trụ ở đó suốt một tuần lễ. Trong khi đó Tiểu đoàn 2 phải đứng ở cánh đồng để giữ sườn và phía sau cho Tiểu đoàn 1. Trận đánh ở cầu Chữ Y diễn ra vô cùng ác liệt. Tiểu đoàn 1 phải đánh quân ngụy. Những ngày đầu, bọn Mỹ chỉ đánh bằng hoả lực. Bom đạn Mỹ đã phá huỷ hầu hết nhà cửa trên đường Phạm Thế Hiển, dân phải bỏ đi tản cư. Mấy ngày sau, chúng bắt đầu tung ra những trận đánh thăm dò từ hai hướng cầu Mật và cầu Ông Lãnh. Mấy ngày cuối, cả lữ đoàn quân Mỹ tập trung đánh vào trận địa ta. Chúng tôi lo nhất là việc bảo đảm hành lang phía sau cho Tiểu đoàn 1. Làm sao hàng ngày phải tiếp tế lương thực, đạn dược cho đơn vị và phải đưa được thương binh tử sỹ ra ngoài. Tất cả đều phải dựa vào tuyến rạch Cây Khô. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng để bộ đội có thể bám được dài ngày. Nếu Tiểu đoàn 1 đánh vào sâu hơn, sẽ khó giữ mối liên hệ thường xuyên với phía sau và khó có thể bám được dài ngày. Yếu tố quan trọng nhất để tiểu đoàn có thể bám lâu được là tinh thần chiến đấu của bộ đội và vai trò chỉ huy của anh Mười Xưởng và anh Tư Ấp. Sự có mặt thường xuyên ở trận địa, sự bình tĩnh và lạc quan của các anh là chỗ dựa tinh thần quan trọng đối với anh em chiến sỹ trong những trận đánh quân địch đông hơn ta rất nhiều lần với ưu thế tuyệt đối về hoả lực máy bay và pháo binh.

        Đến ngày thứ sáu, bọn Mỹ đổ quân xuống cánh đồng Phú Lạc, đánh vào phía sau lưng của Tiểu đoàn 1. Nhưng chúng đã bị Tiểu đoàn  đánh ngay khi vừa đổ quân xong. Không có Tiểu đoàn 2 giữ hướng này, Tiểu đoàn 1 sẽ rơi vào tình thế bị ép ở cả bốn mặt. Trận đánh kéo dài sang ngày thứ bảy. Mặc dù bộ đội vẫn còn khả năng giữ vững trận địa nhưng chúng tôi thấy tình thế lúc đó vô cùng bất lợi. Các đơn vị tiến công của Phân khu 2 và Sư đoàn 9 ở phía tây cũng bị lui ra vùng ven. Trong khi đó ở phía bắc và phía đông các tiểu đoàn của các Phân khu 1, 4 và 5 vẫn chưa vào được thành phố. Như vậy chỉ còn duy nhất mặt trận cầu Chữ Y đang chiến đấu. Cuộc chiến đấu đơn độc kéo dài, địch có khả năng tập trung lực lượng bao vây toàn bộ khu vực cầu Chữ Y. Đến lúc đó ta có rút ra cũng khó, vả lại tình hình chung đã như vậy, dù Tiểu đoàn 1 có đứng lại được một tuần hay một tháng nữa cũng chẳng có tác dụng gì về mặt quân sự cũng như chính trị, mà chỉ làm cho lực lượng ta bị tiêu hao, yếu đi. Ngay đêm Tiểu đoàn 1 rút ra, bọn Mỹ đổ quân trực tiếp xuống khu vực trận địa và dùng pháo bầy bắn chặn ở đầu rạch Cây Khô. May mà Tiểu đoàn 1 vừa rời khỏi trận địa và chưa về đến rạch Cây Khô. Sau khi các đơn vị Phân khu 2 và 3 rút ra vùng ven một thời gian, một số đơn vị của Phân khu 1 ở phía bắc mới vào được thành phố.

        Quân địch có điều kiện tập trung toàn bộ lực lượng vào đối phó với các đơn vị này, làm cho cuộc chiến đấu trở nên ác liệt và ta phải chấp nhận tổn thất lớn.

        Để chi viện cho cánh bắc, Bộ chỉ huy Miền chỉ thị cho Phân khu 2 tiếp tục tổ chức tiến công vào Sài Gòn. Tiểu đoàn 6 và Tiểu đoàn 308 (mới được bổ sung từ miền Tây lên) được lệnh tiến công vào khu vực Chợ Lớn, nhưng bị thiệt hại nặng nề. Bộ phận chỉ huy Phân khu 2 tổn thất nặng. Anh Hai Hoàng (Võ Văn Hoàng) – Phó tư lệnh Phân khu 2 hy sinh.

        Qua đợt tiến công vào Sài Gòn, sau này khi có điều kiện tiếp xúc, tôi được biết tình hình ở các phân khu khác cũng tương tự như ở Phân khu 3 và Phân khu 2. Đến nay mỗi khi nhớ lại sự kiện này, tôi vẫn còn những băn khoăn suy nghĩ. Trước hết là về chủ trương chiến lược, tôi vẫn không hiểu vì sao lúc đó lại tiến công thành phố, khi mà tương quan lực lượng chiến lược còn quá nghiêng về phía địch và sao lại chọn cách đánh như vậy. Thực tế sau này khi Mỹ rút hết chỉ còn quân ngụy, muốn giải phóng một quận lỵ vùng rừng núi, giáp biên giới như Lộc Ninh, ta phải mở chiến dịch của chủ lực, có xe tăng và cơ giới tham gia mới đánh chiếm được. Đến cuối năm 1974 đầu năm 1975, đánh chiếm một tỉnh lỵ như Phước Long ta cũng phải sử dụng lực lượng và vũ khí như vậy. Đến năm 1975, khi đánh vào Sài Gòn trong điều kiện quân địch đang tan rã mà ta phải có lực lượng tương đương nhiều quân đoàn, được tổ chức hùng mạnh, có xe tăng, pháo binh và không quân đánh chiếm thành phố. Vậy tại sao năm 1968 ta chỉ sử dụng các tiểu đoàn địa phương, trang bị rất nhẹ phối hợp với biệt động lại đánh chiếm các mục tiêu chiến lược nằm sâu trong nội thành Sài Gòn?


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:03:23 am

        Về mặt quân sự, ta có thể dùng lực lượng biệt động, đặc công đánh tiêu diệt một mục tiêu nào đó. Nhưng để giữ được mục tiêu đó lại tuỳ thuộc vào tương quan thực tế; còn đánh tiêu diệt mục tiêu có thể chỉ tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ.

        Về mặt quân sự đơn thuần, thì không thể hạ quyết tâm chiếm Sài Gòn bằng cách đánh và lực lượng như đã diễn ra mà phải kết hợp với tổng khởi nghĩa. Nhưng vì sao mũi chính trị lại không mở ra được? Tình hình quần chúng Sài Gòn và sinh viên, học sinh như thế nào mà lúc đó lại có nhận định: hàng triệu quần chúng đang sục sôi khí thế cách mạng sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập tự do! Khi chúng tôi vào Sài Gòn, thực tế tình hình không phải như thế. Quần chúng ghét chế độ Mỹ - ngụy bóp nghẹt dân sinh, dân chủ nhưng chưa đến mức “sục sôi” và chưa “sẵn sàng hy sinh tất cả” để có thể xuống đường đối đầu với súng đạn, lật đổ ngụy quyền trung ương Sài Gòn, thiết lập chính quyền cách mạng. Sinh viên, học sinh là lực lượng có tổ chức nhưng lúc đó, không tập hợp được đội ngũ. Sau tiến công đợt một, mọi vấn đề đã bộc lộ rất rõ, tổ chức lực lượng và cách đánh ấy hoàn toàn không phù hợp, không thể tiến đến các mục tiêu, thương vong của ta rất lớn. Không hiểu vì sao khi tiến công đợt hai trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với đợt một, ta vẫn duy trì tổ chức, trang bị và cách đánh như cũ?

        Trong cuộc đời chỉ huy chiến đấu của tôi, Tết Mậu Thân năm 1968 là giai đoạn căng thẳng nhất. Không phải do tính chất ác liệt của các trận đánh, mà chủ yếu là do không giải quyết nổi các mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ với thực lực và biện pháp tiến hành. Ở vào tình trạng ấy, người chỉ huy như bị bó tay, không còn hành động một cách tự tin nữa.

        Tết Mậu Thân năm 1968 là những ngày tháng, những kỷ niệm và những kinh nghiệm xương máu không thể nào quên trong mỗi cán bộ, chiến sỹ Long an chúng tôi. Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân trên toàn miền Nam là hết sức to lớn, góp phần làm cho quân Mỹ và chư hầu phải rút khỏi nước ta. Nhưng ôi cũng nghĩ như một số đồng chí khác, nếu biết dừng lại sau đợt một (đợt Tết Mậu Thân), đưa lực lượng về giữ các căn cứ và vùng nông thôn đồng bằng, sẽ tránh được tổn thất lớn và hậu quả nặng nề trong nhưng năm 1969 – 1970”...

        Trích: Thiếu tướng Huỳnh Công Thân, Ở chiến trường Long An, (Nguyễn Hữu Nguyên ghi) Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội – 1994, trang 72 – 144.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:06:06 am

8. THIẾU TƯỚNG HUỲNH ĐẮC HƯƠNG:

        Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương sinh năm 1921, quê ở phường Cẩm Phô, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. đồng chí tham gia cách mạng năm 1938, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1942. Trước Cách mạng tháng Tám, đồng chí nhiều lần bị địch bắt giam.

        Tháng 3/1945, cùng bạn tù tổ chức vượt ngục, đồng chí trở về tiếp tục hoạt động gây cơ sở cách mạng ở Tiên Phước (Quảng Nam), là Tỉnh uỷ viên lâm thời tỉnh Quảng Nam.

        Từ tháng 10/1945 đến 1949 đồng chí là Hiệu trưởng Trường Quân chính Quảng Nam; tiếp đó đảm nhiệm Chính uỷ trung đoàn, Phó phòng chính trị Liên khu 5.

        Trong 10 năm (từ 7/1955 đến 1965) đồng chí là Cục phó rồi Cục trưởng Cục Tổ chức Tổng cục Chính trị, sau đó là Phó Chính uy Mặt trận Tây Nguyên. Được Đảng cử đi làm nhiệm vụ trên đất bạn Lào đầu năm 1969, đồng chí Huỳnh Đắc Hương đã đảm nhận các chức vụ: Chính uỷ Mặt trận Cánh Đồng Chum (1969); Tư lệnh kiêm Chính uỷ Mặt trận 959 (1970); Chính uỷ Bộ tư lệnh chiến dịch Cánh Đồng Chum (1971 – 1972).

        Từ chiến trường nước bạn trở về sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đồng chí được giao đảm nhiệm Phó Chính uỷ, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 2. Sau đó, tháng 12/1982, đồng chí chuyển ngành, làm Thứ trưởng Bộ Lao động – thương binh và xã hội.

        Đồng chí Huỳnh Đắc Hương đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất...

        Kề vai, sát cánh chiến đấu cùng nhân dân nước bạn Lào trong những năm tháng gian khó của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam đã thực hiện lời dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải biết yêu thương sông núi, cỏ cây, nhân dân Lào như yêu thương chính cỏ cây, sông núi, nhân dân Tổ quốc Việt Nam”. Và những năm tháng vô cùng đẹp đẽ đó đã trở thành những kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời làm nhiệm vụ tình nguyện trên đất bạn của Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:06:50 am

        MÙA MƯA TRÊN CHIẾN TRƯỜNG THƯỢNG LÀO - CHIẾN THẮNG MƯỜNG XỦI.

        “... Lào là một nước khí hậu nhiệt đới, một năm chia hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô bắt đầu khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch, với ba tháng là mùa đông khô rét, tiếp đến là ba tháng mùa đông khô nóng. Theo truyền thống, mùa này phụ nữ Lào trồng đay, thuốc lá, rau, đậu, vào rừng kiếm hoa quả, bẻ mang, hái nấm, hoặc xuống sông, suối bắt tôm, cá, còn đàng ông thì vào rừng săn bắn, chặt tre, đẵn gỗ...

        Mùa mưa bắt đầu từ tháng tư. Sau tiếng sấm và những cơn mưa đầu mùa, người dân Lào vui Tết Hột Nậm xong là bắt tay vào một mùa cày cấy, làm nương rẫy, chuẩn bị lượng thực ăn cho cả năm. Khí hậu ổn định đó đã tạo điều kiện cho nước Lào có nhiều thuận lợi về nông nghiệp, quanh năm cây cỏ tốt tươi. Nhưng khí hậu đó lại ảnh hưởng không ít đến các hoạt động quân sự và càng tạo cho chiến trường Lào những đặc điểm riêng biệt, phức tạp và khắc nghiệt.

        Từ trước tới nay, hoạt động theo mùa hầu như đã trở thành quy luật đối với cả ta và địch trên chiến trường Thượng Lào. Do những hạn chế về phương tiện vận chuyển tiếp tế, việc bảo đảm vật chất kỹ thuật, hậu cần gặp nhiều khó khăn, nên ta chỉ hoạt động nhỏ lẻ, chủ yếu là huấn luyện, nghỉ ngơi, chuẩn bị phương án hoạt động tác chiến khi mùa khô đến. Mùa mưa ở Lào thường kéo dài liên miên, đường sá lầy lội, công sự sụt lở. Những con suối hiền lành trở nên hung dữ, nước lũ đổ về ngày đêm réo lên sôi sục như thác. Đặc điểm đó tác động đến cả ta và địch, nhưng địch có điều kiện về vật chất, kỹ thuật, nên chúng dễ khắc phục hơn những khó khăn trên. Và chúng đã ra sức khai thác lợi thế đó. Mùa khô, chúng thường co lại, tích cực đối phó với các hoạt động tiến công của  các lực lượng vũ trang cách mạng. Đến mùa mưa, chúng tập trung quân nống lấn các vị trí xung yếu rồi tranh thủ củng cố công sự phòng ngự kết hợp với việc tổ chức những cuộc hành quân lấn chiếm mở rộng phạm vi kiểm soát, tạo thành một hệ thống vững chắc nằm sâu trong vùng giải phóng cách mạng Lào.

        Những hoạt động trên lặp đi lặp lại, cho đến năm 1969, và địch đã mặc nhiên coi mùa mưa là mùa của chúng.

        Trước sự phát triển của chiến trường Lào nói chung, chiến trường Thượng Lào nói riêng, phương thức tác chiến của lực lượng vũ trang bạn và ta đòi hỏi phải có những chuyển biến cơ bản để đáp ứng tình hình mới. Từ chỗ chỉ đẩy mạnh chiến tranh du kích và mở những đợt hoạt động, những chiến dịch quy mô nhỏ và vừa, chúng ta đã tiến lên đánh tập trung lớn, tiêu diệt lớn như chiến dịch Nậm Bạc, phá vỡ những căn cứ kiên cố nhất của địch như trận Pa Thí. Từ chỗ đánh giặc theo mùa, chúng ta phải tiến lên chủ động tiến công địch trong bất kỳ mùa nào. Từ lâu, ta và bạn đã nhiều lần trao đổi, bàn bạc, xác định quyết tâm này nhưng có rất nhiều khó khăn phải khắc phục và sớm chuẩn bị mọi điều kiện môt cách cụ thể.

        Sau chiến thắng Nậm Bạc và chiến thắng Pa Thí, trước sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng và sự lớn mạnh của các lực lượng vũ trang Pha-thét Lào, sau khi thống nhất với bạn, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Quân khu Tây Bắc phối hợp với bạn tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động, chuẩn bị mở tiếp các chiến dịch đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch trong mùa mưa 1969, để tăng cường hơn nữa thế và lực của cách mạng và bảo vệ vững chắc khu vực Cánh Đồng Chum, vị trí then chốt của chiến trường Thượng Lào, tạo ra cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng hai nước.

        Mặc dù bị thất bại ở Pa Thí, nhưng Mỹ vẫn đặt nhiều hy vọng vào lực lượng đặc biệt do Vàng Pao làm thủ lĩnh, Mỹ tăng cường hơn nữa cho bọn phỉ về mọi mặt, tiếp tục xây dựng chúng thành lực lượng cơ động lấn chiếm. Mỹ thích bọn lính đặc biệt hơn lính ngụy Viêng Chăn còn do một lý do khác: bọn này dễ bị mê hoặc và kích động, dễ nắm hơn vì chúng thường tôn sùng mù quáng sức mạnh của Mỹ.

        Sau thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy động loạt Tết Mậu Thân của quân dân ta cùng với thắng lợi mùa khô 1967 – 1968 của cách mạng Lào, đã đẩy Mỹ vào thế bị động, lúng túng, Giôn-xơn buộc phải đề ra chủ trương “phi Mỹ hóa” cuộc chiến tranh. Ních-xơn sâu khi thắng cử lên cầm quyền ở Mỹ đã đề ra học thuyết “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương, dùng người Lào đánh người Lào”. Chúng hy vọng rút quân Mỹ dần dần ra khỏi cuộc chiến tranh mà vẫn thắng. Cuộc chiến tranh đặc biệt ở Lào của Mỹ được tăng cường gấp bội đến mức chưa từng có. Số viện trợ của chính quyền Ních-xơn cho Lào tăng gấp hai lần so với thời kỳ Giôn-xơn. Lực lượng đặc biệt của Vàng Pao từ 64 tiểu đoàn tăng lên tới 86 tiểu đoàn. Số cố vấn Mỹ cũng lên tới 12.000, trong đó 600 tên trực tiếp chỉ huy lực lượng đặc biệt, nắm xuống tới từng tiểu đoàn và đại đội. Sử dụng lực lượng đặc biệt của Vàng Pao vào các cuộc hành quân lấn chiếm, Mỹ hy vọng có thể thực hiện được học thuyết sức mạnh cực kỳ phản động đó của Ních-xơn, đưa cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Lào sang một giai đoạn mới.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:09:11 am

        Sau khi ra lệnh cho tên tướng Vàng Pao mở cuộc hành quân “Xa-ma-khi I” định lấn chiếm lại Pa thí nhưng bị thất bại, ngày 23 tháng 3 năm 1969, Mỹ lại đẩy lực lượng đặc biệt tiến hành cuộc hành quân “Xa-ma-khi II” đánh ra Phu Khe – Xiêng Khoảng nhằm tạo bàn đạp để lấn chiếm Cánh Đồng Chum.

        Nhìn trên bản đồ, Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng là một vùng rừng núi trùng điệp, địa hình phức tạp và hiểm trở. Cánh Đồng Chum nằm xoải dài trên cao nguyên Mường Phuôn. Đây là một cao nguyên rộng lớn với những rừng đào, rừng lê bát ngát. Rải rác trên Cánh Đồng Chum là những bãi chum đá, tương truyền là chum đựng rượu khao quân của Thao Trương, một anh hùng dân tộc Lào, sau khi đã tiêu diệt xong giặc ngoại xâm trở về.

        Năm 1967, địch cũng đã sử dụng lực lượng đặc biệt tập trung phản kích với quy mô lớn tới 15 tiểu đoàn vào Phu Khe – Xiêng Khoảng. Sau thất bại ở Nậm Bạc, Pa Thí, Mỹ quyết tâm giành lại thế chủ động trong mùa mưa 1969. Từ các vị trí Mường Xủi, Long Chẹng, Sảm Thông, gần hai chục tiểu đoàn lực lượng đặc biệt, có lính Thái Lan và quân ngụy Viêng Chăn phối hợp, do cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy và được sự yểm trợ tối đa của không quân Mỹ, lại ồ ạt tiến công vào vùng giải phóng của Pa-thét Lào ở Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.

        Hôm ấy, thị xã Xiêng Khoảng đang chìm lắng trong sự yên tĩnh của môt tỉnh lỵ miền cao nguyên thì bất ngờ bị hàng trăm lần tốp máy bay Mỹ ào tới ném bom bắn phá tàn khốc. Khói đạn chưa tan hết thì những chiếc máy bay lên thẳng Mỹ đã nối nhau đổ quân xuống thị xã, khu vực phía tây cách thị xã 10 ki-lô-mét.

        Những tên lính đặc biệt lăm lăm súng tiểu liên cực nhanh trong tay ập vào những khu dân cư, tàn sát dã man những người dân vô tội. Các chiến sỹ Pa-thét Lào làm nhiệm vụ bảo vệ thị xã kịp thời nổ súng đánh địch bảo vệ nhân dân giữ vững từng ngõ phố, từng mảnh vườn của thị xã. Trung đội pháo phòng không ở phía tây thị xã chỉ hơn một giờ đã bắn rơi ba máy bay F105 và AD6 của Mỹ, bắn cháy năm chiếc khác. Trung đội này gồm 14 chiến sỹ cả gái và trai, người trẻ nhất trong trung đội mới tròn 17 và người nhiều tuổi nhất chưa đầy 30 tuổi.

        Phối hợp chiến đấu với các đơn vị Pa-thét Lào, Tiểu đoàn 5 quân tình nguyện Việt Nam đã nhanh chóng triển khai lực lượng, chặn đánh dữ dội bọn địch lấn chiếm. Sư đoàn 316 được lệnh hành quân cấp tốc sang chi viện giúp bạn, đã cùng lực lượng Pa-thét Lào, quân tình nguyện chặn đứng cuộc tiến công của chúng.

        Nhân đây cũng nói thêm về Sư đoàn 316, một sư đoàn đã từng lăn lộn chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Lào. Từ tháng 8 năm 1968, theo lệnh của Bộ tư lệnh  quân khu, sư đoàn đã đưa Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 148 sang đánh địch tạo thế ở khu vực Nà Khằng. Tháng 11 năm 1968, khi sư đoàn hành quân sang chiến trường nước bạn chuẩn bị tiến hành chiến dịch Toàn thắng thì tên tướng phỉ Vàng Pao theo lệnh Mỹ mở cuộc hành quân “Xa-ma-khi I”. Trung đoàn 148 của Sư đoàn đã quay lại cùng với bạn đánh tan cuộc hành quân “Xa-ma-khi I” của địch và đến ngày 1 tháng 3 năm 1969, sư đoàn tiến hành thắng lợi chiến thắng lợi Chiến thắng, diệt GT (binh đoàn chiến thuật) của địch ở Sầm Nưa, xoá bỏ một ổ phỉ quan trọng nằm trong tỉnh Sầm Nưa, góp phần củng cố, bảo vệ khu căn cứ đầu não của cách mạng Lào. Vừa hành quân về nước, chưa kịp nghỉ ngơi, sư đoàn lại cấp tốc hành quân sang Xiêng Khoảng. Cuộc hành quân lấn chiếm mang tên “Xa-ma-khi II” của địch phải kết thúc nhanh chóng. Ta và bạn đã gây cho địch nhiều thiệt hại và đánh bật chúng về phía tây Xiêng Khoảng.

        Tuy không lấn chiếm được Cánh Đồng Chum, nhưng Mỹ đã tìm mọi cách chốt lại ở Mường Xủi xây dựng Mường Xủi thành một vị trí kiên cố làm bàn đạp cho những cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum sau này; đồng thời biến Mường Xủi thành một lá chắn che chở cho Viêng Chăn, Luông Pha Băng, ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Lào về phía tây và phía nam.

        Mường Xủi là một thung lũng lớn nằm giữa một vùng rừng núi trùng điệp, dân cư thưa thớt. Từ năm 1966, đế quốc Mỹ và tay sai đã lấn chiếm vị trí này, xây dựng thành một cụm cứ điểm chiến lược quan trọng với trên 60 điểm chốt. Cụm cứ điểm này có sân bay, xe tăng, xe bọc thép và nhiều trận địa pháo do gần bốn ngàn lính Viêng Chăn và lính đặc biệt chốt giữ. Ngoài ra, Mỹ còn xây dựng Mường Xủi thành căn cứ chỉ huy các máy bay Mỹ đánh phá vùng giải phóng ở Thượng Lào. Đây là một căn cứ lợi hại vì nó nằm trên đường số 7 ở ngã ba tiếp giáp với Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng và Sa La Phu Cun.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:09:41 am

        Chiếm được Xiêng Khoảng – dù chỉ trong một thời gian rất ngắn trong cuộc hành quân “Xa-ma-khi II” – là chiến công đầu tiên của lực lượng Vàng Pao sau khi được Mỹ nâng lên hàng chiến lược. Tuy không thực hiện được âm mưu đánh chiếm Cánh Đồng Chum, phải tháo chạy khỏi Xiêng Khoảng, nhưng Mỹ vẫn đánh giá cao bọn này cũng với phương thức chiến lược mà chúng đang thể nghiệm.

        Xây dựng Mường Xủi thành một cụm cứ điểm kiên cố gấp nhiều lần Nậm Bạc, giao cho lực lượng đặc biệt làm lực lượng chủ chốt chiếm giữ, Mỹ hy vọng có thể thiết lập được một vị trí đầu cầu chiến lược cho những cuộc phản công quy mô trong mùa mưa 1969.

        Trước những âm mưu đó của địch, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhận định: Mường Xủi là một mục tiêu cần phải tiêu diệt ngay để phá tan tham vọng của Mỹ ở Thượng Lào, loại bỏ các cuộc hành quân lấn chiếm của địch trong mùa mưa ngay từ trong trứng, xoá bỏ mối đe doạ thường xuyên của địch ở khu vực chiến lược Cánh Đồng Chum, tạo điều kiện phát triển thế và lực của cách mạng xuống phía nam, nối liền phong trào bốn tỉnh phía bắc với khu vực Sầm Nưa – Xiêng Khoảng. Đây cũng là thể hiện quyết tâm xoá bỏ quy luật đánh theo mùa, tiến lên giành quyền chủ động tiến công địch trong bất cứ điều kiện thời tiết nào.

        Thống nhất với nhận định của bạn, theo yêu cầu của Trung ương Đảng bạn, chấp hành chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, Quân khu Tây Bắc đã phối hợp với bạn xây dựng kế hoạch giải phóng Mường Xủi ngay sau khi vừa đập tan cuộc hành quân lấn chiếm “Xa-ma-khi II”.

        Đã bắt đầu vào mùa mưa của Lào.

        Chúng tôi lên đường chuẩn bị chiến dịch vào tháng 5 năm 1969.

        Lúc đó Bác đang mệt nặng. Khi biết chiến dịch Mường Xủi sắp mở, Bác đã dặn các anh trong Quân uỷ Trung ương nhắc chúng tôi bằng mọi giá phải hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế đối với bạn, đáp ứng cho được yêu cầu của bạn.

        Sự quan tâm của Bác trong hoàn cảnh đó càng làm cho chúng tôi hết sức xúc động và càng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi lên đường, lòng vẫn day dứt, lo lắng khôn nguôi về sức khoẻ của Bác.

        Mở chiến dịch trong mùa mưa này, bộ đội sẽ gặp vô vàn khó khăn. Các đơn vị vừa tham gia đánh bại cuộc hành quân “Xa-ma-khi II” của địch, chưa kịp nghỉ ngơi, củng cố, chưa kịp bổ sung về quân số, vũ khí và lương thực. Trời cứ mưa liên miên, thời gian lại hết sức khẩn trương. Có lẽ khó nhất là đường vận chuyển. Cầu qua sông làm chưa xong nước lũ đã tràn về, đường sá sụt lở, lầy lội, xe tải, xe kéo pháo không thể nào vượt nổi những đoạn dốc chỉ 10 đến 20 độ. Bộ đội hành quân dầm tõng bùn nước, chỉ qua một ngày đêm đã bợt cả da, nhiều người bị lở loét. Từ trước tới nay, ta chưa hề đánh lớn trong mùa mưa, nên kinh nghiệm và sự hiểu biết về mùa mưa trên chiến trường bạn rất ít. Trong tư tưởng nhiều người, cả bạn và ta, hầu như đã thành một ấn tượng sâu sắc cho rằng không thể mở chiến dịch vào mùa mưa trên chiến trường Thượng Lào được. Địch lại càng đinh ninh điều đó, vì vậy chúng rất chủ quan. Nếu chúng tôi khắc phục tốt được những khó khăn về đường sá, công sự, vận chuyển tiếp tế... thì sẽ tạo được yếu tố bất ngờ, thuận lợi rất lớn cho chiến dịch.

        Vào trung tuần tháng 5, tôi thay mặt Bộ tư lệnh Quân khu Tây Bắc sang hiệp đồng chiến đấu với Bộ chỉ huy của bạn ở Cánh Đồng Chum. Dọc đường, tôi gặp đồng chí Si Phon, Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum vừa đi thăm Bắc Triều Tiên về. Gọn ghẽ trong bộ quân phục Pa-thét Lào, luôn luôn lạc quan và tin tưởng, đồng chí hào hứng kể cho chúng tôi nghe những ngày thăm Bắc Triều Tiên.

        - Đi mới có ít ngày mà nhớ nhà quá - Đồng chí Si Phon nói - Thế mới biết không ở đâu bằng quê hương, Tổ quốc mình.

        Tôi hỏi anh về việc tìm hiểu những kinh nghiệm đánh Mỹ của bạn, anh cười trả lời:

        - Ở Triều Tiên chiến tranh không như ở Việt Nam, ở Lào. Bạn đánh Mỹ trước đây trong điều kiện khác ta. Tuy việc tham gia, trao đổi kinh nghiệm mở rộng kiến thức là cần, nhưng chủ yếu phải từ thực tiễn của mình - của Lào và Việt Nam – mà chúng mình tự giải quyết thôi, đồng chí ạ.

        Chiều tối chúng tôi đến Sở chỉ huy Caán Đồng Chum. Ở đây tôi được gặp lại đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon, và đồng chí Xa Man, Chính uỷ Quân khu Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:10:12 am

        Xung quanh sở chỉ huy, đất đá, cây đổ ngổn ngang. Nằm giữa những hố bom và hố đạn đại bác chi chít của địch là một căn hầm lớn được khoét sâu vào lòng đất ba-zan vững chắc. Đồ đạc trong hầm rất sơ sài: một cái bàn bên trên trải hai tấm bản đồ chiến dịch, một chiếc máy điện thoại và hai chiếc ghế dài bằng gỗ.

        Cuộc gặp mặt thật ấm áp tình đồng chí, anh em. điều đặc biệt quan tâm của các đồng chí là sức khoẻ của Bác. Biết Bác đang mệt nặng, các đồng chí rất băn khoăn lo lắng như chính nỗi lo lắng của chúng tôi.

        Sau khi tâm sự với các đồng chí về tình hình sức khỏe của Bác mà tôi biết được, tôi tranh thủ trao đổi tình hình và kế hoạch chiến dịch sắp tới. Sau khi bàn bạc nhất trí, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon, thay mặt Bộ chỉ huy của bạn, một lần nữa nhắc lại ý nghĩa to lớn của chiến dịch này. Đồng chí nói nếu chúng ta tiêu diệt được địch ở Mường Xủi thì sẽ đẩy chúng lún sâu hơn nữa vào thế bị động chiến lược. Nội bộ kể địch càng phân hoá, mâu thuẫn giữa các phe phái càng thêm sâu sắc. Mặt khác, đối với phía chúng ta, tiêu điệt được địch ở Mường Xủi không những vùng giải phóng được giữ vững mà còn củng cố thêm cho cán bộ và chiến sỹ lòng tin vào khả năng giành hoàn toàn thế chủ động trên chiến trường. Riêng về thời gian, đồng chí cũng hoàn toàn nhất trí với chúng tôi, vì lực lượng của ta đã triển khai, nếu để chậm lại thì cơ sở vật chất sẽ càng hao hụt đi, do đó càng nổ súng sớm càng tốt.

        Ta và bạn thống nhất lần cuối cùng về ngày giờ hiệp đồng nổ súng. Chúng tôi bắt tay nhau rất lâu, như muốn khắng định quyết tâm đánh thắng địch trong chiến dịch mùa mưa này, qua đó xây dựng cho mình những kinh nghiệm tác chiến mới.

        Trên đường về tôi suy nghĩ nhiều đến những trở ngại khó khăn sẽ đến cũng gặp không ít khó khăn mặc dù phương tiện của chúng được Mỹ trang bị đầy đủ và hiện đại hơn. Ở đây những khó khăn đối với ta thì cũng là khó khăn đối với địch. Ta, tinh thần vượt khó khăn hơn hẳn địch, do đó, ta phải triển để khai thác những chỗ yếu của địch, đi đôi với việc hết sức khắc phục những hạn chế của ta. Mỹ mạnh về không quân, nhưng Mường Xủi lại là vùng sương mù dày đặc, nhiều ngày phải đến gần hết buổi sáng sương mù mới tan, nên hoạt động của không quân địch cũng sẽ bị hạn chế. Mặt khác, do thời tiết như vậy, ta có thể lợi dụng được yếu tố bất ngờ, bí mật.

        Theo phương án đã trao đổi thống nhất với bạn, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định dùng một lực lượng tập trung lớn có hoả lực mạnh kết hợp với xe tăng, xe bọc thép để giải quyết chiến đấu thật nhanh gọn. Những mục tiêu phải chế áp ngay từ đầu là các điểm cao và sân bay. Chiếm được các điểm cao, địch dưới thung lũng phải rút chạy, còn đánh sân bay sẽ triệt phá được thế mạnh của địch là dùng máy bay chi viện cho bộ binh và bốc quân chạy trốn. Lực lượng đánh sân bay được giao cho một phân đội đặc công mà Bộ Tổng tham mưu vừa tăng cường cho chúng tôi.

        Lần nào cũng vậy, mỗi khi chiến dịch được mở, để thực hiện nhiệm vụ quốc tế đối với bạn, Bộ Tổng tham mưu và các Tổng cục thuộc Bộ Quốc phòng đều hết sức quan tâm, từ những vấn đề chỉ đạo chiến dịch đến những phân đội đặc công, không chỉ giải quyết vấn đề lực lượng một cách thiết thực hiệu quả cho chiến dịch mà còn động viên chúng tôi rất nhiều.

        Cũng như các chiến dịch trước, phương án tác chiến được chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ. Mọi tình huống có thể xảy ra đều được lường tính và có kế hoạch xử lý khi chúng tới.

        Cho đến ngày 23 tháng 6 năm 1969, trước giờ nổ súng một ngày, Mường Xủi vẫn im lìm trong màn mưa và trong những tầng sương mù dày đặc. Địch không hề biết rằng một vòng đài sức mạnh, bất chấp mưa lũ sắp sửa chụp xuống đầu chúng.

        Cuối tháng 5 đầu tháng 6, Sư đoàn 316 tiến hành đánh địch ở vòng ngoài chiếm cụm Phu Khe, điểm cao 1507, tiêu diệt khu Ca Bá và một số vị trí xung quanh Xiêng Khoảng. Sư đoàn cũng đã cùng các đơn vị bạn đánh địch ở khu Cang Xẻng, Phu Xeo, Bản Na, Hin Tạng, ép địch ở hướng Sảm Thông, Cay Chung để thực hiện nghi binh cho ta chuẩn bị ở hướng chính Mường Xủi.

        Ngày mở màn chiến dịch đã đến. Bộ đội ta đã khắc phục vô vàn khó khăn, vào vị trí tập kết dưới trời mưa tầm tã, có đơn vị bám lần theo dây cáp để qua sông Nậm Ngừm giữa lúc thác lũ gầm réo. Chiến đấu trên một chiến trường rừng núi xa lạ, chưa quen thuộc, đã xảy ra những sự việc thật đáng tiếc: Ở Nậm Bạc, Pa Thí là sự đi lạc của các đơn vị, các mũi tiến công, dẫn tới việc bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch. Trong chiến dịch lần này lại xảy ra sự chậm trễ, do thiên nhiên gây ra, của phân đội xe tăng. Chúng tôi được tăng cường ba chiếc T34 thì khi qua suối, gặp nước lũ đổ xuống bất ngờ làm một chiếc tăng bị hỏng. Hai chiếc còn lại mãi đến trước giờ nổ súng một tiến đồng hồ vẫn chưa vào được vị trí tập kết vì chiếc cầu do công binh lại bị nước cuốn mất.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:10:58 am

        Tuy vậy, giờ nổ súng vẫn đúng theo quy định. Sáng sớm ngày 24 tháng 6 năm 1969, cùng một lúc các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào và các đơn vị quân tình nguyện đồng loạt nổ súng tiến công vào Phu Xe, Phu Xủng, điểm cao 1313, các trận địa pháo, sân bay và sở chỉ huy của địch. Những tiến nổ dồn dập của đạn pháo, đạn B40, B41 và tiểu liên vang lên trong tiếng mưa rơi ào ào. Tốc độ phát triển của trận đánh thật không ngờ. Ngay từ đầu, các đơn vị của ta và bạn đã hoàn toàn làm chủ các điểm cao, phá huỷ hầu hết các trận địa pháo của địch. Đơn vị đặc công mặc dù lần đầu tiên sang tác chiến ở chiến trường Thượng Lào, đã chiến đấu rất dũng cảm. Địch phát hiện được ta trước giờ nổ súng liền tập trung hoả lực bắn chặn quyết liệt, nhưng các chiến sỹ đặc công đã xông lên đánh địch, nhanh chóng hoàn toàn làm chủ sân bay. Điều đáng tiếc là do bị địch phát hiện sớm nên đơn vị đã không bắt sống được chiếc trực thăng nào cả.

        Bị đánh mạnh và quá bất ngờ, địch hoảng loạn, tan rã. Chúng bỏ Mường Xủi tháo chạy về phía tây, để chờ bắt liên lạc với quân tiếp viện. Nhưng đội quân tiếp viện đã bị các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào chặn đánh quyết liệt ở dọc đường, bị tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên. Những chiếc máy bay phản lực Mỹ, vì lo sợ bị trúng đạn pháo phòng không của ta cũng chỉ dám bổ nhào ở cự ly rất cao, ném bom một cách vung vãi, trúng cả đội hình của quân ngụy.

        Lực lượng ta tiếp tục tiến công làm chủ hết vị trí này đến vị trí khác, kể cả các vị trí xung yếu ở bắc Xa La Phu Cun. Biết không còn trông mong gì ở quân ứng cứu nữa, tối ngày 27 tháng 6, toàn bộ quân địch ở Mường Xủi đã rút chạy tan tác, một số còn sống sót dồn về phía tây nam, cách Mường Xủi mười ki-lô-met.

        Phối hợp với Mường Xủi, đêm ngày 23 rạng ngày 24 tháng 6, các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào đã tiến công căn cứ Phu Xủng, cách Mường Xủi 26 ki-lô-mét về phía tây. Mất Phu Xủng, địch vội vã cho quân lên giải toả nhưng đã bị các lực lượng của bạn chặn đánh ở ngã ba Xa La Phu Cun, diệt 29 tên, thu sáu súng và hai xe quân sự.

        Ngày 4 tháng 7 chiến dịch kết thúc. Tiếng súng đã ngừng nổ và không gian chỉ còn tiếng mưa tầm tã. Chỉ tính riêng ở Mường Xủi, quân địch đã bị diệt 1.200 tên. Ba GM bị xoá sổ. Ta bắn rơi và phá huỷ ba máy bay, thu hàng trăm tấn vũ khí, trong đó có 31 xe quân sự, ba xe tăng, nhiều đại bác, súng cối và các loại súng khác. Trong số địch bị bắt, có hai tên đại tá, một trung tá ngụy, nhiều cố vấn Mỹ và Thái Lan.

        Sự kiện cụm cứ điểm Mường Xủi bị tiêu diệt giữa mùa mưa là một đòn choáng váng đối với Mỹ. Hãng UPI ngày 28 tháng 6 đã mô tả trận Mường Xủi là trận đánh tai hại nhất của Mỹ kể từ đầu năm 1969 đến nay. tổng số quân địch bị diệt trong chiến dịch này là 3.114 tên, bằng một phần tư số quân địch bị tiêu diệt trong cả mùa khô 1968 – 1969. Đây là thất bại lớn đầu tiên của học thuyết Ních-xơn ở Thượng Lào, vượt xa thất bại Nậm Bạc của Giôn-xơn đầu năm 1968. Sau chiến thắng Mường Xủi, tinh thần của binh lính ngụy Viêng Chăn và nhất là lính Vàng Pao sa sút nghiêm trọng. Chúng nơm nớp lo sợ bị tiến công trong bất kể điều kiện thời tiết nào. Khăm Phăn, một sỹ quan ngụy được đưa về bệnh viện ở Viêng Chăn thú nhận với các nhà báo phương Tây: “Một sự hoảng loạn đang lan rộng trong quân đội chúng tôi”. Bọn chỉ huy quân ngụy ở viêng Chăn cũng phải thú nhận chúng đã bị thiệt hại nặng nề ở Mường Xủi và hoàn toàn bất ngờ trước cuộc tiến công mùa mưa của ta.

        Căn cứ Mường Xủi bị tiêu diệt. Vị trí đầu cầu để lấn chiếm vùng chiến lược Cánh Đồng Chum, cái lá chắn ở phía bắc Luông Phabăng và Viêng Chăn đã bị đập vỡ. Quy luật mùa mưa, mùa hy vọng của bọn Mỹ - ngụy Lào không còn nữa. Một chặng đường mới đã mở ra trước nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường Thượng Lào.

        Ngày 6 tháng 7 năm 1969, một ngày trời tạnh ráo hiếm có giữa mùa mưa ở Thượng Lào, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon, Tổng chỉ huy quân đội Pa-thét Lào cho người sang sở chỉ huy chiến dịch mời anh Vũ Lập và tôi sang thăm cơ quan chỉ huy của Bộ chỉ huy tối cao Pa-thét Lào bấy giờ cũng đang đóng ở Lạt Buộc. Được tin đó giữa lúc anh Vũ Lập và tôi đang mong  gặp bạn để trao đổi tình hình và rút kinh nghiệm chiến dịch nên chúng tôi đi ngay.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:11:38 am

        Trời đã về chiều. Những cánh rừng thông bạt ngàn trải dài trùng điệp, xung quanh chúng tôi còn vương một chút ráng chiều chưa tắt hẳn khiến thiên nhiên mang một vẻ đẹp thật kỳ lạ. Thoang thoảng trong gió là mùi phấn thông thơm dịu, ẩm ướt. Đất rừng phủ đầy lá thông vàng rộm như một tấm thảm vô tận. Tôi thầm nghĩ về những con người của đất nước này thật cần cù và đôn hậu biết bao. Nếu không có chiến tranh, những khu rừng thông bát ngát này sẽ là những lâm trường... Trên bất cứ thân cây nào, tôi cũng nhìn thấy những dòng nhựa ứa ra keo lại trong vắt. Những rừng thông giàu có này của bạn không thể để kẻ thù khai thác, tàn phá, cũng như cả đất nước Lào tươi đẹp này phải được giải phóng. Nhiệm vụ cách mạng của bạn, mỗi thắng lợi của bạn luôn gắn liền với những người chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.

        Sẩm tối, chúng tôi đến cơ quan Bộ chỉ huy của bạn. Đồng chí liên lạc đưa chúng tôi xuống một con dốc đã đánh thành bậc. Tôi đếm tất cả 120 bậc. Vừa xuống hết dốc, tôi đã nhận ra bóng dáng cao lớn của đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon và đồng chí Xi Xa Mán đứng đón ở chân dốc. Chúng tôi tay bắt mặt mừng ôm choàng lấy nhau vô cùng thân thiết. Anh Vũ Lập nói vui:

        - Chiến thắng rồi nên xuống dốc không thấy mệt. Lát nữa về hai anh phải cho mượn trực thăng đấy nhé.

        Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon cười:

        - Có mấy chiếc trực thăng của địch ở Mường Xủi ta định chiếm thì nó đã chuồn mất rồi. Trận sau nhất định phải bắt sống lấy vài chiếc để đón các anh sang.

        Chúng tôi bước vào một ngôi nhà tranh cao ráo, vách ken tre nứa. Cạnh nhà là một căn hầm lớn. Từ miệng hầm những đường dây điện thoại toả ra khắp bốn phía.

        - Phải ở sâu thế này mới tránh được cặp mắt soi mói của không quân Mỹ - đồng chí Xi Xa Mán nói - Vả lại ở đây chúng tôi chỉ huy cũng rất tiện lợi.

        Trong buổi gặp mặt thân tình hôm ấy, các đồng chí lãnh đạo quân đội bạn rất vui. Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon đã nói rất nhiều và rất hay về ý nghĩa của chiến dịch Mường Xủi. Đồng chí nói rằng, giải phóng Mường Xủi sẽ tạo thành một thế trận liên hoàn giữa vùng giải phóng Sầm Nưa – Xiêng Khoảng với bốn tỉnh phía Bắc. Điều này, những cán bộ cách mạng Lào đã mơ ước từ lâu nhưng đến nay mới thực hiện được.

        - Mường Xủi là một hệ thống phòng ngự lâu năm, kiên cố vào bậc nhất ở Lào - Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon nói tiếp – Đó là một phương thức phòng ngự bằng cụm cứ điểm tương đối hoàn chỉnh, trực tiếp được hoả lực của pháo binh và máy bay Mỹ chi viện. Với một cụm cứ điểm như vậy mà chỉ trong một thời gian chuẩn bị rất ngắn, lại đang giữa mùa mưa lũ, anh em đã phá vỡ tan tành. Điều này chứng tỏ khả năng hiện nay của ta có thể đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt được đẩy lên đỉnh cao nhất của Mỹ ở Lào.

        Chúng tôi tán thành những nhận xét của đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon, cám ơn sự đánh giá cao của bạn và nói thêm những kinh nghiệm mới của chiến dịch về hoạt động phối hợp nhiều lực lượng giữa mùa mưa.

        Đồng chí Xi Xa Mán hồ hởi nói thêm:

        - Đúng, với kinh nghiệm của chiến dịch này, ta sẽ không còn đánh giặc theo mùa nưa. Khi nào cần đánh là ta đánh. Thằng Mỹ, thằng ngụy Viêng Chăn, thằng Vàng Pao từ nay không còn dám huyênh hoang mùa mưa là mùa riêng của chúng nữa.

        Đang lúc chúng tôi còn bàn luận sôi nổi thì cơm khách đã được dọn lên. Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon nói:

        - Đánh bại “Xa-ma-khi II” của địch, giải phóng Mường Xủi, diệt trên ba ngàn lực lượng đặc biệt và phái hữu, đánh bại ngón đòn đầu tiên của học thuyết Ních-xơn; đây là một thắng lợi to lớn. Thay mặt Bộ chỉ huy tối cao và Bộ chỉ huy Cánh Đồng Chum, chúng tôi xin mời anh Vũ Lập và anh Hương ăn bữa cơm “Xa-ma-khi của chúng ta” - bữa cơm “Đoàn kết Việt – Lào”, nhờ hai anh gửi lời cám ơn của chúng tôi tới cán bộ và chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã quên mình, tích cực khắc phục khó khăn, giành được thắng lợi lớn trong chiến dịch.

        Những lời nói chân tình của đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon làm chúng tôi xúc động.

        Lần đầu tiên chúng tôi được thưởng thức món xi-rô mận và đào ướp theo lối cổ truyền của chị em ở Cánh Đồng Chum. Đây là một đặc sản của vùng đất này. Nước mận và đào vừa thơm, mát, vừa giữ nguyên được hương vị thiên nhiên, uống vào cảm giác như có một dòng suối ngọt chảy thấm vào khắp cơ thể.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:12:02 am

        Sau bữa ăn chúng tôi lại trao đổi tiếp về hướng củng cố, bảo vệ Cánh Đồng Chum trong mùa khô sắp đến. Cái khó nổi bật vẫn là vấn đề bảo đảm cơ sở vật chất, hậu cần. Việc vận chuyển, tiếp tế còn rất phức tạp. Vì thế, trước mắt một bộ phận lớn quân tình nguyện Việt Nam tạm rút ra ngoài, việc bảo vệ khu trung tâm do các đơn vị Pa-thét Lào đảm nhận. Riêng Trung đoàn 866 quân tình nguyện thì ở lại tại chỗ củng cố, vừa sản xuất vừa tham gia xây dựng và bảo vệ vùng mới giải phóng cùng với Đảng bộ Xiêng Khoảng.

        Anh Vũ Lập và tôi đều nhất trí với bạn. Vì thắng lợi của cách mạng Lào, chúng tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì mà bạn yêu cầu để thực hiện lời căn dặn của Bác, chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương trước khi chúng tôi lên đường đi chiến dịch.

        Đêm hôm ấy, chúng tôi lại nghỉ lại ở sở chỉ huy của bạn. Tôi nằm trằn trọc mãi. Niềm xúc động trước thắng lợi của cách mạng Lào, trước tình bạn chiến đấu keo sơn, thuỷ chung của hai dân tộc, hai lực lượng vũ trang, trước sự ân cần, tình cảm chân thành của các đồng chí lãnh đạo lực lượng vũ trang bạn, làm tôi rạo rực không ngủ được. Hình ảnh những cán bộ, chiến sỹ của ta hàng tháng nay đội mưa, vượt thác lũ, giảm bớt khẩu phần ăn, ngủ rừng, sốt rét từng cơn nối tiếp vẫn lặn lội hành quân đánh giặc, mãi mãi in đậm trong trái tim tôi. Cuộc chiến đấu ở chiến trường này không kém phần gian khổ, hy sinh so với bất cứ chiến trường nào trên đất nước ta.

        Bên ngoài, tiếng rừng đêm Thượng Lào quá đỗi quen thuộc vẫn rì rào ở xung quanh. Tiếng đôi chim từ quy, con trống, con mái gọi nhau tha thiết mà ở rừng đêm nhiệt đới nào cũng có. Chỉ riêng tiếng tắc kè, không hiểu sao ở Lạt Buộc lại nhiều đến thế. Những con ở bên này núi vừa kêu, lập tức mấy con khác ở bên kia vách đá đáp lại ngay. Tiếng con nào cũng vang to. Các bạn ở đây cho biết, chỉ cần nghe tiếng tắc kè là có thể biệt được tuổi của nó. Cứ mỗi tiếng kêu là một tuổi. Các bạn còn bảo chúng kêu được rất nhiều giọng: “Tắc kè”, “Việt Lào”, “Kết đoàn”... nghe rành rọt y như tiếng người.

        Sáng hôm sau, trước khi ra về, một lần nữa chúng tôi chân thành cám ơn đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon, đồng chí Xi Xa Mán về sự đánh giá toàn diện thắng lợi của chiến dịch. Đây cũng là sự động viên thành thực và trân trọng đối với sự hy sinh to lớn của cán bộ và chiến sỹ quân đội hai nước Việt – Lào.

        Trên đường trở lại sở chỉ huy chiến dịch, lòng chúng tôi còn băn khoăn mãi về khối lượng công việc củng cố bảo vệ Cánh Đồng Chum, Mường Xủi quá lớn mà bạn phải gánh vác. Chúng tôi tin rằng với ý thức tự lực tự cường, với tài năng và trí sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân địa phương, của các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào, bạn sẽ khắc phục và vượt qua được tất cả mọi khó khăn đang gặp phải.

        Đầu tháng 7, anh Vũ Lập, tôi và bộ phận chỉ huy chiến dịch lên đường về nước. Chúng tôi phải đi bộ ban đêm, vì suốt ngày địch cho hàng đàn máy bay đủ các loại đánh phá ác liệt tất cả các đoạn đường, các cánh rừng mà chúng nghi là nơi trú quân, dự trữ kho tàng và chúng hằn học trút cả bom đạn xuống các bản làng yên lành trong vùng giải phóng.

        Về đến biên giới, chúng tôi được tin tình hình sức khoẻ của Bác rất trầm trọng. Nỗi lo buồn đã đến với chúng tôi ngay sau niềm vui chiến thắng vừa giành được. Không hiểu tin thắng lợi ở Lào đã đến với Bác chưa và có làm bệnh tình của Bác thuyên giảm được chút nào không? Suốt đời, Bác không chỉ lo cho vận mệnh dân tộc, đất nước mình, mà Bác còn lo vun đắp cho mối tình đoàn kết của nhân dân hai nước Việt - Lào, của nhân dân ba nước Đông Dương anh em.

        Khi gặp các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương, chúng tôi báo cáo các anh kết của chiến dịch và cả những mối lo lắng của chúng tôi, của các bạn Lào và sức khoẻ của Bác.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:13:19 am

THẮNG LỢI MỚI, CỤC DIỆN MỚI

        Bị thất bại nặng nề ở Mường Xủi, phương thức chiến lược của Mỹ đưa ra thể nghiệm ở Thượng Lào nhằm thực hiện học thuyết phản động của Ních-xơn đứng trước nguy cơ bị phá sản.

        Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, và vùng giải phóng của cách mạng Lào trở thành mục tiêu đánh phá điên cuồng của không quân Mỹ.

        Cuộc hành quân Xa-ma-khi II vừa bị đánh bại vào ngày 10 tháng 7 thì ngày 15, đế quốc Mỹ đã mở một chiến dịch ném bom ồ ạt xuống Xiêng Khoảng và Sầm Nưa. Đợt ném bom này còn hung hãn, dã man gấp nhiều lần trận ném bom huỷ diệt thị xã Xiêng Khoảng mấy tháng trước. Không cần che giấu, mị dân dưới những cái tên hoa mỹ như mọi lần, đợt ném bom này, Mỹ đặt tên cho nó là chiến dịch “Kê Khan”, tiếng Lào có nghĩa là “rửa hận”. Mỗi ngày Mỹ đã sử dụng hàng trăm lần máy bay, xuất phát từ bảy căn cứ không quân trên lãnh thổ Thái Lan và trên các tàu sân bay của hạm đội 7, ném liên miên đủ các loại bom xuống bất kỳ chỗ nào nhằm tàn sát nhân dân, tàn phá vùng giải phóng của Pa-thét Lào, biến đất nước Lào trở lại “thời kỳ đồ đá” như chúng đã từng tuyên bố năm 1965 ở Việt Nam.

        Trong khi đó tại sào huyệt Long Chẹng, bọn cố vấn Mỹ, cố vấn Thái Lan và Vàng Pao đã quyết định mở tiếp chiến dịch “Cù Kiệt” để “gỡ danh dự” vừa mất ở Nậm Bạc, Pa Thí và Mường Xủi. Chúng vơ vét tất cả được 18 tiểu đoàn, 52 đại đội thuộc lực lượng đặc biệt phỉ cùng 5.000 quân Thái Lan mặc quân phục Lào do hàng trăm cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy để dốc vào canh bạc điên cuồng này.

        Như vậy, Mỹ đã huy động một trăm phần trăm lực lượng chủ lực cơ động của Vàng Pao và trên 60 phần trăm lực lượng phỉ (AC) của Quân khu 2 ngụy Lào. Chúng còn điều cả Tiểu đoàn BS207 ở Hạ Lào lên tham gia chiến dịch. Tổng số quân chúng huy động để “gỡ danh dự” lên tới 9.000 tên, bằng một phần ba tổng số lực lượng hiện có của địch, và yểm trợ cho cuộc hành quân này có hàng trăm máy bay ném bom, 50 máy bay lên thẳng chở quân, 10 khẩu pháo 105, bốn khẩu 155, hai pháo 75, 10 khẩu cối 106,7, 10 xe tăng và hai xe bọc thép.

        Ngày 31 tháng 7, từ các căn cứ Long Chẹng, Sảm Thông và Văng Viêng, địch ào ạt tiến công vào Cánh Đồng Chum bằng ba mũi. Mũi thứ nhất thọc thẳng vào trung tâm Cánh Đồng Chum. Mũi thứ hai từ phía bắc tiến ra Phu Nốc Cốc cách đông Noọng Pẹt trên 10 ki-lô-mét. Mũi thứ ba từ phía nam đánh lên Then Phun Xa Nội, cách đông Xiêng Khoảng 30 ki-lô-mét.

        Lúc này, trời vẫn đang đổ mưa. Hầm hố, công sự ngập đầy những nước. Các lực lượng bảo vệ tại chỗ của bạn và ta rất mỏng, chỉ có một bộ phận nhỏ chủ lực của ta trụ ở nam Mường Xủi, còn hầu hết là dân quân du kích. Đại bộ phận lực lượng chủ lực của ta và bạn đều lui về phía sau để củng cố vì lương thực, thực phẩm dự trữ không có. Do hoàn cảnh trên, trong những ngày đầu, địch nống ra rất nhanh. Chúng chiếm các điểm cao, xây dựng, củng cố công sự, thiết lập các căn cứ phỉ. Suốt ngày này qua ngày khác những chiếc máy bay ném bom, máy bay bốc đổ quân, những khẩu pháo không ngừng hoạt động. Rừng Lào như sôi lên vì bom đạn Mỹ, tàn lụi đi vì thuốc độc hoá học Mỹ. Địch tập trung đánh phá dữ dội nhất xuống hai huyện Mường Pẹt và Mường Khăm là hai vùng dân cư trù phú của khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng để tàn phá cơ sở kinh tế, hậu cần của các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào.

        Phối hợp với chiến dịch “Gỡ danh dự” ở Thượng Lào, Mỹ còn mở chiến dịch “Mang con” (Con rồng) vào Huồn Miền, Mường Phin ở Trung Lào và chiến dịch “Xôn Phẹt” (Mũi tên kiên cường) ở Hạ Lào nhằm cắt đứt đường 9 đoạn từ Sê Pôn đến Khe Sanh, ngăn chặn sự chi viện của ta cho bạn, cho chiến trường miền Nam Việt Nam bằng đường mòn Hồ Chí Minh.

        Mỹ hy vọng với sự tiến công nhiều mũi, nhiều hướng, nhiều nơi như vậy sẽ buộc các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam phải phân tán lực lượng ra để đối phó. Mỹ còn hy vọng bằng một chiến dịch tiến công trên cả ba vùng chiến lược của nước Lào, sẽ triệt phá được cả hạ tầng lẫn thượng tầng cơ sở của cách mạng Lào và vực được đội quân thất trận, bạc nhược của Vàng Pao cũng như quân ngụy Viêng Chăn để làm xương sống, làm chỗ dựa cho học thuyết “Lào hóa chiến tranh” của Ních-xơn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:13:48 am

        Quy mô của những chiến dịch kể trên rất rộng. Riêng chiến dịch “Cù Kiệt” ở Thượng Lào đã diễn ra trên phạm vi 5.200 ki-lô-mét vuông. Địch đóng chốt trên đường số 7 từ Phu Nốc Cốc đi Noọng Pẹt, cắt đứt con đường độc đạo này để ngăn chặn các cuộc tiến công của ta vào Cánh Đồng Chum. Được không quân Mỹ yểm trợ, bọn quân ngụy đi đến đâu cũng thực hiện chính sách “ba sạch”, tàn sát, đốt phá không từ một thứ gì. Chỉ riêng ở ba huyện phía bắc và đông Xiêng Khoảng, chúng đã giết hàng vạn trâu bò, đốt 210 trường học, 336 chùa, đập vỡ 3.300 tượng Phật. Dân bị bắt, bị giết rất nhiều, trong đó có hàng trăm sư sãi. Ở bản Kha Noi, già nửa số dân trong bản bị giết bằng lưỡi lê, lựu đạn, có gia đình tám người địch giết cả tám. Ở bản Ngăn, chúng ném lựu đạn vào một căn hầm trú ẩn giết chết mười người, phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ em. Trận ném bom ở bản Huôi Hom có gần 60 người dân vô tội bị giết chết, cả bản bị phá trụi.

        Những đợt ném bom B52 rải thảm nối tiếp nhau giội xuống Lào, xuống các làng bản, rền rĩ suốt ngày đêm, có vệt bom dài trên chục cây số.

        Đi đôi  với tàn phá, khủng bố, giết chóc là thủ đoạn dồn dân với một quy mô lớn chưa từng có. Chỉ tính ở khu vực Cánh Đồng Chum, địch đã xúc gần 15.000 người dân dồn vào các trại tập trung chật chội ở đồng bằng sông Mê Công định biến Cánh Đồng Chum thành một vùng đất trắng.

        Chiến dịch “Cù kiệt” thật sự là mộ canh bạc lớn trong sự cố gắng cay cú của để quốc Mỹ để thực hiện học thuyết Ních-xơn trên chiến trường Thượng Lào. Những cái tên “rửa hận”, “gỡ danh dự” đã nói rõ ý đồ điên cuồng của Mỹ. Với những cái tên đó, Mỹ có dã tâm khích động lòng hận thù của bọn tay sai để thực hiện âm mưu đen tối của chúng là đánh chiếm cho được Cánh Đồng Chum – “là chìa khoá của nước Lào” như chúng đã tuyên bố. Nhưng chúng đã không đánh giá đúng lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của nhân dân Lào, cũng như không thấy hết sức mạnh của mối tình đoàn kết gắn bó thuỷ chung của hai dân tộc, hai lực lượng vũ trang Việt – Lào.

        Mặc dù lực lượng rất mỏng và quá chênh lệch so với địch, các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào và các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng vẫn bám trụ tại chỗ, chiến đấu vô cùng dũng cảm. Quân và dân ở bản Hợp, Phu Nốc Cốc, tây thị xã Xiêng Khoảng, tây bà tây bắc Cánh Đồng Chum... đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Chỉ tính từ 20 tháng 8 đến 15 tháng 9, riêng quân và dân quanh thị xã Xiêng Khoảng đã đánh 35 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 600 tên địch, bắn rơi hai máy bay, thu hai pháo 105 và nhiều vũ khí, xe quân sự của địch. Đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng 11, các lực lượng vũ trang của bạn phối hợp với quân tình nguyện việt Nam tiến công sân bay Xiêng Khoảng, sở chỉ huy Tiểu đoàn BV24 của lực lượng đặc biệt trên sân bay và một số vị trí ở bắc Xiêng Khoảng, diệt 108 tên, phá huỷ năm kho xăng, đạn và ba xe quân sự...

        Để bảo vệ nhân dân, bạn cho sơ tán gần 16.000 dân sang biên giới nước ta. Nhân dân nghệ An đã đón tiếp những người bà con rất nồng nhiệt và thắm thiết. Vừa mới chuyển sang, bà con đã có nhà ở thoáng mát, có trường học, bệnh xá và có cả một khu chợ năm ngày họp một phiên. Do phong tục tập quán của dân tộc gần giống nhau nên bà con sơ tán hoà hợp với hoàn cảnh mới rất dễ dàng. Vốn cần cù, nên vừa ổn định chỗ ăn, nghỉ, bà con đã bắt tay vào sản xuất ngay. Chỉ một thời gian ngắn, những vườn rau, những nương ngô, sắn, lúa, đã lên xanh. Những bầy lợn, bầy gà lai sinh sôi, nảy nở. Bản làng mới lại vang lên tiếng cười, tiếng hát và những đêm lăm-vông lại đông chật người.

        Trên đường hành quân đi chiến dịch, chúng tôi có dịp đi qua vùng đất ấy. Bà con sơ tán thăm hỏi, động viên chúng tôi rất ân cần, cảm động, mong mỏi chúng tôi mau chóng cùng với lực lượng vũ trang Pa-thét Lào đánh đuổi hết giặc Mỹ xâm lược, để bà con sớm trở lại làng bản quê hương. Tôi nhận thấy trong những đôi mắt của bà con nỗi nhớ quê hương da diết, mặc dù cuộc sống trước mắt tạm ổn định. Điều đó như thúc giục chúng tôi và cũng là một trách nhiệm nặng nề đặt ra đối với những người chiến sỹ quân tình nguyện.

        Sau chiến dịch Mường Xủi, tôi được Thường trực Quân uỷ Trung ương điều về làm Cục trưởng Cục Cán bộ thuộc Tổng cục Chính trị. Nhưng tôi vừa mới nắm tình hình được đúng ba ngày thì đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Song Hào đã lại cho gọi tôi lên giao nhiệm vụ trở lại Tây Bắc. Bạn yêu cầu ta phối hợp với bạn đánh bại chiến dịch “Cù Kiệt” của địch. Sau khi các đồng chí lãnh đạo của hai Đảng thống nhất chủ trương chung, Quân uỷ Trung ương của ta và bạn đã quyết định mở một chiến dịch lớn, đập tan cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum của địch. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cũng quyết định giao nhiệm vụ cho Quân khu Tây Bắc phối hợp với bạn mở chiến dịch này.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:14:34 am

        Trước ngày lên đường, tôi được đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Quân uỷ Trung ương gọi đến động viên và căn dặn:

        - Anh sang trước xem xét tình hình, chuẩn bị ý kiến về kế hoạch mở chiến dịch. Anh Lập và bộ đội sẽ sang sau. Thường trực Quân uỷ sẽ thông qua kế hoạch và quyết tâm chiến dịch của các anh tại một địa điểm gần biên giới Việt-Lào do các anh chọn.

        Ngày 8 tháng 9 năm 1969, tôi lên đường.

        Thời gian này Bác mới mất được mấy hôm. Cả dân tộc đang phải gánh chịu một nỗi đau lớn. Toàn dân và toàn quân ta đang trong những ngày để tang Bác. Chấp hành lệnh trên, tôi ra đi làm nhiệm vụ quốc tế mà lòng đầy nỗi nhớ thương Bác. Vì yêu cầu của chiến dịch quá gấp, tôi không thể nán lại vài ngày để dự lễ tang Bác, lòng đầy ân hận. Lúc sinh thời Bác rất quan tâm đến các yêu cầu của cách mạng hai nước bạn Lào và Cam-pu-chia. Nếu tôi nấn ná ở lại để dự lễ tang, chắc Bác chẳng vui lòng.

        Cùng đi trước với tôi chỉ có một cán bộ tổ chức, một đồng chí liên lạc và một tổ điện đài. Xe đưa chúng tôi đến đồn biên phòng Nậm Cắn rồi trở về. Từ đây, chúng tôi đi bộ với đội hình phân tán mỗi người cách nhau 10 mét, nhất là ở những quãng đường trống. Chúng tôi cố gắng đi đến Bản Ban trước khi trời tối để nắm được sơ bộ tình hình chiến trường. Dọc đường số 7, nhiều đoạn bị sụt lở do bom và nước lũ rất khó đi, có những đoạn còn bom nổ chậm và bom từ trường chưa kịp phá, nhưng chúng tôi vẫn khẩn trương băng qua. Hai bên đường, môt khung cảnh hoang tàn, chết chóc hiện ra trước mắt chúng tôi. Nhiều chặng đường không còn một bóng cây, một cánh chim nhỏ. Không gian sặc sụa mùi thuốc bom và khói khét xông lên cuồn cuộn từ những đám cháy chưa chịu tắt.

        Chúng tôi đến Bản Ban lúc trời tối. Vừa vào qua cửa hang của dãy núi đá, chưa kịp cởi ba lô, tôi đã nghe tiếng nổ của một loạt đạn rốc-két ở phía sau. Máy bay Mỹ bắn đúng ngay cửa hang, cũng may cửa hang nhỏ nên trong hang không có ai việc gì, mảnh đạn chỉ phạt đứt mấy cây chuối anh em giao liên trồng để ngụy trang. Hàng đá rộng và cao được ngăn làm hai tầng, tầng trên làm kho, tầng dưới là trạm giao liên.

        Tôi cho mở máy liên lạc ngay với Bộ Tổng tham mưu báo cáo về Bộ là chúng tôi đã đến nơi an toàn. bộ cũng báo cáo cho biết anh Vũ Lập và anh Thế Hùng sẽ đi theo đường 7B đến gặp tôi theo chỗ quy định.

        Sáng hôm sau, lợi dụng trời còn sương mù, chúng tôi lên đường đến Bản Son, nơi có một bộ phận tiền phương của Sở Chỉ huy Sư đoàn 316. Gặp nhau trong những giờ phút gian khổ và ác liệt như thế này thật không vui mừng nào bằng.

        Chúng tôi tranh thủ họp để nắm tình hình. Nhưng vừa ngồi vào bàn thì có tiếng một chiếc AV10 lướt qua. Đã có kinh nghiệm, chúng tôi bảo nhau:

        - Thằng này đánh hơi thấy chúng mình rồi đây! Phải sẵn sàng đề phòng bọn phản lực. Mọi người xuống hầm.

        Vừa dứt lời, một quả đạn khói chỉ điểm đã bắn ngay vào khu vực chúng tôi ở. Tiếp ngay đó là hai chiếc F105 ào đến giội bom và bắn rốc-két xối xả xuống căn nhà chúng tôi vừa ngồi.

        Ngay trong đêm hôm đó, chúng tôi rời địa đến địa điểm dự bị, rồi cùng nhau rà soát, đánh giá lai toàn bộ tình hình, nghiên cứu tìm hiểu kỹ về âm mưu hoạt động của địch và bàn việc chuẩn bị cho chiến dịch.

        Nét nổi bật là cuộc chiến đấu không cân sức giữa ta và địch vẫn diễn ra quyết liệt. Ta vẫn trụ bám đánh địch trong vòng vây của chúng. Mặc dù lực lượng địch đông hơn gấp bội nhưng chúng vẫn né tránh đụng độ khi bắt gặp lực lượng chủ lực của ta. Chúng hành quân luồn ra phía sau, chặt đứt các đường tiếp tế và đánh mạnh vào hậu phương phía sau. Cái mạnh của địch vẫn là những hoạt động tăng cường của không quân. Chúng sử dụng 120 đến 150 lần máy bay đánh phá liên tục trong một ngày. Khắp khu vực Cánh Đồng Chum không nơi nào không có dấu vết tàn phá của bom đạn địch; có lẽ chỉ còn lại nơi chỉ huy của chúng tôi đang đóng là địch chưa mò đến. Để triệt phá hậu cần lâu dài của cách mạng Lào, máy bay địch còn săn lùng bắn giết cả trâu bò. Ở Lào, trâu bò thường tập trung hàng đàn, nghe tiếng nổ hoặc tiếng máy bay là chúng rùng rùng chạy nên máy bay Mỹ càng dễ phát hiện. Có Những khu rừng chúng tôi đi qua thấy hàng chục con trâu bò nằm chết cạnh những hố bom, nhiều con trên thân còn găm đầy mảnh đạn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:15:00 am

        Những hoạt động đó của địch đã gây ra cho ta vô vàn khó khăn. Bộ đội vừa rút về nước hồi tháng 7, lương thực, đạn dược dự trữ ở chiến trường đều thiếu thốn. Xe cộ hỏng chưa kịp sửa chữa. Địch khoá chặt đường số 7, đánh sập tất cả các cầu cống trên đường 7A và 7B, không dễ gì vận chuyển hàng đến các đơn vị. Bạn cũng gặp khó khăn: vũ khí, đạn dược chưa được bổ sung, lượng thực cũng cạn. Các đơn vị quân tình nguyện lại còn gian khổ hơn nữa. Ở đây hiện có Trung đoàn 866 và một số đơn vị của Trung đoàn 174 bám trụ chiến đấu từ sau chiến dịch Mường Xủi. Những đơn vị này đói ăn đã hơn một tuần lễ. Nhiều anh em bị kiết lỵ, phù thũng, nhiều người đứng không vững, phải dìu nhau hành quân. Quân số chiến đấu được ở mỗi đại đội chỉ còn 30 đến 40 tay súng.

        Trong khi đó, việc vận chuyển tiếp tế chỉ có thể tổ chức được bằng các lực lượng xung kích nhỏ. Vì vậy, năm bảy ngày mới có một chuyến tiếp tế chỉ đủ cho cả tiểu đoàn ăn cháo cầm hơi. Mỗi hạt gạo có khi phải đổi bằng xương máu. Một trung đội ra đi, khi về còn lại bảy, tám người, gạo cũng chỉ còn được non nửa. Hơn hai trăm thương binh, già nửa là thương binh nặng chưa chuyển được về phía sau, vẫn nằm trong vòng vây địch. Củ mài, củ rừng đào được phải dành cho thương binh và ngày càng trở nên khan hiếm. Không những thế, trong những ngày gian khổ vừa đánh địch, bộ đội ta vẫn tiếp tục dìu dắt nhân dân, đàn bà, trẻ em, người già Lào vượt thác lũ thoát khỏi vòng vây và sẵn sàng chia sẻ từng bát cháo, củ rừng cho bà con. Có bà mẹ Lào đã nói: “Mẹ biết ơn các con đã cứu mẹ, vì các con là bộ đội của Bác Hồ. chỉ có bộ đội của Bác Hồ mới thương yêu và giúp đỡ nhân dân Lào”. Cũng trong những ngày chiến đấu quyết liệt gian khổ này, cán bộ, chiến sỹ ta dù ở xa đất nước đều  biết được tin Bác Hồ mất. Sự kiện đau thương đó ảnh hưởng sâu sắc đến mọi cán bộ, chiến sỹ, mọi đơn vị đang chiến đấu ở chiến trường Lào. Biến đau thương thành sức mạnh, cán bộ, chiến sỹ càng nắm chặt tay súng, chiến đấu kiên cường. Các đơn vị đều hứa thấm nhuần sâu sắc hơn nữa lý tưởng của Bác, tinh thần quốc tế cao cả, tấm lòng của Bác luôn chăm lo, vun đắp cho tình đoàn kết Việt – Lào, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ thực hiện cho được mong muốn của Bác, Di chúc của Bác để lại.

        Buổi chiều ngày 14 tháng 9, chúng tôi đến hang đá 50 theo điện của Bộ Tổng tham mưu để gặp các anh Vũ Lập, Thế Hùng và Lê Chiêu vừa mới sang. Sáng ngày 15, chún tôi khẩn trương họp bàn kế hoạch chiến dịch.

        Anh Vũ Lập cho biết, ngày 13 tháng 9, đại diện các đơn vị tham gia chiến dịch đã về Bộ họp để nhận nhiệm vụ. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Các Thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn và Nguyễn Đôn, thay mặt Quân uỷ Trung ương trực tiếp họp và giao nhiệm vụ cho các lực lượng ta phối hợp với bạn mở chiến dịch.

        Anh Vũ Lập báo cáo tóm tắt ý đồ của chiến dịch theo quyết định của hai Quân uỷ Trung ương – ta và bạn – tên chiến dịch là 139 (ngày 13 tháng 9, ngày quyết định chủ trương mở chiến dịch). Anh Vũ Lập nhấn mạnh ba nhiệm vụ mà Bộ giao cho chúng tôi phối hợp với bạn:

        1. Phải tiêu diệt một bộ phận quan trong sinh lực của địch đang nống lấn ra Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, chủ yếu là lực lượng Vàng Pao, làm thay đổi một bước so sánh lực lượng có lợi về phía cách mạng.

        2. Khôi phục lại vùng giải phóng, xây dựng và củng cố vùng giải phóng.

        3. Mở rộng vùng giải phóng có trọng điểm, đập tan cả khu vực địch dùng làm bàn đạp để lấn chiếm Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.

        Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ đã quyết định sử dụng lực lượng tham gia chiến dịch gồm có Sư đoàn 316, Sư đoàn 312, Trung đoàn 866, Trung đoàn 16 pháo binh, hai tiểu đoàn công binh, Tiểu đoàn 20 đặc công, một đại đội xe tăng và Binh trạm 11 bảo đảm vận chuyển cho chiến dịch.

        Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: anh Vũ Lập, Tư lệnh; tôi Chính Uỷ; anh Lê Chiêu, Phó Chính uỷ; anh Lê Minh, Phó Chính uỷ kiêm Chủ nhiệm chính trị; anh Thế Hùng, Tham mưu trưởng; anh Hoàng Hoa Thưởng Chủ nhiệm hậu cần; anh Nguyễn Năng, Sư đoàn trưởng 312 và anh Lê Hoàn Sư đoàn trưởng 316 làm Phó tư lệnh.

        Đảng uỷ chiến dịch có: tôi là Bí thư, các Uỷ Viên là các anh Vũ Lập, Lê Chiêu, Lê Linh, Hoàng Hoa Thưởng...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:15:38 am

        Ngày 18 tháng 9, Đảng uỷ Bộ tư lệnh chiến dịch đã họp để quán triệt nhiệm vụ của bộ, đánh giá đúng tình hình và hạ quyết tâm chiến dịch.

        Vì là những anh em cùng quen biết, đã từng chiến đấu bên nhau trên chiến trường nước bạn nhiều năm, nên chúng tôi nhanh chóng đi đến nhất trí về mọi vấn đề.

        Bạn cũng cung cấp cho ta nhiều tin tức cụ thể về tình hình địch. Cuộc hành quân lấn chiếm của địch đang tiếp tục. Chúng đã khống chế được các con đường độc đạo, chiếm các điểm cao và trung tâm Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, Mường Xủi. Trong cuộc hành quân này, Mỹ sử dụng lực lượng Thái Lan đóng chốt các vị trí quan trọng và dùng bọn phỉ Vàng Pao làm lực lượng tiến công. Tuy vậy, do quy mô cuộc hành quân vượt quá sức của một đội quân tập hợp bằng nhiều lực lượng, mà trình độ phối hợp hành động của chúng rất hạn chế, nên không đáp ứng hoàn toàn theo yêu cầu của bọn chỉ huy Mỹ. Bọn lính đặc biệt mới chỉ quen đánh phân tán, nhỏ, lén lút, chưa có đủ trình độ đánh tập trung, đánh lớn. địa bàn lấn chiếm rộng lớn, phải rải quân ra nhiều hướng nên địch không còn cả lực lượng dự bị, một điều kiêng kỵ nhất của một đội quân đi tiến công.

        Về ta, cũng chưa bao giờ ta mở một chiến dịch phản công trên một quy mô rộng lớn trên chiến trường Thượng Lào như chiến dịch này. Vì thế, ta gặp không ít khó khăn: lực lượng tác chiến tại chỗ thì đã hoạt động dài ngày, quân số hao hụt, lương thực, đạn dược tiếp tế hết sức khó. Lực lượng mới bổ sung tuy sung sức, nhưng chưa quen chiến trường. Dự trữ các mặt cho chiến dịch còn quá ít ỏi.

        Mặc dù gặp những khó khăn như vậy, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch vẫn xác định quyết tâm:

        - Phải tiêu diệt được sáu đến bảy tiểu đoàn địch, đánh thiệt hại nặng bảy đến tám tiểu đoàn khác, đặc biệt chú ý tiêu diệt cơ quan đầu não chỉ huy hành quân, bọn cố vấn Mỹ và quân Thái Lan.

        - Khôi phục lại toàn bộ vùng giải phóng, quét sạch phỉ, nối liền hai tỉnh Sầm Nưa và Xiêng Khoảng, đi đôi với việc mở rộng vùng giải phóng.

        Chiến dịch sẽ được chia làm ba đợt:

        Đợt 1 từ 25 tháng 10 năm 1969 đến 10 tháng 2 năm 1970 là đợt đánh tạo thế, mở đường triển khai lực lượng và chuẩn bị vật chất, kỹ thuật. Đợt này phải tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, mở tuyến đường tiếp tế, khôi phục lại một số địa bàn có lợi cho phản công sau này, khai thông đường số 7 từ Bản Son đến ngã ba Noọng Pẹt và đường 7B vào Xiêng Khoảng.

        Đợt 2 từ 10 tháng 2 năm 1970 đến cuối tháng 2 năm 1970, đợt chủ yếu của chiến dịch, có nhiệm vụ tiêu diệt đại bộ phận sinh lực địch, khôi phục lại toàn bộ vùng giải phóng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.

        Đợt 3 từ cuối tháng 2 đến hết tháng 4 năm 1970, nhằm phát triển thắng lợi, giải phóng Sảm Thông – Long Chẹng và Mường Xủi, thanh toán các cụm phỉ ở phía nam và bắc đường 7, ở Sen Chồ, Pom Lọng, Keo Sơn và Phu Xa Bốt.

        Để khắc phục khâu bảo đảm vật chất kỹ thuật cho cả một chiến dịch lớn, dài ngày không thể chỉ riêng bộ máy hậu cần lo nổi, càng không thể dựa vào nhân dân vùng giải phóng mà địch vừa tàn sát, đốt phá, cướp sạch mọi thứ, nên Đảng uỷ đề ra khẩu hiệu: “Vai súng, vai gạo, toàn mặt trận làm công tác hậu cần”.

        Về kế hoạch hiệp đồng với bạn, phải đặc biệt chú ý phát huy thế xen kẽ hiện nay của các lực lượng Pa-thét Lào đang chiến đấu trong lòng địch như Tiểu đoàn 24 ở Keo Xẹt, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 15 và Tiểu đoàn 46 ở Mường Khình, Tiểu đoàn 1 ở Xa La Phu Khun, Tiểu đoàn Pa Chay ở Phu Nốc Cốc... để tiếp tục kiềm chế, tiêu hao địch, buộc địch phải phân tán, đối phó, tiến tới bao vây hạn chế hoạt động nống lấn của chúng.

        Họp xong, anh Vũ Lập và tôi thay mặt Bộ tư lệnh chiến dịch sang gặp Bộ chỉ huy của bạn để bàn và thống nhất kế hoạch tiến hành chiến dịch. Lúc đó, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon cũng đang có mặt ở sở chỉ huy. Chúng tôi muốn nhân dịp sang thăm bạn có một món quà gì đó nhưng trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ, ý định tốt đẹp đó cũng không thực hiện được. Dọc đường, khi đi qua một khu rừng ổi, chúng tôi nảy ra ý định chọn những quả thật ngon đem biếu bạn. Gặp lại chúng tôi, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon vui mừng không xiết. Tôi và anh Vũ Lập cũng xúc động không kém vì từ sau chiến dịch Mường Xủi đến nay chúng tôi mới lại được gặp nhau. Và điều không ngờ, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon cũng đã chọn được năm quả ổi rất to để đón chúng tôi. Chúng tôi ôm lấy nhau, rơm rớm nước mắt. Hình ảnh này in sâu mãi trong lòng tôi, ngày càng đậm nét và thực sự trở thành tình cảm ruột thịt trong cuộc đời chiến đấu cũng như cuộc sống bình thường của tôi.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:16:17 am

        Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon chia buồn sâu sắc với chúng tôi về việc Bác của chúng ta qua đời. Đó cũng là nỗi buồn chung. Chúng tôi ngồi lặng bên nhau. Bác là hình tượng cao đẹp nhất của tình đoàn kết chiến đấu của cả hai dân tộc. Chúng tôi đều nhớ thương Bác và cảm thấy như Bác vẫn luôn có mặt bên chúng tôi trong những ngày chiến đấu gian khổ, hy sinh này. Khi hỏi thăm sức khoẻ của chúng tôi và anh em quân tình nguyện Việt Nam, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon tỏ ra băn khoăn nhiều nhất về tình hình sức khoẻ của cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 174 ở Mường Xủi, mặc dù vừa qua bị cái đói hành hạ nhưng vẫn kiên cường bám trụ chiến đấu. Đồng chí biết có đơn vị chốt giữ ở Phu Keng đã hàng tháng không có hạt cơm nào, toàn ăn ổi xanh, củ chuối, rau rừng để đánh giặc. Đồng chí nói:

        - Sau này khi cách mạng thành công, nước Lào hoàn toàn độc lập, dù cho nhân dân Lào xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đời sống vật chất thật sung túc, nhân dân Lào vẫn không quên những ngày gian khổ của anh em chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam hôm nay.

        Tôi biết lời đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đơn nói vậy là xuất phát  từ tấm lòng rất chân thành. Có một câu chuyện vừa qua, đồng chí Xa Mán, Chính uỷ Mặt trận Cánh Đồng Chum viết thư và cử hai chiến sỹ sang Sư đoàn 316 đề nghị chi viện ít gạo, vì có đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon tới để chỉ đạo cuộc chiến đấu mà đơn vị không còn hạt gạo nào. Sư đoàn cũng không còn gạo, phải cử người về tận kho phía sau lấy nhưng cũng chỉ còn vài chục cân gạo cháy và mốc để trao cho bạn. Biết được hoàn cảnh khó khăn của ta, bạn rất xúc động.

        Sau khi trao đổi kỹ, đánh giá tình hình địch, ta về mọi mặt, anh Vũ Lập đã báo cáo về kế hoạch tác chiến của chiến dịch. Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon rất phấn khởi. Đồng chí hoàn toàn nhất trí với dự kiến kế hoạch chiến dịch mà chúng tôi trình bày. Đồng chí nhấn mạnh đến tính phức tạp của chiến dịch. Đến vị trí chiến lược của Cánh Đồng Chum và đề nghị chúng tôi nên dự kiến cả kế hoạch tiếp theo, có biện pháp thật cụ thể và hiệu quả để cùng với bạn bảo vệ vững chắc vị trí này sau khi được giải phóng.

        Vấn đề mà đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon và các đồng chí trong Bộ chỉ huy của bạn quan tâm đến nhiều nhất là vấn đề tiếp tế. Bạn hứa sẽ làm hết sức mình để cùng ta khắc phục khâu quan trọng này.

        Do thời gian chiến dịch kéo dài, để ổn định việc chỉ huy, chúng tôi đề nghị với đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon chọn một địa điểm thuận lợi cho việc trao đổi chung thường xuyên giữa hai cơ quan chỉ huy của bạn và của ta. Sau khi cân nhắc, chúng tôi nhất trí cùng chuyển về vùng Khăm Pha Niên. Nơi đấy có một dãy núi đã trùng điệp, dưới chân núi có hang sâu, bảo đảm an toàn và rất thuận tiện cho việc chỉ huy tác chiến.

        Cuối tháng 10 năm 1969, tiếng súng mở màn chiến dịch phản công của ta bắt đầu nổ giòn giã trên Mặt trận Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.

        Thực hiện quyết tâm chiến dịch đợt 1, từ ngày  25 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11 năm 1969, các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào đã cùng với các đơn vị quân tình nguyện liên tiếp tổ chức tiến công tiêu hao sinh lực địch. Nhiều trận đánh có hiệu quả cao. Đại đội đặc công 19, bộ đội địa phương Nghệ An và các Tiểu đoàn2, Tiểu đoàn  của Pa-thét Lào đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở vị trí Xa Nọi; Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 141, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 174 đã tập kích dứt điểm Phu Phụng, Lạt Buộc, tiêu diệt, tiêu hao nặng nề các AC10a, BV21, BV24, BV27 và BI12 của địch, buộc chúng phải rút chạy.

        Trước tình hình đó, địch đã phải điều AC9a từ bắc Xa La Phu Khun về phòng ngự ở Đông Đàn và điểm cao 1505, đưa BV7 từ Phu Phụng về tăng cường cố giữ khu Noọng Pẹt, đưa thêm các BS208, 209, 210 ra chốt chặn trên tuyến đường Then Phun – Xa Nọi.

        Lợi dụng thời điểm địch còn đang chuyển quân, công sự sơ sài, phòng ngự chưa vững chắc, đêm 8 tháng 11, các bộ phận của Trung đoàn 163 và Trung đoàn 145 của Sư đoàn 312 đã tiến hành một loạt các trận tập kích vào AC1a trên bốn điểm cao ở thị xã Xiêng Khoảng, đánh dứt điểm hai vị trí của BS209 ở Then Phun. Sân bay Xiêng Khoảng cũng bị tập kích. Ba điểm ở Phu Chông Vông và Keo Hom do BV24 chiếm giữ bị tiêu diệt. Số còn lại vội vã co về Sảm Thông củng cố.

        Ở khu Bản Son, các đơn vị quân tình nguyện thuộc Đơn vị 866, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 174 và Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 165 cũng liên tục đánh diệt bọn BV27. Bị thiệt hại nặng, bọn này rút về Noọng Pẹt cố thủ. Đêm 23 tháng 1 năm 1969, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 141 lại đánh dứt điểm đèo Mã Tử mở thông đường vận chuyển từ U2 vào Bản Son.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:16:51 am

        Bị thất bại liên tiếp, địch đã phải điều các SGU từ Hạ Lào lên tiếp viện tăng cường chốt giữ tuyến Xa Nọc – Phu Học – Cò Luông – Phu Nốc Cốc hình thành một phóng tuyến chặn ta từ Mường Kha đến đông bắc Noọng Pẹt.

        Vừa chuẩn bị vừa đánh, đánh địch để chuẩn bị là một phương thức mới đang được áp dụng trên tất cả các khu vực, các hướng của chiến dịch. Lợi dụng phòng tuyến địch có nhiều sơ hở do đứng chân chưa vững, các đơn vị quân tình nguyện đã thừa thắng tiến công Phu Nốc Cốc – Cò Luông và chuẩn bị diệt địch ở Mường Kha, gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể. Nhưng cho đến ngày 10 tháng 12, do còn gặp nhiều khó khăn trong vận chuyển, tiếp tế nên ta chưa tổ chức đánh tiêu diệt lớn và chưa khai thông được đường số 7, con đường tiếp tế chủ yếu của chiến dịch. Mặt khác, địch vẫn đang ở thế tương đối chủ động nên trận đánh Phu Nốc Cốc – Cò Luông không thành công.

        Ngày 10 tháng 12, để khu trục ta ra xa các phòng tuyến đang chiếm giữ, Phu Ma lúc ấy là Thủ tướng chính phủ Viêng Chăn đã bay lên Cánh Đồng Chum gặp Su-li-van, Chỉ huy trưởng lực lượng trung lập phản động để nghiên cứu, bàn bạc việc tăng cường quân cho chiến dịch lấn chiếm và ngày 13, một số đơn vị quân trung lập của Su-li-van từ Văng Viêng đã được điều lên khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.

        Địch đang cố gắng ổn định, xây dựng thế phòng ngự ở những khu vực mà chúng vừa chiếm được, vừa tổ chức những đợt tiến công mới, hy vọng có thể giành lại thế chủ động đã mất. Trước tình hình đó, chúng tôi đã cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch của bạn trao đổi, rút kinh nghiệm đợt đầu của chiến dịch và nhận thấy: trong thời gian qua, bộ đội ta đã đánh tốt, tiêu hao, tiêu diệt được nhiều địch nhưng do còn gặp quá nhiều khó khăn về vận chuyển, tiếp tế nên chưa tổ chức đánh tập trung, đánh lớn được. Mặt khác, ta vẫn chưa tạo ra được một cách đánh thích hợp mà còn nặng về đánh vỗ mặt, chưa kết hợp được giữa đánh mở đường với đánh vào hậu cứ địch, do đó địch còn khả năng đối phó vì hậu phương của chúng vẫn yên tĩnh.

        Qua rút kinh nghiệm và nhận định tình hình, ta và bạn đều nhất trí một phương thức hoạt động mới: vừa đánh vào các vị trí tiền duyên, vừa tập kích vào các sở chỉ huy hành quân của địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực cấp cao và phá huỷ các phương tiện chiến tranh của chúng. Một khi các sở chỉ huy bị đập nát, quân địch sẽ tan rã rất nhanh, như chúng đã từng tan rã ở Nậm Bạc, Pa Thí và Mường Xủi.

        Mở đầu cho đợt hoạt động này, đêm 18 tháng 12 năm 1969, đơn vị đặc công của Quân khu Tây Bắc đã cùng với đơn vị Đặc công 5 của Bộ bất ngờ tập kích tiêu diệt một loạt 13 vị trí địch ở Cánh Đồng Chum diệt 320 tên, trong đó có nhiều sỹ quan chỉ huy, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Cùng với trận tập kích gọn ghẽ chớp nhoáng đó, các đơn vị bộ binh cũng mở một loạt các trận đánh ở hai phía đường 7A và 7B. Kết quả sau mười ngày vây ép, ta đã hoàn toàn làm chủ được Phu Nốc Cốc và Cò Luông.

        Con đường tiếp vận chủ yếu của chiến dịch đã được khai thông và cửa ngõ vào Cánh Đồng Chum cũng đã được mở rộng. Đợt 1 của chiến dịch căn bản đã hoàn thành. Sau 107 ngày đêm chiến đấu, các lực lượng vũ trang của ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 3.161 tên địch, diệt gọn BV24, BV27, đánh thiệt hại nặng BS209, BC206, BV21, BI12, SGU1, và cả hai AC của địch.

        Ta đã chuyển từ thế bị động sang thế chủ động, khắc phục được một số khó khăn về vận chuyển tiếp tế, lót sẵn được một số lực lượng vào sau lưng địch để tạo thế cho đợt 2. Từ thế ồ ạt tiến công, địch đã phải co về phòng ngự ngay cả trong hành lang phòng ngự, chúng cũng liên tiếp bị các lực lượng của ta chọc thủng. Tuy vậy, địch vẫn nống lấn ra được ở đèo Bưởi – Phu Mu Lao trên đường số 7 và do đó, đường vận động cơ giới duy nhất của ta vẫn chưa được khai thông. Mặt khác BS205 của địch vẫn chốt giữ ở Mường Kha nên tuyến vận chuyển đường bộ từ U2 đi Bản Son vẫn bị cắt đứt.

        Nhưng vấn đề đặt ra lúc này là không thể chờ đợi điều kiện vận chuyển đầy đủ mới tiếp tục đánh địch, như vậy địch sẽ có thời gian hồi sức củng cố phòng tuyến và ổn định thế chiếm đóng. Căn cứ vào tình hình cụ thể của chiến trường, hai bộ chỉ huy của ta và của bạn đã nhất trí chủ trương: Phải gấp rút chuẩn bị với mức yêu cầu tối thiểu, vừa tiếp tục đánh tiêu hao sinh lực địch ở các vị trí phòng ngự bên ngoài, vừa khẩn trương chuẩn bị bước sang đợt 2 của chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:20:55 am

        Bấy giờ đang là những ngày đầu của một năm mới. Bầu trời hết sức tạnh ráo, quang đãng. Núi rừng Lào như được khoác một tấm áo mới, xanh biếc. Ở những vạt rừng bị bom na-pan và thuốc độc hoá học Mỹ phá trụi, những chồi non đã bắt đầu nhú lên mát dịu. Anh Vũ Lập nói vui với tôi: “Thiên nhiên đang ủng hộ chúng ta”. Quả thực, ở Thượng Lào yếu tố thiên nhiên đóng một vai trò rất quan trọng trong các hoạt động quân sự.

        Vào đợt 2 của chiến dịch, ta phải trực tiếp đụng độ với một lực lượng lớn tăng cường của địch. Vàng Pao đã tập trung hơn 50 phần trăm lực lượng đặc biệt của y trên chiến trường Lào, cộng với 18 tiểu đoàn chủ lực của phái hữu và trên 50 các AC. Tổng cộng trên 8.000 tên. Để hỗ trợ cho Vàng Pao, Mỹ còn huy động cả quân Thái Lan đóng giữ tuyến Bản Na, Cửa Trời và căn cứ Sảm Thông – Long Chẹng, cho máy bay ngày đêm đánh phá liên miên, ác liệt các trục đường giao thông tiếp tế của ta. Chúng quyết tâm đánh chiếm bằng được và chiếm giữ lâu dài Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, vị trí chiến lược sống còn của cách mạng Lào.

        Thế chiếm đóng của địch đã gây cho ta rất nhiều khó khăn. Chúng giữ được nhiều điểm cao quan trọng, hình thành từng cụm và khu vực phòng ngự có chiều rộng và chiều sâu nối liền với hậu cứ của chúng, kết hợp với những hoạt động thường xuyên ở phía ngoài, ngăn chặn đường phát triển của ta vào Cánh Đồng Chum cũng như bít chặt các con đường tiếp tế của ta vào phía sau của chiến dịch.

        Tuy vậy, lực lượng của địch cũng có hạn. Chúng chỉ có đủ sức thực hiện được ý đồ ở phía bắc Cánh Đồng Chum, còn ở phía nam và tây nam thì vẫn là nơi sơ hở mà ta cần phải khai thác một cách thật triệt để.

        Sau khi sơ kết đánh giá thắng lợi của đợt 1 và chuẩn bị quyết tâm của đợt 2, chúng tôi xác định: Tư tưởng chỉ đạo của đợt 2 vẫn là tư tưởng chỉ đạo chung của chiến dịch. Nhưng trong đợt này, chúng tôi quan tâm nhiều đến vấn đề chỉ đạo tác chiến với từng đối tượng cụ thể, đặc biệt là mối quan hệ giữa nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch với nhiệm vụ khôi phục nhanh chóng vùng giải phóng.

        Hướng đột kích chủ yếu của đợt 2 được xác định đánh vào những nơi hiểm yếu, tập trung lực lượng chủ chốt của địch, kết hợp với các mũi thọc sâu tiến đánh vào bên trong hậu cứ, hình thành thế bao vây chiến dịch và chiến thuật thật chặt chẽ.

        Cuối tháng 1, Bộ Tổng tham mưu cử đồng chí Nguyễn Đôn sang thông qua quyết tâm đợt 2 chiến dịch. Ngày 1 tháng 2, anh Lập, tôi và anh Đôn thay mặt Bộ tư lệnh chiến dịch sang gặp đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon để trao đổi tình hình và thống nhất phương án với Bộ chỉ huy của bạn. Trong chiến dịch này, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon luôn có mặt ở sở chỉ huy chiến dịch, nắm sát tình hình chiến đấu của các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào, quan tâm thăm hỏi, động viên và thường xuyên trao đổi với chúng tôi. Sau khi nghe và trình bày phương án đợt 2 chiến dịch. Đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon nhất trí với nhận định và quyết tâm của chúng tôi. Đồng chí bổ sung một số vấn đề và nhấn mạnh nhiều lần kế hoạch hiệp đồng với mũi tiến công của các đơn vị Pa-thét Lào ở hướng Mường Xủi – Xa La Phu Khun và hướng Pa Kha – Phu Bia.

        Lúc tiễn chúng tôi ra về, đồng chí nheo mắt nhìn bầu trời tràn ngập ánh nắng, vui vẻ nói:

        - Chúng ta cố gắng kết thúc chiến dịch trước Tết “Bun Hột Nậm” cổ truyền của Lào và mời các anh cùng dự Tết chiến thắng với chúng tôi nhé!

        Ngày 8 tháng 2 năm 1970, bọn chỉ huy địch ở Cánh Đồng Chum đã đánh hơi được sự chuẩn bị của ta. Chúng vội vã ra lệnh cho các đơn vị tăng cường phòng thủ và gọi các sỹ quan vắng mặt trở về đơn vị. Nhưng do chưa nắm được ý đồ chiến dịch của ta và cho rằng trước mắt ta chỉ đủ sức tiến công Xiêng Khoảng, nên chúng điều các BS204, 206, có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ để cố thủ Noọng Pẹt. Ở các khu vực khác, chúng chỉ tăng cường có mức độ. Đấy là một sai lầm lớn của địch và cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự tan rã nhanh chóng của địch ở khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.

        Chiều ngày 3 tháng 2, chúng tôi tổ chức lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng ở địa điểm mới, cách hang Khăm Pa Niên một ngày đường. Trước cờ Đảng và chân dung của Bác, chúng tôi nhắc lại những lời thề thiêng liêng của mình, kiên quyết làm tròn nhiệm vụ quốc tế mà Đảng, Bác giao cho  chúng tôi.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:21:49 am

        Trong buổi lễ ra quân đầy xúc động ấy, chúng tôi vui mừng được đón tiếp các đồng chí cán bộ các binh chủng do Bộ cử sang theo dõi, chỉ đạo chiến dịch, cũng toàn là những anh em đã quen biết, gắn bó với nhau từ lâu.

        Hôm ấy có một chuyện không may đã xảy ra đối với chúng tôi. Vào lúc 4 giờ sáng, trước khi xuất quân, một loạt bom B52 đã rải thảm trùm từ cửa hang lên đỉnh núi chúng tôi đang ở. Sức ép và mảnh bom làm một số đồng chí hy sinh, một số khác bị thương nặng, trong đó có anh Thăng Bình là Tham mưu trưởng mặt trận. Một điều rất lạ là ở trong hang, chúng tôi nằm thành hàng ngang thì cứ xen kẽ nhau một người bị ảnh hưởng của bom, tiếp đến một người không việc gì. Hai đồng chí chiến sỹ liên lạc nằm cạnh tôi, ở hai bên, thì cả hai đều hy sinh, tôi may mắn sống sót.

        Anh Thăng Bình là một cán bộ lâu năm của Quân đội ta, đã cùng chúng tôi tham gia nhiều chiến dịch. Nghe tin anh hy sinh, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon đã gửi tới chúng tôi những lời chia buồn thật thân thiết và cảm động. Hai đồng chí liên lạc hy sinh, có một người đã cùng sống với tôi trong mấy năm nay, cùng tôi tham gia nhiều chiến dịch, trải qua bao gian khổ, thiếu thốn và đã từng cứu tôi thoát chết ở Bản Son.

        Trước khi lên đường, chúng tôi thầm gạt nước mắt vĩnh biệt những người đồng chí thân yêu của mình. Các anh ra đi từ đất Mẹ và đã vĩnh viễn nằm xuồng, gửi lại xương máu mình làm “Tươi thắm thêm cây cỏ, sông núi Lào” như lời đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon nói với chúng tôi.

        Sáng ngày mùng 5, chúng tôi đến sở chỉ huy mới. Anh Vũ Lập đã đến đây trước. Tối hôm đó, chúng tôi nấu một bữa chè ngọt để khao các anh cán bộ của Bộ đến mặt trận an toàn. Không có đậu với đường, chúng tôi lấy mấy bánh lương khô hoà với nước rồi đun sôi lên. Nhưng chè vừa múc ra bát, một loạt bom toạ độ lại rơi đúng vào vị trí sở chỉ huy. Lúc đó, chúng tôi còn ngồi cả trong hầm nên không ai việc gì, còn chè thì phủ đầy bụi đất. ăn không được mà đổ đi thì tiếc, một người chợt nảy ra sáng kiến: chờ cho chè nguội rồi lấy dao hớt bỏ một lớp ở trên đi. Rốt cuộc bữa tiệc của chúng tôi vẫn không bị bỏ dở, trở thành một kỷ niệm đáng nhớ trong những ngày thiếu thốn, gian khổ nhất của chiến dịch.

        Trước ngày N của đợt 2 chiến dịch một ngày, các đơn vị của Sư đoàn 316 được lệnh tiến hành một loạt các trận đánh vào các mục tiêu án ngữ xung quanh Phu Huội và ngã ba Noọng Pẹt. Được không quân chi viện, địch tổ chức phản kích nhiều lần nhưng đều bị đánh bại. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 11 tháng 2 năm 1970 bọn địch ở các mục tiêu còn lại đã phải rút chạy về Bản Hang, Phu Hoi và Mường Kha. Sư đoàn 316 hoàn toàn làm chủ khu vực được phân công, diệt sáu vị trí địch, bức rút nhiều vị trí khác. Cụm phòng ngự liên hoàn ở phía nam đường số 7 của địch đã bị phá vỡ.

        Hai giờ sáng ngày 12 tháng 2 năm 1970, tiếng súng bắt đầu gầm lên dữ dội ở cả hai phía nam và bắc Cánh Đồng Chum. Chỉ trong một thời gian ngắn, các đơn vị phía nam của Sư đoàn 312 cùng Trung đoàn 866 đã dứt điểm năm vị trí địch ở Phu Theng Neng, điểm cao 1505, U Bo, Nậm Cô và Cô Xi; cùng một lúc, lực lượng pháo binh của Sư đoàn 316 và đại đội pháo A-rốc của Pa-thét Lào cùng luồn sâu vào phía trong sử dụng súng cối và ĐKB tập kích mãnh liệt vào khu trung tâm Cánh Đồng Chum gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể.

        Toàn bộ SGU5, BS204, AC4c của địch ở Phu Học, đồi Xa La Phu Khun đã lần lượt rút chạy. Bộ đội ta phối hợp cùng dân quân du kích của bạn “bám lấy thắt lưng địch mà đánh” diệt một số địch, phá huỷ bốn xe tăng, xe bọc thép. Nhưng trên đường số 7, địch vẫn ngoan cố chốt giữ tuyến Đèo Bưởi, Phu Mu Lao, Mô Phương để ngăn chặn đường phát triển của ta. Để mở đường cho cơ giới ta đi vào phía trong, Bộ tư lệnh chiến dịch đã ra lệnh cho đơn vị pháo 105 ly bắn không chế thường xuyên vào ba vị trí nói trên và mãi tới 15 giờ ngày 12, gần một nửa lực lượng cơ giới của ta gồm ba xe tăng, hai xe bọc thép và ba khẩu lựu pháo 122 mới vượt qua được Phu Nốc Cốc.

        Không thể không giải phóng đường số 7, Bộ tư lệnh chiến dịch, một mặt tiếp tục dùng pháo 105 khống chế Đèo Bưởi, Phu Mu Lao, Mô Phương, mặt khác gấp rút điều Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 148 tiến công Đèo Bưởi. Sau một ngày đêm chiến đấu ác liệt, bọn địch ở Đèo Bưởi đã bị tiêu diệt một số lớn, phải rút chạy về Phu Mu Lao và đến lúc ấy, đường số 7 mới hoàn toàn được thông suốt. Lực lượng xe tăng, pháo, xe chở gạo của ta xuất phát từ Bản Ban nhanh chóng tiến vào phía Bản Hang, bắt liên lạc với bộ binh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:22:22 am

        Phối hợp với Mặt trận Cánh Đồng Chum, các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào cùng với quân dân Xiêng Khoảng đã liên tục bao vây, tiến công tiêu diệt các vị trí xung quanh thị xã ở Căng Xẻn. Trong ba ngày đầu chiến dịch, các lực lượng vũ trang của bạn đã tiêu diệt 20 vị trí, diệt và bắt trên 800 tên địch, thu nhiều xe quân sự, trong đó có cả xe bọc thép và đại bác. Tiểu đoàn BC208 địch bị xoá sổ. Các BS201, 202 và nhiều AC địch bị tiêu hao nặng nề đã buộc phải rút chạy.

        Những thắng lợi liên tiếp ở cả hai hướng chiến dịch đã làm cho bọn chỉ huy địch ở Cánh Đồng Chum lúng túng. Chúng nhận định lực lượng của chúng không còn khả năng phòng thủ từ xa nữa nên đã ra lệnh cho các đơn vị ở phía bắc Cánh Đồng Chum từng bước co về ngăn chặn ta ở khu vực Phu San, nam Bản Sen, bắc Bản Ang, Phu Xa Ni và Phu Hè. Riêng ở các vị trí xung yếu như Phu Mu Lao, Mô Phương và Phu Khoang chúng lại ra lệnh cho các BV26, BS205, BV21 cố thủ cho bằng được.

        Nhưng càng co về gần trung tâm Cánh Đồng Chum, địch càng dao động mạnh vì liên tiếp bị pháo kích và bộ binh ta tiến công. Đêm ngày 13, BS205 ở Phu Hè bắt đầu rút chạy về Tài Xủng Phìn. Các AC3a, 12c, 5b và BV24 cũng lần lượt rút chạy về trung tâm Cánh Đồng Chum.

        Hệ thống phòng ngự của địch bắt đầu bị rối loạn. Bọn chỉ huy hoảng hốt yêu cầu Quân khu 2 ngụy cấp tốc dùng mọi biện pháp cao nhất để yểm trợ và tiếp tế cho Cánh Đồng Chum. Lần đầu tiên địch đã cho hàng chục tốp B52 liên tiếp ném bom rải thảm xuống tất cả các vạt rừng xung quanh Cánh Đồng Chum và hàng trăm lần chiếc máy bay chiến thuật thay nhau ném bom bắn phá ác liệt xuống các trục đường tiến quân, các vị trí chốt giữ của ta. Nhưng những loạt pháo tầm gần của ta đã bắt đầu giội xuống trung tâm Cánh Đồng Chum. Đơn vị pháo binh A-rốc của Pa-thét Lào phần lớn là chiến sỹ gái, đánh rất xuất sắc, đã kịp thời bắn trúng vào sân bay, xoá bỏ ưu thế tiếp tế đường không của địch.

        Tuy vậy, ở một số khu vực địch vẫn còn khả năng chống giữ do ta chưa tiêu diệt được nhiều sinh lực của chúng. Chúng vẫn thực hiện được kế hoạch rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng. Ở những nới chưa bị ta tiến công như Phu Leng, Phu San, Phu Keng, Phu Cút, Phu Thoong... chúng tăng cường phòng ngự, kết hợp với bom đạn Mỹ tạo thành một vành đai kiên cố bảo vệ khu trung tâm Caán Đồng Chum và làm bàn đạp để phản kích. Chúng còn có ý định co về một tuyến phòng ngự mới ở phía tây với các cứ điểm Huổi Ki Nin, Bản na, Phu Long Mạt, Hai Tặng, Thàm Luồng, Phu Pha Xay... giữ hang ổ cuối cùng là Sảm Thông – Long Chẹng nếu phòng tuyến Cánh Đồng Chum bị vỡ.

        Vấn đề cấp bách đặt ra cho Bộ tư lệnh chiến dịch lúc này là phải bằng mọi cách tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, không cho chúng lập được tuyến phòng thủ mới, đồng thời với việc chiếm giữ cho được các bàn đạp cần thiết chuẩn bị cho đợt 3: giải phóng Sảm Thông – Long Chẹng.

        Ngày 16 tháng 2,  Vàng Pao vội vã đến trung tâm Cánh Đồng Chum kiểm tra tình hình và bàn kế hoạch phản kích chiếm lại ngã ba Noọng Pẹt. Tên trùm phỉ này đã hấp tấp ra lệnh cho các BS208, 280 và BV27 nống ra định chiếm lại Bản Tôn, Phu Theng Neng, dùng các BV26, 27, BS205, định chiếm lại Bản Tài, Khang Khai, dùng BS204, 206 và AC4c định chiếm lại Phu Học, Phu Khiêu.

        Nhưng cả ba cánh quân mà Vàng Pao hốt hoảng tung ra đều đã bị hai Trung đoàn 165 và 148 chặn đánh tan tác. Đến ngày 17 tháng 2, phân đội đặc công của Quân khu Tây Bắc đã lập thêm được một chiến công xuất sắc: tập kích vào sào huyệt địch ở Long Chẹng diệt hàng trăm cố vấn Mỹ - Thái Lan, phá huỷ 12 máy bay. Đòn đánh bất ngờ này không chỉ làm cho bọn địch tại chỗ hốt hoảng mà đã gây chấn động rất mạnh tới các đơn vị địch đang cố thủ ở khu trung tâm Cánh Đồng Chum.

        Hai giờ sáng ngày 18, Trung đoàn 148 (thiếu) cùng với một trung đội xe tăng đã tổ chức một đợt tiến công thọc thẳng vào trung tâm Cánh Đồng Chum tại Bản Ang. Do thời tiết mây mù dày đặc, bộ binh đi lạc hướng, không kịp cùng xe tăng phối hợp tác chiến đúng giờ quy định, nhưng sự xuất hiện của trung đội xe tăng đã làm bọn địch ở trung tâm Cánh Đồng Chum rối loạn. Lực lượng bộ binh không vào kịp, vẫn áp sát bên ngoài đã kiên cường đánh lui nhiều đợt phản kích của địch trong ngày hôm sau. Trước tình hình đó, tên đại tá Châu Mô-ni-vông và toàn bộ cơ quan chỉ huy Cánh Đồng Chum hốt hoảng bỏ chạy về Sảm Thông. Bộ phận chỉ huy quân trung lập phản động (RI305) cũng bỏ chạy về Mường Phần. Tuy bọn đầu sỏ bỏ chạy nhưng lực lượng của địch co cụm tại Bản An vẫn còn khoảng trên 600 tên. Ở Xiêng Khoảng, BC208 cuống quýt gọi điện xin cấp trên của chúng cho rút vì lo bị tiêu diệt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 03 Tháng Giêng, 2017, 12:23:14 am

        Nắm chắc được tình hình trên, một giờ 20 phút ngày 21 tháng 2, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định đưa toàn bộ Trung đoàn 148 tiến công dứt điểm Cánh Đồng Chum. Sau khi xốc lại lực lượng, bổ sung đạn dược, Tiểu đoàn 4 – đơn vị vừa đánh địch phản kích đã vượt qua lưới bom toạ độ của địch xông lên. Sau ba giờ chiến đấu,  Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trung tâm, diệt 75 tên, bắt sống sáu tên, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Cánh đồng chiến lược - cửa ngõ đi năm nước, địa bàn cực kỳ quan trọng của cách mạng Lào đã được giải phóng.

        Tiếng súng ở khu trung tâm Cánh Đồng Chum vừa dứt, Bộ tư lệnh chiến dịch đã lệnh tiếp cho Trung đoàn 148 cùng với Tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 866 nhanh chóng quay sang đánh chiếm Mường Pốt, Phu Xeng Luông, Phu Khi Nốt, Phu Huổi Sang, chuẩn bị bàn đạp cho đợt 3 của chiến dịch. Cùng thời gian trên, Bộ tư lệnh chiến dịch đã ra lệnh cho đặc công của Trung đoàn 174 đánh chiếm Bản Na, Tiểu đoàn 1 đánh chiếm Mường Xủi và lệnh cho các đơn vị ở phía nam nhanh chóng giải quyết Phu Ke – Xiêng Khoảng.

        Bộ binh của ta phát triển nhanh và sâu, song khâu vận chuyển vẫn gặp quá nhiều khó khăn nên tốc độ phát triển đôi khi không kịp, bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch. Ở Mường Xin và Xiêng Khoảng, địch đã bỏ cả pháo 105 ở Phu Cút để rút chạy. Đến 25 tháng 2, khi một bộ phận của Trung đoàn 165 tiến vào được Phu Khe – Xiêng Khoảng thì toàn bộ BS208 và SGU2 đã rút về Mường Chè bằng máy bay lên thẳng từ ngày 24 và 25 tháng 2.

        Đợt 2 của chiến dịch kết thúc. Sau 15 ngày đêm tiến công liên tục, các lực lượng vũ trang của ta và của bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.500 tên địch, tiêu diệt ba tiểu đoàn (BV), đánh thiệt hại nặng tám liên đoàn khác (BS, SGU) thu hồi toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng và Mường Xủi. Chiến thắng Cánh Đồng Chum nói lên tinh thần hy sinh, chịu đựng gian khổ vô bờ bến của các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam cũng như các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào. Sự cố gắng, tinh thần anh dũng hy sinh của mỗi người chiến sỹ thật phi thường, vượt lên mọi thiếu thốn, bất chấp bom đạn ác liệt để giành lấy chiến thắng. Sức mạnh chiến đấu và tốc độ phát triển của chiến dịch đã hoàn toàn nhờ vào đôi vai và đôi chân của người chiến sỹ.

        Không kịp nghỉ ngơi, niềm vui giải phóng với nhân dân Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, những người chiến sỹ của lực lượng vũ trang ta và bạn lại khẩn trương bước vào giai đoạn cuối của chiến dịch: giải phóng căn cứ Sảm Thông – Long Chẹng, sào huyệt cuối cùng của lực lượng Vàng Pao trên chiến trường Thượng Lào”...

        Trích: Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương, Chung một chiến hào (hồi ký), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội – 1996, tr. 84-139.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:52:50 pm

9. ĐẠI TƯỚNG LÊ TRỌNG TẤN (LÊ TRỌNG TỐ)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/Le%20Trong%20Tan_zps58yxwtl5.jpg)


        Đại tướng Lê Trọng Tấn sinh tháng 10 năm 1914 trong một gia đình nông dân yêu nước ở xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, Hà Tây.

        Là một thanh niên sớm được giác ngộ cách mạng, năm 1944 đồng chí Lê Trọng Tấn tham gia mặt trận Việt Minh và làm công tác binh vận ở Bạch Mai, Hà Nội. Tháng 6 năm 1945 cùng với một số đồng chí khác chỉ huy diệt đồn Đồng Quan, sau đó được cử làm Uỷ viên phụ trách quân sự trong Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh Hà Đông và tham gia chỉ đạo cướp chính quyền tỉnh. Tháng 12 năm 1945 đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

        Chín năm kháng chiến chống Pháp, đồng chí là một trong những Trung đoàn trưởng và Đại đoàn trưởng đầu tiên của Quân đội ta. Được Đảng giao đảm nhận các cương vị: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sơn La hoạt động ở vùng núi rừng Tây Bắc (năm 1946); Khu phó Liên khu 10;

        Năm 1949 là Trung đoàn trưởng kiêm Chính uỷ Trung đoàn 209.

        Năm 1953 là Đại đoàn trưởng, Phó Bí thư Đại đoàn uỷ Đại đoàn 312, đồng chí Lê Trọng Tấn đã cùng đồng đội xông pha nơi lửa đạn, vượt qua bao khó khăn gian khổ, có mặt tham gia từ các chiến dịch nhỏ đến chiến dịch lớn, góp phần vào các chiến thắng vang dội của Quân đội ta ở Biên giới (1950), Hoà Bình (1951), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953).

        Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn bộ binh 312 do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Đại đoàn trưởng  được giao nhiệm vụ trên hướng tác chiến chủ yếu: tiêu diệt địch ở Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, tạo bàn đạp tiến vào trung tâm Mường Thanh. Ngày 7 tháng 5 năm 1954 lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Đại đoàn 312 được cắm trên nóc hầm Đờ Cát, ghi nhận sự thắng lợi hoàn toàn của chiến dịch Điện Biên Phủ.

        Cuối năm 1954, đồng chí Lê Trọng Tấn được cử giữ chức Hiệu trưởng Trường sỹ quan Lục quân.

        Năm 1961, đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng và được cử giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

        Năm 1964 là Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Uỷ viên Quân uỷ Miền. Gắn bó với chiến trường miền Nam trong cuộc trường chinh gian khổ chống Mỹ, đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ đạo các chiến dịch như Đồng Xoài, Bàu Bàng - Dầu Tiếng (1965), chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty của quân Mỹ và quân ngụy vào chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh – 1967)... Cùng với các tướng lĩnh tài ba khác của Quân đội ta, đồng chí đã góp phần cùng quân và dân ta đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ xâm lược. Tiếp đó, từ năm 1970 trên cương vị Phó Tổng tham mưu trưởng, đồng chí liên tục được cử làm Tư lệnh các chiến dịch lớn như Đường 9 – Nam Lào, Cánh Đồng Chum (1971), Chiến dịch Trị - Thiên (1972), chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (3/1975) v.v. trở thành “Một trong những Tư lệnh chiến dịch, chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng giỏi nhất của Quân đội ta” (Lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp).

        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, sau khi chỉ huy giải phóng Đà Nẵng, đồng chí được cử làm Tư lệnh cánh quân phía Đông gồm Quân đoàn 2, Quân đoàn 4 và là Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh chiến dịch, cánh quân này đã thần tốc theo đường ven biển tiến về phía Nam, phá vỡ tuyến phòng thủ từ xa của địch ở Phan Rang; nhanh chóng phối hợp với các cánh quân khác của đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, cắm cờ giải phóng trên nóc dinh Độc Lập.

        Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí Lê Trọng Tấn tiếp tục được giao đảm nhiệm cương vị quan trọng: Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Viện trưởng Học viện Quân sự cao cấp; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, tham gia chỉ huy lực lượng quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia; là Uỷ viên Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV, V; Đại biểu Quốc Hội khoá VII. Đồng chí được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng ba), Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Kháng chiến hạng nhất...

        Xin trân trọng giới thiệu những kỷ niệm sâu sắc của Đại tướng Lê Trọng Tấn trên chiến trường Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:54:17 pm
           
ĐIỆN BIÊN PHỦ

        “ .. Chập tối ngày 25 tháng 1 năm 1954, tôi họp Bộ tư lệnh kéo pháo để bàn cách thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch: Kéo pháo ra. Anh Phạm Ngọc Mậu, Chính uỷ Đại đoàn 351 nói:

        Mình vừa gọi điện kiểm tra tình hình. Đang chuẩn bị đi thì ông Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) bảo lấy giấy bút ghi mệnh lệnh. Lệnh thế này: “Ngay từ tối nay bắt đầu kéo pháo ra khỏi trận địa lâm thời đến vị trí an toàn. Mệnh lệnh này yêu cầu được chấp hành triệt để. Nhiệm vụ chuyển pháo ra coi như mệnh lệnh chiến đấu”.

        Trực tiếp đọc lệnh cho mình ghi xong, Chỉ huy chiến dịch hỏi thêm:

        - Rõ chưa?

        - Báo cáo rõ!

        - Thế thì chấp hành ngay! Lý do sẽ được giải thích sau!

        Ông Văn bỏ máy rồi mà mình vẫn cứ ngớ ra. Bao nhiêu công phu kéo vào giờ lại chuyển ra. Mình cứ áp mãi ống nghe vào tai xem ông có nói gì nữa không, nhưng máy im lặng. thế là mình đến gặp các ông bàn chuyện kéo pháo ra.

        Chúng tôi đang họp thì đồng chí Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng chiến dịch đến. Chúng tôi được phổ biến tình hình và nghị quyết của Đảng uỷ mặt trận, đại ý như sau:

        Sau khi hạ quyết tâm lấy Điện biên Phủ làm nới quyết chiến chiến lược với chủ lực ta, Na-va đã trực tiếp thông qua kế hoạch tác chiến và tăng cường binh lực hoả lực, phương tiện cho Điện Biên Phủ. Đây là sự bị động về chiến lược của địch. Cách đây mươi ngày, quân địch ở Điện Biên Phủ có nhiều sơ hở. Vì trận địa chưa củng cố, binh lực còn ít nên ta chủ trương “đánh nhanh giải quyết nhanh”. Nay địch đã tăng cường lực lượng, bố trí dày đặc, xây dựng hệ thống phòng ngự khá vững chắc. Đảng uỷ chiến dịch đã họp nhiều lần và quyết định hoãn tiến công, kéo pháo ra, tiếp tục chuẩn bị thật kỹ để đánh chắc thắng.

        Cụ thể là ở phía bắc, khi chúng tôi mới lên Điện Biên, điểm cao Độc Lập chỉ là vị trí tiền tiêu, nay đã trở thành một cứ điểm mạnh do một Tiểu đoàn Âu Phi chiếm đóng. Him Lam trở thành trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch ở Điện Biên. Hồng Cúm trước chỉ là một vị trí ở phía nam nay đã trở thành cụm cứ điểm có sân bay dự bị, có trận địa pháo. Các cứ điểm ở tây sân bay Mường Thanh được củng cố.

        Điện Biên Phủ không phải là một trận đánh quy mô lớn, tiến công quân địch trong công sự vững chắc như trước đây chúng ta hình dung mà sẽ là một chiến dịch tiến công quân địch trong một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất từ trước tới nay. Ngay trong Chiến tranh thế giới lần hai quân Pháp chưa bao giờ xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh như thế.

        Chúng tôi cùng nhìn về phía lòng chảo Điện Biên, nơi đang phát ra những tiếng động cơ xe, máy ầm ĩ. Trong màn sương, một quầng ánh sáng đỏ bầm hắt lên nền trời. Những luống sáng của đèn pha quét trên bầu trời đen thẫm. Tôi có cảm tưởng như dưới lòng chảo kia đang có cuộc hội tụ của những âm binh, ma quỷ trong truyện cổ tích.

        Đồng chí Hoàng Văn Thái phân công đại đoàn chúng tôi cho một bộ phận nhỏ bố trí đề phòng địch nống ra khi ta kéo pháo ra, còn toàn đại đoàn sẽ cùng với Trung đoàn sơn pháo 675 kéo pháo. Giao nhiệm vụ xong, anh Hoàng Văn Thái tâm sự:

        - Nói thật với các anh, trong chín ngày qua, Đảng uỷ theo dõi từng buổi, từng ngày tình hình kéo pháo quá chậm chạp của chúng ta. Mặc dù cán bộ, chiến sỹ ta rất dũng cảm, chịu đựng gian khổ nhưng sức người chỉ có hạn.

        Anh nhìn chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau. Anh nào anh nấy mặt mũi hốc hác, vì thiếu ngủ, vì làm việc quá sức. Anh Thái tiếp:

        - Đảng uỷ băn khoăn với nhiều câu hỏi khó trả lời. Kéo pháo vào đã khó thế này khi cần cơ động thì làm thế nào? Nếu khi ta nổ súng, địch đánh trả thì làm thế nào để bảo đảm an toàn cho người, cho pháo? Pháo 105 và cao xạ là vốn quý của ta hiện nay.

        Anh dừng một lát, nhìn con đường kéo pháo nhỏ hẹp mất hút dưới chân nói nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống:

        - Pháo bị làm sao sẽ ảnh hưởng lớn tới sức chiến đấu trước mắt và tới cuộc kháng chiến của ta. Cho nên Đảng uỷ phân công tôi xuống gặp các anh để truyền đạt nghị quyết của Đảng uỷ và cùng các anh bàn chuyện lãnh đạo, chỉ huy kéo pháo ra, làm đường mới, đặt trận địa ngay trên đỉnh núi kia bắn xuống Mường Thanh – Tham mưu trưởng khoát tay chỉ những đỉnh núi lẫn trong bóng đêm.

        Bộ tư lệnh kéo pháo tiếp tục họp bàn. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu vốn là người bộc trực, rút trong túi áo bông to xù gói thuốc lào ngồi xếp bằng tròn lấy áo che lửa, rít một hơi dài rồi vừa thở vừa nói:

        - Cái tin tung ra mà không có lãnh đạo chặt là lôi thôi lắm đây! Anh em đang hăng máu vì bấy lâu nay im hơi lặng tiếng, có nén để chờ cái ngày nên cho chúng một trận tơi bời mà nay lại kéo pháo ra anh nào cũng bị hẫng. Đột ngột quá mà! Tuy vậy, ta tin anh em khi đã thông thì sẽ quyết tâm cao. Tôi tin là chúng ta sẽ lãnh đạo được tư tưởng anh em. Ta cứ nói thật với anh em, họ sẽ thông ngay.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:55:11 pm

        Chúng tôi nhất trí với anh Mậu. Phải dựa vào chi bộ, vào cấp uỷ và những đồng chí cốt cán làm công tác tư tưởng họ tốt để bảo đảm kéo pháo an toàn, bí mật. Về quân sự tôi đề nghị:

        - Triệt để chấp hành mệnh lệnh rút pháo an toàn. Tranh thủ thời gian kéo ra càng nhanh, càng tốt. Anh dũng vượt qua những nơi pháo địch hay bắn chặn, tránh thương vong vô ích. Ở những trọng điểm đó phải có cán bộ chủ trì trực tiếp chỉ huy. Tăng cường ngụy trang giữ bí mật đường kéo pháo và nới trú quân. Làm công sự cho người cho pháo.

        Các anh đều nhất trí.

        Để bảo đảm chỉ huy thông suốt, tôi cho huy động toàn bộ dây điện thoại của đại đoàn rải trên trục đường. Mỗi một dốc lại có một bộ phận chỉ huy. Mạc Ninh, Chính uỷ Trung đoàn 141 được anh em gọi là “Chính uỷ tời”. Mạc Ninh trụ ở dốc “Bảy tời”. Hôm kéo pháo phải dùng tới bảy tời mới kéo được pháo lên. Nay đổ dốc lại phải dùng ngần ấy tời thả pháo nhích từng đoạn ngắn. Ngược lại ở vực “Vườn chuối” trước phải ghìm dây thả pháo. Nay phải gò lưng đẩy pháo lên.

        Địch phát hiện ta kéo pháo ra qua những cành lá ngụy trang trên đường đã bị khô héo. Ban ngày, chúng cho máy bay trinh sát sục sạo, dùng khu trục ném bom. Ban đêm, chúng cho pháo bắn chặn. Trong đợt kéo pháo vào chúng ta có Nguyễn Văn Chức đã anh dũng hy sinh cứu pháo. Đợt kéo pháo ra có Tô Vĩnh Diện đã quên mình chèn khẩu pháo cao xạ đổ dốc. Những tâm gương anh dũng đó đã tiếp thêm sức mạnh cho cả đại đoàn cùng với Trung đoàn 675 đã kéo hết pháo ra. Cũng trong ngày hôm đó, Bộ tư lệnh kéo pháo được Bộ chỉ huy chiến dịch triệu tập về nam Mường Phăng. Đồng chí Tư lệnh chiến dịch hết sức xúc động khi thấy anh em ai cũng hốc hác, có người quần còn nguyên bùn đất. Đồng chí nói:

        - Các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ kéo pháo. Bộ tư lệnh coi như các đồng chí đã chiến đấu và đã chiến thắng. Nếu không có chỉnh quân chính trị, trình độ giác ngộ của chiến sỹ không được nâng cao thì không thể có được thành tích này.

        Sau đó chúng tôi nhận nhiệm vụ làm đường cho pháo cơ động xung quanh Điện Biên. Trung đoàn trưởng công binh 151 Phạm Hoàng trình bày phương án làm đường.

        Thực hiện phương châm đánh chắc, tiến chắc, để bảo đảm an toàn cho người và pháo, theo yêu cầu của pháo binh: hoả khí phân tán nhưng hoả lực tập trung, chúng ta sẽ làm sáu mạch đường để đưa pháo lên hai dãy núi Pú Hồng Mèo và Pú Tà Cọ. Sáu mạch đường gồm:

        - Đường số 1, xa nhất từ Bản Tấu đến Tà Lèng dài 27 ki-lô-mét.

        - Đường số 2 từ Bản Xòm, Mường Phăng đến Pú Hồng Mèo dài tám ki-lô-mét.

        - Đường số 3 từ Đa Voong đến Nà Lời dài ba ki-lô-mét.

        - Đường số 4 từ Pe Na đến Nà Lời dài chín ki-lô-mét.

        - Đường số 5 từ Mường Phăng đến Nà Nham dài bảy ki-lô-mét.

        - Đường số 6 từ Bản Xin qua đỉnh núi Pu Y Tao đến bản tấu dài 18 ki-lô-mét (phía bắc đồi Độc Lập)

        Phạm Hoàng nói chắc nịch: “Ngồi trên Pú Hồng Mèo và Pú Tà Cọ mà bắn thì trăm phát trăm trúng cả trăm”.

        Lực lượng làm đường có Trung đoàn công binh 151 làm nòng cốt, Đại đoàn 316, Đại đoàn 312 và phần lớn Trung đoàn sơn pháo 675. Hôm nhận nhiệm vụ làm đường cho pháo cơ động, tôi đã dẫn cán bộ đại đoàn đi nhận cọc tiêu và bổ những nhát cuốc đầu tiên. Làm đường cho xe kéo pháo được tiến hành khẩn trương trong điều kiện không có máy ủi, không được dùng thuốc nổ. Ngay những công cụ thô sơ như búa tạ, choòng cũng không đủ. Rìu để chặt cây không có. Anh em chỉ có những con dao rựa và chiếc xẻng bộ binh đã cũ. Chúng tôi chia ra mỗi đại đội là một công trường làm suốt cả ngày đêm. Công việc đã rèn luyện con người và chính con người đã đưa năng suất lao động tăng lên.

        Không có choòng, xà beng, anh em chặt gỗ cứng làm xà beng. Không được dùng mìn, anh em kiên nhẫn theo thớ đá đục dần. Không có cưa anh em bới gốc cây chặt dần từng rễ rồi hạ cây bằng dao rựa. Gặp những tảng đá không thể phá được, anh em đào hố bên dưới, đánh tụt tảng đá xuống. Trong lao động, giữa pháo binh và bộ binh nảy sinh mối tình keo sơn, gắn bó. Ngày 10 tháng 21 khởi công, đến đêm 17 tháng 2 những chiếc xe ba cầu của trung đoàn lựu pháo đã có thể kéo pháo theo những con đường mới mở. Tiếp đó chúng tôi lại cùng anh em pháo binh làm hầm cho pháo.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:55:37 pm

        Đào hầm cho pháo 105 cồng kềnh, đồ sộ đòi hỏi khá nhiều công sức. Trận địa pháo của ta đặt bên này dốc để bắn vào Mường Thanh cho nên hầm pháo phải bảo đảm vừa bắn tốt, vừa an toàn. Nếu địch có dùng máy bay ném bom hoặc đấu pháo, pháo ta vẫn an toàn cả người và vũ khí. Mỗi hầm pháo phải đào sâu vào vách núi moi từ 200 đến 300 mét khối đất đá. Gỗ cho hầm pháo phải có đường kính từ 30 cen-ti-mét trở lên. Gỗ lại không được khai thác ở quanh đó mà phải đi xa từ năm đến mười ki-lô-mét. Nắp hầm phải dày trên ba mét, gồm nhiều lớp đất xen gỗ và bó trúc, bảo đảm có thể chịu đựng được bom tạ, đạn xuyên của đich. Cạnh Mỗi hầm pháo là hầm chỉ huy, hầm chứa đạn. Cứ bốn khẩu đội lại có một hầm là nơi hội họp, vui chơi. Nối liền các hầm pháo là hào giao thông khá rộng và sâu, có rãnh thoát nước và hố tránh bom lửa. Lại có đường hào từ trận địa pháo về khu vực cung cấp nước ở tuyến giữa. Ở đây có hầm ăn, hầm ở, hầm thương binh, hầm bếp, hầm giấu xe... đào xong hầm pháo có lưỡi xẻng chỉ còn là một cái thìa con.

        Thế trận của pháo binh ta bố trí rất hiểm: Một tiểu đoàn lựu pháo ở ngay trên đỉnh Tà Lèng phía đông Điện Biên Phủ. Một đại đội bố trí phía bắc trên cánh đồng Bản Tấu. Một tiểu đoàn trong khu Nà Lời, cạnh đường Tuần Giáo - Điện Biên, cách Him Lam khoảng ba ki-lô-mét theo đường chim bay. Một đại đội bố trí ở phía nam để khống chế sân bay Hồng Cúm và cụm pháo địch ở đây.

        Làm xong đường và trận địa pháo, anh em càng thấy chủ trương đánh chắc, tiến chắc của Bộ chỉ huy chiến dịch là chính xác. Chúng ta đã tạo điều kiện để chủ trương đó từ khả năng trở thành hiện thực.

        Khi con đường kéo pháo đã hình thành, trận đại pháo đã bố trí xong, chúng tôi lại trở về nhiệm vụ của mình: Chuẩn bị cho trận đánh Him Lam, trận mở màn của chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

        Chúng tôi chuẩn bị đánh Him Lam và Độc Lập. Theo kế hoạch thống nhất của Bộ chỉ huy chiến dịch trong đợt 1, đêm 13 tháng 3, tiêu diệt Him Lam mở màn chiến dịch, đêm hôm sau tiêu diệt Độc Lập và Bản Kéo.

        Lực lượng tiến công tiêu diệt Him Lam có Trung đoàn 141 là lực lượng chủ yếu và Trung đoàn 209. Trung đoàn 165 là lực lượng chủ yếu và Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt và chiếm lĩnh Độc Lập, Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ tiêu diệt trung tâm đề kháng Bản Kéo.

        Trong đợt 1 Trung đoàn 57 Đại đoàn 304 có nhiệm vụ kiềm chế pháo tại Hồng Cúm. Đại đoàn 306 cho lực lượng nhỏ đánh nghi binh vào một số điểm cao ở phía đông. Đại đoàn 351 có nhiệm vụ yểm hộ đắc lực cho các đại đoàn bộ binh tiến công kiềm chế pháo địch, tập kích vào sân bay và sở chỉ huy địch.

        Kế hoạch tác chiến còn đề ra các mặt bảo đảm phòng không, phòng hoá, bảo đảm thông tin, bảo đảm hậu cần, dự kiến những tình huống cơ bản và cách xử trí trong quá trình chiến đấu.

        Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Vị trí này thuộc phân khu trung tâm, cách Mường Thanh 2,5 ki-lô-mét, có nhiệm vụ bảo vệ phân khu trung tâm Mường Thanh và án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên. Binh lực ở Him Lam có tiểu đoàn lê dương tăng cường thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13. Him Lam có ba mỏm hình thành ba cứ điểm vừa yểm hộ được cho nhau, vừa có thể độc lập tác chiến. Hoả lực chia làm nhiều tần khá vững chắc, có nhiều hoả điểm chéo, hoả điểm lướt sườn. Hệ thống công sự phụ có bãi mìn và dây thép gai rộng từ 100 đến 200 mét.

        Vị trí Độc Lập nằm trên một quả đồi dài 700 mét, rộng 150 mét, cách Mường Thanh bốn ki-lô-mét, do một tiểu đoàn Bắc Phi (Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 7 An-giê-ri) và một đại đội lính Thái chiếm giữ Độc Lập được tăng cường bốn khẩu cối 120 và được pháo ở Hồng Cúm, Mường Thanh chi viện, ngăn chặn ta từ phía bắc theo con đường Lai Châu đi Điện Biên.

        Bản Kéo ở trên một quả đồi ở tây bắc sân bay, cách khu trung tâm hai ki-lô-mét do một tiểu đoàn Thái chiếm đóng.

        Các Đại đoàn 308 và 312 có nhiệm vụ tiêu diệt và tổ chức chiếm giữ cả ba trung tâm đề kháng của địch. Mục đích của đợt tiến công này là tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng, tạo điều kiện cho quân ta thắt chặt vòng vây và mở cuộc tiến công vào khu trung tâm. Đây là trận đánh mở màn chiến dịch, cũng là trận đánh đầu tiên của Quân đội ta vào một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất từ trước tới nay.

        Tiến công một cứ điểm nằm trong một tập đoàn cứ điểm mạnh đặt ra cho chỉ huy những vấn đề mới mẻ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:57:09 pm

        Trước hết là trinh sát. Sau khi nhận nhiệm vụ, ngày nào chúng tôi cũng đi trinh sát thực địa, ban ngày lên đài quan sát để nghiên cứu Him Lam. Ban đêm cán bộ lại tiếp cận. Muốn hiểu Him Lam cả ngoại vi và tung thâm phải đi từ nhiều hướng trong nhiều thời gian khác nhau rồi tổng hợp tình hình từ nhiều nguồn mới có thể kết luận chính xác. Tôi tự nhủ mình như vậy. Trong lúc cán bộ đi trinh sát, các chiến sỹ đào hào giao thông từ vị trí xuất phát tiến công đến tuyến xuất phát xung phong.

        Địch dò biết ý định của ta nên tổ chức phản kích quyết liệt. Đêm 11 tháng 3, ta vừa đào xong tuyến xuất phát xung phong thì sáng ngày 12 chúng huy động bộ binh, có xe tăng yểm hộ và xe xúc đất ra lấp. Lính công binh địch cài mìn trên những đoạn hào ta đã đào rồi dùng xe ủi lấp lại. Lấp xong, chúng cho pháo binh bắn phá và cho máy bay ném bom từ tuyến xuất phát xung phong tới cửa rừng. Các tuyến xuất phát xung phong của các mũi đều bị lấp.

        Tối 12 tháng 3, tranh thủ sương mù chúng ta lại đào. Anh em phải gỡ từng quả mìn, moi đất lẫn với cành cây trên từng đoạn hào. Địch dùng súng cối, pháo binh bắn chặn quyết liệt.

        Ban ngày địch lấp hào, ban đêm chúng dùng đèn pha, pháo sáng. Chúng cho những phân đội nhỏ tuần tiễu và đặt vọng gác ở ngoài hàng rào để ngăn chặn trinh sát ta thâm nhập. Trong hai đêm liền các chiến sỹ không sao tiếp cận được chân rào. Có lần anh em phải giấu mình trong một bụi cỏ cả một ngày để quan sát rồi chờ đến đêm đi trinh sát tiếp. Nhiều chiến sỹ quân báo dũng cảm của ta đã bị thương vong. Nhưng đến lúc này tình hình tung thâm Him Lam ra sao chúng ta vẫn chưa hiểu rõ. Không thể thông qua một kế hoạch tiến công khi chưa thật hiểu cụ thể kẻ thù. Trận này phải tổ chức hiệp đồng tới từng mũi tiến công. Tôi cho gọi Lư, Trung đội trưởng quân báo đại đoàn đến. Tôi hỏi Lư:

        - Lư có nắm được quy luật hoạt động của địch ban ngày, ban đêm ở ngoài cứ điểm Him Lam không?

        Trung đội trưởng Lư rất lo vì tưởng tôi gọi lên để hỏi về việc tổ cậu ta vừa qua không hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng thấy tôi thân mật, Lư nói:

        - Báo cáo đại đoàn trưởng, tôi nắm được quy luật hành động của chúng nó. Ban ngày cứ khoảng hai đến ba giờ chúng lại cho một trung đội ra bờ sông Nậm Rốm lấy nước. chúng đi theo lối này – Lư chỉ trên tấm sơ đồ cụm cứ điểm Him Lam – Ban đêm địch đi theo cổng chính ra phục kích cách đồn khoảng 500 mét.

        Đây là đoạn đường ngày nào chúng tôi cũng quan sát. Hai bên đường có rãnh thoát nước, những mô đất, những vạt cỏ cháy sém lúp xúp. Có thể phục kích ở chỗ này được đây! Địch ngăn chặn không cho ta vào đồn lại tổ chức phục ở ngoài, ta tổ chức phản phục kích bắt chúng phải khai. Khi đi ra ngoài phục thì chắc chúng nó không đề phòng phía trong. Phải làm những điều mà địch không tin ta làm được. Một trận phản phục kích của đối phương ở ngay sát chân đồn chắc là trong kế hoạch phòng ngự địch không tính đến. Nghĩ thế tôi bảo Lư:

        - Ban đêm, khi địch mang quân ra phục kích, các đồng chí cho một trung đội bí mật bò sát vào gần đồn, chỗ cửa chính, dàn thành đội hình cái phễu, bí mật tiến về phía địch. Chờ nó đi phục về bắt sống vài tên. Có bắt cho được tên chỉ huy. Đi như thế không lo vấp mìn. Đánh như thế cũng không sợ hoả lực địch bắn thẳng và pháo. Bởi vì đường đi của bọn lính đi phục, đường về và thời gian về của chúng đều nằm trong kế hoạch hiệp đồng rồi. Ta phải lợi dụng cách làm ăn bài bản của địch để đánh nó.

        Lư chăm chú nghe tôi nói. Khuôn mặt thiếu ngủ của cậu trung đội trưởng quân báo bừng sáng:

        - Báo cáo đại đoàn trưởng, có thế mà chúng tôi nghĩ không ra. Xin phép đại đoàn trưởng cho tôi về tổ chức anh em.

        - Khoan đã! Kế hoạch của cậu như thế nào, ta cùng bàn?

        Lư trình bày cách tổ chức bộ đội thật gọn nhẹ, ngụy trang bằng đất (ở vùng này không có cỏ). Lực lượng này sẽ tiến ra cửa rừng vào lúc địch đi lấy nước. Quan sát đường đến trận địa phục kích, phân công cho từng tay súng. Chọn độ mười người có sức khoẻ để bắt sống tù binh. Cứ hai người vật một tên.

        Tôi đưa Lư bao thuốc lá và ấm chè Phú Thọ mang về cho anh em. Tôi nói:

        - Hẹn cho các cậu ba hôm phải bắt cho bằng được tù binh.

        - Rõ! Ba hôm phải hoàn thành nhiệm vụ - Lư phấn chấn trả lời.

        Đúng ba ngày sau, Lư dẫn lên sở chỉ huy tên Thiếu uý Giắc-cơ (trong trận này quân báo đại đoàn đã diệt hơn một tiểu đội địch, bắt sống ba lính lê dương).

        Giắc-cơ là một thiếu uý trẻ mới tốt nghiệp ở trường ra. Hắn đã khai hết những điều chúng tôi hỏi và cả những điều chưa kịp hỏi. Căn cứ vào những điều tổng hợp được, đối chiếu với lời khai của Giắc-cơ, chúng tôi thấy lời khai của tên tù binh này có thể tin cậy được.

        Him Lam trước có năm mỏm, nay địch dùng máy ủi san đi còn ba. Địch bố trí theo kiểu điểm tựa phòng ngự hình tròn. Mỗi điểm tựa có thể vừa tự bảo vệ mình lại vừa có thể chi viện cho nhau. Do địa hình nên địch bố trí hoả lực thành nhiều tần. Giữa các hoả điểm có hào giao thông nối liền. Giữa các cứ điểm có hàng rào và bãi mìn ngăn cách. Cứ điểm nào cũng có hầm ngầm và lực lượng phản kích. Trong khi tôi hỏi cung, anh em quân báo, tác chiến đã lên sơ đồ. Nhìn ngọn bút chì trong tay anh em, tôi biết tất cả lời cung của Giắc-cơ đã được thể hiện lên sơ đồ.

        Tôi cho Giắc-cơ điều thuốc lá và một tách cà phê, hắn cảm ơn rối rít. Tôi bảo hắn:

        - Chúng tôi không giết anh đâu. Anh có điều gì cần nói không?

        Giắc-cơ nói:

        - Thưa ngài, tôi đã khai hết tất cả những gì tôi biết về Bê-a-tri-xơ (mật danh của Him Lam). Bây giờ tôi xin phép ngài cho tôi nói một điều từ trái tim tôi: Các ngài không nên đụng đến Bê-a-tri-xơ. Đó không phải là một vị trí thông thường. Nó là một pháo đài thực sự, một pháo đài bất khả xâm phạm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:57:31 pm

        Một cán bộ tác chiến có mặt trong cuộc hỏi cung nói với tên thiếu uý:

        - Chúng tôi đã được nghe khá nhiều về những cái “bất khả xâm phạm” của các anh. Từ cụm cứ điểm kiểu Đông Khê của tướng Các-păng-chi-ê cho đến hệ thống boong-ke của tướng Đờ Lát. Như anh biết đấy, ở đời không có cái gì là không thể chiếm được!

        Tôi thấy tên thiếu uý đỏ mặt. Hắn nói tiếp:

        - Thưa ông, Bê-a-tri-xơ do chính một vị cố vấn Mỹ vừa ở Triều Tiên về thiết kế và trực tiếp đôn đốc thi công. Tướng Mỹ Ô Đa-ni-en và ngài Đại tá Đờ Cát thân chinh tham gia bố phòng. Ngài Bộ trưởng Quốc phòng Ple-ven cũng đã đến tận nơi thanh tra. Chỉ huy Bê-a-tri-xơ là Thiếu tá Pê-gô, một sỹ quan lê dương chính thống.

        Tôi bảo hắn:

        - Các anh cứ chờ đấy! Chúng tôi sẽ tiêu diệt Bê-a-tri-xơ. Đây là Việt Nam. Anh hiểu không?

        Ngay sau khi tên tù binh ra khỏi hầm, chúng tôi bắt tay vào bổ sung kế hoạch tiến công Him Lam. Thời gian chỉ còn 12 tiếng. Phải dành thời gian cho trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội triển khai cho tới từng chiến sỹ. Tôi tập trung vào ba vấn đề then chốt, một là hiệp đồng với pháo, hai là đột phá mở cửa và ba là đánh tung thâm.

        Về hiệp đồng với pháo binh, ngay từ hôm chúng tôi nhận nhiệm vụ tiến công Him Lam, đài quan sát của đại đội trưởng Trần Kính đặt ở Quang Tum đã có quan hệ chặt chẽ với đại đoàn. Trong sở chỉ huy, bên cạnh bản đồ Điện Biên có yếu đồ Him Lam và yếu đồ hoả lực pháo binh. Yếu đồ hoả lực ghi mục tiêu bắn của pháo, số lượng đạn tiêu thụ, khu vực bắn khi mở cửa, lúc đánh tung thâm, khi địch phản kích từ Mường Thanh ra. Cái khó nhất trong trận này là giai đoạn mở cửa. Phải thực hiện mở cửa nhanh đúng hướng và tránh thương vong không cần thiết. Trước mắt phải đề nghị Bộ chỉ huy dùng pháo bảo vệ trận địa xuất phát xung phong. Thứ hai là tổ chức trận địa hoả lực của trung đoàn, tiểu đoàn. Đây cũng là lần đầu tôi làm quen với chiến thuật của pháo. Anh em cho biết với thế trận hiểm hóc của pháo từ trên cao bắn xuống thì chỉ cần mỗi đại đội bắn thử một viên, quan sát kết quả hiệu chỉnh bắn tạt ngang một loạt rồi chuyển sang bắn hiệu lực ngay. Trong tình hình đạn dược còn rất thiếu, anh em đã tìm cách bắn tiết kiệm đạn nhưng có hiệu quả cao. Cách đánh pháo của con nhà nghèo. Vẫn tôn trọng những nguyên tắc chiến thuật, kỹ thuật của pháo binh nhưng không để mình bị ràng buộc vào sách vở.

        Về đánh tung thâm phải lựa chọn những cán bộ, chiến sỹ có kinh nghiệm tổ chức những mũi thọc sâu được tăng cường lựu đạn, thủ pháo đánh thẳng vào sở chỉ huy, khu thông tin địch, thực hiện chia cắt để tiêu diệt từng mục tiêu, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch. Kế hoạch tác chiến đã dự kiến địch có thể có những đơn vị phản kích từ Mường Thanh ra và ở ngay trong cứ điểm. Đường từ Mường Thanh ra rất thuận tiện cho việc sử dụng xe tăng.

        Phổ biến xong kế hoạch, chúng tôi chia nhau đi xuống các đơn vị chủ công giúp anh em tổ chức thực hiện kế hoạch. Bởi vì chính anh em, những người cầm súng mới là người trực tiếp quyết định trong chiến đấu. Chúng tôi, những người chỉ huy làm công tác tổ chức phải cùng anh em bàn bạc để rồi đây trong chiến đấu sẽ tác động vào các tình huống của trận đánh, tạo điều kiện cho anh em hoàn thành nhiệm vụ.

        Càng gần tới ngày nổ súng, việc tranh chấp giữa ta và địch càng quyết liệt.

        Rà soát lại một lượt kế hoạch nổ súng, tôi vừa ngả lưng định lấy sức để thức đêm thì đài quan sát báo cáo có hai xe tăng địch dẫn một đại đội bộ binh từ Mường Thanh ra đánh chiếm tuyến xuất phát xung phong của ta. Nếu để địch đánh chiếm tuyến xuất phát xung phong thì tối nay đơn vị tiến công sẽ gặp khó khăn. Chúng tôi gọi điện thoại đề nghị Bộ chỉ huy chiến dịch cho một bộ phận lựu pháo bắn để bảo vệ tuyến xuất phát xung phong. Ngay lúc đó, Bộ chỉ huy chiến dịch cũng nhận được đề nghị của Bộ chỉ huy Đại đoàn 351. bộ chỉ huy chiến dịch đồng ý với đề nghị của chúng tôi. Đại đội lựu pháo 806 được lệnh bắn 20 phát vào Him Lam.

        Trừ hai phát bắn thử còn 18 phát đều rơi trúng sở chỉ huy địch, phá huỷ một số công sự và hầm hào. Một phát đạn rơi trúng hầm chỉ huy. Khói tan, không thấy gì ngoài một cái hố hình phễu trên chỗ trước đó mấy giây còn là một lô cốt to xù. Anh em reo lên: “Pháo bắn giỏi quá”. Tôi phải ra lệnh cho anh em cảnh vệ khôi phục trật tự trong sở chỉ huy. Vì ngay khi pháo bắn, anh em đã nhảy lên đài quan sát xem pháo ta bắn. Tôi hiểu tâm trạng của anh em, những người đã kéo pháo ra, đã từng làm đường, làm hầm cho pháo. Tiếng gầm của pháo ta sau bao nhiêu ngày im lặng dễ kích thích lòng người. Trật tự được nhanh chóng khôi phục. Đài quan sát báo cáo cả hai xe tăng địch đều tháo chạy. Bọn lính bộ binh địch chạy còn nhanh hơn cả xe tăng. Tuyến xuất phát xung phong được bảo vệ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:57:58 pm

        Cả tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ báo động vì những quả đạn đầu tiên của lựu pháo 105. Sau đợt pháo, địch dự kiến thế nào ta cũng tiến công nhưng vẫn chưa thấy. Sau này theo lời khai của Đờ Cát khi bị bắt làm tù bình thì khi chờ không thấy quân ta tiến công, Đờ Cát còn hẹn các sỹ quan đúng giờ đến hội báo như thường lệ tức 17 giờ ngày hôm sau. Những khẩu pháo “bò” lên được đỉnh núi hình như đã được khẳng định. Trong cuốn “Tôi đã là thầy thuốc ở Điện Biên Phủ”, thiếu tá quân y Pôn Grôn-uyn đã gọi “đó là những cú bắn bậc thầy”.

        Buổi chiều sương mù xuống mỗi lúc một dày đặc. Các anh bên Bộ tư lệnh Đại đoàn 351 đề nghị cho nổ súng sớm hơn giờ quy định. Chúng tôi nhất trí với đề nghị đó. Bắn càng sớm càng dễ trúng đích, hơn nữa cùng với kế hoạch chi viện cho trận đánh mở màn, pháo binh còn có nhiệm vụ tập kích trận địa pháo, sân bay, kho tàng, sở chỉ huy địch. Tôi nghe rõ tiếng Đại tướng - Chỉ huy trưởng vang lên trong máy:

        - Pháo binh đã sẵn sàng cả chưa?

        - Báo cáo, tất cả đã sẵn sàng chờ lệnh đồng chí.

        - Bộ chỉ huy chiến dịch đồng ý với đề nghị của các đồng chí. Trận đầu mở màn cho chiến dịch lịch sử, tôi hạ lệnh cho các đồng chí: Bắn trúng, bắn nhanh, bắn mạnh.

        Chiến dịch lịch sử bắt đầu. Tôi nhìn đồng hồ: 17 giờ 10 phút. Đạn pháo của ta rót trúng Him Lam, khu trung tâm tập đoàn cứ điểm, sân bay Mường Thanh, sân bay Hồng Cúm. Đòn phủ đầu của ta khá mạnh và rất bất ngờ (40 khẩu từ 75, cối 120, đến lựu pháo 105). Chỉ huy trưởng và phó cụm Him Lam cùng trung tá chỉ huy phân khu trung tâm và cả ban tham mưu đều bị chết trong đợt này.

        Chúng tôi cho bộ binh triển khai đội hình chiến đấu từ 15 giờ. Anh em chuyền tay nhau đọc thư Bác Hồ và lệnh động viên của Đại tướng chỉ huy trưởng. Đến giờ pháo bắn, anh em ra khỏi cửa rừng. Cùng với sự chi viện của pháo binh, pháo cao xạ ta lần đầu xuất trận đã tạo nên không khí hào hùng chưa từng có kể từ ngày thành lập Quân đội. Anh em bắt tay nhau, hứa với nhau, nhắc lại quyết tâm của tổ ba người, của tiểu đội. Bản thân tôi cũng rất xúc động. Là đầu mối của sự hiệp đồng, tôi không thể rời sở chỉ huy trong lúc này. Lý trí, trách nhiệm bảo tôi như vậy. Nhưng cái không khí hào hùng trên tuyến xuất phát tiến công cứ giục giã tôi đứng lên, ra ngoài chiến hào cùng với các đồng chí của mình. Hình như đoán được tâm trạng của tôi lúc đó, các đồng chí cán bộ tác chiến theo dõi hướng của hai Trung đoàn 141 (chủ yếu), 209 (thứ yếu) và đài quan sát đại đoàn đã ghi lại báo cáo của các cánh quân khá đầy đủ trên bản đồ tình huống.

        Trong lúc pháo ta bắn chế áp, mọi việc đều diễn ra thuận lợi. Nhưng khi địch ở Him Lam hồi tỉnh sau cơn choáng váng, khi pháo địch phản pháo thì tình huống trở nên gây cấn. Trước hết là hào giao thông, chỗ này vừa nông lại không có hào nhánh nên vận động trong hào rất khó khăn. Hoả lực tiểu đoàn không thể nào vượt qua đội hình xung kích lúc ấy đã đứng chật trong lòng hào để chuẩn bị xung phong. Trước tình hình đó phân đội trợ chiến của Tiểu đoàn 11 đã nhảy khỏi hào, bất chấp hoả lực địch, tiến lên gần sát hàng rào –  nơi quy định cho trận địa hoả lực tiểu đoàn. Phải bảo đảm cho bộc phá mở cửa. Càng chần chừ, thương vong càng cao. Bên kia sông Nậm Rốm, địch đã tổ chức một tuyến bắn chặn không cho bộc phá ta vượt cầu ngầm sang. Chính trị viên Đại đội 263 Tiểu đoàn 428 nằm ngay nơi địch bắn dày đặc nhất chỉ huy cho từng tổ qua sông. Khi địch ngừng bắn lại cho anh em vượt cầu ngầm. Các cỡ pháo của địch ở Mường Thanh bắn theo kiểu màn đạn di động từ chân đồn ra ngoài, rồi từ ngoài vào trong. Nhiều đoạn hào bị sụt lở chỉ còn tới bụng chân. Đại đội trưởng, Đại đội phó của đại đội trợ chiến Tiểu đoàn 428 đều hy sinh, nhưng các chiến sỹ đại liên, ĐKZ vẫn xông lên đặt hoả lực. Vị trí chỉ huy của Tiểu đoàn 428 phải dời tới ba lần những vẫn giữ vững sự chỉ huy đối với các mũi phía trước.

        Mười bảy giờ, tôi được Trung đoàn 141 báo cáo các tổ hoả lực đã lên sát đồn đang dùng hoả lực bản thân kiềm chế lỗ châu mai, yểm hộ cho bộc phá mở cửa. Trên hướng phụ, Tiểu đoàn 130 Trung đoàn 209 đã chiếm lĩnh trận địa xong lúc 18 giờ 25 phút. Các hoả điểm 1 và 2 của địch đã bị sơn pháo của ta tiêu diệt ngay từ phút đầu. Các hoả điểm 3 và 4 vẫn bắn ra ác liệt trên hướng mở cửa. Tổ ĐKZ tiểu đoàn đã anh dũng tiêu diệt hai hoả điểm này. Mười tám phút sau cửa mở đã thông. Xung kích tràn lên đánh thẳng vào tung thâm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:58:34 pm

        Tiểu đội trưởng Trần Can chỉ huy tiểu đội nhanh chóng chiếm lô cốt đầu cầu. Chiếm xong, Trần Can chỉ huy một tổ đánh lô cốt số 6 rồi đánh lên lô cốt cố thủ. Súng máy địch quét sát đất. Trần Can cho một tổ dùng thủ pháo bí mật tiến sau lô cốt và dùng tiểu liên bắn nghi binh thu hút hoả lực địch về phía mình. Địch bắn phía trước không đề phòng phía sau. Sau vài loạt thủ pháo, khẩu trung liên trong lô cốt cố thủ im bặt. Trần Can cầm cờ “Quyết chiến quyết thắng” cắm trên nóc lô cốt để phía sau trông thấy mũi phát triển của mình rồi chỉ huy tiểu đội đánh vào bên trong lô cốt cố thủ. Trần Can đánh các ngách trong lô cốt, bắt sống tên quan ba lê dương. Các tổ khác đánh chiếm các lô cốt xung quanh.

        Quân ta đang phát triển thì vấp phải một ổ đề kháng. Địch lợi dụng các bao cát bắn dọc theo hào. Các chiến sỹ dùng luôn một tên đội thạo tiếng Việt bắt nó gọi hàng. Một số tên địch ra hàng. Nhưng trên hướng phát triển của đơn vị vẫn còn một số tên địch ngoan cố chống cự. Hoả lực ở đây quét là là mặt đất.

        Trần Can biết đây là một hoả điểm lợi hại. Anh đề nghị đánh thuốc nổ. Trung đội trưởng đồng ý, giao nhiệm vụ cho chiến sỹ Thanh. Thanh ôm bộc phá xông lên. Thanh đang tiến thì bị đạn. Anh em thấy Thanh gục xuống, định cử người khác thay thì Thanh vùng dậy. Đợi lúc mũi súng của địch quét sang hướng khác, Thanh trườn lên rồi vọt tiến về phía hầm ngầm. Lát sau bộc phá nổ. Hầm ngầm bị diệt. Ở một ngách khác, tiểu đội phó Hiếu gọi hàng, nhưng địch vẫn bắn ra. Hiếu bí mật lại gần ụ súng, bất ngờ vùng dậy nắm nòng súng địch giật mạnh và dùng báng súng đánh vào giữa mặt tên địch ngoan cố.

        Sau một giờ chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt gọn Đại đội lê dương số 1. Cuộc chiến đấu ở mỏm 2 lúc đầu thuận lợi. Tiểu đoàn 428 mở cửa bằng bộ phá đến hàng rào thứ bảy. Còn một hàng rào cuối cùng. Một chiến sỹ lên đánh quả cuối cùng thì bị hy sinh. Tiểu đội trưởng Phan Đình Giót  xông lên đánh quả bộ phá quyết định. Lô cốt bị san bằng. Địch dạt cả vào trong. Tổ ném lựu đạn chần chừ không đánh chiếm ngay. Địch lại xông ra chiếm lại. Tổ đánh chiếm lô cốt đầu cầu vẫn chưa lên. Tổ trưởng bộc phá Phan Đình Giót thấy nếu chậm trễ thì trận đánh sẽ kéo dài nên quyết dịnh dùng hoả lực bản thân đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Vì phải mang bộc phá nên trang bị của anh em làm nhiệm vụ mở cửa chỉ có tiểu liên và lựu đạn. Sau khi mở thông 60 mét hàng rào kẽm gai, cả tổ chỉ còn có bốn người và cả bốn đều bị thương. Anh em xông lên chiếm lô cốt. Mũi phản kích của địch bị chặn đứng. Cùng lúc đó tổ đột kích được điều sang chi viện. Đại đội phó Khay ở tuyến trước nhận định đây là thời cơ xung phong liền đề nghị tiểu đoàn. Tiểu đoàn 428 ra lệnh đánh nhanh vào tung thâm. Lúc đó là 19 giờ. Địch rút lên tầng hai ra sức chống cự. Một hoả điểm bắn ác liệt trên đường phát triển của xung kích. Pháo địch bắn sát chân rào.

        Lúc này Phan Đình Giót thay mặt cán bộ chỉ huy trung đội ở cánh phải. Thấy hoả điểm địch bắn chặn đồng đội, Phan Đình Giót dùng quả lựu đạn cuối cùng đánh hoả điểm. Địch ngừng bắn, xung kích ta tiến lên thì hoả điểm lại khôi phục. Giót dùng tiểu liên xông vào trong lô cốt bắn một bắn một băng, băng đạn cuối cùng. Lúc này Giót đã bị thương tới lần thứ ba. Lợi dụng lúc hoả lực địch ngừng bắn trong vài giây, xung kích ta xông lên, thấy cả khuôn ngực của Phan Đình Giót áp vào lỗ châu mai địch. Khẩu tiểu liên của người đảng viên Phan Đình Giót không còn đạn. Một mình Giót đã thu hút cả một mạng lưới hoả lực của địch về phía mình để tạo điều kiện cho đơn vị tiêu diệt những hoả điểm cuối cùng trong cứ điểm.

        Cuộc chiến đấu gay go nhất là ở cứ điểm 1. Trong khi trinh sát thực địa chúng tôi cũng dự kiến đây là hướng gay go nên đã phân công Tiểu đoàn 11 Phủ Thông – đơn vị có kinh nghiệm và truyền thống đánh công sự kiên cố tiến công cứ điểm này.

        Từ vị trí xuất phát xung phong ở bờ suối lên tới cửa mở, nơi ta có lần phục kích bắt tù binh đều bằng phẳng. Địch đã chú ý đoạn này nên ngay từ lúc pháo ta bắn vào Him Lam, chúng đã cho trận địa pháo sau đồi D bắn chặn di động. Hào giao thông sụt từng đoạn lớn, có chỗ không còn gì. Suốt từ vị trí chỉ huy tiểu đoàn lên đến tổ mở cửa chỉ thấy đất cát, khói bụi. Điện thoại bị đứt từ đầu. Vô tuyến điện bị đạn pháo tiện cụt cần ăng ten. Liên lạc chạy bộ bị thương vòn một số lớn. Trung đoàn trưởng  Trung đoàn 141 đề nghị cho dời vị trí chỉ huy lên đài quan sát để trực tiếp chỉ huy. Tôi nhất trí, đồng thời đề nghị lên Bộ chỉ huy chiến dịch cho pháo chi viện Tiểu đoàn 11.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:59:13 pm

        Lên vị trí chỉ huy mới, Trung đoàn trưởng lệnh cho Tiểu đoàn 428 phát triển sang cứ điểm 1, lệnh cho hoả lực tiểu đoàn điều hoả lực lên chi viện cho bộc phá mở cửa, từ đó mở cửa thuận lợi. Nhưng tới hàng rào cuối cùng, quân ta lai vấp phải một hoả điểm bắn ra ác liệt. Đây là một hoả điểm địch bố trí xen kẽ giữa hai lớp rào. Súng phun lửa định bắn ra cửa mở. Lần đầu tiên chúng ta gặp loại súng này. Cuộc chiến đấu kéo dài. Tôi nhìn đồng hồ. Chỉ còn một giờ nữa. Theo quy định của chỉ huy chiến dịch, đại đoàn phải hoàn thành tiêu diệt Him Lam vào 24 giờ ngày 13 để dùng thì giờ còn lại cải tiến công sự địch, biến Him Lam thành một bàn đạp cho đợt 2.

        Giữa lúc đó, Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo cho biết sẽ có lựu pháo chi viện cho Tiểu đoàn 11. Số đạn quy định là 40 quả bắn trong ba phút. Đồng thời, theo yêu cầu của bộ binh, trung đoàn lựu pháo đã kịp thời thay đổi cách bắn kiềm chế pháo, tập trung năm đại đội pháo bắn cày đi cày lại với năm cự ly vào trận địa pháo địch ở sau đồi D. Hai trăm viên đạn của 40 nòng pháo nhất loạt bắn dồn dập trong mười phút. Sau này theo Giuyn-lơ Roa, ký giả Pháp thuật lại, thì 12 khẩu pháo địch đã bị quật đổ trong đợt bắn cấp tập này.

        Về mũi tiến công của Tiểu đoàn 11, được pháo của trên chi viện, trung đoàn và tiểu đoàn đã tổ chức hoả lực bản thân tiến lên sát hàng rào, tổ chức bắn tập trung vào những hoả điểm lướt sườn của địch. Đồng chí Nguyễn Văn Dĩ, Trung đội trưởng chỉ huy pháo 105 đi cùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 đã đứng lên mặt đất quan sát điểm chạm, hiệu chỉnh pháo. Sau hai phát bắn thử, Dĩ báo cáo trúng mục tiêu, bắn tốt. Nhưng sau đó anh đã hy sinh vì nhiệm vụ.

        Hoả điểm của địch bị dập tắt. Tiểu đội trưởng Trần Oanh nhảy lên mặt đất, chia mục tiêu cho các chiến sỹ trong mỗi tiểu đội mỗi người đánh một lô cốt. Sau trận đánh, tôi có hỏi Oanh:

        - Vì sao đồng chí không cho tiểu đội phát triển theo hào giao thông của địch?

        Oanh cười rất hiền:

        - Báo cáo anh, em nghĩ theo hào phát triển chậm quá vì sau khi hoả lực ta cấp tập, chúng nó chỉ choáng váng trong có vài phút. Nó mà hồi tỉnh thì lôi thôi to!

        - Thế đánh trên mặt đất. Oanh không sợ thương vong à?

        - Báo cáo anh, hào giao thông chúng nó đã tính sẵn. Còn mặt đất thì chúng nó không ngờ. Anh chả dạy chúng em là hãy làm những điều mà địch cho là ta không làm được gì!

        Thì ra cái sáng tạo, cái mạo hiểm của Tiểu đội trưởng Trần Oanh đã được tính toán: Đánh theo cách mà địch cho là ta không dám đánh.

        Đại đội chủ công rồi Thê đội 1, Thê đội 2 của tiểu đoàn xông lên chia cắt cứ điểm 1 của địch từng mảng. Hai mươi ba giờ 30 phút tôi báo cáo lên Bộ chỉ huy chiến dịch, đại đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt Him Lam thu toàn bộ vũ khí.

        Giọng Chỉ huy trưởng ấm áp:

        - 312 đã hoàn thành nhiệm vụ trước thời gian Bộ quy định 30 phút. Anh Tấn cho anh em sửa sang lại công sự. Chắc chắn sáng mai chúng nó sẽ phản kích.

        - Anh Quang Trung đã lên Him Lam ngay sau khi tiếng súng nổ vừa dứt – Tôi báo cáo.

        - Anh cho hỏi tên thiếu uý Giắc-cơ xem Him Lam có phải là pháo đài bất khả xâm phạm nữa không?

        Tôi cho gọi Giắc-cơ lên. Hắn tròn xoe mắt kinh ngạc trước cái tin  Bê-a-tri-xơ bị diệt. Hắn nói, lần này cũng nói thật:

        - Thưa ngài, ngài đánh được Him Lam thì ngài có thể đánh được bất cứ chỗ nào ở Điện Biên Phủ.

        Him Lam, cụm cứ điểm mạnh nhất được phòng ngự hiện đại chưa từng có đã bị tiêu diệt. Pháo 105 của ta “bò” lên được các đỉnh cao bao vây lòng chảo Điện Biên, sự xuất hiện của pháo cáo xạ, tất cả đối với bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp và bộ tham mưu của Đờ Cát là những điều không dự kiến trong kế hoạch phòng thủ Điện Biên.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 03:59:50 pm

        Ngày 15 tháng 3 quân ta tiến công cứ điểm Độc Lập.

        Bộ chỉ huy chiến dịch phân công đồng chí Vương Thừa Vũ, Đại đoàn trưởng 308 là Chỉ huy trưởng trận tiến công Độc Lập. Chỉ huy phó có các đồng chí Cao Văn Khánh - Đại đoàn phó 308 và Đàm Quang Trung - Đại đoàn phó 312. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165 Lê Thuỳ đảm nhiệm hướng chủ yếu tiến công theo hướng động bắc. Trung đoàn 88 do Trung đoàn trưởng Nam Hà chỉ huy đảm nhiệm hướng thứ yếu tiến công theo hướng đông nam (Trung đoàn 88 mới ở Lào về, chỉ có ba ngày vừa trinh sát, tổ chức chiến đấu, vừa đào hào giao thông).

        Trời mưa khá to. Đường xuất kích, hào giao thông đầy bùn đất. Ban chỉ huy trận đánh quyết định thay đổi cách bắn của lựu pháo, không bắn dồn dập trước lúc xung phong mà bắn rải ra để phá hoại một phần công sự địch.

        Đúng 17 giờ, bốn đại đội lựu pháo cùng với cối trong lực lượng chi viện mở trận tập kích dữ dội vào toàn bộ khu trung tâm, trận địa pháo và sân bay Mường Thanh. Sau mỗi loạt pháo của ta, địch dùng pháo bắn chặn các đường xuất kích các tuyến xung phong. Sự việc diễn đi diễn lại. Bọn lính trong cứ điểm phập phồng chờ đợi đợt tiến công của quân ta. Chúng yên trí pháo của chúng đã bẻ gãy các đợt tiến công của quân ta. Đến 3 giờ 30 phút ngày 15, chờ cho sơn pháo và súng cối 120 lên đủ, trận đánh bắt đầu.

        Những khẩu pháo của ta sau vài giờ im lặng lại lên tiếng, lần này bắn để bộ binh mở cửa. Pháo địch không bắn trả. Có lẽ chúng cho là không dại gì bắn tốn đạn, mắc mưu ta. Trận này pháo trực tiếp chi viện bắn tốt. Không đầy 40 phút, hoả lực địch ở cửa mở đã hoàn toàn tê liệt. Anh em lên đánh 20 quả bộ phá. Cửa mở đã mở toang. Ở mũi của Trung đoàn 165 nổi bật nhất là tiểu đội thọc sâu của đồng chí Doãn, tiểu đội cầm cờ “Quyết chiến quyết thắng”. Tiểu đội đã bí mật phát triển, bỏ mặc các hoả điểm trên đường tiến công thọc thẳng vào tung thâm. Mặc dù lực lượng phía sau không lên kịp, không sợ đơn độc, tiểu đội nhằm lô cốt chính nổ súng, tiêu diệt trận địa cối 120, khu trung tâm thông tin và đánh tới hầm tên quan tư chỉ huy đồn thì gặp tiểu đoàn của Trung đoàn 88 Đại đoàn 308. Trong chiến đấu, nhiều người bị thương hai, ba lần vẫn không rời trận địa. Hết lựu đạn, anh em dùng lựu đạn địch đánh địch. Cùng với đơn vị bạn, tiểu đội thọc sâu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bắt sống hai tên quan tư chỉ huy cứ điểm Độc Lập. Một tên mãn hạn sắp về nước, một tên mới đến chưa nhận bàn giao.

        Ở hướng đông nam, Trung đoàn 88 lúc đầu mở cửa không đúng hướng. Đồng chí Nguyễn Văn Ty phát hiện hướng mở sai, đã chỉnh lại hướng mở. Mũi xung kích đầu tiên tiến thẳng lên sở chỉ huy địch bắt liên lạc với tiểu đội  của Doãn  (Trung đoàn 165). Trận đánh kết thúc vào lúc 6 giờ 30 phút ngày 15 tháng 3.

        Sáng ra địch cho năm xe tăng dẫn hai tiểu đoàn ứng chiến từ khu trung tâm ra phản kích. Đại đội 213 Trung đoàn 88 đã hiệp đồng cùng pháo binh đánh tan cánh quân phản kích này. Sơn pháo của ta bố trí trên cánh đồng bắn thẳng vào xe tăng địch, chúng vội vã tháo chạy. Súng cối, ĐKZ của ta bố trí trên đồi Độc Lập bắn theo. Lựu pháo 105 ở phía đông cũng tham gia. Nhiều tên địch bị gục. Đây là trận hiệp đồng rất đẹp giữa bộ binh và pháo binh, đánh địch giữa ban ngày trên cánh đồng trống.

        Sau hai đòn đau, bộ chỉ huy Pháp từ chỗ quá tin vào pháo binh của họ, quá coi thường pháo binh ta đã đổ lỗi cho viên tư lệnh pháo của họ. Trung tá Pi-rốt không làm câm họng dù chỉ là một khẩu pháo ta như trước đó đã huênh hoang. Ngược lại, một đại đội cối 120, hai khẩu 105 bị pháo ta huỷ diệt hoàn toàn, một khẩu 155 bị hỏng và số đạn tiêu thụ quá lớn. Sau khi bị Đờ Cát khiển trách thậm tệ, đêm ngày 16 tháng 3, trung tá Pi-rốt đã tự kết liễu đời mình bằng một quả lựu đạn. Xác y được chôn ngay dưới giường y nằm và được đại tá Đờ Cát đưa tin là “hy sinh trên chiến trường danh dự”. Tiếp đó, tham mưu trưởng Ken-le bị mất tinh thần đến mức thần kinh rối loạn phải đưa về Hà Nội.

        Sau Him Lam, Độc Lập, quân địch ở Bản Kéo ra hàng. Tiếp đó là tình trạng mất tinh thần của tiểu đoàn ngụy Thái số 2. Quân Pháp bị mật thêm một phần năm lực lượng nữa.

        Sau khi tiêu diệt Him Lam ngày 13, Độc Lập ngày 15 và bức hàng Bản Kéo ngày 17, chúng ta nhận định địch có nhiều khó khăn, lúng túng nhưng chúng còn rất mạnh và đang ra sức đối phó.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:00:48 pm

        Ngày 14 và 16 địch được tăng viện thêm ba tiểu đoàn dù. Súng nặng và đạn dược được tăng cường. Công sự củng cố gấp rút đủ sức chịu đựng đạn pháo của ta. Chúng đưa lính Âu Phi ra vòng ngoài, tăng cường bảo vệ sân bay. Đờ Cát ra nhận lệnh: “Chúng ta đã trải qua một vài trận gay go và bị mất nhiều quân, nhưng số quân này đã được bù đắp ngay bằng ba tiểu đoàn dù. Còn năm tiểu đoàn dù nữa sẵn sàng nhảy xuống tăng viện. Pháo của ta còn nguyên vẹn, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ bắn chặn có bảo đảm. Có thêm nhiều pháo và pháo thủ được thả dù xuống. Như vậy là số viện binh hiện có đang bù đắp rộng rãi những thiệt hại của chúng ta. Quân Việt Minh thì không được như thế... Chỉ còn vài ngày nữa chúng ta sẽ thắng” (!).

        Địch còn tin vào sức mạnh của không quân, xe tăng, pháo binh trong phòng ngự khu trung tâm.

        Về ta, trong đợt tiến công sắp tới sẽ tiến công năm trung tâm đề kháng thuộc khu trung tâm gồm 36 cứ điểm do bảy tiểu đoàn Âu Phi và một tiểu đoàn ngụy chiếm giữ. Tại đây có sở chỉ huy, trận địa pháo, sân bay địch. Binh lực chúng còn trên một vạn quân. Đợt chiến đấu sắp tới chúng ta phải giải quyết một vấn đề cực kỳ quan trọng là tiếp cận tập đoàn cứ điểm trên địa hình bằng phẳng và chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm trong điều kiện pháo binh, không quân, xe tăng địch hoạt động mạnh hơn trước.

        Từ nhận định đó, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương vẫn đánh chắc, tiến chắc. Để thực hiện yêu cầu tiếp cận và tiến công liên tục cả ngày lẫn đêm, ta chủ trương xây dựng trận địa tiến công và bao vây. Đây là nhiệm vụ trọng tâm chuẩn bị của đợt tiến công thứ 2.

        Trận địa tiến công, bao vây là một hệ thống trận địa gồm hào giao thông trục bao vây Mường Thanh, cắt đứt nó với phân khu Hồng Cúm. Những tuyến hào giao thông của các đại đoàn sẽ từ các triền núi chạy xuống lòng chảo Điện Biên, tới sát các mục tiêu tiến công. Ngoài ra phải cấu trúc những tuyến hào ngang để cơ động lực lượng, hệ thống công sự cho hoả lực, hầm ngầm tránh pháo, hầm đạn dược, hầm thương binh, hầm điều trị của các đội phẫu thuật...

        Nhiệm vụ xây dựng trận địa tiến công và bao vây được quy định như sau:

        Đại đoàn 308 xây dựng hào giao thông trục từ nam vị trí Độc Lập qua Bản Kéo, Pe Nội, Nậm Bó, Bản Mé, bản Cò Mị tới bờ sông Nâm Rốm và đường hào giao thông trục  từ Pe Nội vào vị trí tập kết của đại đoàn ở phía tây Mường Thanh. Làm trận địa tiến công để chuẩn bị công kích vị trí 106.

        Đại đoàn 312 xây dựng hào giao thông trục từ vị trí đồi Độc Lập nối liền với đường hào trục của Đại đoàn 308 qua Him Lam, Loong Bua, nối liền với đường trục của Đại đoàn 316. Làm trận địa tiến công, chuẩn bị công kích các vị trí D, E và 105.

        Đại đoàn 316 xây dựng hào giao thông trục từ Loong Bua nối với hào trục của Đại đoàn 312 qua Bản Bánh, Bản Ten tới suối Nậm Rốm ngang bản Cò Mị, nối liền với hào giao thông trục của Đại đoàn 308. Làm trận địa tiến công vào vị trí A1 và C1.

        Chủ trương xây dựng hào giao thông của Bộ chỉ huy chiến dịch đã giải đáp đúng băn khoăn của anh em. Một trong những vấn đề anh em thắc mắc là làm sao bảo đảm được người và súng an toàn trong khi tiếp cận địch. Tất cả cán bộ, chiến sỹ phẩn khởi bắt tay vào xây dựng một công trình chưa từng có kể từ khi xây dựng quân đội tới nay. Anh em truyền nhau câu:

 “Đúng rồi, muốn đánh thì đào,
Muốn thắt cổ địch phải có nhiều hào vây quanh.
Chiến hào cùng với chiến binh,
Họ “chiến” chúng mình quyết chiến lập công”.

        Mỗi đêm đào công sự là một cuộc chiến đấu thực sự. Địch cho pháo binh, máy bay đánh phá. Ở từng vị trí địch dùng hoả lực bản thân bắn ra quyết liệt.Cho đến đêm thứ tư khi chúng tôi đào tuyến xuất phát xung phong thì chỉ cách đồi E không đầy một trăm mét, Tiểu đoàn 15 Trung đoàn 209 vừa triển khai đội hình như mọi đêm định đào tiếp thì tiểu đội đi đầu vấp phải mình cóc bật lên sát thương gần hết. Thì ra trong khi phản kích, địch đã lợi dụng lúc quân ta mải lo đánh phản kích đã cho công binh bí mật rải mìn. Từ lần vấp này, anh em có sáng kiến dùng gậy tải thương nối lại thành chiếc sào dài khua cho mình nổ hết rồi mới tiếp tục đào.

        Trong vòng mười ngày, quân ta đã đào trên 100 ki-lô-mét hào giao thông, hào chiến đấu cùng hàng vạn công sự đủ các kiểu. Các cỡ hoả lực của ta đưa lên phía trước bắn rất có hiệu quả. Vòng vây Điện Biên Phủ thắt chặt. Lực lượng ta có thể cơ động ban ngày quanh vòng vây đó. Hoả lực pháo binh, máy bay địch bị hạn chế. Bị uy hiếp mạnh, máy bay địch phải hạ cánh ban đêm, đến ngày 27 tháng 3 thì không thể hạ cánh được nữa, địch chỉ còn có cách duy nhất là thả dù. Nhưng vòng vây ta siết chặt, nhiều dù đã lọt vào trận địa ta. Một cuộc tranh đoạt dù đầy hào hứng đã diễn ra trên vòng vây mới.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:02:07 pm

        Đợt hai chiến dịch bắt đầu ngày 30 tháng 3 năm 1954. Nhiệm vụ trong đợt này là tiêu diệt năm điểm cao phòng ngự phía đông Mường Thanh. Đây là dãy điểm cao khống chế toàn khu lòng chảo, là khu then chốt phòng ngự của địch. Mất khu này sẽ mất Điện Biên Phủ.

        Đặc điểm đợt này là cả năm đại đoàn tham gia tiến công một loạt cứ điểm có công sự kiên cố của địch.

        Đại đoàn 312 được phối thuộc hai đại đội pháo 75, hai đại đội cối 120, một đại đội cối 82 có nhiệm vụ tiêu diệt các cứ điểm đồi E, đồi D1, D2, vị trí pháo địch ở 210 và cùng tiểu đoàn dù ngụy số 5 hoặc một bộ phận tiểu đoàn dù 6 thuộc địa đóng ở đó. Sau khi tiêu diệt xong, để lại môt bộ phận nhỏ binh lực tăng cường hoả lực, cải tạo công sự, chiếm giữ trận địa không cho địch chiếm lại, đồng thời tổ chức ngay nhưng trận địa hoả lực để khống chế và sát thương quân địch ở Mường Thanh.

        Đại đoàn 316 (thiếu một trung đoàn) được phối thuộc hai đại đội pháo 75, hai đại đội cối 120, hai trung đội cối 82 tiêu diệt các cứ điểm 301, 302, 304 (tức A1, C1, C2). Sau khi tiêu diệt xong quân địch, để lai một bộ phận nhỏ binh lực chiếm giữ trận địa không cho địch phản kích chiếm lại, đồng thời tổ chức ngay những trận địa hoả lực khống chế để sát thương quân địch ở Mường Thanh.

        Đại đoàn 308 có nhiệm vụ tiêu diệt khu vực tung thâm của địch gồm: Tiểu đoàn Thái số 2 và vị trí pháo binh địch ở đó, phối hợp cùng Trung đoàn 98 tiêu diệt Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6. Dùng hoả lực kiềm chế pháo binh địch ở tây Mường Thanh và dùng bộ phận nhỏ dương công tích cực các cứ điểm 106 và 310.

        Đại đoàn 304 được phối thuộc Tiểu đoàn 888 (Đại đoàn 316), một đại đội pháo 105, một đại đội cối 120, bốn khẩu cối 82 và 12 khẩu 12,8 tổ chức kiềm chế đắc lực pháo địch ở Hồng Cúm: chặn quân viện từ Hồng Cúm lên Mường Thanh, đồng thời tiêu hao quân địch nhảy dù xung quanh và phía năm Hồng Cúm.

        Đại đoàn 351 trực tiếp yểm hộ cho bộ binh tiến công các cứ điểm: 301, 302, 201, 202; chế áp pháo binh địch, sát thương và tiêu diệt một bộ phận lực lượng cơ động của địch ở trung tâm phía đông Mường Thanh và kiềm chế pháo binh địch.

        Chấp hành mệnh lệnh trên, Đại đoàn 312 phân công Trung đoàn 209 tiến công tiêu diệt đồi D1. Sau 2 giờ chiến đấu các chiến sỹ 209 đã tiêu diệt gọn sở chỉ huy Tiểu đoàn 3 Trung đoàn An-giê-ri. Thừa thắng, Trung đoàn trưởng cho Tiểu đoàn 103 tiến công sang đồi D2. Trận đánh D2 kéo dài tới gần sáng. Địch hốt hoảng bỏ chạy vào Mường Thanh. Trung đoàn 141 tiến công đồi 3. Sau 1 giờ 30 phút trung đoàn đã tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 3  Trung đoàn An-giê-ri.

        Ở hướng Đại đoàn 16 (316?) được 30 viên đạn lựu pháo yểm hộ, sau 20 phút Trung đoàn 98 đã chiếm được hai phần ba cứ điểm. Đại đội chủ công đã đánh chiếm được khu cột cờ, mỏm cao nhất của cứ điểm. Quân địch tổ chức ba đợt phản kích nhưng đều bị thất bại. Thừa thắng, quân ta phát triển tiến công, chia cắt tiêu diệt từng bộ phận quân địch; đồng thời nhanh chóng thọc thẳng vào sở chỉ huy cứ điểm. Sau 5 phút Trung đoàn 98 đã tiêu diệt gọn quân địch ở C1, chiếm lĩnh cứ điểm, bắt sống 140 tên thuộc Tiểu đoàn 1 Trung đoàn Ma-rốc số 4.

        Riêng trận đánh trên đồi A1 khá gay go, quyết liệt. Đây là đồn Pháp cũ,. được Nhật củng cố. Sau khi nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ, quân Pháp lợi dụng những nền nhà cũ tổ chức thành điểm tựa khá vững chắc có đường ngầm và hào giao thông ngầm liên lạc với A2. Trung đoàn 174 đánh từ chiều 30 đến sáng 31 tháng 3 mới chiếm được hai phần ba vị trí địch. Tối ngày 31 tháng 3, Trung đoàn 102 Đại đoàn 308 và một bộ phận của Trung đoàn 174 lại tiến công lần thứ hai. Địch dựa vào thế cao liên tục phản kích. Cuộc chiến kéo dài đến sáng ngày 1 tháng 4, ta chiếm được hai phận cứ điểm nhưng không phát triển được phải dừng lại. Đêm 1 tháng 4 ta lại tiến công nhưng không thành công. Cùng với mũi tiến công chính diện, đại đoàn tổ chức Tiểu đoàn 11 Trung đoàn 141 và Tiểu đoàn 115 Trung đoàn 165 làm nhiệm vụ thọc sâu. Theo kế hoạch, các mũi thọc sâu có nhiệm vụ tiêu diệt trận địa pháo địch ở cứ điểm 210 và các tiểu đoàn dù ngụy. Bước một, Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 115 hợp điểm ở cứ điểm 210. Bước hai, cả ba tiểu đoàn (thêm Tiểu đoàn 54 Trung đoàn 102) hợp điểm ở ngã ba đường số 41 đi vào cầu sắt Mường Thanh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:03:34 pm

        Hai tiểu đoàn 54 và 115 đã luồn qua nới tiếp giáp giữa hai cứ điểm C1 và D2 tiến vào khu Đông. Nhưng cả hai tiểu đoàn không mở được cửa qua các bãi dây thép gai nên không hoàn thành kế hoạch.

        Tiểu đoàn 11, ngay từ khi tiếng súng ở đồi D đang nổ giòn giã, đã đi qua cửa mở của Tiểu đoàn 16. Đại đội 243, đơn vị đi đầu tạt sang trái, nhanh chóng vượt qua quãng đường độc đạo dài và hẹp giữa đồi D và đồi E để luồn sâu vào trong. Phát hiện được, địch tập trung hoả lực định bẻ gẫy mũi thọc sâu lợi hại này, gần một phần ba đại đội bị thương, nhưng đơn vị kiên quyết thọc sâu đánh vào Tiểu đoàn dù ngụy số 5. Địch không chịu đựng nổi sức tiến công mạnh của mũi thọc sâu đã bỏ chạy tán loạn. Tiếp đó đại đội chia làm hai mũi. Một mũi đánh thốc vào Tiểu đoàn dù Âu Phi số 1. Mũi thứ hai đánh vào trận địa pháo địch. Địch bỏ pháo tháo chạy. Các chiến sỹ Đại đội 243 đuổi Tiểu đoàn dù ngụy số 6 ra tận bờ sông Nậm Rốm. Rút kinh nghiệm của ba tiểu đoàn thọc sâu ta tổ chức những đội “dũng sỹ” binh lực ít hơn, tổ chức gọn nhẹ nên hiệu suất chiến đấu cũng cao hơn.

        Đêm 1 tháng 4, Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 ở hướng tây đã linh hoạt dùng cách đánh lấn, chiếm được cứ điểm 106, tiêu diệt Tiểu đoàn 1 Trung đoàn lê dương số 2. Đêm 2 tháng 4, đội “dũng sỹ” đột nhập sân bay Mường Thanh tiêu diệt một số địch, bắt sống 10 tù binh. Cùng đêm, vị trí 311 bị uy hiếp. Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 vừa bao vây tiến công liên tục, gọi hàng, vừa bắn đạn cối có truyền đơn vào 311. Chiều ngày 2 tháng 4 hai đại đội lính Thái ở 311 ra hàng, đêm 4 tháng 4, ta tiến công cứ điểm 105, nhưng không thành công. Đợt hai kết thúc.

        Trong đợt này chúng ta đã tiêu diệt 2.300 tên. Ngày 12 tháng 4, pháo cao xạ bắn rơi chiếc máy bay thứ 50. Dãy điểm cao phía đông bị tiêu diệt từng mảng lớn (D1, E1, C1 bị tiêu diệt: D2, 210 rút chạy).

        Những đòn tiến công có hiệu quả trong đợt hai đã chứng minh chủ trương xây dựng trận địa tiến công và bao vây của Đảng uỷ, Bộ chỉ huy chiến dịch là hoàn toàn đúng đắn.

        Trong đợt này, trận địa pháo và các đài quan sát đã nhích lên phía trước. Hai đại đội lựu pháo 801 và 802, đã rời đỉnh Tà Lèng ở phía đông sang phía tây bố trí trận địa ngay sau cứ điểm Bản Kéo. Đại đội 804  ở ki-lô-mét 73 đướng số 42 đã chuyển lên cụm cứ điểm Him Lan cũ. Đại đội lựu pháo 805 rời Pú Hồng Mèo xuống phía nam thu ngắn tầm bắn vào Hồng Cúm hai ki-lô-mét. Các đài quan sát pháo đã nhất loạt chuyển lên phía trước. Sơn pháo, pháo cao xạ nằm trong đội hình chiến đấu của bộ binh, pháo trong biên chế của đại đoàn, trung đoàn đều bắn có hiệu quả vào khu trung tâm. Hoả lực ta tăng cả về số lượng (đầu pháo) và chất lượng (bắn trúng, tiêu thụ đạn ít). Cũng với biên chế trang bị như khi mở đầu chiến dịch, bằng công tác tổ chức, chúng ta đã nâng cao chất lượng chiến đấu và sức mạnh của mình.

        Tuy vậy, chúng ta vẫn chưa hoàn thành tất cả các nhiệm vụ đề ra cho đợt hai. Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương tiếp tục nhiệm vụ đã đề ra trong đợt hai. Các đại đoàn tiến hành xây dựng trận địa bao vây, tiến công vào sát đơn vị địch hơn, cải tạo địa hình, chiếm một vị trí quan trọng nhằm thắt chặt vòng vây hơn; đánh chiếm sân bay, triệt hẳn tiếp tế và tiếp viện của địch.

        Thực hiện mệnh lệnh của Bộ, Đại đoàn 312 đã xây dựng hệ thống trận địa ngày càng tiến gần vị trí địch. Các chiến sỹ đại đoàn ngày đêm giữ vững từng tấc đất trên các điểm cao E, D, C. Những trận địa phòng ngự được củng cố công sự, hào giao thông, hào chiến đầu, ụ súng, vị trí dự bị. Đài quan sát sơn pháo và súng cối với công sự kiên cố. Có nơi ta và địch chỉ cách nhau từ 10 đến 12 mét. Có chiến sỹ bắn tỉa một mình dùng ba loại súng. Anh em bắn tỉa bọn địch đi lấy nước, chủ tâm bắn vào chân, chờ tên đi cứu ta liền bắn bị thương. Đến đêm địch ra cứu hai tên kia, ta dùng súng cối 60, đại liên bắn bọn đi khiêng.

        Từ kinh nghiệm bắn tỉa của Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 phát triển lên thành chiến thuật đánh lấn. Một trong những trận tiêu biểu của chiến thuật đánh lấn là trận tiến công cứ điểm 206 (một cứ điểm ở sát sân bay) của Trung đoàn 36 đêm 22 tháng 4.

        Khi vòng vây của quân ta áp sát sân bay, Bộ chỉ huy chiến dịch phán đoán: Khi ta đánh vào bất cứ điểm nào xung quanh sân bay, thế nào địch cũng phản kích. Bộ chỉ huy chủ trương dùng hoả lực thật mạnh đánh bọn phản kích. Đồng chí Vương Thừa Vũ được giao nhiệm vụ chỉ huy chung hoả lực đánh cũng phản kích, Chi huy phó là đồng chí Đàm Quang Trung. Cụm hoả lực gồm có năm đại đội lựu pháo, tất cả hoả lực súng cối của hai đại đoàn 308, 312 và hai trung đoàn bộ binh. Kế hoạch hiệp đồng giữa pháo binh và bộ binh được tổ chức thống nhất. Các đại đội pháo tính toán xong phần tử bắn vào các ngã ba, đường cơ động và vị trí tập kết của địch. Chỉ huy phó Đàm Quang Trung và các tiểu đoàn trưởng pháo lên đỉnh Hồng Lếch chỉ thị từng mục tiêu trên thực địa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:04:42 pm

        Chập tối ngày 20 tháng 4 Đại đội lựu pháo 803, theo kế hoạch đã thống nhất với Hồng Sơn – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 36 bắn 20 phát vào vị trí 206. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 36 lệnh cho đơn vị hò hét xung phong: nhưng thực ra đó là xung phong giả, còn anh em vẫn tiếp tục đào hào lấn dần vào hàng rào địch. Đêm 21 cũng diễn ra như đêm 20.

        Tới đêm 22, đai đội lựu pháo bắn đúng 20 viên từ chập tối rồi lại hò hét xung phong. Đến 1 giờ sáng ngày 23, theo kế hoạch, đại đội lựu pháo lại bắn 20 quả. Trong lúc pháo bắn, anh em phá nốt những hàng rào còn lại (có những hàng rào anh em phá sẵn nhưng vẫn cứ để dây thép gai như cũ để địch khỏi nghi). Bắn đến viên đạn thứ 13, thấy hàng rào đã bị phá hết, Trung đoàn trưởng yêu cầu lựu pháo, súng cối ngừng bắn để bộ binh xung phong. Pháo ngừng bắn, bộ binh xông lên đánh một lúc ba lô cốt đầu cầu, bí mật xung phong không hò hét như khi xung phong giả. Thấy quân ta xuất hiện bất ngờ, quân địch dạt cả vào bên trong. Không để lỡ thời cơ, Trung đoàn trưởng ra lệnh tiến công toàn diện. Cả ba mũi đánh thốc vào tung thâm. Sau 15 phút, trung đoàn đưa thêm vào hai trung đội. Các mũi nhanh chóng chia cắt tiêu diệt quân địch. Quân ta bắt sống 117 tên lính lê dương, tiêu diệt gọn cứ điểm 206 trong 45 phút. Đánh xong được biết điện đài của 206 đã bị hỏng ngay từ đầu trận đánh, Trung đoàn trưởng 36 hạ lệnh cho bốn khẩu đại liên bắn tứ phía giả làm súng địch. Nghe tiếng súng, Đờ Cát yên trí Huy-ghét (206) vẫn còn chống cự. Quân ta ung dung thu dọn chiến lợi phẩm và xây dựng công sự để đánh quân phản kích vào sáng hôm sau.

        Những đòn tiến công của quân ta trong đợt 1 và đợt 2 đã đặt bộ chỉ huy Pháp trước một sự thật, dù không muốn cũng buộc phải công nhận: “Điện Biên Phủ không còn là pháo đài bất khả xâm phạm nữa. Đối phương đã giải quyết một cách thông minh chiến thuật tiến công trên địa hình bằng phẳng. Số phận của Điện Biên Phủ đang được định đoạt bởi những người mũ nan chân đất”.

        Tưởng Na-va và bộ chỉ huy Pháp khẳng định chỉ có nhanh chóng mở rộng sự yểm trợ của không quân mới cứu vãn được tình thế. Cao uỷ Pháp Đờ Giăng đến gặp đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đề nghị gửi gấp cho Pháp máy bay B26, F84, máy bay vận tải C47 và đề nghị Mỹ chấp thuận cho Pháp dùng máy bay C119 ném bom cháy quy mô lớn để cứu viện Điện Biên Phủ.

        Ngày 20 tháng 3, tham mưu trưởng Ê-ly đi Oa-sinh-tơn đề nghị Mỹ tăng viện trợ và khẩn thiết yêu cầu Mỹ can thiệp bằng không quân. Kế hoạch của Mỹ mang mật danh “chiến dịch Diều hâu” dự định dùng 60 máy bay hạng nặng B29 xuất phát từ căn cứ không quân Cờ-lác ở Phi-líp-pin được 150 máy bay chiến đấu của hạm đội 7 hộ tống, lợi dụng đêm tối ném bom nhiều đợt, mỗi đợt chừng 450 tấn bom, nhằm huỷ diệt vành đai bao vây của quân ta. Để tránh rắc rối về mặt quốc tế, máy bay Mỹ sẽ không sơn phù hiệu không lực Hoa Kỳ. Phi công là những người đang nghỉ phép sẽ không mang quân hàm, quân hiệu Hoa Kỳ. Nhưng kế hoạch “Diều hâu” không thực hiện vì cả Anh lẫn Pháp không đồng ý. Đối với Pháp, Điện Biên Phủ là không thể cứu vãn được. Họ trông chờ hội nghị hoà bình đang chuẩn bị họp ở Thuỵ Sỹ.

        Trước tình hình khẩn cấp, Na-va xoay sang thực hiện kế hoạch “Chim ưng”. Kế hoạch dự kiến dùng sáu tiểu đoàn bộ binh từ phía Nậm U, Nâm Bạc (Thượng Lào) phối hợp với binh đoàn không vận nhảy dù xuống Mường Nhạ tiến đánh Tây Trang rồi tràn vào Điện Biên Phủ phối hợp với cánh quân cứu viện cách điện Biên Phủ 50 ki-lô-mét, viên chỉ huy thấy Điện Biên Phủ ngắc ngoải nên hạ lệnh lui quân. Kế hoạch “Chim ưng” không thành, Na-va đặt kế hoạch “Chim biển”. Nhưng “Chim biển” cũng bị gãy cánh vì đang thực hiện dở dang thì Đờ Cát bị quân ta bắt sống.

        Trong lúc chúng tôi bao vây tiến công Điện Biên Phủ, một nhà báo nước ngoài xin phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh về triển vọng cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Bác chúng ta lật ngược cái mũ trên chiếc bàn tre, rồi nói: “Đây là Điện Biên Phủ”. Bác đưa tay quanh vành mũ: “Núi ở đây và chúng tôi cũng ở đây”. Bác nắm tay lại, nhấn mạnh vào lòng mũ rồi nói tiếp: “Còn đây là quân Pháp. Họ không thoát khỏi chỗ này được. Có lẽ thời gian còn dài nhưng họ không thể thoát khỏi”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:05:09 pm

        Câu chuyện trên tôi được nghe khi lên họp ở Bộ chỉ huy chiến dịch. Tại hội nghị, chúng tôi được phổ biến, trung tuần tháng 4 năm 1954 Bộ chính trị họp nhận định: Hai đợt tiến công của quân ta ở mặt trận Điện Biên Phủ đều thắng lợi tạo những điều kiện căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Những thắng lợi đó chứng tỏ sự chỉ đạo đúng đắn của Trung ương Đảng và sự trưởng thành của Quân đội. Trung ương rất vui mừng nhận thấy các cấp uỷ, các đảng viên, các cán bộ của chúng ta đã cố gắng và tiến bộ nhiều. Nhưng vì cán bộ ta mắc nhiều khuyết điểm, nguyên nhân chủ yếu là tư tưởng hữu khuynh còn nghiêm trọng. Vì vậy đã gây tổn thất không cần thiết và hạn chế một phần thắng lợi. Chiến dịch Điện Biên Phủ đối với tình hình quân sự và chính trị ở Đong Dương, đối với sự trưởng thành của Quân đội ta cũng như đối với công cuộc bao vây hoà bình thế giới có một ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong lúc Hội nghị Giơ-ne-vơ sắp họp.

        Bộ Chính trị chỉ thị: Các cấp uỷ, các đảng viên và toàn thể cán bộ phải nhận rõ những khả năng của quân đội và nhân dân ta hiện nay có đủ điều kiện tiêu diệt toàn bộ quân địch, ra sức khắc phục tư tưởng hữu khuynh, củng cố và đề cao quyết tâm, đề cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, Quân đội và Đảng, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm vừa qua. Bộ Chính trị quyết định: Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này.

        Sau khi phổ biến nghị quyết của Bộ Chính trị, đồng chí Bí thư Đảng uỷ chiến dịch báo cáo nghị quyết của Đảng uỷ. nghị quyết của Đảng uỷ nhấn mạnh đặc điểm quan trọng nhất của đợt tiến công đợt 2 là tính chất gay go ác liệt của cuộc chiến đấu. Chúng ta phải chịu đựng sự căng thẳng ngày và đêm dưới hoả lực máy bay, pháo địch. Người và súng luôn luôn sẵn sàng từ ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác. Trời lại bắt đầu mưa. Các chiến hào trở thành những mương chứa một thứ bùn lõng bõng như cháo đặc. Mùa mưa mang đến bệnh hắc lào, nước ăn chân, bệnh kiết lỵ, sốt rét. Gạo thiếu thức ăn không có, thuốc lào dự trữ cũng hết. Địch phản kích liên tục, cuộc chiến đấu phải kéo dài. Qua thực tiễn chiến đấu, những vấn đề về chiến thuật đều được giải quyết cụ thể, chủ trương tác chiến rõ ràng và chính xác. Vấn đề còn lại bây giờ là chống tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực biểu lộ dưới hai hình thức: Một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ, muốn dứt điểm ngay trong khi điều kiện khách quan chưa cho phép; hai là chủ quan khinh địch.

        Hội nghị đã phê phán nghiêm khắc các khuyết điểm trên và khẳng định:

        Tư tưởng của Đảng ta, của Quân đội ta là tư tưởng tích cực cách mạng, là tinh thần đấu tranh bất khuất, đấu tranh đến cùng chống kẻ thù, là tinh thần đấu tranh không nhân nhượng, không thoả hiệp của giai cấp công nhân. Tư tưởng đó là tinh thần triệt để cách mạng, lúc thắng lợi không say sưa, lúc khó khăn không chùn bước, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng kiên trì đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng. Trong Quân đội, tư tưởng đó của Đảng là tinh thần anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, triệt để chấp hành mệnh lệnh. Đó là tinh thần kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không sợ gian lao, nguy hiểm không sợ mỏi mệt thương vong, không sợ hy sinh tính mệnh. Đó là tinh thần liên tục chiến đấu, lúc thắng lợi không chủ quan tự mãn, lúc thất bại không hoang mang dao động, bất kỳ trong trường hợp nào cũng bình tĩnh, khẩn trương, kiên trì chiến đấu.

        Anh Trần Độ và chúng tôi, những cán bộ chỉ huy và cơ quan Bộ tư lệnh đại đoàn cùng các cán bộ trung đoàn đã tổ chức triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị ngay tại chiến hào. Chúng tôi chân thành tự phê bình trong việc chỉ huy đánh vị trí 105 và trong việc chỉ đạo đào chiến hào đã không sâu sát, không kiểm tra đôn đốc, không khẩn trương cải thiện đời sống cho cán bộ, chiến sỹ. chúng tôi khẳng định những mặt ưu điểm nhưng cũng thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm về chỉ huy, về lãnh đạo và tổ chức chiến đấu. Sau đó, ngay trên các trận địa phòng ngự, trên các đài quan sát, trong các căn hầm, toàn đại đoàn sinh hoạt liên hệ với yêu cầu của nhiệm vụ trước mắt, nhìn lại những thành tích đã đạt được, tự phê bình và phê bình công khai những thiếu sót từ Bộ tư lệnh đại đoàn cho đến người chiến sỹ. Cuộc sinh hoạt công khai, thẳng thắn và bình đẳng về chính trị đã thực sự mang lại sức chiến đấu mới cho đại đoàn.

        Hệ thống trận địa được tổ chức lại, có hầm ngủ, hầm ăn, hầm hội họp. Các đường hào được be bờ, tát nước hàng ngày. Trần hầm có nơi anh em căng dù, sàn hầm được lát ván, vách hầm được lát phên nứa, hoặc các mảnh gỗ lấy từ hòm đạn của địch. Có hầm có cả ghế ngồi. Các bữa ăn được cải thiện. Anh em cấp dưỡng lên rừng hái rau, đào củ, xuống suối bắt cá. Cơ quan hậu cần của đại đoàn đi lên các vùng cao mua rau về cải thiện. Ngoài ra thịt hộp còn có thêm thịt nhím, thịt cầy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:05:36 pm

        Trong lúc đó, anh em pháo binh gặp một khó khăn là thiếu đạn. Bộ chỉ huy chiến dịch quy định cụ thể: Cục trưởng Tác chiến được phép ra lệnh bắn mười viên, đại đoàn trưởng ba viên. Cấp trung đoàn, tiểu đoàn không được phép gọi pháo bắn. Có lần địch cho xe tăng ra phản kích, chúng tôi thấy không thể dùng ba viên đạn hạ xe tăng liền đề nghị lên chỉ huy trưởng chiến dịch. Đồng chí Chỉ huy trưởng cho bắn tám viên. Thông cảm với anh em pháo, đồng thời vì lợi ích của bản thân bộ binh, một phong trào thi đua đoạt dù địch lấy đạn pháo đã dấy lên trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Pháo cao xạ, bộ binh, pháo binh đã chủ động hiệp đồng, tạo điều kiện cho nhau đoạt dù tiếp tế của địch, thu được 5.500 viên đạn pháo 105 và cối 120. Số đạn đó đã đỡ được một phần khó khăn cho anh em pháo. Nhưng nguồn đạn chủ yếu vẫn là từ hậu phương gửi lên.

        Ngày 17 tháng 4, một đoàn xe 12 chiếc chở đạn từ hậu phương lên. Đồng chí Đinh Đức Thiện lúc đó là Cục trưởng Cục Vận tải đã ra lệnh cho đoàn xe: “Vì yêu cầu chiến đấu, đoàn xe phải chạy cả ban ngày thẳng tới hầm, pháo. Qua phà, phà trục lên, qua binh trạm, binh trạm phải mở cửa”.

        Chúng tôi còn được biết, cùng với nghị quyết và những chỉ đạo quý báu, Bộ Chính trị đã cử nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng đi Việt Bắc, Khu 4, ra mặt trận để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết. Trên mười vạn dân công và bộ phận quan trọng cán bộ phát động quần chúng được tăng cường cho công tác phục vụ hoả tuyến. Nhiều đồng chí chi uỷ viên dẫn các đoàn thanh niên xung phong của cơ sở mình lên Điện Biên Phủ phục vụ cả đơn vị xin nhập ngũ luôn. Tân binh được bổ sung và tiếp nhận huấn luyện ngay tại chiến trường. Chỉ qua vài trận, những anh em đó đã trở thành cán bộ tiểu đội vững vàng. Công tác cứu chữa, nuôi dưỡng thương binh do đội điều trị các đại đoàn tự lo liệu nên quân số được bổ sung rất nhanh.

        Hậu phương đã chi viện cho chúng tôi cả sức mạnh vật chất và tinh thần để đảm bảo đánh thắng trước khi vào đợt chiến đấu quyết định.

        Sức đề kháng của tập đoàn cứ điểm có công sự, hoả lực vật cản và lực lượng phản kích, vào giai đoạn cuối, lực lượng phản kích là then chốt. Hết lực lượng phản kích, tập đoàn cứ điểm sẽ sụp đổ.

        Ngay sau khi mất Him Lam, Độc Lập, Na-va đã cho tiểu đoàn dù kích số 6 do thiếu tá Bi-gia, một sỹ quan dù kỳ cựu được liệt vào loại xông xáo và đã từng ở Tây Bắc lâu năm chuyên lo tổ chức các cuộc phản kích.

        Trưa ngày 24 tháng 4, chúng tôi được Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo: “Chuẩn bị chiến đấu. Toả rộng đội hình. Địch sẽ oanh tạc”. Bộ đội vừa tản đội hình xong, thấy trên trời có chín chiếc B26 bay thành ba tốp, theo đội hình tam giác. Sau đó chúng chuyển thành đội hình hàng dọc nối đuôi trút bom. Đây là những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trực tiếp đánh chúng ta. Tôi ra bên ngoài hầm quan sát cách đánh của Mỹ. Chúng chỉ hơn Pháp ở độ cao và nhiều bom hơn, đánh lâu hơn. Một cảm giác căm ghét bọn Mỹ đánh “hôi” nhen trong lòng tôi. Sau này, trong sáu năm ở miền Đông Nam Bộ, tôi gặp lại bọn Mỹ cùng với những tên giặc bị bắt làm tù binh trong cuộc phản công chiến lược mùa khô Gian-xơn Ci-ty.

        Trong trận ném bom này, ngoài việc sát thương quân ta trên sân bay, chúng còn hy vọng sẽ tạo ra môt dãy hố bom để cho đám lính dù do Bi-gia chỉ huy tiến ra vị trí 206 tập kết. Sau đợt bom, bọn lính dùng thuốc nổ phá hai cửa mở để tiến ra cho nhanh. Một cánh tiến thẳng vào khu vực của Đại đoàn 308. Một cánh khác tiến vào khu vực của Trung đoàn 141. Pháo ta được chuẩn bị từ trước do hai đồng chí Vương Thừa Vũ và Đàm Quang Trung chỉ huy đã bắn tập trung trúng đội hình địch. Xác địch tung lên quật xuống. Đội hình của chúng bị tan vỡ. Bon còn lại nhảy vội vào các hố bom mà máy bay Mỹ đã tạo nên. Lập tức các khẩu cối của đại đoàn, trung đoàn rót vào các hố  bom. Lính dù chết trong các hố bom khá nhiều. Số còn lại vội vã tháo chạy. Từ Mường Thanh, Bi-gia cho ba xe tăng xông ra để cản đám quân dù đang tháo chạy. ĐKZ của ta bắn hỏng một chiếc. Tuy vậy, một số địch đã lọt được vào chiến hào chia cắt sân bay của ta, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 23 Nguyễn Quốc Trị yêu cầu đài quan sát tiền tiêu của pháo binh đi cùng tiểu đoàn 23 cho pháo bắn trực tiếp vào chiến hào của mình để chuẩn bị xung phong. Thấy cự ly quá gần, pháo không dám bắn. Pháo đề nghị bộ binh giãn ra vài trăm mét để bảo đảm an toàn. Nhưng Tiểu đoàn trưởng bộ binh Nguyễn Quốc Trị cho rằng nếu ta giãn đội hình, địch sẽ bám theo nên đề nghị pháo cứ bắn. Sau khi cân nhắc, Bộ chỉ huy hoả lực quyết định bộ binh cắm một lá cờ chuẩn màu đỏ để pháo binh dễ nhận mục tiêu và ra lệnh cho tiểu đoàn trưởng lui đội hình về sau cờ 50 mét. Đại đội lựu pháo 802 đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ đánh bật địch ra khỏi chiến hào. Bọn địch tháo chạy về Mường Thanh bị quân ta phản xung phong, dùng hoả lực bắn đuổi. Đờ Cát vội vã thúc ba xe tăng ra cứu nguy nhưng sơn pháo của ta trên đồi E và D lập tức nổ súng bắn chặn, xe tăng không dám tiến. Bi-gia không còn cách nào để thúc đám lính phản kích.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:06:03 pm

        Đây là đợt phản kích cuối cùng của tướng Đờ Cát (Đờ Cát được phong tướng vào cuối tháng 4, tiếp đến là Lăng-gle, La-lăng được phong Đại tá và Bi-gia trung tá đúng vào lúc quân Pháp ở Điện Biên Phủ lâm vào tình trạng cực kỳ nguy khốn).

        Vùng chiếm đóng của quân Pháp bị thu hẹp tới mức mọi mục tiêu đều nằm trong tầm uy hiếp của súng trường. Dự trữ hậu cần bị tụt tới mức báo động khẩn cấp. Đến ngày 1 tháng 5 năm 1954, cả tập đoàn cứ điểm chỉ còn ba ngày lương thực, 257 viên đạn pháo 155, 14.000 viên đạn pháo 105, năm nghìn viên đạn cối 120. Tăng viện cho Điện Biên Phủ đã trở thành tuyệt vọng. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 nhiều lần bay lên rồi lại về vì không có bãi thả và đạn ta bắn lên rất rát. Có tên được thả xuống thì không biết chỗ nào là quân chúng, chỗ nào là quân ta.

        Cuối tháng 4 ở Điện Biên Phủ là mùa mưa. Điện Biên Phủ trở thành một địa ngục thực sự. Tướng Đờ Cát đã phải ra lệnh hạn chế khẩu phần ăn hàng ngày. Nạn ăn cắp xảy ra nghiêm trọng đến nỗi Đờ Cát phải ra lệnh bắn tại chỗ những tên ăn cắp. Binh lính, sỹ quan phải đi đại tiện, tiểu tiện ở ngay trong hầm, vào các vở đồ hộp rồi quăng lên. Đã xảy ra những vụ bắn nhau vì tranh đoạt đồ giữa đơn vị nọ với đơn vị kia. Lính bị thương xếp thành tầng trong hầm. Lúc đầu khu hầm dự kiến xếp chừng 400 tên. Nay đường hàng không bị cắt, hầm phải chứa hàng nghìn tên. Cáng nọ nằm trên cáng kia. Máu mủ của cáng trên chảy xuống cáng dưới. Ruồi dòi phát sinh. Cuộc sống trong các hầm hố khổ đến mức có tên sỹ quan không chịu đựng được đã tự sát.

        Đợt 3 chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 1 tháng 5.

        Ở hướng Đại đoàn 308, Trung đoàn 36 đã phát triển cách hàng rào cứ điểm 311B khoảng 50 mét. Trận địa của Trung đoàn 88 cũng cách cứ điểm 311A tương tự. Trung đoàn 102 sau một thời gian củng cố đang sung sức.

        Đại đoàn 312 đã áp sát vị trí 505.

        Đại đoàn 316 vẫn chiếm giữ hai vị trí A1 và C1. Trận địa của đại đoàn đã có thêm hai vị trí tiến công quan trọng là trận địa hoả lực trên Đồi Cháy và Trung đoàn 174, đơn vị sẽ đánh A1 đã có thêm một mũi chia cắt lơi hại giữa A1 và A2. Ngoài ra trung đoàn được sự giúp đỡ của công binh đã đào một đường ngầm để đặt một tấn thuốc nổ đánh vào khu hầm ngầm của địch trên đồi A1.

        Ở hướng Đại đoàn 304 có thêm Trung đoàn 9, cùng với Trung đoàn 57 lên từ trước đã áp sát Hồng Cúm hình thành một vòng vây ngăn chặn không cho địch chạy sang Lào.

        Pháo binh trong đợt này có thêm một Tiểu đoàn ĐKZ 75, một tiểu đoàn hoả tiễn 75 ly sáu nòng. Một trăm linh tám nòng hoả tiễn 75 sẽ là hoả lực dự bị quyết định.

        Nhiệm vụ của các đại đoàn trong đợt 3 là đánh chiếm các điểm cao địch còn chiếm giữ ở phía đông, tiêu diệt một số vị trí địch ở phía tây, tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, phát triển sâu hơn nữa trận địa tấn công và bao vây, phát huy tất cả các loại hoả lực bắn phá tung thâm, uy hiếp vùng trời của địch, chuẩn bị chuyển sang tổng công kích.

        Chiều ngày 2 tháng 4 hàng trăm khẩu pháo của ta nhất loạt nổ súng bắn vào khu trung tâm Mường Thanh, phá một kho lượng thực và một kho 3.000 viên đạn pháo 105.

        Trưa ngày 30 tháng 4, ta tổ chức một trận tập kích hoả lực xuống toàn bộ phân khu Hồng Cúm. Lực lượng tham gia có bốn khẩu lựu pháo 105, ba khẩu sơn pháo 75, ba khẩu cối 120, gần 100 khẩu cối 81 và 60 của Đại đoàn 304. Trận tập kích kéo dài gần một giờ. Pháo địch không bắn trả được phát nào. La-lăng, đại tá chỉ huy phân khu điện về Hà Nội báo cáo: “tất cả số pháo ở I-da-ben (mật danh phân khu Hồng Cúm) bị diệt, chỉ còn một khẩu. Xin thả dù gấp những bộ phận thay thế”. Trận tập kích bằng hoả lực vào Hồng Cúm đã tạo điều kiện thuận lợi cho trận đánh đêm hôm sau.

        Sau mấy ngày mưa liên miên, sáng 1 tháng 5 trời nắng đẹp. Trưa ngày 1, pháo ta bắn mãnh liệt vào toàn bộ khu trung tâm. Trung đoàn 98 tiến công C1. Theo kế hoạch, lúc 18 giờ đơn vị phòng ngự trên C1 lui xuống cửa mở. Mười chín giờ 27 phút, hoả lực của trung đoàn bắn dồn dập vào các hoả điểm địch trên C1. Hai khẩu sơn pháo của ta đặt trên đồi D cách C1 vài trăm mét bắn rất chính xác. Pháo vừa ngừng, bộ binh lập tức xung phong. Một mũi nhanh chóng cắt đứt đường rút về C2. Địch dùng súng phun lửa bắn ra cửa mở. Một mũi của ta bí mật vòng phía sau tiêu diệt khẩu súng phun lửa, diệt hai lô cốt rồi cắt đứt đường rút về Mâm Xôi. Sau một giờ chiến đấu, quan ta làm chủ C1, diệt tại trận 144 tên, bắt sống 44 tên, thu toàn bộ vũ khí. Ở A1 trong đêm hôm đó quân ta cũng đánh chiếm thêm hai ụ súng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:06:32 pm

        Ở hướng tây, Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 với kinh nghiệm đánh lấn đã bí mật cắt hàng rào từ mấy hôm trước, đưa hoả lực vào gần. Khi pháo bắn xong, lập tức xung phong tiêu diệt cứ điểm 311 trong lúc địch đang thay quân. Đêm 3 tháng 5 Trung đoàn 36 lại tiêu diệt và chiếm lĩnh vị trí 311B.

        Trong đợt 3, đại đoàn chúng tôi được phân công tiêu diệt 505A, 505B. Cả hai cứ điểm đều nằm trên địa hình bằng phẳng. Để bảo đảm cho Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi huy động lực lượng cơ quan thành lập các đơn vị vận tải đặt tên là đội “Vinh Quang” làm nhiệm vụ chuyên chở lương thực, đạn dược lên tuyến trước và đưa thương binh về phía sau. Chúng tôi theo dõi kết quả đánh lần của từng đêm, ban ngày cùng anh em cán bộ rà soát lại kế hoạch tiến công tới từng mũi. Anh Quang Trung xuống Trung đoàn 209 cùng Trung đoàn trưởng Hoàng Cầm kiểm tra và trực tiếp tổ chức tiến công cứ điểm 505B. Vị trí 505B bằng phẳng nằm cạnh đường số 41, tiếp đó là hàng loạt vị trí nối liền nhau: 506, 507, 508, 509 chạy tới hầm của tướng Đờ Cát. Bên tay phải là vị trí 505A. Trận đánh 505 diễn ra ác liệt. Hai mươi giờ 30 phút, trung đoàn chiếm được cửa mở sau nhiều lần dừng lại để củng cố. Hai mươi giờ 45 phút quân ta lọt vào chiến hào địch, chia làm hai mũi phát triển. Đây là trung đội cuối cùng của đại đội. Trung đội lọt vào giữa vùng hoả điểm địch. Tiểu liên bị tắc, anh em phải dùng lựu đạn để đánh từng ổ đề kháng. Tiểu đoàn đưa thêm thế đội hai vào chiến đấu lúc 21 giờ 37 phút. Từ 507, địch cho bộ binh xe tăng xông ra phản kích. Đơn vị sau không lên kịp, các chiến sỹ đã tự động đánh địch. ĐKZ của ta bắn đứt xích chiếc xe tăng. Các chiến sỹ bám sát từng ngách hào, dùng lựu đạn địch đánh địch. Lúc này pháo của ta vẫn bắn vào 507, trận địa pháo địch và trên các con đường địch di chuyển. Đường vào 505B vừa nhỏ hẹp, vừa trơn. Địch bắn pháo không ngớt. Nhưng hai trung đội tăng viện của ta cũng lọt được vào 505B. Bốn giờ 20 phút, Tiểu đoàn 166, Trung đoàn 209 đã tiêu diệt xong cứ điểm này. Trung đoàn trưởng ra lệnh cho Tiểu đoàn 166 và Tiểu đoàn 154 nhanh chóng cải tạo công sự, chuẩn bị tiến công 507, 509.

        Khoảng cách từ đây đến hầm của Đờ Cát chỉ còn 500 mét theo đường chim bay. Từ vị trí 505B, anh em đã đào một hào giao thông xuyên qua ba lớp rào thép gai cách lô cốt đầu tiên của vị trí 507 mười lăm mét. Bên hướng phụ, Tiểu đoàn 115 cũng đã cắt hai hàng rào và đào hào thẳng vào một lô cốt địch ở tây bắc. Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương được giao nhiệm vụ chỉ huy tiến công 506. Trên trận địa 505B, quân ta dùng súng trường, tiểu liên bắn tỉa địch ở 506. ĐKZ và cối 120 bắn sập một số hầm và lô cốt địch. Trưa ngày 5 tháng 5, anh em đã bắt sống năm tên lính Pháp và lính ngụy nhảy dù xuống 505B. Địch từ Hồng Cúm, 704 và A1 bắn ra ác liệt, nhưng trận địa của ta trên 505B vẫn như một mũi dao sắc nhọn chĩa về phía hầm tướng Đờ Cát. Lúc này điện thoại bị đứt. Máy bộ đàm bị hỏng, các cán bộ tác chiến đã xuống từng đơn vị trực tiếp truyền đạt mệnh lệnh. Sau hai phút pháo chế áp, đơn vị xung phong. Mười lăm phút sau anh em đã vượt qua cửa mở, lực lượng chỉ còn hơn một trung đội. Theo đúng kế hoạch, hơn một trung đội ấy chia làm hai cánh chia cắt 506. Nhưng khi hai mũi gặp nhau thì lực lượng chỉ còn một tiểu đội. Địch dùng lựu đạn từ các ngách hào ném ra tới tấp. Chiến sỹ ta chộp lựu đạn địch đánh trả quyết liệt. Lúc này địch tập trung vào hầm ngầm cố thủ. Không có thuốc nổ đánh hầm ngầm, anh em tạm dừng chờ lực lượng phía sau.

        Biết phía trước gặp khó khăn, Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương liền tập hợp lực lượng vượt qua cửa mở tiến về phía tiểu đội đang tạm thời dừng lại. Khi vào đến nới thì bộ phận này chỉ còn có mười người. Lúc đó là 23 giờ 23 phút. Tiểu đoàn trưởng điểm lại lực lượng mới tăng viện và lực lượng đã có từ trước, thấy chỉ còn lại 13 người kể cả tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn chia thành ba mũi, mỗi mũi do một cán bộ phụ trách, tiểu đoàn trưởng chỉ huy một mũi. Địch tưởng đã đánh bật được ta ra khỏi 506 liền tổ chức phản kích. Bọn địch ở 509 cũng tràn sang. Cuộc chiến đấu khá chênh lệch về lực lượng đã diễn ra quyết liệt. Sau một giờ chiến đấu ta chỉ còn năm chiến sỹ và tiểu đoàn trưởng. Mỗi người còn hai quả lựu đạn. Trung đoàn trưởng lập tức tổ chức lực lượng tăng viện lấy từ nhân viên cơ quan trung đoàn, tiểu đoàn. Địch vẫn bắn vào khu cửa mở quyết liệt. Trời gần sáng. Địch xông ra phản kích. Tiểu đoàn trưởng Thiết Cương chỉ huy năm chiến sỹ ném một loạt lựu đạn. Mỗi người chỉ còn lại một quả. Đợt xung phong của địch bị chặn đứng. Lúc đó quân tăng viện đã đến. Tiểu đoàn trưởng chỉ huy đánh đợt xung phong thứ hai của địch. Đúng 8 giờ sáng, quân ta chiếm hoàn toàn sở chỉ huy địch ở 506, bắt sống 30 lính dù thuộc tiểu đoàn dù số 6, trong đó có một quan ba từ C2 chạy sang và tên quan tư chỉ huy 506. Ngay sau đó, một bộ phận tiểu đoàn 542 tổ chức trận địa phòng ngự trên vị trí 506 vừa đánh chiếm, chuẩn bị tiến công 509. Địch dùng pháo, máy bay oanh tạc dữ dội lên 506. Do ta và địch gần nhau nên địch dùng bom lửa. Anh em dùng đất dập tắt ngọn lửa bén vào người, quyết không rời trận địa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:06:54 pm

        Như vậy là cùng với Đại đoàn 308, Đại đoàn 312 đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt một số vị trí bảo vệ sở chỉ huy địch.

        Lúc này, trong sở chỉ huy địch đang có cuộc tranh luận gay gắt về việc thực hiện kế hoạch rút lui khỏi Điện Biên Phủ. Sau này, khi bắt sống tướng Đờ Cát, chúng ta được biết kế hoạch như sau:

        Sau khi kế hoạch “Chim ưng” không thực hiện được, Na-va thông qua kế hoạch “Chim biển” với mục đích tránh cho quân viễn chinh Pháp một sự đầu hàng nhục nhã. Ba tiểu đoàn dự bị chiến lược cuối cùng của bộ chỉ huy quân viễn chính Pháp được Na-va ném vào kế hoạch này. Một trong ba tiểu đoàn sẽ được thả xuống Điện Biên Phủ cùng lực lượng của tập đoàn cứ điểm tự phá vây. Từ Lào sẽ có từ bốn đến năm tiểu đoàn bộ binh cùng với hai tiểu đoàn dù còn lại được ném xuống, tạo thành một vùng hành lang an toàn trong vùng thung lũng Nậm Nưa, Mường Nhạ, Nậm Hợp đón quân ở Điện Biên Phủ chạy sang Lào.

        Ngày 4 tháng 5, lúc Đờ Cát được thông báo về kế hoạch “ Chim biển” cũng là lúc quân của Đờ Cát chỉ còn đóng ở 20 cứ điểm trên một diện tích hẹp. Đợt tiến công thứ 3 của quân ta làm cho các sỹ quan trong tập đoàn cứ điểm coi như số phận tập đoàn cứ điểm đã được định đoạt.

        Ngày 4 tháng 5, tướng Đờ Cát triệu tập sỹ quan chỉ huy các đơn vị còn lại bàn cách thực hiện kế hoạch rút chạy mà Na-va vừa thông báo. Lực lượng còn lại sẽ chia làm ba cánh quân rút sang Thượng Lào theo ba hướng, nếu từng cánh quân phá vây thành công. Trong ba hướng đông, tây và nam thì hướng nam xem ra có nhiều may mắn hơn. Viên chỉ huy nào cũng muốn rút theo hướng nam, không ai chịu ai. Cuối cùng Đờ Cát phải dùng cách rút thăm. Kết quả quân dù do đại tá Lăng-gle và trung tá Bi-gia chỉ huy sẽ rút chạy theo hướng đông nam. Quân lê dương và Bắc Phi do các đại tá Lơ-mơ-ni-ê và Vê-đô chỉ huy sẽ rút theo hướng nam. Quân hỗn hợp ở Hồng Cúm do đại tá La-lăng chỉ huy chạy theo hướng tây. Còn lính bị thương và nhân viên quân y sẽ bỏ lại.

        Rút thăm xong mọi người nhất trí: “Chim biển” sẽ cất cánh vào hồi 20 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhưng có một chi tiết mà kế hoạch “Chim biển” không tính đến là quân ta đã biết được một phần kế hoạch này.

        Nắm được những dấu hiệu chuẩn bị rút lui của địch trong kế hoạch tác chiến, Bộ chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho Đại đoàn 308 kiểm soát chặt các con đường đi sang hướng tây. Ở phía nam, Đại đoàn 304 (thiếu) được lệnh phái một đơn vị bí mật bố trí tại Bản Ty bịt chặt con đường rút chạy của địch sang Lào.

        Đại đoàn 312 chúng tôi nhận được lệnh bám thật sát địch để đón thời cơ tổng công kích, đồng thời đề phòng địch tháo chạy.

        Thời gian nổ súng của toàn mặt trận là 20 giờ 30 phút ngày 6 tháng 5 năm 1954, lấy tiếng nổ của khối bộc phá 1.000 ki-lô-gam trên đồi A1 làm hiệu lệnh tiến công.

        Trên đồi A1, Trung đoàn 174 Đại đoàn 316 chia làm hai mũi. Một mũi do Tiểu đoàn 249 từ trận địa phòng ngự của trung đoàn trên A1 tiến công từ hướng đông nam. Một mũi của Tiểu đoàn 251 đánh vào “Ụ thằng người” tức lô cốt số 17. Đây là một mũi hiểm đánh thúc vào sau lưng đồi A1, bịt hẳn đường địch tháo chạy, đồng thời cắt đứt hoàn toàn A1 với khu trung tâm Mường Thanh, khiến viện binh của chúng không thể phản kích được. Khối thuốc nổ 1.000 ki-lô-gam được chia thành 50 gói, mỗi gói 20 ki-lô-gam được chuyển theo một đường ngầm dài 60 mét đặt vào căn hầm chứa thuốc nổ do công binh đào suốt mười ngày đêm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:07:14 pm

        Đúng 20 giờ 30 phút ngày 6 tháng 5 đại đoàn ra lệnh điểm hoả. Nhưng ngoài dự kiến của Bộ tư lệnh và cả của chúng tôi, khối bộc phá một tấn do nổ ngầm dưới đất nên chỉ nghe thấy một tiếng ục và một cột khói bốc lên. Đường dây điện thoại liên lạc với công binh bị đứt, nhưng quan sát thấy trên A1 có ánh chớp sáng, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An liền cho bộ đội nổ súng đồng thời báo cáo lên đại đoàn. Pháo bắn chế áp trong 15 phút rồi bộ binh xung phong. Sau 15 phút, trung đội đầu cầu đã chiếm được bắc khu A và một phần khu nam. Một đại đội đánh lên hầm ngầm và khu thông tin, một đại đội đánh vào trận địa súng cối. Ở hướng tây nam, Đại đội 674 Tiểu đoàn 251 cho một bộ phận đánh chiếm “Ụ thằng người”, một lực lượng đánh xuống A3. Trên A1 địch chống cự quyết liệt. Thấy tình hình khó khăn, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An trực tiếp đi cùng đại đội thuộc đội dự bị lên A1. Đại đội hướng đông nam đánh chiếm khu B, đánh vào hầm ngầm bắt được một số tù binh rồi đánh sang khu C, bắt liên lạc với Tiểu đoàn 251 từ phía tây đánh lên, đến trận địa súng cối thì trận chiến đấu diễn ra giằng co. Cả hai tiểu đoàn đều không phát triển được. Đến 23 giờ trung đoàn điều một đại đội và tăng cường. Ba giờ sáng ngày 7 tháng 5 thì chiếm được trận địa súng cối, bắt được 120 tù binh trong đó có tên Pu-giê chỉ huy A1. Ta đã bao vây khu cố thủ nhưng địch vẫn chống cự. Tổ ba người tiến đánh, người đi trước lia tiểu liên, người đi sau ném lựu đạn. Đến 4 giờ 30 sáng ngày 7 tháng , Trung đoàn 174 đã đập tan hoàn toàn sức kháng cự cuối cùng của địch, làm chủ hoàn toàn A1, Trung đoàn dùng hoả lực bắn mạnh sang C2 chi viện cho Trung đoàn 98 đồng thời chuẩn bị đánh A3.

        Cũng trong đêm hôm đó Trung đoàn 98 tiến công C2. Địch đã đưa lên C2 sáu đại đội thuộc Tiểu đoàn dù lê dương số 2 và Tiểu đoàn dù ngụy số 5 quyết giữ C2. Cuộc chiến đấu diễn ra gay go ngay từ phút đầu. Địch dùng pháo và cối 120 bắn chặn dữ dội. Sau mấy đợt xung phong, quân ta chỉ chiếm được hai lô cốt. Ở hướng phối hợp từ C1 qua Yên Ngựa cũng bị hoả lực địch chặn lại. Cánh vu hồi do địa hình trống trải bị hoả lực của địch bắn ngang sườn. Trong khi đó tại hướng chủ yếu, môt tiểu đội do chính trị viên dẫn đầu đã vượt qua lưới lửa của địch lọt vào cứ điểm. Tiểu đội chia làm hai mĩ đánh vào trận địa súng cối, phá tám khẩu, diệt sở  chỉ huy, trong đó có một quan ba. Mặc dù lực lượng ít nhưng các chiến sỹ ta rất dũng cảm, lấy súng địch đánh địch, có lúc nhảy ra khỏi chiến hào chiến đấu đánh ngang sườn địch. Tuy không bắt được liên lạc với tiểu đội này nhưng nghe súng ta nổ, Trung đoàn trưởng Vũ Lăng ra lệnh chi viện, đồng thời tổ chức đưa đội dự bị vào chiến đấu. Đội dự bị bị pháo ngăn chặn không vượt qua được cửa mở. Bộ phận trong cứ điểm bị thương vong gần hết. Lúc này Trung đoàn 174 đã đánh chiếm được A1. Bộ tư lệnh Đại đoàn 316 nhận định: địch trên C2 còn đông và ngoan cố nhưng không thể chống lại được quân ta. Trung đoàn 98 vẫn còn khả năng chiến đấu. Bộ tư lênh đại đoàn đưa tiểu đoàn dự bị của đại đoàn vào chiến đấu; lệnh cho Trung đoàn 174 dùng hoả lực chi viện cho Trung đoàn 98, chuẩn bị tiến công A3 vào phối hợp với Trung đoàn 98 chặn không cho địch tăng viện lên C2. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định cho 200 viên đạn lựu pháo bắn vào C2 chi viện tiểu đoàn dự bị của Đại đoàn 316 hoàn thành nhiệm vụ.

        Bảy giờ 30 phút, pháo vừa ngừng chế áp, quân ta đã nhanh chóng chia làm ba mũi đánh vào C2. Địch đưa tám trung đội ra phản kích bị ta chặn đánh phải rút về Mường Thanh. Chín giời 30 phút quân ta làm chủ C2. sáu đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 và tiểu đoàn dù ngụy số 5 gồm hơn 600 tên bị diệt và bị bắt sống. Trung đoàn 174 cũng đánh chiếm làm chủ A3.

        Toàn bộ dãy điểm cao phía đông tập đoàn cứ điểm đã bị tiêu diệt. Ở phía tây, Trung đoàn Thủ đô Đại đoàn 308 đã tiêu diệt cứ điểm 510. Trận địa tiến công của trung đoàn chỉ còn cách hầm Đờ Cát 300 mét. Điều kiện để chuyển sang tổng công kích đã chín muồi.

        Sáng ngày 7 tháng 5 có những dấu hiệu rất đáng chú ý về địch. Máy bay tiếp tế đạn dược đều quay về Hà Nội không thả dù như mọi hôm. Máy bay thả lương thực, thực phẩm cũng ít hơn. Lác đác có một số cứ điểm có nhiều tiếng nổ: địch đang phá vũ khí. Một số địch vứt súng đạn xuống sông Nậm Rốm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:07:36 pm

        Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho bộ đội sẵn sàng.

        Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 141 lúc này đang ở phía sau chuẩn bị và cho cán bộ tác chiến quân lực, hậu cần xuống các trung đoàn 165 và 209

        Ở hướng Trung đoàn 165 địch dùng bom lửa đánh trúng vị trí 506 nhưng trận địa ta vẫn giữ vững. Hướng Trung đoàn 209 khó khăn. Trời đã sáng nhưng cửa mở đánh vào 507 vẫn chưa mở được. Hoả lực bắn yểm hộ đã bắn đỏ cả nòng. Bộc phá đã đánh hàng chục quả nhưng vẫn còn hàng rào chưa mở. Suốt đêm theo dõi, hướng 209 lúc thì báo cáo còn một hàng rào, lúc khác lại có tin hàng rào còn nguyên. Bộ tư lệnh đại đoàn gần như cả đêm không ngủ. Bốn giờ sáng, anh Quang Trung nói: “Anh ở nhà chuẩn bị cho 141 tham gia tổng công kích. Tôi phải xuống 209 xem sao”. Anh Quang Trung xuống đến nơi thì cả Hoàng Cầm, Trung đoàn trưởng và Thăng Bình trung đoàn phó đều ra 507. Sáng ra mới rõ suốt đêm hôm qua, quân ta đã đánh bộc phá vào hàng rào bùng nhùng. Bộc phá nổ, hàng rào bị hất tung lên rồi lại xẹp xuống. Hoàng Cầm cho điều ĐKZ75 lên tổ chức hoả lực bắn yểm hộ. Thăng Bình cho thu nhặt bao tải và ván đặt lên trên hàng rào bùng nhùng. Trung đội trưởng Trần Can cho anh em dỡ chăn phủ lên trên. Lúc này quân ta chỉ còn cách hầm Đờ Cát 300 mét. Hoả lực địch bắn ra ác liệt. Sau khi được hoả lực yểm hộ, quân ta xung phong. Trần Can dẫn đầu đội hình trung đội vượt qua hàng rào bùng nhùng  nhưng do vận động cao nên một số anh em bị sát thương. Hoàng Cầm lên quan sát thấy có thể ở chỗ khác mà vẫn có thể đánh được vào 507. Hoàng Cầm xin ý kiến anh Quang Trung. Được sự đồng ý của đại đoàn, Trung đoàn 209 đã mở xong cửa mở. Trần Can vọt tiến qua cửa mở nửa chừng thì bị thương. Ba đồng chí sau thì một bị thương, hai hy sinh. Vừa đi xuống thì có lệnh tiểu đoàn: đại đội trưởng, đại đội phó đều bị thương nặng, trung đoàn chỉ định Trần Can lên thay. Địch dùng lựu đạn đánh ra, anh em nhặt ném trả. Cuộc chiến đấu giằng co phía cửa mở diễn ra đến quá trưa.

        Đồng chí Võ Nguyên Giáp gọi điện thoại thẳng cho Hoàng Cầm động viên Trung đoàn 209 cố gắng chấn chỉnh lại lực lượng tiến công bằng được 507. Tôi thống nhất với các anh Quang Trung và Hoàng Cầm đến 14 giờ sẽ cho pháo bắn. Tới 15 giờ, Đại đội 360 do Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật chỉ huy phối hợp cùng sáu chiến sỹ còn lại của Đại đội 366 đột phá thắng lợi và đánh chiếm toàn bộ 507. Thấy cờ trắng lác đác xuất hiện, Hoàng Cầm gọi điện xin cho trung đoàn xuất kích. Tôi hỏi kỹ lại tình hình 507 và các vị trí 508, 509, Hoàng Cầm nhận định địch hoang mang lắm rồi, xin cho cả trung đoàn đánh. Tôi có cân nhắc vì suốt đêm hôm qua (ngày 6 tháng 5) cả Bộ tư lệnh đại đoàn không ngủ vì những báo cáo của 209. Tôi hỏi:

        - Hiện giờ anh ở đâu?

        - Báo cáo, tôi đang ở đồi D.

        - Thăng Bình đâu?

        - Ở dưới 507.

        Vừa lúc đó một cán bộ ghé tai tôi nói nhỏ: “Anh Quang Trung bị bom vùi lúc mười giờ. Anh em đang moi hầm để cứu”.

        Tôi cố nén xúc động dặn Hoàng Cầm:

        - Cẩn thận, trận cuối cùng dễ sượng lắm đấy!

        Hoàng Cầm quả quyết:

        - “Ăn” đấy anh ạ, địa hình ở đây bằng phẳng. Còn quân của nó thì hoang mang lắm rồi, anh cứ cho xuất kích toàn trung đoàn.

        Tôi bảo để báo cáo Đại tướng xin ít pháo cho chắc tay. Một lát sau pháo binh các cỡ của Bộ chỉ huy bắn dồn dập vào khu trung tâm.

        Mười lăm giờ, tôi được Đại tướng Võ Nguyễn Giáp thông báo: “Tất cả các đơn vị đã được lệnh tổng công kích. Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 141 tiến sau đội hình Trung đoàn 209. Lúc này Trung đoàn phó Thăng Bình đã ra lệnh cho Đại đội 306 phát triển sang 508, 509. Tôi ra lệnh cho Hoàng Cầm bám sát địch, thọc thẳng vào Mường Thanh. Đại đội 360 đã như một mũi tên chạy đến cầu sắt bắc qua sông Nậm Rốm. Tiếng hô “bắt sống Đờ Cát” đã cổ vũ anh em xông lên. Khẩu đại liên bốn nòng của địch lồng lộn bắn sang. Đạn cối nổ trên mặt cầu. Tạ Quốc Luật chỉ huy tổ đi đầu ném thủ pháo sang. Vừa lúc đó, một loạt đạn pháo của ta dập trúng trận địa hoả lực địch bên kia cầu. Tổ ba người vọt tiến sang bên kia cầu. Một quả bom địch ném trúng mặt đường. Tổ đi đầu dừng lại trước ngã ba. Vừa lúc đó có tên cai dõng chạy qua. Anh em hỏi hầm Đờ Cát. Tên cai dõng chỉ vào ụ cao to xung quanh có bốn xe tăng bắn ra loạn xạ. Tạ Quốc Luật cho đánh thủ pháo đứt xích một xe tăng. Một chiếc bốc cháy. Hai chiếc còn lại bỏ chạy. Luật ra lệnh đánh hầm. Vinh và Nhỏ phân công nhau: Nhỏ bịt một cửa hầm, Vinh tiến vào cửa hầm chính. Theo một hiệu lệnh chung, Vinh và Nhỏ ném hai quả thủ pháo. Khói vừa tan thì một sỹ quan trong bộ tham mưu của tướng Đờ Cát ra giơ tay xin hàng. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật xuống hầm cùng hai chiến sỹ Vinh và Nhỏ bắt sống toàn bộ bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm, trong đó có thiếu tướng Đờ Cát. Đó là lúc Đờ Cát vừa ra lệnh đầu hàng và qua làn sóng diện từ biệt vợ con. Câu đầu tiên Đờ Cát nói với Tạ Quốc Luật là: “Xin đừng bắn tôi”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 06 Tháng Giêng, 2017, 04:08:26 pm

        Nhận được báo cáo của 209 đã bắt được tướng Đờ Cát lúc 17 giờ 30, tôi ra lệnh giải ngay Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu lên sở chỉ huy đại đoàn. Tôi hỏi Hoàng Cầm:

        - Anh Quang Trung thế nào?

        - Báo cáo, anh em đã bới được rồi. Không việc gì. Anh ấy đã hút thuốc lá.

        Tôi nhẹ người hỏi tiếp:

        - Anh đã trông thấy Đờ Cát chưa

        - Báo cáo thấy rồi.

        - Ăn mặc thế nào?

        - Báo cáo anh, Đờ Cát mặc quần áo vàng nhạt, đội ca lô đỏ, đeo quân hàm cấp tướng.

        - Quân hàm nó thế nào mà biết là nó cấp tướng?

        - Có sao anh ạ!

        - Được rồi, thế ai giải nó đi đấy?

        - Anh Thăng Bình đã đánh xe gíp đi rồi ạ!

        - Xe nào, ai lái?

        - Báo cáo, anh Thăng Bình dùng xe chiến lợi phẩm và bắt một tù binh da đen lái.

        Một lát sau anh em dẫn tướng Đờ Cát vào. Chúng tôi so ảnh. Đúng là Đờ Cát, tuy có xanh và gầy hơn so với lúc còn đeo lon đại tá. Nhìn cái mũ ca lô đỏ tôi lại nhớ tới câu nói của Đờ Cát khi thấy quân ta chưa đánh Điện Biên: “Tôi sẽ đội cái mũ đổ này để Việt Minh dễ nhận rõ mục tiêu!”.

        Tôi gọi điện báo cáo đồng chí Tổng chỉ huy chiến dịch: “Tướng Đờ Cát hiện nay đang ở trước mặt tôi. Đã so ảnh của Bộ chỉ huy chiến dịch gửi xuống. Xác định đúng là thiếu tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu”.

        Lúc này cả không gian Điện Biên Phủ im lặng khác thường. Ngoài trời, một luồng gió mát làm dịu những dây thần kinh căng thẳng. Trời có trăng. Tôi cứ nhìn mãi vầng trăng non thấp thoáng trong đám mây mỏng xốp như bông. Cả thung lũng Điện Biên rực rỡ trong ánh đuốc. Đoàn tù binh đang nối đuôi nhau đi ra khỏi Mường Thanh. Các chiến sỹ ta chốt trên các ngả, súng lắp lưỡi lê, vẫn mũ nan chân đất trong bộ quần áo còn dính bùn đang chỉ đường cho đám tù binh đi ra theo loa phóng thanh.

        Sau chiến thắng, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định duyệt binh vào ngày 13 tháng 5, để phát huy thắng lợi và trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Bác Hồ cho đại đoàn. Thường vụ Đảng uỷ họp triển khai công tác chuẩn bị và quyết định để đồng chí Quang Trung thay mặt đại đoàn nhận cờ.

        Đàm Quang Trung, người chiến sỹ Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân mười năm về trước, mũ nồi chân đất dưới lá cờ đỏ sao vàng bên gốc đa Tân Trào, nay là Đại đoàn phó một đại đoàn đã đánh Him Lam ở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ và kết thúc chiến dịch bằng trận đánh bắt sống tướng Đờ Cát. Hình ảnh Quang Trung được cử để nhận cờ vừa cụ thể lại vừa tượng trưng cho sự lớn mạnh của Quân đội ta.

        Tôi giục Quang Trung cắt tóc, cạo râu và chọn bộ quân phục mới nhất để chuẩn bị đi nhận cờ của Bác.

        Vài ngày sau, chúng tôi xin phép Bộ chỉ huy chiến dịch đi xem cách bố phòng của địch. Chúng tôi mượn một chiếc xe chiến lợi phẩm đi theo những trục đường chính để tránh mìn. Từ Him Lam chúng tôi theo trục đường mà mấy hôm trước đấy địch thường dùng để phản kích, thọc thẳng xuống sở chỉ huy của tướng Đờ Cát.

        Chứng tích của một sức mạnh bị đánh bại lớp lớp, tầng tầng trên toàn bộ lòng chảo Điện Biên. Có những cứ điểm còn nguyên vẹn những bãi mìn, những lớp rào kẽm gai, những lô cốt, hoả điểm bẳn thẳng, bắn chéo, bắn lướt sườn, hầm ngầm, điểm tựa, sở chỉ huy... Có những cứ điểm bị đập nát từng mảng, những đống vỏ đạn dày có ngọn, bông băng, vỏ đồ hộp, vải dù, tăng bạt xen lẫn với những tranh ảnh khoả thân và những cuốn sách “diễm tình”, những cuốn nói về người lính lê dương, kinh Thánh, lịch bỏ túi của tướng Na-va dạy lính sống ở Việt Nam. Những con ruồi đuổi không thèm bay tranh nhau ăn trên đống đồ hộp, những cuộn bông băng lẫn máu và bùn. Một chiếc máy bay Hen-cát cắm đầu xuống một đoạn hào giao thông trục, thân nát vụn. Những chiếc xe tăng đứt xích bị lật nghiêng bên cạnh những khẩu súng máy nát vụn.

        Xe chúng tôi đi qua cầu Nậm Rốm, nơi đã diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và địch trước khi vào hầm tướng Đờ Cát. Bên kia cầu, khẩu đại liên bốn nòng nước thép còn mới bên cạnh đống vỏ đạn vàng choé. Nghe nói trước đấy là nương dâu xanh ngắt chạy dọc theo sông Nậm Rốm. Anh em biết tiếng Thái nói với tôi Nậm là sông, Rốm nghĩa là gỗ lát. Nậm Rốm là con sông có gỗ lát. Từ đầu cầu rẽ sang trái khoảng 150 mét là hầm tướng Đờ Cát. Những cỗ lựu pháo của chúng ta đặt trên đỉnh núi đã bắn rất trúng trận địa pháo của địch. Một chiếc xe Jéep từ hầm Đờ Cát đi ra. Tôi gặp anh Cao Văn Khánh trên xe. Anh Khánh được phân công trao trả thương binh địch tại Điện Biên Phủ. thấp thoáng sau là một phụ nữ dáng người chắc nịch. Cô chào tôi, giọng Huế ngọt ngào. Anh Khánh giới thiệu cô Toản, y sỹ. Tôi có biết tên nhưng nay mới gặp người. Và tôi cũng biết chỉ vài ngày nữa cô gái Huế dịu dàng thuỳ mị này sẽ thành chị Khánh ở ngay trên mảnh đất Điện Biên lịch sử này. Tôi chúc mừng hạnh phúc của hai anh chị.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:13:18 am

        Chúng tôi vào hầm Đờ Cát. Trên nắp hầm là những bao cát. Xung quanh hầm là dãy thùng phuy đổ đầy đất xếp bao cát. Dưới lớp cát dày hơn hai mét là những tấm tôn thép uốn cong rồi đến những tấm vỉ sắt lót sân bay. Dưới cùng là những tấm gỗ thông dày. Hầm có bốn gian dài khoảng chín mét, rộng bốn mét, cao 2,5m mét. Mỗi gian có tường ngăn cách dày một mét. Một hành lang chạy dọc nối các gian hầm. Tường ốp ván gỗ, căng vải dù. Sàng cũng trải vải dù. Những chiếc cột gỗ chắc chắn bằng gỗ lim đã lên nước bóng loáng. Đó là những cột nhà của nhân dân Long Nhai, Cà Mỵ. Phía nam có đường thông sang khu vực tổng đài. Gian nào  cũng có giường gấp, căng vải bạt, ghế gấp, kiểu bàn ghế dã ngoại, lại có cả bồn tắm và máy điều hoà. Thật là môt sở chỉ huy có đầy đủ tiện nghi cho sinh hoạt của con người và đầy đủ phương tiện chỉ huy, vừa hiện đại vừa an toàn. Anh em quân báo của Bộ làm nhiệm vụ thu nhập tài liệu trên bàn Đờ Cát đưa tôi xem một mệnh lệnh của Đờ Cát ký ngày 20 tháng 4 năm 1954: “Sự cần thiết về tiếp tế đạn dược bắt buộc phải rút xuống đến mức tối thiểu yêu cầu về lương thực hàng ngày...”.

        Một cán bộ nói vui:

        - Đờ Cát cũng biết bớt ăn để lấy đạn đánh ta đấy chứ?

        - Chắc chắn là chỉ bớt của lính thôi.

        Tôi đọc tiếp mệnh lệnh của Đờ Cát: “Các ông chỉ huy các cứ điểm chịu trách nhiệm về việc thu hồi dù tiếp tế trong phạm vi của mình. Mỗi cứ điểm phải cử ra một trung đội có một sỹ quan chỉ huy chịu trách nhiệm giữ trật tự về việc thu hồi. Kẻ nào bị bắt quả tang ăn cướp sẽ bị bắn ngay, không cần xét xử. Lệnh này phải được thi hành một cách nghiêm ngặt ngay lập tức”.

        Từ một sở chỉ huy đầy đủ tiện nghi, viên tướng đã ra những mệnh lệnh như thế!

        Tôi bỗng nhớ tới những sở chỉ huy của những tên chỉ huy thấp hơn tướng Đờ Cát. Từ chỗ ăn ở của tên cai bảo an bình đồn Đồng Quan vừa chỉ huy vừa đánh tổ tôm đến trại lính khố xanh của quản Dưỡng ở thị xã Hà Đông, hầm của tên chỉ huy Đông Khê, vị trí chỉ huy của tướng Gin chỉ huy tập đoàn cứ điểm Nà Sản cho đến sở chỉ huy tướng Đờ Cát ở tập đoàn cứ điểm này có biết bao thay đổi.

        Hôm nay, đứng trước hầm Đờ Cát, tôi nghĩ về một chặng đường đã đi qua, điểm lại những đối tượng tác chiến chúng tôi đã gặp, tôi thấy không phải ngay từ đầu tôi đã hiểu chúng như hôm nay tôi đã hiểu chúng, khi đứng trong sào huyệt của viên tướng giặc. Trong những ngày đầu tôi chỉ biết đây là bọn xâm lược dù nó có tàu bay, xe tăng, nhưng không đánh chúng thì mãi mãi đất nước này sẽ là thuộc địa, mãi mãi nhân dân còn là bọn “An-na-mít”.

        Ở Sơn La năm 1945, tôi đã dùng chiến thuật trận địa rải mành mành chống lại lối đánh vu hồi của bọn A-lếch-xăng-đri. Từ những đồn binh kiểu đồn cai trị ở Tuần Giáo năm 1945 cho tới nay (1954), kẻ thù đã có biết bao thay đổi. Từ đồn cai trị đến tháp canh, cứ điểm trung đội, đại đội, cụm cứ điểm, hệ thống boong-ke, tập đoàn cứ điểm ở trình độ thấp như Hoà Bình, tập đoàn cứ điểm hoàn chỉnh ở Nà Sản, Sầm Nưa cho đến tập đoàn cứ điểm hiện đại như Điện Biên Phủ; cứ mỗi bước trưởng thành của Quân độ ta, kẻ thù lại có cách đối phó mới. Chúng ta chưa dự kiến hết mọi thủ đoạn của kẻ thù, cũng như chính chúng cũng chưa tính toán hết ngay từ đầu sức mạnh của chúng ta.

        Kẻ thù thua chúng ta không phải vì chúng không mạnh về trang bị và kỹ thuật. Nước Pháp bị kiệt quệ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã được Mỹ giúp sức trong tất cả các trận đánh, các chiến dịch chúng đều mạnh hơn ta về trang bị. Nếu mang số tấn sắt thép chúng đã dùng so với số đạn tính từng viên của chúng ta đã dùng ra so sánh thì có thể hiểu với những người quen tính toán chiến tranh chỉ bằng con số. Nhưng trong chiến tranh vấn đề thắng bại đâu có phải là ai bắn nhiều hơn ai mà là ai nghĩ nhiều hơn ai.

        Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chúng ta đã hiểu rõ kẻ thù đung như nó có. Chúng ta phân tích kẻ thù một cách toàn diện về chính trị, kinh tế - xã hội cho đến từng chủ trương chiến lược của từng tên tướng trong mỗi giai đoạn chiến lược. Và trong từng chiến dịch tiến công lại biết khoét sâu những nhược điểm cơ bản của chúng, vừa dám đánh ở những nơi chúng cho là ta không thể đánh được, vừa hình thành ưu thế đánh vào những nơi mà chúng cho là đã mạnh. Như kim chỉ nam cho người đi đường, những quan điểm của Đảng đã chỉ ra cho chúng tôi phương hướng hành động về xây dựng đơn vị và tác chiến.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:14:19 am

        Qua việc nghiên cứu tổng kết, chúng ta đã nâng những kinh nghiệm lên thành những vấn đề nguyên tắc có ý nghĩa khái quát để phổ biến kịp thời. Với phương pháp phê bình và tự phê bình, không thoái chí trước những thất bại tạm thời, không say sưa với thắng lợi đạt được, nghệ thuật chiến dịch, những vấn đề về chiến thuật của chúng ta đã không ngừng phát triển theo tháng năm và qua từng trận đánh.

        Những nguyên tắc về xây dựng đội quân kiểu mới – Quân đội nhân dân - đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà hy sinh chiến đấu dần dần hình thành. Trong việc tổ chức và sử dụng lực lượng, chúng ta căn cứ vào nội dung nhiệm vụ trước mắt và xu hướng phát triển trong tương lai để xây dựng lực lượng. Trong những ngày đầu chiến tranh khi nhân dân chưa được  vũ trang, chính quyền còn non trẻ, chúng ta đã dùng hình thức đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung để tổ chức dân quân du kích. Dám phân tán những trung đoàn tập trung để phát động nhân dân tham gia chiến tranh, mới thoạt nhìn có vẻ như một bước lùi về hình thức tổ chức. Nhưng nếu không có sự mềm dẻo về tổ chức đó, chắc rằng khó có thể có phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích phát triển cả chiều rộng và chiều sâu trong những năm tháng sau đó. Khi chiến tranh nhân dân đã phát triển chúng ta lại kiên quyết tập trung các đại đội độc lập, các tiểu đoàn tập trung, dồn mọi cố gắng về cán bộ và trang bị để thành lập các trung đoàn chủ lực thuộc Bộ rồi chỉ trong một thời gian ngắn, các đại đoàn bộ binh ra đời. Sử dụng tập trung những đại đoàn mạnh đánh vào nơi mà sức mạnh của địch bị hạn chế, ta có điều kiện hình thành ưu thế trong cả quá trình chiến dịch, chúng ta đã tạo nên sức mạnh đánh thắng kẻ thù có trang bị mạnh hơn ta.

        Từ căn hầm Đờ Cát, xe chúng tôi đi xuống Hồng Cúm. Không gian ì ầm tiếng động cơ. Nhưng không ai nhìn lên trời vì chúng tôi biết hôm nay là ngày ta cho phép bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đến lấy thương binh. Và cũng vào những ngày này, trên mặt trận ngoại giao, phái đoàn Chính phủ ta họp phiên đầu tiên với phái đoàn chính phủ Pháp. Chợt ai đó reo lên: “Vẫn còn một cây xanh, đẹp quá!”.

        Đúng là môt cây cổ thụ lá xanh mơn mởn sau những cơn mưa đầu mùa hạ. Màu xanh duy nhất giữa bãi sắt thép đổ nát ngổn ngang. Dưới gốc cây là một đền thờ. Hỏi ra mới biết đây là đền thờ ông Hoàng Công Chất, vị chỉ huy nghĩa quân chống Pháp, người anh hùng thành Bản Phủ. Thành cao hào sâu của người anh hùng, những bụi tre gai còn đó... Nhân dân các dân tộc Điện Biên qua các thế hệ mãi mãi tôn thờ người anh hùng đã từ bỏ chức quan để cùng nhân dân chống Pháp cứu nước. Lúc ấy, trong chúng tôi chưa ai biết rõ công tích của Hoàng Công Chất nhưng cứ nhìn những bộ đồ thờ được lau chùi sáng bóng, nhìn những nén hương đang nghi ngút cháy, chúng tôi hiểu rằng sức mạnh chúng tôi có được hôm nay là bắt nguồn từ truyền thống đánh giặc bất khuất của cha ông thưở trước. Không phải ai khác mà chính là nhân dân, nhân dân cùng với lãnh tụ của mình đời đời kế tiếp nhau xây dựng nên truyền thống quý báu ấy - truyền thống Việt Nam - sức mạnh Việt Nam - Sức mạnh làm nên một Điện Biên Phủ lịch sử vĩ đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác – Lênin chân chính, truyền thống đó đã được phát huy được không ngừng nhân lên. Bất giác tôi nghĩ đến ý tứ của các cụ ta ngày trước đã đặt tên Mường Thanh là Điện Biên. Điện nghĩa là vững. Điện Biên là một phủ vững vàng ở biên giới phía tây Tổ quốc.

        Đã qua rồi hàng trăm năm với những bước thăng trầm. Cho đến hôm nay chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh điều đó....”

        Trích: Đại tướng Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên (Đại tá Đỗ Thân thể hiện), Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội – 2002, tr. 289 - đến 353.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:25:48 am
       
10. THƯỢNG TƯỚNG SONG HÀO (NGUYỄN VĂN KHƯƠNG)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/Song%20Hao%202_zpslcriwvzk.jpg)



        Thượng tướng Song Hào sinh năm 1917, quê ở xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Tham gia cách mạng từ phong trào Mặt trận dân chủ (1936) và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1939), đồng chí đã bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Sơn La. Sau khi cùng các đồng chí trong chi bộ nhà tù tổ chức vượt ngục trở về, đồng chí được giao làm chính trị viên Đội Cứu quốc quân, rồi làm bí thư kiêm chỉ huy trưởng Khu căn cứ Nguyễn Huệ; tham gia tổ chức mở rộng lực lượng Cứu quốc quân, tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào. Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám diễn ra, đồng chí được giao phụ trách lực lượng vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền ở hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang; là xứ uỷ viên phụ trách liên tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên.

        Tham gia kháng chiến chống Pháp, đồng chí Song Hào được giao đảm nhiệm Chính uỷ Khu 10 – Khu Tây Bắc; Bí thư Ban cán sự bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Thượng Lào; là Chính uỷ chiến dịch Lê Hồng Phong 1 (7/2 – 15/3/1950).

        Từ năm 1951 đến 1954, đồng chí là Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Đại đoàn 308.

        Đồng chí đã cùng cán bộ, chiến sỹ Đại đoàn Quân tiên phong chiến đấu trên những nẻo đường chiến dịch, chia sẻ cùng họ những gian khổ, ngọt bùi và để rồi đến năm 1954 tiến về tiếp quản Thủ đô Hà Nội giải phóng. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đồng chí Song Hào là Uỷ viên Ban liên hợp đình chiến thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Việt Nam.

        Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Song Hào được giao đảm nhận chức vụ Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Uỷ viên Tổng Quân uỷ, Uỷ viên Ban Kiểm tra Trung ương, Phó bí thư kiêm Trưởng ban Kiểm tra của Quân uỷ Trung ương (1955-1960).

        Tiếp đó, từ năm 1961 đến 1976 đồng chí được giao Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chính uỷ chiến dịch Quảng Trị (1972-1973).

        Năm 1976 – 1982 là Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương Đảng; 1982 – 1986 là Bộ trưởng Bộ Thương binh – xã hội. Đồng chí là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III, IV; Bí thư Trung ương Đảng (1976 – 1982). Đại biểu Quốc hội khoá IV, V.

        Với những đóng góp và thành tích xuất sắc trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Thượng tướng Song Hào đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng ba), Huân chương Chiến thắng hạng nhất...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:27:13 am

CHIẾN ĐẤU GIẢI PHÓNG TÂY BẮC

        “... Sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, căn cứ vào tình hình mới, Bộ Tổng tư lệnh quyết định sát nhập hai chiến khu 14 và 10 làm một, gọi là Liên khu 10. Đồng chí Bằng Giang làm tư lệnh trưởng liên khu, đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh phó và tôi làm Chính uỷ.

        Liên khu 10! Một vùng mênh mông chiếm một phần không nhỏ của Bắc Bộ. Nhìn vào tấm bản đồ chỉ thấy hầu hết một màu xanh cùng với những đường biên độ dày đặc ghi lại những dải núi non trùng trùng điệp điệp.

        Liên khu 10 có hàng mấy chục dân tộc khác nhau, kinh tế thì nghèo nàn, lạc hậu, đường sá giao thông rất ít ỏi và vô cùng khó khăn, hiểm trở.

        Liên khu 10 bị địch chiếm phần lớn đất đai. Từ biên giới Việt – Lào qua sông Đà tới tận bờ sông Hồng, tất cả đều nằm dưới gót sắt của giặc. Hơn thế nữa, một vùng rộng lớn phía Lào Cai, Hoàn Su Phì đổ xuống tới Phố Ràng, sông Chảy cũng đã bị địch chiếm. Dưới phía nam, mấy huyện tây nam Phú Thọ và Mai Đà (Hoà Bình) cũng đã mất, đất tự do của liên khu chỉ còn khoanh lại mấy huyện phía trên của Phú Thọ, hai huyện của Yên Bái, mấy huyện của Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang. Gần như không còn một tỉnh nào nguyên vẹn. Đứng về mặt quân sự, tất cả những vùng chiến lược của liên khu đều đã rơi vào tay quân thù. Các cửa ngõ của liên khu đi Khu 3, Khu 4 ... đều đã bị bịt chặt.

        Trong vùng tạm chiếm, các thổ ti, lang đạo lại leo lên những chiếc ghế vương hầu tột đỉnh của chúng ngày trước, thả sức ra oai tác quái. Mọi luật lệ hà khắc, lệ tục khi xưa lại được chúng phục hồi đầy đủ.

        Về phía bọn Pháp, chúng không mở những cuộc hành binh lớn mà quay ra bình định vì miếng mồi đã quá to, nuốt chưa trôi, chưa thể ngoạm thêm những miếng khác! Chính sách càn quét nhỏ để bình định của chúng đã kết hợp chặt chẽ. Thủ đoạn chính trị nham hiểm như lập ngụy quân, ngụy quyền, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt và chiến thuật “vết dầu loang” cũng bắt đầu ra đời từ lúc này với những hệ thống cứ điểm nhỏ và những cuộc hành quân càn quét liên tục.

        Có thể nói Liên khu 10 là một trong những vùng điển hình trong những khu vực mà quân Pháp đã triệt để áp dụng chiến thuật “cứ điểm nhỏ, vết dầu loang”. Các cuộc hành binh của chúng thường xuyên diễn ra, dùng chủ lực càn quét xong, rút đi, lực lượng chiếm đóng đến thay thế, lập đồn, sau đó tiến tới lập tề và cứ thế các “vết dầu” tiếp tục loang ra mãi.

        A-lếch-xăng-đơ-ri là một con cáo già thực dân rất quỷ quyết. Ngay từ năm 1946 đánh chiếm lại Lai Châu chúng đã chuẩn bị việc thành lập các thứ “xứ tự trị”. Cho tới khi Tây Bắc bị chiếm gần hết thì chúng cũng bắt đầu tuyên bố thành lập “nước Thái”, “nước Nùng”, “nước Mường tự do”. Trong liên khu đã đủ ba thứ “nước” của chúng! Đi đôi với việc lập các “nước”, chúng còn dùng thủ đoạn lưu manh hoá một số người trong nhân dân còn quá chất phác, nông cạn, lạc hậu bằng đủ thứ như rượu, thuốc phiện, gái, trộm cắp, thổ phỉ... Và hiểm độc hơn, chúng tìm mọi cách để chia rẽ các dân tộc. Các khẩu hiệu dã man được chúng nêu lên để xúi giục nhân dân như “Giết Kinh lấy muối, giết Thổ lấy ruộng, giết Mán lấy bạc, giết Mèo lấy thuốc phiện”. Sự chia rẽ, hằn thù dân tộc trước đây do bọn chúng gây nên nay càng được khơi sâu. Ngay sau khi quân ta rút về tả ngạn sông Hồng, quân Pháp kéo tới chưa bao lâu, các cuộc chém giết hết sức thương tâm giữa các dân tộc đã xảy ra gần như liên tục ở khắp nơi.

        Trong khi đó bọn Pháp vẫn ra sức truy lùng cán bộ ta, treo giải thưởng rất lớn bằng bạc trắng, thuốc phiện, muối, vải cho những ai cắt được đầu, xẻo được tai cán bộ.

        Mặt khác, giặc Pháp ra lệnh triệt để bắt lính. Các đạo quân ngụy Thái, Nùng... lần lượt được lập ra để càn quét các nơi hoặc tham gia chiếm đóng trên các cứ điểm nhỏ.

        Có thêm ngụy quân, bọn Pháp đã thành lập và củng cố được một phòng tuyến dài trên ba trăm cây số suốt từ Hoàng Su Phì cho tới tận bờ sông Đà, hình thành một lưỡi liềm khổng lồ cắm ngập vào mạng sườn của căn cứ địa Việt Bắc.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:29:12 am

        Sau khi dự lễ mừng chiến thắng sông Lô ở thị xã Tuyên Quang, tôi cùng đồng chí Trần Tử Bình – phái viên kiểm tra của Bộ đi xuống thăm một số đơn vị từ mặt trận phía tây rút về. Chúng tôi muốn có dịp được trực tiếp tìm hiểu sâu hơn nữa tất cả những nguyên nhân đã dẫn anh em đến không giữ vững được mặt trận, đồng thời tìm hiểu thêm về tình hình tư tưởng, tổ chức, trang bị của các đơn vị hiện nay ra sao, cần được giúp đỡ những gì?

        Chuyến đi này đã để lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm khá sâu sắc. Trước khi tới các đơn vị đóng dọc theo bờ sông Hồng, chúng tôi đã được thấy nhiều điều mới mẻ, phong phú trong đời sống hàng ngày của nhân dân vùng tự do trong những ngày đầu kháng chiến. Chính những điều mắt thấy tai nghe đã trở thành những thu hoạch bổ ích cho chúng tôi trong chuyến đi dài ngày này.

        Một số cán bộ tham mưu, chính trị cũng đi với chúng tôi. Qua các làng xóm trù phú của những huyện Phù Ninh, Thanh Ba, qua những thị trấn Thanh Cù, Vũ Ẻn, Ấm Thượng, chúng tôi dần dần ngược Yên Bái. Vết tích của những trận bom đạn tàn phá trong chiến dịch vừa rồi vẫn còn hai bên đường, nhưng trên mặt đất còn nóng hổi tro than ấy, cuộc sống của nhân dân ta đã được phục hồi mau chóng và tươi trẻ lạ kỳ. Bên cạnh những nền nhà còn đen nhẻm, bề bộn kèo cột cháy nham nhở đã mọc lên những căn nhà mới, vách đất còn ướt, mái còn xanh màu nứa. Bên cạnh những hố bom đã mọc lên những xóm đông vui, những dãy phố “nấm” nhộn nhịp. Trên các thửa ruộng bên đường, bà con đang vực từng con nghé để thay thế cho những con trâu mẹ mới bị giặc bắn chết hôm qua. Có đôi nơi thiếu cả nghé, từng tốp hai, ba người kéo cày để bảo đảm thời vụ. Trên gương mặt họ, ánh lên những niềm tự hào và tin tưởng. Đằng sau những rặng cây, trong những mảnh rừng thưa... tiếng trẻ học bài bi bô vọng ra. Trên con đường Chè, những chiếc xe đạp “tay ngai” lại tấp nập ngược xuôi cả đêm lẫn ngày.

        Ở các thị trấn “nấm”, cuộc sống cũng không kém sôi nổi. Những thị trấn ấy trước kia rất nhỏ bé, lèo tèo dăm ba cửa hàng, vài cơ sở sản xuất thủ công, nhưng từ khi có đồng bào dưới xuôi tản cư lên lập tức trở nên phồn thịnh rất mau chóng. Phố xá cứ phình ra, kéo dài thêm mãi. Có những nơi trước đây chỉ là một ngã ba, một đoạn đường vắng vẻ nay đã có cả một thị trấn sầm uất. Bom đạn giặc cháy hôm nay, mai lại mọc lên dãy phố khác. Bom đạn giặc đốt trụi, phá sạch ở chỗ này, mai cái thị trấn ấy lại tái sinh ở một đoạn đường khác. Ở một mức độ nào đó, các thị trấn “nấm” (hoặc còn gọi là “thành phố nứa”) cũng trở thành lưu động trong kháng chiến.

        Một số không ít những thị trấn ấy đã bị bắn cháy trong thu đông vừa qua nay cũng được dựng lại mới tinh bằng tre nứa cà có phần đông đúc hơn xưa. Đây là một xưởng giấy đang sản xuất. Tiếng máy quay tay chuyển động rình rình. Giấy phơi trắng lốp trên các giàn cao, tràn cả ra dọc hai bên đường. Kia là một cơ sở dệt vải tấm với những cô gái duyên dáng ngồi trên khung cửi đưa thoi thoăn thoắt. Rồi những cơ sở làm nón, làm bột sắn, làm sơn, làm chè, nhuộm vải... Khẩu hiệu “Tự túc tự cấp để trường kỳ kháng chiến”, dán trang trọng khắp mọi nhà, cùng với khẩu hiệu bình dân học vụ, thi đua sản xuất, tòng quân giết giặc... Không còn nghi ngờ gì nữa, đường lối trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh của Đảng ta đã thấm sâu vào quần chúng, biến thành hiện thực.

        Từ Ấm Thượng, chúng tôi bắt đầu ra bờ sông Hồng, đi dọc theo đường xe lửa. Gọi là đường xe lửa, nhưng tất cả các đường ray đề đã bị bóc đi hết để đưa vào các công binh xưởng của quân khu đúc súng đạn, hoặc đem cắm trên các đường giao thông lớn làm chướng ngại vật chống cơ giới địch. Nền đường chỉ còn toàn đã củ đậu. Mới bỏ hoang có ít lâu mà lau lách hai bên đã mọc rậm rạp như rừng. Có những đoạn lau ngả ra, giao nhau che kín cả mặt đường.

        Từ đây trở đi, ở bên kia sông bắt đầu có địch. Các đồng chí quân báo cho biết bọn chúng vẫn thường đi tuần và bắn sang bên này. Từ Yên Bái ngược lên bắt đầu có những cứ điểm nhỏ dọc theo bờ sông. Đó là phòng tuyến sông Thao của địch.

        Đoàn chúng tôi nghỉ lại một đêm ở thị xã Yên Bái đã hoàn toàn tiêu thổ. Bấy giờ vào khoảng tháng ba. Đêm nằm, trong dạ ngổn ngang trăm mối, không sao ngủ được. Bỗng thoảng đâu đó có mùi hoa bưởi. Tưởng như có người, nhưng nhìn ra, bốn bề rất vắng lặng. Nhân dân đã đi hết. Tất cả chỉ còn lại những đống gạch vỡ. Mùi hoa bưởi bỗng nhiên như nhắc cho chúng tôi rằng vẫn còn những mạch sống âm ỉ dưới mảnh đất này, không bao giờ tắt được, chỉ cần làm sao biết khơi động cái mạch sống ấy lên thôi.

        Từ Yên Bái trở đi, đoàn chúng tôi phải đi thận trọng hơn, nhưng vẫn đi theo đường xe lửa, bám bờ sông. Chúng tôi vẫn muốn đi theo con đường này vì mau tới các đơn vị hơn và được tận mắt quan sát quang cảnh vùng tạm chiếm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:31:42 am

        Qua những quãng lau thưa, chúng tôi nhìn sang bên kia sông khá rõ. Không phải do đã có một ấn tượng trong tình cảm, ý nghĩ nên nhìn cái gì cũng hoá ra ảm đạm, mà quả thật quang cảnh bên đất địch sao mà vắng lặng, âm thầm đến vậy? Lau sậy xác xơ, tiêu điều, ruộng bỏ hoang, cỏ mọc đầy. Quạ bay từng đàn trên những xóm làng đã bị đốt phá nham nhở. Không còn một bóng người, không một tiếng chó sủa.

        Một buổi sáng chúng tôi đang đi, chợt nghe thấy tiếng trung liên nổ vang ở bên kia sông, rồi lau sậy trên đầu chúng tôi đổ rạp. Mọi người vội nằm xuống. Khẩu trung liên bên kia sông tiếp tục bắn sang. Sau đó, qua những lùm cây, chúng tôi nhìn thấy lố nhố bóng áo vàng. Ước khoảng một tiểu đội địch đang đi tuần. Đồng chí liên lạc của tỉnh đội Yên Bái dẫn đường chúng tôi là một thanh nhiên địa phương mới vào bộ đội. Thấy súng nổ, đồng chí này lo lắng hỏi chúng tôi: “Báo cáo! Bây giờ đi đâu?”. Đồng chí Trần Tử Bình bật cười, đáp: “Cậu muốn đưa chúng tôi đi đâu thì đi!”. Một lúc sau, có lẽ không thấy động tĩnh gì nữa, bọn địch bỏ đi. Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình. Đồng chí liên lạc vẫn chưa hết lo lắng, đề nghị chúng tôi đi vòng theo đường núi. Nhưng chúng tôi động viên và nói rằng chúng tôi vẫn cứ muốn đi theo đường bờ sông, có điều là mỗi khi tới chỗ quang quá thì đồng chí liên lạc nên đưa chúng tôi đi lánh vào bên trong chút ít cho kín đáo hơn...

        Chiều hôm ấy chúng tôi tới đơn vị đầu tiên từ Nghĩa Lộ rút ra. Anh em đang bố trí trận địa ở bên bờ sông. Công sự ngổn ngang. Lều lán mọc khắp trong rừng. Thấy đoàn chúng tôi đến, các đồng chí cán bộ chỉ huy đều ra đón. Các chiến sỹ cũng vui vẻ chào hỏi chúng tôi như những người anh em xa lâu ngày mới gặp nhau. Trước khi nghe các đồng chí chỉ huy báo cáo tình hình chúng tôi đề nghị cho đi thăm nơi ăn, chốn ở, trận địa các đại đội. Chúng tôi tới một đại đội vào đúng bữa ăn. Nhìn vào rá cơm chỉ thấy phần lớn là sắn độn. Bát to không có, canh đựng vào máng tre. Bát nhỏ cũng không, anh em dùng các vỏ hộp, hoặc những khoanh tre bương, gáo dừa để thay thế. Thức ăn, ngoài món canh cà chua nấu với chút mỡ, chỉ còn một món muối rang, giã nhỏ với giềng. Tuy vậy anh em ngồi ăn rất vui vẻ. Thiếu thốn và gian khổ đã không làm giảm được lòng lạc quan cách mạng của các chiến sỹ. Có những anh với biệt hiệu “thầy cù”, thỉnh thoảng lại chêm dăm ba câu pha trò làm tất cả đơn vị cười ồ lên náo nhiệt.

        Chúng tôi nhìn vào quần áo, không thấy một chiếc sơ mi, một cái quần nào còn lành lặn. Nhiều chiến sỹ có lẽ mới vào bộ đội chưa được phát quân trang, còn mặc nguyên cả những bộ quần áo nâu, áo chàm ở nhà. Nhưng tất cả cũng đã cũ và bạc. Hầu hết anh em đều đi đất. Những bàn chân vì đi và leo núi nhiều nên đã to bè ra, gót nứt nẻ. chúng tôi xem đến vũ khí, toàn là kiểu cũ thu được của Pháp, Nhật, phần lớn không còn tốt. Tuy nhiên, có một điều rất đáng chú ý là tất cả đều được lau chùi rất cẩn thận. Hình như mọi việc chăm lo tới quần áo, thậm chí tới tới cả râu, tóc của mình để dồn thời gian vào việc chăm lo cho những khẩu súng, thanh mã tấu yêu quý ấy. Không cần có môt lời giải thích, bình luận, chúng tôi cũng hiểu được ngay: tinh thần, ý chí diệt thù của chiến sỹ ở đây vẫn nồng cháy và vững vàng tới mức nào! Và chính điều ấy đã làm chúng tôi suy nghĩ mãi, làm gì để có thể đánh giá tình hình cho đúng và tìm cho ra những vấn đề mấu chốt nhất trong công tác lãnh đạo.

        Nếu như các chiến sỹ đã gây cho chúng tôi cảm tưởng phấn chấn thì phần lớn cán bộ ở đây đã làm chúng tôi lo lắng. Các đồng chí chỉ huy đơn vị đã báo cáo với chúng tôi khá tỉ mỉ về tất cả quá trình chiến đấu vừa qua và hiện tình của đơn vị. Các đồng chí cũng đã tổng hợp, phân tích nêu bật được nhiều vấn đề quan trọng. Tuy nhiên qua ý kiến của các đồng chí ấy, chúng tôi thấy rõ một tư tưởng sai lầm nghiêm trọng mà quân khu đã nhận thấy ngay từ khi các đơn vị này rút lui trong chiến dịch thu đông vừa qua.

        Nhiều đồng chí đã tỏ ra thiếu tin tưởng ở nhân dân, cho rằng dân Tây Bắc đã theo địch hết. Anh em đã kể cho chúng tôi nghe khá nhiều chuyện về những người dân “đã theo địch” ấy, nào là nộp gà, nộp gạo cho Tây, nào là dẫn đường chỉ điểm, nào là đi phu, đi lính... Tóm lại, các đồng chí đó chỉ nhìn thấy những hiện tượng khiếp nhược, lạc hậu, mà không nhìn thấy những điều cơ bản khác như lòng căm thù giặc và tinh thần cách mạng của nhân dân Tây Bắc.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:34:11 am

        Rời các đơn vị đóng ở đây, đoàn chúng tôi tiếp tục ngược sông Thao, đi gặp những đơn vị khác đóng ở phía trên. Tới đâu chúng tôi cũng thấy một vấn để trầm trọng là tư tưởng thiếu tin tưởng ở nhân dân và ngại quay trở vào Tây Bắc. Nhiều đồng chí chỉ muốn lập một phòng tuyến “quyết tử” bên này sông để ngăn chặn địch.

        Khi câu hỏi “vậy để Tây Bắc vĩnh viễn mất vào tay địch hay sao?” được đặt ra, nhiều đồng chí cán bộ im lặng. Sau đó có đồng chí thở dài, đáp:

        - Nếu muốn trở lại Tây Bắc ta phải có dăm trung đoàn mạnh! Cứ như hiện nay, vào bao nhiêu chỉ “nướng” bấy nhiêu!

        Câu nói thật đau lòng! Tây Bắc đối với các đồng chí ấy đã trở thành một cái gì quá ghê gớm? Các đồng chí ấy đã sợ địch, sợ đèo cao, suối thẳm, thậm chí sợ cả từng người dân.

        Nhưng dù sao việc phát hiện ra vấn đề lớn ấy, đoàn chúng tôi vẫn cứ mừng. Chính những điều tìm hiểu trong chuyến đi này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong việc chỉ đạo những hoạt động võ trang tuyên truyền, hoạt động của đại đội độc lập sau này. Ngay trên đường về, đoàn chúng tôi đã khẳng định: nếu không giải quyết tốt những tư tưởng nói trên, sẽ không còn mong gì quay trở lại giải phóng Tây Bắc nữa.

        Những nghị quyết của hội nghị Trung ương Đảng hồi tháng 1 năm 1948 đã nhận định về tình hình cục diện chiến tranh trong nước đã chỉ rõ: từ sau chiến dịch Thu Đông 1947, cuộc kháng chiến của ta đã chuyển sang giai đoạn mới. Quân thù đã buộc phải thay đổi chiến lược, chiến thuật. Do đó Trung ương Đảng ta đã đề ra phương châm chiến lược mới để phá tan âm mưu địch, đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến tới Chủ trương phân tán chủ lực, thành lập các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, và đẩy mạnh hoạt động võ trang tuyên truyền đã được ra đời từ lúc này. Đây là một chủ trương vô cùng sáng tạo, tài tình. Trung ương đã chỉ thị rất rõ ràng. Với các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, tiểu tổ bí mật (ở đô thị) chúng ta sẽ đi sâu vào lòng địch, xây dựng cơ sở mới, phục hồi những cơ sở đã tan rã, xây dựng các căn cứ du kích trong lòng địch, tạo điều kiện đẩy du kích chiến tranh phát triển, dần dần biến hậu phương địch thành tiền phương  ta, tạo nên thế xen kẽ cài răng lược; thực hiện cho được phương châm: Hình thức tác chiến du kích và tác chiến vận động sẽ hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, làm cho mối quan hệ giữa đánh tiêu hao và đánh tiêu diệt phát triển nhịp nhàng, đúng hướng.

        Đường lối, phương châm ấy đã hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của giai đoạn mới quy luật phát triển của chiến tranh, phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến, do đó có thể khai thác được mọi nguồn dự trữ trong nhân dân, huy động được tinh thần của quảng đại quần chúng đấu tranh với địch, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân toàn diện.

        Liên khu uỷ, Quân khu uỷ và Bộ tư lệnh Liên khu 10 đã tập trung gần như toàn bộ sức lực vào việc tổ chức các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung. Những kinh nghiệm xây dựng, tổ chức các đội võ trang tuyên truyền hồi tiền khởi nghĩa đến lúc này lại được áp dụng rất tổ, rất có hiệu lực. Toàn liên khu đã tổ chức bốn đội võ trang tuyên truyền chủ yếu: đội xung phong Quyết Thắng, đội xung phong Quyết Tiến, đội xung phong Trung Dũng và đội xung phong Tây Bắc, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của quân khu. Các trung đoàn chủ lực đều phân tán hai phần ba lực lượng để tổ chức thành các đại đội độc lập.

        Bộ Tổng tư lệnh rất quan tâm tới chiến trường Tây Bắc, một chiến trường có vị trí chiến lược trọng yếu. Do đó, Bộ cũng rất quan tâm tới việc giúp đỡ chúng tôi trong việc xây dựng, chỉ đạo các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập. Riêng Bác Hồ cũng rất lưu tâm tới những hoạt động võ trang tuyên truyền. Bác đã vạch ra cho các đội của Liên khu 10 một cái đích: Điện Biên Phủ! Bác chỉ thị cho các đội phải làm sao xây dựng, phát triển cơ sở quần chúng, cắm bằng được lá cờ đỏ sao vàng trên đất Điện Biên Phủ! Điện Biên Phủ! Ngay từ ngày ấy, Bác đã nhìn tới vị trí chiến lược quan trọng đó.

        Trong quá trình thành lập các đội võ trang tuyên truyền, không phải chúng tôi không gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng chủ yếu vẫn là tư tưởng sai lầm không tin vào dân, ngại núi rừng Tây Bắc.

        Các đồng chí Trần Tử Bình, Bằng Giang và tôi đã tới trung đoàn Yên Bái để giúp đỡ giải quyết những tư tưởng nói trên. Bằng tất cả những dẫn chứng cụ thể trong lịch sử đấu tranh cách mạng từ trước tới nay, bằng những luận cứ cơ bản của cách mạng chúng tôi dần dần đã giúp cho các đồng chí cán bộ trong đơn vị nhận ra được vấn đề và tin rằng nhân dân Tây Bắc vẫn căm thù giặc, vẫn hướng theo cách mạng. Mặt khác, quân địch ở Tây Bắc chỉ cứng ở vỏ ngoài, còn bên trong thì sơ hở, mỏng yếu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:35:22 am

        Không những ở Đảng bộ trung đoàn Yên Bái phải tiến hành gian khổ những cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ, mà ở các đơn vị khác cũng thế. Khi những cuộc đấu tranh tư tưởng ấy đã thắng lợi. Liên khu uỷ, Quân khu uỷ nhận định rằng: đây là một bước tiến, một thắng lợi đầu tiên nhưng hết sức quan trọng để mở đầu cho một giai đoạn mới trong liên khu...

        Tôi đã đến dự lễ lên đường của đội xung phong Quyết Tiến, một đội mới được tổ chức ra có nhiệm vụ tiến theo đường Nghĩa Lô – Tham Uyên - Quỳnh Nhai, qua Tuần Giáo để tiến vào Điện Biên Phủ. Đội do đồng chí Luân, Thường vụ Tỉnh uỷ Yên Bái làm đội trưởng, đồng chí Hồng Quân làm chính trị viên. Hồng Quân là người phụ trách đội tự vệ thanh niên thành Tuyên hồi khởi nghĩa, Hồng Quân đã được Đảng dìu dắt, tiến bộ rất nhanh. Năm 1947, đồng chí đã làm Bí thư Tỉnh uỷ Hà Giang. Nay cần có cán bộ gan dạ và có năng lực đi xây dựng các đội vũ trang tuyên truyền, Liên khu uỷ chủ trương rút Hồng Quân về hoạt động. Đồng chí Châu Thành, trưởng ban huấn luyện của Khu 10 cũ được phân công làm đội phó.

        Buổi lễ lên đường của đội xung phong Quyết tiến được tổ chức ở một làng cách thị xã Yên Bái không xa, dưới một gốc đa cổ thụ. Khung cảnh ấy làm cho tôi liên tưởng tới Tân Trào, với những đội võ trang tuyên truyền đầu tiên và những Đội Việt Nam Giải phóng quân hồi Tổng khởi nghĩa. Đường cách mạng quả là quanh co khúc khuỷu. Khởi nghĩa đã thành công, quân đội đã được xây dựng, trưởng thành lên một bước mới, nhưng mấy ai đã nghĩ rằng sẽ có ngày những đơn vị ấy lại tách ra để thành lập lại những đơn vị nhỏ, những đội võ trang tuyên truyền. Con đường cách mạng quả là khúc khuỷu; có lúc phải đi vòng trở lại để vượt thác ghềnh, rồi sau đó mới có thể vươn tới những địa vực xa hơn, cao hơn nữa.

        Anh em đứng xếp hàng nghiêm chỉnh dưới bóng cờ trước đại biểu của Đảng bộ, nhân dân địa phương, cán bộ của đơn vị và liên khu. Hầu hết anh em tuổi từ hăm hai, hăm ba trở lên tất cả đều là cán bộ. Mỗi đội viên ở đây là môt huyện uỷ viên cứng, hoặc một cán bộ trung đội vững vàng. Khi tiến vào vùng hậu địch, mỗi độ viên sẽ phải phụ trách một vùng, hoặc ít nhất một xã, thay mặt Đảng lãnh đạo, tổ chức nhân dân đấu tranh toàn diện với quân thù.

        Trang bị của anh em khá gọn nhẹ để có thể đi được lâu được xa. Tất cả những thứ mang trên người đều đã được nghiên cứu rất tỉ mỉ, không thừa, không thiếu. Ngoài gạo, muối, mỗi đội viên còn mang theo bạc trắng, kim chỉ, thuốc men..., những thứ rất cần thiết cho đời sống hàng ngày, đồng thời để trao đổi với đồng bào lấy lương thực khi cần thiết.Trang bị của anh em tương đối đầy đủ, riêng vũ khí vẫn thiếu nhiều, mặc dầu quân khu đã dành cho các đội phần ưu tiên thích đáng. Cả đội trên ba mươi người, chỉ có hơn mười khẩu súng các loại, mỗi khẩu kèm theo hai mươi nhăm viên đạn. Có thể nói anh em ra đi tiến vào Tây Bắc, đi sâu vào lòng địch, chủ yếu chỉ có chủ trương, chính sách của Đảng ở trong tay.

        Hôm ấy, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng gửi tới một lá thư do chính tay đồng chí viết để động viên, dặn dò anh em khi lên đường. Chỉ một cử chỉ ấy cũng đã chứng tỏ sự quan tâm của trên đối với công tác võ trang tuyên truyền trong giai đoạn này như thế nào. Sau đó, tôi thay mặt Liên khu uỷ, Bộ chỉ huy Quân khu chúc mừng anh em tiến quân thắng lợi. Có lẽ cũng đã lâu, tôi mới cảm thấy gian lao, khó khăn đặc biệt. Trước mắt anh em, Tây Bắc lúc này như biển cả mênh mông đang nổi sóng dữ. Không những Liên khu uỷ, Bộ Tư lệnh Liên khu mà giờ đây cả Bác Hồ, cả Trung ương, cả Bộ Tổng tư lệnh cũng đang đặt tất cả niềm tin tưởng ở anh em, những người chiến sỹ của Đảng đang lĩnh một trách nhiệm nặng nề và vinh quang: đi bước đầu ấy thường bao giờ cũng là những bước gian nan, nguy hiểm. Tôi ôn lại với anh em những kinh nghiệm hoạt động của các đội vũ trang tuyên truyền khi trước, kinh nghiệm của bản thân chúng tôi trong những ngày còn đen tối phải chui rừng, ngủ bụi tìm bắt liên lạc, giác ngộ, tổ chức bí mật tới từng người dân... Các chiến sỹ võ trang tuyên truyền đã được nhắc nhở: cần phải luôn luôn nắm thật vững quan điểm quần chúng, chính sách dân tộc của Đảng. Đó là nguồn gốc của thắng lợi. Có dân là sẽ có tất cả, sẽ chiến thắng tất cả. Để tiến hành tốt công tác, anh em cần thực hiện ba hoá: địa phương hoá, dân tộc hoá và quần chúng hoá. Ngoài ra người chiến sỹ cách mạng đều phải phát huy đầy đủ đức tính dũng cảm, ngoan cường, đoàn kết, kỷ luật...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:38:09 am

        Lễ lên đường bế mạc. Toàn đội xuất phát. Hồng Quân - người thanh niên của thành Tuyên khi xưa có ý dừng lại đợi tôi để gửi lại lời tạm biệt. Tôi siết chặt tay Hồng Quân, nhìn mãi vào cặp mắt sáng, thông minh, giàu nghị lực của anh. Tôi không nghĩ rằng đó là lần cuối tôi được cầm tay người đồng chí thân yêu. Hồng Quân vào Tây Bắc và không bao giờ trở ra nữa. Anh cũng như không ít các đồng chí thân yêu khác đã ngã xuống giữa núi rừng Tây Bắc mênh mông còn ngập đầy bóng giặc. Người ngã xuống vì một viên đạn của quân thù, người ngã xuống sau nhưng trận ốm đau mòn mỏi, những ngày đói khát... Mỗi một người ngã xuống vì một lý do khác nhau, nhưng tất cả những người đảng viên quang vinh, những người con ưu tú của đất nước ấy đều đã đem máu của mình để viết nên những trang sử giải phóng dân tộc.

        Liên khu uỷ và Bộ tư lệnh Liên khu đã chờ đợi tin tức của các đội võ trang tuyên truyền với tất cả nỗi lo lắng, niềm hy vọng của mình. Chúng tôi cứ phàn nàn với nhau mãi: “ Giá có điện đài, cho mỗi đội một cái thì hay biết mấy!”. Tiếc thay, không những liên khu mà cả trên Bộ lúc đó vẫn còn quá nghèo. Tất cả mối liên lạc với các đội chỉ còn trông chờ ở đôi chân của các đồng chí giao thông.

        Tung các đội ra đi mà không có cách gì để theo sát những hoạt động của anh em từng bước, từng ngày, chúng tôi cảm thấy mắt mình, tai mình như có ai bịt lại. Tin tức đưa về rất thưa và thất thường, càng làm cho chúng tôi sốt ruột. Qua tháng đầu tiên, được biết các đội đều đang gặp khó khăn. Qua tháng thứ hai, tin tức thưa thớt hơn, chỉ biết anh em đã tiến rất sâu vào lòng địch theo phương pháp “cóc nhảy” hoặc “nhảy dù”, địch đang đối phó, vây lùng ráo riết. Sau tháng thứ ba hầu như bặt tin. Rồi sau đó, đùng một cái, chúng tôi nhận được báo cáo: Các đội đều đã bị bật trở ra bờ sông Hồng. Hiện có đội đã vượt sông trở về vùng tự do bên này để củng cố.

        Không chậm trễ chúng tôi phân nhau đi tới ngay những đơn vị ấy. “Bị bật tất cả trở lại”, chỉ bằng từng ấy chữ thoi cũng đã làm cho chúng tôi hình dung được phần nào những khó khăn mà anh em đã vấp phải. Tây Bắc! Hai tiếng ấy lại ngân vang lên trong đầu óc chúng tôi với tất cả những âm thanh bi hùng của nó.

        Các chiến sỹ trở ra hầu hết đều đau yếu, gầy còm. Có đồng chí do bị sốt rét nhiều quá, lại không có thuốc men, tóc đã rụng gần hết. Có đồng chí vì bị địch vây phải lẩn lút mãi, không có lương thực, ăn lắm lá, trái cây, rau rừng, hai hàm răng đã xanh lè. Nom thấy chúng tôi, có đồng chí rơi nước mắt.

        Chúng tôi đã nghe kể lại tất cả những bước đường hoạt động gian nan của các đội. Ở đây, trên những trang hồi ký này, không thể viết lại được hết, nhưng tôi cũng muốn ghi lại một vài dòng về người đảng viên, những chiến sỹ đầy lòng hy sinh, dũng cảm ấy.

        ... Sau khi vượt sông Hồng, đội xung phong Quyết Tiến bắt đầu tiến vào vùng đất địch kiểm soát. Trước mắt anh em là đồn Ca Vịnh trấn giữ con đường duy nhất đi vào Tú Lệ. Toàn đội loanh quanh ở đó đã hàng tuần lễ mà chưa đi được. Bộ chỉ huy Liên khu thấy vậy bèn viết thư giục, đồng thời phái đại đội Kim Sơn tiến vào tập kích Ca Vịnh để tạo điều kiện cho anh em vượt sâu bên trong. Đại đội Kim Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Quân địch ở Ca Vịnh bỏ đồn rút chạy. Toàn đội xung phong Quyết Tiến rất phấn khởi, cứ dọc theo đường cái tiến vào Gia Hội, rồi Tú Lệ, đàng hoàng như một đạo quân chủ lực lớn. Anh em đã quên mất đặc điểm hoạt động của mình, quên cả ý thức giữ gìn bí mật. Bộ chỉ huy Liên khu nắm được tình hình ấy lại phải có thư nhắc nhở. Sau đó, đội mới bớt chủ quan, bắt đầu chuyển từ hành quân ban ngày sang ban đêm, đội tiến vẫn rất dễ dàng vì quân địch nghe tin đồn “có năm nghìn quân Việt Minh kéo vào” nên chúng đã cuốn gói bỏ chạy. Đội xung phong Quyết Tiến lại phát sinh tư tưởng chủ quan. Vào Tú Lệ không mất một phát súng, lại thấy nhân dân nô nức kéo ra đón mừng, các đồng chí ta bèn tổ chức một cuộc liên hoan khá nhộn nhịp, tưng bừng. Mọi công tác quần chúng gần như chưa làm được gì. Toàn đội chỉ mới thực hiện được một việc là gọi những tên tay sai của địch cùng các phìa, tạo đến cảnh cáo, bắt phải cam đoan trung thành với cách mạng, không được làm hai nhân dân.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:39:32 am

        Sau một tuần ở Tú Lệ, đội tiếp tục tiến vào vùng Kim Nọi. Trời bắt đầu mưa tầm tã ngày này qua ngày khác. Đèo trơn, suối lũ, cuộc hành trình lúc đó mới bắt đầu vất vả. Suối lũ ở Tây Bắc quả là dữ. Đoàn quân không dài lắm, những người đi trước khi lội qua nước mới chỉ tới quá đầu gối, đến người cuối cùng bước xuống, nước đã ngập ngang cổ. Cũng trong thời kỳ đó, trong lúc toàn đội đang tiến thì quân Pháp đã tập trung hàng mấy trăm tên, từ Lai Châu kéo về, từ Than Uyên kéo ra để chuẩn bị càn mà đội không hề biết.

        Khi tới Cáp Na, chưa tới Kim Nọi, toàn đội đã sa vào trận địa phục kích của địch. Mặc dầu tinh thần chiến đấu rất dũng cảm nhưng bị lâm vào thế bị động, toàn đội buộc phải chia ra làm ba tổ để rút. Đồng chí Luân nắm một bộ phận rút về vùng Bản Khì. Đồng chí Hồng Quân cùng với hai tiểu đội lui trở lại phía Tú Lệ, định liên lạc với đại đội Kim Sơn (nhưng đại đội này đã lên vùng đồng bào Mèo từ trước). Thấy đạn dược của toàn đội bị tiêu hao gần hết trong trận phục kích vừa qua, Hồng Quân quyết định quay trở ra Nghĩa Lộ để bắt liên lạc với quân khu, xin tiếp tế. Trời vẫn mưa, suối lũ vẫn ngập tràn. Tới Ngòi Thia, Hồng Quân cùng anh em chặt chuối làm mảng để vượt qua. Trong khi ấy, ở bên kia sông, một toán địch đi tuần kéo tới.

        Hồng Quân cầm sào nhảy xuống chiếc bè đầu tiên cùng đồng chí Năng - một đội viên trong đội trước kia là chính trị viên tiểu đoàn. Cả hai người vừa mới đẩy bè ra tới giữa dòng thì một băng trung liên từ bụi cây bên bờ bên kia đột ngột nổ xé. Hồng Quân ôm lấy ngực, ngã vật ngửa trên bè. Năng cũng không kịp nói một lời, buông ngay cây sào, ngã xuống... và cứ thế chiếc bè tiếp tục băng băng trôi theo dòng nước lũ. Tất cả những đồng chí còn lại đành gạt nước mắt, quay trở lại Cáp Na, tìm bắt liên lạc với bộ phận của đồng chí Châu Thành đang bám dân, cố thủ ở đó. Mưa vẫn sùi sụt. Bản Khì nằm lọt trong một vùng nước lũ bao quanh. Ta không ra được mà địch cũng không vào được. Cho đến lúc này anh em trong đội mới bắt đầu thấm bài học chủ quan, mới bắt đầu biết là cần phải bám lấy dân, tích cực giáo dục, tổ chức nhân dân mới có thể sống để chiến đấu và chiến thắng.

        Nhân dân Bản Khì vốn đã nghèo đói, nay bị mưa lũ giam chân, địch lại vây chặt bốn phía không đi rừng tìm củ mài, củ sắn được nên càng đói khổ. Tuy nhiên, không có một ai quên bộ đội. Còn một mẩu sắn cũng chia đôi.

        Một tháng sau, trời hửng nắng, lũ rút. Nhân dân lại đeo dao, lên núi kiếm ăn. Anh em võ trang tuyên truyền cũng chuẩn bị lên đường định đi bắt liên lạc với bộ phận đồng chí Luân, nhưng một trận càn nữa lại ập tới: Trận càn này còn lớn hơn trận trước gấp bội. Hơn một nghìn quân từ Mường Cang đánh xuống, hai trăm quân từ Nghĩa Lộ đánh lên. Lần này địch không ồ ạt tấn công như trước mà chia thành từng mũi nhỏ lùng sục tất cả các ngọn nguồn, khe núi. Các cơ sở của đội mới xây dựng bị phá tan hoang. Hàng loạt thanh niên nam nữ bị bắn chết. Bộ phận võ trang tuyên truyền lại bị vỡ môt lần nữa. Một số đồng chí hy sinh, một số dạt lên vùng đồng bào Mèo, một số bật trở lại sồng Hồng, mặc dầu đã vào sâu được khoảng hai trăm cây số.

        Đội xung phong Trung Dũng đi theo một đường khác. Đội này quân số ít hơn, chỉ có mười bảy đồng chí, đại đa số là người dân tộc Thái, quê hương dọc sông Mã. Đồng chí Xích Vân được trao trách nhiệm chỉ huy, đưa anh em vượt sông Hồng, tiến vào đất Sơn La để bắt liên lạc với đồng chí đội trưởng Lê Thanh. Đồng chí Lê Thanh đã hoạt động từ trước ở vùng Mộc Thượng, Mộc Hạ, một vùng cơ sở nhỏ bé còn lại ở phía dưới Mộc Châu thuộc đất Sơn La. Vùng cơ sở này do Tỉnh uỷ Sơn La đã kiên trì giữ vững suốt từ khi địch đánh chiếm Sơn La, bộ đội chủ lực bị bật ra ngoài bờ sông Hồng, sang Phú Thọ, Mộc Thượng, Mộc Hạ có đấy đủ tính chất một căn cứ du kích đặc biệt. Nhân dân nơi này dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đã rời bản vào các triền núi đã hiểm trở làm lán ở, bất hợp tác với giặc đến cùng. Trong vùng núi đá ấy, nhân dân đã sống triệt để theo quân sự hoá, các gia đình đều chia thành từng tiểu đội, trung đội tương tự như bộ đội. Tất cả nam nữ thanh niên đều vào du kích. Nam thanh niên có nhiệm vụ chủ yếu là canh gác, tuần tra, đánh giặc bảo vệ cho nữ thanh niên làm nương sản xuất. Lương thực thu hoạch được bao nhiêu đem chia đều theo đầu người. Ở đây không còn kinh tế cá thể. Mọi người gần như sống theo chế độ cung cấp, kể cả các tỉnh uỷ viên cũng cùng ở với nhân dân. Khi đồng chí Xích Vân đưa toàn đội đến cũng được cấp phát mỗi đồng chí mỗi ngày một nắm xôi như tất cả mọi người khác trong khu căn cứ. Trước nếp sống chiến đấu rất mới mẻ ấy, các đồng chí chúng ta không khỏi thầm thán phục và hiểu ra: quả là nhân dân Tây Bắc cũng rất anh hùng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:41:38 am

        Sau mấy ngày dừng lại ở Mộc Thượng, Mộc Hạ, toàn đội võ trang xung phong Trung Dũng tiếp tục lên đường. Lần này đi đã có thêm đồng chí Lê Thanh, đội trưởng. Toàn đội vẫn hướng về cái đích cuối cùng do Bác đã chỉ thị là Điện Biên Phủ. tới bản A Má, một bản vẫn nằm trong vùng du kích, toàn đội dừng lại vì được tin địch sẽ về sục sạo, khủng bố. Đồng chí Lê Thanh, Xích vân nhất trí với nhau: phải tìm mọi cách bảo vệ dân. Sau khi điều tra, biết bọn địch hay về càn không phải ai xa lại, chính là một tên người làng hiện làm châu đoàn (chỉ huy dõng toàn châu) ở Mộc Châu. Lần nào về, gã cũng đem theo lính để lùng bắt cán bộ quần chúng cơ sở và cướp bóc gà, lợn. Đồng chí Xích Vân, Lê Thanh bèn tìm đến nhà người em ruột của tên châu đoàn. Anh này là một thanh niên tốt. Các đồng chí ta bèn nói với anh Lò Văn Tình (Em tên châu đoàn) cần phải theo dõi mọi hoạt động của tên phản quốc kia và giúp cho đội bắt nó. Anh Tình không những không ngần ngại, mà vui vẻ nhận lời ngay. Quả nhiên hôm sau tên châu đoàn đem lính về, anh Tình đã bày mưu đưa cán bộ ta ập vào nhà bắt. Tới khi tên châu đoàn bị trói chặt, bấy giờ Tình mới khóc: “Dầu sao nó cũng là anh em với tôi, nay đã đưa cán bộ về bắt được nó rồi, tôi chỉ xin đội tha chết cho nó, còn bắt tù bao nhiêu năm cũng được!”. Rất cảm động trước tinh thần cách mạng, lòng yêu nước của người thanh niên hiền lành chất phác này, các đồng chí ta nhận lời sẽ tha giết tên châu đoàn. Lò Văn Tình mừng lắm, đề nghị được đi theo đội. Về sau, dần dần anh đã trưởng thành, trở nên một trong những người cán bộ trung kiên, xứng đáng.

        Sau khi rời A Má, toàn đội bắt đầu đi vào vùng địch hậu theo nghĩa hoàn toàn đầy đủ của nó. Cũng bắt đầu từ đây toàn đội thay đổi chiến thuật, dùng lối “nhảy dù”; có nghĩa là dùng một bộ phận táo bạo đi thật nhanh, thật sâu vào vùng tạm chiếm để tiến. Khi tới một cái đích đã định sẵn, bộ phận này mới dừng lại và tiến hành gây cơ sở. Trong khi đó bộ phận ở phía sau cứ tiến dần, vừa tiến vừa gây cơ sở hai bên đường để nối với cái đích mà bộ phận trước đã “nhảy dù” xuống. Cứ thế liên tục tiến lên, cho tới khi vào tới Điện Biên Phủ.

        Đồng chí Lê Thanh được phân công trực tiếp chỉ huy bộ phận đi trước. Đồng chí Xích Vân chỉ huy bộ phận đi sau. Để che mắt địch cho dễ hoạt động và đi lại được dễ dàng mau chóng, bộ phận “nhảy dù” nảy ra một mẹo nhỏ: giả trang làm binh lính địch về phép. các đồng chí đã cố tìm được một bộ ka-ki giao cho một đồng chí cao lớn nhất mặc giả làm đội, còn các đồng chí khác mặc theo kiểu lính dõng. Sau khi đã giả trang, các đồng chí ta rất yên tâm có thể che mắt được địch, che mắt được cả nhân dân hai bên đường. Nhưng không ngờ qua ba ngày đi đường, các đồng chí ta tới đâu nhân dân cũng đều nhận ra ngay là Bộ đội Cụ Hồ. Bởi lẽ, dù mặc giả địch, nhưng qua cách cư xử, các đồng chí ta vẫn hoàn toàn bộc lộ ra bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng. Đi tới đâu, các đồng chí ta cũng được nghe những câu nói gần như giống nhau: “Không phải Pháp đâu! Lính của Pháp đến chỗ nào là đánh người, trêu phụ nữ, bắt gà, bắt lợn chỗ đó. Các anh không làm như thế, đúng là Bộ đội Cụ Hồ rồi!”.

        Thấy nhân dân nhận ra mình, các đồng chí ta đều lo lắng. Ai dám bảo đảm rằng quân địch sẽ không có chỉ điểm, tạo bản đến báo Pháp: “Việt Minh đã đột nhập vùng này!”. thế nhưng qua ba ngày đóng vai kịch bất đắc dĩ ấy, đi qua hết bản này tới bản khác, toàn đội vẫn hoàn toàn bình yên, vô sự. Thậm chí có nơi tạo bản còn ra lệnh cho dân làng: “không ai được bép xép lộ bí mật của các đồng chí!”. Một lần nữa, các đồng chí ta thêm tỉnh ngộ: trước sau nhân dân Tây Bắc vẫn một lòng yêu nước, vẫn tiến theo lá cờ của Đảng, mặc dầu vẫn đang bị địch kìm kẹp, o ép rất ngặt nghèo, khổ cực. Không một đồng chí nào không đọc được những niềm vui sướng, mừng rỡ trong ánh mắt của từng người dân khi họ rụt rè đến gần và khe khẽ kêu lên: “Ôi, các anh Bộ đội Cụ Hồ...”.

        Sau ba ngày đi miết, các đồng chí ta tới Mường Sài, một bản ở gần sông Mã, cách biên giới Việt – Lào chẳng còn bao xa. Đây là cái đích đã được chọn để cho đội “nhảy dù” cắm lại. Đồng chí Lê Thanh đưa anh em vào rừng làm lán ở tạm rồi cử một đồng chí trong đội trước đây vốn là chủ tịch Mường Sài hồi chưa bị giặc tạm chiếm trở về làng tìm cách bắt liên lạc với gia đình. Trong đội còn có một đồng chí trước làm thư ký uỷ ban một xã ở bên cạnh. Đồng chí này cũng được phái về làng để gây cơ sở.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:43:53 am

        Công việc trong những ngày đầu khá trót lọt, tốt đẹp. Các đồng chí ta dựa vào các cơ sở mới được gây dựng lại, chia làm ba nhóm hoạt động rải ra một vết dài mấy bản liền nhau từ Chiềng Khương xuống Mường Sài. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Thanh bèn cử người quay lại để đón bộ phận của đồng chí Xích Vân. Nhưng chỉ mấy hôm sau đã có những tin chẳng lành đưa về.Hai đồng chí đi đón bộ phận đồng chí Xích Vân đã bị địch phục kích bắn chết một. Quân địch đang tập trung để kéo về Mường Sài càn quét. Khi các đồng chí ta vừa kịp chuyển địa điểm vào rừng thì quả nhiên cuộc càn quét đã nổ ra. địch bắt bớ nhân dân, lùng rừng, sục núi rất ráo riết. Tất cả các đường dây liên lạc giữa đội và cơ sở đều bị cắt đứt.

        Bọn địch ở đây càn quét rất dai dẳng, có ý dồn các đồng chí ta lâm vào tình thế bế tắc. Đứng không yên nữa, các đồng chí trong đội đã buộc phải rời bỏ Mường Sài, vượt núi kéo sang một bản khác. Bản này toàn người mắc bệnh hủi. Nhưng vì lòng nhân đạo của đảng, vì cần thiết phải có cơ sở trong nhân dân, các đồng chí ta không quản bệnh tật, bí mật lần xuống núi, tìm vào từng nhà đồng bào. Nom thấy các đồng chí ta, mọi người không khỏi ngạc nhiên và cảm động. Tất cả đều khóc: “Ôi! Cụ Hồ, Chính phủ đã không ruồng bỏ những người tật bệnh như chúng tôi..., ơn này biết lấy gì đền đáp...”. Từ buổi đó, các đồng chí ta đã có một chỗ ẩn náu để hoạt động. Nhưng cũng chẳng được bao lâu, quân địch từ Mường Sài đánh hơi thấy quân ta xuất hiện ở đây, lại kéo quân sang truy lùng dữ dội. Giữa lúc đó, bộ phận đồng chí Xích Vân ở phía sau kéo lên. Nhận thấy chưa thể tập trung được, đội vẫn phải bắt buộc phân tán, đồng chí Xích Vân đành phải đưa bộ phận của mình quay trở lại, đồng thời làm nhiệm vụ nghi binh để thu hút địch, đỡ đòn cho bộ phận đồng chí Lê Thanh. Kế hoạch ấy có hiệu quả. Bọn địch ở Mường Sài và ở bản đồng  bào hủi thấy có dấu hiệu quân ta rút lui, bèn hấp tấp kéo quân đuổi theo. Thế là vòng vây được giải toả. Tình hình Mường Sài dần dần trở lại yên tĩnh. Nhưng cũng chỉ được ít ngày, quân địch lại từ các đồn Mai Sơn và Then Luông (trên đất Lào) kéo vào càn quét.

        Trận càn quét này còn có phần ác liệt, dai dẳng hơn trận trước. Các đồng chí chúng ta và nhân dân địa phương lại sống những ngày cực kỳ căng thẳng. Tất cả các bản bị vây chặt. Không một người nào được phép ra rừng. Tất cả các đường mòn, khe suối đều có trạm lính gác. Các đồng chí ta bị dồn lên tận một mỏm núi cao nhất, không có một khe nước nhỏ, không có một thứ củ rừng nào có thể ăn được. Bệnh tật bắt đầu hoành hành cùng với những cơn đói kéo dài đến kiệt sức. Tất cả anh em nhìn nhau lắc đầu, muốn ứa nước mắt. Mấy hôm sau, quân ta bắt đầu rút khỏi vòng vây, đi ngược trở lại, lần tìm trở về căn cứ Mộc Thượng, Mộc Hạ...

        Riêng đội xung phong Quyết Thắng lên đường có phần sớm hơn hai đội kia một vài tuần. Hướng đi của đội theo phía Cam Đường (Lào Cai) – Phong Thổ rồi xuống Tuần Giáo, vào Điện Biên Phủ. Đội xung phong Quyết Thắng vượt sông Hồng vào một đêm tối trời, mưa tầm tã. Đặt chân sang tới bờ bên kia, toàn đội đã bắt đầu sống với núi rừng hoang vu. Các làng, bản đều đã bị địch đốt cháy từ lâu. Nhân dân một phần bị tập trung vào các chân đồn, một phần chạy tản mát vào núi. Toàn đội im hơi lặng tiếng, tìm đường để tiến vào phía Châu Quế, Vũ Lao sau đó sẽ ngược lên Cam Đường. Tất cả các con đường mòn có sẵn địch đều kiểm soát rất ngặt. Các cứ điểm ở đây hình như có phần còn dày hơn ở các vùng phía dưới. Toàn đội đã phải chiếu hướng, xuyên rừng mà đi. Gặp núi vượt núi, gặp suối lội suối, gặp khe xuống khe, phá rừng lấy đường mà đi, gian nan cực khổ không sao kể xiết. Người khoẻ dìu người ốm, toàn đội nghiến răng, cố gắng bước, không một ai chịu lùi. Nhưng đến một hôm, khi toàn đội vừa mới ra khỏi cửa rừng, chưa tới Châu Quế đã gặp địch. Trận đánh diễn ra rất bất ngờ. Quân địch đông gấp bội. toàn đội phải phân tán sau những giờ chiến đấu quyết liệt. Từng đồng chí, từng bộ phận phải hái rau rừng để ăn, chém gốc nứa lấy nước để uống và tìm đường quay trở lại.

        Sau một thời gian củng cố, toàn đội lại vượt sông Hồng lần thứ hai, tiến vào Tây Bắc. Tuy nhiên do chưa già dặn trong công tác ở vùng địch hậu, khi tới gần Châu Quế, anh em lại bị địch vây càn ráo riết. Toàn đội lại bật trở ra một lần nữa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:45:14 am

        Thất bại liên tiếp, rồi bệnh tật, ốm đau, hy sinh, không thực hiện được nhiệm vụ. Suốt mấy tháng đầu năm 1948, tất cả các độ võ trang tuyên truyền của liên khu đã phải trải qua những bước đường thật gian nan, những thử thách thật nặng nề! Liên khu uỷ, Bộ tư lệnh Liên khu cũng trải qua những ngày lo nghĩ thật căng thẳng. Phương châm, đường lối của Đảng rất đúng, nhưng tại sao mọi việc vẫn chưa thắng lợi? Chúng tôi dần dần hiểu ra: chúng tôi vận dụng phương châm, đường lối ấy chưa thật tốt trong liên khu, chưa chỉ đạo tốt các đơn vị trong quá trình hoạt động. Chúng tôi chưa làm cho các độ thấm nhuần sâu sắc, triệt để phương châm của Đảng, nên các đội thường quên nhiệm vụ gây cơ sở, thiên về tác chiến với địch. Có đội quên cả nguyên tắc công tác bí mật. Bệnh “công khai” còn rất nặng nề. điều này hoàn toàn trái với phương pháp hoạt động võ trang tuyên truyền. Tổ chức của các đội cũng chưa thật thích hợp với đặc điểm của chiến trường Tây Bắc. Nói chung tổ chức các đội còn nặng nề, cồng kềnh và thiếu rất nhiều cán bộ người dân tộc địa phương. Ngoài ra, các cán bộ, đội viên của các đội đều chưa được huấn luyện tốt. Tất cả hầu như chỉ mới có được một điều cơ bản là lòng trung thành và tận tuỵ.

        Liên khu uỷ, Bộ tư lệnh Quân khu đã nghiên cứu rất kỹ toàn bộ những vấn đề đó để rồi đề ra chủ trương: phải nhanh chóng củng cố lại các đội, tăng cường tới mức cao nhất cán bộ người dân tộc địa phương. Việc tổ chức huấn luyện luân chuyển cho cán bộ, đội viên của các đội cũng được đặt ra một cách khẩn trương.

        Một hội nghị chuyên đề về công tác võ trang tuyên truyền của liên khu đã được mở ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân khu uỷ. Trên Bộ cũng rất quan tâm tới hội nghị này. Đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ xuống tham dự hội nghị. Có thể nói đây là một lớp học sống. Biết bao nhiêu thiếu sót, khuyết điểm đã được vạch ra và phân tích cặn kẽ. Khá nhiều kinh nghiệm bổ ích đã được đúc kết lại thành những bài học, những nguyên tắc để tiến lên giành thắng lợi. Cũng từ cuộc hội nghị ấy niềm tin tưởng đã được dần dần nâng cao. Những tâm lý bi quan, dao động đã được dần dần giải quyết.

        Lại một lần nữa, chúng tôi đem hết tâm lực của mình ra chăm sóc cho các đội để anh em lại có thể mau chóng quay trở vào Tây Bắc.

        Cũng trong thời kỳ các đội võ trang tuyên truyền hoạt động, những đại đội độc lập của liên khu đã phải trải qua rất nhiều khó khăn gian khổ. Các đai đội phải phân tán thành từng tổ nhỏ,  “nhảy dù” vào lòng địch. Hàng tháng trời, các chiến sỹ phải ấn náu trong rừng, chịu đựng đủ mọi gian nan, nguy hiểm. Có những nơi bị địch tuyên truyền lừa gạt, nhân dân thấy bóng bộ đội là lẩn trốn. Thậm chí có nơi đã có người đi báo quân Pháp về vây bắt, hoặc vác dao đuổi giết. Cũng có những nơi nhân dân không nghe những lời xảo trá, xuyên tạc của địch nhưng lại sợ uy thế của chúng, nên gặp bộ đội chỉ đành ứa nước mắt, rồi để nghị hãy tạm lánh đi nơi khác, kẻo địch biết, kéo về khủng bố. Trong khi tình hình nhân dân khó khăn phức tạp thì địch lại luôn luôn vây lùng dữ dội. Chúng treo giải thưởng lớn cho những ai cắt được đầu cán bộ bộ đội. Chúng  phục kích trên các nẻo đường, lần theo khắp các khe suối. Đã có một số đồng chí ta bị bắt hoặc bị giết. Có đồng chí bị lạc chạy hàng tháng trong rừng sâu, phải ăn lá cây cầm hơi.

        Nơi ở cả các chiến sỹ thường là những gốc cây, hàng đá những vẫn phải luôn luôn di chuyển. Có nhiều khi đang đem cũng phải trở dậy, để thay đổi vị trí. Anh em đã phải chịu đựng những cơn mưa rừng tầm tã, những đợt gió lạnh nhức xương, những cơn sốt rét ác tính làm mê man bất tỉnh mà không một giọt hồ, giọt cháo, chưa nói tới thuốc men.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:47:01 am

        Gian khổ như vậy, nhưng tất cả các chiến sỹ đã thấm nhuần chủ trương của Đảng, với bản chất cách mạng cao đẹp, vẫn kiên trì bám rừng, bám núi để tiến tới bám được nhân dân mà hoạt động. Nói tới những đại đội độc lập vinh quang ở trên các miền Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái phải nói tới đại đội Thắng Bình, thuộc Trung đoàn X. Từ Lao - Hạ rút trở về vùng Phố Ràng vào thu đông năm 1947, đại đội Thắng Bình là một trong những đại đội độc lập đầu tiên được thành lập của liên khu. Trong những ngày đầu vào vùng Lương Sơn, đại đội Thắng Bình phải phân tán trong rừng sâu nghe ngóng một thời gian sau đó mới lần ra nương để tìm gặp dân. Nhưng vừa nom thấy bóng quân ta, đồng bào đã vội vã bỏ chạy, mặc dầu nương lúa đã vàng hoe, sắp đến ngày gặt hái. “Cái giặc nó về đấy!”. Các đồng chí ta lòng xót như sát muối, đành đứng lại để nguyền rủa bọn giặc Pháp quỷ quyệt đã xuyên tạc, lừa bịp nhân dân đến nông nỗi ấy. Nhưng không hề nản chí, thấy nhân dân bỏ nương chạy các đồng chí bèn bảo nhau trông nom vun xới, rào lại cho thú rừng khỏi phá hoại. Khi lúa chín, các chiến sỹ ta ra gặt hái, gánh về làm lán cất giấu cho nhân dân thật chu đáo. Từ cái máng nước bị hỏng, mảnh nương chưa có người làm cỏ, cho tới con đường ra suối lầy lội..., tất cả đều có những bàn tay ân cần, khéo léo của các đồng chí ta tới sửa sang, làm hộ. Những gia đình nghèo khổ thường xuyên nhận được những bức thư thăm hỏi, có kèm theo theo kim chỉ hay muối trắng. Tất cả những hành động ấy dần dần đã lọt vào trong mắt nhân dân, làm cho mọi người phải suy nghĩ, bàn tán. Đồng bào bắt đầu thấy thương những “người tốt bụng” ấy phải ở rừng, ở núi không có cơm ăn, nước uống tử tế. Đồng bào bắt đầu hiểu được: đây không phải là giặc như quân Pháp đã nói. Người ta dần dần nhớ lại tất cả những chuyện trong những ngày còn tăm tối xưa. Trước đây “những người này” kéo về với lá cờ đỏ sao vàng, đã làm cho dân biết bao điều tốt. Không! Họ nhất quyết không phải là giặc mà ngày xưa, mọi người vẫn quen gọi là Việt Minh, là bộ đội.

        Một hôm, một tổ của đơn vị ra nương thấy có gói cơm nếp và mấy bắp ngô để lại. Hôm sau lại thấy như thế. Anh em đón đợi và gặp một cụ già... Từ đó, đại đội bắt đầu có cơ sở quần chúng đầu tiên, rồi dần dần phát triển lên mãi, từ gia đình này tới gia đình khác.

        Tình hình khá lên dần. Các hình thức đấu tranh với địch như: chống đi phu, chống nộp thuế, chống bắt lính bắt đầu được triển khai và đẩy mạnh. Sau đó, các đội du kích được thành lập. Điều kiện hoạt động vũ trang đã tới. Chi bộ đại đội nhận chỉ thị mới của liên khu phải nắm vững phương châm “đẩy mạnh du kích chiến”, cho nên đã đấu tranh thắng lợi với những tư tưởng “ăn to, đánh lớn”, và nhất là tư tưởng trận địa chiến còn khá nặng nề trong đầu óc nhiều đồng chí cán bộ. Sau đó chi bộ chủ trương lãnh đạo bộ đội đánh một trận phục kích nhỏ trên đèo Mã Yên Sơn để lấy thực tế giải quyết triệt để mọi vướng mắc, hồ nghi còn tồn tại. Lúc này địch đang xây cứ điểm Phố Lu và các cứ điểm vừa chiếm được. Chúng phải luôn luôn di chuyển trên các đường giao thông để tiếp tế lương thực cho nhau. Trận Mã Yên Sơn tuy nhỏ nhưng đã giết gọn được năm tên dõng, thu được một số chiến lợi phẩm. Thắng lợi đầu tiên ấy đã là cho tinh thần chiến sỹ và nhân dân đều phấn chấn hẳn lên. Chi bộ đại đội lại chủ trương chuẩn bị kỹ để đánh tiếp một trận nữa ở Cốc Chiếm.

        Trận phục kích nhỏ lần này đã thắng lợi giòn giã, chiến lợi phẩm gồm một súng trường Mỹ, hai mũ sắt, hai con bò và một túi đầy thư từ. Bắt đầu từ đó các chiến sỹ trong đại đội mới thực sự biết thế nào là đánh du kích và đánh du kích tốt như thế nào.

        Không đầy nửa tháng sau, đại đội lại đi phục kích địch ở làng Bon. Cả đại đội đi với mục đích để anh em “tham quan”, còn thực sự tham gia chiến đấu chỉ có một trung đội bố trí rất kín đáo tại một vị trí rất bất ngờ và hiểm trở. Ta lại thắng to, thu hai súng Mỹ, đạn Mỹ và lương thực của Mỹ.

        Từ bấy giờ cho sang tới cuối tháng 5 năm 1948, đại đội liên tiếp đánh nhiều trận khác, tính ra trong ba tháng đại đội đánh mười trận phục kích, hai mươi trận bắn phá. Đơn vị huấn luyện được liên tiếp ba, bốn lớp dân quân. Huấn luyện được lớp nào, tung ra hoạt động ngay lớp ấy. Mặt khác, anh em địa phương cũng nô nức xin đi theo đại đội. Bắt đầu từ đó, đơn vị có anh em người địa phương. Phong trào mỗi ngày một lên cao và mở rộng. Đã có những xã, bộ đội ta đi lại hoạt động công khai giữa ban ngày, trong khi các xã chung quanh địch vẫn còn kiểm soát.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:49:28 am

        Tới đầu mùa hạ, quân địch củng cố xong các vị trí, chúng đưa quân từ Lào Cai về thêm, đánh tràn qua vùng Lương Sơn, rồi chiếm đóng các làng chung quanh như Tổng Già, Khe Pịa, Ngòi Mác, Nủ, Trĩ Ngoại, xuống tới cả Bến Cóc... Chúng đã chọc thủng hết khu vực hoạt động và căn cứ của đại đội Thắng Bình. Cơ sở vỡ lung tung. Có đồng chí đã lo lắng phát biểu: “Nếu không rút về Lục Yên Châu, chúng nó sẽ bắt gọn không còn một người”. Trước tình hình ấy, chi bộ đại đội lại đấu tranh để nắm vững đường lối của Đảng và nhiệm vụ của cấp trên giao phó, kiên quyết chủ trương không rút và đã tìm ra được một biện pháp rất tích cực để phá tan âm mưu và kế hoạch vây quét của địch. Chi bộ nêu khẩu hiệu “Đánh ngay vào bụng giặc” và khẳng định: quân giặc muốn đông thế nào cũng không thể diệt nổi một đại đội độc lập của chúng ta. Thừa lúc chúng đang rầm rộ toả xuống để vây càn ở đây, ta phải kiến quyết, dũng cảm, bí mật luồn lên, thúc sâu vào vùng kiểm soát của chúng.

        Sau đó, toàn đại đội đã phân tán ra nhiều tổ, đi làm nhiều ngả, tiến vào vùng chung quanh Phố Ràng, Bảo Hà, Bắc Cuông và ngược lên nữa. Cuộc hành quân rất gian nan vất vả, nhưng tư tưởng đã được thông suốt nên tất cả các bộ phận đều hăng hái luồn rừng, vượt núi, đi đêm, đi ngày không nghỉ. Trận đầu tiên của đai đội là trận phục kích Khe Pịa ngày 6 tháng 6 năm 1948. Trận này ta thu được một cặp tài liệu quý của chính tên đồn trưởng Phố Ràng. Mấy ngày sau đó, bộ phận thứ hai của đại đội lại ở Dốc Sài. Chỉ có một quả mìn nhỏ chôn ở mặt đường và một tổ phục kích, quân ta đã giết được ba tên địch, thu một số súng, có cả khẩu trung liên còn mới nguyên.

        Các bộ phận khác tiến hẳn vào các vùng sau lưng Phố Ràng để phá ngụy quyền. Quân ta đi tới đâu, ngụy quyền bị tan rã tới đó. Trong hơn hai tháng, đại đội đã đánh được ba mươi trận phục kích, hai mươi trận bắn phá vị trí; về chính trị, đã tranh thủ được nhân dân ở khắp các làng trong vùng địch giữa ranh giới ba tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái.

        Cam Pan - chỉ huy trưởng tiểu khu Phố Ràng không dám mải mê với công việc càn quét quy mô nữa. Gã đã bị lạnh gáy và khi quay cổ lại thì thấy ở sau lưng mình đối phương đã làm cho xáo trộn, nghiêng ngả. Cực chẳng đã, Cam Pan phải ra lệnh rút quân bỏ Bến Cóc, bỏ Nủ, bỏ Trĩ Ngoại... bỏ tất cả những nơi vừa chiếm được, tức tốc quay về củng cố lại Phố Ràng. Tình hình trở lại y nguyên như cũ tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho quân ta hoạt động tốt hơn.

        Đại đội Kim Sơn cùng với đội võ trang tuyên truyền xung phong Quyết Tiến hoạt động ở vùng Nghĩa lộ, Than Uyên, Tú Lệ. Cũng giống như đại đội Thắng Bình, đại đội Kim sơn là một trong những đơn vị xuất sắc ở bên hữu ngạn sông Hồng. Đại đội đã giác ngộ được một người thuộc tầng lớp trên của dân tộc Mèo (viên thống lý ở Trạm Tấu) do đó công tác gặp khá nhiều thuận lợi, gây được nhiều cơ sở rất tốt ở vùng bản Lìu, bản Hát, Trạm Tấu... Sự thành công lớn nhất và cũng là đặc điểm nổi bật nhất của đại đội này là chi bộ đã biết nắm vững phương châm hoạt động của Đảng đề ra, lãnh đạo bộ đội tổ chức được cả một vùng đồng bào Mèo thành một vùng cơ sở rất vững, có những đội du kích giỏi, mà nổi tiếng là đội du kích trên dãy núi Cao Phạ. Đội du kích anh hùng này đã hiên ngang giữ vững Than Uyên – Nghĩa Lộ của địch thường xuyên bị anh em cắt đứt. Đường từ Nghĩa Lộ đi Mù Căng Chải cũng luôn luôn bị uy hiếp. Có những gia đình cả hai anh em cùng tham gia du kích và chiến đấu cũng hăng hái, bền bỉ như nhau; có là hai anh em ông Giàng Phố Kỷ. Người đội trưởng đầu tiên của đội là ông Súng Tu, sau đó là đồng chí Lý Nụ Chu. Lúc ấy trong đội vẫn chưa có chi bộ Đảng, đội hoạt động theo sự chỉ đạo của các đồng chí đảng viên bên quân đội và họ chỉ biết rằng Đảng là Cụ Hồ, Cụ Hồ là Đảng. Cụ Hồ bảo tức là Đảng bảo, cứ thế mà làm.... Trong lịch sử chiến đấu của đội chỉ có một lần chín đội viên bị địch bắt. Nhưng cả chín đội viên ấy khi bị giải về Nghĩa Lộ đã lấy súng của giặc bỏ trốn về đầy đủ, không những thế còn tháo cửa nhà giam để cho một số đông nhân dân bị bắt cùng trốn theo. Có lúc bị địch vây càn lớn, đại đội Kim Sơn hoạt động xa, toàn bộ du kích Cao Phạ đã mất liên lạc hoàn toàn với Đảng với chính quyền, với quân đội nhưng vẫn tuyệt đối trung thành, kiên trì chiến đấu liên tục. Cho đến khi trở về, các cán bộ ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy toàn đội du kích ấy vẫn kiên cường hoạt động chiến đấu và đã thu được nhiều thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:50:48 am

        Tôi đã nói tới những thành công bước đầu của một, hai trong số rất nhiều đại đội độc lập của liên khu. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng trong thời kỳ đầu, các đội không phải không gặp khá nhiều sai lầm do trình độ nhiều mặt còn non yếu, chẳng khác gì những đội võ trang tuyên truyền. Ngay chính bản thân đại đội Thắng Bình trong thời kỳ đầu cũng có lần không nắm vững phương châm hoạt động đã đem cả hai trung đội đi cường tập Phố Ràng, không những không diệt được đồn mà còn bị tổn hại đến sinh lực, cơ sở. Đại đội Kim Sơn cũng vậy, sau khi vào Tú Lệ gây được cơ sở tốt, lập được chính quyền, sinh ra chủ quan. Địch bất ngờ tấn công, cả đại đội lao đao, phải rút ra vùng tự do, cơ sở tan vỡ một phần lớn. Ở Yên Bái, Sơn La, các cấp uỷ địa phương cũng có những chủ trương không đúng như đưa đại đội độc lập ra vùng tự do để củng cố. Đến khi củng cố xong quay trở vào thì các cơ sở đã bị địch phá tan hoang...

        Liên khu uỷ, Bộ tư lệnh Liên khu đã chăm lo tới việc củng cố, chỉ đạo các đại đội độc lập không kém gì các đội võ trang tuyên truyền. Đối với các tiểu đoàn tập trung cũng vậy. Cả ba hình thức tổ chức ấy đều liên quan rất mật thiết với nhau, cái nọ hỗ trợ cái kia cùng phát triển. Điều chăm lo trước hết vẫn là tăng cường công tác đảng, công tác chính trị. Sinh hoạt Đảng của tất cả các đại đội đều được chỉ đạo chặt chẽ. Do đặc điểm của chiến trường rừng núi của liên khu, do đặc điểm hoạt động phân tán của các đội cho nên chúng tôi đã chú trọng xây dựng, bồi dưỡng các chi bộ có trình độ tự động, độc lập công tác. Làm như vậy nhằm tạo cho mỗi chi bộ khi đi sâu vào vùng địch hậu, dù mất liên lạc với khu vẫn tiếp tục lãnh đạo bộ đội theo đúng phương châm, đường lối của Đảng, giành lấy thắng lợi. Công tác chính trị cũng tập trung xây dựng cho mỗi cán bộ, chiến sỹ có tinh thần cách mạng tốt, tin tưởng ở quần chúng, chịu đựng gian khổ, đoàn kết và kỷ luật, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ.

        Với tất cả những bài học đã có từ khi xây dựng, chỉ đạo các đội võ trang tuyên truyền, cứu quốc quân hồi tiền khởi nghĩa, tới nay trải qua những vấp váp, thất bại đầu tiên, quân khu càng tích luỹ thêm được những kinh nghiệm xương máu và càng hiểu sâu sắc bí quyết, điều mấu chốt để lãnh đạo các lực lượng vũ trang xây dựng, chiến đấu giành lấy thắng lợi. Cũng chính vì thế mà công tác tổng kết kinh nghiệm của Liên khu 10 rất được coi trọng ngay từ những ngày đầu. Mùa hè năm 1949, Liên khu 10 đã đóng góp kinh nghiệm của mình trong Hội nghị chính trị viên toàn quốc bằng hai bản báo cáo tổng kết: Chi bộ tự động công tác và võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập.

        Thực tế ngày càng chứng minh một cách rõ ràng cụ thể rằng: nhân dân Tây Bắc trước sau vẫn một lòng hướng theo cách mạng, quyết tâm đi theo Đảng. Nhân dân Tây Bắc đã bào nhiêu năm nay rất cực khổ. Giờ đây ngọn cờ giải phóng của Đảng giương lên đúng lúc, chẳng khác gì mặt trời mọc lên chói lọi giữa đêm tối. Thực tế đã làm cho chúng tôi hiểu sâu sắc thêm: càng phải mạnh mẽ. Chính nhờ có đội ngũ cán bộ mạnh mẽ mà Đảng có quần chúng và giác ngộ, phát động được quần chúng đấu tranh. Tới khi phong trào quần chúng lên cao, đội ngũ cán bộ lại càng phải đông đảo hơn và mạnh mẽ hơn. Trước kia, khi chưa có chính quyền trong tay, còn gặp rất nhiều khó khăn, Đảng ta đã quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ hùng hậu, các đồng chí cán bộ đã quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện mình để trở thành cán bộ của Đảng. Quán triệt những bài học ấy, Liên khu 10 đã rất quan tâm tới công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ.

        Trong toàn liên khu có tới sáu trường lớn: trường Đảng, trường Nguyễn Huệ (bổ túc, đào tạo cán bộ đại đội), trường Hoàng Hữu Nam (bổ túc, đào tạo cán bộ trung đội), trường đào tạo cán bộ tiểu đội và một trường thiếu sinh quân. Ngoài ra, còn có một trường bổ túc cho cán bộ huyện đội và một lớp huấn luyện luân chuyển cho cán bộ, chiến sỹ các đội võ trang tuyên truyền.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:54:11 am

        Trong khi trên tiền tuyến, các đội võ trang tuyên truyền, các tiểu đoàn độc lập vẫn lẫn lộn chiến đấu thì ở hậu phương liên khu, các nhà trường đều đặn hoạt động giống như những guồng máy của một xí nghiệp khổng lồ. Trong các nhà trường theo chủ trương của liên khu, thành phần cán bộ dân tộc ít người ở miền núi đã chiếm một tỷ lệ khá cao, có không ít các chiến sỹ người dân tộc được giao nhiệm vụ làm cán bộ và đưa về nhà trường để bổ túc bồi dưỡng thêm. Mỗi khi tới dự khai giảng hoặc mãn khóa một lớp học, chúng tôi cùng các đồng chí Bùi Quang Tạo, Vũ Dương cũng như các đồng chí khác trong Khu uỷ lại thường ôn lại với nhau những kỷ niệm trước đây trong nhà tù. Ở những nhà tù khổ cực ấy, các đồng chí ta tay đeo xiềng, chân mang cùm, án chém lơ lửng trên đầu mà vẫn rất lạc quan, tin tưởng ở tiền đồ xán lạn của dân tộc, của giai cấp. Các đồng chí biến nhà tù thành trường học, mặc dầu thiếu thốn đủ mọi thứ và địch lại ra sức ngăn cản. Lòng ham học, tinh thần lạc quan, nghị lực của các đồng chí ta đã làm cho nhiều tên chúa ngục phải kinh ngạc kêu lên: “Thật là những con người kỳ lạ”. Bây giờ hoàn cảnh đã đổi khác. Đảng ta đã có biết bao nhiêu trường sở. Các học viên giờ đây, dù kháng chiến còn gian khổ cũng đã có bàn tre, ghế gỗ để ngồi... Bây giờ không còn phải giấu giếm, không một ai ngăn cản được đảng viên ta dạy dỗ lẫn nhau và truyền đạt lại cho quần chúng tất cả những tư tưởng lớn lao vô địch và nhân đạo của chủ nghĩa Mác – Lênin.

        Lớp học này tốt nghiệp xong, lớp khác lại được triệu tập. Cứ thế, đều đặn các nhà trường của liên khu đã góp phần tôi luyện nên những người cán bộ vững vàng để tung ra mặt trận. Một đội ngũ cán bộ đông đảo của liên khu đã hình thành dần dần và đã làm tròn trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân một cách xứng đáng.

        Cuối năm, tính thời gian từ khi các đội vũ trang tuyên truyền được tung trở lại Tây Bắc và các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung được uốn nắn lại các sai lầm cho tới nay cũng chưa quá sáu tháng nhưng tình hình đã sáng sủa trông thấy. Các tin thắng lợi được liên tiếp báo về. Đội xung phong Trung Dũng đã kiên trì giác ngộ nhân dân, tổ chức, củng cố cơ sở, tiến tới sát bờ sông Mã và có bộ phận đã gần tới địa phận châu Điện Biên. Đội xung phong Quyết Tiến đã vào tới Tuần Giáo. Đội xung phong Quyết Thắng đã xuống tới Quỳnh Nhai, đội xung phong Tây Bắc đã tới biên giới Việt – Lào... Các đại đội độc lập cũng hoạt động rất tốt, xây dựng được nhiều khu căn cứ du kích vững chắc ở các vùng Mường Bó (phía dưới Cam Đường – Lào Cai), Kim Nọi, Bản Kết (gần Quỳnh Nhai), Bảo Lạc (dưới phía nam Nghĩa Lộ) và Mường Hung (biên giới Việt – Lào).

        Đến cuối năm, cơ sở ta đã mở rộng được hơn một vạn rưởi cây số vuông, với mấy nghìn đồng bào Mèo và hàng vạn đồng bào Thái cùng đồng bào các dân tộc ít người khác. Những cuộc tổng phá tề đã được mở ra rộng rãi và thu được những thắng lợi giòn giã. Một số đồn lẻ đã bị các tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập tiêu diệt hoặc bức rút. Khối ngụy quân rạn nứt trông thấy. Đã có từng đơn vị tiểu đội, trung đội ngụy vác súng chạy ra xin hàng.

        Trước tình hình ấy, bọn Pháp bắt đầu hoang mang lo sợ. Chúng đã buộc phải rút dần một số đồn nhỏ để lập những cứ điểm lớn và những vùng có phong trào kháng chiến nổi dậy. Các mâu thuẫn khủng khiếp và không sao giải quyết nổi của giặc Pháp đã hình thành bắt đầu từ đấy. Đó là mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán, giữa chiếm đóng và cơ động. Muốn chiếm đóng phải rải quân, nhưng rải quân thì dễ bị tiêu diệt. Muốn tránh bị tiêu diệt phải tập trung quân. Nhưng tập trung quân lại phải bỏ vị trí, không thực hiện được việc chiếm đóng đất đai. Thật khó xử!

        Các vùng cơ sở, căn cứ du kích của ta đã làm cho các cứ điểm địch bắt đầu trở thành những hòn đảo cô lập. Chiến thuật “vết dầu loang” đã hiển nhiên bị giảm tác dụng! Bi-gia - một tên sỹ quan vào loại giỏi trong quân đội nhà nghề của Pháp chuyên hoạt động ở Tây Bắc đã đến lúc lo sợ, hoảng hốt kêu lên: “Chúng ta đã bị giam trong các vị trí mất rồi!”.

        Tây Bắc như bừng sáng trở lại sau những đêm dài tăm tối. Cố nhiên đây mới chỉ là bình minh của thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:56:00 am

        Bước sang năm 1949, đà thắng lợi càng tăng lên. Rõ ràng khi đã có đường lối đúng và tổ chức thực hiện tốt, không có đỉnh cao nào chúng ta không thể vươn tới, không có tình hình khó khăn nào là không thể xoay chuyển lại được. Tháng 1 năm 1949, trước sự trưởng thành mới, liên khu đã chủ trương mở chiến dịch Sông Đà. Chiến dịch này kết quả rất ít, chỉ tiêu hao được một số sinh lực địch, nhưng đã làm cho tinh thần bộ đội, nhân dân rất tin tưởng, phấn khởi vì thấy đây là một dấu hiệu báo rằng: cái thời kỳ long đong, khốn khổ dưới gót sắt của giặc đã chấm dứt... Sang tháng 2 năm 1949, chiến dịch Lào – Hà được mở tiếp. Đồng thời, chiến dịch Sơn La và chiến dịch tây nam Phú Thọ cũng được mở màn. Cả ba chiến dịch cùng gần như song song tiến hành. Bọn địch ở Tây Bắc kêu la lên “Việt Minh đã giành lại được quyền chủ động”.

        Tháng 5 năm 1949, bộ đội của liên khu tham gia chiến dịch Sông Thao cùng hai tiểu đoàn chủ lực của Bộ (tiểu đoàn 54, tiểu đoàn 11). Đồng chí Lê Trọng Tấn – Tư lệnh phó Liên khu trực tiếp làm chỉ huy trưởng mặt trận. Chiến dịch này đã thu được nhiều thắng lợi giòn giã. Cũng tháng 5 năm 1949, bộ đội của liên khu lại tham gia chiến dịch Sông Lô II cùng sáu tiểu đoàn trực thuộc Bộ, phá tan kế hoạch Pô-mô-nơ của Pháp trên dọc sông Lô lịch sử. Đồng chí Bằng Giang làm Tư lệnh mặt trận này. Chiến dịch Sông Lô II cũng đã thắng lợi.

        Tháng 11 năm 1949, chiến dịch Lào – Hà lại mở tiếp. Các đơn vị của Liên khu đã tập kích quyết liệt vào Nghĩa Lộ, Yên Bình Xã. Kết quả: quân địch đóng ở đồng Yên Bình Xã phải rút chạy.

        Cuối tháng 11 năm 1949, chiến dịch Sông Mã - một chiến dịch mở ra đúng lúc địch ở biên giới Việt – Lào đang hoang mang, đã thắng lợi khá giòn giã: tiêu diệt hoàn toàn một cứ điểm địch, gây ảnh hưởng lớn đối với chiến trường Bắc Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng chí bộ đội Pa-thét Lào tăng cường và mở rộng hoạt động. Tháng 12 năm 1949, tham gia chiến dịch đánh địch ở Hoà Bình, bộ đội của Liên khu đã tiêu diệt gọn được một đại đội lê dương tinh nhuệ.

        Năm 1949 có thể nói là môt năm ta mở chiến dịch liên tục: chiến dịch do liên khu mở, chiến dịch do Bộ mở, liên khu tham gia. Mặc dầu trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn kém, trang bị còn rất thiếu thốn, chưa tiêu diệt được thật nhiều sinh lực địch, nhưng bộ đôi của liên khu đã gây được những tác động không nhỏ vè chính trị, quân sự. Cũng trong năm 1949, từ tháng 5, liên khu đã tập trung được hai mươi bảy đại đội trở về xây dựng lại các trung đoàn chủ lực, căn cứ theo chủ trương, phương châm mới của Đảng. Tôi còn nhớ khi thực hiện chủ trương ấy của Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cũng đã nảy ra nhiều cuộc tranh cãi gay gắt trong hàng ngũ cán bộ của Tây Bắc. Có đồng chí cho rằng địch còn mạnh, còn đủ sức để thực hiện chiến thuật “vết dầu loang”. Có đồng chí cho là lực lượng vũ trang địa phương còn quá non yếu, chưa đủ sức giữ vững phong trào. Có đồng chí lo xa hơn: rút bộ đôi về tập trung, khéo lại phạm sai lầm như năm 1948, lại mất đất, bỏ dân, lại từ hữu sang tả... Liên khu uỷ đã kiên trì giải thích để anh em hiểu: sự so sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, ta đã mạnh lên, địch ngày càng suy yếu. Địch không đủ sức để vừa rải quân ra chiếm đóng, bình định vùng tạm chiếm, vừa đi cướp thêm đất của ta như trước nữa. Hiện nay địch đang co về thế phòng ngự để tránh đòn của quân dân ta tiến công cả ở hậu phương, cả ở tiền tuyến. Trong khi đó, chiến tranh du kích của ta đã phát triển rộng khắp, bộ đội địa phương đã lớn mạnh; nếu không rút những đại đội độc lập về xây dựng thành những lực lượng tập trung lớn hơn thì không thể đánh được những trận lớn, mở những chiến dịch lớn tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch để làm thay đổi sự so sánh lực lượng giữa ta và địch mau chóng hơn. Nói tóm lại nếu không xây dựng được chủ lực mạnh thì không đấy mạnh được vận động chiến tiến lên như phương châm mới của Đảng đã để ra. Cuối cùng, sau những cuộc đấu tranh khá gay go, tất cả các cán bộ trong liên khu mới nhất trí. Và sau đó, khi rút hai mươi bảy đại đội độc lập về, quả như nhận định của Liên khu uỷ, Bộ Tư lệnh Liên khu, phong trào ở các địa phương vẫn hoàn toàn vững chắc, không những thế có nơi lại tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trước.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:58:12 am

        Năm 1949. Suốt cả năm, liên khu sôi nổi không khí chiến đấu và dồn dập tin thắng lợi. Trong cuộc hội nghị cuối năm kiểm điểm công tác của liên khu trong ba năm kháng chiến, báo cáo của Liên khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu đã có những nhận định rất quan trọng: “... Tình hình đen tối của năm 1947 đã hoàn toàn chấm dứt. Về cơ bản liên khu đã thực hiện được chỉ thị của Đảng: biến hậu phương địch thành tiền phương ta, làm cho chiến thuật “cứ điểm nhỏ, vết dầu loang” của địch đã giảm sút và đang dần dần đi tới mất hết tác dụng. Mộng của chúng khép chặt biên giới Việt – Lào, Việt – Trung đã gặp nhiều khó khăn. Âm mưu của chúng định dùng nhân lực, vật lực của Tây Bắc để theo đuổi chiến tranh đã bị phá vỡ về cơ bản... Ở Tây Bắc, ta từ thế bị động hoàn toàn đã tiến sang chủ động ở nhiều mặt trận. Trước kia ta bị địch bao vây, bây giờ tình hình đã đổi ngược lại, địch bị ta vây hãm. Công cuộc xây dựng căn cứ địa Tây Bắc theo chỉ thị của Đảng đã thành công một phần lớn...”.

        Mùa xuân 1950, Chiến dịch Sông Mã thắng lợi làm rung chuyển cả phòng tuyến quân địch ở suốt dọc biên giới Việt – Lào, vang dội sang cả chiến trường Bắc Lào. Theo chủ trương mới của Đảng, mặt trận Tây Bắc đã được thành lập (Liên khu 10 và liên khu 1 sáp nhập thành Liên khu Việt Bắc, đồng thời mặt trận Tây Bắc cũng được tổ chức). Tôi cùng một số cán bộ chính trị, tham mưu đi vào Tây Bắc để tìm hiểu tình hình chiến trường và giải quyết một số vấn đề về tổ chức. Vì cuộc hành quân xa xôi, lại đi qua một số nơi chưa phải đã hoàn toàn giải phóng, hoặc chưa quét sạch phỉ, cho nên chúng tôi phải tổ chức thành bộ đội hành quân chiến đấu, đồng thời phải mang khá nhiều lương thực và vật dụng đi theo. Ngoài trang bị vũ khí ra, chúng tôi còn có điện đài, đèn bão, cà mền, lều vải... lỉnh kỉnh, hai con ngựa thồ không hết.

        Chúng tôi từ Phú Thọ vượt sông Hồng, đi theo hướng Đồn Vàng để sang Vạn Yên (Sơn La). Qua sông Hồng được một chặng, đường đi bắt đầu rậm rạp, gập ghềnh. Đất Đồn Vàng trước đây vốn là đất tạm chiếm, gần đây mới được giải phóng nhưng thỉnh thoảng địch vẫn từ đất Sơn La chọc sang quấy rối. Buổi chiều hôm ấy cả đoàn chúng tôi đang đi, sắp tới Đồn Vàng thì thấy một số dân từ phía trước chạy lại, tưởng có địch, anh em vệ binh của đoàn dừng lại bố trí. Nhưng một lúc sau thấy một đoàn dân công kĩu kịt gánh gạo đi tới. Hỏi ra mới biết anh chị em đang đi tiếp tế cho chiến dịch Lê Lợi. Ngày hôm sau, vượt Dốc Bụt, chúng tôi sang đất Sơn La.

        Càng đi càng thấy sự bao la, hiểm trở, càng thấy rõ mọi vẻ đẹp kỳ diệu của núi rừng Tây Bắc. Việt Bắc có sự hấp dẫn khác thì Tây Bắc cũng có không khí riêng, vẻ mặt riêng biệt hùng vĩ của nó. Càng đi, càng hiểu thấm thía hơn mọi bước đường gian lao và vô cùng anh dũng, kiên cường của các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập đã trải qua. Càng đi càng hiểu nhiều điều cụ thể hơn. Đồng bào Tây Bắc rất đáng mến, chỉ trừ một số người thuộc tầng lớp trên, còn tất cả đều đi theo cách mạng, căm thù giặc, yêu Tổ quốc thiết tha. Lòng yêu Tổ quốc, tin tưởng cách mạng đã thể hiện rất giản dị và cụ thể ở lòng tin yêu, ủng hộ cán bộ, bộ đội.

        Đoàn chúng tôi phần nhiều đi ban ngày vì vùng giải phóng đã rộng lớn. đi tới đâu chúng tôi cũng được nhân dân các bản (vẫn tản cư ở trong rừng) tiếp đón ân cần, mừng rỡ đến đó, mặc dầu chỉ biết chúng tôi là “cán bộ, bộ đội” như tất cả các “cán bộ, bộ đội” mà đồng bào đã được gặp. Đồng bào còn rất nghèo khổ vì hầu hết của cải, trâu bò, gà lợn đã bị giặc vơ vét, nhưng còn cái gì quý, có thứ gì ngon đồng bào đều đem cho “cán bộ, bộ đội”. Có một cụ già ở một bản, nghe tin có đoàn chúng tôi đi qua, mang đến cho một con gà và ba quả trứng. Đoàn chúng tôi cám ơn và nhất định không nhận. Ông cụ khóc và nói: “Bố con tôi còn được sống đến ngày nay là nhờ có cán bộ, bộ đội. Nay không nhận cho, lòng dạ tôi khổ sở lắm”. Bản nào cũng đều có người đưa chúng tôi đi theo từng cung đường một (mỗi cung thường là một ngày đường). Người của bản này đưa đoàn chúng tôi tới đầu bản kia ở cuối cung đường, gọi người ra bàn giao lại rất cẩn thận rồi mới quay về. Người của cung đường mới vui vẻ tiếp nhận chúng tôi, rồi hôm sau lại hăng hái đưa đi bàn giao cho trạm mới. Người nào cũng tích cực, yêu cầu là đi ngay, gia đình dù đang bận việc gì cũng để đấy. Đồng bào làm nhiệm vụ của mình một cách rất hồn nhiên, tưởng như vô tư lự, nhưng thực ra đã được giác ngộ, hiểu rõ trách nhiệm của mình từ lâu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 09:59:54 am

        Sau những ngày đi ròng rã, đoàn chúng tôi đã tới bờ sông Mã. Đứng trên một quả đồi hoa lau nở trắng, nhìn xuống dòng sông êm ả chảy, với những chiếc thuyền độc mộc thon dài, mũi cong vút, trôi xuôi, chúng tôi cảm thấy mọi nỗi mệt nhọc của đường trường như dịu hẳn xuống. Đang mùa xuân, hoa nở suốt một dải bên sông. Những ngọn đồi phủ hoa trắng xoá, nom nhấp nhô xa gần như những đàn cừu ở xứ lạnh. Bầu trời mùa xuân trên biên giới bao la trong vắt. Những dải mây hiền lành trôi từ đất Việt qua Lào soi bóng xuống dòng sông đang tắm mát cho cả hai bờ thân thiết. “Tổ quốc ta thật là tươi đẹp!”. Câu nói ấy ở đây không còn là một cái gì trừu tượng. Thiên nhiên hiền hoà và tươi trẻ của đất nước có lẽ cũng đã góp một phần quan trọng cho việc tạo nên tâm hồn đẹp đẽ, nhuần nhị của mỗi người dân Việt Nam ta. Bỗng nhiên, khi đứng đây tôi lai nhớ tới các đồng chí trong Trung đoàn Bế Sơn Cương, Tiểu đoàn 90... những đơn vị đã anh dũng lập công trong chiến dịch vừa qua. Đã có một số đồng chí vĩnh viễn nằm xuống bên bờ sông Mã cổ kính này. Trong số những đồng chí đã hy sinh có Lê Báo, một cán bộ trẻ tuổi, hăng say, đầy triển vọng. Lê Báo trước đây vốn là bí thư của Bộ tư lệnh Liên khu. Người thanh niên tuấn tú ấy đã bao lần thiết tha xin được ra đơn vị để chiến đấu. Lê Báo đã lập nhiều chiến công đáng kể, nhưng tại đây, một viên đạn của quân thù đã cướp anh đi mất...

        Bên bờ sông Mã, đoàn chúng tôi đã dừng lại gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo các đơn vị và địa phương. Công việc thống nhất các lực lượng đã được đem ra thảo luận và quyết định. Một giai đoạn mới của chiến trường đã mở ra trước mắt chúng tôi, làm dấy lên những niềm hy vọng, vui sướng dào dạt trong lòng.

        Ít ngày sau, đoàn chúng tôi trở về qua đường Hồi Xuân, La Hán. Đã có chỉ thị chuẩn bị mở chiến dịch Lê Hồng Phong I.

        Trung ương nhận định, hiện nay ở Bắc Bộ, Tây Bắc là nơi địch đã yếu và sơ hở nhất, vì cơ sở địch hậu của ta đã rộng rãi, vững chắc, nhất là các vùng Sơn La, Điện Biên Phủ. Những thắng lợi gần đây của quân dân ta ở mặt trận Hoà Bình, của quân Pa-thét Lào và những thắng lợi của Quân giải phóng Trung Hoa ở biên giới Trung - Việt đã có ảnh hưởng rất to lớn, làm cho tinh thần bọn Pháp ở Tây Bắc càng thêm lung lay dữ dội. Hơn nữa, so với các chiến trường khác, công sự của địch ở Tây Bắc chỉ kiên cố ở mức tương đối.

        Chấp hành chỉ thị của Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Lê Hồng Phong I với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thêm một phần đất đai của Tây Bắc.

        Chiến dịch Lê Hồng Phong I là chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Tây Bắc từ trước tới nay, cho nên đã làm cho tất cả cán bộ, chiến sỹ trong mặt trận đều hân hoan, phấn khởi. Riêng đối với tôi và đồng chí Lê Trọng Tấn, đây cũng là lần đầu tiên chỉ huy một mặt trận rộng lớn, quy mô, với binh lực mạnh, tập trung. Bộ đã điều tới một trung đoàn và một tiểu đoàn chủ lực có truyền thống đánh công kiên oanh liệt (Trung đoàn Thủ đô và Tiểu đoàn Phủ Thông) để làm lực lượng chủ yếu cho chiến dịch. Ngoài ra, còn có đại bác 75 ly và phóng pháo 187 ly, một loại súng cối hạng nặng do quân giới ta tự chế tạo, tham gia chiến đấu.

        Phố Lu đã được chọn là điểm công kích đầu tiên và chủ yếu trong đợt đầu của chiến dịch. Tôi đã có dịp đi qua Phố Lu trong những ngày chưa kháng chiến, Phố Lu khi ấy còn là một dãy phố nhà cửa san sát, buôn bán sầm uất bên sông Hồng. Nó được coi như một “cửa ngõ” của Tây Bắc, một “thương khẩu” quan trọng trên con đường giao thông Lào Cai – Hà Nội và xa hơn nữa là Hà Nội – Vân Nam. Phố Lu khi xưa hầu như thâu đêm đỏ lửa. Lửa chài trên sông, lửa trên nhà ga với những chuyến tàu đêm thét còi xuôi ngược. Từ ngày giặc chiếm, Phố Lu bị biến thành một cứ điểm lớn. Tường thành kiên cố bao quanh. Lô cốt nhòm ra bốn phía. Nhân dân bị đuổi hết ra ngoài. Giặc chiếm đóng tất cả các dãy phố làm nhà ngủ, trại con gái, tàu ngựa, nhà kho... Phố Lu trở thành một chỉ huy sở phân khu của địch, một cái ung nhọt rất lớn, rất nhức nhối của Tây Bắc. Đã nhiều lần đi thăm chiến trường của liên khu và các đơn vị, chúng tôi phải vượt núi, đi vòng phía sau lưng Phố Lu, rất gian khổ, vất vả. Từ trên những mỏm núi cao nhìn xuống thị trấn cũ chỉ thấy những bóng giặc đi lại lúc nhúc, những chiếc ống bơ sáng loé ở hàng rào dây thép gai và những lỗ châu mai hau háu...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:02:48 am

        Bộ chỉ huy mặt trận Tây Bắc cũng như ban chỉ huy chiến dịch quyết định phải tiêu diệt bằng được Phố Lu để mở đường lên biên giới và nếu có điều kiện thì giải phóng cả vùng biên giới Trung - Việt.

        Trận đánh được giao cho Trung đoàn Thủ đô đảm nhiệm. Chiều ngày 8 tháng 2 năm 1950, cuộc chiến bắt đầu. Thực ra từ buổi trưa, bọn lính tuần tiễu của Phố Lu đã chạm một số đơn vị của ta; súng đã nổ lẻ tẻ, máy bay địch đã kéo lên oanh tạc nhiều đợt vào các cửa rừng và cao điểm quanh thị trấn.

        Chỉ huy sở của mặt trận đặt cách Phố Lu không xa. Đứng ở đài quan sát, chúng tôi có thể nhìn ra trận địa. Sau những trận oanh kích của máy bay địch, chúng tôi điện hỏi ngay trung đoàn về tình hình thương vong của đơn vị. Được trung đoàn trả lời: lực lượng vẫn nguyên vẹn, tinh thần bộ đội  vẫn rất tốt, chúng tôi mừng lắm.

        Giờ G đã tới. Quyết tâm của mặt trận không hề thay đổi. Quả phóng pháo đầu tiên nổ vang dội cả rừng núi. Tiếp sau đó là sơn pháo 75 ly, phóng bom, SKZ...

        Từ trên đài quan sát chúng tôi nom rất rõ những chiến sỹ xung kích chạy theo con đường đất đỏ như son rồi toả ra, tiến vào đồn địch, thấy cả những làn khói moóc-chi-ê bốc chung quanh thị trấn mù mịt.

        Cuộc chiến đấu mỗi lúc một thêm gay gắt. chúng tôi đã đánh giá địch chưa đúng. Địch ở Phố Lu rất mạnh. Điện từ trung đoàn báo về: bộ đội đã xung phong rất quả cảm nhiều đợt nhưng vẫn chưa chiếm được đầu cầu, mấy lần chiếm được một số lô cốt nhưng lại bị đánh bật trở ra.

        Trời tối dần. Đêm tối ở Tây Bắc cũng có những vẻ riêng biệt của nó: dày đặc, giá lạnh. Tất cả mọi người trong chỉ huy sở đều thức trắng. Tiếng súng ngoài Phố Lu vẫn dồn dập dội về.

        Trung đoàn đề nghị cho tiếp tục tiến công. Một đồng chí trong chỉ huy sở nhìn ra đêm tối sốt ruột, bồn chồn:

        - Hay là ta cho đốt dãy phố trước khu nhà ga để lấy ánh sáng cho pháo bắn?

        Tôi vội nói ngay:

        - Ấy chết, sao lại làm thế?

        Hiểu ý tôi từ đó anh không nhắc lại đề nghị ấy nữa. Bộ chỉ huy mặt trận cùng trao đổi ý kiến. Trước tình hình này, có một quyết tâm lớn chưa đủ cần phải có những chủ trương đúng. Chúng tôi điện cho Trung đoàn Thủ đô: chỉ để lại một bộ phận nhỏ bao vây và liên tục quấy rối. Đại bộ phận rút ra, tiến hành rút kinh nghiệm, củng cố để mở đợt tiến công khác.

        Ngày hôm sau, trong các khe núi chúng quanh Phố Lu, các đại đội họp bàn kiểm điểm rất sôi nổi. Chúng tôi càng thấy rõ mình đã đánh giá Phố Lu chưa đúng. Phố Lu rất mạnh. Ngoài ra chúng tôi còn thấy một số vấn đề chưa thoả đáng trong việc tổ chức tiêu diệt viện binh địch và sử dụng lực lượng của trung đoàn... Suốt ngày hôm ấy, máy bay địch lồng lộn bắn phá. Các cuộc kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh của quân ta vẫn tiến hành đều đặn và sôi nổi. “Dừng lại để tiến mạnh hơn” – Các đơn vị đã nắm được chủ trương của Bộ chỉ huy mặt trận.

        Đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Tiểu đồng xung kích 54 mới được thay thế đã xung phong rất gan góc đã làm rung chuyển cả Phố Lu. Nhưng vẫn chưa chiếm được đầu cầu. Những báo cáo gửi về liên tiếp, lần nào cũng gần giống như lần nào: “Đã mấy đợt qua được rào, nhưng vấp tường thành kiên cố, không vào được”.

        Không khí trong chỉ huy sở rất trầm trọng và căng thẳng. Chắc chắn dưới trung đoàn, ngoài trận địa còn căng hơn thế nhiều lắm. Tôi trao đổi ý kiến với đồng chí Cao Văn Khánh - chỉ huy phó mặt trận về vấn đề pháo binh. Chúng tôi đã rút được ra một số vấn đề về tổ chức đột kích của bộ binh nhưng chưa biết pháo binh cần phải làm như thế nào cho tốt hơn.

        Trong chiến dịch Sông Thao, đồng chí Cao Văn Khánh cũng làm chỉ huy phó mặt trận, đã có nhiều kinh nghiệm sử dụng pháo binh đánh Phố Ràng. Ở đây, đồng chí đã áp dụng những kinh nghiệm ấy: phân tán hoả lực pháo binh, chia khu vực để bắn, nhằm kiểm soát tẩt cả bốn mặt đồn. Nhưng chỗ này lại là Phố Lu, một thị trấn lớn...

        Vấn đề pháo binh đã trở thành một vấn đề quan tâm chung của Bộ chỉ huy mặt trận. Và cuối cùng, sau khi trao đổi ý kiến với các đồng chí chỉ huy trực tiếp của pháo binh, chúng tôi cùng nhất trí phải tập trung hoả lực lại nếu không tập trung hoả lực không thể đột phá được cửa mở, phải tạo điều kiện cho xung kích chiếm lấy “đầu cầu”.

        Một mệnh lệnh mới được gửi xuống cho trung đoàn: Mọi việc đều ngừng lại để củng cố, chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:04:19 am

        Trong những ngày trung đoàn kiểm điểm rút kinh nghiệm thì pháo binh chuyển trận địa, Bộ chỉ huy mặt trận cũng phân công nhau xuống từng tiểu đoàn, đại đội để kiểm tra, đôn đốc. Tôi đi tới một khe suối lớn ở ngay bên sườn Phố Lu; lúc đó Tiểu đoàn 54 đang đóng rải rác. Tôi bước tới một nhóm khoảng hơn mười đồng chí đang ngồi sinh hoạt dưới một lùm cây. Quần áo người nào cũng đều lấm láp và loang lổ thuốc súng. Có người đầu quấn băng trắng toát, che kín hết cả vầng trán, chỉ để lộ ra những mớ tóc rậm, cứng, đầy bụi đất và cặp mắt lừ lừ gan góc. Mặt đồng chí nào cũng khô đanh, sạm đi, mắt quầng thâm nhưng súng đạn vẫn kè kè bên người. Tôi biết tinh thần chiến đấu của anh em vẫn còn rất rạo rực.

        Một đồng chí người mảnh dẻ, cặp mắt linh lợi đứng lên báo cáo với tôi là các đồng chí đang họp chi bộ. Tôi đề nghị được cùng tham gia. Đồng chí bí thư - người cán bộ mảnh dẻ ấy quay lại những đồng chí ngồi vòng tròn trước mặt, anh cất tiếng nói, không to lắm, nhưng dứt khoát:

        - Ý kiến các đồng chí thấy thế nào? Chúng ta còn có thể chiến đấu được nữa không?

        Hơn một chục cánh tay cùng giơ phắt lên. Những khuôn mặt đều ngẩng cao:

        - Tôi có ý kiến...

        - Tôi xin nói...

        - Đề nghị trên cho tiếp tục đánh!

        Đằng sau làn da như đã khô đanh và sạm đen vì lửa đạn ấy, tôi như thấy có những cái gì đang dào dạt dâng lên và toả sáng. Chi bộ ấy, hôm mới đây, trước giờ xuất kích có hai mươi đồng chí, bây giờ chỉ còn mười bốn. Nhưng sự vắng vẻ, thưa thớt hôm nay không hề làm cho một ai chùn bước. Chi bộ đã có những đồng chí Hội, Lanh, Tiềm..., những người công nhân Thủ đô mặc áo lính đã chiến đấu như những con sử tử trong những đợt tiến công vừa rồi.

        Rời cuộc họp của chi bộ ấy tôi tới tham gia cuộc họp của các chi bộ khác. Ở đâu tôi cũng thấy bật lên một điều là: đảng viên ta vô cùng quả cảm và rất nhiều mưu trí. Tất cả mọi đơn vị đều quyết tâm đánh thắng.

        Ngày 13 tháng 2 năm 1950, đợt tiến công thứ ba bắt đầu. Lần này, chúng tôi ra tận cửa rừng – nơi các chiến sỹ Thủ đô xuất kích. Vui quá! Trẻ trung quá! Hăng hái quá! Chiến sỹ vừa reo hò vừa lướt qua trước mặt chúng tôi. Trong khi đó những quả phóng pháo lại nổ vang trên nền trời chiều đã bắt đầu mù xám, những loạt sơn pháo 75 ly đã được tập trung lại, gầm lên và vang vọng lai ầm ĩ từ các vách núi.

        Chúng tôi bắt tay từng đồng chí chỉ huy và chiến sỹ xung kích, sau đó lên đài quan sát.

        Cả ba khẩu sơn pháo vẫn tiếp tục nã tập trung vào khu A. Từng mảng tường vỡ tung. Những cột gỗ, ván thép bay lên từng loạt như bươm bướm. Trong những đám khói dày dặc bỗng có một chấm đỏ hiện lên.

        - Cờ của ta kia rồi.

        Một đồng chí trong chỉ huy sở reo ầm.

        Chấm đỏ ấy hiện rõ dần, sau đó những bóng người lố nhố vượt lên và nối tiếp nhau thoăn thoắt vào trong đồn.

        Điện từ trung đoàn báo lên: Xung kích đã chiếm được đầu cầu.

        Tất cả chúng tôi cùng nhìn nhau và gần như cùng thở trút ra nhẹ nhõm.

        Cuộc chiến đấu trong tung thâm tuy cũng ác liệt nhưng chỉ kéo dài thêm một lúc. Cả Phố Lu đã bốc cháy. Ngọn lửa cao trên mười thước. Những phát ba-dô-ca, SKZ nổ rất đanh. Đứng 19 giờ 30 phút, đồng chí Vũ Yên – Trung đoàn trưởng nói qua máy điện thoại: “Báo cáo! Phố Lu đã hoàn toàn bị tiêu diệt”.

        Tất cả chúng tôi trên chỉ huy sở cùng rảo bước xuống núi... Sáu ngày, sáu đêm đã trôi qua. Trận đánh đã kéo dài và quyết liệt ngoài dự kiến. Chiến thắng Phố Lu đã lớn nhưng có lẽ còn lớn hơn nữa đó là những bài học xương máu mà chúng tôi đã rút được ra qua trận thử lửa này, những bài học về đánh đồn, diệt viện, về quan điểm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta... và nhiều mặt khác nữa.

        Sau chiến thắng Phố Lu, một đơn vị của Tây Bắc đã tiêu diệt Bản Lầu. Rồi một số cứ điểm khác liên tiếp bị xóa sạch trên những đoạn còn lại của phòng tuyến sông Thao như Chợ Châu, Bảo Nhai, Bến Đền...

        Hàng mấy trăm cây số vuông cùng hàng vạn đồng bào Tây Bắc được giải phóng”...

        Trích: Thượng tướng Song Hào, Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng (Hồ Phương thể hiện), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội – 2005, tr. 139 – 193.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:12:52 am
             
11. TRUNG TƯỚNG VƯƠNG THỪA VŨ (NGUYỄN VĂN ĐỒI)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/Vuong-Thua-Vu3_zpsynfrixun.jpg)

        Trung tướng Vương Thừa Vũ sinh ngày 24 tháng 12 năm 1910 tại làng Vĩnh Minh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

        Năm 1937, Vương Thừa Vũ theo học tại Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).

        Cuối năm 1941 – 1942 bị thực dân Pháp bắt, giam tại Bá Vân (Thái Nguyên). Được giác ngộ cách mạng, Vương Thừa Vũ tham gia công tác binh vận, phụ trách huấn luyện quân sự trong tù.

        Tháng 8 năm 1945, đồng chí gia nhập quân đội.

        Năm 1946 tham gia tổ chức và chỉ huy bảo an binh Hà Nội; là Khu trưởng Khu 11, chỉ huy quân sự Khu 2 bảo vệ Hà Nội.

        Năm 1947 – 1948 là Khu phó Khu 4, Phân khu trưởng Phân khu Bình - Trị - Thiên.

        Từ tháng 4-1949 đến 1964 làm nhiệm vụ tổ chức và là Đại đoàn trưởng kiêm chính uỷ Đại đoàn 308, trực tiếp tham gia chỉ huy các chiến dịch: Sông Lô, Đường 4 và tham gia các chiến dịch: Biên Giới, Trung Du, Đông Bắc, Hoà Bình, Tây Bắc và Điện Biên Phủ.

        Từ Mặt trận Điện Biên Phủ trở về tham gia tiếp quản Thủ đô – tháng 10 năm 1954, đồng chí Vương Thừa Vũ được giao nhiệm vụ Chủ tịch Uỷ ban quân chính Hà Nội.

        Từ năm 1955 đến 1963 là Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn.

        Từ 1964 – 1980 đồng chí là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, kiêm Giám đốc Học viện Quân chính và trực tiếp là Tư lệnh Quân khu 4 (1964 – 1971).

        Với những công lao đóng góp xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng chí Vương Thừa Vũ đã được Đảng, Nhà nước, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: được phong quân hàm Trung tướng năm 1974; được trao Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (Hạng nhất, hạng ba), Huân chương Chiến thắng hạng nhất...

        Trung tướng Vương Thừa Vũ là một người chỉ huy sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể và có tác phong rất quyết đoán... Suốt cuộc đời binh nghiệp, điều mà ông trăn trở - theo lời Thiếu tướng Chu Phác ghi lại – đó là về cách đánh, về chiến thuật quân sự mà thường chúng ta phải thực hiện trong hoàn cảnh “yếu đánh mạnh, ít địch nhiều” với quan điểm chiến tranh nhân dân. Về chiến thuật tiến công, ông chỉ đạo tập trung ưu thế đúng mức để đạt được tư tưởng “một diệt, bốn cắt”. Quan trọng là phải diệt được chỉ huy, phá vỡ thông tin của đối phương; phải cắt được pháo binh với bộ binh địch, cắt không quân địch với mặt đất, cắt xe tăng với bộ binh và cắt bộ binh với bộ binh... Từ bài học chiến dịch Điện Biên Phủ đến các trận đánh Mỹ trên chiến trường miền Nam, ông rút ra 7 chữ: “Quyết, vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt”.

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Phó tổng tham mưu trưởng, Tướng Vương Thừa Vũ cùng cộng sự xây dựng các kế hoạch tiến công với các loại hình chiến thuật khác nhau. Tất cả đều thể hiện mưu kế hay, nghi binh, thế trận hiểm (vững chắc) và lực tổng hợp. Mưu cao, thế hiểm sẽ tạo thêm lực mạnh. Tướng Vũ cực lực phê phán “Hữu dũng vô mưu” cũng như chân phương khờ dại, ngây ngô. Chính vì vậy mà Tướng Vương Thừa Vũ nêu ra tư tưởng chỉ đạo cách đánh: “Giữ bí mật, tạo bất ngờ, giành chủ động, đánh tiêu diệt”. Bí mật là sức mạnh to lớn, có giữ được bí mật mới tạo được bất ngờ; bất ngờ thì ít thành nhiều, yếu thành mạnh, giữ được bí mật, tạo được bất ngờ thì giành được chủ động và thực hiện được đánh tiêu diệt. Có tư tưởng chỉ đạo chiến thuật đúng, bài binh bố trận hay, theo Tướng Vũ còn điều quan trọng nữa của người chỉ huy đó là “Điều binh khiển tướng”.

        Từ những điều trăn trở và những trải nghiệm của cuộc đời binh nghiệp, Trung tướng Vương Thừa Vũ đã viết nhiều tác phẩm, luận văn quân sự có giá trị. Bên cạnh đó là một số cuốn hồi ký, ký sự lịch sử. Là một vị tướng sinh ra ở Hà Nội, ra đi làm cách mạng, từng được giao đảm nhiệm các chức vụ: Khu trưởng Khu 11, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội trong 60 ngày đêm khói lửa mở đầu cho toàn quốc kháng chiến; rồi năm 1954 làm chỉ huy các lực lượng vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội... Vương Thừa Vũ đã gắn bó và có nhiều trang viết về Hà Nội. Xin giới thiệu những trang viết về kỷ niệm sâu sắc tại Mặt trận Hà Nội của Trung tướng Vương Thừa Vũ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:14:02 am

MẶT TRẬN HÀ NỘI

        “... Tôi rời Hà Nội từ tháng 10 năm 1945, đi làm công tác huấn luyện quân sự. Trước khi lên đường, đồng chí Văn Tiến Dũng, Quân khu trưởng Quân khu II (gồm 8 tỉnh hồi đó là: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Sơn Tây, Hà Đồng, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) gọi đến giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi mở lớp bồi dưỡng cán bộ cấp trung đội, đại đội của quân khu. Lớp này tổ chức tại Ba Thá, từ nhà ở, đến bữa cơm hàng ngày của các học viên đều do Đảng bộ và nhân dân địa phương lo lắng chu đáo. Tiếp đó, Bộ Tổng chỉ huy điều tôi sang trường cán bộ ở Sơn Tây làm huấn luyện viên các khoá V và VI rồi lại sang làm huấn luyện viên khóa I Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn (Nay là Trường sỹ quan Lục quân 1)

        Giữa tháng 10 năm 1946, tôi đang dẫn học sinh đi tập dã ngoại ở chân núi Ba Vì thì nhận được điện của Thường vụ Trung ương Đảng gọi về gấp. Hồi ấy, ở Hà Nội quân Pháp hay giở trò khiêu khích nên các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước không làm việc trong thành phố. Tôi được hẹn đến “dinh tổng đốc Hà Đông”. Đó là một toà nhà xây theo kiểu cổ “kín cổng cao tường”, ở gần cầu thị xã. Từ đường phố chính đi vào phải qua một cổng lớn, như cổng đình, hai cánh cửa lim rất to, chạm trổ cầu kỳ. Qua cổng đến cái sân khá rộng, nói đúng hơn thì đây là một vườn hoa có nhiều cây to, nhiều chậu cây cảnh, đường đi dọc đều lát gạch Bát Tràng. Cuối sân là toàn nhà gạch một tầng, xây trên nền cao, hiên rộng nhiều gian, nhiều cột, mái cong. Tôi đến “dinh tổng đốc Hà Đông:” lúc quá trưa ngày 15 tháng 10 năm 1946. Thường vụ Trung ương Đảng đang họp. Nhưng tôi được phép đi thẳng vào phòng họp. Các đồng chí tạm ngừng làm việc. Đồng chí Trường Chinh tự tay xếp thêm một cái ghế vào bên cạnh rồi thân mật bảo tôi:

        - Đồng chí Vũ ngồi đây.

        Lúc mới vào phòng này thoáng gặp vẻ tư lự  trên nét mặt các đồng chí Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp... tôi đã cảm nhận rằng hình như Thường vụ Trung ương Đảng đang bàn luận về một việc gì hệ trọng lắm. Ngồi một lát, tôi càng thấy nhận xét đó là đúng, bởi vì ngay trong lúc tạm nghỉ các đồng chí cũng không nghỉ, vẫn theo đuổi những suy nghĩ của mình, người ngồi tại chỗ bên bàn họp, người đi đi lại lại nhè nhẹ đặt từng bước chân, không ai ra khỏi phòng, không ai nói gì với ai, căn phòng im lặng. Tôi khoanh tay ngồi, cũng suy nghĩ, băn khoăn tự hỏi: Không hiểu tại sao mình lại được gọi vào đây? Điện gọi mình về nhận chỉ thị cơ mà, vậy thì cớ sao lại ngồi vào bàn họp này? Chẳng tự giải đáp được, tôi ngồi im như phỗng, nghe tim đập thình thịch, hồi hộp chờ đợi. Tôi càng hồi hộp khi tất cả các đồng chí trở vào ngồi quanh bàn họp và ai cũng nhìn đồng chí Trường Chinh. Ban sáng, lúc tôi nhận được điện về gặp Thường vụ Trung ương Đảng, tôi đã nghĩ: có lẽ các đồng chí hỏi mình về tình hình cuộc khởi nghĩa ở Nghĩa Lộ? Suốt dọc đường đạp xe từ Sơn Tây về thị xã Hà Đông, tôi cố nhớ lại quá trình chuẩn bị và diễn biến của cuộc khởi nghĩa cùng những bài học xương máu mà tôi đã rút ra để trình bày mạch lạc với Thường vụ Trung ương Đảng. Từ hơn một năm nay tôi luôn luôn day dứt trong lòng về cuộc khởi nghĩa không đạt yêu cầu này. Cho nên, trong lúc này, ngồi trước các đồng chí lãnh đạo của Đảng, thấy không khí phòng họp nghiêm trang quá, tôi càng tin chắc các đồng chí gọi tôi đến để hỏi về việc đó. Thế là tôi chủ động đứng bật dậy, báo cáo:

        - Thưa các đồng chí, việc khởi sự ở Nghĩa Lộ bị thất bại, về chỉ huy quân sự, tôi xin chịu hết trách nhiệm, chịu tội trước Đảng... tôi xin...

        Tôi mới nói đến đây thì cả phòng họp trang nghiêm rộn lên tiếng cười khiến tôi lúng túng.

        - Không phải đâu - Đồng chí Trường Chinh nói chen vào và nhìn tôi với cặp mắt thân thương.

        Vẫn âm điệu chậm rãi, dịu dàng, đồng chí Trường Chinh nói tiếp:

        - Đồng chí Vũ ngồi xuống! Thường vụ gọi đồng chí đến để giao nhiệm vụ mới, quan trọng, tin rằng đồng chí có thể gánh vác được.

        Chờ tôi trở lại bình tĩnh và căn phòng dứt hẳn tiếng cười, đồng chí Trường Chinh tiếp tục nói, thong thả, rành mạch từng tiếng, giọng đồng chí vẫn dịu dàng nhưng bàn tay đồng chí nắm chắc lại khe khẽ đập xuống mặt bàn theo nhịp từng câu nói:

        - Giặc Pháp đang ráo riết chuẩn bị, sớm muộn thế nào chúng cũng đánh ta, đánh úp Hà Nội, chiếm Thủ đô ta. Trung ương Đảng giao cho đồng chí Vũ làm Chỉ huy trưởng Quân khu XI, quân khu đặc biệt Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:14:29 am

        Đồng chí phân tích tình hình, nói ý nghĩa chiến tranh toàn dân kháng chiến lâu dài, rồi chỉ thị cho tôi những việc trước mắt cần phải làm tốt: Hà Nội phải được chuẩn bị sẵn sàng, đề phòng địch trở mặt gây hấn... Nếu chúng cố tình tấn công đánh chiếm Hà Nội thì ta phải lập tức đánh trả ngay. Phải giành thắng lợi ngay từ trận đầu. Nhưng phải khéo léo, giữ được lực lượng để đánh lâu dài. Phải hết sức khẩn trương chuẩn bị, nhưng cũng cần chú ý tránh mắc mưu khiêu khích của giặc. Ta còn phải tranh thủ thời gian để củng cố mọi mặt vì nếu để chiến tranh nổ ra sớm thì không có lợi...

        Và cuối cùng đồng chí nhấn mạnh:

        - Ngay từ bây giờ phải nhanh chóng chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng ở tư thế chiến đấu để nếu địch trở mặt gây hấn thì ta lập tức đánh trả lại ngay; phải kìm chân địch ở Hà Nội trong một thời gian cho cả nước chuyển sang chiến tranh; phải huy động sức mạnh tiềm tàng của nhân dân thành phố vào cuộc chiến đấu, đồng thời phải biết bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng ta để đánh lâu dài...

        Tôi chăm chú nghe từng câu từng ý của đồng chí Trường Chinh, nhưng mắt không rời đồng chí Phạm Văn Đồng ngồi ở hàng ghế đối diện. Được biết đồng chí đi đàm phán với Pháp ở Phông-ten-nơ-blô mới về mươi hôm. Cuộc đàm phán tuy chẳng mang đến kết quả gì, nhưng qua bên đó, với bài diễn văn nảy lửa của mình, đồng chí đã vạch trần chính sách phản động của thực dân Pháp, nêu rõ lập trường sáng ngời chính nghĩa của nhân dân ta là chiến đấu đến cùng cho một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Qua những ngày đàm phán ở Pháp chắc chắn rằng đồng chí hiểu thấu hơn tâm địa của thực dân Pháp. Đối với địch, đồng chí kiên quyết và dứt khoát. Đối với đồng chí thì chan hoà cởi mở và thân mật. Lúc này đây đồng chí đang chăm chú nhìn thẳng vào mắt tôi, đầu gật gật khi đồng chí Tổng Bí thư nói: phải khéo léo giữ được lực lượng để đánh lâu dài. Tôi cũng khẽ gật đầu đáp lại tỏ ý: Vâng, tôi hiểu ý chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Đảng, tôi hiểu ý anh, ta đánh lâu dài, địch sẽ không chịu nổi.

        Tiếp lời đồng chí Trường Chinh, đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho tôi những việc phải làm ngay: Nghiên cứu âm mưu địch, nắm chắc lực lượng ta, đặc biệt chú ý lực lượng tự vệ thành; làm kế hoạch tác chiến, chỉ huy phải kiên quyết, linh hoạt... Đồng chí nhấn mạnh: công việc lớn đây, nhiều khó khăn, phải tích cực khắc phục, nhanh chóng chuẩn bị đầy đủ để sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt. Kiên quyết đánh thắng ngay từ đầu!.

        - Báo cáo, tôi đã rõ nhiệm vụ, xin chấp hành.

        Tôi đứng nghiêm chào các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng rồi lui ra ngoài. Bước khỏi phòng họp mà lòng tôi vẫn còn xúc động, chân bước đi cảm thấy như không chạm đất, tôi vội ngồi ngay xuống ghế đá trong vườn hoa trước cửa nhà. Đầu óc tôi cùng một lúc diễn ra biết bao nhiêu suy nghĩ, những dự định và cả những thắc mắc, lo lắng. Nhiệm vụ lớn quá! Mà khả năng của tôi thì có hạn.

        Kẻ địch mà tôi phải trực tiếp đương đầu là những tên thực dân cáo già Va-luy, Moóc-li-e, bạc đầu trong nghề chinh chiến, chúng có quân đông, vũ khí tối tân. Chiến trường sẽ diễn ra là một thành phố to với vùng ngoại thành rộng lớn, dân cư đông đúc, bộ đội, dân quân tự vệ cũng tới hàng vạn, mà tôi tuy đã từng là huấn luyện viên góp phần đào tạo hàng trăm cán bộ quân sự cho quân đội, nhưng thực ra vốn liếng đó chưa đủ đáp ứng nhiệm vụ mới mà tôi vừa được Thường vụ Trung ương Đảng trao. Tôi trầm ngâm suy nghĩ: Nghĩ đến những ngày tù đày ở Bá Vân, Nghĩa Lộ. Nghĩ đến những ngày thực dân Pháp khủng bố đồng bào ta, đàn áp cách mạng trước ngày khởi nghĩa. Nghĩ đến những ngày sắp tới đây thực dân Pháp lại nổ súng đánh ta hòng trở lại thống trị nhân dân ta một lần nữa... máu căm thù quân cướp nước lại sôi sục trong tôi. Tôi xua đuổi tất cả những ý nghĩ gì có thể cản trở nhiệm vụ. Tôi dù có non nớt, mà non nớt thật, thì có Đảng dìu dắt, có đồng chí, đồng bào giúp đỡ. Ngồi trên ghế đá giữa một vườn hoa thơm mát, tôi hít một hơi dài để xua đi những nỗi lo lắng và quay về với nhiệm vụ.

        Ngày mai ra Hà Nội, đến Sở Chỉ huy quân khu nhận chức, tôi sẽ bắt đầu bằng công việc gì đây? Hàng trăm câu hỏi về cách đánh địch và thắng địch cứ lần lượt hiện ra trong đầu óc tôi. Đánh như thế nào có lợi nhất, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Thường vụ Trung ương Đảng vừa trao? Bởi lẽ trận chiến đấu sắp tới đâu phải là một trận chỉ có bộ đội ta chọi lại với quân địch, mà là một mặt trận, một cuộc chiến đấu lớn, nhiều trận, nhiều ngày, cả nhân dân cùng tham gia đánh giặc, chiến tranh toàn dân...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:14:49 am

        Bỗng nhiên, tôi nhớ lại hồi tháng 10 năm 1945, khi rời Hà Nội đi làm công tác huấn luyện quân sự, mở lớp đào tạo cán bộ của Quân khu II. Lần ấy, tôi cũng bối rối lắm. Đồng chí Văn Tiến Dũng cho biết số học sinh có khoảng 100 người. Tôi lo lắng: trưởng sở đặt ở đâu bây giờ, phương tiện dụng cụ, bàn ghế ra sao?

        Chỗ ăn, chỗ ở của học viên, lai còn nồi niêu, gạo, thức ăn, nước uống nữa? Cơ quan giúp việc không có, tài liệu chưa chuẩn bị, tiền không có một xu, lấy đâu ra? Nhưng một lời nói của đồng chí Văn Tiến Dũng mở ra cho tôi phương hướng giải quyết bế tắc này: phải dựa vào địa phương.

        Thế là tôi đi liên hệ với địa phương, gặp các đồng chí trong ban lãnh đạo tỉnh Hà Đông trình bày ý định của cấp trên muốn mở lớp huấn luyện quân sự. Đồng chí Ái, Phó chủ tịch tỉnh rất thông cảm với chúng tôi và giải quyết rất nhanh:

        - Anh mở lớp một tháng, ít ra phải có hai tấn gạo, vậy tạm thời cấp bốn tạ, đủ ăn một tuần, rồi sau lo tiếp.

        Tiếp đó đồng chí Lim, công an trưởng, nói:

        - Trong kho các một số vạc và nồi ba mươi, cần mấy cái cho đủ, bọn mình viết giấy cấp phát.

        Tôi nằn nì trình bày ý kiến xin tiền để mua mớ rau, quả cà cho bữa ăn hàng ngày. Các đồng chí bàn soạn với nhau một lát rồi thống nhất ý kiến: Mấy ông quân sự gan thật, không có một xu mà đòi mở lớp võ bị, thôi cố vét cho cậu ấy 100 đồng.

        Thu xếp được cho việc cơ bản, tôi quay về Ba Thá đi liên hệ với các huyện. Vì Ba Thá là nơi giáp ranh của ba huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức, Ứng Hoà. Các uỷ ban huyện đều nhiệt tình ủng hộ, cũng cho gạc cho tiền. Tôi lại đến các thôn Phú Viên, Viên Nội, Viên Ngoại, Xón Đông. Ở các thôn này, tôi dựa vào đoàn thể quần chúng. Hội phụ nữ tổ chức đội nuôi quân lo việc chợ búa, cơm nước. Các cụ bô lão hăng hái đứng ra quyên góp tre, nứa, là, rơm, rạ và huy động nhân công làm trường trại.

        Chỉ hơn hai tuần, mái trường mới đã sừng sững đứng bên sông Đáy. Ba dãy nhà xếp hình chữ môn với gần hai chục gian: năm gian làm giảng đường, năm gian vừa làm nhà bếp vừa làm nhà ăn, bảy gian để ở. Tường cách đất quét phủ vôi trắng, gian nào cũng có cửa ra vào và cửa sổ lắp chấn song. Ba dãy nhà ôm lấy cái sân cỏ rộng ngót trăm mét vuông. Nhìn từ xa đã thấy trường sở khang trang bề thế, vào tận nơi đến từng nhà, từng gian lại càng thích mắt, trong giảng đường, bàn ghế bắng tre nứa, xếp hàng dọc, hàng ngang ngay ngắn. Buồng ngủ có hai dãy giường tre. Bàn ghế trong nhà ăn cũng chỉ bằng tre nứa thôi, nhưng mấy chục cái bàn, cái ghế khuôn khổ, kích thước bằng nhau chằn chặn, xếp thành hàng thành dãy thẳng tắp, nên tuy thô sơ mà vẫn đẹp mắt. Các học viên đến dự lớp huấn luyện, thấy trường sở đàng hoàng, thấy sự chăm sóc ân tình của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương, ai nấy đều cảm động, hăng hái học tập.

        Nhớ lại việc mở lớp huấn luyện quân sự Ba Thá, tự nhiên tôi cảm thấy trong người nhẹ nhõm, thoải mái, đầu óc thảnh thơi, hết căng thẳng, lo âu với nhiệm vụ mới vừa được Thường vụ trao cho. Tôi tự nhủ: công tác cách mạng, từ việc nhỏ đến việc lớn, có việc nào dễ dàng đâu? Vấn đề là ở người cán bộ cách mạng phải hiểu rõ nhiệm vụ, thấy hết khó khăn, phải nắm vững đường lối, phương châm công tác cách mạng của Đảng, tích cực động viên tổ chức lực lượng đông đảo quần chúng tham gia thì việc khó mấy cũng thành công.

        Hôm sau, tôi ra Hà Nội bắt tay ngay vào việc tìm hiểu tình hình quân sự của Thủ đô.

        Từ ngày ta nắm chính quyền, chẳng có lúc nào Hà Nội được coi là yên ổn. Theo hiệp ước Pốt-xđam, các nước đế quốc trong phe đồng minh chiến thắng phát xít Nhật phân chia cho quân đội Tưởng Giới Thạch vào nước ta làm nhiệm vụ tước vũ khí quân đội Nhật từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra. Bọn Tưởng đây là thời cơ thuận lợi để chúng thôn tính một nửa nước ta, cho nên đội cái danh đi giải giáp mấy vạn quân Nhật mà chúng huy động đến gần 20 vạn quân, tương đương với lực lượng mà Mãn Thanh đem sang đánh chiếm nước ta hồi năm 1789. Chúng chủ trương “diệt Cộng cầm Hồ” bày ra lắm âm mưu hòng bóp nghẹt, lật đổ chính quyền Trung ương của ta ở Hà Nội, chúng lập chính quyền tay sai của chúng. Nhưng chúng đã liên tiếp thất bại vì nhân dân ta một lòng đoàn kết chung quanh Chính phủ Hồ Chí Minh, vì Bác Hồ và Đảng ta đã đối phó rất khôn khéo với từng mưu mô, thủ đoạn của chúng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:15:07 am

        Giữa tháng 3 năm 1946, Hà Nội đông nghịt quân đội Tưởng lại xuất hiện thêm một đội quân nữa – quân xâm lược Pháp. Đó là một bộ phận trong số 15.000 quân tiếp phòng Pháp được phép vào Hà Nội thay quân Tưởng theo hiệp định sơ bộ giữa ta và Pháp ký ngày 06 tháng 3 năm 1946. Với khoảng hơn 6.500 quân, chúng từ Hải Phòng theo đường số 5 vào Hà Nôi đóng giữ tại 45 địa điểm khác nhau, trong đó lực lượng cơ động có đến 4.000 tên đóng tại sáu nơi quan trọng: Thành Hà Nội, Trường An-be Xa-rô (Số 2 Hoàng Văn Thụ ngày nay), Phủ Toàn quyền (Phủ Chủ tịch hiện nay),  Trường Bưởi (Trường Chu Văn An, Hà Nội hiện nay), Đồn Thuỷ (Viện quân y 108 hiện nay) và Sân bay Gia Lâm.

        Như vậy là từ cuối tháng 3 đến hết tháng 6 năm 1946, trong Hà Nội lúc nhúc hai quân đội Tưởng – Pháp, đứa mới vào và đứa sắp đi lục đục với nhau vì quyền lợi, bắn nhau nhiều phen ( Ngày 28 tháng 2 năm 1946 theo hiệp ước Hoa – Pháp được ký tại Trùng Khánh. Theo hiệp ước này Pháp đồng ý trả cho Tưởng Giới Thạch các tô giới ở Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu, Quảng Đông, bán lại đường xe lửa Hà Nội – Vân Nam trên đất Trung Quốc (từ Hồ Kiều đến Côn Minh; Pháp nhường lại cho Tưởng một “khu đặc biệt” ở cảng Hải Phòng, ở đó Tưởng được tự do nhập hàng và có quyền kiểm soát hải quan. Về phần Tưởng sẽ nhường cho quân Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất nhường quyền thống trị nhân dân ta cho Pháp.

        Tuy vậy, lính Tưởng nhìn lính Pháp vẫn bằng con mắt gầm ghè của những kẻ đang ăn bị kẻ khác đến tranh phần, và xung đột giữa chúng tất nhiên xảy ra ở các nơi. Ở Hà Nội ngày 31 tháng 3, thời hạn rút quân cuối cùng của quân đội Tưởng đã đến, thì cuộc xung đột đầu tiên nổ ra, quân Tưởng nổ súng vào toán lính Pháp. Ngày 1 tháng 4, hai chiếc ô tô của quân Tưởng và quân Pháp đâm vào nhau, quân Tưởng nổ súng luôn. Ngày 21 tháng 4 cuộc xung đột lớn nhất lại xảy ra giữa quân Tưởng và quân Pháp trước cửa hàng bán hoa ở ngã tư Tràng Tiền. Hai bên bắn nhau, súng nổ lan ra nhà thuỷ tạ Bờ Hồ, phố Hàng Da, đường Cột Cờ, đường Mai Hắc Đế. Pháp và Tưởng đều có hàng chục tên lính bị chết và bị thương.

        Quân Tưởng tại Hà Nội đang cố tìm ra một cái cớ để dây dưa ở lại. Cái cớ đó chúng không tìm được ở những va chạm giữa ta với Pháp thì chúng tạo ra bằng những cuộc xung đột nhỏ giữa chúng với Pháp).

        Tháng 7, thực dân Pháp đã mưu tính một kế hoạch lớn. Lấy cớ ngày 14 tháng 7 là ngày quốc khánh Pháp, chúng dự định tổ chức một cuộc diễu binh trọng thể và mời bộ đội ta cùng tham dự với tư cách là “quân đội một nước tự do trong khối liên hiệp Pháp”. Chúng dự định gây ra một vụ nổ nhỏ để châm ngòi cho một vụ nổ lớn. Kẻ châm ngòi là lũ đảng phái phản động Đại Việt và Việt Nam Quốc dân đảng. Lũ này sẽ nổ súng vào một khối trong đội hình diễu binh của quân Pháp (tất nhiên là chỉ bắn vào đám lính da đen). Khi có tiếng súng nổ thì một mặt quân Pháp sẽ quay súng bao vây các đơn vị bộ đội ta cùng tham dự diễu binh với chúng, mặt khác bọn thực dân sẽ lấy cớ “duy trì an ninh” tung lực lượng cơ động ra chiếm các công sở, các cơ quan Chính phủ ta tạo điều kiện cho lũ Việt gian tay sai của chúng làm đảo chính cướp lấy chính quyền Trung ương và Chính quyền ta ở Hà Nội. Nhưng kế hoạch lớn này của các nhà tham mưu thực dân đã thất bại. Bởi vì trước ngày 14 tháng 7, ngay tại Hà Nội, ta tiến hành một đợt hoạt động nhanh như sét đánh, cùng một lúc vây quét hết các ổ phản động. Âm mưu bị lộ, bọn thực dân Pháp liền bãi bỏ cuộc diễu binh này.

        Bấy giờ, trong hàng ngũ tướng lĩnh xâm lược Pháp đã có những mâu thuẫn sâu sắc về biện pháp tiến hành chiến tranh xâm lược. Tướng Lơ-cléc kẻ phải đối địch chật vật với cuộc chiến tranh toàn dân của ta ở Nam vĩ tuyến 16 đã phần nào thấy được vấn đề, không thể dùng biện pháp quân sự được, y chủ trương tiến hành “diễn biến hoà bình”. Nhưng bọn chủ chiến mạnh thế hơn, do vậy, Lơ-cléc đã phải từ chức, về Pháp, và tướng Va-luy lên nắm quyền tổng tư lệnh lực lượng xâm lược, đẩy mạnh các kế hoạch khiêu khích, lấn chiếm trên khắp đất nước Việt Nam.

        Tại Hà Nội, quân Pháp dần dần lấn chiếm nhiều vị trí quan trọng, nhằm tạo ra một thế trận chia cắt các lực lượng ta ở trong Hà Nội và có thể nhanh chóng đánh úp ta chiếm cả thành phố. Ví dụ:  ở ngay trước mặt trại Vệ quốc đoàn Trung ương (Nay là 40 Hàng Bài), địch cắm một trung đội, đóng trong rạp chiếu bóng Ma-giét-tích (sau này là rạp Tháng Tám); đối diện với Bắc Bộ phủ, nơi làm việc của Chính phủ ta, chúng cắm 200 lính trên tầng cao của khách sạn Mê-tơ-rô-pôn (sau là khách sạn Thống Nhất)...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:15:31 am

        Thế đó, kẻ địch quân đông, có đủ các loại vũ khí, xe tăng, tàu chiến, máy bay. Mà ta thì lực lượng Vệ quốc đoàn chỉ có 5 tiểu đoàn, người nhiều hơn súng (Vũ khí của ta lúc này có 1.500 khẩu súng trường (trong đó một nửa là súng khai hậu, súng bắn chim, 4 khẩu đại liên 12,7 ly, 7 khẩu cao xạ 75 ly dùng làm pháo mặt đất, một khẩu ba-dô-ca với 5 viên đạn, 20.000 viên đạn các loại, 1.000 quả lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai xăng Crếp, v.v), chưa được huấn luyện bao nhiêu, lại phải đóng phân tán rải rác khắp nội ngoại thành phố để bảo vệ các công sở, nhà máy; đã thế, tại nhiều vị trí quan trọng như nhà máy điện, nhà máy nước, nhà ga, cầu Long Biên, nhà ngân hàng... ta và địch cùng đóng quân canh gác chung. Vậy làm thế nào để thực hiện đúng như chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng: nhanh chóng chuẩn bị sẵn sàng tư thế chiến đấu, đồng thời phải hết sức tránh không mắc mưu khiêu khích của địch.

        Thật là khó! Bởi vì, nếu không gấp rút chuẩn bị sẵn sàng tư thế chiến đấu thì khi địch trở mặt đánh úp, ta sẽ không kịp trở tay. Ngược lại, ta ráo riết chuẩn bị, sẽ gây nên không khí căng thẳng và đó là cái cớ cho địch gây sự với ta, mà lúc này ta đang cần giữ thế hoà hoãn, tranh thủ hoà bình được ngày nào có lợi ngày ấy, thêm được thời gian củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Khó nữa là bộ đội ta đang phân tán đóng khắp nơi trong thành phố, thu lại thành đơn vị đại đội, tiểu đoàn tập trung thì cơ quan công sở không có ai bảo vệ, mà cũng dễ lộ ý định, địch sẽ lấn chiếm ngay. Nhưng nếu không tập trung lại thì làm thế nào tranh thủ nắm chắc lực lượng để khi cần là chỉ huy chiến đấu được ngay.

        Khó lắm, ngồi một chỗ mà nghĩ, mà bàn luận với nhau thì chẳng ra mưu kế gì hay, càng nghĩ đầu óc càng thêm rối mù!

        Sau khi thống nhất chủ trương, Bộ chỉ huy mặt trận phân công Trần Độ xuống các đơn vị kiểm tra và cổ động (nay gọi là động viên) cán bộ, chiến sỹ. Tôi lo việc tổ chức các trận địa chiến đấu. Trước hết tôi bỏ ra một tuần lễ liền cùng với đồng chí quân báo cọc cạch hai chiếc xe đạp đi khắp thành phố, qua hết đường lớn đến ngõ hẻm: lúc xem xét một vị trí đóng quân của địch, khi thì gặp gỡ trao đổi bàn bạc với anh em bộ đội, anh em tự vệ. Qua cuộc đi này tôi thu hoạch được nhiều ý kiến hay, vừa giàu trí mưu lược vừa thể hiện khí phách anh hùng của một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục uy lực của quân xâm lược.

        Tại Bắc Bộ phủ, các đồng chí ta dự định đào một đường ngầm xuyên dưới nền khách sạn Mê-tơ-rô-pôn, xếp bom vào đó, khi địch trở mặt ta cho nổ tung.

        Bên trại Vệ quốc đoàn Trung ương, các đồng chí cũng dự định đào đường ngầm như thế để đánh bom tiêu diệt bọn địch bên rạp Ma-giét-tích  và một đường ngầm nữa sang nhà tên Bảo Đại ở bên đường Găm-bét-ta (Đường Trần Hưng Đạo ngày nay), đó là đường bí mật cơ động lực lượng từ trong ra, ngoài vào...

        Tôi đã đến nhiều khu phố để xem xét các đơn vị tự vệ Thành chuẩn bị chiến đấu. Số anh chị em này đại bộ phận là công nhân và các tầng lớp lao động khác. Anh chị em vốn sẵn có tinh thần yêu nước, lai bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề khi được giáo dục, động viên họ không những hăng hái nhiệt tình mà còn có rất nhiều mưu kế đánh địch, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu quên mình để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ Tổ quốc. Đó là một lực lượng đáng quý. Ở Hà Nội, từ ngày Cách mạng tháng Tám thành công, do ta phải luôn luôn che giấu lực lượng Vệ quốc đoàn để né tránh các âm mưu của các kẻ thù, cho nên thường xuyên lực lượng tự vệ Thành ở các khu phố phải đảm đương vai trò chính trong việc giữ gìn trật tự, an ninh, kể cả việc đấu chọi với bọn đảng phái phản động và kìm hãm, ngăn chặn những hành động khiêu khích, cướp bác của quân Tưởng Giới Thạch, quân xâm lược Pháp. Bọn phản động, bọn Tưởng Giới Thạch và cả bọn Pháp nữa rất kiêng nể lực lượng “sao vuông” này. Chính vì vậy mà hôm Thường vụ Trung ương Đảng trao nhiệm vụ cho tôi, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã căn dặn kỹ càng: Phải đặc biệt chú ý đến lực lượng tự vệ Hà Nội.

        Trong tự vệ Thành, ngoài nam nữ thanh niên công nhân, những người lao động thủ công, những học sinh, sinh viên, còn có một số người đã đứng tuổi, ngoài 40, bà con trong phố vẫn quen gọi kiểu cũ là ông phán, ông ký, ông La-mốt, ông Ben-la Phô-tô, ông Phúc Tân, v.v. Những anh em này vốn bị bọn thống trị chèn ép, sẵn có tinh thần ghét Tây, từ ngày Cách mạng tháng Tám thành công, được cách mạng giáo dục, hun đúc thêm lòng yêu nước nên họ hăng hái gia nhập tổ chức tự vệ Hà Nội, tự bỏ tiền ra may quần áo ka-ki theo kiểu quân sự, lại thích được mọi người gọi là “anh”, là những chàng trai Hà Nội. Họ nhiệt tình hăng hái, xông xáo trong các việc trị an, trấn áp phản động, tâm hồn họ đã trẻ lại trong cao trào cứu nước của toàn dân.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:16:03 am

        Một hôm, nhân đi quan sát vị trí đóng quân của địch bảo vệ nhà viên tướng Moóc-li-e ở phố Hàng Trống (nay là toà báo Nhân dân), tôi tìm gặp hỏi chuyện anh đội trưởng tự vệ phố Nhà Thờ. Anh này mới qua một lớp huấn luyện quân sự tại Trường Hồ Chí Minh, trường đào tạo cán bộ tự vệ do Thành uỷ Hà Nội tổ chức. Anh trình bày ý định chuẩn bị tác chiến vẫn với cung cách của một học sinh hiếu động:

        - Ở đây khó chơi với chúng nó lắm. Anh tỉnh, đầu phố là nhà Moóc-li-e, có gần một trung đội lê dương, cuối phố là khu nhà Pháp kiều. Minh làm gì chúng nó nhìn hết. Nhưng không sao, phải có cách chơi lại chúng nó chứ. Chúng tôi đã bí mật khoan lỗ vào một số thân cây ở hai đầu phố. Đã xoay được mìn rồi. Khi có lệnh, nhét mìn vào lỗ đó, cho nổ, thế là chỉ trong nháy mắt là có vật chướng ngại, cắt đường. Cây đổ đè chồng lên nhau, cài vào nhau thì chắc lắm, xe tăng không húc nổi đâu. Chúng nó mà xua lính ra cưa thì ta tỉa cho ngoẻo ngay.

        Anh đội trưởng dẫn tôi vào một căn nhà ở đầu phố. Anh cẩn thận khép kính cửa ra vào rồi chỉ vào một bộ ghế ngựa kê sát bức tường trông ra ngoài đường và nói: đây là một vị trí chiến đấu. Anh lật một tấm phản lên. Dưới gầm bộ ghế ngựa lộ ra một cái hố mới đào, người đứng đến ngang ngực, và phía chân tường là một lỗ đục dở dang, chỉ cần mấy nhát xà beng, đánh bật một viên gạch ra thì thành cái lỗ châu mai, chĩa súng ra ngã tư đường. Một vị trí chiến đấu khá bất ngờ.

        - Phố này, ngả nào xe tăng, xe thiết giáp địch cũng xộc vào được đến đầu các phố, mà ta thì...

        Tôi đang định đặt một câu hỏi để thăm dò ý định tác chiến của đội tự vệ phố Nhà Thờ thì anh đội trưởng đã nhanh nhảu cướp lời:

        - Vâng, xe của chúng nó sẽ chiếm được hai đầu phố, dễ dàng thôi. Chúng nó sẽ đặt súng bắn dọc đường, kiểm soát suốt dọc phố này. Nhưng thế thì ăn giải gì, phải không anh. Chúng chỉ mạnh ở ngoài đường thôi. Xe tăng có xông được vào trong nhà, trong ngõ đâu? Chúng tôi đã bàn nhau: ta phải kiên quyết đánh giữ từng bờ tường, từng góc sân...

        Những suy nghĩ, những việc làm thực tế của quần chúng dội vào đầu óc tôi, mở ra cho tôi một hướng chuẩn bị tích cực để thành phố đi vào chiến đầu. Tôi dự kiến những vấn đề sau đây sẽ đưa ra Bộ chỉ huy mặt trận thảo luận và quyết nghị:

        Một là, bí mật đào đắp công sự, hố chiến đấu ở trong nhà, trong vườn, trong ngõ ngách. Ở các nhà có ban công hướng ra ngoài đường thì chuẩn bị sẵn những bao cát, khi cần đem ra ban công xếp thành ụ súng;

        Hai là, đục tường thông nhà này qua nhà khác để bí mật có động lực lượng, khi tiến khi thoái, ở trong từng dãy phố, từng khối phố;

        Ba là, chuẩn bị sẵn những vật cồng kềnh, như xe bò, xe rơ-moóc, thùng sắt, thùng gỗ, hòm, bàn, ghế... để khi có lệnh thì lao ra đường, đồng thời chuẩn bị sẵn các phương tiện, công cụ, biện pháp chặt cây, ngả cột điện làm vật ngăn chặn từng quãng đường phố.

        Những kết quả về trinh sát địch, tôi chấm lên bản đồ, cái bản đồ hành chính của thành phố in từ thời Pháp thuộc với những tên phố  mang tên quan lại, tướng ta thực dân. Căn cứ vào những kết quả trinh sát, tôi dự kiến địch sẽ đánh úp ta ra sao? Các mũi tiến quân mà chúng sẽ theo những đường phố, thọc ra tới đâu? Và như vậy ta cần phải tổ chức chặn địch ở những đoạn nào, và phân chia khu vực tác chiến như thế nào cho thích hợp...

        Hồi đó cơ quan chỉ huy chưa có quy củ, việc lập kế hoạch tác chiến cũng chưa có bài bản như hiện nay, thường thì cứ vừa làm vừa bàn bạc với anh em, vừa làm vừa kiểm tra như đặt một điểm chặn, hay một tuyến đường thông tin, một tuyến tiếp tế thì chấm, thì vạch lên bản đồ, rồi lại đạp xe đi xem xét lại thấy chưa ăn khớp thì thay đổi. Tấm bản đồ kế hoạch tác chiến của tôi mỗi ngày một hêm những ký hiệu, những nét tẩy, nét xoá, những ghi chú bổ sung, trông mà rối mù, cuối cùng chỉ mình tôi mới có thể hiểu được, đọc được những ký hiệu, những ý định ghi chi chít dọc ngang, ngang dọc đó.

        Có những lần tôi ngồi cả buổi trước tấm bản đồ rắc rối ấy, cứ như người mê cờ ngồi suy nghĩ về các thế cờ, tính những nước đi trước trên bàn cờ vậy. Ngồi nhìn thế địch mà tôi cứ suy nghĩ làm thế nào để thực hiện được ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, thay mặt Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho Mặt trận Hà Nội, trong buổi tôi lên nhận nhiệm vụ:

        - Phải sẵn sàng để khi địch trở mặt là ta đánh trả lại ngay tức khắc; không cho chúng đánh úp Thủ đô ta, bắt chúng đối phó bị động.

        - Phải thực hiện kìm giữ địch một thời gian trong Hà Nội, không cho chúng mở rộng chiến tranh ra ngoài.

        Nghĩ mãi, rồi cũng tìm ra cách đánh, tôi đem những suy nghĩ của tôi trình bày với các đồng chí trong Bộ chỉ huy mặt trận và các cán bộ tham mưu. Nhiều người cùng bàn bạc, nảy thêm lắm ý kiến, đúng có, mà không đúng cũng có, song đúng hay không cũng đều bổ ích cả, vì khi tranh cãi về một ý kiến không đúng thì lại càng thấy rõ hơn phải đánh thế nào mới hợp với sức ta, đúng như phương châm Đảng đã chỉ đạo.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:16:26 am

        Vấn đề thứ nhất, làm thế nào đánh trả lại được, bắt địch phải đổi phó bị động? – Chúng tôi thống nhất với nhau rằng, muốn vậy phải sẵn sàng chiến đấu rất cao để có lệnh là đánh đồng loạt, nơi địch yếu ta dùng lối đánh tập kích, bất ngờ đột nhập tiêu diệt chúng; chỗ khó đánh, ta bao vây, uy hiếp, đánh tỉa, nơi địch tập trung đông quân, ta quấy rối... Đối với những đơn bị cơ động của địch, lực lượng chính để thực hiện âm mưu đánh úp ta, thì phải tìm mọi cách ngăn cản, không cho chúng phóng xe tăng, xe cơ giới chạy ngang, chạy dọc thành phố. Ngăn cản cũng phải làm đồng loạt, cùng lúc các phố đều dựng ba-ri-cát. Việc này phải huy động toàn dân trong thành phố, mỗi người một tay thì chốc lát khắp các đường phố sẽ ngổn ngang vật chướng ngại, khiến cho địch có phá được cái này lại vướng cái kia, tránh phố này thì lại bị cản ở phố khác. Ngay mỗi đường phố cũng cần dựng hai ba cái ba-ri-cát, kiểu như cài cửa nhiều then ấy, kẻ gian có nạy được cái then này rồi thì lại vẫn phải kỳ cạch nạy cái then khác.

        Hình ảnh cửa cài nhiều then gợi cho tôi nghĩ ra chiến thuật gọi là “cài then cửa”, mỗi cái “then cửa” ấy gồm một hàng chướng ngại vật và một số tổ chiến đấu bố trí bí mật gần đó để bắn tỉa, đánh cản không cho địch mở đường một cách dễ dàng.

        Vấn đề thứ hai, làm thế nào kìm hãm, giam chân địch một thời gian trong Hà Nội? Đây là vấn đề sử dụng lực lượng, dàn thế trận, chúng tôi tranh luận bàn bạc rất sôi nổi.

        Bấy giờ, có một phái viên quân sự do cấp trên cử đến giúp chúng tôi. Đó là Ái Việt, nguyên là một sỹ quan Nhật đầu hàng ta, xin được phục vụ trong quân đội cách mạng Việt Nam. Ái Việt nhất trí với chúng tôi về công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, cả về cách phá âm mưu đánh úp của địch, nhưng về phương pháp tác chiến, cách dàn thế trận thì anh ta nêu ý kiến khác hẳn. Theo Ái Việt, do địch mạnh ta yếu, địch hơn ta về mọi mặt hoả lực, đột kích, cơ động, cho nên muốn kìm địch ở trong thành phố thì phải dùng phương pháp đánh ngăn chặn từng bước. Mặt trận Hà Nội cần tổ chức ba tuyến chiến đấu có công sự phòng ngự vững chắc.

        Tuyến thứ nhất, ở tiếp giáp giữa nội thành và ngoại thành, chạy vòng từ Phà Đen qua các Ô Đống Mác, Ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, Kim Mã, Cổ Lễ đến Ô Yên Phụ.

        Tuyến thứ hai, Đuôi Cá – Thanh Liệt vòng ra Mọc Quan Nhân, Cầu Giấy, Chèm.

        Tuyến thứ ba, Văn Điển - Thị xã Hà Đông – Tây Mỗ - Cổ Nhuế.

        Ý kiến của Ái Việt Như vậy là không chú trọng phát huy vai trò của lực lượng tự vệ thành đông đảo, tới 8.000 người, là muốn nhanh chóng bỏ trống thành phố. Chúng tôi không tán thành lối đánh này. Hơn nữa phương pháp tác chiến dàn thành tuyến ngăn chặn như Ái Việt nêu ra lai hoàn toàn không phù hợp với trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội ta lúc bấy giờ. Bài học kháng chiến Nam Bộ cho thấy rõ ràng là nơi nào bộ đội biết dựa vào dân tổ chức lực lượng tốt, cùng nhân dân đánh du kích thì gây được nhiều khó khăn cho địch, ngược lại, đào hào, đắp chiến luỹ dàn thành chiến tuyến thì dễ bị địch chọc thủng, mà đã thủng một chỗ là có thể vỡ tung.

        Cuộc tranh luận với Ái Việt diễn ra khá gay gắt. Mục đích chủ yếu là cốt để làm cho phương án tác chiến của ta sáng rõ và cũng qua đó chúng tôi có thể tranh thủ học hỏi, khai thác thêm tri thức quân sự của Ái Việt. Cuối cùng, bao nhiêu ý kiến của Ái Việt nêu ra để bảo vệ cho phương pháp tác chiến dàn thành tuyến ngăn chặn không phù hợp với quan điểm chiến tranh nhân dân của ta và tình hình thực thế lúc đó nên đều không được tán thành. Nhưng với người như Ái Việt không phải một lúc nhận ra được phương pháp tác chiến đúng đắn của ta. Anh ta nêu ý kiến, xin hỏi lại:

        - Nếu không tán thành, vậy xin đề nghị các ông cho ý kiến cụ thể?

        Rất thông cảm với Ái Việt, thay mặt các đồng chí trong Bộ chỉ huy, tôi phát biểu ý kiến:

        - Ta yếu, địch mạnh, do đó cách tổ chức tác chiến phù hợp với sức ta và trình độ ta lúc này là đánh du kích, cài sát vào địch, bám riết lấy nó mà đánh. Cần chia Hà Nội thành nhiều khu vực, mỗi khu vực có lập nhiều ổ đề kháng – đào hầm đắp ụ, dựng chướng ngại vật chặn các đường phố, dùng chiến thuật “cài then cửa”, buộc địch phải giành giật với ta trên đường phố... Còn bố trí lực lượng, phải có lực lượng đóng ghìm trong thành phố, thực hiện mỗi nhà là một pháo đài, mỗi phố là một chiến tuyến, đồng thời phải có lực lượng dự bị đặt ở các cửa ô, như thế hình thành thế trận ta địch cài nhau, bên trong đánh ra, bên ngoài đánh vào phối hợp với nhau giằng kéo địch, làm cho mặt trận luôn luôn hoạt động, chỉ huy địch luôn bị xáo động, khẩn trương, căng thẳng, không thể rảnh tay tập trung lực lượng đánh ra ngoài hay dồn sức đánh vào trong. Như thế ta mới giữ được lâu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:17:02 am

        Sau cuộc họp, tôi báo cáo phương án tác chiến của ta lên Bộ Tổng tham mưu. Sau khi nghe tôi trình bày, đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chỉ thị: Tôi tán thành ý kiến của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội. Trong thế xen kẽ giữa ta và địch như hiện nay, việc tổ chức chỉ huy là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định. Cho nên ngay từ bây giờ các đồng chí cần tập trung suy nghĩ tìm ra một biện pháp tổ chức hữu hiệu, một mạng lưới thông tin liên lạc để bảo đảm chỉ huy thông suốt trong các tình huống phức tạp, nhất là đối với các đơn vị tác chiến cầm chân, thu hút địch ở trong thành phố.

        Cuối cùng, thay mặt Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, tôi lên gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp để báo cáo kế hoạch tác chiến. Buối làm việc diễn ra nhanh, gọn. Tôi không phải trình bày gì nhiều lắm. Bởi vì, đã mấy lần đồng chí Tổng chỉ huy cùng chúng tôi đi xem xét thực địa trong và ngoài thành phố. Mỗi lần đi là một lần đồng chí trao đổi ý kiến với chúng tôi rất cụ thể về công việc tổ chức, chỉ huy chiến đấu; mà thường là đồng chí đề ra những câu hỏi khêu gợi, nêu những tình huống tác chiến cụ thể, những giả định để chúng tôi suy nghĩ giải đáp, rồi đồng chí góp ý kiến uốn nắn, chỉ dẫn thêm. Lần này, sau khi nghe tôi trình bày trên bản đồ, vẫn cái bản đồ kế hoạch mà tôi ghi chi chít những ký hiệu, nhưng ý định, đồng chí hỏi:

        - Bộ chỉ huy mặt trận có nhất trí với kế hoạch này không?

        - Dạ, chúng tôi nhất trí.

        - Còn ý kiến bên Uỷ ban bảo vệ thành phố thế nào?

        Tôi đã trình bày với anh Nguyễn Văn Trân về cách chia khu vực tác chiến, phương pháp tác chiến, về dự kiến chuẩn bị vật chất cho lực lượng ở lại chiến đấu trong lòng địch... Anh Trân đồng ý tất cả và phân công cho Bộ chỉ huy mặt trận cứ tập trung vào công tác tham mưu, chỉ huy tác chiến, còn bao nhiêu công tác khác, bên Uỷ ban gánh hết. Mặt trận cần lực lượng quần chúng làm gì, làm ở đâu, Uỷ ban sẽ chỉ thị cho các khu phố huy động.

        - Như vậy là sự nhất trí cao. Đó là một yếu tố quan trọng để tạo nên sức mạnh giành chiến thắng.

        Một lần nữa, đồng chí Tổng chỉ huy khẳng định ý đồ xây dựng thế trận bố trí một tiểu đoàn ở trong Liên khu I, còn bốn tiểu đoàn tập trung đóng ở các cửa ô để tạo thế: trong đánh ra, ngoài đánh vào, xen kẽ giằng co với địch, mà tôi tạm đặt tên là “trùng độc chiến” (buộc địch thu hút lực lượng địch vào một nơi, để các nơi khác tiến công tiêu diệt địch). Thế trận này lấy Liên khu I làm trận đại quyết chiến ở trong thành phố, còn các lực lượng của các liên khu II, III thì đánh một thời gian rồi giãn dần ra ngoài các cửa ô để phối hợp tác chiến với Liên khu I.

        Hồi ấy, Hà Nội chia ra làm nhiều khu phố, các khu hành chính. Các khu phố này họp lại thành ba liên khu. Liên khu I rất rộng, chiếm phần bắc thành phố (gồm phần lớn đất đai của hai khu Ba Đình, Hoàn Kiếm hiện nay). Tuy rộng thế nhưng phần nửa phía tây của Liên khu này lúc bình thường đã coi như “đất địch chiếm” rồi, vì ở đấy có thành Hà Nội, trường Xa-rô, phủ Toàn quyền, nơi địch tập trung lực lượng cơ động của chúng, ở đấy cũng là một khu vực tập trung những biệt thự của Pháp kiều, mà bà con ta gọi là khu phố Tây. Phía nam Liên khu I giáp với Liên khu II là phố Tràng Tiền, Tràng Thi, v.v. cũng lại là một khu vực tập trung nhiều nhà Pháp kiều, một khu phố Tây nữa, có nhiều vị trí đóng quân công khai hoặc bí mật của Pháp. Thế là mặt tây, mặt nam Liên khu I đều có địch, còn mặt bắc và đồng là sông Hồng, địch có thuỷ quân, chúng có thể nhanh chóng kiểm soát đoạn sông rộng này. Như vậy, chẳng cần phải là một nhà quân sự, ai cũng có thể dễ thấy rằng một khi địch trở mặt đánh úp ta thì các lực lượng vũ trang của ta ở Liên khu I sẽ bị chúng bao vây tứ bề. Nhưng xét về nhiều mặt, thì Liên khu I có một vị trí quan trọng. Về chính trị, đây là trung tâm thương mại, dân cư đông đúc, ta còn chiến đấu ở đây ngày nào, giờ nào, thì ngày ấy, giờ ấy địch chưa thể nói là chúng đã chiếm được Hà Nội. Về quân sự, xét chung cả thành phố, chỉ có Liên khu I mới có địa hình, địa vật thuận tiện để tổ chức một khu vực trận địa phòng ngự tốt, lại có tác dụng thu hút địch, vì ở ngay bên sườn thành Hà Nội, giáp liền với các khu phố tập trung Pháp kiều.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:17:18 am

        Trong khu vực này nhà cửa san sát, ta có thể đục tường từ nhà này sang nhà khác để cơ động ở bên trong, đi suốt cả dãy phố, khối phố, biến mỗi căn nhà, mỗi tầng gác thành một vị trí chiến đấu, mỗi dãy phố thành một trận địa chiến đấu. Đường sá ở đây chật hẹp, thuận tiện cho ta đào cắt đường, đắp chiến luỹ, dựng vật chướng ngại chặn đứng xe cơ giới địch. Toàn khu vực với hàng nghìn nhà cao thấp khác nhau, với những ngõ hẻm ngoắt ngoéo có thể xây dựng thành một trận địa rộng lớn liên hoàn không những chỉ kiên cố, hạn chế được sức phá hoại của bom đạn địch, mà còn là một loại trận địa đặc biệt, phức tạp khiến cho địch có gặm từng miếng cũng khó chứ hoàn toàn không thể đánh thọc sâu, chia cắt ta được. Vì thế, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội quyết tâm tổ chức Liên khu I thành một trung tâm chiến đấu, để vừa tiêu diệt vừa tiêu hao địch, vừa thu hút lực lượng địch, tạo nên thế trong đánh ra cùng với các lực lượng ngoài đánh vào của các liên khu khác, đúng như ý kiến chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy.

        Chúng tôi quy định cho các lực lượng vũ trang trong Liên khu này, gồm có tiểu đoàn Vệ quốc đoàn 101 và các đơn vị tự vệ nhà máy, đường phố như sau: khi nổ súng, các đơn vị đóng tại đâu phải kiên quyết chiến đấu tại chỗ. Sau ba ngày đánh tiêu hao địch thì co dần lại, lấy giới tuyến phía tây là đường Phùng Hưng; phía nam là đường Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ, Hàng Thùng; phía bắc là đường cầu Long Biên; phía đồng là đê sông Hồng, nhưng phải giữ được vùng đất bãi giáp ven sông.

        Hà Nội có năm tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, Bộ chỉ huy mặt trận chủ trương sử dụng Tiểu đoàn 101 cùng lực lượng đông đảo tự vệ của Liên khu I có đến hơn 3.000 anh chị em, hình thành một hạt nhân thật cứng ở trung tâm thành phố. Còn bốn tiểu đoàn 77, 212, 145, 523 cùng các lực lượng tự vệ Liên khu II, Liên khu III và các đơn vị dân quân du kích ngoại thành bao bọc xung quanh. Như vậy, địch tuy mạnh nhưng sẽ bị rơi vào thế trận “trùng độc chiến” của ta, bị giằng co trước sau, phải phân tán lực lượng, tổn hao lực lượng, mắc kẹt trong tình thế bùng nhùng như rơi vào bụi gai mây, xoay đằng nào cũng vướng, trở đằng nào cũng mắc.

        Từ tháng 11 năm 1946, tổng chỉ huy quân đội xâm lược Pháp, tướng Va-luy hung hăng đẩy mạnh các hành động lấn chiếm ở Sơn La, Lạng Sơn, Hòn Gai, Hải Phòng, Hà Nội.

        Ngày 20, quân Pháp đánh chiếm thị xã Lạng Sơn và cảng Hải Phòng.

        Ngày 23, quân Pháp chiếm cả thành phố Hải Phòng và sân bay Cát Bi.

        Cũng hôm ấy “Uỷ ban Đông Dương” của chính phủ Pháp quyết định “dùng đường lối vũ lực” và tiếp tục cử Đác-giăng-li-ơ, một tên chủ chiến, làm cao uỷ Đông Dương và đưa thêm viện binh sang Đông Dương.

        Tình hình diễn biến phức tạp đó cùng làm cho không khí Hà Nội thêm căng thẳng, khẩn trương. Hà Nội đã chuẩn bị đi vào cuộc chiến đấu mới một cách tích cực và cụ thể hơn.

        Hà Nội ráo riết chuẩn bi kháng chiến. Các nhà máy, xí nghiệp chuyển máy móc, nguyên liệu ra ngoài thành phố, các cơ quan Chính phủ chuyển dần lên căn cứ địa Việt Bắc. Nhân dân, chủ yếu là ông bà già và trẻ em... những người không trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu được tản cư về nông thôn. Liên tục ngày đêm những chiếc xe ô tô vận tải, xe bò, xe xích lô chở cát, chở đất từ ngoài sông vào các phố để sẵn sàng nhồi vào bao tải, bao cói đắp ụ, dựng chướng ngại vật chắn ngang đường. Công nhân xe hoả nhà ga Hà Nội chuẩn bị sẵn một đoàn toa xe chở đá để khi có lệnh sẽ đẩy ra chắn đường không cho xe tăng, xe cơ giới địch cơ động từ trong thành Hà Nội qua ngã tư Cửa Nam. Các cơ sở sản xuất, các cửa hiệu và từng gia đình thu dọn đồ đạc, chuẩn bị sẵn những đồ vật cồng kềnh để sẵn sàng lao ra mặt đường tạo nên những đống chướng ngại vật la liệt khắp các mặt đường phố.

        Ngày qua ngày, phố xá thưa thớt người, vắng hẳn đi. Nhưng những người ra đi không phải là chạy trốn, lánh xa một cuộc chiến đấu, mà là đi kháng chiến, bước vào một cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ. Ai cũng hiểu, một khi Hà Nội đã vùng đứng lên ấy là lúc cả nước chuyển sang thời chiến. Ta phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, phải chịu đựng nhiều hy sinh, phải nỗ lực vươn lên ngày một thêm sức mạnh để buộc địch phải đeo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài mà chúng không tài nào chịu đựng nổi. Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! Công tác tuyên truyền chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện mà Đảng ta tiến hành rất bền bỉ ngay từ khi quân Pháp định trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, đến lúc này thấm sâu vào trí óc mỗi người dân yêu nước. Tản cư là yêu nước, người Hà Nội rời thành phố thân yêu với ý nghĩ như vậy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:17:54 am

        Những người chưa ra đi, ít ra ngoài đường, chẳng phải chỉ vì ngoài đó thường có những chiếc xe bọc thép của quân đội Pháp phóng bạt mạng, chở những tên lính mũ xanh, mũ đỏ, mặt mày vênh váo lơ láo sẵn sàng gây sự với bất cứ một ai, mà còn phần thu xếp việc nhà, phần tranh thủ góp công, góp sức chuẩn bị cho Hà Nội xuất trận với tư thế đàng hoàng, chững chạc của hùng khí Thăng Long, xứng đáng với vị trí trung tâm của cả nước. Hà Nội tổ chức 12 đội cảm tử chuyên dùng bom ba càng phá xe tăng, xe bọc thép địch, tổ chức 36 đội du kích đặc biệt, mỗi tổ từ ba đến năm người cài ở các điểm bất ngờ, kiểm soát các ngã tư, ngã ba trọng yếu. Chuyên làm nhiệm vụ nghi binh, quấy rối, bắn tỉa và lưu động phục kích, Uỷ ban bảo vệ thành phố và Bộ chỉ huy mặt trận gấp rút bảo đảm vật chất cho Liên khu I chiến đấu độc lập và lâu dài trong lòng địch, lương thực dự trữ đủ ăn ba tháng cho 5.000 người, bổ sung 10.000 viên đạn, 500 quả lựu đạn, 100 chai gây cháy, trang bị 2 máy thông tin vô tuyến điện (Bút ký chiến sự lục, lưu trữ Bộ Quốc phòng).

        Trong Liên khu I công tác chuẩn bị tập trung vào những khu vực trận địa chiến đấu. Những ban công, cửa sổ, những mái nhà bằng, đều trở thành những vị trí bắn. Tường trong nhà, ngoài sân, trên gác đều đục thành lỗ giao thông, mở đường đi từ buồng nhà này sang buồng nhà khác, đi suốt dãy phố dọc, luồn sang dãy phố ngang, tạo thành một trận địa chiến đấu liên hoàn: có thể vừa vận động tác chiến trong khu vực vừa xuất kích đánh địch ngoài khu vực khi cần thiết.

        Sang tháng 12 năm 1946, tình hình càng căng thẳng vì những hành động khiêu khích, cướp bóc, bắn giết của quân Pháp. Để buộc địch phải dè chừng, không dám nổ súng đánh úp ta ngay, đồng thời làm cho chúng không phán đoán được lực lượng của ta, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã tổ chức một cuộc nghi binh lớn với sự hỗ trợ của  các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây. Hàng ngàn dân quân của các tỉnh này được huy động về vùng ngoại thành Hà Nội, cứ tối đến rầm rập kéo vào trong phố, nửa đêm về sáng lại lặng lẽ bí mật rút ra. Suốt một tuần liền ta làm như vậy khiến cho địch tưởng rằng Hà Nội mới được tăng cường 4 vạn quân.

        Ngày 17 tháng 12 từ sáng sớm sương mù chưa tan, Máy bay thám thính của Pháp đã gừ gừ bay lượn nghiêng cánh, chúc đầu như thằng trộm ngày ngó nghiêng thám thính toàn bộ Mặt trận Hà Nội. Lần đầu tiên bọn xâm lược giở trò khiêu khích như vậy ở Thủ đô ta. Đến 8 giờ chúng cho một đoàn xe tăng, xe bọc thép từ trong thành Hà Nội lao xộc ra chịt các ngã ba, ngã tư đầu đường phố Yên Ninh – Hàng Bún. Quân lê dương mũ đỏ quây bắt hơn bốn chục người. Lập tức các cánh cửa nhà quay mặt ra đường mở tung ra hết, bà con dân phố Yên Ninh – Hàng Bún xông ra đấu tranh. Quân lê dương xả súng vào quần chúng tay không tấc sắt.

        Cùng lúc ấy, tại Hải Phòng bọn Pháp có một cuộc họp tướng lĩnh do Va-luy triệu tập. Không ai lạ gì bộ mặt nham hiểm của tên chủ chiến Va-luy, kẻ mới được Đác-giăng-li-ơ tin dùng, cất nhắc giữ chức tư lệnh quân viễn chinh Pháp. Cười đấy, hoà nhã, cởi mở, lịch thiệp đấy, mà lật mặt tráo trở cũng ngay đấy thôi. Người Hà Nội biết mặt hắn từ tháng 3 năm 1946, khi hắn dẫn quân Pháp từ Hải Phòng lên Hà Nội. Trước đấy một tháng, Va-luy trực tiếp đạo diễn quân Pháp gây ra xung đột ở cảng Hải Phòng rồi vin cớ để đánh lan rộng ra chiếm cả thành phố và sân bay Cát Bi. Lần này Va-luy họp tướng lĩnh ngay ở Hải Phòng mới chiếm được để bàn định việc chiếm Hà Nội. Cuộc họp này, hắn còn nhằm mục đích “vặn dây cót tinh thần” cho tướng Moóc-li-e, tư lệnh Pháp ở Bắc Đông Dương. Chả là, viên tướng già này còn do dự, muốn chùng chình chờ có quân tăng viện từ Pháp sang mới hành động. Nhừng Va-luy quyết định: cứ lấn tới.

        Từ ngày 17 tháng 12, tiếp theo vụ tàn sát đốt phá ở phố Yên Ninh – Hàng Bún, quân Pháp gây ra nhiều vụ khiêu khích nữa ở các phố Lò Đúc, Hàng Bột, Hàng Đậu, Hàng Khoai, Đồng Xuân... Nhưng quân và dân Hà Nội rất cảnh giác, rất kỷ luật, không mắc mưu địch. Đến trưa ngày 18 tháng 12, quân Pháp chiếm Nha Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao), Bộ Giao thông (Phố Trần Quang Khải) Hà Nội vẫn nén lòng chịu đựng chờ lệnh Chính phủ.

        Kết thúc hai ngày gây rối loạn, đến 21 giờ 15 phút ngày 18 tháng 12 năm 1946, tướng Moóc-li-e láo xược gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí công an và tự vệ Hà Nội, đòi Chính phủ ta phải trao quyền kiểm soát trật tự an ninh trong thành phố cho quân đội Pháp và ra hạn nếu đến sáng 20 tháng 12 năm 1946, những điều kiện đó không được chấp nhận thì quân đội Pháp sẽ chuyển sang hành động.

        Như vậy là, kể xâm lược đã công khai tuyên chiến với ta, hẹn ngày hẹn giờ đánh chiếm Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:18:22 am

        Hà Nội vẫn bình tĩnh tranh thủ thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi vào cuộc chiến. Những người phải đi nhanh chóng rời khỏi thành phố. Những người ở lại chiến đấu bảo vệ Thủ đô lao vào hoàn thành công việc chuẩn bị, sẵn sàng đánh địch bất cứ lúc nào. Những dòng người ra đi kháng chiến ngày đêm không ngớt. Những cửa nhà đóng kín như bưng. Chỉ còn lại những khẩu hiệu mọc lên chi chít trên khắp các đường phố với những nét chữ rắn rỏi viết trên tường, trên cửa, trên mặt đường nhựa:

        “Sống chết với Thủ đô”

        “Thà chết không chịu trở lại làm nô lệ”.

        Tại đình làng Mọc Quan Nhân, các chiến sỹ quyết tử làm lễ tuyên tuyên thệ: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tôi và Trần Độ có mặt trong buổi lễ tổ chức đơn giản mà nghiêm trang này. Tiếng hát Quốc ca và lời thề hôm ấy của tuổi trẻ Thủ đô vang mãi trong trí óc chúng tôi, củng cố quyết tâm và tăng niềm tin cho chúng tôi: nhất định Thủ đô sẽ chiến thắng.

        Tại Bắc Bộ phủ, các chiến sỹ Vệ quốc quân cũng làm lễ tuyên thệ, nhận danh hiệu Đội Quyết tử Thủ đô.

        Cũng hôm ấy, lực lượng chiến đấu của Hà Nội xuất hiện một số đội quân rất đặc biệt. Đó là trung đội nhà sư do sư thầy Minh làm trung đội trưởng, lấy chùa làng Tứ Kỳ làm trụ sở, cán bộ và đội viên của trung đội này vẫn mặc áo nâu dài, đầu chít khăn nâu, cổ đeo tràng hạt như mọi nhà sư, chỉ có khác là mỗi người có thêm một thắt lưng da để cài lựu đạn, con dao găm hay thanh kiếm.

        Đó là đội tiếp tế - cứu thương gồm hơn một trăm chị em trước kia kiếm sống bằng đủ mọi nghề: hát ả đào, buôn bán rau quả, v.v.

        Ngày 19 tháng 12 năm 1946, càng về trưa, Hà Nội càng ngột ngạt.

        Ở tất cả các nơi ta và địch cùng canh gác chung, quân Pháp hầm hè chĩa súng vào anh em ta. Và trên đường phố chốc chốc lại một đoàn xe bọc thép của chúng ầm ầm lướt qua. Chúng đi tuần tiễu, ngang nhiên như có quyền kiểm soát thành phố.

        14 giờ, chúng tôi lên Bộ Tổng chỉ huy nhận chỉ thị. Sau khi thông báo diễn biến chiến sự các mặt trận Hải Phong, Lạng Sơn, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói:

        - Địch láo xược gửi tối hậu thư, bắt ta nộp vũ khí, trao quyền trị an ở Thủ đô cho chúng. Ta muốn tranh thủ hoà bình để xây dựng đất nước, nhưng ta nhân nhượng nữa địch càng lấn tới. Tất nhiên ta không thể để như vậy. Giờ chiến đấu đã đến. Thường vụ Trung ương Đảng vừa gửi điện cho các mặt trận và các chiến khu nói rõ Chính phủ đã bác tối hậu thư của địch. Như vậy, chỉ trong 24 giờ là cùng, giặc Pháp sẽ nổ súng... Tất cả hãy sẵn sàng!

        Đồng chí Tổng chỉ huy chỉ thị cho chúng tôi phải tổ chức lực lượng bám sát và nắm chắc mọi diễn biến của đich; phải luôn luôn sẵn sàng tư thế chiến đấu, có hiệu lệnh nhất tề đứng lên giết giặc, cứu nước.

        Tiếp theo, đồng chí Trần Quốc Hoàn, phái viên của Trung ương Đảng, nói:

        - Thường vụ Trung ương đảng đã họp và quyết định phát động cả nước kháng chiến. Trong cuộc họp ấy, Hồ Chủ tịch phân tích ngắn gọn nhưng rất súc tích khoa học về tình hình Mỹ - Pháp và khả năng của ta. Bác Hồ giải thích rõ ràng và tỉ mỉ là cuộc kháng chiến lâu dài cảu ta nhất định thắng lợi. Cuối cùng, Bác Hồ còn hỏi kỹ về tình hình mùa màng và sinh hoạt của nhân dân. Biết chắc năm nay được mùa, nhân dân đủ no, Bác Hồ mới an tâm...

        16 giờ, chúng tôi trở về Sở chỉ huy Mặt trận, đặt ở bên cạnh sân bay Bạch Mai. Các tiểu đoàn trưởng và cán bộ các liên khu đã tập trung đầy đủ. Chúng tôi kiểm tra một lần nữa các mặt công tác chuẩn bị. Khi tôi thay mặt Bộ chỉ huy mặt trận quy định các tín hiệu nổ súng thì tất cả mọi người trong phòng họp đứng bật dậy, phút chốc biến mất hết những vẻ mặt trầm ngâm,. Căng thẳng của nhiều ngày đêm làm việc vất vả để đối phó với các hành động khiêu khích, ngang ngược của địch. Ai nấy hả lòng hả dạ vui vẻ hẳn lên, vì sắp được chiến đấu, trút hết nỗi căm hờn chồng chất, nén chặt bấy lâu nay xuống đầu quân cướp nước.

        20 giờ, bọn địch cùng gác chung với ta ở nhà máy điện Yên Phụ trở mặt gây sự. Chúng bao vây tiểu đội Vệ quốc đoàn bảo vệ nhà máy, đòi tước vũ khí. Anh em ta liền nổ súng kịp thời và lập tức tự vệ công nhân lao vào phá máy.

        20 giờ 03 phút, đèn điện toàn thành phố tắt phụt. Không đầy một phút sau đó, súng nổ ran, rồi pháo của ta từ pháo đài Láng, Xuân Canh, Thủ Khối ầm ầm nhả đạn vào các nơi địch đóng tập trung đông quân ở thành Hà Nội, trường Bưởi, Sân bay Gia Lâm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:18:45 am

        Hà Nội đã nhất tề vùng dậy. Tiếng súng, tiếng pháo rền vang... Cả đô thành bốc lửa. Cả Hà Nội trút căm hờn lên đầu quân xâm lược...

        Chỉ sau 4 giờ chiến đấu, vào lúc nửa đêm 19 tháng 12, qua tổng hợp báo của các đơn vị, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội thống nhất nhận định: Ta đã phá tan âm mưu bất ngờ đánh úp của địch. Chúng không còn cái thế có thể ngày một, ngày hai chiếm xong cả Thủ đô Hà Nội nữa rồi. Nhất định quân và dân Thủ đô sẽ thực hiện đúng mệnh lệnh của Hồ Chủ tịch. Người đề ra yêu cầu phải kìm chân địch trong Hà Nội từ một đến hai tuần lễ để ta có thời gian chuyển bộ máy chỉ đạo chiến tranh của Đảng và Chính phủ được ổn định, nhân dân tản cư được đầy đủ và an toàn, tránh được tình trạng rối loạn. Trong không khí phấn khởi của buổi đầu ra quân thắng lợi, Trần Độ nêu ý kiến khêu gợi:

        - Bác Hồ ra hạn phải giữ được Hà Nội từ một đến hai tuần lễ. Nhưng chúng ta thử tính xem có thể giữ được lâu hơn không? Lúc này cả nước nhận được mệnh lệnh chiến đấu cảu Bộ Tổng chỉ huy rồi, cả nước đã đi vào kháng chiến, đâu đâu anh em ta cũng nổ súng, địch không thể tập trung sức để nhanh chóng cướp được Thủ đô ta đâu...

        Tôi bắt lời ngay:

        - Phải cố gắng chứ. Phải giữ được Hà Nội ít nhất là nửa tháng.

        Cả Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội cùng nhất trí.

        Những trận đánh đầu tiên trong trung tâm thành phố, ngay sát Hà Nôi, nơi tập trung quân cơ động của đich, cho thấy rõ hiệu lực chiến thuật của chiến tranh nhân dân - chiến thuật “cài then cửa” của ta. Cái chiến thuật nảy sinh thừ thực tiễn, từ trí tuệ của quân chúng. Cái chiến thuật mà tất cả mọi người, dân, mọi chiến sỹ tự vê, Vệ quốc đoàn đều có thể thực hiện được. Nó có hiệu lực ở khắp nơi. Một cái ba-ri-cát dựng lên ở đầu phố bằng cách xếp hàng trăm bao đất hoặc đào một con hào cắt ngang đường lấy đất đắp sang một bên bờ hào, đắp cao ngọn lên, đó là một thứ “then cài”. Một cây to, một cột điện đổ vật ngang đường là một thứ “then cài”. Một đống bàn ghế, hòm thúng vứt lổng chổng ngổn ngang trên mặt đường, cũng là một thứ “then cài”. Thậm chí, đem nồi đất, chậu sành, chậu gỗ úp rải rác la liệt trên một quãng đường cũng là một thứ “then cài” khiến cho các loại xe địch không dám xông bừa vào, bởi vì biết đâu dưới một cái nồi, cái chậu nào đó có một quả mìn? Nhưng quan trọng hơn cả là các tổ tự vệ chiến đấu kết hợp đánh địch ở đó, ở các vật chướng ngại ấy. Đó là một “then cài hoàn chỉnh” một chiến thuật hư thật thật hư, ít tốn kém mà hiệu quả cao.

        Gặp “then cài” là địch phải dừng lại, bắn phá lung tung như vãi đạn rồi mới dám cho trinh sát mò lên phá “then cài”. Nhưng phá được rồi, chung vẫn phải lò dò từng bước, vừa đi vừa nghe ngóng, biết đâu ở quãng đường không có “then cài” lộ thiên lại có một thứ “then cài” bí mật gì đó, hay một ổ phục kích.

        Từ Cửa Bắc thành Hà Nội ra đến nhà máy điện Yên Phụ chỉ mấy trăm mét, hoả lực bắn thẳng của địch đặt từ Cửa Bắc kiểm soát suốt dọc đường này từ mấy hôm trước, thế mà đến khi ta nổ súng chiến đấu, một đoàn xe địch chỉ gặp một cây đổ và một tổ chiến đấu của tổ tự vệ, phải đi mất một tiếng đồng hồ. chúng đến nơi thì công nhân đã phá xong máy móc nhà máy điện Yên Phụ.

        Trận đánh đầu tiên tiêu biểu cho hiệu lực chiến thuật “cài then cửa” diễn ra ở dọc đường phố Hàng Đậu. Nơi đây mặt đường rộng rãi, hai bên không có cây cối, là đường đi lối lại của địch từ thành Hà Nội qua cầu Long Biên sang sân bay Gia Lâm, ta không đào cắt đường từ trước được, mà ngay những đồ vật dựng chướng ngại vật cũng phải dấu kín. Ta dự kiến ngay từ phút đầu tiên của cuộc chiến đấu, thế nào địch cũng tung một lực lượng mạnh ra chiếm phố Hàng Đậu để kiểm soát cầu Long Biên. Và đúng như vậy, chỉ mười phút sau khi Hà Nội nổ súng kháng chiến, địch đã phóng ra đây một đoàn xe hơn ba chục chiếc. Nhưng mặt đường Hàng Đậu không còn thênh thang nữa. Đội tự vệ Hàng Đậu, gồm những người thợ nguội, thợ hàn, thợ sửa chữa ô tô, những người lái xe vận tải đã “cài then cửa” rất nhanh. Phố này có những xưởng sửa chữa xe máy, những xưởng gỗ, xưởng củi... nên có nhiều xe rơ-moóc, xe bò. Anh em tự vệ chuẩn bị sẵn một số xe ấy, trên chất đầy gỗ, củi, sắt gỉ, bao cát giấu sẵn ở trong các phố ngang, các ngõ hẻm gần đấy. Có lệnh chiến đấu, họ đẩy các xe chướng ngại vật ấy ra, rồi lật đổ ngổn ngang trên mặt đường Hàng Đậu.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:19:20 am

        Đoàn xe địch từ trong thành Hà Nội theo đường Cửa Bắc lao ra định đến cầu Long Biên đón một đoàn quân cơ động của chúng từ bên sân bay Gia Lâm kéo sang, nhưng đến đầu phố Hàng Đậu thì phải dừng lại. Hai chiếc xe tăng đi đầu bắn phá dọn đường mãi mới len lách bò dần đến giữa phố. Một quả mìn nổ, chiếc xe đi đầu toác bụng nằm ì giữa đường biến thành một vật cản đường. Chiếc thứ hai cũng bị đứt xích nằm xoay ngang, lại thêm một vật cản đường nữa. Thế là tắc. Đoàn xe địch phải dừng lại cho lính mũ đỏ nhảy xuống, giữa lúc anh em tự vệ Hàng Đậu, cùng tự vệ các phố lân cận, chạy ùa ra đánh giáp lá cà. Kết quả địch phải tháo lui, bỏ lai trên mặt đường hơn bảy chục xác chết, bốn xe vận tải và hai xe tăng, lửa cháy ngùn ngụt.

        Trong nội thành Hà Nội, trước khi quân Pháp nổ súng gây hấn, chúng đã chiếm đóng bảy vị trí lớn và gần bốn chục vị trí nhỏ, hình thành cái thế chia cắt Thủ đô ta; có thể đồng thời xuất quan bao vây các cơ quan trọng yếu và chịt giữ tất cả các cửa ngõ ra vào Hà Nội.

        Những âm mưu hiểm hóc này của bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp đã bị phá sản ngay từ đầu. Cùng lúc quân và dân Hà Nội tiến hành cuộc bao vây các vị trí nhỏ của địch, và dựng vật chướng ngại “then cài cửa” trên khắp các ngả chặn quân cơ động của chúng. Súng nổ ran trong nội thành suốt đêm 19 rạng sáng ngày 20 tháng 12. Trong đêm đầu ra quân này, Hà Nôi giành phần thắng lợi lớn là đã làm cho địch mất thế chủ động chuyển thành bị động, lúng túng, nhưng thắng lợi lớn hơn cả là từ người chỉ huy cho đến chiến sỹ, qua một đêm thử thách quyết liệt, ai nấy đều tin rằng với những ổ chiến đấu cắm rải rác ở khắp các khu phố, với những hàng chướng ngại vật mới dựng lên ở khắp các ngả đường, và mỗi giờ trôi qua, những cài “then cài” này lại được củng cố vững chắc hơn, hiểm hóc hơn, nhất định ta sẽ tiêu diệt được nhiều địch, ghìm chúng lâu ngày trong Hà Nội.

        Ngày 20 tháng 12, trời vừa rạng sáng, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Văn Thái đã đến Sở chỉ huy Mặt trận Hà Nội. Chúng tôi không phải báo cáo tình hình vì suốt đêm qua các đồng chí đã theo dõi sát. Các đồng chí đến để cùng chúng tôi đi vào nội thành, đến các đơn vị, truyền đạt lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ chủ tịch, đồng thời xem xét mặt trận. Các  đồng chí Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn cùng tôi vào khu phố Khâm Thiên. Đến đầu phố thì địch đóng ở nhà Dầu Sen bắn súng máy, súng cối liên tục sang trận địa ta. Xen vào những tiếng đạn địch nổ ùng oàng, là tiếng nhạc, tiếng hát vẫn vút lên.

        Đồng chí liên lạc dẫn đường nói:

        - Tự vệ Khâm Thiên đấy các đồng chí ạ, đàn hát suốt từ mờ sáng đến giờ, đêm qua đi làm ba-ri-cát ở ngoài đường, đạn địch bắn chíu chíu thế mà các ông, các bà ấy vẫn cứ đùa như đi hội, lại còn mang cả ghi ta ra đấy mà gảy phừng phừng nữa chứ.

        Cả đêm qua, tôi lo nắm tình hình và chốc chốc lại trao đổi qua điện thoại với cán bộ các liên khu, gần như trắng đêm không ngủ, người mệt bã, nhưng khi đến phố Khâm Thiên gặp anh em bộ đội, tự vệ, thấy anh em vui quá, cái mệt của tôi tiêu tan hết.

        Hôm ấy ta ghìm địch ở trong thành phố. Địch không mở được một trận địa nào ra phía các cửa ô, ngoài hai trận địch đánh thăm dò ra phía Quần Ngựa (Cạnh đường Hoàng Hoa Thám) và Ngọc Hà. Những trận đánh trong nội thành diễn ra rất quyết liệt, nhất là trận đánh ở Bắc Bộ phủ, ta tiêu diệt khá nhiều địch, có nhiều gương chiến đấu rất anh dũng tiêu biểu cho tinh thần cảm tử bảo vệ Thủ đô. Nhưng về mặt chiến thuật, chúng tôi đặc biệt chú ý đến trận đánh cánh quân địch tiến ra đường Ngọc Hà.

        Ở đây, sau khi quân Pháp phá được mấy lớp ba-ri-cát ngăn đường, chỉ thấy tiếng súng tự vệ bắn lẻ tẻ, chúng liền dốc nhau đuổi theo chúng tiến ào ào được độ dăm trăm mét thì bị một đơn vị Vệ quốc đoàn từ trại Ngọc Hà đánh thốc ngang lưng. Bị đòn bất ngờ, địch trở tay không kịp, hàng ngũ rối loạn, chạy tung toé. Đây là lối đánh mà hồi đó chúng tôi gọi là chiến thuật “xoáy trôn ốc” địch đánh ra, ta nhử cho địch ra xa rồi quật mạnh vào lưng, vào đuôi nó, khiến nó phải quay đầu co trở lại.

        Hôm sau, ta lại đánh một trận tương tự như thế ở phía bắc nội thành Hà Nội. Tự vệ Yên Phụ vừa đánh vừa lui nhử địch vào sâu, rồi lợi dụng chướng ngại vật chặn chúng lại. Giữa lúc đó, hai trung đội Vệ quốc đoàn xuất kích bất thần đánh vào phía đuôi đội hình địch, tiêu diệt vài chục tên, địch phải rút.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:19:50 am

        Hôm sau, ta lại đánh một trận như thế nữa ở phía nam thành phố. Khoảng 5 giờ chiều ngày 22 tháng 12, một toán lính Pháp từ Đồn Thuỷ lặng lẽ tiến xuống Lò Lợn. Các chiến sỹ ta ở đây chỉ bắn lẻ tẻ rồi rút, địch chiếm Lò Lợn không gặp một ai. Chúng đánh thốc xuống Thanh Nhan. Quân ta vẫn rút. Đồng bào thấy bộ đội không đánh mà cứ xách súng chạy, có người nghĩ rằng “ta yếu, ta lui là phải” nhưng có người phát cáu, nói thậm tệ: sợ Tây thì bỏ súng đấy mà chạy cho nhanh, để dân đánh hộ cho! Thực ra, những chiến sỹ đang xách súng chạy dọc đê Thanh Nhàn kia lại chính là những thanh niên rất gan dạ, mưu trí, đang lấy thân mình làm cái mồi nhử đạn, lôi chúng đi sâu vào trận địa bày sẵn ở Thanh Nhàn, kéo dài đội hình của chúng ra, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị nấp sẵn bên bờ đê xung phong đánh ngang sườn địch. Trận này có một sự hiệp đồng, tình cờ thôi mà hiệu quả lớn. Khi bộ đội xung phong, nhân dân phấn khởi reo hò, tiếng reo thôi thúc lòng người chiến sỹ, tiếng reo hò nổi lên làm cho kẻ địch đang lúng túng vì bị đòn bất ngờ, lại càng lúng túng thêm, rồi rối loạn, tháo chạy, bỏ xác 15 tên tại trận. Địch chạy, bộ đội truy kích, nhân dân phấn khởi nhảy lên mặt đê reo hò, cùng bộ đội đuổi địch cho đến sẩm tối.

        Những ngày 21, 22 tháng 12 ta vẫn ghìm địch trong thành phố. Qua hết đêm 23 tháng 12, ta hoàn thành việc thu gom lực lượng, hình thành thế trận “trùng độc chiến”. Các lực lượng thuộc Liên khu II và Liên khu III kéo ra giữ các cửa ô, các lực lượng thuộc Liên khu I cụm lại trong trung tâm thành phố, nằm gọn trong lòng địch.

        Lúc đầu các tướng lĩnh Pháp lầm tưởng rằng các lực lượng của ta cụm lại trong Liên khu I là do bị mắc kẹt, vì không có lối rút ra. Chúng tỏ ra chủ quan xem thường, coi đấy là lực lượng đã lâm vào thế tuyệt vọng, bị vây chặt bốn phía, chắng mấy chốc sẽ tan rã, phải đầu hàng. Nhưng chỉ vài ngày sau, chúng đã thấy khó chịu, nhức nhối. Quân Pháp mở nhiều cuộc tiến công vào Liên khu I, đánh hướng nào chúng cũng bị thiệt hại khá đau, chiếm được một dãy nhà, một góc phố nhỏ ngang dọc chỉ hơn trăm mét cũng mất cả một ngày; nhiều chỗ đã chiếm được rồi lại bị đánh bật ra, hoặc chiếm được ban ngày thì chưa tối đã phải rút lui vì không thể bám chắc được.

        Kể ra, nếu lúc này quân Pháp tập trung được lực lượng đông hơn, mạnh hơn, liên tục đột phá vào Liên khu I thì chúng cũng có thể nhanh chóng đánh bật ta ra. Bởi lẽ ở trong đó ta đang phải khắc phục nhiều khó khăn. Có hàng mấy vạn dân chưa kịp tản cư, chạy dồn cả về các phố Hàng Bạc, Hàng Mắm, Hàng Buồm, Chợ Gạo... nơi tương đối xa tiếng súng, mà hàng ngày ta phải lo tiếp tế gạo nước, bảo vệ an ninh, và mỗi đêm ta chỉ tổ chức đưa được dăm trăm người bí mật men theo bờ sông Hồng, qua gầm cầu Long Biên, ngược lên Yên Phụ, ra ngoại thành. Đêm đi được nhiều nhất cũng không quá nghìn người. Khó khăn lớn nữa của ta ở Liên khu I lúc bấy giờ là anh em tự vệ tuy có tinh thần chiến đấu rất cao, sắn sàng xả thân vì nước, nhưng lại rất yếu về sử dụng vũ khí, phải vừa đánh vừa học tập. Cán bộ chỉ huy từ cấp tiểu đội trở lên, cũng vừa đánh vừa học - học cách chỉ huy, cách tổ chức hoả lực, bố trí trận địa...

        Các tướng lĩnh Pháp cũng có thể biết được những khó khăn đó của ta, chúng muốn dồn sức nhanh chóng chiếm lấy khu vực trung tâm này của thành phố để ổn định bên trong, lấy chỗ đứng vững chắc mà mở rộng chiến tranh ra ngoại thành. Nhưng chính chúng lại đang bị mắc kẹt trong thế trận “trùng độc chiến” của ta, nên không thể làm gì hơn được. Nhìn toàn cục thì thấy bên trong, chúng bị các lực lượng vũ trang của ta ở Liên khu I đục khoét bên ngoài lại bị các lực lượng của Liên khu II, Liên khu III đánh ép vào, buộc chúng phải phân tán lực lượng. Hơn thế nữa, ở Liên khu III, chúng ta cũng tổ chức các đơn vị Vệ quốc đoàn, từng đại đội, trung đội đêm đêm luồn sâu vào trong thành phố phối hợp với tự vệ đánh địch trừ gian. Vì thế giặc Pháp càng thêm lúng túng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:20:21 am

        Với thế trận “trùng độc chiến” này, trường hợp mà sức ta tương đương hoặc chỉ kém địch chút ít, thì ta có thể ép chặt địch lại, cắt địch ra từng mảnh để diệt gọn chúng... Từ ngoại thành, ta phái nhiều tổ du kích vào hoạt động trong khu vực địch chiếm. Mục tiêu của các tổ du kích này là những đội tuần tiễu, những xe địch chạy trong thành phố, những trạm gác địch đặt ở ngã ba, ngã tư đường... đánh bất ngờ, chỉ cần nổ một vài phát súng, ném một quả lựu đạn, một chai cháy, nhưng đã đánh là phải chắc trúng, phải gây được thương vong, thiệt hại cho địch, làm cho các khu vực địch kiểm soát luôn luôn náo động, không có chỗ nào địch ổn định, dù là ngay cạnh chỗ chúng tập trung đông quân. Cách đánh này rất phù hợp với khả năng tác chiến của anh em ta hồi ấy. Hơn nữa, với điều kiện một thành phố nhiều nhà cửa san sát, nhiều đường ngõ ngang dọc, nhân dân đã tản cư hết, mà anh em ta lại thông thạo địa hình, có thể nhanh chóng ẩn hiện, làm cho địch bị điên đầu nơm nớp lo âu vì những phát đạn bắn tỉa mà chúng không thể biết được từ cửa sổ nào, hay từ nóc nhà nào, ngõ ngách nào bắn ra. Các tổ du kích đã khiến cho địch phải nghi ngờ hết thảy, phải tung nhiều cánh quân càn quét đi càn quét lại biết bao nhiêu dãy phố mà nhà nào nhà ấy cửa đóng im lìm, không một bóng người.

        Hà Nội chiến đấu được 5 ngày thì chúng tôi nhận được điện gọi vào làng Vạn Phúc (thuộc thị xã Hà Đông) nhận chỉ thị mới của Bộ Tổng chỉ huy. Sau khi nghe các đơn vị báo cáo và giao nhiệm vụ xong, đồng chí Võ Nguyên Giáp công bố quyết định của Bộ về tổ chức chỉ huy chiến đấu trong tình hình mới: Sáp nhập Khu XI vào với Khu II, Mặt trận Hà Nội trở thành tiền phương của Khu II. Tôi được chỉ định làm Khu phó Khu II, đồng thời chỉ huy khu vực tiền phương gồm Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây. Trần Độ được chỉ định làm Chính trị viên phó Khu II.

        Một quyết định thật sáng suốt. Thế là từ nay Mặt trận Hà Nội có một địa bàn hậu phương rộng rãi đã xoay trở và có thêm lực lượng hùng hậu của các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hoà Bình, Hà Nam. Các lực lượng vũ trang nhân dân của các tỉnh, các đơn vị chủ lực của khu sẽ luân phiên nhau vào tham gia chiến đấu ở các cửa ô Hà Nội. Từ nay, Hà Nội không những có đủ lực lượng trực tiếp chiến đấu mà còn có lực lượng dự bị cơ động ở bên ngoài làm cho thế trận thêm mạnh, thêm khả năng để chiến đấu hãm địch nhiều ngày trong Hà Nội.

        Tôi đang suy nghĩ về quyết định mới này thì đồng chí Hoàng Văn Thái hỏi ngay:

        - Tổ chức lại như thế, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội thấy thế nào?

        Đồng chí Nguyễn Văn Trân, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Khu XI, trả lời:

        - Rất tán thành, hoàn toàn nhất trí.

        Đồng chí Trần Độ nói tiếp:

        - Phấn khởi lắm, tôi xin biểu quyết cả hai tay!

        - Còn anh Vũ cũng nhất trí chứ? - Đồng chí Thái quay sang hỏi tôi.

        Nghe đồng chí Hoàng Văn Thái hỏi, tôi gật đầu và nói vội:

        - Vâng, vâng, nhất trí như anh Trân, anh Độ.

        Hà Nội chiến đấu đến ngày thứ 10, ta vẫn ghìm chặt quân Pháp trong nội thành, không một tên nào bén mảng được đến các cửa ô. Trong khi đó, những báo cáo của lực lượng chiến đấu trong Liên khu I gửi ra đều nói lên một tình hình lạc quan: Trận địa trụ bám mỗi ngày một thêm vững chắc, đã ba bốn ngày liền địch không mở một cuộc tiến công nào vào Liên khu I, mà chúng chỉ rải quân đóng nhiều vị trí để vừa thăm dò vừa hình thành thế bao vây ta.

        Địch lập một hệ thống vị trí bao vây Liên khu I. Điều này chúng tôi cũng có dự kiến. Một khi ỷ vào ưu thế binh hoả lực, dùng chiến thuật bất ngờ đánh úp các lực lượng của ta trụ bám ở trong đó, thấy chẳng dễ dàng gì, địch sẽ chuyển sang bao vây để dồn sức đánh nống ra ngoại thành. Tướng lĩnh Pháp tính rằng nếu họ chiếm được các cửa ô Hà Nội và đánh loang rộng ra xa nữa thì các lực lượng của ta trụ bám trong Liên khu I sẽ bị cô lập hoàn toàn, sẽ tan rã, bị tiêu diệt hoặc phải đầu hàng. Nhưng đó là cách tính của họ. Còn đối với ta thì trái lại, chúng ta đã có phương án đối phó với tình huống này. Bộ Tổng chỉ huy đã có kế hoạch tác chiến tổng quát - nhằm bổ trợ cho Mặt trận Hà Nội. Và Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội chúng tôi cũng đã có bàn bạc nhất trí một kế hoạch tác chiến cụ thể cho các đơn vị, trước khi vào Vạn Phúc nhận nhiệm vụ như sau: địch bao vây lấn chiếm Liên khu I thì Liên khu II và III đánh thúc sau lưng địch, buộc chúng phải quay ra ngoài đối phó với Liên khu II và Liên khu III. Nếu chúng mở cuộc hành quân đánh ra ngoài Liên khu II và III thì lệnh cho Liên khu I hoạt động mạnh để có kéo địch lại. Cách đánh phối hợp chặt chẽ trong với ngoài như vậy khiến cho địch không rảnh tay tập trung đánh ta được về phía trong hay ngoài, tạo ra thế ta và thế địch cứ giằng co như vậy là có lợi cho ta, tạo điều kiện để ta thực hiện nhiệm vụ giam chân địch ở Thủ đô càng lâu càng tốt.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:20:47 am

        Ngày 28 tháng 12 trong cuộc họp kiểm điểm tình hình tại Bộ Tổng chỉ huy, đồng chí Võ Nguyên Giáp dặn chúng tôi:

        - Ở Hà Nội địch đang lúng túng, chúng chờ quân tăng viện thì chúng mới có thể khắc phục được tình trạng hiện nay. Trước mắt để bao vây khống chế Liên khu I có hiệu quả, có nhiều khả năng địch sẽ mở những đợt tiến công lớn ra ngoại ô Hà Nội. Ta phải tiêu hao thật nhiều địch. Phải chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để mở rộng mặt trận. Phải đánh chặn địch có hiệu quả cao nhất. Nhưng cần nhớ, phải bảo toàn lực lượng để chiến đấu lâu dài.

        Qua những tin tức trinh sát được, chúng tôi dự đoán địch sẽ đánh ta phía tây nam Hà Nội, chiếm Ô Chợ Dừa. Quả nhiên, ngày 30 tháng 12 địch hành động như ta đã dự kiến. 600 lính Pháp, 50 xe cơ giới có máy bay trinh sát, máy bay khu trục yểm trợ theo hai hướng Hàng Bột và Khâm Thiên. Địch chọc thủng được các tuyến ngăn chặn của ta, chiếm được Ô Chợ Dừa, nhưng đến 2 giờ chiều chúng phải rút hết. Ngay chiều hôm đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp và tôi đến Khâm Thiên – Hàng Bột gặp Tiểu đoàn 523 và anh chị em tự vệ vừa mới chiến đấu ở khu vực này để tìm hiểu rõ nguyên nhân: tại sao địch có thể nhanh chóng đánh thọc sâu đến Ô Chợ Dừa? Tại sao chiếm được cửa ô này rồi mà địch phải rút ngay?

        Lần đầu tiên trong cuộc chiến đấu giam chân địch ở Hà Nội, quân ta chống cự với một trận tiến công mạnh mẽ của địch ở đường phố độc đạo, chung quanh trống trải. Hai bên phố Khâm Thiên hồi đó là những xóm, những làng xen kẽ hồ ao, chuôm. Ở Hàng Bột cũng vậy, nằm dọc một khu vực toàn những làng, những xóm và đồng ruộng. Anh em ta cho rằng xe cơ giới và bộ binh địch không dám tiến vào làng mạc vì có ao chuôm, ruộng lầy cản trở, cho nên ta chỉ chú trọng đề phòng giữ hướng đường phố. Lợi dụng sơ hở đó của ta, địch đánh vòng bên sườn và sau lưng, chọc thủng trận địa ta, bao vây đường phố. Xe tăng đi trước bắn phá, bộ binh theo sau. Địch thọc nhanh được đến Ô Chợ Dừa xong không dám dừng lại ở đấy là do anh em ta chiến đấu rất kiên cường, từ hai bên dãy phố ta vận động đánh ngang sườn địch, các tuyến ngăn chặn tuy bị chọc thủng nhưng ta không để cho toàn bộ trận địa bị vỡ, vận bám chặt lấy địch mà đánh, vẫn cố bịt lại những nới bị chọc thủng. Thành ra tuy địch tiến được xa mà phía sau của chúng lại bị uy hiếp, không khác gì như một hòn đá ném xuống nước, nước giãn ra, cồn sóng lên, sóng giãn ra tới bờ rồi lại đổ xô vào. Địch tiến được đến Ô Chợ Dừa, nhưng phía sau chúng hàng cây số, trên đường Hàng Bột, đường Khâm Thiên ta vẫn giữ vững từng căn nhà, bởi thế chúng phải vội co lại ngay. Trong trận đánh ngày 30 tháng 12 này, ta diệt được một trung đội địch.

        Những kinh nghiệm của Khâm Thiên, Hàng Bột được phổ biến kịp thời. Hôm sau, địch theo đường số 1 tiến công xuống Kim Liên. Ở đây, đường độc đạo, địa hình trống trải thuận tiện cho địch phát huy hoả lực. Ta chỉ có một trung đội Vệ quốc đoàn, nhưng anh em đã khéo dựa vào chiến hào, giao thông hào để cơ động đánh địch từ nhiều hướng lại biết tập trung lực lượng vào hướng chính và có lực lượng dự bị nên đã đánh chặn được địch suốt cả ngày. Qua trận này, ta có thêm kinh nghiệm chỉ dùng một lực lượng nhỏ mà chọi được một lực lượng lớn của địch, tiêu hao được địch, giữ được trận địa mà vẫn bảo toàn được lực lượng mình.

        Những ngày đầu năm 1947, chiến sự phát triển đến các cửa ô. Quân và dân Hà Nội tiếp tục nhiệm vụ ngăn chặn địch đánh ra vùng ngoại thành trên phạm vi rộng từ Vĩnh Tuy đến Ô Cầu Dền, Kim Liên, Ô Chợ Dừa, Kim Mã, Ngọc Hà, Thuỵ Khuê, Yên Phụ thành một tuyến đường vòng cung dài hơn 10 ki-lô-mét...

        Làm thế nào để có thể giam chân địch một thời gian nữa. Đó là một câu hỏi, yêu cầu Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội chúng tôi phải suy nghĩ tìm cho ra đáp án. Lực lượng Vệ quốc đoàn của ta ở trên tuyến này có 5 tiểu đoàn (mới được tăng viện thêm Tiểu đoàn 56). Nhưng qua các trận Khâm Thiên – Hàng Bột (30/12/1946), Kim Mã (31/12/1946), Thuỵ Khuê - Ngọc Hà - Liễu Giai (3/01/1947), Thanh Nhàn – Vĩnh Tuy (3/01/1947), Giảng Võ (06/01/1947), quân ta đã trưởng thành rõ rệt, từ phòng ngự đơn giản, rải quân mành mành trong các hố chiến đấu đơn độc, đã tiến tới có chiến hào, giao thông hào liên kết với nhau để cơ động. Từ chỉ biết phòng ngự phía trước mặt, tiến tới biết đề phòng bên sườn, phía sau, biết tổ chức và sử dụng lực lượng dự bị. Qua những trận chiến đấu ấy, quân ta đã biết vận dụng nhiều cách nhử địch, nghi binh lừa địch và tìm ra một cách đánh thích hợp với nhiệm vụ ngăn chặn và thích hợp với trình độ tác chiến của ta. Địch tiến đánh ra, ta kiên quyết đánh chặn từng bước, đánh tạt sườn làm cho chúng mệt sức, tiêu hao, tiêu diệt địch ngày càng nhiều...


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:21:25 am

        Trên cơ sở những tiến bộ đã đạt được, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã họp bàn bố trí thế trận mới để thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy giao cho với yêu cầu: đánh tốt tiêu diệt thêm sinh lực địch; giam chân địch thêm một thời gian nữa nhưng vẫn bảo toàn và phát triển được lực lượng ta để tham gia đánh lâu dài.

        Những ngày đầu năm 1947, chiến sự diễn ra ác liệt. Trên bầu trời Hà Nội ban ngày lúc nào cũng thấy những cột khói đen đặc cuồn cuộn bốc lên, đêm đến là những vầng lửa cháy sáng rực cả vòm trời. Nhưng chính trong những ngày này khả năng ghìm địch lâu ngày ở Hà Nội lại thể hiện rõ rệt nhất. Sau khi được cấp trên chuẩn y, chúng tôi đã sắp xếp lại lực lượng, tổ chức lại chỉ huy chiến đấu cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Trước hết tại Liên khu I, chúng tôi thống nhất các lực lượng Vệ quốc đoàn, công an, tự vệ để thành lập trung đoàn Liên khu I và cử đồng chí Hoàng Siêu Hải làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Trung Toản là Chính trị viên.

        Về việc thành lập trung đoàn Liên khu I, các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân và tôi bàn luận rất thận trọng, cân nhắc mọi mặt, cuối cùng chúng tôi nhất trí tán thành, vì có thống nhất lực lượng mới thống nhất chỉ huy, sức mạnh càng tăng lên, ta càng giữ Hà Nội được lâu, càng chứng minh đường lối kháng chiến lâu dài của Đảng là đúng đắn. Chúng tôi báo cáo ý kiến để nghị này lên Bộ Tổng chỉ huy và được Bộ đồng ý ngay.

        Ngày 7 tháng 1 năm 1947, một ngày đáng ghi nhớ - ngày trung đoàn Liên khu I, con đẻ của cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Thủ đô, chính thức thành lập trong lòng địch, dưới tầm súng địch. Quả là một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh.

        Một tuần sau, sau ngày 12 tháng 1 năm 1947, Hội nghị quân sự toàn quốc họp ở Chương Mỹ - Hà Đông, nhận xét thành tích của trung đoàn Liên khu I và tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ đô. Về sau này, trong một bài diễn văn, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói: Đặt tên cho trung đoàn ấy không có tên nào xứng đáng hơn là Trung đoàn Thủ Đô.

        Cả mặt trận Hà Nội phấn khởi được tin cấp trên tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ Đô cho Trung đoàn Liên khu I.

        Anh em chiến đấu ở ngoại thành cũng gian khổ, quyết liệt và diệt được khá nhiều địch, nhưng ai nấy đều đánh giá rất cao vai trò của Trung đoàn Thủ Đô. Vì nếu không có trung đoàn ấy chiến đấu kiên trì trong Liên khu I thì địch sẽ rảnh tay tập trung lực lượng phá vỡ vòng vây của ta bao quanh các cửa ô Hà Nội. Ai nấy đều thấy rằng để tạo điều kiện cho Trung đoàn Thủ Đô có thể chiến đấu được lâu hơn nữa ở trong đó thì các đơn vị ở ngoài phải hoạt động mạnh, liên tục đánh ép địch.

        Lúc này lực lượng Vệ quốc đoàn chiến đấu ở ngoại thành Hà Nội đã tăng lên 7 tiểu đoàn:

        - Tiểu đoàn 145, do đồng chí Lê Quân, rồi đến đồng chí Trắc Vinh Nam chỉ huy, phụ trách mặt tây bắc, từ sông Hồng đến giáp Ô Cầu Giấy.

        - Tiểu đoàn 523, do đồng chí An Giao chỉ huy, phụ trách mặt tây nam từ Cầu Giấy đến giáp đường Kim Liên.

        - Tiểu đoàn 64, do đồng chí Quốc Linh chỉ huy, phụ trách mặt nam, từ Kim Liên đến giáp cửa Ô Đống Mác.

        - Tiểu đoàn 212, do đồng chí Hồng Kỳ chỉ huy, phụ trách mặt đồng nam, từ Ô Đống Mác đến Vĩnh Tuy, sông Hồng.

        - Tiểu đoàn 77, do đồng chí Hoàng Kiện chỉ huy, làm đội dự bị của Liên khu II, đóng ở phía đông nam thành phố.

        - Tiểu đoàn 56, do đồng chí Anh Đệ chỉ huy, làm đội dự bị của Liên khu III, đóng ở trường bay Bạch Mai.

        - Tiểu đoàn 13 do đồng chí Phùng Thế Tài chỉ huy, là lực lượng dự bị của Liên khu II đóng ở Ô Đống Mác tới Giáp Bát, luân phiên đánh địch ở Ô Cầu Dền. Lúc này toàn thành phố chỉ có một khẩu ba-dô-ca với năm viên đạn – là loại vũ khí chống tăng hiện đại duy nhất lúc đó. Khi giao vật hiếm ấy cho đơn vị đồng chí Phùng Thế Tài, tôi nói vui nhưng có ý nhấn mạnh phải bảo vệ nó:

        - Để mất khẩu súng này là các anh mất đầu đấy!

        Cán bộ, chiến sỹ, Tiểu đoàn 13 động viên nhau sau khi nhận súng: Trên giao cho đơn vị ta vật quý đó, là trên tin cậy vào khả năng chiến đấu của ta. Để đáp lại lòng tin cậy của cấp trên, chúng ta cần phải “chiều chuộng, nâng niu” nó chu đáo, và phải sử dụng nó cho thật tốt, Tiểu đoàn 13 đã chọn cử ra một số cán bộ, chiến sỹ vừa có tinh thần chiến đấu dũng cảm vừa có nhiều hiểu biết kỹ thuật sử dụng súng chuyên giữ khẩu ba-dô-ca này và liên tục ngày đêm anh em mang nó đi săn xe tăng địch trên một khu vực rất rộng từ Ô Cầu Dền, Kim Liên đến cửa Ô Chợ Dừa, v.v. Trận đầu, bằng hai viên đạn, anh em đã diệt một xe tăng địch, càng nhắc nhở mọi người phải chăm sóc nó chu đáo hơn nữa, như một vật báu, bất ly thân. Khi đi chiến đấu, anh em buộc dây thừng dài năm, sáu mươi mét vào súng đề phòng đồng chí bắn chẳng may bị thương hoặc hy sinh, đồng chí ngồi sau kịp thời giật súng rời khỏi nơi nguy hiểm, địch không cướp được.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:21:54 am

        Về phía địch, lúc này đã biểu hiện rõ rệt tình trạng lúng túng. Kể từ sau trận Giảng Võ ngày 06 tháng 01 năm 1947, chúng không mở cuộc tiến công nào lớn. Chúng chờ quân tiếp viện. Mà quân đó lấy đâu ra? Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ chiến tranh du kích đã phát triển, địch không thể rút quân từ trong đó ra Hà Nội được. Từ vĩ tuyến 16 đổ ra, quân Pháp đóng ở Vinh đã phải đầu hàng, còn ở Huế, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Giang, Lạng Sơn... đâu đâu quân Pháp cũng đang kêu xin tăng viện. Địch ở Hà Nội ngong ngóng chờ quân tăng viện từ bên Pháp sang.

        Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy mặt trận nảy ý kiến mở một cuộc phản công tiêu diệt sinh lực địch và chiếm lại một phần phía nam nội thành Hà Nội với kế hoạch: Đánh kiềm chế địch ở các hướng Ô Cầu Dền, Kim Liên, Ô Chợ Dừa, Ngọc Hà, đồng thời tập trung lực lượng đánh thọc vào Phà Đen, Đồn Thuỷ rồi theo đường Trần Hưng Đạo đánh cắt ngang ra phía ga Hà Nội. Mục đích chính của kế hoạch này là làm giảm sức ép của địch đối với Trung đoàn Thủ Đô đang chiến đấu trong Liên khu I. Nhưng rồi ý kiến này phải gác lại ngay, bởi vì không đúng với phương châm chỉ đạo tác chiến của Trung ương là “tiêu hao sinh lực địch đồng thời phải bảo toàn lực lượng mình để đánh lâu dài”. Hơn nữa lúc này lợi dụng tình hình địch lúng túng, Chính phủ ta đang dùng biện pháp ngoại giao để cùng chúng thoả thuận một ngày ngừng bắn cho đồng bào ta và những ngoại kiều (Hoa, Ấn) còn lại trong vòng vây địch ở Liên khu I được công khai rút ra ngoài. Đây cũng là một chủ trương rất sáng suốt, một đòn tiến công ngoại giao của Đảng rất đúng lúc, kịp thời nhằm giảm bớt khó khăn cho Trung đoàn Thủ Đô có thể chiến đấu lâu ngày trong lòng địch. Theo chỉ thị của Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Trân, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến thành phố Hà Nội, cùng các đồng chí Hoàng Minh Giám, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ vào Ô Chợ Dừa để cùng các viên lãnh sự Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch), Lãnh sự Anh, Mỹ đàm phán về ngày giờ tạm ngừng bắn cụ thể.

        Kết quả cuộc đàm phán này là ta và địch đã thoả thuận ngừng bắn vào ngày 15 tháng 01 năm 1947.

        Hôm đó, hơn 6.000 đồng bào ta và ngoại kiều tản cư công khai theo đường Hàng Đậu lên Yên Phụ. Hôm đó, hàng ngàn chiến sỹ của Liên khu I cũng cải trang đi lẫn vào nhân dân để vượt khỏi vòng vây theo kế hoạch đã được chuẩn bị.

        Theo chỉ thị của đồng chí Tổng chỉ huy, Trung đoàn Thủ Đô chỉ cần để lại 500 người chiến đấu, còn tất cả theo đường tản cư công khai và bí mật rút ra hết. Nhận được chỉ thị đó, Đảng uỷ Liên khu I đã có chủ trương chọn người ở lại, thành lập đội quyết tử. Và ngày 14 tháng 01 năm 1947, đội quyết tử của Trung đoàn Thủ Đô làm lễ tuyên thệ tại rạp hát Tố Như (sau là rạp Chuông Vàng), phố Hàng Bạc.

        Sở dĩ đồng chí Tổng chỉ huy phải quy định cụ thể mức quân số ở lại của Trung đoàn Thủ Đô là để giải quyết khó khăn về lương thực, thuốc men và nước uống cho Liên khu I. Nhưng qua ngày 15 tháng 01 năm 1947, chúng tôi nhận được điện của ban chỉ huy trung đoàn báo cáo ra thì quân số ở lại chiến đấu trong Liên khu I không phải là một “đội quyết tử 500 người” mà trên 1.200 người, trong đó có hơn 200 phụ nữ, hơn 100 thiếu nhi. Số quân vượt quá mức quy định của trên như thế này hoàn toàn có thể thông cảm được vì như đồng bào ở trong Liên khu I ra, đã nói với chúng tôi: Thanh niên họ không chịu ra đâu, nhiều người vừa đi vừa khóc; nhiều người đã ra đi lại quay trở lại. Tinh thần vui vẻ chấp nhận một cuộc chiến đấu đầy hiểm nghèo của anh chị em thanh niên Hà Nội thật đáng quý biết bao! Việc làm anh hùng đó đã khích lệ chúng tôi rất nhiều. Nhưng mặt khác, với số quân đông như thế lại là một mối lo ngại lớn đối với Uỷ ban kháng chiến và Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội. Làm thế nào để bảo đảm sức khoẻ cho bộ đội trong đó, vì đã hàng chục ngày các chiến sỹ ta ăn uống kham khổ, thiếu chất tươi. Anh em rất thèm rau xanh mà mặt trận chỉ có một tiểu đội nữ giao thông Lãng Bạc đêm đêm vượt bao nguy hiểm, thậm chí có khi đổ máu chỉ đưa được lượng rất ít rau xanh đủ cung cấp cho thương binh.

        Để phục vụ cho cuộc chiến đấu vô cùng khẩn trương, với khẩu hiệu “tất cả cho chiến thắng”, nhân dân Liên khu I đã không tiếc bất cứ một thứ gì. Trong số những ụ súng, những ba-ri-cát được huy động ra làm vật cản địch có lẫn cả bao chứa đầy đỗ xanh, đường kính. Được tin này, chúng tôi điện vào cho Trung đoàn Thủ Đô tổ chức tìm kiếm những thứ đó, nếu là đỗ, đem ngâm thành giá cho bộ đội ăn thay rau tươi; tìm những bao đường đã đem là Ba-ri-cát lấy về phân đều ho bộ đội ăn để bảo đảm sức khoẻ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:22:18 am

        Bấy giờ tình hình chiến sự ở ngoại thành không gay gắt lắm, tôi ngỏ ý muốn vào thăm Trung đoàn Thủ Đô. Nhưng đồng chí Trần Quốc Hoàn không đồng ý:

        - Anh Vũ phải ở ngoài này! Để tôi vào...

        Rồi đêm 20 tháng 01 năm 1947, các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Lê Quang Đạo với tư cách là phái viên của Trung ương Đảng đi men theo sông Hồng, qua gầm cầu Long Biên vào Liên khu I. Vượt qua bao nguy hiểm, các đồng chí đem đến cho các chiến sỹ Trung đoàn Thủ Đô sự chăm sóc ân cần của Đảng, của nhân dân. Và qua chuyến đi nghiên cứu thực tế đó, các đồng chí đã hiểu thêm một cách sâu sắc về tình hình sức khoẻ, tinh thần và khả năng chiến đấu của anh em ta trong đó. Đặc biệt cũng qua chuyến đi này, các đồng chí đã rút ra được những kết luận bổ ích về lãnh đạo và chỉ đạo chung cho Mặt trận Hà Nội và riêng cho Liên khu I.

        Khắp nơi đổ nát, nhưng cũng ở khắp nơi đầy máu lửa - hiểm nghèo này đã nổi bật lên những dòng chữ viết bằng mực, bằng than, bằng phấn, viết lên tường, lên cửa hay mảnh gỗ, mảnh bìa các-tông treo ở gốc cây, cắm ngang chiến luỹ đặt trước ụ súng: “sống chết với Hà Nội”; “Hãy xứng đáng là thanh niên thời đại Hồ Chí Minh”; “Hà Nội – Xta-lin-grát của Việt Nam”; “ Tiêu diệt xâm lược Pháp”; “ Thà chết không chịu làm nô lệ”; “Quyết tử bảo vệ Thủ đô”; “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước”... Những dòng chữ hằn nét căm thù, đọc lên là thấy dòng máu nóng trong người thêm rạo rực. Các chiến sỹ Thủ đô tình nguyện chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, nhưng rất lạc quan yêu đời, họ tổ chức các tổ ca nhạc, đội kịch, làm thơ ca ngợi cuộc chiến đấu đầy khí phách anh hùng. Trước khi đi tập kích, biết là phải xông pha nguy hiểm, nhưng họ vẫn cười đùa, trêu chọc nhau rất hồn nhiên. Trở về họ lại vui chơi ca hát, lại nghịch, rồi lăn ra ngủ để lấy sức mai còn “đi săn Tây”. Những đảng viên và quần chúng cảm tình vẫn còn theo học lớp chính trị ở phố Hàng Buồm. Tai phố Hàng Mắm, Hàng Thiếc, có những lớp đào tạo tiểu đội trưởng, mà bãi tập là một quãng đường nhựa giữa hai lớp ba-ri-cát.

        Chỉ có quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản chân chính thì trong hoàn cảnh một mất một còn, sống giữa vòng vây của địch đang xiết chặt, mới giữ vững được tinh thần lạc quan như vậy. Ở Đồng Xuân, một đảng viên nói với đồng chí Trần Quốc Hoàn: “Chỉ khi nào tiểu đội tôi không còn một ai nữa thì quân giặc mới chiếm được cái chợ này”. Ở Hàng Gai, bên dãy số chẵn là chiến tuyến của ta, bên kia địch cắm 5 vị trí, bên này nói to, bên kia nghe rõ, thỉnh thoảng anh em ta lại tổ chức ca nhạc đàn hát cho chúng biết rằng: ở bên này chúng tao vui lắm, nhưng bọn bay chớ có mò sang mà ăn đạn đấy!

        Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ Đô báo cáo lên Bộ chỉ huy mặt trận về tinh thần chiến đấu rất cao của bộ đội và hứa hẹn: sẽ động viên nhau khắc phục mọi khó khăn về vật chất bằng cách cho đào giếng để bảo đảm có đủ nước ăn và tắm giặt; sẽ tổ chức lực lượng ra bờ sông lấy ngọn khoai lang, chuối xanh, đu đủ ... làm rau xanh. Ban chỉ huy trung đoàn còn điện ra cho biết đã lập một đội tiếp tế tại chỗ, chuyên lo tìm, thu về tất cả những gì là lương thực, thực phẩm làm thành kho dự trữ tại chỗ đảm bảo cho bộ đội ăn no đánh giặc. Cả các đơn vị tiểu đội đóng ở các phố giáp địch cũng phải tìm kiếm lương thực, thực phẩm khô trong những căn nhà bị bom đạn đánh sập đổ. Chúng tôi cố gắng tự lo việc ăn uống để cấp trên khỏi phải bận tâm, tập trung chỉ huy tác chiến...

        Qua cuộc đi thăm Trung đoàn Thủ Đô của các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Lê Quang Đạo, và qua những điện thư, thư quyết tâm tới tấp gửi về, Thành uỷ Hà Nội càng vững tay lãnh đạo cuộc chiến đấu quyết liệt nhưng đầy vinh quang và tự hào này. Về phần tôi, tôi càng cảm phục và tin tưởng vào ý chí chiến đấu kiên cường của anh em ta ở Liên khu I và tin vào cái thế trận của toàn bộ Mặt trận Hà Nội mà trong đó Trung đoàn Thủ Đô đang đảm nhiệm phần trọng yếu: cái thế trận đã góp phần bước đầu làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của bọn xâm lược Pháp.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:22:51 am

        Thấm thoát đã đến Tết Nguyên đán. Mắt trận Hà Nôi ghìm địch trong thành phố đã hơn một tháng rưỡi. Từ khắp các địa phương trên đất nước gửi thư, gửi quà uý lạo chiến sỹ Hà Nội. Trên các nẻo đường, từng tốp người gồng gánh bánh chưng, càm, bưởi, mứt, kẹo, thuốc lá ra tận chiến hào vây địch ở các cửa ô, đem vào tận Liên khu I - trận tuyến kiên cường ở trong lòng địch. Thủ đô kháng chiến đón xuân một cách thất là Hà Nội, cũng hoa đào, hoa cúc, cũng pháo đùng, pháo bánh, pháo thăng thiên, cũng tổ chức đêm ba mươi, nhưng là một đêm ba mươi “có một không hai”, liên hoan ca kịch, ngâm thơ, rồi đi đánh giặc, đánh về lại ngâm thơ mừng xuân, lại ca hát, pháo nổ suốt đêm, súng nổ suốt đêm mà nổ nhiều nhất là vào lúc giao thừa. Đặc biệt, trông đêm giao thừa này, các chiến sỹ Thủ đô rất vinh dự được Bác Hồ gửi thư riêng. Đọc thư người, có ai cầm được nước mắt? Những lời thăm hỏi thân thiết ân cần của Người cha hiền từ thương yêu những đứa con trung hiểu. Bác Hồ gọi những chiến sỹ Thủ Đô là em:   “... Các em ăn tết thế nào? Vui vẻ lắm chứ? Tôi và nhân viên Chính phủ vì nhớ đến các em nên cũng không ai nỡ ăn tết. Còn 90 phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng tiết kiệm để dự bị công cuộc trường kỳ kháng chiến.

        Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau.
        .......
        Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng Chính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn luôn ở bên các em.

        Thay mặt Chính phủ và đồng bào gửi các em lời chào thân ái và quyết thắng” (Hồ Chí Minh, Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội, 1975, tr.25-26).

        Những lời tuyên dương của Bác Hồ là lời của đất nước mấy ngàn năm bất khuất kiên cường, ghi nhận công lao những người con anh hùng đang viết tiếp những trang sử mới rất oanh liệt.

        Qua Tết Nguyên đán (Đinh Hợi), Mặt trận Hà Nội bước vào giai đoạn gay go nhất. Quân Pháp đã đưa được một số viện binh từ Hải Phòng lên Hà Nội. Có thêm viện binh, chúng dồn sức cố đánh bật các đơn vị của ta ở ngoại thành ra xa các cửa ô. Mặt khác chúng liên tục dội bom bắn pháo vào trận địa Trung đoàn Thủ Đô, chuẩn bị mở những cuộc tiến công quyết định. Trên bản đồ chiến sự lúc này, trận địa của Trung đoàn Thủ Đô chỉ còn là một mảnh con con tô màu đỏ nằm lọt giữa vùng địch chiếm đóng khá rộng tô xanh. Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp tức tối điên cuồng vì đã hơn bốn chục ngày rồi mà cái mảnh đỏ chói kia cứ chọc vào mắt họ. Họ đã mất hàng trăm tên lính lê dương thiện chiến ngã gục bên những lề đường, gốc cây, trong những căn nhà đổ nát, mà vẫn không thu hẹp được cái mảnh tô đỏ ấy đi được mấy tí. Từ chỗ chủ quan xem thường lực lượng đối phương, bộ chỉ huy Pháp đã phải chuyển giọng “đề cao” Trung đoàn Thủ Đo là đơn vị “tinh nhuệ nhất của Việt Minh”. Điều đó cũng chẳng có gì là khó hiểu. Đây chỉ là cách giải thích vì sao quân đội Pháp hùng cường mà nuốt mãi không nổi một đơn vị của ta đã bị chúng bao vây bốn bề, bị ép chặt trong một phạm vi nhỏ bé ngang dọc mỗi bề chưa đầy một cây số, đồng thời là cách chuẩn bị dư luận cho một cuộc quảng cáo rùm beng rằng bộ chỉ huy Pháp tin là trước sau thế nào quân lực Pháp cũng tiêu diệt được Trung đoàn Thủ Đô - một đơn vị tinh nhuệ nhất của Việt Minh – ngay tại Hà Nội.

        Nhưng trên đất nước Việt Nam này, kẻ xâm lược thường hay bị ngã bổ chỏng, vào cái lúc mà chúng đinh ninh nắm chắc phần thắng. Thì mới đó thôi, hồi tháng 12 bọn Va-luy, Moóc-li-e chẳng đã tưởng rằng quân Pháp chỉ úp một cái là chiếm cả Hà Nồi, bất quá chỉ ngày một ngày hai là xong xuôi hết. Rồi đùng một cái chúng bị mắc kẹt, giãy mãi chẳng ra. Và đến tháng 2 này, bọn chúng đang ôm cái mộng đến hôm nào đó sẽ tổ chức ăn mừng chiến công “tiêu diệt Trung đoàn Thủ Đô”.

        Ngày 6 tháng 2 năm 1947, quân Pháp mở đầu đợt tiến công lớn vào trận địa Trung đoàn Thủ Đô. Trận đầu chúng đánh vào vị trí của ta ở nhà Xô-va (Sở vận tải đường sông của tư bản Pháp, nay là trường Nguyễn Huệ đường Trần Nhật Duật ở giáp đê sông Hồng). Chiều hôm ấy, nhận được tin đầy đủ, tôi báo cáo lên Bộ Tổng chỉ huy: quân ta anh dũng chống lại năm lần xung phong của địch. Lần thứ năm địch chiếm được nhà Xô-va. Sau ta phản kích chiếm lại và truy kích địch tháo chạy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp biểu dương Tiểu đoàn 103, đơn vị vừa chiến thắng đã xứng đáng là một đơn vị của Trung đoàn Thủ Đô và của Vệ quốc quân Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:23:26 am

        Ngày hôm sau, địch đánh vị trí “trường Ke” (nay là trường Trần Nhật Duật ở phố Trần Nhật Duật). Địch xung phong tám lần, anh em ta đề đánh bật ra hết. Cũng hôm ấy, địch tiến công vào phố Hàng Thiếc. Phố này nhỏ, nhiều nhà lụp xụp chúng phun ét-xăng đốt mặt này, xung phong mặt kia, đến hai giờ chiều chúng chiếm được một dãy phố nhưng bị thiệt hại nặng, vừa chết vừa bị thương đến ngót trăm tên. Hai ngày sau (9/02), địch lại tiến công định chiếm nốt cả phố Hàng Thiếc. Nhưng cái “kế hoả công” của chúng không còn hiệu nghiệm nữa rồi. Chúng không tiến được nửa bước. Ban ngày địch tiến công, ta quyết ngăn chặn. Ban đêm, ta đem các thùng sơn, dầu xăng, dầu hoả sang đốt hết những căn nhà bên dãy địch chiếm để chúng không lợi dụng được.

        Rồi liên tục trong bốn ngày 10, 11, 12, 13 tháng 02 địch liên tục dội bom, bắn pháo vào trận địa Trung đoàn Thủ Đô.

        Trong những ngày địch tập trung đánh vào Liên khu I thì bộ đội ta ở Liên khu II và Liên khu III đều mở cuộc tiến công sâu vào sau lưng địch, có mũi thọc tới Văn Miếu, có mũi thọc theo đường Hàng Lọng (đường Lê Duẩn) tới gần Tràng Tiền... để co kéo địch trở ra. Trong những ngày ấy, trời mưa phùn tầm tã, rét buốt, các đồng chí liên lạc của đội du kích Hồng hà làm việc vất vả, đêm nào cũng đem được chỉ thị của bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội và đạn dược tiếp tế vào Liên khu I, và đưa báo cáo từ trong ấy ra. Đường liên lạc thông suốt. Đó là một bảo đảm của thắng lợi.

        Sáng ngày 14, trinh sát của mặt trận nghe thấy có nhiều tiếng súng ở bắc Liên khu I. Địch đánh vào khu Đồng Xuân. Mấy ngày sau, chúng tôi vẫn nhận được báo cáo tinh thần bộ đội rất vững vàng, sẵn sàng “tiếp” địch. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn hồi hộp lo lắng, vì cũng mấy ngày ấy, địch oanh tạc dữ dội, anh em ta trong đó phải chịu đựng căng thẳng, thể lực tất phải giảm sút. Qua điện đài, chúng tôi nắm tình hình diễn biến trận đánh rất khẩn trương nhưng cũng giàu chất anh hùng.

        9 giờ, ta và địch quần nhau trong chợ Đồng Xuân, địch chết nhiều.

        11 giờ, trận đánh vẫn diễn ra trong khu vực chợ.

        12 giờ, địch đánh sang phố Hàng Đường, Hàng Chiếu.

        15 giờ, sức tiến công của địch yếu dần. Ta phản kích mạnh.

        18 giờ, ta vẫn giữ vững phố Hàng Chiếu, Hàng Mã. Bộ đội diệt được nhiều địch, rất phấn khởi.

        Tôi vừa đọc xong bức điện này thì đồng chí cán bộ quân báo đến báo cáo một tin: Đài địch nói là Trung đoàn Thủ Đô đã bị vây chặt, lâm vào thế cùng quẫn, số phận trung đoàn này chỉ còn tính từng ngày. Tôi hỏi lại:

        - Nó nói thế, cậu nghĩ sao?

        Đồng chí quân báo mỉm cười hóm hỉnh, trả lời hơi ngập ngừng nhưng chứa đựng cái chất hài hước, lạc quan:

        -Tôi nghĩ, thằng Tây vẫn quen thói huênh hoang, chẳng qua ... nó là.. con đười ươi giữ ống.

        Tôi bật cười về cái hình ảnh ví von ngộ nghĩnh này, và vội vã cắt đứt câu chuyện với đồng chí quân báo vì lúc này đã có chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy tổ chức cho Trung đoàn Thủ Đô rút ra ngoài; việc này phải triệt để giữ bí mật cho đến phút cuối cùng.

        Hồi trung tuần tháng 1, và sau Tết Nguyên đán, khi ta kìm chân địch trong Hà Nội một thời gian vượt yêu cầu của Bộ đề ra là một tháng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã hỏi tôi:

        - Anh Vũ suy nghĩ xem liệu ta đã phải rút Trung đoàn Thủ Đô ra chưa?

        - Ta còn có khả năng trụ bám trong đó, đề nghị xin cho tiếp tục giữ Liên khu I một thời gian nữa – Tôi trả lời.

        Thể theo nguyện vọng của anh em và nhất là xét khả năng thực tế, Bộ Tổng chỉ huy đồng ý với đề nghị của chúng tôi. Nhưng lần này, vào chiều ngày 14 tháng 02 sau khi tôi báo cáo: trận Đồng Xuân đã kết thúc, địch bị thiệt hại nặng... thì đồng chí Tổng chỉ huy lại chỉ thị phải tổ chức cho Trung đoàn Thủ Đô rút ra ngoài và chuyển lời khen của Bác Hồ: Các chú giam chân địch được một tháng là thắng lợi, đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi.

        Trong các phương án đưa Trung đoàn Thủ Đô vượt ra khỏi vòng vây địch chúng tôi chọn phương án gọi là “cường công, mật rút”, nghĩa là tất cả lực lượng của Mặt trận Hà Nội đều đánh thật mạnh, khiến cho địch bị căng kéo ra, tạo nên một hướng sơ hở cho Trung đoàn Thủ Đô bí mật rời Liên khu I an toàn, làm cho địch bị một vố chua cay nữa. Sau khi đã quyết định chọn phương án này rồi, đồng chí Võ Nguyên Giáp với thái độ thực sự cảm thông tâm trạng dùng dằng nửa đi nửa ở của toàn thể cán bộ, chiến sỹ Mặt trận Hà Nội, của cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn Thủ Đô, đã nói những lời vừa động viên, biểu dương chúng tôi, vừa như ra lệnh cho chúng tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định của Bộ Tổng chỉ huy.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:23:55 am

        - Tôi biết nguyện vọng của bộ đội ta còn muốn cố thủ thêm ít ngày nữa ở Liên khu I. Đó là tinh thần chiến đấu ngoan cường đáng quý, một tình cảm yêu mến quê hương rất đẹp. Với tinh thần hy sinh cao cả đó, Trung đoàn Thủ Đô có thể trụ bám một thời gian nữa. Nhưng xét về nhiệm vụ thu hút địch, giam chân địch thì Trung đoàn Thủ Đô đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang. Nay đã đến lúc cần thiết phải vượt ra khỏi vòng vây của địch, trở về hậu phương xây dựng lực lượng lớn mạnh hơn nữa để kháng chiến lâu dài.

        Đồng chí Tổng chỉ huy đưa mắt nhìn chúng tôi với một thái độ cảm thông. Vẫn giọng nói miền Trung êm nhẹ, tình cảm, nhưng nhịp điệu thì dồn dập, kiên quyết:

        - Rời Liên khu I được an toàn lại là một thắng lợi lớn hơn nữa. Chúc các đồng chí thắng lợi.

        Kế hoạch “cường công, mật rút” được triển khai ngay từ ngày 15 tháng 02. Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho đồng chí Phùng Thế Tài điều động các đơn vị của Liên khu II tiến công vào Ô Cầu Dền, đồng chí Lê Quân điều động các đơn vị của Liên khu III tiến công vào Ô Cầu Giấy, Kim Mã, Hàng Bột. Đồng thời phải tung nhiều tổ luồn sâu vào các khu phố trong nội thành đánh du kích, quấy rối, phá hoại. Đêm ấy, Trung đoàn Thủ Đô cũng phối hợp với bên ngoài, đánh phối hợp.

        Ngày 16 tháng 02, các đồng chí trong Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ Đô đang bận rộn chuẩn bị kế hoạch “trở về hậu phương vào đêm sau – 17 tháng 02, thì lai phải giải quyết một việc đột xuất phức tạp. Từ trong khu vực địch chiếm, viên lãnh sự của Tưởng Giới Thạch vác cờ đến xin gặp đại biểu của Trung đoàn. Hắn đề nghị ta tiếp tế cho số Hoa Kiều còn lại trong Liên khu I và đề nghị ta tạm ngừng bắn vào ngày 17 tháng 02 để cho Hoa kiều tản cư, hoặc là ngày 18 tháng 02 để cho họ có thời gian chuẩn bị. Đây là một thủ đoạn nham hiểm của địch, chúng muốn đưa hết Hoa kiều ra ngoài để rảnh tay oanh tạc khu vực nhỏ hẹp mà Trung đoàn Thủ Đô còn đang trấn giữ. Và thêm nữa, qua việc yêu cầu tiếp tế cho Hoa Kiều, chúng muốn thăm dò xem khả năng tích trữ gạo, muối của ta còn được bao nhiêu? Quả thực đây là một vấn đề rất phức tạp, ngoài dự kiến của chúng tôi, nhưng lại đòi hỏi phải có chủ trương đối phó kịp thời, đúng đắn. Tất nhiên, ta không chấp nhận ngừng bắn vào ngày 17 tháng 02 vì như vậy có thể địch bắn phá ngay từ chiều tối hôm ấy là đêm ta “ra đi”. Nhưng không chấp nhận ngừng bắn ngày 17 tháng 02 ta cũng không tự chọn ngày 18 tháng 02, vì như thế địch có thể ngờ vực. Lúc này ta cần phải cho địch không mảy may ngờ vực gì về ý định cố thủ của ta ở Liên khu I. Sau khi thảo luận trong Bộ chỉ huy mặt trận và xin ý kiến Thành uỷ, xin chỉ thị cấp trên, chúng tôi điện vào chỉ định đồng chí Hoàng Phương đại diện Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ Đô làm nhiệm vụ này. Ngay hôm đó đồng chí Hoàng Phương gặp viên lãnh sự Tưởng Giới Thạch trả lời: Chúng tôi đồng ý đề nghị của ông là có thời gian chuẩn bị. Vì vậy, ngày mai chưa tản cư vội. Nếu chuẩn bị chưa kịp thì ngày 19 tháng 02, tam ngừng bắn cho Hoa kiều tản cư cũng được. Hoặc giả cần lui lại đến ngày 20 tháng 02 cũng không sao. Vả lại, ông cũng cần phải có thời gian để liên lạc với quân đội Pháp. Sáng mai, ngày 17 tháng 02 chúng tôi sẽ tiếp tế cho Hoa kiều 5 tạ gạo và 2 tạ ngô. Viên lãnh sự Tưởng hết lời cảm tạ đại diện ta và xin chọn ngày 18 tháng 02 cho Hoa kiều tản cư.

        Ta chấp nhận.

        Thế là cái việc đột xuất, phức tạp, gần như bị động ấy ta đã khôn khéo giành quyền chủ động và đưa ra những biện pháp giải quyết rất thông minh hoàn toàn có lợi cho ta.

        Đêm 16 tháng 02, các chiến sỹ Thủ Đô vẫn chưa biết rằng chỉ trong 24 tiếng đồng hồ nữa họ sẽ phải tạm biệt Hà Nội. Theo kế hoạch của Trung đoàn, các chiến sỹ Thủ Đô vẫn xách súng mang đạn đi quấy rối địch, đốt phá những dãy nhà do địch chiếm giữ. Trong nội thành súng nổ suốt đêm, lửa cháy rừng rực. Ngoại thành cũng phối hợp tiến công khắp các ngả. Ta nghi binh rất giỏi. Không một dấu hiệu nào chứng tỏ tình hình chiến sự ở đây giảm đi. Trái lại địch vẫn căng thẳng đối phó, vẫn thấy xoá được căn cứ của ta ở Liên khu I còn phải mất nhiều thời gian.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:24:41 am

        Sáng ngày 17 tháng 02, ngày quyết định của cả một kế hoạch lớn, các đồng chí trong Đảng bộ và Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, mỗi người lo một việc: Người đi xuống các đơn vị thuộc Liên khu II, Liên khu III đôn đốc việc thực hiện kế hoạch “cường công”, đánh mạnh trên các tuyến ngoại thành; người đi kiểm tra việc tổ chức đoàn thuyền vào đón Trung đoàn Thủ Đô “mật rút” vượt qua sông Hồng. Tôi cứ nghĩ đến lúc được ôm chầm lấy các chiến sỹ từ Liên khu I ra mà đứng ngồi không yên. Nhìn đồng hồ thấy đã mười mấy giờ, căn cứ vào kế hoạch của trung đoàn mới báo cáo ra, tôi tưởng tượng như chính mình đang dự cuộc họp mà đồng chí Lê Trung Toản phổ biến nhiệm vụ với các bí thư chi bộ và các đồng chí chỉ huy cấp tiểu đoàn, đại đội. Anh em thắc mắc rất nhiều.

        Nhưng đây là mệnh lệnh, “rời khỏi Liên khu I được toàn vẹn là một thắng lợi”.

        Hôm ấy, suốt cả ngày chúng tôi bám sát tình hình địch, các hoạt động của chúng đều dồn ra ngoại thành, hướng tây nam và đông nam Hà Nội. Trong Liên khu I địch vẫn bắn pháo và súng cối. Kế hoạch đưa Trung đoàn Thủ Đô ra hậu phương được giữ bí mật đến mức cao nhất. Các đơn vị ở ngoại thành chỉ được biết là phải đẩy mạnh các hoạt động để phối hợp với toàn mặt trận. Còn đối với Trung đoàn Thủ Đô, thì mãi đến 14 giờ mới được phổ biến nhiệm vụ cho các đảng viên, cán bộ trung đội và đến 16 giờ các chiến sỹ mới được biết toàn trung đoàn phải vượt ra ngoài, ngay trong đêm 17 tháng 2.

        Đêm hôm ấy mưa phùn, gió rét. Khắp các cửa ô Hà Nội súng nổ ran. Địch chống cự rất kịch liệt. Có những tổ du kích của ta lọt vào phố trong Liên khu II, Liên khu III đánh quấy rối. Những đám cháy bùng lên trong nội thành, lửa sáng rực. Trong Liên khu I cũng có nhiều đám cháy, chiều tiếng nổ, đó là kế hoạch nghi binh của Trung đoàn Thủ Đô. Cả Hà Nội rực lửa, ầm vang tiếng súng như một trận phản công lớn. Tính đến đêm nay, 60 ngày và 61 đêm, Mặt trận Hà Nội luôn luôn sôi động. Không những ta đã phá được âm mưu địch đánh úp Hà Nội, lại cầm chân địch lâu ngày tại Hà Nội. Lúc đầu, yêu cầu để ra phải kìm hãm được địch từ một đến hai tuần lễ, nhưng quân và dân Hà Nội đã giữ được gần chín tuần lễ, tiêu hao được nhiều sinh lực địch, trong khi đó lực lượng ta phát triển, thành thế vang lừng. Nhưng đêm nay là đêm Mặt trận Hà Nội hoàn thành nhiệm vụ, đêm kết thúc một chiến dịch, mà kết thúc thật đặc biệt.

        Theo kế hoạch, 20 giờ ngày 17 tháng 02 năm 1947, các tổ nghi binh của Trung đoàn Thủ Đô bắt đầu hoạt động, nổ súng quấy rối, đốt phá nhiều nơi trong các khu vực địch chiếm giữ và phải tổ chức những vụ cháy chậm, nổ chậm để suốt đêm lúc nào trong Liên khu I cũng có những cột lửa, những tiếng nổ. Trong khi đó, một trung đội do trung đoàn phái ra qua cột đồng hồ vượt qua đê, lên bố trí ở gầm cầu Long Biên đề phòng nếu ta bị lộ thì đánh chặn địch bảo vệ đường rút qua gầm cầu. Khi trung đội đó bố trí xong, Tiểu đoàn 101 xuất phát, tiếp đến cơ quan trung đoàn, Tiểu đoàn 102 rồi Tiểu đoàn 103. 

        22 giờ, các tổ nghi binh ngừng hoạt động, tập trung ở đình Phất Lộc.

        0 giờ ngày 18 tháng 02 năm 1947, các tổ nghi binh qua gầm cầu Long Biên. Tiếp đó Tiểu đoàn 103 rời trận địa bảo vệ đi cuối đội hình trung đoàn.

        2 giờ sáng, tin trinh sát báo về phía cầu Long Biên vẫn im ắng tiếng súng. Chúgn tôi mừng thầm: giờ này Trung đoàn Thủ Đô đã lặng lẽ qua gầm cầu Long Biên rồi. Và cũng đến giờ này, chúng tôi mới hết hồi hộp. Bởi vì, đây là cửa ải gay go nhất. Trên cầu địch canh gác và thường xuyên xe địch đi lại tuần tiễu, thỉnh thoảng chúng lại chiếu đèn pha xuống sông, xuống bãi soi dõi; ngoài ra ở đầu cầu phía đường Hàng Đậu (Hà Nội) còn có một trung đội địch canh gác, có chó béc giê đánh hơi. Ví thử ta bị lộ, địch bắn quét thì khó tránh khỏi thương vong. Lại phải tính đến trường hợp xấu nhất, địch phát hiện được có một đoàn quân từ Hà Nội đi ra, chúng huy động quân ra đánh chặn. Tất nhiên, theo kế hoạch dự định từ trước, Trung đoàn Thủ Đô đã có những biện pháp đề phòng. Nhưng bí quyết thành công của ta hôm nay là bí mật, ta đi rồi địch vẫn không biết, mới là chiến thắng trọn vẹn. Và đến 2 giờ sáng phía cầu Long Biên vẫn im ắng tiếng súng có nghĩa là Trung đoàn Thủ Đô đã thành công trong việc bí mật vượt qua cửa ải gay go nhất rồi, con chim đại bàng bắt đầu tung cánh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:25:06 am

        Đã hai tháng nay, Tiểu đội du kích Hồng Hà do đồng chí Nguiyễn Văn Nại chỉ huy, bám chặt lấy bãi dâu Phúc Xá, giữ đường liên lạc giữa nội thành và ngoại thành, đêm nay tiểu đội của Nguyễn Văn Nại dẫn Trung đoàn Thủ Đô từ nội thành vượt vòng vây địch ra hậu phương. Các chiến sỹ du kích Hồng Hà thuộc con đường này như lòng bàn tay của họ, vì họ đẻ ra ở bên bờ sông Hồng, uống nước sông Hồng, lớn lên trên bãi cát sông Hồng này. Ngang Yên Phụ có một chỗ lòng sông rất nông, mùa khô xắn quần lội qua được, họ dẫn một chặng dài thì đến một nơi có đoàn thuyền hai chục chiếc chờ sẵn đưa sang làng Cơ Xá, thuộc huyện Gia Lâm. Anh chị em du kích bên ấy lại dẫn Trung đoàn Thủ Đô đi ngay đến địa điểm an toàn bên bờ sông Đuống.

        5 giờ sáng, khi cơ quan trung đoàn bộ và hai tiểu đoàn 101, 102 đã qua sông, tôi báo cáo lên Bộ Tổng chỉ huy, coi như đã giành được thắng lợi căn bản. Vì cơ quan trung đoàn có đủ thành phần nam, phụ, lão, ấu, hơn nữa, ban quân y còn phải phụ trách mấy chục thương binh, phần lớn phải khiêng, phải cõng, mọi người đã vượt sông rộng, thế là gọn.

        6 giờ sáng, trời còn mù sương, đơn vị cuối cùng của Tiểu đoàn 103 vượt sông, thì cũng là lúc nổ ra một trận đánh - một trận đánh không có tiếng vang như trận Bắc Bộ phủ hay Đồng Xuân... Nhưng nói đến cuộc chiến đấu của Thủ đô Hà Nội trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, thì nhất định phải nhắc đến trận này.

        Trận đánh không mang tên địa danh vì nơi diễn ra không gần một làng, một xóm nào cả, chỉ có những công dân và những con người bất tử, trận đánh cuối cùng của Tiểu đội Nguyễn Văn Nại.

        Mờ sáng hôm ấy, bọn địch ở cầu Long Biên thấy có nhiều dấu chân ở dưới bãi, rõ ràng có một đoàn người từ Hà Nội đi ra. Bộ binh địch có xe bọc thép yểm trợ lần dấu vết đuổi theo. Một đội ca nô bọc thép hùng hổ ngược sông tìm kiếm, và qua cầu Long Biên khoảng một ki-lô-mét thì lũ thuỷ binh này thấy có một đoàn năm, sáu chiếc thuyền nhỏ đang rẽ nước qua sông. Chúng bắn xối xả, nhưng đoàn thuyền đã cập bến Cơ Xá bên tả ngạn sông. Rồi mấy chục người vừa mới rời đoàn thuyền ấy nhảy lên bờ, chĩa sũng bắn trả lại, giữa lúc đó, Tiểu đội du kích Hồng Hà của đồng chí Nguyễn Văn Nại, vẫn còn ở bãi giữa liền nổ súng. Địch bị đánh trước mặt và cả ngang sườn, chúng bỏ mục tiêu bên tả ngạn sông Hồng, quay sang bãi giữa. Một tốp máy bay khu trục Xpít-phai cũng lao tới xối xả trút đạn xuống trận địa. Trận đánh kéo dài mãi gần trưa,. Chúng ta không còn được gặp Nguyễn Văn Nại và các đồng chí trong Tiểu đội du kích Hồng Hà nữa để biết rõ trận đánh diễn ra như thế nào mà cả bảy đồng chí đã thu hút được địch trong suốt buổi sáng hôm đó. Nhưng chúng ta có đủ bằng chứng để đánh giá tác dụng to lớn của trận này: suốt hai tháng liền, các đồng chí đã giữ vững liên lạc giữa Bộ chỉ huy mặt trận với Trung đoàn Thủ Đô. Những ngày qua, các đồng chí đã truyền đạt mệnh lệnh từ ngoại thành vào nội thành và các báo cáo từ nội thành ra ngoại thành để trong ngoài thống nhất hành động. Đêm 17 tháng 02, các đồng chí đã đưa Trung đoàn Thủ Đô bí mật ra đi. Và đến sáng 18, các đồng chí đã hy sinh oanh liệt giữ bí mật đến cùng, bảo đảm cho Trung đoàn Thủ Đô rời Hà Nội được tuyệt đối an toàn, mãi ngày 19 tháng 02 địch mới biết Liên khu I chỉ còn là miếng đất không người, thì hôm đó Trung đoàn Thủ Đô đã sang đất Phúc Yên rồi.

        Nói đến chiến công của Trung đoàn Thủ đô Liên khu I thắng lợi, tôi không thể không kính cẩn nghiêng mình trước sự hy sinh anh dũng của Tiểu đội du kích Hồng Hà do đồng chí Nguyễn Văn Nại chỉ huy.

        Ngay sáng 18 tháng 02, chúng tôi nhận được điện của đồng chí Võ Nguyên Giáp chuyển lời Hồ Chủ tịch khen Mặt trận Hà Nội: Bác bảo thế là đại thắng lợi. Và đồng chí chỉ thị phải tổ chức ngay một cuộc mít tinh mừng chiến thắng. Việc đó đã được thực hiện tối 22 tháng 02 năm 1947 tại đình làng Thượng Hội huyện Đan Phượng (thuộc tỉnh Hà Đông cũ) có đông đủ đại biểu các cơ quan Đảng, Dân, Chính. Đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên dương công trạng Trung đoàn Thủ Đô - đặc trưng cho một đội quân của một dân tộc nhỏ bé quyết không chịu làm nô lệ, đã hiên ngang chống lại quân đội của một nước đế quốc hùng mạnh. Đồng chí trao tặng Trung đoàn Thủ Đô một lá cờ và nói: Hôm nay, tôi thay mặt Chính Phủ chính thức trao danh hiệu Trung đoàn Thủ Đô cho các đồng chí. Thay mặt Bộ Quốc phòng và quân đội quốc gia, tôi tặng các đồng chí một lá cờ thêu tên “Trung đoàn Thủ Đô” để nêu cao tấm gương anh hùng của các đồng chí.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:25:30 am

        Đêm đó, một đêm tưng bừng rộn rã, đêm mừng công của Mặt trận Hà Nội. Tôi gặp nhiều đồng chí quen biết cũ, chuyện trò mãi không dứt. Một đồng chí đội mũ ca lô gắn sao vàng vành trắng, cấp hiệu tiểu đội, chen đến gọi tôi: Anh Vũ, bây giờ em mới biết tên anh. Anh còn nhớ không, em đã gặp anh ở của nhà tên Moóc-li-e ấy mà, hôm ấy anh mặc bộ quần áo nâu như bác nông dân ấy... Tôi nhớ ra ngay, đúng là đồng chí đội trưởng đội tự vệ phố Nhà Thờ giờ đây trông rắn rỏi ra nhiều quá, nhưng cái dáng học sinh thì vẫn còn nguyên. Đồng chí ấy mở bao thuốc là Phi-líp Mo-rít mời tôi:

        - Anh hút với em một điếu!

        Rồi đồng chí ấy khoe với tôi: : Anh biết không, hôm đầu kháng chiến, em ở phố Nhà Thờ, sau nó đánh phải rút dần về phố Hàng Gai, mình lùi hơn 100 mét. Ấy thế rồi mà tiểu đội em cứ giữ chịt được ở đây cho đến khi có lệnh ra đây. Tối hôm 17, em được chỉ huy một tổ nghi binh, ôi tha hồ mà đốt pháo. Nhưng lúc ra đi, nhớ thương Hà Nội quá, em vừa đi vừa khóc đấy. Bao giờ lại trở về anh nhỉ? Nói đến đấy, đồng chí ấy lại chảy nước mắt. Những đồng chí vây quanh tôi cũng có chung một câu hỏi: Bao giờ ta lai trở về anh Vũ ơi? Trong giây phút này tôi nghẹn ngào, biết nói thế nào đây, tôi hỏi lại?

        - Thế các chú không nghe anh Giáp vừa nói lúc nãy à?

        Tuy đã thông suốt và đang suy nghĩ cách lãnh đạo anh em chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp trên, nhưng chính lúc này đây tôi cũng đang sống trong tâm trạng thật xúc động - một tình cảm buồn vui rất khó mà diễn đạt. Nhìn những người lính trẻ Thủ đô đang đứng quanh tôi, đang đòi hỏi ở tôi một câu trả lời chính xác. Tôi rít một hơi dài điếu thuốc lá Phi-líp Mo-rít mà đồng chí Tiểu đội trưởng tự vệ phố Nhà Thờ vừa cho, phả một làn khói khoan khoái rồi nói tiếp: “Ta thề Thủ đô chiến thắng quân thù?”. Ta không bao giờ quên lời thề đó. Nhưng để có chiến thắng thì ngay từ bây giờ chúng ta phải bắt tay vào xây dựng lực lượng, tiếp tục đánh, ta sẽ về Thủ đô trong ngày đại thắng?

        Họ reo lên, phải nói rằng họ hét lên thì mới đúng: Ta thề Thủ đô chiến thắng quân thù... Thủ đô ta đã chiến thắng, sẽ chiến thắng... Ngày mai, ta về giải phóng Thủ đô ta...? Rồi họ ôm nhau ca hát, họ hát nhưng bài tôi chưa hề được nghe bao giờ, bởi đó là những bài hát sáng tác ngay trong chiến hào của Liên khu I, những bài hát họ tự làm ra, ca ngợi cuộc chiến đấu rất đáng tự hào của những người rất yêu đời nhưng không sợ chết, những chiến sỹ cảm tử của đất Thăng Long bất diệt”...

        Trích: Trung tướng Vương Thừa Vũ, Những chặng đường chiến đấu, NXB QĐND, Hà Nội – 2005, tr. 70 – 138.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:35:17 am

12. THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG XUYÊN
       
(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/Nguyen-Trong-Xuyen_zps7ptljhsl.jpg)

        Đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên sinh năm 1926, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988-1999) kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cầu (1988-1993). Quê xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Đồng chí nhập ngũ năm 1945, Thượng tướng năm 1992; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1946.

        Tháng 8 năm 1945 đến 1954, giữ các chức vụ từ trung đội trưởng đến Tiểu đoàn trưởng.

        Tháng 9 năm 1954 đến 1960 là Tham mưu trưởng trung đoàn, Trung đoàn phó, tham mưu phó rồi Tham mưu trưởng Sư đoàn 305.

        Năm 1961 đến 1975 là Tham mưu trưởng Quân khu 6, Phó ban quân sự Khu 10, Phó Tư lệnh, Tư lệnh, Đảng uỷ viên Quân khu 6.

        Tháng 12 năm 1975 đến 1976 là Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thuận hải, Thường vụ tỉnh uỷ.

        Từ tháng 3 năm 1979 đến 1985 là Phó tư lệnh Quân khu 3.

        Tháng 5 năm 1985 là trưởng đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Cuba (Đoàn 385).

        Tháng 4 năm 1986 là Tư lệnh, Bí thư Đảng uỷ Quân khu 3.

        Năm 1988 đến 1999 là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1988-1993).

        Đồng chí là uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, VII; đại biểu Quốc hội khoá VIII, IX; được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương: Độc lập hạng nhất, Quân công (hạng nhất, hạng nhì), Chiến công hạng nhất, Chiến thắng hạng nhất, Kháng chiến hạng nhất...

        Trải qua một đoạn đường lịch sử năm mươi bảy năm đầy sóng gió, dù ở cương vị nào, trong chiến tranh ác liệt cũng như trong hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí luôn luôn phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, thể hiện lòng trung thành tận tuỵ, kiên định vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, nghiêm chỉnh sáng tạo, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Suốt ba mươi năm chiến đấu liên tục ở chiến trường cực Nam Trung Bộ trong điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch cực kỳ chênh lệch, lại xa Trung ương, xa căn cứ địa của vùng tự do, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng chí đã không ngại hy sinh gian khổ, mưu trí dũng cảm, bám đất bám dân xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, vừa tổ chức phát động nhân dân đánh giặc, đồng thời vừa kiên quyết tổ chức chỉ huy chiến đấu, vừa sản xuất, bảo vệ sản xuất, bảo vệ nhân dân, bảo vệ căn cứ góp phần giành thắng lợi to lớn trên một địa bàn chiến lược, một hành lang chiến lược từ Bắc vào Nam, là điểm tựa để đại quân ta từ hướng đông bác tiến vào giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 07 Tháng Giêng, 2017, 10:39:03 am

TRỞ LẠI CHIẾN TRƯỜNG THAM GIA CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC BẰNG ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN

        “Ngày 27 tháng 7 năm 1961, Bộ tư lệnh Quân khu 5 và Quân khu 6 được thành lập.

        Bộ Tư lệnh Quân khu 6 gồm có đồng chí Yblok Eban làm quyền Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Mô (tức Tư Khiêm) – Chính uỷ, tôi với bí danh sáu H – Tham mưu trưởng, đồng chí Trần Phòng bí danh Bẩy Biên - Chủ nhiệm hậu cần, đồng chí Trần Lê – Bí thư Khu uỷ (thay đồng chí chí Bùi San đi nhận công tác khác).

        Quyết định ký ở Hà Nội ngày 27 tháng 7, nhưng đến cuối tháng 8 ở trong này chúng tôi mới nhận được quyết định và tổ chức họp Khu để công bố quyết định và ra mắt Bộ tư lệnh.

        Cuối năm 1961 lực lượng vũ trang Quân khu 6 có ba đại đội bộ binh, một đại đội đặc công và một đại đại đội hoả lực. Bộ đội địa phương Bình Thuận B3 (bắc đường 21) có đại đội còn các tỉnh khác có trung đội.

        Tháng 8 năm 1961, miền Bắc chi viện vào hai khung tiểu đoàn có quân số thiếu là Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 365 vào nhập với Tiểu đoàn 120. Tiểu đoàn 120 sau lên đánh ở Tuyên Đức đổi tên thành Tiểu đoàn 840. Một khung tiểu đoàn có ba trăm người, mỗi đại đội có bảy chục người. Vì đã quen thuộc chiến trường (đa số anh em đều là bộ đội tập kết vào) nên các đơn vị chiến đấu được ngay. Tiểu đoàn 840 do đồng chí Hải Chúng là Tiểu đoàn trưởng, anh Nguyện là Chính trị viên tiểu đoàn. Hai đơn vị này sau là chủ lực của Khu.

        Riêng Tiểu đoàn 186 còn mang một cái tên rất thân mật là tiểu đoàn Lá Bép. Lá Bép là một loại lá cây rừng trông giống như lá bưởi, nấu nhừ ăn ngọt như rau ngót, có thể ăn trừ bữa như các rau môn thục, tàu bay, măng, đoóc ở suốt dãy Trường Sơn đã từng nuôi sống bộ đội ta trong những hoàn cảnh khó khăn. Loại rau này có đặc điểm là nếu nấu không kỹ khi ăn vào sẽ bị nôn mửa. Tiểu đoàn này được các mẹ, các chị hội phụ nữ tỉnh Bến Tre đỡ đầu. Cái tên “Lá Bép” đã gắn bó một cách mật thiết với một trong những tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Khu 6. Với những chiến công vang dội trên mảnh đất Cực Nam Trung Bộ, Tiểu đoàn Lá Bép 186 đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Nói đến Tiểu đoàn Lá Bép 186 không thể không nói đến thành tích dân vận của tiểu đoàn này.

        Trong chiến dịch tổng hợp phối hợp với lực lượng Bình Thuận giải phóng xã Võ Su và xã Mê Pu là hai xã đồng bào dân tộc của tỉnh Quảng Ngãi bị địch dồn vào ấp chiến lược. tiểu đoàn này đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giải phóng đồng bào hai xã trên khỏi ấp chiến lược. Cùng tiểu đoàn này vừa đánh điểm đồn Quỳnh Hoa cấp trung đội, vừa đánh diệt viện gồm một tiểu đoàn bảo an từ Bảo Lộc nên tiếp ứng. Với thành tích trên Tiểu đoàn Lá Bép 186 được tặng thưởng Huân chương Quân Công hạng ba. Nhiều cán bộ ưu tú đã từng làm chỉ huy của Tiểu đoàn nay, trong đó phải nói đến những người như đồng chí Nguyễn Thông - Tiểu đoàn trưởng quê ở Bình Định, đồng chí Nguyện – Chính trị viên... là những đồng chí có nhiều thành tích trong chiến đấu. Nói đến Tiểu đoàn 186 không thể không nói đến một tấm gương anh hùng của Đại đội 2 thuộc tiểu đoàn này, đó là đồng chí Lương Văn Năm, còn được anh em gọi với cái tên thân mật là đồng chí Năm Lao. Sở dĩ có tên Năm Lao là vì trong chiến đấu khi phát hiện thấy địch là đồng chí Năm “lao” vào tiến công rất quyết liệt cho tới khi giành thắng lợi

        Đồng chí Năm Lao sinh năm 1930 tại xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Năm 1946, đồng chí nhập ngũ và không lâu sau, do chiến đấu dũng cảm, đồng chí Năm Lao đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí Năm Lao xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bảy trong mười người con của gia định tham gia cách mạng.

        Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí là chiến sỹ bắn trung liên cùng đơn vị chiến đấu nhiều trận thắng lợi. Năm 1954 đồng chí tập kết ra Bắc. Năm 1959, hội thao kỹ thuật bắn súng chiến đấu do Bộ Tổng tham mưu tổ chức, tiểu đội bộ binh do thượng sỹ Lương Văn Năm chỉ huy đã đạt thành tích xuất sắc, được xếp vào hàng những đơn vị giỏi nhất toàn quân.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:05:41 am

        Tháng 4 năm 1961, đồng chí Năm Lao cùng đơn vị về Bình Thuận tiếp tục chiến đấu với cương vị Đại đội trưởng Đại đội 2 Tiểu đoàn 186 chủ lực Khu 6. Tháng 10 năm 1962, đồng chí chỉ huy đại đội đánh địch ở Đắc-rơ-bun – Giôn-hắt, diệt hai trung đội biệt kích, bảo vệ an toàn căn cứ của Khu, bảo vệ nhân dân sơ tán và thu lại được số lương thực của dân đã bị địch cướp chưa kịp mang đi. Năm 1965, đồng chí về làm huyện đội trưởng huyện Tánh Linh. Ngày 15 tháng 6 năm 1965, đồng chí trực tiếp chỉ huy đơn vị bám đánh Lữ đoàn 173 Mỹ và Sư đoàn 10 quân ngụy. Một lần, cả đơn vị bị bao vây giữa đồng trống, một bầy trực thăng Mỹ bắn phá chặn đường rút của ta, đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy đơn vị đánh trả quyết liệt, đơn vị đã diệt gần hai đại đội Mỹ, bản thân đồng chí bắn rơi hai máy bay trực thăng, sau đó đơn vị đã đưa thương binh, liệt sỹ rút về căn cứ an toàn.

        Sau thời gian đó, đồng chí Năm Lao được trên điều về làm Huyện đội trưởng huyện Hàm Thuận, Thường vụ Huyện uỷ. Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, đồng chí trực tiếp chỉ huy đánh ba lần vào Chi khu Ma Lâm diệt ba lô cốt, bám trụ trong khu vực quận lỵ, đánh phản kích suốt ngày gây cho địch nhiều thiệt hại. Sau chiến dịch Mậu Thân, đơn vị tiếp tục đánh bốt, phá ấp chiến lược, diệt trên một trăm tên địch, giữ vững được phong trào địa phương.

        Đồng chí Năm La là một chỉ huy dũng cảm luôn luôn chủ động tiến công kẻ thù khiến chúng nhiều phen khiếp sợ. Riêng đối với anh em đồng đội, đồng chí sống giản dị, chan hoà, nên được cán bộ, chiến sỹ yêu mến, cấp trên tin tưởng. Tháng 5 năm 1971, trong trận chỉ huy đơn vị đánh vào đồn và ấp Bình Lâm, đồng chí đã anh dũng hy sinh. Đồng chí được tặng thưởng nhiều huân chương, bằng khen chiến sỹ thi đua. Ngày 16 tháng 12 năm 1978, đồng chí Lương Văn Năm (Năm Lao) được truy tăng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Tháng 2 năm 1962, Khu uỷ Khu 6 họp Hội nghị mở rộng để quán triệt Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ nhất và bàn định nhiệm vụ công tác của Khu.

        Hội nghị đã phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt về địch – ta, nhận định những thuận lợi khó khăn (nất là những khó khăn của một khu mới thành lập), quyết định động viên mọi lực lượng trong Khu tập trung thực hiện tốt ba nhiệm vụ: “Ra sức xây dựng và mở rộng căn cứ địa miền núi; bảo đảm hành lang chiến lược của Trung ương thông suốt vào Nam Bộ và các tỉnh trong khu. Phát động quần chúng nổi dậy giành lại nông thôn đồng bằng, xây dựng và phát triển phong trào ở đô thị, thị xã, phá ấp chiến lược của địch. Ra sức tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển và xây dựng lực lượng ta”.

        Ngày 12 tháng 5 năm 1962, ta lại tiến công Chi khu Lạc Thiện lần thứ hai. Sau lần bị ta tiến công hồi năm 1961, địch đã sửa chữa, củng cố lại chi khu kiên cố hơn. Đồn bảo an, địch tăng cường từ ba lên bảy hàng rào, bên trong có công sực vững chắc hơn. Huyện lỵ cũng có từ năm đến bảy hàng rào. Đồn dân vệ ít hơn, chỉ có từ hai đến ba lớp rào. Xung quanh hàng rào, địch đều có bãi mìn chống đột nhập. Tuy nhiên về cơ bản địch vẫn bố trí đội hình như cũ.

        Trận này tôi và anh Trần Lê cùng đi. Ngoài một đại đội bộ binh người Kinh đánh huyện lỵ, ta còn có một trung đội đặc công tăng cường, một trung đội người Re đánh đồn bảo an, một trung đội người Ba-na đánh đồn dân vệ. Đánh lần này so với năm 1961, ta có nhiều trung liên hơn, có cả đại liên, ĐKZ 57 ly, cối 81 ly, có mìn phá rào.

        Về phương án chiến đấu, chúng tôi thường chọn thời điểm cho những trận đánh mật tập ban đêm vào ngày mùng tám âm lịch. Bởi khi đó trăng không sáng lắm, cũng không tối lắm, trăng chỉ có một nửa đủ soi đường cho bộ đôi ta tiềm nhập và gỡ mìn. Đến 11 giờ đêm thì trăng bắt đầu úa vàng và lặn dần cho đến khoảng 2 giờ sáng trăng lặn hẳn thì ta nổ súng. Ta cố gắng giải quyết đồn nhỏ thì khoảng một giờ, đồn lớn thì chậm nhất là hai giờ là xong và thu dọn chiến trường, rút lui trước khi trời sáng. Lần này quận lỵ Lạc Thiện vẫn được ưu tiên nổ súng trước, nhưng mũi chủ yếu không đánh thẳng từ đường ô tô vào  như lần trước mà vòng bên trái đánh từ sau lưng nhà bếp, qua khu vực đổ rác đánh lên vào chiếm một và đánh chiếm tầng hai luôn.

        Theo đúng kế hoạch lúc 2 giờ sáng, sau khi dò mình xong, ta tiến công ngày. Trên hướng đồn bảo an và dân vệ, ta giải quyết rất nhanh gọn, chưa đầy một tiếng đồng hồ là chiếm lĩnh xong, bắt tù binh, thu vũ khí.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:06:34 am

        Còn tại quận lỵ, trận đánh diễn ra quyết liệt, không trót lọt như phương án. Vì sau khi hai tốp đội đặc công đã lọt vào bếp ăn, đến tiểu đội bộ binh vào thi anh em đi không khéo để đá rơi vào ống bơ gây tiếng động khiến địch báo động. Ta buộc phải nổ súng đánh luôn. Trước trận đánh, khi hiệp đồng chúng tôi đã quy định một phát pháo hiệu đỏ là chiếm xong, hai phát pháo hiệu đỏ là khó khăn. Lúc đó, tôi nắm trung đội dự bị người Kinh cùng hoả lực ĐKZ và cối 81 ly, ở ngoài nhìn vào thấy một phát pháo hiệu đỏ vút lên, anh em trong sở chỉ huy huy nghĩ là đã chiếm được quận lỵ rồi liền vỗ tay hoan hô. Nhưng sau đó, tiếng lựu đạn và từng tràng trung liên của ta và địch vẫn nổ lên. Sau này ta mới vỡ lẽ là có hai quả pháo hiệu chỉ huy trận đánh lại giao cho hai đồng chí giữ, đến khi phát lệnh bắn hai phát pháo hiệu đỏ thì một đồng chí lại lạc sang hướng khác không bắn được, nên chỉ có một phát pháo hiệu được bắn lên. Thật là tình huống ta không lường trước.

        Xác định hướng chủ yếu đang gặp khó khăn, nên tôi rời vị trí chỉ huy ra ngã ba lối rẽ vào chi khu để quan sát cho rõ hơn, đồng thời cho người bắt liên lạc để nắm cụ thể tình ình. Quả nhiên đồng chí chỉ huy quay ra báo cáo đúng như vậy. Tôi cho ĐKZ cơ động vào gần bắn trực tiếp vào lô cốt địch gần cổng chính, sau đó cho trung đội dự bị người Kinh đánh thẳng vào. Bọn địch đang tập trung ngăn chặn ta ở hướng nhà ăn phía sau lưng nay bị đánh vỗ mặt thì rất hoảng sợ, lực lượng bị phân tán. Nhân lúc đó, trung độ đặc công ào lên đánh chiến dinh quận trưởng. Quân trưởng bị tiêu diệt ngay tại chỗ. Đến 4 giờ sáng, ta mới kết thúc trận đánh và thu dọn xong chiến trường. Ta lấy năm xe ô tô của địch trong đó dành riêng hai xe ô tô để chở toàn bộ trang thiết bị dụng cụ y tế , thuốc men của một bệnh viện ngụy đem về căn cứ trang bị cho bệnh xá của ta. Ba xe ô tô còn lại liên tục chở anh em ta cùng súng đạn và chiến lợi phẩm về căn cứ.

        Mặc dù trận này hướng chủ yếu bị lộ, trong khi địch lại đông gần hai đại đội gồm cả bộ binh và biệt kích nên ta đánh cũng khó khăn hơn, nhưng ta cũng giành thắng lợi, tiêu diệt được Chi khu Lạc Thiện lần thứ hai. Ta bị hy sinh tám, bị thương mười đồng chí. Địch bị diệt một đại đội và bị bắt hơn một trung đội, số còn lại bỏ quận lỵ tháo chạy.

        Tại thị trấn có một trung đội ngụy đang an dưỡng số này do môt tên trung uý chỉ huy. Ngay trong đêm, anh em ta bắt cả trung đội địch ra sân tập trung để nghe giải thích chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Đồng chí cán bộ của chúng ta hỏi đám lính ngụy:

        - Phòng trung uý đâu?

        Một tên lính chỉ vào gian phòng ở đầu dãy nhà:

        - Thưa các ông, phòng đó.

        Anh em ta vào đến nơi chỉ thấy căn phòng trống trơn, trên bàn vẫn còn bộ quân hàm trung uý. Đồng chí của ta lại ra sân hỏi đám lính ngụy:

        - Vậy trung uý chỉ huy trốn ở đâu?

        Tên lính ban nãy nói:

        -  Khi nãy tên trung uý ngồi cạnh tôi. Nhưng tại các ông hỏi phòng trung uý đâu nên tôi chỉ phòng, nếu ông hỏi trung uý đâu thì tôi chỉ vào nó. Bây giờ thì nó trốn mất rồi.

        Những chuyện tưởng chứng nhỏ nhặt như vậy, bộ đội ta sau cũng phải rút kinh nghiệm tránh sai sót. May mà không gây hậu quả.

        Để ngăn chặn địch từ Bụôn Ma Thuột tiếp viện tới, ta sử dụng một trung đội tăng cường và bố trí trận địa mình phục kích chặn đánh. Lúc 12 giờ trưa, địch lọt vào vị trí phục kích, anh em bám sườn núi, hàng đá quần nhau với địch hơn một giờ đồng hồ. Địch đông, chúng huy động cả máy bay ném bom, bắn pháo vào trận địa ta. Trước tình hình như vậy, anh em ta chủ động rút lui, bảo toàn lực lượng.

        Như vậy riêng quận lỵ Lạc Thiện, trong vòn hai năm 1961 và 1962, ta đánh đi đánh lại hai lần đều giành thắng lợi. Từ những trận đánh của ta ở Chi khu Lạc Thiện, các tỉnh khác trong khu cũng hoạt động đều hơn, mạnh hơn, phối hợp với toàn miền đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-Diệm.

        Chủ trương của Khu 6 lúc đó là tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, thực hiện phương châm ba mũi tiến công (quân sự, chính trị và binh vận), ba vùng (rừng núi, đồng bằng và đô thị) đánh bại kế hoạch Sta-lây – Tay-lo của Mỹ - Ngụy. Địch dự kiến kế hoạch bình định miền Nam trong vòng mười tám tháng, triệt tiêu tận gốc phong trào cách mạng miền nam. Chúng tăng lực lượng cố vấn Mỹ từ 948 tên cuối năm 1960 lên 10.960 tên vào cuối năm 1962, chủ lực ngụy từ mười bảy vạn tên lên mười chín vạn tên. Cùng với việc bắt dân vào ấp chiến lược, địch mở hàng loạt chiến dịch càn quét từ cấp trung đoàn trở lên. Ta đánh liên tục, tiêu hao, tiêu diệt từ bộ phận nhỏ của địch, chống bắt dân vào ấp chiến lược, chống càn bảo vệ căn cứ, đánh một số trận lớn để thối động, hỗ trợ phong trào của quần chúng. Lúc này địch bắt một số dân ở đồng bằng đưa vào ấp chiến lược, còn ở vùng núi nam Tây Nguyên, đại bộ phận dân bỏ buôn làng chạy sâu vào trong rừng sống phân tán, bất hợp pháp, làm hầm chông, cạm bẫy đánh địch.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:09:04 am

        Sáng ngày 4 tháng 10 năm 1962, địch sử dụng Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 ngụy có ba cố vấn Mỹ, đánh thẳng vào căn cứ Khu 6 và Quân khu ở chân núi Kông Kơ Rin nằm ở đông nam Buôn Ma Thuột.

        Lúc này trong lãnh đạo Khu có hai ý kiến. ý kiến thứ nhất là nên rút khỏi căn cứ để  bảo tồn lực lượng chiến đấu lâu dài, tránh chỗ mạnh của địch. Ý kiến thứ hai là quyết tâm bám trụ, chống càn, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ, bảo vệ hành lang. Trong số ý kiến này, tôi và anh Trần Lê – Bí thư Khu uỷ, Chính uỷ Quân khu đều nhất trí với ý kiến thứ hai.

        Quả là việc bám trụ lại lúc đầu chúng tôi gặp không ít khó khăn.

        Do địch càn quét mạnh nên ban ngày anh em không thể ra rẫy để trồng cây và thu hoạch, mọi việc đều phải mò mẫm làm vào ban đêm, đèn đuốc cũng không được dùng nên mất rất nhiều công. Đã thế, các bãi trồng ngô ở ven sông Krông Nô lại thường xuyên bị ngập lụt vào trước dịp thu hoạch nên ngô bị thối rất nhiều. Anh em ta phần vì đói, phần vì tiếc công sức bỏ ra nên dù ngô thối vẫn bê về để hầm lên, nhưng thối quá không ăn được. Có anh cố ăn vào liền bị ngộ độc miệng nôn, trôn tháo. Nhưng rồi anh em ta vẫn nghĩ ra cách, đó là rửa qua nhiều nước cho sạch, đem phơi khô, sau đó đem rang lên vừa đỡ thối vừa không bị đau bụng.

        Không chỉ thiếu ăn, chúng tôi còn thiếu muối. Anh em ăn nhạt lâu ngày thì phù chân, tới mức không đi được. Khu bộ cũng chỉ còn ít muối dự trữ, tôi bảo chị nuôi lấy ra một hũ cấp cho mỗi đơn vị một ít, còn lại tôi bảo cô Dần nấu ăn cắt kỹ để đến tết còn có muối ăn. Hôm sau, tôi hỏi cô Dần:

        - Đã cất kỹ chưa?

        Cô bảo:

        - Em đã giấu kỹ lắm rồi.

        Tôi hỏi:

        - Cô giấu ở đâu?

        Cô Dần bảo:

        - Em đào bếp lên chôn muối ở dưới đó rồi lại đặt bếp lên không ai biết cả.

        Sau đó anh em ta lấy cỏ tranh đốt lên, lọc lấy nước muối theo cách của đồng bào dân tộc để khắc phục tạm thời tình trạng thiếu muối khi chưa kịp tiếp tế.

        Với quyết tâm bám trụ chống càn, đánh bại âm mưu của địch, ta tổ chức đánh tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ, khiến chúng không dám thọc sâu vào nữa. Lực lượng của ta để một phần nhỏ ở căn cứ tiếp tục chống càn, còn đại bộ phận luồn ra ngoài đánh chặn đường tiếp tế của địch, tập kích vào chi khu và các đồn nhỏ ở xung quanh.

        Ta với địch quần nhau trong hai tháng 10 và 11. Địch không bắt được dân, không đánh trúng cơ quan của ta.

        Giữa tháng 11 năm 1962, theo chủ trương của Thường vụ Khu uỷ, ta hạ quyết tâm tập trung lực lượng tiến công sở chỉ huy địch ở Đàm Roòng để tiêu diệt cơ quan đầu não, phá tận gốc kế hoạch càn quét của địch. Cuối tháng 11, tôi cử anh Kha là Tham mưu phó dẫn một bộ phận đặc công trinh sát qua sông Krông Nô chuẩn bị chiến trường kết hợp với địa phương, sau đó tôi qua nắm tình hình điện về báo cáo đồng chí Trần Lê.

        Sở chỉ huy của địch nằm trên một thung lũng tương đối bằng phẳng. Cái khó khi đánh căn cứ này là xung quanh căn cứ có năm ngọn đồi đều có lực lượng địch án ngữ để bảo vệ. Tại đây có sở chỉ huy trung đoàn và ba tên cố vẫn Mỹ, có trung tâm thông tin, hai khẩu pháo 105 ly và lực lượng chiến đấu gồm một tiểu đoàn bộ binh.

        Lực lượng tác chiến của ta gồm có Tiểu đoàn 840 (thiếu), một đại đội đặc công của Khu và một đại đội của Tiểu đoàn 186, một đại đội bộ binh của tỉnh, một trung đội đặc công của tỉnh, một trung đội trinh sát, một trung đội thông tin. Hoả lực trợ chiến có hai khẩu ĐKZ 75 ly và hai khẩu cối 81 ly.

        Khi phổ biến nhiệm vụ, tôi thấy tình hình căng thẳng quá, có một tổ đặc công xin để tháng sau đánh. Anh em nói: “Hôm nay ngày mùng bảy trăng sáng tiềm nhập rất dễ bị lộ”.

        Tôi giải thích:

        - Tôi và đặc công, trinh sát cùng chỉ huy tiểu đoàn đã vào tận nơi trinh sát thấy địch mới triển khai đội hình đóng quân nên hàng rào còn sơ sài, chỉ có hai lớp. Nếu để sau một thời gian nữa, số hàng rào sẽ nhiều lên, số mìn cũng dày đặc thêm, sẽ càng khó khăn cho ta.

        Một đồng chí nói:

        - Trên quyết tâm thì anh em cũng xin quyết tâm, nhưng đánh xong để thương binh, liệt sỹ lại có được không? Vì địch đã chiếm giữ năm ngọn đồi xung quanh căn cứ, ta rút ra sẽ rất khó khăn, nên việc mang thương binh, liệt sỹ ra khỏi trận địa là điều không dễ dàng.

        Tôi bảo:

        - Bằng giá nào cũng phải đem thương binh, liệt sỹ ra, không được bỏ lại trận địa.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:11:23 am

        Thảo luận đến 6 giờ tối hôm đó vẫn chưa xuôi, tôi cho anh em về ăn cơm nghỉ ngơi. Buổi tối, tập trung chi uỷ lại họp, tôi hỏi:

        - Đánh trận này, trong thâm tâm anh em ta lo lắng nhất là điều gì?

        Một đồng chí nói:

        - Điều lo lắng nhất của anh em ta là đánh xong không ra được, vì bị địch án ngữ năm điểm xung quanh.

        Tôi đưa ra phương án mới:

        - Ta sẽ tổ chức thêm một đại độ bộ binh và đặc công diệt gọn trung đội địch án ngữ trên một quả đồi để mở rộng cho bộ đội rút. Khi đi chuẩn bị, tôi đã chú ý các ngọn đồi về phía bắc giáp căn cứ của ta có cao hơn và địch đóng đông hơn, còn quả đồi phía nam thấp hơn nên tôi quyết định chọn diệt địch chốt trên ngọn đồi này. Như vậy địch chiếm năm ngọn đồi này, nay ta tiêu diệt một ngọn đồi để lấy đường đưa thương binh, liệt sỹ ra. Trung tâm được ưu tiên nổ súng trước, chiếm xong bắn hai phát pháo hiệu đỏ. Khi trung tâm nổ súng thì cũng tiêu diệt luôn điểm án ngữ của địch ở phía nam, nhanh chóng đưa ĐKZ 57 ly và cối 81 ly lên bắn kiềm chế căn cứ và các điểm cao khác.

        Chi uỷ đồng ý với phương án đó và chúng tôi triển khai kế hoạch luôn. Sáng hôm ấy, mỗi người mang một khẩu AK và sáu quả lựu đạn, chúng tôi hành quân tiến về phía sở chỉ huy địch.

        Đúng 2 giờ sáng đêm mùng 5 tháng 12 năm 1962, cũng là ngày mùng tám âm lịch, ta nổ súng tiến công. Sau 55 phút chiến đấu ta đã làm chủ trận địa, diệt gọn sở chỉ huy của địch, tiêu diệt ba trăm tên, trong đó có ba cố vấn Mỹ và tên Trung đoàn trưởng trung đoàn 44. Ta huỷ hai khẩu pháo 105 ly, thu một máy thông tin PRC-25 và mười hai khẩu tiểu liên Mỹ. Sau trận này, địch phải từ bỏ kế hoạch càn quét và căn cứ của ta. Ta hy sinh năm đồng chí, trong đó có đồng chí Huệ là Tham mưu trưởng tỉnh và và đồng chí Kim là Đại đội trưởng đặc công, bị thương mười lăm đồng chí.

        Đánh xong, trên đường về căn cứ, đồng chí đặc công hôm trước xin hoãn đánh gặp tôi thành thực nói:

        - Cấp trên quyết tâm là đúng, nay đã ba bốn lớp rào rồi, nếu để một tháng nữa thêm rất nhiều rào và mình thì sẽ rất khó đánh.

        Trận đánh Đàm Roòng gây được tiến vang lớn có ảnh hưởng tốt trong nhân dân các vùng ở Nam Tây Nguyên, được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tuyên dương, Bộ Quốc phòng tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba.

        Trong giai đoạn này, ở các vùng kiểm soát của địch, các đội vũ trang công tác lợi dụng khi địch huy động lực lượng đi càn quét căn cứ đã đột nhập vào các ấp phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, tuyên truyền chính sách, thắng lợi của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chống lại các chính sách và thủ đoạn lừa mỵ của địch.

        Thực hiện chính sách “chia để trị”, lúc này địch đưa ra một âm mưu khá nham hiểm nhằm vào đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên, đó là thuyết “Tự trị” dưới sự bảo trợ, giúp đỡ của người Mỹ. Với âm mưu này chúng đã mở nhiều cuộc vận động gọi là tương trợ đồng bào tỵ nạn “Cộng sản”, chúng tung ra một số gạo, muối, vải vóc để mua chuộc những người nhẹ dạ. Bọn chúng rêu rao người Mỹ sẽ trả lại đất cho người Thượng, ai vào “Tự trị” sẽ có đặc quyền, đặc lợi. Chúng còn vờ nói xấu Ngô Đình Diệm, làm một số người tin theo. Nguy hiểm hơn từ âm mưu trên, Mỹ đã lôi kéo được một số người Thượng tham gia lực lượng vũ trang, làm gián điệp chống phá ta. Riêng số đồng bào bị chúng đưa vào trại tỵ nạn “Cộng sản” thực chất là đưa vào ấp chiến lược, đồng bào đã sớm nhận ra chân tướng của kẻ địch và bắt đầu tẩy chay cái gọi là “Tự trị” kiểu Mỹ.

        Từ đầu năm 1963 trở đi, địch đã mở nhiều cuộc càn quét lớn như cuộc càn mang tên “Nhơn Hoà”, “Dân Thắng 401” ở B3 (đầu năm 1963), chiến dịch “Thiểm Đầu Thuỷ” (tháng 6 và 7 năm 1963 ở thung lũng sông “Tô Hạp” thuộc huyện Khánh Sơn) với hai nghìn năm trăm quân và pháo hạm ở Cam Ranh chi viện. Các cuộc càn quét cũng như chiến dịch tiến công dài ngày như “Thiểm Đầu Thuỷ” kéo dài tới bốn mươi ngày. Cuối cùng, địch cũng bị du kích, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và nhân dân các dân tộc dựa vào các tuyến bố phòng được xây dựng từ trước chống trả quyết liệt, khiến chúng bị tiêu hao, tiêu diệt nhiều và phải bỏ chạy. Lưu vực sông “Tô Hạp” đã trở thành “ Thung lũng tử thần” của chúng.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:12:42 am

        Phối hợp với căn cứ miền núi chống càn, ở đồng bằng, bộ đội địa phương huyện Vĩnh Xương đánh đứt đoạn đường xe lửa từ Phú Vinh đi Suối Dầu, đặc công tỉnh đánh vào sân bay Nha Trang, phá huỷ ba máy bay địch.

        Tháng 3 năm 1963, Quân khu mở hội nghị quân chính để kiểm điểm, rút kinh nghiệm về hoạt động xây dựng các lực lượng vũ trang và đề ra nhiệm vụ chống địch càn quét lấn chiếm; chống phá “Quốc sách ấp chiến lược” của địch, xây dựng và hình thành ba thứ quân, chú trọng nâng cao chất lượng. Lúc này, Trường Quân chính Quân khu cũng kịp thời bổ sung cho các đơn vị, địa phương tỉnh, huyện trên 200 cán bộ đại đội, trung đội đã được bổ túc và đào tạo.

        Tháng 4 năm 1963, lực lượng của quân khu được tổ chức, biên chế lại cho phù hợp với tình hình thực tế lúc bấy giờ. Quân khu chỉ giữ lại hai tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 840) và một khung tiểu đoàn trợ chiến với quân số mỗi tiểu đoàn chỉ có từ 250 đến 300 tay súng, còn lại bổ sung cho lực lượng vũ trang bên dưới còn quá yếu. Tuy lực lượng tập trung còn ít như vậy nhưng việc đảm bảo hậu cần cho anh em cũng rất khó khăn, lương thực, thực phẩm thường xuyên lúc đó là: mỳ, măng, môn, muối nên chiến sỹ ta vẫn gọi đùa là công thức “Bốn M”. Tiểu đoàn 186 thường ăn lá bép trừ cơm nên được gọi vui là “Tiểu đoàn Lá Bép”.

        Từ giữa năm 1963 trở đi, tuy địch vẫn còn tiếp tục càn quét, đánh phá, nhưng mật độ và quy mô có giảm. Do lực lượng địch bị tiêu hao, đặc biệt là sau chiến thắng Ấp Bắc (1-1963), ta bắt đầu chuyển lên cao trào đánh phá “ấp chiến lược”. Các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận” của Mỹ, ngụy trong “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đã làm sụp đổ lòng tin của quân ngụy vào trang bị kỹ thuật hiện đại và lực lượng yểm trợ cơ động nhanh của Mỹ. Ngược lại, sự thất bại của quân ngụy trên chiến trường đã làm sụp đổ lòng tin của quân Mỹ vào quân ngụy. Trận chiến thắng Ấp Bắc chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong cuộc “Chiến tranh đặc biệt” này.

        Tháng 7 năm 1963, ta đánh đồn ENa. Trước khi đánh đồn, các cán bộ đại đội và trung đội kết hợp với đội vũ trang công tác của tỉnh ra quân bám dân, nắm địch. Đội gồm những đồng chí biết tiếng dân tộc, mỗi đội từ năm đến mười người vào dân làm công tác nắm và tuyên truyền vận động. Trong đợt ra quân này, ta dùng Tiểu đoàn 186 bộ binh và một tiểu đội đặc công kết hợp với hai đội vũ trang công tác của tỉnh. Do kết hợp tốt công tác quân sự với công tác dân vận và tuyên truyền binh vận, ta đã giải phóng được bảy ấp chiến lược, thu trên ba trăm khẩu súng các loại. Trong bảy buôn có buôn Ena, buôn Bla, buôn Edrak ở nam Buôn Ma Thuột, khi ta vào dân làm công tác dân vận, đồng bào nói:

        - Nếu các anh đánh đồn Ena thì chúng tôi sẽ có cớ để đấu tranh với địch. Chúng tôi sẽ nói: “Đến đồn ENa có hầm hào, lô cốt, súng đạn đầy ra đấy mà các ông còn chả giữ được, thì làm sao chúng tôi giữ được ấp?”

        Đồn ENa do một trung đội ngụy người Kinh đóng giữ. Để đánh đồn này, ta dùng một tiểu đội đặc công và một trung đội bộ binh. Bị ta đánh bất ngờ, địch chống cự yếu ớt. Sau mười phút, ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, thu vũ khí.

        Sau khi ta diệt xong đồn Ena, dân đốt đèn đuốc tổ chức mít tinh luôn. Đồng bào yêu cầu mượn súng của bộ đôi bắn một phát vào cột nhà để sáng mai có cớ đấu tranh với địch. Ta làm theo yêu cầu của dân và hỏi: “Vậy thì cách mạng đi bằng đường nào?”. Khi có ý kiến: “Cách mạng cứ đi thẳng cổng chính mà vào”, thì anh dân vệ gác ở cổng chính giãy nảy lên không chịu, vì sợ địch phạt. Dân liền mang dao ra phá một đoàn rào ở cách cổng chính một đoạn khá xa, có người còn lấy đế dép cao su in lên hai bên bờ hào để lừa địch. Một chị phụ nữ hỏi:

        - Có cần bắt con gà cắt cổ cho máu chảy ra chỗ đánh nhau không?

        Bộ đội ta bảo:

        - Không cần.

        Trong ba buôn có buôn Edrak ta cũng đã bàn trước, nhưng đến phút cuối anh trưởng buôn lại dao động nên lệnh cho dân vệ đóng cổng không cho ta vào buôn. Buổi tối, ta gọi một số thanh niên ra bàn bạc ở ngoài rừng, trong số thành niên ra rừng có con trai của trưởng buôn. Ta đã vận động con trai trưởng buôn gọi cha mình mở cổng buôn, con trai trưởng buôn nói:

        - Cách mạng đông lắm cha ơi, các buôn kia đã giao súng cả rồi, cha không mở cửa giao súng, người ta đánh vô chết hết.

        Nghe con kêu gọi thống thiết quá, sau một hồi thì cổng buôn mở, bộ đội vào lúc đó đã 12 giờ đêm. Sau khi thuyết phục trưởng buôn kêu gọi dân vệ giao súng, ta tập trung đồng bào mít tinh luôn giải thích chính sách của cách mạng và nhận gạo thực phẩm tiếp tể của dân. Đến 3 giờ sáng, ta rút khỏi buôn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:15:06 am

        Đêm đầu tiên ta đã diệt một đồn, phá ba ấp, thu một trăm năm mươi khẩu súng. Lực lượng của ta và dân hoàn toàn vô sự. Trên đà thắng lợi, đêm hôm sau ta giải quyết nốt bốn buôn còn lại thu thêm một trăm năm mươi súng. Các buôn này không có đồn bốt, bộ đội ta vào bàn với dân, thống nhất với dân vệ phá rào, thu súng, treo cờ mít tinh.

        Ngày tiếp sau, địch cho hai trực thăng bay tới buôn Ena, một chiếc chở ba sỹ quan Mỹ, một chiếc chở năm sỹ quan Ngụy. Chúng đáp ngay xuống sân nhà Rông ở giữa buôn. Chúng cho lệnh hạ cờ của ta xuống. Trong khi các sỹ quan ngụy chạy lăng xăng đi tìm dân để hỏi han về tình hình Việt cộng, chụp ảnh các dấu vết thì các sỹ quan Mỹ không đi xa khỏi chân cột cờ giữa buôn. Trước khi lên máy bay trở về, một sỹ quan Mỹ tuyên bố với các sỹ quan ngụy, một số người dân lảng vảng gần đó cũng nghe được:

        - Đây là một trận chiến đấu chưa bắt đầu, mà đã kết thúc! Nếu chỉ nhìn vào những vết đạn bắn, những hàng rào bị phá thì có thể coi đây là một trận đánh rất quyết liệt, nhưng tại sao cả hai bên, cả dân từ già đến trẻ không có ai chết và bị thương?.

        Nói xong, cả lũ cay cú lên máy bay chuồn thẳng.

        Nhân đà này, cũng với phương thức trên, những tháng cuối năm 1963, B6 (gồm thị xã Buôn Ma Thuột và các vùng xung quanh), tiếp tục phá banh hàng loạt ấp chiến lược.

        Vậy là, Khu 6 bước đầu trải qua những năm tháng chiến đấu hết sức gian khổ, trong những điều kiện vô cùng gian nan, phức tạp của chiến trường. Mặc dù vẫn còn nhiều nhược điểm, khó khăn, nhưng đến giai đoạn này Khu 6 đã vượt qua được bước thử thách của mấy năm đầu, kể từ sau ngày được thành lập. Với tư tưởng cách mạng tiến công, với phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, tư tưởng kiên định bám trụ chiến trường, xây dựng lòng tin tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng của đồng bào dân tộc Nam Tây Nguyên, giữ vững đường hành lang chiến lược, chuyển phong trào đồng bằng lên thế “hai chân, ba mũi, ba thứ quân được” được hình thành, thế trận chiến tranh nhân dân không ngừng phát triển.

        Khuyết điểm của ta lúc này ở Khu 6 là lúc đầu còn chủ quan, chưa thấy hết âm mưu, thủ đoạn của địch; về sau khi bị địch phản kích thì đánh giá chúng cao, ta thấp, nhẹ công, nặng thủ; chưa coi trọng mũi đấu trang chính trị, binh vận; chưa coi trọng vận dụng các phương châm, phương thức tiến công cách mạng phù hợp với từng vùng, từng giai đoạn.

        Đầu năm 1964, tôi được Bộ tư lệnh Miền cho ra Bắc công tác kết hợp với điều trị bệnh. Căn bệnh này đã có tiền sử từ trước.

        Trước khi vào Nam năm 1960, cấp trên có cho tôi đi kiểm tra sức khoẻ ở Viện quân y 108. Lúc này tôi rất khoẻ, tôi nặng bảy mươi ba cân, nhưng bác sỹ trưởng phòng khám lại kết  luận:

        - Phổi có vết đen, phải đi an điều dưỡng hai tháng để uống thuốc, điều trị.

        Tôi báo cáo với bác sỹ:

        - Hiện nay tôi đang có công việc gấp, không thể đi điều trị ngay được. Đề nghị cho tôi thuốc uống hai năm để bác sỹ đơn vị tôi điều trị.

        Tôi không thể nói rõ nhiệm vụ đi B của tôi cho bác sỹ vì vào thời điểm năm 1960, việc vào miền Nam chiến đấu là một công việc hết sức bí mật, không thể nói cho ai biết kể cả vợ con. Bác sỹ cấp thuốc rồi bảo:

        - Đồng chí có thể đi an dưỡng hai tháng tại Sầm Sơn.

        Tôi nhận thuốc rồi vào chiến trường luôn. Cuối năm 1963, tôi bị một trận sốt rét ác tính khá nặng. Lúc này, tôi đã uống hết thuốc điều trị bệnh phổi nên khi sốt rét lui thì bệnh phổi lại tái phát. Trọng lượng cơ thể tôi lúc này chỉ còn năm chục cân. Các anh ở Khu thấy tôi ốm quá liền báo cáo Miền cử tôi ra Bắc vừa điều trị bệnh, vừa mang tài liệu của Khu ra Bộ báo cáo. Đồng thời tôi đi chuyến này còn có nhiệm vụ xin lực lượng, vũ khí, thuốc men và trang bị cho Khu 6.

        Nhóm chúng tôi gồm ba người. Ngoài tôi ra, trong nhóm còn có một đồng chí cán bộ quân lực của Khu cũng bị ốm từ lâu và một đồng chí công vụ.

        Mới có bốn năm mà con đường Trường Sơn đã thay đổi khá nhiều. Khi chúng tôi vào nhiều chỗ phải vạch rừng mà đi nhưng khi ra thì nhiều chỗ đã có đường xe đạp thồ. Đường rộng hơn một mét, khá phẳng phiu. Những đoạn qua sình lầy, bộ đội ta lót cây, đan phên nứa lát xuống mặt đường. Anh chị em thồ hàng bằng xe đạp, lúc quay về đạp xe không, họ phóng vèo vèo trên đường rừng trông thật vui mắt. Nếu như khi vào, chúng tôi phải đi mất hơn bốn tháng, thì bây giờ trở ra chỉ đi mất hai tháng. Lúc vào, dù đoàn nhỏ thì anh em cũng phải dậy thật sớm nấu cơm ăn, cơm vắt, nước uống bằng hăng gô, đổ ra đổ vào đến mấy lần, nhưng giờ anh em ra vào đoàn nhỏ và vừa đã có trạm lo cơm nước cho rất chu đáo nên không phải dậy sớm hì hục nấu nướng. Khi vào, anh em cán bộ đi đoàn lẻ vẫn phải tự mang ba lô, còn bây giờ đi ra, anh em giao liên buộc ba lô vào xe thồ đèo hộ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:17:46 am

        Khi ra đến Vinh, tôi điện ra ngoài Bộ báo cáo, các anh cho xe vào đón. Vì lý do bảo mật nên từ khi ra Bắc, chúng tôi tạm thời thay tên đổi họ, không tiếp xúc với ai. Tôi được mang tên mới là Hoàng Trang và được phát một giấy chứng nhận tạm thời với lý do làm mất chứng minh thư sỹ quan. Ở Hà Nội, tôi được kiểm tra sức khoẻ, điều trị ngoại trú một tháng, sau đó cấp trên cho tôi ra Sầm Sơn vừa điều trị kết hợp với an dưỡng, vừa tranh thủ xem lại tài liệu của Khu. Sau hai tháng trên cho xe ra đón về Hà Nội báo cáo tình hình.

        Đại tá Phan Hàm - Cục phó Cục tác chiến phụ trách miền Nam đã trực tiếp đưa tôi đến báo cáo với đồng chí Văn Tiến Dũng cả một ngày. Sau đó, đồng chí Văn Tiến Dũng chỉ thị cho tôi nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang Khu 6 trước tình hình mới, đó là đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Việt nam. Tiếp theo tôi báo cáo tình hình Khu 6 với đồng chí Lê Quang Đạo – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Sau đó, Ban Bí thư triệu tập tôi và anh Phan Hàm vào làm việc với đồng chí Nguyễn Duy Trinh. Chúng tôi được anh Nguyễn Duy Trinh mời ăn một bữa cơm thân mật. Rồi tôi tiếp tục làm việc với Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - Trưởng ban thống nhất Trung ương.

        Trở ra đúng vào dịp Quốc hội đang họp, các đồng chí lãnh đạo điều rất bận, nhưng đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng bố trí gặp và nghe tôi báo cáo tình hình Khu 6. Tôi giở bản đồ ra báo cáo được năm phút thì đồng chí Lê Duẩn nói luôn:

        - Khu vực Hoài Đức và Tánh Linh có nước ngọt không?

        - Báo cáo đồng chí, nước ngọt nhiều lắm, nhưng dân thì thưa thớt – Tôi nói.

        Đồng chí Lê Duẩn chụp cả năm ngón tay phải lên vùng đất Hoài Đức, Tánh Linh trên tấm bản đồ trước mặt hỏi tôi:

        - Nếu ta tổ chức hai trăm điểm dân cư, mỗi điểm hai trăm người cả nam và nữ, cấp gạo nuôi ăn hai năm, thì sau đó đã tự sống được chưa? Nếu được, ta sẽ điều số này ở Nam Bộ ra.

        - Báo cáo đồng chí – Tôi nói – Có thể chỉ một năm sau đã tự sống được vì đất đai vùng này rất tốt, nước nhiều, khi hậu thuận lợi cho việc canh tác.

        Đồng chí Lê Duẩn giải thích:

        - Khu 6 là bàn đạp để tiến công theo hướng đông bắc vào Sài Gòn. Khi phong trào còn yếu thì hướng phát triển ra phía bắc. Khi phong trào lên mạnh, ta sẽ hướng vào phía nam, áp sát Sài Gòn phối hợp với Quân khu 7, tạo bàn đạp để chủ lực đứng chân đánh vào Sài Gòn. Cho nên phải tiêu diệt địch ở Hoài Đức, Tánh Linh, xây dựng vùng này mạnh lên về mọi mặt.

        Trong khi tôi đang ở Chú thăm và làm việc với đồng chí Điềm – Tư lệnh và đồng chí Nam Khánh – Chính uỷ Lữ đoàn dù thì nhận được điện của Hà Nội gọi tôi về làm việc với các đồng chí ở Bộ. Theo chỉ dẫn, tôi đến một căn nhà ở bờ Hồ Tây. Vào nhà, tôi thấy đồng chí Nguyễn Chí Thanh đang chờ sẵn. Sau mấy phút thăm hỏi, tôi giở bản đồ ra báo cáo tình hình một cách ngắn gọn. Nghe báo cáo xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh hỏi:

        - Khu 6 có tiêu diệt được địch ở Hoài Đức, Tánh Linh không?

        Tôi trả lời:

        - Ở Hoài Đức và Tánh Linh địch còn mạnh, đánh được nhưng thương vong nhiều.

        - Cậu nói đó là tình hình cũ. Nay thằng Diệm đã chết, tình hình thay đổi nhiều rồi. Cậu nhớ rằng con người ta khi khoẻ có thể đánh chết con voi, nhưng khi đã ốm thì thậm chí muốn đi vệ sinh cũng phải có người dắt đi – Anh cười hóm hỉnh - Về trong đó phải chuẩn bị phương án ngay, sớm giải phóng Hoài Đức, Tánh Linh. địa phương và bộ đội chủ lực phải phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ này.

        Làm việc với đồng chí Nguyễn Chí Thanh xong, tôi gặp và báo cáo với đồng chí Văn Tiến Dũng lần cuối, chào anh trước khu vào Khu 6. Đồng chí Văn Tiến Dũng cho phép tôi vào bằng tàu thuỷ cho nhanh. Đó là tuyến đường của những con tàu mà sau này gọi là đoàn tàu không số, đi theo con đường Hồ Chí Minh trên biển.

        Chuẩn bị cho tôi vào Nam, đồng chí Văn Tiến Dũng giải quyết bổ sung cho Khu 6 một tiểu đoàn bộ binh là tiểu đoàn 130; hai đại đội bộ binh độc lập là đại đội 54 và 55, cùng một đại đội hoả lực. Ngoài lực lượng được điều cho Khu 6, Bộ còn điều trực tiếp mười thùng tiền giấy miền Nam, mười thùng bản đồ cho Khu 6. Anh Vũ Văn Cẩn lúc đó là Cục trưởng Cục Quân y (sau này là Bộ trưởng Bộ Y tế) đã điều cho Khu 6 thêm mười thùng thuốc tây và dụng cụ y tế, trong đó có năm bộ đồ mổ trung phẫu và đại phẫu, giao cho tôi trực tiếp mang vào chiến trường.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:19:23 am

        Đến lúc sắp đi, đồng chí Lê Quang Đạo – Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị còn gọi điện cho đồng chí Văn Tiến Dũng, đề nghị tôi đi cùng đồng chí Tố Hữu sang Cu ba trong đoàn ngoại giao của Trung ương. Đồng chí Văn Tiến Dũng nói:

        - Không được, chiến trường cần đồng chí ấy về gấp. Anh xem số anh em cán bộ cao cấp đang an dưỡng, có ai lấy được thì lấy một người mà đi.

        Đồng thời, đồng chí Văn Tiến Dũng cũng lưu ý tôi tình hình tàu khu trục Mỹ đang hoạt động ở vùng biển miền Bắc. Lúc này là sau sự kiện ngày 2 tháng 8 năm 1964, phân đội 3 (Đoàn 135, Bộ tư lệnh Hải quân) gồm ba tàu phóng lôi 333, 336, 339 đánh đuổi tàu khu trục của Mỹ xâm phạm vùng biển miền Bắc. Sự kiện này bọn Mỹ gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ.

        Còn đồng chí Lê Quang Đạo lại điều tiếp cho Khu 6 một đoàn văn công và một hoạ sỹ tên là Châu sắp tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội và nhà văn Nam Hà.

        Về hoạ sỹ Châu, nhà văn Nam Hà và đoàn văn công, tôi còn nhớ một số kỷ niệm về các anh chị. Khi còn ở Thanh Hoá, anh Châu có kể lại cho tôi nghe câu chuyện anh lên đường đi B, anh Châu nói:

        - Anh Hoàng Minh Thi lúc đó là Cục trưởng Cục Tuyên huấn gọi tôi về để làm công tác tư tưởng, trước khi vào chiến trường, anh Thi nói: “Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam đang cần sự cổ vũ của các văn nghệ sỹ, trước mắt chúng ta đang cần một hoạ sỹ trẻ có khả năng thể hiện tốt đề tài chiến tranh cách mạng, để vào chiến trường cực Nam Trung Bộ”. Tôi hỏi: “Vậy thì ai sẽ đi?”. Anh Thi bảo: “Cậu đi!”. Tôi ngạc nhiên nói: “ Tôi mà đi được à? Tôi chưa ra trường, người lại gầy yếu, chẳng bao giờ nghĩ mình lại có thể được vào chiến trường để vẽ”. Anh Thi động viên: “Đi được, cho cậu ba ngày để thu xếp công việc”. Thế là tôi chuẩn bị một ít giấy, màu vẽ và đi B, thật chóng vánh, nhẹ nhàng. Trước khi đi B, tôi không viết thư mà gửi cho cô người yêu một bức tranh vẽ một chiếc lồng chim cửa lồng đã mở, ý muốn nói cô ấy không còn bị ràng buộc gì với tôi nữa.

        Tôi nhớ một buổi trưa ở cơ quan Khu 6, anh Châu sang chỗ tôi uống nước, vừa xoay xoay cốc cà phê, anh Châu nói:

        - Cái nghề hoạ sỹ lạ lắm anh ạ. Nếu anh vẽ giống hoàn toàn, người ta sẽ bảo là anh cóp py, là truyền thần. Còn nếu anh vẽ không giống, người ta bảo là anh bịp.

        Anh Châu rất vui tính nên được anh em Khu 6 rất quý. Họ thường gọi anh với cái tên thân mật là “ Châu bôi”. Có lần anh Châu mượn của tuyên huấn chiếc máy ảnh về, rối rít gọi mấy chị em phục vụ cơ quan Khu ra chụp ảnh, nhưng chị em không ai chịu ra. Thấy lạ, tôi hỏi nguyên nhân thì chị em phục vụ nói:

        - Lần trước anh Châu đã vặn đầu vặn cổ chị em để chụp ảnh mãi mà chẳng được cái ảnh nào, nên hôm nay chúng em dứt khoát không chụp nữa. Chụp ảnh đau lắm.

        Trong đoàn văn công vào Khu 6 có ba cô gái, trong đó có một cô nhà ở Yên Phụ tên là Thanh Tước hay hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam, sau này chồng cô hy sinh ở mặt trận phía Nam. Khi ba cô văn công chuẩn bị vào Khu 6 đã có mặt chuẩn bị đi B thì ở Hà Nội có một cô chuẩn bị vào Khu 5 được vinh dự vào gặp Bác Hồ trước khi vào chiến trường. Khi vào chào Bác, cô này bế luôn cả đứa con nhỏ vào Phủ Chủ tịch. Không ngờ Bác thấy tình cảnh ấy liền giữ lại ngoài Bắc. Cô này trình bày với Bác là Khu 6 cũng có ba cô được đi. Thế là Bác điện cho anh Song Hào lúc đó là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, anh Lê Quang Đạo là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị để cả ba cô đang chuẩn bị vào Khu 6 ở lại. Khi đi ngang qua chỗ ba cô văn công chuẩn bị vào Khu 6, tôi thấy ba cô đang lúi húi cời cời đốt đốt ở góc sân, liền hỏi:

        - Các cô đốt gì thế?

        Ba cô gái tủm tỉm cười không ai nói gì, cứ hí húi đốt, tôi lại gần thấy các cô đang thản nhiên cho từng lá thư vào đống lửa. Tôi bảo:

        - Các cô không phải đốt thư nữa, trên đã điện vào thông báo cả ba cô phải ở lại rồi.

        Các cô đang vui cười nghe được thông tin ấy bỗng khóc nức nở đề nghị tôi cố gắng xin cho các vào, nhưng tôi biết đây là ý kiến của Bác không thể thay đổi được.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:22:43 am

        Còn nhà văn Nam Hà là một cây bút xông xáo như một người lính thực thụ. Đồng chí đã xung phong vào những nơi gian khổ ác liệt và đã viết được nhiều tác phẩm văn học có giá trị phản ánh chân thực cuộc chiến đấu của quân và dân Khu 6 cũng như trên chiến trường miền Nam.

        Lại nói tiếp về chuyến đi vào miền Nam lần nay. Trước khi đi, đồng chí Lê Quang Đạo mời tôi vào Tổng cục Chính trị. Tôi vào đến nơi đã thấy anh ngồi đợi trong phòng khách, trên bàn bày sẵn một nải chuối và hai cốc nước cam. Đồng chí Lê Quang Đạo ân cần mời tôi:

        - Đồng chí ăn đi, vừa ăn ta vừa nói chuyện – Anh bẻ cho tôi quả chuối rồi nói tiếp – Nghe tin đồng chí sắp vào chiến trường, thay mặt Tổng cục Chính trị tôi tiễn đồng chí, chúc đồng chí mạnh khoẻ, hoàn thành nhiệm vụ, tôi cũng chuẩn bị vào.

        - Cảm ơn anh đã quan tâm đến tôi – Tôi nói.

        - Vậy đồng chí đi bằng cách nào? – Anh hỏi.

        - Báo cáo anh, anh Dũng cho tôi đi tàu biển từ Hải Phòng vào – Thấy anh hơi nhíu mày khi nghe nói đi bằng tàu biển, tôi nói – Báo cáo anh, mấy chuyến trước rất gọn.

        - Thế thôi cậu cứ đi theo phương án đó, cậu phải chuẩn bị chu đáo.

        Đúng 4 giờ sáng ngày 20 tháng 8 năm 1964, Chiếc xe U-oát của Bộ Tổng tham mưu đưa tôi xuống cảng Hải Phòng. Chỗ tôi đến là một đơn vị hải quân thuộc đơn vị tàu không số. Anh em bảo vệ từ Hà Nội đã xuống Hải Phòng từ trước. Các anh cho biết “ tình hình yên ổn”. Trong thời gian này anh Nguyễn Bá Phát – Tư lệnh Quân chủng Hải quân đến thăm anh em chúng tôi và nói đã giao nhiệm vụ cho anh em chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi này. Chúng tôi ở đây một tuần để nghỉ ngơi và nghe phổ biến xử trí các tình huống có thể xảy ra trên biển. Chuyến tàu này chở một trăm tấn vũ khí các loại, mười thùng tiền, mười thùng bản đồ, năm bộ đồ mổ y tế và ba người khách gồm có tôi, anh Tộ là Chủ nhiệm hậu cần Khu 6 và một bác sỹ của đồng chí Nguyễn Chí Thanh.

        Lúc 21 giờ ngày 26 tháng 8 năm 1964, chuyến tàu không số của chúng tôi xuất phát từ cảng Hải Phòng. Trong đêm, tàu của chúng tôi chạy thẳng ra đảo Bạch Long Vỹ. Trên đường đi, tàu và bờ bắt liên lạc lần cuối xong, sau đó tàu chạy về hướng đông bắc. Qua khỏi đảo Bạch Long Vỹ, tàu ta nhẹ nhàng chạy rất êm trong ánh trăng đêm lúc mờ lúc tỏ giữa những đám mây trắng ngổn ngang trên bầu trời. Tôi đứng trên boong nhìn thấy ngoài biển có những quầng sáng và sau đó là ánh điện lung linh hiện lên trên mặt sóng. Tôi hỏi một đồng chí thuỷ thủ:

        - Tàu nào điện sáng thế đồng chí?

        - Tàu khu trục của Mỹ đấy, kệ nó - Người thủy thủ đáp.

        Tàu chạy gần đến bán đảo Lôi Châu khi trời đã sáng rõ mặt người. Mấy hành khách chúng tôi đều say cả. Gần đến cảng có tàu hải quân Trung Quốc ra đón. Tàu bạn bắn hai phát pháo hiệu xanh, tàu ta bắn hai phát pháo hiệu đỏ, sau đó tàu bạn quay mũi dẫn đường cho tàu ta vào quân cảng Lôi Châu ăn trưa. Buổi chiều, tàu chạy qua thành phố Hải Khẩu thuộc đảo Hải Nam. Bạn cho tàu ta vào giữa đội hình tàu hải quân của bạn.

        Tàu chưa kịp rời Hải Khẩu thì gặp bão, đành phải ở lại đây một tuần. Chúng tôi gặp hai anh đi chuyến trước bị ốm đang nằm ở bệnh viện Hà Khẩu. Sau một tuần bão tan, chúng tôi lại xuất phát, chúng tôi lại xuất phát. Hai tàu của bạn kèm hai bên dẫn tàu ta rời cảng Hà Khẩu đi về hướng nam. Mơi đi được một ngày một đêm thì lại có bão, tàu phải quay về cảng Du Lâm phía nam đảo Hải Nam để tránh. Anh em chúng tôi phải ở lại đây mười hai ngày. Hàng ngày, bạn tiếp tế gạo, thực phẩm và nước ngọt cho đoàn.

        Sau gần một tháng tránh các cơn bão ở Lôi Châu và Hải Nam, cuối tháng 9, tàu của chúng tôi lại tiếp tục hành trình vào Nam.

        Đang đi, tàu bạn rẽ ngang và quay lại, tôi hỏi anh Trung là Chính trị viên trên tàu:

        - Tại sao tàu bạn đang đi lại quay trở lại?

        Anh Trung bảo:

        - Gần giới tuyến quân sự tạm thời rồi, giờ ta tự đi.

        Sau đó, tàu ta chếch hướng đông nam đi tiếp. Trên mũi và đuôi tàu, ta bố trí súng 12,7 ly. Súng ống được che kín bằng những tấm lưới đánh cá. Tất cả chúng tôi đều mặc đồng phục tím than như những công nhân đánh cá trên biển.

        Khi tàu đi đến gần hải phận của Phi-lip-pin, lúc đó đã quá nửa đêm, tàu chuyển hướng về phía tây. Đi thêm một ngày và gần một đêm nữa, chúng tôi đã nhìn thấy ngọn hải đăng Vũng Tàu như một ánh sao lung linh từ đất liền tổ quốc dõi theo con tàu. Từ đó tàu đi dọc bờ biển vào Bến Tre.

        Đêm khuya, trời yên biển lặng. Tôi đoán tàu đang đi cách bờ không xa.

        Đang nằm tôi bỗng thấy như có người đấm “bịch!bịch!bịch!” ba nhát dưới sống lưng, thấy ớn cả xương sống. Tôi nghe nước chảy ào ào trên boong, nhìn ra cửa kính thấy nước ngập băng. Cũng cần nói thêm, con tàu của chúng tôi chở đầy hàng nặng nên chỉ có một phần của tầng trên và ca bin nhô lên khỏi mặt nước. Tàu vốn nhỏ lại chỉ nhô lên một phần rất ít nên được ngụy trang tốt, máy bay rất khó phát hiện hiện. Một lát sau anh em thuỷ thủ lịch bịch chạy xuống nói:

        - Báo cáo đồng chí, tàu đang bị mắc cạn, mời đồng chí lên ngay.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:25:10 am

        Tôi bật đèn xem đồng hồ, lúc đó là 3 giờ kém 20 phút sáng. Lên đến buồng chỉ huy, tôi hỏi:

        - Phía tây của chúng ta là tỉnh nào?

        - Bến Tre anh ạ - Đồng chí chỉ huy tàu trả lời.

        - Địa phận đó do ta hay địch kiểm soát? – Tôi hỏi tiếp.

        - Báo cáo anh ... không rõ.

        - Vậy từ đây vào bờ bao nhiêu cây số?

        - Chắc cũng không xa – Đồng chí chỉ huy nói.

        Tôi quyết định luôn:

        - Tình hình hình này chúng ta không thể chậm trễ được. Bây giờ đồng chí Trung là Bí thư chi bộ dẫn theo ba anh em nữa mang theo vũ khí, đi xuồng vào bờ nắm tình hình. Khi đến bờ để một người ở lại giữ xuồng, còn ba người tìm một nhà dân nghèo nhất trong xóm xem họ thức hay ngủ, gọi họ dậy hỏi tình hình. Yêu cầu về ngay trong đêm để kịp triển khai kế hoạch tiếp.

        Trước khi lên tàu, đồng chí Tư lệnh Hải quân đã giới thiệu với anh em thủy thủ đoàn về cấp bậc chức vụ của tôi, nên mọi phương án tác chiến khi có tình huống xảy ra các công việc trong suốt chuyến đi, anh em thường hỏi ý kiến tôi.

        Chúng tôi đợi đến khoảng hơn 4 giờ sáng, thì anh em quay ra báo cao:

        - Đây là huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nằm trong vùng ta kiểm soát. Dân còn cho biết lúc tối có khoảng một đại đội của ta đến đây đón, đến quá 12 giờ đêm không thấy gì, anh em rút về rồi.

        Tôi bàn, thống nhất với ban chỉ huy tàu: báo cáo tình hình tàu mắc cạn về Bộ Tổng Tham mưu. Đồng thời chúng tôi lệnh cho anh em thuỷ thủ đưa hai khẩu 12,7 lên bờ sẵn sàng chiến đấu, treo cờ ngụy lên tàu để lừa địch; cử anh Dũng thợ máy ở lại, khi bị lộ thì bấm nút điện nổ bộc phá cho huỷ tàu. Một chiến sỹ hải quân quê Thái Bình xung phong ở lại với anh Dũng để sẵn sàng phá tàu. Sau khi phát lệnh, tất cả mọi người đều khẩn trương hành động để lên bờ trước khi trời sáng.

        Đồng chí Năm Chung – Khu uỷ viên Khu 8 là người phụ trách bến tàu này. Anh bố trí chỗ ăn nghỉ cho chúng tôi rồi cùng các đồng chí lãnh đạo huyện Thạnh Phú huy động lực lượng để đến đêm ra chuyển hàng ở tàu lên bờ đưa vào kho cất giữ.

        Trong khi chúng tôi đang triển khai kế hoạch thì khoảng 9 giờ sáng có hai máy bay ngụy bay qua, chúng đảo đi đảo lại đến ba vòng rất thấp, chắc là chúng nhìn rõ cờ ngụy nên bỏ đi.

        Theo phương án trên, địa phương huy động lực lượng nhân dân và dân quân cơ động của cả huyện Thạnh Phú mang thuyền ra vận chuyển. Công việc chủ yếu tiến hành vào ban đêm, sáng ra lại đậy lại, vì từ tàu vào bờ là một khoảng cách chừng một cây số, một lực lượng thuyền và người lớn như vậy xuất hiện trên biển vào ban ngày sẽ bị máy bay địch phát hiện. Không chỉ có thanh niên dân quân và du kích cơ động, trong số những người tham gia vận chuyển chúng tôi thấy có cả nhà sư, cả các em nhỏ cũng tham gia rất hăng hái.

        Sau hai đêm, dưới sự chỉ huy của anh Năm Chung và huyện Thạnh Phú, các lực lượng của địa phương đã bốc dỡ hết một trăm tấn vũ khí đóng nguyên đai, nguyên kiện trong các hòm gỗ, cùng toàn bộ cá thùng sắt đựng bản đồ, tiền và dụng cụ y tế vào bờ, đưa về các căn cứ của ta một cách an toàn.

        Con tàu sau khi dỡ xong hàng vẫn không nổi lên được, Nó đã bị mắc vào một doi cát. Sàng sớm ngày thứ ba, sau khi đã tháo nốt vô tuyến điện và máy tàu, ta dùng ĐKZ bắn vỡ một phần giữa tàu, nhưng mũi tàu lại nhô cao tám mét.

        Hôm sau có điều kiện quan sát bến, tôi mới thấy anh em ta vào đúng bến, nhưng vì đi đêm không đèn đóm nên không đúng lạch khiến tàu bị mắc cạn. Phải nói anh em ta chọn bến rất giỏi. Nếu không mắc cạn, tàu sẽ theo một con lạch nhỏ vào sâu trong bờ vào ban đêm khi triều lên. Sáng ra nước rút, phía trước cửa lạch có một bãi cát nhô lên che kín cửa lạch. Khi chúng tôi theo cửa lạch rợp bóng dừa tiến sau vào thì bên trong vẫn còn một con tàu đã bốc hàng xong đang chuẩn bị ra. Chúng tôi tiễn hai mươi anh em thuỷ thủ cùng con tàu không số ra Bắc. Anh em đã lênh đênh cùng nhau gần một tháng trên biển, cùng chia sẻ biết bao kỷ niệm trên sóng gió, vậy mà giờ đây chỉ một cái bắt tay trong ánh mắt đầy lưu luyến để rồi lại hối hả kẻ Bắc, người Nam.

        Anh Năm Chung đưa tôi lên Tỉnh uỷ Bến Tre. Tôi mang một số quà miền Bắc là một số bút máy Trường Sơn ra tặng các đồng chí bí thư, chỉ huy trưởng tỉnh. Các anh rất phấn khởi đón nhận quà của miền Bắc.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:27:36 am

        Tôi ở tạm trong một nhà dân, buổi chiều có đồng chí liên lạc qua dẫn tôi đi nhận cứ. Nói là cứ cho oai chứ thực ra đó chỉ là một vườn dừa xơ xác vì bom đạn địch tàn phá cách Tỉnh uỷ ba trăm mét, trong đó có một cái hầm bí mật để ẩn nấp khi địch càn. Đồng chí liên lạc nói:

        - Căn cứ của đồng chí – Nói rồi người liên lạc cúi xuống gần một gốc dừa bật miệng hầm bí mật lên, để lộ ra một cái hố đầy nước.

        Tôi còn chưa kịp hỏi gì thêm thì đồng chí ấy nói tiếp:

        - Khi nào báo động có địch, phải lấy xô múc nước đem ra xa đổ, xuống hầm xong đậy miệng lại cẩn thận. Trong hầm có lỗ thông hơi lên gốc dừa.

        Tôi ở đó tiếp ba ngày hai đêm, may không có trận càn nào.

        Đến đêm thứ ba, có một đoàn cán bộ về Khu, trong đó có anh Sĩ – Phó Tư lệnh Khu 8 luôn đeo cặp kính cận và hai người nữa. Tôi cùng anh Tộ và một bác sỹ từ tàu không số lên nhập với đoàn của các anh lên Khu 8 để đi tiếp về Miền. Đến sông Hàm Luông thì trời cũng vừa tối, chúng tôi xuống ca nô sang Mỹ Tho. Trên ca nô của chúng tôi lúc đó có bảy người, kể cả người lái ca nô. Ca nô mới chạy được mười phút, mới hết một phần tư quãng đường thì gặp tàu tuần tiễu của địch quét đèn pha sáng quắc chạy dọc sông. Ca nô của ta nhỏ liền quay mũi chạy thẳng vào bờ, sau khi buộc ca nô vào bụi cây dưới gốc dừa, chúng tôi lên hết trên bờ triển khai chiến đấu. Tàu địch chạy qua, anh em xuống ca nô mở hết tốc lực chạy ba mươi phút thì tới bờ bên kia sông Hàm Luông. Anh lái ca nô còn kể: “Có nhiều khi lợi dụng đêm tối, tàu địch còn bí mật thả trôi sông để bất ngờ nổ súng vào ca nô của ta”.

        Từ Mỹ Tho, chúng tôi đi ngược theo hướng tây tới giáp vùng kiểm soát của địch. Ngày nghỉ ngay trên miệng hầm bí mật, đêm có giao liên nam hoặc nữ dẫn đi. Đa số các đồng chí nam, nữ giao liên đều còn rất trẻ. Họ không chỉ thuộc các đường đi lối lại mà còn nắm địch rất chắc.

        Cứ đi như vậy chừng bốn ngày, chúng tôi đến một thị trấn nhỏ. Sau khi ăn cơm chiều ở đây, chúng tôi được lệnh chuẩn bị vượt quốc lộ số 4, đi Tây Ninh:

        Khoảng 10 giờ đêm, một cô giao liên dẫn chúng tôi ra quốc lộ số 4. Khi đội hình còn cách đường khoảng trăm mét thì cô giao liên ra hiệu cho chúgn tôi lợi dụng địa hình nằm xuống chờ lệnh. Tôi đang nhô đầu nghe ngóng, bỗng cô giao liên ấn vai tôi xuống. Tôi hỏi:

        - Cái gì thế?

        - Jeép?

        Một lúc sau có hai chiếc xe bọc thép đi tuần quét đèn pha sáng rực chạy qua chứ không phải xe jeep. Hai chiếc vừa chạy qua, cô giao liên ra hiệu cho chúng tôi vượt qua đường luôn. Chúng tôi đi tiếp hai tiếng nữa thì nghỉ lại chợp mắt, vì khu vực này đã tương đối an toàn. Sau đó đoàn đi tiếp bốn ngày nữa trên những con đường rừng miền tây tỉnh Tây Ninh, cô giao liên bảo: “Bên kia con suối này là đất Cam-pu-chia”. Chúng tôi đi qua suối rồi cắt ngang qua một con đường nhựa từ Cam-pu-chia sang Tây Ninh, đi tiếp một ngày nữa thì về đất Việt Nam. Đi hết cánh rừng rậm, cô giao liên bảo chúng tôi dừng lại nấu cơm, xác định tinh thần ăn tối xong sẽ đi suốt đêm để vượt qua cánh đồng “Chó ngáp”.

        Quả như lời đồng chí giao liên đã cảnh báo về cái cánh đồng có cái tên rất lạ ấy. Đó là một cánh đồng bình thường như nhiều cánh đồng khác ở đồng bằng Nam Bộ. Ở đây cây sú vẹt mọc lúp xúp, lưa thưa trên lớp bùn thụt của rừng tràm chết chỉ còn trở trong bùn những thân cây, rễ cây nhỏ, cứng nhọn sắc  như chông. Cả cánh đồng không có mô đất nào có thể đặt nổi chiếc ba lô hoặc chiếc gùi để nghỉ tạm dù chỉ vài phút. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải lựa chân không mà đi qua rừng chông ngầm đó, bởi nếu đi dép thì lúc rút chân lên chỉ còn chân chứ dép thì nằm lại ở dưới bùn. Đi trong bùn lầy thụt, chỉ giữ thăng bằng rút  được chân lên cũng đã thắt cả ruột. Cứ đeo ba lô, súng đạn mò mẫm như vậy, từng bước một trong đám bùn thụt đầy chông gai, bốn bề đêm tối lờ mờ ánh sao, không một ánh đèn, chúng tôi bám theo nhau đi suốt đêm để vượt qua cánh đồng “chó ngáp” trước khi trời sáng. Bởi vì nơi đây khi trời vừa hửng sáng thì máy bay trực thăng địch đã liên tục quần đảo, cánh quạt máy bay sẽ thổi tung từng các bụi cây lúp xúp chủ yếu là sú vẹt, cỏ dưng, cỏ lác mọc lưa thưa để săn tìm dấu vết của ta. Chúng sẵn sàng bắn như đổ đạn xuống bất kỳ bụi cây nào mà chúng nghi ngờ có quân ta ẩn nấp. Tôi được biết có anh em không kịp vượt qua được cánh đồng này trước khi trời sáng nên đã bị hy sinh vì bom đạn địch trên cánh đồng này. Nhưng nhìn cô giao liên nhỏ nhắn, nhanh nhẹn lại rất thành thạo, chúng tôi cảm thấy vững tin rằng, ý chí của người chiến sỹ cách mạng sẽ giúp đem lại nghị lực vượt qua tất cả.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:29:44 am

        Chúng ta thừa biết không phải những tiện nghi hiện đại, càng không phải những điều kiện đầy đủ sẽ tạo nên những phẩm chất kiên cường cho những chiến sỹ cách mạng, mà chính cuộc đấu tranh đầy khó khăn gian khổ và thử thách ác liệt - giữa một bên là cái “thiện” đại diện cho lẽ phải, sự công bằng và một bên là cái “ác” đại diện cho sự bất công vô nhân tính – đã tạo nên những phẩm chất ấy. Nói như vậy không phải chúng ta mong cho các thế hệ trẻ, con cháu của chúng ta cũng phải trải qua những nỗi gian truân vất vả mà các thế hệ đi trước đã trải qua, để hiểu được không chỉ cái vị ngọt ngào, mà cả những nỗi đắng cay đến tột cùng của cuộc chiến tranh mà cha anh đã trải qua để giành được độc lập tự do, để cho chúng ta vẫn là chúng ta, sống tự do và bình yên dưới bầu trời này. Nhưng để giữ gìn được thành quả của cha anh mình, người lính trong hiện tại và tương lai của chúgn ta vẫn phải được rèn luyện trong những điều kiện thích hợp để có đủ bản lĩnh, đặc biệt là bản lĩnh chính trị vững vàng của “Bộ đội Cụ Hồ”, của người chiến sỹ cách mạng.

        Chúng tôi đi suốt đêm vượt qua cánh đồng “Chó ngáp” thì trời cũng vừa sáng, nhìn đồng hồ đã hơn 5 giờ. Đội hình vừa chui vào bìa rừng thì máy bay L19 và trực thăng hàng đàn kéo đến bắn phá ầm ầm trên cánh đồng “Chó ngáp”. Chúng tôi đi sâu vào rừng đến 8 giờ sáng thì dừng lại nấu cơm, ăn xong đi luôn hai ngày nữa thì đến trạm giao liên của Trung ương Cục miền Nam. Bộ tham mưu Miền nghe tin chúng tôi tới liền cho người ra đón. Đây là căn cứ dã chiến nhưng cũng tương đối đàng hoàng. Chúng tôi ở trong những căn nhà lá có bàn ghế để làm việc, có giường ngủ. Tất cả đều ghép, đóng bằng những thân cây rừng rất khéo. Khi tôi báo cáo tình hình chuyến đi và những ý kiến chỉ đạo của Bộ với Khu 6 thì cũng được thông báo: Trung ương Cục đang triệu tập hội nghị, các anh Trần Lê – Bí thư kiêm chính uỷ Khu 6 và anh Nguyễn Minh Châu – Tư lệnh Quân khu 6 cũng sắp đến, tôi ở lại họp cùng các anh rồi về luôn.

        Hội nghị tiến hành từ ngày 1 đến ngày 30 tháng 1 năm 1965, do đồng chí Nguyễn Chí Thanh chủ trì. Lúc đó đồng chí Nguyễn Chí Thanh là Uỷ viên Bộ Chính trị được Bộ Chính trị cử vào làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Hội nghị đã đánh giá tình hình cách mạng miền Nam và nêu lên nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trước mắt cũng như lâu dài. Trong đó, nhiệm vụ trước mắt của toàn Miền là dồn sức đánh bai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và chuẩn bị mọi mặt để đọ sức với quân viễn chinh Mỹ.

        Họp ở Miền xong, anh Nguyễn Minh Châu và anh Trần Lê ở lại làm việc tiếp, còn tôi về trước chuẩn bị chiến trường đánh Phước Long.

        Tỉnh Phước Long sau khi sáp nhập với Khu 6 được xác định là trọng điểm của Khu. Lực lượng địch ở đây có tiểu đoàn 34 biệt động quân, một chi đoàn xe bọc thép và một số đơn vị bảo an. Mỗi chi khu có môt đại đội bảo an cơ động, chưa kể số đại đội, trung đội bảo an chốt giữ các điểm. Tại đây còn có hai trại biệt kích Mỹ ở Bù Đốp và Bù Gia Mập, mỗi nơi có từ một đến hai đại đội được huấn luyện theo lối đánh biệt kích ở vùng rừng núi dọc biên giới Phước Long Cam-pu-chia. Ở các dinh điền, ấp chiến lược còn có từ một tiểu đội đến một trung đội giữ ấp.

        Về ta, lực lượng của tỉnh chưa đầy một đại đội, các huyện mới có từ một tiểu đội đến một trung đội. Sau đó Quân khu có bổ sung thêm Đại đội 273, đại đội bảo vệ căn cứ Khu 10 để lại. Do tình hình như vậy nên việc hoạt động ở hướng này còn gặp nhiều khó khăn. Từ cuối năm 1964, ta đã bố trí ở Phước Long hai tiểu đoàn 840 và 145, tổ chức phá ấp, đánh viện tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng vùng từ đường 10 đến đường 14 gần thị xã Phước Long. Đây là điều kiện thuận lợi cho đợt tiến công thị xã Phước Long lần này.

        Theo chủ trương của Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền, chiến dịch này diễn ra trên địa bàn Phước Long – Bình Long mang tên là chiến dịch Đồng Xoài. Hướng chính của chiến dịch nằm trên tỉnh Phước Long của Quân khu 6. Nhiệm vụ của Khu 6 là phối hợp chuẩn bị chiến trường và tham gia hoạt động trong chiến dịch, đẩy mạnh hoạt động ở hướng Lâm Đồng - đường 20, phá ấp chiến lược, cắt đứt giao thông.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:30:56 am

        Đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường gồm mười hai người, trong đó có tôi và một đại đội trưởng đại đội chủ công, ba đồng chí đặc công, còn lại là cán bộ trung đội và trinh sát. Trên đường rừng từ căn cứ đến khu vực chuẩn bị chiến trường, chúng tôi đã nghe một tràng đại lên địch nổ vang. Đồng chí Đại đội trưởng bảo:

        - Đây là quy luật hàng ngày của địch ở trong đồn bắn ra.

        Chúng tôi đi tiếp một hồi đến khoảng xế trưa thì gặp một con dường khai thác gỗ của dân, hai vết bánh xe chở gỗ hằn sâu như hai rãnh nước còn trong veo. Đồng chí trinh sát nhìn con đường vắng teo nói:

        - Mọi khi vào tầm này dân vào khai thác gỗ rất đông, hôm nay sao không thấy?

        Đồng chí đại đội trưởng bảo:

        - Có lẽ họ đi muộn.

        Đến gần trưa trời nắng gay gắt cũng là lúc chúng tôi đến chân một cái dốc lớn. Một số anh kêu đói định dừng lại nấu cơm ăn. Tôi bảo:

        - Lên đỉnh mát hơn, có địch còn đánh được.

        Mọi người đi tiếp. Đội hình đang lên giữa sườn dốc cách đỉnh dốc gần một trăm mét, tổ đặc công đi đầu bất ngờ bị đại liên địch bắn dọc đội hình. Tổ đặc công nhanh chóng dùng tiểu liên AK diệt được khẩu đại liên địch, có đồng chí trinh sát quỳ ngay giữa đường mà bắn. Địch đông quá, tổ đặc công đi đầu ba đồng chí hy sinh cả. Lúc đó tôi đi cùng tiểu đội trưởng Vũ chỉ huy một tiểu đội và một đồng chí điều khiển khẩu trung liên cùng một chiến sỹ đeo đạn dạt qua bên phải, một số dạt qua bên trái đường tránh luồng đạn bắn thẳng và lựu đạn địch từ trên đỉnh dốc ném xuống như mưa. Số anh em ta nhanh chóng lợi dụng địa hình, địa vật đánh trả quyết liệt bằng trung liên, tiểu liên và lựu đạn. Nhưng địch đông quá, ta không chặn nổi (sau ta nắm lại địch và được biết chúng gồm hai đại đội bảo an). Chúng từ trên cao tràn xuống hòng chia cắt lực lượng của ta làm hai. Tôi lệnh cho Vũ bắn mạnh, rồi chỉ huy hai chiến sỹ cùng sang bên kia đường bắn yểm trợ cho Vũ chạy theo. Địch bắn mạnh về phía khẩu trung liên khiến đồng chí giữ trung liên bị thương. Tiểu đội trưởng Vũ và đồng chí mang đạn không sang đường được, đành chờ đến chiều bắt liên lạc với số anh em còn lại ở bên này đường.

        Tôi đoán thế nào địch cũng cho trực thăng lên lấy xác đồng bọn. Quả nhiên 3 giờ chiều, hai trực thăng địch bay lên tìm cách hạ xuống đỉnh đồi. Từ bên kia đường vang lên một băng trung liên giòn giã, Vũ đã bắn hết một băng trung liên dọc đường rồi rút. Địch thấy ta nổ súng liền bắn theo, Vũ bị thương gãy tay trái. Sau khi trực thăng bốc lên, địch cũng rút luôn. Ta hy sinh ba đồng chí đặc công, bị thương hai trong đó có Tiểu đội trưởng Vũ và môt chiến sỹ bắn trung liên. Địch chết tám tên và bị thương một số tên khác phải đưa lên máy bay rút về. Còn chúng tôi ở lại khẩn trương tiếp tục nắm tình hình chuẩn bị cho chiến dịch.

        Thị xã Phước Long nằm trên một bình độ cao, có con sông Bé hình thành cánh cung bao bọc từ phía đông nam đến phía tây bắc. Bờ sông cao dốc đứng, đồi núi mấp mô gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc hành quân tiếp cận của ta. Ta chọn hướng tấn công chủ yếu từ hướng đông bắc thị xã để đánh vào tiểu khu và Toà hành chính tỉnh. Nhưng sau khi nghiên cứu, ta thấy tiếp cận theo hướng này phải hành quân xa, vác nặng, nên quyết định ém quân rồi vượt sông Bé để vào

        Bước vào chiến dịch Đồng Xoài, tại hướng chính Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng ba trung đoàn chủ lực Miền, Tiểu đoàn 840 của Quân khu 6 và lực lượng vũ trang địa phương. Đồng chí Nguyễn Minh Châu – Tư lệnh Quân khu 6 làm Tư lệnh phó chiến dịch, được phân công trực tiếp chỉ huy cánh quân từ hướng đông đánh vào thị xã Phước Long.

        Yêu cầu của trận đánh này là chiếm hoặc gây thiệt hại nặng lực lượng địch tại thị xã và trụ lại, buộc chủ lực địch phải cho lực lượng chi viện, tạo điều kiện cho Trung đoàn 2 (thiếu) và Trung đoàn 3 đánh tiêu diệt.

        Ngày 10 tháng 5 năm 1965, ta mở chiến dịch đánh thị xã Phước Long. Kết quả trong đêm, tại thị xã ta đã đánh chiếm được khu thông tin, gần hết khu công an, cảnh sát; phá huỷ trận địa pháo, chi đội thiết giáp; đánh thiệt hại nặng khu trung tâm huấn luyện nghĩa quân, đồn biệt động, đòn bảo an, khu cư xá Mỹ, dinh tỉnh trưởng; đốt cháy một khi xăng. Chi khu Phước Bình cũng bị diệt gọn sau hai mươi lăm phút chiến đấu, ta thu toàn bộ chiến lợi phẩm.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:34:08 am
         
        Trận tiến công thị xã Phước Long đã giành thắng lợi lớn. Các đơn vị tham gia chiến dịch được cấp trên tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba. Đồng chí Lê Trọng Tấn – Tư lệnh chiến dịch quyết định giao cho Khu 6 giữ tấm huân chương này. Chiến thắng Đồng Xoài, Phước Long đã đi vào thơ ca:

Ai về Sông Bé - Phước Long
Còn nghe vang dội chiến công Đồng Xoài...

        Tiếp tục phát triển chiến dịch Phước Long, trưa ngày 23 tháng 9 năm 1965, sở chỉ huy của chúng tôi vừa hành quân tới bờ sông Đồng Nai thì bị “cây nhiệt đới” - một loại thiết bị thông tin hiện đại nhất của Mỹ lúc đó do máy bay thả xuống để dò tìm, phát hiện lực lượng của ta - chỉ điểm cho máy bay phản lực ném bom, bắn phá đến trưa. Sau đó, chúng cho bốn máy bay cánh quạt mò lên tiếp tục vừa bắn vừa thả bom  trúng đội hình sở chỉ huy của Khu khiến đồng chí Đại uý cán bộ tổ chức của Khu hy sinh, đồng chí bảo vệ của tôi cũng bị hy sinh, còn tôi bị thương mẻ một xương chân trái và thủng màng nhĩ tai trái. Đây là lần thứ hai tôi bị thương. Lần thứ nhất tôi bị thương năm 1949 trong trận Võ Kiện, khi đánh diệt bọn địch đi tuần đường sắt, trận đánh kết thúc thắng lợi nhưng khi chúng tôi đang rút về cứ thì bị địch thả bom, một mảnh văng vào chân phải. Còn khi tôi bị thương lần này, thuốc men rất hiếm. Ngay đêm hôm đó, bác sỹ quân y đã thắp nến lên để mổ gắp mảnh đạn và những mảnh xương vỡ ra, đổ mật ong rừng vào băng bó lại, vết thương rất nhanh lành miệng. Một tháng sau tôi lại tiếp tục chiến đấu. Sau trận này, hội đồng giám địch của quân y mặt trận kết luận tôi là thương binh hạng ba trên bốn. Cho đến bây giờ toàn bộ cẳng chân trái tôi vẫn tê tê và bị teo, cấu không biết đau.

        Kết thúc chiến dịch Hè 1965, đại bộ phận nông thôn tỉnh Phước Long được giải phóng. Ta đã làm chủ một vùng dân cư đông đúc tới năm mươi sáu nghìn trên tổng số sáu mươi bảy nghìn người, vận động được ba trăm năm mươi nam nữ thanh niên tòng quân, cắt đứt hẳn con đường chiến lược 14 và khai thông các cửa khẩu biên giới giữa ta và CPC.

        Phối hợp với chiến trường trọng điểm và toàn Miền, các lực lượng trong Quân khu đã chuyển lên hoạt động đều, mạnh và rộng khắp. Các đơn vị tập trung đánh diệt nhiều địch, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy mạnh mẽ phá ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ. Ở Lâm Đồng, ta mở rộng vùng phía nam và bắc Lâm Đồng nối liền với vùng giải phóng Hoài Đức – Tánh Linh của Bình Thuận. Ở Quảng Đức, ta đánh phá hơn một nửa ấp chiến lược, giải phóng gần một vạn dân. Ở Bình Thuận, phong trào diệt ác trừ gian diễn ra sôi nổi, đồng bào còn hăng hái đánh phá làm tê liệt hoàn toàn hệ thống giao thông của địch. Ở Ninh Thuận, ta đã giành và giữ thế tranh chấp với địch, liên tục phá kìm và đánh phá giao thông... Ta đã tạo được thế mới trên chiến trường Khu 6.

        Đến thời điểm này ta đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7 năm 1965, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn quyết định đưa nước Mỹ bước vào cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam. Với quân đông, súng nhiều, Mỹ hy vọng đánh gãy xương sống Việt cộng, giành lại quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường miền Nam. Do đó, cuộc chiến tranh diễn biến rất căng thẳng và quyết liệt.

        Ảo tưởng của Mỹ là sẽ thắng ta với ba giai đoạn: Giai đoạn một: phá kế hoạch tiến công mùa khô của ta, ngăn chặn chiều hướng thua của Mỹ, ngụy đang diễn ra trên chiến trường. Giai đoạn hai: tiến hành phản công chiến lược, “tìm và diệt” chủ lực của ta và kiểm soát các vùng nông thôn. Giai đoạn ba: hoàn thành việc “tìm và diệt” chủ lực của ta, triệt phá các căn cứ của ta, tiếp tục bình định toàn miền Nam, rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

        Thực hiện chiến lược mới, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1965, số quân Mỹ trên toàn miền Nam đã tăng lên đến một trăm tám mươi tư nghìn tên, làm nòng cốt và lực lượng chủ yếu để “tìm và diệt” các đơn vị chủ lực của ta, còn quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng và kìm kẹp nhân dân.

        Trên chiến trường Khu 6, từ tháng 8 năm 1965, đã có chín trăm tên Mỹ vào Phan Rang – Tháp Chàm, sau đó là tám trăm tên chư hầu, lữ đoàn dù 101 Mỹ và một bộ phận của quân Nam Triều Tiên tiếp tục triển khai ở khu vực này bảo vệ căn cứ Thành Sơn và Cam Ranh. Đến cuối năm 1965, quân Mỹ đã tăng lên đến hai nghìn tên, có tác dụng hà hơi tiếp sức, củng cố tinh thần quân ngụy, đồng thời gây cho ta không ít khó khăn.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:36:30 am

        Vào thời điểm này, Khu 6 được bổ sung thêm trung đoàn bộ binh 436 từ miền Bắc vào theo quyết định của đồng chí Văn Tiến Dũng mà tôi đã có dịp nói đến khi ra miền Bắc lần thứ hai năm 1964. Như vậy, lực lượng của Quân khu 6 bao gồm lực lượng chủ lực, lực lượng tập trung ở tỉnh và lực lượng ở huyện được phân bổ theo tỷ lệ hợp lý.

        Theo chủ trương của Khu, ta kết hợp xây dựng, củng cố và phát động mở rộng phong trào du kích chiến tranh. Sau trận chiến đấu thắng lợi ở Bù Nơ – Bù Có, tiêu diệt địch, phá ấp chiến lược, giải phóng đồng bào, ta chủ trương phát huy thắng lợi vừa qua, tiếp tục diệt cứ điểm Bu Prăng, một cứ điểm độc lập nằm sâu trong vùng kiểm soát của ta. Làm chủ được đồn Bu Prăng sẽ khống chế vùng biên giới, mở rộng hành lang cửa khẩu với Cam-pu-chia.

        Tuy nhiên, trận đánh Bu Prăng không thành công. Sai lầm trong trận đánh này là tư tưởng chủ quan, chuẩn bị chiến trường chưa kỹ, cách đánh chưa phù hợp nên không dứt điểm được. Khi tiến công  chỉ hướng chủ yếu phá được hết rào, chiếm lô cốt đầu cầu, còn các hướng khác không vào được. Ta bi thương vong nhiều không phát triển tiếp được buộc phải đưa thương binh liệt sỹ rút ra. Tiểu đoàn 840 bị thương vong cao, nhiều cán bộ ưu tú từ cấp tiểu đội đến đại đội hy sinh và bị thương.

        Phối hợp với lực lượng của Khu, trên các hướng, các lực lượng vũ trang đã tăng cường hoạt động. Ở Phước Long, ta đánh bọn địch bung ra lấn chiếm các thôn ấp giải phóng. Ở Quảng Đức, ta đánh địch vận chuyển trên đường 14. Ở Lâm Đồng, Tiểu đoàn 186 cùng với địa phương mở thêm các ấp ven Blao và trên đường 20. Ở Tuyên Đức, ta chuyển thế tiến công phá ấp, phá kìm trên đường 11. Trên tuyến ven biển, lực lượng huyện và du kích đánh  và làm tan rã nhiều đơn vị bảo an dân vệ, phá banh nhiều ấp chiến lược.

        Cùng với toàn Miền, nhất là những chiến công vang dội của miền Đông Nam Bộ, hoạt động của lực lượng vũ trang Khu 6 đã làm rung chuyển hệ thống phòng thủ của địch ở đông bắc Sài Gòn.

        Với bản chất hung hăng của kẻ xâm lược, ngày 9 tháng 12 năm 1965, hai tiểu đoàn của lữ đoàn dù 173 cùng với sư đoàn 10 ngụy mở đợt càn quét ác liệt vào vùng giải phóng Hoài Đức – Tánh Linh, gây nhiều tội ác với đồng bào ta. Đầu năm 1966, Mỹ, ngụy bắt đầu thực hiện cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất. Tháng 3, địch tiến hành đồng thời hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” hòng bảo vệ phía đông và đông bắc Sài Gòn. Ở Khu 6, chúng tập trung vào tỉnh Phước Long. Tháng 5, địch tập trung mở cuộc hành quân đánh phá dọc theo tuyến biên giới thuộc tỉnh Phước Long.

        Qua các đợt hành quân, địch sử dụng nhiều máy bay, xe tăng, pháo binh đánh phá quyết liệt, với mật độ hoả lực dày đặc, dùng trực thăng cơ động đổ quân lùng sục sâu vào vùng ta.

        Lúc đầu, binh khí kỹ thuật và hoả lực ồ ạt của Mỹ cũng gây cho ta không ít khó khăn lúng túng. Nhưng ta vừa chiến đấu vừa rút kinh nghiệm, phát hiện được những chỗ yếu cơ bản của đich, xây dựng làng chiến đấu, phát động phong trào du kích, nên qua các đợt càn quét ác liệt đó, ta vẫn chiến đấu bảo vệ mình và tiêu diệt được địch.

        Ở Lâm Đồng, mặc cho những trận càn quét của địch, Tiểu đoàn 186 của Khu đã cùng với bộ đôi địa phương trụ vững trên địa bàn xung quanh thị trấn Blo, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của địa phương, giữ được thế chiến lược và làm chủ được nhiều ấp trên đường 20.

        Tháng 6 năm 1966, tôi trực tiếp chỉ đạo Tiểu đoàn 186 do đồng chí Thông làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyện làm Chính trị viên tiểu đoàn đã đánh tiêu diệt gọn đồn cấp đại đội của tiểu đoàn “cọp đen” ở buôn Đinh Trang Hoạch.

        Thừa thắng, đêm ngày 12 tháng 6, ta sử dụng lực lượng gồm một đại đội bộ binh (thiếu) và một trung đội đặc công tiêu diệt gọn đồn cấp trung đội bảo vệ cầu Đai Nga trên đường 20. Trận này, dự đoán bọn địch sẽ cho quân từ tiểu khu Blao đến ứng cứu, ta bố trí một tiểu đoàn (thiếu) phục kích. Để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, ta đã chọn một vị trí phục kích rất hiểm khiến địch không thể ngờ tới, đó là một khu đất lưa thưa vài nếp nhà xen với vườn và rừng cây thấp, phía trước là đường 20, phía sau là dòng sông khá sâu và rộng. Đúng như dự kiến của ta, đêm hôm trước ta tiêu diệt đồn Quỳnh Hoà thì sáng hôm sau địch cho máy bay lượn vòng quan sát các trận địa, không phát hiện được gì, chúng liền triển khai quân ứng cứu. Khoảng 8 giờ 30 phút, toàn bộ đội hình của tiểu đoàn 1 trung đoàn 44 ngụy lọt vào giữa trận địa phục kích. Ta nổ súng chặn đầu, khoá đuôi. Đội hình địch rối loạn chống cự yếu ớt. Bộ phận chủ yếu của ta chia cắt đội hình của địch ra tiêu diệt. Chưa đầy một giờ đồng hồ, ta đã đánh thiệt hai nặng tiểu đoàn chủ lực ngụy, bắt sống hai mươi tên, thu toàn bộ vũ khí. Ta hy sinh năm đồng chí và bị thương nhẹ mười ba đồng chí. Khi quân ta rút qua sông máy bay địch ném bom bắn trúng một thuyền của ta làm một đồng chí quản lý tiểu đoàn và một chiến sỹ hy sinh.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:37:28 am

        Đây là một trận đánh khá - một tiểu đoàn ta vừa đánh điểm vừa diệt tiểu đoàn tiếp viện của địch, giành thắng lợi giòn giã. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba. Sau trận này, ta còn làm tan rã hệ thống kìm kẹp của địch từ Phú Hiệp đến đèo Blao, uy hiếp đường 20.

        Tiểu đoàn 840 tập trung hoạt động sâu vào vùng Nhân Cơ, Đạo Nghĩa và phát triển vào Khiêm Đức, chủ yếu hoạt động phân tán, đánh nhỏ lẻ mở phong trào. Tiểu đoàn đã góp phần làm tan rã hệ thống ấp chiến lược và dinh điền từ Kiến Đức đến Gia Nghĩa, cắt đứt đường 14.

        Ở các địa phương, phong trào du kích chiến tranh được đẩy lên một bước mới mà nòng cốt là lực lượng vũ trang tập trung của các tỉnh. Ở Bình Thuận, Tiểu đoàn 482 tập trung đánh tiêu diệt trên đường 8 Tam Giác – Hàm Thuận, diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí, có tác dụng làm tan rã hệ thống ấp chiến lược ở vùng sâu sát thị xã Phan Thiết. Ở Ninh Thuận, mặc dù địch đánh phá ác liệt có tính huỷ diệt vào Bác Ái, ta vẫn kiên cường diệt đồn bảo an, phá và làm chủ ấp chiến lược ở phía nam của tỉnh. Ở Tuyên Đức, ta vừa xây dựng căn cứ đứng chân mới của tỉnh vừa đẩy mạnh diệt ác phá kìm, tổ chức cho biệt động của Tiểu đoàn 810 tập kích sân bay Cam Ly.

        Hoạt động tác chiến của các đơn vị chủ lực Khu, tỉnh và du kích đã hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và binh vận của quần chúng. Nội dung tập trung vào chống phá bình định, chống gom dân, chống bắt lính, chống bắn pháo bừa bãi, phản đối rải chất độc hoá học. Phong trào đã diễn ra ở hầu hết các thị xã và thị trấn lớn trong Khu như: Đà Lạt, Blao, Phan Thiết, Phan Rang. Cuộc đấu tranh đã gây cho địch nhiều khó khăn thể hiện được tinh thần cách mạng của quần chúng và vai trò của đấu tranh chính trị trên địa bàn Khu 6.

        Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Khu uỷ, quân và dân Khu 6 đã giữ được thế chủ động trên chiến trường, cùng toàn Miền đánh bại kế hoạch phản công mùa khô lần thứ nhất của đế quốc Mỹ. Trên địa bàn Khu 6, ta đã ngăn chặn địch lấn chiếm, mở thêm vùng giải phóng và vùng tranh chấp, mở tuyến biên giới và đường 14 đông bắc Phước Long, từ đó mở rộng căn cứ hành lang và vận chuyển tiếp tế. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa lớn đối với Khu và toàn Miền.

        Trong suốt mùa khô năm 1965-1966, trên toàn miền Nam, đế quốc Mỹ đã bị đánh đau và chịu thất bại trong cuộc phản công chiến lược làn thứ nhất, không đạt được mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” đã đề ra, nhất là mục tiêu “đánh gãy xương sống Việt cộng”.

        Nhưng những thế lực cầm quyền hiếu chiến Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục leo thang, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, ném bom bắn phá Hà Nội, Hải Phòng, cho máy bay chiến lược B52 ném bom phía bắc khu phi quân sự; tăng quân, tăng binh khí kỹ thuật, ráo riết chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai 1966-1967 ở miền Nam với chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” hòng khuất phục ý chí chiến đấu của dân tộc ta.

        Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nước. Người khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta: “Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

        Lời kêu gọi của Bác Hồ như lời hịch động viên cả nước hăng hái xông lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, và cũng cho ta thấy sự nhận định thật tài tình của Người và quyết tâm sắt đá của Đảng ta trước một trong những thử thách gay go nhất của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đứng trước cuộc đụng đầu lịch sử với tên đế quốc đầu sỏ có sức mạnh quân sự và dã tâm xâm lược. Đảng ta đã nắm vững quy luật và xu thế tất yếu của chiến tranh cách mạng và phản cách mạng, lãnh đạo quân và dân ta hạn chế chỗ mạnh tạm thời và khoét sâu chỗ yếu chí mạng của địch, phát huy sức mạnh tổng hợp và thế tiến công của ta trên các hướng chiến trường để giành thắng lợi quyết định.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:38:17 am

        Trên địa bàn Khu 6, từ ngày 28 tháng 6 năm 1966, quân Mỹ đã ồ ạt kéo vào. Ở Bình Thuận, quân Mỹ đóng chốt ở Bà Gò, Lầu Ông Hoàng, Mường Mán, Tân Nông - Giếng Chùa, đặc biệt chúng đóng cả ở Camp Êsépíc là nơi mà bảy năm sau tôi có dịp tới để đấu tranh trực diện với chúng. Ở Ninh Thuận, tháng 3 năm 1967, một bộ phận của lữ đoàn dù 101 Mỹ và trung đoàn 30 thuộc sư đoàn Bạch Mã triển khai ở sân bay Thành Sơn và cảng Ninh Chữ, trong đó có hai mươi bảy máy bay phản lực, ba L19 và nhiều trực thăng. Ở Tuyên Đức, một đại đội công binh Mỹ và một đại đội công binh Úc chiếm giữ và mở rộng sân bay Cam Ly. Sau đó, các đơn vị của lữ đoàn dù 173, bộ phận của sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới cũng từ miền Đông Nam Bộ ra đánh phá Bình Thuận, Bình Tuy, Lâm Đồng. Quân chủ lực ngụy cũng tăng lên, tổng cộng có hai sở chỉ huy trung đoàn, mười tiểu đoàn, hai mươi mốt đại đội lẻ, cùng nhiều phương tiện và hoả lực khác. Tổng quân số cả Mỹ và ngụy chiếm đóng trên chiến trường là hơn ba mươi ba nghìn tên, hơn ta gấp nhiều lần.

        Sau khi tăng quân và các phương tiện chiến tranh vào Khu 6 nói riêng, miền Nam nói chung, Mỹ, ngụy tập trung cao độ lực lượng và các phương tiện chiến tranh vào việc càn quét đánh phá các vùng nông thôn và các căn cứ của ta. Máy bay B52 ném bom rải thảm bất kể ngày đêm các vùng căn cứ của ta. Phi pháo từ tàu biển thường xuyên bắn vào các căn cứ, vùng giải phóng. Máy bay trực thăng quần đảo đổ chụp hết nơi này đến nơi khác. Trong khi đó lực lượng biệt kích cũng tăng cường hoạt động nhằm tiêu hao và phát hiện lực lượng của ta và dồn dân vào ấp chiến lược. Trong toàn miền Nam, địch tổ chức 5.434 ấp chiến lược lớn nhỏ.

        Trong khi các lực lượng trong Quân khu tiếp tục chủ động tiến công địch trong mùa mưa và chuẩn bị mọi mặt cho tác chiến mùa khô 1966-1967 thì Trung ương Cục và Quân uỷ Miền quyết định điều chỉnh chiến trường Khu 6. Theo quyết định, hai tỉnh Phước Long và Quảng Đức của Khu 6 sẽ nhập với tỉnh Bình Long của Khu 7 và hình thành Khu 10. Khu 6 còn lại bốn tỉnh là Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận và Bình Thuận có nhiệm vụ xây dựng phong trào đồng bằng và Nam Tây Nguyên, giữ hành lang thông suốt từ Quân khu 6 về Miền. Đợt này, tôi được trên điều động về Khu 10.

        Cuối tháng 10 năm 1966, Khu 10 chính thức thành lập, do anh Tư Khiêm làm Bí thư Khu uỷ, anh Nam Thắng là Thường vụ Khu uỷ. Tôi được cử làm Phó Tư lệnh (không có Tư lệnh, anh Tư Việt Hồng là Chính uỷ, anh Hai Soái làm Tham mưu trưởng, anh Hảo là Chủ nhiệm chính trị, anh Tộ là Chủ nhiệm hậu cần).

        Nhiệm vụ chủ yếu của Khu 10 là chỉ đạo, củng cố, xây dựng chắc căn cứ miền núi, xây dựng hành lang Bắc – Nam, phục vụ bộ đội chủ lực tác chiến trên địa bàn của Khu.

        Khu 10 được thành lập trong điều kiện cực kỳ khó khăn.

        Về địch, lúc này trên toàn Miền, địch mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai 1966-1967 với tham vọng lớn là giành lấy những thắng lợi “tìm diệt” và “bình định” quan trọng để tạo bước ngoặt có lợi, tiến tới giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn. Trên địa bàn Khu 10, quân ngụy dưới sự yểm trợ của quân cơ động Mỹ đẩy mạnh càn quét, bắn phá vào vùng hành lang của ta với mật độ hoả lực pháo binh và không quân dày đặc.

        Về ta, Khu 10 gồm ba tỉnh thuộc vùng rừng núi nên cơ sở chính trị còn rất yếu. Mỗi tỉnh lúc đó chỉ còn cỡ tám chục cụm dân cư bất hợp pháp với địch sống rải rác trong rừng và dọc hành lang Bắc – Nam. Các đoàn qua hành lang có lúc không có gạo, phải ăn sắn hoặc ngô rồi đi tiếp. Lực lượng của ta, ngoài lực lượng địa phương có sẵn, được Khu 6 điều chuyển thuộc cho một khung tiểu đoàn, một đại đội độc lập, trợ chiến, đặc công, trinh sát, thông tin và ba cơ quan để tiếp tục củng cố xây dựng.

        Tuy nhiên, do địa bàn của Khu 10 chủ yếu từ Khu 6 tách ra nên chúng tôi nắm rất rõ. Mặt khác, chúng tôi đã có kinh nghiệm xây dựng cơ sở, tổ chức lực lượng và phát động phong trào quần chúng khi thành lập Khu 6 nên cũng có những thuận lợi cơ bản.

        Công việc trước tiên của chúng tôi là dồn sức xây dựng cơ sở cách mạng để bám, nắm dân, bám đất; đẩy mạnh tăng gia sản xuất để lấy cái ăn nuôi bộ đội, nuôi dân và các đoàn khách đi trên đường Bắc – Nam. Ngoài nhiệm vụ trên, chủ lực và bộ đội địa phương còn tích cực chủ động đánh địch để tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh chính trị của dân đòi ra rừng, ra rẫy làm ăn của đồng bào ta ở các ấp chiến lược.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:39:11 am

        Tháng 3 năm 1967, Hội nghị du kích chiến tranh của Khu 10 được triệu tập nhằm rút kinh nghiệm, tìm ra cách đánh với từng vùng, tổng kết kinh nghiệm chống càn quét và đánh biệt kích Mỹ-ngụy trước tình hình mới. Sau đó, ta tập trung lực lượng quân sự, lực lượng chính trị tiến công đồng loạt bất ngờ vào nơi sơ hở nhất của địch, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, làm thay đổi tương quan lực lượng trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

        Chính nhờ vậy, Khu 10 đã đứng vững hoàn thành được nhiệm vụ trên giao trong thời gian cuối năm 1966 và hết mùa mưa năm 1967, nhất là nhiệm vụ xây dựng căn cứ miền núi và xây dựng hành lang.

        Cuối năm 1967, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ đã phát triển đến đỉnh cao về số lượng quân Mỹ xấp xỉ năm mươi vạn tên, nếu tỉnh cả quân ngụy và chư hầu thì tổng số quân địch đã lên đến trên một triệu tên. Ở miền Nam, tuy số lượng quân được Mỹ đổ vào đông như vậy nhưng không mạnh, chúng đã bị ta tiến công khắp các chiến trường, buộc phải rải quân ra đối phó. Trong khi đó ở miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đã bị quân và dân ta giáng cho những đòn đích đáng.

        Trước tình hình ấy, Đảng ta chủ trương động viên cả nước tập trung giáng cho địch một đòn thật nặng, giành thắng lợi to lớn, tạo sự chuyển biến nhảy vọt, buộc đế quốc Mỹ phải chịu thua về mọi mặt quân sự. Từ đó, Bộ Chính trị quyết định: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định...”.

        Giữa tháng 12 năm 1967, đồng chí Hoàng Văn Thái, bí danh Mười Khang – Tư lệnh Miền triệu tập tôi vào Sở chỉ huy Miền báo cáo tình hình Khu 10.

        Sau khi nghe báo cáo, đồng chí Hoàng Văn Thái biểu dương những thành tích, chỉ ra những khuyết điểm của lực lượng vũ trang Khu 10. Sau đó, đồng chí căn dặn:

        - Sắp tới có sự kiện quan trọng, phải tập trung các lực lượng của Khu thi hành mệnh lệnh của Miền, không phân tán lực lượng, mà tập trung đánh vào chỗ sơ hở, hiểm yếu của địch.

        Trên cơ sở tình hình chung của Khu 10, đồng chí còn phân tích rõ các thị xã, thành phố mạnh chỗ nào, yếu ở điểm nào. Đồng chí nói:

        - Nhiều chỗ địch chỉ mạnh ở vòng ngoài, còn vòng trong rất sơ hở vì chúng ít bị ta đánh. Bây giờ ta cùng cân nhắc xem ba thị xã của anh thế nào?

        - Báo cáo anh- Tôi giở bản đồ ra trình bày – Ba thị xã của tôi gồm thị xã Bình Long tỉnh Bình Long, thị xã Phước Long tỉnh Phước Long và thị xã Gia Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Đức. Hai tỉnh Bình Long và Quảng Đức thì địch có phần yếu hơn nhưng lại xa căn cứ của ta, nên việc tiếp tế của ta khó khăn. Tại Phước Long, địch có mạnh hơn so với hai thị xã kia nhưng lại gần căn cứ của ta, nên việc đảm bảo hậu cần của ta thuận lợi hơn. Rừng Phước Long lại kéo xuống giáp thị xã, rất thuận tiện cho việc chuyển quân và giấu quân tiến đánh Phước Long.

        - Đồng chí về bàn với Khu uỷ rồi báo cáo cụ thể về Miền ngay - Đồng chí Hoàng Văn Thái nói.

        Trước khi tôi rời Sở chỉ huy Miền, đồng chí Hoàng Văn Thái còn dặn thêm:

        - Cậu tự dịch lấy điện chứ không qua cơ yếu. Nhớ rằng “gạo là giờ, đạn là ngày, thương binh là tháng”. Phải hành động kịp thời để phối hợp với các đơn vị bạn.

        Nhận lệnh xong, tôi hiểu ý kiến cấp trên là ta sẽ đánh đồng loạt. Trên đường về Khu, tôi suy nghĩ về những lời căn dặn của anh Hoàng Văn Thái mà thấy vừa mừng vừa lo. Mừng vì ta sẽ đánh lớn. Lo vì đánh vào thị xã, lực lượng mình ít nhất định sẽ gặp khó khăn, do đó phải tìm cách khắc phục.

        Khi tôi về đến Khu 10, anh Tư Khiêm – Bí thư Khu uỷ đã chủ trì cuộc họp, triệu tập anh Nam Thắng và một số cán bộ chủ chốt khác nghe tôi báo cáo tinh thần chuẩn bị đánh lớn của đồng chí Mười Khang – Tư lệnh Miền và ý định của Bộ tư lệnh Quân khu về việc đánh Phước Long.

        Có đồng chí vừa nghe tôi nói xong liền nói ngay:

        - Làm sao mình đánh nổi Phước Long?

        Anh Tư Việt Hồng – Chính uỷ Khu cũng được Cục Chính trị Miền gọi vào giao nhiệm vụ liền đứng lên nói:

        - Hôm tôi về Miền nhận nhiệm vụ cũng thấy không chỉ riêng Khu mình, mà cả mấy người khu kia cũng nói đây là một đợt đánh lớn của toàn mặt trận... không riêng gì mặt trận mình. Chúng ta phải đánh để phối hợp, chia lửa với toàn mặt trận.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:42:21 am

        Nhiều người không nói ra nhưng tôi hiểu tâm tư của anh em là ta yếu, địch mạnh, đánh sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhất là một số đồng chí cán bộ nằm vùng quen tránh né địch như trước đây thường rất ngại bộc lộ lực lượng, rất ngại đương đầu với địch. Tôi nói:

        - Cấp trên đã chỉ thị cho các đơn vị cùng đánh, vậy chúng ta cần có quyết tâm cao để phối hợp với các đơn vị bạn. Vấn để là cách đánh ra sao và sử dụng lực lượng như thế nào cho phù hợp với sức của ta và tình hình hiện nay.

        Trước khi vào cuộc họp tôi đã nhận được bức điện do anh em cơ yếu chuyển đến chỉ có một dòng ngắn ngủi: “Tôi cấp cho anh hai tấn gạo, một tấn đạn và lấy của anh một thương binh về. Người ký điện: Mười Khang”.

        Tôi tự dịch nội dung bức điện theo quy ước với đồng chí Mười Khang là: “2 giờ sáng ngày mùng 1 tháng 1 ta”, đó là giờ nổ súng đồng loạt tiến công địch.

        Tôi nói với đồng chí Bí thư:

        - Theo tôi đây là ngày âm anh ạ!

        Đồng chí Bí thư nói:

        - Đây là ngày dương, chứ không phải ngày âm!

        Tôi bảo:

        - Nay đã gần cuối tháng 1 dương rồi, mà Tết vào ngày 19 tháng 1 năm 1968 dương lịch, nên trong điện nói ngày mùng 1 tháng 1 phải là ngày âm.

        Đồng chí Bí thư nói:

        - Tôi là Bí thư, tôi chịu trách nhiệm!

        - Tôi là Tư lệnh, tôi chịu trách nhiệm! – Tôi cũng khẳng định.

        Nhưng cuối cùng tôi cũng nói: “Để tôi điện hỏi lại”. Anh Nam Thắng và anh Tư Nguyện đồng ý. Tôi điện cho anh Mười Khang, sau anh trả lời đúng như ý kiến của tôi. Anh Mười Khàng còn nói nhiều nơi hiểu lầm như thế nên anh cho điện lại các đầu mối để kiểm tra lại một lần nữa. Sau này đồng chí thư ký của đồng chí Hoàng Văn Thái có kể lại rất rõ câu chuyện này trong cuốn sách nói về anh Hoàng Văn Thái.

        Lực lượng của Khu 10 lúc đó gồm: một tiểu đoàn bộ binh, một đại đội bộ binh độc lập, một đại đội đặc công của Khu, một đại đội hoả lực ĐKZ 57 ly và cối 82 ly, một trung đội trinh sát, một trung đội công binh, một trung đội thông tin hữu tuyến và chạy bộ. Lực lượng này đánh thẳng vào các cơ quan tỉnh và lực lượng trực tiếp bảo vệ cho cơ quan tỉnh của địch do đồng chí Phạm và đồng chí Ngọ chỉ huy. Tiểu đoàn bộ binh Khu đánh đồn bảo an do ban chỉ huy tiểu đoàn chỉ huy. Đồng chí Võ Hoà chỉ huy trưởng tỉnh Phước Long cùng đi.

        Sở chỉ huy của Khu có tôi là chỉ huy trưởng, anh Hai Soái – Tham mưu trưởng là chỉ huy phó. Chỉ đạo mũi nổi dậy có anh Tư Nguyện - Thường vụ Khu uỷ và anh Hảo - Chủ nhiệm chính trị Khu, anh Vĩnh – Phó chủ nhiệm hậu cần và một số cán bộ Đảng đi trong mũi nổi dậy và binh vận.

        Theo kế hoạch tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, ở Khu 10 có ba đợt tiến công.

        Đợt một từ 31 tháng 1 đến ngày 13 tháng 2 năm 1968, ta đánh tiểu khu Phước Long. Mục đích là gây thiệt hại cho địch và phối hợp với các chiến trường bạn.

        Vào đợt, đúng giờ đã định, ta nổ súng tiến công. Nhờ giữ được bí mật, bên trong địch lại sơ hở nên mũi thọc sâu đánh thẳng vào đến cơ quan tỉnh, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Địch chống đỡ yếu ớt. Anh em vừa đánh vừa củng cố vị trí đã chiếm sẵn sàng đánh phản kích. Tại khu vực đồn bảo an, ta đã chiếm được một phần, địch chống trả quyết liệt, anh em ta vừa bám trụ vừa chuẩn bị công sự hầm hố để sáng ra đánh phản kích. Sau vài giờ chiến đấu, ta gần như làm chủ trận địa.

        Lúc 8 giờ sáng ngày mùng 1 Tết, địch phản kích mạnh ra khu vực cửa mở. Đầu tiên chúng đưa hai xe tăng, một đại đội bộ binh ra phản kích, nhưng bị ta diệt một số, còn một số bỏ chạy. Anh em đặc công nhảy lên hai xe tăng của địch dùng đại liên trên tháp pháo của xe tăng bắn mạnh vào đội hình phía sau của địch. Các lực lượng của ta trụ bám tại chỗ đẩy lùi các đợt phản công của chúng suốt ngày mùng 1 Tết. Đêm đến, chúng tôi ăn cơm nắm mang theo và bánh trái do đồng bào tiếp tế. Đồng thời ngay tối đó, đồng bào cùng dân công giúp đưa thương binh, liệt sỹ ra khỏi thị xã.

        Từ sáng mùng 2 Tết, địch phản kích liên tục hơn, mạnh hơn. Bom địch dội thẳng vào những vị trí chiếm giữ của ta. Ta bố trí cho dân sơ tán ra khỏi vùng oanh tạc của bom pháo địch, đồng thời kiên cường đánh bại các đợt phản kích của địch. Đến chiều tối, cơ số đạn còn ít, quân số thương vong nhiều, khó có thể giữ được lâu hơn nữa, ta cho phá huỷ xe tăng và những phương tiện của địch để chuẩn bị cho phương án tiếp theo.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:43:57 am

        Đêm mùng 2, ta rút ra khỏi Phước Long. Mỗi đơn vị đều thiệt đến một phần tư quân số, đặc công bị thương và hy sinh gần một nửa quân số vì đánh vào sâu, bám trụ lâu trong thành phố.

        Vào thời điểm đó lực lượng của quân Mỹ và ngụy còn khá đông, bom đạn còn rất nhiều, chúng phản kích rất quyết liệt. Sẵn phương tiện cơ động bằng máy bay, chúng chuyên chở vũ khí và bộ binh đổ quân vòng ngoài ngăn chặn đường rút quân của ta, gây cho ta không ít khó khăn sau khi rút ra khỏi thành phố. Theo kế hoạch, ta vẫn bám trụ ở các vùng ven nông thôn để tiếp tục chiến đấu và phát động quần chúng trừ gian diệt ác.

        Trong đợt một tổng công kích – tổng khởi nghĩa, ta đã đưa lực lượng và sâu nội thành, đánh bất ngờ gây thiệt hại cho các cơ quan đầu não của địch khiến chúng hoang mang, hoảng loạn. Việc địch dùng bom pháo để chống lại ta ngay trong thành phố, thị xã đã tạo nên một không khí chiến tranh ngay giữa sào huyệt địch. Các lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận của Khu 10 đã nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của trên, đã thể hiện quyết tâm cao, kiên quyết tiến công địch, góp phần cùng toàn Miền giáng cho Mỹ một đòn bất ngờ, gây cho chúng những tổn thất.

        Kết thúc đợt một của chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968, Khu 10 được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba. Tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Tháng 8 năm 1968, Trung ương Cục có quyết định bổ sung tôi làm Khu uỷ viên dự khuyết của Khu uỷ Khu 10.

        Sau thắng lợi oanh liệt của Tết Mậu Thân, ta đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chúng buộc phải từ bỏ chủ trương “tìm diệt và bình định”, thay bằng “quét và giữ” thực hiện “quét đến đâu giữ đến đó”, kết hợp “quét sạch đối phương” với  “giữ đất giành dân”. Đây thực sự là giai đoạn ác liệt, tàn khốc nhất ở chiến trường miền Nam. Vì thế, sau này ta tiếp tục đánh hai đợt nữa vào thị xã Phước Long. Đợt hai vào ngày 5 tháng 5 và đợt ba vào ngày 17 tháng 8 năm 1968, chủ yếu bằng pháo kích, còn bộ binh hoạt động ở vùng ven.

        Có thể nói cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân là một bất ngờ lớn đối với địch, đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường. Sau các đòn quân sự liên tiếp trên khắp chiến trường miền Nam, ta đã buộc địch phải xuống thang từng bước trên mặt trận chính trị, ngoại giao, khiến chúng phải ngồi vào bàn đàm phán tai Hội nghị Pa-ri.

        Sau đợt hai tiến công Mậu Thân, ngày 5 tháng 5 năm 1968, một lần làm việc với anh Bảy Kính - Tỉnh uỷ viên tỉnh Phước Long, Bí thư huyện uỷ Phước Bình, tôi thấy có một cháu gái chứng mười ba mười bốn tuổi, người gầy gò đang học đánh máy chữ ở cơ quan. Tôi hỏi:

        - Con nhà ai vậy?

        Anh Bảy cho biết:

        - Cháu tên là Nguyễn Lệ Quyên, con một đồng chí cán bộ địa phương bị địch bắn chết trên đường đi công tác. Quê cháu ở Quảng Ngãi, một vùng quê cách mạng. Mẹ con cháu bị địch dồn vào ấp chiến lược. Sau ta giải phóng ấp chiến lược này, tôi cho cháu vào cơ quan học đánh máy. Trong lúc cháu ở cơ quan thì xóm của cháu bị vệt bom B52 dài mười cây số, rộng ba cây số làm cả xóm chết gần trăm người, trong đó có mẹ và em cháu.

        Tôi thấy hoàn cảnh của cháu thật đáng thương rồi nhận cháu làm con nuôi. Cháu Quyên gắn bó với gia đình tôi từ đó.

        Tết năm 1969 đến. Thế là đã mười lăm năm không gặp lại gia đình. Hình ảnh người vợ tần tảo cùng hai đứa con nhỏ luôn theo tôi trên mọi nẻo đường chiến trường, giúp tôi hiểu thấu và thông cảm với nỗi khổ của đồng bào đồng chí, càng thôi thúc tôi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao, cùng nhân dân chiến đấu để chiến thắng, để mong đến ngày sum họp.

        Tết năm 1969 cũng như bao Tết trước chiến trường, chúng tôi cùng lo cho anh em ăn cái Tết đơn sơ mà đầm ấm. Đặc biệt, Tết này chúng tôi cùng nhau lắng nghe qua đài bán dẫn “Lời chúc tiết của Bác Hồ”. Người chúc đồng bào và chiến sỹ cả nước năm mới “đoàn kết, chiến đấu, thắng lợi” và kêu gọi:

“... Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên chiến sỹ đồng bào
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn”.

        Lời chúc tết của Bác Hồ như thôi thúc chúng tôi cùng đồng bào đồng chí Khu 10 cùng đồng bào đồng chí miền Nam, cùng cả nước vượt qua mọi khó khăn gian khổ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình, thống nhất nước nhà.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:46:34 am

        Trong khi đang cùng quân và dân Khu 10 ra sức chiến đấu chống địch càn quét đánh phá sâu vào căn cứ hành lang của ta, tôi nhận được lệnh điều động trở lại Khu 6.

        Tháng 7 năm 1969, anh Nguyễn Minh Châu – Tư lệnh Quân khu 6 về làm Tham mưu trưởng Miền. Tôi về làm Tư lệnh Quân khu 6 thay anh Nguyễn Minh Châu.

        Khu 6 lúc này bao gồm Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận và Bình Thuận (bao gồm cả tỉnh Bình Tuy của địch). Kể từ khi tách hai tỉnh Phước Long và Quảng Đức để thành lập Khu 10, thì Khu 6 gần đồng bằng hơn, nhưng lại xa trên, xa đường hành lang chiến lược nên phải tự túc nhiều.

        Lực lượng chủ lực của Khu 6 vẫn bao gồm các Tiểu đoàn 840, 186 và Tiểu đoàn 145 (trợ chiến), Tiểu đoàn 200c (đặc công). Ngoài ra còn có các đơn vị bộ đội địa phương của tỉnh, huyện.

        Cũng từ sau khi sắp xếp lại chiến trường, Quân khu 6 quyết định tổ chức Đoàn vận tải H50 để tiếp nhận sự chi viện, giữ hành lang chiến lược từ biên giới qua tỉnh Phước Long, chuyển hàng và đưa người về Khu, trả đi các tỉnh và ngược lại.

        Tôi muốn nói kỹ hơn về đoàn vận tải đặc biệt này.

        Tuyến đường mà Đoàn vận tải H50 đảm nhiệm là một tuyến đường xuyên qua rừng núi có độ dài trên ba trăm cây số, phải vượt qua nhiều suối sâu, đèo dốc cao; đặc biệt phải vượt qua hai con đường chiến lược là đường 14 và đường 20 thường xuyên bị địch ngăn chặn, phục kích. Do vậy đối với anh chị em Đoàn vận tải H50, mỗi chuyến hàng là một trận chiến đấu, luôn luôn đụng đầu với địch; phải đánh địch mà đi, mở đường mà tiến. Cho nên, mỗi khẩu súng, viên đạn đến với chiến trường Khu 6 không chỉ thấm mồ hôi mà còn thấm cả máu của các chiến sỹ Đoàn vận tải H50.

        Lực lượng tham gia đoàn H50 chủ yếu là chị em phụ nữ các tỉnh cả người Kinh và một số chị em người dân tộc trong địa bàn Quân khu, số đông thuộc tỉnh Bình Thuận, chỉ có một số ít cán bộ nam làm nòng cốt. Có đại đội hoàn toàn là nữ. Lúc cao điểm quân số của đoàn lên đến tám trăm người.

        Lúc đầu mới thành lập, do điều kiện còn khó khăn, phương tiện vận chuyển chủ yếu dựa vào đôi vai và chiếc gùi. Mỗi người mang từ hai ba chục cân hàng chủ yếu là súng đạn. Sau này do yêu cầu của chiến trường có nhiều chị em đã mang được đến năm sáu chục cân như các chị: Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Hương, Phạm Thị Thu, Phạm Thị Hương...

        Tôi còn nhớ trong Đại hội chiến sỹ thi đua năm 1972 – 1973, Quân khu đã tuyên dương hành động anh hùng của chị Nguyễn Thị Xuân – Trung đội phó Trung đội vận tải của Đoàn H50. Một lần trung đội của chị Xuân đang vận chuyển vũ khí qua một trảng trống. Khi đội hình vừa bám vào bìa rừng thì bị máy bay địch bất ngờ lao đến bắn xối xả vào mấy người còn đang ở ngoài trảng trống, trong đó có chị Xuân. Không chần chừ, chị Xuân đã tách ra khỏi đội hình chạy lùi về phía sau để thu hút hoả lực địch về phía mình, bảo đảm cho người và vũ khí của đoàn vận tải được an toàn. Chị đã nhận lấy sự hy sinh về mình một cách anh dũng.

        Đến những năm sau này, trên một số cung đoạn của Đoàn H50 đã xuất hiện những chiếc xe đạp thồ, có đoạn có cả ôtô hoặc ca nô. Do được trang bị xe đạp thồ, thành tích vận tải của anh chị em đã được nâng lên một cách rõ rệt. Từ chỗ chỉ mang được năm sáu chục cân trên vai, giờ đây có xe thồ, anh chị em đã chuyển được trên một trăm cân, thậm chí có chị như chị Phạm Thị Thu đã thồ được tới một trăm chín lăm cân hàng trong khi chị chưa hề biết đi xe đạp.

        Chỉ tính riêng năm 1967 đầu năm 1968, Đoàn vận tải H50 đã vận chuyển về đến Quân khu 6 một khối lượng lớn súng đạn gồm ba nghìn khẩu súng bộ binh và các loại súng, đạn B40, B41, cối 82, ĐKZ 57 và pháo 57 ly... Do đó không chỉ số lượng mà cả chất lượng trang bị của các lực lượng trên địa bàn Quân khu đã được nâng lên một cách rõ rệt. Ta có thể đánh liên tục dài ngày với địch mà không lo thiếu vũ khí súng đạn như trước. Ngoài ra, đoàn còn đưa đón các đoàn cán bộ qua lại, kịp thời đưa số anh em thương, bệnh binh lên bệnh viện tuyến trên điều trị hoặc lên tuyến hành lang ra Bắc.

        Trong khi làm nhiệm vụ vận tải, Đoàn H50 còn tranh thủ thời gian tăng gia sản xuất, tự túc một phần lương thực, thực phẩm cho mình và cứu giúp, bảo vệ đồng bào các buôn dọc đường hành lang. Với đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Khu, đoàn vận tải H50 đã vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Có thể nói việc tổ chức, duy trì và phát triển Đoàn vận tải H50 ở Khu 6 nói riêng và Đường dây 559 trải dọc đường mòn Hồ Chí Minh nói chung là một trong những sáng tạo của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:47:57 am

        Xin được trở lại kể tiếp về tình hình Khu 6. Vì địa bàn Khu khá rộng nên anh Châu dành hẳn mười ngày dẫn tôi đi khắp Bình Thuận. Chúng tôi đi qua những cánh rừng trơ trọi những thân cây, cành cây đã tróc vỏ đen sì vì chất độc hoá học của Mỹ như những cánh tay gầy guộc khẳng khiu giơ lên trời xanh vô vọng tiếng vo ve suốt ngày của L19. Tôi nắm tổ trinh sát đi vượt lên trước. Thấy vậy, anh Châu bảo:

        - Mày phải đi sau, tao đi trước cùng trinh sát, vì quy luật hoạt động của địch ở đây tao biết, mày mới về chưa biết, nó đánh chết.

        - Tôi ở cùng anh Nguyễn Minh Châu từ hồi năm 1945, khi mới thành lập “Chi đội anh Vĩnh”, nhiều khi anh vẫn coi tôi như hồi còn nhỏ nên hay gọi “mày, tao” cho thân mật.

        Trên đường đi, chúng tôi ghé vào cơ quan tỉnh, các đồng chí sắp cơm riêng cho hai anh em ăn. Thức ăn ngoài rau ra còn một khoanh cá kho to bằng một cái đĩa trông rất ngon, nhưng tôi thấy anh Châu không đụng đũa. Tôi định thò đũa xắn thì anh liền xua tay bảo bỏ xuống. Tôi không hiểu ra sao. Đến khi ngồi uống nước, anh Châu mới nói:

        - Ở đây địch hay bỏ thuốc độc vào thức ăn. Có cháu bé quen nói: “Chú Năm, Chú Năm (Chú Năm Ngà – bí danh của anh Châu), cháu nói dì cháu kho riêng cho chú Năm nồi cá cho chú ăn”. Thà nó không nói kho cá cho mình thì mình không ngại, chứ nói ra lỡ kẻ xấu nghe được thì không biết thế nào.

        Sau này tôi được biết từ trước đến nay, tại các vùng giáp ranh, địch hay bắt dân để kiểm tra giấy tờ, hàng hoá. Nếu thấy nghi số hàng hoá, thực phẩm nào dễ tiếp tế cho ta là chúng bí mật tìm cách cho thuốc độc vào, không chỉ để tiêu diệt ta, mà còn gây nghi ngờ giữa bộ đội và nhân dân. Các loại thực phẩm khô như đường, bột canh, chúng thường dùng thuốc độc dạng bột trộn vào. Còn các loại thực phẩm thuộc dạng như rượu và các loại thực phẩm tươi sống khác thì chúng dùng thuốc độc dạng nước tiêm vào.

        Ở đây đã có chuyện bị địch đầu độc như vậy. Một lần hai đồng chí từ đồng bằng về tỉnh họp và mang theo con cá khô để ăn đường. Đến trạm giao liên, thương các cháu bé không có thức ăn, hai anh ăn khúc đuôi, còn lại nhường các cháu. Không ngờ trong mang cá có độc, các cháu bị ngộ độc chết.

        Chính vì vậy mà mỗi khi mua yến đường, anh em lấy tấm ni lông trải ra đổ đường ra khắp tấm ni lông, sau đó lấy thìa xúc mỗi chỗ một ít pha nước cho mèo uống. Theo dõi sau mười ngày mèo không chết thì chỗ đường ấy có thể phân phát cho bộ đội dùng được. Còn nếu mèo chết hoặc bỏ ăn thì đành đổ cả đống đường đó đi.

        Thế mới thấy, sự thâm độc của kẻ địch thì không thể tính được. Cảnh giác và cẩn thận là phương châm hàng đầu để đối phó với sự quỷ quyệt của chúng. Ngoài việc đối phó với âm mưu quỷ kế và sự đánh phá ác liệt của địch, cũng phải kể đến cái thiếu ăn và thiếu nước. Thiếu ăn vốn là bệnh kinh niên do sự cách trở về tiếp tế và sự ngăn trở của địch. Quân khu đã tổ chức cho anh em tự túc tìm nguồn tiếp tế để đảm bảo  sức chiến đấu, ngoài ra còn động viên đồng bào tăng gia, thậm chí đốt được ban đêm mà làm, nhưng cũng chỉ đủ sắn mà ăn cho đỡ đói lòng. Còn nước thì thật là cơ cực. Ở căn cứ Lê Hồng Phong thiếu nước đến mức mà quà mừng đám cưới là mấy bi đông nước lại được gọi là sang trọng. Còn tắm thì ở đây anh em có lối “tắm lửa”, tức là đốt củi rồi hơ người cho nóng vã mồ hôi, sau lấy tay kỳ cọ cho sạch. Thế mà quân và dân Khu 6 vẫn lạc quan chiến đấu và chiến thắng.

        Tôi về đến Khu 6 là tham gia đợt hoạt động Hè ngay. Ta đang đánh tốt thì chúng tôi nhận điện từ Hà Nội điện vào Khu uỷ: “Bác Hồ mất rồi”. Cái tin quá đột ngột đã làm mọi người đau xót đến bàng hoàng. Một sự xúc động lớn và đột ngột đã đến với toàn đảng bộ, toàn quân và dân trong Quân khu. Ở vùng giải phóng, nhân dân và bộ đội, cán bộ túm tụm quanh máy thu thành nghe như nuốt vào lòng từng lời di chúc thiêng liêng của Bác và thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về sự kiện lớn lao này. Nhiều người đã oà khóc nức nở khi nghe từng lời căn dặn của Người. Nhiều cán bộ cả Kinh, cả Thượng không ăn không ngủ mấy ngày để theo dõi lễ tang Bác được truyền đi qua làn sóng Đài phát thành Tiếng nói Việt Nam phát đi từ Hà Nội. Không chỉ ở vùng tự do, mà cả ở vùng tạm chiếm, các tầng lớp nhân dân cả nông thôn và đô thị đều tỏ rõ lòng tiếc thương và kính yêu Bác vô hạn. Bất chấp cả sự hăm doạ, ngăn cấm của địch, đồng bào ta công khai luận bàn về công đức của Người, nghe đài miền Bắc, tổ chức truy điệu, làm lễ cầu siêu cho Bác và dặn dò nhau tiếp tục làm theo lời dạy của Người.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:49:35 am

        Khu uỷ tổ chức lễ truy điệu ở Quân khu. Còn Bộ tư lệnh chia nhau xuống các đơn vị, tỉnh đội dự lễ truy điệu. Tôi xuống Tiểu đoàn 840 – đơn vị hai lần anh hùng – lúc đó đang dừng chân ở Bình Thuận. Lễ truy điệu được tổ chức tai bìa rừng. Sau lễ truy điệu, Tiểu đoàn 840 hành quân đi chiến đấu luôn.

        Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ, biến đau thương thành hành động cách mạng, đảng bộ các đơn vị mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng: “Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chí Minh”; xây dựng quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng miền Nam; mở cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, tuyển chọn kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, kết hợp việc học tập Di chúc của Bác với việc tự phê bình và phê bình, chống tư tưởng ngại ác liệt, hy sinh; phát động thi đua bám đánh địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Trong nhân dân thì nổi lên phong trào học tập lời dạy: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, động viên nhau vượt mọi khó khăn, đoàn kết quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

        Ngày 5 tháng 9 năm 1969, ở hướng bắc Bình Thuận, các Tiểu đoàn 840, 240 đã đánh phục kích giao thông trên quốc lộ 1 (đoạn giữa huyện Hoà Đa và Tuy Phong), diệt tiểu đoàn 1 (thiếu) của trung đoàn 44, phá huỷ ba mươi lăm xe quân sự, trong đó có bảy xe bọc thép, bắn rơi ba máy bay. Tiểu đoàn 186 tập kích đánh thiệt hại nặng yếu khu Sông Luỹ. Hướng nam Bình Thuận, lực lượng của tỉnh tập kích gây thiệt hại nặng cho một chốt Mỹ đóng tại đông bắc Phan Thiết mười cây số.

        Có một điều đặc biệt là giai đoạn này ta vừa tổ chức đánh địch vừa tổ chức động viên nhân dân ở vùng giải phóng khẩn trương thu hoạch vụ mùa sớm và tích cực chăm sóc, bảo vệ lúa mùa chính vụ. Riêng Bình Thuận và Lâm Đồng, ta đã vận động bà con trồng được hai trăm nghìn gốc sắn và hàng nghìn mét vuông rau lang, rau màu ngắn ngày. Để tránh máy bay và phi pháo địch bắn phá, đồng bào dân tộc khu căn cứ Bác Ái đã đốt đuốc làm rẫy ban đêm. Lương thực, thực phẩm sản xuất ở vùng căn cứ tuy chỉ đảm bảo một phần nhu cầu kháng chiến của Khu song đã tạo nên một không khí tin tưởng, yên tâm chiến đấu lâu dài.

        Để đảm bảo thành quả của sản xuất, phong trào du kích bố phòng chống địch càn quét tiếp tục phát triển. Các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng đã xây dựng thêm nhiều tuyến bố phòng; đào thêm nhiều hầm chông, gài thêm nhiều mang cung, bẫy đá và lựu đạn, trái nổ; đồng thời đào thêm nhiều hầm hào để đánh địch và chống bom pháo. Chỉ tính riêng Thu Đông năm 1969, toàn Quân khu 6 đã diệt 11.709 tên địch, bắn rơi 72 máy bay, phá huỷ 466 xe quân sự (có 162 xe bọc thép), 27 khẩu pháo, thu 400 súng, trên 10 máy  thông tin.

        Chuẩn bị cho hoạt động Xuân Hè 1970, Miền đã đưa Trung đoàn 33 ra phối thuộc với Quân khu 6 cùng đánh địch mở vùng nông thôn Hoài Đức – Tánh Linh, tạo bàn đạp phát triển vào vùng sâu miền Đông Nam Bộ từ hướng đông.

        Thực hiện chủ trương căng địch ra mà đánh nhằm hỗ trợ cho phong trào địa phương phát triển và tao thế đứng chân cho Trung đoàn 33 từ Long Khánh ra, Quân khu điều một số đơn vị ra Ninh Thuận, bắc Bình Thuận hoạt động. Tôi và anh Hược – Phó Chính uỷ kiêm Chủ nhiệm chính trị Khu 6 thay nhau người trực chỉ huy tại sở chỉ huy Khu, người đi chiến dịch. Tôi chỉ huy hoạt động ở Bắc Bình Thuận về thì Khu uỷ và Quân khu bàn tranh thủ đưa ra Ninh Thuận đánh địch, phá ấp chiến lược, đến hoạt động Đông Xuân mới đưa chủ lực về Bình Thuận, tôi lại xuống trực tiếp chỉ huy. Vì vậy, chiến dịch, này chúng tôi phân công anh Hược đi.

        Trước khi hành quân đi chiến dịch một tuần, tôi thấy anh Hược lạ quá. Hôm ấy hai người đi họp Thường vụ về, tôi đi trước, anh đi sau cách nhau một đoạn đề phòng pháo địch bắn. Tôi về nhà một tiếng thì trời tối, mà vẫn không thấy anh về. Đêm ấy chúng tôi đốt đuốc đi tìm, hoá ra anh Hược đi lạc vào rẫy đồng bào. Trong rẫy có một cái chòi, trong chòi có hai cha con người dân tộc, một ông già và một cháu gái. Ông già người dân tộc tưởng anh là biệt kích vì hai bên không biết tiếng nhau. Anh Hược rút trong túi ra tấm ảnh Bác Hồ cho hai ông cháu người dân tộc xem. Ông gật đầu rồi bảo cháu bé đi đun nước để ông ra rẫy bẻ ngô nướng cho anh Hược ăn. Ba người đang ăn ngô thì cảnh vệ vào đón anh về cơ quan. Hôm sau anh họp cả phòng chính trị lại dặn dò công việc của năm 1970. Anh gặp riêng từng ban: tổ chức, tuyên huấn, bảo vệ, dân vận, địch vận để trao đổi công việc một cách rất tỉ mỉ cụ thể. Không chỉ có vậy, anh còn gọi một số anh em có khuyết điểm đến động viên anh em cố gắng khắc phục khuyết điểm để tiến lên theo kịp anh em trong đơn vị.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:52:01 am

        Chiều hôm trước khi lên đường đi chiến dịch, anh cho thịt con gà, anh em vừa ăn cơm vừa ban nhau kế hoạch ra Ninh Thuận. Hai anh em vừa bàn công việc vừa tâm sự đến 11 giờ đêm, tôi giục anh đi ngủ rồi đi ngủ luôn, hai anh em ngủ chung một hầm. Vừa thiếp đi một lát đã thấy anh gọi tôi dậy. Tôi thấy anh vẫn ngồi đó, bên ấm trà đã pha sẵn. Trên bàn còn bày sẵn cả bánh kẹo, thuốc lá. Anh Hược rót nước mời tôi rồi tâm sự chuyện gia đình, vợ con đến gần sáng. Tôi sợ anh mệt nên lại giục anh đi ngủ.

        Sáng ra, lúc 8 giờ, anh chỉ huy bộ đội hành quân. Trên đường đi, anh còn kịp ghé vào một đơn vị dự hội nghị thi đua ngành hậu cần. Cơ quan hậu cần cho đoàn năm con gà mang theo. Cơ quan Khu bộ đi có mười hai người gồm anh Hược và một số cán bộ cơ quan như: tuyên huấn, tổ chức, bảo vệ và một đồng chí liên lạc người Nam Bộ, một đồng chí cán bộ tỉnh Ninh Thuận và một đồng chí liên lạc tỉnh. Anh em hành quân đến 3 giờ chiều, anh đang ngồi nghỉ ở đỉnh dốc thì gặp một đơn vị bắn được một con nai, anh em cho một đùi. Một anh đề xuất: “Sao ta không nghỉ nấu cơm ở đây luôn nhỉ?”. Nhưng vì nghe tiếng sấm ở trên cao, nên anh Hược bảo anh em đi cho kịp đến trạm.

        Đoàn đi một hồi thì đến dốc lên trạm. Anh em bảo nhau lôi theo suối Mù-u cho đỡ mệt. Thật không ngờ, tốp đi đầu vừa bị bọp lội đến chân thác thì nước trên nguồn ập xuống. Bộ phận đi đầu đã vượt qua miệng thác liền chạy dạt vào bờ. Anh Hược, cậu Bình liên lạc người Nam Bộ và cậu Quảng liên lạc của tỉnh lọt đúng vào miệng thác, ba anh em chỉ còn biết nắm lấy tay nhau và bám tảng đá. Trong khi đó bộ phận đi sau cũng cũng chạy kịp vào bờ tránh lũ. Đến đợt nước xối lần thứ hai tiếp đổ vài phút thì anh Hược và cậu Quảng bị lũ cuốn trôi đúng lúc trời sập tối xuống.

        Anh em ta bỏ cả cơm tối, đốt đuốc đi tìm cả đêm theo dòng suối suốt một cây số mà chẳng thấy người nào. Sáng ra anh em lại tiếp tục xuôi xuống khoảng hai cây số thì gặp anh nằm như ngủ trên một phiến đã giữa dòng suối, vì nước lũ đã rút. Còn cậu liên lạc trôi tận ba cây số nên đến chiều mới tìm thấy. Anh Hược vẫn mặc cái áo may bằng vải dù do tôi tặng. Trên người anh vẫn đeo súng ngắn và xắc-cốt. Sau gáy có vết va đập mạnh. Anh Hược là một cán bộ trung kiên, gương mẫu, hoạt động trên chiến trường Khu 6 từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Anh vào chiến trường năm 1959 và chiến đấu chủ yếu ở chiến trường Khu 6. Chỉ mới nhớ đến việc anh làm trước khi đi chuyến này, tôi lại hình dung ra hình ảnh một anh Hược tận tuỵ, chu đáo trong công việc, mà lòng lại thấy đau xót. Anh Hược mất đi là tổn thất đau thương, nhưng anh vẫn sống trong lòng quân và dân nơi đây. Sau khi lo chôn cất cho anh Hược và đồng chí liên lạc, chúng tôi cử anh Mười Cộng – Tham mưu trưởng thay anh Hược chỉ huy chiến đấu.

        Cuối năm 1969, anh Nguyễn Hữu Xuyến – Phó tư lệnh Miền triệu tập Khu 6 và Khu 7 đến một địa danh giáp biên giới Cam-pu-chia thuộc đất Khu 7 để nhận nhiệm vụ.

        Khu 6 cử tôi và anh Vũ Anh Ba (Bảo?) - Thường vụ Khu uỷ (Anh Bảo là con trai anh Ba, sau này làm Bí thư Tỉnh uỷ Lâm Đồng). Anh Xuyến quán triệt:

        - Năm 1969, ta đã đánh mạnh. Năm 1970, ta đánh mạnh hơn nữa để chi viện cho các đơn vị bạn đang gặp khó khăn. Mật danh của chiến dịch hè này là CD. Hè tôi về Khu 6, tôi đổi mật danh lại là TK “tiến công”. Đợt này Khu 6 thực hiện kế hoạch đánh căn cứ Sông Mao lần thứ năm.

        Sông Mao là căn cứ của Mỹ nằm trên đất bắc Bình Thuận. Sau khi Mỹ rút đi căn cứ này hoàn toàn do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ. Một căn cứ đã bị ta đánh đi đánh lại tất cả tám lần. Anh Châu chỉ huy đánh lần đầu thắng lợi, được thưởng Huân chương Quân công hạng nhì. Từ lần thứ hai đến lần thứ năm này tôi trực tiếp chỉ huy đánh. Sau này tôi còn trực tiếp chỉ huy đánh thêm ba lần nữa cho đến khi giải phóng hẳn khu vực này. Lực lượng tham gia trận đánh thứ năm này là các tiểu đoàn 840, 186 và 240. Trong trận này ta đã diệt khoảng sáu trăm tên địch, tiêu diệt sở chỉ huy, trung tâm thông tin, phá huỷ hai pháo 105 ly diệt đơn vị cơ động của căn cứ, đơn vị bảo vệ sở chỉ huy và đánh quân tiếp viện gây thiệt hại nặng cho chiến đoàn 1/50 Mỹ.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:53:38 am

        Nói đến căn cứ Sông Mao không thể không nói tới anh Chi - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn đặc công là người bảy lần trực tiếp căn cứ Song Mao, trận nào cũng được giao nhiệm vụ đánh vào chỗ hiểm yếu nhất của địch. Anh là người nắm vững việc bố trí phòng thủ cũng như mọi quy luật hoạt động cùng ngõ ngách của căn cứ Sông Mao. Tuy anh là tiểu đoàn trưởng đặc công nhưng anh em thường gọi đùa là “Trung đoàn trưởng trung đoàn 44”, tức là trung đoàn ngụy trấn giữ căn cứ Sông Mao. Đến trận thứ tám và cũng là trận cuối cùng ta đánh Sông Mao, sau trận đánh thắng lợi, khi rút ra trời vẫn chưa sáng, một đồng chí dẫm phải mìn làm anh Chi và một số đồng chí đặc công hy sinh.

        Riêng trận đánh lần thứ năm này, đơn vị được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì.

        Nói đến căn cứ Sông Mao ở bắc Bình Thuận tôi không thể nào quên hình ảnh của hai người phụ nữ anh hùng đã để lại những ấn tượng rất sâu đạm trong tình cảm của tôi cũng như bao chiến sỹ đã từng công tác và chiến đấu trên mảnh đất này, đó là mẹ Phạm Thị Ngư và chi Phạm Thị Mai.

        Riêng tỉnh Bình Thuận, đến nay đã được Đảng, Nhà nước phong tặng 672 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trong số các Bà mẹ Việt Nam anh hùng đó có mẹ Phạm Thị Ngư ở Phong Nẫm thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Mẹ Ngư vừa hoạt động cách mạng lại có bảy người con là liệt sỹ. Với những đóng góp vo cùng lớn lao đó cho Tổ quốc mẹ đã được Quốc hội và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào ngày 06 tháng 11 năm 1978 và ngày 17 tháng 12 năm 1994, mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

        Quê mẹ Phạm Thị Ngư ở xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Cụ ông, cụ bà mất sớm, mẹ phải lao động để kiếm sống. Lớn lên mẹ xây dựng gia đình với ông Bùi Dinh người cùng quê. Thời kỳ chống Pháp, gia đình mẹ là cơ sở cách mạng. Bản thân mẹ Ngư là tổ trưởng phụ nữ. Hằng ngày, mẹ đi vận động quyên góp tiền bạc, thuốc men, lương thực, thực phẩm ủng hộ kháng chiến. Nhà mẹ là nơi ẩn náu của các chiến sỹ cảm tử vào đánh Phan Thiết, là đầu mối liên lạc vùng giải phóng với vùng tranh chấp, vùng địch hậu.

        Năm 1960, sau một cơn bệnh hiểm nghèo, chồng mẹ bị liệt hai chân rồi qua đời, mình mẹ vừa lao động nuôi dạy đàn con thơ dại, vừa hăng hái hoạt động cách mạng. Hằng ngày, mẹ đi tiếp tế lương thực thuốc men cho bộ đội, dẫn đường cho bộ đội vào hoạt động ở Phan Thiết. Tết năm Mậu Thân 1968, mẹ đưa đường cho bộ đội tiến công vào Phan Thiết. Cũng trong thời gian này mẹ đã giải thoát cho hai chiến sỹ của ta đang bị địch bắt và đưa ra vùng căn cứ an toàn.

        Năm 1969, địch quay lại đánh phá ác liệt quê hương, mẹ đã canh gác cho cán bộ đào hầm bí mật ngay trong vườn nhà mình để có điều kiện nuôi giấu cán bộ và bộ đội lâu dài. Mẹ đã liên tục hoạt động cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975.

        Quá trình tham gia hoạt động cách mạng cũng là quá trình mẹ phải chịu nỗi đau ngày càng lớn. Có thể nói những nỗi đau đó ngày càng bao trùm, đè nặng lên cả phần đời của mẹ, khi mẹ lần lượt được tin bảy người con hiền thảo cả trai, cả gái của mẹ đều anh dũng hy sinh trong chiến đấu. Mỗi khi người con lớn hy sinh, mẹ lại nói: “Cho em nó đi chiến đấu tiếp để trả thù cho anh chị nó”. Thực tế trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt như vậy, giữa ta và địch không có một con đường nào khác thì đó là một quyết định tất yếu.

        Người hy sinh đầu tiên là anh Bùi Văn Thành con trai cả của mẹ, anh đã chiến đấu dũng cảm và hy sinh ngày 3 tháng 5 năm 1961. Hơn năm năm sau, người con thứ hai là anh Bùi Văn Trung – cán bộ huyện Hàm Thuận, hy sinh tháng 10 năm 1966. Chưa đầy hai năm sau, người con thứ ba của mẹ là anh Bùi Văn Tài tham gia du kích xã, hy sinh tháng 5 năm 1968. Hơn ba năm sau đó người con thứ tư, Anh Bùi Văn Tứ là trung đội trưởng, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hy sinh ngày 29 tháng 8 năm 1971. Không đầy một năm nữa, người con thứ năm là cô Bùi Thị Mười (Mười Em) là y tá của xã đã hy sinh tháng 4 năm 1972. Chỉ sáu tháng sau, anh Bùi Văn Mười du kích xã hy sinh tháng 10 năm 1972. Một năm sau, người con thứ bảy của mẹ là chị Bùi Thị Luyến, cán bộ phụ nữ xã, hy sinh ngày 10 tháng 11 năm 1973.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:54:52 am

        Qua cuộc đời của mẹ Ngư - một trong biết bao Bà mẹ Việt Nam anh hùng trên khắp mọi miền Tổ quốc ta, cũng thấy được nỗi đau và sự hy sinh to lớn mà các thế hệ đi trước phải trả cho cuộc sống bình yên dưới bầu trời tự do hôm nay.

        Có thể nói, không có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau mà cuộc đời mẹ phải chịu đựng, khi đất nước đã thanh bình sạch bóng quân xâm lược mà các cơn của mình thì đã ra đi và tất cả đều không trở lại.

        Không có sự bù đắp nào có thể bù đắp nổi những gì mà các mẹ đã mất mát, hy sinh, đã phải chịu đựng trong các cuộc chiến tranh vừa qua. Vì vậy, trách nhiệm của mọi người chúng ta, của toàn xã hội hôm nay và cả ngày mai đối với những người như các bà mẹ thật lớn lao.

        Nếu như mẹ Ngư bị kẻ thù cắt đi từng khúc ruột vì mất đi những người con rất đỗi yêu thương trong chiến tranh, thì chị Phạm Thị Mai lại bị kẻ thù dã man bắn bị thương nhiều lần và cắt đi từng phần thân thể hòng khuất phục ý chí chiến đấu của chị.

        Chị Phạm Thị Mai (Tám Tiệm) sinh năm 1947 ở xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Gia đình chị Mai có bảy anh em đều tham gia cách mạng, một người là liệt sỹ, ba người là thương binh, hai người là bệnh binh.

        Tham gia cách mạng từ lúc mười lăm tuổi, năm 1961, nhà chị Mai là cơ sở bí mật của ta. Tháng 2 năm 1962, chị Mai vào Đoàn thanh niên, rồi làm đội trưởng đội vũ trang công tác của xã Hàm Liên. Năm 1964, chị lãnh đạo quần chúng phá ấp chiến lược Hàm Hiệp, đưa đồng bào về vùng căn cứ. Năm 1965, chị Mai chỉ huy du kích xã đánh hai bốt, diệt một ác ôn, bắt bảy tên chiến tranh tâm lý. Năm 1965 chị được chi bộ xã Hàm Liên kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1967, chị được bầu vào cấp uỷ xã, làm Hội trưởng Hội phụ nữ kiêm Chính trị viên xã đội. Năm Mậu Thân 1968, chị Mai tích cực chuẩn bị hầm bí mật để nuôi giấu thương binh, bảo vệ an toàn cho các đồng chí cán bộ của ta, trong đó có đồng chí Năm Ngà (Nay là cố Thượng tướng Nguyễn Minh Châu) - Chỉ huy trưởng mặt trận Phan Thiết, bảo đảm an toàn cho Sở chỉ huy tiền phương của Khu 6.

        Tháng 3 năm 1968, chị Mai đang bám hầm bí mật thì bị địch phát hiện. Địch gọi hàng, chị không lên, chúng bắn xối xả xuống hầm. Chị bị thương nặng rồi bị địch bắt và tra tấn dã man. Không khai thác được gì, chúng cưa cụt bên chân bị thương nhằm uy hiếp tinh thần cách mạng của chị cũng như của đồng bào địa phương. Với tinh thần kiên trung bất khuất, chi quyết không khai báo nửa lời. Trong lao tù, chị tiếp tục lãnh đạo chị em đấu tranh chống khủng bố.

        Tháng 9 năm 1969, không khuất phục được chị Mai, bọn địch buộc phải thả chị. Ra tù, thay vào bên chân đã mất là chiếc nạng gỗ, người phụ nữ hai mươi lăm tuổi ấy vẫn tiếp tục hoạt động chỉ huy du kích mật của xã. Năm 1970, chị Mai tổ chức chống càn quét năm trận, diệt 41 tên lính cộng hoà, phá huỷ hai xe tăng và xe bọc thép của địch.

        Từ giữa năm 1971 đến tháng 8 năm 1973, tuy bị cụt chân phải chống nạng, chị vẫn được tín nhiệm cử làm bí thư chi bộ bí mật của xã. Hàng ngày, chị chống nạng ra đồng lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi được ngủ lại ngoài đồng để giữ lúa. Bọn địch vô cùng căm ghét chị, chúng đã nổ súng bắn gãy luôn chiếc chân lành của chị. Đáng ra phải chữa chạy cho chị, thì chúng lại nhân thể cưa luôn cái chân còn lại cho đến hông, hòng cách ly chị với phong trào.

        Không thể đi nạng được nữa. Từ đó chị phải chống tay vào hai cái ghế nhỏ để lết đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác lãnh đạo đấu tranh và nắm tình hình để du kích mật đánh địch. Tháng 7 năm 1972, chị Mai chỉ huy nội tuyến đánh mìn ở rạp chiếu bóng Phan Thiết, diệt 19 tên phượng hoàng, thám báo. Sau trận này, chị bị địch bắt giam lần thứ hai. Sau khi ra tù, tháng 12 năm 1974, ta tổ chức đưa chị ra căn cứ để bảo vệ tính mạng cho chị.

        Sau ngày giải phóng miền Nam, tháng 6 năm 1975, trong một lần đi công tác, tôi có điều kiện đến thăm chị Mai khi đó chị đã về sống với mẹ già ở xã Hàm Liêm, được công nhận là thương binh ¼, được cử làm Phó bí thư chi bộ hợp tác xã. Ngoài công việc chung, vốn là người tích cực lao động, chị vẫn tích cực tăng gia sản xuất để nuôi con nhỏ. Cũng phải nói thêm rằng vì việc có đứa con nhỏ ngoài hôn thú này mà việc đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng của chị gặp rất nhiều khó khăn. Người ta đâu có hiểu rằng, dù chị có là người phụ nữ kiên trung đến đâu đi nữa thì chị vẫn là một người phụ nữ với những nhu cầu thiết tha được sinh con, được làm mẹ. Sau này, các đồng chí địa phương cũng như cấp trên đã hiểu được điều đó và chị đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong một chuyến công tác, tôi có dịp đến thăm chị lần thứ hai vào năm 2000, thấy cuộc sống của chị đã khá hơn, tôi cũng mừng cho chị.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:57:51 am

        Tôi nhớ lại cái Tết năm 1970, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địch tổ chức phản công mạnh ở trên toàn tuyến chiến trường cũng như ở Khu 6. Ta tuy rút khỏi thành phố song vẫn bám lại vùng ven và nông thôn. Lực lượng du kích, bộ đội địa phương và đặc công liên tục đánh tập kích vào thành phố bằng bộ binh và hoả lực khiến địch cũng không thể dễ bề thẳng tay đánh lại ta. Địch dựa vào vào địa bàn thành phố đẩy ta ra khỏi địa bàn nông thôn. Chúng mở nhiều cuộc càn quét nhưng không đủ sức tiêu diệt lực lượng của ta, mà chỉ đẩy ta ra khỏi địa bàn. Trước tình thế đó, các lực lượng vũ trang Khu 6 liên tiếp chống càn để bám trụ lại vùng nông thôn. Vừa đánh địch, bộ đội ta vừa bám dân, gây dựng cơ sở. Được dân tiếp tế ủng hộ về nhiều mặt, ta có đủ lương thực, thực phẩm, thuốc men để bám trụ, thiếu vũ khí thì lấy vũ khí của địch đánh địch, nên địch cố đẩy cũng không đẩy được ta khỏi địa bàn nông thôn. Xóm Bầu là một xóm tiêu biểu như vậy, mặc dù xóm Bầu chỉ cách Phan Thiết có bốn cây số nhưng địch không làm gì được. Cho tới Hiệp định Pa-ri, tháng 1 năm 1973, xóm Bầu vẫn còn bị địch tiến công lấn chiếm và chúng đã bị ta đánh bại.

        Khác với cái Tết trước, Tết năm 1970 chúng tôi có điều kiện lo cho anh em khá đàng hoàng. Các loại thực phẩm chuẩn bị cho Tết như gạo, thịt, rau, đường, sữa, bánh (kể cả rượu) đều được anh em ta mua từ vùng tranh chấp. Lúc giao thừa, anh em được nghe lại đoạn băng Lời chúc tết và thơ của Bác từ năm 1968, ai nấy đều rất xúc động, tiếc thương Bác vô hạn.

        Riêng với Khu 6, chúng tôi cho anh em ăn Tết trước ngày 23 tháng Chạp và sau Tết (sau ngày 5 tháng Giêng) với những đồng chí chưa kịp ăn Tết trước. Bởi tuần lễ giáp Tết và đặc biệt dịp ngừng bắn là dịp trinh sát, đặc công, các lực lượng địa phương của ta có dịp bám nắm địch rất thuận lợi. Lợi dụng bọn địch chè chén say sưa, cờ bạc, gái mà lơ là khâu kiểm soát, ta có thể vào rất sâu các căn cứ của chúng để nắm địch, vẽ bản đồ bố phòng cũng như nắm các hoạt động của địch chuẩn bị cho những đòn sau Tết và Xuân Hè năm 1970.

        Trở lại với chiến trường Khu 6 những năm 1970, nhằm đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ, Bộ tư lệnh Miền có Chỉ thị số 136 nêu rõ: “Khẩn trương đẩy mạnh tổng tiến công toàn diện, tạo thêm thế và lực, đánh bại “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ, mở ra cục diện mới để giành thắng lợi quyết định”. Thực hiện Chỉ thị 136 của Trung ương Cục miền Nam, tháng 1 năm 1970, hội nghị Khu uỷ Khu 6 đề ra chủ trương nhiệm vụ như sau: “Ra sức đẩy mạnh tiến công và xây dựng lực lượng nhằm làm chuyển biến cho được một bước cục diện chiến trường, đồng thời ráo riết chuẩn bị điều kiện để tiến tới một cao trào tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, dồn dập, quyết liệt tạo một sự chuyển biến có tính chất nhảy vọt”. Phối hợp với chiến dịch “CD” của Miền, chiến dịch “TK” (tiến công) của Khu phát triển thuận lợi. Khu 6 đã quyết tâm bám trụ địa bàn đánh địch, dựa vào sức mạnh lòng dân, dựa vào núi rừng trùng điệp, dựa vào năm triệu gốc sắn để bám chặt địch, nắm chắc từng động thái nhỏ của chúng để liên tục tiến công tiêu diệt địch theo sát ý kiến chỉ đạo của Miền.

        Bộ tư lệnh Miền thấy Khu 6 hoạt động tốt nên chỉ đạo kéo dài chiến dịch, yêu cầu tiến công vào thành phố Đà Lạt, buộc địch phải đối phó.

        Đợt hoạt động này, đơn vị được Huân chương Quân công hạng nhì cho trận Sông Mao lần thứ năm và đánh Đà Lạt.

        Cuối tháng 5 năm 1970, nhận được chỉ thị của Miền đánh phối hợp với chiến trường Cam-pu-chia, Quân khu chủ trương mở chiến dịch tiến công đồng loạt vào thị xã Đà  Lạt. Lực lượng của ta gồm hai tiểu đoàn bộ binh thiếu là Tiểu đoàn 810 và Tiểu đoàn 145 cùng Tiểu đoàn 200c đặc công, các đội biệt động thi xã, lực lượng du kích và cơ sở tại chỗ. Cấp trên yêu cầu phải chiếm giữ một số mục tiêu quan trọng then chốt trong thị xã, làm chủ thị xã ít nhất hai ngày.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 12:59:39 am

        Thực tế diễn ra như dự kiến. Sau khi đánh chiếm các vị trí quan trọng, ta liên tục đánh phản kích ở đồi Đất Đỏ, đồi Bạch Đằng và Lãnh địa Đức Bà... Ta bám trụ đánh lui tám đợt phản kích của địch, diệt một đại đội và đánh thiệt hại một đại đội khác. Ở Trường đại học Giáo hoàng Chủng viện, ta đã đánh địch phản kích suốt ngày 29 tháng 5, diệt một đại đội và đánh thiệt hại nặng một đại đội khác. Sau ngày 30 tháng 5, ta chuyển ra đứng chân tại ấp Đa Thiện tiếp tục đánh phản kích, đến sáng ngày 31 tháng 5 năm 1970 ta mới rút ra. Kết quả trong đợt này, ta diệt ba đại đội (trung đoàn 53), phá trụ sở Vô tuyến viễn thông, đánh chiếm dinh 2, cao điểm Pi-cro-bin, Lãnh địa Đức Bà, đồi Đất Đỏ và đánh thiệt hại nặng dinh Thị trưởng, trận địa pháo Tân Lạc. Cùng với chủ lực, du kích và biệt động đã phối hợp diệt một bốt cảnh sát, diệt một số ác ôn và phá huỷ trạm biến thế điện. Lực lượng quần chúng đã hưởng ứng, nổi dậy truy lùng bọn tề ác trong một số khu phố, treo cờ khẩu hiệu, tiếp tế cơm nước cho bộ đội, chăm sóc thương binh, huy động cuốc xẻng cho bộ đội đào hầm. Ở trường đại học, học sinh, sinh viên hăng hái đưa bàn ghế, giường tủ ra làm chướng ngại vật.

        Trong đợt tiến công này, bộ đội ta đã làm tốt chính sách dân vận, khi vào vùng Công giáo ở Lãnh địa Đức Bà, Giáo hoàng Chủng viện, bộ đội vừa chiến đấu đánh địch, vừa phân công cán bộ làm công tác tuyên truyền, giải thích chính sách cho quần chúng giáo dân, trong đó có một số cha cố của Chủng viện. Địch đã dùng đạn có chất độc hoá học bắn vào Chủng viện. Ta đã giúp dân phòng tránh và cứu chữa những người bị ngạt, gây được ảnh hưởng tốt. Vì thế sau khi ta rút, địch đến tuyên truyền xuyên tạc, đã bị giáo dân phản bác thẳng thừng, nói lên những việc làm đúng đắn, tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Chiến công này của quân và dân Khu 6 đã được Quân uỷ, Bộ chỉ huy Miền gửi điện khen ngợi và tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba.

        Dư luận báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ gồm các báo như “Công luận”, “Chính luận”, “Tiền tuyến”, “ Đuốc nhà Nam” xuất bản tại Sài Gòn đầu tháng 6 năm 1970 đều đăng trên trang nhất dòng tít lớn sự kiện này và đánh giá: “Đây là cuộc tiến công lớn nhất vào thành phố ở Nam Việt Nam sau Tết Mậu Thân”.

        Năm 1970, khi chuẩn bị đánh Sông Mao lần thứ năm, chúng tôi hành quân từ phía đông sang phía tây Sông Mao. Sau khi hành quân qua một dãy núi cao xuống dãy đồi thấp gần bìa làng có một bãi cỏ tranh bị địch đốt cháy trụi, chúng tôi lặng lẽ đi tiếp trong đêm tối chừng một cây số, thấy được thế thuận lợi cho việc phòng tránh và đánh trả địch tốt, chúng tôi tạm nghỉ để lấy sức, 2 giờ sáng lại thức dậy nấu ăn sáng và trưa luôn. Lúc 4 giờ sáng, chúng tôi vừa đi được một lúc thì gặp một đại đội ta đi lấy gạo về. Tôi hỏi một đồng chí:

        - Dưới làng có tin tức gì không? (Ý hỏi có địch không?).

        Một đồng chí của đại đội đi lấy gạo nói:

        - Dưới ấy bình thường.

        Ta tiếp tục hành quân, còn anh em đi ngược vào rừng. Đi được khoảng 15 phút thì có tiếng súng rộ lên ở phía sau. Anh em gặp địch liền đặt bao gạo xuống làm công sự đánh địch ngay giữa vạt đồi tranh bằng phẳng. Một đại đội ta đánh một đại đội địch, nên sau phút bất ngờ ta đã giành lại thế chủ động bao vây chia cắt địch, sau trận đánh chúng phải bỏ lại năm xác chết cùng súng đạn. Anh em tiếp tục vác gạo vào núi. Ta bị hy sinh một, bị thương hai đồng chí.

        Một lát sau máy bay địch dùng bom, pháo đánh phá vào khu vực bãi trống rồi đưa trực thăng xuống lấy xác chết. Đến trưa địch im hẳn, tôi cho sở chỉ huy hành quân tiếp, 6 giờ tối thì đến vị trí tập kết. Theo thói quen thường xuyên nắm đich, hễ có điều kiện là tôi cho anh em ở bộ phận kỹ thuật bật máy thông tin PRC-25 (chiến lợi phẩm thu được của địch) để dò sóng nghe tin tức địch. Chỗ ta tạm nghỉ chân gần một bệnh xá của bắc Bình Thuận. Bệnh xá này có đôi vợ chông tôi quen là Cô Nga – bác sỹ, bệnh xá trưởng người Hà Nội. Cô Nga lấy anh nhật Hùng làm bác sỹ. Cả hai vợ chồng cùng xung phong vào miền Nam công tác. Riêng đối với anh Nhật Hùng thì phải nói là về quê hương công tác mới đúng, bởi anh quê ở miền Nam, được ra Bắc học trường thiếu sinh quân từ nhỏ. Khi còn ở Khu 10, tôi đã đón cả hai vợ chồng trẻ cùng một đoàn bảy người từ miền Bắc vào, nên biết cả hai vợ chồng từ hồi đó. Lần này chúng tôi đến, nghe tin cô Nga mới sinh cháu nhỏ khoảng năm, sáu tháng tuổi. Tôi mừng lắm, chưa kịp thăm cháu thì nghe bộ phận kỹ thuật báo cáo:

        - Thưa thủ trưởng, chúng tôi vừa nghe được tin của địch, chúng nói với nhau: “Sáng mai trời mưa lúc 6 giờ tại toạ độ x,y”.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 01:02:26 am

        Tôi cùng các đồng chí tổ trinh sát xem lại các toạ độ trên bản đồ thì đúng là bệnh xá mà chúng tôi đang trú quân gần đó. Với kinh nghiệm nắm địch nhiều năm, tôi biết đây là thông tin đáng tin cậy. Thấy tình hình không thể chậm trễ, tôi lệnh cho một tiểu đoàn ở gần nhất huy động được 150 người đến di chuyển bệnh xá ra khỏi khu vực toạ độ nguy hiểm, đồng thời báo cho cô Nga biết:

        - Bệnh xá đã bị lộ, khả năng địch dùng máy bay hoặc pháo binh đánh phá trạm xá vào 6 giờ sáng ngày mai. Sau khi đánh phá bằng bom pháo, địch có thể đổ quân càn quét. Bây giờ phải lập tức sơ tán bệnh xá! Không được chậm trễ.

        Lúc này trong bệnh xá có khoảng 40 thương binh và 20 nhân viên cùng các dụng cụ y tế, nồi niêu xoong chảo đều được anh em di chuyển ra khỏi toạ độ nguy hiểm ngay trong đêm.

        Đúng là chẳng có cuộc chuyển nhà nào được gọn gàng cả, nhất là lại chuyển gấp trong đêm khi mối đe doạ của bom đạn địch đang treo lơ lửng ở trên đầu.

        Tôi gặp mẹ con cô Nga lúc gần sáng, khi anh em đang cùng cô thu dọn đồ để mang đi. Nhà cửa tanh bành, cháu bé vẫn nằm ngủ trên võng, phấn rôm vãi đầy nên nhà. Thấy tôi, cô Nga vừa mừng vừa tủi nói:

        - Khổ quá anh ơi, anh đến đây em chưa kịp nấu nướng gì cho anh ăn, đã phải lo di chuyển...

        - Cô cho con đi mau, nấn ná làm gì, bom pháo nó chụp xuống đầu bây giờ - Tôi nói rồi bế cháu bé lên đưa cho cô và giục anh em khẩn trương thu dọn để rời khỏi khu vực nguy hiểm.

        Anh em yếu  thì chuyển đồ đi một chuyến. Anh em khoẻ thì quay lại đi chuyến nữa. Bộ phận cuối cùng tận 5 giờ 30 phút mới rời khỏi bệnh xá.

        Đúng 6 giờ sáng, trời chưa tan sương, lũ L19 đã lên quần đảo tại khu vực trạm xá. Mười phút sau khi bắn pháo khói vào đúng bệnh xá, cột khói trắng bò lên khỏi tán cây xanh thì các trận địa pháo cấp tập bắn vào bệnh xá của bắc Bình Thuận. Đến khoảng 7 giờ sáng, địch cho hàng đàn trực thăng lên đổ quân xuống lục soát, đốt sạch những lán trại còn sót lại, đến gần trưa trực thăng lên bốc quân đi. Anh em ta ở cách đó không xa nên quan sát và nghe rất rõ hoạt động của địch. Sau giải phóng cô Nga về làm ở Bệnh viện Hà Nội, anh Nhật Hùng chồng cô sau làm chuyên viên Văn phòng Chính phủ. Gặp tôi anh rất xúc động nhớ lại chuyện cũ. Anh thường nói với bạn bè: “Anh Sáu đã cứu vợ con tôi, cứu cả bệnh xá...”. Thực ra thì trong hoàn cảnh đó, ai cũng làm như vậy cả. Mà bài học cảnh giác, thường xuyên nắm địch mới là quan trọng.

        Nói đến mảnh đất Cực Nam Trung Bộ, không thể không nói đến căn cứ nổi tiếng của ta, đó là căn cứ Lê Hồng Phong. Căn cứ Lê Hồng Phong phía tây giáp thị xã Phan Thiết, phía đông giáp Phan Rí, phía bắc giáp với quốc lộ số 1. Đây là một vị trí rất tiện lợi cho việc trú quân và xuất quân của ta từ thời chống thực dân Pháp đến thời chống đế quốc Mỹ. Căn cứ Lê Hồng Phong còn được anh em ta gọi với một cái tên khác, đó là cánh rừng “nô lệ”. Đây là một cánh rừng thấp, chủ yếu là những cây thấp như ô rô và các cây có gai khác cao ngang đầu người mọc trên vùng đất cát. Để tránh máy bay và các phương tiện quan sát từ xa của địch, khi đi trong cánh rừng này, anh em ta thường phải so vai cúi đầu bước đi trông rất khổ sở nên cánh rừng này được cho cái tên cánh rừng “nô lệ”.

        Căn cứ Lê Hồng Phong đã có từ thời chống Pháp. Trên đường từ Nam ra Bắc, đồng chí Lê Duẩn đã qua căn cứ này. Sau khi nghe các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bình Thuận báo cáo tình hình đánh địch ở địa phương, đồng chí Lê Duẩn đã để ba đồng chí đặc công đi bảo vệ đồng chí ở lại huấn luyện cách đánh mới cho tỉnh Bình Thuận và cho Khu. Đó chính là cách đánh mật tập kiểu đặc công đã làm cho kẻ địch kinh hồn bạt vía trên các chiến trường sau này.

        Năm 1968, khi đánh Phan Thiết, một cánh quân cửa ta đã xuất phát từ cánh rừng này. Cánh quân do đồng chí Lê Du làm tiểu đoàn trưởng chỉ huy. Trước khi bước vào chiến dịch, một cô giao liên tên là Mai được giao nhiệm vụ lần tìm đơn vị đồng chí Lê Du để truyền đạt mệnh lệnh. Cô Mai có đặc điểm là người rất gầy nhưng lại nhanh nhẹn thoăn thoắt ẩn hiện trong rừng trong vai một cô gái thành thị đã lọt vào cánh rừng để tìm cách liên lạc với tiểu đoàn anh Lê Du truyền đạt mệnh lệnh tiến công và kế hoạch hiệp đồng của trên cho tiểu đoàn đánh vào Phan Thiết.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 01:04:32 am

        Tôi được tới cánh rừng “nô lệ” này lần đầu khi xuống công tác tại đội vũ trang công tác của huyện mùa khô năm 1971. Tới nơi chỉ thấy phía trên là những bụi cây thấp, phía dưới là cát, vậy mà chỉ một lúc sau đã có cơm nóng nước sôi. Thì ra tất cả gạo, nước, xoong nồi của anh em ta đều vùi trong cát, khi đi vùi giấu xuống cát, khi về lại lấy lên dùng. Chỉ có những chiến sỹ đã từng sống lâu ở đây mới không bị lạc trong một cánh rừng vốn bằng phẳng mênh mông lại không có đường đi này. Đêm đến, anh em ta có người mắc võng, có người rải ni-lông xuống cát nằm ngủ. Cánh rừng này đã có lúc chứa hàng tiểu đoàn bộ đội, cùng trung đoàn bộ, cả cơ quan Tỉnh uỷ, Uỷ ban tỉnh Bình Thuận.

        Theo cánh rừng này có hai nguồn thức ăn đặc sản mà chiến sỹ ta coi là được ăn theo chế độ tự do. Nguồn thứ nhất là dưa hấu của dân trồng để lấy hạt xuất khẩu sang Đài Loan. Tất nhiên ăn xong phải để hạt gọn lại cho dân. Nguồn thứ hai là con giông, trông giống như con tắc kè, nặng khoảng ba đến bốn lạng, thậm chí có con nặng tới năm lạng. Giống này bỏ ruột đi, nướng hoặc rán lên, chấm muối ăn ngon như thịt chim. Ngoài hai cách ăn trên, con giông còn có thể bỏ ruột, băm viên nấu với dưa hấu ăn rất ngon. Muốn bắt con giông có hai cách, một là làm bẫy thòng lọng treo ở cửa hang, hai là dùng que nhỏ từ từ luồn vào hang giả làm rắn khiến giông ta vọt lên, anh em ta phục sẵn tóm gọn. Chính vì vậy ở đây mới có câu ca: “Bức mấu, dò giông, nuôi ong đuổi thỏ, đẽo đòn gánh”.

        Mấu là loại vỏ cây rừng có thể dùng để ăn trầu. Còn giông, ong và thỏ thì mọi người để biết.

        Nhưng ở đây có một thứ quan trọng nhất thì lại thiếu, đó là nước. Lần đầu tiên cháu Lê con gái tôi lên chiến khu này, được nghe thông báo tiêu chuẩn mỗi người được một một ca nước vừa đánh răng vừa rửa mặt buổi sáng thì cháu rất lấy làm lạ. Lúc đó cháu mới ở Nha Trang lên, đâu có hiểu được đó vẫn còn tiêu chuẩn ưu tiên.

        Toàn bộ khu rừng rộng hàng chục cây số vuông nằm ở phía đông bắc Phan Thiết này chỉ có hai hồ nước nhỏ được gọi là hồ Ông và hồ Bà. Hồ Ông dài chừng hai cây số chỗ rộng khoảng ba trăm mét, chỗ hẹp chừng một trăm mét. Hồ Bà nhỏ bằng nửa hồ Ông. Địch biết ta hoạt động trong khu rừng này nên chúng tìm đủ mọi cách tiêu diệt lực lượng của ta. Chúng hay đánh vào khu vực quanh hai hồ nước này bằng bom pháo và cả bộ binh, nên ta cũng không đóng quân gần hai hồ nước này được. Mỗi khi đi lấy nước, anh em ta phải đi mất một tiếng đồng hồ, khi về phải mang nước nặng nên thường đi mất hai tiếng đồng hồ. Đó là điều kiện bình thường, nếu gặp địch phục hoặc bị lạc thì có thể mất một ngày mới có thể lấy được một chuyến nước, mà số nước mang về cũng không còn bao nhiều vì bị đạn bắn rách túi hoặc gai cào thủng túi ni-lông, nước rò rỉ mất khá nhiều.

        Một lần anh em ta đi lấy nước, trong đoàn có một chiến sỹ nữ trong nhóm trinh sát, tên cô là D. Lúc đó cô đã mười tám tuổi nhưng người rất nhỏ và gầy. Bố cô là người miền Bắc, mẹ cô quê ở Phan Thiết. Bộ phận đi lấy nước không may lọt vào ổ phục kích của địch, cô D bị địch bắn gãy chân ngay từ loạt đạn đầu. Biết là không có cách nào chạy thoát được vòng vây của địch, mặc cho máu chảy đầm đìa, cô nằm lăn ra úp mặt xuống đất giả chết. Bọn địch tưởng thật liền rút dao găm cắt một bên tai của cô để mang về đồn lĩnh thưởng. Dù đau buốt đến tận cùng, nhưng với sức chịu đựng phi thường, cô đã lừa được bọn địch. Khi chúng rút đi, lực lượng của ta đã quay lại cứu thoát. Sau ngày đất nước thống nhất, một chiến sỹ ta do khâm phục sự dũng cảm ngoan cường đã đem lòng yêu thương cô D, họ đã nên duyên chồng vợ. Hiện nay vợ chồng con cái cô D đang sống hạnh phúc ở thị xã Phan Thiết.

        Trong cánh rừng này không chỉ có bộ đội mà còn có các xã: Hồng Liêm, Hồng Kiệm và Hồng Chính... Trong đó xã Hồng Liêm là xã được nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Sau này, quân Mỹ dùng xe ủi những đường ô vuông cách nhau năm trăm mét, rộng một trăm mét hòng kiểm soát sự hoạt động của ta trong cánh rừng này, nhưng chúng mới ủi được một số đường thì ta giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 01:06:06 am

        Sau hai năm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy liên tục, lực lượng của ta ở Khu 6 bị tiêu hao, giảm sút đáng kể. Địch bị tổn thất nhiều, chúng kịp thời bổ sung, chi viện để cố giành giật quyết liệt với ta tại địa bàn xã, ấp và ra sức ngăn chặn ta từ bên ngoài với kế hoạch “Bình định đặc biệt”, đến tháng 4 năm 1971 thì chuyển sang kế hoạch “Bình định phát triển giai đoạn 1. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tăng cường khả năng tự vệ, tự quản, tự túc, củng cố và mở rộng vùng an ninh, mở rộng lấn chiếm ra vùng tranh chấp, vùng giải phóng, gom hết số dân còn lại vào vùng kiểm soát của chúng; tăng cường xây dựng ngụy quân , ngụy quyền tổ chức các đoàn thể phản động để chống lại ta. Đồng thời, chúng khôi phục tuyến đường sắt để chuyển quân, chuyển hàng, và cũng để tạo phòng tuyến ngăn chặn ta từ vùng núi xuống đồng bằng ở hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận.

        Về phía ta, nhiệm vụ đánh phá kế hoạch bình định trên toàn Miền gặp không ít khó khăn. Trung ương Cục và Quân uỷ Miền tiếp tục ra nhiều chỉ thị về nhiệm vụ đánh phá bình định bằng cách đẩy mạnh tiến công trên ba mũi, xây dựng thực lực trên ba vùng, trước hết đánh sập lực lượng kìm kẹp của địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ ở cơ sở xã, ấp ở nông thôn, mở rộng phong trào đến thành thị, giữ vững các địa bàn căn cứ, các trục đường hành lang, làm thất bại kế hoạch bình định của địch.

        Đầu năm 1971, theo quyết định của Thường vụ Trung ương Cục, tôi được chuyển lên thành Khu uỷ viên chính thức của Khu uỷ Khu 6.

        Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền, đầu tháng 3 năm 1971, Quân khu 6 đã mở một đợt tiến công đồng loạt vào các mục tiêu của địch nhằm phối hợp với các chiến trường chung của toàn Miền, với Mặt trận Đường 9 – Nam Lào, đông bắc Cam-pu-chia.

        Tại trọng điểm Bình Thuận, các tiểu đoàn 840, 842 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 33 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương đã đánh nhiều trận, diệt và đánh thiệt hại nặng năm đại đội và mười hai trung đội địch. Ở Thuận Phong, Tiểu đoàn 186 đột nhập vào ấp Gò, đánh quân giải toả diệt nhiều bộ binh và cơ giới địch. Đêm ngày 22 tháng 3, đặc công Quân khu đánh và căn cứ Sông Mao lần thứ bảy, diệt một trăm năm mươi tên địch.

        Tại Lâm Đồng, ta đánh tiêu diệt hậu cứ liên đội bảo an Quang Trung, phá khu ấp Việt Kiều ở sát thị xã Blao, đánh địch ở các ấp Tân Lạc, Liên Đầm, Đồng Lạc trên đường 20.

        Tại Ninh Thuận, ta đánh diệt một đoàn bình định ở Nhuận Đức, đánh phá giao thông trên đoạn đường 11 Tháp Chàm.

        Tại Tuyên Đức, Bình Tuy, ta vừa diệt ác, phá ấp, diệt viện vừa tuyên truyền, móc nối cơ sở cách mạng. Ngoài việc tiến công tiêu diệt địch, từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1971, toàn khu đã xoá được 63 ấp trắng và nối lại hàng trăm cơ sở bị đứt liên lạc, tạo một chất lượng mới cho phong trào ở cấp cơ sở.

        Thời kỳ này ta đánh mạnh ở Đường 9 - Nam Lào. Ở Cam-pu-chia, cuộc hành quân Chen La 1 và Chen La 2 của địch cũng bi bẻ gãy, khiến địch phải căng ra chống đỡ đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở cơ sở phát triển mạnh.

        Ở Sài Gòn, chế độ ngụy quyền tổ chức bầu cử hạ viện và tổng thống ngụy. Để đấu tranh chống phá cuộc bầu cử này, từ đầu tháng 8 năm 1971, phong trào đấu tranh vũ trang và chính trị của ta đã diễn ra rất sôi nổi từ nông thôn đến thành thị.

        Đến thời điểm này ta đã làm chủ một vùng dân cư rộng lớn với 50.662 dân, vùng tranh chấp gồm 77.673 người, vùng lõng kìm gồm 122.423 người, vùng còn bi kìm kẹp là 235.000 người.

        Năm 1972, Miền tăng cường hai tiểu đoàn bộ binh cho Quân khu là Tiểu đoàn 15 và Tiểu đoàn 17 từ miền Bắc vào cùng một khung trung đoàn bộ. Trên cơ sở hai tiểu đoàn và số cán bộ đã qua chiến đấu này, Khu thành lập Trung đoàn 211 (thiếu).


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 01:08:12 am

        Để thực hiện quyết tâm chung của Miền và Nghị quyết tháng 12 năm 1971 của Khu uỷ, Thường vụ Khu uỷ và Đảng uỷ Quân khu chủ trương mở chiến dịch tổng hợp. Yêu cầu của chiến dịch là: Đánh pháp bình định ở trong điểm Bình Thuận, tiêu hao và làm tan rã lực lượng bảo an cơ động, dân vệ, cảnh sát, phá lỏng, phá bộ máy kìm kẹp, bung dân về khôi phục vùng giải phóng cũ, mở thêm những lõm giải phòng mới, nâng thế làm chủ nhiều mức trên đại bộ phận nông thôn còn lại, phát triển cơ sở và đưa phong trào thị xã, thị trấn lên một bước mới, cắt giao... góp phần chia lửa với các chiến trường trong toàn Miền.

        Trong hai tháng 6 và 7 năm 1972, ta liên tiếp có những trận tập kích vào Camp Êsépíc, vào thị xã Phan Thiết, căn cứ Sông Mao và các chi khu Hải Ninh, Hoà Đa, Thiện Giáo, tiến công phá rã một số ấp chiến lược, đưa 32.000 dân lên làm chủ, phá lỏng rã kìm 65.000 dân, vận động rã ngũ 560 bảo an, dân vệ, 350 phòng vệ dân sự. Ở Tuyên Đức, Tiểu đoàn 810 và Đại đội 816 tiến công địch ở các ấp Phú Sơn, Gia Thanh, Đa Huynh; mở rộng đường hành lang từ căn cứ tỉnh Lâm Đồng qua đường 21 kéo dài đến Nam Ban, vùng bàn đạp tây nam thị xã Đà Lạt; trong thành phố, biệt động và tự vệ mật diệt được một số ác ôn.

        Trên toàn miền Nam, địch bị thua đau trong cuộc tiến công chiến lược và bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, nên từ mùa thu năm 1972, đế quốc Mỹ đã buộc phải chuẩn bị để ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.

        Ở chiến trường Khu 6, từ giữa tháng 7 năm 1972, địch đã điều một số lực lượng cơ động, tăng cường cho lực lượng tại chỗ và bắt đầu phản kích. Lực lượng Quân khu tuy được Bộ tư lệnh Miền tăng cường cho hai tiểu đoàn bộ binh (15,17) và trung đoàn bộ nhẹ ghép thành Trung đoàn 211 (thiếu), nhưng quân số và vũ khí trang bị đều rất thiếu.

        Tháng 10 năm 1972, được hướng dẫn của trên, Quân khu đã động viên các lực lượng đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng nông thôn; đồng thời khẩn trương xây dựng các mặt chuẩn bị cho kế hoạch thời cơ khi có giải pháp chính trị.

        Sau thời gian này, trọng điểm hoạt động của ta chuyển về phía nam (từ khu vực Tam Giác của Bình Thận qua Tánh Linh – Hoài Đức của Bình Tuy và lên đường 20 phía nam đèo Blao của Lâm Đồng), nhằm mở rộng vùng giải phóng toàn tuyến hành lang từ Miền về Quân khu. Ta còn điều Tiểu đoàn 840 từ bắc Bình Thuận vào địa bàn đường số 8 Tam Giác, Tiểu đoàn 186 vào Tánh Linh – Hoài Đức, Tiểu đoàn 200c từ Bình Thuận lên khu vực Đa Oai (Lâm Đồng), Trung đoàn 211 (thiếu) đứng chân hoạt động ở đoạn nam đèo Blao trên đường 20 của Lâm Đồng.

        Đêm 14 tháng 10 năm 1972, Tiểu đoàn 200c đặc công (thiếu) tập kích tiêu diệt chi khu Đa Oai, một cứ điểm khá kiên cố từ lâu khống chế đoạn đường 20 và bảo vệ cầu Đa Oai. Ta đã đánh sập cầu Đa Oai. Sáng 15 tháng 10, Trung đoàn 211 (thiếu) đánh địch tiếp viện từ tiểu khu Lâm Đồng vào. Trận đánh diệt viện diễn ra ngay tại chân đèo Blao. Ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an, làm chủ đoạn đường 20 từ nam đèo Blao đến nam cầu Đa Oai trong nhiều ngày. Ta thực hiện đúng ý đồ “đánh điểm diệt viện”.

        Trước ngày ngừng bắn, địch cũng liên tục phản kích quyết liệt. Chúng bắt dân sơn cờ ba sọc của ngụy lên bờ tường, nóc nhà hòng xác định chủ quyền. Ta chủ trương đánh đến đâu treo cờ tới đó. Lực lượng chủ lực Khu 6 đánh vào Bình Tuy để diệt địch ở Hoài Đức, Tánh Linh. Một số bộ phận của cơ quan Khu bộ và các đơn vị nhỏ, rút một số cán bộ chiến sỹ trong các cơ quan ra hình thành tổ chức đơn vị mới để tham gia chiến đấu. Lực lượng tăng gia sản xuất cũng được khẩn trương điều về chiến đấu giành đất, giành dân, cắm cờ giữ đất. Ta chiếm được nhiều xóm, ấp trên đường số 8 như các ấp Bình Lâm, Bình An, Lệ Hoà, Đại Thiện, thị trấn Mường Mán. Cho đến khi ký hiệp định, ta không những vẫn giữ được vùng giải phóng mà còn mở rộng thêm. Ta và địch tranh chấp nhau từng tấc đất. Máu chiến sỹ ta vẫn đổ khi mà hoà bình dường như đang ở trong tầm tay. Có đoạn ta cắm cờ ngay giữa cánh đồng, anh em ta đào hầm hố trụ lại để bảo vệ cờ. Bọn địch điên cuồng tung quân lấn chiếm nhưng lấn đến đâu đều bị đánh đến đó. Không những chúng không lấn thêm được mà lại bị mất thêm khá nhiều đất.

        Cuối tháng 12 năm 1972, hòng ép ta phải ký Hiệp định Pa-ri theo những điều khoản do phía Mỹ quy định, đế quốc Mỹ ồ ạt tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 tập trung đánh phá huỷ diệt Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Nhưng ta đã thắng, địch đã thua. Đế quốc Mỹ đã phải xuống thang ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Pa-ri, rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam...”

        Trích: Thương tướng Nguyễn Trọng Xuyên, Nhớ về chiến trường Khu 6, (Hồi ức – Vũ Hải Đăng, thể hiện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội – 2004, tr. 150-240.


Tiêu đề: Re: Tướng lĩnh QĐND VN qua hai cuộc chiến tranh
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 01:26:57 am
   
MỤC LỤC

1.   Đại tướng Nguyễn Quyết (Nguyễn Tiến Văn)
2.   Đại tướng Chu Huy Mân (Chu Văn Điều)
3.   Đại tướng Hoàng Văn Thái: (Hoàng Văn Xiêm)
4.   Thượng tướng Nguyễn Hữu An
5.   Thượng tướng Hoàng Cầm (Đỗ Văn Cẩm)
6.   Trung tướng Nguyễn Đệ (Ba Trung)
7.   Thiếu tướng Huỳnh Công Thân (Huỳnh Công Mến).
8.   Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương:
9.   Đại tướng Lê Trọng Tấn (Lê Trọng Tố)
10.   Thượng tướng Song Hào (Nguyễn Văn Khương)
11.   Trung tướng Vương Thừa Vũ (Nguyễn Văn Đồi)
12.   Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên

HẾT