Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:33:10 pm



Tiêu đề: Từ một quyết tử quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:33:10 pm

        - Tên sách: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
        - Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2005
        - Số hoá: ptlinh, phonglan

VŨ LĂNG
(1921 - 1988)

        Chính tên là Đỗ  Đức Liêm, sinh ngày 4 tháng 8 năm 1921 trong một gia đình lao động tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.

        Từ năm mười sáu tuổi đã phải đi làm thợ kiếm sống, sau làm y tá tại bệnh viện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (nay là Nam Hà).

        Cách mạng tháng Tám thành công (1945), được cử đi học ở Trường Quân chính Việt Nam. Tháng 11 năm 1945, tham gia đoàn quân Nam tiến khi giặc Pháp gây hấn ở sài Gòn, rồi lần lượt mở rộng chiến tranh ra toàn miền Nam và Nam Trung Bộ. Đơn vị do ông chỉ huy đã chiến đấu tại chiến trường Khu 6, thuộc tỉnh Thuận Hải ngày nay. Trong chiến đấu, ông đã có nhiều thành tích, và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2 năm 1947.

        Sau đó, được điều động ra Bắc, ông lần lượt đảm nhiệm nhiều chức vụ chỉ huy và công tác đảng quan trọng, như Trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98, Đảng ủy viên Trung đoàn. Trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 5 năm 1954, ông là Tham mưu trưởng Sư đoàn 316.

        Hòa bình lập lại, năm 1956, ông được cử sang Liên Xô học ở Học viện Bộ Tổng Tham mưu mang tên Vô-rô-xi-lốp. Đến kháng chiến chống Mỹ, ông được Đảng và Chính phủ lần lượt giao cho nhiều nhiệm vụ quan trọng và đã góp phần to lớn vào các công tác chỉ huy chiến đấu trên nhiều mặt trận, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ chiến đấu, đào tạo cán bộ quân sự. Trên cơ sở những đóng góp to lớn đó, ông đã được Quốc hội và Chính phủ lần lượt phong quân hàm Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1986), và được tặng thưởng nhiều huân chương cao quý.

        (Trích " Danh nhân lịch sứ Việt Nam " tập III, Nhà xuất bản Giáo dục)



LỜI PHÁT BIỂU CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỀ THƯỢNG TƯỚNG VŨ LĂNG

        Hai cuộc trường kỳ kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã sản sinh ra những vị tướng vừa có phẩm chất vừa có tài năng trưởng thành từ cơ sở. Vũ Lăng từng đảm nhiệm cấp tiểu đoàn ngay từ những ngày Thủ đô Hà Nội đứng lên kháng chiến. Tiếp theo đó đã từng qua cấp trung đoàn rồi sư đoàn – trung đoàn ở Điện Biên Phủ sau là sư đoàn, tiếp đến là Phó Tư lệnh Quân khu 4, Tư lệnh B3 (Tây Nguyên), Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, rồi Quân đoàn trưởng, cuối cùng là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy là Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 - quân đoàn trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã dành chiếm bộ tổng tham mưu ngụy.

        Vũ Lăng không những là một vị tướng quân sự giỏi mà còn là một nhà nghiên cứu khoa học quân sự đã từng đảm nhận trách nhiệm Phó Cục trưởng Cục Khoa học quân sự, Phó Viện trưởng Viện Khoa học quân sự, và đã có thời gian là Cục trưởng Cục Tác chiến - cục quan trọng nhất trong Bộ Tổng Tham mưu và cuối cùng là Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt trong một thời gian dài.

        Như vậy là đã lập được chiến công trên mặt trận trong hầu hết các chiến dịch từ Biên Giới đến Điện Biên Phủ, cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh và trong nghiên cứu khoa học quân sự; làm tác chiến đã có những đề xuất, những ý kiến sắc sảo, tỏ ra có trí tuệ sáng tạo tốt.

        Vũ Lăng lúc làm việc có quyết tâm cao, bất cứ trong hoàn canh nào, thuận lợi hay khó khăn đều hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cho nên được các bạn đồng đội các bạn chỉ huy rất là mến phục, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân rất tốt.

        Tôi nhớ mãi những năm tháng làm việc với Vũ Lăng, tôi làm việc gần như thường xuyên. Vũ Lăng là một trong những cán bộ mà khi giao việc thì tin là nhiệm vụ được hoàn thành. Vũ Lăng là con người như thế.

        Vũ Lăng mất đi nhưng đã để lại một tấm gương sáng cho cán bộ trong toàn quân ta, cán bộ lực lượng vũ trang.

        Chị và các cháu tự hào về chồng về cha của mình, càng phải sống cho thật là xứng đáng.

        Riêng tôi, tôi cứ nhớ mãi: Vũ Lăng trên cương vị là Trung đoàn trưởng đánh đồi C1 ở Điên Biên Phủ. Đương nhiên trước đó Vũ Lăng đã có kinh nghiệm lúc là Trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô chiến đấu ở  Liên khu 1. Vũ Lăng, Vũ Yên tất cả tôi còn nhớ, nhớ cả lúc tác chiến  ở Tây Nguyên. Lúc đầu Tư lệnh là ông Thảo, Vũ Lăng phó, lập Quân đoàn 3, Vũ Lăng là Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 thì Quân đoàn này nhất định là sẽ  thắng Trong lúc Lê Trọng Tấn là cánh quân phía Đông đánh vào chỗ Dương Văn Minh thì cánh quân này đánh vào bộ tổng tham mưu ngụy. Hôm gặp Vũ Lăng ở Liên Xô, có cả chị nữa (xúc động khóc), tôi cho rằng có lẽ bệnh chữa như thế là tốt, tôi mừng, tôi nói:

        - Cậu chữa bệnh rồi về làm việc.

        Không ngờ sau đó bệnh lại rồi mất. Tôi rất thương Vũ Lăng, rất quý và rất thương.

Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2001       
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP             

        (Trả lời phỏng vấn của Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, khi xây dựng phim "Thượng tướng Vũ Lăng ")


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:39:27 pm

THƯỢNG TƯỚNG VŨ LĂNG
MỘT CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRUNG KIÊN GƯƠNG MẪU

Đại tướng CHU HUY MÂN       

        Theo yêu cầu xây dựng và chiến đấu, mùa Xuân năm 1952, đồng chí Vũ Lăng được cấp trên điều động về nhận nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 thuộc Đại đoàn 316. Trên hai năm chiến đấu gần gũi nhau và nhiều năm sau đó. Chúng tôi thường gặp nhau trên các chiến trường và trong các hội nghị, Vũ Lăng để lại trong tôi những nét đẹp đẽ và khó quên về tình đồng chí và tình bạn chiến đấu.

        Chiến dịch Hòa Bình kết thúc, quân viễn chinh Pháp bị thất bại nặng phải rút về đồng bằng. Sau trận đánh chống càn quét ở chiến trường Bắc Ninh, Trung đoàn 98 được lệnh rút về hậu phương gấp rút, chuẩn bị mọi mặt để tiến lên chiến trường Tây Bắc. Vũ Lăng về nhận nhiệm vụ trong điều kiện khẩn trương, khó khăn thiếu thốn. Buổi tiếp xúc ban đầu là làm công việc củng cố tổ chức, biên chế huấn luyện chiến kỹ thuật, bồi dưỡng cán bộ, củng cố tổ chức cơ sở Đảng, nhằm nâng cao sức chiến đấu của đơn vị, sẵn sàng hành quân nhận nhiệm vụ ở chiến trường xa.

        Thời gian tiếp xúc ngần ngủi, tôi thấy ở Vũ Lăng một cán bộ đáng tin cậy.

        Sau thời gian chuẩn bị theo ý định trên, Đại đoàn 316 hành quân lên chiến trường Tây Bắc, bắt đầu từ chiến trường Tây Bắc qua Thượng Lào rồi đến Điện Biên Phủ.

        Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Đại đoàn 316 nhận nhiệm vụ hướng đông của tập đoàn cứ điểm của quân viễn chinh Pháp. Trung đoàn 98 được phân công đánh cứ điểm C1. Sau trận mở màn chiến dịch, đơn vị bạn tiêu diệt quân địch trên đồi Him Lam thắng lợi, đến lượt Trung đoàn 98 tiến công tiêu diệt địch trong cứ điểm C1. Quân địch bị uy hiếp từ trung tâm mạnh, từ phía đông tiến ra phản kích liên tiếp, cuộc chiến dấu giành giật từng tấc đất giữa ta và địch trở lên quyết liệt. Trong thử thách gay go này, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 đã tỏ rõ ý chí chiến thắng, tinh thần dũng cảm mưu trí. Bộ Tư lệnh Đại đoàn chúng tôi biết được tâm lý Vũ Lăng lúc khó khăn không đòi hỏi gì hơn là những lời động viên kết hợp với những nhắc nhở ngắn gọn. Qua chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng tôi và cả đội ngũ cán bộ quân đội trong chiến dịch này may mắn được thử thách, trưởng thành một bước khá vững chắc.

        Trong chiến đấu và xây dựng, Vũ Lăng thường đòi hỏi nghiêm túc cán bộ cấp dưới và từ cán bộ đến mọi chiến sĩ tỏa ra trong đơn vị phải ra sức rèn luyện, trở thành một người có bản lĩnh chính trị, kỹ năng chiến đấu. Cán bộ các cấp phải quan tâm đơn vị, đoàn kết chặt chẽ .

        Khi mới về Trung đoàn 98, có lần bất chợt tôi bắt gặp Trung đoàn trưởng đang nói chuyện cho cấp dưới về tinh thần trách nhiệm, về tác phong của người chỉ huy, quản lý đơn vị. Trong giờ lên lớp và huấn luyện, thái độ rất nghiêm túc, có lúc nóng nảy. Nhưng trong giờ nghỉ, sinh hoạt bình thường thì chuyện trò vui vẻ, có lúc xưng hô bình đẳng " tớ, cậu ".  Cán bộ cấp dưới vừa phải nghiêm túc giữ kỷ luật, vừa phải thoải mái và tin yêu.

        Một cán bộ chỉ huy nhưng rất chăm lo đến công tác đảng, công tác chính trị. Trung đoàn trưởng thường không hài lòng với các cán bộ đảng viên thiếu gương mẫu trước quần chúng. Mỗi lần nói chuyện với cán bộ, đảng viên về chính trị, tư tưởng, Vũ Lăng thường nhắc nhở nhấn mạnh: vật chất, trang bị kỹ thuật rất quan trọng và cần thiết nhưng quyết định chiến thắng phải là con người có lý tưởng, dũng cảm và sáng tạo mới biến thành hiệu quả công tác và hiệu suất chiến đấu.

        Vấn đề đoàn kết quân dân và kỷ luật nghiêm chỉnh trong quan hệ với quần chúng, thường xuyên được Vũ Lăng chăm lo. Những lúc trú quân ở nhà dân, bộ đội đi vào vùng dân tộc thiểu số, được giáo dục nghiêm túc, đòi hỏi mọi cán bộ phải thật gương mẫu chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước, những quy định của địa phương, của Tổng cục Chính trị, nhất là những vùng nhạy cảm về chính trị. Công tác vận động quần chúng là một nội dung cơ bản trong sinh hoạt chính trị của đơn vị.

        Trong sinh hoạt định kỳ hay bất thường của cấp ủy, trong những cuộc họp tổng kết chiến dịch, chiến đấu, Vũ Lăng bao giờ cũng có chính kiến của mình, tranh luận sôi nổi, chất hùng biện pha lẫn chất nóng nảy để phân biệt đúng sai, có lúc người ngoài cuộc hoặc chưa quen với phương pháp phê bình có thể hiểu lầm động cơ không chính xác. Nhưng qua tập thể dân chủ thảo luận, đúng sai rõ ràng, và những khi có kết luận của người chủ trì hoặc của cấp trên thì con người đấu tranh thẳng thắn không khoan nhượng ấy lại nhanh chóng nắm bắt chân lý đưa vào thực tiễn cuộc sống chiến đấu.

        Qua sinh hoạt và chiến đấu, cuộc đời binh nghiệp của Thượng tướng Vũ Lăng đúng là sáng đẹp cả đức độ và tài năng, đáng để cho con cháu và thế hệ sau kế thừa trân trọng.

Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2000       
C.H.M                           


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:45:29 pm
             
MỘT CON NGƯỜI TÌNH CẢM

Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân HOÀNG MINH THẢO        

        Tôi đã sống và công tác với anh Vũ Lăng ở Học viện Quân sự Trung cao cấp ở Hà Nội đầu năm 1960.

        Anh có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ kinh nghiệm chiến đấu dó, lại có trình độ lý luận, anh đã giúp cho học viện biên tập tài liệu giảng dạy tốt, hướng dẫn giáo viên giảng dạy có chất lượng. Năm 1975, anh đã cùng tôi tham gia chỉ huy trận đánh Buôn Ma Thuột. Anh đã hướng dẫn cơ quan tham mưu soạn thảo phương án, kế hoạch tác chiến và trận đánh đã giành được thắng lợi giòn giã.

        Do có trình độ lý luận quân sự, năm 1986, anh là một trong số các đồng chí được phong hàm Giáo sư khoa học quân sự lần đầu tiên của quân đội ta, và sau đó anh có tham gia biên soạn cuốn: " Lịch sừ nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, từ năm 1945 đến năm 1975 " với cương vị Phó chủ tịch Hội đồng chỉ đạo.

        Phụ trách Viện trưởng Học viện Lục quân, anh là một trong những người đầu tiên đề xuất để bồi dưỡng, đào tạo nghiên cứu sinh khoa học quân sự để nghiên cứu, phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tôi ở với anh không nhiều, nhưng rất mến anh, hai anh em đoàn kết công tác với nhau tốt, anh tính thẳng thắn, cương trực, có lúc có thái độ hơi nóng nảy đối với những ý kiến không đúng, nhưng lại là con người có tình cảm với anh em. Do đó trong quan hệ công tác anh em vẫn quý mến anh.

Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 1999                                
Thượng tướng, Giáo sư Nhà giáo nhân dân HOÀNG MINH THẢO


ANH VŨ LĂNG TRONG MÙA XUÂN NĂM 1975

Thượng tướng ĐẶNG VŨ HIỆP        

        Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975:

        Khối chủ lực Mặt trận Tây Nguyên do anh Vũ Lăng làm Tư lệnh đã làm xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên.

        Quân đoàn 3 mà anh Vũ Lăng làm Tư lệnh đầu tiên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn1.

        Trong chiến dịch Tây Nguyên, anh Vũ Lăng là Phó Tư lệnh chiến dịch đã giúp đồng chí Tư lệnh (Hoàng Minh Thảo) trong công việc chỉ huy chung và trực tiếp đi tăng cường chỉ huy cho Sư đoàn 10 trong trận đánh tiêu diệt sư đoàn 23 ngụy đến phản kích trên đường 21 (trong vòng năm ngày từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 3, bằng bốn trận đánh trên đoạn đường dài năm mươi cây số ) - một chiến thắng thúc đẩy kẻ địch buộc phải rút lui nhanh chóng khỏi Tây Nguyên.

        Ngoài những công việc trên, trong đóng góp của anh Vũ Lăng vào chiến thắng lịch sử của chiến dịch Tây Nguyên - chiến dịch mở đột phá khẩu chiến lược, phải kể đến công lao của anh trong công tác chuẩn bị chiến dịch này. Đầu năm 1974, anh được trên bổ nhiệm làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên thay anh Hoàng Minh Thảo. Trước khi vào chiến trường, anh Vũ Lăng được lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu gợi ý sơ bộ về hướng nhiệm vụ tác chiến năm 1975. Ý đồ chiến lược và nhiệm vụ của khối chủ lực Tây Nguyên được sáng tỏ dần. Anh Vũ Lăng đã tập trung sức chỉ đạo:

        - Tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, huấn luyện bộ đội.

        - Kiện toàn biên chế tổ chức lực lượng.

        - Chuẩn bị hậu cần, kỹ thuật.

        - Thiết bị chiến trường (làm đường cơ động cho xe cơ giới trên các hướng...) nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

        Ngoài ra còn một công việc quan trọng cần phải nói tới là chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến dịch.

        Do tình hình phát triển rất mau lẹ nên trong vòng năm tháng, Bộ đã ba lần thay đổi nhiệm vụ đối với Mặt trận Tây Nguyên:

        Tháng 9 năm 1974, mở chiến dịch Nam Tây Nguyên khu vực tác chiến chủ yếu là Đức Lập.

        Tháng 11 năm 1974 điều chỉnh bổ sung nhiệm vụ:

        - Diệt làm bị thương bốn đến năm vạn địch ( có từ ba đến bốn trung đoàn bộ binh thiết giáp).

        - Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.

        Cuối tháng 1 năm 1975 ( sau chiến thắng Phước Long ), giao nhiệm vụ mới:

        - Diệt bốn đến năm trung đoàn bộ binh, một đến hai trung đoàn thiết giáp, đánh quỵ hoặc diệt sư đoàn địch. Đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy.

        - Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn ba tỉnh: Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức, mở rộng hành lang chiến lược xuống Đông Nam Bộ và các tỉnh nam Khu 5.

        Phạm vi chiến dịch gồm ba tỉnh trên, trọng điểm là Đắc Lắc, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Mỗi lần thay đổi nhiệm vụ lại gần như phải làm lại từ đầu: từ xây dựng phương án, kế hoạch tác chiến chiến dịch, đến thiết bị chiến trường, tổ chức mạng lưới bảo đảm hậu cần... với khối lượng công việc rất lớn và thời gian không nhiều.

        Anh em chúng tôi, mà nòng cốt là anh Vũ Lăng, đã làm tốt công việc đó. Quyết tâm và kế hoạch chiến dịch được đồng chí Văn Tiến Dũng - đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng phê chuẩn vào giữa tháng 2 năm 1975.

        Diễn biến về thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã rõ, xin không nói lại.

        Trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn:

        Sau chiến thắng Tây Nguyên, khối chủ lực Mặt trận Tây Nguyên được tổ chức lại thành binh đoàn cơ động mang danh hiệu Quân đoàn 3 ( anh Vũ Lăng được giao nhiệm vụ Tư lệnh quân đoàn ). Quân đoàn được lệnh tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn và đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu nhất từ tây bắc vào Sài Gòn với nhiệm vụ:

        - Tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, thực hiện chia cắt địch, bao vây tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy không cho sư đoàn này co về Sài Gòn.

        - Tổ chức lực lượng binh chủng hợp thành ( cấp sư đoàn ) đột kích đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, hiệp đồng với đơn vị bạn đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy và Dinh Độc Lập; đánh chiếm và làm chủ quận 3, ổn định trật tự an ninh thành phố.

        Khắc phục những khó khăn vì thời gian chuẩn bị quá ngắn, địa hình mới lạ và phức tạp, cán bộ chiến sĩ Quân đoàn 3 quán triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược, đánh giá trúng tình hình địch ta, thống nhất hoàn toàn với cách đánh của chiến dịch, chấp hành nghiêm túc kế hoạch và mệnh lệnh chiến đấu của quân đoàn, đã phát huy ý chí quyết thắng, sáng tạo có cách đánh phù hợp va hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao... Trên cơ sở đó đã góp phần tích cực vào thắng lợi có tính chất lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Trong chiến công to lớn đó của quân đoàn, anh Vũ Lăng đã có phần đóng góp xứng đáng quan trọng trên cương vị Tư lệnh.

        Tóm lại, trong thời gian chuẩn bị bộ đội, chuẩn bị chiến trường cho mùa Xuân đại thắng và trong các chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh, anh Vũ Lăng đã tỏ rõ những bản chất tốt đẹp: có quyết tâm cao và vững chắc, khắc phục mọi khó khăn, chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh của trên, có kiến thức sâu rộng về khoa học nghệ thuật quân sự, có năng lực tổ chức chỉ huy tốt, có phong cách dân chủ, sâu sát, tỷ mỷ, cụ thể, có tinh thần đoàn kết tốt, để lại trong lòng các đồng chí đã sát cánh chiến đấu với anh những ấn tượng đẹp đẽ khó quên.

Đ.V.H        

-----------------------
        1.Chiến dịch này được Bộ Chính trị đồng ý với đề nghị của Bộ chỉ huy chiến dịch lấy tên là "Chiến dịch Hồ Chí Minh"


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:55:18 pm

" CẬU ĐOÁN MÒ KHÁ LẮM "

Thượng tướng NGUYỄN HỮU AN1       

        …Đã vào tháng " nắng lửa mưa dầm ", anh em lao động, chiến đấu rất mệt mỏi, các cán bộ từ trung đoàn đến đại đội ngày đi đôn đốc kiểm tra bộ đội, đêm đi trinh sát hoặc họp hành để chuẩn bị việc cho hôm sau. Nhiều đêm chúng tôi phải thức trắng, ăn uống cực kỳ thiếu thốn, thức ăn chỉ có cá khô và muối, mỗi bữa mỗi người đượm chia một con cá khô bằng hai ngón tay. Về nước ăn, quả là cực hình. Hàng nghìn con người trông vào một khe suối nhỏ nông choèn, lúc nào cũng đục ngầu, người phía trên tắm rửa, người phía dưới múc nước ăn. Khát tới cháy cổ mới đành nhắm mắt uống thứ nước luôn đục lờ lờ đó .

        Trong lúc đơn vị làm đường, đào hào, ban chỉ huy trung đoàn xây dựng lại phương án tác chiến.

        Nhiệm vụ chiến đấu của trung đoàn như cũ: đánh chiếm A1.  A1 là cứ điểm quan trọng nhất trong cụm điểm cao phía đông, do một tiểu đoàn âu Phi phòng ngự, nằm cách trung tâm chỉ huy tướng Đờ - Cát  khoảng năm trăm mét. Đội hình của trung đoàn tiến công trên hai hướng: hướng chủ yếu từ đồi F phía đông nam lên cây khô, hướng kiềm chế nghi binh tiến từ phía đông sang. Trước khi chiếm lĩnh trận địa, chúng tôi sử dụng vài phân đội nhỏ quét bọn địch mới nống ra đồi Cháy và đồi F để thu hẹp phạm vi phòng ngự của địch và giành lại địa thế có lợi để đặt sở chỉ huy, đặt trận địa hỏa lực và tuyến xuất phát tiến công, xung phong.

        Kế hoạch tác chiến lần này được chuẩn bị rất kỹ, không còn phải phàn nàn gì về thời gian. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp triệu tập các trung đoàn trưởng lên thông qua kế hoạch của từng trung đoàn. Phần đông chúng tôi đang ở độ tuổi hai lăm đến ba mươi còn đang sức trẻ, gặp nhau là chuyện trò nở bung như ngô rang. Gần tới sở chỉ huy, tôi gặp Vũ Lăng. Chúng tôi vốn rất thân nhau. Nhìn thấy Vũ Lăng râu ria phủ gần kín mặt, tôi cười nói:

        - Cậu để diện mạo thế kia, Đại tướng không tiếp đâu.

        Vũ Lăng trả lời:

        - Làm việc không còn lúc nào mở mắt, thì giờ đâu mà cạo râu, tao định để xong chiến dịch cắt luôn thể.

        Đại tướng thấy tôi với Vũ  Lăng sánh vai đi tới, ông nói luôn:

        - Vũ Lăng đi cắt tóc, cạo râu đã rồi hãy vào họp - ông Giáp thân mật nói tiếp có ý căn dặn cả những người khác có mặt ở đó - Người chỉ huy dù ở hoàn cảnh nào tư thế cũng phải đàng hoàng.

        Tôi kéo tay anh Vũ Lăng chỉ cái cây để gần đó và nói đùa:

        - Ngồi xuống, tôi đi gọi thợ cạo làm lông cho. Tôi đã nói rồi: đây là bài học nhớ đời nhé!

        Vũ Lăng đưa tay vuốt chòm râu xồm, vừa ngửa mặt lên trời cười to:

        - Cậu đoán mò khá lắm.

        Xong việc, chúng tôi vào cuộc họp. Nhìn mọi người, từ Đại tướng trở xuống, người nào cũng gầy guộc xanh xao, nhưng mọi người đều vui vẻ, lạc quan, tự tin.

        Tôi được chỉ định báo cáo đầu tiên. Bản kế hoạch tác chiến của trung đoàn đã vào trí nhớ của tôi tới mọi chi tiết điểm nào cần nhấn mạnh, điểm nào cần lướt qua, tôi báo cáo khá mạch lạc trơn tru. Tổng tư lệnh không bổ sung điều gì, ông chỉ đặt một số câu hỏi có tính chất kiểm tra, đại loại: " Đi trinh sát mấy đêm? Có chui vào đến hàng rào thứ nhất chưa? Nếu hướng chủ yếu vừa vượt qua cửa mở bị địch phản kích đánh bật ra? Nếu đánh đêm chưa giải quyết xong, ban ngày địch đưa lực lượng có xe tăng tới phản kích vào sau lưng?...".

        Tôi giải đáp hết các tình huống vừa đặt ra xong, Đại tướng hỏi câu cuối cùng: .

        - Anh còn đề nghị gì nữa không?

        Tôi nói:

        - A1 là cứ điểm rất cứng mà trên chi viện có một trăm viên đạn pháo 105, như vậy ít quá.

        Đại tướng nói:

        - Được. Tôi cho anh thêm năm viên nữa.

        Bây giờ, mỗi lần nhớ lại chiến dịch Điện Biên phủ, với hoàn cảnh nghèo, vị Tổng tư lệnh phải chia từng viên đạn pháo cho các trung đoàn, càng thấm thía cái thắng lợi vĩ đại mà quân và dân mình đã giành được.

        Vì thiếu đạn pháo trong quá trình chiến dịch, địch thả dù tiếp tế, tôi cho anh em đi thu nhặt dù. Khi kiếm được đạn pháo 105, có anh đã " ăn gian " không báo cáo lên cấp trên và đem đi " ngoặc " với đơn vị pháo chi viện, nhờ họ bắn chi viện cho đơn vị mình.

        Đào công sự xây dựng trận địa là một quá trình cực kỳ gian khổ quyết liệt dai dẳng cho tới kết thúc chiến dịch, nhất là khi đối kháng cách địch mươi mười lăm mét, hầu như không ngày nào không có thương vong. Thỉnh thoảng có trận mưa rào đổ xuống, báo hiệu mùa mưa bắt đầu. Nước mưa tràn từ trên sườn đồi xuống chứa đầy giao thông hào, chiến hào; mỗi chiến hào trở thành một con mương nhỏ đầy ắp nước, bùn và rác rưởi. Ngày đêm, chúng tôi phải lội, có khi phải bơi qua lại cái lối đi kinh khủng đó. Khổ nhất là anh em cấp dưỡng, phải dùng ni lông đùm cơm rồi bơi dưới giao thông hào...

        Các đơn vị bạn đã xung trận và giành thắng lợi mở màn chiến dịch khá vang dội. Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 1954, Đại đoàn 312 đã tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam.

        Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 và Trung đoàn 165 Đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy Đại đoàn 308 đã đánh chiếm cụm cứ điểm Độc Lập. Trong vòng hai ngày, quân ta đã tiêu diệt gọn hai trung tâm đề kháng rất mạnh ở phía bắc và đông bắc tập đoàn cứ điểm, phá vỡ thế trận ngoại vi, tiêu diệt hai tiểu đoàn tinh nhuệ của địch; mở thông hai trục hướng chính tiến vào khu trung tâm Điện Biên Phủ, đẩy cụm Bản Kéo vào thế cô lập. Đạn pháo 105 của ta chuyển làn vào Bản Kéo làm cho binh linh địch ở đây càng hoảng sợ. Hơn ba trăm lính Thái đã mang vũ khí ra đầu hàng...

N.H.A                           
Bài viết năm 1994                   
Trích sách " Ba lần tiến công đồi A1 "       
-----------------------
        1. Thượng tướng Nguyễn Hữu An:  Nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Hai, 2016, 12:41:45 am

TUỔI THƠ TỦI CỰC VÀ CHÍ LÀM TRAI

HOÀNG VIỆT HOA       

        Khi yêu anh Lăng, tôi còn quá trẻ. Anh hơn tôi mười  hai tuổi. Anh coi tôi như người em gái nhỏ bé và thường thủ thỉ trò chuyện cùng tôi. Tên thật anh là Đỗ Đức Liêm, quê ở xã Ngũ Hiệp huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Thì ra anh là người cùng quê Thanh Trì, làng tôi chỉ cách làng anh dăm cây số đường chim bay, nhưng tôi cũng như anh ít khi sống ở quê vì ông nội tôi là tuần phủ. Ba tôi là tham tá canh nông, từng làm Phó giám đốc Sở Canh nông Liên khu 3, rồi Chủ tịch ủy ban kháng chiến huyện Nam Trực, Nam Định. Năm 1951, ba tôi được điều lên công tác ở Bộ canh nông một thời gian rồi về nhà  ở Bờ Đậu, Thái Nguyên mở đồn điền có ba mươi mẫu trồng chè, vài mẫu trồng lúa.

        Tuyệt đại đa số trong dòng họ và gia đình tôi, các anh chị em đều ngả theo cách mạng, tích cực tham gia kháng chiến, nhiều người trở thành đảng viên. Bản thân tôi tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm mười bốn tuổi thoát ly gia đình từ năm 1947, sau đó được kết nạp vào Đảng.

        Anh Lăng được kết nạp vào Đảng rất sớm, từ tháng 2 năm 1947, giữa những ngày:

                                 " Hà Nội cháy khói lửa ngập trời
                                 Hà Nội hồng ầm ầm rung
                                  Hà Nội vùng đứng lên..."

        ( Nhạc Nguyễn Đình Thi )

        Anh Lăng là chỉ huy giữ Bắc Bộ Phủ, là quyết tử quân của Trung đoàn Thủ đô. Là người tổ chức Lễ quyết tử, anh lại tuyên bố là Lễ sẵn sàng chết vì Tổ quốc. Chính anh là người xông vào khó khăn nguy hiểm, chỉ huy tổ chức mở đường đưa ba ngàn đồng bào và cán bộ chiến sĩ vượt qua gầm cầu Long Biên ra với kháng chiến.

        Anh Lăng thường kể với tôi rằng anh có một tuổi thơ tủi cực và đau buồn. Cũng có niềm vui, nhưng vui ít buồn nhiều. Mới bảy tuổi đã mồ côi mẹ. Trong ký ức của anh còn in đậm bóng một người phụ nữ miền Trung, dịu dàng khéo léo, không bao giờ to tiếng với chồng, thường dạy con  phải ngoan ngoãn và có hiếu với cha mẹ. Mẹ rất khéo tay hay làm, giỏi thêu thùa, biết thêu ren, biết tết chân chỉ vào diềm màn, y môn, biết chăn tằm dệt vải. Nhà chỉ có ba anh em: anh Thanh, anh Lăng và cô Trinh, nên mẹ rất thương yêu chiều chuộng. ông thân sinh ra anh Lăng là thợ vẽ mẫu thêu giỏi, thường vẽ mẫu thêu cho các cửa hiệu ở Bắc Ninh, Hà Nội nên cũng kiếm được nhiều tiền. Anh còn nhớ có thời gian lúc bé cũng được mặc quần áo lụa, được đeo khánh bạc, khánh vàng; nhưng rồi bố anh do có tiền sinh tật, ăn chơi tiêu sài phung phí đến nỗi sa sút phá sản, khi hết tiền về nhà đánh vợ chửi con. Mẹ quá uất ức buồn rầu ốm đau mà chết. Do đó từ nhỏ anh Lăng đã rất thương mẹ và ghét những thói hư tật xấu của bố.

        Mồ côi mẹ, anh Lăng và cô Trinh ở với bác ruột, còn anh Thanh phải đi kiếm sống, bác nuôi chung với thợ thuyền trong nhà. Cha thỉnh thoảng mới gửi tiền về nên bữa no, bữa đói. Bà nội cũng cho người lên đưa về quê ở với bà vài tháng. Nói chung nay đây mai đó, lúc ở họ nội, lúc  ở họ ngoại. Nghỉ hè anh Lăng thường về nhà cậu ruột1  ở Ô Chợ Dừa, Thái Hà ấp. Cậu sớm giác ngộ cách mạng, dạy anh Lăng học những bài thơ của Nguyễn Trái, Phi Khanh. Cậu còn giao cho anh Lăng canh gác dể cậu họp bí mật. Sau cậu bị bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1936 Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền, cậu mới được tha về. Anh Lăng bị đuổi học luôn. Cửa hàng của bác bị vỡ nợ nên bác cũng chẳng cưu mang đèo bòng được gì. Anh Lăng phải bỏ nhà đi lang thang mấy năm trời. Có lúc làm phụ chữa dây thép từ Bắc Ninh ra Bí Chợ. Có lúc lên Bắc Giang giúp việc cho bác. Vài ba tháng lại ra Hà Nội dạy học tư cho con nhà giàu, nhưng cũng không ở được lâu nhà nào vì anh thẳng thắn và khái tính. Cuộc sống chật vật lay lắt khiến anh lúc đó rất chán đời cứ nằm nhà đọc sách, nhiều nhất là sách "Tự lực văn đoàn". Anh oán xã hội, oán gia đình, nhất là oán người cha không tròn trách nhiệm với vợ con và anh cũng thấm thía cảnh người dân mất nước. Do ảnh hưởng sách báo tiểu thuyết lãng mạn phù phiếm giang hồ, nên anh cũng muốn trở thành nhà văn, nhà báo được sống tự do, không phải quỳ lạy ai. Người anh họ con bác gái, nhà giàu, mở xưởng nên thường rủ rê anh Lăng đến những nơi sang trọng của giới thượng lưu Hà Nội như khách sạn Métropole, Taverne Royale v.v...

----------------------
        1.Cậu ruột: Mai Lập Đôn - Đảng viên Cộng sản những năm 30.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Hai, 2016, 12:43:16 am

        Thời kỳ đó anh Lăng hay đọc báo " Ngày nay ", thấy báo chí thường chế giễu Anh, Pháp nên cũng khinh thường hai nước này. Điều ảnh hưởng tư tưởng anh nhiều nhất là lệnh tổng động binh của Pháp. Anh chỉ sợ bị đi lính vì lúc đó anh mười tám tuổi. Anh rất ghét và có thành kiến với lính khố xanh, khố đỏ của Pháp vì khi đọc dã sử Đề Thám thấy chúng theo Tây đánh người mình nên rất ghét.

        Năm 1940, anh trai anh Lăng, lúc đó là Thư ký tòa sứ Phủ Lý lên Hà Nội gặp và gọi anh về Phủ Lý. Chán cuộc sống bấp bênh  ở Hà Nội, anh Lăng về Phủ Lý. Tự ái với chị dâu, không muốn dựa vào anh mình, anh Lăng đã đi dạy học cho mấy đứa con bác sĩ giám đốc bệnh viện tỉnh. Viên bác sĩ khuyên nên đến tập sự  ở bệnh viện tỉnh, sau này sẽ trở thành công chức nhà nước.  Ông anh cũng khuyên nên làm bàn giấy văn phòng đánh máy... Làm  ở bệnh viện ít lâu, được tiếp xúc với y tá, bác sĩ, hộ sinh  thấy cũng hay hay, lại là công việc cứu nhân độ thế, nên anh đã học thêm nghề y tá hộ sinh, từ đó trở thành công chức của bệnh viện, ăn lương công nhật, tính ra mỗi tháng được 25 đồng, cộng với tiền người anh cho ăn thêm nên cũng đủ sống.

        Từ năm 1940 đến năm 1945, anh sống đứng đắn, lịch sự không rượu chè, trai gái; chỉ ham chơi thể thao, đá bóng và quần vợt; đánh quần vợt cũng khá nên thường ra chơi  ở câu lạc bộ quần vợt của Tây. Viên công sứ thường rủ anh cùng đánh. Lúc đó do giữ ý vì mất tự nhiên hay do anh em cứ chế là " kìa mau ra hầu tổ tôm cụ lớn " nên anh cũng bực mình, không thích. Anh có giao thiệp và hay chơi quần vợt với tên xếp đoàn là Pi-nét, vì tên này xuề xòa, không trịch thượng. Hắn lại còn cho mượn truyện " Những người khốn khổ " của Vich-to Huy-gô. Sau tên này cãi nhau với công sứ, bị đổi di nơi khác.

        Thời gian này làm được tiền nên chủ nhật nào anh cũng lên Hà Nội đi chơi với người anh họ, xem chiếu bóng, đi dạ hội và ăn uống. Gặp lại bạn bè cũ thuộc giới nhà văn, nhà báo nhưng anh cũng không thấy ai nổi tiếng, cuộc sống của họ cũng chật vật nên có người cũng xoay ra nghề dạy học hay công chức.  Ông cậu thấy anh giao du với anh họ, sợ đua đòi ăn chơi nên thường gọi đến khuyên răn. Chị họ cũng thường bảo đến nhà ăn cơm và nhẹ nhàng khuyên nhủ đừng lỡ bước sa đà.

        Khi Pa-ri thất thủ, Pháp đầu hàng, chúng đóng cửa khóc rưng rức, anh thấy hả dạ, lúc đó Nhật đã ngấp nghé coi Đông Dương như một miếng mồi ngon.

        Anh Lăng nhớ lại phong trào 1930 - 1936 - 1939, thỉnh thoảng lên thăm cậu hỏi tình hình, cậu chỉ úp mở nói: Tình hình Đông Dương sẽ thay đổi lớn.

        Thế rồi Đức bất ngờ tiến công Liên Xô, mặc dù đã ký hiệp ước bất khả xâm phạm. Báo chí lúc đó hết lời ca ngợi Đức đánh chớp nhoáng mạnh như vũ bão. Anh Lăng lúc đó chưa hiểu biết nhiều về Liên Xô. Anh có đọc cuốn " Ba năm tôi  ở Liên Xô " của một tác giả phản động nào đó lại chỉ nêu Liên Xô có thất nghiệp, có mại dâm và độc tài. Bà chị họ hiểu biết khuyên anh không nên đọc loại sách đó. Do phục chị họ và cậu nên anh có cảm tình với Liên Xô. Trong một bừa cơm, xảy ra cuộc tranh luận giữa cậu với anh họ về việc Liên Xô hay Đức sẽ thắng thì anh Lăng xen vào: Na-pô-lê-ông vào đến cửa ngõ Mát-xcơ-va mà cũng thua nữa là . . . Anh Lăng cho biết thời kỳ đó anh ghét Nhật tàn sát nhân dân  ở Trung Quốc và rất khâm phục Mã Chiếm Sơn1.

        Có lẽ anh cũng được đọc bài thơ về Mã Chiếm Sơn của nhà thơ Tố Hữu.

        Thời gian khoảng năm 1943 - 1944, anh Lăng ngẫu nhiên được gặp đồng chí Trần Tử Bình. Đồng chí Trần Tử Bình lúc đó ở trạm phát thuốc Bình Lục, Phủ Lý, bị thực dân Pháp bắt, do sức khỏe yếu nên Pháp đưa về giam và chạy chữa ở  bệnh viện Phủ Lý. Đúng phiên anh Lăng trực nhật thay hộ người bạn y tá, nhưng anh Lăng lại bờ ra câu lạc bộ đánh quần vợt. Đồng chí Trần Tử Bình bẩy song sắt để trốn. Anh Lăng sợ sẽ bị Pháp bắt bỏ tù, nhưng rồi chúng đuổi bắt lại được đồng chí Trần Tử Bình. Anh Lăng đem chuyện đó kể với người cậu. Cậu bảo: " Anh còn sợ bị bỏ tù thì khó làm được cách mạng… "

        Cuối năm 1944, anh Lăng được bầu làm thư ký câu lạc bộ Hà Châu, được giữ máy ra-đi-ô nên thường nghe lén tin tức qua đài phát thanh của Mỹ phát đi từ Niu Đê-li Ấn Độ. Thấy Đức thua ở Liên Xô, Bắc Phi, Nhật thua ở Thái Bình Dương, anh rất tin tưởng thông Minh sẽ thắng.

        Ngoài ra lại mong manh nghe tin Việt Minh hoạt động ở Võ Nhai, Đình Cả, Thái Nguyên - mà thực dân Pháp lúc đó gọi là phiến loạn - anh hỏi dò ông cậu thì ông cậu nói:

        - Đó là cách mạng, cái thá anh rồi cũng lại chơi bời giống bố anh, chẳng làm lên trò trống gì đâu!

        Thấy cậu đánh giá mình như vậy, trong lòng buồn bực vì cậu khinh thường mình, nên từ đó anh cũng hạn chế việc đi chơi với người anh họ. Nhưng cũng từ đó trong lòng anh Lăng nhen lên ngọn lửa yêu nước và chí khí làm trai.

---------------------
        1. Mã Chiếm Sơn: Một chỉ huy quân đội Trung Quốc chống quân xâm lược Nhật.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Mười Hai, 2016, 12:50:14 am

        Đầu năm 1945, anh Lăng chơi thân với mấy giáo viên và anh Hoàng Quý, trưởng đoàn hướng đạo. Anh Hoàng Quý gợi chuyện rồi hỏi anh Lăng về Việt Minh ở  Đình Cả, La Hiên. Anh Hoàng Quý nói rõ hơn những điều anh biết về Việt Minh.

        Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, anh Lăng không muốn đi làm nửa. Thấy Ở Hà Nội, Việt Minh hoạt động mạnh nên anh muốn ra Hà Nội để bắt liên lạc. Anh Hoàng Quý giữ lại và cho biết anh có chân trong Đảng Dân chủ của Mặt trận Việt Minh. Anh Quý còn đưa điều lệ của Đảng Dân chủ cho anh Vũ Lăng xem.

        Lúc đó phi cơ Mỹ bắt đầu hoạt động nhiều. Tin tức đài phát thanh lại nói Nhật sẽ thất bại, do đó anh Lăng đã đồng ý gia nhập Đảng Dân chủ.

        Anh Hoàng Quý giao nhiệm vụ cho anh Lăng tuyên truyền phát triển Đảng Dân chủ trong tầng lớp công chức trẻ tuổi. Chập chững công tác ở bệnh viện, suýt bị lộ, anh chỉ tuyên truyền phát động được anh bạn Trần Văn Khôi là huấn luyện viên thể dục, đồng thời gây cảm tình được với anh ruột và mấy người bạn khác.

        Thời kỳ đó luật sư Phan Anh đã đứng ra tổ chức Thanh niên tiền tuyến.

        Anh Hoàng Quý phân công cho anh Vũ Lăng, anh Khôi và anh Hoàng Phấn gia nhập tổ chức thanh niên chống đế quốc để lợi dựng tổ chức đó. Cả ba người đều được cử làm toán trưởng ra Ngô Khê, Bình Lục hoạt động cho Đảng Dân chủ, được ba ngày thì Việt Minh đến tước mấy khẩu súng trường của lớp huấn luyện do mấy lính khố xanh mang theo cho mượn. Hai bên hợp thành đoàn tuần hành thị uy vào nhà chánh tổng Ngô Khê và các tên phản động, tịch thu lúa mà chúng cân cho Nhật, rồi đem phát cho người nghèo. Đó là ngày 17 tháng 8 năm 1945, trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám hai ngày. Theo lệnh của anh Hoàng Quý, anh Lăng và các bạn trở về Phủ Lý ngày 21 tháng 8 năm 1945.

        Anh Lăng làm thư ký cho thành bộ Đảng Dân chủ được một tháng thấy có mâu thuẫn cá nhân, đâm ra chán nản1.

        Ngày 23 tháng 9, Pháp khởi hấn ở Nam Bộ. Anh Lăng nghe ra-đi-ô trong lòng vô cùng uất hận, anh nói với anh Khôi và anh Phấn sẽ ra Hà Nội để đầu quân Nam tiến. Mấy hôm sau, gặp đoàn quân Nam tiến khí thế hiên ngang, trong lòng càng bồn chồn háo hức. Cả ba người cùng quyết tâm gia nhập Vệ Quốc đoàn. Trại Vệ Quốc đoàn tỉnh không nhận vì không có đủ giấy tờ giới thiệu. Sau cả ba rủ nhau lên Hà Nội xin vào Trường Quân chính Việt Nam, có đầy đủ giấy giới thiệu của Phủ Lý, cả ba đều được học và được cử đi Nam tiến.

        Cuối tháng 11 năm 1945, anh Lăng được tuyển đi Nam Bộ do đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm Trưởng đoàn phụ trách với bảy mươi cán bộ.

        Trên đường đi Nam tiến, anh Lăng được nhà trường phân công làm chỉ đạo viên2 trung đội 2.

        Một bộ phận anh Huỳnh Tấn Phát đi trước vào Buôn Ma Thuột. Anh Lăng phụ trách bộ phận đi sau ở lại Ninh Hòa, bị giặt Pháp tập kích, ta hy sinh chín đồng chí, trong đó có anh Khôi là bạn thân của anh Lăng. Đơn vị anh tan rã, mỗi người mỗi ngả, sau lại tập hợp được đầy đủ. Lần đầu thất trận có phần hoang mang, nhưng trong lòng mọi người đều nung nấu căm thù. Trên phân công đi tuyên truyền tổng tuyển cử thì trong lòng hết sức buồn chán, chỉ muốn ra ngay mặt trận sống chết với quân thù. Đơn vị phân tán, người trở ra Bắc, người đi chiến đấu. Anh Lăng nhập phân đội Bình Thành làm đội viên nửa tháng, lên Nhân đội phó, phân đội trưởng rồi trung đội trưởng, Phó ban huấn luyện Khu 6, Phó ủy viên quân sự Mặt trận Ninh Hòa.

        Tháng 2 năm 1946, mặt trận Buôn Ma Thuột, Nha Trang vỡ. Anh Lăng với cương vị đại đội phó lãnh đạo bộ đội định rút về Tuy Hòa, sau anh lại được lệnh trở lại Ninh Hòa phụ trách huấn luyện tiểu đoàn Quốc Trụ. Rồi Khu lại gọi về theo các đồng chí Trần Công Khanh và Cao Văn Khánh, vào tới Buôn Mạch thì anh Lăng bắt đầu đau gan nặng do muỗi rừng sốt rét lâu ngày, phải ra Huế điều trị rồi dẫn một đoàn thương bệnh binh trở ra Hà Nội.

        Năm 1946, ra đến Hà Nội, trở lại Thủ đô nằm viện ít lâu đỡ bệnh đưa về nhà. Thấy mọi người đối xử có vẻ kém nhiệt tình lại muốn trở vào chiến trường miền Nam. Vui mừng gặp lại đồng chí Trần Tử Bình. Đồng chí gửi vào Trường Võ bị khóa 1. Trường phân công làm chính trị viên trung đội, không thích, thích quân sự hơn. Bệnh gan tái phát, lại về Hà Nội điều trị. Ra viện được cử về làm đại đội phó bảo vệ Bắc Bộ Phủ - nơi Bác Hồ làm việc, anh rất sung sướng thấy được trên tin cẩn. Nhưng có lúc buồn thấy đảng viên đi họp chi bộ, còn mình vẫn cô đơn ở ngoài.Thời đó, do sĩ diện tự ái tri thức tiểu tư sản nên anh đã có tư tưởng thôi bộ đội về đi viết báo, viết truyện. Cũng đã viết truyện chiến đấu gửi cho báo Sao Vàng được nhuận bút. Nhưng sau đó lại nghĩ tới trọng trách trên có tin tưởng mới giao cho. Lúc đó trong lòng anh Lăng chỉ phục các lãnh tụ, còn đối với đồng đội thì lòng tự bảo lòng: cứ ra mặt trận đánh nhau sẽ biết ai hơn ai.

        Thế là từ khi vào bộ đội, anh Lăng mất liên lạc với Đảng Dân chủ. Sau lần ở Nam Trung Bộ ra có gặp thành bộ Đảng Dân chủ Phủ Lý và dự một buổi nói chuyện. Thời kỳ đó, anh Hoàng Quý cũng đã chuyển lên Hà Nội, anh hẹn sẽ giới thiệu với thành bộ Đảng Dân chủ Hà Nội. Rồi đồng chí Triệu ở Bắc Bộ Phủ lại nói: ai đã vào bộ đội thì không được hoạt động cho tổ chức nào nữa, từ đó thôi, cắt đứt hẳn với Đảng Dân chủ. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc trường kỳ kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Anh Lăng và đồng đội đã chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Bắc Bộ Phủ.

        Cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân Thủ đô kéo dài. Anh Lăng được phân công nhiệm vụ mới: ủy viên tác chiến phân khu Đông Kinh Nghĩa Thục. Anh cùng đồng đội và đồng bào Thủ đô đã tỏ rõ khí phách anh hùng của người Hà Nội cầm súng chống quân thù. Anh Lăng cũng như bao chiến sĩ quyết tử của Thủ đô lúc đó trong vòng vây của giặc, chỉ nghĩ đến hy sinh cho Tổ quốc. Là người tổ chức lễ quyết tử, anh tuyên bố: " Hôm nay tôi làm lễ khai tử các đồng chí. Chúng ta quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

        Sau khi tổ chức cho ba ngàn đồng bào chui qua cầu Long Biên vượt sông Hồng ra với kháng chiến, anh Lăng cùng với một số đồng đội xin ở lại ra sau, cùng nhau quay trở lại Thủ đô đặt kế hoạch treo cờ ở Tháp Rùa và Bắc Bộ Phủ. Khi thành lập Trung đoàn Thủ đô , anh Lăng được đề bạt tiểu đoàn trưởng, cũng tự thấy mình xứng đáng với chức vụ đó. Ngọn lửa cách mạng đã biến anh Lăng từ một viên chức tiểu tư sản trở thành anh lính Cụ Hồ, rồi một cán bộ chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam.

        Chính giữa lúc Pháp thắt chặt vòng vây ở Hà Nội, còn các chiến sĩ quyết tử chỉ nghĩ đến hy sinh cho độc lập tự do cho Tổ quốc thì đồng chí Lê Thản đi sát gợi ý anh gia nhập Đảng Cộng sản. Anh Lăng lúc đó đang nghĩ đến cái chết vinh quang cho Tổ quốc, nhất là sau khi nghe thư Hồ Chủ tịch: " Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ", nên anh Lăng không do dự gì, còn rất mãn nguyện được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

H.V.H.       
------------------------
        1. Đây là sự hiểu nhầm trong một phạm vi nhỏ.

        2. Chỉ đạo viên tức là chính trị viên.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2016, 04:16:31 pm

KHÔNG NGỜ NÓ LẠI ĐÁNH GIẶC GIỎI THẾ

VŨ MAI       

        Tôi với anh Vũ Lăng là hai anh em con em con cậu ruột. Mẹ anh Vũ Lăng là bác Mai Thị Thịnh, chị ruột của bố tôi1, bác Thịnh đã qua đời năm 1926, để lại cho chồng ba người con: Anh Đỗ Đức Thanh khi ấy mới chín tuổi, anh Vũ Lăng - lúc nhỏ gia đình thường kêu tên là Tẩm - mới lên năm tuổi, chị Đỗ Lệ Trinh - em gái út duy nhất của anh Vũ Lăng mới hơn một tuổi. Bố tôi là cậu ruột anh Vũ Lăng và dì Mai Ngọc Thuyết2, đã sang Bắc Ninh đón anh Vũ Lăng và chị Đỗ Lệ Trinh về Hà Nội chăm nuôi; anh Thanh lớn hơn thì để  ở với bố. Lúc đủ tuổi đi học, anh Vũ Lăng đã theo học tại một trường tư thục ở phố Hàng Bột, trường do ông Ba Xuyên, người làng Thịnh Hào mở. Năm 1929, thực hiện chủ trương đi "vô sản hóa'' của Đảng cộng sản Đông Dương, bố tôi và dì Mai Ngọc Thuyết đã rời Hà Nội xuống Nam Định, không còn điều kiện chăm nuôi anh Vũ Lăng và chị Trinh; anh Vũ Lăng về Hà Nam - Phủ Lý ở với bố và anh Thanh; chị Đỗ Lệ Trinh thì về ở với các bác bên nội.

        Năm 1930, bố tôi bị đày ra Côn Đảo, tôi và mẹ tôi tha phương vào Nam. Năm 1936, bố tôi  được xóa án ra khỏi nhà từ Côn Đảo, quản thúc ở Hà Nội. Tôi và mẹ tôi từ trong Nam ra, năm ấy tôi chín tuổi, tôi mới được gặp anh Lăng. Lúc này anh đã là một chàng trai chững chạc, tôi là một cô bé con, tóc kẹp ngang lưng. Mỗi năm vài lần, anh từ Phủ Lý lên Hà Nội, thường là ngày giỗ chạp ông bà nội tôi tức ông bà ngoại của anh Vũ Lăng. Anh rất gắn bó với các cô cậu và dì bên ngoại, rất thân thiết với anh Tích là con bác ruột của anh...

        Sau ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945, giặc Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ. Anh Vũ Lăng đã đến ấp Thái Hà - Hà Nội, chào bố mẹ tôi để vào Nam chiến đấu. Năm ấy bố tôi rất yếu do bệnh tật những năm bị tra tấn, tù đày. Tính bố tôi rất nghiêm, do đó ít chuyện trò cởi mở với các cháu mỗi khi gặp gỡ. Nhưng lần này, gặp anh Vũ Lăng, bố tôi nói chuyện với anh rất lâu. Tôi thấy mắt anh rớm lệ. Nhìn bố tôi gầy yếu, chắc anh nghĩ đây là lần cuối cùng hai cậu cháu gặp nhau! Và đúng là tháng 2 năm 1946, bố tôi qua đời sau mẹ tôi mất có ba mươi hai ngày!

        Ngày toàn quốc kháng chiến, tôi rời Hà Nội lên Việt Bắc, làm công tác phụ nữ ở tỉnh Vĩnh Phúc. Tôi không gặp lại anh Vũ Lăng và không biết anh chiến đấu ở chiến trường nào.

        Thu đông năm 1947, có tin bộ đội ta đã đánh tan binh đoàn Bô-phrê của Pháp ở Việt Bắc - chúng định thọc vào ATK của ta để tiêu diệt bộ não của cuộc kháng chiến; tham dự trận đánh này có tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng... Tôi vội viết thư cho anh, báo tin tôi đang công tác ở Vĩnh Phúc. Anh viết thư trả lời và gửi cho tôi tấm ảnh bán thân, đội mũ lưỡi  trai trông rất  oách, mặt sau tấm ảnh, anh viết: '' Gửi em Vũ Mai, nhớ cậu cùng cố gắng" - Ký tên Vũ Lăng. Tấm ảnh này tôi vẫn còn lưu giữ. Năm 1951 tôi gặp anh ở Nhã Nam - Bắc Giang. Anh tranh thủ về thăm chị Đỗ Lệ Trinh, em gái của anh ở ấp rừng quanh đó. Tôi thấy anh rất buồn và băn khoăn vì thấy em gái ốm yếu, lại quá nghèo và đông con mà anh không có điều kiện chăm sóc giúp đỡ.

        Sau ngày giải phóng Thủ đô, anh đưa chị Hoa và các cháu về Thịnh Hào, tạm trú ở nhà cô ruột và vợ chồng anh Tích. Thịnh Hào là nơi anh có những kỷ niệm ấu thơ với các cô cậu và dì bên mẹ; anh Tích lại là người mà anh ý hợp tâm đầu từ thời còn trai trẻ...

        Được tin tôi cũng đã về Hà Nội, công tác ở Tòa soạn Báo Nhân Dân và vừa phải phẫu thuật, anh đến Tòa soạn thăm tôi, cho tôi mấy hộp thuốc bổ và khuyên tôi đừng quá buồn... Năm 1966, mặc dù công tác rất bận, anh đã bảo chị Hoa gọi tôi đi chụp ảnh với anh chị và các cháu. Anh biết tôi buồn vì không có con, chồng lại công tác ở hải đảo. Có lúc anh nói đùa với tôi: Gửi cho nó vài cái hòm! (cái hôn).

        Năm chị Đỗ Lệ Trinh, em gái của anh bị ốm nặng, anh về tận Bắc Giang đón và đưa vào Bệnh viện 103 để nhờ chữa trị. Biết bệnh tình của em khó qua khỏi, mỗi lần vào thăm, anh rất xót xa và biết mình sẽ phải làm gì với những đứa cháu nhỏ, con của em! Anh đã bàn với chị Hoa về trách nhiệm với các cháu. Và sau khi chị Trinh qua đời, anh chị đã đón hai cháu Công và Ngọc về ở Lý Nam Đế, cho các cháu đi học và anh chị đã nuôi dạy hai cháu đến lúc trưởng thành. Ngày ấy, với căn phòng, kể cả hai hành lang, rộng được khoảng năm chục mét vuông, vừa là nơi ăn ở và tiếp khách, nhà gồm hai anh chị, bốn đứa con cộng với hai cháu Công và Ngọc, thời bao cấp có được bao nhiêu? Nhưng nhờ chị Hoa khéo lo toan thu xếp, đã giúp anh Lăng an tâm về gia đình, tập trung khả năng trí tuệ vào nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội trao cho trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Tôi cho rằng những năm kháng chiến khốc liệt đã làm anh bị trọng bệnh.

        Thời gian anh về điều trị ở Bệnh viện 108, tôi đến thăm anh mấy lần, trước khi anh sang Liên Xô điều trị. Tôi không ngờ đấy lại là những ngày cuối cùng tôi được gặp anh. Và anh đã ra đi vĩnh viễn!

        Kỳ bốn mươi chín ngày của anh, tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, đến nghĩa trang thành phố, đứng bên bia mộ anh, nhìn ảnh anh, tâm trí tôi hiện lên cảnh anh đến chào bố tôi - cậu ruột của anh để Nam tiến. Tính nết của anh, tôi thấy có nhiều điểm giống bố tôi: Sự cẩn thận, chu đáo, thái độ nghiêm khắc, kiên định và hết lòng vì cách mạng, dù phải gian khổ, hy sinh... Không biết có phải do lúc bé, có thời gian anh đã được ở với bố tôi và dì tôi hay không? Sau này dì tôi là Phó chủ tịch tỉnh Bắc Giang, luôn theo dõi từng bước đường đi của anh Vũ Lăng đã nói đùa với tôi: Không ngờ " thằng Tẩm ghẻ " ngày xưa mình vẫn tắm cho nó mà lại đánh giặc giỏi thế3.

V.M       

--------------------------
        1. Ông Mai Lập Đôn - Đảng viên Cộng sản những năm 30.

        2. Bà Mai Ngọc Thuyết - Đảng viên Cộng sản những năm 30.

        3. Lúc bé anh Vũ Lăng hay bị ghẻ nên ở nhà cứ gọi trêu là "Tẩm ghẻ".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2016, 04:26:04 pm
     
VŨ LĂNG TRONG NHỮNG NGÀY CHIẾN ĐẤU Ở LIÊN KHU 1 HÀ NỘI
(THÁNG 12 NĂM 1946)

Đại tá TRỌNG HÀM        

        Thượng tướng Vũ Lăng đã vĩnh biệt chúng ta ở tuổi sáu mươi bảy (8/1921 – 10/1988). Ông sống chưa tới tuổi bảy mươi cổ lai hy. Nhưng cuộc đời binh nghiệp với bốn mươi ba năm tuổi quân ( 1945 – 1988 ), ông đã để lại những chiến công trong chiến đấu chống giặc Pháp và giặc Mỹ, có thể nói là những võ công oanh liệt. Một vị tướng trưởng thành từ lò lửa chiến tranh, cứu nước, kinh qua nhiều cương vị khác nhau đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ thực sự là một trong các vị tướng tài xưa nay hiếm.

        Tôi đã sống chiến dấu cùng ông trong những ngay đầu kháng chiến ở Liên khu 1 Hà Nội ( tôi ở khu Đông Thành, ông ở Đông Kinh Nghĩa Thục), sau đó là chiến trường Việt Bắc với các chiến dịch Sông Thao, Tây Bắc, Biên Giới...

        Như chúng ta đã biết, từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 đến ngày 17 tháng 2 năm 1947, với hai tuần trăng (sáu mươi ngày đêm), quân và dân Hà Nội đã đối mặt với đội quân đông mạnh gấp nhiều lần lực lượng quân ta. Đội quân tinh nhuệ bậc nhất của nước Pháp lúc bấy giờ, đã khoe đánh tan quân phát xít Hít-le, giải phóng Pa-ri với truyền thống bộ binh, pháo binh giỏi ở châu âu từ thời Na-pô-lê-ông để lại kinh nghiệm.

        Sự thật là khi đã quần nhau với giặc từng bờ tường, góc phố, với dao găm, mã tấu, súng trường, súng kíp, chai xăng ngâm chếp, chúng ta đã gây tổn thất lớn lao cho quân địch. Trung đoàn Thủ đô đã tổ chức cuộc rút lui thần kỳ vượt vòng vây dày đặc của địch qua sông Hồng gồm một ngàn hai trăm chiến sĩ có cả thương bệnh binh, phụ nữ và em nhỏ đã về tới Thủ đô kháng chiến Việt Bắc an toàn, quân không mất một người, vũ khí không mất một khẩu. 60 ngày đêm máu lửa đã thành con số ý nghĩa của lịch sử chiến đấu và chiến thắng.

        Ý nghĩa đó nói lên sự chiến đấu anh hùng của quân dân ta ở Thủ đô ngày đầu kháng chiến1.

        Đồng chí Vũ Lăng là đại đội phó đơn vị Vệ Quốc đoàn bấy giờ có nhiệm vụ bảo vệ Bắc Bộ Phủ và một số nơi thuộc khu vực Hoàn Kiếm. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đã đưa số quân mạnh để tiến công Bắc Bộ Phủ, Nhà hát lớn... Ở Bắc Bộ Phủ: chúng mở sáu đợt xung phong trong suốt hai mươi giờ hến, có xe tăng, cơ giới yểm trợ, bắn đổ đạn trước mỗi đợt tiến công...

        Sau năm đợt chiến đấu ác liệt, xe tăng, cơ giới địch đã bốc cháy vì bom ba càng, chiến sĩ ta được lệnh rút về phía sau vì đạn gần hết; chỉ để lại bộ phận nhỏ với hai quả bom cài sẵn kíp nổ có dây giật. Quả bom thứ hai giật không nổ, lập tức chính trị viên Lê Gia Định ( người quê ở xã Trút Lâm, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, sống từ nhỏ ở Hà Nội ) đã xông lên dùng búa đập kíp nổ. Chưa kịp đập bom, anh bị trúng đạn hy sinh. Với tiếng thét và dáng điệu cầm búa xông lên của anh, địch hoảng hốt tháo chạy bắn loạn xạ về phía sau.

        Chiếm được Bắc Bộ Phủ, địch chết một trăm hai mươi hai tên lê dương, bốn xe tăng, thiết giáp, ba xe vận tải và một xe díp bốc cháy. Ta hy sinh bốn mươi lăm đồng chí. Trận đánh của đơn vị bảo vệ Bắc Bộ Phủ đã trở thành trận đánh phòng ngự mở đầu nổi tiếng về tinh thần quyết tứ và mưu trí dũng cảm diệt địch.

        Sau hơn ba tuần lễ chiến đấu quyết liệt, ngày 14 tháng 1 năm 1947, tại rạp hát Tố Như số 72 Hàng Bạc đã tổ chức buổi lễ động viên tinh thần quyết tử.

        Cán bộ, chiến sĩ đại biểu cho các tiểu đoàn 101, 102 và 103 đều nghiêm nghị chăm chú nhìn về phía trước là bàn thờ Tổ quốc. Chiếc đỉnh đồng lớn đạn bóng tỏa khói hơng trầm, khói lan tỏa như mây bay, như rồng uốn khúc. Những ngọn nến lung linh rực sáng soi lá quốc kỳ cờ đỏ sao vàng. Tấm vải nỉ đỏ treo trên tường làm nền nổi bật đường viền lụa vàng óng ánh.

        Lớp đứng, lớp ngồi, sắp hàng trước mặt những khẩu súng máy hoặc đeo trên vai khẩu súng trường với tư thế có thể sẵn sàng chiến đấu, vì quanh đó vẫn có tiếng súng nổ.

        Mỗi cán bộ chiến sĩ đều quàng cổ chiếc khăn quàng đỏ thắm. Đó là màu lá cờ đỏ sao vàng nhỏ, họ tự may sắm để sẵn sàng đổ máu nhuộm thêm màu cờ Tổ quốc.

        Trong khung cảnh đó, một cán bộ mảnh khảnh, râu rậm chưa kịp cạo, bước tới phía lễ đài. Người đó là tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103: Vũ Lăng. Với giọng nói to, dứt khoát từng câu, từng tiếng của cán bộ quân sự, giọng có ngân vang tiếng chuông, ông nói:

        '' Kẻ thù đánh chớp nhoáng, đánh úp chiếm Thủ đô chúng ta trong vài ngày. Chúng ta đã trả lời chúng bằng những chiến công trên từng ngả đường từng góc phố. Gần một tháng trôi qua. Chúng ta vẫn trụ vững tại Liên khu 1 này. Trước mũi súng xe tăng, đại bác, trong vòng vây lưới lửa bom đạn, chúng ta đã tập hợp nhau thành Trung đoàn Liên khu 1 tiếp tục đánh địch. Cả nước hướng về Hà Nội, cả nước tự hào vì có chúng ta đang chiến đấu, cả nước đang dõi theo chúng ta...''

        Rồi như hé nở nụ cười, với đôi mắt rực sáng, ông nói:

        '' Chúng ta thề quyết tử! Chúng ta thề tự khai tử cho chính chúng ta quyết tâm bảo vệ Thủ đô ''.

        Vô cùng xúc động, vô cùng tự hào.

        Những người có mặt tại buổi lễ hướng về dòng chữ khẩu hiệu lớn: " Thà hy sinh tật cả, không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ ".

        Chúng tôi nghĩ đến ngày 6 tháng 1 năm 1947 đã diễn ra buổi lễ ở Liên khu 1, ở nhà 51 Hàng Bồ, hợp nhất các tổ chức Trung đoàn Thủ đô thống nhất.

        Trung đoàn trưởng là Hoàng Siêu Hải, người dân tộc ở Hòa An, Cao Bằng thuộc đơn vị Quân giải phóng. Tại buổi lễ hợp nhất này, đại đội phó Vũ Lăng giữ chức tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103 - Tại buổi lễ đó đã nhất loạt đeo sao tròn thay cho sao vuông. Chúng tôi đã nhận lá cờ thêu dòng chữ vàng " TỔ QUỐC NHỚ ƠN " của Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hải Dương và đặc biệt có là cờ của ủy ban kháng chiến Nam Bộ tặng thêu hai chữ QUYẾT TỬ.

------------------------
        1. Nhà báo Hoàng Phong, trong buổi sinh hoạt sử học tưởng niệm Thượng tướng, Giáo sư Vũ Lăng kể rằng: " Tháng 12 năm 1946, là cán bộ biên tập báo Cứu quốc, tôi được lệnh rút ra ngoài. Đồng chí Vũ Lăng đã tổ chức và chỉ huy đưa chúng tôi từ đình Phất Lộc ra cột Đồng Hồ, ra gầm cầu Long Biên..." (BT).


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2016, 04:27:10 pm

        Giờ đây, lễ quyết tử lại diễn ra tại rạp hát Tố Như - nơi đã diễn ra những vở diễn nêu cao tinh thần " diệt giặc, chống ngoại xâm '',  tinh thần yêu nước TRUNG, HIẾU, TIẾT, NGHĨA bất khuất.

        Nhiều đồng chí, sau này đã nói về cảm tường của mình là đã được xem vở kịch thơ diễn ở Nhà hát lớn. Đoạn cuối của vở kịch là cảnh Thái tử Đan nước Yên tiễn Kinh Kha qua sông Dịch Thủy sang Tần để hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Vua và các quân thần mặc tang lễ màu trắng để tiễn đưa.

        Còn chúng tôi đang làm lễ thề quyết tử cho chính mình giữa khói lửa chiến đấu với chiếc khăn quàng đỏ rực màu cờ.

        Sau ngày 27 tháng 1 năm 1947, Hồ Chủ tịch đã gửi thư động viên giao nhiệm vụ cho chúng tôi, trong đó có câu vô - cùng xúc động:

        " Các em là đội quyết tử, các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh... ".

        Địch mở những đợt tiến công quyết liệt hòng tiêu diệt Trung đoàn Thủ đô ở Liên khu 1, trên đỉa bàn ngày càng bị thu hẹp, chỉ còn khoảng vài cây số vuông. Đã có những trận đánh quyết liệt. Chúng chiếm dãy nhà bên số chẵn, ta kiên quyết giữ từng nhà ở dãy số lẻ đối diện với địch. Quân ta đánh nhau giáp lá cà với chúng ở Hàng Thiếc, khu Đông Thành. Rồi ở Trường Ke và nhà Sô-va, khu Đông Kinh Nghĩa Thục và Đồng Xuân, ta chờ địch đến gần, tiêu diệt chúng bằng lựu đạn, súng trường và cả bằng lưỡi lê, mã tấu, dao găm.

        Khi tiến đánh nhà Sô-va ở phía bờ sông, chúng dùng pháo bắn thẳng phá tường để vào nhà. Tại nhà Sô-va, ta chỉ có lực lượng nhỏ .

        Chúng quét một loạt súng như đổ đạn chiếm được tầng dưới. Chúng ta rút lên tầng hai dùng chai xăng chếp đốt cháy cầu thang gỗ không cho chúng đánh lên và kiên quyết cố thủ. Lực lượng quá ít, chiến sĩ trinh sát Nguyễn Xuân Nho và các đồng chí khác đã đánh đu vào cành cây si men theo phía bắc phía nhà Sô-va để rút.

        Được tin, tiểu đoàn phó Vũ Lăng trực tiếp chỉ huy trung đội dự bị nhanh chóng luồn ngách phố vào thẳng nhà Sô-va. Trận đánh quyết liệt, có thêm lực lượng bạn hỗ trợ, trung đội dự bị này đã nhanh chóng chiếm được vị trí có lợi để đánh địch. Lựu đạn quân ta ồ ạt ném vào nơi có địch trong nhà, chúng hoảng hốt tháo chạy. Hơn bốn mươi tên địch chết và bị thương, một xe tăng, một thiết giáp bị đốt cháy.

        Ngay tối ngày 6 tháng 2 năm 1947, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã gửi điện, khen ngợi tinh thần dũng cảm mưu trí chiến đấu của các chiến sĩ đã chiếm lại nhà Sô-va - Một vị trí cửa ngõ quan trọng giữ vững liên lạc tiếp tế với hậu phương.

        Hôm sau ngày 7 tháng 2 năm 1947, đồng thời với việc đánh Trường Ke ở phía bắc cột Đồng Hồ, chúng ném bom đánh phá các khu vực Hàng Nón, Hàng Thiếc, Hàng Mành, Hàng Hòm, Bát Đàn, Hàng Quạt... làm sụp đổ nhiều nhà. Địch dùng vòi phun xăng để đốt cháy dãy phố. Ta dùng chậu hứng xăng để tối đốt cháy vị trí địch.

        Còn ở Trường Ke (tức trường Trần Nhật Duật hiện nay phía bờ sông), dù địch đã quyết tâm đánh chiếm - vị trí này cùng với Sô-va đều là các chốt giữ cửa ngõ đảm bảo liên lạc tiếp tế với hậu phương - nhưng chúng vẫn bị thất bại. Địch cho xe tăng bịt tất cả các ngả ta có thể rút hoặc tăng viện.Tám lần dịch dội đạn và hò hét "a-la-xô"1 đều bị đánh lui ta vẫn giữ vị trí Trường Ke.

        Thắng lợi của những trận phản kích đánh địch ở nhà Sô-va và Trường Ke là chiến công chói lọi và tinh thần dũng cảm chiến đấu, đồng thời có ý nghĩa về nghệ thuật chiến đấu phòng ngự ở thành phố với cách đánh sáng tạo, dùng lực lượng ít vẫn thắng quân địch đông hỏa lực mạnh. Ta đã chặn địch không đánh được sở chỉ huy tiểu đoàn 103 đóng ở ngõ Phất Lộc, giữ vững con đường tiếp tế với hậu phương - nơi sau này, đêm ngày 17 tháng 2 năm 1947 cả một trung đoàn hơn một ngàn người đã rút qua gầm cầu Long Biên để rồi vượt sông Hồng về hậu phương lớn chiến khu Việt Bắc.

        Quá trình diễn biến chiến đấu quyết liệt như ở nhà Sô-va - Trường Ke, tiểu đoàn phó Vũ Lăng đích thân chỉ huy đã chiến thắng oanh liệt2.

        Ông là vị tướng trưởng thành từ lò chiến đấu Thủ đô và là vị tướng nhiều tài năng của quân đội cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.

        Nhưng ông còn là một người rất " con người ", sống hòa mình với chiến sĩ, thắm thiết tình đồng đội, trực tính nhưng vẫn được cấp trên, cấp dưới quý mến.

        Ông là người trung với nước, hiểu với dân và là người rất chung thủy. Mối tình đầu của ông gắn bó với quyết tử quân Nguyễn Thị Liên. Chị là học sinh đệ tứ bậc trung học, con một gia đình công chức gia phong nền nếp, nhà ở phố Mã Mây. Đoàn quân sau khi rút khỏi Thủ đô đã tới làng Cần Kiệm, Thạch Thất, Sơn Tây để có cuộc tổ chức biên chế lại. Kẻ ở lại vùng đồng bằng, người lên chiến khu Việt Bắc. Chị Liên, cô gái mười chín tuổi đẹp người đẹp nết đã tặng Vũ Lăng một quyển nhật ký dày gần hai trăm trang. Vũ Lăng tặng lại khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm để chị tiếp tục chiến đấu bảo vệ mình. Nhưng rồi chính khẩu súng ngắn đó, vì quá nghe tin đồn Vũ Lăng tử trận trong chiến đấu với binh đoàn Bô-phrê, chị đã "cùng đi theo anh" giữa lúc canh khuya ngay tại Ân Thi, Hưng Yên. Chị Hoa - bạn đời của Vũ Lăng rất trân trọng mối tình đầu của chồng mình đã cất giữ tấm ảnh của chị Liên, tuy đã bạc màu nhiều chỗ .

        Đồng chí Lê Thọ là chính trị viên tiểu đoàn 54, đã từng có mặt trong các trận đánh ở Đại Từ - Phú Minh - Hạ Bằng, Đại Bục..., lại vốn giàu mình cảm và rất hợp với Vũ Lăng, vẫn thường cưỡi ngựa sóng đôi, người đứng đầu hàng quân, người đứng cuối hàng quân hồi còn ở  Việt Bắc. Đầu năm 2000, ông đã cùng cán bộ bạn bè Vũ Lăng tổ chức viếng thăm mộ chị Liên tại Ân Thi. Chúng tôi đặt những bông hoa trắng trên mộ chị. Một cán bộ cũ của Trung đoàn Thủ đô đã viết bài thơ " Hoa Sen Trắng" tặng hương hồn anh Lăng và chị Liên.

T.H       

-------------------------
        1. Tiếng Pháp " À I' assant" - xung phong !

        2. Sau đó Vũ Lăng đã được giao nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2016, 11:38:16 pm

TỪ TRƯỜNG QUÂN CHÍNH ĐẾN SƯ ĐOÀN 308

NGUYỄN VĂN BỒNG       

        Vũ Lăng và các bạn cùng thời lớn lên trong không khí đấu tranh chống phát xít, với nhiều biến cố trọng đại, trong đó có sự ra đời của tổ chức Việt Minh cứu quốc, trưởng thành qua Cách mạng tháng 8 năm 1945.

        Đầu năm 1941, Bác Hồ về Pắc Bó. Đảng vừa bị tổn thất nặng lề sau thất bại Nam Kỳ khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương lần thứ tám do Bác chủ trì, đã giải quyết đúng đắn quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, đặt vấn đề giải phóng dân tộc thành vấn đề số một của chương trình nghị sự.

        Cũng như các con nhà nghèo khác, mẹ mất sớm ( khi Vũ Lăng lên bảy tuổi ), bố đi làm thuê cho bác ruột, Vũ Lăng về ở với bà nội, bà nội rồi cũng không đủ nuôi nên anh phải ra ở với dì ruột là bà Mai Ngọc Thuyết (đảng viên năm 1936 ).

        Học đến Thành Chung năm thứ hai thì bị đuổi học vì hai lý do: nhà nghèo không có tiền đi học, thêm tội tham gia phong trào học sinh đi đón tù Côn Đảo được Mặt trận Bình dân Pháp can thiệp nên được trả về ( trong đó có cậu là Mai Lập Đôn, đảng viên năm 1934 ).

        Để kiếm sống, Vũ Lăng phải làm đủ nghề dù bất kỳ ở đâu, làm thư ký dây thép ở Lào Cai, dạy tư, nhưng nghề nào cũng không được lâu, cuối cùng phải xoay sang làm y tá  ở bệnh viện Phủ Lý. Khi phong trào Việt Minh nổi lên ở Phủ Lý, Vũ Lăng tham gia Việt Minh. Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Minh tổ chức phá kho thóc để cứu đói, gây dựng phong trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, Vũ Lăng được cử đi học Trường Quân chính khóa V (sau đổi tên thành Trường Huấn luyện Cán bộ Việt Nam ).

        Học viên được chiêu sinh khóa này có năm trăm hai mươi lăm người, tổ chức thành một chi đội gồm bốn trung đội ( tức đại đội ). Ba trung đội được lựa chọn từ các đơn vị bộ đội và đoàn thể cứu quốc. Vũ Lăng và tôi ( Nguyễn Văn Bồng) thuộc diện Việt Minh cử đi học vào Trung đội 4 là trung đội gồm học sinh, sinh viên đại học. Đồng chí Trần Tử Bình làm Chính ủy kiêm Giám đốc. Chi bộ đầu tiên của trường được thành lập do đồng chí Trần Tử Bình làm Bí thư thuộc Đảng bộ Ủy ban quân sự toàn quốc. Việc bảo đảm vật chất vẫn còn  rất khó khăn, có bộ phận học viên vẫn phải mang gạo của nhà hoặc đoàn thể đến. Có khi do yêu cầu cấp thiết của Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng, phải ứng cả số tiền vài nghìn đồng còn lại trong ngân quỹ. Từ kiếp nô lệ hôm qua, nay  đã được đổi đời lên ghế Trường Huấn luyện Cán bộ Việt Nam của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chúng tôi còn vô cùng hạnh phúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai giảng.

        Người trực tiếp đi kiểm tra nhà ăn, nhà vệ sinh và thăm từng nơi ở của học sinh. Người khen nội vụ gọn gàng, riêng tôi ( Bồng ) có diễm phúc được Bác sửa lỗi chính tả tên tờ báo tờng: " Nhất chí " - Bác bảo - chú nào đây thay "chí " bằng " trí "... đi.

        Khi về tập trung ở hội trường, Bác đề cập đến vấn đề " Đoàn kết " trước tiên. Người nói đại ý: "Bây giờ đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết. Chúng ta là những nhà cách mạng, muốn làm việc lớn phải không giữ tiểu khí. Bọn Việt quốc, Việt cách núp sau bọn Tưởng ra sức nói dối, nói xấu, mưu đồ lật đổ chính quyền ta ". Tiếp đến Người căn dặn: " Làm cán bộ phải siêng năng... Người ta có hai mắt, hai tai, hai tay, hai chân nhưng chỉ có một mồm, nên nói ít, nói những điều cần thiết, mà đã cần thì nói đi, nói lại, trăm nghìn lần cũng phải siêng, càng có lợi cho cách mạng "1.

-----------------
        1. Sự kiện và bài nói này chưa có trong Hồ Chí Minh toàn tập.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2016, 11:39:17 pm

        Một vinh dự nữa đối với khóa V là đúng ngày bế giảng - ngày 15 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Hồ  Chí Mình lại về dự lễ. Bác nói: " Đáng lẽ tôi phải thường xuyên đến thăm các đồng chí mới phải, nhưng công việc nhiều thành thử tôi chỉ đến được hôm khai mạc và bây giờ làm lễ tốt nghiệp mà thôi... Tôi nghe anh em học rất chăm chỉ và tiến bộ, tôi mừng. Một tháng trời học tập của anh em là ít quá phải không. Nhưng cái ít đó cũng tạm để giúp cho anh em sau này học thêm. Anh em sẽ còn học mãi khi ra làm việc Khi thành công phải nghiên cứu vì sao thành công để lấy kinh nghiệm, khi thất bại cũng phải lấy kinh nghiệm vì sao thất bại để mà tránh đi... Anh em phải làm sao cho dân yêu mến. Phải nhớ rằng dân là chủ, dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là ở dân hết. Phải làm sao cho dân mến. Khi sắp tới dân mong, khi sắp đi dân tiếc. Chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh dân không ủng hộ"1.

        Học viên khóa V được phân đi các đơn vị và địa phương, số Nam tiến tăng gấp đôi. Vũ Lăng xung phong đi Nam tiến. Tôi (Nguyễn Văn Bồng) được giữ lại trường làm cán bộ khung cho các khóa sau.

        Với khí thế sục sôi của những ngày tháng Tám lịch sử, nay lại được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hai lần đến động viên, đôi bạn chúng tôi hồ hởi chia tay nhau...

        Chúng tôi không hẹn mà lại gặp nhau trong chiến dịch Thu đông Việt Bắc năm 1947, tuy mỗi người ở một đơn vị khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ " phải phá cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp " (Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 15 tháng 10 năm 1947 ).

        Trung đoàn 79 (Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn - khóa II và khóa III) có nhiệm vụ bảo vệ Bản Thi - nơi tập trung cơ quan kháng chiến, và phá kế hoạch hợp điểm của hai gọng kìm của cuộc hành binh bước một lấy tên là Lê-a nhằm bao váy toàn bộ khu căn cứ địa của thực dân Pháp tại Bản Thi.

        Được Hiệu ủy Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn phân công, Nguyễn Văn Bồng cùng Hoàng Điền chỉ huy trận đánh tập kích đồn Yên Thịnh ( chợ  Đồn ), đêm 18 rạng ngày 19 tháng 10 năm 1947, nhằm chặt đứt đầu mũi gọng kìm binh đoàn B do Bô-phrê ( Beaufré ) chỉ huy tiến từ Cao Bằng xuống bắt liên lạc với cánh quân Pháp ở Bắc Cạn qua Chợ Đồn về hợp điểm với binh đoàn C do Com-muy-nan chỉ huy ở Bản Thi. Trận tập kích đồn Yên Thịnh đồng thời cùng ngày với trận vận động du kích Đầm Hồng - Chiêm Hóa của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn thắng lợi, góp phần nhỏ vào làm bại cuộc hành binh bước một ( Lê-a ) của giặc Pháp.

        Ngày 22 tháng 11, đại bộ phận binh đoàn Bô-phrê từ Bắc Cạn chuyển về Chợ Mới, sau đó hành quân về Thái Nguyên, cùng với lúc một tiểu đoàn luồn rừng qua Quán Vuông tiến về hướng Chợ Chu. Ngày 25 tháng 11, hai bộ phận, quân Bô-phrê  ở Chợ Chu và quân của Com-muy-nan ở Phú Minh, từ hai phía đang tới gần khu vực ngoại vi ATK của ta. Ở đây ta đã bố trí các đơn vị chủ lực mạnh do đồng chí Phạm Ngọc Mậu, đồng chí Thái Dũng, đồng chí Vũ Lăng chỉ huy để tiêu diệt các cánh quân tiến sâu của địch...

        Ngày 26 tháng 11, quân Bô-phrê rút về đến Chợ Chu, định tiến về Quảng Nạp. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị cho tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 103: " Không cho địch tự do vào Quảng Nạp. Bất kể tình huống nào cũng phải nổ súng ". Kết thúc trận đánh, phóng viên Việt Bắc2 viết: " Bộ đội Vũ Lăng, một bộ phận của Trung đoàn Thủ đô sau mười hai ngày tìm địch mà đánh, mạnh lên trông thấy, về tinh thần, về kinh nghiệm, về quân trang vũ khí cướp được...".

        Chiến công đầu của đôi bạn chúng tôi giáp mặt với quân của binh đoàn Bô-phrê, người ở Bắc Cạn, kẻ ở Phú Minh trong chiến dịch Việt Bắc - Thu đông năm 1947, tô đậm thêm mối tình đồng đội khi cả hai chúng tôi được về hàng ngũ Đại đoàn 308 Quân Tiên phong.

N. V. B.       
-----------------------
        1. Bài nói chuyện này đã công bố trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4. NXBCTQ, H, 1995, tr 100-101.

        2. Một trong những bút danh của Thép Mới.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Mười Hai, 2016, 11:45:56 pm
        
BỘ ĐỘI VŨ LĂNG ĐÁNH TAN BINH ĐOÀN BÔ-PHRÊ

Phóng viên VIỆT BẮC1 ( Phóng viên Mặt trận )       

        Ngày 26 tháng 11 năm 1947, quân Bô-phrê rút về đoạn Chợ Chu, định tiến về Quảng Nạp. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị cho tiểu đoàn 103: "Không cho địch tự do vào Quảng Nạp. Bất kể tình huống nào cũng phải nổ súng". Tiểu đoàn đã chôn bom nhưng bom không nổ, địch vào được Quảng Nạp. Lập tức đêm hôm đó, tiểu đoàn chia làm nhiều mũi đánh thẳng vào vị trí địch, rồi rút. Suốt đêm 28, bộ đội ta vì khi rút lui không liên lạc được với nhau nên không tập trung tiêu diệt địch được: Ngày 29 tập trung, định 30 đánh thì sáng 30 tất cả binh đoàn Bô-phrê đã kéo nhau về Phú Minh. Theo đội hình hàng một, chúng rút đi, từ 8 giờ đến 11 giờ mới hết. Đội trưởng Vũ Lăng cầm một đại đội đuổi theo. Lúc ấy là 10 giờ đêm 30. Không biết địch tình, vừa đi vừa nghỉ nên tiến chậm. 5 giờ sáng đến quán Ông Già. Địch cách ba trăm thước, chúng vừa đi vừa nghỉ nên tiến cũng chậm. Chiều hôm trước chúng bị du kích đánh. Mấy du kích Cảnh Thịnh, có đâu bốn quả lựu  đạn, cũng can đảm rủ nhau ném vào địch, bốn quả nổ cả, giữa bọn Tây đang ăn. Bọn ấy chỉ là bọn tập hậu và bọn bị thương. Bộ đội Vũ Lăng gặp chúng liền rẽ vào xóm K.R, xã Cảnh Thịnh. Giặc biết, tiến vào hai trung đội, có moóc-chi-ê để dò lực lượng. Nó không biết chỗ quân ta nên bắn lung tung. Ta vừa bắn vừa ngủ gật. Thế mà cũng hạ được ba lính Pháp, một sĩ quan cưỡi ngựa trắng ở suối đi lên trúng đạn ngã xuống đất. Bắn nhau một lúc, ta rút. 10 giờ phản công thì giặc đã rút ra đóng quán Ông Già, án ngữ đấy đại bộ phận đánh Phú Minh. Chúng ở đây suốt ngày mùng 1.

        Đại đội Việt Hổ được lệnh xuống nhập với bộ đội Vũ Lăng. 2 giờ sáng ngày mùng 2, tiến quá Quảng Nạp ba cây số gặp địch từ Phú Minh đi lên, đánh ngay, ta chiếm được vị trí lợi hơn, từ trên đồi cao ném xuống bảy mươi quả lựu đạn. Địch tán loạn một lúc lâu. Trong ánh trăng, người ta đếm được một trăm tên địch ngã tại trận. Ngày hôm sau, máy bay hạ xuống cánh đồng Quảng Nạp. Xác lính được đút vào bao tải đem cho lên máy bay cùng với số bị thương. Xác lính da đen bị vùi nông bên đường. Nay còn cả mộ.

        Đêm mùng 3, ta đại tập kích Quảng Nạp. Phối hợp lém nên không có kết quả. Địch bắn dứ về phía B.N. Nghi binh để rút. Quả nhiên, sáng ngày mùng 4, chúng rút từ Quảng Nạp về Phú Minh, rút như bị đuổi.

        Vấn đề chăn áo cho binh sĩ thật là cần. Bộ đội ta suốt đêm phong phanh phục kích ở quán Ông Già, sương lạnh nhiều phát ho. 6 giờ sáng địch đến đây, nghe tiếng ho, đội tiền vệ bắn dừ cho đại bộ phận tiến. Ta thấy lộ, rút. Địch tiến ba cây số nghỉ lại ăn uống. Bộ đội ta ra đến nơi, thấy  chúng đang ăn. Phải tập kích, dù lúc ấy là 8 giờ rưỡi sáng. Ta bò lên chúng không biết. Còn đương mải ăn sáng thì lựu đạn ta nổ. Chúng vừa chạy vừa la, rút cả sang mé đường bên kia, đặt moóc-chi-ê ra bờ suối, câu sang vị trí phục kích. Ta rút nên không biết địch chết bao nhiêu. Dân quân địa phương nói địch khiêng đi sáu băng ca, một số lớn binh linh băng bó đầu, chân, tay. Ba bốn sĩ quan phải chống gậy. Một người bị bắt trốn ra về Phú Minh kể lại, chúng lấy vải bọc xác chết, thồ lên lưng ngựa.

        Bộ đội Vũ Lăng, trong khi ấy đánh địch trên đường Đại Từ. Ngày 7 tháng 12, bố trì phục kích ở Phục Linh, cách Đại Từ ba cây số về phía Cù Vân. Bô-phrê cho quân đóng từ dọc Ba Giăng về đến Đại Từ. Ở Đại Từ, địch ẩn nấp rất khéo, đóng ở chỗ người ta ít ngờ nhất: bụi tre, bờ ruộng. Trong khi ấy, thấy đội tuần tiễu của ta, chúng lại cho quân lên đồi sơn dập dìu để đánh lừa và ngày cho đoàn ngựa đi về An Huy để giả chiếm nhà thờ, đêm lại rút về Đồng thời bắn về phía Cát Nê, Kỳ Phú, Bản Ngoại làm như định dùng K.C đi về Đa Phúc, không phải qua Thái Nguyên. Thật khó mà phán đoán con đường hành quân của chúng. Bộ đội phục kích ở Phục Linh, tuy quyết tâm mà cũng sốt ruột. Đêm mùng 8, đột kích Đại Từ, mục đích tiêu hao. Kết quả tốt, nhưng đáng khen hơn cả là tinh thần xung phong của bộ đội, nhất là của đoàn trưởng Vũ Lăng, bao giờ cũng đi đầu và rút sau bộ đội.

        6 giờ sáng, quả như dự đoán, địch tiến về Cù Vân. Trước khi tiến, đội trung vệ của địch đánh vòng sau Đại Từ  ở phía nam để dồn bộ đội X. Ở Kh.G ra gặp đội tiền vệ cùng đi lên.

        Đáng lẽ đội tiền vệ ấy ít ra cũng bị sứt mẻ. Cách Đại Từ hơn cây số, một tiểu đội mìn độc lập chôn mìn. Song Việt gian giả làm nhân viên chỉ huy đến ra lệnh cất mìn, rút lui lập tức Tiểu đội ấy khờ khạo nghe theo. Hụt một phen tiêu diệt địch.

        Địch tiến về Phục Linh đến đầu trận địa phục kích. Một lần nữa cái rét và tiếng ho thật là phản phúc. Bộ đội đêm nằm rét, sáng húng hắng ho. Địch nghe thấy tiếng ho, lại trông thấy lối mòn lên đồn... Từ đấy, về Cầu Đuống chúng lại bị một trận thiệt hại nặng nữa.

        Thế là trong 12 ngày trời, bộ đội Vũ Lăng đã đánh Bô-phrê bảy trận. Con đường về Hà Nội không phải là một  cuộc đi chơi như giặc tưởng vậy. Đến đồn, lính Pháp thật là hoàn toàn mất tinh thần. Nếu ở đây, biết địch vận, chắc có kết quả. Dù sao phải nhận định binh đoàn Bô-phrê là một đội quân thiện chiến. "Thật là vinh dự cho chúng tôi được nghênh chiến binh đoàn Bô-phrê. Đánh kẻ thù mà phải học kẻ thù. Đấy là lời đoàn trưởng Vũ Lăng nói với chúng tôi. Thật thế, ta phải học Bô-phrê thuật nghi binh tài tình và cách liên lạc giữa các bộ phận. Trinh sát Việt gian nằm trong bụi cây gan dạ và khoa học, không điều tra đại khái như một vài nhà tình báo của ta. Khi bị uy hiếp, lính da đen chỉ rối loạn một chút rồi phản công rất liều. Chọi với một kẻ dịch khôn ngoan hơn, mạnh hơn, ta thấy có nhiều khuyết điểm. Tình báo của ta phải dõi địch hơn nữa. Sự phối hợp tác chiến phải chặt chẽ hơn nữa, tinh thần tự động trợ chiến giữa các bộ phận phải tích cực hơn nữa. Ở trận phục kích Phục Linh, ta sẽ diệt thêm nhiều địch nếu bộ đội X xông ra trợ chiến đánh tập hậu địch.

        Một sự thật nữa được phơi trần. Bộ đội đánh những trận vận động tiêu diệt. Phải có dân quân du kích khắp nơi để tỉa dần địch và bảo vệ bản làng. Để địch đi thong dong từ Chợ Mới đến Quảng Nạp là một sự trạng không thể có nữa. Đâu đâu cũng phải có người như ông Chủ tịch Tr, hay  đồng chí du kích ở Phục Linh (Chợ Chu) cầm dao đâm chết Việt gian, giằng khẩu "dóp năm"2 chạy. Có như thế núi rừng hiểm hóc Việt Bắc mới hoàn toàn trở nên mồ chôn giặc Pháp.

        Nhưng trên hết ta thấy gì? Bộ đội Vũ Lăng - một bộ phận của Trung đoàn Thủ đô - sau 12 ngày tìm địch mà đánh, mạnh lên trông thấy, về tinh thần, về kinh nghiệm, về quân trang võ khí cướp được. Binh đoàn Bô-phrê, trái lại sau 12 ngày đánh đỡ, thật hao binh tổn tướng. Ta là một sức mạnh đương lên. Địch nhất quyết suy yếu dần. Điều nhận xét ấy làm ta tin thêm ở tiền đồ kháng chiến.

(Thu đông 1947)        
-------------------------
        1. Một bút danh của Thép Mới.

        2. Súng trường Pháp có lắp băng đạn năm viên nên gọi là "dóp năm", lắp ba viên gọi là " dóp ba".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Mười Hai, 2016, 12:06:58 pm

"QUYẾT SAN BẰNG ĐẠI BỤC "

Trích "Đại đoàn Quân Tiên Phong" - NXBQĐND       

        …Trong ý thức, thật là một điều kỳ lạ, tất cả các chiến sĩ mới đều nghĩ rằng: mình cũng là những chiến sĩ Thủ đô. Có người chưa hề đặt chân lên hè phố Hà Nội một lần nào, nhưng cũng rất yêu mến Thủ đô anh hùng của Tổ quốc và anh em đã cảm động thực sự khi nghe đồng đội, những người cũ hát lên:

        " Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu. Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội... "

        Lúc này trên mũ sắt của những chiến sĩ tiểu đoàn 54 đều dán khẩu hiệu:

        " Giữ vững và phát huy truyền thống quyết tử  của Thủ đô ".
        " Quyết san bằng Đại Bục ".

        Mệnh lệnh của Ban chỉ huy mặt trận đưa xuống. Chiều ngày 19 tháng 5 năm 1949, đúng dịp kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả hai tiểu đoàn 54 và 11 cùng nổ súng bước vào chiến đấu.

        Đêm 17, đại dội xung kích chủ công của tiểu đoàn 54 làm lễ động viên tinh thần chiến đấu, trao mác xung kích danh dự cho các chiến sĩ. Ban chính trị tiểu đoàn đôn sức giúp đỡ đơn vị, tiểu đoàn trưởng trực tiếp xuống động viên.

        Một đống lửa cháy sáng rực. Củi khô cháy nỏ, tàn bay đầy trời. Những lưỡi mác sáng loáng. Ngắm nhìn những người chiến sĩ hiên ngang với những ngọn mác thô sơ ấy, chính trị viên tiểu đoàn Lê Thọ bỗng thấy lòng mình tràn ngập một niềm xúc động, tự tin mến thương đồng đội: chính những chiến sĩ chất phác hiền từ này lại là tiêu biểu cho cả ý chí quật cường, không những của quân đội mà cả dân tộc ta, đang từ tay không gan góc dám đứng lên chống lại một đạo quân đế quốc nhà nghề trang bị tối tân.

        Toàn đại đội đứng xếp hàng thành hàng ngũ chỉnh tề, trước một bàn phủ vải đỏ thắm, bức chân dung Hồ Chủ tịch lung linh trước ánh lửa hồng. Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng đứng lên trân trọng nhấc một ngọn mác đặt ngang trên chiếc bàn phủ vải đỏ, dùng hai tay trao cho một đại biểu của chiến sĩ. Đó là Hoàng Văn Sự. Khuôn mặt hồn hậu, tươi tắn, Sự giơ cao ngọn mác lên, thong thả nói như búa vạc vào đá:

        -  Với lưỡi mác này, trong trận tới, tôi quyết vào đồn trước nhất. Lưỡi mác của tôi nhất định sẽ phải nhuộm máu giặc Pháp. Dù có hy sinh, tôi càng phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Chúng ta nhất định chiến thắng!

        … Buổi chiều hôm sau, cả tiểu đoàn mặc quần áo mới ra trận, các chiến sĩ Thủ đô muốn chiến thắng trong bộ quân phục đẹp nhất. Sau một đêm trắng hành quân, toàn tiểu đoàn 54 tới sát nách đồn địch thì trời cũng vừa mờ sáng. Mặt trời mỗi lúc một lên cao, Đại Bục càng hiện rõ ra các hình khối, màu sắc chối mắt của nó. Ngoài cổng đồn treo lơ lửng một tấm biển "Biệt thự hoa hồng".

        9 giờ sáng, trinh sát theo dõi đồn báo cáo có hai tiểu đội lính ngụy do Tây chỉ huy từ đồn đi ra phía cổng chính. Vũ Lăng nhanh chóng vạch kế hoạch đánh chặn và kiềm chế không cho địch tiến đến trận địa pháo và sở chỉ huy của tiểu đoàn.

        Ở Tây Bắc lúc bấy giờ, đồn địch xây khá kiên cố, xung quanh là hào sâu với nhiều lớp hàng rào lông nhím, tường nhà là lô cốt bằng đất trình rất dày có lỗ châu mai, nhà nọ dính liền với nhà kia, quay lưng ra ngoài, tạo thành bức tường bao quanh từng khu đồn trên hai mỏm cao của một quả đồi đã bị phát trụi. Mỗi khu đồn làm theo hình tam giác.  Ở mỗi góc tam giác có lô cốt. Đặc biệt ở mỏm cao khu đồn A có lô cốt ba tầng, cao tới bảy, tám mét, tường ghép toàn tre , gỗ trong đổ đất nện kiên cố - đây là lô cốt cứng nhất hiểm yếu nhất. Ba lượt hàng rào tre vót nhọn cao tới hai mét bao quanh các nhà trong doanh trại lớp bằng tranh, tre, nứa... Vì vậy, Vũ Lăng dùng kế "Hỏa công''. Để chắc thắng, Vũ Lăng đi kiểm tra lại trận địa trợ chiến và các mũi xung kích, đặc biệt là mũi chủ công diệt lô cốt mẹ.

        16 giờ 25 phút, trên trận địa pháo binh, pháo thủ đã nâng quả đạn đưa vào ổ súng. Dưới chân Đại Bục, công binh đã dựng những quả phóng bom đầu nghển cao đen sì. Các đại đội xung kích đã bí mật, nhanh, gọn chiếm lĩnh các mũi xuất phát tiến công

        Thế trận địa đã sẵn sàng, Vũ Lăng đề nghị chỉ huy phó Cao Văn Khánh cho đánh sớm hơn giờ đã định.  6 giờ 30 phút, phát đại bác hiệu lệnh nổ đanh. Một cột khói phụt tung giữa đồi A. Tiếp đó, những quả đạn cối 81 mi-li-mét đồng loạt xả vào các điểm đã phân công. Quả phóng bom lần đầu ra trận nổ tung, phá sập một dãy nhà tạo một vầng chớp lớn, lửa phụt lên đỏ rực cả trận địa, thiêu cháy những mái tranh trong doanh trại.

        - A ha!  Phóng bom! Hoan hô phóng bom! Phốc-kê là một hàng binh người Đức - được vinh dự bắn quả phóng bom đầu tiên - sướng quá, giơ cả hai tay lên trời hô: "Việt Nam! Việt Nam muôn năm!".

        Trên khắp các trận địa ầm vang tiếng reo hò của linh Thủ đô


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Mười Hai, 2016, 12:07:14 pm

        Trong đồn giặc, lửa bốc theo chiều gió cháy ngùn ngụt, kèm theo tiếng nổ của tre bương khô, và các làn đạn tiểu liên trung hên, thủ pháo... Một số lính ngụy liều chết leo lên dỡ nhưng mảnh tranh trên mái nhà để chữa cháy.

        Nhưng những bóng giặc đó chỉ làm bia cho các xạ thủ đại liên của ta trên đồi trợ chiến xả đạn. Khẩu đại liên "Brô-ninh" trên lô cốt mẹ ba tầng cao vẫn còn hoạt động, từng băng đạn xả ra liên tiếp, hốt hoảng, không rõ mục tiêu...

        Ngoài sát chân rào thứ nhất, công binh tiểu đoàn đã chớp thời cơ tay chém tay đào, tay câu liêm giật lấy giật để. Nhưng hàng rào chắc quá, lay mãi, phá mãi vẫn chưa phá xong lối vào mở cửa.

        Trung đội trưởng Tám vừa tiến, vừa giục:

        - Nhanh lên các đồng chí ! .

        Nhưng vẫn sốt ruột quá, anh giằng lấy một cái câu liêm vừa đứng lên thì đã ôm chặt bả vai từ từ khuỵu xuống. Chính trị viên Tý vừa kịp chạy đến, anh cho cứu thương dìu Tám lui trở lại và ra lệnh:

        - Ét-xăng đâu? Chăn nữa! Mang ngay lên đây!

        Trong chớp mắt, ba bốn chiếc chăn trấn thủ thấm đẫm xăng được mang tới, ném vắt lên ngọn sào, tiếp đó là một mồi lửa. Chính trị viên hô tiếp:

        - Cháy rồi! Các chiến sĩ Thủ đô thề chết không lùi bước!

        Như vũ bão, đoạn rào vẫn còn đang rực lửa, công binh đã ào vào đạp sập xuống lấy lối xông vào hàng rào thứ hai, thứ ba …

        Trên sở chỉ huy tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng khoát tay ra lệnh:

        -Trống đi thôi!

        Từ bên kia sông, quân ta đã công phu khiêng cả một chiếc trống cái mượn của đồng bào để làm hiệu lệnh xung phong. Suốt đêm qua, nhiều lúc bực lắm chỉ muốn vứt nó đi cho rảnh, vì khiêng thì cồng kềnh, hơi chạm cây, chạm cành một chút là đã kêu rầm lên, rất "vô ý thức". Nhưng đến lúc này mới thấy tác dụng thật đáng yêu, đáng quý của nó. Khi tiếng trống vừa mới dõng dạc nổi dậy là cả chiến trường sôi nổi hẳn lên. Các đại đội xung phong cũng tiến ra đồng loạt. Địch hoảng loạn kháng cự yếu ớt. Chớp thời cơ, ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định tung đại đội xung kích 2 vào tiến công khu B cùng lúc với xung kích chủ công vào khu A, tạo thành hai mũi đột phá vào cả hai khu chia sẻ lửa thù. Tiếng trống xung phong nổi lên mỗi lúc một thêm vang vọng cả núi rừng.

        Từ trong đồn địch bật lên tiếng hốt hoảng:

        - Chúng mày ơi! Chúng nó đánh lớn rồi!

        Lửa cháy trùm khắp khu A, đại đội chủ công hình thành hai mũi đã tới sát hàng rào cuối cùng. Ở trước lô cốt cao ba tầng, mũi tiến công chính của đại đội cũng đã đặt ván, thang lên hàng rào, Hoàng Văn Sự cầm mác lao vút lên ngọn thang hô lớn:

        - Ai là anh hùng cứ điểm theo tôi ... !

        Nhưng lúc đó một băng tiểu liên từ trên tầng cao lô cốt mẹ lia tới.

        Chính trị viên Bạch Văn Liễn cùng đại đội trưởng Nguyễn Thiên Dụ vừa chạy tới nơi thì một băng tiểu hên nữa quạt thẳng tới chỗ hai người chỉ huy. Đại đội trưởng hô:

        - Khoan đã! Ba-dô-ca!

        Một tia lửa phụt dài về phía sau. Lô cốt ba tầng rung lên như một tiếng sét. Khói vừa tan, nhìn lại chỉ thấy một lỗ hổng to bằng cái nia ở tầng dưới. Trên tầng cao, tiếng súng vẫn nổ ràn rát. Duẩn gọi to: "Anh em ơi theo tôi! ". Duẩn thoăn thoắt bám lấy những thân tre ghép ngang leo lên tầng hai. Tiềm cùng anh em khác níu nhau vọt lên. Theo kinh nghiệm chiến đấu, một loạt lựu đạn ném vào bên trong tầng lô cốt. Tiếng nổ vừa dứt, sáu lưỡi mác cùng lao vào. Tiềm phóng thẳng lưỡi mác kết liễu đời tên Pháp còn lại, hai tên lính nguỵ ở tầng ba nhào xuống, đứng dậy giơ tay xin hàng. Lô cốt mẹ được giải quyết xong, không chậm trễ, toàn bộ xung kích tràn vào khu A. Mũi chính, mũi hụ gặp nhau cùng đánh tỏa sang các hầm, hào giao thông còn lại. Số địch sống sót chạy tháo thân sang khu B. Tiếng reo hò ầm ầm nổi lên:

        - Bắt được thằng chỉ huy rồi!

        Số đông xung kích đã lôi tên Pháp ra giữa sân đồn, hai cái lon đã gần đứt tuột khỏi cầu vai áo, cặp mắt xanh tròn xoe cứng lại, tên đồn trưởng há hốc miệng thở hồng hộc, chân tay co rúm lại khi một chiến sĩ dộng mạnh cán mác xuống nền đất…

        Đại đội trưởng Nguyễn Thiên Dụ dõng dạc:

        - Cắm cờ lên các đồng chí!

        Trong nháy mắt, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên đỉnh cao giữa những đám cháy đang lụi dần...

        - Báo cáo! Bên khu B quân ta cũng đã giải quyết xong hoàn toàn.

        Đại đội trưởng Dụ quay lại nhìn sang đồi khu B. Ở giữa sân đồn, đại đội trưởng Cẩm Giàng đang cầm lá cờ đỏ đuôi nheo, quay tròn báo hiệu đã toàn thắng. Trời chạng vạng tối, gió núi rừng nổi lên, lửa ở  cả hai khu đồn bập bùng reo mừng chiến thắng.

        Chỉ huy phó mặt trận Cao Văn Khánh cùng các văn nghệ sĩ rời đài chỉ huy xuống thẳng lũng "yên ngựa" giữa hai khu A và B của Đại Bục. Các ngả, các ngách, xung kích Thủ đô nhanh chóng xếp thành hàng bao quanh các chỉ huy của họ để chụp mấy "bô" làm kỷ mềm.

        Đại Bục vẫn còn rực cháy dựng lên thành một bức "phông" hùng vĩ cho đoàn xung kích Thủ đô đêm nay dâng chiến công về mừng ngày thành lập Đại đoàn Quân Tiên phong - đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Việt Nam anh hùng…


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Mười Hai, 2016, 02:32:58 pm

TIẾNG THÉT VŨ LĂNG

LÊ THỌ       

        Độ ấy chúng tôi vượt qua sông Thao vào cuối tháng 5 năm 1949. Mưa Việt Bắc tháng 7 mới bắt đầu nhưng thỉnh thoảng đã có mưa nguồn đột xuất, nước thượng nguồn sông Thao đã hơi đục và bên lở có chỗ nước xoáy rồ rồ. Bộ đội bắt đầu qua sông từ 3 giờ 30 phút chiều. Bộ đội 54, những anh lính Thủ đô mặt mày hớn hở, tất cả đều mặc những bộ đồ mới nhất vừa được phát như đi hội.

        Sắp thành lập đại đoàn, tất cả các trung đoàn sẽ báo công trong dịp thành lập binh đoàn mới, thế mà đứa con cưng (Trung đoàn Thủ đô) lại chưa có. Tổng tư lệnh thừa biết tính nết "đứa con" này, đông xuân 1948 - 1949 đã lệnh cho vượt sông Hồng về đánh đồn Bồng Lai trên đất Sơn Tây. Trận đánh hơi cập rập, chủ yếu dựa vào sự chuẩn bị của bộ đội địa phơng. Đêm  đen như mực, phóng bom rơi ngoài ruộng, đạn cối rớt bụi tre, bọc lôi không nổ, địa điểm súng máy bố trí toàn chỗ thấp,... nửa tiếng đồng hồ bắn hết số đạn sắp xung phong mà địch vẫn trơ trơ. Bộ đội ta thì rét cóng dưới mưa dầm gió bấc của đêm giáp tết, có anh không cầm nổi cò. Mặc dù xung kích đã bám sát chân rào, dân quân vẫn còn đang hăng hái, nhưng Vũ Lăng đã hạ lệnh rút quân. May sao đạn ta không viên nào trúng nhà dân, đạn địch bắn trả như sao sa, đến 4 giờ sáng, bộ đội ta cũng rút về Vĩnh Yên vô sự. Hôm sau kiểm điểm, chủ lực thì báo sơ đồ của địa phương chuẩn bị không chính xác địa phương thì cười khẩy nói: những anh lính cậu thế mà đánh cũng xoàng. Vũ Lăng tức lắm …!

        Hôm nay họ vượt sông Thao vào đánh Đại Bục. Đại Bục là một trong những đồn chủ chốt nằm trên phòng tuyến sông Thao của địch chắn đường quân ta tiến vào Tây Bắc. Trận Đại Bục sẽ mở màn chiến dịch Sông Thao. Ý đồ của Bộ Tổng về chiến dịch này là phải đánh gấp trước mùa mưa, phá vỡ cả hai phòng tuyến sông Thao và sông Chảy.

        Rút kinh nghiệm Bồng Lai, những chàng lính cậu bớt chủ quan. Vũ Lăng đích thân vác bộ sậu của mình đi chuẩn bị chiến trường.

        Phải nói lính quân báo Thủ đô là một đội quân hết sức tài tử và cũng rất tài tình. Từ chiến đấu nội thành, Pháp đã rất sợ sắc linh này. Chỉ huy đội là một cậu học trò rất trẻ, cực xinh trai, người cao dong dỏng, mặt trái xoan, mũi dọc dừa, hàm răng đều trắng muốt, mắt cười rất đa tình, bẽn lẽn như cô con gái. Anh em thường gọi đùa anh là cô gái Bắc Kinh,  "con Tưởng Giới Thạch", bởi tên anh là Tường Phi Đằng. Để chuẩn bị trận này, Tường Phi Đằng đã đích thân đột nhập đồn nhiều tối. Anh đã từng chui vào hầm rượu, rình xem bọn chúng nhảy múa xòe hàng tiếng đồng hồ trong biệt thự Hoa Hồng.

        Ở Tây Bắc bấy giờ, địch chưa có điều kiện dựng boong-ke xi măng cốt sắt, đồn của chúng xây khá kiên cố, xung quanh thường có hào sâu với nhiều lớp hàng rào lông nhím, tường nhà và lô cốt là những tường trình bằng đất cốt gỗ rất dày, nhưng cột, kèo, mái lợp lại bằng tre nứa... vì vậy Vũ Lăng dự định đánh hỏa công và nghe anh trình bày trận đánh trên sa bàn ở Phủ Yên Bình trước Bộ Chỉ huy mặt trận, có cả anh Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ làm chỉ huy trưởng mặt trận và anh Cao Văn Khánh, chỉ huy phó tham dự… Tất cả mọi người đều tin tưởng, phấn khởi... Đám lính tếu nhất của Thủ đô thường là lính ban chính trị Lương Ngọc Trác thì thầm với anh em: "Nếu tụi nó chết thì tớ chỉ tiếc nhất đội xòe, đội xòe đẹp lắm, chỉ toàn là những cô gái trắng toát như đầm". Nguyễn Tuân ngồi đấy cũng pha vào một câu rất tếu: "Các cậu cứ cố cứu sống một nửa là chúng mình cũng có lãi chán".

        5 giờ 30 phút chiều, nắng Tây Bắc cũng đã nhạt, bóng rừng rậm, núi cao đổ xuống mặt sông làm mặt sông sẫm lại chuyến thuyền cuối cùng của đoàn quân đã sang bờ. Cứ cánh quân nào sang sông xong là được lệnh hành quân ngay vào trận địa, cánh bao vây chặn viện, cánh xung kích công đồn, cánh trợ chiến, mỗi cánh tiến một đường. Cuối cùng là chỉ huy sở và pháo. Vũ Lăng vừa sửa soạn lệnh cho cánh quân này xuất phát thì ban tác chiến báo cáo còn bỏ quên trống ở nhà, tận mãi xóm người Dao trên lưng chừng núi. Ra trận mà quên trống trận. Mặt Vũ Lăng sa sầm lại, anh đã nổi nóng, muốn "quật" cho trưởng ban tác chiến một cái.

        Đã quy ước với tất cả các cánh quân: lệnh xung phong phát bằng trống (dùng trống để khỏi lẫn với kèn của địch), không thể thay đổi được, anh đành bấm bụng cử một nửa tiểu đội liên lạc thật thuộc đường trở về khiêng trống đuổi theo sau.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:09:56 am

        Vũ Lăng người bé nhỏ, đẹp trai, râu quai nón, bình thường anh chơi diện, như một công tử hào hoa, sau mỗi chiến dịch trông anh già xọm, râu ria tua tủa. Tính tình nóng nảy, nhưng tụi lính cậu đâu có sợ, họ thường gọi đùa anh là "thằng quạo, thằng xồm". Tôi biết anh quyết chí đánh trận này bởi tính chất quan trọng của trận đánh đối với toàn bộ chiến dịch mà Tổng Tư lệnh và Bộ chỉ huy chiến dịch đã ủy thác cho anh, bởi nguyện vọng của anh em không chịu thua chúng bạn... Lại còn rửa cái hận Bồng Lai nữa. Anh tính toán rất kỹ, sử dụng từng người lính. Mấy cậu lính cận vệ kiên cường của ban chỉ huy lần này anh đều cho vác mác xung kích đi theo mũi nhọn vào đồn địch. Liên lạc ở chiến trường, ở rừng núi rất khó khăn bởi núi cao, rừng rậm không thể đánh hiệu bằng cờ, cũng rất khó kéo dây điện thoại. Việc quên trống cũng là khuyết điểm của chúng tôi, cũng vì sự lúng túng của trưởng ban tác chiến, dù rất nhanh nhẹn và thông minh, nhưng ở đời thường như thế, thông minh lại hay đãng trí. Anh nhớ chu đáo mọi việc chi tiết nhỏ nhặt, còn cái trống quan trọng mà chính Vũ Lăng trực tiếp giao cho anh, mãi đến lúc qua sông anh mới sực nhớ. Tôi nghĩ đến Phan Quân, một trí thức, một sĩ quan trong quân đội Pháp giác ngộ theo cách mạng, một trưởng ban tác chiến tuyệt vời của Trung đoàn Thủ đô. Cả trung đoàn không thấy ai tỉ mỉ và ghi chép kỹ lưỡng như anh, chuẩn bị cho trận đánh không bao giờ anh quên một cái đinh, sợi chỉ. Anh rất hiền lành và làm việc với ý thức phục tùng cao độ. Anh thường bị Vũ Lăng cáu gắt và không bao giờ cãi lại, nhưng anh cũng là người Vũ Lăng rất quý mến.

        Màn đêm sụp xuống núi rừng. Pháo lên vai, cánh quân cuối cùng xuất phát. Đi theo trận này, Nguyễn Tuân, Chính Hữu, Tô Hoài, Lương Ngọc Trác trong đội hình ban chính trị, hành quân với pháo, lại đường rừng nên rất chậm. Khoảng 8 giờ tối, trời chuyển mưa, chưa đến chính tiết mưa, sao trận mưa đêm nay to thế, đi dưới lá mà tôi cũng có cảm giác mưa như thùng nước dội trên đầu. Tối như bịt mắt, muốn di phải vịn vai nhau, hoặc lấy lá mục có lân tinh xát vào áo người đi trước mới khỏi bị lạc. Cứ như thế mưa đến hàng tiếng đồng hồ. Vũ Lăng vô cùng lo lắng, anh nói: Mưa thế này thì Phúc Ánh (tức đại đội trợ chiến) có thể mất đường vì đường trợ chiến nhiều đoạn phải đi dọc theo suối cái... Trợ chiến phải đến trước pháo và chỉ huy sở là điều đã được quy định vì trung đội bộ binh của trợ chiến vừa là khinh binh bảo vệ trợ chiến, lại vừa là nhiệm vụ bảo vệ pháo và sở chỉ huy.

        Cuộc hành quân quá chậm. Sốt ruột, Vũ Lăng lên đầu hàng xem pháo binh khênh vác thế nào. Tôi cũng sờ lần xuống ban chính trị. Tất cả đều ướt sũng. Anh Nguyễn Tuân, anh Tô Hoài... mỗi người đều được ưu tiên một miếng vải sơn dầu mới - sản phẩm độc đáo của cụ Nguyễn Sơn Hà, nhà tư sản yêu  nước đã tìm cách chế ra cho kháng chiến - mặc dù vậy, các anh cũng đều ướt sũng. Tuy nhiên, các anh vẫn lặng lẽ, mò mẫm bám hàng quân. Tôi hỏi Nguyễn Tuân: "Thế nào, Nguyễn có thấy vất vả lắm không?" (anh em cán bộ và lính Thủ đô lúc nào cũng coi anh như người đồng đội thân mật, chỉ gọi anh trống không là Nguyễn). Anh "hừ" một tiếng và cười nhẹ trong mưa rơi tầm tã, tôi vẫn nghe rõ tiếng cười hài hước của anh, tiếng cười như phê phán: câu hỏi thừa. Lối cười của Nguyễn ai mà không biết, một lối cười đầy kịch tính: khi cười thường ngửa mặt lên trời vênh vênh cái mũi sư tử, cười nhẹ cũng rung cơ bắp từ vai đến rốn. Lính Thủ đô rất hợp anh và yêu anh: một nhà văn tài năng. Cuối cùng rồi anh cũng trả lời tôi, một giọng nói nửa như ca cẩm, nửa như phớt đời: "Trận mạc thì nó phải thế".

        3 giờ sáng, pháo và chỉ huy sở tới chân đồi bố trí trận địa, trinh sát báo cáo vẫn chưa thấy đại đội trợ chiến tới nơi. Một tình thế đặt ra: pháo và chỉ huy không có bộ binh bảo vệ, liệu có tiến lên sườn đồi chiếm lĩnh trận địa không? Ban chỉ huy cùng đồng chí Cao Văn Khánh  hội ý cấp tốc nhất trí cứ lên đồi, và liên lạc cứ đi tìm Phúc ánh. Tôi thấy Vũ Lăng đứng lặng hồi lâu, hình như anh ôn lại trong đầu tính lại những tình huống có thể xảy ra cho trận đánh, rồi anh cử trong số năm liên lạc còn lại, hai người đi ngược đường tìm Phúc Ánh. Vũ Lăng quyết định thế vì anh rất tin vào Phúc Ánh, anh cho rằng Phúc ánh không thể lạc đường, dù có lạc đường cũng không quá chậm. Trong kế hoạch, Phúc Ánh đã trù liệu cả trường hợp phải mở đường để đi anh đã sắm hàng trăm dao quắm cho đại đội.

        Phúc Ánh là một trong những đại đội trưởng thông minh xuất sắc nhất của trung đoàn. Anh là Trần Phúc Ánh, hậu duệ đời thứ hai mươi của Trần Hưng Đạo. Đến đời bố anh nghèo, làm ông đồ dạy học, dạy được năm con trai, thấy Phúc Ánh thông minh, ông đồ bắt bốn đứa phải đi cày ruộng tập trung tiền cho Phúc Ánh ăn học. Năm hai mươi mốt tuổi đậu tú tài toàn phần, đang chuẩn bị thi vào ngành luật thì Cách mạng tháng Tám nổ ra, anh tình nguyện sưng vào Vệ Quốc đoàn, được cử làm trung đội trưởng giữ Tòa thị chính Hà Nội. Anh rất giống Phan Quân, thích chính quy. Người anh nhỏ nhắn, tính tình khảng khái, không thích mấy ông chính trị  chậm chạp lề mề, họp hành nhiều quá.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:10:16 am

        Một hôm thấy chi bộ họp hành nhiều quá, anh báo động làm cho chi bộ chạy toán loạn. Trận tập trung truy kích địch mười cây số trở về, ai cũng mệt phờ râu không còn muốn họp. Hôm sau anh nhận lỗi và nói: "Tôi thấy các đồng chí họp hành nhiều quá chừng hợp với chiến đấu".

        Đỉnh núi đã tan sương, vẫn chưa thấy đại đội của Phúc Ánh đâu Vũ Lăng đứng ngồi không yên, ruột gan như bị lửa đốt. Còn ba liên lạc, anh lại phải cử hai người mang lệnh điều một trung đội thuộc cánh quân chặn viện về để bảo vệ pháo và sở chỉ huy. Liên lạc đi một đỗi, có vài tiếng súng ở phía ấy, Vũ Lăng giật thót, anh mở to mắt như hỏi tôi: Chúng gặp địch à? Nhưng rồi không thấy súng nổ thêm, cả một vùng núi rừng lại im ắng trong chờ đợi.

        9 giờ sáng, trinh sát theo dõi đồi từ ngọn cây cao báo cáo có hai tiểu đội địch, lính ngụy có Tây chỉ huy xuất phát từ đồn ra phía cổng chính. Vũ Lăng tập hợp lực lượng: còn một liên lạc, nửa tiểu đội quân báo gồm năm người trong đó có Tường Phi Đằng, vài cán bộ thuộc ban tác chiến, ban chính trị khỏe mạnh cũng bắt ra chiến đấu, tất cả ước chừng một tiểu đội. Vũ khí mới gay: trưng dụng của cậu cận vệ của anh Cao Văn Khánh được một khẩu các-bin, của cận vệ đại đội trưởng một súng trường, tất cả tiểu đội có khoảng năm, sáu quả lựu đạn. Vũ Lăng trực tiếp chỉ huy, anh dẫn tiểu đội xuống núi. Kế hoạch của anh là trong lúc chờ quân cứu viện, đánh chậm, và kiềm chế không cho địch tiến đến trận địa pháo và chỉ huy sở của chúng ta đang ngổn ngang những bộ phận pháo còn tháo rời, những giỏ đạn đại bác nằm như những con lợn con và hàng trăm người tay không: dân quân, pháo thủ, nhăn viên chính trị, dân quân, kể cả hai anh Nguyễn Tuân và Tô Hoài mỗi người cũng chỉ có một túi xách và một cái gậy tuỳ thân. Vũ Lăng phân tôi quản bộ phận còn lại tìm cách tản ra, càng đi sâu vào rừng càng tốt, thậm chí trèo được sang mái núi bên kia càng hay. Tôi chạy đến chỗ anh Cao Văn Khánh đứng là nơi cao nhất, anh Cao Văn Khánh cũng lắc đầu: không còn có thể nhúc nhích được nữa. Từ chỗ sườn đồi đặt pháo và sở chỉ huy trở lên là rừng già trùng điệp ken đặc giang, tre, nứa chỉ có rắn hay chồn mới có thể luồn qua, dù có tiểu dội tay dao chặt hàng tiếng đồng hồ chưa chắc đã mở được dăm mười thước. Tôi giật mình nghĩ đến đại đội Phúc ánh có lẽ đang kẹt trong tình thế này chăng, nếu Phúc ánh không đến kịp, nếu liên lạc cầm lệnh điều quân cũng bị tắc thì tiểu đội Vũ Lăng sẽ chiến dấu như thế nào?

        Tôi hướng dẫn các bộ phận ngụy trang pháo đạn tìm nơi ẩn núp rồi quay lùi xuống, đến nửa chừng chân núi có tiếng súng nổ : thoạt nhiên là hai tiếng lựu dạn rồi kế tiếp hàng loạt Tôm-xông, Ten, Các-bin. Tôi hiểu: lựu đạn ta đã ném trước những loạt đại liên, tiểu liên của địch.

        Thế là cuộc chiến đấu dã bắt đầu, địch đã thọc đúng đồi đặt pháo và chỉ huy sở, chúng đánh đúng vào điểm yếu của ta đang lúc lạc quân, pháo và chỉ huy không có bảo vệ. Tiểu đội của ta với ba khẩu súng, sáu lựu đạn dưới sự chỉ huy của đoàn trưởng Vũ Lăng, chiến đấu rất kiên cường. Địch đông quân, nhiều súng, đạn tiểu liên xối xả, còn ta lâu lâu mới thấy một tiếng lựu đạn, tiếng tiểu liên nổ phát một, lúc đằng trước, lúc ngang sườn, lúc như sau lưng địch. Quần nhau hơn nửa tiếng đồng hồ, quân ta ít, đạn sắp hết, phải vừa đánh vừa rút lui, quân báo ta đã báo có lính bị thương, y tá đang băng bó bị chúng bắn chết, tình thế chiến đấu của chúng ta núng lắm rồi. Vũ Lăng đã lùi lên đến chỗ tôi, tôi đứng cũng chỉ cách đội quân tay không chừng mươi thước, nhìn lại sau lưng tôi thấy Tô Hoài nằm ép giữa hai rễ một gốc cây, người anh mỏng dính như xác cóc khô mắt trợn tròn xoe kinh ngạc, anh núp tương đối kín. Còn Nguyễn Tuân ở bên, xác to, bò lổm ngổm, giấu được đầu thì hở mông, được mông thì hở đầu, loay hoay lúng túng. Liên thanh địch lia đã gần lắm, đạn bay bên mang tai chiu chịu, cắm vỡ thân cây. Vũ Lăng cắn chặt hai hàm răng, gò má nhô cao, mặt anh sắt lại. Anh bảo Tưởng Phi Đằng chuyển nốt hai trái lựu đạn tôi mới vét thêm ở đằng sau cho các chiến sĩ đứng đằng trước và ra lệnh: nếu địch xung phong thì đánh giáp lá cà, cướp súng địch bắn lại Tưởng Phi Đằng đề nghị Vũ Lăng cho anh và một chiến sĩ liều đánh xuống mở đường. Vũ Lăng không nghe, nói: "Cậu phải ở bên tôi!". hiểu anh đã nghĩ đến trường hợp anh ngã xuống, phải có người chỉ huy vật nhau với địch, việc này phải linh quân báo mới thiện nghệ. Trong lúc gian nguy, anh thường quay lại tham khảo ý kiến tôi, lần này không thấy anh quay lại và tôi cũng lúng túng. Chiến đấu cùng nhau, Vũ Lăng thường tôn trọng ý kiến của tôi, tôi ít tuổi hơn anh, ít thực tế chiến đấu nhưng anh mến, nể vì tôi cũng dân học trò Hà Nội hiền lành, cẩn thận, tôi lại được học quân sự khá nhiều ở Trường Quân chính Bắc Sơn, toàn sĩ quan Nhật dạy, từ động tác cơ bản đến chiến lược, chiến thuật. Tôi từng được thực tập chỉ huy chiến đấu sư đoàn, quân đoàn trong đội hình tập đoàn quân với các binh chủng hợp thành trên sa bàn, trên trận địa giả. Cả vùng đồi núi quanh thị xã Thái Nguyên điểm cao nào cũng được chúng tôi đặt tên: Trâu, Bò, Lợn, Gà, Chó, Mèo, Dê, Khỉ... hơn nữa năm trước chúng tôi đã đánh trận giả vùng đồi núi, thuộc hết địa hình... giờ đây tôi đang cố ôn lại các binh thư đã học xem có chỗ nào dạy phá thế trận này không.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Mười Hai, 2016, 01:11:03 am

        Ở hàng cây trước mặt đã thấp thoáng sắc áo vàng cứt ngựa, chúng đang tản hàng ngang, thằng chỉ huy người Pháp khoát khoát tay thúc tụi đằng sau tiến, hai bên cùng không bắn, trận địa trải qua những giây phút im ắng...quyết tử hình như đã biết chúng tôi hết đạn và cũng biết chúng dồn chúng tôi tới chân tường... chúng chỉ chờ dàn xong thế hàng ngang là xung phong nhảy lên bắn áp đảo tiêu diệt chúng tôi. Mặt thằng Tây láo liến, sợ hãi, nó chưa kịp há miệng hô xung phong thì Vũ Lăng thét lên một tiếng làm nó rụng rời. Lựu đạn và súng chúng tôi nổ trước Hàng ngũ chúng chưa kịp xung phong, đứng tại chỗ, bắn loạn xạ. Đến tiếng xung phong thứ hai của Vũ Lăng thì cả quân ta đều hưởng ứng thét vang, hàng trăm người từ dân quân, pháo thủ, chính trị, tham mưu đến văn nghệ và tất cả đều thét lên hết cỡ, tiếng xung phong ầm rung như núi đổ, quân địch bỗng kinh hoàng, quay đầu chạy rào rào. Vũ Lăng hô tiếp: "Vây bắt lấy chúng nó", quân địch càng cắm đầu chạy thục mạng. Xuống chân núi, tập họp được nhau, chúng trụ lại vì chúng thấy quân ta không đuổi.

        Liệu chúng còn dám đánh lên không Tụi lính Pháp đóng ở Tây Bắc là tụi lính thiện chiến, không chịu đầu hàng Nhật, len lỏi trong rừng sâu nhiều năm, chúng có nhiều kinh nghiệm đánh rừng. Nhưng chúng chưa kịp hoàn hồn thì từ góc núi, phía đường mòn mở ra đường cái, một loạt đạn trung liên nổ dõng dạc, hai phát một, biết có quân ta đang vít lại sau lưng, chúng cõng nhau băng rừng chuồn thẳng.

        Nghe tiếng nổ trung liên, Vũ Lăng đổi sắc mặt, anh hớn hở quát to: Phúc Ánh tới.

        Mấy Phút sau, Phúc Ánh xuất hiện trước mặt chúng tôi. Qua một đêm tôi thấy Phúc Ánh gầy tọp chỉ còn một nửa. Anh quắt lại như một cành khô, chỉ còn đôi mắt sáng, chân vẫn đi ghệt, quần áo thẫm đẫm nước bùn và mồ hôi khô đi ướt lại cứng như mo cau, chiếc nón lưới tung ra nhiều chỗ. Biết mọi người vừa chết hụt, mặt Phúc Ánh tím tái anh đến trước Vũ Lăng đứng nghiêm, khi anh ngẩng thẳng mặt lên đưa tay chào quân sự, tôi thấy tròng mắt anh ứa đầy nước mắt. Anh báo cáo với Vũ Lăng dõng dạc:"Báo cáo, chúng tôi có tội". Vũ Lăng cũng đứng nghiêm,anh muốn cười nhưng môi khô, không nhếch được mép. Anh nói với Phúc Ánh rất ôn tồn: "Cho đại đội về vị trí chuẩn bị ngay". Phúc Ánh "rõ " một tiếng, chạy đi mau lẹ.

        Từ phút ấy thế trận thay đổi, bây giờ thì địch đang nằm trong vòng vây của ta.

        Quân ta  ráo riết chuẩn bị vào trận đánh. Vũ Lăng đi kiểm tra lại trận địa trợ chiến và các mũi xung kích, anh đến từng người một, 15 giờ 30 phút, anh về lại đồi chỉ huy,anh đề nghị anh Cao Văn Khánh cho đánh sớm, được đồng ý pháo ta 4 giờ chiều khai hỏa.

        Trận đánh diễn ra đúng như kế hoạch. Lô cốt địch sụp từng tầng một sau mỗi loạt đạn đại bác của ta, các cờ súng máy của địch hầu như câm họng. Chỉ sau 20 phút, đột phá khẩu đã mở, xung kích đã bám đến chân rào, một quả phóng bom rơi trúng giữa đồn, đồn địch cháy ngùn ngụt. Vũ Lăng ra lệnh xung phong. Trận đánh kết thúc sau 35phút - một kỷ lục diệt đồn nhanh gọn.

        12 giờ đêm hôm ấy, thu dọn chiến trường xong, quânta chuẩn bị rút qua sông.

        Chúng tôi về khu tập kết tại một quả dồi ở gần đồn,một bản dân vừa giải phóng, vừa sáng tưng bừng. Nhà sàn rộng rãi treo nhiều măng-xông và đèn đất, chật ních người. Ở đây vừa diễn ra cuộc liên hoan gặp mặt, vừa là cuộc chia tay cấp tốc của các anh bộ đội, chủ lực địa phương, dân quân du kích, các anh cán bộ vùng tự do, cán bộ vùng địch hậu, kẻ lưu vong, người bám trụ... Một góc sáng trưng, lính quân báo đang khui rượu Tây và Bít-cốt đãi mấy anh bạn hẩu: sĩ quan pháo binh, trợ chiến, nhân viên chính trị, tham mưu, trong đó có cả Nguyễn Tuân và Tô Hoài. Có lẽ đã ngà ngà, Nguyễn ngửa mặt lên trời cười rung mái tóc, anh nói hồn nhiên: "Sáng nay tý nữa thì chúng nó xơi tái bọn mình, bấy giờ người tớ đã cứng hết ra, lịm đi như chết đứng, bụng còn nghĩ phen này thế là bỏ mạng sa trường, chỉ đến lúc Vũ Lăng hô xung phong tớ mới sống lại", anh em cười vang, anh lại nói tiếp: "Ra trận việc giấu mục tiêu quan trọng thật, mục tiêu càng nhỏ hoặc không có mục tiêu càng tốt... Thế mới biết tại sao thằng Tây dễ trúng đạn. Tớ cứ ghen với Tô Hoài, sao mà nó ẩn kín thế, chỉ cần vài cái rễ cây nhỏ đủ nó dung thân không đạn nào bắn được, chỉ có lưỡi lê sọc từ trên xuống nó mới chịu chết". Trong khi đó Tô Hoài lặng lẽ ngồi giữa đám pháo binh lực lưỡng, trông anh nhỏ bé như một thiếu mến cứ bẽn lẽn như cô gái xòe vừa bắt được, nhỏ nhẹ dịu hiền, cứ cần mẫn ngồi ghi chép.

        Thấy chúng tôi tới, các anh chia cho Vũ Lăng và tôi mỗi người một bát rượu Fi-péc-manh. Nguyễn lại ngửa mặt lên trời, cười rung mái tóc. Anh nói: "Chúng mình tự động khao quân rồi, bây giờ khao tướng". Anh hạ giọng ôn tồn chậm rãi như vừa nói, vừa lắng nghe lại từng tiếng nói của mình: "Lăng ơi, cậu thật là tướng! Tiếng hô của cậu thật thiên tài!". Anh gật gật đầu phong thái ung dung mỹ mãn như ông đồ đắc chí.

L.T                   
Tháng 10 năm 1993       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười Hai, 2016, 04:55:51 am

TRÊN MẶT TRẬN SÔNG THAO

TÔ HOÀI       

        Mùa hạ năm 1949, Nguyễn Tuân và tôi theo tiểu đoàn 54, Trung đoàn Thủ đô. Các đơn vị quân chủ lực mở chiến dịch Sông Thao tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang của địch, lần lượt từ các đồn Đại Bục, Đại Phát, Khe Pịa, Ngòi Mác, Mã Yên Sơn lên đến đồn tiểu khu Phố Ràng.

        Tôi đi cùng Nguyễn Tuân - được làm quen với một nhà văn nổi tiếng trên đường ra trận. Nguyễn Tuân "sắm nắm"  quanh cái bi đông nước bọc dạ xanh của anh. Lần đầu tiên ở  mặt trận, đi chung với Nguyễn, tôi mới thấy quả anh có nhiều đức tính của người lên đường.

        Khỏe, vững. Hành trang không thừa, cũng không thiếu một thứ gì. Trên lưng, gọn gàng chiếc ba lô Nhật. Một sợi dây nhỏ cũng có chỗ để rồi dùng đến sợi dây. Cuối cùng, mọi thứ giấy má lộ liễu của riêng mình đều phải để lại căn  cứ không được đem vào vùng dịch. Chỉ một cuốn sổ nhỏ, cái áo mưa, bỏ vào ba lô vừa phải. Một bao cơm nắm thêm cái lưng lương khô quấn chéo ngang mình. Dây bi đông nước, Nguyễn Tuân đã cẩn thận buộc ghì vào thắt lưng cho khi bước đỡ sóc.

        Trong nghề đi - nghề đi, nghệ thuật đi, chứ sao!  Nguyễn Tuân với đức tính cẩn thận đã thành thói quen cầu kỳ đến đam mê . Sửa soạn chu đáo đến thường thức cũng chu đáo, không phải cứ vừa đứng đắn, vừa khôi hài như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Ở Trường Lục quân bên Vân Nam về, anh Khoát dạy tôi cách đi đường giúp được dai sức của Bát lộ quân. Nhanh mười bước lại thong thả ba bước, cứ thế đi cả ngày chân không biết mỏi - anh bảo nhất định thế. Mọi thứ trên mình và trong ba lô đều gọi trành con số. Ví dụ cả thảy trong người có mười lăm thứ, thế là số mười lăm. Sáng ra, trước khi đếm nhẩm mới có mười bốn. Thế là còn thiếu một, phải tìm cho ra. Rõ thật buồn cười! Mọi cẩn thận của Nguyễn Tuân thiết thực hơn. Ngọn bút chì cài trên túi áo, ngồi đọc thỉnh thoảng rút ra ghi lên sách.

        "Không biết đến thế kỷ nào có cái hơn, chứ bút chì trên giấy nào cũng không bao giờ bị phai". Một tệp bìa cứng với cái bút chì. Lắm lúc thấy ông bạn đường của tôi chịu khó đến vậy, mình vừa để ý, vừa thích, vừa ngán ngẩm cho những chắt chiu khó nhọc của nghề đi: thật không biết thế nào là cùng Nguyễn Tuân là người lo cho việc đi: thích đi và biết hưởng thụ đi. Mải mê có thể quên ngày tháng, nhưng tính đến sửa soạn đi thì nhớ đến từng ly. Cái phóng khoáng của ông ấy không lẫn với buông tuồng, cẩu thả. Ở chiến dịch, Nguyễn Tuân đã gặp lại Két - chiến sĩ trinh sát mà lúc ấy Nguyễn Tuân hỏi tôi có còn nhớ không.

        Lần đầu tiên quân chủ lực mở trận phối hợp lớn, mặt trận dài suốt sang tận bên kia sông Chảy, lên giáp giới Lào Cai. Theo tiểu đoàn 54 - đơn vị chủ công của trung đoàn, Nguyễn Tuân bỗng gặp lại Két, thật bất ngờ khi qua bên kia sông.

        Chặp tối, tập kết ở thị trấn Mậu A. Các chiến sĩ đều quần áo bà ba đen như chúng tôi. Bộ đội được phát thế nào thì mặc nấy, áo nâu, áo đen, có khi nhuộm lá cây, nhuộm pin xanh sẫm, thâm xịt. Đã xế chiều, các chiến sĩ ngồi xúm xít đen ngòm trên sân đền Đông Cuông ngay bờ sông Hồng. Trung đội trưởng Két ở trong đám chiến sĩ. Người hầu bàn năm xưa đã trông thấy cái ông nhà văn hay uống "uýt-ky", "quăng-trô xếch"1 ở nhà Thủy Tạ lúc chặp tối sao ông ấy lại ở đây thế này. Mà đội mũ vải ka ki xám, mặt lành lạnh như phái viên cấp trên xuống. Trung đội trưởng Két đến trước mặt Nguyễn Tuân nói:

        - Ông...

        Nguyễn Tuân giơ cái gậy tre, nắm tay Két:

        - Anh Két! Đồng chí Két! Tôi cũng qua sông đêm nay. Đồng chí ở 54 à?

        - Vâng ạ.

        Chỉ một thoáng thế thôi rồi mọi người lại hối hả sửa soạn công việc xuống thuyền qua sông. Suốt chặng đường vào trong vùng địch, Nguyễn Tuân mong gặp lại Két, như còn bao chuyện mấy năm nay mà chưa nói hết. Suốt đêm ấy mù mịt bóng sương, hơi nước và lầy lội, hầm hập. Không biết bao nhiêu, liên tiếp từng chiếc thúng, chiếc "tam bản"2  của các Vạn chài cả mấy tỉnh từ Phú Thọ lên đưa bộ đội qua sông. Đi suốt đêm đến sắp sáng, qua mấy làng tề gần đồn Đại Bục, trông lên quả đồi lù lù đây rồi mà tiểu đoàn bộ đội với các đơn vị trực thuộc vẫn loanh quanh lố nhố dưới ruộng, chưa tìm ra nơi ém quân. Du kích địa phương dẫn lạc đường. Chúng tôi lõm bõm trên những cánh đồng mới cấy còn võng nước. Sau lưng anh nuôi quảy nồi chảo, va lôông côông nghe rợn người, như tiếng nhạc ngựa đồn Tây ra đuổi.

----------------------
        1 Cointreau (quãng-trô) một thứ rượu ngon Pháp, quãng-trô xếch nghĩa là chỉ uống rượu, không có thứ nhắm.

        2. Tam bản, tiếng Hán là "ba tấm", một loại đò, thuyền ghép lại từ ba tấm ván gỗ.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười Hai, 2016, 04:57:05 am

        Ban chính trị trung đoàn có nhạc sĩ Lương Ngọc Trác và cả hai lính Pháp hàng binh thu được trong trận 54 luồn sâu tập kích đồn Bá Giang ở Phùng ra cứa sông Hát trên đường Sơn Tây. Hai người lính Pháp này đã lái xe vận tải chạy giữa đồng. Bây giờ hai người làm công tác địch vận. Ra trận, một người đeo một cái loa giấy bìa cứng làm bằng "các-tông"1  dài ngoằng như chiếc sừng trâu. Mấy hôm trước đóng quân tập kết ở bàn đạp. Mỗi ngày mổ lợn, các cậu được anh em thương tẩm bổ thêm miếng gan, quả tim ngoài suất ăn. Cái hôm hành quân ban ngày ở Phú Thọ, theo dọc sông Hồng lên, dưới mưa vẫn rào rào đi. Hai người Pháp gầy nhẳng, tóp lại, cao lêu đêu, tóc ướt bết trán, vai nhô lên, cung cúc như con gà chạy mưa.

        Loanh quanh một lúc trời sáng, tất cả cũng lên được giữa đồi um tùm. Vừa tới lưng dốc đã nghe vang tiếng súng dưới ruộng. Tiếng nổ lúc sáng bạch nghe toác toác, thoạt nghe như cháy rừng nứa. Thì ra có người ra đồng làm sớm thấy nhiều vết chân lạ giẫm nát lúa mới cấy. Sợ quá về bẩm chánh tổng, chánh tổng lên báo đồn. Quan đồn đoán đêm qua có du kích về. Sắp đến ngày 19 tháng 5, kỷ niệm của Việt Minh. Đồn cho một tiểu đội lính Thái ra sục các đồi. Bọn lính Thái với bọn cai Tây cởi trần, xách súng bắn bừa vào bụi rậm rồi hô xông lên. Chúng nó sục cũng tình cờ nhưng thế nào lại đúng đồi ban chỉ huy tiểu đoàn và cả ban chỉ huy mặt trận.

        Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng lập tức cho hai tiểu đội xuống chặn. Lệnh: "Tuyệt đối không lộ hỏa lực mạnh, chỉ được bắn súng trường, phát một. Nếu giáp lá cà, đánh dao găm" .

        Chúng tôi ngồi xổm canh bụi tre xế đỉnh dồi. Ngổn ngang những gồng gánh, những càng chân SKZ - súng  không giật, từng bộ phận súng cối chưa lắp và những đùm lá cọ trong gói từng chồng truyền đơn tiếng Pháp, tiếng Thái. Hai người lính Pháp địch vận "mắt xanh nhờ" đứng chơ vơ như hai cái cột. Giữa im lặng thấp thỏm, không biết bao nhiêu con người núp trong bụi lau, trong bóng lá như quả đồi sắp nổ trong ánh nắng ban mai. Nguyễn Tuân chống hai tay lên chiếc gậy tre, lom khom nhìn xuống đất. Tôi ngồi không yên, lại nhấp nhỏm đứng. Quái đản, Tây sắp đánh lên đây mà lại có hai thằng Tây đứng lù lù sát mình thế này.

        Đại đoàn phó Cao Văn Khánh, chỉ huy phổ chiến dịch đến bên, nói nho nhỏ trấn áp khéo chúng tôi:

        - Đạn không bao giờ dính tôi đâu? Các anh ngồi yên đây, không có gì phải lo.

        Câu nói nửa đùa nửa thật về cái mênh con người! Nguyễn Tuân đã gặp Cao Văn Khánh trong chuyến đi ngựa từ Tuy Hòa qua Củng Sơn lên tiền tuyến Cheo Reo. Đã biết nhau và câu nói thân mật của con người trải trận mạc quả là có tác động tâm lý. Tôi cảm thấy thảnh thơi hơn, không bị hút vào sự im lặng ghê rợn. Hai người hàng binh Pháp lớ rớ loay hoay loanh quanh cạnh bụi tre. Chiếc loa giấy khoác bên vai chốc chốc lại đổi bên lắc một cái, không biết họ đang nghĩ gì. Những con ruồi vàng bụng mọng máu to thô lố ở ống chân lông lá lăn xuống. Ruồi vàng, bọ chó, gió Than Uyên...

        Bỗng tiếng súng rộ lên một chặp dữ dội dưới lưng đồi, rồi lại tắt ngay. Trong im lặng, chiến sĩ liên lạc lên báo ta đã tiếp cận, ta đã đâm chết một thằng lính Thái. Tiếng nổ, đấy là chúng nó bắn chặn để khiêng xác thằng chết về.

        Rồi cứ im im như thế đến quá trưa. Vẫn quạnh như tờ. (Sau mới biết trong đồn chúng nó phán đoán là sắp đến ngày sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh, du kích đến quấy, chúng nó không ra nữa ). Đồn Tây bỗng chốc được phòng thủ và canh gác nghiêm ngặt hơn. Trèo lên cây đồi bên này, tôi trông rõ những người vác hòm đạn vào lô cốt, như kiến tha mồi. Chúng tôi ăn cơm nắm, thịt rang của các bếp đã chuẩn bị từ chiều qua.

-----------------
        1. Các-tông, tiếng Pháp là "carton" cũng là bìa cứng, dày.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười Hai, 2016, 04:57:34 am

        Rồi xế chiều. Mặt trời đã vàng khè trong làn sương các khe núi dâng lên. 5 giờ, sắp tối, máy bay dưới xuôi không lên nữa. Một tiếng ầm, vang bốn phía. Đại bác ta đã nã thẳng, xanh lè lô cốt bên đồi. Nhưng chỉ đoàng đoàng được vài quả, nền đất đặt pháo của ta bị lún, pháo lệch nòng bị câm. Khẩu súng phóng bom ngay phát đầu đã văng cả chốt đuôi, suýt nữa chết anh Tây địch vận ngồi đằng sau. Nhưng các quả cối thì nhả đạn đều, tiếng rền nặng nề liên tiếp. Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác ngồi trên cây nhìn về phía bên trái kêu to: "Bên Đại Phác nổ súng rồi".  Đồn Đại Phác của địch chỉ cách một quãng rừng, trông thấy cả khói, không biết khói súng hay cháy đồn.

        Bộ binh xông lên đồn, lúc ấy trời đã tối hẳn. Khoảng 8 giờ tối, chúng tôi vào được sân đồn Đại Bục, cái chỗ lúc trưa trông thấy lính Tây, lính Thái trần trùng trục vác hòm đạn. Bóng tối và khói mù mịt. Bờ rào dây thép gai tan tác. Quan đồn Tây mặc áo giả làm đàn bà Thái định chạy trốn bị trúng đạn chết dưới chân một luống đất. Nhưng trên cái lô cốt cao cắm cờ tam tài  ở giữa sân, đạn vẫn nã xuống. Những mũi xung kích chiến sĩ cầm mác luồn được vào núp ngay chân bờ tường lô cốt bắn chiếm, chiếm được đồn rồi mà khắp nơi cứ loạn xạ.

        Cái trống nhà chánh tổng treo đầu hồi ngoài nhà sàn không biết ai đã khiêng ra vứt lăn lóc giữa sân. Một đám vác xác người chạy qua. Nguyễn Tuân quần áo đen như hung thần hiện lên, tay cầm dùi trống, mấy chiến sĩ quay ngược nện báng súng vào mặt trống. Cả đám người xông đến đánh trống ngũ liên thúc trận quyết hạ cái lô cốt cuối cùng lừng lững trước mặt. Mấy lính Thái gan lỳ vẫn dai dẳng bản xuống phát một. Nhiều chiến sĩ đã bị đạn tỉa chết. Một tổ tiêm kích bắc thang trèo lên thả lựu đạn vào lỗ châu mai. Đã hơn 8 giờ tối. Tiếng súng im như tắc họng...

        Ở tấm ảnh "Hạ đồn Đại Bục" của nhà nhiếp ảnh Tiến Lợi chụp trong pho sử "Quân Tiên phong", giữa hàng quân ta có hai lỗ chấm trắng trên đầu gậy...

        Nửa đêm, cả ban chỉ huy 54 lên một cái nhà sàn còn sót lại trong xóm xung quanh vẫn cháy rực. Chiếc dùi trống cái thò một đầu trên ba lô Nguyễn Tuân. Cạnh bếp, một cái thùng đựng rượu vang to bằng cái vại sành đặt trên cái gốc cau đã thủng toang một mặt ván. Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng tới chiều qua ở bên kia sông, mặt mày còn phẳng phiu, bây giờ râu na quai nón đã trổ đen ngòm. Tiểu đoàn trưởng giơ bát rượu vang: "Đúng hẹn với các anh nhé. Chúng ta vào uống rượu giữa đồn Đại Bục. Nào các anh! Mời ông Nguyễn". Một lúc, Nguyễn và tôi nâng hai bát trước mặt, nhưng không đụng cốc, chúng tôi uống im lặng viếng hương hồn người bồi bàn - chiến sĩ trinh sát, trung đội trưởng Két - đã hy sinh trong một đợt xung phong lúc nãy. Mấy hôm sau, chiến dịch chuyển sang sông Chảy. Nguyên Tuân vẫn ở lại với 54. Tôi theo đội võ trang tuyên truyền lên các làng Dao Sừng trên rặng núi Voi rồi xuống với Trần Đăng lên mặt trận Phố Ràng.

        Bao nhiêu năm rồi, mỗi khi có dịp, chúng tôi vẫn thăm hỏi 54 - tiểu đoàn em nuôi của Hội Văn nghệ Việt Nam. Những khi rút quân ở Kép Le đến ngày hòa bình về Lai Xá ở Hòa Lạc. Cái ngày luyện quân ở Định Hóa, lửa trại đêm Hà Nội giữa rừng. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc năm 1952. Rồi đến chống Mỹ, cuộc tiễn đưa đơn vị tiến vào đánh bao vây Khe Sanh. Lần ấy, tôi lên đơn vị đóng quân trên Hòa Lạc  ở  Sơn Tây. Thoắt đấy mà ba mươi năm đã qua, cả đoàn người chiến dịch sông Thao còn lại mỗi một bộ đội Sửu, thợ rèn, tự vệ Ô Cầu Dền, nay là chính trị viên trung đoàn.

        Cái tình với chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô của Nguyễn Tuân không phải ngẫu nhiên. Ấy là thói quen đến nơi, đến chốn trên đường hành quân cũng như ý nghĩa một kỷ niệm. Người con trai lớn của Nguyễn Tuân đã là một trong những cán bộ chỉ huy đầu tiên  ở đơn vị từ sáu mươi ngày đêm ở Liên khu 1. Có khi đi với Nguyễn Tuân và Xuân Trường - người con trai ấy bây giờ là một tướng lĩnh trong quân đội - chúng tôi về quê Nguyễn Huy Tưởng, ở Dục Tú. Ba cái xe đạp thong dong sang Đông Anh. Thời các cụ, bố dắt con vào nhà ả đào Hàng Giấy. Đến thời bác Nguyễn, khác mà không khác, cái tình vẫn một cha con ấy. Cũng như khi gặp trung đội trưởng trinh sát Két  ở bến Mậu A., Nguyễn Tuân và Két - hai người cùng vào đánh Đại Bục, nhưng rồi ra không bao giờ còn gặp lại người bạn cũ ấy nữa. Mỗi khi ngồi trông ra sóng hồ lăn tăn lẫn bóng chiều, bóng bia tươi và sáng đèn quanh chân cột nhà Thủy Tạ, lại nhớ những gắn bó xưa xa...

T.H                                 
(Trích phóng sự Ngược sông Thao)       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 21 Tháng Mười Hai, 2016, 05:01:05 am

VỊ TƯỚNG VÀ NHÀ VĂN TRI KỶ

NGUYỄN VĂN VĨNH       

        Cách dây hơn năm mươi năm, vào tháng 5 năm 1949, nhà văn Nguyễn Tuân cùng nhà văn Tô Hoài và một số văn nghệ sĩ như Chính Hữu, Lương Ngọc Trác đã đi cùng tiểu đoàn 54 của Trung đoàn Thủ đô đánh đồn Đại Bục, Đại Phác trên tuyến phòng thủ sông Thao của địch. Đúng vào sinh nhật Bác, ngày 19 tháng 5 năm 1949, tiểu đoàn 54 đã giành thắng lợi, tiêu diệt hoàn toàn đồn Đại Bục. Trong trận này, Nguyễn Tuân và Tô Hoài chỉ một chút nữa là hy sinh vì trước giờ nổ súng, một cánh quân địch đi lùng sục đã qua nơi tiểu đoàn bộ đóng quân, nhưng trận  đánh "tao ngộ chiến" chỉ xảy ra chốc lát và sở chỉ huy của tiểu đoàn vẫn giữ được bí mật.

        Trận thắng đồn Đại Bục hoàn thành trước 12 giờ đêm ngày 19 tháng 5 năm 1949 và gần đó, trên một quả đồi đã diễn ra một cuộc liên hoan mừng thắng trận để chia tay với đồng bào. Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng giơ bát rượu vang lên nói: "Đúng hẹn với các anh nhé, chúng ta vào uống rượu giữa đồn Đại Bục. Nào các anh! Mời ông Nguyễn". Ngày ấy nhà văn Nguyễn Tuân mới ba mươi chín tuổi và tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng chưa đầy ba mươi tuổi, tiểu đoàn 54 của Vũ Lăng là em nuôi của Hội Văn nghệ mà Nguyễn Tuân có thời gian làm Tổng thư ký. Nhà văn Nguyễn Tuân quê ở làng Mọc, ngoại thành Hà Nội, và tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng quê  ở Thanh Trì cũng ngoại thành Hà Nội, một người phía tây thành phố và một người phía nam thành phố. Cũng về buổi liên hoan này, trong ký sự của Trung đoàn Thủ đô có ghi những tâm sự của nhà văn Nguyễn Tuân sau trận thắng:

        Có lẽ đã ngà ngà, Nguyễn Tuân ngửa mặt lên trời cười rung rung mái tóc, anh nói hồn nhiên: "Sáng nay tý  nữa thì chúng nó xơi tái tụi mình, bấy giờ người tớ đã cứng ra hết, lịm đi như chết đứng, bụng còn nghĩ thế là phen này bỏ mạng nơi sa trường, chỉ đến lúc Vũ Lăng hô xung phong tớ mới sống lại". Rồi anh lại nói tiếp: "Chúng mình tự động khao quân rồi, bây giờ khao tướng", anh hạ giọng ôn tồn chậm rãi như vừa nói vừa lắng nghe lại từng tiếng nói của mình: "Lăng ơi, cậu thật là tướng' Tiếng hô của cậu thiên tài...". .

        Và như vậy, Nguyễn Tuân đã có tài dự báo rất đúng về một con người.

        Sau hơn hai mươi năm, tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng ngày ấy được phong Thiếu tướng và những năm đầu thập kỷ 80, ông lần lượt được phong Trung tướng rồi Thượng tướng. Cụ Nguyễn Tuân qua đời năm 1987 và Thượng tướng Vũ Lăng mất sau cụ một năm, tức vào năm 1988. Những lời tiên đoán của cụ với Vũ Lăng không phải vì cụ có tài tướng số, mà chính là từ một tư duy khoa học, một cách nhìn biện chứng về một con người tài năng. Thượng tướng Vũ Lăng suốt một đời binh nghiệp vẫn giữ tình tri kỷ và tri ân cùng nhà văn Nguyễn Tuân, một phần vì ông là bạn chiến đấu của người con trai cả nhà văn Nguyễn Tuân: Trung tướng Trần Xuân Trường, có thời gian làm Giám đốc Học viện Chính trị - Quân sự.

        Đồng chí Vũ Lăng tên thật là Đỗ Đức Liêm, sinh năm 1921, mất năm 1988, quê xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp trưởng thành từ cán bộ trung đội đến tiểu đoàn rồi trung đoàn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trung đoàn trưởng. Từ năm 1954 đến năm 1964, là Tham mưu trưởng Sư đoàn 316 rồi Phó cục trưởng Cục Khoa học quân sự Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 8 năm 1965, là Phó Tư lệnh Quân khu 4 rồi Phó cục trưởng Cục Tác chiến kiêm Phó Tư lệnh Mặt trận Khe Sanh. Năm 1971, là Phó tư lệnh Mặt trận đường 9 rồi Cục trưởng Cục Tác chiến. Tháng 6 năm 1974, là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tháng 3 năm 1975, là Tư lệnh đầu tiên của Quân đoàn 3 (nay là Binh đoàn Tây Nguyên ) tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, là Giám đốc Học viện Lục quân ở Đà Lạt.

        Hơn nửa thế kỷ sau nhớ lại một chiến thắng, nhớ lại những con người năm ấy, bất giác tôi nghĩ đến hai câu thơ cuối bài của nhà thơ Vũ Đình Liên:

                                        Những người muôn năm cũ
                                        Hồn ở đâu bây giờ?


1999       
N.V.V       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 02:31:43 pm

TRUNG ĐOÀN 98 HỒI SINH

Thiếu tá PHẠM XUÂN THỦ       

        Tôi xúc động nhớ lại, sau thất bại ở Bắc Ninh, Trung đoàn 98 có hai ngàn hai trăm quân đã hy sinh mất sáu trăm quân. Trong trận vây càn ấy, chúng tôi được phép giấu súng đi, trên cho lệnh "tùy nghi di tản"1 lấy Lô Mẹt làm địa điểm thu quân. Tôi cùng một tân binh tên là Nguyễn Văn Sĩ của trung đội súng cối, đại đội 56 lúc bấy giờ sau hai đêm trú trong hầm bí mật mới ra ngoài. Về đến Bắc Giang, các cô du kích không tiếp vì chúng tôi mặc quần áo phụ nữ, đội khăn vuông. Họ nghi ngờ, và hội ý chỉ huy trưởng du kích. Du kích hỏi:

        - Xin các anh cũng thông cảm cho, các anh bộ đội sao mặc quần áo phụ nữ để làm gì? Các anh có quen ai ở thôn này không?

        Lúc bấy giờ tôi nghĩ mãi mới nhớ ra tên ông trưởng thôn là ông Đạm.

        - Báo cáo chị, tôi là chiến sĩ Trung đoàn 98 chiến đấu ở Nam phần Bắc Ninh ra đây. Chúng tôi bị vây, giờ ra đây các chị muốn coi tôi  là Việt gian cũng được, nhưng trước hết xin cho chúng tôi ăn cơm, nếu không có chỗ ngủ thì cho chúng tôi ngủ  ở thềm bụi trước cũng được.

        - Các anh hãy cho biết trưởng thôn chúng tôi tên gì?

        -  Là ông Đạm.

        - Thế là đúng rồi.

        Bấy giờ các chị mới niềm nở cho chúng tôi vào nhà, cho chúng tôi mượn quần áo nam giới. Đi bộ về Lô Mẹt được hai trăm người. Lại được tin anh Vũ Lăng về làm Trung đoàn trưởng. Anh là cán bộ giỏi của Trung đoàn Thủ đô thuộc Đại đoàn Quân Tiên phong - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 của Sư đoàn 308. Cán bộ chiến sĩ hai trăm người chúng tôi rất phấn khởi. Trên Bộ lúc ấy bổ sung cho các tiểu đoàn địa phương quân Vĩnh Phúc để đủ quân cho chúng tôi có thể tham gia chiến dịch Tây Bắc.

        Khi lên Tây Bắc mới được gặp Trung đoàn trưởng đang hành quân với anh Phạm Sinh - Chính ủy, hai người có hai con ngựa nhưng Vũ Lăng lại không cưỡi ngựa, nhường ngựa cho một chiến sĩ bị ốm, anh ấy đi bộ. Lần đầu tiên đã thấy ông Trung đoàn trưởng này rất thương lính.

        Trước khi đánh Bản Mo, chúng ta hết gạo. Hẳn các anh còn nhớ, anh Vũ Lăng lệnh cho các đơn vị: "Có đi đánh đồn thì các cậu mới no, không đánh đồn thì các cậu nhịn đói, mỗi anh phải đeo một bao ruột ngựa không, sẵn sàng đánh xong Bản Mo vào kho chỉ được bốc gạo thôi, không lấy gì khác".

        Từ đấy, cảm ơn Trung đoàn trưởng đã chỉ huy tài giỏi. Lúc bấy giờ Sư đoàn 308 đánh Nghĩa Lộ, 312 đánh đồn  ở một ngã ba để vào Nghĩa Lộ gặp khó khăn. Riêng Trung đoàn 98 thuộc Đại đoàn 316 thắng lợi giòn giã ở Bản Mo được Đại tướng khen thưởng ngay và 316 nổi tiếng luôn ở Tây Bắc nhờ anh Vũ Lăng. Anh đã thuyết phục được cán bộ chiến sĩ, khơi dậy được dũng khí của Trung đoàn 98 Sư đoàn 316. Sau Bản Mo về phối hợp với Trung đoàn 174 đánh Mộc Châu, anh Vũ Lăng cũng lại tài giỏi chỉ huy tiểu đoàn 439, anh Phạm Quang Vinh (sau là Thiếu tướng) lúc đó là chính trị viên tiểu đoàn. Đánh "tao ngộ chiến" ở Bản Hoang, tiểu đoàn 2 tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn lính âu Phi của trung đoàn Ma-rốc số 3, mà một trong bảy binh đoàn cơ động này đã vây chúng tôi. Chúng tôi đã trả được thù. Một lần nữa hoan nghênh Trung đoàn trưởng Vũ Lăng chỉ huy tài tình. Còn nhớ trước khi hành quân sang Mộc Châu, chiến sĩ của đại đội mỗi người được sáu hạt ngô rang vì cậu cấp dưỡng đi đào sắn, vay sắn của dân bị bom không mang sắn về được nữa. Tiểu đoàn 2, đồng chí Nghi sau trận "tao ngộ chiến" thu được chiến lợi phẩm, vũ khí, bắt sống tù binh, mỗi người lính được hai bánh mì to bằng bắp đùi. Đại đội 56 hành quân qua thấy các cậu ấy nghỉ.

        Chúng tôi bảo:

        - Này có thương bộ binh 56 thì tặng chúng tớ ít bánh mì.

        Thế là mỗi anh hai cái cho chúng tôi một cái. Đó là công của Trung đoàn trưởng sau trận thất bại mà hồi phục nhanh như vậy.

        Vào đánh Mộc Châu, Trung đoàn 98 chỉ làm nhiệm vụ chặn viện. Trung đoàn 174 đánh Mộc Châu xong, lính của ta cũng vào đồn tải thương. Không có thương binh, mới bắt những con lợn bị cháy bỏ lên cáng phủ vải khiêng. Thủ trưởng Vũ Lăng gặp, rất tinh bảo:

        - Làm gì có thương binh, các cậu khiêng cái gì bỏ ra xem!

        - Báo cáo thủ trưởng đây là heo.

        - Bỏ xuống ngay!

        Các cậu nhà ta loay hoay soi đèn vào kho màn tuyn làm cháy kho màn.

        Thủ trưởng quát:

        - Ai làm cháy kho màn?

        Anh nào cũng xanh mắt lặng thinh, chỉ biết thu chiến lợi phẩm, vũ khí khiêng ra ngoài. Còn phần kho màn cháy để đấy không được mang đi. Thực quả là Trung đoàn trưởng rất nghiêm.

        Gần đến ngày chiến thắng, tôi mất liên lạc với đại đội, đang lớ ngớ thấy Trung đoàn trưởng cầm súng lục đi tìm người. Thấy tôi, liền chỉ mặt nói :

        - Tôi ra lệnh cho đồng chí ra ngay chân đồi C1 bảo tiểu đoàn 215 hay tiểu đoàn 439 liên lạc ngay với đại đội đồng chí Phúc. Nếu tôi nghe thấy tiếng cối của đồng chí Phúc là cậu hoàn thành nhiệm vụ.

        - Rõ.

        Thế là tôi chạy đi, nghe thấy tiếng súng tôi chạy về, đồng chí bảo:

        - Lúc nãy có sợ tớ không?

        - Anh cứ giơ súng em sợ lắm.

        - Thôi nhá, biết tính mình lúc chỉ huy hay nóng, thông cảm. Cho nên anh Lăng chỉ huy là dứt khoát, quyết đoán, có cái tính nóng dễ thương. Lúc bấy giờ phải như vậy, động tác người chiến sĩ mới dứt khoát, nếu chần chừ là hỏng rồi .

        Lúc về đơn vị, các đồng chí mới hỏi tôi:

        - Hôm nay gặp "Trương Phi" chưa?

        - Cụ ''Trương Phi" ra lệnh cho cậu dấy à?

        Một anh nói:

        - Đúng rồi, anh ấy kể là: tôi điều cán bộ văn nghệ ra làm liên lạc đấy!

        Ngoài tài chỉ huy đánh trận, anh Lăng trận nào cũng chú ý ăn mừng thắng lợi.

        - Thủ đâu? Cậu phải ra hò một câu đi!

        Thế là tôi lại hò :

        - Tính tình tang tang tính tình. Hò lên cho đời chúng ta tươi, hò lên!...Tình bằng ai ơi! quân dân tay bắt mặt mừng, hát mừng chiến thắng tưng bừng vui ca...

        - Câu nữa!

        - Tình bằng ai ơi! Đèo cao thì mặc đèo cao. Tinh thần bộ đội còn cao hơn đèo...

        Sau đó anh Vũ Lăng bảo:

        - Cậu giới thiệu tớ hát đi!

        - Thưa các đồng chí và nhân dân, hôm nay trong lễ mừng chiến thắng của Trung đoàn 98, chúng tôi xin giới thiệu Trung đoàn trưởng kính yêu của chúng ta sẽ hát. Các đồng chí muốn anh Lăng hát mấy bài!

        Tất cả chiến sĩ đồng thanh:

        - Ba bài!

        - Bài gì?

        - Một là "Ngày về", hai là "Người Hà Nội", ba là "Trường chinh ca".

        - Tớ hát cậu phải bắt nhịp cho lính.

        Anh ấy hát bài "Ngày về", giọng tình cảm rất hay, ngân nga đúng nhạc.

        Bài " Trường chinh ca" tất cả cũng hát theo. Cuối cùng bao giờ anh Vũ Lăng cũng bắt nhịp cho tất cả cùng hát bài: "Đoàn kết... chúng ta là sức mạnh...", hay là bài " Chiến sĩ Việt Nam...".

        Đến năm 1963, tôi gặp lại anh Lăng ở Lý Nam Đế. Tôi vào lúc nhà đang ăn cơm. Anh Lăng liền giới thiệu đây là nhà thơ của trung đoàn, là chiến sĩ văn nghệ.

        Năm 1964 kỷ niệm mười năm chiến thắng Điện Biên Phủ, phòng truyền thống đến xin kỷ vật, anh Vũ  Lăng lột luôn chiếc đồng hồ chiến lợi phẩm đang đeo ở tay đưa ngay.

P.X.T       

------------------------
        1. "tùy nghi di tản" : Cụm từ ngữ này cuối kháng chiến chống Mỹ mới có mang nội dung "tuỳ ý rút lui, đi đâu cũng được".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 02:35:20 pm

Ở ĐIỆN BIÊN  PHỦ

Thiếu tướng ĐỖ VĂN PHÚC       

        Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, tôi là đội trưởng đại đội 56, đại đội súng cối, bộ binh pháo của Trung đoàn 98.

        Ở Điện Biên Phủ, nói đến Trung đoàn 98 tức là nói đến cứ điểm C1. Nói đến cứ điểm C1 tức là nói đến cột cờ. Trong ba mươi mốt ngày đêm chiến đấu giành giật chiếm giữ đồi C1 thì phải nói là ba mươi mốt ngày đêm ác liệt. Trong cuộc chiến đấu đó, tôi thấy vai trò của Trung đoàn trưởng Vũ Lăng rất lớn. Khi chuẩn bị và thông qua phương án tác chiến đánh C1, anh Vũ Lăng là con người chỉ huy binh chủng rất tốt, rất mê pháo. Trong cuộc chiến Đấu giành giật gay go ác liệt ở C1, ta và địch quần nhau giành giật từng tấc đất. Địch chiếm một nửa đồi, ta lại chiếm lại. Cứ như thế trong suốt ba mươi mốt ngày đêm. Đại đội chúng tôi là đại đội súng cối và ĐKZ, có nhiệm vụ yểm hộ cho bộ binh của Trung đoàn 98. Trong hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nói, lúc đó hỏi Vũ Lăng có cần gì không, thì anh Vũ Lăng nói:

        - Nếu trên cho một tý pháo thì tốt.

        Nhờ thế trên cho luôn ba mươi trái pháo để đánh vào C1. Anh Lăng rất quý pháo, nên đại đội tôi được chỉ huy ưu tiên giúp đỡ. Ta giành giật với địch C1, nó chiếm, ta lại đánh lại giành lại, đến nỗi cái cột cờ cứ đứt cụt dần chỉ còn lại một mét, chứng tỏ trận chiến rất ác liệt. Tôi nhớ lần đồng chí Vũ Lăng, Trung đoàn trưởng trực tiếp đến đại đội tôi kiểm tra. Tại hầm chỉ huy đại đội, anh Lăng bảo tôi: "Cậu cho bắn thử một phát vào "yên ngựa" xem các cậu yểm hộ bộ binh thế nào?". Theo lệnh đồng chí, tôi cho bắn vì có phần tử sẵn rồi." Yên ngựa" có hai khu vực: bề mặt "yên ngựa" chúng tôi đánh số Y1, bên trái "yên ngựa" là Y2. Tôi tưởng anh Vũ Lăng hạ lệnh bắn vào Y1 nên bắn một phát đã trúng mục tiêu, nhưng thấy vẻ mặt anh Vũ Lăng tỏ vẻ khó chịu vì lúc đó trên mặt "yên ngựa" không thấy tiếng nổ, chỉ thấy ít khói bay là là. Anh Lăng hỏi hơi gắt:

        - Chính xác không?

        - Báo cáo đúng, chính xác, nhưng đó là Y1, còn mặt "yên ngựa" là Y2.

        Anh Vũ Lăng lệnh cho bắn tiếp hai quả, trúng ngay bề mặt "yên ngựa", khói đen bốc ra che kín, lúc đấy anh Vũ Lăng khoái lắm, rất vui, khen:

        - Rất tốt. Thôi nhé, từ giờ trở đi nếu đánh địch phản kích, bắn vào yên ngựa, cột cờ. Đại đội trưởng được quyền quyết định số lượng đạn cối, không cần lỏi ý kiến cấp trên, để khỏi lỡ thời cơ.

        Ở Điện Biên Phủ phải rất tiết kiệm đạn. Cục Tác chiến quy định cụ thể, cấp nào được bắn mấy viên. Hôm nào được bắn ba mươi viên, bốn mươi viên hay mười viên là do lệnh của trung đoàn. Nhưng sau khi kiểm tra thấy chúng tôi bắn chính xác, đồng chí Vũ Lăng cho chúng tôi quyền chủ động quyết định số lượng đạn pháo bắn yểm hộ bộ binh. Như vậy chứng tỏ anh là một cán bộ chỉ huy rất quan tâm đến pháo. Vả lại lúc đó ngoài số đạn trên cấp là chủ yếu, phải đi hai lăm đến ba mươi cây số để lĩnh đạn về. Rất may hoàn cảnh lúc đó là trận địa chúng tôi cách C1 chỉ có ba trăm năm mươi mét, địch thả dù ở cự ly như vậy nó hay lạc. Khoảng ba mươi phần trăm đạn cối là chúng tôi lấy được của địch.

        Anh Vũ Lăng là người chỉ huy rất có kỹ thuật và cũng rất có tình cảm, rất yêu pháo và quý pháo. Các chỉ huy binh chủng hợp thành thấy điều này rất rõ nét ở Trung đoàn trưởng Vũ Lăng. Đồng chí rất yêu văn nghệ, yêu hoa. Khi ta chủ trương rút ra để "đánh chắc tiến chắc", thay đổi cách đánh, tôi là đại đội trưởng lại được lệnh đi diễn kịch. Tôi  rất thắc mắc hay là mình bị cắt chức. Đồng chí Vũ Lăng gọi điện loại:

        - Đại đoàn có lệnh gọi cậu và một số anh em đi đóng kịch đấy! Thôi đi đi!

        Đại đội tôi vốn được giải nhất về văn nghệ ở trung đoàn. Vở kịch do chúng tôi tự biên, tự diễn ở trung đoàn, đại đoàn thấy hay quá. Đưa chúng tôi đi diễn, điều đó chứng tỏ đồng chí chấp hành mệnh lệnh của trên và cũng là người rất yêu văn nghệ.

        Đồng chí Vũ Lăng đúng là nóng như lửa, nóng về công việc, nóng về trách nhiệm. Còn mắng nhiếc xỉ vả anh em là không có. Cách nói, cái tướng của đồng chí là như thế.

        Mỗi người đều có ưu điểm, nhược điểm. Đồng chí Vũ Lăng giao nhiệm vụ cho ai làm tròn, đồng chí rất vui.

        Sau khi Trung đoàn 98 tổn thất nặng nề ở Bắc Ninh, chỉ trong một thời gian ngắn mấy tháng, đồng chí Vũ Lăng đã được điều về củng cố, luyện quân. Thậm chí lúc đó có đồng chí bỏ chạy, đồng chí Vũ Lăng động viên trở về không kỷ luật gì hết, lại cho sung vào đội ngũ chiến đấu tiếp, cứ về là hoan nghênh. "Khuyết điểm là của chỉ huy chứ không phải là anh em - Anh Chu Huy Mân nói rõ khuyết điểm của chỉ huy Trung đoàn lúc đó - còn anh em chiến đấu rất ngoan cường". Ở Đức Tái,  Mai Ổ, Quế Ổ có một nghĩa trang một trăm tám mươi anh em. Vậy mà chỉ mấy tháng sau anh Vũ Lăng từ Sư đoàn 308 sang tổ chức lại các đơn vị, luyện quân đi Tây Bắc đã đánh thắng ngay trận Bản Mo, địch sửng sốt kinh ngạc vì Trung đoàn 98 vẫn còn, trước đây nó đã tuyên bố xoá sổ Trung đoàn 98. Sau đó Trung đoàn 98 sang Thượng Lào, Luông Phra-băng, Sầm Nưa. Rồi quay về Điện Biên Phủ, trung đoàn lại chiến đấu rất oai hùng. Anh Vũ Lăng là người chỉ huy rất tiên quyết rất coi trọng pháo, rất yêu văn nghệ. Lúc đó, Chính uỷ là đồng chí Phạm Sinh, nhưng chính anh Vũ Lăng lại là người tham gia văn nghệ nhiều nhất. Hôm chuẩn bị đi chiến dịch Điện Biên Phủ, chính anh Vũ Lăng hát bài "Trở về Hà Nội". Anh là con người  vừa quân sự vừa chính trị rất năng động. Năm 1987, tôi là Trưởng phòng huấn luyện Học viện Quân sự cấp cao. Một lần anh Vũ Lăng, anh Hoàng Minh Thảo và tôi đi cùng một xe lên Bộ. Tôi hỏi:

        - Anh có nhớ em không? - Lúc đó tôi là đại tá rồi, nhưng vẫn xưng em.

        - Làm gì mà không nhớ. Cậu lúc đó không mang kính. Nói đến cậu là nhớ đến yên ngựa.

        Anh có trí nhớ rất tốt. Sau năm 1954, tôi rời Trung đoàn 98, đã mấy chục năm trôi qua rồi mới gặp lại nhau.

Đ.V.P       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 02:40:37 pm
         
KỶ NIỆM VỀ TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG VŨ LĂNG

Đại tá ĐẶNG ĐỨC SONG        

        Sau trận Đồi Xanh ở Điện Biên Phủ, đầu tháng 3 năm 1954, quân ta đã đẩy lùi hai tiểu đoàn địch và bốn xe tăng nống ra. Trung đội trưởng Thế Lợi (người Bắc Ninh) cùng anh em trở về trận địa. Bấy giờ tôi là tiểu đội phó xạ thủ trung liên.

        Trên đường xuống đồi, địch bắn cối làm tiểu đội trưởng và một số chiến sĩ, trong đó có tôi bị thương. Tôi nhận một viên đạn cắm vào đùi, không đi được, phải lê. Các đồng chí  Khoái Huệ hy sinh.

        Về được đến hầm, hôm sau vết thương sưng lên có mủ, một mảnh đạn tòi ra. Vẫn còn đau nhưng không nguy hiểm lắm ...

        Khoảng trưa ngày mồng 6 tháng 3, có lệnh gọi tôi với các anh em trong trung đội - khoảng mười hai, mười ba người - lên hào đầu cầu rẽ vào một ngách. Đến nơi đã thấy Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 là Vũ Lăng đợi. Sau khi hỏi han vết thương, sức khỏe và tìm hiểu thêm trực tiếp tình hình chiến đấu, Trung đoàn trưởng Vũ Lăng nói với chúng tôi:

        - Các đồng chí là "Dũng sĩ Đồi Xanh". Trung đoàn đã đề nghị Bộ tặng huân chương. Hôm nay thay mặt đại đoàn, tôi trao tặng huân chương cho các đồng chí. Đây là lần đầu tiên trong quân đội ta một lễ trao tặng huân chương được tổ chức ngay tại trận địa, trong chiến hào.

        Tôi không đứng được, vẫn ngồi, trung đoàn trưởng đến gắn cho tôi Huân chương Chiến công hạng nhì. Thấy tôi còn bị băng bó, đồng chí Vũ Lăng bảo: "Đi viện, chóng về".

        Hôm sau, tôi được bốn cô dân công, hai cô cáng, hai cô đi sau đùn đẩy đưa tôi về "Trạm phẫu Tiền phương"1. Trông các cô vất vả quá vì tôi, nên tôi nói: "Để tôi bò hoặc khi xuống dốc tôi lăn cũng được", nhưng các cô không cho.

        Đến trạm phẫu, tôi được anh Huân y tá cõng vào. Chị Định người Đông Triều rửa sạch vết thương, gắp các mảnh vụn ra, nhưng vẫn còn một mảnh nhỏ ở sâu không lấy được nay vẫn còn. Chị Định hơn tôi hai tuổi nhận tôi làm em nuôi... Hơn chục ngày tôi về lại đơn vị cũ là đại đội 28, tiểu đoàn 439, Trung đoàn 98, Sư đoàn 316, được đề bạt làm tiểu đội trưởng.

        Bấy giờ đã vào cuối tháng 3 năm 1954, Sư đoàn 316 có nhiệm vụ tiêu diệt cao điểm ở phía đông C1, C2,... Đây là cuộc tiến công mà các nhà sử, nhà báo gọi là "Cuộc tiến công vào năm ngọn đồi" . Vì ngoài C1, C2, còn có A1, đồi E , D1 .

        Đơn vị bạn trong bốn mươi phút đã chiếm được đồi C1. Nhưng sau đó địch phản công chiếm lại. Tiểu đoàn 429 của anh Hoàng Niệm2 cùng Trung đoàn 98, Sư đoàn 316 của tôi được lệnh lên chiếm lại.

        Mấy tiếng đồng hồ trôi qua, trên đồi bỗng im tiếng súng. Trinh sát báo cáo: Có lẽ địch ở lại trên đồi rồi. Nhưng đồng chí Vũ Lăng nói "chưa chắc". Tôi được nhận nhiệm vụ làm tiểu đội trưởng mũi nhọn do đại đội trưởng Thủy, đại đội phó Thực chỉ huy. Đồng chí Thủy bảo tôi: "Cậu làm tiểu đội mũi nhọn của đại đội 28, được lệnh lên đồi, quan sát tình hình rồi quay xuống báo cáo".

        Tôi chọn Thịnh và Cò lựa theo các hố bom và vết chân  ở ngay hàng rào dây thép gai địch men xuống. Hàng rào này đã bị bom tung lên, nhưng quân địch không biết, cứ tưởng còn dây thép gai, không ai lên, nên chỉ đề phòng phía bên phải.

        Lên gần tới nơi, tôi ném một lựu đạn khói. Không thấy động tĩnh gì. Tôi bảo Thịnh bắn mấy phát súng trường. Vẫn im, lại leo lên. Trông thấy thoáng có bóng đen ở lô cốt ngoài cùng, tôi lại ném lựu đạn, rồi bắn nửa băng tiểu liên, vẫn im lặng.

        Tôi quay về báo cáo:

        - Theo tôi, địch không có trên đồi, có lẽ ta vẫn còn giữ.

        Đại đội trưởng lệnh:

        - Bây giờ cậu dẫn ba tổ mũi nhọn lên. Tổ 1, cậu là tiểu đội trưởng làm tổ trưởng, có trung liên, còn hai cậu nữa. Tổ 3 ba người, tổ 4 bảy người, mỗi tổ đi cách nhau mười phút. Lên đồi, còn ta thì phối hợp chiếm đồi, có địch đánh bật chúng đi.

        Tôi chọn Thịnh và Cà cùng quê Thái Bình, cùng trung liên xốc lại đội hình, lên đồi. Đến một đoạn hào, tôi nổ mấy phát. Sau đó, tôi sang ngách khác, lấy súng trường, đội mũ lên mũi súng giơ quá mặt hào, giơ lên giơ xuống cũng không thấy gì.

        Bấy giờ thấy anh Hoàng Niệm ló đầu ra:

        - Song à !

        Hai anh em mừng quá. Anh Niệm cho biết địch vẫn còn ở phía trước, và hỏi tôi: bộ đội có bao nhiêu người, vũ khí lựu đạn... Xong, anh bảo:

        - Bây giờ cậu đi sang trái, lên nắm thêm tình hình.

        Tôi, Thịnh và Cà tiến lên, gặp trung đội trưởng của đại đội 58 bị thương nặng, anh ấy bảo:

        - Tao ra nhiều máu lắm? Nếu địch xuống hào, tao sẽ nổ lựu đạn cùng chết. Có các cậu trả thù rồi, lựu đạn đây. Dũng cảm lên, trả thù cho chúng tớ.

        Tôi băng hết hai cuộn băng cho anh rồi tiếp tục tiến. Thấy hai khẩu trung liên của địch, tôi ném hết hai quả cách nhau không đầy một phút. Trung liên bay lên trời, địch bất ngờ bị tiến công hoảng lên. Anh em các tổ sau đã tiến đến, nhảy lên hô xung phong, lia đạn. Chúng chạy bán sống bán chết xuống đồi. Thế là ta lại làm chủ được đồi.

        Tôi trở về, sáng hôm sau, khoảng 10 giờ có lệnh của trung đoàn gọi: "Ai hôm qua chiếm C1, lên trung đoàn". Trung đoàn trưởng Vũ Lăng gặp chúng tôi  ở giữa con suối tươi cười niềm nở:

        -Vào đây vào đây...

        Trung đoàn trưởng mở mấy chai nước cất chống "té re" của địch thả dù xuống, bày ra mấy hộp thịt của Tây giơ tay:

        - Mời các cậu, ăn đi, chiến lợi phẩm đấy.

        Vừa liên hoan, vừa phải kể tỷ mỷ cho ông ấy từng đoạn, lúc lúc ông ấy lại hỏi.

        Ông vỗ tay người này, bắt tay người kia:

        - Giỏi lắm! Trung đoàn sẽ khen thưởng.

        Rồi cho ngay chúng tôi mỗi người mấy hộp thịt hộp.

        Về sau, tôi nghe nói ông râu xồm này nóng tính lắm. Kỷ niệm của tôi về Thượng tướng Vũ Lăng chẳng thấy râu mà cũng chẳng thấy "nóng" gì.

ĐẶNG ĐỨC SONG Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân kể.        
NGUYỄN VIỆT HỒNG ghi                                     

---------------------------
        1."Trạm phẫu Tiền phương": gọi đầy đủ là "Trạm phẫu thuật tuyến một".

        2. Anh Hoàng Niệm: Sau năm 1954, đi học Trường Thông tin Lê-nin-grát (Liên Xô), Tư lệnh bộ đội thông tin, Thiếu tướng, đã nghỉ hưu.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 02:47:10 pm

SƯ ĐOÀN TRƯỞNG 325B

Đại tá NGUYỄN HỮU HƯU       

        Đầu năm 1965, tôi về Sư đoàn 325b, từ Phó chính ủy Trung đoàn 95a chuyển sang. Trung đoàn 95a đi, tôi ở lại làm Chính ủy Trung đoàn 95b Sư đoàn 325b, đóng ở Hà Tĩnh, Can Lộc. Hồi đó cứ trưởng đi, phó ở lại xây dựng đơn vị mới Sư đoàn lúc ấy đóng trên Hương Khê. Sư đoàn chuẩn bị đi B nhưng trực thuộc Quân khu 4. Mặt trận Trị Thiên lúc đó cũng thuộc Quân khu 4, chuẩn bị đi B sang huấn luyện. Sư đoàn chọn trung đoàn này đánh công kiên. Khoảng tháng 11 năm 1965, sư đoàn xuống gọi đi. Gọi tôi và Trung đoàn trưởng, anh Trần Văn Trân - Sư đoàn phó, anh Nguyễn Quốc Thước - Trưởng ban tác chiến sư đoàn. Tất cả cùng đi ra quân khu đóng trên Nam Đàn, đi lại khó vì thời đó chiến tranh phá hoại, địch ném bom luôn. Đến Nan Đàn vào cái làng ở chân núi Đại Huệ, nơi ở Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Sáng hôm sau, bọn tôi làm việc với Tác chiến quân khu, lúc đó là tại một cái lán trong một vườn cây ven núi thôi. Bộ Tưlệnh quân khu họp rồi ra mệnh lệnh.

        Trong Bộ Tư lệnh quân khu khi đó có anh Nam Long làm Tư lệnh, anh Vũ Lăng làm Tư lệnh phó, anh Đồng Sĩ Nguyên là Chính ủy và một số cán bộ cơ quan nữa. Các anh phổ biến nhiệm vụ: Bộ giao cho Sư đoàn 325b vào đánh A Sầu, A Lưới ở Tây Thừa Thiên. Nhiệm vụ này là đặc biệt, không có liên hệ với các tỉnh địa phương.

        Trung đoàn đi luôn. Tình hình địch ở đấy, nghe nói đóng hai đồn đặc biệt, A Sầu và A Lưới cụ thể thế nào còn chưa biết. Sư đoàn 325b lúc đó có ba trung đoàn: Trung đoàn 95b đánh điểm diệt đồn, Trung đoàn 101 và Trung đoàn 18 đánh quân viện. Thời đó, năm 1965, địch đang thực hiện chiến dịch "tìm diệt", nó phát hiện ra ta ở đâu là nó nhảy xuống chụp ngay. Quân khu chỉ huy sư đoàn nhưng quân khu không thành lập Bộ Tư lệnh đi theo mà quyết định là anh Vũ Lăng - Tư lệnh phó Quân khu xuống làm Sư đoàn trưởng; anh Vương Tuấn Kiệt - Sư đoàn trưởng xuống làm Sư đoàn phó; anh Trần Văn Trân - Sư đoàn phó xuống làm tham mưu trưởng, xuống một cấp. Quân khu trực tiếp chỉ huy là như thế. Đi theo anh Vũ Lăng có mấy trợ lý nữa nhưng đều sáp nhập vào sư đoàn. Bộ tổ chức bộ phận tiền trạm do anh Trần Văn Trân chỉ huy đi vào trước nắm tình hình. Mỗi đồn có chừng một tiểu đoàn, là tiểu đoàn đặc biệt lính Nùng. Bộ đội giữa tháng 12 lên đường vào đến nơi, tranh thủ đánh càng sớm càng tốt trước mùa mưa. Anh Lăng trực tiếp hướng dẫn cho trung đoàn đánh điểm, đánh công kiên. Tôi là cán bộ chính trị được anh ấy dặn:

        - Quan trọng là chọn cho được mấy anh đánh bộc phá đầu tiên: bộc phá phá hàng rào. Nếu được đảng viên thì tốt phải hết sức tin tưởng, hết sức kiên cường.

        Đơn vị tôi xuất phát ngày 22 tháng 12 năm 1965, đi vào hướng Thừa Thiên, cứ đi theo đường giao liên đến ngã ba La Hạp, rẽ về Thừa Thiên. Vào đến nơi có tình huống là bộ đội thì vào rồi nhưng vũ khí hạng nặng - chở bằng ôtô theo đường Hồ Chí Minh, chở lương thực chưa tới. Nó đánh bom ngoài Quảng Bình, xe vào chậm. Bộ đội vào rồi nhưng lương thực không có, vũ khí không có, đạn dược không có, phải chờ mất hơn một tháng, bộ đội chỉ ăn rồi đi kiếm măng. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, mới bắt đầu trận đánh được Khi vào tới nơi, địch ở A Lưới đã rút về tập trung ở A Sầu. Đồn A Sầu có tới hai tiểu đoàn, nằm trên địa bàn của ba huyện: Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà. Dân rất tốt nhưng ở xa, tản cư hết, xung quanh không có mấy người. Anh Trân tiền trạm xử lý, sau anh Lăng la hét rất ghê. Tôi nghe ông Cẩn - Trung đoàn trưởng kể lại: "Ông Lăng vô sạc cho ông Trân một mẻ vì không sao nắm được tình hình". Ông Trân quyết định phải bắt tù binh, để lấy cung tình hình trong đồn. Thế là ông Trân cho trinh sát phục kích, bắt được một tù binh. Anh Lăng la:

        - Làm thế là lộ bí mật: vì trinh sát dùng AK. Bộ đội chủ lực vào là dùng AK. Trong đó là không có AK mà, dùng tuyn tiểu liên, tuyn của Pháp. Anh bắt tù binh thì nó biết có chủ lực đây rồi. Địa phương làm gì dám bắt tù binh.

        ÔngTrân đành bảo:

        -Thì cũng phải chịu, biết làm sao.

        Anh Lăng nói: .

        - Lộ mà không thực hiện được kế hoạch thì anh phải chịu trách nhiệm.

        May thế nào mà nó cũng không rút. Nó tăng thêm một tiểu đoàn là ba tiểu đoàn. Đồn nó rộng, chiều dài môi bề ba trăm mét, hình tứ giác. Chắc chắn là lộ, nó biết rồi, nhưng họp Bộ Tư lệnh, anh Lăng quyết định:

        - Nó đổ xuống thêm một tiểu đoàn nửa cũng đánh vì cũng chỉ chứa trong cái đồn ấy thôi. Nó đông người nhưng mà bố phòng của cái đồn đó cũng chỉ như thế. Không sợ,vẫn cứ đánh, quyết định ngày 18 là đánh.

        Anh Lăng trực tiếp chỉ huy như vậy. Bọn tôi, 2 giờ chiều bắt đầu hành quân vào để tiềm nhập1, trên đường đi thấy anh Lăng mặc bộ đồ bà ba đen, đội mũ chống cái gậy, đứng trên đường xem bộ đội hành quân cũng khí thế lắm. Đêm đó bắt đầu đánh, cửa mở được rồi nhưng vào trong đồn thì trời bắt đầu sáng, anh Lăng ra lệnh cứ tiếp tục đánh vào ban ngày, bất kỳ giá nào cũng phải lấy được cái đồn, đó là lệnh của trên. Hồi đó bọn tôi cũng chưa biết được giá trị của cái đồn đó như thế nào đâu. Sau này đường Hồ Chí Minh đi qua cái A Sầu mới biết là trên đã dự kiến từ lúc đó rồi, để mở lại con đường 14. Đánh như vậy là suốt đêm hôm đó đến sáng hôm sau, lúc 9 giờ thì nó bỏ đồn nó chạy. Trực thăng của nó đổ quân xuống không phải là để tăng viện mà là để đón bọn tàn quân trong đồn chạy ra. Vậy là 9 giờ giải quyết xong.

        Trong trận ấy, thương vong trên 400 vì đánh công kiên theo kiểu cũ, cách bố phòng của Mỹ là mới, vũ khí mới M.79  phóng lựu của nó rất lợi hại. Nó cứ ngồi  trong đồn xung quanh đồn có thành ở bên trong bần M79 rơi sát hàng rào, sát tường, anh em mình nằm phơi trên giữa hàng rào, tuy có công sự đào nhưng đào cạn thôi. Thứ hai là cối 106,7 của nó chế áp cối 81 của ta nên thương vong nhiều. Sau trận đó anh Lăng buồn, nhưng an ủi bọn tôi:

        - Đánh là phải như vậy, cần rút kinh nghiệm sau này.Cái quan trọng là đã hoàn thành nhiệm vụ giành thắng lợi.

        Đang tổng kết sơ sơ thì có lệnh sư đoàn tiếp tục hành quân vào. Tưởng là vào Bình - Trị - Thiên nhưng lệnh trên là chấn chỉnh Sư đoàn tiếp tục hành quân vào B3. Chia tay, Đảng ủy Sư đoàn có họp với anh Vũ Lăng. Anh Lăng ân cần góp ý kiến các đồng chí xung quanh, cuối cùng anh nhận có nổi nóng với anh Trân nhưng rồi lại vui cười bắt tay nhau, cũng không có liên hoan gì đâu, thịt hộp còn bao nhiêu thì đưa ra ăn chia tay. Anh Trân cũng nói với từng người một, quá trình đó có nặng lời với ai thì thông cảm.

        Anh Lăng ra trở lại quân khu.

N.H.H.       

------------------------
        1. "Tiềm nhập": danh từ quân sự, gốc Hán có nghĩa là " bí mật vào trong  vùng đối  phương ".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 11:38:49 pm

TÔI BỊ GÕ ĐẦU

Đại tá NGUYỄN TĂNG THƯỜNG       

        Hồi đó, ở với anh Lăng, tôi là cán bộ cấp thấp, là trợ lý của phòng trinh sát quân đoàn, gốc gác nghề chuyên môn của tôi là trinh sát kỹ thuật.

        Tôi ở đơn vị làm trợ lý từ năm 1970. Đến thời kỳ tôi về Quân đoàn 3, anh Vũ Lăng vào mới biết con người Vũ Lăng, chứ tiếng tăm thì được nghe từ lâu, nghe người ta nói rất nhiều về sức mạnh, mưu trí, vóc dáng của người tướng. Tôi được hai lần trực tiếp bị anh Vũ Lăng khiển trách, cấp trên cấp dưới hẳn hoi. Tôi nói đây hoàn toàn sự thật đời thường chứ không chỉ nói cái tốt. Từ đó để hiểu rõ về vị tướng này.

        Lần thứ nhất cũng chung quanh chiến dịch Buôn Ma Thuột, khi mà chỉ huy chiến dịch từ phía Tây đất Cam-pu-chia di chuyển về Thuận Mẫn thuộc Đắc Lắc, ranh giới giữa Gia Lai - Đắc Lắc. Vùng này địa hình rất phức tạp, núi rừng sâu thăm thẳm hiểm trở. Sở chỉ huy chọn nơi đó để chỉ huy đánh Buôn Ma Thuột.

        Một bộ phận đi trước để triển khai lực lượng ở hướng chiến dịch Buôn Ma Thuột, đồng thời chỉ đạo toàn bộ lực lượng nghi binh ở phía bắc, phía Plây Cu và Kon Tum. Việc nắm địch ở đây phải toàn diện. Từ tháng 9 năm 1974, trinh sát chúng tôi đã từng vào đó rồi, nhưng lúc đó chưa hiểu ý đồ gì cả. Trinh sát kỹ thuật cũng có một bộ phận đi phục vụ việc này. Nghi binh phía bắc thì làm cầu qua sông Pô Cô - cầu giả - công binh làm ban đêm, ban ngày nó đánh, ban đêm lại làm tiếp. Pháo binh "cứ"1 thỉnh thoảng rót đại bác 105 vào sân bay Kon Tum Plây Cu. Địch tưởng ta chuẩn bị tiến công phía đó, nhưng không ngờ mình đang âm thầm chuẩn bị trong này. Tháng 2 năm 1975, khi chuẩn bị chiến trường đã chín muồi, các đơn vị tập kết đến tuyến xuất phát hết rồi, kể cả tăng, thì toàn bộ chiến trường miền Nam thời kỳ đó rất yên ắng, không có một động tĩnh gì cả. Địch tập trung ở phía bắc, ta thì hết sức bí mật, địch thì không biết gì cả, thậm chí công binh cưa sẵn hai phần ba cây để xe tăng khi đi vào là cây đổ hết. Làm đến sát Buôn Ma Thuột mà địch không biết.

        Một ấn tượng hết sức mạnh mẽ với tôi là trước ngày nổ súng chừng ba mươi sáu tiếng đồng hồ, vào khoảng 3 giờ chiều yên tĩnh như vậy bỗng có hai tiếng nổ. Tôi lúc đó là trực ban trinh sát. Cho nên khi nghe tiếng nổ, anh Vũ Lăng ở Sở chỉ huy lúc đó là Tư lệnh phó với tư cách là Tham mưu trưởng, gọi điện thoại xuống trưởng ban 2, chỗ anh Nguyễn Minh Thông - trưởng phòng 2, anh Thông đâu có biết gì nên hỏi tôi: "Cậu có nghe hai tiếng súng? Tiếng súng này đặc biệt lắm, trong tình hình mình hết sức gần như nín thở lại có hai tiếng súng đó". Tôi là trực ban cũng nghe, nhưng chưa trả lời được thì anh Vũ Lăng chống gậy xuống. Ba cái cơ quan giúp việc là tác chiến, trinh sát, thông tin ở ngay Sở chỉ huy. Anh ấy bước sang cầm cái gậy hỏi:

        - Anh Thông, tiếng súng gì, ở đâu?

        Anh Thông chịu chết không trả lời được.

        Anh Thông chưa kịp hỏi lại tôi, anh Lăng đi sang cái bàn bằng tre, bằng gỗ để máy điện thoại. Anh ấy gõ cái gậy cạch cạch vào bên:

        - Cậu trực ban, tiếng súng nổ ở đâu?

        Trước đó tôi đã có ấn tượng về tướng Vũ Lăng rồi. Lúc đó tôi chỉ còn biết run nhưng mà tức là vì cảm thấy ông ấy nóng lắm, trước một tình hình bức xúc như vậy mà không trả lời được, ông ấy nóng là phải.

        Tôi lúng túng quá.

        - Báo cáo thủ trưởng cho tôi được phép hỏi đài quan sát.

        Tôi bắt các đài quan sát báo cáo hết. Tôi nhận định sơ bộ :

        - Thưa thủ trưởng đây là hai tiếng trên không, nổ của cao xạ chứ không phải dưới đất.

        Ông ấy bảo:

        - Có lý nhưng mà nổ đó ở chỗ nào, tọa độ là bao nhiêu?

        - Thưa thủ trưởng mười lăm phút nữa tôi sẽ báo cáo.

        Lúc đó, ông không gõ lên bàn nữa, mà gõ lên đầu tôi, mặt mày đỏ bừng:

        - Nắm địch thế hả?

        Tôi khiếp quá. Lúc này tôi cũng ẩu, tôi cũng nóng nhưng là nóng cấp dưới, tôi nói:

        - Tôi cũng là mình trần mắt thịt như thủ trưởng, thủ trưởng cứ bình tĩnh cho tôi mười phút nữa, tôi sẽ báo cáo đầy đủ.

        Thấy anh ấy dịu lại, tôi trình bày tiếp:

        - Thủ trưởng không cho tôi cái gì hết ngoài điện thoại mà điện thoại tôi chưa dùng đến thì làm sao nắm đủ tình hình.

        Bấy giờ tôi cũng cứng, nói thiệt là dân Quảng Ngãi, dân bướng.

        Một đài quan sát, hai đài quan sát..., điện thoại reo liên tục. Tôi trả lời:

        - Ở tọa độ đó xuất hiện một chiếc trực thăng của bọn biệt kích hoạt động. Nó bay len vào sườn núi, mình không nghe tiếng máy bay, đâu anh em ở dưới nó bắn lên, trực thăng chuồn mất.

        Thế là giải tỏa được câu hỏi.

--------------------------
       1. "Cứ ": nói tắt của " căn cứ ".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 11:39:30 pm

        Thời kỳ chuẩn bị cho nổ súng là hoàn toàn giừ được bí mật. Địch không có phát hiện gì về cái hướng này của ta. Câu chuyện thứ hai còn hay hơn, ấn tượng hơn. Lúc này anh Vũ Lăng cũng ở vị trí thủ trưởng, tôi vẫn là trợ lý trinh sát.

        Khoảng ngày 20 tháng 3, có một tin của anh em trinh sát kỹ thuật báo cáo về - một mẩu rất ngắn - là bọn dân vệ kháo nhau, thằng nọ bảo thằng kia đem vợ con chạy ở trên Plây Cu, mà rất khớp là ở Kon Tum cũng vậy. Tất cả làn sóng trên không trung của chúng, anh em khống chế hết, chúng nó nói gì ta biết hết. Nhưng ở ngoài Bộ chưa có nhận định là địch sẽ rút ở Plây Cu - Kon Tum. Ở chiến trường, mẩu tin rất nhỏ nếu không có nghiệp vụ thì không hiểu giá trị của nó đâu Với ý thức đó chúng tôi mở rộng họp với anh Thông trưởng phòng, anh Tức phó trưởng phòng và anh em trợ lý là Lê Toàn, Lê Viết Thụ, tôi và anh Hiền ( giờ là đại tá, công tác ở Khoa Trinh sát - Học viện Quân sự ) mới nhận định: Bọn địch nó kháo nhau như thế này là có ý định rồi, nhưng rất tiếc là tin này phát ra từ những thằng lính rất lèm nhèm, lính nghĩa quân, dân vệ nên chưa dám tin cậy. Có nên báo cáo không? Tôi đề nghị anh Thông báo cáo ngay với Tư lệnh. Anh Thông lên báo cáo. Anh Vũ Lăng hạch, anh Thông không biết thế nào trả lời. Anh Vũ Lăng bảo:

        - Căn cứ nào để các anh khẳng định việc này khi chỉ dựa vào thông tin của một thằng dân vệ. Thông qua một làn sóng trên trời nghe cũng chưa chắc chính xác. Nếu là cái điện mật có mật mã lại khác.

        Lúc ấy, nó tạo ra cho người lãnh đạo một cái suy nghĩ là: Về phương diện kỹ thuật, chúng tôi khẳng định là có nguồn tin đó. Còn nguồn tin đó có giá trị thế nào, độ chính xác bao nhiêu, chúng tôi không lý giải được. Lập tức điện báo ra Cục 2. Thời gian đó anh Vũ Lăng là con người rất nhạy cảm với tình hình bên trinh sát đưa tin: địch có thể bỏ Tây Nguyên. Anh Vũ Lăng lệnh cho trinh sát hỏi ngoài Bộ. Bộ chưa trả lời được. Sau vài ngày có dấu hiệu, không phải một vài thằng nói với nhau mà những trung tâm truyền tin sóng cực ngắn, chính xác cái thông tin từ đó ra, anh em lại tiếp tục báo cáo, với Bộ và Tư lệnh B3. Sau đó tôi được thưưởng Huân chương Chiến công hạng ba.

        Sau này mới biết rõ quân ngụy có chủ trương từ tổng thống xuống, Plây Cu - Kon Tum rồi từ tổng tư lệnh xuống rồi mà mình không biết, không khai thác được. Người mã thám định hướng mới dịch ra mật mã của nó. Ngoài Bộ mới có nhận định nó rút Tây Nguyên. Nhưng nó rút ngày nào là thành vấn đề?

        Anh Vũ Lăng không hạch anh Thông, anh đến, vẫn chiếc gậy đó. Anh thân mật nhỏ nhẹ:

        - Theo cậu sao?

        - Về phương tiện kỹ thuật, chúng tôi xác định đây là nguồn thông tin đáng tin cậy, đề nghị thủ trưởng có phương án tác chiến đánh địch rút chạy.

        Lần này rất thoải mái. Lúc trước nóng bao nhiêu, vừa sợ vừa tức vì đã có ấn tượng từ trước, lần này gặp lại hoàn toàn khác, rất nhỏ nhẹ, rất tình cảm, thân mật. Cái phẩm chất rất quý của một vị tư lệnh cấp cao đối với một anh sĩ quan cấp nhỏ.

        Trinh sát mặt đất trên Plây Cu và Kon Tum báo cáo là lúc 9 giờ ngày mấy mấy đó có những đụn khói to. Chính tôi nhận định nó phá hủy để rút. Đến một ngày trên tuyến đường 14 từ Kon Tum vào Plây Cu, vào tới Hàm Rồng thì xe dân sự đặc hết. Dân chạy trước lính. Thế là nó rút chạy B3, tưởng rút theo đường 19, không ngờ nó rút đường số 7. Anh Vũ Lăng biết đường 7 từ thời Pháp bỏ cầu Cống Sập, vì nó biết đường 19 có Trung đoàn 98 đã phục ở đó, đường 7 là đường mòn mà.

        Anh Lăng là tướng quân sự, không mềm dẻo như những tướng chính trị, nhưng nghĩ lại thấy lúc đó anh ấy gõ đầu mình cũng phải, không cách chức là may. Tôi thấm thía và cảm phục.

        Khi quân đoàn về Đồng Đô, tôi đi Hà Nội học. Anh Lăng biết sẽ đi Học viện liền đi thăm anh em gặp tôi anh nói:

        - Riêng cậu này có thể không thích tôi lắm, bỏ qua cho mình nhé !

        Anh khuyên tôi nên về Đà Lạt mà học, đừng đi tăng cường cấp huyện. Anh quan tâm đến tương lai của tôi. Tôi rất cảm động.

N.T.T       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 11:44:44 pm

KỶ NIỆM VỀ ANH VŨ LĂNG

Trung tướng NGUYỄN QUỐC THƯỚC1       

        Sang năm 1974, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết định. Bộ Chính trị quyết định điều chỉnh và tăng cường một số cán bộ lãnh đạo cho các chiến trường.

        Giữa năm 1974, đồng chí Vũ Lăng, Cục trưởng Cục Tác chiến được điều động vào làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) thay đồng chí Hoàng Minh Thảo đi nhận công tác mới. Như vậy đây là lần thứ hai tôi lại được làm việc dưới sự chỉ huy của đồng chí Vũ Lăng. Tôi được Bộ Tư lệnh B3 giao đi đón đồng chí Vũ Lăng tại T74 ( Đắc Sơn - ngã ba biên giới Việt - Miên - Lào).

        Gặp lại anh, tôi rất mừng về thời cơ " xuất tướng " của Bộ Chính trị, về những kỷ niệm sâu sắc trong lần trước được làm việc với anh. Gặp tôi, với nét cười vui vẻ, câu đầu tiên anh nói:

        - Quốc Thước đấy à? Cậu còn giận mình nữa không?

        Tôi liền trả lời:

        - Chẳng những giận anh mà trái lại tôi rất vui khi lại được làm việc với anh...

        Câu chuyện là thế này. Cuối năm 1965, Sư đoàn 325b được lệnh vào Nam chiến đấu. Trên đường vào Tây Nguyên, Bộ Tổng tư lệnh giao cho sư đoàn tiêu diệt cho được căn cứ tiểu đoàn biệt kích Mỹ ngụy tại A Sầu, A Lưới chốt chặn đường giao liên với biên giới Thừa Thiên Sa-van-na-khệt, vừa đảm bảo cho hành lang chiến lược được an toàn, vừa đồng thời tập duyệt cho binh đoàn đánh công kiên để có kinh nghiệm trước khi vào Tây Nguyên. Phó Tư lệnh Quân khu 4 là Vũ Lăng được tăng cường trực tiếp chỉ huy sư đoàn. Qua một thời gian ngắn gấp rút chuẩn bị chiến trường, vào tháng 3 năm 1966, Trung đoàn 95 Sư 325b tiến công A Sầu, A lưới. Đêm đầu tiên chúng ta chỉ đột phá được một mảng, địch co cụm chống cự lại rất quyết liệt ta trụ bám để củng cố lực lượng, tổ chức lại đội hình chuẩn bị tiến công dứt điểm vào đêm thứ hai. Tôi, lúc bấy giờ là Trưởng ban tác chiến sư đoàn được lệnh lên tiền duyên cùng đồng chí Lê Khắc Cần - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 nắm lại tình hình địch - ta, xốc lại đội hình, điều chỉnh lực lượng, bổ sung phương án tác chiến, chuẩn bị cho đợt tiến công thứ hai. Trước khi đi, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng sư đoàn Trần Văn Trân dặn sau khi chuẩn bị xong, bảo đảm chắc thắng cho đợt tiến công thứ hai, tôi phải về trước sáng để báo cáo Bộ Tư lệnh quyết định nổ súng. Lặn lội suốt đêm, qua các chiến hào đến cửa mở, tổ chức xong đội hình, tôi trở về chỉ huy sư đoàn. Lúc này Bộ Tư lệnh và cơ quan vẫn thức chờ kết quả. Vừa thấy tôi vào sở chỉ huy, có lẽ trong tâm trạng cuộc chiến đấu bước đầu không suôn sẻ, ta lại bị thương vong, anh Vũ Lăng liền nổi giận quát tháo ( là người chỉ huy rất nóng nảy mà ai đã từng làm việc với anh Lăng đều ít nhiều trải qua cơn thịnh nộ như vậy, nhất là trong tình hình không thuận lợi ):

        - Sao cậu lại trở về? Ai cho phép cậu bỏ về phía sau?...

        Tôi vốn là người nóng tính, lần đầu tiên nghe câu nói đó thấy mình bị xúc phạm quá nhiều, tôi liền nổi nóng:

        - Anh không có quyền nói như vậy, tôi làm theo nhiệm vụ được giao và tôi đã hoàn thành mọi công việc, theo chỉ đạo của đồng chí Trần Văn Trân là tổ chức xong khẩn trương về báo cáo để Bộ Tư lệnh yên tâm. Trung đoàn trưởng Lê Khắc Cần cũng thống nhất để tôi về báo cho Bộ Tư lệnh đỡ lo.

        Hai cơn nóng gặp nhau, anh lại càng nổi giận và quát tháo; không khí trong Sở chỉ huy rất căng thẳng, không ai nói một lời. Tôi liền phản công lại:

        - Mọi việc sai đúng rồi sẽ rõ, anh Trần Văn Trân còn ngồi đây...

        Anh im lặng, lúc này nước mắt tôi trào ra vì uất ức.

----------------------
        1. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước: Nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3, Tư lệnh Quân khu 4.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 22 Tháng Mười Hai, 2016, 11:46:16 pm

        Cả sở chỉ huy sững sờ... Tiếng chuông điện thoại reo lên. Đồng chí Trần Văn Trân cầm ống nói. Bên kia đồng chí Lê Khắc Cần báo cáo đợt tiến công thứ hai đã diễn ra nhanh gọn, ta tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn căn cứ, đang tiếp tục truy bắt bọn vượt rào tháo chạy... Cả sở chỉ huy nhẹ nhõm. Để tháo ngòi căng thẳng, đồng chí Trần Văn Trân tuyên bố cuộc họp tạm dừng để nắm lại kết quả và phân công cơ quan đi giải quyết chiến trường, khắc phục hậu quả...

        Đêm đó khoảng 1 giờ sáng, tôi vẫn trực tại hầm ban tác chiến, tiếp tục nắm tình hình phía trước. Bỗng nghe tiếng sột soạt hai bên bờ rào sở chỉ huy, tôi hỏi:

        - Ai đấy? - Lúc ấy tôi vẫn tưởng là đồng chí trưởng ban quân báo qua báo cáo tình hình địch.

        - Tớ đây! Vũ Lăng đây! Cậu chưa ngủ à? Lúc sáng mình nóng với cậu, cậu thông cảm nhé? Có bi đông rượu đế của Côn Trên, Bí thư huyện ủy biếu mình, mình đưa cậu để chúng ta chúc mừng thắng lợi và để cậu bỏ qua nhé. Tôi thực sự xúc động trước cử chỉ rất tình đồng chí, rất thật của anh. Tôi nói:

        - Tôi biết anh tính rất nóng, nhưng anh không nên trước đông người.

        Thế là mọi việc đều bỏ qua, không khí vui vẻ thắm tình đồng chí lại trở lại. Tôi vội lấy chiếc ca "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược ", rót đến nửa ca, mời anh uống trước, anh uống một ngụm và nói:

        - Mình không uống được nhiều, cậu uống giúp mình.

        Vốn tửu lượng khá, tôi làm một hơi là cạn. Anh vui vẻ dặn tôi tranh thủ ngủ một tý. Tôi liền nói

        - Anh yên tâm về nghỉ một lát, sáng mai, tôi tổng hợp tình hình và báo cáo cụ thể...

        Anh ra về, hầm ban tác chiến trở lại lặng lẽ …

        Và thế là lần thứ hai được gặp lại anh và được làm việc với anh trong một thời điểm khác xa với lần cùng làm việc lần trước.

        Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang ở giai đoạn quyết định, gặp lại anh không phải là trên đường đi chống Mỹ, mà là ở thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ kết thúc chắc không xa. Hàn huyên mọi chuyện gia đình, tình hình chị và các cháu, tình hình gia đình tôi, trở lại chuyện cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh. Anh cho biết tình hình ở đây rất sôi động, Bộ Chính trị trực tiếp đến làm việc hằng ngày với cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, và từ chuyện chung trở lại chuyện cũ năm xưa. Anh nói với những gì từ đáy lòng, thấu hiểu nỗi niềm của những cán bộ tham mưu, nhất là ở những thời điểm phức tạp và sôi động. Anh nói:

        - Về làm việc tại Bộ Tổng Tham mưu bản thân mình cũng thường bị anh Văn, anh Dũng xạc luôn, mình lại càng thông cảm với cậu, cái nghề công tác tham mưu là thế.

        Tôi lại nói luôn:

        - Lần này lại làm tham mưu cho anh ( tôi được giao nhiệm vụ chủ trì cơ quan tham mưu chiến dịch Tây Nguyên ), tôi sẽ làm tốt hơn và mong rằng anh đừng có những cơn nóng...

        Anh cười vui, và tôi cảm nhận đây sẽ là một thời điểm mà chúng tôi sẽ cùng nhau làm việc tốt hơn, hiểu nhau hơn, quý trọng nhau hơn và kết quả sẽ nhiều lần tốt đẹp hơn. Thế là chúng tôi bắt tay vào công việc. Anh tập trung tìm hiểu sâu tình hình Tây Nguyên: địch, ta, địa hình và mọi vấn đề liên quan với suy nghĩ ban đầu về nhiệm vụ  Tây Nguyên vào Xuân năm 1975 mà trước đó tại Bộ Tổng Tham mưu, anh đã hiểu được phần nào ý định lớn của Trung ương. Đây chính là điều thuận lợi cho chiến trường trong tiếp cận nhiệm vụ của mình, tuy chưa thật cụ thể, nhưng chắc chắn là vô cùng nặng nề và vẻ vang. Trong lúc này tuy không còn anh Hoàng Minh Thảo với cương vị Tư lệnh đầy trí tuệ và dày dạn kinh nghiệm sáng tạo trong những năm đấu trí, đấu lực với đế quốc Mỹ; nhưng được bù lại Tư lệnh mới, anh Vũ Lăng, đã được tích luỹ nhiều kinh nghiệm ác chiến trường qua thời gian côn g tác tại Bộ Tổng Tham mưu, đã bắt gặp được ý đồ chiến lược của Bộ Chính trị, cộng với kinh nghiệm dày dặn trong lãnh đạo công tác đảng, công tác chính trị và những kinh nghiệm nhất định về nghệ thuật tác chiến trên chiến trường của anh Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy Mặt trận.

        Sau này khi đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên, anh Hoàng Minh Thảo lại được Bộ Chính trị quyết định về làm Tư lệnh chiến dịch cùng anh Đặng Vũ Hiệp, anh Vũ Lăng và cáo Phó Tư lệnh khác, càng chứng tỏ vị trí cực kỳ quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên mùa Xuân năm 1975, tăng thêm sức mạnh lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, tạo niềm tin chắc thắng cho chiến trường.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười Hai, 2016, 08:19:12 pm

        Vào khoảng tháng 8 năm 1974, Bộ Tổng Tư lệnh triệu tập một cán bộ lãnh đạo Mặt trận Tây Nguyên ra nhận nhiệm vụ chiến dịch. Anh Lăng vừa mới từ Hà Nội vào đang tập trung tìm hiểu tình hình và cũng đã hiểu được một phần ý định của Trung ương, nên Bộ Tư lệnh cử tôi, lúc này là Phó Tham mưu trưởng Mặt trận, thay mặt Bộ Tư lệnh ra nhận nhiệm vụ. Đối với tôi đây là một nhiệm vụ hết sức  nặng nề, làm sao để thu nhận được đầy đủ, chính xác những ý định của Bộ Tổng Tư lệnh trong một chiến dịch lớn và quan trọng này.

        Được anh hướng dẫn, trao đổi cặn kẽ những vấn đề cần tập trung nắm vững khi làm việc với Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu, cùng những vấn đề cần tranh thủ các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu..., tôi lên đường sau gần mười năm trực tiếp chiến đấu ở chiến trường, được ra Bắc, lòng tôi vô cùng phấn khởi với vinh dự được thay mặt Bộ Tư lệnh nhận nhiệm vụ, xen lẫn ước ao được trở lại miền Bắc gặp lại người thân và hy vọng sẽ được nghỉ ngơi một thời gian.

        Nhưng khốn nỗi, mới về nhà được năm ngày thì có lệnh ra nhận nhiệm vụ gấp. Linh tính báo trước là tình hình rất khẩn trương rồi. Tôi vội "đả thông"1 cho gia đình và ra ngay Hà Nội. Đúng như dự đoán, cơ quan Bộ Tổng Tham mưu cho biết tình hình rất khẩn trương, tôi phải nhận nhiệm vụ và vào ngay chiến trường. Tôi lần lượt làm việc với Cục Tác chiến, với Tổng Tham mưu phó Lê Ngọc Hiền, sau đó làm việc với anh Văn Tiến Dũng và cuối cùng làm việc với anh Văn tại nhà riêng. Sau khi kiểm tra thấy tôi đã nắm được nhiệm vụ, anh Văn, anh Dũng dặn vào báo cáo với anh Vũ Lăng là sau này sẽ có điện tiếp, anh Lê Ngọc Hiền sẽ vào nói rõ thêm nhiệm vụ. Thế là ba chân bốn cẳng với chiếc xe Zil 157 ỳ ạch trong cuối mùa mưa suốt đêm ngày để kịp vào báo cáo với Thường vụ Đảng ủy Mặt trận đang chờ ở nhà. Trước lúc vào chiến trường, tôi lại gặp chị Hoa vợ anh Vũ Lăng để nhận thư và quà. Chị dặn tôi vào cố giúp đỡ anh để anh có sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ. Sau mười ngày đêm, tôi đã trở về sở chỉ huy mặt trận vào khoảng 3 giờ sáng.

        Một ngày giữa tháng 10, tôi chuẩn bị ăn vội mấy bắp ngô luộc anh em đã chuẩn bị sẵn, xem lại tài liệu, mã dịch lại một số nội dung tuyệt mật, vào đúng 6 giờ 30 phút sáng thì Thường vụ Đảng ủy Mặt trận họp để nghe tôi báo cáo lại nhiệm vụ. Anh Vũ Lăng lúc này đang sốt ruột nhắc tôi báo cáo gọn, tập trung những vấn đề chính mà anh Dũng, anh Văn căn dặn. Tôi làm theo ý định một cách đầy đủ. Sau khi nghe báo cáo, Thường vụ trao đổi quán triệt nhiệm vụ và sơ bộ cho chủ trương triển khai công tác chuẩn bị. Lúc này một bộ phận cán bộ tiền trạm đã đi trước chuẩn bị khu vực bàn đạp để triển khai nghiên cứu chiến trường. Công tác triển khai rất khẩn trương, bộ phận đi chuẩn bị cho chiến trường do anh Vũ Lăng trực tiếp chỉ huy.

        Lần đầu tiên Mặt trận nhận một nhiệm vụ ngoài sức tưởng tượng của mình, nhưng lại rất phấn khởi vì sự tín nhiệm của Bộ Chính trị đối với chiến trường Tây Nguyên, với một vị trí quan trọng của nó. Quá trình phân công các bộ phận đi chuẩn bị rất khẩn trương, nhưng lại yêu cầu rất cao: " Tuyệt đối bí mật, không để địch xác định hướng chiến lược của ta ", vì lúc này, đầu mùa khô, địch đang săn lùng tìm ý định và lực lượng của B3. Qua hai tháng lặn lội, luồn rừng, suối tiếp cận các mục tiêu, tuy là một con người rất nóng tính, nhưng anh không hề gắt gỏng tý nào, trái lại ân cần chỉ bảo cho anh em những điều cần tập trung nghiên cứu, bổ sung những thiếu sót, gợi mở những vấn đề để cơ quan suy nghĩ. Bộ máy làm việc tuy rất vất vả, căng thẳng nhưng khá nhịp nhàng. Ban ngày tiếp cận mục tiêu, nghiên cứu địa hình, đêm về lại miệt mài suy nghĩ, và qua mỗi đêm anh lại gợi ý cho cơ quan nhưng vấn đề mới để bổ sung hoàn chỉnh về phán đoán ý đồ địch, về dự liến đối phó của ta, làm cho cơ quan luôn phải tìm tòi để tìm ra phương án tối ưu. Vì một lẽ tìm hiểu về địch đã khó mà tìm hiểu hết ý định của trên lại càng khó hơn.

        Trong quá trình chuẩn bị chiến trường, đã ba lần Quân ủy Bộ Tổng Tư lệnh bổ sung nhiệm vụ, vượt qua yêu cầu lúc ban đầu: " Tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Tây Nguyên, mở đầu là trận then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, tạo ra bước ngoặt cho cuộc chiến tranh ". Ý đồ chiến lược đã rõ, nhưng đặt trên vai của cơ quan chiến dịch làm sao đáp ứng được yêu cầu đó. Thực sự lúc này vai trò của anh Vũ Lăng có ý nghĩa quyết định trong quá trình chuẩn bị chiến trường, khi mà các ý kiến trong Bộ Tư lệnh và chỉ huy các sư đoàn còn rất khác nhau, và đó cũng là tất yếu khi mà mục đích chiến dịch vượt xa sự suy nghĩ của mỗi người.

        Trong cuộc họp Đảng ủy mở rộng tháng 2 năm 1975, sau ba ngày tranh luận gay gắt nhưng vẫn chưa ngã ngũ, với tư cách người phụ trách cơ quan tham mưu chiến dịch, tôi đề nghị anh Vũ Lăng có kết luận để cơ quan tham mưu có thời gian triển khai vì thời gian đã đến gần. Anh Vũ Lăng điềm đạm nói với tôi:

        - Kết luận thì dễ nhưng đây là nhiệm vụ rất lớn và nặng nề , phải tạo sự nhất trí cao trong lãnh đạo và chỉ huy chiến dịch và các chỉ huy sư đoàn, phải có sự kiên trì, trao đổi thực sự thống nhất thì quyết tâm mới có cơ sở sức mạnh. Khẩn trương nhưng phải chính xác, táo bạo nhưng phải thận trọng...

--------------------------
        1. "Đả thông" là tiếng tắt của cụm từ "đả thông tư tưởng" trong quân đội giải phóng quân Trung Quốc, có ý nghĩa là "giải thích để hiểu rõ".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười Hai, 2016, 08:20:04 pm

        Và cuối cùng đã đi đến thống nhất, Đảng ủy chấp nhận đề xuất của cơ quan tham mưu chiến dịch là: tuy có khó nhưng phải khắc phục, dùng cách đánh mạnh nhất, bất ngờ nhất, nhanh nhất, bỏ qua vòng ngoài, đánh thẳng vào đầu não trung tâm, làm tê liệt hệ thống chỉ huy, sẵn sàng đánh phản kích hòng chiếm Buôn Ma Thuột.  Được kết luận của Đảng ủy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật khẩn trương triển khai kế hoạch, điều động lực lượng, bố trí đội hình, làm công tác chuẩn bị chiến trường trực tiếp và các công tác bảo đảm với yêu cầu khẩn trương, chính xác, tuyệt đối bí mật, tạo thế đánh địch trong tình huống địch không có phòng ngự dự phòng.

        Đây lại là thời kỳ hết sức căng thẳng vì lúc này địch đang ra sức lùng sục để phát hiện ý đồ chiến dịch của ta, mà quân ta thì có hàng vạn cán bộ chiến sĩ trên khắp địa bàn, làm sao tránh khỏi sơ hở? Thực tế có một vài tình huống xảy ra đã làm đứng tim của mọi người, nhưng cuối cùng mọi việc đều suôn sẻ cho đến giờ nổ súng, quân địch vẫn hoàn toàn bị bất ngờ về ý định và mục tiêu chiến dịch của ta. Sau này khi chiến dịch thắng lợi, ngồi trao đổi lại với nhau, anh Vũ Lăng đã thổ lộ rằng: " Mình làm cơ quan chiến lược đã nhiều, nhiều tình huống rất căng thắng, nhưng có lẽ lần này là lần căng thắng nhất".

        Mọi việc chuẩn bị chiến dịch tuy gặp không ít bất trắc, nhưng cuối cùng đã vượt qua, chỉ còn lại vấn đề lớn nữa là làm sao bảo vệ thắng lợi quyết tâm phương án chiến dịch trước đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng. Một ngày cuối tháng 2 năm 1975, trên dòng sông Đắc Đam thơ mộng đầy những dò phong lan đủ màu sắc trên các cây đại thụ hai bên bờ suối, được phân công của Bộ Tư lệnh, anh Vũ Lăng thay mặt Bộ Tư lệnh chiến dịch báo cáo quyết tâm ( lúc này Bộ Chính trị quyết định anh Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, anh Vũ Lăng - Phó Tư lệnh, anh Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy cùng ba Phó Tư lệnh khác). Do quá trình lặn lội gần ba tháng trời ăn sương, nằm đất nên sức khỏe anh Vũ Lăng bị giảm sút. Trong buổi đầu mới báo cáo được tình hình chung thì anh lên cơn sốt cao 40 độ nên không dự họp được nữa. Bộ Tư lệnh phân công tôi báo cáo tiếp phần quyết tâm và phương án tác chiến chiến dịch. Vì tôi đã cùng anh Vũ Lăng trực tiếp suốt trong quá trình chuẩn bị.

        Ngày hôm sau hội nghị thảo luận, anh Vũ Lăng cố dự, lại là một lần trao đổi, tranh luận sôi nổi, phân tích lý lẽ để đại diện Bộ Tổng Tư lệnh có thể chấp nhận phương án, vì trong ý đồ tác chiến và sử dụng lực lượng cũng có phần hơi khác với ý kiến của các cơ quan chiến lược, nhưng cuối cùng đã được chấp thuận và sau này khi chiến dịch nổ ra thì càng thấy phương án của chiến dịch hợp lý, tạo bất ngờ cho chiến dịch ngay sau khi ta đã chiếm được thị xã Buôn Ma Thuột. Nhận xét về công tác chuẩn bị chiến trường, anh Hoàng Minh Thảo khi về điều hành chiến dịch cũng đã khẳng định công lao lớn trong quá trình chuẩn bị chiến dịch là công lao của tập thể lãnh đạo và cơ quan chiến dịch, trong đó anh Vũ Lăng có vai trò to lớn và chúng tôi, những cán bộ tham mưu chiến dịch cũng đã khẳng định như vậy

        Từ thắng lợi to lớn có ý nghĩa quyết định của Tháng ba Tây Nguyên năm 1975, không thể không nhớ tới những kỷ niệm hào hùng của chiến trường Tây Nguyên - nơi một chiến dịch đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, một bước ngoặt trong sự trưởng thành của quân đội ta, của mỗi chúng ta, những người được vinh dự tham gia, được trực tiếp làm công tác chuẩn bị chiến dịch và thực hành chiến dịch đến toàn thắng. Trong ký ức sâu sắc của mỗi người chúng ta, không bao giờ quên vai trò lãnh đạo chỉ huy của tập thể Bộ Tư lệnh chiến dịch: anh Hoàng Minh Thảo, anh Đặng Vũ tiệp anh Vũ Lăng và các anh khác trong Bộ Tư lệnh, trong đó công đầu tiên của quá trình chuẩn bị chiến dịch thuộc về anh Vũ Lăng và tập thể cơ quan trực tiếp chuẩn bị chiến trường.

        Khi chiến dịch Tây Nguyên sắp kết thúc, ngày 26 tháng 3 năm 1975, tại sở chỉ huy Chư-xê trên trục đường thị xã Buôn Ma Thuột, Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh công bố thành lập Quân đoàn 3 từ các lực lượng chủ yếu tham gia chiến dịch Tây Nguyên. Sự ra đời Quân đoàn 3 là một tất yếu sau chiến thắng chiến dịch Tây Nguyên, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của  quân đội ta, của lực lượng vũ trang Tây Nguyên, sự chuyển hướng giai đoạn quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Trong cuộc họp vắng mặt anh Đặng Vũ Hiệp ( được quyết định làm Chính ủy ) đang trực tiếp đi cùng Sư đoàn 10 tiêu diệt lữ đoàn dù 3 ngụy ở đèo Phượng - Hoàng ), tôi và anh Nguyễn Thế Nguyên cán bộ tham mưu.

        Phát huy truyền thống lực lượng vũ trang Tây Nguyên, thừa thắng sau chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn 3 dưới sự lãnh đạo chỉ huy của anh Vũ Lăng và anh Đặng Vũ Hiệp đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ lịch sử của mình trên hướng chủ yếu của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi vẻ vang của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, được Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương đánh giá và biểu dương: " Quân đoàn 3 đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, có thể nói là đặc biệt xuất sắc ".

        Trong thành tích đó, chúng ta không bao giờ quên người Tư lệnh đã quá cố của chúng ta.

Xuân 2000       
N.Q.T           
       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười Hai, 2016, 08:33:24 pm

RẤT TRÂN TRỌNG Ý KIẾN CỤC TRƯỞNG VŨ LĂNG

Trung tướng LÊ  HỮU ĐỨC       

        Tôi biết anh Vũ Lăng từ kháng chiến chống Pháp. Anh Vũ Lăng là chủ lực của Bộ ở miền Bắc, tôi là chủ lực của Liên khu 5 miền Trung trong kháng chiến chín năm.

        Tháng Giêng năm 1954, tôi về Cục Tác chiến, sau đó lên Điện Biên Phủ giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp theo dõi các chiến trường miền Nam: Liên khu 5, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Cao Miên. Anh Vũ Lăng lúc này là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 Sư đoàn 316. Thỉnh thoảng, hội nghị tổng kết từ cán bộ Trung đoàn trở lên, tôi có được dự, lúc đó tôi mới là rung đoàn phó. Tôi nghe nói ông này nóng tính lắm, có biệt danh là ông " Râu xồm". Đó là lúc anh ở đơn vị ấn tượng nhiều nhất với tôi là từ đầu năm 1972 đến đầu năm 1974, tôi làm Cục phó, anh Vũ Lăng làm Cục trưởng Cục Tác chiến. Tôi thấy khi quan hệ với cán bộ, anh là một con người rất bình tĩnh, dễ gần, cởi mở, sôi nổi, thẳng thắn, chân tình, có gì sẵn sàng trao đổi với nhau.

        Riêng với tôi, anh để lại nhiều kỷ niệm rất khó quên khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta trong giai đoạn nỗ lực vượt bực để giành thắng lợi trọn vẹn. Khi tôi mới về cục, chỉ một tuần sau, anh Lăng bảo tôi:

        - Bây giờ đi họp.

        Tôi hỏi:

        - Họp cái gì hả anh?

        - Họp với Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị.

        Lần đầu tiên được dự họp, anh Trường Chinh có hỏi tôi:

        - Đồng chí ở chiến trường nào về?

        Anh Lăng nói ngay:

        - Đồng chí Đức ở chiến trường Tây Nguyên, thổ công Tây Nguyên.

        Tôi được dự các hội nghị Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trí với cương vị là thư ký hội nghị - Tổ thư ký gồm ba người: anh Vũ Lăng là Cục trưởng và hai cục phó là anh Võ Quang Hồ và tôi. Lúc đầu tôi cũng chỉ nghĩ do bản thân có chút kỉnh nghiệm chiến đấu, có chút vốn văn hóa. Nhưng sau này anh Lê Trọng Tấn ( Phó Tổng tham mưu trưởng phụ trách khối tác chiến ) cho biết: "Chính anh Vũ Lăng đề nghị cậu. Vũ Lăng nêu rõ: cậu có kinh nghiệm chiến đấu qua hai cuộc kháng chiến, lại có trình độ lý luận, viết lách khá, trung thực, có ý thức giữ bí mật, có triển vọng. Vì thế tôi đồng ý, báo cáo lên các anh trên cũng nhất  trí ".

        Tôi thấy anh Lăng có trình độ về chiến lược, về công tác tham mưu xuất sắc, có nhiều sáng tạo. Nhất là đối với đồng chí Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, anh ấy cũng thẳng thắn trình bày ý kiến của mình, mặc dù anh Văn đã kết luận rồi, anh ấy vẫn xin có ý kiến. Tôi nhớ một hôm giữa năn 1972, tôi với anh Võ Công Hồ, anh Vũ Lăng lên làm việc với anh Võ Nguyên Giáp gần ba tiếng đồng hồ, trao đổi sắp xong, anh Vũ Lăng xin phép về để giải quyết việc gì đó Anh mở cửa đi ra, chưa đầy một phút sau, anh quay lại gõ cửa.

        Anh Văn hỏi:

        - Ai đấy?

        - Vũ Lăng đây ạ .

        Anh bước vào nói:

        - Báo cáo anh, về vấn đề này tôi còn suy nghĩ và có ý kiến.

        Anh Văn cười bảo:

        - Đúng rồi, như thế là Vũ Lăng chưa nhất trí đâu. Trình độ các cậu khác năm 1945, năm 1946. Chúng tôi lãnh đạo phải lắng nghe các cậu, tất nhiên phải biết phân biệt đúng sai, nhưng mà hết sức lắng nghe, kết luận mới đầy đủ hơn, sáng suốt hơn.

        Tôi muốn nói rằng, tuy có những vấn đề trên đã có ý kiến, nhưng mà anh dám có ý kiến lại, thể hiện trình độ của anh, không phải như người khác là cấp trên nói thế nào cũng gật ngay. Tôi quý anh Lăng chỗ đó, học anh Lăng cũng chỗ đó. Đúng là cấp trên bao giờ cũng hơn mình nhiều mặt, mình phải chấp hành ý kiến ở trên, khi trên cho ý kiến thảo luận dân chủ thì phải phát biểu ý kiến của mình cho đến khi thỏa đáng.

        Trong ba năm tôi ở với anh, từ năm 1972 đến năm 1974, tôi chưa bao giờ thấy anh Vũ Lăng phát biểu dựa theo ý kiến người khác hoặc dựa theo ý kiến của trên. Cấp trên còn phát biểu, anh còn có ý kiến.

        Anh Lăng và anh Lê Trọng Tấn, hai đồng chí thường hết sức lắng nghe ý kiến cấp dưới, hết sức chủ ý gợi ý, khêu gợi những vấn đề để anh em bàn bạc. Đó là điều đặc biệt khác người khác.

        Qua làm việc trong hội nghị, thỉnh thoảng nói chuyện với các đồng chí trong Bộ Chính trị, mọi người đều đã nhận xét anh Vũ Lăng là một cán bộ tốt, có kinh nghiệm. Đặc biệt, tôi được biết: Anh Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Đại tướng Tổng Tư lệnh; anh Song Hào, anh Lê Quang Đạo đối với anh Vũ Lăng rất trân trọng. Anh Võ Nguyên Giáp, anh Lê Trọng Tấn rất trân trọng những ý kiến của anh Vũ Lăng phát biểu về chiến lược, chiến dịch hay là chiến đấu. Nhiều khi anh Văn, anh Tấn, anh Cao Văn Khánh gợi ý cho anh Vũ Lăng phát biểu hết ý kiến của mình. Có ý kiến nào không đồng ý thì các anh nói rõ: " Chỗ này chưa nên, nhưng cậu phát biểu thế là tốt".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Mười Hai, 2016, 08:34:34 pm

        Khi nắm chắc tình hình, chuẩn bị lập luận vững chắc, lô-gíc thì anh kiên trì trình bày với cấp trên. Lần đầu chưa được thì liên tiếp các lần sau. Khi được chấp nhận, trên nét mặt anh lộ một chút rất trẻ và khá ngộ nghĩnh.

        Thường anh tâm sự với tôi: " Nghề công tác tham mưu thì vinh quang cũng lắm, vinh dự cũng nhiều, nhưng tủi nhục không ít: Chỉ vì sự nghiệp chung thì trước sau cũng tìm được tiếng nói chung". Anh kết luận bằng câu tiếng Pháp có nghĩa là: vinh và nhục của cơ quan tham mưu mà.

        Anh Vũ Lăng nóng tính thật, nhưng trong giao ban, anh luôn chủ động ghìm mình lại chịu sự phê bình của cấp trên, đồng thời ghìm mình lại để không bộc lộ ra bằng thái độ hay lời nói. Cái đó chỉ chúng tôi biết và thủ trưởng trên anh - anh Vương Thừa Vũ, anh Lê Trọng Tấn qua mọi thời kỳ đều nhận xét như thế. Có lần, anh Vương Thừa Vũ họp xong ra vỗ vai anh Vũ Lăng:

        - Hoan nghênh Vũ Lăng nhé!

        Thế là anh Lăng cười - chúng tôi ra về .

        Những điều mà tôi nghĩ lại, tôi vẫn không cầm được nước mắt là lòng dũng cảm, vị tha của anh đối với một cộng sự khỉ bị cấp trên nhận xét, mặc dầu sự nhận xét chưa thật chuẩn xác.

        Năm 1972, biết Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu đã nhận xét cán bộ phụ trách Cục Tác chiến mà chủ yếu đối với tôi - thường các buổi giao ban bao giờ tôi cũng được cùng Cục trưởng Vũ Lăng dự họp - nhưng hôm ấy anh Vũ Lăng bảo tôi:

        - Đức hôm nay ở nhà, sẵn sàng sang báo cáo anh Ba và anh Tô1.

        Tôi cũng lại chưa thấy ai nói gì cả, bởi vì thường báo cáo như vậy là Văn phòng Trung ương hoặc Bí thư quân sự của anh Ba Duẩn hoặc anh Tô gọi sang. Tôi bảo:

        - Chưa thấy ai bảo gì cả.

        - Cậu cứ ở nhà, sẽ có người bảo.

        Tôi chờ cả buổi sáng không thấy gì. Giao ban về, tôi hỏi anh:

        - Giao ban hôm nay có gì không anh?

        Anh vẫn tỉnh khô trả lời:

        - Không có gì, vẫn bình thường như mọi ngày.

        Nhưng sau đó bốn năm hôm, qua nhiều người, tôi biết chuyện này, tôi hỏi, anh bảo:

        - Thôi đi làm gì, mình đi cho các cậu là được rồi.

        Tôi thấy khi cấp dưới khó khăn, anh sẵn lòng thay mình nhận khó khăn đó. Tôi cũng sống với nhiều cấp trên, có ít đồng chí có tác phong như vậy.

        Trước khi tôi đi học, anh căn dặn: Bây giờ cho đi học thì cố gắng học cho tốt, về sẽ đánh lớn hiệp đồng binh chủng. Mình cũng đã học ở Vô-rô-si-lốp. Nên đi học!

        Trong quá trình học, tôi được biết ở nhà, tổ chức cấp trên bố trí người thay anh Lăng.

        Đến ngày 21 tháng 1 năm 1974 tôi về, có liên lạc gọi ngay sang nhà anh Văn Tiến Dũng (Tổng Tham mưu trưởng) làm việc. Anh giao nhiệm vụ thay anh Vũ Lăng ( lúc này anh Vũ Lăng được điều vào chiến trường Tây Nguyên làm Tư lệnh ). Lúc đầu, tôi từ chối vì thấy rằng khó quá, các Cục phó hiện nay đều là cấp trên của tôi trước đây: có đồng chí làm Trung đoàn trưởng khi tôi làm chính trị viên; có đồng chí làm tiểu đội trưởng khi tôi còn là chiến sĩ; có đồng chí được phong quân hàm trung tá thì tôi mới thiếu tá. Tôi cũng trình bày thật với anh Văn Tiến Dũng, anh Dũng nói đùa với tôi:

        - Theo đồng chí ai vào Đảng năm 1930, năm 1947, năm 1948 thì vào Trung ương, Bộ Chính trị cả chứ gì? Bây giờ quyết định chính thức rồi, cứ về làm, cố gắng phát huy anh em, có khó khăn gì gặp chúng tôi.

        Theo anh Tấn: "Cũng Vũ Xồm tiến cử cậu, tớ thì hiểu rõ cậu, tớ nhất trí vì các Cục phó khác kẻ thì có tuổi, kẻ thì đã xa chiến trường lâu quá. Cậu vừa có kinh nghiệm chiến đấu, vừa có kinh nghiệm công tác tham mưu, còn trẻ, hăng hái. Tớ bảo Lăng lên báo cáo trực tiếp với anh Văn Tiến Dũng - các anh cân nhắc và nhất trí".

        Như vậy là đã rõ. Ngay khi tôi mới về Cục, anh đã chọn lọc, cân nhắc, bồi dưỡng một cách khách quan, trung thực để có người thay thế. Mặc dầu tôi chỉ mới biết anh, làm việc với anh một thời gian ngắn.

        Tôi nghĩ anh Vũ Lăng rời Cục Tác chiến vào chiến Trường Tây Nguyên, là vào chiến trường trọng điểm của cuộc tiến công và nổi dậy. Điều đó thể hiện trên tín nhiệm anh - Anh là một Trung đoàn trưởng nhiều kinh nghiệm đánh chủ lực, đánh hiệp đồng binh chủng trong kháng ciến chín năm, rồi sau đó anh về phụ trách Cục Khoa học quân sự, Cục trưởng Cục Tác chiến từ năm 1965 mãi tới năm 1974: gần chín năm. Anh ra trận với trình độ nhãn quan chiến lược của anh nên cấp trên mới tín nhiệm anh làm Tư lệnh chiến trường B3 (Tây Nguyên). Khi chiến dịch Tây Nguyên, anh làm Phó Tư lệnh, anh Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh. "Chuẩn bị chiến trường Buôn Ma Thuột rất khó khăn, lần đầu tiên bộ đội đánh vùng rừng núi" như anh Quốc Thước đã nói. Nhưng anh Lăng có kinh nghiệm dày dạn với công tác tham mưu, nhiều kinh nghiệm đánh hiệp đồng binh chủng nên đã hướng dẫn cho anh em chuẩn bị chu đáo, giúp anh em nhiều bài học.

--------------------------------
        1. Đồng chí Lê Duẩn vả Phạm Vãn Đồng.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười Hai, 2016, 09:57:49 am

        Đến chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh, Quân đoàn 3 do anh làm Tư lệnh có vinh dự lớn nhận mũi đột kích chủ yếu. Vinh dự này vừa là của anh em, vừa là của đồng chí Tư lệnh được cấp trên giao nhiệm vụ. Tuy sau này anh không vào được Dinh Độc Lập sớm, vì nhiệm vụ của Quân đoàn 3 là chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, rồi chiếm bộ tổng tham mưu, tuy cũng có một bộ phận hướng vào Dinh Độc Lập. Quân đoàn 3 trên hướng tây bắc theo đường 22 ( bây giờ là đường số 1) vừa tiêu diệt địch ở Đồng Dù (Tây Ninh, Trảng Bàng) đồng thời thọc sâu, đúng tối 29 tháng 4 đã vào đến sân bay Tân Sơn Nhất. Chính anh đã đề xuất chiến dịch tiến công tiêu diệt địch ở hang ổ cuối cùng Sài Gòn - Gia Định nên lấy tên Bác là chiến dịch Hồ Chí Minh1.

        Trong những lúc giao ban theo dõi, tôi cũng thấy đồng chí Tổng Tư lệnh, đồng chí Phó Tổng tham mưu trưởng luôn biểu dương Quân đoàn 3 và nói rõ Quân đoàn 3 có Vũ Lăng làm Tư lệnh trưởng thì tốt rồi, rất chắc chắn, không có ý kiến gì. Có thể có ý kiến với quân đoàn này, quân đoàn khác, nhưng với Quân đoàn 3 thì nhiệm vụ giao đã hoàn thành xuất sắc. Đó là công lao to lớn của tập thể Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và tất cả cán bộ chiến sĩ, nhưng vai trò của đồng chí Vũ Lăng lúc này là Thiếu tướng thì rất rõ.

        Sau này, khi chiến tranh biên giới Tây Nam, trong những hội nghị do chúng tôi tổ chức, anh có lên nói chuyện với chúng tôi. Hội nghị Bộ Tổng Tham mưu lúc ấy tổ chức ở sở chỉ huy của trung tướng Minh - tư lệnh không quân ngụy, chúng tôi gọi là " nhà con ó ", anh cũng nói đùa với tôi:

        - Lên gặp Cục trưởng xem Cục trưởng có gì chỉ thị không.

        Tôi cười :

        - Gớm! Làm gì mà dám chỉ thị Tư lệnh.

        Nhưng thực ra, quan hệ của chúng tôi rất tốt. Có ý kiến gì về nhiệm vụ Tây Nam, anh đều có ý kiến. Anh hiểu khó khăn của nhiệm vụ Cục trưởng chúng tôi. Anh còn nói cho biết: " Khó khăn của quân đoàn tôi thế này, tôi chắc chắn các quân đoàn khác cũng như thế. Các anh báo cáo với cấp trên để giải quyết cho quân đoàn ".

        Anh gợi ý cho chúng tôi về chiến dịch, về chiến thuật mà khó nhất đánh Tây Nam là nắm địch. Anh là người có nhiều ý kiến giúp cơ quan Bộ Tổng Tham mưu ở tiền phương về cách đánh địch và chỉ huy tác chiến.

        Sau ngày thống nhất, anh tiếp tục ở Quân đoàn 3, Giám đốc Học viện Quân sự Đà Lạt. Anh được phong Trung tướng và Thượng tướng. Anh là một trong sáu đồng chí được phong hàm Giáo sư đầu tiên của Quân đội vào năm 1986.

        Một buổi sáng, chúng tôi gặp nhau ở hiệu cắt tóc, số 33 Trần Phú. Lúc này anh ra Hà Nội để chuẩn bị đi chữa bệnh ở nước bạn. Hai chúng tôi ngồi dưới chân tượng đài Lê-nin tâm sự gần buổi sáng, từ công tác Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu đến chiến trường miền Nam và Tây Nam.

        Kết thúc buổi mạn đàm, anh nói:

        - Mình được đi chữa bệnh ở nước bạn, chắc sang đó có thời gian đọc. Lúc về, tớ và cậu cùng nhau viết lại những kinh nghiệm quý báu về công tác tham mưu chiến lược...quý lắm...Tớ  kể rồi cậu viết... Cậu còn nhớ câu "Ba ông thợ da"2  mà ông Văn cứ dặn chúng mình chứ?

        Tôi cũng tin vậy, khi nghe tin anh đau nặng nhưng sắc thái và đặc biệt là giọng nói còn rõ và rành mạch lắm.

        Không ngờ đó lại là lần cuối cùng tôi gặp anh.

        Mỗi lần có dịp vào Thành phố Hồ Chí Minh, tôi lại lên nghĩa trang thành phố thắp nén hương thơm tưởng nhớ đến anh, đền đáp một phần sự dìu dắt của anh.

        Trải qua ba mươi năm chiến tranh cách đây trên nửa thế kỷ, trong đời binh nghiệp, tôi đã đi qua nhiều đơn vị, công tác với nhiều đồng chí cấp trên trực tiếp từ tiểu đoàn,trung đoàn, sư đoàn, mặt trận, quân khu, học viện, nhưng mấy ai được như anh: biết chọn lọc, bồi dưỡng, dìu dắt cấp dưới một cách vô tư, chân thành, trong sáng.

        Nên mỗi lần nói đến anh, những buổi thảo luận kế hoạch tác chiến, những lúc trao đổi dốc hết bầu tâm sự và khi đoàn làm "phim" về anh, tôi không sao cầm được nước mắt.

L.H.Đ       

-------------------
        1. Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh xác định người đề xuất chiến dịch tiến công Sài  Gòn - Gia Định nên lấy tên Bác kính yêu là chiến dịch Hồ Chí Minh chính là đồng chí Vũ Lăng – Tư lệnh Quân đoàn 3. Đề xuất này được Bộ Tư lệnh chiến dịch chấp nhận ngày 12 tháng 4 năm 1975 và được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua ngày 14 tháng 4 nam 1975. (Trong buổi gặp mặt các nhân chứng lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975 trên Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức vào ngày 25 tháng 4 năm 2002).

        2. Trước anh Văn thường động viên chúng tôi phải đào sâu suy nghĩ. Anh nói: "Ba ông thợ da thành Gia Cát Lượng các cậu ạ".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười Hai, 2016, 10:44:14 am
     
VÀI KỶ NIỆM VỚI THƯỢNG TƯỚNG VŨ LĂNG

Thiếu tướng HỒ ĐỆ1        

        1. Chuẩn bị trọng điểm ở hướng Đức Lập, là khu vực địch đã chiếm giữ lâu ngày, quân chủ lực thì ít nhưng vùng đông dân, biệt kích, thám báo, bảo an, dân vệ lại rất nhiều. Đi qua khu rừng bị phá bởi chất độc màu da cam, lại gặp phải những dãy đồi và sườn núi, dân địa phương chặt cây làm rẫy, cây cối đang đổ ngổn ngang. Đoàn cán bộ gồm hầu hết cán bộ cấp trưởng quân sự từ đại đội trưởng trở lên, chúng tôi vừa chui, vừa nhảy, vừa leo trèo, ban ngày thì dễ lộ, ban đêm thì rất khó đi, tận dụng ánh trăng đầu tuần, xước da, sưng trán không tránh được, không ít đồng chí bị bong gân, xước mặt. Ăn cơm nắm mấy ngày ròng rã, tất cả đều mệt nhoài, nhưng vẫn cố trèo lên đồi cao, sát địch để quan sát các vị trí cứ điểm của địch; trinh sát viên đi trước, cán bộ bám theo, thay nhau hết đợt đơn vị nọ đến đơn vị kia, trung đoàn cùng sư đoàn quan sát xong thì đến cấp tiểu đoàn, đại đội lên nghiên cứu, theo phân công cho từng đơn vị. Thời gian đi chuẩn bị chiến trường mất nửa tháng mới hoàn tất được công việc, không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra.

        Riêng có một câu chuyện tôi thấy cũng cần đáng nói, dù giờ đây kẻ còn, người mất, âu cũng là kỷ niệm trong chiến tranh. Đó là chuyện khi đi chuẩn bị chiến trường của một vị tướng trong chiến tranh.

        Đoàn đi cùng bộ phận cán bộ mặt trận do đồng chí Vũ Lăng - Tư lệnh B3 dẫn đầu (đồng chí Vũ Lăng sau là Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên). Dọc đường đi anh vẫn vui anh thích chơi hoa, gặp cụm hoa phong lan tai trâu nào đẹp là anh cố dừng lại nhìn một tý đã, Gần tết âm lịch nên ở những vườn cây còn sót lại, hoa phong lan nở rộ rất nhiều. Trong đoàn khoác lá ngụy trang, ai cũng đèo thêm một cành, người và hoa cứ quyện nhau mà tiến lên phía trước. Một hôm gặp phải mưa to gió rét ướt đầm đìa, đã mệt lại càng mệt hơn. Tôi vừa kịp leo lên đỉnh dốc, chưa kịp thở, thì anh Vũ Lăng cũng vừa tới. Mệt quá, anh nằm vật xuống, ngửa mặt lên trời, mắt lim dim, anh em lo cho anh bị cảm, râu mấy ngày không kịp cạo, vốn trước kia đã mệnh danh là "anh râu xồm" nay đã quá mức xồm mà người  ta tưởng. Y tá vội xoa dầu nóng cho anh thì anh mới tỉnh dậy, may lúc ấy gần sát đồn địch, không một phát súng của địch bắn vu vơ. Tôi mường tưởng lại hình ảnh của anh vừa rồi, thấy cũng vui và buồn cười, liền tức cảnh ngẫm nghĩ mấy đoạn, xin viết vào đây làm kỷ niệm:

                                 Đường ra phía trước nẻo xa.
                                Nậm Lia lộng gió bẻ hoa trên ngàn.
                                 Càng say vẻ đẹp phong lan gọi hồn.
                                 Hoa ơi, Em chớ có buồn.
                                 Trời sao nào biết lúc dồn bước đi.
                                 Râu hùm hàm én mà chi.
                                 Bóng trăng lốp ló, oanh gì, liệt đây.
                                 Nghĩ rằng, như thế mà hay.
                                 Để ta có dịp xuân này lập công

        Đọc thơ cho anh nghe, anh cười và đẩy xô tôi một cái rồi cùng nhau cười, bớt mệt. (Nậm Lia là tên núi, Hoa là tên vợ anh).

        2. Giữa lúc Sư đoàn đang triển khai chuẩn bị thì ngày 24 tháng 3 năm 1975, sư đoàn nhận được mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch như sau:

        " Nhiệm vụ của Sư đoàn 10 được tăng cường hai đại đội xe tăng, Trung đoàn 7 (thiếu) một đại đội công binh, một đại đội pháo binh Đ74 (ba khẩu), Trung đoàn cao xạ 234 (tám cơ cấu số A72), Trung đoàn bộ binh 25, có nhiệm vụ: Bước 1 từ bảy đến mười ngày lần lượt tiêu diệt từng tiểu đoàn tiến tới tiêu diệt toàn lữ đoàn dù từ đèo Mađrắc đến Phượng Hoàng và tiêu diệt các lực lượng phản kích từ xa đến (nếu có). Bước 2 mở thông đèo Phượng Hoàng nhanh chóng tập trung lực lượng đánh chiếm Nha Trang. Sau khi chiếm Nha Trang phát triển xuống Cam Ranh hoặc ứng chiến tiến công xuống Cam Ranh trước, đồng thời có bộ phận vây Nha Trang, đánh chiếm sau...

        Thời gian bắt đầu nổ súng đánh lữ đoàn 3 vào ngày 27 tháng 3 năm 1975, đến ngày 2 tháng 4 năm 1975, thì diệt xong. Thời gian nổ súng đánh vào Nha Trang đầu tháng 4 năm 1975. Nhiệm vụ cụ thể, thời gian cách đánh của ta và giải quyết khó khăn, anh Vũ (Vũ Lăng) sẽ đến và giải quyết với sư đoàn ngày 26 tháng 3".

        Ký tên: Hoàng

        (Mật danh của đồng chí Hoàng Minh Thảo)

        Qua bức điện tôi thấy không những cấp trên giao nhiệm vụ một cách dứt khoát, rõ ràng, mà còn hướng dẫn cách đánh cụ thể cho sư đoàn. Tôi vui mừng, vì việc nghiên cứu chuẩn bị trước của sư đoàn rất ăn khớp với mệnh lệnh của cấp trên giao xuống. Suốt ngày 24, 25 và 26 tháng 3, chúng tôi đi sâu vào tính toán, giải quyết yếu tố cần thiết để khắc phục khó khăn cho trận đánh.

        Vì địa hình, chỉ có khu vực quận lỵ Khánh Dương bằng phẳng nhưng quá xa, sư đoàn phải tập trung lực lượng làm con đường kéo pháo dài tám cây số vào sát núi Chư Tô, mất rất nhiều công sức. Triển khai bộ đội bí mật xây dựng đường trục, đường nhánh để đưa quân vào bảo đảm làm sao trước sáng, bộ đội ta đã vào vây hãm được dịch tại chỗ, kịp có công sự trận địa chu đáo, có thể tránh được quân dù dùng thủ đoạn đèn cù sát thương ta bằng phi pháo. Khi sư đoàn đã ra lênh cho các đơn vị từ khu tập kết vào tuyến xuất phát, sẵn sàng khi có lệnh sẽ vào chiếm lĩnh thì rạng sáng ngày 27 tháng 3, đồng chí Vũ (Vũ Lăng) Phó Tư lệnh chiến dịch đến.

------------------------------
        1. Thiếu tướng Hồ Đệ:  Nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn 3, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười Hai, 2016, 10:45:09 am

        Xa nhau mới khoảng một tháng mà trông đồng chí Phó Tư lệnh khác hẳn, gầy đi nhiều, dọc đường hình như quá vội nên vừa ngồi sát bờ suối, rửa mặt, chân tay và cạo râu, lại vừa liên tiếp hỏi tôi tình hình:

        - Nào đã biết lữ đoàn 3 dù đến đây từ lúc nào chưa?

        - Nào đã biết ta giải phóng thành phố Huế chưa?

        Vân vân và vân vân.

        Nhìn Phó Tư lệnh, tôi cứ nghĩ mãi: Quái ông này râu gì mà cứng thế. Mỗi lần cạo như thế này tốn bao nhiêu dao cạo và phải mấy mấy lần?

        Tôi hỏi:

        - Mỗi lần không kịp cạo, anh có khó chịu lắm không

        Anh trả lời:

        - Cũng hơi khó chịu - Rồi anh nói luôn - ấy vừa rồi trên đường đi bộ vào đây, lính của cậu gặp tớ, đã mắng tớ: Này bố già ơi, đất này là của bọn trẻ, ông già rồi còn vào đây làm cái gì, về mà ngủ đi. Ông khinh bọn trẻ này không làm trò trống mới mò đến đây à? Rồi anh ta còn sờ râu tôi chứ.

        - Thôi anh thông cảm. Chỉ có lính Sư đoàn 10 mới dám sờ đến râu Phó Tư lệnh chiến dịch như thế. Chắc có lẽ anh gặp lính Trung đoàn 66. Ngày xưa đói ăn, thiếu rau, nhạt muối, khi đi qua vườn rau của dân, liền nhổ sạch, còn để giấy lại viết mấy chữ "mượn tạm, trả sau", chấn chỉnh mãi mới thôi. Được phong là đơn vị anh hùng nên có bớt sai phạm đi đấy. .

        Cạo râu, rửa mặt xong, Phó Tư lệnh bắt tôi vào đề  ngay. Tôi hiểu, thủ trưởng tôi vốn người nóng tính, nên tôi cũng đã sẵn sàng chu đáo.

        Sau khi trình bày quyết tâm, ý định hành động của sư đoàn, tôi đi sâu vào giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị.

        Đại để lúc đó tôi đã trình bày như sau:

        - Trung đoàn 66 được phối thuộc tiểu đoàn 1 Trung đoàn 25 và xe tăng thiết giáp, pháo binh, cao xạ theo trục đường 21 có nhiệm vụ đánh tiêu diệt tiểu đoàn 5 dù ở tọa độ 02-633 trên tuyến của địch ở khu vực đèo Mađrắc.

        -Trung đoàn 28 được tăng cường đại đội pháo binh sư đoàn, súng máy 12,7mm có nhiệm vụ luồn sâu vào vây tiểu đoàn 6 dù ở tọa độ 97637 tuyến 2 của địch phòng ngự.

        - Trung đoàn 24 luồn theo sườn núi cao phía tây từ Chư Tô đi Chư Kni. Khi vào vây chỉ huy lữ đoàn 3 ở trại công chính tọa độ 87753, cắt đứt mối liên hệ của lữ đoàn 3 dù với các lực lượng phía sau của địch lên ứng cứu để tiểu đoàn 5 vào phối hợp tiểu đoàn 2 Trung đoàn 25 vây tiểu đoàn 2 dù từ phía tây. Sư đoàn tận dụng mọi hỏa lực triệt phá các trận địa pháo binh địch trước khi tiến công, các sư đoàn đều phải phái ra lực lượng chốt giữ các cầu trên phạm vi nhiệm vụ được giao.

        Quá trình nghe tôi trình bày, Phó Tư lệnh Vũ Lăng đi rất sâu từng chi tiết và tỏ ý rất hài lòng. Cuối cùng Phó Tư lệnh suy nghĩ một lúc rồi quyết định sửa phương án một chút là điều cả Trung đoàn 24 vào vây chỉ huy sở lữ đoàn 3 dù, không cần để tiểu đoàn 5 Trung đoàn 24 vây tiểu đoàn 2 dù mà chỉ cân dùng tiểu đoàn 2 Trung đoàn 25 là đủ. Làm như vậy chia cắt  lữ đoàn 3 phía đông sẽ đủ lực lượng mạnh hơn, chắc tay hơn.

        Phương án chiến đấu cơ bản được thông qua. Song giữa tôi và Phó Tư lệnh Vũ Lăng còn đi sâu vào tình huống. Hai chúng tôi đều nhất trí đánh trận này làm sao tiêu diệt một cách giòn giã, đồng thời lo cho sư đoàn ít thương vong nhất để có sức làm tiếp nhiệm vụ chiếm Nha Trang – Cam Ranh một cách mạnh nhất, tốt nhất. Vì thế, nhiều câu hỏi đặt ra cùng nhiều suy nghĩ. Nào là khi ta đánh tiểu đoàn 5 dù thì địch có phản kích không? Trường hợp địch phản kích thì đánh ngay trước trận thứ hai, nhưng địch cố thủ thì cần điều chỉnh đội hình, lùi trong ngày 31 tháng 3 đánh hiệp đồng binh chủng cho chắc tay, như thế ngày 31 tháng 3 đánh tiểu đoàn 6, rồi phát triển đánh tiểu đoàn 2 dù luôn thì địch có thể chạy.

        Còn việc dùng pháo binh, chủ yếu là pháo binh của sư đoàn nhiều đạn 105 ly. Còn Đ74 ít đạn, chỉ bắn mục tiêu nào pháo sư đoàn không bắn tới. Phải quan tâm lực lượng địch từ phía Dục Mỹ lên ứng cứu lữ đoàn 3 dù. Cho nên việc Trung đoàn 24 cắt khóa phía đông phải làm thật tốt. Tính khả năng đêm 30 tháng 3, Trung đoàn 24 mới vào được phía đông lữ đoàn bộ dù, chắc tay là sáng ngày 31 tháng 3, do đó trận đánh nên bắt đầu sáng ngày 29 tháng 3, đánh sớm sẽ xảy ra khi địch chạy ta chưa kịp vây phía đông lữ bộ để diệt gọn!

        Trong mọi trường hợp phải tập trung lực lượng đánh cho chắc kể cả khi địch co cụm lại. Cuối cùng Phó Tư lệnh tuyên bố: "Quân ủy Trung ương cho một cán bộ chiến sĩ năm cân lương khô, một cân đường, một cân sữa làm quà Tết" .

        Tôi thầm nghĩ: Như thế là cấp trên muốn sư đoàn đánh trận này phải bảo đảm chắc tay là xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra. Bước vào trận sắp tới có quà của Quân ủy Trung ương như thế, còn gì bằng, khác hẳn xưa kia, ăn đói mà đánh giặc.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Mười Hai, 2016, 10:45:30 am

        Có một điều mừng nhất của tôi lúc ấy là việc đánh trung đoàn đã căn cứ vào quyết tâm của sư đoàn, đi nghiên cứu địa hình, trinh sát thực địa, tổ chức nắm địch và từng bước dịch chuyển đội hình tiếp cận theo mục tiêu đã phân công, đồng thời chuẩn bị mọi mặt đảm bảo cho trận đánh đúng theo kế hoạch hiệp đồng chiến đấu của sư đoàn. Đến giờ phút này, thông qua phương án với cấp trên cũng không phải thay đổi gì lắm, trừ việc điều động tiểu đoàn 5 Trung đoàn 24 đang hướng vây tiểu đoàn 2 dù, phải quay ra theo đội hình tập trung của trung đoàn. Đường dây liên lạc hữu tuyến đang bám theo trục hành quân của tiểu đoàn này nên cũng dễ điều chỉnh.

        Càng gần đến ngày nổ súng thì dịch càng phát hiện được những hiện tượng có lực lượng ta vào áp sát, nên chúng càng dùng hỏa lực pháo binh và máy bay đến oanh tạc dữ dội hơn. Lẻ tẻ ta có bị thương vong, nhưng đội hình chung cura ta van giữ được bí mật.

        Thông qua phương án xong, chúng tôi xin phép sáng ngày 28 tháng 3 di chuyển chỉ huy sở lên phía trước, trực tiếp cùng Trung đoàn 28; không ngờ tối 27 tháng 3 lại có điện gọi đồng chí Vũ Lăng về ngay sở chỉ huy chiến dịch.

        Sau này tôi mới biết lý do gọi đồng chí Vũ Lăng về là để thành lập Quân đoàn 3 do đồng chí làm Tư lệnh quân đoàn. Đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến dịch về Quân khu 5, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc để chuẩn bị cho quân đoàn tập trung tham gia chiến dịch đánh Sài Gòn. Bắt tay nhau để chúng tôi lên phía trước và đồng chí Vũ Lăng ở lại để đi về phía sau, không ngờ phút chia tay giữa chúng tôi với đồng chí Vũ Lăng lại sâu sắc đến thế. Anh nói:

        - Thế là mình không được đi cùng với sư đoàn để đánh trận này. Các anh đánh trận này cũng là để rửa hận cho mình đấy? Năm 1946 mình đã phải rút chạy trên mảnh đất này mất hàng ngàn con bò, lợn ở Ninh Hòa. Mình muốn đi cùng sư đoàn để rửa hận, mà thôi vì việc chung, mình mong các anh chiến thắng.

        Tôi hiểu đó là thời kỳ Nam tiến của anh và rõ ràng tôi thấy anh rất luyến tiếc, rất muốn đi cùng sư đoàn, nên tôi đã hứa:

        - Xin anh yên tâm, chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ, rửa hận cho anh một cách trọn vẹn.

        Chia tay nhau mang nặng một tâm tư ngậm ngùi khôn xiết  Vừa lên tới sở chỉ huy phía trước, sáng ngày 28 tháng 3,khi tôi đang kiểm tra để nắm lại tình hình thì tôi được điện thoại báo là quân dù đã dùng pháo binh bắn phá rất dữ dội vào sở chỉ huy cũ làm ba vệ binh vẫn còn ở đó bị thương. Cây cối và kho tàng của ta ở đây đã bị pháo đạn địch bắn trúng. Tôi rất lo lắng vì nghĩ rằng anh Vũ Lăng vẫn còn đang ở dấy. Nhưng sau kiểm tra lại mới biết anh Lăng đã rời sở chỉ huy cũ đó trước khi địch bắn pháo mười lăm phút, tôi mới yên tâm. Như vậy là càng ngày địch càng bắn phá oanh tạc đến những nơi ta đã bố trí. Do vậy chúng tôi rất sốt ruột chỉ mong đến giờ nổ súng. Có lẽ hầu hết mọi cấp chỉ huy trong chiến tranh ai cũng hiểu chính những giờ phút này là những giờ phút căng thẳng nhất. Trời đêm càng tối dần, dế kêu, muỗi cắn, lá rừng đang rủ xuống hình như đang che giấu một điều bí ẩn gì đó. Bộ đội ta vào chiếm lĩnh đúng kế hoạch và không xảy ra biến cố gì

        Mờ sáng ngày 29 tháng 3, hầu như mọi hướng đều đã vào vây hãm chặt, mà địch không hề hay biết. Trận tiến công tiêu diệt lữ đoàn dù 3 bắt đầu. Tôi ra lệnh đánh. Như vậy là nhờ sự có mặt trực tiếp của anh Vũ Lăng trong việc thông báo phương án tác chiến mà Sư đoàn 10, từ ngày 29 tháng 3 đến ngày 1 tháng 4 năm 1975, đã tiêu diệt hoàn toàn lữ đoàn 3 quân dù, tổng dự bị ngụy liên tiếp trong bốn ngày; tiếp đó phát triển tiến quân giải phóng được hai thành phố Nha Trang và quân cảng Cam Ranh. Kết thúc chiến dịch Tây Nguyên vào ngày 1 tháng 4 năm 1975.

        Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt ba mươi năm, từ kháng chiến chín năm chống Pháp rồi đến hai mươi mốt năm chống Mỹ, dân tộc ta đã ghi một dấu ấn vàng son và huy hoàng nhất trong lịch sử dân tộc.

        Trong một chiều dài lịch sử ấy, nhân dân ta, quân đội ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất tự hào sản sinh được những sĩ quan quân đội, những vị tướng lĩnh có tài. Trong những vị tướng như thế, có Giáo sư - Thượng tướng Vũ Lăng. Từ Hà Nội đến Điện Biên Phủ, từ Đường 9 - Nam Lào đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, anh đã là một chỉ huy chiến dịch đánh giặc đầy khí phách hiên ngang, rất tận tụy với trách nhiệm của mình, gương mẫu sâu sát với cấp dưới, luôn luôn thực hiện quan điểm thực tiễn và tính khoa học sâu sắc. Đặc biệt trên cương vị Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên và trên cương vị Tư lệnh Quân đoàn 3, anh đã đóng góp công sức rất to lớn trong việc giải phóng Tây Nguyên và chỉ huy quân đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trong đó có Sư đoàn 10 đánh thọc sâu chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và bộ tổng tham mưu quân ngụy.

        Tưởng nhớ đến Giáo sư - Thượng tướng Vũ Lăng chính là tưởng nhớ đến vị tướng đã có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và đất nước ta.

H.Đ       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Mười Hai, 2016, 10:45:23 am

NHỚ ANH VŨ LĂNG
Đại tá LÊ NGUYÊN       

        1. Vào quãng trước hay sau chiến dịch Biên Giới năm 1950, tôi đã biết có một Vũ Lăng cùng với Vũ Yên, Vũ Lập, Nam Long, Nam Thắng... là lớp cán bộ Trung đoàn trưởng của quân đội ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp mà tên tuổi được nhiều người biết.

        2. Tận mắt nhìn thấy Vũ Lăng, phải đợi tới năm 1963, khi tôi về học lớp bổ túc K2, Trường Cán bộ Trung cấp ở Bạch Mai, Hà Nội. Chuyện là thế này:

        Phòng phát thuốc và tiêm thuốc của tổ quân y đối diện với cửa phòng học của tôi. Chúng tôi đều quen cô Hoa dược sĩ làm việc ở đó. Có những chiều thứ bảy, khi chúng tôi chuẩn bị xếp cặp tài liệu đi gửi bảo mật, thì ông "Lăng xồm" - chúng tôi quen gọi anh như thế chứ chưa ai thấy bộ râu xồm của anh bao giờ - đến đón vợ về. Anh có vóc người trung bình, không to cao, tướng mạo "râu hùm hàm én", phong độ vui vẻ lịch sự, ăn mặc luôn nghiêm chỉnh, quân phục chỉnh đẹp luôn phẳng phiu, giày đen bóng, dáng uy nghi như một ông tướng. Còn cô Hoa, vợ ông là một thiếu phụ thon thả xinh xắn, mẫu "tiểu thư" của thời "ngựa hồng côn bát"1. Anh em bảo: Đó là một ông chịu chơi, có trình độ, biết chỉ huy, biết làm việc và cũng rất biết chiều vợ.

        3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ bắt đầu lan ra Bắc. Giôn-xơn ném bom. Từng bầy "Thần sấm", "Con ma" ào ạt xông vào đánh phá ác liệt. Có ngày trên một trăm máy bay từ các hướng bay vào, có hướng đếm được hơn bốn mươi chiếc. Dưới thấp, một lũ máy bay lồng lộn lùng sục trấn áp các trận địa pháo cao xạ, tiếng bom nổ ầm ầm. Cả miền Bắc vùng lên vào trận, vừa chi viện miền Nam, vừa đánh trả máy bay Mỹ. Cả Hà Nội nhộn nhịp đi sơ tán. Đâu đâu cũng chỉ thấy quyết tâm và hăng hái. Mỗi người đều lo làm tốt nhiệm vụ của mình góp phần đánh Mỹ.

        Trong bối cảnh chiến tranh đó, tháng 8 năm 1965, tôi lại có dịp gặp anh Vũ Lăng trong chuyến công tác vào tuyến lửa Khu 4 cùng đoàn cán bộ Cục Tác chiến và Quân huấn do anh Phi Long dẫn vào. Công việc đã xong. Anh Vũ Lăng - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng quân khu đón chúng tôi về dự bữa cơm thân mật trước khi về Bộ. Với anh em cán bộ từ cơ quan Bộ đến công tác, anh đều đối đãi thân tình bạn bè.

        Anh cùng chúng tôi đi chuyến đò ngang qua sông Lam sang nơi đóng quân của Bộ Tư lệnh Quân khu 4 thuộc huyện Thanh Chương. Bến sông Lam trong nắng chiều rực rỡ, sóng nước long lanh. Con đò gỗ chắc chắn, màu gỗ còn mới. Đây là con đò trực chiến của bộ đội, người chèo lái đều là bộ đội. Vừa bước xuống đò, anh cần vụ nhanh như xiếc rút ngay ra một vuông vải trải xuống mép ván phía lái cho anh ngồi khỏi lấm quần. Tôi ngồi phía mũi con đò, ngắm nhìn anh và chợt nghĩ ra quần áo anh vẫn phẳng phiu, giầy dép đen bóng... anh đang vui vẻ trò chuyện với anh em. Có ai đó nói với anh chuyện gì mà anh cười vang thoải mái. Cảnh "huynh đệ chi binh"2  trên chuyến đò thật là ấn tượng. Thế mà nghe anh em nói trong công việc anh rất "hắc", chặt chẽ và nóng tính. Nhiều anh sợ vã mồ hôi khi trực tiếp làm việc với anh. Tôi chẳng thấy có gì đáng sợ trên nét mặt của anh qua chuyện đò ngang năm ấy. Đò đến bờ. Tất cả vừa bước lên, vừa cười đùa râm ran. Cả đoàn đi về phía một làng nhỏ ở chân đồi, có nhiều nhà mái ngói thâm nâu ẩn sau vòm cây xanh sẫm.

        Sau bữa cơm chiều, chúng tôi về Hà Nội, đi ngay trong đêm để tránh máy bay. Anh lưu luyến bắt tay tạm biệt chúng tôi. Tôi đọc thấy trong mắt anh nỗi nhớ Hà Nội...Anh gửi chúng tôi đem quà về cho cô Hoa hai quả mít to.

        Chúng tôi đùa:

        - Mít gần chín khỏi phải đóng cọc.

        Anh cười:

        - Nhưng các cậu phải cẩn thận kẻo nhựa nó ra tay. Tất cả đều cười. Vũ Lăng là người biết đùa, rất bè bạn.

        Đêm ấy, ra đến phà Phương Tích, máy bay ập đến, pháo sáng xòe trên trời, soi rõ từng mặt người ngồi trong xe. Chúng tôi cho xe dạt vào vệ đường, dừng lại tản ra ẩn nấp. Một chùm bom nổ. Nghe có tiếng uỵch phía sau xe: một tảng đất lớn rơi xuống. Bom bi nổ lụp bụp. Chúng tôi gọi nhau. Không thiếu ai. Xe vẫn nguyên vẹn. Tất cả lên xe. Nổ máy chạy tiếp. Ra đến quá Cầu Giát chừng dăm cây số lại đụng máy bay. Không lẽ nó "bắt" được chiếc xe con đơn độc của chúng tôi đang chạy trên đường? Nó rải một lúc tám, chín cái pháo sáng treo lơ lửng trên dọc đường.

-------------------
        1. Cụm từ xuất hiện trên Việt Bắc, trong kháng chiến chống Pháp để nói về một số cán bộ cưỡi ngựa, mang súng ngắn.

        2. Chữ Hán: "binh lính là anh em".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Mười Hai, 2016, 10:46:17 am

        Bom nổ đằng sau, bom nổ đằng trước. Mặt đường sáng như ban ngày. Đường đoạn này thẳng và trống trải, hai bên đường lúa đang thì con gái xanh rờn. Lái xe tăng tốc định chạy nhanh kịp đến chỗ rừng thông tìm chỗ ẩn nấp. Tiếng máy bay lao xuống ràn rạt. Tôi nhìn mặt đồng hồ: kim đã chỉ hết số "110 km/h ", chưa bao giờ tôi ngồi trên xe chạy với tốc độ lớn đó. Bánh xe không bén mặt đường, xe chạy như bay. Một tiếng bom nổ gần phía sau. Lái xe hơi hoảng, tay lái ngoằn ngoèo... Thế là xe bay luôn xuống ruộng! Tất cả đều văng ra khỏi xe: cả người, cả ba lô, cả mấy quả mít. Chúng tôi lóp ngóp trong bùn nước tìm gọi nhau. Vẫn đủ cả nguyên vẹn tay chân. Không ai hề hấn gì. Xe ôtô vẫn đứng nghiêm, bốn bánh ngập trong bùn giữa ruộng. Mất mục tiêu, máy bay cũng mất hút. Bầu trời yên ắng. Phía biển bắt đầu rạng đông. Lái xe lên thử máy. Máy vẫn nổ ròn. Chỉ cần xe không hư hỏng, chạy tốt là không khổ rồi!

        Chúng tôi chia nhau một tốp vào làng xa đường gần cây số kiếm lá ngụy trang xe. Số còn lại cùng lái xe tìm cách cho xe lên mặt đường. Chật vật rồi cũng xong, may là nhờ có tiểu đội bộ đội địa phương đi tuần tra về qua hỗ trợ. Đã sáng rõ mặt người. Chúng tôi chạy ra phía rừng thông Hoàng Mai giấu xe. Nghỉ ngơi, chia nhau đi nấu ăn, phơi phóng quần áo, giấy tờ, làm sạch bùn dính ba lô và cả mấy quả mít. Bảo đừng mó tay, thế mà vẫn phải mó tay vào mấy quả mít!

        Tối hôm ấy chúng tôi về đến Hà Nội an toàn. Mít được chuyển đến cho cô Hoa. Từ bấy đến nay tôi chưa bao giờ hỏi và kể chuyện "Tình sử quả mít" ấy cả. Nếu biết, chắc khi ăn, ngoài hương vị tình yêu của anh Vũ Lăng chồng chị, chị cũng nhận ra còn có cả hương vị tình bạn mới làm nên quả mít ngọt ngào ấy.

        4. Bẵng đi mười năm. Sau giải phóng miền Nam, tôi gặp lại anh Vũ Lăng. Năm 1976, anh trở về làm Viện trưởng Học viện Quân sự Đà Lạt. Tôi đang làm giáo viên Khoa Trinh sát của học viện. Gặp tôi, anh ngờ ngợ một lát rồi nhận ra ngay. Anh bắt tay:

        - Cậu ở đây lâu chưa?

        - Báo cáo anh đã mười bốn năm.

        - Thế thì quý lắm đó!

        Học viện đang lâm vào tình trạng dao động: Xây dựng Học viện ở Đà Lạt hay lại ra Hà Nội? Tất cả các giáo án, tưởng định bài tập, thao trường cho đến đối tượng tác chiến đều phải nghiên cứu lại, sửa lại, làm mới. Sự có mặt của anh Vũ Lăng chẳng những đã ổn định tư tưởng cho lớp cán bộ kỳ cựu của học viện, mà còn ổn định dần nền nếp công tác, cơ sở huấn luyện của học viện. học viện Quân sự Đà Lạt mở thêm cơ sở phụ ở Long Bình - Sài Gòn. Chúng tôi gặp mặt làm việc trực tiếp với anh Vũ Lăng thường xuyên. Dần dần tôi nhận ra những điều anh em nói về anh không có gì quá đáng. Anh đã từng qua các cương vị lớn như: Cục trưởng Cục khoa học quân sự, Cục trưởng Cục Tác chiến, đã chỉ huy trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn,quân khu... Anh là Tư lệnh Quân đoàn 3 trên một hướng tiến công giải phóng Sài Gòn mùa Xuân năm 1975. Nay anh trở về làm Viện trưởng, Giám đốc Học viện Quân sự thì quả là sau anh Hoàng Minh Thảo, không ai có thể hơn anh về cương vị này. Tôi cũng thấy được cái tính dễ nổi nóng của anh. Trong những buổi họp thông qua bài giảng, tưởng định, bài tập..., anh thường truy hỏi giáo viên chuẩn bị còn sơ hở sai sót. Anh hay lướt lại vấn đề để xem giáo viên có nắm vững không. Bởi thế nhiều giáo viên luống cuống toát mồ hôi là phải! Cộng với vẻ mặt lúc nổi nóng trong cũng dữ tướng "Lăng xồm, thì ai yếu bóng vía cũng hãi là phải! Có một thủ trưởng "hắc" trong công việc như Lăng mới làm cho mỗi chúng tôi phải động não, phải cố nâng cao trình độ, đổi mới hàng ngày. Đây là ý đồ của anh Vũ Lăng khi nổi nóng. Qua thái độ không thành kiến của anh, đó là một "nổi nóng vô tư". Làm việc với anh quen dần, chúng tôi đều nể trọng và quý mến anh. Dưới thời anh Vũ Lăng, tôi đã từng thông qua giảng mẫu, trình bày phương án đánh địch, phương án trinh sát trước Giám đốc Học viện Vũ Lăng. Tôi cũng bị anh "vặn hỏi". Như một học viên tự tin trong sát hạch vấn đáp, tôi trả lời bình tĩnh và trôi chảy, chưa phải để anh nổi nóng nặng lời. Trong con mắt anh Vũ Lăng, có lẽ tôi được xếp vào loại một trong những giáo viên có tay nghề ổn định, nên anh có vẻ có thiện cảm.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Mười Hai, 2016, 10:47:20 am

        5. Một chiều Đà Lạt, tôi đang dạo bước trước khu ở của giáo viên qua khu hiệu bộ ra khu biệt thự của Ban Giám đốc học viện. Có những chiều thứ bảy, nhớ Hà Nội, nhớ nhà tôi thường một mình đi như thế. Dọc đường, qua các dãy bờ rào, vườn hoang, gặp những bông hoa dại xinh xinh, tôi hái về cắm lọ để bàn. Tôi ưa thích những bông hoa dại, những bông hoa bé nhỏ ngây thơ như chẳng biết mình cũng là hoa đẹp. Tôi ngắm nhìn những vòng hoa bìm bìm leo quanh các vòng dây thép gai, từng vòm lá xanh hoa tím nở đều đặn.

        Đang "thơ thẩn", trước sân hiệu bộ rộng mênh mông, thì gặp chị Hoa. Đã lâu lắm, dễ đến mười lăm năm, mới lại gặp chị, tôi rất mừng. Chị cũng mừng, thân thiện khoác tay tôi, vừa đi vừa nói chuyện:

        - Anh ở đây à?

        - Vâng, là giáo viên Khoa Trinh sát, chị vào khi nào vậy ?.

        - Mới hôm qua.

        - Trông chị hơi đẫy người hơn, chứ không khác xưa mấy. Chị làm tôi bất ngờ quá. Trông chị vẫn xinh đẹp như xưa, tôi không nịnh chị đâu!

        - Thế là anh có nịnh rồi!

        - Nịnh đúng thì không phải là nịnh, người ta bảo thế.

        Chị cười.

        - Chị có định vào ở hẳn Đà Lạt không?

        - Để xem đã, Đà Lạt thì có lẽ không, nhưng có lẽ vào Sài Gòn. Trên này rét quá mà buồn quá.

        - Đúng như vậy, tôi ở đây đến năm thứ hai mươi hai rồi mà vẫn thấy rét, thấy buồn, nhớ Hà Nội lắm, chỉ muốn ra thôi?

        - Bây giờ anh đi đâu?

        - Tôi về Khoa giáo viên.

        - Tôi xuống thăm chỗ các anh ở luôn.

        - Thế thì tốt quá!

        Nhiều anh em giáo viên biết chị đều đến thăm hỏi chị tíu tít. Từ khu ở của giáo viên qua hiệu bộ đến nơi Ban Giám đốc ở cách xa nhau gần cây số. Tôi tiễn chị Hoa về. Thấy anh Vũ Lăng đứng ở cổng, tôi mau mồm:

        - Chị lạc xuống khu giáo viên, tôi đưa về trả anh đây!

        Anh cười :

        - Cám ơn, vào nhà uống nước đã.

        - Tôi đã xong nhiệm vụ, anh cho phép tôi về luôn để chuẩn bị tối còn sinh hoạt.

        - Thế thì cậu về, hôm nào rỗi tới chơi nhé .

        Anh bắt tay, chị Hoa cũng bắt tay tạm biệt.

        Từ đó, tôi thấy ở anh Lăng một người bạn.

        6. Cuối năm 1978, tình hình trong nước ta rất căng thẳng. Đòn tiến công làm sụp đổ chế độ Pôn Pốt ở Phnôm Pênh khiến nhiều người chịu không nổi. Chiến tranh chắc sẽ xảy ra ngày một, ngày hai. Theo lệnh của Bộ, học viện cử một đoàn giáo viên có kinh nghiệm ra Bộ gấp, giúp Bộ xây dựng bài tập chiến dịch phòng thủ - tiến công của lực lượng bảo vệ biên giới phía Bắc. Chúng tôi ra đi từ giữa tháng 11 năm 1978. Trong số hơn hai mươi cán bộ giáo viên ra Bộ công tác, có tôi. Anh Vũ Lăng gặp đoàn, dặn dò công việc, gợi ý một số phương án tiến công của đối phương, phương án tác chiến và sử dụng lực lượng của ta. Anh dặn:

        - Phải suy nghĩ cho sát thực tế chiến đấu. Thế nào hướng tiến công chủ yếu cũng sẽ là Cao Bằng - Lạng Sơn, sử dụng rất đông quân. Phải dùng các chót chặn cầm chân tạo điều kiện cho các lực lượng tiêu hao địch. Chú ý mũi vu hồi lớn và sâu của đối phương có thể nhiều sư đoàn. Ta cần chọn đúng hướng phản công lớn có thể tiêu diệt gọn từ một đến hai sư đoàn thậm chí đến cả quân đoàn, buộc chúng không thể tiến sâu sợ đội hình bị kéo dài, khó tiếp tế, dễ bị chia cắt tiêu diệt từng bộ phận. Tổ tiên ta đã từng chém Liễu Thăng ở Chi Lăng, đánh cho Thoát Hoan chui ống đồng tháo chạy1. Lần này ta cũng phải cố làm được như thế! Công tác rất khẩn trương. Phải giúp Bộ và các đơn vị tập huấn và diễn tập thật tốt. Tất cả được đi máy bay ra Bộ cho kịp.

        Dưới sự chỉ đạo của Bộ, chúng tôi nghiên cứu thực địa, xây dựng phương án diễn tập và tập bài, tham gia tập huấn và diễn tập cho các đơn vị, kéo dài cho đến giáp Tết mới xong. Bộ cho phép chúng tôi nghỉ về sau cùng. Do có việc nhà cần ở lại thêm năm ngày, biết anh Vũ Lăng đang có mặt tại Hà Nội, tôi đến gặp anh tại nhà riêng tại Lý Nam Đế. Nghe tôi trình bày xong, anh nở nụ cười đôn hậu:

        - Ừ cho cậu ở lại hẳn một tuần. Nhưng đừng nói cho ai biết mình cho cậu ở lại về sau nhé !

        Tôi cũng khẽ cười theo anh, và lại biết thêm con người Vũ Lăng: một con người tình nghĩa, đôn hậu.

        Tôi rời Hà Nội trên chuyến bay sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, cùng ngày biên giới phía Bắc bị tiến công. Thế là bài tập cũng được đem ra thực hành! Lại một cuộc chiến tranh nữa đổ xuống đầu nhân dân Việt Nam ta! Tâm trạng cán bộ giáo viên chúng tôi lúc ấy thật khó tả: Muốn được có mặt tại chiến trường. Muốn ra các đơn vị chiến đấu.

-------------------------
        1. Để tôn trọng tác giả cũng như tôn trọng lịch sử, chúng tôi xin được để nguyên văn.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Mười Hai, 2016, 12:46:48 am

        7. Tháng 3 năm 1979, theo lệnh của Bộ, học viện cử một số cán bộ ra tăng cường cho Quân đoàn 7 mới thành lập của Bộ. Tôi được quyết định ra làm Trưởng phòng quân báo quân đoàn. Được ra đơn vị chiến đấu, chúng tôi vô cùng háo hức nhận lệnh đi gấp. Tôi không ngờ cuộc đời giáo viên ở học viện tính vừa tròn mười bốn năm lại được kết thúc nhanh gọn như thế. Cứ như mơ!

        Anh Lăng gặp mặt anh em, như thường lệ, anh dặn dò:

        - Phía bắc ta có Quân đoàn 1, Quân đoàn 2. Quân đoàn 3 ở Cam-pu-chia, Bộ đã điều ra, chỉ để lại Quân đoàn 4 ở biên giới Tây Nam. Nay, Bộ xây dựng thêm Quân đoàn 7 để tăng cường sức mạnh dự bị chiến lược. Trong chiến dịch phản công, đòn quyết định ta có thể tung ra một lúc hai đến ba quân đoàn, tạo thành một quả đấm mạnh diệt gọn từ hai sư đoàn đến một quân đoàn địch. Ra đơn vị phải chú ý vận dụng lý luận trường lớp với thực tế cho nhuần nhuyễn. Anh em phải đoàn kết với nhau làm việc, không để hổ danh là "Thầy" ở Học viện Quân sự.

        Có chụp ảnh chung, có liên hoan tạm biệt. Ngày mai tôi sẽ ra khỏi Đà Lạt, để lại sau lưng thành phố sương mù -Thành phố Hoa - và cả Học viện rộng bát ngát bên hồ "Thở than"... Ra đi, mang theo cái sự nghiệp mười bốn năm giáo viên học viện mà lòng buồn như vương vấn... Tôi muốn tự mình gặp chào tạm biệt anh Vũ Lăng, bằng hành động này thầm cám ơn anh đã cho tôi ra đơn vị. Buổi trưa, tôi chào tạm biệt anh tại nhà ở Ban Giám đốc. Lại gặp chị Hoa đang ở thăm anh. Có lẽ hai người có "hội ý" với nhau, anh mời tôi chiều lên ăn cơm cùng vợ chồng anh. Chiều hôm ấy, trong bữa cơm chỉ có ba người, anh Vũ Lăng rót rượu ra mấy cái ly nhỏ, cùng nâng cốc chúc sức khỏe. Chị Hoa ân cần tiếp thức ăn cho tôi. Anh còn hói tôi có ý kiến gì trước khi đi xa học viện không. Tôi nhớ mình đã hăng hái nói với anh rằng:

        - Nguyện vọng thứ nhất là nâng cao trình độ kiến thức cho giáo viên cả chiều rộng, chiều sâu. Hiện nay quá nửa số giáo viên trình độ văn hóa không được cơ bản, đến viết còn lỗi ngữ pháp và chính tả nói gì đến các chuyện khác. Đã làm thầy phải mẫu mực, phải đáng bậc thầy. Tôi nghĩ hàng năm nên có một đến hai tháng nghỉ hè, hai tháng tập trung học theo chương trình nâng cao, ai chưa học cho nợ. Cứ hai đến ba năm có một đợt kiểm tra sát hạch cấp bằng hoặc chứng chỉ, kèm nâng lương, nâng bậc, phụ cấp khuyến khích. Làm được như thế cần có một ban hay nhóm "trí thức quân sự" hàng đầu giúp Ban Giám đốc thì chỉ trong vòng sáu, bảy năm sẽ có chuyển biến lớn trong đội ngũ giáo viên. Thứ hai là món ngon ăn mãi cũng chán. Bài bản lên lớp lặp đi lặp lại năm này qua năm khác thì thầy dễ làm biếng mà trò thì chán. Nguyện vọng của tôi là cải tiến phương pháp dạy và học, lấy phương pháp học viên tự học, tự nghiên cứu, tự thuyết trình là chính, giáo viên hướng dẫn, lên lớp là phụ, rất phụ. Có thế mới tránh được lối mòn khuôn sáo... Cuối cùng là chúc anh cùng Ban Giám đốc và toàn thể Học viện ta luôn mạnh khỏe, đạt được nhiều thành tích.

        Anh Vũ Lăng chậm rãi:

        - Ừ ý kiến cậu đúng hướng đấy. Đội ngũ giáo viên là quyết định chất lượng đào tạo các thế hệ cán bộ cho đơn vị. Có thầy giỏi mới có trò giỏi. Đó là quy luật - Anh cười khẽ và nói tiếp - Thế chuyến này ra quân cậu có tâm tư gì không?

        - Dạ có, rất phấn khởi. Quân đã rút rồi không dễ gì lại đánh lại Không có chiến tranh thì tốt hơn, song nếu bị tiến công nữa, chắc chắn ta sẽ thắng to anh ạ! Tôi hiểu rằng ta phải luôn sẵn sàng!

        Tôi thực sự cảm động trước tình thân mến của anh chị Vũ Lăng dành cho tôi trong bữa cơm gia đình để chia tay với tôi hôm ấy. Qua cung cách tiếp đãi của chị, qua ánh mắt và nụ cười của anh lúc trò chuyện với tôi, tôi nhận ra Vũ Lăng là một con người bình dị và giàu tình cảm biết bao. Con người như thế thì không bao giờ xơ cứng được. Trong tình cảm từ đáy lòng mình, anh Vũ Lăng vừa là cấp trên, là thầy, là bạn, là anh em thân thiết... Tất cả hòa trộn với nhau khó có thể tách riêng ra được.

        Từ đó đến ngày anh ra đi mãi mãi, tôi không gặp anh nữa. Tin anh mất làm tôi bâng khuâng mãi mỗi khi nhớ đến anh. Đến bây giờ cũng vẫn còn cảm giác đó. Những gì tôi có về anh, tôi nhớ về anh, tuy ít ỏi như tôi đã kể, cũng đủ để anh còn mãi trong lòng tôi.

        8. Một ngày giữa tháng 10 năm 1993, quả đất xoay tròn thế nào mà tôi lại gặp chị Hoa của anh Vũ Lăng tại Thanh Xuân, Hà Nội. Chị đến thăm chị Lợi bạn thân của chị từ hồi chiến khu Việt Bắc. Vợ chồng tôi cũng là bạn của anh chị Lợi, nhà ở gần nhau. Qua chị Lợi, phát hiện ra tôi ở gần, thế là chị bắt chị Lợi đưa đi thăm tôi.

        Tôi xuống đường đón chị. Chị vừa đến. Gặp chị tôi hơi ngỡ ngàng. Ở tuổi gần bảy mươi, người chị đẫy ra, nước da Sài Gòn rám nắng, chị mang kính màu, tôi nhận ra chị nhờ nụ cười. Tôi vừa mừng, vừa cảm động, mở rộng vòng tay ôm chị, tôi nhận ra tình cảm quen thuộc của mình, tôi đã nhìn thấy anh Vũ Lăng trong chị. Qua chị mà tôi yêu quý anh Vũ Lăng, rồi qua anh Vũ Lăng mà tôi yêu quý chị. Đó là tất cả những gì mà con người Vũ Lăng, tuy đã ra đi vẫn còn mãi để lại và đọng mãi trong tôi.

L.N                   
Thanh Xuân Bắc           
Xuân Canh Thìn 2000           


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Mười Hai, 2016, 12:54:16 am

ĐÓN GIAO THỪA TRONG SỞ CHỈ HUY

Đại tá NGUYỄN CẦN         

        19 giờ ngày mồng một Tết, tôi đang phân vân muốn đến chúc Tết Tư lệnh Vũ Lăng vào buổi tối không biết có thuận không. Trôi qua ngày đầu Xuân thì không phải đạo. Đến vào buổi đêm có thể phiền thượng cấp. Dầu sao, đã có lời chúc Tư lệnh trên điện thoại. May quá ! "có điện trực tiếp của Tư lệnh triệu tập", đinh ninh có điều gì bị "sửa gáy". Tôi vội vã lấy sổ và mang theo bản đồ công tác. Một vấn đề cần phải báo cáo ngay là điện của Bộ Tổng Tham mưu thông báo: "Quân chủng Phòng không - Không quân tăng cường cho sở chỉ huy phòng không chiến dịch một đoàn cán bộ và một đại đội do đồng chí Nguyễn Luân chỉ huy đã lên đường vào Tây Nguyên".

        Lòng vui mà lo nhiều hơn, vì Tư lệnh đã trực tiếp gọi điện thoại là có chuyện.

        Tư lệnh đón chúng tôi từ ngoài hiên. Nhìn Tư lệnh mặc quần áo "hơi sang", bộ râu đã cạo sạch trẻ lại như thanh niên sung sức. Tư lệnh bắt tay từng người nói với âm điệu hoan hỷ:

        - Hãy dành cho chúng mình đôi chút thư thái. Phong lan Nguyễn Cần1 tặng hôm trước đẹp tuyệt vời, nở trúng dịp Tết. Đúng là hoa lan tai trâu đấy - Vừa nói, anh vừa chỉ chùm hoa lan nở rộ, hương tỏa dịu.

        Tư lệnh là một người sành hoa. Đi trinh sát hướng Nậm Lia gặp rừng phong lan, Tư lệnh hái nhặt chùm này, lại bỏ chùm kia. Gặp từng loại, anh giảng giải cho bọn tôi như một nhà khoa học thực thụ. Anh dùng tên khoa học phân biệt chủng loại.

        - Hà Nội không thể có vườn phong lan này được. Tìm cách nào cho nó hành quân theo, mình gom dần sẽ đứng đầu bảng. Hiện giờ chỉ thua vườn phong lan của Nguyễn Cần. Chọn thời cơ, tôi "xọc ngang" nhắc tên chị Hoa (vợ anh):

        - Thưa anh... vẫn không bằng "Hoa Hà Nội" được.

        Lừ đôi mắt, anh nhìn tôi không trả lời. Mời chúng tôi ngồi quanh bàn, tự tay anh pha nước mời khách rất thân tình. Đầy đủ phong cách người Tràng An. Mở gói mứt sen, mứt thập cẩm, mứt gừng, anh mời từng người thưởng thức hương vị Tết. Tất cả chúng tôi đều biết gói quà hôm trước chị Hoa nhờ anh Lê Ngọc Hiền mang vào. Gói quà vẫn giừ nguyên tem, hôm nay mới mở.

        - Dành thết các bạn. Thoải mái với nhau nhé .

        Tướng Vũ Lăng gọi chúng tôi đến chia "lộc". Không khí ban đầu cởi mở làm cho tất cả phấn khởi, nguồn vui tăng dần. Anh tuyên bố:

        - Hôm nay không phải ngày làm việc, các vị "Tư lệnh" (anh vẫn thường gọi cán bộ đầu ngành binh chủng là Tư lệnh) đặt bản đồ sang bàn bên, vui Xuân với tôi.

        Nguyễn Quýnh, Chủ nhiệm pháo binh với chai rượu định mở nút, chủ nhân giành lại quyền chủ động rót rượu mời tất cả nâng cốc:

        - Chúc sức khỏe, chúc Xuân chiến thắng.

        Lời chúc đầy tự tin mà sôi động.

        Cơ quan và Tư lệnh phó chiến dịch Vũ Lăng đang làm khâu tổ chức hiệp đồng đánh "MTA"2, tôi gợi sáng kiến:

        - Chúc rượu hiệp đồng tác chiến.

        Tất cả hiểu ý ngay - tán thành chúc theo phương án hiệp đồng tác chiến trên bàn Tư lệnh. Những tiếng cười vang lên.

        Anh Vũ Lăng nâng cốc: "Giờ G bắt đầu".

        Chủ nhiệm công binh thò tay nhón mứt sen, miệng hô: "Công binh mở đường".

        Chủ nhiệm xe tăng chọn miếng sô-cô-la hô tiếp: "Tắc - bùng - xe tăng diệt hỏa điểm".

        "Pháo binh bắn thử" - Anh Quýnh nhặt ba loại kẹo - có ý thực hiện theo chỉ tiêu phát thứ ba pháo binh bắn trúng mục tiêu.

        "Bắn cấp tập" - Anh Lăng hạ lệnh.

        Tiếp đó, chủ nhân hô: "Cấp tập hai" - rượu lại rót - cốc phạm cốc.

        Chủ nhiệm công binh phát hiện "nghệ thuật" làm động tác giả nhiều hơn "thực ẩm" đã xoay về phía tôi tiến công:

        - Không thấy cao xạ bắn?

        - Thưa rằng, giờ G có thể 02 đến 04 giờ, sương mù không có máy bay, cao xạ bắn ít, trúng nhiều.

        Tôi đã chủ tâm chuyển sang phía anh Lăng nhằm chọc "trúng huyệt". Sự thể là hôm một cán bộ tham mưu từ Bộ vào đưa một phong bì "mệnh lệnh tác chiến" - còn giúi vào túi Tư lệnh Vũ Lăng hai phong bì. Ai cũng nhìn thấy đều hiểu là Tư lệnh đã nhận thêm một bức thư cuối năm của "lệnh bà".

        - Một người duy nhất chỉ có anh Lăng nhận được bức thư hồng chúc Tết Xuân chiến trường.

        - Xin được nghe đọc thư của phụ nữ buổi đầu Xuân thì còn tuyệt hơn hương vị phong lan.

        Chủ nhân chủ động "mời cà phê" và cũng chấp nhận lời thỉnh cầu. Nhấc gọng kính, anh gật gù đọc mấy câu thơ:

                                 Xuân sắc muôn mầu náo nức tươi
                                 Gió như ngừng thổi, nước ngừng trôi.
                                 Hồn em ngây ngất trong say đắm
                                 Ôm ấp tình xuân, trước gió cười

        Tưởng là thơ chị Hoa gửi, mọi người rộn lên tiếng khen. Tư lệnh như đang say đắm với hương vị  Xuân, anh đọc tiếp :

                                 Thời gian hỡi, ngừng bay theo gió
                                 Hãy khoan trôi, Xuân thắm của đời ta

        Tư lệnh vừa ngừng, tiếng cười lại rộn lên.

        Tôi phát hiện ra đó là đoạn thơ trích của nữ thi sĩ Vân Đài.

        - Thơ của Vân Đài, không phải thơ của "người phương xa" chúc Xuân chiến trường. Tư lệnh đã chuẩn bị trước, đối phó tình huống dự kiến xảy ra.

        - Thằng ranh, nhà thơ Vân Đài cũng là phụ nữ chứ.

        Buổi vui không muốn dừng, chúng tôi ai cũng phấn chấn quên đi những mệt nhọc cuối năm. Trước khi ra về, anh Vũ Lăng khuyên chúng tôi phải tự bố trí đêm nay dành cho đôi mắt giấc ngủ ngon.

        Biết bao nhiêu ấn tượng buổi đầu Xuân. Chúng tôi chia tay vội vã trở về cơ quan, chong đèn soát xét lại công việc tiếp tục chuẩn bị cho giờ nổ súng nay mai.

N.C       

------------------------------
        1. Nguyễn Cần: Nguyên Chủ nhiệm phòng không chiến dịch Tây Nguyên (3-1975).

        2. "MTA": Mật danh của Buôn Ma Thuột.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Mười Hai, 2016, 12:57:58 am

ÔNG LIÊM HÀN SÌ

Thiếu tướng TRẦN VĂN GIANG Phó đô đốc Hải quân.         

        Tôi gặp anh Vũ Lăng từ rất sớm, tháng 10 năm 1945 tại lớp quân sự ở Việt Nam Học xá do đồng chí Trần Tử Bình làm hiệu trưởng. Khi vào tuyển sinh, tôi thấy một thanh niên râu xanh, mắt sâu, da đen sém chen sau lưng tôi hỏi: "Cậu Việt Minh vùng nào?". Tôi đáp: "ở Hải Dương".

        Khi tôi vào vấn đáp, giáo viên hỏi hoạt động của Việt Minh, tôi nghe sau lưng: "ái cha cha chết thật". Thì ra tiếng của anh Vũ Lăng. Khi giáo viên hỏi hoạt động trong nông dân, ngày 3 tháng 8 thì khẩu hiệu là gì, tôi đáp: "Khẩu hiệu là chống sưu chống thuế". Tôi lại nghe Vũ Lăng thốt lên:"Cậu này giỏi". Từ đó chúng tôi làm quen và thân nhau, thường đãi nhau bún bò của bà bán hàng người Huế. Thời trai trẻ, anh Vũ Lăng rất vui vẻ nghịch ngợm. Anh thường lên sân khấu đóng vai Hàn Xì - đã râu quai nón lại ria mép vểnh ra, anh diễn kịch rất giỏi. Sau lớp đi Nam tiến, rồi về Trung đoàn Thủ đô. Đến năm 1949, ở mặt trận nam sông Nhuệ, ở Đan Phượng, Hoài Đức, chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau. Lúc đó anh Hồng Sơn là chỉ huy trưởng, anh Vũ Lăng phó và tôi - Văn Giang là chính trị viên. Hôm đó ở tiểu đoàn 54, tôi thấy anh Lăng quần áo xốc xếch, thân hình gầy gò, đen hốc hác. Tôi bảo anh:

        - Nghe nói cậu hơi nóng tính phải không?

        - Cậu cũng biết à (cười).

        Lần ấy ở bên nhau có hai hôm. Khi đánh trận Bồng Lai, chỉ gặp nhau mươi mười lăm phút ở bến đò...

        Lần thứ ba gặp nhau là năm 1951, tôi đang đạp xe ở Phú Hộ - Phú Thọ thì nghe tiếng gọi:

        - Văn Giang.

        - Ồ Liêm Hàn Xì

        - Đòm! Đòm!

        Anh nấp vào một bụi cây. Tôi cũng xuống xe nấp vào một bụi cây.

        - Đoàng! Đoàng!

        Bắn trả bằng mồm, gặp lại nhau thật vui. Thế là chiêu đãi nhau chè đậu đen.

        Sau đó, chúng tôi lại mỗi người một ngả.

        Năm 1952, anh Vũ Lăng đi chiến dịch Tây Bắc, tôi đi học ở Trung Quốc, không gặp nhau.

        Năm 1973, sau khi về Hà Nội, đang ngồi trên xe jeep đến gần Thư viện Trung ương, tôi nghe thấy tiếng anh Vũ Lăng gọi, bèn dừng xe lại. Anh than thở:

        - Báo cho cậu tin buồn. Tớ sạt nghiệp rồi. Phong lan của tớ ở Lý Nam Đế mất trộm sạch rồi. Chắc là con mấy ông ở xung quanh. Hẳn chúng phải lấy xe chở. Tớ thành vô sản phong lan rồi.

        Tôi nói đùa:

        - Hoa rừng mất, nhưng Hoa trong nhà vẫn còn đấy thôi.

        Anh nhe răng cười.

        - Thôi cút! - Anh cười ha hả.

        Hơn mười năm sau gặp lại, anh bị ốm lặng, mặt mày hốc hác, râu dựng lên. Anh đấm vào lưng tôi:

        - Thôi mày ơi, cái số tao, viêm tiền liệt tuyến thượng thận nặng, chắc bị "cái số ta" rồi (ung thư)!

        - Sao anh không ra nước ngoài chữa?

        - Ai cho đi mà đi !

        Lo cho sức khỏe của anh, tôi có viết thư gửi cấp trên đề nghị thêm cho anh ra nước ngoài chữa bệnh. Anh được đưa sang Liên Xô chữa, nhưng cũng không khỏi. Nghe nói trước khi mất anh nói: "Giá ở nước nhà còn được gặp vợ con". Vì lúc đó sắp mất ở Liên Xô, anh phải cách ly, không được gặp chị Hoa và cháu Vũ Anh.

        Lúc đó tôi lại ân hận về việc có đề nghị cho anh được đưa ra nước ngoài chữa bệnh.

        Nhưng rồi lại tự an ủi: "Nếu anh được điều trị khỏi thì sao?"

        Kể từ lần gặp đầu tiên đến lần gặp cuối cùng là năm mươi sáu năm. Anh quả là một vị tướng có đức và có tài, lập rất nhiều chiến công trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Gặp anh ở Bệnh viện 175, anh cũng có nhiều nỗi niềm tâm sự. Ấn tượng sâu đậm trong tôi đó là một Vũ Lăng vui tính, rất sắc sảo, lạc quan, yêu đời, là người bạn tốt có tấm lòng với anh em, chỉ có nhược điểm nóng tính là vểnh râu lên quát, nhưng nhắc khéo thì anh lại cười. Anh là con người tháo vát nhanh nhẹn, cưa đứt đục suốt, không ưa lề mề, được đồng đội bạn bè quý mến

T.V.G       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:47:55 am

VŨ LĂNG

Thiếu tướng PGS DŨNG CHI1       

        Lúc tôi về Sư đoàn 316 thì trước đó vài tháng anh Lăng từ Đại đoàn 308, Trung đoàn Thủ đô về Trung đoàn 98. Trung đoàn 174 mà tôi làm tiểu đoàn trưởng vốn là một trong vài ba trung đoàn nổi tiếng về diệt cứ điểm, trong khi Trung đoàn 98 vào thời điểm đó (1952) chưa có gì để gọi là tiêu biểu. ấy thế mà sau trận Bản Mo mở thông đường xuống Mộc Châu, Trung đoàn 98 của anh Lăng bất đầu là một hiện tượng "đột phá nhanh, táo bạo thọc sâu " - một đặc điểm trong cách chỉ huy của anh Lăng. Trung đoàn 174 của tôi vẫn là đơn vị chủ công, luôn chiến thắng, nhưng giải quyết không nhanh bằng Trung đoàn 98. Đương nhiên Bản Mo so sao được với Mộc Châu trong chiến dịch Tây Bắc.

        Nhưng rồi chiến dịch Điện Biên Phủ lại chứng minh cho cái khác cố hữu của hai trung đoàn. Chiều 30 tháng 3 năm 1954, mở màn cho đợt tiến công khu đông Điện Biên, khi Trung đoàn 174 còn đang trong giao thông hào tiến dần đến chân đồi A1 thì khoảng 17 giờ 30 phút, quân anh Lăng đã chiếm được đỉnh đồi C1. Nhìn cờ của Trung đoàn 98 bay trên đỉnh C1, mà tôi ấm ức. Thế là Trung đoàn 174 vẫn đi sau Trung đoàn 98.

        Đương nhiên đồi A1 khác xa đồi C1. Dưới chân A1, vài bước qua sông Nậm Rốm là sở chỉ huy của Đờ cát-xtơ-ri. Ba ngày ba đêm, Trung đoàn 174 chiếm gần nửa đồi A1 rồi bỏ hẳn sau khi san bằng phần lớn công sự đã chiếm được, lui về phòng ngự ở đồi Cháy sát A1. Quân anh Lăng mới chỉ chiếm nửa đồi C1.Dẫu sao thì Trung đoàn 98 cũng "khá "hơn Trung đoàn 174 của chúng tôi. Nghĩ mà "ấm ức" với anh Lăng.

        Song, cũng không lấy gì làm lạ để "ấm ức", vì sau hội nghị "sấm sét" sơ kết ở Mường Phăng (Sở chỉ huy chiến dịch), trong đó có anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã "xát xà phòng"2 các bộ tư lệnh đại đoàn, các ban chỉ huy trung đoàn chủ chốt, khi kiểm tra "hữu khuynh tiêu cực", anh Lê Thiết Hùng, đại diện Tổng quân ủy cạnh Đại đoàn 316 rỉ tai cho tôi hay:

        - Anh Văn bảo trong số các trung đoàn trưởng chỉ huy, chỉ có Vũ Lăng là ít vấp váp nhất.

        Chừng ấy cũng đủ nói lên phẩm chất chỉ huy quân sự của anh Vũ Lăng.

        Tôi trực tiếp làm việc với anh Vũ Lăng sau chiến dịch Điện Biên Phủ khi nửa nước mới được giải phóng. Tôi lên Trung đoàn phó, có đôi chút "văn hóa" và "mồm miệng", về đại đoàn làm Trưởng ban Tác chiến, còn anh Lăng là Tham mưu trưởng Đại đoàn, một chức vụ khá cao thời bấy giờ khi cả nước chỉ có tám đại đoàn. Thế là có dịp trả đũa, tôi nhắc:

        - Ông nên nhớ là sáng mùng 7 tháng 5, tôi mà không "lấy xong A1, bắn vào sườn lính viện của Tây lên C2 thì "ông" có mà còn mệt!

        Vui vậy cho nó đỡ "ức", cũng để cho anh Lăng phải "gờm" đôi chút thuộc hạ của mình.

        Bẵng đi, anh Lăng đi Liên Xô, còn tôi đi Trung Quốc. Cho đến năm 1964 lại gặp nhau trong những cuộc "khẩu chiến" về nghệ thuật quân sự tại Cục Nghiên cứu khoa học quân sự do Cục phó Vũ Lăng điều hành. Những người thích cãi và hay cãi lúc nào cũng gặp nhau được và muốn gặp nhau.

        Chống Mỹ, tôi ở Sư đoàn 304, đi B trước. Cho đến khi anh Văn thành lập Viện Khoa học quân sự, Viện phó Vũ Lăng lại triệu tôi về, gặp nhau, lại tranh luận, nghiên cứu diễn tập, tổng kết. Cùng anh Nguyễn Xuân Hoàng - "cây lý luận" như lời anh Văn - anh Vũ Lăng với kinh nghiện dày dặn và khá "cấp tiến", đã đóng góp không nhỏ vào những "vây lấn tiến công diệt cụm cứ điểm Mỹ bằng hiệp đồng binh chủng", "tiêu diệt chiến đoàn ngụy"..., kết quả của những buổi khẩu chiến kinh khủng giữa các vị tướng "lớn tiếng" nhất của quân đội: Vũ Yên, Hồng Sơn, Nam Long, Hoàng Cầm, Nguyễn Hòa ("Hòa điếc") mà chỉ có tướng Vương Thừa Vũ mới ra tay "dẹp loạn" được.

-------------------------
        1. Nguyên Cục phó Cục Khoa học quân sự Bộ Tổng Tham mưu.

        2. Tiếng lóng của bộ đội có nghĩa là "phê bình".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:48:57 am

        Chỉ tiếc là không bao lâu anh Lăng về Cục Tác chiến. Chiến tranh ở giai đoạn gay go nhất, từ năm 1971 trở đi. Đôi khi ở B ra gặp anh Lăng ở "Sân Rồng"1 - nơi giao ban chiến sự hằng ngày - anh Lăng vỗ vào đầu đã bắt đầu thưa tóc bảo:

        - Mày có đẻ con ra, lớn lên đừng có bảo nó làm tác chiến, nhớ chưa! Lấm hết đầu!

        Anh rỉ tai cho biết những cơn thịnh nộ của các anh trên.

        Nhưng rồi anh Lăng cũng "thoát" được Sân Rồng, để làm Tư lệnh Tây Nguyên, rồi Tư lệnh Quân đoàn 3. Gặp tôi ở Sài Gòn ngay vào ngày giải phóng, anh bảo: "Tao vướng cái thằng bộ tổng tham mưu (ngụy) ông Z giao cho, chứ không làm gì Hữu An và Hoàng Đan2 vào được Dinh Độc Lập trước!". Tôi từng được nghe kể, 6 giờ rưỡi chiều ngày 29 tháng 4, anh Văn Tiến Dũng gọi điện cho anh Lăng nói: "Cậu đã ở Hóc Môn? Vậy cậu là người đầu tiên đặt chân vào Sài Gòn đấy nhé".

        Chiến tranh kết thúc. Anh Vũ Lăng cũng như các anh có công trạng khác được giữ những chức vụ và quân hàm cao. Duy chỉ tiếc anh Vũ Lăng là không về Hà Nội, ở cơ quan đầu não để phát triển hơn. Anh đùa: "Tao ở cái ốc đảo một cái "oasis", mày thấy không.

        Chị Hoa đưa cho tôi xem ảnh anh Lăng chụp năm 1952. Trông cũng khá " kẻng ". Ấy thế mà người ta bảo: "Hoa ở trong rừng, mở mắt ra chỉ thấy có Vũ Lăng nên mới theo". Nói cho công bằng, trông anh Vũ Lăng người vừa phải, theo ngày nay thì hơi thấp, nét mặt hơi dữ, nhiều râu hơn người Việt Nam bình thường, vài ngày không cạo và đeo đôi giày "xăng đá"3  ngày xưa buộc chung vào cổ, có thể đóng làm tù binh Tây trong phim thời sự được. Theo anh Nguyễn Kiệm - Chủ nhiệm chính trị Đại đoàn 316, hồi chỉnh quân năm 1953 ở Cẩm Thủy, trước khi đi vào kiểm điểm cá nhân ghi vào hồ sơ cán bộ, dao cạo râu, dao nhíp phải thu tập trung theo lệnh Chính ủy Mân, trông anh Lăng gần giống ông Bảy Xồm (toàn quyền Pôn đu-me của Tây cũ).

        Song, con người vậy mà hiền, dễ gần thôi. Thích tán gẫu, chuyện trên trời dưới đất. Thích rượu Tây, từ Mác-ti-ni đến Gin, cả rượu Tầu như Mao Đài, về sau cả rượu ta - rượu hồng Đà Lạt do anh Lăng và vợ tự chế, hai anh em uống từ 7 giờ đến 11 giờ đêm hết cả lít tại Đà Lạt. Thích sưu tầm tẩu thuốc (pipe), cán thẳng, miệng tẩu tròn, lục giác; thích dao cạo râu Gi-lét chính hiệu, thích nước hoa Pháp... Uống cà phê thì phải bưng cả chén tách, khuấy  đường nhẹ rồi uống như mốt "đàn ông Pa-ri" - ai mà dùng thìa quấy keng keng, anh Lăng bĩu môi chê ngay. Kể cũng lạ hồi 1955 - 1956 còn siết chặt, mà anh Vũ Lăng đảm nhiệm" mang thư tình của tôi gửi cho người yêu - là vợ tôi - bà Phương Chi, phát thanh viên kỳ cựu Đài Tiếng nói Việt Nam sau này - mỗi lần đi họp Bộ Tổng.  Đổi lại, đẻ thằng con đầu, lúc anh Lăng đi Tây học, tôi đưa chị Hoa - vợ anh Lăng đi... đẻ từ Nho Quan bằng ca nô - lên Phủ Lý, chuyển qua ôtô khách rồi " phò"về Hà Nội, cứ như Quan Vân Trường phò Nhị Tẩu4

        Chao ơi! Giữa tôi và anh Vũ Lăng, lắm chuyện anh em, thầy trò một thuở.

        Chỉ tội một điều: sao "ông" ấy nhớ dai vậy? Tết năm 1963, vợ chồng tôi mời vợ chồng anh Lăng ăn cơm mồng hai Tết, song vì bị mất trộm sạch hôm ba mươi Tết nên quên bẵng. Hai ông bà bị một bữa đói, nhớ đời. Hơn hai mươi năm sau, ra Hà Nội, mời anh xơi cơm theo hẹn, anh chối quầy quậy: "Thôi, thôi, xin kiếu kẻo lại đói".

        Anh Lăng vẫn giữ nguyên lối sống ngày xưa: ăn uống, nói năng kiểu cách, không thể "hòa mình ăn xổi, nói tục" như mọi người được. Và anh không thể nào khoan dung với người dưới mình phạm lỗi qua mặt mình, mà người đó vốn "ăn tục, bổ báng". Tôi nghĩ, âu cũng là "bản chất conngười" như xưa từng nói, cũng như tôi bị Chính ủy Đại đoàn nhận xét ngày xưa.

        Anh Vũ Lăng mới vào tuổi cũng là cổ lai hy. Song, với kẻ khác, tôi nghĩ là hơi sớm. Giá anh ấy sống thêm được  chục năm, về Học viện Quốc phòng như đã dự kiến - để truyền đạt cho thế hệ sư đoàn sau này những kinh nghiệm chiến dịch, chiến lược. Giờ đây cũng có người dạy đấy, sao vắng anh?

D.C       

-------------------------
        1. Tức là Điện Kính Thiên, nơi bậc thềm lên điện có hai con rồng bằng đá.

        2. Nguyễn Hữu An - Tư lệnh Quân đoàn 2 và Hoàng Đan - Phó Tư lệnh chỉ huy Quân đoàn 2 tiến vào Sài Gòn từ hướng đông nam.

        3. Tiếng Pháp "Soldat", nghĩa là lính. Giày xăng đá là giày của lính, khác với giày của sĩ quan Pháp.

        4. Lấy tích trong Tam Quốc chí kể về Quan Vân Trường hộ giá hai bà vợ của Lưu Bị.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 05:53:32 am

ANH VŨ LĂNG VỚI TÂY NGUYÊN

Trung tướng - PGS NGUYỄN NĂNG         

        Tôi nguyên là Tư  lệnh phó B3 , Tư lệnh phó chiến dịch Tây Nguyên, Tư lệnh phó Quân đoàn 3 cùng công tác với đồng chí Vũ Lăng, xin nêu một số kỷ niệm sâu sắc với đồng chí Tư lệnh Vũ Lăng.

        Từ Quân khu 5, tôi được lệnh của Bộ lên làm Phó Tư lệnh B3, vào Đảng ủy B3.

        Trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1972, ta đã sử dụng binh chủng hợp thành tiến công thị xã Kon Tum nhưng không thành công.

        Từ đó, ở Ban tham mưu Quân khu 5 có tổ chức một bộ phận nghiên cứu do anh Võ Thứ phụ trách, qua nhiều lần thảo luận đều thống nhất nếu mở chiến dịch tiến công ở Tây Nguyên thì nên chọn Đắc Lắc và mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột.

        Đến Tây Nguyên, tôi vào sở chỉ huy B3 gặp anh Vũ Lăng đang làm việc với anh Quyết - Bí thư Kon Tum. Vốn quen biết trước, anh Quyết liền hỏi:

        - Đồng chí Việt (bí danh của tôi) lên đây chuẩn bị đánh lớn chứ ?

        Anh Vũ Lăng trả lời ngay:

        - Phải đánh lớn để giải phóng Tây Nguyên.

        Trong quá trình nắm tình hình, họp Đảng ủy B3, họp Bộ Tư lệnh chuẩn bị cho nhiệm vụ lần 1, lần 2, anh Vũ Lăng trao đổi với tôi:

        - Đánh Đức Lập hay đánh Gia Nghĩa, nhưng phải nghĩ tới đánh Buôn Ma Thuột, nếu đánh Buôn Ma Thuột thì đánh thế nào?

        Tôi trả lời cũng nghĩ như anh. Thật là tâm đầu ý hợp.

        Anh Vũ Lăng đi kiểm tra Đức Lập, tôi chuẩn bị Gia Nghĩa xong, ngày mồng 9 tháng 1 năm 1975, nhận được điện báo mục tiêu chủ yếu là A (Buôn Ma Thuột). Trên cương vị là Tư lệnh B3, anh Vũ Lăng đã chủ trì nhiều cuộc  họp thảo luận xây dựng phương án tác chiến "chiến dịch Tây Nguyên 1975". Khi thảo luận chung, khi thảo luận riêng, giữa tôi và anh Vũ Lăng có nhiều trao đổi rất căng thẳng, vì tôi vừa là cán bộ chiến đấu, vừa là cán bộ huấn luyện chiến dịch, nên khi lập phương án tác chiến thường có hai  phương án đề ra, phương án vẫn phải lật đi lật lại để tìm phương án tối ưu nhất. Trong mười ngày đầu, phương án tác chiến đã được hoàn thành. Chiến dịch có hai trận then chốt: một là đánh thị xã Buôn Ma Thuột; hai là đánh địch phản kích, phản đột kích tái chiếm Buôn Ma Thuột. Trận tiến công Buôn Ma Thuột có hai phương án :

        - Đánh địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự Buôn Ma Thuột (đã phòng ngự dự phòng).

        - Đánh địch chưa tăng cường lực lượng cho Buôn Ma Thuột (chưa phòng ngự dự phòng).

        Kết quả trên, công lao to lớn chính thức thuộc về anh Vũ Lăng.

        Ngày 21 tháng 1 năm 1975, Tổng Tham mưu phó Lê Ngọc Hiền vào phổ biến nhiệm vụ chính thức cho B3. Sau đó anh Vũ Lăng thay mặt Bộ Tư lệnh B3 và Đảng ủy B3 báo cáo phương án chiến đấu đã được chuẩn bị sẵn cho anh Lê Ngọc Hiền và đoàn cán bộ cục Tác chiến đi cùng.

        Anh Vũ Lăng dẫn đầu đoàn trinh sát thực địa đi nghiên cứu sở chỉ huy cơ bản của chiến dịch Tây Nguyên và kiểm tra lại Đức Lập. Còn tôi, dẫn đoàn đi trinh sát thực địa hướng ở phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột - hướng tiến công chủ yếu đánh Buôn Ma Thuột.

        Khi thông qua phương án tác chiến chiến dịch Tây Nguyên và phương án đánh Buôn Ma Thuột, tôi được biết cấp trên không đồng ý phương án đánh thị xã Buôn Ma Thuột của Tư lệnh B3. Anh Vũ Lăng tâm sự với tôi: Nếu trận đánh Buôn Ma Thuột thắng thì chớ, nếu không thắng thì tôi (Vũ Lăng) và anh sẽ chết trước, vì chúng ta đề ra phương án, còn các đồng chí khác không việc gì đâu.

        Tôi trả lời:

        - Nhất định chúng ta sẽ thắng và chúng ta dùng mười sáu trung đoàn đánh một trung đoàn địch (16/1). Tục ngữ có câu " hai đánh một, không chột cũng què ", còn ta dùng mười sáu đánh một thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng.

        Anh cười. Là Tư lệnh nhưng anh rất tôn trọng ý kiến cấp dưới và ý kiến đồng cấp, đã kết hợp được trí tuệ tập thể để xây dựng phương án tác chiến chính xác, phù hợp, nên đã giành thắng lợi.

        Khi thực hành chiến dịch, anh Hoàng Minh Thảo được chỉ định làm Tư lệnh, anh Vũ Lăng trực tiếp chỉ đạo Sư đoàn 10, tham gia chi huy chung với sở chỉ huy cơ bản. Sau đó trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 10 phát triển theo đường đèo Phượng Hoàng, phát triển đánh sở chỉ huy quân đoàn 2 nguỵ  và cùng địa phương giải phóng Khánh Hòa - Cam Ranh. Kết thúc chiến dịch Tây Nguyên 1975 giành thắng lợi vang dội, chỉ trong hai mươi ngày đêm giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.

        Thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên 1975 đã đạt được những mục tiêu chiến lược như sau :

        1. Tiêu diệt về chiến lược (quân đoàn 2 ngụy).

        2. Giải phóng địa bàn chiến lược Tây Nguyên.

        3. Chia cắt chiến lược (cắt Tây Nguyên ra khỏi vùng địch còn kiểm soát).

        4. Đánh bại chiến lược co cụm ở đồng bằng Khu 5 (địch chạy đến đường 7 ) .

        5. Góp phần đánh bại hoàn toàn chiến lược phòng thủ miên Nam của Mỹ ngụy đã thực thi trên 20 năm.

        6. Tạo lực mới thế mới, thời cơ mới, bước ngoặt cho cách mạng miền Nam và tạo ra thời cơ trực tiếp cho chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Quân đoàn 3 được thành lập, trên cương vị Tư lệnh, anh Vũ Lăng trao đổi về nhiệm vụ tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và phân công tôi chuẩn bị chiến trường, dẫn đầu đoàn cán bộ Quân đoàn 3 đi nghiên cứu địa hình, nghiên cứu địch, nghiên cứu địa phương trên hướng tây bắc Sài Gòn là hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Từ kinh nghiệm của chiến dịch Tây Nguyên 1975, anh Vũ Lăng đã vận dụng kinh nghiệm vào chiến dịch Hồ Chí Minh, đã xây dựng phương án tác chiến cho Quân đoàn 3 tham gia tiến công trên hướng chủ yếu của chiến dịch Hồ Chí Minh: sáng tạo, phù hợp kết hợp tổ chức thọc sâu cấp sư đoàn tăng cường (Sư đoàn 10) tiến công theo đường 1 đánh các cứ điểm và căn cứ địch như khu Quang Trung, tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất và cùng các đơn vị bạn đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy, sử dụng Sư đoàn 320, Sư đoàn 316 tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiến công ở hướng chủ yếu của chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Trong tổng kết chiến dịch, các đồng chí Văn Tiến Dũng và Lê Quang Hòa đã nêu: " B3 - Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ - đặc biệt xuất sắc".

        Anh Vũ Lăng với cương vị Tư lệnh B3, Quân đoàn 3 đã cùng Bộ Tư lệnh và Đảng ủy đưa B3 - Quân đoàn 3 tiến công hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ - chiến dịch Tây Nguyên và hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch Hồ Chí Minh, trong đó có trận đánh thị xã Buôn Ma Thuột - trận then chốt quyết định, trận điểm huyệt, trận mở đột phá khẩu cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành toàn thắng về ta, đã ghi một mốc son vào lịch sử chống đế quốc Mỹ của dân tộc.

N.N       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 09:08:21 pm

NGƯỜI CHỈ HUY SẮC SẢO
NGƯỜI VIỆN TRƯỞNG UYÊN THÂM

Thiếu tướng GS-TS Nhà giáo nhân dân HUỲNH NGHĨ       

        Tôi gặp anh Vũ Lăng vào năm 1974, trước khi bước vào chiến dịch Tây Nguyên năm 1975. Anh Vũ Lăng vào thay anh Hoàng Minh Thảo, làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Còn tôi, thôi giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95, về làm Trưởng phòng quân huấn Mặt trận. Nói thật, ban đầu gặp anh tôi rất ngại, vì thấy anh rất nghiêm khắc. Trong những buổi giao ban, tuy anh không ghi chép gì cả nhưng không bỏ qua một sơ suất nào của cấp dưới.

        Khi vào Buôn Ma Thuột chuẩn bị chiến dịch Nam Tây Nguyên, tôi được đi cùng đoàn với anh trên những chiếc xe U-át từ miện Bắc mới trang bị cho Tây Nguyên. Tuy đã bước sang mùa khô, nhưng đường quân sự làm gấp vẫn lầy lội nhiều đoạn phải đi trên những tấm gỗ lát gập gánh xóc lộn cổ. Thế mà chúng tôi vẫn ngủ ngon lành vì lần đầu tiên được đi chuẩn bị chiến trường bằng ôtô. Chiều hôm sau, chúng tôi đến phía bắc đường 14, đoạn đường phía tây cầu Sê-rê-pốc. Trinh sát đưa chúng tôi lên đài quan sát, đồi toàn cây le, dốc đứng, trinh sát phải đẩy anh Lăng mới lên được đỉnh đồi. Đây là đoạn trận địa phục kích của Sư đoàn 316. Sau khi duyệt xong phương án, chúng tôi tiếp tục đi trinh sát phía sau. Trên đường bỗng gặp đoàn xe cưa gỗ đoàn tạm lánh vào rừng để tránh. Sau đó đoàn tiếp tục đi nhưng sau đó kiểm tra lại thì thấy thiếu một bác sĩ của đoàn. Anh Vũ Lăng rất lo lắng về chuyện mất tích của đồng chí bác sĩ. Nếu bị địch bắt thì mọi kế hoạch vỡ hết.

        Đoàn phải tạm lánh vào rừng già, phái các toán trinh sát đi tìm bác sĩ. Suốt đêm hôm đó, ai cũng thao thức không ngủ được, nhất là anh Vũ Lăng. Mãi 8 giờ sáng hôm sau trinh sát mới tóm được bác sĩ và lôi anh ta về. Té ra lúc đoàn lánh vào rừng tránh đoàn xe kéo gỗ, thì bác sĩ lần mò xuống suối rửa chân, khi lên thì đoàn đã đi xa, nên bác sĩ bị lạc suốt đêm trong rừng.

        Trong quá trình chuẩn bị chiến dịch Tây Nguyên, với cương vị là Tư lệnh Mặt trận, anh Vũ Lăng là người thiết kế chính của chiến dịch. Tôi hết sức kính phục anh trong việc giải quyết những tình huống phức tạp, cũng như khi anh kết luận các vấn đề tranh luận khá gay gắt. Anh là người chỉ huy sáng suốt và quyết đoán. Ví như khi trung đoàn 45 ngụy sục sạo vào vị trí của Sư đoàn 320 ở  Ea H'leo, anh đã cho phát đi một bức điện với nội dung là quân khu 2 ngụy đã bị ta lừa nên cho trung đoàn 45 vào Ea H'leo. Trong quyển sách mang tên "khoảng cách thời gian vừa phải", Phrau-cơ Snép, chuyên viên tình báo chiến lược thừa nhận: bức diện đó đã đánh lừa tất cả tình báo Mỹ ngụy ở quân khu 2. Hoặc khi anh đi cùng Sư đoàn 10 xuống đèo Phượng Hoàng, thì lừ đoàn dù số 3 quân ngụy cùng hai mươi bốn khẩu pháo đã chiếm đèo, hình thành lá chắn thép ngăn chặn không cho Sư đoàn 10 phát triển xuống Nha Trang, anh đã chỉ đạo cách đánh cho Sư đoàn 10 là tập trung diệt các trận địa pháo địch trước, phá chỗ dựa của lữ đoàn dù, sau đó gom nó lại và lần lượt tiêu diệt chúng. Bằng cách đánh đó, Sư đoàn 10 đã nhanh chóng tiêu diệt lữ đoàn dù 3, sau đó đã tiến xuống đánh Nha Trang và Cam Ranh.

        Vào Sài Gòn, Quân đoàn 3 nhận nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu của chiến dịch, tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Quyết tâm của Bộ Tư lệnh Quân đoàn là sử dụng Sư đoàn 316 cắt đường số 22, Sư đoàn 320 đánh chiếm Đồng Dù, Sư đoàn 10 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng đến ngày 25 tháng 4, Sư đoàn 10 mới về đến vị trí tập kết. Do vậy, có ý kiến khêu gợi giao nhiệm vụ khác cho Sư đoàn 10. Nhưng anh Vũ Lăng vẫn kiên quyết để Sư đoàn 10 đánh sân bay Tân Sơn Nhất Khoảng 2 giờ sáng ngày 30 tháng 4,  Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh bổ sung nhiệm vụ cho Quân đoàn 3 đánh chiếm thêm bộ tổng tham mưu ngụy (vì trong đêm 29, Sư đoàn 10 đã đến ngã ba Bà Quẹo). Nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, anh Vũ Lăng đã bổ sung thêm nhiệm vụ cho Trung đoàn 28 Sư đoàn 10 thọc nhanh vào thành phố cùng Sư đoàn 320 Quân đoàn 1 đánh chiếm bộ tổng tham mưu nguỵ.

        Số phận đã khiến tôi về sống với anh Lăng ở Học viện Lục quân, khi anh làm Viện trưởng ở đó. Khi tôi mới về, anh Vũ Lăng gọi tôi lên. Sau khi thăm hỏi, anh khêu gợi tôi muốn nhận nhiệm vụ gì, tôi xin anh làm giáo viên. Như thường lệ, mỗi khi cấp dưới có ý kiến khác, anh rê cặp kính xuống tận sống mũi nhìn tôi và nói:

        - Ở đây là học viện, người ta xem thường loại thầy giáo làng như cậu lắm, tớ muốn cậu về Phòng Kế hoạch tốt hơn.

        Thú thực, tôi rất ngại ở cơ quan nên kiên trì xin anh làm giáo viên. Nói vậy nhưng anh vẫn phân tôi về khoa phụ trách nghệ thuật chiến dịch. Anh Vũ Lăng là con người như vậy. Mới gặp thì rất khó gần, nhưng sống lâu mới biết anh là con người rất nhân hậu, thủy chung.

        Tôi còn nhớ trong một buổi giao ban, một trưởng khoa phát biểu ý kiến là một trăm phần trăm cán bộ giáo viên không muốn học viện ở trên đất Đà Lạt.

        Anh Vũ Lăng đứng lên nói:

        - Anh trừ tôi ra!

        Những năm đầu, học viện mới di chuyển từ miền Bắc vào đời sống cán bộ và giáo viên hết sức khó khăn. Anh Vũ Lăng đã đóng góp công sức rất lớn, cùng Đảng ủy lãnh đạo học viện trụ vững trên đất Đà Lạt, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trung đoàn cho toàn quân. Anh hết sức coi trọng kết hợp giảng dạy với nghiên cứu khoa học, đồng thời rất quan tâm công tác đào tạo sau đại học. Khi  tôi được anh chọn làm nghiên cứu sinh với ba đồng chí khác, anh theo dõi rất chặt chẽ. Tuy không phải là người hướng dẫn khoa học, nhưng luận án của tôi được anh đọc khá kỹ và chỉ ra nhiều nội dung quan trọng và bổ ích.

        Học viện ở xa Trung ương, nhiều vấn đề học thuật Hội đồng khoa học tự giải quyết. Với cương vị là Chủ tịch Hội đồng, anh thường xuyên có những ý kiến có sức thuyết phục cao.

        Những ngày anh lâm bệnh, đêm đêm tôi thường đến thăm anh. Trong cái giá rét của Đà Lạt, anh trầm ngâm nhắc lại những ngày tháng ở chiến trường Tây Nguyên, chiến trường Đường 9 - Khe Sanh và cả những kỷ mềm thời kháng chiến chống Pháp như muốn gửi gắm lại cho tôi. Có một lần anh nói: "Tớ có những chuyện sống dể bụng, chết mang theo, nhưng hôm nay tớ kể cho cậu..."

        Anh thường nói vui: "Bộ Tổng Tham mưu xuống dưới ấy chỉ còn thiếu tác chiến, có khi các cụ lại gọi tớ xuống cho đủ bộ". Và các cụ đã gọi anh thật. Anh ra đi vào cõi vĩnh hằng trong niềm tiếc thương vô hạn của bạn bè đồng chí.

H.N                     
Mùa Xuân năm 2000       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 09:17:13 pm

ĐÍCH THỰC ANH LÀ MỘT GIÁO SƯ

Đại tá NGUYÊN BÁ HÀO       

        Học viện Lục quân, với bề dày lịch sử của mình, đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trung cao cấp của quân đội ta. Thượng tướng Vũ Lăng trong một thời gian dài làm Viện trưởng, đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp đó.

        Là Trưởng phòng huấn luyện của học viện, tôi được tiếp xúc làm việc nhiều với anh. Còn giữ mãi những cảm nghĩ những kỷ niệm sâu sắc để mãi mãi nhớ anh.

        Trong kháng chiến chống Pháp đến chiến dịch Điện Biên Phủ, anh là trung đoàn trưởng. Trong kháng chiến chống Mỹ, anh đã trải qua các cương vị: Cục trưởng cục Tác Chiến Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tư lệnh Quân khu và Tư lệnh Quân đoàn 3 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Anh có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong chiến thuật, chiến dịch và rất am hiểu về chiến lược. Kinh nghiệm về vốn sống phong phú ấy được anh vận dụng trong nghiên cứu khoa học, giáo dục bồi dưỡng giáo viên, đào tạo học viên.

        Được đào tạo cơ bản ở trong các nhà trường, học viện trong và ngoài nước, quá trình làm việc lại không ngừng học tập, nghiên cứu, anh có năng lực tư duy lý luận sắc bén, toàn diện. Anh có tài phân tích, tổng hợp kinh nghiệm và rút ra kết luận, biện pháp xử lý chính xác. Với năng khiếu diễn đạt khúc chiết, rõ ràng, anh chuyển tải thông tin đến người nghe một cách chính xác, ngắn gọn, đầy sức thuyết phục.

        Khi Học viện Quân sự chuyển thành Học viên Lục quân (1982), chúng tôi có cố vấn Viện trưởng và cố vấn Trưởng phòng huấn luyện. Các cố vấn Liên Xô đã giúp đỡ học viện được nhiều việc có hiệu quả: xây dựng quy chế, tổ chức phương án huấn luyện, xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị huấn luyện... Tuy nhiên, Bạn cũng có những hạn chế do không hiểu biết cơ sở vật chất của ta. Vấn đề thường vướng mắc là vận dụng cách đánh trong chiến thuật, chiến dịch. Bằng kinh nghiệm, năng lực và uy tín của mình, với tư cách Viện trưởng, anh xử lý tinh tế, thuyết phục được bạn chấp nhận theo ý kiến của ta. Trong việc xác định khối lượng kiến thức, chương trình môn học, tuy đối tượng đào tạo là cán bộ chỉ huy quân sự, nhưng ta rất chú trọng trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về khoa học xã hội, về công tác đảng, công tác chính trị, không xem nhẹ chính trị, giữ tỷ lệ thích đáng giữa quân sự và chính trị.

        Trong chiến thuật, chiến dịch, chú trọng huấn luyện cách đánh truyền thống của quân đội ta, có chú ý đến sự phát triển của chiến tranh với binh khí kỹ thuật hiện đại. Ngoài cách đánh của bộ đội chủ lực, còn chú trọng sự kết hợp tác chiến giữa ba thứ quân.

        Sự chỉ đạo xuyên suốt của anh là: luôn luôn quán triệt đường lối của Đảng, đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối quốc phòng toàn dân.

        Trong công tác nghiên cứu khoa họe, anh chỉ đạo biên soạn hệ thống tài liệu, với khối lượng lớn, đáp ứng kịp thời, đầy đủ huấn luyện học viên tấm chuyên ngành binh chủng lục quân. Những tài liệu được Hội đồng khoa học học viện thông qua, có nhiều ý kiến đóng góp và kết luận sâu sắc của anh. Những tài liệu ấy không chỉ dùng nghiên cứu sử dụng trong học viện, mà còn được sử dụng rộng rãi trong các nhà trường, đơn vị của toàn quân.

        Để nâng cao chất lượng huấn luyện, anh đề xuất nhiều ý kiến mới về tổ chức phương pháp dạy và học.

        Trong diễn tập chỉ huy tham mưu, anh yêu cầu phải "đạo theo diễn", nghĩa là đạo diễn theo người tập. Chuẩn bị diễn tập phải có nhiều phương án, phương án tối ưu và phương án có thể. Khi diễn tập, nếu người tập xứ lý tình  huống không phù hợp, người đạo diễn không được gò ép buộc họ theo phương án của mình, cần phát ra những tình huống bổ sung để người tập suy nghĩ phân tích tìm cách xử trí cho thích hợp. Các cuộc diễn tập do anh trực tiếp chỉ đạo tình hình luôn sôi động khẩn trương, chúng tôi trong ban chỉ huy cũng phải suy nghĩ, động não nhiều.

        Anh đề xuất việc tổ chức diễn tập chỉ huy tham mưu hai cấp trung đoàn, sư đoàn hợp tuyển tám chuyên ngành binh chủng cho học viên năm thứ ba. Học viện có hai cơ sở: Đà Lạt và Long Bình (Đồng Nai). Học viên các binh chủng: xe tăng, pháo binh, phòng không, công binh, thông tin, hóa học đều ở Long Bình, phải hành quân trên ba trăm cây số về diễn tập ở Đà Lạt. Với quyết tâm cao, tổ chức chuẩn bị chu đáo, cuộc diễn tập đạt kết quả tốt. Từ đó kiểm tra, đánh giá được việc huấn luyện học viên các binh chủng đã đúng mục tiêu chưa, giữa bộ binh và các binh chủng có gì không ăn khớp, chưa thống nhất để sửa đổi, bổ sung. Trong hệ thống học viện, nhà trường của toàn quân, chỉ có Học viện Lục quân mới có điều kiện tổ chức diễn tập đầy đủ các binh chủng của lục quân. Đây là một lợi thế đã được sử dụng.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Mười Hai, 2016, 09:18:09 pm

        Học viện Lục quân là đơn vị đầu tiên trong quân đội tổ chức đào tạo nghiên cứu sinh, làm và bảo vệ luận án phó tiến sĩ khoa học quân sự. Tranh thủ sự giúp đỡ của cố vấn, anh kiên quyết kiên trì thực hiện công việc này, vì lúc bấy giờ (1984), việc tổ chức đào tạo sau đại học về khoa học quân sự vẫn chưa được mọi người đồng tình ủng hộ.

        Từ năm 1984, anh đã đề nghị trang bị máy tính để nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy và quản lý. Đã nhiều làn, anh cùng chúng tôi xem xét, tìm hiểu ở Viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Kỹ thuật quân sự (phân viện phía Nam). Hàng năm, anh cho mời cán bộ, nhân viên của Trung tâm Điện toán Viện Khoa học quân sự lên học viện nghiên cứu, sử dụng máy tính trong diễn tập chiến thuật. Tiếc rằng,  ở thời điểm đó, do ngân sách hạn hẹp, chúng tôi chưa thực hiện được theo ý nguyện của anh.

        Ngoài nhiệm vụ giáo dục huấn luyện, nghiên cứu khoa học, anh rất chú ý xây dựng học viện trên các mặt: công tác đảng, công tác chính trị, hậu cần, kỹ thuật, sản xuất, đời sống.

        Trong sinh hoạt Đảng ủy, Thường vụ Đảng ủy, anh luôn luôn tôn trọng ý kiến tập thể, phân rõ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, giữa lãnh đạo với chỉ huy. Anh rất quyết đoán nhưng cũng rất dân chủ, lắng nghe. Là đảng viên, anh chấp hành nghiêm chỉnh chế độ sinh hoạt củ a chi bộ, nghị quyết chi bộ.

        Học viện có nếp làm việc rất khoa học chính quy. Được vậy là do công sức của tập thể, của những người đi trước. Trong đó có phần đóng góp quan trọng của anh.

        Là một học viện lớn, với hàng mấy trăm cán bộ giáo viên, hàng ngàn học viên, thực hiện chương trình kế hoạch, tiến trình huấn luyện cho nhiều học viên khác nhau. Quản lý điều hành mọi hoạt động nói chung và quản lý nói riêng nhất thiết phải tuân theo các quy định, chế độ nhất định làm việc phải có kế hoạch, nếu không sẽ rối, sẽ bị động. Anh chủ động biên soạn các quy định chế độ, chức trách chung và chức trách cụ thể cho từng cơ quan, các khoa giáo viên, các hệ quản lý học viên và yêu cầu thực hiện nghiêm túc.

        Anh yêu cầu làm việc có kế hoạch, có chuẩn bị, dù việc nhỏ nhất, tự anh cũng nghiêm túc thực hiện...

        Đi kiểm tra huấn luyện, nếu không có gì đột xuất, không bao giờ anh về trước, hoặc dự lớp này vài tiết, sang lớp khác vài tiết. Kiểm tra xong, nhất thiết phải có nhận xét rút kinh nghiệm.

        Các bài nói chuyện hoặc kết thúc hội nghị thường do cơ quan hoặc thư ký soạn thảo. Xem trước, nếu cần, anh tự thêm bớt, bổ sung. Khi làm việc, anh trình bày theo tài liệu đã chuẩn bị. Ai cũng thừa nhận: trong các buổi lễ, anh đọc diễn văn rất hay, rất trân trọng, vì không bao giờ anh nói thêm, giải thích dài dòng, ngoài văn bản.

        Anh là một chỉ huy giỏi, một viện trưởng có tài. Tài năng toàn diện của anh là sự kết hợp hài hòa giữa kinh nghiệm thực tiễn phong phú, tư duy lý luận sắc sảo và phương pháp công tác khoa học.

        Anh quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi người.

        Lúc bấy giờ, đời sống sinh hoạt quá khó khăn. Anh chủ trương hàng tháng tăng thêm lượng thịt và đậu phụ cho mỗi người trong học viện, bằng cách đẩy mạnh sản xuất chăn nuôi. Không dễ dàng gì khi hàng tháng chỉ cấp thêm cho mỗi người mấy lạng thịt, mấy lạng đậu với hàng mấy ngàn người từ cán bộ đến chiến sĩ.

        Anh là người đầu tiên khởi xướng việc cấp cho cán bộ, công nhân viên mỗi năm hai tháng lương cơ bản, trong dịp lễ thành lập học viện (mùng 7 tháng 7) và Tết Nguyên đán; cho đến nay vẫn được duy trì thực hiện. Thời bao cấp, thực hiện được chủ trương này là một cố gắng lớn.

        Những lần họp Thường vụ Đảng ủy về công tác cán bộ, anh rất thận trọng trong việc đề bạt, bổ nhiệm hoặc xử lý kỷ luật. Tôi còn nhớ, có trường hợp đã kết luận rồi, sau một đêm suy nghĩ, sáng hôm sau anh đề nghị xem xét lại việc hoãn đề bạt hai cán bộ. Sau khi thảo luận, phân tích kỹ, Thường vụ nhất trí theo đề nghị đề bạt của anh.

        Nghiêm túc trong xử lý kỷ luật nhưng cũng khoan dung độ lượng, anh tìm cách mở cho người có lỗi có lối thoát, cơ hội để tiến bộ , không bao giờ có ý trù dập. Không ít cán bộ vi phạm kỷ luật được anh cứu vớt đã vươn lên được.

        Anh có nhược điểm rất nóng tính, thấy ai sai là nổi nóng ngay. Nhưng xong đi rồi thôi, không để bụng, định kiến. Anh nóng nhưng không bao giờ xúc phạm, làm tổn thương đến nhân cách người khác. Có lần anh H, Phó Viện trưởng rỉ tai tôi: "Ông Lăng chỉ giơ cao, đánh khẽ thôi....". Ngược lại cũng nhiều lần, tôi để ý thấy trước sai sót của cấp dưới, anh vẫn bình tĩnh, không nóng.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Mười Hai, 2016, 11:41:55 am

        Tôi thường theo anh đi kiểm tra huấn luyện. Mỗi lần giáo viên có sai sót trong nội dung giảng dạy, anh phát hiện được ngay, khẽ trao đổi với tôi rồi tiếp tục theo dõi. Khi nghỉ giải lao, anh cho triệu tập giáo viên chủ nhiệm khoa để kịp thời đính chính lại. Chưa bao giờ anh nổi nóng hoặc lên trực tiếp giải thích, anh không muốn làm mất uy tín của giáo viên trước học viên.

        Tôi thường viết các tài liệu, văn bản để anh làm việc. Khi xem xét phê duyệt, nếu không đồng ý hoặc cần bổ sung thêm, anh trao đổi với tôi hoặc ghi rõ ý kiến của mình bên lề trang viết, không gạch xóa bừa bãi; anh tôn trọng cấp dưới của anh.

        Nghiêm túc chặt chẽ trong sử dụng công quỹ, anh không đòi hỏi sách nhiễu, không lạm dụng chức vụ quyền hạn để thu vén cá nhân.

        Mỗi lần chỉ huy học viện cần chiêu đãi khách, anh yêu cầu Chủ nhiệm hậu cần báo cáo cụ thể: thành phần, số lượng khách và chủ (với chủ: ai không cần thiết, không liên quan thì không dự, kể cả chỉ huy học viện), thực đơn, quyết toán thành tiền. Anh yêu cầu lịch sự nhưng tiết kiệm, không lãng phí, không sử dụng công quỹ vô tội vạ. Cuối cùng, bao giờ cũng nhắc không được quên nhân viên phục vụ, lái xe...

        Không bao giờ anh sử dụng công quỹ huấn luyện để quà cáp, biếu xén.

        Phòng Huấn luyện có nhiều kho vật tư, hàng hóa đa dạng nhiều chủng loại, trong đó nhiều thứ sử dụng tốt cho sinh hoạt cá nhân và gia đình. Định kỳ chúng tôi đi kiểm tra nên anh biết những điều đó. Chưa bao giờ anh tỏ ý cần cái gì, thích cái gì, bởi vì chỉ cần một gợi ý của anh là cấp dưới sẵn sàng phục vụ. Tôi biết cũng có cán bộ, sau khi đi kiểm tra, sai công vụ xuống kho lấy hoặc mượn những thứ mình thích, mượn xong thường quên trả, cấp dưới cũng khó đòi.

        Anh sử dụng xe Méc-xê-đét làm phương tiện đi lại. Nhìn bên ngoài, ai cũng bảo xe này sang lắm. Thực ra nó đã quá cũ quá nát, chỉ di chuyển loanh quanh trong phạm vi thành phố Đà Lạt, về sau có sửa chữa lại nhưng cũng ít dám đi xa.

        Khi anh được phong quân hàm Thượng tướng, đồng chí Trưởng phòng kỹ thuật học viện có gửi công văn đề nghị Bộ cấp cho anh một xe Von-ga, vì được biết cấp Thượng tướng có tiêu chuẩn sử dụng xe này. Chờ mãi, cơ quan Bộ không trả lời, cơ quan báo cáo với anh, tuyệt nhiên anh không có ý kiến gì, tuổi cao, sức yếu, đi công tác xa, kể cả sang Cam-pu-chia anh cũng chỉ dùng xe U-át1. Một lần sang Cam-pu-chia công tác (cuối năm 1986), cháu Mai con gái anh muốn kết hợp xin đi tham quan Phnôm Pênh. Tôi đề nghị, anh bảo để anh suy nghĩ. Song hôm sau, trước khi đi anh trả lời: "Mình đi công tác, không nên để cháu đi, còn nhiều dịp khác, đi như thế mang tiếng". Lúc đầu, tôi không đồng tình, sau nghĩ lại, thấy anh xử lý đúng, ở cương vị anh, cần phải như thế.

        Anh có phong thái ung dung, đĩnh đạc, lịch sự trong giao tiếp, tuỳ đối tượng anh có cách ứng xử thích hợp. Với cấp trên, kính trọng nhưng không khúm núm. Với cấp dưới, tôn trọng thân tình. Với khách nước ngoài, lịch sự tinh tế và luôn luôn chủ động.

        Những lần mời dự đám cưới con anh, một chi tiết nhỏ làm tôi nhớ mãi: Thiệp mời tự anh viết mời chúng tôi, không để người khác viết, không nhờ người khác chuyển. Anh tinh tế và tôn trọng chúng tôi.

        Trước kẻ thù, trong lửa đạn chiến tranh, anh có ý chí sắt thép. Nhưng trước những đau thương mất mát của đồng chí đồng đội, trong những buổi lễ tang, anh thường xúc động, mủi lòng: anh khóc, anh đau xót chia buồn cùng tang quyến. Trong anh, cứng cỏi và yếu mềm xen lẫn, xuất phát từ một tấm lòng nhân hậu.

        Anh sống sâu lắng, kín đáo, ít bộc lộ. Một vài khuyết điểm đôi khi làm ta khó nhận biết và hiểu hết, nhưng xét cho cùng: anh là người đức độ, sống có nghĩa có tình.

        Là con người như mọi người, ai cũng có khuyết điểm, nhược điểm. Nhưng nếu không vì những định kiến, những hiểu lầm tầm thường, thì phải nhận rằng: Anh có tài năng đức độ anh có trí tuệ lại có cả tấm lòng. Anh là cấp trên, người Thầy và là người Bạn của chúng tôi.

        Nhà nước phong anh học hàm Giáo sư. Vâng, đích thực anh là một giáo sư.

N.B.H       

------------------------------
        1.Tiếng Nga có nghĩa: nhà máy Ôtô mang tên U-li-anốp (Lê-nin) viết tắt là "YA3" đọc chệch ra tiếng Việt là U-át.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 01:03:45 am

MỘT VỊ TƯỚNG TÀI

Thiếu tướng HOÀNG LÊ1         

        Anh Vũ Lăng là một vị tướng chỉ huy chiến đấu từ cấp đại đội tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn cho đến quân đoàn, quân khu, là một vị tướng của cơ quan tham mưu chiến lược của cấp chỉ huy chiến dịch chiến lược, của cơ quan nghiên cứu khoa học quân sự và học viện, nhà trường. Có thể nói, anh là vị tướng tài tương đối toàn diện.

        Tiếc rằng tôi không được chiến đấu nhiều dưới quyền chỉ huy của anh. Thời gian tôi làm cấp dưới của anh chủ yếu là ở Cục Nghiên cứu khoa học quân sự Bộ Tổng Tham mưu và Học viện Quân sự, sau là Học viện Lục quân.

        Lần đầu tiên tôi được gặp anh là trong trận đánh tiêu diệt cứ điểm Mường Khoa ở Thượng Lào năm 1958. Lúc đó tôi là tiểu đoàn phó tiểu đoàn 910 Trung đoàn 148, được tăng cường cho Trung đoàn 98 do anh làm Trung đoàn trưởng để đánh cứ điểm trên. Đơn vị chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm đánh công kiên. Anh đã cử đồng chí Hồ Hải Nam - đại đội trưởng chủ công của anh giúp chúng tôi chuẩn bị chiến đấu, đặc biệt là phổ biến kinh nghiệm đánh bộc phá mở cửa và đánh tung thâm trong một cứ điểm kiên cố. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Trung đoàn 98 diệt đồn cao trước. Tiểu đoàn 910 đánh đồn thấp gặp khó khăn vì địch rút vào hầm ngầm cố thủ. Anh đã kịp thời nắm tình hình chi viện hỏa lực và tăng cường bộc phá khối cho chúng tôi đánh dứt điểm. Sau trận đánh, anh còn đi thăm tử sĩ, thương binh và động viên chúng tôi nhanh chóng rút kinh nghiệm chuẩn bị cho trận đánh sau. Ấn tượng tốt đẹp đầu tiên của tôi đối với anh là một người chỉ huy sâu sát, kiên quyết, tạo mọi điều kiện cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ và rất thương yêu cán bộ chiến sĩ.

        Từ năm 1960 đến năm 1964, anh là Cục trưởng Cục Nghiên cứu khoa học quân sự Bộ Tổng Tham mưu, tôi được làm việc dưới quyền chỉ huy của anh với cương vị là Phó phòng điều lệnh - chiến thuật. Trong thời kỳ này, quân đội ta tiến hành rất nhiều cuộc nghiên cứu học thuật quân sự và diễn tập thực nghiệm bằng thực binh. Có cuộc diễn tập quy mô lớn đã huy động hầu như tất cả các vũ khí trang bị hiện đại mà ta có lúc đó nhằm tìm ra phương hướng xây dựng một quân đội cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại phù hợp với đặc điểm mọi mặt của Việt Nam, đáp ứng mọi yêu cầu của tình huống chiến tranh.

        Những cuộc nghiên cứu và thực hiện diễn tập này thường do anh Lê Trọng Tấn và Vương Thừa Vũ trực tiếp chỉ đạo, huy động hầu hết các tướng lĩnh có kinh nghiệm trong quân đội tham gia. Là Cục trưởng Cục Nghiên cứu khoa học quân sự, anh Vũ Lăng thường giữ vai trò chủ trì trong việc đề xuất các vấn đề nghiên cứu, tổ chức thực hiện các cuộc thảo luận, lý luận và diễn tập thực nghiệm và chuẩn bị cho thủ trưởng Bộ kết luận những kết quả nghiên cứu. Có thể nói anh đã có phần công sức không nhỏ cho kết quả các cuộc nghiên cứu và thực nghiệm đó. Có những kết luận rút ra là không phù hợp với đặc điểm tình hình Việt Nam, không thể thực hiện được, nhưng nhìn chung kết quả của các cuộc nghiên cứu đó đã phần nào làm cơ sở tốt cho Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu vận dụng vào việc chỉ đạo xây dựng các lực lượng vũ trang và việc chỉ đạo tác chiến các chiến dịch lớn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ sau này và cũng là cơ sở tốt để các tướng lĩnh, sĩ quan ta vận dụng vào việc chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng trong các trận đánh Mỹ ngụy trên các chiến trường.

        Thời kỳ thứ ba, tôi làm việc dưới quyền chỉ huy của anh Vũ Lăng là từ năm 1980 đến năm 1988 tại Học Viện Quân sự, sau là Học viện Lục quân. Anh là Giám đốc Học viện, còn tôi là Cục trưởng huấn luyện, sau đó làm Phó Giám đốc, trợ thủ của anh.

------------------
        1. Thiếu tướng Hoàng Lê: Nguyên Phó Giám đốc Học viện Lục quân.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 01:04:14 am

        Ở học viện, đào tạo một đội ngũ sĩ quan chỉ huy, tham mưu cấp trung đoàn, lữ đoàn (có lúc cả cấp sư đoàn) cho tám binh chủng và chuyên ngành của lục quân: binh chủng hợp thành, xe tăng thiết giáp, pháo binh, phòng không, công binh, thông tin, hóa học, trinh sát và về sau đào tạo cả một bộ chỉ huy quân sự địa phương - đó là một công việc vô cùng nặng nề đòi hỏi người lãnh đạo phải hiểu biết một khối lượng kiến thức thật lớn rộng và sâu, một trình độ tổ chức vô cùng khoa học.

        Anh Vũ Lăng luôn luôn đòi hỏi cán bộ cơ quan và giáo viên phải có trình độ lý luận tương đối toàn diện về lĩnh vực mình phụ trách để giáo dục huấn luyện cho học viên có hiểu biết chuyên sáu về chuyên ngành của mình, đồng thời có kiến thức rộng về các ngành có liên quan để có khả năng chỉ đạo xây dựng và chỉ huy đơn vị chiến dấu hiệp đồng binh chủng, phối hợp ba thứ quân trong điều kiện tác chiến hiện đại.

        Anh rất coi trọng rèn luyện cho học viên có tác phong chỉ huy và công tác sâu sát, tỷ mỷ cụ thể. Khi chuẩn bị chiến đấu phải có kế hoạch toàn diện. Đi trinh sát thực địa phải thực hiện: “ Ý đến, chân đến, mắt thấy, tay sờ". Khi đã nổ súng phải trực tiếp quan sát được chiến trường, phải có mặt ở nơi then chốt vào những thời điểm quan trọng nhất.

        Anh còn luôn rèn luyện cho giáo viên và học viên có phương pháp tư duy chiến thuật biện chứng, khoa học. Hạ quyết tâm và xử trí tình huống chiến đấu phải có cơ sở vững chắc, phân tích sâu sắc những điều kiện khách quan và chủ quan, biện pháp thực hiện phải thật cụ thể, phải dự kiến được các tình huống có thể phát sinh trong chiến đấu để chủ động ứng phó. Khi sử dụng lực lượng phải nắm lực lượng nào là then chốt quyết định, hướng sự nỗ lực của tất cả các binh chủng, các lực lượng vào việc hoàn thành nhiệm vụ.

        Ở học viện chúng tôi thường có những cuộc thảo luận học thuật lý luận sôi nổi, đôi khi gay gắt nảy lửa. Nhưng, kết luận của anh bao giờ cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn, có tính thuyết phục cao, được mọi người chấp nhận một cách thoải mái và có lòng tin vững chắc, có thể làm được. Nhờ vậy công tác đào tạo ở học viện mỗi năm đều được nâng cao hơn. Các sĩ quan đã qua học tập ở học việc đều vững tin là mình có thể hoàn thành nhiệm vụ trên các cương vị được phân công.

        Anh Vũ Lăng có tính nóng nảy, nhiều cán bộ chiến sĩ rất sợ anh. Nhưng anh cũng là một người rất tình cảm, chân tình, thương yêu cấp dưới. Anh hay tâm sự với chúng tôi cả những chuyện riêng tư và không ít lần tôi thấy anh rút khăn tay khi anh nhận ra mình la mắng một cán bộ cấp dưới, hoặc tỏ ra rất xúc động khi thấy một gia đình giáo viên, học viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc sống và tự mình tìm ra mọi biện pháp giúp đỡ. Anh còn rất quan tâm đến từng bừa ăn, giấc ngủ chiến sĩ các phân đội cảnh vệ, phục vụ trong học viện.

        Riêng bản thân, nhờ có sự giáo dục giúp đỡ của anh, tôi đã trưởng thành rất nhiều về mọi mặt trong thời gian làm việc dưới quyền chỉ huy của anh. Những phẩm chất cao quý của anh mà tôi lĩnh hội được là:

        - Một tinh thần trách nhiệm rất cao, luôn nhận những nhiệm vụ nặng nề khó khăn về mình, bao giờ cũng cố gắng làm nhiều hơn, làm tốt hơn những công việc mà cấp trên giao cho.

        - Một sự hiểu biết rộng rãi và sâu sắc những tri thức về cuộc sống, về xã hội, đặc biệt về lĩnh vực khoa học quân sự và những vấn đề liên quan đến nghề nghiệp quân sự, nghề nghiệp nhà giáo của mình.

        - Một tác phong kiên quyết, quyết đoán trong công việc bao giờ cũng rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, không bao giờ chần chừ, do dự.

        - Một tấm lòng chân thành trung thực với bạn bè, đồng khí, với cấp trên và cấp dưới, với đồng bào và chiến sĩ.

        - Luôn đòi hỏi nghiêm khắc với cấp dưới, nhưng cũng rất thương yêu bồi dưỡng, giúp đỡ.

        Với tôi anh Vũ Lăng là một vị tướng của cơ quan chiến lược của các chiến dịch và trận chiến đấu, vị tướng - nhà khoa học, nhà trí thức quân sự, vị tướng - người thầy, nhà giáo dục, vị tướng nóng như lửa nhưng cũng rất mực yêu thương cấp dưới, vị tướng - người anh kính mến của tất cả giáo viên và học viên Học viện Lục quân.

H.L       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Mười Hai, 2016, 01:07:23 am

MỘT CON NGƯỜI CƯƠNG TRỰC


Trung tướng PGS-TS ĐỖ TRÌNH       

        Từ sau Cách mạng tháng Tám, tôi có nhiều dịp được công tác với anh Vũ Lăng.

        Cuối năm 1945, tôi học tập và sinh hoạt trong cùng một tiểu đội với anh Vũ Lăng ở khóa 5 Trường Quân chính Việt Nam, mở tại Việt Nam Học xá, Hà Nội. Hồi đó, chúng tôi quen gọi anh là Đỗ Liêm. Anh Vũ Lăng và tôi đã cùng trình diễn một tiểu phẩm hài kịch gọi là "Chuyện hàn xì", phỏng theo vở "Lão hà tiện"1 của Pháp.

        Năm 1959, tôi là Cục trưởng Cục Khoa học quân sự Bộ Tổng Tham mưu. Anh Vũ Lăng được Bộ điều về làm Cục phó.

        Đầu năm 1968, tôi được bổ nhiệm thay anh Lăng làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng mặt trận Khe Sanh. Anh Vũ Lăng bàn giao cho tôi các công tác ở cương vị đó tại sở chỉ huy mặt trận tại phía tây bắc Tà Cơn.

        Những năm đầu của thập kỷ 70, tôi là Chánh văn phòng Quân ủy Trung ương, anh Vũ Lăng là Cục trưởng Cục Tác chiến. Hai cơ quan chúng tôi cùng đóng ở khu thành Hà Nội, có quan hệ công tác rất mật thiết với nhau. Đây là thời gian tôi cộng tác với anh Vũ Lăng dài nhất.

        Giữa năm 1975, tôi dẫn đầu đoàn cán bộ của Viện Khoa học quân sự, vào tham gia tổng kết chiến dịch Hồ Chí Minh. Chỗ dừng chân đầu tiên và lâu nhất là Quân đoàn 3 do anh Vũ Lăng làm Tư lệnh, lúc đó đang đóng ở Bình Dương. Năm 1986, tôi được cử làm Chủ tịch Hội đồng giám khảo "Kỳ thi tốt nghiệp" năm học đó của Học viện Lục quân, lúc đó anh Vũ Lăng làm Viện trưởng.

        Trong hơn bốn mươi năm kết bạn, công tác, tôi học tập ở anh Vũ Lăng rất nhiều phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", của người đảng viên cộng sản Việt Nam, của một vị tướng trong quân đội nhân dân.

        Trước hết phải nói anh có tinh thần trách nhiệm chính trị rất cao đối với công tác. Điều đó biểu lộ nổi bật trong thời gian anh làm Cục trưởng Cục Tác chiến. Nắm địch, nắm ta trên cả hai miền đất nước, đánh giá tình hình trước mắt, dự kiến khả năng phát triển sắp tới của chiến tranh, làm trung tâm hiệp đồng các cơ quan, chuẩn bị các phương án chỉ đạo chiến lược cho Bộ thống soái, giúp Bộ điều hành thực hiện các phương án đó. Đó là những công việc rất nặng nề làm căng thẳng đầu óc ngày cũng như đêm của người Cục trưởng Tác chiến. Trong lãnh đạo ý kiến thường thống nhất, đó là một ưu điểm lớn và một nhân tố lớn bảo đảm thắng lợi của chúng ta. Nhưng cũng khó tránh khỏi trên những vấn đề nào đó, cũng có lúc có ý kiến khác nhau. Anh Vũ Lăng thường tâm sự với tôi: phải cân nhắc mọi mặt, suy nghĩ ngày đêm trước khi đến báo cáo tình hình và phương án với từng đồng chí lãnh đạo trong Bộ Chính trị, trong Quân ủy Trung ương, làm sao các đồng chí đó nắm chắc tình hình, hiểu rõ ý kiến của nhau, sớm đi đến nhận thức và hành động. Tuyệt đối không hề có xu hướng bỏ mặc, cốt nhẹ cho mình một cách vô trách nhiệm hoặc lợi dụng vài điều chưa nhất trí giữa vài đồng chí lãnh đạo để mưu lợi cho mình. Anh Vũ Lăng cùng các cán bộ khác trong Cục Tác chiến đã góp phần rất quan trọng trong bảo đảm và tăng cường đoàn kết, nhất trí trong lãnh đạo kháng chiến.

        Anh Vũ Lăng là người cương trực, đúng sai phân biệt rõ ràng, trình bày thẳng thắn đối với cấp dưới cũng như cấp trên. Đó  là tinh thần chí công vô tư rất đáng quý. Khi tôi vào chấm thi ở Học viện Lục quân, mùa hè năm 1986, có xảy ra một việc trục trặc. Một cán bộ cơ quan huấn luyện của học viện đó, bằng biện pháp kỹ thuật làm lộ đáp án cho một số học viên có tình cảm với mình. Sự việc đó xảy ra trong lúc anh Vũ Lăng, Viện trưởng đang đi công tác ở Bộ. Hội đồng chấm thi đã bàn bạc nhất trí với lãnh đạo học viện, quyết định kỷ luật nghiêm đối với cán bộ cơ quan huấn luyện và với các học viên đã chép đáp án. Những học viên đó bị đình chỉ không được tiếp tục dự cuộc thi năm ấy.

        Khi anh Vũ Lăng đi họp ở Bộ về và nắm được tình hình, gặp ngay hội đồng chấm thi. Trước sự ngạc nhiên của các ủy viên hội đồng, anh Vũ Lăng không hề phàn nàn gì và nói với chúng tôi: "Tôi rất cảm ơn Hội đồng giám khảo của Bộ đã có quyết định đúng. Điều đó giúp cho học viện giữ nghiêm kỷ luật. Nếu hội đồng xử nhẹ hoặc bỏ qua thì học viện chúng tôi không những không giữ nghiêm được kỷ luật mà còn mang tiếng là tư túi với cơ quan các cấp" .

        Anh Vũ Lăng đã từ biệt chúng tôi mười bốn năm.

        Nhưng mãi còn sáng ngời trong trái tim của bạn bè, đồng chí tấm gương về tinh thần trách nhiệm, ý thức đoàn kết, phẩm chất thẳng thắn, cương trực, chí công vô tư của anh, người đảng viên cộng sản, Bộ đội Cụ Hồ, người thủ trưởng trong quân đội...

Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2000       
Đ.T                               

----------------------------
        1. "Lão hà tiện" tác phẩm của G.B. Mô-li-e, soạn giả hài kịch Pháp (1622-1678) được đưa vào chương trình học tiếng Pháp tại các trường trung học dưới thời Pháp thuộc.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:15:57 am

MỘT TƯỚNG TRẬN MẠC CÓ TÀI, CÓ BẢN LĨNH

Đại tá NGUYỄN VĂN HIẾU       

        Tôi quen Thượng tướng Giáo sư Vũ Lăng từ tháng 10 năm 1945, khi chúng tôi cùng học tại Trường Quân chính Việt Nam khóa 5 tại Việt Nam Học xá ở Hà Nội. Tôi còn nhớ vai kịch "hàn xì" của anh trong một đêm lửa trại của nhà trường.

        Tháng 11 năm 1945, khóa học kết thúc, anh và tôi cùng có mặt trong đoàn cán bộ Nam tiến lên đường vào Nam Bộ. Khi vừa hành quân đến Buôn Ma Thuột, đoàn cán bộ chúng tôi bị địch tập kích bất ngờ, chúng tôi bị một số tổn thất và phải quay lại Ninh Hòa (Khánh Hoà). Sau đó anh lại gặp tôi ở đảo Hòn Khói, khi đó tôi là cán bộ trung đội.

        Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi gặp anh trong mấy chiến dịch lớn ở Việt Bắc như chiến dịch Biên Giới 1950, chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Thời gian này, tôi chỉ huy tiểu đoàn, trung đoàn rồi về Phòng Bí thư thuộc Văn phòng Bộ Tổng Tư lệnh, anh chỉ huy tiểu đoàn rồi trung đoàn chủ lực.

        Năm 1957, tôi theo cấp trên đi làm việc ở Liên Xô, tôi lại có dịp hàn huyên với anh, lúc đó anh đang học ở một học viện của Quân đội Xô Viết.

        Trong những năm đầu của thập kỷ 60, chúng tôi cùng làm việc ở cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh, thường bàn công việc với nhau, nhiều lần bàn bạc với nhau chuẩn bị tài liệu phục vụ cấp trên .

        Những năm kháng chiến chống Mỹ, anh chỉ huy mặt trận Tây Nguyên rồi quân đoàn, lập nhiều chiến công, đặc biệt là tham gia chiến dịch Tây Nguyên giải phóng Buôn Ma Thuột và chỉ huy một cánh quân lớn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tôi làm Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng và Văn phòng Quân ủy Trung ương, rồi Phó Giám đốc Học viện Quân sự. Tôi thường gặp anh trong những hội nghị lớn của Bộ.

        Tháng 5 năm 1977, anh được bổ nhiệm làm Giám đốc Học viện Quân sự ở Đà Lạt, lúc đó tôi là Phó Giám đốc. Tôi làm việc với anh khoảng mười năm ở Học viện Quân sự (từ đầu năm 1982 đổi tên là Học viện Lục quân). Trong việc chung, anh và tôi giữ đúng cương vị là người "trưởng" và người "phó". Trong quan hệ riêng, chúng tôi giữ gìn và phát huy tình đồng chí và tình bạn thân thiết lâu năm.

        Chúng tôi trải qua nhiều ngày vui và cũng có những lúc buồn: Chúng tôi thường tâm sự với nhau về những ngày đã qua và hiện tại, về con người và sự kiện, về đạo lý và chuyện đời thường, về công việc và gia đình, về tình đồng chí, về tình bạn và tình người. Anh thường nói: "Về nhiều vấn đề, nhận thức và tình cảm của hai chúng ta là giống nhau, hoặc gần nhau.

        Anh và tôi đã công tác với nhau bằng lương tâm và trách nhiệm, chân thành đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ chung.

        Với chức vụ là Giám đốc Học viện kiêm Bí thư Đảng ủy anh đã đề xuất nhiều chủ trương đúng đắn và có nhiều công sức trong chỉ đạo xây dựng Học viện Lục quân. Anh đã cùng Đảng ủy tổ chức sinh hoạt chính trị cho toàn thể cán bộ, giáo viên, học viên, công nhân viên, nhằm quán triệt tình hình và nhiệm vụ, sửa chữa những nhận thức và tư tưởng không đúng, xác định quyết tâm xây dựng học viện lớn mạnh lâu dài ở Đà Lạt.

        Anh là người khởi xướng và chỉ đạo đắp đập làm hồ  Chiến Thắng, góp phần khắc phục tình trạng thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô. Anh chỉ đạo xây dựng khu gia đình, làm nhà trẻ mẫu giáo, xây dựng hội trường lớn, làm nhà truyền thống, làm phim "Một ngày ở Học viện Lục quân".

        Anh chủ trì chỉ đạo nghiên cứu tiêu chuẩn học viên, xây dựng chương trình "chuẩn", biên soạn tài liệu huấn luyện quân sự, xây dựng tưởng định chiến thuật, bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn phương pháp làm bài tập chiến thuật trên bản đồ và ở địa hình thực tế, chỉ đạo diễn tập người chỉ huy và cơ quan một cấp và hai cấp, tổ chức thi tốt nghiệp quốc gia.

        Về bảo đảm đời sống, anh chỉ đạo thiết bị nhà bếp dùng nồi hơi, tổ chức tiếp phẩm từ đồng bằng sông Cửu Long và Nha Trang, đẩy mạnh tăng gia sản xuất tại chỗ và xây dựng nông trường.

        Anh coi trọng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận, cơ quan quân sự của tỉnh Lâm Đồng và thành phố Đà Lạt; chủ động đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau với Trường Đại học Đà Lạt, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt, Xí nghiệp in bản đồ Đà Lạt... Thượng tướng Giáo sư Vũ Lăng là một đảng viên kiên định, cương trực, năng động, nhạy bén; là một tướng trận mạc có tài, bản lĩnh, có cách nhìn toàn diện, có tác phong kiên quyết và cụ thể, quan tâm đến đời sống và gia đình của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên...

        Đối với tôi, anh là người đồng chí và người bạn lâu năm nhất, là tình bạn thân thiết nhất hơn bốn mươi năm, một người trung trực, thẳng thắn, yêu cái đẹp, ghét cái xấu để lại cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.

Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2000       
N. V. H                             

--------------------------
        1. Đại tá Nguyễn Văn Hiếu:  Nguyên Phó Giám đốc Học viện Lục quân


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:17:23 am
       
SUY NGHĨ VỀ ANH VŨ LĂNG

        Phát biểu của Nhà báo HOÀNG PHONG trong buổi sinh hoạt sử học tưởng niệm Thượng tướng Giáo sư VŨ LĂNG

        Thưa quý vị đại biểu,

        Thưa các đồng chí và các bạn!

        Mới đây tôi đã vui mừng thấy đồng chí Vũ Lăng được ghi nhận trong danh sách các danh nhân lịch sử mấy nghìn năm đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, in trong bộ Bách khoa tri thức Quốc phòng toàn dân rất đồ sộ do Nhà giáo nhân dân, Giáo sư - Thượng tướng Hoàng Minh Thảo chủ biên và Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành. Hôm nay tôi lại được vinh dự tham dự buổi sinh hoạt sử học tưởng niệm Giáo sư - Thượng tướng Vũ Lăng do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Ban Liên lạc Truyền thống quyết tử quân Liên khu 1 anh hùng tổ chức. Thật là một buổi sinh hoạt rất có ý nghĩa.

        Tôi xin phép được nói đôi lời để tỏ lòng cảm phục và thương nhớ đồng chí Vũ Lăng, một người bạn thân thiết và cũng là một người anh em trong nhà.

        Thưa các vị và các bạn.

        Tôi có may mắn được gặp đồng chí Vũ Lăng ngay trong những ngày đầu kháng chiến trong Liên khu 1 Hà Nội. Lúc đó tôi là một cán bộ biên tập của báo Cứu Quốc được đồng chí Xuân Thủy phân công làm phóng viên chiến tranh trong nội thành, đã cùng sống và chiến đấu với các chiến sĩ Thủ đô ở đình Phất Lộc, trong đó có đồng chí Vũ Lăng - một chiến sĩ Nam tiến mới trở về Hà Nội. Cuối tháng 12 năm 1946, tôi được lệnh rút ra ngoài; chính đồng chí Vũ Lăng, lúc ấy hình như là đại đội trưởng, đã tổ chức và đưa chúng tôi từ đình Phất Lộc ra Cột Cờ và tiễn chúng tôi dưới chân cầu Long Biên, lúc đó quân Pháp đang chiếm giữ và tuần tra nghiêm ngặt ở trên cầu.

        Cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, tôi được tham gia liên tiếp ba chiến dịch cùng với Sư đoàn 308: Trung Du, trên đường số 18 và ở Hà - Nam - Ninh, chủ yếu là đi với Trung đoàn Thủ đô và gặp lại bộ đội Vũ Yên - Vũ Lăng - Hoàng Thế Dũng. Trong sổ nhật ký của tôi còn ghi lại những lúc đến với Trung đoàn 102, anh Vũ Yên kể lại chuyện cũ, nhắc lại những ngày tác chiến trong Thủ đô và cuộc rút lui thần kỳ của trung đoàn những người "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Rồi được dự hội nghị kiểm điểm của trung đoàn trong chiến dịch và dự đêm vui của hội nghị hôm 29 tháng 1 năm 1951, nhớ đến bộ ba Yên - Lăng - Dũng đồng ca mở màn bằng - bài ca "Người Hà Nội" của Nguyễn Đình Thi. Vũ Lăng "đột kích", kéo tôi ra hát góp vui với bộ đội…

        Sau đó, tôi không đi chiến dịch nữa, mà phải "trấn thủ lưu đồn", ở lại cơ quan làm nhiệm vụ thư ký tòa soạn. Nhưng duyên trời run rủi, anh Vũ Lăng lại lấy cô Hoàng việt Hoa, em ruột vợ tôi. Thế là tôi và anh Lăng ngoài tình bạn, tình đồng chí lại có thêm mối quan hệ "cọc chèo". Do đó mà chúng tôi luôn luôn có dịp liên hệ với nhau, biết được những hoạt động của nhau trong suốt ba mươi năm kháng chiến cứu nước, cả chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 cũng như trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Qua những chiến dịch đó, càng thấy rõ tài thao lược của anh Vũ Lăng. Tôi thoáng nghe có người nói anh Vũ Lăng có tác phong hét ra lửa" đối với cấp dưới; nhưng ngược lại, tôi thấy anh rất thương yêu bộ đội, cán bộ thuộc quyền mình. Như lần tại chiến dịch Hà - Nam- Ninh, nghe tin anh Phúc Ánh hy sinh anh Vũ Lăng đã không cầm được nước mắt thương xót người đồng đội của mình (anh Phúc Ánh hình như lúc ấy là cán bộ chỉ huy một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 102; tôi có quen biết anh từ trước khởi nghĩa). Tôi biết anh Vũ Lăng là một người quả cảm, thẳng thắn, nhưng cũng là người sống rất tình cảm với đồng đội, bất kể là cấp nào. Ngoài ra, anh còn có nhiều quan hệ thân quen với các nhà văn, nhà báo như với các anh Nguyễn Huy Tưởng, Huyền Kiêu, Lưu Trọng Lư mà tôi thường thấy lui tới trò chuyện với anh Lăng. Nhiều ngày 27 tháng 3 năm 1988, tôi vào Bệnh viện 108 thăm anh Vũ Lăng, nằm tại khu A1, phòng 22. Trông anh già sọm đi nhiều quá. Tóc bạc phơ. Trán kín các nếp nhăn hằn sâu. Cái hào hoa của người lính Hà Nội năm 1946 chỉ còn vang bóng. Chúng tôi đã dành hồi lâu để hàn huyên tâm sự với nhau. Tôi không ngờ đây lại là cuộc gặp gỡ cuối cùng. Anh đi Liên Lô chữa bệnh, và chưa đầy bảy tháng sau, ngày 23 tháng 10 năm 1988, anh Vũ Lăng vĩnh biệt chúng ta. Nhưng sự nghiệp của anh thì mãi mãi còn lại.

        Thượng tướng Vũ Lăng là một trong những vị tướng tài của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trải qua kháng chiến chống thực dân Pháp, rồi kháng chiến chống đế quốc Mỹ, khi chỉ huy bộ đội trên chiến trường cũng như khi giảng dạy học viên trong Học viện Quân sự, đồng chí đã thực hiện trọn vẹn lời dạy của Bác Hồ: "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

        Hình ảnh đồng chí Vũ Lăng khắc sâu trong tâm khảm mỗi chúng ta.

Ngày 18 tháng 12 năm 2003       
H.P                       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Mười Hai, 2016, 12:19:42 am

THƯỢNG TƯỚNG VŨ LĂNG
VỊ TƯỚNG TÀI NÀNG CỦA ĐẢNG

Đại tá TRẦN BICH1       

        Đồng chí Vũ Lăng, tên thật là Đỗ Đức Liêm, sinh ngày 4 tháng 8 năm 1921, tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Sinh trưởng trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, năm mười sáu tuổi, đồng chí làm thợ, sau làm y tá tại bệnh viện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí được cử đi học ở trường Quân chính Việt Nam (khóa 5). Tháng 11 năm 1945, theo lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí tham gia đoàn quân Nam tiến, vào Nam Trung Bộ chiến đấu, được cử làm chỉ đạo viên trung đội, sau đó làm phó ban huấn luyện Khu 6, rồi phó ủy viên quân sự Ninh Hòa. Tháng 6 năm 1946, đồng chí ra Bắc được cử làm đại đội phó bảo vệ Bắc Bộ Phủ (Hà Nội). Trên cương vị mới, đồng chí luôn gương mẫu, lãnh đạo đơn vị một lòng kiên trung với sự nghiệp cách mạng. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội, đồng chí đã có nhiều thành tích và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 2 năm 1947.

        Từ năm 1947 đến năm 1954, đồng chí tham gia các chiến dịch Việt Bắc, Sông Thao, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà - Nam - Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và Điện Biên Phủ. Trên các chiến trường, với nhiều cương vị khác nhau - tiểu đoàn trưởng, trung đoàn phó, trung đoàn trưởng - đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo chỉ huy các cấp xây dựng đơn vị không ngừng lớn mạnh và chỉ huy bộ đội chiến đấu dũng cảm, lập chiến công xuất sắc trên các chiến trường. Ở vị trí chỉ huy, đồng chí luôn thể hiện tinh thần năng động, sáng tạo trong hoạch định kế hoạch tác chiến, góp phần vào thắng lợi của nhiều chiến dịch quan trọng. Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 của Đại đoàn 316.

        Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đầu năm 1956, đồng chí Vũ Lăng được Đảng và Nhà nước cử đi học ở Học viện Bộ Tổng Tham mưu (Liên Xô) mang tên Vô-rô-si-lốp. Đồng chí đã cùng đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Cuối năm 1959, về nước, đồng chí được cử làm Cục phó Cục Nghiên cứu khoa học quân sự (Bộ Tổng Tham mưu).

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước muôn vàn khó khăn, thử thách, trên các cương vị công tác khác nhau, lúc ở Bộ Tổng Tham mưu, khi ở Bộ Tư lệnh chiến trường, đồng chí luôn thể hiện là một cán bộ quân sự có năng lực tư duy sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức chỉ huy và tính quyết đoán chịu trách nhiệm cao trước tập thể, lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị. Trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1965-1967), đồng chí được Bộ Quốc phòng điều động vào làm Phó Tư lệnh Quân khu 4 (2-1965). Đến với chiến trường đang diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, đồng chí đã cùng với tập thể Bộ Tư lệnh quân khu xây dựng phương án tác chiến, đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu danh thắng máy bay và tàu chiến Mỹ. Bên cạnh đó, đồng chí còn cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đào tạo được nhiều cán bộ chỉ huy bổ sung cho chiến trường miền Nam.

        Thực hiện chủ trương của Đảng về kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy cao cấp trong quân đội, cuối năm 1967, đồng chí được Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng tin cậy giao trọng trách làm Cục phó, rồi Cục trưởng Cục Tác chiến. Trên cương vị công tác ở cơ quan tham mưu chiến lược, với tư duy khoa học, năng động, sáng tạo và dày dạn kinh nghiệm, đồng chí đã đầu tư trí tuệ và có những đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng các phương án tác chiến, góp phần vào thắng lợi lớn của quân đội ta trên hai miền Nam - Bắc.

        Năm 1974, theo yêu cầu của chiến trường, Thiếu tướng Vũ Lăng được cử vào giữ chức Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Đầu năm 1975, đồng chí là Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, rồi Tư lệnh Quân đoàn 3. Ở cương vị mới trên chiến trường, đồng chí luôn gương mẫu, chấp hành nghiêm chủ trương của Đảng, các chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên, giữ vững tính nguyên tắc, chỉ huy bộ đội chiến đấu dũng cảm, lập chiến công xuất sắc. Cùng với tập thể Bộ Tư lệnh chiến dịch, đồng chí dã có những cống hiến xuất sắc trong trận then chốt Buôn Ma Thuột lịch sử.

----------------------------
        1. Đại tá Trần Bích:  Phó Viện trưởng, Bí thư Đảng ủy Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 01:30:52 am

        Tiếp đó đồng chí đã chỉ huy Quân đoàn 3 tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tổng tham mưu ngụy, góp phần quan trọng giải phóng Sài Gòn và giải phóng toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

        Bước vào thời kỳ cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, năm 1977, trên cương vị mới là Viện trưởng và Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân, đồng chí đã cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu Học viện lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng học viện đi vào nền nếp và ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Với kinh nghiệm về xây dựng quân đội đã tích luỹ được trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng chí đã có nhiều đóng góp trong nghiên cứu đào tạo, bổ túc cán bộ trung đoàn và nghiên cứu phát triển khoa học quân sự.

        Đồng chí chỉ đạo biên soạn một hệ thống tài liệu với khối lượng lớn đáp ứng kịp thời, đầy đủ cho công tác huấn luyện của tám chuyên ngành binh chủng lục quân. Những tài liệu của Hội đồng khoa học học viện thông qua có nhiều ý kiến đóng góp và kết luận rất sâu sắc của đồng chí, góp phần rất quan trọng trong nghiên cứu giảng dạy ở học viện và ở các nhà trường quân đội.

        Trong công tác huấn luyện, đồng chí rất coi trọng khâu diễn tập chỉ huy tham mưu, yêu cầu cán bộ chỉ huy phải "đạo theo diễn", nghĩa là đạo diễn theo người tập. Quá trình chuẩn bị diễn tập phải xây dựng nhiều phương án, trong đó có phương án tối ưu. Khi diễn tập, nếu người diễn tập xử lý tình huống không phù hợp, người chỉ huy không được gò ép buộc họ phải theo phương án của mình, mà phải đưa ra những tình huống bổ sung để người tập suy nghĩ, phân tích chọn cách xử trí thích hợp. Trong những năm công tác tại Học viện Lục quân, đồng chí đã đem hết khả năng, trí tuệ của mình cùng với Ban Giám đốc Học viện triển khai nghiên cứu thành công nhiều công trình, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ Quốc phòng có tác dụng thiết thực đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Trên cơ sở những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, đồng chí được phong quân hàm Trung tướng năm 1980, Thượng tướng năm 1986 với nhiều huân chương cao quý khác. Thượng tướng Vũ Lăng đã được Nhà nước phong học hàm Giáo sư khoa học quân sự.

        Qua hơn bốn mươi năm liên tục chiến đấu và công tác trong quân đội, trên nhiều cương vị khác nhau, đồng chí Vũ Lăng đã thể hiện phẩm chất cao quý của người đảng viên cộng sản, người cán bộ quân đội cách mạng, tuyệt đối. trung thành với Đảng, với nhân dân, dũng cảm trong chiến đấu, tận tụy trong công tác, được cán bộ và chiến sĩ yêu mến. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Vũ Lăng là tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, một vị tướng được trưởng thành từ cơ sở, qua nhiều cương vị, là cán bộ chỉ huy luôn chịu trách nhiệm cao trước Đảng và Nhà nước. Trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, nhất là kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên các cương vị được giao, đồng chí luôn bám sát tình hình chiến trường, từng bước tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh về lý luận và chỉ đạo tác chiến trong các chiến dịch; đồng thời mạnh dạn đưa ra các phương án đánh địch táo bạo, bất ngờ đạt hiệu quả cao, góp phần vào sự phát triển của nghệ thuật quân sự nói chung, nghệ thuật chiến dịch nói riêng của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

        Đồng chí đã cùng với Ban Giám đốc Học viện có những đóng góp quan trọng trên lĩnh vực lý luận, tư duy mới về nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ; các quan điểm nhiệm vụ xây dựng quân đội, quân sự, quốc phòng, từng bước xây dựng học viện vững mạnh toàn diện. Trong công tác, đồng chí luôn bám sát thực tiễn, đơn vị, nhà trường, thao trường, kiểm tra, đôn đốc, chân tình chỉ bảo, giúp đỡ, biểu dương, phê bình cấp dưới kịp thời. Đồng chí đã có nhiều chỉ thị, hướng dẫn quan trọng về đổi mới công tác giáo dục, huấn luyện bộ đội xây dựng chính quy. Đến nay, những nội dung đó học viện đang tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện. Với bản lĩnh chính trị vững vàng và tư duy nghiên cứu khoa học quân sự sắc sảo, năng động, những năm công tác ở Học viện Lục quân, đồng chí đã cùng Đảng ủy và Ban Giám đốc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng học viện trở thành cơ sở đào tạo bổ túc cán bộ quân sự có trình độ đại học và sau đại học, một trong những trung tâm nghiên cứu quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá về vai trò của Thượng tướng Vũ Lăng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu rõ: "Đồng chí Vũ Lăng không những là vị tướng quân sự giỏi, mà còn là nhà nghiên cứu khoa học quân sự sắc sảo, trí tuệ sáng tạo, quyết tâm cao, bất cứ trong hoàn cảnh nào, thuận lợi hay khó khăn đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao".

        Thượng tướng Vũ Lăng đã có nhiều công lao trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Là một vị tướng có uy tín trong quân đội, công lao và những thành tích xuất sắc của Thượng tướng đã được Đảng, Nhà nước và quân đội ta ghi nhận. Lịch sử mãi mãi ghi đậm hình ảnh một vị tướng tài về quân sự, nhà nghiên cứu khoa học quân sự giỏi của Quân đội nhân dân Việt Nam.

T.B       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 09:17:51 am

CÁN BỘ ĐẠI ĐOÀN 316 VIẾT VỀ THỦ TRƯỞNG VŨ LĂNG

        Lê Quang Tuấn        

        Tôi biết anh Vũ Lăng khi thay anh Ngô Tử Vân làm Trung đoàn trưởng. Chỉ biết thôi cũng chưa được tiếp xúc nhiều Đến chiến dịch Tây Bắc, trận Bản Mo, anh Y đi trinh sát về báo cáo, anh Vũ Lăng chưa hài lòng, anh gạt đi và đích thân cùng anh em đi trinh sát lại đồi Bản Mo, vào đến tận nơi sờ được hàng rào thứ nhất. Tôi mới nghĩ: "À, ông Trung đoàn trưởng này có khác. Trực tiếp quan sát xem cách lô cốt thứ nhất của nó bao nhiêu mét làm căn cứ để tính toán bắn  ĐKZ". Chính nhờ lần trinh sát thứ hai mà đánh Bản Mo rất nhanh, chưa đầy một tiếng đồng hồ.

        Sau trận Bắc Ninh, trung đoàn coi như tan tác không biết bao giờ mới củng cố lại được. Vậy mà trong thời gian ngắn đã chiến thắng Bản Mo, nâng cao tinh thần anh em lên rất lớn, do anh Vũ Lăng là người rất sâu sát. Đấy là ấn tượng thứ nhất về anh Vũ Lăng.

        Khi đánh đồi C1 ở  Điện Biên Phủ, Trung Quốc viện trợ cho mình phóng lôi là loại bộc phá phá hàng rào. Tiểu đoàn chúng tôi là tiểu đoàn chủ công đánh đồi C1. Lúc đó tôi là đại đội trưởng đại đội 36 của tiểu đoàn, ông giao nhiệm vụ: "Bây giờ các cậu thí nghiệm bắn phóng lôi". Lúc bấy giờ chỉ quen bắn cối 60mm, không bắn gì khác. Tôi ở Trung Quốc về cũng hơi biết một chút tiếng Trung Quốc, tôi đọc tài liệu, tôi đề xuất phương án bắn cách xa cỡ một hai trăm mét, cách xa hơn không được. Tôi đề nghị tập trung cho tôi toàn bộ súng cối 60mm của trung đoàn gồm mười hai khẩu. Tôi bố trí bắn hai đợt. Hầu như phóng lôi bắn tan hoang hàng rào, có thể hai xe tải Mô-lô-tô-va1 tiến thẳng vào được, nên đánh rất nhanh, chỉ mấy phút đồng hồ đã phá xong, vào được lô cốt số 1 chỉ hết bốn mươi lăm phút đồng hồ. Chúng tôi chưa kịp rút quân đã nghe điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp xuống tặng Huân chương Quân công hạng ba cho Trung đoàn 98 vì đã giải quyết C1 .

        Khi về, anh Vũ Lăng gọi tôi lên sở chỉ huy sư đoàn.

        - Vào đây! Vào đây! Hôm nay "vu"2   (cậu) bắn khá lắm! ông mở đồ hộp chiêu đãi cà phê, rượu "rum" của Pháp, nói tiếp:

        -Cậu phải về làm báo cáo để tớ báo cáo sư đoàn, để phổ biến kinh nghiệm cho các đơn vị sử dụng phóng lôi.

        Đến năm 1989, năm 1990 gì đấy, tôi ở Viện Lịch sử quân sự trong Nam rồi. Anh Vũ Lăng đến làm việc, tôi hỏi:

        - Anh có nhớ tôi không? Mấy chục năm trước anh có bảo tôi: "vu"  bắn khá lắm, anh nhớ không?

        - À,  mày bắn phóng lôi, tao nhớ rồi.

        Từ năm 1953 đến năm 1990, gần bốn mươi năm mà anh vẫn nhớ.

        Còn một kỷ niệm nữa ở Điện Biên Phủ. Lúc đó trung đoàn tổ chức súng cối về một đơn vị, thành mấy trận địa. Đơn vị tôi nằm ngay trên đồi C1. Địch thả dù thực phẩm, chúng tôi cũng lượm được. Anh Vũ Lăng lệnh cho hậu cần.

        Bên đó nói:

        - Tớ hết quân rồi, các cậu chuyển hộ.

        -Các anh có đơn vị tải thương mà sao hết quân?

        - Hết thật rồi.

        Anh Vũ Lăng lệnh thùng nào vỡ thì cho anh em, cái nào lành thì đưa về. Mỗi anh em cũng được mấy hộp để dưới hầm. Có lệnh báo trung đoàn sẽ kiểm tra trận địa.

        Tôi bảo:

        - Thôi chết rồi.

        Xưa nay ở chiến trường ở nơi giáp địch như thế, ít khi có trung đoàn trưởng nào lại đến sát đồn địch, giỏi lắm chỉ cấp tiểu đoàn đến thôi, cách địch có ba bốn chục mét, lại giữa ban ngày ban mặt. Ai ở C1 rồi đều biết đường đi lên C1 nó bắn dữ dội liên tục, một đồng chí cấp dưỡng đơn vị chúng tôi gánh cơm lên đồi C1 đã bị nó bắn hy sinh mất xác, coi như đi qua cửa tử. Thế mà trung đoàn trưởng dám lên thì có tác dụng động viên anh em rất lớn. Tôi nhắc anh em:

        - Cất giấu chiến lợi phẩm cẩn thận, ông ấy kiểm tra thấy thừa ra là kỷ luật nặng đấy.

        Lúc kiểm tra xong, ông vào ngồi ở hầm chỉ huy, bảo:

        - Này các cậu có tút thuốc lá nào đem ra chiêu đãi Trung đoàn trưởng đi !

        Chúng tôi báo cáo:

        - Lệnh trên mỗi người, và hai người mới được một hộp, lấy đâu ra.

        Ông bảo :

        - Thôi đừng che mắt thánh. Moi ra! Moi ra!

        - Đây là những cái vỡ…

        Chúng tôi nói vỡ là vỡ những cái lớn, rồi lấy ở dưới sàn ra. Ông chỉ nói:

        - Các anh là ghê lắm đấy nhớ!

        Ông chỉ nói thế thôi, chẳng có kỷ luật gì cả, thông cảm với anh em ở sát địch, chẳng biết sống chết lúc nào. Cái chính là ông kiểm tra trận địa xem bố trí thế nào, chứ không phải kiểm tra về ăn uống. Anh Vũ Lăng là con người rất sâu sát. Thời chống Pháp, Trung đoàn trưởng lên sát địch như thế phải nói là đếm trên đầu ngón tay, làm cho anh em ở dưới cũng phải sâu sát hơn. Nghe nói anh ấy nóng, nhưng tôi chưa trực tiếp bị anh ấy nóng lần nào. Thấy tôi đối với anh em thoải mái, đánh thắng xong, ông chiêu đãi cho anh em đánh chén luôn. Không phải ông là con người quá gắt gao như người ta thường nghĩ, mà rất tình cảm. Tôi cũng đi đóng kịch như anh Phúc. Một lúc ông ấy thông báo hai đại đội trưởng đi đóng kịch. Tôi báo cáo lên tiểu đoàn. Tiểu đoàn bảo: Trung đoàn chỉ đích danh cậu phải đi!

-------------------------
        1 "Mô-lô-tô-va", đọc phiên âm theo tiếng Nga, ký hiệu ô tô tải do Liên Xô sản xuất mang tên Mô-lô-tốp, nhà ngoại giao Liên Xô.

        2. Tiếng Pháp đọc là "vu": ngôi thứ hai số ít.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 09:21:22 am

        Đỗ Văn Phúc

        Sau trận Bản Mo, tôi được anh Lăng cho một khẩu cầm (kèn harmoniea), còn anh Vũ Lăng được con chó béc-giê to lắm. Anh ấy đi đến đâu nó cũng quấn quít không rời. Lúc đó vào Thượng Lào thiếu gạo, lính đói lắm, không hiểu con chó béc-giê đem giết hay cho ai mất mà không thấy nữa.

        Ngoài ra trong quan hệ với anh Văn, anh Vũ Lăng có mấy kỷ niệm. Khi đánh Điện Biên Phủ, các đơn vị được pháo yểm hộ dữ lắm. Riêng Cl, Đại tướng hỏi:

        - Vũ Lăng cần gì không ?

        Anh Lăng đáp:

        - Bộ cho tý pháo thì tốt.

        Anh Văn cho ba mươi quả 105mm để bắn vào C1. Đại tướng lại hỏi:

        - Anh cần bao nhiêu thời gian đánh C1?

        - Xin anh bốn mươi lăm phút.

        Anh Văn cho sáu mươi phút.

        Có cái hay là lúc đánh C1, anh Lăng chỉ cần ba mươi phút đã lấy được C1.

        Tôi thấy anh Vũ Lăng không chỉ xuất sắc trong chỉ huy mà còn xuất sắc trong xây dựng đời sống tình cảm của bộ đội.

        Mạc Đăng  Nghị ( tức Khoát)

        Tôi cũng chỉ có vài kỷ niệm và nhận thấy anh Vũ Lăng là một con người xông xáo và là người chỉ huy giỏi.

        Sau thất bại Bắc Ninh chỉ một thời gian ngắn, anh Vũ Lăng đã về củng cố đơn vị. Trên đường đi Tây Bắc lên đến Phúc Trìu, được tin anh Vũ Lăng - một cán bộ chỉ huy giỏi của Đại đoàn 308 sang chỉ huy trung đoàn này. Anh Vũ Lăng và trung đoàn bộ đã đi trước, chỉ còn anh Phan Sính - Chính ủy đi với tôi. Ấn tượng sâu sắc của tôi là sau thất bại ở Bắc Ninh, anh Vũ Lăng đã củng cố được trung đoàn, đánh thắng hai trận liền: Bản Trại ngày 14 và Bản Mo ngày 17. Trên đường tiến sang Mộc Châu phải giải quyết đánh Ba Lai trước. Nó là đồn lẻ nhỏ, cao lắm. Ban đêm 2 đến 3 giờ sáng, lính mới đào xong công sự vừa chợp được mắt thì 'tao ngộ chiến" trả được món nợ Bắc Ninh. Đến Điện Biên Phủ ở Nà Sản nó tăng quân. Ta không đánh, về Suối Rút củng cố lực lượng. Đến trận thứ hai này, cái tài tình của anh Vũ Lăng là có sáng kiến bám thắt lưng địch mà đánh. Rút kinh nghiệm ở Thượng Lào, nó cho thả bom na-pan, nên ta sáng suốt bám sát địch mà đánh. Chính kinh nghiệm này sau đánh Mỹ ở miền Nam ta cũng áp dụng.

        Một kỷ niệm nữa tôi còn nhớ là đơn vị mình là bộ binh chuyên đi chân đất. Từ Vạn Mai - Thanh Hóa lên Tuần Giáo, anh Vũ Lăng thương lượng với anh Bằng Giang - Tư lệnh Quân khu Tây Bắc thế nào mà lại điều được xe cơ giới, thế là bộ binh chúng tôi được đi xe cơ giới đi Lai Châu. Bộ đội rất phấn khởi, sau đánh thắng mừng thắng lợi Lai Châu, anh Thư cắt khẩu hiệu mừng chiến thắng ấy. Anh Vũ Lăng ở chiến trường không có thời gian cạo râu, để râu xồm, cười rất vui.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 08 Tháng Giêng, 2017, 09:24:39 am
       
CÁN  BỘ QUÂN ĐOÀN 3 NÓI VỀ THỦ TRƯỞNG VŨ LĂNG

        Lữ đoàn trưởng NGUYỄN HỮU QUỲNH        

        Ông ấy gan cùng mình, tôi thấy ông tướng này lỳ lắm, mà giỏi lắm, miệng nói tay làm, làm đến nơi đến chốn chứ không phải chỉ ngồi nói. Có nhiều tướng rất giỏi nhưng mà chỉ giỏi trên bản đồ. Ông này bản đồ cũng giỏi mà thực tiễn cũng giỏi, cứ ba lô sau lưng, đói thì lấy cái gì đó trong ba lô ra ăn như anh em thôi, không biết trước là thành phần gì, mà tác phong đặc biệt như nông dân, mà phong thái con người ông ấy thì không phải là nông dân. Tôi còn nhớ ông Thiêng đặc công, sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột rủ ông đi khắp nơi, khắp chốn. Tôi can ngăn:

        - Anh đi vậy lỡ chúng bắn lén thì sao.

        Ông cười:

        - Đạn nó tránh mình. Không sao đâu. Cứ đi, sợ chết thì ngồi đó cũng chết.

        Thế là đêm đó mấy người vô một khách sạn. Tầng dưới hai ba xác chết, tầng hai có một xác chết. Vô bên trong nữa thấy buồng tắm có vòi hoa sen, ông thích quá:

        - Bao lâu giờ mới được tắm hoa sen. Tắm đi tụi bay.

        Mọi người đều tắm thật mát mẻ, khoái trá. Tắm xong, ông nói:

        - Thôi tìm chỗ ngủ, mấy khi được ngủ khách sạn, ngủ đi cho sướng một đời.

        - Trời ơi! Ngủ đây sao anh?

        Chúng tôi chắp tay lạy anh, xin mời anh ra vườn cao su. Vừa đi ông vừa ca cẩm. Nói vậy thôi chứ ông cũng vui vẻ ra rừng cao su...

        Phải nói ông là người chu đáo. Đánh Buôn Ma Thuột, cái chỗ tăng pháo qua sông Sê-rê-pốc, ông ra vô mấy lần. Phải tới tận nơi, nhìn tận mắt, chạm tận tay ông mới yên tâm. Ông cẩn thận, tỷ mỷ lắm, bản đồ lơ mơ vẽ sai là chết với ông, ông gạt ngay bắt vẽ bằng đúng mới thôi. Ông giỏi sắp xếp chỗ này chỗ kia đâu ra đấy, việc nào trước, việc nào sau, rất khoa học.

        Cái bữa anh Hoàng Minh Thảo vô, có một số cán bộ đi cùng. Anh Lăng gọi tôi tới:

        - Bữa nay anh Hoàng vô mà không có gì đãi, chỗ cậu có gì không?

        - Lo gì anh, anh cần cái gì có ngay cái đó. Sẵn có rượu đó.

        - Anh Hoàng có uống rượu đâu?

        - Cần thịt thì có thịt. Để tôi bảo thằng Hinh vào rừng bắt là có ngay.

        Quả nhiên Hinh đi một lát xách về hai con chim, ông vỗ đùi khoái quá nói với tôi:

        - Để trên này một con. Dưới cậu làm một con, nhưng phải giữ được bộ lông để sau này làm tặng phẩm.

        Tôi về giao cho một cậu tiểu đội pháo làm thịt, lột da, chích phoóc-môn giữ được bộ lông thật đẹp.

        Phải nói anh Lăng là con người rất mẫu mực, rất nguyên tắc. Khi đó anh Hoàng Minh Thảo mới được phong Trung tướng, anh Lăng đang còn là Thiếu tướng. Một Trung tướng, một Thiếu tướng đối xử mẫu mực đâu ra đấy. Anh là người có kỷ luật, có đạo đức. Tôi thích tính anh ấy vui dễ gần, ông có quát tháo kệ ông, rồi đâu cũng vào đấy.

        Cái bữa đánh Buôn Ma Thuột, tôi là Trưởng ban pháo phụ trách một trăm bảy mươi tám khẩu pháo. Tuy giờ G mọi người đã biết, nhưng anh Lăng vẫn dặn tôi: "Trước khi hạ lệnh bắn, cậu phải nói để mình xin ý kiến anh Hoàng1, chứ cậu đừng có tự động hạ lệnh". Anh Lăng rất thận trọng. Đúng hai phút trước giờ G, anh Lăng lên báo cáo với anh Hoàng. Anh Hoàng bảo ra ngoài quan sát. Trời mây mù dày đặc, trên núi nhìn xuống mù mịt chẳng thấy phố xá. Đáng nhẽ 5 giờ nổ sủng, anh Hoàng lệnh chậm lại Bộ binh xe tăng sẵn sàng cả rồi, chỉ chờ pháo bắn mở đường. Đến 6 giờ, anh Lăng vào xin ý kiến. Anh Hoàng ra lệnh bắn. Anh Lăng ra lệnh bắn. Tôi ra lệnh tiếp: "Bắn".

        Lúc đó pháo mới nổ ran mở đầu trận đánh. Tôi cứ nhớ mãi.

------------------------
        1. Hoàng - Bí danh anh Hoàng Minh Thảo.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Giêng, 2017, 02:23:26 pm

        Trung đoàn trưởng NGUYỄN TRỌNG KÍNH

        Đánh Đức Lập, tôi là Trung đoàn trưởng pháo Sư đoàn 10. Anh Vũ Lăng rất sâu sát đi cùng với anh Quỳnh xem từng khẩu pháo một. Khó nhất lúc đó là đánh vào Núi Lửa, chúng tôi đưa pháo vào sát tận nơi chỉ cách ba trăm mét. Anh Vũ Lăng khen đưa pháo vào gần thế là tốt, cách hai trăm mét mà dân vẫn không hề biết gì, bí mật tốt, nhưng bắn thế nào mới là quan trọng. Anh Lăng vỗ vai tôi bảo:

        - Cậu biết đây là dân gì không? Dân công giáo đấy.

        - Quê cậu ở đâu?

        - Tôi ở Nghi Lộc

        - Đây là dân Xã Đoài. Sau giải phóng nhớ xuống mà nhận đồng hương.

        Quả nhiên sau giải phóng người ta rầm rộ đến hỏi tôi.

        Thấy tôi người Nghi Lộc, bà con mừng lắm lui tới thăm hỏi tôi luôn.

        Anh Vũ Lăng là người rất lạc quan. Khi chưa vào chuẩn bị bắn thẳng vào Núi Lửa, anh hỏi một chiến sĩ:

        - Đưa súng đạn vào tới đây rồi thì bắn như thế nào?

        Chiến sĩ nhanh miệng đáp:

        - Thưa thủ trưởng, một viên đạn một quân thù.

        Anh Vũ Lăng cười to:

        - Chết rồi! Đạn pháo mà một viên đạn một quân thù thì rẻ quá. Mỗi viên đạn pháo phải mấy chục, mấy trăm quân thù mới xứng.

        Mọi người cùng phá lên cười. Chiến sĩ nhà ta thuộc lòng quen miệng mà.

        Hồi đó anh Vũ Lăng có dặn:

        - Đây là trận mở màn, trận khơi ngòi, nổ phát súng đầu tiên các cậu phải giữ lại khẩu pháo này để đưa vào viện bảo tàng lịch sử. Đây là khẩu pháo mở đầu cho năm mươi lăm ngày đêm mà.

        Nhưng bây giờ khẩu pháo này đang ở đâu không ai biết.

        Hồi đó anh Vũ Lăng là Tư lệnh. Anh Hồ Đệ là Sư trưởng Sư đoàn 10.

        Tác phong của anh Lăng rất tỷ mỷ, sâu sát, rất quan tâm đến đời sống của chiến sĩ.

        Sau hòa bình về chỗ Ninh Hòa, ở đèo Dã Tượng, tức đèo Bạch Mã mà hồi trước quân Nam Hàn đóng ở đó, anh Lăng giao nhiệm vụ đi lấy ống nước bắc nước từ Ninh Đông về cho bộ đội uống. Bốn cây số chứ ít đâu. Quân đoàn cấp cho tôi cái giấy vào Sài Gòn mua ống nước. Khi đó đang đánh "tư sản", kho tàng hàng hóa quản lý chặt lắm. Chúng tôi trình bày đây là lệnh của Quân đoàn trưởng, chúng tôi phải chấp hành, thế là được vào kho lấy hàng ra, trả tiền sòng phẳng. Công an đến cũng không làm gì được nhưng khi mang về đến nơi, ống nhỏ không ăn thua, anh Lăng bảo phải có ống to, đường kính ít phải ba mươi phân mới đủ đưa nước về cho bộ đội. Thế này thì còn có nước đi lấy ống dẫn dầu của 559 vứt lại từng đống ở Tây Nguyên. Tôi lại tổ chức một đoàn đi tập kích đem về, thành công tốt đẹp được anh Vũ Lăng phấn khởi biểu dương. Phải nói anh Lăng rất mạnh bạo, miễn là được việc. Anh rất quan tâm đến chiến sĩ từ miếng cơm, từ manh áo, từ hụm nước. Mỗi khi xuống thấy bộ đội khổ là anh quát luôn:

        - Sao lại để bộ đội khổ thế này?

        Gần anh học được rất nhiều điều.

       
        Đại tá NGUYỄN MINH KHANG

        Thời gian tôi trực tiếp ở với anh Vũ Lăng cũng không nhiều nhưng biết tiếng từ lâu rồi, tiếp xúc trực tiếp là từ khi vào Tây Nguyên. Tôi ở Sư đoàn 320, đến năm 1973 lên cơ quan chính trị B3 làm Phó chủ nhiệm chính trị, hàng ngày giao ban đều gặp. Anh là con người gây nhiều ấn tượng, gặp một lần không hề quên. Khi đánh Buôn Ma Thuột - chiến dịch mở đầu cho giải phóng miền Nam, anh Vũ Lăng là Tư lệnh của Tây Nguyên, anh Thảo làm phái viên của Bộ Tổng Tư lệnh. Đến chiến dịch đánh Buôn Ma Thuột, anh Thảo là Tư lệnh, anh Lăng là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng. Anh Thảo là con người rất đức độ, rất điềm tĩnh. Anh Lăng là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng nên tất cả đầu mối đều thông qua anh Vũ Lăng. Khi anh em có ý kiến này nọ, anh Vũ Lăng gạt đi: "Ý kiến của anh Thảo là quyết định tối hậu, đừng có bàn cãi''. Anh ấy rất phục thiện, rất khiêm tốn. Về sau mọi người nói với tôi là anh Lăng là người khiêm tốn, biết điều, rất tôn trọng anh Hoàng Minh Thảo. Khía cạnh thứ hai, con người Vũ Lăng có mặt kiên quyết, có mặt lạnh lùng, nhờ đó tạo cho Vũ Lăng trở thành một vị tướng có tiếng tăm. Anh ấy là một con người rất tình nghĩa, rất khiêm tốn. Khía cạnh thứ ba, anh Vũ Lăng trong đời thường là con người rất tình cảm. Anh ấy có đặc điểm là rất quan tâm đến cán bộ. Cái thời kỳ Quân đoàn 3 về đây, chúng tôi đều là dân chủ lực cơ động mà. Trước đây, tôi là Chính ủy Trung đoàn ở Sư đoàn 312, sau được điều về làm Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 320, cứ đi lang thang không có nhà. Vào đây bán hết, "chổi cùn rế rách" đi mua nhà. Thấy tôi có vẻ băn khoăn, anh Lăng hỏi tình hình. Tôi có vợ ở miền Bắc. ông ấy bảo được rồi để xem thế nào. Chính anh Vũ Lăng cho xe đón tôi đi tìm nhà ở Nha Trang, đi hai lần hết ngõ nọ đến ngõ kia. Tôi bảo: "Thôi để tự tôi tìm được nơi nào mời anh đến cố vấn cho tôi". Tôi ở trong Đảng ủy Quân đoàn nên khi họp anh cũng biết tôi. ông ấy bảo thế cũng được. Sau tìm được cái nhà ở chùa Long Sơn, nhà hai tầng. Anh bảo: "Nào đưa tớ đi. Công việc ấy đối với ông là lớn. Nào đi!". Đến tận nơi, ông ấy bảo rằng được nhưng hơi buồn tý, gần chùa mà. Chứng tỏ anh Lăng là người tình cảm. Ở Nha Trang có thời kỳ đá bóng, Sư đoàn 10 đã có cậu trợ lý thể thao làm trọng tài, bắt thế nào mà cãi nhau ở sân, ông ấy bực quá vì có cả Tỉnh ủy dự, ông ấy gọi cái anh ấy lại hỏi:

        - Anh có biết chơi đá bóng không? Nếu không giải tán đi.

        Ông ấy rất là nghiêm. Cậu trợ lý thể thao hốt lắm.

        Đó là hai mặt của con người Vũ Lăng rất nghiêm mà cũng rất tình cảm.

        Anh Vũ Lăng còn là con người có tâm hồn lãng mạn, rất thích hoa phong lan, phủ đầy một nóc nhà vừa chơi vừa để ngụy trang luôn. Có hôm trời mưa, chống gậy đi qua suối chỉ khoe:

        - Mình tìm được dò phong lan hay lắm.

        - Nhà chúng tôi cũng nhiều phong lan treo đầy phi điệp tai trâu, đuôi chồn, vẩy rồng...

        - Không, tớ có cái lạ: hài vệ nữ.

        Ông ấy không phải là cái anh chỉ biết võ biền, rất là yêu văn hóa, yêu thiên nhiên. Ông ấy tâm sự với tôi mà tôi không phải ngang hàng, là cấp dưới. Ông ấy kể chuyện đi xem chùa Tây Phương có rất nhiều kỷ niệm, ông tả các pho tượng, một tượng gầy, một tượng béo rất sinh động - đúng là một di tích lịch sử hiếm có, ông quan tâm đến văn hóa rất là sâu.

        Thông qua anh Lê Hữu Đức, tôi biết anh Lăng là người tình cảm, có trình độ thẩm mỹ về văn hóa.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Giêng, 2017, 02:27:44 pm

        Đại tá NGUYỄN QUANG LONG

        Hội nghị tổng kết chiến trường B3 đầu tháng 11 năm 1973 tại sở chỉ huy B3 Tây Nguyên gồm cán bộ sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và các trưởng ban ngành  khoảng hai trăm người do đồng chí Vũ Lăng chủ trì. Thời gian một tháng tổng kết chỉnh huấn quân sự, tập huấn chiến dịch chuẩn bị cho hai năm 1974 và năm 1975. Cũng là dịp bồi dưỡng vật chất, tăng sức khỏe cho cán bộ. Quân y lúc đó có đầy đủ cả sâm viên, sâm bột, polyvitalrlin, rau xanh. ăn ngon lắm, có nhiều chất bổ dưỡng: sữa, thịt, mỡ. Ăn mãi cũng chán vì nặng bụng.

        Một hôm để nhẹ bụng, tôi báo ăn cháo thịt. Đúng hôm đó tướng Vũ Lăng đi kiểm tra bếp, cùng đi có đồng chí Tỷ, bác sĩ quân y già tóc bạc và các sĩ quan tham mưu. Đồng chí Vũ Lăng thấy thức ăn nguội ngắt, không có lồng bàn che, có mấy con ruồi bay vo ve, tỏ ý không hài lòng. Thấy tôi đang ăn cháo, đồng chí hỏi:

        - Tại sao đồng chí ăn cháo?

        Bị hỏi bất ngờ, tôi lúng túng trả lời đại, nói dối là đau bụng.

        Đồng chí Vũ Lăng vốn tính nóng phê bình ngay nhà bếp:

        - Đấy thấy chưa? Không giữ vệ sinh đầy đủ, không có lồng bàn, ruồi nhặng thế kia làm sao tránh khỏi đau bụng.

        Giá như tôi không nói dối, thì nhà bếp có bị quở phạt cũng nhẹ nhàng hơn.

        Hôm sau nhà bếp liền khắc phục ngay, có lồng bàn đầy đủ và có người tới đủ mâm mới chia thức ăn để được nóng sốt.

        Chuyện nhỏ nhưng sau này tôi nhớ mãi và ân hận mãi.

        Tháng 2 năm 1975, chuẩn bị mở chiến dịch Tây Nguyên, đồng chí Vũ Lăng tuy tuổi đã cao, đích thân cùng cán bộ tham mưu, trinh sát trực tiếp đi quan sát trận địa. Xuyên rừng lội suối rất vất vả. 3 giờ 30 phút chiều mới tới địa điểm để quan sát quận lỵ Đức Lập. Mọi người đều mỏi  mệt, nghĩ rằng trời sắp tối, xin Tư lệnh cho nghỉ ngơi, sáng mai lên quan sát trận địa. Anh Lăng quyết định chỉ nghỉ giải lao mười lăm phút. Lúc đó mây kéo đến, che kín bầu trời, che lấp các ngọn núi, che lấp hết các mục tiêu. Mọi người rất lo lắng cho sức khỏe của Tư lệnh Vũ Lăng.

        Đồng chí vẫn bình tĩnh vui cười. Có người đề nghị:

        - Để đảm bảo sức khỏe cho thủ trưởng trước khi vào trận đánh, xin phép Tư lệnh cho phép công binh khiêng Tư lệnh lên núi.

        Đồng chí Vũ Lăng cười:

        - Tớ còn khỏe chán, có phải là thương binh đâu! Các cậu cứ cố gắng mà theo kịp tướng già này!

        Nói rồi đồng chí chống gậy, phăng phăng leo núi. Mọi người quên hết mệt nhọc leo theo. Đến đỉnh núi hơn 4 giờ chiều. Trời vẫn còn sáng. Gió đã thổi quang mây, nhìn xuống quận lỵ Đức Lập, các mục tiêu rõ mồn một. Tư lệnh và cán bộ tuỳ tùng rất phấn khởi. Căn cứ tình hình quan sát được Tư lệnh quyết định nơi đặt đài chỉ huy pháo binh, bố trí giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng đơn vị. Nắm chắc tình hình trong tay, chỉ huy và chiến sĩ đều tin tưởng chỉ ngày mai thôi, nổ súng là quản ta sẽ thắng to. Sự việc trên chứng tỏ đồng chí Vũ Lăng tuy tuổi đời không còn trẻ, vẫn rất minh mẫn, sáng suốt và xông xáo. Trận đánh quận lỵ Đức Lập thắng lợi giòn giã là tiếng kèn xung trận mở màn cho nhiều chiến dịch liên tiếp.


        Đại tá KIỀU TỐ

        Để chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên, anh Quách ở Hà Nội điện vào khu cánh Nam phải chuyển một tấn gạo sang Sê-rê-pốc.

        Khi đó anh Lăng chưa vào.

        Tôi là Tham mưu trưởng hậu cần vào trước để chuẩn bị chiến trường. Một hôm bất ngờ thấy có chiếc xe Bắc Kinh ở ngoài xuống thẳng chỉ huy sở hậu cần. Một người ló đầu ra hỏi:

        - Khu cánh Nam B3 phải không? (về sau mới biết là tướng Vũ Lăng). Tình hình chuẩn bị thế nào?

        - Báo cáo anh mỗi đêm hậu cần tiếp nhận hai trăm xe. Ông ấy đòi đi xem ngay hai nơi: kho vũ khí và kho thực phẩm.

        - Đường sá thế nào?

        - Dạ, chỗ nào xe không đi được thì đi bộ.

        - Nào ta đi!

        Tôi dẫn tới nơi, cây cối um tùm, không thấy cả đường xe đi vì lấp kín lá ngụy trang. Các kho đều nửa nổi nửa chìm, lá rừng phủ kín. Đồng chí Vũ Lăng hỏi:

        - Chuẩn bị chiến trường mất bao lâu?

        - Báo cáo, riêng trinh sát mất cỡ hai ba tháng. Sau đó Bộ Tư lệnh 559 đưa vào hai tiểu đoàn vận tải, một tiểu đoàn công binh nên tiến độ nhanh hơn.

        Anh Lăng vỗ vai tôi khen:

        - Tốt, cố gắng, tuyến sau phải góp sức cho tuyến trước.

        Chúng tôi mời anh uống nước và ăn sáng. Anh ấy là Tưlệnh, cấp trên nhưng rất sâu sát đối với hậu cần chiến dịch. Chúng tôi chỉ là cánh lẻ, bộ phận nhỏ mà anh cũng tới tận nơi hướng dẫn, khuyên răn, quan tâm đến sức khỏe anh em, tình hình xe cộ ...

        Sau khi chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi hoàn toàn, tôi ở lại thu dọn chiến trường rồi về dự tổng kết đại thắng ở Bình Dương.

        Anh Lăng gọi tôi lên hỏi:

        - Nhiệm vụ được phân công như vậy, cậu thấy sao?

        - Nhiệm vụ Đảng giao thì tôi xin nhận.

        Anh lại cười vỗ vai tôi:

        - Cố gắng lên, thời cơ lớn đã điểm rồi. Đất nước sẽ hoàn toàn thống nhất sạch bóng quân thù.

        Một ấn tượng sâu sắc nữa mà anh Lăng để lại trong lòng tôi là khi anh Thông - trợ lý quân nhu hậu cần không may bị tai nạn hy sinh. Anh Lăng chỉ thị phải lo tang lễ và chính sách chu đáo. Đích thân anh lên xe tiễn đưa anh Thông ra nghĩa trang Đức Lập. Anh là người luôn quan tâm đến cấp dưới, đến toàn đơn vị. Không chỉ lo hôm nay mà còn lo cho tương lai. Nhờ có anh Lăng mới có Nhà khách Học viện 36 Trần Phú, Nha Trang.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 09 Tháng Giêng, 2017, 02:31:06 pm

        Trung tá công binh NGUYÊN THÚY TRÌNH

        Tôi là lính, là cán bộ cấp dưới, cũng may mắn gặp được thủ trưởng Vũ Lăng nhiều lần kể từ năm 1965, lúc đó anh Vũ Lăng làm Tham mưu trưởng ở Krông Pút đi theo Sư đoàn 325c, có anh Kim Tuấn là Chính ủy. Anh Lăng là cố vấn chỉ đạo chiến đấu từ năm 1963, sau đó vào Thừa Thiên. Đời lính tôi không bao giờ quên, mình là cấp dưới phải luôn giữ bí mật quân sự. Thủ trưởng Vũ Lăng đang đi trên đường cùng với Chính ủy Kim Tuấn, gặp tôi hỏi:

        - Cậu đơn vị nào?

        Tôi báo cáo xong, lại hỏi:

        - Học ở trường nào?

        Tôi trả lời đầy đủ.

        Năm 1973 tôi từ trong chiến trường ra Bắc, có tới nhà riêng anh Vũ Lăng ở Lý Nam Đế, Hà Nội. Gần tết Trung thu, thủ trưởng Vũ Lăng vào chiến trường B3, tôi ở công binh thường được gặp, được giao nhiệm vụ cụ thể. Đồng chí Lê Huy Ngọ là Trưởng ban công binh, tôi là trợ lý. Mới vào hôm trước, hôm sau anh Lăng đã gọi:

        - Ban Công binh cho mượn cái bản đồ tác chiến của công binh, gồm các mạng đường sá của Tây Nguyên, bao gồm cả ba tỉnh.

        Trưởng ban cử tôi xách bản đồ lên. Tôi vừa đi vừa lo, sợ bị chất vấn không trả lời được. Nhưng rồi hỏi đâu tôi trả lời đó, cũng tương đối chính xác vì mạng đường sá ở Tây Nguyên từ Ba Bể, Gia Lai, Kon Tum đi đâu tôi cũng có bạn, cũng nắm được đường A, đường B, đường ngang, đường dọc, trình bày đầy đủ. Lúc đầu tuy có sợ nhưng thủ trưởng rất vui vẻ bắt tay hỏi

        - Cậu vô công binh khi nào? Đường sá làm từ bao giờ? Đường 128 làm ở đâu? Đường 90 làm năm nào? Đường 70...

        Trình bày được hết, thủ trưởng hài lòng:

        - Thôi được, cậu về đi!

        Trên đường về cứ nghĩ thì ra thủ trưởng cũng dễ gần và vui tính.

        Ngày 10 tháng 3 năm 1975, giải phóng Buôn Ma Thuột. Tôi vinh dự được cử đi giao ban Bộ Tư lệnh. Bước vào trong một cái hầm thấy đông đủ trợ lý phòng ban. Lúc giao ban, tác chiến báo cáo trước rồi các đơn vị khác tiếp theo. Đến phần tôi, thủ trưởng hỏi:

        - Nhiệm vụ công binh bây giờ đi đến đâu, làm những gì?

        Tôi cũng lo nhưng may quá tôi vừa nhận được điện thoại dưới trung đoàn báo về, tiểu đoàn công binh phát triển từ Buôn Ma Thuột đang đi xuống sân bay Hòa Vĩnh, tôi nói lại.

        Thủ trưởng hỏi:

        - Có chắc không đấy?

        - Dạ chỉ huy sở trung đoàn báo cáo vậy.

        Thủ trưởng lại hỏi:

        - Công binh đi mang theo những gì?

        - Dạ ngoài súng cá nhân, toàn dụng cụ dao, xẻng, cuốc đầy đủ. Thủ trưởng gật đầu hài lòng. Tôi thấy thủ trưởng là con người có tác phong rất cụ thể, tỷ mỷ, sâu sát và kiên quyết.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2017, 10:35:44 am
             
CUỘC GẶP MẶT CÁN BỘ Ở HỌC VIỆN LỤC QUÂN VỚI GIA ĐÌNH TƯỚNG VŨ LĂNG

        1. Trung tướng KHIẾU ANH LÂN

        Tôi biết tiếng anh Vũ Lăng từ lâu, từ thời kỳ anh làm Cục trưởng Cục Khoa học quân sự. Lúc đó tôi là giáo viên của học viện hay đi công tác ở Cục Thông tin và Cục Tuyên huấn nên được gặp anh luôn. Khi anh về làm Giám đốc học viện thì tôi lại đi chiến trường, ở bên anh không nhiều nhưng tôi có một kỷ niệm vui như sau:

        Trong chiến dịch Quảng Trị, tôi là Phó phòng tác chiến, trực ban chiến đấu, có nhiệm vụ tối tối phải báo cáo ra Cục Tác chiến về tình hình chiến sự ở trong này. Anh Vũ Lăng trực tiếp nghe báo cáo. Anh hỏi tôi:

        - Cậu có nói được tiếng Nga không? Báo cáo bằng tiếng Nga đi !

        Tôi trả lời:

        - Tiếng Nga tôi chỉ nghe lõm bõm được thôi, còn nói thì ú ớ lắm, không báo cáo bằng tiếng Nga được với anh đâu!

        - Vậy thì tình hình địch ra sao?

        Tôi nói:

        - Nó đánh không ra đánh, hoãn không ra hoãn gì cả. Các tướng lĩnh trong này đang bàn tán.

        Anh Lăng nói to:

        - Ấm a ấm ớ gì thế ?

        Biết anh nóng tính, tôi chỉ cười.

        Sau chiến dịch, đầu năm 1973, tôi về Hà Nội. Hai anh em gặp nhau, anh Lăng cười xòa dàn hòa:

        - Mình nóng vậy thôi, anh em với nhau không có gì đâu đừng giận nhé .

        Tính anh Lăng là vậy, nóng đấy, nhưng xong việc lại thân mật ngay.

        Khi tôi làm Tư lệnh 479 ở bên nước bạn, gặp chị Hoa, tôi có mời anh chị sang, lên 479 chơi tiện để thăm Ăng-ko luôn, nhưng không thấy anh chị sang.

        Sau tôi về Học viện Đà Lạt, anh Lăng có hỏi tôi:

        - Theo ý cậu, muốn đào tạo giáo viên cho học viện thì phải làm thế nào?

        Tôi đáp:

        - Anh nên chọn một số học viên khá, có triển vọng, cho đi thực tế chiến trường vài năm, kết hợp học với hành rồi rút về. Số này mình phải chấm, đừng để Cục Cán bộ điều đi.

        Anh gật gù:

        - Ừ hay đấy, cứ thế mà làm.

        Anh Vũ Lăng với tôi vừa là quan hệ thầy trò, vừa là anh em, mắng mỏ đấy nhưng rất thân tình. Anh nóng tính nhưng rất được anh em nể phục.

        Cuối thời kỳ ở 479.

        Anh Vũ Lăng hỏi tôi:

        - Cậu có về học viện nữa không? Nếu cậu về học viện thì tớ ở đấy vài năm nữa.

        Tôi trả lời:

        - Tôi ở học viện lâu rồi, đã thoát ra được không muốn trở lại.

        Không ngờ lúc đó, trong quy hoạch người thay thế, anh Vũ Lăng có hỏi ý kiến anh em và anh em "đề cử Khiếu Anh Lân".

        Khi đoàn cán bộ nhà trường sang công tác bên Cam- pu-chia, tôi hỏi một anh bạn cũ từ Khu 5, có chuyện dự định đưa tôi về trường không? Anh này nói trước kia có dự định nhưng sau thấy có ông Trần Bá Khuê lại thôi. Rồi bất ngờ năm 1991 lại có quyết định tôi về trường. Tôi ở Đà Lạt khí hậu không hợp với sức khỏe. Trước tôi là giáo viên cũ của học viện. Bây giờ về bạn bè cũ đi hết rồi, toàn giáo viên mới, nhưng rồi tôi cũng phải chấp hành điều động của tổ chức.

        Tôi xin kể mọi chuyện vui. Tôi bắt gặp anh Vũ Lăng với anh Hồng Sơn - Cục trưởng Cục Quân huấn, cãi nhau chỉ vì một trận bóng đá Ru-ma-ni đá với ta, trọng tài ấm ớ để ta thua. Anh Vũ Lăng nói:

        - Ta thua, cậu là quân huấn, trọng tài trong tay cậu mà lại để thua - ông ấy nói thắng không úp mở gì cả.

        Hai ông lúc ấy là tướng cả rồi vẫn là "cậu, tớ" như thường.

        Tài năng anh Vũ Lăng rất nhiều vẻ, không chỉ trong chiến lược và chiến thuật, lĩnh vực nào anh có ý kiến là phát biểu tới cùng, cãi tới cùng.


        2. Đại tá HOÀNG MINH ĐĂNG

        Năm 1948, tôi ở Học viện Trung sơ cấp, một lần đi qua đèo Nhe gặp tiểu đoàn các anh ấy đi ngược chiều lại, thấy cả anh Vũ Yên, anh Vũ Lăng. Mới độ quãng 3 giờ chiều, các anh đã hạ trại bên cạnh đường, căng lưới để đánh bóng chuyền.

        Nghe một số anh nói chuyện các anh ấy đã đánh đồn Dóm, Phố Ràng và sau này một thị trấn của Tây Bắc. Năm 1965, anh Lăng về làm Phó Tư lệnh Quân khu 4. Chúng tôi với anh Lăng cùng một chi bộ. Lúc bấy giờ về mặt tác chiến là phải làm việc cẩn thận lắm, chứ mà lơ mơ anh ấy hỏi không báo cáo được tình hình thì gay, nên cứ phải suốt đêm chuẩn bị thật chu đáo để báo cáo.

        Năm 1965, anh được lệnh đi B, đi với Sư đoàn 325, ở đấy có anh Trân và một số các anh, tôi hỏi:

        - Bao giờ anh cho tôi đi với?

        Anh bảo:

        - Chờ một thời gian.

        Anh lấy anh Nam làm thư ký. Vào đến A Sầu, A Lưới thì đánh trận đầu tiên ở cao điểm đó. Sau đó Sư đoàn 325 đi vào còn anh Lăng thì quay lại, về quân khu. Năm 1966, chúng tôi đi vào mặt trận Quảng Trị, anh Lăng ở đấy một thời gian sau đó về Bộ. Lúc vào Thừa Thiên, trung đoàn tôi sau năm 1968 có đi ra nam Quảng Bình rồi sau đi tiếp vào Khu 5. Trên đường đi, đi đường nào, phân công ra sao, mọi việc báo cáo về Bộ đều gặp anh Vũ Lăng ở Cục Tác chiến. Lúc đó hai trung đoàn: Trung đoàn 3 Gio An, một trung đoàn của Quân khu 4 vào đến nơi, các anh quyết định Trung đoàn 3 Gio An đi về Khu 5, còn trung đoàn của Khu 4 lên Tây Nguyên. Cuối cùng đi đến nơi về đến chốn, anh Lăng có điện khen chúc may mắn, hoàn thành nhiệm vụ.

        Tôi về học viện năm 1974. Năm 1975, tôi lại ra chiến trường. Cuối năm 1975, về lại học viện. Một thời gian, các anh giao sang Phòng Hành chính. Năm 1978, đi đón anh Vũ Lăng. Anh hỏi:

        - Sao cậu ở tác chiến, ở quân huấn, mà lại sang hành chính?

        - Do yêu cầu tổ chức đặt đâu thì làm ở đấy.

        Những ngày tôi ở bên anh Vũ Lăng là như vậy.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2017, 10:40:42 am
          
       3. Đại tá NGUYỄN TÀO HỒNG

        Những lúc ngồi một mình, tôi hay suy nghĩ lại những ngày sống và làm việc với anh Lăng.

        Tôi cũng đã nghe tên và gặp anh ở Cục Tác chiến, lúc ấy anh ở Cục Nghiên cứu quân sự.

        Năm 1972, tôi cùng anh vào chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa. Năm 1978, tôi về Học viện Đà Lạt, lúc đó anh Võ Như Thiết, rồi sau đó anh Hoàng Minh Thảo về. Anh Vũ Lăng về học viện năm 1978.

        Năm 1973 tôi về học viện là cán bộ khoa trưởng. Anh Vũ Lăng về thì tôi lên Cục Huấn luyện ở Học viện Quân sự.

        Khi tôi về Học viện Đà Lạt thì được phân công phụ trách Phó cơ sở II Long Bình. Nghĩ lại thấy quan hệ trên dưới tốt đẹp, không có chuyện gì.

        Về anh Vũ Lăng có hai điểm tôi nhận thấy:

        Một là bề ngoài anh rất khắc khổ, có vẻ nghiêm khắc khó gần. Ông ấy đeo kính trễ sống mũi, cứ đưa mắt dòm dòm. Nói chung lính thường tránh không dám gặp, ít thấy anh ấy cười nên lính sợ cái uy của anh ấy, chứ thực tế nội tâm của anh ấy rất tốt. Chúng tôi phải học anh ấy cái gọi là "lệnh không lời". Chỉ cần nhìn thấy anh ấy là biết nhiệm vụ của mình cần phải làm gì. Nếu bản thân mình có gì chưa mẫu mực thì phải tự sửa.

        Anh là con người rất tình cảm, nhưng không phải là ai anh ấy cũng trao đổi đâu. Có hôm tối thứ bảy, anh điện thoại xuống bảo:

        - Tào Hồng có xem báo thì sang đây! Bà Hoa ở Hà Nội có gửi vào, cả rượu mơ chùa Hương nữa.

        Tôi rang một bơ lạc mang sang cùng với một chai "Lúa mới" của bạn ở Hà Nội gửi vào cho.

        Anh Lăng thấy tôi vui vẻ hẳn lên:

        - Vào đây! Vào đây! Chết rồi, quên không bảo rang lạc.

        Tôi đưa lạc ra. Hai anh em cười vui cùng nhau say sưa trao đổi chuyện đời. Cùng nhau uống chút chút cầm chừng, anh tâm sự hồi còn ở Bắc Ninh, thì ra tuổi thơ ấu của chúng tôi đều giống nhau và anh Lăng còn may mắn hơn. Chúng tôi hiểu nhau sâu hơn nên vào làm việc rất tình cảm.

        Anh Lăng là người cần kiệm liêm khiết thường bỏ tiền túi ra, anh em rất khâm phục.

        Anh Lăng lo lắng cho anh em, nhìn xa trông rộng: nào lập nông trường, nào phát triển chăn nuôi, thả cá. Anh thân tình động viên chúng tôi nên đưa gia đình vào Đà Lạt, có an cư mới lạc nghiệp. Anh bảo tôi:

        - Thiết gì cái nhà ở Thủ đô nhỏ xíu ấy?

        Nhưng hoàn cảnh gia đình tôi không ở Đà Lạt được.

        Nghe nói ở Quân đoàn 3, anh hét ra lửa. Nhưng ở học viện có lẽ là môi trường khác chăng, chưa thấy quát ai hay đập bàn đập ghế bao giờ. Có gì không vừa ý, anh chỉ xịu mặt ra thôi.

        Năm năm ở Học viện và bốn năm ở Long Bình, tôi thấy anh Vũ Lăng ở phong cách làm việc là người muốn giữ nguyên tắc và nền nếp của quân đội. Thời kỳ tôi ở Long Bình, lúc ấy cả nước khó khăn, không riêng gì học viện. Khi tổ chức trung đoàn huấn luyện, có anh em dao động. Anh Vũ Lăng nói với anh Trân và anh Hoàng Lê : "Trong lúc khó khăn càng phải chặt chẽ về giờ giấc, về ăn mặc, giữ gìn quân phong quân kỷ của bộ đội". Anh Vũ Lăng xuống kiểm tra thấy tốt, bắt tay và nói: "Cứ thế mà làm".

        Anh Lăng là nhà lý luận nhưng lại trực tiếp chiến đấu, nên anh luôn gắn lý luận với chiến trường. Những bài giảng, những tưởng định của anh đều lấy thực tế để chứng minh lý luận. Có buổi anh đến dự giờ nghe giảng "Trung đoàn tiến công", thấy giảng viên nói toàn lý thuyết, anh tỏ ý bực mình. Về sau, trung tá giảng viên phải giảng theo đúng ý anh, nghĩa là nhà trường phải gắn liền với thực tiễn.

        Anh có tác phong đi sâu đi sát trong công tác huấn luyện, trực tiếp dẫn học viên đi làm bài tập ở thao trường. Anh là người đi sâu đi sát vậy, mình làm sao ngồi bàn giấy được!

        Tôi rất đồng tình với anh về nhiều điểm, có lẽ do anh trưởng thành từ thấp lên cao nên anh kết hợp tốt lý luận với thực hành. Khi xây tưởng định, anh đề nghị phải cho giải trình. Rồi anh hỏi:

        - Ý kiến anh thế nào?

        Anh rất chịu nghe ý kiến cấp dưới.

        Có lần sau khi tập thể thảo luận, anh Vũ Lăng đúc kết có điểm tôi thấy chưa thỏa đáng, nhưng tôi không phát biểu ngay. Đến tối tôi mới sang xin gặp và trình bày rõ ý kiến của mình. Anh thấy phải, nghe ngay và hôm sau thông báo lại, hóa ra được việc.

        Khi tôi vào Đà Lạt, Cục Tổ chức nói chỉ vào vài năm thôi, rồi Bộ điều về. Bộ Tổng Tham mưu. Nhưng anh Vũ Lăng bảo:

        - Học viện đang rất cần anh, để tôi xin anh Hoàng Văn Thái ý kiến của anh thế nào?

        Tôi còn ý kiến thế nào được nữa. Anh Lăng giữ tôi lại vì công việc của học viện.

        Lần thứ hai tôi được điều ra học lớp bổ túc một năm, anh Lăng cũng giữ không cho đi. Anh bảo:

        - Cậu đã học Phrun-de1 (trường quân sự ở Liên Xô) rồi, cần học gì nữa.

        Tôi vì công việc và cũng muốn gần anh nên thôi.

        Tôi định năm 1988 về hưu vì có việc gia đình. Cục lại bố trí tôi lại làm việc đến năm 1990. Tôi gặp riêng anh Vũ Lăng trình bày hoàn cảnh gia đình sau bốn mươi ba năm phục vụ trong quân đội, tôi có nguyện vọng được về củng cố gia đình, củng cố hậu phương. Anh Lăng rất thông cảm đem ra bàn bạc trong Đảng ủy nên tháng 4 năm 1988, tôi được về hưu.

------------------------
        1 Phrun-de: tên đầy đủ là Mi-kha-in Va-xi-ê-vic Phrun-de (1885 - 1925), đảng viên Đảng Cộng sản Nga từ năm 1904, vị tướng và nhà lý luận lỗi lạc của quân đội Xô Viết trong những năm nội chiến. Một học viện quân sự của Liên Xô đã lấy tên ông đặt cho trường.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 10 Tháng Giêng, 2017, 10:46:39 am
     
       4. Đại tá NGUYỄN HỮU ĐẠT

        Tôi đã trải qua làm việc với nhiều cán bộ, riêng với anh Vũ Lăng, tôi rất cảm phục.

        Anh là vị tướng giỏi cả chiến lược và chiến thuật. Anh chỉ đạo biên soạn tài liệu giáo khoa ở Học viện Đà Lạt rất công phu, rất đầy đủ về binh chủng hợp thành, tưởng định chiến dịch, anh góp nhiều ý kiến sắc bén nên khiến anh em tâm phục khẩu phục.

        Anh làm việc từ 8 giờ sáng đến 10 giờ đêm Anh lại tuổi cao nên đã lôi cuốn chúng tôi cả khoa giáo viên cũng lăn vào công việc như anh. Chính anh đã có đóng góp cho học viện tiến lên chính quy hiện đại.

        Thấy tôi và anh Hòe ăn mặc lôi thôi, anh bảo:

        - Các cậu cấp tá sao ăn mặc thế?

        Anh là Viện trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy bao quát từ nhỏ đến lớn. Anh cho thổi kèn La-vầy1 là một biểu hiện chính quy, chú ý rèn luyện bộ đội bỏ tác phong du kích. Anh sẵn sàng đưa ra Tòa án Lâm Đồng thẳng tay trừng trị tội ăn cắp của công nên có tác dụng giáo dục cao.


       5. Đại tá BẢO CƯỜNG

        Tôi học Võ bị về làm Bí thư riêng cho anh Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng. Một hôm, có dịp đi qua vùng tiểu đoàn anh Vũ Lăng đóng. Tôi cưỡi ngựa, anh Hoàng Văn Thái cũng cưỡi ngựa. Chợt anh Thái dừng lại kêu: "Vũ Lăng! Vũ Lăng", thấy một ông bé nhỏ mà râu quai nón. Đấy là lần đầu tiên tôi được gặp anh Vũ Lăng.

        Sang lần thứ hai, tôi biên soạn tài liệu "Trung đoàn tiến công". Chính anh Vũ Lăng đề nghị cho tôi được Bằng khen của Bộ.

        Lần thứ ba được gặp anh là ở Học viện cấp cao, anh Vũ Lăng gặp tôi bảo:

        - Mời anh vào Học viện Đà Lạt làm phó cho tôi.

        Tôi suy nghĩ rồi nói:

        - Cảm ơn anh, con tôi còn nhỏ, chưa học xong đại học.

        Rồi một hôm tôi đi xem phim ở trên đường Cửa Nam ra Cửa Bắc, phim của Tổng cục Chính trị, gặp anh Vũ Lăng, anh nói:

        - Bây giờ mình chỉ có đôi mắt xem phim mà cũng cấm.

        Sau tôi học ở Nga về làm Tham mưu phó Mặt trận B5. Anh Vũ Lăng về làm Phó Tư lệnh Quân khu 4. Mặt trận B5 lúc bấy giờ dưới quyền Quân khu 4, tôi thấy một số người xì xào thế thôi chứ không được rõ.

        Đến năm 1979 - 1980, lúc đó đang làm Tham mưu trưởng Quân đoàn, tôi về trao đổi với vợ tôi là sẽ vào Đà Lạt - không phải vì địa vị gì đâu - chỉ làm giáo viên mấy năm sau về. Lúc xin ý kiến, anh Lê Trọng Tấn không đồng ý. Sau anh Song - thư ký anh Lê Trọng Tấn trình bày rõ nguyện vọng của tôi nên tôi mới được vào Học viện Đà Lạt. Anh Lăng định bố trí tôi làm Khoa trưởng, tôi chỉ xin làm giáo viên. Năm 1983, quyết định tôi làm Khoa phó, rồi có lần anh Lăng ở hội trường nói với anh Hiếu, tôi nghe được là: "Viện mình cũng cần thêm một Viện phó", ý muốn cất nhắc tôi. Tôi cũng đã lo, vì làm Viện phó nhiều vấn đề lắm, tôi không muốn. Đó là lần thứ tư tôi ở bên anh Vũ Lăng.

        Một hôm tôi gặp anh Lăng hỏi:

        - Tại sao cố vấn Liên Xô Ka-den-ni-cốp không mang theo phiên dịch mà lại bắt tôi trình bày "Sư đoàn tiến công" bằng tiếng Nga. Tôi thấy vô lý.

        Anh Lăng bảo:

        - Anh ta thử anh, đồng thời gõ cả tôi nữa. Anh cứ trình bày bằng tiếng Nga đi!

        Thế là tôi trình bày toàn bộ bằng tiếng Nga.

        Rồi trong các cuộc diễn tập, tôi thấy phong cách anh Lăng rất đĩnh đạc nghiêm chỉnh . Anh góp ý phải nói là rất "uyên bác", không biết dùng từ này có quá không.

        Đấy là công việc. Việc riêng gia đình, khi tôi xin về hưu, anh Hoàng Văn Thái bảo:

        - Không được. Các cậu ở học viện, tuy đến tuổi vẫn có thể làm quá ba bốn năm nhất là các cậu có trình độ, có kiến thức.

        Về sau, anh Hoàng Văn Thái mới đồng ý. Tôi thật cảm động về nhận xét của anh Lăng với tôi toàn "màu hồng" và dặn tôi lưu ý bồi dưỡng cho thế hệ sau.

        Đặc biệt với tôi, anh Lăng chưa bao giờ xưng hô "tớ, cậu",  bao giờ cũng "anh, tôi" rất nghiêm chỉnh. Cả nhà tôi quý anh Lăng. Con tôi đến chơi với Vũ Anh nhiều. Tôi dọn nhà, cả nhà anh Lăng vợ chồng con cái đến hết, nhà tôi lúc đó mới dọn về đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa có gì đâu, cháu  Mai sang bên này còn ngồi xuống đất. Bàn ghế giường tủ học viện phát cho, chính anh Lăng áp tải về cho mượn. 11 giờ đêm, công an khu vực đến hỏi. Anh Lăng nói: "Chuyên chở giúp cho anh Bảo Cường, không phải của gian".  May là có mấy cậu vệ binh, chứ mình vác lên cầu thang thế nào được.

        Tâm tình của tôi chưa thể nói hết được, nhất là một sự việc của một vị tướng, mà là Thượng tướng, cán bộ cấp cao trong quân đội. Tôi chỉ xin mạo muội có mấy lời cũng là tình cảm, theo tôi cũng là ý đẹp về một cán bộ cấp trên mà tôi đã có thời gian ngắn công tác bên anh. Anh để cho tôi một kỷ niệm đẹp. Toàn bộ nhận xét của anh ấy là đánh giá cuộc đời tốt đẹp lắm, không phải tôi khoe, hiện còn nằm trong lý lịch của tôi. Hôm nay trước vong linh của anh, tôi mạo muội, vậy có gì xin anh thứ cho. Mình xếp hàng thứ tự. Cụ gọi, mình lần lượt đi thôi.

---------------------
        2. La-vầy:  Đọc chệch tiếng Pháp: Réveil, là báo thức, đánh thức


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2017, 10:01:06 am

        6. Đồng chí TRÀ KÔNG - Chủ nhiệm Khoa Hóa học

        Lần đầu tiên tôi được thấy đồng chí Vũ Lăng ở Cục Tác chiến, đi với đồng chí Vũ Yên ở đường trước Cửa Bắc, hai ông đi bộ chậm rãi, nói với nhau những gì người khác không nghe thấy được. Đó là vào năm 1963 ở Hà Nội.

        Đến năm 1977, tôi dẫn đoàn cán bộ tốt nghiệp ở Liên Xô về công tác ở học viện được gặp đồng chí Vũ Lăng lần thứ hai.

        Trước hết tôi xin phát biểu ý nghĩ của tôi: Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ rằng tất cả các vị tướng của quân đội ta đã chỉ huy đánh Mỹ như những vị tướng đời Trần ở thế kỷ XIII đánh bại quân Nguyên, vì thế kỷ XX dân tộc ta đánh bại đế quốc Mỹ là tên đế quốc lớn nhất trên thế giới này.

        Những tướng lĩnh đó so với Trần Khánh Dư, Trần Nguyên Hãn dưới thời nhà Trần của "Đại nguyên soái" Trần Hưng Đạo thì đều xứng đáng như thế cả. Cho nên hôm được phép vào ghi trong sổ tay của đồng chí Vũ Lăng, tôi đã viết một câu: "Đồng chí Vũ Lăng như vị tướng của đời Trần trong thế kỷ XX. Nhân đây tôi cũng đề nghị Nhà nước, Đảng ủy cũng nên đúc tượng đồng đối với những tướng lĩnh chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mỹ cho đến kết thúc 30 tháng 4 năm 1975".

        Chỗ đặt ở đâu. Có thể khác nhau như người ta đã đúc tượng cho đồng chí Lê Trọng Tấn, như thế để lại cho hậu thế, như thế kỷ XIII đã lập những bàn thờ, những miếu thờ các vị có công với nước.

        Đồng chí Lăng ở Học viện Lục quân, công lao lớn nhất là đã xây dựng học viện với một phương hướng rất quan trọng để tiến kịp thời đại thế kỷ XXI là "tri thức". Sau khi về học viện nhận nhiệm vụ, đồng chí đã bắt đầu từ viết chuyên đề, viết luận văn để đào tạo một đội ngũ giáo viên từ chỗ chưa biết luận văn là thế nào, chuyên đề là thế nào. Vì ai sẽ làm cái việc đó trong quân đội này? - Chính phải là các giáo viên. Đồng chí là người đầu tiên học viện này đã bảo vệ luận văn luận án quốc gia lần đầu tiên trong Quân đội nhân dân Việt Nam trong xây dựng sau hòa bình và cuối thế kỷ XX này, để bước vào cái thế kỷ "tri thức" của thế giới và của ta. Công lao to lớn đó đã đưa lại một đội ngũ trí thức trong quân đội ở học viện mà ra. Cơ sở đó đã hình thành cả một hệ thống chương trình kế hoạch, cách điều hành, cách tổ chức. Công lao đó không phải ngẫu nhiên, không phải ngay từ đầu năm 1978 đã bắt đầu. Công lao lớn nhất của đồng chí ở hai việc chủ chốt của một học viện, là đội ngũ giáo viên và sách giáo khoa, là chương trình giáo án tưởng định, bài giảng, nghiên cứu khoa học, tất cả những cái ấy đồng chí đã tạo nên và đã được Nhà nước phong Giáo sư đầu tiên ở trong quân đội.


        7. Đồng chí  PHÒNG - quân y sĩ

        Những năm tháng được sống gần đồng chí Vũ Lăng như sống với người thân trong tình chú cháu, mặc dù đồng chí là cán bộ cấp cao, tôi chỉ là một cán bộ quân y, nhưng cảm thấy rất gần gũi và quý mến.

        Lúc đó tôi còn trẻ, chưa có gia đình, sau khi tìm hiểu, chúng tôi xin cưới. Đồng chí dặn dò tỷ mỷ như bậc cha chú.

        Một kỷ niệm mà suốt đời tôi không thể quên được là trước khi đi Liên Xô chữa bệnh, đồng chí yếu lắm rồi. Vậy mà đồng chí bảo đồng chí Trung - quân nhu:

        - Cho tớ nhận trước một ký rưỡi thịt tiêu chuẩn.

        Rồi đồng chí mang ký rưỡi đó lên cầu thang nhà tôi nói:

        - Mai chú đi xa chữa bệnh. Không có gì, chỉ có ký rưỡi thịt tiêu chuẩn này đem bồi dưỡng cho mẹ con cái Hồi ăn cho có sức. Vợ chồng phải bảo ban thương yêu nhau cùng xây dựng hạnh phúc.

        Chúng tôi rất cảm động trước những lời chân tình của bậc cha chú thương con cháu.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2017, 10:03:34 am

        8. Đại tá NGUYỄN TRỌNG BÍNH

        Tôi công tác ở học viện từ thời kỳ anh Hoàng Minh Thảo đến anh Vũ Lăng. .

        Anh Vũ Lăng rất nghiêm khắc nhưng cũng rất thương cán bộ. Tôi rất thương anh Lăng. Anh đi sớm quá, học viện cũng thiệt thòi. Không có anh Vũ Lăng, học viện thiếu về mặt khoa học. Anh Vũ Lăng là con người vừa có tầm nhìn chiến lược, chỉ huy chiến dịch, nhưng lại uyên bác nhất là học thuật và chiến thuật. Nói về chiến thuật từ cấp sư đoàn trở xuống, chưa có ai làm cả. Thời kỳ anh Vũ Lăng còn sống, tất cả tài liệu chiến thuật biên soạn ở học viện mà anh Vũ Lăng đã thông qua đều coi như là tài liệu học tập cho toàn quân. Anh là con người rất giỏi về học thuật. Học viện Lục quân đào tạo binh chủng hợp thành, sau đào tạo tất cả các binh chủng vừa chiến thuật vừa kỹ thuật, được một đội ngũ đến ba trăm giáo viên trong học viện. Cái đáng quý nhất mà anh để lại cho học viện là tri thức. Điều nữa, trong học viện chưa có đồng chí Viện trưởng nào xây dựng nên những cơ sở sản xuất lớn như anh Vũ Lăng đã làm: Ba cơ sở sản xuất Đà Lạt; Đức Trọng, Di Linh, Long Bình nuôi cá đẻ, nuôi trâu bò, nuôi heo, trồng lúa, trồng cà phê, trồng ngô, trồng mía, trồng đậu tương, đều có hết, rồi vườn hồng một ngàn cây rất tuyệt vời.

        Thời kỳ đó đời sống ở học viện rất khó khăn. Công tác hậu cần quá nặng, anh Vũ Lăng quan tâm việc sản xuất để cải thiện các bếp ăn, anh chỉ đạo rất chặt chẽ. Tôi nhớ khi anh giao cho tôi nhiệm vụ Chủ nhiệm hậu cần, anh biết tôi thích ở Khoa giáo viên chứ không thích sang hậu cần, trong cuộc họp anh bảo ai có ý kiến phát biểu, riêng đồng chí Bính không được phát biểu. Anh nói sẽ gặp tôi sau. Nhưng rồi có gặp đâu. Anh đã quyết định rồi là không thay đổi.

        Anh rất quan tâm hai cái bếp: bếp học viên và bếp giáo viên. Là người phụ trách cơ sở vật chất, tôi biết anh không bao giờ tơ hào một chút gì, rất trong sáng: không lấy một cân gạo, thịt bò, thịt heo gì hết; không nhận của ai một cái gì, tết nhất ai biếu gì cũng không nhận. Lúc đó ở học viện anh rất nghèo. Khi tôi xuống thăm chị Hoa, chị nói có gì thì bán từ từ để ăn. Cưới con gái, không có gạo. Nhân chuyến tôi đi Cần Thơ, anh nhờ mua cho năm chục cân gạo, thanh toán đàng hoàng.

        Đặc biệt anh có tài đối ngoại rất giỏi. Khi tiếp đoàn tùy viên quân sự tư bản tới thăm học viện, anh giao tôi phụ trách việc ăn uống. Khách có Pháp, có Ấn Độ, tôi lại xuất thân nông dân không biết Tây ăn thế nào. Anh Lăng chỉ đạo hướng dẫn tỷ mỷ chu đáo nấu món gì trước, món gì sau, rất thành thạo.

        Có lần đi thăm Tỉnh ủy, Ủy ban, Mặt trận, Tỉnh đội, đầu tiên đi Tỉnh ủy với Ủy ban xong, anh Sáng đưa đến Tỉnh đội, anh Vũ Lăng đòi đi Mặt trận Tổ quốc trước rồi Tỉnh đội sau. Mặc dù đến gần Tỉnh đội rồi vẫn phải quay xe về Mặt trận trước. Anh rất nghiêm túc, rất nguyên tắc. Làm không đúng là phải làm lại ngay.


        9. Đại tá VŨ CHUYỂN

        Tôi xin kể một vài kỷ niệm.

        Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên thăm học viên, đồng chí Vũ Lăng đã nói trước lớp nào cứ ở yên lớp đó,  Đại tướng sẽ tới thăm từng lớp. Nhưng khi trực thăng đậu xuống sân khu B, học viên các lớp không kìm được lòng mến mộ Đại tướng đã ùa ra xem, gây một cảnh hỗn độn mất trật tự. Viện trưởng Vũ Lăng rất không hài lòng, yêu cầu danh sách những người đã không tuân kỷ luật. Thế là năm mươi ba người bị kỷ luật cảnh cáo. Viện trưởng Vũ Lăng thường đi kiểm tra các lớp học. Ai ăn mặc xộc xệch không nghiêm chỉnh là bị nhắc nhở ngay, vì không giữ tư thế quân nhân.

        Đại đội trưởng Phan Minh Sương, người đã tham gia giải phóng Đà Lạt cũng từng bị đuổi ra khỏi lớp. Vì vậy trên đường đi nhác thấy Viện trưởng Vũ Lăng, anh em thường né tránh. Đồng chí Vũ Lăng trông thấy cười nói:

        - Có anh chàng lại nấp kia kìa.

        Là bí thư của đồng chí Vũ Lăng, hàng trăm lần cùng đồng chí đi công tác từ Đà Lạt đến Long Bình -Sài Gòn, lần nào cũng cơm nắm muối vừng hoặc quả trứng, lạc rang. Không vào hàng quán bao giờ, cứ rẽ vào rừng cao su, thầy trò ăn cơm, mắc võng nghỉ trưa xong lại đi tiếp.

        Tôi còn nhớ có lần đi làm tưởng định ở Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận - nơi đồi " ma " vẫn còn có bom mìn. Trời mưa gió. Trong rừng lá vẫn còn có bọn phản động ẩn núp. Vậy mà đồng chí Vũ Lăng vẫn cùng chiến sĩ diễn tập, còn mang theo người một ấm nước dừa cạn để chữa căn bệnh cao huyết áp. Thấy thủ trưởng có ấm nước, anh em đồ rằng chắc thủ trưởng uống nước sâm, bèn uống trộm thử một ngụm, liền phun ra ngay và nói:

        - Sâm gì mà nhạt thếch.

        Thực ra thủ trưởng Vũ Lăng cùng đồng cam cộng khổ với các chiến sĩ. Đồng chí Vũ Lăng là người rất giàu tình cảm, rất thương chiến sĩ. Anh Bằng lấy vợ đã lâu mà vẫn chưa có con. Khi vợ lên thăm, theo thông lệ mỗi cặp vợ chồng chỉ được ở nhà khách một số ngày theo quy định. Nhưng với trường hợp đồng chí Bằng, thủ trưởng Vũ Lăng nói:

        - Cho nó ở đến bao giờ có bầu mới thôi. Không giới hạn thời gian

        Nhiều trường hợp chiếu cố hoàn cảnh gia đình cán bộ dưới quyền, đồng chí đã hợp lý hóa cho thuyên chuyển công tác để có điều kiện gần gũi giúp đỡ gia đình như trường hợp đồng chí Thọ ở  Khoa Thông tin.

        Cuộc đời trận mạc, đồng chí Vũ Lăng thường xông pha nơi chiến địa rừng núi đêm khuya, nên đồng chí cũng thường hay uống rượu cho ấm nóng cơ thể, do đó tửu lượng của đồng chí cũng khá. Năm 1982, đồng chí Vũ Lăng đi tham gia diễn tập ở Quân khu 1, do đồng chí Đàm Quang Trung làm Tư lệnh. Dạo đó gần Cách mạng tháng Mười Nga. Trong khi chờ đợi Bộ chưa cho biết giờ G, tướng Đàm Quang Trung tổ chức chiêu đãi các đồng chí cố vấn Liên Xô và cán bộ cao cấp quân đội ta. Bữa tiệc khá đông, các tướng Liên Xô đã nghe nói đồng chí Vũ Lăng học ở trường Vô-rô-si-lốp. Họ hỏi:

        - Đồng chí khóa mấy?

        Đồng chí Vũ Lăng đáp:

        - Tôi học khóa 3.

        Vị tướng Liên Xô bèn nói:

        - Vậy thì đồng chí là bậc thầy, là đàn anh của chúng tôi.

        Gặp nhau tay bắt mặt mừng, nói tiếng Nga làu làu và chuốc nhau uống rượu thấy vui vẻ.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 11 Tháng Giêng, 2017, 10:04:49 am

NHỮNG DÒNG GHI CHÉP
Trích Nhật ký của Vũ Lăng

        30 tháng 1 năm 1952

        Từ giã bộ phận hậu cần đi mình thấy nao nao. Mình có linh cảm rằng sẽ không trở về 102 nữa. Buồn dâng lên khóe mắt. Nhớ đến hôm 27 tháng 1 vừa qua rời mặt trận, bắt tay Thế Dũng, Vũ Yên nước mắt chảy quanh. Nếu dửng lại thêm một phút nữa thì nước mắt tuôn ra mất. Vừa đúng năm năm  trời ở Trung đoàn qua bao nhiêu cái thăng trầm của đơn vị. Mình trưởng thành với cái chiến đấu ở Trung đoàn, với những hy sinh không đòi hỏi của bao nhiêu tuổi 20 "một đi không trở về ", "mắt nhắm miệng vẫn còn tươi". Tâm hồn mình ở Trung đoàn với tất cả những gì tha thiết nhất.

        Được tin đi học mình không thoải mái chút nào. Nhất là trong lúc này ở mặt trận mình chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Qua hai trận đánh không thành công, mọi người đều bứt rứt  vấp đau như thế. "Trận đánh không thành công có phải vì kỹ thuật của bộ đội kém không? Không phải. Có phải vì các chiến sĩ và cán bộ của Trung đoàn kém phần anh dũng không? Cũng không phải. Chỉ vì các đồng chí trong Ban chỉ huy ỷ vào cái tài năng cá nhân của mình chủ quan thiếu tỉ mỉ ..." .

        Lời phê bình của đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn luôn vang lên trong đầu óc mình. Mấy hôm ở mặt trận mình không buồn, trái lại hăng hái vì những lời phê bình đó. Cái trách nhiệm của mình, của những thằng cán bộ trước Đảng, trước nhân dân, trước bộ đội về sự thất bại vừa qua của Trung đoàn. Cái trách nhiệm đó mình không trốn tránh.

        Phải đánh thắng để xây dựng lại đơn vị. Phải làm cho đơn vị phấn khởi lên! Những lúc bộ đội đi bố trí, những khi tiếng đại bác nổ rền trên trận địa, mình đều nghiến răng lại mà tự nhủ như thế. Nghĩ đến Phúc Ánh, Việt Dũng, Khánh và tất cả anh em khác đã ngã từ đầu chiến dịch tới giờ đầu mình nóng bừng lên. Những lúc ấy mà có thằng Pháp trước mặt mình, chắc là tay mình không để yên. Mấy hôm bố trí mình cứ phải động viên giải thích anh em phải kiên nhẫn đợi nhưng thật ra trong bụng mình sốt ruột tợn. Đứng trên ngọn núi 370 nhìn lên Hoà Bình thấy bọn giặc đi lại, bố trí mà sôi tiết " Trước hay sau thì chúng mày cũng chết, chi bằng cứ đi trước cho nó được việc sớm có hơn không?". Nó không đi vội, thi gan với mình mà đã mấy đêm rồi mình không ngủ, vùng dậy khoác chăn ngồi bên đống lửa, nghĩ đến nó, đến Phúc Ánh. Hôm qua chúng nó chuyển sang Hòa Bình nhiều. Toán quân đến đón chúng nó bị chặn đánh ở Đồi Giũ không tiến được, phân tích phán đoán xem bao giờ chúng nó sẽ rút. Nghĩ đến lúc đơn vị mình sẽ xuất kích cứ lần rật cả người, hình dung cả những cảnh địch chạy rối loạn, tan nát giữa trận địa hỏa lực của mình như vũ bão đập nát chúng nó từ Pheo đến Bến Ngọc...

        Thế mà mình phải rời mặt trận này để đi học! Tin điện tới làm cho mình phải lặng đi ngơ ngác. Nghĩa là mình chạy trước lũ giặc đang ngắc ngoải, nghĩa là mình không được trút căm thù lên đầu chúng một cách cụ thể, nghĩa là mình phải rời bỏ đơn vị thân yêu này, nghĩa là ...

        Trong đầu mình cứ ngổn ngang như thế, đến nỗi ông Khánh nhận thấy ngay thái độ của mình. Cả một ngày mình ngẩn ngơ. Buổi sáng mồng 1 Tết ăn cái bánh chưng, ngậm ngùi nghĩ đến lúc ra đi, nghĩ tới cái Tết Phố Lu 50 tang tóc ... Cái tết này cũng thế, nhưng còn đau đớn gấp bội. Phúc Ánh ơi!

        Hôm nay đi ngược lại con đường Trung đoàn đã hành quân qua. Ngày ấy lũ người chúng ta cười với nhau trong đêm lạnh, ôm nhau ngủ giữa hai chặng đường hành quân, thắm cái tình đồng chí, thương nhau qua những ngày đói rét của bao chiến dịch Thu Đông. Tiếng chân rầm rập rung chuyển bờ sông Đà. Chúng ta hớn hở đợi ngày nổ súng lên đầu giặc.

        Con đường cũ hãy còn in vết giày cũ của chúng ta từ đầu mùa hạ năm ngoái, ít ngày nữa  khi vị quay trở về, sẽ vắng hàng bao nhiêu người không còn in lại vết giầy?

        Mình chầm chậm đạp xe. Hoà Bình xa quá rồi Tu Vũ, Chẽ lùi lại đằng sau xơ xác. Những vết giày đinh của giặc chạy loạn lên sau một trận thất điên bát đảo hãy còn hằn trên bãi cát. Những cây thập tự gỗ trên những nấm đất bên đường. Mùi hôi thối chết chóc còn vương trên lá cây ngọn cỏ. Tất cả gợi cho mình sự tan vỡ suy sụp của giặc. Nhưng sao mình vẫn không thấy hả dạ chút nào? Mình vẫn thèm cái trận sắp tới. Chính mình được đập vào đầu chúng nó ở Hòa Bình, giày mình được giẫm lên xác chúng nó nằm ngổn ngang trên đường số 6 trong một trận truy kích. Có một cái gì đó tức tối khó thở khiến mình nghĩ đến đường số 6? A Pheo! Phúc Ánh, Việt Dũng, Khánh, Đáng, Lưu ơi !  Chúng nó sắp chạy rồi. Chúng nó bỏ Hòa Bình, bỏ Pheo đến nơi, liệu chúng mình - những người ở lại có đánh được dập đầu chúng nó ra, có lia, có quật chúng nó, hất chúng nó ngã xuống những giao thông hào, đắp cho chúng nó những nấm mồ khổng lồ như trên biên giới? Mình thấy lo cho đơn vị không còn được mạnh như trước, mai kia địch chạy liệu có làm tròn nhiệm vụ?


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Giêng, 2017, 03:26:48 pm

        Nỗi lo lắng nhớ thương ám ảnh mình ghê quá. Giá có một người bạn đồng hành thì cũng đỡ buồn. Nếu còn Thuận? Ô hay, mình không đạp xe được nữa. Đỗ xe lại nghỉ bên đường vẫn nghĩ đến cái chết của Thuận. Cái chết nhanh quá, dễ quá. Ôm Thuận trong tay, mình bàng hoàng cả người. Máu Thuận rỏ cả trên lưng mình. Không kịp nói câu nào. Thuận chỉ còn sặc lên mấy cái vì máu dồn lên mũi và mồm. Mình không kịp đau đớn vì cái chết của một đồng chí đã bảo vệ cho mình. Tiếng đạn vẫn nổ rền bên tai, đại bác nổ liên hồi như ngũ liên, phi cơ rít trên đầu. Những bóng người lướt qua chỗ mình rất nhanh. Những chiếc cáng, những tiếng rên. Sương mù tan dần. Đường số 6 hằn lên vết xe tăng, hai bên bờ lau bị đốt trụi còn trơ lại những thân cây nửa đen nửa trắng như những đốt xương. Trái phá cày hai bên bờ đường. Máu vương trên rìa cỏ.

        Đại bác lại nổ liên hồi từng chập một. Những bóng người vẫn lướt qua...

        " Ra hết chưa? ".

        Tiếng mình quát lên giữa những tràng liên thanh bắn theo. Quang Long đây rồi: anh em đã ra được cả.

        " Rút lui phải bảo đảm mang hết thương binh tử sĩ, mang hết vũ khí ra! ".

        Lệnh của đại đoàn vang lên, vang lên hai bên tai mình. Mình cúi đầu đi hai vai nặng trĩu. Những bóng người vẫn lướt qua mình rất nhanh.

        Liệu có thật là đã mang được hết không?

        Quang Long mới xuống đơn vị có hoang mang trước tình thế gay go mà trả lời sai chăng?

        Mình bỗng như có một cái gì đó phản ứng, quay phắt đầu lại. Sương đã tan hết. Đồn Pheo vẫn sừng sững. Đạn liên thanh từ những ụ súng bên đồn cao vẫn toé ra loạn xạ. Căm chưa? Phải đập tan nó đi. Mình nghiến răng lại muốn gầm lên. Thành chạy tới trước mặt mình hổn hển: "Anh em ra hết rồi đang tiếp tục đi sau !".

        Đôi vai mình nhẹ đi một chút. Vượt qua một núi lửa đại bác. Chúng nó bắn theo mình, khá chật vật gặp Dạ Bình, C213 vẫn chưa ra!

        Tiếng đại bác lại réo lên dồn dập. Tiếng hô của giặc, tiếng quát của ta. Rõ ràng Đại đội C213 vướng lại rồi.

        Tiếng Bình nói khẽ:

        " Vẫn C213 Chùa Cao đấy anh ạ! ".

        Mình rướn người lên. Ra lệnh cho Dụ. Một trung đội vượt qua trước mặt mình tiến về phía súng nổ. Bóng Dụ khuất hẳn. Không bao giờ mình được trông thấy Dụ nữa.

        Viết Phương, Dụ, Phúc Ánh, Cẩm Giang, bốn đại đội trưởng cùng với mình trong chiến dịch Sông Thao 49, chỉ còn lại Cẩm Giang bên Trung Quốc. Và mình hôm nay, trơ trọi lủi thủi trên con đường này mà tất cả đã cùng đi qua. Mình muốn chửi tục một câu Sao lúc này mình lại đi! Sao không Ở lại mặt trận cùng với đơn vị, xông lên, xông lên, báng súng đập nát đầu chúng nó ra, lưỡi lê đâm xổ ruột chúng nó ra!

        17 giờ. Hút chết vì phi cơ chúng nó quần. Thôi được. Tao hãy còn đây.

        Chiều xuống. Một chiều mồng bốn Tết.

        Cũng chả nên buồn mãi, ảnh hưởng đến vấn đề học tập sau này. Chuyển hướng nghĩ đến chuyện khác vui một chút. Ừ, chiều hôm nay gợi nhớ đến những gì nào? Những mồng bốn Tết năm xưa, ăn thang cuốn. Xa quá rồi! Mồng bốn Tết năm ngoái … phải rồi …lòng mình dịu đi! Em của anh! Mấy hôm nữa gặp nhau chắc em sẽ an ủi được anh nhiều. Mồng sáu sẽ gặp em.

        Vượt qua sông Thao, đèn xe hỏng, 19h30 rồi. Nếu không chữa được đèn thì hết đi đêm nay. Đành dắt xe vào thị xã Phú Thọ. Đêm lạnh, đói chưa biết ăn ở đâu. Vừa đi vừa tính toán chặng đường đi đêm nay. Cố vượt qua Bình Ca về Tự Do ngủ. Sáng sau leo qua Đèo Khế. Buổi trưa về tới nhà thì ung dung chán. Nhưng mà về Bờ Đậu hay lên Chợ Chu ?

        Phân vân tệ. Tới Phú Minh rẽ vào Chợ Chu thì chỉ cần 14h mình đã tới TC3. Nhưng nhỡ Tết em mình về với má thì sao? Em đã nói với mình là Tết sẽ không về nhà nhưng biết đâu đấy. Thôi cứ về  Bờ Đậu thăm Má nhân thể.

        Gió từ sông Thao lùa vào trong phố, mình kéo cổ áo lên cho đỡ lạnh. Nghĩ đến đêm này năm ngoái đang đạp xe để chuẩn bị cho ngày mồng 6 Tết ( 11 tháng 2). Bao nhiêu lo lắng mà không dám cho em biết. Một năm qua. Hạnh phúc. Đêm nay lại đạp xe, cũng đi suốt đêm để sống lại ngày mồng 6 Tết năm ngoái. Em làm gì đêm nay? Bên đống lửa có ngờ rằng anh sẽ về bên em giữa một ngày xuân đẹp nhất của đời chúng ta. 


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Giêng, 2017, 03:27:13 pm

        Phố vắng, mấy hàng cơm phở còn chong đèn,  khách ăn cũng không đông lắm. Tiếng lách cách của "cùi dìa" quấy kem trứng. Mình không nghĩ đến ăn vội. Chữa đèn đã. Chả có hiệu nào có bóng đèn cả. Dắt xe lên phố trên, gặp một bóng người đi bên hè, mình hỏi thăm hiệu xe. Anh niềm nở chỉ hiệu xe cho mình và bắt chuyện. Mình đi theo anh ta, thấy anh chàng cũng dễ thương. Trao đổi dăm câu. Thấy mình chưa cơm nước gì anh ta kêu:

        " 8 giờ tối rồi! Thế thì đói chết. Phố trên này không có hàng cơm đâu. Đồng chí phải quay lại phố dưới thôi! "

        Mình ngỏ ý chữa xe đạp trước, trong khi chữa xe kiếm chút gì ăn tạm cũng được. Mình còn phải đi suốt đêm nay. Anh ta chép miệng.

        " Đời cán bộ vất vả thật. Tôi biết vì trước kia tôi cũng đi công tác " .

        Đi đến một câu chuyện cảm động:

        Anh ta là một công chức xung phong xin giảm biên chế về tăng gia để đỡ gánh nặng cho Chính phủ (anh nhắc lại câu xung phong, rất tự hào) . Gia đình anh có hai vợ chồng và sáu đứa con. Từ Hà Giang dắt díu nhau về với một chút vốn nhỏ đã dành dụm được, chưa kịp làm ăn gì thì cả gia đình cứ thay phiên nhau ốm. Không hôm nào trong nhà không có ba người đắp chăn rên. Chút vốn cứ vơi dần. May có hai đứa con gái đã lớn chịu khó chợ búa nên lần hồi rau cháo cũng được bữa đói, bữa no.

        Giọng anh cất cao lên: " Bây giờ mới là lúc thử lửa ", Cụ Hồ bảo: " Trường kỳ kháng chiến nhưng nhất định thắng lợi " nên mình cũng tin lắm. Cái đói khổ của mình có thấm vào đâu với bộ đội. Tôi nhất định không ngã lòng. Mấy hôm nay cuốc đất khỏe lắm. Rồi anh cười khẽ hạ thấp giọng xuống. "Thế mà mấy hôm Tết mình cũng bị giày vò ghê quá. Lũ trẻ nheo nhóc, khạp gạo vét trơ cả đáy ra rồi. Vợ ốm nằm liệt giường. Đêm đêm hai đứa con gái lớn vẫn phải vượt sông Thao để đi buôn chuối ở Hưng Hóa. Thấy nhà hàng xóm có bánh chưng mấy đứa trẻ thèm mà không dám nói, nhưng trong mắt chúng nó lấp lánh nhìn những tấm lá dong ướt còn dính ít hạt nếp xanh trong, vứt ở đầu hè thì biết… Hôm qua tôi gặp thằng bạn thân cũ ở gần đây. Cậu này trước kia tôi cũng giúp đỡ ít nhiều. Cậu ấy mời chiều nay ăn cơm. Tôi nể vả lại cũng muốn gặp bạn để tâm sự cho khuây khỏa, nên chiều nay mới đi ăn. Đợi sẫm tối mới dám đi vì mình rách rưới quá. Lâu không gặp cậu ấy không biết cậu ấy hồi này thế nào nên mình cũng sợ ngượng. Ăn cơm cũng không vui mấy, nghĩ đến vợ con ở nhà nheo nhóc. Câu chuyện cũng chiếu lệ, tình bạn cũng đã phai rồi, cậu ấy lại có vợ buôn bán khá giả nữa. Cơm xong cậu ấy ấn vào mình cái bánh chưng bảo mang về cho con. Mình đã toan không nhận. Một chiếc bánh chưng? Đời mình đã có bao giờ nhận quà Tết như thế đâu. Ngày xưa, ừ mà ngày xưa với những thằng bạn nghèo, có bao giờ mình sỗ sàng như thế, mình giúp đỡ một cách kín đáo, chỉ sợ chúng nó tủi. Hôm nay mình cũng thấy tủi thật, nhưng cũng cứ nhận. Kháng chiến cũng thay đổi tình cảm của con người ít nhiều. Mình ấn cái tự ái vào trong nhưng kể thì cũng buồn, lũ trẻ thấy tấm bánh chưng này chắc là thích lắm nhưng có hiểu đâu nỗi buồn của bố… Ra đến đường thì gặp đồng chí đấy! Đồng chí tha lỗi cho nhé, tự dưng lôi câu chuyện buồn của mình ra! Uống có một chút rượu con vào mà ba hoa thế đấy ".

        Mình cảm động an ủi anh ta mấy câu. Lời nói của mình nồng nhiệt không hời hợt.

        Nhân, Lục, Hương, Tú, Lân năm nay chắc không thiếu bánh. Nhưng bánh ăn trong tù ngục của lũ kẻ cướp ấy ngon sao bằng bánh ăn Ở ngoài vùng tự do này. Thà rằng mình thấy chúng nó thèm thuồng nhìn những chiếc lá dong còn dính ít hạt nếp xanh như lũ trẻ của anh bạn này, còn hơn là chúng nó ở trong ấy đầy đủ, nhưng đầu cúi xuống lấm lét khi nghe tiếng giày đinh của lũ giặc hỗn xược đạp trên đường phố...

        Gần tới phố trên anh ta dừng lại, chỉ vào một mái tranh nhỏ khuất trong đám cây:

        " Nhà tôi ở trong kia không rộng lắm, nhưng thêm một người nữa cũng không chật là bao. Nếu đồng chí không sửa được xe, xin mời đồng chí đến chỗ tôi. Cứ tự nhiên đập cửa lúc nào cũng được.

        Rồi anh ta rút trong túi áo ra tấm bánh chưng:

        " Đồng chí cầm tạm cái bánh này ăn cho đỡ đói. Tối nay chưa chắc có nhà nào dọn hàng, quay xuống phố dưới thì xa mà lại mệt. Đây là lòng thành của tôi Đồng chí vui lòng nhận cho ".


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 12 Tháng Giêng, 2017, 03:29:43 pm

        Mình từ chối mãi mới được. Anh ta ấn chiếc bánh vào túi không được vui cho lắm. Mình nói rõ sự cảm động của mình về cử chỉ của anh ta, cử chỉ của đồng bào hậu phương thương yêu chăm sóc bộ đội. Anh ta cười bắt tay mình:

        " Đồng chí hãy còn khách sáo đấy. Thôi, đồng chí đi vậy nhé. Nếu cần cứ quay lại, tôi cứ dọn dẹp sẵn một chỗ đấy! " .

        Mình dắt xe đi tưởng tượng đến mấy đứa trẻ con anh ta (có lẽ cũng chỉ bằng tuổi Nhân, Lục ) mắt sáng lên khi thấy bố giở chiếc bánh chưng ra.

        Cái Tết của chúng nó đấy. Giản dị biết chừng nào, cái hạnh phúc của lũ trẻ nhà nghèo. Và những thằng lính chúng mình lại càng thấy rõ nhiệm vụ. Nhớ đến một bức tượng ở Tiệp dựng lên để kỷ niệm Hồng quân Liên Xô. Một hồng quân một tay bế một thiếu nhi, một tay cầm một thanh gươm biểu hiện ý chí cương quyết thiết tha của một đồng chí Cộng Sản thiết tha bảo vệ tương lai, bảo vệ hòa bình cho nhân loại.

        Chả một hiệu xe nào có bóng đèn cả. Đêm nay có lẽ mình phải ở lại đây mất. Vị tất đã thực hiện được chương trình. Tìm được một hàng quà còn bún riêu, ăn được hai bát lại lên xe đạp hy vọng có một xe nào về Bình Ca. Mới có 9h tối mà đường đã vắng tanh chả có một bóng ma nào cả. Đường gập ghềnh không có đèn khó đi quá. Đến chỗ rẽ vào ấp Khải Xuân hỏi một hiệu xe, nó đòi 2 vạn một chiếc bóng. Tụi con buôn bóc lột thật, mình lại nhớ đến anh công chức nghèo kia.

        Đợi một lúc cũng không thấy chiếc xe nào đi theo để bám. Phải tính đến chuyện ngủ lại. Nếu quay lại thị xã thì xa quá. Định đi thẳng về Phú Hộ thì chợt nhớ đến Phúc Sinh, nghe nói cậu ấy ở Khải Xuân. Có lẽ cũng không xa lắm: Lâu không gặp cũng nên nhân dịp này ghé vào thăm.

        Mất hơn một tiếng đồng hồ mới vào tới nơi. Gặp nhau hai thằng khoái quá. Nhớ đến những ngày Hà Nội trong vòng vây của lũ giặc.

        Phúc Sinh bảo con đi rán bánh chưng và lại lấy thức ăn để uống rượu, lấy nước nóng cho mình rửa mặt, không khí ấm cúng quá.

        Ngồi uống rượu với bánh chưng rán, lạp xường, thịt quay mình lại nhớ đến lũ trẻ con anh công chức.Cuộc đời vẫn còn chênh lệch quá. Ngày mai tươi sáng của chúng nó vẫn còn phải trải qua nhiều gian khổ.

        Hai anh em trò chuyện tíu tít. Nhắc đến Liên, Phúc Sinh phàn nàn cho mình. Mình không muốn nghĩ đến nữa, lảng sang chuyện khác. Uống nhiều. Một giờ sáng mới đi nằm. Chui vào chăn bông ấm áp, nghĩ đến em. Lo không thực hiện được chương trình. Ngủ thiếp đi vì mệt và hơi say...


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Giêng, 2017, 12:28:26 am
       
        Đêm 30 tháng 1 năm 1954 ( hai mươi bảy tháng chạp Điện Biên )

        Vừa chuyển quân đến vị trí mới. Xong công việc ngồi viết thư cho em để mai Vinh về Bộ họp chuyển hộ tận tay. Đêm nay ngồi nhớ lại những tình cảm cũ của Phố Lu.

        Ngày 11 tháng 2 năm 1951 - tháng 2 năm 1952, chợ Chu - Tây Bắc 53, tâm sự của một người lính trước một trận gay go quyết liệt sắp tới gửi người vợ yêu ở hậu phương xa xôi. Nhiệm vụ vinh quang trong chiến dịch lịch sử này. Từ chợ Chu - Tây Bắc 53, trước mỗi cuộc chiến đấu mình đều có kiểm điểm động cơ và đã thấy rõ:

        "Chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, của giai cấp và cả của bản thân mình."

        Trong cuộc chiến đấu sống còn với kẻ thù lần này gay go quyết liệt hơn, cái bản chất cá nhân anh hùng của mình nhất định sẽ không còn nữa, cá nhân anh hùng lúc thì liều mạng (Thủ đô, Hạ Bằng, Sông Thao), lúc thì tính toán do dự (Pheo).

        Hôm nay nhận nhiệm vụ A3 mình cũng đã tranh đấu tư tưởng nhưng rút cục đã thắng. Không phải vì danh dự cá nhân đã thấy rõ ràng nhiệm vụ chung. Cụ thể là mình đã gương mẫu lãnh đạo cán bộ kiên quyết làm tròn nhiệm vụ khi đi vào chuẩn bị A3, mặc dầu gặp khó khăn nguy hiểm. Mình cũng nghĩ đến cái ác liệt đang chờ sẵn, đến số mệnh của mình, nhưng mình không nghĩ đến riêng mình. Mình nghĩ đến các đồng chí đã hy sinh anh dũng. Không đòi hỏi, không tính toán cho cách mạng, cho kháng chiến. Có các đồng chí đó mình mới có ngày nay. Sống cho ra sống hoặc chết vinh quang.

        Nhớ đến câu này của một đồng chí Liên Xô trước giờ chiến đấu: "Tôi yêu cuộc sống quá. Tôi chỉ nghĩ đến đi chiến đấu vì muốn sống. Sống cho ra sống chứ không phải sống làm trâu chó. Chiến đấu vì Tổ quốc và hạnh phúc của toàn thể nhân dân, của con tôi, của tôi. Tôi thương tiếc đời tôi, nhưng tôi cũng không sợ chết. Người quân nhân đáng sống phải là người quân nhân chiến đấu để sống. Tôi hiểu lẽ sống là như vậy".

        Mình cũng tha thiết với cuộc sống. Nhưng không có Đảng, không có Cách mạng, liệu cuộc sống của mình trước đây có phải là cuộc sống của con người không? Hay là cuộc sống của loài trâu chó và cái chết vinh quang, mình chọn lấy cái nào? Trước đây, vì chưa giác ngộ, mình có thể cúi đầu nhận lấy cái sống nhục nhã đó. Bây giờ mình đã là người, lại là một quân nhân, là đảng viên, mình không thể sống như thế được, mình không thèm sống như thế. Cái ranh giới giữa kẻ thù và mình đã rõ rệt. Chính chúng nó mới là loài trâu chó và  chỉ chúng nó mới muốn sống làm trâu chó khi cái chết đe doạ. Mình cảm thông rất nhiều câu của đồng chí Liên Xô và cũng hiểu lẽ sống như vậy...

        Gió lạnh lùa vào trong lều che kín, làm ngọn nến bạt đi muốn tắt. Mình dừng bút lại xoa tay cho đỡ cóng, hé bạt nhìn ra ngoài trời. Tiếng động cơ máy bay của địch vẫn rền rĩ trên không. Vòm trời sáng vằng vặc như trăng rằm vì pháo dù sáng của địch. Thỉnh thoảng đại bác của địch lại hốt hoảng vang lên từng loạt. Thật là lũ chó sủa càn: Bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân mình trong vùng tạm chiến, của nhân dân Pháp, lũ giặc đã đem tiêu phí vào đây, ăn không ngon, ngủ không yên, cả ngày cả đêm chúng nó phải bắn trút đi hàng chục tấn đạn, hàng vạn tấn bom để trấn tĩnh tinh thần lo sợ hoang mang hốt hoảng của chúng từ ngày sa lầy ở Điện Biên?

        Xung quanh mình, đồng đội vẫn ngáy đều đều, say sưa với giấc ngủ ngon. Không một ai thức giấc vì tiếng súng bắn càn của giặc. Quen quá rồi với những cái giật mình hoảng hốt của chúng nó, chúng ta vẫn chuẩn bị bình tĩnh đợi ngày xuất kích. Số mệnh của chúng nó là ở trong tay chúng ta, treo ở đầu lưỡi lê của  chúng ta. Rồi chúng nó sẽ tha hồ được chúng ta dành cho cái kiếp trâu chó.

        Viết nốt thư cho em. Hẹn một ngày về xa xôi. Tin chắc chắn sẽ về. Qua chợ Chu, chúng ta đều hẹn nhau tuy đã lỡ cả song chúng ta không một ai sốt ruột, vì mỗi người chúng ta đều thấy rõ ràng cái nhiệm vụ vinh quang của mình trong công cuộc kháng chiến kiến quốc. Có cách mạng mới có chúng ta ngày nay, chúng ta mới được sống cho ra sống. Chính vì thế mà từ ngày yêu nhau, chúng ta không hề làm vướng chân nhau, chúng ta lại luôn luôn khuyến khích nhau làm tròn nhiệm vụ để xứng đáng với công ơn của Cách mạng, của Đảng.

        Gửi em cả mấy bông hoa và búp lá đào hái Ở một bản vắng một chiều hành quân. Dân bản đã sơ tán vào rừng để tránh bom đạn của lũ giặc hung ác. Bản vắng bóng người trở lên xơ xác hiu quạnh, những bếp tro tàn còn trơ lại mấy gốc củi cháy dở càng gợi thêm cái lạnh lẽo của một chiều rét mướt cuối năm. Mấy chiếc nhà xiêu vẹo tung mái vì đại bác của địch để lộ lại mấy cái cột đen, những mồ hóng như chọc thủng mái nhà nhô lên vẫn cố đứng vững trước những cơn gió thổi mạnh, những chiếc chõ ninh sôi rơi lỏng chỏng dưới gầm sàn, một chiếc nôi trẻ bị bắn vướng vào khung cửa dốc ngược lên treo lủng lẳng. Tất cả cái yên ấm, cái an cư lạc nghiệp của dân bản bị đổ nát vì bom đạn của giặc tàn phá. Từ ngày giặc lên đây, bao nhiêu bản quanh vùng đã bị lũ giặc tàn ác gieo rắc thảm họa như vậy! Địch đẩy người dân vào cái cảnh đói rét bần cùng!


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Giêng, 2017, 12:30:00 am

        Trong những ngày bám sát đánh địch thọc ra quanh  Điện Biên, không ai không nghiến răng căm giận lũ giặc vì chính mắt mọi người nhìn thấy hoặc nghe đồng bào chạy thoát khỏi nanh vuốt của chúng kể lại, cái cảnh tàn sát giết chóc, phá hại của lũ chó dại điên cuồng. Những cây thóc xung quanh thường cháy nghi ngút, hết ngày này sang ngày khác. Hàng đàn trâu bị chúng bắn chết, chỉ lấy những miếng ngon nhất để ăn, còn vứt lại đầy đồng cho hôi thối, cấm dân không được ăn. Thanh niên tình nghi có cảm tình với Chính phủ bị chọc tiết, phụ nữ bị chúng nó hay nhau hãm hiếp, đổ bệnh. Chúng biến Điện Biên thành địa ngục: những ngọn đồi, những khu phố, những khu bản trước đẹp là như thế, nay chằng chịt dây thép gai công sự lở loét. Không ai có thể nhận ra Điện Biên trước đây nữa. Tất cả chỉ còn lại một cái ung thư đang bị loét lở của giặc và bọ đang chui rúc để đục ruỗng.

        Cạnh cái cảnh tàn phá đó, sức sống của dân tộc vẫn vươn lên mạnh mẽ không cùng! Trong cái hoang vắng hiu quạnh của những bản đã xơ xác, lắng nghe vẫn thấy tiếng chày giã gạo rầm rập ở những lũng quanh bản làng lên,vọng lên như lẫn cả những tiếng đại bác của quân địch. Dân bỏ bản sơ tán, bỏ cả những mái nhà ấm cúng, bỏ cả nơi thờ tự tổ tiên, nhưng cái cối giã gạo không bỏ. Những chiếc cối giã gạo đã được đem vào lán như những cái gì quý giá nhất còn lại. Gắn liền với những chiếc cối giã gạo là quyết tâm của người dân theo Chính phủ, theo Cụ Hồ đến cùng, ra sức làm gạo để nuôi bộ đội đánh giặc. Và hằng ngày, tiếng chày giã gạo vang lên với tiếng cười đùa của trẻ thơ, tiếng ơi ới gọi lợn, gọi gà về ăn của phụ nữ,tiếng mõ trâu lốc cốc... Lòng người lính ấm lẳn lên, rộn hẳn lên trong chiều lạnh! Tiếng chày giã gạo với tiếng trẻ thơ, tiếng gọi lợn, gọi gà, tiếng mõ trâu là biểu hiện sức sống của dân tộc vươn lên giữa cái tàn phế xơ xác! Tiếng chày giã gạo đều đều thật là bình thản, lấn hẳn tiếng đại bác rít điên cuồng của lũ giặc! Đó là sức đấu tranh bền bỉ kiên nhẫn tin tưởng vào thắng lợi nhất định bên nỗi lo hoang mang của lũ giặc trong bước đường cùng. Trước những tàn phá ghê gớm của bom đạn, người dân vẫn không nhụt ý chí đấu tranh với kẻ thù. Tiếng chày giã gạo vọng về Chính phủ, về Cụ Hồ lòng tin tưởng vô biên.

        Tiếng chày giã gạo hòa theo bước chân bộ đội đang tiến về phía kẻ thù, đánh thành vòng đai sắt quanh chúng nó. Chính những tiếng chày giã gạo đó đã thúc giục anh bộ đội tranh thủ chuẩn bị đầy đủ nhưng nhanh chóng để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Điện Biên cho chày cối lại được trở về với bản cùng với lo âu yên vui của nhân dân. Chính những tiếng chày đó đã tiếp sức sống cho anh bộ đội!

        Bên những hố đại bác, hố bom của địch cày lên, bên cạnh những cái đổ vỡ, nhũng vườn rau cải vẫn xanh tươi. Ngồng rau cải vẫn vươn lên với cụm hoa vàng bên những hoa thuốc phiện màu tím dịu dàng mà trắng trong. Một cây đào ở góc bản đang trổ hoa, những bông hoa hàm tiếu màu hồng tươi rói hớn hở cười trước gió đông đón mùa Xuân ấm cúng sắp trở về, đón một mùa Xuân đại thắng lợi. Bom đạn của kẻ thù không thể làm gì nổi chúng ta, không thể ngăn cản mỗi con đường đi lên của chúng ta. Ngay cả cây cỏ của đất nước ta, bom đạn của chúng nó cũng không làm gì nổi. Đến mùa hoa vẫn nở, cải vẫn xanh tươi. Trên con đường đấu tranh của dân tộc cây cỏ vẫn vươn lên cùng với những thắng lợi, hoa vẫn nở đẹp đón mừng thắng lợi. Ngoài này là thế giới tươi sáng, là mùa Xuân hoa nở. Trong Điện Biên hiện tại là tù ngục tăm tối của lũ giặc. Chính chúng nó đã tạo ra cái cảnh tù ngục u tỳ đó để tự giam hãm chúng nó vào. Cây cỏ vì chúng nó mà không mọc được, hoa vì chúng nó mà không nở, nhưng mai kia cây cỏ lại mọc lên xanh tốt, hoa sẽ lại nở đẹp vì ngoài này trong ấy sẽ lại là một. Điện Biên lại tươi sáng, mùa Xuân lại về. Khi cánh hoa đào bắt đầu rụng để kết thành quả thì kiếp chúng nó ở Điện Biên cũng rụng như cánh hoa, xác chúng nó, máu chúng nó sẽ bón cho cây cỏ tươi tốt để đền lại tội ác của chúng nó với nhân dân, với cây cỏ.

        Thấy hoa đào nở, nhớ đến Tết, người lính nghĩ rất ít đến bánh chưng xanh, mà nghĩ rất nhiều đến chiến đấu nghĩ đến cờ đỏ sao vàng, nghĩ đến lá cờ quyết chiến quyết thắng của Bác sẽ phấp phới tung bay ở Điện Biên. Mùa xuân này phải là một mùa xuân đại thắng lợi, nó là một tất nhiên như mùa đông rét mướt qua đi thì mùa xuân ấm áp lại tới

        Gửi em mấy bông hoa đào là gửi theo những ý nghĩ ở trên, đồng thời là gửi theo tình cảm không bao giờ tàn phai.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 13 Tháng Giêng, 2017, 12:31:25 am

        Ngày 1-2 tháng 2

        Cả hai ngày hôm nay lo lắng về vấn đề làm con đường thắng lợi.

        - Một vạn tám nghìn thước khối.

        - Ngót năm mươi cây số phải chặt.

        - Bốn con đường phải cắt vào núi và hạ thấp dốc.

        - Mấy quãng đá gay.

        - Năm chiếc cầu phải đặt tới hàng ngàn cây gỗ to nhỏ.

        - Vấn đề ngụy trang để bảo vệ bí mật….

        Suốt buổi sáng đi xem đường, nghe công binh trình bày những yêu cầu của con đường mà thấy phát sốt.

        Tính trên một vạn rưỡi nhân công. Nhẩm lại quân số của đơn vị lo quá. Mỗi ngày được hơn một ngàn nhân công. Làm trong tám ngày mới được tám ngàn nhân công, nghĩa là mới được nửa nhân công theo yêu cầu.

        Công việc phải đi sâu vào kế hoạch cụ thể. Phải tính toán từng ly, từng tý để không có một nhân công thừa mà kinh nghiệm làm đường lại chưa có.

        Tính đi tính lại: khó khăn vẫn nhiều, nhưng tin tưởng ở sức mạnh của quần chúng có thể khắc phục được. Có  kế hoạch cụ thể phân công hợp lý động viên thi đua đầy đủ, kinh nghiệm chưa có thì đột phá một đơn vị để rút kinh nghiệm, nếu làm được như vậy thì có thể hoàn thành được nhiệm vụ đúng kỳ hạn. Căn bản vẫn là cán bộ đi sát, gương mẫu lặn lội với chiến sĩ, lấy kinh nghiệm, sáng kiến của quần chúng để giải quyết khó khăn, coi công tác làm được cũng như một cuộc chiến đấu gay go phức tạp. Từ sáng đến chiều đã thấy có nhiều triển vọng, kinh nghiệm cộng sáng kiến của của quần chúng được động viên thấy rõ ràng nhiệm vụ đã phát huy được nhiều, năng suất bắt đầu tăng. Tạm gác súng lại cầm xẻng cuốc để mở đường, người lính chỉ bở ngỡ lúc đầu, sau một thời gian ngắn đã trở thành chuyên môn. Rõ  ràng là  khả năng của người lính cách mạng chúng ta rất nhiều và người lính cách mạng làm gì cũng được.

        Mình cả buổi sáng và chiều leo đèo, vượt qua cả 1206 mới lại quay trở lại, trời nắng gắt mồ hôi ướt đầy áo, rất mệt nhưng thấy anh em tíu tít cuốc đất chặt cây, bẩy đá, một cách thi đua sôi nổi phấn khởi quên cả mệt. Vả lại anh em làm suốt ngày, mệt hơn mình biết bao nhiêu ấy chứ.

        Hội ý với cán bộ, anh em thấy phấn khởi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ tin tưởng.

        Chiều xuống, sắp trở về gặp văn công đại đoàn xuống đơn vị phục vụ, trông thấy Nga, Phi, Ly đeo ba lô mồ hôi đọng trên trán, mình thương chúng nó quá. Chúng mình chiến đấu cũng là để xây dựng tương lai cho chúng nó, cần phải tích cực cố gắng hơn nữa, chúng nó mới sớm được sung sướng.

        Đi bên Nga mình khẽ hỏi: "Chiều nay ba mươi Tết rồi, Nga có nhớ nhà không?". Mắt Nga chớp mấy cái nhưng trả lời rất tỉnh táo: "Em chỉ nhớ ít thôi, thương các anh nhiều hơn. Đi với các anh, em thấy nhớ ở nhà, vui hơn nữa" .Câu nói của một em gái mười bốn tuổi thật là khôn ngoan. Lẽ ra cái tuổi này đang được cắp sách đến trường học tập. Chúng nó vượt hàng ngàn cây số, leo qua bao nhiêu đèo cao, lội qua bao nhiêu suối giá buốt, đi theo các anh lớn ra mặt trận, giữa bom đạn của địch vẫn ca hát nhảy múa để động viên các anh quên hết gian khổ mệt nhọc và chịu đựng gian khổ cũng không kém gì các anh. Mình nắm chặt lấy bàn tay, bàn tay nhỏ bé của Nga, muốn truyền sang Nga tất cả tình thương yêu của mình. Phi, Ly đi sau trong cái cười của hai đứa trẻ này vẫn đượm một cái buồn lạnh lẽo. Chúng nghĩ đến gia đình trong vùng địch chăng? Nghĩ đến người bố đã bỏ chúng lại để níu lấy một cuộc sống nhục nhã ích kỷ?

        Mình ước gì chiều nay có một chút quà gì để "mừng tuổi" chúng nó, một bữa cơm có rau và một chút thịt để quây quần với nhau bên đống lửa, gây một chút không khí gia đình, đón năm mới đến, nhưng chiều nay bữa ăn vẫn chỉ có muối măng khô.

        Dọc đường đi gặp văn công ở các đơn vị về mượn địa điểm tập trung để ăn Tết. Gặp bộ đội cười nói tíu tít chúc tụng. Cái tết ở trong lòng mọi người, ở tiếng cười câu nói của mọi người...

V.L       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Giêng, 2017, 11:48:18 am
       
BÀI NÓI CHUYỆN VỚI THANH NIÊN THỦ ĐÔ
(của Thiếu tướng Vũ Lăng trong buổi sinh hoạt truyền thống của các bạn trẻ Thủ đô mừng Kỷ niệm lần thứ 20 giải phóng Thủ đô - 1974)

        Lúc đó, tháng 12 năm 1946, trí thức có, công nhân viên chức có, tất cả những người lao động ở trong thành phố Hà Nội còn lại, nam nữ, cụ già, trẻ em khi bị vây ở lại Hà Nội trong hai tháng trời, từ ngày 19 tháng 12 đến ngày 17 tháng 12 năm 1947. Chúng tôi đã đánh nhau với địch và rút lui một cách toàn vẹn, thắng lợi ra khỏi vòng vây của địch ở Hà Nội. Lúc đó, các bạn nhớ rằng cầu Long Biên này địch đã chiếm, Hòa Mã địch ở rồi, Yên Phụ địch ở  rồi, vòng vây cứ thắt chặt lại. Nếu ở Điện Biên Phủ chúng ta vây chặt địch thì nghĩa đó nó khác. Có thể nói sông Hồng là cái chỗ chúng ta không thể vượt ra được, xuôi phía nam thì phố Tây nhiều, rút lui về phía đó khó rút được, chỉ còn một lối là rút qua cầu Long Biên mà thôi.

        Nhưng mà địch cứ thắt chặt bốn năm vòng vây và yên trí rằng Việt Minh là con cá nằm trên chốc thớt rồi, giải quyết lực lượng Việt Minh nằm lại trong thành phố Hà Nội là tính giờ tính ngày thôi. Thế mà rút cục Trung đoàn Thủ đô con em của người Hà Nội lại rút ra một cách toàn thắng và hơn bảy năm sau, Trung đoàn Thủ đô lại rầm rập kéo về tiếp quản Thủ đô. Ra đi hãy còn trẻ lắm, lúc về thì cũng vào loại trung niên rồi. Đấy là cái mốc mà chúng ta thấy rằng trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ của cách mạng, thanh niên chúng ta không nề hà cái gì, mà vấn đề quan trọng nhất lúc này là phục vụ, bảo vệ được Tổ quốc giữ gìn được Độc lập, Tự do. Thời kỳ đó hiểu về lý luận kém các bạn bây giờ nhiều lắm. Chỉ có lý tưởng là đi theo cách mạng, giải phóng đất nước, có Độc lập, có Tự do, còn hiểu sâu như bây giờ thì chưa hiểu được. Về khoa học kỹ thuật lúc đó chúng tôi hiểu như thế nào? Tôi là tiểu đoàn phó, khi đánh nhau trên đường Hà Nội, cướp được khẩu 12,7mm, chưa biết bắn. Bom ba càng thì một anh đào một cái hố ở dọc đường, một anh ngồi nấp ở trong cái hố đó, cầm quả bom ba càng, sẵn có ba cái chạc như thế này. Xe tăng địch đến thì anh xông ra, xung phong đâm quả bom, điểm hỏa vào xe tăng, xe tăng địch lúc đó mới nổ; anh đâm trượt, anh chết.

        Xe tăng địch trong Hà Nội không làm gì nổi Trung đoàn Thủ Đô. Rút cục xe tăng địch cũng không giải quyết được vấn đề.  Máy bay địch cũng không đánh nổi chúng tôi, mặc dầu về mặt kỹ thuật súng ống chúng tôi lúc đó rất thô sơ. Tôi phải trực tiếp chỉ huy một khẩu trung liên. Bắn một băng mấy viên đạn là do tôi ra lệnh. Thời kỳ đó chúng ta khó khăn như thế nào, nhưng lý tưởng là vẫn giữ được lý luận không phải không cao siêu, nhưng mà cái phục thù, cái hy sinh cho Tổ quốc, tuổi thanh niên lúc đó không có những tính toán vụn vặt.

        Cái mốc thứ hai là mười hai ngày đêm B52 của năm 1972, ở Hà Nội - Thủ đô chúng ta. Nếu chúng ta nói lại những lời khen của các nước thì cũng bằng thừa. Rõ ràng chúng ta nói lại những thành tích rất lớn. Kít-xinh-giơ nói rằng là đã bị mấy cái bất ngờ: bất ngờ ở Cam-pu-chia, bất ngờ ở Đường 9 - Nam Lào, còn cái nữa là B52. B52 bị rụng là bất ngờ lắm. Mỹ tưởng B52 vào là san bằng Hà Nội, đánh Khâm Thiên hòng làm tinh thần của chúng ta sụt hẳn, nhưng chúng ta đã hạ được nhiều B52. Trong ba mươi tư B52 bị hạ thì Hà Nội hai mươi bảy chiếc, có một chiếc rơi tại chỗ. Trong những ngày đánh B52 năm 1972, không khí của Hà Nội chúng ta quyết chiến quyết thắng cao lắm. Nhiều người đã nói đây là Điện Biên Phủ trên không. Chúng ta đổ ra đường phố xem bộ đội đánh B52, thanh niên chúng ta vẫn đi lại vững vàng. Chúng tôi nói với nhau thế này:

        " Mình gặp lại những con người cũ của chúng mình, mình gặp lại bóng dáng của những chiến sĩ giải phóng quân đầu tiên khi về Hà Nội. Mình gặp lại những lính của Trung đoàn Thủ đô ".

        Tôi nêu hình tượng như vậy để các bạn thấy rằng thanh niên chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi đất nước có khó khăn thì chúng ta vẫn chiến đấu giữ vững vị trí của chúng ta trong đấu tranh cách mạng vì Độc Lập, Tự do.

        Tình hình hiện nay ngoài Bắc có hòa bình tương đối, nhưng ở trong Nam, địch không thi hành hiệp định. Cuộc chiến đấu ở trong Nam vẫn tiếp tục tuy ở mức độ khác với trước, quy mô khác với trước, nhưng chưa hề có ngừng bắn. Cho nên vấn đề sẵn sàng bảo vệ miền Bắc, sẵn sàng đi chiến đấu là nhiệm vụ của thanh niên chúng ta. Muốn chi viện cho miền Nam, bảo vệ miền Bắc thì có vấn đề dao động, vấn đề sản xuất, vấn đề xây dựng miền Bắc của chúng ta như thế nào. Tôi nghĩ rằng thanh niên chúng ta trong cuộc chiến đấu gay go ác liệt chúng ta đều đứng hàng đầu thì trong lao động sản xuất, trong vấn đề xây dựng miền Bắc vững mạnh, nhất định chúng ta sẽ đứng vững vị trí chúng ta cũng như khi chúng ta chiến đấu.

VŨ LĂNG                
Theo Bản tin TTXVN        


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Giêng, 2017, 11:55:39 am

THANH KIẾM VÀ CÂY ĐÀN

        Anh Vũ Lăng cũng như nhiều vị tướng của dân tộc ta đều có "thanh kiếm bên cạnh cây đàn; thơ và súng ". Tâm hồn " thi sĩ " của anh cũng chen lách vào được cuộc đời anh trong trận mạc, binh nghiệp. Anh làm thơ không nhiều chủ yếu để cho mình, tâm sự.

        Chúng tôi xin giới thiệu hai trong những bài viết của anh.

B.B.T       

1.NHỚ HÀ NỘI

                                        Đêm nay sương gió gội
                                        Gối đầu trên báng súng
                                        Gió lùa mái tóc xanh
                                        Lũ ta nhớ Hà Nội!
                                        Hồ Gươm nhớ ta chăng?
                                        Nước xanh có chau mặt?
                                        Tháp Rùa buồn tang thương
                                        Liễu buồn có hiu hắt?
                                        Lũ ta nhớ Hà Nội!
                                        Thù giặc cao vời vợi,
                                        Khí giận trùm tinh đẩu
                                        Giết giặc chôn rừng sâu.




2. TA LẠI RA ĐI

                                        Tám chục tuổi vẫn còn lên ngựa,
                                        Múa gươm xung trận giữa ba quân.
                                        Tướng quân Thường Kiệt tên lừng lẫy,
                                        Giặc kia nghe thấy chạy thục thân.
                                        Ta, năm nay mới năm mươi lẻ,
                                        Tóc dẫu pha sương, lòng còn trẻ.
                                        Miền Nam, tiếng súng, còn chưa ngớt
                                        Luống thẹn mình nghe chuyện người xưa.
                                        Ba lô, gậy cũ lại lên đồng
                                        Vai  vác ba lô lòng trẻ lại
                                        Đầu xanh, đầu bạc kề vai bước
                                        Lại thấy trong ta tuổi đôi mươi.


Viết năm 1974, khi vào Tây Nguyên       
V. L                             

     

TIỄN ANH

HOÀNG VIỆT HOA       

                                        Mỗi buổi hành quân đưa tiễn anh
                                        Tiễn anh chỉ có chút thân tình
                                        Chiều nay gió lạnh sương nhiều  lắm
                                        Mặc áo thêm vào cho ấm, Anh!
                                        Ba lô vội vã khoác lên vai
                                        Mắt anh tươi vui miệng nở cười
                                        Súng giặc xa, dồn chân chiến sĩ
                                        Anh lại gần em, nắm tay em.
                                        Anh đi, Hoa ở lại đừng buồn
                                        Ngoài trận rồi anh gửi thư luôn.
                                        Đừng quên lời dặn, Hoa em nhé
                                        Giữ gìn sức khỏe đợi chờ anh.
                                        Nghẹn lời không biết nói năng chi
                                        Em buồn vì chẳng được cùng đi
                                        Để săn sóc anh khi chiến đấu.
                                        Yêu mến anh khuyên chớ nản gì.


(Trích nhật ký)       
H.V.H - 1952       


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Giêng, 2017, 11:57:45 am

NHỮNG LỜI VĨNH BIỆT

        LỜI ĐIẾU1

        Thưa các đồng chí đại diện cho Đảng bộ và chính quyền địa phương!

        Thưa các đồng chí, các bạn, gia đình và thân quyến đồng chí Vũ Lăng!

        Trong niềm tiếc thương vô hạn, chúng ta họp mặt tại đây để tiễn đưa người đồng chí, người bạn chiến đấu lâu năm, người thân của chúng ta - Đồng chí Vũ Lăng - về nơi an nghỉ cuối cùng.

        Đồng chí Thượng tướng Vũ Lăng ( tức Đỗ Đức Liêm ), sinh ngày 4 tháng 8 năm 1921, quê ở xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Quốc phòng, nguyên Viện trưởng Học viện Lục quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; sau một thời gian lâm bệnh, đã được Đảng, Nhà nước, Quân đội và gia đình tận tình chăm sóc, các giáo sư bác sĩ của ta và Bạn hết lòng cứu chữa; song vì bệnh quá hiểm nghèo, đồng chí đã từ trần hồi 23 giờ 45 phút ngày 23 tháng 10 năm 1988 tại Liên Xô, thọ 67 tuổi.

        Sinh trưởng trong một gia đình lao động, sống dưới chế độ thực dân phong kiến, 16 tuổi đồng chí đi làm thợ, rồi làm y tá tại bệnh viện Phủ Lý. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí được cử đi học ở Trường Quân chính Việt Nam ( khóa 5 ). Tháng 11 năm 1945, đồng chí tham gia đoàn quân Nam tiến, là chỉ đạo viên trung đội, sau đó là Phó ban huấn luyện Khu 6, rồi Phó ủy viên quân sự Ninh Hòa. Tháng 2 năm 1947, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ( nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).

        Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí đã giữ các chức vụ: đại đội tiểu đoàn, Trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98, Đảng ủy viên trung đoàn; tháng 9 năm 1954, Tham mưu trưởng Sư đoàn 316.

        Đồng chí đã tham dự nhiều chiến dịch như: Việt Bắc, Sông Thao, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trên nhiều chiến trường, với nhiều cương vị khác nhau; ở đâu đồng chí cũng đều thể hiện được tinh thần dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu, kiên quyết trong chỉ huy, góp phần vào thắng lợi của nhiều chiến dịch, trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ.

        Năm 1965, đồng chí được cử đi học ở Học viện Bộ Tổng Tham mưu (Liên Xô) mang tên Vô-rô-xi-lốp. Từ năm 1960 đến năm 1976, đồng chí lần lượt được giao giữ các chức vụ: Cục phó Cục Khoa học quân sự, Cục phó rồi cục trưởng cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tư lệnh Quân khu 4 - ủy viên Đảng ủy Quân khu, Tư lệnh và ủy viên Thường vụ Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên, Tư lệnh và ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn 3.

        Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trên các cương vị công tác, ở cơ quan tham mưu chiến lược hoặc ở các bộ tư lệnh chiến trường, đồng chí là một cán bộ có năng lực tổ chức chỉ huy tốt và tính quyết đoán cao. Là Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên và Tư lệnh Quân đoàn 3 trong chiến dịch Hồ Chí Minh đồng chí đã có nhiều đóng góp xứng đáng vào Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

        Năm 1977, với cương vị là Viện trưởng và Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân, đồng chí cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu Học viện lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng học viện đi vào nền nếp và ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Với kinh nghiệm đã tích lũy được ở đơn vị và cơ quan, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng chí đã góp phần tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ trung đoàn, sư đoàn của quân đội. Năm 1985, đồng chí đã được Nhà nước phong chức vị khoa học: Giáo sư cấp 2 khoa học quân sự.

        Qua hơn 40 năm liên tục chiến đấu và công tác, trên nhiều cương vị khác nhau, khi làm nhiệm vụ dân tộc cũng như lúc làm nhiệm vụ quốc tế, trải qua nhiều khó khăn gian khổ đồng chí Vũ Lăng đã thể hiện tốt phẩm chất cao quý của người đảng viên cộng sản, người cán bộ quân đội cách mạng, luôn luôn trung thành với Đảng, với nhân dân, dũng cảm trong chiến đấu, tận tụy trong công tác, được cán bộ và chiến sĩ yêu mến.

        Do những cống hiến xuất sắc của đồng chí, đồng chí Vũ Lăng đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng:

        - Huân chương Độc lập hạng nhất

        - Ba Huân chương Quân công (2 hạng nhất, 1 hạng ba)

        - Huân chương Chiến thắng hạng nhất

        - Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

        - Ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng nhất, hạng nhì hạng ba)

        - Huy chương Quân kỳ Quyết thắng

        - Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.

        Đồng chí còn được quân đội một số nước anh em tặng thưởng những huân chương, huy chương cao quý khác. Đồng chí mất đi là một tổn thất to lớn cho quân đội, một mất mát không gì bù đắp cho gia đình và thân quyến.

        Thưa đồng chí Vũ Lăng thân mến!

        Vĩnh biệt đồng chí, chúng tôi nguyện tiếp tục hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân mà đồng chí đã cống hiến trọn đời mình.

        Đồng chí không còn nữa, nhưng tình cảm thân thương sẽ còn lại mãi trong chúng tôi, trong những Người thân yêu của đồng chí.

        Xin vĩnh biệt đồng chí!

-----------------------------
        1. Lời điếu: Do Thượng tướng, Tổng Tham mưu trưởng Đoàn Khuê - Trưởng ban Lễ tang đọc tại lễ truy điệu Thượng tướng Vũ Lăng.


Tiêu đề: Re: Từ một quyết tử quân-Thượng tướng Vũ Lăng
Gửi bởi: Giangtvx trong 14 Tháng Giêng, 2017, 12:04:45 pm
        LỜI VĨNH BIỆT VÀ CẢM TƯỞNG

        Anh Lăng ơi!

        Lần nào gặp anh, anh cũng chỉ hỏi tôi:

        - Tổ chức đội hình quân đoàn ra sao?

        - Bộ đội luyện tập và sẵn sàng chiến đấu ra sao?

        - Tổ chức bữa ăn, đời sống vật chất tinh thần bộ đội ra sao?

        - Đoàn kết kỷ luật có tốt không?

        Nói đến việc tốt thì anh tỏ vẻ vui mừng, anh nắm tay tôi bá vai tôi, giật giật biểu dương. Nói đến bữa ăn bộ đội còn thiếu, áo mặc còn rách anh buồn. Nói đến những cán bộ tốt, anh khen ngợi. Nói đến một vài cán bộ nhất là những đồng chí đã cùng chiến đấu chia ngọt sẻ bùi va vấp sai lầm, anh tỏ vẻ buồn, nắm chặt tay tôi rưng rưng nước mắt, nhắc tôi phải thương đồng chí, chăm lo bảo ban, chăm sóc đồng chí.

        Anh vạch hướng đi cho quân đoàn.

        Hôm nay vĩnh biệt anh, chúng tôi nguyện ra sức đoàn kết, thương yêu nhau xây dựng quân đoàn ngày càng vững mạnh.

Tư lệnh Quân đoàn 3              
Thiếu tướng KHUẤT DUY TIẾN        

        *

        Thượng tướng Giáo sư Viện trưởng vô cùng thương mến, người chỉ huy lãnh đạo mẫu mực kiên cường, người thầy về chiến lược chiến thuật của Học viện Lục quân. Một vị tướng của dân tộc như những tướng lĩnh của đời Trần.

Ngày 2 tháng 11 năm 1988        
Đại tá Phó giáo sư TRÀ CÔNG        

        *

        Anh Vũ Lăng!

        Ngày nào, cùng Hoàng Thế Dũng, tôi nói với anh: "Đất nước còn cần những võ tướng như anh" - lòng thành, yêu mến, tin cậy nhau mà nói như thế. Nhưng anh đã từ biệt tất cả. Tôi có thể thay mặt những anh em từng chiến đấu với anh như Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Thế Dũng mà nói rằng chúng tôi bàng hoàng và vô cùng thương tiếc anh - người võ tướng có một tấm lòng chính trực vì nước vì dân, vì lẽ phải.

        Có lần anh ôm anh Nghĩa và chảy nước mắt. Lần này chúng tôi chảy nước mắt khóc thương anh đi mãi.

        Những kỷ niệm là vĩnh cửu. Và anh sẽ còn mãi cùng quân đội chúng ta.

TRẦN ĐĨNH                              
Ngày 3 tháng 11 năm 1988                  
Thay mặt cả Trần Chậu và các em Hoan, Hân        

        *

        Anh Vũ Lăng kính mến!

        Em đã sống và trực tiếp giúp việc anh trong hơn sáu năm trời.

        Bên cạnh tình cảm đồng chí là tình nghĩa anh em gia đình.

        Anh thật sự là một tấm gương lớn về đạo đức, sự trung thực liêm khiết, về sự sắc sảo trong tư duy và phong cách làm việc.

        Mãi mãi trong em và gia đình em là hình ảnh anh - một con người cộng sản trọn vẹn.

Thư ký riêng của Anh        
Từ 1980 - 1986          
VŨ CHUYỂN              

        *

        Đã hơn một năm trôi qua, từ khi chúng tôi đến thăm anh Lăng ở Mát-xcơ-va. Lúc ấy chúng tôi những mong anh sẽ qua cơn hiểm nghèo, tiếp tục cuộc sống quang vinh, tiếp tục phục vụ quân đội và đất nước.

        Hỡi ôi! Anh Lăng đã vĩnh biệt thế giới này...

        Hôm nay đến nghiêng mình trước bàn thờ của người chiến sĩ, một lần nữa tôi muốn nhắc lại với chị và các cháu niềm thương tiếc vô hạn của tôi đối với anh - người cán bộ chỉ huy đã có công lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và là người bạn gần gũi của gia đình chúng tôi.

Phu nhân Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP        
ĐẶNG BÍCH HÀ                    
Ngày 13 tháng 10 năm 1989            

        *

GIỖ ĐẦU ANH LĂNG

                                        Mở đầu chiến dịch đánh Đồi Xanh1
                                        Trung đoàn Chín Tám bước theo anh
                                        Trên giao nhiệm vụ anh vui vẻ
                                        Hãy xuống hầm tôi chén tý anh
                                        Chiến tranh lắm chuyện nghe cũng lạ
                                        Cơm  mắm nằm hầm uống sâm banh
                                        Chiến trường không cốc, thôi bát vậy
                                        Nâng bát mừng anh chiến công thành
                                        Ba sáu năm rồi còn nhớ mãi
                                        Giờ anh yên giấc nấm mổ xanh
                                        Khói hương nghi ngút khi mờ tỏ
                                        Ngước nhìn bức ảnh nói sao anh?
                                        Ngày 23 tháng 10 năm 1989

Thiếu tướng ĐAN THÀNH        

---------------------
        1. Đồi Xanh:  Địa danh trong chiến dịch Điện Biên Phủ.


        LỜI THƯA CUỐI SÁCH

        Gia đình Thượng tướng Vũ Lăng, nhóm thực hiện bản thảo cuốn sách "Thượng tướng Vũ Lăng - từ một quyết tử quân" đã nhận được nhiều bài viết, thư từ, tài liệu, ảnh... của các thành viên trong gia đình Thượng tướng Vũ Lăng, của các bạn chiến đấu ở Sư đoàn 308, 316, cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, Quân đoàn 3, Học viện Lục quân.

        Xin trân trọng cảm ơn.

        Do điều kiện, phạm vi của cuốn sách nên một số bài viết tư liệu chưa có điều kiện công bố. Rất mong các tác giả đã gửi bài thông cảm cho chúng tôi.

        Chúng tôi rất mong được bạn đọc xa gần cho những ý kiến quý báu về cuốn sách này.

        Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.

Nhóm biên soạn        

HẾt